Pháp Âm - 1997 - GIÁO ÁN TU TẬP 61 BĂNG

01 - BA GIAI ĐOẠN TU TẬP CỦA ĐẠO PHẬT

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 01 – BA GIAI ĐOẠN TU TẬP CỦA ĐẠO PHẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- GIAI ĐOẠN ĐẦU TIÊN: TỪ BỎ NHỮNG NGHỀ NGHIỆP ÁC

(00:02) Bây giờ bắt đầu chúng ta sẽ học, nhưng mà trước khi học cái giáo án này thì chúng ta niệm hồng danh Đức Phật, vì đây là con đường của Đức Phật đã vạch ra cho chúng ta đi.

Vậy xin quý thầy chắp tay lên đồng niệm “Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật”:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Bây giờ Thầy đọc sơ lược cái Giáo Án Tu Tập của đạo Phật:

Một người có đủ duyên được đọc kinh sách của đạo Phật, thấy được chân lý của đạo rất thực tế và cụ thể, hướng dẫn con người tu tập thoát khỏi kiếp sống trầm luân, khổ đau bằng sức tự lực của chính mình, nhất là làm chủ được sự sống, chết theo ý muốn và còn chấm dứt được sự tái sanh luân hồi; vì thế, khi bắt đầu đến với đạo Phật để trở thành người đệ tử của Phật chân chính, quý vị phải từ bỏ sáu nghề nghiệp sanh sống.

Bây giờ Thầy sẽ giảng cái đoạn này cho quý thầy thấy rằng: Khi một người mà chưa biết Phật Pháp gì hết, thì có đủ một cái duyên nào đó, thì vị này được đọc một cuốn kinh Phật, như Thầy thường nghe các Phật tử có nói:

“Con từ hồi nào tới giờ chẳng biết Phật Pháp gì hết. Một hôm, con được một người bạn trao cho cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm. Rồi con đọc cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm, con thấy đạo Phật sao mà hay quá tuyệt, cho nên từ đó con hướng tâm đến đạo Phật, rồi con được đi nghe thuyết giảng hoặc là mua thêm những loại kinh sách cần thiết, con tham cứu và nghiên cứu, từ đó con rất thích thú đạo Phật!”

(02:38) Đó là những người có cái duyên may được đọc một cuốn kinh như kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa, như toàn bộ giáo lý A Hàm hoặc là kinh Nikaya, thì tất cả những người mà có duyên được đọc được kinh sách của Phật, thì người ta có cái tâm hướng đến đạo Phật. Nếu những người mà chưa có duyên được đọc kinh sách Phật thì họ chưa hiểu đạo Phật như thế nào.

Vì vậy mà giáo đầu vào cái sơ lược của giáo án này thì Thầy đã ghi nhận: Khi mà có đủ cái duyên thì chúng ta mới đến được với đạo Phật, mà không có đủ duyên thì chúng ta không có đọc kinh sách Phật cho nên chúng ta không có biết đạo Phật như thế nào.

Vì thế khi mà có đọc kinh sách Phật, thì thứ nhất là người mà muốn đi vào cái con đường chân chánh của đạo Phật thì người ta phải nghĩ đến cái đời người nó khổ, và làm sao mà thoát khỏi được cái cảnh khổ đó đó, mà bằng cái sức tự lực của mình. Nghĩa là thoát khỏi cái cảnh khổ của con người mà bằng cái sức tự lực của mình, chứ không phải là bằng cái tha lực của người khác.

Cho nên nhiều khi chúng ta đọc những kinh sách, nhưng mà có những loại kinh sách đọc đến chúng ta thấy phải nhờ cậy đến một cái tha lực để mà hỗ trợ cho chúng ta trên con đường mà để đến được sự cái giải thoát. Trái lại thì khi mà nghiên cứu, đọc nhiều kinh sách của Phật thì chúng ta thấy, hầu hết đạo Phật là đạo tự lực cứu chính mình chứ không phải là tha lực.

Một phần nhỏ, có những cái bản kinh nhỏ thì nói về tha lực thôi, nhưng chúng ta không nói đến, bởi vì, cái tha lực nó trợ giúp cho cái người mới tu, còn cái người mà tu lâu thì nó phải tự lực. Cho nên dù sao thì kinh sách tha lực nó rất ít ở trong cái kinh sách tự lực.

Vì vậy hôm nay khi mà chúng ta đến với đạo Phật thì Đức Phật dạy chúng ta, cái đầu tiên của chúng ta đó là phải bỏ sáu cái nghề nghiệp mà chúng ta đang sanh sống. Nghĩa là chúng ta bỏ tức là chúng ta đổi cái nghề, chúng ta làm cái nghề khác, không có nên làm sáu cái nghề này.

Vậy thì sáu cái nghề này là nghề gì mà Đức Phật phải nói: Khi mà đến với đạo Phật thì không nên hành những cái nghề này?

Có bản kinh thì Đức Phật nói có năm cái nghề không nên làm, nhưng mà Thầy thấy, sáu cái nghề này thì nó tạm đủ. Có chỗ thì Đức Phật có nói có cái nghề bán thuốc độc, thì không nên bán thuốc độc, nhưng Thầy thấy chỗ mà, có những cái bài kinh mà nói như vậy Thầy thấy cái vấn đề người tu theo đạo Phật thì chắc chắn là không ai bán thuốc độc!

(05:32) Cho nên Thầy chọn lấy sáu cái nghề, nó phù hợp với cái tâm từ bi của đạo Phật. Thì sáu cái nghề đó, Thầy sẽ đọc cho quý vị nghe:

1. Không làm nghề săn bắn

Nghĩa là cái người mà muốn đến với đạo Phật thì không được làm cái nghề săn bắn, như đi vào rừng săn bắn nai, hươu, khỉ hay hoặc chồn, cheo, hay chim chóc…​ thì không được làm cái nghề đó. Nghĩa là không có làm cái nghề săn bắn thú vật và chim muông.

2. Không được làm nghề chài lưới

Tức là không được làm cái nghề bắt cá, dù là đi câu, dù là đặt rọ, hay hoặc là chài lưới ở ngoài sông, ngoài biển, thì cái nghề đó, coi như là phải đổi cái nghề khác, không được làm cái nghề đó.

3. Không được làm nghề buôn thịt sống

Có một cái chỗ Phật nói có năm cái nghề, thì Đức Phật nói không được làm, không được buôn bán thịt chứ không nói thịt sống. Nhưng mà có chỗ thì nói thịt sống, có chỗ thì nói thịt chín, thì tất cả những chỗ này theo Thầy nghĩ rằng, có khi Đức Phật nói năm cái nghề mà nói không bán thịt thì trong đó có thịt sống và thịt chín, còn ở đây muốn ghi cho rõ ràng.

Thì vì bán thịt sống nó khác mà bán thịt chín nó khác, bởi vì thịt chín họ nấu thành thực phẩm, mà thịt sống thì nó còn để nguyên. Cho nên, khi một người mà đến với đạo Phật thì phải đổi cái nghề buôn bán thịt sống này. Rồi:

4. Không được làm nghề buôn bán thịt chín

Tức là nấu thành phở, cháo lòng, hủ tíu đó, đó là những cái thịt chín.

5. Không được làm nghề buôn bán rượu.

Không được làm nghề buôn bán rượu, vì bán rượu làm cho người ta nghiện ngập, say sưa, rồi người ta không còn cái trí thông minh cho nên họ có thể chửi mắng hàng xóm hay hoặc là làng xóm, hay hoặc là chửi vợ, mắng con, hay hoặc là tạo những cái cảnh bệnh tật, say sưa nằm ngoài đường, ngủ sương, ngủ tuyết. Do vì vậy đó mà Đức Phật cấm không có làm cái nghề bán rượu, vì mình bán rượu là đem đến cho chỗ say sưa cho người khác.

6. Không được làm nghề buôn bán người

Tức là mãi nô, bán nô lệ đó.

Thì trong cái thời Đức Phật chắc chắn là cái nghề này chắc có chứ không phải không, cho nên Đức Phật cũng có cấm mình không bán. Nhưng chúng ta thấy, cái nghề buôn bán người nó có nhiều mặt, thí dụ như người ta thấy, những người đi bán thân để mà nuôi sống hàng ngày, thì cũng là bán người đó.

Tất cả những cái nghề nghiệp đó như vậy thì theo Thầy nghĩ rằng, khi mà đến với đạo Phật thì chúng ta phải thanh tịnh thân tâm của mình chứ không nên làm những cái nghề đó mà buôn bán thân người như vậy, bán nô lệ, rồi bán cái chuyện mãi dâm đó, không nên làm những cái nghề đó.

Cho nên tất cả những cái nghề đó thì chúng ta đổi qua những cái nghề khác mà làm, vì vậy nó có cái thanh tịnh, trong sạch hơn.

2- VÌ BIẾN MÃN TÂM TỪ BI MÀ KHÔNG ĂN THỊT CHÚNG SANH

(08:42) Thì cái phần sáu cái nghề này, thì trong cái giáo án Thầy có ghi chú thêm cái phần này để cho chúng ta thấy rõ cái chỗ bán thịt chín để chúng ta thấy chỗ mà Đức Phật, trong cái bài kinh Jivaka thì Đức Phật có nói đến cái đoạn này mà Thầy thấy rất là sâu sắc.

Trong kinh Đức Phật dạy:

Khi thọ dụng thực phẩm động vật phải không thấy, không nghe, không nghi…​”

Nghĩa là Đức Phật nói: Khi một tu sĩ - một người mà ăn thịt động vật, thì cái thịt động vật đó phải “không thấy, không nghe và không nghi”.

“…​ mà tâm còn phải dùng lòng từ bi biến mãn khắp mười phương đối với tất cả chúng sanh.”

Nghĩa là lúc bấy giờ ăn một cái thực phẩm nào đó thì tâm của chúng ta phải có cái sự thương yêu đối với chúng sanh khắp cùng trong mười phương.

Thì quý thầy nghĩ, khi mà chúng ta ăn một cái miếng ăn, cái miếng ăn của chúng ta nếu mà có một cái sự đau khổ trong đó thì có cái từ bi ở đâu mà biến mãn khắp mười phương được?

Cho nên cái ý này rất là tuyệt vời, ở trong cái ăn chay mà trên cái sự ăn chay nữa! Ăn chay, ăn trong cái miếng ăn của chúng ta nó phải có cái tâm từ bi.

Vậy thì, trong cái món ăn, cái thực phẩm của chúng ta ăn nó không có thịt động vật ở trong đó, nó toàn là hoa quả, trái cây hay hoặc là những cái món ăn mà không có sự đau khổ trong đó, nhưng chúng ta vẫn phải biến mãn cái tâm từ bi của chúng ta đối với tất cả những người mà làm ra cái của cải đó, chớ không riêng gì cái thực phẩm của động vật.

(10:24) Đó thì, hôm nay giải thích cái chỗ này chúng ta mới thấy cái ý nghĩa của đạo Phật rất là tuyệt vời. Khi chúng ta ăn miếng ăn là chúng ta đã nghĩ đến cái công lao của người đàn na thí chủ trước tiên, mặc dù là món ăn đó là món ăn chay, không có sự giết hại chúng sanh.

Còn cái món ăn đó mà có sự giết hại chúng sanh thì nó nằm ở trong ba cái điều kiện mà Phật đã đặt: “không thấy, không nghe và không nghi”.

Cho nên, bắt đầu mà đi vào trong con đường của đạo Phật thì chúng ta thấy, không được làm sáu cái nghề, thì chúng ta thấy quả là chúng ta muốn đến với đạo Phật là chúng ta phải từ giã những cái nghề mà gọi là không phải là Chánh Nghiệp, nó thuộc về tà nghiệp cho nên nó có sự đau khổ ở trong đó, nó có sự chết chóc, nó có sự giết hại.

Mà cái giới luật của Phật thì quý thầy thấy, cái giới thứ nhất là không sát sanh, không giết hại chúng sanh, không vui theo với người mà giết hại.

Cho nên ở đây, chúng ta phải thực hiện cái tâm từ bi mà Đức Phật đã ghi nhận ở trong cái chỗ này. Vì vậy khi mà muốn đến với đạo Phật thì chúng ta phải đến với, thực hiện với lòng từ bi của mình, là từ giã không làm sáu cái nghề mà Thầy đã kể ở trên.

3- BỎ NGHỀ ÁC ĐỂ TRÁNH TÀ NGHIỆP, TÀ MẠNG

(11:36) Đây là giai đoạn thứ nhất ở trong bước đường tu tập.

Nghĩa là cái người muốn tu tập theo đạo Phật, muốn hướng đến với đạo Phật, thì chúng ta phải từ giã sáu cái nghề, phải đổi sáu cái nghề đó, không còn hành sáu cái nghề đó nữa. Thì như vậy là chúng ta phải có một sự suy tư rất kỹ.

Nhiều khi chúng ta làm cái nghề đó mà chúng ta không thấy rằng trong cái nghề đó tạo nên cái sự đau khổ, rồi nuôi cái thân của chúng ta, như ở trong Bát Chánh Đạo thì như quý thầy đã thấy, nuôi cái Chánh Mạng của chúng ta bằng những cái đau khổ.

Mặc dù là chúng ta ăn chay, chúng ta không ăn thịt chúng sanh, ăn thịt động vật, nhưng chúng ta làm cái nghề nó không tốt, chúng ta vẫn nuôi cái thân mạng của mình nó chưa phải là chân chánh đâu, không phải là Chánh Mạng đâu.

Cũng như bây giờ, chúng ta làm cái nghề ăn trộm đi, chúng ta lấy của của người ta, rồi chúng ta mới bán cái của đó đi, chúng ta lấy tiền đi, rồi chúng ta mới đem về mua gạo, mua thóc, mua thực phẩm rồi chúng ta sống. Thì như vậy là chúng ta lấy từ cái chỗ tham lam, trộm cắp đó đó, mà đem lại bằng cái thực phẩm để mà nuôi thân mình thì như vậy mình có nuôi Chánh Mạng mình không? Đó là tà mạng chứ không phải Chánh Mạng!

Vì thế mà khi đến với đạo Phật thì chúng ta phải nuôi thân mình bằng những cái nghề chân chính, bằng cái hành động chân chính chứ không phải bằng cái hành động không chân chính được.

Đó là cái giai đoạn thứ nhất của bước đường tu tập theo đạo Phật. Nó chưa phải là cái người xuất gia, mà đây là cái người cư sĩ muốn đến với đạo Phật, muốn hiểu với đạo Phật bằng một cái tự lực cứu mình như ở trên mà Thầy đã nói, thì bây giờ chúng ta phải chuyển những cái nghề nghiệp cho lương thiện, cái nghề cho chân chánh - Chánh Nghiệp, chớ không nên ở trong những cái tà nghiệp, ở trong cái nghề nghiệp mà có sự đau khổ, có sự chết chóc ở trong đó, thì đạo Phật không chấp nhận cho những người đó trở thành những người đệ tử của mình.

(14:00) Mặc dù Đức Phật không nói ra điều này, nhưng những người mà còn hành cái nghề đó mà không có thực hiện được, thì dù có đi theo con đường của Phật, đi tu đến cái mức thiền định nào đi nữa, thì vẫn xem cái người này vẫn là tu theo cái đường lối thiền của ngoại đạo, của tà đạo, của tôn giáo của ngoại đạo chứ không phải là của chính đạo Phật.

Vì cái cơ bản bắt đầu nó phải thực hiện từ cái tâm từ bi, mà sáu cái nghề này chúng ta thấy, từ cái chiếc áo cư sĩ phải hành nghề mà sống, thế mà chúng ta hành nghề không lương thiện!

Không lương thiện ở đây có nghĩa là hành nghề giết hại làm đau khổ chúng sanh, đem đến những tai họa cho chúng sanh.

Thí dụ như cái nghề bán rượu là cái nghề có thể đem lại cái tai họa, cái sự đau khổ cho người khác. Khi một người say rượu, họ không có từ một cái gì mà họ không làm. Cho nên cái nghề này không được làm, và sáu cái nghề này, chúng ta thấy rõ ràng là cái người theo đạo Phật thì không nên làm.

Đó là cái giai đoạn thứ nhất, mà chúng ta muốn bước chân vào đạo Phật thì chúng ta phải từ giã những cái nghề này.

Bởi vì cái giáo án của Phật nó phải đi từ chỗ mà chúng ta làm được. Cũng như bây giờ chúng ta đang làm cái nghề chài lưới, mà chúng ta thấy rằng mình muốn hướng đến con đường của đạo Phật thì mình phải thay đổi cái nghề đi bắt cá này đi, bằng cách là chúng ta đổi cái nghề đó ra cái nghề thợ mộc. Được không? Được!

Còn bây giờ cái người đó họ đang buôn bán thịt nè, thì bây giờ họ đổi cái nghề đó, họ đi buôn bán hoa quả được không? Được! Họ buôn bán hàng vải được, có sao đâu?

Đức Phật đâu có cấm họ làm cái nghề để mà họ sống, nhưng mà cái nghề nó không có phải là cái nghề đau khổ, cái nghề tạo nên những cái sự đau khổ cho chúng sanh. Mà cái sự đau khổ cho chúng sanh tức là mình tạo nên cái nghiệp ác, do đó thì mình cũng phải thọ lấy những cái đau khổ đó.

Cho nên vừa tránh đau khổ cho chúng sanh mà cũng vừa tránh sự đau khổ cho chính bản thân của mình, vì vậy ngay từ cái bước đầu, cái phương pháp tu tập đầu tiên tức là cái phương pháp đổi nghề.

Các thầy có thấy cái chuyện đó dễ làm không? Đâu có khó làm! Mình thấy cái nghề nghiệp đó không làm được thì mình chuyển qua cái nghề khác, thì cái chuyện đó quá dễ rồi, đâu có gì mà phải khó!

4- TU TẬP THỰC TẾ NGAY TRONG CÔNG VIỆC HẰNG NGÀY

(16:19) Cho nên đạo Phật nó thực tế và cụ thể. Chớ không phải chúng ta chỉ vô chùa rồi tụng kinh, niệm Phật, rồi hằng ngày ngồi thiền, niệm chú đó là tu đâu, chính chúng ta đổi nghề là chúng ta đã tu rồi đó! Cái hành động đó là hành động tu.

Cũng như mấy ngày hôm nay, quý thầy đến đây, quý thầy thấy nè: chúng ta từ đến cái giờ ăn của chúng ta đó, mà chúng ta đứng tuần tự để rồi chúng ta chào nhau, rồi tuần tự chúng ta đi lần lượt, mỗi người đều đến cái xô cơm để mà khất thực từng bát cơm của chúng ta để đến giờ chúng ta ăn cơm.

Trong cái thời gian đó có thể ba mươi phút hoặc một giờ, nhưng chúng ta sẽ thấy rằng, chúng ta tu hành được những gì? Chúng ta sẽ tu được hạnh nhẫn nhục.

Nếu một người mà ở ngoài đời, họ bước lên mâm cơm là họ lo họ ăn rồi chứ họ đâu có nghĩ rằng họ đứng như vậy được! Còn chúng ta thì vẫn thản nhiên trước những cái sự, trong khi chúng ta ăn ngày có một bữa mà giờ đó chúng ta vẫn thản nhiên đứng một cách rất là tự tại. Chúng ta lần lượt chứ không tranh giành nhau.

Thì ở ngoài đời, khi mà một số người đông đảo như vậy, thì trước cái ăn, trước cái mặc của họ, họ giành giật, họ chen lấn nhau. Như bây giờ chúng ta đi lên xe chúng ta cũng vẫn chen lấn với nhau bằng cách này, bằng cách khác.

Cho nên chúng ta tu tập, ngay từ những cái điều kiện mà chúng ta tập như vậy đó là chúng ta đã tu tập theo đạo Phật rồi đó.

Qua những cái hành động ở đây mà chúng ta tu tập, chúng ta thấy rất rõ, vừa tập được nhẫn nhục, vừa tập được cái sự tuần tự của cái hành động của chúng ta, trước cái giờ ăn của chúng ta mà chúng ta không có gì vội vàng. Còn không, tâm của chúng ta lúc nào cũng có cái sự vội vàng đó.

Ra bến xe mà thấy cái xe đến thì chúng ta ào ào giành nhau mà chạy lên. Không lẽ cái xe đó nó bỏ chúng ta sao mà chúng ta lật đật vậy? Tuần tự mà chúng ta đến chớ. Nó rước chúng ta thì nó có ăn tiền chớ nó đâu phải cho chúng ta, thế mà tại sao chúng ta lại lật đật lên trước, chen với nhau! Như vậy là chúng ta chưa có cái kiên nhẫn của một người tu tập.

Cho nên ở đây, chúng ta từng tập luyện như vậy, gọi là trên cái bước đường tu tập của chúng ta để làm cho chúng ta có những cái sức kiên nhẫn của nó.

Thì cái việc làm đầu tiên của cái giáo án này, cái bài học đầu tiên để tu tập thì chúng ta phải nhớ rõ ràng là chúng ta thay đổi cái nghề nghiệp, làm cho cái nghề nghiệp chúng ta nó được trong sạch, được thanh tịnh, không có đau khổ, không có chết chóc trong đó. Đó là cái bước đường tu tập đầu tiên.

5- MUỐN CÓ NIỀM TIN THÌ TU TẬP PHẢI CÓ KẾT QUẢ

(18:26) Khi đã thay đổi nghề nghiệp ác bằng những nghề nghiệp lương thiện, quý vị phải đặt trọn niềm tin ở Đức Phật, ở pháp của Đức Phật, ở chư Thánh Tăng đệ tử của Đức Phật và ở giới luật của Đức Phật.

Nghĩa là đến cái giai đoạn thứ hai này, nếu mà chúng ta không tin đạo Phật, không tin Phật thì làm sao mà chúng ta thay đổi cái nghề nghiệp? Do đó chúng ta đã có tin. Nhưng niềm tin đó nó chưa sâu, vì vậy, chúng ta phải tin ở Phật như thế nào? Ở pháp của Phật như thế nào? Ở chư Thánh Tăng như thế nào? Và ở giới luật của Phật như thế nào?

Muốn niềm tin đó được bền bỉ và lâu dài thì kết quả giải thoát ở thân, tâm phải được thành tựu cụ thể trong mỗi bước tu tập, mỗi pháp môn tu tập.

Nghĩa là, cái bước đầu tiên mà chúng ta đổi nghề nghiệp thì chúng ta thấy được tâm hồn chúng ta giải thoát chỗ nào? Nếu thấy được giải thoát thì chúng ta mới có tin ở Phật được, mới có tin ở pháp của Phật, mới có tin ở các vị đệ tử Phật, mới có tin ở giới luật của Phật được.

Bởi vì khi đổi nghề nghiệp thì bàn tay chúng ta không còn vấy máu nữa. Khi đổi nghề nghiệp chúng ta không còn thấy sự lăn lộn đau khổ của chúng sanh nữa. Và khi đổi nghề nghiệp chúng ta không thấy có những người say rượu ở ngoài đường chửi vợ, mắng con hoặc là chửi làng, chửi xóm.

Khi đổi nghề nghiệp thì chúng ta thấy tâm của chúng ta thanh thản và từ đó chúng ta biết thương yêu mọi người hơn, biết thương yêu chúng sanh hơn.

Do cái chỗ mà chúng ta thấy cái giai đoạn đầu tiên mà chúng ta tu tập đổi nghề nghiệp, chúng ta đã thấy được cái tâm hồn của chúng ta sau một thời gian thay nghề, đổi nghiệp, thì chúng ta vẫn thấy cái cuộc sống mình vẫn bình thường, không đến đỗi mà sa sút, và đồng thời còn có thể thấy càng ngày càng phát triển hơn nữa.

Không phải như hồi còn đi chài lưới, đi bắt cá, nhiều khi, khi còn làm cái nghề chài lưới ở ngoài sông, ngoài biển, thì trong gia đình khi thấy trận bão hay mưa gió là lo lắng cho người thân của mình đang làm những cái nghề không biết chết nay, chết mai!

(21:29) Do cái sự đau khổ, do cái sự lo lắng của người thân của mình đó, cho nên chúng ta xét thấy, từ cái ngày đổi nghề, gia đình không còn khổ đau nữa. Mỗi lần đi biển mà thấy trời chuyển mưa, giông bão thì người trong gia đình: “Kể như người thân của mình mất mạng ở dưới biển!” Đó là cái nỗi khổ tâm nhất của những người mà làm nghề giết hại chúng sanh.

Vì cái sự tu tập của cái giai đoạn đầu tiên, mà cái người mà chịu nghiệm xét thấy, thì khi mà đổi nghề, chúng ta thấy nó có những cái điều kiện may mắn đến cho chúng ta nhiều hơn, vì đó là thiện pháp.

Còn khi sống ở trong những cái nghề như vậy, ác pháp như vậy, thì cái người đó có nhiều cái sự kiện xảy ra cho gia đình của họ mà họ không để ý. Nhưng mà khi bước đến đạo Phật mà đổi nghề, thì họ thấy có những cái gì thanh thản hơn, có những cái gì giải thoát hơn trong cái đời sống của họ, cả gia đình họ chớ không phải riêng bản thân của họ.

Cho nên ngay từ cái bắt đầu mà thay đổi nghề nghiệp, người ta vẫn tìm thấy được một cái sự giải thoát ở trong đó. Đó như vậy thì quý thầy thấy: Bước vào đạo Phật thì chúng ta thấy có một sự giải thoát thật sự, chớ không phải chờ năm năm, mười năm, hai chục năm tôi mới thấy được cái sự giải thoát đó!

Cho nên vì có cái kết quả đó làm cho người ta tin tưởng ở đạo Phật. Nếu không có kết quả thì chắc chắn là không bao giờ mà ai tin tưởng.

Chẳng hạn là như quý thầy bây giờ ngồi thiền, mà suốt cả năm năm, mười năm mà cứ ngồi đó, hết vọng tưởng rồi mà ngồi đó từ một giờ đến hai giờ cho đến bốn, năm giờ, mà không thấy tiến tới nữa thì quý thầy có thối tâm không?

Quý thầy chỉ an ủi mình: "Chắc có lẽ là mình tu chưa có đúng thôi, mình hãy ráng nữa, ráng nữa!" Mười năm nhìn lại, ráng quá mười năm nhìn lại cũng chưa thấy tới đâu hết!

Rồi mình lại ráng nữa, hai chục năm nhìn lại: “Sao mỗi lần có ai động tới tâm là có vẻ tham, sân, si, phiền não vậy? Tu hoài mà sao không hết?” Ngồi thiền thì bảy, tám tiếng đồng hồ thì ngồi được, nhưng mà hơn nữa thì không được, không thể nào mà ngồi một ngày hai ngày được, tại sao vậy?

Tâm thì có lúc hết vọng tưởng, có lúc thì không hết vọng tưởng, tại sao nó lu bù vậy?

Cho nên vì cái không kết quả đó làm cho tâm chúng ta thối chuyển, hoặc là chúng ta dậm chân tại chỗ. Nhưng chúng ta đã lỡ tu, bây giờ bỏ thì cũng tiếc mà lấy thì cũng không được, tới thì cũng khó mà lui thì cũng khó, làm cho một người tu sĩ lưỡng nan ở trên bước đường tu tập.

Còn đạo Phật, đến thì ngay đó có sự giải thoát liền, chiêm nghiệm liền được sự giải thoát đó, thì cho nên cái bước đầu tiên mà chúng ta đã tu tập đó, chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta có sự giải thoát.

Nếu một người đổi nghề nghiệp, và khi một năm mà thay đổi nghề nghiệp người đó thấy cả gia đình có hạnh phúc, có an vui hơn trong khi còn làm những nghề nghiệp ác. Thầy tin rằng, trong cái luật nhân quả sẽ chứng nghiệm được điều này rất rõ ràng. Dù người đó vô tình, nhưng cái luật nhân quả vẫn đem đến cái phước báu cho những người vô tình đó!

6- MUỐN THÀNH TỰU LÒNG TIN PHẢI SO SÁNH GIỮA ĐỜI VÀ ĐẠO

(25:15) Muốn thành tựu được lòng tin tịnh tín sâu sắc ấy, quý vị phải suy nghĩ và so đo giữa cuộc đời và đạo.

Đây, đến đây là cái chỗ mà chúng ta phải so sánh giữa cái cuộc sống của đời và cái cuộc sống của đạo.

Bởi vì trong đạo có cuộc sống của đạo chứ không phải nói rằng chúng ta có pháp môn tu không đâu, mà cái sống của đạo nó khác cái sống của đời. Cho nên chúng ta đem những cái hành động sống của quý thầy, của những bậc tu hành so sánh với cái cuộc sống của đời thử coi, để lên trên cái bàn cân thử coi bên nào khổ mà bên nào thoát khổ?

Chúng ta so sánh như vậy, chúng ta mới có một cái tâm quyết tâm đi vào con đường của đạo được. Còn nếu không so sánh mà chúng ta bồng bột, nông nổi vào đạo, coi chừng chúng ta sẽ vấp ngã giữa đường, mà đạo thì chẳng ra đạo, mà đời thì chẳng ra đời đó!

Chúng ta đem so sánh, chúng ta thấy như thế nào?

Chúng ta bây giờ so sánh cái đời sống của mình đang ở trong gia đình thì mình thấy như thế nào đây?

Đời sống trong gia đình đầy rẫy những triền phược, đường đời thì đầy những bụi bặm ô trược và biết bao dây mơ, rễ má trói buộc; biết bao nhiêu vật chất và duyên sự lôi cuốn, cám dỗ; biết bao những chông gai, hố thẳm của ác pháp đang chờ đón.

Đó là chúng ta so sánh, rồi chúng ta suy nghiệm có phải vậy không?

Một khi chúng ta mới lớn lên chưa lập gia đình nè, chúng ta còn vui chơi, ăn học thôi chớ không có lo nghĩ gì hết, cha mẹ làm thì hằng ngày cho con ăn học chớ còn mình không có nghĩ lo phải làm cơm ăn áo mặc gì hết. Áo rách thì ba cho con may áo, còn đói thì mẹ cho con ăn cơm, cứ vậy thôi chứ chưa biết nghĩ lo gì hết. Ăn với chơi, với đi học thôi chớ không biết gì hết.

Nhưng đến khi mà lớn lên một chút thì ham muốn cái này cái kia, thì bắt đầu đi tìm cái nghề nghiệp làm hay hoặc là xin tiền cha mẹ sắm cái này cái kia, nhưng mà cũng chưa biết khổ đâu. Trong đó có những cái khổ là đi đánh lộn, đánh lạo rồi uống rượu say sưa với bè bạn, hay hoặc là chạy xe rồi bị xe đụng gãy chân, gãy tay, thì lúc bấy giờ mới thấy được cái khổ, nhưng mà cái khổ của tuổi trẻ chưa phải thấy khổ đâu!

Cho đến khi mà lập gia đình, chừng đó mới thấy được cái khổ của nó. Rồi sanh ra một vài đứa con mới thấy cái khổ của nó. Rồi tất cả những cái lo toan khi mà cha mẹ chết rồi, không còn giúp đỡ cho tiền bạc hay hoặc là cái cuộc sống, thì tự mình phải lo lấy cuộc sống của mình, thì bao nhiêu cái cuộc sống ở trên vai của mình, mình gánh nặng đó, thì mình mới thấy cuộc đời quá khổ!

(27:12) Rồi vợ con đâu phải là luôn luôn lúc nào nó cũng ngọt ngào với mình đâu? Nó cũng phải có những cái tư tưởng của nó, nó cũng phải có cái lối sống của nó, cho nên cái lối sống của mình với cái lối sống nó đâu có phải hợp nhau được, cho nên cả hai người là có những cái khác biệt nhau.

Từ cái khác biệt đó, ở trong nhà nó hay có những sự lục đục, rầy rà hay hoặc là trái ý nhau, nó làm cho mình chướng ngại đủ mọi điều, chớ đâu có phải mà sung sướng được!

Cho nên so sánh mới thấy được những cái sự triền phược, trói buộc đó, những cái dây mơ rễ má đó.

Chẳng hạn bây giờ có hai vợ chồng, rồi bây giờ lỡ có một người chết thì thử hỏi có khổ đau không? Khổ đau! Rồi hai người ngồi lại trong một mâm cơm ăn, nói chuyện đâu ở ngoài không à, mà rồi rốt cuộc rồi lại gây lộn nhau thì thử hỏi trong lúc đó có vui sướng gì không? Đâu có vui sướng gì!

Rồi bây giờ làm không tiền, không bạc mà ham muốn cái này cái kia thì vợ chồng rầy rà nhau, cãi cọ nhau, người thì này, kẻ thì khác, thì quý thầy nghĩ coi cuộc đời có khổ không? Rất khổ, đủ mọi điều khổ!

Thế mà người ta đâu có thấy được cái khổ đó, mà người ta chỉ thấy cái lạc của nó mà thôi. Người ta thấy đôi vợ chồng ngồi ở trên xe hơi, hoặc là xe Honda, người ta thấy như vậy là hạnh phúc, nhưng trong cái hình dáng đó, cái khổ đau của họ ai biết được trong tâm lòng của họ?

Một người nghèo nói: "Tôi nghèo, không có cơm ăn, không có áo mặc, tôi khổ!", nhưng cái người giàu họ nói: "Tôi có tiền bạc mà tôi còn khổ hơn nữa! Tối tôi ngủ không yên, sợ trộm, sợ cướp!" - Thì đó là cái cuộc đời đã dẫy đầy những cái sự đau khổ, mọi thứ.

Ở gần nhau, con gà con vịt qua lại, con chó con heo qua lại mọi cách đã là gây gổ với nhau, đã làm khổ với nhau rồi. Rồi con cái chơi giỡn nhau thì cũng là đủ mọi cách sinh chuyện nhau, làm cho cái đời sống bất an, luôn luôn là bất an. Cho nên cái đời sống ở ngoài đời quý thầy thấy rất là bất an, không có lúc nào mà gọi là an ổn.

Do cái sự so sánh đó chúng ta mới nhìn lại cái đời sống của người xuất gia như thế nào?

(30:15) Ở trong giáo án ghi lại:

Ngược lại, đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, không có một vật gì trói buộc, không có một đối tượng vật chất, một hoàn cảnh nào cám dỗ được họ.

Bởi vậy, thật khó cho một người sống ở trong gia đình có thể sống theo Phạm hạnh, hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc!

Đó là cái sự so sánh để chúng ta thấy: Một cái đời sống của người xuất gia và một cái đời sống của một người ở ngoài thế gian.

Hai cái đời sống này, một cái đời sống giải thoát hoàn toàn, chúng ta không còn một vật dụng gì hết cho nên chúng ta ngủ rất yên, không sợ trộm cắp. Và cũng không sợ hư hao, bởi vì có gì đâu mà hư hao? Nhà không có mà gia đình cũng không có cho nên đâu sợ vợ đói, con đói! Cho nên chúng ta thanh thản, an vui, hoàn toàn hạnh phúc, tâm hồn chúng ta trắng bạch như vỏ ốc, không có còn bị hoen ố một chút gì trong những cái ác pháp.

Đó là cái phần so sánh để chúng ta bước chân vào một cái giai đoạn tu tập thứ hai.

8- GIAI ĐOẠN THỨ HAI: CHUYỂN SANG CUỘC SỐNG TU HÀNH

(31:26) Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ nhà cửa, của cải, tài sản, sự nghiệp, sống không gia đình!

Suy nghĩ như vậy, sau một thời gian quý vị quyết tâm đoạn dứt, từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn; thật sự cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa và xuất gia từ bỏ nhà cửa, của cải, tài sản, sự nghiệp, sống không gia đình.

Đây là giai đoạn thứ hai trên đường tu tập.

Nghĩa là, khi chúng ta so sánh rồi chúng ta mới thật sự cạo đầu, thật sự đắp áo cà sa, chỉ nhận ba y một bát, đây là giai đoạn thứ hai.

Giai đoạn này nghe thì nó dễ nhưng nó khó vô cùng. Nếu một người có gia đình như các cư sĩ trong cái hoàn cảnh trước mặt Thầy đây, bây giờ bỏ gia đình mà đi làm cái chuyện này có dễ không? Chúng ta muốn đó, nhưng vợ con có muốn không? Đó là cái khó. Rồi chúng ta có bỏ được cái bổn phận của chúng ta đã sanh con còn nhỏ dại, chúng ta bỏ được không? Điều đó quá khó, không phải dễ đâu!

Một người làm được một cái điều này, như một bầy cá trong một cái lưới, chỉ có một con cá nào mà giỏi nhất là vọt ra khỏi lưới. Sự thật ra khó mà có thể vọt ra khỏi lưới! Thầy thấy hầu như một trăm, một vạn cái lưới cá của người chài lưới họ kéo lên, ít có con cá nào nhảy ra khỏi lưới của họ!

Cho nên khi mà chúng ta bị những cái lưới của gia đình, của đời sống, của vật chất bao vây rồi, Thầy thấy khó mà có thể giãy ra được. Mà giãy ra được thì muôn ngàn con cá nó mới chỉ được có một con cá mà thôi!

Đây, ở đây Thầy xét lại, Thầy thấy Minh Tông là một người có vợ, có con, con cái còn đi học, còn nhỏ chứ chưa phải lớn lao, có mẹ già đang bệnh đau, nhưng rất mạnh dạn trong một cái giai đoạn quyết tâm tu hành, từ đó vượt ra khỏi cái mảnh lưới này để mà thực hiện con đường giải thoát cứu mình và có thể cứu người. Một người cư sĩ như Minh Tông không phải ai cũng làm được hết!

Cho nên ở đây hầu hết là quý vị có theo Thầy, những người cư sĩ có theo Thầy đi nữa chẳng qua chỉ để nghe mà vui chơi, chứ sự thật đi tìm sự giải thoát thật sự là phải cạo bỏ râu tóc xuất gia, cái đời sống thay đổi hoàn toàn, cắt đứt những dây mơ, rễ má tình cảm của chúng ta đối với gia đình, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật, mới làm chủ được cái sự sống chết, mới tịnh chỉ được các hành trong thân của chúng ta chớ không phải đơn giản.

(34:14) Các thầy cứ nghĩ rằng, các hành đang hoạt động trong thân chúng ta: Tim đập nè, gan, phèo, phổi nè, thần kinh của chúng ta đang hoạt động như thế này nè, hơi thở chúng ta đang ra vô tự động nè, mà thật sự chúng ta muốn điều khiển làm sao cho ngưng được không phải là một cái chuyện dễ!

Nếu tâm của quý vị chưa thanh tịnh, còn thương, còn ghét, còn giận, còn hờn, còn ham vật chất, không cắt bỏ được cái đời sống của thế gian, thì chắc chắn quý thầy không làm được cái chuyện vĩ đại này được! Chắc chắn như vậy, không thể nào hơn được.

Cho nên cái giáo lý của Đức Phật, cái giáo án mà Đức Phật đã vạch cho chúng ta thấy một con đường đi rất rõ ràng.

Cho nên bắt đầu chúng ta thay đổi nghề nghiệp, chúng ta đã thấy có sự giải thoát. Nếu từ đó, chúng ta đi vào con đường thiện, lấy nhân quả làm cái nòng cốt cho con đường tu tập của người cư sĩ mà thực hiện trong các nghề nghiệp thanh tịnh, tốt đẹp này, thiện nghiệp này, và tuần tự đó chúng ta lập những hạnh bố thí, cúng dường, hoặc là tập những hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh, thì chắc chắn là quý vị sống trong gia đình của quý vị vẫn hạnh phúc, vẫn an vui, vẫn đem lại một hạnh phúc hẳn hòi, rõ ràng.

Còn tiến tới để mà so sánh giữa đạo và đời để bắt đầu chuyển mình qua một cuộc sống mới, thì chắc chắn quý vị khó mà đi đến cái giai đoạn thứ hai này. Đây là cái giai đoạn so sánh để chúng ta trở thành một người tu sĩ, chớ không phải còn là người cư sĩ.

Nếu quý vị không thực hiện được đời sống của một tu sĩ thì chắc chắn con đường thiền định của đạo Phật đã vạch ra cho quý vị đi thì quý vị khó mà thực hiện được. Đó là cái sự xác định thật sự của Thầy.

Cho nên tuần tự, khi mà so sánh như vậy rồi thì quý vị nghe trong cái giáo án này Đức Phật đã dạy:

Suy nghĩ như vậy, sau một thời gian quý vị mới quyết tâm đoạn dứt, bắt đầu mới từ bỏ tài sản nhỏ. Nghĩa là mình lần lượt mình phải sắp xếp đó, mà Đức Phật gọi là từ bỏ cái tài sản nhỏ đó.

Rồi lần lượt mới từ bỏ tài sản lớn. Nghĩa là lần lượt mình sắp xếp đâu đó, này kia nọ cho vén khéo rồi mới cạo bỏ râu tóc được đó.

Rồi lần lượt mới từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ. Nghĩa là cắt đứt những cái tình cảm của chúng ta đối với những người bạn bè này kia xa xa đó, gọi là nhỏ đó.

Rồi bắt đầu tuần tự mới cắt đứt những bà con quyến thuộc lớn, tức là những người như cha mẹ rồi vợ con, lần lượt phải cắt đứt những cái đó luôn, đó là Đức Phật gọi là bà con quyến thuộc lớn.

Còn bà con quyến thuộc nhỏ là anh em, chú bác này kia, xa xa gần gần, dòng họ, đó là bà con quyến thuộc nhỏ đó. Còn bà con quyến thuộc lớn là cha mẹ sanh mình ra, vợ con của mình, đó là bà con quyến thuộc lớn đó, lần lượt phải bỏ tuần tự.

Còn tài sản nhỏ, tài sản lớn, thì quý vị phải hiểu rằng: Tài sản nhỏ là những của cải, tiền bạc rất nhiều, đó là những cái tài sản nhỏ. Còn tài sản lớn đó là những cái cuối cùng mà quý vị quét sạch ra đó, mà quý vị còn ba y một bát đó, đó là những cái dính mắc nhất cho đời sống của quý vị, đó là cái ăn chứ không phải là cái gì khác hết!

(37:51) Bởi vì vốn chúng ta có tài sản lớn, tài sản nhỏ cũng đều là phục vụ cho cái cuộc sống của chúng ta mà thôi. Cho nên từ đó, đến cái tài sản lớn nhất là cái tài sản mà hàng ngày chúng ta có một cái bữa ăn ngon lành, có cái bữa ăn tốt đẹp đó, đó là cái mà chúng ta khó có thể bỏ lắm!

Cho nên đến khi mà thành một người tu sĩ thì cái ăn người ta nhìn thấy nó không còn có, đối với cái ăn người ta không còn có ham thích nữa, cho nên người ta bỏ sạch những cái tài sản lớn tài sản nhỏ đó.

Khi mà sắp xếp được, khi mà giải quyết được mọi cái thì lúc bấy giờ chúng ta mới đi qua được một cái giai đoạn thứ hai của cái giáo án, của cái phương án tu tập này.

Quý vị thấy hiện giờ, nghe Thầy thuyết giảng tới đây, quý vị thấy mình có thực hiện được không? Nghĩa là quý vị có bỏ được, có cắt đứt được cái điều này không?

Cho nên cái giai đoạn này, mà trong Thập Nhị Nhân Duyên, mười hai duyên đó, thì Đức Phật có giảng nhị duyên cho chúng ta trong mười hai duyên này: “Sanh đã tận thì Phạm hạnh mới xong.”

Sanh tức là có cái duyên Sanh thì mới có cái duyên Ưu Bi, mới Sầu Khổ, mới Bệnh Chết. Nếu không có Sanh thì nó sẽ không có Ưu Bi, Sầu Khổ. Cho nên khi mà chúng ta đoạn cái duyên Sanh thì cái Ưu Bi, Sầu Khổ, Bệnh Chết nó không có.

Cho nên trong Thập Nhị Nhân Duyên thì hai cái duyên cuối cùng này, mà Đức Phật (dạy) ngay từ bắt đầu người tu là phải đoạn dứt cái duyên Sanh.

(39:48) Ở đây chúng ta phải ghép cho đúng cái duyên Sanh. Sanh ở đây tức là Sanh Y: Y là nương tựa, Sanh là sanh sống chớ không phải là sanh đẻ, không phải là đản sanh như người ta giải thích. Người mà giải thích như vậy là không hiểu.

Chữ Sanh ở đây là Sanh Y, là nhà cửa, của cải, tài sản, anh em ruột thịt, dòng họ. Cho nên khi mà cái người xuất gia mà tu thì "Sanh đã tận", nghĩa là đoạn tận, đoạn dứt nó đi, thì cái Phạm hạnh, thì cái con đường tu của đạo Phật nó mới đạt được.

Mà nếu chúng ta không đoạn tận, còn thương, còn ghét, ngồi đây tu mà nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ cha, nhớ mẹ, thì chắc chắn là cái người đó không bao giờ đi đến cái con đường của đạo Phật!

Quý vị có hai bàn tay, một bàn tay đời và một bàn tay đạo. Tay nào của quý vị cũng muốn nắm hết thì quý vị không có thể nào mà nắm gọn hết được cái con đường tu của quý vị đâu. Quý vị phải bỏ cái tay đời của quý vị đi, rồi dùng cái tay đời đó quý vị mới ôm chặt được cái tay đạo thì quý vị mới thực hiện được.

Cho nên cái đạo Phật chỉ dạy chúng ta rất rõ ràng, xác định cho chúng ta rất rõ ràng: Một người mà còn nắm hai tay là không thể nào thực hiện con đường của đạo giải thoát, chỉ tu tập trong thiện pháp mà thôi chớ không thể nào đi đến sâu sắc được.

Cho nên nhìn chung chúng ta thấy, hầu hết một số tu sĩ của chúng ta hiện giờ mà đi đến sâu của đạo Phật, để thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật là cái Định Vô Lậu, thì không ai mà vô lậu được.

Và cái định mà để làm chủ được thân tâm, sự sống chết như định Hiện Tại An Lạc Trú, thì chưa ai nhập định được một tháng, hai tháng, một năm, hai năm, ba năm không ăn, không uống được. Và cái định làm chủ được sự sống chết, muốn chết hồi nào, muốn sống hồi nào, thì chưa có một người nào làm được.

Do cái chỗ chúng ta tu hành mà còn bắt hai tay, đời không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm!

Vì vậy mà cái giai đoạn thứ hai của cái giáo án này chúng ta mới thấy Đức Phật vạch rất rõ, suy nghĩ rất rõ, chớ không phải nói đơn thuần, nói sơ sơ mà thực hiện được.

Cho nên nhiều người cư sĩ vẫn ham tu theo Phật, vẫn ngồi thiền, vẫn nỗ lực tu mà không dám bỏ vợ con, không dám cắt lìa cái tài sản, không dám bỏ một đồng bạc của mình ra nữa, luôn lúc nào cũng phải lo làm, lo tiền, lo bạc hết, thì thử hỏi họ tu tập như vậy họ tới chỗ nào?

Hay là ngồi cho có hình thức? Ngày nào, đêm nào cũng thức chong lên mà ngồi thiền, mà thiền đó nó đi về đâu? Tâm thì không rời đồng bạc, tâm thì không rời vợ, rời con thì thử hỏi làm sao họ đạt được gì?

Đó là, thấy cái giáo án của Đức Phật chưa? Đầu tiên là phải rời nghề nghiệp để đi vào con đường thiện pháp, sống cho đúng cái sống của người cư sĩ, chứ chưa phải là người tu sĩ. Thật sự đây mới là cái người cư sĩ mà thôi. Đến cái giai đoạn thứ hai, so sánh để chúng ta bước qua một cái giai đoạn thứ hai này, nó rất là ngặt nghèo, phải đoạn dứt cho được.

Mà đoạn dứt được thì Ưu Bi, Sầu Khổ, Sanh Tử nó mới chấm dứt, bởi vì duyên Sanh đoạn thì Ưu Bi, Sầu Khổ và Bệnh Tử nó mới đoạn. Đó là nhị duyên, chúng ta thấy rất rõ ràng.

Bởi vậy, khi mà giải thích về, giảng về cái giáo án này, thì quý thầy suy nghĩ cho kỹ: mình còn bắt hai tay hay là không? Nếu mà còn bắt hai tay thì hãy chặt cái tay kia đi, đừng có nắm nó nữa! Hãy xả cái đời xuống đi! Chọn lấy đạo là đạo mà đời là đời!

(43:32) Chết là chết trong đạo, chết là chết trên bồ đoàn chớ không thể chết ở dưới cái tình cảm của gia đình, của vợ, của con, mà hãy chết ở trên đạo! Cho nên chúng ta thà chết trên đạo chớ không thể nào chết ở trong gia đình của chúng ta, chết trong tình cảm của con người.

Cho nên chúng ta bỏ hết, bỏ hết, dẹp hết mới có thể đi vào con đường của đạo Phật được. Xả hết, từ bỏ, viễn ly, xa lìa tất cả những gì gọi là cuộc sống của thế gian.

Chúng ta chấp nhận đời sống của chúng ta chỉ có một nghề chân chính đó là nghề đi xin. Chúng ta không còn làm ra đồng bạc, không có đi ra cày ruộng, không có đi trồng rau, trồng cải để mà ăn. Đói thì chúng ta xin, ai có cho chúng ta cái gì ăn cái nấy, mà không cho thì chúng ta chịu đói chớ không bao giờ mà chúng ta hành một cái nghề gì.

Vì hành động sống của Đức Phật ngày xưa, quý thầy có thấy Đức Phật đi ra trồng rau không? Giờ này Đức Phật đi xin về rồi ăn thôi chứ rồi không có bao giờ mà làm cái gì hết!

Ở trong một khu rừng không trồng một cái cây mà có trái ăn nữa. Thầy chưa từng nghe Đức Phật trồng cây xoài để có trái xoài. Thầy cũng chưa từng nghe trồng một cây thơm có trái thơm mà ăn. Mà tất cả đệ tử của Đức Phật trong thời Đức Phật, Thầy cũng chưa từng.

Nhưng Thầy có nghe rằng, khi đến chỗ nào đó thì ông Xá Lợi Phất dọn dẹp rất là sạch sẽ để chư tăng đến. Và khi rời khỏi cái khu vực mà đang ở thì ông Xá Lợi Phất dọn dẹp rất sạch sẽ, rồi để lại một cái khu rất là vệ sinh sạch sẽ chứ không cái bừa bãi.

Thầy chỉ nghe trong kinh nói như vậy, chứ Thầy không nghe nói rằng để lại một cái vườn xoài, để lại một cái vườn rau, để lại một cái sở ruộng, ở đó không bao giờ có cái điều đó!

Cho nên chúng ta tu hành theo đạo Phật, chúng ta phải lấy cái nghề đi xin ăn. Tất cả những áo quần mà chúng ta đang mặc, y áo mà chúng ta đang mặc, cái nào mà còn vá được chúng ta hãy tiết kiệm vá tận cùng mà mặc, không được phí bỏ. Mặc dù thời đại của chúng ta…​ (Mất tiếng).

(45:47) Nãy giờ Thầy đã giảng về cái phần thứ hai là cái giai đoạn để cắt, đoạn dứt cái đời sống thế gian để chuyển qua cái đời sống xuất gia tu tập.

Quý vị hãy suy nghĩ cho kỹ. Nếu đến với đạo Phật không phải đến với hình thức của bộ áo, đến với hình thức ngày ngồi thiền, hay niệm Phật, hay tụng kinh, (mà) thực tế của sự tìm con đường giải thoát chớ không phải đến cầu an, cũng không phải đi tìm cái cuộc sống cho nó đầy đủ vật chất hơn nữa.

Đến với đạo Phật thì quý thầy, quý vị phải suy nghĩ rất kỹ là chúng ta phải thực hiện được sự làm chủ sự sống chết và chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Cái mục đích đó là mục đích của đạo Phật để đem con người thoát khỏi sự đau khổ của chính bản thân họ.

Đến với đạo Phật thì quý vị phải suy tư cái giai đoạn thứ hai này rất là kỹ lưỡng. Đời là mình phải làm sao cho xứng đáng đời, lợi ích cho mọi người, lợi ích cho mình, mà đạo thì hoàn toàn phải đoạn lìa đời, không được ngồi đây mà còn lo đời!

Cho nên đối với Phật tử chỉ là những cái duyên để mà chúng ta độ họ tu hành mà thôi, chớ đừng có đem họ mà trở thành những sự trói buộc của chúng ta! Nhiều khi chúng ta làm một vị trụ trì ở một ngôi chùa nào đó, hầu hết chúng ta không bị gia đình trói buộc mà bị Phật tử trói buộc.

Họ cúng dường chúng ta cái này, cái nọ, cái kia, họ muốn sai chúng ta làm cái gì chúng ta cũng phải vâng lời làm hết. Đó là chúng ta đã lìa khỏi cái cuộc sống của đời, mà chúng ta bị đời sai trong cái việc đạo của chúng ta.

Cho nên chúng ta phải lìa khỏi những cái sai lệch này để mà chúng ta thực hiện cho được sự giải thoát chính bản thân của chúng ta, chúng ta cứu chúng ta cho được.

(47:18) Vả lại, cái giai đoạn này chúng ta còn phải suy nghĩ, cái tâm đời chúng ta còn mang theo ở trong cái tâm đạo chớ chưa phải sạch, do đó cái bản ngã chúng ta rất còn. Khi chúng ta mới hiểu được một chút nào đó, chúng ta vội đem ra giảng dạy cho người khác, điều đó là cái tâm đời của chúng ta đó, cái tâm danh của chúng ta!

Cho nên quý vị cũng nhớ rằng: Khi đoạn dứt cái đời là đoạn dứt cái tâm danh của mình, cái tâm lợi.

Cho nên do vì vậy, khi nào mà chúng ta tu hành thành đạt, giải thoát, làm chủ thật sự, biết rõ rằng mình đã giải thoát hoàn toàn, tâm không còn lậu hoặc, thiền định làm chủ được sống chết lúc nào là chúng ta tự tại trong lúc đó, bây giờ chúng ta mới có đủ khả năng mà đi ra dạy đạo, dạy cho người tu hành.

Mà nhiều khi chúng ta còn ẩn bóng, chúng ta còn không muốn dạy ai nữa, vì đâu phải dạy người ta tu hành là dễ!

Còn quý thầy, quý vị, vừa học được năm ba chữ, hiểu được một vài khía cạnh nho nhỏ, vội đem ra trong khi mình chưa thực hành được gì hết! Mình giảng cho người này hiểu, người kia hiểu, tỏ ra đó là cái hành động danh của mình, tỏ ra đó là cái bản ngã của mình chớ chưa phải là sự thực tu, thực chứng giải thoát cho chính mình.

Cho nên chúng ta phải hiểu, khi bước qua cái giai đoạn đạo thì coi chừng đời nó xen vào đó mà nó mượn đạo để cầu danh, cầu lợi ở trong đó.

Hầu hết một số quý thầy đã bị vấp ngã trên cái giai đoạn này. Chúng ta cứ ngỡ rằng đó là đạo nhưng mà sự thật đó là đời chớ chứ không phải đạo, qua cái danh hiệu đạo.

(49:03) Đó là giai đoạn thứ hai mà quý vị cần phải suy nghĩ và xét cho kỹ, rồi từ đó chúng ta buông hết, không còn để ở trong tâm của chúng ta một cái gì dính mắc nữa.

Xưa Đức Thế Tôn, Ngài từ giã ngai vàng, của báu, vợ đẹp, con xinh đi vào trong rừng núi mà tu tập sáu năm khổ hạnh. Quý thầy có thấy Ngài cắt đứt toàn bộ, không còn một cái tài sản nhỏ, tài sản lớn nào hết?

Còn chúng ta có nhiều người nghĩ như thế này: "Bây giờ mình làm cho có một ít tiền rồi mình để dành, rồi chừng đó đó mình cứ mỗi tháng mình bỏ ra một chỉ, mình ngồi mình tu khỏe re!"

Như ông Phật chắc chắn là, nghĩ như vậy chắc chắn là ổng không bao giờ khổ hạnh hết! Ngày ăn có bảy hạt mè, sống thì, rờ da bụng thì đụng xương sống, rờ xương sống thì đụng da bụng, tiết thực đến cái mức độ, khổ hạnh đến cái mức độ mà đi không nổi, đứng không nổi chỉ còn nằm không!

Tu tập như vậy người ta mới thấy được, người ta mới lìa được những cái dục lạc của thế gian. Bởi vì những cái dục lạc của thế gian quá đầy đủ, quá nhiều, và thời đại của chúng ta nó còn nhiều vật để mà cám dỗ chúng ta.

Cho nên chúng ta là một người tu hành, chúng ta phải sáng suốt, phải nhận định ở cái giai đoạn thứ hai này là cái giai đoạn đoạn trừ cái tâm đời của chúng ta, cái tâm danh của chúng ta, cái tâm lợi của chúng ta phải đoạn dứt.

Không phải đoạn dứt những cái danh lợi của đời không, mà đoạn dứt những cái danh lợi mà chúng ta mang cái tên là đạo, nó cũng còn mang cái hình thức đời của nó đó.

Vì vậy khi mà quyết tâm tu hành rồi thì hãy sáng suốt suy nghĩ cho rõ. Phỏng chừng như quý vị bây giờ chết đi thì vợ con của quý vị ai lo đây? Tại sao quý vị không bỏ được để mà quý vị đi vào thẳng con đường đạo? Khi quý vị đi thẳng vào con đường đạo thì vợ con phải tự sống như quý vị đã chết!

Có cắt đứt được như vậy thì đó là cái giai đoạn thứ hai của quý vị mới thực hiện được con đường của đạo.

Nếu giai đoạn thứ hai mà quý vị chưa thực hiện được thì quý vị nên về tập lại cái cuộc sống giai đoạn thứ nhất, thực hiện nhân quả, làm đầy đủ bổn phận của một con người cư sĩ: Đối với vợ con, cha mẹ phải hiếu hạnh, vợ con phải có sự trung thành với nhau, chớ đừng có làm những cái điều tồi tệ để gây sự đau khổ cho gia đình; làm hết bổn phận, phải nuôi con cái lớn khôn, có đầy đủ nghề nghiệp, thì như vậy là cũng xứng đáng là đệ tử cư sĩ của đạo Phật rồi.

Cho nên Thầy chưa nói đến giai đoạn thứ ba là vì giai đoạn thứ ba nó còn nhiều cái khó khăn, không phải dễ.

9- GIAI ĐOẠN THỨ BA: SỐNG ĐÚNG GIỚI LUẬT VÀ TU TẬP ĐÚNG PHÁP

9.1- SIÊNG NĂNG HỌC TẬP, GIỮ GÌN GIỚI LUẬT VÀ OAI NGHI TẾ HẠNH

(52:03) Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục ở giai đoạn thứ ba.

Khi đã quyết tâm cắt ái, xuất gia như vậy.

Cắt ái là đoạn lìa đó, những cái thương, ghét của chúng ta đối với gia đình, đối với tài sản đó.

Quý vị phải siêng năng học tập giới luật.

Nghĩa là bây giờ cạo tóc rồi đó, thì tất cả những cái giới luật của Phật là phải học trước chớ không được học kinh. Quý vị nhớ kỹ! Học kinh quý vị không thấy được cái Phạm hạnh của quý vị, không thấy được những cái oai nghi tế hạnh của quý vị đâu, cho nên quý vị phải học luật.

Cho nên khi mà xuất gia, ở trong kinh luật cũng dạy: Phải năm năm học luật, rồi sau năm năm đó mới học thiền. Quý vị hiểu điều đó!

Không có giới luật nào mà quý vị không thuộc. Quý vị phải thường hằng cố gắng, sống đúng giới luật, không cho phạm phải một lỗi nhỏ, sống đúng nếp sống oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đạo Phật.

Nghĩa là bắt đầu vào cái giai đoạn thứ ba thì quý vị phải đoạn dứt cái tâm đời của quý vị, cái cuộc sống đời của quý vị, mà quý vị phải siêng năng học tập giới luật, thuộc tất cả những cái hành động, cái oai nghi tế hạnh trong giới luật. Quý vị phải cố gắng giữ gìn không có cho phạm những cái lỗi nhỏ ở trong giới luật.

Muốn sống đúng nếp sống của người tu sĩ đạo Phật, quý vị phải tu tập bốn pháp hạnh đầu tiên.

Đây, nếu mà muốn sống đúng cái nếp sống của người tu sĩ đạo Phật thì quý vị phải tu bốn cái pháp hạnh đầu tiên:

Đó là Tứ Bất Hoại Tịnh.

(54:01) Quý vị phải tu tập bốn cái pháp này.

Khi thực hiện tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh, quý vị phải tu tập từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh; từ bỏ trượng, gậy, kiếm, đao; bỏ những loại vũ khí giết hại chúng sanh.

Đó là cái giai đoạn tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh. Nhưng mà muốn tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh thì quý vị phải tu tập những cái giới đầu tiên của quý vị, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh. Đó là cái giới đầu tiên của quý vị.

Nhưng ở đây chúng ta, ở đoạn trên là chúng ta đã học những cái giới đó rồi, thì bây giờ ở đoạn dưới mà tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì chúng ta sẽ, bắt đầu chúng ta phải từ bỏ sát sanh, tránh xa sự sát sanh, thì cái này sẽ được Thầy giảng dạy: Từ bỏ sát sanh như thế nào, mà tránh xa sát sanh như thế nào. Nhưng trước khi giảng dạy cái này thì Thầy sẽ giảng dạy Tứ Bất Hoại Tịnh.

Hôm nay thì đã hết giờ, ngày thứ năm tới, chúng ta sẽ tiếp tục cái giáo án này.

(55:47) Trước khi học tu Tứ Bất Hoại Tịnh, Thầy sẽ giảng cho quý vị oai nghi tế hạnh của người xuất gia theo lộ trình thứ hai của đạo Phật:

Sau khi quý vị đã xuất gia, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa. Đây là một lối sống đối với người thế gian thì được xem là rất mới mẻ và còn lạ lùng, sống không giống lối sống của mọi người trên thế gian này.

Mà muốn sống được như vậy thì người xuất gia phải sống chế ngự thân mình, chế ngự lời nói của mình, chế ngự ý nghĩ của mình; luôn luôn phải bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, thuốc thang, sàng tọa; vui theo nếp sống trong sự an tịnh; thường sống cô đơn, trầm lặng, sống một mình, không bạn bè thân thuộc, không Phật tử thân thương; sống với mục đích chủ động, thân tâm bất động trước mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc và mọi nhân duyên đều chủ động.

Đây là cái người mà muốn đi vào cái lộ trình thứ hai - xuất gia của đạo Phật, thì đương nhiên là phải có một cái lối sống, không phải sống như hồi còn ở thế gian được, mà phải dứt bỏ hết những cái sự của cải tài sản, cái lòng thương yêu, và dứt bỏ hết không còn có gì gọi là mang theo trong thân tâm của mình.

Nghĩa là bỏ sạch, thật sạch và còn phải sống một đời sống cô đơn, trầm lặng, sống không còn thân hữu, bạn bè; không còn thích vui chơi, nói chuyện; không còn thích ăn uống; không còn thích cái này, cái nọ, kia nữa.

Và cũng không còn sợ hãi phải có Phật tử thân thuộc để lo cho mình miếng ăn, áo mặc, mà chỉ cần phải sống với một mình. Trước hoàn cảnh nào, trước sự việc nào, trước đói khát, trước bệnh tật đều luôn luôn chế ngự, giữ gìn thân mình, ý mình, lời nói mình không để cho dao động trước mọi cái hoàn cảnh, mọi sự việc xảy ra.

(58:40) Bước qua lộ trình xuất gia, người tu sĩ phải dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ.

Vậy dứt bỏ những gì?

Muốn dứt bỏ, người tu sĩ phải sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha;

Nghĩa là cái người tu sĩ, cái người mà bước qua cái lộ trình của người tu sĩ theo đạo Phật thì phải lấy cái giới luật của Phật làm cái cuộc sống của mình. Cho nên, hằng ngày phải chế ngự tâm mình, phải chế ngự thân mình, phải chế ngự cái lời nói của mình phải đúng ở trong giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề hay hoặc là Patimokkha.

Luôn luôn phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh; phải thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt.

Phải nhận ra được cái sự nguy hiểm khi mà chúng ta phạm phải những cái lỗi nhỏ nhặt ở trong cái giới bổn, ở trong những cái oai nghi mà thiếu sót làm chúng ta không xứng đáng là một cái vị tu sĩ, thì chúng ta nên cẩn thận và cảnh giác cho nó rõ ràng.

Vì có cẩn thận, ý tứ từng hành động thân, khẩu, ý của mình, do vì vậy mà mình mới giữ gìn cái giới hạnh, chế ngự cái thân, khẩu, ý của mình trọn vẹn ở trong cái giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề.

Còn nếu mà mình không có chế ngự, không có giữ gìn thân, khẩu, ý của mình thì những cái lỗi nhỏ, cái oai nghi tế hạnh nhỏ mình sẽ bị phạm, và bị phạm thì nó làm cho mình xấu hổ, làm cho mình luôn luôn có sự sợ hãi trong chúng tăng, trong những vị tu hành.

Bước qua lộ trình xuất gia, người tu sĩ phải dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ.

Muốn dứt bỏ, người tu sĩ phải biết sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề hay còn gọi là Patimokkha; luôn luôn phải sống đầy đủ oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ; phải thấy rõ sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt của giới bổn; phải luôn luôn thọ trì, học tập, trau dồi, tu tập trong giới học; thân nghiệp, ngữ nghiệp luôn luôn phải nhờ giới hạnh trau dồi, rèn luyện, tu tập, hằng ngày sinh hoạt trong cuộc sống luôn luôn được trong sạch là nhờ giữ gìn, trau dồi, tu tập giới hạnh trọn vẹn, đầy đủ.

Lúc nào người tu sĩ cũng luôn luôn phòng hộ sáu căn - giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình.

(1:01:31) Vì lúc bấy giờ mình biết: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình mới bước vào lộ trình xuất gia tu hành thì còn rất yếu, dễ bị dính mắc sáu trần, dễ bị say đắm, lôi cuốn sáu trần. Nhất là cái đời sống giới hạnh và giới đức của Phật làm cho cái cuộc sống mới mẻ và khắc khổ đối với con người mới vào tu, vì vậy mà sáu căn tiếp xúc sáu trần dễ sanh sự bất mãn, sự thối chí của người mới tu.

Cho nên phải cố gắng mà phòng hộ sáu căn: Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, đừng cho duyên sáu trần sẽ sanh ra sáu thức và sanh nhiều cái lý luận để đưa đi đến chỗ bỏ đạo, xa thầy và trở về cuộc sống thế tục.

Muốn được như vậy thì người tu sĩ phòng hộ sáu căn giống như một người lính gác cổng thành: luôn luôn phải tỉnh táo biết kẻ ra, người vào, kẻ nào tốt, người nào xấu, kẻ nào gian, kẻ nào thật; phải luôn luôn đề cao cảnh giác, ý tứ từng chút một. Đó là bổn phận và trách nhiệm của một người lính gác cổng thành.

Thì đối với người tu sĩ mới vào đạo Phật xuất gia, mới đi vào lộ trình của người tu theo đạo Phật cũng giống như người lính gác cổng thành vậy: Phải luôn luôn ý tứ và cảnh giác từng chút, vì đó là bổn phận của người tu sĩ khi muốn tìm cầu sự giải thoát thì phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy. Lúc nào thiếu một sự cảnh giác thì bị các pháp trần xâm chiếm tâm, tức là xâm chiếm thành, những kẻ gian ác lừa bịp sẽ dối trá, sẽ gạt gẫm.

Đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu sĩ, cần phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy. Lúc nào thiếu cảnh giác là tâm bị xâm chiếm. Nhờ có sự cảnh giác, tâm mới được yên ổn; nhờ có sự cảnh giác, tâm mới được bảo vệ và giữ gìn, được an ổn, không bị dính mắc các trần, cũng như người lính đã giữ trật tự an ninh trong thành.

Đã cảnh giác canh phòng như vậy mà còn phải biết thiểu dục tri túc.

Tức là phải biết ít muốn mà biết đủ, chớ không phải nói rằng cảnh giác canh phòng như vậy là đủ, mà còn phải giữ gìn cái sự ít muốn, ít ham muốn, biết đủ của mình. Cái gì có thì mình sống cái nấy, không được đòi hỏi thêm nhiều hơn.

(01:04:11) Đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu sĩ mới bước đầu vào đạo Phật là phải sống hiểu biết như vậy, không có đòi hỏi hơn.

Vì lúc bấy giờ, khi chưa bước chân vào đạo Phật là sống đầy đủ những vật chất, những sự ham muốn theo dục lạc thế gian. Nhưng khi đã bước chân vào đây rồi thì phải hiểu rằng, đời sống hôm nay không phải đời sống của ngày mai, đời sống hôm nay là đời sống đạo, không phải là đời sống của thế tục.

Vì vậy, tất cả những gì phải bỏ xuống là bỏ xuống sạch. Vì mục đích cao cả, vì mục đích lớn lao của cuộc sống đầy đau khổ và sanh tử luân hồi, muốn ra khỏi nó phải sống như thế này thì mới ra khỏi được!

Còn nếu muốn trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, sống đời sống đầy đau khổ và tiếp diễn sanh tử luân hồi thì cứ sống theo dục lạc thế gian như mọi người trên hành tinh này vậy, thì không bao giờ có ngày giải thoát được, thì không bao giờ có ngày chấm dứt được luân hồi! Vì chính tâm ham muốn dục lạc thế gian là tâm sanh tử luân hồi, không thể nào làm sao tránh khỏi.

Biết được vậy, hiểu được vậy thì người tu sĩ phải thấy trách nhiệm đầu tiên mình xuất gia theo đạo Phật là mục đích phải chấm dứt sanh tử luân hồi, làm chủ sự sống chết.

Người tu sĩ xuất gia cần phải biết dứt trừ như đã dạy ở trên. Tức là phải dứt trừ sát sanh, tránh xa sự sát sanh. Phải từ bỏ những vật dụng giết hại chúng sanh như gươm, đao, dao, mác, kiếm, cung, tên, trượng, gậy, kích, mâu, côn, chùy, thương, súng, đạn, bom, mìn, lựu đạn, chất nổ. Phải biết xấu hổ và sợ hãi khi lỡ tay làm đau khổ và đoản mạng chúng sanh.

Phải biết luôn luôn tu tập trau dồi lòng từ, thương xót tất cả chúng sanh, làm cho chúng sanh được an vui; nghĩ đến hạnh phúc của chúng sanh, của tất cả loài hữu tình, phải làm sao cho chúng được an lạc thảnh thơi.

Như vậy đó là giới hạnh của vị tu sĩ đầu tiên bước vào lộ trình xuất gia của đạo Phật.

Kế đến, người tu sĩ dứt bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong được những vật đã cho. Tự sống thiểu dục tri túc, biết đủ, ít muốn, trong sạch, thanh tịnh, không có trộm cướp, không có lấy của không cho dù cây kim sợi chỉ, những vật nhỏ nhất cũng không được lấy.

Như vậy, người tu sĩ phải hiểu đó là giới hạnh của người mới bắt đầu xuất gia trong giới luật của đạo Phật.

(01:07:40) Kế tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói láo, tránh xa nói láo; nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật mà nói; nói chắc chắn, nói đúng, tin cậy không nói lường gạt ai; không nói phản lại lời nói của mình, phản lại lời nói của mọi người, của đời sống của mọi người.

Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật mới bước vào lộ trình xuất gia của đạo Phật.

Kế tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi; nghe điều gì chỗ này không được đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi đến nói với những người này để sanh chia rẽ với những người kia.

Như vậy, vị tu sĩ ấy sống hòa hợp với những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ, vui mừng trong sự hòa hợp, thoải mái trong sự hòa hợp, vui mừng trong sự hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.

Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

Kế tiếp, người tu sĩ dứt bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác; vị ấy nói những lời nói không có lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm với mọi người; lời nói tao nhã, nhẹ nhàng, êm ái, làm đẹp lòng nhiều người.

Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ mới xuất gia trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

Kế tiếp, người tu sĩ cần phải dứt bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm; nói đúng thời, nói những lời chơn thật; nói những lời có ý nghĩa; nói những lời về Chánh Pháp; nói những lời về giới luật nghi; nói những lời hợp thời, hợp lý, có mạch lạc, có hệ thống, có lợi ích cho mọi người.

Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

(01:09:57) Kế đến, người tu sĩ phải dứt bỏ ăn uống phi thời, ngày dùng một bữa, không ăn ban đêm; dứt bỏ ăn uống phi thời, dứt bỏ ăn uống lặt vặt; dứt bỏ đi xem múa, hát, nhạc, diễn kịch; dứt bỏ trang sức làm đẹp, làm sang; dứt bỏ nằm giường cao rộng lớn; dứt bỏ nhận vàng bạc, tiền bạc của người cư sĩ cúng dường; dứt bỏ cất giữ tiền, bạc, của báu; dứt bỏ nhận thịt sống, dứt bỏ nhận thịt chín.

Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

Đây là giới hạnh của những người tu sĩ mới bước vào lộ trình xuất gia đầu tiên theo đạo Phật. Những giới hạnh này người tu sĩ cần phải nhớ kỹ và ghi nhớ, không được để vi phạm những lỗi lầm này.

Người mới tu cần phải ghi nhớ mãi mãi những điều này, không được vi phạm. Có vi phạm nhỏ phải xấu hổ, phải hằng răn sám hối, phải hằng sửa sai không được kéo dài, không được tiếp tục phạm nữa. Có như vậy mới xứng đáng là người bước đầu vào đạo Phật.

9.2- TIẾP TỤC DỨT TRỪ ĐIỀU ÁC VÀ TĂNG TRƯỞNG ĐIỀU LÀNH

(01:11:22) Và người tu sĩ mới bước đầu vào đạo Phật cần phải hiểu thêm, cần phải tu tập thêm theo những bài kệ dưới đây để dứt trừ các điều ác mà tăng trưởng các điều lành:

Quý thầy hãy nghe những cái lời dạy này để mà cố gắng cho giai đoạn mới bước đầu vào đạo Phật:

Hãy mau mau làm điều lành,

Thường ngăn tâm làm điều ác.

Hai câu kệ đầu thì khi mà chúng ta mới bắt đầu vào đạo Phật, đi vào cái lộ trình thứ hai, trở thành một vị Tỳ Kheo tu hành, thì tất cả những cái điều lành chúng ta đều là thực hiện, làm tất cả những cái điều lành. Còn những cái điều ác, thì luôn luôn chúng ta phải ngăn chặn cái tâm của mình không được làm cái điều ác. Bất kỳ điều ác lớn, điều ác nhỏ gì thì chúng ta phải ngăn chặn nó lại.

Đây là bốn cái câu kệ kế:

Nếu người làm điều ác

Chớ tiếp tục làm ác

Đừng ước muốn điều ác

Chứa ác chịu khổ đau

Ở đây thì Phật dạy bảo, người mới bắt đầu vào tu thì tâm của chúng ta còn quen đi ở trong cái đời sống thế tục, cho nên nó có những cái pháp ác còn lẫn lộn ở trong tâm hồn của chúng ta.

Cho nên Đức Phật dạy: Nếu người mà còn đang ở trong các pháp ác thì chớ nên tiếp tục các pháp ác, dứt nó ra đi, và đừng có muốn, ước ao, muốn, như bây giờ mình ham muốn cái này kia, ham ăn đó; hay hoặc là còn tham sân si đó, thì cái đó là các pháp ác đó.

Cho nên đừng có ước muốn điều ác, vì chứa ác thì cuộc đời chúng ta sẽ gặp nhiều cái sự đau khổ, mặc dù là hiện giờ chúng ta là những người tu nhưng còn có gặp những cái khó khăn chớ không phải là không có cái khó khăn.

Muốn cho được an ổn, yên ổn tu hành thì chúng ta phải nỗ lực dứt các điều ác, đừng có ước muốn nữa, đừng có ham muốn nữa, vì tất cả những sự ham muốn đó nó sẽ đem đến sự khổ đau, mà cái sự khổ đau đó toàn là những cái điều ác đem đến cho chúng ta.

Nếu người làm điều thiện

Tiếp tục làm thiện thêm

Lòng ước muốn điều thiện

Chứa thiện được an lạc.

Nếu mà chúng ta bước qua cái giai đoạn lộ trình tu theo đạo Phật bắt đầu mới vào tu, thì luôn luôn chúng ta đều ước muốn làm cái điều lành, tiếp tục làm cái điều lành và chất chứa những cái sự điều lành đó, thì con đường tu chúng ta sẽ được an lạc, nó không còn khó khăn nữa.

Còn trái lại, chúng ta có những cái tâm niệm chứa những cái ác, coi như là nghi ngờ thầy tổ của mình, nghi ngờ bằng cách này, bằng cách kia.

Trước khi mà chúng ta muốn đến với một vị thầy đó, thì ít ra chúng ta cũng phải chọn lấy có đủ niềm tin hay không?

Không đủ niềm tin mà khi đến đó mình nhận người ta là thầy mình rồi, mà mình đâm ra nghi cái này, nghi cái kia, đứng núi này mà trông núi nọ, rồi dùng những cái lời lẽ phỉ báng thầy mình, chê bai thầy mình bằng cách này bằng cách khác, thì đó là mình đã chứa những điều ác trong tâm của mình.

Và chứa những cái điều ác trong tâm mình như vậy là tự mình đã đem lại cái sự bất an, đem lại cái sự muôn đời của mình chẳng bao giờ tìm được con đường giải thoát.

Một khi biết thầy mình, là mình đến xin vị đó làm thầy mình, mà mình biết thầy mình chưa có đạt được đến cái mức giới luật cũng như thiền định cao siêu thì mình vẫn là quý trọng thầy mình, đừng có dùng cái lời lẽ phỉ báng thầy mình bằng cách này, bằng cách khác đối với một vị thầy mà đã đưa dắt mình bước đầu.

Ơn không có mà trả oán! Những cái hạng người đệ tử như vậy thì suốt đời của họ tu hành cũng chẳng ra gì. Vì đó là những điều mà họ đã chứa trong tâm họ toàn là cái thứ ác.

(01:15:09) Người ác thấy là lành

Khi ác nghiệp chưa đủ

Đến khi đã chín mùi

Người ác mới thấy khổ.

Nghĩa là bây giờ chúng ta nói cái này, nói cái kia, thì cái nghiệp ác nó chưa có đến cho chúng ta đâu. Nhưng mà khi nó đến đủ rồi thì chúng ta mới thấy rõ được cái khổ đó là do cái hành động ác của mình, cái hành động mà do cái tâm không tốt của mình.

Người hiền đang sống khổ

Khi thiện nghiệp chưa đến

Nay thiện nghiệp chín mùi

Người lành được an vui.

Nghĩa là hiện bây giờ chúng ta làm lành, nhưng mà cái cuộc sống của chúng ta đang gặp những cái khó khăn, là do cái nhân quả của đời trước mà hôm nay mình chịu lấy.

Khi mà cái thiện nghiệp hiện giờ mình đã làm, nó chưa có đến đâu, một ngày nào đó nó sẽ đem đến cho mình. Mà nó đem đến cho mình, nó chín muồi rồi thì cái người mà làm cái điều lành đó sẽ được an vui và an vui mãi mãi trong cuộc sống của họ, họ sẽ không có thiếu thốn một cái gì cả.

Bài kệ kế:

Chớ khinh chê điều ác

Cho rằng chưa đến mình

Như nước nhỏ từng giọt

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người ngu chứa đầy ác

Do chất chứa dần dần.

Nghĩa là hiện giờ chúng ta coi cái chuyện ác nhỏ chẳng ra gì hết: Mình chê, mình nói người này thế này, người khác hay hoặc là mình làm đau khổ người này thế này, thế khác, mình coi nó không có gì. Nhưng mà nó sẽ là những giọt nước mà nhỏ lần lần, nó sẽ đầy cái bình của chúng ta.

Cho rằng nó chẳng có hại mình gì được hết, nhưng mà cuối cùng khi mà cái nghiệp nó đầy đủ rồi, thì cái bình kia nó vẫn phải tràn đầy. Và khi tràn đầy thì chúng ta sẽ thấy thọ lấy những cái quả khổ, mà không ngờ trước những cái quả khổ mà do từng cái giọt nước ác nhỏ, tuy nhỏ, nhưng lâu ngày nó sẽ đầy một cái bình.

Tuy giọt nước nó mềm nhưng nó có thể soi mòn được đá cứng, và cái giọt nước ác nó cũng vậy, nó có thể giết hại đời sống của chúng ta toàn là gặp những đau khổ.

Chớ khinh chê điều thiện nhỏ

Cho rằng chưa đến mình

Như nước nhỏ từng giọt

Rồi bình cũng tràn đầy.

Người trí chứa đầy thiện

Do chất chứa dần dần.

Cái người trí thì luôn luôn mỗi việc thiện nhỏ chúng ta đều cố gắng làm, giống như từng giọt nước nhỏ, đến ngày nào đó một bình nước đầy chúng ta mặc sức mà dùng, đời sống chúng ta được an vui và hạnh phúc.

Đây là những điều mà phải nói rằng, trên cái bước đường tu hành theo đạo Phật thì phải nói rằng, cái giai đoạn đầu tiên bước qua cái lộ trình thứ hai này, trở thành một vị tu sĩ của đạo Phật, thì chúng ta phải nhớ những cái bài kệ này là những cái hành động mà đầu tiên chúng ta phải dứt trừ những cái điều ác.

Những cái điều ác mà nó đưa đến cho cái đời sống của chúng ta nó cái nhiều cái quả khổ, mặc dù là chúng ta tu hành nhưng phải gặp nhiều cái quả khổ. Chúng ta cố gắng mà dứt trừ nó thì may ra chúng ta sẽ được an vui trong cuộc đời tu hành của chính mình.

(01:18:02) Bởi vậy hằng ngày trên cái đường tu tập của chúng ta, chúng ta hãy tích lũy từng chút cái việc làm lành: Thấy một con vật mà bị trôi trên một cái vũng nước, đang sắp chết đuối trên cái vũng nước nhỏ, chúng ta mau mau cứu chúng, thì đó là một cái việc làm lành nhỏ của chúng ta.

Thấy một cái miếng miểng chai, hoặc là một cây đinh, hoặc là một cây gai nằm ở trên đường mà người qua, kẻ lại, thì do đó chúng ta nên nhặt cái vật đó đi, không khéo thì có người vô ý họ sẽ đạp phải, họ sẽ gây cái đau khổ cho cái thân người đó. Do đó, chúng ta muốn tránh sự đau khổ cho mọi người thì chúng ta nên lượm cái vật đó đi. Đó là một cái việc làm lành nhỏ.

Cũng như chúng ta đi, chúng ta nhìn xuống chân mà chúng ta tránh đi, đừng có để đạp con kiến hoặc là côn trùng dưới chân, tránh cái sự chết hoặc là cái sự gãy chân đau khổ của chúng, chính cũng là một cái điều lành nhỏ mà chúng ta hằng ngày chúng ta (gặp) phải.

Thấy một con vật đang đói khát, trong khi đang quằn quại trên cái sự đau khổ của cái cơn đói hoặc là cơn bệnh của chúng, thì chúng ta ngồi mà chúng ta nhìn, rồi chúng ta khởi một cái tâm thương yêu, mong rằng cái sự đau khổ của chúng sanh này sẽ giảm đi, sẽ bớt đi. Sự ước mong, sự ước muốn của chúng ta nó cũng được cảm thông với cái sự đau khổ của chúng sanh.

Đó là những cái việc làm lành nhỏ mà góp nhặt từng chút để tạo nên cái lành lớn. Nếu chúng ta không làm được những cái điều nhỏ này thì khó mà có thể dứt trừ được những điều ác.

Hằng ngày chúng ta ngồi lại, thấy hai con vật đang cắn lộn nhau, đang giành nhau một cái vật thực gì đó mà cắn nhau, chúng ta vội vàng can ngăn chúng ra, đừng để chúng đánh nhau, thì đó cũng là một việc lành nhỏ.

Hằng ngày chúng ta có những điều mà vô tình chúng ta có thể làm đau khổ chúng sanh. Khi chúng ta đang ngồi ăn, thấy một con kiến hoặc là một con vật gì rớt ở trên mình chúng ta, bị nó cắn làm cho chúng ta ngứa hoặc đau. Trong khi bị đau, ngứa chúng ta không có ý tứ, không nghĩ đến thương chúng, cho nên lấy tay chúng ta vò đi, chà đi làm cho con vật bị chết đi, đó là chúng ta làm một cái điều ác nhỏ.

Cũng như chúng ta ngồi chơi, có một con muỗi đáp trên mặt chúng ta hút máu, chúng ta bắt đầu nghe ngứa ở tại chỗ đó thì chúng ta phải ý tứ: “Trên mặt chúng ta có chỗ ngứa, có lẽ có một con vật, con muỗi hay con gì cắn chúng ta, phải từ từ nhẹ tay để làm cho con vật đó không chết!”, đó là một việc làm thiện nhỏ.

Hằng ngày còn biết bao nhiêu việc nhỏ, như chúng ta đổ một cái xô nước nóng, chúng ta nhìn trước sau coi dưới đất chúng ta đổ có loài chúng sanh không, nếu không có chúng ta sẽ đổ. Và đổ nước nóng xuống đất mà không có chúng sanh thì không có chết hại chúng sanh, đó là một việc làm thiện của chúng ta.

(01:21:14) Chúng ta nắm một cái cây mà chúng ta ném, cái cây rớt rủi ro trúng một con vật nhỏ như một con rắn chiếu, hoặc là một con trùng, hoặc là một con kiến, nó cũng làm cho con vật đau khổ.

Tốt hơn, chúng ta đừng vô tình ném một cái cây, một khúc cây rớt để làm cho đau khổ chúng sanh. Chúng ta hãy để nhẹ nhàng khúc cây vào cái nơi vị trí của chúng, thì thứ nhất là oai nghi tế hạnh của chúng ta rất là nhẹ nhàng, rất là có oai nghi, và thứ hai là không làm đau khổ chúng sanh.

Đó là những cái hành động thiện nhỏ mà chúng ta cần phải nhặt nhạnh từng chút, từng ngày để tạo cho chúng ta có những cái điều lành lớn sau này.

Đối với cái hành động ác hằng ngày mà hành động nhỏ chúng ta cũng cần lưu ý. Và đối với cái hành động thiện nhỏ hằng ngày chúng ta cũng cần lưu ý để mà trau dồi thân tâm của mình trong những oai nghi, tế hạnh của một người tu sĩ mới bắt đầu tu tập giới hạnh của Phật, thực hiện cái đời sống tu hành oai nghi tế hạnh đầy đủ, nhẹ nhàng, để giúp đỡ tất cả chúng sanh không vì mình mà đau khổ.

Đây là những điều căn bản đầu tiên, giới hạnh của người tu sĩ mới bước qua lộ trình xuất gia cần phải thông hiểu rõ ràng để không có lỗi lầm, để không phạm phải.

Nhưng bấy nhiêu đây chưa đủ để đi suốt cái quãng đường xuất gia tu hành để đi đến chấm dứt sanh tử luân hồi được, mà còn phải tu tập nhiều hơn nữa, và phải tu tập nhiều hơn nữa.

9.3- SỐNG TRẦM LẶNG ĐỘC CƯ VÀ TU TẬP CÁC LOẠI ĐỊNH

(01:22:53) Người tu sĩ Phật giáo mới bước đầu vào đạo cần phải sống độc cư, sống trầm lặng, sống một mình; còn phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt.

Đó, cho nên chúng ta không bước vào cái lộ trình của người tu sĩ thì thôi, mà đã bước vào cái lộ trình của người tu sĩ thì thứ nhất là chúng ta phải thấy về cái hạnh độc cư rất là quan trọng đối với người tu sĩ.

Bởi vì cuộc sống của chúng ta ngoài đời, chúng ta rất thích là ham vui, nói chuyện này, chuyện kia, cười cợt, nói diễu, nói đùa, nói móc, nói máy, nói mỉa mai người này, người nọ, người kia để cho mình thỏa thích cái tâm vui, cái tâm cô đơn của mình.

Nhưng khi mà bước vào nẻo xuất gia tu hành rồi, thì chúng ta phải thấy những cái sống như vậy nó không đúng là cái hạnh của người tu sĩ.

Mà sống đúng hạnh người tu sĩ là phải sống độc cư, sống một mình, sống không nói chuyện với ai, luôn luôn phải ưa thích trầm lặng, phải sống cuộc sống trầm lặng, phải luôn sống cho mình, phải luôn sống để tâm mình hợp nhất, đừng bị phân tán (bởi) các cái ngoại cảnh, các cái đối tượng, các cái hoàn cảnh.

(01:24:04) Vì vậy mà chúng ta thường xuyên phải tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và cái Định Vô Lậu, và phải sống hằng ngày trong cái Định Sáng Suốt.

Và hằng ngày, muốn sống trong cái Định Sáng Suốt, thì người tu sĩ mới bắt đầu qua cái lộ trình thứ hai - cái lộ trình của người xuất gia thì phải tu tập ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Mà cái Chánh Niệm Tỉnh Thức thì lấy cái sự đi kinh hành, lấy cái việc làm hằng ngày của mình trong lao tác, trong lao động mà tập trung tâm mình ở nơi cái hành động, để biết cái hành động của mình đang ý tứ làm những công việc cho tỉnh táo, cho sáng suốt, và thường phải dùng pháp hướng nhắc cái tâm của mình.

Thí dụ như mình đang lặt rau, hay hoặc đang nấu cơm, thì đang lặt rau nói: “Tôi biết tôi đang lặt rau". Và khi lặt rau xong rồi, thì đến cái giai đoạn nấu cơm thì: "Tôi biết tôi đang nấu cơm", thì thỉnh thoảng mình lại nhắc: "Tôi biết tôi đang nấu cơm".

Tập cho cái sức tỉnh thức của mình ở trong cái hành động đó để cho nó luôn luôn nó tỉnh thức, nó không có một niệm vọng tưởng xen vào, và cũng không có một cái niệm vô ký quên đi cái hành động của chúng ta.

Vả lại thì cái đó là cái phần tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, thì cái phần đó nó giúp cho chúng ta được ý tứ trong cái hành động để mà giữ gìn cái giới hạnh cho nó đừng có vi phạm, đừng có phạm phải.

Và kế tiếp thì chúng ta phải tu cái Định Vô Lậu. Và cái Định Vô Lậu thì chúng ta phải thường xuyên đặt cái niệm ở trước mắt của chúng ta.

Bây giờ chúng ta là những người mới rời khỏi gia đình, tình cảm của chúng ta nó còn dính dấp đối với những người thân, cho nên mình đặt cái niệm nhân quả đối với những người thân như cha, mẹ, vợ, con, anh, em. thì chúng ta mới nhìn nó mà quán xét cái nhân quả.

Nếu không có cái nhân quả thì làm gì ngày nay chúng ta trở thành con cái hay hoặc là trở thành cha mẹ của mình? Chúng ta quán xét. Rồi chúng ta quán xét: Nếu không có nhân quả thì làm sao mà những người này họ trở thành vợ con mình được? Có nhân quả, một là mình nợ họ, hai là họ nợ mình!

Do cái chỗ đó, chúng ta quán xét suy tư, từ đó chúng ta mới dứt được cái tình thương yêu một cách rất là vô minh, không có sáng suốt, làm cho cái tâm của chúng ta càng ngày càng lìa xa cái tình thương yêu nhỏ mọn, nó không rộng lớn như cái tâm từ bi của Phật dạy.

Muốn được vậy thì hằng ngày chúng ta đặt cái niệm lòng thương yêu của chúng ta đối với gia đình, đối với những người thân, chúng ta phải quán xét nó bằng cái đường lối của nhân quả, bằng những cái nợ của mình: Hoặc là mình nợ, hoặc là họ nợ mình, cho nên đây là một cái sự vay trả, một cái sự đòi hỏi để trả nợ với nhau trong cái hiện kiếp này, mà cái kiếp kia là những người con nợ với nhau, mình nợ họ, họ nợ mình!

(01:27:41) Do như vậy thì chúng ta mới dứt được những cái điều thương, những cái điều ngồi mà suy nghĩ gia đình, suy nghĩ vợ con. Do đó, chúng ta mới dứt được, nó mới không còn trói buộc chúng ta được. Do đó chúng ta mới yên tâm mà giữ gìn giới hạnh để chúng ta ly dục ly ác pháp. Nhờ thế chúng ta mới ngồi lại mà tu được cái Định Sáng Suốt.

Vậy Thầy sẽ đọc cho quý thầy nghe bài kệ Nhất Dạ Hiền.

Bây giờ Thầy sẽ đọc cái bài kệ:

Quá khứ không truy tìm

Tương lai không ước vọng

Chỉ có pháp hiện tại

Chánh Niệm Tỉnh Giác đây

Tuệ tri Quán Vô Lậu

Không động không rung chuyển.

Biết vậy nên tu tập

Hôm nay nhiệt tâm làm

Đêm ngày không mỏi mệt

Xứng gọi Nhất Dạ Hiền

Luôn luôn sống trầm lặng.

Đó là một cái bài kệ mà Thầy nhắn nhủ quý thầy. Trầm lặng đây là độc cư đó, sống một mình mình đó, sống trong cái trạng thái tâm hồn trầm lặng, đừng có lăng xăng, đừng có nhôn nhao ở trong cái tâm của mình. Và cái sự tu tập thì ở đây chỉ rõ là hai cái định: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và cái định Vô Lậu Định.

Cho nên hai câu kệ này để hàng ngày, hằng đêm quý vị cố gắng mà tu tập:

Chánh Niệm Tỉnh giác đây

Tuệ tri Quán Vô Lậu

Đó là hai cái định mà quý thầy cần phải tu tập trong hiện giờ, chớ không phải tu tập cái hơi thở mà hãy tu tập hai cái định này trước. Vì cái bước đầu mà tu theo đạo Phật không phải đi vào cái định, mà phải đi vào cái sức tỉnh giác chớ không phải là cái định.

Vì cái định nó phải ngưng các hành, còn cái tỉnh giác thì nó không ngưng các hành. Mà chính cái sức tỉnh giác nó làm cho cái tuệ tri chúng ta mới sáng suốt, mới diệt được cái lậu hoặc, làm cho tâm chúng ta vô lậu. Nhớ kỹ mà tu tập, siêng năng mà tu tập cái định này.

Vì quá khứ nó cũng không ích lợi gì cho chúng ta, mà tương lai thì chúng ta có mơ mộng, có ước vọng cái này kia thì nó cũng chưa cái đến. Cho nên chúng ta đừng có sống ở trong cái thời gian quá khứ, cũng đừng có sống trong cái thời gian tương lai, mà hãy chỉ có cái hiện tại. Mà cái hiện tại thì chúng ta tu cái gì đây? Tức là chúng ta tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.

(01:30:30) Và tuệ tri Quán Vô Lậu để cho cái tâm chúng ta không dính mắc vào cái ngã, để tâm chúng ta không dính mắc vào các pháp mà sanh ra tham, sân, si, phiền não.

Đó là phương pháp mà quý thầy phải tu tập, siêng năng mà tu tập. Đó quý thầy nhớ ghi lại cái bài kệ đó. Đó là như vậy. Cố gắng hàng ngày lúc nào cũng phải tu tập, không có được biếng trễ những cái pháp này.

Cho nên quý thầy nhớ kỹ, cái đời sống của quý thầy hiện giờ ở đây là luôn luôn sống trầm lặng, phải sống trầm lặng, không được nhôn nhao, không được nói chuyện, không được đi lăng xăng mà chỉ đi với sự kinh hành thanh thản trong pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác Định mà thôi.

Làm việc cũng vậy, khi những giờ lao động thì quý thầy quét dọn hoặc là nhổ cỏ, cũng tuần tự làm nhẹ nhàng để tâm trong Chánh Niệm Tỉnh Giác chớ không được làm vội vàng, làm không có tu tập ở trong đó thì nó không ích lợi cho sự tu tập của mình.

Cho nên qua bài kệ này thì quý thầy phải nhớ học thuộc lòng, và thường từng nhắc nhở sự tu tập của mình hằng phút, hằng giây để cho sức tỉnh giác và trí tuệ quán xét diệt lậu hoặc, làm cho tâm không còn lậu hoặc nữa thì mới có sự giải thoát chân thật của đạo Phật.

Qua cái bài kệ này để nhắc nhở trong hiện tại, quý thầy về đây tu tập, nỗ lực thực hiện, có pháp để mà tu. Không khéo rồi chỉ không biết pháp nào mà tu, cứ lo ôm chặt hơi thở mà tu thì không đúng.

Vì lúc nào dạy hơi thở thì Thầy sẽ dạy hơi thở, mà chưa dạy thì quý thầy phải tu hai cái định đó trước tiên. Chớ nếu quý thầy mà không tu hai cái định đó thì chắc chắn là quý thầy sẽ đi vào hơi thở, không đạt được kết quả tốt của hơi thở đâu.

HẾT BĂNG

02 - TỔNG QUAN VỀ GIỚI LUẬT

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 02 - TỔNG QUAN VỀ GIỚI LUẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- SỐNG ĐÚNG GIỚI LUẬT NHƯNG KHÔNG CHÊ BAI NGƯỜI PHẠM GIỚI

(00:00) Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục qua cái giáo án vừa rồi, để chúng ta học cái giáo án này trong cái mùa hạ này cho nó hoàn tất cái giáo án của đạo Phật đã dạy các vị Tỳ Kheo ngày xưa, cũng như bây giờ thì Thầy theo cái giáo án này mà dạy quý thầy tu tập trong hiện tại.

Trong cái giáo án Thầy có nói rõ ràng là hai cái đời sống rất là cụ thể.

Vì cái đời sống của thế gian thì nó theo cái dục lạc của thế gian, cho nên chúng ta thương, ghét, giận, hờn, phiền não, nhiều thứ đau khổ.

Và cái đời sống mà của người xuất thế gian thì nó không còn có những cái tâm lăng xăng đó nữa, và nó không còn có cái tâm ham muốn nữa, cho nên nó phóng khoáng như hư không, nó trắng bạch như vỏ ốc, nó làm cho cái người tu sĩ thanh thản hàng ngày, không còn vướng bận một cái gì trong tâm hồn.

Do cái sự so sánh này mà quý vị đã chọn lấy con đường tu theo đạo Phật. Mà đã chọn lấy nó rồi thì quý thầy sẽ học tập cái gì trước tiên?

Như ở trong cái giáo án tóm lược này:

Khi đã quyết tâm cắt ái, xuất gia như vậy, quý vị phải siêng năng học tập giới luật, không có giới nào mà quý vị không thuộc. Quý vị phải thường hằng, cố gắng sống đúng giới luật, không cho phạm phải một lỗi nhỏ; sống đúng nếp sống oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đạo Phật.

Vậy muốn sống đúng giới luật không phạm phải lỗi nhỏ mà quý thầy không học giới luật thì làm sao quý thầy biết cái lỗi nào mà là cái lỗi nhỏ, lỗi lớn nào ở trong giới luật?

Cho nên đến cái giai đoạn này, Thầy phải giảng cho quý thầy rõ biết cái giới luật, hiểu biết hai trăm năm chục giới luật của người tu sĩ, của người Tỳ Kheo.

(02:13) Nhưng quý vị có những người xuất gia mà cũng có người tại gia, cho nên không phải quý vị học giới luật ở đây để rồi quý vị đi ra chê cười những người xuất gia.

Khi quý vị đã hiểu biết giới luật là để cho quý vị tu tập chớ không để cho quý vị ra biếm nhẽ người khác, vì Phật giáo không dạy cái điều biếm nhẽ người ta.

Người ta có phước duyên thì người ta tu đúng giới luật, thì người ta được giải thoát. Người ta chưa đủ phước duyên, người ta tu từng chút, từng chút, thì cái sự lỗi lầm của người ta để lần lượt người ta sẽ sửa. Chớ không phải để cho quý vị học giới luật mà quý vị chê cười người ta, quý vị khinh bỉ người ta.

Còn mình là cư sĩ mà mình đã thông giới luật, không phải là cái thông giới luật đó để cho mình đem ra mình coi rẻ quý thầy, mà mình thông giới luật là để cho mình tu tập, giữ gìn Phạm hạnh, tâm hồn thanh tịnh của mình để mình đi đến chỗ giải thoát hoàn toàn.

Cho nên một người tu theo đạo Phật là một người không khinh chê ai, không khen pháp này, không chê pháp kia, chớ không phải chúng ta đứng ở góc độ tu này chê pháp người khác.

Cho nên đạo Phật không bài bác, không lý luận, không hý luận, chỗ vui đùa bằng cách thích thú của một tâm hồn thế gian, khen và chê. Vì vậy hôm nay, Thầy giảng giới luật cho quý vị hiểu biết để quý vị tu chớ không phải để cho quý vị chê cười người khác.

Vì người khác người ta phạm giới, người ta lỗi thì đó là cái nhân quả để cho người ta gặt hái, người ta chịu cái quả đó, chớ không phải chỗ để quý vị cười chê người ta. Nếu quý vị cười chê người ta thì quý vị phải gặt hái cái quả cười chê đó, dù quý vị là người giữ giới thanh tịnh.

Cho nên trong giới luật rất là cấm kỵ cho những người mà khen chê, lấy sự hiểu biết của mình chê người khác, lấy pháp tu của mình bài bác pháp của người khác, là sai, không đúng Phạm hạnh của người tu theo đạo Phật.

Người tu theo đạo Phật thì không bao giờ có sự khinh chê ai cả: Nghèo chúng ta không khinh, giàu chúng ta không nịnh bợ, người học dở chúng ta không khinh, người học hay chúng ta không khen. Do chỗ tu hành giải thoát chớ không phải chỗ khen chê đó.

(04:52) Cho nên từ đây về sau, quý thầy đã học được giới luật ở đây giảng dạy, và quý thầy đã cố giữ gìn được thì quý thầy hãy thương xót những người, người ta chưa làm đúng chớ không được khinh chê bài bác họ, không được ở đây đi ra chỗ khác mà chỉ trích họ bằng cách này, bằng cách khác.

Nếu ai làm trái lời dạy của Thầy ở đây thì sẽ đọa địa ngục, vì làm cho Phật Pháp chia rẽ, vì làm cho Phật Pháp suy đồi thêm, không ích lợi cho quý vị mà làm sự đau lòng, rạn nứt trong một đại gia đình tôn giáo Phật giáo.

Quý vị nhớ kỹ những lời này, quý vị phải gắng ghi ở trong lòng của quý vị, không được đem giới luật hiểu biết mà quý vị chê cười người khác.

Thầy nhắc lại một lần nữa để quý vị nhớ kỹ: Khi học giới luật không được khinh chê người phạm giới, lần lượt mình hãy giữ mình cho đúng giới luật của Phật, những người phạm giới người ta sẽ theo đó mà người ta sửa mình chớ không được chỉ trích họ.

Thầy tin rằng, khi những lời Thầy dặn bảo và khuyên lơn quý thầy, quý vị thì quý vị hãy cố gắng mà nghe những lời Thầy dạy để trong một cái đại gia đình Phật giáo không có sự rạn nứt mà có một tình thương nhau “chị ngã em nâng”. Chớ không thể nào chúng ta thấy những người khác phạm giới mà chúng ta coi thường họ.

Người tu sĩ Phật giáo biết thương yêu chớ không biết thù hận. Người tu sĩ Phật giáo biết giúp đỡ, không biết từ bỏ những sự giúp đỡ của những người phạm phải những lỗi lầm. Người tu sĩ Phật giáo biết tha thứ, không biết cố chấp, không có cố chấp.

Vì vậy, chúng ta tu hành thì phải giữ mình cho trọn vẹn những đức hạnh đó.

2- LỘ TRÌNH ĐAU KHỔ VÀ LỘ TRÌNH CHẤM DỨT SỰ ĐAU KHỔ

(06:56) Đến đây, Thầy nhắc lại cái phần chọn lựa hai con đường tu tập, để quý thầy thấy sự chọn lựa như thế nào cho đúng để mà chúng ta bước vào con đường tu hành của đạo Phật.

Trên giai đoạn tu tập thứ hai này, quý vị cần phải tư duy nhiều hơn để thấy rõ mặt thực của đời sống:

1. Ai mang cái thân này lại tự cho là không bệnh, không khổ dù chỉ trong một phút giây ngắn ngủi, người ấy quý vị phải xác định họ là người ngu.

Nghĩa là trong khi chúng ta mang cái thân này mà chúng ta cho rằng không bệnh khổ, không có giận hờn phiền não, không có đau khổ, thì chúng ta thấy đó là một cái người ngu chớ không phải là người thông minh.

Một người thông minh nào cũng nhận biết rằng: Ai mang cái thân này thì cũng phải có bệnh, có chết, có khổ, có già, có suy nhược, thì tất cả mọi thứ đó đều là cái khổ cho đời người. Vì vậy mà người thấy mang cái thân này không bệnh, không khổ là cái người không có trí tuệ, là người ngu.

2. Người có thân bệnh và tâm bệnh là người vô minh, điên loạn, lầm chấp Ngũ Uẩn là ngã.

Nghĩa là cái thân mà bệnh, cái tâm mà lo lắng thì cái người đó gọi là người vô minh.

Người có thân bệnh mà tâm thanh thản, không lo, không buồn, không rầu thì người đó là người không chấp ngã, không chấp Ngũ Uẩn là ngã.

Ngũ Uẩn là gì? Là Sắc, là Thọ, là Tưởng, là Hành, là Thức, đó gọi là Ngũ Uẩn.

Vì lầm chấp Ngũ Uẩn là ngã cho nên thân có bệnh thì tâm lo rầu; hoặc có đối tượng gì, có sự việc gì thì tâm giận, tâm hờn, tâm đau khổ, tâm phiền não.

3. Người có thân bệnh mà tâm không bệnh là người trí, sáng suốt, không chấp thân Ngũ Uẩn là ngã.

(08:54) Nghĩa là, cái người mà nhận biết cái thân Ngũ Uẩn này không phải là ngã của mình, thì do đó khi thân có bệnh họ vẫn thản nhiên, họ vẫn thanh thản mà không phải buồn rầu, lo lắng; thì đó là họ không chấp thân Ngũ Uẩn.

Chỉ vì ngu si, vô minh, không nhận thấy đúng lẽ thật, lầm chấp, cho Sắc là tự ngã…​

Cái thứ nhất là mình lầm chấp cái thân của mình là cái Sắc đây, tức là cái thân Tứ Đại này, cho nó là cái ngã của mình.

Cái thứ hai, mình lầm chấp cho cái cảm giác đau đớn đó là cái tự ngã của mình.

Cái thứ ba mình lầm chấp là cái sự suy tư, tư niệm ở trong đầu của mình - tưởng cái này, nhớ cái kia, đó là mình cho cái đó là cái tự ngã của mình.

Rồi mình còn lầm chấp những cái hành động, mình cho đó, cái hành động đó là tự ngã của mình. Hoặc là mình lầm chấp cái Thức - là cái biết của mình - đó là tự ngã của mình:

…​ nên đời sống mới có sầu bi, khổ não và ưu phiền.

Vì mình lầm chấp cái thân Ngũ Uẩn này thì do đó mình mới có đau khổ, còn nếu mình không lầm chấp như vậy thì mình sẽ không đau khổ.

Do vì có cái thân này cho nên chúng ta lầm chấp cho nó là ngã, cho nên mọi thứ dục lạc trong thế gian này chúng ta đều phục vụ cho cái lầm chấp đó mà trở thành một cuộc sống đau khổ.

Bởi vậy Phật dạy: Có hai lộ trình mà quý vị phải chọn lấy một.

Nghĩa là hai lộ trình đây là hai cái cuộc sống của chúng ta: Một cái cuộc sống ở ngoài đời và một cuộc sống ở trong đạo. Đó là hai cái lộ trình mà Phật dạy chúng ta phải chọn lấy một lộ trình.

1. Có một lộ trình đưa đến thân kiến kiến lập, tập khởi: Đời sống thế gian.

Nghĩa là cái lộ trình mà hiện mọi người đang đi ở trong cái thế gian này đó, đang sống ở trong thế gian này, đó là cái lộ trình thân kiến. Thân kiến nghĩa là chấp cái thân của mình, chấp cái Sắc của mình, chấp cái Thọ cái Tưởng, cái Hành, Thức của mình đây là cái ngã của mình đó.

Đó là cái lộ trình thứ nhất mà tập khởi những cái sự đau khổ, huân lên những cái sự đau khổ cho suốt cả một cái đời người. Đó là lộ trình thứ nhất.

(11:58) Lộ trình thứ hai:

2. Có một lộ trình đưa đến thân kiến đoạn diệt : Đời sống xuất thế gian.

Vì cái lộ trình này đưa đến con người không có còn chấp cái thân nữa, không còn chấp tự ngã nữa, cho nên thân kiến đoạn diệt - cái sự hiểu biết về thân nó bị đoạn diệt hoàn toàn, nó không có một cái đối tượng, một cái vật mà chúng ta chấp nó là cái ngã của chúng ta. Cho nên cái lộ trình này gọi là lộ trình của đời sống xuất gia.

Cho nên hai lộ trình này chúng ta phải chọn lấy một lộ trình để mà chúng ta đi.

Lộ trình thứ nhất, quý vị thấy Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là thật có nên chấp nó làm tự ngã. Lộ trình này đưa đến sự hiểu biết dính mắc các pháp nên đau khổ dẫy đầy.

Nghĩa là cái lộ trình thứ nhất này, thấy các pháp thì quý vị chạy theo các pháp và dính mắc các pháp, không thể nào xa lìa được các pháp, do đó mà quý vị phải chịu những điều đau khổ suốt cuộc đời.

Lộ trình thứ hai, thấy biết Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức không phải là tự ngã, con đường này đưa đến thân kiến đoạn diệt, đưa đến sự chấm dứt đau khổ không còn nữa.

Đó là quý vị chọn lấy hai cái lộ trình: Cái lộ trình của đời sống thế gian và cái lộ trình của đời sống xuất thế gian, mà cái giáo án của Phật đã vạch cho chúng ta thấy để mà chúng ta suy ngẫm chọn lấy, so sánh mà chọn lấy hai cái lộ trình đó.

Cho nên hôm nay, Thầy bổ túc thêm về cái phần để thấy được hai cái lộ trình rõ ràng.

3- TỪ GIỚI LUẬT SINH RA NGƯỜI TU SĨ

(13:34) Vậy thì bây giờ, quý vị đã chọn lấy cái lộ trình xuất gia tu theo đạo Phật để đến cái mục đích cuối cùng là sự giải thoát khỏi, chấm dứt luân hồi, sanh tử và đau khổ.

Vậy thì muốn chọn lấy cái đường xuất gia thì quý vị phải học hai trăm năm chục giới chớ không phải Thập Giới Sa Di. Hai trăm năm chục giới sẽ giúp cho quý vị thấy được một cái nền tảng vững chắc, mỗi cái lỗi lầm của quý vị, quý vị sẽ thấy rõ mà quý vị sẽ tránh không có được lỗi lầm những cái lỗi nhỏ đó.

Trong giáo án của Đức Phật, giai đoạn thứ hai,…​

Tức là lộ trình thứ hai đó.

…​ khi quý vị đã chấp nhận đời sống xuất gia tu hành thì quý vị phải học thuộc năm (hai) trăm năm chục giới Tỳ Kheo; còn bên nữ, quý vị phải học thuộc ba trăm bốn mươi tám giới.

Khi quý vị tiếp nhận một đời sống tu sĩ thì đương nhiên quý vị phải được từ giới luật sinh ra: Giới Thân Huệ Mạng, ấy vậy mà không mấy ai lấy làm quan trọng sự được sinh ra ấy.

Nghĩa là, trong cái chỗ này, quý vị khi tiếp nhận qua một cái đời sống xuất gia thì quý vị phải thấy rằng: Cái thân mạng của quý vị do từ giới sanh ra chớ không phải do cha mẹ sanh ra nữa, không phải do cái tâm ham muốn sanh ra nữa, mà phải do từ giới luật sanh ra mình.

Cho nên giới luật rất là quan trọng, đương nhiên coi quý vị bước chân vào đạo, quý vị xuất gia thì quý vị được xem mình là phải do từ giới luật sanh ra; từ giới luật sanh ra quý vị chớ không phải do cha mẹ sanh ra quý vị nữa.

Mặc dù thân xác của quý vị hiện có là cái thân Ngũ Uẩn này được cha mẹ sinh ra, nhưng tâm hồn của quý vị bắt đầu không phải còn ở trong trạng thái của cái thân Ngũ Uẩn, trong cái cuộc sống thế gian nữa.

Tâm hồn của quý vị phải được giới sanh ra làm cho quý vị sống trong giới luật của đạo Phật, của Đức Phật.

4- TÁM LOẠI GIỚI LUẬT CỦA ĐẠO PHẬT

(16:23) Giới luật của Phật chia ra làm tám loại từ nặng tới nhẹ:

Bây giờ quý vị đã hiểu được rằng, quý vị đi vào con đường xuất gia là từ giới luật sanh ra quý vị. Vậy thì giới luật là cha mẹ của quý vị, vậy quý vị phải hiểu nó như thế nào?

Cho nên ở đây Phật chia ra làm tám loại từ nặng tới nhẹ.

Cho nên chúng ta phải hiểu biết cha mẹ sanh mình ra trong giới luật này thì phải biết nó có tám loại, chớ không thể thiếu sự hiểu biết này được.

1. Ba La Di: có 4 giới;

2. Tăng Tàn: có 13 giới;

3. Bất Định: có 2 giới;

4. Xả Đoạ: có 30 giới;

5. Đơn Đọa: có 90 giới;

6. Hướng Bỉ Hối: có 4 giới;

7. Chúng Học: có 100 giới;

8. Diệt Trách: có 7 giới.

Nghĩa của mỗi giới:

Ở đây, Thầy sẽ giải thích cho quý thầy hiểu những cái danh từ mà người ta dịch âm ra bằng tiếng Phạn như "Ba La Di" thì Thầy sẽ giải nghĩa để quý vị hiểu một cái danh từ đó nó có những nghĩa gì qua tiếng Việt của chúng ta.

Ba La Di có sáu nghĩa:

1. Bị đuổi ra khỏi chúng;

2. Tha thắng;

Là bị cảnh lôi cuốn.

3. Vô dư;

Không còn phương pháp nào cứu chữa được.

4. Cực ác;

Rất là xấu, tội rất nặng.

5. Đoạn đầu;

Là đứt đầu.

6. Đọa thú xứ;

Đọa vào ba đường ác.

(18:26) Nghĩa là cái giới Ba La Di ai mà phạm vào thì đọa vào địa ngục, coi đương nhiên đối với đạo Phật là sự tu tập đã chấm dứt - đứt đầu. Mà cái tội Ba La Di là cái tội rất nặng, rất xấu; cái tội đó không có phương pháp nào cứu chữa, không có sám hối hay hoặc là làm cái gì cứu chữa được hết!

Cái người mà phạm tội Ba La Di này là bị cảnh trần lôi cuốn, không còn có thể trở lại được, cũng như bị dòng nước xói cuốn chúng ta trôi đi mà không cách nào cứu chữa được.

Và cái tội Ba La Di này là tội bị đuổi ra khỏi chúng, không còn sống ở trong đại chúng được nữa. Đó là cái giới bị đuổi, không có thể nào còn chấp (nhận) ở trong chúng tu tập được nữa.

Tăng Tàn: Là giới biệt trụ.

Nghĩa là người mà phạm cái giới Tăng Tàn này, khi phạm giới thì người ta bắt người đó cấm phòng, không có cho ra; hoặc là biệt trú - cho người đó vào một cái trụ xứ nào mà không có được sống ở trong chúng, mất quyền của một vị tăng.

Nghĩa là cái người đó không còn làm cái quyền gì ở trong tăng hết, không có làm trụ trì, không có đi thuyết giảng, không có làm mọi việc gì hết. Thì cái giới Tăng Tàn mà một vị tu sĩ phạm phải thì bị phạt như vậy đó!

Giới Bất Định: Còn có cái tên gọi là Thâu Lan Giá.

Tức là dịch âm của tiếng Phạn ra.

Cái giới Bất Định này nó không phạm vào cái giới Ba La Di mà cũng chưa phạm vào cái giới Tăng Tàn, cho nên nó gọi là Bất Định.

Vì vậy mà khi xét cái giới này để xử phạt cái người mà phạm giới này, thì xét cho rõ: Nếu nó phạm vào Ba La Di thì phạt theo cái giới luật Ba La Di, mà nó phạm vào cái giới Tăng Tàn thì phạt nó vào cái giới Tăng Tàn.

Cho nên giới Bất Định này thì nó xử phạt theo hai giới kia, nếu mà nó đã nặng ở bên nào thì chúng ta sẽ xử phạt theo bên nấy.

Xả Đọa: Giới Xả Đọa còn có cái tên là Ni Tát Kỳ hoặc là Ba Dật Đề.

Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề - nó có cái tên tiếng Phạn, dịch nghĩa nó ra là Xả Đọa.

Nghĩa là cái tội này thì chỉ xin sám hối và xả bỏ những cái vật sở hữu mà mình cất giữ không đúng, gọi là Xả Đọa. Sám hối rồi giao những cái vật dụng mà mình nhận, mình cất giữ không đúng cách của một tu sĩ thì giao trả lại cho Tăng đoàn, cho Giáo hội, thì người này chỉ sám hối là xong chớ không có gì hết.

Đơn Đọa: Là Ba Dật Đề.

(21:20) Cái tên dịch âm của tiếng Phạn là Ba Dật Đề, dịch nghĩa của nó ra là Đơn Đọa.

Cái người mà phạm phải cái giới này thì phát lồ sám hối rồi ăn năn chừa bỏ không có phạm nữa, đương nhiên là sám hối thì sẽ hết.

Giới Hướng Bỉ Hối: Còn có cái tên là Ba La Đề Xá Ni.

Tức là dịch âm tiếng Phạn ra.

Cái giới này khi mà phạm phải thì mình phát lồ nói rõ những sự lỗi lầm đã phạm rồi xin sám hối, cố chừa bỏ không có phạm phải nữa, thì cái giới này được thanh tịnh trở lại.

Pháp Chúng Học: Còn có cái tên gọi là Đột Kiết La hay là Thức Xoa Ca La Ni.

Đó là những cái tên mà dịch âm trong tiếng Phạn.

Đây là những lỗi nhẹ nhưng rất khó giữ gìn. Khi đã phạm phải phải đối thú, sám hối.

Nghĩa là những cái lỗi này chúng ta phải học nhưng mà những cái lỗi rất nhẹ, cho nên chúng ta vô tình mà chúng ta phạm phải một trăm giới này. Tức là một trăm giới chúng học này rất là dễ phạm phải. Vì vậy mà khi phạm thì chúng ta hãy đến xin sám hối, phát lồ rồi xin sám hối những cái lỗi lầm đó để mà cố gắng khắc phục, đừng cho phạm phải nữa.

Giới Diệt Trách: Bảy cái giới này để biết cách phân xử, làm cho có những cái lợi ích của người phạm giới cũng như người không phạm giới, hoặc là phân xử để cho các tu sĩ không tranh luận với nhau, không cãi cọ với nhau, làm cho được hòa hợp.

Thì bảy cái giới này để giúp cho làm những pháp Yết Ma để giải quyết mọi điều, để làm cho Tăng đoàn hòa hợp chứ không có gì cả.

Đó là tóm lại tám cái loại giới mà chúng ta phải học.

Tóm lại, tám loại tội pháp kể trên gồm chung là hai trăm năm chục giới điều là những pháp môn căn bản của người tu sĩ để tịnh hóa thân tâm nơi mình, và giúp cho đời sống Tăng đoàn được hòa đồng, an lạc.

Quý vị thọ giới và chưa thọ giới cụ túc hãy lấy nó thận trọng trong việc tu tập, và thường xuyên lấy giới pháp kiểm tra ba nghiệp thân, khẩu, ý của mình.

Mỗi người trước hết phải tự mình thanh tịnh trong giới bổn thì Tăng đoàn tự nhiên được tôn kính, an hòa và vui sống một cuộc đời cao thượng, có như vậy Phật Pháp mới được trường tồn vĩnh cửu.

5- CÁCH PHÂN XỬ TRONG GIỚI LUẬT

(24:11) Thầy xin thuật một cái câu chuyện ở trong luật Mục Đắc Ca dạy, để chúng ta biết, để mà sau này chúng ta đứng ở trong cái giới luật mà chúng ta biết phân, phạt cho nó đúng cách.

Chứ nếu mà Thầy không đem cái ví dụ này thì chúng ta sau này là một vị tu sĩ hướng dẫn một Tăng đoàn mà chúng ta không có biết cách để mà phân xử thì khó mà giúp cho cái Tăng đoàn đó tiến tu và sống hòa hợp nhau được.

Đây là câu chuyện để chúng ta thấy được cái sự phân xử cho nghiêm minh trong giới luật của Phật:

Có hai vị Tỳ Kheo, họ luôn luôn chê bai lẫn nhau.

Đây là đem một cái ví dụ, cái tội của hai người này là họ luôn luôn họ hay kích bác nhau, người này chê người kia cái này, người kia chê người nọ cái khác.

Trong hai ông, ta nên tin người nào mà xử họ rằng đúng?

Thì trong hai ông này, ta tin cái ông nào trì giới. Cái ông mà trì giới đó, thấy cái ông đó giữ gìn giới hạnh hơn cái ông kia thì ta nên tin cái ông đó mà khuyên cái ông nọ không nên tranh luận, không nên cãi cọ đối với cái người người ta có trì giới.

Đó là cách thức mình khuyên làm cho người ta hòa với nhau. Nhưng mình khuyên như thế nào đúng?

Vì xét hai người, cái người trì giới thì nó phải hơn cái người mà không trì giới, cho nên mình nên khuyên cái người không trì giới đó hãy nên nhịn, hay hoặc là nhẫn, hay hoặc là đối xử với cái người trì giới là mình hãy theo gương cái người trì giới mà mình tu học chớ không được chê bai ông ta.

Nếu cả hai đều trì giới thì mình tin ông nào?

Nếu hai người, người nào cũng trì giới, giữ gìn giới nghiêm túc không có vi phạm, thì bây giờ mình tin ông nào đây?

Thì mình chọn lấy cái ông đa văn, cái ông thông suốt giáo lý, hiểu biết nhanh nhẹn hơn, còn cái ông thiếu đa văn thì chúng ta khuyên ông ta nên nhân nhượng ông đa văn, và noi theo gương của ông đa văn mà tu tập.

(27:06) Nếu hai ông đều đa văn hết thì chúng ta biết ông nào mà xử lý đây?

Thì chúng ta hãy tìm cái ông nào mà thiểu dục, ít muốn, cái ông mà không ham muốn, tức là cái đời sống ông ta rất là giản dị, không có đồ đạc nhiều. Còn cái ông khác thì có nhiều hơn, dù là một cái y thôi thì chúng ta cũng vẫn thấy cái ông mà ít hơn một cái y, thì cái ông đó là thiểu dục hơn ông kia, thì chúng ta sẽ khuyên ông nọ nên nhẫn, và nên nương vào cái ông thiểu dục hơn mình, lấy cái chỗ thiểu dục của ông ta để cho mình làm gương mà mình tu tập.

Nếu hai ông đều thiểu dục thì chúng ta phân xử làm sao?

Thì bây giờ chúng ta sẽ phân xử cái ông nào mà cực thiểu dục! Hai ông đều thiểu dục nhưng mà cái ông thiểu dục hơn nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ chọn lấy cái ông cực thiểu dục mà làm cái gương cho cái ông thiểu dục kia để mà theo đó hòa hợp nhau mà tu tập.

Nếu hai ông đều cực thiểu dục?

Nếu hai ông đều là ông nào cũng cực thiểu dục hết thì chúng ta phân xử sao?

Điều đó không bao giờ có!

Nghĩa là cuối cùng thì chúng ta sẽ xét thấy rằng, không thể nào có hai ông cực thiểu dục một lượt được! Cho nên chúng ta có cái chỗ để mà chúng ta phân xử cho họ hòa hợp nhau trong cái đời sống giới luật của Phật.

Đến đây thì cái câu chuyện chấm dứt để quý vị biết rằng, cái lỗi, tuần tự từng những cái phạm lỗi đó mà chúng ta gia giảm nặng nhẹ của họ để mà chúng ta phân xử cho đúng, không khéo thì nó có sự oan ức ở trong đó, không khéo thì nó có cái sự khổ tâm cho những người mà không phạm phải lỗi.

6- TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIỚI LUẬT

(29:01) Đó là hôm nay, đến đây thì quý vị đã thấy được cái giai đoạn đầu của cái giáo án Đức Phật là chúng ta phải hiểu biết những cái giới như vậy. Nhưng rồi quý vị sẽ học giới từng giới một chớ đâu phải nói như vậy rồi không biết cái giới nào hết!

Đây là giáo đầu, bắt đầu của cái sự hiểu biết về giới, để rồi chúng ta mới đi sâu vào giới.

Xưa Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, hơn ba trăm hội, không lường diệu nghĩa nhưng không ngoài Giới, Định, Huệ. Vì có giữ giới tâm mới định, tâm có định mới phát sanh trí huệ.

Như thế, giới là căn bản thành Phật, tác Tổ.

Nghĩa là cái giới nó căn bản làm cho chúng ta thành được Phật và làm được Tổ sau này.

Giới có công năng như chiếc bè báu đưa người qua biển khổ.

Ở đây, người ta ví dụ giới luật như là chiếc bè mà đưa chúng ta qua biển khổ.

Nhưng theo Thầy thiết nghĩ, ở đây giới luật là cái hàng rào đầu tiên để ngăn, làm cho chúng ta không vượt qua cái hàng rào của giới này, cho nên chúng ta không có phạm phải những cái ác pháp. Đó là phải hiểu cái giai đoạn đầu.

Và giai đoạn kế, khi mà chúng ta đã đắc được giới, đã thành tựu được giới, đã chứng lý được giới thì đó là cái công năng nó như là chiếc bè báu đưa người qua biển khổ.

Giới là cửa ngõ vào Niết Bàn.

Tức là cái người nào muốn vào cái cảnh giới được giải thoát hoàn toàn thì phải đi ngang qua cái cửa ngõ giới. Mà cái người nào muốn vào được cảnh giới giải thoát hoàn toàn mà không có đi ngang qua cái cửa ngõ giới thì không bao giờ mà vào được cảnh giới Niết Bàn. Cho nên ở đây ví nó - giới là cửa ngõ vào Niết Bàn.

(31:04) Cho nên quý vị đến với đạo Phật là đi tìm cái sự giải thoát chớ không phải đi tìm danh, tìm lợi trong đó, mà tìm giải thoát tức là Niết Bàn. Mà muốn tìm giải thoát thì dù muốn, dù không, quý vị cũng phải đi vào cửa ngõ này.

Nếu quý vị không đi vào cửa ngõ này thì quý vị sẽ không đi vào Niết Bàn được. Dù là quý vị có lý luận, có những cái cao siêu hơn, cái lý luận siêu việt hơn, nhưng quý vị không đi vào cái cửa ngõ này thì chắc chắn là quý vị không được giải thoát, không có Niết Bàn trong tâm của quý vị được.

Vì giới là biệt giải thoát.

Nghĩa là riêng ta giữ một giới nào cũng đều được giải thoát cả.

Đó thì khi mà chúng ta đến với giới, dù chúng ta tu tập hay là lấy một cái giới đó mà chúng ta giữ gìn thân và tâm của mình không cho phạm cái giới đó, thì chúng ta cũng sẽ được giải thoát cả ngay liền chớ không phải đợi một thời gian nào cả.

Cho nên, giới đem lại cái sự giải thoát cho quý vị rất là cụ thể hơn tất cả.

Thí dụ như bây giờ quý vị giữ gìn cái giới sát sanh, quý vị không có giết hại chúng sanh, thì ngay đó quý vị thấy tâm hồn của mình không có một cái sự làm đau khổ người khác, cho nên quý vị không sợ sự đau khổ nơi chính bản thân của quý vị, đó là một cái sự giải thoát thật sự và cụ thể.

Giới luật còn là đạo pháp còn.

Giới luật mà còn hiện tiền thì đạo Phật sẽ còn. Mà giới luật mất, nghĩa là nhìn chung, tu sĩ mà phạm giới thì đương nhiên chúng ta xem như là đạo Phật mất. Chớ không phải thấy sắc áo của những tu sĩ còn mà cho rằng đạo Phật còn đâu, mà đạo Phật đã mất rồi!

Còn giới luật, mỗi vị tu sĩ đều giữ gìn giới luật nghiêm túc thì đạo Phật hưng thịnh và đạo Phật còn mãi với thế gian. Còn nếu tu sĩ mà chỉ còn một, hai người giữ gìn giới thì tức là đạo Phật còn duy trì chớ chưa có phát triển cao được.

7- TỤNG GIỚI LÀ NHẮC NHỞ MÌNH SỐNG CHO ĐÚNG GIỚI

(33:17) Ngày nào chư tăng còn Bố Tát - tụng giới là đạo pháp còn thịnh. Cho nên mỗi tháng hai kỳ Bố Tát là ngày rằm và ba mươi, nếu tháng thiếu thì hai mươi chín, để nhắc lại giới mình đã lãnh thọ.

Thường xuyên, trong cái hàng tu sĩ thì thường xuyên phải tụng giới, nhưng hầu hết là người ta tụng để mà tụng chớ người ta sống thì người ta không sống. Do tụng giới mà không sống thì không đúng. Mà tụng giới có nghĩa là nhắc nhở chúng ta mà thôi, chớ không phải tụng giới để có hình thức tụng.

Còn hầu hết bây giờ chúng ta nhìn lại: tụng giới thì có nhưng không có ai nghĩ đến chỗ phạm giới mà họ chỉ nghĩ đến đời sống thế gian, cho nên toàn bộ giới, tụng là có tụng chớ không thấy sống đúng giới luật của Phật.

Vì tụng giới là để kiểm điểm lại: nửa tháng vừa qua mình có phạm phải một điều nào hay không. Để làm gì? Để xin ăn năn sám hối cho thanh tịnh.

Lẽ ra thì chiều 14 và 29 phải sám hối trước một vị Tỳ Kheo thượng thủ - tức là một vị Tỳ Kheo thanh tịnh, đắc giới, thanh tịnh. Thì mỗi vị đều phải, ngày 14 và ngày 29, quý vị phải đến với một vị Tỳ Kheo giới luật đã thanh tịnh và đắc giới đó, mình phải xin phát lồ sám hối với vị đó trước, rồi sau đó thì tới ngày rằm, ngày 30 mới tụng giới thì mới đúng nghĩa.

Còn ngày rằm và ngày 30 mà tụng giới là để nhắc nhở mình mà thôi. Còn cái sám hối là vị nào thấy mình trong nửa tháng có bị lầm lỗi, phạm một cái lỗi nhỏ nào đó thì ngày 14 hoặc là ngày 29, chớ không phải là mình phạm lỗi rồi cái mình chạy lại mình xin sám hối liền đâu, mình để suốt ở trong cái thời gian phạm lỗi đó, mình ăn năn, mình suy tư, mình quán xét để cho mình cố gắng, mình khắc phục, mình không cho phạm phải cái lỗi đó nữa.

Và đến ngày 14, ngày 29 trong mỗi tháng đó thì mình sẽ đến cái vị giới luật thanh tịnh, mình mới quỳ xuống mình phát lồ. Phát lồ tức là mình khai ra những cái lỗi lầm của mình đó cho vị đó nghe. Rồi mình xin với vị đó, mình hứa khả là mình sẽ cố gắng khắc phục, không cho phạm phải cái lỗi đó nữa.

Thì cái vị Tỳ Kheo giới luật thanh tịnh này, vị hoan hỷ và chấp nhận cho mình được, và hứa khả cho mình được sám hối ăn năn cái lỗi đó, và vị khuyên mình những cái lời khuyên rất là, giúp cho mình càng ngày càng tiến tu hơn, càng giữ gìn giới luật nghiêm túc hơn.

(36:28) Những vị Tỳ Kheo giới luật thanh tịnh này họ có đầy đủ cái uy lực của họ trong giới luật, cho nên lời khuyên của họ làm chúng ta không bao giờ còn phạm phải cái lỗi nữa. Còn nếu mà không được những bậc Tỳ Kheo thanh tịnh giới như vậy thì chúng ta khó mà khắc phục được những cái lỗi nhỏ ở trong giới luật của Phật.

Ngày xưa người ta tụng giới bằng chữ Tàu, tức là tiếng Hán đó, vì lúc bấy giờ, tu sĩ của chúng ta thời trước thì họ giỏi tiếng Hán. Cho nên hiện giờ chúng ta đọc tụng bằng tiếng Hán thì tất cả tu sĩ chúng ta bây giờ không có hiểu.

Do vì vậy mà các bậc tiền bối của chúng ta, tức là các bậc Hòa Thượng của chúng ta cũng hiểu biết chỗ đó cho nên họ dịch ra chữ Việt để khi tụng chúng ta hiểu ngay liền cái nghĩa, mà không còn phải ngồi đó mà không hiểu. Thì tức là nghe tụng giới mà không hiểu thì chúng ta sẽ ngủ gục đi.

Khi mà ngồi nghe giới không có nghĩa là ngồi đó mà nhiếp tâm ở trong thiền định hoặc là nhiếp tâm ở trong câu niệm Phật, mà phải nghe, nghe và hiểu rất rõ những cái giới luật của Phật để xem coi mình có phạm cái tội nào ở trong những cái giới luật đó.

Chớ không phải ngồi, khi mà nghe người ta đọc giới mà mình ngồi đó mình nghe với cái cái tâm nhiếp không có cho nó ra khỏi cái hơi thở, cũng không cho cái tâm hiểu biết cái gì giới luật hết, luôn luôn hoặc là niệm Phật hay hoặc là lần chuỗi, thì cái điều đó là một cái điều sai, không đúng.

Vì trong cái giờ tụng giới để mà chúng ta nghe từng giới coi chúng ta có phạm phải cái lỗi nào, và đồng thời, càng nghe nhiều giới chúng ta mới thấm nhuần được cái giới luật của Phật.

8- Ý NGHĨA CỦA VIỆC KIẾT GIỚI LUẬT

(38:20) Vì sao Phật chế giới?

1. Vì các Thánh Tăng sợ về sau chư tăng sanh tội lỗi.

Nghĩa là trong cái thời của Đức Phật có cái một thời là tất cả chư tăng không có phạm giới. Sau này thì chư tăng phạm giới, do đó Phật mới chế giới. Mà nếu không có giới thì không có sự kìm thúc cho nên họ dễ bị phạm giới.

2. Vì các Tỳ Kheo bị phạm tội nên Phật tùy cơ mà chế giới.

Mỗi khi muốn kết một giới nào, trước hết Ngài quở trách người phạm giới rằng: "Việc ông làm là quấy, không phải oai nghi, không phải Sa Môn, không phải tịnh hạnh, không phải hạnh tùy thuận. Ông không nên làm như thế!

Từ nay về sau, các Tỳ Kheo kiết giới gồm đủ mười nghĩa như sau:

Nghĩa là cái sự kiết giới đó nó giúp cho cái Giáo đoàn như thế nào, thì có mười cái điều kiện của nó như thế này:

1- Chỉnh đốn chư tăng;

2- Khiến cho chư tăng hoan hỷ;

3- Khiến cho chư tăng an lạc;

4- Khiến cho người chưa tin sanh lòng tin ở giới;

5- Người đã tin khiến cho tăng trưởng lòng tin hơn lên;

6- Điều phục người khó điều phục;

Nghĩa là lấy giới mà điều phục người, tức là cái người mà hay phạm giới, tâm còn phóng dật, lăng xăng theo dục lạc thế gian, mà khi được kiết giới thì làm cho họ điều phục được họ, họ bỏ được những cái phóng dật, cái tâm phóng dật đó.

7- Người biết xấu hổ được an lạc;

Nghĩa là giúp cho cái người chưa có biết xấu hổ - tức là chưa biết tàm quý đó, chưa biết sợ hãi cái lỗi nhỏ đó, họ sẽ biết sợ hãi và biết xấu hổ, cho nên từ đó họ sẽ được an lạc.

8- Đoạn nghiệp hữu lậu đời hiện tại;

Nghĩa là cái người mà giữ gìn giới luật là họ đã đoạn dứt được cái nghiệp hữu lậu ngay trong cuộc sống của họ hiện tại. Nghĩa là cái người giữ gìn giới luật thì trong cái hiện tại họ không tạo ra cái lậu hoặc mới, cho nên họ sống được yên ổn, được thanh tịnh.

9- Đoạn nghiệp hữu lậu đời vị lai;

Nghĩa là cái người giữ gìn giới luật nghiêm túc, không bị vi phạm, thì cái lậu hoặc của đời vị lai - tức là đời kế tới - không còn có nữa, gọi là đoạn dứt cái nghiệp hữu lậu đó.

10- Khiến Chánh pháp được cửu trụ;

Nếu mười cái giai đoạn này mà cái người tu sĩ giữ gìn trọn vẹn giới luật của Phật thì Phật Pháp sẽ mãi mãi trường tồn, cửu trụ, không có bao giờ mất.

(41:46) Giới tướng của Tỳ Kheo có hai trăm năm chục điều, Tỳ Kheo Ni có ba trăm bốn mươi tám điều, bắt đầu từ vườn Lộc Uyển cho đến cuối cùng nơi Hạc Thọ, Phật đã từ kim khẩu…​

Tức là miệng của Phật.

…​ nói ra trong trạng thái tịch tĩnh, thấy xa ba đời, cùng vô biên hữu tình xoay quanh ba cõi.

Với lòng từ bi vô lượng, Ngài đã xây dựng nền tảng giới pháp rất kiên cố.

Nghĩa là Ngài đặt ra hai trăm năm chục giới, ba trăm bốn mươi tám giới là một cái nền tảng giới luật rất là kiên cố cho tu sĩ của chúng ta đời sau.

Dù trải qua bao thời gian vô cùng, không gian vô tận, giới pháp này vẫn có giá trị tối thượng và dẫn đầu cho các hành giả tiến bước vững chắc trên giác lộ giải thoát.

Đó là các nhân duyên.

9- GIỚI BA LA DI THỨ NHẤT: GIỚI HẠNH BẤT TỊNH

9.1- CHƯA LÌA BỎ SẠCH TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU NÊN DỄ PHẠM GIỚI

(42:50) Bây giờ cái phần kiết giới Ba La Di.

Quý vị nhớ ghi kỹ, đây là cái phần mà Đức Phật đã kiết cái giới bắt đầu, cái giới thứ nhất, quý vị nhớ cái giới thứ nhất:

Giới thứ nhất là giới hạnh bất tịnh.

Nghĩa là cái hành động làm cho không thanh tịnh. Vậy thì cái hành động không thanh tịnh này như thế nào? Đây, Phật sẽ giải thích cho chúng ta thấy, và cái trường hợp nó xảy ra như thế nào mà Đức Phật chế cái giới này:

Vì sao Phật kiết giới này?

Vì khi Phật thành đạo, giáo hóa trong mười hai năm đầu, chúng tăng đều thanh tịnh…​

Nghĩa là mười hai năm đầu Đức Phật không có kiết giới là vì những người tu trong mười hai năm đầu đó là những người rất là thanh tịnh, họ không phạm những cái lỗi lầm; họ luôn luôn dùng Thánh phòng hộ sáu căn của họ: Mắt họ, tai họ, mũi họ, tất cả sáu cái căn đó họ đều phòng hộ một cách rất là nghiêm túc, cho nên họ không phạm phải một cái lỗi nào cả. Vì vậy mà Phật không chế giới.

…​ cho nên Phật cùng vô sự tăng.

Đến năm thứ mười ba trở đi, các pháp hữu lậu, phiền não, vọng, hoặc bắt đầu sanh khởi dần dần nơi chúng tăng, nên Ngài mới tùy theo chỗ vi phạm mà kiết giới.

Bởi vì mười hai năm đầu là tất cả những bậc tu hành trong rừng, trong núi họ xả bỏ cái tâm thế gian của họ, họ xả thật sạch, không phải như là chúng ta vừa tu mà đời chưa chịu bỏ, mà đạo thì muốn tu thêm.

Cho nên chúng ta xét thấy, qua đến năm thứ mười ba thì người ta thấy đạo Phật rất là vi diệu, cho nên người ta có theo đạo Phật tu rất nhiều trong năm thứ mười ba.

Do cái sự tu tập quá nhiều này cho nên những cái người chưa có hiểu biết sâu sắc, chưa có bỏ sạch cái cuộc đời, cho nên đời vẫn còn mà đạo thì muốn thêm, vì vậy mà họ bị phạm phải những cái lỗi lầm, sai phạm làm mất thân tâm thanh tịnh. Do cái chỗ đó mà Phật mới kiết giới.

(45:35) Ngài A Nan bạch hỏi:

"Tại sao mười hai năm đầu Phật không kiết giới, đến năm thứ mười ba Ngài mới kiết giới?

Phật bảo:

"Mười hai năm đầu Ta không kiết giới vì chúng tăng còn thanh tịnh, ví như cái áo còn lành lẽ. Nhưng qua năm thứ mười ba trở đi Ta mới kiết giới là vì chúng tăng vọng động, thường sanh tội lỗi, ví như cái áo bị rách, cần phải vá cho lành”.

Không phải chư tăng theo Đức Phật một thời gian tu tập rồi nó sanh vọng động, không phải đâu! Cái lý do, cái chỗ mà cái người viết cái bài này thì chắc có lẽ là chưa hiểu.

Theo Thầy hiểu là vì sau mười ba năm đó, là cái số tu sĩ mà xa lìa cái tâm thế gian thì nó không còn nữa. Bởi vì, những cái bậc đó người ta đã quy tụ về Đức Phật người ta tu, cho nên người ta được thanh tịnh tâm, từ đó người ta tu nhanh chóng, người ta nhập định rất dễ dàng.

Sau mười ba năm này thì người ta thấy đạo Phật phát triển, ai cũng tôn trọng, tôn kính đạo Phật, cho nên có một số người ham theo tu đạo Phật nhưng họ không ý thức được, do cái chỗ tu tập đó họ chưa có lìa bỏ cái giai đoạn thứ nhất như Thầy đã thấy ở trong giáo án.

Vì thế mà Phật ghi cái giáo án này rất là kỹ lưỡng, rất là rõ ràng qua những cái bài kinh mà Thầy thấy là tuyệt diệu!

Có hiểu được như vậy chúng ta mới thấy mười ba năm sau này, có một số người theo Phật tu hành, đời chưa bỏ mà đạo thì muốn thêm, cho nên nó mới có những cái sự xảy ra phạm giới. Vì vậy mà bắt đầu Phật mới chế giới.

9.2- CÁC HOÀN CẢNH DỄ PHẠM GIỚI DÂM

(47:07) Khi bấy giờ có ông Tu Đề Na, con ông trưởng giả hảo tâm xuất gia. Bà mẹ muốn cho có cháu nối dòng, bảo ông Tu Đề Na trở về với vợ ba hôm. Ông Tu Đề Na không dám cãi lời mẹ, trở về nhà làm như lời mẹ dạy.

Khi đó lại có người con ông Bạt Xà, dục tâm bồng bột, lén về nhà ở với vợ.

Các Tỳ Kheo hay biết bạch Phật, Phật kêu cả hai đến quở trách, nói rằng:

"Thà để nam căn vào miệng rắn độc mà chết chớ không nên phạm bất tịnh hạnh như vậy! Người nào theo đạo giải thoát của Ta phải luôn luôn nghĩ dục như là xương khô.

Nghĩa là cái xương khô mà chỗ con chó gặm, nước miếng nó chảy ra mà nó cho đó là ngon chớ không có cái gì là ngon cả!

Nếu có Tỳ Kheo nào không giữ tịnh hạnh nữa được, Ta cho xả giới về nhà. Chừng nào muốn xuất gia tu tịnh hạnh, Ta sẽ cho thọ giới lại”.

Đó là lời Đức Phật dạy hai vị Tỳ Kheo phạm giới. Một người thì do cái tâm còn dục mà về nhà lén ở với vợ con, một người thì do mẹ ép là bảo phải sanh con nối dòng rồi mới được đi tu, thì hai người Đức Phật đều không chấp nhận, đều cho sai hết, chớ không phải là do cái chỗ bà mẹ bắt buộc là cho cái chỗ đó đúng.

Cho nên trong giới luật này thì Đức Phật, những câu chuyện như vậy chúng ta cần phải hiểu cho rõ để chúng ta biết được cái chỗ chúng ta có làm chủ hay không.

Một vị thì không làm chủ, trở về làm cái hạnh bất tịnh, còn một người thì có sức làm chủ nhưng vì không dám cãi lời mẹ - gọi là hiếu hạnh - để nối dõi tông đường của mình, thì đó là đối với đạo Phật điều đó đều sai!

Đối với một tôn giáo khác thì đó là hiếu hạnh, nhưng đối với đạo Phật thì đó không phải là hiếu hạnh. Cho nên ở đây Phật mới quở hai vị đó, chớ nếu mà cái vị kia đã hiếu hạnh mà Đức Phật cho đúng thì chắc chắn là không quở, nhưng đằng này Phật quở hai vị cả hết.

(49:49) Trong giới này có câu: “Cho đến cùng súc sanh”

Có nhân duyên như thế này:

Khi bấy giờ, có các Tỳ Kheo khất thực đi ngang qua cụm rừng gặp một con khỉ cái to, nó ra dáng khiêu chọc. Tỳ Kheo nhận biết rằng: Trước chắc có một Tỳ Kheo nào chung cùng giao thông với nó, nên các thầy Tỳ Kheo về bạch Phật, Phật cho họp chúng và kiết giới này.

Cho nên trong luật Phật cấm: Tỳ Kheo không được ở chung nhau trong một nhà, ở chung với một người nữ không hạn già hay là bé nhỏ, hay là một con vật cái.

Nghĩa là một vị tu sĩ không được ở chung một người nam với một người nam, cũng như một người nữ với một người nam, cũng như không có phân biệt "người đó già, tôi còn nhỏ", hay hoặc là "người đó còn bé, mà tôi là già" thì không được, Đức Phật cấm.

Bởi vì già cũng còn bất tịnh hạnh, mà trẻ cũng bất tịnh hạnh, và ở chung với một con súc vật cái nó cũng khởi sanh tâm dâm dục. Cho nên Đức Phật cấm không được ở chung với con vật cái, không được ở chung với người nữ, không được ở chung với người già nữ, không được ở chung với người bé gái nhỏ nữ.

Đó là cái giới luật của Phật cấm như vậy. Vì nó có những trường hợp xảy ra mà chúng Tỳ Kheo đã trình cho Phật, do đó Phật mới chế cái giới như vậy.

Tỳ Kheo ở chỗ vắng một mình cũng dễ phạm giới.

Đó thì, trong khi chúng ta, thường thường là những vị Tỳ Kheo ngày xưa hay ở trong rừng núi, những cái chỗ thanh vắng một mình, mà nhất là ở chỗ thanh vắng một mình mà không có một vài vị cùng ở gần với nhau thì chúng ta dễ phạm cái giới này lắm.

Cho nên đối với một Tỳ Kheo Tăng cũng như một Tỳ Kheo Ni, thì nói chung là một vị tu sĩ nữ, một vị tu sĩ nam đều là phải có ở chung nhau, nhưng mà không được ở chung nhau trong một nhà, mà ở riêng ra nhưng phải có ít ra cũng từ hai người, chớ không thể nào ở một mình. Vì ở một mình có thể dễ phạm phải cái giới dâm này.

(52:18) Xưa có một vị Tỳ Kheo tu trong núi, lúc ngồi nhập định, ma hiện một người nữ đẹp đến gần bên Tỳ Kheo ấy. Tỳ Kheo liền xuất định đứng dậy, người nữ dang ra đi. Nàng đi mau dần dần, thì Tỳ Kheo cũng đi mau dần. Nàng chạy, Tỳ Kheo cũng chạy theo. Người nữ hóa ra con ngựa cái nằm chết. Tỳ Kheo ấy không ngăn lòng dục, bị phạm giới.

Cho nên tu ở chỗ vắng cần phải hai người nhắc bảo nhau mới được!

Đó, cho nên cái đời sống của quý vị, giới luật được đặt ra, thì quý vị phải hiểu rằng, cái người cất thất ở một mình nói rằng tu hành chớ sự thật ra rất là nguy hiểm. Vì ở một mình tu hành thì mình khó mà có thể ngăn ngừa được cái phạm giới bất tịnh hạnh này.

Nhưng tu hai người cũng chưa chắc, còn có khi phạm giới.

Như xưa, có hai vị Tỳ Kheo trong núi, một vị nằm ngủ trưa, một vị ra ngoài rừng. Một vị nghỉ trưa vì ngủ mê, tiều nữ lên lén làm bậy.

Tiều nữ tức là cái người nữ đi đốn củi.

Vị ra ngoài về thấy liền đuổi đi, tiều nữ hoảng, chạy và bị rơi xuống hố mà chết.

Ngài Ưu Ba Ly cứ theo luật mà kết tội: Một vị phạm giới dâm, một vị phạm giới sát.

Ở đây, câu chuyện này ở trong kinh Duy Ma Cật cho nên cái câu chuyện này nói như vậy, theo đúng lẽ thì chúng ta thấy nó không hợp, không đúng. Nhưng mà trong kinh giới lại đem cái câu chuyện này ra, cho nên buộc lòng Thầy phải giải thích để cho quý thầy hiểu.

(54:12) Khi một vị nằm ngủ trưa mà một cái người tiều nữ đến lén làm cái việc bất tịnh hạnh đó, thì chắc chắn là cái ông này phải thức chớ không thể ngủ. Và cái tâm người tu sĩ này vẫn còn đắm ở trong cái dục lạc của cái dâm này chớ không phải không, cho nên hai người này mới làm bậy.

Vì vậy mà cái vị đi ra rừng, như đi kinh hành đó, mới về mới gặp thấy, thì cái cô này cổ hoảng sợ cổ chạy đi, mà chạy quá sợ cho nên vì vậy rớt hố mà chết.

Thì theo cái luật sát sanh thì đâu phải là cái vị tu sĩ ở ngoài rừng kia đuổi theo cái vị này, nhưng mà cái vị này là hoảng sợ chạy. Và cái vị kia là phải phạm vào cái tội dâm và đồng lõa với tiều nữ đó chớ không phải không đồng lõa. Vì nếu mà ngủ mê làm sao dâm dục được? Cho nên phải có một cái sự đồng tình ở trong đó mới có làm bậy.

Nhưng mà khi làm bậy thì cái vị đi về này thấy, thì cái vị kia - cái cô tiều nữ này phải sợ mà chạy, chạy mà rớt chớ không có lý nào mà cái vị tu sĩ này lại đuổi theo tiều nữ này, thì cái điều đó là không đúng. Là vì thấy giữa hai người này, cái người tu sĩ này họ vẫn thấy hai người phạm chớ không phải một người!

Đó là một cái điều mà trong kinh viết cái câu chuyện này, thì theo Thầy thiết nghĩ, nó không thành một cái sự thật mà chỉ là một cái câu chuyện tưởng tượng nghĩ ra mà thôi.

Cho nên ở đây chúng ta phải lấy một cái gì, hiểu bằng một cái cụ thể sự thật mà nói ra. Thì cái giới dâm này, nếu mà một người không phạm dâm thì không ai làm gì mình được hết, dù là mình chết thì không ai vô tình mà bắt mình làm chuyện cái đó được.

9.3- GIỚI DÂM LÀ GIỚI TỲ KHEO ĐỨNG ĐẦU

(56:19) Tại sao Tỳ Kheo để giới dâm ban đầu, còn Sa Di để giới bất sát trước hết?

Chúng ta thấy Sa Di thì Thập Giới, thì giới sát là thứ nhất, mà giới dâm thì sau chớ không trước, mà tại sao khi mà học về giới của Tỳ Kheo thì giới dâm lại trước?

Ở đây, cái sự giải thích rất là đúng:

Tỳ Theo vì tuổi vọng tâm thường phát khởi.

Tức là Tỳ Kheo phải hai mươi tuổi mới thọ giới Tỳ Kheo, cho nên cái tuổi đó là cái tuổi vọng tâm thường phát khởi nên cái giới dâm là phải đứng đầu. Còn Sa Di thì cái tuổi trẻ ưa thích sát sanh; hay bắt bướm, bắt chim; hay giết sâu, giết bọ, giết kiến, cho nên giới sát phải để cho cái tuổi Sa Di.

Đó thì, thấy như vậy là chúng ta đã biết Phật có một cái tâm lý mà chế giới rất là cụ thể và rõ ràng, chớ không phải như câu chuyện ở trong kinh Duy Ma Cật mơ hồ, một cách rất là mơ hồ!

Một tiều nữ mà đến hiếp dâm một cái vị tu sĩ đang ngủ mà vị tu sĩ không biết à? Điều đó là cái điều không thể nói được! Do một cái tư duy của chúng ta thì chúng ta thấy những cái câu chuyện như vậy là câu chuyện không đúng sự thật.

Còn ở đây, Phật chế cái giới Tỳ Kheo, giới dâm thì đi đầu, mà cái giới cho Sa Di là giới sát đi đầu, thì chúng ta thấy rất hợp tâm lý của từng người một. Như vậy chúng ta đã biết là Phật có một cái hiểu biết về tâm lý con người rất là sâu sắc. Đó là đúng sự thật.

9.4- MUỐN DỨT SINH TỬ PHẢI TRỪ DÂM DỤC

(57:52) Vì sao không được ở chung?

Vì Tỳ Kheo phạm giới dâm như người thế tục nên không được ở chung, bị vứt bỏ ngoài bể Phật Pháp.

Nghĩa là cái người mà phạm cái giới đó rồi thì đương nhiên là phải đứt đầu, phải bị bỏ ra ngoài không có cho tu học nữa được.

Nếu chúng sanh trong sáu đường, tâm không dâm thì không theo sanh tử nối nhau.

Nếu chúng ta mà tâm không ham dâm thì chắc chắn là sanh tử chúng ta đoạn dứt, vì cái tâm dâm dục đó là con đường sanh tử của con người, của loài chúng sanh.

Người tu Chánh Định vốn ra khỏi trần lao, nếu tâm dâm không chừa thì trần lao không thể ra khỏi được: “Dâm tâm bất trừ, trần bất khả xuất”.

Dù có nhiều trí tuệ thiền định hiện tiền, nếu không đoạn dâm, quyết lạc đường ma.

Thế nên người tu hành muốn chứng thành đạo quả mà không đoạn trừ tâm dâm, thì như người lấy cát, sạn mà nấu cơm thì làm sao mà thành cơm được? Dù ra công nấu một trăm năm cũng không thành cơm; cát, sạn cũng hoàn thành cát, sạn. Vì nhân nào quả nấy.

Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy ông A Nan:

“Xuất gia giả nguyện đoạn trừ dâm dục, tất sử trừ dâm cơ thân tâm câu đoạn, đoạn tánh diệt vô, bồ đề diệt khả hy ký.”

Nghĩa là người xuất gia phải nguyện đoạn trừ dâm dục, ắt phải trừ duyên dâm, thân tâm đều dứt, cho đến tánh biết dứt tâm ấy cũng không còn thì quả Phật mới có thể trông mong được.

“Thân tâm câu đoạn” là sao?

Ví như hai ông già nằm chung một giường, không ai chạm ai và cũng không ai động tâm cả.

9.5- ĐỦ BỐN DUYÊN MỚI THÀNH TỘI PHÁ GIỚI

(59:39) Giới này có đủ bốn duyên mới thành tội:

Cái giới dâm này nó có đủ bốn duyên mới thành tội.

1. Chân thật Tỳ Kheo;

Theo cái giới pháp mà đã được đắc thì gọi là chân thật Tỳ Kheo.

2. Tình cảm đôi bên còn nguyên vẹn, người hay súc sanh chưa hư nát;

Nghĩa là cái người tuổi trẻ mà chưa có bất tịnh lần nào đối với người nữ, thì nó còn nguyên vẹn, thì cái sự tu hành nó mới tốt. Còn nó chưa nguyên vẹn thì phải cố gắng đừng phạm phải nữa thì nó mới tốt.

3. Để vào nữ căn quá đầu sợi lông;

4. Tâm biết thọ vui, như đói gặp thức ăn, như khát gặp nước uống. Trái lại thì như ăn phẩn nhơ, như tắm sắt nóng áp vào mình. “Trữ oan gia cưỡng bức nhưng tùy định.”

(01:00:53) Ở đây bốn cái duyên này, nếu mà bốn cái duyên này mà chúng ta phạm phải một cái, thí dụ như bây giờ: “Chân thật Tỳ Kheo” - mà chúng ta chưa phải là chân thật Tỳ Kheo thì coi chừng chúng ta sẽ phạm phải cái giới này.

“Tình cảm đôi bên còn nguyên vẹn” - nghĩa là chúng ta chưa có một chút gì hết mà chúng ta để cho nó phạm phải thì chúng ta sẽ không thể thoát khỏi cái tội Ba La Di.

“Để vào nữ căn quá đầu sợi lông” - nghĩa là, chúng ta thấy cái cọng lông rất là nhỏ, thế mà chúng ta để nam căn vào nữ căn mà chỉ quá cái sợi lông thì chúng ta cũng phạm phải cái giới này rồi chứ chưa phải là cái gì.

“Tâm thấy thích thú” ở trong cái sự giao hợp đó thì cái người đó phạm phải cái giới Ba La Di rồi.

Nghĩa là nói về cái hành động thì không quá đầu cái sợi lông, mà nói về tâm thì không được vui theo cái dục lạc của cái dâm dục đó thì mới không có phạm tội Ba La Di.

Cho nên tâm chân thật mà đắc giới thì không có phạm phải cái này, thì nó không phạm tội Ba La Di.

Còn tình cảm đôi bên giữ trọn nguyên vẹn thì không phạm cái tội Ba La Di. Mà không trọn vẹn trong tình cảm, mới bắt đầu của một người trẻ tuổi cũng như là một người bước đầu vào đạo tu hành, mà phải giữ trọn vẹn cho bước đường tu hành của mình, tâm phải nguyên vẹn, khi bắt đầu vào đạo thì không có được còn phạm phải cái lỗi đó nữa. Mà nếu còn phạm phải cái lỗi đó thì đương nhiên được xem là phạm vào cái tội Ba La Di.

Mà cái tội Ba La Di là cái tội không thể cứu chữa được, vì con đường của đạo Phật là con đường diệt dục, diệt cái tâm dâm dục chớ không phải là tà dâm đâu.

Bởi vì một người tu sĩ mà còn cái tâm dâm dục tức là còn sự tái sanh luân hồi, vì con đường sanh tử là con đường dâm dục chớ không phải con đường nào xa lạ! Cho nên cái người tu sĩ theo đạo Phật thì rất là cẩn thận ở trên cái con đường dâm dục này, phải tránh xa, phải lìa nó.

9.6- SỐNG ĐỘC CƯ RẤT QUAN TRỌNG ĐỂ GIỮ HẠNH THANH TỊNH

(01:03:31) Cho nên do đó mà ông A Nan mới hỏi Phật: "Chúng con là những người tu sĩ trẻ tuổi, đối với giới nữ chúng con phải làm sao?"

Thì ông Phật dạy, bảo: "Đừng gặp!"

Quý thầy nhớ: Đừng gặp! Mà gặp thì chúng ta nó sẽ có cái sự cám dỗ chúng ta.

Cho nên trong kinh Tăng Chi, Phật nói: “Ta không thấy một pháp nào mà cám dỗ và lôi cuốn, hấp dẫn mạnh bằng cái sắc của người nữ, bằng cái âm thanh, bằng cái tiếng nói, bằng cái miệng cười của người nữ". Nó hấp dẫn, nó lôi cuốn chúng ta rất mạnh mà không có một pháp nào mạnh hơn.

Cho nên ông A Nan hỏi Phật, Phật nói: "Đừng gặp!"

Thì ông A Nan hỏi thêm Phật: "Vậy lỡ gặp rồi làm sao?"

Đức Phật nói: "Đừng nhìn!” - Nếu mình lỡ đã gặp thì đừng có nhìn nó.

Mà ông A Nan nói: "Lỡ nhìn thì làm sao?"

Thì Đức Phật nói: "Đừng nói chuyện với nó!”

Ông A Nan nói: "Lỡ nói chuyện thì làm sao?"

Thì Đức Phật nói: "Hãy quán xem nó như là mẹ, như chị, như là những người thân ruột thịt của mình!"

Thì vua Ba Tư Nặc nói: "Như quý thầy thì quán nó như vậy được, còn chúng con thì là hàng cư sĩ, chúng con có mẹ, có chị, có em, làm sao mà chúng con quán vậy được? Họ là những người xa lạ!"

Cho nên Đức Phật nói: "Quán bất tịnh!"

Thì quý thầy phải hiểu rằng, cái mà không gặp nó quý nhất cho quý thầy, chớ cái mà quý thầy quán mẹ, chị và em và bất tịnh đó là trễ quá rồi, bịnh của quý vị đã trầm kha rồi, không thể cứu chữa được!

Vậy thì quý vị không gặp thì quý vị có nên sống độc cư ở chỗ nào không? Cho nên quý vị phải sống độc cư.

Vì vậy mà Thầy ở đây có cái giới luật nòng cốt của Tu viện là sống độc cư, không cho quý vị đi tới đi lui, không cho quý vị nói chuyện để cho quý vị tránh xa những cái điều kiện mà quý vị sẽ có dịp gặp.

Ở đây cái Tu viện chúng ta quá là hẹp cho nên Thầy không có những cái cơ sở riêng tư được, chớ lẽ ra thì Thầy phải thành lập những cái cơ sở riêng tư. Để làm gì? Để nam theo nam mà nữ theo nữ. Vì những cái hình ảnh của người nữ nó dễ cám dỗ cái tâm của quý vị.

Mặc dù Thầy nói rằng, tuổi của người già dù tám mươi tuổi cái tâm đó vẫn còn chớ không phải nói "tui già rồi tui hết!" Nó vẫn còn như một cái người tuổi trẻ, nhưng cơ thể họ có thể suy yếu, chớ còn cái tâm họ không suy yếu.

Thầy xác định như vậy là qua nhiều kinh nghiệm của kinh sách đã nói đến cái tâm dục của cái người, dù họ già đến mức tuổi nào họ cũng vẫn còn dục.

9.7- TRÓT PHẠM GIỚI PHẢI ĂN NĂN SÁM HỐI, CHẤP NHẬN BA MƯƠI LĂM ĐIỀU

(01:06:26) Nếu người phạm mà có lòng tin giới và sợ hãi, không che giấu, buồn rơi huyết lệ…​

Nghĩa là cái người phạm vào giới đó mà buồn khổ, mà rơi nước mắt như máu đó, thì người này có thể ăn năn, có thể chừa cái lỗi Ba La Di này được.

Còn cái người mà không thấy buồn khổ, không thấy gì hết mà che giấu thì cái người này hoàn toàn là phải ra khỏi cái Tăng đoàn chứ không thể ở trong cái Giáo đoàn, ở trong cái chỗ chư tăng thanh tịnh mà tu hành được.

Cái người mà biết buồn khổ, rơi huyết lệ như vậy:

…​ thì trong đại chúng mới có thể cho vị ấy ba phen cầu khẩn, ai sám…​

Tức là buồn khổ mà sám hối, tha thiết mà sám hối, khóc thương mà sám hối.

…​ thì tăng bạch tứ Yết Ma mới có tu tập lại được.

Thì ở trong các pháp Yết Ma, khi cho một người phạm giới này biết ăn năn sám hối như vậy, chừa bỏ, thì nó phải có ba mươi lăm việc mà cái người đó phải chấp nhận. Nghĩa là:

1. Người đó dù là tu sĩ cho đến suốt đời họ, họ không được trao giới cụ túc cho ai hết;

Nghĩa là họ là một người tu sĩ như quý thầy bây giờ được nghe Thầy nói giới đó, mà quý thầy không hiểu biết, quý thầy phạm là quý thầy tội quý thầy chịu.

Bởi vì quý thầy đến đây là quý thầy quyết tìm con đường giải thoát, cho nên Thầy mới đem giới này ra mà Thầy giảng cho quý vị. Mặc dù quý vị còn chiếc áo cư sĩ nhưng quý vị đã quyết tìm con đường giải thoát, đến đây để học đạo, cho nên Thầy đem những cái giới luật của Phật ra là làm cho quý vị thanh tịnh thân tâm để cho quý vị không có phạm phải.

Mà nếu quý vị thấy rằng mình không thể thanh tịnh thân tâm mình được thì không nên dự nghe những cái buổi thuyết giảng này. Tại sao vậy? Tại vì mình chưa phải là người quyết tâm đi con đường của đạo giải thoát.

Còn mình quyết tâm đi con đường đạo giải thoát thì ngay cái giới này là cái giời hoàn toàn là phải cấm bặt, không có được cho vi phạm, cho nên quý vị mới được nghe giới này và được giữ gìn giới này.

Còn nếu không, quý vị nghe mà quý vị không làm thì đương nhiên là quý vị phải chịu tội lỗi, quý vị đọa địa ngục. Sau này những cái điều kiện đó, quý vị trôi lăn mãi trong con đường sanh tử luân hồi và không bao giờ gặp được Chánh Pháp để mà tu tập.

(01:09:05) Bởi vì một người hiểu giới luật mà phạm giới luật là cái người tội nặng hơn. Còn một người mà không hiểu giới luật mà phạm giới luật thì cái người đó đương nhiên là coi như không tội.

2. Không được cho người y chỉ;

Nghĩa là không được cho, người nào mà xin theo mình tu tập thì không được cho cái người đó y chỉ theo mình. Nghĩa là có người đến xin mình làm đệ tử, để làm học trò mình, y chỉ theo mình, mà mình là người đã phạm giới mà đã xin chư tăng cho mình để giữ trọn, thì cái người tu sĩ mà đã phạm giới đó đó, sau này họ không có y chỉ cho người nào được hết.

3. Không được nuôi Sa Di;

Nghĩa là không được nuôi những cái người tuổi trẻ mà vào tu.

4. Không được giáo giới Tỳ Kheo Ni;

Nghĩa là không được đem giới luật hay là thuyết giảng cho Tỳ Kheo Ni.

Bởi vì cái thành tích của mình, mình nói ra thì người ta không tin. Mặc dù mình sám hối, mình sửa mình, mình thanh tịnh rồi, nhưng mà mình vẫn còn một cái tỳ vết đó cho nên mình không đủ cái uy tín, cái lòng tin của người khác, cho nên mình giáo giới ra là mình không được.

Tức là cái người được cho ở lại tu sửa, ăn năn sám hối, thì người đó không được đem giới luật hay giáo pháp Phật mà dạy cho người khác, chỉ lo tu sửa có mình mà thôi.

5. Nếu được sai rồi cũng không được dạy;

Nếu mà có người sai, bởi vì thấy mình có khả năng giảng thuyết hay, hoặc là nói giới giỏi, thì ở trong tăng sai mình đi làm cái công chuyện hướng dẫn hay dạy người ta, giáo giới cho người ta thì mình cũng từ chối ngay liền, không được dạy nữa, chớ không phải là không được sai.

6. Không được vì tăng thuyết giới;

Nghĩa là cái người tu sĩ mà phạm giới đó bây giờ ăn năn sám hối rồi, trải qua năm năm, mười năm, hai chục năm, nhưng họ không được thuyết giới cho tăng.

7. Không được vấn đáp Tỳ Ni trong tăng;

Nghĩa là không được hỏi giới luật ở trong chúng tăng.

8. Không được làm người tri sự của tăng;

Nghĩa là mình không được làm tri sự của chư tăng.

9. Không được làm người đoán sự của tăng;

Nghĩa là mọi cái sự việc, mà ở trong Tăng đoàn dự định cái này cái kia, thì cái người này không được có ý kiến gì ở trong Tăng đoàn hết.

10. Không được làm người sứ mạng cho tăng;

Nghĩa là mình không được sai đi làm thay mặt cho vị tăng này, vị tăng kia; nghĩa là không được làm sứ mạng cho tăng đó.

11. Không được vào tụ lạc sớm và về tối;

Nghĩa là người tu sĩ này đúng giờ thì đi xin, mà không đúng giờ thì không được đi rong chỗ này đến chỗ kia, ngồi lê ngồi la mà nói chuyện với người này người kia thì không được, mà xin rồi thì về chớ không được về tối.

12. Nên gần gũi các Tỳ Kheo giới luật thanh tịnh;

(01:12:07) Cái vị tu sĩ này mà phạm giới như vậy thì luôn luôn sống sát ở bên những vị Tỳ Kheo đã giới luật thanh tịnh.

13. Không nên gần gũi bạch y;

Tức là cái người tu sĩ mà phạm giới này không được gần gũi cư sĩ.

14. Nên thuận theo pháp Tỳ Kheo;

Nghĩa là luôn luôn thuận theo giới luật của Phật, của các Tỳ Kheo, đó là mười bốn.

15. Không được nói chuyện của người đời;

Nghĩa là cái người tu sĩ phạm giới này không được đem cái chuyện người đời mà nói, nói người này người kia, tức là chuyện phiếm đó.

16. Không được trong chúng tụng luật;

Người này không có được cầm luật mà tụng.

17. Không được phạm lại giới này;

Nghĩa là hoàn toàn là người này không được phạm lại cái giới dâm này nữa.

18. Không được phạm các tội khác;

Nghĩa là tất cả các tội khác không được vi phạm nữa.

19. Không được ngăn chúng tăng Yết Ma;

Nghĩa là khi mà chúng tăng họp nhau làm Yết Ma, thì cái người này có những cái ý kiến như vầy, như vầy, thì không được ngăn chúng tăng, người ta làm gì thì mình hoàn toàn là mình không có ý kiến gì hết.

Chớ mình có ý kiến này: "Phải là bữa nay hay ngày mai mới họp chúng tăng", hay hoặc là: "Cái chuyện này không đáng họp", mình không được bàn cái vấn đề đó vô.

20. Không được chê người làm Yết Ma;

Nghĩa là người làm Yết Ma đó có sai, có trật, mình cũng không được chê người ta làm Yết Ma đó sai.

21. Không được thọ sự trải tọa cụ cho Tỳ Kheo thanh tịnh;

Nghĩa là mình không được trải cái tọa cụ cho một cái vị chân tu, nghĩa là không được làm cái công việc đó.

22. Không được nhận nước rửa tay, chân nơi Tỳ Kheo thanh tịnh;

Nghĩa là một vị Tỳ Kheo thanh tịnh đã rửa tay chân rồi, rồi mình mới nhận cái nước đó để mình rửa tay thì không được.

23. Không được nhận nước uống nơi Tỳ Kheo thanh tịnh;

Nghĩa là cái người Tỳ Kheo thanh tịnh đó uống xong rồi nó còn thừa lại, thì cái người kia không được uống nước đó nữa.

24. Không được để Tỳ Kheo thanh tịnh lau giày, guốc;

Nghĩa là cái vị Tỳ Kheo mà thanh tịnh giới đó - mặc dù là mình lớn tuổi, mình già, nhưng mà mình biết mình có phạm phải một cái lỗi đó, xưa kia mình có phạm phải cái lỗi đó - bây giờ có một vị tân Tỳ Kheo mới đến nhưng mà người ta giới luật thanh tịnh, người ta đến, người ta không biết, người ta lau giày, guốc cho mình.

Người ta thấy mình già ở trong chúng do đó người ta làm cái công việc đó, thì ngay đó là mình ngăn, mình không để cho cái người tân Tỳ Kheo mới vào đó, mà giới luật họ chưa bị phạm đó, mình để cho họ lau giày, guốc của mình thì không được.

25. Không được nhận sự thoa, chà nơi thân của một Tỳ Kheo thanh tịnh;

(01:15:18) Nghĩa là mình dù là một người già yếu, mình có bệnh đau, mình nhờ cái người khác cạo gió hoặc là chà bóp để cho bớt đau, thì không được nhờ cái vị Tỳ Kheo, dù là vị đó mới vào nhưng mà người ta chưa phạm giới thì mình không được nhờ cái người đó xoa bóp cho mình.

26. Không được thọ lễ bái của Tỳ Kheo thanh tịnh;

Nghĩa là mặc dù là mình trưởng lão, mình già cả, nhưng mà cái vị Tỳ Kheo thanh tịnh mới vào đó, thì mình không có để cho vị Tỳ Kheo đó lễ bái mình.

27. Không được nhận sự đưa đón của Tỳ Kheo thanh tịnh;

Nghĩa là mình có đi đâu thì mình đi một mình mình chớ không để những vị Tỳ Kheo, tân Tỳ Kheo còn nhỏ tuổi đó đưa đón mình hoặc thế này, thế khác.

Tức là nói chung cái vị Tỳ Kheo này khi phạm giới như vậy thì không có thị giả, không có người hầu hạ, luôn luôn phải sống một mình.

28. Không được thọ sự xá chào của Tỳ Kheo thanh tịnh;

Nghĩa là mình luôn luôn từ chối tất cả những sự xá chào của người khác khi mình là một người phạm tội, mặc dù mình phạm tội cách đây hai chục năm hay là ba chục năm.

29. Không được để Tỳ Kheo thanh tịnh cầm y mình;

Nghĩa là cái y của mình mình mặc chớ không, bây giờ có một con kiến, con gì đó, mà mình đương vắt cái y của mình như thế này thì bỗng dưng có con kiến thì mình tháo ra, mình nhờ cái vị Tỳ Kheo kia cầm cái y của mình thì không được. Mình tự để chỗ nào đó để chớ không nhờ cái vị Tỳ Kheo người ta thanh tịnh mà người ta cầm cái y của mình.

29. Không được để Tỳ Kheo thanh tịnh cầm y;

30. Không được nhận sự bưng bát của Tỳ Kheo thanh tịnh;

Nghĩa là mình không có để cái bình bát của mình cho một vị Tỳ Kheo trẻ tuổi thanh tịnh mà bưng dùm mình.

31. Không được cử tội hay làm các pháp Nhớ Nghĩ, làm pháp Tự Tứ, nói tội của những Tỳ Kheo thanh tịnh;

Nghĩa là mình không có quyền kê tội của người nào nữa hết. Nghĩa là mình là người có tội rồi, do đó bây giờ dù là những vị Tỳ Kheo đó có tội mình cũng không được kê tội họ ra, nói tội họ ra. Để cho những người khác người ta thanh tịnh hơn, người ta tu trước mà người ta thanh tịnh người ta kê chớ còn mình không có được quyền kê tội người ta ra.

32. Không được làm chứng cho người;

Nghĩa là cái người mà đã phạm giới đó rồi thì không được làm chứng cho cái người này không phạm, hay hoặc là cái người này phạm, thì mình không được làm chứng cho ai hết.

Nghĩa là mình đã phạm phải rồi thì bắt đầu bây giờ mình không có những cái quyền hạn ở trong cái Tăng đoàn đó nữa, mình chỉ còn ở lại để mình tu để được giải thoát mà thôi.

33. Không được ngăn Tỳ Kheo thanh tịnh thuyết giới;

Nghĩa là khi một vị Tỳ Kheo thanh tịnh thuyết giới, mặc dù là cái người đó có thuyết sai đi nữa mình cũng không được quyền ngăn họ. Để cho những người khác người ta hiểu biết người ta ngăn chớ còn mình hiểu biết đó là cái thuyết như vậy sai, nhưng mà mình cũng không được ngăn nữa.

34. Không được ngăn Tỳ Kheo thanh tịnh Tự Tứ;

Nghĩa là mình không có ngăn cái người khác làm cái lễ Tự Tứ.

35. Không được cùng Tỳ Kheo thanh tịnh cãi lẫy;

Đối với mình thì không được cãi lẫy với ai hết.

(01:18:20) Nếu tái phạm thì bị tẩn xuất ra khỏi nơi chúng tăng thanh tịnh, bị đuổi vĩnh viễn!

Nếu còn phạm phải ba mươi lăm điều này, ba mươi năm sự việc này thì cái người đó bị tẩn xuất ra khỏi Tăng đoàn.

Cho thấy nên trong cái ba mươi lăm điều này, một người phạm phải cái lỗi về dâm dục rồi thì Thầy thấy ở trong chúng tăng không còn có cái gì đối với cái vị tu sĩ đó nữa hết.

Cho nên ở đây, khi mà đã quyết tâm hướng về con đường thứ hai, cái lộ trình thứ hai của đạo Phật rồi thì chúng ta phải coi như cái giới dâm là một cái giới rất là vĩ đại cho cuộc đời tu hành của chúng ta!

Vì đó là chúng ta đã quyết chấm dứt con đường sanh tử, và con đường sanh tử tức là ở trong cái đường dâm dục đó chớ không phải ngoài đó, ngoài cái đường dâm dục đó mà đi tìm con đường sanh tử thì không bao giờ có. Vì cũng sanh từ nơi đó mà cũng vì chết từ nơi đó chớ không phải cái chỗ nào khác hết.

Nếu Tỳ Kheo Ni đồng phạm cũng như vậy. Thức Xoa, Sa Di, Sa Di Ni đồng phạm mắc tội Đột Kiết La và cũng bị diệt tẩn.

Nghĩa là tội Bất Định - tội Đột Kiết La, thì cái tội đó nó vẫn có thể người ta xét qua phạm vào cái tội Ba La Di thì người ta sẽ vẫn bị đuổi chớ không thể nào mà tha thứ được.

9.8- NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHÔNG TÍNH LÀ PHẠM GIỚI

(01:19:54) Trường hợp không phạm:

- Ban đầu chưa chế giới;

Lúc mà Đức Phật chưa chế giới thì không có gọi là phạm.

Cho nên cái trường hợp này chúng ta nghĩ rằng, cái người mà đã học giới mà phạm, đã nghe được cái giới mà Thầy giảng rồi mà còn phạm phải cái giới đó thì coi như là phạm giới Ba La Di. Còn cái người mà chưa nghe, chưa có biết giới thì đương nhiên là không có phạm giới.

Cho nên ban đầu chưa chế giới thì đương nhiên là không phạm. Mà đã chế giới rồi, sau này Tỳ Kheo đã chế giới, đã được nghe, đã được hiểu biết giới đó rồi, thì đương nhiên người nào mà phạm phải đều là bị phạm hết. Còn trước đó chưa chế giới ra thì chúng ta có phạm vẫn chưa phải là tội, chưa phải có tội.

- Si cuồng tâm loạn;

- Tâm không thọ lạc vì bị bức ép khốn khổ;

- Ngủ mê không hay biết gì cả.

Si cuồng tâm loạn là không phạm, là tại vì cái tâm điên khùng nó không còn sáng suốt, không còn tỉnh táo nữa như một người điên, mà làm cái chuyện dâm dục thì người điên không có phạm.

Mà trong dâm dục đó mà tâm không thấy cái cảm giác thọ lạc thì người đó không phạm, còn có cảm giác thọ lạc thì người đó phải phạm.

Ngủ mê không biết thì không phạm. Sự thật không có bao giờ có thể cái giấc ngủ mà đến mê man ở trong cái dâm dục được hết, cho nên cái này thì nó không đúng, Thầy thấy không đúng.

Chỉ có chúng ta bị người ta bỏ thuốc mê thì chúng ta mới không hay biết, chớ còn cái vấn đề ngủ mê trên cái vấn đề dâm dục, nói không hay biết thì không thể nào mà (có) cái đó được hết. Đó là cái không đúng.

Còn tất cả những cái khác thì có thể Thầy chấp nhận rằng đúng. Như ban đầu chưa chế giới thì không ai hiểu biết cái giới đó là phạm cho nên không có tội, còn chế giới ra rồi thì cái người nào phạm tức là người đó bị tội.

Còn cái người điên khùng, tâm nó loạn, họ không sáng suốt mà họ phạm vào cái dâm thì cái đó là không phạm. Còn cái tâm mà đang ở trong cái sự thọ lạc đó mà không cảm giác thọ lạc thì cái người đó không phạm, còn có cảm giác thọ lạc ở trong đó thì cái người đó bị phạm.

Còn cái sự ngủ mê thì không có, cho nên ở đây bỏ cái đoạn, cái chỗ ngủ mê.

Đó là cái giới thứ nhất. Vậy thì đến đây Thầy sẽ tiếp tục, ngày kế chúng ta sẽ học cái giới thứ hai.

10- MƯỜI CÔNG ĐỨC KHI TU TẬP GIỚI CỤ TÚC

(01:22:32) Đó là giới thứ nhất chúng ta đã học xong. Bây giờ chúng ta tìm hiểu thêm mười cái điều quan trọng trong khi tu tập giới cụ túc:

1. Nhiếp thủ ư tăng;

Nghĩa là những thiện nam, tín nữ trong thế gian có tâm tin Phật, đi xuất gia, thọ giới cụ túc ở trong Chánh Pháp của Đức Như Lai được gồm thu vào thành chúng thanh tịnh.

2. Linh tăng hoan hỷ;

Nghĩa là ở trong pháp luật chân chánh tu Phạm hạnh thanh tịnh, khiến việc lành được tăng trưởng nên trong lòng thường vui mừng, hoan hỷ.

3. Linh tăng an lạc;

Nghĩa là do vì sự vui mừng, hoan hỷ nên mới được cái quả vui thiền định, tịch diệt, cũng nhờ tu Phạm hạnh thanh tịnh mới trả được nợ áo cơm của đàn na thí chủ, tâm ta mới được an lạc, sung sướng, thanh thản.

4. Linh vị tín giải tín;

Nghĩa là những người chưa được tin Phật Pháp, thấy chư tăng tu Phạm hạnh thanh tịnh mà sanh lòng tịnh tín nơi các vị Thánh tăng.

5. Dĩ tín giả linh tăng trưởng;

Nghĩa là vì người đã sanh lòng tin, phải khéo giữ cái niềm tin ấy cho được thêm nhiều.

6. Nan điều giả linh điều thuận;

Nghĩa là có những người phạm giới không biết xấu hổ nên dùng giới luật này mà vì…​ (Mất tiếng)

7. Tàm quý giả đắc an lạc;

Nghĩa là vì khiến những người tu Phạm hạnh có biết tàm quý, có biết xấu hổ, khởi đem lòng nghi nan và hết sự tranh luận, được yên ổn tu hành cùng nhau.

8. Đoạn hiện tại hữu lậu;

Nghĩa là vì hiện tại mắc cái tâm phiền não làm cho không tu hành được tốt.

9. Đoạn vị lai hữu lậu;

Nghĩa là những phiền não chưa sanh làm cho đừng cho nó sanh; và nếu phiền não lỡ sanh ra rồi thì ta hãy cương quyết đoạn cho tận nguồn gốc.

10. Chánh Pháp đắc cửu trụ.

Nghĩa là do vì gìn giữ Phạm hạnh nên Chánh giáo Đức Phật, Đức Như Lai được còn mãi mãi ở thế gian.

Mười món công đức ở đây trong mỗi giới đều có, cho nên trong mỗi giới đều khai sanh ra mười món công đức tốt như vậy./.

HẾT BĂNG

03 - BỐN ĐIỀU NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN RÕ

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 03 - BỐN ĐIỀU NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN RÕ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- PHÂN BIỆT PHÁP TU DÀNH CHO CƯ SĨ VÀ TU SĨ

(00:00) Hôm nay chúng ta tiếp tục học cái giáo án của Đức Phật.

Cái giai đoạn một mà Thầy đã giảng cho cái người cư sĩ: Họ bắt đầu là họ thay đổi sáu cái nghề nghiệp, họ không có làm. Nhưng rồi họ sẽ tu cái gì đây, nếu mà chúng ta bắt qua một cái giai đoạn hai là cái giai đoạn của những bậc xuất gia, cắt ái ly gia? Cho nên vì vậy mà cái người cư sĩ họ chỉ biết thay đổi nghề nghiệp rồi thôi sao?

Cho nên hôm nay Thầy phải giảng đủ để biết được cái vị trí tu tập của người cư sĩ ở chỗ nào.

Thay đổi nghề nghiệp đó là một cái điều Chánh Nghiệp để đưa họ làm những cái điều thiện, còn cái sự tu tập để cho cái đời sống của họ được sự an vui, được hạnh phúc ở trong gia đình cũng như đối với mọi người xung quanh, đem lại niềm một cái niềm an vui cho nhau.

Thì như vậy những cái bài pháp của Phật có dạy cho người cư sĩ tu rất là rõ ràng, chớ không phải riêng dạy cho tu sĩ xuất gia mà không có pháp để cho người cư sĩ tu. Từ cái giới luật của các vị xuất gia cho đến cái giới luật của người cư sĩ tại gia, Đức Phật vẫn có dạy rõ ràng chớ không phải không có.

Nếu giai đoạn một mà chúng ta chỉ lướt qua, có thay đổi sáu cái nghề nghiệp mà không dạy cách thức tu thì sợ e chúng ta sẽ là có sự thiếu khuyết. Cho nên bắt đầu bây giờ chúng ta trở lại cái giai đoạn thứ nhất để dạy cho người cư sĩ tu hành.

Như vậy là chúng ta đi từng cái bước một, từ cái người cư sĩ cho đến cái người tu sĩ phải tu như thế nào cho đúng cách?

Nếu không khéo thì cái người cư sĩ họ cũng không biết cái pháp của họ tu, cho nên họ tu lầm lạc qua cái pháp của người xuất gia, cái người tu sĩ. Rồi cái người tu sĩ lại cũng không hiểu cái pháp nào là của mình tu, do đó lại là tu nhầm lẫn qua cái pháp của người cư sĩ.

(02:06) Cho nên ở đây, Phật dạy có cái sự phân biệt rất rõ ràng. Nhưng dù sao chúng ta cũng phải hiểu rằng, từ chiếc áo của cư sĩ nó sẽ trở thành chiếc áo của tu sĩ. Vì vậy mà các pháp của cư sĩ đã tu tập hoặc sẽ tu tập thì người tu sĩ chúng ta phải tu tập. Tu tập hết, không có cái pháp nào mà gọi là Phật dạy không tu.

Vì chúng ta cũng từ chiếc áo của người cư sĩ để bước vào cái người tu sĩ, chớ không phải là chúng ta ở trên trời rớt xuống là người tu sĩ liền được! Cho nên từ đó các pháp từ thấp đến dễ, nó rất là rõ ràng và cụ thể.

Vì vậy mà cái bài pháp, cái giáo án hôm nay để giúp cho mọi người, bắt đầu chúng ta tu, từ chiếc áo cư sĩ chúng ta tu những cái pháp nào? Rồi đến cái giai đoạn của người tu sĩ thì chúng ta tiến tới những cái pháp nào sâu hơn, cao hơn như thế nào?

Để không khéo cái người cư sĩ họ không hiểu, họ lại tu những cái pháp cao hơn, sâu hơn, thí dụ như Bốn Thiền, thì không thể nào một cái người cư sĩ mà họ thực hiện được Bốn Thiền của Phật được!

Tại sao vậy?

Tại vì Phật nói: “tịnh chỉ các hành”, mà Bốn Thiền của Phật nhằm tịnh chỉ các hành ở trong thân, nội thân của chúng ta. Mà cái người cư sĩ thì cái tâm, cái thân của họ nó chưa có được thanh tịnh.

Vì có sự thanh tịnh Phật mới nói là "tịnh", "tịnh" nó mới "chỉ", chớ không phải "định chỉ" mà "tịnh chỉ", "tịnh" tức là thanh tịnh. Mà thanh tịnh ở đây thì chúng ta biết rằng, các cái pháp mà của người cư sĩ được tu nó mới làm cho cái tâm họ thanh tịnh.

Rồi từ cái chỗ thanh tịnh đó đó họ mới ly trần, họ mới cắt ái ly gia, họ mới trở thành những cái người tu sĩ, từ đó họ mới thực hiện được Bốn Thánh Định, tức là từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền.

Chớ không phải là Bốn Thánh Định này tu tập dễ dàng đâu. Khi nào tâm chúng ta thanh tịnh, Ngũ Triền Cái chúng ta đã đoạn dứt thì chúng ta mới thực hiện được cái Tứ Thánh Định.

Do vì vậy mà hiện giờ, hễ nghe nói tu thì người ta chuyên môn là ngồi thiền chứ người ta không biết là cái thứ thiền nào là của người cư sĩ tu, mà cái thứ thiền nào là của người tu sĩ tu.

Phân biệt được rõ như vậy thì chúng ta mới thấy được cái giáo án của Phật đi từ thấp đến cao, từ dễ đến khó.

2- BỐN ĐIỀU NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN RÕ

(4:54) Giai đoạn tu tập thứ nhất của đạo Phật, người mới bắt đầu đến với đạo phải không hành sáu cái nghề…​

Sáu cái nghề nghiệp mà không có hành.

…​ và còn phải tu tập những gì?

Nghĩa là người cư sĩ mà đến với đạo Phật thì mới bắt đầu thì họ không hành sáu cái nghề, nhưng họ còn phải tu những pháp gì?

Phật dạy có bốn điều người cư sĩ tại gia cần phải rõ.

Có bốn điều, bốn cái điều đó thì cái người tại gia khi mà đã thay đổi cái nghề nghiệp của mình rồi thì phải rõ được bốn cái điều này. Nếu mà không rõ được bốn cái điều này thì không biết cái đường lối nào mà của người cư sĩ tu tập.

1- Thông hiểu những gì phải thông hiểu;

Nghĩa là người cư sĩ mà khi đến với đạo Phật, trước tiên là họ phải tìm hiểu những cái gì mà họ cần phải tìm hiểu của đạo Phật.

Mà tìm hiểu đúng cái pháp của họ đang tu, của người cư sĩ. Chứ nếu mà họ tìm hiểu những cái pháp của người xuất gia, của người tu sĩ thì họ tu nhầm ở trên đó, họ tu chẳng có thành công, chẳng có kết quả gì hết.

Cho nên ở đây Phật dạy: “Thông hiểu những gì phải thông hiểu”, những cái gì mà đáng thông hiểu của họ, chớ không phải là thông hiểu toàn bộ hết được. Mà phải thông hiểu ở một cái góc độ những cái pháp môn của người cư sĩ chớ không phải là thông hiểu của những người tu sĩ.

Chẳng hạn là như bây giờ, hai trăm năm chục giới của Tỳ Kheo, thì người cư sĩ không có nên thông hiểu những cái hai trăm năm chục giới đó mà nên thông hiểu năm giới của chính mình. Đó là cái thông hiểu phải thông hiểu.

2. Trau dồi những gì phải trau dồi;

(6:48) Nghĩa là, người cư sĩ khi đến với đạo Phật, cái thứ nhất là phải thông hiểu những cái mức độ ở chỗ cái vai trò của mình thông hiểu, thì mình phải thông hiểu những gì mình phải thông hiểu. Còn đến cái giai đoạn trau dồi thì những gì mình phải trau dồi thân tâm của mình như thế nào, có những pháp để trau dồi.

Có những pháp để thông hiểu, có những pháp để trau dồi.

3. Dứt bỏ những gì phải dứt bỏ;

Nghĩa là người cư sĩ khi mà đến với đạo Phật, Đức Phật nói cái này phải bỏ là phải dứt bỏ chớ không có được còn dính dáng với nó.

Cũng như người tu sĩ, khi đến với đạo mà Đức Phật đã dạy về những cái pháp dứt bỏ, thì hoàn toàn chúng ta phải cố gắng mà dứt bỏ, chớ đừng có mà không dứt bỏ nó thì không thể nào mà tiến tới con đường của đạo được.

4. Tu tập những gì phải tu tập.

Nghĩa là có những pháp để tu tập, có những pháp cần phải dứt bỏ, có những pháp cần phải trau dồi, và có những pháp cần phải thông hiểu.

Đó là bốn cái điều kiện mà khi bước chân vào đạo Phật thì chúng ta phải thấy bốn cái sự kiện này, chúng ta phải hiểu.

Nghĩa là trước tiên thì chúng ta phải thông hiểu, sau đó thì chúng ta phải trau dồi thân tâm mình, rồi kế đó chúng ta phải dứt bỏ những cái gì cần phải dứt bỏ, rồi đến những cái pháp môn mà hằng ngày cần phải tu tập, thì đó là những điều kiện mà chúng ta cần phải hiểu và thông rõ.

Chớ nếu mà chúng ta không nắm vững được cái này thì chắc chắn chúng ta sẽ không biết đường lối đâu mà đi.

(08:12) Như vậy, khi thay đổi nghề nghiệp, đời sống quý vị mới sống thiện.

Nghĩa là thay đổi cái nghề nghiệp ác đó đó, để sống những cái nghề nghiệp thiện hơn, cho nên cái đời sống của mình bây giờ mới là sống thiện.

Vì vậy người cư sĩ cần phải tu tập những cái gì thứ nhất?

Nghĩa là:

Người cư sĩ đầu tiên đến với đạo Phật thì cần phải nghiên cứu, tìm hiểu những lời của Phật dạy.

Nghĩa là đầu tiên mà chúng ta, cũng như cái giai đoạn thứ nhất, ở cái chỗ này thì nó có bốn cái điều kiện mà chúng ta cần phải nắm cho vững, phải hiểu cho rõ, thứ nhất thì ở đây Phật dạy: Thông hiểu những gì phải thông hiểu.

Vậy thì bây giờ chúng ta thông hiểu cái gì, đi tìm hiểu cái gì đây? Ở đây Phật dạy rất rõ là chúng ta phải tìm hiểu những cái gì.

Tìm hiểu:

1. Tứ Diệu Đế;

2. Thập Nhị Nhân Duyên;

3. Nghiệp;

4. Thân Ngũ Uẩn;

5. Tứ Bất Hoại Tịnh;

6. Tứ Chánh Cần;

7. Tứ Niệm Xứ;

8. Tứ Thiền;

9. Tứ Như Ý Túc;

10. Ngũ Căn;

11. Ngũ Lực;

12. Thất Giác Chi;

13. Thập Thiện;

14. Nhân quả luân hồi;

15. Ngũ Minh;

16. Tứ Vô Lượng Tâm.

Đó là tất cả những cái pháp mà của Phật dạy, thì cái người cư sĩ mà đến với đạo Phật thì cần phải thông hiểu những gì phải thông hiểu, thì tức là thông hiểu mười sáu cái pháp mà Phật đã nêu cái tên nó ra.

Thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ đi tìm hiểu từng cái pháp đó như thế nào để chúng ta rõ ràng, coi có phải cái đó nó có hợp với mình không, nó có phải là cái ước vọng trên bước đường mà sắp sửa mình gởi thân tâm mình vào đó để tu hành không?

Cho nên khi mà nghiên cứu thông suốt được rồi, thấy nó phù hợp với cái ước vọng, cái nguyện vọng của mình thì cái người cư sĩ đó mới tiếp tục để trau dồi những gì mà mình đã tìm hiểu được trong những pháp trau dồi.

Chớ không phải bây giờ mà tui vô tui ngồi thiền nhập định, hay hoặc là tui nghiên cứu như vậy rồi tui tu Tứ Thiền, hay hoặc là tui dùng Tứ Như Ý Túc, hay hoặc là tui dùng những cái điều kiện cao siêu thì nó không đúng cái cách đâu.

Cho nên ở đây, nếu mà khi được nghiên cứu kỹ như vậy rồi thì bắt đầu phải tu tập cái gì đây? Phải trau dồi những cái gì đây?

Đó là những cái điều kiện nó phải phân minh, nó phải rõ ràng cái đường lối tu tập. Chứ nếu mà không phân minh, không rõ ràng cái đường lối tu tập như vậy thì chắc chắn là chúng ta nhào vô, chúng ta chẳng biết cái đường lối nào mà chúng ta tu hết.

(11:04) Cho nên ở đây, hầu hết là Thầy thấy như thế này: Khi quý thầy đến với Thầy thì hầu như là thiền à, ngồi thiền. Người thì nhiếp hơi thở, người thì tri vọng - biết vọng liền buông, người thì công án, người thì niệm Phật chớ không nghe người ta đi từng cái bước một của cái sự tu tập của họ.

Người ta chưa có bỏ hết những cái gì, người ta chưa có từ bỏ, từ giã mà người ta vội vàng tu những cái của những bậc người ta ly trần, người ta xuất thế, thì cái điều đó là cái sai của cái thời đại tu tập bây giờ rất nhiều.

Người ta không thấy được qua cái đời sống Phạm hạnh, qua cái đời sống chuyên tu thiền nó khác hơn là cái đời sống của một người cư sĩ đang bao nhiêu gia duyên, đang bao nhiêu sự việc trói buộc, ràng buộc, phải làm cho hết cái bổn phận của cái người đời, cái người cư sĩ.

Thế mà vội vàng tu, nó không hiểu rõ được đường lối cách thức thì chúng ta tu mãi mà dậm chân tại chỗ, uổng phí, vừa mất thì giờ mà chẳng đi đến đâu.

Hôm nay Thầy vạch một lối đi cho cụ thể và rõ ràng để cho quý thầy, quý cư sĩ tìm hiểu rất rõ ngọn nguồn để bước đi vững chắc, không bị vấp ngã.

Đây là những bài pháp mà Đức Phật đã dạy cho các đệ tử của Người trong thời xa xưa mà đến bây giờ người tu hành đúng theo lời dạy này vẫn thấy hiệu quả giải thoát thân tâm rõ ràng.

Nghĩa là qua những cái bài pháp mà Thầy kể, mười sáu cái bài pháp mà Thầy kể tên ở trên, đến bây giờ nếu mà chúng ta tu đúng chúng ta vẫn thấy được cái sự giải thoát thân tâm rõ ràng, làm chủ được sự sống chết và sanh tử luân hồi.

Qua kinh nghiệm bản thân của Thầy, những lời dạy này tu tập cụ thể, có thứ lớp, có tầng bậc, sắp xếp có thứ tự rất khoa học, từ dễ đến khó, từ mới tu cư sĩ cho đến người xuất gia tu sĩ, đâu đâu rõ ràng: Người cư sĩ tại gia phải tu những pháp nào? Người xuất gia tu sĩ phải tu những pháp nào? Rõ ràng và rất minh bạch.

(13:29) Theo như lời Đức Phật đã dạy ở trên: Ở giai đoạn đầu, người cư sĩ phải thông hiểu những gì cần phải thông hiểu.

Vậy phải thông hiểu cái gì đây?

_Có rất nhiều trong cuộc đời, đời sống cần phải hiểu và phải thông suốt nó. _

Nghĩa là quý vị cư sĩ khi mà vào đạo Phật, mặc dù chúng ta đang sống ở trong cái cuộc sống nhưng chúng ta chưa hiểu cuộc sống chúng ta như thế nào, phải nói rằng chưa hiểu. Không biết nó như thế nào mà mọi người đều ham mê điên cuồng chạy theo nó, mà không bao giờ chịu buông nó ra!

Đó là những cái điều mà chúng ta cần phải hiểu. Tại sao nó cuốn hút, nó lôi người ta dữ tợn như vậy? Nó xâm chiếm người ta dữ vậy? Nó sai bảo người ta dữ vậy? Để cho người ta ở trong cái khổ mà người ta không thấy cái khổ đó. Người ta biết nhưng mà người ta không tránh được cái khổ đó!

Đầu tiên, chúng ta tìm hiểu: Trong đời sống thế gian, tại sao…​

Nghĩa là bây giờ bắt đầu chúng ta mới suy nghĩ đó, nghĩa là chúng ta phải thông hiểu những gì đó, thì qua những cái bài pháp này của Phật dạy để chúng ta thông hiểu được cái đời sống của chúng ta, rồi chúng ta so sánh coi thử coi đời sống của chúng ta nó như thế nào đây?

Tại sao có người yểu tử, có người trường thọ?

Đó là một cái tìm hiểu. Bởi vì Phật dạy: Cái gì cần phải hiểu thì phải tìm hiểu cho nó thông. Vì vậy mà bây giờ chúng ta mới đặt ra những câu hỏi như thế này: “Tại sao có người yểu tử, có người trường thọ?”

Có người mới sanh ra là chết; mà có người thì được mười hai, mười ba tuổi chết; mà có người thì ba bốn mươi tuổi chết; mà tại sao có người tới trăm tuổi mới chết? Tại sao nó lạ lùng vậy? Lẽ ra con người thì ai trăm tuổi thì người nào cũng phải trăm tuổi chớ? Sao lại có người yểu tử mà có người trường thọ?

Đó là những cái mà chúng ta thấy, ở trong cuộc sống của chúng ta nhan nhản những cái điều kiện mà nêu ra đây chúng ta thấy cụ thể và rõ ràng.

Vậy thì chúng ta phải tìm hiểu những cái này như thế nào?

Tại sao có người bệnh nhiều, mà có người lại ít bệnh?

Cái điều đó là cái điều thực chớ không thể nào mà chúng ta chối cãi được ở trong cái xã hội này, cái loài người này. Tại sao có người sanh ra cho tới già chết họ bệnh có chút cái họ chết, còn có người thôi sanh ra bệnh từ nhỏ chí lớn, bệnh liên miên bất tận? Đó là cái gì mà làm cho họ như vậy?

Đó, chúng ta phải đặt ra để tìm hiểu lấy cái cuộc đời của chúng ta đang sống, trong cái cuộc sống của chúng ta.

(16:25) Tại sao có người xấu, có người đẹp?

Nghĩa là có người sanh ra tướng mạo phương phi, đẹp đẽ, nhưng có người thì gù lưng, tật nguyền rồi xấu xa mặt mày, mũi tẹt, răng hô, đủ loại xấu. Như vậy thì nó có cái gì ở trong đó? Tại sao con người sinh ra lại không đồng đều? Đẹp thì phải đẹp hết chớ, xấu thì phải xấu hết chớ, tại sao có người vầy, người khác? Đó là những cái mà chúng ta cần phải tìm hiểu.

Tại sao có người có quyền thế nhỏ mà có người có quyền thế lớn?

Ở trong xã hội chúng ta có người thì có quyền thế lớn, mà có người thì có quyền thế nhỏ. Mà có người không có quyền thế gì hết, suốt cuộc đời mình đi làm đầy tớ người khác hoặc là làm nô lệ cho người khác mà không có quyền hạn gì hết.

Đó là những cái mà người cư sĩ cần phải tìm hiểu trong cuộc sống của mình.

Tại sao có người có tài sản nhỏ mà có người lại có tài sản lớn?

Tại sao có người sanh vào gia đình hạ liệt, có người lại sanh vào gia đình cao quý?

Đó là những cái nhan nhản trước mắt của chúng ta, không thể nào chối bỏ được điều đó.

Tại sao có người trí tuệ thông minh, mà tại sao có người trí tuệ yếu kém, không thông minh?

Do duyên gì, nhân gì, giữa con người với nhau lại có những kẻ hạ liệt, người ưu tú như vậy?

Đó là những cái điều mà chúng ta đặt ra câu hỏi để chúng ta tìm hiểu. Mà đây là tìm hiểu một sự thật, chính Đức Phật đã dạy chúng ta để so sánh và phân biệt được, để tìm ra cái nguyên nhân đó.

Từ tìm ra cái nguyên nhân đó thì chúng ta mới biết được con đường đi của đạo Phật để chúng ta thực hiện những cái pháp để giải quyết được những cái điều này, nếu không thì chúng ta đâm ra hoang mang, nghi ngờ cuộc sống của chúng ta.

Nếu chúng ta đặt thành một vấn đề là chúng ta có một đấng vạn năng, một đức cha lành, một Đức Phật toàn năng, thì không lẽ những người đó sanh chúng ta ra mà lại đặt chúng ta có người xấu, người tốt sao?

Mỗi đứa con, đặt thành vấn đề như quý vị là những người cư sĩ, khi quý vị sanh đứa con ra quý vị muốn đứa con của quý vị như thế nào? Đứa nào cũng phải tốt đẹp, thông minh chứ sao lại có đứa xấu, đứa tốt?

Thì đặt cái vấn đề một vị toàn năng, mà họ sáng tạo ra loài người thì họ cũng phải nghĩ rằng những cái con người mà họ sáng tạo ra phải tốt đẹp như nhau, tại sao lại như vậy?

Như vậy chúng ta đặt: Có phải có bậc thượng đế hay không hay là không có thượng đế ở đây? Tại sao thượng đế sanh con người ra kẻ vầy, kẻ khác? Kẻ đau khổ nhiều, người đau khổ ít?

Do đó, tại sao như vậy? Do vì vậy mà đạo Phật giảng cái bài này để cho chúng ta hiểu biết được do ở đâu mà nó có những cái sự việc này.

3- NGHIỆP SINH RA, SAI KHIẾN VÀ PHÂN CHIA CON NGƯỜI

(19:02) Muốn hiểu rõ điều này thì chúng ta phải hiểu Nghiệp.

Đó, bây giờ Đức Phật đặt thành vấn đề là nghiệp, vậy nghiệp là cái gì đây?

Đức Phật dạy thêm:

Nghiệp là chủ nhân của loài người;

Tức là nghiệp nó đẻ ra loài người đó, nghiệp là cái chủ muốn cho cái người đó tốt, xấu hay hoặc này kia là do nghiệp, chớ không phải có một cái người nào sanh chúng ta ra mà do nghiệp mà sanh ra.

Nghiệp thường sai khiến con người;

Nó - cái nghiệp đó nó sai khiến con người như thế này, thế khác; cái gì nó bảo thì con người phải làm theo chớ không có chống lại nó được.

Con người là thừa tự của nghiệp;

Nghĩa là mình mà sanh ra đây, mình thừa tự cái nghiệp của chính mình.

Nghiệp là thai tạng của con người;

Tức là nghiệp nó sanh ra con người đó.

Nghiệp là quyến thuộc, là điểm tựa và nghiệp lại phân chia ưu liệt của loài người.

Nghĩa là người tốt, người xấu nó phân chia ra đó. Nó sanh con người ra rồi nó phân chia con người ra.

Vậy cái nghiệp nó từ đâu mà đến? Nó có phải một đấng vạn năng không? Đó là những cái mà chúng ta đặt ra để mà chúng ta hiểu, để mà chúng ta thấu rõ được cái đời sống của con người, cái số mệnh của con người ở trong cuộc đời của chúng ta, nó sanh ra từ cha mẹ là nghiệp. Như vậy thì chúng ta tìm hiểu cái nghiệp này như thế nào để cho nó đúng?

Vậy thì nghiệp là cái gì?

Thứ nhất, chúng ta phải hiểu nó, nghiệp là một cái thói quen của chúng ta.

Nghĩa là chúng ta, một cái người mà mới sanh ra họ chưa biết ghiền thuốc đâu, họ cũng chưa biết ghiền rượu đâu. Nhưng mà lớn lên rồi gặp cái môi trường mà bạn bè hoặc là những người ở trong nhà buôn bán rượu này kia, thì bắt đầu họ nếm thử chút chút, chút chút.

Mới đầu thì họ thấy đắng, cay, hôi, họ không có uống được. Nhưng mà lần lần, họ lần chút lần chút, họ thấm nhuần lần lần cái họ quen đi, tới chừng mà họ trở thành ghiền đi.

Mà trở thành ghiền đó thì tức là nó đã trở thành cái nghiệp rồi. Cho nên bây giờ, cái người mà nghiện rượu nghe cái mùi rượu thì như thế nào? Họ thích liền, họ không có từ giã được, họ không có ly nó ra được mà họ sáp vô để họ uống một ly rượu.

Có nhiều người mà đã ghiền rồi thì mỗi buổi sáng mà họ không có một ly rượu thì họ thấy con người của họ nó khó chịu, nó ụa, nó ọe, nó làm những cái điều kiện như là cái người muốn bệnh vậy. Họ làm cho cái thân của họ quá khổ sở, và cái tâm của họ chao động, không có tỉnh táo được nữa.

Mà khi uống vào một ly rượu rồi, họ thấy họ tỉnh táo, và cái thân của họ nó bình thường trở lại, nghe nó sảng khoái, nghe nó có cái hỷ lạc ở trong đó, cho nên họ rất thích thú. Từ đó, cái đó, cái thói quen đó gọi là nghiệp.

Cho nên cái thói quen đó nó mới dẫn chúng ta đi vào trong ở sanh tử luân hồi đó, gọi là “nghiệp là thai tạng” đó.

(22:36) Nghiệp là chủ nhân.

Tức là nó sẽ sai chúng ta, nó làm chủ chúng ta, nó sai chúng ta làm cái gì chúng ta làm cái nấy. Bởi vì khi mà chúng ta quen cái đó rồi, thì khi mà cái thói quen đó nó khởi lên, nó muốn cái gì đó thì chúng ta không ngăn chặn được nó. Cho nên đương nhiên coi cái đó là cái nghiệp mà sai chúng ta, sai chúng ta làm cái điều đó.

Chẳng hạn bây giờ do cái tâm sắc dục của chúng ta, vì từ cái thân của chúng ta cũng là sanh ra từ nơi sắc dục, cho nên mang cái thân nó cũng đã có những cái đòi hỏi sắc dục, vì vậy mà khi chúng ta thấy cái người khác phái thì nó sanh ra cái tâm đó, rồi nó đòi hỏi cái hỷ lạc của cái sắc dục đó.

Từ đó chúng ta nó đã trở thành, cái thân đã là sanh ra cái từ chỗ đó, nó đã có cái nghiệp đó rồi, thế mà chúng ta không ngăn chặn, thì chúng ta cứ dần dần bước vào cái nghiệp, nó trở thành cái thói quen, rồi nó nghiện ngập, xa cái đó nó không được.

Cho nên từng đó Đức Phật dạy chúng ta cắt ly nó, đoạn dứt nó để chúng ta chấm dứt cái sự sanh tử luân hồi. Như cái bài giảng Thầy vừa giảng xong về cái giới luật, mà giới bất tịnh thì chúng ta đã thấy biết con đường sanh tử thì nó không phải là cái gì khác hơn là cái tâm dâm dục của chúng ta.

Thì ở đây chúng ta thấy cái tâm dâm dục đó chính là cái nghiệp. Mà từ cha mẹ sinh mình ra cũng từ nơi cái nghiệp đó, cho nên ngay cả thân và tâm chúng ta được sanh ra cũng từ cái nghiệp đó, vì vậy mà chúng ta thừa tự cái nghiệp đó.

Cho nên Phật nói: "Con người thừa tự của nghiệp". Đó thì quý thầy thấy có đúng không? Phật dạy con người chúng ta là thừa tự của nghiệp - nghĩa là cha mẹ mình đã vì cái nghiệp dâm đó mà sanh mình ra, cho nên mình được sanh ra từ cái thân tâm của mình thì không phải là mình thừa tự cái nghiệp dâm đó sao?

(24:50) Do vì vậy đó mà chúng ta đi vào con đường tu hành của đạo Phật là chúng ta phải xa lìa nó, đoạn dứt nó, chấm dứt nó. Thì chúng ta đi ngược lại nó có khó chịu không? Nghĩa là chúng ta chống lại nó.

Cho nên Đức Phật dạy chúng ta như hồi nãy Thầy nói, có bốn điều kiện: Cái gì thông hiểu thì chúng ta phải thông hiểu, cái gì trau dồi thì chúng ta phải trau dồi, cái gì dứt bỏ thì chúng ta phải dứt bỏ.

Bây giờ cái mà chúng ta đã hiểu được là cái nghiệp nó dẫn chúng ta đi ở trong cái sự sanh tử luân hồi, cái sự đau khổ; bây giờ chúng ta biết rằng, bản thân của chúng ta, thân tâm của chúng ta đang là thừa tự của cái nghiệp.

Vậy thì bây giờ cái nghiệp là cái đau khổ, cái nghiệp đưa dẫn người ta đi đến cái chỗ mãi mãi đau khổ trong bốn cái sự khổ sanh, lão, bệnh, tử. Do cái nghiệp mà tạo ra, cho nên chúng ta đang thừa tự cái nghiệp. Vậy thì chúng ta phải đoạn dứt nó, phải mạnh mẽ, đừng có yếu kém. Mà chúng ta yếu kém thì không thể nào dứt bỏ nó được.

Cho nên Phật nói: Có những pháp mà cần phải dứt bỏ thì phải dứt bỏ, chớ không thể nuôi dưỡng nó được, không thể kéo nó lê thê theo mình được, mà phải dứt bỏ ngay liền, chấm dứt ngay liền, đó là những cái pháp mà gọi là nghiệp.

Chúng ta biết rằng mình đang thừa tự những cái đó thì mình không nhận cái thừa tự đó nữa, nghĩa là mình chấm dứt cái đó đi. Thì bắt đầu bây giờ mình đừng có, cái tâm mình nó khởi lên dâm dục thì mình lại dùng những cái pháp để mình tu tập.

Cái pháp đó là gì? Cái tâm dâm dục, mà mình dùng cái pháp để loại trừ cái thân tâm thừa tự cái nghiệp này, thì do đó mình phải quán bất tịnh.

Mình phải xét cái thân tâm của mình nó như thế nào là thanh tịnh, như thế nào là không thanh tịnh, từ đó mình sẽ thấy cái thân ghê gớm, mình sẽ thấy cái thân bất tịnh, nhơ bẩn, ô uế, uế trược. Từ đó, chúng ta thấy chúng ta không còn thừa tự cái sản nghiệp của cái nghiệp dâm dục này nữa. Tức là chúng ta sẽ chấm dứt sự sanh tử rồi đó.

(26:42) Như vậy thì quý thầy sẽ thấy rõ ràng là những cái gì mà chúng ta cần phải dứt bỏ là chúng ta phải dứt bỏ.

Nghĩa là chúng ta thấy cái đó nguy hiểm, thì đừng vì một chút dục lạc ở đó mà chúng ta kéo lê thê cái đời của mình để luôn luôn mãi thừa tự cái nghiệp này, thừa tự những cái sanh tử này.

Cho nên chúng ta biết rằng, thừa tự cái này là cái đem đến cho chúng ta cái sự khổ đau, cho nên muốn chấm dứt cái nghiệp thì có những cái mà chúng ta cần phải đoạn dứt.

Vì vậy, chúng ta phải tu tập siêng năng, luyện tập những cái điều kiện mà Phật đã dạy: quán thân bất tịnh để đoạn dứt được những cái nghiệp. Nếu mà không có quán bất tịnh thì khó mà đoạn dứt được cái nghiệp dâm, cho nên từ đó mà chúng ta mới có những cái thai tạng của cái nghiệp mà sanh chúng ta ra.

Vậy thì chúng ta biết rằng, cái nghiệp là cái thói quen, cái nghiệp là cái sự ô nhiễm làm cho chúng ta khó bỏ nó, đó là thành cái thói quen mà hằng ngày trong những cái hành động của chúng ta tạo ra nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp ham muốn chớ không gì khác hơn hết.

Nếu chúng ta hằng ngày chửi bới thiên hạ thì nó quen đi, nó thành ra lúc nào chúng ta cũng dễ dàng chửi bới người ta được hết. Còn hằng ngày chúng ta không mắng, không chửi ai hết ngày này qua ngày khác thì nó không thành cái nghiệp của chúng ta.

Cho nên ở đây, Phật dạy chúng ta làm điều thiện thì không có chửi mắng ai, làm điều thiện thì không trộm cắp của ai, làm điều thiện thì không bao giờ mà có những cái hành động tà dâm, bất tịnh. Đó là những cái mà chúng ta cần phải hiểu và thông suốt, biết từ bỏ và dứt bỏ nó.

Đó, như vậy thì chúng ta đã hiểu sơ qua những cái nghiệp. Nếu mà giảng rộng thì chúng ta sẽ giảng nghiệp đi trong luân hồi, nghiệp sẽ tái sanh, thì nó còn phải rất cái nhiều thời gian để mà giải thích để cho quý vị thấu suốt.

Tạm thời thì ở đây Thầy ngắn gọn, sau này còn có những dịp mà chúng ta cần phải nghiên cứu về các nghiệp này nữa, để chúng ta thông suốt tất cả các nghiệp trong thân của chúng ta.

Chúng ta biết rằng trong thân của chúng ta có ba nơi để mà hành cái nghiệp này. Đó là thân của chúng ta, đó là miệng của chúng ta, đó là ý của chúng ta.

Ba cái chỗ hành động này gọi là hành động nghiệp, nghĩa là nghiệp cũ có, rồi tạo nghiệp mới có, do vì vậy mà chúng ta luôn luôn trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi do cái chỗ nghiệp này chớ không phải gì khác hơn hết.

4- NHỮNG ĐIỀU CẦN THÔNG HIỂU VÀ ĐOẠN DỨT

(29:27) Bây giờ quý thầy đã hiểu được nghiệp thì chúng ta sẽ biết được, hồi nãy đặt ra những câu hỏi: Tại sao có người giàu, người nghèo, người xấu, người tốt, người bệnh nhiều, người bệnh ít? Thì đây quý thầy sẽ thấy rõ, cái nghiệp nó sẽ dẫn quý thầy đi vào cái chỗ mà cái thế giới cuộc sống của quý vị, quý thầy đang sống, nó có sự sai khác nhau như vậy.

Đây quý thầy nghe tiếp, nhất là những người cư sĩ đang ở giai đoạn tu tập thứ nhất phải lắng nghe và chú ý cho kỹ.

Nghĩa là các vị còn sống ở trong gia đình, còn vợ, còn con, còn cha mẹ, anh em, bạn bè thân thuộc, bà con xóm làng không phải là cái người xuất gia đã bỏ tất cả, thì quý vị lắng nghe cái bài so sánh này để biết được cái nghiệp nó chi phối và nó phân chia ra, làm cho con người có ưu liệt và có tốt xấu đó.

Vậy thì quý vị phải lắng nghe cho kỹ để biết được, để thực hiện được những cái gì mà chúng ta cần phải chấm dứt, phải đoạn dứt nó.

4.1- THÂN YỂU TỬ DO NGHIỆP SÁT SANH

(30:45) Khi một người đàn ông hay một người đàn bà tàn nhẫn giết hại chúng sanh; tay lấm đầy máu; tâm chuyên sát hại, đả thương; lòng không có chút từ bi biết thương xót loài vật; do nghiệp sát sanh ấy thành tựu…​

Nghĩa là ở đây, Phật muốn nói cái nghiệp mà giết hại chúng sanh, đả thương làm cho chúng sanh chết chóc mà tâm lòng không thương xót chút nào đó, thì khi mà nó đã thành cái thói quen rồi, cái thói quen giết hại đó, cho nên ở đây Phật nói câu nói như thế này: “Do nghiệp sát sanh ấy thành tựu” - hay là thành đạt.

"Thành tựu" tức là nó thành cái thói quen rồi, tức là nó thành cái nghiệp rồi, thì lúc bấy giờ đó, cái người đó sau cái kiếp sống này, họ bỏ cái thân này đi, họ bị chết đi thì họ sẽ đi về đâu đây?

…​ họ sẽ vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục của họ.

Sau thời gian mà sống trong những cái cảnh giới của loài súc sanh, ở cảnh giới của sự đau khổ của địa ngục, ở cảnh giới của ác thú - của những thú dữ đang giết chóc lẫn nhau, thì lúc bấy giờ, trải qua nhiều đời nhiều kiếp họ mới được sanh làm người.

Thì cái người mà họ sanh ra, thì cái nhân của họ trước kia - cái nghiệp họ đã tạo mà nó đã thành tựu thành cái nghiệp rồi đó, thì con người họ sanh lên họ yểu tử.

Nghĩa là có người mà mới vào trong bào thai chừng một tháng, hai tháng là đã bị trôi thai. Có người thì vừa sanh ra đã là yểu tử rồi. Rồi có người sanh ra thì được ba, bốn tháng; có người sanh ra được một, hai tuổi; có người sanh ra được mười một, mười hai tuổi rồi xe đụng hoặc là bệnh tật chết.

Có người thì sanh ra được hai mươi tuổi chết, có người thì sanh ra được năm sáu chục tuổi chết. Có người thì trường thọ, một trăm tuổi chết.

Đó thì, cái chết đó là do cái chỗ mà chúng ta đã sát hại chúng sanh cho nên chúng ta bị yểu tử. Cho nên vì vậy mà cái tuổi của những người yểu tử này họ không được trên ba mươi tuổi.

Nghĩa là cái khoảng từ ba mươi trở lại thì họ là yểu tử, nghĩa là chết từ hai mấy tuổi trở xuống, mới ở trong bào thai, đó là yểu tử. Còn trên ba mươi tuổi thì họ trung thọ, từ đó trở lên cho tới sáu mươi là trung thọ. Còn từ sáu mươi trở lên nữa là thượng thọ.

Cho nên có sự phân chia để thấy được sự yểu tử là từ cái tuổi ba mươi trở lại thì chúng ta biết cái dạng đó là dạng yểu tử.

(33:56) Nếu có người đàn ông hay người đàn bà từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, tay không bao giờ lấm máu chúng sanh, luôn có lòng từ bi thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh, các loài hữu tình; do nghiệp ấy thành tựu…​

Tức là thành cái nghiệp thiện đó đó, cái nghiệp mà không giết hại chúng sanh.

…​ sau khi họ bỏ thân thì họ sanh vào cảnh thiện…​

Cái cõi giới thiện nghĩa là cái cõi giới tốt, không có cái ác pháp ở trong đó.

…​ hoặc là sanh vào cõi trời, và sau cùng thì họ được sanh làm người, và người của họ được trường thọ, tuổi từ trên sáu mươi cho đến trăm tuổi.

Đó là họ được trường thọ,

Con đường ấy đưa họ đến trường thọ - con đường không sát sanh, không giết hại chúng sanh.

Như vậy bây giờ Phật so sánh cái bài này để làm gì? Để nhắn nhủ người cư sĩ chúng ta: Tay chúng ta đừng lấm máu, tâm chúng ta thường thương xót chúng sanh.

Dù cái loài nhỏ nhất như côn trùng, sâu bọ cho đến những cái loài lớn nhất như sinh mạng của con người, chúng ta đừng có đoản mạng, đừng có giết hại chúng, đừng có làm đau khổ chúng để cho chúng ta sanh làm người hoặc là ở cõi trời, hoặc là cõi thiện nào đó, chúng ta cũng hưởng được cái thân nó không yểu tử, cái thân nó được yên ổn mà không có sự đau khổ trong đó.

Đó là chúng ta đã hiểu như vậy thì chúng ta phải tu cái pháp nào đây? Tức là ở đây Phật dạy chúng ta phải dứt bỏ, phải từ bỏ, nghĩa là dứt bỏ những gì phải dứt bỏ. Đó là chúng ta hiểu, hiểu tức là chúng ta thông rồi.

Mà chúng ta biết rằng, cái hành động chúng ta giết hại chúng sanh đó thì nó sẽ đưa đến chúng ta thọ mạng yểu tử, cho nên chúng ta thấy cái điều đó là điều không tốt. Và cái điều đó làm cho chúng sanh đau khổ, khổ sở, vì chính chúng ta bị ai đánh đập, bị người ta giết mình thì mình cũng đau đớn, mình cũng khổ sở, mình cũng ham sống.

(36:58) Thì mình suy tư như vậy, mình thông suốt, cho nên mình phải đi vào cái giai đoạn thứ ba để mà chúng ta dứt bỏ những gì phải dứt bỏ. Nghĩa là dứt bỏ không sát sanh nữa, từ đây về sau chúng ta không sát sanh nữa. Và cũng từ đây về sau chúng ta không ăn thịt chúng sanh nữa, vì chúng ta ăn thịt chúng sanh thì chúng ta phải giết chúng sanh.

Cho nên chúng ta biết được như vậy, chúng ta đem hết cái lòng từ của chúng ta biến mãn khắp chúng sanh: Con kiến đi trên mặt đất chúng ta đi dè dặt không đạp, vì lỡ đạp chúng gãy giò, gãy chân, chúng đau, chúng khổ cũng như chúng ta bị gãy giò, gãy chân cũng đau, cũng khổ.

Cho nên từ cái suy nghĩ đó mà chúng ta thấy mọi vật hữu tình, mọi vật mà có sự hoạt động gọi là động vật thì cái loài vật nào cũng có sự đau khổ, có sự nhức nhối cũng như chúng ta vậy. Cho nên chúng ta không bao giờ có thể làm đau khổ từ cái loài vật nhỏ cho đến loài vật lớn.

Thậm chí như con muỗi, con mòng, nó đi tìm máu của chúng ta để mà sống, vô tình, nó đâu có ngờ rằng chúng ta sẽ mạnh tay đập chúng, giết chúng đi. Cho nên khi chúng ta tu hành, chúng ta phải có mùng ngăn cách.

Chúng ta không bố thí máu cho chúng vì chúng ta biết rằng cái cơ thể chúng ta không thể nào thừa thãi mà bố thí cho chúng được. Cho nên chúng ta kiếm cách ngăn cản chúng mà không giết hại chúng, để chúng đi tìm những cái thực phẩm khác mà sống. Đó là chúng ta không nỡ tâm mà làm cái điều ác, lấm máu của chúng ở trong bàn tay của chúng ta.

Do vì vậy mà chúng ta phải thực hiện cái điều thứ ba là dứt bỏ những gì cần phải dứt bỏ.

Đến đây quý thầy đã hiểu rõ sự dứt bỏ của chúng ta. Vậy thì chúng ta biết rồi thì chúng ta phải cố gắng mà dứt bỏ cái điều kiện sát sanh. Và cũng từ đây về sau các cư sĩ, các vị cũng cần phải nỗ lực thực hiện không giết hại chúng sanh nữa, không làm đau khổ chúng sanh nữa, và không ăn thịt chúng sanh nữa. Điều đó là điều cần thiết.

(38:09) Chúng ta không ăn chay, nhưng vì lòng thương của chúng ta mà chúng ta không nỡ ăn thịt của chúng sanh, chớ không phải chúng ta ăn chay.

Bởi vậy, Đức Phật không có dạy các vị Tỳ Kheo ăn chay mà Đức Phật chỉ dạy các vị Tỳ Kheo ăn thịt động vật thì không thấy, không nghe, không nghi mới ăn, mà thấy, mà nghe, mà nghi thì không ăn.

Và đồng thời, cái bài kinh đó thì Phật lại dạy tiếp: Khi chúng ta ăn một cái thực phẩm thì tâm từ bi của chúng ta phải biến mãn khắp chúng sanh. Mà tâm từ bi biến mãn khắp chúng sanh thì trong thực phẩm chúng ta có cái sự chết chóc, có cái sự đau khổ trong đó thì chúng ta còn ăn được nữa không?

Cho nên Phật đâu cấm chúng ta ăn thịt, nhưng chúng ta không ăn là tại vì tâm từ bi của chúng ta. Cho nên, Thầy xét qua bài kinh Jivaka này, Thầy thấy rằng: Đức Phật dạy chúng ta ăn chay trên ăn chay chớ không phải là ăn chay như người ta nghĩ rằng mình ăn chay là mình làm những cái món chay mình ăn.

Cho nên hầu hết có một số người nghĩ rằng mình ăn chay, mình làm đùi gà nè, mình làm sườn nè, mình làm mắm chay nè, mình làm những miếng thịt heo chay nè, đều là bằng bột, bằng đậu, bằng những cái rau cải, mà hình thức của nó là những cái hình thức của loài vật.

Thì khi mà thấy những cái hình thức như vậy mà một người tu theo đạo Phật thì chắc chắn là người ta không ăn rồi. Nhưng mà cái người mà nói gọi ăn chay thì họ nói: "Trong này hoàn toàn đậu hũ không à, không có gì hết, chớ không phải là thịt cá đâu!"

Cho nên cái người ăn chay thì họ thấy cái món này là ăn chay không có thịt cá cho nên họ ăn, mà họ không thấy hình dáng của một cái đùi gà, một cái đầu gà hoặc một cái đầu vịt mà họ giả tạo họ làm ra. Thì như vậy đối với Đức Phật mà thấy như vậy là Đức Phật không ăn. Cái hình dáng đó là cái hình dáng đau khổ, cái hình dáng chết chóc.

Đó, chúng ta mới thấy được cái điều mà Đức Phật dạy, chúng ta ăn chay trên cái tâm từ bi chớ không phải dạy ăn chay trên cái ăn chay đâu, mà dạy chúng ta siêu việt hơn.

Thế mà có người lầm lạc lại đi ăn thịt chúng sanh mà gọi là tu, đệ tử của Phật, đệ tử xuất gia của Phật!

4.2- THÂN NHIỀU BỆNH TẬT DO NGHIỆP LÀM ĐAU KHỔ CHÚNG SANH

(40:31) Đây, bây giờ chúng ta sẽ đọc cái sự so sánh kế đến để chúng ta thấy được Đức Phật dạy cho chúng ta biết là cái người cư sĩ như thế nào mà bệnh nhiều bệnh ít đây?

Đây, Đức Phật dạy:

Nếu có người đàn ông hay đàn bà, tánh hay đánh đập làm đau khổ chúng sanh bằng tay, bằng gạch, bằng gộc, bằng roi, bằng đao kiếm…​

Nghĩa là giả dụ như mình có một đứa đầy tớ ở trong nhà nè, hay hoặc là con cái trong nhà mình, hay hoặc vợ con mình đi nữa, mình tức giận cái mình đánh nó một bạt tai đi, đó là làm đau khổ nó đó.

Con cái của mình, mình giận quá mình đá, mình đạp nó. Hay hoặc là những người tôi tớ trong nhà của mình, nó làm cái gì không vừa ý, hay lỡ tay làm rớt một cái ly, một cái tách gì bể đó, rồi chúng ta vì tiếc của mà chúng ta không nương tay đánh, đạp, đá người tôi tớ trong nhà.

Đây là Thầy nói con người với con người, còn những con vật chúng ta đâu có thương xót gì đâu!

Lúc tuổi trẻ, Thầy thấy mấy cháu trai cũng như cháu gái bắt dế, rồi bắt con vật này con vật kia để cho nó đá nhau, nó cắn nhau; như cá cũng vậy, làm cho chúng đau khổ.

Rồi dùng roi, dùng gậy mà đánh đập con chó, con gà, con mèo. Thầy thấy, nhiều khi nó vô tình ăn vụng thì chúng ta lại lấy roi, lấy gậy đập, phang nó. Nhiều khi nó chết, rồi nhiều khi nó bị gẫy chân, què cẳng, đau đớn mà chúng ta không thấy những cái điều đó.

Do cái hành động, cái tánh hay đánh đập làm đau khổ chúng sanh bằng tay, bằng chân, bằng gạch, bằng đá, bằng roi, bằng đao kiếm như vậy đó, thì do cái nghiệp mà hay tạo những cái sự đau đớn cho loài chúng sanh như vậy, thì cái người đó họ bỏ cái thân này, rồi họ sanh vào cái nơi cõi dữ, ác thú.

Do sanh vào cái cõi dữ, cõi ác thú đó thì suốt đời trong cái địa ngục đó họ thọ lấy những cái sự đau khổ hành hạ ở trong cái thân của họ cho đến khi họ được sanh làm người. Họ sanh ra làm người thì họ bệnh hoạn suốt đời họ. Họ bệnh rất nhiều, chớ họ không bao giờ mà, ít khi mà được mạnh khỏe.

Do vì vậy mà chúng ta thấy có người bệnh liên miên bất tận mà không thấy hết đó, đó là những cái điều kiện là họ đã tạo những cái hành động làm đau khổ chúng sanh, trong đó có con người ở trong đó nữa.

(43:40) Bằng ngược lại mà chúng ta, không lúc nào mà chúng ta đánh đập hay hoặc làm đau khổ chúng sanh, cũng như mình đi mình tránh, mình không đạp con kiến gãy chân, gãy giò, thì đó là mình không có làm đau khổ chúng sanh.

Vô tình mình cũng làm đau khổ chúng sanh. Nhiều khi chúng ta thấy những con cuốn chiếu nó bò; con vật nó rất hiền lành, thấy nó chân cẳng nhiều, nó không cắn, nó không làm cho mình đau khổ; thế mà mình vô tình mình đi kinh hành, mình vô tình mình đạp trên nó nghe cái "rốp".

Rồi nhìn lại mình thấy nó quằn quại, nó đau đớn, trong người nó tiết ra nước, mình thấy như là máu ở trong người mình chảy ra, mình thấy mình rất là thương xót, đau đớn.

Một cái người tu hành của mình vậy, nhưng người ngoài thế gian họ thấy vậy họ có thương xót không? Họ còn lấy cây, lấy gậy gộc họ đập cho nó chết nữa: "Con vật này dơ bẩn! Con vật này thế này, thế khác", họ còn đập cho nó chết nữa, chớ họ đâu có nghĩ như chúng ta nghĩ!

Cho nên cái tâm của họ, do cái chỗ đó mà họ sanh ra làm người, họ rất nhiều bệnh tật. Cho nên xét qua cái người nào sống trong thế gian này có nhiều bệnh tật cũng đều do cái chỗ hành động mà chúng ta đã vô tình hoặc là hữu ý đó mà chúng ta làm đau khổ bằng tay, bằng chân của chúng ta đối với chúng sanh.

Như vậy khi được học cái bài này rồi thì chúng ta sẽ từ giã, tức là chúng ta sẽ từ bỏ, chúng ta dứt trừ cái hành động làm đau khổ chúng sanh.

Nghĩa là con cái trong nhà của mình có sai, có làm không đúng cái gì đó, mình cũng không nên lấy tay mình tát nó nữa. Cái hành động mà làm cho nó đau một chốc lát đó mà sau này mình sẽ bị bệnh hoạn, thì nó lại càng đau hơn biết bao nhiêu!

Đó, cho nên chúng ta tránh cái nghiệp khổ đau đó cho chính bản thân mình thì mình đừng làm khổ đau ai cả hết. Vợ con nó có làm cái điều gì sai quấy, do nhân quả để nó gặt hái, mình cũng không vì đó mà mình lại đánh, đạp nó, thì tạo cho chúng ta có cái nghiệp thân chúng ta sau này sẽ mang lấy những cái bệnh hoạn, khổ đau.

Ngược lại chúng ta thực hiện không đánh, không đập, không làm đau khổ chúng sanh như vậy thì chúng ta ít bệnh hoạn và không có bệnh hoạn.

Đó thì, chắc có lẽ là đời chúng ta, chắc chắn là chúng ta có nhiều sự kiện mà chúng ta đã làm đau khổ chúng sanh, chưa chắc đã là chúng ta không có người nào không làm đau khổ chúng sanh.

Vì vậy mà chúng ta hiểu, đời trước chúng ta khi chưa biết Phật Pháp, chắc chắn chúng ta phải có làm những điều gì đau khổ, cho nên hiện giờ thân của chúng ta phải có những sự bệnh tật, không thể nào tránh khỏi. Do nhân quả nghiệp báo mà chúng ta phải vay trả, bây giờ chúng ta vui vẻ mà trả những cái bệnh tật, chớ đừng nên buồn.

Có nhiều người cứ nghĩ rằng: "Đời nay tôi làm lành, làm thiện, mà tôi đâu có gì làm ác đâu, tôi luôn luôn tôi thương xót mọi người, tôi làm việc từ thiện, bố thí, mà sao thân tôi khổ như thế này?"

Trong tuổi trẻ, lúc nhỏ chúng ta chưa hiểu biết, nhiều khi chúng ta bắt hai con kiến vầy, chúng ta ngắt chân, ngắt càng nó nữa. Nhiều khi chúng ta đi ra biển bắt mấy con còng, mấy con dã tràng, rồi chúng ta chơi, chúng ta ngắt chân, ngắt giò nó. Đó là những cái mà chúng ta làm nó đau khổ.

Vô tình, nhưng mà bây giờ chúng ta thọ lấy những cái bệnh thì chúng ta trách ai đây? Có phải do từ hành động của chúng ta làm đau khổ chúng sanh mà bây giờ chúng ta phải thọ lấy những bệnh tật? Thì chúng ta làm sao mà chúng ta than phiền trách ai?

Đó là nói về cái thân bệnh của chúng ta, bệnh nhiều bệnh ít là do cái nghiệp làm đau khổ chúng sanh mà trong cái bài kinh này Phật đã dạy rất rõ ràng.

4.3- THÂN XẤU XÍ DO NGHIỆP SÂN HẬN

(46:42) Bây giờ chúng ta tiếp tục, chúng ta sẽ nghiên cứu và đi tới để hiểu những cái gì mà chúng ta cần phải dứt bỏ đây, rồi sau này chúng ta còn phải những pháp tu tập. Đây là những cái điều kiện mà chúng ta cần phải hiểu để mà chúng ta dứt bỏ đây:

Nếu một người đàn ông hay một người đàn bà tánh hay phẫn nộ, nhiều phật ý; bị nói đến một chút thì bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối; tỏ vẻ phẫn nộ, bất mãn.

Đó là cái hành động, mà cái tánh tình phẫn nộ đó. Nghĩa là luôn luôn lúc nào cũng phật ý mình, ai nói ra cái gì cũng phật ý mình, cho nên khi mà bị nói đến một chút thì sân ầm ầm lên, phẫn nộ lên, sân dữ tợn lên, rồi tỏ vẻ chống đối đủ mọi cách, thậm chí như còn đánh lộn với người khác nữa. Rồi nếu không thì bất mãn, không muốn ăn, không muốn ở trong cái nhà này nữa, đó là những cái điều kiện mà tỏ vẻ như vậy đó.

Do cái nghiệp đó thì cái người đó họ sẽ có những cái quả nào đây? Đây, Đức Phật đưa ra để cho chúng ta thấy rất rõ ràng:

Do nghiệp ấy đã thành tựu…​

Tức là nó thành cái nghiệp rồi đó.

thì khi thân này hoại…​

Tức là họ chết.

…​ thì họ sanh vào cái cõi dữ, cõi ác thú, địa ngục.

Nghĩa là họ sanh vào cái cảnh giới khổ đau nhất mà Đức Phật gọi là địa ngục.

Rồi sau đó họ được sanh làm người. Khi làm người thì mặt mày họ thô xấu.

Đó, bây giờ mình thấy người nào mà mặt mày không đẹp đẽ, không có trang nghiêm, không có những cái tướng, vẻ tốt thì đó là những cái người đã có những cái sân hận, những cái phẫn nộ dữ tợn cho nên họ mới có cái thân hình xấu, cái gương mặt xấu xí.

Đó thì hôm nay cái bài kinh này để chúng ta thấy, nhìn ở trong chúng ta, người nào mà có gương mặt xấu xí, có thân hình gù, có thân hình tật nguyền, không được đẹp đẽ, tướng thì không được cao đẹp, do đó thì chúng ta thấy họ có những cái phẫn nộ, có những cái dữ tợn ở trong lòng của họ, có những cái bất mãn, có những cái sự bất bình, có những sự đối phó, chống lại.

Đó là họ tạo cho họ có cái thân hình xấu xí, họ tạo cho họ có cái gương mặt không đẹp đẽ: Răng hô, mặt rỗ hoặc là trán vồ, tất cả những cái thân, cái mặt của họ là do những cái hành động dữ tợn, phẫn nộ của họ mà ra.

Đây là con đường đưa đến để cho con người có một thân hình xấu xí.

(49:58) Ngược lại, có những cái điều gì chúng ta không phẫn nộ, không phật ý, lúc nào chúng ta cũng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ sanh lên làm người có cái gương mặt đẹp đẽ, tướng hảo quang minh, không còn xấu xí nữa.

Đó là ngược lại, con đường đưa đến chúng ta có được cái thân người đẹp đẽ, tốt đẹp.

Đó thì như vậy, qua cái bài kinh này thì chúng ta thấy cái sự phẫn nộ, cái sự sân hận của chúng ta có tốt không? Không tốt.

Vậy từ đây về sau chúng ta phải nỗ lực, nhất là người cư sĩ, chúng ta chung đụng ở trong gia đình quá nhiều: Con cái, rồi vợ con, rồi tới bè bạn, rồi tới hàng xóm, những người thân, thậm chí như cha mẹ. Thì chúng ta thấy rằng cái phẫn nộ này nó sẽ đem đến cái hậu quả cho chúng ta là những con người tật nguyền, xấu xí, không có còn đẹp đẽ nữa.

Cho nên chúng ta phải nỗ lực mà thực hiện. Đừng có phẫn nộ, đừng có sân hận, mà luôn lúc nào chúng ta cũng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi ý nghĩ của người khác, mọi tư tưởng của người khác, thì như vậy chúng ta sẽ tự tạo cho mình sau này có một thân hình rất là đẹp đẽ.

Đó là cái sự so sánh. Những bài pháp này là bài pháp để cho người cư sĩ tu, bởi vì tu trong các đối tượng của mình nó có sẵn sàng. Còn người tu sĩ giờ họ sống trong rừng, họ sống ở trong cái cảnh như mình đây, làm sao có sân hận, có phẫn nộ đâu!

Cho nên trước khi mà chúng ta đi vào trong cái cảnh xuất gia rồi, thì chúng ta đã thực hiện được những cái dứt trừ, những cái bỏ cái sân hận, cái phẫn nộ này, thì như vậy là chúng ta đã tạo được cái duyên tốt cho gia đình, cho chính bản thân của mình, không làm khổ mình, không làm khổ người.

4.4- MẤT UY QUYỀN DO NGHIỆP GANH GHÉT, ĐỐ KỴ

(51:47) Kế đến Phật dạy tiếp:

Nếu một người đàn ông hay một người đàn bà, tâm tánh tật đố, ganh ghét đối với người khác; thấy người ta được quyền lợi, được sự tôn trọng, được sự tôn kính, cúng dường, đảnh lễ thì mình sanh ra ôm ấp trong lòng cái tật đố, ganh tỵ.

Đó, cái lòng mà như vậy đó, luôn luôn ôm ấp trong lòng của mình. Cũng như bây giờ Thầy nói, thí dụ như quý thầy thấy ở trong huynh đệ của mình có một người tu được, mình thấy mình tu dở hơn họ mình đâm ra mình tức tối hoặc là thế này thế khác, thì cái sự tức tối đó cũng là do cái lòng ganh tỵ.

Nhưng mà cái lòng ganh tỵ nó có hai góc độ: Một cái ganh ghét rồi tìm cách hại người khác, cái đó quá tệ. Một cái mình thấy mình tu hành thua, hoặc là mình học hành thua người ta, cho nên mình ráng cố gắng mình học hành để cho bằng hoặc hơn chớ mình không chịu thua, thì cái đó nó cũng có cái ganh tỵ, nhưng mà cái ganh tỵ đó tốt.

Còn cái ganh tỵ kia là mình tìm cách mình dìm người ta, mình hại người ta, mình thấy người ta hơn mình, mình không muốn họ hơn, mình đem ra mình nói xấu họ với người này người kia: “Người đó như thế này, thế khác!" - làm cho người ta bị người khác chê cười này kia nọ; mình đặt ra thế này thế khác mình vu khống họ bằng mọi cách, thì mình sẽ tạo nên cái nghiệp đó như thế nào?

Ở đây Phật vạch cho chúng ta thấy rõ:

Do nghiệp ấy đã thành đạt…​

Tức là nó thành tựu được cái nghiệp ấy, nó trở thành cái nghiệp rồi. Khi mà mình có những cái tâm tật đố, ganh ghét như vậy, nó đã thành cái nghiệp, thì lúc bấy giờ, thân hoại mạng chung, mình cũng sẽ sanh vào những cái cõi giới ác thú. Nghĩa là sanh làm những con thú dữ, cõi giới dữ và sa xuống địa ngục để thọ lấy những cái quả khổ ganh tỵ đó.

Nghĩa là mình ganh tỵ, cái lòng ganh tỵ đó mình làm ra những cái hành động, mình vu khống hoặc là mình tạo thế này, thế kia để cho cái người đó - người mà bị mình ganh tỵ đó - họ thọ lấy những cái sự đau khổ rất nhiều, và những hành động ác đó thì mình phải gánh chịu ở trong cảnh địa ngục, bị người ta hành hạ, bị người ta làm cho mình cũng đau khổ đủ điều.

Sau khi thọ lấy những quả khổ đó hết rồi thì mình sanh ra làm người, thì con người của mình nó không có quyền thế, hoặc là có quyền thế rất nhỏ, không có quyền thế lớn. Nghĩa là người ta không có tin tưởng mình nhiều, không có cái thế lực lớn để cho mình làm những công việc lớn được. Mình hầu như là không có quyền thế, mà có được thì có rất nhỏ, rất ít.

(54:18) Đó là con đường đưa đến không có quyền thế.

Đó, con đường mà mình ganh ghét, tật đố người khác, nó tạo cho mình tu hành cũng chẳng ra gì, chẳng đưa đi đến đâu hết. Cho nên vì vậy, khi chúng ta hiểu biết được cái này, do đó chúng ta không ganh tỵ ai hết, không nói xấu ai hết.

Mình nói xấu người khác tức là có lòng ganh tỵ rồi, mình phải thấy được cái điều này rất rõ. Cho nên thí dụ như bây giờ mình thấy người đó mình không ưa thì mình nói cái người đó như thế này, thế kia, thì cái đó là ganh tỵ.

Chẳng hạn là như bây giờ, thấy cái ông thầy đó có một cái chùa tốt, Thầy thì không có, cho nên Thầy ganh tỵ cái chùa tốt của ông ta, Thầy nói ông ta thế này thế khác, thì đó là cái lòng ganh tỵ của Thầy. Vì vậy mà từ đó cái uy thế của Thầy, từ đó cái quyền thế của Thầy lần lần nó nhỏ đi, nó nhỏ đi đến khi nó mất, nó không còn có nữa.

Còn mình không nói ai, mình không có ganh tỵ ai hết, thì càng ngày, mọi người người ta xét thấy thì cái quyền thế của mình, cái lòng tin của mình đối với mọi người càng nhiều lên. Mà cái lòng tin của mọi người càng nhiều lên, thì quyền thế của mình, mình nói ra lời nói có thế, có thần, người ta tin tưởng ngay liền, cho nên nó có cái lực.

Còn mình ganh tỵ, mình nói những cái điều, mình chê bai cái người này, chê bai người kia, đó là cái lòng ganh tỵ của mình.

Thí dụ như Thầy bây giờ dạy về pháp Giới - Định - Tuệ, có người dạy Thiền Đông Độ, Thầy nói: “Thiền Đông Độ không đúng, sai!” - hay hoặc là thế này thế khác, đó là cái lòng ganh tỵ của Thầy. Hoặc là Thầy nói Thiền Công Án sai, hay hoặc là Thầy nói Đại Thừa sai, hay hoặc là Thầy nói niệm Phật sai, thì cái đó là cái lòng ganh tỵ của Thầy.

Bởi vậy hễ mà chúng ta đặt thành một cái vấn đề bảo rằng sai, thì đó là chúng ta đã có tâm ganh tỵ. Mà đã có tâm ganh tỵ thì lần lượt chúng ta sẽ mất cái quyền hạn của chúng ta, và từ đó không ai còn tin tưởng chúng ta nữa hết.

(56:25) Cho nên quý thầy thấy rõ ràng, khi mà những cuộn băng mà Thầy dạy cho chúng ở đây, hầu như là Thầy phá cái chấp của họ trong những cái đường lối tu mà nó không đúng cái đường lối tu Giới - Định - Tuệ ở đây, cho nên Thầy phá chấp của họ; mà mỗi lần phá chấp như vậy quý thầy thấy rằng, cuộn băng nào Thầy cũng cấm không cho lưu hành. Tại sao vậy?

Tại vì cho lưu hành như vậy tức là mình bài bác người ta. Mà bài bác người ta thì tức là tâm ganh tỵ của mình.

Cho nên do đó những cuộn băng mà Thầy dạy cho chúng ở đây để người ta chuyên vào Giới - Định - Tuệ người ta tu hành, vì vậy mà người ta không có còn lầm lạc cái đường khác nữa, do vì vậy mới có những cái lời nói mạnh bạo.

Mà lời nói mạnh bạo, thì nếu mà đem phổ biến lưu hành ra những cái lời nói này thì đương nhiên người ta sẽ xem thấy mình, và chính để tỏ lòng mình là đang ganh tỵ. Cho nên Thầy rất cấm bặt là không được lưu hành.

Thế mà lần lượt rồi các vị cũng lén để cho người này nghe, người kia nghe. Ở đây cái mục đích của Thầy là nhằm dạy chúng ở đây để tu hành chớ không phải đem ra cho người khác nghe, không được phổ biến những cái lời Thầy dạy.

Bởi vì trong thế gian này, về Phật Pháp thì có nhiều đường lối tu tập, nếu mà đứng ở góc độ mình mà chê góc độ người khác, đó là cái người sai, người không đúng. Người ta tu được một ở trong cái pháp nào của Phật nó cũng đem đến cái lợi ích cho họ. Đâu lý nào họ tu theo cái pháp của Phật mà họ làm một cái điều ác?

Cho nên chúng ta thấy, mỗi pháp đều có cái lợi ích. Nhưng đi đến cái mức cuối cùng, để đạt được cái mục đích cuối cùng của đạo Phật, có tới đó hay không thì đó là tùy cái phước báu, cái duyên phước của họ ở trên cái pháp môn đó.

Còn chúng ta mà có đạt được đến cái mục đích cuối cùng đó thì đó cũng là cái phước duyên của chúng ta mà thôi, chớ không phải chúng ta hơn thua với họ, không phải chúng ta ganh tỵ với họ.

Ai có duyên với pháp nào thì chúng ta tu pháp ấy, mà pháp ấy nó cũng có lợi ích, dù ít, dù nhiều, nó cũng đem đến cho sự tu tập của chúng ta.

(58:22) Vì thế mà trên bước đường tu tập, Thầy nhắc quý thầy, khi chúng ta được học tu ở đây và giữ gìn được giới luật của mình nghiêm túc ở đây, thì chúng ta không nên: Thứ nhất là không nên khoe khoang. Thứ hai là không nên lấy cái giới luật, cái thiền định của chúng ta đã làm được ở đây mà chê bai chỉ trích người ta tu không đúng. Cái điều đó là cái điều Thầy rất đại kỵ.

Người tu sĩ đúng đắn của đạo Phật thì chúng ta phải biết được: Cái lòng ganh tỵ, cái tật đố này là cái xấu, là cái tệ chớ không phải là cái tốt đẹp, và cái nhân quả của nó sẽ làm cái người đó mất uy tín, không còn cái thế lực, không có cái quyền lực nữa, mất đi.

Vì vậy mà chúng ta là những người tu để thắp lại cái ngọn đèn của Phật Pháp, để thắp sáng lại cái ngọn đuốc của Phật Pháp, thì chúng ta cần phải lưu ý về cái phần tu tập này. Tâm không được đố kỵ, không được ganh ghét một pháp nào trên thế gian này, dù pháp đó của một tôn giáo nào cũng vậy.

Cho nên ngày xưa, Đức Phật rất là cấm kỵ, là khi người ta hỏi để tu thì cùng cực lắm Đức Phật mới đem ra giảng, chớ không có bao giờ muốn tranh luận và hý luận. Phật cấm các đệ tử của mình không được tranh luận, không được hý luận với ai.

Dù người ta có chê bai mình như thế nào, mặc! Mình biết rằng con đường mình tu là giải thoát, là đem đến sự hạnh phúc cho bản thân mình và cho những người xung quanh. Vì vậy mà mình không nên đố kỵ, không nên ganh ghét ai cả hết.

Ngược lại thì chúng ta không tật đố, không ganh ghét ai hết thì chúng ta sẽ có quyền thế lớn.

Đó thì quý thầy phải nghe cái lời Thầy dạy là mình không chê bai ai hết thì cái quyền thế, cái uy tín của mình càng ngày càng to lớn. Còn mình chê bai, rỉ tai nói người này, rỉ tai nói người kia, thì cái quyền thế mình càng ngày bị mất đi, cái uy tín của mình càng ngày càng mất đi.

Thí dụ như trong huynh đệ chúng ta, có những người mà chúng ta không hòa hợp nhau được, rồi chúng ta đem ra nói thầy đó vầy vầy vầy, thì tức là chúng ta đã tự hại cái quyền thế của mình, cái uy quyền của mình, mình sẽ tự làm mất.

Vì điều mình nói ra người ta sẽ nghe mà người ta không phải tin mình ngay liền, mà người ta còn suy nghiệm. Không ai nghe mà người ta tin liền đâu!

Cho nên quý thầy cẩn thận là chúng ta không nên đem một cái người huynh đệ nào (của) chúng ta mà nói ra. Mà nói ra thì, coi chừng chúng ta vì lòng ganh tỵ hoặc vì một cái gì bất mãn, không ưa nhau rồi chúng ta nói ra, rồi chúng ta tự mình mình giết mình chớ không phải giết người đó đâu!

Vì người đó người ta còn quan sát, người ta xét, mình nói ra người ta còn theo dõi cái người đó coi đúng không. Nếu mà thấy người đó không đúng như lời mình nói thì nó ngược lại, nó sẽ giết mình, cái lời nói của mình nó tự giết mình chết đi, nó làm cho mình mất uy tín với mọi người, làm cho không còn ai tin tưởng mình nữa hết.

Đó là một cái bài học để hôm nay Thầy răn nhắc chúng ta, những cái bài học mà hôm nay cái giáo án của Đức Phật đã đem cái bài này để mà giảng dạy chúng ta, đó là chúng ta phải biết nó là cái ngầm, là cái ngã của chúng ta, là cái tâm tật đố ganh ghét, là cái ngã của chúng ta đồ sộ nó mới có những cái tâm tật đố, ganh ghét này!

(01:01:42) Vì vậy mà chúng ta phải thực hiện từ bỏ cái tâm này, luôn luôn lúc nào không bao giờ nói xấu ai hết.

Nghĩa là ai làm nhân nào thì họ gặt quả nấy, chúng ta hoàn toàn không đem nói ai hết. Ai làm gì mặc họ, chẳng biết gì đến ai. Nếu chúng ta đem rỉ tai nói: "Người đó vầy vầy, người kia vầy vầy" là chính cái người đó là người xấu!

Cho nên chính Thầy đã học Phật Pháp, một người nào mà nói với Thầy: "Người đó vầy, người kia vậy", Thầy làm thinh chớ Thầy biết Thầy đánh giá trị cái người nào rồi. Chớ Thầy lại không đánh giá trị người bị nói xấu đâu, mà Thầy đánh cái giá trị cái người đang nói cho Thầy biết!

Thầy nói như vậy là quý thầy biết rằng, Thầy không phải là một cái người còn ở trong cái tâm phàm phu, nghe lời những người khác. Chớ Thầy thấy là hầu hết có một số người không sáng suốt ở chỗ này: Khi nghe một cái người nói thì người đó liền tin (những điều về) Thầy liền!

Cho nên Thầy nói như thế này để cho quý thầy biết: Biết bao nhiêu người mà họ nói với thầy Thanh Từ về Thầy: Thầy là như thế này thế khác, nhưng thầy Thanh Từ có nghe không? Chắc chắn là thầy không nghe đâu. Bởi vì một bậc tu hành như Hòa thượng Thanh Từ chắc chắn là Hòa thượng Thanh Từ rất là sáng suốt, vì những cái bài học này là Phật đã dạy!

Một người mà đem cái người khác, nói xấu cái người kia cho mình nghe, hoặc là nói cái người đó với mình có những cái này kia, nói xấu mình thế này thế kia, thì cái người mà được nghe đó họ có tin không? Nếu là một bậc tu thì họ không bao giờ tin đâu, mà họ quay lại họ lại đặt câu hỏi rằng cái người mà đang nói xấu đó, đó là cái người xấu!

Đó thì quý thầy phải hiểu, Thầy ở trong cái tâm niệm đó. Cho nên Thầy nghĩ rằng Hòa Thượng Thanh Từ cũng là con người ở trong tâm niệm đó. Không phải là bậc chân tu mà người ta theo cái tâm trạng phàm phu, nói đâu nghe đó, tin đó đâu, không bao giờ tin.

(1:03:55) Đó thì hôm nay Thầy nói để cho quý thầy rút tỉa những kinh nghiệm. Nhiều khi Thầy thấy cái tâm của quý thầy còn yếu đuối, rồi cái tâm mà nghĩ đến thương Thầy, vì mình theo Thầy mà nghe người ta phỉ báng thầy mình, cho nên mình bảo vệ bằng cách này, bằng cách khác, cũng sai, không đúng. Là tại sao?

Tại vì cái bảo vệ đó không đúng. Người ta nói gì nói, mặc, không bảo vệ gì hết, để cho người ta sẽ thấy được. Và cái người đệ tử của Thầy không lý luận: "Thầy tôi vầy, vầy, khác" - thì cái đó là cũng là cái sai, người ta nói: "Mèo khen mèo dài đuôi!"

Cũng như bây giờ quý thầy học Thầy ra nói: "Thầy tôi tu vầy, vầy, vầy", khen Thầy như là ông Phật vậy đó, thì người ta có tin không? Người ta đâu có tin quý thầy, quý thầy là đệ tử của Thầy cho nên người ta không tin.

Người ta còn phải thấy thật, người ta còn phải chứng nghiệm thật. Mà chứng nghiệm thật bằng cái gì? Bằng cái mà quý thầy huênh hoang khoe Thầy như vậy là người ta thấy: "Học trò của ông thầy đó như vậy, huyênh hoang ông thầy như vậy thì ông thầy đó cũng như vậy mà thôi!" Các thầy phải hiểu điều đó!

Cho nên người ta đánh giá trị ngược lại, một cái người trí người ta đánh giá trị ngược lại khi mình huênh hoang khen ông thầy mình.

Còn trái lại, người ta khen, người ta chê, mặc, rồi đây các người sẽ thấy, hiểu biết được! Do đó người ta thấy cái người đệ tử của Thầy trước cái lời mà người ta phỉ báng thầy mình vẫn âm thầm vui vẻ, không có buồn, không có tức giận gì hết, thì biết rằng cái hạnh tu của những bậc này không phải thường!

Còn thấy người ta mạ nhục thầy mình, nói thầy mình như thế này, như thế khác, mình sùng lên này kia thì ở thế gian họ cũng vậy, có hơn gì mình đâu!

Cho nên hôm nay, những cái bài học này là bài học của những người cư sĩ để chúng ta biết, chúng ta giữ gìn, nhất là những người cư sĩ thường tiếp xúc. Còn chúng ta là những bậc tu sĩ xuất gia, chúng ta ít tiếp xúc đời cho nên chúng ta không có cái khen chê đó.

Nhưng những người cư sĩ đến với Thầy rồi về sống trong gia đình, nhiều khi nghe người ta chạm đến thầy mình là sùng tức lên liền. Do cái bài học này là bài học của những người cư sĩ còn tại gia, muốn bảo vệ thầy mình (thì) chẳng bao giờ nói lời nói nào! Họ nói gì, mặc, còn mọi người để phán xét chớ đâu phải nói ra rồi người ta tin theo cái lời ông đó đâu?

Cho nên quý thầy phải hiểu biết ở cái chỗ mà Thầy dạy ra là mỗi mỗi chúng ta đều phải thực hiện ở cái oai nghi tế hạnh, cái đức hạnh của chúng ta ở chỗ đó.

Nhân cái bài dạy về người cư sĩ tu tập ở giai đoạn thứ nhất này thì quý thầy sẽ hiểu biết được cái chỗ trích dẫn ra những cái lời Phật dạy này, để nhằm mục đích để chúng ta thực hiện được đức hạnh của một người cư sĩ là đệ tử của Đức Phật.

4.5- NGHÈO KHỔ DO NGHIỆP ÍCH KỶ HẸP HÒI

(1:06:39) Nếu một người đàn ông hay một người đàn bà tâm lòng ích kỷ, nhỏ mọn, không bố thí, không san sẻ…​

Nghĩa là cái người mà nhỏ mọn, ích kỷ, không có bố thí, không có san sẻ, không cúng dường, luôn luôn lúc nào, thí dụ như mười đồng, mà chín đồng kiếm thêm đồng nữa để cho được mười đồng, tiết kiệm không dám xài phí, thì cái người đó là người không có bố thí, không có lòng rộng rãi; thì cái người này họ chết đi, họ sanh làm người, thì con người của họ nghèo khổ, tài sản của họ không có, mà có đi nữa thì cũng chỉ có rất nhỏ.

Đó là hiện bây giờ mà chúng ta thấy, ở trong cái xã hội chúng ta, những người mà nghèo khổ, rách rưới, lang thang, không nhà, không cửa, hoặc là có chút ít tài sản đủ ăn qua ngày đó, thì những cái người đó trước là cái lòng ích kỷ, hẹp hòi, không có biết bố thí, san sẻ.

Không phải chúng ta nghèo mà chúng ta không bố thí được! Do cái lòng chúng ta, đâu phải cần phải chúng ta nhiều tiền, nhiều bạc!

Thí dụ như bây giờ chúng ta nghèo, chúng ta không có, mà chúng ta thấy một cái người đó nghèo hơn mình, khổ hơn mình hay hoặc là đang cơn đói, mình chỉ cần cho họ một bát cơm, mình chỉ cần san sẻ cho họ đồng bạc, trong cảnh nghèo của mình mà đồng bạc nó quý hơn là một người giàu bỏ ra một triệu bạc!

Cái lòng của chúng ta, cái lòng cái người nghèo mà san sẻ, thì cái tâm mà biết san sẻ, biết bố thí, biết cúng dường đó, nó làm cho cái người đó sẽ sống ở trong cái cảnh đầy đủ và giàu sang, có của cải, tài sản lớn.

Đó cho nên, khi mà chúng ta ích kỷ, bỏn xẻn, tiện tặn, không dám bỏ ra cho ai hết, để có bao nhiêu thì mình chi dụng cho mình, cho gia đình mình, thì cái người đó sẽ sanh lên một kiếp tới, ngay trong kiếp này họ chắt mót từng đồng chứ chưa chắc họ đã làm giàu được!

Thế rồi cái kiếp tới của họ, họ lại còn nghèo khổ hơn và tài sản họ chẳng có gì, có chăng cũng chỉ chút ít mà thôi, cho qua ngày trong cuộc sống của họ!

Đó, ở đây Phật đem cái bài này để thấy rằng: Cái sự mà chúng ta muốn được làm giàu, được có tiền nhiều là do có sự bố thí, có cái sự san sẻ, có cái sự giúp cho những người bất hạnh ở trong xã hội của chúng ta.

(01:09:02) Do vì vậy mà con đường này, cái hành động này sẽ đưa đến cảnh nghèo khổ của con người.

Và cái hành động ngược lại: Bố thí, san sẻ, cúng dường, hành động đó sẽ đưa chúng ta đến có tài sản lớn, giàu sang, tiền của đầy đủ, không bao giờ thiếu ăn, thiếu mặc.

Đó thì, so sánh được như vậy thì chúng ta trong cảnh nghèo chúng ta vẫn bố thí.

Cho nên, xưa có một bà già đi ăn xin, bả rất nghèo. Trong bữa hôm đó, bà đi xin mà không được gì hết. Nhưng ông Ca Diếp ổng thấy cái bà già này, cần phải độ bà. Mà bây giờ bà nghèo quá, không bao giờ bà biết bố thí cho ai hết! Bà đi xin còn không có đủ ăn mà, làm sao bà bố thí được?

Cho nên, ông Ca Diếp ổng mới nghĩ, tìm mọi cách để làm sao cứu bà này thoát ra khỏi cái cảnh nghèo đói. Cho nên ổng đến xin bà:

"Bà hãy bố thí cho tôi thì bà sẽ được giàu sang, bà sẽ được sung sướng, bà sẽ được đầy đủ hơn. Bà hãy bố thí đi! Bà có cái gì bà bố thí đi!"

Bà nói:

"Tui xin hồi sáng tới giờ không có một đồng xu đồng điếu nào hết, làm gì mà tui bố thí được ông? Tui còn đói gần chết mà, làm sao tui cho ông được!"

Thì ông Ca Diếp ông nài nỉ:

"Bà hãy bố thí đi! Bà hãy bố thí cái gì mà bà có trong người của bà, cái gì mà bà có ở trong lòng của bà, bà hãy bố thí đi!"

Bà nghe cái ông thầy này ổng nài nỉ bà bố thí bằng cách rất là tha thiết, cho nên bà mới quỳ xuống bà nói, bây giờ bà có tấm lòng của bà bố thí cho ông mà thôi! Bà dâng hai bàn tay lên đối với ông Ca Diếp.

Thì ông Ca Diếp ổng nhận cái sự bố thí của bà với cái tấm lòng thành của bà chứ chẳng có đồng xu đồng điếu nào hết, hoàn toàn chẳng có vật gì hết! Nhưng đêm hôm đó thì bà chết, bà được sanh lên cõi trời. Bây giờ bà đã hưởng đầy đủ cái ăn, cái mặc, gì cũng được đầy đủ.

Đó thì chúng ta thấy, chỉ có một cái lòng bố thí có một chút như vậy mà đối với một bậc A La Hán thì ngay đó cái phước báu rất là lớn, rất là vĩ đại, được sanh lên cõi trời liền tức khắc!

Đó thì qua một cái chuyện bố thí này, chúng ta người cư sĩ cũng cần phải học. Học để làm gì? Để chúng ta biết bố thí, để chúng ta biết san sẻ trước những cái cảnh khổ.

Mình khổ còn có người khổ hơn. Mình còn có mái nhà, còn người ta ngủ ngoài hè phố, người ta còn ngủ dưới gầm cầu, mình còn sung sướng hơn! Do đó, mình hãy bố thí cho họ một nắm cơm, một đồng bạc, mặc dù mình đang trong cảnh rất là bí bách, nghèo khổ.

Mình hãy cúng dường cho những bậc chân tu, giới đức thanh tịnh, thiền định sâu mầu thì cái công đức thành tâm cúng dường đó nó sẽ đưa đến chúng ta có sự đầy đủ cơm ăn, áo mặc hơn.

Nhớ cái hạnh bố thí là cái điều rất tốt để giúp cho đời hiện tại cũng như mai sau chúng ta mãi mãi đầy đủ cơm ăn, áo mặc, không thiếu.

4.6- SỐNG TRONG CẢNH HẠ LIỆT DO NGHIỆP KIÊU CĂNG NGẠO MẠN

(1:12:02) Đến đây chúng ta sẽ học thêm một bài nữa:

Nếu một người đàn ông hay một người đàn bà, tánh tình ngạo nghễ, kiêu mạn, không tôn kính những bậc đáng tôn kính, không biết nhường chỗ ngồi, nhường lối đi cho những người già yếu, bệnh tật.

Đó, thì bắt đầu bây giờ chúng ta thấy cái tánh tình mà ngạo nghễ, kiêu mạn là tánh tình rất xấu. Nó sẽ đưa cái nhân quả nào đây? Nó sẽ đến cái chỗ nào đây? Đây, chúng ta sẽ thấy con đường này:

Do nghiệp ấy thành tựu…​

Tức là trở thành cái thói quen ngạo nghễ, kiêu mạn đó. Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh về nơi ác thú, đọa xứ trong cảnh khổ đau. Sau khi lên làm người, sanh trong gia đình hạ liệt, ăn học không đến nơi, đến chốn, thường làm những việc lao công cực khổ, bị người khác sai khiến, sai bảo.

Đó là con đường đưa đến những gia đình hạ liệt, nghèo khổ.

Đó thì, nếu mà đời nay mà chúng ta ỷ mình có tiền có bạc, ỷ mình có thế lực này kia, mình ngạo nghễ; hay hoặc ỷ mình có học hành này kia, mình kiêu mạn, coi người ta không ra gì; ỷ mình tu hành tốt mà người khác tu không ra gì, mình có vẻ tự kiêu, tự đại của mình, ngạo nghễ của mình, thì cái hành động này, cái nhân quả này, cái nghiệp này nó sẽ đưa chúng ta đi vào con đường sanh ở trong những cái gia đình hạ liệt, làm chúng ta không đủ phương tiện để đi học.

Hạ liệt làm sao chúng ta có tiền? Mà gia đình hạ liệt làm sao có sự hiểu biết? Cho nên làm sao cho con mình đi học cho đầy đủ? Làm sao cho có đủ duyên mà để tu hành?

Cho nên tất cả những cái này là do cái tánh kiêu mạn, ngạo nghễ của chúng ta mà đưa chúng ta đi đến cái lối này, làm cho cái đời chúng ta kế tiếp nó sẽ là bước đường rất là đau khổ, không bằng ai hết trong xã hội này.

(1:14:04) Ngược lại thì quý thầy thấy rất rõ là nếu mà chúng ta diệt cái tánh kiêu mạn, ngạo nghễ; mặc dù chúng ta sống ở trong gia đình rất là giàu sang chúng ta không kiêu mạn ai hết, không khinh chê ai hết. Chúng ta học hành giỏi, chẳng kiêu mạn, chẳng ngạo nghễ hơn ai hết. Rồi chúng ta có làm những cái nghề nghiệp kinh tế dồi dào chúng ta cũng chẳng khinh chê ai hết.

Nghĩa là mình phải xét thấy qua những cái nhân ác, nhân thiện, qua những cái hành động bố thí của người ta, do đó mình luôn luôn lúc nào cũng khiêm hạ, từ tốn, không có kiêu mạn, không có ngã mạn trước mọi người, mọi hoàn cảnh.

Thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ sanh vào ở trong những gia đình cao quý, giàu có. Đó là con đường đưa đến gia đình - khi mà mở mắt chào đời thì chúng ta sanh ra ở trong một cái gia đình có học thức, có cao quý, có tiền bạc, có đầy đủ những quyền thế.

Đó là nội một cái tánh ngã mạn, kiêu căng của chúng ta. Mà hầu như là, Thầy thấy hầu hết là chúng ta sanh ra, mọi người đều có cái tánh ngã mạn, kiêu căng đó, hoặc là ngầm, hoặc là lộ ra cho mọi người thấy. Thì tất cả những cái này là những cái đưa đến cho cái con đường mà chúng ta hạ liệt hay cao quý là ở chỗ này.

Cho nên những cái lời dạy của Thầy ở đây là hầu như giúp cho quý cư sĩ phải thấy rõ được cái con đường tu tập của mình, để cho mình dứt bỏ cái tâm ngạo mạn, cái tâm ngạo nghễ, ngã mạn của mình đi, đừng có xem thường ai hết, bởi vì ai cũng là một con người.

Thậm chí như đối với một con vật mình cũng thấy nó bằng mình. Vì Phật đã nói: "Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh", tức là đều có sự bình đẳng với nhau đó.

Đó cho nên vì vậy mà chúng ta đối xử với mọi người, cũng như người nghèo, người khổ, người bệnh tật, tất cả mọi người, dù là họ xấu tốt gì tất cả đều là do nhân quả của họ, chúng ta hoàn toàn là không khinh chê. Mà khinh chê tức là có ngã của chúng ta. Mà có ngã chúng ta thì coi chừng cái kiêu căng, ngạo nghễ của chúng ta nó sẽ theo đó mà ra.

Cho nên từ đó chúng ta phải thấy cái nghiệp của chúng ta, cái nhân nào nó sẽ chiêu cảm cái nghiệp ấy mà nó đưa chúng ta đi đến cái khổ sở.

5- NHỮNG ĐIỀU CẦN TRAU DỒI VÀ TU TẬP

5.1- PHÒNG HỘ SÁU CĂN, GIỮ GÌN BA NƠI THÂN KHẨU Ý

(1:16:41) Sau khi quý thầy đã nhận thấy nghiệp dẫn đi trong luân hồi, trong cảnh giới khổ vui. Hạnh phúc hay bất hạnh, giàu sang tốt xấu đều do nghiệp dẫn đi.

Nghiệp là gì?

Nghiệp là những hành động thân, khẩu, ý của quý thầy tạo ra.

Đó, quý thầy thấy, cái nghiệp do từ đâu mà có? Nó đi từ cái miệng của mình, cái thân của mình, cái ý của mình mà nó ra. Mà nó tạo ra những cái mà Thầy đã nói ở trên, để tạo chúng ta ở chỗ hạnh phúc, an vui hay hoặc là chỗ đau khổ, hay hoặc là chỗ trường thọ, chỗ yểu tử.

Đó là những điều mà chúng ta đã thấy. Vì vậy mà chúng ta phải phòng hộ, giữ gìn mắt tai, mũi, miệng, thân, ý của mình rất là cẩn thận, kỹ lưỡng.

Cho nên, Phật dạy chúng ta gọi là Thánh phòng hộ. Nghĩa là chúng ta phải phòng hộ nó đúng mực của nó. Luôn luôn lúc nào cũng dè dặt cẩn thận giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, nhất là thân, khẩu, ý của chúng ta là ba nơi hành động của chúng ta để tạo thành nghiệp.

5.2- HỌC THẬP THIỆN VÀ SỐNG ĐÚNG THẬP THIỆN

(1:17:45) Ác đem đến cho quý vị khổ đau, do đó quý vị phải học Thập Thiện và sống đúng Thập Thiện.

Đó bây giờ người cư sĩ họ phải tu tập cái gì, họ phải học cái gì đây? Họ phải học Thập Thiện, tức là Mười Điều Lành. Họ phải sống đúng trong Mười Điều Lành.

Đó bắt đầu quý vị đã nghe cái nghiệp của quý vị rồi chứ gì? Những cái hành động mà tạo cho quý vị, đưa đến quý vị khổ đau thế này, thế khác mà kinh Phật đã dạy chúng ta như vậy, Thầy trích ra những cái này, Thầy giảng thêm để cho quý vị thấy, hiểu rất rõ về cái nghiệp nó từ đâu mà có.

Và bây giờ chúng ta đại khái, nó rất nhiều, chớ nó không phải có những cái phần này không đâu. Bởi vì, nếu mà được Thầy giảng về nhân quả luân hồi, nói về nhân quả thì nó có những cái bài, cái hành động của quý vị làm cái gì thì nó sẽ có cái nghiệp đó đến với quý vị, có cái nhân quả của nó đến với quý vị.

Thì ở đây thuộc về, những cái bài này nói nghiệp chớ thực ra nó là nhân quả đó, cái nhân quý vị làm cái gì thì cái quả quý vị phải thọ lấy cái đó đó.

Như cái nhân của mình ngạo nghễ, kiêu mạn thì mình sẽ sanh được vào trong cái quả của mình là phải sanh vào cái nhà nghèo khổ, hạ liệt. Còn cái nhân của mình không kiêu mạn, không có ngạo nghễ, không khi dễ ai hết thì cái nhân đó mình sẽ sanh được vào ở trong cái nhà quyền quý, cao quý.

Đó thì quý thầy thấy, từ đó mà chúng ta suy ra, chúng ta thấy rõ ràng là nhân quả. Mà nhân quả thì đó là nó tạo thành cái thói quen, mà thói quen đó gọi là nghiệp.

Thì như vậy là, chúng ta biết được con đường như vậy thì chúng ta là những người cư sĩ, chúng ta phải tiến tới học Thập Thiện, rồi sống đúng Thập Thiện.

Thập Thiện tức là mười cái điều lành, mà mười cái điều lành này là của người cư sĩ. Mà Đức Phật nói mười cái điều lành này là để tạo cho chúng ta một cái hướng sanh về cõi trời. Thập Thiện tức là những cái vị trời đều là những người sống ở trong Thập Thiện hết cho nên mới được sanh về cái cõi đó, cho nên trời là phải sống Thập Thiện.

Vì vậy mà cái người cư sĩ chúng ta còn tại gia, chúng ta chưa phải xuất gia thì chúng ta phải tu, học và tập luyện sống cho đúng Thập Thiện.

5.3- TU TẬP TỨ CHÁNH CẦN

(1:19:26) Kế đến quý vị phải tu Tứ Chánh Cần.

Nếu mà muốn thực hiện Thập Thiện cho đạt được thì cái pháp Tứ Chánh Cần quý vị phải tu tập.

Đó, quý vị phải thấy được cái đường lối của đạo Phật. Nếu mà quý vị học hiểu được Thập Thiện mà quý vị không tu Tứ Chánh Cần thì quý vị chẳng hề mà thực hiện được Thập Thiện, tức là quý vị không sống được Thập Thiện.

Và quý vị phải giữ gìn Ngũ Giới.

Lúc bấy giờ quý vị phải được người ta trao cho quý vị những cái giới để cho quý vị nghiêm chỉnh, thì cái hạnh phúc của gia đình của quý vị sẽ mãi mãi suốt đời không còn khổ đau, không còn phiền não nữa, chấm dứt.

Nghĩa là vợ nói, chồng nghe, chồng nói, vợ nghe, không bao giờ mà có một cái sự cãi rầy rà ở trong gia đình, con cái rất là hiếu thảo.

Nói đến đây thì quý vị thấy rất rõ, khi mà quý vị học Thập Thiện và sống được Thập Thiện thì quý vị phải tu tập Tứ Chánh Cần. Mà phải tu tập Tứ Chánh Cần thì trong Tứ Chánh Cần quý vị thấy rằng, cái giai đoạn mà trong Tứ Chánh Cần thì Đức Phật dạy: "Dứt bỏ những gì phải dứt bỏ" - thì cái giai đoạn thứ ba là cái giai đoạn rất cần thiết cho cái người cư sĩ. Nghĩa là mình cần phải dứt bỏ thôi.

Thì Tứ Chánh Cần như thế nào?

Thầy giảng sơ, sau này Thầy sẽ giảng Thập Thiện nè, Thầy sẽ giảng Tứ Chánh Cần để cho biết cách thức tu. Bởi vì đây là một cái giai đoạn thứ nhất của người cư sĩ phải tu, mà nếu không biết pháp tu làm sao tu cho được?

Cho nên, muốn tu Tứ Chánh Cần thì trong cái bài kinh Phật dạy nó rất đơn giản, nhưng mà giải ra thì nó không phải là đơn giản như quý vị hiểu đâu.

Nghĩa là Tứ Chánh Cần Phật nói: Các pháp ác chưa sanh thì chúng ta không cho sanh, mà đã sanh thì cần phải đoạn dứt, từ bỏ liền, không có cho nó tăng trưởng. Các pháp thiện chưa sanh thì chúng ta cho nó sanh, khởi lên cho nó sanh, mà nó đã sanh thì chúng ta tăng trưởng. Đó gọi là Tứ Chánh Cần, đơn giản thì chúng ta hiểu như vậy.

Nhưng mà sau này thì Thầy sẽ giảng cho cách thức chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần. Bởi vì nói về thiền định thì Tứ Chánh Cần nó gọi cái tên của nó là Định Tư Cụ, là cái dụng cụ để tu thiền định sau này.

Cho nên ngay từ cái người cư sĩ mà chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần này là chúng ta chuẩn bị cho con đường tu thiền định của mình sau này, chớ không phải gì khác hơn hết.

Mà chính tu Tứ Chánh Cần này nó sẽ giúp cho chúng ta sống một đời sống Thập Thiện, sống đời sống Mười Điều Lành. Mà đời sống Mười Điều Lành này làm cho gia đình của quý vị, làm cho cuộc sống của quý vị, bà con chòm xóm của quý vị, làng xã của quý vị, xã hội của quý vị rất là an vui và hạnh phúc.

5.4- CHUẨN BỊ KỸ CÀNG TRƯỚC KHI THỌ TAM QUY NGŨ GIỚI

(1:22:10) Được học và hiểu Phật Pháp, đến đây, sau những ngày áp dụng những bài học này vào đời sống của quý vị, quý vị sẽ thấy được một kết quả an vui, hạnh phúc chân thật của đời sống con người, bấy giờ quý vị đến xin…​

Nghĩa là lúc bấy giờ đó, khi mà mình áp dụng được những cái điều này rồi thì mình mới đến xin thọ Tam Quy, Ngũ Giới.

…​ được một vị thầy đại diện cho ba ngôi Tam Bảo truyền Tam Quy, Ngũ Giới cho mình.

Còn nếu mình chưa được thì mình vô mình xin thọ Tam Quy, Ngũ Giới coi chừng mà mình phạm những cái lỗi rất lớn. Bởi vậy khi mà chuẩn bị cho một người cư sĩ thì nó phải đâu ra đó hẳn hòi rồi mới thọ Tam Quy, Ngũ Giới.

Nhưng mà hiện bây giờ Thầy thấy, cái người cư sĩ muốn đến xin thọ Tam Quy, Ngũ Giới thì họ nghiên cứu kinh sách một cách rất là bừa bãi, hiểu và ham thích Phật Pháp rồi vô xin thọ Tam Quy, Ngũ Giới chứ chưa có thông hiểu cách thức tu tập như thế nào hết.

Cho nên mình chưa có giữ gìn được những cái hạnh, cái đức của mình cho nghiêm chỉnh như một người đệ tử, mình vô rồi bắt đầu từ đó mình mới tu tập sau. Nhiều khi mình tu tập cũng không có thành ra được cái vấn đề gì nữa hết.

Nghĩa là thọ Tam Quy là có Tam Quy vậy chớ còn thiệt ra chưa có hẳn là mình sống đúng như Phật - Pháp - Tăng được. Mình thọ Tam Quy tức là mình nương theo ba ngôi Tam Bảo, thế mà mình không có theo ba ngôi Tam Bảo mình sống. Ông Phật sống như thế nào? Mình có sống được chưa? Chưa! Vậy mà mình thọ Tam Quy là thọ làm sao?

Còn Ngũ Giới, thì có người khi mà thọ Ngũ Giới nói: "Con bị nghiền rượu, thôi con xin để cái này con tập tu lần lần lần lần, chớ bây giờ con không dám hứa rằng con sẽ giữ gìn cái giới uống rượu này được!"

Thầy thấy có nhiều người, khi mà hỏi họ coi cái giới thứ năm này có giữ được hay không, họ nói: "Cái giới này con giữ chưa được vì con còn ghiền rượu. Để chừng nào con bỏ rồi con mới giữ được. Thôi bây giờ cái giới này để con từ từ sau rồi con giữ!"

Mà bây giờ năm cái giới như vậy đó mà mình không chuẩn bị cho mình, mà mình đến đó mình còn hứa hẹn để cho mình tu từ từ, thì chắc chắn là cái người này không bao giờ từ từ được hết!

Và đồng thời họ cũng xem thường Tam Quy, Ngũ Giới của Phật - là một cái điều lành, là một cái pháp môn để đem lại cái đời sống cho người cư sĩ hạnh phúc và an vui trong cái gia đình của họ.

Những gì của Phật Pháp đều là đem lại cái sự giải thoát, đem lại cái sự an vui. Mà chúng ta đi đến với Phật Pháp, thọ Tam Quy, Ngũ Giới rồi, Thầy thấy gia đình mà gọi là Phật tử thọ Tam Quy, Ngũ Giới rồi, Thầy thấy lộn xộn chớ chưa hẳn đã là có cái trật tự, có cái hạnh phúc trong đó.

Cha vẫn rầy mắng con, không có tìm hiểu con mình như thế nào hết. Con thì cãi lẫy lại cha mẹ, muốn đi chơi là đi, muốn ngang dọc như thế nào cũng không có cần thiết cha mẹ. Vợ con cái thì ở nhà có những cái gì thì rầy rà, giận hờn, canh chẳng ngon mà cơm chẳng lành. Nó đủ thứ ở trong gia đình hết!

Thế mà người nào cũng đến Quy Y Tam Bảo, Ngũ Giới, người nào cũng có pháp danh này, pháp danh kia dẫy đầy. Thế mà cuối cùng thì (không có) cái giải thoát đem lại cái đời sống cho họ khi họ là cái người mà đã thọ Tam Quy, Ngũ Giới.

Cho nên Thầy thấy thiệt là quá đau khổ cho những người đệ tử của Phật trong một cái giai đoạn này.

(1:25:49) Nếu mà được học cái giáo án này mà chấp nhận cho một cái người cư sĩ vào đạo, chúng ta phải trang bị cho họ những cái pháp môn tu hành nào, những cái gì chúng ta phải dạy cho họ trước. Sau khi họ đã thấm nhuần được, chúng ta thấy: “À, bây giờ mới làm cái lễ cho họ thọ Tam Quy, Ngũ Giới.”

Thì chừng đó cái người cư sĩ đệ tử của Phật có phải là cái người đã đem lại cái hạnh phúc cho gia đình họ, đem lại cái sự không đau khổ cho mọi người trong gia đình họ? Còn bây giờ chúng ta không có trang bị cho họ những cái gì hết!

Theo cái giáo án này mà nếu mà trang bị cho họ đầy đủ thì khi họ Tam Quy, Ngũ Giới xong rồi, thì họ là một người cư sĩ đệ tử của Phật xứng đáng chưa? Rất xứng đáng.

Họ đem lại hạnh phúc gia đình của họ, họ đem lại sự an vui cho chòm xóm của họ. Không bao giờ họ còn say sưa, chửi mắng chòm xóm, không bao giờ mà họ còn giận dữ một con chó, con gà của chòm xóm qua nhà họ mà họ làm thế này, thế khác.

Đó là chúng ta phải trang bị những cái pháp môn, những cái sự thông hiểu, những cái hiểu biết để cho cái người cư sĩ họ sắp sửa là đệ tử của Phật khi mà thọ Tam Quy, Ngũ Giới là họ là người cư sĩ đệ tử của Phật rồi.

5.5- KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHÔNG LÀM KHỔ NGƯỜI

(1:26:54) Đạo Phật không chấp nhận những người cư sĩ chuyên tâm:

Đây, quý vị phải hiểu, khi mà mình thọ Tam Quy, Ngũ Giới rồi mà mình còn những cái điều này thì Đức Phật làm sao mà chấp nhận mình là đệ tử của Phật được?

1. Làm khổ người;

Hở ra một cái chuyện gì mình mạ nhục, mình đánh đập người ta, mình coi đầy tớ của mình không phải là con người nữa, lúc mình tức giận. Cho nên đó là cách thức mình làm khổ người.

2. Làm khổ mình;

Mỗi mỗi chút nào cũng rầu lo, cũng tức giận ở trong người của mình, thì như vậy mình có phải xứng đáng là người đệ tử của Phật không? Người đệ tử của Phật không bao giờ tức giận.

Luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thấy là cái sự phiền não tức giận của mình tức là mình tự làm khổ mình rồi. Mình hãy xả bỏ cái đó đi. Thì mình đã trang bị cho cái người cư sĩ, họ sắp sửa là trở thành người đệ tử của Phật chính thức, thì họ không bao giờ họ làm khổ họ, mà họ không bao giờ làm khổ người.

Thì như vậy chúng ta thấy, một cái người thầy mà đại diện cho Phật Pháp là một vị tăng, là khi một cái người cư sĩ họ trở thành đệ tử của Phật là mình phải trang bị cho họ đầy đủ những cái pháp môn, những cái điều kiện để đến khi mà họ trở thành một cái người đệ tử của Phật thì họ thấy rõ ràng là đi vào đạo Phật có một sự giải thoát thật sự, có một đời sống rất là an vui, hạnh phúc, chớ không phải là như những cái gia đình mà chưa đến đạo Phật.

Còn bây giờ, chúng ta thấy bao nhiêu Phật tử đến với đạo Phật, là đệ tử cư sĩ của Phật không? Cúng dường thì có, nhưng mà cái hạnh phúc của họ có không? Họ cúng mãi cúng mãi, bao nhiêu chùa tháp xây dựng lên vĩ đại, mà cuối cùng cái gia đình họ, Thầy thấy hoàn toàn là tan nát, rầy rà chửi mắng đủ điều hết chớ chưa hẳn là hạnh phúc ở trong đó!

3. Làm khổ người, làm khổ mình.

Nghĩa là làm cho người ta khổ, làm cho mình khổ.

Thí dụ như bây giờ đứa con mình sai, thì mình không nên tức giận, la rầy, chửi mắng, đánh đập đứa con, mà phải nên ôn tồn, nhỏ nhẹ, khuyên bảo với những lời nói nghiêm trang cộng với gương mặt nghiêm nghị.

Mỗi lời nói của mình phải vạch ra cho nó thấy những hậu quả tai hại sẽ làm khổ bản thân chính nó, mà còn chính những điều này sẽ liên lụy làm khổ cha mẹ và anh em trong gia đình:

“Bắt đầu từ đây con phải chừa bỏ vì đó là một điều tai hại làm buồn khổ cho cả gia đình. Tuy bây giờ chưa có gì xảy ra, nhưng những hành động của con vui chơi với bạn bè vô ý thức, hậu quả sẽ xảy ra to lớn, khổ đau cho gia đình chúng ta!

Con hãy suy nghĩ kỹ lại đi, đừng bê tha với những người bạn bè hư thân, rượu chè, bài bạc, đua xe gắn máy, cùng những gái buôn hương, bán phấn mất nết, hư thân! Hãy tìm bạn tốt mà chơi con ạ! "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Con hãy nhớ lấy những câu tục ngữ này.

Còn nhỏ phải siêng năng học tập, sau này lớn lên mới trở thành người hữu dụng cho bản thân con và xã hội. Cha mẹ sẽ mất đi không thể sống mãi nuôi con. Con phải tự nuôi sống lấy, phải bảo bọc gia đình của con, chính bàn tay và khối óc của con!”

Những lời dạy này đã không làm khổ người mà còn có những lời khuyên răn, dạy bảo con đúng cách làm cha mẹ.

Bởi vậy không chấp nhận làm khổ người.

(1:30:18) Vừa rồi, Thầy dạy đến cái đoạn:

Đức Phật không chấp nhận những người cư sĩ chuyên tâm:

1. Làm khổ người;

2. Làm khổ mình;

3. Làm khổ người, làm khổ mình.

Và chấp nhận những cư sĩ không làm khổ mình, không làm khổ người. Những người cư sĩ này mới chính là đệ tử của Đức Phật, còn những hàng cư sĩ kia chưa phải là những người cư sĩ chân chính.

5.6- TRAU DỒI TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

(01:30:55) Những hàng cư sĩ chân chính của đạo Phật cần phải được hằng ngày trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm:

1. Tâm Từ được trau dồi sẽ diệt sân hận;

2. Tâm Bi được trau dồi sẽ diệt tánh hung bạo;

3. Tâm Hỷ được trau dồi sẽ diệt lòng ganh tỵ;

4. Tâm Xả được trau dồi sẽ diệt hận thù.

Tứ Vô Lượng Tâm này, là cái người cư sĩ sau khi tu tập Thập Thiện là mười cái điều lành thì bước qua một cái giai đoạn thứ hai của nó: Trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm.

Vì Tứ Vô Lượng Tâm, tu tập nó là trau dồi cái tâm của mình: Tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả để đối trị với tâm sân, tánh hung bạo, lòng ganh tỵ, lòng hận thù. Đó là những điều mà người cư sĩ cần phải trau dồi, tu tập nó.

5.7- ƯỚC NGUYỆN TRỌN ĐỜI SỐNG THANH TỊNH

(01:32:05) Người cư sĩ theo đạo Phật phải ước nguyện trọn đời sống:

1. Thân hành thanh tịnh;

Nghĩa là người cư sĩ mà đã quyết tâm theo đạo Phật tu hành thì: Thứ nhất, mình phải làm sao cho thân của mình phải được thanh tịnh, mình phải hiểu như thế nào gọi là "thân thanh tịnh". Thứ hai mình phải hiểu:

2. Khẩu hành thanh tịnh;

Tức là mình phải hiểu làm sao cho lời nói, cho miệng của mình luôn luôn trong sạch, thanh tịnh.

3. Ý hành thanh tịnh;

##Nghĩa là làm sao cho tư tưởng, suy tư của mình đều được thanh tịnh.

4. Sinh sống thanh tịnh.

Tức là cách thức làm ra tiền, ra của, ra vật dụng bằng cách trong sạch, không có gian ác ở trong đó, không có xảo quyệt trong đó.

Đó là bốn cái cách mà cái người cư sĩ phải nguyện trọn đời của mình phải thực hiện bốn cái cách này thì mới làm cho thân tâm của mình được thanh tịnh và đời sống mới được giải thoát, an vui.

Nếu người cư sĩ sống được như vậy, từ đó mới chứng được Tri Kiến Bồ Đề.

Nghĩa là cái người cư sĩ mà sống được bốn cái sự thanh tịnh này, thì cũng từ trong bốn cái sự thanh tịnh này, cái người cư sĩ đó sẽ phát triển những cái tri kiến giải thoát chính của họ.

5.8- TU TẬP TỨ CHÁNH CẦN ĐỂ DỨT BỎ ĐIỀU ÁC

(01:33:44) Người cư sĩ đến đây còn phải tiếp tục tu tập Tứ Chánh Cần để dứt bỏ toàn bộ những điều ác, lìa xa những điều ác, từ giã, từ khước những điều ác.

Nhờ Tứ Chánh Cần mà người cư sĩ xa lìa tất cả những điều ác trong tâm, cũng như trong việc làm của mình.

5.9- PHÁP MÔN THIỀN ĐỊNH TU TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

(01:34:10) Kế đến phải tu tập thiền định.

Thiền định của người tu (cư) sĩ như thế nào? Người tu (cư) sĩ phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định. Người tu (cư) sĩ phải tu một loại định nào nữa? Phải tu Vô Lậu Định.

Đó là hai cái định mà trong đời sống hằng ngày của người tu (cư) sĩ cần phải siêng năng, chuyên cần, nhiệt tâm tu tập hai loại định này để đem lại một đời sống an vui và hạnh phúc, rất là hòa thuận trong gia đình cũng như mọi người xung quanh trong xã hội./.

HẾT BĂNG

04 - SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH - PHẦN 1

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 04 - SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH 01

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- TỔNG QUAN VỀ THẬP THIỆN

(00:00) Trưởng lão: Đến đây Thầy sẽ dạy tiếp. Vì trong cái giáo án này, người cư sĩ bắt đầu phải tu tập, học hiểu mười cái điều lành mà trong kinh Phật dạy là Thập Thiện.

Để tóm lại bài giảng kỳ rồi để cho quý thầy thông hiểu nghiệp:

Đối với đạo Phật được xem nghiệp là đấng tạo hóa sinh ra loài người và chúng sanh, nên nó thường sai khiến con người. Vì thế, con người là kẻ được thừa tự của nghiệp. Đời đời, kiếp kiếp của con người tiếp nối nhau trong sáu nẻo luân hồi, đau khổ đều chính do nghiệp mà ra.

Biết vậy, chúng ta cần phải chấm dứt nghiệp. Chấm dứt nghiệp là chấm dứt tái sanh luân hồi, sanh tử và đau khổ.

Muốn chấm dứt nghiệp thì chúng ta phải xem xét nghiệp đang hành sự ở chỗ nào? Trên thân chúng ta có ba nơi mà nghiệp đang hành sự.

Ba trụ sở đó là đâu? Là thân, miệng, ý của chúng ta. Hằng ngày đêm, nghiệp thường đến ba nơi này làm việc liên tục.

Nó làm việc gì ở đây? Nó đến ba nơi này để chỉ đạo, điều khiển con người và tất cả chúng sanh làm điều thiện hoặc điều ác.

Vậy điều thiện như thế nào và điều ác như thế nào?

Muốn biết được điều thiện, điều ác chúng ta cần phải tư duy, suy nghĩ: Con người sinh ra đời, mang theo thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.

Nếu thân, khẩu, ý nghiệp thiện, con người được hạnh phúc, ấm no, an vui, yên ổn. Bằng ngược lại, thân, miệng, ý nghiệp ác thì phải thọ lấy bệnh tật, tai nạn, nghèo đói, phiền não, đau khổ, giận hờn, thương ghét, sầu muộn, sợ hãi v.v…​

(02:15) Như Thầy đã giảng trạch ở trên, nghiệp phân chia loài người và chúng sanh có tốt xấu, sang hèn, quyền thế, vua chúa, dân dã, quan quân, sĩ tốt, người nghèo, người giàu, người thông minh, người u tối, v.v.

Ước vọng của con người khi sinh ra đời đều mong được mạnh khỏe, sống lâu, an vui, hạnh phúc, ít bệnh, ít tật, nhiều may mắn. Nhưng mấy ai trên đời này được toại nguyện?

Sự thật, đời người từ khi sinh ra cho đến ngày đi về lòng đất, chỉ một chuỗi dài thời gian chịu biết bao nhiêu gian khổ, lại còn bệnh tật, tai ương và chết.

Thảm trạng của đời người là vậy nhưng mấy ai đã biết? Nếu không có Đức Phật mở lối, khai đường dẫn dắt chúng sanh thì biết chừng nào ra khỏi sáu nẻo luân hồi đau khổ này!

Vì chính vô minh mê mờ không hiểu, con người đã lầm chấp mọi vật trên thế gian này là thường còn, thường hằng, cho thân tâm này là cái ngã của mình, nên cố gắng bảo vệ, nuôi dưỡng và phục vụ nó một cách điên khùng, tạo nhiều điều ác độc. Thậm chí có người còn mơ mộng đi tìm thuốc trường sanh hoặc tu hành luyện đơn để được trường thọ sống lâu muôn đời.

Nhưng xét cho cùng có mấy ai đã làm được? Chỉ vì vạn pháp trên thế gian này đều vô thường, nay còn, mai mất, tan hợp như mây giữa trời.

(04:51) Vì vô minh không hiểu lý duyên hợp của vạn pháp, nên không thấy nghiệp lực diễn biến trên lộ trình nhân quả kiếp này đến kiếp khác, liên tục không bao giờ dứt; thân tâm này vừa tan hoại, kế nối thân tâm khác, như cây đuốc này vừa tắt nối tiếp cây đuốc khác; cứ mãi tiếp nối như vậy suốt thời gian vô tận mà không có một lộ trình nào thoát ra khỏi.

Mỗi kiếp người sinh ra, phải chịu biết bao quả báo đau khổ do chính hành động thân, miệng, ý của mình. Nhưng nào ai có biết, cứ mãi chạy theo danh lợi và vật chất thế gian, càng lúc càng tạo thêm nhiều điều ác độc, tội lỗi.

Người cư sĩ muốn chấm dứt hoàn cảnh khổ đau đời sống của mình, vượt thoát cảnh tù tội ở thế gian, những tai nạn hiểm nghèo, bệnh tật nan y, những xung đột; lòng tỵ hiềm, ganh ghét, tánh ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp hòi và tâm dối trá, xảo quyệt, v.v…​ thì trước tiên phải thông hiểu Thập Thiện - tức là mười điều lành Phật đã dạy. Rồi sau lần lượt phải trau dồi thân tâm trong mười điều lành này để dứt trừ mười điều ác.

(06:23) Thập Thiện là con đường đưa con người đi đến nơi hạnh phúc chân thật, giúp con người thoát ra khỏi tâm niệm thường tình thế gian.

Thập Thiện rèn luyện con người đạo đức nhân quả, trở thành người tốt trong xã hội hiện nay và mai sau; giúp tâm tánh con người không còn ác độc, xảo trá, gian dối, lừa bịp; khiến con người trở thành điềm đạm, khiêm tốn, giản dị, hiền lành, có đầy đủ nhân cách làm người và còn đủ sức nhẫn nại vượt qua bao cam go thử thách của cuộc đời.

Thập Thiện chuyển cảnh khổ đau, đói rét, bất toại nguyện trở thành cảnh an vui, yên ấm, hạnh phúc và tạo cảnh thuận duyên mãi mãi cho cuộc sống con người.

Thập Thiện xây dựng cho chúng ta một cuộc sống đạo đức chân thật, luôn luôn mọi cá nhân làm gương tốt cho người khác.

Thập Thiện biến kẻ hung ác sát nhân, trộm cướp, hãm hiếp trở thành những người lương thiện, tâm hồn trong sạch, không còn lo sợ tù tội thế gian và ba đường ác.

Thập Thiện cải biến nghiệp ác thân, miệng, ý trở thành nghiệp thiện thanh tịnh, không phạm phải lỗi lầm, lỗi ác.

(08:13) Người cư sĩ không tu Thập Thiện, ba nghiệp thân, miệng, ý tạo đầy đủ mười điều ác. Đó là tạo nhân quả khổ đau cho kiếp sống hiện nay và đưa đến ngày mai.

Địa ngục là con đường đau khổ nhất trong sáu nẻo luân hồi. Đâu phải đợi ngày mai chết mới sa địa ngục mà chính ngay trong cuộc sống hiện tại, nếu ai đã làm đủ mười điều ác chắc chắn phải chịu thọ một đời sống hoàn toàn đau khổ như trong địa ngục vậy.

Quý thầy cứ xem có một kẻ nào ưa làm điều ác: sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời thêu dệt, nói lời hung ác, tham lam, sân hận và si mê; có lúc nào người này được an vui đâu? Dù họ ở địa vị nào trong xã hội, bản thân và tâm hồn của họ vẫn đen tối và đau khổ bất tận.

Phật dạy chúng ta tu Thập Thiện cốt là tạo đầy đủ phước báu để chuyển hóa cuộc sống của chúng ta hiện nay được an vui, hạnh phúc và đời sau còn được thỏa mãn mọi nhu cầu trong cuộc sống dù bất cứ sanh nơi đâu.

Thập Thiện có lợi ích, có thành quả lớn như vậy, ai là người đã đủ duyên được nghe, đọc, thấy, hiểu biết và được tu tập, đó là một phước báu lớn của kiếp người, kiếp làm con người.

(09:50) Vậy hôm nay, chúng ta đã được biết Thập Thiện, đừng để luống qua một cuộc đời đen tối và đau khổ. Được kho báu đạo đức làm người tốt mà không biết dùng kho báu, đành để một đời nghèo khổ đạo đức, lang thang trong sáu nẻo luân hồi, khổ đau bất tận!

Như trên Thầy đã dạy, người nào muốn thoát khỏi thân bệnh, tâm bệnh, tai nạn này hoặc tai nạn khác và cầu mong gia đình được an vui, đằm thắm, con cái hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, sống trong tình nghĩa thương yêu mặn nồng, tràn đầy hạnh phúc thì hãy tu tập Thập Thiện.

Thập Thiện là mười điều lành do thân, miệng và ý hành động.

  1. Thân có ba nghiệp thiện, ngược lại là ba nghiệp ác:

    1. Không giết hại chúng sanh;

    2. Không trộm cắp;

    3. Không tà dâm.

II. Khẩu có bốn nghiệp thiện, bằng ngược lại là bốn nghiệp ác:

  1. Không nói dối;

  2. Không nói thêu dệt;

  3. Không nói hai chiều;

  4. Không nói lời hung ác.

III. Ý có ba nghiệp thiện, ngược lại là ba nghiệp ác:

  1. Không tham lam;

  2. Không sân hận;

  3. Không si mê.

Bây giờ chúng ta trở lại giải thích từng phần của Thập Thiện.

2- THẬP THIỆN - THÂN HÀNH

2.1- TỔNG QUAN VỀ BA HÀNH ĐỘNG THIỆN CỦA THÂN

(11:50) Bây giờ trở lại, Thầy giải thích để hiểu biết về cái phần một là do thân của chúng ta.

Bởi vì thân chúng ta có ba cái hành động của nó. Cái hành động thứ nhất của nó là nó giết hại chúng sanh như tay, chân của mình đánh đập hoặc làm đau khổ chúng sanh do cái hành động của thân.

Trên đường đi mà chúng ta vô tình, đi không nhìn xuống đất thì chúng ta sẽ đạp phải những loài côn trùng, dế hoặc là những loài vật nhỏ dưới mặt đất, thì đó là chúng ta cũng phạm vào cái tội vô tình giết hại chúng sanh.

Còn huống hồ là chúng ta cố ý bắt những con vật giết đi rồi làm thịt rồi để biến nó thành những thực phẩm để nuôi cái cơ thể chúng ta. Đó là những điều rất là ác.

Cho nên cái thân chúng ta có những hành động làm ác, cái hành động đó tạo thành cái nghiệp: nghiệp đau khổ, nghiệp giết chóc.

Cho nên đạo Phật dạy chúng ta, khi thọ thực thì cái tâm từ bi chúng ta phải biến mãn khắp cùng chúng sanh, nghĩa là lòng thương yêu chúng ta đối với chúng sanh, khi miếng ăn là cái vật để nuôi thân chúng ta sống, thế mà trước khi ăn chúng ta đã thấy, nghe và nghi.

Cái thấy, nghe và nghi đó giúp cho chúng ta trau dồi được tâm từ bi, tức là lòng thương yêu của chúng ta đối với muôn loài.

Người đời không hiểu, họ ăn để sống, họ nghĩ để cho sức khỏe họ được đầy đủ, dồi dào nên họ không nghĩ đến sự đau khổ, sự chết chóc của chúng sanh trong sự ăn uống của họ.

Vì thế, thân họ hay làm những điều độc ác để biến chúng sanh thành những thực phẩm họ ăn. Từ đó họ tạo cho họ có nhiều sự đau khổ diễn biến trong cuộc đời của họ do tâm ác độc này.

(14:12) Cái thứ hai, cũng do thân hành động của họ đó là lấy của không cho, tức là trộm cắp.

Người đời người ta muốn ở không mà ăn, muốn rảnh rang mà sướng, cho nên có nhiều người nghĩ rằng: tham lam lấy của người, nó thêm cho mình được cái này, cái nọ kia mà không mất sự lao động của mình, không có sự lao động của mình. Vì thế mới có trộm cắp, tham lam do thân chúng ta làm.

Cũng như, khi tâm chúng ta ham ăn một cái bánh, cái kẹo hoặc là một trái cây, do chúng ta không dừng được, không ngăn được, không xả bỏ được cái hành động thân, mới lấy cái bánh, mới trộm trái cây mà ăn, thì đó cũng thuộc về loại trộm cắp.

Do cái thân hành động đó tạo cho chúng ta nghèo khổ và đói rách sau này.

Thân chúng ta còn hành động một điều nữa là tà dâm.

Đối với người cư sĩ thì Phật không cấm cái sinh lý con người, nhưng đừng có dan díu với người này, người kia để tạo cho gia đình mình không yên ổn.

Không có người nào mà khi vợ mình tà dâm với người khác mà không ghen. Ngược lại thì khi người chồng của mình tà dâm với người khác mà người vợ không ghen. Mà nỗi ghen tuông là sự đau khổ có thể đi đến cái tai hại rất lớn là giết người.

(15:45) Vì thế thân có ba hành động, người cư sĩ chúng ta cần phải lưu ý. Mỗi hành động chúng ta làm ra do thân, chúng ta phải hiểu, phải biết thương yêu chúng sanh, đừng làm đau khổ, đừng đánh đập đau khổ chúng sanh.

Như vừa rồi có một con chó ở xóm này, nó chỉ ăn hai cái trứng gà của một người, người chủ mới bắt nó trói lại rồi treo lên, cứ khoảng độ hai, ba giờ đồng hồ thì đánh cho con chó một chập, và cứ như vậy mà suốt ngày hôm qua con chó mỗi lần bị đánh đập là kêu la, đau khổ.

Nhưng người đời người ta tưởng như vậy là người ta đã cái nư giận, là làm như vậy cho con chó không còn phạm phải những điều đó nữa. Nhưng thiết nghĩ chúng ta nuôi dưỡng chúng, không cung cấp cho chúng đầy đủ, chúng đói khát mới đi ăn trộm, ăn cắp để mà sống, thì lỗi của người chủ chớ không phải lỗi của con chó, thế mà người chủ lại hành hạ con chó một cách đau khổ!

Cũng như chúng ta, trong khi đang ngồi trong thất tu hành, nghe tiếng con ếch, con nhái bị con rắn cắn, tiếng kêu cầu cứu rất đau khổ, chúng ta thản nhiên ngồi tu hành nhiếp tâm không lưu ý. Nhưng đối với người tu sĩ đạo Phật không thể ngồi thiền trong một ngày mà thành đạo được, mà hãy thực hiện tâm từ bi.

Khi có một chúng sanh kêu cứu, chúng ta vội tháo chân ra để làm động cho hai con vật bỏ ra. Một con vật thoát khỏi sự đau khổ, sự chết chóc là chúng ta thấy an vui trong lòng hơn là chúng ta ngồi thiền trong một giờ hoặc hai giờ.

Lòng thương xót chúng sanh, chúng ta không nỡ nghe tiếng kêu cầu cứu của một con vật mà chúng ta vô tình.

Cũng như chúng ta nghe hai con mèo cắn lộn nhau, chúng ta biết chúng là con vật không trí tuệ, không hiểu được Phật Pháp cho nên thường tranh nhau ăn, hoặc là những điều gì chúng mới đánh lộn nhau gây ra thương tích đau khổ. Nghe một con vật khác không đủ sức chống cự, kêu cầu cứu mà chúng ta nỡ đành tâm để cho chúng đau khổ!

(18:34) Như vừa rồi, Thầy và Minh Tông ngồi trong thất, đang hỏi cách thức tu hành thì nghe một bầy chó cắn hiếp một con chó khác. Tiếng kêu la của con chó kia làm Thầy ngồi không yên, Thầy vội chạy ra và đuổi bầy chó, cứu đi một con chó đang bị chúng nỗ lực xé nhau mà giết con chó nọ.

Người tu sĩ chúng ta cần phải trau dồi lòng thương yêu của chúng ta đối với muôn loài. Bất kỳ trong giờ nào, phút nào, có quan trọng cách gì, trước cái đau khổ, trước cái chết của một chúng sanh, chúng ta đừng đành tâm vì công việc của mình mà để cho chúng đau khổ, chúng bị giết hại.

Thân hành của chúng ta có ba chỗ, không giết hại mà còn nỗ lực giúp cho chúng sanh thoát cảnh khổ và chết chóc.

Thân hành thứ hai của chúng ta là không tham lam, không lấy trộm, không lấy của không cho, nhất định dù một vật nhỏ nhất chúng ta cũng không lấy.

Thân hành thứ ba: đối với người cư sĩ thì không nên dan díu với người ngoài làm cho gia đình tan nát, lòng trung nghĩa đối với nhau không còn nữa. Bởi vậy, chúng ta là con người, chúng ta phải tránh những điều hành động không đúng cách này để tạo cho gia đình được đầm ấm, hạnh phúc, an vui.

Còn riêng đối với tu sĩ đã xuất gia thì hoàn toàn phải đoạn dứt tâm dâm dục. Như Thầy đã dạy: tâm dâm dục là con đường sinh tử của con người.

Ở đây trong bài này, Thầy dạy cho người cư sĩ mới đến với đạo Phật, cho nên giữ gìn nghiêm túc hành động, tránh đừng tà dâm để tạo cho gia đình mình một sự hòa thuận, yên vui. Cần phải suy ngẫm cho kỹ điều này, không khéo vì tâm sắc dục mà chúng ta tạo cảnh khổ cho bản thân mình và cho những người xung quanh mình.

2.2- KHÔNG GIẾT HẠI CHÚNG SANH

(21:08) Không giết hại chúng sanh.

Tại sao hành Thập Thiện con người thoát khỏi bệnh tật, tai nạn, giận hờn, phiền não, đau khổ và yểu tử?

Như trên Thầy đã giảng, con người do nghiệp sinh ra mà cũng chính con người tạo ra nghiệp để rồi con người chịu lấy những hậu quả của nghiệp.

Nếu nghiệp ác tạo ra thì họ phải chịu lấy những sự khổ đau, tai ương, hoạn nạn hoặc yểu tử, chia lìa, bệnh và chết. Nếu nghiệp thiện được tạo ra thì họ phải hưởng lấy những hạnh phúc, an vui như câu hỏi đã nêu trên.

Thập Thiện tạo ra nghiệp lành. Vì thế, chúng ta cần phải tư duy, suy nghĩ chín chắn.

Tại sao không giết hại chúng sanh?

Điều quả quyết: Vạn vật sanh ra trong vũ trụ này, không một loài vật nào không sợ chết, không sợ đau khổ và bệnh tật. Chẳng có sự vui mừng nào hơn sự vui mừng khỏi bị giết, khỏi bệnh tật, tai nạn.

Người đời thường nói: "Thà nghèo mạnh giỏi, còn hơn giàu sang đau ốm". Câu tục ngữ của chúng ta, của dân tộc Việt Nam: “Ăn được, ngủ được là tiên”.

Ở đời không ân huệ nào lớn hơn ân huệ tha mạng chết. Loài vật sắp bị giết mà được tha thì nỗi lòng vui mừng không tả được.

Hòa Thượng Thiện Hoa dạy:

Như khi chúng ta thả một con chim sắp bị cắt cổ, nhổ lông, thả một con cá sắp đem chặt kỳ, đánh vảy. Chim được sống vui mừng bay nhảy, cũng như cá khỏi chết hớn hở lội bơi. Thế mới rõ: thoát nạn giết hại, chúng sanh nào không khấp khởi vui mừng! Nên chi không giết hại chúng sanh mà lại còn phóng sanh là nghiệp lành đứng đầu trong Thập Thiện.

Suy bụng mình nghĩ loài vật, chúng ta có nỡ lòng nào giết hại chúng sanh chăng? Chúng ta còn ham sống, sợ chết, lẽ đâu lại cướp mạng sống của muôn loài? Đừng mượn câu: “Nhơn dưỡng vật, vật dưỡng nhơn” mà hiểu nghĩa cạn cợt để đôi tay của chúng ta vấy máu chúng sanh, để tâm hồn chúng ta ngày càng hung ác.

(24:18) Chúng sanh giãy giụa trên thớt, dưới dao, tiếng kêu la thương đau quằn quại. Nhìn lại chúng ta, lăn lộn trên giường bệnh trong cơn bệnh ngặt nghèo, cơ thể rã rời, đau nhức vô kể, tiếng rên chẳng dứt.

Xét cái đau của thân mình, thương cái đau của chúng sanh chẳng khác nhau. Vậy mà, chúng ta nỡ đành lòng nào giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh?

Khi đã hiểu thấu pháp môn Thập Thiện là pháp môn tạo ra nghiệp lành, đưa chúng ta thoát cảnh lầm than của nghiệp ác, cải tạo đời sống của chúng ta từng hành động biết thương yêu muôn loài. Vì thế, chúng ta đâu còn nhẫn tâm làm đau khổ hay giết hại chúng sanh và ăn thịt chúng sanh được nữa!

Muốn không sát hại chúng sanh, chúng ta hãy chế ngự và khắc phục tâm mình. Đừng chạy theo những thực phẩm ăn ngon, khoái khẩu mà tạo tội lỗi ác độc: máu đổ, thịt rơi như núi, như biển mà chẳng lấp đầy lỗ miệng của chúng ta!

Thấu hiểu sự đau khổ của muôn người, muôn vật như chính sự đau khổ trong thân tâm của mình thì chúng ta phải cố gắng từng phút, từng giây tỉnh thức để tu tập và tránh khỏi vô tình giết hại chúng sanh vì sát sanh là cái nhân tạo ra nghiệp bệnh khổ, tử vong, tai nạn, yểu tử…​ Nợ máu xương này phải đền bù, dù trốn đâu cũng không khỏi!

(26:15) Kinh "Thập Thiện Nghiệp Đạo" dạy:

Nếu ai không giết hại chúng sanh, không làm đau khổ chúng sanh thì sẽ được mười điều lợi ích:

  1. Tất cả chúng sanh đều kính mến;

  2. Lòng từ bi biến mãn khắp chúng sanh;

  3. Trừ sạch thói quen giận hờn;

  4. Thân thể thường được mạnh khỏe;

  5. Tuổi thọ được lâu dài;

  6. Thường được người lành giúp đỡ;

  7. Ngủ ngon giấc không ác mộng;

  8. Trừ được sự thù oán;

  9. Khỏi bị đọa vào ba đường ác;

  10. Sau khi chết được sanh vào cõi hạnh phúc, an vui.

Quả thực, kẻ nào biết sự đau khổ của chúng sanh chính là sự đau khổ của chính mình, thì người ấy không bao giờ giết hại, làm đau khổ và ăn thịt chúng sanh nữa. Thân người ấy sẽ ít bệnh, ít tai nạn, sống trường thọ, ít khổ đau.

Pháp môn Thập Thiện là lộ trình đưa con người đến nơi hạnh phúc chân thật của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi xã hội.

Nếu ai hằng ngày siêng năng tu tập, trau dồi Thập Thiện thì ngay trong đời hiện tại, thân thể được mạnh khỏe, tinh thần được thơ thới, nhẹ nhàng, an lạc, tâm hồn lúc nào cũng an vui, thanh thản.

Người cư sĩ đệ tử Phật phải thực hiện tu tập và sống cho được đúng Mười Điều Lành này, vì Thập Thiện là giáo pháp căn bản, đạo đức nhân quả của người xuất gia cũng như người tại gia, không thể bỏ qua, đừng xem nó tầm thường. Nó xây dựng đạo đức cho mỗi con người và cũng chính từ đó xã hội mới đi đến tốt đẹp, thanh bình, an lạc.

Muốn cầu đạo giải thoát, ra khỏi nhà sanh tử thì phải hết sức thiết tha tu tập, nhiệt tình, nhiệt tâm, trau dồi thân tâm sống đúng Mười Điều Lành này thì kết quả an vui, hạnh phúc đến với quý vị ngay đây, tức thời.

2.3- KHÔNG TRỘM CẮP

(29:30) Hành động của thân kế tiếp là không trộm cắp.

Trộm cắp do lòng tham lam, làm ít mà muốn được nhiều, không làm mà có ăn, không đổ mồ hôi mà có của cải, tài sản.

Hòa Thượng Thiện Hoa dạy: Người không gian tham trộm cắp là người yêu chuộng sự công bằng, thường trọng của kẻ khác như trọng của mình. Biết rằng tiền bạc là huyết mạch của con người nên ai ai cũng có tiền bạc mới có thể sắm ăn, sắm mặc, chỗ ở và tất cả nhu cầu cho cuộc sống.

Ta thường thấy nhiều người bị trộm cắp của cải thất vọng đến đỗi phải quyên sinh, như vậy, ai nỡ lòng nào trộm cắp cho đành! Vì của cải của mình mất, mình cũng biết tiếc, biết buồn khổ, rầu rĩ thì của cải người mất, người cũng biết than, biết sầu muộn.

Vả lại, chúng ta cũng phải hiểu: của phi nghĩa có giàu đâu! Vô cửa trước, ra cửa sau, tiêu hao như nước soi cát chảy, manh tâm giành giật cho lắm, chết rồi cũng hai bàn tay không.

Người không trộm cắp, cuộc sống luôn được an vui, tinh thần không hồi hộp, vì không sợ pháp luật, chẳng lo ngại ai thù oán. Trong nhà người này không trộm cắp của người kia thì mọi người đều sống hòa thuận, thương mến.

Còn ngược lại, bất hòa, sống nghi kỵ với nhau, khiến cho gia đình sống như trong địa ngục, người này để ý người kia, vì thế lòng thương yêu tổn giảm, không còn nữa.

Ngoài xã hội, người này không lấy của người kia thì nhà nhà khỏi đóng cửa. Ra đường, người không lượm của rơi, giữa xã hội loài người đều là lương dân thì thế giới đâu còn chiến tranh tàn khốc.

Trộm cắp là một tánh xấu, đời đời, kiếp kiếp phải chịu cảnh nghèo đói, tai ương, vì nhân trộm cắp, quả nghèo đói.

Do hiểu biết nghiệp tham lam, trộm cắp thì đời đời nghèo cùng khốn khổ, biết như vậy, chúng ta phải quyết tâm không bao giờ khởi ý trộm cắp, tham lam của ai. Dù trái cà, trái bí, cây đinh, sợi kẽm…​ nói cho cùng, từ bụi đậu phộng không nhổ cắp đến một mụt măng tre cũng không hề cắt trộm. Vì không bao giờ muốn bị mất của thì há nào lại lấy của kẻ khác cho đành!

(32:02) Kinh Thập Thiện dạy:

Người không trộm cắp mà còn bố thí cho kẻ khác, giúp đỡ người đang nghèo đói thì sẽ được mười quả báo, phước lành:

  1. Tiền của dư giả, không bị vua quan, giặc giã cướp mất, không bị nạt lụt trôi, lửa cháy và con cái không phá tán;

  2. Được nhiều người kính mến và tin cậy;

  3. Không bị ai lừa dối, gạt gẫm;

  4. Xa gần đều khen ngợi, lòng ngay thẳng từ thiện;

  5. Luôn lòng được an ổn, không sợ mất mát, hư hao;

  6. Tiếng lành đồn xa;

  7. Ở chỗ đông người không lòng khiếp đảm;

  8. Tiền của, tánh mạng, nhan sắc, sức khỏe luôn được đầy đủ;

  9. Tâm thường sẵn lòng bố thí cho người bất hạnh;

  10. Khi chết được sinh vào cõi an vui, hạnh phúc.

Đó là cái hành động không tham lam sẽ được mười cái điều lành như vậy.

Cuộc đời người ta có nhiều cái góc độ tham lam, nhưng có người thì tham tốt, nhưng có người thì tham xấu.

Tham tốt như thế nào? Cố gắng làm ra cho nhiều tiền, nhiều bạc, đó là sự tham tốt. Lấy mồ hôi nước mắt của mình, đó là sự tham tốt. Còn có nhiều người tham xấu là lén trộm cắp của người khác về làm của cải của mình, đó là lòng tham xấu.

Người tham tốt thì vất vả, suốt đời quần quật lao động bằng tay chân hoặc bằng trí óc. Người tham xấu thì chờ lúc sơ hở của kẻ khác mà lấy trộm của người. Người tham xấu bằng trí thì suy tư bằng những thủ đoạn gian ác để lấy của người mà không bị pháp luật bắt tội trộm cắp.

Cho nên đối với cái hành động tham lam, trộm cắp này, nhiều hình thức chớ không phải một hình thức. Nhưng tóm lại, dù cái hình thức nào, dù có thiện thì vẫn là đem đến sự đau khổ cho bản thân của mình.

Người tham làm ra của nhiều thì đày ải thân tâm của mình phải suy tư, tính toán làm cách nào, rồi phải chạy Đông, chạy Tây giao thiệp bằng cách này, bằng cách khác để có được nhiều tiền, nhiều của. Vẫn là đau khổ!

(35:15) Nhưng đời người sanh ra thì chúng ta biết làm sao hơn? Nhưng chúng ta chọn lấy cái tham mà bằng mồ hôi nước mắt của mình thì cái tham đó rất là quý. Còn cái tham mà không có mồ hôi nước mắt của mình, không có sự suy tư, tính toán ở trong đó thì cái tham đó là tham xấu, chúng ta nên tránh.

Nhưng chúng ta nên nghĩ rằng: có nhiều người tiền bạc rất nhiều mà vẫn còn tham tiền, tham bạc. Ngồi trên đống tiền cao như núi mà ăn chẳng yên, ngủ chẳng yên, thế mà người ta không thấy cái nỗi khổ đó.

Mặc dù cái việc làm của họ rất là lương thiện chứ chưa phải có những manh tâm gian ác trong đó. Thế mà họ không dám buông xả để họ được một giờ, một phút yên vui, thanh thản tâm hồn của họ. Dù họ có cố gắng làm cho nhiều, tham cho nhiều, chất cho nhiều vàng bạc, nhưng phỏng chừng chết đi họ có giữ được đồng nào, có đem theo được?

Thì chúng ta có đủ phước tạo được tiền bạc nhiều, chắc chắn chúng ta sẽ không xài hết được, thì chúng ta nên nhớ: xung quanh chúng ta có nhiều người bất hạnh đang nghèo đói, không cơm ăn áo mặc vì họ là người đã tạo nhiều nghiệp ác, do đó chúng ta hãy bố thí cho họ, giúp cho họ. Sự giúp và bố thí này sẽ giúp cho đời sống của chúng ta hiện tại và mai sau, sẽ chuyển hóa được nghiệp khổ của chúng ta.

Thầy đem một cái ví dụ.

Như trong hiện tại, Thầy có một người đệ tử đó là chú Chơn Tâm. Chú từ một giáo viên cấp II, tiền lương rất là túng thiếu, không đủ cung cấp cho gia đình sống trong cái cuộc sống hiện giờ. Thế mà cái phước chú đến, do đó chú chuyển cái nghề giáo viên thành cái nghề làm vàng bạc, đá quý. Chỉ trong vòng hai năm, chú đã có một số tiền rất lớn.

Chú thường về đây để thưa hỏi Thầy về pháp tu hành, Thầy khuyên chú nên bố thí và làm những việc lành. Chú nghe lời Thầy, lúc nào chú cũng đến thăm những trại mồ côi, trại cùi, dưỡng lão, những nơi nghèo đói thì chú thường đến để bố thí.

Trên bước đường làm ăn nó không phải suôn sẻ luôn đâu, vì thế chú gặp những tai nạn. Do những tai nạn đó mà khi xảy ra thì chính quyền người ta xét thấy: cái người này làm có tiền sống giúp xã hội chớ không có lo lắng cho cá nhân mình. Cho nên từ cái tai nạn xảy ra đó, nhà nước đã không có bỏ tù chú và thấy chú là một người rất tốt.

(38:35) Nếu chú mà tích lũy sự có tiền của này chỉ riêng cho cá nhân mình, chắc chắn chú sẽ không thoát được cái tù tội. Vì người ta xét thấy hành động làm ra tiền mà không phục vụ cho riêng cá nhân gia đình mình mà cho cả xã hội, người ta nghĩ người này là người làm ra tiền mà rất tốt.

Vì thế mà Thầy thiết nghĩ: trên bước đường ngồi trên đống vàng mà rất đau khổ. Trong một chuyến xe mà chú chở vàng, một trăm ký, năm ba chục ký lô vàng, thì trên bước đường đi chuyển hàng, tâm hồi hộp lo sợ chớ không đơn giản như chúng ta không có tiền bạc.

Sau này Thầy khuyên chú: "Chú nghỉ đi, đừng nên làm nữa. Có bao nhiêu hãy bố thí cho người, chỉ dành dụm đủ sống mà thôi". Từ ngày đó, chú nghe lời Thầy, chú rất là an ổn, không còn lo lắng, không còn sợ hãi nữa.

Nhưng tâm con người nó không phải đứng yên một chỗ. Tiền bạc là cái sự cám dỗ rất lớn làm chúng ta khó mà giữ tâm mình yên ổn như những bậc tu hành. Cho nên, càng thấy sự làm ăn càng khá giả lên thì chúng ta nên càng dè dặt. Coi vậy chớ nó chưa được yên ổn cho đời chúng ta đâu.

Tại sao vậy? Đức Phật đã xác định: "Tiền bạc, châu báu là rắn độc". Khi trong tay chúng ta có nó, mặc dù nó không phải là tiền bạc phi nghĩa mà chính mồ hôi của chúng ta, nhưng nghiệp quả khi có tiền bạc vẫn đem đến cho chúng ta nhiều tai nạn.

(40:26) Vì vậy mà Thầy ở đây Thầy nhắc các cư sĩ: khi các con làm có tiền bạc, nhớ đến những nỗi bất hạnh của người khác. Vì phước của mọi người cộng lại lớn hơn phước của chúng ta. Vì chúng ta có một cá nhân, không thể nào có đủ phước để thọ hưởng cái sự giàu sang đó.

Cũng như một nhà vua, khi ngài lãnh đạo trong một nước, ngài giàu sang, tiền bạc rất nhiều. Thế cái phước nhà vua đó sẽ hưởng được bao lâu? Nếu phước đó dài thì được mười năm, hai chục năm. Nếu cái phước ngắn, vị vua đó vừa lên ngôi trong năm ba hôm là bị truất phế hoặc là bị giết.

Thường chúng ta thấy, cái phước của cá nhân rất nhỏ mà cái phước của mọi người rất lớn. Nếu một vị vua lên nắm quyền, giàu sang mà biết bố thí giúp cho dân nghèo thì nhà vua chắc chắn sẽ được ở ngai vàng bền lâu. Còn nếu mà nhà vua lên chỉ hoang phí, lo ăn chơi thì Thầy nghĩ rằng, trong lịch sử chứng minh điều đó rất rõ ràng: nhà vua đó ở ngôi không lâu!

Cũng như một người giàu có mà có lòng từ thiện thì sẽ giữ vững cái sự giàu có đó, không phải trong một đời của họ mà cả đến đời con cái của họ. Nếu sự giàu có đó mà chỉ có mình họ hưởng thì cái phước báo của người đó sẽ tiêu mòn rất nhanh chóng. Từ đó, trong một đời người của họ chưa hưởng trọn mà của cải đã bị nước lửa, bị giặc giã cướp bóc, làm cho họ trở thành hai bàn tay trắng, nghèo đói như người khác.

Vì thế không tham lam, không trộm cắp mà có đủ duyên, có đủ tài làm ra tiền, ra bạc thì nhớ: phước báo của mọi người là lớn, phước của mình nhỏ, vì vậy mình cố gắng san sẻ cho những người bất hạnh trong xã hội. Từ đó, của cải tài sản mình bảo vệ được rất là yên ổn mà không hao mất.

Nhớ những lời này là những kinh nghiệm, trong đời Thầy, Thầy đã từng dạy một người cư sĩ và thường nhắc nhở nhiều người nữa. Trên cuộc đời những người cư sĩ, họ đã được an vui, hạnh phúc, họ đã được sung sướng, thoát khỏi cảnh tù tội, thoát khỏi cảnh ghen ghét của người khác. Đó là lòng bố thí của họ.

2.4- KHÔNG TÀ DÂM

(43:14) Bây giờ tới hành động thứ ba: Không tà dâm.

Phàm con người sanh ra đều do dâm dục. Nhưng dâm dục là con đường sanh tử luân hồi, nó là ma chướng làm ngăn trở bước đường tu giải thoát.

Phật dạy: "Lòng dâm không trừ thì không ra khỏi trần lao". Muốn giải thoát mà không đoạn lòng dâm dục thì dù tu muôn ngàn kiếp cũng không bao giờ giải thoát được.

Kinh Thập Thiện dạy:

Người cư sĩ phải ngăn ngừa tà dâm chứ chưa phải tu rốt ráo của bậc xuất gia. Hành động thiện đối với vấn đề sinh lý không phải đoạn trừ, chỉ đừng tà dâm, tức là không chung chạ, ngoại tình với người khác. Nhờ vậy, cuộc sống chung của gia đình mới được an vui hạnh phúc, gia đình đầm ấm, làm ăn phát đạt: Thuận vợ, thuận chồng tát biển Đông cũng cạn.

Sự dâm dục thái quá đưa con người đi đến chỗ bệnh tật nan y, thọ mạng không được lâu dài.

Kinh Thập Thiện dạy:

Người không tà dâm là người trung tín, giữ gìn tiết hạnh, được bốn điều lợi:

1. Sáu căn đều được vẹn toàn;

Nghĩa là cái người mà tà dâm, cái tâm ham dâm thì sáu căn của họ khó mà vẹn toàn: hoặc bị đui, bị điếc hoặc là thân bị tật nguyền, hoặc là mắt, hoặc là tai, hoặc là lưỡi…​ tất cả những cái điều kiện mà họ giữ gìn được, cái tâm mà đừng tà dâm thì họ sẽ giữ gìn được sáu căn trọn vẹn.

Nhiều khi chúng ta có sáu căn mà lỡ hai mắt đui thì đó là một điều bất hạnh cho chúng ta, lỡ hai tai điếc cũng là một điều bất hạnh cho chúng ta. Cho nên sáu căn chúng ta phải được trọn vẹn đầy đủ.

2. Đoạn trừ hết thảy phiền não quấy nhiễu;

Người mà không có tà dâm thì họ dứt trừ tất cả những cái phiền não ở trong gia đình của họ.

3. Ở đời được mọi người khen tiếng tốt;

4. Vợ con không ai dám xâm phạm.

3- THẬP THIỆN - KHẨU HÀNH

(45:48) Bây giờ đến cái phần thứ hai là do cái miệng của mình, do hành động miệng của mình.

Miệng mình có bốn cái hành động để tạo nghiệp, rồi từ cái chỗ nghiệp đó mà chúng ta đi vào trong cuộc sống hiện tại cũng như mai sau, khổ đau hay là hạnh phúc do nơi miệng của chúng ta.

Cho nên, người xưa nói: “Họa tùng khẩu nhập” - tai họa đều do nơi miệng chúng ta mà ra. Vậy chúng ta phải cẩn thận trong lời nói của chúng ta.

3.1- KHÔNG NÓI DỐI

(46:21) Thứ nhất, sống trong xã hội, nếu ai nói dối là tự mình làm mất lòng tin của mọi người.

Nghĩa là chúng ta gạt người ta, chúng ta nói láo người ta một lần người ta chưa biết, chớ hai lần thì người ta sẽ biết liền.

Nói chung, dù mình có khéo léo nói như thế nào thì sự thật nó vẫn là sự thật. Ngày hôm nay người ta chưa biết nhưng ngày mai sự thật nó sẽ đưa đến, người ta sẽ biết mình là người nói láo, người không thành thật, cho nên người ta không bao giờ tin. Từ đó, cái lòng tin của mình bị mất đi, cho nên mình có nói thật người ta cũng chẳng tin mình.

Nói dối là một điều tai hại cho sự chung sống.

Trong gia đình mà mình nói láo, thí dụ như mình đi chơi, mình nói mình đi làm, thì vợ ở nhà tưởng là mình đi làm thật, nhưng mai mốt đổ bể ra thì rõ ràng là làm cho vợ con không tin mình nữa, chỉ một lần thôi cũng đủ không tin mình nữa.

Cũng như mình lãnh lương, rồi về mình dành ra một ít nào đó để cho mình tiêu phí mà mình không nói cho vợ con mình biết. Mình nói: "Đây là cái số lương hôm nay như vậy vậy", mình đưa cho vợ con để chi phí ở trong gia đình.

Vợ con thì tin thật, nhưng một hôm bà ta đem cái áo của mình đem giặt thì móc trong túi ra thấy một số tiền, bà ta nghi ngờ liền: "Chồng mình không thật!" Do cái sự nói không thật đó đã làm cho gia đình bắt đầu tan nát. Người ta không tin nhau nữa rồi thì có sự nghi kỵ nhau làm cho gia đình mình càng ngày càng đau khổ.

Cho nên cái lời nói chúng ta mà nói dối thì chúng ta phải biết rằng, sẽ đưa đến chúng ta những cái quả khổ sau này.

Do nói dối, mọi người mất niềm tin với mình, cuộc sống xem như bị cô lập…​

Người ta hết tin mình rồi, vì vậy cho nên mình nói gì thì ngoài mặt người ta làm như tin nhưng sự thật trong bụng người ta: "Thằng này nói láo", người ta không bao giờ tin mình nữa.

…​ không ai muốn thân cận với mình.

Người ta không có muốn gần gũi mình nữa.

Hòa thượng Thiện Hoa dạy:

Người ta ở đời dù trong một việc nói chơi cũng không nên nói dối. Vì lẽ nói dối quen miệng người ta biết mặt, sau có nói thật cũng chẳng ai tin. Nhất là người học đạo thì không nên nói dối.

Nếu nói dối cứu khổ, phò nguy cho người và vật thì ta còn không nói huống là nói dối hại người, lợi mình thì còn không nên nói nữa.

(49:15) Như Thầy đã nhớ một câu chuyện:

Khi Đức Phật ngồi ở trong rừng mà tu hành thì có một nhà vua đi săn bắn. Ngài đuổi theo một con nai, thì con nai chạy vào trong cái nơi của Đức Phật đang ngồi tu, nó chui vào cục đá đó nó núp, nó trốn. Thì nhà vua đuổi theo mới đến đây, gặp Đức Phật đang ngồi tu ở trên cục đá mới hỏi: "Ông có thấy con nai mà chạy ngang đây không?"

Nếu Đức Phật nói "không" tức là vọng ngữ, mà nói "thấy" thì tức là nhà vua hỏi: "Nó ở đâu?" , ông chỉ nó ở dưới hang, cục đá của mình ngồi, thì nhà vua sẽ giết con vật, thì mình là tội sát sanh.

Nếu ở trong cái câu này, như Hòa thượng Thiện Hoa dạy đó thì như thế này: “Nếu nói dối mà cứu khổ phò nguy cho người và vật thì ta nên nói”.

Nhưng ở đây thì Thầy thấy qua cái hình ảnh của Đức Phật, người tu hành thì dù là cứu người, cứu vật cũng không nên nói dối. Vì thế nhà vua hỏi, Đức Phật làm thinh. Lần thứ nhất đến lần thứ ba thì nhà vua tức giận, cho nên mới lấy gươm mà xẻo cái lỗ tai của cái người này. Và hỏi nữa thì Đức Phật cũng không nói, nhà vua cắt cái lỗ mũi thì ông cũng không nói. Cho đến khi mà nhà vua tức quá chặt hai cánh tay thì ông cũng chẳng nói. Cho đến khi móc mắt ông thì ông cũng chẳng nói.

Đó là chúng ta thấy, giữ gìn cái hạnh không nói dối! Mặc dù là nói dối sẽ cứu được mình đó, nghĩa là thoát khỏi cái cảnh nhà vua giết mình đó, thế mà ông vẫn thản nhiên giữ đúng cái hạnh không nói dối.

Nghĩa là nói dối rất dễ dàng: "Con nai vừa chạy ngang qua đây và chạy luôn đi rồi, không còn ở đây nữa, thì nhà vua hãy chạy theo mà tìm giết nó đi, hay tìm bắn nó đi!", thì lẽ đương nhiên nhà vua phải đuổi theo chứ đâu có cắt tai, móc mắt ông?

Rõ ràng là nói dối một chút xíu mà mình không có đau khổ, thế mà Đức Phật thà chết, thà chịu đau khổ bằng sự hành hạ của nhà vua mà không phạm vào cái lỗi nói dối.

Do thế chúng ta mới thấy cái lời nói dối, dù là một người tu sĩ mà nói dối, khi người ta biết được thì cái giá trị của người tu sĩ đó không ra gì hết. Cũng như chúng ta là những người cư sĩ đệ tử của Phật, đã biết Phật Pháp rồi thì không nên nói dối, dù nói dối có ích lợi cho mình, cho người cũng không nên nói. Huống hồ là nói mà để làm lợi cho mình thì chắc chắn là không nói rồi!

Do qua cái hành động của Đức Phật, chúng ta cần phải học hỏi, cần phải theo gương đó mà giữ gìn cho trọn vẹn giới cái nói dối này. Cho nên thà chết chúng ta không bao giờ phạm giới.

Cũng như giới sát sanh hồi nãy, thì thà là chúng ta chết chớ không giết hại chúng sanh. Đó là những cái quyết định của những người mà thực hiện theo con đường của đạo Phật, để thực hiện được những cái nghiệp lành, từ cái nghiệp lành đó sẽ đưa chúng ta đi đến cái cảnh giới không còn đau khổ nữa.

(52:11) Kinh Thập Thiện dạy:

Người không nói dối được tám điều lợi ích:

1. Được mọi người tin tưởng;

2. Lời nói ra được người người kính yêu;

3. Miệng thường thơm sạch;

Tức là miệng thường thanh tịnh đó.

4. Lời nói thường êm ái;

5. Luôn được an vui như ý nguyện;

6. Lời nói không buồn giận và luôn được vui vẻ;

7. Lời nói được mọi người vâng theo;

8. Trí tuệ thù thắng không ai hơn.

Đó là cái người mà không nói dối họ được tám cái điều lợi ích như vậy.

Và chúng ta cũng nhớ lấy cái gương của Đức Phật mà chúng ta làm cái gương là không bao giờ nói dối. Nhất là những người thân trong gia đình của mình, đừng nên có một lời nói dối, vì nói dối sẽ làm mất niềm tin và từ đó trong gia đình bất an.

Người cư sĩ thì chúng ta sống còn chung đụng nhiều người, còn tiếp duyên nhiều người. Một người hay nói láo thì chúng ta không tin người đó, và không tin người đó thì người đó dù có thất nghiệp, dù có trong cảnh đau khổ nào đó thì chúng ta cũng không giúp được, là tại sao?

Tại vì chúng ta nghĩ rằng: "Người này hay nói láo là sẽ gạt mình!" Trong khi họ, vợ con họ khổ sở, khốn khổ, họ đến nói thật mà mình vẫn nghi rằng họ nói láo, cho nên chúng ta vẫn thấy họ là cái người không (cần) giúp đỡ. Đó là những cái tai hại cho cái người nói láo.

Vì vậy mà chúng ta biết, chúng ta cần phải dè dặt, không bao giờ nói sai sự thật, phải nói đúng sự thật. Có thì nói, thấy thì nói, mà không thấy thì nói không thấy, không nên nói một cách không đúng sự thật.

3.2- KHÔNG NÓI LỜI THÊU DỆT

(54:09) Bây giờ đến cái phần thứ hai của cái miệng là:

Không nói lời thêu dệt.

Người đời thường trau chuốt lời nói, đi buôn vật xấu nói tốt để bán cho được giá, gạt người mua về không xài được.

Đó là cái lời nói nói thêu dệt đó.

Chỉ một chút lòng nhỏ mọn, hờn ghen liền dùng lời nói thêu dệt để cho đôi bên thù hận, có thể giết hại lẫn nhau, làm tổn hại tánh mạng của người khác.

Đó là lời thêu dệt rất là tai hại, có thể giết người.

Chỉ một chút lòng ganh tỵ, thù vặt bèn dùng lời nói thêu dệt để lung lạc lòng người khác hoặc để quyến rũ hay gạt gẫm người khác làm tổn hại danh dự và tài sản, cốt để đem lại cho mình được nhiều lợi lạc và còn được tiếng thơm, tiếng tốt cho mình.

Ngược lại, người không có lời nói thêu dệt dùng lời nói đúng đắn, chánh lý, không gạt gẫm, lừa bịp người, không làm tổn hại danh giá, tài sản, thậm chí cho đến tánh mạng.

Thêu dệt tức là đặt điều nói xấu người khác, khiêu khích người khác, khiến cho người phải buồn khổ, có thể đi đến sự tự tử, quyên sinh tánh mạng.

Nghĩa là chuyện không có mà mình thêu dệt ra cho thành có chuyện. Chuyện người ta không xấu, mình nói người ta xấu; chuyện người ta xấu, mình thêu dệt mình nói người ta tốt để được tình được nghĩa với người này, người kia. Cái lời nói đó chúng ta cần phải tránh. Đem cái lời nói làm cho người ta giận hờn nhau, rồi đem cái lời nói làm cho người ta ưa nhau.

(56:15) Như những người làm môi giới, thấy cái chú này không được, nhưng mà đến đằng gái thì khen chú này là tốt, là học giỏi, là này kia đủ thứ, là có đức, có hạnh đủ thứ, nhưng mà sự thật thì cái chú này thì tham lam, hút thuốc, rượu chè bê bết! Thế mà cái ông làm mối thêu dệt nói chú này thế này, thế khác cho tốt, cho được lòng đằng gái.

Rồi lại đằng trai thì nói cô này là công, dung, ngôn, hạnh như thế này, như thế khác, hiền đức đủ loại, nhưng mà cô này thì chẳng ra gì hết! Những cái tay mà có thể ăn chơi hoặc là có thể đủ cách ở trong thế gian này, thế mà cũng được ca ngợi.

Đó là những cái thêu dệt. Những lời thêu dệt đó đã làm cho gạt người ta, để làm cho người ta không biết, người ta tin theo, rồi người ta rước cái cô dâu đó về, hay hoặc là người ta rước cái chú rể đó về. Chừng đùng một cái thì người ta: "Hỡi ôi! Mình lầm người!"

Đó là những lời thêu dệt, chúng ta không nên. Cái tốt thì chúng ta nói tốt mà cái xấu thì chúng ta nói xấu, không được thêu dệt tốt biến thành xấu mà xấu biến thành tốt. Điều đó là điều thêu dệt, không được.

Kinh Thập Thiện dạy:

Người không đặt điều nói xấu người khác có ba điều lợi ích:

1. Được mọi người quý mến;

2. Thường đáp được những câu hỏi khó;

3. Có đầy đủ uy tín cao quý trong cuộc đời.

3.3- KHÔNG NÓI LƯỠI HAI CHIỀU

(57:50) Không nói lật ngược.

Về hành động của miệng của mình hay nói lật ngược trở lại, nói rồi rồi nói lại cái khác. Vừa mới nói đó mà thấy cái điều đó có hại cho mình thì ngay đó mình lật ngược lại, nói: "Tôi không nói điều đó!"

Người đời có lắm kẻ nhiều mồm mép, vừa nói đó một lúc sau lại nói ngược lại, lấy quấy làm phải, lấy phải làm quấy.

Người ta nói: “Cái lưỡi không xương nhiều điều lắt léo, cái miệng không vành nó méo tứ tung”. Đúng vậy, những hạng người nói lật ngược là những người "lưỡi không xương", là những người "miệng không vành".

Hạng người này là hạng người nhiều chuyện. Họ là kẻ dụm ba, dụm bảy chuyên nói xấu người khác; đem chuyện người này nói ra, nói vào bêu xấu, khiêu khích người khác, gây phe nhóm tạo cảnh bất hòa, thù hận; và còn đem chuyện người này dèm pha với người kia, nhạo báng, chê bai làm cho người khác tức giận hoặc xấu hổ, đau khổ; dùng môi mép đứng trung gian gây ác cảm đôi bên để đi đến kiện thưa.

Người không nói lưỡi hai chiều thì không có chuyện lôi thôi với mọi người, không bị người ta lôi ra làm chứng cớ. Còn ngược lại, những kẻ ấy đều gọi là người nhiều chuyện.

Người không nói lưỡi hai chiều không làm phiền muộn ai hết, được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa người gần đều kính mến.

Người không nói lưỡi hai chiều thường dùng lời êm ái, an ủi, khuyên giải giúp cho mọi người được hòa thuận thân yêu nhau, khiến cho mọi người đều vui vẻ, an lòng. Người này đi đến đâu, ở đâu cũng được mọi người kính yêu. Gặp việc khó bất hòa, người này đứng ra thu xếp, hòa giải một cách dễ dàng.

Người không nói lưỡi hai chiều khiến gia đình sum họp, an vui, tình làng nghĩa xóm hòa thuận, kính yêu nhau.

(01:00:28) Kinh Thập Thiện dạy:

Người không nói lưỡi hai chiều được năm điều bất hoại:

  1. Nhân bất hoại;

  2. Sống trong gia đình sum họp;

  3. Đức tin bất hoại;

  4. Pháp hạnh bất hoại;

  5. Thiện hữu tri thức bất hoại.

Nghĩa là:

Nhơn bất hoại: là đối với cái thân của mình thường được vui vẻ, được tốt lành, nó không làm cho mình hư hoại.

2. Sống trong gia đình sum họp: nghĩa là cái người này sống trong gia đình nào, gần người nào cũng đều có sự hòa hợp, sum họp khi họ là người không nói lưỡi hai chiều. Ở đâu thì họ cũng được sự hòa hợp.

Ví dụ như quý thầy là những người sống trong Tăng đoàn mà không nói lưỡi hai chiều, tức là không dựa theo người này nói theo thế này, dựa theo người kia nói theo thế kia, nói không đúng cái sự thật, thêu dệt ra, thì những người này thường sống được hòa hợp trong mọi người.

3. Đức tin bất hoại: Ai cũng tin tưởng người này, cho nên cái lòng tin không có bị hoại diệt.

4. Pháp hạnh bất hoại: Cái hạnh của người tu này, dù là người cư sĩ cũng không bao giờ bị hoại diệt, cái đức hạnh của họ không bao giờ bị hoại diệt.

5. Thiện hữu tri thức bất hoại: Nghĩa là họ luôn hj luôn họ gặp nhiều bậc thiện hữu tri thức, những người tốt, không phải là người xấu. Còn cái người mà nói hai chiều này thì họ không bao giờ có những thiện hữu tri thức tốt.

Đó là tất cả năm cái điều lợi ích này cho một người không nói lưỡi hai chiều.

3.4- KHÔNG NÓI LỜI HUNG ÁC

(1:02:29) Không nói lời hung ác.

Lời nói hung ác là lời nói dữ, lời nói hung ác là lời vu khống người.

Người ta không có làm một cái chuyện bậy mà mình vu khống người ta làm chuyện bậy. Thí dụ như người đó không ăn cắp mà mình hô người ta ăn cắp; người đó không tà dâm mà mình hô là người đó tà dâm; người đó không nói láo mà mình nói rằng người đó nói láo.

Mình vu khống người ta những cái mà người ta không có làm, rồi mình nói phao phản người ta. Chẳng hạn người ta không phản phúc mà mình nói người ta phản phúc.

Lời nói hung dữ còn là lời nói bươi móc việc xấu của người khác ra.

Đó là lời nói hung dữ.

Người ta làm cái điều xấu thì để người ta thọ lấy cái quả xấu của họ, thế rồi chúng ta bươi móc ra cho người này nghe, người kia biết để cho mọi người cười chê, biếm nhạo người đó. Tức là cái lời nói đó là lời nói hung dữ.

Lời nói hung dữ còn là những lời nói cộc cằn, thô lỗ như lời nói mắng nhiếc, mạ lỵ người, khinh chê người, làm cho người khác tức giận, khổ đau.

Người không nói lời nói hung ác thường dùng lời nói khen ngợi, lời lẽ ôn tồn, trang nhã, hiền hòa, lời nói luôn luôn làm cho mọi người được an vui, yên ổn.

Kinh Thập Thiện dạy:

Kẻ nào không nói lời hung dữ sẽ được tám món công đức:

  1. Nói đúng pháp;

  2. Lời nói có ích lợi;

  3. Lời nói đúng chân lý;

  4. Lời nói khôn khéo;

  5. Nói điều chi ai cũng vâng theo;

  6. Lời nói được nhiều người tin;

  7. Lời nói không ai chê;

  8. Lời nói được yêu mến.

Đó là tám cái điều lợi ích cho một cái người không có lời nói hung ác, không có lời nói dữ tợn.

Lời nói dữ tợn thường lưu xuất từ cái tâm sân hận của họ, lời nói dữ tợn do từ cái tánh xấu của họ, cho nên cái lời nói đó nó theo tâm tánh của cái người đó. Vì vậy mà thấy cái lời nói hung ác là biết cái người đó là người dữ tợn, cái người sân cũng dữ mà tánh cũng ác dữ. Những cái lời nói hung ác thì chứng tỏ, nghe cái lời nói thì biết cái người đó là cái người dữ tợn.

4- TỪNG PHẦN DỨT BỎ, TRAU DỒI VÀ TU TẬP TRONG THẬP THIỆN

(01:05:18) Đến đây là bốn cái điều kiện của cái miệng của mình hành động để tạo thành một cái nghiệp đau khổ cho chính đời mình. Vì vậy mà những cái điều này, từ cái thân của chúng ta nó có ba cái hành động, thì chúng ta hãy cố gắng.

Ở đây như Thầy đã dạy là chúng ta có bốn cái điều kiện để tu tập trong cái giai đoạn một của người cư sĩ. Như cái giai đoạn thứ nhất thì chúng ta phải thông suốt, thông hiểu những gì phải thông hiểu đó. Cái giai đoạn thứ hai là phải trau dồi.

Cái giai đoạn thứ hai thì chúng ta thấy rằng: mình cũng phải trau dồi từng cái hành động, từng cái ý tứ của mình, rồi từng cái bước đi, từng mọi cái hành động của chúng ta như là lấy của không cho, chúng ta cũng phải trau dồi cái hành động.

Chẳng hạn là như người ta nói rằng, khi mình đi ngang qua một đám dưa, mặc dù là mình không tham nhưng mình cúi xuống mình sửa giày là cái người giữ dưa người ta nghĩ rằng mình đã hái dưa. Cho nên đó là mình phải trau dồi những cái hành động khéo léo để mình tránh cái sự nghi ngờ của kẻ khác.

Do khi đi ngang qua đám dưa, dù là chiếc giày chúng ta có sút đi nữa, hoặc là như thế nào thì chúng ta cũng đừng nên cúi xuống mà làm cho người khác sanh cái tâm nghi ngờ, tạo cho cái tội của họ. Và đồng thời họ đánh giá trị chúng ta là người không trau dồi được cái hành động của mình.

Cho nên sự trau dồi cũng như chúng ta tu Chánh Niệm Tỉnh Giác là để đi kinh hành từng cái sự ý tứ của chúng ta, từng cái hành động làm hàng ngày của chúng ta; đó là chúng ta trau dồi cái hành động của chúng ta, cái hành động thiện, cái hành động ác của chúng ta đều biết rõ ràng. Cho nên chúng ta phải trau dồi từng chút.

Và cái phần thứ ba là những gì mà chúng ta cần phải dứt. Chúng ta biết rằng cái hành động giết hại chúng sanh làm đau khổ chúng sanh, chúng ta phải đoạn dứt, không được cho nó tiếp diễn.

Như vậy là lấy ba cái hành động thân, khẩu, ý để làm tiêu chuẩn trau dồi Mười Điều Lành, như hồi nãy Thầy đã giảng dạy ở trên.

(01:07:51) Về thân hành thì phải dứt bỏ.

Quý thầy phải nhớ: Về thân hành thì quý thầy phải tập dứt bỏ. Dứt bỏ cái gì?

Thứ nhất là dứt bỏ sát sanh.

Thứ hai là dứt bỏ trộm cắp, không được lấy của không cho.

Thứ ba là dứt bỏ tà dâm, dâm dục.

Về phần khẩu hành phải trau dồi.

Mà trau dồi cái gì đây?

Thứ nhất là phải trau dồi không nói dối, phải luôn luôn nói lời chân thật;

Hai là trau dồi không nói lời hai chiều, phải luôn luôn nói một chiều, nói đúng sự thật;

Ba: Trau dồi không nói lời phù phiếm, nói cái gì đáng nói, đúng thời, đúng lý; không có lý luận, không nói một cách viển vông, nói một cách không có đúng, thì không được nói;

Bốn: Trau dồi cái lời nói, không được nói lời hung dữ, phải luôn luôn nói lời nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, dễ thương.

Đó là cái phần trau dồi về cái lời nói.

Về phần ý thì phải tu tập.

Đây quý thầy phải nhớ: về phần cái ý thì phải tu tập.

Thường ngày phải tu tập Định Vô Lậu, quán xét các pháp vô thường, bất tịnh, khổ, vô ngã để diệt ý tham, ý sân. Và hàng ngày quý thầy còn phải tu tập và quán sát các pháp để thông suốt khiến cho tri kiến giải thoát của quý thầy được triển khai rộng ra, hiểu lớn ra. Do cái tri kiến giải thoát của mình nó làm cho mình hiểu được các pháp vô thường, khổ và vô ngã, làm cho tâm si lần lần lui mất.

Và hàng ngày, quý thầy còn phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành để phá cái tâm si ám, ham ngủ, lười biếng, bần thần, khó chịu. Vì có tu tập như vậy thì Minh lần lần phát triển và Vô Minh lần lần sẽ bị tiêu diệt, tức là ý si tiêu trừ.

5- VÌ MÊ MỜ KHÔNG HIỂU MÀ TẠO NHIỀU ĐIỀU ĐỘC ÁC

(01:10:18) Chính mười cái điều ác này đã đưa kiếp con người đi đến khổ đau bất tận, chịu biết bao nhiêu gian khổ, lại còn bệnh tật, tai ương, già, chết.

Thảm trạng của đời người là vậy, nhưng mấy ai đã biết. Nếu không có Đức Phật mở lối dẫn dắt chúng sanh thì biết chừng nào ra khỏi sáu nẻo luân hồi đau khổ!

Vì chính vô minh, mê mờ, không hiểu, con người đã lầm chấp mọi vật trên thế gian này là thường còn, thường hằng; cho thân tâm của mình là cái ngã nên cố gắng bảo vệ, nuôi dưỡng và phục vụ nó một cách điên khùng, tạo nhiều điều độc ác.

5.1- CHƯA SỐNG ĐƯỢC VỚI LÝ VÔ THƯỜNG NÊN BỊ DÍNH MẮC CÁC PHÁP

(01:11:15) Bởi vậy khi mà chúng ta lầm chấp cái thân này là thật, rồi những vật xung quanh chúng ta như: bàn, ghế, nhà cửa…​ tất cả đều là thật, cho nên lầm chấp cái đó mà chúng ta cố gắng, hở đồng xu nào mà làm ra được thì chạy thôi mua sắm mua sắm dẫy đầy, nhà thì nhỏ mà chất riết rồi không chỗ chất. Giường thì chúng ta có cái hộc rất nhỏ mà ở riết thời gian thì ngập hết, không biết đâu mà chứa cho hết!

Đó là cái sai lầm, cái hiểu lầm vật chất. Mọi vật trong thế gian này nó đâu có thường hằng? Mà cái bản ngã của chúng ta đâu có có? Thế mà chúng ta cứ lấy những cái vật đó để phục vụ cho cái thân, để cho nhiều ra.

Mà hễ mỗi lần nhiều ra như vậy, mất mát một cái gì thì tâm hồn điên đảo, buồn khổ, có nhiều người khóc sướt mướt. Mà thử hỏi vật chất đó có cái gì mà còn tồn tại đâu mà tiếc?

Hôm nay chúng ta mua cái vật này - như cái máy này - chúng ta xài. Thời gian năm năm, mười năm sau nó cũ đi, rồi nó hư trong đó đi, rỉ sét hoặc này kia, đem quăng ngoài kia không ai thèm lượm hết.

Thử hỏi nó có thường hằng không? Mà mới mua về, đứa nhỏ nào mà lỡ làm trầy một cái là táng trên đầu nó liền, không có nương tay chút nào hết, mà còn la mắng dữ tợn nữa, coi cái của hơn là mạng người nữa!

Cho nên ở đây, vừa rồi Thầy thấy có một người tiếc hai cái trứng gà mà treo con chó lên, cứ vài ba giờ đồng hồ là đập con chó la, kêu la thảm thương mà họ không thấy sự đau khổ của con vật. Vô tình ăn trộm có hai trứng gà mà bị đòn gần nát thân! Thầy nghe cô Út nói bóp cái miệng máu ra nữa. Quá tội!

(01:13:06) Nghe trước thảm trạng đó thì mình thấy: người ta thấy vật chất, thấy hai trứng gà là quá quý. Nhưng nuốt khỏi cổ rồi có quý chỗ nào đâu? Thử hỏi ngày mai đi cầu ra nó là cái chất gì? Nó còn như cái trứng gà nữa không? Hay hoặc nuốt khỏi cổ rồi mửa ra thử hỏi còn ai dám nuốt nó vô nữa không? Thế mà đập con chó gần chết!

Đáng thương, con chó cũng vì vô minh, lầm, cho nên mới đi lẽo đẽo vô ổ gà mà ăn cắp hai trứng mà bị đòn nát thân.

Bởi vậy, chúng ta là những người tu, đừng nhìn những vật chất. Cho nên Thầy mỗi lần mà thấy có những cái vật gì mà quý Phật tử mua về cúng dường là Thầy thấy quá đau khổ!

Như vừa rồi Minh Tâm mang cái máy cưa về đã là một nỗi đau khổ. Thầy dặn cô Út: "Thôi trả người ta đi, chịu lỗ chút ít không sao!" Rồi bây giờ đem về Thầy một cái máy nữa! Thầy: “Trời ơi!” Thầy đi vô rừng làm sao Thầy quải theo cho được, mà cứ cúng dường, cúng dường!

Như vậy là một thời gian sau đây các con biết, phòng Thầy vách liếp, mà nó kê bằng máy điều hòa không khí ở trong đó thì chắc là Thầy lạnh chắc chết!

Đời tu hành sao mà lại cám dỗ đến thế à? Bởi vậy, khổ quá. Thầy không còn có cái nghĩ gì hết. Tại sao chúng ta chỉ xin họ cơm ăn mà họ không cho chúng ta cơm ăn, mà họ cho chúng ta chi những cái đồ vật nặng nề?

Các con nghĩ, Thầy xách cái cưa tay nhỏ vầy, Thầy ra Thầy kéo một chút Thầy mệt Thầy vô Thầy nghỉ, Thầy xách vô đâu có mệt! Đẩy một cái máy cưa ra đó, cưa có mấy gộc cây rồi đẩy vô, nội cái đẩy ra đẩy vô không thì chắc chắn là Thầy tối đó Thầy ngồi thiền cũng hết muốn nổi rồi. Các con hiểu không? Nó nặng quá!

Bây giờ thì Minh Tâm nó sợ đèn đuốc của chúng ta nó hay cháy bóng rồi mấy con cứ xin Thầy hoài, cho nên mua cái máy ổn áp như thế nào đó để cho chúng ta xài nó không có hư hao bóng đèn. Cũng bày đặt nữa. Thầy thiệt!

Chất cả chùa rồi bây giờ còn chất thêm. Thấy toàn là vật chất đau khổ. Đời thì người ta thêm được cái gì thì người ta mừng lắm, nhưng mà Thầy thấy cái nhà Thầy mà nó chật thêm Thầy thấy không có chỗ ngủ, khổ lắm!

Nhưng nói làm sao khi người ta có tâm thành cúng dường mình. Thầy đã nói rằng y áo Thầy đủ mặc rồi, họ bảo: "Thầy bỏ cái y áo này đi, nó ẩm hết rồi". Mà Thầy thấy nó còn chắc thì Thầy đâu bỏ được? Mặc cho tận cùng đi, còn mặc được ấm thân, kín thân của mình mà!

Họ bảo họ cúng dường Thầy cái này, cái kia: "Thầy mặc đi, bỏ những cái đó đi, để nó ngứa!" Thầy thấy mặc có ngứa chỗ nào đâu, Thầy giặt hàng ngày.

Bởi vậy họ phí, rất phí, họ có tiền rồi họ phí, họ bảo mình cũng phí như họ. Nhưng mà Thầy có mồ hôi nước mắt Thầy đổ ra đâu mà Thầy phí, cho nên Thầy mặc tận cùng, chừng nào vá không được thì thôi.

(01:16:03) Thầy thấy Mật Hạnh xin hai bộ đồ là hai cái bộ đồ thay thôi, cho thêm cái nữa không cất: "Con cất kiến vô trỏng, con mất công cực!". Phải không? Các con thấy không. Cho nên cho nó hai cái khăn là nó nhận một cái thôi, đủ xài thôi, không thèm dư. Chừng nào không có thì Thầy cho nữa mà có thì thôi, không xin.

Thầy thấy lập hạnh như vậy quá đúng. Cho nên nhìn trước, nhìn sau, nhìn vào trong thất nó chẳng có gì hết, cuối cùng mới là giải thoát. Qua những cái hạnh đó đáng chúng ta noi gương.

Và Thầy thì Phật tử cứ nay mua cái này, mai sắm cái kia, nếu cỡ mà Thầy gật đầu, cái phòng này quạt máy nó chạy chắc mấy con ngồi không đổ mồ hôi đâu. Nhưng mà khi mình học Phật Pháp, mồ hôi mình đổ ra một chút để mình học được pháp thì nó thấm thía lắm, còn mát mẻ quá mà ngồi nghe pháp chắc chắn là ngủ gục. Đó là những cái điều mà Thầy biết.

Cho nên ở đây quý thầy, những cái buổi trưa, cái mùa này mùa mưa nó còn mát đó, còn mùa nắng thì quý thầy có nhiều người nói: "Thầy xin Phật tử cho mấy cây quạt máy ở đây treo đi, mình ngồi ăn mát!”

Thôi, Thầy nói ông Phật chắc ổng treo quạt máy ở gốc cây ấy, chứ ổng biểu ổng ăn ở gốc cây, rồi mỗi lần đi xin ổng phải treo cái quạt máy trên cần cổ ổng đeo đi, chớ bây giờ ổng làm sao? Các con hiểu. Cho nên, tu hành thì buông xả mà sợ nóng nực thì phải mang quạt máy theo!

Cái cuộc đời, Thầy thấy thiệt không có hiểu làm sao hết! Bởi vậy Thầy nói quý thầy sao mà tu hành còn sợ nóng, sợ nực? Ông Phật nhiều khi ổng ngồi giữa đồng ăn cơm nữa, ổng có nói gì đâu. Bởi vì ở sa mạc mà, đâu có cây!

Đó là tất cả những cái sai của nghiệp, nó thúc đẩy cho chúng ta chạy theo những cái dục lạc của cái thân tâm của chúng ta. Cho nên chúng ta lầm chấp nó mà nuôi dưỡng, phục vụ nó một cách điên khùng, tạo nhiều điều ác mà chúng ta không biết.

Bởi vì mình muốn có tiền để sắm ra những cái vật dụng đó đó, mình phải suy tính đủ cách. Người buôn bán thì mình phải bán mình phải đo vải rồi đo thiếu người ta đi để kiếm lời nhiều. Mà cân đậu, cân mè, cân đường thì cân bớt đi một vài khía có làm sao đâu, người mua đâu có biết!

Bởi vì nó bớt đi một khía, hai khía họ đâu có biết đâu, cho nên mang về, nhưng mà cuối cùng cái lời đó là cái tội lỗi chớ không phải là cái đúng. Từ đó tạo những cái tội lỗi gian xảo, độc ác, gian ngoa đó thì thử hỏi các con nghĩ, ai chịu những cái nghiệp quả này?

Không phải là từ cái chỗ mà ham tiền nhiều để cho mình sắm sửa cái này kia, nhưng mà rồi thỉnh thoảng Thầy thấy nó hư, hư rồi cũng đem quăng, sắm cho nhiều rồi hư cũng quăng bỏ, chớ cũng chẳng có cái gì mà lợi ích.

Bởi vì nó là vô thường, làm sao mà nó thường hằng được. Cho nên bỏ, bỏ hết, bỏ hết, không có còn để gì hết.

(01:18:54) Thậm chí có người còn mơ tưởng tìm thuốc trường sanh hoặc tu hành luyện đơn để được trường thọ sống lâu muôn tuổi.

Trời ơi! Thiệt ra cái thân này vô thường mà tưởng nó thường. cho nên bây giờ muốn cho nó được sống với mình hoài hoài, lâu lâu. Thôi ráng tu tập thiền đi để kéo dài tuổi thọ từ kiếp này đến kiếp khác! Ông Phật ổng nói, ổng muốn sống bao nhiêu kiếp cũng được, mình cũng ráng nỗ lực tu thiền để kéo dài tuổi thọ!

Thiệt ra, ăn ngày một bữa, Thầy thấy cái kiểu mà sống như vầy Thầy cũng không ham kéo dài thêm nữa đâu! Các con thấy ăn có ngon ngào gì nữa đâu! Hàng ngày thì đặt niệm ăn trước mặt của mình quán xét, ăn vô khỏi cổ rồi thì nó bất tịnh toàn bộ, còn ham đâu mà ăn! Cho nên đâu còn thích sống ở trong cuộc đời này, cái đời này còn cái gì nữa mà thích?

Cho nên cuối cùng được đủ duyên rồi mà các con tu hành được thì mau mau nhập Niết Bàn chớ tham gì mà sống nữa! Các con thấy nè, ngủ thì ngủ ở trên cục đá nè, ăn thì không có cần ngon, chỉ nuốt để mà sống thì đâu còn có cái gì nữa mà gọi là ham.

Còn ở ngoài đời, người ta ăn là phải ngon nè, ăn ngày ba bốn bữa nè; cái gì ngon nhất ở trong thế gian này - mỹ vị - thì có tiền là chạy đi mua về ăn, ăn thưởng thức cho biết. Còn mình đâu có dám điều đó, một người tu thì đâu có ăn cái kiểu vậy được. Ai cho gì ăn cái nấy để mà sống chớ đâu đi tìm những mỹ vị trên thế gian này ngon để mà ăn?

Cho nên, sống có còn ham thích nữa không? Không ham thích chút nào hết. Nhưng vì cái nhân Phật Pháp còn, chúng ta phải ráng để duy trì cái tuổi thọ thêm để hướng dẫn người mà thôi.

Cũng như bây giờ tuổi của Thầy nó là sáu mươi mấy tuổi rồi, thì nó cũng nằm ở trong dạng thượng thọ chứ đâu phải là trung thọ nữa. Như Thầy đã giảng các con thấy: từ ba mươi tuổi trở lại là yểu tử, mà từ ba mươi tuổi trở lên sáu mươi thì nó là trung thọ, mà từ sáu mươi trở lên một trăm tuổi đó là thượng thọ. Thì tuổi của Thầy thì nó cũng đi về cái phía bảy mươi rồi.

Mà xưa có một nhà thơ nói: người đời mà sống được bảy mươi thì rất là hy hữu rồi. Thế mà Thầy bây giờ còn có bảy năm nữa là bảy mươi rồi thì không phải là hy hữu sao?

Nhưng mà cỡ sức Thầy sống thêm mười năm nữa, hai chục năm nữa cũng có thể được chớ, nhưng mà sống làm chi thêm, lê cái thân vô thường này, nay đau, mai ốm!

Thầy nói như bây giờ cô Huệ Ân nè, nay thì nhức cái đầu, mai thì tức cái ngực, mà bây giờ chết thì nó không chịu chết, mà sống thì nó cứ đau bệnh. Thử hỏi, nếu mà cô Huệ Ân mà có sức thiền định: "Thôi, tao bỏ thân này tao đi cho khỏe đi! Thử hỏi coi ở đây có làm gì ích lợi nữa đâu?” Phải không?

(01:21:45) Cho nên, tại vì chưa có đạt được cái sức làm chủ cho nên còn giữ nó để mà chúng ta thực hiện cho được. Vì vậy mà hàng ngày thì Huệ Ân hãy ráng cố gắng hướng tâm tu Định Vô Lậu và luyện tập từng hơi thở.

Không cần phải tu nhiều như cô Út dạy, chừng năm, mười hơi thở mà mỗi hơi thở đều là có sự vận dụng cho chậm nhẹ, và đồng thời trong năm, mười hơi thở đó hướng tâm nhắc: “Hơi thở phải ngừng đi! Đừng thở nữa! Để cho tao làm chủ cái thân này coi được không?” Dặn nó vậy, mỗi lần mà hít thở thì cứ nhắc nó vậy. Một ngày nào đó nó ngưng lại mà mình không chết, biết rằng mình làm chủ được cái chết rồi.

Đó thì nhớ lời Thầy dạy. Cố gắng! Còn không bao lâu nữa mà nỗ lực tu tập cho đúng cách như vậy, không cần phải ngồi nhiều, năm mười hơi thở mà nó dừng được thì tức là làm chủ được sanh tử.

Nhưng mấy ai đã làm được chỉ vì vạn pháp trên thế gian này đều vô thường.

Vạn pháp - tất cả các pháp trên thế gian này không có một pháp nào mà thường hằng được. Cho nên nói do chỗ hiểu biết của Phật Pháp thì chúng ta thấy vô thường. Do sự vô thường đó thì chúng ta còn luyện đơn, còn tìm thuốc trường sanh để mà chúng ta kéo dài tuổi thọ nữa không?

Chúng ta không làm điều đó đâu. Điều đó là điều mơ tưởng của những người chấp ngã, của những người thân kiến chớ không phải là của những người hiểu biết rõ các pháp.

Chúng ta được Phật dạy cho chúng ta hiểu:

Các pháp trên thế gian đều là vô thường, nay còn, mai mất, tan hợp như mây giữa trời.

Đó, rõ ràng là các cái pháp ở trong thế gian này, bữa nay chúng ta thấy nhưng ngày mai nó sẽ bị hoại diệt, do đó mà như đám mây giữa trời lúc tan, lúc hợp.

Vì vậy mà chúng ta đã hiểu thấu suốt được cái lý này thì chúng ta hãy tu tập ở trên cái Định Vô Lậu để chúng ta chứng được cái lý vô thường. Mà chứng được cái lý vô thường thì chúng ta không còn bị dính mắc các pháp. Và không còn bị dính các pháp thì tâm của chúng ta vô lậu hoàn toàn.

(01:24:02) Cho nên các con không chịu khó tu tập cho chứng được cái lý vô thường. Vì hàng ngày chúng ta đặt niệm, đặt các pháp trước mặt của chúng ta mà suy xét mọi sự vô thường của nó, thì lúc bấy giờ, ngày ngày tu tập như vậy làm cho tâm của chúng ta đạt được cái như lý vô thường.

Nghĩa là bây giờ, các con nghe Thầy giảng thì các con hiểu được các pháp là vô thường, thân người là vô thường, nhưng các con mới ngộ được lý vô thường nhưng các con chưa chứng được lý vô thường.

Các con nói thì được, các con hiểu thì được nhưng các con chưa sống được lý vô thường. Cho nên vì vậy mà tất cả các pháp các con đều bị dính mắc. Nếu các con chứng được lý vô thường thì các pháp các con không tiếc gì hết.

Cũng như Thầy rũ bỏ tất cả để ẩn bóng, thì đó là Thầy đã chứng được lý vô thường Thầy mới bỏ đi được. Còn Thầy không chứng được lý vô thường Thầy rất sợ: vô rừng đây rồi không biết lấy gì ăn mà sống, đây rồi nó đau nó bệnh, rồi đây là cọp nó xé xác mình, đây rồi rắn, rít độc nó cắn, rồi đau, ôm chân mà khóc ở trong rừng, nó bao nhiêu cái mà nó làm cho Thầy không thấy nó vô thường.

Còn Thầy thấy nó vô thường, Thầy chẳng ngại chút nào hết. Vì nó vô thường, có chết cũng là vô thường.

Còn các con có dám vậy không? Tức là các con chưa chứng được lý vô thường.

5.2- KHÔNG HIỂU LÝ DUYÊN HỢP NÊN KHÔNG THẤY DIỄN BIẾN NHÂN QUẢ

(01:25:31) Vì vô minh không hiểu lý duyên hợp…​

Đó, bây giờ tức là các con thấy Đức Phật đã dạy chúng ta biết được cái duyên hợp của các pháp, nó hợp ra nó mới thành. Một cái máy này nó phải do những cái vật dụng gì nó mới hợp nhau mới thành cái máy này, chớ nó đâu có một vật duy nhất mà nó thành được!

Cũng như cái thân của chúng ta, nó phải là đất, nước, gió, lửa nó mới hợp lại thành cái thân chúng ta. Cũng như cái nhà này nó phải có những cây rồi những cột, kèo, rồi những liếp, những tôn nó mới kết lại nó mới thành cái nhà. Nó do cái duyên hợp nó mới thành.

Cho nên có người hỏi: “Tóc có phải là Thầy không?” Thì đâu phải Thầy là tóc, phải không? “Xương có phải là Thầy không?” Cũng đâu phải là Thầy! Có người hỏi: “Da có phải là Thầy không?” Cũng đâu phải là Thầy. Người ta hỏi: “Cái y của Thầy có phải là Thầy không?” Đâu phải Thầy!

Hỏi tất cả toàn bộ trong thân Thầy, cái nào cũng không Thầy hết, nhưng mà hợp lại thì đó là Thầy. Phải không? Các con thấy, đó là lý duyên hợp.

Mà khi hiểu biết được lý duyên hợp thì chúng ta biết vạn vật trong thế gian này đều là do duyên hợp mà thành, không có một chất nguyên tử duy nhất của nó mà thành được.

Đó thì như vậy là chúng ta đã biết được lý duyên hợp của các pháp, cho nên chúng ta thấy hoàn toàn là không có một vật gì thường hằng được. Nó có hợp rồi nó phải tan.

Vì vậy mà Phật đã dạy chúng ta Mười Hai Nhân Duyên đó, mười hai cái duyên mà nó hợp lại, nó thành ra một cái thế giới: Cái thế giới đau khổ, cái thế giới hữu hình. Mà mười cái hai duyên này nó tan hoại, thì cái giới đau khổ nó hết và cái thế giới hữu hình nó hoại diệt. Đó là bài Thập Nhị Nhân Duyên, để cho biết, nó không còn có một cái vật cái gì, không còn có một cái thứ gì mà vô hình ở trong đó nữa.

Cho nên thậm chí như người ta xây dựng cái linh hồn, thì đạo Phật đã xây dựng trên Thập Nhị Nhân Duyên là cái lý duyên hợp, làm cho thấy cái thế giới siêu hình không có. Đó là cái xác định của đạo Phật rất rõ ràng.

…​nên không thấy nghiệp lực…​

Thầy đọc lại:

Vì vô minh không hiểu lý duyên hợp của vạn pháp, nên không thấy nghiệp lực diễn biến trên lộ trình nhân quả…​

Đó, các pháp này nó hợp lại thì nó thành, thì do cái nghiệp đó nó mới tạo ra những cái nhân quả của nó, cái nhân duyên của nó. Rồi từ cái nhân duyên đó, cái nghiệp lực nó thúc đẩy đi ở trên cái diễn biến của lộ trình nhân quả.

Thí dụ như bây giờ Thầy không nghiền rượu nè, rồi bắt đầu Thầy lần lần Thầy quen với rượu rồi Thầy ghiền rượu nè. Rồi bắt đầu từ đó Thầy mới tạo ra cái nghiệp này, nghiệp kia, nghiệp nọ, cái nhân này, nhân kia, cho nên đó nó diễn biến trên cái lộ trình nhân quả.

Mà diễn biến ở trên cái lộ trình nhân quả đó thì nó dẫn dắt con người chúng ta như thế nào?

…​ kiếp này đến kiếp khác.

(01:28:17) Các con thấy rất rõ mà! Cho nên, khi mà kiếp này qua rồi thì những cái gì mà trong hiện tại bây giờ các con có là nó tan hoại hết. Thậm chí như tình thương của các con đối với các con nó cũng mất luôn.

Bây giờ Thầy đặt thí dụ như cô Diệu Hồng nè, cô Huệ Ân nè, các con có mấy đứa con nè. Mà khi bỏ cái thân này rồi thì cái tình thương của các con nó tan hoại theo với cái thân xác của các con, nó mất tiêu luôn hết. Từng lúc, từng lúc nó tan biến dần dần, nó mất tiêu hết.

Thì lúc bấy giờ các con chỉ sanh ra (là) một đứa bé thơ ở bên kia, ở bên cái nơi nào đó, ở cái chỗ nào đó, thì các con đâu còn biết rằng con của mình đang ở đây tu, hoặc là đang ở Long Hải làm những công việc để sống?

Mình đâu còn thương, đâu còn biết nữa, hết biết rồi. Toàn bộ, hoàn toàn là đoạn lìa hết tất cả những tình cảm của các con đối với những người đang hiện sống.

Cho nên các con thấy, người đi tu người ta đoạn dứt như là người ta đã chết, do đó mà người ta mới thực hiện con đường giải thoát này được. Không đoạn dứt được như vậy, khó mà đi đến nơi đến chốn.

Bởi vì nhân quả nó luôn luôn nó diễn biến:

…​ từ kiếp này đến kiếp khác, liên tục không bao giờ dứt. Thân tâm này vừa tan hoại, kế nối tiếp thân tâm khác; như cây đuốc này vừa tắt, nối tiếp cây đuốc khác. Cứ mãi tiếp nối như vậy suốt thời gian vô tận…​

Nghĩa là cái thời gian mà không có thể nói rằng một kiếp, hai kiếp hay ba kiếp, mà nó vô tận, nó mãi mãi như là một cái vòng tròn không bao giờ có một cái lối ra.

…​ mà không có một lộ trình nào giải thoát ra khỏi nó.

Đó thì các con thấy, chúng ta đang bị đi vào trong cái quỹ đạo của nhân quả, của nghiệp, của các pháp duyên hợp, cho nên chúng ta muốn ra không ra được, nó đi trong cái lộ trình đó.

Cũng như các con thấy, mặt trời nó phải đi trong cái quỹ đạo của mặt trời, mà mặt trăng nó phải đi trong cái quỹ đạo của mặt trăng mãi mãi muôn đời muôn kiếp. Mà các con có sanh ra đời nay, từ thời Đức Phật cho đến bây giờ chúng ta nhìn thấy mặt trời thì nó vẫn đi trong cái quỹ đạo của mặt trời, mà mặt trăng thì nó cũng phải đi trong cái quỹ đạo của mặt trăng, nó không bao giờ ra được.

Thì con người chúng ta sanh diệt, sanh diệt nó cũng đi ở trong cái quỹ đạo của nhân quả, nó không bao giờ dứt được.

Cho nên, muốn mà dứt ra cho được thì chúng ta phải tu tập như thế nào? Làm sao? Đó là một cái điều rất là phải nỗ lực chớ không, lơ mơ thì nó dẫn lôi chúng ta mãi mãi trong đó.

Mỗi kiếp người sanh ra phải chịu biết bao quả báo đau khổ do chính hành động thân, khẩu, ý của họ…​

Nghĩa là mình sanh ra, mình thọ những cái quả báo của những cái hành động của cái kiếp trước của mình. Bây giờ cái hành động kiếp này mình cũng tạo ra những cái quả báo đó nữa, hơn nữa, rồi mình chịu lấy những cái quả báo cho kiếp tới của mình nữa.

Nhưng đâu có ai biết được, luôn luôn cứ than khổ, cứ than thân, trách phận mình: "Sao người ta giàu, mình nghèo?"; "Sao người ta lên xe, xuống ngựa, còn mình đi bộ hoài, không xe không cộ gì hết?"; mình than thân, trách phận: "Sao người ta làm vua, mình cứ làm tôi tớ người ta hoài?"

Đó là những cái mà mình không thấy được cái chu kỳ, cái chu vi của cái nhân quả, nó đang diễn biến ở trên cái vòng tròn đó.

5.3- TỪ BỎ DANH LỢI MỚI GIỮ ĐƯỢC ĐỨC HẠNH NGƯỜI TU

(01:31:50) Vì không hiểu cho nên chúng ta cứ mãi chạy theo danh lợi và vật chất…​

Danh lợi, danh là muốn cho mình có danh là ông này, ông kia hoặc là có cấp bằng này, cấp bằng kia, làm ông lớn có tiếng tai này kia.

Đó thì các con thấy, Thầy là một tu sĩ nè, bây giờ mọi người biết Thầy là một người chơn tu, là một người giữ gìn giới hạnh, có thiền định, nhập định như thế này kia, ai cũng đồn với nhau. Tức là danh chứ gì? Đó là một điều kiện.

Mà đời thì người ta ham danh lắm. Nghe người ta hướng tâm đến mình, biết mình tu như vậy, làm như vậy, có thần thông phép tắc, có thiền định như vậy, thì bắt đầu ai cũng tập trung đến mình thì ham lắm, ham rất ham.

Rồi bây giờ người ta đến thì người ta kính mộ mình, người ta đem tiền của, máy móc đồ này kia người ta cúng. Trời ơi! Người ta để chật ngập cái thất của mình hết!

Chẳng hạn như vừa rồi Minh Tâm xách hai cái máy, chật muốn đầy cái thất của Thầy rồi. Các con thấy không? Trong cái vấn đề đó nó làm cho Thầy thấy con người tu không thể nào mà sống như vậy được.

Nhưng nói làm sao khi mà tâm người ta quá tha thiết với Thầy, người ta muốn cho đời sống của tu sĩ ở đây, cho Thầy được khỏe hơn, không có cực khổ hơn. Đó là cái tâm tốt chớ không phải là cái tâm xấu.

Người ta làm ra tiền bằng mồ hôi nước mắt, tại sao người ta dám bỏ như vậy? Là vì người ta quá kính mộ mình, quá kính trọng mình, cho nên người ta mới bỏ ra của cải, tài sản mà người ta cúng mình.

Đó là những danh và lợi.

Rồi những cái vật chất đó nó làm cho chúng ta thấy, có người lại: "Trời ơi! Cái máy này đẹp tốt lắm nè, cái máy này nó làm cho cái khu vực của Thầy hoàn toàn là xài đèn điện rồi nó không có hư". Ai cha, nghe khen một cái vậy, cái tâm mình nó nghe nó thích rồi: "Trời! Như vậy là cái Tu viện mình nó ngon lắm chớ gì?"

Nhưng mà Thầy thì nghe như vậy Thầy lại còn buồn cho thân phận của mình hơn, không giữ tròn được cái con người tu, chớ Thầy không ham. Người ta thì nghe ham lắm chớ riêng Thầy, Thầy không ham thích chỗ nào hết.

Cho nên đối với đời sống của Thầy thì Thầy giữ rất trọn hạnh của người tu. Làm sao cho xứng đáng để cho các con còn kính ngưỡng Phật Pháp thì điều đó là điều mơ ước của Thầy.

Người ở đời thì họ không biết, họ thấy danh, lợi và vật chất thì họ ham, càng ai cho mình nhiều thì càng thích, nhưng người chân tu thì rất sợ hãi. Vì Phật đã căn dặn, đã dạy: "Danh lợi và sự cung kính thì phải ẩn bóng!"

(01:34:26) …​ càng lúc càng tạo thêm nhiều điều tội ác, tội lỗi.

Là tại sao? Tại vì chúng ta chạy theo danh lợi. Nếu mà muốn có danh thì nhiều khi chúng ta cũng phải tạo cái thế này thế khác để làm quen, làm thân lớn với người này, người kia, để mua cái chức quan nhỏ, quan lớn gì đó để cho mình có danh. Còn lợi thì đủ cách mánh khóe, gian ngoa, thủ đoạn để mà làm ra lợi, để mà cướp giựt trên mồ hôi nước mắt của người khác mới làm lợi được chớ!

Đó thì, còn vật chất thì các con thấy rằng, cái thời đại của chúng ta, người ta khoa học tiến bộ, người ta phát minh ra máy móc này, máy móc khác phục vụ cho đời sống: nào là máy điều hòa không khí, rồi quạt máy, rồi tủ lạnh, rồi máy video, truyền hình, rồi cassette, đủ thứ như thế này đây!

Ngồi đây mà Thầy thấy nội đây cũng là cám dỗ. Nếu mà người ở ngoài đời họ thấy vầy là họ mừng lắm rồi, phải không? Nhưng mà Thầy thấy đây là nước mắt Thầy rơi. Mồ hôi nước mắt của bao nhiêu người, người ta vì cung kính mình mà người ta bỏ ra người ta cúng dường mình!

Thầy thì Thầy đau khổ lắm, Thầy không ham. Nhưng vì những lời dạy của Thầy, Thầy phải sử dụng, nhưng ra đi Thầy không mang một vật gì với những cái đau khổ này. Thầy để lại, những người nào ở trong Tu viện này thì họ còn sử dụng cái này để giảng dạy cho người sau. Thầy hai bàn tay trắng như đi vào lòng đất của một người chết, Thầy không lấy gì cả hết.

Thậm chí như tiền bạc để lên xe đi Thầy cũng không sử dụng. Đi tới đâu, Thầy xin tới đó. Nghĩa là Thầy nghĩ rằng, trên bước đường đi, Thầy là một bậc chân tu, đến đâu Thầy xin quá giang xe người ta sẽ đưa Thầy đến đó, không khó khăn gì hết. Xe nào cũng đưa, chớ Thầy không có xin tiền mà để đi rồi trả tiền xe này kia, hoàn toàn là Thầy không nhận một đồng xu đồng điếu nào hết, đi tới đâu thì Thầy xin tới đó.

(01:36:25) Vì cuộc đời Thầy có trải qua một thời gian khất thực, Thầy xin từ thành phố mà Thầy xin đi xuống miền Hậu Giang, rồi Thầy đi đến Rạch Giá, rồi Thầy xin tàu đi ra Hòn Sơn, người ta vẫn cho Thầy, Thầy không có đồng xu điếu nào hết. Thầy đến Sóc Trăng, Thầy đến Sóc Thơm, Thầy vẫn xin xe Thầy đi. Thì xe ôm, xe lôi gì nó vẫn chở Thầy đến nơi, đến chốn.

Thầy xin, Thầy nói: "Bây giờ, xin cho Thầy quá giang vì Thầy không có tiền bạc!" Xe nào đồng ý thì chở Thầy, mà xe nào không đồng ý thôi. Cho nên Thầy xin, Thầy tới đâu thì người ta cho Thầy đi đến đó.

Cho nên thời gian Thầy đi khất thực Thầy đã biết được cái lòng của người Phật tử, họ rất là tha thiết với những bậc tu hành, những người mà không có tiền.

Cho nên ở Sóc Thơm, hầu hết là cái người Miên ở trong đất Việt mình, họ chạy xe lôi đó, họ nói: "Mấy ông lục Việt Nam là không có tiền, còn mấy ông lục của Miên thì có tiền mình lấy tiền, còn mấy ông lục Việt Nam không có tiền, không lấy".

Đó là trên bước đường mà Thầy đã thấy được cái bậc tu hành nó không cần phải có đồng xu, đồng điếu nào. Đói thì ôm cái bình bát mình đi theo đường, đúng cái giờ Ngọ người ta thấy mình đi thì người ta cho mình ăn.

Còn nếu mà không ai cho, quá giờ Ngọ mình không có gì ăn thì mình về mình ngồi thiền. Đêm đó mình nhập định, mình giữ thân tâm mình trong yên lặng thì nó cũng như là mình ăn bữa ăn rồi.

Cho nên người mà theo Thầy phải có đủ sức, không đủ sức thì theo Thầy không nổi, sống như Thầy thì chắc sống không nổi. Các con mà đi theo Thầy, một bữa mà xin ăn không có thì bữa sau chắc đi vào trong non núi chắc không nổi nữa rồi, đói quá chịu không nổi rồi.

Chớ còn Thầy thì vẫn bình thường, đi như thường. Dù là ba, bốn ngày không ăn vẫn có thể duy trì sự đi đứng của mình được, không đến đỗi mà mệt nhọc. Vì Thầy biết cái sức thiền định của mình, nó giữ gìn được cái sức khỏe của mình dễ dàng.

6- LỘ TRÌNH TU HỌC THẬP THIỆN

(01:38:37) Đó thì hôm nay Thầy dạy cho các con biết được: trong con đường nhân quả, nghiệp nó đã chi phối mình, để rồi mình sẽ tu tập cái gì đây?

Người cư sĩ muốn chấm dứt hoàn cảnh khổ đau đời sống của mình, vượt thoát cảnh tù tội ở thế gian, những tai nạn hiểm nghèo, bệnh tật nan y, những xung đột, những lòng tỵ hiềm ganh ghét, tánh ích kỷ nhỏ mọn, hẹp hòi và tâm dối trá, xảo quyệt v.v…​ trước tiên phải thông hiểu Thập Thiện.

Nghĩa là cái người cư sĩ mà muốn xa lánh được những cái tâm của mình, những bệnh tật, những tai nạn, những sự xung đột với nhau, những lòng tỵ hiềm ganh ghét, tánh ích kỷ nhỏ mọn của mình thì mình phải hiểu Thập Thiện.

Thập Thiện tức là mười điều lành mà Phật đã dạy.

Mười cái điều lành đó, nếu mà chúng ta làm ngược lại nó tức là mười cái điều ác.

Sau này, lần lượt chúng ta phải trau dồi thân tâm trong mười điều lành này để dứt trừ mười điều ác.

Nghĩa là, khi mà cái người cư sĩ bước vào tu theo đạo Phật thì trước tiên chúng ta phải tu tập Thập Thiện để trau dồi cái đức hạnh và cái oai nghi tế hạnh của chúng ta, phải trau dồi thân tâm của mình trong mười cái điều lành này.

Vậy thì trau dồi như thế nào?

Cho nên nó có bốn điều mà Thầy nhắc ở trước, khi người cư sĩ mà bắt đầu vào đạo Phật là phải tìm hiểu những gì mình cần phải hiểu, rồi trau dồi những gì mình cần phải trau dồi, thì bây giờ đây là mình trau dồi Thập Thiện đây. Rồi dứt bỏ những gì mình cần phải dứt bỏ. Đó là những cái điều mà mình cần phải biết được từng cái giai đoạn tu tập của mình.

Khi mình tìm hiểu, thông hiểu được Thập Thiện rồi thì bắt đầu mình phải trau dồi Thập Thiện cho thân tâm của mình. Rồi mình trau dồi nó thì trong sự trau dồi đó mình biết cái nào đúng, cái nào sai, cái nào mà mình phải dứt bỏ, cho nên đến cái giai đoạn thứ ba là mình phải dứt bỏ. Và khi đến cái giai đoạn thứ tư thì mình phải tu tập.

(01:40:54) Vậy thì muốn thực hiện mười cái điều lành này thì có lúc mình phải trau dồi, trước tiên là mình phải tìm hiểu, sau đó mình phải trau dồi. Rồi trau dồi rồi thì còn phải có lúc phải dứt bỏ những cái gì mà mình cần phải dứt bỏ. Cái đó không được trau dồi mà phải dứt bỏ.

Nhưng có cái mình phải cần tu tập nó mới thực hiện được, nó mới sống được ở trong mười cái điều lành này. Chớ không phải nghe mười điều lành này là chúng ta nghe suông thôi mà chúng ta còn phải hành, còn phải tập luyện, còn phải trau dồi, còn phải tu tập hàng ngày, còn phải dứt bỏ hàng ngày.

Mà khi dứt bỏ, chúng ta phải làm pháp gì, tu tập pháp gì để mà chúng ta dứt bỏ? Khi trau dồi, chúng ta phải tu tập pháp gì để mà chúng ta trau dồi? Chớ đâu phải đơn giản, đâu phải nghe nói trau dồi rồi chúng ta nghe nói như vậy…​

Như một cái ông thợ vót tên, họ bào chuốt cây tên cho suôn và cho trơn, thì lúc bấy giờ họ trau dồi làm cho cái cây tên đó cho bóng, cho láng lên. Cũng như một ông thợ mộc, ổng trau dồi cái bàn này cho nó bóng, cho láng lên, rồi ổng đánh vecni lên làm cho cái bàn nó tốt lên. Đó là sự trau dồi một vật dụng làm cho cái vật dụng đó được tốt đẹp.

Còn bây giờ, chúng ta muốn trau dồi cái đạo đức của con người thì chúng ta phải trau dồi như thế nào để thân tâm của chúng ta có những cái đạo đức? Đó là sự trau dồi.

Mà bây giờ chúng ta trau dồi trong mười cái điều lành này, nó rất rõ ràng, chớ không phải chúng ta trau dồi một cách thông thường, một cách nói chung chung, mà đây nó rõ ràng phân ra mười điều lành, mà chúng ta lấy đó để mà trau dồi, rèn luyện, tu tập, dứt bỏ để chúng ta thực hiện được mười cái điều lành của Phật dạy.

7- TU THẬP THIỆN ĐỂ CHUYỂN HÓA VÀ LÀM CHỦ NGHIỆP ÁC

(01:42:29) Thập Thiện là con đường đưa con người đi đến nơi hạnh phúc chân thật, giúp con người thoát ra khỏi tâm niệm thường tình thế gian.

Thập Thiện rèn luyện con người đạo đức nhân quả, trở thành người tốt trong xã hội hiện nay và mai sau; giúp tâm tánh con người không còn ác độc, xảo trá, gian dối, lừa bịp; khiến con người trở thành điềm đạm, khiêm tốn, giản dị, hiền lành, có đầy đủ nhân cách làm người và còn đủ sức nhẫn nại vượt bao cam go thử thách của cuộc đời.

Thập Thiện chuyển cảnh khổ đói rét, bất toại nguyện trở thành cảnh an vui, yên ấm hạnh phúc, và tạo cảnh thuận duyên mãi mãi cho cuộc sống con người.

Thập Thiện xây dựng cho chúng ta một cuộc sống đạo đức chân thật, luôn luôn mọi cá nhân làm gương tốt cho người khác.

Thập Thiện biến kẻ hung ác, sát nhân, trộm cướp, tà dâm trở thành những người lương thiện, tâm hồn trong sạch, không còn lo sợ tù tội thế gian và ba đường ác.

Thập Thiện cải biến nghiệp ác thân, khẩu, ý trở thành nghiệp thiện thanh tịnh không phạm phải lỗi lầm, lỗi ác.

Người cư sĩ không tu Thập Thiện, ba nghiệp thân, miệng và ý tạo đầy đủ mười điều ác, đó là tạo nhân quả khổ đau cho kiếp sống hiện nay và đưa đến ngày mai.

Địa ngục là con đường đau khổ nhất trong sáu nẻo luân hồi. Đâu phải đợi ngày mai chết mới đọa địa ngục mà chính ngay trong cuộc sống hiện tại, nếu ai đã làm đủ mười điều ác, chắc chắn họ phải chịu thọ một đời sống hoàn toàn khổ đau như trong địa ngục vậy.

Các con cứ xem, có một kẻ ưa làm điều ác: Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời thêu dệt, nói lời hung ác, tham lam, sân hận và si mê, có lúc nào người này được an vui đâu? Dù họ ở địa vị nào trong xã hội, bản thân và tâm hồn của họ vẫn đen tối và đau khổ bất tận.

(01:45:38) Dù là ông vua đi nữa mà đã làm mười cái điều ác này thì ông ta vẫn khổ, và có thể ngai vàng của ông ta không bao lâu sẽ sụp đổ.

Bằng chứng rõ ràng là các con sẽ đọc lại những trang sử: những ông vua mà lo cho chúng dân cơm ăn, áo mặc đầy đủ, không lấy thuế cao, làm cho đời sống dân chúng được ấm no thì ông vua đó ở ngai vàng lâu dài.

Còn những ông vua mà ham chơi, hoang phí, sắc dục, lo ở trong cung đàn ca xướng hát, uống rượu ngâm thơ, thì những ông vua đó chỉ có một thời gian rất ngắn một năm, hai năm rồi bị mất ngôi. Hầu hết trong lịch sử đều chứng minh điều đó. Mà những hành động vui chơi, chạy theo dục lạc như vậy đều là trái với Thập Thiện.

Cũng như chúng ta đọc trong truyện Tàu chúng ta thấy, vua Trụ Vương ngày xưa đã giết người một cách vô cớ, đó chỉ là một cái sự mua vui, làm những chuyện tàn ác. Tất cả những điều đó để đưa đến vua Trụ mất ngôi, chết bị thiêu rất là đau khổ.

Phật dạy chúng ta tu Thập Thiện cốt là để tạo đầy đủ phước báu, để chuyển hóa cuộc sống của chúng ta hiện nay được an vui, hạnh phúc và đời sau còn được thỏa mãn mọi nhu cầu trong đời sống, dù bất cứ sanh nơi đâu.

Thập Thiện có lợi ích, có thành quả lớn như vậy, ai là người đã đủ duyên được nghe, đọc, thấy hiểu biết và được tu tập, đó là một phước báu lớn của kiếp làm người.

Vậy chúng ta đã được biết Thập Thiện, đừng để luống một cuộc đời đen tối và đau khổ. Được kho báu đạo đức nhân quả như thế mà không biết dùng kho báu, đành để một cuộc đời nghèo khổ đạo đức, lang thang trong sáu nẻo luân hồi, khổ đau bất tận.

(01:47:55) Đó thì, qua cái sự giới thiệu của Thầy cho các con bắt đầu để mà học, hiểu biết về mười cái điều lành của Phật, và biết khi mà chúng ta chuyển được nghiệp của chúng ta là do mười cái điều lành này mà chúng ta chuyển được nghiệp và bắt cái ông chủ nhân nghiệp của chúng ta phải trở thành tôi tớ của chúng ta.

Nghĩa là ông chủ nhân nghiệp này không còn sai chúng ta được làm gì. Ông không biểu chúng ta ăn ngon mà chúng ta nghe theo, ông không bảo chúng ta uống rượu mà chúng ta nghe theo, ông không bảo chúng ta sát sanh mà chúng ta làm theo, ông không bảo chúng ta trộm cắp mà chúng ta làm theo.

Còn trước kia thì chúng ta chưa biết ông, cho nên ổng bảo chúng ta uống rượu, ông bảo chúng ta ăn cái này, thích cái kia thì chúng ta làm theo, ông bảo chúng ta cái gì là chúng ta làm theo cái nấy, không dám sai lời. Còn bây giờ chúng ta đã được học Phật Pháp, đã được hiểu biết Thập Thiện, thì chúng ta không còn để ông ta sai chúng ta được. Vì thập ác - mười điều ác, đó là nghiệp, nó sẽ sai chúng ta làm mười điều ác.

Mà khi chúng ta đã hiểu được Phật Pháp thì chúng ta đã tự mình thắp sáng lên cái ngọn đuốc giải thoát cho chính chúng ta, cho nên chúng ta chống cự lại, không làm theo những cái điều thập ác mà luôn luôn tuân hành theo những lời Phật dạy: Hành Thập Thiện.

Do vì vậy mà chúng ta chấm dứt nghiệp, đoạn dứt nghiệp. Ông chủ nghiệp sẽ trở thành người tôi tớ của chúng ta, sẽ trở thành người xa lạ không còn sai khiến chúng ta được. Do ông chủ nghiệp mà không sai khiến chúng ta được thì nghiệp sanh tử cũng không sai khiến chúng ta được.

Đó thì các con thấy, bắt đầu từ cái chỗ Thập Thiện mà cho đến khi sống chết của chúng ta, thì ông chủ nghiệp này cũng không làm sao bảo chúng ta chết là chúng ta chết đâu.

Nghĩa là nghiệp chết chúng ta đến, chúng ta nói: "Không được chết!" thì do đó chúng ta sống. Mà nghiệp sống không cho chúng ta chết, nói: "Ông còn năm năm, mười năm nữa, ông phải trả hết những cái đau khổ này, chứ ông không có đi bây giờ được!" Thì chúng ta nói: "Ông sai tôi không được đâu! Bây giờ tui đủ sức tui sẽ làm cho nó chết, vậy thì tui ra lệnh cái hơi thở ngưng là tui đã chết".

Thì các con thấy, mình làm chủ cái nghiệp, thì nghiệp chết, nghiệp sống. Nếu mình còn cái nghiệp sống thì nó phải sống chớ làm sao chết được? Thế mà mình tu tập rồi, thì bắt đầu mình đang sống, mình bảo là “Chết!”, nó phải nghe theo chết, thì ông chủ nghiệp có còn sai mình được không?

Cho nên, ngay từ bắt đầu chúng ta đã học nghiệp để chúng ta biết cái ông chủ nhân - cái người mà cầm cái vận mệnh sanh tử của chúng ta là ai, chớ không phải ông trời, chớ không phải có một thiên thần nào đó mà cầm vận mệnh sống chết của chúng ta.

Như Nam Tào, Bắc Đẩu mà cầm sổ sống, chết của chúng ta: "Cái ông này tới số rồi, gạch cái tên ổng đi, đưa linh hồn ổng xuống địa ngục đi!" - thì không có chuyện đó đâu. Mà chính chúng ta tu hành theo đạo Phật là chúng ta cầm cái sổ sống chết trong bàn tay của chúng ta.

(01:50:58) Cho nên Đức Phật đã ví dụ: "Ta đã nhờ tu Tứ Như Ý Túc, cho nên…​" Đức Phật nhắc ba lần: "…​ Ta muốn sống từ một kiếp cho đến nhiều kiếp, từ tiểu kiếp cho đến trung kiếp, đại kiếp, Ta có thể kéo dài tuổi thọ được."

Ba lần Đức Phật nhắc ông ta, ba lần Đức Phật nói Tứ Như Ý Túc cho ông ta nghe, nhưng ông ta không hiểu gì hết. Cuối cùng Ma Vương đến thỉnh Đức Phật: “Ba tháng nữa Đức Phật hứa nhập diệt!”

Đến khi mà ông tỉnh lại thì đến xin Phật trụ thế, thì Đức Phật nói: "Hồi đó Ta nhắc ông nhiều lần, Ta đã nói rằng: Ta do sự chuyên cần, tinh tấn tu tập Tứ Như Ý Túc, cho nên bây giờ Ta kéo dài tuổi thọ Ta ra bao lâu cũng được hết. Nhưng hồi đó sao ông không xin? Bây giờ ta đã hứa rồi, không lẽ Ta đã ăn rồi mà Ta nhổ ra rồi Ta ăn lại được sao?"

Đức Phật ví dụ cho ông A Nan biết: như một người nhà giàu, của cải nhiều, đồ ăn thực phẩm ngon nhiều, bây giờ ông ăn vô trong miệng ông rồi ông nhả ra, bây giờ ông còn muốn ăn lại nữa không? Ông đâu phải người nghèo đói mà ông đi ăn vậy, ông giàu có mà, ông đâu có ăn vậy. Cho nên, đã nhả ra là nhả ra chớ không có ăn lại. Đức Phật ví dụ rất là thực tế.

8- THẦY DỰ ĐỊNH ẨN BÓNG VÌ PHẬT PHÁP, VÌ HỌC TRÒ

(01:52:12) Cũng như Thầy đã hứa ẩn bóng thì Thầy sẽ ẩn bóng. Tại vì Thầy không bỏ các con cho nên Thầy ẩn bóng, chớ Thầy sống thêm một, hai ngày, các con biết là một con người bằng xương, bằng thịt như các con, thế mà ẩn bóng trong rừng sâu, núi thẳm, gian khổ chớ đâu phải không gian khổ! Thế mà vì Phật Pháp, vì các con mà không nỡ ra đi. Cho nên phải chịu gian khổ vì các con chớ đâu phải vì ai!

Vì Phật Pháp có một bậc chân tu, Thầy phải ra đi. Chớ bây giờ Thầy nằm ở đây Thầy rất sung sướng, có gì đâu mà phải cực? Cơm thì ngày nào cũng đủ, áo ngày nào cũng lành, mưa gió không ướt. Còn ở trong rừng, trong núi, trong hang, mưa to gió lớn thì ướt đẫm, nhiều khi không có chỗ núp nữa.

Chớ đâu phải vô rừng rồi bắt đầu cất nhà, cất cửa, lầu đài trong đó ở như vua chúa đâu? Ở như một người tu, một người ẩn bóng thì đâu có làm rền rang những điều này, thế kia!

Do vì Phật Pháp, vì các con mà Thầy phải kéo dài tuổi thọ thêm để chờ các con tu hành cho xong. Đó, các con có hiểu được cái ý Thầy không?

Nếu mà không được thì Thầy ở đây hoài hoài, các con cũng tu cỡ chừng đó mà thôi, không thấy được điều gì đâu. Còn Thầy ra đi, các con nỗ lực, luôn luôn tin rằng: có Thầy ở bên, mình nỗ lực đúng, Thầy sẽ đến giúp mình, mình gặp những khó khăn, Thầy gỡ rối.

Thầy nhớ: ngày xưa ông Mục Kiền Liên ở trong rừng núi xa vắng, không được ở gần bên Phật, ông nỗ lực tu, thì Đức Phật luôn luôn thể hiện đến bên ông, giúp đỡ ông từng chút.

Gặp hôn trầm nhiều, Đức Phật đến dạy ông năm cách phá hôn trầm. Khi ông tác ý ra, không nhập được Nhị Thiền cho nên Phật dạy ông im lặng như thánh, trụ như thánh. Khi ông nhập Tứ Thiền, nhập Tam Thiền, Đức Phật dạy ông từng chút. Cuối cùng ông nhập được Tứ Thiền và toàn bộ các thiền định ông đều nhập hết được.

Thì hôm nay cũng vậy, không phải ở gần Thầy các con tu được mà ở xa Thầy không tu được. Tất mình phải nỗ lực để cứu lấy mình, vì thân mạng của các con rất quý, được thân người là khó, nay còn, mai mất.

(01:54:18) Các con tu hành nhưng các con không quý thân các con nhiều đâu. Thầy mười năm trong thất, Thầy tiếc từng phút, từng giây, nhưng vì không ai hướng dẫn cho nên Thầy phải tự tu lấy.

Nhiều khi phải tự mình nỗ lực hết sức, không ai khuyên, không ai sách tấn, không ai dạy bảo, mình phải tự tu tập lấy, để rồi đến khi thành tựu được sự làm chủ, Thầy mới thấy được con đường đi của mình, đem lại dạy các con, có Thầy từng phút giây.

Suốt những năm tháng bên các con, hầu như các con lơ đễnh, không thấy thời gian quý báu. Đến khi nghe Thầy đi thì các con cầu khẩn ở lại. Nhưng ở lại sao được khi Thầy đã nói ra, như một người nhà giàu ăn thực phẩm rồi nhả ra rồi ăn lại được sao? Nói là phải giữ, không thể nào sai lời nói được.

Và đồng thời Thầy đã suy nghĩ kỹ: nếu Thầy nói nhập diệt thì chắc các con mất đi người Thầy quý báu, mà nói ẩn bóng thì chắc các con không mất. Vì có ngày nào đó thì Thầy sẽ còn gặp lại các con trên bước đường tu tập khi các con gặp khó khăn, hoặc khi các con tu được sự hướng dẫn, sự chỉ bảo của Thầy, các con còn phải làm những gì mai sau cho Phật Pháp.

Nếu không Thầy, các con tu hành có được thì các con hướng dẫn Phật Pháp, biết ai tin ở mình mà hướng dẫn nếu không có Thầy? Còn có Thầy, lời tuyên bố của Thầy, lời nói của Thầy làm cho người ta đủ niềm tin ở các con mà tập trung với các con mà tu tập.

Cho nên, Thầy muốn thắp sáng lại ngọn đuốc Phật Pháp, nó có nhiều điều mà Thầy cần phải làm. Mà Thầy đã suy nghĩ rất kỹ chớ không phải thiếu suy nghĩ đâu, Thầy không phải là người vô tâm mà bỏ các con chơi vơi giữa đường tu tập nửa chừng như thế này.

9- TU SĨ VÀ CƯ SĨ CÓ PHÁP TU KHÁC NHAU

(01:56:17) Bây giờ thì sắp hết giờ rồi, các con sẽ nghỉ. Tới chủ nhật, Thầy tiếp tục cái bài Thập Thiện này để cho hết mười cái điều lành, rồi chúng ta sẽ học tới, như Thầy đã dạy ở trong cái giáo án là chúng ta sẽ học tới Tứ Vô Lượng Tâm, rồi trau dồi bốn cái Tứ Vô Lượng Tâm.

Không biết là cái cuộn băng trước Thầy có đọc lại cái chỗ này cho các con nghe không? Bây giờ Thầy đọc lại để sau đó Thầy lấy cái điểm này mà dạy các con.

Đạo Phật không chấp nhận những người cư sĩ chuyên tâm:

1. Làm khổ người

Không biết cái này các con có học chưa đây?

Có rồi hả con?

Những hàng cư sĩ chân chánh của đạo Phật cần phải được hàng ngày trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm.

Có chưa? Có rồi hả con?

1. Tâm Từ trau dồi sẽ diệt sân hận;

Có rồi hả con? Rồi:

Tâm Hỷ trau dồi sẽ diệt trừ lòng ganh tỵ.

Cũng rồi hả con? Như vậy coi như là…​. Rồi tâm xả nè. Rồi còn về cái thân bất tịnh thì Thầy không có dạy, phải không?

Thân bất tịnh thì sẽ diệt trừ tâm dâm; thân vô thường sẽ diệt trừ tâm kiêu căng ngã mạn; còn hơi thở thì sẽ dừng các hành trong thân, làm chủ sống chết.

Ba cái điều kiện này thì nó không nằm ở trong Tứ Vô Lượng, cho nên nó không nằm vào trong cái giai đoạn của người cư sĩ, cho nên Thầy không có giảng phải không?

Lẽ ra thì đây là bảy cái điều kiện mà Phật đã nêu ở trong cái bài kinh trong kinh Trung Bộ, Phật đã nêu bảy cái điều kiện mà chúng ta tu tập, từ tu tập tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả rồi cho đến thân bất tịnh, rồi thân vô thường, rồi hơi thở, thì tất cả những cái này Phật dạy luôn cho một người tu sĩ chớ không phải người cư sĩ.

Cho nên đến đây Thầy ngắt ra làm hai đoạn. Cái phần dưới này là cái phần của người tu sĩ, còn cái phần trên, bốn cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả này là cái phần của người cư sĩ đang thực hiện trau dồi những cái Thập Thiện, vì vậy mà phải tu tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả.

(01:58:36) Bây giờ mình có Từ Bi thì mình mới không giết hại chúng sanh, nó mới vào cái chỗ Thập Thiện chứ, các con hiểu không? Mình có Hỷ thì mình mới không có lòng ganh tỵ, mình có Từ Bi thì mình không có hung bạo, mình không sân hận. Các con thấy Thập Thiện thì nó có sân, rồi si, rồi tánh hung dữ của mình mới có những cái lời nói thô bạo đó, hung dữ đó.

Cho nên muốn áp dụng Thập Thiện, tu tập cho nó được kết quả đó, thì người ta phải tu Tứ Vô Lượng Tâm. Các con thấy không? Khi mà nói về Thập Thiện thì mình phải tu cái gì, rồi mình trau dồi cái gì, thì nó có những cái pháp để trau dồi.

Cho nên ngồi lại mà viết cái giáo án nó không phải là tầm thường, mà phải có sự suy tư chín chắn lắm. Bởi vì, nhằm để đối trị cái tâm sân, mà ở trong Thập Thiện thì có về ý của mình: tham, sân, si đó. Cho nên nếu không tu Tứ Vô Lượng Tâm thì làm sao mình diệt được cái sân? Các con hiểu không?

Do tu như vậy đó mình mới diệt trừ được cái tâm sân, thì cái tâm hận thù của mình mình mới xả được, cái tâm hung bạo của mình mình mới xả được, cái tâm ganh tỵ mình mới xả được, thì tham, sân, si ở trong đó, nó có ở trong cái ý hành của chúng ta. Cho nên chúng ta phải tu Tứ Vô Lượng Tâm là ở cái giai đoạn của người cư sĩ.

Nhưng mà tu về thân bất tịnh thì tức là trên thân quán cái nhân tướng của thân - cái tướng thân của chúng ta, mà đặt cái bất tịnh ra để mà chúng ta quán xét nó bất tịnh để trừ, đối trị cái tâm dâm.

Thì bắt đầu ở trên cái thân này, mình quán vô thường để thấy cái sự vô thường của nó, cho nên nó diệt trừ cái tâm ngã mạn của mình. Ngã mạn thì nó ở trong cái Ngũ Triền Cái: tham, sân, si, mạn, nghi; thì mạn là kiêu mạn đó.

Cho nên nếu mà mình không cái tu tập về cái thân vô thường thì cái tánh kiêu căng, ngã mạn của mình nó vẫn còn, mình hễ thấy mình tu học hơn một chút là mình có cái ngã mạn của mình trong đó rồi, cái tánh tự kiêu của mình ở trong đó rồi.

Còn về hơi thở thì Phật cũng dạy, nó sẽ dừng các hành ở trong thân, mình nương hơi thở thì mình dừng các hành trong thân, cho nên mình mới nhập định được, cho nên mới làm chủ được cái sống chết.

Đó cho nên các con thấy, ở đây Phật nêu lên bảy cái điều kiện, nhưng mà đây cho cái người tu sĩ. Còn Thầy ngắt ra làm bốn cái điều ở trên để cho người cư sĩ họ tu Thập Thiện, họ thực hành Thập Thiện.

Còn ba cái điều dưới này thì để cho cái người mà tu Tứ Niệm Xứ, họ trên thân quán thân, rồi trên thân quán vô thường, rồi trên thân quán nội thân về thân hành, thì do đó quán hơi thở, và hơi thở đó thì họ làm chủ sống chết, họ nhập Bốn Thiền.

Tất cả những cái này nó đều rất rõ, mà Phật nêu lên bảy cái điều kiện tu tập đây là để cho tu sĩ. Còn bốn cái điều kiện Từ, Bi, Hỷ, Xả này để cho cư sĩ người ta tu để người ta thực hiện được Thập Thiện.

Đó lần lượt những cái này thì các con sẽ phải…​ và đồng thời thì các con, không biết Thầy có ghi tới đây không?

10- GIỮ GÌN THÂN, KHẨU, Ý VÀ ĐỜI SỐNG THANH TỊNH

10.1- ƯỚC NGUYỆN TRỌN ĐỜI SỐNG THANH TỊNH

(2:01:42) Người cư sĩ theo đạo Phật phải ước nguyện trọn đời sống:

Sống cái gì đây?

1. Thân hành thanh tịnh;

Có ghi chưa? Chưa hả? Tâm Xả được trau dồi sẽ diệt hận thù chứ gì? Bây giờ để Thầy tiếp thêm cái chỗ này nữa.

Người cư sĩ theo đạo Phật phải ước nguyện trọn đời sống:

Nghĩa là trọn đời mình phải sống như thế nào? Sống phải giữ gìn như thế nào?

1. Thân hành thanh tịnh;

Cái hành động của cái thân của mình phải thanh tịnh, phải trong sạch, phải không gian ác ở trong đó. Đó là mình phải nguyện trọn đời của mình: Một là thân hành phải thanh tịnh.

2. Khẩu hành phải thanh tịnh;

Tức là miệng mình nói cái gì mình phải nói cho trong sạch, không có được nói không thanh tịnh.

3. Ý hành thanh tịnh;

Cái ý suy nghĩ của mình phải thanh tịnh.

4. Sinh sống thanh tịnh.

Sinh sống là hàng ngày mình làm công việc như ăn uống hay hoặc là làm tất cả những công việc lặt vặt, mọi thứ việc đó, thì phải thanh tịnh.

Nghĩa là cái sự sinh sống của mình làm sao mà nó không có bị mất cái sự thanh tịnh, tức là không có làm ồn náo, không có những lời rầy rà hay hoặc là có những cái cuộc xung đột nhau, không có toại nguyện nhau; sống phải hòa thuận nhau, thấy việc thì giúp nhau cùng làm, chớ không có nạnh nhau người làm nhiều, người làm ít. Mình lăn xả vô, ai làm không làm mình làm hết, hoàn toàn.

10.2- GƯƠNG HẠNH SỐNG THANH TỊNH CỦA THẦY

(02:03:16) Cũng như các con thấy cái gương hạnh Thầy không? Thầy làm hết. Có người quét Thầy cũng quét mà không người quét Thầy cũng quét, nghĩa là mình chia với nhau cùng làm cho nó vui.

Không có người, Thầy quét hết từ cái sân này tới sân khác không có phiền hà, mà có mọi người đều phụ Thầy, Thầy cũng xách chổi ra quét chung, chớ thấy mọi người quét rồi mình nói: "À, có nhiều người, thôi, mình nằm ghế mình nghỉ cho khỏe!" Mình có phải ông vua đâu các con? Thầy là một người tu sĩ mà.

Bởi vì trong Lục Hòa Phật dạy đó: "Thấy việc cùng làm, giúp nhau cùng sống", mình chia sẻ. Mình xách cây chổi ra, mặc dù mình quét mấy chổi à, nhưng mà tất cả chúng đều là người ta cảm mến. Phải không?

Thí dụ như bây giờ trong chúng các con nè, mà cái việc làm đó nó nhiều người quá rồi, nhưng mà mình vẫn xách chổi ra mình quét thì mình thấy chia sẻ được cái chút ít của họ. Còn không có ai thì mình sẵn sàng mình quét, mình không than không thở gì hết. Đó là mình là người tu, không có cái thấy đó là cái chỗ mệt nhọc của mình.

Cho nên sinh sống thanh tịnh là thanh tịnh chỗ đó đó.

Còn mình nạnh, mình này kia, mình sanh nạnh người này làm nhiều, người kia làm ít, do cái chỗ đó nó làm cho mình mất thanh tịnh liền.

Ở đời, vì cái tâm của con người phàm phu thì thích mình sống sung sướng, còn người khác cực mặc họ. Người nào làm cực mà mình được sung sướng thì hơn. Lo cho mình tức là bản ngã của mình, và cũng vì vậy mà cái đạo càng ngày mình càng xa.

Còn mình lăn mình ở trong mọi việc cực khổ, Thầy nói, Thầy làm việc quần quật. Có người kêu: "Nước không có! Sao mấy buồng tắm ở đây sao không nước ra?" Thay vì họ thấy không nước họ đi tìm phăng cái ống nào, chỗ nào nghẹt, họ cũng kêu Thầy!

Thầy vui vẻ, tại vì họ chưa biết cái chỗ nào. Thầy vác cái cuốc Thầy đi mò coi. Lại cái buồng tắm người thứ nhất này coi nó có nước chảy không? Không nước chảy. Lại người thứ hai cũng không nước, người thứ ba không nước, người thứ tư không nước. Tới người thứ năm có nước, biết rằng cái khoảng chỗ này đây là nó nghẹt, cho nên cái người này không có, cho nên toàn bộ khúc này không có.

Cũng như bây giờ các thất này không có, Thầy lại coi cái robinet đây, chỗ này không có, chắc chắn là chỗ này bị nghẹt, Thầy móc ở chỗ này, chứ Thầy đi móc ở chỗ kia nó mất công chứ gì? Mà khai chỗ này thông thì mấy cái chỗ kia có nước hết. Các con hiểu điều đó.

"Bây giờ chỗ nhà con không điện. Không biết nó mát cái chỗ nào, nó chạm chỗ nào đó mà nó đứt rồi nó không điện. Coi mấy cầu dao ở trong nhà con thấy không có, vậy thì nó ở chỗ dây nào?"

Bắt đầu Thầy cúp hết, bởi vì Thầy có những cái hệ thống, Thầy cúp hết các điện. Bắt đầu Thầy mở lại coi thử coi chỗ cái nhà con coi có không, mà nhà con không có, tức là mấy chỗ kia Thầy cắt hết rồi, Thầy cho dòng cái điện vô nhà con thôi, mà nhà con không có, Thầy biết nội khu chỗ nhà con, Thầy tìm ra cái chỗ mà nó bị đứt dây, Thầy nối lại liền.

Cho nên Thầy đâu có đi tìm kiếm khua hết, Thầy chỉ cần Thầy cúp mấy cái khu kia thôi, rồi Thầy mở ngay cái khu con thôi, thì cái khu con bây giờ không điện, Thầy biết là chỗ đó đứt dây chỗ nào, Thầy lại đó.

Còn các con làm sao biết được. Cho nên, hở ra chút nào: "Thầy, cái bóng đèn con cháy! Nhà con bây giờ nó tắt!" Thầy phải đi làm hết tất cả hết, như là một cái ông thợ mà bao thầu hết ở trong Tu viện. Các con hiểu không?

(02:06:30) Rồi bây giờ các con nói: "Nay không thấy gạo". Thôi Thầy cũng viết cái thơ gởi cho Phật tử hay gọi mấy con, gọi điện thoại xuống Như Trì, hay Như Lý, hay hoặc là Tâm Như, hay hoặc là Minh Tâm, nói: "Thầy bây giờ hết gạo, xin nó cho vài tạ gạo đi!" thì ở dưới nó chở lên cho Thầy.

Các con thấy không? Đói thì các con nói Thầy, Thầy cũng chạy đi xin, chớ Thầy làm sao Thầy có được, nhưng mà Thầy đâu có bỏ đói các con được, phải không?

Cho nên tất cả mọi cái gì đều là Thầy làm hết. Bây giờ có cái nhà các con dột, cũng chạy lại nói: "Thầy, nhà con nó dột nước!" Thầy cũng chạy lại Thầy làm chớ Thầy có nói gì đâu, bởi vì Thầy là thầy mà!

Tu sinh: Thưa hỏi

Trưởng lão: Vậy thì tới sau này các con thấy nhà dột tự mình lợp!

Cho nên bây giờ đó, sinh sống thanh tịnh là sinh sống như vậy đó các con, cái việc gì mình cũng làm cho mọi người hết.

Mà Thầy làm vậy Thầy thấy: "À, như vậy là mình sống, ngày mình ăn một bữa mà lợi ích cho chúng sanh, lợi ích cho mọi người!" Cho nên đời mình sung sướng lắm, không có cái gì,cho nên tối Thầy lại ngủ ngon, rồi ngồi thiền, Thầy lại ngồi thiền rất ngon!

Nhiều khi cái nghiệp của Thầy, cái chân Thầy đau, Thầy nói: "Cái chân này không có đau nữa! Cái thọ là vô thường, không có đeo cái chân Thầy nữa, văng ra đi!" Đó, rồi sao mà nó riết nó đi mất, nó không đau nữa. Các con thấy không? Thầy sai khiến sao nó được vậy.

Cho nên Thầy thấy, tại vì mình là một cái người có cái tâm tốt, biết thương người, biết lo, không rầy mắng ai hết, ai nói gì cũng tùy thuận được hết, ai nói trái cũng được mà nói phải cũng được, cho nên từ cái tâm hạnh đó mà cuộc đời của Thầy nó giải thoát.

Danh thì không ham. Thấy ai đem của cải cúng dường mình nhiều, sợ. Mình mắc công dọn, quét rồi coi chừng mối, kiến rồi đủ thứ hết, sợ lắm! Cho nên Thầy thấy đồ mà nhiều là Thầy ngán.

Thầy nói cô Út đừng sắm gì hết. Mình ăn ba chén mủ này, mai mốt có ấy mình đốt, nó không có ai đạp miểng chai. Còn ba cái chén sành đó, coi mấy nhà nghèo đó, mình bây giờ không xài nữa, hồi trước thì nó không có chén mủ mình mua chén sành đó, mình cho người ta đi. Người ta nghèo người ta không có, cứ lén cho đi, để không mấy cô thấy, nói mình lấy của chùa cho!

Chớ mình để chi? Mình không ăn mình để chi! Các con hiểu điều đó. Cho người ta, giờ người ta chén người ta không có tiền người ta mua, mình cho người ta. Trời, người ta được một chục, hai chục tô chén người ta mừng lắm!

Đó Thầy khuyên cô Út, cô Út nói: "Để kỳ này mấy cô đi hết rồi cái mình lấy mình cho, để người ta nói mình lấy của chùa mình đem cho người khác, kỳ lắm". Cô Út nói với Thầy vậy.

Thầy có khuyên, nói thôi đừng có chất chứa, Thầy thấy đồ nhiều lắm, ớn lắm! Nên chùa mà không có cái gì hết thì mình khỏe lắm. Đồ chùa mà có cái này, cái kia, mệt lắm! Nhất là đồ máy móc này kia, nó ăn trộm rồi nó ngó, nó nhìn dữ lắm, thành ra mình rất là khổ tâm lắm. Thà là không có gì là khỏe, có là mệt lắm!

Đó là những cái điều mà Thầy thường nhắc nhở, khuyên, để cho mình buông xả, buông sạch hết, không còn có gì nữa là khỏe nhất.

Cho nên những cái hạnh đó là những cái hạnh để Thầy thực hiện cho các con buông xả chớ không phải gì hết.

Mà cái hạnh mà Thầy đụng đâu Thầy làm hết để cho các con thực hiện cái hạnh hòa đồng, cái hạnh mà chúng ta chia sẻ nhau từng chút.

Mấy con ở bên nữ Thầy không có đến Thầy làm chớ bên nam mà làm cái chỗ nào là Thầy có đến hết, Thầy chia sẻ nhau hết. Bởi vì bên nữ Thầy xen vô làm nó coi kỳ, chớ lẽ ra các con cưa củi, cưa cây, bửa này kia Thầy cũng vô Thầy làm được hết. Nhưng mà thôi, có con Phượng nó mạnh để cho nó vác, nó bửa, chớ Thầy cũng không giành chi. Nhưng mà thấy nó làm Thầy thấy cũng tội, vất vả, nặng nhọc lắm.

(02:10:05) Thầy không muốn ba cái cây lớn lớn. Nó gãy, bỏ đi các con, cho mối ăn làm phước. Mình đâu hết củi. Mình có hết củi mình chặt mấy cái nhánh nhỏ nhỏ đi, còn cây lớn lớn mình để cái sức mình tu. Mình cắt nó ra rồi mình bỏ cho nó mục đi, mối nó ăn cũng là mình bố thí được chớ.

Con biết con mối nó ăn hết ba cái lá mục rồi nó biết tìm đâu nó ăn? Nó nhờ mình cắt mấy cái gộc cây lớn mình không có bửa nổi đó, mình bỏ, thì nó ăn nó cũng no được lòng nó. Thì Thầy nghĩ cái nào ở trên đời, Thầy nghĩ cái gì Thầy cũng nghĩ Thầy thương được chúng sanh hết. Thầy cũng bỏ được mà không phải bỏ phí, bỏ bố thí cho chúng sanh.

Phải không, các con thấy. Thầy chất trong gốc cây chớ Thầy nói: "Đây là để dành cho mối ăn". Thầy cũng nuôi nó chớ gì? Nhưng con mối nó có cắn phá mình đâu, chớ phải kiến lửa thì mình nuôi không được, nuôi rồi nó cắn!

Đó là những cái điều mà Thầy nhắc nhở cho các con, để hôm nay các con hiểu được cái tâm hạnh của Thầy, những cái hành động sống của Thầy, mà các con phải thực hiện tất cả những cái tâm hạnh đó nó mới là tâm hạnh của Bồ Tát, mới là một người chân tu.

Chớ còn mình, bây giờ Thầy làm Viện chủ của Tu viện Chơn Như rồi cứ ngồi đó mà soạn kinh, viết sách, thì cái chuyện đó Thầy thấy nó chỉ ở một góc độ nhỏ mà thôi, nó không có lợi ích lắm đâu. Giờ nào mà soạn viết thì soạn viết, mà giờ nào làm tất cả những gì cứ làm.

Đó thì, trên cái bước đường tu tập, qua cái sự sống của Thầy, từ trong mười năm ở trong thất chuyên tu thì không làm gì hết, nhưng làm rất nhiều.

Các con, Thầy nói Thầy không làm là vì tâm niệm Thầy thấy Thầy không làm, vì lúc nào Thầy cũng đang ở trong Chánh Niệm Tỉnh Thức, Thầy ở trong cái hành động của Thầy. Cho nên Thầy không nghĩ rằng Thầy làm cái đó để cho có tiền hay hoặc cái này kia, Thầy không có nghĩ cái điều đó đâu. Mà Thầy làm là để cho quân bình cái cuộc sống của mình mà khỏi bị động.

Các con chắc không nghe cô Út nói, chớ lúc nào mà cổ nhạy miệng cổ nói lại những cái lúc mà Thầy ở trong thất các con thấy, mặc cái áo nghĩa là mẹ Thầy vá, đắp nhìn…​ Chân Tịnh đó, Chân Tịnh về đây là lúc trước nó chưa có về đây tu, nó đến đây nó gặp Thầy đầu tiên, nó thấy cái áo của Thầy là nó đã biết Thầy là cái bậc tu như thế nào rồi.

Nghĩa là cái áo của Thầy y như là cái áo hồ cầu mà của vua Trụ mặc đó, nó dày như vầy nè mà vá, đắp, nghĩa là mặc nó tới nó bạc màu chớ nó không còn gì, mà mẹ Thầy vá hết. Thầy nói: "Không có được bỏ! Con ở trong thất con tu con làm cái gì được, nhờ mẹ cứ vá đắp vô dùm con!" Đắp riết, cái áo mặc ấm lắm, khỏi cần mặc áo ấm!

Những cái áo đó đó mà Chân Tịnh nói: "Nếu lúc bây giờ mà con được ở gần bên Thầy, con xin cái áo đó con để dành!" Chính bây giờ cái y vấn của Thầy mà còn mà Thầy để nằm đó, cái y vấn đó là Thầy đã đi khất thực, bây giờ Thầy trải để mà Thầy nằm trên cục đá là cái y vấn, nó cũng rách bươi rách bướt nó hết mà Thầy cũng còn nằm đó, chưa bỏ đâu!

Trên cái bước đường tu tập thì những cái hạnh mà cái người tu chúng ta cần phải lập hạnh đó, chúng ta cần phải sống đúng.

10.3- SỐNG THANH TỊNH MỚI CHỨNG ĐƯỢC TRI KIẾN BỒ ĐỀ

(02:13:09) Đến đây đã gần năm giờ rồi. Thôi, Thầy thêm một chút xíu để cho nó cho hết, đặng cái bữa khác để chúng ta học cái bài khác. Bây giờ Thầy tiếp cái câu này để cho nó cuối cùng các con, để cho hết cái phần, để không nó còn kéo dài nữa.

Nếu người cư sĩ có sống được như vậy, từ đó mới chứng được tri kiến Bồ Đề.

Nghĩa là mình có sống được trong bốn cái hạnh này: Thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sinh sống thanh tịnh thì mới có thể có được cái tri kiến chứng Bồ Đề. Còn nếu không sống đúng bốn hạnh này thì khó mà chứng được cái Tri Kiến Bồ Đề.

11- CÁC PHÁP TU CHO NGƯỜI CƯ SĨ

(2:13:49) Người cư sĩ phải tiếp tục tu tập Tứ Chánh Cần…​

Nghĩa là, sau đó tu tập Tứ Niệm Xứ rồi thì bắt đầu tiếp tục tu Tứ Chánh Cần.

…​ để dứt bỏ những điều ác, lìa xa những điều ác, từ giã những điều ác.

Kế đến phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Vô Lậu Định.

Nghĩa là kế đến mình phải tu, người cư sĩ ở trong giai đoạn họ chưa có thọ giới Tam Quy đâu, họ vẫn tu được Chánh Niệm Tỉnh Thức. Vì hành động họ làm công việc sống hàng ngày, họ đều tu tập ở trên hành động đó.

Và họ tu tập Định Vô Lậu để cho cái tâm họ ít phiền não, ít giận hờn, ít tham, ít sân si nữa. Đó là hai cái định mà người cư sĩ bước đến đạo Phật cần phải tu tập và cần phải học kỹ những cái điều này, để cho cái tâm của họ được giải thoát.

Đến đây Thầy xin chấm dứt./.

hết băng

05 - THẦY ẨN BÓNG ĐỂ LÀM SÁNG TỎ PHẬT PHÁP

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 05 - THẦY ẨN BÓNG ĐỂ LÀM SÁNG TỎ PHẬT PHÁP

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- CÁC TU SINH THỈNH CẦU THẦY Ở LẠI

1.1- TU SINH DIỆU HẢO TÁC BẠCH

(00:00) Tu sinh Diệu Hảo: Con Diệu Hảo, hôm nay con có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ tác bạch:

Kính thưa Thầy, kính thưa cô Út, kính thưa các vị huynh đệ, huynh trưởng và quý cô có mặt trong buổi giảng hôm nay!

Kính bạch Thầy!

Chiều chủ nhật vừa qua, con có đảnh lễ Thầy và nói lên sự thật của tâm con, để khẩn cầu Thầy ở lại với chúng con, nên con mới nói là việc ngài A Nan, chớ không phải con có ý nói cao xa, rồi sẽ trình lên định xin Thầy ở lại với chúng con, nhưng con xúc động không nói được. Hôm nay con có xin phép cô Út để nói lên sự thật tâm của các con:

Từ ngày vào hạ đến nay, Thầy giảng dạy các con bằng lời lẽ huyết mạch của Thầy và còn lo giáo án sau này cho chúng con theo đó mà tu học. Chúng con biết lấy chi đền đáp công ơn sánh tày non biển, còn hơn cha mẹ sanh ra!

Trước ngày hạ, con đã nghe cô Út nói là trong ba tháng hạ xong rồi Thầy sẽ ra đi ẩn bóng. Vậy hôm nay khai giảng buổi giảng hôm nay, con những ngày khai giảng đều nghe Thầy quyết tâm để ra đi, chúng con rất bồi hồi cảm động.

Những ngày con vào tu học tại đây, con thấy những việc làm của Thầy: nào là nhà cửa, điện nước, tất cả gì cũng Thầy lo và còn phải lo xin cơm gạo cho chúng con ăn để tu học. Ơn đó con không biết lấy gì làm…​ cực nhọc cho Thầy, cực nhọc còn phải lo để tâm theo dõi sự tu học của các con, dạy từ nết hạnh mà chúng con tu hành quá dở! Nói riêng thì con tệ hơn ai hết.

(02:36) Nay Thầy vì xét thấy đường danh lợi nó đưa đến sự…​ Thầy thấy chán nản, Thầy không ở lại. Thầy quyết tâm ra đi để tìm sự an lạc, và lòng từ bi của Thầy muốn cho nước Việt Nam sau này sẽ thật sự có một vị chân tu đầy đủ Phạm hạnh của một đấng giải thoát, giác ngộ; và lòng từ bi thương xót chúng sanh, Thầy không ngại tuổi già sức yếu, vô rừng thẳm, núi cao cho con cháu sau này sẽ được hưởng của báu do Thầy tìm ra.

Chúng con là con của Thầy, có được một ông cha như thế thì chúng con cũng có phước báu từ đời trước, nay mới được ở kiếp này được hưởng gia tài của cha mình để lại, mà chúng con bấy lâu không biết để giữ gìn.

Ngày nay sắp mất ông cha nên chúng con kêu lên những tiếng thiết tha mong cầu Thầy thương xót chúng con quá ngu si làm phiền lòng Thầy! Chúng con nguyện từ đây nhất nhất nghe lời dạy của Thầy không dám xao lãng và nỗ lực tu học.

Xin Thầy từ bi thương xót, Thầy ở lại với chúng con trong thời gian không lâu thì cũng được thêm năm, mười tháng, chớ Thầy đi gấp quá, tụi con là con của Thầy cũng như còn mấy đứa bé chưa biết gì, rồi ở nhà tụi con đau bệnh biết nhờ ai chỉ dẫn?

Mặc dầu Thầy ra đi có để lại thuốc cho chúng con, nhưng quý huynh đã lớn còn đủ sức lo thân tâm, còn riêng lớp bé của tụi con còn nhỏ thì biết thuốc nào trị bệnh của mình mà uống? Nếu uống lầm sẽ bị tận diệt, sau này tụi con không được hưởng gia tài của ông cha để lại thì tội nghiệp cho chúng con!

Xin Thầy từ bi hứa khả một lời cho chúng con yên tâm tu học! Con cảm đội ơn Thầy và chân thành cảm đức của Thầy!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Trưởng lão: Các con còn người nào có cái ý…​ Các con ngồi xuống hết đi, các con đừng quỳ con! Ngồi xuống hết đi!

1.2- TU SINH TỪ ĐỨC TÁC BẠCH

(04:51) Tu sinh Từ Đức: Tu viện Chơn Như, ngày 1 tháng 5 năm 1997.

Kính bạch Thầy!

Đệ tử chúng con đến Tu viện Chơn Như sống bên cạnh Thầy và cô Út thấm thoắt cũng gần ba năm trôi qua. Tuy rằng thời gian thấy dài thật nhưng lòng chúng con cảm thấy quá ngắn ngủi.

Nay được biết Thầy sắp sửa ra đi ẩn bóng, lòng chúng con như đã chết lịm, ai nấy đều xôn xao lên và tự hỏi: Rồi đây con đường đạo của mình sẽ đi đến đâu hay nửa chừng đứt đoạn? Càng nghĩ, chúng con càng đau buốt cả tâm can, không tài nào ngăn được lệ tuôn trào ra khóe mắt!

Thầy thì khuyên tụi con hãy cố gắng tu rút lên trong ba tháng, biết đâu chừng chứng đạo. Cũng như ông A Nan thời Phật còn sống, đến khi nghe tin Phật sắp nhập Niết Bàn thì ông chỉ qua có một đêm là ông chứng quả.

Nhưng kính thưa Thầy, chúng con còn nhiều vô minh che khuất, làm sao sánh được với A Nan! Vừa mới nghe Thầy ẩn bóng, tâm phàm phu đệ tử chúng con nổi lên, suy nghĩ đủ mọi khía cạnh rồi rơi lệ đầm đìa, không sao ngồi an để mà tu được nữa.

Chúng con ngồi lại tu thời nào, vọng tưởng cũng đều len lỏi vào thời nấy. Hình bóng của Thầy cứ lảng vảng vào tâm trí của chúng con - một người Thầy khả ái, tế nhị và quá đơn giản, luôn hòa mình với chúng.

Thầy thì cứ lắt xắt làm hết công việc này đến công việc khác, quần quật suốt cả ngày không chịu ngơi nghỉ. Uốn từ cây tầm vông, đóng từ mảnh mây bồ để trở thành một ngôi nhà bé nhỏ xinh xinh, trông thật là thanh nhã qua lớp kiến trúc của Thầy để cho đệ tử chúng con được nương náu.

Rồi Thầy còn câu từ bóng đèn cho chúng con được thắp sáng. Thầy lo đủ mọi bề, không khác nào người cha chăm sóc cho các con mình.

(07:20) Còn cô Út thì lo phận sự cấp dưỡng đời sống, thức khuya dậy sớm, xuống bếp cùng với năm cô phụ bếp để lo cơm nước hàng ngày cho chúng con. Khi lâm bệnh, cô Út lo thang thuốc; nếu bệnh nhiều cô cho ra khám bác sĩ, thật là quý báu vô cùng. Chúng con nguyện nhớ ơn cô lo đời sống cho chúng con và dạy pháp cho chúng con.

Và chúng con cũng nhớ ơn những người đàn na thí chủ làm ra của cúng dường. Chúng con nguyện hết sức năng nổ siêng năng tu tập để đền đáp ơn chư Phật, ơn Thầy, cô và ơn đàn na thí chủ.

Hôm nay, Thầy lại sắp sửa ra đi, không còn dang tay che chở cho đệ tử chúng con và xoa dịu tâm chúng con mỗi khi bị cô Út “đập”. Biết rằng cái đập của cô Út có ý nghĩa thử thách chúng con, xem chúng con có buông xả bản ngã được không, nhưng tâm chúng con còn quá yếu đuối nên không chịu nổi sự thử thách của cô.

Nhưng rất may, liền khi đó có Thầy bên cạnh xoa dịu với những lời lẽ nhẹ nhàng, biến tâm chúng con trở lại an vui. Nay Thầy lại ra đi ẩn bóng thì lấy ai che chở cho chúng con? Ai dạy dỗ và thuyết giảng cho chúng con nghe? Ai sách tấn chúng con trong bước đường tu học này?

Kính bạch Thầy!

Với lòng khát vọng Chánh Pháp nên chúng con ở từ mọi nơi mới tìm về đây để thọ giáo, học Chánh Pháp của Thầy. Vì Thầy là bậc minh sư, thuyết giảng rất lưu loát và là người Thầy không màng danh lợi, sống rất đạm bạc, không cầu kỳ, đầy đủ giới đức và Phạm hạnh, không ai có thể so sánh với Thầy được. Thầy rất xứng đáng để cho chúng con ngưỡng mộ, kính mến để chọn làm người thầy của mình.

Lời văn thô sơ mộc mạc của con không thể tài nào diễn tả cho hết sự cao quý và đức độ của Thầy. Lời Thầy thốt ra nhẹ nhàng như rót mật vào lòng mọi người và Thầy luôn tùy thuận để hài lòng mọi người.

Các hàng Phật tử, cư sĩ, tu sĩ sau khi vô nghe Thầy thuyết giảng, khi ra về với nét mặt tươi vui như được cởi mở lòng mình. Vì lời lẽ của Thầy rất thích nghi với tầng lớp của mọi người, ai ai cũng hài lòng, đem đến lòng tin với Phật Pháp.

Nhưng đệ tử chúng con mới đi một phần ba của đoạn đường thì Thầy đã vội ra đi, bỏ chúng con bơ vơ không khác nào rắn mất đầu, như con mất cha, lấy ai dạy dỗ chúng con đây?

(10:31) Vì vậy, kính mong Thầy hoan hỷ chứng minh lòng thành kính của đệ tử chúng con mà vui lòng ở nán lại một vài năm nữa để phái nữ chúng con học hỏi thêm, ngõ hầu bên nữ có một vài người chứng quả, cũng như bên phái nam có được hai người chứng quả như thầy Minh Tông và thầy Mật Hạnh.

Vì hiện nay giới nữ chưa có người chứng đắc thì làm sao giáo hóa được người nữ? Vì thiếu lòng tin là người nữ, là nữ giới không thể tu được đến chứng quả. Vì vậy, mong Thầy thương xót giới nữ chúng con mà ở nán lại dạy pháp, để chúng con có được người chứng đắc, đặng sau này ra hoằng pháp độ đời thời hiện đại tới đây để làm sáng tỏ Phật Pháp.

Vì Thầy là vầng trăng sáng soi đường dẫn dắt chúng con bước đi, nhưng vì vô minh che lấp, chúng con cứ mải mê vui đùa với bóng mình dưới ánh trăng, không chịu bước đi, đến lúc ánh trăng gần khuất dạng, chúng con mới chợt tỉnh vội bước đi thì ôi thôi! Than ôi! Bước đi đâu còn kịp nữa, vì vầng trăng kia đã khuất dạng rồi!

Chúng con mới tỉnh thức hối tiếc thì việc quá muộn màng rồi. Chúng con suy ngẫm lại là nên tự trách mình, vì chúng con quá mê muội, không chịu nghe lời Thầy chỉ dạy, cứ mải vui chơi trong căn nhà lửa mà không hay biết, đến lúc nóng cháy thân mới tìm đường chạy ra thì đâu còn kịp nữa!

Thầy đã hết lời dạy bảo khuyên đệ tử chúng con: "Các con phải sống độc cư đi vì độc cư là bí quyết của thiền định". Thế mà chúng con có giữ được độc cư đâu, cứ lén lút chuyện trò với nhau, đó là những lậu hoặc mà chúng con chưa buông xả được.

Đến nay chúng con chợt tỉnh thức thì thời gian còn quá ngắn ngủi và quá muộn màng. Đã vậy mà còn vội trách Thầy nỡ bỏ chúng con, thật là đại có lỗi với Thầy. Mong Thầy niệm tình đệ tử mà thứ lỗi cho đám đệ tử khờ khạo này vì bị vô minh che lấp!

Đệ tử chúng con đồng tình quỳ xuống đây xin sám hối bao tội lỗi của mình, mong Thầy xót thương mà tùy thuận và bằng lòng một lần cuối - theo như Thầy đã giảng hai tiếng "tùy thuận” và “bằng lòng" cho đệ tử chúng con - mà ở nán lại dạy pháp cho chúng con đến khi giới nữ có người thành đạo, ngõ hầu sau này ra hoằng pháp giúp đời ở mai sau thì quý hóa vô ngần!

Đệ tử chúng con đồng kính chúc Thầy dồi dào sức khỏe để hoằng pháp giáo hóa chúng sanh.

Con thành kính!

Từ Đức

Chúng con xin cầu nguyện, van xin Thầy ở lại mà dạy dỗ chúng con!

2- THẦY ẨN BÓNG ĐỂ LÀM SÁNG TỎ PHẬT PHÁP

2.1- BẬC CHÂN TU PHẢI BIẾT TỪ BỎ DANH LỢI VÀ SỰ CUNG KÍNH

(13:51) Trưởng lão: Các con ngồi xuống hết đi, nghe Thầy giáo giới tu hành.

Sau cái lời thỉnh cầu của các con mong Thầy ở lại để hướng dẫn các con đi nốt cái quãng đường tu hành theo cái đường tu của đạo Phật, Thầy nghĩ rằng, Thầy chưa có tuyên bố là nhập Niết Bàn, nghĩa là Thầy chưa ra đi mà bỏ các con, mà Thầy chỉ tuyên bố là ẩn bóng mà thôi.

Là sau cái thời gian mà Thầy như một người mẹ đương nắm cái bàn tay của các con để tập cho các con bước đi từng bước, khi thấy hiện giờ thì các con đã bước đi từng bước khá vững, cho nên Thầy vội buông tay cho các con để các con bước mạnh mẽ hơn, để các con đi cho được. Nếu mà Thầy cứ vịn tay các con mãi thì chắc các con không bước được.

Nhưng Thầy ra đi Thầy ẩn bóng, thứ nhất là vì Phật Pháp trong cái giai đoạn hiện tại, nhìn chung Phật giáo chúng ta - tất cả mọi người, nói chung là cư sĩ cũng như tu sĩ trong cả nước chớ không phải riêng tu sĩ của chúng ta ở đây - đi tìm một bậc chân tu của đạo Phật thì chúng ta không thấy được.

Do vì vậy mà Thầy muốn trong thời đại của chúng ta, Phật giáo phải có những bậc chân tu, đây Thầy không nói cái bậc thành đạo mà chỉ là bậc chân tu mà thôi.

(15:56) Người chân tu theo kinh sách của Phật dạy thì danh, lợi và sự tôn trọng, cung kính: Khi người đó đã thấy mọi người biết mình, được cung kính, có sự cúng dường, lợi nhiều, và có tên tuổi, mọi người biết, thì lúc bấy giờ Phật khuyên cái người đệ tử đó, cái vị Tỳ Kheo đó nên ẩn bóng.

Và Thầy cũng thấy trong hiện tại, Thầy cũng sắp sửa đi vào ở trong cái vị trí có danh, người ta sẽ biết khắp cùng ở trong đất nước.

Vừa rồi thì coi như là nhà nước biết được Thầy, là vì qua cái lời khuyên dạy của Thầy mà khiến cho một số người cư sĩ họ âm thầm làm những việc phước thiện, giúp đỡ người bất hạnh trong nước rất nhiều, do sự kiện xảy ra, nhà nước đã biết được điều này.

Rồi kế đến thì người ta biết được Thầy hướng dẫn tu hành đúng đường lối Chánh Pháp của Phật từ ba pháp môn Giới - Định - Tuệ. Trước kia thì người ta nghĩ rằng Thầy là một người tu theo ngoại đạo, dạy không đúng Phật Pháp, nhưng hôm nay thì hầu như lần lượt người ta đã thấy rõ con đường của Thầy đi chính là con đường tu tập của Đức Phật ngày xưa.

Do vì vậy khi mà cái giáo án này mà Thầy đã sắp xếp từ thấp đến cao, từ dễ đến khó cho mọi người có một cái đường lối tu tập mà không bị sai lầm, do vì vậy, khi giáo án này được ra đời thì mọi người lại biết đến Thầy nhiều hơn nữa.

(18:16) Thầy nhớ ở bên Trung Quốc có ngài Hàn Sơn và Thập Đắc. Khi có một vị quan đến chùa Quốc Thanh đi tìm một vị Bồ Tát thị hiện ở đó, ngài xin gặp chúng tăng trong chùa, nhưng toàn bộ chúng tăng thì vị quan đó không thấy cái vị mà mình đã nằm mộng ở trong giấc chiêm bao.

Cuối cùng hỏi thì ngài trụ trì ở chùa Quốc Thanh nói: "Còn có hai vị tăng đang lượm cơm ăn ở sau nhà bếp". Những người này, do đó thì vị quan nhờ vị trụ trì mời hai vị này đến. Khi vị quan vừa thấy hai vị này thì ngài sụp xuống cúi đầu đảnh lễ, thì hai người này vội vàng cõng nhau chạy vào rừng biến dạng. Đó là những hạnh của những người chân tu mà trong thời đại của chúng ta khó tìm được.

Vì thế, Thầy muốn rằng: Con đường của Phật Pháp phải có những bậc chân tu biết từ giã, từ khước những danh, những lợi, những sự tôn kính, cúng dường.

Và Thầy cũng nghĩ rằng: Mình là một bậc thầy, một nơi nương tựa của hàng Phật tử cũng như những người tu sĩ thì mình phải làm sao cho xứng đáng mãi mãi muôn đời người ta nghĩ đến đất nước Việt Nam còn có một bậc chân tu.

Nhưng Thầy không tuyên bố rằng Thầy sẽ nhập Niết Bàn mà Thầy chỉ tuyên bố Thầy ẩn bóng. Các con cứ theo đường lối của Thầy tu tập, khi gặp khó khăn các con chỉ cần tha thiết cầu khẩn đến Thầy, thì dù bất cứ ở nơi đâu trên trái đất này Thầy cũng đến với các con để dìu dắt các con đi nốt quãng đường mà các con chưa đi xong.

Nghĩa là Thầy ẩn bóng để làm sáng tỏ Phật Pháp, Thầy ẩn bóng để từ giã danh, lợi và sự tôn kính cúng dường của mọi người, chớ không phải ẩn bóng để trốn các con.

2.2- SỰ ẨN BÓNG CỦA THẦY LÀ SỰ KHÍCH LỆ VÀ NHẮC NHỞ TU SINH

(21:11) Cho nên các con đừng tha thiết mà van xin Thầy, mà hãy thấy rằng việc làm của Thầy có suy nghĩ rất kỹ.

Thứ nhất để thử thách các con: Khi còn Thầy thì các con còn theo tu, mà khi không còn Thầy thì các con bỏ tu, thì điều đó là một thử thách rất lớn để xem các con có đủ ý chí, có tin tưởng được Phật Pháp hay không?

Đức Phật khi nhập Niết Bàn mới căn dặn các vị Tỳ Kheo: "Hãy lấy giới luật và giáo pháp của Ta làm thầy, đừng lấy ai làm thầy. Hãy lấy giới luật mà làm thầy, làm chỗ nương tựa để đưa mình đến chỗ giải thoát".

Hôm nay Thầy ẩn bóng, giáo pháp của Thầy đã từng dạy các con từ khi bắt đầu đến đây, cũng như hiện giờ giáo án Thầy đã thành lập viết ra từ bước đầu cho đến bước cuối, đâu đâu rất là rõ ràng. Từ chỗ giới luật cho đến chỗ trí tuệ vô lậu, các con đều được nghe dạy rất kỹ từng kinh nghiệm, từng sự tu tập, không để cho các con có chỗ nào không biết.

Ngày xưa, Đức Phật trước khi nhập Niết Bàn, Ngài hỏi ba lần: Tất cả chúng Tỳ Kheo có chỗ nào không hiểu Phật, không hiểu Pháp thì hãy hỏi Phật, Phật sẽ chỉ dạy, chỉ còn trong giây phút nữa mà thôi! Thế rồi ba lần hỏi, không có Tỳ Kheo nào hỏi. Ông A Nan mới quỳ bạch: "Chắc có lẽ tất cả các vị Tỳ Kheo đều đã thông suốt đường lối và giáo lý của Ngài cho nên không còn có chỗ nào nghi để mà hỏi".

Bây giờ Thầy nghĩ rằng: Xưa Đức Phật không thành lập ra cái giáo án của mình, mà hễ ai hỏi đâu thì Đức Phật dạy đó, và những kinh điển đó bây giờ đang được kết tập thành một tạng kinh Nikaya bằng tiếng Phạn, bằng tiếng Pali mà hoà thượng Minh Châu là người dịch tạng kinh đó ra Việt ngữ của chúng ta, làm cho mọi người Việt Nam của chúng ta đọc ngay tạng kinh đó đã hiểu biết được lời Phật dạy. Nhưng kết lại để thành một cái giáo án thì chưa ai làm được điều này.

Vì có những bài kinh vị này hỏi trước, vị kia hỏi sau, cho nên không biết chỗ nào tu trước, chỗ nào tu sau. Vì thế mà người tu sĩ hiện giờ không biết được cái lớp lang mình tu chỗ nào đúng, chỗ nào sai, chỗ nào chưa tới trình độ của mình, họ chưa nhận ra được.

Đến giai đoạn của Thầy, Thầy cố công Thầy sắp xếp lại những cái điều này và qua kinh nghiệm của Thầy viết thêm trong từng bước một của nó, để các con thấu suốt được: Từ bắt đầu các con phải tu cái gì, cho đến sau cùng khi muốn nhập định phải tu tập như thế nào để nhập định, từ nhập định các con phải hướng tâm như thế nào để thể hiện trí tuệ, để các con được giải thoát hoàn toàn, làm chủ được sanh tử, chấm dứt được sự tái sanh luân hồi, thoát khỏi kiếp con người đầy đau khổ.

(25:37) Vì thế hôm nay, sự ẩn bóng của Thầy là một khích lệ lớn cho các con. Khi người cha còn thì các con còn ham vui mà không tiếc thời gian, khi người cha mất mới thấy mình phải tự lo làm mà sống, không còn nương tựa vào ai. Nhưng người cha còn để lại cho các con một bản đồ để xây dựng cho các con có cách thức biết mà tạo nên một đời sống tự lực của mình hơn.

Nhưng ông cha đó chưa bỏ các con mà ông còn ở đâu đó. Khi một đứa nào còn nghèo đói thì ông trực tiếp đến ngay mà giúp đứa con đó để cho nó làm ăn như những đứa con khác, cũng được đầy đủ, cũng được sang giàu như những đứa con khác.

Cho nên Thầy tuyên bố ẩn bóng tức là Thầy vẫn còn đâu đây, chưa phải cách xa các con. Thầy sẽ còn bằng xương, bằng thịt chớ không phải bằng hồn ma, bằng những cái vô hình, mà Thầy còn bằng con người thật. Khi nào các con tu xong, Thầy hoàn tất được nhiệm vụ, trách nhiệm và bổn phận nhận các con về đây thì chừng đó Thầy mới ra đi vĩnh viễn.

Thầy cũng không tha thiết gì trong cuộc sống của thế gian này: danh và lợi, và sự chà đạp lên nhau vì danh, vì lợi. Nhưng vì lòng tha thiết tu hành của các con, trong những ngày tuổi già sức yếu Thầy còn ở lại là vì nguyên nhân đó.

(28:08) Cách đây mười bảy năm, nếu mà không có duyên của Hoà thượng Thanh Từ thì Thầy đã ra đi từ đó chớ không phải còn đến bây giờ, vì Hoà thượng yêu cầu Thầy ở lại giúp Hoà thượng chấn hưng Thiền Tông Việt Nam.

Thầy thiết nghĩ rằng, Hoà thượng sẽ hiểu Thầy hơn ai hết, cho nên Thầy mãi liên lục trong mười bảy năm trời đem cái sức mình ra làm từng cái thất nhỏ để rồi nhận các con về đây từ lớp này đến lớp khác, khuyên lơn, dạy bảo cho các con tu hành. Nhưng duyên Phật Pháp chưa đủ cho nên số người trước đi qua rồi số người kế cũng đi qua.

Cho đến ngày hôm nay, đến riêng các con thì các con được Thầy thành lập một giáo án của Đức Phật, các con có đặt trọn niềm tin của Thầy hơn là những lớp trước. Vì thế, các con thấy sự tu tập của các con có được những kết quả.

Phần lớn là cũng nhờ cô Út, là vì cô là người nữ kề cận bên các con, an ủi, dạy bảo từng li, từng chút. Đôi khi cô thể hiện nghịch hạnh để giúp cho các con xả tâm mình, để biết được tâm mình còn ở chỗ nào, còn lậu hoặc ở mức độ nào, để các con nhận xét được mình mà cố gắng tu hơn.

Nhưng nhiều khi hoàn cảnh của các con, duyên nghiệp của các con còn dẫy đầy, cho nên từ chuyện này đến chuyện khác làm cho các con mất nhiều thì giờ.

(30:23) Thật sự đúng ra, một người quyết theo đạo Phật thì phải cắt ái, ly gia, phải lìa tất cả mọi sanh y, của cải, tài sản, tất cả mọi cái buông xuống như trong giáo án Thầy đã dạy: Giai đoạn thứ nhất còn là người cư sĩ phải tu tập những gì? Giai đoạn thứ hai xuất gia phải buông xả tất cả những gì để trở thành một con người vô sự? Đứng ở trong giai đoạn nào thì chúng ta phải thực hiện đúng giai đoạn đó mà Phật đã dạy chúng ta.

Các con thì chưa làm đúng trong giai đoạn của mình, cho nên, Thầy ẩn bóng là để cho các con hiểu được mình phải buông xả. Thay vì khoảng hai, ba năm, mà nếu các con buông xả tất cả những sự tựa nương của thế gian thì ngày hôm nay các con không có đến nỗi như bây giờ.

Vì buông xả chưa hết, vì còn tâm dính mắc, cho nên các con tu là có tu, giảm tâm mình có bớt là có bớt, nhưng hoàn toàn để đạt được sự giải thoát từ giới luật đến thiền định, các con chưa hoàn toàn thực hiện được.

Nhiều khi bởi vì tâm còn dính mắc thế gian, bởi vì lòng ham muốn còn chưa dứt cho nên những tưởng dục của các con thể hiện trong khi các con thiền định. Thầy hiểu biết điều đó che mờ đi sự tỉnh thức cao độ của các con, làm các con chỉ say mê trong xúc tưởng hỷ lạc mà tưởng là thiền định.

Thầy biết điều đó, cho nên Thầy ẩn bóng để cho các con phải tự thấy rằng: Cuộc đời là chạy theo dục lạc, tu hành là không có dục lạc nữa, không có sự khinh an, hỷ lạc nào trong sự tu tập, hoàn toàn, ngoài ra có sự điều khiển và làm chủ thân tâm, sống chết mà thôi!

Nghĩa là các con còn một chút nào ngồi mà thấy an ổn, thấy thích thú thì điều đó là điều không đúng của thiền định đạo Phật. Do những lời dặn bảo của Thầy rất nhiều, nhưng mỗi lần ngồi thì các con cũng vẫn quen tìm hỷ lạc trong đó.

Vì vậy, Thầy ẩn bóng để làm cho các con thức tỉnh, biết rằng sự tu hành theo đạo Phật là sự làm chủ từng tấc hơi của mình, từng sự hoạt động trong thân của mình, chớ không phải ngồi đó mà chờ cho có thiền định. Vì sự chủ động này mới là sự làm chủ được sanh tử.

(33:26) Vậy thì, trước lời tha thiết của các con thì Thầy cũng hiểu biết tâm của các con như thế nào.

Thầy ẩn bóng không có nghĩa là Thầy bỏ các con bơ vơ như những đứa con lạc lõng trên chợ đời - Thầy ẩn bóng không có nghĩa là Thầy vứt các con vào cuộc đời bơ vơ của nó, mà Thầy ẩn bóng tức là Thầy nhắc nhở các con tu tập hơn nhiều, vững vàng tu tập, không còn thối chuyển nữa, vì luôn luôn lúc nào Thầy cũng ở bên các con từng mỗi đứa.

Còn hiện giờ, Thầy đang sống bên các con trong một Tu viện như thế này thì sự gần gũi để hướng dẫn các con không bảo đảm. Tại sao? Vì Thầy là người nam, không thể gần gũi các con được. Nhưng Thầy ẩn bóng, khi có sự khó khăn nào đó, các con tha thiết cầu khẩn đến Thầy thì nơi đó có Thầy đến với các con, nhắc nhở các con dễ dàng hơn nhiều.

Thầy không có thần thông, không có phép tắc nhưng có sự cảm ứng với tâm lòng của các con, giao cảm được sự khó khăn khi tu tập của các con. Thầy không gia hộ cho các con làm giàu, làm có mà chỉ giúp các con trên bước đường tu hành giải thoát mà thôi.

Vậy thì chắc lẽ qua lời nói của Thầy, các con biết rằng Thầy không bỏ các con, thì chắc các con nghĩ rằng có một bậc chân tu, có một vị Thầy xa lánh danh, lợi và sự cung kính là một bậc Thầy xứng đáng cho mình tôn thờ, xứng đáng cho mình làm gương.

Thầy già yếu rồi mà Thầy còn đi vào rừng núi, lìa xa những cái sống. Thầy nói đây là cái sống tạm đủ để sống, một ngày một bữa cơm, mà Thầy còn tránh xa.

Còn mình là những người đệ tử, mình đang sống trong cuộc sống quá yên ấm như thế này, không có ma thiêng, khí độc. Thầy ở trong rừng núi ma thiêng, khí độc, có thể dễ chết trong bữa nay, ngày mai. Còn riêng các con ở nơi này rất là yên ổn, thế mà không xả bỏ được vật chất thế gian, tình cảm của thế gian.

Thầy xa lìa để làm gương cho các con xả bỏ, Thầy ẩn bóng để các con độc cư. Nếu Thầy không ẩn bóng thì các con xem thường độc cư, vì độc cư là bí quyết thành công của sự thiền định.

2.3- HAI GIAI ĐOẠN ĐỘC CƯ

(36:31) Nhưng các con phải hiểu: Độc cư như thế nào đúng, như thế nào sai?

Khi tâm lậu hoặc của các con còn dễ giận hờn, dễ phiền não thì các con độc cư như thế nào đúng? Giữ gìn khẩu nghiệp của mình! Cái gì đáng nói là nói, cái gì không đáng nói là không bao giờ nói. Không nói chuyện phiếm, không khen, không chê ai; chỉ biết hỏi Phật Pháp.

Chỉ biết làm những sự việc cần làm, chỉ biết chia sẻ những sự khổ cực cùng nhau. Thấy việc cùng làm, giúp nhau cùng sống. Đó là tinh thần hòa đồng - Lục Hòa của đạo Phật. Người sức yếu làm việc nhẹ, người sức mạnh gánh vác việc nặng, giúp nhau để cùng nhau tu tập.

Đó là độc cư ở giai đoạn thứ nhất để tu Định Vô Lậu làm cho lậu hoặc quét sạch, làm cho tâm phiền não giận hờn, ganh tị, nhỏ nhen xả bỏ thì đó là giai đoạn độc cư thứ nhất.

Cố dè dặt giữ gìn khẩu nghiệp - lời nói, trước khi suy nghĩ một điều gì chín chắn mới nói, không được phát ngôn bừa bãi, tạo thêm nghiệp hoặc, làm cho đau khổ.

Độc cư thứ hai: Khi thấy tâm đã xa lìa không còn trói buộc những thương, những ghét, những giận hờn, ganh tị, nhỏ nhen, sau khi thấy tâm đã xả bỏ được Ngũ Triền Cái - tham, sân, si, mạn và nghi ngờ - thì lúc bấy giờ tới giai đoạn độc cư thứ hai mới vĩnh viễn không thoát ra lời nói.

2.4- CON ĐƯỜNG NƯƠNG VÀO HƠI THỞ ĐỂ NHẬP CÁC ĐỊNH

(38:39) Là lúc bấy giờ đã biết được pháp, đã nắm được pháp, đã biết cách vận dụng hơi thở để nhập từng các định từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền đến Tứ Thiền cho đến khi nhập Diệt Thọ Tưởng Định các con cũng đều biết cách rất rõ ràng.

Vì con đường dạy thiền của Thầy rất rõ để cho các con biết đường đi. Lúc nào các con cũng nương vào hơi thở, vừa thở chậm và nhẹ với sức của mình để rồi dùng pháp hướng nhắc nó chậm và nhẹ nữa. Và khi hơi thở chậm nhẹ đến chỗ nào có trạng thái an lạc thì nơi đó là một loại định.

Khi chỗ nào mà thấy tất cả các tâm tưởng của mình không còn, nhất là giấc mộng không có thì biết là nhập Tam Thiền.

Khi nào hơi thở không còn thở nữa, là quan sát các hành thì biết rõ hơi thở không thở nữa, thì lúc bấy giờ nhập Tứ Thiền.

Khi tâm ở trong Tứ Thiền, tâm thức chúng ta còn, không mất. Giống như người ngủ, nhưng người ngủ không biết, còn chúng ta nhập Tứ Thiền, cái biết vẫn còn, không mất.

Khi hướng tâm vào âm thanh thì chúng ta nghe âm thanh, không hướng tâm vào âm thanh thì chúng ta không nghe âm thanh; khi hướng tâm về thọ thì chúng ta biết thọ, không hướng tâm về thọ thì chúng ta không biết thọ; khi hướng tâm về hơi thở thì chúng ta thấy hơi thở, không hướng tâm về hơi thở thì không thấy hơi thở. Lúc đó là lúc chúng ta ở trong Tứ Thiền.

Rồi bây giờ chúng ta muốn nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì chúng ta cũng nương vào hơi thở, thở chậm và nhẹ, đồng thời trong lúc đó chúng ta hướng tâm đến ý hành của chúng ta. Chúng ta hướng đến ý hành: "Ý hành phải ngưng nghỉ, không còn hoạt động nữa!"

Do lần lượt pháp hướng của chúng ta thành tựu thì ngay đó ý hành ngưng nghỉ hoàn toàn. Lúc bấy giờ hơi thở cũng ngưng hoàn toàn, và tất cả các hành hoạt động trong thân đều ngưng nghỉ thì lúc bấy giờ chúng ta nhập được Diệt Thọ Tưởng Định.

Nhập Diệt Thọ Tưởng Định, tâm thức chúng ta không còn biết nữa, hoàn toàn mất tiêu luôn, thân chúng ta ngồi như khối đá, không còn biết cảm giác gì cả. Đó là nhập Diệt Thọ Tưởng Định.

Do chúng ta nương vào hơi thở mà dùng pháp hướng thì chúng ta mới ngưng được các hành, các ý hành, thì lúc bấy giờ nhập Diệt Thọ Tưởng Định chớ không phải điều gì khác.

(42:09) Một con đường đi rất rõ ràng.

Khi chúng ta dùng pháp hướng ở Tứ Thiền thì hơi thở ngưng nghỉ. Khi ngưng nghỉ thì tâm thức chúng ta còn thì biết là Tứ Thiền. Khi chúng ta ở Diệt Thọ Tưởng Định, hơi thở ngưng nghỉ mà pháp hướng dùng thì không dùng cho hơi thở ngưng nghỉ mà lại dùng cho ý hành ngưng nghỉ.

Cho nên hai sự tu hành có khác nhau. Khi ở Tứ thiền thì hướng tâm: "Hơi thở ngưng nghỉ!” Khi ở Diệt Thọ Tưởng Định thì cũng ở trong hơi thở mà hướng tâm: "Ý hành ngưng nghỉ!"

Như vậy, pháp hướng thì sai khác nhưng nương hơi thở thì giống nhau. Chắc các con hiểu được đường lối đó chớ?

Thầy dạy đâu có sai, chúng ta lấy phương tiện hơi thở để mà nhập các định chớ không phải gì khác hơn hết. Do Phật dạy: "Định Niệm Hơi Thở có lợi ích lớn, có quả lợi lớn" đó là vậy.

(…​)

(43:32) Tu Bốn Thiền và Diệt Thọ Tưởng Định cũng như là bốn định của tưởng - tức là bốn Định Vô Sắc - đều dùng hơi thở chớ không phải thiếu dùng hơi thở mà vào đó được.

Như vậy, đường đi thiền định các con đã quá rõ ràng.

Khi ở Tứ Thiền, nhập được Tứ Thiền thì chúng ta cũng như dẫn tâm trở về hơi thở thì lại thấy hơi thở, dẫn tâm hướng về âm thanh thì nghe âm thanh, thì bây giờ, chúng ta dẫn tâm đến Túc Mạng Minh.

Khi Túc Mạng Minh đã thông thì chúng ta dẫn tâm đến Thiên Nhãn Minh. Thiên Nhãn Minh đã thông thì chúng ta dẫn tâm đến Lậu Tận Minh. Khi Lậu Tận Minh đã thông thì lậu hoặc chúng ta hoàn toàn quét sạch, từ đó chúng ta chấm dứt sự tái sanh luân hồi.

Như vậy là các con đã hoàn thành được con đường đi mà Thầy đã vạch ra rất rõ ràng, không có gì hết.

Từ ở trong đó, chúng ta chỉ hướng tâm mà thôi. Hướng chừng nào mà chúng ta biết được rõ ràng, thấy được rõ ràng đó là chúng ta đã được kết quả, mà chưa được thì chúng ta bền tâm mà hướng, mà nhắc, có vậy thôi!

Miễn sao các con tạo được hoàn cảnh yên tịnh. Đừng có để mọi…​(Mất tiếng) làm tâm chúng ta chia, làm tâm chúng ta không hợp nhất, khó mà thực hiện con đường này được.

2.5- KHÔNG BIẾT BUÔNG XẢ THÌ KHÓ TU HÀNH

(45:21) Tâm còn yếu mà các con sống trong gia đình, tạo cảnh lo lắng về cái ăn, cái mặc của các con thì các con khó mà tu được.

Chúng ta chấp nhận một đời sống tu hành giải thoát thì cái ăn của chúng ta là phải đi xin, chớ không phải làm có tiền để rồi bỏ ra hàng ngày chúng ta ngồi đó mà ăn rồi tu, chẳng bao giờ được.

Vì tiền chúng ta làm ra thì tâm chúng ta bị sự sai khiến của tiền, muốn ăn cái này, muốn ăn cái kia. Mà đã còn muốn thì tức là còn dục lậu, còn lậu hoặc. Do con đường tu hành, chúng ta phải xả hết tất cả những điều này thì may ra chúng ta mới thành đạt.

Các con đừng nghĩ rằng, mình sẽ về mình tạo một cái thất, một cái nơi nào đó, thì chắc chắn là mình sẽ có con cái hoặc là có những Phật tử lo lắng cúng dường cho mình rồi mình nắm pháp Thầy mình đi tới cuối cùng, không bao giờ được!

Xưa Đức Phật cũng vậy, hầu hết tất cả chúng tăng đều nương theo hạnh đi xin mà ăn, xả bỏ. Con ông Cấp Cô Độc không phải giàu sang hay sao? Thế mà còn phải đi xin ăn, không có đem tiền bạc của cha mình theo để mà sống, mà tu. Ông Cấp Cô Độc là một người giàu có nhất, thế mà con đi tu vẫn để đi xin, có khi đói, khi no, có khi rách rưới không có y áo mặc lành lặn nữa.

Còn chúng ta là những người gì mà chúng ta lại nhờ người thân của mình, nhờ những tiền bạc dành dụm để mà tu hành? Phỏng chừng con đường tu như vậy có đạt được hay không?

Điều đó trong kinh sách của Phật không có vị Tỳ Kheo nào tu hành theo kiểu đó, mà chỉ có xả bỏ tất cả những sanh y, tức là xả bỏ những tình cảm gia đình, xả bỏ những của cải tài sản.

Xưa bên Trung Hoa có gia đình ông Bàng Uẩn nhà rất giàu sang. Sau khi thông hiểu được Phật Pháp, ông đem của cải, tài sản, vàng bạc đem đổ xuống sông, vợ chồng con cái còn hai bàn tay trắng.

Vợ ông và đứa con trai thì lên trên núi mà cày ruộng, cấy từng bụi lúa để gặt từng hạt thóc, rồi giã, rồi nấu ăn đơn sơ với muối. Còn riêng ông thì với cô con gái đi xuống đầm nhổ chiếu, nhổ bàng, đan rồi đem ra chợ bán để kiếm từng lon, từng lít, ngày hôm nay bán kiếm được một lít gạo thì về cha con sống (với) nhau chứ không bán dư.

Còn chúng ta, không khéo làm rồi để dành, để dư, để rồi ngồi khỏe mà tu. Thật sự tu trong hành động, tu trong việc làm đó là gương hạnh của những người tu sĩ Trung Hoa.

2.6- SỰ TU TẬP CỦA THẦY MƯỜI NĂM TRONG THẤT

(48:37) Thầy xin nhắc lại các con: Mười năm trong thất, Thầy phải tu tập như thế nào các con có biết không?

Gia đình Thầy chiến tranh chạy bỏ của cải, tài sản không còn có gì hết. Thầy đi dạy học nuôi cha mẹ, nuôi cô Út đi học. Nhưng đến khi đi tu, lên gặp hòa thượng Thanh Từ để tu thiền thì Thầy giao lại tất cả, không còn dạy học nữa, giao cô Út làm để nuôi mẹ, nuôi ông thân Thầy.

Nhưng mà một người học sinh như cô Út trong trường mới bước chân ra đâu biết gì mà làm, cho nên cũng phải tự gánh vác, đi may mướn từ cái này đến cái khác để mà sống.

Sau thời gian lên Chơn Không tu học, rồi Thầy bỏ ra Hòn Sơn, Thầy lên Hòn Sơn, Thầy ở trên đó tu tập. Gần một năm trời trên Hòn Sơn, Thầy trở về, Thầy sống trong gia đình với mẹ Thầy, với em Thầy.

Trước cảnh phải làm lụng vất vả mới có hột cơm sống hằng ngày, Thầy không dám hở môi xin người Phật tử nào hết vì sợ họ biết Thầy là họ đến làm động. Cho nên, Thầy vào thất nhập thất, nhưng Thầy luôn luôn lúc nào cũng làm những công việc.

Thầy phải rèn từng chiếc dao, Thầy phải làm từng cái cán mà hiện giờ các con đã thấy Thầy đã chế tạo một cái máy để tiện những cái cán dao. Ở trong thất, Thầy không bao giờ tiếp khách, không bao giờ nói chuyện, nhưng Thầy làm việc.

(50:15) Trong làm việc Thầy tu tập những định gì? Tức là định Chánh Niệm Tỉnh Thức trong hành động làm. Thầy gọt từ chiếc dao, Thầy mài từ chiếc dao, đóng từ cái cán để cho cô Út đi bán mà kiếm cơm gạo sống hàng ngày.

Thầy tu tập trong sự gian khổ bằng hành động của chính thân mình, Thầy hiểu biết rất rõ. Nhưng Thầy giữ hạnh rất đúng: Ngày ăn một bữa. Thầy giữ hạnh độc cư rất đúng: Thầy không nói chuyện.

Làm mỗi ngày làm giao cho cô Út bốn chục, năm chục dao hoặc cả trăm dao, tùy dao lớn, dao nhỏ lượng sức mình mà làm được. Những gì làm không được thì Thầy giao cô Út ở bên ngoài làm, những gì làm được, Thầy ở trong thất làm toàn bộ như tiện cán, như cắm dao, như gọt dao, như mài dao. Những dao lớn thì không làm được, cô Út ở ngoài làm với người khác.

Do vì vậy mà bảo đảm được cuộc sống của gia đình, mà bảo đảm được sự tu hành của Thầy yên ổn suốt mười năm trời. Do sự tu hành như vậy mà Thầy đã thành đạt được đạo quả viên thành.

Thầy nhớ ông Bàng Uẩn đổ của cải, tài sản xuống sông rồi cha con cũng lao động, cũng làm mà không phải làm dư, làm để đủ sống. Đó là cái sự tu hành rất là gian khổ.

Thầy nghĩ, thời Đức Phật không có gian khổ như vậy. Cho nên hầu hết là Thầy muốn các con cũng như quý thầy được vào đây, Thầy lo từng miếng cơm manh áo, xin Phật tử để các con được ngày một bữa yên tâm tu hành, không lao động, không làm gì hết để thực hiện đúng những con đường mà Đức Phật và chúng Tỳ Kheo trong thời Đức Phật đã làm.

Nhưng hầu hết quý thầy sống không chịu nổi độc cư. Vì không làm, độc cư quá độ, cho nên cô đơn quá vĩ đại làm cho quý thầy bỏ cuộc ra đi. Nhìn chung lại cái số người độc cư chịu nổi, một là Mật Hạnh, hai là Minh Tông. Hai người này chịu nổi cho nên đã thực hiện được con đường thiền định của chính mình.

Thầy trong thất nhờ lao động, nhờ làm cho nên độc cư dễ dàng hơn, tuy không nói nhưng nhờ lao động mà độc cư được.

Trong chúng, các con nhìn lại, người nào biết giữ độc cư không nói chuyện, vui vẻ với công việc làm, nỗ lực tu tập. Tuy có khó khăn nhưng chúng ta phải biết cách thức tu tập.

2.7- CÓ SỨC TỈNH GIÁC CAO MỚI NHANH ĐI VÀO THIỀN ĐỊNH

(53:35) Người tu Thiền Định không phải ngồi nhiều giờ mà chỉ cốt ở chỗ điều khiển được các hành trong thân, điều khiển được hơi thở từ bình thường đến chậm và nhẹ hơn cho đến khi ngưng nghỉ mà nhập định. Cho nên đâu cần phải ngồi hai, ba giờ, chỉ cần thiết là ba mươi phút.

Do sự tu hành mà không đúng cách thì các con gom tâm cả một giờ mới gom được. Còn tu hành đúng cách bước vào một hơi thở đã gom tâm bám chặt, cho nên không mất thì giờ. Còn trái lại, các con không biết, gom cả nửa tiếng mới thấy tâm mình nằm yên. Đó là cách thức tu sai.

Tu từng hơi thở có chất lượng: Vô đầu chúng ta gom hơi thở thứ nhất, hơi thở thứ hai là tâm đã bám chặt và nằm im lìm trên hơi thở. Do sự tu tập như vậy, suốt cái thời gian nửa tiếng đồng hồ, chúng ta hướng tâm nhắc, lần lượt chúng ta thấy các hành ngưng hoạt động, hơi thở chậm dần, chậm dần cho đến khi ngưng.

Còn bây giờ, chúng ta ngồi nhiều, ba bốn tiếng, năm bảy giờ đồng hồ mà không tu đúng cách như vậy thì chúng ta gặp thọ, rồi gặp các trạng thái của tưởng, rồi gặp các trạng thái của ma như: thọ ấm ma, sắc ấm ma, rồi tất cả những Ngũ Ấm Ma hiện đến, vì thời gian dài ma sẽ hiện vào.

Thời gian ngắn chúng ta điều khiển hơi thở để rồi xả nghỉ, lấy sức khỏe lại. Giờ kế tiếp chúng ta tu ba mươi phút nữa, vận dụng toàn bộ sức lực của chúng ta điều khiển hơi thở và vận dụng phương pháp ám thị - tức là hướng tâm - làm cho các hành ngưng hoàn toàn.

Lúc bấy giờ chúng ta đâu bị hôn trầm thùy miên? Vì chúng ta ngồi lâu cho nên mới có hôn trầm, thùy miên, mới có vô ký. Ba mươi phút, hôn trầm thùy miên làm sao đánh được trong khi chúng ta vận dụng từng hơi thở một.

Mỗi một hơi thở qua chúng ta có những cách vận dụng trong đó rất kỹ, làm sao sai được! Vì vậy mà con đường chúng ta tu tập thu ngắn lại, không để trôi mất thời gian.

Đó là những điều tu tập của Thầy và những điều tu tập của cha con ông Bàng Uẩn ngày xưa. Còn đối (với) riêng Đức Phật thì Ngài chấp nhận đi xin ăn rồi về ở trong rừng núi mà tu tập.

Nhưng Thầy tin rằng, thường xuyên Phật nhắc các vị Tỳ Kheo: Có năm điều lợi ích của sự kinh hành. Cho nên Phật nhắc: Kinh hành là tuyệt vời, kinh hành là giúp cho con người tu mau chứng quả.

Tại sao vậy? Vì động thân luôn luôn làm cho chúng ta không cô đơn; vì động thân luôn luôn làm chúng ta không rơi vô lười biếng, hôn trầm, thùy miên, vô ký; vì động thân luôn luôn cho nên chúng ta tỉnh giác từng phút giây, rất là tỉnh giác cao độ.

Cho nên khi chúng ta vận dụng hơi thở đi vào Bốn Thiền quá dễ dàng. Vì sức tỉnh giác cao cho nên sự vận dụng rất là kỹ lưỡng, làm cho hơi thở từng chút, từng chút chậm dần và đến khi ngưng hoàn toàn.

Đó là cách thức tu đúng về thiền định.

2.8- LẤY SỰ RA ĐI CỦA THẦY LÀM TẤM GƯƠNG BUÔNG XẢ

(57:07) Bây giờ các con đã hiểu rõ tất cả đường lối Thầy đã vạch ra cho các con đi trên đường thiền này không còn khó khăn nữa. Vậy thì sự ra đi của Thầy ẩn bóng là một điều làm cho các con càng buông xả hơn, tâm vô lậu các con còn mau sạch hơn.

Các con biết: thân yếu tuổi già của Thầy còn phải sống trong rừng núi, ăn bằng củ mài, củ rạng, không đi xin gạo cơm ai hết, ăn bằng rau rừng, lá rừng để mà sống. Các con có một bậc Thầy như vậy thì sung sướng gì mà các con ngồi đây mà ăn từng bát cơm, ăn từng thức ăn ngon, không xả từng y áo đẹp, không bỏ tất cả những tình thương yêu mà để cứu lấy mình trong sanh tử luân hồi?

Các con hãy mạnh dạn tiến lên con đường Thầy đã vạch đi mà xưa Đức Phật đã đi, con đường Thầy đã đi qua mà các chúng Tỳ Kheo trong thời Đức Phật đã đi qua.

Thời đại hiện giờ chúng ta còn có những bậc tu hành chân chính như vậy, không hề sợ hãi trước cảnh rừng sâu núi thẳm, trước cảnh đói khát; không hề sợ hãi trước cảnh ma thiêng nước độc.

Các con phải hiểu rằng: Một người Thầy của các con xứng đáng như vậy, đã làm gương hạnh tốt như vậy, thì các con hãy xả bỏ tất cả những gì mà các con chưa xả bỏ. Bỏ xuống hết đi!

Các con nghe lời Thầy tức là Thầy sẽ ở gần bên các con. Mà các con không xả bỏ, dù Thầy có ở gần bên các con có ngàn năm thì các con cũng chẳng tới đâu.

Vì Đức Phật đã dạy: "Tịnh" thì mới "chỉ" được. Mà tâm còn dính mắc thế gian trần tục, tình cảm chưa dứt rời thì các con làm sao tịnh được tâm? Mà không “tịnh” được tâm thì làm sao “chỉ” được các hành trong thân mà nhập định!

Đó là điều tiên quyết chỉ rõ của Đức Phật mà cho đến khi Thầy thực hiện cũng thấy đúng như vậy.

(59:28) Khi đó, các con ngồi lại đây mà các con tu hành thì nghĩ đến một vị thầy các con đang ở trong rừng ăn toàn lá cây; mà không nỡ bỏ các con cho nên Thầy còn sống trong cách thiếu thốn đủ mọi điều mà vẫn chấp nhận cuộc đời giải thoát của mình để làm gương cho các con.

Nếu Thầy sống đầy đủ, đau có bác sĩ, có thuốc thang thì chắc các con cũng (có) thể làm như vậy được. Còn Thầy sống như trong rừng sâu, núi thẳm, không gì cả hết, thì lúc bấy giờ các con nghĩ rằng mình khó mà làm được như Thầy, nhưng mình phải bỏ những gì Thầy đã bỏ hết.

Những gương hạnh đó làm cho các con nỗ lực tu hành hơn. Không còn vì sự sống chết của thân các con nữa mà hãy vì sự giải thoát của các con.

Cho nên Thầy ở lại nó cũng chẳng giúp gì cho các con hơn là để tâm các con còn dính mắc từ cái ăn, cái ngủ cho đến những vật chất tầm thường của thế gian.

Chết rồi các con không mang vật gì theo được hết. Tình cảm của các con cũng chẳng mang theo được gì hết, những gì mà các con thân thương nhất các con cũng không mang được gì hết; chỉ có mang đi những nghiệp quả, nhân quả luân hồi mà thôi.

Nếu thiện thì các con tiếp diễn qua một đời sống khác. Một đứa trẻ thơ có biết gì trong quá khứ nó đâu, chỉ biết đòi khóc và sống trong hiện tại tiếp diễn nhân quả mới của nó mà thôi, và biết thương yêu những người đang hiện tại (bên) nó. Còn những người trong quá khứ của nó đang âm thầm đau khổ, thương tiếc nó, nhưng nó nào hay biết gì!

Các con nghĩ, khi các con bỏ thân này, các con tiếp diễn trở thành một đứa trẻ nằm nôi thì các con có biết gì? Trong khi đó các con của các con bây giờ đã khóc thương mẹ, đã mất mẹ, nước mắt của chúng tràn trề, tình thương của chúng dẫy đầy, nhưng các con còn biết đâu nữa!

Còn bây giờ thì các con còn thương, còn nhớ nhưng khi chuyển tiếp qua một thân khác, còn đâu nữa mà thương, mà nhớ! Chỉ còn biết đòi, còn khóc, còn biết đau, biết khổ trong khi còn nằm nôi.

Đó là luật nhân quả vô thường không để chúng ta biết được tiền kiếp của chúng ta.

Mà biết được tiền kiếp của chúng ta, phỏng chừng chúng ta còn thương mẹ của chúng ta nữa không? Còn thương những đứa con của chúng ta nữa không? Chắc chắn không cho phép chúng ta thương nữa. Vì chúng ta đã là con của kẻ khác, vì chúng ta là những đứa trẻ thơ ngây, còn biết thương ai nữa!

2.9- QUYẾT TÂM TU TẬP THÌ LÚC NÀO CŨNG CÓ THẦY Ở BÊN

(1:02:29) Đến đây, Thầy nhắc nhở các con: Sự ra đi của Thầy là sự nhắc nhở của các con, sự ra đi của Thầy là sự sách tấn lớn cho các con, sự ẩn bóng của Thầy luôn luôn lúc nào Thầy cũng còn bên các con.

Chừng nào Thầy tuyên bố Thầy nhập diệt tức là Thầy đã vĩnh viễn xa các con. Nhưng người nhập diệt bản thể của họ vẫn bên các con, chưa phải mất.

Như Đức Phật Thích Ca đã nhập diệt từ hai ngàn năm trăm bốn chục năm nay, Ngài vẫn luôn luôn bên Thầy, Thầy biết điều đó. Khi gặp khó khăn, Thầy chỉ nguyện Đức Phật: "Gặp những khó khăn khi Ngài đang tu, con bây giờ cũng gặp những khó khăn. Xin Ngài cảm thông nỗi khó khăn này mà trợ giúp cho con vượt qua những khó khăn!"

Đâu phải Thầy không gặp những khó khăn trên bước đường tu tập. Thầy rất nhiều những sự khó khăn. Ngồi thiền mà thấy như mình nhìn trong gương, thấy người đi sau lưng mình cách đôi trăm thước mà vẫn thấy họ, đâu phải chuyện vượt qua là dễ; ngồi thiền thấy cả hào quang sáng chói, đâu phải dễ; ngồi thiền mà thấy những trạng cái thái bay bổng trên hư không cũng đâu phải dễ xả nó!

Thầy đã gặp nhiều và gặp nhiều. Ngồi thiền mà có lúc tác ý nghĩ rằng: "Mình không có vọng tưởng”, ngồi thiền mà có lúc nghĩ rằng: "Mình hoàn toàn được thanh tịnh, yên lặng", nhưng những điều đó đều là sai hết.

Cho nên nhờ chư Phật gia hộ, Thầy đã tỉnh thức được trong mọi điều: từ chỗ nào cần phải tác ý là tác ý hướng tâm, mà chỗ nào không cần thì giữ im lặng để biết sức định ở chỗ đó rồi tiếp tục đi tới nữa.

(1:04:49) Các con còn được gần bên Thầy, được nhắc nhở chỗ sai, chỗ đúng, được gần bên cô Út. Thầy nghe nói cô Út trình lại: Mỗi lần mà Đào ngồi tu, khi nghe bị rung động thân cho nên cô Út phải bò, phải đi như thế nào để cho nó không nghe, để cho mình nhìn tận mắt biết chỗ sai, chỗ đúng mà sửa nó.

Cho đến ngày mà Thầy kiểm tra Đào ngồi một giờ rưỡi, Thầy thấy rất vững vàng không rung động. Rõ ràng nếu mà không có sự chịu cực khổ của cô Út mà nhắc đi, nhắc lại, thì Đào không chừng ngày hôm nay có ngồi vững vàng như vậy không?

Thật ra, ơn tình của cô Út đối với mấy con, tuy cổ làm cổ không kể ơn nhưng mà Thầy thấy quá nhọc nhằn. Thầy chỉ đi kinh hành nhìn vào thất rồi xem xét mọi chúng mà thôi chớ không bao giờ có đi rình, đi nhìn ngó, sợ người ta nghe rồi người ta cảnh giác, người ta không rung động thì mình không biết đâu mà mình sửa. Cho nên cô Út quá chịu cực khổ với các con mọi điều.

Vì vậy mà sau khi Thầy ẩn bóng thì các con còn theo cô Út mà tu hành thì chắc chắn là phải theo sự sắp xếp của cổ. Còn luôn luôn tu hành mà gặp khó khăn thì có Thầy trợ giúp, dù bất kỳ ở nơi đâu Thầy cũng có thể trợ giúp các con được.

(1:0623) Và đồng thời các con cố gắng, nếu mà đứa nào không có duyên - thay vì tới giờ phút cuối cùng Thầy mới nhắc nhở điều này, nhưng sẵn dịp hôm nay có sự thỉnh cầu của các con ở lại cho nên Thầy sẵn dịp mà nhắc nhở các con:

Nếu các con ở đâu mà tu tập, thì điều kiên quyết là các con phải xa lìa những người thân của mình. Họ biết được chỗ ở của các con là họ sẽ làm động các con đó và các con tu không bao giờ tới được. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai là các con phải chấp nhận một cái đời sống như thế nào, đừng có để dành, mà hằng ngày phải kiếm từng đồng để mà sống như cha con ông Bàng Uẩn. Đừng có tính mà làm để dành.

Đau bệnh mà người tu hành không có tiền bạc thì chắc chắn là không có đau bệnh đâu. Người tu hành mà có tiền bạc thì hay đau bệnh lắm. Theo Thầy thiết nghĩ, nghèo ít bệnh mà giàu thì bệnh nhiều lắm.

Cho nên, sự tu hành mà các con biết xả hết, xả hết đi, rồi trồng cây rau cây cải nào đó sống với muối, với vừng, ngày một bữa cơm mà sống đủ. Các con không bận tâm, đừng nghĩ cái này, cái kia ăn ngon nữa mà hãy nghĩ rằng: ăn để sống mà thôi!

Lúc xưa Thầy ở trên Hòn Sơn, vì từ trên đỉnh Hòn Sơn mà đi xuống dưới chân hòn quá mệt nhọc, hằng nửa tháng Thầy phải xuống xin gạo rồi vác lên, rồi ở trên đó nửa tháng tu tập, rồi trở xuống xin gạo nữa, và vất vả.

Mấy tháng đầu Thầy còn chịu vất vả, sau đó Thầy trồng được rau theo dòng suối trên Hòn Sơn, rồi Thầy hái rau Thầy tập ăn dần, ăn dần, bớt cơm dần từng chút, từng chút. Cuối cùng Thầy chỉ còn ăn rau mà sống, rồi cũng vẫn sống bình thường. Nhưng lúc bấy giờ tu tập rất là yên ổn và thanh tịnh.

(1:08:43) Đó thì, muốn tạo cho cuộc sống của mình sống mà hiện giờ Thầy sẽ ra đi, và ra đi để ăn những lá cây rừng, ăn những củ rừng mà sống để chờ các con tu tập cho viên thành, có như vậy để cho các con phải ráng mà nỗ lực.

Còn bây giờ, Thầy ngày một bữa cơm như thế này thì các con chưa thấy sự khổ cực của một bậc chân tu.

Thầy thấy bên Yoga, người ta có những bậc đạo sĩ, người ta lên núi Hy Mã Lạp Sơn trên những tầng cao nhất mà người thế gian không thể bước đến được, họ ẩn bóng trên đó, ăn toàn là sương, không có gì hết, chỉ là đá với núi mà thôi.

Tế mà họ sống được. Họ uống sương mà họ sống được, họ không ăn gì hết mà họ sống được, thì Thầy nghĩ rằng, mình còn có lá rừng để ăn thì đâu có đến đỗi mà chết!

Vậy thì hôm nay, Thầy nói để cho các con thấy rằng, Thầy đã từng tập ăn rau mà sống không cần ăn cơm, thì cơ thể của Thầy lúc nào cũng dễ dàng, không còn khó.

Cái thứ nhất là các con trực tiếp được mắt các con: Thầy không nằm trên giường vì Thầy đã nghĩ rằng ngày nào đó Thầy sẽ ở trong hang, nằm trên đá, cho nên thân thể của Thầy đã quen đi với hơi đất. Các con thì không thể được. Nằm xuống đất một đêm, sáng ra các con đi hết muốn nổi.

Còn Thầy thì vẫn thản nhiên lao động làm tất cả công việc. Cũng như gần đây thì Thầy không thấy lao động, nhưng Thầy làm việc soạn giáo án cho các con tu học từ cái dễ đến cái khó. Thầy cũng làm việc bằng trí óc liên tục.

Thầy vì các con là những người về đây với Thầy, trách nhiệm của Thầy phải dẫn dắt cho các con đến cùng tận con đường giải thoát, không bỏ một đứa nào hết, trừ ra các con bỏ Thầy đi mà thôi.

Đó là trách nhiệm của Thầy. Cho nên, các con bỏ đi thì đó là Thầy hết trách nhiệm, mà các con còn ở đây thì Thầy có trách nhiệm.

Và Thầy ẩn bóng mà các con còn quyết tâm theo giáo pháp của Phật, theo những lời dạy của Thầy, giới luật nghiêm túc, thiền định, tu tập hơi thở vững vàng thì luôn lúc nào cũng có Thầy ở một bên các con, đừng lo vắng bóng Thầy.

Như vậy, các con chắc chắn là đã thỏa mãn rồi, không còn đòi hỏi Thầy gì hơn nữa.

3- TU SINH MONG THẦY MANG THEO THỊ GIẢ

(1:11:35) Và bây giờ thì Thầy tiếp tục bài giảng giáo án hôm nay. Bây giờ các con còn ai có ý kiến gì không, có thưa hỏi gì nữa không?

Tu sinh: Thầy giảng như đó thì từ nãy giờ chị em chúng con nghe rất hiểu rồi. Dù thế nào cũng không thể kìm chân Thầy ở lại được. Đó là một điều vinh hạnh cho các con.

Thôi thì chúng con cũng ráng phải trong ba tháng nữa, cũng nỗ lực, tới đâu hay tới đó. Rồi thì sau này, mỗi người thì mỗi ý, ai muốn tu cách nào thì cứ theo trong giáo án Thầy mà tu, còn chẳng may không được thì cũng phải đành chịu. Còn ai muốn ở lại đây tu thì tu, ai muốn về thì về, đó là sau này tụi con sẽ giải quyết sau.

Còn cũng cầu chúc cho Thầy lúc ra đi, nhưng cực khổ quá như vậy mà Thầy không có thị giả nào theo thì rủi bệnh hoạn trong rừng sâu, nước độc ra thì cực khổ cho Thầy biết bao nhiêu!

Tụi con thấy đau lòng quá, không biết nói gì hơn nữa! Thôi thì chúng con cũng cam tâm nhận như vậy thôi, chứ cũng không dám thỉnh cầu Thầy nữa!

(1:12:55) Trưởng lão: Bây giờ Thầy tiếp thêm vì con có gợi ý người thị giả.

Thì Mật Hạnh có xin Thầy là Thầy đi đâu thì xin cho Mật Hạnh theo đó, nhưng Thầy nghĩ rằng: Không biết sức của Mật Hạnh có chịu nổi trên bước đường gian khổ trong rừng sâu, núi thẳm hay không?

Điều đó là Thầy rất ngại. Bởi vì, Thầy thấy sức khỏe nó cũng kém chớ không phải được như Thầy. Tuy rằng Thầy già yếu nhưng cái sức khỏe của Thầy rất nhiều.

4- MUỐN DÙNG PHÁP HƯỚNG ĐẨY LUI BỆNH THÌ PHẢI BỀN CHÍ

(1:13:27) Như vừa rồi thì các con biết rằng, cái chân Thầy rất đau, Thầy không biết tại sao các bắp thịt trong đó nó lại nhức nhối như vậy, Thầy cũng chưa hiểu. Nhưng rồi Thầy cũng cố gắng để rồi tự ám thị. Thầy nhắc lại: Tự ám thị, rồi cũng dùng chút ít thuốc.

Nhưng mà Thầy nghe nói cái bệnh này trị rất lâu mới hết đau nhức. Nhưng gần đây thì chỉ gần hơn nửa tháng nay là Thầy thấy cái bệnh nó đã hết rồi. Do cái sức ám thị của Thầy chớ thuốc thang thì theo như bác sĩ Nhơn cũng như bác sĩ Trí nói cái bệnh này cũng phải trị một thời gian lâu mới hết. Nhưng mà Thầy thấy sao đối với Thầy thì nó cũng quá dễ dàng, không thấy khó.

Vậy thì Thầy nhắc lại cho quý con thấy, khi chúng ta bị đau nhức chỗ nào đó thì chúng ta hãy dẫn tâm đến đó mà trị nó. Vì vậy mà cái câu dạy của Thầy mà đã được ghi vào cái bia đá để đời sau người ta nhớ mãi đó là: "Dẫn tâm vào đạo, đừng dẫn đạo vào tâm". Cái câu nói đó là Thầy muốn nói pháp hướng đó.

Chẳng hạn là như bây giờ cái đầu các con bị nhức, các con hãy cố gắng bền chí mà nhắc đi: “Cái đầu nhức là cái thọ, mà cái thọ là vô thường, vậy thì cái đau này là vô thường, không có cái ngã chịu đau. Vậy ai chịu đau đây? Chắc chắn là không có! Như vậy cái thọ này phải dừng đi, không được đau nữa! Cái đầu này không được nhức nữa!”

Rồi các con lại nghỉ, không nhắc nữa. Một lúc lâu các con lại nhắc nó nữa. Cứ nhắc mãi, một ngày này qua rồi ngày khác qua, thế rồi cái đầu của các con sẽ hết đau.

(1:15:25) Các con nhớ kỹ: Cái đầu của các con sẽ hết đau, tức là cái thọ vốn nó vô thường, nó không bản ngã, cho nên mình đem cái tâm của mình dẫn nó, nói đúng cách của nó, thì nó sẽ hết đau.

Cũng như cái thân mình nhức chỗ nào, mỏi chỗ nào mình biết rất rõ. Đây là đau khớp xương, thấp khớp như thế nào, cứ dẫn nó mà nhắc đi. Rồi chúng ta đem cái thọ đặt trước mặt, ngồi xếp bằng hẳn hòi, tâm giữ yên lặng, đặt cái thọ trước mặt rồi quán xét cái thọ. Do đó, chúng ta xả bỏ tất cả những nỗi đau đớn trong thân của chúng ta bằng pháp hướng.

Như vậy rõ ràng Phật dạy chúng ta đặt niệm trước mặt để quán vô lậu. Vì thọ làm cho chúng ta đau khổ cho nên nó là lậu hoặc, mà chúng ta không có đau khổ thì lậu hoặc hết.

Cho nên Thầy thấy qua cái thân của Thầy, Thầy cũng thấy có sự hiệu nghiệm. Và thay vì cái bệnh này nó phải trị lâu dài nó mới hết, nhưng cuối cùng thì Thầy chỉ dùng pháp hướng mà Thầy đã khắc phục được cái bệnh của thân mình.

Đó là những cái vi diệu của pháp hướng mà chúng ta cần phải học, cần phải tu tập, cần phải rèn luyện thì nó mang đến kết quả rất lớn. Dù cái bệnh nan y như thế nào, chúng ta bền chí mà tập đi.

Những người tu thiền mà chúng ta đã thành tựu được pháp hướng này, nhắc là có hiệu quả. Cũng như bây giờ các con đã tập, các con nhắc: "Hơi thở này ngưng đi!" - mà nó đã chịu ngưng thì các con nhắc cái thọ thì cái thọ nó ngưng dễ dàng.

Mà các con nhắc hơi thở chưa ngưng thì các con hãy tập cho nó ngưng đi, rồi các con nhắc tất cả những thọ trong thân của các con làm cho các con khó chịu và đau khổ, thì nó sẽ làm cho cái thọ các con bị lui và bị lặn mất đi, không còn làm các con đau khổ nữa.

Đó là những cái rất là vi diệu.

5- KHÔNG LÃNG PHÍ THỜI GIAN NHƯNG PHẢI TU ĐÚNG

(1:17:24) Vậy thì bây giờ Thầy xin đọc lại một cái, không biết là Thầy có cho các con chép lại cái bài kệ này không?

Thầy nhắc lại bài kệ này, để trong cái thời gian quý báu, sự tu tập của các con, cái đời còn lại của các con nó còn quá ít; nghĩa là còn một vài năm nữa thì cũng có người sẽ ra đi bỏ thân xác này, cũng có người còn năm ba năm nữa sẽ bỏ thân này mà ra đi, rồi cũng có người thì còn mười năm nữa.

Không biết chừng bữa nay chúng ta còn gặp nhau nhưng sống một đêm nay, ngày mai ai ra đi nào ai biết? Nhưng chắc chắn là con đường sanh tử ai cũng phải đi.

Vì vậy mà bài kệ này nói về bóng thời gian. Các con ghi:

Bóng Thời Gian

Một tấc bóng trời, một tấc vàng

Thầy đọc lại:

Một tấc bóng trời một tấc vàng

Tấc vàng khó chuộc bóng thời gian

Tấc vàng dầu mất, nay tìm được

Tấc bóng thời gian khó hỏi han.

(1:19:29) Đó là một bài kệ để chúng ta thấy: Thời gian qua, nó mất đi rồi chúng ta không lôi lại được. Như Thầy nói: Hôm nay chúng ta sống, ngày mai chúng ta mất, nào ai biết được.

Cho nên cái người tu hành người ta tiếc từng thời gian. Do vì tiếc thời gian đó mà Thầy phải sách tấn các con bằng sự ra đi của Thầy để các con nỗ lực hơn và xả bỏ hơn, đừng tiếc gì trong thế gian này nữa mà nỗ lực tu!

Bài kệ này nhắc các con phải tiếc từng chút thời gian của các con. Nhưng các con phải biết: Tiếc mà các con tu sai thì các con thành bệnh vì quá tinh tấn!

Cho nên tu phải đúng, phải biết nghỉ ngơi, phải biết xả, phải biết làm cái gì trước, làm cái gì sau, phải khéo léo, phải thiện xảo.

Tất cả những sự tu tập là cả một vấn đề, không phải vội vàng mà khắc phục tâm mình, ép buộc nó bằng cách này bằng cách khác để cho nó ngưng nghỉ hơi thở thì điều đó các con đã tự giết mình!

Phải biết thân mình, sức mình như thế nào, phải biết nghỉ ngơi như thế nào để lấy sức, sau thời gian tu tập nó mới có kết quả. Nếu không biết, vội vã, nỗ lực thực hiện điên khùng thì cũng chẳng tới đâu và con đường còn xa mờ mịt.

Bây giờ, Thầy đọc lại để các con dò lại coi đúng không?

Một tấc bóng trời, một tấc vàng

Tấc vàng khó chuộc bóng thời gian

Tấc vàng dầu mất, nay tìm được

Tấc bóng thời gian khó hỏi han.

Đó thì các con thấy những cái bài kệ, người mà tu hành, mà hầu hết ở trong giáo lý của nhà Phật có những bài kệ nói về thời gian như thế này rất nhiều, tức là nhắc nhở chúng ta rất nhiều: Đừng để phí thời gian!

Chúng ta cứ lăng xăng hết chuyện này tới chuyện kia mà không chịu giữ mình trong hạnh độc cư, mà không chịu giữ mình cho chính bản thân mình được yên ổn, được tu tập và những người khác cũng được yên ổn tu tập.

6- CHẤM DỨT NGHIỆP LÀ CHẤM DỨT LUÂN HỒI SINH TỬ VÀ ĐAU KHỔ

(1:22:08) Bây giờ Thầy sẽ bắt đầu, sẽ dạy các con về cái bài học kỳ trước. Để tóm lược lại cái bài mà các con đã được học kỳ trước.

Tóm lại, bài giảng kỳ rồi là để cho các con thông hiểu nghiệp.

Tức là ở cái giai đoạn một của giáo án này, Thầy đã giảng về cái nghiệp. Do cái đoạn dạy về nghiệp thì các con biết là cái nghiệp nó là chủ nhân của chúng ta, nó là một đấng tạo hóa sanh chúng ta ra.

Cho nên ở đây Thầy có ghi lại:

Đối với đạo Phật, nghiệp là đấng tạo hóa sanh ra loài người.

Đó thì các con thấy rất rõ. Cái nghiệp nó sanh ra muôn vật chớ không phải có một đấng tạo hóa nào hết, Phật xác định cái điều đó rất rõ. Mà Thầy đã giảng cái chữ “nghiệp" các con đã hiểu rồi.

Cho nên ở đây thì chúng ta đã biết đạo Phật đã xác định rất rõ ràng là:

Nghiệp là đấng tạo hóa sanh ra loài người và chúng sanh, nên thường sai khiến con người…​

Chúng ta thành cái thói quen rồi thì chính cái thói quen đó là cái nghiệp của chúng ta, nó sai chúng ta làm cái này, làm cái kia. Hễ nó khởi ra cái muốn nó - tức là cái nghiệp đó, thì chúng ta chạy theo nó.

Cũng như một người nghiền thuốc, khởi ra cái muốn thì móc ra trong túi của mình lấy cái điếu thuốc lên rồi đốt, rồi hút. Rồi khởi ra nghiện rượu là bắt đầu chúng ta phải chạy đi mua một ly rượu để uống thì đó là nghiệp sai chúng ta..

nên nó thường sai khiến con người. Vì thế, con người là kẻ được thừa tự của nghiệp.

Đời đời, kiếp kiếp của con người tiếp nối trong sáu nẻo luân hồi đau khổ đều chính do nghiệp mà ra.

Chúng ta đau khổ đều chính do nghiệp. Từ cái nghiệp cũ nó đưa đẩy chúng ta, rồi chúng ta tạo cái nghiệp mới, rồi nó thành thói quen, nó trở thành nghiệp cũ. Cứ như vậy, nó mãi mãi tiếp diễn đời này đến đời khác mà không bao giờ chúng ta chịu ngăn chặn nó.

Biết vậy, chúng ta cần phải chấm dứt nghiệp. Chấm dứt nghiệp là chấm dứt tái sanh luân hồi, sanh tử và đau khổ.

(1:24:40) Ở đây, các con thấy rất rõ là Đức Phật đã xác định: "Nghiệp là tạo hóa sanh chúng ta ra", mà bây giờ chúng ta phải làm chủ cái đấng tạo hóa này, chấm dứt nghiệp không còn làm nữa, không còn sai chúng ta nữa, không còn sanh chúng ta ra nữa, đó là chúng ta đập vỡ cái đấng tạo hóa mà sanh ra con người, sanh ra chúng sanh.

Bằng chứng là chúng ta tu tập theo đạo Phật là chúng ta đập cái ông tạo hóa này, xô ổng xuống cái ngai vàng, không có để ông ngồi đó mà ổng sai người ta được nữa. Đó là cách thức chúng ta phải mạnh dạn chớ không phải tuân theo cái lệnh của nó nữa.

Chẳng hạn bây giờ mình nghe ở trong bụng của mình nó đói, nó cồn cào, bắt đầu mình chạy vô trong bếp rồi mình lục nồi cơm ra mình ngồi mình ăn, đó là nghiệp sai mình đó. Vậy thì mình muốn chấm dứt cái nghiệp này là nhất định là không có vô bếp lục nồi, thì như vậy đó là mình đã làm chủ được cái đấng tạo hóa này rồi.

Anh ta sai mình, bảo mình đi ăn thì mình đi ăn, sai mình đi uống là mình đi uống. Không được! Sai mình ngủ là mình đi ngủ thì đó là thuộc về nghiệp tất cả hết. Cho nên, chúng ta biết được cái điều mà nó sai mình đi thì tức là cái nghiệp, đó là cái thói quen.

Do vì vậy mà chúng ta phải nỗ lực, giờ nào ra giờ nấy, làm việc gì ra việc nấy, ăn ra ăn, uống ra uống. Không có nghĩa là giờ này không phải giờ uống mà đi uống, giờ này không phải giờ ăn mà đi ăn, thì chúng ta cấm tuyệt, thì làm cho cái ông chủ mà thường sai chúng ta từ lâu tới giờ nó không sai được nữa.

Cũng như bây giờ mình ngồi lại mình nhớ, mình thương những cái người như cha mẹ của mình đã chết, mình nhớ, mình thương những người đó. Thì bắt đầu mình biết đây là một cái nghiệp của muôn người chớ không phải riêng mình, người nào thì cũng nhớ cha, nhớ mẹ hết, cho nên mình chấm dứt.

Nhớ chắc chắn cũng không cha mẹ gì sống được; thương chắc chắn là cũng không sống được. Đã chết rồi thì tan biến theo nhân quả, không còn ở đây mà thương, mà nhớ nữa!

(1:26:55) Do cái sự hiểu biết trí tuệ này, chúng ta làm chủ được cái nghiệp, làm cho tâm chúng ta không bồi hồi, không nức nở, không đau khổ, không thương nhớ.

Cho nên, các con hầu hết là những người cư sĩ có gia đình, có con cái thì phần lớn cái nghiệp…​ (Mất đoạn)

hết băng 5

06 - SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH - PHẦN 2

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 06 - SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH 02

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- TÌM HIỂU VÀ TU TẬP CÓ KẾT QUẢ RỒI MỚI THỌ TAM QUY NGŨ GIỚI

(00:00) Hôm nay Thầy tóm lược lại cái giáo án này, rồi chúng ta tiếp tục học những cái điều thiện của Phật đã dạy, để tiếp tục cho hết mười cái điều lành và biết rõ mười cái điều ác mà Phật đã nêu lên, để cho khi mà tu tập chúng ta biết rõ cái điều ác và điều thiện.

Như chúng ta đã học rồi, thì cái giáo án của Phật, cái lớp đầu tiên mà khi chúng ta đến với đạo Phật thì chúng ta phải thay đổi sáu cái nghề nghiệp. Như quý vị biết rằng, tất cả những cái nghề nghiệp đó là những cái nghề nghiệp làm đau khổ chúng sanh, cho nên phải thay đổi những cái nghề nghiệp.

Rồi từ thay đổi cái nghề nghiệp đó thì người cư sĩ phải tiếp tục tìm hiểu như thế nào? Cho nên Phật có dạy có bốn cái cách mà để chúng ta đi sâu vào con đường của đạo Phật. Thầy xin nhắc lại.

Ngày xưa, khi Đức Phật dạy cho đệ tử của Ngài cái giới cư sĩ, thì Ngài dặn tất cả mọi người:

Khi đến với đạo Ngài thì đừng có tin Ngài, đừng có nghe Ngài. Những gì mà Ngài nói ra mà thực hiện được giải thoát thì hãy tin, được cái sự an ổn, hạnh phúc thì hãy tin. Những gì mà Ngài dạy ra mà được cái hàng trí thức - cái người trí - người ta cho đó là đúng thì các vị hãy trên cái thực hành đạo của Ngài. Chớ đừng vội mà tin.

Cho nên hầu hết trong cái thời đại của chúng ta, người ta tin đạo Phật, người ta tin rất là nông nổi. Nghe thuyết giảng, nghe khơi khơi chớ chưa thấy có sự giải thoát gì hết, chỉ mình nghe cái lý luận của người ta, mình thấy nó hay rồi mình bước chân vào đạo Phật mà không biết cái đó là đạo Phật giả hay là đạo Phật thật.

Bởi vì khi mà Đức Phật nói ra cái lời này, nói về vị lai đó, thì có một Đức Phật Di Lặc ra đời để mà thành lập một cái Đạo Phật. Thì cái thời vị lai là cái thời sau Đức Phật Thích Ca. Nhưng mà Thầy thiết nghĩ thì đạo Phật chỉ có ông Phật Thích Ca chớ trước đó cũng chưa ai sáng lập ra đạo Phật, và sau này trong thời vị lai chắc chắn là cũng không có một cái ông Phật nào mà sáng lập ra cái đạo Phật mới.

Nhưng nó có những cái đạo Phật mới chớ không phải không, vì chúng ta là những người ở trong cái thời vị lai, chúng ta đã thấy được cái đạo Phật mới chớ không phải chúng ta không thấy. Nhưng bây giờ thì chúng ta không nói cái đạo Phật mới đó mà chúng ta trở lại cái đạo Phật mà của ông Phật Thích Ca đã chỉ dạy cho chúng ta cách đây hai ngàn năm trăm bốn chục năm.

Vì vậy mà Đức Phật dạy, nhắc nhở chúng ta cái lời rất kỹ, là khi bước chân vào đạo thì phải có sự tìm hiểu, mà có sự kết quả của cái lời dạy đó để đem lại cái nguồn hạnh phúc, an vui cho đời mình thì mình nên theo cái đạo đó. Còn nếu mà không thấy có kết quả thì thôi đừng có theo.

Chính Đức Phật xác định: “Đừng có tin Ta mà cũng đừng có nghe Ta, mà cái điều làm được kết quả do từ Ta nói thì hãy theo Ta, mà không có kết quả thì thôi đừng có theo!”

Thì như vậy là Đức Phật đã dạy chúng ta cẩn thận, không có nông nổi, không có vội vàng mà cẩn thận khi mà tìm vào một cái tôn giáo nào. Chính Đức Phật là cái người đã sáng lập tôn giáo đó mà vẫn cẩn thận nhắc nhở chúng ta khi bước chân vào cái tôn giáo đó là phải có sự cẩn thận như vậy, kỹ lưỡng như vậy, không có nông nổi.

(03:29) Vì vậy mà khi bước chân vào đạo Phật, chúng ta thay đổi sáu cái nghề nghiệp rồi, thì Đức Phật bảo chúng ta: Thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Nghĩa là chúng ta muốn đi vào đạo Phật thì chúng ta phải thông hiểu những cái gì của đạo Phật?

Cho nên Đức Phật dạy chúng ta cái điều thứ nhất thì Thầy đã dạy các con rồi: Thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Rồi kế Đức Phật nói: khi mà thông hiểu rồi thì chúng ta trau dồi những gì chúng ta cần trau dồi, chớ không phải thông hiểu rồi cái thôi.

Cho nên nhiều khi chúng ta thông hiểu mà chúng ta không có trau dồi thân tâm của mình thì làm sao mình có giải thoát được? Cho nên mình phải trau dồi.

Mà trau dồi bằng cái pháp nào? Thì Đức Phật đã dạy cái pháp cho chúng ta trau dồi. Mặc dù là cái người cư sĩ họ chưa thọ Tam Quy - Ngũ Giới đâu, nhưng họ phải biết cách trau dồi để thử coi mình trau dồi có được không?

Chớ không khéo rồi mình vô cái đạo đó rồi cái mình trau dồi không được, cái mình nhảy ra mình theo cái tôn giáo khác, thì như vậy là mình nghe nó khó chịu, mình không có nghĩa, không có tình gì với tôn giáo đó.

Cho nên người ta bị cái tình trạng của tâm hồn chúng ta, thí dụ như bây giờ Thầy theo đạo Phật, hay hoặc là Thầy theo Cao Đài, hay hoặc là Thầy theo Thiên Chúa, mà bây giờ Thầy muốn vào đạo Phật Thầy thấy quá khó, hay hoặc Thầy muốn bỏ đạo Phật mà Thầy muốn đi vào cái tôn giáo khác, nó làm cho tâm hồn Thầy ray rứt. Đứng trước một cái tôn giáo Thầy thấy rất là khó chứ không phải không. Đó là những điều mà Đức Phật dạy chúng ta rất là cẩn thận.

Cho nên khi mà chúng ta trau dồi, chúng ta thấy: “À có kết quả! Như vậy là mình bước tới một chút nữa coi!” Thì Đức Phật lại dạy bước tới một chút nữa là: Đoạn dứt những gì cần phải đoạn dứt.

Nghĩa là mình phải bỏ những cái gì mình cần phải bỏ, thì Đức Phật dạy như vậy, chúng ta tiếp tục chúng ta dứt bỏ những cái mà Đức Phật bảo coi thử có kết quả ra sao? Thì rõ ràng là khi mà chúng ta dứt bỏ thì chúng ta có thấy được những cái kết quả.

Rồi Đức Phật dạy: Tu tập những gì cần phải tu tập. Thì lúc bấy giờ chúng ta tu tập thử thử coi sao. Thấy nó có kết quả quá, nó có giải thoát thật, nó đem lại hạnh phúc gia đình mình thật, do đó, từ đó chúng ta mới bắt đầu chúng ta đến chúng ta xin quy y Tam Bảo, thọ Ngũ Giới.

Thì như vậy là chúng ta có thay tôn giáo không? Có nay tôn giáo này, mai đi tôn giáo khác không?

Cho nên lỡ mà chúng ta bước chân vào, chúng ta đã quy y Phật Pháp, chúng ta đã xin làm đệ tử của Phật rồi, mà ngày mai chúng ta xin làm đệ tử của Chúa, ngày mốt chúng ta xin làm đệ tử của một đấng giáo chủ nào đó, thì như vậy là con người chúng ta là con người gì?

Nay thay Chúa này, mai thay Phật kia, thì như vậy là nó làm cho tâm hồn chúng ta rất là khó chịu, bất an lắm!

Đó thì, như vậy là Phật đã dạy chúng ta rất cẩn thận: Khi mà chúng ta bước vào đạo thì chúng ta đã biết được bốn cái điều kiện mà chúng ta cần phải tìm hiểu và cần phải tu tập xem thử như thế nào, được rồi chúng ta mới thọ Tam Quy, Ngũ Giới.

2- TẦM QUAN TRỌNG CỦA THẬP THIỆN

2.1- NGHIỆP THIỆN ÁC SINH RA VÀ PHÂN CHIA CUỘC SỐNG CON NGƯỜI

(06:10) Và vì vậy thì bây giờ chúng ta chưa thọ Tam Quy - Ngũ Giới, nhưng Đức Phật thì chúng ta đã học hiểu, như cái giáo án, khi mà chúng ta thay đổi nghề nghiệp, chúng ta biết bốn cái điều kiện cần phải tìm hiểu, do đó bây giờ chúng ta tìm hiểu cái gì trước tiên? Chúng ta hiểu ngay cuộc sống của mình trước tiên chớ!

Vậy thì chúng ta hiểu cuộc sống của mình là hiểu cái gì? Tại sao mà cuộc sống của mình, như Thầy đã giảng rồi: có người nghèo, người giàu; có người tốt, người xấu; có người thì làm quan, có người thì làm dân, tôi tớ; có người thì bệnh tật, yểu tử, có người thì trường thọ mà ít bệnh tật? Đó là những cái mà chúng ta cần phải tìm hiểu.

Vì vậy khi mà tìm hiểu thì rõ ràng là Phật dạy chúng ta biết đó, tất cả mọi cái đó đều từ - chính con người chúng ta sanh ra cũng đều là do nghiệp. Nghiệp là đấng tạo hóa sinh ra muôn vật trong đó có chúng ta.

Rồi nghiệp sanh ra, rồi phân chia chúng ta: người thì sang, kẻ nghèo, người đói, kẻ rách, người giàu, người làm vua, người làm dân, người làm tôi tớ, người bệnh nhiều, người bệnh ít…​ cũng do cái nghiệp mà thôi.

Vì vậy mà chúng ta phải tìm hiểu cái nghiệp thêm nữa thì chúng ta thấy cái nghiệp nó như thế nào? Nó có nghiệp ác và nghiệp thiện. Cho nên nghiệp ác thì chúng ta sanh ra cuộc đời thì chúng ta phải chịu thọ lấy khổ, mà nghiệp thiện thì chúng ta thấy có sự an lạc, có sự hạnh phúc. Cho nên nghiệp thiện và nghiệp ác thì chúng ta thấy nó rõ ràng.

Vì vậy cho nên mới có Thập Thiện. Mà có Thập Thiện tức là phải có thập ác. Cho nên bây giờ chúng ta mới bắt đầu học vào Thập Thiện để xem coi.

Bởi vì các con thấy, Đức Phật dạy chúng ta tu Tứ Chánh Cần: Các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, mà đã sanh thì chúng ta phải đoạn diệt, dứt bỏ, không để cho nó tăng trưởng. Còn các pháp thiện chưa sanh thì cho nó tăng, mà nó đã sanh thì tăng trưởng làm cho nó lớn ra.

Như vậy trong khi đó mà chúng ta muốn theo đạo Phật, chúng ta chưa biết cái pháp ác là cái nào, mà chưa biết cái pháp thiện là cái nào. Chúng ta cứ nghĩ rằng, bây giờ ăn mày đến xin là mình cho họ đó là làm thiện. Hay hoặc thấy ai mà bệnh tật, nghèo đói mình giúp đỡ họ đó, thì đó là làm thiện. Nhưng mà đâu có phải là toàn bộ cái thiện của Phật dạy?

Phật dạy có mười cái điều thiện và mười cái điều ác. Cho nên chúng ta phải học biết được mười cái điều này. Khi nào chúng ta làm trái mười cái điều thiện tức là mười cái điều ác chớ không có gì khác hơn hết. Mọi cái đời sống của chúng ta đều nằm ở trong cái thiện ác này.

Mà chính cái thiện ác này nó mới là nghiệp, mà nghiệp nó mới sanh chúng ta ra, nó mới tạo chúng ta có nghèo, có giàu, có đói, có khổ.

2.2- THẬP THIỆN LÀ MƯỜI ĐIỀU LÀNH TRÊN THÂN, KHẨU VÀ Ý

(08:43) Cho nên chúng ta đã biết rõ được cái nguyên nhân mà kiếp con người sống trong cái khổ này, hay hoặc là cái hưởng lạc, an vui, hạnh phúc này là cũng chính từ cái nghiệp. Do vì vậy mà bây giờ chúng ta phải học Thập Thiện.

Mà Thầy giáo đầu giới thiệu cho quý vị biết cái Thập Thiện qua cái lời giảng rồi thì chắc chắn là quý vị đã hiểu được sự quan trọng của Thập Thiện như thế nào.

Mà từ lâu quý vị không thấy Thập Thiện là cái sự quan trọng cho cái nền tảng vững chắc bước đường tu tập của quý vị, cho nên quý vị không hiểu. Mà Thầy đã dạy hôm rồi thì…​ (Mất đoạn)

(09:19) …​ coi cái nền tảng của Thập Thiện nó như thế nào? Nó vững chắc đến cái mức độ mà chúng ta không ngờ được!

Như trên đã dạy, người nào muốn thoát khỏi thân bệnh, tâm bệnh, tai nạn này hoặc tai nạn khác và cầu mong gia đình được yên vui, đầm ấm, con cái hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, sống trong tình nghĩa thương yêu mặn nồng, tràn đầy hạnh phúc thì hãy tu tập Thập Thiện.

Thập Thiện là mười điều lành do thân, miệng và ý hành động.

Nghĩa là mười cái điều lành này nó do cái hành động của thân, cái lời nói của miệng và cái ý suy nghĩ của mình.

I. Thân có ba nghiệp thiện, ngược lại là ba nghiệp ác:

Về cái phần hành động của thân thì:

1. Không giết hại chúng sanh;

2. Không trộm cắp;

3. Không tà dâm.

II. Về phần khẩu…​

Về phần miệng của chúng ta thì:

…​ có bốn nghiệp thiện, bằng ngược lại thì nó là bốn nghiệp ác:

1. Không nói dối;

2. Không nói thêu dệt;

3. Không nói hai chiều;

4. Không nói lời hung ác.

Đó là cái phần của miệng của chúng ta, nó có bốn cái điều thiện. Tức là bốn cái cách thức nói mà nói ra thì thiện, mà nói ra là ác; nói ra thì đem đến cho hạnh phúc an vui, mà nói ra mà đem đến tai họa, đem đến sự khổ; thì đó là nói ra bằng bốn cái điều kiện mà Phật đã dạy. Trong bốn cái điều kiện đó, hoặc thiện hoặc ác.

III. Ý có ba nghiệp thiện, ngược lại thì đó là ý có ba nghiệp ác:

1. Không tham dục;

2. Không sân hận;

3. Không si mê.

Đó thì, về cái phần ý thì nó ngầm ở trong ý chúng ta khởi ra cái tâm ham muốn cái này, ham muốn cái kia. Rồi về cái phần ý thì tâm chúng ta trước những cái đối tượng, cái sự việc gì đó làm chúng ta giận hờn, bừng bốc lên những cái cơn tức giận, thì đó là sân.

2.3- BIẾT NHIỀU HIỂU RỘNG MÀ TÂM BẤT AN VẪN LÀ SI MÊ

(11:49) Về cái phần si mê, thì hầu như cái sự si mê này, theo cái nghĩa của nó cho đúng thì Thầy sẽ giảng dạy khi mà đến dạy về si mê.

Si mê không có nghĩa là cái người ngu tối không có hiểu gì hết đâu, mà si mê đây là cái người rất thông minh, có thể họ là những người đậu bằng tiến sĩ, thạc sĩ hoặc là những nhà khoa học có những phát minh lợi ích cho cái thế gian này, nhưng họ vẫn được gọi là, ở trong Phật giáo được gọi là si mê, qua những bài Phật đã dạy ở trong kinh rất rõ ràng và cụ thể.

Thậm chí Phật còn dạy cái người si mê: Không phải là cái người mà thuyết giảng thông suốt kinh điển, rồi những truyền thuyết hoặc là những cái văn thơ rất là thông minh, rất là giỏi, nói rất hay, nhưng mà tâm họ bất an thì họ vẫn là người si mê.

Cho nên, cái trí tuệ của Phật nói là cái tri kiến giải thoát chớ không phải cái tri kiến của thế gian thường tình. Cho nên nếu mà lọt vào đó thì đó là cái si mê chớ không phải là cái không si mê.

Cho nên chúng ta thấy: Những người học hành giỏi, những nhà bác học phát minh nhiều cái thứ lợi ích cho chúng sanh, nhưng mà chính bản thân ông chưa được an ổn, nó còn bất an, thì chính ông là cái người si mê chứ chưa phải là không si mê.

Đó thì, thấy như vậy chúng ta mới biết được về cái Thập Thiện, nó đi từ cái thân cho đến cái khẩu cho đến cái ý của chúng ta để xác định cho một con người đi vào đạo Phật phải thông minh như thế nào, phải hành động như thế nào, phải ăn nói như thế nào cho đúng cách để được giải thoát.

Chúng ta nếu mà không hiểu, lơ mơ, thì ngay cái miệng chúng ta đã tạo đến cái khổ của mình; ngay cái thân chúng ta có những hành động đem đến cho chúng ta cái khổ. Mà đem đến chúng ta cái khổ đó là cái nghiệp. Rồi đến cái ý chúng ta khởi nghĩ thôi thì nó cũng đem đến cho chúng ta những cái quả khổ, cái nghiệp khổ.

2.4- THẬP THIỆN TẠO RA NGHIỆP LÀNH ĐỂ CÓ HẠNH PHÚC, AN VUI

(14:06) Bây giờ, Thầy giảng từng phần.

Bắt đầu về cái phần thân. Phần thân thì không giết hại chúng sanh, đó là cái hành động thứ nhất.

Tại sao hành Thập Thiện?

Con người thoát khỏi bệnh tật, tai nạn, giận hờn, phiền não, đau khổ và yểu tử…​

Đây là đặt ra câu hỏi để chúng ta biết: Tại sao hành Thập Thiện, tức là chúng ta tu hành Thập Thiện thì con người sẽ thoát ra khỏi bệnh tật, tai nạn và sự giận hờn, phiền não, đau khổ và chết yểu đối với con người; tại sao chúng ta tu Thập Thiện mà chúng ta vượt thoát được cái điều đó?

Như trên Thầy đã giảng, con người do nghiệp sanh ra mà cũng do chính con người tạo ra nghiệp…​

Nghiệp nó sanh ra mình, rồi mình lại sanh ra nghiệp. Chớ không phải nghiệp từ đâu mà có, mà chính mình tạo ra nghiệp, rồi nghiệp nó lại sanh ra mình.

Đó là một cái vòng luẩn quẩn mà hầu như người ta không có lưu ý, mà người ta tưởng là bằng cách này, bằng cách khác, hay hoặc là tự nhiên hay là ngẫu nhiên mà cái nghiệp nó ở đâu nó đến với mình, không phải đâu! Cái nghiệp do mình tạo ra và cái chính nghiệp nó lại tạo ra mình, nó lại sanh ra mình.

Vì vậy mà trong cái vòng luân hồi, luân chuyển như vậy đó, nó tạo ra chúng ta vô lượng kiếp, do đó mà chúng ta không hiểu. Từ mình bị nghiệp nó sanh ra mình, rồi mình tạo ra nghiệp, rồi nghiệp nó sanh ra mình nữa, cứ như vậy nó luân lưu hoài hoài mà nó không dứt.

…​ tạo ra nghiệp để rồi con người chịu lấy những hậu quả của nghiệp.

Nếu nghiệp ác tạo ra thì họ phải chịu lấy những sự khổ đau, tai nạn, hoạn nạn hoặc yểu tử, chia lìa, bệnh và chết. Nếu nghiệp thiện được tạo ra thì họ phải hưởng lấy những hạnh phúc an vui như câu hỏi đã nêu trên.

Thập Thiện - mười điều lành tạo ra nghiệp lành. Vì thế, chúng ta cần phải tư duy, suy tư chín chắn.

Nghĩa là nói mười cái điều lành này nó tạo ra chúng ta cái nghiệp lành, tức là nó tạo ra cho chúng ta một cái người mà sẽ tiếp tục sanh chúng ta ở trong kiếp sau đó.

Nghĩa là kiếp này chúng ta biết Thập Thiện, rồi chúng ta thực hiện Thập Thiện, chúng ta tạo ra cái nghiệp lành đó, do cái nghiệp lành đó nó mới sanh chúng ta trong một kiếp tới, từ đó chúng ta mới hưởng được những cái hạnh phúc, an vui. Vì vậy đó, từ cái chỗ chúng ta tạo ra cái người sanh chúng ta, rồi cái người sanh chúng ta đó mới tạo cho chúng ta ra ở trong nghiệp lành.

Mà nếu ở trong cái nghiệp lành đó mà chúng ta không biết, chúng ta lại tạo ra nghiệp ác, thì từ đó chúng ta lại tạo ra cái người sanh mình là ác, do đó cái người ác sẽ sanh ra chúng ta trong cái ác, vì vậy mà chúng ta thọ lấy những cái khổ đau.

Đó, quý thầy, các con hiểu được cái chỗ này mới thấy được cái vòng luẩn quẩn của nhân quả, mới thấy được cái đường đi của nhân quả. Đường đi của nhân quả nó là như vậy đó!

Cho nên nếu mà chúng ta không cắt dứt được cái này thì tức là chúng ta không chấm dứt được cái sự tái sanh luân hồi đâu.

3- THÂN HÀNH THIỆN: KHÔNG GIẾT HẠI CHÚNG SANH

(17:29) Tại sao không giết hại chúng sanh?

Nghĩa là đặt cái câu hỏi: Tại sao chúng ta không giết hại chúng sanh thì chúng ta sẽ được những cái điều kiện là không yểu tử, là không chết non, là không đau khổ, bệnh tật?

Đó là đặt ra câu hỏi như vậy: Tại sao chúng ta hành Thập Thiện mà cái điều kiện tiên quyết đầu tiên là đừng có giết hại chúng sanh thì chúng ta sẽ được không chết, không yểu tử?

Điều quả quyết: Vạn vật sanh ra trong vũ trụ, không một loài vật nào không sợ chết, không sợ khổ đau và bệnh tật. Cho nên chẳng có sự vui mừng nào hơn là sự vui mừng khỏi bị giết, khỏi bệnh tật, tai nạn.

Người đời thường nói: “Thà nghèo mạnh giỏi còn hơn giàu sang đau ốm”; “ăn được ngủ được là tiên”.

Đó là những câu tục ngữ, những cái ao ước của con người. Người ta thà chịu nghèo mà đừng có bệnh tật, đừng có đau ốm thì người ta sung sướng hơn.

Cho nên người ta ví như là mình “ăn được ngủ được” - tức là cái người mạnh giỏi đó - là tiên rồi chớ không phải là đợi đi lên núi rồi tu, rồi tịch cốc, rồi luyện đơn ở trên đó gọi là tiên đâu, không phải đâu. Mà người ta ví cái người mạnh giỏi đó là tiên, mà cái người đau ốm đó là không phải tiên. Đó là câu tục ngữ của mình là ví như vậy.

Cho nên ví như vậy tức là chúng ta biết rõ rằng: Tâm của chúng ta rất sợ về bệnh, về đau ốm, hoặc tai nạn, hoặc sự chết chóc.

Ở đời không ân huệ nào lớn hơn ân huệ tha mạng chết. Loài vật sắp bị giết mà được tha thì nỗi lòng vui mừng không tả được.

Hòa Thượng Thiện Hoa dạy: Như khi chúng ta thả một con chim sắp sửa cắt cổ, nhổ lông, thả một con cá sắp đem chặt kỳ, đánh vảy: Chim được sống vui mừng bay nhảy, cũng như cá khỏi chết hớn hở lội bơi.

Thế mới rõ: Thoát nạn giết hại, chúng sanh nào không khấp khởi vui mừng! Nên chi không giết hại chúng sanh mà lại phóng sanh là nghiệp lành đứng đầu trong Thập Thiện!

Tức là đứng đầu trong mười điều lành.

Cho nên chúng ta, khi mà chúng ta bị người ta sắp sửa chặt đầu mình, hay là đâm mình chết mà có người lên, có người lại cản không có cho giết mình, thì cái nỗi vui mừng không có xiết nổi trong lòng của chúng ta. Thì chúng ta ví mình cũng như vậy.

Cũng như bây giờ mình bị người ta bắt bỏ tù, nhưng mà có người đến người ta không có cho, bắt cái người kia là phải thả mình ra, không có bắt mình bỏ tù thì mình vui mừng biết là bao nhiêu. Đó là mình chỉ bị giam cầm thôi mà còn vui mừng. Huống hồ là mình sắp sửa người ta chặt đầu, mà rồi người ta thả được mình thì mình không vui mừng sao được?

Thì nghĩ lại, con vật là những loài động vật như mình, thế mà nó bị cắt cổ, nhổ lông, nó bị đập đầu để giết chết, lúc bấy giờ nó được thả ra thì các con nghĩ cái tâm trạng vui mừng nó có thua gì tâm trạng của chúng ta đâu!

Do vì vậy mà Hòa thượng Thiện Hoa dạy chúng ta đừng giết hại chúng sanh mà phải phóng sanh.

Suy bụng mình, nghĩ loài vật, chúng ta có nỡ lòng nào giết hại chúng sanh! Chúng ta ham sống, sợ chết, lẽ đâu lại cướp mạng sống của muôn loài?

(20:35) Đừng mượn câu: “Nhân dưỡng vật, vật dưỡng nhân”…​

Nghĩa là có nhiều người họ nói vầy: "Tui đào cái ao, tui đem cá tui nuôi, rồi bây giờ cái công tui nuôi đó tui phải ăn thịt nó chớ sao? Tui dưỡng nó thì nó phải dưỡng lại tui!"

Có người nói: "Con heo tui mua về nó có làm gì lợi ích đâu? Tui nuôi nó rồi bây giờ tui bắt nó tui làm thịt, thì nó phải nuôi lại tui chớ?"

Rồi họ nói như con gà cũng vậy, con vịt cũng vậy, tất cả những loài vật mà gọi là gia súc hay là gia cầm mà chúng ta nuôi trong nhà đều là "nhân dưỡng vật", thì ngược lại nó lớn lên rồi nó không làm gì lợi ích thì nó phải "vật dưỡng nhân" - tức là nó lại nuôi lại mình.

Lấy cái câu nói đó mà hiểu thì chúng ta sẽ giết hại chúng sanh.

Khi mà chúng ta nuôi một con vật, như một con heo, nó có lợi ích gì (cho) chúng ta đâu? Chúng ta nuôi nó, rồi đến một cái ngày nào đó nó lớn, nó mập ra rồi chúng ta đem làm thịt, thì con heo đó nó giãy giụa hay nó nằm để đợi chúng ta làm thịt để chúng ta ăn?

Nếu nói rằng con vật mà sanh ra để cho những con vật khác ăn thịt, thì như chúng ta cũng là con vật để cho cọp ăn chứ gì? Như vậy khi mà cọp nó gặp chúng ta, nó cho rằng đó là con vật để cho nó ăn thịt chớ đâu phải là, phải dưỡng nuôi nó chớ đâu có mà giết nó được!

Như vậy thì chúng ta thấy: Từ cái (con) vật lớn thì có thể có đủ cái sức mạnh giết con vật khác để ăn thịt, chúng ta không phải là con vật lớn, nhưng chúng ta có những cái đầu óc thông minh, chúng ta có thể dùng những cái thông minh đó mà chúng ta có thể giết loài vật.

Và chúng ta dùng cái thông minh đó mà bắt những loài vật trở thành gia súc ở trong nhà của chúng ta, từ đó chúng ta nuôi nó để tiện bề là chúng ta muốn bắt nó, vặt đầu nó lúc nào ăn thịt cũng dễ dàng, còn đi vô rừng mà săn thì rất là vất vả.

Cho nên chúng ta khéo léo để tạo (cho) chúng ta có những cái chuồng bò, có những cái chuồng heo, có những cái chuồng gà mà nuôi hàng trăm, hàng vạn con vật để rồi chúng ta giết một cách rất là không thương tâm!

Trong khi chúng đau đớn, la, khóc, kêu, mà chúng ta vẫn thản nhiên, vì cái sự lợi dưỡng, vì cái miếng ăn của chúng ta, vì cái thực phẩm bồi dưỡng cho cái cơ thể chúng ta, do đó chúng ta chẳng nghĩ đến sự đau khổ của chúng sanh!

(22:53) Cho nên Phật nói, khi mà chúng ta ăn một cái miếng thực phẩm để mà nuôi sống thân của chúng ta thì trước tiên chúng ta phải đặt cái niệm đó trước mặt để cái tâm từ bi chúng ta biến mãn cái lòng từ:

Thứ nhất là cái lòng biết ơn của chúng ta đối với những người làm ra vật thực để mà chúng ta có thọ thực ngày hôm nay để mà sống.

Cái thứ hai, trong miếng ăn của chúng ta nó không có sự đau khổ, giết hại trong đó, thì cái lòng từ chúng ta mới ban rải khắp cùng cho chúng sanh. Còn bây giờ trong cái miếng ăn của chúng ta có những sự đau khổ, sự chết chóc ở trong đó, chúng ta nỡ tâm nào mà ăn vào bụng mình được?

Đó là những cái điều mà đạo Phật đã dạy: Tâm từ, tâm bi phải biến mãn khắp cùng mười phương chúng sanh chớ không phải biến mãn ở một cái vị trí nhỏ hẹp.

…​ mà hiểu nghĩa cạn cợt của câu nói này thì đôi tay vấy máu chúng sanh, để tâm hồn ngày càng hung ác.

Nghĩa là chúng ta giết mãi chúng sanh như vậy, bàn tay chúng ta dính máu như vậy, thì tâm hồn chúng ta trở thành hung ác mà chúng ta không thấy hung ác.

Chúng sanh giãy giụa trên thớt dưới dao, tiếng kêu la, đau thương quằn quại. Nhìn lại chúng ta mới hiểu ra, mình là một con người, một loài vật độc ác nhất: Săn bắn, chài lưới, giết hàng loạt chúng sanh mà tâm hồn còn vui sướng cho rằng được lợi lớn, không có chút lòng thương xót!

Cũng vì thế mà Đức Phật khai ngộ cho chúng ta thông hiểu: Đó là hành động độc ác nhất của muôn loài, vì sự tranh sống, tranh chết với nhau mà giết hại lẫn nhau như vậy.

Loài người là một loài vật độc ác nhất nên cũng vì đó mà chịu khổ đau nhất…​ (Mất tiếng)

4- KHẨU HÀNH THIỆN: KHÔNG NÓI DỐI

(24:51) …​ Bởi vì con nai đâu có chạy luôn, nó chạy nó chui ở dưới cục đá dưới đít của ông đó.

Cho nên nếu mà ông nói: “Ờ, có con nai nó chạy, nó chui dưới đít của tui đây!” - thì như vậy nhà vua lại lôi con nai ra, chắc chắn là cái tội sát sanh của mình rồi! Cho nên giữa hai cái giới này, ông Phật không có biết làm sao hết, cho nên đành câm miệng mà thôi.

Còn nếu mà Hòa thượng Thiện Hoa dạy chúng ta kiểu này chắc là dạy nói láo rồi: Bây giờ ông vua đến hỏi: “Có con nai chạy ngang đây không?” - “Có, có, nó mới chạy đây, nó chạy luôn đây nè!” Thay vì nó chạy đường này thì ông chỉ: “Ờ nó chạy đường này nè! Tui thấy nó chạy đây!” Do đó chỉ bậy đặng cho ông vua đừng có giết con nai. Do không giết hại con nai thì ông Phật lại đành nói láo!

Cho nên Hòa thượng viết cái câu này Thầy thấy Thầy không chấp nhận. Bởi vì Phật dạy quá rõ, cái hành động của Phật quá rõ: Thà là chịu khổ mà không có phạm vào cái giới, cho nên Phật nói thà chết chớ không phạm giới mà!

Cho nên, do cái giới nói láo này nó không được, vì vậy mà Đức Phật phải làm thinh. Làm thinh, nhà vua tức quá hỏi: “Sao ông làm thinh?”

Rồi tức quá thì nhà vua mới rút cây gươm ra, mới thẻo hai cái lỗ tai ông. Thẻo rồi đau quá ông cũng làm thinh luôn. Rồi chặt hai cánh tay ông ông cũng làm thinh luôn, móc hai con mắt ông ông cũng làm thinh luôn. Nhà vua đành phải đầu hàng mà đi thôi chớ không có làm sao hết!

Thì các con thấy không? Trong cái sự tu hành, làm cái người người ta giữ giới đến mức mà người ta chặt tay nè, thẻo hai cái lỗ tai để cho ông ta sợ đi, ông ta không chết, chặt hai cánh tay ông ta, ông ta cũng không nói nữa, móc hai con mắt cho ông ta đui nữa mà ông ta cũng không nói.

Nhà vua mà, có quyền mà sanh sát người ta, chỗ nào nhà vua cũng giết được hết. Vì vậy mà nhà vua đâu có, cái cơn tức của nhà vua: “Con nai mình dí đây mà ông này ông giấu à?” Tức là tức giận, tức là phải tra ông này mới lòi ra. Nhưng mà cuối cùng thì ông Phật ổng giữ giới cho đến khi chết là chết chớ không nói gì hết.

Đó thì các con thấy Hoà thượng dạy một cái điều mà Thầy thấy không được. Cho nên vấn đề vọng ngữ, vấn đề nói láo là cả một vấn đề.

Một khi mà chúng ta nói một cái sự không đúng rồi, hối hận trong lương tâm của chúng ta dữ lắm, nó đau khổ dữ lắm chớ không phải không đâu! Cho nên đừng có tưởng tầm thường đâu. Một người mà tu hành chân chánh người ta rất sợ về cái việc nói láo, nói là nói thật chớ không được nói láo.

Cho nên ở đây Thầy sửa lại như thế này:

Nếu nói dối cứu khổ, phò nguy cho người và vật thì ta còn không nói, huống là nói dối hại người, lợi mình thì còn không nên nói hơn nữa.

Chớ Thầy không có để cái câu đó nói như vậy, Thầy thấy nó không đúng trong cái đạo cho nên dù là người cư sĩ cũng không được cái nói dối đó nữa, thà là chúng ta chết!

(27:32) Kinh Thập Thiện dạy:

Người không nói dối được tám điều lợi ích:

1. Được mọi người tin tưởng;

2. Lời nói ra được người người kính yêu;

3. Miệng thường thơm sạch;

4. Lời nói thường êm ái;

5. Được an vui như ý nguyện;

6. Lời nói không buồn giận và vui vẻ;

7. Lời nói được mọi người vâng theo;

8. Trí tuệ thù thắng không ai hơn.

Đó là về cái phần khẩu - miệng của mình không nói dối đó. Thấy cái gì thì nói thấy, mà không thấy thì nói không thấy, chớ không phải không thấy nói thấy, mà thấy nói không thấy, nói ngược trở lại như vậy là không được. Cái gì mình nghe thấy thì mình nói, mà không nghe thấy thôi. Mà nghe lờ mờ không rõ thì cũng không nói.

Cho nên Thầy nói: Ở đời, người tu hành theo Đạo Phật là không có nói là tốt nhất, nói ra coi chừng lầm lạc. Cái miệng của chúng ta nó bốn cái điều lận, bốn cái điều ác trong đó, điều này nó kẹt cái chỗ điều khác, nó khó.

Cái thân chúng ta có ba, cái ý của chúng ta có ba, mà cái miệng của chúng ta nó nhiều quá, cho nên chúng ta phải dè dặt cẩn thận. Nó là cái chỗ đau khổ nhất cho con người ở đời chớ không phải là vừa.

Bởi vậy học Thập Thiện rồi chúng ta mới biết được cái nghiệp của miệng nó nặng lắm, nó tới bốn cái chỗ lận. Có một mình nó mà nó chiếm hơn người ta hết, nó làm anh cả của người ta hơn hết trong này mà!

Thành ra mình phải coi chừng cái miệng của mình, nó độc lắm chớ không phải không. Nói ra cái lời nói mình có thể giết người lận mà, chớ không phải thường đâu, cái lời nói còn hơn gươm đao!

Cho nên vì vậy mà chúng ta phải cẩn thận cái lời nói dữ lắm, muốn nói ra một cái gì phải suy nghĩ. Cho nên, người xưa người ta nói: Muốn nói một lời chúng ta phải suy nghĩ bảy lần, người ta gọi là "đánh lưỡi bảy lần" đó.

5- KHẨU HÀNH THIỆN: KHÔNG NÓI LỜI THÊU DỆT

(29:19) Người đời thường hay trau chuốt lời nói, đi buôn vật xấu nói tốt…​

Đây là cái hành động thứ hai của cái miệng của mình là nói lời thêu dệt. Bây giờ chúng ta học tới cái hành động thứ hai của cái miệng là nói lời thêu dệt.

Lời nói thêu dệt đó thì ở đây, người đời thường hay trau chuốt cái lời nói của mình:

…​ đi buôn vật xấu nói tốt để bán cho được giá, gạt người mua về không xài được;

Chỉ một chút lòng nhỏ mọn, hờn ghen, liền dùng lời nói thêu dệt để cho đôi bên thù hận có thể giết hại lẫn nhau, làm tổn hại tánh mạng của người khác;

Chỉ một chút lòng ganh tỵ, thù vặt, bèn dùng lời thêu dệt để lung lạc lòng người hoặc để quyến rũ hay gạt gẫm người khác, làm tổn hại danh dự và tài sản cốt để đem lại lợi ích cho mình được nhiều lợi lạc và còn được tiếng thơm, tiếng tốt cho mình.

Mình thêu dệt cái này, nọ, kia để đem lại những cái lợi lạc: của cải tài sản là một, rồi được tiếng tốt này kia cho mình. Đó là lời nói thêu dệt.

Ngược lại, người không có lời nói thêu dệt dùng lời đúng đắn, chánh lý, không gạt gẫm, không lừa bịp, không làm tổn hại danh giá, tài sản, thậm chí cho đến tánh mạng.

Thêu dệt tức là đặt điều nói xấu người khác, khiến cho người khác buồn khổ, có thể đi đến tự tử, quyên sinh tánh mạng.

Vì thế, Thập Thiện dạy:

Người không đặt điều nói xấu người khác có (ba) điều lợi ích cho mình:

1. Được mọi người quý mến;

2. Thường đáp được những câu hỏi khó khăn;

3. Có đầy đủ uy tín cao quý trong cuộc đời.

(31:14) Đó là những cái điều mà chúng ta không có nói thêu dệt, không có đặt điều ra đó. Thêu dệt làm cho nó có vẻ nó đẹp hơn; hoặc là người đó không tốt mình nói người đó tốt; hoặc là người đó tốt mà mình nói cho người khác nói người đó xấu; mình đặt ra cái này, thêu dệt ra cái này kia để làm cho người ta cứ nghi ngờ người này, người nọ, người kia, đó là cái lời thêu dệt.

Chẳng hạn là như bây giờ có một ông mai, ổng đến làm môi giới. Đến bên gái thì nói cái thằng đó như thế này thế khác, mà nó thì uống rượu, hút sách, nó thì chơi bời, nó không biết nghề nghiệp gì hết, mà lại đằng gái thì thôi ca ngợi cái thằng con trai nó trên mây xanh đó, gọi là thêu dệt đó.

Rồi về đến đằng nam để mà làm mai cho đằng nam, thì nói cô ta là vầy: công, dung, ngôn, hạnh đầy đủ, con người hiền đức này kia rõ ràng. Nhưng mà trời ơi, rước về nhà rồi một cái thì họ ở trên trời họ rớt xuống! Thì do đó, những cái lời nói của ông mai như vậy gọi là thêu dệt, làm mai mối.

Rồi tất cả những cái điều mai mối: mai mối mua đất, mai mối làm cái này, mai mối làm cái kia đều là có sự thêu dệt trong đó hết. Để cho người ta nghe, người ta tin, người ta mới đi mua, đi làm cái chuyện đó. Đó là những cái môi giới. Thì những cái thêu dệt đó là cái lời nói thêu dệt, chúng ta không nên làm những cái điều kiện đó mà chúng ta hãy tránh.

Những cái điều mà nói xấu người khác, mình thêu dệt ra cái tốt, cái xấu cho người khác, người ta không có chuyện đó mà nói người ta là làm cái này, làm cái kia, làm cái nọ tồi tệ để cho mọi người không hiểu, tưởng người đó là người xấu vậy, để cho người ta tránh xa cái người đó. Đó là những cái người mà thêu dệt đó, là những người mà không tốt đó.

Chúng ta hiểu biết được như vậy, chúng ta cố gắng mà tránh, giữ gìn cái miệng của mình, đừng có nói những cái điều đặt điều ra mà nói xấu kẻ khác hoặc là nói tốt kẻ khác. Người nào xấu thì mình nói xấu, mà tốt thì mình nói (tốt).

(33:24) Mà tốt xấu mặc họ, chúng ta nói làm gì?

Theo Thầy thiết nghĩ, xấu thì người ta làm ác thì nhân người ta chịu, mà tốt thì người ta làm thiện thì người ta hưởng được cái phước quả. Còn riêng mình, mình nói người ta tốt xấu làm gì? Mình khen cũng không khen, chê cũng không chê. Điều đó là điều tốt của người tu theo Thập Thiện.

Chớ không phải là đem cái chuyện của người ta tốt mình nói, rồi cái chuyện người ta xấu mình cũng nói. Thầy thấy cái chuyện xấu của họ cũng không giấu mà cũng không nói, mà chuyện tốt của họ mình cũng không phô bày mà cũng không nói ra.

Hầu hết thí dụ như quý thầy, các con bây giờ, Thầy nói như thế này: Các con sẽ ca ngợi, khen Thầy thế này, thế khác. Nhiều khi ca ngợi Thầy như ông Phật thì tức là cũng là lời thêu dệt đó các con, không có đúng đâu!

Thầy cũng là bằng xương, bằng thịt, cũng như mọi người, nhưng qua cái nhìn của các con, các con có niềm tin ở Thầy, nhiều khi Thầy không có thần thông, các con nói Thầy quá thần thông, nào là phóng hào quang! Đặt điều nói láo, đó là thêu dệt đó! Thầy đem những cái ví dụ để các con thấy.

Bởi vậy Thầy thấy có những người mến Thầy, trọng Thầy, rồi ca ngợi Thầy một cách không đúng đắn. Cho nên trong kinh Phật có dạy là khen mà không đúng thì cái đó là làm hại Phật, mà chê không đúng thì cũng không làm hại Phật được. Cái gì đúng là đúng, cái gì không đúng là không đúng.

Cho nên mình có nói đi nữa, người ta nói: "Mèo khen mèo dài đuôi" thôi, chớ cũng không có gì hết. Cho nên để cho người ta còn nghiệm xét.

Chẳng hạn là Thầy tu hành đúng thì để người ta còn thấy, còn các con mà nói Thầy tốt thế này, Thầy như thế này thế khác…​ Điều đó là người ta chẳng bao giờ mà người ta tin ở các con đâu, các con có nói gì người ta cũng chẳng tin. Người ta còn thấy qua cái hạnh của Thầy, người ta còn thấy qua cái đức của Thầy.

Cho nên vì vậy ngay cả Thầy mà còn như vậy thì các con có nói: Cái chị này tốt, cái chị này tu như vầy, cái chị kia tu như vầy…​ họ có tin không?

Cũng như bây giờ Thầy nói rằng bây giờ Mật Hạnh tu như vậy, Minh Tông tu như vậy! Các con có tin được không? Chưa chắc đã tin. Bán tín, bán nghi, chưa chắc!

Rồi lần lượt các con sẽ thấy những người đó tu được cái gì, cái gì: "À những vị này giới hạnh nghiêm túc!” Rồi: “Giờ giấc nghiêm túc, tu hành đúng đắn!" Rồi tất cả những cái đó lần lượt: "Mấy vị này nhập định được, hơi thở ngưng", cái gì nó lần lượt các con cũng thấy hết thì chừng đó các con mới tin.

Còn bây giờ Thầy nói cũng chẳng qua là Thầy nói. Thầy nói đúng sự thật đó nhưng mà các con chưa tin đâu.

Cho nên cái thêu dệt (của) các con là muốn làm cho người ta tin chứ gì? Nhưng mà người ta có tin mình được không? Cho nên cái nói của mình có ích lợi gì mình nói. Cho nên chẳng nói gì hết, để cho người ta còn thấy chớ không phải.

Cũng như bây giờ các con nói các con tu được, thì cái đó là cái thêu dệt đó. Mình được, mình biết chắc mình được không? Để cho một người khác người ta nhìn thấy cái chỗ được của mình, người ta thấy được tức là người ta biết chớ sao? Nhưng gì mà mình còn giận, còn hờn, còn phiền não, còn ủ ê cái mặt cũng như là héo xào mà nói: "Tui tu được!" là tu được cái chỗ nào đâu?

Cho nên cái chúng ta chẳng nói được, mà chúng ta được an vui, được thanh thản thì người ta sẽ thấy được cái an vui, thanh thản đó mà người ta biết mình được. Cho nên, mình nói ra có lợi ích gì?

Vì vậy, những cái lời nói mà chúng ta chưa có chứng nghiệm được cho nên chúng ta không có nói. Vì vậy mà không nói thêu dệt, không nói những cái lời nói đó.

Đó thì hôm nay Thầy nói hết để cho các con biết được cái chỗ mà chúng ta giữ gìn cái khẩu hành thứ hai này là: Không nói lời nói thêu dệt. Không khéo chúng ta tưởng là mình nói như vậy là đúng, không có sai, nhưng mà cái nói như vậy nó không hay đâu, nó không tốt đâu.

6- KHẨU HÀNH THIỆN: KHÔNG NÓI LƯỠI HAI CHIỀU

(36:50) Về cái khẩu hành thứ ba là không nói lật ngược là không có nói ngược trở lại, nói rồi rồi nói trở lại đó, là nói lật ngược đó.

Người đời có lắm kẻ nhiều mồm mép, vừa nói đó một lúc sau nói lật ngược lại, lấy quấy làm phải mà lấy phải làm quấy.

Nghĩa là người ta lanh mồm, lẻo mép lắm, nói rồi cái lật ngược lại. Tức là nói: "Tui không nói đâu, hồi nãy ai nói chứ tui không nói đâu!", nhưng mà chính mình nói, ai cũng nghe hết, mà mình dám nói như vậy đó!

Thì cái chuyện mà nó qua một hai ngày, tưởng đâu người ta quên rồi, thì mình nói, mình vẫn có sửa lại những cái lời nói của mình, để nó biến rằng mình không có nói cái ý như vậy. Thì tất cả những cái này, là cái lời nói đó là lời nói lật ngược, nói ngược lại với cái sự thật.

Hạng người này là hạng người nhiều chuyện. Họ là kẻ dụm ba, dụm bảy, chuyên nói xấu người khác; đem chuyện người này nói ra, nói vào, bêu xấu khiêu khích người khác; gây phe, gây nhóm, tạo cảnh bất hòa, thù hận; và còn đem chuyện người này dèm pha với người kia, nhạo báng người nọ, chê bai người khác, làm cho họ tức giận hoặc xấu hổ, đau khổ; dùng môi mép đứng trung gian, gây ác cảm đôi bên để đi đến kiện thưa.

(38:24) Người không nói lưỡi hai chiều thì không có chuyện lôi thôi với mọi người, không bị người ta lôi ra làm chứng cớ. Còn ngược lại, những kẻ ấy đều gọi là người nhiều chuyện.

Người không nói lưỡi hai chiều không làm phiền muộn ai hết, được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa người gần đều kính mến.

Người không nói lưỡi hai chiều thường dùng lời êm ái, an ủi, khuyên giải, giúp cho mọi người được hòa thuận, thân yêu nhau, khiến cho mọi người đều vui vẻ, an lòng.

Người này đến đâu, ở đâu cũng được mọi người kính yêu; gặp việc khó, bất hòa, người này đứng ra thu xếp, hòa giải một cách dễ dàng.

Người không nói lưỡi hai chiều khiến gia đình sum họp, an vui; tình làng, nghĩa xóm hòa thuận, kính yêu nhau.

Kinh Thập Thiện dạy:

Người không nói lưỡi hai chiều được năm điều bất hoại:

1. Nhân bất hoại;

2. Sống trong gia đình sum họp;

3. Đức tin bất hoại;

4. Pháp hạnh bất hoại;

5. Thiện hữu tri thức bất hoại.

Nghĩa là như thế nào?

Nhân bất hoại: Tức là người mà không nói lưỡi hai chiều thì mọi cái tình người xung quanh của mình nó luôn luôn nó giữ trọn, nó không có làm cho hoại diệt. Còn mình là cái người mà nói hai chiều, thì những cái tình người xung quanh mình nó sẽ không có giữ trọn được, nó bị hoại diệt.

Sống trong gia đình sum họp: Thì hiểu rồi.

Đức tin bất hoại: Nghĩa là cái người mà không nói lưỡi hai chiều thì được mọi người, cái lòng tin, không bao giờ mà họ hoại diệt cái lòng tin ở trong lòng họ.

Pháp hạnh bất hoại: Cái hạnh mà cái người không có nói lưỡi hai chiều, thì cái pháp - đây là nói tất cả những cái hành động của chính mình, của bản thân mình - không có bị hoại diệt. Nghĩa là luôn luôn nó giữ đúng cái pháp hạnh của nó, cho nên nó không bao giờ mà lật ngược một cái gì hết thì cái người đó luôn luôn có những cái hạnh mà nó không bao giờ bị hoại diệt.

Và Thiện hữu tri thức bất hoại: Nghĩa là luôn luôn cái người này có những cái người thiện hữu tri thức sống sát ở bên họ. Nghĩa là có những người rất là thân tình, có những người rất là thương mến họ, có những người rất tận tình với họ, để giúp họ từ cái này đến cái kia, gọi là thiện hữu tri thức bất hoại.

7- KHẨU HÀNH THIỆN: KHÔNG NÓI LỜI HUNG ÁC

(41:00) 7 - Cái hành động thứ bảy này là cái hành động của miệng, là không nói lời hung ác. Đây là cái hành động cuối cùng của cái khẩu nghiệp của chúng ta, của cái hành động của miệng chúng ta.

Lời nói hung ác là lời nói dữ; vu khống người khác; phao phản, bươi móc việc xấu của người khác; lời nói cộc cằn, thô lỗ, mắng nhiếc, mạ lị người; làm cho người khác tức giận, khổ sở, đau đớn.

Người không nói lời nói hung ác, thường dùng lời nói khen ngợi, lời lẽ ôn tồn, trang nhã, hiền hòa, lời nói luôn luôn làm cho mọi người được an vui, yên ổn.

Đó thì, cái lời nói mà không hung dữ thì cái lời nói rất là êm ái. Còn cái người mà nói hung dữ thì lời nói to, nói rất lớn và nói những cái lời nói thô tục, những cái lời nói mắng nhiếc người, những cái lời nói vu khống người.

Chớ có nhiều người nói cái lời vu khống người ta, nói nhỏ nhẹ lắm nhưng mà vu khống người ta đó cũng là lời nói ác đó. Mình nói xấu người ta đó cũng thuộc về cái lời nói ác đó. Mình bươi móc cái chuyện xấu của họ đó là lời nói ác đó. Mình phao người ta cái này, cái kia đó là lời nói ác đó!

Chớ không phải lời nói ác là cái lời mình chửi mắng người ta, mình nạt nộ người ta đó là lời nói ác đâu!

(42:36) Cái lời nói cộc cằn là lời nói ác, mà lời nạt nộ người ta đó cũng là lời nói ác, nhưng phải biết rằng: Có nhiều cái lời nói mà chúng ta không có cộc cằn, không có thô tục, nhưng mà chúng ta bươi móc cái việc xấu của người ta, chúng ta nói xấu người khác, rồi chúng ta phao vu khống người ta, đó cũng là thuộc về lời nói ác.

Nói làm cho người ta bị tù tội, bị chết - người ta không ăn trộm nói người ta ăn trộm đó; người ta không tà dâm mà mình nói người ta tà dâm; người ta không giết người mà mình nói người ta giết người - thì những cái lời nói đó là những cái lời nói ác.

Mặc dù cái lời nói đó rất nhẹ nhàng, nói: “Tui thấy cái người đó đó, cái người đó họ giết cái người kia!” Nhưng mà sự thật ra cái người đó họ không có giết, nhưng mà vì cái thù hận nhỏ trong lòng của mình, họ không nói lời to, nhưng mà họ chỉ vu khống người ta, phao vu người ta làm cái chuyện như vậy để cho cái người đó ở tù chơi. Đó là những cái lời nói ác.

Cho nên cái lời nói ác phải biết phân biệt như thế nào để mà chúng ta biết lời nói ác, chớ không khéo thì chúng ta cứ nghĩ rằng: Chỉ có cái lời nạt nộ, hay chửi mắng, hay mắng nhiếc người ta mới là lời hung ác thì nó không phải đâu. Hung ác có nghĩa là lời nói dữ, lời nói làm cho người ta khổ đau thì đó là lời nói hung ác.

Hiểu rõ như vậy thì chúng ta mới biết được mà để cảnh giác, để mà không có thốt ra cái lời nói đó thì chúng ta mới giữ được cái hạnh của miệng của mình. Còn nếu mình không hiểu thì mình sẽ tưởng là nói như vậy là không phải lời nói hung ác.

Cho nên ở đây Thầy giải thích cho nó rõ, để cho các con học cho nó kỹ, vì nó là cái căn bản đạo đức của đạo Phật, nó là mười cái điều đạo đức của đạo Phật mà chúng ta cần phải trau dồi, cần phải tu tập, cần phải dứt bỏ.

Đó là những điều mà chúng ta cần phải hết sức tu tập, nhiệt tâm tu tập, siêng năng tu tập, chớ không phải chỉ nói miệng suông được, mà phải đem hết cái thân tâm của chúng ta thực hiện đúng mười điều lành này.

Cho nên, kinh Thập Thiện dạy:

Kẻ nào không nói lời hung dữ sẽ được tám món công đức:

1. Nói đúng pháp;

Nghĩa là lời nói chúng ta luôn luôn bao giờ cũng không sai.

2. Lời nói có ích lợi;

3. Lời nói đúng chân lý;

4. Lời nói khôn khéo;

5. Nói điều chi ai cũng vâng theo;

(45:09) Đây, cái chỗ: 4. Lời nói khôn khéo - Có cái khôn khéo mà xảo trá, nhưng cái khôn khéo đây là khôn khéo nói lời nói không có dữ dằn, làm cho người khác nghe nó êm tai, thuận tai; làm cho người khác nghe lời nói mà người ta được vững bụng, không sợ hãi, yên tâm. Đó là lời nói khôn khéo.

Nhiều khi chúng ta không khôn khéo, chúng ta nói nó cũng đúng như vậy, nó cũng y như vậy mà không dụng cái lời nói khôn khéo, làm cho người khác nghe người ta thấy đau khổ trong tâm. Mà người khác đã đau khổ trong tâm thì lời nói đương nhiên được xem là - lời nói không khôn khéo đó - thì đương nhiên được xem là lời nói hung ác.

Nghĩa là cái lời nói nào mà làm cho người ta đau khổ thì lời nói đó đều là lời hung ác hết. Nó bao gồm cả cái lời nói dối, cái lời nói thêu dệt, cái lời nói lật ngược đều là nó thuộc về lời nói hung ác hết, chớ không phải riêng có những cái lời nói này là hung ác đâu.

Cho nên phải hiểu, ở đây cái chỗ 4, cái lợi ích của cái lời nói thứ tư này là lời nói khôn khéo: Đó là chúng ta phải biết sử dụng cái lời nói chúng ta như là chúng ta cầm một cái bào, một cái cưa để mà chúng ta cưa cây, hay hoặc một cái dụng cụ nào đó mà làm cái nghề gì đó, phải tinh xảo đó, thì cái lời nói của chúng ta sử dụng như một ông thợ rành nghề mà sử dụng cái vật dụng của cái nghề đó.

Cũng như một cái ông nông dân thì ổng sử dụng cái cuốc của ổng; cũng như là một cái người thợ cưa, thợ mộc thì họ sử dụng cái cưa, cái bào họ; cũng như là cái người viết văn thì họ sử dụng cái ngòi bút, thì chúng ta là cái người tu theo đạo Phật mà tới cái lời nói hung ác này, thì chúng ta sử dụng cái lời nói khôn khéo của chúng ta để làm cho mọi người đều vui, thì cái điều đó là chúng ta sử dụng phải khéo léo, phải thiện xảo, chớ không phải là thiếu cái này mà được.

Đó đến chỗ này thì khi mà chúng ta tập dần đi cái chỗ mà chúng ta không có nói lời hung dữ, thì nó đưa đến cái chỗ mà chúng ta có những cái lời nói khéo léo, từ đó nó phát sinh ra chúng ta có những cái lời nói rất là khéo léo.

5. Nói điều chi ai cũng vâng theo;

6. Lời nói được nhiều người tin;

7. Lời nói không bị ai chê;

8. Lời nói được yêu mến.

Đó là tám cái điều mà chúng ta cần phải hiểu để mà giữ gìn bốn cái hành động của cái miệng của mình.

8- SỐNG TRẦM LẶNG ĐỘC CƯ ĐỂ GIỮ GÌN KHẨU NGHIỆP

(47:36) Vậy tóm lại, bốn cái hành động của miệng của mình, thì khi mà học biết được bốn cái hành động thiện này thì từ đây về sau chúng ta phải cố gắng mà thực hiện giữ gìn cái khẩu nghiệp.

Trước tiên là chúng ta nên tập độc cư, nên giữ cái miệng của mình, mà thường Thầy nhắc các con là sống trầm lặng. Như vậy là mình sống ở trong cái tâm hồn trầm lặng của mình, mình ưa thích trầm lặng nè, mình sống trầm lặng nè, mình ca ngợi trầm lặng nè, mình tìm cái nơi để mình được sống trầm lặng.

Do những cái điều kiện đó mà trong kinh Phật đã dạy chúng ta, tức là dạy chúng ta giữ gìn khẩu nghiệp của chúng ta đó. Mà Phật dạy độc cư cũng nhằm cái mục đích là sống trầm lặng, sống giữ gìn bốn cái điều lành của cái miệng của chúng ta, đó là như vậy chớ không phải gì.

Sau một thời gian mà chúng ta tịnh khẩu, chúng ta không nói, thì từng đó khi mà chúng ta mở miệng ra, cái miệng chúng ta nó không có lanh đâu, nó chậm chạp lắm. Rồi từng đó chúng ta nói lời nào nó có sự suy nghĩ nó nói, nó nói rất chín chắn.

Nhưng nếu mà chúng ta nói riết rồi nó nhanh, nó bén nhạy rồi, cái đầu óc chúng ta chưa có nghĩ kịp nó đã nói trước rồi, cái miệng chúng ta nó đi trước cái ý chớ không phải nó đi sau cái ý.

Cho nên, chúng ta phải khéo léo để giữ gìn làm sao cho cái miệng chúng ta nó đi sau cái ý thì nó mới tốt, chớ còn nó đi trước cái ý thì coi chừng nó phạm vào bốn cái điều ác của cái miệng chớ không phải là điều lành đâu.

Đó thì hôm nay Thầy tóm lược để thấy bốn cái điều của cái miệng, bốn cái hành động của cái miệng, thì rất là quan trọng cho cái cuộc đời tu tập theo đạo Phật chớ không đơn giản đâu.

9- Ý HÀNH THIỆN: KHÔNG THAM LAM

(49:15) Về phần ý thì chúng ta có ba cái hành động của ý.

Vậy thì cái hành động của ý đầu tiên đó là không tham muốn.

Con người bị cám dỗ (bởi) năm thứ dục lạc:

Đó, người ta mà có tâm tham là vì có cái đối tượng để cho nó tham, chớ không có đối tượng thì nó lấy gì tham? Cho nên nó có năm cái đối tượng của nó - đó là năm cái món dục lạc.

Vậy năm cái món dục lạc này là cái gì?

Tiền của: Đó là một.

Sắc đẹp: Sắc đẹp của phụ nữ đó, đó là hai đó.

Danh vọng: Tức là làm quan, làm vua hoặc là đỗ bằng này, bằng kia - những cái danh vọng đó, hay hoặc là được tiếng người ta nói mình là những nhà bác học, hoặc là những danh y, hoặc là người ta ca ngợi mình là chân tu - tất cả những cái danh đó là danh vọng đó.

Tất cả những cái này, ngay cái danh thì Đức Phật đã dạy chúng ta: Được danh, rồi được lợi - tức là tiền bạc đó, rồi được sự cung kính thì chúng ta nên ẩn bóng đi, thì đó là bậc chân tu.

Do Phật nhắc như vậy tức là chúng ta xa lìa cái gì? Tiền bạc, sự cúng dường đó, rồi danh vọng, rồi sự cung kính, đó là những cái mà bậc chân tu phải tránh nó. Thì ở đây nó cũng nằm ở trong cái ngũ dục lạc, cho nên từ cái chỗ này chúng ta mới thấy rõ cái ý của Đạo Phật: Đối tượng của con người bị cám dỗ đó là năm cái thứ dục lạc này.

Rồi đến ăn uống là một trong năm cái dục lạc này.

Rồi đến ngủ cũng là một cái trong năm cái dục lạc này.

Cho nên chúng ta đọc lại là:

Tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ.

Đó là năm cái đối tượng dục lạc, làm cho tâm của chúng ta khởi lên ham muốn. Vì vậy mà cái hành động của ý chúng ta là cái chỗ ham muốn, mà có những cái đối tượng làm cho nó ham muốn.

Vậy thì:

Trong thế gian, người đời không ai tránh khỏi năm thứ này.

Nghĩa là sống trong cuộc thế gian thì người ta không mắc cái này thì người ta cũng mắc cái kia, người ta dính, cái tâm tham của chúng ta không bám cái này thì bám cái kia, không thể nào mà rời khỏi năm cái thứ dục lạc này hết.

Vì vậy mà Đạo Phật chỉ cho chúng ta thấy được cái đối tượng của cái ý mà nó có cái hành động tham muốn của nó là phải có năm thứ dục lạc.

(51:53) Nếu tham muốn, mong cầu, chạy theo nó…​

Tức là chạy theo cái năm dục lạc này.

…​ đạt được thì sanh tâm vui mừng, còn ngược lại thì trở nên buồn khổ, sầu não.

Nghĩa là chúng ta đạt được năm cái thứ dục lạc này, dù là một thứ đi nữa mà đạt được chúng ta cũng mừng nữa, chứ chưa nói cả hết năm thứ. Mà không được thì sanh ra buồn não, khổ sở.

Nhiều người vì đạt không được những cái năm dục lạc này, họ sanh ra muốn đi tu theo Phật. Cái kiểu này, thiệt ra là họ tu như vậy đó, theo Thầy nghĩ là chắc họ thành ma chớ không thể nào mà giải thoát được hết!

Đòi hỏi dục lạc không được rồi bỏ đi tu thì cái kiểu đó không phải cái người mà thấy được cái cuộc đời là khổ, thấy được cái cuộc đời sanh ra là bao nhiêu cái thứ khổ dày đặc ở trong đầu của mình.

Cho nên nếu mà vô tu một thời gian sau đó mà được người ta cung cấp tiền bạc, rồi cúng dường, rồi xây chùa lớn cho mình, thì bắt đầu cái anh này ảnh hết tu rồi, ảnh vui rồi, bởi vì ảnh đạt được cái mục đích là dục lạc rồi! Cho nên từng đó là ông thầy bị dục lạc mất rồi!

Cho nên vì vậy mà mình thất vọng, thất tình, rồi mình vào chùa mình tu, cuối cùng thì đến chùa ở một thời gian sau thì năm cái thứ dục lạc này nó lần lượt nó đến, đến nó ve vãn, nó khêu gợi. Từng đó, anh đâu phải là cái người mà có tâm tu xa lìa nó đâu? Tại vì anh đạt không được năm cái đối tượng dục lạc này, vì vậy mà anh bị nó cám dỗ, thì từ cái hình thức của một vị tu sĩ bị rơi vào trong cái này.

Đó là những cái lạc lầm, cái không hiểu của Thập Thiện. Mà khi một người hiểu biết, người ta mới thấy được năm cái đối tượng này làm cho chúng ta rất là đau khổ. Nó cám dỗ chúng ta rất là lớn, rất là mạnh.

Lòng ham muốn của người đời khi được toại nguyện thì phải trải qua vô vàn cực khổ.

Nghĩa là chúng ta, nếu mà ở ngoài đời chúng ta muốn có tiền thì chúng ta phải làm lụng hết sức mới có tiền. Nhiều khi chúng ta phải tính toán, suy tư, phải làm kinh tế bằng cách này, bằng cách khác. Có nhiều khi chúng ta phải vào tù, ra khám rồi chúng ta mới lập nên sự nghiệp chớ không phải là ít! Chúng ta phải khổ sở lắm cái sự nghiệp chúng ta mới có được chớ không phải dễ.

Nhiều khi mà chúng ta thành lập được cái sự nghiệp, rồi chúng ta ngồi ở trên đống vàng chưa chắc là chúng ta đã yên. Ở đây Thầy nói, như Tâm Như đã chứng kiến được cái sự ngồi trên đống vàng mà chưa yên đâu.

Thầy là ngồi ở trên cái cục đá mà Thầy rất yên, bởi vì ăn trộm nó không có lấy cục đá. Còn người ta ngồi ở trên đống vàng, chớ nhiều khi bước ra một bước là thấy mất mạng liền tức khắc! Nó không yên, cho nên tâm họ bất an, luôn luôn bất an.

(54:24) Lòng tham muốn của người đời khi được toại nguyện thì phải trải qua vô vàn cực khổ, nhưng hưởng thọ thì sự vui đó rất là nhanh chóng.

Vì thế, chúng ta cần phải suy tư cho kỹ càng.

Đó là về cái vấn đề tiền bạc đó. Bây giờ tới sắc đẹp đây:

Tham sắc đẹp thì phải tổn phí tiền bạc rất nhiều, lại còn mất sức khỏe và hao tổn tinh thần.

Tham tiền bạc thì phải đọa đày thân mạng, lao động vất vả, đầu óc suy tư, tính toán, kinh doanh để làm ra tiền; thân và tâm không bao giờ được an vui, ngơi nghỉ, ngồi trên đống tiền như ngồi trên đống lửa.

Tham danh vọng, quyền cao tước trọng thì phải vào luồn, ra cúi, nịnh bợ, ton hót hoặc là đem lo hối lộ.

Chẳng hạn bây giờ Thầy học dở nè, mà Thầy muốn đậu nè, để cho người ta nói Thầy đậu tú tài, Thầy đậu cử nhân; thì giờ mình phải đem tiền, đem bạc hay hoặc là quà biếu cho mấy ông thầy chấm thi, hoặc là coi mấy ông thầy đó cho những cái bùa phép gì đó để rồi mình quay cho nó đậu.

Thì tất cả những cái này đều là những cái phải luồn cúi, nịnh bợ bằng cách là bắt buộc mình làm như vậy để cho mình tạo được cái danh vọng đó. Đó là những cái sai, cái không đúng.

Tham ăn uống món ngon vật lạ thì lại mắc nhiều bệnh tật khó trị. Ăn uống phải điều độ, ăn uống phi thời thức ăn sẽ thành độc dược.

Tham ngủ nghỉ thì trí tuệ tối tăm, mê muội, sanh biếng nhác, thiếu ý chí chủ động, thiếu nghị lực, dần dần biến thành kẻ ăn bám vào người khác.

(56:58) Người cư sĩ theo đạo Phật thường hằng khắc phục và chiến đấu chống lại lòng tham muốn của mình để không bị năm thứ dục lạc này lôi cuốn. Nhờ thế mới có được đời sống tri túc, thiểu dục, đơn giản, thanh tao và an nhàn.

Nhận được sự lợi ích cho đời sống con người khi đã lìa xa tâm ham muốn thì được thảnh thơi, yên vui, an lạc, không còn khổ đau, phiền não nữa.

Phật dạy: Diệt tâm tham muốn là Diệt Đế. Diệt Đế là Niết Bàn, là trạng thái tâm hồn thanh thản. Chỉ cần không ham muốn là quý vị đã đạt được cảnh giới Niết Bàn.

Chỉ có một chút thôi, chúng ta đừng ham muốn, đừng có ham thích những cái dục lạc đó thì ngay đó chúng ta đã có Niết Bàn rồi. Có cần gì mà phải tu nhiều, chỉ có một chút tâm đừng ham muốn là đủ rồi!

Vậy thì quý vị cócần gì mà phải cực khổ ngồi thiền, nhập định làm chi cho nó mất công, chỉ cần dẹp qua cái lòng ham muốn là đã được rồi!

Nhưng nói như vậy đâu phải chuyện dễ. Nếu dễ như vậy thì ai cũng làm Phật, cũng là nhập được Niết Bàn được hết rồi. Khó lắm, cái lòng ham muốn của chúng ta khó lắm, khó mà dứt trừ nó lắm!

Quý vị đừng hiểu, khi tâm ham muốn dứt thì cuộc sống sẽ trở thành tẻ nhạt.

Có nhiều người họ nghĩ rằng: khi còn ham muốn thì chúng ta còn thích thú, còn làm cái này, làm cái kia, bây giờ hết ham muốn rồi bắt đầu đời sống của mình không còn cái gì nữa hết, thôi chắc chắn là ngồi đó mà chờ chết chớ còn có cái muốn gì nữa đâu!

Cho nên từ đó, đó là cái hiểu lầm lạc của quý vị: nó trở thành tẻ nhạt, nó trở thành vô vị, nó không còn cái ý nghĩ gì cuộc sống nữa.

Còn ham muốn thì còn thấy hy vọng cái này, cái kia, cho nên mình đâm đầu mình chạy bên đây, chạy bên kia để mình tìm nó, còn bây giờ hết ham muốn rồi còn tìm gì nữa đâu? Cho nên, đời sống bây giờ nó tẻ nhạt sao, nó lạnh lẽo vô cùng! Con người mà tâm không ham muốn nữa thì chắc chắn là tiêu rồi chớ còn cái gì!

Đó là cái hiểu đứng ở trên núi này mà hiểu cái núi kia thì làm sao hiểu được? Chúng ta muốn hiểu nó chúng ta phải đi vào để xem như thế nào.

(58:24) Vì vậy Phật dạy: Ly dục thì được tâm thanh thản, giải thoát.

Từ cái chỗ mà mình không còn ham muốn nữa, mình lìa xa cái lòng dục của mình - lòng tham lam đó - thì cái tâm mình nó thanh thản. Nó thanh thản thì tức là nó giải thoát chứ gì, chớ nó đâu phải là tẻ nhạt đâu?

Do còn cái ham muốn mà không đạt được nó mới thấy tẻ nhạt, còn bây giờ người ta không ham muốn thì tức là nó thanh thản, cho nên nó đâu tẻ nhạt!

Vì cái chỗ tẻ nhạt này là do cái ham muốn mà không đạt được. Bây giờ bắt buộc mình ngồi đây mà không ham muốn, chứ trong tâm của mình thì nó một khối ham muốn ở trong đó, cho nên nó mới thấy tẻ nhạt!

Phải hiểu được cái lý như vậy. Chứ còn nếu không, ông Phật ông bảo mình ly dục, mà hết dục rồi gọi là Niết Bàn, thì trời ơi, cái Niết Bàn gì mà nghe nó buồn khổ làm sao, nó không ham muốn gì hết trong đó, thì như vậy là mình tu làm gì nữa?

Cho nên từ đó mình mới thấy được cái mấu chốt của nó, cái mầm của nó là ham muốn dục lạc mà không đạt được, cho nên bây giờ ngồi đây mà cái tâm ham muốn cho nên mới thấy tẻ nhạt, nó mới phải lạnh lẽo ở trong đó.

Chớ còn cái người mà người ta không còn ham muốn thì người ta ly được nó rồi, thì cái tâm hồn nó thanh thản, nó giải thoát, nó đâu có tẻ nhạt, nó đâu có buồn khổ?

Cho nên quý vị hiện giờ, các con thấy như thế nào? Cho các con độc cư, mà riết độc cư các con thấy buồn khổ, đó là tẻ nhạt đó. Là vì cái tâm ham muốn các con còn, chớ nếu mà các con, cái tâm ham muốn, cái tâm tham nó hết rồi thì đâu có còn cái chuyện mà nó tẻ nhạt đó đâu? Cho nên các con sống độc cư thấy nó an lạc vô cùng, không bao giờ thích nói nữa. Còn bây giờ nó thấy nó tẻ nhạt quá, nó buồn quá, thôi đi ra nói chuyện chút cho nó vui, tức là các con sẽ không có giữ được hạnh độc cư.

Vì vậy mà cái hạnh độc cư rất là tuyệt vời, làm cho tâm hồn chúng ta thanh thản, giải thoát. Chính vì các con sống không được độc cư là do cái tâm ham muốn các con còn, tham muốn các con còn đó!

Các con hiểu chỗ đó thì mới thấy được cái chỗ mà Thầy dạy nó rất là thực tế, cụ thể.

Cho nên hầu hết một số người tu hành về đây rất đông, mà cuối cùng đến độc cư họ phải ra đi, ra đi còn lại được hai người mà thôi. Thì đủ biết rằng tại cái tâm ham muốn của họ còn, cho nên họ thấy tẻ nhạt, cô đơn, buồn bã, vì vậy mà họ không chịu nổi, họ phải rời đi.

(01:00:36) Sống là sự trả nghiệp chớ không phải sự tham đắm, si mê về dục lạc.

Ở đây, cái câu nói này các con phải hiểu, nó rất là đầy đủ cái ý nghĩa của nó. Bởi vì hầu như người ta lầm lạc, người ta tưởng là cuộc sống này là phải tham đắm những cái dục lạc đó - năm cái dục lạc đó, nhưng mà cuộc sống là cuộc sống trả nghiệp.

Bởi vì cái nghiệp nó sanh chúng ta ra, do đó những cái quả đó nó phải sẵn sàng cho cái bản thân của chúng ta rồi.

Vì vậy mà chúng ta phải trả cái nghiệp. Thay vì vừa trả nghiệp mà vừa tạo nghiệp thì nó mới có cuộc sống vị lai. Chớ nếu mà chúng ta trả cái nghiệp này mà chúng ta không tạo cái nghiệp mới thì làm sao có cuộc sống tương lai được?

Cho nên qua cái bài kệ "Nhất Dạ Hiền" thì quý vị còn nhớ hai câu đầu Thầy đã nói như thế nào không?

Quá khứ không truy tìm

Vị lai không ước vọng.

Phải không?

Nếu mà quý vị không có truy tìm cái quá khứ, không có ước vọng ở vị lai, thì hiện tại quý vị sẽ sống như thế nào? Thanh thản! Còn nếu quý vị đi tìm cái quá khứ rồi ước vọng ở tương lai thì như vậy quý vị có được an vui không? Như vậy là quý vị truy tìm ở quá khứ và ước vọng ở tương lai, thì đó là tham đắm của si mê, của dục lạc, chớ đâu phải là người trả nghiệp!

Chúng ta biết chúng ta sanh ra là chúng ta là những người đang trả nghiệp chớ không phải chạy theo tham đắm của dục lạc. Chúng ta không hiểu được vậy cho nên chúng ta chạy theo tham đắm dục lạc, vì vậy mà chúng ta tạo những cái nghiệp mới. Vừa là chịu trả những cái nghiệp cũ mà trái lại tạo thêm những nghiệp mới do cái sự không hiểu biết.

Đó quý vị có hiểu được chỗ này thì quý vị mới thấy được con đường của đạo Phật vạch ra chúng ta một cái lối để chúng ta biết rằng: Chúng ta phải diệt trừ tất cả nghiệp. Vì nghiệp là ông chủ sanh chúng ta ra, là chủ nhân sai khiến chúng ta.

Người đời lầm tưởng dục lạc là có thật…​

Nghĩa là năm cái món dục lạc hồi nãy Thầy nói như trên, thì cái người đời - người mà chưa hiểu Phật Pháp - thì người ta thấy cái đó là cái thật.

Mà chính bây giờ các con người nào cũng là biết năm thứ dục lạc đó nó không thật. nhưng mà cái không thật đó là quý vị mới có ngộ được cái lý không thật của năm món dục lạc, cho nên các vị chưa chứng được cái lý của năm món dục lạc này, vì vậy mà các vị biết nó như vậy, hiểu nó như vậy, nhưng mà vẫn thích ăn, phải không? Vẫn thích ngủ, khi nào, đêm nào mà không ngủ là quý vị thấy nó khổ sở vô cùng lận. Đó, quý vị có hiểu được điều đó không?

Cho nên, tiền bạc - tuy rằng bây giờ mình không có nhưng mà vẫn còn thích chớ đâu phải không thích! Rồi sắc đẹp, đâu phải không thích! Rồi danh, không phải không thích! Tất cả những cái này - năm món dục lạc này nó đều là, biết nó là không thật nhưng rồi quý vị vẫn còn thích nó.

(01:03:33) Nếu mà biết nó không thật, quý vị muốn nó như thật mà không thật này thì quý vị phải tu tập như thế nào? Nếu quý vị không tu mà quý vị cứ ngồi hít thở, thì nó làm sao mà thấy nó là như thật được?

Cho nên, quý vị hiện giờ biết nó không thật, nhưng mà vẫn thấy nó thật, cho nên luôn luôn dính mắc nó, không thể nào mà chúng ta thoát khỏi nó được.

Do vì vậy, hằng ngày mà Thầy dạy quý vị cái Định Vô Lậu để làm gì? Để quý vị ngồi xếp bằng lại, thân nó bất động, tâm nó yên lặng, từ đó quý vị đặt cái niệm ngũ dục lạc này: Ăn, ngủ - Thức ăn quý vị đặt nó quý vị quán bất tịnh; ngủ nó sanh ra mê muội, hôn trầm.

Quý vị đặt cái niệm trước mặt quý vị, từ đó cái tri kiến ở trong đầu của quý vị nó sẽ phóng ra, nó làm cho quý vị không còn dính mắc, say mê nữa. Từ đó, quý vị mới thấy rõ được cái sự giải thoát nơi tâm hồn của quý vị, quý vị mới chứng được cái lý không thật của nó.

Cái lý của năm cái thứ dục lạc này nó không có thật mà quý vị lầm chấp nó, cho nó là thật, cho nên mấy vị mới có cái tâm tham đắm nó, mới si mê với nó.

Đó là quý vị muốn nó - muốn năm cái dục lạc này nó không thật, nó không có thật thì quý vị phải đặt niệm nó ở trước mặt mà quý vị dùng cái tri kiến giải thoát của quý vị.

Quý vị phải rõ: Quý vị có những cái tri kiến. Cái tri kiến của quý vị đầu tiên là quý vị hiểu, quý vị ngộ là năm cái dục lạc này nó không thật, quý vị biết; đó là cái tri kiến của quý vị.

Nhưng mà khi quý vị đặt cái niệm năm cái thứ dục lạc này trước mặt của quý vị, rồi quý vị mới phóng ra cái sự hiểu biết; suy tư sự hiểu biết, quán xét sự hiểu biết đó, thì năm cái thứ dục lạc này nó sẽ trở thành không có thật. Do đó, từ ngày này tu tập tới ngày khác tu tập, cứ đặt cái niệm đó trước mắt, quán xét rồi xả bỏ tất cả những cái dục lạc này để không còn ham thích nó.

Bây giờ, trong cái giờ mà nó buồn ngủ, tức là nó còn cái dục lạc đó chớ gì? Nó ham ngủ nè, nó còn mệt mỏi, nó còn lừ đừ, nó còn muốn đi ngủ nè. Do đó quý vị thấy, quý vị phải chiến đấu (với) nó, bằng cách là quý vị phải đi kinh hành nè, bằng cách quý vị phải động thân nè, quý vị phải chiến thắng nó, đừng có cho nó ngủ trong cái giờ mà quý vị nhất định là không cho. Từ đó quý vị mới chiến thắng được cái dục lạc này.

Từng những cái dục lạc, từ cái ăn, nếu quý vị mà không quán nó bất tịnh thì cái món ăn đó quý vị thích là quý vị không bao giờ mà quý vị chứng nó chân lý như thật được, cho nên quý vị không thấy nó bất tịnh.

Còn quý vị để món ăn trước mặt của quý vị, rồi quý vị đặt cái niệm đó trước mặt, rồi quý vị quán bất tịnh cái thức ăn đó đi, rồi lâu ngày: một lần, hai lần, ba lần, một ngày, hai ngày, một tháng, hai tháng tới một năm thì quý vị không còn muốn ăn nữa. Nghĩa là quý vị thấy thực phẩm ăn để mà sống chớ không còn thèm ăn, thèm uống gì nữa hết.

Đó, như vậy là cái phương pháp đặt niệm trước mặt để tu cái Định Vô Lậu nó lợi ích cho quý vị như vậy, làm cho cái tâm tham đắm ngũ dục lạc này nó không còn dính mắc nữa.

(1:07:08) Không ngờ do si mê, tham đắm dục lạc nên tạo ra biết bao nhiêu nghiệp ác. Do nghiệp ác mà chúng ta mới chịu biết bao nhiêu sự khổ đau.

Đó, từ cái chỗ mà chúng ta đắm đuối theo những cái dục lạc này mà chúng ta tạo ra những cái nghiệp ác. Muốn đạt được nó thì nó phải có nhiều cái thứ ác ở trong đó, chớ đâu phải khi không mà nó đạt được?

Do đó mà chúng ta lại tạo ra những cái nghiệp mới, làm cho chúng ta đời đời, kiếp kiếp tiếp diễn nhau ở trong cái nghiệp lực của nó, chớ đâu có cái gì khác hơn, để rồi mãi mãi chúng ta đau khổ triền miên bất tận kiếp này đến kiếp khác!

Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy:

Kẻ nào không tham đắm dục lạc thế gian thì được năm món công đức tự tại:

1. Ba nghiệp thân, khẩu, ý được tự tại về nhân, các căn đầy đủ;

Về nhân tức là ba cái ý của mình được tự tại về cái thân của mình.

Các căn đầy đủ: Sáu cái căn chúng ta đầy đủ, không hao mất.

2. Của cải được tự tại;

Nghĩa là của cải chúng ta nó không có sự hao mất cái này, cái kia cái no, nó rất là tự tại.

3. Phước đức tự tại;

4. Ngôi vua tự tại;

Nếu mà chúng ta làm vua thì nó rất là tự tại: Nó không còn lo giặc giã; nó không còn lo quan quân của mình ăn lo hối lộ, làm những điều xằng bậy, dân chúng đau khổ, toàn là những người làm quan với ông vua đều là trung thành, đều là thanh liêm, đều là vì dân, vì nước mà lo, chớ không phải là ăn lo hối lộ.

Có nhiều người làm vua ngồi ở trên ngai vàng mà quan của mình, xung quanh mình, làm việc với mình, những ông quan này ăn lo hối lộ làm cho dân khổ mà ở trên mình không nghe biết. Cho nên ông vua đó có tự tại không? Rồi làm vua mà giặc giã đánh ở biên cương chỗ này, chỗ nọ kia thì ông vua đó có tự tại không? Đâu có bao giờ tự tại được.

Cho nên, cái người mà giữ gìn được cái tâm mà không có tham muốn này, tránh được xa những cái năm món dục lạc này thì ông vua sẽ được phước báu là tự tại trên ngôi vua. Đó là cái thứ tư. Cái thứ năm:

5. Được hưởng lợi gấp trăm lần.

Đó là về cái phần của cái ý, mà chúng ta tu được cái tâm không tham muốn thì được như vậy.

10- Ý HÀNH THIỆN: KHÔNG SÂN HẬN

(01:09:40) 9. Không sân hận.

Cái tâm của chúng ta, cái ý chúng ta dễ sân hận lắm.

Tâm sân hận là tâm đau khổ, tâm hung ác, tâm dữ tợn. Tâm sân hận vốn không có, chỉ vì chúng ta lầm chấp thân tâm của mình là ngã thật, từ đó luôn luôn mới bảo vệ, che chở. Nếu ai chạm đến nó…​

Tức là cái thân tâm của mình đó.

…​ tức thì cơn sân nổi lên đùng đùng.

Cho nên ở đây quý vị thấy, do cái chỗ nào mà có cái tâm sân của mình? Do cái chỗ lầm chấp cái ngã của chúng ta: Vậy thì cái thân của chúng ta là cái ngã của mình, cái tâm của chúng ta là cái ngã của mình; lầm chấp cái đó cho nên người ta đụng tới cái ngã thì ngay đó mình giận lên liền.

Cho nên vì vậy mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu thì chúng ta đặt cái thân và cái tâm chúng ta để quán coi cái thân mình có cái ngã trong đó không? Nó vô ngã. Cho nên Phật dạy là Vô Thường – Khổ – Không – Vô Ngã, nó không có cái gì, hoàn toàn, cái ngã cũng không có, nó vô thường, cái thân này nay vầy, mai khác.

Cho nên khi mà đặt niệm như vậy chúng ta phá triệt cái ngã, mà phá triệt cái ngã thì còn cái gì mà chúng ta sân? Cho nên chúng ta phá ngay cái gốc của nó đi thì cái sân nó sẽ không có.

Còn bây giờ chúng ta cố gắng biết mọi pháp là vô thường, là này kia, mà chúng ta không đặt niệm để tu tập cho nó thấm nhuần được như cái lý chân thật của cái vô ngã đó, thì lúc bấy giờ chúng ta có nói: Tất cả các pháp, người ta chửi mình cũng là giả, cũng không thật, người ta mắng mình cũng là những cái điều vô thường, bằng cách này, bằng cách khác; nhưng mà đó là cái lý để mà chúng ta hiểu, chúng ta ngộ chớ chưa phải là chúng ta thấm được cái lý, chứng được cái lý đó.

Cho nên vì vậy mà chúng ta đặt cái niệm trước mặt của chúng ta, cái vô ngã trước mặt của chúng ta, đặt cái thân tâm chúng ta rồi chúng ta quán xét nó vô ngã: Nó “vô” như thế nào? Nó không có ngã như thế nào? Cái tâm nó như thế nào? Chúng ta bốn cái chỗ để mà chúng ta quán xét nó để nó trở thành vô ngã, từ đó cái tâm sân của chúng ta nó không bao giờ có nữa.

Cho nên ở đây Thầy giảng ra nó để cho chúng ta có một cái hành động tu tập để diệt trừ cái tâm sân của mình, để thực hiện được cái điều lành mà cái tâm không còn sân nữa.

Chớ không phải nói không sân rồi mình nói, giảng suông suông mà không biết cái hành động tu, thì như vậy không biết cái định nào mà để tu cho được cái tâm hết sân, thì như vậy chưa bao giờ chúng ta hết sân.

Trước kia Thầy dạy quý vị nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mọi điều kiện, mọi cái đối tượng, mọi hoàn cảnh để tâm sân, tâm phiền não của quý vị không có.

Nhưng Thầy thấy qua cái sự thiếu sót đó làm cho quý vị chuyên tâm về cái thiền định hơi thở nhiều hơn, mà cái Định Vô Lậu không có, chỉ ngộ được cái lý của nó.

Cho nên quý vị chỉ chịu đựng mà nhẫn nhục, chịu đựng mà tùy thuận, chịu đựng để mà bằng lòng, mà cuối cùng thì xét thấy qua cái tu tập của quý vị, Thầy biết có một sự thiếu khuyết ở trong đó, cho nên nó mới dậm chân tại chỗ.

Vì vậy bây giờ quý vị sẽ theo ngay cái lời dạy của Đức Phật mà đặt cái niệm trước mặt để mà quán cái thân vô ngã, cái tâm vô ngã, từ đó nó không có cái ngã thì cái tâm sân nó sẽ không có nữa.

(01:13:03) Một niệm tâm sân khởi thì trăm ngàn tai họa đem đến. Biết vậy, hàng ngày chúng ta thường nhắc tâm:

"Giận hờn là đau khổ, là bao nhiêu tai nạn xảy đến; giận hờn khiến gia đình bất an, không vui. Vậy từ đây về sau tâm không được giận hờn nữa, tâm phải như cục đất!"

Thì như vậy đây là phương pháp hướng tâm - tức là phương pháp ám thị. Kèm theo phương pháp ám thị, chúng ta phải đặt cái niệm “vô ngã” thì như vậy chúng ta mới hoàn thành được cái tâm không sân hận, không giận hờn nữa.

Đó thì, quý vị phải áp dụng cả hai cái phương pháp, chớ không phải áp dụng có một cái pháp hướng không thì nó không đủ đâu, nó không đủ sức mà chuyển nó đâu. Vì bằng chứng là trải qua thời gian, quý vị cũng dùng pháp hướng, quý vị ám thị rất nhiều mà nó chưa thành tựu được.

Cho nên quý vị hôm nay phải đặt luôn cả cái thân, cái tâm vô ngã để quý vị quán xét, quán triệt, để thấm nhuần, thấu suốt cái lý vô ngã của nó, để quý vị phá đi cái lậu hoặc của quý vị, thì cộng lại những phương pháp tu tập vậy làm cho cái tâm sân của quý vị không còn nữa.

Hàng ngày phải nhớ câu này, nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho thấm nhuần tận xương tủy, có như vậy tâm sân hận mới đoạn diệt.

Đó thì, Thầy đưa ra hai cái pháp để cho quý vị tập luyện, để cho cái tâm sân này nó hết.

Do dằn không được sự giận hờn, nên từ việc nhỏ sẽ nở ra việc to lớn, từ đó biết bao nhiêu tai họa xảy đến không lường trước được.

Tâm sân nó thường mang đến nhiều sự rắc rối và tạo ra vô vàn đau khổ. Nếu tâm sân không dằn được, có khi gây ra án mạng, tạo cảnh tù tội chung thân.

Quý vị phải ý thức: Sân hận nó thường mang đến tai họa cho loài người. Chính nó làm mất đi hạnh từ bi của người tu sĩ và lòng nhân ái của người thế gian.

Vậy thì cái tâm sân của quý vị nó sẽ diệt đi cái lòng từ bi của vị tu sĩ, mà cái tâm sân của quý vị nó sẽ diệt đi cái lòng nhân ái của người cư sĩ. Vì vậy mà quý vị phải tìm mọi cách mà chấm dứt nó đi.

(01:15:37) Trong Tứ Chánh Cần Phật dạy: Các pháp ác chưa sanh không cho sanh, đã sanh cần phải đoạn diệt.

Như vậy là cái tâm sân của mình không có, nó tự nó đâu có đâu! Cho nên bây giờ đừng có cho nó sanh. Mà đừng cho nó sanh thì các vị phải sống như thế nào?

Cho nên các vị phải sống độc cư, vì vậy mà không có duyên để cho nó tạo ra cái cảnh sân đó, mà có duyên thì tức là cái tâm sân nó sẽ sanh ra. Còn quý vị chung đụng mãi với nhau thì tâm sân quý vị làm sao tránh khỏi!

Đó là những cái điều mà quý vị cần phải tu tập, cần phải sống cho đúng.

Đoạn diệt các pháp ác là một điều khó khăn, phải có nghị lực, ý chí cương quyết.

Như bây giờ cái tâm sân của quý vị nó bừng bừng nó nổi lên. Bây giờ quý vị ngắt liền nó, biểu: "Đừng có sân!” liền, quý vị có làm nổi không? Nếu một người không có ý chí, không có nghị lực thì chắc chắn gì quý vị giữ được nó, đoạn dứt nó được!

Cho nên nói: Khi mà pháp ác sanh lên thì ngay đó phải đoạn dứt nó liền. Bởi vì trong Tứ Chánh Cần Phật dạy mà: các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, mà đã sanh thì phải đoạn diệt nó liền. Cái đoạn diệt nó liền quá là khó khăn! Nếu mà không có ý chí, không nghị lực thì không thể nào đoạn diệt nó được!

Chúng ta hãy đem hết ý chí dũng mãnh để chiến thắng những cơn sân phát khởi ào ào như thác đổ.

Muốn làm chủ hoàn toàn tâm mình, không để một phút giây sân hận khởi lên, thì phải dùng tuệ tri quán xét, đặt niệm trước mắt.

Đó là Thầy nhắc lại, đó là cái chỗ tu cái Định Vô Lậu đó.

Chúng ta phải rõ:

Thứ nhất là chúng ta phải trau dồi tâm từ bi của mình.

Thứ hai là chúng ta phải quán: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, vô ngã, vô thường, khổ, không.

Chúng ta phải đặt cái niệm Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức - Sắc là cái thân của mình, cái Thọ là cái cảm giác, cái Tưởng là cái ngồi tưởng nhớ, cái Hành là cái hoạt động, và cái Thức là cái biết của mình - đặt nó để mà chúng ta quán sát, để mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu, phá cái ngã, cái chấp ngã của chúng ta.

Chúng ta cho nó là thường còn, là nó có ngã thật, cho nên nó mới có cái tâm sân đó. Cho nên phải đặt cái niệm đó.

Đó là cái thứ nhất thì quý vị nhớ phải trau dồi cái tâm từ bi, vì Phật dạy cái tâm từ bi sẽ đối trị được cái tâm sân. Mà ở đây nó chưa đủ đâu, nội cái trau dồi từ bi nó chưa đủ đâu, cho nên chúng ta phải…​ Bởi vì chúng ta biết rằng: Có cái ngã, thì bây giờ có trau dồi cái từ bi bao nhiêu đi nữa thì cái ngã nó vẫn nổi lên bừng bốc thì từ bi chúng ta sẽ mất.

Cho nên chúng ta phải đặt cái niệm để mà chúng ta dùng cái Định Vô Lậu mà chúng ta quét sạch cái chấp lầm của chúng ta - Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức này. Do đó chúng ta quán vô ngã, vô thường, khổ, không, thì tức là nó sẽ làm cho cái đối tượng đó nó không còn có nữa, tâm sân nó bị diệt đi.

(01:18:31) Nhờ thông hiểu…​

Bởi vì, khi mà cái giai đoạn đầu chúng ta vào đạo Phật thì chúng ta phải đi tìm hiểu để hiểu cho nó rốt ráo. Rồi bây giờ hiểu rồi chúng ta trau dồi. Chúng ta biết chúng ta trau dồi tức là chúng ta dùng Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả mà chúng ta tu.

Rồi bây giờ bắt đầu chúng ta dứt bỏ thì chúng ta phải tu tập Tứ Chánh Cần là chúng ta dứt bỏ. Rồi chúng ta tu tập thì chúng ta tu Định Vô Lậu, rồi Định Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Đó chúng ta thấy: Tất cả những cái pháp chúng ta đều kê vào để mà chúng ta tu tập. Từ đó chúng ta mới quán các pháp bất tịnh, quán lý duyên hợp, quán vô ngã, vô thường, khổ, chúng ta quán tất cả các pháp.

Do cái sự tu tập đúng cách như vậy chúng ta mới thực hiện được Thập Thiện chớ đâu phải Thập Thiện mà dễ dàng! Nó đâu có phải đơn giản như chúng ta nghĩ, học hiểu rồi chúng ta bỏ qua thì Thập Thiện nó chỉ qua là một cái đống sách vở, một đống kinh chớ không phải là nó có một điều lành chân chật, một đạo đức chân thật nơi tâm hồn của chúng ta.

…​ thì tâm sân hận mới chấm dứt, cuộc sống mới được an vui giải thoát.

Kinh Thập Thiện Đạo dạy:

Kẻ nào làm chủ được tâm sân thì được tám món công đức:

Đây là tám cái sự công đức của sự tu tập về tâm cái sân của mình.

1. Tâm không tổn não;

2. Tâm không giận hờn;

3. Tâm không tranh giành;

4. Tâm được hòa hợp;

5. Tâm được từ bi;

6. Tâm thường làm lợi ích và an vui, an ổn cho mình, cho chúng sanh;

7. Thân tướng được trang nghiêm;

8. Có đức tánh nhu hòa và nhẫn nhục, khi chết đi được sanh vào cõi thiện.

Đó là tám cái công đức, mà cái người tu cái tâm này được thì được tám công đức đó.

11- Ý HÀNH THIỆN: KHÔNG SI MÊ

(01:20:21) 10. Không si mê.

Bây giờ đây là cái hành động cuối cùng của cái ý của chúng ta đây, tức là không si mê.

Si mê là u mê, không hiểu rõ, không biết đúng sự thật, hiểu biết mà không đúng chân lý. Si mê là tà kiến.

Người không si mê là người phán đoán rành rẽ, nhận định một cách rõ ràng, không biện minh, che đậy sự ngu si, u tối và lầm lạc của mình.

Cho nên cái người si mê không phải là cái người đó không hiểu biết. Cái người đó rất hiểu biết, nhưng mà họ hiểu không rõ, không đúng, không có đúng cái lý; họ hiểu qua một cái tâm tham đắm, dính mắc ngũ dục lạc. Họ rất là thông minh mà họ vẫn là u tối. Bởi vì họ hiểu mà họ không làm cho cái tâm của họ được an vui, được yên ổn.

Người không si mê thì không có cố chấp, ngoan cố theo cái sự hiểu biết riêng tư chủ quan của mình…​

Cái người mà si mê thì họ ngoan cố, họ cố chấp, họ chấp chặt những cái sự hiểu biết của họ. Cho nên ai mà động đến cái sự hiểu biết của họ thì họ tranh luận, họ lý luận đủ cách để họ bảo vệ cái sự hiểu biết của họ.

Cho nên cái người mà thông minh, người mà không si mê thì người ta không bị cố chấp cái đó, cho nên ít có khi nào mà người ta tranh luận với kẻ khác, người ta chịu nhịn thua người khác hết.

Còn cái người si mê thì họ thích tranh luận. Đó là những cái…​ Không phải là cái người si mê là cái người không hiểu, họ hiểu họ mới tranh luận, nhưng mà họ tranh luận theo cái kiểu kiến chấp của họ, cái sự ngoan cố của họ, cái sự cố chấp của họ, chớ không phải là cái sự họ ngu si, họ ngu mờ, họ không biết.

…​ không si mê, không tin những tà thuyết…​

Người mà không si mê thì cái những tà thuyết họ không bao giờ họ tin.

…​ không đúng chân lý, những tà kiến mê tín, dị đoan không làm cho người này tin được.

Cái người mà không si mê, những cái gì mà nó mù mờ, nó có những cái huyền bí thì họ không bao giờ họ tin những cái điều đó hết, là cái người không si mê.

Còn cái người si mê dù họ có thông minh đi nữa họ vẫn mê tín, họ thấy những gì đặc biệt, kỳ quái là họ tin theo, chớ họ không có sáng suốt, cho nên đó là những người si mê.

Người không si mê là người có trí tuệ, thông minh, thấu suốt lý nhân quả…​

Đây, các con sẽ nghe cái chỗ mà người không si mê, là cái người phải thông minh phải thấy cái chỗ nào? Còn cái người mà thấy hoàn toàn là thấy ngoài cái vấn đề này, người đó đều gọi là si mê.

Người không si mê là người có trí tuệ, thông minh, thấu suốt lý nhân quả luân hồi…​

Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai là:

…​ biết rõ thế giới này không có thế giới siêu hình, biết rõ lý duyên hợp…​

(01:23:24) Đó, phải biết rõ những cái Thập Nhị Nhân Duyên đó, đó là lý duyên hợp đó.

…​ thế giới thành hoại.

Cái thế giới mà chúng ta thành hoại này, nó do đâu mà thành, mà do đâu mà hoại? Đó, vì vậy chúng ta phải thấu suốt được cái nghiệp đó. Ở đây nói thế giới thành hoại tức là phải thấu suốt được nghiệp.

Người không si mê thấy biết và thấu suốt bốn chân lý của kiếp người…​

Bốn chân lý của kiếp người là Tứ Diệu Đế đó.

…​ biết rõ nơi đến, nơi đi của kiếp người.

Nghĩa (là) người ta ở đâu người ta đến đây, rồi người ta về chỗ nào, thì cái người đó họ phải thấu rõ được cái điều đó, chớ họ không có mơ hồ, mà họ không đặt câu hỏi: "Không biết chúng ta từ đâu mà đến?” - rồi: “Chúng ta chết rồi chúng ta đi về đâu?"; thì cái đó là còn mơ hồ, cho nên đó là những người còn si mê.

Dù là một nhà bác học, dù là một người có tiến sĩ, nhưng họ vẫn đặt câu hỏi đó, họ chưa biết, do đó là họ người si mê chớ chưa phải là người không si mê.

Biết rõ con người là duyên hợp…​

Người không si mê là biết rõ con người là duyên hợp.

…​ các pháp trên thế gian này đều vô thường, vô ngã, khổ…​

Đều là duyên hợp, nó đều là vô thường, vô ngã, không có ngã, nó luôn luôn là cái khổ.

…​ biết nhân nào, duyên nào sanh ra con người; biết địa ngục, thiên đàng ở đâu; biết các cõi trời; biết rõ ma, Phạm, Thiên Vương, quỷ thần; biết rõ con người có linh hồn hay không linh hồn; biết Bát Chánh Đạo và các pháp tu hành giải thoát.

Người biết rõ như vậy là người không si mê.

Người không thấu rõ những điều này được xem là người si mê, dù người đó có học thức cao, đậu bằng cấp thạc sĩ, tiến sĩ, và những nhà bác học rộng rãi, hiểu xa mà vẫn còn mù mờ, không rõ những điều trên đây cũng được xem là vô minh, si mê.

(01:25:11) Vì thế, Đức Phật xác định người si mê có bốn cách:

Nghĩa là Đức Phật xác định, trong cái bài kinh Đức Phật xác định để chỉ cho chúng ta biết là cái người si mê, là cái chỗ cái ý si để chúng ta thấy rõ. Đức Phật xác định qua cái bài kinh, Thầy sẽ đọc lại cái chỗ Đức Phật xác định đây.

1. Có người…​

Thầy lặp lại cái bài kinh, Đức Phật viết ở trong cái bài cái kinh như này:

1. Có người đi Đông, đi Tây, học hỏi cái này, cái nọ, hiểu biết nhiều chuyện kim cổ, thời tiết, chính trị, văn học, khoa học, kiến trúc, hội họa, thi thơ v.v…​ có thể gọi là người này tri kiến hoàn toàn, nhưng những sự hiểu biết này, tâm họ luôn bất an đều được gọi là phi Phạm hạnh si mê hạng nhất.

Đó, cái sự hiểu biết của họ mà Phật xác định đó là cái người phi Phạm hạnh si mê hạng nhất. Chúng ta phục lăn Đức Phật ở chỗ này. Mặc dù là những người này họ thông hiểu vậy nhưng mà tâm họ vẫn bất an chớ chưa phải là được an, vì vậy mà Đức Phật gọi là thuộc về loại si mê hạng nhất.

Đây là cái phần thứ hai nè, Phật gọi nữa nè:

2. Y cứ vào kinh sách mà giảng nói ra, hoặc những truyền thuyết, sự hiểu biết, sự giảng nói này, mà tâm họ vẫn bất an, thì đây được gọi là phi Phạm hạnh si mê hạng nhì.

Đó, nó rõ ràng đó. Thì trong kinh điển của Phật chỉ cho chúng ta thấy: Dù là những người đó thuyết giảng mà tâm họ luôn luôn bất an, còn chạy theo ngũ dục lạc, thì người đó vẫn là người bất an.

Vì chúng ta thấy họ thọ hưởng những cái dục lạc thế gian là biết rằng họ bất an chớ không phải họ an được. Mặc dù họ thuyết kinh rất hay, họ giảng rất hay nhưng mà họ vẫn sống trong dục lạc là biết tâm họ bất an, thì đó là si mê phi Phạm hạnh thứ nhì.

3. Suy luận, lý luận, thuyết pháp theo nguyên tắc tự mình sáng tác mà tâm còn dính đầy Danh Sắc, tâm luôn bất an, thì đây là phi Phạm hạnh si mê hạng ba.

(01:27:18) Đó thì, chúng ta thấy rõ ràng là Đức Phật xác định ba cái hạng này. Còn cái hạng thứ tư nữa, thuộc về loại si mê đó, chớ không phải là hạng thông minh đâu.

Nhưng mà chúng ta nhìn thấy Phật xác định đều là những - bây giờ chúng ta nhìn thấy đó là hạng thông minh chớ không phải là hạng si mê chút nào hết. Nhưng mà tại vì họ không hiểu cái lý giải thoát cho nên từ đó cái tâm họ bất an, mà Đức Phật cho cái hiểu của họ chỉ là cái hiểu si mê chớ không phải là cái hiểu giải thoát.

4. Đần độn, ngu si…​

Đây, bây giờ tới cái số người mà đần độn, nói ra không có hiểu. Đó là Đức Phật cũng ghép cho họ vào cái loại si mê đó.

Đần độn, ngu si…​

Tức là nói gì họ cũng không hiểu. Hỏi cái này thì đáp cái kia, hỏi cái kia thì đáp cái nọ, họ không hiểu, họ nói tầm bậy tầm bạ không trúng. Phật nói nó trườn uốn như con lươn; họ trườn qua bên đây, lách qua bên kia. Trả lời theo cái kiểu đó, tức là cái hạng người mà không có hiểu đó.

…​ tâm người này thường bất an, đó là hạng người phi Phạm hạnh si mê thứ tư.

Đó thì nó nắm đủ hết bốn cái hạng người này ở trong cái - Đức Phật đã cho cái hạng si mê - thì nó nằm trong cái ý si này - thì nó nằm ở trong những cái điều kiện mà Phật vạch cho chúng ta biết rằng, chúng ta sẽ xét thấy những cái hạng si đó là luôn luôn cái tâm họ bất an, họ không có thấu hiểu.

Như vậy là hiện bây giờ mà quý vị, hoàn toàn là quý vị đang có sự hiểu biết rất thấu suốt kinh sách mà tâm quý vị bất an, đều là quý vị được gọi là si chứ chưa phải là thông minh đâu. Bây giờ quý vị có ai mà xác định mình là người không si không? Chắc chắn là không có rồi đó.

Đó, cho nên vì vậy đó, hôm nay Thầy dạy Thập Thiện mà quý vị xét qua những cái bài kinh của Phật xác định cho chúng ta ở cái điểm si. Chớ nhiều khi chúng ta chưa biết là ai si đâu, chưa biết như thế nào gọi là si đâu. Bây giờ quý vị đã rõ rồi.

12- GIÁO ÁN TU TẬP LÀ KẾT TẬP GIA TÀI ĐỨC PHẬT ĐỂ LẠI

(01:29:18) Bây giờ nó cũng hết giờ rồi, Thầy xin dừng tại đây. Rồi sẽ tiếp tục kỳ tới, chúng ta sẽ học tiếp theo cái phần này, nó rất nhiều, để rồi cái phần mà kết luận cái Thập Thiện.

Như vậy là chúng ta học hai, ba lần rồi mà chưa hết Thập Thiện, thì quý vị thấy, cả cái giáo án mà Thầy trong ba tháng không biết là nó có tròn hết không, nhưng mà Thầy cố gắng cô đọng lại chừng nào tốt chừng nấy.

Nhưng mà Thầy giảng như vậy, Thầy tin rằng quý vị chắc có lẽ là dễ hiểu. Còn cô đọng lại không biết là nó có thể hiểu nổi không? Nhưng mà Thầy ráng như thế nào để cho quý vị hiểu cho nó rõ, mai đi - mới có học được Thập Thiện, mà quý vị đã thấy được, đã nhận rõ được cái cuộc đời này, qua những cái si mê, cái sân hận, những cái pháp để mà tu, để diệt tham, sân, si của mình.

Thì tất cả những cái này, chúng ta đều đi lại con đường đúng của đạo, để mà chúng ta thực hiện từ cái bước đầu, để rồi giáo án này ra đời thì quý vị là những người thực hành ngay từ bây giờ, và tiếp tục kế tiếp sau này khi Thầy ẩn bóng không có mặt, thì quý vị cứ theo đó - mà con đường này là Phật đã dạy - đó là Thầy của quý vị, chớ không phải Thầy.

Thầy chỉ là người có kinh nghiệm tu hành rồi góp nhặt lại những cái lời Phật dạy mà thành lập lại một cái con đường đi có thấp đến cao, có dễ đến khó, để cho quý vị đi được, chớ Thầy không có cái gì ở trong này của Thầy hết, hoàn toàn Thầy không có. Thầy chỉ kết tập lại cho nó đúng cái thấp, cái cao của nó thôi, chớ hoàn toàn không có cái gì mới hết, toàn là của Phật dạy.

Cho nên Thầy không có gì hết, Thầy chỉ có cái công để mà giúp cho quý vị biết con đường đi cho đúng, và từng đó quý vị sẽ đi trên con đường đó, nó sẽ tới đích giải thoát chớ không có gì mà khó khăn hết.

Từ tới Thầy giảng đến thiền định - bốn thiền của Phật, Thầy giảng cũng rất rõ; biết từng cái sai, cái đúng của mình, để quý vị cảnh giác mà quý vị đi trên con đường đó, mà lúc bấy giờ không có Thầy quý vị vẫn đi được trên con đường đó mà không sai.

(01:31:09) Đó thì hôm nay Thầy ra công Thầy cố gắng. Mà Thầy thấy một cái số băng mà hôm nay, cứ hàng ngày mà nó cứ như thế này thì chắc chắn là chúng ta phải tốn một cái số băng cũng rất nhiều. Vì cái Thầy giảng nó khác, mà cái viết ra thành cuốn sách thì nó khác.

Bởi vì giảng Thầy phải lặp đi lặp lại, nhắc đi nhắc lại rất nhiều; như giảng rồi phải cô đọng lại, phải nhắc lại để cho chúng ta nhớ tới nhớ lui. Thì những cái lời mà Thầy dạy mà ghi được trong băng, thì cái điều đó nó sẽ nhắc tới, nhắc lui quý vị. Cái gì mà Thầy nhắc nhiều, cái đó nó làm cho quý vị thấm nhuần, chớ không phải là nó thừa đâu. Nó không thừa đâu.

Cho nên vì vậy mà khi viết ra thành sách thì những cái điều đó chúng ta phải gạch bỏ hết, bởi vì lặp đi lặp lại thì sách nó không thể vậy được, cho nên chúng ta phải viết cái nghĩa đó rồi thì đi tới cái nghĩa khác. Cho nên, cái giáo án này viết ra mà thành sách - in thành sách đó - thì tức là nó không có lặp đi, lặp lại bằng những cái lời nói của Thầy ở trong băng đâu.

Bởi vì Thầy nói trong băng tức là lặp đi, lặp lại làm cho quý thầy thấm nhuần, làm cho quý vị thấm nhuần được cái đạo lý của nó, làm cho nhấn vào cái chỗ nào mà đúng, cái chỗ nào sai để cho quý vị tu tập cái đó nhiều, cái nào ít. Cái nào mà Thầy nhắc đi nhắc lại nhiều tức là cái chỗ đó là quý vị phải tu tập nhiều, còn cái chỗ nào mà Thầy lướt qua thì cái chỗ đó nó không cần thiết lắm, để hiểu mà thôi.

Đó thì quý vị nhớ những cái điều như vậy. Cho nên, cái lời nói của Thầy trong băng rất là quan trọng chớ không phải thừa đâu. Những cái mà Thầy lặp đi lặp lại đó là cái để nhắc nhở cho quý vị tu hành nhiều cái chỗ đó, tập luyện nhiều cái chỗ đó hơn, chớ không nên coi thường những cái chỗ đó.

Đó, như vậy là những cái mà Thầy trao lại, những cái điều mà Thầy nói hôm nay, là khi mà Thầy không còn gặp quý thầy nữa, không còn gặp quý vị nữa thì quý vị còn nghe được cái lời mà nhắc đi, nhắc lại rất nhiều. Đó là một cái lời ông cha đã nói với các con: Phải lo làm ăn như vậy, như vậy thì mới sống được ở trong cõi thế gian này, mới tìm được con đường giải thoát! Đó là quý vị phải nhớ.

(01:33:15) Vì vậy hôm nay, được những cái điều này thì quý vị phải nỗ lực thực hiện. Những gì mà Thầy nói phải làm cho đúng, đừng làm sai. Bởi vì không còn con đường nào mà có thể đạt được cái sự làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi bằng cái con đường mà Thầy vạch ra cho quý vị đi. Nghĩa là, từ trước đến giờ, hằng bao nhiêu năm chưa có thành lập được cái giáo án này.

Mặc dù Thầy đã nói, Hòa thượng Thiện Hoa, ngài viết cái bộ "Phật Học Phổ Thông", đó là cái giáo án đầu tiên của Phật giáo từ thấp đến cao để chúng ta biết rõ ràng, nhưng đây là cái giáo thuyết để chúng ta hiểu Phật giáo chớ không phải là cái giáo trình để chúng ta tu tập.

Còn Thầy viết cái giáo án này là cái giáo trình tu tập. Ngay từ vô cái giáo trình đầu tiên thì một người cư sĩ đến với đạo Phật thì phải thay đổi sáu cái nghề nghiệp liền. Thì các vị thấy rõ ràng: cái hành động chúng ta phải thay đổi tức là chúng ta tu đó, nó bước đầu vào hành động.

Còn cái kia, khi mà vào đó thì Hòa thượng dạy cho chúng ta nghe hiểu biết cái lịch sử của Đức Phật, cho nên nó đâu có biến ra cái hành động của quý vị đâu? Rồi Tam Quy, rồi Ngũ Giới, chỉ nói như vậy thôi chớ còn đâu có biến ra hành động?

Rồi dạy tới Thập Thiện thì quý vị có thấy biến ra hành động được không? Đâu có dạy cho chúng ta áp dụng cái Định Vô Lậu để tu Thập Thiện như thế nào? Cái định mà - dạy Tứ Vô Lượng Tâm để thực hiện Thập Thiện như thế nào? Trau dồi nó như thế nào?

Dạy Tứ Chánh Cần để mà đoạn dứt ác thì Hòa thượng - đến dạy Tứ Chánh Cần thì Hòa thượng nói Tứ Chánh Cần vậy chứ đâu có dạy áp dụng trong Thập Thiện?

Còn Thầy dạy rất rõ để cho quý vị biết áp dụng vào chỗ nào, chỗ nào ở trong mười cái điều lành này.

Vì mười cái điều lành này là con đường cuối cùng giải thoát là tham, sân, si. Vì ý của chúng ta mà diệt được - nó là ba độc - tham, sân, si là ba độc - mà ba độc diệt được thì tức là chúng ta đã sống ở trong Niết Bàn rồi!

Cho nên nói nó Thập Thiện quá tầm thường, nhưng mà xét qua ba cái độc của tham, sân, si này chúng ta thấy nó không tầm thường đâu, nó cả một vấn đề. Bao nhiêu thiền định của Phật nhắm vào chỗ này nè, mà để giải quyết nó nè, để cho nó đi đến con đường giải thoát hoàn toàn.

(01:35:24) Cho nên những cái cuộn băng mà Thầy giảng cho quý vị mà được thu như thế này, nó là một cái gia tài quý báu mà của Phật đã từng để lại, mà từ xưa đến giờ nó là những cái bài kinh rải rác; nó không kết tập được cái thấp, cái cao, cái dễ, cái khó, cho nên quý vị không biết cái đường nào mà quý vị vào.

Còn hôm nay Thầy đã chỉ cho quý vị biết cái đường vào, biết cách thức tu tập. Như nãy giờ quý vị đã nghe rõ rồi, chắc chắn là quý vị sẽ biết được cái đường lối mà quý vị sẽ tập gì trước, tập gì sau.

Đây là mới có giai đoạn một thôi, còn giai đoạn hai, rồi giai đoạn ba, rồi giai đoạn bốn, lần lượt Thầy sẽ - tất cả những cái giai đoạn tu tập đều được Thầy bố trí, bố cục một cách chặt chẽ. Vừa hiểu mà vừa tu, vừa học vừa tu. Nó có cái thực hành, nó có sự trau dồi, nó có cái sự dứt bỏ ở trong đó rất rõ ràng.

Mà Phật đã dạy trong những bài kinh, Thầy thấy quá tuyệt vời. Không có một cái tôn giáo nào mà nó thực tế và cụ thể như là giáo lý của đạo Phật: Dạy chúng ta thực hiện từ thân tâm của chúng ta chớ không phải dạy chúng ta mênh mông ở ngoài; không phải dạy chúng ta mê tín, cầu khẩn, cúng bái mà dạy chúng ta thực hiện ngay cái đau khổ trong thân tâm của chúng ta.

Cho nên ở đây, trên con đường tu tập, Thầy thấy quý vị là những người có phước nhất ở trong cái cuộc đời này; được nghe những cái này mà do từ cái kinh nghiệm tu hành của Thầy nói ra; mà không sai một mảy của Đức Phật ngày xưa đã dạy các đệ tử của mình.

Cho nên chúng ta không bao giờ chúng ta lầm lạc nữa. Chúng ta có một cái bản đồ, chúng ta có một cái lối đi, có một cái con đường tu tập thật sự, rõ ràng bằng hành động chúng ta để chúng ta làm chủ được cái sống chết, và chúng ta sẽ chấm dứt được sự tái sanh luân hồi của mình cụ thể, rõ ràng; không còn mơ hồ nữa, không còn lạc lầm nữa.

Thầy xác định điều đó là điều thực! Đạo Phật thực rất thực, không có dối ai hết, không có gạt người, không nói như vậy mà không làm được. Làm được nhưng mà phải tu tập cho đúng cách, chớ tu tập không đúng cách thì không đạt được.

Thôi đến đây Thầy xin chấm dứt./.

hết băng

07 - ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI CƯ SĨ - PHẦN 1

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHÂT 07 - ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI CƯ SĨ - PHẦN 1

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- BỐN HÀNH ĐỘNG ÁC NGƯỜI CƯ SĨ CẦN LƯU Ý

(00:00) Thầy xin trở lại vấn đề giáo án đã giảng kỳ trước để quý thầy nhớ lại bài giảng cho dễ dàng. Thầy tóm lược lại đoạn đầu:

Ở giai đoạn một, người cư sĩ nên lưu ý có bốn hành động kết ác nghiệp.

Bốn hành động kết ác nghiệp đó là:

1. Sát sanh;

2. Trộm cắp;

3. Tà dâm;

4. Vọng ngữ.

Những cái điều này Thầy đã giảng dạy ở trong Thập Thiện rồi. Bốn cái hành động này sẽ kết thành những cái nghiệp khổ đau và dẫn dắt quý vị vào địa ngục hiện tại và vị lai.

Bốn cái hành động này nó trụ vào bốn cái xứ sở để chỉ đạo, sai khiến chúng ta kết thành cái nghiệp tội lỗi tày trời. Quý thầy nên nhớ rằng, bốn cái xứ sở này nó là gì? Nếu mà không hiểu thì chúng ta chẳng biết nó trụ ở trên bốn cái xứ sở này.

Bốn cái hành động này nó sẽ nằm ở trên cái xứ sở nào mà nó làm những cái tội, thành cái nghiệp lớn như vậy? Đây, quý thầy nghe cho kỹ:

1. Dục

Thầy có giảng rồi, dục là cái lòng ham muốn đó.

2. Nhuế

3. Bố

4. Si

Như ở trong này thì hồi nãy Thầy có nói: Dục là lòng ham muốn của chúng ta; nhuế là lòng sân hận của chúng ta; bố là sự sợ hãi, lòng sợ hãi của chúng ta; (bốn) là tâm ngu si.

Cái này Thầy đã giảng rõ cho quý thầy ở trong cái bài giảng vừa rồi.

2- SÁU NGHIỆP ÁC LÀM TỔN HAO TÀI SẢN VÀ SỨC KHỎE

2.1- ĐAM MÊ RƯỢU CHÈ

(02:01) Cho nên nó có sáu cái nghiệp ác - đầu tiên thì có nó sáu cái nghiệp ác làm tổn tài, hao của và phí sức của một cái người không có thông hiểu Phật Pháp:

1. Đam mê rượu chè;

Vậy thì uống rượu - ở đây Phật nói uống rượu có sáu cái lỗi chớ không phải nói đơn giản. Khi một người uống rượu nó có sáu cái lỗi mà để đưa đến cái chỗ hao tài, tốn của.

Vậy thì cái lỗi thứ nhất của nó là:

1. Mất của;

Nghĩa là cái người say rượu, khi mà say rượu rồi thì tiền bạc bỏ trong mình thì người ta lấy không có biết, hay hoặc là mình đi mình say sưa rồi mình làm rớt mất thì mình không có biết, cho nên gọi là say rượu mất của.

2. Sanh bệnh;

Người mà say sưa thì cái thân nó dễ bị bệnh tật.

3. Hay gây gổ;

4. Tiếng xấu đồn xa;

5. Dễ sanh nóng giận;

6. Trí tuệ mỗi ngày một giảm dần.

Người nào mải mê uống rượu thì sản nghiệp, cửa nhà của họ mỗi ngày một tiêu tan.

Đó là cái vấn đề uống rượu, thì quý thầy thấy: Ở đây rõ ràng là khi mình đi uống rượu thì chắc chắn là phải có mang tiền theo, thì khi say rượu rồi thì tiền bạc vứt mà không có cần thiết, cho nên mất của mà không biết.

Và khi mà uống rượu nhiều thì cái cơ thể nó hay sanh bệnh tật. Đó là hẳn nhiên mà không ai có thể chối cãi được, khi Phật dạy thì chắc chắn là phải đúng như vậy.

Người say rượu thì hay gây gổ. Chắc ở trong đời của chúng ta, chắc chúng ta cũng thấy những người say rượu chớ không ai mà không có gặp, thì cũng biết rằng cái điều mà Phật dạy không có sai chút nào hết.

Và người say rượu thì khi họ say sưa thì họ không còn biết dơ, biết sạch, không còn biết tốt, xấu. Giữa đường, ngoài hè phố, dưới mương, rãnh, chỗ dơ bẩn…​ họ đều có thể nằm ở trên đó được hết.

Cho nên họ múa tay, múa chân, họ la, họ hét, họ chửi mắng người này, người kia, thì lúc bấy giờ, người đi qua, kẻ đi lại, người ta thấy cái ông đó như vậy thì người ta nói đồn, người này nói với người kia cho nên tiếng xấu đồn xa. Đó là vậy.

5. Dễ sanh nóng giận - cái người uống rượu thường thường mà các thầy thấy rất rõ là cái tánh họ dễ nóng lắm, ai nói gì đó thì ngay đó là muốn đánh người ta liền, không bao giờ mà họ có cái tâm nhẫn nhục được, cho nên họ rất dễ giận hờn.

Về phần trí tuệ - cái người mà uống rượu say sưa thì mỗi ngày chúng ta thấy họ giảm dần, họ u mê, họ không có hiểu, nhiều khi nói mà họ không có thông suốt. Cũng như họ mải mê say rượu, mình khuyên họ cái đúng để cho họ chừa bỏ nhưng họ không bao giờ còn nghe mình nữa.

Khi cái người uống rượu say sưa nó đã quen rồi thì khó mà dứt bỏ. Do vì vậy đó mà họ không còn làm lụng để mà đi đến cái chỗ giàu sang như người khác nữa. Họ chẳng cần biết gì đối với cái gia đình của họ, của cải của họ lần lần sẽ tiêu hao.

Đó là sáu cái điều kiện mà một cái điều kiện thứ nhất chúng ta đã thấy rất rõ là: Nếu mà người cư sĩ mà va vấp vào cái sự uống rượu say sưa thì đó là đưa đến của cải, tài sản của họ hao mòn.

2.2- CỜ BẠC

(05:08) Cái thứ hai là về phần cờ bạc. Thì cờ bạc có sáu lỗi chớ không phải nghe nói đơn giản là cờ bạc là không có lỗi, mà cờ bạc có sáu cái lỗi. Vậy sáu cái lỗi đó là gì?

1. Tài sản hao mòn;

2. Thắng thì bị người oán;

3. Người hiểu biết chê cười;

4. Mọi người không kính trọng;

5. Người tốt xa dần;

6. Sanh tâm trộm cắp.

Người nào mải mê cờ bạc thì sản nghiệp của họ mỗi ngày một sa sút.

Đúng vậy. Thứ nhất là tài sản của họ hao mòn, vì họ đâu có phải dễ thắng mọi người. Lần lượt ngồi không, không có làm, cứ thích chơi đánh bạc thì làm sao mà có thêm của cải được?

Cho nên bao nhiêu của cải thì chỉ còn chặn đứng lại, rồi bắt đầu hao mòn dần, rồi riết rồi bán nhà, bán cửa vì cái tánh ham mê cờ bạc. Do như vậy mà tài sản lần lượt hao mòn rồi cho đến khi kiệt quệ.

2. Thắng thì bị người oán - Nghĩa là mình thắng, mình được tiền thì người ta lại thù oán, có thể người ta phục rượu mình say để rồi người ta tìm cách người ta giết mình, hoặc là người ta hại mình bằng cách này bằng cách khác.

Do đó, thắng thì bị người khác oán mình. Người đi bài bạc mà đi một mình, mà khi thắng thì chắc chắn là dễ bị giết chết hay hoặc là bị ám hại nơi sòng bạc chớ không có đi về nhà được!

Đó là những cái điều mà Đức Phật xác định ở trong cái bài pháp này, thì Thầy thấy rất là đúng, không có sai chỗ nào cả hết.

3. Người hiểu biết chê cười - Cái người mà hiểu biết người ta thấy người ham mê cờ bạc là người ta thấy cái người tham lam một cách không đúng cách, làm những việc không đúng cách, cho nên họ chê cười những cái người đó.

4. Mọi người không kính trọng - Người mà cờ bạc thì chắc chắn là những người có đức hạnh, những người hiểu biết thì không bao giờ mà kính trọng những người đó. Và đồng thời, cái người mà ham mê cờ bạc thì những người bạn tốt - những người tốt ở trong xã hội dần dần họ không có chơi với những cái người đó.

Rồi khi thua quá không còn tiền bạc, nhà cửa tiêu mòn, nhưng cái tánh ham cờ bạc nó vẫn còn, do đó mới sanh ra trộm cắp để đi bài bạc hay hoặc là trộm cắp để rồi mình nuôi sống mình, từ đó là bước đường cùng của cái người mà ham mê cờ bạc.

Do vì vậy đó mà cái người cư sĩ phải hiểu biết sáu cái điều tai hại khi chúng ta cờ bạc. Nó đưa đến cái tội lỗi như vậy, cái xấu xa như vậy, cái đau khổ như vậy, cho nên người cư sĩ cần phải tránh và bỏ cái tánh ham mê cờ bạc để đem lại cái sự an vui, hạnh phúc và tài sản của mình không bị sa sút.

Đó là cái điều thứ hai mà Phật dạy cho người cư sĩ.

2.3- PHÓNG ĐÃNG

(08:29) Cái điều thứ ba là:

Phóng đãng có sáu lỗi:

1. Không tự giữ lấy thân;

Nghĩa là cái người mà phóng đãng, tức là người đi du thí, du thực bằng cách này bằng cách khác, cho nên không có giữ lấy thân của họ, cho nên họ có thể hao mòn, hoặc là đau bệnh, hoặc là ham vui những cái vui quá rồi cái thân của họ tiều tụy, càng ngày càng suy giảm.

Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai là:

2. Không giữ gìn được của cải;

Khi mà phóng đãng thì họ tuôn ra, họ xài phí; của cải bao nhiêu thì họ tuôn ra như nước, cho nên họ không có giữ gìn của cải họ được.

3. Không bảo trợ được con cháu;

Nghĩa là họ luôn luôn, cái người phóng đãng là họ không bao giờ mà lo cho con cho cháu họ, họ không bao giờ nghĩ đến con cháu họ, họ không có giúp đỡ cho con cháu họ.

Bốn là cái người phóng đãng này, họ:

4. Thường hay sợ hãi;

Cái tâm họ thường hay sợ hãi.

5. Những điều ác khổ sẽ ràng buộc xác thân họ;

Nghĩa là có những cái điều ác, khi mà họ phóng đãng thì có những điều ác khổ sẽ ràng buộc xác thân họ - nghĩa là người phóng đãng khi mà vui chơi, khi mà mải mê với bạn bè - những cái loại mà phóng đãng đó - thì họ bắt buộc thế này, bắt buộc thế kia, làm cho mình không có còn thoát ra khỏi. Cho nên, thấy khổ mà vẫn phải đâm đầu vào cái khổ mà không thể nào ra khỏi cái sự ràng buộc đó.

6. Thường sanh dối trá.

Cái người phóng đãng này luôn luôn cái tâm họ thường dối trá, gạt người này, gạt người kia, nói qua, nói lại, không bao giờ nói sự thật được.

Bởi vì cái tâm phóng đãng thì nó không thể nào mà nói thật được. Là vì họ mải mê theo cái sự vui chơi, thích thú của họ, họ phóng dật ra ngoài, họ chạy theo cái sự đắm mê của ngũ dục lạc cho nên họ không có còn nghĩ đến tài sản, nhà cửa của họ. Cho nên lần lượt của cải, tài sản của họ ngày một hao dần mòn.

Đó là cái tâm phóng đãng, cái người phóng đãng, cho nên nó có sáu cái điều tội lỗi làm cho thân và của cải, con cháu, tâm thường sợ và luôn luôn thân xác họ bị gò bó xung quanh những cái người ác, những điều ác làm cho họ không rứt ra được, thường thường là họ hay dối trá, gạt người này, gạt người khác.

Đó là cái người cư sĩ khi hiểu biết được cái sự phóng đãng là nguy hiểm như vậy, là tai hại như vậy, cho nên cố gắng mà giữ gìn, đừng có để tâm phóng đãng, đừng có chạy theo những cái điều cám dỗ của dục lạc thế gian mà tạo cho sự nghiệp mình tiêu mòn.

2.4- SAY MÊ KỸ NHẠC

(11:22) Say mê kỹ nhạc có sáu lỗi:

Tức là cái người mà hay ca hát thì có sáu lỗi, đó là điều thứ tư. Vì vậy đó:

1. Ưa ca hát;

Cái người mà say mê kỹ nhạc là hay ca hát bài ca này cho đến bài ca khác, ngâm, vịnh, đó là cái sự ưa thích ca hát.

2. Thích khiêu vũ;

Tức là thích nhảy múa. Hễ người mà ưa ca hát thì họ lại thích khiêu vũ.

3. Mê đàn địch;

Tức là họ ưa ca hát thì họ phải thích đàn địch.

4. Chuộng tiêu, sáo;

Hễ họ ca hát, đàn địch, khiêu vũ thì họ cũng thổi sáo, thổi tiêu. Cho nên họ cũng thích những cái điều sáo, tiêu.

5. Ưa đánh trống;

Họ cũng ưa thích đánh trống

6. Mê thổi kèn.

Tất cả những cái nhạc cụ mà để phát ra âm thanh, thì cái người mà say mê kỹ nhạc đương nhiên là họ phải thông suốt những cái điều này.

Vì vậy mà khi thông suốt những điều này thì họ (chỉ) còn biết đặt tâm hồn của họ vào trong say mê của âm thanh và những điệu nhảy nhót, khiêu vũ chớ họ không có còn nghĩ đến cái sự sống của một cái người mà biết đạo, một cái người mà rất là sợ hãi về sự cám dỗ của cái sự ca hát, khiêu vũ.

Vì đó nó có thể đưa đến cái chỗ mà sanh ra cái tâm không có - theo người xưa nói - không có đạo luân lý. Nghĩa là người ta nói “xướng ca vô loài”, nghĩa là họ cho rằng những cái người ưa ca hát thì họ không có giữ được cái đạo đức luân thường, nay thì người này, mai thì họ kết với người kia. Cho nên ở đây, theo ngày xưa người ta kết (luận) cái điều đó.

Nhưng trái lại, theo Thầy nghĩ thì ở đây Phật không có nghĩ như vậy, mà Phật muốn thấy rằng: cái người ưa ca hát, khiêu vũ, đàn địch, tiêu sáo, đánh trống, thổi kèn thì những cái người này họ không có làm ăn theo những cái người mà an vui, yên ổn, mà bằng cách là họ đem những câu hát tình tứ gợi cho những người khác thương vay, khóc mướn, làm cho người khác do những tiếng tiêu, tiếng sầu đó mà làm cho người ta khổ đau, cho nên vừa là mình thổn thức trong lòng của mình mà vừa tạo cho người ta thổn thức trong lòng của người ta.

Do như vậy mà Đức Phật - khi mà người cư sĩ đến với đạo Phật thì Đức Phật muốn khuyên họ không nên làm những cái điều đó, là vì mình nghe âm nhạc, mình nghe tiếng đàn, tiếng ca làm cho tâm hồn mình dào dạt, làm cho tâm hồn mình bất an chớ không được giải thoát.

Chớ không phải gọi là “xướng ca vô loài” cũng như ngày xưa người ta đặt cho những người ca hát là không đàng hoàng, nay thì cặp người này, mai thì lấy người khác, nó không đúng.

(14:31) Nhưng ở đây, cái mục đích của đạo Phật là không hiểu như vậy, mà phải hiểu: Qua tiếng hát, tiếng ca, tiếng đờn, tiếng trống nó làm cho tâm hồn chúng ta lúc vui, lúc buồn, nó không có giữ cho tâm hồn chúng ta được thanh thản, được giải thoát, làm chúng ta say mê mà quên đi những công việc làm để sống bằng cách lương thiện chớ không phải vô lương thiện.

Đó là những cách mà ở đây Phật dạy để nhằm mục đích chúng ta tránh những cái điều làm cho mình dao động tâm và đau khổ, cũng như người khác. Cho nên chúng ta không nên say mê kỹ nhạc mà hãy giữ tâm của mình luôn luôn được thanh thản, được an ổn thì tốt nhất.

Hầu hết trong thế gian này, nói về ca nhạc, khiêu vũ và tiêu, sáo, đờn địch thì chắc chắn ai cũng mê thích vì họ cho đó là một môn giải trí.

Nhưng sự thật theo Thầy thiết nghĩ, qua một bài nhạc nó làm cho người ta xúc động, nhưng sự thật nó không phải như vậy. Một cái bài nhạc làm cho họ khích động, họ có thể chết họ cũng không từ nan! Đó là những lời ca tiếng nhạc làm cho tâm hồn người ta có thể bất an theo điệu nhạc, theo lời ca, theo văn thơ.

Cho nên Phật muốn là cuộc sống của người cư sĩ cũng như người tu sĩ luôn luôn phải bình thản, phải vững vàng, phải bất động thì đó là một cuộc sống mới được an vui. Còn lúc thì còn thương vay, khóc mướn qua tiếng ca, tiếng nhạc như vậy là nó giả dối, nó không thật.

Người nào mải mê kỹ nhạc thì sản nghiệp, nhà cửa của họ ngày một sa sút.

Thật sự ngày xưa thì như vậy, nhưng người mà chuyên môn hiện giờ ca nhạc, khiêu vũ, đàn địch, tiêu sáo thì họ cũng lấy cái nghề mà làm sống thì cũng có khá giả chớ không phải như sự xác định nhà cửa họ suy sụp.

Nhưng ở đây theo Thầy thiết nghĩ, nó không phải do sợ sản nghiệp, của cải sa sút, suy mòn mà chỉ ngại cho tâm chúng ta thương vay, khóc mướn theo giọng ca, tiếng hát mà thôi; làm cho tâm chúng ta bất an và cũng từ đó mà tâm hồn chúng ta luôn luôn dễ bị dao động, không được tự chủ.

2.5- KẾT BẠN VỚI NGƯỜI ÁC

(17:13) Điều thứ năm là:

Kết bạn với người ác có sáu lỗi:

1. Dễ sanh khinh lờn;

2. Ưa chỗ thầm kín;

3. Dụ người nhà khác;

4. Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người;

5. Mưu đồ tài lợi về mình;

6. Ưa phanh phui lỗi người.

Đó là kết bạn với người ác thì cái tâm của chúng ta sẽ có sáu cái điều mà nó dễ sanh ra:

Thứ nhất: Kết bạn với người ác - thì họ làm những điều ác thì chúng ta sanh theo những điều ác đó mà cái tâm của mình sẽ coi thường những cái điều ác, sanh ra những cái sự khinh lờn, không có sợ hãi, mà chúng ta làm những cái điều tội lỗi mà chúng ta không sợ.

Ưa chỗ thầm kín - Nghĩa là chơi với người ác thì hay làm cái chuyện thầm kín, thầm lén bằng cách này, bằng cách khác để mà làm lợi cho mình.

Hoặc là dụ người khác làm điều này, điều kia. Như thí dụ: Dụ người khác ăn trộm, dụ người khác đi làm cái chuyện tà hạnh, đó là dụ dỗ người khác; hoặc là dụ người khác đi ăn cướp, đi giết người; hoặc dụ người khác làm những cái chuyện sát sanh, giết con vật này hoặc con vật khác.

4. Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người - Nghĩa là chơi với người ác thì luôn luôn lúc nào cũng nghĩ mưu cách này, mưu cách kia mà lấy của cải, tài sản của người khác.

5. là luôn luôn mưu đồ cái gì đem về lợi cho mình - tiền bạc và danh dự - đều là có cái thủ đoạn, cái mưu cách để mà đem lại cho mình những cái lợi, cái danh đó. Cho nên chơi với người ác thì đủ mọi cách có thể họ tìm cái gì mà lợi cho họ mà thôi, miễn là ai như thế nào thì họ cũng chả cần, hoặc là hại người khác để tù tội mà đoạt được của thì họ cũng vẫn làm.

Đó là những hành động của người ác, mà khi chúng ta chơi với những người ác thì chắc chắn chúng ta phải làm theo những người đó.

6. Ưa phanh phui lỗi người - Nghĩa là chơi với người ác, thì thường thường là người ác hay đem những cái chuyện xấu của người khác, cái chuyện lỗi của người khác mà nói ra cho người khác biết để làm cho cái người khác người ta khổ đau, đó là những người ác mới làm những cái điều đó.

Cho nên đây là kết bạn với người ác thì chúng ta sẽ học lấy những cái điều rất xấu, là vì cái phần thứ sáu này thì đương nhiên là phanh phui cái lỗi của người khác cho người khác biết, cho người khác cười chê người khác, do vì vậy đó là mình thuộc về loại cái người ác. Đó là những cái lỗi của những người ác.

Vì vậy mà khi - chúng ta trong sáu cái điều này mà Đức Phật đã dạy, thì chúng ta thấy mình có những cái điều gì nó không phải thì mình phải bỏ cái điều đó đi. Đừng có nói cái lỗi của người khác cho người khác biết, đừng có phanh phui những cái xấu của người khác để cho người khác biết thì nó thuộc về sáu cái phần tội lỗi ở trong cái kết bạn với người ác.

Mà nếu chúng ta là những người không ác thì chắc chắn là không phanh phui cái lỗi của kẻ khác cho người khác biết, không bêu xấu người khác, thì chúng ta không thuộc về loại người ác. Mà nếu chúng ta phanh phui những cái lỗi của người và nói xấu người thì đó chúng ta thuộc về loại người ác.

(20:50) Cũng như chúng ta không mưu đồ làm lợi cho mình mà hại người khác thì chúng ta không phải là người ác, mà chúng ta mưu đồ làm lợi cho mình bằng cách hại người khác để đem lại cái lợi hoặc cái danh cho mình thì đó là mình là người ác.

Dụ người làm điều chẳng phải, điều ác thì chính mình cũng là người ác.

Ưa ở chỗ thầm kín bàn tính chuyện này, chuyện kia, hoặc là nói lén nhau điều này, điều kia, đó cũng là người ác.

Ở đây, Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ: Người ác là cái người hay tìm cái chỗ thầm kín, lén nói chuyện này, lén nói chuyện kia đều là thuộc về loại người ác.

Cho nên chúng ta biết như vậy, khi mà chúng ta có nói chuyện (với) nhau thì đường đường phải nói chuyện ở nơi chánh đáng hẳn hòi, đàng hoàng, vào nhà khách để nói chuyện. Nếu mà ưa nói chuyện chỗ thầm kín, chỗ lén lút thì đó là thuộc về loại người ác.

Cho nên kết bạn với người ác thì có sáu cái điều để chúng ta thấy đó là những người ác.

Người mà sanh khinh chê người khác, coi rẻ người khác, khinh bỉ người khác thì đó cũng là thuộc về loại người ác. Bởi vì, ở đây kết bạn với người ác thì tâm chúng ta nó bắt chước theo, nó coi rẻ người khác. Dù người đó hiện giờ họ thua mình gấp trăm, gấp ngàn lần nhưng mình không khinh lờn, mình không chê họ thì mình là người không ác.

Đó là sáu cái điều kiện này để chứng minh, chúng ta phạm phải một điều kiện thì tức là chúng ta phạm phải vào một cái người ác. Cho nên chúng ta biết được như vậy thì hãy cố gắng mà tránh những cái điều này.

Vì đây là lời Phật dạy mà được Thầy ghi chép lại để hướng dẫn cho người cư sĩ cũng như nhắc nhở người tu sĩ. Vì đó là những hành động mà khi chúng ta không biết cho nên chúng ta dễ lạc lầm, vì vậy mà khi biết thì chúng ta hãy cố gắng mà khắc phục mình, đừng để lạc lầm vào chỗ đó mà trở thành người ác.

2.6- LƯỜI BIẾNG

(22:41) 6. Lười biếng có sáu lỗi:

1. Khi giàu không chịu làm việc;

Nghĩa là cái người lười biếng, khi họ có tiền họ không có làm việc; họ ăn cho hết của cải, tài sản chớ họ không có làm việc; họ đi chơi chớ họ không có làm việc.

Cho nên do cái chỗ giàu có mà không chịu làm việc thì họ trở thành những người phóng đãng, kết bè, kết đảng với người ác, rồi rượu chè, rồi bài bạc. từ cái chỗ lười biếng đó mà họ sanh ra những cái điều bất thiện, cái điều không tốt.

Cho nên dù giàu chúng ta vẫn làm việc chớ không phải nói: "Tui giàu, tui không cần làm việc, ăn không hết!" thì cái đó là cái sai, đó là thuộc về loại lười biếng.

2. Khi nghèo cũng không chịu làm việc;

Cho nên cái người nghèo mà không làm việc thì chúng ta cũng biết thuộc về loại lười biếng.

3. Khi lạnh cũng không chịu làm việc;

Khi thấy trời lạnh mình không làm việc, cứ co ro ngồi rúc ở trong nhà thì biết là loại lười biếng.

4. Khi nóng cũng không chịu làm việc;

"Bây giờ trời nắng nóng quá, thôi tui vô trong nhà ngồi, chờ mát rồi tui hãy làm!" thì cái người đó cũng thuộc về loại lười biếng.

5. Sáng sớm cũng không chịu làm việc;

Thì sáng sớm mình nói: "Còn sương này, kia, làm việc rồi đây nó bệnh cảm, nó này kia…​" thì do đó, những cái người đó thuộc về loại lười biếng bằng cách lý luận đó.

6. Chiều tối cũng không chịu làm việc.

Thì nếu mà chiều tối họ cho rằng: "Tối rồi, thôi nghỉ, không nên làm, để nghỉ ngày mai làm!" Họ luận bằng cách này, bằng cách khác để buổi chiều đó họ không làm việc, vì vậy cũng thuộc về loại lười biếng.

Cho nên ở đây lười biếng - có sáu cái hành động để mà chúng ta thấy là cái người lười biếng:

Khi mà họ có của mà thấy họ cứ đi chơi không thì biết rằng họ thuộc về loại lười biếng.

Khi mà họ nghèo mà thấy họ không có chịu làm, tối ngày cứ co ro ở trong bếp, trong xó hoặc là đi chỗ này, chỗ kia chơi, nghèo như vậy mà không chịu làm việc thì biết họ là cái loại lười biếng.

Khi trời lạnh mà không thấy họ làm việc thì biết họ là người lười biếng.

Khi trời nóng cũng không thấy họ làm việc thì cũng biết họ thuộc về loại lười biếng.

Sáng sớm cũng không thấy họ làm việc thì biết họ là người lười biếng.

Chiều tối cũng không thấy họ làm việc thì biết họ là người lười biếng.

Cho nên sáu cái điều kiện này, sáu cái việc này chúng ta xét qua thì biết là cái người đó là người lười biếng. Mà người lười biếng thì chúng ta có nên ở gần gũi những người đó không? Chắc chắn là chúng ta sẽ không nên gần gũi, vì gần gũi những người đó họ sẽ lôi cuốn chúng ta cũng trở thành những người lười biếng!

Như vậy chúng ta đã học được những cái điều cần phải học của một cái người cư sĩ. Chúng ta cần phải giữ gìn những gì mà chúng ta đã học được ở đây: Sáu cái nghiệp làm tổn hại tài của của chúng ta, sáu cái điều kiện mà đưa chúng ta đến những người không tốt ở trong cái xã hội.

Cho nên từ đó, chúng ta cố gắng mà khắc phục để cho mình trở thành một cái người tốt ở trong gia đình cũng như một người công dân tốt ở trong một đất nước. Nếu mà chúng ta tránh được những điều này thì chắc chắn là phải có sự lợi lạc rất lớn cho chúng ta.

3- BỐN HẠNG OAN GIA NÊN TRÁNH

3.1 TỔNG QUAN BỐN HẠNG NGƯỜI NÊN TRÁNH

(25:52) Người cư sĩ đệ tử Phật còn nên tránh bốn cái hạng oan gia:

Nghĩa là Đức Phật chỉ cho chúng ta biết để mà chúng ta tránh bốn cái loại oan gia mà nó có thể đưa đi đến chúng ta - cuộc đời chúng ta đi đến có những cái rất là khổ đau. Bốn cái oan gia đó là như thế nào?

1. Hạng uý phục;

2. Hạng mỹ ngôn;

3. Hạng kính thuận;

4. Hạng ác hữu.

Bốn cái hạng người này là bốn cái hạng oan gia ở trong cái cuộc đời của chúng ta, cho nên chúng ta phải tránh bốn cái hạng người này.

Thật sự ra, Đức Phật dạy cho người cư sĩ, chúng ta thấy rất là đầy đủ. Từ những cái gì nhỏ, rất là nhỏ nhặt ở trong cuộc sống của chúng ta Ngài đều vạch ra cho chúng ta biết để mà chúng ta tránh, để mà biết mà chúng ta sửa mình, để mà biết để mà chúng ta đem lại một cuộc sống rất là hạnh phúc, an vui.

Chúng ta thấy ông Phật Ổng thông minh và Ổng sáng suốt, Ổng nhận ra từng chút để mà Ổng dạy cho chúng ta, thiệt là một cái trí tuệ vô cùng! Nhưng chúng ta được học cũng là một cái phước rất lớn, nhiều khi chúng ta đọc qua hoặc là chúng ta chưa được nghe cho nên chúng ta không hiểu được những lời dạy này.

Cuộc đời chúng ta sanh ra làm người rất khó mà được nghe Phật Pháp dạy chúng ta từng cái cuộc sống như thế này, thật là thấm thía! Đối với Đạo Phật thật là khó, mà hy hữu lắm chúng ta mới được trở thành những người đệ tử của Đức Phật như ngày hôm nay.

Bởi vậy Đức Phật dạy chúng ta phải tránh bốn hạng oan gia, những cái hạng người này họ sẽ đem đến cho chúng ta những cái không hay cho cuộc sống của chúng ta.

3.2- HẠNG NGƯỜI UÝ PHỤC

(27:38) Hạng úy phục có bốn:

Nghĩa là đối với cái hạng úy phục, có bốn:

1. Trước cho sau đoạt lại;

Cái hạng đó là họ cho mình, thì họ cho như vậy rồi họ tìm cách họ lấy lại.

2. Cho ít mong trả nhiều;

Nghĩa là cho mình, thí dụ như họ đem họ cho mình cái vật gì đó, thì họ có cái thâm ý của họ là cái người này không bao giờ là trả lại mình, hay hoặc cho lại mình ít, cho nhiều hơn. Đó là cái thâm ý của những cái người uý phục này.

3. Vì sợ nên làm thân;

Họ sợ mình cho nên họ làm thân với mình, chớ sự thật ra thì họ không muốn làm thân với mình.

4. Vì lợi nên làm thân.

Đó là vì họ làm thân mình để họ có những cái lợi lộc này kia nọ, hoặc là lợi dụng mình bằng cách là tiền bạc, hay của cải, hay tài sản, hay hoặc là mình giúp đỡ họ bằng cách gì đó cho nên họ phục mình, họ làm như là họ thân mình chớ sự thật ra họ vì cái lợi, họ vì sợ.

Cho nên những cái hạng người này thì chúng ta nên tránh. Họ không phải là người bạn tốt mà họ là những người trước cho sau thì muốn lấy lại, cho ít thì mong phải trả nhiều, vì sợ mình mà mới làm thân với mình, chớ chưa hẳn đã - nếu họ không sợ thì họ chẳng chơi với mình. Vì lợi mà họ làm thân với mình.

Cho nên những cái người - mà mình xét cái người mà nó nằm ở trong cái bốn hạng này thì mình không có chơi (với) những người đó mà ghép họ vào thuộc loại uý phục.

Uý phục có nghĩa là gì?

Uý là sợ mà phục mình, chớ không phải là không sợ mà phục mình. Vì họ sợ mình có làm quan, làm vua có thể bắt họ bỏ tù, thế này thế khác, cho nên họ mới làm thân mình.

Ở đây, Phật ghép bốn cái hạng người này để chúng ta thấy mà chọn lấy những người bạn trong cuộc đời của chúng ta:

Cái hạng người mà cho chúng ta rồi đoạt lại, cướp lại, sau này cướp lại, đoạt lại thì đó là chúng ta không chơi với những hạng người này.

Những hạng người cho ít mà mong nhiều thì chúng ta không chơi với hạng người này.

Những hạng người sợ chúng ta mà làm thân với chúng ta thì hạng người này chúng ta không chơi.

Hạng người vì có lợi ích cho họ, vì có lợi cho họ bằng cách này, bằng cách khác cho nên họ mới làm thân với mình, thì những hạng người này chúng ta không chơi.

Cho nên ở đây, Đức Phật dạy chúng ta chọn những cái hạng người bạn nào mà chúng ta chơi chớ không phải là đụng ai chúng ta cũng chơi.

Cho nên sau một cái thời gian mà chúng ta thấy những người như cái hạng nào thì chúng ta sẽ chơi (với) những người đó, mà những cái loại này thì chúng ta không nên chơi, chúng ta nên tránh xa.

3.3- HẠNG NGƯỜI MỸ NGÔN

(30:55) Hạng mỹ ngôn có bốn:

Nghĩa là cái loại mỹ ngôn, cái loại mà nói tiếng ngon, tiếng ngọt này, Phật chia ra làm bốn hạng để chúng ta biết mà chúng ta tránh mà không có chơi với những cái hạng này.

1. Lành dữ đều chiều theo;

Chuyện tốt thì họ cũng nói đúng, nó chiều theo mình họ nói, mà gặp chuyện dữ thì họ cũng nói theo mình.

Thí dụ như trong khi đó mình làm việc từ thiện, bố thí thì họ cũng nói: "Ờ, đó là tốt!" Khi mà mình đánh người ta hoặc là mình giết người ta thì họ nói: "Anh làm cái đó cũng đúng!”

Đó là lành, dữ họ không có can ngăn mình mà họ cứ xúi mình, mình làm lành thì họ cũng nói tốt, mà mình làm dữ họ cũng nói tốt. Đó là cái hạng người mà nó chiều theo mình kiểu đó thì mình không có chơi theo cái hạng người đó.

2. Gặp nạn thì lánh xa;

Đó, khi mà mình có gặp tai nạn gì đó thì họ đứng xa mình, họ không có - coi như họ không quen, không thân của mình nữa. Nghĩa là họ sợ vạ lây thế này thế khác, cho nên mình có gặp tai nạn gì đó họ lánh xa, thì những cái hạng này mình không có nên chơi.

3. Có điều lành thì âm thầm ngăn đón;

Khi mà có những cái điều lành, tức là cái điều mà đem lại cho cái lợi ích thì họ tìm cách họ ngăn đón, không có đem lại cái lợi ích đó cho mình.

Thí dụ như có một người đó họ khen tặng mình, thì cái anh bạn này ảnh ngăn liền, ảnh nói: "Cái ông đó chưa hẳn đã là tốt đâu, anh khen như vậy là không đúng". Nhưng mà sự thật cái người kia họ khen rất đúng là vì mình có những hành động tốt.

Thí dụ như mình làm từ thiện, thì có người khác nói: "Cái ông đó tốt quá, ổng thường hay giúp đỡ những người nghèo, người trẻ mồ côi hay người bất hạnh trong xã hội!" thì cái ông này ổng nói ra, ổng ngăn cái điều đó ra, ông nói: "Anh lầm rồi, cái người này họ làm như vậy họ kinh doanh đó, chớ chưa phải là họ là cái người tốt thật đâu!"

Đó là những cái người mà họ có những cái tâm tánh như vậy thì mình không nên chơi với những người bạn đó.

4. Khi thấy lâm nguy thì bài xích, đả đảo.

Khi mình bị lâm nguy, bị kẹt cái gì đó thì họ a dua với người khác mà bài xích mình, nói xấu mình, đả đảo mình bằng cách này, bằng cách khác. Cho nên những cái người mà như vậy thì mình không có nên chơi thân với họ.

Cho nên ở đây thuộc về cái loại mà Phật ghép vào cái loại mỹ ngôn là những cái loại người như vậy.

Khi mà làm người cư sĩ thì chúng ta phải có bạn bè, phải có những người chơi với nhau, vì vậy mà Phật dạy cho chúng ta ở đây để chúng ta chọn những người bạn tốt, những người bạn mà không hại chúng ta.

Cho nên những người này là Phật ghép là bốn cái hạng người oan gia, nó sẽ đưa chúng ta đến cái cuộc đời nhiều đau khổ mà chúng ta không thể được an vui.

3.4- HẠNG NGƯỜI KÍNH THUẬN

(33:20) Hạng kính thuận:

Có bốn cái việc mà chúng ta sẽ thấy, đó là:

1. Trước dối trá;

2. Sau dối trá;

3. Hiện tại dối trá;

4. Thấy có chút lỗi đã vội lánh xa.

Nghĩa là cái người mà dối trá, họ trước mặt mình thì họ cũng nói láo, nói này kia; sau lưng mình thì họ cũng đặt điều họ nói láo, nó không có đúng; hiện tại họ cũng nói láo - trước, sau và hiện tại gì họ cũng đều là nói dối hết.

Thì những cái hạng mà nói dối này, khi mà biết họ nói không thật, thì những cái người mà nói không thật thì chúng ta không nên chơi (với) những người đó. Là vì họ có thể họ đặt điều, họ nói láo, họ vu oan giá họa, mình không xấu mà họ đặt ra họ nói mình xấu.

Thí dụ như bây giờ quý thầy là những người tu hành, mà khi có một cái điều kiện gì gặp một cái (người) phái nữ, thì quý vị nói chuyện hay hoặc là có cái việc gì mà cần trao đổi với nhau, thì người đó lấy cái cớ đó để mà nói xấu mình, họ nói mình mê cô ta: “Tu hành gì mà còn nói chuyện với người nữ!”

Mà trong khi đó mình phải giao thiệp với những người này để cho họ giúp đỡ mình hay hoặc phụ mình làm những cái gì. Thí dụ như nhờ họ cơm nước để cho mình cất nhà, cất cửa hay hoặc làm những cái gì khác, thì họ lại nghi ngờ, họ lại đặt điều họ nói mình không đúng cách, thì đó là cũng là thuộc loại bạn không tốt, dối trá, nói xấu mình.

Thí dụ như một người tốt mà thấy mình như vậy, thấy mình nói chuyện với cô ta như vậy, thì người bạn tốt mà thấy như vậy, sợ mình bị cám dỗ, bị sắc đẹp hay hoặc bị sắc dục cám dỗ thì mình đến, mình trực tiếp mình nói riêng với người bạn của mình: "Tui thấy anh nói chuyện với cô ta, tui sợ anh có thể sa ngã không? Anh hãy giữ gìn tâm mình cho vững vàng, đừng có để như vậy!"

Đằng này không, thấy thì không nói mà để đi nói với người khác để làm cho cái người bạn của mình trở thành xấu.

Thì như vậy cho nên ở đây Phật nói: "Trước cũng dối trá, sau thì cũng dối trá, hiện tại thì cũng dối trá, thấy có chút lỗi đã vội lánh xa".

Nghĩa là, thấy cái người đó có làm lỗi cái gì một ít nhỏ đó thôi, thì cho rằng cái người đó là không tốt với mình, cho nên vội vàng tránh xa chớ không khuyên, không lơn gì hết, thì cái đó là cái rất lỗi, cái rất tệ.

Cho nên cái hạng người mà kính thuận cái kiểu này thì mình hoàn toàn là mình không chơi với những hạng người này, vì những người này là những người xấu chớ không phải là những người tốt.

Cho nên ở đây Phật ghép những cái hạng người như vậy để chúng ta đừng có làm bạn, để chúng ta thấy được những cái người đó là cái người không tốt. Những cái người mà dối trá như vậy là những cái người mà có thể làm cho mình mất cái niềm tin với mọi người, làm cho người khác khi chê mình.

Mình đến đâu, người ta - mặc dù là mình có lỗi, mình cố gắng mình sửa, nhưng họ thêu dệt ra những cái lỗi đó làm cho người khác nhìn mình với cái đôi mắt không có tin tưởng, nhìn mình với cái đôi mắt bị người khác coi rẻ rúng, do những cái người bạn xấu mà làm cho mình rất là khổ sở trên cuộc đời của mình, thì những người bạn đó mình nên tránh xa mà không nên chơi với họ.

3.5- HẠNG NGƯỜI ÁC HỮU

(37:06) Hạng ác hữu…​

Tức là cái hạng người ác

…​ có bốn:

1. Khi uống rượu là bạn;

Nghĩa là, vào ở trong một cái chỗ nào đó mà uống rượu với nhau, đó là những người mà uống rượu cùng nhau, Phật ghép những người đó là những người bạn ác của mình.

Hoặc là thấy mình cứ mời vào uống rượu, thì những người mà uống rượu mà mời mình để mình nhập bọn với họ đó, đó là mình phải tránh xa những cái người uống rượu là những người ác hữu chớ không phải là người…​ Những người ác hữu tức là những người bạn ác.

2. Đánh bạc;

Nếu mà mình thấy cái người đó đánh bạc thì mình tránh xa, đừng có làm bạn với họ, vì làm bạn với họ thì mai mốt mình cũng trở thành những người đánh bạc. Vì vậy mà họ cũng cám dỗ và quyến rũ mình đi vào con đường này cho nên họ là những người bạn ác.

3. Dâm dục;

Cái người mà hay đi vào những cái nơi mua dâm, những cái nơi gái mãi dâm đó, thì chúng ta không có nên chơi gần với những người này, vì những người này cũng thuộc về loại bạn ác.

Vì chơi những cái đó nó có những cái hành động không tốt mà nó còn hại sức khỏe cho mình nữa. Cho nên đừng có gần những người mà họ thích mua dâm, họ thích vào những cái nơi không có tốt, cho nên chúng ta không có (chơi).

Trong sạch thì chúng ta không nên chơi với những người bạn này vì những người bạn này sẽ lôi cuốn chúng ta đi vào cái chỗ không có lành, nó bất tịnh hạnh, nó không có cái trong sạch. Cho nên không có chơi với cái loại bạn này.

4. Phật cũng dạy chúng ta không nên làm bạn những người: Ca hát và vũ múa.

Vì những người ca hát, vũ múa này lâu ngày nó cám dỗ bằng lời ca, bằng điệu vũ, làm chúng ta cũng sẽ trở thành những loại ca kỹ, những cái người ca hát.

Cho nên Phật khuyên là chúng ta đừng có chơi với những người bạn này vì sẽ lôi cuốn vào trong cái vòng thương vay, khóc mướn, làm cho tâm hồn chúng ta bất an.

Do vì vậy mà chúng ta hãy tránh bốn loại người bạn này.

3.6- XA LÁNH BẠN XẤU NHƯ TRÁNH CON ĐƯỜNG HIỂM

(38:58) Đó là những cái điều mà Phật dạy ở trên đây chúng ta thấy rất là thấm thía.

Nếu mà một cái người cư sĩ cũng như cái người tu sĩ mà chúng ta suy nghĩ cho kỹ, chúng ta nên tránh bốn cái hạng oan gia này để cho cái cuộc sống của chúng ta thanh thản và tiến bước trên con đường đạo, để một ngày nào đó chúng ta thực hiện rốt ráo, làm chủ cái cuộc sống, được giải thoát, chấm dứt được sanh tử luân hồi.

Đó là cái điều mong muốn và cái ước vọng của mỗi người hướng đến Đạo Phật, cái mục tiêu mà chúng ta nhắm để chúng ta đi đến.

Cho nên trước tiên là chúng ta phải tránh bốn cái hạng bạn mà ở đây Phật nêu ra rất là rõ ràng.

Bốn cái hạng bạn này thì nó lại chia ra cho chúng ta thấy mười sáu cái hạng người mà chúng ta cần phải cố gắng mà khắc phục mình để cho mình tránh xa những cái người không tốt, họ sẽ cám dỗ và dẫn dắt mình vào con đường tội lỗi, và con đường tạo nên những ác nghiệp mà mãi mãi trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi mà không thể nào thoát ra được.

Ở đây Đức Phật có ghi lại một cái bài kệ:

Uý phục gượng làm thân

Nghĩa (là) cái người đó, cái hạng uý phục thì họ gượng họ làm thân chớ họ không có thân với mình đâu.

Hạng mỹ ngôn cũng vậy

Kính thuận thì dối trá

Bạn ác thì gian ác

Người trí thường biết rõ

Chỉ luận việc hơn thua

Gần ác không tình nghĩa

Nên mau xa lánh họ

Như tránh con đường hiểm.

Đó là Đức Phật viết cái bài kệ ngắn gọn, nhưng mà hai câu kết của bài kệ này:

Nên mau xa lánh họ

Như tránh con đường hiểm.

Tức là con đường hiểm nghèo đó.

Thì như vậy chúng ta biết cái lời khuyên của Đức Phật, chúng ta nên tránh những người bạn này để chúng ta được cuộc đời an ổn và yên vui, sống trong cái cuộc sống để thực hiện con đường đi của Đạo Phật.

Còn nếu chúng ta không tránh những người bạn này thì chúng ta khó mà thực hiện được con đường chân chánh của đạo.

4- BỐN HẠNG NGƯỜI ĐÁNG THÂN CẬN

4.1- TỔNG QUAN BỐN HẠNG NGƯỜI ĐÁNG THÂN CẬN

(41:36) Làm bạn có bốn hạng người đáng thân cận:

Nghĩa là chúng ta nên tìm những cái người nào mà làm bạn? Ở đây Phật dạy cho chúng ta thấy rõ: Nó có bốn hạng người mà chúng ta cần thân cận, sống với họ. Đó là bốn hạng người nào?

1. Hạng người thường ngăn mình làm điều quấy;

Cái người bạn nào mà nghe cái gì mình sai, mình quấy thì họ ngăn chận mình liền, thì cái người đó là cái người bạn tốt của mình đó.

Còn cái người nào mà nịnh - mình làm cái gì họ cũng nịnh theo đó, như hồi nãy ở trong này có nói đó, thì những người mà mình làm lành họ cũng xu theo mà mình làm ác họ cũng xu theo, họ không ngăn chận gì hết, thì đó là những người xấu chớ không phải là người tốt.

Còn cái hạng người mà mình làm một cái điều ác thì họ ngăn chặn, làm cái điều quấy thì họ ngăn chặn mình, làm cái điều lành thì họ khuyến khích mình, mà làm điều ác thì họ ngăn chặn mình liền, thì những người đó là những người bạn của mình, mình hãy thân cận với những người đó.

2. Hạng người có lòng thương xót;

Mình chơi với những người mà biết thương người, biết có đạo lý của con người, biết thương xót loài chúng sanh, biết sự đau khổ của loài chúng sanh thì chắc chắn là những người đó họ là những người tốt chớ không phải là người xấu.

Còn những người mà giết hại chúng sanh, những hạng đồ tể giết chúng sanh mà bán thịt thì chúng ta đừng nên chơi những hạng đó, nó có thể giết chúng ta mà không lường trước được.

Do những cái điều kiện này chúng ta chọn cái người mà gọi có tâm từ bi biết thương mình, thương người, không có đánh lộn, đánh lạo, không có chửi mắng rủa người thì tức là người biết thương xót.

Còn cái người mà không thương xót thì chửi mắng người này, chửi mắng người kia hoặc là đánh đập người này, đánh đập người kia, hoặc là đánh đập những loài thú vật làm cho chúng đau khổ, thì đó là chúng ta phải tránh xa những hạng đó, mà chúng ta hãy gần gũi những người có lòng từ bi biết thương người, biết thương chúng sanh.

3.

Là chơi với những:

Hạng người biết làm lợi cho người;

Còn những cái người mà làm lợi cho mình - ích kỷ thì mình không nên chơi.

Mà những người làm lợi người khác, luôn luôn lúc nào thấy người khác gặp khổ hoặc là gặp tai nạn thì người này luôn luôn làm cho cái người kia thoát ra khỏi tai nạn, đó là làm lợi người, làm cho người ta được an vui, làm cho người ta được hạnh phúc thì những người đó là những người bạn của mình, nên gần gũi.

4. Hạng người đồng sự.

Những cái người mà đồng những cái việc làm với mình, đó là những cái điều kiện mà chúng ta sẽ gần gũi với những người mà cùng nghề nghiệp, cùng làm, cùng cái ý, cùng cái tư tưởng…​, tất cả những cái người này là người bạn tốt của mình.

Kế đây thì Đức Phật cũng có giải thích cho chúng ta từng cái phần ở trong bốn cái hạng người tốt này.

4.2- HẠNG NGƯỜI NGĂN MÌNH LÀM VIỆC QUẤY

(44:13) Cái hạng mà ngăn mình làm cái việc quấy:

Cái hạng bạn tốt này luôn luôn họ thấy mình làm việc quấy mà họ ngăn mình, thì qua những cái việc làm của họ, mình thấy những cái người có hành động này thì mình nên chơi với họ.

Nó có bốn điều kiện mà mình chọn bạn để mình nhận xét qua cái người đó mà mình chơi với họ:

1. Nếu thấy người làm ác thì hay ngăn cản;

Thì thấy cái người nào mà - cái hành động thứ nhất, thấy cái người nào mà làm cái điều ác mà người đó ngăn chặn: "Anh đừng có làm vậy!"

Cũng như hai đứa trẻ đều là đi chơi với nhau. Một đứa thì xách cây dí con cắc ké hoặc là con rắn mối, đập, thì một thằng kia: "Mày đừng có giết con vật, tội nghiệp nó. Nó không làm hại mày!" Thì tức là cái thằng bạn đó là thằng bạn tốt, nó ngăn mình không có cho giết hại con vật.

Thì những hành động chơi trẻ con mà có cái thằng tốt, thằng xấu. Mà cái thằng tốt nó ngăn mình, còn cái thằng khác nó ùa với mình, nó chạy, nó dí theo, nó bắn hay hoặc là nó đập cho chết một con vật thì đó là những người bạn ác chớ không phải là người không ác.

Đây là Thầy nói những trẻ con còn nhỏ mà có những đứa nó rất tốt như vậy. Đó là những người tốt đó, chúng ta thấy hành động đó là chúng ta nên kết bạn với những người đó.

Cũng như thấy một cái người nào mà làm cái điều ác, đánh một con chó, thì lúc bây giờ cái người đó ngăn: "Anh đừng đánh con chó! Anh đánh vậy tội nghiệp nó! Nó lỡ, con vật mà, nó đâu có biết gì, nó lén nó ăn vụng vì nó đói quá. Anh đừng có đánh nó như vậy, anh hành hạ nó như vậy tội nghiệp!".

Thì cái người mà ngăn không có cho cái người khác mà làm cái điều ác, làm cái sự đau khổ cho chúng sanh đó, đó là mình nên chọn lấy người đó mình làm bạn, mình chơi.

Đó là một cái hành động để cho chúng ta thấy để mà chúng ta chọn bạn.

Hoặc là chúng ta làm một điều gì mà cái người đó, thí dụ bây giờ chúng ta vào trong cái quán uống rượu, thì cái người đó bảo: "Anh uống rượu nó say sưa, anh sẽ dần dần mất trí khôn, thân anh sẽ bệnh tật!" Người đó ngăn mình, đừng có cho mình uống rượu, thì đó là cái người bạn lành, người bạn tốt của mình.

Hoặc là một hôm nào đó, trong gia đình của mình xảy ra cái sự xích mích, vợ chồng rầy rà, mình tức giận mình muốn đánh vợ mình, thì ngay đó cái người bạn đến chơi nhà mình thấy như vậy thì cản ngăn: "Anh đừng đánh chị vì chị cũng không phải là muốn như vậy đâu! Đó là cái sự kiện xảy ra như thế này, thế khác…​", khuyên lơn cái người bạn của mình đừng có làm cái điều đó, thì đó là những cái người mà mình nên chơi.

Còn có nhiều người bạn, khi mà thấy bạn mình đánh vợ thì lại xúi thêm nữa: "Ờ, chị đó chị làm vậy đó, chị cặp với người này người kia đó, anh đánh cho đã, anh đánh cho chừa cái tật đó đi!" - thì cái người đó là cái người xấu, mình nên tránh, vì họ xúi giục như vậy để làm cho gia đình mình càng ngày càng tan nát.

Đó là, ở đây cái hành động mà ngăn những cái điều ác, những cái điều làm cho người khác đau khổ, thì những người mà ngăn như vậy đó là những người tốt của mình.

2. Chỉ bày cho người những điều ngay thẳng;

(47:48) Nghĩa là cái người mà thường hay chỉ cho mình những cái điều tốt: Phải làm như vậy, như vậy…​

Đó cũng như bây giờ, Phật dạy cho chúng ta là phải làm như vậy, như vậy, đây là những cái điều ác: Sát sanh là điều ác; trộm cắp là điều ác; tham, sân, si là điều ác…​ Do đó những người mà chỉ cho chúng ta những cái điều tốt, những cái điều mà không ác thì đó là những cái người mà chúng ta cần chơi.

3. Có lòng thương;

Cái người bạn mà có lòng thương xót chúng sanh cũng như thương người, thì đó là những người mà mình cần chơi.

4. Chỉ bày cho con đường lớn.

Nghĩa là chỉ cho mình, cái con người mà có cái tâm rộng lớn, có đạo đức, bây giờ chỉ cho mình cách thức mình bố thí, mình cúng dường hoặc là mình làm những cái việc từ thiện, thì những cái người đó họ chỉ con đường phước thiện, đó là chỉ con đường lớn cho chính mình.

Theo Đạo Phật thì quý thầy thấy rất rõ là Ngài chỉ chúng ta từng chút để chúng ta chọn bạn tốt chớ không có nên chọn bạn xấu, do từng chút như vậy, Thầy thấy Đức Phật dạy rất kỹ lưỡng cho cuộc sống của chúng ta. Như vậy, chúng ta hãy cố gắng mà nhớ kỹ những cái điều này để mà chúng ta chọn lấy những người bạn tốt.

Nhiều khi người ta nói hoa mỹ - như mỹ ngôn người ta nói hoa mỹ - mình không ngờ là người đó tốt hay xấu. Nhưng mà khi mà sống gần rồi mình mới thấy người đó có những cái mà không lọt vào những điều mà Phật đã ghi ở trong này, đã dạy ở trong này.

Để chúng ta thấy được người tốt, người xấu ở trong cái xã hội vô cùng lộn xộn như thế này, cho nên những cái điều mà Phật dạy đây, chúng ta xét qua chúng ta biết được người tốt người xấu chớ không khéo chúng ta lầm lạc lắm.

Những hạng người này cứu giúp và làm lợi ích lớn cho chúng ta, cho chúng sanh.

Thì những cái người mà - bốn cái hạng người - bốn cái hành động này để chỉ cho chúng ta biết rằng, bốn cái hạng người tốt mà để chúng ta làm thân với họ, thì luôn luôn lúc nào chúng ta chơi với họ chúng ta cũng sẽ làm lợi ích cho xã hội, cho chính bản thân mình, cho lợi những người khác nữa.

Đó thì, chúng ta nên kết bạn với những người đó.

4.3- HẠNG NGƯỜI TỪ MẪN

(50:02) Kế nữa, Đức Phật dạy chúng ta kết bạn với những người từ mẫn.

Những người từ mẫn đó có bốn việc:

Từ mẫn tức là lòng thương xót người đó. Nó có bốn việc, có bốn cái hành động mà chúng ta thấy được bốn cái hành động này:

1. Cái người bạn đó thấy:

Mừng cho người khác được làm lợi.

Thí dụ như bây giờ mình trúng số, thì cái người đó họ không phải để làm vẻ vui mừng để mà xin tiền mình đâu, mà cái người này mừng thật. Thấy anh này đang nghèo khổ mà bây giờ may mắn anh mua cái vé số mà anh trúng được thì gia đình ảnh đỡ biết bao nhiêu!

Cho nên, mình mừng là mừng thấy người ta được lợi. Đó là những người bạn tốt.

Hoặc là thấy cái người này làm ăn hôm nay nó khá giả được, mình đến mình thăm thấy nhà cửa anh này khá lên, mình mừng cho anh ta. Thì đó là thấy người ta được lợi mình mừng.

Nhiều khi ngoài mặt mình làm vẻ mừng, nhưng trong bụng thì mình ganh tỵ: "Cái anh này anh làm giàu hơn mình rồi, anh hơn mình rồi, như vậy thì mình thua anh ta quá!" Thì ngoài mặt thì mình làm mừng nhưng mà trong bụng thì chưa chắc đã là mình mừng thật. Đó là cái điều của người xấu.

Còn cái người này mừng thật, không có lòng ganh tỵ, mà không có vì cái lợi - thấy người khác được lợi mà vì nịnh bợ mừng để rồi tìm cái lợi đó cho mình, kêu là chôm chỉa một ít nào đó đối với cái lợi của người khác - thì cái đó là cũng là bạn xấu. Còn cái này mừng thật là khi thấy người khác được lợi, vui mừng cho người khác được lợi.

2. Buồn khi thấy người gặp nạn;

Khi cái người bạn - mình chọn cái người bạn tốt đó - thì cái người này khi thấy cái người bạn, hoặc mình bị nạn, thì cái người này họ buồn khổ như chính bản thân họ bị nạn, cũng như chính những người thân ở trong gia đình của mình vậy. Đó là những người bạn tốt mà mình nên thân cận và gần gũi họ.

3. Khen ngợi đức của người khác;

Nghĩa là thường thường mình khen ngợi, mình ca ngợi với những người khác là người đó có cái hạnh bố thí, hoặc là người đó bố thí hết tài sản của mình, bây giờ đi tu, hoàn toàn không còn cái tài sản gì cả hết, người này thiệt là giữ đúng cái hạnh buông xả mà Phật đã dạy; người này đáng được ca ngợi, đáng được khen vì họ dám xả của cải, tài sản của họ!

Ví dụ như Thầy nói ở đây, trong mọi người cư sĩ không có người nào mà dứt bỏ gia đình mình được như bằng Minh Tông: khi mẹ đang đau, rồi khi con còn nhỏ, còn đi học, mà dứt bỏ để đi theo con đường tu của Đạo Phật. Thật khó có người ở trên thế gian này làm được, vì vậy cho nên chúng ta khen ngợi.

Cũng như ngày xưa Đức Phật dứt bỏ vợ đẹp, con xinh, của cải, tài sản của mình, ngai vàng, của báu…​ mà vẫn dứt bỏ để mặc chiếc áo tu hành rất là nghèo khổ, đi xin ăn từng bữa.

Những việc mà làm được như vậy không phải là chuyện dễ của thế gian này. Những người mà dứt bỏ gia đình được mà để yên ổn ngồi trong thất tu hành cũng không phải là mọi người đều được làm như Minh Tông hết được.

Cho nên đó là những cái mà chúng ta khen ngợi, khen ngợi rất đúng chớ không phải khen ngợi sai, không phải là khen ngợi nịnh bợ, mà khen ngợi là việc làm của người đó không thể có người khác làm được, cho nên mình mới khen ngợi. Đó là khen ngợi đức của người khác, người ta làm được những điều đó.

(53:12) Còn trái lại, khi mình làm không được mà thấy người ta làm được thì mình lại ganh ghét, mình lại dìm pha bằng cách này: "Mẹ đau mà bỏ đi như thế này thế khác…​ là người bất hiếu".

Như vậy thật sự ra, trong những cái người lý luận như vậy không thấy cái chỗ giải thoát là quan trọng. Nếu phỏng chừng mẹ mình đau ở nhà, bà có chết mình cứu được không? Hay hoặc là mình có đau thế được không? Hay cũng đứng nhìn ngó mà thôi?

Hơn nữa mình đi tu được, biết đâu chừng, sau khi giải thoát được, mình đi tìm mẹ mình sanh nơi đâu đó để độ người, để đền đáp trong một hiện kiếp người đã bố thí thân mạng cho chúng ta có thân này, có phải là có lợi ích không?

Còn bây giờ chúng ta cứ ôm cái gọi là “cái hiếu" mà cái hiếu giả dối đó nó có phỏng chúng ta có làm được cái điều gì chăng? Có lợi ích gì cho bà ta chăng? Hay chỉ đứng nhìn trước cái cơn đau của mẹ mình trên giường? Đó là những cái mà chúng ta khó mà làm được chớ không phải dễ.

4- Thấy người nói ác thì liền ngăn can.

Thấy người ta nói cái lời đó nó thô tục thì ngăn: "Anh đừng nói tục tĩu như vậy! Anh đừng nói hung ác như vậy! Anh đừng chửi mắng như vậy!", ngăn liền, không ngại người đó oán ghét mình thì đó là những người ngăn những cái lời nói ác của mình, thì mình hãy thân cận với những người này.

Đó là Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy được, cho chúng ta biết chọn những người bạn có những hành động tốt như vậy.

Còn ngược lại mà chúng ta lại dìm pha - khi thấy người có những cái đức hạnh tốt, có những cái gương hạnh tốt thì mình tìm cách mình dìm pha người đó xuống để làm cho người khác người ta không hiểu, người ta chê cười, người ta khinh bỉ cái người mà đang thực hiện những cái đức hạnh tốt.

Vì vậy mà khi học đạo chúng ta phải học rất kỹ những cái điều này để chúng ta biết rõ mà chúng ta tránh, chúng ta không có còn lầm lạc trên những cái hành động ác, trên cái trở thành những người bạn ác của những người xung quanh chúng ta.

4.4- HẠNG NGƯỜI ÍCH LỢI

(55:39) Hạng người ích lợi có bốn việc:

1. Hộ vệ người không phóng dật;

Nghĩa là giúp đỡ cho cái người mà không phóng dật.

Chẳng hạn bây giờ như chúng ta vô trong Tu viện này tu hành, tâm giữ gìn không phóng dật, thì lúc bấy giờ những người cư sĩ ở bên ngoài, những người bên ngoài đem cơm gạo hay tiền bạc giúp chúng ta để tu hành, đó là người hộ vệ làm cho chúng ta tu hành, đó là những người bạn tốt đó.

2. Hộ vệ sự phóng dật của người khác để khỏi hao tài;

Khi cái người đó phóng dật, chạy theo ngũ dục lạc thì lúc bấy giờ nó sẽ hao tài, tốn của, thì lúc bấy giờ cái người bạn tốt thì luôn luôn bảo vệ, hộ vệ trong cái sự khuyên lơn cái người đó, để cho cái người đó đừng có chạy theo cái sự phóng dật đó mà hao tài, tốn của.

Thí dụ cái người đó họ mê uống rượu, thì cái người này hộ vệ sự cái phóng dật của cái người mê uống rượu này bằng cách khuyên lơn họ: "Đừng nên uống rượu! Đừng nên làm cái điều ác! Đừng nên nói láo!" - thì đó là những người hộ vệ cái sự phóng dật của kẻ khác, làm cho người khác không phóng dật.

Đó là cái sự hộ vệ, như vậy là những người đó là những người tốt.

3. Hộ vệ người khiến không sợ hãi;

Nghĩa là có cái người sợ hãi, như bây giờ có một em bé đi ngang đường mà xe cộ chạy qua, nó sợ nó không dám đi, thì mình đi lại nắm tay cháu bé này dẫn qua đường làm cho nó không sợ hãi. Nó thấy một con rắn nó sợ quá nó la, thì khi đó chúng ta đến an ủi nó và chúng ta đuổi con rắn đi để cho nó không sợ hãi.

Đó là những điều hộ mà chúng ta vệ khiến cho những người không sợ hãi, thì những người đó là người bạn tốt của chúng ta.

Đó là như vậy thì chúng ta sẽ chọn lấy những người mà có những cái điều kiện làm cho kẻ khác yên tâm mà không sợ hãi, thì chúng ta chọn lấy những người đó làm những người bạn của mình.

4. Cân nhắc người lúc ở chỗ vắng.

Nghĩa là khi nào ở chỗ vắng mình cân nhắc: Hoặc là chỗ đó sợ trộm cướp; hoặc là chỗ đó sẽ bị nghi ngờ thế này, thế khác; hoặc người ta nghi mình ở chỗ vắng này để làm cái gì - trộm cướp, hay hoặc là làm chính trị, hoặc này kia…​ cho nên mình cân nhắc cái người bạn của mình.

Mà cái người đó thường nhắc: "Anh đừng có đến đó, đến đó chỗ đó nó thanh vắng thì có thể xảy ra tai nạn này kia” - sợ cho cái người bạn của mình bằng cách này, cách khác thì đó là cái người bạn tốt.

Cho nên cái người mà cân nhắc mình: "Bây giờ anh đi trên con đường đó nó rất nguy hiểm, anh không nên đi ở chỗ đó, mà anh đi nó phải mấy người chứ anh đừng có đi một mình!" - đó là những người cân nhắc đi ngang những chỗ vắng vẻ: truông vắng vẻ, núi rừng vắng vẻ…​ mà lúc bấy giờ, những người cân nhắc mình như vậy, lo lắng cho mình như vậy, đó là những người bạn tốt mà mình chọn lấy để mình kết bạn với họ.

4.5- HẠNG NGƯỜI ĐỒNG SỰ

(58:38) Hạng đồng sự có bốn việc:

1. Vì người không tiếc thân mạng;

Nghĩa là khi gặp cái việc gì mà có thể liều chết mà cứu bạn mình được, thì cái người đó là người tốt.

Khi mà gặp tai nạn - thí dụ như bây giờ, hai người đi ở trong rừng, thì lúc bấy giờ đó có một con hổ chạy ra để chực mà có thể chụp người bạn mình, thì cái người này họ tiến tới, xông lên trước để họ chịu đựng, liều thân mạng để cứu bạn mình, thì lúc bấy giờ, những người bạn đó là những người tốt đó, chúng ta hãy chọn lấy những người bạn đó mà chúng ta chơi với họ.

Khi mà gặp hữu sự, gặp tai nạn thì họ liều mình mà cứu mình, họ không để cho mình bị tai nạn, bị hữu sự.

Cũng như trong cái thời gian chiến tranh bom đạn, khi bom đạn nổ, có người họ nằm trên người thân của họ, họ lấy cái thân họ để che đạn cho người thân của họ. Đó là những người tốt. Cho nên, chúng ta hãy chọn lấy những người đó mà chúng ta làm bạn.

2. Vì người không tiếc của báu;

Nghĩa là thấy cái người dó bị hoạn nạn mà cần phải có của cải, tài sản để cứu cái nạn người đó thì tuôn ra hết để mà giúp đỡ cái người kia thoát nạn, thì cái người đó là cái người bạn tốt của chúng ta.

3. Giúp người khỏi sự sợ hãi;

Nghĩa là người đó đang lo sợ, thí dụ như bây giờ, trong gia đình thì không còn tiền bạc, mà vợ thì sắp sanh, người này quá lo sợ, không biết rồi như thế nào, tiền thang thuốc như thế này, thế nọ, kia, thì cái người mà biết được cái hoàn cảnh của cái người bạn của mình vậy, họ sẵn sàng họ giúp người: "Đừng có lắng gì! Anh đừng lo lắng gì hết! Tui sẽ lo lắng hết cho anh những phần này để cho gia đình anh được yên vui!" - thì đó là những người tốt.

Còn những người mà thấy mình gặp những cái sợ, lo lắng như vậy, mình bỏ qua, mình không có giúp đỡ thì đó là những người bạn xấu, chúng ta không nên chơi.

4. Khuyên bảo người khi ở chỗ vắng.

(1:00:48) Cái phần này, trên cái người đồng sự có bốn hành động, thì ở trên cái người ích lợi có sự “cân nhắc ở lúc chỗ vắng", thì đồng sự thì nó cũng có cái chỗ "khuyên ở chỗ vắng".

Bởi vì theo Thầy thiết nghĩ, cái chỗ vắng nó thường hay nguy hiểm vô cùng lận. Cho nên do như vậy mà muốn bảo vệ cái người bạn của mình thì mình nên tránh xa những cái chỗ vắng vẻ. Và tránh xa cái chỗ vắng vẻ thì nó bảo vệ được cái sự sống của cái người bạn mình, và cái người khuyên bảo như vậy đó là người bạn tốt của mình.

Còn cái người bạn mà không tốt thì mình làm gì làm họ chẳng có khuyên bảo. Mình đến cái chỗ nguy hiểm, chỗ vắng vẻ thì họ chẳng có khuyên bảo mình điều gì, xảy ra thì mình chịu. Đó là những người bạn xấu.

Đó thì ở đây, khi mà chọn bạn thì quý vị thấy rõ là Đức Phật đã vạch ra chúng ta thấy được những cái hành động của những người tốt và người xấu để mà chúng ta chọn, để mà chúng ta sống ở trong cuộc đời, để cho đem lại cái sự an vui, hạnh phúc của chính mình mà chính người khác.

Nhiều khi chúng ta không thấy được những cái hành động này rồi chúng ta chọn lầm bạn, rồi từ đó nhiều khi nó đem đến chúng ta rất là đau khổ vì những cái, thí dụ như vì miệng lưỡi thôi, họ nói qua, nói lại cũng đủ làm cho mình đau khổ chớ không phải là gì khác.

Cho nên ở đây, Phật dạy cho chúng ta biết để mà chúng ta cố chọn bạn tốt mà tránh bạn xấu, để cuộc đời chúng ta được yên vui, hạnh phúc, chớ nếu mà lỡ mà có bạn xấu thì chúng ta phải chịu lấy mà thôi chớ làm sao được? Lỡ mà chúng ta chọn được bạn tốt thì chúng ta được an ổn trong cuộc sống của mình.

Cho nên từ đó chúng ta phải cố gắng và suy tư tìm người bạn cho thật tốt trên bước đường tu tập, nó làm cho tâm chúng ta được an ổn mà yên ổn tu hành. Còn nếu mà gặp những người bạn xấu, chúng ta không yên tâm ngồi lại nhiếp tâm, thì bao nhiêu cái điều kiện nó làm cho tâm chúng ta dày vò trong tâm hồn, làm sao mà chúng ta tu được! Rất là khó tu!

Như vậy thì các Thầy nhớ kỹ, trên con đường tu nó không đơn giản. Tâm mà nó bất an, hoàn cảnh nó đưa đến bất an mà chúng ta không khắc phục được nó vì những người bạn xấu, vì những cái hoàn cảnh xấu đưa đến thì chúng ta sẽ khó mà tiến tu trên con đường đạo giải thoát này được.

Vì vậy, chúng ta phải cố gắng mà tìm đúng đối tượng, tìm đúng bạn, tìm đúng môi trường thuận tiện trên bước đường tu tập thì đạo Phật mới có thể thực hiện được.

5- SÁU PHƯƠNG TRONG CUỘC ĐỜI NGƯỜI CƯ SĨ

(01:03:19) Người cư sĩ nên biết rõ sáu phương:

Nghĩa là nếu mà không dạy cái này thì chúng ta thấy Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới thì không biết nó là thuộc về cái gì, cái gì. Cho nên chúng ta phải rõ để mà chúng ta đối xử như thế nào để cho đúng cách với cái phương hướng của nó.

1. Phương Đông tượng trưng cho cha mẹ;

Đó là, cái phương Đông nói lên đó là cha, mẹ - người sanh chúng ta - là phương Đông.

2. Phương Nam tượng trưng cho sư trưởng;

Phương Nam tượng trưng cho thầy của mình.

3. Phương Tây tượng trưng cho thê thiếp;

Tức là vợ con của mình.

4. Phương Bắc tượng trưng cho bè bạn;

Phương Bắc thì tượng trưng cho những người bạn của mình. Do vì vậy mà mình phải chọn ở cái phương Bắc, tức là chọn những người bạn tốt là thuộc về phương Bắc.

5. Phương Dưới tượng trưng cho tôi tớ;

Những người mà làm công, những người mà mình sai làm việc trong nhà của mình.

6. Phương Trên tượng trưng cho những người hiền đức.

Nghĩa là phương trên tượng trưng cho - trong cuộc đời chúng ta có những bậc tu hành, những bậc chân tu, những người hiền đức đó - những người đức hạnh, thì đó là cái phương trên.

Cho nên ở đây sáu phương, chúng ta phải nhận ra cho đúng sáu cái phương này.

Vậy mỗi cái phương thì chúng ta phải làm sao cho đúng? Thì ở đây Phật dạy chúng ta biết cách để chúng ta thực hiện cho đúng là cái giai đoạn của người cư sĩ phải hiểu biết, và hiểu biết để mà tu tập, hiểu biết để đem lại cái sự an vui, hạnh phúc cho chính gia đình mình, cho chính bản thân mình.

6- PHƯƠNG ĐÔNG - ĐẠO ĐỨC CON CÁI VÀ BỐ MẸ

6.1- CON ĐỐI VỚI BỐ MẸ

(01:05:04) Người con hiếu có năm điều kính thuận cha mẹ:

Đây là nói về phương Đông.

Đó thì phương Đông nó có năm điều mà chúng ta cần phải nhớ để ghi, để mà chúng ta làm cho tròn bổn phận của một người con hiếu.

1. Cung phụng, hiếu dưỡng cha mẹ không để thiếu thốn;

Nghĩa là khi cha mẹ mình còn sống thì thà là mình nhịn ăn, nhịn mặc để cho mình cung phụng những cái gì mà cha mẹ mình cần thiết như thực phẩm, đồ ăn, hoặc là y áo, hoặc là những cần thiết gì mà cha mẹ mình dùng, thì mình cố gắng mà cung phụng những cái điều kiện (cho) cha mẹ. Nhất là cha mẹ già yếu thì mình càng cung phụng đầy đủ để cha mẹ mình yên tâm, không còn lo nghèo, lo đói, lo sợ bệnh tật hay hoặc là không thuốc thang.

Đó là cái thứ nhất của cái người con đối với cha mẹ.

2. Phàm làm điều gì, trước phải thưa cho cha mẹ biết;

Khi mà mình còn cha mẹ đó, mình làm một cái điều gì thì mình cũng phải thưa với cha mẹ để cho cha mẹ biết, để người không có lo. Biết rồi - người đã là lớn tuổi, đã đi qua trong cuộc đời - người có những lời khuyên, thì mình nghe cái lời khuyên đó đúng hay sai, rồi mình cố gắng mà mình chấp hành những cái lời khuyên của cha mẹ mình.

Chớ không phải là mình nói mình lớn rồi, mình muốn làm gì làm, ông bà chẳng biết gì hết! Ông bà là nông dân không có hiểu gì hết, già rồi đâu có hiểu biết cái gì mà thưa hỏi! Thì khi mình làm có hữu sự cái gì cha mẹ mình lo lắng, khổ sở lắm.

Cho nên, mình phải thưa hỏi, làm cho cha mẹ biết được mà yên tâm trên cái việc làm của mình.

Đó là thứ hai. Thứ ba:

3. Cha mẹ làm điều gì mình phải kính thuận, không được chống báng, không được chống lại;

(01:06:55) Thí dụ như trong phòng cha mẹ mình muốn dời cái bàn này, hay hoặc trong nhà muốn đặt cái ghế kia theo cái ý của ông bà, thì ông bà thích như vậy mà cái ý mình thì không thích như vậy, nhưng mình là cái người con hiếu thì không nên chống lại: "Ba hay má đừng có đặt cái này chỗ này, nó như thế này, thế khác…​" làm cho ông bà không vui, thì cái đó là mình không phải là đứa con kính thuận, mà mình kính thuận là mình không chống lại những cái việc làm của cha mẹ mình.

Mình chỉ góp ý với ông bà mà thôi chứ không nên chống trái. Tùy theo ông bà muốn làm gì thì làm, nhưng mình góp ý: "À cái này, con thấy như ba má định làm cái này, con sợ e nó thất bại. Ba má xét kỹ lại chớ con không có ý gì chống báng ba má hết!"

Đó là những cái điều mình kính thuận, mình không có nghịch lại cái ý của cha mẹ.

4. Không trái với việc làm của cha mẹ;

Nghĩa là mình không làm một cái điều gì trái với, phạm, đụng chạm đến cái việc làm của cha mẹ mình hết.

Thí dụ như ông cuốc đất làm vườn, cái khu vườn gì đó, thì mình lại làm trái lại, mình không muốn như vậy, mình làm trái ý ông ta - cha mẹ mình, thì mình không nên làm cái điều đó làm cho cha mẹ mình buồn phiền trong lòng.

5. Không ngăn cản việc lành của cha mẹ.

Cha mẹ mà làm việc lành, thí dụ như cha mẹ nói: "Bữa nay tao đi chùa, tao lạy Phật" thì đừng có ngăn cản. Hoặc là: "Hôm nay tao đi nghe thuyết pháp" thì đừng ngăn cản. Hoặc là: "Hôm nay tao đi mua ít cá tao phóng sanh" thì đừng ngăn cản. "Hôm nay là cái ngày ăn chay, tao mua ít thực phẩm chay tao về ăn" thì cái đó đừng ngăn cản.

Nhiều khi: "Cha mẹ bây giờ già yếu rồi mà ăn chay, ăn chay thì chắc chắn là cha mẹ không có đủ sức khỏe đâu, phải ăn thịt cá nó mới bồi dưỡng!” - thì như vậy là mình thương cha mẹ chớ không phải không thương, nhưng mà cái thương như vậy, mình biết đó là cái việc lành mà mình ngăn cản như vậy thì không đúng.

Để cho cha mẹ mình giữ gìn được một ngày chay không có phạm vào cái lỗi ăn thịt chúng sanh thì đó là một cái điều tốt.

Do vì vậy thì chúng ta phải học lấy năm cái điều hiếu hạnh này mà đối với cha mẹ của mình thì như vậy mới là đứa con hiếu.

Đó thì hôm nay quý thầy được học qua một cái lời dạy của Phật: Có năm cái điều hiếu hạnh mà chúng ta giữ gìn đúng thì tức là nó sẽ đem đến cái an vui, hạnh phúc cho cha mẹ và cũng chính bản thân của mình, làm cho con thì hiếu thảo, cha mẹ thì rất là nồng nàn thương con, con mình rất là hiếu.

6.2- BỐ MẸ ĐỐI VỚI CON CÁI

(01:09:16) Ngược lại, cha mẹ, con thì có năm cái điều đối với cha mẹ như vậy thì ngược lại, cha mẹ cũng phải có bốn cái điều mà đối xử với con mình.

Cho nên Phật dạy rất kỹ: Người con đối với cha mẹ thì có năm điều, mà cha mẹ chăm sóc con thì có bốn điều. Đó, như vậy rõ ràng là Phật dạy rất là kỹ, không phải là nói cha mẹ mình như vậy, rồi năm điều mình rất là cung kính, mình như vậy là hiếu mà cha mẹ lại không có bổn phận của cha mẹ đối với đứa con thì đó cũng là cái sai.

Cho nên cha mẹ phải có bổn phận chăm sóc đứa con mình như thế nào? Thì Phật ở đây nói có bốn điều, mà làm cha mẹ phải thực hiện bốn cái điều này thì làm tròn cái bổn phận của cha mẹ đối với con.

Vậy bốn điều đó là gì?

1. Ngăn con, không cho nghe và làm điều ác;

Nghĩa là ngăn cản con mình đừng có làm cái điều ác.

Thì như chúng đã học Thập Thiện rồi thì chúng ta biết mười cái điều ác và mười cái điều lành. Vậy thì, nếu mà con mình làm những cái điều lành trong mười cái điều lành thì mình chấp nhận, mình luôn luôn sung sướng. Mà con mình nó làm những điều ác, mười cái điều ác thì mình ngăn chận liền, không có cho con nó làm cái điều ác.

Tức là, bổn phận làm cha, làm mẹ thì phải ngăn con mình không được làm cái điều ác, không được nghe theo những cái điều ác.

Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai:

2. Chỉ dạy con làm điều lành;

Thương yêu, chỉ dạy con làm điều lành - nghĩa là ngăn nó, không có cho nó làm mười điều ác, dạy nó phải làm mười cái điều lành. Thì mười điều ác, mười điều lành đã là chúng ta đã học Thập Thiện đó.

Cho nên do vì vậy đó, cha mẹ cũng phải thông suốt được mười điều lành, mười điều ác này để chỉ dạy, để làm hết cái bổn phận của mình đối với con mình đó.

3. Phải thương yêu con thắm thiết;

(01:11:06) Đứa con nào cũng phải thương hết chớ không phải đứa thương, đứa ghét. Đứa nào mình cũng phải thương, thương thắm thiết, dạy nó những điều lành, ngăn chận nó những điều ác. Nó làm ăn những cái gì thì mình có phần góp ý thêm với nó, coi cái làm ăn đó có ác hay là không.

Nếu mà nó đi ăn trộm, ăn cắp thì tức là phải ngăn cản những cái hành nghề đó. Nó đi làm nghề đồ tể, nghề bắt cá, săn bắn thì tức là mình cũng phải ngăn chặn không có cho nó làm những cái nghề đó vì đó là những cái nghề ác.

Và đó là những cái nỗi lòng của cha mẹ thương con thắm thiết, chớ không phải là những cái thắm thiết thương con bằng cách ngồi ngó mong ra ngoài chờ con đi về đó, không phải đâu. Mà thương con thắm thiết bằng cách là thấy con mình làm được những điều lành, làm tránh những điều ác thì đó là cái lòng thắm thiết của mình đối với con mình.

4. Tùy thời cung cấp cho con mình những đồ cần dùng.

Thí dụ như nó còn học trò thì nó phải - tùy những cái lúc nó còn đi học thì mình phải cung cấp giấy mực hay hoặc là những thực phẩm đồ ăn gì đó để cho nó ăn, nó học, cho nó đạt được cái sở nguyện, cho nó nên được cái nghề nghiệp chuyên môn, để cho cái cuộc sống nó không có thua ai, nó đem lại cái sự an vui, hạnh phúc cho gia đình.

Thì làm cha mẹ phải cung cấp cho con mình những đồ đạc cần dùng; cần dùng khi đi học; rồi nó cần dùng khi mà nó lớn khôn thì nó cần dùng những cái gì thì mình giúp đỡ nó, khi cha mẹ giàu có thì mình còn có cái điều này, có điều kia; thí dụ như bây giờ nó học đỗ ra bác sĩ, mà bây giờ nó đâu có tiền mà nó mở cái phòng mạch, cho nên mình cung cấp tiền bạc cho nó mở cái phòng mạch để cho nó có cái cơ sở nó làm ăn.

Thì như vậy là tùy thời. Tùy thời cái lúc bấy giờ nó hành cái nghề đó mà nó không có tiền bạc nó bỏ ra cái vốn nó làm ăn, cho nên vì vậy mình giúp cho nó cái tiền bạc, vốn liếng để cung cấp cho nó, để cho nó có cái nghề nghiệp.

Chẳng hạn bây giờ mình có những đứa con làm ruộng rẫy, mà giờ không có ruộng rẫy thì làm sao mà nó làm được? Cho nên mình phải mua đất ruộng để cho nó có những cái ruộng rẫy.

Hoặc bây giờ nó có ruộng rẫy mà nó không có phương tiện như máy cày, máy kéo hoặc là máy gặt, máy hái, thì mình giàu có - mình là cha mẹ giàu có mình phải bỏ tiền mình giúp cho con mình nó có đủ phương tiện làm ăn như vậy, tức là những đồ cần dùng, cần thiết cho cái đời sống của nó.

Đó là bốn điều mà cha mẹ chăm sóc con cái.

7- PHƯƠNG NAM - ĐẠO ĐỨC THẦY TRÒ

7.1- HỌC TRÒ ĐỐI VỚI THẦY

(01:13:53) Bây giờ nói về cái phương Nam là sư trưởng, vậy thì sư trưởng là cái bậc thầy.

Vị đệ tử đối với thầy có bốn điều:

Cái người học trò đối với thầy có bốn điều. Chúng ta phải nhớ rằng mình đối với thầy phải có bốn cái điều mới xứng đáng là người học trò.

1. Hầu hạ thầy, cung cấp điều cần thiết cho thầy;

Bây giờ mình luôn luôn mình gần thầy, mình hầu hạ thầy, và mình thấy thầy cần cái gì đó thì mình cung cấp cho thầy những vật cái dụng.

Như bây giờ Thầy đặt vấn đề Thầy thiếu cuốn tập để viết, thì cái người học trò các con sẽ mua cho Thầy cái cuốn tập hay cuốn sổ này để Thầy viết những cái kinh hay hoặc là những cái bài kệ. Đó là Thầy không có cây viết, thì bây giờ mình lại mua một cây viết cho Thầy để Thầy viết.

Đó! Bởi vì cái người tu theo đạo Phật thì ông thầy chẳng có một cái vật gì hết, mà khi cần dùng một cái vật gì thì mình là người hầu hạ - người đệ tử, thì mình cung cấp ngay cho ông thầy của mình những vật dụng đó, rồi sau khi ông thầy ổng dùng xong thì ổng cũng xả bỏ ổng cũng không có nhận cái gì hết.

Cho nên liền ngay đó. bây giờ thấy y áo ông thầy mình rách hết rồi thì bắt đầu mình cung cấp y áo cho thầy để cho thầy mặc lành lẽ. Hay hoặc là thấy y áo thầy rách thì mình cần phải vá đắp trở lại cho được kín đáo. Thì đó là những người học trò hầu hạ thầy bằng cách như vậy.

Chớ không phải hầu hạ là đứng hầu hạ quạt hay hoặc này kia, điều đó là hình thức phong kiến, không đúng.

Hầu hạ có nghĩa là mình giúp đỡ thầy mình, thí dụ như thầy bệnh đau không có giặt y áo được thì mình đem y áo dơ của thầy mình giặt, đó là mình hầu hạ thầy. Cái hành động của mình làm công việc giúp thầy là hầu hạ.

Chớ không phải mình đứng gần thầy mà quạt thầy, hay hoặc là bưng nước hay bưng này kia trong khi thầy mạnh khỏe thì cái đó không phải là hầu hạ thầy, mà cái đó là nịnh bợ thầy.

Cái hầu hạ mà theo Thầy hiểu ở đây là cái hầu hạ giúp thầy những cái điều cần thiết khi thầy làm cái điều đó không được. Còn thầy làm được thì mình cứ để thầy tự nhiên mà thầy làm những công việc đó. Còn thầy không làm được thì mình làm giúp thầy, đó là cái sự hầu hạ.

Hiểu như vậy chúng ta mới thấy được cái tinh thần bình đẳng của đạo Phật. Giúp người, hầu hạ người không có nghĩa là hầu hạ theo kiểu vua quan, mà hầu hạ đây là hầu hạ cái nghĩa của sự giúp đỡ của mình đối với cái bậc thầy mà mình rất là tôn kính.

2. Cung kính, cúng dường, tôn trọng và quý mến;

(01:16:35) Luôn luôn lúc nào lòng của mình cũng cung kính thầy, luôn luôn lúc nào mình cũng có những cái vật gì mà khi thầy cần thiết thì mình cúng dường, luôn luôn lúc nào mình cũng có lòng tôn trọng thầy và quý mến thầy.

Đó là cái người đệ tử đối với thầy.

3. Thầy dạy bảo điều gì phải kính thuận, không chống trái;

Nghĩa là thầy dạy cái điều đó, mình cố gắng mình làm theo cái lời thầy dạy, chớ không nói: "Thầy dạy cái đó không đúng, thầy dạy cái đó sai!", mình chống lại bằng cách là mình biện luận cái này, cái nọ, cái kia để mình bác thầy. Điều đó là mình không phải là người kính trọng thầy, không phải quý mến thầy.

Nhiều khi mình còn đem cái sở học hơn thầy, mình lý luận, mình bài bác thầy, mình chê bai thầy bằng cách này, bằng cách khác; không những chê bai trước mặt mà còn lén lút nói chê bai thầy sau lưng thầy với người này, người nọ kia, thì đó là cái không kính thuận, không tôn trọng thầy.

Dù một ngày mình đến với thầy thì thầy cũng là thầy của mình. Dù một chữ mình học với thầy cũng là thầy của mình.

Thầy nhớ xưa Thầy còn học lớp một, lớp hai gì đó, thì có một cái câu chuyện. Người ta thuật cái câu chuyện đó ở bên Pháp, nói ông Cạc-nô, là khi ổng còn nhỏ ông học với một ông thầy lớp một của ông ta. Khi đó sau này ông học rồi ông đi ra ông làm quan.

Khi ông trở về ông thăm thầy thì ông thầy đã tóc bạc. Ông đến ông nắm tay thầy, ông nhắc lại ông thầy: “Thầy có nhớ em không? Em là Cạc-nô đây! Em rất là,luôn luôn lúc nào em cũng nhớ thầy!”

Đó là cái sự kính trọng, dù ông ta làm quan, ông vẫn không có xem thường ông thầy lớp một của mình. Dù ông đã đỗ bằng tiến sĩ, bằng thạc sĩ như thế nào thì ông vẫn kính trọng ông thầy lớp một.

Còn học trò đời nay thì khi mà họ học cao rồi, họ đỗ tiến sĩ thì họ chẳng xem cái ông thầy hay là cô giáo dạy mình ở trong lớp một mới ráp chữ A, B; họ coi thường thầy mình học dở chưa bằng mình, cho nên họ khi dễ thầy, vì vậy mà thiếu cái lòng cung kính, tôn trọng là ở chỗ đó.

(01:18:50) Nhờ có ông thầy đầu tiên sửa miệng, sửa môi của mình; nhờ ông thầy đầu tiên mới nắm tay mình mà viết từng chữ, cái ơn nghĩa đó biết bao đời mình quên được! Thế mà người ta dễ quên cái ơn của ông thầy, người ta không nhớ ơn của ông thầy.

Và đồng thời, như quý thầy về đây được học với Thầy, Thầy chỉ dạy cho con đường để làm chủ sanh tử, chấm dứt sự luân hồi, thoát ra khỏi cái kiếp đời lầm than, kiếp khổ sở của con người thì cái ơn đó là biết bao nhiêu mà nghĩ, hơn là cái ơn sanh thành của cha mẹ!

Vì cha mẹ sanh chúng ta ra, nuôi lớn chúng ta nhưng đời chúng ta phải thọ lấy những khổ, Thầy thì đem cho các con thoát khỏi cảnh khổ, thì cái ơn đó biết là muôn vàn nào mà đền đáp cho cùng! Thế mà có người không nghĩ đến ơn nghĩa đó mà lại bài bác Thầy, nói thế này hoặc nói thế khác.

Thời nay, thật ra khó tìm người đệ tử có một cái lòng đối kính, kính thuận, cái lòng tôn kính, tôn trọng thầy, quý mến thầy, rất là khó. Nhiều người nhưng nhìn lại chẳng mấy ai, chỉ một hai người là cùng.

4. Theo thầy nghe pháp, nhớ kỹ không quên.

Luôn luôn, lời thầy dạy luôn luôn ghi khắc không bao giờ quên lời thầy dạy!

Thí dụ như Thầy dạy bảo độc cư, phải nhẫn nhục, phải tùy thuận, phải bằng lòng, phải ăn ngày một bữa, không nên ăn phi thời, phải cố gắng khắc phục, đừng có ham ngủ; những lời Thầy dạy thì nhớ kỹ không bao giờ quên, cố gắng khắc phục mình từng phút, từng giây để đúng theo lời Thầy dạy.

Thì khi mà thấy học trò mình thực hiện đúng lời dạy, Thầy luôn luôn lúc nào cũng rất sung sướng vì các học trò của mình biết nghe lời Thầy. Còn học trò mà không biết nghe lời Thầy thì ông thầy âm thầm mỏi mệt và đau khổ.

Cho nên Thầy thiết nghĩ, sau những năm tháng hướng dẫn các thầy tu hành, nhiều khi các thầy không nghe lời Thầy dạy, làm sai, không đúng, Thầy thấy sao mình mỏi mệt quá, hết muốn, và cũng chính ngày hôm nay Thầy không còn muốn hướng dẫn ai nữa hết, là Thầy quá mệt mỏi rồi! Thầy quá mệt mỏi qua số người đệ tử của mình làm cho Thầy thấy không muốn còn ở trên thế gian này nữa!

Đó là những điều mà Phật dạy để cho chúng ta biết bốn cách để mà người đệ tử đối với thầy như thế nào đúng, như thế nào sai. Chúng ta cần phải nhớ, nhớ để mà không quên những điều này.

7.2- THẦY ĐỐI VỚI HỌC TRÒ

(01:21:27) Và bây giờ vị thầy cũng phải có bốn điều chăm sóc lại đệ tử của mình. Nghĩa là vị thầy cũng phải có bổn phận chớ không phải bỏ quên người đệ tử của mình.

1. Dạy dỗ có phương pháp;

Nghĩa là dạy dỗ đệ tử mình có cách thức, có phương pháp. Như Thầy vạch ra cái giáo án hôm nay tức là dạy dỗ các con, các thầy có phương pháp hẳn hòi.

Cho nên làm một bậc Thầy dạy dỗ phải có phương pháp. Nếu mà dạy dỗ không phương pháp, người đệ tử của mình tu không được rồi nó sẽ bất mãn, nó sẽ đau khổ, rồi nó phí hết cuộc đời của nó.

2. Dạy những điều chưa biết;

Nghĩa (là) người học trò mình chưa biết cái điều đó, mình nên dạy cho nó biết để nó tu tập, để nó sửa đổi tâm tánh của nó, nó trở thành người tốt.

Còn những gì nó đã hiểu biết thì mình sách tấn, khích lệ cho nó để cho nó thực hiện được những sự hiểu biết đó càng lúc càng tiến tới con đường giải thoát.

3. Giới thiệu bạn lành cho đệ tử;

Nghĩa là mình biết những người nào tốt, mình giới thiệu cho nó.

Thí dụ như bây giờ ở đây có những người bạn tu hành tốt, giữ gìn kỷ luật tốt thì Thầy thường giới thiệu với quý thầy để quý thầy lấy cái gương hạnh đó mà nỗ lực tu tập. Trái lại thì quý thầy không nhận thấy cái điều đó mà nói rằng Thầy khen người này, Thầy khen người kia, đem cái lòng ganh tỵ, tỵ hiềm, trở thành chướng ngại!

Nhưng ở đây Phật dạy: Mình phải giới thiệu những bạn lành tốt - tức là những người tu tốt - để cho những người đệ tử của mình lấy cái gương đó mà tu tập theo những người đó. Còn nếu mình không giới thiệu những người bạn tốt như vậy thì nó biết lấy ai mà làm gương, biết ai mà nương theo?

Cho nên làm bậc Thầy cũng nên giới thiệu những người mà đã tu tốt, những người mà đã làm được, những cái gì họ đã đi qua, để giới thiệu cho những người khác họ biết, để họ đủ cái niềm tin họ đi tới.

Nhưng thế có người lại nghe khi Thầy giới thiệu những người đó tu như vậy, như vậy thì có vị thì lại tâm ganh tỵ, làm cho mình rất là khó chịu.

4. Làm sáng tỏ điều hiểu biết của đệ tử.

(01:23:43) Khi người đệ tử chưa hiểu biết thì mình phải moi óc, moi tất cả những cái gì mà mình làm cho người đệ tử mình phải hiểu biết.

Con đường thiền định rất khó, cho nên Thầy phải bao nhiêu là lần mà trầm ngâm suy nghĩ để tìm vạch ra cho được cái lối đi, để làm đúng cái đường lối, để làm cho quý thầy hôm nay mà hiểu được rõ ràng.

Đó là bao nhiêu cái sức lực của Thầy thì dồn lại để làm cho các đệ tử, các thầy hiểu rõ, biết rõ được những cái điều mà quý thầy đang muốn biết để mà tu tập. Cho nên Thầy cũng đem hết sức mình, chớ không có đem hết sức mình thì không thể nào vạch ra được cái lối này.

Do những cái bài kinh mà giảng dạy hôm nay, Thầy cũng phải suy ngẫm rất kỹ: Nó phải ở trong một cái giai đoạn nào mà để cung cấp những bài giảng mà của Phật dạy, như vậy Thầy phải chọn lấy rất đúng cái chỗ mà giảng dạy của nó.

Đó là những cái điều mà ở đây Phật dạy: Cái vị thầy phải có bốn cái điều để dạy dỗ đệ tử của mình, thì Thầy cũng đem hết sức mình để làm hết cái bổn phận của mình đối với đệ tử.

Vì vậy từ cái ngày đầu tiên Thầy dạy những cái pháp quá cao, những cái tu tập quá sức của quý thầy, làm cho quý thầy không thể tu tập nổi, nơi cái sức của quý thầy trong cái lúc đó thì quý thầy không thể tu tập. Cũng như bây giờ mà Thầy đem những cái điều mà tu tập của Thầy mà Thầy dạy ngay thì chắc chắn là quý thầy sẽ không vào được.

Do vì vậy mà Thầy phải chẻ nhỏ ra, làm cho nhỏ ra, nhỏ rất nhiều ra để rồi dẫn dắt quý thầy từng chút, từng chút để bước lên, thì thấy có những cái kết quả, đó là làm sáng tỏ những cái điều để cho đệ tử mình hiểu biết, để cho đệ tử mình tu tập được.

Đó là những cách mà hôm nay quý thầy đã thấy rõ cái đường lối tu tập ở đây rất là cụ thể, là do cái chỗ hết sức của một vị thầy mà tìm, chớ không phải có ai vạch sẵn cho đường lối sẵn, mà chính cái vị thầy đó phải hết sức vì cái trách nhiệm, vì bổn phận của mình đối với đệ tử, cho nên mình phải đem hết sức của mình ra để làm sao cho đệ tử mình hiểu được cách thức tu tập.

(01:26:03) Và mình phải tìm hiểu từng người đệ tử, cái căn cơ, cái sự hiểu biết của nó. Nhiều khi nói ra lời nói, nó hiểu qua cái hiểu của nó mà nó không hiểu được ý của Thầy, từ đó nó tu tập sai. Do vì vậy mà cận kề, theo sát, không để cho người đệ tử của mình tự tu, tự tập thì nó lại đi lạc mất đi thì cái trách nhiệm, bổn phận của vị thầy đối với đệ tử nó không có được đầy đủ.

Đó là ở đây, từ cái người đệ tử đối với thầy thì nó có bốn cách, rồi cái vị thầy đối với đệ tử thì nó cũng có bốn cách.

Như vậy chúng ta mới thấy được cái con đường của đạo Phật dạy từng chút: Cha mẹ như thế nào đối với con, rồi con đối với cha mẹ thế nào; rồi học trò đối với thầy, thầy đối như thế nào để đúng con đường của Đạo Phật.

Chớ ở đời thì người ta cũng có cách thức người ta dạy hiếu - con cái đối với cha mẹ ra sao, nhưng mà nó không phải đúng vào con đường của Đạo Phật.

Mà hiện nay thì chúng ta phải lấy những gì mà Phật dạy rồi chúng ta dạy trở lại để cho quý thầy hiểu biết rất rõ những cái gì mà quý thầy đi trên con đường của Đạo Phật để đối xử với nhau, để cho đúng cách, chớ không khéo thì quý thầy không hiểu rồi quý thầy sẽ có những cái lệch lạc làm cho nó không đúng con đường của Đạo Phật.

8- PHƯƠNG TÂY - ĐẠO ĐỨC VỢ CHỒNG

8.1- CHỒNG ĐỐI VỚI VỢ

(01:27:36) Đến đây, bây giờ đến cái phần này:

Chồng đối với vợ có năm điều:

Nghĩa là đối với trong gia đình, người cư sĩ thì có vợ, có chồng, vậy thì chồng đối với vợ có năm điều, Đức Phật dạy cũng rất rõ:

1. Lấy lễ mà đối với nhau;

Nghĩa là đối với vợ mình không phải coi như là tôi tớ trong nhà mà phải lấy cái lễ đối xử với nhau.

2. Oai nghiêm, đĩnh đạc;

Đối với vợ mình thì không có được cười cợt bằng cách này, bằng cách khác, sau đó vợ con nó sẽ lờn mặt, nó coi mình không ra gì, mà mình phải nghiêm nghị.

Nhưng mà không phải là khắc khổ đối với nó để cho nó quá sợ hãi, nhưng mình nói lời nói nào nó cũng đúng cách, nó không có được đùa giỡn ở trong những lời nói đối với vợ con của mình. Cho nên vì vậy đó, mình dạy vợ, dạy con nó mới biết nghe lời.

Còn mình nói năng không đúng cách, cười cợt với nó; con cũng vậy, vợ cũng vậy thì nó sẽ không có coi mình ra gì.

Cho nên Phật dạy điều thứ hai này đối với vợ con thì phải oai nghiêm, đĩnh đạc. Tức là ăn nói, đối xử nó phải có sự nghiêm nghị chớ không phải là khắc khổ, không phải đối như là một ông quan đối với dân, mà đối với cái gia đình nó có cái sự đĩnh đạc, đúng đắn, nó an ổn, nó yên ổn chớ nó không có làm cho người ta quá sợ hãi.

3. Ăn mặc tùy thời;

Nghĩa là tùy cái thời mà mình ăn mặc chớ không có nên cố chấp. Thí dụ như bây giờ mà mình cố chấp mình ăn mặc cái áo dài như ngày xưa, đội khăn đóng thì nó không có tùy thời.

Cho nên cái người chồng phải ăn mặc tùy thời.

(Xem tiếp ở Giáo án 08)

9- BÀI HỌC TỪ KINH NGHIỆM CỦA CÁC TU SINH

9.1- CÁC GƯƠNG HẠNH TU TẬP TRONG TU VIỆN

(01:29:32) Nhưng trước khi mà tiếp tục cái bài giảng này, Thầy xin nhắc lại với quý thầy: Ở trong cái Tu viện của mình có những cái gương hạnh mà quý thầy cần phải bắt chước.

Vì trong thời Đức Phật, Đức Phật hay nhắc tất cả các vị Tỳ Kheo hãy nương vào cái hạnh của ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên để mà tu tập. Thì ở trong chúng ta, ở trong chúng hiện giờ, chắc có lẽ không phải là cái lời Thầy nói là suông, mà cái lời nói nó còn có sự chứng nghiệm của quý thầy.

Quý thầy thấy ở trong chúng của mình ai là người tu được những cái gì, làm được những cái gì, đó là những người gương hạnh của chúng ta để mà chúng ta tiếp tục ở trên con đường tu tập.

Vì không có những cái gương hạnh đó thì chúng ta biết lấy ai mà gương hạnh? Còn nếu lấy Thầy thì thấy Thầy là cao vời vợi cho nên nó không gần gũi với mình, vì có những người bạn đồng tu đồng thực hiện được.

Cho nên, trong thời Đức Phật cũng có nói là Đức Phật đã thực hiện được những gì, Đức Phật nói, nói thật, nói không có dối trá, nói không có lường gạt ai; và những người mà chứng nghiệm được lời Đức Phật đó là những đệ tử của Đức Phật cũng làm được cũng y như Phật, cũng chứng nghiệm được những cái kinh nghiệm đó.

Cho nên bây giờ, qua cái thời gian mà hướng dẫn quý thầy thì hôm nay Thầy đã thấy rằng ở trong chúng ta có những người tu được, đáng làm gương cho chúng ta.

Người thứ nhất mà ở trong Tu viện này làm gương cho chúng ta, đó là cái gương độc cư, thì người thứ nhất mà quý thầy đã từng đến đây sống một tháng, hai tháng, ba tháng chắc chắn ai cũng phải công nhận rằng Minh Tông là cái người mà đã sống độc cư đệ nhất ở đây.

Nghĩa là không bao giờ mà tiếp duyên nói chuyện với một người nào từ khi bước chân vào đây cho tới bây giờ. Thì chắc chắn là quý thầy ai đã từng ở đây sống một thời gian dài với Minh Tông thì đã thấy được cái hạnh của nó.

Đó là cái mà để chúng ta bắt chước những cái người có những cái gương hạnh giữ gìn đúng, không có còn sai, đó là Minh Tông. Minh Tông là người ngồi gần đây đó, mà đeo mắt kiếng đó, chắc có lẽ là quý thầy biết.

(01:31:46) Cái người thứ hai mà giữ gìn cái hạnh và giờ giấc nghiêm túc tu hành, giữ gìn cái hạnh mà không ăn uống phi thời đó, đó là Mật Hạnh.

Sau cái thời gian rời khỏi Tu viện để đi đến bệnh viện trị bệnh, biết bao nhiêu sự cám dỗ về cái ăn uống, mà qua cơn bệnh của mình hầu như là có những lời khuyến khích về cái vấn đề ăn uống, nhất là những bác sĩ, thế mà Mật Hạnh cũng giữ không phi thời dù một cái bánh, dù một cây kẹo cho đến một ly nước cũng không phi thời.

Đó là những cái gương hạnh.

Và gần đây thì Chánh Đức có gởi cho Thầy một ít thuốc mà đã pha sẵn ở trong phích, rồi nói về cái bệnh của Mật Hạnh thì Chánh Đức có cái lòng tốt là muốn chỉ cách để cho Mật Hạnh uống cái thuốc đó để mà trị cái bệnh, và đồng thời thì có thêm cái đậu xanh vào trong đó hay hoặc là bỏ chút ít đường.

Nhưng mà qua những cái điều này thì Mật Hạnh không bằng lòng trong cái vấn đề thọ dụng, thà là chết chớ không thọ dụng cái phi thời. Cho nên vì uống thuốc đâu nó có phải là đợi mình ăn cơm rồi mình uống một lần mà phải uống nhiều lần ở trong một cái ngày, cho nên Mật Hạnh cũng không chấp nhận, thà là mình chết chớ không phi thời.

Đó là người mà ăn uống không phi thời và giữ gìn giờ giấc nghiêm túc, giờ nào ra giờ nấy, đó là Mật Hạnh.

Như vậy là những cái người mà có đã những gương như vậy chúng ta nên bắt chước, vì coi vậy chớ chúng ta chưa hẳn đã là giữ gìn trọn vẹn được, cái môi trường nó dễ cám dỗ chúng ta. Mà trước những cái môi trường cám dỗ mà Mật Hạnh vẫn giữ được cái hạnh như vậy là những cái điều mà chúng ta phải noi gương những cái người mà đã làm được.

(01:33:28) Kế đó, một cái người nữa là cái người này đã biết xấu hổ và giữ gìn, cố gắng giữ gìn những cái xấu hổ để cho mình - giữ cái tâm xấu hổ đó - tức là tàm quý - để thực hiện những cái gì mà lỗi lầm của mình, cố gắng hàng ngày khắc phục để sửa.

Người đó biết xấu hổ thật sự, và thấy rằng cái con đường tu tập của mình cần phải có những cái sự xấu hổ đó, và từng khắc phục những cái lỗi lầm mà mình đã lầm lạc. Do đó, người đó là Chơn Huệ.

Cho nên sau cái thời gian ở đây, Thầy thấy Chơn Huệ rất là hối hận qua những cái sự việc xảy ra là huynh đệ đến nói chuyện hay hoặc thế này, thế khác, mỗi lần như vậy thì tâm của Chơn Huệ rất là xấu hổ và rất là hối hận.

Mà cái người mà đã có cái tâm hối hận mà hàng ngày cố gắng để mà giữ cho đúng những cái gương hạnh ở đây thì Thầy thấy cũng là rất ít.

Vì chưa biết xấu hổ, khi mà kỷ luật hay hoặc là giới luật của Phật đã đặt ra hay là pháp của Phật đã dạy, mà chúng ta đã làm không đúng một lần, hai lần mà chúng ta không biết xấu hổ thì chúng ta sẽ phạm hoài, những người đó sẽ không bao giờ đi đến con đường của đạo được.

Và cái người mà biết xấu hổ để cố gắng sửa mình, hối hận trong tâm của mình hằng những cái lỗi nhỏ, đó là Thiện Huệ. Một người mà cũng sống ở trong chúng ta đây chúng ta cũng biết, đó là huynh đệ của chúng ta chớ không ai xa lạ.

Còn cái người thứ tư.

Cái người này từng đã theo học Thầy cách đây sáu, bảy năm trong cái mùa hạ an cư đó, nhưng người này cũng quyết tâm theo Thầy tu học, nhưng vì không có đủ duyên và cắt không đứt gia đình - nghĩa là cắt không rời được những cái sự ràng bó ở trong chùa chiền hay hoặc là ở trong những cái tình cảm của gia đình của mình - cho nên muốn theo Thầy rất lâu nhưng mà không theo được. Cho mãi đến hôm nay - mùa hạ năm rồi cũng có dự định đến đây nhưng rồi cũng cắt chưa được - năm nay quyết dứt bỏ để mà đến đây với Thầy tu tập.

Thì người đó là Thiện Thuận, người mà cùng vào sau, có khi mà vào đồng một lượt với quý thầy trong hạ này, cũng có khi mà đã vào sau đây, nhưng mà người này đã quyết tâm trên cái con đường tu tập cho nên đã có cái sự xả tâm như vậy để rốt ráo đến đây tu tập.

Cũng như trước kia Minh Tông đã bỏ cả gia đình, mẹ đang đau, vợ, con cái đang còn nhỏ đi học mà vẫn quyết tu hành, cắt đứt cái tình cảm của mình, cắt đứt cái nhiệm vụ, bổn phận lo lắng của mình mà để thực hiện, thì người thứ hai thì Thầy thấy, qua thầy Thiện Thuận dứt bỏ chùa mình, dứt bỏ những cái mà đang trói buộc mình để mà thực hiện cho được.

Mà khi vào đây Thầy cũng thử xem coi có giữ độc cư được hay không, thì thầy cũng cố gắng. Khi Phật tử và gia đình có đến thăm thì Thầy đến Thầy hỏi ý thì thầy xin Thầy để giữ gìn đừng có cho nói chuyện.

Đó là trong mấy tháng nhưng mà Thầy thấy rằng thầy cũng có sự quyết tâm rất lớn do giữ gìn đúng cái kỷ luật.

Nhưng thầy có một cái lần thầy có sai phạm, nhưng mà cái sai phạm đó là chỉ là trong khi thầy cố gắng thầy tu tập thì Chơn Trí - ở gần cái thất ở bên - ho làm động thầy giựt mình. Thì các thầy biết, khi mà chúng ta mới tu tập, mới được an tịnh mà có tiếng động lớn thì nó làm cho chúng ta giật mình.

Do đó thì thầy có cái lỗi là thầy viết mấy chữ: "Xin giữ gìn dùm, đừng có ho lớn!" để cho thầy khỏi giật mình thôi. Mà thầy không dám nói, thầy chỉ viết mấy chữ thôi.

Như vậy Thầy thấy rằng do đó thì Chơn Trí cũng hiểu được cái điều đó, cho nên sợ mình làm động huynh đệ mà tu không được, cho nên rời ra khỏi cái thất của mình đến thư viện cùng ở chung với một người khác.

Đó là cái biết mình không giữ được cho nên Chơn Trí tránh khỏi để làm động huynh đệ của mình, cũng là một cái tâm tốt!

9.2- PHÁP HƯỚNG GIÚP NHẬP ĐỊNH VÀ XUẤT ĐỊNH

(01:38:06) Gần đây thì thầy Thiện Thuận nỗ lực cố gắng tu tập có nhiều kết quả, Thầy xin trình bày để cho quý thầy thấy con đường thiền định nó không đơn giản như chúng ta tưởng.

Nhưng quý thầy đừng nghĩ rằng mỗi người đều có những trạng thái tu tập nó giống nhau đâu, nó khác nhau. Nhưng rút tỉa kinh nghiệm khi lỡ có giống nhau thì chúng ta biết cách mà sử dụng, chớ còn không khéo thì chúng ta sẽ rất là nguy hiểm.

##Quý thầy đừng nghĩ rằng, khi mà nghe tuyên bố thì quý thầy xúm lại hỏi thầy Thiện Thuận điều này, thế kia thì rất tội nghiệp cho thầy, vì con đường thầy đang đi mà thầy phải giữ độc cư trọn vẹn như Minh Tông, không thể nào khác hơn mà đạt đến cái sức thiền định này được.

Bởi vì cái sức thiền định của đạo Phật là phải tịnh chỉ các hành, ngưng hơi thở hoàn toàn, như một cái người chết, không thể nào là giống như cái người mà còn sống, còn ngủ mà nhập định được. Cho nên cái đặc biệt như vậy.

Gần đây thì thầy đã trình bày cho Thầy thấy: Như có lần thầy tịnh chỉ các hành và hơi thở thầy ngưng, ngưng hoàn toàn, thầy biết rất rõ chớ không phải thở nhẹ đâu. Thầy biết thở nhẹ, thầy không biết hơi thở thầy cũng nhận biết, mà nó ngưng thầy cũng biết rất rõ.

Nhưng rồi tới chừng đó, khi mà cái hơi thở nó ngưng thì nó kéo cái thân của thầy cúi xuống, thì thầy thấy nó ngưng hoàn toàn, hơi thở ngưng mà cái thân của thầy nó cúi mọp xuống. Trong lúc đó nó tự động, khi mà nó ngưng hoạt động thì nó lại kéo cái thân thầy cúi xuống.

Nó cúi xuống, nó cứng ngắc lên, thì thầy cố sức thầy xả, thì nó xả, thầy xả được có nửa thân người, còn nửa thân thì nó cứng ngắc, nó không có xả được. Lúc bấy giờ thầy chỉ còn mong có một người nào đi ngang qua, thầy kêu người đó để nhờ đến gặp Thầy để cứu thầy.

Nhưng trước khi mà thầy tu tập thì Thầy cũng đã nhắc nhở là cái pháp hướng giúp thầy, nhưng lúc bấy giờ thầy không còn nhớ. Thầy không cục cựa được nửa thân, hai cái chân của thầy, nửa thân người ở dưới thì thầy không cục cựa được.

(01:40:07) Cho nên từ đó, hễ thầy cứ hít thở, hễ thầy dùng cái mũi thầy hít thở thì nó lại gom lên, nó chếch lên, tức là nó ngưng lên, nó làm cho thầy chếch lên cao nữa, mà thầy giữ nhẹ nhàng một chút thì nó tuột xuống, nó đứng đó mà nó không chịu ngưng hết, nó không chịu mà xả ra hết.

Đó là những cái khó, mà hiện bây giờ quý thầy tu mà không có căn bản thì sau này nó rất khó.

Bắt đầu thầy phải dùng cái miệng thầy xả, tức là thầy thở bằng miệng. Cho nên cái sức tập trung, cái tâm của thầy nó không có tập trung ở trong cái hơi thở nhiều hơn, mạnh hơn, cho nên nó không còn gom lên, nó làm cho cái cơ thể nó ngưng hoạt động lại. Cho nên thầy thở miệng, một chút sau thì nó lại xả ra. Đó là thầy chỉ tự động để mà cứu lấy mình chớ thầy cũng chưa biết như thế nào hết.

Chứ nếu mà trong lúc đó mà theo Thầy dạy thì trong lúc đó cứ giữ nhẹ nhàng cái hơi thở, mà khi nó xả được phân nửa thân rồi, nhẹ nhàng hơi thở đó, thì lúc bấy giờ chúng ta nhắc: “Hơi thở phải thở mạnh hơn một chút, nhanh hơn một chút!”, và: “Cái thân dưới - cái phần dưới đó - phải hoạt động trở lại!”

Cứ nhắc như vậy thì tự nhiên chúng ta ngồi vẫn thẳng thớm như thế này, tự nhiên chúng ta cứ hướng tâm nhắc, thì trong khi chúng ta giữ cái hơi thở cho nó hoạt động trở lại, đừng có để nó nhẹ quá, mà nó gom mạnh quá thì không được, cho nên chúng ta thở nó lại bình thường, từ đó nó sẽ xả lần và nó sống lại hết.

Đó là qua những cái kinh nghiệm mà Thầy đã tu tập Thầy biết rằng cái pháp hướng nó giúp cho chúng ta vô định cũng như là xuất định. Nếu quý thầy mà không lưu ý điều này thì lúc bấy giờ quý thầy nảy ra ý này, nảy ra ý kia quý thầy xả, thì cái điều đó có khi nó thành bại liệt cơ thể của quý thầy.

Và cũng có khi - bởi vì nó chết rồi mà bây giờ nó phải sống lại, tức là nó ngưng hoạt động, chớ đâu phải như chúng ta còn hoạt động, còn máu nó lưu thông thì tức là chúng ta muốn sao cũng được, còn đằng này thì nó không lưu thông nữa, nó chỉ còn cái sức nóng nó giữ máu không đông đặc thôi, cho nên chúng ta không khéo thì nó sẽ bại liệt cả thân người của chúng ta.

Do vì vậy mà chúng ta chỉ cần còn có pháp hướng và nương nhẹ hơi thở chúng ta mà thôi. Mà thô quá thì không được, mà nhẹ quá thì tập trung gom lại thì nó lại ngưng lại nữa, thì như vậy chúng ta khó mà có thể xuất định được.

Đó là những cái quan trọng.

9.3- HỌC HỎI KINH NGHIỆM CHỨ ĐỪNG HƠN THUA, CHỈ TRÍCH NHAU

(01:42:21) Vì vậy hôm nay thì quý thầy thấy rằng trong chúng ta có nhiều cái kinh nghiệm để giúp trên bước đường tu tập của chúng ta.

Thứ nhất là chúng ta phải nương cái hạnh độc cư như thầy Minh Tông.

Cái thứ hai là chúng ta nương cái hạnh của Mật Hạnh để ăn uống không phi thời, vì những cái này là những điều quan trọng ở trong đạo Phật.

Cái thứ ba là chúng ta nương vào Chơn Huệ là cái người biết xấu hổ để sửa mình từng cái lỗi nhỏ. Chúng ta phải nương vào những cái người mà biết xấu hổ. Nhiều khi chúng ta không biết xấu hổ những cái lỗi của mình đâu, làm rồi cứ làm hoài, làm hoài mà không thấy xấu hổ.

Cho nên chúng ta ở đây có những gương hạnh mà để chúng ta theo đó mà chúng ta đi nốt cái quãng đường giải thoát mà đạo Phật đã vạch ra để giúp chúng ta thoát khỏi sanh tử luân hồi, chấm dứt cái sự sống chết của chúng ta.

Con đường rất là cao quý mà chúng ta thực hiện cho đúng thì mới đạt được cái cao quý đó. Nếu chúng ta thực hiện không đúng thì không làm sao mà chúng ta làm được, tu tập được con đường này.

Cho nên mỗi cái hành động mà của quý thầy tu tập được, cái kết quả nó phải có một cái thời gian để chứng tỏ rằng các thầy đã thực hiện được.

Thì như Minh Tông mà chứng nghiệm được cái hạnh độc cư của nó cũng trải qua một thời gian. Thầy xác định rằng, người như vậy mới có thể tu thiền định nổi.

Và cái người mà giữ cái hạnh không ăn uống phi thời, giờ giấc nghiêm chỉnh, mà người giữ như vậy được thì sớm muộn người đó cũng sẽ thực hiện được con đường đạo giải thoát này, đó là Mật Hạnh.

Người mà biết xấu hổ, từng sửa những lỗi nhỏ mọn của mình, cố gắng không vi phạm nữa, người như Chơn Huệ chắc chắn là sớm muộn cũng sẽ đạt được ở con đường này.

Và người mà thực hiện thiền định để tịnh chỉ được các hành, làm chủ được sự sống chết của mình mà gần đây nhất đó là Thiện Thuận.

Thì quý thầy đã thấy, trong chúng của chúng ta nó có những cái bậc mà có thể gọi là xuất chúng, làm hơn các thầy khác, sống đúng các hạnh của Phật. Trong đó, mỗi mỗi đều chúng ta xét qua các hạnh của quý thầy đều có thể tương đối, nhưng mà chỉ riêng những cái hạnh riêng - tức là đặc tướng riêng của quý thầy, nó có những cái đặc tướng riêng của mọi người.

Và cái đặc tướng riêng đó mà sau khi dạy về Tứ Niệm Xứ Thầy sẽ dạy cái đặc tướng đó cho quý thầy thấy rất rõ nếu có thì giờ. Còn không có thì giờ thì Thầy sẽ tóm lược lại để cho nó đủ cái giáo án, còn nói lòng vòng thì nó rất là nhiều, nói không bao giờ hết được.

(01:44:58) Cho nên hôm nay, đến cái buổi giảng này, Thầy muốn nhắc lại những cái gương hạnh để trong chúng chúng ta, trong còn hai tháng mấy nữa thì chúng ta cũng sẽ rời xa Thầy, không có Thầy ở bên mà nhắc nhở.

Vì có Thầy thì Thầy còn nhắc nhở các con cái sai, cái đúng, Thầy còn chăm nom được cái này kia, khi mà xa Thầy chắc chắn là không còn ai nhắc nhở mình nữa.

Như một đứa con mà đã mất mẹ, như một đứa con mà đã mất cha, lấy ai mà nhắc nhở mình trong khi đúng, khi sai? Rồi ai lo lắng mình trong khi đau, khi bệnh? Thì các con phải cẩn thận, trong cái thời gian còn ngắn lắm, cho nên cố gắng mà giữ gìn cho đúng những cái điều mà Thầy đã dạy.

Những lời Thầy dạy là những lời vàng ngọc để cứu các con ra khỏi cuộc đời đau khổ, cho nên các con ghi khắc mãi ở trong tâm để cố gắng, sau khi không còn Thầy thì các con cố gắng mà thực hiện cho đúng cách, đừng để sai. Lấy những kinh nghiệm, gương hạnh của các bạn, của những người mà đã thực hiện đúng, lấy đó mà làm cái gương hạnh tu của mình tiếp tục ở trên con đường đời này.

Không còn ai cứu mình, không còn chỗ nào nương tựa vững chắc bằng những Phật Pháp, bằng những cái thân và tâm của mình để cho mình lấy đó mình thực hiện con đường giải thoát mới được. Cho nên phải ráng cố gắng mà vâng lời Thầy để tự mình cứu lấy mình chớ không ai cứu mình được.

Đến đây Thầy xin chấm dứt. Quý thầy nhớ kỹ là lấy gương hạnh của huynh đệ mình - Thầy nói ra đây không có nghĩa là để cho quý thầy ganh tỵ những người đó mà hãy lấy những người đó mà làm cái gương hạnh của mình.

Đừng nhìn qua một cái góc độ nào nhỏ, mình cho người đó còn thế này thế khác, mà mình hãy thấy cái việc làm của người ta tốt để cho mình sửa mình. Còn những cái việc xấu của người ta thì mình nên đừng có nghĩ ngợi, vì biết đâu đó là những điều mà người ta còn tu tập, người ta chưa hết chớ không phải là người ta thành Phật.

(01:46:55) Còn mình muốn thấy cái người bạn của mình là như một bậc thánh; đối với Thầy, Thầy còn phải phạm, Thầy còn phải có những cái lỗi, huống hồ là những người huynh đệ của các thầy đang tu thì có những cái sơ sót mà tu chưa hết, giữ gìn chưa trọn mà thôi. Nhưng người ta đã được trước hơn mình những cái cao quý thì mình nên bắt chước những cái đẹp, cái đúng, cái tốt.

Còn những cái mà sai thì điều kiện người ta còn trên con đường tu, đừng lấy những cái sai đó mà chỉ trích người ta thế này, thế khác, mà trong lúc mình từ cái chuyện nhỏ, chuyện lớn mình có chưa làm được cái điều gì hết. Thì cái đó, cái mà chỉ trích, bươi móc mà chỉ trích như vậy tức là mình không biết sửa mình.

(01:47:39) Mà cái lòng đó là cái lòng xấu, cái lòng ganh tỵ, thấy người tu được những cái đó thì tìm mình những cái lỗi nhỏ mọn của người ta, mình vạch ra để cho thấy người ta sai, để cho người khác nhận ra thấy người đó: "Thầy nói vậy chứ người đó còn lỗi những chỗ này, chỗ kia…​"

Đó là con đường người ta còn tu tức là người ta còn phải lỗi chớ làm sao người ta hết được! Người ta còn những chút sai thì tuần tự trên bước đường tu thì người ta sẽ sửa lần cho đến khi lậu hoặc người ta quét sạch được qua sức tu tập của người ta.

Nhưng người ta đã bước được những bước mà mình chưa bước được thì mình hãy lấy những cái bước người ta đã bước đi mình làm cái gương cho mình. Đừng có lấy cái mà người ta còn tu chưa xong mà mình cho đó là toàn bộ người ta là xấu hết.

Như các thầy cũng thấy, nhìn ngoài đời, mọi người thì người nào cũng có cái tốt, cái xấu chớ đâu phải toàn là người ta xấu hết đâu! Nhưng mình vơ cả nắm, mình thấy người ta có một cái xấu, mình cho rằng người ta là người xấu hết thì không đúng.

Cũng như trong quý thầy hiện giờ, chúng ta coi vậy chớ chúng ta toàn là những người có tốt, có xấu chớ không phải là xấu hết đâu. Do lấy cái tốt của người ta để làm cái tốt cho tâm mình, để làm cái gương tu tập cho mình, để sửa mình bằng những cái tốt của người khác. Rồi lần lượt người đó người ta cũng thấy được cái xấu của người đó thì người ta sẽ sửa chữa lại, người ta cũng sẽ trở thành người tốt hết.

Cũng như trong chúng chúng ta bây giờ, tất cả chúng mà có những người đã phạm phải những lỗi, chắc người ta không muốn điều đó đâu, không ai muốn điều đó! Nhưng vì cái thói quen của người ta sống ở ngoài đời, người ta chưa có giữ được thôi.

Chớ Thầy tin rằng những lời nói của Thầy là quý thầy hết sức cố gắng thực hiện. Nhưng cái duyên - có khi mình muốn vậy, mình muốn giữ gìn được, nhưng mà cái chuyện, cái hoàn cảnh, cái đối tượng nó xảy ra làm chúng ta phải nói chuyện hay hoặc là thế này, thế khác, đó là ngoài cái ý muốn của quý thầy chứ quý thầy đâu muốn vậy!

Cái hoàn cảnh, cái trường hợp đó: Có một người bị bệnh thì bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ cái người đó chớ chúng ta đâu có thể nỡ tâm mà làm ngơ được! Hay hoặc người đó không biết máy móc mà chúng ta biết máy móc, thì do đó chúng ta giúp cho cái người bạn của mình, thì do cái sự tiếp giao đó nó cũng làm cho mình động và cái người bạn kia động, nhưng cái hoàn cảnh đó làm sao chúng ta làm ngơ được!

Đó là những điều mà chúng ta phải xét thấy cái đúng, cái sai, chớ không phải là luôn lúc nào chúng ta cũng thấy hai người nói chuyện là chúng ta cho rằng họ là thích nói chuyện, không phải đâu!

Cái hoàn cảnh, trường hợp đó làm cho họ mất độc cư trong cái lúc đó là tại cái duyên của họ nó chưa đủ. Nhưng họ biết cố gắng họ khắc phục, họ giữ gìn hơn thì chắc chắn là họ sẽ độc cư như Minh Tông chẳng hạn.

Đó thì hôm nay, những gì Thầy dạy chúng ta nhìn cái góc độ tốt của mọi người mà chúng ta làm gương, chúng ta tu học, đừng có nhìn cái góc độ xấu của người mà chỉ trích người, phê phán người, điều đó là chính chúng ta là người xấu!

Vì vậy mà hôm nay, Thầy khuyên quý thầy hãy nhìn với đôi mắt tốt, đừng có nhìn mọi người với đôi mắt xấu mà làm cho tâm chúng ta bất an và làm chúng ta trở thành những người xấu hơn. Vì chúng ta thấy họ xấu thì tức là chúng ta sẽ nói những điều cái xấu của người khác ra, thì lúc bấy giờ chúng ta trở thành người xấu.

(01:50:50) Cho nên, những điều xấu là khi mà mình thân tình với người đó, mình nói người đó biết nghe mình thì mình ngay mình khuyên: "Em làm như vậy” hay “Thầy làm như vậy là sai, nên sửa lại, không khéo rồi Thầy thấy Thầy sẽ rầy!" - thì như vậy là mình biết thương cái người bạn của mình.

Còn nếu mình thấy cái khả năng mình nói họ không nghe thì mình làm thinh đừng nói gì hết, vì nói thì người ta nghĩ rằng mình sẽ nói xấu người ta. Nhưng mà sự thật, cái người nói xấu là phải nói với cái người khác, nói về cái người mình nói cho cái người khác biết, đó là người xấu. Còn cái người tốt là người ta ngăn mình, thấy mình làm cái chuyện xấu người ta ngăn mình, đó là người tốt.

Trong khi các thầy cũng đã học: Người bạn tốt của mình là người ngăn mình, không có cho mình nói hoặc không cho mình làm cái chuyện nó sai kỷ luật, hay sai giới luật hay là những cái hành động nó không tốt, thì cái người đó là người bạn tốt, mình nên tìm những người bạn đó để họ thẳng thắn họ chỉ bảo cho mình những cái sai để cho mình sửa, thì như vậy đó là người bạn tốt của mình.

Còn cái người mà thấy mình sai họ không có ngăn chặn, họ để cho mình làm sai rồi họ đi nói với người khác để cho mọi người cười chê mình, thì đó là những người không tốt.

Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy để cho quý thầy thấy được cái điều đúng, điều sai ở trong cuộc đời này mà lấy cái gương tốt của người khác, bất kỳ- Thầy nói trong chúng ta đều là có những người tốt hết chớ không có người nào xấu.

Vì mỗi người có cái tốt ở trong khía cạnh của họ, nhưng những cái mà họ chưa biết, họ còn lầm lạc, họ xấu chớ không phải là họ xấu đâu! Họ sẽ là những người biết tu thì sẽ biết sửa chớ họ không phải là những người thiếu sửa đâu.

Mà đạo Phật chính là cái đạo biết sửa mình. Tu tập của đạo Phật là tu sửa chớ không phải là ngồi thiền bằng cách này, bằng cách khác gọi là giải thoát, mà chính sửa cái tâm của mình cho đến khi mình không còn lậu hoặc nữa, thanh tịnh, thì mình mới tịnh chỉ được các hành. Đó là cái vấn đề quan trọng mà Thầy thường nhắc nhở các con rất nhiều!

Tâm mà không tịnh, còn giận, hờn, phiền não, còn thương ghét, còn bị ham muốn cái này kia thì chắc chắn là quý thầy không tịnh chỉ nổi các hành ở trong thân, không tịnh chỉ nổi được cái hơi thở. Mà phải sắp xếp như thế nào để cho tâm mình dứt hết tất cả các duyên đó thì chắc chắn là quý thầy sẽ đạt được cái sức thiền định của Phật dạy, tức là Tứ Thánh Định, từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền.

Đến đây Thầy xin chấm dứt và trở lại vấn đề học tập./.

HẾT BĂNG

08 - ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI CƯ SĨ - PHẦN 2

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 08 - ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI CƯ SĨ 02

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- PHƯƠNG TÂY - ĐẠO ĐỨC VỢ CHỒNG (Tiếp theo Giáo án 07)

1.1- CHỒNG ĐỐI VỚI VỢ

(00:00) Bây giờ trở lại vấn đề học tập, thì vừa rồi chồng đối vợ có năm điều, mà Thầy dạy đến cái chỗ "ăn mặc tùy thời".

Bây giờ về cái điều kiện thứ tư thì:

4. Trang sức hợp thời;

Nghĩa là trong cái thời đại của chúng ta, cái sự trang sức cho người đàn ông như thế nào thì chúng ta phải ăn mặc, trang sức cho nó hợp với thời đó.

Nếu mà chúng ta lè phè, coi như mình không có cần gì cái sự ăn mặc cho hợp thời hay trang sức cho hợp thời, thì người vợ là người biết lo cho chồng thì rất là buồn khổ: Chồng mình ăn mặc ra ngoài, cách thức trang sức thì nó không có hợp thời làm cho người này chê cười chồng mình thế này, thế khác!

Do đó cho nên cái người vợ mình trang sức nó không hợp thời thì cái người chồng mà biết lo cho vợ mà thấy vợ lè phè như vậy đó: Thời đại này mà bà ta ăn trầu tếch toác hay hoặc thế này, thế kia, như những bà già ngày xưa, thì nó làm cho cái người chồng thấy rất là khổ tâm.

Do vì vậy khi mà người chồng khuyên người vợ như thế này thế khác - nghĩa là không phải bắt buộc người vợ mình phải trang điểm cho thật đẹp mà phải đúng hợp thời trang của nó, rồi cái trang sức nó cũng cho hợp cái thời đó, đừng có quá lòe loẹt như các cô gái trong cái thời điểm này.

Thái quá thì cũng không được, mà nó không có nên lè phè, mà không chịu trang sức, tèm hèm, thì người chồng lần lần cũng sẽ xa vợ và cái đối xử nhau nó cũng nhạt nhẽo đi. Cho nên cái người chồng biết lo cho vợ mà người vợ cứ không chịu nghe thì rất là khó.

Và cái thứ năm là:

5. Giao phó việc nhà.

Người chồng phải tin tưởng vợ mình, giao phó tiền bạc hay hoặc là giao phó việc nhà, khi đi xa thì tin tưởng vợ mình giao phó.

Như Thầy nói như thế này, ở đây là Thầy thấy có Chánh Đức là có cái người vợ rất tin tưởng, cho nên khi vào đây, giao phó hết sự buôn bán, nhà cửa này kia cho vợ rồi yên tâm mà vào đây tu tập ba tháng, rồi năm tháng vẫn an nhiên mà không có thấy bận tâm lo lắng gì hết.

Là vì tin tưởng vợ mình đảm đương được cái điều kiện đó, và mình giao phó như vậy vợ mình nó mới đem hết cái khả năng của nó ra mà nó làm tròn cái bổn phận của nó khi mà chồng vắng mặt. Thì người chồng tin tưởng vợ mà giao phó như vậy thì người vợ rất là sung sướng.

Còn cái gì mình cũng quản lý, cái gì mình cũng làm hết, sợ vợ mình làm hư, làm hao, làm này kia, thì tất cả những cái này thì vợ thấy mình sống như là một người đầy tớ, không có cái quyền hạn gì ở trong nhà hết, thì bà ta cũng rất buồn khổ, và như vậy thì gia đình nó không có hạnh phúc.

(02:42) Cho nên, năm cái điều mà Đức Phật dạy chồng đối với vợ thì rất là cụ thể và rõ ràng để tạo cái hạnh phúc sống cho chính mình. Và vì vậy mà sống ở trong Thập Thiện - mười cái điều lành mà Phật đã dạy - mà chúng ta còn biết những cách thức lo lắng, chăm sóc cho nhau.

Chứ nếu mà chúng ta học mười Thập Thiện không mà chúng ta không học những cách thức mà đối xử nhau, như: chồng đối với vợ thì phải như thế nào - chúng ta không học thì chắc chắn là chúng ta không biết, nhưng chúng ta đã học thì chúng ta biết.

Nhưng mà có những người không học mà họ đã làm được, như trước đây chúng ta thấy: Chánh Đức chưa học nhưng mà nó đã làm được cái chuyện đó, nó đã giao phó việc nhà nó cho vợ con.

Đó thì các con thấy rõ ràng, trong chúng ta cũng có thấy được những cái điều mà Phật dạy rất là thực tế và cụ thể, vì vậy mà hạnh phúc gia đình rất là đầm ấm. Do cái sự hạnh phúc gia đình đó mà nếu người vợ hiểu hơn một chút nữa thì Chánh Đức sẽ tu hành rất tốt.

Đừng có thấy gia đình của mình, chồng mình đã lo lắng cho mình như thế này, thế kia, nghĩa là: "“Ông đi mất rồi thì chắc chắn là tui sẽ không còn cái người nào mà lo cho tui nữa, thì chắc chắn tui buồn khổ vô cùng!”

Không có người chồng nào mà xứng đáng như là người chồng hiện giờ: Giao phó cho vợ, rồi biết chăm sóc từ cái ăn mặc, rồi từ cái trang sức nhưng luôn luôn lúc nào cũng không cười cợt với vợ con bằng cách là dễ duôi.

Phật dạy đối với người chồng luôn luôn phải có sự nghiêm nghị đối với vợ con; đĩnh đạc, ăn nói đâu tề chỉnh đó, người vợ mới phục mình và kính trọng người chồng, chớ còn không khéo thì nó cũng sẽ không kính trọng, lấy cái lễ mà đối với nhau.

Thì ở đây Phật dạy, Thầy thấy năm cái điều này rất là làm cho cái hạnh phúc gia đình người đó càng ngày càng tươi đẹp và an ổn nhất.

1.2- VỢ ĐỐI VỚI CHỒNG

(04:41) Bây giờ đến cái phần:

Vợ đối với chồng có năm điều:

Đó, hồi nãy là chồng đối với vợ, còn bây giờ thì vợ đối với chồng. Vậy năm điều như thế nào?

Cái người vợ mà được giao phó, được chồng chăm sóc từ cái ăn mặc, cái trang sức cho hợp thời trang, lấy cái lễ mà đối với vợ mình cho nó đàng hoàng, thì cái người vợ phải có năm cái điều kiện thì người chồng mới có thể đối xử được.

Còn cái người vợ mà không có năm cái điều kiện này thì chắc chắn là người chồng không thể nào đối xử như những cái điều ở trên được.

1. Người vợ phải dậy trước chồng;

2. Phải ngủ sau;

Nghĩa là, cái người mà phải lo lắng đó, để chồng mình làm việc này kia, để cho ông ta ngủ trước, mình phải dọn dẹp đâu cho ra đó hết trong nhà rồi mình mới đi ngủ.

Mà thức dậy thì phải dậy trước để lo nước nôi hay hoặc là nấu cái này cái kia, để cho chồng mình dậy có những cái thực phẩm điểm tâm hay như thế nào, thì cái người vợ phải dậy trước và ngủ thì ngủ sau.

Để ngủ sau như vậy thế nào?

Ông chồng ổng làm về mệt quá, ổng bật lưng ở trên giường ổng ngủ một mình, mùng màn gì ổng cũng không có xả xuống, thì mình ngủ sau mình mới thấy được cái điều đó, chứ mình ngủ trước làm sao mình thấy được! Do đó, mình ngủ sau mình thấy mình mới buông màn cho chồng.

Thì như vậy là Đức Phật dạy chúng ta thấy rõ ràng, từ cái hành động của người vợ đối với người chồng như vậy, làm sao người chồng không lo cho người vợ mình bằng mọi cách?

3. Nói lời hòa nhã;

Luôn luôn người vợ không có cộc cằn với chồng, luôn luôn dùng cái lời hòa nhã đối với chồng, thì như vậy làm sao mà ông chồng không có thương vợ mình?

4. Kính nhường;

Luôn luôn kính nhường chồng mình. Chồng mình có ý kiến này, ý kiến kia thì mình nhẹ nhàng góp nhặt chớ không có dùng cái ý kiến của mình hay hoặc là cái sự học hỏi của mình lanh lợi rồi mình lướt chồng mình, mình chống trái lại thế này, thế khác.

Cho nên luôn luôn mình có cái vẻ kính nhường chồng mình bằng những ý hoặc bằng những cái – thí dụ như chồng mình muốn dời dọn ở trong nhà: Cái bàn này đặt chỗ này, cái ghế kia đặt chỗ kia, thì mình cũng nên kính nhường cái ý kiến đó để cho vợ chồng nó hòa hợp, mặc dù nó có trái với ý của mình.

Cho nên điều thứ năm thì Phật dạy:

5. Phải tùy thuận;

(06:24) Mình phải tùy thuận mọi ý đó.

Cho nên kính nhường rồi còn phải tùy thuận. Chớ nếu mà mình tùy thuận mình không kính nhường thì trong lòng của mình không an đâu. Cho nên mình kính nhường, chồng có ý gì thì mình nhường cái ý nấy cho chồng mình để cho chồng mình vui vẻ, và đồng thời mình phải tùy thuận để tâm mình nó xả, nó không có bị ý kiến của mình trói buộc, nó làm cho mình bất an.

Cho nên cái thứ tư thì mình kính nhường, cái thứ năm là tùy thuận.

Cái thứ sáu - ở đây có sáu điều chứ không phải năm điều, Thầy nói lộn, có sáu điều. Vợ đối với chồng có sáu điều, mà chồng đối với vợ có năm điều. Sáu điều, các con ghi lại. Sáu điều:

6. Sớm nhận lãnh ý của chồng.

Nghĩa là chồng giao mình cái gì đó thì mình nhận lãnh cái ý đó mình làm, không có sai ý chồng.

Nghĩa là chồng bảo bữa nay mình phải làm cái gì đó thì mình nhận lãnh cái ý đó của chồng mình làm chớ không nói là từ chối bằng cách này, bằng cách khác.

Thí dụ như Chánh Đức vào đây, thì người bạn đời của mình nhận lãnh những cái việc buôn bán, hoặc nhà cửa, hoặc coi sóc cho con cái, thì như vậy đó là nhận lãnh cái ý của chồng.

Như vậy là Phật đã dạy chúng ta thấy: Nếu một người vợ đối với chồng mà đúng sáu cái điều này thì cái gia đình đó rất là hạnh phúc. Như vậy chúng ta phải nhớ những cái lời dạy này để mà giữ gìn cái hạnh phúc gia đình của mình, để cho chúng ta thực hiện mười cái điều lành mà tránh xa mười cái điều ác mới được.

Còn nếu trong nhà mà nó không kính nhường, không tùy thuận, không nói lời hòa nhã với nhau thì cái Thập Thiện chúng ta có học nó cũng chẳng qua là học để mà chơi chớ không thể thực hiện được, học để mà nghe cho vui chớ không thể nào mà thực hiện được Thập Thiện.

Vì chúng ta có những cách thức đối xử với nhau, sống với nhau thì chúng ta mới áp dụng được Thập Thiện. Nếu mà chúng ta sống mà không đối xử với nhau tốt như vầy thì Thập Thiện chẳng qua là để mà trang trí cho thêm cái tủ kinh sách của mình chớ chẳng có ích lợi gì hết!

2- PHƯƠNG BẮC - ĐẠO ĐỨC GIỮA BÀ CON, BÈ BẠN

2.1- MÌNH ĐỐI VỚI BÀ CON

(09:00) Đến đây là cái phần:

Có năm điều thân kính đối với bà con:

Đối với con người chúng ta sinh ra thì có gia đình, có vợ, có con, rồi có chồng, có con, thì xung quanh chúng ta có những bà con chớ đâu phải là không có bà con! Thì những bà con đó đối xử như thế nào? Thì ở đây Phật dạy chúng ta cách thức đối xử: Có năm điều mà chúng ta đối xử với bà con:

1. Giúp đỡ tiền bạc cho những bà con nghèo, túng thiếu;

Nhưng giúp đỡ là những bà con đó không phải có nghĩa là chúng ta cho, chúng ta giúp cho họ rồi họ lấy họ làm họ không trả lại mình, thì như vậy không có nghĩa là giúp đỡ, cái nghĩa đó là cho họ chớ không phải là giúp đỡ.

Còn giúp đỡ là giúp cho họ, rồi họ làm ăn họ trả lại cái vốn của mình chớ không lấy lời một đồng xu cắc nào hết, gọi là giúp đỡ. Còn nếu mà chúng ta lấy lời thì không được gọi là giúp đỡ mà đó là cho vay, nó khác đi rồi.

Cho nên phải hiểu: Cho là người ta không trả lại mình; giúp đỡ thì người ta trả lại mình; còn cho vay thì người ta trả lại cái vốn của mình và cái lời nữa thì gọi là cho vay.

Còn ở đây, giúp đỡ tiền bạc tức là cho cái người đó, rồi cái người đó - giúp đỡ cho những người trong thân họ của mình, rồi họ làm ăn có họ trả lại cái vốn đó cho mình. Một năm, hai năm, hay là năm năm, mười năm, tùy theo cái trường hợp họ làm có họ trả chứ chúng ta không có vội vàng mà đòi gấp. Như vậy là giúp đỡ dòng họ của mình.

2. Nói lời điều hòa;

Tức là trong thân tộc của mình có những cái sự xích mích nhau, có những điều này thế kia, thì mình dùng lời ôn hòa, điều hòa làm cho thân tộc vui mừng, vui vẻ mà không có cái sự chống trái nhau, không có sự hiềm khích nhau.

Đó là cái thứ hai này là dùng lời nói ôn hòa, nhã nhặn đối với nhau, điều hòa với nhau chớ không để cho xích mích với nhau.

3. Làm việc lợi ích;

Nghĩa là mình khuyến khích cũng như là mình góp ý cho người khác, hoặc là mình chỉ cho họ cách thức để họ làm cho có cái lợi ích cho họ.

Cho nên thứ ba này là chúng ta góp ý hoặc là chúng ta chỉ bảo những cái điều kiện làm hoặc là chúng ta hướng dẫn cho họ có những cái nghề nghiệp để họ làm họ sống, trong thân tộc của mình không có người thất nghiệp, không có người mà vô nghề nghiệp cho nên họ không đói khổ.

Hoặc là chúng ta giới thiệu cho họ có những công ăn việc làm trong cái cơ xưởng này hay hoặc nhà máy kia, đó là làm cho họ có những cái nghề nghiệp để cho họ sống mà họ không có đói khổ.

4. Chung làm chung hưởng;

(11:39) Nghĩa là có khi chúng ta thấy cái người này họ không có vốn mà mình có vốn, mà mình biết rằng bây giờ mình sẽ mở một cái hiệu buôn, hay hoặc là một cái nhà máy, thì mình mời cái người bà con của mình đến cùng nhau làm.

Làm không có nghĩa là mình trả tiền công họ với một cách sòng phẳng cái tiền công của họ không, mà mình thấy rằng cái công lao của cái người bà con của mình làm chung nhau có cái lợi, thì mình thưởng họ, hoặc là mình chia cho họ có cái số để mà sống dư giả, chớ không nên là mình cướp lấy cái mồ hôi nước mắt của người.

Cho nên ở đây Phật dạy là: “Chung làm chung hưởng”, nghĩa là cùng nhau mà cùng làm thì mình cùng hưởng với nhau, chớ đừng có đối xử bà con mình như một người lao công, một người công nhân mà làm cho cái xưởng, chỉ biết ăn lương mà thôi.

Ở đây, chúng ta đối xử với những người bà con, thí dụ chúng ta làm giám đốc, mà bây giờ người đó làm những việc cái gì đó, chúng ta thấy cái lợi của cái công ty này của mình mà có lợi nhiều thì mình chia cho những người bà con của mình cho họ khá hơn một chút, chớ không phải nội cái tiền lương không. Giúp đỡ họ thêm để cho cái đời sống của họ không còn chật vật với cái số lương quá ít ỏi.

5. Không hề khi dối.

Tức là trong dòng họ của mình dù cái người ngu dốt, dù cái người có điên khùng, dù cái người như thế nào thì trong dòng họ mình đừng có nên khi người ta, đừng có nên khi bà con của mình. Vì bàn tay chúng ta cũng có ngón dài, ngón vắn; trong thân tộc của chúng ta cũng có người vầy, kẻ khác: Người thì say rượu, người thì bài bạc…​ Chúng ta khuyên được thì chúng ta khuyên giúp họ chớ chúng ta đừng có khi dễ họ.

Nhiều khi chúng ta lấy cái dòng họ mình ra nói: "Anh của chú tôi”“anh của bác tôi” hay “em của chú tôi làm điều này, điều kia tầm bậy tầm bạ!", nói ra người ta cười chê cho trong cái dòng họ mình, chẳng có ích lợi gì hết. Cho nên mình nói như vậy là mình khi cái người đó lắm, mình khi cái người bà con mình lắm, mình mới đem ra mình nói người này, người kia.

Cho nên mình không nên làm điều đó, mình không nên khi dễ người nào hết, mà mình nên thương họ, mình nên thương dòng họ của mình hơn. Có những cái mà họ chưa hiểu cho nên họ làm cho mình cũng có những cái phiền muộn ở trong lòng, thì mình nên thương họ, chớ đừng thấy họ như vậy rồi mình khi dễ họ như thế này, thế khác.

Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta đối xử với những người thân của chúng ta, tạo cho chúng ta có một cái niềm - sống đoàn kết trong những thân tộc của mình mà không có cái sự chia rẽ trong đó.

Toàn bộ tất cả năm cái điều này, chúng ta thấy nó đem lại cho cái gia tộc của chúng ta được an vui, được hạnh phúc; trong dòng họ biết thương nhau, biết chia sẻ nhau từng chút, từng chút.

2.2- BÀ CON ĐỐI VỚI MÌNH

(14:20) Về phần bà con cũng đối xử lại với mình:

Đối với bà con thì người ta cũng đối xử lại với cái người trong bà con như thế nào?

1. Hộ vệ khiến cho không phóng dật;

Nghĩa là ở trong dòng họ của mình có một người nào ham chơi hay hoặc phóng dật thì mình luôn luôn mình tìm mọi cách mình khuyên lơn họ đừng có nên chơi bời, đừng có nên phóng dật ra, mà hãy lo làm ăn, đừng có ham đi chơi mà phải siêng năng làm ăn để cho cái cuộc sống nó có đạo đức hơn; còn mình phóng dật chạy theo, đua đòi theo thế gian rồi tiêu phí tài sản trong nhà lần lượt đi rồi nghèo đói!

Cho nên người bà con của mình, thấy người ta siêng năng làm thì mình khích lệ người ta làm, thấy người ta đi chơi hoang phí thì mình nên khuyên người ta, giúp đỡ cho người ta để cho người ta trở về con đường chính.

Trừ ra mình khuyên mà họ không nghe thì mình đành chịu, cho nên mình không có hộ vệ họ khiến cho họ đừng phóng dật.

2. Hộ vệ về sự phóng dật;

Nghĩa là cái người này họ đã ham mê cờ bạc hoặc là họ phóng dật theo những cái nhảy, vũ; họ khiêu vũ, họ thích đàn ca xướng hát, thì do đó, khi mà họ đi như vậy, khi mà họ say mê sự phóng dật đó thì mình sợ có những cái người khác họ ganh ghét, họ có thể khi đánh bài thắng thì người ta có thể giết hại cái người bà con của mình. Cho nên, mình thấy vậy, mình theo sát một bên để mình phòng hộ cho cái người này để cho họ thoát khỏi những cái sự hiểm nghèo đó, gọi là phòng hộ về sự phóng dật.

Người đó phóng dật làm cái chuyện gì đó mà mình khuyên họ chưa được, do đó mình phải phòng hộ, mình giúp đỡ cho họ vượt ra những cái khó khăn, cái nguy hiểm của họ sắp xảy ra.

Vì những người phóng dật là những người dễ bị người khác đánh đập, dễ bị người khác uy hiếp, cho nên mình tìm cách để mình hỗ trợ họ để cho họ thoát ra những cái điều kiện mà họ đang phóng dật.

Do khi đó, khi mà hộ vệ cho họ xong như vậy thì về chúng ta mới trở về cái phần một là khuyên họ, khuyến khích họ đừng có nên phóng dật vì phóng dật nó xảy ra khổ sở như vậy.

Đó là cái người bà con mà biết mình là người tốt hay giúp đỡ họ, mà lỡ mình có say mê bài bạc thì cái người bà con đó thường thường phải cảnh giác, đề phòng để giúp đỡ cái người bà con tốt.

Cũng như mình giúp đỡ người bà con, rồi cái người bà con đó biết mình là người giúp đỡ tốt và anh này làm ăn rất tốt, lương thiện rất tốt, nhưng mà vì mình có tiền, có bạc; mình mở ra công xưởng này hay cái nhà máy kia, rồi mình sanh tâm phóng dật.

Thì do đó, cái người bà con đó được mình giúp đỡ, bây giờ họ sợ cái người mà giúp đỡ mình bây giờ mà phóng dật vậy sẽ bị du đãng nó đánh, hay hoặc là nó cướp, hay hoặc nó giết…​ cho nên mình luôn luôn hộ vệ và mình khuyên giúp cái người này để cho cái người này đừng có phóng dật nữa, gọi là hộ vệ về sự phóng dật.

3. Khuyên răn nhau lúc ở chỗ không người;

Nghĩa là cái chỗ vắng người đó.

Nghĩa là khi cái người bà con của mình từng giúp mình đó, mà bây giờ anh này đang làm việc ở một cái chỗ nào vắng, hay hoặc đi ngang qua cái truông nào vắng, thì mình khuyên rằng: "Đừng có nên đi ở chỗ đó, anh đi ở chỗ đó là nguy hiểm. Nếu mà đi ra thì phải có em hay hoặc là có ai nữa, hay hoặc là anh em mình phải hai, ba người cà thì anh đi qua chỗ đó mới yên tâm, chớ còn anh đi một mình thì không được!" Đó là những lời khuyên những cái chỗ mà không người sẽ xảy ra cho cái người bà con của mình.

Đó là cái người bà con được mình giúp đỡ thì cái người đó phải có những cái hành động là giúp đỡ lại cái người giúp đỡ mình. Cho nên, tình anh em trong dòng họ nó rất là thắm thía. Qua những cái lời mà Phật dạy này, Thầy thấy thiệt mà nếu đối xử như vậy thì là thiên đàng chớ không phải địa ngục nữa.

4. Thường khen ngợi nhau;

(17:52) Nghĩa là, mình thường đem cái lời khen ngợi; không có nghĩa là mình khen ngợi bằng cách nịnh bợ, mà thấy cái việc làm của cái người này cũng như cái người kia mà làm tốt thì mình khen ngợi, và mình thưởng quà tặng để giúp cho cái sự tốt đó càng ngày càng tốt hơn.

Chớ không phải là mình khen để mình nịnh bợ: Khi người ta làm sai mình cũng khen, khi người ta bài bạc mình cũng khen mà mình không ngăn chê, mình không ngăn cản, thì cái đó là cái nịnh bợ.

Và mình còn chỉ những điều mà phóng dật cho cái người bạn mình đã từng giúp mình đó, để mà chạy theo phóng dật thì đó là mình không có hộ vệ phóng dật cho người bạn mình, không có ngăn cản cái sự phóng dật đó.

Thường thường mình khen nhau là khen bằng cách mình thấy thật sự tốt, đúng thì mình khen với nhau, để mình sách tấn và mình khích lệ trên bước đường làm ăn cũng như trên bước đường đạo đức, tu học như vậy.

Cũng như quý thầy bây giờ nghe Thầy nói Minh Tông, Mật Hạnh, Chơn Huệ hoặc là Thiện Thuận mà quý thầy thấy: "Những người này tu thấy có đúng. Thầy nói những điều này mình nhận xét ra, mình thấy những cái vị này ở những khía cạnh này rất là đúng đắn đó!" Vì vậy thì mình khen các vị đó: "Những người này tu tập mà được như vậy, rất là quý, phải chi mình cố gắng mình giữ được như vậy thì mình cũng được tốt!" Mình khen chớ không phải là mình chê nữa.

Đó là những cái mà mình phải học hiểu để cho mình biết những cái lúc nào mình dùng cái lời khen của mình cho nó đúng lúc và đúng cách.

3- PHƯƠNG DƯỚI - ĐẠO ĐỨC GIỮA NGƯỜI LÀM VÀ CHỦ

3.1- CHỦ ĐỐI VỚI NGƯỜI LÀM

(19:34) Bây giờ về cái phần chủ đối với tôi tớ, Phật cũng dạy chúng ta thấy, biết rõ năm cái điều kiện người chủ đối với tôi tớ:

1. Tùy khả năng mà sai khiến;

Mình biết cái người tôi tớ trong nhà của mình - làm công cho mình đó - cái khả năng họ tới cái mức độ nào đó thì mình sai khiến, đừng có sai khiến quá cái khả năng, người ta làm không được, làm nó sai, nó hư rồi chừng đó mình đánh đập, mình chửi người ta thì rất tội. Mình phải tùy cái khả năng của họ mình sai họ làm thì chắc chắn là mọi công việc đều là tốt đẹp, cho nên nó không có làm cho mình trở thành hung ác.

Tức là mình sai người ta quá khả năng, người ta làm không có tròn cái nhiệm vụ của người ta, rồi lúc bấy giờ đó mình trở thành, những cái khẩu nghiệp của mình trở thành hung ác: Mình chửi mắng hoặc là mình sài xí, sài phí thậm tệ người ta, do cái chỗ đó mà mình không có giữ được Thập Thiện.

Cho nên mình tùy khả năng người ta mình giao cho họ cái nhiệm vụ họ làm với cái khả năng họ làm được thì họ sẽ làm tốt công chuyện, do đó mình không còn mắng chửi họ, mình không còn trách móc họ, cho nên mình không có cái lời ác.

Như vậy thì quý thầy đã thấy rằng: Áp dụng, ứng dụng trong Thập Thiện là qua những cái điều mà Phật dạy từng chút, từng chút ở trong cái cuộc sống hàng ngày chúng ta chung đụng: Từ chủ đối với tôi tớ, rồi tôi tớ đối với chủ như thế nào để mà chúng ta hiểu biết cho rõ ràng. từng đó chúng ta mới áp dụng vào Thập Thiện nó mới đúng đắn, chớ còn không khéo thì chúng ta khó mà áp dụng được Thập Thiện.

2. Tùy thời cho ăn uống;

Nghĩa là chúng ta tùy cái thời mà cho ăn uống. Tại sao?

Bây giờ cái người đó làm công việc đó nó nặng nhọc quá, cái thời gian này phải vác cây, khiêng đá này kia…​ thì phải cho họ ăn uống nhiều hơn một chút. Còn bình thường họ làm những công việc nhẹ nhàng như quét sân hay nhổ cỏ thì mình cũng tùy cái lúc đó mình cho họ ăn uống với đúng cái tiêu chuẩn của họ ăn uống.

Thì như vậy Thầy thấy rằng, ở đây Phật dạy chúng ta từ cái chỗ đối xử với tôi tớ, từ cái cho ăn. Có khi mà chúng ta bắt tôi tớ làm quá nhiều mà cho ăn quá ít thì cái đó là cái không đúng. Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta tùy thời mà cho ăn uống.

Người ta làm nặng thì mình cho ăn uống nhiều, hoặc là uống thêm sữa, hoặc là nước chanh đường, hoặc là những nước ngọt vì người ta đã tiêu phí nhiều calo ở trong người của người ta, do cái công việc làm nặng nhọc. Vì vậy mà mình phải bồi dưỡng thêm cho người ta những cái chất để cho người ta phục hồi lại cái sức khỏe của người ta.

Nhiều người có tôi tớ bắt làm thôi đủ thứ, mà cho ăn thì kể như là kham khổ, rất là kham khổ, nhưng vì nghèo phải đi làm tôi tớ người ta thì đành chịu.

Nhưng mà cái người chủ mà biết đối xử với tôi tớ như vậy, chắc chắn là tôi tớ kính trọng ông chủ vô cùng lận.

(22:17)

3. Tùy thời mà thưởng công;

Nếu mà cái ngày đó người ta làm công việc nặng nhọc nhiều, như thí dụ người ta làm cái ngày hôm đó, cái công lao của người ta làm nặng nhọc mà mình trả như cái ngày mà người ta làm thường.

Thí dụ như bây giờ, Thầy ở đây Thầy nhờ một vài người đến đây phụ với Thầy dẫy cỏ, thì cái công lao dẫy cỏ đó hàng ngày - thí dụ như nó có hai chục ngàn một ngày thôi, và đồng thời hôm nay Thầy lại nhờ họ phải đánh gốc mấy cái gốc cây, hay hoặc là đào đất đắp một cái nền nhà hay hoặc cái nền chùa nào đó, thì cái công lao của họ mà bưng đất, mà đào thì nó nặng hơn là cái dẫy cỏ.

Do vì cái chỗ mà xét thấy những cái việc làm đó nó nặng nhọc, thì chúng ta không phải trả họ hai chục ngàn mà chúng ta phải trả họ hai mươi lăm ngàn hay ba chục ngàn để xứng với cái công họ làm. Còn họ dẫy cỏ thì mình chỉ trả họ hai chục mà thôi, vì cái dẫy cỏ nó nhẹ.

Và đồng thời khi mà họ làm nặng như vậy đó, thì chúng ta có thể bồi dưỡng họ thêm những cái thuốc bổ hoặc là cho ăn nhiều hơn, bằng cách là cho họ ăn những cái chất ngọt nhiều hơn vì họ phải tiêu phí nhiều calo ở trong người của họ, mồ hôi họ ra rất nhiều vì họ làm nặng.

Cho nên đó là Phật dạy chúng ta tùy thời mà thưởng công, tức là chúng ta đừng có lấy cái giá nhất định nào đó mà bắt người ta làm, rồi chúng ta không nghĩ đến công lao của họ nặng nhọc đó, thay vì người ta làm (cho) mình có một ngày mà cái sức người ta phải phí cả một ngày rưỡi hay hoặc hai ngày ở trong đó, cho nên mình phải xét thấy.

Và vì vậy người chủ mà đối với tôi tớ, đối với những người làm công của mình mà đã có như vậy thì chắc chắn là khi chúng ta muốn làm gì, nói một tiếng nói thì mọi người họ sẽ đến làm (cho) chúng ta mà không có bao giờ phải khó khăn mà đi tìm người!

Ở đây Phật dạy thiệt là tỉ mỉ!

4. Khi những cái người tôi tớ của mình, những cái người làm công của mình mà lỡ họ có bị bệnh đau thì mình hãy thang thuốc cho họ.

Vì cái số tiền mà họ làm hàng ngày mình trả lương cho đó thì họ đủ nuôi sống gia đình họ, nhiều khi họ bệnh đau họ không có tiền thang thuốc. Do đó, khi mà họ làm việc với mình, họ là tôi tớ trong nhà mình thì khi bệnh đau mình lo thang thuốc cũng như là những người thân của mình ở trong gia đình, cũng như cha mẹ mình vậy, hãy lo thang thuốc cho đầy đủ.

Vì cái sống của con người, cái sống mọi người ai cũng sợ bệnh tật. Mà trong khi họ nghèo khổ, họ đến làm tôi tớ mình, thì chắc chắn là mình phải có bổn phận chăm sóc họ như là chăm sóc một đứa con của mình, mình thương yêu họ cũng như là mình thương yêu đứa con của mình.

(24:53) Cho nên, khi thấy họ nhức đầu, sổ mũi, nóng lạnh…​ đau thường thì mình mau mau mình lo thuốc thang, còn hễ đau nặng mình cho chở đi nhà thương trị bệnh chớ đừng có thấy đau nặng rồi thôi cho họ về nghỉ đi! Về đó rồi họ vừa là bệnh đau mà lại vừa đi nằm nhà thương mà tiền thang thuốc không có.

Cho nên do vì vậy đó mà mình hãy cung cấp cho họ tiền bạc hoặc là mọi thứ để họ đến nằm nhà thương để trị những cái bệnh nặng.

Như vậy là:

Khi bệnh thì lo thang thuốc cho họ.

Ở đây Đức Phật dạy như vậy. Thì đó là một cái lòng thương của chúng ta đối với những người tôi tớ trong nhà của mình, cũng như những người làm công của mình.

5. Để cho tôi tớ có thì giờ ngủ nghỉ.

Nhiều khi chúng ta có tôi tớ, chúng ta sai thôi nó làm đủ thứ, còn vợ con của mình thì ngủ lu bù không có nghĩ ngợi gì hết, không có lo gì hết, mà tôi tớ thì bắt phải làm cho thật nhiều, thì như vậy là không có tốt.

Ở đây Phật nói có giờ nào cho tôi tớ mình nghỉ ngơi cho nó hẳn hòi, chớ không được bắt nó làm quá sức của nó, không có cho nó nghỉ thì rất là tội.

Đó là năm cái điều, chủ đối với tôi tớ là phải thấy được năm cái điều đối xử này. Với những người mà thấp hơn mình, nghèo hơn mình, khổ hơn mình mà mình đối xử với họ như vậy thì chắc chắn như là mình đối xử với con mình trong gia đình rồi, không phải còn là tôi tớ nữa!

Qua năm cái điều này Thầy thấy rất rõ: Phật dạy chúng ta đối xử tôi tớ cũng như là đối xử với những người con của mình, chớ không phải là đối với những người xa lạ nữa.

3.2- NGƯỜI LÀM ĐỐI VỚI CHỦ

(26:05) Về phần tôi tớ thì lấy năm điều đối xử với chủ:

Nghĩa là cái phần tôi tớ phải đối với chủ như thế nào.

Chủ đã đối như vậy rồi, thì nhiều khi tôi tớ thấy chủ mà lo mình như vậy rồi thì sanh ra lười biếng, không có chịu làm đâu, ăn rồi ngủ, ngủ rồi đi chơi chớ còn không có bao giờ làm đâu, thì cái đó là cái không đúng. Cho nên ở đây, tôi tớ phải lấy năm cái điều mà đối xử với chủ mình:

1. Người tôi tớ phải dậy sớm;

Chớ không phải là thấy chủ mình đối xử với mình tốt như vậy đó, tới trưa trờ trưa trật rồi mình mới dậy thì không được. Phải dậy sớm lo những cái công việc mà hàng ngày chủ giao cho mình, mình phải lo dậy sớm làm cho hết những công việc.

2. Làm việc phải cẩn thận;

Nghĩa là đâu phải ra đó, việc gì nó phải làm cho cẩn thận việc nấy, không khéo lụp chụp rồi nó bể đồ hoặc là hư hao cái này kia của chủ. Cho nên làm việc phải cẩn thận.

3. Của không cho thì không lấy;

Nghĩa là mình ở trong nhà của chủ, không được ăn cắp đồ của chủ, hoặc tiền, hoặc là vật dụng, khi mình thấy muốn cái gì đó mình lén lấy thì cái điều đó không được. Chừng nào chủ mình cho thì mình lấy mà không cho thì không lấy.

Người tôi tớ phải đối xử với chủ như vậy, coi tiền bạc của chủ như là của mình, phải bảo vệ giữ gìn, không được trộm lấy của chủ.

4. Làm việc có thứ tự;

Nghĩa là làm cái việc nào trước, cái việc nào sau, sắp xếp đâu phải ngăn nắp, hẳn hòi, đàng hoàng, trong nhà chỗ nào cái gì, cái gì thì đặt ngay thứ tự của nó, không được làm cho nó rối trật tự.

Chẳng hạn là như bây giờ trong nhà người ta đặt cái bộ sa lông như vậy, mình quét dọn cái mình đưa bên đây, đưa bên kia, mình không có sắp xếp lại thứ tự. Khi có khách đến thì bàn ghế gì nó ngổn ngang ở trong một cái phòng, thì như vậy là thiếu thứ tự, thiếu ngăn nắp.

Cho nên làm việc gì người tôi tớ phải có ngăn nắp, sắp xếp lại đâu nó ra đó, thẳng, chớ không được bừa bãi, không được lộn xộn, không được thiếu cái trật tự, những đồ đạc thiếu trật tự ở trong cái nhà.

5. Thường phải khen ngợi danh đức của chủ.

Chủ mà đối xử với mình như vậy thì mình phải ca ngợi cái đức của người chủ: Người chủ tốt quá, đối với người tôi tớ trong nhà mà xem như con, như người thân của mình ở trong nhà!

Qua năm cái điều cái người chủ đối với tôi tớ, thì chúng ta thấy rằng quá tốt, không có thể nào mà tưởng tượng được, vì vậy cho nên chúng ta là người tôi tớ, lấy những cái danh đức, cái đức tốt của ông chủ mình, thường thường là khen ngợi, khen ngợi với người này, khen ngợi với người khác:

"Chủ tôi là một người rất là nhân đức, đối xử với tôi như con ở trong nhà, luôn lúc nào xem cũng như là một đứa con, chớ không bao giờ mà bạc đãi chúng tôi một cái gì hết!" Đó là mình khen ngợi cái danh đức của ông chủ.

4- PHƯƠNG TRÊN - ĐẠO ĐỨC GIỮA PHẬT TỬ VÀ BẬC TU HÀNH

4.1- NGƯỜI PHẬT TỬ VỚI BẬC TU HÀNH

(28:44) Người Phật tử đối với những bậc tu hành hiền đức có năm điều:

Nghĩa là cái người Phật tử mà đối với những bậc tu hành, nghĩa là mình không phải đệ tử của vị thầy đó, nhưng mà mình đối xử với những bậc tu hành, hiền đức - thí dụ như bây giờ Hòa thượng Tâm Tịch ở ngoài Hà Nội, Hòa thượng có những cái đức tính hiền lành, những cái đức nhẫn nhục, những cái đức tu hành, những cái đức giới luật, do đó thì mọi người Phật tử không phải là đệ tử của Hòa thượng nhưng vẫn là phải có cái sự đối xử với Hòa thượng cho đúng cách.

Cho nên Phật dạy: cái người Phật tử phải đối với những bậc hiền lành, những bậc đức giới, những bậc thiền đức thì phải đối với họ như thế nào?

1. Thân luôn luôn, cái hành động của thân, luôn luôn đến với các vị đó thì luôn luôn phải từ thiện.

Nghĩa là thân chúng ta không có được làm động các vị đó, làm ồn náo ở nơi mà các vị đó ở, mà chúng ta phải làm cho nó nhẹ nhàng, êm ái, và luôn lúc nào cũng phải có cái lòng biết thương, biết kính trọng các vị đó.

Ở đây, thứ hai là Phật dạy:

2. Miệng nói từ thiện;

Đối với những vị mà hiền đức, thiền đức như vậy thì chúng ta phải ăn nói với những vị đó lời lẽ nhẹ nhàng, và không được làm động trong cái chỗ mà các ngài ở, cho nên gọi là “lời nói từ thiện”.

3. Ý nghĩ thiện;

Luôn lúc nào chúng ta thấy vị Hòa thượng đó có - bây giờ thí dụ như Hòa thượng có những cái giới đức rất là nghiêm túc, Hòa thượng có được những cái thiền đức rất là sâu; thì chúng ta nhìn thấy Hòa thượng có những cái bệnh đau, khó khăn hoặc là nan y đi, thì chúng ta không lấy những cái đó mà chúng ta nghĩ rằng Hòa thượng như thế này thế khác.

Mà chúng ta hãy nghĩ Hòa thượng là một cái người kiếp trước đang có những cái hành vi nào bất thiện, cho nên kiếp này Hòa thượng tu hành, Hòa thượng phải trả cái nghiệp đó, chớ không phải Hòa thượng làm ác một cái điều gì để mà trả những cái nghiệp bệnh đau này.

Cho nên cái ý nghĩ chúng ta là nghĩ thiện: Hòa thượng là một người đáng kính nhưng mà Hòa thượng mang cái thân bệnh là do cái tiền kiếp của Hòa thượng phải chịu trả cái nhân quả.

(31:27) Không biết chừng vì Hòa thượng độ chúng sanh, mà do trên bước đường độ chúng sanh Hòa thượng phải trải qua những cái điều ác để mà độ người, để cho người thoát khỏi, thì Hòa thượng hôm nay cũng phải lãnh lấy những cái điều đó.

Thí dụ như trên một chiếc đò qua sông, thì trong tiền kiếp của Hòa thượng có gặp một bọn cướp ở trên sông, nó sẽ bắt mọi người giết hoặc là cướp hết tài sản. Thì lúc bấy giờ Hòa thượng vì muốn phải bảo vệ số một người trên cái đò này thì Hòa thượng phải ra tay để mà giết cái tên này.

Mà khi giết tên này là vì mọi người, cho nên Hòa thượng cũng phải thọ lấy cái thân của mình trong một hậu kiếp sau, để rồi nằm trên giường bệnh trả những cái đau đớn mà khi mình đã đánh và giết cái tên cướp này.

Thì nhân - luật nhân quả, hễ mình giết người thì không thể nào mình thoát khỏi những cái sự đau khổ này, mặc dù mình làm thiện thì tức là mình sẽ được những cái phước thiện của nó.

Ví dụ như những người ở trên thuyền này đã bảo vệ được tài sản, của cải không mất và sinh mạng họ không mất, thì kiếp sau họ sẽ trở thành những người đệ tử thân tín, luôn luôn cung cấp cho Hòa thượng tất cả những cái cuộc sống rất đầy đủ.

Đó là những cái nhân thiện thì Hòa thượng phải thọ hưởng, mà cái nhân ác thì Hòa thượng cũng phải chịu đau đớn. Do đó chúng ta đừng thấy Hòa thượng bị bệnh đau mà cho rằng Hòa thượng làm điều ác, điều này kia.

Trước mặt chúng ta thấy Hòa thượng giữ gìn giới rất nghiêm túc, thiền định rất sâu, mà Hòa thượng vẫn yên vui trong cơn bệnh của mình, không thấy có một cái gì thay đổi, thì chúng ta đừng lấy cái bệnh của Hòa thượng mà nêu lên những cái điều xấu của Hòa thượng, thì như vậy chúng ta có cái ý nghĩ xấu, không tốt, không thiện.

Do những cái điều mà Phật dạy như vậy để chúng ta đừng xét qua một cái hành động nhỏ hay hoặc một cái sự kiện xảy ra của một vị thiền đức, giới đức nào đó mà chúng ta đánh giá họ một cách lầm lạc, làm cho cái lòng cung kính của chúng ta nó không có giữ trọn được, nó thiếu cái sự cung kính đó, nó làm cho chúng ta mất cái niềm tin đối với những bậc thiền đức.

Đó là chính chúng ta có nghĩ đến cái điều ác của người mà làm chúng ta không có được nương theo những cái đức hạnh trong hiện tại của người. Mà chính cái hiện tại của người có những cái đức hạnh đó để giúp cho chúng ta tu tập ở trên con đường của đạo, làm chúng ta được giải thoát.

Mà trái lại, chúng ta nghĩ quấy một điều là những cái hành động đức hạnh của vị đó sẽ tiêu tan đối với chúng ta, trong đầu óc của chúng ta.

Cho nên Đức Phật dạy là cái phần thứ ba này: Ý nghĩ phải thiện. Nghĩa là luôn luôn lúc nào chúng ta cũng nghĩ thiện đến những bậc thiền đức này, chớ không được nghĩ ác đến những bậc thiền đức này.

4. Đúng thời cúng dường;

(33:50) Ở đây Đức Phật dạy: Những bậc thiền đức đó không phải lúc nào chúng ta đem cúng dường là được hết đâu, phải đúng thời.

Bây giờ Thầy đang mặc cái bộ y áo này, chưa có rách, mà quý Phật tử đem đến cúng dường Thầy, thì cái đó là cái sai, làm cho Thầy không giữ được cái giới hạnh của mình.

Phải khi nào thấy cái y áo của Thầy đã rách bưa hết rồi mà không thể nào còn xài được nữa, cho nên mình về mình may cái y áo mới, mình đến mình dâng cúng dường cho bậc hiền đức đó. Đó là cúng dường đúng thời.

Còn cúng dường không đúng thời thì cái vị đó sẽ trao cái y áo này cho một cái người khác, cúng dường cho một người khác, chớ vị đó có nhận thì cũng nhận cái tâm mà thôi chớ không có xài cái y áo đó được. Là vì một người tu sĩ phải là tiết kiệm tối đa, chừng nào rách, mặc không được nữa rồi thì mới bỏ, mới là nhận cái mới.

Còn quý thầy thấy những cái bậc thiền đức, luôn luôn lúc nào cũng may y, may áo cúng dường cho quý vị quá nhiều, chất cả rương, ngập cả tủ thì cái đó là cái cúng dường không đúng thời.

Cũng như bây giờ, cũng như Thầy ăn cơm Ngọ ngày một bữa, sau cái bữa ăn cơm Ngọ rồi thì có người đem đến cho Thầy một ly sữa để cúng dường Thầy, thì cái ly sữa này là ly sữa phi thời, cho nên cúng dường không đúng thời.

Cũng như bây giờ buổi chiều có một người đến dâng Thầy một dĩa bánh: “Xin Thầy thọ cái sự cúng dường này của con!” - thì đây là không bao giờ Thầy thọ dụng cái này, bởi vì cúng dường không đúng thời.

Đó thì quý Thầy thấy, như buổi sáng này thì nó chưa phải lúc ăn, mà người khác làm cho Thầy một tô mì, hoặc là một cái bánh, hoặc là một ly sữa để cho Thầy ăn, thì cái đó là cái cúng dường không đúng thời.

Quý thầy hiểu, cúng dường đúng thời là lúc bấy giờ Thầy đang thọ trai buổi trưa, đúng Ngọ, là lúc bấy giờ con xin đến cúng dường Thầy cái bánh, Thầy thọ trai và Thầy ăn luôn, thì đó là đúng thời.

Thì Thầy nói như vậy để quý thầy thấy rằng, cái sự cúng dường của cái người cư sĩ - tức là người Phật tử - hay cúng dường phi thời làm cho vị thầy của mình sẽ bị phi thời, làm cho vị thầy mình phạm vào giới. Cho nên cúng dường đó là cúng dường không đúng, cúng dường cho đúng thì tức là nó không phi thời.

Cũng như vừa rồi thì ở đây Thầy thuyết giảng thì mấy cô cũng nghĩ rằng Thầy nói chắc khan tiếng, cho nên mới làm một cái ly nước chanh đường để đây để cho Thầy thấm giọng từ từ để mà Thầy thuyết giảng.

(36:11) Nhưng khi Thầy tưởng là một cái ly nước suông thôi, không ngờ là Thầy đã ngậm vô miệng một miếng, Thầy nghe cái chất ngọt và chất chua của chanh. Do đó thì lỡ ngậm làm sao Thầy nhổ ra được? Thôi Thầy đành nuốt.

Nhưng mà Thầy nghĩ rằng, người Phật tử cúng dường Thầy trong lúc này không đúng thời, cho nên Thầy không uống mà Thầy xin cho Thầy một cái ly nước khác, mà lúc bấy giờ các con sẽ nghe trong băng Thầy có nói đó, bảo: "Lấy cho Thầy cái ly" đó. Đó là lúc đó mà Thầy đã ngụm vào một miếng nước chanh có pha đường trong đó.

Thầy thấy cái giờ đó không phải là giờ uống nước này, mà mình uống nước này tức là phi thời, giữ không đúng cái ăn uống của một người tu. Cho nên cái cúng dường như vậy là cúng dường phi thời, và vì vậy Thầy không nhận cái ly nước này tức là Thầy dạy cho họ một cái bài học là cúng dường đúng thời.

Ở đây thì Phật dạy cho chúng ta thấy rõ ràng: Cúng dường đúng thời là phải đúng lúc: về ăn uống thì phải đúng Ngọ, về y áo là phải rách, về nhà cửa thì phải lủng nát, dột, không còn cái chỗ mà ẩn thì chúng ta cúng dường cho vị thầy đó lá hoặc là cây để sửa lại.

Còn bây giờ, nhà của vị thầy đó không có mưa ướt, không có nắng, không có gì hết mà đem tiền xin cúng dường để cất chùa, cất này kia, điều đó là cúng dường phi thời, không có đúng cách cho những bậc thiền đức này. Vì những bậc giới đức và thiền đức này họ không bao giờ mà nhận những cái sự cúng dường phi thời đó.

Cũng như thí dụ như các con thấy, tiền bạc mà cúng dường cho một bậc thiền đức hay là giới đức thì làm sao họ nhận tiền bạc đó? Mà rất là phi thời, nhận cái tiền bạc đó rất phi thời! Phật dạy là chúng ta chỉ nhận thực phẩm mà thôi.

Nhưng vì muốn cúng dường điều đó thì Thầy có một người cư sĩ hay hoặc là cái chỗ nào đặt đó, thì cứ đem đến đó mà cúng dường, thì không phải là cúng dường tiền bạc cho Thầy mà cúng dường cho chư tăng để cái người ở đó người ta sử dụng tiền bạc đó mà người ta mua thực phẩm, người ta làm ra cái thực phẩm để người ta dâng lên, người ta cúng dường cho chư tăng, thì trong đó có Thầy.

Vậy nó mới là đúng thời. Còn nếu mà cúng dường không đúng thời tức là không có đúng cách.

Cho nên tại sao chúng ta là những người tu sĩ Phật giáo mà từ lâu tới giờ người ta không dạy chúng ta cúng dường đúng thời, mà luôn luôn dạy Phật tử cúng dường phi thời? Thật sự là cúng dường phi thời.

Nghĩa là bây giờ ở trong chùa Thầy đặt cô Út là cái người nhận lãnh tiền bạc hay hoặc là tất cả những vật thực cúng dường để mà lo lắng cho chư tăng và chư ni tu tập ở đây, thì Phật tử cứ đến đó mà xin cúng dường chư tăng ở đây, chớ cần gì mà phải đến gặp Thầy?

Nhưng mà luôn luôn Thầy thấy hầu hết là người ta đến gặp Thầy, cúng dường cho Thầy, rồi cúng dường thực phẩm, thậm chí như phải kéo cả xe để trước mặt Thầy, đó là cái cúng dường phi thời.

Thầy đâu có ăn hết được, vì vậy mà Thầy nói từ chối thì họ buồn bã, họ khổ sở, mà nhận thì họ vui mừng. Nhưng mà nhận như vậy Thầy trở thành là phi thời rồi!

Thầy chỉ ngày có một bát mà bây giờ để mười cái thùng mì, rồi gạo - hai ba bao gạo, rồi đồ ăn, rồi dầu - năm mười lít dầu, đường này kia…​ tất cả những cái vật dụng mà để sống hàng ngày quá nhiều!

Nhưng mà giới luật đâu có chấp (nhận) cho Thầy nhận cái đó để dành đâu! Chỉ có người cư sĩ, người ta có trách nhiệm là người ta nấu nướng cho chư tăng thì người ta dám nhận. Còn Thầy là người như vầy mà làm sao Thầy dám nhận? Nhưng mà họ làm sai hết mà không ai dạy cho họ biết cái cách cúng dường. Đó là tất cả những cái không đúng.

(39:32) Cho nên ở đây, các Thầy được học các Thầy thấy rằng: Sự cúng dường phải đúng thời. Chúng ta không phải là người còn ham mê những tiền bạc, những cái sự ăn uống đó nữa, vì hàng ngày chúng ta đã quán, chúng ta đã biết rõ: Về thực phẩm thì bất tịnh, thân chúng ta cũng bất tịnh, có gì đâu mà chúng ta lại ham!

Còn tiền bạc thì chúng ta đã quán, đã thấy nó là rắn độc, nó sẽ giết chúng ta chết, nó sẽ sai bảo chúng ta mọi cái thứ tham đắm và tham dục, cho nên chúng ta phải lìa xa tất cả những thứ này.

Tại sao họ cứ đặt một bao thơ năm ngàn, mười ngàn rồi cả trăm ngàn, rồi cả triệu bạc, thậm chí như bảy tám triệu bạc một lần? Họ đặt cái thơ như vậy mà họ rất là hãnh diện là cúng dường cho một bậc thiền đức, một bậc giới đức. Như vậy là làm sao có nghĩa, làm sao mà cho đúng được cái giới đức và cái thiền đức được!

Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu rất rõ: Những cái điều đó là những cái điều sai. Mà bây giờ chúng ta thấy đâu đâu nó cũng đều quen như vậy hết rồi. Là vì quý Thầy nhận tiền mà không thấy xấu hổ, nhận thực phẩm mà không thấy xấu hổ! Bởi vì cái đó là phi thời rồi! Thế mà chúng ta cứ thản nhiên mà nhận chớ không có nghĩ gì hết!

Đó là những cái mà chúng ta thấy rằng, ở đây Phật dạy người Phật tử phải đối xử, cúng dường phải đúng thời, và cúng dường đúng lúc, không phải là cúng dường sai như vậy.

5. Đến nhà không ngăn đón.

Cái người thiền đức, giới đức mà người ta đến cái nhà mình, thì có những điều kiện gì người ta mới đến nhà mình, mình sợ thế này, thế khác mình không cho họ đến.

Cũng như bây giờ Thầy đến Hà Nội, Thầy đến thăm bác Thức, thì bác Thức nói với Chánh Đức: "Không được đâu! Nhà tui nó còn chưa có cất xonghoặc là thế này, thế khác, không thể rước Thầy về được, Chánh Đức hãy tìm cách để ngăn Thầy đừng có đến nhà tui!" - thì như vậy là không nên!

Là những bậc thiền đức người ta không phải nhìn ở cái bề bộn hay hoặc là ở đang sửa sang nhà cửa xấu tốt đâu, mà người ta đến đây có nghĩa là người ta đến với cái tâm tốt của người ta. Người ta đến người ta đem lại những cái gì đức hạnh, những cái gì phước báu cho mình thì mình không nên ngăn như vậy mà nên vui vẻ đón tiếp người.

Vì mình đã xét người đó là những bậc thiền đức, thí dụ như Hòa thượng Tâm Tịch là người thiền đức, mà Hòa thượng muốn đến thăm nhà mình, thì mình ngăn, mình nói: "Bây giờ nhà con đang xây cất nó chưa…​ Bề bộn quá! Hòa thượng chờ con xây cất rồi con sẽ rước Hòa thượng!" - thì cái đó là cái sai, không đúng.

Lúc bấy giờ Hòa thượng muốn đến nhà mình là Hòa thượng muốn chỉ cho mình cách thức xây cất như thế nào cho đúng cách đó. Nhưng mà mình không có cái tâm tốt, mình nghĩ rằng mình còn bề bộn, không có xứng đáng mà chỗ rước Hòa thượng, vì vậy cho nên mình ngăn lại đi.

Nhưng mà không ngờ là Hòa thượng đã biết được cái điều kiện khi mình xây cất cái nhà đó thì nó cần phải như thế nào, thế nào, thì Hòa thượng đến có những cái góp ý cho mình để mình tạo được thêm những cái phước đức cho cái con đường mà khi mình xây dựng một cái nhà.

Đó thì như vậy, thì chúng ta phải hiểu biết được năm cái điều mà Phật dạy người Phật tử là như vậy nó mới đúng, còn không như vậy thì không phải, không đúng.

4.2- BẬC TU HÀNH ĐỐI VỚI PHẬT TỬ

(42:41) Rồi những bậc thiền đức, giới đức này đối xử với người Phật tử như thế nào? Thì các vị này phải lấy sáu cái điều kiện mà đối xử với người Phật tử.

Chớ không phải là người Phật tử đối với Thầy như vậy rồi mà các vị này thì chỉ thản nhiên mà không có cách thức đối xử. Cho nên Phật ở đây, Phật cũng đã dạy cho chúng ta biết rằng, các vị thiền đức đó phải đối xử với những người Phật tử đó, phải tốt như thế nào đây?

1. Phòng hộ không cho làm ác;

Nghĩa luôn luôn lúc nào các bậc thiền đức đó răn nhắc: "Đừng có làm cái điều ác, đừng có làm phạm những cái giới!"

Cũng như Thầy ở đây Thầy thường nhắc quý thầy: Đừng có phạm những cái lỗi, đừng có phạm những cái điều này kia…​ và nhắc quý thầy phải thường phải tu tập cái Định Vô Lậu làm cho các pháp ác nó không còn vào trong tâm của quý vị được. Cho nên đó gọi là phòng hộ không cho làm các pháp ác.

Đó là những bậc thiền đức dạy cho mình tránh xa các pháp ác, ly xa các pháp ác, từ giã các pháp ác, đoạn dứt các pháp ác, cho nên đó là những bậc thiền đức thứ nhất để chỉ dạy cho người cư sĩ.

2. Chỉ dạy điều lành;

Nghĩa là luôn luôn lúc nào cũng dạy chúng ta phải làm cái này, làm cái kia hoàn toàn là ở trong cái việc lành.

3. Dạy chúng ta giữ tâm lành;

Nghĩa là luôn luôn giữ cái tâm của chúng ta không có được khởi nghĩ những cái điều ác, hoặc là suy tư những cái điều ác, mà phải suy tư những cái việc lành.

Như chúng ta đã học biết trong Thập Thiện thì có mười cái điều lành và ngược lại đó là mười cái điều ác, vì vậy mà chúng ta nắm rất rõ, biết ác như thế nào mà thiện như thế nào, chớ đâu phải chúng ta không biết.

Khi mà học Thập Thiện rồi chúng ta mới thấy mười ác và mười thiện rất rõ. Do vì vậy mà chúng ta luôn luôn giữ được tâm mình ở trong cái lành chớ không có nên mà để cho một cái niệm ác nào ở trong tâm của mình.

4. Làm cho họ nghe điều chưa nghe;

(44:27) Nghĩa là thí dụ như, từ lâu bấy giờ các thầy chưa có nghe cái người nào (giảng): “Con người mà sinh ra đây là do ai mà sinh ra?”, rồi “Chết đi về đâu?”- thì các thầy chưa có nghe điều đó.

Mà Thầy đã giảng nghiệp để cho các thầy thấy: Chúng ta từ nghiệp mà sanh ra, chúng ta thừa tự nghiệp, chúng ta nối dòng họ nghiệp, rồi từ cái sanh ra đó rồi chúng ta sống lên thì chúng ta lại sanh ra nghiệp, rồi từ nghiệp nó lại trở lại sanh chúng ta.

Như vậy là chúng ta biết rằng, từ nghiệp mà sanh con người, rồi từ con người mà sanh ra nghiệp. Tức là như thế này: Nghĩa là từ ở chỗ nghiệp mà chúng ta sanh ra người, rồi khi chết chúng ta trở về cái nghiệp. Đó, vậy chớ chúng ta không có trụ xứ ở chỗ nào được hết.

Đó là những điều mà các con chưa nghe, chưa từng nghe, mà hôm nay đến nghe.

Cũng như các con suy nghĩ: Cái người mà tu thiền định, từ lâu chưa có nghe rằng người ta ngưng các hành ở trong thân, chưa có từng nghe người ta tịnh chỉ hơi thở, nhưng hôm nay được giảng dạy và được nghe: Những cái tịnh chỉ này như vậy mới gọi là nhập định. Thì quý thầy thấy chưa từng bao giờ nghe.

Mà cái bậc thiền đức người ta đã hiểu biết cái điều đó, cho nên chưa có nghe, người ta nói cho mình nghe để cho mình biết được những cái con đường tu nó đúng như vậy, nó làm chủ được sanh tử như vậy.

Chứ từ lâu thì mình nghĩ rằng mình tu như thế này thế khác là làm chủ sanh tử, chớ không ngờ rằng, bây giờ phải tịnh chỉ các hành, phải làm cho cái hơi thở ngưng, tập luyện cho nó ngưng, nó hoàn toàn nó không thở nữa thì đó là mới làm chủ được sanh tử.

Cho nên cái mà chưa được nghe, thì các bậc thiền đức này phải làm cho quý vị được nghe những cái mà chưa được nghe.

5. Điều đã được nghe làm cho họ hiểu rõ ra;

Điều mà bây giờ họ được nghe, như từ lâu Thầy nói: Phải tịnh chỉ hơi thở, tịnh chỉ các hành - thì các thầy nghe mà chưa có rõ. Bây giờ Thầy lại nói rằng: Bây giờ ở đây Minh Tông hoặc là Thiện Thuận đã tịnh chỉ được hơi thở, đã ngưng được các hành bằng cách là xả được nửa thân, rồi nửa thân nó còn hoàn toàn chưa xả được.

Đó rõ ràng là trong khi đó chúng ta đã rõ được những cái điều kiện mà chúng ta đã nghe mà chúng ta chưa rõ.

Như từ hôm đó tới nay Thầy không tuyên bố, thì các thầy đã nghe biết rằng phải ngưng hơi thở, phải ngưng các hành, nhưng các thầy chưa rõ được, hôm nay lại thêm để cho các Thầy thấy rõ được.

Như vậy là chúng ta biết được con đường đi của chúng ta: Khi mà ngưng, rồi khi mà trở lại để phục hồi sự sống trở lại bằng cách như thế nào cho đúng cách. Như vậy là quý Thầy bây giờ lại rõ thêm một phần nữa!

Cho nên ở đây cái bậc thiền đức khi mà đã dạy cho người ta nghe những điều mà chưa nghe, rồi bây giờ đã nghe rồi, thì lần lượt cái vị thầy đó họ lại làm cho quý vị hiểu rõ ra, hiểu rõ ra, rất là rõ ra. Và cái hiểu rõ này phải có những người làm được thì mới hiểu rõ ra được, mới tin tưởng được.

Còn bây giờ Thầy làm cho các con hiểu rõ. Các con bây giờ chưa có tu tới đây, các con chưa tin được Thầy. Làm sao mà cái thân của mình mà lại nó ngưng có một khúc, còn một khúc nó không ngưng? Thì cái điều đó các con chưa có tin được đâu. Nhưng bây giờ nó đã rõ, có người đã thực hiện được, thì các con thấy rất rõ rồi, đâu còn gì sai nữa!

Cho nên có những người chứng minh được điều đó, chớ còn mà riêng Thầy nói không thì không chứng minh, tức là các con sẽ nghĩ quấy Thầy và nghĩ Thầy chỉ nói vọng ngữ mà thôi. Nhưng mà bây giờ có người chứng nghiệm được, thì chắc chắn là lời nói không vọng ngữ rồi.

Cho nên từng bậc mà Thầy mới giảng lần cho các con, chớ không khéo mà Thầy sẽ nói trước những cái điều mà con chưa có kinh nghiệm, chưa có sống ở trong đó được, thì các con cũng chỉ nói Thầy là chỉ nói vọng ngữ, nói láo mà thôi.

6. Mở bày con đường thiện.

(48:02) Luôn luôn lúc nào cũng nhắc nhở, vạch ra một cái lối đi cho những người Phật tử đi ở trên con đường thiện. Đi trên con đường thiện tức là sống ở trên cái cuộc sống thiện.

Đó là Phật dạy: Cái người thiền đức, giới đức này luôn luôn rất là thương yêu cái người Phật tử, luôn phải tập cho họ sống như thế nào đúng là con đường thiện, cho nên mở bày con đường thiện cho họ sống. Tức là cái đời sống của họ phải đời sống thiện chớ không được sống ác nữa, vì vậy mà giúp cho họ, hoàn toàn là cái người cư sĩ được giải thoát hoàn toàn. Đúng là cái pháp môn để cho họ sống được hạnh phúc, an vui trong gia đình của họ!

Như vậy là quý thầy đã thấy rõ tất cả những điều Phật dạy, từ cái người cư sĩ mà cúng dường cho Phật phải cúng dường như thế nào đúng và cúng dường như thế nào sai; cúng dường như thế nào mà không phi thời, cúng dường như thế nào là phi thời, quý thầy đã rõ.

Và đến khi mà các vị thiền đức đó dạy quý vị, nếu mà cứ đem những cái điều mà quý vị đã nghe nhàm tai rồi mà nhắc đi, nhắc lại, thì như vậy là những điều mà các vị chưa nghe, chưa hiểu thì quý vị đâu còn biết đâu mà nghe, hiểu được nữa! Cho nên các vị này còn những cái bước đường rất xa.

Cũng như bây giờ có những cái mà Thầy hiểu nhưng Thầy chưa nói ra là tại vì chưa có người đến đó. Mà chưa có người đến đó, nói ra thì các con, các thầy sẽ nghĩ rằng là Thầy chỉ nói dối mà thôi!

Cho nên ngày xưa Đức Phật nói như thế này: "Nếu mà Ta dạy các đệ tử Ta mà dùng Thần Túc Thông” - nghĩa là muốn hóa mưa, hóa gió, muốn một thân hóa nhiều thân – “nói ra, thì lúc bây giờ có người cư sĩ nói: “Có cái thần chú đó nó cũng làm được như vậy đó!"” - thì cái đó là phỉ báng lại cái lời của Phật nói rồi.

(49:34) Cho nên Đức Phật nói: "Ta dạy đệ tử của Ta không phải dạy Thần Túc Thông, mà dạy phải ở nơi thanh vắng, độc cư, đặt niệm trước mặt của mình, nỗ lực thực hiện quét sạch những lậu hoặc làm cho tâm được giải thoát, chuyên môn sống trong sự thầm lặng, đó là Ta dạy những người đệ tử.

Và bây giờ có những người mà thấy đệ tử Ta sống độc cư, không nói chuyện, sống trong thầm lặng, chuyên môn đặt niệm trước mặt, ngồi thiền rồi đi kinh hành…​ thì người nào cũng thấy, không có thể nào nói Ta dạy cái đó là sai được.

Ngoài những người này do Ta dạy, có những người khác không do ta dạy mà họ đã làm, sống đúng như vậy thì người đó vẫn phải được xem là những người làm đúng.

Còn những người mà Ta nói biến hóa ra lửa thế này, thế khác thì có người nói: "Có một thần chú cũng biến hóa ra lửa, ra cái khác…​” thì có cần gì mà phải học cái này!

Nhưng mà cái Ta dạy thì người nào làm được thì sẽ thấy sự giải thoát, chứng nghiệm cho người đó!”

Đó là lời Phật dạy như vậy, thì chúng ta thấy rất là cụ thể và thực tế. Đức Phật không bao giờ dạy chúng ta có thần thông, mà Đức Phật còn dạy chúng ta: Khi mà chúng ta có những cái đức nào mà chúng ta đã đạt được trong bước đường tu tập thì chúng ta hãy giấu, tức là hãy che đậy lại, đừng có phô bày ra, những cái điều đó là những cái điều không tốt.

Nghĩa là trên bước đường tu tập chúng ta có cái gì, chúng ta âm thầm, chúng ta không nói ra cho một người nào biết hết, hoàn toàn là không khoe khoang, và vì vậy mà mới thực hiện được cái đạo còn lâu dài. Còn nếu mà chúng ta mở miệng chúng ta nói thì cái đạo nó không lâu dài được.

Tại sao Thầy tuyên bố cho bốn vị ở đây? Tức là lẽ ra thì Thầy không tuyên bố nhưng vì Thầy thấy quý thầy có phạm phải những cái sai lệch nho nhỏ, chưa phải là lớn, cho nên Thầy muốn nhắc ra để cho quý Thầy thấy được để mà lấy cái gương hạnh của huynh đệ mình mà tu.

Vì những người đó đang làm được những cái điều này, cho nên lấy những cái đó để mà thực hiện chớ không phải là để đem ra để mà ca ngợi những người đó để làm gì.

Vấn đề là chúng ta còn đi nữa chớ không phải lấy cái đó mà làm cái chuẩn của chúng ta đạt được. Cũng như, thí dụ như quý thầy được Thầy nói đến những cái điều mình làm, không phải lấy đó mà mình thấy rằng mình hơn mọi người, không phải. Con đường mình đi đến giải thoát chớ không phải tới đó là dứt.

Đó, quý Thầy nhớ những cái điều này.

5- BỐN HẠNG NGƯỜI MẤT PHẨM HẠNH KHI CHẠY

(51:50) Người cư sĩ cần phải lưu ý: Có bốn hạng người sẽ mất phẩm hạnh khi chạy:

Đó bây giờ chúng ta là người cư sĩ đó, người tu sĩ đó, vì vậy mà chúng ta phải thấy rằng, khi mà chúng ta chạy nhảy, coi chừng chúng ta, những là tuổi trẻ, quý thầy mà còn tuổi trẻ hay chạy nhảy lắm! Cho nên do đó, chúng ta vội vã một cái gì đó thì nó cũng sẽ làm mất cái phẩm hạnh của một người tu.

Phật đem một cái ví dụ cho chúng ta thấy rằng có bốn cái hạng người mà không được chạy nhảy một cách tự do như vậy được:

1. Một nhà vua mão áo chỉnh tề, cân đai sáng chói mà chạy nhảy ắt sẽ mất cái phẩm cách của nhà vua;

Đó là chúng ta thấy: Một ông vua thì phải bệ vệ, chớ ông như vậy, chắc chắn là không ai - có thể chạy nhảy như vậy, ông vua chắc cũng không ai là tin ông đó mà là vua của mình hết!

2. Một thớt voi nai nịt đầy đủ, oai vệ mà chạy nhảy sẽ mất phẩm cách của thớt voi đó;

Tức là Đức Phật muốn nói đây là một cái thớt voi mà ra trận đó, nai nịt hẳn hòi, mà con voi này chạy nhảy như những con voi rừng ở trong đó thì con voi đó không phải còn là phẩm cách của một con voi chiến trận nữa.

3. Một nhà sư mà chạy nhảy sẽ mất vẻ khả kính của một tu sĩ;

Đó thì Đức Phật cho chúng ta là nhà sư, hiện bây giờ là các con là cư sĩ, nhưng mà sự thật các con đã được học ở đây, đương nhiên là các con là những người tu sĩ chớ không phải còn là những người cư sĩ nữa đâu. Vì các con tìm con đường giải thoát, đi vào cái mục đích giải thoát thì các con không có lý do nào mà nói tôi còn là người cư sĩ nữa.

Nghĩa là các con lần lượt phải dứt bỏ các gia đình của mình, những người thân thuộc của mình để mình đi vào một cái lộ trình giải thoát để chấm dứt sự đau khổ sanh tử của mình, để hoàn toàn thực hiện được cái sự chấm dứt đó, cho nên là các con lần lượt là trở thành những người tu sĩ rất tốt của đạo Phật sau này.

4. Một phụ nữ chạy nhảy sẽ mất phẩm cách, không còn đoan trang phong nhã nữa.

Đó thì, một cái người phụ nữ mà chạy nhảy như mấy thằng, như mấy chú con nít hay hoặc là như những người thanh niên thì không thể được.

Vì một người phụ nữ phải đi đứng nhẹ nhàng, khoan thai thì người ta mới đánh giá trị cái người phụ nữ đó. Chớ còn không khéo thì chạy nhảy như con trai, thì chắc chắn là người ta xem cái người phụ nữ đó không có đoan trang, phong nhã.

6- MUỐN TU TẬP CÓ KẾT QUẢ PHẢI ĐI TỪ NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC

(54:18) Đức Phật lại dạy người phụ nữ: Khi về nhà chồng có mười điều cần phải hiểu và giữ gìn.

Đây là Đức Phật dạy, tất cả những gì mà ở trong cái gia đình của một người Phật tử thì Đức Phật dạy sạch hết, không có cái nào mà không dạy. Vì vậy Thầy thấy, mà dạy qua Thập Thiện rồi Thầy thấy cần thiết phải nhắc nhở những cái điều này, Thầy biết là nó lòng vòng.

Các Thầy thì có ý nghĩ như thế này: Mình thì muốn đi ngay vào những cái gì mà mình cần thiết, như bây giờ phải nhập định, phải tịnh chỉ hơi thở cái này cái kia, nó quan trọng, còn cái vấn đề này nó đâu quan trọng đâu!

Nhưng mà nhiều người người ta còn ở trong gia đình, người ta chưa có hiểu biết những cái gì mà đối xử với nhau hết, rồi mình nói Thập Thiện suông không thì người ta cũng chẳng biết áp dụng như thế nào. Bởi vì cái hành động của người ta thường sống, đối xử với nhau ở trong nhà người ta đâu có biết, làm sao mà thực hiện Thập Thiện như vậy được!

Cho nên nói ra tất cả những hành động sống này để chúng ta biết áp dụng vào Thập Thiện mà từ đó chúng ta mới có sự giải thoát được, từ đó hạnh phúc gia đình chúng ta mới có được. Rồi cũng từ cái nền tảng vững chắc này chúng ta mới trở thành một tu sĩ, mới có cái cách thức tu thiền định mới được.

Chớ bây giờ mà chúng ta nói: "Cái này không có cần thiết mà Thầy cứ giảng cái này, nó luộm thuộm quá, nó nhiều quá!" - thì cái đó là cái mình hiểu rất là cạn.

Mà mình phải nhắm ngay vào cái chỗ, từ cái đức hạnh, từ cái hạnh phúc của mọi người cư sĩ cho đến cái tu tập thiền định mà làm chủ lậu hoặc của mình cho đến rốt ráo, thì tức là nó phải đi qua một cái quá trình, nó từng lớp một chứ không thể nào mà nhảy ngang xương.

Vì nhảy ngang xương thì chúng ta, sau khi chúng ta tịnh chỉ được hơi thở, làm chủ được các hành - nghĩa là các hành ngưng - nhưng chúng ta sẽ bị lạc vào tà thiền chớ không thể nào mà Chánh Đạo được.

Vì cái tâm của chúng ta nó còn dính mắc, cái tâm chúng ta chưa được tịnh mà chúng ta cố ức chế nó để làm những cái điều này thì chúng ta sẽ rơi tà thiền, chắc chắn là chúng ta không phải là chánh thiền được, không phải là Chánh Định được, mà nó là tà định.

Mặc dù là các Thầy có thể tịnh chỉ hơi thở, (tim) có thể ngưng đập, các hành ngưng, nhưng mà tâm của quý vị chưa thanh tịnh - tức là chưa xả bỏ các ác pháp và cái lòng ham muốn của quý vị - thì chắc chắn là quý vị sẽ có những cái tà định rồi. Và từ đó các vị sẽ - cái bản ngã của các vị sẽ to lớn theo cái sức thiền định của mình, và các vị sẽ chạy vào danh, lợi và sắc dục.

Hầu hết là có một số người tu mà không có nền tảng vững chắc này, thì đã đưa họ đi đến cái chỗ sa ngã. Như chúng ta nghe vị giáo chủ này, vị giáo chủ kia, họ tu tập một thời gian ở trong định có những cái sự vi diệu, rồi từ đó họ đem ra họ phổ biến.

Nhưng cái tâm dục, tâm ham muốn họ chưa sạch, cho nên từ đó - cái ham muốn đó - bắt đầu họ khoe khoang, và họ thực hiện những cái này, mọi người thấy quá kính phục, từ đó họ bám theo cái vị thầy này. Từ chỗ đó thì vị thầy này sẽ bị sa ngã: Thứ nhất là lợi - tiền bạc, thứ hai là danh, thứ ba là sắc dục.

Nghĩa là khi mà đã có tiền bạc, có danh thì đám phụ nữ sẽ bu quanh. Mà đám phụ nữ sẽ bu quanh người đó, chắc chắn sớm muộn - người đó chưa phải hết cái tâm dục - thì chắc chắn là sẽ vợ ba, vợ năm, vợ tư chớ không phải là một bà đâu!

Cho nên hầu hết là cái sai lệch của các bậc giáo chủ mà không có tu cái tâm thanh tịnh cho nên khi mà có thiền định, khi mà có chút ít thần thông thì bắt đầu từ đó bị rơi ngã hết, không còn giữ được cái phẩm hạnh của một người tu.

Còn bây giờ chúng ta xây dựng một con người tu tập theo đạo Phật thì tức là chúng ta phải lấy cái phẩm hạnh của con người để diệt trừ cái tâm ham muốn, để xa lìa các lậu hoặc của nó, từ đó chúng ta đi vào thiền định vững chắc là Chánh Định, không còn tà định nữa.

Bản ngã chúng ta không còn, do đó chúng ta không còn say mê danh, lợi và sắc dục, thì như vậy chúng ta mới thoát ra khỏi cái vòng đau khổ, luẩn quẩn của sanh tử!

7- ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI CON DÂU TRONG GIA ĐÌNH

(57:43) Ở đây Đức Phật dạy cái người phụ nữ khi về nhà chồng, thì thứ nhất là Đức Phật dạy:

1. Nếu con nhận thấy cha mẹ chồng hay chồng có chi lầm lỗi…​

Nghĩa là mình ở trong nhà mình thấy cha mẹ mình hay hoặc là chồng mình có những lầm lỗi.

…​ thì không nên đem chuyện xấu trong nhà thuật lại cho láng giềng đầu này hay đầu kia.

Đó Đức Phật dặn là cái người phụ nữ mà khi về nhà chồng, thấy chồng mình hoặc là cha mẹ chồng có những cái lầm lỗi - bởi vì con người thì làm sao ai không phải có cái lỗi - mà mình thấy cái lỗi đó, mình đem ra mình nói cho người này người kia biết ở trong xóm làng, hay hoặc là cha mẹ ruột của mình, thì làm những cái điều đó người ta khi dễ cha mẹ chồng và chồng mình thì mình có xấu hổ không? Tức là mình xấu hổ.

Cho nên, Phật dạy cái người phụ nữ khi mà về nhà chồng thì không nên đem chuyện lỗi lầm của cha mẹ chồng hoặc chồng mình nói cho người này biết, nói cho người kia biết.

Phật nói:

Bởi vì không có lửa nào tệ hại như lửa này!

Nghĩa là lửa từ trong nhà mình mà đốt ra ngoài đó, thì không có cái lửa nào tệ hại như lửa đó. Đức Phật đem cái ví dụ, lấy cái lửa mà Thầy thấy quá là tuyệt vời :

Không có lửa nào tệ hại như lửa ấy.

2. Nếu có người láng giềng đàn ông, đàn bà nói xấu cha mẹ chồng hay chồng, không nên đem những lời phỉ báng ấy về lặp lại, và nói rằng người nọ, người kia nói điều xấu này hay điều xấu kia, xấu khác về gia đình mình.

Thì nếu mà ở ngoài mình nghe được người ta chỉ trích chồng mình hay là cha mẹ chồng mình thế này thế khác, thì mình không nên đem về mình lặp lại cha mẹ chồng với chồng mình.

Bởi vì Đức Phật nói:

Không có lửa nào tệ hại như lửa ấy.

Từ ở nhà người ta mình đem vô trong nhà mình, để cho gia đình mình nghe người ta nói xấu tức vậy đó, thì cha mẹ mình tức giận, chồng mình tức giận, cái bắt đầu lại gây hấn với người ta, đánh lộn người ta, tạo nên những cái cảnh bất an cho xã hội, tạo cho cái cảnh mà rối loạn ở trong chòm xóm với nhau.

Cho nên mình nghe, nhưng mà từng đó mình tìm cách: Bây giờ thật sự cha mẹ chồng mình hay chồng mình nó có những cái lỗi đó thì mình tìm cách mình khuyên răn, chớ mình không có nói cái người làng xóm đó họ chê cha mẹ mình như thế này thế khác.

Do như vậy mình tạo cho cái gia đình của mình bất an liền tức khắc. Vì vậy mình phải giấu những cái điều này, nhưng mình phải xét coi nó có đúng hay không?

Nếu không đúng tức là họ đã nói xấu cha mẹ chồng mình với chồng mình thì mình không chơi với những người đó nữa. Tức là mình không đến với những người đó nữa.

Cho nên Phật dạy:

Bởi vì không có lửa nào tệ hại như lửa ấy.

Lửa ở ngoài cứ đem vô đốt trong nhà mình để làm cho gia đình mình xào xáo đó, cái điều đó là cái điều rất xấu, rất tệ đó!

3. Chỉ cho mượn những người nào mượn mà trả lại.

(01:00:31) Nghĩa là mình giúp đỡ người khác, mình cho người ta mượn, nhưng mà những người đó phải trả lại, còn những người mượn mà lấy luôn thì không nên cho.

Bởi vì Đức Phật dạy bảo như thế này Thầy thấy, nếu mà cho cái người đó mượn mà họ lấy luôn, thì cái sự kiện đó xảy ra thì cha chồng mình, hoặc là mẹ chồng hoặc là chồng mình sẽ đánh mình, nói sao mình ngu quá vậy? Cái người đó là người mượn không trả mà cứ cho họ mượn rồi họ lấy luôn làm sao? Của mình làm bằng mồ hôi, nước mắt!

Cho nên Đức Phật dạy: Cái người phụ nữ mà về làm dâu phải cẩn thận chỗ này. Biết cái người đó mượn trả thì mình cho mượn, mà mượn mà không trả nhất định là không có cho mượn. Vì mượn rồi đây rồi mình sẽ bị những cái sự bất an ở trong gia đình của mình, cái sự khổ sở.

Đó là Đức Phật dạy cái thứ ba. Cái thứ tư:

4. Không nên cho mượn những người mượn rồi giữ luôn không trả lại.

Đó là cái thứ tư.

Như hồi nãy Thầy đã giảng rồi, người cho mượn trả thì chúng ta cho mượn, mà người mượn mà không trả thì chúng ta không cho mượn.

Đó là phần thứ tư. Phần thứ năm:

5. Những người thân bằng, quyến thuộc nghèo khó cần con giúp đỡ, con hãy giúp đỡ họ dù họ có ở trong vị thế có thể trả lại được hay là không được.

Nghĩa là trong dòng họ mình có những cái người mà họ quá nghèo khổ thì mình cần giúp đỡ họ. Mà mình giúp đỡ họ thì không phải để đợi cho họ trả mình mình mới giúp đỡ, vì đó là những người thân ở trong dòng họ của mình, trong dòng họ chồng mình.

Do vì vậy đó, mình giúp đỡ họ thì những cái hành động giúp đỡ này mình cũng phải báo lại: Bây giờ anh Năm, anh Ba, anh Tư hay hoặc là chú Bảy, chú Tám gì đó…​ đã nghèo khổ quá, mà bây giờ mình thì có ăn dư thì mình giúp đỡ họ. Họ có thì họ trả lại mình, mà không có thì mình cho luôn họ.

Mình cũng nói báo cho gia đình của mình biết như vậy: "Con đã báo cho ba má như vậy, bây giờ con mới giúp đỡ họ. Vậy thì ba má hay là chồng có bằng lòng không?" Nếu bằng lòng thì mình mới làm, còn nếu mà không bằng lòng thì mình không nên làm.

Là vì mình làm mà người ta không trả lại mình thì mình chịu trách nhiệm đó rồi cha mẹ chồng hay hoặc chồng mình sẽ đay nghiến mình.

Đó là những cái lời mà Đức Phật dạy, một cái người làm dâu về phải biết những cái điều đối xử này.

Mà nếu mà không biết đối xử này thì dòng họ bà con họ thấy rằng: "Cái bà dâu này về, bả không bao giờ giúp đỡ cho dòng họ chút nào hết. Bả về bả quản lý, bả nắm hết tiền bạc mà bả không có cho ai. Hồi trước thì không có ai, thì mình còn qua mình mượn, mình này kia được. Bây giờ có bả rồi, bả về, hỏi bả bả không cho mình!"

Thì như vậy càng ngày cái tiếng mình càng xấu, và người ta không hiểu được. Còn mình làm cái gì đâu nó chơn chánh như vậy.

Đó thì những cái điều mà Phật dạy Thầy thấy quá là hay, cho nên Thầy mới ghi ra đây tất cả để cho chúng ta hiểu biết được.

Mặc dù bây giờ chúng ta là những người tu hành rồi nhưng chúng ta cũng phải hiểu biết qua một cái góc độ của cái người cư sĩ còn ở trong cái cuộc sống như mọi người khác, mà phải biết cách đối xử như vậy mới đúng.

(01:03:16) Phần thứ sáu:

6. Ngồi một cách an vui.

Nghĩa là mình ngồi trên một cái ghế hay hoặc nơi đâu đó mà tâm mình được an vui. Thì như vậy ngồi an vui là như thế nào?

Có nghĩa là khi thấy cha mẹ chồng hay chồng đến gần thì con phải đứng dậy để tỏ ra mình tôn trọng chứ không nên ngồi yên đó.

Đó thì, mình ngồi mình yên ổn được, mình ngồi một cách an vui được thì tức là mình có những cái lễ độ của mình, thì sau khi mà những người đó đi qua rồi thì mình nghe cái tâm mình nó an ổn.

Còn nếu mà khi mình ngồi lỳ đó, mình không có đứng dậy chào những người đó thì khi những người đó qua rồi người ta thấy: “Con dâu này sao nó không có lễ phép gì hết! Cha mẹ đi ngang qua mà nó chỉ ngồi ì đó ra, nó không có đứng dậy chút nào hết!”

Thì đó là cái lễ độ của một cái người phụ nữ khi về nhà chồng, đối với chồng cũng như là đối với cha mẹ chồng, có vẻ cái cung kính chồng, có vẻ cung kính cha mẹ chồng như vậy thì người ta thấy người ta rất thương mến.

Còn mình ngồi ì, mình coi không ra gì hết, họ đi đâu đi kệ họ, thì đó là người ta sẽ thấy, đánh giá trị mình là cái người thiếu cung kính.

Đó là phần thứ sáu. Phần thứ bảy:

7. Ăn một cách an vui.

Ở đây, ăn một cách an vui như thế nào?

Có nghĩa là con không nên ăn trước cha mẹ chồng hay chồng, mà phải coi dọn đầy đủ cho cha mẹ chồng và chồng rồi mới ăn.

Nghĩa là mình dọn cái mâm cơm đó rồi, nhưng mà cơm thì chưa xới, cái này chưa xới, mà mình vô mình ngồi mình xới cái mình ăn, cha mẹ chồng thì cái chén không đó, để đó, thì như vậy là Đức Phật nói mình ăn mà được ngon, yên vui, thì tức là mình phải ăn sau và mình phải xới cơm cho cha mẹ chồng, rồi cho chồng, rồi tới mình; rồi bắt đầu mình mời mọi người; rồi mọi người người ta cầm đũa người ta ăn rồi mình mới ăn.

Tức là Phật muốn nói là mình ăn như vậy là mình ăn một cách rất an vui. Còn mình vô cái mình xới cho mình mình ăn, còn bao nhiêu người khác thì mình không có xới, thì như vậy mình ăn không có an vui đâu!

Đúng vậy, Đức Phật dạy cái này Thầy thấy rất là hay. Vì trong gia đình chúng ta nó có những cái trật tự, tôn ti như vậy, nó làm cho cái bữa ăn mình rất là ngon ngọt, nó không có một cách ăn uống mà không yên.

(01:05:32) Về phần thứ tám là:

8. Ngủ một cách an vui.

Đức Phật nói: Ngủ một cách an vui, cái người làm dâu về mà ngủ an vui đó, thì phải làm như thế nào mà mới được an vui?

Có nghĩa là con không nên đi ngủ trước cha mẹ chồng và chồng. Con phải lo làm bổn phận của người vợ rồi mới nằm xuống ngủ.

Tại sao vậy?

Khi mình ngủ trước, cha mẹ vô ngủ sau thì ai xả mùng cho ông bà? Cho nên vì vậy đó mình có ngủ ngon không? Không có ngon đâu! Đó là mình phải ngủ sau, cha mẹ chồng ngủ rồi mình xả mùng này kia rồi cho xong, rồi thì tới chồng lên ngủ, rồi thì mình cũng xả mùng rồi bắt đầu đó mình mới lên ngủ sau.

Và như vậy đâu đâu nó cũng ra đó, nó không có…​. Còn mình ngủ trước, thì lúc bấy giờ đó mình ngủ trước mình chưa có xả mùng, thì người chồng lên ngủ sau thì phải xả mùng, như vậy là mình thiếu bổn phận làm vợ.

Do cái chỗ này mà Đức Phật dạy, không phải đây là cái tôi tớ, mà đây là cái nhiệm vụ và bổn phận của một cái người phụ nữ về nhà chồng phải làm những cái bổn phận đấy, chớ không phải là cái người tay sai trong gia đình.

Mà làm như vậy là có vẻ mình cung kính những cái người thân của mình, mình phải làm cho họ vui lòng để cho họ được an ổn. Vì vậy mà những cái hành động này là hành động rất là thực tế cho cuộc sống để được đầy đủ hạnh phúc trong một cái gia đình.

Thời nay nói cái điều này thì chắc chắn là Thầy thấy cũng khó lắm, bởi vì hầu mấy cô bây giờ thì họ không giữ được những cái điều này. Mà đem ra dạy những cái điều này mà các cô làm đúng thì chắc chắn là các cô sẽ được hạnh phúc!

Vì mẹ chồng, cha chồng ngủ mặc kệ, chẳng bỏ mùng, bỏ màn gì, ổng ngủ bả ngủ, ổng bả có bỏ thì bỏ không bỏ thì thôi, chớ mình chẳng cần. Rồi đi chơi hoặc này kia với chồng rồi thôi ở nhà không lo gì hết, do đó những cái nàng dâu như vậy thì tức là những cái nàng dâu không xứng đáng theo những cái đạo đức và phong cách.

Mà chính đây là cái phong cách đạo đức mà Phật đã dạy ra cho chúng ta biết rằng cái người phụ nữ phải làm những cái gì mới đúng là cái phong cách của cái người làm dâu, của người con ở trong gia đình.

Mà làm như vậy tức là người con hiếu thảo đối với cha mẹ chồng, thì cha mẹ chồng nào lại không thương người con đó? Còn thương hơn là con ruột của mình nữa, chưa chắc đã là con gái ruột mình đã làm được những điều này!

(01:07:45) Phần thứ chín:

9. Trông nom giữ gìn lửa.

Nghĩa là mình trông nom giữ gìn lửa trong nhà của mình như thế nào? Phật dùng những cái danh từ, khi mà nói thì chúng ta chẳng hiểu như thế nào hết.

Bây giờ Phật giải thích cho chúng ta nghe:

Có nghĩa là con phải xem cha mẹ chồng và chồng như lửa.

Nghĩa là phải xem như lửa, nếu mình gần lửa thì nó nóng, mà mình xa lửa thì nó không đúng.

Cho nên mỗi khi có việc với cha mẹ chồng và chồng phải hết sức thận trọng…​

Nghĩa là có dịp nào mình tiếp xúc này, kia là phải hết sức thận trọng. Thận trọng như thế nào?

…​ như khi làm việc với lửa vậy!

Cho nên khi mà tiếp xúc với chồng hoặc là cha mẹ chồng của mình phải hết sức thận trọng, đó là cái sự mình giữ gìn lửa ở trong nhà của mình. Không khéo thì một lời nói của mình vô tình đã làm buồn phiền cha mẹ chồng hay chồng.

Cho nên rất là cẩn thận, làm một việc gì mà gần gũi cha mẹ chồng với chồng mình được xem như là mình gần lửa, nếu mà mình không khéo thì bị phỏng tay đó, mà sát quá thì bị nóng đó! Cho nên nó như thế nào thì nó mới là bảo đảm được cái hạnh phúc của mình.

10. Tôn trọng các vị Trời trong nhà.

Đức Phật dạy người phụ nữ mà làm dâu phải tôn trọng các vị Trời ở trong nhà. Vậy các vị Trời này là ai đây?

Có nghĩa là con phải coi cha mẹ chồng và chồng như Trời.

Nghĩa là coi như là một bậc Trời thì mới là hạnh phúc, chớ còn nếu mình mà coi ông bà hay chồng mình như là cỏ rác thì coi chừng mình không sống ở đó lâu đâu!

Đó thì, những cái lời mà Đức Phật dạy như vậy, chúng ta khi mà ở trong gia đình, người con gái mà sắp sửa về nhà chồng thì chúng ta phải lấy ba cái đức. Cái đức nào? Đức nhẫn nhục, đức tùy thuận, đức bằng lòng, thì chúng ta sẽ xem như là cha mẹ và chồng như Trời đó.

Còn nếu mà chúng ta không nhẫn nhục, không tùy thuận, không bằng lòng thì tức là chúng ta sẽ không có ở yên ở trong gia đình đó đâu! Cho nên, thường thường là mẹ chồng hay là nàng dâu hay là cãi cọ, hay thế này thế khác, đều là do chúng ta không giữ được nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.

8- GÓP NHẶT NHIỀU HÀNH ĐỘNG THIỆN MỚI THÀNH NGƯỜI ĐỨC HẠNH

(01:09:44) Ở đây Phật đem một cái ví dụ:

Cũng từ một đống hoa, người ta nhặt ra từng cánh hoa để làm thành một tràng hoa. Cũng thế ấy, chúng ta được làm người, phải thu nhặt nhiều lần những hành động tốt mới thành người đức hạnh!

Các con nghe cái câu mà tóm lược lại ý này:

Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta tu mười cái điều lành này, thì Đức Phật ví như là từ ở trong một cái đống hoa rồi chúng ta nhặt từng cái cánh hoa, rồi chúng ta mới kết nó thành một cái tràng hoa đẹp đẽ.

Cũng thế, chúng ta được làm người nhưng mà chúng ta chưa hẳn là hoàn toàn đã tốt hẳn được, vì vậy mà chúng ta hàng ngày phải thu nhặt nhiều lần những cái hành động thiện của chúng ta, hành động tốt của chúng ta thì mới thành một cái người đức hạnh.

Chớ không phải là đức hạnh mà ngay liền là chúng ta làm được cái người đức hạnh liền đâu! Muốn làm được người đức hạnh, chúng ta phải nhặt từng cái hành động thiện, từ những hành động thiện đó góp nhặt lại chúng ta mới trở thành người đức hạnh.

Đó, đến đây thì quý vị đã hiểu biết được những cái điều mà người cư sĩ phải sống ở trong gia đình như thế nào để đúng cách.

9- GIỮ GÌN ĐOÀN KẾT TRONG ĐẠI GIA ĐÌNH PHẬT GIÁO

(01:10:59) Còn có một phần nữa là sẽ hết. Cái phần này là cái phần đoàn kết nhau ở trong gia đình cũng như ở trong những cái tập thể. Vậy thì cái phần này Thầy xin dạy tiếp:

Này các thầy!

Các thầy là những người từ bốn phương, kẻ ở tỉnh này, người ở tỉnh khác khắp cùng trong đất nước về đây tu học theo Thầy, cùng một giáo pháp của Đức Phật, cớ sao các thầy lại tị hiềm, ganh ghét nhau, tranh tụng, mạ lỵ nhau không kể gì đến anh lớn, em nhỏ?

Lại luôn luôn tìm những khuyết điểm của nhau, thay vì chỉ dạy cho nhau lại đem ra bêu xấu với người này, người khác, thì còn gì đạo nghĩa con người, thì còn gì là anh em một thầy? Đánh nhau bằng kiếm lưỡi, miệng gươm, chẳng biết thương xót nhau chút nào!

“Thố tử, hồ bi” - Con thỏ chết, con chồn còn đau đớn, khóc thương, huống chi chúng ta là những con người học đạo cùng thầy, cùng đạo từ bi của Đức Phật, thế sao chúng ta không từ bi chút nào cả?

“Bầu ơi thương lấy bí cùng,

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.”

Này quý thầy!

Quý thầy không cùng một cha, một mẹ sinh ra mà quý thầy sống chung dưới mái chùa, học chung cùng một đạo đức, cớ sao quý thầy lại không thương mà nỡ tâm đem chuyện xấu bêu nhau cho người khác cười chê?

"Xấu lá, xấu nem; xấu anh, xấu em” - Vô tình mà quý thầy đã hại lẫn nhau làm tai tiếng khắp cùng.

Rồi mọi người người ta tự hỏi:

"Tại sao những người tu sĩ Phật giáo lại đấu tranh nhau, lại bêu xấu nhau?

Họ phân ra nhiều giáo phái, họ phân ra nhiều tư tưởng, họ phân ra nhiều pháp môn để rồi họ bài xích nhau, họ chống đối nhau chẳng tiếc lời.

Họ luôn luôn chà đạp lên nhau, dày xéo lên nhau.

Họ bất đồng ý kiến, họ cho rằng: Chỉ có ta biết được điều này, còn ngươi thì không biết; Điều ta nói là đúng, điều người nói là sai; Pháp môn ta tu hành là đúng, pháp môn ngươi tu hành là sai; Điều ta hiểu là chơn chánh, điều ngươi hiểu là không chơn chánh; Pháp môn này tu trước ngươi lại tu sau, pháp môn này tu sau ngươi lại tu trước, sai lầm, rối loạn, đảo lộn tất cả, không có phép tắc; Điều ta làm tốt đẹp, điều ngươi làm không tốt đẹp…​"

Những điều tự suy luận trên đây là kiến chấp.

Đó là những cái lý luận ở trên mà Thầy đã nêu ra đó là những cái kiến chấp của mình. Mình chấp cái kiến của mình, mình chấp cái sự hiểu biết của mình.

Mà có kiến chấp tức là có ngã chấp.

Nghĩa là có cái sự chấp cái ý kiến của mình như vậy, cái hiểu biết mình như vậy tức là mình bị cái ngã chấp.

Mà đã có ngã chấp thì phải có hơn thua, tị hiềm.

(01:14:38) Đó chúng ta thấy, từ cái chỗ ngã của chúng ta mà chúng ta biết được cái gốc nó thì chúng ta hãy cố gắng mà tu Định Vô Lậu để diệt ngã, xả tâm của chúng ta, để chúng ta được giải thoát mà không còn hơn thua nhau nữa.

Có hơn thua, ganh tị thì phải có nói qua, nói lại, nói tốt, nói xấu.

Đó cũng chỉ vì danh - khen chê của mọi người mà anh em cùng một nhà xâu xé nhau. Từ đó, Tăng đoàn bị phân hóa, thiếu đoàn kết, anh em cùng một thầy, một tôn giáo mà chia rẽ nhau.

Đó, bằng chứng như chúng ta thấy bây giờ tôn giáo của chúng ta thiệt là tan nát, không còn một chút nào hết! Cùng trong một cái Phật giáo mà kẻ thì đứng pháp môn này, người thì đứng pháp môn kia rồi chỉ trích bài xích nhau.

Thầy thấy mọi pháp môn của Phật dạy không có pháp môn nào xấu hết. Người tu Đại Thừa cũng tốt mà người tu Tiểu Thừa cũng tốt, người tu thiền Đông Độ cũng quý, người tu Tịnh Độ cũng quý, người tụng niệm, cầu cúng, cầu an, cầu siêu cũng tốt. Tại sao vậy? Tại vì mọi cái đều là an ủi cho những người đau khổ, cho đời và chính cho mình nữa.

Cho nên, tất cả những cái này đâu có mà bài bác làm gì? Vì mỗi góc độ, mỗi phước duyên của con người đều đứng trong góc độ đó mà thực hiện những cái điều tốt cho Phật giáo.

Cho nên chúng ta thấy, chúng ta có đủ duyên tu tập đúng giới luật, có đủ thiền định làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi thì đó là cái phước duyên của chúng ta ở góc độ sâu hơn, cao hơn một chút, chớ chúng ta có hơn gì họ, vì chúng ta cũng là mọi con người!

Họ chưa đủ duyên, chưa gặp được những bậc minh sư, thiền đức, cho nên họ tu còn ở ngoài, cho nên vì vậy mà họ vẫn làm được những điều lợi ích cho xã hội.

Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng - vì cái tâm danh lợi của họ còn cho nên họ vẫn còn phải ham thích, se sua, sắm xe này, nhà kia, chùa lớn, tháp to, nhưng họ cũng giảm bớt biết bao nhiêu cái sự ham muốn của họ và họ cũng giảm bớt biết bao nhiêu sự ác của họ.

Họ cũng nghĩ: Làm cái chùa lớn là để cho mọi người đến chiêm ngưỡng, vẫn thấy được tôn giáo còn mãi mãi; dạy cho họ bằng những cái bài kinh này, bài kinh khác, viết ra những cuốn sách này, bài này là do Phật dạy như thế này, như thế khác là để họ hiểu họ làm lành, họ lánh những cái điều dữ.

Thì tất cả những điều mà quý thầy đang làm đều có lợi ích cho xã hội, đều có lợi ích cho mọi người. Giảm được góc độ này, lợi ích được góc độ này thì họ đủ duyên ngày mai họ đi sâu hơn trong con đường của Đạo Phật để chấm dứt sanh tử luân hồi.

(01:17:26) Cho nên chúng ta không nói xấu một người nào, không chê một pháp môn nào mà chúng ta hãy thấy rằng những pháp môn của mọi người đều là tốt cả, đều là của Phật giáo cả.

Vì vậy mà chúng ta đoàn kết được trong huynh đệ của chúng ta: Từ một ông thầy tụng niệm, cúng bái cho đến một ông thầy học thức đỗ tiến sĩ, cho đến một cái người tu thiền định trong rừng núi, cho đến một người tu Tịnh Độ niệm Phật suốt ngày…​ đều là anh em của chúng ta cả, không có gì mà chúng ta chia rẽ họ.

Chúng ta hãy thương họ, chúng ta hãy giúp đỡ họ khi chúng ta có đủ khả năng, giúp đỡ họ cho họ thực hiện những gì họ mong muốn, đừng bài bác họ.

Cũng như chúng ta thấy họ tu như vậy mà nó giữ gìn giới đức chưa được thì đó là cái phước của họ, không nên lấy chỗ sai giới đức đó mà chỉ trích họ làm cho họ buồn khổ, hoặc là làm cho họ căm tức để rồi sanh ra chia rẽ, chẳng ích lợi gì cho Phật Pháp mà càng đen tối thêm.

Ngoài mặt, họ tùy thuận theo mình…​

Nếu mình nói thế này, thế khác, ngoài mặt thì họ tùy thuận theo mình.

…​ nhưng trong tâm họ chẳng mến phục mình. Họ còn thầm khi bỉ anh em trong nhà mình nữa.

Nghĩa là mình nói ra thế này, thế khác hoặc chê cười pháp môn này, pháp môn khác, tuy ngoài mặt họ tùy theo mình, họ " ừ ừ hử hử" vậy cho qua mình, hoặc họ luận theo cái chiều hướng của mình.

Mà trong kinh điển của Phật dạy: Những người mà không ngăn chận những điều xấu của mình, mà họ cứ tùy theo mình, "ừ hử" theo mình để cho mình bộc lộ những cái điều xấu của mình càng lại xấu hơn, thì những người bạn đó là những người xấu.

Như Thầy đã giảng rồi thì các thầy đã thấy: Những người ngăn chặn mình là những người tốt; mà những người để cho mình nói xấu điều này, thế kia, họ cứ làm thinh hoặc là họ "ừ hử" - họ theo mình đó, đó là những người xấu.

Và vì vậy mà mình lầm lạc cái này rồi mình lầm lạc đến cái khác, để rồi mình chỉ trích pháp môn này, chỉ trích pháp môn khác, rồi luận thế này, luận thế khác. Mình thường sống mình để ý qua những lời Phật dạy: Những cái người mà chê pháp môn này, chê pháp môn khác, đó là những người xấu chớ không phải là những người tốt.

Họ xấu là vì họ muốn ca ngợi cái danh của họ, họ muốn làm cho tu cái pháp môn của họ hay, cho nên họ muốn dìm các pháp môn của người khác xuống để cho họ trở thành những cái giáo chủ có những cái đường lối, pháp môn tuyệt vời để cho mình tin mình theo.

Nhưng khi mà người ta mở miệng ca ngợi pháp môn của người ta, thì lúc bấy giờ chúng ta biết rằng, những người đó là những người không tốt và là những người xấu.

Như vậy thì chúng ta rất sáng suốt, qua cái bài học này chúng ta đã nhận được những cái đúng, cái sai, cho nên chúng ta chỉ biết âm thầm, lặng thinh, không phê phán ai cả.

(01:20:13) Xưa Đức Phật cũng một lần vào rừng ẩn bóng cũng chỉ vì chúng ta chia rẽ, thiếu đoàn kết.

Nghĩa là trong thời Đức Phật, có một lần trong cái mùa hạ đó Đức Phật phải vào rừng ẩn bóng, vì chúng Tỳ Kheo lúc bấy giờ họ tranh nhau, họ đấu tranh nhau bằng miệng, bằng lưỡi của họ, họ không có đoàn kết nữa, cho nên Đức Phật bỏ đi vào rừng mà nhập hạ cái an cư mùa hạ năm đó.

Sau đó thì nhờ quý thầy lớn giải quyết được làm cho đoàn kết trở lại, rồi họ đến họ xin Đức Phật trở về vì chúng tăng đã đoàn kết.

Cho nên Thầy nghĩ rằng, cái duyên mà Thầy ẩn bóng cũng là có một điều đau khổ nhất là đệ tử của Thầy. Cho nên Thầy không muốn ở đây để mà người ta lại tạo thêm những cái tội.

Khi nghe một cái người khác nói về Thầy bằng cách này, bằng cách khác thì người ta phỉ nhổ lên Thầy, thì lúc bấy giờ Thầy là một người tu hành có giới đức thanh tịnh mà họ phỉ nhổ lên thì họ phải chịu lấy cái hậu quả đó, cho nên rất là đau khổ! Vì vậy mà Thầy ẩn bóng thì họ còn lấy đâu mà phỉ nhổ Thầy? Cho nên họ thoát ra tội lỗi.

Và cái người đệ tử theo Thầy mà nói điều này, thế kia, thì họ cũng thấy Thầy ẩn bóng rồi thì có nói Thầy thế nào thì Thầy cũng không còn đón danh, đón lợi nữa hết.

Bởi vì khi ẩn bóng thì mình đâu có chường mặt ra gặp ai đâu, mình đâu có còn tiếp với tiền, với bạc, với danh với lợi nữa đâu? Cho nên dù vi tế hay hoặc là không vi tế vẫn là bỏ sạch xuống, đương nhiên coi Thầy ẩn bóng là đã bỏ hết như người đã chết.

Vì vậy mà danh lợi đối với Thầy thì nó không còn nữa. Khi đã ẩn bóng thì tức là không còn giáp mặt với danh, với lợi, với một cái gì rất nhỏ mọn.

Cũng như bây giờ, khi mà Đức Phật đã thị tịch cách đây hai ngàn năm trăm bốn chục năm, bây giờ người ta có ca ngợi Đức Phật cách gì thì Đức Phật cũng đâu còn đón nhận những điều đó nữa, hoàn toàn Đức Phật đã trả lại cho tất cả mọi người!

Vì thế mà hôm nay, những cái ý nghĩ mà Thầy ẩn bóng là do các đệ tử của Thầy, Thầy đã thấy nó không hợp thời, nó không đúng lúc, đã làm biết bao nhiêu người tội lỗi khi họ không hiểu, họ phỉ báng, họ chê bai, hoặc họ ca ngợi Thầy một cách không đúng cách.

(01:22:08) Thầy sẽ đọc lại bài kệ mà Đức Phật đã dạy chúng Tỳ Kheo trong thời đó:

Các thầy phải kính thuận

Kiến lập về Phật Pháp

Nghĩa là, Thầy đã dạy những cái điều đức hạnh về Phật Pháp thì quý thầy phải kiến lập nó thành một cái đường lối lớn để cho mình bước đi ở trên đó.

Phải diệt chúng ma này

“Chúng ma” tức là chúng ma mà tranh chấp nhau đó, chúng ma mà bêu xấu nhau đó, đó là Phật gọi là chúng ma đó.

Phải diệt chúng ma này

Như voi phá rừng lau

Cái sức con voi, mà cái rừng lau thì các con biết cái rừng lau có nhằm nhò, phải chi cái cây lớn thì nó nhọc nhằn, còn đối với voi, thì nó đi ngang qua thì cái rừng lau nó quét sạch hết, các con biết.

Thì Đức Phật ví như chúng ta phải quét sạch những cái bất hòa, những cái chấp kiến, những cái chấp ngã, để rồi chúng ta hoàn toàn đi lệch lạc, đi sai lạc, làm chúng ta đau khổ, làm chúng ta chia rẽ. Chúng ta phải dùng chính sức của mình mà phá nó như là voi phá rừng lau.

Chuyên niệm, chớ buông lung

Nghĩa là lúc bấy giờ chúng ta đặt niệm luôn luôn ở trong thân và tâm của mình để giữ cái tâm không có cho buông lung ra, không có cho theo cái chiều ham muốn danh lợi khen chê đó nữa, không có theo cái tình đời nữa, mà phải là tình đạo.

Đầy đủ về tịnh giới

Tức là lấy giới luật của mình làm cho thân tâm mình thanh tịnh.

Tâm tịnh tự suy niệm

Tâm mà nó định được thì mình hãy cố gắng suy niệm để quét sạch những cái điều sai đó.

Khéo giữ ý chí mình

Luôn luôn lúc nào mình phải lập trường, ý chí mình rất vững vàng, không có để cho tâm buông lung, không có để cho mất đoàn kết, phải thương yêu nhau, phải giúp đỡ nhau.

Đó là bài kệ thứ nhất.

Bài kệ thứ hai:

Nếu ở trong Chánh Pháp

Những ai không buông lung

Thoát khỏi thân già, chết

Dứt hẳn các gốc khổ

Nghe rồi phải siêng năng

Đó, bốn cái câu kệ trước thì Đức Phật nói: Nếu mà mình thường sống ở trong Chánh Pháp, tâm mình không buông lung, thì mình sẽ thoát khỏi cái thân già, chết của mình đó, rồi dứt hẳn các gốc khổ.

(01:24:10) Đó là bốn câu kệ để chỉ định chúng ta phải sống đúng như vậy, hòa hợp như vậy, an vui như vậy thì gốc khổ nó sẽ tuyệt mất, và già, chết chúng ta cũng thoát khỏi.

Nghe rồi phải siêng năng,

Đức Phật căn dặn chúng ta đây:

Anh em phải hòa thuận

Như con cùng cha mẹ

Tránh xa lòng tỵ hiềm

Tránh xa nói xấu nhau

Để rồi thiên hạ cười

Anh em cùng một nhà

Tiếng tăm xấu vang xa

Anh xấu, em cũng xấu

Chính mình tự giết mình

Chính mình làm suy đồi

Phật Pháp không cửu trụ

Mất đi nguồn đạo đức

Thế gian sanh rối loạn.

Nghĩa là mình làm như vậy là cái đạo Phật nó sẽ bị mất đi, nó sẽ không còn mãi mãi, ba ngôi Tam Bảo sẽ mất đi, thì thế gian này lấy đâu mà nương tựa để thực hiện cái đạo đức nhân quả, cái đạo đức mà không làm khổ mình, khổ người? Cho nên vô tình mà chúng ta đã làm Chánh Pháp mất đi.

Vì vậy, vì cái sự mà người ta nhìn vào Tăng đoàn của chúng ta chia rẽ nhau: Người học trò nói xấu thầy, người thầy nói xấu học trò, thì điều đó là cái điều không phải.

Cho nên ở đây thì tất cả chúng ta phải cảnh giác và thấy cho đúng, để chúng ta sống cho đúng cái đạo, để ta mới thấy được cái tu hành của chúng ta. Còn nếu mà không sáng suốt một chút, vì cái lòng nhỏ mọn của chúng ta, vì những cái sự xúc chạm về cái ngã, cái tự ái của chúng ta mà chúng ta đã làm suy đồi Phật Pháp.

Đến đây các thầy cần phải suy ngẫm những lời dạy này để thực hiện đời - đạo cho đúng cách.

Dù là người cư sĩ hay là tu sĩ cũng phải siêng năng khắc kỷ mình, sống đúng phẩm hạnh của đạo Phật, đó mới làm vẻ vang cho đạo.

Bây giờ Thầy dạy quý thầy trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm.

Lần sau Thầy sẽ tiếp tục Thầy dạy quý Thầy trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm. Còn bây giờ thì hết giờ rồi, chúng ta nghỉ.

Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài giảng vừa rồi. Thầy nhắc lại để chúng ta nhớ:

Đến đây các thầy cần phải suy ngẫm những lời dạy này để thực hiện đời - đạo cho đúng cách.

Là đệ tử của Đức Phật, dù cư sĩ hay tu sĩ cũng phải khắc kỷ mình, sống đúng phẩm hạnh của đạo, đó mới làm vẻ vang cho đạo.

10- LỜI CẢNH TỈNH CỦA BA VỊ THIÊN SỨ

(01:26:35) Bây giờ Thầy giảng cho quý thầy trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm. Nhưng trước khi học trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm, Thầy sẽ giảng:

Người cư sĩ cần phải cảnh giác.

Bởi vì ở đây là cái phần, cái giai đoạn một là của người cư sĩ tu tập, cho nên chúng ta phải có cái sự cảnh giác.

Rồi sau đó thì Thầy sẽ giảng về Tẩu Nhập Ma, là vì có trường hợp mà mình ở đây có xảy ra, nhưng mà cái này là rất cụ thể để chúng ta được học những cái trường hợp để mà chúng ta cảnh giác, do đó chúng ta sẽ không bị lạc nữa.

Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục cái lời cảnh giác, người cư sĩ cần phải cảnh giác đó, như thế nào?

Chúng ta thấy biết rằng: Tuy chúng ta hiểu biết nhưng cái hiểu biết của chúng ta nó chưa có thâm sâu lắm, cho nên đôi khi chúng ta thấy cái thân của chúng ta, coi như chúng ta quý trọng chứ không phải không, nhưng mà rất xem thường cái thời gian qua của nó, nó đưa cái thân của chúng ta lần lượt đi vào cảnh chết mà chúng ta không hay biết!

Vì nó là cái vô thường diễn biến hằng ngày, nó thay đổi liên tục, cho nên chúng ta phải cảnh giác nó, rất là cảnh giác, chớ không khéo thì chúng ta sẽ bỏ mạng mà sau này không biết chúng ta có sanh lại làm người được hay không.

Đó là cái rất là quý tiếc. Vì có thân người này mới có thể tu tập được, còn nếu không có thân người này mà thân chúng sanh thì khó mà tu tập lắm.

Cho nên hôm nay chúng ta được cái quý báu là cha mẹ là người đại bố thí đã cho chúng ta được cái thân người và có một cái trí tuệ hiểu biết. Nhờ cái trí tuệ hiểu biết đó mà chúng ta biết được cái đúng, cái sai, cái ác, cái thiện, mà chúng ta đã đoạn trừ hay là trau dồi để cho chúng ta được giải thoát hoàn toàn, chấm dứt sự tái sanh luân hồi.

Cho nên đây là một cái thân rất quý giá. Mà rất là khó, Phật cũng ví như chúng ta được thân người là khó, như một con rùa mù ở giữa biển Đông rộng mênh mông như vậy mà tìm cái bọng cây, thì quý thầy hiểu được cái thân chúng ta rất khó chớ không phải dễ, đừng xem thường nó rồi mất đi rồi không bao giờ tìm lại được. Biết chừng nào mà chúng ta tìm nó?

Hôm nay chúng ta đủ duyên phước được thành làm người, có thân người, có trí tuệ và có được Chánh Pháp của Phật, thì đó là chúng ta đã đủ duyên.

Và quý thầy cũng còn đủ duyên là gặp được một bậc có kinh nghiệm tu hành, một bậc chân tu hướng dẫn, thì đó là cái phước báu vô lượng, vô biên của quý thầy từ nhiều kiếp chớ không phải trong một kiếp, hai kiếp đâu!

Bây giờ Thầy xin nhắc lại: Thường thường trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta thường thấy những cái vị sứ giả báo tin cho chúng ta biết, nhưng chúng ta không lưu ý điều đó, cho nên chúng ta vẫn ham vui vì dục lạc mà chúng ta quên ba vị sứ giả đó:

1. Vị sứ giả thứ nhất là già: Người già tóc bạc, răng rụng;

2. Người bệnh đau đớn, nhức nhối;

3. Người chết sình trương, hôi thúi .

1- GIÀ - VỊ THIÊN SỨ THỨ NHẤT

(01:29:59) Ở trần thế, quý thầy có thấy người nào già nua đầu bạc, răng rụng, mắt mờ, da thịt nhăn nheo, lưng còng, chống gậy, đi đứng lụm cụm, thân thể run rẩy, sức khỏe hao mòn?

Ở đời thì quý thầy có thấy những cái hình dáng đó không? Chắc chắn là điều đó là quý thầy đã thấy nhiều lắm rồi. Từ khi chúng ta sanh ra cho đến bây giờ, chúng ta đã thấy biết bao nhiêu là người già cả, biết bao nhiêu là người run rẩy, biết bao nhiêu là cái sự khổ đau của người già. Đó là điều mà không thể chối cãi được.

Mà ở đây, đó là một cái thiên sứ để báo cho chúng ta biết cái sự đau khổ như vậy đó, để mà chúng ta cảnh giác chính bản thân mình.

Vì hồi nãy Thầy có nói là được thân người rất khó, mà chúng ta không khéo để nó già như vậy thì chúng ta khó mà tu.

Cho nên Phật nói: “Già là khó tu, bệnh đau là khó tu”, thế mà chúng ta không suy tư cái điều sâu sắc đó để mà chúng ta mượn cái thân người này, cái trí tuệ của con người này mà chúng ta vượt thoát ra biển trần lao đau khổ.

Đó là thiên sứ thứ nhất.

Quý thầy phải tự biết, đừng có tâm buông lung chạy theo thế tục, dính mắc ngũ dục lạc; phải chuyên tu Thập Thiện, tu tập và rèn luyện về thân, khẩu, ý của mình; từ bỏ việc ác, thực hành các điều lành thì mới thoát khỏi cảnh khổ đau của kiếp người.

Do tâm buông lung tạo ác mà quý thầy phải chịu. Không phải là lỗi của cha mẹ, không phải là lỗi của anh em, cũng không phải là lỗi của thiên đế, cũng không phải là lỗi của tổ tiên, cũng không phải là lỗi của hàng trí thức, cũng không phải là lỗi của đầy tớ, cũng không phải lỗi của những bậc tu hành, mà chính quý thầy làm mười điều ác nên chính quý thầy phải chịu tội lỗi đó!

Đó là cái vị thiên sứ thứ nhất báo cho chúng ta biết, đó là cái người già, nó lụm cụm, nó khổ sở như vậy, và đồng thời cái đó không phải là chính ai làm cho mình khổ đó, mà chính mình buông lung, cái tâm của mình chạy theo ngũ dục lạc, ham thích, cho đến khi già yếu thì mới thấy được cái khổ đó.

2- BỆNH - VỊ THIÊN SỨ THỨ HAI

(01:32:25) Vị thiên sứ thứ hai, quý thầy có thấy chăng?

Đó là những kẻ bệnh tật, khốn khổ, nằm lăn lóc trên giường bệnh, thân thể lăn lộn trên phẩn, giải hôi thúi; không thể đứng dậy được; ỉa, đái một chỗ, cần phải có người đút cơm cho; đau nhức từng lóng xương; nước mắt chảy dầm dề; không nói năng được…​

Quý thầy có thấy những người như vậy chăng trong cuộc đời này?

Chắc chắn là điều này chính bản thân chúng ta cũng nhận ra được. Bản thân chúng ta có nhiều khi đau đớn, nhức nhối, có nhiều khi chúng ta đứng dậy không nổi, có nhiều khi những người mà đau thần kinh tọa Thầy thấy cũng là rất khó khăn khi ngồi cũng như khi đứng.

Đó là những cái mà chúng ta thấy rất khó. Rồi hiện giờ thì nhiều thứ bệnh chớ không phải một loại bệnh, cho nên bệnh rất là khổ. Chúng ta bữa nay mạnh, ngày mai đau chúng ta đâu biết chừng!

Cho nên hôm nay, chúng ta làm chủ được cái Thọ thì chúng ta không còn sợ bệnh đau nữa, tâm chúng ta sẽ bất động, vì vậy mà chúng ta phải cố gắng mà tu tập. Tu tập làm sao làm chủ được cái già, làm chủ được cái bệnh, làm chủ được cái chết thì đó là một cái vấn đề quan trọng của kiếp con người.

Vì những ba cái điều này là nó vây quanh chúng ta, nó làm chúng ta quá khổ, nhưng chúng ta quên đi. Vì ngũ dục lạc cám dỗ chúng ta quá nhiều cho nên chúng ta quên đi, vì vậy mà chúng ta để mất cái thời gian rất lớn.

Vì buông lung, quý thầy không tự biết nên không chịu tu tập về thân, khẩu, ý; từ bỏ mười điều ác, thực hiện mười điều lành, nên phải chịu lấy những sự khổ đau này.

Những sự khổ đau này không phải do ông bà, tổ tiên hay những người khác mà chính quý thầy tạo ra nó.

Đó, cái gì cũng chính mình. Nếu mà mình dừng cái tâm buông lung, phóng túng, phóng dật mà chạy theo sự cám dỗ của ngũ dục lạc, thì chắc chắn là mình sẽ đình chỉ ở trong mười cái điều ác, mình thực hiện được mười điều lành, thì đem đến hạnh phúc, và bệnh đau này chắc chắn là không đến với mình.

3- CHẾT - VỊ THIÊN SỨ THỨ BA

(01:34:28) Vị thiên sứ thứ ba, quý thầy có thấy chăng?

Đó là một người chết, mạng chung; thân hư hoại, các giác quan đều diệt hẳn, thân thể ngay đơ cũng như cây khô; vứt bỏ ngoài gò mả cho cầm thú ăn thịt, hoặc để trong quan tài dùng lửa thiêu đốt.

Đó là do tâm buông lung cho nên không tu tập về thân, khẩu, ý của mình, cải đổi mười điều ác, tu tập sống theo mười điều lành, do vì thế, quý thầy phải chịu cái khổ đau do tâm buông lung này.

Chính quý thầy làm nên tội cho mình, chẳng phải cha mẹ, anh em cùng tất cả những người thân quyến thuộc, chính vì hành động ác của mình mà phải gánh chịu hậu quả khổ đau đó.

Đó là Phật nêu ra ba cái vị sứ giả để cho chúng ta thấy rằng, luôn luôn lúc nào nó cũng nhắc nhở. Thì Thầy tin rằng trong cuộc đời chúng ta nếu không bước ra đường chứ bước ra đường thì chúng ta vẫn thấy người già, rồi người bệnh, rồi người chết, chắc chắn là nhan nhản trước mắt của chúng ta, liên tục chớ không phải không.

Hằng ngày nếu mà chúng ta có dịp đi về thành phố thì không ngày nào mà chúng ta không thấy cái xe mà chở quan tài có người chết. Và nếu mà chúng ta đến bệnh viện, nhà thương thì chắc chắn chúng ta sẽ thấy biết bao nhiêu là người bệnh đau, khổ sở, mổ xẻ; thấy mà ghê gớm, sợ hãi.

Thế mà chúng ta không cảnh giác được mình, cứ nghĩ rằng cái thân này còn dài lắm, nhưng thời gian còn ngắn quá, không có đủ cho chúng ta tu tập nữa!

4- KHÔNG LÃNG PHÍ THỜI GIAN NHƯNG PHẢI TU ĐÚNG CÁCH

(01:36:18) Vì đó là những vị thiên sứ nhắc nhở cho chúng ta, cho nên chúng ta hãy suy tư, ngẫm nghĩ: Có thân người là quý, mất thân người biết bao đời tìm lại được?

Vì suy nghĩ, vì đắn đo kỹ lưỡng, chúng ta thấy đời chẳng có gì hết, chỉ là nhân quả theo nhau mà vay, trả chớ không có gì khác. Do đó, chúng ta vứt bỏ xuống để rồi chúng ta thực hiện được những gì để giải thoát chính mình, bứt những sợi dây xiềng xích, thoát ra khỏi cảnh đời đầy ô trược và đầy cám dỗ.

Hằng ngày quý thầy thường thấy ba vị thiên sứ luôn nhắc nhở cho chúng ta, thế mà có ai ngờ đâu, đến chừng thọ khổ thì: Ôi thôi! Cuộc đời sắp tàn rồi, còn làm sao kịp nữa!

Thầy xin nhắc lại bài kệ mà Thầy đã có lần đọc cho quý thầy nghe:

Tấc bóng thời gian một tấc vàng,

Tấc vàng dù mất còn tìm được,

Tấc bóng thời gian khó hỏi han.

Đó, quý thầy thấy cái bài kệ mà Phật đã nhắc nhở chúng ta: Từng chút thời gian không nên phí nó.

Nhưng chúng ta đừng vội vàng mà nông nổi tu điên, tu khùng làm cho rối loạn cơ thể thì điều đó là điều sai. Tu phải vừa với sức của mình, phải tùy theo khả năng của mình mà tu tập, chớ không phải nghe như vậy rồi vội vàng, nông nổi tu liên tục, không nghỉ ngơi, chúng ta có sức đâu mà chịu nổi? Vì vậy mà đưa đi đến những bệnh tật, tai nạn, có những cái khó khăn mà chúng ta không thể giải quyết được.

Nếu vừa rồi không có duyên Thầy ở đây thì thầy Thiện Thuận gặp khó khăn, có thể trở thành những cái cơn bệnh khó trị.

(01:38:26) Tóm lại những bài giảng trên, Thầy đọc lại bài kệ của Phật:

Người ngu si mê muội,

Tuy đã thấy thiên sứ,

Tâm vẫn còn buông lung

Thấy đó, nhưng mà tâm của quý vị còn buông lung chớ chưa hết đâu, biết đó là khổ đó, cho nên vì vậy mà tâm của quý vị còn mê muội lắm!

Tâm vẫn còn buông lung

Sanh vào chốn ti tiện

Thì ôm lòng sợ hãi.

Hễ mình sanh nơi nào mà nghèo khổ, đói khát thì lo lắng, sợ hãi: Thì ôm lòng sợ hãi.

Thầy đọc lại năm câu kệ trên:

Người ngu si, mê muội

Tuy đã thấy thiên sứ

Tâm vẫn còn buông lung

Sanh vào chốn ti tiện

Thì ôm lòng sợ hãi

Thầy đọc sáu câu kệ dưới:

Nếu người có trí tuệ,

Khi thấy thiên sứ đến,

Liền gần pháp Thánh Hiền.

Tâm không còn buông lung,

Thấy thọ sanh thì sợ,

Vì đó: Già, bệnh, chết.

Đây Thầy giảng:

Nếu người mà có trí tuệ, khi mà thấy thiên sứ đến thì họ rất sợ, họ liền đi tìm Phật Pháp, họ đi tìm những Thánh Hiền để mà họ gần gũi, để mà họ tìm cách họ vượt ra ba cái vị thiên sứ này, ba cái sự nhắc nhở này, họ vượt ra ba cái khổ này.

Cho nên lúc bấy giờ tâm họ không còn chạy theo dục lạc nữa, họ không còn buông lung, phóng dật nữa. Họ nghĩ, họ thấy sự mà sinh ra, một cái niệm mà sanh ra, ở đây:

Thấy thọ sanh thì sợ

Tức là thấy cái tâm niệm mình khởi ra ham muốn cái gì đó, họ quá hoảng sợ, chính đó là họ biết được. Chớ không phải "thấy thọ sanh" là mình đi sanh đẻ đâu, hay hoặc là thấy người khác sanh ra mà mình sợ đâu, không phải.

Mà mình thấy mỗi tâm niệm của mình sanh ra một niệm gì đó mà nó chạy theo dục lạc, nó phóng tâm ra, thì họ quá sợ hãi.

Vì đó già, bệnh, chết.

Vì cái tâm phóng ra mà chạy theo dục lạc đó nó đưa chúng ta đi đến già, bệnh, chết chớ không có gì khác hơn hết.

Phải hiểu cái câu này thì quý thầy thấy rõ từng cái tâm niệm của chúng ta mà phóng ra, rồi chạy theo cái ngũ dục lạc, dính mắc ở trong đó, nó tạo chúng ta già, bệnh, chết chớ không phải sung sướng hạnh phúc gì hết!

Đó là cái ý của Phật muốn dạy để chúng ta thấy rõ được. Cho nên cái người trí thì thấy "thọ sanh" - thấy những cái nó sanh ra để mà thọ hưởng đó, chữ "thọ" là thọ hưởng - mà nó sanh ra để thọ hưởng cái dục lạc đó thì họ sợ lắm.

Cũng như bây giờ mình ăn miếng ăn này rồi mình còn sanh ra cái tâm muốn ăn lần nữa, thì đó là thọ sanh ra đó, muốn thọ dụng trở lại nữa đó, thì đó là cái nhân mà già, bệnh, chết, nó làm chúng ta đau khổ.

Không thọ sanh, giải thoát.

Đó, câu kệ dưới thì Phật dạy: “Không thọ sanh, giải thoát” - nghĩa là mình không có sanh ra những cái niệm để chạy theo cái thọ dục đó thì mình được giải thoát.

Hết sanh, già, bệnh, chết

Thì từ đó già, chết nó không còn nữa.

Người đó được an ổn.

(01:42:14) Thầy đọc lại:

Không thọ sanh, giải thoát

Hết sanh, già, bệnh, chết

Người đó được an ổn

Hiện tại sống vô vi.

Chữ "vô vi" đây của Phật không có nghĩa là ngồi đó mà lặng lẽ, mà ở đây ngồi đó mà hoàn toàn là chúng ta sống không phóng cái tâm mà thọ sanh theo những cái dục lạc cho nên gọi là "vô vi".

Tâm thanh thản, không có ham muốn, không có sợ hãi, không có buồn phiền, đó là cái tâm vô vi chớ không phải vô vi ở trong cái trạng thái vô vi như người ta hiểu, thì nó không đúng cái nghĩa của Đạo Phật, mà nó không dính mắc một cái gì của ngũ dục lạc thì đó là cái tâm vô vi.

Đã vượt qua lo sợ

Chắc chắn đạt Niết Bàn.

Thầy đọc lại sáu câu kệ này:

Không thọ sanh, giải thoát

Hết sanh, già, bệnh, chết

Người đó được an ổn

Hiện tại sống vô vi

Đã vượt qua lo sợ

Chắc chắn đạt Niết Bàn.

Đó là cái phần cảnh giác để chúng ta nhắc nhở hàng ngày tâm niệm.

11- SẮP XẾP CHO AN ỔN RỒI MỚI BUÔNG XẢ SẠCH

(01:43:36) Không phải là hiện giờ mà chúng ta giải quyết cái cuộc sống của một người cư sĩ - không phải là hiện giờ mà quý vị giải quyết liền ngay được liền, mà quý vị có được hiểu biết như vậy để quý vị chuẩn bị cho cái con đường hướng tới của mình, để cho mình sắp xếp mọi cái bổn phận của mình làm xong.

Bởi vì cuộc đời mình, trước kia mình chưa có đủ duyên gặp Phật Pháp sớm, chứ nếu gặp Phật Pháp sớm, mà khi nghe được cái giáo án này thì tin rằng chúng ta không lập gia đình, chúng ta không bước thêm một bước nào nữa, để cái sức của chúng ta còn thanh niên trai trẻ, chúng ta dồn hết cái sức tu tập thì may ra chúng ta được làm chủ cái sống chết của chúng ta, làm chủ được sự tái sanh luân hồi.

Còn bây giờ thì có nhiều quý vị đã lớn tuổi rồi nhưng gia thế bề bộn, vợ con còn nhiều bổn phận phải lo toan, không thể nào dứt bỏ được. Cho nên không phải vội vàng, mà hãy làm hết bổn phận của mình.

Chớ không phải nghe bài này rồi về vứt bỏ đó, mặc nó làm sao làm, đói khát…​ Như vậy chúng ta chưa trả trọn nhân quả, thì dù chúng ta muốn ngồi trong một nơi thanh vắng, độc cư để tu hành, chắc chắn điều đó không thể thành tựu được, mà phải giải quyết cho tâm chúng ta hoàn toàn an ổn.

Vì bỏ đi mà thấy cả một cái vấn đề: Đời sống của bao nhiêu người vì mình mà họ phải khổ! Nếu không có mình thì làm sao họ có con cái, có nhà cửa, có tư riêng như thế này, để bây giờ bỏ ra mà đi thì không đúng cách của bổn phận của người cư sĩ.

Vì Phật đã dạy: “Không làm khổ mình, cũng không nên làm khổ người”. Nghĩa là mình muốn tu giải thoát, nhưng mình phải làm sao mọi người xung quanh mình, những người mà gọi là thân thương của mình đừng khổ đau.

Chớ không phải mình muốn giải thoát mà mình làm bao nhiêu người thương nhớ, bao nhiêu người khổ đau. Và bao nhiêu người nhờ mình mà trong cuộc sống mới an ổn, rồi mình bỏ ra đi để cho những người đó đói khát, nghèo khổ, thì trách nhiệm của mình chưa xong, nhân quả của mình chưa trả được.

Vì vậy mình hãy sắp xếp và lo toan mọi mặt để làm sao cho an ổn. Nếu quả nhiên cái nhân mình chưa tu được mà mình sắp xếp được như vậy thì kiếp sau mình vẫn tiếp tục tu được, mà tu tốt, tu đúng.

Vì Phật dạy: Đừng làm khổ mình, đừng làm khổ người. Do cái nhân mà không làm khổ người, nó không còn cái nghiệp oan trái, còn có cái nhân làm khổ người thì nó còn cái nghiệp oan trái mà phải trả kiếp này đến kiếp khác. Do vì giải quyết nó ổn thỏa, thấy được con đường sáng của đạo, cho nên chúng ta không làm khổ ai.

(01:46:09) Do một cái trường hợp Thầy đã thấy, có những người cư sĩ ở Hà Nội, họ quá thích tu tập để tìm lấy cái sự giải thoát của Đạo Phật, họ bỏ cả chồng con họ đến đây, cả gia đình họ rất là đau khổ vì họ: Con thì thương mẹ, chồng thì nhớ vợ.

Nếu một người mà đã quyết tâm theo Đạo Phật, theo đúng cái giáo án mà Phật đã chỉ dạy thì không bao giờ mà làm khổ gia đình, làm khổ người khác.

Ngày xưa Đức Phật vì không có cái đường lối tu tập cho nên Ngài thấy cái người tu hành là giải thoát, do đó Ngài mới bỏ cha mẹ, bỏ vợ con mà đi tìm con đường cái giải thoát để thoát ra khỏi bốn cái điều kiện khổ đó là Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Do vì vậy mà sau này Ngài đã vạch ra một cái lối đi, cái đường đi để chúng ta không làm khổ mình, khổ người.

Cho nên, trong kinh điển của Phật, Ngài nhắc rất nhiều cái vấn đề này là một người tu không được làm khổ ai hết. Chớ không phải mình muốn tu rồi mình làm khổ cả gia đình của mình, thì như vậy là không đúng cái đường lối của Đạo Phật. Vì bây giờ đã có Đạo Phật, còn trước kia nó chưa có Đạo Phật.

Mặc dù cái lời khiêm nhượng của Đức Phật Thích Ca nói trước Đức Phật có bảy vị Phật ở quá khứ, nhưng sự thật nếu mà đã có Đạo Phật ở quá khứ thì phải có một cái lối đi, phải có một vị giáo chủ hẳn hòi, thì Đức Phật đâu có lầm lạc mà đã làm cho gia đình mình khổ sở như vậy?

Cha mẹ thì thương con, còn vợ thì thương chồng, con mới sanh ra còn chiu chít! Cái bổn phận đó là cái nghiệp báo. Tại sao chúng ta đã đào tạo nó ra mà chúng ta bỏ nó bơ vơ như vậy?

Nếu là con của vua, cháu của chúa thì nó an ổn ở trong cái sự giàu sang. Còn nếu là một người nghèo đói thì thử hỏi một người vợ làm sao nuôi đàn con được? Có phải khổ sở để cho ai đây? Ai đã tạo ra cái nghiệp này mà để cho người ta gánh chịu? Đạo Phật không chấp nhận những cái sự tu hành như vậy!

Cho nên Đức Phật sau khi tu hành, thấy không phải là cái điều đó là đúng - điều mà bỏ đi là đúng - mà cái điều phải làm sao, từ cái bước chân như thế nào để thực hiện đúng cái đạo giải thoát: Giải thoát cho mình mà giải thoát cho người, đem lại hạnh phúc cho mình, đem lại hạnh phúc cho người!

Cho nên Thầy từng dạy quý thầy là làm sao, khi mà chúng ta muốn tu hành để được giải thoát hoàn toàn thì phải giải quyết cả mọi mặt trong cuộc sống của chúng ta, vì thế chúng ta mới được cái tâm an ổn mà chúng ta mới rèn luyện, trau dồi, tu tập và dứt bỏ.

Còn nếu mà không được an ổn mà ở trong một cái cảnh rối ren, dứt bỏ đi, tâm hồn chúng ta có ở chỗ yên lặng đó mà tu tập được không? Chắc chắn là không được!

Hiện giờ chúng ta có những vị làm trụ trì, nhưng vì cái nhiệm vụ mà trụ trì hiện giờ nó không phải là cái nhiệm vụ tu, cho nên chúng ta lăng xăng với cái vấn đề cúng bái, tụng niệm hoặc sửa sang chùa tháp luôn luôn, làm sao chúng ta tu hành được?

Cho nên chúng ta muốn giải thoát thì chúng ta phải dứt bỏ, trở thành một du tăng khất sĩ, không còn danh, không còn lợi, không còn một vật chất gì đeo đẳng bên chúng ta, thì như vậy chúng ta mới tu được.

Nhưng chúng ta phải biết tình cảm chúng ta có, mọi người đối với chúng ta có tình cảm, chúng ta phải làm sao dứt cái tình cảm đó mới được! Nếu khi mà người ta có tình cảm với mình, mình dứt bỏ thì người ta đau khổ. Mà đạo Phật không chấp nhận làm cho người khác đau khổ!

Đó là hôm nay Thầy nhắc lại: Vì cái sự hiểu lầm lạc mà người ta theo đạo Phật mà đã làm khổ.

12- TÂM KHÔNG CÒN HAM MUỐN VÀ ÁC PHÁP MỚI CÓ GIẢI THOÁT

(01:49:35) Cái lầm lạc thứ hai nữa, đó là người ta thất tình, thất vọng; người ta đau khổ ở trên cái chuyện lận đận danh lợi, người ta làm không kiếm ăn được; hoặc là người ta bị vợ, bị tình nhân xua đuổi hay hoặc là bạc đãi, bạc tình; người ta quá đau khổ rồi đi vào chùa để mà tu tập, đi tìm lấy con đường giải thoát.

Thử hỏi những người đó làm sao giải thoát được? Chỉ chẳng qua là mượn câu kinh tiếng kệ, mượn cái nơi thanh vắng để mà vơi bớt cái nỗi phiền muộn của mình, vơi bớt những cái nỗi tham vọng mà mình đạt không được mà thôi!

Đó là cái sai. Bởi vì cái đúng của đạo Phật là nhìn thấy cuộc đời thật khổ, sanh ra muôn người ai cũng nằm trong bốn cái khổ.

Cái khổ đó là gì? Là ai có thân cũng phải bệnh, mà bệnh là khổ; ai có thân cũng phải chết, thì chết là khổ; ai có thân cũng phải già, mà già là khổ. Cho nên trong bốn cái khổ đó, chúng ta mới khắc khoải làm sao thoát ra khỏi bốn cái khổ đó.

Thì cái nguyên nhân mà thoát ra khỏi bốn cái khổ đó, nó không phải ở chỗ thiền định mà ức chế tâm của chúng ta, mà chính cái nguyên nhân đó Đức Phật đã chỉ cho chúng ta là: Cái lòng ham muốn của chúng ta nó mới tập khởi tất cả những cái điều khổ, nó mới sanh, già, bệnh, chết.

Cho nên cái mục đích của chúng ta là làm sao diệt cái tâm ham muốn, làm sao mà diệt ác pháp, từ đó chúng ta mới thấy được cái chỗ mà giải thoát.

Cho nên Đức Phật mới nhắc nhở chúng ta như thế này: Có người hỏi: "Khi Đức Phật mà tịch thì Đức Phật còn hay là mất?" Đức Phật nói: "Đó là cái pháp Ta nói không dứt khoát!"

Tại sao vậy?

Hay là nói: "Một người mà chết đi rồi cái linh hồn đi về đâu?" đó, thì đó là pháp mà Đức Phật nói “không dứt khoát”.

Còn pháp mà Đức Phật nói “dứt khoát” như thế nào để chúng ta biết?

Đức Phật hỏi như thế này: Nếu có một cảnh giới thiên đàng, có một cảnh giới Niết Bàn, thì chắc chắn phải có người đến đó. Vậy thì người ta nói cảnh giới đó như vậy, như vậy, an lạc như vậy, mà có ai đến đó chưa? Chưa.

Chưa có người nào mà trả lời dứt khoát rằng đó là cái cảnh Cực lạc, cảnh giới thiên đàng; chưa có một cái ông giáo chủ nào mà trả lời được rằng “Tôi đã đi đó, bây giờ tôi về!”, hay hoặc “Tôi chứng nghiệm ở đó!” Chưa có ông nào hết!

Nhưng Đức Phật dạy chúng ta thấy cảnh giới Niết Bàn Đức Phật chứng thật, mà dứt khoát, là tâm chúng ta hết dục, hết ác pháp thì ngay đó là Niết Bàn!

Cho nên vì vậy mà Đức Phật nói chúng ta có Ngũ Triền Cái - năm cái triền cái - tức là: tham, sân, si, mạn, nghi. Năm cái này mà quét sạch ra thì ngay đó là Niết Bàn. Cái chỗ này là cái chỗ dứt khoát là chúng ta tới đây là chúng ta đạt được liền.

Mà Đức Phật còn ví dụ: Một cái điều ác mà chúng ta giảm xuống thì cái điều thiện tăng lên, từ cái điều thiện tăng lên nó làm cho chúng ta có một cái an ổn ở trong đó.

Cũng như bây giờ người ta chửi mình, mà mình không chửi lại họ thì ngay đó có sự an ổn cho tâm hồn mình. Nếu mình chửi họ, họ chửi mình; mình đánh họ, họ đánh mình, thì thử hỏi cái cảnh giới đó có phải đem đến cái đau khổ triền miên không?

Đức Phật nói: Một cái điều mà mình nhẫn nhục họ thì tức là đem lại cho mình một sự thanh bình trong tâm hồn của mình, thì cái này thực chất rõ ràng là cảnh Niết Bàn của chúng ta, từng chút một, chớ không phải cảnh Niết Bàn là có một cảnh giới đâu sẵn sàng để mà chúng ta về đó.

(01:52:51) Cho nên cái mục đích ở đây là chúng ta tu thiền định là tâm thanh tịnh, chớ không phải tâm ức chế, vì tâm ức chế nó sẽ đưa chúng ta đi vào những cái sự…​ (Mất tiếng)

Cho nên ở đây, Thầy xin nhắc lại quý thầy là Thầy đã dạy quý thầy hai cái định đầu tiên để cho quý thầy thấy được sự tu tập thiền định của Phật, đó là cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và cái định Vô Lậu Định là hai cái định để quét sạch cái tâm tham, sân, si, mạn, nghi, để chúng ta quét sạch Ngũ Triền Cái của chúng ta.

Thì hai cái định này nó làm cho tâm quý vị thanh tịnh. Từ cái chỗ thanh tịnh đó, quý vị bước thêm một cái loại thiền định nữa để quý vị làm chủ được cái sống chết của quý vị, đó là cái định Hiện Tại An Lạc Trú.

Nó chỉ cần dùng cái tâm thanh tịnh đó mà dùng pháp hướng - Phật dạy là Như Lý Tác Ý - mình muốn, trong khi tâm mình tịnh rồi, mình muốn cái gì thì mình tác ý nó ra thì cái đó nó sẽ đạt được. Thì trong kinh điển của Phật dạy: Muốn đạt được những cái điều đó thì chúng ta theo cái lý mà tác ra.

Bây giờ Phật dạy như muốn nhập Bốn Thiền, thì mỗi thiền đều phải nương vào hơi thở, chớ không phải cái hơi thở là thiền định, mà cái hơi thở là cái lộ trình để chúng ta nhập được Bốn Thiền này.

Và cái mục đích của đạo Phật là ngưng các hành ở trong thân của chúng ta. Mà trong thân tâm của chúng ta nó có ba cái hành: khẩu hành, thân hành và ý hành, cho nên phải ngưng ba cái hành này thì chúng ta mới nhập được định, do tâm thanh tịnh mới điều khiển, dùng pháp hướng mà điều khiển - Như Lý Tác Ý.

Bây giờ cái hơi thở đang thở bình thường như thế này, thì chúng ta muốn chậm nhẹ để cho đến khi nó ngưng nghỉ. Phật nói thân hành là hơi thở, mà hơi thở ngưng nghỉ thì mới nhập định được Tứ Thiền.

Do đó, chúng ta hiểu biết được lời nói này, vì vậy mà chúng ta dùng cái tâm thanh tịnh không tham, sân, si này mà chúng ta điều khiển, chớ không phải chúng ta ngồi ức chế, chớ không phải chúng ta ngồi lặng ở trong trạng thái hỷ lạc, mà chúng ta nhẹ nhàng điều khiển nó ở trong cái hơi thở của chúng ta, vì đó là cái lộ trình để cho chúng ta nhập Bốn Thiền, chớ không phải hơi thở là thiền định.

Còn các thầy ngồi thiền định mà các thầy cứ nương hơi thở mà cứ thiền định thì chẳng có đi tới chỗ nào hết. Do vì vậy mà nó càng ngày nó càng mất thời gian tu tập, và cái kết quả đạt đến là cái hậu quả tai họa rất lớn mà sắp tới đây Thầy sẽ giảng về cái Ngoại Tẩu Nhập Ma.

Người ta không hiểu, người ta tưởng đó là ở bên ngoài nhập vào, nhưng vì chúng ta quá ức chế, làm cho thân tâm chúng ta rối loạn, rồi bắt đầu những cảm giác xảy ra, làm chúng ta không còn sức tự chủ, bởi vì cơ thể rối loạn, nhất là về hệ thần kinh, thì lúc bây giờ chúng ta trở thành như người điên khùng chớ không phải gì khác hơn hết.

Cho nên con đường đạo Phật mà người nào biết mà tu đúng thì không bao giờ có sự kiện đó xảy ra. Tại vì từ tâm thanh tịnh không tham, sân, si, ham muốn nữa, do đó người ta mới vận dụng pháp hướng Như Lý Tác Ý ra, bắt buộc các hành tuần tự chậm và nhẹ cho đến khi ngưng nghỉ hoàn toàn, ở trong ý thức chớ không phải ở trong tưởng thức. Vì vậy mà người ta làm chủ bằng cái ý thức của chúng ta đang có.

Rồi đây quý thầy sẽ thấy được cái chỗ nào là cái chỗ mà trong thân của chúng ta để thể hiện cái ngoại ma này, để rồi Thầy sẽ giảng tới, quý thầy sẽ thấy./.

HẾT BĂNG

09 - HIỆN TƯỢNG TẨU HỎA NHẬP MA

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 09 - HIỆN TƯỢNG TẨU HỎA NHẬP MA

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- NHIỆT TÂM NHƯNG TU SAI CÁCH DỄ HÓA ĐIÊN KHÙNG

(00:00) Trưởng lão: Bây giờ Thầy xin nhắc lại, vì trường hợp ở trong Tu viện của chúng ta có những cái sự việc nó xảy ra là thầy Thiện Thuận, trong khi tu hành Thầy cũng hết sức năng nổ tu hành, thầy không phải là cái người mà tu chơi, thầy cũng quyết đem hết cái sức của mình để làm chủ sanh tử, để chấm dứt cái đời sống thế gian đau khổ này.

Cho nên khi về đây, được Thầy chỉ dạy pháp hướng, thầy rất mừng là thầy đã thấy có hiệu quả. Thầy điều khiển hướng tâm tới đâu thì có kết quả tới đó, thầy bảo nó ngưng là nó ngưng, thầy bảo nó như thế nào nó nghe như thế nấy.

Cho nên, qua những cái lần trình bày với Thầy thì Thầy thấy thầy là một người nhiệt tâm tu hành. Tuy rằng không được ở gần Thầy nhưng dù xa Thầy, chỉ có một lần học hạ ở đây, biết Thầy, rồi từ đó về mà nỗ lực tự tu tập lấy. Cho nên cái nhiệt tâm tu hành như vậy mà được gặp cái pháp hướng thì chắc chắn là phải có sự hiệu quả của nó rồi.

Nhưng vì thời gian rất là bề bộn, công việc rất là nhiều, cho nên Thầy không kiểm tra thầy được chặt chẽ, cho nên một đêm đó thầy có sự kiện xảy ra.

Bây giờ, xin thầy Thiện Thuận trình bày cái sự việc đó để cho quý thầy rút tỉa kinh nghiệm trên cái bước đường tu tập của mình, để tránh khỏi những cái hậu quả không hay cho bước đường tu.

Vì thân, tâm chúng ta là một cái bộ máy rất quý, nếu lỡ cái bộ máy đó hư hoại thì khó mà sửa lắm. Một cái máy móc nào trong cái hiện tại này thì cũng có thể sửa chữa được, nhưng về cái phần máy con người, nếu mà về hệ thần kinh thì chắc chắn là rất là khó. Nếu mà nặng thì kể như là chúng ta bị suốt đời tàn tật, trở thành người điên khùng, không thể nào cứu chữa được.

Mà hầu hết trong đất nước của chúng ta hiện giờ, có nhiều người tu sai, bị nhưng vẫn âm thầm chịu đựng trong đau khổ của mọi gia đình, của những người thân của họ. Biết con mình tu sai nhưng bây giờ nó điên thì họ cũng chẳng biết đổ thừa ai được hết!

Nhưng trách nhiệm đó là của ai? Thầy xin báo rằng: Trách nhiệm đó là của những người tu hành chưa tới, chỉ lấy Phật pháp hoặc lấy những cái điều sai lệch mà tự nghĩ ra để dạy người, để đưa người ta đi đến chỗ chết, đau khổ như vậy.

Đó là, cái lỗi đó là lỗi của những bậc tà sư ngoại đạo không am hiểu được Phật Pháp, không am hiểu được pháp của mình, chỉ tưởng tượng ra qua kiến giải mà tạo nên những con người dở chết, dở sống.

Kế đó là những người đó đã tạo ra con đường đi để cho bao nhiêu người mất cả thời gian, bỏ vợ, bỏ con rồi đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, điên chẳng ra điên, khùng chẳng ra khùng; ở ương ương, gàn gàn, đụng đâu cũng bài bác, đụng đâu cũng xích bác người ta, đó là một cái tai họa rất lớn cho đạo Phật hiện giờ.

Chúng ta chẳng biết làm sao, chỉ còn biết âm thầm thương xót cho những kẻ vô phần, bạc phước, quyết đi tu mà tìm sai con đường, lạc nẻo!

Đến đây, Thầy xin nhường lời lại cho thầy Thiện Thuận.

2- SƯ THIỆN THUẬN TRÌNH BÀY KINH NGHIỆM

(03:09) Sư Thiện Thuận: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy Bổn Sư, Viện chủ Tu viện Chơn Như!

Kính thưa quý Thầy và toàn thể đại chúng!

Con là Tỳ Kheo Thích Thiện Thuận, trụ trì chùa Hiệp Thành, ở xã Tân Hiệp, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

Trong mùa an cư năm nay, con đã đủ duyên lành về đây để tu học thiền định với Thầy. Vì mùa hạ năm nay là mùa hạ cuối cùng để Thầy đi ẩn bóng, cho nên chúng con hết sức cố gắng tu tập năng nổ để đền đáp lại công ơn trời biển của Thầy.

Hôm nay, nhân ngày thuyết giảng đạo, được sự chấp thuận của Thầy Viện chủ đồng ý cho phép con được trình bày lên đại chúng về kết quả tu tập trong một tháng qua, và cũng kể lại phương pháp trị liệu về vấn đề tẩu hỏa nhập ma mà vừa qua con đã bị, cũng như trong kinh Lăng Nghiêm cũng có nói về Ngũ Ấm Ma.

Đồng thời cũng nói lên những nguyên nhân bị xảy ra hiện tượng này để chúng ta rút kinh nghiệm tu tập và giúp người tu sau này tránh được tình trạng nguy hiểm ấy.

2.1- KẾT QUẢ TU TẬP

(04:34) Sư Thiện Thuận: Bây giờ chúng tôi xin nói về kết quả trước, trong thời gian ba mươi ba ngày qua:

Hiện giờ đây thì trong người của chúng tôi, coi như đã làm chủ được hơi thở. Nghĩa là tịnh chỉ được hơi thở, muốn hơi thở chậm thì chậm mà muốn nhẹ thì nhẹ, mà muốn ngưng là ngưng.

Cái thứ hai là tịnh chỉ được các hành. Nghĩa là muốn cho hành hoạt động là cho mà muốn ngưng hoạt động là ngưng.

Cái thứ ba là làm chủ được cái giấc ngủ. Nghĩa là hiện giờ muốn ngủ thì chỉ cần ám thị biểu ngủ là nó ngủ thôi, và đồng thời không có chiêm bao.

Tại sao, lý do nào mà không có chiêm bao? Nguyên nhân là cho cái thằng ý thức coi như là canh giữ hơi thở, rồi cứ ám thị cho thân ngủ thôi. Từ chỗ đó, cái ý thức chúng ta nó thức hoài, rồi muốn thức giờ nào thức thôi.

Xin lỗi bởi vì tịnh khẩu cả tháng nay cho nên nói chuyện nó không được thông.

Và hiện giờ đây đó, thì cũng nói luôn cái trạng thái hiện giờ để cho chúng ta có cái kinh nghiệm trước.

Hiện giờ đây, sau khi mà trải qua cái cơn dừng các hành thì nó có những cảm giác là lạnh toàn thân, rồi sau cơn lạnh đó nó ấm trở lại. Ấm trở lại rồi nhiều cái đợt mà ngồi thiền liên tục thì nó sẽ có một trận gọi là đau nhức thân trở lại, nghĩa là phá cái thọ lần thứ hai.

Bởi vì trước kia sau khi mình bước vào cái đoạn đường Nhị Thiền lên Tam Thiền đó là mình phá cái thọ trước, là mình chấp nhận cái đau, là phải đau qua một trận đau dữ tợn trước, cái đó là cái đau.

Còn qua một trận thứ hai nữa, đó là hiện giờ, sau khi mình đã qua được những cái cơn lạnh, nóng xong thì đến một trận cơn đau nhức thứ hai nữa, nghĩa là tê nhức, nó cũng dữ dội như cái lúc ban đầu.

Sau nhiều lần ngồi thiền nữa thì một trận cuối cùng để hết đau nhức, thì hơi thở nó mới tống lên để cái huyệt đạo ở phía sau lưng là nó sẽ thông suốt. Nó thông cái rất là nhẹ, rồi hơi thở coi như là không còn như thấy thở nữa. Đó, rồi tiếp tục nó đưa lên cái huyệt ở trên đầu, thông luôn ở trên đầu, rồi sau đó thì chúng tôi mới xả ra để đi kinh hành.

Đi kinh hành nửa chừng thì tự nhiên có một cái hơi ở dưới bụng, nó nặng nặng, nó quặn quặn dưới bụng, thì nó quận lên trên cái miệng, thì cứng hàm răng lại, thì chúng tôi mới đứng lại để ngồi thiền để định tâm lại, thì tự nhiên ở dưới bụng nó quặn lên một hồi cái nó đưa lên.

Đưa lên rồi cái nó đi thông luôn cái huyệt ở trên vai, ở sau lưng, cái chỗ mà mình vói không tới đó - là huyệt Linh Đài hay gì đó cũng không biết - rồi nó đưa luôn, thẳng luôn tới ở trên đỉnh đầu, mà không biết huyệt gì, tui cũng chưa nắm.

Do đó cho nên là cả ba huyệt đạo từ ở dưới rún, dưới bụng là nó thông lên, tất nhiên là thở ra, thở vô nó rất là thông, hiện tại giờ như thế.

Mà tình trạng này thì cũng chưa báo lại với Thầy Viện chủ. Đó, thì cái kết quả trong ba mươi ba ngày qua là như thế.

(07:55) Thì tiếp theo, được sự tận tình chỉ bảo của Thầy Viện chủ, chúng tôi đã nhập định được, đi vào cửa Tam Thiền, và thấy rất là nhiều sự vi diệu ở trong thân của chúng ta như thế.

Nghĩa là chúng ta làm chủ được cái thân hoàn toàn, coi như là đối với sống chết đã làm chủ rồi, thân và tâm. Đó chỉ là mới cửa thứ ba thôi, nghĩa là hiện nay đã làm chủ được thân tâm.

Tuy nhiên, trong cái quá trình tu tập được những kết quả đó thì chúng ta cũng phải gặp nhiều thuận lợi và những cái khó khăn.

Thì trước tiên chúng tôi cũng xin nói về cái thuận lợi trước.

Thì bắt đầu từ lúc vào hạ là ngày rằm tháng tư để hạ thủ công phu đó, thì nhập thất, cho đến bảy ngày là chúng tôi đã nhập được Sơ Thiền, rồi đến tới ngày thứ mười tám là nhập được Nhị Thiền, rồi đến ngày thứ hai mươi chín là nhập Tam Thiền.

Sở dĩ mà được kết quả mau như thế, là theo chúng tôi nghĩ thì nó rất đúng như lời của Thầy Viện chủ đã giảng hôm trước, theo cái rút kinh nghiệm thì chúng tôi thấy rất đúng.

Bởi vì Thầy đã dạy: Muốn nhập Tứ Thiền là phải chuẩn bị trước những hành trang như sau:

Một: trước tiên, hành giả chúng ta trước tiên phải tu Mười Điều Lành, nghĩa là hành Thập Thiện đó; phải tập nhuần nhuyễn và giữ gìn giới luật, nghĩa là phải trường chay, tuyệt dục với một hành giả.

Đó là điều kiện thứ nhất.

Điều kiện thứ hai thì phải tu Tỉnh Giác Chánh Định. Nghĩa là chúng ta luôn luôn lúc nào cũng phải tỉnh thức trong mọi hành động, cũng như đi biết đi, làm việc thì biết làm việc, tôi ăn biết tôi ăn, nghĩa là tỉnh thức hoàn toàn.

Thứ ba là chúng ta hãy tu cái Niệm Vô Lậu Chánh định.

Thứ tư là phải xả bỏ hết tài sản của thế gian, tài sản nhỏ, tài sản lớn cũng như về chùa chiền hay là tất cả những vật chất, phải bỏ xả hết.

Việc thứ năm là chúng ta sau khi nhập thất vào là tu cái Hiện Tại An Lạc Trú Chánh Định - nghĩa là tu bám chặt vào hơi thở.

Và điều thứ sáu đó là phải sống độc cư, coi như là phải tịnh khẩu hoàn toàn.

(10:13) Thì nếu mà hội đủ sáu điều kiện này đó, thì chúng ta sẽ hoàn toàn nhập định vào Sơ Thiền rất mau, như bằng chứng cụ thể là chúng tôi vừa qua.

Bởi vì vừa qua, trong sáu cái điều kiện này thì ở chùa chúng tôi trong mấy năm qua đã thực hành có, bởi vì trước kia đã giữ giới. Là một Tỳ Kheo thì phải giữ giới rồi, phải tu Mười Điều Lành, đã trường chay, tuyệt dục rồi.

Thứ hai là tỉnh giác. Ở chùa thì chúng tôi luôn luôn lúc nào cũng tỉnh giác, tu trong hành động.

Cái thứ ba là ở chùa thì Niệm Vô Lậu - thì luôn luôn lúc nào cũng thường thường tu cái thiền Biết Vọng đó: Khi vọng nổi lên rồi nhìn thấy nó, phải đi nhìn tận cùng của nó rồi mình phát hiện nó nguyên nhân chỗ nào rồi mình gạt qua.

Rồi đồng thời cái mình đọc kinh sách để mà mình truy tầm thêm giáo lý, đó là tịnh đó, để mình dẹp mọi cái tham, sân, si, mạn, nghi. Đó là Niệm Vô Lậu.

Thứ ba (tư) về xả hết tài sản người thế tục, thì hiện nay trước khi đi vào cái Tu viện này thì chúng tôi đã có tìm người để giao lại chùa, đương nhiên với một quyết tâm nỗ lực là không bao giờ về để mà tiếp tục trụ trì nữa. Nghĩa là xả bỏ hết ngôi chùa, và đồng thời giảm bớt lần đi tất cả những cái quan hệ về tình cảm.

Cho nên sau khi mà làm được những cái động tác đó xong đó thì bắt đầu Thầy Viện chủ mới dạy cái phương pháp Quán Niệm Hơi Thở để mà bám chặt hơi thở, rồi sống độc cư, như vậy là trong bảy ngày là vô Sơ Thiền liền.

Thì đó là cái kết quả mà một hành giả muốn đạt được thì chúng ta phải trang bị trước. Còn nếu chưa có trang bị được những cái, sáu cái điều kiện này thì coi như là chúng ta tu cũng mất thời gian thôi. Đó là về mặt thuận lợi.

2.2- TRẢI NGHIỆM BỊ TẨU HỎA NHẬP MA

(11:42) Sư Thiện Thuận: Còn về khó khăn, thì theo kinh nghiệm của bản thân chúng tôi thì vừa qua đã bị tẩu hỏa nhập ma, tức là đã bị ma Tưởng Ấm nhập vào.

Theo chúng tôi nghĩ là do có ba nguyên nhân:

Một - cái nguyên nhân thứ nhất là ngồi thiền ráng chịu đau quá, nghĩa là chúng ta cố sức ngồi thiền. Vừa qua chúng tôi bị - ngồi thiền khi mà nó đau chân quá rồi ráng cố sức ngồi thời gian cho lâu để tập cho cái giò cho nó quen - thì như vậy là chúng ta đã lầm, ngồi như thế là đã lầm rồi.

Chúng ta phải biết rằng: khi nào, đúng lúc chịu đau là khi nào chúng ta đến từ cái khoảng Nhị Thiền mà tiến lên cái cửa Tam Thiền đó, để phá cái thọ đó, là đúng lúc đó ta chịu đau, cái đó phải chấp nhận chịu.

Còn trong lúc này chưa, mới có nhập Sơ Thiền hay là chưa gì đó mà mình chấp nhận chịu đau, đó là mình tu sai. Hoặc giả là mình tiến lên được Nhị Thiền rồi mà mình chấp nhận ngồi để chịu đau thì sẽ bị ma Tưởng Ấm nhập vào thôi.

Bởi vì trong lúc - chính bản thân tôi trong cái lúc mà đi vào cái Nhị Thiền đó, thì trong cái đêm ngày thứ mười tám, thì sau khi thấy cái hơi thở mình nó quá nhẹ đi, rồi thấy cái thân người mình nó bay bổng lên khỏi giường, thấy rất là thích thú, có hỷ lạc chứ, do đó cho nên chịu ngồi như thế.

Qua một thời gian khoảng chừng hai mươi phút thì tất nhiên tới cái cơn đau của cái giò, nó đau lên dữ tợn, rồi kềm. Kềm khoảng chừng hai mươi phút thì tất nhiên tự nhiên nó bung ra, nó bung ra thì trong lúc đó là ma Tưởng Ấm nhập vào liền, là đêm thứ mười tám đó, là nó nhập vô liền.

(13:23) Lý do sao nhập? Là lý do trong cái lúc chúng ta vừa bung giò ra, thì tức nhiên là có một cái tư tưởng là phải nghĩ tưởng như thế nào đặng cho nó bớt đau.

Đó, từ chỗ đó là cái ý thức của chúng ta nó đã rời ra rồi, nó đâu có bám chặt được với hơi thở, nó không định được tâm chỗ đó cho nên tưởng thức nó nhảy vào liền.

Mà mình tưởng là muốn cho hết đau thì tức nhiên tưởng thức nó vô. Nó vô thì bắt đầu nó mới bắt gân, nó bắt gân rồi nó vần vò đủ thứ, nó làm, rồi có những cái là nó bắt tui xá, rồi lạy, rồi bắt ấn Chuẩn Đề, rồi làm đủ mọi động tác hết đặng cho hết đau.

Làm như thế nó kéo dài từ ba giờ khuya mà nó kéo dài cho đến khi mà tới tám giờ sáng là mới xả ra, lúc đó là trời sáng rồi.

Do đó cho nên cái lần này đó, thì sau khi xả ra thì chúng tôi chạy lại cái liêu (thất) của Thầy Viện chủ để thông báo liền, thì Thầy Viện chủ mới cho biết đó là bị tưởng ấm ma nó nhập vào.

Từ đó chúng tôi cũng chưa có kinh nghiệm nữa, chưa có kinh nghiệm được cái vấn đề mà lúc mình xả ra rồi nó thừa cơ để mà nó - tưởng ấm nó nhập vào là lúc đó, mà cũng chưa được kinh nghiệm. Do đó cho nên về chỉ có cái là bình tĩnh trở lại thôi đặng về tiếp tục.

Thì đó là một cái điều thứ nhất mà chúng ta phải nhớ: Đừng có ngồi thiền mà kềm lâu quá. Khi mà mình ngồi mà thấy nó vừa đau này nọ thì nên xả bỏ đi.

Còn trong cái lúc mà chúng ta xả thiền thì phải luôn luôn với một cái Chánh Niệm, một cái Tỉnh Thức - nghĩa là tôi chỉ biết xả thiền thôi, đừng có một cái mống niệm gì khác nữa hết. Nếu lúc đó mà chúng ta quên đi cái Tỉnh Giác Chánh Định này thì tất nhiên tưởng ấm nó sẽ nhập vào ngay.

Vì trong cái lúc đó, chúng ta trong cái lúc mà thân thể mệt mỏi, uể oải rồi, chân nó đau nhức rồi đó, thì cái thức mình nó đã rời ra rồi, hay là nó lơi lỏng rồi, rồi có một mống niệm lên thì tất nhiên là tưởng ấm nó nhập vô liền, nó rất là nhanh trong vòng một niệm thôi.

Vấn đề thứ hai là chỉ cần có một ý niệm thần thông. Đó, đấy cái vấn đề này đấy cũng là rất quan trọng đây! Nghĩa là chúng ta chỉ có một ý niệm về thần thông thôi, một thần thông bay hay là một thần thông như thế nào đó, một suy nghĩ gì đó, một niệm nào đó thôi nó nhập vào liền.

Cũng như là sau khi xả thiền xong thì cái đêm - hình như là cái đêm hai mươi sáu, hai mươi bảy gì đó, là sau khi mà tiến lên cái đoạn cửa Tam Thiền đó, nghĩa là làm chủ được các hành - nghĩa là sau khi tịnh chỉ được hơi thở rồi đó mới tiến vào để mà tịnh chỉ các hành - thì chúng tôi cho ngưng hoàn toàn, các hành ngưng hoạt động, để cho nó lạnh từ dưới giò lên. Sau khi nó lạnh tới xương sống thì Thầy Viện chủ cứ cho tiếp tục lạnh lên hết toàn thân.

(16:37) Sau khi, đêm đó là lúc ba giờ sáng, chúng tôi ngồi thiền để mà cho lạnh lên toàn thân hết, rồi lạnh hết rồi mới xả ra. Sau khi xả ra toàn bộ hết rồi thì tính đi kinh hành rồi, nhưng mà tự nhiên có một cái luồng ma lực nào đó - cũng không biết, tự nhiên nó mới thâm nhập vào chỗ hai cái mí chân mày. Nó xoáy, xoáy, xoáy, coi như là phải nhắm mắt lại luôn đó, xoáy rất là mạnh, mà cũng không biết là cái vụ gì.

Do đó cho nên là chúng tôi mới lầm tưởng là, suy nghĩ là: "Chắc có lẽ là hai con mắt mình đó, mình ngồi thiền đây chắc hai con mắt mình nó sẽ làm cho thông, nó thông qua lại, và nó thông luôn lỗ mũi và thông luôn miệng".

Nghĩ bấy nhiêu thôi, thì tự nhiên là bắt đầu nó xoáy xuống lỗ mũi rồi nó xoáy xuống miệng, rồi nó làm cho la lên đặng cho thông. Đó, rồi cứ như thế, cứ la hoài, la càng lớn càng tốt, làm như mê say để la! Đó, do đó cho nên là không có còn tự chủ được nữa.

Mà cũng may lúc đó nhờ có thầy Mật Hạnh và Thầy Viện chủ phát giác kịp chạy lại để mà…​ Thầy Viện chủ vô rồi để tay lên vai chúng tôi rồi thì chúng tôi mới hoàn toàn tỉnh lại. Tỉnh lại là bảo: "Ngưng không cho la nữa!", thì lúc đó mới hết. Thì sau khi hết xong thì chúng tôi mới ngủ trở lại, xả thiền xong rồi ngủ trở lại.

Thì đó, xin tạm dừng lại để nói qua cái ý thứ ba.

Cái nguyên nhân thứ ba để mà bị nữa đó, nguyên nhân thứ ba là không biết trước được những trạng thái của cơ thể sẽ đổi khác khi chúng ta tịnh chỉ được các hành.

Nghĩa là sau khi chúng ta tịnh chỉ được các hành - nghĩa là cho lạnh toàn thân rồi đó - thì một cái người thiền sinh chúng ta phải biết trước những cái cảm giác thay đổi.

Bởi vì lúc bấy giờ khi mà lạnh toàn thân hết thì máu cơ thể ta - hồng huyết cầu chúng ta - nó đã thay đổi hết rồi, coi như là nó sẽ đổi trược hết rồi, thành một con người mới.

Do đó cho nên các thiền sư hồi xưa đó, chúng tôi nhớ lại là có nói là: “Rắn thành rồng không đổi vảy” gì đó, hay là cái câu là: “Bước qua cái đầu sào trăm trượng mà dám bước hay không” đó.

Do đó cho nên là chúng ta phải biết trước những cái trạng thái này, trong cái trạng thái mà sau khi chúng ta tịnh chỉ các hành thì phải biết. Nghĩa là đã làm chủ được các hành rồi, làm chủ được hơi thở rồi thì nó sẽ có những trạng thái khác.

Bởi vì lúc này chúng ta làm chủ nó thì ra lệnh nó, mà nó giống như một cái người tướng cầm quân vậy đó. Nếu chúng ta làm tướng mà chúng ta không điều khiển được quân lính thì tất nhiên nó náo loạn hết, rồi tất nhiên tan rã hàng ngũ.

Thì con người chúng ta cũng vậy, khi chúng ta làm chủ được thân, làm chủ được hơi thở, làm chủ được các hành thì lúc bấy giờ nếu mà chúng ta không hiểu biết trước được, rồi chúng ta khủng hoảng lên.

Bởi vì, chúng tôi xin nhắc lại cái đêm đó, sau khi mà bị tưởng ấm ma xong đó, rồi tiếp tục nằm ngủ, thì khuya lại đó, đến khoảng mười một giờ thì chúng tôi giật mình thức dậy, thì chúng tôi mới thấy sao mà toàn thân nó đều cứng? Nó cứng mà không phải là cái kiểu nó lạnh tê cứng, mà nó cứng theo cái kiểu mà mình thấy có thể nhúc nhích được.

Nhưng mà tại vì không hiểu được trạng thái này do đó cho nên khủng hoảng lên, rồi tưởng đâu là các hành nó ngưng hoạt động, thành thử ra là mới ra lệnh cho các hành hoạt động trở lại.

(19:22) Thì bắt đầu nó hoạt động trở lại, thì máu nó vận chuyển, thấy nó nổ "lụp bụp”, “lụp bụp" từ lỗ chân lông rất là nhiều. Lúc đó mới khủng hoảng, sợ quá. Sợ quá thì bắt đầu biểu: "Các hành ngưng hoạt động!" Thì bắt đầu nó ngưng lại, bắt đầu nó từ từ nó giảm xuống, nó lạnh cứng nữa.

Thành thử ra cứ làm như thế liên tục hoài, từ lạnh cho tới nó vận hành cơ thể liên tục, rồi cho tới lạnh, rồi đến hơi thở. Hơi thở nó mất bình thường rồi thì tất nhiên là biểu: "Ngưng", rồi biểu: "Thở nhẹ, thở chậm", rồi ra lệnh đủ thứ hết, cho nên tất cả trong thân đều náo loạn.

Lý do là tại không biết được những trạng thái này, do đó cho nên mình điều chỉnh được tất cả những cái mà - điều chỉnh được hơi thở, điều chỉnh được các hành, nhưng mà mình điều chỉnh không đúng, thành thử là nó náo loạn tất cả những cái nội tạng hết.

Lúc bấy giờ chúng tôi mới sợ quá đi, không còn tự chủ nữa, cho nên mới chạy ra ngoài liêu (thất) Thầy Viện chủ để báo lại, thì Thầy Viện chủ mới bảo là: "Cứ cho các hành hoạt động bình thường và hơi thở thở bình thường!" thì chúng tôi cảm thấy yên ổn trở lại. Và đồng thời ngồi được gần ở bên với Thầy thì làm như nó có một cái từ lực gì đó mà làm cảm thấy yên ổn.

Rồi ngồi nói chuyện với Thầy để bàn qua sự việc một hồi thì Thầy mới khuyên: “Nên tu một cái biện pháp là tu Niệm Vô Lậu” - lúc bấy giờ nên tu Niệm Vô Lậu đó.

Nghĩa là giữ lại cái hơi thở bình thường, nhưng mà lúc bấy giờ chúng tôi đâu có còn bình tĩnh đâu để mà tìm lại cái hơi thở bình thường. Lúc đó là bởi vì nó khủng hoảng quá đi cho nên nó quên mất cái hơi thở đó, cái hơi thở mà bình thường lúc ban đầu chúng ta học thiền đó.

(21:18) Thì Thầy Viện chủ mới bảo chúng tôi nên đi kinh hành. Thì đi kinh hành chúng tôi mới tập trung lại, tập trung tư tưởng lại, đi kinh hành, vừa đi vừa quán tưởng về vô thường, vô ngã, rồi quán tưởng về thân bất tịnh, quán tưởng về tài sản thế gian giả tạm…​ quán tưởng đủ thứ để chúng ta nó quên đi cái chuyện khủng hoảng mà nó trở lại cái sự bình tĩnh thì tất nhiên là hơi thở nó điều hòa trở lại. Thì từ chỗ đó, con người nó cảm thấy nó nhẹ, nó nhẹ dần, nhẹ dần xuống.

Rồi như vậy thì một hồi cái đi về nghỉ, trở về liêu ngồi lại một chỗ, không đi kinh hành mà ngồi một chỗ một mình thì bắt đầu nó làm trở lại.

Bởi vì lúc đó các hành nó vận chuyển lại, rồi cái hơi thở mình nó cũng hồi hộp nó vô đó, cho nên nó mất bình thường, thành thử ra cái toàn thể châu thân nó cảm thấy là lúc lạnh, lúc nóng đủ thứ, mà khủng hoảng lên nữa.

Cho nên chúng tôi phải ra để gặp Thầy Viện chủ một lần nữa rồi báo lại, thì Thầy Viện chủ cũng dạy cách y như thế đó. Thì chúng tôi mới phải đi kinh hành suốt luôn đêm, đi suốt luôn tới sáng thì nó cảm thấy yên ổn.

Nhưng mà đến sáng lại thì Thầy Viện chủ mới bảo đưa cho một quyển kinh để mà đọc. Thì khi lấy quyển kinh về ngồi để mà đọc thì tâm chú ý vào đọc kinh, đọc một cách cho nó kỹ lưỡng, thì nhờ cái tâm chú ý vào đó cho nên là mình không có nhớ cái chuyện hơi thở và các hành nữa, do đó cho nên là nó bình tĩnh trở lại.

Rồi từ đó cái hơi thở nó điều hòa, nó trở lại cái hơi thở ban đầu lại. Cứ thở ban đầu, thở nhẹ như thế một hồi thì tự nhiên ở dưới bụng đó, lúc này là nó nặng bụng dữ lắm.

Nó nặng bụng là lý do sao? Bây giờ chúng tôi mới biết được lý do nặng, nặng bụng và nặng trên đầu. Đó là những cái cảm giác, những cái trạng thái mà đến cái cửa Tam Thiền này - không biết ai có không chứ bản thân chúng tôi thì có.

Bởi vì nó nặng bụng quá là lý do nó chứa tất cả những cái lòng tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến; nó chứa tất cả những cái lòng tham sống, sợ chết; nó chứa những cái tham ái, tham dục, ham của tài sản thế gian; nó chứa trong bụng đi.

Do đó cho nên là khi mà thở lại cái hơi thở ban đầu rồi tự nhiên nó trào lên, nó tràn lên nhưng mà nó theo cái hơi thở rất là nhẹ chớ không phải mạnh nữa, nó ra từ từ, từ từ.

Thì trong lúc nó trào ra thì mình cứ quán: Quán về tài sản thế gian, quán tất cả những cái tham, sân, si, lòng ái dục…​ quán cho nó tràn ra. Nó tràn ra một hồi chừng năm, sáu lần, cũng như cuối cùng mình ợ lên được cái nó nhẹ luôn, nó nhẹ cái bụng.

Còn nó nặng cái đầu thì cũng chưa biết, không biết nó ra sao. Thành thử ra mới đi kinh hành trở lại rồi về xem kinh, từ đó nó nhẹ bụng thôi, nhưng mà sau này, qua bữa sau mới biết cái đầu nó nặng là cũng chứa đó.

Bởi vì chúng ta, cái lòng tham là chứa ở trong bụng, lòng tham ái, tham dục chứa trong bụng. Còn trong tàng thức của chúng ta đó thì cũng chứa cái tham ái, tham dục - ở trong cái thức A Lại Da là thức thứ tám đó - nó chứa ở trong tàng thức đó.

Thì cho nên là chúng tôi mới thở ra cái hơi thở bình thường, nhưng mà khi thở ra, chúng tôi nhớ tập trung cái tư tưởng ở trên đầu; xả ra, xả ra tất cả những cái lòng tham dục, tham ái đó; những cái tham, sân, si đó trong đầu nó tràn ra hết, trong đó ra hết, ra, ra, coi như mình xả ra hết. Thì xả ra nguyên một ngày đó thì tự nhiên cái đầu nhẹ luôn! Thấy cái đó cũng rất là hay!

(24:16) Do đó cho nên là một cái bụng thì chứa những cái lòng tham mà trên đầu thì chứa những cái chủng tử. Do đó chúng ta phải ráng nguyện là xả ra, xả ra thân, như: "Bụng phải rỗng rang! Đầu phải rỗng xuống! Tàng thức không có chứa chủng tử gì hết! Bụng cũng rỗng rang!"

Và đồng thời lập một cái đại nguyện sống y như cuộc đời tu hành chân tu của Thầy Viện chủ, nghĩa là phải sống Phạm hạnh, lập một cái đại nguyện lớn là phải sống ba y, một bát thôi. Chỉ có con đường đó thôi chúng ta mới đi vào cái thiền định của Phật được.

Chớ còn nếu mà về ở nhà, tiếp tục trụ trì rồi là cứ lo xây dựng chùa chiền rồi này, nọ thì tất nhiên là kể như cái đường tu tập mà giải quyết cái vấn đề luân hồi, sanh tử, làm chủ được chắc rất khó.

Do đó cho nên chúng tôi mới lập một cái nguyện lớn là phải sống theo hạnh của Thầy Viện chủ Bổn Sư là chỉ ba y, một bát, vậy thôi.

Do đó cho nên là, chừng ba ngày sau thì tất nhiên là thân hình nó nhẹ nhàng trở lại, rồi chúng tôi lúc bấy giờ bình tĩnh trở lại mới bắt đầu ngồi thiền. Thì Thầy Viện chủ có nhắc là: "Đừng có để cho nó tác ý".

Chúng tôi ngồi thiền, mà lúc này, khi mà ngồi thiền vô thì nó rất là nhẹ nhàng chớ không phải như hồi lúc mới ban đầu phải tập trung hơi thở rồi này, nọ. Bây giờ chúng tôi chỉ ngồi hít nhẹ một hơi vô là nó vô luôn tới Tam Thiền liền. Nó đi rất nhẹ mà xả ra cũng rất là nhẹ nữa.

Thì đến đây chúng tôi cũng thêm một cái chỗ nữa là: Trên cái đoạn đi mà từ Nhị Thiền đến Tam Thiền, cái hơi thở chúng ta đi sâu vô mà đến tới cái nó nhẹ tới mức độ mà vô Tam Thiền nó quá nhẹ đi, do đó cho nên là cái huyệt sau lưng - chỗ mà với không tới - tự nhiên nó bị lói hơi nhỏ, rồi đau, rồi mình hơi thở không thông.

Đó, trong những cái lúc tu thiền thấy nó thở vô nhỏ, cái hơi thở mình nhỏ tới đó là nó không thông, là nó đau, thì chúng tôi mới xả thiền ra, tưởng đâu bị gió nhập. Nhưng mà khi, chúng tôi mới nhờ cái chú y sĩ đó, chú lại chú sửa, chú bóp, chú thoa dầu này nọ, nhưng mà không hết đâu.

Cái đó là do nơi cái huyệt chúng ta nó chưa có thông thôi, thành thử ra là ngồi thiền liên tục hai lần sau nữa thì tự nhiên hơi thở nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi nó có một sức mạnh gì nó tống thông ra thấy rất là nhẹ nhàng.

Sau khi cái huyệt đó thông rồi đó, chúng ta nhập thiền vô Tam Thiền rất là nhẹ mà rất là nhanh, trong vòng chỉ năm phút thôi là vô liền, khỏi cần phải ngồi mình kiểm tra hơi thở rồi mình phải đủ thứ chuyện như hồi lúc mình mới ban đầu.

Thì những cái cảm giác mà chúng tôi thấy được đó thì do ba cái nguyên nhân đó.

Đến đây thì qua những kinh nghiệm của chúng tôi đã thực tập và bị vấp phải như vậy, nay xin trình lên Thầy Viện chủ và đại chúng biết rõ để chúng ta rút kinh nghiệm và giúp người đi sau khỏi phải sợ hãi và lúng túng khi gặp trường hợp bị tưởng ấm ma nhập vào.

2.3- KINH NGHIỆM TRÁNH TƯỞNG MA NHẬP

(27:02) Sư Thiện Thuận: Kính thưa đại chúng, là tưởng ấm ma nó nhập vào chúng ta đó, là nó nhập khi mà chúng ta xả thiền ra thì nó thừa cơ mà chúng ta lơ đễnh, chúng ta không có tu cái Tỉnh Giác Chánh Định kỹ đó, lơ xơ một niệm thôi là nó vô liền ngay trong cái lúc xả.

Do đó cho nên là khi xả thiền phải nhớ: Ngồi phải tỉnh giác, tôi chỉ biết xả thiền thôi, đừng mống niệm gì hết, đừng mống niệm thần thông nữa. Đó, do đó cho nên là phải lưu ý chỗ đó.

Rồi cái cách trị liệu để mà mình khỏi sợ bị tưởng ấm ma nó nhập vào đó, là chỉ có ba cách. thì theo tôi nghĩ thì có ba cách:

Một là khi xả thiền ra phải tỉnh giác, xả thiền chỉ biết xả thiền. Ngồi chỉ biết xả thiền thôi, đừng nghĩ gì khác hết là tất nhiên tưởng ấm ma không bao giờ nó nhập vô được. Cái đó là coi như mình làm chủ, mình cảnh giác rồi.

Cái thứ hai là khi đến cửa Tam Thiền thì cơ thể nó thay đổi khác hết trơn rồi, nghĩa là rắn đã hóa thành rồng rồi, mình nhẹ nhàng là mình thay trược hết rồi, nó rất là nhẹ nhàng, mà máu nó cũng đổi lại, hơi thở mình cũng đã khác rồi, mình làm chủ hoàn toàn, thì chúng ta phải biết được những cái trạng thái đó.

Tất nhiên là người đã tu tập xong hoặc là quý thầy hướng dẫn kỹ lại những cái trạng thái đó, biết trước thì tất nhiên là hoàn toàn bình tĩnh, mà bình tĩnh thì mới chủ động được.

Chớ nếu không khéo trong cái lúc đó mà không chủ động thì coi như là sẽ đi đến cái chỗ tưởng ấm ma nặng là coi như sẽ điên khùng thôi, điên khùng hoặc giả là coi như hư hoại luôn, không còn tu hành được nữa đâu.

Bởi vì lúc đó mình đảo lộn hết trơn rồi, các hành mà mình biểu nó ngưng rồi, nó giống như một cái người mà đi cày vậy đó. Đi vô hai con trâu mà người nào không biết cày cứ vừa biểu "dí”, vừa biểu “thá” rồi con trâu biết đi đường nào? Mắc mớ chi biểu “dí” cái rồi biểu “thá”? Đó, từ chỗ đó nó không biết đường đi.

Cũng như các hành và hơi thở của chúng ta cũng vậy nữa, thì mình làm chủ được nó là phải điều khiển một cách cho thuần thục, phải tinh xảo. Do đó cho nên, mình biết cách như vậy, bình tĩnh như thế thì tất nhiên là rất là yên ổn.

Thứ ba là chúng ta đi kinh hành quán vô thường, vô ngã, bất tịnh v.v…​ và để xem kinh, để lấy lại cái hơi thở bình thường ban đầu.

Nghĩa là khi gặp những cái trường hợp đó rồi thì cứ đi kinh hành, đi kinh hành để quán: Quán vô thường, vô ngã, thân bất tịnh…​ rồi cuốn kinh ra, ngồi lại thì lấy cuốn kinh ra xem để tập trung lấy lại cái hơi thở lúc ban đầu, thì tất nhiên là chúng ta sẽ quét sạch được tất cả những Định Vô Lậu mà nó nằm ở trong bụng và trong đầu chúng ta.

(29:40) Từ ở chỗ đó, lòng tham dục và tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…​ và tất cả những cái ham muốn về tài sản thế gian phải quán bỏ hết. Chúng ta phải quán xả bỏ hết đi rồ từ đầu cho đến bụng mình là rỗng rang, nó giống như cây trúc vậy đó, nó rỗng rang không có chứa một cái gì hết đó, thì chúng ta đi vào định rất là hay.

Do đó cho nên quan trọng nhất nữa là cũng phải lập một cái nguyện lớn là phải sống một đời sống chân tu ba y một bát, đó là cái quan trọng.

Thì chúng tôi cũng xin nhắc lại một lần nữa: Nếu mà chúng ta muốn có một cái thuận lợi để mà đi vào cái định thì phải tụ hợp đủ lại sáu điều kiện:

Một là trước phải tu Mười Điều Lành là Thập Thiện, giữ giới luật, trường chay, tuyệt dục;

Thứ hai là tu Tỉnh Giác Định Chánh Niệm;

Thứ ba là phải tu Niệm Vô Lậu Chánh Định;

Thứ tư: Xả bỏ hết tài sản của thế gian;

Thứ năm: tu cái Hiện Tại An Lạc Trú Chánh Định;

Thứ sáu là chúng ta sống độc cư - là tịnh khẩu.

Nếu ai thành tựu được cái này thì tất nhiên sẽ nhập thất chừng tuần lễ là vào Sơ Thiền rất nhanh.

Đó, đến đây thì qua cái kinh nghiệm thực tu, thực thấy của chúng tôi thì cũng xin trình bày cho đại chúng biết, cũng như có huynh Minh Tông thì chắc cũng trải qua vấn đề Tam Thiền rồi những cái trạng thái này đó, thì sẵn hôm nay mình trao đổi với nhau luôn. Bởi vì hổm rày tịnh khẩu rồi có mà không dám hỏi, do đó cho nên sẵn bữa nay mình trao đổi luôn.

Rồi đồng thời cũng xin qua cái ý của Thầy Bổn Sư Viện chủ nghe qua và bổ sung thêm một số ý kiến để cho chúng con tu tập thêm tốt.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

3- PHẢI CÓ MINH SƯ CHỈ DẠY ĐỂ TRÁNH MA TƯỞNG NHẬP

(31:37) Trưởng lão: Thầy xin nhắc chỗ này chút xíu. Trong cái sự kiện mà xảy ra, đây là cái hoàn cảnh rất tốt cho chúng ta hôm nay để chúng ta rút tỉa được kinh nghiệm của thầy Thiện Thuận. Và đồng thời thì phải thấy rằng nó có những cái điều kiện thực tế trong sự tu tập.

Còn Minh Tông thì được Thầy dạy tu tập theo Thầy gần ba năm nay cho nên mỗi bước đi của nó Thầy theo dõi, tập luyện rất là kỹ lưỡng, cho nên không đến đỗi mà bị lạc lầm như vậy.

Vì thầy Thiện Thuận xa Thầy, chỉ có cái hạ này mới có về đây gặp Thầy mà thôi. Do cái sự mà nhiệt tâm tu hành, nhiệt tâm xả tâm, rồi trong cái công việc mặc dù là có duyên sự chùa nhưng mà thầy cũng không quên những cái pháp tu, do vì vậy mà đến đây nó quá nhanh chóng mà thầy không chuẩn bị được cái tư thế để làm chủ mọi mặt.

Còn Minh Tông thì Thầy đã chuẩn bị cho nó mọi mặt. Từ bước đầu vào đây, nó ngồi một giờ rưỡi, hai giờ, Thầy dẹp xuống còn có mười lăm phút mà thôi.

Nghĩa là Thầy chia làm bốn đoạn mười lăm phút như vậy cho nó tu tập, từ cái ngồi kiết già cho đến cái ngồi ghế thường, cho đến cái đi kinh hành, rồi cho đến khi đứng, nó tu trong bốn oai nghi.

Do từng cái hướng dẫn mà cặn kẽ, kỹ lưỡng cho nên nó không xảy ra. Từ đó cho đến bây giờ thì theo Thầy thấy, nó tịnh chỉ được các hành rất tốt và rất yên ổn mà không bị lạc lầm, vì luôn luôn Thầy đã dạy cái pháp hướng rất kỹ cho nó.

Do như vậy mà Thầy biết rằng, Minh Tông sẽ đi vào con đường thiền này từng cái bước của nó rất là rõ ràng: Sơ Thiền như thế nào chắc chắn nó cũng nhận biết rõ, mà Nhị Thiền như thế nào nó cũng biết rất rõ.

Cơ thể nó thay đổi không phải như thầy Thiện Thuận: Bùng một cái dùng pháp hướng cái cơ thể rối loạn liền tức khắc!

Còn cơ thể nó từng ngày, từng giờ nhẹ nhàng thay đổi, với sự thay đổi nó thường trình bày cho Thầy nghe: "Dường như thân con thay đổi bằng cách này, bằng cách khác, bằng cách nọ…​” nó trình bày cho Thầy hết, nhưng mà nó nhẹ nhàng, êm ái, không bị rối loạn.

Còn thay đổi một cách đột ngột như thầy Thiện Thuận đó là cái rối loạn lớn và ma sẽ nhập đó!

Cho nên, chúng ta tu hành phải có một bậc minh sư thì không bao giờ có bị Ngũ Ấm Ma. Tại sao vậy?

Tại vì bậc minh sư họ biết được cái chỗ nào tu như thế nào, làm như thế nào, vì vậy mà cái người đệ tử của họ rất vững vàng, không có lạc.

Cũng như bây giờ nói là một điều nhưng quý thầy thử nghĩ, khi quý thầy mà xa Thầy thì quý thầy sẽ gặp những cái khó khăn, như thầy Thiện Thuận nếu mà không có Thầy trong một đêm đó, cũng như không có sự hướng dẫn của Thầy, chắc chắn thầy làm sao thầy tu tập mà cho được như ngày hôm nay, phải không?

Vì vậy nó còn những cái khó khăn, mà không phải mọi người đều giống nhau hết. Bởi vì Đức Phật nói chúng ta có ba cái tướng: hành tướng, nhân tướng và đặc tướng.

Mà trong cái hành tướng của mỗi người, mỗi hơi thở, người thì thở dài, người thở ngắn ở mực bình thường của nó, mà chưa phải là những cái hơi thở khác. Do đó thì - trong nhân tướng thì có mặt ai mà giống ai đâu: người lùn, kẻ cao, người thấp; đó là cái đặc tướng của nó - cho nên tùy theo mỗi đặc tướng mà tu tập.

Do cái người thiện hữu tri thức người ta mới nắm được cái đặc tướng của mọi người mà người ta giúp đỡ cho cái người tu vững vàng, nó không có bị lệch lạc, làm cho con đường tu càng ngày càng tiến, mỗi ngày mỗi thấy sự tiến bộ.

Cho nên hôm nay chúng ta là những người đủ duyên nhất đã học được thực tế ở trên con đường tu tập thiền định, không có còn cái chỗ nào mà hơn cái chỗ này hết!

(34:50) Nghĩa là làm chủ được cái sống chết, làm chủ được cái cơ quan vi tế nhất của loài người là cái thân của chúng ta chớ không gì hết. Không có cái máy móc nào trong thế gian này mà bằng cái cơ quan, cơ thể của chúng ta, mà hôm nay chúng ta làm chủ được nó, mà làm chủ cả cái óc của chúng ta nữa.

Để rồi tới đây quý thầy sẽ nhập Tứ Thiền, rồi quý thầy sẽ biết cái sự vi diệu của nó vô cùng. Thầy không phải là quảng cáo cái thần thông đó đâu, mà tại vì cái bộ máy cơ thể con người rất là vi diệu khi mà chúng ta nắm làm chủ được nó, chúng ta điều khiển.

Cho nên càng đi tới chúng ta càng thấy con đường của đạo Phật thật tuyệt vời, nó thật là tối thượng. Tại sao? Tại vì trong tâm chúng ta không tham muốn một cái gì hết, xả ly tất cả, chỉ còn ba y một bát, mà chúng ta sử dụng toàn bộ, vì vậy mà chúng ta không bị dính mắc.

Trái lại, nếu mà tâm chúng ta còn chứa tham, ham muốn ở trong đó mà nó điều khiển được cái con người chúng ta như vậy, thì cái thế gian này, trên cái hành tinh này chắc là con người bị hoại diệt!

Nghĩa là cái tâm tham vọng của chúng ta còn mà chúng ta điều khiển được con người như vậy thì Thầy nói rằng thế gian này sẽ bị hoại diệt. Người ta sẽ dùng nó mà người ta làm một cái việc gì vĩ đại, như các nhà khoa học đã tưởng tượng những cái con người vĩ đại, nghĩa là thôn tính hoàn cầu. Cái tâm tham vọng chúng ta lớn lắm.

Nhưng vì đạo Phật thấy được cái điều này cho nên dạy chúng ta xả ly cái tâm này, để rồi thực hiện cái vi diệu này, cho nên nó chỉ vi diệu ở chỗ làm chủ được cái sự đau khổ của con người chớ không phải thôn tính hoàn cầu để làm bá chủ.

Chúng ta có thể, nếu mà cái người mà chúng ta điều khiển được cái thân của chúng ta, có thể chúng ta thôn tính cả vũ trụ chứ chưa nói là hoàn cầu. Thầy nói tới đây thì các thầy tới chừng đó các thầy sẽ thấy điều đó.

Cho nên Đức Phật Thích Ca nói: “Những gì Ta chứng như rừng lá cây, nhưng Ta dạy mọi người chỉ như nắm lá cây trong bàn tay!” Thật đúng như vậy, khi thực hiện đến đây Thầy thấy lời nói đó không dối người được.

Bây giờ thì qua cái sự trình bày, Thầy biết rằng Thầy dạy Minh Tông rất là cẩn thận và kỹ lưỡng, cho nên hàng ngày có những chuyện gì thì ngay đó đến thất Thầy, thầy trò bàn bạc nhau rút tỉa từng kinh nghiệm, cho nên trên bước đường nó không sai.

Nhưng có lúc nó cũng nông nổi, là Thầy dạy: "Đừng có ngồi nhiều!" nhưng nó lại muốn ngồi nhiều để xem coi. Do đó nó có lúc nó ngồi năm, sáu tiếng đồng hồ, làm cho chân nó bị đau, bị khổ sở.

Nhưng Thầy thấy đây cũng là cái sự thử thách mà thôi, để rồi trên bước đường đi chúng ta mới có những cái kinh nghiệm. Chớ hầu như là mọi người đang nghĩ rằng mình phải ngồi từ ba tiếng, bốn tiếng, năm tiếng, bảy tiếng, một ngày, hai ngày…​ Nhưng Thầy đã từng dạy các thầy: Chỉ cần trong một phút mà nhập định được thì nó được, chứ ngồi nhiều nó chẳng ra gì!

(37:59) Nhưng điều kiện tiên quyết đầu tiên mà Thầy muốn dạy quý thầy về Định Niệm Hơi Thở hay hoặc Bốn Thiền này, thì Thầy đã nhắc nhở quý thầy rất nhiều là phải ổn định hơi thở bình thường, để lấy cái mực đó mà khi mà chúng ta tịnh chỉ các hành, hơi thở ngưng rồi trở về, phải trở về cái mực bình thường của nó.

Đó thì qua kinh nghiệm của thầy Thiện Thuận mà nhắc trở lại thì quý thầy thấy cái chỗ Thầy dạy căn bản, rất căn bản. Nhưng mà hầu hết Thầy nói các thầy, ít ra các thầy không nghe, mà cứ nghĩ rằng phải chậm nhẹ hoặc là hơi thở thế này thế khác để cho nó vào định, cho nó hết vọng tưởng!

Thầy đâu cần quý thầy loại hết vọng tưởng mà Thầy chỉ cần tu tập đúng, ổn định cho đúng hơi thở để rồi có chỗ quý thầy trở về, chớ nếu quý thầy mà tập không đúng cái hơi thở bình thường, quý thầy trở về không được.

Cho nên lúc bấy giờ thầy Thiện Thuận nói, Thầy biết rằng thầy Thiện Thuận không, quên mất cái hơi thở của mình bình thường mất rồi! Bởi vì rối loạn rồi, làm sao nắm được nó nữa! Cho nên còn có cách giải quyết là để tự nó phải trở về bình thường thì phải dùng Định Vô Lậu mà thôi.

Bởi vì lúc bấy giờ chúng ta hễ cần mà đặt tâm cái chỗ nào là ngay đó nó đã thu nhiếp lại rồi, thì nó khác bình thường rồi, không thể nào mà…​ Bởi vì thu nhiếp thì tức là cái hơi thở nó phải chậm và nó phải nhẹ ra rồi, nó không bình thường được.

Mà bây giờ chỉ còn có giữ cái ý của mình phải làm việc để cho nó, tự cái cơ thể nó tự nó quân bình lại bình thường, nó mới lấy lại cái hơi thở bình thường.

Còn nếu mà chúng ta tập nhuần nhã trong đó thì chúng ta biết cái hơi thở bình thường chúng ta ở mức nào rồi. Do vì vậy mà khi đó, gặp trường hợp đó chúng ta cần sử dụng hơi thở bình thường và pháp hướng chúng ta nhắc vài ba lần thì chúng ta trở về bình thường.

Và trở về bình thường thì nó thư giãn toàn bộ, cái thân của chúng ta không còn rối loạn nữa, bởi vì chính bây giờ chúng ta đang sống hơi thở bình thường thì cơ thể chúng ta đâu có rối loạn!

Cho nên khi mà chúng ta nắm được hơi thở bình thường là mạng sống chúng ta đã sống được, còn nếu không nắm được hơi thở bình thường là mạng sống chúng ta như chỉ mành treo chuông trong cái bước đi tu tập thiền định.

Cho nên Thầy dạy các thầy tu tập kỹ cái điều này, nhưng mà các thầy thì quá vội vàng mà quên rằng: Cái mạng sống của chúng ta là ở nơi hơi thở bình thường, chớ không phải ở trong định đâu!

Đó thì hôm nay Thầy nhắc vậy.

Và bây giờ thì Minh Tông có ý gì góp với quý thầy để cho quý thầy thấy cái sự tu tập của mình thêm có những cái kinh nghiệm tốt!

4- CƯ SĨ MINH TÔNG TRÌNH BÀY KINH NGHIỆM

4.1- KINH NGHIỆM XẢ BỎ

(40:03) Cư sĩ Minh Tông: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy!

Kính bạch toàn thể đại chúng!

Tại vì con cũng không có được chuẩn bị để mà có ý kiến, cho nên được sự cho phép của Thầy và có sự yêu cầu của thầy Thiện Thuận, con cũng xin góp một cái vài ý kiến.

Cái điều thứ nhất là…​

Bây giờ con nhớ cái gì con nói cái đó!

Cái điều thứ nhất là nói về vấn đề xả bỏ, thì trước khi định để mà nhập thất tu hành đó, thì chúng tôi cũng đã suốt gần sáu, bảy năm theo Thầy để mà tu tập tại nhà.

Trong thời tu tập tại nhà này thì chúng tôi cũng đã tu tập cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác rất là lâu, và nhất là hồi trước chúng tôi cũng là biết cái pháp tu Chánh Niệm Tỉnh Giác của thầy Nhất Hạnh, cho nên chúng tôi cũng tu cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác rất là lâu.

Cái thứ hai là trước khi mà quyết định lìa bỏ gia đình mà đi vào tu tập thì chúng tôi không phải là người mặc kệ cho gia đình sống chết như thế nào thì mặc kệ đâu! Chúng tôi phải tới ba, bốn năm chuẩn bị.

Chuẩn bị bằng cách nào? Bằng cách là tại nhà thì chúng tôi là có cái xưởng sản xuất về cái ngành mành trúc, thì chúng tôi bây giờ là ngồi yên không có hoạt động, mà giao cái sự hoạt động đó lại cho người bạn đời của tôi và cái đứa con trai.

Đó thì chúng tôi chỉ theo dõi. Theo dõi như vậy trong vòng gần ba năm để xem coi thử là cái sự hoạt động nó ra làm sao. Khi mà chúng tôi thấy là những người mà thay thế có thể đứng vững được thì đến cái lúc đó chúng tôi mới quyết định rời bỏ. Đó là cái sự chuẩn bị.

(42:28) Và đồng thời cũng chuẩn bị cái tư tưởng cho những người này - là cho con tôi. Con tôi thì tới năm đứa đang đi học, và cái người bạn đời của chúng tôi nữa, chúng tôi phải chuẩn bị cái tư tưởng xem thử họ có đồng ý không.

Đó thì chúng tôi cũng đem ra bàn bạc trong gia đình thì mọi người đều đồng ý cho tôi được nhập thất. Họ cũng cứ nghĩ rằng là chúng tôi nhập thất trong ba năm thôi, sau ba năm là chúng tôi trở về lại.

Nhưng mà khi bây giờ chúng tôi đã vào theo Thầy mà tu tập thì chúng tôi thấy rằng là cái chuyện xả bỏ thì không thể nào mà trở lại cái đời sống của người cư sĩ được!

Tại vì khi mà đã tu tập và đã trải qua được cái đời sống độc cư, rồi đời sống của một kẻ xuất gia, rồi ví dụ như bây giờ tôi trở lại trong gia đình đi, thì chúng tôi không thể nào mà ăn trở lại ngày ba bữa được! Bây giờ ăn một bữa thôi đó, mà nếu ăn nhiều thì đã cảm thấy trong thân nó mệt mỏi rồi.

Mà bây giờ ngủ chẳng hạn, nếu mà bây giờ tôi nằm ngủ mà quá hai tiếng thì nó cũng thức dậy à. Mà nếu không thức dậy thì nó rơi vào mộng. Muốn cho nó không rơi vào mộng thì chúng ta ngủ đủ cái mức độ tới sức của nó thôi thì tỉnh dậy, tỉnh dậy rồi thì mình nó đâu có còn mộng được!

Nhân cái chỗ này để mà nói đến cái chỗ làm chủ cái ngủ. Thì nếu mà chúng ta làm chủ được cái ngủ thì đương nhiên là chúng ta đã vượt qua được cái tưởng. Vì chúng ta tỉnh rồi, thì ngủ đủ sức của nó mà chúng ta tỉnh dậy thì mộng nó không thể xâm nhập vô được.

Cũng là như khi chúng ta ngồi thiền, nếu mà ý thức chúng ta luôn luôn tỉnh thì không thể nào mà có cái tưởng nó xen vô được.

Đó là chúng tôi xin nói đến cái chuyện xả bỏ.

4.2- KINH NGHIỆM NHẬP CÁC ĐỊNH

(44:54) Cư sĩ Minh Tông: Bây giờ nói đến cái chỗ mà nhập các định. Chúng tôi thì không có tu tập nhanh như thầy Thiện Thuận mà chúng tôi đi từ từ. Thì nếu mà bây giờ nói qua cái kinh nghiệm tu tập thì nó mất thì giờ nhiều của quý thầy lắm, cho nên chúng tôi chỉ nói đơn sơ.

Ví dụ như bây giờ vô Sơ Thiền, thì chúng tôi thường nghe theo lời Thầy giảng dạy cũng như theo trong kinh điển Phật, Sơ Thiền thì chúng tôi sử dụng cái hơi thở mà không có Tầm nhưng mà vẫn còn Tứ - thở bình thường, không có vọng tưởng nhưng mà còn tác ý.

Rồi tới Nhị Thiền, tức là chúng tôi chỉ thở nhẹ lại một chút, điều khiển cái hơi thở cho nó nhẹ lại một chút mà không có tác ý nữa, tức là không Tầm mà không Tứ thì là nó vô Nhị Thiền. Nó đơn sơ vậy thôi.

Sơ Thiền thì là mình cứ thở bình thường, mà không có vọng tưởng nhưng mà còn tác ý. Lâu lâu mình nhắc nó một cái - tức là mình tác ý, mình tác ý cho nó đi tiếp tục, chớ nếu mà mình không có tác ý thì là, nếu cái người mà mới tu thì vọng tưởng nó xen vô. Cho nên mình tác ý thì là vọng tưởng nó hết xen vô, thì tức là mình ở trong Sơ Thiền, thanh thản mà đi, thì đó là Sơ Thiền.

Còn muốn vô Nhị Thiền thì chúng ta ngưng cái tác ý, thở nhẹ, không Tầm - tức là không có vọng tưởng, mà không Tứ - tức là không tác ý, mà nhẹ lại thì là nó vô Nhị Thiền.

(47:06) Vô Tam Thiền thì chúng tôi khác với thầy Thiện Thuận là tu tập rất là lâu. Tại vì trước khi mà vô Tam Thiền thì tôi là cái người không nghe lời Thầy cho nên là ngồi nhiều quá. Tôi ngồi đến khi mà tôi tăng lên tới bốn giờ thì bắt đầu cái chân nó bị nứt ra, nó đã thành vết thương.

Mà bây giờ các thầy cứ tưởng tượng, cái vết thương của chúng tôi chỉ là một cái mụt ghẻ nhỏ ở cái bàn chân thôi - ở cái chỗ mà tréo cái chân lên đó, thì cái chỗ đó là cái chỗ mà điểm căng thẳng nhất, tréo chân lên - mà nó trở thành cái vết thương.

Chúng tôi ngồi ở trên cái vết thương đó, có khi máu nó chảy ra, suốt như vậy cho đến bây giờ vẫn chưa có lành. Sắp lành rồi, như vậy là gần một năm.

Các thầy cứ tưởng tượng là chúng tôi ngồi trên vết thương mà gần một năm trời, mà ngồi suốt bốn giờ! Thì Thầy bảo chúng tôi phải ngưng, không cho ngồi nữa để cho cái vết thương lành mà tôi cãi. Tôi cãi, tôi bảo Thầy, tôi thưa Thầy rằng là: "Thưa Thầy, bây giờ ngưng thì sau này mà tu lại nó khó quá!"

Nhưng cuối cùng thì ra trai đường đây, qua cái buổi giảng của Thầy, Thầy chỉ nói câu rất nhẹ mà tôi phải ngưng. Thầy bảo là: "Cái quan trọng không phải là ở cái chỗ ngồi, mà quan trọng là chỗ tịnh chỉ được các hành". Thì tôi về tôi suy nghĩ, cho nên là tôi ngưng. Tôi ngưng tôi không có ngồi tréo nữa, không có ngồi kiết già nữa mà chỉ có ngồi dựa lưng vô ghế.

Nhưng mà bây giờ nói đến cái chỗ kinh nghiệm cái chỗ ngồi dựa lưng vô ghế này. Các thầy đừng nghe nói là ngồi dựa lưng vô ghế rồi cũng nhập định được! Ở cái chỗ này là phải biết lúc nào là mình ngồi dựa lưng vô ghế mà nhập định được. Mà nó quan trọng là ở chỗ tại sao?

Ngồi dựa lưng vô ghế là nó buồn ngủ dữ lắm. Mà ai mà chưa phá được cái buồn ngủ, chưa đủ sức tỉnh thì ngồi cỡ mười phút, mười lăm phút, hai mươi phút là nó rơi vào ngủ à. Nó không rơi vào ngủ nó rơi vào thùy miên, nó không rơi vào thùy miên thì nó rơi vào vô ký.

Thì thành ra là Thầy cho tôi ngưng đúng vào lúc mà tôi ngồi ghế không còn bị rơi vô giấc ngủ nữa, cho nên đến bây giờ thì tôi ngồi tới gần năm tiếng, suốt liên tục gần năm tiếng, dựa lưng vô trên ghế, không nhúc nhích, mà nó cũng không rơi vào ngủ.

Đó là nói một chút kinh nghiệm về cái vấn đề là ngồi ghế. Mà bây giờ sau khi mà Thầy cho tôi ngưng không có ngồi tréo nữa cho đến bây giờ là gần hai tháng rồi - tức là một tháng rưỡi hơn rồi - mà cái vết thương ở chân nó vẫn chưa có lành, nó còn một chút xíu nữa.

(50:11) Đó, vì vậy cho nên thì quý thầy cũng thấy rằng là bữa ăn nào Thầy cũng cho tôi bưng cơm về thất ăn, là tại sao? Tại Thầy nói là: "Bảo vệ cho thật kỹ để cho cái vết thương nó lành hẳn đi rồi lúc đó là mình muốn ngồi bao nhiêu thì ngồi".

Nhưng mà qua cái chỗ này tôi rút cái kinh nghiệm là đến khi mà cái ngồi tréo đó là lúc chúng ta mới bắt đầu tu.

Thầy nói câu chúng tôi rất là thấm thía: "Ngồi tréo là để mà kiết cái thân lại, để cho vọng tưởng nó đừng có xen vô lúc mới thôi. Chớ còn bây giờ chúng ta mà đã làm chủ được cái hơi thở, chúng ta mà đã có cái sức định thì ngồi tréo hay là ngồi ghế hay là đi, đứng, hay nằm, ngồi thì nó cũng như nhau, không có quan trọng gì cái chỗ ngồi tréo đâu".

Thì ở cái chỗ này quý thầy thấy rằng là ngồi tréo tức là chúng ta dùng cái thế đó để mà buộc cái tâm lại cho nó đừng có cái chỗ bung ra hay là nó vọng tưởng ra. Còn khi mà chúng ta đã điều khiển được nó rồi - cái tâm ta mà ta điều khiển được rồi đó - thì ngồi ghế nó cũng có cái lợi. Có cái lợi ở chỗ là chúng ta tập tỉnh mà nó không có bị ngủ.

Còn cái điểm nữa là chúng tôi cũng xin góp thêm chút xíu nữa về vấn đề ngưng các hành và tác ý.

(51:35) Thì hồi nào đến giờ chúng tôi vẫn là ám thị nhắc nhở nhưng mà nó không có cái kết quả, mà sau này khi Thầy nhắc chúng tôi là: "Tác ý cho mạnh! Ám thị cho mạnh! Và ám thị cho cương quyết!" thì chúng tôi bắt đầu luyện tập cái cách mà ám thị cương quyết này. Tức là ra lệnh, mà ra lệnh cho mạnh thì mới ngưng được các hành.

Thì các thầy cứ tưởng tượng rằng là cái phổi ta nó đang thở, các cái cơ trong cơ thể chúng ta nó đang hoạt động, tim của chúng ta nó đang hoạt động mà bây giờ chúng ta ra lệnh "Ngưng!" làm sao mà ngưng được?

Thành ra phải có một cái sự tập trung cái năng lực tinh thần rất là mạnh. Thầy bảo là: "Đừng có nói là “Hơi thở ngưng, các hành ngưng!” Đừng có ra lệnh vậy, phải ra lệnh mạnh: “CÁC HÀNH NGƯNG! HƠI THỞ NGƯNG!”. Thì sau cái lệnh đó là tự động nó tập trung vô cái tụ điểm liền.

Nếu các thầy mà chưa có tập trung được cái tâm của mình vô tụ điểm thì cái sự ám thị đó nó cũng không có kết quả. Cho nên sau khi ám thị rồi thì chúng ta bám cái lộ trình hơi thở liền, là đưa hơi thở đi vào cái chỗ nhẹ, chậm nhẹ, chậm nhẹ, chậm liền.

Thì bây giờ muốn vô Tam Thiền thì nhẹ, chậm ở mức độ nào? Mà muốn vô Tứ Thiền - mặc dù là chúng tôi chưa đạt tới Tứ Thiền nhưng mà chúng tôi cũng đã thấy cái bóng dáng của Tứ Thiền.

Cho nên là chúng ta đừng nghĩ rằng là đi một mạch từ Sơ Thiền cho tới Tứ Thiền liền đâu. Không! Muốn vô Sơ Thiền thì chúng ta đi hơi thở nào để vô Sơ Thiền? Vô Sơ Thiền được rồi, muốn vô Nhị Thiền thì chúng ta phải ra hơi thở lại. Ra hơi thở lại chúng ta mới vô Nhị Thiền là thở nhẹ mà không Tầm, không có Tứ. Đang không Tầm, không có Tứ, muốn có Tam Thiền thì chúng ta phải ra hơi thở lại.

Bởi vậy cho nên Đức Phật mới bảo rằng là vô tới Diệt Thọ Định Tưởng thì cũng phải nương hơi thở ở cái chỗ đó. Vô Tam Thiền rồi chúng ta muốn vô Tứ Thiền thì phải ra hơi thở lại, tác ý ra: "Ra hơi thở lại!", đi ngay từ đầu rồi mới đi vô lại - vô cái hơi thở đó.

Ví dụ như vô Tam Thiền thì hơi thở nó chậm ở mức độ nào? Mà vô Tứ Thiền thì hơi thở nó chậm ở mức độ nào, mà nhẹ ở mức độ nào? Hoặc cái tác ý mà ám thị cũng vậy. Nếu chúng ta ám thị mạnh tức là nó bị động. Mà khi bắt đầu vô Tứ Thiền thì cái ám thị đó nó phải nhẹ lại, nó nhẹ lại và nó chậm lại ở mức độ như thế nào để cho cái ý thức nó ngưng.

(54:39) Thì chúng tôi nói đến đây chúng tôi cũng xin nói một chút kinh nghiệm về vấn đề là khi mà chúng tôi ngưng được cái ý thức thì tưởng nó cũng xen vô đấy. Vậy khi ý thức mà nó không hoạt động thì tưởng nó phải hoạt động.

Thì chúng tôi cũng đã gặp cái trường hợp là ý thức nó ngưng, tưởng nó xen vô, thấy cái thân này nó bay lên, nó bay lên rồi nó hạ xuống, nó ngồi lại. Nó bay lên, nó lại hạ xuống, nó ngồi lại, ba lần như vậy.

Nhưng mà chúng tôi bình tĩnh, chúng tôi nói rằng là: "Đây là tưởng cho nên là ta không theo nó, ta chỉ theo hơi thở thôi!" Cho nên nó phải ngưng.

Rồi thì khi mà ý thức chúng tôi nó ngưng như vậy, chúng tôi trình cho Thầy liền, thì Thầy nói là: "Đến cái lúc mà hễ ý thức nó ngưng thì tưởng nó hoạt động mạnh, cho nên con phải xả tưởng". Thì xả tưởng là mới ở trong Tam Thiền - tức là xả hỷ.

Các thầy thấy nghe nói “xả hỷ” chớ chưa biết xả hỷ là xả cái gì. Xả hỷ tức là xả các trạng thái tưởng. Mà các trạng thái tưởng thì gồm có sáu cái tưởng: thinh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng, thì phải xả sạch sáu cái tưởng. Cho nên: "Con phải xả sáu cái tưởng này, con đừng có theo nó và đừng có một cái mầm mống gì về thần thông!"

(56:48) Chúng tôi nghĩ rằng là nếu mà lúc mà cái ý thức của chúng tôi nó ngưng, mà chúng tôi mống một cái gì là nó có cái đó. Chúng tôi mống một cái là: "Cái thân bay lên!" là nó bay, mà chúng tôi mống một cái, nhớ tới cái gì là nó nhớ tới cái đó.

Nhưng mà đó là tưởng cho nên Thầy bảo: "Không có được đi vào con đường đó, tại vì con đường đó tức là đi vào con đường định tưởng".

Thì như vậy là chúng tôi thấy rằng là: Khi mà ngưng được ý thức thì chúng ta nhập vào bốn cái định tưởng được.

Tôi hỏi Thầy thì Thầy nói: "Nhập vô được, dễ dàng chớ không có khó gì! Nhưng mà nếu mà bây giờ con nhập vô định tưởng, nó mất thì giờ. Cái thứ hai nữa là nhiều lúc con đã vô đó rồi thì con mê rồi con không có ra được!" Do đó chúng tôi không có dám vào.

Nhiều lúc chúng tôi cũng có một cái khởi niệm trong đầu là vô thử coi bốn cái định tưởng này nó ra làm sao. Bốn cái định tưởng tức là: Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Đó là trong kinh nói và theo lời Thầy dạy, thì chúng tôi nghe vậy và chúng tôi biết vậy nhưng mà chúng tôi không có dám vào. Tại vì vào là chúng tôi sợ bị nó mắc dính vô đó rồi nó mất thì giờ.

Các quý thầy rút cái kinh nghiệm của tôi để mà đi cho được nhanh. Chúng tôi đi chậm là vì lý do thứ nhất là chúng ta bị lạc vào cái tưởng. Cái đi mà chậm nữa là chúng ta bị lạc vào cái chỗ hôn trầm, thùy miên, vô ký.

Nếu mà bây giờ mà cứ nằm mãi ở trong cái tưởng thì chúng ta cứ ở đó thôi, chớ nó đâu có đi tiến vô sâu thêm được nữa! Muốn tiến sâu thêm được nữa thì phải ra hơi thở để mà dẹp cái tưởng đi. Dẹp cái tưởng đi rồi chúng ta nương hơi thở thì chúng ta mới là tịnh chỉ tiếp các hành cho nó ngưng hẳn hoàn toàn.

Tại vì nói vậy chớ các hành nó ngưng rồi nó cũng sống lại, cái ý thức cũng vậy. Cái ý thức của chúng ta nó ngưng, nhưng mà nó ngưng tới mức độ nào? Mà chúng ta đang tập luyện thì - như tôi thì đến bây giờ là nó ngưng được cỡ hai tiếng, hai tiếng rưỡi, ba tiếng là bắt đầu nó sống lại. Nó sống lại rồi mà bây giờ tôi muốn đi tiếp thì phải tác ý cho nó ngưng tiếp tục.

Thì tại vì tôi không được chuẩn bị cho nên là không ghi lại được nhiều, thì chỉ xin góp một vài cái ý kiến đó để gọi là làm vui lòng thầy Thiện Thuận và theo sự cho phép của Thầy!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

5- TƯ TƯỞNG PHẢI TỰ CHUẨN BỊ, THẦY CHỈ LÀ NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG

(59:20) Trưởng lão: Sau cái trình bày của - trước là thầy Thiện Thuận rút tỉa những kinh nghiệm, sau cái trình bày của Minh Tông - các con thấy Minh Tông được Thầy chỉ dạy tận tình ở trong cái sự có thời gian để chuẩn bị, cho nên Minh Tông trình bày rất là kỹ, rất là quan trọng.

Còn thầy Thiện Thuận thì trình bày - bởi vì cấp tấp quá cho nên do đó thầy Thiện Thuận trình bày - quý thầy mà theo cái kiểu thầy Thiện Thuận, Thầy thấy là phải ở gần sát bên Thầy chớ còn mà lơ mơ thì tiêu, không có dễ đâu!

Còn Minh Tông, các thầy nên nghe theo cái lời của Minh Tông đó mà tuần tự tu tập như Thầy đã dạy Minh Tông. Cho nên sau này thì Thầy mà ẩn bóng thì Minh Tông mà tu tập xong, có đủ duyên, nó là người thừa kế cho Thầy.

Vì cái trình độ văn hóa của nó thì trên đại học, và cái sự tu tập của nó Thầy thấy từ cái ngày đến đây kỷ luật rất là nghiêm chỉnh, và nó cắt ly gia đình của nó hoàn toàn. Thầy thấy rằng ít có người cư sĩ nào mà làm được như nó! Cho nên Thầy hy vọng nó là người thừa kế của Thầy sau khi Thầy ẩn bóng. Nhưng Thầy chờ cho nó tu xong.

Vì vậy mà lúc này thì Thầy thấy rằng trong Tu viện của chúng ta có nhiều người có thể tin tưởng, rất là tin tưởng Phật Pháp rồi. Đó là qua cái hình ảnh tu hành: Thứ nhất là Mật Hạnh, thứ hai là Minh Tông, thứ ba là đến đây là thầy Thiện Thuận.

Như trình bày cho các thầy thấy, cái sự nỗ lực đó cũng không phải là do Thầy để mà chuẩn bị cho họ nỗ lực đâu. Chính cái tư tưởng, chính cái tâm của họ tha thiết, nhiệt tình với sự giải thoát, mà họ đã chuẩn bị cho họ, Thầy chỉ là một người bạn để mà biết đường dẫn họ đi cho đúng thôi, chớ còn cái tư tưởng đó họ phải chuẩn bị.

(01:01:04) Cũng như quý thầy hiện giờ, quý thầy nếu mà chuẩn bị cái tư tưởng như vậy thì Thầy dẫn đường thì quý thầy đi dễ. Còn quý thầy chưa có chuẩn bị như vậy, Thầy có dẫn đi đâu thì quý thầy cũng loành quành đó mà thôi chớ không đi được, bởi vì quan trọng là ở chỗ do tư tưởng.

Cho nên, nếu Minh Tông mà không có chuẩn bị cho cái tư tưởng của mình mà dứt khoát tu hành thì phỏng chừng bây giờ dù là mười năm chưa nói đã đạt được. Tại vì tư tưởng chưa dứt khoát, có ngồi đây cũng chỉ là vô ích, còn làm hao tốn của đàn na thí chủ!

Mà nếu mà thầy Thiện Thuận không chuẩn bị cho mình trong cái khóa hạ năm nay thì chắc chắn muôn đời thầy cũng không còn mà có thể có dịp gặp Thầy. Mà không có dịp gặp Thầy thì con đường tu của thầy lỡ dở.

Đây là cũng cái duyên mà thầy đã có cái tâm tha thiết, nhiệt tình. Cách đây sáu, bảy năm thầy đã có cái tâm muốn theo Thầy từ đó lận, nhưng cái duyên nó không đủ, thầy phải chuẩn bị sáu, bảy năm trời, cho đến cái hạ này là hạ cuối cùng thầy mới thấy là mình sắp xếp…​

Như vậy còn vướng bận chứ chưa phải…​ Cuối cùng mà thầy ở đây, thầy phải xả nó bằng cách - rõ ràng là nó chướng ở trong bụng thầy, nó chướng lên đầu thầy, đó là thầy phải còn dùng cái Định Vô Lậu để mà xả nó ra một lần cuối cùng nữa.

Thì như vậy đủ biết rằng cuối cùng thầy phát nguyện ba y một bát như Phật, hành trang của một vị du tăng khất sĩ, không còn là một vị trụ thế tăng nữa: Ở đâu cũng là nhà của họ, ở đâu cũng là nơi họ ở, chờ khi hết duyên là họ ra đi với một cách không danh, không lợi.

Đó là mục đích mà thầy đã nhận thấy: Những người tu sĩ đệ tử của Đức Phật ngày xưa thực hiện Phạm hạnh của họ đầy đủ như vậy!

Đến đây Thầy xin chấm dứt. Những cái lời hôm nay, những kinh nghiệm hôm nay rất quý giá. Mặc dù từ lâu Thầy chưa cho Minh Tông nói ra những cái lời này bởi vì Thầy biết ai tin mà nói, nói làm sao người ta tin được?

Vì cái nhân duyên có thầy Thiện Thuận về đây, sẵn đó Thầy mới gợi ý với thầy Thiện Thuận có sự yêu cầu để mà huynh đệ rút tỉa nhau mà tu tập, cho nên Thầy vui lòng nhận, chớ sự thật Thầy muốn chờ cho Minh Tông thực hiện xong mới mở miệng.

6- NGUYÊN NHÂN BỊ TẨU HỎA NHẬP MA

6.1- ĐỨC PHẬT KHẲNG ĐỊNH KHÔNG CÓ THẾ GIỚI SIÊU HÌNH

(01:03:07) Trưởng lão: Hôm nay Thầy sẽ dạy quý thầy về hỏa tẩu nhập ma để cho quý thầy thấy: Do cái lý do nào, mà tại sao mà có ma nhập, và để rõ được cái chỗ con đường của đạo Phật giải thích về cái ma nhập như thế nào.

Chớ hầu hết là chúng ta cũng chỉ nghe Thầy nói “tưởng” thôi, chớ chúng ta chưa biết cái tưởng nào là ma mà cái tưởng nào là không ma.

Tại sao có tưởng ma nhập?

Đạo Phật xây dựng giáo lý của mình trên nền tảng đạo đức nhân quả nên cái thế giới siêu hình không có ma. Nhưng cái bài Thập Nhị Nhân Duyên của Phật đã xác định rất rõ ràng là cái thế giới siêu hình không có, vậy sao ở đây lại có tưởng ma nhập?

Mà thường thì ma nhập vào những người sống trong tưởng nhiều: đồng bóng, cốt và những người tu thiền tưởng sai.

Ở đây quý vị cần phải rõ: Trong cái thân Ngũ Uẩn của quý vị có năm cái thức:

1. Sắc Thức Uẩn;

2. Thọ Thức Uẩn;

3. Tưởng Thức Uẩn;

4. Hành Thức Uẩn;

5. Thức Thức Uẩn.

Bởi vì cái đạo Phật dạy chúng ta rất rõ để mà chúng ta nhận thấy được cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta là năm cái Uẩn nó hợp lại nó làm cái thân của chúng ta.

Rồi cái thế giới siêu hình nó ở chỗ nào? Mà khi cái thân Ngũ Uẩn này nó tan hoại thì cái thế giới siêu hình nó đi về đâu? Nó có hay là không? Đó chính là cái điểm đặc biệt của đạo Phật để thấy được cái thế giới siêu hình nó nằm ở cái chỗ nào ở trong các Uẩn này.

Do vì vậy mà Đức Phật mới xác định cái bài Thập Nhị Nhân Duyên như Thầy đã nói rồi, là qua cái bài Thập Nhị Nhân Duyên chứng tỏ rằng cái thế giới siêu hình không có.

Nếu mà nó có thực thì nó phải có một cõi giới của nó. Mà đã có một cõi giới của nó thì tức là phải có con người chúng ta đến đó rồi chúng ta về đây. Đằng này hầu hết nói thế giới siêu hình thì chúng ta chỉ tưởng tượng mà thôi, không có thấy ai mà đi đến cái cõi đó rồi về nói rằng: "Tôi chứng minh được cái cõi giới như vậy, như vậy…​".

Thì trong kinh Phật cũng đã xác định nhiều cái bài kinh nói về cái hướng này để chúng ta thấy rằng cái thế giới siêu hình không có.

Mà bây giờ chúng ta đang sống bị bao vây những cái thế giới siêu hình, làm cho người ta trở nên mê tín, người ta không biết là có hay không nhưng mà người ta vẫn thấy nó có!

Cho nên đó là một cái điều mà rất là nan giải cho con người ở trong cái thế gian này. Khoa học bây giờ chứng minh cũng không được, không làm sao chứng minh được cái thế giới này, thế mà chỉ có Phật giáo giải quyết được!

Mà ít có ai mà có thể giải nổi cái này ra. Họ cũng loành quành, loành quành rồi sau nghe trong kinh điển của Phật cũng nói thế giới chư thiên, ba mươi ba cõi trời như thế này, thế khác, thì họ cũng cho đó là cái thế giới siêu hình, họ đâu có biết đó là cái gì mà Phật đã muốn nói!

6.2- CÁC HIỆN TƯỢNG SIÊU HÌNH LÀ DO TƯỞNG THỨC HOẠT ĐỘNG

(01:06:16) Trưởng lão: Năm cái Uẩn này gọi là năm Thức:

1. Sắc Thức;

2. Thọ Thức;

3. Tưởng Thức;

4. Hành Thức;

5. Thức Thức.

Ở đây chúng ta phân biệt cho rõ ràng:

Sắc Thức thì dùng Lục Nhập.

Lục Nhập tức là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình. Nó - cái thân của chúng ta mà hiện bây giờ nó hoạt động để mà chúng ta nhận thức biết được mọi vật, thấy hình sắc cũng như nghe âm thanh, biết được mùi vị, hương thơm…​ thì hoàn toàn là phải do sáu cái thức này.

Tức là phải do sáu cái căn này: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, do vì vậy mà chúng ta mới nhận ra được các đối tượng xung quanh chúng ta, các pháp xung quanh chúng ta. Còn nếu cái Sắc này mà không có sáu cái căn này thì họ sẽ không nhận ra được.

Và cái nhận ra được, mà ở trong cái nhận ra được đó mà biết, mà nghe, mà thấy, mà cảm giác được, thì ở trong đó phải có cái Thức. Cho nên gọi nó là sáu cái Lục Nhập.

Vì ở ngoài mà tiếp xúc vào thì nó phải xuyên qua cái căn nó để rồi cái Thức nó mới phát hiện ra đó là một âm thanh, đó là một hình sắc, đó là một hương vị…​

Vì vậy mà về cái phần Sắc thì như quý thầy đã biết rằng: mỗi con người chúng ta hiện đang sống trước mặt, đang ngồi đây nghe, là chúng ta hoàn toàn đang dùng Lục Nhập của chúng ta để tiếp nhận những cái bài pháp mà Thầy đang giảng.

Và cái Sắc Thức - tức là cái biết của chúng ta hiện giờ đó - luôn luôn hoạt động để chúng ta tiếp nhận những đối tượng bên ngoài tác động vào thân và tâm của chúng ta.

Do đó, cái biết đó gọi là Sắc Thức, nói riêng thì nó là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thức, mà nói chung thì gọi là Sắc Thức.

Còn về phần Thọ Thức là cái cảm giác làm cho chúng ta khi mà bị xúc chạm, làm chúng ta thấy, biết được cái nóng, cái lạnh, cái đau, cái nhức, cái đớn…​ thì đó là Thọ Thức.

Nhưng ở đây Thọ Thức không quan trọng. Nó không quan trọng là vì đối với chúng ta dạy về Ngũ Ấm Ma thì nó không quan trọng.

Nhưng đến Tưởng Thức thì rất là quan trọng, về phần thứ ba thì Tưởng Thức rất là quan trọng.

Khi mà sáu cái Căn của chúng ta - mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý - mà nó ngưng hoạt động - tức là nó ngủ đi, nó không hoạt động nữa - thì cái Tưởng Thức này nó trỗi dậy, nó sử dụng cái thân của chúng ta, cái sắc thân chúng ta, nó sử dụng cái Sắc, thì một người mà mộng du, nó điều khiển cái thân của cái người đó đi như thường.

Đây là Thầy nói đó là cái mộng đặc biệt gọi là mộng du, còn cái mộng thường của chúng ta là nằm mộng - cái thân nằm đó mà thấy mình đi đây đi đó đó - thì cái đó nó không đặc biệt lắm.

Nhưng cái Tưởng Ấm Ma nó thuộc về mộng du, cái hỏa tẩu nhập ma nó thuộc về mộng du, cho nên nó nhập vô chúng ta thì nó điều khiển được cái thân của chúng ta, nhưng lúc bấy giờ cái người đó họ không biết.

(01:09:20) Thầy nghe nói những người mộng du thì họ đi ở trên tường thẳng được, họ đi trên cái mái nhà hiu hiu hoài họ không bao giờ họ té, họ không sợ gì hết. Rồi họ đi vòng vòng vậy rồi một lúc họ trở về họ nằm ngủ trở lại, chừng thức dậy họ cũng không hay biết gì hết. Đó là cái Tưởng Thức hoạt động.

Cũng như một người mà lên đồng nhập xác, thì những người này trong cái lúc đó họ chẳng biết gì hết, hoàn toàn Ý Thức họ - sáu cái thức của họ mà do Sắc Thức đó - thì hoàn toàn, nó ngưng hoàn toàn, nó để cho Tưởng Thức làm việc, dùng cái sắc thân của họ mà làm việc, dùng cái Tứ Đại của họ mà làm việc.

Đó là cái Tưởng Thức. Mà vì vậy, chúng ta nhận xét qua chỗ này mới biết được, do những cái hiện tượng xảy ra mà người ta thường thấy nó có những sự siêu hình đều là do cái tưởng này mà ra.

Ở đời người ta thường nói cái người nặng bóng vía và cái người nhẹ bóng vía: Nặng bóng vía có nghĩa là không thấy ma, mà cái người nhẹ bóng vía tức là hay thấy ma. Mà người nhẹ bóng vía tức là người này sống trong tưởng nhiều, mà người nặng bóng vía tức là người sống trong ý thức nhiều.

Cho nên cái người nhẹ bóng vía này nghe nói ma thì thấy hình bóng ma, đó là những cái trạng thái của tưởng, lưu xuất từ cái tưởng nhiều tưởng ít mà thôi. Chớ không phải có cái thế giới có linh hồn người khác mà xuất hiện ra để nhập vào mình hoặc nhập vào thân của người khác!

Đó là chúng ta sẽ xác định cho được để mà thấy cái Tưởng Thức nó đặc biệt và vi diệu, mà hiện tượng xã hội chúng ta nhiều người đã từng nghe, thấy, biết trực tiếp mà người ta không giải thích ra nổi được.

Hành Thức thì chúng ta biết rất rõ: Mỗi cái hành động, mỗi cái điều kiện có cái gì thì trong cái Hành của chúng ta đều có sự hoạt động thì phải kèm theo bên cái Thức của sự hoạt động đó, cho nên nó có cái sự điều động. Nhưng mà Hành Thức thì không quan trọng, cũng như Thọ Thức nó không quan trọng.

Nó quan trọng là khi mà cái Thọ Thức này hoặc cái Hành Thức này nó làm việc với cái Sắc Thức, thì lúc bấy giờ thân rung động cảm giác này, kia, nọ…​ thì cái Thọ đó nó cảm giác theo cái Sắc Thức cũng như theo cái Hành Thức của nó mà nó xúc chạm, do đó nó có cái cảm giác hoặc là cái này cái khác, thì do đó mà chúng ta nhận ra được cái cảm giác và nhận ra được cái hành động của chúng ta trong khi nó sử dụng cái Sắc Uẩn của nó.

Còn cái Tưởng Thức này thì nó đặc biệt riêng, nó sử dụng riêng. Nhưng trong cái sử dụng của Tưởng Thức thì nó cũng có cái Thọ Thức và Hành Thức chớ không phải không có.

Cho nên trong giấc mộng chúng ta thấy ăn chúng ta cũng biết ngon, mà chúng ta có cảm giác - thí dụ như thấy lửa cháy, lúc bấy giờ chúng ta chạy vào trong cái nhà để chữa lửa, chúng ta thấy nóng, thấy rát, nhưng mà sự thật ra thì nó không có phỏng lửa mà không có nóng rát khi chúng ta thức dậy.

Cho nên cái Thọ ở trong cái Tưởng Thức nó vẫn có, trong cái Hành của Tưởng Thức nó vẫn có, vì nó có đi đây đi đó ở trong đó cho nên nó phải có cái Hành ở trong đó. Vì vậy mà cái Thọ Thức và cái Hành Thức nó chỉ là những cái sự phụ thuộc vào cái sự điều khiển của Tưởng Thức và Sắc Thức mà thôi.

Như vậy thì quý thầy đã hiểu rõ, trên cái Hành Thức và cái Thọ Thức thì nó không quan trọng, nó không tạo thành cái thế giới siêu hình, mà nó chỉ phụ thuộc vào những cái Sắc Thức và Thức Thức mà thôi.

(01:12:48) Bây giờ đến Thầy giải thích về cái thức thứ năm tức là Thức Thức.

Thức Thức nó sẽ dùng gì? Nó dùng Thức.

Ở đây Thầy xin giải thích thêm để chúng ta thấy nè:

Sắc Thức thì dùng Lục Nhậpmắt, tai, mũi, miệng, thân, ý.

Thọ Thức thì dùng Xúc.

Đó thì các thầy thấy: Cái Thọ chúng ta mà không có Xúc thì nó không có cảm thọ gì được hết. Nó phải dùng cái Xúc nó mới có Thọ được.

Tưởng Thức thì dùng Tưởng.

Chớ nó không thể dùng mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý chúng ta được. Đó, phải rõ cái chỗ này.

Vì vậy mà:

Hành Thức thì dùng Hành.

Chớ nó không dùng Tưởng được mà nó cũng không dùng Xúc được, mà nó phải dùng cái Hành. Cho nên cái Hành Thức thì nó phải dùng cái Hành.

Thức Thức thì dùng Thức.

Chớ nó không có dùng cái Lục Nhập này. Tức là khi mà chúng ta nhập Tứ Thiền, thì cái Thức Thức nó hoạt động, thì nó lại không có dùng mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý chúng ta.

Vì mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý chúng ta, Phật nói: Mắt là nhục nhãn - con mắt nhục - không thể nào thấy xa ngàn dặm được! Cho nên nó phải sử dụng Thức Thức của nó.

Thức Thức nó phải sử dụng cái Thức, từ nó sử dụng cái tâm của nó cho nên nó ngồi đây mà nó thấy muôn ngàn vạn dặm, hoặc là nó thấy trong quá khứ nhiều đời, nhiều kiếp đó, tức là cái Thức đó đó!

Như vậy là chúng ta thấy biết được năm cái Thức này: Sắc Thức, Thọ Thức, Tưởng Thức, Thân Thức, Hành Thức. Nó sử dụng cái gì thì ở đây Thầy giải thích quý thầy rất rõ.

Mặc dù ở trong kinh không có nói, giảng bài này. Nghĩa là trong các kinh Phật không có giảng cái bài này như vậy, nhưng mà qua cái sự hiểu biết của Thầy trong cái sự tu tập, Thầy biết rằng tuy rằng trong lúc Đức Phật chưa có người thưa hỏi ngay cái điều này, cho nên không có bài giảng này.

Trái lại, vì trong thời của chúng ta nó có những cái ma chướng như vậy, cho nên Thầy mới giải thích cái này để chúng ta thấy rằng: Cái Thọ nó dùng cái gì, mà cái Sắc Thức nó dùng cái gì, mà cái Tưởng Thức nó dùng cái gì, mà cái Hành Thức nó dùng cái gì, và cái Thức Thức nó dùng cái gì.

Cho nên chúng ta nghĩ rằng: Cái Thức Thức nó sẽ dùng cái Sắc Thức, thì nó sẽ dùng cái Sắc Uẩn chúng ta thì không được, nó sẽ dùng mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý chúng ta cũng không được, mà nó dùng Tưởng cũng không được, nó dùng Xúc cũng không được, mà nó dùng Hành cũng không được, mà Thức Thức nó chỉ dùng cái Thức của nó mà thôi!

Tức là "tâm dụng tâm" đó. Người ta nói: "Tâm dụng tâm" hay hoặc là một danh từ của Thiền Tông thì nói: "Thể dụng thể" đó. Nó không có dụng cái chuyện khác được, mà nó dụng ở nơi nó, cho nên nó dẫn tâm về Tam Minh là cái chỗ này. Vì vậy sau khi nhập Tứ Thiền thì quý thầy sẽ thấy rõ cái này.

6.3- NHỜ Ý CĂN MÀ LÀM CHỦ ĐƯỢC SỐNG CHẾT, CHẤM DỨT LUÂN HỒI

(01:15:29) Trưởng lão: Sắc Thức dùng Lục Nhập là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý căn. Mà ý căn là bộ óc của chúng ta, chủ thể điều khiển toàn thân qua các căn của nó.

Nghĩa là cái ý căn, đương nhiên là chúng ta thấy là cái bộ óc của chúng ta là ý căn. Có nhiều người cho ý căn là trái tim của chúng ta, nhưng mà sự thật không đúng.

Trong kinh thường có chỗ cũng giảng nói ý căn là cái trái tim của chúng ta. Như bây giờ nói: nhãn căn là con mắt của chúng ta, mà nhĩ căn là lỗ tai chúng ta, mà tỷ căn là lỗ mũi chúng ta - thì cái đó chỉ rất đúng. Nhưng mà đến cái ý căn thì hầu như người ta không hiểu Đức Phật muốn nói cái gì.

Nhưng mà chúng ta xét trong cái thời đại chúng ta, chúng ta rất rõ là vì khoa học có hẳn hòi. Bởi vì cái ý căn là cái bộ óc của chúng ta, nó điều khiển toàn thân của chúng ta. Cho nên hiện bây giờ chúng ta sử dụng ý căn là một cái điều kiện rất là tốt.

Cho nên do cái sự hiểu biết này mà Thầy tận dụng cái ý căn của Thầy tu tập ở trong Bốn Thiền, nương vào cái hơi thở để điều khiển nó từ chậm nhẹ cho đến khi nó ngưng, hoàn toàn là do ý căn. Nếu mà chúng ta dùng tưởng căn, dùng Tưởng Thức mà chúng ta điều khiển là chúng ta sẽ lạc.

Cho nên hầu hết một số người chưa biết cho nên người ta tưởng là ý căn là cái tim của chúng ta, thì người ta dùng cái tưởng mà người ta tu thì người ta sẽ bị lạc.

Và đồng thời người ta cứ bắt buộc cái ý căn phải ngưng hoạt động, không cho nó hoạt động, thì cái điều đó là người ta sẽ đi lạc mất. Bởi vì ý căn mà ngưng thì cái chủ thể điều khiển cái thân cũng như ông vua mà điều khiển cái nước, mà ông vua bây giờ ổng không điều khiển được thì người ta sẽ cướp nước ông!

Đó, do đó mà chúng ta biết cái ý căn nó rất quan trọng chớ không phải nhãn căn hay nhĩ căn mà quan trọng đâu, mà cái ý căn rất quan trọng, nó là cái bộ óc của chúng ta. Nhưng mà để một cái người khác mà vào cái bộ óc chúng ta nó điều khiển trong đó thì cái guồng máy của một đất nước đó sẽ bị mất.

(01:17:17) Đó thì hôm nay, chúng ta thấy cái ý căn là cái vấn đề rất quan trọng.

Bởi vì cái Sắc này thì nó phải có cái ý căn, mà cái ý căn là cái vấn đề điều khiển toàn thân của nó, cho nên chúng ta muốn điều khiển sống chết do cái ý của chúng ta, cái ý căn đó, vì vậy mà chúng ta mới làm chủ được cái sống chết của chúng ta.

Do cái ý căn đó mà chúng ta mới chấm dứt được cái sự luân hồi, mới phát triển được trí tuệ. Nếu không có ý căn chúng ta chẳng phát triển.

Cho nên, có một số người dạy tu thiền là tu vô phân biệt, tu rồi không phân biệt gì hết, thì như vậy là ý căn có làm việc gì đâu? Tỉnh táo đó, biết đó, ai đụng tới hỏi bảo gì thì nói, mà không bảo thì không phân biệt gì, thì có phải giống như người điên không?

Đó là những cái họ hiểu lầm, họ tưởng rằng khi vô phân biệt thì tức là nó sẽ được giải thoát hoàn toàn, là thành Phật!

Cho nên có một vị thiền sư sai một người đệ tử: "Con hãy vào trong lấy cho thầy một cái thùng để ra xách nước!", thì cái vị đệ tử này mới vô xách cái rổ đem ra. Cái rổ thì quý thầy biết nó có lỗ lỗ, thế mà vị thiền sư mới cả cười: “Người đệ tử của mình chứng đạo rồi!”, thì các thầy nghĩ như thế nào?

Đó là những cái mà người ta tập trung để ca ngợi cái phương pháp vô phân biệt, để đưa con người đi đến cái chỗ ngơ ngẩn, lầm lạc.

Họ đâu có phải chết - bởi vì họ đâu có phải là người chết, họ đang ở trong một cái trạng thái vô phân biệt, họ không phân biệt gì hết, cho nên họ vẫn thản nhiên xách cái rổ mà họ tưởng là cái thùng, họ đâu có phân biệt. Bảo họ xách cái cuốc họ vô họ xách cái dao, bảo họ làm cái này họ lấy cái khác!

Thì cái đó là cái làm cho cái ý căn của chúng ta nó ngưng hoạt động, nó không còn phân biệt được nữa, nó không còn biết được nữa, thì như vậy là cái hệ thần kinh chúng ta bị lạc rồi chớ gì?

Đó, đó là một cái điều sai mà hiện tượng trong nhiều cái thế kỷ gần đây người ta tu theo thiền, người ta bị lạc rất nhiều cái điều đó.

6.4- ĐẠO PHẬT THỰC HIỆN BẰNG Ý THỨC, KHÔNG PHẢI BẰNG TƯỞNG THỨC

(01:19:19) Trưởng lão: Thọ Thức dùng Xúc, cảm giác mọi trạng thái hỷ lạc, khinh an, đau nhức, tê nóng, rát hoặc là nặng, nhẹ, nhói, chạy rần trên thân người.

Đó là những cái cảm giác mà chúng ta cảm giác khi mà cái Thọ Thức của chúng ta nó làm cho chúng ta biết những cái cảm giác như vậy.

Tưởng Thức thì dùng Tưởng nên luôn luôn tưởng về quá khứ và vị lai.

Nghĩa là chúng ta xét thấy cái Tưởng nó không bao giờ tưởng ở trong hiện tại được. Tưởng ở trong hiện tại thì không bao giờ tưởng được, mà nó tưởng thì nó phải tưởng ở quá khứ và tưởng ở vị lai.

Nó ngồi nó ước vọng về vị lai, nó là Tưởng đó. Mà nó nghĩ ngợi, nó nhớ một cái gì ở quá khứ, nó là Tưởng đó. Nó thuộc về loại ma đó, nó không phải là cái thuộc về loại tốt đâu.

Cho nên từ cái nghĩ mà về quá khứ làm cho tâm chúng ta nối đau khổ, làm tâm chúng ta dày vò, ray rứt về cái quá khứ, những cái sự kiện gì xảy ra trong đời chúng ta. Mà khi tưởng, nó sử dụng cái Tưởng để về quá khứ, để làm chúng ta nhớ lại, thì tâm chúng ta nó đã bị khổ. Vì vậy khi mà tâm bị khổ thì Phật bảo rằng đó là bị ma.

Về tương lai thì nó quyến rũ ta, cho nên Đức Phật gọi nó - khi mà cái Tưởng nó khởi về tương lai, nó nghĩ như thế này:

"Ngày mai này mình sẽ tu tập, mình sẽ làm chủ được sanh tử; rồi mình ra đây mình mở một cái Tu viện lớn, to, đồ sộ; mình hướng dẫn cả trăm, cả ngàn người để cho họ theo tu; mình làm sáng tỏ Phật Pháp lại!"

Đó là nghĩ về vị lai như vậy, đó là nó thuộc về bị ma tưởng cám dỗ chúng ta, lôi cuốn chúng ta, chúng ta bị ma rồi đó, thì đó là rõ ràng nó nhập vô đó!

Nếu mà ở trong - cái Ý Thức của chúng ta luôn luôn ở trong hiện tại thì ma tưởng không bao giờ nhập.

Đây là những cái mà chúng ta thấy: Nó chưa có đến đỗi mà làm rần rần người chúng ta rồi chúng ta mất biết đâu, chúng ta còn cái Ý Thức chúng ta một bên đó, vậy mà ma nó vô đó, nó cám dỗ chúng ta trong quá khứ và trong vị lai, nó lôi cuốn chúng ta, nó làm chúng ta đau khổ mỗi từng phút, giây ở trong đó!

(01:21:23) Cho nên có một bài kệ Thầy nhắc quý thầy:

Quá khứ không truy tìm

Vị lai không ước vọng

Đó là ma tưởng của chúng ta ở trong quá khứ và vị lai đó. Cho nên chúng ta phải biết mặt nó để mà diệt trừ nó, không có để cho nó xen vô ở trong cái quá khứ của chúng ta, mà không để cho nó xen vô trong vị lai chúng ta, thì lúc bấy giờ chúng ta đang ở trong hiện tại, thì đó là một cái nguồn giải thoát chơn thật nơi quý vị!

Nó không có môi trường hoạt động trong hiện tại.

Đó là Thầy xác định cho rất rõ. Vì cái môi trường mà hoạt động của nó trong hiện tại không có. Bởi vì trong hiện tại phải có những đối tượng, mà có đối tượng thì Ý Thức hoạt động.

Cho nên vì vậy Thầy mới xác định được cái chỗ mà chúng ta tu thiền: Hơi thở chúng ta mất là bị tưởng, mà hơi thở còn là không bị tưởng.

Vậy thì chúng ta khi mà vào định mà cái hơi thở mất thì chúng ta biết chúng ta ở trong cái trạng thái của đối tượng nào? Của Ý Thức - của định.

Còn nếu mà cái trạng thái đó nó là Tưởng thì nó làm cho chúng ta thích thú, tức là Tưởng nó phải là dục rồi, nó đâu còn là thanh tịnh nữa, cho nên nó làm chúng ta thích. Nghe mà ngồi nó hỷ lạc, khinh an, nghe khoái quá, đó là chúng ta bị trạng thái Tưởng chớ đâu phải là trạng thái của thiền định!

Phật nói: "Định sanh hỷ lạc" hay là "Ly dục sanh hỷ lạc", đâu phải cái trạng thái khiêu khích chúng ta thích thú, mà là một cái trạng thái rất là thanh thản làm cho thân tâm chúng ta thanh tịnh. Càng thanh tịnh càng sâu mầu trong thanh tịnh nó mới lắng sâu được chớ!

Còn cái này cứ nghe yên yên, khinh an nhẹ nhàng là cho nó là định, là thiền, hỏi ai mà tu có khinh an là thấy là được rồi, như vậy là tốt rồi, điều đó là đưa người ta đi đến chỗ chết!

Chưa biết cái trạng thái khinh an như thế nào mà dám xác định điều đó là dẫn người ta vào những cái định tưởng.

Nó không có một môi trường hoạt động trong hiện tại, chỉ có bố cục những hình ảnh, tâm lý, tình cảm con người qua những điều diễn biến trong cuộc sống hiện tại của người đó, rồi diễn lại một cái màn ảnh, đó là trong giấc mộng của chúng ta.

Khi Tưởng Thức dùng Tưởng để hoạt động thì Ý Thức phải nghỉ ngơi.

Nghĩa là lúc bao giờ mà cái Tưởng Thức mà hoạt động thì cái Ý Thức phải nghỉ, còn cái Ý Thức mà còn hoạt động thì cái Tưởng Thức không nghỉ.

Nghĩa là bây giờ chúng ta ngồi đây mà khởi vọng tưởng, đó là Tưởng hoạt động. Cho nên cái biết của chúng ta hiện giờ mà nghĩ về quá khứ thì cái đó là Tưởng chớ không phải Ý Thức của chúng ta đâu, chúng ta phải thấy rõ.

Cái Ý Thức của chúng ta, cái thân Sắc Uẩn của chúng ta là cái đối tượng của các vật tiếp xúc qua cái Thọ chúng ta, thì nó phải có cái đối tượng tiếp xúc đó. Mà cái Ý Thức thì luôn luôn nó phải tiếp xúc ở trong những cái đối tượng đó, cho nên nó luôn luôn nó sống trong hiện tại.

Mà khi mà nó chợt nó qua quá khứ thì cái đó là cái Tưởng Thức, hoặc là chợt nó đến tương lai thì nó là cái Tưởng Thức.

Cho nên ở đây chúng ta rất dễ nhận được cái Tưởng Thức của chúng ta, chúng ta nhận được cái Tưởng Thức hay hoặc là Ý Thức của chúng ta không khó khăn.

Cho nên thường thường người ta nói "vọng tưởng". Vọng tưởng là những cái niệm mà khởi lên ở trong đầu của chúng ta. Bây giờ chúng ta ngồi mà ức chế những cái vọng tưởng đó là ức chế cái Tưởng chớ không phải ức chế cái Ý Thức của chúng ta đâu.

Còn cái Ý Thức chúng ta đang biết hơi thở ra vô - đó là cái đối tượng của nó, là Ý Thức. Vì vậy mà cái Ý Thức của chúng ta dễ mất, cái Tưởng nó xen vô là cái Ý Thức chúng ta mất liền.

Cho nên chúng ta biết được cái phần nào hoạt động của cái người nào, và cái trách nhiệm đó trong lúc đó nó là ai, chúng ta biết nó là ma hay hoặc là chính mình? Mà cái Tưởng Thức mà chúng ta đã nói nó là ma thì tức là nó phải ma thôi, vì nó làm chúng ta đau khổ!

(01:25:01) Bây giờ thì quý thầy đã nhận ra được cái nào là Ý Thức và cái nào là Tưởng Thức rồi. Thì bây giờ Thầy nhắc đến cái phần thứ tư là cái Hành Thức.

Hành Thức thì nó dùng Hành, nên ở đâu có Hành là ở đó nó có sự hoạt động của nó.

Bởi vì nó dùng cái Hành mà, nếu mà cái Sắc nó hành động thì ngay đó là có nó. Đó thì quý thầy thấy, quý thầy cứ suy ngẫm Thầy nói rất đúng, không có sai. Bởi vì nó dùng cái Hành, mà nếu mà có cái Sắc hay cái Tưởng ở đâu thì ở đó nó sẽ sử dụng.

Cho nên đến khi cái Thức Thức mà nó sử dụng cái Hành thì ở chỗ cái Thức Thức nó sử dụng - tức là cái Thức Thức nó hoạt động - thì ngay đó thì nó mới có cái Hành. Nghĩa là cái Thức mà nó hoạt động thì ngay đó nó có cái Hành Thức liền tức khắc tại đó.

Cho nên trong Thức Thức nó sử dụng thì tức là nó có cái Hành, cái Hành đó thì ngay đó nó hướng tâm đến Tam Minh, nó thấy được nhiều đời, nhiều kiếp nó đó.

Ở đây Thầy dạy quý thầy rất là hiểu rõ được cái này để mà nắm được cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta để biết, để mà tránh cái Ngũ Ấm Ma và cái hỏa tẩu nhập ma, nó không có khó khăn gì hết! Biết rõ rồi thì chúng ta sẽ không bị lầm lạc.

Còn không biết rõ - bây giờ hầu hết là số người tu thiền họ không biết rõ cái này - họ ngồi ở trong ma mà họ tưởng, họ ngồi trong thiền ma mà họ cứ tưởng rằng thiền chánh của họ. Bởi vì cái ma tưởng của chúng ta - ngồi đây hỷ lạc, khinh an - đó là ngồi trong ma!

Cho nên cái sai là tại cái người không có hiểu mà dạy thiền mới đưa người ta đi đến chỗ chết. Hoặc giả nó không tới là tại vì cái người đó chưa có nhiệt tâm tu cái pháp môn đó, chớ còn nhiệt tâm tu - người nào mà nhiệt tâm tu cái pháp môn nào đó, mà cái người đó chưa rành các cái hoạt động của cái thân Ngũ Uẩn chúng ta - thì người đó sẽ đưa những người khác đi vào cái chỗ chết!

(01:26:51) Hầu hết là những người nhiệt tâm tu hành như thiền ông Tám hay hoặc thiền người này kia đó, thì hầu như là bị lạc vào, họ bị điên khùng đó. Đó là cái trường hợp mà họ dùng tưởng quá nhiều, và họ có sự nhiệt tâm tu hành.

Còn cái người mà tu chơi chơi, tu sơ sơ thì họ không bị gì hết, bởi vì họ tu cầm chừng cho có chừng thì không bị. Nhưng mà cái người mà quyết tâm tu thì bị.

Cũng như người ta dùng như thế này: Trên thân chúng ta thì do cái sự các nhà võ sĩ đạo, hoặc là nhà khinh công, hoặc là nhà châm cứu…​ người ta tìm những cái huyệt đạo trên thân để người ta giải trừ cái gì đó.

Không biết mấy ông này cũng nghiên cứu qua cái đó rồi nghiên cứu qua thiền, rồi chuyển ở trên những cái huyệt đó để cho nó thông suốt cái này kia, không ngờ là mình tưởng ra những cái huyệt đó để thông suốt, từ đó nó gây chúng ta có những cái trạng thái của tưởng, làm lệch lạc con đường tu chơn chánh của đạo, vì vậy mà khó có thể làm chủ sanh tử được!

Ở đây Thầy không thấy Phật dạy chúng ta phải khai triển cái huyệt này, khai triển huyệt kia, mà cuối cùng thì Người làm chủ sanh tử hẳn hòi.

Còn hầu hết là các nhà võ sĩ, khinh công hoặc là những cái nhà châm cứu y học thì họ tìm những cái đó để trị bệnh. Điều đó là một cái điều Thầy thấy trừ ra nó - cái chuyện đó là cái chuyện Thầy thấy nó không đúng cái con đường thiền định của đạo Phật, mà nó làm cho người ta cứ nghiên cứu bên nây rồi lấy râu ông này cắm cằm bà kia, nó thành ra một cái pháp môn để rồi từ đó tu tập dẫn nhau đi điên khùng nhau hết cả đám.

Chớ chưa có một người nào mà lấy râu ông này cắm cằm bà kia mà thực hiện được đạo giải thoát, làm chủ như Đức Phật bao giờ!

Trong cuộc đời chúng ta đã chứng kiến quá nhiều, suốt gần sáu mươi mấy năm tuổi đời của Thầy, Thầy đã chứng kiến biết bao nhiêu người tu thiền định mà cũng chỉ vì những pháp môn không có người thực hiện được, chỉ tưởng ra rồi dẫn nhau mà đi ở trên con đường đó.

Cho nên đến bây giờ chúng ta mới thấy được, tìm được một cái lối đi của đạo Phật chơn thật, thực hiện bằng Ý Thức, không phải bằng Tưởng Thức.

6.5- SỰ KẾT HỢP, CÂU HỮU CỦA CÁC UẨN

(01:29:02) Trưởng lão: Bây giờ, Thầy tiếp:

Như Sắc hoạt động tại sáu căn, thì Hành Thức hoạt động tại đó nên gọi là Sắc Hành.

Nghĩa là bây giờ cái thân của chúng ta hoạt động tại sáu cái căn chúng ta là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, thì tại nơi đó đó, thì chúng ta gọi là Sắc Hành.

Thọ hoạt động tại Xúc, thì Hành Thức hoạt động tại đó…​

Nghĩa là cái Thọ mà nó tiếp xúc với cái đối tượng gì của nó, thì cái Hành Thức nó sẽ hoạt động tại nơi đó.

…​nên gọi là Thọ Hành.

Tưởng hoạt động dùng Tưởng, thì Hành Thức hoạt động tại nơi đó nên gọi là Tưởng Hành.

Ở đây Thầy phân biệt từng cái cặp một, Thầy ghép lại để cho thấy sự hoạt động của cái thân của chúng ta, nó hoạt động từng cặp hoặc là hoạt động ba cái hay là năm cái ở trong đó một lượt.

…​ gọi là Tưởng Hành.

Hành hoạt động tại Hành, dùng Hành nên gọi là Hành Hành.

Thức hoạt động tại Thức, dùng Hành nên gọi là Thức Hành.

Khi chúng ta hoạt động chung một việc trên thân Ngũ Uẩn…​

Nghĩa là chúng ta làm chung một việc gì đó.

…​thì nó kết hợp câu hữu lại với Thọ thì gọi là Sắc Thọ.

Nghĩa là cái cảm giác của chúng ta mà nó hoạt động kết hợp lại, thì trong đó có Hành có này kia đủ, thì gọi là Sắc Thọ.

Sắc kết hợp với Tưởng thì gọi là Sắc Tưởng.

Nghĩa là bây giờ cái Sắc của chúng ta kết Thọ - cái thân của chúng ta kết với cái cảm giác - thì chúng ta thấy cái chân đau, thì đó gọi là Sắc Thọ. Còn nó kết với Tưởng, cái Sắc - thì bây giờ chúng ta thấy hình ông Phật hiện ra trước mắt của chúng ta mà không có ông Phật - thì đó gọi là Sắc Tưởng.

(01:30:46) Nếu mà nó kết hợp với Hành thì gọi là Sắc Hành.

Bây giờ thấy ông Phật ổng đi nè, ổng rờ tay trên đầu mình nè, ổng xoa rồi ổng ấn chứng cho mình sẽ là một kiếp nữa thành Phật, thì đó là Sắc Hành.

Hoặc là cái Sắc của chúng ta hành, nếu mà kết hợp với Hành thì gọi là Sắc Hành. Như bây giờ chúng ta nó kết hợp với Hành, thì cái tay chúng ta rờ cái đầu người nào đó, đó là nó kết hợp với Hành, thì gọi là Sắc Hành.

Nếu nó kết hợp với Thức thì gọi là Sắc Thức.

Nếu nó kết hợp với cái Thức của chúng ta, mà bây giờ chúng ta biết cái gì đó, thì cái đó ngay cái thân của chúng ta biết, thì cái đó gọi là Sắc Thức.

Thọ, Tưởng, Hành, Thức kết hợp từng cặp nhau cũng đều gọi như vậy.

Tóm lại ở đây chúng ta chỉ nêu lên ba cái Thức:

1. Sắc Thức;

2. Tưởng Thức;

3. Thức Thức.

Đó là những cái điều mà quan trọng mà để chúng ta nêu lên để chúng ta thấy. Còn những cái phần kia là cái phần câu hữu, kết hợp lại nó bằng cách này, bằng cách khác, nó rất là vi tế ở trong đó.

Chúng ta không phải là nhà duy thức học, cho nên chúng ta không phân tích nhiều rườm rà, và đồng thời nó cũng làm cho rối loạn, cho nên Thầy chỉ nhắc sơ như vậy để chúng ta hiểu mà thôi, chớ còn cái vấn đề đó thì chúng ta không cần quan trọng. Chúng ta cần quan trọng là do cái chỗ mà chúng ta tu tập làm sao mà để làm chủ sanh tử mà thôi!

Nhưng vì cái trường hợp xảy ra để chúng ta biết được cái thế giới siêu hình và cái ma mà nhập vào trong người chúng ta là do cái Thức nào, để chúng ta biết nó để mà chúng ta tránh, trong cái thời gian tu tập thiền định, chúng ta biết được cái nào là Tưởng Thức, cái nào là Sắc Thức, cái nào là Thức Thức để chúng ta thực hiện cho đúng con đường thiền định mà thôi.

Đó là cái ý ở trong cái bài này chớ không phải là giảng duy thức nói về sáu thức hoặc là nói về tất cả những câu hữu, kết hợp của thân Ngũ Uẩn này bằng cách này, bằng cách khác. Chia chẻ nó ra nhiều làm rối loạn thêm chớ không ích gì.

7- BỐN NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN TU TẬP THẤT BẠI

(01:32:49) Trưởng lão: Có bốn nguyên nhân đưa đến tu tập thất bại trong giáo pháp của Ta:

Đây là lời Đức Phật nói.

Như vậy là sau khi mà nói về vấn đề cái tẩu hỏa nhập ma, Thầy phân cho biết mấy cái Thức, rồi đây là cái bài của Phật nói để chúng ta phải biết được như thế nào để mà chúng ta tránh.

Đây, ông Phật cũng dạy chúng ta để mà chúng ta biết để mà tránh chớ không phải riêng Thầy mà Thầy nói cái vấn đề này không.

1. Một vị thầy và học trò chưa thấu đạt sự thành tựu pháp môn và giáo giới của người cư sĩ mà vội vàng cùng nhau tu tập những điều chưa biết, hay biết một cách lờ mờ, không rõ, thì cũng giống như người chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng để sống, và chưa thấu đạt pháp ăn củ, rễ cây để sống mà vội vàng vào rừng, thì những người này có sống được chăng?

Đó, ông Phật ví dụ.

Nghĩa là chúng ta chưa rõ cái giáo giới của Phật, pháp môn của Phật, giáo giới của Phật, mà hiểu một cách lờ mờ, chưa có chính xác, rồi cùng nhau mà tu tập.

Thì thử hỏi như là - giống như cái người mà ăn trái cây rụng, vô trong rừng lượm trái cây rụng để ăn, sống ở trong rừng, cũng như đi đào rễ cây hay củ ở trong rừng để ăn, để sống, không cần ăn cơm nữa đó.

Thì thử hỏi những người đó chưa có tập ăn như vậy, chưa có bao giờ tập ăn lá cây nè, chưa bao giờ tập ăn trái cây rụng để sống nè, chưa bao giờ ăn củ để sống nè, ăn rễ cây để sống nè, mà vội vào ở trong rừng mà ở, thì những người này có chết không?

Nghĩa là trước khi mà chúng ta muốn sống ở trong rừng mà ăn trái cây rụng, củ, rễ cây mà sống, thì chúng ta phải tập, và biết cái cây, cái củ nào, cái trái cây nào ăn được, cái trái cây nào ăn không được. Vô trong rừng đụng trái cây nào (cũng) ăn thì có điên không?

Cho nên khi đó mình không biết mà đi vào rừng ở để không ăn cơm gạo, thì cái người đó không bao giờ sống được. Cũng như một người chưa biết cái giáo pháp, cái pháp môn, cái giáo giới của Phật như thế nào mà vội vàng tu tập, thì cũng như những người đó.

Đó là cái phần thứ nhất.

(01:34:59) Cái phần thứ hai:

2. Một vị thầy và học trò chưa thấu đạt sự thành tựu pháp môn giáo giới của Tỳ Kheo mà vội vàng cùng nhau tu tập những điều chưa biết rõ, hay biết một cách lờ mờ hoặc đầy ắp những kiến chấp, sáu mươi hai lập luận tà kiến trên mây xanh, thì cũng giống như người chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng để sống, chưa thấu đạt pháp ăn củ, rễ cây để sống mà vội vào rừng, thì có sống được hay chăng?

Đó thì Đức Phật ví dụ. Bây giờ đến cái giai đoạn thứ hai.

Cái người mới có hiểu sơ sơ thôi, chưa có rõ gì hết, chưa có biết giáo pháp của Phật thế nào hết, nghe đạo Phật cái nhảy vô lo tu thôi. Người ta bảo niệm Phật thì mình cứ tu thôi, không biết gì cứ niệm hoài, đó là cách lờ mờ, không hiểu.

Còn bây giờ những người này thì họ lại khác hơn, nhưng mà họ có những cái kiến chấp đầy ắp sáu mươi hai lập luận - ở đây Phật nói sáu mươi hai lập luận chớ nó còn nhiều nữa kìa!

Sáu mươi hai lập luận tà kiến trên mây xanh, họ bị kiến chấp vào những cái lập luận đó thì phỏng chừng họ có giữ gìn giáo pháp và giới luật của Tỳ Kheo được không?

Như người ta nói: "Thõng tay vào chợ", "tự tại vô ngại", "đói ăn, khát uống, mệt ngủ", thì như vậy cái giới luật của Phạt - họ nghe chấp vào cái tà kiến như vậy đó - thì họ còn giữ được giới luật của Phật không? Đói thì mình ăn mà, khát thì mình uống là giải thoát rồi, còn gì nữa?

Cho nên do cái chỗ mà chấp tà kiến như vậy, để đưa cái người mà căn cơ còn thấp kém đi lên trên cái chỗ mà giải thoát được, thì họ bị cái tà kiến đó thì làm sao họ thực hiện được? Cho nên họ phải như người ăn trái cây rụng mà chưa quen mà vào rừng sống thì đâu có sống được!

Đó là cái phần thứ hai.

(01:36:51) Cái phần thứ ba:

3. Một vị thầy và học trò chưa thấu đạt sự thành tựu pháp môn và giới luật của Ta mà vội vàng cùng nhau nhen nhúm lửa tại cuối làng hay cuối xóm để mọi người đến chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường thì cũng giống như người chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng, củ, rễ cây để sống mà vội vàng vào rừng sống, thì có sống được chăng?

Đó Đức Phật ví dụ.

Bây giờ thì mình chưa có tu học gì được hết, mà mình nghe hiểu hiểu được một số giáo lý nào đó, bắt đầu đi ra cất chùa - nhen nhúm tại ngã ba, ngã tư nào đó cái chùa, cái miễu đó - để cho mọi người đến chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường, thì như vậy là giống như người ăn trái cây rụng mà chưa có biết cách ăn trái cây rụng ở trong rừng như thế nào để rồi sống ở trong rừng, thì thử nghĩ người đó có chết hay không? Tội lỗi tày trời, đọa địa ngục chớ đâu còn nữa!

Đó là cái phần mà trong kinh điển Phật cảnh giác cho chúng ta rất là lớn, rất là vĩ đại. Chưa gì hết mà lo dạy đạo đó, đó là cái phần này đó!

Phần thứ tư:

4. Một vị thầy và học trò chưa thấu đạt sự thành tựu pháp môn và giới luật của Ta mà vội vàng cùng nhau xây dựng một ngôi nhà tại ngã tư đường với lời nguyện: "Từ bốn phương, nếu có tu sĩ hay cư sĩ nào lại thì ta sẽ cúng dường pháp, tùy theo khả năng, tùy theo sức của họ", thì cũng giống như người chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng, rễ cây, củ để sống mà vội vàng vào rừng!

Đó thì Đức Phật đã xác định cho chúng ta: Khi chúng ta tu chưa có tới đâu, chưa có thành tựu mà vội cất chùa lớn để nhận người, rồi đem cái pháp mà chúng ta chưa có thành tựu đó mà dạy người, thì cũng như cái người mà ăn trái cây rụng mà chưa có tập sống ăn trái cây rụng để ở trong rừng, mà vô trong rừng để lượm trái cây rụng mà ăn, thì người này chỉ có ăn trái cây mà chết mà thôi!

Chưa biết trái cây nào mà ăn sống, mà chưa biết trái cây nào mà ăn điên, cho nên vô đó thấy trái cây rụng cứ lượm ăn thì kể như là chết! Vì vậy mà không phải chết một người mà chết bao nhiêu người!

Ở đây trong kinh Phật nói:

Từ bốn phương, nếu có tu sĩ hay cư sĩ nào lại thì ta sẽ cúng dường.

Nghĩa là giúp cơm, giúp gạo cho họ ăn đó. Nghĩa là như quý thầy về đây mà Thầy không rành thì đó là cái hình ảnh của Thầy.

Nghĩa (là) dạy quý thầy bằng cách tùy pháp, theo khả năng của mọi người, dạy ai nghe cũng hay hết, cũng thấu hết, nhưng mà rồi tới chừng nó điên rồi thì - Thầy thí dụ như thầy Thiện Thuận ở đây, mà đêm đó thầy điên luôn - thì thử hỏi có phải Thầy là người không thông, không hiểu pháp không?

Nghĩa là không thông hiểu thì thầy Thiện Thuận phải tiêu thôi, đâu làm sao mà giải trừ được!

(01:39:33) Đó thì quý thầy đặt thành vấn đề, như ở trong đây quý thầy, một thầy nào đi mở cái chùa đi, rồi nhận chúng đi, rồi theo kinh sách dạy đi. Gặp trường hợp thầy Thiện Thuận thì chỉ còn có nước đem nhà thương điên chớ có làm gì hơn!

Đó, quý thầy hiểu cái điều đó, cái điều rất quan trọng. Sinh mạng của người ta mà mình coi như là cái lông hồng à! Mình lấy cái đó để mình kinh doanh để cho mình làm giàu, mình làm cái cá nhân của mình cho nổi lên, nổi tiếng nổi danh lên, nhưng mà sự thật ra mình giết người mình đâu biết!

Các thầy phải thấy được cái điều quan trọng: Cái sinh mạng của người ta lớn lắm chứ đâu phải nhỏ! Đời sống của người ta phải lợi ích cho xã hội, lợi ích cho họ, thế mà họ phải ghép chặt, họ bỏ hết công ăn việc làm, họ bỏ cả vợ con họ vào đây, cuối cuộc đời họ, họ làm được cái gì? Ương ương, gàn gàn chớ có làm được cái gì?

Cho nên, kinh điển của Phật dạy rất đầy đủ. Tại sao người ta không đọc cái này mà người ta giảng cho mọi người biết? Tại vì người ta sợ quá!

Đó thì, đó là bốn cái phần mà Đức Phật đã xác định trong một cái bài kinh Thầy thấy quá tuyệt vời! Để nhắc chúng ta: Khi mà làm thầy là chúng ta phải đạt được!

Cho nên khi mà Thầy ra thất, Thầy thấy cái sự làm chủ của Thầy rất rõ: Thầy muốn đi hồi nào Thầy đi được, Thầy điều khiển được thân Thầy mà. Cho nên Thầy mới về Thầy bàn với Hòa Thượng để Hòa Thượng trắc nghiệm trên cái sự trắc nghiệm như thế nào, nghĩa là trắc nghiệm qua cái sự nhập định của Thầy để xem coi Thầy có làm chủ được không?

Nhưng mà Hòa thượng lờ qua chuyện đó, Hòa Thượng lại hỏi qua những công án. Những công án đó làm sao mà Thầy không biết! Thầy biết cả tâm niệm của Hòa Thượng nữa chớ đâu phải là biết công án đó không.

Cho nên đối với cái vấn đề đó là vấn đề quá rõ ràng không thể nào mà không biết được. Nhưng ở đây, mình phải thấy được cái trách nhiệm dẫn người đi có được hay là không, hay là phí cuộc đời người ta?

Vì vậy mà hôm nay tại sao Thầy tuyên bố ẩn bóng? Tại vì Thầy thấy quý thầy đến tu với Thầy mà không bỏ cuộc đời, không đoạn dứt cho nên Thầy bỏ Thầy đi. Chớ nếu mà quý thầy mà, hoàn toàn là người nào đến đây với Thầy mà đứt đoạn hết cuộc đời, trắng như vỏ ốc, Thầy hoàn toàn Thầy ở đây dạy.

Sau thời gian Thầy đã chứng nghiệm hai khóa rồi, Thầy thấy hoàn toàn là ương ương, gàn gàn, đời không chịu bỏ mà đạo thì muốn tu, làm sao mà Thầy dẫn đi được?

Cho nên Thầy phải ẩn bóng mà thôi. Là Thầy còn thương đời đó, chớ còn không Thầy nhập diệt!

(01:41:48) Đến đây quý thầy đã biết con đường của đạo Phật thực tế và cụ thể giải thoát cho con người, không còn mơ hồ, huyền bí, mà chỉ có tu sai không đúng pháp của Phật thì mỗi ngày tâm dục, tâm sân càng to lớn, và thiền định thì dễ lọt vào tà thiền, khiến con người rối loạn cơ thể, mất trí, trở thành điên khùng hoặc ông lên, bà xuống, ợ ngáp, xưng ông này, bà kia, thật sự là do dùng Tưởng ức chế tâm quá mạnh làm cho cơ thể rối loạn thần kinh.

Cho nên muốn tu hành giải thoát theo đạo Phật thì quý thầy phải chọn một bậc minh sư giới đức thanh tịnh, thiền định sâu mầu, trí tuệ bao la, sống ẩn bóng nơi rừng xa, lánh danh, lợi và sự cung kính, tôn trọng của thế nhân.

Lời Người dạy là thước vàng, khuôn ngọc…​

Tức là lời Đức Phật đã nói: “Một người tu sĩ mà khi có danh, có lợi thì nên tránh cái sự danh lợi, cung kính đó đi!” Cho nên cái lời Đức Phật dạy Thầy thấy là khuôn vàng, thước ngọc cho một bậc chân tu.

Lời Phật dạy là thước ngọc, khuôn vàng, phải tuân theo, tu tập và sống cho đúng đời sống Phạm hạnh của người tu sĩ thì con đường tu tập của đạo Phật không còn khó khăn.

Vì nó có nhiều phương cách tu tập, trau dồi, dứt bỏ mọi tâm niệm uế trược, bất thiện, tham, sân, si, mạn, nghi để được tâm trong sạch thanh tịnh, không chướng ngại trước các pháp nào.

Nhờ tâm được thanh tịnh như vậy nó mới chỉ được các hành trong thân, làm chủ sống chết. Từ nơi đó, nó mới phát xuất trí tuệ vô lậu, chặt đứt mầm tái sanh luân hồi.

Như thế: Sanh đã tận, Phạm hạnh mới xong, những việc làm đã làm xong, không trở lui trạng thái này nữa.

Tức là không trở về với cái sự sống chết của con người nữa, nghĩa là chấm dứt một đời này mà thôi.

Bây giờ quý thầy đã hiểu hỏa tẩu nhập ma hay là tẩu hỏa nhập ma là thế nào rồi, và biết cách để giữ thân tâm của mình lúc tịnh chỉ các hành mà không bị rối loạn cơ thể, tức là không bị ma nhập.

Tu theo pháp môn của đạo Phật không bao giờ bị ma nhập, mà khởi ý muốn làm gì được nấy như trong Tứ Như Ý Túc Phật đã dạy.

Để đến chừng Thầy dạy thiền, Thầy sẽ dạy quý thầy tu tập Tứ Như Ý Túc. Còn bây giờ, Thầy dạy về quý thầy trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm.

8- MA TƯỞNG KHÔNG NHẬP ĐƯỢC KHI SỐNG TRONG Ý THỨC

(01:44:40) Trưởng lão: Để tóm lược lại cái bài hỏa tẩu nhập ma, để tóm lược lại thì Thầy thấy cái điều quan trọng của quý thầy, thì cái thứ nhất là quý thầy sẽ nhận được cái ma tưởng của quý thầy ở cái thời gian nào.

Như Thầy đã nói hồi nãy đó, là nó ở cái thời gian quá khứ, nó - cái ma tưởng nó nhập vô là nó ở trong cái thời gian quá khứ và cái thời gian vị lai, còn cái thời gian hiện tại là hoàn toàn là Ý Thức, không có Tưởng vô đó được. Nghĩa là Tưởng không hoạt động trong hiện tại được. Đó là cái điều kiện thứ nhất.

Cái điều kiện thứ hai là vì mình tu hơi thở, mà hơi thở là đối tượng của cái Ý Thức, nhưng cái hơi thở nó có nhiều cấp độ: Chậm nhẹ, hoặc là có cái sự nối đuôi, hoặc là có một cái sự lặn mất đi, hoặc là có cái cảm giác cái hơi thở nghe nó khinh an…​ đó là những cái theo cái hơi thở mà chúng ta biết được.

Cái hơi thở mà nó hoàn toàn nó thanh thản, nó thanh tịnh, thì cái hơi thở đúng của Ý Thức, mà hơi thở có những cái trạng thái nào làm cho chúng ta thích thích ở trong đó, đó là cái Tưởng.

Bởi vì cái Tưởng - chẳng hạn bây giờ Thầy ví dụ cho thấy rõ: Mình chưa có ăn món đồ ăn đó, mà mình nghe người ta nói ngon thì tức là mình tưởng ngon rồi. Đó là cái Tưởng của mình đó, tưởng về đồ ăn.

Ở đây thì mình thấy có cái sự thích ở trong cái hơi thở của mình, cái trạng thái mà khinh an, thích thích, nó làm cho chúng ta thấy nó, do đó chúng ta khởi ra cái đó là thiền định hay hoặc là này kia…​

Lúc bấy giờ thì nó không có vọng tưởng đâu, vì có vọng tưởng thì nó không có cái trạng thái đó nhiều đâu. Nhưng mà cái người mà hết vọng tưởng rồi đó, hết Tầm rồi đó, thì cái đó nó xảy ra nhiều lắm.

Bởi vì khi mà hết Tầm tức là hết cái vọng tưởng tạp nạp đó, kêu là hết cái tưởng tạp nạp, thì cái tưởng kia nó mới xuất hiện ra được. Còn nó tạp nạp nó cứ khởi nghĩ cái này kia thì chắc chắn là cái tưởng đó không có, cái tưởng kia nó không xen vô được.

(01:46:37) Mà chính chúng ta thấy được như vậy là chúng ta biết - bây giờ ngồi đây mà vọng tưởng khởi nghĩ thì chúng ta biết tưởng. Nó tưởng về cái gì? Quá khứ và vị lai, thì đó là chúng ta biết ma.

Kế đó là chúng ta nghe nó - hơi thở hoặc cái gì trong thân chúng ta hay cái hoạt động trong thân chúng ta, hay là thân chúng ta nhúc nhích, nhúc nhích vầy mà chúng ta nghe nó an lạc, đó là Tưởng rồi, cái đó gọi là Hành Tưởng đó.

Nó bắt cái thân chúng ta nhúc nhích, nhúc nhích, hay hoặc là chúng ta chưa nhúc nhích mà cảm giác cái nhúc nhích của nó đó, mà nó nghe có sự an lạc ở trong đó, thì cái đó là Hành Tưởng rồi. Như vậy cũng là ma Tưởng nhập rồi đó.

Đó, cho những cái hành động nào, tất cả trong thân của chúng ta mà có những cái thích thú, thì điều đó là sai đạo, mà sai đạo tức là ma.

Đó thì hôm nay Thầy tóm lại để quý thầy ngồi tu mà nhận ra được cái này, thì do đó mau mau chúng ta trở về hơi thở mà đã ổn định bình thường, để lấy lại sự bình thường rồi bắt đầu tiếp tục đi nữa thì Tưởng mất, có vậy thôi. Không có trở về cái hơi thở nào được hết mà phải trở về hơi thở bình thường, vì đó là cái trạng thái sống của Ý Thức chúng ta hằng ngày.

Còn bây giờ chúng ta trở về hơi thở - bây giờ chậm nhẹ nữa - coi chừng Tưởng nó thêm nữa. Đó quý thầy phải hiểu điều đó. Chỉ có trở về hơi thở bình thường, là bây giờ hơi thở ba giây hay là bốn giây thì quý thầy cứ trở về hơi thở đó.

Cho nên cái cơ bản mà Thầy dạy cho các thầy là phải nắm cho được cái hơi thở bình thường, dù một năm, hai năm cũng phải tập cho được, để khi mà gặp trường hợp đó chúng ta trở về cái hơi thở bình thường, thì cái cơ thể chúng ta nó hoạt động trở lại bình thường rồi thì không có ma nhập nữa.

Cũng như bây giờ mình đang ngồi vầy mình thở bình thường, có con ma nào nhập được mình không? Phải không? Các con hiểu điều đó. Cho nên phải hiểu được cái chỗ này thì chúng ta mới không có sợ Ngũ Ấm Ma, mà không có sợ hỏa tẩu nhập ma nữa.

Đến đây thì Thầy xin dứt để chúng ta chuyển qua một cái bài khác, để mất nhiều thì giờ. Còn có hai tháng nữa mà cái giáo án thì còn dài./.

HẾT BĂNG

10 - TỨ VÔ LƯỢNG TÂM - TRAU DỒI TÂM TỪ 01

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 10 - TỨ VÔ LƯỢNG TÂM - TRAU DỒI TÂM TỪ 01

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- TỔNG QUAN VỀ TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

1.1- MUỐN TÂM CÓ GIÁ TRỊ THÌ PHẢI TRAU DỒI, TẬP SỐNG NHƯ TÂM PHẬT

(00:00) Trưởng lão: Bây giờ thì Thầy sẽ tiếp tục Thầy dạy quý thầy trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm.

Tại sao phải trau dồi nó đây?

Đây là một cái vấn đề mà có Chánh Đức hỏi Thầy: "Thầy cho con cái địa danh mà chưa cho con cái địa chỉ. Cái địa danh thì chúng con biết rồi, nhưng mà cái địa chỉ thì chưa có thì làm sao tới nhà được?"

Cho nên ở đây bắt đầu chúng ta là người cư sĩ ở trong giai đoạn một mà, khi mà chúng ta thông hiểu được Phật Pháp rồi, thông hiểu được những cái giáo pháp mà Phật dạy cho cái giới người cư sĩ phải tu cái gì, thì bây giờ các con hiểu cái gì rồi? Các thầy hiểu cái gì? Thập Thiện. Phải không? Thầy đã giảng Thập Thiện rồi, thì đó là mình hiểu rồi.

Nhưng mà các con chưa có trau dồi, chưa có tu tập gì được đâu. Nghe nói Thập Thiện vậy, nghĩa là thân thì không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu…​ nhưng mà các con chưa có làm được đâu, nghe thì hiểu chớ chưa có làm được đâu!

Bây giờ trau dồi nè, để mà làm cho được nè, đây là cái vấn đề quan trọng nè! Mà đây là cái địa chỉ để cho các con đi tới cái nhà đó.

Bởi vậy Thầy dạy đâu nó có cái cách thức chớ không thể nào mà dục không mà nhào vô được một cái "rột" mà để mà chứng thành đạo quả Bồ Đề được liền đâu, mà phải đi từng chút.

Cái tâm của chúng ta bây giờ là cái tâm tham, sân, si, mà không trau dồi nó làm sao nó hết tham, sân, si? Mà phải trau dồi cái gì? Đâu phải hằng ngày mình nhắc nó hết tham, sân, si, rồi nó hết sao? Chưa đâu. Mình phải trau dồi cái gì để đối trị nó chớ!

Cho nên Phật nói: “Tâm Từ đối trị tâm sân” mà, mình muốn hết sân thì mình phải trau dồi cái Từ trước chớ. Còn bây giờ tâm chưa có Từ mà lúc nào cũng nói để mà không sân thì chắc chắn là cái người đó chưa bao giờ có được.

Nhưng mà muốn trau dồi cái lòng Từ của chúng ta phải trau dồi như thế nào? Chớ đâu phải nói nó, bảo nó "tâm Từ, tâm Từ" nó từ sao? Không có được đâu! Cho nên vì vậy mà ở đây chúng ta phải hiểu trước nó.

Trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm.

Tâm có một giá trị hay không là do ở chỗ rộng hẹp của nó. Muốn tâm có giá trị thì phải trau dồi, tập sống được như tâm Phật: Tâm thương chúng sanh rộng lớn vô bờ, vô biên.

(02:12) Đó, mình phải tập sao mà cái tâm của mình rộng lớn được như vậy, trau dồi cho nó rộng lớn được như vậy, thì mình mới thấy cái chỗ dứt ác mà thể hiện thiện thì mới có thể được. Mà tâm mà không có thương yêu chúng sanh thì khó mà có thể dứt ác được.

Bởi vì lúc người ta chửi mình, thì đâu phải là như một con vật bình thường kia hay hoặc là cái người bình thường kia cho nên chúng ta thấy thương dễ, lúc mà người ta chửi mình chưa chắc đã là thương được. Nhưng tại sao mà người ta tu tập cái lòng Từ đó mà khi mà người khác chửi mình, mình thương họ được, thì cái đó mới là đối trị được cái tâm Sân!

Cho nên chúng ta sẽ lần lượt, chúng ta sẽ trau dồi được thân tâm chúng ta bằng cách nào cho đúng pháp. Chớ không biết, hầu hết là quý thầy cũng học Tứ Vô Lượng Tâm nhưng không biết cách thức trau dồi, cho nên tới bây giờ tâm Từ của quý vị, quý thầy có nói có thương không? Chắc chắn là "Tui đã biết nó như vậy nhưng bây giờ chưa chắc tui đã thương khi mà người ta chửi tui!"

Đó Thầy nói như vậy để quý thầy suy ngẫm lại cái con đường mà Thầy dẫn dắt quý thầy phải tập luyện từng chút. Tu là phải chịu khó tập luyện chớ đâu phải tu mà Thầy nói ran cổ họng Thầy, nhưng mà quý thầy nghe rồi về để chơi thì chắc chắn là Thầy mệt mỏi quá!

Nói để cho quý thầy về mà rèn luyện, trui luyện từng chút cái tâm của mình, để cho nó được Từ, được Bi, được Hỷ, được Xả, thì như vậy nó mới lợi ích cho quý thầy, nó mới giải thoát. Còn nếu mà Thầy nói mà để quý thầy nghe chơi thì thiệt là mệt mỏi cho Thầy.

Cho nên Thầy thấy quá khó chớ không phải…​ Biết ai là người nghe Thầy? Ai là người không nghe, mà nghe để chơi? Cho nên cái đó là cái mệt mỏi.

Như Phật đã dạy: Khi vào với đạo Phật, điều tiên quyết quý thầy phải thông hiểu.

Đó thì, như Thầy đã đem một số cái thông hiểu cho quý thầy rồi đó, những cái bài giảng trước là đem cho sự thông hiểu đó, chớ chưa phải là sự tu tập.

Cho nên Chánh Đức nói câu nói rất là rõ ràng: "Thầy cho con cái địa danh chứ chưa cho con cái địa chỉ". Đúng vậy! Mình phải thông hiểu tức là mình phải thông hiểu cái tỉnh đó, nơi đó làm sao, cái địa danh đó như thế nào, thế nào…​ mình phải thông hiểu tổng quát nó hết đi, rồi bắt đầu bây giờ mới cho địa chỉ để đến cái nhà đó.

Đó thì như vậy một cái điều mà Thầy đã mở ra một cái vòng để cho thông hiểu đó. Rồi tới đây chúng ta sẽ trau dồi, thì tức là cái địa chỉ để chúng ta đến nhà. Đây là cái bắt đầu để nhìn vào cái địa chỉ của chúng ta đi.

Sau đó phải trau dồi, rồi tu tập và đoạn dứt.

Đó, lần lượt khi đó trau dồi, rồi tiếp tục tu tập, rồi mới đoạn dứt nó.

1.2- Ý NGHĨA CỦA TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

(04:41) Trưởng lão: Bây giờ quý thầy phải thông hiểu Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào?

Bây giờ mình nghe nói Tứ Vô Lượng Tâm, mình không biết tên họ nó là gì hết, mình không biết nó là sao hết, mình không hiểu nó là cái gì nữa, thì như vậy là chỉ cái danh từ suông thôi. Cho nên mình cần phải hiểu thêm nó.

“Tứ” là bốn, “Vô Lượng Tâm” là bốn tâm rộng lớn mênh mông, phủ trùm tất cả chúng sanh, không thể lường tính được.

Đó là Tứ Vô Lượng Tâm, cái nghĩa của nó là nó phủ trùm, cái tâm rộng lớn phủ trùm tất cả chúng sanh không có thể tính lường được cái chỗ nào hết, nghĩa là vô bờ bến.

Vô Lượng Tâm là tâm vô cùng rộng lớn, thoát ra khỏi mọi sự ràng buộc các dây mơ, rễ má của mọi tâm lý tình cảm, thương ghét, giận hờn, tị hiềm, kiêu căng, nghi ngờ, ngã mạn của phàm phu; phá vỡ tà kiến, thân kiến, chấp kiến trước mọi trí tuệ mê mờ, lầm lạc.

Đó là cái tâm nó như vậy đó. Nó làm cho chúng ta - cái thứ nhất là chúng ta hiểu nó rộng lớn mênh mông; Cái thứ hai, nó rộng lớn mà thoát ra ngoài những cái sự ràng buộc của những cái sự trói buộc tình cảm của chúng ta;

Rồi nó thoát ra ngoài những cái thương ghét, giận hờn, tị hiềm, kiêu căng, ngã mạn; Mà nó còn thoát ra ngoài những cái tà kiến, thân kiến, chấp kiến trước mọi cái trí tuệ mê mờ, lầm lạc.

Đó, chúng ta trau dồi nó để mà chúng ta thấy được, chúng ta thoát ra được. Cho nên nó rộng lớn như vậy, nó phải phủ trùm hết, nó phải hiểu biết, nó rộng lớn, cho nên không có một cái tà kiến, không có một cái tình cảm nào mà có thể xen vào được cái tâm Tứ Vô Lượng Tâm này được.

Chớ không phải là chúng ta tu Tứ Vô Lượng Tâm mà chúng ta hiểu một cách cạn cợt thì chúng ta làm sao mà rộng lớn được như vậy?

Cho nên chúng ta càng trau dồi nó, càng ngày càng trau dồi nó thì nó càng rộng lớn. Và càng rộng lớn thì sự hiểu biết của chúng ta càng rộng lớn, cho nên từng đó mà chúng ta mới thực hiện được cái tâm vô ngã chớ đâu phải là dễ! Nếu không có bốn cái tâm này: Từ, Bi, Hỷ, Xả, khó mà chúng ta thực hiện được cái tâm vô ngã.

(06:48) Vô Lượng Tâm còn có nghĩa là đẳng tâm, là tâm bình đẳng. Tâm này tự nhiên, không so đo cao thấp, hơn kém; phổ biến, ban rải mọi nơi, mọi chỗ, không giới hạn.

Nghĩa là cái tâm bình đẳng, không có thấy người đó hơn mình, không có thấy mình hơn người đó, người nào cũng bình đẳng hết; từ con vật nhỏ tí ti cũng bình đẳng với mình, nghĩa là xem nó như mình chớ không thấy nó là con vật nhỏ.

Còn chúng ta hở ra chút thì thấy có lớn, có nhỏ, đối xử với nhau nghe có khác lạ, thấy con kiến thì mình đối xử như một con vật. Chớ còn cái người mà tâm vô lượng này thì họ đối xử con vật như chính đối xử một con người khác.

Đó là những cái định nghĩa để chúng ta thấy được cái tâm vô lượng nó rộng lớn như vậy, nó vượt thoát mọi cái tà kiến, chớ không phải hẹp hòi ở trong cái chuyện ban rải đối với chúng ta thương yêu một cách cạn cợt.

Khi mà hiểu biết được như vậy thì chúng ta hãy cố gắng mà trau dồi nó, làm cho nó được rộng lớn như vậy.

Do trau dồi tâm bình đẳng này làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh thoát khổ, nên tâm này có công năng mang đến cho con người vô lượng phước báu.

Nghĩa là trau dồi cái tâm bình đẳng này thì không bao giờ làm phiền lòng người nào hết.

Bởi vì mình biết ai cũng như mình hết, mình biết ai cũng thọ khổ, ai cũng như mình hết, cho nên trước cái khổ của họ thì mình dùng tâm Bi liền tức khắc. Người ta đang tức giận mình thì ngay đó là tâm Bi mình phải thực hiện liền.

Như Thầy đã giảng: Tâm Từ là khi người ta bình thường, người ta không giận, không hờn gì hết, thì cái tâm Từ của mình đối xử mọi người rất là kính trọng họ, rất là cung kính họ, luôn luôn không bao giờ nói một lời nặng nhẹ họ, đó là tâm Từ.

Còn tâm Bi, khi mà thấy người ta giận thì ngay đó là biết người ta khổ, do đó mình thực hiện tâm Bi là trước cái khổ của người khác - một người đang bị bệnh, một người đang bị tai nạn thì mình mới dùng tâm Bi.

Tới cái chỗ đó Thầy sẽ dạy rất kỹ cho quý thầy thấy để mà chúng ta trau dồi tâm Bi như thế nào, mà tâm Từ như thế nào.

Nếu mà cái tâm Từ - Tứ Vô Lượng Tâm này, cái tâm bình đẳng này mà chúng ta đã trau dồi được nó thì cái thế giới con người này là hưởng hạnh phúc, an vui, thanh bình, không bao giờ mà có chiến tranh, có giặc giã nữa hết.

Bởi vì chúng ta - từ con vật mà chúng ta còn biết thương y như mình, thì thử hỏi con người làm sao chúng ta không thương hơn? Con người đã thông cảm nhau những nỗi khổ của nhau trong cuộc sống, có đâu mà lại tranh giành giết nhau?

Cho nên, cái tâm Từ nó biến chúng ta trở thành một con người chung của mọi con người.

Bốn Tâm Vô Lượng này không những làm lợi ích cho chúng sanh an lành, hạnh phúc mà còn ban rải cho mọi nhà, mọi nước và cả thế giới trật tự, an ninh, thanh bình, không chiến tranh.

(09:35) Vô Lượng ở đây quý thầy phải hiểu nghĩa của nó bao hàm nhiều nghĩa.

Nghĩa chữ "Vô Lượng" ở đây nó bao hàm nhiều cái nghĩa của nó, chớ không phải là như hồi nãy Thầy nói tổng quát chung chung để cho quý thầy thấy cái vô lượng của nó. Nhưng ở đây chúng ta phải phân ra, chúng ta thấy được nó có mấy cái nghĩa của nó ở trong cái bao hàm đó.

1. Vô lượng nhân lành:

Nó đem lại cái nhân lành cho mọi người, nó không làm cho mọi người đem cái nhân ác.

Chẳng hạn một người chửi Thầy, Thầy nhịn, Thầy nhẫn, Thầy không bao giờ chửi lại họ, mà Thầy còn xuống nước Thầy năn nỉ họ làm cho họ mát lòng, mát dạ, tức là gieo cái nhân lành cho họ, họ không còn chửi Thầy nữa. Đó là cái vô lượng nhân lành.

Còn chúng ta thấy người ta chửi mình thì mình chửi lại đó, đó là cái nhân ác, nó tiếp tục cái nhân ác nữa.

2. Vô lượng quả đẹp:

Nghĩa là luôn luôn nó đem đến cho cái cuộc sống của chúng ta luôn luôn đẹp đẽ, không bao giờ có sự phiền toái trong đó, cho nên gọi là vô lượng quả đẹp. Đến đâu thì nó đem cái đẹp đẽ đến đó, cái an vui đến đó.

3. Vô lượng chúng sanh:

Đối với chúng sanh nào cũng được an lành, cũng được đẹp đẽ hết, chớ không phải có con người không, mà có cả con - loài vật.

Thầy ví dụ như chúng ta có những cái y áo mà bị một bầy kiến vào, thì lúc bấy giờ chúng ta thực hiện tâm Từ, thì không bao giờ mà chúng ta hề hấn đến cái sinh mạng của con vật.

Chúng ta nghĩ tiếc cái bộ quần áo, y áo của mình đem mà đập, giũ; biết bao nhiêu là con vật chết, như vậy là quý thầy có trau dồi tâm Từ ở đâu?

Loài vật nó đâu biết, trời mưa, trời gió nó mới vô đó để mà nó nằm, nó ẩn núp, ẩn mưa, ẩn gió, ẩn lạnh. Chúng ta không có thương, không có nghĩ đến cái cảnh khổ - bây giờ giả dụ như mình ở ngoài trời kia mà trời mưa, trời gió chúng ta có chịu nổi không?

Thì con kiến nó nhỏ nhít hơn, nó lạnh lẽo mà nó trốn, nó sợ nước trôi nó đi, chết đi, nó quá sợ, nó bu vô nhà chúng ta. Chúng ta có sợ nó thì chúng ta tìm cách ngăn ngừa nó trước đi, nó không vô, nó đi chỗ khác nó lánh thân nó.

Đằng này để cho nó bò ngập nhà mình lên rồi bắt đầu đó mới quét, mà đùa, mà hốt, mà đốt, mà giãi, thì thử hỏi cái tâm Từ của chúng ta chỗ nào? Như vậy có đau khổ chúng sanh không? Như vậy là không có vô lượng chúng sanh được.

4. Vô lượng thế giới:

Nghĩa là tất cả thế giới, không phải trong cái thế giới của chúng ta không mà cả thế giới trùng trùng, điệp điệp trên không gian này, cái thế giới nào chúng ta cũng phủ trùm hết.

5. Vô lượng đời kiếp:

Nghĩa là từ kiếp này đến kiếp khác. Tức là vô lượng thế giới, tức là nói về không gian, mà vô lượng đời kiếp nói về thời gian. Nghĩa là kiếp nào, đời nào nó cũng đẹp đẽ, cũng tốt đẹp, đem đến cho mọi người, mọi sinh vật ở trên thế gian, trên thế giới này đều được an lành, đều được tốt.

Đó là năm cái điều kiện mà nó bao hàm, cái nghĩa của nó rộng đẹp như vậy.

(12:29) Bây giờ Thầy nói về thành phần của Tứ Vô Lượng - bốn cái Tâm Vô Lượng này.

Thành phần và hành tướng của bốn Tâm Vô Lượng:

1. Từ Vô Lượng

2. Bi Vô Lượng

3. Hỷ Vô Lượng

4. Xả Vô Lượng

Tứ Vô Lượng Tâm là gì?

Tứ Vô Lượng Tâm là lòng mến thương của chúng ta vô cùng, vô tận đối với tất cả chúng sanh, từ cây cỏ thảo mộc cho đến loài động vật, dù con vật hung dữ chúng ta cũng ban rải lòng Từ, tránh vô tình gây đau khổ cho chúng sanh; thương mến, đem lại cho chúng sanh cái vui chân thật, cái vui mà do chính lòng Từ mang đến làm cho vạn vật vui mừng, cỏ cây tươi tốt, trong đó có mình.

Đó thì ở đây Thầy giới thiệu về cái Tứ Vô Lượng Tâm là nó gần gũi.

Hồi nãy thì nó bao la mênh mông, rồi lần lần nó đi gần tới cái chỗ hạn hẹp gần chúng ta, thì chúng ta phải thấy cái lòng thương của chúng ta như thế nào.

Đây là cái phần mà nó hạn hẹp đối với cỏ cây, cho nên Đức Phật đi không có đạp lên cỏ nữa, đó là cái hành của Phật ngày xưa, thân hành của Phật đi không có giẫm đạp lên cỏ, tránh cỏ sợ giẫm đạp nó dập, nó héo úa, mà thương xót nó đến như vậy, đó là cái loài thảo mộc. Còn chúng ta thì không như vậy.

Cho nên ông Phật ổng mới chấp nhận là theo đạo ổng thì lấy cái nghề đi xin ăn, không có làm hại một cái con vật, một cái cây cỏ nào hết. Còn chúng ta thì đụng đâu bứt bỏ hết, nghĩa là bứt đầu nó hết, nhổ luôn cả rễ nữa chớ đừng nói! Còn ông Phật thì không dám đạp lên, còn chúng ta thì đạp bừa lên hết, chỉ miễn là mình sạch sẽ thôi.

Thật sự ra thì mình nghĩ rằng mình tu tập chứ chưa giống ông Phật chút nào hết, mình còn xa ông Phật lắm!

Ông Phật tổ chức giáo đoàn của ông ta cũng vậy, khuyên lơn đừng có…​ thậm chí như món ăn thừa thì ông cũng không có cho bỏ ở trên cỏ nữa - sợ cỏ nó vì cái chất mặn nó sẽ úa héo nó đi - bỏ ngoài đất trống, thì đủ biết cái lòng Từ của Đức Phật như thế nào rồi!

Do theo đạo Phật thì chúng ta hãy cố gắng mà thực hiện cái Tứ Vô Lượng Tâm này.

1.3- TỪ BI HỶ XẢ LÀ NIỀM VUI BỀN BỈ, CHÂN THẬT, KHÔNG BAO GIỜ BIẾN HOẠI

(14:55) Trưởng lão: Trong đời sống chúng ta có hai cái vui.

Nói về cái lòng Từ thì chúng ta phải phân biệt được cái vui này.

Trong đời sống chúng ta có hai cái vui:

1. Cái vui bền bỉ, chân thật;

2. Cái vui ngắn ngủi, giả tạm.

Như Phật đã dạy là làm sao cho người vui mà mình vui và tất cả sanh linh, cỏ cây đều vui tươi, đó là cái vui lâu dài, chân thật, đó là cái tâm lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của chúng ta ban rải khắp muôn loài vạn vật.

Cái vui đó bền bỉ, không bao giờ biến hoại, dù trước bất cứ cảnh nào nó cũng ban lòng Từ rải khắp nơi, vì thế mà sự vui kia mới được lâu dài.

Đó thì hôm nay quý thầy nhận ra được cái vui, mà cái vui lâu dài và cái vui không lâu dài. Rồi đây cái vui không lâu dài thì các thầy chắc tưởng tượng ra cũng được rồi, Thầy chưa giải thích nhưng chúng ta cũng sẽ hiểu được rồi, chớ không khó gì.

Nhưng đến đây Thầy xin ngừng lại.

(16:05) Bây giờ Thầy tiếp tục cái bài học vừa rồi là Tứ Vô Lượng Tâm.

Trong đời sống của chúng ta có hai cái vui: Cái vui thứ nhất là cái vui bền bỉ, chân thật và cái vui thứ hai là cái vui ngắn ngủi, giả tạm.

Như Phật đã dạy là làm sao cho người vui, mình vui và tất cả chúng sanh, cỏ cây đều vui tươi, đó là cái vui lâu dài, chân thật; đó là cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của chính chúng ta ban rải khắp muôn loài vạn vật.

Cái vui đó là cái vui bền bỉ, lâu dài, không bao giờ biến hoại, dù trước bất cứ cảnh nào nó cũng ban lòng Từ rải khắp nơi, vì thế mà sự vui kia mới lâu dài.

Còn cái vui ngắn ngủi, giả tạm là cái vui ấy còn bị phiền não chi phối: Khi tham, sân, si, mạn, nghi, đòi hỏi được thì thỏa mãn, thì vui; còn ngược lại là buồn khổ.

Cái vui này là vui theo dục lạc, được thì vui, mất thì buồn. Như chúng ta đã biết: Dục lạc không bao giờ có thể thỏa mãn được hoàn toàn. Phật dạy: Kẻ ngu si, vô minh mới chạy theo vui dục lạc. Nó là thứ dục lạc ảo giác, đâu có thật, chỉ có người trí mới biết mà thôi!

Bởi vậy, cả hai lộ trình của đạo Phật mà Thầy đã dẫn dắt, chỉ cho các thầy biết để tu tập trên hai lộ trình này và tìm cái vui chân thật. Nơi đó bền lâu, thoát ra ngoài vòng phiền não, tham, sân, si, mạn, nghi và không bị dục lạc chi phối.

Nó không ồn náo, sôi nổi, ầm ĩ; nó nhẹ nhàng, thầm lặng như một bóng, một hình trong cái vui của cảnh giới siêu phàm, giải thoát nhưng lại hòa mình trong vạn hữu của vũ trụ; cái vui bất tuyệt của vạn pháp, cô đơn mà lại không cô đơn.

(19:02) Đó thì ở đây quý thầy thấy: Mình phải đi chọn lấy cái vui nào là thật mà cái vui nào là giả.

Vì cái Tứ Vô Lượng Tâm thì nó sẽ đem đến - vì cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của chúng ta nó đem đến cho chúng ta một cái nguồn vui.

Mà ở đây nó có hai cái nguồn vui: cái nguồn vui chân thật và cái nguồn vui không chân thật. Cho nên chúng ta phải biết cái nguồn vui nào không chân thật mà cái nguồn vui nào chân thật.

Vì vậy mà phải so sánh hai cái nguồn vui này để chúng ta tránh cái nguồn vui không chân thật mà hãy tìm lấy cái nguồn vui chân thật, để chúng ta thực hiện cái Tứ Vô Lượng Tâm này để đạt được cái nguồn vui chân thật đó. Nếu không có bốn cái tâm vô lượng này thì không bao giờ mà chúng ta tìm ra được cái nguồn vui chân thật đó.

Do vì vậy mà hằng ngày, khi mà học cái bài này thì hằng ngày quý thầy muốn tìm được cái nguồn vui chân thật thì quý thầy phải trau dồi thân và tâm của mình trong ba cái hành động của nó, nghĩa là thân hành, khẩu hành và ý hành.

Hằng ngày trau dồi ba cái hành động của thân của chúng ta như vậy thì chúng ta sẽ có được một nguồn vui chân thật, và tâm thương yêu của chúng ta càng lúc càng rộng lớn.

Muốn được vậy thì chúng ta phải hiểu cái vui của đạo lâu dài, thì người cư sĩ cũng như người tu sĩ phải hằng trau dồi thân tâm mình bằng pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm như Thầy đã nói ở trên.

2- DÙNG PHÁP HƯỚNG PHÙ HỢP KÈM HÀNH ĐỘNG ĐỂ TRAU DỒI

(20:47) Trưởng lão: Vậy trau dồi như thế nào?

Trong thân ta có ba hành:

I. Thân hành. Thân hành có hai:

1. Chân hành;

2. Tay hành.

II. Khẩu hành. Khẩu hành có hai:

1. Ăn;

2. Nói.

III. Ý hành. Ý hành có ba:

1. Ý thiện;

2. Ý ác;

3. Ý bất thiện, bất ác.

Đó thì, ở đây quý thầy khi mà muốn trau dồi nó thì chúng ta biết trau dồi chỗ nào? Cho nên Thầy ở đây Thầy vạch ra để cho quý thầy thấy: Chúng ta phải trau dồi trong những hành động đó để nó thực hiện được cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả ở nơi ba cái hành động đó.

Mà mỗi hành động thì nó phải có những cái hành động riêng tư của nó như: chân mình đi, tay mình thì cầm, nắm, bắt. Đó thì, nó phải theo cái hành động đó mà mình trau dồi cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình ở tại cái hành động đó.

Còn về khẩu - về miệng của mình thì cũng có hai cái hành: Một cái hành là ăn, một cái hành là nói. Đó, như vậy thì chúng ta phải trau dồi cái ăn, cái nói của mình, chớ nếu không, nói ra thì làm buồn khổ người, mà ăn mà không đúng cách thì nó làm hại thân mình. Cho nên tất cả những cái này nó đều làm cho chúng ta buồn khổ mà không có vui được.

Về ý hành thì nó lại có ba, nó lại nhiều hơn hai cái hành kia. Cho nên nó có cái thiện, cái ác và cái bất thiện, bất ác.

Cho nên chúng ta phải trau dồi và lấy Tứ Vô Lượng Tâm trau dồi ba cái hành động của thân này để cho chúng ta thực hiện được cái tâm vui mừng, cái tâm rộng lớn, cái tâm biết thương yêu, cái tâm biết thương xót tất cả mọi loài.

(22:42) Bây giờ quý vị bắt đầu trau dồi Từ Tâm nơi thân hành của mình.

Nghĩa là bắt đầu mình vô mình trau dồi liền. Trước kia Thầy giới thiệu cho biết Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào, rồi bây giờ chia nó làm hai cái vui của nó: cái vui lâu dài và cái vui ngắn ngủi giả tạm; thì bắt đầu bây giờ chúng ta ngay vào là chúng ta trau dồi.

Chừng bây giờ mà lý thuyết lòng vòng mà không có đi thẳng vào cái sự trau dồi thì chắc chắn là chúng ta cũng chẳng đi tới đâu được hết. Nghe nói mà không biết cách mà thực hành, không biết cách làm thì Tứ Vô Lượng Tâm này cũng chẳng qua nói cái suông suông mà thôi chớ không thể nào thực hiện được cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả chúng ta.

Một lời nói mà chúng ta không nhẫn với nhau, không nhường nhau; một ý kiến mà chúng ta không thuận nhau thì chúng ta có sự tranh chấp, thì làm gì mà có sự vui trong đó được? Làm gì có lòng Từ, lòng biết thương nhau được?

Cho nên, tất cả những cái này là những cái điều mà cái người cư sĩ thường tiếp giao với nhau, mọi người thì phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm càng nhiều càng tốt, để đem lại sự an vui cho mình, cho mọi người xung quanh mình.

(23:58) Bây giờ chúng ta trau dồi về cái chân của chúng ta.

Khi chúng ta đi thì chúng ta phải dùng theo cái hành động đi của chúng ta với cái pháp hướng mà Đức Phật dạy trong kinh rằng Như Lý Tác Ý - tác ý theo cái hành động đó bằng cái pháp hướng tâm của chúng ta.

Tức là chúng ta dùng một cái câu như thế nào để gợi lên cái lòng thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh khi chúng ta bước đi.

Ở đây Thầy xin nhắc quý thầy: Ở đây không phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định bằng hành động, mà mượn cái hành động chân đi để thực hiện cái tâm Từ của chúng ta dưới bàn chân, dưới bước đi của chúng ta. Cho nên chúng ta dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý cái bước chân chúng ta đi.

Pháp hướng như thế nào? Thầy đọc để rồi quý thầy tùy theo đó mà tự mình soạn ra cái pháp hướng cho phù hợp với cái đặc tướng của mình thì áp dụng sẽ có hiệu quả. Còn đây chỉ là một cái ví dụ để cho quý thầy mượn đó mà bắt chước mà thôi.

Vì nhiều khi quý thầy lấy cái ví dụ này mà áp dụng vào mình thì chưa hẳn đã là đúng cái đặc tướng của mình. Đạo Phật nó khó là cái chỗ phải biết áp dụng đúng cái pháp hướng thì nó mới có hiệu quả, mà không áp dụng đúng cái pháp hướng thì nó không có hiệu quả.

Đây Thầy đem một cái ví dụ. Trước khi mà chúng ta áp dụng cái pháp hướng để trau dồi cái tâm Từ Bi của mình, mà nếu mình không biết thì mình khó mà có thể áp dụng cho đúng cách thì nó cũng không có kết quả tốt cho sự tu tập này.

(25:53) Ví dụ như người ta nói tâm và ý. Vậy thì lúc nào mà gọi cái tâm, mà lúc nào gọi là cái ý?

Cái ý là nó có cái ý căn, là cái bộ óc của chúng ta, còn cái tâm thì nó không có cái ý căn. Bởi vì nếu mà nói cái tâm thì nó phải có cái tâm căn chớ? Nhưng mà ở đây Phật dạy chúng ta là ý căn chớ không có bao giờ nói tâm căn.

Cho nên khi chúng ta gọi cái ý là nó phải đúng cái chỗ căn của nó, tức là cái chỗ nó làm việc. Cho nên cái ý căn phải ngưng hoạt động thì cái ý nó phải bám chặt ở chỗ nào.

Còn nếu mà chúng ta gọi: “Cái tâm phải bám chặt!” mà “Cái ý căn phải ngưng hoạt động!” thì nó chẳng biết đâu, kêu cái thằng A mà làm việc của thằng B thì nó chẳng có biết được, cho nên cái thằng nào nó phải làm việc ra cái thằng nấy.

Vì vậy mà cái pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý phải như cái lý đúng của nó thì chúng ta tác ý nó mới có hiệu quả.

Ở đây Thầy nhắc như vậy, thì quý thầy phải nhận thấy được cái chỗ mà dùng cái pháp hướng Như Lý Tác Ý: Phải đúng lúc, đúng thời, hợp với đặc tướng của mình thì có hiệu quả rất nhanh, còn nếu không thì không hiệu quả.

Cho nên cũng có nhiều người hướng tâm tu tập, nhắc tâm mình rất nhiều, nhưng sao thấy nó trơ trơ mà không kết quả, là do mình đặt không đúng tên, đúng họ, đúng cái trường hợp nó làm, cho nên nó không có hoạt động được.

3- PHÁP HƯỚNG NƯƠNG THEO CHÂN ĐI, ĐỨNG, NẰM, NGỒI

(27:26) Trưởng lão: Đây là cái ví dụ để cho quý thầy khi mà chúng ta bước đi thì chúng ta hướng tâm, khi từng bước đi của chúng ta bước đi thì chúng ta nhắc như thế này:

“Dưới bước chân ta đi có nhiều loài sinh vật nhỏ nhít, có nhiều loài thảo mộc cỏ cây yếu mềm, ta hãy bước nhẹ nhàng để tránh tất cả sự đau khổ và chết chóc của muôn loài!”

Đó là một cái câu mà để chúng ta nhắc khi chúng ta bước đi. Do đó khi mà nhắc như vậy thì tâm chúng ta tỉnh thức ngay tại ở nơi bước đi và chúng ta tránh tất cả những con vật dưới bàn chân chúng ta.

Rồi đi một lúc chúng ta sợ nó quên đi, rồi chúng ta lại nhắc nữa. Do cái sự nhắc nhở, do cái sự sợ làm đau khổ, sợ làm chết chóc muôn loài, nó gây cho chúng ta có một cái tâm thương yêu thấm thía trong đó.

Mà hàng ngày chúng ta trau dồi từng bước đi của chúng ta như vậy thì cái lòng Từ của chúng ta nó ban rải khắp chúng sanh. Một cọng cỏ chúng ta không nỡ đạp lên nó, sợ nó mềm yếu rồi nó héo úa đi, tức là thể hiện qua tâm Từ của chúng ta ban rải khắp chúng sanh đó.

Vừa đi nhẹ nhàng vừa hướng tâm nhắc như vậy, lâu ngày huân tập trong tâm ta thành một thói quen thương xót chúng sanh.

Đó thì, ở đây thì quý thầy đã thấy rằng: Cái câu mà Thầy tạm để mà làm cái câu hướng tâm của mình để trau dồi cái Tứ Vô Lượng Tâm, mà khi trau dồi được cái Tứ Vô Lượng Tâm - cái tâm thương yêu như vậy thì người ta chửi mình có giận nữa không? Khi mà thể hiện được - hoặc là người ta nói một câu nói nó trái bụng mình, mình có giận không? Không bao giờ còn giận nữa!

(29:18) Cho nên Phật nói: Từ tâm nó đối trị tâm sân, nhưng mà mình có trau dồi nó đâu, cho nên mình nói là nói như vậy, nhưng mà mình nói: “Ờ quán, bây giờ quán Từ Bi để đối trị tâm sân”, nhưng mà cuối cùng thì mình không trau dồi nó thì cái tâm sân của mình nó có hết không?

Trước khi người ta mắng chửi mình thì ngay đó mình nói: “Tui tu cũng biết Tứ Vô Lượng Tâm: Từ là đối trị tâm sân, tui thường quán phải thương người bằng cách này, bằng cách khácHằng đêm, tui ngồi tui quán, luôn luôn lúc nào tui cũng thương!” Nhưng mà tới sao người ta chửi mình lại là mình giận dữ lên? Thì cái đó là mình chưa có trau dồi trong hành động.

Trau dồi trong hành động nó thể hiện qua cái hành động của chúng ta, cái tâm chúng ta thường nhắc trong cái hành động, nó làm cho chúng ta thấm nhuần được cái lòng thương yêu đó.

Còn bây giờ, chúng ta ngồi ở trên ghế chúng ta nói: “Bây giờ chúng ta cũng quán.” Đó là quán. Còn cái này là hướng, nó khác: Hướng theo hành động mà trau dồi, nó ở trong cái động.

Còn cái kia quán là mình ngồi im lìm, rồi tư tưởng mình khởi nghĩ ra, mình quán mình phải thương yêu chúng sanh bằng cách này bằng cách khác, như thế này thế khác, nó không biến ra cái hành động, cho nên nó trau dồi cái tâm Từ Bi của mình không có được!

Cho nên nó chỉ là tránh né trong một cái lúc nào đó để cho nó bớt cái giận hờn, phiền não trong lòng nó mà thôi; rồi mình suy tư cái này, cái kia để cho mình xả bớt cái tâm buồn khổ của mình, chớ đối tượng của mình, mình đã chửi người ta hồi chiều rồi thì bắt đầu làm sao mà gỡ ra cái đó được?

Còn cái này, tu ở trong, trau dồi ở trong những cái hành động để chúng ta biến dần cái tâm Từ Bi, cái tâm thương yêu chúng ta chân thật.

Đó là cách thức mà Thầy diễn ra đây để cho quý thầy thấy được cái chỗ mà chúng ta sẽ tập luyện. Bởi vì đây là cái vai trò của cái người cư sĩ mới bước chân vào đạo Phật người ta đã luyện tập cái này rồi, chớ không phải là vai trò của người tu sĩ.

Người ta đợi tới làm Bồ Tát rồi người ta mới trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm thì quá trễ rồi, nó không thể nào mà còn có cái thời gian mà chúng ta tu tập thiền định nữa. Khi mà đi sang qua giai đoạn của tu sĩ là cái giai đoạn tu tập thiền định - giữ gìn giới luật, tu tập thiền định.

Còn cái giai đoạn của người cư sĩ là phải thực hiện tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả của mình, để đối xử với nhau với một lòng thương yêu, làm cho xã hội càng tốt, đất nước nó thanh bình, nó không có sự tranh chấp, nó không có sự tranh đua hơn thiệt với nhau. Do có tâm Từ nó mới không có những cái tai nạn đó.

Đó là một cái hành động mà chúng ta đi.

(31:44) Khi mà…​

Bây giờ tới cái hành động nữa:

Khi ta đứng lại, ta cũng nhắc vậy.

Khi mình đi thì thường mình nhắc cái câu đó, mà khi mình đứng - bởi vì đứng nó đâu còn đi nữa, cho nên mình phải nhắc một cái câu khác để mình hướng tâm như cái lý - trong khi mình đứng thì mình phải nhắc một cái câu khác để khi mình đứng - nhiều khi mình đi thì mình hướng tâm như vậy, nhưng mình đứng lại là nó không đúng như vậy.

Cho nên khi cái hành động đứng thì chúng ta cũng phải nhắc tâm, hướng tâm mình:

“Chúng sanh quanh ta rất nhiều: Từ loài côn trùng nhỏ nhít cho đến các loài thảo mộc yếu mềm. Ta đừng đứng trên chúng vì đứng trên chúng, chúng sẽ đau khổ và chết chóc, héo úa!”

Đó là một cái câu để chúng ta hướng tâm chúng ta, trau dồi cái lòng thương yêu của chúng ta đến với tất cả muôn loài.

Đó thì, hôm nay như quý thầy đã học được những cái câu như vậy thì quý thầy nhớ khắc ghi trong lòng. Hằng ngày, ít ra mỗi ngày chúng ta cũng tập nó được ba, bốn lần, chớ đừng có học rồi thì xếp lại đó, để đó, thì cái công của Thầy mà giảng dạy quý thầy như thế này, Thầy thấy mệt mỏi vô cùng!

Vì học được phải tu tập cho được để đền đáp lại ơn Thầy. Thầy đem hết sức mình ra giảng dạy cho quý thầy từng cái câu nhắc nhở nhỏ bé như vậy để tạo cho quý thầy có một lòng thương yêu chân thật nơi tâm hồn của quý thầy, để quý thầy thoát ra khỏi cảnh đau khổ chính bản thân của quý thầy (khi) đứng trước các đối tượng. Thế mà quý thầy học rồi quý thầy xếp bỏ vào một cái góc nào đó thì thiệt là mỏi mệt cho Thầy vô cùng!

Có tu tập như vậy thì lòng ta từ từ thấm nhuần lòng Từ bao la, thương yêu tất cả muôn loài, vạn vật muôn phương.

Nếu khi đứng mà chúng ta cũng tập như vậy để nhắc nhở chúng ta đứng, chúng ta tránh được những cái sự đau khổ của chúng sanh thì nó giúp cho chúng ta có một cái lòng thương, từng đó nó sẽ thấm nhuần muôn vật, muôn phương.

(33:59) Bây giờ đến cái hành động nằm. Bởi vì trong thân của chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, cho nên bây giờ tới cái hành động nằm.

Khi nằm ta cũng nhắc như vậy.

Nghĩa là mỗi hành động chúng ta phải nhắc, và một ngày chúng ta có bao nhiêu lần đi, đứng, nằm, ngồi? Mà mỗi lần đi, đứng, nằm, ngồi là mỗi nhắc như vậy thì trong một ngày chúng ta đã thấm nhuần được bao nhiêu cái lòng thương yêu của chúng ta, tức là chúng ta trau dồi được bao nhiêu lần?

Một người thợ vót tên mà ông ta ngồi ông ta vót kỹ lưỡng hẳn hòi mà vót hoài thì cái tên nó phải suông, phải láng, phải tốt. Còn mình vót hai, ba cái rồi mình bỏ thì cây tên nó có suôn không? Chắc chắn là không suôn bằng người thợ mà chăm chỉ ngồi vót hoài.

Vì vậy mà tâm ta chúng ta cũng phải trau dồi, trau chuốt nó mãi để cho nó được tốt đẹp, để cho nó được có lòng thương yêu thật, để cho nó được đứng trước các đối tượng mà tâm nó như như, vui vẻ, không có buồn khổ.

Khi nằm ta cũng nhắc như vầy:

“Tất cả chúng sanh đang ở dưới lưng ta, ta hãy nhẹ nhàng chú ý xem xét coi có chúng sanh hay không rồi mới nằm!”

Đó thì, quý thầy nhiều khi lên giường ván mà nằm thì nằm đại, nhiều khi mệt mỏi quá rồi kiến cũng nằm đại, không ngờ dưới lưng chúng ta có những con vật, chừng mà nhìn lại thì có một con nhền nhện bị mình nằm chết cứng ở trong đó rồi, hay hoặc là một con gián, hay hoặc là một con vật nào đó, thậm chí như con bò cạp.

Chúng ta nằm lăn qua, lăn lại, nó nằm ở dưới lưng chúng ta, đến khi mà quét dọn hay hoặc là xếp mùng màn thì thấy một con vật chết ở dưới lưng ta, thì như vậy là chúng ta đã vô tình không trau dồi được mình trong khi nằm, để làm hại chúng sanh.

Khi mà chúng ta nằm, cái thân của chúng ta to lớn, do đó cái sức nặng của chúng ta nhiều quá, còn cái thân của chúng bé nhỏ, giãy giụa dưới lưng ta, ta đâu biết được! Trong khi chúng rên la đau đớn, chúng ta đâu nghe được! Vì vậy mà vô tình chúng ta nằm trên sự đau đớn của chúng sanh mà không hay biết.

Muốn trau dồi lòng Từ thì chúng ta phải năng nổ, tu tập siêng năng, hằng ngày nhắc đi, nhắc lại tâm mình nó mới thấm nhuần được.

Khi nằm lăn qua, trở lại ta cũng phải lưu ý và nhắc:

“Tất cả chúng sanh đang ở bên ta, hãy ý tứ đừng nên vô tình mà làm đau khổ và chết chóc chúng!”

Đó là những cái câu để chúng ta hướng nhắc mình để cho thực hiện được cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình.

Mỗi hành động của thân ta đều nhắc như vậy, tâm ta lần lần thấm nhuần tình thương yêu chúng sanh rộng lớn bao la.

(36:53) Bây giờ đến ngồi.

Bởi vì trong cái thân của chúng ta: Đi, đứng, nằm, ngồi - tất cả những cái hành động này mà nếu mà chúng ta thiếu sót một cái điều không tu thì đó là chúng ta đã thiếu khuyết.

Thì khi ngồi ta cũng nhắc như vậy:

“Nơi ngồi của ta có những chúng sanh nhỏ nhít, phải lưu ý khi ngồi, đừng vô tình ngồi trên chúng sanh làm đau khổ và chết chóc!

Khi ngồi đừng lắc qua, lắc lại; vì lắc qua, lắc lại va chạm làm đau khổ chúng sanh và chết chóc!”

Quý thầy thấy, trong những cái hành động oai nghi của một người ngồi mà lắc qua, lắc lại với cái người ngồi mà không lắc qua, lắc lại, người nào tốt?

Đó thì quý thầy thấy, từ cái tập của tâm Từ, Bi mà nó biến thành một cái oai nghi tế hạnh của một con người rất là nghiêm chỉnh: Đi thì nhẹ nhàng, luôn luôn lúc nào cũng ngó xuống để tránh tất cả chúng sanh, mà lại là phòng hộ được sáu căn của mình nữa!

Các thầy thấy đó là một cái điều lợi ích rất lớn cho bước đường tu tập theo đạo Phật, nó làm toát ra những cái đức hạnh mà con người ở thế gian này khó có thể theo được những cái hạnh này.

Bởi vì con người ở ngoài thế gian chạy theo dục lạc cho nên mắt thì nghinh ngó bên nây để tìm cái nào mà cám dỗ, thu hút mình thích thú, còn cái người tu sĩ thì đâu còn chạy theo cái dục lạc, cho nên mắt luôn luôn phòng hộ, nhìn xuống đất, mà nhìn tất cả loài vật để thực hiện trau dồi tâm Từ thương yêu của mình, tránh sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh.

Đó là những lúc đi, đứng, nằm, ngồi ta từng nhắc như vậy, và nhắc từng mỗi bước đi để ta không quên và cố tránh được sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh.

(38:48) Đây là sự trau dồi trong cái hành động của thân của chúng ta, thì đi, đứng, nằm, ngồi - như vậy là đối với cái thân của chúng ta tạm thời ở đây đủ để quý vị hằng ngày trau dồi.

Bởi vì lúc nào quý vị cũng có ngồi, lúc nào quý vị cũng có đi, lúc nào quý vị cũng có đứng, lúc nào quý vị cũng có nằm, không thể trong một ngày mà chúng ta thiếu bốn oai nghi này.

Cũng như vào đây, thì quý vị bước vào đây, trước khi mà bước vào thì quý vị phải đi, cho đến khi quý vị ngồi thì quý vị phải lưu ý chỗ ngồi, rồi đứng quý vị cũng lưu ý chỗ đứng, cho nên mỗi mỗi làm chúng ta có sức tỉnh thức ở trong đó hết.

Như vậy chúng ta có tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức đâu, nhưng mà sức tỉnh thức chúng ta đã sẵn do trau dồi lòng Từ mà nó đã có sức tỉnh thức.

Kế đó lòng Từ chúng ta càng lúc càng rộng lớn bao la do cái pháp hướng nhắc tâm làm cho tâm chúng ta thương yêu chúng sanh vô bờ bến.

Trau dồi lòng Từ trong hành động của thân là còn gợi lên lòng thương xót của chúng ta đối với chúng sanh bằng sự hành động cẩn thận của mình để tránh sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh, khiến cho tâm chúng ta càng lúc càng thương yêu chúng sanh nhiều hơn.

Nghĩa là cái hành động đó hằng ngày mà chúng ta trau dồi thì lần lần, Thầy tin rằng quý thầy mà thường xuyên trau dồi thì sức tỉnh thức rất lớn; và đồng thời lại là cái lòng thương yêu lại càng nhiều; và càng nhiều thì nó sẽ cứu quý thầy thoát ra khỏi cái tâm tham, sân, si, mạn, nghi; nó không bao giờ mà còn có một cái tâm niệm xấu như vậy.

Vì vậy mà cái Ngũ Triền Cái quý thầy sẽ xả bỏ, đoạn trừ, dứt hẳn, từ giã nó, không bao giờ còn ở trong tâm của quý vị nữa.

Khi mà Tứ Vô Lượng Tâm này đã ngự trị trong tâm hồn của quý vị thì cái Năm Triền Cái này nó phải rớt đi, nó phải xa quý thầy đi, không còn có.

Còn nếu không có như vậy, không trau dồi được cái tâm Tứ Vô Lượng Tâm này thì Ngũ Triền Cái vẫn đeo đẳng theo quý vị cho đến khi mà quý vị phải thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm nó mới dứt được.

Nó không đơn giản, nhưng chúng ta phải cố cái sức tu tập bền chí, siêng năng thì nó mới đạt được.

4- CHƯA CÓ TỪ BI THÌ CHỈ CÓ LÒNG THƯƠNG YÊU NHỎ MỌN, ÍCH KỶ

(41:17) Trưởng lão: Bây giờ lòng mình nói thương mà sự thật mình có thương được chưa? Chưa! Mình thương mình chớ chưa chắc đã thương ai.

Thầy nhắc lại cái câu chuyện để cho chứng minh rằng mình thương mình chớ chưa có thương ai hết, nhưng mà mình nói rằng mình thương người này, người kia. Sự thật ra mình chưa có thương.

Tại sao vậy? Có câu chuyện như thế này:

Bà hoàng hậu Vi Đề Hy hỏi đức vua Bình Sa Vương:

"Bệ hạ có thương thần thiếp không?"

Nhà vua làm sao lại không thương hoàng hậu, cho nên nhà vua nói:

“Nhà vua rất thương hoàng hậu, tại sao hoàng hậu lại hỏi vậy?”

Thì bà Vi Đề Hy nói:

“Bệ hạ nói chớ bệ hạ chắc không thương thần thiếp đâu! Nếu giả chăng thần thiếp lấy một ông quan nào thì bệ hạ có thương thần thiếp không? Điều đó là chứng minh rõ ràng là bệ hạ thương bệ hạ chớ bệ hạ đâu có thương thần thiếp!

Khi mà nghe được cái tin “trời sét” này - thần thiếp đã lấy một vị quan nào ở trong triều này - thì lúc bấy giờ, bệ hạ còn có nước là: thứ nhất là chặt đầu thiếp, thứ hai là giam thiếp ở trong lãnh cung, chớ đâu có bao giờ mà để cho thiếp được tự do như thế này!

Nếu là thương thiếp thì bệ hạ đâu có làm cái điều đó. Bởi vì thương người, mà người đó người ta muốn như vậy thì mình cứ để cho người ta làm, thì như vậy gọi là thương. Tại sao bây giờ bệ hạ nói bệ hạ thương thần thiếp, mà khi nghe cái tin như vậy thì bệ hạ có thương không? Tức là bệ hạ thương bệ hạ!”

Đó, qua câu chuyện như vậy chúng ta thấy rõ ràng: Chúng ta thương mình chớ không thương ai hết. Nghe một người vợ mà lấy người khác là tức ầm ầm lên rồi, thì như vậy là mình có thương người không, có thương vợ mình không hay là thương mình?

Mình thương mình, mình muốn bảo vệ cái gì cũng của mình hết, đó là thương mình chớ đâu phải là thương người khác? Còn thương người khác là phải giúp cho người khác!

Đó, ở chỗ mà trau dồi tâm Từ Bi để chúng ta thấy được cái thương của chúng ta đối với muôn vật như thế nào.

Quý thầy khi mà chưa trau dồi cái tâm Từ Bi, một con bò cạp cắn quý thầy đau, quý thầy giết con bò cạp. Như vậy là quý thầy nói: “Tôi Từ Bi lắm, tôi thương lắm”; “Tôi thương lắm” mà con bò cạp cắn đau quá thì quý thầy giết liền tức khắc, như vậy đâu phải thương con bò cạp?

Đó, những cái này là những cái bài học thực tế để chúng ta biết cái tình thương của chúng ta nó đang ở cái vị trí nào để chúng ta trau dồi nó.

Một con vật cắn dù chúng ta có chết chúng ta cũng không nỡ giết nó nữa, còn chúng ta chưa chết, mới đau thôi mà đã vội giết chết con vật khác. Rồi thấy con vật nào chúng ta cũng sợ hãi mà chúng ta giết hết, sợ nó cắn mình cho nên giết sạch hết!

Vì cái lòng thương yêu nhỏ mọn đó, ích kỷ đó đối với sự thương yêu mình cho nên trong xã hội nó mới có cái sự bất an, có sự tranh chấp nhau, chớ nếu lòng thương yêu chúng ta rộng lớn đối với mọi người, chắc chắn không có sự bất an đó.

Vì vậy, cái bài học mà được trau dồi đầu tiên trong Phật Pháp là Tứ Vô Lượng Tâm.

Để làm gì? Để xây dựng một con người có đạo đức chân thật, biết thương yêu người; để xây dựng một xã hội tốt đẹp; để cho trong xã hội có trật tự, an ninh hẳn hòi.

Vì lòng thương yêu đó mà được trật tự, chớ không phải chúng ta có kỷ luật thế này, thế khác, buộc mọi người thế này, thế khác mà lòng thương yêu đó chẳng có thì xã hội chẳng có trật tự! Hình thức bên ngoài thì nhìn trật tự nhưng bên trong có một sự bắt buộc nào đó, chớ sự thật thiếu trật tự.

Đời sống càng ngày càng khổ là do chúng ta không tìm ra được cái nguyên nhân để giải khổ, cho nên cuộc sống con người rất là khổ.

Ở đây Đức Phật đã dạy chúng ta phải biết được cái pháp nào để mà chúng ta trau dồi nó, để xây dựng mình tốt, xã hội tốt, nó mới có được cái cuộc sống an vui, hạnh phúc cho nhau.

5- KHÔNG CẦN HƯỚNG TÂM KHI ĐÃ VIÊN MÃN LÒNG TỪ

(45:07) Trưởng lão: Lúc bấy giờ chúng ta bước chân đi, chúng ta đi rất rõ ràng với lòng Từ thương yêu chúng sanh vô bờ bến, tràn ngập.

Nếu mà trong khi chúng ta đi, trên bước đi mà chúng ta không còn hướng tâm nhắc nữa, mà chúng ta thấy cái bước chân chúng ta tự nhiên nó có một cái sự tràn ngập ở trong cái lòng chúng ta thương yêu chúng sanh, đó là chúng ta đã viên mãn được Từ Vô Lượng Tâm.

Còn bây giờ chúng ta đang đi mà chúng ta phải thường nhắc, rồi cái tâm chúng ta lần lần nó huân lên cái sự thương yêu đó, thì đó là đang trau dồi.

Còn khi mà chúng ta đi mà chúng ta thấy tự nhiên cái bước đi của mình, tự nhiên cái thân tâm của mình nó từng lách qua, lách lại, nó tránh đi những cái sự đau khổ từ cỏ cây, thảo mộc cho đến những loài chúng sanh nhỏ nhít dưới bàn chân - mà chúng ta không nhắc mà luôn luôn cái tâm nó thương xót, nó làm cho chúng ta luôn luôn theo dõi từng cái bước đi để không va chạm, để không làm đau khổ - thì đó là chúng ta đã viên mãn lòng Từ trong Tứ Vô Lượng Tâm.

Ở đây thì Thầy nói cái kết quả để chúng ta biết, và khi mà cái lòng Từ nó như vậy thì chúng ta sẽ thấy được cái tâm của chúng ta bây giờ nó phủ trùm ở trên tất cả các loài vật, thảo mộc, cây cỏ đều là thương yêu. Một cái nhánh cây kia các thầy cũng không bao giờ nỡ mà bẻ, hoặc là ngắt một cái lá, hoặc là bứt một cái bông nữa.

Cái tình thương yêu nó đến cái mức độ mà chúng ta không ngờ khi mà chúng ta trau dồi, chúng ta thấy tất cả mọi người, mọi cây cỏ đều là có sự sống y như nhau. Đó là cái viên mãn của lòng Từ của chúng ta tu tập.

Còn nếu mà chúng ta không thực hiện được thì chúng ta vẫn vô tình thấy cái bông đẹp là ngắt liền, không bao giờ chúng ta Từ. Điều đó là chứng minh rằng chúng ta chưa có lòng Từ thương yêu.

Ở đây Thầy muốn nói như vậy để khi nào mà chúng ta thực hiện được tới đó thì chúng ta mới thấy được cái tâm chúng ta phủ trùm vạn vật, phủ trùm lòng thương yêu trên vạn vật. Cho nên Phật nói: “Tâm Từ biến mãn khắp mười phương chúng sanh” là như vậy.

(47:15) Và từ đó, các thầy sẽ thấy nội cái Tứ Vô Lượng Tâm này quý thầy đã giải thoát tâm hồn của mình, không còn có một pháp môn nào hết, hoàn toàn! Vì đã thương thì không còn tham, đã thương thì không còn giận, mà nếu còn tham, còn giận thì làm sao mà gọi là thương?

Đó, như vậy nội trong cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm cũng đem quý thầy đi đến cái nơi giải thoát, cái Niết Bàn vĩnh cửu.

Vì có thương yêu mọi người chân thật thì cái ngã nó không còn, vì thương yêu cá nhân của mình cái ngã nó mới lớn. Đó là cái pháp môn vi diệu nhất mà chúng ta từng trau dồi thì chúng ta có sự giải thoát hoàn toàn.

Niết Bàn trước mặt chúng ta, đâu phải đợi chúng ta nhập Tứ Thiền mới diệt lậu hoặc rồi mới nhờ Tam Minh mà diệt lậu hoặc mới là Niết Bàn? Mà chính ngay lòng thương yêu của chúng ta cũng đã là Niết Bàn!

Mỗi pháp môn của Phật đều có những vi diệu tuyệt vời của nó, nhưng vì chúng ta chưa biết, chưa trau dồi. Phỏng chừng một năm mà quý thầy mỗi bước đi, đứng, nằm, ngồi, của quý thầy mà quý thầy trau luyện, thì chắc chắn là quý thầy trong một năm đó quý thầy đã thực hiện lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của quý thầy, thì ngay cuộc sống của quý thầy đã giải thoát hoàn toàn.

Vì thế mà quý thầy thấy trong giới luật của Phật cấm không cho chúng ta trồng cây cỏ này, kia hoặc là làm cái này cái nọ kia, tất cả các nghề nghiệp đều đình chỉ tất cả hết!

Người tu sĩ chỉ còn biết đi khất thực ăn mà thôi, đi xin người khác thôi, không làm một cái gì hết. Bởi vì làm là động đến chúng sanh, làm là làm đau khổ chúng sanh.

Không phải là chúng ta ích kỷ, nhưng vì chúng ta thực hiện đúng cái lòng thương yêu của chúng ta chân thật, để cho nó phủ trùm trên cái tình thương đó đối với muôn loài.

Vì thế mình bước vào đạo Phật, chúng ta thấy Đức Phật cấm tất cả các nghề, không được làm một cái nghề gì hết. Vì còn làm một cái nghề nào thì cái nghề đó sẽ đem đến cho chúng sanh có sự đau khổ đó.

Muốn được vậy thì chúng ta phải từng ngày chúng ta phải trau dồi trong bốn cái oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi của thân của chúng ta.

6- PHÁP HƯỚNG NƯƠNG THEO HÀNH ĐỘNG TAY

(49:23) Trưởng lão: Bây giờ về cái phần tay, cái tay của chúng ta. Nó cũng phải cầm, nắm, bắt chớ, cái tay của chúng ta có cái hành động của nó chớ! Nếu mà nó không có hành động, nó cứng đờ thì chúng ta không nói tới nó.

Bởi vì tu trong hành động, tu ở trau dồi cái lòng Từ của chúng ta trong cái hành động.

Đến cái phần tay:

Cầm, nắm, bắt, lấy tất cả mọi vật dụng cần thiết cho đời sống tu hành cũng như cơm ăn, áo mặc hằng ngày, ta thường trau dồi tâm bằng pháp hướng Như Lý Tác Ý, nhắc đi, nhắc lại nhiều lần:

Nghĩa là luôn luôn lúc nào, khi mà chúng ta cầm một cái vật gì của người khác cho mình, khi ta cầm một cái cây, cây gậy hay hoặc là tất cả những vật dụng gì cần thiết đối với đời sống của mình, thì mình phải nhắc, mình phải hướng tâm mình nhắc nó như cái lý giải thoát của đạo, để cái tâm Từ thương yêu của mình nó bắt đầu từ đó mà nó phát triển và nó thấm nhuần cũng từ nơi đó.

Đây Thầy đem một ví dụ cái câu hướng tâm, như cái lý chơn thật nó để mà chúng ta nhắc cái tâm mình khi mà cái tay nắm một cái vật gì của người khác cho, hoặc là cầm một cái vật gì thì chúng ta phải nhắc:

“Tất cả những vật dụng cần thiết như cơm ăn, áo mặc, thuốc thang là của làm bằng mồ hôi, nước mắt của mọi người cực nhọc mới có cho ta, ta phải biết ơn và thương yêu họ và thương yêu tất cả mọi người!

Dù có cúng dường cho ta hay không cúng dường ta cũng phải thương yêu họ với lòng chơn thật, không bao giờ đánh trả lại, mắng chửi họ, không bao giờ nặng lời, to tiếng với họ! Vì đánh, mắng, chửi, rủa, nặng lời với họ là ta đã không biết thương yêu họ, là ta đã làm cho họ khổ sở.

Ta phải nói lời nhẹ nhàng, an ủi để cho mọi người vui mà không buồn khổ nữa!”

Đó là cái câu để chúng ta dùng cái hướng tâm của chúng ta thường nhắc đi, nhắc lại như vậy cho nên nó thấm nhuần. Vì vậy mà mỗi lần chúng ta nhận một cái vật gì cúng dường - như bây giờ quý thầy nhận từng cái cuốn tập của người khác cúng dường bằng mồ hôi, nước mắt của họ - cho nên chúng ta nhận thì chúng ta tâm niệm, lặng một chút xíu để chúng ta hướng tâm.

Từ đó, chúng ta đã trau dồi cái tâm Từ của chúng ta đó, lòng thương yêu chúng ta đó. Do đó khi mà chúng ta có người khác mắng chửi thì chúng ta ngay đó chúng ta đã lặng tâm ở trên cái câu hướng này, làm cho chúng ta nó không còn giận hờn người khác nữa, không còn đau khổ nữa, tâm chúng ta xả hoàn toàn.

Đó, như vậy trên cái bước đường tu tập, nếu mà chúng ta biết áp dụng đúng cách thì ngay tức khắc thì chúng ta đã có những pháp hướng kèm theo khi chúng ta chưa thuần thục.

Còn chúng ta thuần thục rồi thì chắc chắn là quý thầy sẽ thênh thang ở trên tâm hồn vô ngại, không còn một chướng ngại nào làm cho tâm của quý vị chướng ngại nữa.

(52:36) “Khi cầm, nắm, bắt, lấy ta cũng nhẹ nhàng, từ tốn; lỡ trên thân đồ vật có những chúng sanh nhỏ bé, mạnh tay sẽ làm chúng đau khổ và mạng vong!”

Đó thì chúng ta cũng lưu ý về cái phần khi mà cầm một cái vật. Bây giờ người ta đưa mình cuốn tập, mình hai tay mình cầm, mình cũng quan sát coi ở trên cuốn tập này có con kiến hay hoặc con vật gì không, để không mình vô tình cái mình nắm vầy cái nó dẹp lép, nó chết đi, đó là những cái điều mà chúng ta tập luyện.

Mà tập luyện như vậy là tập luyện tỉnh thức, rồi lại tập luyện được lòng Từ, thì cái này là cái rất quý, vừa tập cái này mà nó đạt được cái kia.

Nhưng ở đây chúng ta không được gọi nó là Chánh Niệm Tỉnh Thức Định. Ở đây không được gọi nó như vậy, đây là chỉ tập tỉnh thức trong hành động để trau dồi cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình - Tứ Vô Lượng Tâm mà thôi.

Khi muốn trau dồi tâm Từ nơi các hành động của thân nơi tay thì quý vị phải siêng năng, cần mẫn nhắc đi, nhắc lại nhiều lần để tâm tỉnh giác nơi mọi hành động của tay mình, tránh sự vô ý làm đau khổ và chết chóc chúng sanh.

Có tinh tấn, siêng năng tu tập lòng Từ bằng hành động của thân; tỉnh giác, nhắc nhở lòng chúng ta thương yêu chúng sanh vô bờ bến, từ đó ta mới thấy thương yêu chúng sanh như thật.

7- TÂM TỪ VÀ TÂM BI CÓ ĐỐI TƯỢNG KHÁC NHAU

(54:15) Trưởng lão: Ở đây Thầy xin giải thích thêm cái phần này để cho quý thầy thấy cái lòng Từ đối với chúng sanh có nghĩa sai biệt cái chỗ này hay hoặc chỗ kia. Bởi vì nếu mà không hiểu thêm cái phần này thì chúng ta không biết cái lòng thương yêu của chúng ta như thế nào, nó đối với chúng sanh như thế nào.

Một chúng sanh mà đang bị tai nạn và một chúng sanh đang mạnh giỏi bình thường, thì cái tâm Từ Vô Lượng này nó sẽ đối với chúng sanh nào?

Thì ở đây Thầy sẽ giải thích thêm để cho quý thầy thấy: cái lòng Từ là thương yêu chúng sanh chưa có tai nạn, chưa có bệnh tật, chưa có khổ đau.

Cái lòng Từ thì nó thương yêu chúng sanh đang mạnh khỏe, cho nên cái lòng Từ nó rộng lớn lắm, nó không có một đối tượng giãy giụa, đau đớn, vì vậy mà cái lòng Từ thương người trong khi mạnh giỏi, thương chúng sanh trong khi đang mạnh.

Còn bây giờ khi thấy một cây cỏ úa hay một cái bông nó héo mà chúng ta khởi thương yêu nó, thì cái thương yêu đó gọi là lòng Bi chớ không phải lòng Từ.

Phân biệt được như vậy chúng ta thấy: Chúng ta tu cái lòng Từ là chúng ta thương chúng sanh đang ở trong cái mạnh khỏe, chớ không phải là trong cái sự đau ốm hay hoặc là tai nạn hay hoặc là bị chết chóc rồi chúng ta mới thương yêu chúng.

Cho nên Từ nó khác mà Bi nó khác.

Phân biệt được như vậy thì chúng ta biết rằng: Bây giờ chúng ta đi đứng, thì những con vật mà dưới chân ta là con vật mạnh giỏi chớ không phải là con vật đau đớn.

Cho nên cái hành động của chúng ta hằng ngày mà đi đứng đều là tránh nó đó, đó là chúng ta không làm chúng đau khổ, để cho chúng được mạnh khỏe, an vui, thảnh thơi, vui sướng ở trong cái đời sống của chúng, hòa mình ở trong những cái cuộc sống, trong không gian và thời gian này.

Đó là cái lòng Từ của chúng ta là thực hiện đối với con người, con vật đang vui tươi, đang mạnh khỏe.

Tức là học tới cái lòng Hỷ thì chúng ta mới thấy được cái Hỷ mà hòa mình ở trong cái sự an vui đó, để cho tâm hồn của chúng ta phủ trùm trên sự sống của muôn vật với cái lòng thương yêu khắp cùng với nhau.

Còn lòng Bi thì nó khác. Khi mà gặp một cái tai nạn nào đó của chúng sanh hoặc là con người: Người ta bị xe đụng, người ta bị bệnh khổ, người ta lâm tai nạn, thì ngay cái đối tượng mà đau khổ đó chúng ta thương yêu, thì cái sự thương yêu đó đó, nó bắt buộc chúng ta phải thực hành bằng cái hành động:

Cái người mà bị tai nạn thì mình phải đến giúp đỡ liền, cái người bị bệnh khổ thì mình tìm thang thuốc cho họ uống, cái người mà sợ hãi không dám đi qua đường thì mình tìm cách mình dắt họ qua đường, thì đó là cái lòng Bi.

Mình đi ở trên xe buýt mình thấy một bà già bước lên mà không có chỗ ngồi, mình đứng dậy mình nhường cho bà già đó ngồi, đó là cái lòng Bi. Bà già bà đang yếu đuối, bà không thể nào mà gượng khi mà xe dừng hoặc là xe chạy, cho nên chúng ta nhường chỗ ngồi như vậy thì đó là lòng Bi chớ không phải lòng Từ.

Phân biệt được những cái đối xử với nhau như vậy, chúng ta biết Từ, Bi như thế nào, ở mức độ nào để mà thực hiện cho đúng cách của nó.

Từ thuộc về nhân.

Đó, Từ nó thuộc về cái nhân. Nghĩa là cái nhân mà chuẩn bị cho chúng sanh đừng có đau khổ.

(57:20) Mà Bi là cái quả.

Bởi vì chúng sanh gặp những cái tai nạn đau khổ, nhức nhối thì lòng Bi của chúng ta đối với chúng sanh là đối trong cái quả, mà lòng Từ đối cái nhân là vì nó chưa có cái gì hết, chúng ta chuẩn bị cho nó đừng có xảy ra tai nạn, cho nên lòng từ là cái nhân.

8- KHI BẢN NGÃ TIÊU MÒN MỚI CÓ LÒNG TỪ BI CHÂN THẬT

(57:34) Trưởng lão: Cho nên lòng Từ biến mãn khắp mười phương, chúng sanh hòa mình trong cuộc sống, vạn vật từ cỏ cây đến cầm thú đều được an lành; không có con vật này giết con vật kia, không có giẫm đạp lên nhau, chà xéo lên nhau trong cuộc sống; không có tham dục, không có ích kỷ, nhỏ mọn, không có cá nhân chấp chặt mà chỉ có một quyền sống bình đẳng như nhau, người này thương yêu người nọ, người nọ thương yêu người kia, sống vì người, vì tất cả chúng sanh, nên gọi là lòng Từ.

Lòng Từ phải được trau dồi, thấm nhuần, lưu xuất từ tận đáy lòng thương yêu chân thật. Nếu không được trau dồi thì lòng Từ kia chỉ là một hình thức suông.

Vì thế, cuộc sống của muôn loài đang bị đe dọa trên những danh từ hoa mỹ: “Từ Bi, Bác Ái”.

Bằng chứng là chúng ta hiện giờ chúng ta thấy cái danh từ mà gọi là “Từ Bi, Bác Ái”, thật sự ra thì đó là cái danh từ, chớ còn cái Từ Bi, Bác Ái chưa có thực hiện đúng. Con người đối với con người, con người đối với con vật nó chưa có cái “Từ Bi, Bác Ái” đó. Người ta dùng cái đó để mà người ta bịp đời, chớ chưa hẳn đã là người ta thương đời thật.

Cho nên ở đây chúng ta phải lật trái cái điều này để mà chúng ta thực hiện cái tâm mình cho nó chân thật, chớ không khéo mình cũng bị những danh từ che đậy này mà tưởng rằng mình Từ Bi, Bác Ái. Sự thật ra mình chưa có trau dồi nó thì tâm chúng ta chưa hẳn đã Từ Bi, Bác Ái được.

Vì cái bản ngã của chúng ta lầm chấp cái thân này, cái tâm này là cái ngã thì cái Từ Bi kia không bao giờ có được. Mà muốn có được thì chúng ta phải từng trau dồi nó thì nó mới có được. Và khi trau dồi nó thì cái ngã chúng ta lần lần tiêu mòn, chỉ còn biết người mà không thấy có mình, nhưng trong đó có mình: Có mình mà như không có mình.

Đây là cái phần vừa là lý thuyết mà cũng là vừa thực hành. Mà cái thực hành là quý thầy phải nhớ kỹ: Những cái câu pháp hướng là điều quan trọng nhất.

Còn cái lý thuyết nói mênh mông để nghe cho nó thấu rõ được cái lý, chớ còn sự thật ra thì cái lý thuyết nó chẳng nhằm nhò gì hết, nghe nó làm rối tai, làm rối đầu.

Mà chính những cái pháp hướng, cái câu ngắn ngủi mà Thầy vừa nhắc, đó là những cái mấu chốt để quý thầy trau dồi bằng những cái sự tỉnh thức của mình trong mỗi hành động của thân của mình. Đấy là cái điều quan trọng nhất cuộc đời tu hành của người tu sĩ.

Còn cái mà Thầy nói lòng vòng như thế này, chỉ nói để cho nghe hiểu, cho vui chơi, nó cũng như là cái bài ca để mà ca hát cho quý vị nghe cho vui vậy chớ không có nghĩa lý gì hết.

Cho nên khi mà nghe xong rồi thì những cái danh từ mà Thầy đã ca ở đây thì quý vị dẹp hết đi, chỉ còn có một cái câu pháp hướng, mà đó là cái ngọn đuốc thắp đường để cho quý vị trau dồi sáng suốt thân tâm của mình.

Cho nên tu thì nó không có nhiều, mà nói thì rất nhiều, vì nhiều khi quý thầy không hiểu, phải nói ra cho hết, cho rõ, để cho hiểu, hiểu rồi thì áp dụng không có bao nhiêu.

9- PHÁP HƯỚNG NƯƠNG THEO HÀNH ĐỘNG TAY (Tiếp theo)

(01:00:50) Trưởng lão: Khi cầm một vật gì ta phải nhẹ nhàng nhắc nhở:

Thầy nhắc lại như hồi nãy:

“Trên mọi vật đều có chúng sanh đang ở trên đó, ta hãy cầm nhẹ nhàng để tránh sự chết chóc và đau khổ của chúng sanh!”

Nắm, bắt, lấy cũng vậy, đều phải được tập ý tứ, nhẹ nhàng, khiến cho người tu sĩ càng ngày càng có oai nghi tế hạnh hơn, không còn những hành động thô tháo.

Đó cái sự mà chúng ta tu tập, trau dồi cái tâm Từ chúng ta nó có lợi ích cho chúng ta là tập luyện được cái oai nghi tế hạnh của mình, từng cái hành động nhẹ nhàng, làm cho chúng ta trở thành những vị tu sĩ xứng đáng là đệ tử của Phật.

Nương vào mỗi hành động tay hoặc chân của ta đều hướng tâm, nhắc tâm ta thương yêu tất cả muôn loài, từ đó ta mới có sự thấm nhuần sâu vào tận xương tủy của chúng ta, từ đó mới biến mãn ra hành động nơi thân mình đầy lòng thương yêu chân thật.

10- CÓ TÂM TỪ MỚI CÓ NHẪN NHỤC, TÙY THUẬN, BẰNG LÒNG

(01:02:04) Trưởng lão: Ở đây quý thầy phải hiểu…​

Đây Thầy xin nhắc lại:

Ở đây quý thầy phải hiểu: Đừng lầm tưởng rằng chúng ta tu như vậy là tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, mà là tu trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm bằng hành động thân của mình qua pháp hướng Như Lý Tác Ý của Phật. Nhờ có Như Lý Tác Ý, tâm ta thấm nhuần lòng Từ chân thật.

Chính lòng Từ chân thật này xuất hiện với tâm ta, ta mới tu hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng mới đạt kết quả tốt.

Đó thì quý thầy thấy, từ chúng ta trau dồi cái lòng Từ của chúng ta đạt được, thì cái tâm Từ chúng ta xuất hiện được, thì bây giờ cái nhẫn nhục là một cái điều chúng ta mới có làm được.

Còn không chúng ta chỉ dùng danh từ nhẫn nhục để mà chơi hay hoặc để nén tâm mà thôi, chịu đó chớ tâm chúng ta bực tức ở trong đó. Đó là chúng ta chưa có tu tập được cái hạnh nhẫn nhục.

Nhưng danh từ “nhẫn nhục” thì ai ai cũng biết, danh từ “tùy thuận” thì ai ai cũng rõ, nhưng khi mà chúng ta chưa trau dồi lòng Từ của chúng ta thì “nhẫn nhục”, “tùy thuận” chỉ là một danh từ suông đối với quý vị mà thôi.

11- NGƯỜI CÓ LÒNG TỪ KHÔNG BAO GIỜ SỢ HÃI TRƯỚC HIỂM NGUY

(01:03:18) Trưởng lão: Một con vật chúng ta còn thương thay huống là con người đang chửi mắng ta và làm khổ ta?

Từ tâm rất quan trọng, vì đứng trước mọi vật đang mạnh khỏe, đang hung hăng, dữ tợn và có thể giết ta, hại ta, nhưng lòng Từ vẫn ban rải đến chúng, thương yêu chúng.

Người có lòng Từ không bao giờ biết sợ hãi (khi) đứng trước mọi hiểm nguy.

Ở đây Thầy xin nhắc lại cái phần này để cho rõ. Một khi mà chúng ta có lòng Từ rồi thì cái tâm chúng ta không còn sợ hãi một con vật nào hết.

Và mọi vật mà quanh ta nó cũng là những con vật, nó ham sống và sợ chết, nó thấy ta nó cũng sợ: Một con beo, một con cọp, một con gấu, một con voi…​ con vật nào nó thấy con người chúng ta nó cũng sợ, chớ không phải là nó không sợ.

Do cái sợ hãi đó nó vẫn nhìn chúng ta chăm chăm, cũng như chúng ta sợ nó mà chúng ta nhìn chăm chăm. Và cái đôi mắt chúng ta nhìn chăm chăm thì tức là nó có cái sự hung dữ trong đó.

Còn cái người lòng Từ, họ không sợ hãi cho nên họ không sợ con vật đó giết họ, cho nên họ ngồi, đôi mắt họ hiền từ họ nhìn xuống, họ không bao giờ sợ hãi. Và con vật mà nhìn thấy cái đôi mắt mà nhìn xuống thì nó biết đó là cái con vật lành, không bao giờ mà nó tấn công nó giết hại chúng ta đâu.

Cho nên những người tu sĩ thường ẩn bóng ở trong rừng núi, họ ở trong chỗ những nơi có những thú dữ mà họ chẳng hề sợ hãi do họ đã tu tập được lòng Từ chớ không phải thiền định.

Bởi vì lòng Từ của họ giúp cho họ chẳng sợ hãi trước cái sự nguy hiểm của thân họ, vì họ nghĩ mình đã Từ thì không thể nào mà giết một con vật nào, dù con vật đó có hại họ, họ thà là chịu chết chớ họ không bao giờ làm đau khổ và giết con vật khác.

Do vì lòng Từ đó mà họ chẳng sợ nguy hiểm, chẳng ngại những gian lao, khó khăn, họ thực hiện con đường ẩn bóng hoặc là những con đường tu tập để đạt được những cái nguyện vọng giải thoát cao hơn.

Do đó họ chẳng sợ hiểm nguy trong rừng sâu, nước độc, họ thường ở trong những nơi thanh vắng để tập luyện những thiền định.

Thì quý thầy thấy rằng, bây giờ hiện giờ chúng ta chưa có lòng Từ, bước ra một bước là chúng ta sợ hãi nơm nớp, do cái lòng Từ chúng ta chưa có. Lòng Từ chúng ta có, ta lên xe, ta ngồi trên xe ta cũng thản nhiên không lo trộm cắp, móc túi.

Tại sao vậy? Nếu quả chăng có những người trộm cắp, móc túi thì đó là chúng ta ban rải cho chúng những cái điều mà chúng đã không có, cho nên chúng ta vẫn an nhiên tự tại.

Nhưng đối với một người tu sĩ thì làm gì có vật gì đâu mà sợ? Cho nên chúng ta vẫn an nhiên ngồi trên xe mà không sợ móc túi. Tiền không có, vật không có, chỉ có cái bộ y áo trong mình với cái bát sành, thì ăn trộm, ăn cắp nó lấy làm gì? Cho nên chúng ta vẫn an nhiên vui vẻ.

(01:06:19) Do vì vậy mà tu tập lòng Từ phải sống một đời sống đúng như cái Phạm hạnh của người tu sĩ của đạo Phật thì lòng Từ mới thể hiện dễ dàng. Còn nếu có một vật gì mà lòng chúng ta nơm nớp lo sợ để giữ gìn nó thì tức là lòng Từ chúng ta khó thực hiện được.

Ở đây đến cái cuối cùng này quý thầy sẽ thấy, trước tiên chúng ta áp dụng phương pháp tu trau dồi lòng Từ thì nghe nó dễ dàng, nhưng mà đến cái phút cuối cùng để kết luận để thấy rằng trau dồi lòng Từ không đơn giản, vì phải sống một đời sống đúng cái hạnh của người tu sĩ thì lòng Từ mới thực hiện trọn vẹn, còn nếu không thì chỉ đạt được phân nửa mà thôi.

Như vậy chúng ta đạt được phân nửa của lòng từ thì chúng ta cũng thấy được cái cõi đời chúng ta cũng an vui, hạnh phúc vô cùng. Còn đạt được viên mãn lòng Từ thì cả một vấn đề tu tập, cả một cuộc sống chúng ta phải xa lìa tất cả những vật chất thế gian, những gì còn trói buộc chúng ta đều phải bứt bỏ hết thì lòng từ kia nó mới thực hiện được. Vì lòng Từ kia thực hiện được tức là tâm không sợ hãi.

(01:07:26) Người chưa có lòng Từ thường hay sợ hãi: Thấy một con bò cạp, một con rắn dữ, một con beo, một con gấu, một con hùm v.v…​ nếu con vật lớn thì họ sợ hãi cao bay xa chạy, còn con vật nhỏ bé thì họ đập giết không tiếc thương.

Trái lại, lòng Từ không cho phép chúng ta có những hành động độc ác này. Lòng Từ không cho phép chúng ta cao bay, xa chạy trước những con vật hung dữ, lớn hơn chúng ta. Lòng Từ không cho phép chúng ta có tâm tàn nhẫn giết hại những con vật nhỏ bé. Người có tâm Từ không hề sợ hãi thú dữ và còn thương yêu chúng nữa.

Cho nên chúng ta nghe các vị tu ở trong rừng núi, nhiều khi cọp nó ngồi gần bên mà nó hầu hạ các vị. Tại sao vậy? Tại vì lòng Từ của các vị ban rải, cho nên từ cái tình thương của con vật nó thông cảm, nó giao cảm được với tình thương của con người.

Còn chúng ta vô rừng mà gặp cọp, beo thì chắc chắn là lớ quớ là chúng ta bị nó xé xác. Tại vì cái tâm của chúng ta, cái từ trường của chúng ta nó không có Từ, cho nên do đó nó đã đánh hơi được cái sự hung dữ của chúng ta, tâm chúng ta dữ tợn, vì vậy nó phải giết những con vật dữ để nó bảo vệ sự sống của nó.

Cũng như bây giờ chúng ta thấy một con bò cạp, nhưng chúng ta chưa giao cảm được cái lòng từ của nó. Nó chỉ là một con vật, nó có một cái chất độc để bảo vệ sự sống của nó chớ nó đâu phải dùng chất độc đó để đi giết chúng ta? Nhưng lòng Từ chúng ta không có cho nên chúng ta lại đập giết nó, chớ nó không có đem cái chất độc để đến mà giết chúng ta.

Nhiều khi, một con vật nó rớt ở trên mái nhà rớt xuống mình chúng ta, nó đâu có cắn chúng ta, nhưng khi chúng ta vô tình lấy cái tay để nhẹ lên trên nó - vì vô tình chúng ta không biết có nó - nhưng vì nó đau quá, nó bắt buộc nó phải cắn chúng ta. Do đó chúng ta bị cắn là vì cái sự bảo vệ cái sự sống của nó, chớ không phải nó đi tìm chúng ta mà cắn.

Thường thường Thầy ngủ, bọ cạp hay rớt ở trên mình, do đó người mà tu hành kỹ lưỡng mà trau dồi cái tâm Từ thì khi mà chúng ta cựa mình thì chúng ta phải ý tứ hẳn hòi, nhẹ nhàng, thì không làm sao bọ cạp cắn.

Còn quý thầy cựa mình thì lăn cái “ù”, cho nên tay chân thì quơ, vì vậy mà đụng nó đau, nó cắn quý thầy, rồi đâm ra mình giết nó thì rất là tội!

Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy để biết rằng: Cái sự trau dồi lòng Từ là cái hành động nhẹ nhàng của chúng ta thì chúng ta cũng tránh được sự đau khổ của loài chúng sanh vì bảo vệ mạng sống của chúng./.

HẾT BĂNG

11 - TRAU DỒI TÂM TỪ 02, TÂM BI, TÂM HỶ

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 11 - TRAU DỒI TÂM TỪ 02, TÂM BI, TÂM HỶ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- TRAU DỒI TÂM TỪ TRÊN KHẨU HÀNH

1.1- NHẮC TÂM CẦN THẬN, Ý TỨ KHI ĂN UỐNG

(00:00) Trưởng lão: Bây giờ chúng ta học tiếp tới hành động lòng Từ nơi miệng của chúng ta.

Có hai hành động:

1. Trau dồi miệng lưỡi khi ăn, uống, nhai nuốt phải ý tứ cẩn thận, tránh nhai lầm chúng sanh, nhai chúng sanh, nuốt chúng sanh vào miệng.

Nghĩa là chúng ta ăn cái món ăn nào đó chúng ta phải coi chừng. Nhiều khi chúng ta thấy còn một hai con kiến: “Thôi kệ, nuốt đại nó đi, nhai đại cái bánh này cũng ăn thua gì!”, bỏ miệng nhai. Đó là lòng Từ chúng ta chưa thực hiện được.

Khi mà trên một cái miếng bánh hoặc là một thực phẩm của chúng ta ăn có một vài con kiến, chúng ta hãy dùng một cái que cây, nhẹ nhàng chúng ta từ từ để cho nó bò lên rồi chúng ta đưa - bữa ăn cơm của chúng ta nó còn cái thời gian dài, đâu có mất đâu mà lật đật, cho nên chúng ta đâu có vội vàng - vì vậy mà từ từ chúng ta đưa chúng ra khỏi cái món ăn của chúng ta và đồng thời chúng ta mới ăn.

Đó là những cách thức tu tập của những người đệ tử của Phật, người cư sĩ cũng như người tu sĩ. Chớ không phải nói rằng: Người tu sĩ thì phải ăn uống như vậy, còn người cư sĩ thì phải vội vàng để lo làm cho có tiền, có bạc, rồi nhai nuốt tất cả chúng sanh trong bụng của mình - thì cái điều đó là một cái điều nó không đúng cái hạnh của một cái người đệ tử của Phật.

Đệ tử của Phật thì nó có cư sĩ và tu sĩ, thì người tu sĩ cũng như người cư sĩ phải tu tập những cái hạnh này để chúng ta thực hiện cái lòng thương yêu.

Mỗi lần ăn uống, nhai nuốt đều Như Lý Tác Ý:

Đó khi mà, lúc nào mà chúng ta nhai trong miệng, ăn trong miệng một cái vật gì thì chúng ta phải thầm để mà như cái lý mà tác ý ra.

Đây là cái câu mà chúng ta dùng pháp hướng để mà chúng ta tu tập cái lòng Từ trong khi chúng ta ăn:

“Ta nhai nuốt, ăn uống, tâm ta phải thương xót chúng sanh, lỡ nhai nuốt ăn vào bụng làm cho chúng sanh đau khổ và thiệt mạng là một điều tội lỗi lớn!”.

Đó mình nhắc mình như vậy để cho mình cẩn thận từ cái chỗ ăn uống của mình.

Và hằng ngày chắc chắn là ai cũng có ăn hết: Người cư sĩ thì người ta ăn ba bữa, thì mỗi một lần ba bữa thì người ta đã nhắc được ba lần, còn chúng ta ăn ngày một bữa thì chúng ta nhắc có một lần, và như vậy ngày nào chúng ta cũng nhắc một cái lời này để cho nó thấm nhuần và nó cẩn thận, ý tứ trong khi chúng ta nhai nuốt. Đó là một cái điều làm chúng ta rất tỉnh thức trong cái sự ăn uống của chúng ta.

Đó là cái sự mà, vừa rồi đó thì trau dồi cái miệng, thì về ăn, thì chúng ta có một câu hướng tâm như vậy để nhắc cho chúng ta.

1.2- NHẮC TÂM KHI NÓI KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI

(02:51) Trưởng lão: Về phần thứ hai của miệng:

2. Trau dồi miệng lưỡi khi nói:

“Ta muốn nói một điều gì ta cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, suy tư cho chín chắn rồi mới nói ra!”

Lấy câu này làm pháp hướng nhắc tâm mình để lời nói không làm khổ mình, khổ người.

Bởi vì lời nói rất độc, chúng ta vô tình nói ra cái chạm tự ái người ta làm người ta đau khổ. Mình nói chơi thôi cũng làm cho người ta rất khổ, mình mỉa mai người ta một câu nói cũng rất đau khổ. Cho nên cái lời nói rất là khó, không phải dễ đâu.

Trau dồi cái lời nói thì quý vị phải biết rằng, trau dồi cái lòng Từ nơi lời nói rất là khó: Nói làm sao cho người ta an vui, đừng có để cho người ta đau khổ, thì hầu hết là mọi người Thầy thấy chưa có ai trau dồi cái lời nói.

Chỉ mình muốn nói sao đó mình nói, ý mình muốn khởi sao đó là mình khởi ra mình nói, chớ còn mình không có trau dồi cái lời nói của mình cho cẩn thận, kỹ lưỡng.

“Khi muốn nói ra một điều gì, ta tránh không được nói oan, nói ức cho người khác, hoặc nói chuyện cho người khác chuyện có nói không, chuyện không nói có để làm cho khổ người!”

Mình không muốn người khác nói oan ức cho mình thì sao mình lại nói oan ức cho người khác? Do đó, ta phải thường hướng tâm nhắc nhở Như Lý Tác Ý câu này.

Đây cái câu này để cho chúng ta nhắc nhở để mà chúng ta thực hiện hằng ngày trau dồi cái lời nói của chúng ta. Vì có trau dồi thấm nhuần thì mỗi lần mà chúng ta mở miệng nói là chúng ta có một cái tác ý, tự nó tác ý ra làm chúng ta nói rất cẩn thận. Vì vậy đó gọi là trau dồi tâm Từ của chúng ta đến với chúng sanh đó.

“Ta nói phải giữ gìn…​

Nghĩa là cái câu này là câu nói:

“Ta nói phải giữ gìn lời cho đúng đắn, không được nói dối, nói oan ức làm cho khổ người!”

Đó là nhắc nhở liên tục, nghĩa là lúc nào mà chúng ta rảnh rang - ở đây nó không phải như cái ăn, mà cái nói nó thình lình lắm, nó không có giờ giấc đâu, cho nên thường là chúng ta phải nhắc mình.

Biết cái miệng mình là cái khẩu nghiệp, cho nên mình phải nhắc nó đi, nhắc lại cho nhiều lần, cho thấm nhuần, để mở miệng ra là không làm cho người khác đau khổ. Thì lấy cái câu này để làm cái pháp hướng, để như cái lý chân thật để trau dồi cái lời nói của mình cho nó có Từ Vô Lượng Tâm mới được.

Ta là người hay nhiều chuyện lắm mồm, đụng chuyện gì cũng nói, cũng xen vô, đụng đâu cũng đía, biết tật mình xấu như vậy thì hằng ngày nên trau dồi miệng:

Mình nhắc đây - cái câu này là nhắc cái người mà hay nhiều chuyện, đụng chuyện gì cũng nói, cũng này kia, đem chuyện chuyện xấu người này nói chuyện kia hoặc đặt điều nói xấu người khác đó, hoặc là không hiểu rồi nói người ta xấu thế này, thế khác. Đó là chúng ta biết mình nó còn có cái tật xấu như vậy thì hằng ngày mình phải trau dồi cái miệng của mình.

Đây, đây là cái câu mà Thầy tượng trưng cho để quý thầy hiểu để sau này quý thầy tìm những cái câu nào cho phù hợp với cái đặc tướng của mình, đặng cho mình thực hiện cho nó có hiệu quả, còn ở đây Thầy chỉ dạy chung chung mà thôi:

“Ta là người nhiều chuyện…​

(06:03) Tức là mình biết mình là người nhiều chuyện cho nên mình phải chỉ ngay nó, chớ không phải tránh né được.

“Ta là người nhiều chuyện lắm mồm, từ đây phải bỏ, không được xen vào chuyện của người khác!”

Đó nhắc như vậy để cho nó quen đi. Nghe người ta nói chuyện gì đó cái mình xen vô liền, đó là cái người lắm chuyện, nhiều mồm.

Như vậy là chúng ta có những cái câu để mà chúng ta trau dồi cái miệng của chúng ta ở trong cái lòng Từ không làm khổ người.

“Ách giữa đàng mang vào cổ” - “chuyện người người biết, chuyện mình mình hay”. Không nên xen vào chuyện của người khác để thân rắc rối và khổ đau!”

Đây là một cái câu kế, mình phải ám (thị), mình phải hướng tâm tác ý: “Ách giữa đàng mang vào cổ” - nghĩa là chuyện người ta cái mình xen vô, một lát nữa mình bị người ta kéo ra làm chứng, làm cớ rồi rầy rà chuyện này đến chuyện kia, gọi là “ách giữa đàng mang vào cổ”.

Lấy câu này để mà chúng ta làm cái pháp hướng để chúng ta tránh đi những cái điều mà có thể tai họa xảy đến cho mình do miệng lưỡi:

“Chuyện người người biết, chuyện mình mình hay”; không được xen vào chuyện của người khác để thêm rắc rối và đau khổ cho mình, cho người!”

Đó là một cái câu mà để chúng ta nhắc mình, để luôn luôn lúc nào cái ý của mình nó cũng nhanh chóng để mà chặn đứng những cái thói quen mà mình đã là người lắm chuyện, lắm mồm.

Nếu hướng tâm Như Lý Tác Ý…​

Ở đây thì quý thầy, nếu mà chúng ta thường xuyên hướng tâm những cái ám thị, những cái câu như trên thì cái tâm của chúng ta nó luôn luôn nó rất là tỉnh táo, và khi nói chúng ta rất cẩn thận.

Cho nên bây giờ cái lời nói của chúng ta nó nhanh lắm, nó nhanh hơn cái ý, khi nghe thì nó phóng ra nó nói liền, mà chúng ta thường nhắc nhở nó như vậy thì bắt đầu nó không có nhanh nữa, nói nó không có nhanh nữa, mà nó suy tư rồi nó mới nói.

Như vậy nó làm cho giảm cái tốc độ nhanh của cái lời nói, nó giảm xuống, nó làm chúng ta có một cái cẩn thận, từ tốn ở trong cái lời nói của chúng ta, suy nghĩ hẳn hòi rồi mới nói.

Còn hiện giờ quý thầy cũng biết rằng mình muốn suy nghĩ rồi mình nói, ai lại cũng muốn vậy, nhưng mà tại sao nó lại thành một cái thói quen quá nhanh chóng?

(08:41) Vừa rồi cái chuyện gì xảy ra là nó tự nó phóng ra nó nói lia lịa nó thôi mà mình không kiềm lại được nữa chớ! Chừng mà biết rồi thì nó quá trễ rồi, lấy lại cái lời nói khó lấy, lỡ lời đâu có dễ gì mà lấy lại?

Cho nên trong cái sự tu tập hằng phải trau dồi thì cái lời nói của chúng ta mới chững chạc, mới đúng đắn được, chớ không khéo nó phóng theo cái tư tưởng của nó, cái tư tưởng ngã chấp của nó, nó làm những cái đó nó lệch đi, và nó đưa chúng ta đi đến chỗ khổ và người khác khổ.

Và chúng ta cũng nên nhắc cái tâm chúng ta như cái lý như thế này:

“Từ đây ta phải im lặng, sống trong trầm lặng, không được nhiều chuyện, lắm mồm nữa!”

Đó là một cái câu để mà chúng ta nhắc chúng ta phải sống im lặng, trầm lặng - coi như là độc cư hoàn toàn đó - để nhắc cho đến khi mà chúng ta độc cư hoàn toàn mà chúng ta thấy thảnh thơi, vui sướng, tâm hồn chúng ta quay trở lại với chính mình, không còn quay ra ngoài nữa. Thì những câu pháp hướng này nó có một giá trị để sau khi mà chúng ta thực hiện thiền định thì chúng ta không còn cô đơn.

Đó là những cái câu mà quý thầy cần phải ghi nhớ để mà hằng nhắc mình, hằng như lý tác ý nó ra để giúp cho mình được trầm lặng, được yên lặng ở trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng.

Do miệng lưỡi nói ra mà người sân, kẻ hận, kẻ tự tử quyên sinh, phiền não, đau khổ.

Do miệng lưỡi mà gia đình ly tán, anh em xa lìa, bầu bạn chẳng gần.

Do miệng lưỡi nói ra mà vạn vật, sanh linh tiêu điều, phải chết.

Do miệng lưỡi nói ra mà tạo nên cảnh địa ngục ở trần gian.

Do miệng lưỡi nói ra mà biết bao nhiêu người tù đày biệt xứ.

Do miệng lưỡi nói ra mà gia đình xào xáo, bất an, anh em chia lìa.

Do miệng lưỡi nói ra mà Tăng đoàn chia rẽ.

Đó thì quý thầy thấy: từ cái miệng lưỡi, mà chúng ta sống chung nhau ở trong một cái tăng đoàn tu tập như thế này mà nếu không có cái hạnh độc cư thì quý thầy từ cái ngày mà vào đây, thì chỉ hơn một tháng thôi, nếu mà người này đến thất người kia nói chuyện mà không giữ độc cư, thì những cái sự kiện nó xảy ra không thể lường được! Nó có những cái mà làm chúng ta bất an trong cái bước đường tu tập.

(11:01) Cho nên vào đây thì đã khép chặt, các thầy phải hoàn toàn sống độc cư. Để làm gì? Sống độc cư để giữ cho mình được, mọi người được yên tịnh tu tập nó mới có kết quả. Còn nếu mà sống ồn náo như cái chợ thì tức là không thể nào mà có thể tu tập được.

Cho nên ở đây chúng ta phải trau dồi cái miệng, cái lời nói của chúng ta, giữ gìn nó rất là cẩn mật, im lặng là tốt, mà nói là không tốt.

Nói chung tất cả mọi sự đau khổ trên thế gian này sinh ra phần nhiều là do miệng lưỡi.

Quý thầy thấy cái sự đau khổ của con người ở trong thế gian này thì phần nhiều là do miệng lưỡi mình mà ra hết, chớ không phải là ở đâu mà có hết. Do miệng lưỡi mà ra rồi nó mới xảy ra chuyện này, chuyện nọ, chuyện kia, đủ thứ hết. Còn nếu mà chúng ta sống trầm lặng thì chắc chắn là khó mà có những cái sự kiện xảy ra đau khổ.

Vậy quý thầy hằng ngày cần phải trau dồi miệng lưỡi. Khi nói phải nói cho người vui, không được nói cho người buồn. Quý thầy phải dùng Như Lý Tác Ý câu này:

“Ta không nói thì thôi, mà hễ nói ra thì phải nói làm vui lòng mọi người!”

Đó là cái một câu để nhắc nhở mình không có nói ra mà làm ai buồn, mà nói ra là giúp cho người ta vui, giúp cho người ta tinh tấn tu hành, giúp người ta hân hoan trong cái sự tu hành giải thoát thì mình nên nói lời nói đó ra.

Đó thì, cái câu mà hướng tâm như vậy Thầy chỉ đại khái, sau này quý thầy tự soạn ra lấy những cái câu để nó phù hợp với cái đặc tướng của mình mà mình thực hiện nó hợp, nó có kết quả tốt.

Chính vì nói ra mà làm vui lòng người là ta đã biết thương người như chính thương thân ta.

Đó thì cái lời nói mà chúng ta làm cho người khác đừng có buồn, đừng có khổ, là chính mình đã thương người đó, chớ không phải là gì khác. Còn mình nói ra người ta buồn khổ, người ta giận hờn, người ta đau đớn, đó là mình không thương người đâu.

Lời nói chúng ta nó trực tiếp lắm, nói ra làm cho người ta vui mừng, nói ra làm cho người ta buồn khổ, người ta khóc than, thì cái lời nói rất là phải cẩn thận.

Đối với người tu sĩ đạo Phật thì càng cẩn thận hơn nhiều. Người cư sĩ ở ngoài đời còn đang chung đụng với mọi người thì cái lời nói phải cẩn thận không thua gì người tu sĩ.

Kế đó, ta phải Như Lý Tác Ý câu này nữa:

“Làm người ta phải thương người đau khổ cũng như ta đau khổ!”

Nghĩa là mình nhắc như vậy để cho mình nhớ rằng: Mọi cái sự buồn giận đau khổ của người cũng chính là cái sự đau khổ của chính mình. Mình không nhắc, nó quên mất đi, nó không biết, nó chỉ biết mình đau khổ chớ không biết ai đau khổ hết.

Cho nên vì cái sự vô tình mà không biết người đau khổ đó, vì vậy mà mình chỉ nghĩ đến mình không đau khổ mà thôi, cho nên mình mở miệng ra là mình nói làm cho người ta đau khổ vô cùng.

Vì con người đang ở trong cái dục, cái lòng ham muốn, mà người ta muốn cái gì đó mà không được mà mình nói ra một cái lời nói ngăn cản là họ đã đau khổ rồi.

Bây giờ về cái phần mà - đã trau dồi về cái miệng của chúng ta, nó có hai phần mà chúng ta đã tu tập, đã biết cách để trau dồi cái miệng của chúng ta rồi - thì bây giờ đến cái phần mà trau dồi của cái ý.

2- TRAU DỒI TÂM TỪ Ý HÀNH

2.1- THƯƠNG YÊU VÀ CHĂM SÓC CHÚNG SANH NHƯ CHÍNH CON MÌNH

(14:26) Trưởng lão: Bây giờ cái phần mà trau dồi cái ý thì chúng ta thấy: Hồi nãy Thầy có giới thiệu là cái ý của chúng ta nó có ba cái phần trau dồi.

Muốn trau dồi ý có lòng Từ ta phải tư duy:

“Thân tất cả chúng sanh như thân ta, thường đau khổ, thường đói khát; ta hãy thương yêu và chăm sóc chúng như chính chăm sóc thân ta, chăm sóc như con ta!”

Đó là một cái câu hướng để mà chúng ta bắt đầu vào trau dồi cái ý thì chúng ta phải nhắc cái ý chúng ta thường phải tư duy những cái điều đau khổ của chúng sanh cũng chính như là đau khổ của chính mình,

“…​ cũng như chăm sóc con ta vậy!”

Đó là chúng ta phải nhắc nhở cái câu này để hằng ngày, hằng lúc nó thấm nhuần trong cái ý của chúng ta. Do vì vậy mà từ cái miệng chúng ta nói ra, từ cái thân hành của chúng ta nó làm ra hành động này, hành động kia đều toát ra cái lòng thương yêu chân thật nơi tận đáy lòng của mình.

Bởi vì cái ý là cái chính, do ý cái miệng mới nói, do ý cái thân chúng ta mới hành. Mà cái chính mà không được trau dồi cho thấm nhuần thì những cái phụ kia làm sao mà được thấm nhuần?

Cho nên ở đây trau dồi cái ý rất là phải cẩn thận, vì cái ý là tư duy, mà tư duy như vậy trong Bát Chánh Đạo thì có cái nẻo mà Phật gọi là Chánh Tư Duy, tư duy đem lòng Từ chúng ta thương xót chúng sanh tức là Chánh Tư Duy. Suy nghĩ chơn chánh đem lại cho người không khổ, mình không khổ thì đó là Chánh Tư Duy.

Sự tư duy này để giúp cho ý chúng ta càng ngày càng dồi dào lên lòng thương yêu chúng sanh. Sự tư duy này được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần khi chúng ta nhìn thấy những loài vật xung quanh ta, hoạt động xung quanh ta, biến nó trở thành những pháp hướng.

Nghĩa là chúng ta nhìn tất cả mọi vật, như chúng ta nhìn một đoàn kiến đi ngang qua, chúng ta nhìn sự hoạt động của chúng trong cái đoàn kiến, thì chúng ta thấy nó có những cái sự buồn, vui, đau khổ ở trong đó lẫn lộn; rồi có những cái sự tấn công của con vật khác vào trong cái đoàn kiến này, chúng bảo vệ bằng cách nào chúng ta thấy rất rõ ràng.

Từ đó chúng ta có sự suy tư rất là chơn xác, thì chúng ta nhìn lại: Cái đời của con người chúng ta cũng giống như những con vật này, từ đó chúng ta mới toát ra những cái tư tưởng, cái sự tư duy thương yêu chân thật của muôn loài.

Nếu chúng ta không có dùng cái ý để quan sát, để theo dõi từng cái sống của loài vật thì chúng ta chưa thấy được cái sự chà đạp, xâu xé lên nhau vì miếng cơm, manh áo, vì vật chất, thực phẩm. Nếu chúng ta quan sát kỹ lưỡng thì chúng ta sẽ có những cái bài học có giá trị xứng đáng cho chúng ta tập tu Tứ Vô Lượng Tâm.

(17:38) Khi thấy chúng hoạt động trong cuộc sống ta khởi lòng Từ.

Khi có con vật nào gặp tai nạn ta vội cứu giúp ngay.

Nghĩa là nó đang đi như vậy, rủi nó rớt ở trong cái vũng nước nào đó, thì chắc chắn là cái vũng nước đối với ta thì nhỏ nhưng nó là cái biển đó, nó sẽ chết đuối ở trong đó. Cho nên chúng ta vội vàng mà lấy một cái vật hay hoặc là đưa ngón tay làm cái cầu cho chúng trèo lên để thoát ra khỏi chết đuối.

Thấy một con kiến rơi trong vũng nước, ta vội ngay vớt liền để chúng khỏi chết đuối.

Chúng ta thực hiện cái hành động đó gọi là hành động Từ tâm của chúng ta đối với chúng sanh.

Và khi chúng ta có quan sát, có khởi ý tu tập, trau dồi cái ý mình bằng cách cẩn thận quan sát tư duy như vậy thì tất cả mọi loài vật xung quanh chúng ta đều có sự cứu khổ của chúng ta.

Như chúng ta nghe một con vật khác lớn hơn bắt một con vật khác, tiếng kêu la cầu cứu, chúng ta đừng nhẫn tâm mà ngồi đó, mà hãy mau mau đến cứu con vật nhỏ bé. Vì con vật nhỏ bé cũng muốn sống nhưng con vật lớn hơn thì tìm con vật nhỏ bé để mà ăn thịt, để làm mồi, để nuôi sự sống của mình mà giết hại con vật khác.

Lòng Từ chúng ta luôn luôn lúc nào cũng can thiệp vào sự đau khổ của chúng sanh, không thể để cho chúng sanh đau khổ trước cảnh chết chóc như vậy. Không nghe tiếng kêu mà thôi, nghe tiếng kêu thì vội vàng chúng ta mau mau chạy đến nơi đó để cứu khổ những con người, những con vật đang khổ đau.

Và cái hành động mà chúng ta mau mau đó tức là chúng ta đã trau dồi lòng Từ của chúng ta. Còn chúng ta thấy thản nhiên tức là lòng Từ chúng ta nó không bao giờ có được.

Hôm nay, quý thầy về đây được nghe những lời để trau dồi lòng thương yêu chân thật bằng những hành động rõ ràng, không thể nào mà thiếu khuyết được trong bước đường tu theo đạo Phật.

Như hôm qua Thầy đang ngồi viết, dòng tư tưởng đang trôi chảy, thì bỗng nghe một tiếng con chim nhỏ kêu, thì Thầy vội vàng chạy ra để tiếp cứu, làm cho con chim lớn không còn cắn con chim nhỏ.

Do cái sự kêu la của loài vật như vậy mà lòng Từ chúng ta thực hiện, nghe tiếng la là vội vàng không thể nào làm ngơ trước - mặc dù đang ngồi viết say mê - Thầy không thể làm ngơ được, mặc dù dòng tư tưởng sẽ bị cắt đứt đi nhưng vẫn thản nhiên chạy ra để cứu lấy một con vật. Đó là cái hành động trau dồi lòng Từ của mình.

Thì các thầy phải hiểu biết là đây Thầy muốn nhắc để quý thầy đừng vô tình: “Mặc chết nó mặc, làm gì nó làm, mình phải lo làm công việc mình cho rồi!” Công việc của mình là công việc biết chừng nào mà cho rồi?

Đời người còn sống là còn việc làm, mà trước cái đau đớn của chúng sanh thì chúng ta không thể nào mà làm ngơ được. Do từ cái hành động không làm ngơ được tức là chúng ta đã trau dồi lòng Từ của chúng ta đó.

Để lấy những cái kinh nghiệm bản thân của Thầy mà nhắc nhở quý thầy, từ đây chúng ta sẽ tu tập, trau dồi thật sự, siêng năng tu tập vì chính lòng Từ nó sẽ cứu khổ chúng ta.

Vì thế, hằng ngày chúng ta tư duy:

“Tất cả chúng sanh như con ta, ta phải thương yêu và không bao giờ làm đau khổ chúng sanh!”

2.2- QUAN SÁT MỌI CHÚNG SANH ĐỂ THƯ GIÃN VÀ RÈN LUYỆN Ý TỪ

(21:00) Trưởng lão: Bây giờ chúng ta đã trau dồi cái ý của chúng ta ở trong cái lòng Từ. Như vậy thì chúng ta cũng đã hiểu rằng, sự tu tập của chúng ta mà trau dồi cái ý Từ như vậy là luôn luôn những cái hành động nào, nhìn cái sự hoạt động nào của chúng sanh chúng ta cũng phải để tâm quan sát để chúng ta theo dõi rồi tư duy. Từ cái tư duy, cái ý Từ nó mới thể hiện ra được.

Còn nếu mà chúng ta cứ lo công chuyện của mình, bây giờ cứ lo ngồi tu hoặc này kia thì quý thầy không phải là người trau dồi.

Nhiều khi chúng ta ngồi nghỉ, thay vì chúng ta mệt nhọc là lại chúng ta lo tu cái kia cho mau, nhưng mà không trau dồi cái tâm Từ của chúng ta thì chúng ta đang (có) sự thiếu khuyết.

Nhiều khi chúng ta ngồi nghỉ mà chúng ta nhìn một cái đoàn kiến hay hoặc là đôi ba con kiến đang bò ở trên sân, tức là chúng ta đã thư giãn tâm hồn chúng ta trong cái hành động đó rồi. Nó làm chúng ta trở lại cái thời gian tu tập, nó lại làm chúng ta tu tập có chất lượng hơn.

Còn bây giờ chúng ta sợ mất thời gian, chúng ta cứ ngồi tu hơi thở hoài hoặc là quán vô lậu hoài, riết nó nhàm chán, rồi nó ngao ngán, nó buồn khổ.

Thay vì chúng ta dành ra những cái giờ mà chúng ta ngồi, thấy những đàn kiến, thấy những con vật nó đang làm việc hay hoặc là nó đang tai nạn, nó đang gặp khổ, thì lúc bấy giờ chúng ta thực hiện những cái tâm trau dồi lòng Từ, thì lúc bấy giờ chúng ta đã thư giãn các pháp mà chúng ta đang tập luyện.

Do đó khi mà chúng ta đã trau dồi lòng Từ thì lúc bấy giờ nó có những cái điều kiện mà chúng ta đã giúp được những con vật thoát ra những cảnh khổ đau, làm cho chúng ta có cái tâm rất là vui mừng, vì vậy mà khi ngồi lại thì nó rất là tỉnh táo, cho nên chúng ta thấy nó sung sướng, do đó mà chúng ta tu tập thì cái chất lượng tu tập về thiền định cũng như các cái định khác thì nó lại làm cho chúng ta có một cái kết quả rất lớn hơn.

Còn chúng ta cứ miệt mài - bây giờ cứ biết đi kinh hành rồi tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, rồi ngồi lại tu Vô Lậu, rồi giữ tâm thanh thản, rồi giữ hơi thở, tu cái này cái kia mãi thì cái lòng Từ chúng ta không có, cho nên chúng ta hoàn toàn là bị động, hoàn toàn là chúng ta làm việc quá 24 giờ trên 24 giờ thì như vậy cái chất lượng tu nó không có kết quả.

Còn trái lại chúng ta, có lúc thì chúng ta trau dồi những cái quan sát của chúng ta nó làm cho cái tri kiến của chúng ta càng ngày càng phát triển rất lớn và rất rộng.

(23:22) Chúng ta thấy được cái sự sinh hoạt của chúng sanh, thấy được cái sự sinh hoạt của con người và suy ngẫm, tư duy thì chúng ta thấu suốt được cái cuộc sống nó giả tạo thật, nó không có cái gì là hạnh phúc của con người cả, của con vật cả.

Từ cái chỗ mà quan sát đó nó đem chúng ta có những cái thông suốt, cái trí tuệ chúng ta càng phát triển ra nữa. Cho nên chúng ta tu tập, biết mà sử dụng đúng cách thì đem lại lợi ích chúng ta rất lớn, tâm hồn chúng ta rất an lạc.

Còn nếu mà chúng ta cứ mải mê ngồi thiền, nhập định, làm chủ sanh tử, nhưng cái tâm Từ, trau dồi những cái tư duy thiện này, trau dồi những cái ý tốt này mà không thực hiện thì như chúng ta đã quên đi một cái điều rất là quan trọng trong cuộc sống tu hành của mình.

Đó thì, hôm nay Thầy nhắc nhở qua cái điều kiện mà trau dồi cái ý ở trong cái Tứ Vô Lượng Tâm này, thì quý vị phải thường xuyên bỏ một cái thời gian trong một ngày, một đêm, ít ra thì cũng phải có năm hoặc là mười phút, hoặc là nửa phút, hoặc là nửa tiếng đồng hồ, hoặc là một tiếng đồng hồ, thì quý thầy sẽ trau dồi cái tâm Từ của mình, trau dồi cái ý Từ của mình trong cái sự quan sát tất cả chúng sanh, để rồi có những con vật nào, có những tai nạn, có những cái hành động, rồi quan sát tất cả những cái xung quanh chúng ta: âm thanh, tiếng kêu la hoặc là tiếng kêu cầu cứu của loài vật, thì chúng ta mau mau hành động để biến ra hành động thân - khẩu - ý của mình, để tạo cho nó có những sự an vui, hạnh phúc.

Đó là chúng ta trau dồi những cái điều kiện đó làm chúng ta thư giãn được khi chúng ta tu hành thiền định, giúp cho chúng ta nhiều sự tu tập có kết quả là do chúng ta biết tu tập.

Vì từ xưa đến giờ không có người vạch ra cái lối tu đúng theo cái cách thức của Đức Phật, cho nên chúng ta tu cái trước, cái sau nó không phù hợp.

Lẽ ra thì như cái giáo án này, thì quý thầy thấy: Bước đầu người cư sĩ đến với đạo Phật thì ngay đây là cái pháp đầu tiên mà Thầy đã dạy cho các cư sĩ và cũng như các thầy, là phải tu Tứ Vô Lượng Tâm, là trau dồi nó. Mà trau dồi nó thì bắt đầu nó mới có cái hiệu quả của cái sự tu hành sau này của quý thầy! Quý thầy thấy rất rõ.

Còn bây giờ quý thầy thấy, từ lâu tới giờ nói Tứ Vô Lượng Tâm thì quý thầy nghe như vậy, chớ quý thầy có biết làm sao mà trau dồi nó? Cho nên không biết trau dồi nó, vì vậy mà quý thầy lấy cái sau mà tu cái trước, lấy cái trước mà tu cái sau.

(25:50) Quý thầy nói không tham, không sân, không si bằng cách là vô lậu như thế này, thế khác, tu Định Vô Lậu nhưng đâu bằng tu lòng Từ! Vì có thương yêu thì tham, sân, si làm sao có?

Các thầy thấy phải đó là cái mấu chốt ban đầu để chúng ta đi vào trong cái tâm không còn tham, sân, si, phiền não nữa?

Vì vậy, chúng ta phải tu tập nó có từng bước của nó, nó thực hiện. Mà nếu mà trau dồi lòng Từ, trau dồi những hành động thân, khẩu của mình, mà lòng Từ nó có phải là tập trung tâm của chúng ta, đè nén tâm chúng ta đâu? Bằng chứng là chúng ta tu tập đúng cách là chúng ta xả tâm chớ không phải là nén tâm.

Còn bây giờ quý thầy không hiểu, cứ ngồi dùng hơi thở hoặc một cái pháp môn nào đó nén tâm mình mãi thì lòng Từ làm sao có được? Và cứ nghĩ rằng mình sẽ tu tập như vậy để làm chủ sanh tử, để chấm dứt luân hồi. Mà cái luân hồi là cái tâm tham, sân, si của chúng ta; tâm tham, sân, si mà không có lòng Từ thì làm sao dứt bỏ được?

Đó thì, hôm nay mới thấy rõ được cái lối đi đúng đắn. Người cư sĩ mà thực hiện được lòng Từ, trau dồi được lòng Từ thì đời sống của họ hạnh phúc biết bao nhiêu!

Họ chưa đòi hỏi ở sự giải thoát gì cao hơn của đạo Phật, chỉ ở Tứ Vô Lượng Tâm cũng đủ cho họ đã đem lại hạnh phúc của đời sống của họ rồi, và xã hội có một trật tự rất là an ổn, không còn cái rối trật tự nữa.

Cho nên nếu mà theo đúng đạo Phật như Thầy đã giảng cho quý thầy thấy, cái giai đoạn của người cư sĩ từ cái hành động - tất cả hành động đối xử với nhau Đức Phật dạy rất rõ. Do cái sự rất rõ này mà chúng ta biết rằng ông Phật đã dạy chúng ta để sống một cuộc sống đem lại hạnh phúc an lành cho nhau.

Người cư sĩ phải thực hiện được những điều đó, hiểu được những điều đó, sống được những điều đó và tiếp tục trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm thì đời sống còn gì là địa ngục? Toàn cả là thiên đàng!

Cho nên Từ Bi - bắt đầu mà tu một năm cho đến hai năm mà trau dồi cái Tứ Vô Lượng Tâm này qua những hành động thân, khẩu, ý của quý vị, chắc chắn là quý vị sẽ có một hạnh phúc rất lớn, một sự giải thoát chân thật ở tâm hồn của quý vị và cả gia đình của quý vị.

Từ lâu tới giờ chúng ta đã theo đạo Phật bao nhiêu năm? Năm năm, mười năm, hai mươi năm rồi, mà nhìn lại sự giải thoát, sự an bài cho gia đình của mình có được hay không? Hay còn đang ở trong địa ngục?

(28:16) Điều này chứng minh chúng ta biết rằng, đạo Phật đến thì có sự giải thoát thật sự, mà đến mà không có sự giải thoát thật sự thì chính đó không phải của đạo Phật.

Vì vậy hôm nay, về trau dồi ý thì quý thầy phải siêng năng, phải quan sát mọi vật. Khi đứng trước một cái cây, chúng ta nhìn sự sống của nó như thế nào? Những làn gió thổi, những hạt sương rơi trên cây chúng ta nhìn thấy sự thấm nhuần của sự sống nó như thế nào để chúng ta tỏa lòng Từ thương yêu chúng từng chút.

Nếu chúng ta không chịu khó quan sát, không chịu khó ý tứ như vậy thì khó mà chúng ta thông cảm được lòng thương yêu chúng ta đối với chúng. Muốn thực hiện được điều này thì phải cần có thời gian để quan sát, để thấm nhuần từng cái sự sống của muôn loài.

Có bao giờ quý thầy ngồi nhìn một cây cỏ? Từ một cái chiếc lá non trong lòng ngọn cỏ, rồi tuần tự trong những đêm trăng, tuần tự chúng ta thấy lần lần cái chiếc lá đó bung lên, dài ra lần lần. Chúng ta thấy sự sống dường như là sự sống của chúng ta. Quý thầy có suy nghiệm được điều đó không?

Trong những năm ở trên Hòn Sơn, một thân một mình độc cư Thầy lấy cỏ cây mà làm bạn. Vì vậy mà Thầy ngồi Thầy quan sát, từ đó Thầy mới hiểu trau dồi lòng Từ, ý Từ của mình phải trau dồi nơi đây!

Vì vậy mà hôm nay, Thầy mới ghi lại những điều kinh nghiệm qua bản thân của mình để cho quý thầy lấy đó mà thực hiện. Trong kinh sách không ghi điều này nhưng vì kinh nghiệm đã dạy Thầy có lòng Từ thương từ loài cây cỏ.

Loài cây cỏ còn thương thì làm sao loài vật không thương? Mà loài vật còn thương thì làm sao mà loài người không thương?

Tất cả các thầy kẻ thì vầy, người thì khác, kẻ ý này, người ý khác, nhưng mọi ý đều là sự thương yêu của Thầy. Thầy không bỏ người nào hết. Thầy không ghét dơ người nào hết, người nào làm gì thì Thầy cũng thương. Thầy không bỏ người nào, dù người đó có nói Thầy cách gì Thầy cũng thương yêu, bởi vì Thầy hiểu họ chưa hiểu mà thôi.

Cho nên lòng Từ nó đem lại cho tâm hồn Thầy một tâm hồn thanh thản, giải thoát; không có người thù hận mình mà chỉ có biết những người chưa hiểu và những người còn lầm lạc mà thôi, chớ không biết người đó là người thù của mình.

(30:48) Bây giờ Thầy sẽ dạy đến cái lòng Bi, lòng Từ đã hết rồi.

Vậy thì quý thầy nhớ kỹ những gì mà Thầy nói nãy giờ để trau dồi cái ý, cái ý trau dồi rất quan trọng. Nếu mà cái ý trau dồi được thì cái hành động khẩu và thân của quý vị không khó nữa, không có khó khăn.

Đó thì quý vị nhớ ngồi quan sát mọi vật đó là trau dồi ý của chúng ta, từ đó chúng ta mới tỏa ra một cái sự thương yêu chân thật trong sự tư duy của nó.

Như vậy là quý Thầy đã biết trau dồi được cái ý qua lòng Từ. Bây giờ thì Thầy dạy tới lòng Bi. Nội có một cái hành động Từ mà nãy giờ đã chiếm chúng ta nhiều cái thời gian, quá nhiều.

Mà bốn cái Từ - Bi - Hỷ - Xả này thì Thầy thấy chắc còn một phần nữa chớ không thể nào mà ngày hôm nay mà chúng ta sẽ chấm dứt được trau dồi bốn cái Vô Lượng Tâm này được, mà chỉ đi từng phần để nhắc nhở kỹ.

Vì đây là lời nói sau cùng của Thầy, Thầy không còn thuyết giảng nữa, do đó Thầy nhắc đi nhắc lại nhiều để cho quý thầy nhớ mà thực tập, đừng quên. Vì đó là con đường giải thoát chân thật của Đức Phật đã dạy: Tứ Vô Lượng Tâm.

3- TRAU DỒI TÂM BI

3.1- BI VÔ LƯỢNG LÀ TÌNH THƯƠNG RỘNG LỚN TRƯỚC SỰ ĐAU KHỔ

(32:00) Trưởng lão: Bi Vô Lượng là lòng thương rộng lớn vô bờ bến trước những nỗi đau khổ của chúng sanh.

Người có lòng Bi thương rộng lớn không thể làm ngơ trước nỗi đau khổ của chúng sanh và luôn luôn quyết tâm để làm gì dứt trừ những nỗi khổ đau ấy.

Nghĩa là cái lòng Bi như hồi nãy Thầy đã giải thích cho quý thầy thấy: Lòng Từ thì đối với những con vật đang mạnh giỏi, không có tai nạn, mà lòng Bi là nó có những sự đau khổ, có những sự tai nạn, cho nên chúng ta phải làm sao dứt trừ được những cái sự đau khổ đó. Thấy một người bệnh tức là lòng Bi chúng ta đó chớ không phải lòng Từ.

Đó thì quý thầy đã hiểu, như vậy chúng ta mới biết được cái chỗ Từ Bi chúng ta như thế nào. Mà hiểu được thì lúc bấy giờ chúng ta phải làm sao? Không thể làm ngơ!

Cũng như bây giờ, Thầy nghe một con chim lớn nó bắt một con chim nhỏ, mà con chim nhỏ kêu hét lên để cầu cứu, thì trước cái đau khổ, trước cái sự sống chết của con chim trong chớp mắt mà làm ngơ không chạy (đến) thì không phải là người trau dồi lòng Bi.

Cho nên, người trau dồi lòng Bi thì mau mau để mà thực hiện cái tâm Bi của mình trước cái sự đau khổ đó, trước cái sự chết đó của con vật.

Người có lòng Bi thương rộng lớn không thể làm ngơ…​

Đó lấy cái sự làm ngơ đó. Còn bây giờ cái lòng Từ của chúng ta đối với chúng sanh mà nó không bệnh đau thì mình có làm ngơ gì đâu, nhưng mà nó có đau đớn đâu?

Cho nên chúng ta phải thực hiện cho đúng cái lòng Bi của chúng ta là không được làm ngơ, không được chậm trễ. Vì có sự chậm trễ trong đó thì chúng sanh có sự đau khổ dài hơn.

Người có lòng Bi rộng lớn không thể làm ngơ trước những nỗi đau khổ của chúng sanh và luôn luôn có tâm quyết để làm những gì dứt trừ những sự đau khổ đó.

Nghĩa là ngay liền mình tìm mọi cách làm sao cho cái con vật mà đang bị đau khổ đó đừng đau khổ nữa, thì đó là gọi là trau dồi lòng Bi.

Tuy rằng, biết nỗi đau khổ của thế nhân và tất cả chúng sanh đều do nhân quả ác - thiện mà sanh khởi…​

Đó thì chúng ta biết rõ ràng mà, tất cả những cái sự đau khổ của chúng sanh mà giết lẫn nhau thì đó là do cái nhân quả, chớ đâu phải gì khác hơn?

…​ nhưng trước cảnh rên la thảm khốc đầy đen tối của kiếp người, của kiếp chúng sanh, người có lòng Bi không thể làm ngơ được.

(34:29) Biết là nhân quả, nhưng chúng ta nghe tiếng kêu la là chúng ta không thể làm ngơ được khi chúng ta là người quyết tâm tu tập, trau dồi lòng Bi.

Luôn phải dùng lời an ủi, khuyên bảo, dùng tay xoa dịu những vết thương đau, nhẹ nhàng để làm những vết thương đó giảm bớt cơn đau của chúng sanh, của người khác.

Nghĩa là trước cái cảnh mà bây giờ có một con vật nó bắt một con vật nó cắn đi, rồi chúng ta đuổi đi, con vật bây giờ đứng dậy không nổi, bởi cái vết thương con vật khác đã làm cho con vật đó sắp sửa chết đi, bị gãy chân, bị què tay, hay hoặc bị thương tật ở trên mình, thì lúc bây giờ chúng ta mới nâng con vật rất nhẹ nhàng, để con vật ngay ngắn lại, rồi chúng ta vuốt ve nhẹ nhàng, rồi chúng ta tìm cách xoa dịu những cái vết thương đau của chúng như chính chúng ta bị đau, rồi chúng ta xoa cái tay nhẹ trên vết thương của chúng ta vậy.

Đó là chúng ta thực hiện lòng Bi của chúng ta.

Chúng ta đừng có lấy cái thì giờ mà chúng ta sợ mất đi trong cuộc sống của chúng ta, mà hãy lấy lòng thương yêu của chúng ta, bỏ tất cả xuống hết, chỉ có lòng thương yêu của chúng ta là duy nhất ở trong cuộc đời này.

Vật chất quý thầy có cố gắng làm, tiêu phí nó cũng chẳng ra gì. Vật chất, của cải, vàng bạc, châu báu nó cũng chẳng bằng khi mà chúng ta bỏ cái thời gian để xoa dịu cái vết thương đau của loài vật thì cái điều đó nó quý biết bao nhiêu! Nó quý hơn là vàng bạc, nó quý hơn là châu báu, nó quý hơn là ngai vàng của nhà vua.

Lòng thương yêu đó, sự xoa dịu đó nó làm cho tâm hồn của quý vị hân hoan, vui sướng khi chúng ta làm được những điều này. Vàng bạc, của báu không thể đem đến sự hân hoan này được, mà vàng bạc của báu lại còn làm cho quý vị đau khổ hơn nhiều. Còn sự xoa dịu vết thương đau trong lòng Từ Bi của mình với chúng sanh thì đem lại cho chúng ta nguồn vui lâu dài.

3.2- LÀM CHO CHÚNG SANH HIỂU ĐƯỢC NẺO THIỆN ĐỂ TỰ CỨU MÌNH

(36:42) Trưởng lão: Phải luôn luôn khiến cho chúng sanh nhận nẻo thiện.

Nghĩa là mọi người, mọi vật, mình làm sao cho chúng đi vào cái nẻo thiện.

Bởi vì mình biết rõ được nhân ác thì phải thọ lấy cái quả khổ, mà nhân thiện thì sẽ được hạnh phúc.

Do muốn được hạnh phúc đó cho nên chúng ta phải tìm mọi cách làm sao cho chúng sanh hiểu được cái nẻo thiện để xa lìa cái nẻo ác, để tránh xa cái ác, để cho tự họ, họ đã cứu lấy họ mà họ không còn đau khổ nữa.

Chớ nếu mà cứ để họ làm điều ác, họ gặp khổ thì chúng ta lại thương yêu họ, giúp đỡ họ thì mãi mãi biết chừng nào chấm dứt cái nhân quả thiện ác này? Cho nên, thương yêu thì thương yêu, khi họ chưa hiểu nhân quả chúng ta giúp đỡ, mà khi họ đã hiểu nhân quả thì họ đã cứu họ rồi.

Vì vậy chúng ta muốn cho họ được yên vui, được hạnh phúc, không còn trên những tai nạn, đau khổ nữa thì chúng ta phải hướng dẫn họ bằng con đường thiện, bằng nẻo thiện, do những hành động thiện sẽ đưa đến họ những hạnh phúc an vui, không tai nạn, không khổ đau.

Vì vậy điều cần thiết là chúng ta từ trong cái nhân tốt để cho họ được thoát ra cái quả khổ, hành động ác, lời nói ác hoặc làm việc ác, và luôn luôn giúp mọi người làm việc lành.

Nghĩa là điều lành nào chúng ta cũng giúp cho họ, mà điều ác thì chúng ta ngăn cản họ, không cho họ làm, và đó là chúng ta Bi đối với chúng sanh. Tức là lòng Bi của chúng ta phủ trùm với chúng sanh.

Thấy hai con vật đang tranh nhau, đang đánh nhau thì chúng ta can ra và đồng thời chúng ta làm cho chúng dịu bớt cơn giận, từ đó chúng không còn cắn nhau nữa.

Các thầy cứ tự nghĩ, có những lúc Thầy ngồi nhìn hai con kiến cắn lộn, rồi Thầy lấy một cái cây Thầy can hai con kiến ra, rồi nó cũng sáp lại nó cắn nữa…​

(38:41) Thầy tiếp tục cái bài giảng Tứ Vô Lượng Tâm.

Khi mà Thầy nhìn thấy hai con kiến cắn nhau rồi Thầy can nó ra, nhưng rồi nó lại sáp lại cắn nữa. Do đó Thầy phải dùng cái cây Thầy khều hai con kiến dang rất xa ra. Rồi lần lượt nó từ từ nó không còn giận nữa, không còn sân nữa, rồi nó bỏ đi không cắn nhau nữa.

Vì vậy mà Thầy biết rằng tâm sân của loài vật cũng rất là dữ tợn chớ không phải ít, nếu mà cái lòng sân của nó đối với con người chắc chắn là cũng không thua. Cho nên qua cái nhìn hành động của chúng Thầy biết là có thể chúng giết nhau bằng cái lòng sân của chúng.

Vì vậy mà chúng ta là những người trau dồi cái tâm Bi để thương chúng sanh thì làm sao cho giảm bớt cái sân hận ở trong lòng của chúng sanh thì đem lại cái hạnh phúc cho chúng sanh.

Tức là muốn thực hiện cái tâm Từ thì phải ngăn ngừa những cái điều có thể xảy đến cho chúng sanh đau khổ, còn tâm Bi thì chúng ta thực hiện ngay trên sự đau khổ mà an ủi, xoa dịu cái vết thương của chúng sanh.

3.3- NHẮC TÂM THƯƠNG MỌI CHÚNG SANH ĐANG ĐAU KHỔ

(39:59) Trưởng lão: Muốn trau dồi được như vậy thì lúc nào chúng ta cũng thường nhắc nhở tâm ta:

“Hãy thương người đang sân!”

Nghĩa là hằng ngày mình muốn cho tâm mình đừng có sân giận người thì mình thường dùng cái pháp hướng, như cái lý mình tác cái ý ra:

Hãy thương người đang sân!”

Đó là cái câu mà chúng ta thường nhắc ở trong tâm của chúng ta, khi lúc nào rảnh rỗi là chúng ta thường nhắc cái câu đó, chớ không phải nhắc nội cái tâm mình: “Tâm đừng sân, đừng có hận!” thì nó chưa đủ, mà ở đây mình trau dồi cái tâm mình thương người cho nên mình hãy nhắc:

Hãy thương người đang sân!”

Họ đang sân với mình đó, chớ không phải sân với người khác đâu, nhưng mà mình hãy thương người đang sân.

Do cái câu hướng tâm như vậy, trạch cái pháp hướng tâm như vậy thì chúng ta có một cái câu để nhắc nhở tâm mình thường xuyên, vì vậy mà nó thấm nhuần. Từ đó nhìn cái người mà đang sân với chúng ta, chúng ta vẫn thương họ được.

“Hãy thương người đang bệnh khổ!”

Nghĩa là chúng ta bây giờ tuy rằng thấy người ta khổ chúng ta thương, nhưng mà thương chưa bằng thương cái sự đau khổ của chính mình đâu. Cho nên chúng ta thường hay nhắc nhở:

Hãy thương người đang bệnh khổ!”

Đó là một cái trạch pháp để chúng ta thường nhắc nhở tâm mình.

Kế đó, chúng ta lại dùng một cái trạch pháp khác, thì chúng ta lại nhắc nhở tâm mình:

Hãy thương người đang buồn khổ!”

Để làm gì? Để chúng ta tìm mọi cách mà an ủi những người đó, để chúng ta gợi lên những cái lòng thương yêu của chúng ta đối với những người đang buồn khổ đó.

Kế đó thì chúng ta lại dùng một cái trạch pháp khác để chúng ta nhắc cái tâm của mình nữa:

“Hãy thương người có tai nạn!”

Nghĩa là gặp ai có tai nạn thì chúng ta hãy thương, tức là chúng ta trau dồi tâm Bi của chúng ta đó. Đó là một cái câu để mà chúng ta hướng tâm như cái lý mà chúng ta tác ý ra để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, cái tâm Bi của chúng ta đối với chúng sanh, đối với con người.

(42:09) “Hãy thương người tham lam trộm cắp”.

Đó, thường thường người ta thấy kẻ tham lam trộm cắp là thấy ghét rồi. Bây giờ chúng ta phải thấy thương cái người tham lam trộm cắp. Vì chúng ta biết được cái nhân của cái người tham lam trộm cắp là họ sẽ nghèo khổ, họ sẽ đói rách, cho nên chúng ta hãy thương người tham lam trộm cắp, và chúng ta tìm mọi cách để chỉ cho họ thấy rằng cái sự tham lam, trộm cắp đó là cái nhân đưa đến cái quả nghèo khổ, đói rách, đừng tham lam trộm cắp nữa!

Vì mình thương người cho nên mình thấy cái người tham lam trộm cắp đó họ đến họ ăn cắp của mình, mình không có giận hờn, mình không có ghét họ, vì vậy mà mình tìm mọi cách để cho mình giúp họ. Do đó mình mới trau cái lòng Bi của mình, lòng Từ của mình mới được!

Còn nếu mình không nhắc nhở mình như vậy thì mình thấy người ta ăn cắp của mình là mình tức tối: “Đem mà bắt nó mà đem cho cảnh sát mà bỏ tù nó cho rồi!” thì đó là cái lòng ác chớ không phải lòng Bi, không phải là lòng Từ.

Vì vậy mà chúng ta thường nhắc nhở để trau dồi cái tâm chúng ta, trước những cái con người trộm cắp tham lam mà chúng ta biết thương, vì vậy mà chúng ta sẵn sàng không đánh đập khi chúng lấy đồ chúng ta.

“Hãy thương người đang si mê!”

Nghĩa là cái người đang si mê đó là họ đang nghiện thuốc phiện nè, uống rượu nè, hút thuốc nè, họ say mê bài bạc, rồi say mê tất cả những sự phóng dật, thì chúng ta cũng phải nhắc.

Chớ thấy cái thằng cha uống rượu thấy ghét, nó vô cứ chửi mình hoài, thì cái điều đó các con nghĩ: Mình không có tu tập, không có trau dồi cái tâm Từ của mình!

Thường thường có những người uống rượu họ đi ngang chùa mình cái họ vô, họ vô họ la lối, họ nói này kia, họ nói họ tu, họ tụng niệm, rồi họ chọc ghẹo, họ nói thầy chùa này, thầy chùa khác, trong lúc đó, mình biết là cái người đó đang si mê.

Cho nên chúng ta thường nhắc tâm:

Hãy thương người đang si mê!”

Đó, thì như vậy là chúng ta thấy cái người uống rượu mà đang say sưa, họ mê muội như vậy, thì mình đâu có trách họ, mình đâu có giận hờn họ, mình đâu có tức giận họ?

Đó, thì như vậy là cái tâm chúng ta biết thương người và cũng từ cái chỗ biết thương người đó, chúng ta được giải thoát, chúng ta không có thấy khổ đau, chúng ta không có phiền muộn ở trong lòng.

Sự tu tập như vậy, trau dồi tâm chúng ta như vậy nó đem lại lợi ích cho chúng ta và cũng không làm khổ người khác, mà mang đến cho chúng ta một cái niềm, một cái sự - mang đến cho người khác một cái niềm an ủi họ, xoa dịu những cái sự đau khổ của họ.

Câu kế nữa:

Hãy thương người đang tị hiềm!”

Trong chúng mình có thấy có người nào mà tị hiềm với nhau: Thấy người này tu hơn, mình thua, rồi sanh ra cái lòng tị hiềm ganh ghét, đó thì, khi mà chúng ta biết cái người đó như vậy thì chúng ta hãy thương người đó chớ chúng ta không nên ghét.

Có nhiều khi mà thấy người ta tị hiềm, người ta kiếm chuyện nói này, nói kia, nói nặng, nói xấu mình thì mình đâm ra mình ghét người đó, thì do đó mình chưa phải là lòng Từ, lòng Bi, mình chưa phải là biết thương yêu người khác.

Cho nên chúng ta hãy thương người đang tị hiềm. Họ đang ghét mình đó, họ đang tị hiềm người này, người kia đó, họ thấy người khác hơn, hay hoặc là thấy cái người đó giàu hơn thì họ sanh tâm nó ganh ghét, do đó thì chúng ta cũng thường nhắc tâm để chúng ta biết thương cái người mà đang có cái lòng tị hiềm đó.

(45:31) Câu kế - để chúng ta trạch pháp câu kế nữa để chúng ta hướng tâm, như cái lý tác ý để diệt cái mạn của chúng ta, tức là ngã mạn:

Hãy thương người đang ngã mạn, cống cao!”

Nghĩa là cái người mà hiu hiu tự đắc, cho mình là hiểu biết, cho mình là chứng đạo, cho mình thế này, thế khác đó, thì cái người đó chúng ta cũng phải thương họ, không nên thấy họ nói những cái điều đó mà mình đâm ra mình ghét hay hoặc là mình nói như thế này, thế khác đối với cái người đó, mà mình phải thương yêu người đó.

Vì người đó họ đang si mê, họ đang cầu cái ngã của họ, cái danh của họ, cho nên họ mới ngã mạn, cống cao như vậy. Chúng ta nên thương họ chớ không nên ghét họ.

Mà khi mà thương họ như vậy thì chúng ta có tranh luận với họ không? Chắc chắn là chúng ta không tranh luận. Và không tranh luận thì nó sẽ đem đến như thế nào? Nó sẽ đem đến cho chúng ta có sự an ổn và cũng chính người cống cao, ngã mạn đó cũng được an ổn.

“Hãy thương người tàn tật!”

Nghĩa là mình thấy cái người mà tật nguyền, đui mù, hoặc là cụt tay, cụt chân thì mình hãy thương xót cái người đó. Mình thấy họ có điều kiện gì mình có thể giúp đỡ an ủi họ.

Trong khi mình đủ lành lặn tay, chân, mắt, tai, mũi, miệng sáu căn đầy đủ, còn họ lại thiếu khuyết, cho nên họ bất hạnh hơn mình nhiều, vì vậy mà thấy người tàn tật thì mình nên thương yêu.

Mặc dù mình nghèo, nhưng mà mình đến mình giúp họ một cái bánh, một đồng bạc hay hoặc là một cái vật dụng gì cần thiết cho đời sống họ: Một cục xà bông, một cái bàn chải đánh răng, một cây kem…​ cũng nói lên cái sự an ủi cái sự tật nguyền của họ, cái sự mất mát của họ trong thân của họ.

Đó là chúng ta thường nhắc tâm để chúng ta biến ra cái hành động của chúng ta, để nói lên cái lòng thương, lòng Từ, lòng Bi của chúng ta.

Sự trau dồi thường nhắc tâm chúng ta mới có thực hiện được. Nếu mà chúng ta không nhắc tâm thì tâm nó sẽ quên đi. Nó quên đi là tại vì nó chạy theo những công việc khác. Nó quên đi là tại vì nó đang lo lắng cho cá nhân của nó, cho nên nó không nghĩ những người xung quanh nó đang bao nhiêu là sự bất hạnh, bao nhiêu là sự đau khổ.

“Hãy thương người già yếu!”

Vì chính chúng ta ngày nào đó cũng già yếu lọm cọm, rồi đi đứng run rẩy, cho nên chúng ta thấy những người già yếu là chúng ta phải kính nhường, kính cho họ lối đi, kính cho họ chỗ ngồi…​, tất cả mọi cái đó để chứng tỏ cái lòng Bi của chúng ta, cái lòng Từ của chúng ta đối với những người đang khổ sở trong cái tuổi già còm, trong cái sức yếu mòn.

Cho nên đó là những điều mà chúng ta phải thực hiện và chúng ta thường nhắc nhở.

(48:33) Và cuối cùng thì chúng ta hãy đặt một cái câu cuối cùng là:

Hãy thương tất cả chúng sanh, vì chúng sanh hoàn toàn là đau khổ!”

Đó là chúng ta nói chung tất cả chúng sanh, mọi vật chớ không riêng gì một người nào. Nghĩa là hiện giờ họ đang mạnh khỏe an vui, nhưng lúc nữa họ sẽ đau khổ, vì vậy mà chúng ta hãy đặt một cái tình thương rộng lớn như là Từ Vô Lượng, rồi Bi Vô Lượng, do cái sự vô lượng này là thương hết tất cả các loài chúng sanh cùng cây cỏ thảo mộc, từ đó tâm chúng ta luôn luôn lúc nào cũng thấy an vui trong vạn hữu.

Vì tất cả những (cái) đó tràn đầy cả tình thương, cho nên nó mới có chan hòa nhau, không có một cái sự phân biệt như thế này, như thế khác, do đó mà chúng ta sống thảnh thơi, an lạc trước vạn hữu.

Đó là chúng ta thực hiện tâm Bi Vô Lượng của chúng ta. Đó là những cái câu pháp hướng để mà chúng ta hằng trau dồi tâm Bi của chúng ta đối với vạn hữu, đối với tất cả chúng sanh.

4- TRAU DỒI TÂM HỶ

4.1- NIỀM VUI VÔ LƯỢNG VÀ NIỀM VUI NGẮN NGỦI

(49:41) Trưởng lão: Bây giờ, chúng ta sẽ tiếp tục học tới tâm Hỷ Vô Lượng.

Bởi vì cái sự việc nó vô lượng cho nên nó không có thể nào mà tính toán được, nó không thể nào mà so lường được, lúc nào nó cũng tràn đầy, phủ trùm khắp cả không gian và thời gian, cho nên từ Từ Vô Lượng, rồi Bi Vô Lượng rồi bây giờ tới Hỷ Vô Lượng.

Bởi vì có Từ, Bi thì nó mới có Hỷ, biết thương người thì nó mới có vui, mà không biết thương người thì cái vui của chúng ta chỉ là vui ích kỷ, cho nên cái vui đó mà Thầy đã dạy là cái vui ngắn ngủi.

Còn cái tâm Hỷ của chúng ta đối với người thù, kẻ oán, đối với tất cả mọi cái đều là vui vẻ thì cái tâm đó gọi là tâm Hỷ Vô Lượng.

Vậy Hỷ là gì?

Hỷ là vui mừng, nói cho đầy đủ nghĩa là tùy hỷ, nghĩa là vui theo. Vui theo có nhiều cách.

Vui theo với với ngũ dục lạc…​

Nghĩa là mình cũng có cái vui theo, mà vui theo cái đúng mà cũng có vui theo cái sai.

4.2- VUI THEO DỤC VÀ ÁC PHÁP LÀ CÁI VUI NGẮN NGỦI, MÊ MUỘI

(50:41) Trưởng lão: Vui theo ngũ dục lạc là vui theo cái vui ngắn ngủi, cái vui mê muội.

Người phàm phu, ngu si, mê muội phóng tâm vui theo những vật chất thế gian, trần cảnh, gồm có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Nó đang có một sức cám dỗ, lôi cuốn con người đi đến chỗ đau khổ bất tận.

Đó thì, đối diện với cái sự mà vui theo với sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp thì nó sẽ lôi cuốn chúng ta đi vào cái chỗ đau khổ bất tận chớ không có vui. Vì cái vui đó là cái vui ảo giác, cái vui không thật, cái vui thấy thì vui nhưng nó không thật vui.

Cho nên người ta ví cái vui đó như là ở xa chúng ta nhìn nó là như cái hạt kim cương, nhưng đến gần đó là cái hạt nước mắt của chúng ta. Như vậy thì chúng ta biết đời chúng ta tại vì vui theo với những cái điều đó mà nước mắt chúng ta như nước biển đó.

Đó gọi là Hỷ Vô Lượng Dục Lạc.

Nghĩa là nó cũng vô lượng đó.

Bởi vì người ta nói cái tâm người là cái túi không đáy, mà cái túi không đáy tức là chạy theo cái dục lạc của thế gian. Cho nên cái sự ham muốn dục lạc đó, để hưởng thụ những cái dục lạc đó, cho nên không bao giờ mà hết cái sự ham muốn đó.

Ví dụ như chúng ta chạy theo cái dục lạc thế gian, vừa cất được cái nhà ngói thì thấy người ta xây cái nhà tường, thì mình theo cái nhà tường, từ đó thấy người ta có cái nhà lầu, cái vila thì mình theo cất nữa.

Cũng như bây giờ mình có cái xe đạp thì mình lại thấy người ta có xe gắn máy, từ cái xe gắn máy đó thì mình thấy người ta có xe dream, từ cái xe dream đó thấy người ta có xe hơi…​ Mình cứ theo hoài, theo hoài, cho đến khi không biết chừng nào mà cho cùng tận cái chạy theo cái dục lạc đó.

Đó thì cho nên càng chạy theo thì càng khổ. Do vì vậy mà người ta nói: “Ở xa thì như hạt kim cương, đến gần là giọt nước mắt.”

Vì vậy, đó là Hỷ Vô Lượng dục lạc thế gian.

Cho nên chúng ta nghe nói Tứ Vô Lượng Tâm - bốn cái tâm vô lượng đó nó sẽ giải thoát, nhưng ở đây nó cũng có bốn cái tâm vô lượng mà đem đến chúng ta cũng vô lượng khổ đau chớ không phải giải thoát.

Đó là Hỷ Tâm Vô Lượng dục lạc thế gian của những con người vô minh theo thói quen phàm tục. Hỷ này vui đó, khổ đó, như con thiêu thân thấy ánh sáng đèn tưởng là vui thật, nào ngờ là ảo giác. Do thế mà sanh, già, bệnh, chết nối tiếp nhau mãi mãi không bao giờ dứt khổ.

Hỷ Vô Lượng Tâm này là những vô lượng tâm vô minh, Hỷ này gọi là Hỷ ảo giác.

(53:59) Nó còn có cái tên là Hỷ ảo giác. Nghĩa là chúng ta chạy theo cái ăn ngon, thì bỏ vô miệng nhai nuốt rồi thì cái ngon nó mất rồi, cho nên gọi là ảo giác, cái Hỷ ảo giác.

Vui theo với ác nghiệp…​

Đó là cái Hỷ mà vô lượng với những cái ác nghiệp, bởi vì cái ác nghiệp nó cũng rất là nhiều, cho nên vui theo với ác nghiệp - hồi nãy đó, vui theo với dục lạc, bây giờ vui theo với ác nghiệp.

Vui theo với ác nghiệp là thấy người sát sanh, uống rượu, trộm cắp, tà dâm, bài bạc, vọng ngữ, hút xách v.v…​ đã không khuyên can mà lại còn xúi bảo, vui theo và bằng lòng theo con đường ác đó.

Đây là Hỷ Vô Lượng Tâm theo ác pháp.

Đó nó còn có cái tên là Hỷ Vô Lượng Tâm theo ác pháp.

Bởi vì ác pháp cũng vô lượng pháp chớ không phải là có một pháp, hai pháp không. Cho nên mỗi cái pháp ác đều đem đến cho chúng ta khổ. Mà con người vì vô minh chạy theo những, vui theo những cái ác pháp đó cho nên gọi là Hỷ Vô Lượng Tâm ác pháp.

Từ lâu tới giờ thì quý thầy chỉ nghe nói Từ, Bi, Hỷ, Xả Vô Lượng Tâm là đem lại cái nguồn tốt. Bây giờ nghe Thầy lật ngược trở lại thì thấy là Hỷ Vô Lượng Tâm theo ác pháp là khổ đau, theo dục là khổ đau.

Như vậy là chúng ta thấy cái tâm của chúng ta nó có hai nẻo rất rõ: Một nẻo tốt và một nẻo xấu; một nẻo xấu làm cho tâm vô lượng chúng ta trở thành xấu, một nẻo tốt làm cho tâm vô lượng chúng ta trở thành tốt.

Vậy nẻo tốt là nẻo nào?

(55:42) Nẻo tốt là nẻo của Đạo Phật, nẻo tốt là nẻo của thiện pháp, nẻo tốt là cái nẻo để được sự giải thoát, an lạc, vĩnh viễn hạnh phúc. Còn nẻo xấu là luôn luôn lúc nào cũng địa ngục, đau khổ, phiền toái, giận hờn, tham, sân, si, mê muội, đó là nẻo xấu.

Tóm lại, hai cái loại Hỷ trên là Hỷ dục, Hỷ ác tạo cảnh địa ngục trần gian trong hiện tại, chẳng đợi mai sau.

Nghĩa là hai cái Hỷ này nó tạo cho chúng ta cái địa ngục ở trong cái thế gian này chớ không phải đợi mà chúng ta chết rồi chúng ta đi xuống địa ngục, hay hoặc là đọa địa ngục, mà chính những cái loại Hỷ này nó đã đem đến cho chúng ta những cái địa ngục.

Vậy thì hôm nay, quý thầy đã học được cái bài này, quý thầy biết cái địa ngục đó là do cái Hỷ dục và Hỷ ác của chúng ta mà chúng ta đã tạo thành cái địa ngục trần gian.

Từ đây về sau, chúng ta đã hiểu nó, chúng ta đừng chạy theo nó nữa, đừng có vui theo nó nữa, mà hãy xa lánh nó đi, mà viễn ly nó đi, từ bỏ nó đi, thì chắc chắn là chúng ta sẽ không tạo địa ngục trần gian.

Đó là những loại Hỷ đau khổ của con người trong biển đời trầm luân này. Người vô minh mê muội không thể thoát ra khỏi vòng tay các loại Hỷ này.

Nghĩa là cái người mà không sáng suốt. Cho nên đạo Phật là đạo trí, vì có trí cho nên mới thoát ra khỏi, mà không trí thì thoát ra không khỏi những cái loại Hỷ này.

Nhìn chung quanh chúng ta hiện giờ, ai là người đã thoát ra khỏi, ai là người không vô minh?

Thật sự ra chúng ta hiện đang tu tập theo giáo pháp của Đức Phật: Giới - Định - Tuệ, nhưng thoát ra khỏi phải là một trí tuệ siêu việt, nếu không thì chúng ta vẫn nằm trong vòng tay của các loại Hỷ này.

Quý thầy xét thấy mình có phải ra khỏi chưa? Bứt khỏi cái vòng tay này chưa? Chắc chắn chúng ta cũng còn một ít. Nếu chúng ta đã quyết tâm nhưng vẫn bị vòng tay còn đang bao vây, chưa phải bứt ra hết được để rồi đời đời, kiếp kiếp thọ lấy tai ương.

Nghĩa là chúng ta nằm ở trong cái vòng tay của các cái loại Hỷ này thì đời đời, kiếp kiếp chúng ta luôn luôn lúc nào cũng bị tai ương, chớ không bao giờ mà chúng ta thoát khỏi tai ương này.

4.2- NHẮC TÂM TRÁNH XA CÁI VUI THEO DỤC VÀ ÁC PHÁP

(58:13) Trưởng lão: Muốn trau dồi tâm Hỷ Vô Lượng ta hãy nhắc tâm ta bằng pháp Như Lý Tác Ý:

Đó thì, bây giờ tới cái lúc mà trau dồi đây.

Hồi nãy là nói để chúng ta hiểu được những cái loại đó để rồi chúng ta phải trau dồi cái tâm của chúng ta đi vào những cái Hỷ Vô Lượng, làm cho chúng ta hạnh phúc đây.

Thì những cái trạch pháp, những cái câu mà mình lựa chọn ra để cho mình hướng tâm, mình nhắc đi, nhắc lại cho tâm của mình nó thấm nhuần, tức là trau dồi cái tâm của chúng ta.

Đây, cái câu để mà chúng ta trạch pháp ra đây:

“Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau, ta hãy tránh xa cái hỷ này!”

Đó là một cái câu mà để chúng ta nhắc nhở, để chúng ta biết cái dục lạc của thế gian: danh, lợi, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ, đó là những cái dục lạc. Hoặc là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, đó là những cái dục lạc, cái đối tượng để nó tạo thành những cái Hỷ dục lạc. Cho nên chúng ta phải tránh xa, phải lìa xa, phải bỏ ra, đừng có gần nó nữa.

Cho nên ở đây, cái câu hướng tâm để mà trau dồi tâm chúng ta, để hằng chút chúng ta luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác mà xa lìa nó.Vì nó cám dỗ chúng ta rất mạnh, vì nó thu hút chúng ta như đá nam châm, khó mà chúng ta bứt rời nó được, cho nên hằng phải nhớ:

“Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau, ta hãy tránh xa cái Hỷ này!”

Đó thì, nhắc tâm mình như vậy để cho nó nhớ, nó đừng có quên.

(59:59) Thỉnh thoảng ta lại tác ý như lý này, nhắc đi, nhắc lại nhiều lần cho tâm ta xa lìa, yểm ly ngũ dục lạc.

Ta nhắc một câu nữa để cho ta tránh xa nó:

“Hỷ của dục là ảo giác, không có thật. Nó là thuốc độc, là rắn độc giết hại con người, ta hãy tránh xa các loại Hỷ này!”

Đó là một câu nữa, xem nó như là thuốc độc, xem nó như rắn độc, nó rất hiểm nguy, nó có thể giết chúng ta lúc nào cũng có thể được hết!

Do nhắc cái tâm của chúng ta thường xuyên như vậy, cho nên trước cái ăn ngon, mặc đẹp; trước cái sự âu yếm tha thướt, thương yêu nồng nàn của thế gian, chúng ta luôn luôn sợ hãi.

Nó là cái Hỷ đó, cái Hỷ dục lạc đó, nó làm cho chúng ta khả ái, khả lạc, ham thích, đó là những điều mà đưa đến chúng ta đau khổ đó. Thấy đó mà bước vào đụng nó thì như là đụng gai, đụng chông chớ không phải là sung sướng gì đâu, không phải là hạnh phúc gì đâu!

Biết như vậy, thấu suốt như vậy đó là không vô minh, mà không biết như vậy, không thấu suốt như vậy tức là vô minh.

Câu này ta cũng thường nhắc đi nhắc lại để đoạn dứt lòng ưa thích dục lạc thế gian:

(01:01:26) Nhớ cái câu mà Thầy đã trạch pháp ra để cho quý thầy nhắc đi, nhắc lại, rồi tùy theo đặc tánh của quý vị mà quý vị sửa đi, sửa lại cho phù hợp với tâm tánh của mình.

“Hỷ vui theo các ác pháp là Hỷ Tâm Vô Lượng ác, là làm đau khổ chúng sanh, giết hại chúng sanh, không có lòng Từ Bi thương xót chúng sanh.

Ta hãy tránh xa Hỷ này, yểm ly Hỷ này, từ bỏ Hỷ này, xa lìa Hỷ này, vì Hỷ này làm đau khổ chúng sanh, làm sanh ra địa ngục của chúng ta, hãy dứt trừ sự vui theo các ác pháp!”

Đó là những cái câu trạch pháp để chúng ta ghi nhớ, để chúng ta thường trau dồi tâm mình, để nhắc nhở những cái hành động ác.

Như có mười điều ác mà chúng ta đã thấy ở trong Thập Thiện đã có dạy: Nếu mà đối ngược lại với Thập Thiện tức là Thập Ác. Do chúng ta đã học rồi, vì vậy mà chúng ta lấy đó mà thấy tâm mà theo những cái hành động đó tức là hành động thập ác.

Do vì cái sự mà hướng tâm nhắc nhở làm cho tâm thấm nhuần, vì vậy mà luôn luôn lúc nào nó cũng ở trong Thập Thiện mà không có nằm trong thập ác.

Là người tu sĩ Phật giáo, thấy ai làm ác ta phải lánh xa, còn đâu lại có sự vui theo?

Thấy các pháp ác, thấy sự chết chóc, đau khổ của chúng sanh, nếu không giải nguy, cứu nạn được ta cũng phải tránh xa để khỏi phải thấy cảnh tang thương, máu đổ, thịt rơi, đau lòng, nát dạ, làm sao còn đồng lõa với ai mà vui theo được!

Đó thì quý thầy thấy, một người tu sĩ Phật giáo không thể nào đứng trước một cái thớt thịt của cái người đồ tể bán thịt được, cũng không thể nào mà đứng trước một cái tô phở mà người ta bỏ những cái lát thịt ở trên đó được! Người tu sĩ Phật giáo người ta nhìn thấy những cái sự đau khổ, chết chóc của chúng sanh thì người ta không thể nào mà không thương tâm.

Vì hằng trau dồi tâm Từ, Bi thì không thể nào thấy sự đau khổ đó mà chúng ta đứng lại đó mà nhìn, nếu không cứu khổ phò nguy được thì chúng ta mau mau tránh chỗ đó mà không đứng đó để nhìn sự đau khổ.

(01:03:54) Cũng như thấy mình không can ngăn được hai người đánh nhau thì chúng ta hãy mau mau tránh xa, vì chúng ta không đủ khả năng giải quyết được điều này thì mau mau tránh đi, không thể nào mà đứng đó để nhìn thấy họ đánh nhau với sự vui theo, với sự hò hét, với sự cổ võ, thì như vậy là người tu sĩ Phật giáo không đúng cách.

Thấy người ta đánh nhau lỗ đầu, chảy máu, đau đớn mà chúng ta lại nhìn với một cách vui theo, với một cách sung sướng, với một cách cổ võ ở trong đó, thì không nên làm điều đó.

Vì thế mà chúng ta là những người tu sĩ Phật giáo nên cẩn thận, dè dặt trước mọi đám đông. Có những sự đau khổ, tan nát ruột gan của con người, của chúng sanh thì chúng ta mau mau tránh.

Thấy một con vật bị con vật khác giết hại nằm lăn lóc, một cái thân bẩn thỉu bằng cát, đất, bằng máu me, bằng những vết thương tan nát thì lòng chúng ta cũng không bao giờ đứng đó mà nhìn, trước cảnh đau đớn đó, chúng ta phải mau mau tránh xa để lòng chúng ta được an ổn.

4.3- VUI THEO VIỆC LÀNH, VIỆC THIỆN LÀ NIỀM VUI GIẢI THOÁT

(01:05:12) Trưởng lão: Nãy giờ, chúng ta đã học từ cái Hỷ Tâm Vô Lượng theo dục lạc và Hỷ Tâm Vô Lượng theo ác pháp, bây giờ chúng ta học:

Hỷ Tâm Vô Lượng giải thoát.

Đây là bây giờ tới cái tâm Hỷ giải thoát rồi đó. Hồi nãy là tâm đau khổ đó, còn bây giờ tới cái tâm Vô Lượng Tâm giải thoát.

Hỷ Tâm Vô Lượng giải thoát là vui theo với việc lành, việc từ thiện của người khác, đó là vui theo những việc làm nhân từ, phước thiện.

Thấy người đem của cải ra bố thí, lập nhà thương, ta liền tán thán, vui theo, tận tâm giúp đỡ họ trong mọi công việc với lòng hân hoan, sung sướng. Sự vui theo này là một bước tiến trên con đường thiện nghiệp. Nếu ta có tiền của, ta sẽ đóng góp vào làm việc công ích cho mọi người. Nếu ta không tiền của, ta hãy lấy công giúp đỡ người này để hoàn thành sự an ủi những nỗi bất hạnh con người trong xã hội.

Vì tâm Bi Vô Lượng, ta nhận thấy trong xã hội có nhiều người bất hạnh nên lúc nào lòng ta cũng muốn làm từ thiện để ban vui, cứu khổ cho mọi người, làm sao cho mọi người được an vui, no ấm; làm sao cho mọi người thoát khỏi bệnh tật, khổ đau.

Những hình ảnh đau khổ của con người và chúng sanh khiến cho người có tâm Bi Vô Lượng không thể ngồi yên bằng cách tư duy suông: Làm sao giảm bớt và xoa dịu vết thương đau của chúng sanh? Làm sao đoạn dứt những nỗi đau thương của chúng sanh?

Bệnh viện, thuốc thang chỉ xoa dịu vết thương đau của sắc thân của họ. An ủi, xóa đói giảm nghèo là xoa dịu vết thương đau tinh thần. Hành Bi tâm như thế này chưa đủ! Ta phải làm gì hơn để diệt tận gốc khổ đau của muôn loài?

Chỉ có Trung tâm An dưỡng Từ thiện ra đời để mọi người đến đó được nghỉ ngơi và học tập đạo đức nhân quả, thì ngõ hầu mới ban vui, cứu khổ, phò nguy tận gốc.

Những việc làm này khiến cho ta hoan hỷ vui theo vì lợi ích thiết thực cho loài người, chấm dứt nhân ác, tăng trưởng nhân lành. Vì thế, hạnh phúc mọi người tràn ngập cả thế gian này.

Còn gì sung sướng cho bằng khi mọi người biết rõ nhân quả, đường đi lối về của nó thì còn ai mà làm điều ác? Loài người không làm điều ác thì thế gian này là thiên đàng, là cõi Niết Bàn, làm sao còn có những người bất hạnh trong xã hội!

4.4- TÂM NGUYỆN CỦA THẦY VỀ TRUNG TÂM AN DƯỠNG VÀ LỚP HỌC ĐẠO ĐỨC

(01:08:53) Trưởng lão: Đó thì, hôm nay các con đã thấy rằng: Ý của Thầy từ lâu Thầy muốn xin phép để mà xây dựng một cái Trung tâm An dưỡng.

Để làm gì? Để mọi người người ta về đó người ta được nghỉ ngơi một tuần, một tháng, một năm, hai năm, ba năm và được sự hướng dẫn đường đi, nước bước của nhân quả và được dạy họ đạo đức nhân quả.

Để làm gì? Để diệt tận cái gốc khổ của con người. Từ cái hành động họ hiểu biết, từ đó họ không làm điều ác thì chính họ, họ đem lại nguồn vui hạnh phúc chân thật của họ.

Tâm nguyện của Thầy như vậy nhưng nhân duyên chúng sanh không đủ khó mà thực hiện được cái mộng này.

Ước ao của Thầy mong sao có ngày nào đó, chúng sanh dể hưởng được phước báu lợi nhất của Phật Pháp là học được nhân quả đạo đức để đem lại một nguồn vui chân thật chính bàn tay khối óc của họ đã làm ra cho họ. Không ai đem đến hạnh phúc an vui chính bằng họ.

Vì thế, đứng trên góc độ của đạo Phật điều này rất là rõ ràng. Nếu Trung tâm An dưỡng ra đời được thì biết bao nhiêu người trong xã hội này đem lại hạnh phúc cho nhau.

Thầy còn nhiều cái sự ước ao trong lòng mình khi đã thấy được đạo Phật. Ước ao chi tất cả các trường học trong đất nước này được học thêm những môn học giáo dục nhân quả đạo đức cho học sinh thì hạnh phúc thay cho đất nước đó, dân tộc đó!

Được nhìn thấy những mầm non của Tổ quốc được trau dồi đạo đức nhân quả thì còn lòng nào vui sướng cho bằng!

Nghĩa là, khi mà nhìn thấy các em học sinh được học đạo đức nhân quả, từ đó những hành động ác không còn nữa, thì chắc chắn là một con người có ý thức được con người thì chắc chắn là không có nỗi lòng nào sung sướng bằng hơn nữa.

(01:10:55) Không phải đem vàng bạc của báu, tất cả những vật báu trong thế gian này mà cho mà chúng ta vui bằng những cái vui thấy con người làm thiện.

Thầy phỏng chừng Đức Phật đã nhập Niết Bàn lâu xa xưa mà thấy tất cả chúng sanh đều thực hiện đạo đức nhân quả, Ngài cũng vui mừng! Lòng Từ Bi của Ngài, lòng Hỷ của Ngài rất là hân hoan, thấy tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ.

Huống hồ là Thầy còn là người bằng xương, bằng thịt, làm sao Thầy không sung sướng? Nhìn đất nước chúng ta mà tất cả mầm non của chúng ta đều thực hiện đạo đức nhân quả thì làm sao không sung sướng, vì đó là cái nhân tốt cho Tổ quốc này.

Từ đất nước này đến đất nước kia được trau dồi đạo đức nhân quả thì con người trên hành tinh này được hạnh phúc, an vui, đó là niềm vui tuyệt đỉnh vì đã mang đến niềm vui chân thật của chính bản thân của mọi người. Chính họ, họ đã mang đến niềm vui chân thật khi họ hiểu ra.

Một người tu sĩ đạo Phật không thể làm ngơ trước những điều này, trước những con người đang lăn lộn trong những nỗi bất hạnh. Nỗi bất hạnh đó là những cái nhân ác của họ chớ phải đâu ai đem nỗi bất hạnh cho họ!

Vì chúng ta thấu hiểu được như vậy mà chúng ta không ban rải được đạo đức nhân quả cho họ thì lòng chúng ta se thắt từng giây, từng phút.

Chúng ta có lòng Bi Vô Lượng, lòng Từ Vô Lượng, mà đứng trước cảnh khổ của mọi người, mọi vật mà chúng ta nỡ đang tâm nhìn sao được? Phải đem hết sức mình, phải làm hết tận lực của mình để cứu khổ mọi muôn loài, để làm cho con người sống hạnh phúc bên nhau, biết thương yêu nhau!

Đó là lòng Bi, đó là nỗi mừng của những người biết thương người, biết Từ Bi ban rải khắp cùng.

4.5- NHẮC TÂM VUI THEO Ý KIẾN CỦA NGƯỜI KHÁC

(01:13:00) Trưởng lão: Muốn trau dồi tâm Hỷ này ta phải dùng pháp hướng, thường Như Lý Tác Ý:

Bây giờ tới đây, chúng ta sẽ trau dồi cái tâm Hỷ này. Bây giờ chúng ta đã hiểu nó là một cái gì đó để cho tất cả mọi người được an vui, hạnh phúc thì không có cái gì hơn là đem cái giáo lý nhân quả, cái đạo đức nhân quả mà dạy cho từng người, mà giúp cho từng người hiểu thì cái này là cái niềm vui vô lượng, không thể kể xiết được!

Vậy thì muốn trau dồi cái tâm Hỷ Vô Lượng của chúng ta, để chúng ta vui luôn luôn như thế nào? Thì chúng ta phải thường Như Lý Tác Ý mà nhắc như thế này:

“Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác để mình và người vui!”

Đó, thì mọi ý kiến, cái ý kiến nó có những cái ý kiến nó nghịch mình, chớ đâu phải là mọi ý kiến nó giống mình được? Cho nên vì vậy mình phải hướng tâm nhắc. Vì muốn được vui theo người, mà người ta có ý kiến khác mà mình có ý kiến khác, thì làm sao vui nhau được?

Cũng như bây giờ người ta chấp kiến của người ta là người ta học tu như vậy là đúng. còn mình, mình chấp cái kiến của mình là học tu như vậy đúng, thì hai cái kiến này nó không giống nhau.

Mà một người mà trau dồi cái tâm Hỷ Vô Lượng thì mọi ý kiến đều là ý kiến của mình. Cho nên chúng ta thường phải nhắc nhở như vậy để chúng ta lấy cái ý kiến của người mà làm cái ý kiến của mình.

Cho nên khi xưa có ông A Na Luật, ông Kim Tôn giả và ông A Na Đàn Tôn giả, ba cái người này cùng sống chung nhau. Đức Phật hỏi:

“Vậy thì các ông sống chung nhau mà có được an vui tu tập không?”

Thì ông A Na Luật trình bày:

“Con sống theo ý của bạn con, ý của người khác, ý của các Tôn giả, con không có sống theo ý con”.

Thì Đức Phật hỏi các người kia cũng vậy, người nào cũng nói sống theo ý của người khác không, không có sống theo ý của mình, thì Đức Phật nói:

“Đó là tốt, đó là độc cư đó!”

Thì các con thấy cái sự độc cư đó mới chính là sự độc cư chớ không phải là ngậm miệng làm thinh, mà sống y theo ý của người khác.

(01:15:14) Thì những cái câu chuyện nho nhỏ trong cái thời những đệ tử của Đức Phật đã gây cho chúng ta cái sự thâm sâu hiểu biết là sống qua ý kiến của người khác thì đó là mình vui theo, vui cái Hỷ Vô Lượng tâm đó. Còn nếu mà không sống theo cái ý của người khác thì cái Hỷ Vô Lượng tâm không bao giờ có.

Cho nên, Thầy nhắc lại cái câu này:

Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác!”

Vui theo cái ý của người ta, người ta nói gì mình cũng vui theo.

Thí dụ như bây giờ đưa ra mình cất cái nhà, thì cái người bảo dựng cây cột chỗ này, người bảo cây cột dựng chỗ khác thì cái ý kiến đó có đúng không? Bây giờ cái người này bảo cây cột đây thì mình cứ để đây, mình vui theo với cái việc làm đó, thì tức là chúng ta sẽ hòa hợp với nhau, không có gì mà chống trái.

Đó thì, cái câu này:

Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác để mình vui, người vui!”.

Đó là một.

Đây gọi là Hỷ Tâm Vô Lượng theo ý người.

Bởi vì cái ý của người, thì người ý vầy người ý khác, nó vô lượng cái ý, cho nên mình vui theo vô lượng cái ý, tức là Hỷ Vô Lượng tâm! Đó, thì thấy như vậy nó rất rõ rồi.

Bởi vì đâu có cái ý này giống ý kia đâu? Muôn vàn cái ý! Mà mình gọi là Hỷ Vô Lượng tâm thì vui theo muôn ngàn cái ý của người khác, thì đó là vô lượng ý! Đó là, đây được gọi là Hỷ tâm theo ý người khác.

Thường hướng tâm nhắc đi, nhắc lại nhiều lần để tâm ta không chống trái ý kiến của người khác, vì thế mới có sự vui chân thật trong lòng của chúng ta và mọi người.

Đó thì, các con thấy, ở đây các thầy thấy là chúng ta tu tập như vậy, trau dồi như vậy, thì chúng ta mới có được cái Hỷ tùy thuận, mới có được cái Hỷ theo ý người khác. Còn nếu không trau dồi, chưa chắc đã là chúng ta thực hiện được.

Hằng ngày nhắc như vậy, mà suốt cả năm chúng ta mới có thể sống được cái Hỷ theo ý của người khác, cái tâm vui theo cái ý của người khác, chớ không phải trong một ngày, hai ngày, ba ngày mà chúng ta đạt thành được cái điều này!

Nếu không trau dồi như vậy, ta khó mà vui theo ý của người khác được.

4.6- NHẮC TÂM TỪ BỎ TÍNH KHOE KHOANG

(01:17:33) Trưởng lão: Bản chất con người thường hay khoe khoang cái hay, cái giỏi của mình,…​

Nghĩa là biết cái gì sơ sơ thôi cũng tỏ ra là mình hay hết đó.

…​ đó là cái bản ngã. Mà hễ có bản ngã thì không bao giờ có Hỷ Tâm Vô Lượng.

Nghĩa là khi mà chúng ta có ngã là không có Hỷ Tâm Vô Lượng được.

Bởi vì cái gì cũng là mình đúng chớ còn cái người khác là sai hết, cái người khác là lỗi, cái người khác là trật, còn riêng của mình là đúng, đó là cái bản ngã. Mà hễ khi mà cái người có bản ngã thì cái Hỷ Tâm Vô Lượng không bao giờ có được. Không có thể nào mà hai cái tâm này mà đứng gần nhau được, hễ có cái này thì cái kia nó mất, có cái kia thì cái này nó mất.

Cho nên khi mà chúng ta trau dồi cái Hỷ Tâm Vô Lượng tức là chúng ta đã diệt ngã. Đó, quý thầy hiểu như vậy thì quý thầy mới thấy rằng, khi mà trau dồi cái Tâm Vô Lượng tức là chúng ta đã diệt cái ngã, mà diệt cái ngã tức là Niết Bàn. Cho nên nói: “Vô ngã là Niết Bàn”, còn cái ngã thì không bao giờ có Niết Bàn.

Mà hầu như chúng ta - những người sống trong thế gian này thường là nuôi lớn cái ngã chớ không bao giờ diệt ngã. Do cái sự tu tập của Hỷ tâm mà diệt được ngã thì hạnh phúc cho chúng ta biết là bao nhiêu! Là Niết Bàn, cảnh giới của chư Phật!

Vì thế, chúng ta thường nhắc tâm Như Lý Tác Ý:

“Tánh hay khoe khoang cái hay, cái giỏi của mình là chướng tâm, là ngại đạo; phải từ bỏ, phải xa lìa cái thói xấu này!”

Đó bây giờ chúng ta dùng cái câu hướng tâm nhắc nó, để cho nó biết đó là cái không hay gì hết đâu, cái đó là cái thói xấu, cái đó là cái bản ngã làm cho chúng ta đau khổ.

Thầy xin nhắc lại câu đó:

Tánh hay khoe khoang cái hay cái giỏi của mình là chướng tâm, là ngại đạo, phải từ bỏ, phải lìa xa cái thói xấu này!”

Đó, mình cho nó là cái thói xấu cho nên mình dẹp nó qua một bên đi, mà cái thói xấu đó là cái bản ngã của chúng ta chớ không phải cái gì.

Đây là Hỷ Tâm từ bỏ bản ngã hay là từ bỏ tánh khoe khoang: Hỷ Tâm Vô Lượng từ bỏ tánh khoe khoang.

Bởi vì cái sự khoe khoang của chúng ta cũng vô lượng, làm được cái gì là khoe khoang, làm được cái gì là nổi lên là cho mình là hay hết; học được một chút cũng là khoe khoang cho mình là giỏi, nhưng mà sự thật mình có giỏi đâu! Đó là vô lượng cái sự khoe khoang chớ không phải là một cái sự khoe khoang.

Vì vậy mà chúng ta dùng cái Hỷ Tâm trau dồi cái tâm của mình để từ bỏ những cái vô lượng cái tánh khoe khoang này đi, thì tức là chúng ta vô lượng cái bản ngã của chúng ta để chúng ta diệt cái bản ngã vô lượng này. Đó là cách thức mà chúng ta từ cái tu tâm Hỷ mà chúng ta diệt trừ cái bản ngã của chúng ta, bản ngã vô lượng.

4.7- NHẮC TÂM VUI HÒA TRONG CÔNG VIỆC CỦA MỌI NGƯỜI

(01:20:45) Trưởng lão: Lại nữa, ta phải nhắc nhở tâm ta:

“Phải biết vui hòa trong mọi công việc của mọi người, lấy việc người làm việc mình!”

Đó thì cái câu này cũng nhắc nhở chúng ta thường xuyên phải biết vui hòa trong mọi công việc của mọi người, lấy việc người làm việc mình.

Đó thì mình nhắc nhở mình như vậy để luôn luôn mình hòa mình trong mọi công việc, để cho cái lòng vui mừng vô lượng của mình trong mọi sự việc mà không có lúc nào là không vui mừng.

Đó là Hỷ Tâm Vô Lượng trong việc làm của người khác.

Đó, khi mà mình dùng cái câu trạch pháp hướng tâm để nhắc mình thì mình phải biết cái Hỷ Tâm Vô Lượng tức là vui theo với cái công việc của mọi người.

Thì công việc của mọi người thì nó cũng vô lượng, lát họ làm cái này, lát họ làm cái kia, bữa nay làm cái này, bữa khác làm cái kia, nó đủ thứ công việc chớ không phải có một thứ.

Cho nên, chúng ta vui theo vô lượng công việc của mọi người khác, vì vậy mà vui theo như vậy gọi đó là Hỷ Tâm Vô Lượng trong việc làm của người khác.

Nó có những cái tên, mà những cái tên đó để nó chứng tỏ rằng cái câu hướng tâm của chúng ta cho nó chính xác để dẫn cái tâm chúng ta, trau dồi chúng ta cho nó thấm nhuần. Còn nếu không chính xác thì nó không thấm nhuần được.

Bởi vậy tu tập nó phải tu tập sao mà cho nó chính xác, đúng tên, đúng họ. Nếu mà dùng cái pháp hướng mà không đúng tên đúng họ thì nó vô ích cái công của chúng ta tu tập, nó không có hiệu quả. Mà phải tu tập như thế nào, mà dùng pháp hướng cho đúng thì nó sẽ có hiệu quả rất lớn cho cái con đường tu tập mà không mất thời gian.

4.8- NHẮC TÂM HÒA MÌNH TRONG NIỀM VUI CỦA VẠN VẬT

(01:22:33) Trưởng lão: Và ta cũng phải siêng năng thường nhắc nhở hướng tâm Như Lý Tác Ý:

“Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa, ta hãy theo đó hòa mình trong sự vui! Nếu ta làm một điều không vui tức là ta đã làm buồn khổ muôn loài vạn vật, cỏ cây”.

Đó thì, trong khi đó mọi vật nó đương im lìm như vậy, bỗng dưng chúng ta sân lên thì tức là tự tâm chúng ta đã làm cho vạn vật đó đều xáo động lên hết, khổ đau!

Cho nên có câu tục ngữ nói: “Người vui thì cảnh vui theo, mà người buồn thì cảnh nó cũng buồn theo”, đó là cái tình trạng không vui theo đó.

Cho nên vì vậy mà một chút xíu, lỡ một chút mà chúng ta đã làm cho một người khác, một con vật khác không vui ở trong cái cảnh đang vui đó, thì tức là chúng ta đã làm buồn khổ vạn vật chớ không phải riêng một vật nào.

Thầy nhắc lại cái câu này:

Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa…​”

Các con thấy trong vạn vật của chúng ta đều có sự vui chan hòa, cây cỏ rồi chim chóc nó hòa lẫn với nhau, rồi con người lao động làm tất cả những công việc, nó có sự an vui, chan hòa trong đó.

Bỗng dưng có một cuộc đánh lộn, hay hoặc là cuộc giết chóc nhau đó, làm cho tất cả những cái cây cỏ trong đó nó có sự tang thương ở trong đó, cho nên nó làm sao có sự vui? Vì vậy mà một cái sự đau khổ, làm cho sự đau khổ thì muôn vật nó ở trong đó nó đều đau khổ.

Tại vì đôi mắt của quý thầy không thấy được cái điều đau khổ đó, chớ riêng Thầy, Thầy có một cái cảm nghĩ: Tất cả vạn vật đau khổ trong một cái đau khổ của một sự việc nào xảy ra trong đó. Vì thế mới chan hòa những cái niềm vui ở trong đó.

(01:24:18) Bây giờ, Thầy đọc lại cái câu trạch pháp này:

“Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa, ta hãy theo đó hòa mình trong sự vui! Nếu ta làm một điều không vui, tức là ta đã làm buồn khổ muôn loài vạn vật, cỏ cây”.

Đó thì, cái câu đó để nhắc cho chúng ta biết rằng…​ (Mất tiếng)

Câu này, ta thường xuyên trau dồi những điều này thì tâm Hỷ Vô Lượng sẽ vui mừng cùng với muôn loài.

Nghĩa là câu này - chúng ta thường nên nhắc nhở cho thường xuyên cái câu này, để chúng ta tránh những cái điều nhỏ - thí dụ bây giờ mình đang đi, trên cái bước đường đi mình vào ở trong thất của mình, mình lỡ mình đạp - trong khi đó tâm hồn của mình đang ban rải cái sự yên vui theo cái sự vui của vạn vật, thế mà mình vô tình mình đạp một con kiến gãy chân đi, nó lăn lộn, nó rên la, thì trong cái không gian đó và cái thời gian đó, tất cả vạn vật xung quanh nó đều bị cô đọng lại cái sự đau khổ đó.

Cho nên vì vậy mà chúng ta phải nhắc cái tâm của mình. Bởi vì người tu sĩ đạo Phật phải phủ trùm cái tình thương của nó, cho nên Phật nói: “Tứ Vô Lượng Tâm biến mãn khắp mười phương chúng sanh” - đó là biến mãn đó.

Cho nên, một cái đau khổ nhỏ của cái vật này thì nó sẽ đau khổ toàn bộ cả vạn hữu chớ không phải là riêng có một con vật đó đau khổ đâu! Khi mà cái tâm Từ, tâm Bi của họ đã thể hiện thì trước cái đau khổ một con vật đang lăn lộn thì ngay đó tâm chúng ta nhói lên sự đau khổ.

Thì vạn vật nó đang hòa mình trong sự an vui đó mà bỗng có một con vật đã đau khổ thì tức là cây cỏ đều đau khổ, chớ không phải là chỉ có con vật đó đau khổ không đâu. Tuy nó vô tình, chúng ta thấy như là vô tình nhưng sự thật không vô tình. Nó là có một cái sự giao cảm, cảm thông nhau, nó rất là rõ ràng.

Tại sao vậy? Khi mà có một người đó họ cất cái nhà, rồi họ trồng những cái cây xung quanh đó họ ở, rồi sau đó họ dời, họ đi. Những cái cây đó họ làm sao họ bứng được, nhưng ra đi rồi thì những cây đó lần lượt buồn và héo khô.

Chúng ta thấy cây cũng cảm động, cũng xót xa, cũng thương tiếc, cũng nhớ thương những cái người mà chăm sóc gần bên nó.

Cho nên khi mà chúng ta có những cái cây mà ở gần bên chúng ta thì nó xum xuê, nó vui sướng. Còn những cây xa, ở ngoài rừng, ngoài bụi xa thì nó cằn cỗi, khô héo vì không được vui mừng, vì nó không được cái sự nghe qua tiếng nói hoặc là cái hơi ấm của chúng ta chan hòa với nhau.

Đó là những cái mà chúng ta thấy, hầu như là vạn hữu đều là chan hòa trong cái sự sống với nhau./.

HẾT BĂNG

12 - TRAU DỒI TÂM XẢ 01

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 12 - TRAU DỒI TÂM XẢ 01

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- TRAU DỒI TÂM XẢ

1- XẢ SẠCH HẾT PHÁP THẾ GIAN MỚI CHUYỂN SANG GIAI ĐOẠN TU SĨ

(00:00) Trưởng lão: Bây giờ chúng ta học đến Xả Vô Lượng.

Xả Vô Lượng là gì?

Xả là gì?

Xả là bỏ, bỏ ra không dùng nữa, không chấp, không kể đến nữa, dẹp nó qua một bên, gọi là xả.

Đó thì, mà xả tất cả mọi pháp thì đó là bỏ qua tất cả hết, không còn lấy cái gì hết. Cho nên Phật dạy chúng ta còn ba y một bát, tức là xả bỏ hết, xả nhiều lắm, không thể nào mà xả ít được!

Xả Vô Lượng là bỏ tất cả, không còn một vật gì, một đối tượng, một hoàn cảnh hay một chướng ngại nào còn sót trong tâm nên gọi là Xả Vô Lượng Tâm.

Nghĩa là tâm xả sạch, quét sạch, không có còn chút nào ở trong đó hết, thì mới gọi là Xả Vô Lượng Tâm.

Xả Vô Lượng Tâm có nghĩa là từ bỏ, từ giã, xa lìa, viễn ly tất cả các pháp thế gian.

Nghĩa là xa lìa hết tất cả các pháp thế gian, không còn để một cái pháp nào mà trói buộc, dính mắc mình hết.

Vậy các pháp thế gian là gì?

Bây giờ mình mới hiểu nó. Nghe nói các pháp thì mình không biết cái pháp thế gian là sao.

Vậy các pháp thế gian là gì?

Các pháp thế gian là những pháp trói buộc như mạng lưới chằng chịt, khó thoát ra.

Đó là chúng ta chỉ qua - bây giờ hỏi nó - các pháp thế gian là gì, thì chúng ta nói cái sự ràng buộc, ràng rịt của nó, rồi chúng ta mới nói cái tên tuổi của nó ra. Cái sự trói buộc của nó chặt như vậy đó, nó làm cho chúng ta khó mà vượt ra được.

Thì đó là các pháp thế gian, cái đặc tánh của nó là cái đặc tánh trói buộc, siết chặt, làm chúng ta khó thoát ra. Rồi chúng ta mới kể tên họ của những cái pháp này ra để chúng ta biết.

Các pháp thế gian như là:

Sắc dục, tiền bạc, của cải, tài sản, vật chất lớn, vật chất nhỏ, nhà cửa, ruộng vườn, danh thơm, tiếng tốt, tiếng khen, tiếng chê, tiếng mắng, tiếng chửi, thức ăn ngon, thức ăn dở, ngủ nghỉ, anh em bầu bạn, cha mẹ, vợ con, tình thân quyến thuộc, bà con xóm làng, bạn bè gần xa, chùa to tháp lớn, miễu đình, tế tự cúng bái, tụng kệ ca ngâm, hát xướng ngâm vịnh, tủ, giường, bàn, ghế, chén, bát, ly nhạo, máy móc, xe cộ, tivi, radio, tủ lạnh v.v…​;

Kinh sách, kiến thức học tập các pháp thế gian, thiên văn, địa lý, y học, kiến thức hội họa, toán học, khoa học, kỹ nghệ học, kinh tế học, chánh trị học, quân sự v.v…​;

Dịch số, bói toán, và các nghề nghiệp buôn bán, làm ruộng, thợ mộc, thợ may, thợ dệt, đi săn, bắt cá, trồng trọt mọi thứ, làm thầy thuốc, thầy thông, thầy ký, thầy ngải, thầy bùa, kế toán, thợ máy, thợ điện v.v…​ Nói chung tất cả các nghề nghiệp sanh sống hiện giờ của con người là pháp thế gian.

(03:25) Quý thầy thấy kể làm sao cho hết những cái pháp thế gian? Nó tùm lum đủ thứ, mà ai hễ dính vào thì nó bị dính à! Dính cái nào nó cũng dính hết, bứt ra khó bứt ra. Cho nên một cái người mà đổi nghề cũng không phải dễ; và một cái ly, cái chén, cái bát của mình ở trong nhà nó cũng dính mình à. Đó là các pháp thế gian đó.

Cho nên ở đây gọi là Xả Vô Lượng - Xả Vô Lượng pháp. Đó là phải hiểu. Bởi vì vô lượng - thì các pháp thế gian nó cũng vô lượng, chớ không thể kể một số như vậy là gọi là hết pháp thế gian đâu!

Từ cái học thuật của chúng ta, từ kiến thức kim cổ, từ cái hiểu biết thế này, thế khác đều là pháp thế gian hết. Nó làm cho chúng ta dính kẹt ở trong đó, cho nên nó gọi là kiến chấp. Đó là những cái hiểu biết học thuật của chúng ta, chấp cái này, chấp cái kia, chấp cái nọ làm chúng ta không giải thoát. Cho nên đó gọi là pháp thế gian.

Vì vậy mà xả nó phải xả hết. Cho nên xả hết nó mới có giải thoát, mà xả không hết thì nó chấp kiến, chấp cái này đúng, cái này sai thì có tranh luận, có cãi cọ, có hơn thua, thì bản ngã nó bộc lộ ra liền! Còn xả hết thì nó không có bản ngã.

Đó cho nên không phải là mình xả những vật chất bàn, ghế, tủ, nhà cửa, đồ đạc của mình sống không đâu, mà còn xả những cái tri kiến của chúng ta ở trong cái đầu của chúng ta, nó huân học từ hồi nào tới giờ, xả hết, thậm chí như kinh sách của Phật cũng xả luôn, chỉ biết có cái thực hiện cho tâm của chúng ta, trau dồi cho tâm chúng ta để xả cho sạch, thì như vậy là giải thoát.

Còn bây giờ mà chúng ta đã tu tập mà ở trong đầu chúng ta còn nhớ ông Phật nói vầy, ông Phật nói khác, đó là chưa xả pháp thế gian. Bởi vì cái này chỉ là mượn mà thôi.

Cho nên Phật nói: “Phật Pháp còn xả huống hồ là pháp thế gian!” Cho nên ngay cả những cái lời Phật dạy chúng ta còn bỏ xuống, huống hồ là những cái pháp thế gian mà chúng ta cứ dính mắc hoài!

Đó là cái Xả Vô Lượng Tâm. Bởi vì cái tâm của chúng ta đến với cái pháp nào thì nó dính, vì vậy mà chúng ta phải xả cái tâm vô lượng này để mà xả sạch, thì cái tâm nó không còn dính đâu nữa hết, thì đó là giải thoát.

(05:52) Cho nên tới cái chỗ này chúng ta mới thấy Tứ Vô Lượng Tâm thật là rốt ráo. Mà muốn cho được cái rốt ráo này, muốn xả cho được cái này thì chúng ta thấy trong Thất Giác Chi tức là Thất Bồ Đề đó là xả sạch đó.

Còn ở đây, chúng ta là những người mới trau dồi cái tâm xả chớ chưa phải xả sạch để chúng ta đoạn dứt từng chút, từng chút, cái nào trước, cái nào sau để chúng ta bớt đi được cái phần nào tốt phần nấy, lần lượt để chuẩn bị cho chúng ta bước vào cái giai đoạn, cái lộ trình thứ hai là xuất gia tu hành là chúng ta đã xả sạch rồi.

Cho nên nếu mà không có tu tập cái Xả Vô Lượng Tâm này mà bước vào cái con đường, cái lộ trình thứ hai của đạo giải thoát của đạo Phật thì chắc chắn là chúng ta chẳng đi tới đâu hết!

Cho nên Thầy đem cái Tứ Vô Lượng Tâm này để giảng là đã thấy chỗ xả này rất là kỹ. Nếu mà xả kỹ thì vô đó chỉ trong một tuần lễ, một tháng, hai ba tháng là chúng ta đã chứng đạo quả Bồ Đề, không còn nữa. Bởi vì xả sạch rồi còn gì nữa mà không chứng đạo Bồ Đề?

Đó, quý thầy thấy rất rõ. Ở đây là cái mục đích của đạo Phật là đạo buông xả, mà Xả Vô Lượng chớ không phải xả một thứ, xả sạch hết! Như vậy mới biết được cái đạo Phật là cái đạo rất là siêu xuất chớ không phải cái đạo bình thường. Bởi vì còn một chút là còn khổ đau, không thể nào giải thoát được!

(07:18) Cho đến đây, cái chỗ từ cái tập luyện trau dồi cái Từ Vô Lượng Tâm, cho đến Bi Vô Lượng Tâm, rồi Hỷ Vô Lượng Tâm thì chúng ta chưa thấy, mới có được an vui hòa mình trong vạn hữu mà thôi. Thì người ta tưởng đâu là - đó là phản bổn hoàn nguyên, trở về với vạn hữu, sống một cách an lạc, thì đó là cái cuối cùng. Nhưng lại - cái cuối cùng là cái xả luôn cả hết, không còn để một cái vật gì hết, thì như vậy mới là chính giải thoát.

Và đây là một cái sự trang bị cho những người cư sĩ còn gia duyên trói buộc, để chuẩn bị tinh thần của họ, để chuẩn bị cái sự sắp xếp của họ, để họ xả cho sạch, để họ bước vào cái con đường xuất gia tu hành trắng bạch như vỏ ốc mà Phật đã thường nhắc: “Khi bước chân vào xuất gia, trở thành một vị Tỳ Kheo thì tâm hồn của họ trắng bạch như vỏ ốc” - thì lúc bấy giờ họ thực hiện không có còn bao lâu nữa mà thành tựu chứng quả Bồ Đề.

Còn trái lại người cư sĩ mà không chuẩn bị cho mình xả sạch ở trong cái giai đoạn Tứ Vô Lượng Tâm này thì bước vào cái lộ trình xuất gia tu tập theo các vị Tỳ Kheo thì khó mà có thể tu tập được, không bao giờ có thể xả được.

Vì ở đó, chúng ta tiếp tục tu những cái hạnh và những cái việc làm nó khác hơn là người cư sĩ. Nó không còn ngồi đó mà nghĩ: “Bây giờ phải xả cái bàn, bỏ cái ly, bỏ cái tách, hay bỏ vợ, hay bỏ con” nữa, mà đi vào đây là còn có sự tập luyện, thí dụ chẳng hạn là như phải Tứ Niệm Xứ, rồi Bốn Thiền, rồi Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu Đế…​ tất cả những cái này, chúng ta vào cái vai trò của cái người tu sĩ Tỳ Kheo thì chúng ta phải thực tập những cái pháp này.

Còn cái vai trò của người cư sĩ thì phải thực tập cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm, thì cái xả là cái quan trọng nhất của người cư sĩ.

Mà người cư sĩ không thấy nó quan trọng cho nên nó cứ trói buộc hoài, mà trói buộc hoài thì làm sao bước qua cái lộ trình thứ hai được? Bị trói buộc làm sao bước qua lộ trình thứ hai được!

(09:32) Cho nên ở đây, nhìn chung quanh quý thầy thấy rõ: Mình tu sĩ thật, mình xuất gia thọ Tỳ Kheo nay năm năm, mười năm, hai chục năm, mà mình có xả được không? Vậy thì Xả Vô Lượng chỗ nào? Tâm mình còn dính dù nhỏ, dù lớn, dù ít, dù nhiều, cho nên nó không có xả.

Vì vậy mà Thầy phải làm cái gương hạnh là ẩn bóng để xả cho sạch, để làm cái gương cho người khác thấy rằng Thầy xả cả chùa, cả Tu viện, tất cả đệ tử đều xả sạch hết, thì như vậy mới gọi là Xả Vô Lượng Tâm.

Còn bây giờ mình ở đây thì mình có xả được đâu? Chùa cũng của mình, rồi ăn uống cũng không xả, rồi đệ tử cũng không xả, như vậy thì có xả gì đâu?

Mình làm lợi ích cho chúng sanh thì ở đâu lại làm lợi ích không được? Cần gì mà phải ngồi ở đây mà làm trụ trì mà mới là độ chúng sanh? Chỗ nào có người tu thì mình đến đó độ họ, tu xong rồi thì mình đi chỗ khác, thì có gì đâu là không xả! Cho nên đời sống du tăng khất sĩ là đời sống tuyệt vời, xả sạch!

Đến đây, quý thầy sẽ thấy được cái tâm Xả Vô Lượng này nó tuyệt vời của đạo Phật. Mà nếu một người tu sĩ mà không thực hiện được tâm xả này, người ta nhìn thấy người ta biết rằng không phải là người tu sĩ của đạo Phật. Bởi vì Xả Tâm Vô Lượng, vô lượng cái xả chớ đâu phải là một!

Nhìn thấy như vậy, chúng ta mới biết được cái con đường của đạo Phật, người tu chân hay là người tu giả. Người tu chân thì phải xả hết, mà người tu giả thì xả nửa chừng hay hoặc là xả ít ít, để cho có chừng đó mà thôi. Cũng xả, mà xả cái phần thế gian, còn cái phần chùa miễu thì không dám xả, sợ nó mất đi, thì cái đó cũng chưa phải là xả, mà phải xả sạch hết.

Đó thì hôm nay Thầy nhắc lại để cho chúng ta thấy được cái chỗ tâm Xả Vô Lượng để chúng ta tiếp tục mà tu tập để xả cho hết.

Nãy giờ Thầy nhắc lại những cái pháp thế gian để cho quý vị thấy đó là các pháp thế gian mà người cư sĩ cần phải xả. Tất cả những cái nghề nghiệp cuộc sống gì, tất cả hết, lần lượt chúng ta phải trang trải, tính toán, sắp xếp. Vì đời người có thân là khó, mà được pháp chân chánh mà xả được như vầy là khó lắm.

Muốn chấm dứt sanh tử luân hồi đâu phải là chuyện dễ! Còn nếu không thì mãi mãi muôn kiếp trôi lăn ở trong lục đạo không thể nào thoát ra khỏi, kiếp này cũng khổ, kiếp khác cũng khổ!

2- TRƯỚC TIÊN CẦN XẢ SẮC, DANH, LỢI, THỰC, THÙY

(12:18) Nói chung, quý vị trước tiên cần phải xả bỏ năm thứ dục lạc:

Nghĩa là bây giờ chúng ta phải xả cái gì trước đây? Đó, thì nói là nói chung chung nó nhiều như vậy, nhưng mà phải lần lượt chúng ta phải xả cái gì, chớ không phải bây giờ xả một lần cái nó cả thế gian này chúng ta xả xuống được liền! Cho nên chúng ta phải tuần tự mà chúng ta xả.

Vậy thì tuần tự chúng ta xả cái thứ gì đây? Chúng ta phải xả bỏ năm thứ dục lạc. Đó, những cái đó là những cái mà gần gũi nhất của chúng ta. Quý thầy nhớ chưa?

Ở trên, tuy rằng nói chung chung là các pháp như vậy, nhưng ở đây trước tiên là chúng ta phải tu tập xả tâm năm cái thứ dục lạc gần gũi nhất của chúng ta:

1. Sắc dục;

2. Tiền bạc;

3. Danh tiếng;

4. Ăn;

5. Ngủ.

Đó, chúng ta phải xả năm cái thứ này đi. Vậy thì xả là như thế nào?

Chúng ta phải tránh xa sắc dục, đừng có lại gần người nữ. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai: Tiền bạc, châu báu đừng có cất giữ, cho nên chúng ta xả nó đi, đừng có cất giữ cái thứ đó. Cái thứ đó là rắn độc đó, nó sai khiến chúng ta, chúng ta trở thành nô lệ nó đó. Hễ cái tâm chúng ta khởi muốn cái có tiền là chúng ta mua sắm liền, cho nên chúng ta xa lánh.

Vì vậy mà trong giới luật của Phật dạy: Người tu sĩ không cất giữ tiền bạc, cho nên mình muốn mà mình không có tiền bạc thì thôi, cũng chịu thôi, cho nên vì vậy mà nó không sai mình được, cho nên đó là cái dục lạc đó!

Danh chúng ta phải xả. Nghe người ta khen mình tụng kinh hay, tiếng tốt hoặc là thuyết pháp giỏi, thôi thôi, mình tránh xa đi! Nghe người ta khen mình tụng kinh hay thì thôi thôi, mình đừng có tụng nữa, tức là mình tránh nó đi, đó là mình xả nó đó.

Còn nghe người ta khen mình tụng kinh hay, bắt đầu mình mở máy thu băng vô để tụng cho mọi người nghe, đó là cầu danh. Đó, đó là mình chạy theo danh.

Còn nghe người ta khen mình thuyết pháp hay thì thôi chổng khu chổng gọng mà thuyết ngày này qua ngày khác để cho người ta khen mình nữa, đó là danh!

Cho nên Thầy mới nói Thầy thuyết pháp cho các con kỳ này thôi, Thầy không thuyết nữa! Tại sao vậy? Tại vì đó là danh! Nói hoài cũng lảm nhảm cũng như hát cho mấy con nghe chớ có làm gì?

Đó là những cái chạy theo cái danh, bởi vậy đó là dục lạc.

Rồi bắt đầu chúng ta xả cái gì?

Ăn: Ăn ngày một bữa, ăn để sống chớ đừng có thích ăn ngon. Đó là xả nó, ly nó ra. Ăn coi như là cái thứ thuốc để trị cái bệnh ghẻ đói của chúng ta, chớ không phải ăn mà ngon ngào gì, nó là toàn cái thứ bất tịnh!

Do đó, chúng ta mới ly những cái này ra đi, xả cái này ra đi! Cái này là những cái gần gũi nhất ở trong thân của chúng ta đây, nó làm đau khổ chúng ta nhiều nhất.

Còn tất cả những cái kia chưa đâu, xả được cái này rồi mới xả được mọi cái kia. Mà năm cái thứ dục lạc này mà xả không được thì chắc chắn là tiền bạc, của cải, tài sản, vợ con không bao giờ xả được đâu! Nghĩa là chúng ta không xả được năm thứ dục lạc này thì không bao giờ mà chúng ta xả được cái gì nữa hết.

Rồi ngủ chúng ta phải xả đi. Chớ đừng có nó buồn ngủ là leo lên ngủ thì không có được, xả nó xuống đi, bỏ nó xuống đi! Chừng nào suốt đêm mà chúng ta nằm tỉnh thức mà chúng ta không ngủ, đó là chúng ta đã xả rồi. Còn chúng ta còn ngủ là chưa xả được đâu.

Đó phải nhớ như vậy để chúng ta xa lìa, để chúng ta xả sạch, Xả Vô Lượng năm cái thứ dục lạc này đi. Bởi vì năm cái thứ dục lạc này nó biến ra vô lượng cái điều kiện mà chúng ta dính mắc đó.

Đó thì hôm nay, đó là chúng ta đã biết được năm cái điều kiện mà chúng ta cần phải xả trước.

3- TIẾP THEO CẦN XẢ SẮC, THANH, HƯƠNG, VỊ, XÚC, PHÁP

(15:58) Kế đó quý vị phải tiếp tục…​

Nghĩa là xả được năm cái thứ này rồi, bây giờ đó, sắc dục mình tránh xa rồi, tâm mình thấy nó không có còn ham sắc dục nữa; tiền bạc của mình thấy mình tự tại không cần dùng tiền bạc nữa; danh tiếng thì mình cũng không ham nữa rồi; ăn thì mình ngày một bữa rồi để sống rồi; ngủ thì mình thấy tỉnh thức rồi, thì bắt đầu mình mới tu tới.

Chớ còn nếu mà nó chưa được cái này mà vội tu tới nữa, thì cái này chưa xả mà cái kia tu tới nữa thì nó trói luôn chớ nó không có xả được ra đâu.

Đó thì các thầy nhớ kỹ, con đường của đạo Phật phải tu cái nào cho được rồi mới tu tới cái kế. Còn tu cái này chưa được: ăn thì còn ba bốn bữa, ngủ thì lúc nào cũng muốn ngủ, tiền bạc thì còn cất cả túi, nghe người ta khen thì nở mũi mừng, thấy con gái thì nhìn…​ thì như vậy thì tu tập tới xả sáu cái pháp dục lạc nữa của thế gian thì chúng ta xả không nổi.

Bởi vì sáu cái pháp dục lạc của thế gian này nó hơn cái này nữa. Cho nên, khi xả được cái này rồi thì chúng ta mới tiếp tục chúng ta xả vô lượng sáu cái pháp dục lạc của thế gian nữa.

Vậy thì sáu cái pháp dục lạc thế gian này là gì?

Là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

Đó, bây giờ chúng ta mới thấy sáu cái pháp này nó là cái đối tượng, là cái hình sắc, cái tiếng, cái hương vị của các pháp thế gian, nó cám dỗ chúng ta vô cùng lận.

Còn cái kia là cái cuộc sống của chúng ta đó, đó là năm cái thứ dục lạc, đó là cái cuộc sống của chúng ta. Còn cái này là cái đối tượng của tâm của chúng ta, nó luôn luôn nó cám dỗ, thu hút chúng ta để nó trở về nó phục vụ cho năm cái thứ dục lạc ở trên.

Chúng ta phải thấy rõ được cái đường đi của nó: Nó tiếp xúc với sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

Sắc ở đây không phải là sắc dục. Như ở trên, cái ngũ dục lạc ở trên đó là sắc dục, đó là tình ái, sắc dục đó. Còn cái sắc ở đây là hình ảnh, sắc tướng. Thấy một cái máy cassette, thấy một cái ca, thấy một cái bàn, đó là cái sắc. Mà cái sắc đó nó làm cho chúng ta ham thích, nó gợi cho chúng ta thích thú nó thì đó là chúng ta bị sắc cám dỗ. Còn cái kia là sắc dục, nó khác, hai cái này nó khác nhau.

Thinh là âm thanh.

Hương là mùi, hương là hương thơm.

Vị là mùi vị mặn, ngọt, cay, đắng…​

Xúc là va chạm.

Pháp là các pháp mà chúng ta đã - tức là pháp ở đây muốn nói là những cái kiến chấp ở trong đầu của chúng ta, những cái sự hiểu biết ở trong đầu của chúng ta gọi là pháp.

Chớ không phải đây là những cái pháp là bàn, ghế, tủ…​ là pháp đâu, không phải! Chữ “pháp” ở đây phải hiểu là những cái hiểu biết ở trong đầu chúng ta, hiểu biết cái này, cái nọ kia, đó là pháp đó.

(18:41) Đó cho nên chúng ta phải xả cái đó ra, xả ly cái đó ra. Bởi vì cái đời sống của chúng ta từ khi mà được hiểu biết thì chúng ta huân biết bao nhiêu sự hiểu biết, những phong tục tập quán, những cái này cái kia, nó dính mắc.

Cũng như bây giờ mình ở trong chùa, hằng ngày, tới cái ngày kỵ giỗ gì đó của Hòa thượng này, Hòa thượng kia mà không cúng thì bà con rầy rà vô cùng lận. Hay hoặc là ngày tư ngày Tết mà không cúng bái, thì người ta đến chùa mình mà không cúng bái thì người ta kiếm chuyện này, chuyện kia đủ thứ hết.

Đó là những cái pháp mà nó bắt buộc chúng ta phải - trói buộc chúng ta làm nô lệ cho cái phong tục tập quán đó.

Cho nên chúng ta phải bứt nó ra, vì vậy mà chúng ta xả bỏ nó đi. Mặc mấy ông nói gì nói, tui làm thầy tui phải giữ đúng cái hạnh tui, tui đâu có làm cái chuyện mà mê tín như vậy. Đó, thì như vậy là chúng ta đã phá những cái pháp đó.

Phải hiểu những cái gì, chớ còn không hiểu, chúng ta hiểu một cách cạn cợt, thì chúng ta thấy chữ pháp này như là pháp thế gian, pháp xuất thế gian là các pháp thì cái đó không đúng. Phải biết chỗ dùng chữ pháp nó ở cái vị trí nào để gọi nó là dục lạc.

Đó thì, ở đây Thầy giải thích như vậy để chúng ta biết được để mà chúng ta xả bỏ nó. Còn nếu không biết được thì lấy gì mà chúng ta xả bỏ nó được?

Vậy sắc là gì?

Bây giờ đã chỉ cho nó được sáu cái pháp dục lạc rồi. Người ta thường nói nó có năm cái dục lạc này, người ta nói: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, người ta bỏ pháp.

Người ta quên mất đi: Đối tượng của pháp là ý của chúng ta; đối tượng của xúc là thân của chúng ta; đối tượng của vị là lưỡi của chúng ta; đối tượng của hương là mũi của chúng ta; đối tượng của âm là lỗ tai của chúng ta; đối tượng của sắc là mắt của chúng ta, rõ ràng là sáu chớ tại sao họ lại bỏ?

Họ nói là có ngũ dục lạc, thì ngũ dục lạc là năm cái ở trên, chớ còn sáu cái dục lạc ở dưới này là cái đối tượng để cho tiếp xúc với sáu căn của chúng ta mà sanh ra cái tâm ham muốn.

Đó thì như vậy chúng ta mới thấy nó mới sanh ra cái Thọ, rồi Thọ nó mới có Ái chớ? Đó là trong Thập Nhị Nhân Duyên Phật đã chỉ cho chúng ta thấy từ cái duyên này nó mới sanh inh ra duyên kia.

Do đó chúng ta mới hiểu được như vậy là sáu cái pháp dục lạc chớ không phải năm pháp. Bởi vì hầu hết là quý thầy dựa vào cái sự hiểu biết không có thực hành, cho nên ngắt bỏ cái pháp đi, để cho còn có những cái đó gọi là dục, còn cái pháp không dục sao? Không dục sao lại chấp? Không thích nó sao lại chấp nó mà tranh luận với nhau?

Mình cho rằng cái pháp mình đúng, tức là cái kiến chấp pháp đó, thì người ta nói mình sai thì mình phùng mang, trợn mắt lên mà cãi, thì không phải là mình thích nó sao?

Đó là những cái mà chúng ta bị nó lôi cuốn ở trong cái thích thú làm chúng ta dính mắc ở trong đó.

Đến đây Thầy giải thích từng phần.

Sắc là gì?

Sắc là mọi hình ảnh của các pháp.

(21:49) Nghĩa là cái vật gì ở trong thế gian này thì nó có cái hình ảnh đó, thì đó gọi là sắc. Có nhiều người hiểu chỗ này là sắc dục đó, thì cái đó là hiểu sai.

Mà hễ các hình ảnh đó thì nó phải:

…​ có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho tâm ta thích thú, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ.

Nó làm cho chúng ta thích nó, cho nên nó khả ái, khả lạc, khả hỷ. Đó thì, những cái hình sắc của mọi vật đều là nó có cái sự như vậy.

Thinh là âm thanh của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ, khiến ta thích thú, say mê.

Một người mà nghe nhạc đồ đó, họ thích lắm, họ gật gù, gật gù theo điệu nhạc, rồi họ thích thú họ nhảy rumba rồi họ nhảy tùm lum tà la, họ nhảy đầm đồ đó, đó là họ thích lắm. Cho nên nó gây cho họ có những cảm giác khả ái, khả lạc ở trong đó. Đó là những cái âm thanh nó làm cho họ bỏ thời gian rất là phí cuộc đời của họ!

Hương là mùi thơm của các pháp, có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ, khiến ta thích thú say mê.

Những điều này quý thầy không thể chối cãi được.

Nghĩa là chúng ta có nghe cái mùi thơm: “Chà! Cái bông này thơm quá!” - thì đó là đã khả hỷ, khả ái rồi, đã thích thú rồi! Mình chỉ khen nó như vậy là đủ biết cái tâm của mình nó đã bị gợi lên những cái khả ái, khả lạc của nó rồi.

Vị là mùi vị ngon, ngọt, cay, đắng, chua, mặn…​ của các pháp, có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ, khiến cho ta thích thú, say mê, khó quên.

(24:10) Nghĩa là ăn rồi mà còn nhớ cái bánh đó, nay là một tháng rồi: “Trời! Ăn cái bánh đó ngon quá!” - bây giờ cũng còn nhớ cái ngon ngọt đó nữa! Thì đó là khó quên chớ sao? Cho nên nó làm cho chúng ta thích thú, say mê cái miếng ăn của chúng ta.

Mà ăn rồi thì nuốt vô khỏi cổ rồi thì nó còn ngọt ngon gì đâu, mà cái quên nó không quên, nó nhớ hoài: “Mai mốt ba có đi chợ, đi thành phố mua cho con cái bánh đó, con ăn thấy ngon quá!”. Mà nay ăn cả tháng rồi, mà còn nhắc ông già phải đi mua cho mình ăn nữa, thì đó là khó quên đó.

Xúc là sự va chạm vào các pháp sanh ra cảm thọ êm ấm, nóng, mát, lạnh, đau nhức, nhẹ nhàng, khinh an, hỷ lạc, lâng lâng, say say, cảm giác khoái lạc, cảm giác sung sướng, cảm giác mừng vui, cảm giác buồn khổ, v.v.. Đó là xúc đó.

Thì chúng ta thấy những cái cảm giác mà người tu thiền chúng ta đều gặp những cái cảm giác này, toàn là cái thứ không có đúng đắn, cái thứ sai lạc, cái thứ làm cho chúng ta thích thú, say mê, cho nên nó gợi lên cho chúng ta những cái điều kiện không hay cho con đường tu tập.

Cho nên ngồi tu mà có cái trạng thái nào đó thì biết rằng đó là xúc tưởng hỷ lạc sanh ra chớ không cái gì khác hơn hết, vì vậy mà chẳng để tâm theo nó mà làm gì.

Nói tóm lại thì các cảm giác của chúng ta gồm có ba:

1. Thọ lạc;

2. Thọ khổ;

3. Thọ bất lạc bất khổ.

Chớ không có gì khác hơn hết. Vì cái sự xúc chạm đó mà nó sanh ra những cái thọ, mà sanh ra những cái thọ thì đó là thọ lạc, thọ khổ và thọ bất lạc bất khổ.

Đó thì ở đây quý thầy đã thấy, Thầy giải thích như vậy thì chúng ta thấy năm cái dục lạc này quý thầy đã rõ ràng và không có còn chạy theo nó nữa. Vì chạy theo nó nữa, nó gợi lên khả lạc, khả ái, khiến cho ta thích thú.

(26:26) Cho nên khi mà ngồi thiền, quý thầy thấy có trạng thái khinh an, hỷ lạc, nó lâng lâng, say say, nó làm cho mình thích thú, cảm giác khoái lạc ở trong đó, do đó mình cứ ngồi hoài, ngồi hoài, nhưng mà đó là cái hang quỷ của quý thầy đó, không bao giờ mà quý thầy thoát ra khỏi cái hang này đâu!

Nếu mà quý thầy cứ thích thú nó, nó gợi cho quý thầy thích thú để chạy theo cái thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ.

Thọ lạc thì nó lâng lâng, mà thọ khổ thì nó đau, nó nhức, nó lạnh, nó nóng, nó nặng…​ đó là thọ khổ. Mà thọ bất lạc bất khổ thì quý thầy ngồi thiền nghe không lạc không khổ gì hết, tưởng là nó đúng, nhưng mà quý thầy thiếu vận dụng, thiếu chủ động, thì quý thầy đang ở trong cái thọ bất lạc bất khổ. Tưởng là mình ngon lành thiền định rồi nhưng mà cái đó là rơi vào cái cảm giác thọ bất lạc bất khổ.

Ở đây Thầy giải thích để cho quý thầy hiểu rõ cái chỗ tu thiền của quý thầy sai, tưởng là cái chỗ thọ bất lạc bất khổ đây là đúng nhưng mà sự thật đó là sai. Bởi vì ở trên, lạc và khổ, thì quý thầy đã hiểu rồi, bây giờ thọ bất lạc bất khổ cho nó là đúng. Sai!

Chúng ta ở trong đó là chúng ta có sự vận dụng, có sự điều khiển, chớ không phải là ở chỗ ngồi đó mà hưởng thọ bất lạc bất khổ. Cho nên hầu như người tu thiền mà không biết, tưởng cái chỗ này là đúng, cái chỗ này là định, thì cái này là sai, không đúng.

Người tu thiền là đưa chúng ta đi đến chỗ làm chủ sinh tử, làm chủ cái sống, chết, cho nên từng phút giây vận dụng đi như thế nào để bắt đầu cái thân không thở, các hành ngưng mà không chết.

Từ đó chúng ta phục hồi lại sự sống nó bằng cách nó thở lại, hoạt động trở lại rồi trở về cái hơi thở bình thường, thì đó là chúng ta đã làm chủ được sự sống chết. Chớ không phải ngồi đó mà thọ hưởng cái thọ bất lạc bất khổ trong đó!

Bởi vậy có bao giờ mà người ngồi tu thiền mà người ta vô trong đó mà người ta tìm cái lạc ở trong đó đâu? Cơ thể người ta mệt nhọc quá sức, vì cơ thể càng ngày càng suy yếu, người ta buộc lòng phải phục hồi cái sự sống của nó, cho nên người ta mới ngồi lại người ta vận dụng để cho cái cơ thể nó được nghỉ ngơi, nó thư giãn, mà nó quân bình, nó không rối trật tự ở trong đó, để lấy lại cái sức qua ngày hôm sau làm việc.

Còn quý thầy có được hỷ lạc thì vô ngồi để mà trông cho ngồi đó để đi tìm cái dục lạc đó, thì đó là cái tâm còn bị khả hỷ, khả ái, khả lạc, gợi lên những sự mê thích, say mê trong thiền định. Tu hành như vậy là tu hành không đúng!

(28:43) Pháp ở đây chỉ cho tất cả sự hiểu biết…​

Đó, ở đây Thầy xác định cái chỗ chữ “pháp” đây.

Pháp ở đây chỉ cho tất cả sự hiểu biết cổ kim đến triết học, văn học, sử học, địa lý học, thiên văn học, toán học…​ toàn bộ kinh sách của các tôn giáo trên thế gian này đều gọi là pháp.

Bởi chữ “pháp” ở đây để chỉ cho các cái môn học, các cái pháp, thậm chí cả kinh sách của Phật nữa, lời dạy của Phật cũng đều là pháp hết.

Đây là pháp thật, chớ không phải là cái tượng trưng cho các cái vạn hữu xung quanh chúng ta là pháp, cái này chữ “pháp” kia nó dùng khác.

Hồi nãy Thầy nói “vạn hữu đó là pháp”, đó là cái chỗ dùng chớ không phải…​ - bởi vì cái danh từ để chỉ, nhiều người rất lầm lạc.

Tất cả các pháp đó Phật dạy: Đó là kiến chấp của thế gian. Nó có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta ưa thích, xem đó là Chánh Pháp, đúng pháp, ôm chặt khư khư, không muốn rời bỏ, cho đó là khuôn ngọc, thước vàng, làm mẫu mực cho đời sống thường nhân hoặc tu hành.

Các pháp này có sức lôi cuốn tâm ta, khiến ta ưa thích; gợi lên những sự hiểu biết này khả ái, khả hỷ, khả lạc khiến ta dính mắc không buông xả được, vì thế mới có tranh luận hơn thua.

Đó thì quý thầy thấy, cái giải thích của Thầy ở đây quý thầy thấy rất rõ. Do cái chỗ mà không thấy các pháp như thế nào để rồi dính mắc ở trong đó, rồi mới có cái sự tranh luận hơn thua, mới chia ra pháp này, pháp kia, pháp nọ, toàn là những cái kiến chấp mà thôi, không có gì cái mà giải thoát hết!

Bây giờ quý thầy đã hiểu rõ toàn bộ các pháp ở thế gian là pháp cám dỗ…​

Nghĩa là các pháp thế gian là pháp cám dỗ hết.

…​thu hút, lôi cuốn tâm con người đi đến chỗ làm ác, tạo bao cảnh khổ đau cho nhau.

Đó thì, chúng ta chấp pháp thôi, rồi chúng ta tranh nhau, chúng ta không nể nang những cái gì hết. Chúng ta “sạc” với nhau bằng lưỡi gươm, miệng kiếm, chúng ta không có từ nan những cái gì hết khi mà chúng ta chấp cái pháp đó.

Bằng chứng là quý thầy cũng thấy rằng, người ta tranh luận nhau về các pháp, rồi người ta nói xấu nhau thầy này, thầy khác. Đó là những cái điều không hay cho những cái người mà không thấy các pháp thế gian lôi cuốn họ, làm cho họ khởi lên khả ái, khả hỷ, khả lạc đó.

4- CHUẨN BỊ THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM PHÙ HỢP ĐỂ TRAU DỒI

(31:43) Muốn trau dồi tâm ta Xả Vô Lượng các pháp thì phải trau dồi như thế nào?

Bây giờ, muốn trau dồi cái tâm mình để Xả Vô Lượng pháp thì mình phải trau dồi như thế nào nó mới xả, chớ mình muốn - mình nãy giờ nghe Thầy nói mà không biết cách mà xả thì chắc chắn cũng không làm sao xả được hết.

Nói là một lẽ, lý thuyết là một lẽ, nhưng mà xả, làm sao xả được đây? Đó là cái mà mấu chốt của sự tu tập của chúng ta hôm nay.

Muốn trau dồi tâm ta Xả Vô Lượng các pháp thế gian…​

Đây quý thầy nhớ kỹ chỗ Thầy nói đây, cái này là rất là quan trọng đây:

…​ ta nên lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, bóng mát dưới tàn cây, ngoài trời hoặc trong chòi lá.

Đó, nhớ kỹ, những cái nơi đó đó, là cái nơi mà để chúng ta xả các pháp đó, tìm những cái nơi đó mới xả được các pháp. Còn nếu mà không có được những nơi đó thì khó mà xả các pháp này lắm. Ở giữa chợ mà ngồi giữa xe cộ chạy rần rần mà xả các pháp này thì xả không vô rồi!

Vậy thì xả như thế nào đây mà phải tìm những cái nơi mà yên tịnh, thanh vắng như vậy để mà xả?

Đây, Thầy tiếp:

Sau khi ăn uống xong, đợi cơm và thực phẩm tiêu hóa khoảng hai giờ.

Nghĩa là cơm trong bụng mình ăn xong rồi đó, phải ăn no, chớ không phải được đói mà ngồi đó mà vô đó mà ngồi thiền.

Đó thì đợi cho cơm nó tiêu hóa rồi thì lúc bấy giờ nó vừa tiêu hóa khoảng hai giờ đồng hồ, thì cơ thể chúng ta rất là thảnh thơi, nó không có đói nữa. Chớ người đói thì chắc chắn là ngồi mà xả không được đâu. Bởi vì xả cái đói còn không nổi mà làm sao mà xả các pháp được?

Đó, thì cho nên phải ăn cơm cho xong rồi, rồi bắt đầu nghỉ một chút, khoảng độ hai giờ rồi chúng ta mới bắt đầu. Bắt đầu làm cái gì đây?

Khi mà ăn cơm xong khoảng hai giờ thì chúng ta hãy ngồi kiết già, lưng thẳng…​

Muốn xả các pháp đâu phải là chuyện dễ, nó dính cũng như là cái dây chằng, cũng như lưới bện ở trong thân tâm của chúng ta, nó trói chặt cũng như là dây lòi tói rồi. Mà bây giờ muốn xả nó là phải ngồi cho vững vàng mới bứt ra từng sợi chớ đâu có phải mà xả lơ mơ được!

Đây thì Thầy dạy cho các con thấy cách thức xả:

Ta hãy ngồi kiết già lưng thẳng tại chỗ nói trên…​

Tức là tại cái chỗ mà mình tìm cái nơi vắng vẻ đó đó.

  1. và an trú, đặt niệm trước mặt.

Đó bây giờ mới đặt cái niệm trước mặt. Vậy cái niệm gì mà ở trước mặt đây để mà xả được nó?

Bởi vì các pháp nó quá nhiều, và chúng ta phải tu tập như thế nào để mà xả cái niệm gì trước, cái niệm gì sau. Cho nên khi đặt cái lưng ngồi thẳng, thật thẳng, tâm đặt cái niệm trước mắt, giữ yên lặng, rồi cái niệm đó là cái niệm gì?

5- XẢ TÂM SẮC DỤC - PHẦN 1

(34:42) Bây giờ chúng ta đặt trước mặt chúng ta là cái niệm sắc dục.

Bởi vì từ sắc dục mà chúng ta sanh ra, cho nên cái này là cái quan trọng, và sắc dục là con đường sanh tử, luân hồi, cho nên phải lấy nó mà làm đầu. Cho nên sắc, rồi danh, rồi lợi, rồi mới ăn, mới ngủ, đó là năm cái thứ dục lạc mà đầu tiên hồi nãy Thầy nhắc các con phải xa lìa, xả cái năm thứ dục lạc này, thì bây giờ sắc dục là phải xả trước chớ.

Mà chúng ta biết sắc dục là con đường sanh tử, là con đường luân hồi, là con đường mà đưa đến người này khổ cho đến người khác khổ, chớ đâu phải sung sướng, đâu phải hạnh phúc gì đâu!

Nó là con đường khổ đó, con đường đưa đến một mình mình khổ chưa đã đâu, mình đẻ ra một bầy cho nó khổ theo nữa. Có thằng con nào mình đẻ ra nó sung sướng đâu? Nó cũng trần ai khoai củ nó mới có cuộc sống chớ đâu phải dễ! Nó lăn lộn ở trong trần ai này nó đủ thứ nó mới có thể sống.

Bằng chứng như mình nè, cha mẹ sanh mình ra nè, thử hỏi có phải mình trần ai không mình mới ngoi lên được cái cuộc sống này? Còn bao người, người ta lặn ngụp ở trong cuộc sống, chưa có cơm ăn, áo mặc nữa, thì không là phải sanh ra để mà khổ sao? Thế mà cứ mãi chạy theo sắc dục để mà sanh ra. Quá là vô minh, quá là ngu si!

Con đường khổ mà không thấy khổ, cứ đắm đuối, say mê. Bởi vì cái sức cám dỗ của nó, cái sức khả hỷ, khả ái của nó làm chúng ta không dừng bước được, làm chúng ta không xả được tâm.

Rồi ta theo pháp hướng Như Lý Tác Ý:

Đó, bây giờ chúng ta theo cái pháp hướng mà chúng ta đặt cái niệm, rồi bắt đầu bây giờ chúng ta theo pháp hướng mà chúng ta Như Lý Tác Ý ra.

Thân phải ngồi thẳng đàng hoàng rồi bắt đầu chúng ta đặt cái niệm sắc dục, rồi bây giờ mới dùng cái pháp hướng mà như cái lý của nó mà tác ra, thì như vậy lâu ngày chúng ta mới phá vỡ nó, mới xả nó sạch. Chớ đâu phải xả chuyện dễ. Nó dính ở trong tâm ta. Thân của chúng ta là thân dục, mà xả nó ra đâu phải chuyện dễ, hở một chút là nó đã dục rồi.

“Sắc dục là con đường sanh tử…​”

Đây là cái câu mà chúng ta trạch pháp ra để dùng nó mà hướng tâm, mà như cái lý tác ý:

“Sắc dục là con đường sanh tử của muôn loài, con đường đầy đau khổ, triền miên bất tận kiếp này đến kiếp khác. Ta xả bỏ, từ khước, thoát ly, ra khỏi, từ giã, không nên để tâm ta dính mắc nó nữa!”

Đó là cái câu mà để chúng ta đặt cái niệm trước mặt của chúng ta, rồi chúng ta ngồi yên lặng, một lúc chúng ta lại tác ý ra, xả nữa, rồi một lát chúng ta như cái lý đó tác ý ra nữa, xả nữa, xả hoài, xả chừng nào mà tâm chúng ta thấy thân tâm chúng ta không còn dục nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta mới viên mãn.

Đó là một cái câu mà chúng ta để thực tập để xả cái tâm sắc dục của chúng ta, cái tâm dục của chúng ta. Từng nào mà chúng ta thấy rằng cái tâm này hoàn toàn nó sạch hết thì như vậy là chúng ta đã viên mãn được cái sự tu tập này.

Chắc các thầy thấy rằng Phật bảo đặt niệm trước mặt, nhưng Đức Phật nói tới đó thôi, không nói nữa. Nhưng Thầy đã hiểu được cái lý này là do cái sự kinh nghiệm bản thân của Thầy, hôm nay Thầy vạch ra để cho quý thầy biết cách áp dụng để diệt cái tâm sắc dục của quý thầy, từ đó quý thầy mới thấy được con đường giải thoát thênh thang.

(37:45) Nếu không đặt niệm trước mặt, không dùng pháp hướng mà Như Lý Tác Ý thì chắc chắn khó mà xả được cái tâm này. Nó núp đó chớ nó chưa hẳn đã chết đâu.

Chúng ta nhắc cái tâm chúng ta hằng ngày cho thấm nhuần, cho thấm tận xương tủy của nó thì nó mới chạy trốn, nó mới đi mất, chớ còn không khéo thì nó núp ở trong thân chúng ta để chờ cơ hội, rồi bắt đầu nó bùng dậy như một ngọn lửa, nó không phải dễ dàng lắm đâu!

Đây là câu trạch pháp để quý thầy dùng nó mà hướng tâm xả bỏ. Hàng ngày, quý thầy phải siêng năng tu tập trau dồi câu này để đoạn dứt tận tâm ái dục.

Đó, thì luôn luôn phải dùng cái câu này để mà đoạn dứt cái tâm ái dục của quý thầy thì mới mong quý thầy thoát ra khỏi cái nanh vuốt của con đường đi sanh tử luân hồi này, chớ không khéo quý thầy sẽ luôn luôn tu tập - chớ tâm đó khó quá, chớ không phải dễ đâu.

Vì chúng ta từ cha mẹ sinh ra cũng nơi từ con đường này, do đó mà muốn thoát ra con đường này, phải có một sự trau dồi hết sức tâm mình buông xả thì mới dứt ra được, chớ không thể hiểu sơ sơ mà có thể được .

Nếu quý thầy dùng câu trạch pháp này chưa xả được thì quý thầy tiếp tục hướng tâm Như Lý Tác Ý:

Nghĩa là cái câu này nó chưa có đạt được cái kết quả, thấy tâm mình nó còn dục, chưa hết, thì quý thầy phải tiếp tục thêm một cái câu như cái lý khác để mà xả nó nữa.

Đây cái câu Thầy gợi cho quý thầy rồi từ đó quý thầy tự soạn lấy để cho phù hợp với đặc tánh của mình:

“Sắc dục là bất tịnh, là uế trược, nhớt nhao, hôi thúi, tanh hôi khó chịu bẩn thỉu vô cùng, tạo muôn ngàn thứ bệnh tật, tai ương, và truyền nối nhau nhân quả luân hồi kiếp này đến kiếp khác, không bao giờ thôi dứt, một người để lại muôn người khổ, khổ mãi nối tiếp truyền nhau vô cùng, vô tận.

Ta phải xả bỏ, xa lìa, viễn ly vĩnh viễn, chẳng dám bén mảng, xem nó như rắn độc, ung nhọt, cho nó là nguy hiểm nhất, cho nó là tai họa, cho nó là chỗ ác độc, cho nó là bệnh truyền nhiễm nan y không thuốc chữa!”

(40:14) Đó là một cái câu để mà chúng ta trị cái bệnh sắc dục của chúng ta đó. Câu trên nó chưa nhằm nhò thì phải áp dụng thêm câu dưới cho mạnh hơn, và như truyền lệnh, thì may ra quý thầy sẽ chấm dứt được cái nỗi khổ của tâm sắc dục của mình.

Cuộc đời tu hành là cả một sự rèn luyện, trau dồi chớ không thể nói suông suông. Thầy nói hết giọng mà quý thầy không về thực tập thì Thầy quá mỏi mệt, uổng lời của Thầy nói.

Thầy đem hết tâm can của mình truyền dạy lại những kinh nghiệm để cho quý thầy thoát khỏi cảnh địa ngục, cảnh lầm than đau khổ của kiếp người, mà quý thầy nghe rồi mà quý thầy bỏ qua thì rất uổng cho Thầy, rất uổng cái điều mà Thầy đã đem hết tâm huyết dạy lại cho quý thầy để quý thầy thoát ra khỏi kiếp trầm luân khổ ải.

Đến đây Thầy xin chấm dứt bữa này, và Thầy ngày kế tiếp Thầy sẽ giảng để chúng ta còn xả nhiều thứ.

Bây giờ mới có xả có sắc dục mà thôi, còn nhiều thứ cần phải xả nữa. Nếu mà giảng mà xả cho đầy đủ thì Thầy nói không biết bao giờ mà tận cùng. Bởi vì vô lượng mà, vô lượng pháp, phải nói vô lượng lời, phải nói vô lượng pháp để mà đối trị mà xả nó.

Thì sau này Thầy cũng tóm lược một phần trong năm thứ ngũ dục lạc mà xả nó để cho quý thầy biết cách, rồi từ đó trí tuệ của quý thầy thông suốt, rồi quý thầy mới đặt những cái niệm, rồi mới trạch những cái pháp cho nó phù hợp, để rồi quý thầy do đó mà xả cho sạch, sạch trắng bạch như vỏ ốc, thì bấy giờ mới đi vào con đường xuất gia tu hành, trở thành một vị Tỳ Kheo, một vị Sa Môn đúng là những Thánh Tăng trong thời Đức Phật.

Đến đây thì quý thầy đã hiểu rồi, thì hãy cố gắng mà thực hiện những lời Thầy dạy rồi Thầy sẽ vui mà Thầy tiếp tục giảng. Mà nếu không thực hiện thì Thầy nghĩ rằng mình nói nhiều quá mà quý thầy không thực hiện, thì Thầy mệt mỏi, rồi Thầy nghỉ Thầy không giảng nữa!

2- THƯ ĐỀ NGHỊ TRƯỞNG LÃO SANG NƯỚC NGOÀI HOẰNG PHÁP

(43:00) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học Tứ Vô Lượng Tâm. Nhưng trước khi học thì Thầy sẽ đọc lại hai cái bức thơ của thầy Thiện Thiền gửi cho Thầy.

Bức thơ thứ nhất, cũng trong những cái bài học có gợi ý rồi thầy cũng có suy nghĩ rồi thầy viết bức thơ, rồi sau đó thì có gợi ý đến cái Trung tâm An dưỡng thì thầy cũng có viết bức thơ gửi cho Thầy.

Cho nên hôm nay thì Thầy xin đọc lại bức thơ đầu tiên để cho quý thầy nghe, và đồng thời Thầy giảng trạch là tại sao, cái lý do nào mà Thầy không thực hiện theo cái lời thỉnh cầu của thầy Thiện Thiền.

“Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Phương trượng!

Hôm nay, con có chút duyên sự về nhân duyên ẩn bóng của Phương trượng, kính mong Phương trượng từ bi, đại từ, đại bi xem xét những lời ngốc nghếch, táo bạo của con kính trình lên Phương trượng về sự tồn vong của Phật Pháp và lợi ích cho tất cả nhân sinh hiện nay và mãi mãi về sau, là ngọn đuốc từ bi soi đường đi cho nhân loại.

Con tạm ví Phương trượng như hòn ngọc Thái Hòa. Thuở xưa, khi nhà họ Thái nhặt được, nó có năm điều kỳ lạ, kỳ đặc mà các loại ngọc báu khác không có thể có được. Biết nó là hòn ngọc quý nên đem dâng lên cho nhà vua, vua kêu các nhà chuyên xem ngọc coi thiệt hay là giả.

Các nhà xem ngọc nói là loại đá quý giống ngọc chớ không phải là ngọc thật, cho nên nhà vua nói họ Hòa dối vua, khép vào tội khi quân, chặt tay, chân người họ Hòa. Vì uất ức nhà vua không biết dùng ngọc quý, lại tin bọn xem ngọc ngu si không biết gì, cho nên nhà họ Hòa mới đem dâng lên cho nhà vua ở vương quốc khác. Khi đó nhà vua nước mình mới hối hận tìm cách đòi lại.

Thì hôm nay, Phương trượng tiện Phật hóa thế gian. Ý của con muốn nói là Phương trượng liên hệ với Phật tử ở nước ngoài bảo lãnh Phương trượng đi du lịch, khi sang bển, Phương trượng trình bày pháp tu và sở chứng.

Người Tây phương chuộng khoa học và thực tế, họ sẽ đem những dụng cụ y khoa ra chứng nghiệm xong họ sẽ công bố lên cả thế giới. Chừng đó pháp môn tu thiền định của Phương trượng ví như mặt trời chiếu ánh sáng chói chang cả vũ trụ này. Chừng đó, Việt Nam mới thật là hối tiếc!”

3- VIỆC LỚN DO NHIỀU NGƯỜI CÙNG LÀM, KHÔNG DỰA VÀO ANH HÙNG CÁ NHÂN

(45:47) Đó là lời của thầy Thiện Thiền trong bức thơ thứ nhất. Bây giờ Thầy xin trả lời cái bức thơ này.

Nếu mà cái điều kiện này, cách đây 17 năm mà Thầy đã muốn mình làm một cái anh hùng hay hoặc là một cái người vĩ nhân thì Thầy đã làm xong lâu rồi. Vì Thầy nghĩ rằng cái anh hùng cá nhân nó không bằng những anh hùng tập thể, nó truyền thừa mãi mãi.

Hầu hết là mọi người nó đều có cái anh hùng cá nhân. Vì người ta nghĩ rằng người ta làm được cái gì đó thì người ta huân theo cái đó để cho mọi người đều biết lấy mình, mà không để cho người khác biết, mà cũng muốn dìm người khác xuống nữa để cho cái anh hùng cá nhân của mình nó nổi bật lên, nó làm cho sáng tỏ ra.

Điều này Thầy rất suy nghĩ. Một vị anh hùng mà làm nên danh, biết bao nhiêu những vị anh hùng vô danh nằm xuống trong lòng đất này.

Cho nên thí dụ như người ta nhắc đến Napoleon, hoặc là người ta nhắc đến Hitler, những cái nhà độc tài, thì những nhà đó đều là anh hùng cá nhân.

Cũng như trong đất nước chúng ta thấy thí dụ như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, mà những người này họ đã thành tựu được những cái chiến công hiển hách thì biết bao nhiêu người chết, nhưng người ta chỉ tập trung đến những người đó, những cái danh rất lớn.

Biết bao người khổ công tu tập, chớ đâu phải riêng mình Thầy? Mà huân lại ở Thầy chỉ là một cái anh hùng thì Thầy thấy đó là cái cá nhân, quá cá nhân.

Cho nên từ đó Thầy âm thầm để kiếm người đào tạo, lấy kinh nghiệm của mình mà để dạy cho người cho đạt được như mình, và những gì họ sẽ làm hơn mình. Mình âm thầm có thể giúp họ hơn là để cho cá nhân của mình lộ ra.

Đó là Thầy không muốn anh hùng cá nhân mà chỉ muốn tất cả dân tộc Việt Nam và những con người ở trên thế gian này đều là những anh hùng hết, những người làm nên những trang sử, những người làm nên những vĩ đại của tôn giáo, chớ không phải một cá nhân nào.

Tuy nói vậy, nhưng cái sự việc làm của mình nó phải đi từng cái bước một, người này thừa kế người kia, để có một cái con đường đi, để dìu dắt nhau đi, để làm nên một sự nghiệp lớn. Còn một người mà làm nên một sự nghiệp lớn, sự nghiệp đó sẽ bị tan hoại.

Như chúng ta thấy Thiền Trúc Lâm, chỉ có ba thầy trò mà nương nhau để mà làm cái sự việc lớn, từ đó ba thầy trò tịch rồi thì Thiền Trúc Lâm im bóng.

Bây giờ, chúng ta nhìn thấy ở trong nước của chúng ta, trải qua một cái thời gian chúng ta cũng thấy có nhiều vị xuất chúng anh hùng chớ không phải không, nhưng rồi chỉ có một mà thôi chớ không có người thừa kế thứ hai nữa. Rồi đây chúng ta cũng nhận thấy những điều đó hiển nhiên trước mắt.

(48:38) Ở đây quý thầy thấy, như cô Út là một cái người chẳng ra gì hết, người ta xem thường lắm. Nhưng mà từ khi mà Thầy thấy rằng một con người nào cũng có một cái khả năng của họ, mình chỉ cần khai triển họ thôi, từ đó Thầy chỉ khai triển nhẹ nhàng, tự cô Út phải phát triển cái sức của mình.

Bởi vì con người nào cũng có cái khả năng trí tuệ và cái sức của mình, cho nên tự cô cô phải rèn luyện cô, cô phải tạo cho cô có những trí thông minh, sáng suốt, không thể nào mà cô đứng chậm một chỗ. Nếu mà cô cứ nương vào người khác hơn mình, nhờ người khác để dẫn dắt mình thì chắc cô không phát triển nổi, từ đó cô không điều khiển được chúng nữ.

Hôm nay, cô điều khiển được chúng nữ là do sự phát triển chính bản thân của cô, sự điều khiển của cô và sự hướng dẫn của cô do sự phát triển, mà nhiều khi cô không cần học ở Thầy chút nào hết. Thầy thấy rất là tuyệt diệu là do ở chỗ biết khai triển con người để họ làm nên sự nghiệp, nên cái tốt của họ.

Đó là những điều mà thực hiện ở đây, Thầy thấy cô Út làm sao mà cổ có thể điều khiển được chúng nổi? Thế mà bây giờ cổ điều khiển được chúng nổi, và cổ dạy đâu chúng nghe, ở bên chúng nữ.

Trước kia thì họ không bao giờ nghe, họ chỉ biết nghe Thầy mà không bao giờ biết nghe cô Út. Từ cổ phát triển được những cái gì mà chính của cổ, dạy người ta thực tế, kết quả, thì từng đó người ta mới chịu nghe.

Còn bây giờ quý thầy cứ học ở Thầy, nghe Thầy nói rồi bắt đầu quý thầy cũng nói ra như vậy, làm như vậy thì người ta nghe Thầy hơn là nghe quý thầy! Bởi vì quý thầy ít ra cũng phải phát triển những cái kinh nghiệm.

Bởi vậy, tại sao Thầy không đem cái kinh nghiệm của Thầy mà trực tiếp, mà Thầy chỉ nhắc nhở “phải làm như vậy, vậy” rồi quý thầy phải rút tỉa từng kinh nghiệm của mình ra. Từ đó, cái thực tế của quý thầy là quý thầy tự phát triển trí tuệ và cái kinh nghiệm của mình.

Cái đó thực tế, để làm cho quý thầy trở thành những con người có đủ cái khai triển, có cái sức khai triển được cái trí tuệ, có cái sức khai triển trên con đường Phật Pháp. Sau này quý thầy còn hơn Thầy gấp mấy!

Giai đoạn của Thầy khác, mà giai đoạn của các thầy sẽ tiếp tục con đường Phật pháp nó còn khác xa hơn nữa. Con người càng ngày đi lên chớ đâu phải đứng lại sao?

Cho nên thí dụ như bây giờ Minh Tông được Thầy dạy bảo hay hoặc là các thầy được Thầy dạy bảo, nhưng mà sau này cái chương trình, cái phương án của Thầy mà đề ra để đem lại một cái hạnh phúc cho nhân loại như vậy, thì quý thầy vẫn phải theo cái đường đó mà hướng tới để độ chúng sanh toàn cả thế giới. Như vậy là sự phát triển của quý thầy phải đến tuyệt đỉnh.

Thì cái phương án Trung tâm Từ thiện An dưỡng ra đời là nhằm để phục vụ, đem lại mọi hạnh phúc cho con người trên thế gian, thì đạo Phật là một - ước vọng của đạo Phật là đem chúng sanh thoát ra khỏi vòng đau khổ! Thì đó là cái hướng, mà cái hướng đó không phải là có một anh hùng làm.

Còn nếu mà Thầy làm không thì các đệ tử của Thầy chỉ ngồi đó mà nhìn thôi, là người ta sẽ ca tụng Thầy chớ còn các đệ tử Thầy ra gì? Từ đó, Thầy mất rồi thì cái chương trình này nó sẽ bị lụn bại.

(51:44) Cho nên Thầy phát triển từ cái chỗ tu tập của các thầy được theo Thầy, Thầy không đem những cái kinh nghiệm của Thầy được, là vì Thầy biết rằng Phật dạy: “Con người có ba đặc tướng: Nhân tướng, hành tướng và đặc tướng”, nhất là cái đặc tướng rất khó, không thể dễ.

Cho nên các thầy hỏi: cái hơi thở nào mà chúng ta nhập Sơ Thiền, cái hơi thở nào nhập Nhị Thiền, cái hơi thở nào mà nhập Tam Thiền, cái hơi thở nào mà nhập Tứ Thiền? Nó không có một cái mực nhất định được, là vì mỗi đặc tướng của hơi thở của con người nó phải có khác nhau.

Có người bây giờ thở cái hơi thở 3 giây là hơi thở Sơ Thiền, nhưng có người thở 4 giây, có người thở 5 giây. Làm sao bảo rằng 5 giây là nhập Sơ Thiền, mà 2 giây là nhập Sơ Thiền được? Các thầy phải hiểu điều đó.

Cho nên đó là do cái đặc tướng của mỗi người. Vì vậy mà người hướng dẫn phải tùy theo cái đặc tướng đó mà hướng dẫn cho người ta để người ta nhập vào.

Cũng như bây giờ đặt ra là 5 giây là nhập Nhị Thiền, người nào cũng tới 5 giây nhập Nhị Thiền, có người 5 giây người ta không nhập được, mà người ta 7, 8 giây, hay 10 giây. Nhưng mà có người tới 20 giây hay là 30 giây người ta mới nhập Tam Thiền, mà có người thì mới có 6 giây người ta nhập Tam Thiền! Làm sao mà căn cứ có mực chỗ nào được mà dạy? Đó là cái đặc tướng mà!

Cho nên Phật dạy nó có ba cái tướng của nó rõ ràng riêng biệt: nhân tướng, hành tướng và đặc tướng. Mỗi cái nó có cái riêng biệt của nó trong đó. Cho nên ở đây phải tự người đó phải phát triển theo cái đặc tướng của mình, và ông thầy phải khéo léo và linh động để hướng dẫn theo cái đặc tướng của người ta, thì người ta mới nhập được định.

Đó thì, ở đây nó khó là khó cái chỗ đó, chớ không thể nào như có một cái khuôn sẵn để rồi chúng ta vô máy mà chúng ta ép ra thành hàng loạt, hàng trăm cái máy được. Nó không phải như vậy được, mà nó phải có một cái sự uyển chuyển khéo léo.

(53:06) Vậy cho nên Thầy nói, nếu mà cần thiết mà một cá nhân để anh hùng thì chắc chắn là thiên hạ này đã biết Thầy từ lâu rồi!

Thầy mà háo danh, kêu là đại háo danh thì chắc chắn là khi mà thầy Thanh Từ nhận Thầy ở lại, thì lúc bấy giờ Thầy chỉ tìm mọi cách để phô trương cái tu tập của mình, Thầy chỉ nói rằng người ta đem điện tâm đồ người ta đo Thầy trong lúc Thầy nhập Tứ Thiền, người ta sẽ thấy Thầy hoàn toàn là không thở là người ta đã hoảng kinh rồi!

Chứ chưa nói gì mà Thầy câu hữu một vài cái trên thân, trên tâm định, trên thân định, mà Thầy câu hữu một vài cái sự đặc biệt của cái điều khiển được cái tâm linh của Thầy rồi thì người ta còn kính phục đến bực nào nữa?

Nếu mà cầu một cái đại danh thì chắc chắn là Thầy sẽ là một anh hùng, một danh nhân trên thế giới chớ không còn ai hơn nữa! Thầy nói thật! Với việc làm Thầy biết rất rõ. Nhưng mà từ 17 năm trời mà đến bây giờ thì có những sự kiện xảy ra thì quý thầy mới nhận xét qua Thầy được chút ít, chứ chả biết gì hết!

Người ta đồn Thầy như thế này, người ta đồn Thầy như thế kia, người ta nói Thầy là cho bùa để đi bán, mua may bán đắt, người ta nói Thầy là nói chuyện quá khứ vị lai, là người kiếp này, kiếp kia, người ta thêu dệt đủ loại!

Người ta nói Thầy đủ thứ hết, nhưng mà Thầy vẫn âm thầm, mặc, họ nói gì nói. Tại vì họ chưa biết mình! Họ khen, là họ khen cái kiểu của họ tức là họ chê. Mà họ chê cái kiểu của họ, tại họ không biết họ chê, thì họ chê theo cái kiểu của họ chớ làm sao họ biết mình được?

Cho nên đối với Thầy, thản nhiên, không có lo lắng gì vấn đề khen chê, chỉ tìm con người nào mà tin tưởng ở mình, dạy họ đâu họ làm đó.

Và cũng vì cái sự khen chê đó mà làm cho người ta mất niềm tin ở Thầy rất nhiều, cho nên khi Thầy dạy, họ chỉ dựa vào kinh, vào những cái lý luận suông mà người ta nỗ lực tu, người ta không thấy ở kinh nghiệm bản thân của Thầy.

Nhưng Thầy nói đó là cũng là cái duyên. Nếu mà Thầy lộ ra một cái gì thì chẳng qua Thầy lòe bịp thiên hạ mà gạt người ta để thành một cái danh, cái danh hão, cái danh không thật, cái danh không giải thoát đâu, mà giải thoát thì phải giải thoát cho thật.

Đó thì hôm nay Thầy trả lời thầy Thiện Thiền.

Biết rằng cái điều mà thầy Thiện Thiền nghĩ thì nghĩ tốt, nghĩa là làm như vậy để cho người ta biết rằng có một người tu như vậy, thì Phật giáo nó mới có thể theo cái đó, đường lối đó nó mới chấn hưng lại được, nó làm cho Phật pháp sáng tỏ lên. Cái nghĩ của thầy Thiện Thiền là cái nghĩ tốt chớ không phải là nghĩ xấu, không phải nghĩ cầu danh. Cái góc độ của thầy không nghĩ cầu danh.

Nhưng mà tự làm cái đó là mình phải hiểu: Một khi mình làm một cái gì thì mình phải nghĩ cái quả của nó. Cái quả của nó, nó đem đến cái tâm niệm nào của mình, mình phải xét! Cho nên, Thầy làm cái gì thầy rất suy nghĩ.

4- THƯ ĐỀ NGHỊ GIAO CHO GIÁO HỘI THIẾT LẬP TRUNG TÂM AN DƯỠNG

(56:21) Về cái vấn đề bức thơ thứ hai, thì thầy Thiện Thiền sau khi nghe cái Trung tâm An dưỡng thì thầy cũng có tâm nghĩ đến xã hội, nghĩ đến con người, thầy có tâm tốt, cho nên thầy mới viết bức thơ này. Thầy xin đọc bức thơ này:

“Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật !

Kính bạch Phương trượng!

Như lời thuyết giảng sáng hôm qua xong, Phương trượng có nói lên những tâm tư nguyện vọng của Phương trượng sau này. Như chiều hôm qua, Phương trượng có nói cho con nghe về Trung tâm An dưỡng ở Phước Hải mà phương án Trung tâm đã dự định từ lâu.

Hôm trước con có nghe Phương trượng nói là khu đất đó Phương trượng tính giao cho đạo hữu Tâm Như bán lấy số tiền đó đem làm phước bố thí. Như con thiết nghĩ, Phương trượng làm như vậy cũng là cao quý nhưng chỉ tạm xoa dịu cơn đau trong phút giây ngắn ngủi chớ không trị dứt được cơn đau.

Như ý nghĩ thiển cận của con, Phương trượng nên hiến dâng cúng dường khu đất đó cho thành hội, rồi giao lại cho ban Hoằng pháp, rồi thượng tọa Trí Quảng sẽ thiết lập Trung tâm An dưỡng như Phương trượng đã dự định. Thì bên ngoài là hình thức Trung tâm An dưỡng, còn bên trong thành lập hai dòng tu: Thể Nhập và Thể Hiện.

Ban Hoằng pháp Trung ương sẽ đào tạo, rèn luyện nhóm tân tăng tức là dòng Thể Hiện, có vốn liếng kiến thức về Phật pháp cho thông suốt, đầy đủ đức độ, rồi đưa tài năng đức độ đó phục vụ cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam, rồi đem đạo từ bi len lỏi vào nhân gian, hay đem đạo Phật vào cuộc đời, xoa dịu những tâm hồn đau khổ, bơ vơ không nơi nương tựa, đúng với tinh thần của Lục Hòa.

Lục Tổ nói: “Phật Pháp bất ly thế gian pháp” hay “Phật pháp bất định pháp” - tất cả pháp đều là Phật pháp. Cho tất cả chúng sanh hiểu và thâm nhập được giáo lý duyên nhân quả luân hồi và nghiệp báo của đạo Phật sẽ biến thế gian thành thiên đàng và Niết Bàn hiện tại ngay đây chớ không phải thiên đàng ở cõi giới đâu đâu hay Niết Bàn ở nơi nào xa xôi diệu vợi. Nếu mỗi cá nhân, mỗi con người biết hướng thiện thì ngay đây, bây giờ, chớ không phải chờ chết.

(59:07) Nếu những Phật tử nào họ có trình độ kiến thức cao, có ngành nghề và nghiệp vụ chuyên môn trong xã hội, khi họ phục vụ cho Phật giáo thì Giáo hội sẽ trả lương cho họ, nếu họ phát tâm phục vụ cho Giáo hội thì càng tốt.

Đồng thời họ sẽ chăm lo đời sống cho dòng Thể Nhập chuyên tu, và họ thay cho những vị này hoằng pháp lợi sanh và mọi sinh hoạt ích lợi chúng sanh, xã hội, là những người con trung kiên của Giáo hội mà châm ngôn của Phật giáo nói là “tốt đạo, đẹp đời”

Mà thật vậy, nếu nhóm tân tăng này được ra đời thì những văn hóa đồi trụy và những tệ nạn xã hội sẽ được giảm đi nhiều. Đồng thời những nơi dưỡng lão, cô nhi viện, khám đường, nhà giam, khu cải tạo và bao nhiêu sự đau khổ của cõi trần gian đa sự này bớt đi nhiều khi họ hiểu biết được đạo lý nhân quả của nhà Phật áp dụng dạy trong các trường phổ thông mà Phương trượng ước mong, canh cánh nỗi lòng bấy lâu.

Đồng thời Phương trượng làm cố vấn tối cao giải quyết những vấn đề khó khăn và đóng góp những ý kiến tốt đẹp cao quý. Còn ngoài ra, mọi vấn đề sinh hoạt như ngoại giao, kinh tế, tài chánh, tổ chức v.v…​ giao hết cho Giáo hội họ đảm đương. Phương trượng được nghỉ ngơi, trong khi sức khỏe của Phương trượng thì nhà nước cũng không có lý do kêu Phương trượng ra làm chính trị được, mà Phương trượng chỉ làm mặt trong mà mặt ngoài lại thành công tốt đẹp.

Con ví Phương trượng như nhà vua giao ngôi cho Thái tử lên làm đức Thượng hoàng, chỉ làm cố vấn cho Thái tử, còn việc nước, việc dân thì Thái tử tự lấy, nhà Vua không còn phải bận tâm nữa.

Dù sao, tiếng nói của Giáo hội cũng là tiếng nói của cả nước. Mặc dù Phương trượng có đầy đủ đức độ, tài năng, uy đức như thế nào đi nữa thì cũng không bì được với tiếng nói của cả nước.

Cũng như hôm trước, Phương trượng dạy kinh Thập Thiện, ví dụ ông vua chỉ biết lo cho mình thì ngày trước, ngày sau, không bao lâu cũng bị phế xuống ngai vàng. Còn nếu nhà vua chỉ chăm lo cho dân, cho nước, lấy lòng dân làm lòng mình thì ngai vàng mới tồn tại, mình mới ở mãi với ngai vàng.

Cho nên kinh nói: “Đức chúng như hải”. Theo con thiết nghĩ, cái nhân của Phương trượng đứng ra lo cho việc này dù cho có thành công cũng ở trong thất bại, có kết quả cũng là sự phá sản về sau, không sao tránh khỏi!

Đó là những lời chân thành của con kính trình lên Phương trượng. Có điều chi sơ sót, con cúi xin Phương trượng từ bi hoan hỷ cho con!

5- CHỈ CÓ ĐỆ TỬ CỦA THẦY MỚI TRIỂN KHAI ĐƯỢC TRUNG TÂM AN DƯỠNG

(01:02:09) Bây giờ xin trả lời bức thơ này để quý thầy thấy rõ những cái tâm niệm tốt, mà quý thầy khi mà nghe Thầy nói đến cái sự ích lợi của dân, của nước thì ai cũng canh cánh bên lòng, cũng quyết muốn làm được những cái điều tốt đó chớ không ai không muốn, thì một trong những người đó có những ý kiến, đó là thầy Thiện Thiền.

Nhưng cách đây ba năm, sau khi cái khóa mà dạy tu ba năm trước thì Thầy ra thất. Ra thất thì, cái phương án của Thầy thì cách đây sáu năm Thầy đã dự thảo phương án này rồi, nhưng vì mắc vào trong thất để tiếp tục hướng dẫn chúng tăng tu tập, cho nên ba năm giam mình không đi đâu.

Sau ba năm ra thất thì Thầy lại tiếp tục trên con đường đi tìm người có một chí hướng với mình để lo lắng, để cộng sự cùng nhau lo lắng cái Trung tâm này.

Nhưng Thầy đi từ chỗ này đến chỗ khác, lúc bấy giờ thì Hòa thượng là một ánh sáng của hào quang, không những trong đất nước mà cả thế giới, Thầy tin tưởng Hòa thượng chỉ chấp nhận một chút là đã thành công rồi.

Nhưng đến đó Thầy cũng mất hy vọng, vì Hòa thượng có nói với Thầy: Hòa thượng chỉ lo cho người chuyên tu, không có lo cho xã hội. Hòa thượng nói như vậy Thầy đã hiểu biết Hòa thượng ở chỗ nào rồi. Thầy không thể nào mà còn cầu xin gì được nữa.

Nhưng Hoàng Tâm thì quỳ xuống xin Hòa thượng: “Hòa thượng vì thương chúng con mà Hòa thượng hãy nhận làm cố vấn ở trong cái trung tâm này để cho nó có cái uy tín của Hòa thượng, mà cái đức độ của Hòa thượng và cái uy tín của Hòa thượng thì có thể mới thành công được!” - thì Hòa thượng nhận cái lời làm cố vấn ở trong cái trung tâm đó.

Chớ còn Hòa thượng thì hoàn toàn là Hòa thượng không có đem cái khả năng của mình cũng như là đem những cái sự việc này mà đóng góp vào, chỉ làm cố vấn, cái gì mà không đúng hay hoặc có những cái ý kiến gì thì đến hỏi Hòa thượng, Hòa thượng chỉ bảo thôi.

Đó là cái ý của Hòa thượng như vậy, coi như Hòa thượng không có cái trách nhiệm trong đó mà chỉ có góp ý. Đó là cái ý.

Thì Thầy và những người khác đến gặp các bậc Hòa thượng lớn ở trong Giáo hội, và đồng thời thì cũng gặp các vị có uy tín ở trong Giáo hội, nhưng đến đâu thì họ cũng có cái khéo léo của họ hết chớ không phải không khéo léo.

Vì họ nghĩ rằng cái gì mà họ đề ra là họ phải quyết định họ làm cho được, thì Thầy đã hiểu nó rõ ràng, còn cái gì mà Thầy đã đề ra mà họ có làm cho được thì chẳng qua là dồn lại cái danh đó cho Thầy, cho nên họ không muốn, chớ không phải gì hết.

Vì Thầy biết rằng, mỗi con người hiện giờ họ đang ở trong cái anh hùng cá nhân, họ đang muốn làm cho mình nổi bật hơn mọi người, mà bây giờ có một cái sự hợp tác như vậy là anh hùng cá nhân của họ bị mất mát đi, ít ra nó cũng mất một phần nhỏ nào trong đó. Họ thì họ không muốn vậy.

(01:05:32) Nhưng họ không nghĩ rằng, cái chuyện làm việc cái lớn là phải không có người anh hùng ở trong đó, mà chỉ người biết làm, làm vì lợi ích cho mọi người thì mới làm được.

Cho nên, đi khắp cùng, suốt cái thời gian mà ra thất đó thì đem hết cái sức của mình chiều chuộng tất cả mọi người. Nghĩa là dâng lên cho họ, miễn là họ làm thôi, cộng tác với mình: Những người mà có thế, có cái quyền, họ đứng ra xin phép hay này kia, hay hoặc là Thầy đứng ra xin phép, rồi giao lại tất cả những cái phương án này, Thầy chỉ kêu gọi Phật tử đóng góp vào một số tiền hoặc là bỏ ra một số tiền nào đó để cho quý thầy thực hiện, để cho Giáo hội thực hiện cho được cái lợi ích chung cho Phật giáo và cho dân tộc, và cho con người ở trên thế gian này.

Nhưng ai cũng từ chối một cách khéo léo, và đồng thời Thầy cũng thui thủi trở về hai bàn tay trắng của mình.

Thầy nghĩ rằng, cái phương án này chỉ có những người đệ tử của Thầy sau này có thể lần lượt và từ đó họ sẽ khai triển trí tuệ và khả năng của họ. Vì cái nguyện vọng quá lớn với con người trên thế gian này, chắc chắn những người đệ tử của Thầy đã tiêm nhiễm được tư tưởng của Thầy họ mới làm nổi. Còn những người, như những người khác thì họ chỉ là nghĩ đến cái anh hùng cá nhân của họ, thì chắc chắn họ không làm được.

Thầy nghĩ rằng, bây giờ ở đây có những thầy, mà các thầy phải hiểu rằng, không phải quý thầy ra mà một mình quý thầy sẽ làm hết được cái chương trình này đâu.

Quý thầy chỉ làm một phần nào đó, rồi quý thầy lại giao cho một người kế tiếp, thì người kế tiếp đó lại tiếp tục làm cái con đường này nữa, cho mãi đến khi mà thành tựu thì chúng ta không biết là bao nhiêu người làm. Và bao nhiêu người làm tức là bao nhiêu anh hùng của con người chớ không phải là có một mình Thầy!

Cho nên Thầy không dành một mình Thầy được. Bây giờ, phỏng chừng Thầy làm, Thầy dành cho một mình Thầy như Thầy Thiện Thiền nói, cái kết quả đó nó cũng chẳng có gì. Đây, Thầy đọc lại chỗ này: “cái thành công ở trong thất bại” nghĩa là Thầy có thành công đi nữa cũng ở trong thất bại, vì biết bao người đang phá, đâu có để cho Thầy tạo thành một cái danh?

Các con hiểu điều đó. Nhưng chúng ta lần lượt bước đi từng người này thừa kế đến người kia thừa kế thì không bao giờ ai phá được chúng ta!

(01:08:16) Cho nên Thầy đã suy nghĩ rất nhiều. Cho nên lúc này, tuy rằng Thầy cũng còn sức khỏe kéo dài thêm năm mười năm nữa vẫn có thể được, nhưng phải ẩn bóng để rèn luyện đệ tử của mình trong một cái tinh thần phát triển của nó, chớ không thể để nó tựa nương vào Thầy nữa, mà nó phải tự phát triển.

Phát triển để làm những gì? Làm lợi ích cho chúng sanh!

Làm lợi ích gì? Làm lợi ích cho Phật pháp!

Còn nếu để nó nương tựa theo Thầy hoài thì tới chừng mà Thầy thị tịch thật sự thì còn ai mà ở sau lưng nó để mà nhắc nhở giúp đỡ nó? Thì do đó, rồi nó sẽ tự theo ý của nó thì nó chưa có đủ cái khai triển, những cái sáng suốt, cho nên nó có thể lầm lạc.

Hoặc là nó chỉ thấy Thầy là tuyệt vời rồi cho nên nó dậm lại đó mà nó không chịu khai triển nó ra nữa, thì như vậy, con đường mà tiến tới thì nó bị dừng lại rồi. Nó thấy Thầy hơn toàn bộ, không còn ai hơn Thầy được.

Cũng như bây giờ, nhìn Hòa thượng mà chúng ta thấy Hòa thượng hơn tuyệt hết rồi, thì các đệ tử của Hòa thượng không còn phát triển được nữa.

Cho nên Thầy đã biết lúc nào tấn mà lúc nào thối, lúc nào hiện mà lúc nào ẩn. Mà sự ẩn của Thầy thì các thầy cứ nghĩ rằng Thầy sẽ ẩn bóng mãi chớ không phải Thầy còn lộ diện như các vị, các nhà võ công sau một cái thời gian ẩn bóng để trui luyện lại những võ công của mình rồi mới tái xuất hiện giang hồ.

Thầy thì không tái xuất hiện giang hồ cho đến khi nào Thầy thị tịch mà thôi. Chỉ còn lại những người đệ tử của Thầy hiện nay đã và đang tu tập và thành tựu được Phật pháp, thì những người đó phải tự sáng tạo, phải tự khai triển, những gì mà Thầy chưa khai triển, họ sẽ khai triển. Họ lấy cả đầu óc họ làm ra thì họ cũng trở là những anh hùng của những con người khác.

Chớ không thể Thầy để cho họ nhẩm lại cái hiểu biết của Thầy, nhai đi nhai lại cái bã mía này như nhai đờm dãi, Thầy không muốn như vậy!

Nghĩa là Thầy hôm nay dạy như vậy, ngày mai các thầy phải triển khai qua kinh nghiệm của mình làm cho người ta tu dễ dàng hơn nữa thì cái đó là cái mong muốn của Thầy, chớ không được nhai lại, Thầy nói làm sao nhai lại như vậy, điều đó là cái điều sai hết, và không đào tạo những con người có những cái thông minh sau này.

Bởi vậy người ta chỉ nhai đi nhai lại những cái kiến giải của kẻ khác, tưởng đó là hay, nhưng mà sự thật ra đó là cái học lóm chứ không có cái gì mà hay hết!

Cho nên các tổ sư nói, đó là đờm dãi của người xưa. Nghĩa là cái người xưa người ta đã đặt ra cái đó rồi, bắt đầu bây giờ mình nhai đi, nhai lại cũng bấy nhiêu đó thôi, lặp đi lặp lại cũng bấy nhiêu đó thôi, không có cái gì khác hơn hết, thì tức là mình chẳng có gì.

(01:10:27) Cho nên những người sau đều lụn bại, và Phật Pháp suy đồi, và Thiền Tông suy đồi cũng là đều lặp lại, không có phát triển. Mà phát triển lại là phát triển không đúng cách, không đúng lối. Phát triển con người phải trở thành những con người đạo đức chân thật. Phát triển đến con người thiếu đạo đức, con người lung tung, hành động thô tháo, không còn có chỗ nào mà khen được!

Cho nên ở đây, cái phát triển phải là phát triển trong cái khuôn khổ của một con người chân tu, chớ không phải là phát triển trong những con người thiếu tu.

Đến đây Thầy xin chấm dứt. Để trả lời những cái bức thơ này, Thầy đã nhọc nhằn suốt cái thời gian, coi như là hơn nửa tháng tiếp tục đến chỗ này, đến chỗ kia, mà liên tục, nghĩa là luôn luôn lúc bấy giờ Thầy không - thỉnh thoảng Thầy có mặt ở chùa có một lần, còn bao nhiêu thì Thầy ở chỗ này, đến chỗ kia để gặp các vị.

Thường xuyên là Thầy ở thành phố để gặp các vị có thế, có đức, có độ ở trong Giáo hội cũng như các bậc Hòa thượng, Tôn túc lớn mà đang nằm ở trong Giáo hội, Thầy đều có duyên gặp các vị hết, trao đổi, và qua những cái điều kiện để mà thực thi những cái điều lợi ích, nhưng không đạt thành, đó là cái duyên chưa đủ. Chớ nếu đủ thì chắc chắn là đã ra đời lâu rồi chứ không phải mới đây.

Đến đây Thầy xin chấm dứt. Và chúng ta tiếp tục cái bài học.

6- TRAU DỒI TÂM XẢ (Tiếp theo)

1- TIẾP THEO CẦN XẢ: SẮC, THANH, HƯƠNG, VỊ, XÚC, PHÁP (Nhắc lại)

(01:12:20) Bây giờ, Thầy tiếp tục cái bài học. Mình đã học Xả Tâm Vô Lượng, mà Thầy đã giải thích xả là gì rồi phải không? Bây giờ nó đã tới cái chỗ mà:

Kế tiếp đó quý vị phải tiếp tục xả bỏ sáu cái pháp dục lạc thế gian, đó là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.

Vậy Sắc là gì?

Sắc là mọi hình ảnh của các pháp, có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ.

Đó là cái Sắc.

Bởi vì khi mà xả cái tâm vô lượng này, ở chỗ Sắc, thì chúng ta phải thấy cái đối tượng của nó với cái tâm của chúng ta là gì.

Bởi vì cái tâm vô lượng thì phải xả cái hình ảnh - Sắc trước. Mà xả cái hình ảnh - Sắc trước, thì nó là cái đối tâm của chúng ta để gợi lên cái sự thích thú, cái sự khả ái, khả lạc, khả hỷ, làm chúng ta thích nó mà chúng ta mới chạy theo nó.

Cho nên muốn mà xả cái tâm vô lượng này thì phải xả nó như thế nào để chúng ta thấy cái ái đó, cái lạc đó, cái hỷ đó nó có đúng hay là không đúng?

Đó là cách thức chúng ta phải biết so sánh để mà chúng ta biết nó để mà chúng ta xả. Còn nếu không biết thì chúng ta lấy gì mà chúng ta xả?

Thinh…​

Bởi vì ở đây nó có sáu cái đối tượng để mà chúng ta - sáu cái đối tượng tức là sáu cái pháp lạc của thế gian, nó làm cho chúng ta bị say mê ham thích. Cho nên chúng ta phải biết cho rõ sáu cái mặt, cái pháp này là cái gì.

Như hồi nãy Thầy nói Sắc là những hình ảnh, sắc tướng của các pháp, nó có sức cám dỗ và lôi cuốn chúng ta. Bây giờ tới Thinh.

Thinh là gì?

Thinh là âm thanh của các pháp, có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ, khiến ta thích thú, say mê.

Đó, thì đó là cái âm thanh.

Hương là gì?

Hương là mùi thơm của các pháp, có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên những khả ái, khả lạc, khả hỷ, khiến ta thích thú, say mê.

Vị là gì?

Vị là mùi vị ngon ngọt, cay đắng, chua mặn của các pháp, có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên những khả ái, khả lạc, khả hỷ, khiến ta thích thú, say mê, khó quên.

Xúc là gì?

Xúc là sự va chạm vào các pháp sanh ra cảm thọ êm ấm, nóng, mát, lạnh, đau nhức, nhẹ nhàng, khinh an, hỷ lạc, lâng lâng, say say; cảm giác khoái lạc, cảm giác sung sướng, cảm giác mừng vui, cảm giác buồn khổ v.v…​

Ở đây về cái Xúc thì chúng ta phải nói đến Xúc, thì gồm - nó có ba cái cảm giác rất là rõ ràng và cụ thể. Ba cái cảm giác đó thì thứ nhất Phật gọi là “thọ lạc”; thứ hai Phật gọi là “thọ khổ”; thứ ba Phật gọi là “thọ bất lạc bất khổ”.

(01:15:46) Đó là, những cái cảm giác đó thì Phật chia ra làm ba cái phần để chúng ta nhận xét ba cái thọ đó, để chúng ta biết rằng: Dù chúng ta rơi vào cái thọ lạc thì chúng ta cũng đừng có thích thú; mà rơi vào cái thọ khổ thì chúng ta cũng đừng có sợ hãi; mà rơi vào cái thọ bất lạc bất khổ thì cũng đừng có cho đó là thanh tịnh hay hoặc là thiền định, thì điều đó là cái điều sai hết.

Vì còn cái cảm thọ, mà biết nó thọ bất lạc bất khổ thì đó cũng là một cái trạng thái sai trong cái sự tu hành của chúng ta. Đừng cho đó là Niết Bàn, mà cũng đừng cho đó là một cái gì cả hết, vì đó là thọ bất lạc bất khổ.

Hầu hết là số người tu hành thiền định mà rơi vào trạng thái này tưởng là mình đã nhập định. Cho nên đó là cái sai mà phải nhận xét.

Vì nói đến Xúc là sự va chạm mới sanh ra Thọ, mà sanh ra Thọ thì chúng ta phải xét qua ba cái trạng thái Thọ để mà chúng ta biết cái đúng, cái sai. Trên con đường đi, con đường tu tập chúng ta gặp rất nhiều những cái cảm thọ này.

Nghĩa là ba cái cảm thọ này chúng ta luôn luôn gặp rất nhiều. Vì vậy mà ở đây phải giảng chỗ này để cho chúng ta thấy rõ mà chúng ta tránh nó. Vì con đường nhập định của Phật nó không lọt vào ba cái cảm thọ này, mà còn có ba cảm thọ này thì con đường đó gọi là tà thiền, tà định chớ không phải là Chánh Định, Chánh Thánh Định của Phật!

Pháp ở đây chỉ cho tất cả những sự hiểu biết từ kim cổ đến triết học, văn học, sử học, địa lý học, thiên văn học, toán học, các bộ kinh sách của các tôn giáo trên thế gian đều gọi là pháp.

Tất cả các pháp đó Phật dạy đó là kiến chấp của thế gian, nó có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta ưa thích, xem đó là Chánh Pháp, đúng pháp, ôm chặt khư khư không muốn rời bỏ, cho đó là khuôn ngọc, thước vàng, là mẫu mực cho đời sống thường nhân hoặc tu hành.

Các pháp này có sức lôi cuốn tâm ta, khiến ta ưa thích, gợi lên những sự hiểu biết này, hiểu biết khác, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khiến cho ta dính mắc không buông xả được. Vì thế mới có tranh luận hơn thua.

Đó nó trở thành - vì cái chỗ mà nó gợi cho chúng ta những cái hay cái dở trong đầu chúng ta đó, cho nó là đúng, cho nó là này kia - thì đó là trở thành cái kiến chấp của chúng ta, cho nên khó mà có thể bứt rời ra được.

Vì vậy mà một cái người mà học nhiều, biết nhiều, hiểu nhiều về kinh sách nhiều thì những người đó là những người bị sở tri chướng, và những người đó là những người bị kiến chấp. Một khi bị một kiến chấp rồi mà buông ra là một điều rất khó chớ không phải dễ.

(01:18:21) Cho nên khi họ bị kiến chấp rồi mà họ sống lại cái đời sống của Phạm hạnh giới luật thì họ sống không được. Họ cho đó rằng bị mất tự tại, bị không còn vô ngại nữa, bị giới luật trói buộc, người đó là chấp giới.

Chớ họ không thấy rằng cái giới luật của Phật là một ông thầy để dẫn đường cho cái người đó rèn luyện thân tâm của họ đến cái chỗ giải thoát y như giới luật.

Mới đầu, người mới tu thì xem như bị ràng buộc, bị trói buộc, cho nên họ thấy rằng không có vô ngại được, không có tự tại, như vậy là không giải thoát. Vì cái kiến chấp, vì cái nông cạn mà họ không thấy xa của giới luật nó sẽ giải thoát như thế nào.

Vì họ chưa từng sống trong giới luật, cho nên họ chưa biết sự giải thoát của giới luật, vì vậy mà cái kiến chấp đó làm cho họ mê mờ. Họ tưởng rằng sống trong giới luật là khổ sở, không có tự tại, không có giải thoát, còn sống rời khỏi giới luật là có tự tại, có giải thoát rõ ràng, cụ thể. Nhưng cuối cùng họ chết chìm ở trong ngũ dục lạc mà họ không hay biết.

Bây giờ quý thầy đã hiểu rõ toàn bộ các pháp ở thế gian là pháp cám dỗ, thu hút, lôi cuốn tâm con người đi đến chỗ làm ác, tạo bao cảnh khổ đau cho nhau.

Đó thì các thầy thấy rất rõ là sáu cái pháp ở trên thế gian này nó có cái sức thu hút và lôi cuốn mọi con người, dù con người đó là con người phàm phu vẫn bị lôi cuốn, cho đến những bậc tu hành có hàng giáo phẩm cao siêu nhưng họ vẫn bị lôi cuốn.

Mà họ không hay biết, họ tưởng rằng mình tự tại, vô ngại; nhưng cuối cùng họ vẫn bị lôi cuốn ở trong đó mà họ không hay biết.

Đó là nó làm cho họ vô minh, mê mờ mà họ không thấy. Cái sức lôi cuốn nó làm cho họ nghị luận ra là mình không bị lôi cuốn, nhưng chính họ đã bị lôi cuốn.

Vì cái đời sống của họ - chúng ta đã nhìn thấy rõ ràng là họ đang sống ở trên đó, nhưng họ nói họ không bị, tức là họ đã bị. Còn đời sống chúng ta trắng bạch như vỏ ốc thì làm sao mà chúng ta bị được?

Trái lại đời sống của họ không trắng bạch như vỏ ốc mà họ nói tâm họ trắng bạch như vỏ ốc, thì không thể làm sao mà người ta tin được, vì lời nói không đi đôi với cái sống của họ.

Cho nên chúng ta xét người thì biết người đó có thực hiện được giải thoát hay không, chớ không phải nghe mà chạy theo họ để rồi tin ở miệng họ.

Bởi vậy đạo Phật xét người qua cái đức độ, qua cái giới hạnh chứ không thể xét người qua những cái bên ngoài của họ được.

2- XẢ TÂM SẮC DỤC - PHẦN 2

(01:21:37) Muốn trau dồi tâm Xả Vô Lượng các pháp thế gian, ta nên lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, bóng mát, dưới tàn cây, ngoài trời hoặc trong chòi lá.

Sau khi ăn uống xong đợi cơm, thực phẩm tiêu hóa khoảng hai giờ, ta hãy ngồi kiết già lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú đặt niệm trước mặt.

Bây giờ ta đặt niệm gì đây?

Đầu tiên chúng ta đối với hình ảnh của các pháp, cho nên chúng ta đặt niệm sắc dục…​

Nghĩa là đầu thì chúng ta thấy Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp – nó sáu cái đối tượng mà nó cám dỗ chúng ta, thì cái Sắc là cái đầu tiên.

Vậy thì cái Sắc là cái đầu tiên để mà chúng ta tu tập, thì chúng ta phải đặt nó ở trước mặt của chúng ta. Khi mà chúng ta đã ngồi thẳng lưng kiết già nơi yên tịnh thì chúng ta đặt cái niệm đó trước mặt.

…​ là một niệm trong năm niệm dục lạc của thế gian.

Bây giờ, Thầy dạy quý thầy Xả Tâm Vô Lượng Sắc Dục thế gian phải đặt niệm như thế nào để xả ly cho được.

Đó là cách thức mà hành pháp. Hồi nãy ở trên thì Thầy nói về Sắc, đó là lý pháp chớ không phải hành pháp.

Còn đến đây là khi mà tạo được cái điều kiện như là chúng ta tìm cái chỗ thanh vắng, yên tịch, tịch mịch; rồi bắt đầu ăn cơm xong rồi mới ngồi thẳng lưng; chớ không phải là lúc nào cũng muốn ngồi thì ngồi, hay hoặc là đặt niệm lúc nào cũng được, mà phải tìm một cái nơi thanh vắng, yên tịnh.

Bởi vì người tu mà, chớ đâu có phải là người lăng xăng ở thế tục đâu? Cho nên chúng ta phải coi như là cái niệm Sắc Dục ở trước mặt chúng ta rất là quan trọng, để chúng ta đập vỡ và phá nó, chớ còn chúng ta coi thường nó thì nó lôi cuốn chúng ta, không hay đâu!

Cho nên, chúng ta phải xem cái hành động tu tập chúng ta rất là quan trọng. Mỗi một cái ý niệm của chúng ta trong bây giờ là một nhát búa mà đập vào sắc dục. Chớ không phải là cái ý niệm của chúng ta, cái niệm của chúng ta bây giờ coi nó là thường thì quý thầy sẽ không đập nổi sắc dục đâu! Nó rất khó.

Cho nên ở đây, mỗi mỗi chúng ta phải có sự rèn luyện và trau dồi mình cho đầy đủ, chớ còn nếu không luyện tập trau dồi thì rất là khó.

Mà Phật đã dạy chúng ta có một cái phương pháp rất là tuyệt diệu, đó là pháp hướng Như Lý Tác Ý. Vậy thì chúng ta đặt cái niệm đó rồi, niệm sắc dục rồi thì chúng ta phải theo cái pháp hướng mà như cái lý của nó mà tác ra, tác ý ra.

Vậy thì tác ý như thế nào?

“Sắc dục là con đường sanh tử của muôn loài, con đường đầy đau khổ triền miên bất tận kiếp này sang kiếp khác. Ta phải xả bỏ, từ khước, thoát ly ra khỏi, từ giã, không nên để tâm ta dính mắc nó nữa!”

(01:24:30) Đó là một cái câu, mà đây là trạch pháp cái câu này ra để trở thành một cái pháp hướng, như cái lý đó mà tác ý ra.

Hằng ngày chúng ta ngồi lại những nơi thanh vắng đó: Dưới lùm cây, trong khe suối, nơi yên tịnh, trong một cái chòi lá…​ rồi chúng ta đặt niệm đó, rồi chúng ta lấy cái niệm đó mà chúng ta nhắc.

Rồi chúng ta nhắc đi nhắc lại, rồi ngồi yên tịnh một hơi, rồi chúng ta lại tiếp tục nhắc nữa, và cứ như thế chúng ta nhắc mãi cho đến khi mà chúng ta xả thiền đi kinh hành mà thôi.

Nghĩa là chúng ta thấy mình ngồi có hơi đau chân hay tê chân là ngay đó là quý thầy hãy đứng dậy đi kinh hành. Còn chưa đau chân, tê chân thì quý thầy ngồi tiếp tục mà hướng tâm nhắc nữa. Nhắc cho nó thấu cái lý, nhắc cho nó thấm như cái lý chân thật của Sắc Dục thì chúng ta mới đoạn trừ nó được.

Chớ không phải nhắc sơ sơ một hai lần, rồi lười biếng, rồi bỏ qua, thì quý thầy tu như vậy, Thầy mệt mỏi quá!

Không có một cái việc làm nào mà ngay liền tức khắc mà thành tựu được, mà phải có một sự bền chí, rèn luyện lâu dài. Không có một công trình nào mà có một ngày mà thành công được, mà phải có một thời gian dài mới thành công được.

Pháp thì hay mà người có bền chí tu tập hay không? Điều đó là do ở chỗ quý thầy tự thắp đuốc lên mà đi. Tự quý thầy phải nỗ lực, phải siêng năng, phải tu tập. Còn quý thầy không nỗ lực, không siêng năng thì Thầy cũng không thể nào thắp đuốc lên cho quý thầy đi mà được.

Chữ thắp đuốc lên ở đây có nghĩa là phải siêng năng, phải nỗ lực. Đuốc này tắt thì phải nối đuốc khác mà đi cho hết quãng đường đen tối trong rừng âm u!

Đây là câu trạch pháp để quý thầy dùng nó mà hướng tâm xả bỏ. Hằng ngày quý thầy phải siêng năng tu tập, trau dồi câu này để đoạn dứt tâm ái dục.

Đó thì quý thầy phải nghe lời Thầy mà cố gắng. Chỉ có quý thầy mới cứu quý thầy mà thôi. Chỉ có hành động tu quý thầy mới cứu quý thầy thôi. Pháp hành thì quá rõ ràng, mà quý thầy không có hành thì làm sao mà đi tới được?

(01:26:44) Hoặc là quý thầy hành chơi để cho qua, ngồi đó lấy lệ, nhắc một câu hai câu rồi không nghiêm chỉnh, để tâm thả hồn phiêu diêu nơi cực lạc, hoặc là để tâm theo hơi thở để mà thọ hưởng hỷ lạc, thì điều này chắc chắn là không bao giờ tới nơi, tới chốn!

Khi tu một cái pháp định nào thì phải là cái pháp đó phải thật sự chuyên cần, trau dồi bằng một cái ý thức cụ thể, rõ ràng, tỉnh táo. Chớ không phải đi tìm hỷ lạc, khinh an của pháp này chuyển qua pháp khác, ngồi một hơi, nghe hơi thở nhịp an ổn thì thả hồn theo sự an ổn đó mà quên đi những cái câu hướng tâm này thì ngàn đời sắc dục không bao giờ lìa được!

Đó là những lời Thầy nhắc nhở, quý thầy hãy cố gắng ghi trong lòng, đừng quên khi không có mặt Thầy ở gần! Có Thầy, Thầy nhắc đi nhắc lại, mà không Thầy thì phải tự tâm mình nhắc mình, tự tâm mình phải rèn luyện cho mình thì mình mới cứu lấy mình!

Khi có Thầy còn có như ông cha săn sóc, không có Thầy thì quý thầy thấy như mình bơ vơ, phải tự cứu lấy mình, phải gan dạ, phải lầm lì, phải nỗ lực, phải siêng năng, đừng lười biếng!

Nếu quý thầy dùng câu trạch pháp này chưa xả được thì quý thầy tiếp tục hướng tâm Như Lý Tác Ý một câu khác nữa:

Đây Thầy cho thêm một cái câu khác nữa, để cho quý thầy thấy câu này nó không phù hợp với cái đặc tướng của mình, mình nhắc hoài mà sao chưa thấy có hiệu quả, thì do đó Thầy cũng sợ quý thầy không đủ cái sức của mình để triển khai trạch pháp những cái pháp để trở thành những cái câu hướng tâm như một cái lý tác ý cho đúng, cho nên kế đó để đối trị với cái sắc dục thì quý thầy phải nhắc cái câu này:

(01:28:35) “Sắc dục là bất tịnh, là uế trược, nhớt nhao, hôi thúi, tanh hôi, khó chịu, bẩn thỉu vô cùng, tạo muôn ngàn thứ bệnh tật tai ương và truyền nối nhau nhân quả luân hồi kiếp này đến kiếp khác không bao giờ thôi dứt, một người để lại muôn người khổ, khổ khổ nối mãi truyền nhau vô cùng vô tận!

Ta phải quyết tâm xả bỏ, xa lìa, viễn ly vĩnh viễn, chẳng dám bén mảng; xem nó như rắn độc, ung nhọt, nguy hiểm, tai nạn, tai họa to lớn, chỗ ác độc, chỗ bệnh truyền nhiễm nan y không thuốc chữa được!”

Đó là một cái câu để mà chúng ta nhớ thuộc làu.

Khi mà chúng ta ngồi đặt lưng là chúng ta nhắc toàn bộ câu này ra, rồi chúng ta ngồi đó để lặng tâm - khi nhắc xong rồi chúng ta ngồi đó để lặng tâm giữ tâm thanh thản. Cho đến một lúc nữa chúng ta lại nhắc nữa, và cứ như vậy những cái nhát búa đó mà chúng ta đập vào tâm sắc dục chúng ta.

Lần lượt chúng ta sẽ thấm thuần, trau dồi được cái tâm Xả cái sắc dục của chúng ta. Chúng ta xả, xả sạch, xả bỏ không còn có một dính mắc nào, thấy cái sắc dục là chúng ta đã hoảng sợ, không còn có ham thích nữa.

Có như vậy thì quý thầy mới chấm dứt được cái tâm sắc dục. Còn không có mà tu tập như vậy thì nó chỉ ẩn núp ở trong tâm quý vị, rồi quý vị vẫn len lét mà lén mà nhìn, mà ngó, chớ chưa phải là quý vị thôi đâu!

Còn ở đây khi quý vị tu tập xong rồi thì quý vị không còn có cái ham thích nữa, từ đó quý vị đã từ giã hẳn hòi, cho nên quý vị nhìn cái giới mà khác giới của quý vị, quý vị thấy hoàn toàn là bẩn thỉu, và dơ bẩn, và độc ác, và khổ đau, chớ không còn có cái hạnh phúc, cái cảm giác thích thú nữa.

Đó, tóm lại là phải siêng năng, phải tập luyện. Thầy đã trao tất cả những kinh nghiệm để mà quý thầy biết để mà tu hành, dùng thực nó chớ không phải là sai được.

Những cái Pháp như vậy mà nó có cái…​ (Mất đoạn)

Trong kinh điển của Phật dạy Tứ Niệm Xứ, Ngài cũng bảo “trên thân quán thân”, nhưng những cái pháp dạy trong đó chung chung, cho nên người mà đọc lại những cái bài kinh này làm cho người ta không biết đâu mà quán, người ta chỉ quán chung chung bằng cách này, bằng cách khác mà thôi.

(01:30:03) Phật dạy “trên thân quán thân”, rồi “bất tịnh”, rồi “quán thân để khắc phục tham ưu” của mình, không biết cái lúc nào mà khắc phục tham ưu, lúc nào mà quán thân bất tịnh!

Bởi vì ở đây chúng ta xả cái tâm sắc dục, cái tâm ái, cho nên chúng ta phải xả nó. Mà phải xả bằng cách nào? Vì vậy mà chúng ta đặt niệm trước mặt - tức là trên thân của chúng ta quán cái thân, quán thân mình, quán pháp, cho nên do đó mà chúng ta xả. Thì như vậy là chúng ta đi đúng vào cái pháp môn để mà chúng ta thực hiện trong cái hành pháp cho nó đúng.

Còn nói chung chung như trên Tứ Niệm Xứ: “trên thân quán thân” như thế này, thế khác là nói chung chung chứ chưa phải là đúng nó.

Sau khi dạy Tứ Niệm Xứ Thầy sẽ phân tích tu cái nào ở trên hành tướng nào, trên thân quán thân mà tu cái hành tướng nào, tu cái nhân tướng nào, tu cái đặc tướng nào; mà xả ly được cái gì, làm cái gì?

Vì đó là tất cả những cái - mà cái câu mà trạch pháp ra nó trở thành một cái niệm. Cái niệm đó để nó phá vỡ đi những cái tâm trạng nào của chúng ta, phá vỡ đi những cái pháp nào mà chúng ta bị dính mắc. Đó như vậy, nó phải rõ ràng và cụ thể.

Còn nếu mà chung chung như trong kinh sách Phật hiện giờ thì con người đọc kinh sách Phật không biết cái hành pháp là ở chỗ nào, rồi lúc tu vầy, lúc tu khác, kết quả không đem đến cụ thể cho quý vị, làm cho quý vị càng tu lại càng chán nản, cho nên mới đi lạc lầm vào tất cả các pháp khác của ngoại đạo, cứ ngỡ tưởng đó là Phật pháp mà thôi!

Tóm lại, muốn xả tâm vô lượng sắc dục thế gian ta hãy siêng năng tu tập trau dồi tâm Xả của ta. Hằng ngày không được biếng trễ thì mới xả ly được. Tinh tấn chớ có phóng dật theo nó!

Nghĩa là luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải tinh tấn, nghĩa là chúng ta phải ngăn chặn, đừng có thấy nữ sắc mà chúng ta phóng theo, cái tâm chúng ta nhìn theo nó. Lúc bấy giờ mà đang tu thì quý vị phải cách ly, không được nhìn thấy nữ sắc.

(01:33:04) Đó là một cái điều tiên quyết, quan trọng, là lúc bấy giờ cái người mà đang tu những cái pháp xả về cái ái dục này thì tức là đừng có nhìn cái sắc dục của người nữ, đừng có nhìn cái tướng tá của người nữ, đừng có nhìn cái làn da, cái môi của người nữ.

Cho nên Phật dạy: “Ta không thấy một pháp nào mà có thể lôi cuốn người nam bằng cái nụ cười, bằng cái sắc của người nữ, bằng cái miệng của người nữ, bằng cái mắt của người nữ, bằng cái da của người nữ, bằng cái hương thơm của người nữ!” Đó thì các thầy thấy ông Phật ổng xác định như vậy.

Cho nên khi mà chúng ta quyết tâm xả cái tâm này thì chớ có phóng dật theo nó. Nghĩa là đừng có phóng tâm theo nó, đừng có chạy theo nó nữa, mà hãy quay trở vào trong mà cố gắng mà tập luyện trong một thời gian một tháng, hai tháng, thì quý thầy sẽ thấy cái sự tu tập của quý thầy sẽ xa lìa từ bỏ nó, rất là tuyệt diệu!

Còn nếu quý thầy vừa tu, bữa nay ngồi tu đây, quán như vậy, đem cái câu hướng tâm vậy, mà ra kia thì tiếp duyên nói chuyện với mấy bà đó thì thôi thôi, một ngàn đời Thầy nói quý thầy cũng không làm gì được hết! Tu như vậy uổng công lắm! Thôi đi về cưới vợ đi mà sống!

Ngồi tu thì có hình thức, mà ra thì tiếp chuyện với mấy bà nói thôi huyên thuyên không biết bao nhiêu mà kể, thì cái chuyện đó là cái chuyện không thể tu được. Phải tránh xa cái thứ rắn độc đó đi!

Cái thứ đó là cái thứ đem lại cuộc đời chúng ta đau khổ mà người tu sĩ của đạo Phật phải sợ, sợ còn hơn là sợ cái gì nữa! Nó đem lại cho chúng ta biết bao nhiêu cái khổ đau mà chúng ta đâu có thấy? Tưởng là cái dục lạc đó nó có một chút xíu thôi, mà nó đem muôn ngàn cái sự khổ./.

(Xem tiếp ở Giáo án đường lối tu tập đạo Phật 13)

HẾT BĂNG

13 - TRAU DỒI TÂM XẢ 02 - KẾT LUẬN TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 13 - TRAU DỒI TÂM XẢ 02 - KẾT LUẬN TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- TRAU DỒI TÂM XẢ (Tiếp theo)

1.1- XẢ VÔ LƯỢNG VẬT CHẤT THẾ GIAN

(00:01) Bây giờ đến chúng ta xả cái kế nữa. Bởi vì xả ái dục rồi, xả sắc rồi, thì bắt đầu bây giờ chúng ta xả đến tiền bạc của báu. Lợi mà, làm sao mà phải xả chớ còn không xả thì làm sao mà chúng ta đi tới cái chỗ giải thoát được? Nó cám dỗ chúng ta cũng rất mạnh đây.

Bây giờ, Thầy dạy quý thầy Xả Tâm Vô Lượng của báu, vàng bạc, vật chất thế gian.

Đó, tới cái giai đoạn này thì chúng ta phải biết rằng cái vật chất thế gian, tiền bạc coi vậy chớ khó xả lắm! Một cái bọc cao su nhỏ vầy thôi mà mình cũng chưa dám bỏ trong thùng rác nữa, thấy nó còn lành lành đó nhét đó ít bữa để lấy đựng lại, thì thử hỏi cái gì mà dám xả? Muốn vô, đem vật chất vô thêm chớ còn chưa muốn xả đâu!

Đó, những cái mà chúng ta phải hiểu biết, để ở đây là chúng ta xả tâm vô lượng thì phải xả các pháp vô lượng. Mà xả cái đối tượng tiền bạc của chúng ta là một cái điều dục lạc, năm cái dục lạc rất là khó xả. Vì vậy mà cái sự xả tâm này phải thấy được, bỏ nó đi, cho nó thực, và đồng thời phải nhắc đi, nhắc lại nhiều lần mới có thể xả được, chớ không phải nói “ Ờ tui xả, tui bỏ” đâu!

Nghe cái chuyện ông Bàng Uẩn mà đem của cải, vàng bạc mà đổ xuống sông, chúng ta nghe thì dễ lắm, nhưng thử chúng ta đem đổ coi chúng ta có tiếc không? Chắc chắn là chưa dám đâu! Chưa có ai dám làm được điều đó đâu. Đem bố thí để cầu danh chớ còn làm chuyện đó thì đem đổ uổng quá đâu có ai biết mình? Đó là những cái tâm mà chưa xả đó.

Rồi chúng ta còn lý luận nữa: “Ông này ngu quá, có tiền bạc đem đổ không cho ai hết. Để cho người ta phải đỡ không?” Chính cái chỗ mà để cho người khác đỡ là đã cái ngu rồi! Đã mình vì tiền bạc của cải mình khổ suốt cái đời của mình rồi, mình đem cho người ta lại làm cho người ta đắm mê nữa là mình đem gieo thêm cái họa cho người ta, chớ đâu phải sung sướng gì?

Bởi vì ông Bàng Uẩn ổng đã thấy được cái nhân quả, cho nên nếu đem cái rắn độc này đến nhà người ta thì người ta lại đam mê, rồi người ta bị lôi cuốn ở trong cái đó nữa, thì người ta lại khổ! Nhân quả của họ nghèo, họ phải trả cái nhân quả họ, mà họ trả cho trong sạch thì họ mới vượt thoát ra cái nhân quả.

(02:18) Muốn trau dồi tâm xả tiền bạc, của báu vật chất thế gian ta phải đặt niệm trước mặt, dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Tiền bạc…​

Đây là cái câu đây:

“Tiền bạc, của cải, châu báu là những vật chất cám dỗ lôi cuốn rất mạnh làm cho tâm ta ham mê, say thích mà chạy theo, tạo ra biết bao nhiêu điều tội ác!”

Đó, mình nhắc nó như vậy đó. Nếu mà muốn có tiền bạc mình phải có làm những điều này, điều kia chớ? Một ông nhà nông mà muốn có lúa gạo, có tiền bạc thì ổng phải biết bao nhiêu, ổng giết biết bao nhiêu con vật dưới ruộng lúa không? Ổng phải cày xới biết bao nhiêu con trùng chết không?

Đó thì chúng ta thấy, đó là cái nghề lương thiện chớ chưa phải là cái nghề cướp giựt ai đó, nhưng mà còn phải biết bao nhiêu chúng sanh phải chết! Còn tất cả những cái nghề khác, nó còn dày xéo lên nhau, lên con người nhau để mà xâu xé từng đồng bạc, giết nhau từng đồng bạc, thì chúng ta thấy nó có tệ hại không?

Nên lấy câu này trạch pháp mà nhắc đi nhắc lại trau dồi tâm ta cho thấm nhuần.

Bây giờ Thầy cho thêm một câu nữa để chúng ta có những cái câu, bởi vì chúng ta đã học Xả thì chúng ta phải có những cái trạch pháp, những cái câu để chúng ta nhắc cho nhiều, nhắc cho thấm nhuần, nhắc cho tận xương tủy của chúng ta, từ đó chúng ta mới xa lìa nó được.

Đây là một cái câu nữa:

“Vì tiền bạc, châu báu, vật chất thế gian mà con người xâu xé lẫn nhau, nhà nhà không yên ấm, nước nước mất thái bình! Ta phải từ bỏ tiền bạc, của báu, vật chất thế gian như bỏ đôi giày rách!”

Như cái đôi giày mà mình hết mang được rồi, mình quăng ra đống rác đó! Xem nó là của báu, vật chất, vàng bạc của báu của mình quăng nó như là quăng cái đôi giày rách của mình quăng ở đống rác vậy đó!

Thì đó là một cái câu để hướng tâm, để ám thị, để Như Lý Tác Ý câu này ra, để làm cho chúng ta thấy vàng bạc của báu là cái đôi giày rách, là con rắn độc, thì như vậy chúng ta mới ném nó được, chớ không khéo chúng ta khó mà ném được!

Phải lặp, đi lặp lại, hướng tâm để ta xả cho được Vô Lượng Tâm này:

“Tiền bạc, của cải, châu báu, vật chất thế gian là tên chủ độc tài, sai bảo ta làm bất cứ một điều gì ta đều mờ ám vâng theo, làm những điều tội lỗi tày trời!

Vậy, ta phải từ giã, xa lìa ông chủ này để được tự do, thoát kiếp nô lệ!”

(04:36) Đó là một cái câu nữa đó. Nghĩa là chúng ta phải nhìn thấy tiền bạc của báu là một cái người chủ độc tài, luôn luôn lúc nào nó sai chúng ta, hễ muốn cái gì là nó sai chúng ta làm theo cái nấy.

Nghĩa là chúng ta bị nô lệ nó. Nó muốn uống rượu là nó sai chúng ta uống rượu à, nó muốn hút thuốc là nó sai chúng ta hút thuốc à, nó muốn cái gì nó làm cái nấy hết à!

Nó muốn làm những cái tội ác gì nó cũng sai chúng ta làm được hết. Nó muốn giết người, tiền bạc nó có rồi, nó mới sai chúng ta giết người đó, thì bắt đầu chúng ta cũng đem tiền bạc ra để mà tung ra để giết người nữa. Nó làm những điều tội lỗi, rất là tội lỗi!

Cho nên nó là một cái ông chủ độc tài, sai bảo ta cái gì, ta là tôi tớ rất là trung thành của nó đó. Cho nên muốn thoát kiếp nô lệ thì chúng ta phải xa lìa cái ông chủ này, chớ ở gần ổng, ổng cứ sai mình hoài!

Cho nên, ở đây phải cố gắng mà xa lìa nó đi, xa lìa như những bậc tu hành giải thoát, những bậc Thánh Hiền, Thánh Tăng của thời Đức Phật, họ đã xa lìa nó đó, cho nên họ không bị sai.

Vì giới luật của Phật dạy người tu sĩ không cất giữ tiền bạc, cho nên họ xa lìa, làm sao sai họ được? Bây giờ tâm họ muốn cái gì cũng không được hết, bởi vì họ đâu có tiền! Cho nên ông chủ tiền không sai họ được. Đó là họ đã xa lìa ông chủ.

Vì vậy mà chúng ta thấy những cái gương mà xả danh, xả lợi, xả tiền tài, thì những cái người đó là những bậc chân tu. Còn những người mà cất giữ tiền bạc thế này thế khác, họ nói là họ chân tu thì chắc chắn là không phải chân tu đâu!

Chúng ta nhìn, chúng ta phải xét được cái đúng, cái sai. Chúng ta biết được cái người đó là đang nô lệ tiền bạc hay là không nô lệ tiền bạc!

Bởi vì họ nô lệ tiền bạc, cho nên cái tâm họ muốn cái chùa to thì cái tiền đó nó sẽ sai họ phải cất cái chùa, cho nên họ bị nô lệ tiền, chớ họ không phải làm chủ tiền. Họ nghĩ là họ làm chủ tiền, họ lấy tiền ra họ bỏ để người ta cất cho họ cái chùa tốt, nhưng không ngờ tiền sai họ. Bởi vì họ có tiền!

Còn như một vị chân tu không có tiền bạc thì lấy cái gì mà sai họ được? Cho nên, họ xa lìa ông chủ họ.

Vì vậy mà cái câu này, các thầy phải nhớ kỹ để áp dụng vào cái pháp Như Lý Tác Ý, hàng ngày nhắc đi nhắc lại.

Vì chúng ta là những người tu, sau này chúng ta có những cái danh, cái lợi nó lớn như vậy, thì chúng ta nhớ rằng chúng ta không phải là một người tu sĩ nô lệ cho tiền bạc. Có như vậy quý vị mới thoát ra cái cảnh nô lệ của tiền bạc, của ông chủ độc tài này.

(07:33) Bây giờ quý thầy đã hiểu, phải biết được mà sửa mình từ bây giờ, răn nhắc mình để cho mình xa lìa tiền bạc của báu, từ đó cái giới luật của quý thầy rất là nghiêm chỉnh.

Hầu như quý thầy hiện giờ tu hành người nào cũng còn cất giữ tiền bạc, cho nên bây giờ muốn cái gì thì chúng ta dù ít dù nhiều thì chúng ta cũng thực hiện qua cái sự sai bảo của ông chủ này.

Còn trái lại, như một người không có gì hết, lấy gì sai bảo được? Cho nên, chúng ta là những người xa lìa ông chủ tiền bạc.

“Tiền bạc, vật chất thế gian càng có nhiều tâm ta càng lo sợ…​

Quý thầy thấy không, có cái người nào giàu có mà họ không lo sợ trộm cướp đâu? Họ lo sợ cả vua chúa, cả nhà nước, chánh phủ nữa! Thấy mình tiền bạc đây nhiều quá đây, không biết mình làm cái gì đây, có gian có dối gì, sao mà ông này không có thấy làm gì mà sao mà có tiền đây? Người ta đi tìm, đi này kia, do đó, mình ăn không yên mà ngủ không yên, rất sợ hãi!

Thì các con thấy, các thầy thấy, cái đó là cái nguy hiểm nhất, cái đau khổ nhất. Cho nên Đức Phật ngày xưa nói với ông A Nan: “Nó là rắn độc đó!”, dạy cho ông A Nan thấy đó là rắn độc đó, nó sẽ cắn chúng ta chết ngày nào đó.

Đó, thì chúng ta thấy: Cái người mà có tiền bạc vật chất thế gian càng nhiều, nhà cửa đồ sộ vậy, cửa sắt cửa nẻo vậy, chớ ngủ ở trong nhà rất nơm nớp, nghe ở ngoài nghe cái “cộp” là ở trong quá là hoảng sợ rồi!

…​ mạng sống như chỉ mành treo chuông…​

Mình tiền bạc nhiều, ăn cướp nó vô nó giết mình để lấy của chớ làm sao tha mình được? Tha mình đi tố cáo nó hay sao? Cho nên cái mạng sống của mình, tiền bạc nhiều, mạng sống của mình như là sợi chỉ mà treo chuông vậy.

…​ không biết kẻ trộm cướp, người tham lam giết chúng ta trong giờ phút nào!

Vì vậy, ta phải từ giã chúng, xả ly chúng, chẳng còn một chút nào ở trong tâm ta thì ta mới có ngủ yên giấc!”

Đó thì những cái lý đó, những cái câu đó, các thầy phải nhớ để mà khắc ghi, để trở thành một cái pháp hướng, trở thành một cái câu ám thị để nhắc tâm mình, để cho mình từ giã, xa lìa những cái thứ mà có thể giết người, giết mình trong chớp mắt.

(09:53) Lấy câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để ta vĩnh viễn xả ly tiền bạc, vật chất thế gian, trau dồi tâm Xả Vô Lượng.

Nghĩa là chúng ta xả được như vậy, đó là những của cải, tài sản lớn đó, chớ không phải là…​ Cái mà xả của cải tài sản lớn này còn dễ đó, chớ cái mà xả của cải tài sản nhỏ còn khó, nó không phải dễ đâu.

Ở đây lần lượt rồi Thầy sẽ dạy để mà quý thầy trau dồi cái tâm Xả Vô Lượng này, để chúng ta xả từ cái lớn rồi cho đến cái nhỏ. Nãy giờ đó, Thầy nói chuyện lớn không đó, chuyện xả cái lớn, rồi tới đây Thầy sẽ chỉ dạy cho xả cái nhỏ.

Chúng ta còn phải thêm những câu pháp hướng thêm để chúng ta trau dồi tâm Xả của chúng ta cho nó thấm nhuần.

Nó nhiều cái câu, để mà chúng ta thấy cái câu nào mà chúng ta tu tập có hiệu quả nhất thì chúng ta chọn lấy câu đó làm cái câu nhắc tâm chúng ta hằng ngày.

Còn cái câu nào mà chưa có hiệu quả, chưa hợp với tâm lý của mình thì những câu đó nó không hợp với đặc tướng của mình, thì mình hãy bỏ những câu đó đi để chọn lấy một trong những hai câu ở trong những gợi ý của Thầy.

Chớ Thầy biết đặc tướng của quý thầy là hợp với câu nào mà Thầy dạy?

Chẳng hạn bây giờ mỗi người đến xin Thầy một cái câu thì Thầy xem qua cái đặc tướng của người này như thế nào Thầy cho, còn ở đây là một cái bài giảng, Thầy phải giảng chung chung để cho quý thầy tự chọn lấy cái câu nào mà phù hợp với mình, mà mình thực tu có kết quả, thì mình lấy câu đó làm cái câu nhắc tâm của mình.

(11:35) Đây là một cái câu nữa:

“Vàng bạc, châu báu, của cải, tài sản thế gian là rắn độc, là ung nhọt truyền nhiễm, bệnh tật nan y, không trị được. Nếu ta gần gũi có ngày sẽ bị rắn độc cắn, sẽ bị vi trùng truyền nhiễm bệnh độc. Ta hãy xa lánh nó, đừng cất giữ, đừng tích trữ mà hãy cao bay xa chạy, tránh nó như bệnh cùi!”

Đó là một cái câu để mà chúng ta hướng, mà nó hợp với mình thì mình hãy lấy nó mà mình làm sự nhắc nhở tâm mình, sự trau dồi tâm mình hằng ngày.

Tóm lại, quý thầy siêng năng tu tập trau dồi tâm Xả Vô Lượng này đến khi thấm nhuần thì quý thầy mới viễn ly được tiền bạc, châu báu, của cải, vật chất thế gian.

Tuy Thầy dạy như vậy nhưng rất khó, không phải buông xả dễ đâu, phải bền chí, kiên nhẫn mà trau dồi tâm Xả này. Ai là người tinh tấn siêng năng thì chẳng bao lâu sẽ xả sạch, Xả Tâm Vô Lượng.

Đó, thì ở đây quý thầy thấy rằng, cái người mà siêng năng tinh tấn, tin tưởng ở nơi cái pháp này thì chúng ta bắt đầu chúng ta xả được.

Và xả được thì chúng ta hoàn toàn - khi mà tu cái câu này, thì bắt đầu chúng ta phải tìm một cái nơi nào mà có thể chúng ta đi xin ăn của mọi người được, do đó, chúng ta sẽ bỏ hết, không cất giữ tiền bạc, không gì hết, ai cho gì mình ăn nấy, hoàn toàn sống nhờ vào cái sự bố thí của người khác, chớ không còn nghĩ rằng mình phải mua cái này hay sắm cái kia.

Đau thì chỉ biết xin thuốc, mà có thuốc tốt thì uống mà thuốc xấu thì thôi. Chết là do nhân quả chớ không phải ai muốn chết mà được! Cho nên, chúng ta chẳng nề sợ.

Vì chúng ta còn sợ mình không có tiền rồi đau bệnh, ai cho tiền, cho thuốc mình uống đây? Cho nên do cái sự lừng chừng đó mà chúng ta xả chưa hết. Mà xả chưa hết một cái chuyện nhỏ thì làm sao cái chuyện lớn nó không còn dính?

Nếu mà xả chưa hết chuyện nhỏ này, đến khi mà có danh, có lợi thì nó lại dính mắc lớn chớ không còn dính mắc nhỏ nữa! Nhưng chúng ta có cái lý luận để che đậy cái sự dính mắc đó bằng cách này, bằng cách khác chớ đâu phải là thiếu lý luận!

Đó thì, chúng ta phải hiểu như vậy. Vì vậy mà khi hiểu được Phật Pháp rồi thì chúng ta phải giữ gìn cái giới cất giữ tiền bạc.

Từ ngày Thầy hiểu Phật pháp cho đến giờ, tiền bạc ai cúng dường Thầy giao cho cô Út toàn bộ, hoặc là giao những người cư sĩ họ làm gì thì làm Thầy chả biết. Đói Thầy xin cơm ăn. Quý thầy không có cơm ăn, Thầy chỉ viết thơ Thầy xin, Thầy gọi Thầy xin, chớ còn Thầy chẳng biết gì đến tiền bạc.

Cô Út sắm mua cái này kia để giúp cho quý thầy áo, y hoặc cái này kia, hoặc là dầu thuốc, điều đó là cô Út chi, làm gì làm Thầy chả biết. Có báo thì Thầy cũng “ừ hử”, mà không báo thì Thầy cũng “ừ hử”, Thầy cũng chả có biết quan trọng nó còn mất một cái đồng một xu một cắc nào hết, Thầy chả biết. Có thì cứ xài, mà không có thì đến cho Thầy hay, Thầy xin, có vậy thôi!

Đó là cái con đường mà từ khi mà Thầy nhập thất đến khi Thầy ra thất, đi đâu thì cô Út cho tiền Thầy, Thầy đi, còn bao nhiêu về Thầy trả lại.

(14:48) Có nhiều khi Mật Hạnh đến xin tiền Thầy đi bệnh viện, Thầy nói để Thầy xin cô Út, Thầy đâu có!

Cứ như vậy thôi. Nhiều khi quý thầy không hiểu, nói rằng Thầy cất giữ tiền, mà xin Thầy, Thầy cho ít quá! Thầy làm sao cho ít? Thầy xin người khác, người khác cho Thầy được bao nhiêu Thầy cho lại bấy nhiêu thôi! Nhưng mà quý thầy có vẻ không bằng lòng, coi như là Thầy quá bỏn xẻn.

Bởi vì Thầy có cất giữ tiền bạc đâu, nhiều ít Thầy đâu có biết, cho nên Thầy: “Bây giờ, thầy đó đau bệnh, Thầy xin cô hãy mua thuốc hay hoặc là cho tiền thầy đó đi bệnh viện!” - thì cô Út cho bao nhiêu thì Thầy đưa bấy nhiêu. Thầy không đòi hỏi thêm bớt.

Bởi vì người ta cho mà, cái quyền của người ta cất, người ta cho, chớ Thầy đâu có quyền gì trong tiền bạc?

Cho nên, nhiều khi ý quý thầy muốn xin 500 mà cô Út đưa 300 thì quý thầy buồn, quý thầy nói Thầy cho ít. Thực sự Thầy đâu có cho ít, Thầy chỉ xin được bao nhiêu Thầy cho bấy nhiêu!

Đó là những mà trong thực trạng ở trong cuộc sống Thầy đã bị dằn vặt trên vấn đề tiền bạc này rất nhiều, vì Thầy là một người không có tiền bạc. Thầy nói hết để cho quý thầy hiểu rõ được cái cuộc sống của Thầy. Từ khi mà Thầy giữ gìn giới luật đúng theo con đường của đạo Phật, Thầy không bị tiền bạc sai Thầy chút nào hết là vì Thầy không cất giữ nó.

Đó là cái chỗ mà Thầy đã thực thi trong cuộc đời sống của Thầy. Còn quý thầy, thật sự ra quý thầy có tiền bạc, quý thầy còn cất giữ, cho nên quý thầy bị tiền bạc sai, sai cái này, sai cái kia, sai cái nọ.

Bởi vì cái tâm thích của chúng ta còn có cái thích, cho nên chúng ta chưa có diệt sạch nó đâu. Cho nên, cái thích của chúng ta thì có tiền là nó sẽ sai chúng ta liền, nó không có để chúng ta mà chịu đựng với nó đâu! Đó là những cái tu hành mà chúng ta còn bị nô lệ, còn bị sự sai khiến.

1.2- XẢ VÔ LƯỢNG DANH

(16:21) Bây giờ đến cái vai trò để mà chúng ta biết Xả Vô Lượng Tâm danh, chớ không phải có một cái danh, cái danh nó rất nhiều!

Hồi nãy là mình xả cái tiền của, bây giờ tới cái danh. Sắc rồi tiền của, rồi danh, đó là năm cái thứ dục lạc, mà bây giờ mình tới được cái phần thứ ba là mình xả cái danh.

Danh là gì?

Là tiếng khen, tiếng ca ngợi, tiếng tán thán, tiếng tốt đẹp, vinh quang, hiển hách, chứng ngộ, chứng đạo, được trao truyền quan chức, trao truyền tâm ấn, cấp bằng này, cấp bằng nọ, Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng, sư bà, sư trưởng, giám đốc, phó giám đốc, viện trưởng, viện chủ, trưởng ban, phó ban, giáo chủ, pháp chủ, thiền đức, cao tăng, giới đức, thánh hiền, thần, thánh, tiên, Phật v.v…​ đều là những danh từ chỉ cho danh.

Đó thì, các thầy thấy rõ: Cái danh nó làm cho chúng ta mê thích lắm. Ai mà không muốn làm trụ trì? Ai không muốn làm viện trưởng? Ai không muốn làm viện chủ? Người nào mà gán cho mình giáo chủ, viện chủ, rồi thiền chủ, pháp chủ, rồi cao tăng, rồi giới đức…​ thích lắm, coi như là bậc vĩ đại rồi, hơn thiên hạ rồi, ngồi trên thiên hạ rồi. Đó là cái danh mà.

Cho nên thần, thánh, tiên người ta cũng ca ngợi. Vì vậy mà những cái danh đó làm cho con người thích lắm, mà khi được cái danh như vậy thì người ta khoái vô cùng lận! Người ta thấy mình trên hết rồi.

Do cái danh như vậy nên chúng sanh mê muội, bị cám dỗ, bị lôi cuốn, bị thu hút như đá nam châm, khiến cho con người chạy theo danh quá nỗi mệt mỏi, cuồng loạn trong tâm của mình, vì vậy có người thất vọng, tự tử, quyên sinh.

Chạy theo cái danh mà không đạt được, cho nên có nhiều người thi cử rớt cái thôi thôi đi tìm cách tự tử cho rồi! Có phải ngu si không? Đi cầu cái danh giả hão như vậy mà để quyên sinh cái thân mạng này!

Có người thì mệt mỏi, thất bại danh lợi rồi vô chùa để mà tu, thiệt là điên khùng! Chạy đi theo một cái danh giả! Đó là những sự cám dỗ của nó làm cho chúng ta quá u mờ, quá ngu mờ không có thấy được cái đó.

Danh nhỏ là thầy thợ - nghĩa là mình làm người tôi tớ thì thấy nó xấu xa quá, cho nên thấy làm ông thầy, nghe mình học, ráng học để làm ông thầy, thôi mình dở dở thôi làm ông thợ thì cũng ngon hơn là cái thằng đầy tớ! Cho nên đó là những cái danh nhỏ đó, nó cũng là cái danh.

Danh lớn là ông này bà kia, danh nhỏ là thầy thợ, thầy ký, thầy thông, thầy này thầy kia…​ nghe cũng thơm, thầy giáo, cô giáo thì nghe cũng khoái, còn hơn là người ta nói “con đầy tớ” hay là “thằng ở” thì nghe nó nhục nhã quá! Phải không? Cho nên ở đây chúng ta đều là bị nhầm ở trong cái danh lôi cuốn chúng ta.

(19:41) Rồi từ đó cái danh nhỏ nó lần lần, nó đi dần tới cái danh lớn để thành ông này bà kia, rồi người cai quản cái này, người cai quản cái kia, để coi như mình có chủ động được, điều khiển được một số người dưới bàn tay của mình.

Thí dụ như về quân đội thì có ông phó đội trưởng, rồi đội trưởng, rồi ông trung đội trưởng, ông phó đội trưởng, rồi đại đội trưởng, rồi trung đội trưởng…​

Đó thì, các con thấy: Tất cả những cái đó là cái danh để cho thấy cái quyền hạn của người ta ở trong cái danh đó nó làm được những cái gì đó, cho nên người ta ham lắm.

Từ cái ông tiểu đội phó mà lên cho được ông đại tá, mà được ông đại tá thì cái mặt họ nghênh nghênh ở trên trời, họ coi như ở dưới đất này không còn ai hết!

Đó là cái danh đó, cái danh nó làm cho họ - cái ngã họ lớn lên. Điên khùng! Chớ họ cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt, cũng đau, cũng khổ, cũng buồn, cũng khổ, cũng nhức, cũng nhối cũng như mình, có khác gì đâu? Thế mà gán cho cái danh thì họ thấy họ là hơn hết.

Cho nên khi mà gán cho cái danh rồi thì có nhiều người thấy họ khúm núm, khúm núm. Họ là cái gì mà phải khúm núm? Họ cũng như mình, có gì đâu mà phải sợ! Chỉ có cái danh không mà chúng ta đã quá sợ rồi.

Đó thì ở đây, Thầy xác định để cho chúng ta thấy cái danh nó cám dỗ chúng ta rất mạnh như vậy, nó làm cho chúng ta phải sợ hãi như vậy. Từ những cái danh này mà người ta điên khùng, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, ton hót để cầu cho được cái danh.

Có nhiều người đi thi mà phải đem tiền bạc để lo lót để cho đậu. Đó không phải là đem tiền để mua danh sao? Đó là những cái sai, cái không đúng mà người ta lầm chấp, vì cái danh nó cuốn họ quá, họ muốn cho họ có cái tên tuổi như thế này thế khác.

Cũng như bây giờ Thầy nói như thế này: Có nhiều người không ai biết đến hết, bây giờ đùng ra cái rồi tập trung một số người đi làm từ thiện, kêu gọi đóng góp nhau. Để làm gì? Đó cũng chẳng qua là cầu danh từ thiện, chớ chưa chắc đã họ là thương yêu người khác thật!

Những cái việc làm đó, người ta bỏ ra bố thí, người ta phải nhận giấy tờ này giấy tờ kia để đầy ắp lên, để làm gì? Để mai mốt khoe ra: “Tôi nè, tôi bố thí chỗ này, chỗ này!” Đó không phải là danh sao? Danh từ thiện, danh “tôi biết thương người”, nhưng mà thật sự ra, hở ra một chút thì mắng người không nhịn!

Các thầy có xét thấy không, có nhiều người làm từ thiện coi họ có nhịn ai không? Họ chửi người ta tát nước hết! Vậy mà họ thương người à? Hơi hơi chạm tới họ một cái là coi như họ muốn giết mình à! Mà là họ từ thiện?

(22:16) Bởi vì cái đời nó giả dối, nó đủ cái thứ giả dối ở trong đó hết!

Đi đâu cũng có tiền hô, hậu ủng, đầy đường, chật xá để chứng tỏ có nhiều người hầu hạ theo mình. Một ông thầy tu mà đi rần rần, rộ rộ năm, mười chục chiếc xe, để làm gì? Để tỏ cái danh của mình chớ gì? Để có người hầu, kẻ hạ chớ gì? Đi đâu cũng tổ chức Phật tử rần rần, rộ rộ. Một bậc chân tu mà đi như vậy à? Làm ra cái vẻ như là vua chúa, chớ đâu phải là người tu!

Thầy nói ra thì đụng chạm hết cả đám, nhưng phải nói! Tu phải ra tu, mà không tu thì không tu, chớ đừng làm cái trò trống là bệ vệ trong cái danh của mình, để khoe khoang cái giàu sang, cái tài ba của mình. Với cái sự tài ba của con người có nhằm nhò gì mà khoe khoang? Khoe tài sản, của cải là khoe danh giàu sang.

Tóm lại, danh là một thứ dục lạc cám dỗ và nuôi lớn bản ngã con người.

Đó thì, tóm lại thì các thầy thấy: Cái bản ngã con người nó lớn theo cái danh của nó, chớ không phải nó nhỏ đâu. Cho nên, từ cái mặt mới làm một người đầy tớ hôm qua mà bữa nay lên làm quan rồi cái mặt cái thằng đầy tớ nó ngước lên!

Cho nên Thầy nghe nói có câu chuyện như thế này: Có một thằng đánh xe ngựa cho Yến Anh. Yến Anh làm thừa tướng cho vua nhà Tề. Ông ta là chẳng (qua) thằng đánh ngựa thôi, mà ổng đi ra đường ổng đánh ngựa mà ổng hét la người ta tùm lum hết, ổng coi như ổng Yến Anh vậy!

Các thầy nghĩ như thế nào? Mượn cái oai danh của Yến Anh mà làm oai với thiên hạ, coi như mình là thằng ngon rồi. Đó là mượn, mà chưa phải là cái danh thật của mình mà còn làm như vậy.

Bà vợ về nẹt ổng, sau đó ổng mới rút đầu ổng lại. Thiệt ra thì cũng có bà vợ có trí, chớ nếu mà không, vợ chồng vênh váo nhau đó, tưởng là thằng đánh xe là quan thừa tướng của Yến Anh!

Đó thì hôm nay, Thầy nhắc lại những câu chuyện người xưa, nó có những cái điều đó là vì cái danh đó chớ đâu phải cái gì khác.

Cho nên cái người tu hành mà biết xả tâm Vô Lượng Danh này thì phải dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý.

(24:17) Đó, thì các con phải nhắc nó để cho nó biết cái danh nó là cái thứ gì, để không khéo một chút là cái ngã chúng ta bừng lên theo cái danh đó. Chúng ta phải đánh sập nó xuống, đánh nhẹp nó xuống, không có để cho nó ngóc cái đầu lên.

Nó ham danh lắm, mỗi mỗi, chút chút là nó ham danh. Bởi vậy, cái ham danh đó mới có những anh hùng cá nhân, cho nên người ta không có làm việc lớn cho xã hội được.

Từ lâu đến giờ vì anh hùng cá nhân đó mà tới bây giờ bao nhiêu thế kỷ, con người vẫn chém giết nhau. Trên thế giới này, nước này yên thì nước kia chém giết, nước kia chiến tranh, không bao giờ mà có một cái yên nào hết! Bởi vì cái anh hùng cá nhân này! Nếu mà anh hùng tập thể thì không bao giờ có sự giết chóc này.

Đạo Phật thì không có anh hùng. Cho nên ông Phật ổng đâu có nói rằng ổng là cái người ngon đâu? Trước ổng có bảy Đức Phật, sau ổng còn có Đức Phật Di Lặc. Cho nên, một đạo Phật mà có nhiều giáo chủ như vậy tức là cái sự khiêm nhượng của con người, như vậy mới chính là đạo Phật.

Muốn xả tâm vô lượng danh ta phải dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý ta thấy mà nhắc tâm:

“Danh là một dục lạc ảo giác, nuôi lớn ngã mạn, khiến tâm ta thường đau khổ, hay tranh cãi, lý luận, giận hờn, phiền não.

Ta hãy xả bỏ, từ bỏ, viễn ly, chẳng mong cầu danh gì cả, chỉ biết tu hành thanh tịnh tâm để ra khỏi sanh tử mà thôi!”

Đó, chúng ta chỉ biết giải thoát được mà thôi, không cầu ai gọi mình là Phật, là viện chủ, viện trưởng gì hết, không có cần biết ai gọi mình là chân tu, hay là không chân tu nữa! Chỉ biết mình làm sao mình làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi mình mà thôi.

Đó là cái câu ám thị nó như vậy đó, cái câu hướng tâm tác ý như lý như vậy để chúng ta xả cho sạch cái danh.

Chớ cái danh nó ngầm lắm, nó ngầm ở trong tâm chúng ta, nó nuôi cái ngã chúng ta dữ lắm. Chúng ta chưa bộc lộ ra chớ khi mà chúng ta ngồi ở trên được cái ghế danh rồi thì đủ biết nó như thế nào.

(26:22) Cho nên Thầy hiện giờ Thầy chưa có ngồi trên cái ghế danh, cho nên Thầy đã xa lìa nó, sớm xa lìa nó, để không nó lôi Thầy xuống, nó nhận Thầy xuống cống đó! Rồi những cái lời Thầy mà đang nói ở đây thì Thầy sẽ ngược lại Thầy, sẽ chửi Thầy chớ không ai xa lạ hết!

Bởi vì Thầy không thực hiện đúng những cái lời mà Thầy nói ra cho quý thầy nghe thì ngày nào đó Thầy cũng sẽ là Viện trưởng, thì người ta sẽ nhận Thầy xuống ở trong cái lỗ cống liền!

Câu hướng tâm thứ hai:

“Danh là tên giặc hão huyền, không có thật. Nó thường lôi cuốn tâm ta tỏ ra những hạnh xấu, hiu hiu, tự đắc, tự cao, tự đại, cao ngạo.

Ta hãy xả xuống hết, không còn một cái danh gì trong ta, ta chỉ là một con người như bao con người khác!”

Đó, thì như vậy thì quý thầy mới thấy rằng những câu ám thị của Thầy nhắc nhở mình: Mình như mọi người khác, bình đẳng như mọi người khác, như những người mà nhỏ nhất, mà hạ tiện nhất, giai cấp nhỏ nhất ở trong thế gian này, mình cũng chỉ là những con người đó!

Nhắc như vậy mà không biết chúng ta có thấm nhuần hay không, hàng ngày phải đặt niệm trước mặt mà hướng tâm, không khéo hở ra một chút thì cái bản ngã chúng ta đồ sộ lên, nó chạy theo cái danh đó.

Đó thì những cái câu mà hướng tâm như vậy nó thực tế và cụ thể để giúp quý thầy diệt, xả cái tâm danh của quý thầy mà nó đương ở đeo đẳng ở trong lòng của quý thầy.

Người tu sĩ của đạo Phật chúng ta đã biết mặt năm cái thứ dục lạc này, cái danh nó không phải là dễ, nó rất mạnh, hơn tất cả những cái khác. Ai không muốn danh của mình hơn mọi người? Ai không muốn mình hơn người? Những cái hơn người đó là cái danh chớ không phải là cái gì khác hơn hết.

Cho nên biết rõ như vậy thì hàng ngày phải siêng năng đập cho mạnh những cái đối tượng danh này cho nó nhẹp, cho nó tiêu, cho nó đoạn tận, cho nó diệt trừ, nó không còn ngóc đầu lên được nữa, nó chết luôn, thì như vậy chúng ta mới có cơ duyên thành được một con người giải thoát hoàn toàn, không còn bị cái danh nó sai chúng ta làm những cái điều nô lệ.

Đó thì nó là cái danh.

1.3- XẢ VÔ LƯỢNG ĂN LÀ LÀM CHỦ SỰ SỐNG CHẾT

(28:24) Bây giờ đến cái phần Thầy dạy các con Xả Tâm Vô Lượng ăn. Cái ăn nó cũng vô lượng lắm, bởi vì ăn món ăn này, ăn món ăn kia, ăn món ăn nọ đủ thứ hết mà! Mà nếu mà thèm một chút là chúng ta còn bị nó lôi cuốn đó.

Bởi vì cái ăn mà, lúc thi ăn đường, lúc ăn bánh, cho nên người ta làm đủ loại, lúc thì làm bánh mùi này, lúc làm bánh mùi kia, lúc thì làm nó ngọt, lúc thì làm lạt. Rồi thực phẩm ăn hàng ngày cũng vậy, cơm thì cơm chiên, cơm xào, cơm hầm, cơm nấu đủ loại. Nào là cơm nấu bằng nước dừa, cơm nấu bằng nước này nước kia để cho thay đổi những cái đó. Do đó, chúng ta phải Xả Vô Lượng cái thực phẩm này, cái thực phẩm ăn này.

Cho nên, nói là Xả Vô Lượng Tâm mà, mà Xả Vô Lượng Tâm này là Xả Vô Lượng Tâm ăn, cái tâm háo ăn nè, cái tâm thích ăn ngon nè, cái tâm thích đủ mọi loại nè. Đó, đó là xả nó đi.

Nhưng mà có nghĩa xả không phải là xã để mà chúng ta ăn muối. Chúng ta xả nghĩa là chúng ta không có để cho nó lôi cuốn chúng ta, không có để chúng ta đắm đuối nó, thì như vậy, chúng ta mới có cái điều kiện mà xả nó mới được.

Ăn là một dục lạc lớn trong ta.

Nghĩa là trong thân ta, ăn nó mới sống đó, nhưng nó lại là một cái dục lạc lớn.

Ăn mà còn cầu ngon, cầu dở thì đó là dục lạc ăn đã lôi cuốn ta.

Nghĩa là mình thấy ngon, thấy dở đó là mình đã bị dục lạc rồi đó. Ăn mà còn thấy bổ, thấy béo, thấy mập, thì đó là bị dục lạc ăn cám dỗ chúng ta rồi.

Chúng ta ăn là vốn để sống, để nuôi cái ghẻ đói, chớ không phải để cho mập, cho béo. Nghĩ rằng mình mập béo, khỏe mạnh là mình không chết sao? Có người nào mập béo, khỏe mạnh mà không chết? Cho nên, ăn nghĩ cho bổ, cho nó mập, cho nó béo để mà cho nó sống trường thọ, điều đó là điều hiểu lầm lạc, hiểu sai.

Phật nói cái thân này là vô thường, nó không thể nào mà kéo dài cái mạng sống nó quá cái số thời gian được. Mặc dù chúng ta ăn có đủ chất bổ nhưng nó cũng sẽ duy trì thêm một cái thời gian nào mà thôi.

Ăn mà thấy ớn, thấy ngán, nuốt không vô cũng đó là dục lạc ăn cám dỗ.

Chớ không phải nói chúng ta thấy ngon là nó cám dỗ đâu, mà thấy ớn, thấy ăn không vô cũng là bị cám dỗ rồi đó.

Ăn mà thấy ưa thích là bị dục lạc ăn cám dỗ. Ăn mà không thích ăn ngon, ăn dở, không ngán, không ớn, không chê…​

Ăn mà không thích ngon, không thích dở, mà không ngán, không ớn, không chê là dục lạc ăn không cám dỗ.

(31:16) Đó, chúng ta phải phân biệt. Chúng ta có đồ ăn ngon mà chúng ta không thích, chúng ta ăn dở mà chúng ta không ngán, chúng ta không ớn thì đó là dục lạc ăn không cám dỗ, ăn để sống.

Đó thì chúng ta phân biệt được cái câu này để chúng ta hiểu rằng: Khi chúng ta ngồi ăn mà ngon thì chúng ta thấy cũng ăn như ăn món ăn dở, mà chúng ta thấy cũng không ngán, không ớn gì hết, thì đó là cái ăn của chúng ta không bị dục lạc ăn cám dỗ.

Tóm lại, ăn là một thứ dục lạc ghê gớm, thực phẩm tiếp xúc với vị giác của chúng ta gây sự cám dỗ, lôi cuốn rất mạnh. Người thế gian phàm phu chưa học Thánh Pháp và tùy theo pháp nên đều bị ngã gục trong mặt trận cám dỗ ăn uống này.

Nghĩa là cái người mà ở trong thế gian, mọi người nói chung hết là bị sự cám dỗ lôi cuốn, ngã gục ở trên cái mặt trận cám dỗ này chớ không còn người nào mà thoát ra khỏi hết. Chỉ có những bậc tu hành đúng giới luật của Phật mới thoát ra khỏi cái sự ăn uống, chớ còn lơ mơ là người nào cũng bị dính hết.

Cho nên các thầy thấy rất rõ, lâu ngày không có ăn đường, không có gì hết, thấy bắt đầu nó thèm rồi. Thì lúc bấy giờ là lúc mình chiến thắng lại cái chất ngọt đó. Không, thấy người ta mời một cái ly sữa hay hoặc ly nước ngọt là thấy nó nghe nó run người rồi, nó thèm quá chảy nước miếng rồi đó. Đó là cái ăn cám dỗ rất mạnh.

Có nhiều người họ thích me chua, khi mà người ta nói tới me thì nước miếng họ chảy ra ròng ròng rồi. Đó là cái gì? Cái đó là cái cám dỗ của cái chất chua đó. Nó làm cho chúng ta chảy nước miếng ra. Đó là làm cho chúng ta thích, nó cám dỗ chúng ta.

Thì chúng ta biết là cái ăn nó có cái sự lôi cuốn rất mạnh, ngay khi nghe cái tiếng thôi chứ chưa có thấy người ta nhai nữa. Chớ thấy người đó mà nhai miếng me mà “chắp chắp” đó, chắc chắn là nước miếng mình nó chảy, lau hoài nó không hết nữa! Đó là nó kích thích, nó làm cho chúng ta thèm.

(33:25) Không đây Thầy nói sự thật mà! Quý thầy đừng cười chớ! Nó là một sự thật, cho nên nó là có sự cám dỗ rất mạnh. Nó làm cho chúng ta khao khát, thèm muốn nó dữ lắm. Mà ngay trong cái thân của chúng ta, nó là cái chất đó là như vậy.

Cho nên, người tu sĩ đạo Phật chúng ta chiến thắng lại nó, không thèm. Mà không thèm thì chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải từng hướng tâm Như Lý Tác Ý, ám thị nó.

Cho nên người ta nhai me mà nước miếng mình không chảy là mình đã thành tựu rồi đó. Còn người ta nhai me mà mình ngồi đây mình nghe người ta nhai đó mà mình chảy nước miếng, thì chưa đâu, pháp của mình chưa viên mãn đâu, phải tập nữa, phải tu nữa!

Một ly nước ngọt, một ly sữa, một cái bánh, cây kẹo, một trái cây rất tầm thường mà quý vị không khéo giữ gìn là quý vị phạm lỗi phi thời, bị cám dỗ mà không biết còn lý luận che đậy tội lỗi.

Thậm chí, một viên thuốc vitamin C chua chua, ngọt ngọt và các loại thuốc khác có hình thức như kẹo để chống ho, chống viêm cổ mà đặt nó vào miệng để ngậm còn phạm tội phi thời thay, huống là theo dục lạc đã bị cám dỗ bởi vị giác của quý vị!

Đó thì Thầy nói từ cái viên thuốc thôi, nó có ngọt ngọt, chua chua, nó làm kẹo the này kia nọ, mà bỏ vào miệng mà phi thời, ngay đó là quý thầy đã bị phạm phải lỗi ăn phi thời!

Thầy kết luận như vậy để cho quý thầy thấy rằng cái sự tu hành chúng ta phải chiến thắng tận cùng, không có để chúng ta chạy theo cái vị giác cám dỗ chúng ta khi tiếp xúc với thực phẩm, và thực phẩm tức là ăn.

Người tu sĩ phải cảnh giác đến mức độ đó như vậy mới thấy được sự giải thoát thân tâm của mình.

Nó lý luận rằng bây giờ chúng ta khô cổ nè, chúng ta phải ngậm cho nó!

Cũng như Thầy nói như thế này, quý thầy làm cái ly nước chanh đường để cho Thầy thông cổ, đó là cái lý luận để mà lấy cái lý này, chớ Thầy nói suốt ngày Thầy có uống ly nước chanh nào, nhưng mà Thầy có khô cổ đâu?

Lý luận đó cứ lát nhấp chút, nhấp chút để nuôi dưỡng cái vị ngọt vị chua cho khoái khẩu chớ đâu phải là cái gì khác hơn! Tức là nuôi lớn cái dục chớ không phải gì hơn

Cho nên gọi là Xả Tâm Vô Lượng thì phải thấy được những cái vi tế của nó, thấy được cái sự che đậy vi tế của nó chạy theo dục của thế gian. Mà không lường được trước những cái tai họa sau này thì tất cả những cái dục lớn đều là nó thể hiện ra hết.

Từ một cái viên thuốc nhỏ mà không hàng (phục), không chặn đứng, không chấm dứt thì chúng ta sẽ bị tất cả những cái vật cám dỗ khác nó sẽ lôi cuốn chúng ta hết.

Người tu sĩ cảnh giác như vậy, đề phòng như vậy, phòng hộ sáu căn của mình như vậy, mà tu còn khó khăn thay, còn huống hồ những kẻ không phòng hộ, thì thử hỏi như một người tu hành mà ra chợ mà nhiếp thiền định, thì thiền định làm sao được?

Người ta sanh ra, ăn để sống chớ không phải sống để ăn. Thế mà kẻ không hiểu pháp Thánh Hiền, không tùy pháp nên trở thành sống để ăn.

(36:33) Chúng ta là những người hiểu được pháp Thánh Hiền, thì chúng ta biết ăn là để nuôi cái bệnh đói chớ không phải ăn mà để ngon, để ngọt nữa. Cho nên, người phàm phu không biết pháp cho nên sống để ăn.

Bây giờ, chúng ta sống ăn cho đã đi, ăn cho đầy đi, ăn cho ngon đi, chạy theo dục lạc ăn cho đã đi! Nghĩa là chúng ta không còn biết cái gì hết, miễn món ăn nào ngon ở trên thế gian này là cũng phải mua ăn cho được, thì những người đó là những người chạy theo dục lạc.

Người tu sĩ Phật giáo phải làm chủ cái ăn, không được ăn phi thời. Ăn uống phi thời là phi Phạm hạnh, là chạy theo dục lạc, chạy theo dục lạc ăn là ngạ quỷ, coi xem như là mình là loài ngạ quỷ, là loài quỷ sa tăng.

Phần đông tu sĩ Phật giáo hiện giờ từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc, từ trên xuống dưới đều bị quỷ dục lạc ăn cám dỗ và lôi cuốn xuống địa ngục tất cả.

Không khắc phục được ma dục lạc ăn thì làm gì tu tập Chánh Thiền, Chánh Định được? Tu tập sai một ly hào là cách xa đạo giải thoát một ngàn dặm!

Đi tìm đạo giải thoát mà trói mình trong ăn, uống thì giải thoát ở chỗ nào?

Người thế gian bị dục lạc ăn trói buộc đã đành, người tu sĩ Phật giáo - đạo giải thoát mà bị trói buộc thì có phải xấu hổ vô cùng, vô tận không đối với những người khác?

Ăn mà không giải thoát thì giải thoát cái gì đây? Giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết.

Nghĩa là Thầy nói ở đây là sự thật. Một người mà nhập thiền định là người ta giải thoát được cái ăn: Người ta không ăn mà người ta không chết, đó là giải thoát được cái ăn, chớ cái gì! Rồi người ta lại phục hồi cơ thể người ta sống lại người ta ăn, thì như vậy là người ta đã làm chủ được sống chết.

Còn mình không giải thoát được cái ăn thì làm sao gọi là mình làm chủ sống chết?

Cho nên cụ thể và rõ ràng, không thể nào là chối cãi được chỗ cái lời này.

(38:45) Cho nên Thầy nhắc lại:

Giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết.

Cụ thể, thứ nhất cho chúng ta thấy:

Một người tu thiền định mà ngồi bảy ngày mà không ăn uống là giải thoát được bảy ngày sống chết. Người ngồi thiền định mà nhập được một tháng không ăn uống là người đó đã làm chủ sống chết được một tháng. Mà người mà nhập thiền định mà không ăn uống một năm là người đó làm chủ sống chết trong một năm.

Đó, cái đó nó quá rõ ràng. Còn nữa thì cứ lên nữa, mà tới đó thì thôi không lên nữa được, thì tức là còn ăn uống lại sống thì tức là làm chủ thêm nữa chưa được, phải tu tập nữa. Tu tập chừng nào mà làm chủ, ngồi đây một ngàn năm, triệu năm mà không ăn mà không chết, đó là làm chủ được sống chết. Có như vậy cụ thể.

Nghĩa là bây giờ chúng ta làm chủ được sống chết trong một ngày, là chúng ta không ăn một ngày mà chúng ta không chết thì đó là làm chủ được sống chết. Mà 2 ngày, rồi 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 2 tháng…​ điều đó chứng minh cụ thể không thể nào mà ai chối cãi được.

Còn bây giờ tui nói thiền định gì mà ngày nào cũng ba bữa, thì chắc chắn là ông ta không làm chủ sống chết được đâu!

Đó thì, quý thầy hiểu rõ được con đường thiền định của đạo Phật thực tế và cụ thể để chứng minh qua cái chỗ ăn của quý vị, và ăn là một thứ dục lạc rất nặng ở trong thân con người.

Vì có thân phải có ăn. Cho nên ăn như thế nào để đúng cách là người tu sĩ, ăn như thế nào không đúng cách là người tu sĩ. Hầu người ta tu nhưng cái ăn người ta chưa đúng cách của người tu sĩ thì tức là chưa phải con người tu giải thoát.

Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống, đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại đó là làm chủ cái sống. Đó thì, người tu sĩ mà thiền định nhập định thì người ta làm chủ được cái này rõ ràng, ở đây quý thầy cũng sẽ lần lượt quý thầy sẽ chứng minh điều đó.

1.4- GIẢI THOÁT NGŨ DỤC LẠC LÀ GIẢI THOÁT MỌI SỰ ĐAU KHỔ

(40:22) Còn làm chủ bệnh, già, ưu, bi, sầu, khổ là chỗ nào? Là chỗ lìa ba cái sự dục lạc cám dỗ ở trên kia: danh, sắc và lợi.

Đó thì, ở đây chúng ta lìa - chỉ có lìa cái ăn là chúng ta làm chủ được sự sống chết, mà lìa được cái chỗ mà ưu, bi, sầu, khổ, phiền não, đau khổ, giận hờn thì quý vị phải lìa ba cái sự dục lạc ở trên, tức là danh, sắc và lợi.

Nói cho rõ ra: Từ chỗ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn; từ bỏ danh thế gian nhỏ, quyền tước lớn, quyền tước nhỏ; vật chất lớn, vật chất nhỏ thế gian; chỉ sống tri túc thiểu dục một bát ba y mà thôi - đó là chỗ Đức Phật dạy “Sanh đã tận” - thì mới giải thoát được sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, là chấm dứt luân hồi tái sanh.

Đó thì, Đức Phật cũng dạy chúng ta “sanh đã tận”, tức là chúng ta phải xả bỏ ba cái thứ dục lạc kia đi, tức là danh, sắc, lợi đó - chúng ta xả bỏ ba cái thứ đó đi.

Mà ba thứ đó là những cái sợi dây triền phược trói buộc chúng ta, cho nên chúng ta xả bỏ tức là “sanh đã tận”, thì con đường giải thoát của chúng ta không còn luân hồi nữa, chấm dứt rồi!

Chúng ta thấy rất rõ ràng và cụ thể. Đứng ở trong góc độ của năm cái dục lạc này thì chúng ta đã phân được ra cái chỗ nào mà làm chủ được cái tâm không còn tái sanh luân hồi, mà cái chỗ nào mà làm chủ được cái thân sống chết, cụ thể rõ ràng. Tại vì…​ (Mất tiếng)

(42:21) Tại sao vậy? Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống, đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại, đó là làm chủ cái sống.

Còn làm chủ bệnh già, ưu, bi, sầu, khổ là chỗ nào? Là phải lìa ba sự dục lạc cám dỗ ở trên gọi là danh, sắc, lợi.

Nói cho rõ ra: Từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn; từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn; từ bỏ danh thế nhỏ, quyền tước lớn; từ bỏ tất cả vật chất thế gian, chỉ sống tri túc thiểu dục, một bát ba y mà thôi - đó là chỗ Đức Phật dạy “sanh đã tận” - thì mới giải thoát được sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, sầu, khổ, là chấm dứt luân hồi sanh tử.

Tóm lại, người tu sĩ đạo Phật bằng mọi cách, bằng mọi phương pháp để đạt được sự xa lìa năm thứ dục lạc này là quý vị đã làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi khổ đau của kiếp con người.

Đó thì, hôm nay quý thầy thấy rất rõ ràng và cụ thể đạo Phật nhắm vào cái chỗ nào mà chúng ta đạt được cái mục đích để làm chủ cái kiếp sống khổ đau của con người, thì nhắm vào ở chỗ năm cái dục lạc này mà chúng ta biết được, chúng ta dứt được, chúng ta bỏ được, chúng ta xả được.

Vì vậy mà đến cái tâm Xả Vô Lượng này Thầy đã giảng cho quý thầy cách thức tu tập, hành pháp rất rõ ràng cụ thể để chúng ta xả cho toàn triệt nó, thì như vậy là quý thầy đã được cái giải thoát rõ ràng, chớ đâu cần gì phải nhiều!

Nhưng tất cả những pháp sau để bổ túc thêm cho cái pháp này, để chúng ta thực thi cho được là xả những cái dục lạc này, chớ có gì khác hơn?

Nếu quý vị Xả Vô Lượng Tâm dục lạc này không hết thì dù ngàn đời quý vị có tu thiền định nào cũng là ma thiền, tà thiền.

Nghĩa là cái tâm dục lạc của quý vị mà sống nhan nhản như vầy, quý vị có tu thiền định gì mà cao siêu đi nữa thì đó là ma thiền, tà thiền.

(44:46) Bởi vì, quý vị thấy rất rõ, ở trên cái thế gian này chúng ta nghe báo chí đăng vị đạo sĩ này, vị đạo sĩ kia trong những năm khổ công ở trên núi, sống khổ hạnh, không có cơm ăn, ăn toàn lá cây hoặc là luyện tập như thế nào đó, để cho đến cái mức mà người ta chôn mình ở trong đất mà không chết; để cho đến mức mà người ta dìm mình ở trong nước mà mình không chết; để cho đến lúc mình đi ở trên lửa mà không nóng; để cho đến lúc mà mình mặc một chiếc áo mỏng mà đi dưới trời rét dưới 37 độ mà không lạnh. Thế mà không khỏi cái sự cám dỗ của cái danh, cho nên đi biểu diễn từ nước này đến sang nước khác, đó là cái danh chớ gì?

Hình ảnh và báo chí đã đăng những cái vị tu sĩ này họ tu tập khổ hạnh để giải thoát chớ đâu phải mục đích để đi ra cầu cái danh! Nhưng rồi cái danh đó để cho thiên hạ biết, còn có ai mà có - nghĩ rằng có ai mà làm được đâu, chỉ là cái người đó chịu khổ hạnh làm vậy, chớ bao nhiêu người đã chịu khổ hạnh?

Còn Đạo Phật thực tế, đem cái đời sống chúng ta giải thoát hoàn toàn, chúng ta biết sống biết chết, biết cái tâm chúng ta dính mắc chỗ nào, khổ đau chỗ nào chúng ta gỡ ra được hết, do vì vậy mới thấy nó là thực tế, cụ thể. Cho nên nó không cầu danh, nó không cầu lợi, nó chỉ mong làm sao cho mọi người được giải thoát chính như bản thân của nó mà thôi.

Đó là cái hay của đạo Phật, cái tốt của đạo Phật, cái thương yêu của đạo Phật đối với muôn loài, không vì cá nhân mình.

Nếu quý vị Xả Vô Lượng Tâm, dù quý vị có lý luận như thế nào mà chúng ta thấy quý vị dính mắc năm thứ dục lạc này thì quý vị đã đi ngược lại Phật giáo, tức là không giải thoát. Không giải thoát, mọi người ai cũng thấy dễ dàng, nhận ra rõ ràng.

Nghĩa là khi mà mình đi ngược lại cái giáo lý, cái giới luật của Phật, thì mình sống ở trong năm thứ dục lạc này, thì mình có lý luận như thế nào, mình có giảng giải pháp như thế nào, thì người ta thấy cuộc sống của mình còn dính mắc trong năm thứ dục lạc này, thì người ta biết rằng mình chưa phải là giải thoát.

Dù mình có thần thông biến hóa, ngồi trên hư không, ngồi xếp bằng trên hư không, bay như chim, lặn xuống nước, độn thổ hoặc là phóng lửa, hóa mây, người ta cũng vẫn thấy mình còn sống trong năm thứ dục lạc này, thì người ta vẫn thấy mình là người chưa giải thoát.

Dù mình có bùa chú, thần linh, dù có kêu mưa hú gió, thì người ta vẫn thấy mình còn dính mắc trong năm thứ dục lạc này, thì người ta vẫn cho mình là người chưa giải thoát.

Đời sống ba y một bát là đời sống của Đức Phật, là đời sống giải thoát.

Đời sống chùa to tháp lớn, ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời, vật dụng đầy đủ, không thiếu món nào, là đời sống thế gian pháp, phàm phu tục tử, đời sống bị năm thứ dục lạc trói buộc rất chặt, đời sống phi giải thoát.

(47:35) Đó thì chúng ta thấy đời sống của người thế gian là đời sống phi giải thoát. Mà đời sống người tu sĩ mà ăn uống phi thời, vật dụng đầy đủ, là đời sống đó không phải là đời sống xuất thế gian mà đời sống thế gian pháp.

Đời sống như vậy chứng tỏ người tu sĩ chưa giải thoát, rất cụ thể và rõ ràng, ai cũng có thể nhận ra được cái đời sống này.

Đời sống đó là đời sống trong danh lợi, không phải đời sống của những bậc Phạm hạnh Phật giáo. Đời sống đó là đời sống phi Phật giáo. Đời sống đó khiến cho Phật giáo suy đồi, ngọn đèn Phật giáo tắt mất.

Nhìn đời sống tu sĩ Phật giáo quý vị sẽ biết Phật hưng thịnh hay suy tàn:

Đời sống tu sĩ ba y một bát, không chùa to tháp lớn kiên cố là Phật giáo hưng thịnh. Đời sống tu sĩ Phật giáo mà còn sống trong ngũ dục lạc thế gian là đời sống Phật giáo suy đồi.

Đó là những cái lời mà xác định và quyết định chắc chắn như vậy, không còn ai chối cãi được nữa.

Người tu sĩ Phật giáo mà không lấy ba Thánh Pháp này - Giới, Định, Tuệ của Đức Phật - làm thầy mình, làm chỗ nương tựa vững chắc, mà không giữ gìn tu hành nghiêm chặt, vi phạm lỗi lầm, không biết xấu hổ và sợ hãi khi phạm phải một lỗi nhỏ là Chánh Pháp của đạo Phật đã suy đồi.

(49:03) Ngược lại, người tu sĩ Phật giáo sống ba y một bát, thiểu dục tri túc, lấy ba Thánh Pháp Giới, Định, Tuệ làm khuôn vàng thước ngọc, mẫu mực cho sự hành trì nghiêm túc của mình thì đó là lúc Phật giáo hưng thịnh.

Nhìn qua đời sống ngũ dục lạc của tu sĩ là ta đã biết những người tu đó tu trong Chánh Pháp hay Tà Pháp. Nhìn qua đời sống ngũ dục lạc của các vị tu sĩ đó là ta đã biết họ lấy đạo làm đời, lấy đạo kinh doanh đời, sống theo lợi sống theo danh lợi bằng hình thức tôn giáo.

Đến đây quý vị đã hiểu ngũ dục lạc có sức cám dỗ và lôi cuốn rất mạnh, không có một sức nào cưỡng lại được. Nếu không phải là pháp môn của Đức Phật Giới - Định - Tuệ thì toàn cả tu sĩ trên thế gian này đều bị ma ăn, ma danh, ma sắc dục, ma lợi, ma ngủ lôi xuống địa ngục tất cả.

Có những tu sĩ khổ hạnh trong ăn uống, thế mà bị ma dục lạc danh…​

Nghĩa là sống khổ hạnh trong ăn uống, họ không để cho ăn uống cám dỗ họ, nhưng mà ma danh cám dỗ họ.

…​ nên thường diễn những trò kỳ đặc, từ hình ảnh này đến hình ảnh kia cho quần chúng xem để ca ngợi khen tặng.

Đó là họ sống theo danh, họ thắng được cái dục lạc này thì họ bị cái dục lạc khác lôi cuốn.

Thật là buồn cười, tu dở chết, dở sống thế mà chỉ mua một cái danh hão của thiên hạ! Nếu ai đã từng theo Thầy tu hành thì biết tu không phải dễ. Thế mà tu được lại đem ra mua danh như vậy thì quý vị nghĩ sao? Vị tu sĩ có thoát khỏi ngũ dục lạc không? Mà không thoát khỏi ngũ dục lạc thì có giải thoát không?

Nhập định toàn cả cơ thể không còn hoạt động, gần giống như cái thây ma người chết, mời các nhà khoa học đến đem máy đo điện tâm đồ, họ sẽ kinh ngạc đến mực nào! Từng đó báo chí đăng khắp thế giới, như vậy không phải là người đại ngũ dục lạc thế gian sao? Như vậy có giải thoát hay không?

Người tu hành giải thoát là phải xa lìa năm thứ dục lạc, sống đời sống thiểu dục tri túc, không nhà, không cửa, sống vô gia đình, không có của cải tài sản nhỏ, tài sản lớn. Nhìn đời sống như vậy, chúng ta đã biết đó là những bậc chân tu, giới đức, thiền đức, những bậc đã giải thoát ra khỏi vòng thế tục.

Còn biểu diễn những trò kỳ đặc là mua danh, mua lợi, có gì là giải thoát đâu! Làm trò giải trí cho thiên hạ chơi, thiên hạ xem!

1.5- PHÁP HƯỚNG XẢ DANH - LỢI - ĂN UỐNG

(52:51) Đến phần thực hành này, ta phải “tâm chuyên nhất cảnh”.

Đây cái phần mà xả cái ăn này nó còn quan trọng lắm, chớ không phải là không quan trọng đâu. Cho nên ở đây Thầy nói: Đến cái phần thực hành này thì ta phải “tâm chuyên nhất cảnh” - nghĩa là chuyên nhất ở trong một cái pháp, tâm phải chuyên nhất ở trong đó, nếu quý vị xao nhãng một chút là quý vị đã chưa ly được nó đâu.

Đó thì, “tâm chuyên nhất cảnh” như thế nào?

Lựa một chỗ an trú thanh vắng…​

Ở đây Thầy nhắc lại nè.

…​ một chỗ, một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một hang hốc, một bãi tha ma, một sơn lâm giữa trời không mông quạnh, một đống rơm, một chòi lá…​

Lựa chỗ xong, sau khi ăn cơm xong, nghỉ ngơi độ hai giờ, ta ngồi kiết già lưng thẳng đứng, dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý:

Đó bây giờ chúng ta mới dùng nó - cái danh, cái lợi hay hoặc cái ăn cái uống - chúng ta đặt theo cái chỗ này mà Thầy cho pháp hướng.

Đây là Thầy đặt cho cái tên nó là “danh” đi:

“Danh là một thứ dục lạc vô hình, thu hút và cám dỗ con người rất mạnh, nuôi lớn ngã mạn, cống cao, do đó sanh ra Ngũ Triền Cái - tham, sân, si, mạn, nghi. Triền cái này trói buộc chúng ta muôn đời muôn kiếp sống đau khổ.

Vậy ta hãy lánh xa, từ bỏ, từ khước, viễn ly tất cả các loại danh!”

Đó là câu hướng tâm, cái câu trạch pháp này để chúng ta như cái lý này mà tác ý ra, mãi mãi làm cho chúng ta xa lìa những cái danh, những cái lợi, những cái ăn.

Câu thứ hai:

“Danh - dục lạc có một ma lực vô hình, cám dỗ và lôi cuốn con người vào chỗ sanh tử luân hồi.

Ta phải từ giã, từ khước, từ bỏ, lánh xa, viễn ly danh dù bất cứ mọi trường hợp nào!”

Nghĩa là bất cứ mọi trường hợp nào, nhỏ, lớn chúng ta đều phải nhận diện ra nó để mà chúng ta xa lánh nó. Chớ nó nhiều khi nó qua cái trường hợp khác, nó làm cho chúng ta không thấy đó là cái danh, nhưng mà chúng ta bị nó gạt! Hở ra một chút là chúng ta bị gạt.

Cho nên Đức Phật dạy chúng ta: “khi có danh, có lợi, có sự cung kính, hãy lánh mặt!” Lời ông Phật dạy Thầy khắc ghi trong lòng Thầy, nhớ mãi muôn đời không bao giờ Thầy quên. Thầy biết đó là cái ma danh, nó rất mạnh.

Câu thứ ba:

“Người tu sĩ lãnh đạo Tăng đoàn mà đón danh, lợi vào chùa là đón rắn độc, rắn sẽ cắn chúng tăng chết hết.

Vậy người lãnh đạo Tăng đoàn phải xa lánh, từ bỏ, từ khước danh, lợi để cứu lấy chúng tăng, để cứu lấy Phật giáo!”

Đó là cái câu để nhắc nhở cho những người mà lãnh đạo, những người tu như Thầy bây giờ. Đó là cái câu mà Thầy ám thị - ám thị cho Thầy đó. Cho nên cái câu này đã từng, đã nhắc đi nhắc lại Thầy rất nhiều. Không khéo thì dẫn danh dẫn lợi vô đây cắn quý thầy chết hết, không có người nào sống đâu!

(55:37) Đó là thấy những cái điều - mà Thầy đã thấy xa chớ không phải là thấy gần đâu, không phải đợi mà nó cắn chết hết cả đám nhau rồi đó, mà ngồi đây mà bật ngửa ra đó. Thấy xa như vậy cho nên quý thầy không bị rắn cắn đâu!

Đây là Xả Tâm Vô Lượng danh dục lạc thế gian. Quý thầy phải thường ngày một lần, hai lần, ba lần, bốn lần…​ tu tập Như Lý Tác Ý trau dồi tâm mình phải xả cho sạch danh lớn, danh nhỏ.

Vì danh là vô hình, vi tế rất khó xả, nên quý thầy phải đề cao cảnh giác, siêng năng tu tập thì mới Xả Vô Lượng Tâm này được.

Nó không phải dễ đâu, cho nên quý thầy phải cảnh giác, phải siêng năng, phải thường hằng. Nó mống một chút xíu, quý thầy không thấy nó đâu. Chừng nó lộ tướng lộ hình, thấy được thì ôi thôi, nó đã cắn mình rồi!

Khi Xả Tâm Vô Lượng danh dục lạc này được thì thân tâm quý vị thênh thang, nhẹ nhàng, an lạc, với đời sống ba y một bát, giải thoát hoàn toàn, Niết bàn tại thế!

Nghĩa là xả được cái tâm danh rồi quý thầy mới thấy được nó.

Còn tâm danh lợi này, quý vị dù ở núi cao khổ hạnh tối đa thì tâm hồn của quý vị nặng như treo đá.

Bây giờ có trốn đi đâu, quý vị có ở đâu, thôi Thầy nói đây như thầy Chơn Trí đây, thầy về thầy ở trong núi cao trắc trở đó, mà cái tâm của quý thầy - của thầy mà không xả được nó thì thầy ở trong đó cũng như là treo đá chớ nó không có giải thoát gì đâu.

1.6- PHẢI ĐỀ CAO CẢNH GIÁC, ĐỪNG XEM THƯỜNG DỤC LẠC

(57:11) Quý thầy nên lưu ý: Năm thứ dục lạc lớn dễ xả.

Năm thứ dục lạc nhỏ - tuy rằng vật chất tầm thường: một cuốn kinh sách, một bài thơ, một bài kệ, một bài văn, một kiến thức Phật Pháp, một kiến chấp, một chai dầu nhỏ, một cục xà bông, một cây kem, một bàn chải, một cây kim, một sợi chỉ…​ đều là ngũ dục lạc nhỏ, khó xả lắm quý vị!

Phải đề cao cảnh giác, hết sức thận trọng. Xem thì rất thường mà xả thì rất khó.

Đó, những cái lớn hồi nãy ở trên đó, thì thấy nó rõ ràng. Nhưng mà coi chừng những vật dụng xung quanh quý vị, coi chừng nó nhỏ đó, nó không ra gì đó chớ nó trói buộc quý vị lắm đó.

Đó, Thầy giảng như vậy là quý thầy phải để ý từng chút, từng chút, nếu là một người tu sĩ phải xả cho thật sạch. Một vật nhỏ còn thì một vật lớn nó sẽ dính, nó không tha quý vị đâu!

Bởi vì nó là một cái sức cám dỗ của ngũ dục lạc. Năm cái thứ dục lạc rất mạnh, một vật nhỏ mà còn dính quý thầy là quý thầy bị tiêu đó, chớ đừng nghĩ rằng tui giải thoát đâu!

Thấy mình chùa không to, tháp không lớn, ở chòi tranh vách lá, ở rừng, ở núi, ở hang, nhưng mà còn hai cây kim là quý vị đã bị dính, còn một cuộn chỉ to là quý vị đã bị tiêu, còn hai cái y là quý vị đã bị tiêu! Chớ không phải là - tưởng là cái chuyện nhỏ đó nó tầm thường, nhưng nó còn nuôi cái mầm của nó là chạy theo dục lạc đó!

Vì thế hôm nay Thầy ẩn bóng để Xả Vô Lượng tâm này cho thật sạch như một người đã chết bỏ xuống hết. Bây giờ Sanh đã tận, Phạm hạnh mới xong, những việc làm Thầy đã làm hết, không còn trở lui đời sống này nữa!

Đó thì bây giờ quý thầy mới hiểu được cái chỗ ẩn bóng của Thầy chứ gì? Đó là mục đích mà Thầy xả sạch, đó là Xả Tâm Vô Lượng sạch đó! Xả vô lượng cho sạch mà! Mà bây giờ mình còn như thế này là mình chưa xả, phải không?

Các thầy thấy rõ: Thầy bây giờ như vầy Thầy chưa xả. Chưa xả đồ chúng nè, chưa xả những cái chùa mình nè, chưa xả - chưa có ba y một bát mà, như vậy chưa xả sạch. Nó còn, còn vi tế. Coi chừng cái sự vi tế này nó sẽ trở thành cái lớn của nó đó! Cho nên ở đây thấy rất rõ.

Qua những cái bức thơ của thầy Thiện Thiền, thầy chưa nhận ra được cái ý chỉ của Thầy, cho nên thầy nghĩ rằng phải lợi ích chúng sanh, phải làm Bồ Tát Hạnh. Nhưng Bồ Tát Hạnh coi chừng mà Xả Vô Lượng Tâm chưa sạch!

Đó, để kết luận buổi giảng hôm nay. Chúng ta đã học tới đây thì nó cũng gần tới giờ ăn cơm, chúng ta phải xả nghỉ.

1.7- NGỦ LÀ TRẠNG THÁI NGU SI MÊ MUỘI VỚI NHIỀU HÌNH THỨC

(01:00:25) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học.

Bây giờ xả cái ngủ. Hồi nãy là mình xả năm cái thứ kia rồi, bây giờ tới mình xả tới cái ngủ là cái cuối cùng, năm thứ dục lạc thì cái ngủ là cái cuối cùng. Bây giờ đến phần xả dục lạc ngủ.

Ngủ là một thứ dục lạc trong năm thứ dục lạc khiến cho con người thích thú, ham mê ngủ. Ngủ là một trạng thái ngu si mê muội, ngủ là một trạng thái bần thần, dã dợt, lười biếng, cho nên những người lười biếng là những người ham ngủ.

Ngủ có nhiều cấp độ:

Ở đây quý thầy thấy trong cái trạng thái ngủ là nó làm cho con người si mê lắm. Do đó mà Đức Phật gọi là thùy miên hay vô ký, đó là những cái danh từ để chỉ cho cái người mà lười biếng, hay ngủ; cái người mà ngu si; cái người không có thông minh. Cho nên gọi là hôn trầm thùy miên.

Vậy thì cái ngủ chúng ta cũng phải biết nó có nhiều cái cấp độ, chớ không phải trong có một cái - nói có hôn trầm thùy miên không thì nó chưa đủ. Vì vậy cho nên ở đây Thầy muốn chỉ cho chúng ta thấy nó có năm cái trạng thái mà nó đi vào ở trong cái gọi là ngu si.

Thì đó là:

Thứ nhất là hôn trầm;

Thứ hai là thùy miên;

Thứ ba là hôn tịch;

Thứ tư là vô ký;

Thứ năm là ngoan không.

Năm cái trạng thái này - mà cái người tu thiền thì thường phải gặp lấy những cái trạng thái này, cho nên cái người mà ngồi lâu luôn luôn lúc nào cũng bị rơi vào trong năm cái trạng thái này.

Và cái hôn trầm thì như thế nào?

Hôn trầm là một cái người ngồi một lúc thì lại vô ký đi, quên mất đi, rồi gục xuống một cái, rồi mới ngước cái đầu lên. Thì cái trạng thái mà gục xuống như vậy đó gọi là hôn trầm.

Còn thùy miên là như thế nào?

Thùy miên là cái người đó ngồi cúi cái đầu xuống, hay quẹo cái cổ qua một bên, rồi quên mất đi, ngủ say ở trong giấc ngủ đi, thì cái đó là thùy miên. Nghĩa là thùy là ngủ, mà miên thì nó tiếp tục miên man, miên mật ở trong đó, ở trong cái giấc quên nó đi, ở trong cái không biết đó, thì gọi là thùy miên.

(01:02:39) Thứ ba là hôn tịch.

Hôn tịch là một lúc thì mê, một lúc thì tỉnh tỉnh, mơ mơ, màng màng đó. Những cái người ngủ mà không say mà cũng không gục đó, mà lúc thì tỉnh lúc thì mê.

Cũng như quý thầy tu về hơi thở, lúc thì biết hơi thở, lúc thì không biết hơi thở, đó gọi là cái trạng thái hôn tịch. Nó cũng thuộc loại ngủ đó, nhưng mà ngủ - vừa ngủ mà vừa mê vừa tỉnh thì cái đó gọi là hôn tịch.

Còn thứ tư thì thuộc loại vô ký.

Vô ký là nó chợt nó quên đi. Thứ nhất là nó quên cái tâm, cho nên lúc bấy giờ vừa chợt quên thì nó mất cái tỉnh. Nó mất cái tỉnh thì cái niệm vọng tưởng nó xen vô liền. Cái đó gọi là vô ký. Nó quên, rồi nó mới có cái niệm khác xen vô.

Hoặc là nó quên, nếu mà cái thân nó quên đi, thì nó có một tiếng động hay một cái gì đó nó giật mình, hay hoặc là nó vừa quên cái nó giật mình, thì đó, cái thân nó cũng vô ký đó.

Đó là những cái nó vô ký. Nó kéo dài thì cái vô ký đó nó trở thành một cái trạng thái gọi là ngoan không.

Nó mới chợt mà vừa quên đó, thì đó là nó vô ký. Mà nó kéo dài một cái thời gian dài ra từ nửa tiếng, hai, ba tiếng mà không ngơ - nó không giống như ngủ, không giống như thùy miên, mà nó không ngơ ở trong đó - thì cái đó gọi là ngoan không.

Cho nên cái năm cái loại ngủ này thì nó gọi là cái ngu si. Cái người mà rơi vào trong những cái trạng thái đó nó không còn có thông minh nữa, mà nó càng ngày nó đi tới cái ngu si.

Nghĩa là cái người mà ngồi thiền nhập định vào cái ngoan không này thì lâu ngày họ phát ra cái trí tuệ của tưởng, họ tưởng giải. Họ tưởng là đúng nhưng sự thật ra họ nêu những cái kiến giải, tưởng giải đó ra làm cho lầm lạc tất cả những cái lối đi, làm cho phá những cái giới luật, làm cho những cái khuôn phép của Phật mất đi, để cho họ được tự tại ở trong cuộc sống chạy theo cái ngũ dục lạc.

Cho nên cái người rơi vào ngoan không này thường hay phát triển cái pháp tưởng. Vì thế mà người sau này dễ bị lầm lạc, tưởng là cái pháp đó là đúng, cho nên từng đó mà làm lệch đi con đường tu theo đạo Phật, làm tất cả những người sau này mất lối, không còn biết đường đi nữa.

(01:04:56) Đó là những cái người mà tu thiền sai, rơi vào những cái ngoan không, tạo thành những cái pháp tưởng. Vì vậy mà đời mất lối đi, mất cái đường tu giải thoát. Cho nên từ cái chỗ ngu si này nó đưa đi đến chỗ ngu si khác, mà tưởng rằng mình đã có trí tuệ. Đó là cái sai rất lớn trong sự tu tập theo đạo giải thoát.

Tất cả những loại ngủ này đều gọi chung là si thiền hay mê định.

Đó, thì nói chung là những cái loại này nó bắt đầu mà người mới vô tu mà không biết.

Cho nên Đức Phật dạy chúng ta vào bắt đầu tu thì tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức làm cho cái sức tỉnh của chúng ta, cho nên đi kinh hành nhiều để hành động theo cái hành động, trên thân quán nội thân theo cái hành tướng của nó để mà tu tập, để làm cho cái sức tỉnh. Vì vậy mà nó không rơi vào hôn trầm thùy miên, hôn tịch, vô ký, ngoan không.

Còn nếu mà chúng ta không tu tập cái này mà vội vào mà khép chân ngồi kiết già, rồi đặt một cái hơi thở, hoặc là một cái đề mục thiền nào đó rồi chúng ta ngồi, mà ngồi quá lâu thì cái cơ thể nó bị mệt mỏi, do đó nó thiếp dần đi ở trong những cái trạng thái ngủ, cái trạng thái si mê này, rồi nó tạo ra những cái cảnh giới, nó tạo ra những cái trí tuệ không đúng cách, làm cho nó lệch lạc cái sự tư duy, nó mất cái trí tuệ.

Bởi vì nó ngu si, nó là si thiền, si định, cho nên nó làm cho chúng ta ngu si mà cứ ngỡ tưởng rằng mình là trí tuệ. Từ đó mình dẫn mình đi trên con đường tu hành lạc nẻo, mà không hay biết.

Cho nên tất cả những loại ngủ này đều gọi chung là si thiền, mê định. Kẻ tu tà thiền, định tưởng thường rơi vào trạng thái này.

Nghĩa là cái người tu thiền mà thuộc về tà thiền, định tưởng thì họ thường rơi vào cái trạng thái năm cái loại ngủ này, không có thể nào mà mà sai.

Nghĩa là luôn luôn bây giờ quý thầy cứ nghiệm qua cái sự tu tập của quý thầy: Từ lâu đến giờ mà quý thầy không được sự hướng dẫn tu ở trong Chánh Niệm Tỉnh Thức kỹ lưỡng, bây giờ quý thầy ngồi lâu quý thầy vẫn bị rơi vào trong năm cái thứ loại ngủ ngu si này, trong năm cái thứ mê muội này, chớ không có thoát khỏi cái nanh vuốt của năm cái loại ngu si này.

Có dịp nói về thiền Thầy sẽ giảng tất cả những cái loại si thiền này để cho quý thầy rõ hơn.

Bây giờ Thầy dạy cách xả Tâm Vô Lượng ngủ.

Bởi vậy cho nên năm cái loại ngủ này nó biến ra vô lượng cái ngu si, tức là vô lượng cái ngủ của chúng ta, cái si mê của chúng ta.

1.8- XẢ VÔ LƯỢNG NGỦ TÙY THEO NGUYÊN NHÂN

(01:07:50) Bây giờ Thầy sẽ dạy quý thầy áp dụng cách nào để mà hành pháp cho nó đạt được xả cái Vô Lượng Tâm ngủ này để chúng ta được tỉnh táo, được sáng suốt, được thông minh, để lấy cái trí tuệ chúng ta dẫn lối cho chúng ta đi đến cái con đường giải thoát chân chính.

Khi một người tu hành đã bị năm thứ si thiền này thì phải tận dụng hết sức để phá nó.

Gặp nó rồi thì phải hết sức tận dụng phá nó chớ không có được theo nó mà hễ nghe mỏi mệt hay lười biếng là lo đi ngủ thì không được, hay hoặc là ngồi thiền mà nghe an lạc rồi thiếp dần ở trong đó, vô rơi vô cái trạng thái ngoan không, thì cũng không phải là tốt lắm đâu. Phải phá nó đi cho được, phải tìm mọi cách không có được để cho nó nhập vào tâm, vào thân của chúng ta.

Vì thế người cư sĩ mới trau dồi tâm mình thì ngay đây cũng phải trau dồi tâm Xả Vô Lượng ngủ. Vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau.

Bây giờ đó Thầy kể ra một cái số trạng thái ngủ để cho quý thầy biết. Chớ nếu mà quý thầy cứ nói nó là năm cái loại này rồi không biết nó xảy ra như thế nào để mà chúng ta thấy được năm cái trạng thái ngủ. Bởi vì ở đây Thầy nói nó có vô lượng cái ngủ chớ không có phải có một cái ngủ.

Vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau như:

Đi xe, tàu, bị sóng, như say say ngủ.

Đó, thì quý thầy có đi tàu đi xe rồi quý thầy biết rằng nó gật gà gật gù, nó làm chúng ta mệt nhọc cơ thể chúng ta, rồi hoặc là bị say sóng, say gió, do đó nó làm cho chúng ta ngây ngây, như ngủ mà không ngủ. Đó là cái những trạng thái nó làm cho chúng ta mê đó, mà không tỉnh đó.

(01:09:55) Bị cảm gió, thân lừ đừ nóng lạnh, buồn ngủ.

Đó, khi mà chúng ta bị cảm gió hoặc bị mưa, thì thân của chúng ta nóng, lạnh nó cũng làm chúng ta buồn ngủ.

Tất cả những bệnh khác đều có trạng thái không tỉnh táo.

Nghĩa là mọi cái bệnh tật nó nhiều khi nó làm cho cơ thể chúng ta uể oải khó chịu, do đó chúng ta lừ đừ. Đó là những cái trạng thái ngủ.

Cơ thể lờ đờ, tu sai cũng buồn ngủ.

Nghĩa là chúng ta tu sai nó cũng buồn ngủ nữa, nghĩa là không đúng nó cũng buồn ngủ đó. Cũng như trong cái pháp sổ tức mà nó sổ tức đến một cái mức độ nào đó mà quý vị sổ tức quá mức của nó, thì nó cũng sanh ra buồn ngủ cho quý vị nữa, chớ không phải quý vị sổ tức là nó tỉnh đâu.

Nó quá cái sức, thí dụ như bây giờ cái sức của chúng ta sổ tức đến một ngàn hơi thở đi, mà chúng ta tăng lên chừng một ngàn rưỡi, hai ngàn hơi thở, thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ bị buồn ngủ.

Rồi chúng ta không biết tìm ở đâu mà cái buồn ngủ này ra, nhưng mà do vì chúng ta đếm quá sức cho nên cái sức tập trung để ở trong cái số đếm mà tỉnh đến một ngàn, hai ngàn hơi thở như vậy, thì nó làm cho quý vị sẽ bị buồn ngủ. Rồi từ cái buồn ngủ đó quý vị không còn nhớ đếm nữa.

Trụ tâm không đúng chỗ là buồn ngủ.

Đó, nếu mà trụ tâm không có đúng chỗ nó sẽ sanh ra buồn ngủ. Nó phải đúng cái chỗ nó thì nó mới tỉnh, mà không đúng chỗ nó thì nó sẽ sanh ra buồn ngủ.

Làm quá sức cũng buồn ngủ.

Sống cô đơn một mình cũng buồn ngủ.

Lười biếng cũng buồn ngủ.

Rượu chè, bài bạc, trác táng cũng buồn ngủ.

Trai gái, dục lạc quá độ cũng làm buồn ngủ v.v..

Đó là những cái mà có thể đưa đi đến chúng ta vô lượng cái buồn ngủ đó, cái ngủ.

(01:11:51) Vậy muốn Xả Tâm Vô Lượng ngủ này phải làm sao?

Đó, thì bây giờ chúng ta phải hiểu được những cái trạng thái đó để mà chúng ta biết nó là cái trạng thái ngủ nó ở trong cái trạng thái nào, để mà chúng ta đối trị nó cho nó hết.

Cũng như bây giờ mình bị bệnh mà ngủ, thì mình phải tìm thuốc thang mình uống cho hết bệnh. Đằng này mình lại bắt nó đi kinh hành, mà đi hết muốn nổi nữa. Đi riết một hơi chắc là vô nằm đó ngủ luôn chớ còn không có bao giờ tỉnh lại được nữa!

Đó là cái sai. Trị nó phải trị cho đúng cách, không thể trị cái ngủ bằng có một phương pháp nào cả, mà phải tùy theo cái trường hợp ngủ đó mà trị thì nó mới hết.

Phải tùy theo những trạng thái cơ thể bệnh tật hoặc thuốc thang, hoặc nghỉ ngơi dài hạn, hoặc dứt bỏ những trò chơi trác táng, hoặc dứt bỏ không được làm quá sức lực cơ thể cũng như tinh thần.

Đó thì, quý thầy thấy ở đây Thầy dạy rất là rõ ràng cụ thể.

Phải xét cái buồn ngủ đó - cái mệt nhọc của cơ thể chúng ta nó ở cái chỗ nào, để rồi từng đó, tùy cái đó mà chúng ta trị cái bệnh buồn ngủ này, thì nó sẽ tỉnh táo và thông minh, sáng suốt. Chớ còn nếu mà cứ làm quá sức hoài vừa tinh thần mà vừa cơ thể của mình, thì cái người đó lừ đừ buồn ngủ, thì nói sao mà họ không thông minh?

Họ thông minh, nhưng mà họ làm quá sức thì làm sao mà họ còn thông minh nữa! Đầu óc tối ngày cứ suy tư hoài làm sao mà thông minh, ít ra họ cũng phải nghỉ ngơi. Như vậy, muốn cho chúng ta có thông minh thì đừng có làm quá sức!

Đó là những cái mà để đối trị lại, để làm cho chúng ta càng ngày có một cái trí tuệ, có một cái ý thức rất là thông minh, chính xác trong công việc làm.

Ở đây người muốn Xả Tâm Vô Lượng ngủ này phải hết sức thận trọng trong việc trau dồi tâm này.

Nghĩa là phải hết sức thận trọng, phải rõ ràng từng cái buồn ngủ nó để mà trau dồi cái tâm của chúng ta. Chớ không phải là muốn trau dồi nó, đặt nó ở chỗ nào, sai nó thì không thể được.

1. Phải biết buồn ngủ trong thân mình là loại nào;

Đó, thứ nhất là mình phải xét nó ở trong của thân mình nó thuộc về loại nào.

2. Tùy theo bệnh trạng buồn ngủ mà dùng thuốc thang trị bệnh;

3. Cương quyết, mạnh mẽ dứt bỏ những trò chơi không lành mạnh;

Nghĩa là như uống rượu chè hay hoặc là bài bạc thức thâu đêm, ca hát thâu đêm. Cái đó mình phải dứt bỏ, cương quyết dứt bỏ, để không khéo một đêm mà chơi vui vậy, sáng ra ngủ gà, ngủ gật suốt ngày mà không có thấy tỉnh, thì tức là cái người đó rất là mê si.

4. Phải rèn luyện nghị lực, chiến thắng với những trạng thái lười biếng;

Nghĩa là luôn luôn lúc nào mình cũng phải tìm mọi cách mà rèn luyện cái nghị lực của mình để mình chiến thắng lại những trạng thái lười biếng, vì trạng thái lười biếng nó cũng sẽ sanh ra buồn ngủ.

5. Lấy nước súc miệng, rửa mặt hoặc tắm cho lạnh;

Khi mà mình biết cái trạng thái lười biếng của mình thì làm cho nó lạnh, làm cho nó sợ thì nó mới hết. Cái thứ lười biếng thì lấy roi mà quất cho đau thì nó mới hết! Cái thứ lười biếng lấy cây mà đập cho nó khổ thì nó mới hết! Lấy muối mà xát ở trong những cái vết thương, lấy dao mà rạch, rồi lấy muối xát vô, thì do đó nó hết buồn ngủ à!

Đó là những cái trạng thái lười biếng thì làm như vậy thì nó sẽ hết.

(01:15:15) 6. Ngồi chỗ nguy hiểm cho tâm sợ hãi;

Nghĩa là mình ngồi ở trên ngã ba nhánh cây hay hoặc là ngồi ở trên cái tảng đá cheo leo làm cho nó tỉnh táo, nó không dám, nó sợ chết cho nên nó luôn lúc nào nó cũng cảnh giác.

Đó là những cái điều kiện như mình ở trên núi, mình thấy nó buồn ngủ thì mình trèo trên cái cục đá nào mà cheo leo, mình ngồi trên đó: “Nếu cho mày ngủ mày rớt dưới mày gãy cổ cho chết cho rồi!” Vì vậy nó sẽ tỉnh táo nó không dám ngủ.

Bởi vậy phải tìm mọi cách để phá nó, chớ nếu không thì chúng ta sẽ tìm cách mà chui mà trong thất hay hoặc là chui trong giường mà ngủ!

7. Hoặc đọc kinh sách;

Nếu mà mình thấy buồn ngủ thì mình lấy kinh sách mình đọc, rồi mình suy tìm nghĩa lý trong đó, thì một hơi nó tỉnh táo.

8. Hoặc ngồi quán xét, tìm cái ngủ ở đâu;

Đây là Thầy nêu ra tất cả để cho quý thầy thấy biết được cái mà phá ngủ. Quán xét coi cái ngủ nó từ đâu mà nó đến, từ đâu mà nó làm cho tay chân bần thần, lười biếng như thế này?

Đó là các thầy dùng cái sức quán xét, đặt cái niệm trước mặt rồi ngồi đó mà quán xét cái ngủ, một lúc thì cái ngủ nó mất.

9. Hoặc xem sao trên trời, tìm lý do diễn biến của vũ trụ;

Đó, cái người mà thích thiên văn, cái tâm mà thích thiên văn thì lúc bấy giờ buồn ngủ, thì mới đi ra nhìn trời, nhìn sao, rồi tìm hiểu những cái sự diễn biến thấy sao này xẹt qua, sao kia lặn mất, điều đó nó làm cho cái người đó thích thú, họ cũng quên ngủ.

10. Hoặc đem một số truyện hình ra xem;

Cái người mà thích xem hình ảnh đánh nhau hay hoặc là thế này thế khác, thì chúng ta đem những cái số truyện hình ra, chúng ta xem một hơi thì chúng ta hết buồn ngủ.

11. Hoặc đi kinh hành tu tập tỉnh thức;

Đó, tới cái thứ mười một này là cái điều kiện của người tu sĩ chúng ta đó. Chúng ta phải tập tỉnh thức, phải đi kinh hành, phải đi cho nhiều, đừng có lười biếng thì nó sẽ tỉnh thức được. Mà biết cách áp dụng pháp hướng để nhắc tâm chúng ta thì chúng ta sẽ tỉnh thức mà phá đi cái buồn ngủ.

12. Hoặc tu Vô Lậu, quán xét thân tâm, tìm vô thường, khổ, vô ngã và bệnh tật ở trong thân của chúng ta;

Đó chúng ta dùng cái Định Vô Lậu, dùng cái Định Chánh Niệm Tỉnh Thức, dùng cái Định Vô Lậu chúng ta cũng có thể phá được cái buồn ngủ.

13. Hoặc đi kinh hành trau dồi lòng Từ Tâm mình dưới bước chân đi, tránh tất cả giẫm đạp lên chúng sanh;

Đó, khi mà ban ngày cũng như khi ban đêm thì chúng ta lại hướng tâm chúng ta để nhắc tâm chúng ta để tránh giẫm đạp chúng sanh.

(01:17:43) Còn một cái câu ám thị mà Thầy chưa nhắc, là khi đi ban đêm con mắt chúng ta không có nhìn thấy chúng sanh ở dưới chân, thì chúng ta không có thể nào làm sao mà tránh được, vì vậy mà chúng ta phải nhắc.

Bởi vì Phật đã nói: “Đạo cảm ứng giao nan tư nghì” - tâm chúng ta có lòng thương thì cảm ứng được với chúng sanh. Cho nên chúng ta phải dùng câu hướng như thế này:

"Ban đêm tôi đi kinh hành, không thấy chúng sanh. Xin tất cả chúng sanh dưới chân tôi hãy tránh cho tôi đi!"

Đó, thì đó là mình phải hướng câu nói đó để giao cảm với nhau mà tất cả khi bước chân mình vừa đến là chúng sanh đã rời khỏi. Đó là vừa là phá cái buồn ngủ mà cũng vừa là tu trau dồi cái tâm Từ của chúng ta dưới bàn chân trong lúc đêm khuya thanh vắng, trong lúc tối mờ mà không thấy đường.

14. Dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý: "Cái ngủ này vốn là không có trong thân tứ đại này, chỉ do ngu si, mê muội, lười biếng, thiếu tinh tấn nên thọ sanh.

Thọ vốn vô thường, lúc có lúc không. Vậy thọ uẩn phải dừng trạng thái mê muội ngủ nghỉ này, không được tái diễn, phải chấm dứt ngay!"

Đó là cái câu pháp hướng cuối cùng để chúng ta phá cái thọ mê ngủ này, phá cái thọ ngu si này. Thường xuyên khi mà chúng ta đặt niệm nó như vậy phải là ngồi kiết già lưng thẳng hẳn hòi mới dùng cái câu này để mà hướng tâm ám thị một cách chắc chắn, đánh đuổi cái thọ ngu si này ra.

Chỗ chữ “phải chấm dứt” nói như truyền lệnh, càng mạnh càng tốt, làm cho tất cả sức tinh thần chúng ta dồn tại đó mà đuổi những cơn lừ đừ, say say, của cơ thể. Nói như truyền lệnh là dùng tâm lực của tinh thần mạnh bạo làm cho cơn ngủ mau lui bước.

Đó thì quý thầy thấy Thầy chỉ dạy cho quý thầy những cái pháp rất là cụ thể. Nếu quý thầy gằn nhiều lần ở cái chỗ “phải chấm dứt” cho nó mạnh bạo, thì từ cái cơn mà ở trong thân của quý vị, dùng cái lực mà đẩy ra, thì chừng hai ba câu như vậy là quý thầy đã tỉnh táo không còn buồn ngủ nữa.

(01:19:57) Đó là hôm nay Thầy dạy cho quý thầy xả Tâm Vô Lượng ngủ để cho biết cách để mà xả cho tận gốc nó.

Khi đối với bệnh buồn ngủ, phải thông minh sáng suốt.

Quý thầy phải sáng suốt, thông minh chớ không thể nào mà thiếu sự thông minh mà đối trị nó được.

Nếu không thông minh, sáng suốt thì buồn ngủ lại buồn ngủ nhiều hơn.

Nghĩa là mình trị nó mà mình lại buồn ngủ hơn. Còn thông minh, sáng suốt thì mình trị đúng bệnh của nó thì nó mau hết.

Nếu mà không thông minh, sáng suốt thì vất vả hơn. Cho nên quý thầy tu theo đạo Phật thì cái thứ nhất là bền chí siêng năng, đi kinh hành nhiều.

Đó là cách thức mà quý thầy theo đạo Phật như ông Phật ngày xưa luôn luôn đi kinh hành ở trong cái khu rừng của ông ta, và chúng ta nên bắt chước cái gương hạnh của Phật mà luôn luôn nên đi kinh hành như vậy để phá đi những cái mê muội này, làm cho tỉnh thức luôn luôn.

Luôn luôn phải trau dồi tâm phá ngủ dưới chân mình bằng hướng tâm Như Lý Tác Ý:

"Buồn ngủ, phải lui đi! Lười biếng, phải lui đi!"

Đó là những cái câu ám thị ngắn mà chúng ta vừa đi vừa nhắc nó khi biết tâm mình đang buồn ngủ, đang lừ đừ, đang không tỉnh táo.

Rồi tiếp tục chúng ta lại hướng tới nữa:

"Cơn mơ mơ, say say, phải lui đi! Thân tâm phải tỉnh táo!"

Chúng ta nhắc như vậy, nhiều lần như vậy, vừa đi vừa nhắc như vậy.

Ra lệnh như vậy, một lúc thì hết hôn trầm, thùy miên.

Đó thì, như vậy là quý thầy thấy mình có pháp để phá, nhưng mà từ lâu tới giờ chưa có ai triển khai ra được, cho nên mình không biết mà phá. Vì vậy mà cứ buồn ngủ phải chịu buồn ngủ thôi, không bao giờ hết được.

Hôm nay cái giáo án này Thầy sẽ dạy hết tất cả những cái kinh nghiệm để cho quý thầy tự mình về mà lấy pháp mà làm chỗ nương tựa vững chắc mà trau dồi thân tâm của mình để làm chủ sanh tử.

2- NHẬN ĐỊNH CÁCH TU TẬP CHO HIỆU QUẢ

2.1- HÀNH TRÌ ĐÚNG THÌ CÓ KẾT QUẢ NGAY

(01:21:58) Để kết thúc Tứ Vô Lượng Tâm, Thầy tóm lại để quý thầy nhận định cho rõ ràng:

Cách hành trì pháp môn tu tập phải chính xác thì mới có hiệu quả. Nếu tu tập không kết quả ngay liền hiện tại là do quý thầy tu tập sai, hoặc dùng pháp hướng sai, không đúng cách, không đúng chỗ nên không hiệu quả.

Nghĩa là trên cái bước đường tu tập chúng ta có pháp hành, nhưng mà pháp hành dùng không đúng chỗ, không đúng bệnh thì cái pháp hành đó sẽ không có hiệu quả.

Nếu quý vị biết hành đúng mọi trường hợp của nó thì cái pháp hành sẽ có hiệu quả ngay tức khắc, làm cho tất cả những cơn hôn trầm, thùy miên, buồn ngủ sẽ lui bước, và tâm quý vị được thanh thản, được tỉnh táo, rất là tỉnh táo.

2.2- PHÁP HƯỚNG CỤ THỂ VÀ PHÁP HƯỚNG TRỪU TƯỢNG

(01:22:53) 1. Các thầy nên lưu ý: Nếu pháp hướng của ý thức, ý thức dùng thì pháp hướng phải cụ thể, có đối tượng.

Đó, quý vị muốn dùng - cái ý thức của quý vị dùng thì cái pháp hướng đó phải có một cái đối tượng trước mặt của quý vị, thì quý vị dùng nó, nó mới đúng cách.

Nếu pháp hướng là tưởng thức dùng thì pháp hướng không cụ thể, phải trừu tượng.

Đây bây giờ Thầy nói như thế này: Người ta ngồi người ta quán cái thây ma, hay quán cái bộ xương trắng, thì cái bộ xương trắng không có thể nào là cái đối tượng trước mặt chúng ta được, mà phải là cái tâm chúng ta tưởng ra.

Do đó, cái đề mục đó nó thành ra một cái trừu tượng, nhưng chúng ta dùng cái pháp hướng mà nhắc cái tưởng đó, thì nó mới đúng cách là chúng ta biết dùng pháp hướng đúng với tưởng.

Còn bây giờ trước mặt chúng ta có một cái hơi thở ra vô, thì chúng ta hướng cái hơi thở đó, như vậy là nó là ý thức chớ không phải tưởng thức.

Quý thầy phải lưu ý cái phần này, nếu không quý thầy dùng tưởng mà quý thầy tưởng là ý thức, quý thầy dùng ý thức rồi quý thầy dùng đề mục tưởng trừu tượng, thì hai cái này sẽ không có hiệu quả. Và có hiệu quả thì nó tréo cẳng ngỗng, nó sẽ đưa quý thầy vào cái chỗ không có đúng cách, nó sẽ đi vào một con đường thiền sai, không đúng.

2.3- NỘI TÂM PHẢI AN TRÚ TRONG CHÁNH NIỆM

(01:24:25) 2. Các thầy tu tập nội tâm phải an trú trong Chánh Niệm.

Nghĩa là trong khi tu tập quý thầy phải giữ tâm mình ở trong chánh niệm.

Khi bây giờ mình đặt một cái niệm để cho mình tu, trau dồi cái tâm Từ của mình, thì luôn luôn mình phải ở trong cái lòng thương yêu mà mình đặt cái niệm, chớ đừng có ở trong một cái tâm mà dao động, nhớ cái này, nghĩ cái kia, ham cái nọ, thì cái Chánh Niệm đó nó không phải là Chánh Niệm.

Ở đây Thầy nhắc lại cho quý thầy nhớ: Khi làm một cái gì thì phải cho chính xác cái tâm của mình phải biết cái niệm đó nó ở cái chỗ nào. Như trau dồi tâm Từ thì phải ở cái lòng thương yêu như thế nào, tâm Bi thì nó phải ở cái lòng thương yêu như thế nào, để đặt cái đó gọi là cái Chánh Niệm.

Cái Chánh Niệm là cái niệm chân chánh ngay trong cái sự trau dồi đó, chớ không phải là cái Chánh Niệm bằng cái niệm đúng. Mọi cái niệm đều có niệm đúng, nhưng mà mình đặt nó không đúng cái chỗ mình trau dồi thì cái đó trật, không có đúng.

Cũng như bây giờ mình đang ở trong cái Chánh Niệm của cái thân bất tịnh, cái thân vô thường, mà mình trau dồi cái tâm Từ, thì đó là sai. Đó thì cái Chánh Niệm kia là Chánh Niệm ở trong cái chỗ khác chớ không phải là cái Chánh Niệm ở chỗ trau tâm Từ!

Muốn tu tập cho đúng cách phải hiểu được cái này thì quý thầy mới thấy được cái chỗ vi diệu của Phật Pháp.

Tức là pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý không được xao nhãng…​

Nghĩa là lúc bấy giờ cái pháp hướng đó nhắc cái chỗ đó là cái tâm phải ở Chánh Niệm đó, cho nên nó không xao nhãng được cái chỗ đó.

…​ phải tỉnh thức cao độ.

Phải cái sức tỉnh thức ở chỗ đó không được mờ mờ, mà phải tỉnh thức ngay cái niệm chỗ đó, cho nên không bao giờ thất niệm.

Vì vậy mà Phật gọi người tu sĩ mà thất niệm là bị ma dẫn. Tức là bây giờ chúng ta có cái niệm Chánh Niệm nào đi nữa mà không đúng ngay cái đối tượng mà đang trau dồi cái pháp đó, thì cái đó chúng ta cũng vẫn bị ma dẫn.

Nếu tỉnh thức cao độ chưa có là quý vị phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định…​

Thấy cái sức tỉnh mình chưa có, cứ một lát nó lại nhớ cái chuyện này, nhớ chuyện khác xen vô, nó làm thất niệm, thì phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.

…​ hoặc tu tập Vô Lậu Định.

Nghĩa là quý vị biết rằng khi mà cái tỉnh thức mình không có có cao độ là mình tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định ít hoặc là tu tập Định Vô Lậu ít, bây giờ phải tu tập hai cái định này nhiều thì quý vị mới có đủ sức tỉnh.

Bởi vì mình biết được cái thân và tâm của mình, cái sức tỉnh thức của mình cao hay thấp, mình vẫn biết mình hơn ai hết. Và biết thì mình phải lo tu cái định gì để cho cái sức tỉnh thức đó cao hơn, để rồi chúng ta sẽ trau dồi được thân tâm của chúng ta trong mọi pháp của Phật dạy.

2.4- GIỮ TÂM VỮNG TRÚ TRONG THIỆN PHÁP

(01:27:07) 3. Khéo léo giữ tâm vững trú trong các thiện pháp…​

Nghĩa là luôn luôn lúc nào, khi mà thực hiện pháp của Phật rồi, thì giờ nào, phút nào chúng ta cũng phải giữ tâm mình vững trú ở trong các thiện pháp. Các thiện pháp như chúng ta học Thập Thiện đó, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải giữ nó ở trong các thiện pháp đó.

…​ không cho các ác pháp xâm chiếm tâm, và không cho các ác pháp đặt chân nơi tâm.

Nghĩa là chúng ta luôn luôn cảnh giác đến cái mức độ không cho nó xâm chiếm vô mà không cho nó đặt chân đứng ở trên nơi tâm ta nữa.

Đó là cái phần ba.

2.5- THƯỜNG XUYÊN TRAU DỒI TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

(01:27:43) 4. Từ Tâm Vô Lượng giải thoát phải được tu tập trau dồi thường xuyên, làm cho sung mãn, làm cho thành cỗ xe, làm cho thành cứ điểm, làm cho được kiên trì, làm cho được tích lũy, tích tập; khéo tinh cần, siêng năng thực hành theo lời chỉ dạy pháp hành trì của Phật, của Thầy thì kết quả giải thoát an lạc đến cho quý thầy rõ ràng.

Đó thì, cái phần bốn quý thầy phải cố gắng kiên trì tập luyện cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm này. Như Thầy đã nói, đã nhắc hồi nãy:

Từ Tâm Vô Lượng giải thoát phải tu tập trau dồi thường xuyên, làm cho sung mãn…​

Nghĩa làm cho chúng ta được cái lòng thương thật sự chớ không phải là sơ sơ đâu. Nghĩa là hằng ngày phải trau dồi nó liên tục chớ không có học rồi mà tu sơ sơ thì nó chẳng có làm gì được hết. Cho nên phải làm cho nó sung mãn.

…​ làm cho nó thành cỗ xe…​

Nó thành một cái cỗ xe mà chở cái lòng thương của chúng ta ở trên đó mà đi rải cho tất cả chúng sanh đó.

…​ làm thành một cái cứ điểm chắc chắn…​

Một cái lòng thương rất chắc chắn là một cái cứ điểm không có còn ai mà xâm chiếm được cái cứ điểm của chúng ta.

…​ làm cho được kiên trì…​

Làm cho cái lòng thương yêu đó nó vững bền, nó không có bị thay đổi được.

…​ làm cho được tích tập…​

Làm cho nó được nhiều lên, càng tốt, càng hay.

Ở đây thì tới cuối cùng thì chúng ta phải:

…​ khéo tinh cần…​

Tức là siêng năng tinh cần.

…​ phải khéo léo thực hành theo lời chỉ dạy pháp hành trì này của Phật, của Thầy thì kết quả sẽ được giải thoát.

Nội tu bây nhiêu đó thì quý thầy cũng thấy rằng quý thầy đã được giải thoát rồi, chớ chưa nói gì tu là nhiều nữa.

(01:29:27) Nhưng đây là mới khởi sự mà thôi. Để bổ túc cho cái Tâm Vô Lượng giải thoát này, quý thầy còn phải tu nhiều cái nó mới tích tập được những cái thành cứ điểm, nó mới thành cỗ xe, nó mới làm cho sung mãn, chớ không phải bây giờ mà chúng ta tập như vậy mà nó ngay liền được.

Chúng ta còn phải học tập, tu tập nhiều cái khác nữa, cho nên từng đó cái sức tỉnh táo, cái sức mà an lạc, cái sức mà giải thoát, cái sức xả bỏ chúng ta mới đoạn dứt tất cả những cái khác, thì nó mới thành tựu được cái Từ Tâm Vô Lượng này.

5. Bi Tâm Vô Lượng giải thoát cũng tu tập như vậy.

Nghĩa là bây giờ đó, hồi nãy Từ Tâm mình cũng tu cho nó thành cỗ xe, thì Bi Tâm cũng tu cũng thành cỗ xe, cũng cho nó sung mãn, nó cũng thành cái cứ điểm.

Rồi Hỷ Tâm Vô Lượng chúng ta cũng tu như vậy

Cũng làm cho nó thành cỗ xe, thành cứ điểm, cho nó kiên trì, cho nó sung mãn. Đó tất cả những cái đó chúng ta phải tập, phải làm.

6. Xả Tâm Vô Lượng giải thoát cũng tu theo đúng như lời Thầy dạy.

Cũng làm cho nó thành cứ điểm, thành cỗ xe, sung mãn, nó tích tập cho nó sâu, vì vậy mà nó mới xả được tất cả các pháp ở trong thế gian này.

2.6- ĐẶT TRỌN NIỀM TIN VÀO GIỚI - ĐỊNH - TUỆ

(01:30:43) Cứ y chỉ theo lời dạy của Thầy, đặt trọn hết niềm tin ở Giới - Định - Tuệ…​

Tức là cứ theo y chỉ cái lời mà Thầy dạy của Thầy đó, thì quý thầy đặt trọn ở niềm tin của ba pháp Giới, Định, Tuệ của Đức Phật.

…​ và tất cả các pháp môn của Phật, mà hôm nay Thầy đã triển khai thành một con đường có lý pháp, có hành pháp rất rõ ràng và cụ thể, vén sạch những màn mây kiến thức tưởng giải của thế nhân đang phủ trùm trên ba Thánh Pháp của đạo Phật: Giới - Định - Tuệ, khiến cho ba pháp này không còn ai thực hiện được, gần như chỉ còn là một danh từ suông, còn toàn bộ tu sĩ Phật giáo thì sống ngược lại và không thực hành đúng pháp này.

Đó thì, hầu như là quý thầy cũng nhận thấy rất rõ là người ta đi ngược lại với cái pháp Giới - Định - Tuệ của Phật.

Còn bây giờ Thầy vén ra để cho chúng ta thực hiện được từ Giới - Định - Tuệ, để cho nó rõ ràng cái sự giải thoát mà đạo Phật đã - mà Đức Phật vì lòng Từ Bi mà Ngài đã đem dạy lại cho chúng ta. Cho đến bây giờ chúng ta bị bỏ quên những cái pháp rất là cao quý này.

2.7- KẾT QUẢ GIẢI THOÁT VỚI LÒNG THƯƠNG YÊU VÔ TẬN

(01:32:07) 7. Nếu ai sống đúng và hành đúng lời dạy của Thầy thì kết quả lòng thương yêu rộng lớn của quý vị phải trùm cả không gian và thời gian.

Chừng đó thế gian này là thiên đàng; quý thầy là những du tăng khất sĩ, rày đây mai đó, đời sống ba y một bát không có chùa to, tháp lớn; quý thầy đã phủi sạch những sợi dây thằng phược vật chất, thế gian; đời sống của quý thầy rộng bước thênh thang, tâm hồn của quý thầy thương yêu chúng sanh như không gian phủ trùm vạn hữu.

Bấy giờ quý thầy không phải Phật, không phải Tổ, không phải A La Hán, không phải Bồ Tát, mà là một con người như bao nhiêu con người khác, nhưng tâm hồn quý thầy đã hòa cuộc sống của quý thầy với các cuộc sống của nhân thế, bên nhau mãi mãi, không xa lìa chúng sanh một bước.

Quý thầy là con người đã giải thoát với lòng thương vô tận.

Đó là kết thúc cái buổi học về Tứ Vô Lượng Tâm, để cho quý thầy thấy rằng cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm tuyệt vời như vậy, làm cho tâm hồn chúng ta rộng lớn, bao la đối với muôn loài, muôn vật.

3- THÁNH TĂNG SUBHUTI - ĐỆ NHẤT HẠNH VỀ TỪ BI VÔ LƯỢNG

(01:33:30) Ở đây Thầy xin đọc lại một cái chuyện của một vị cao tăng ở trong thời Đức Phật mà đã thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm, mà Đức Phật đã ca ngợi rằng - ca ngợi Ngài là một người đệ nhất hạnh về Từ Bi Vô Lượng.

Đây, cái người đó như thế nào? Và ai? Tên gì? Thì Thầy sẽ thuật lại cho quý thầy nghe để kết thúc cái bài pháp này:

Để kết thúc bài pháp Tứ Vô Lượng Tâm, Thầy thuật lại cho quý thầy nghe một mẩu chuyện Thánh Tăng trong thời Đức Phật tu tập thiền quán hướng niệm trau dồi Bốn Tâm Vô Lượng để trở thành một vị Tỳ Kheo đệ nhất về hạnh Từ Bi Vô Lượng:

Ngài Subhuti.

Ngài là em trai của ông Cấp Cô Độc. Trong ngày ông Cấp Cô Độc cúng dường Kỳ Viên tịnh xá cho Đức Phật, ông có chứng kiến và nghe pháp. Sau đó, ông xin Phật xuất gia và thọ đại giới.

Ngài thâm hiểu hai loại giới luật, được Đức Phật cho một đề tài thiền quán hướng tâm tu tập, trau dồi thân tâm bằng pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm. Từ đó Ngài trở thành một người đệ tử của Phật có Từ Tâm đệ nhất .

Quý thầy nghe bài kệ của ngài:

Đây Thầy đọc cái bài kệ khi Ngài chứng đạt được Tứ Vô Lượng Tâm:

Từ Tâm ta trau dồi,

Phủ trùm khắp muôn phương.

Bi Tâm ta trau dồi,

Thương khắp hết quần sanh.

Hỷ Tâm ta trau dồi

Vui hòa cùng vạn pháp.

Xả Tâm ta trau dồi,

Vạn vật đều chung vui.

Tâm ta khéo định tỉnh,

Tinh cần sống giải thoát.

(01:35:33) Đó, nghĩa là ổng chỉ có tu bây nhiêu đó là ông đã giải thoát, ông chứng được Tam Minh liền tức khắc. Cái tâm mà nó thương yêu chúng sanh nó tới thanh tịnh đến cái mức độ đó.

Ông truyền lệnh một cái - bởi vì trong khi tu tập trau dồi này ông thường dùng pháp hướng, cho nên Phật nói Như Lý Tác Ý mà - cho nên đến khi đó ông chỉ cần bảo: “Các hành trong thân ngưng! Hơi thở ngưng!” - là nó ngưng liền, thì tức là ông nhập Tứ Thiền.

Từ ở Tứ Thiền ông hướng tâm ông nhắc đến: “Tâm phải hướng về quá khứ!” - thì Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh nó phải hiện ra tức khắc, không cần phải ngồi nhiếp tâm, ức chế tâm như chúng ta dùng hơi thở đâu.

Đó thì người ta tu có bây nhiêu đó người ta cũng đủ rồi. Vì vậy mà khi mà ông đã nghiên cứu về cái hai loại giới luật của Phật, thì ông đã thấy cái tâm Từ của ông đến cái mức độ nào. Bởi vì giới luật của Phật dạy là thiện pháp, cho nên thiện pháp thì tức là nó phải có tâm Từ rồi, tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả trong này rồi.

Cho nên do đó mà ông áp dụng vào cái bài pháp này mà ông thành tựu được đạo giải thoát. Cho nên ông là đệ nhất Từ Bi Vô Lượng. Đó, ông được Đức Phật xem như hàng đệ tử mà cái tâm Từ Bi rộng lớn nhất ở trong hàng đệ tử, đệ nhất đệ tử của Đức Phật.

Đó thì, hôm nay Thầy đem một cái mẩu chuyện, để lấy cái mẩu chuyện này làm một cái gương mà chúng ta thấy được. Trong khi Thầy tham cứu về cái phần lịch sử của các bậc Thánh Tăng, Thầy đã thấy được những cái điều kiện rất là tuyệt.

Vì vậy, muốn mà mình nương theo các bậc Thánh Tăng trong thời Đức Phật - bởi vì thời mình đâu có Thánh Tăng mà Phật bảo mình phải quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, mình phải theo những vị tăng, thì những vị tăng mà trong thời Đức Phật mới gọi là Thánh Tăng.

Do những cái hàng mà tu như vậy, chúng ta phải nghiên cứu qua cái hành trình, qua cái hành trạng của các Ngài, chúng ta mới theo đó mà chúng ta tu tập cho chính mình.

Chớ bây giờ mình nương quý thầy của mình thì phạm giới, phá giới hết rồi, mình nương làm sao cho được? Và cái hành động của quý thầy thì sống trong vật chất, thì mình nương làm sao được mà mình giải thoát?

Còn các vị Thánh Tăng ngày xưa người ta sống trong rừng, ba y một bát, đi xin ăn vất vả. Rồi đây rồi quý thầy sẽ thấy có nhiều vị người ta già cả mà người ta còn đi xin ăn, rồi người ta mệt nhọc, người ta nương gậy, người ta trèo trên núi hay hoặc thế này, thế khác.

Đọc tới những cái nỗi già yếu của những vị mà theo Đức Phật tu hành - phải đi xin ăn chớ còn không phải ngồi ở nhà mà người ta đem cơm đến cho ăn được - mà phải đi xin ăn hằng ngày, và đồng thời những cái xin ăn đó các ngài mới ngộ được và tu tập rèn luyện mình để cho được giải thoát.

Thì đó là những cái công trình rất lớn trong những bậc Thánh Tăng trong thời Đức Phật mà chúng ta không có được học và không có được nêu lên để làm cái gương hạnh tốt cho chúng ta noi theo mà chúng ta thực hiện trong cái đời sống của chúng ta.

Hôm nay, đây là lần đầu tiên mà Thầy dạy cho quý thầy một cái hành trạng của một bậc Thánh Tăng. Lần lượt rồi trong những cái bài giảng của giáo án này, Thầy sẽ cho nhiều cái gương hạnh Thánh Tăng để cho quý thầy lấy đó mà làm gương soi cho mình để trên bước đường tu tập đến khi giải thoát.

4- BÀI KỆ KẾT THÚC BÀI HỌC TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

(01:38:30) Hồi nãy kết thúc cái bài Tứ Vô Lượng Tâm thì Thầy thuật lại một cái mẩu chuyện của một vị cao tăng trong cái thời Đức Phật, và Ngài có để lại cho chúng ta một cái bài kệ, nhưng đó là bài kệ của Ngài.

Còn kết thúc cái buổi giảng cái bài Tứ Vô Lượng Tâm thì Thầy cũng có một cái bài kệ để nhắc nhở quý thầy tu tập, thì cái bài kệ của Thầy như thế này:

Trau dồi Từ Tâm tốt,

Lòng thương hòa vạn hữu.

Trau dồi Bi Tâm tốt,

Vạn hữu hết điêu linh.

Trau dồi tâm Hỷ tốt,

Lòng vui khắp muôn loài.

Trau dồi tâm Xả tốt,

Vạn vật sống an lành.

Đó là những cái câu kệ của Thầy thì nói lên được cái tâm trạng của Thầy như vậy. Thầy mong rằng quý thầy sẽ áp dụng cái câu kệ này mà làm một cái nhắc tâm của mình, để cho hằng ngày mình trau dồi bốn cái Tâm Vô Lượng này, để sống được với vạn hữu, với sanh linh bằng một cái cuộc sống an hòa và an lạc.

Đó là cái điều ước ao, ước mơ của Thầy để mong mọi người sống được như bốn cái Tâm Vô Lượng này.

Đó là kết thúc cái bài Tứ Vô Lượng Tâm mà Thầy đã giảng dạy cho quý thầy hiểu cái lý và cái hành - cái hành pháp của nó. Thì quý thầy đã biết cái hành và biết rõ được cái lý của nó như thế nào là xong cái bài Tứ Vô Lượng Tâm./.

HẾT BĂNG

14 - ÔN LẠI THẬP THIỆN VÀ TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 14 - ÔN LẠI THẬP THIỆN VÀ TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- THẬN TRỌNG, CẢNH GIÁC KHI TU TẬP THEO LỜI THẦY

1.1- ĐỪNG HIỂU SAI LỜI THẦY DẠY MÀ TẠO THÊM ĐIỀU ÁC

(00:00) Bây giờ Thầy tiếp tục cái buổi giảng này bằng những cái pháp để mà nhắc nhở cái tâm của Thầy như thế nào sau những cái buổi học tập và tu tập những cái pháp mà Thầy đã giảng trạch.

Này các thầy!

Thầy dạy giáo án này là nhằm phục hồi giáo pháp chân chính của đạo Phật, có đầy đủ lý pháp và hành pháp để giúp cho mọi người tự thắp đuốc lên mà đi, không còn lạc đường, lạc lối nếu họ tự có quyết tâm tìm đường giải thoát khổ đau và chấm dứt luân hồi.

Đó thì, ở đây Thầy dạy cái pháp này nhằm để cho chúng ta thấy được con đường đi, thấy được cách hành trì, để mà chúng ta thực hiện để cho chấm dứt đau khổ, chấm dứt luân hồi.

Ở đây các thầy đừng nghĩ rằng Thầy thuyết giảng giáo án này là để thu hút các đệ tử của người khác, là khiến cho họ trở về quy y với Thầy.

Quý thầy chớ hiểu như vậy. Bổn sư của quý thầy thì quý thầy hãy giữ nguyên vị bổn sư ấy cho quý thầy.

Nghĩa là, đó là không khéo rồi quý thầy nghe Thầy thuyết giảng rồi ở đâu cũng ùn ùn đến xin Thầy quy y hết.

Điều đó là cái - Thầy không có mơ ước cái điều đó đâu, mà Thầy chỉ mong quý thầy - vị bổn sư của quý thầy đã từng làm bổn sư để mà quý thầy nương vào theo Phật Pháp mà tu hành đó, thì bây giờ các vị thầy đó vẫn là những vị thầy của quý thầy.

Chớ đừng có lấy Thầy mà làm thầy, mà Thầy chỉ đem cái giáo án để cho quý thầy biết được con đường đi, tu cho đúng mà thôi. Chớ đừng có bỏ họ, mà đừng nghĩ họ rằng như thế này thế khác, điều đó là điều sai quấy.

Cho nên Thầy không có…​ Vì vậy mà hôm nay Thầy mới nhắc nhở cái điều này để cho quý thầy thấy hiểu. Ở đây Thầy cứ theo lời cái lời dạy của Phật ở trong kinh mà can ngăn, dứt bỏ, chớ còn Thầy không có cái ý là bài bác cái người này, hay bài bác người kia.

Cho nên cái bài này Thầy muốn nhắc để cho quý thầy hiểu cái lòng của Thầy như thế nào trên con đường mà xây dựng cái giáo án này.

Quý thầy cũng đừng nghĩ rằng Thầy giảng giáo án này là để quý thầy từ bỏ những kinh sách của quý thầy.

Quý thầy chớ hiểu như vậy. Quý thầy hãy giữ nguyên kinh sách của quý thầy.

Nghĩa là, quý thầy bây giờ học kinh sách nào, học đạo nào, thì quý thầy cứ giữ nó chớ quý thầy đừng có bỏ.

Nghĩa là, quý thầy thấy cái đường lối giáo án mà Thầy dạy theo đạo Phật đã dạy nó có lợi ích cho quý thầy, thì quý thầy cứ tập luyện cho nó có giải thoát, có lợi ích cho quý thầy thôi. Chớ quý thầy đừng có ném: “Kinh sách này là không đúng, sai!”, quăng, đốt - cái đó là cái sai; cái đó là cái làm không đúng.

Đó cho nên ở đây Thầy nhắc nhở quý thầy mà. Bây giờ các thầy có cả cái một tủ kinh sách của các tôn giáo khác, các thầy cũng không được ném! Cho nên, các thầy đừng có xem nó là thường, mà các thầy có cái gì thì các thầy cứ để nguyên nó, đừng có phê phán nó bằng cách này, bằng cách khác là các thầy đã sai.

(03:21) Các thầy chỉ biết rằng cái giáo án mà Thầy đã nêu ra đây là để giúp cho quý thầy, để các thầy đi trên con đường thiện, để giải thoát cho quý thầy được cái nhân ác, để giúp quý thầy được hưởng cái phước báu giải thoát.

Chớ không phải các thầy coi thầy mình không ra gì, coi kinh sách của mình đang học không ra gì thì cái điều đó là điều không đúng.

Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy giảng giáo án này là muốn cho quý thầy từ bỏ gia đình, sống không gia đình; từ bỏ tài sản lớn, tài sản nhỏ; từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, quyến thuộc nhỏ để xuất gia tu hành.

Quý thầy chớ có hiểu như vậy! Tất cả những cái gì của quý thầy thì quý thầy hãy giữ nguyên như vậy!

Nghĩa là tình cảm thương yêu gì quý thầy cứ giữ nguyên như vậy, rồi quý thầy cứ tu tập đến chừng nào đó thì nó đã ly thì nó ly.

Chớ quý thầy đừng có nghe Thầy nói, bảo như vậy, vậy, rồi quý thầy về tìm mọi cách để mà cắt ly gia đình mình bằng cách này kia. Bởi vì Thầy hiểu cái tâm trạng của quý thầy là tâm trạng không có hiểu rõ, không có thông minh!

Mà ở đây nhằm Thầy khai triển ra để thấy cái pháp đúng để cho chúng ta thực hiện con đường giải thoát. Chớ không phải nghe như vậy rồi về nạt nộ vợ con: “Tụi bây là báo này kia nọ; nhà cửa của cải là oan gia tội báo, nó làm cho tao dính mắc đây!”- thì cái đó là cái sai.

Phải hiểu tất cả những cái đó là cái sai. Chúng ta đừng có vội vàng, mà chúng ta hãy thực hiện những cái pháp này, rồi chúng ta trau dồi lần lượt, rồi tự nó nó thấy cái đúng cái sai. Chớ còn đừng có về mà vội vàng xua đuổi hoặc làm cách này cách khác, điều đó là cái điều sai.

Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy giảng giáo án này là dạy quý thầy từ bỏ các phong tục tập quán hoặc tụng kinh, cúng bái, cầu siêu, cầu an, mê tín, coi sao bói quẻ, coi ngày tốt xấu…​ hoặc bỏ phế tất cả các nghề nghiệp.

Quý thầy đừng có nghĩ như vậy mà hãy giữ nguyên như cũ!

Nghĩa là, hoàn toàn quý thầy cứ giữ nguyên nó, đừng có chê bai nó. Hầu hết là quý thầy nghe rồi cái quý thầy mượn cái chỗ giáo án của Thầy mới chỉ trích người này cúng bái, cầu an, cầu siêu đều là bậy, coi sao bói quẻ đều là sai, hay hoặc là coi ngày tốt xấu là bậy. Đừng có nói cái điều đó!

Chúng ta không có nói mà chúng ta hãy tu. Chúng ta biết đó là những cái pháp ác, đó là đem đến cho chúng ta những cái khổ đau thì chúng ta không làm nó mà thôi.

Đó thì, quý thầy cứ rằng nghĩ quý thầy bây giờ quý thầy làm cái nghề gì đó mà quý thầy giết hại chúng sanh, làm đau khổ chúng sanh thì quý thầy không làm, chứ không phải quý thầy bác! Quý thầy đừng có nói!

Ai người ta có cái nghiệp nấy người ta làm, còn mình nói ra mà coi chừng mình bị phạm đó. Đó là cái chỗ mà Thầy cảnh giác, khi mà nghe Thầy giảng rồi thì quý thầy dễ lầm lạc lắm.

(05:28) Cũng như nghe Thầy dạy tu Tứ Vô Lượng Tâm - tâm Từ, tâm Bi của mình - rồi cứ hốt cơm cho chó ăn, hốt cơm cho kiến ăn, thì cái điều đó là điều sai!

Cơm của đàn na thí chủ người ta làm bằng mồ hôi nước mắt, còn con vật nó là cái nghiệp báo của nó. Tại sao chúng ta lại hốt mồ hôi nước mắt cho người khác trong khi chúng ta ăn nhờ của người khác? Chúng ta Vô Lượng Tâm Từ, cái đó là Từ sai, Từ không trí tuệ!

Các thầy có đừng hiểu một cách…​ Bây giờ chùa mình không có chó, mà Phật đâu có nuôi chó bao giờ? Thế mà gặp con chó nào cũng đem cơm cho ăn! Cái chùa chúng ta bây giờ một bầy chó nó vô ở!

Bởi vì chỗ nó có ăn nó phải đến chứ sao. Thầy thấy mấy cái thất nào có bỏ cơm đồ cho chó ăn, cái thất đó chó lảng vảng hoài, còn cái thất nào mà không có cho chó ăn, cái thất đó không có chó lảng vảng.

Mình rủ, quyến rũ người ta, mình tạo cho người ta cái nghiệp nợ. Mình ăn cơm của đàn na thí chủ, mình biết mình trả được cái nợ này chưa? Cái nợ này rất lớn, tu hành chưa xong thì cái nợ này biết ngàn đời trả cho hết không?

Thế mà bây giờ mình còn lấy lòng Từ - lòng Từ của mình là phải bằng mồ hôi nước mắt của mình làm ra mình mới lòng Từ chớ?

Còn cái này mình lấy của người ta mình cho người khác, tức là mình mượn cái hình thức của tu hành để mình lấy của người ta mình cho người khác ăn, thì như vậy mình có Từ không? Người ta làm bằng mồ hôi nước mắt người ta dành ra!

Cái đó là những cái hiểu sai, cái lầm lạc. Cho nên ở đây cái bài này, để Thầy vạch ra cho các thầy thấy cái sai lệch của các thầy.

Khi nghe nói đến Từ, Bi, Hỷ, Xả, thì các thầy tưởng làm như vậy là đúng. Không đúng đâu, phải đúng như thế nào mới đúng. Cho nên nghe cái giáo án của Phật nói như vậy, phải trắng bạch như vỏ ốc, về chúng ta bằng cách này bằng cách khác, làm cho gia đình tan nát, khổ sở!

Có nhiều người đã hiểu qua những cái lời dạy của Thầy về làm đau khổ gia đình hết. Không thấy cái sự giải thoát, mà thấy cái địa ngục trước mắt! Đó là những cái hiểu lầm lạc cái lời Thầy dạy. Nếu mà Thầy không có cái lời cảnh giác này, thì chắc chắn là cái đạo Phật đưa đến cái khổ đau cho cái thế gian này chớ chưa phải là hạnh phúc cho ai hết.

Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy giảng giáo án này là muốn cho quý thầy từ bỏ gia đình.

Đó Thầy xin nhắc lại cái đoạn đó.

Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy giảng giáo án này dạy cho quý thầy từ bỏ các phong tục.

Nghĩa là Tết nhất, mùng năm, cúng bái giỗ quải này kia, khi mà hiểu cái này rồi về bác sạch, không có cho ai cúng bái hết, thì cái đó là cái sai, cái không đúng.

Cho nên chúng ta phải giữ nguyên như cũ. Ai làm gì làm, chúng ta biết cái đó là pháp ác là chúng ta không làm. Bây giờ trong nhà mình tới cái ngày cúng bái, người ta giết heo, giết bò thì người ta giết mặc người ta, không có nên được cản!

Mình đừng có nên giết, mình đừng nên ăn thịt là đúng, là mình biết đó là pháp ác. Chứ mình chưa có đủ sức độ ai hết, đừng có học ở đây rồi mình đem ra mình nói người này, nói người kia, nói đó là làm ác này kia. Người ta - cái phong tục người ta đã quen rồi, để cho người ta làm.

(08:21) Cho nên có nhiều người hỏi Thầy: “Bây giờ con là ở trong nội trợ nhà bếp, con phải ngày tư, ngày Tết mà trong nhà thì còn ăn thịt chúng sanh này kia, phải làm thịt này kia, thực phẩm bằng thực phẩm chúng sanh như vậy, thì con biết ăn chay rồi con làm sao?”

Hỏi một cách rất là…​ Thầy nói rất là ngu ngơ, thiệt không biết gì hết!

Nghĩa là mình phải làm cho mọi người vui ở trong gia đình của mình. Bây giờ mọi người người ta đang ở trong cái phong tục như vậy, người ta quen như vậy, thì mình là cái người dâu con ở trong nhà thì mình phải làm cho người ta vừa lòng. Chớ mình cha người ta hay sao mình muốn biểu người ta làm theo mình?

Thì mình làm vui lòng mọi người, thì cái tâm của mình, mình biết như vậy thì mình đừng ăn thịt chúng sanh. Mình có làm, nhưng mà mình biết như vậy mình đừng có mua con gà sống mình về cắt cổ, mình hãy mua con gà chết người ta làm sẵn!

Mình phải khéo léo linh động để bớt đi cái bàn tay đẫm máu của mình, là mình biết trong thiện pháp phải từ từ tập chớ! Chớ không lẽ bây giờ đùng một cái là mình không làm gì hết, để cho - bây giờ phải nấu chay đi, đậu hũ đi, nhà người ta mọi người người ta không bằng lòng mà mình làm chuyện đó sao được?

Đó là cái tu, chớ không phải là cái thành Phật liền. Mình nghe cái làm như là mình thành Phật rồi, từ bi dữ lắm rồi. Bao nhiêu kiến cũng đổ cho ăn, ăn riết nó cắn mình gần chết! Cái đó là quá ngu, Phật gì mà ngu quá ngu?

Quý thầy đừng nghĩ rằng Thầy giảng giáo án này là Thầy dạy quý thầy bỏ chùa to, tháp lớn, bỏ phế sự giáo hội, bỏ phế sự giảng dạy kinh sách, bỏ phế các pháp Yết Ma, bỏ phế các pháp thiền định mà quý thầy đang tu tập.

Quý thầy đừng có nghĩ như vậy mà hãy giữ nguyên tất cả!

Nghĩa là mình xét, mình thấy các pháp thiền này nó không đúng thì mình tu, chớ không được bỏ. Mình bỏ tức là mình bài bác.

Nghĩa là mình thấy không đúng là mình tu, còn ai tu người ta chưa hiểu thì người ta tu gì người ta tu, không được nói một cái lời nói: “Anh tu vậy đó là sai, thiền đó không phải Phật”, thì cái đó là mình bác người ta, tức là có sự tranh luận, chống trái nhau.

Cho nên ở đây Thầy cảnh giác vấn đề này, là qua cái bài pháp này để cho quý thầy hiểu được cái tâm trạng của Thầy không muốn có một sự chống trái nhau ở trên cái con đường tu tập theo đạo Phật.

Dù là giáo pháp của ai chúng ta cũng quý trọng hết. Họ có đi tới được hay không đi tới được chúng ta hoàn toàn không động chạm. Chớ mình thấy mình tu tập giới luật mình được cái bắt đầu mình chê rề họ đó, đó là cái sai, cái đó là cái pháp ác chớ không phải là cái pháp đúng đâu.

Ai làm gì thì mặc người ta. Chúng ta cố gắng chúng ta làm sao cho tâm chúng ta giải thoát, chúng ta sống được trong pháp thiện, đem lại sự an vui hạnh phúc cho chúng ta trước, rồi sau đó chúng ta làm cái gương hạnh sống để cho người ta thấy đúng thì người ta theo. Chớ không phải bảo người ta, dạy người ta bằng cái miệng lưỡi của mình mà người ta theo đâu!

Quý thầy đừng nghĩ rằng Thầy giảng giáo án này là Thầy muốn cho quý thầy từ bỏ những gì mà các Tổ đã truyền thừa, Tổ Tổ truyền nhau.

Quý Thầy đừng nghĩ như vậy! Tất cả những gì mà các Tổ đã truyền cho quý thầy thì quý thầy hãy giữ nguyên như cũ!

(11:28) Nghĩa là ông thầy đó ổng dạy mình cúng bái, tụng niệm, kệ ngâm hay hoặc gì đó, bây giờ cũng làm y như vậy hết. Nhưng mình thấy cái điều đó nó không đem đến cái thiện pháp thì mình lần lần mình tự sửa lấy mình, rồi mình tu tập cho mình đi vào trong cái thiện pháp mà giáo án của Đức Phật đã nêu ra.

Chớ không nói thầy Tổ mình làm cái đó sai; làm cái đó trật; làm cái đó mê tín; không có được nói cái điều đó! Đó là cái ý của Thầy muốn giảng cái bài này là như vậy đó.

Quý thầy đừng nghĩ rằng Thầy giảng giáo án này là khiến cho quý thầy từ bỏ nghề thầy thuốc trị bệnh, làm việc từ thiện, bố thí, v.v…​

Quý thầy chớ nghĩ như vậy. Tất cả những gì làm lợi ích cho mọi người, cho xã hội thì quý thầy hãy giữ nguyên!

Nghĩa là quý thầy biết được những pháp ác để tu tập cái tâm của mình, để trau dồi cái tâm thương yêu của mình, còn những việc làm kia thì quý thầy cứ giữ nguyên mà làm.

Chớ đừng có lấy cái đó rồi quý thầy bỏ, rồi quý thầy xiên qua một cái góc độ nào đó, thì cái đó không phải là cái ý của Thầy giảng giáo án này đâu.

Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy giảng giáo án này là muốn cho quý thầy không viết kinh, soạn sách, dịch kinh, viết báo…​

Quý thầy chớ có nghĩ như vậy! Tất cả những điều mà quý thầy đã làm có tánh cách phổ biến mọi đường lối tu tập thì quý thầy cứ giữ nguyên!

Nghĩa là mọi đường lối đó đều có thể là tốt chớ không phải xấu đâu, nó cũng không giúp ích cho người ta cái này thì nó cũng giúp ích cho người ta cái khác, cho nên cứ giữ nguyên mà làm.

Nhưng quý thầy cứ sửa những cái điều không tốt, cái điều ác trong tâm của mình, cái điều hành động ác, cái hành động không tốt của mình để sửa lần, sửa lần theo cái giáo án của Phật, để cho quý thầy được giải thoát.

Quý thầy cũng đừng hiểu Thầy giảng giáo án này là chống trái, bài bác quý thầy phá giới, phạm giới, mà tất cả những gì quý thầy đang sống quý thầy cứ giữ nguyên!

Nghĩa là đừng có nghĩ rằng Thầy dạy cái giáo án này ra là chống trái lại với những thầy phá giới đâu, không phải đâu.

Nghĩa là quý thầy đó làm cái gì thì mặc quý thầy cứ giữ nguyên, chớ không có bắt buộc quý thầy phải giữ gìn, ăn sống ngày một bữa như Thầy, hay ngủ ít, hoặc độc cư, hay hoặc là nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng ai hết.

Thầy không bắt buộc họ, tất cả những cái giáo án này là không bắt buộc người nào hết. Miễn là người đó nhận ra được cái pháp ác và pháp thiện. Pháp ác thì họ dứt mà pháp thiện thì họ tăng trưởng, thì họ hưởng được cái sự giải thoát.

Có vậy, cái giáo án ra đời là nhằm cái mục đích như vậy, ai thấy được cứ thực hiện, ai thấy không được thì thôi. Chớ không được lấy cái chỗ cái giáo án này mà bài xích, bài bác người ta đúng sai, thì cái điều đó là không được.

(13:53) Quý thầy cũng đừng hiểu rằng Thầy giảng giáo án này là bắt buộc quý thầy phải tu theo Giới - Định - Tuệ của Đức Phật, mà bây giờ quý thầy đã tu theo Giới - Định - Tuệ nào thì quý thầy cứ giữ nguyên!

Nghĩa là mình tu theo Giới - Định - Tuệ nào, của kinh điển nào thì mình cứ giữ nguyên, còn mình thấy được Giới - Định - Tuệ của Đức Phật đúng thì mình cố gắng mình khắc phục lần lần theo đó.

Còn những Giới - Định - Tuệ nào mà không đúng, nó có ác pháp trong đó, nó có những cái phi thời trong đó, thì chúng ta lần lần chúng ta dứt. Chớ chúng ta không nói đó là sai, đó là đúng, mà chúng ta từ từ chúng ta dứt, chớ không phải là chúng ta dứt một lần

Cũng như bây giờ có quý thầy nói cũng tu Giới - Định - Tuệ, nhưng mà một ngày người ta ăn hai ba bữa thì đó là phi thời, nhưng mà mình không nói là phi thời, mà mình biết rằng Giới - Định - Tuệ của Phật dạy là ngày ăn một bữa không phi thời, thì bắt đầu mình biết đó mình lần lượt mình sửa.

Bởi vì mình còn đang ăn ngày ba bữa, cho nên mình sửa lần để cho mình ăn được một bữa mà thôi, là mình đi vào trong cái thiện pháp không phi thời nữa.

Còn quý thầy người ta chưa có hiểu biết hay hoặc là người ta hiểu biết mà người ta sống khắc phục chưa được thì mình không được nói, mình không được phê bình họ, mình không được nói đó là Giới - Định - Tuệ sai, Giới - Định - Tuệ đó là của Đại Thừa chớ không phải Giới - Định - Tuệ của Tiểu Thừa. Mình đừng có nói điều đó, nói điều đó là điều không tốt.

1.2- MỤC ĐÍCH CỦA GIÁO ÁN LÀ TRAU DỒI, TU TẬP PHÁP THIỆN

(14:06) Này quý thầy, Thầy giảng giáo án này là chỉ cho quý thầy biết nó - những pháp bất thiện…​

Nghĩa là dạy cho biết nó là những pháp bất thiện.

…​ mà chưa được từ bỏ…​

Nghĩa là pháp ác mà chưa được từ bỏ.

…​ làm cấu uế đưa đến tái sanh luân hồi, đem lại khổ đau, đưa lại quả khổ, đem lại già, chết trong tương lai.

Nghĩa là Thầy giảng cái giáo án này là cái mục đích của nó để giúp cho quý thầy biết pháp nào là bất thiện, pháp nào là thiện, và pháp bất thiện mà quý thầy chưa từ bỏ thì quý thầy hãy cố gắng mà từ bỏ vì pháp bất thiện đó nó làm cho cấu uế, đưa đến sự tái sanh luân hồi, làm cho đau khổ, đưa đến sự quả khổ, đem lại già, chết ở trong tương lai của chúng ta.

Nghĩa là cái giáo án mà Thầy dạy ra để cho các thầy nhận được cái pháp thiện và cái pháp bất thiện để cho quý thầy tu tập dứt bỏ nó, chớ không phải đem ra để mà cho quý thầy thấy cái sai, cái đúng của thế gian.

Phải hiểu như vậy mới thì biết được cái tâm trạng của Thầy khi mà giảng giáo án này.

Tại sao từ xưa Thầy không giảng cái giáo án này? Là tại vì Thầy thấy nó chưa có đủ duyên, và đồng thời nói ra thì sợ người ta không hiểu mình, nói người ta - Thầy giảng ra thì nói Thầy rằng có cái ý là chống báng các pháp này của mọi Phật Pháp ở trên thế gian.

Thầy giảng giáo án này có những pháp thiện mà quý thầy chưa được trau dồi…​

Có những pháp thiện mà quý thầy chưa được trau dồi, như Thầy giảng cái giáo án Tứ Vô Lượng Tâm, thì trau dồi tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả. Thì quý thầy chưa bao giờ được trau dồi, bây giờ Thầy giảng cho quý thầy biết, để cách thức trau dồi tâm mình, để cho nó đi vào trong thiện pháp. Đó là cái mục đích của Thầy là như vậy.

Thầy giảng giáo án này, có những thiện pháp mà quý thầy chưa được trau dồi, tu tập để được thanh tịnh, không làm cấu uế, chấm dứt tái sanh luân hồi, hết sự đau khổ, đưa đến quả lành, không già, bệnh, chết.

Đó, thì cái mục đích của Thầy giảng cái giáo án này là để cho quý thầy trau dồi thân tâm mình cho được thanh tịnh, để không còn cấu uế, không còn ô nhiễm nữa, chấm dứt sự tái sanh luân hồi đau khổ, đưa đến những cái quả lành và thoát khỏi già, bệnh, chết.

Đó là cái mục đích của cái giáo án, chớ không phải là mục đích như hồi nãy ở trên. Cho nên các thầy đừng hiểu như những cái ở trên đó là sai.

(17:12) Những pháp ấy Thầy đã giảng dạy ở trong giáo án để cho quý thầy thực hành theo đúng lời giảng dạy của Thầy, thời các pháp cấu uế, bất tịnh, bất thiện pháp của quý thầy chưa được diệt trừ, các pháp thiện thanh tịnh được tăng trưởng, và quý thầy sẽ tự chứng biết, chứng ngộ và đạt đến an trú ngay trong hiện tại, trí tuệ cụ túc viên mãn, chấm dứt sanh tử luân hồi, làm chủ sự sống chết.

Đó là những cái pháp mà Thầy giảng trong giáo án này là để quý thầy chứng nghiệm được cái sự tu tập của quý thầy, và quý thầy sẽ được an trú ngay trong hiện tại cái sự giải thoát đó nơi quý thầy, quý thầy sẽ chứng minh cụ thể cho cái sự giải thoát đó.

Chớ không phải nói một cách là không có cái trạng thái đó, không có sự giải thoát đó, gọi là vô sở đắc đó đâu!

Nó có sự an lạc, có sự giải thoát thật sự, có cái tâm thiện thực sự, có cái lòng thương yêu thật sự để chứng nghiệm qua cái sự tu tập của quý thầy, qua cái sự trau dồi của quý thầy, bằng cách là quý thầy siêng năng tu tập ngay trong hiện tại, ngay trong khi tu tập đã có cái sự chứng nghiệm đó rồi.

Thì như vậy quý thầy mới tin rằng cái giáo án mà Thầy đã vạch ra nó có kết quả thực sự như vậy, đem lại hạnh phúc cho con người như vậy, đó thì quý thầy mới tin.

Đó thì đến đây, qua cái phần này, thì quý thầy đã thấy rằng Thầy đã dạy cái giáo án này là cái ý như vậy.

Chứ không phải là để cho quý thầy hiểu rồi mà không có cảnh giác, không có răn nhắc quý thầy, thì quý thầy không hiểu, rồi quý thầy đem ra, quý thầy lấy cái chỗ này mà quý thầy bài bác chống đối người ta, hoặc cái này cái hoặc cái khác, thì điều đó là pháp ác chớ không phải là pháp thiện nữa.

Các thầy nhớ kỹ như vậy. Các thầy nói đúng chớ không phải sai, nhưng mà người ta đứng ở trong cái góc độ người ta hiểu thì người ta thấy quý thầy là những người ác pháp chớ không phải người thiện pháp đâu.

Bởi vì nói cho người ta tức tối, người ta giận dữ, người ta còn kiến chấp, người ta lầm chấp, người ta còn ôm chặt, cho nên người ta đau khổ, người ta tức tối, người ta giận dữ, người ta tranh luận với quý thầy.

Cái đó là quý thầy đã tự đem cái thiện pháp mà biến cái thiện pháp đó trở thành ác pháp với mọi người. Thì cái điều đó - điều mà quý thầy nói đó là cái điều mà quý thầy đã làm sai, không đúng lời dạy của Thầy.

1.3- CHỜ NGƯỜI CÓ ĐỦ DUYÊN MỚI TRAO TRUYỀN GIÁO PHÁP

(19:31) Cho nên khi mà nghe được Thầy rồi thì quý thầy phải âm thầm về nỗ lực tu hành, không được đem cái giáo án này mà dạy người khác.

Tại sao vậy?

Chỉ khi nào có những người, người ta có quyết tâm tu để tìm giải thoát, thì chúng ta thấy họ có sự tha thiết, sống đúng những cái hạnh của một cái người mà quyết tu, người ta muốn xả bỏ thì mình cho người ta đọc, hoặc người ta nghe.

Còn những người mà người ta sống phi thời, người ta sống theo dục lạc thế gian, mình đừng đem giáo pháp này ra rồi người ta tìm mọi cách người ta chống đối, làm cho người ta bị tội lỗi với Phật Pháp!

Vì Phật đã dạy chứ đâu phải của Thầy? Thầy chỉ là một cái người để khai triển lại những cái lời của Phật, chớ không phải là pháp này của Thầy. Thầy đâu phải là một đức giáo chủ của đạo Phật mà Thầy có những cái giáo pháp, một cái triết của đường lối của đạo Phật đâu?

Thầy chỉ khai triển lại cái đường của Đức Phật mà nếu để cho người ta lầm chấp, người ta đang say mê ở trong dục lạc thế gian, tức là người ta có cái sự phải tranh luận, phải bài bác cái pháp này, tức là người ta bài bác cái pháp của Phật. Và vì vậy mà làm cho người ta tội lỗi hơn, và người ta sẽ trôi lăn ở trong lục đạo sáu nẻo, biết chừng nào người ta gặp Phật Pháp?

Cho nên chúng ta phải biết thương người. Biết thương người là biết ngăn ngừa cái sự tội lỗi của họ. Cũng như mình biết ngăn ngừa cái tội lỗi của một thằng ăn cắp thì mình để cái xe, hoặc cái vật dụng gì mình phải cảnh giác, vì cảnh giác cho nên thằng ăn cắp nó không lấy được cho nên nó không tội lỗi.

Cũng như mình biết thương người thì mình phải cảnh giác, đừng có để cho những cái pháp này mà rơi vào những cái người mà đang sống trong dục lạc.

Vì đang sống trong dục lạc họ phải có sự lý luận để che đậy những cái điều đó, do đó họ thành ra phỉ báng Phật Pháp. Mà phỉ báng Phật Pháp thì họ tội vô lượng!. Cho nên vì vậy mà họ bị đọa địa ngục, biết kiếp đời nào mà cho họ gặp được Phật Pháp?

Cho nên vì một cái duyên mà không tốt thì đời đời, kiếp kiếp họ làm sao gặp được Phật Pháp! Được thân còn khó, được Phật Pháp còn khó hơn. Thế mà hôm nay chúng ta vô tình đã làm cho họ rơi vào cái chỗ vô lượng kiếp mà không được gặp Phật Pháp, thì đó là cái tội, quá tội. Chúng ta phải biết thương người!

Cho nên vì thế mà khi học được cái giáo án này rồi thì quý thầy cẩn thận mà truyền pháp, chớ không phải đụng đâu mà phô ra hết, hoặc là đăng trên báo chí, hoặc là in thành sách rồi bán ở các hiệu sách, điều đó không phải!

(21:50) Cái pháp này là pháp quý giá, cái pháp này đem đến cho mọi con người được giải thoát, sống được an vui, được thương yêu nhau, đùm bọc lấy nhau trong mọi hình thức, thì cái pháp này phải được coi như là cái pháp quý nhất trong đời sống của nhân loại, của con người!

Vì thế, cái pháp này được đem bố thí, được đem làm một cái tài liệu học tập cho những người biết tìm con đường giải thoát, và cái pháp này không được bán, và cái pháp này luôn luôn để trao cho những người quyết tìm con đường giải thoát.

Còn những người không quyết tìm con đường giải thoát, chạy theo dục lạc thế gian, ham thích dục lạc thế gian thì những người đó chưa đủ duyên, chúng ta chưa nên trao.

Chờ khi nào họ chạy theo dục lạc thế gian, đâm đầu vào cái khổ, chừng nào họ thấy đời là khổ thật, họ than thở đời là không có gì hạnh phúc, thì chúng ta mới đưa cho họ xem, đưa cho họ biết để cho họ thức tỉnh.

Còn họ đang say mê trên đống tiền, trên danh lợi, trên sắc dục thì thôi chúng ta khoan đã, hãy dừng lại đối với những người này.

Cho nên muốn trao pháp cũng phải trao cho những người có đủ duyên, mà trao cho những người không đủ duyên thì họ sẽ làm thêm tội ác!

Đó là những lời cảnh giác và những lời khuyên của Thầy đối với quý thầy.

Cho nên Thầy không muốn dùng cái pháp này để tạo một cái danh của mình, mà chỉ dùng cái pháp này để làm lợi ích cho chúng sanh! Cho nên đâu cần phải phổ biến cho rộng rãi, đâu cần phải quảng bá cho nó rộng lớn! Rộng lớn bao nhiêu mà có bao nhiêu người tu được?

Thà là âm thầm xem xét coi người nào đủ duyên, vì đủ duyên thì dù đâu họ cũng có gặp, mà không đủ duyên thì bây giờ bày bán giữa chợ họ cũng chẳng thèm mua.

Cho nên ở đây chúng ta sống trong pháp nhân duyên của Phật thì chúng ta đã hiểu rõ, và sống trong pháp nhân quả của Phật thì chúng ta cũng đã rành.

Cho nên chúng ta ngồi đây mà chờ người có đủ duyên thì mới đem pháp trao, chớ không phải đem đi bán pháp để độ người. Độ người kiểu đó là độ danh, độ lợi chớ không phải độ người!

Cho nên khi quý thầy khi trở về quê hương của mình mà có đủ duyên in được sách này thì cần phải trịnh trọng.

Người nào có tâm thành đến để đảnh lễ pháp ta mới bố thí cho họ. Người nào không đảnh lễ, dù bỏ hàng triệu bạc chúng ta cũng chẳng cho, hàng tỷ bạc chúng ta cũng chẳng cho, chớ đừng nói chi là năm ngàn, mười ngàn thì pháp bảo của Phật coi quá rẻ!

Đó là những lời nói cũng nhắc nhở quý thầy và cũng là những lời nói sau cùng khi Thầy trao cái giáo án này ra.

2- TỨ CHÁNH CẦN - BỐN PHÁP TRAU DỒI ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ

(24:47) Bây giờ chúng ta tiếp tục học Tứ Chánh Cần.

Bây giờ đã học Tứ Vô Lượng Tâm rồi, bây giờ học Tứ Chánh Cần.

Tứ Chánh Cần là bốn pháp dùng để trau dồi dứt trừ các ác pháp.

Vậy Tứ Chánh Cần là gì?

Tứ Chánh Cần là bốn pháp siêng năng, cần mẫn, tinh tấn, hợp với đạo lý nhân quả để giúp cho con người thoát ra cảnh khổ, bất hạnh của cuộc đời; để giúp cho con người thoát kiếp trầm luân khổ ải; để giúp cho con người mọi hành động không làm khổ mình, khổ người; và để giúp cho mọi người trau dồi rèn luyện thân tâm đạo đức nhân quả.

Đó thì, Tứ Chánh Cần chúng ta phải hiểu: Bốn cái pháp chuyên cần này là để giúp cho chúng ta thoát cái cuộc đời bất hạnh, để giúp cho chúng ta không làm khổ người, khổ mình, để giúp cho chúng ta trau dồi cái thân tâm đạo đức của chúng ta trong nhân quả. Thì chúng ta phải biết cái pháp này nó trau dồi cái đạo đức nhân quả như thế nào?

Bởi vì nói dạy về nhân quả mà không dạy Tứ Chánh Cần thì chắc chắn là người ta chưa biết pháp hành, cho nên người ta nói nhân quả suông mà không có hành nhân quả.

Còn ở đây chúng ta chưa có dạy về nhân quả, nhưng mà Thầy trước kia Thầy có giới thiệu để chúng ta biết nghiệp. Nghiệp tức là cái nhân quả của nó đem đến cho chúng ta, những cái từ cái nhân đến cái quả, rồi nó chuyển tiếp, rồi nó trở thành những cái nghiệp lôi cuốn chúng ta trong vòng sanh tử luân hồi, thì cái nhân quả nó là như vậy.

Nhưng mà cái dạy về nhân quả nó phải có một cái - về đạo đức nhân quả thì nó phải có một cái giáo án riêng cho đạo đức này, vì nó thuộc về cái đạo đức rồi, nó phải có cái tuần tự từ thấp đến cao, cách thức tu học như thế nào của nhân quả.

Do vì vậy đó, thì có dịp Thầy sẽ soạn cái giáo án đạo đức nhân quả để giúp cho mọi người biết cái đường lối trau dồi, học tập cái đạo đức nhân quả để đem lại một sự an lành, thanh bình cho con người trên thế gian này, nhưng bây giờ thì chúng ta không có thời gian để mà viết thành cái giáo án của đạo đức nhân quả.

(27:14) Tứ Chánh Cần chia ra làm bốn vai trò để trau dồi các hành trong thân.

Nghĩa là cái Tứ Chánh Cần chúng ta chia nó làm bốn cái vai trò để mà trau dồi các hành trong thân. Nghĩa là nó có bốn cái phận sự để mà trau dồi các hành, nó trau dồi cái hành động, chớ không phải là trau dồi cái tâm mà trừu tượng như là chúng ta trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm đâu, mà nó trau dồi các các cái hành động trong thân của nó.

Vậy thì cái hành động trong thân của nó như thế nào, thì chúng ta sẽ lần lượt, Thầy sẽ giãi bày để chúng ta thấy được các hành động ở trong thân của chúng ta.

1. Siêng năng, cần mẫn, ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh;

Đó là cái thứ nhất thì chúng ta phải siêng năng, cần mẫn, ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh.

Ở đây là cái lý thôi, nói cái lý, cái ngăn ngừa; rồi cần mẫn ngăn ngừa nó như thế nào, thì chắc chắn là đó là cái danh từ rỗng, nó không đúng, nhưng mà phải nói để cho quý thầy biết, để cho quý thầy - những cái lý mà - phải nói cho hiểu để biết cái sự ngăn ngừa.

Rồi sau đó chúng ta hành thì chúng ta mới biết biến ra cái hành động ngăn ngừa như thế nào, và phòng ngừa nó như thế nào.

2. Phải siêng năng, cần mẫn dứt trừ những điều ác đã phát sanh;

Chữ “dứt trừ” đây mình chỉ nói danh từ suông, đó là cái lý, nói dứt trừ, chứ dứt trừ phải bằng cái hành động, phải bằng cái cách tập luyện như thế nào để mình dứt trừ các cái pháp ác. Đó là cách thức mà đoạn dứt nó, chớ không thể nói dứt trừ suông mà nó đã dứt các ác được.

Cho nên hầu hết là chúng ta phải giải cái lý của pháp rồi mới giải cái hành của pháp, thì mới thấy cái chỗ hiểu của nó, rồi mới cái chỗ hành nó như thế nào cho đúng.

3. Siêng năng cần mẫn trau dồi những điều lành chưa phát sanh;

Đó, bây giờ nói đến mình phải trau dồi những cái điều lành, chớ còn khi không nó làm sao nó có trong tâm mình lành được! Cho nên mình phải trau dồi những cái điều lành đó. Cho nên những cái điều lành đó nó chưa phát sanh thì mình phải trau dồi nó, thì trau dồi nó một thời gian thì tất cả những cái pháp lành nó phát sanh ra.

4. Siêng năng cần mẫn trau dồi những điều lành đã phát sanh.

Đó, thì khi mà trau dồi một thời gian nó phát sanh ra, thì đến cái giai đoạn thứ tư thì: “Siêng năng, cần mẫn, tiếp tục trau dồi những điều lành đã phát sanh.”

Bây giờ nó trau dồi, bây giờ nó đã lớn rồi, nó đã khởi ra rồi, thì bắt đầu mình phải trau dồi cho nó lớn mạnh lên để giúp cho người, để giúp cho mình, làm cho mình vui, làm cho người khác vui.

Đó thì, trên cái bước đường mà tu học nó phải đi từng bước, từ cái hiểu cái lý pháp cho đến cái hành của cái pháp. Thầy dạy đâu thì nó có những bước căn bản như vậy, chớ không phải dạy chung chung được. Lý với hành nó phải song song như vậy để chúng ta hiểu mới rõ.

3- ÔN LẠI THẬP THIỆN VÀ TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

3.1- NHẬN BIẾT, ĐỐI CHIẾU MƯỜI ĐIỀU LÀNH VÀ MƯỜI ĐIỀU DỮ

(30:20) Bây giờ Thầy xin ôn lại những điều lành Thầy đã dạy cho quý thầy ở lộ trình thứ nhất.

Bây giờ ôn lại để chúng ta thấy mình đã học những cái pháp lành nào, cái điều lành nào, để cho mình biết.

Thứ nhất như là mười cái điều lành, đó, mười cái điều lành tức là Thập Thiện đó, quý thầy đã học rồi phải không? Rồi bốn Tâm Vô Lượng đó, thì quý thầy đã học rồi.

Và mười cái điều lành bây giờ chúng ta mới đem áp dụng vô cái Tứ Chánh Cần này đó. Còn bốn cái Tâm Vô Lượng thì mình đã trau dồi về cái pháp hướng để làm cho cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, của mình nó rộng lớn hơn, thì cái hành của Tứ Vô Lượng Tâm rồi.

Bây giờ mới nhắc lại mười cái điều lành này. Hồi trước Thầy chỉ giảng cái lý của mười điều lành này chớ chưa có dạy quý thầy hành mười cái điều lành này. Bây giờ mới tới đây là quý thầy sẽ hành mười cái điều lành này.

Nó mới hiểu biết rằng khi dạy Thập Thiện tức là để cho chúng ta biết mười điều lành và mười điều ác. Và khi biết rồi, bắt đầu bây giờ mới tới Tứ Chánh Cần mới đem nó mà áp dụng vào Tứ Chánh Cần để chúng ta thực hiện mười điều lành, mười điều ác.

Bởi vì trong Tứ Chánh Cần Phật dạy: Các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, mà đã sanh thì đoạn dứt. Mà các pháp thiện chưa sanh thì phải cho khởi sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng.

Cho nên chúng ta biết được cái đó vì vậy mà chúng ta phải dạy các pháp ác như thế nào? Các pháp thiện như thế nào? Để chúng ta hiểu pháp ác làm sao, pháp thiện như thế nào, để mà chúng ta áp dụng vào Tứ Chánh Cần cho đúng đắn.

(31:11) Qua mười điều lành và bốn tâm vô lượng, quý thầy đã quan niệm rõ nét về điều dữ và điều lành trong đạo Phật rất cụ thể.

Đó thì quý thầy thấy rất rõ. Là vì qua những cái điều mà Thầy dạy đó, thì quý thầy đã thấy điều lành và điều dữ, không có mơ hồ nữa, quá rõ ràng. Vì đã học xong rồi, quý thầy đã hiểu rõ rồi.

Mỗi khi ai đã học xong những điều Thầy đã dạy ở trên mà không hiểu được điều lành, điều dữ thì người ấy quá là si mê!

Nghĩa là Thầy dạy rồi mà không hiểu được thì thật là si mê.

Nếu Thầy dạy điều lành, điều dữ mà người nào không hiểu thật rõ, là đáng thương cho người đó, người đó là kẻ si mê tận cùng!

Nghĩa là Thầy dạy như vậy, chắc chắn là Thầy tin một cái người mà bây giờ ngu si như thế nào mà dạy xong rồi thì chắc chắn là quý thầy cũng phải thấy rõ được cái điều Thầy dạy, chớ không phải là không thấy rõ.

Bởi vậy, trước khi làm một điều lành, tránh một điều dữ, chúng ta phải hiểu rõ thế nào là lành, thế nào là dữ?

Những điều dữ là những điều gì có thể làm tổn hại cho mình, cho người trong hiện tại cũng như mai sau.

Đó thì, quý thầy thấy những cái điều lành, điều dữ là như thế nào. Điều lành là làm cho người vui, làm cho lợi người, mà điều dữ ớ thì làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ, thì đó là những cái đặc tánh của điều dữ và điều lành nó như vậy.

So sánh ta thấy rất rõ và nhận định chính xác không lầm. Nếu ta so sánh giữa mười điều dữ và mười điều lành đối chiếu nhau thì ai ai cũng rõ.

Bây giờ chúng ta sẽ đối chiếu lại mười cái điều lành và mười điều dữ thì chúng ta thấy rất rõ.

Bây giờ mình để cái điều dữ trước và cái điều lành sau, thì chúng ta thấy nè:

1. Sát sanh.

Sát sanh thì cái người đó phải cầm dao, cầm gậy, cầm gộc, đánh cho chết người, hoặc là giết con vật này. Cho nên không sát sanh thì không giết không hại, không làm đau khổ, không làm chết chóc chúng sanh. Đó là không sát sanh. Đó là lành phải không? Bởi vì không làm khổ ai hết thì đó là lành.

Điều dữ đây:

2. Trộm cắp.

Trộm cắp - mình lấy của người ta không cho, làm cho người ta mất của, người ta buồn rầu, người ta khổ sở, thì cái đó có khổ không? Đó là ác. Cho nên mình thấy rõ cái pháp ác mà, đâu có gì là không ác.

Còn mình không trộm cắp tức là không lấy của người, thì người ta đâu có mất của người ta khổ? Do đó thì mình thấy không có khổ, vì vậy mà đối chiếu lại thì chúng ta thấy trộm cắp là pháp ác, mà không trộm cắp là pháp lành.

(34:16) Bây giờ đến:

3. Tà dâm.

Cái người mà tà dâm, có vợ con rồi mà đi lại nhà người ta ve vợ người ta, hoặc làm thế này, thế khác, làm cho gia đình người ta tan nát rồi gia đình mình tan nát, có khổ không? Đó là pháp ác, là cái pháp làm cho đau khổ mình, đau khổ người.

Còn không tà dâm thì gia đình hạnh phúc yên vui, nhà người ta có tan nát cửa không? Đó là mình vui mà người khác cũng vui. Do đó là không tà dâm là pháp thiện, mà tà dâm là pháp ác.

4. Nói dối.

Nói không thật đó, mà nói không thật tức là gạt người ta chớ gì?

Thí dụ như con người ta không có té giếng chết, mình chạy về mình nói: “Con bà đi ra ngoài coi trâu ngoài ruộng, nó té chết, nó lọt giếng, nó chết dưới rồi!” - làm cho bà ta sợ hãi, khóc lóc chạy ra coi con mình chết không, ai dè thấy nó ngồi trên bờ ruộng!

Thì do đó là nói láo như vậy làm cho người ta khổ như vậy đó, có ác không? Ác! Cho nên cái nói như vậy làm cho người ta khổ, đó là pháp ác.

Còn mình không nói dối, không gạt ai hết thì có ác không? Không có làm cho ai khổ sở hết thì cái đó là cái pháp lành. Cho nên chúng ta phải nhớ, so sánh để chúng ta biết chúng ta phải giữ cái nào mà dứt cái nào.

5. Nói thêu dệt.

Mình nói thêu dệt, mình thêu dệt cái này, thêu dệt cái kia để cho người ta thù hằn nhau, rồi người ta giận với nhau, người ta ghét với nhau, thì cái đó là pháp ác hay pháp thiện? Vì người ta có giận hờn ghét nhau, thì do đó là pháp ác, làm cho người ta đau khổ, người ta tức giận. Đó là pháp ác.

Còn mình không nói thêu dệt thì đâu có làm ai khổ? Mình không nói xấu người khác thì đâu có làm ai khổ? Cho nên do vì vậy đó mà đó là pháp thiện.

6. Nói lời phù phiếm

Mình nói lời phù phiếm, mình nói cái này, cái kia nó không đúng cách, nó làm cho người ta nghe cái chuyện này rồi dính mắc vào chuyện kia, đi làm chứng làm trái này kia, làm cho người ta phải mất thì giờ, làm cho người ta tổn phí những cái công sức để mà ngồi nghe những cái chuyện tào lao không có đúng. Đó là cái pháp ác.

Còn mình không nói lời phù phiếm thì có phải là người ta không mất thì giờ không? Người ta không có ngồi nghe cái chuyện tào lao, cho nên người ta nó không có hao tổn tinh thần, mà cũng hổng hao tổn cái thời gian của người ta, thì như vậy là thiện pháp.

(36:33) 7. Nói lời hung dữ.

Nói lời hung dữ là mình chửi mắng, mình rủa người ta, hoặc là mình nạt nộ, thì làm cho người ta giận, tức, làm cho người ta đau khổ, thì cái đó là pháp ác phải không? Do vì vậy đó là nó pháp ác.

Còn chúng ta không nói lời hung dữ thì đâu có làm ai khổ sở? Cho nên đó là pháp thiện.

8. Tham lam.

Tham lam là ham muốn, mình ham muốn cái này cái kia, nó sanh ra những cái (mà) đạt được thì mình mừng vui chút, mà không đạt được thì nó khổ sở, nó lo toan đủ thứ ở trong đầu của mình. Do đó tham muốn cái này, tham muốn cái kia nó làm chúng ta phải lo lắng, thì như vậy là cái sự lo lắng ở trong tâm của mình đó là cái pháp ác.

Còn cái người mà không tham lam, không ham muốn thì họ có an ổn không? Họ thanh thản, họ an vui, cho nên cái pháp đó là pháp thiện.

9. Sân.

Sân thì quý thầy thấy người sân có giận dữ không? Giận dữ thì tức tối, mặt đỏ, tay múa may, tay chân múa may. Do như vậy là cái người sân là cái người quá khổ. Mà sân là khổ như vậy đó là pháp ác.

Còn cái người không sân là có khổ không? Không có khổ, không có giận dữ, không có múa may, không có chửi mắng, không có la lớn, thì cái người đó là người không khổ. Còn cái người kia là cái người sân, là cái người trong pháp ác, cho nên khổ.

10. Si.

Là ngu si, không thấy, cho nên thấy người ta uống rượu cái thì mình a tòng vô mình uống rượu, thấy người ta giết gà thì mình cũng a tòng vô giết gà để ăn thịt, hoặc là làm những cái chuyện trộm cướp theo những cái điều người ta không có thấy cái tội lỗi.

Cho nên do những cái si mê đó mà nó đưa cho con người ta đến những cái khổ đau liên tục. Cho nên đó gọi là - chúng ta phải biết đó là cái pháp ác.

Người không si tức là người thấy cái điều đúng, điều sai để chúng ta tránh mà không tạo ra chúng ta khổ và người khác khổ, thì người đó là người không si. Vậy không si đó là pháp thiện.

Vậy so sánh mười pháp này xong rồi chúng ta biết pháp nào thiện, pháp nào ác. Vì vậy mà chúng ta hãy:

Do cái bảng so sánh này để cho quý thầy thấy rõ mà nhận định điều ác mình cần phải dứt bỏ, điều lành mình cần phải tăng trưởng và nuôi lớn.

Như vậy là chúng ta sẽ nuôi lớn mười cái điều thiện mà “không”, “không” này đó: Không làm những cái - mười cái lần không làm cái này nè.

Thì trong khi lần lượt chúng ta phải tu tập, trau dồi như thế nào để chúng ta thực hiện được, tăng trưởng được những cái pháp lành, mười cái pháp lành này, mà đoạn dứt được mười cái pháp ác này, đó là một cái điều quan trọng. Chớ không thể nói rồi chúng ta dứt được liền đâu, rất là khó chớ không phải dễ.

Tuy rằng nói như vậy, so sánh như vậy để chúng ta hiểu, nhưng đến khi mà thực hành tu tập là một điều mà chúng ta phải rèn luyện, dứt bỏ, trau dồi, và có những sự phải quyết tâm chúng ta mới dứt được. Chớ không phải là muốn dứt là cái chúng ta dứt ngay liền được đâu, nó rất là khó chớ không phải dễ.

Vì vậy mà cái giáo án này Thầy phải ghi lại cho nó được đầy đủ những cái pháp hành để chúng ta thực hành để mà dứt các pháp ác, mà tăng trưởng các pháp lành làm cho chúng ta càng ngày càng tiến bước trên con đường giải thoát.

3.2- TỨ VÔ LƯỢNG TÂM LÀ BÀI HỌC VỠ LÒNG THIỆN PHÁP CHO LOÀI NGƯỜI

(39:25) Như vậy, ở đây những điều lành mới khởi sự bắt đầu để cho người mới tu mà thực hành dứt bỏ mười điều ác, tăng trưởng, nuôi lớn mười điều lành.

Nhưng nói đến điều lành của đạo Phật mà không dạy con người trau dồi Bốn Tâm Vô Lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả cao quý tuyệt đỉnh lành trong các pháp…​

Nếu mà nói về pháp ác, pháp lành mà không dạy người ta trau dồi tâm Từ, Bi, Hỷ Xả - như Thầy đó, tại sao Thầy không dạy các thầy tu Tứ Chánh Cần trước? Dạy Thập Thiện rồi thì lẽ ra thì phải dạy Tứ Chánh Cần trước chớ, tại sao lại không dạy Tứ Chánh Cần mà lại dạy Tứ Vô Lượng Tâm?

Tại vì muốn mà dứt trừ được các pháp ác thì phải có tâm Từ - Bi - Hỷ - Xả thì nó mới có dứt trừ được, và dứt trừ được thì phải nuôi lớn những cái tâm nào, trau dồi những cái tâm nào để mới tăng trưởng được các pháp lành? Còn nếu mà không có tăng trưởng được các pháp lành thì làm sao mà pháp lành khởi sự ra được!

Đó là những cái điều mà quan trọng, phải biết sắp xếp cái pháp nào tu trước, cái pháp nào tu sau, mà Thầy từng nhắc đi nhắc lại trên cái con đường mà xây dựng cái giáo án này.

Bởi vậy, Tứ Vô Lượng Tâm là pháp lành cao nhất của đạo Phật, mà cũng là bài học vỡ lòng tuyệt thiện pháp cho tất cả loài người.

Mình phải hiểu: Muốn mà dứt trừ các pháp ác thì phải học Tứ Vô Lượng Tâm, phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm, là cái bài học vỡ lòng đầu tiên mà là cũng là tuyệt đỉnh của thiện pháp cho tất cả con người ở trên thế gian này nếu muốn đi vào con đường của đạo Phật.

Nếu ai chưa học pháp vỡ lòng này thì khó mà dứt bỏ mười điều ác.

Nghĩa là chúng ta nói như vậy mà chúng ta chưa có trau dồi được cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, thì chắc chắn là mười cái điều ác này chúng ta khó mà dứt bỏ.

Nhờ có trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm ta mới đủ sức thương yêu tất cả chúng sanh, nhờ đó ta mới dứt trừ được tận gốc của ác pháp.

3.3- TU TẬP ĐÚNG TRÌNH TỰ TỪ THẤP ĐẾN CAO MỚI CÓ KẾT QUẢ

(41:26) Nếu ta xây dựng giáo án tu tập theo đạo Phật mà đặt sai vị trí pháp tu, thì cũng như người viết giáo trình học tập văn hóa, thay vì lớp một đem đặt thành lớp hai, vậy thì học sinh mới vào phải học lớp hai làm sao chúng học được?

Chưa biết A, B, C mà đã đọc chữ thì học như vậy có được hay không? Và tu như vậy có tu được hay không?

Cho nên người viết giáo trình phải là người am hiểu, có nhiều kinh nghiệm trong ngành giáo dục.

Cũng vậy, nếu người soạn giáo án của đạo Phật mà không có thực hành, không có kinh nghiệm, thì giáo án ấy không thể áp dụng vào đời sống tu hành của tu sĩ được, vì không đem lại kết quả thiết thực, cụ thể.

Vì thế, đạo Phật bây giờ không có một giáo án tu tập, nên đời sống của tu sĩ ương ương, gàn gàn, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo.

Bởi vậy, sắp xếp lại những pháp môn tu hành của đạo Phật từ thấp đến cao, từ dễ đến khó là một công trình phải được xem là khó khăn nhất.

Nếu sai đi chỉ cần một chút cũng làm mất thời gian của người tu rất lớn, và cũng phí bỏ cả cuộc đời tu hành của họ, chẳng có ích gì cho chính bản thân họ mà lại còn cho người khác đau khổ, tốn công tốn của, tiêu phí bao nhiêu mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ mà chẳng ra ma nào cả!

Đó thì, quý thầy thấy trên bước đường tu tập, từ cái ngày mà Thầy biết đạo đến giờ, vì không có cái giáo án thiết thực, cụ thể từ bước thấp đến bước cao, cho nên nhìn chung các thầy, huynh đệ cùng nhau chẳng ai ra ma nào cả!

Đời thì chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, dở chết, dở sống trên chiếc áo tu sĩ. Cười thì cũng cười chẳng được, mà khóc thì khóc cũng chẳng xong, cho nên cuộc đời tu hành lỡ dở.

3.4- ĐIỀU LÀNH MÀ THIẾU TRÍ TUỆ SẼ TRỞ THÀNH ĐIỀU ÁC

(43:30) Ở đây quý thầy phải hiểu: Những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình, cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai.

Chúng bao giờ cũng hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái và luôn luôn đầy đủ trí tuệ, và lúc nào cũng phải đúng với chân lý của đạo Phật.

Nghĩa là nói về pháp thiện thì chúng ta phải hiểu là nó luôn luôn phải hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái; nó phải có thêm là là trí tuệ, mà phải đúng với chân lý của đạo Phật.

Cho nên khi mà Thầy dạy Tứ Vô Lượng Tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, thì Thầy thấy hầu hết là có một số sai lạc rất lớn. Họ sai lạc rất lớn, cỏ họ không dám nhổ nữa, đi họ không dám đạp nữa! Đó là cái sai lạc rất lớn thứ nhất.

Cái sai lạc thứ hai là họ đem cơm đem thực phẩm họ, họ đem cho kiến cho này kia ăn. Họ sai lạc, nhiều cái sai lạc lắm, họ không có biết được một cái gì. Bởi vì trí tuệ con người sao mà nó mờ mịt, nó ngu đến cái mức độ Thầy không có tưởng được!

Cái môi trường của mình đâu phải là du tăng khất sĩ, thế mà họ làm như là họ du tăng khất sĩ! Họ tưởng tượng ra họ là thành như Phật rồi, cho nên từ đó họ không dám đạp cỏ, họ không dám nhổ cỏ. Mai mốt cái thất của họ nó như là cái đống rác!

Bởi vậy cho nên, khi chúng ta chưa phải là du tăng khất sĩ thì chúng ta từ từ tập, tâm chúng ta đâu phải một ngày nó Từ liền, hay nó Bi liền được? Mà nó cả một quá trình tu tập, cả một thời gian dài.

Chừng nào chúng ta biết chúng ta buông xả được không? Bây giờ trong thất chúng ta còn bao nhiêu đồ, chúng ta có dám quăng ném ra không? Thế mà chúng ta muốn làm ông Phật liền à? Đó là chúng ta muốn làm ông Phật ngay liền, thiệt là cái tâm tưởng tượng!

Đó thì, chúng ta phải hiểu được cái hiện tại chúng ta đang sống ở trong cái chiếc áo này phải làm cái gì, tu tập Từ, Bi, Hỷ, Xả như thế nào cho nó phù hợp, cho nó đúng.

Chớ bây giờ chúng ta ngay liền muốn không có đạp cỏ, không có giết cỏ, không có làm gì hết, mà còn lấy cơm thiên hạ cho kiến đồ ăn nữa thì thử nghĩ - quý thầy nghĩ, quý thầy như thế nào không?

Ông Phật nói ổng ăn dư ổng đem ổng bỏ ở đất trống. Sự thật ra, chắc chắn là ông Phật ổng nghĩ của đàn na thí chủ, mà mồ hôi nước mắt, chưa chắc đã ổng xin thừa để mà ổng đem bỏ đâu. Còn một chút ổng cũng ráng ăn hết chớ ổng chưa chắc bỏ đâu!

Còn chúng ta nghe nói vậy, ăn thấy nghe hơi no no bụng rồi mà cái đó bộ không ngon, thôi đem bỏ đi! Phí của đàn na thí chủ đó, chớ không phải là quý vị tưởng cái đó là quý vị bố thí cho chúng sanh đâu!

Bởi vì chúng sanh nó có cái nghiệp riêng của nó mà, nó phải chịu khổ, chịu sở là do cái nghiệp nó, chớ đâu phải là cần chúng ta bố thí? Cho nên khi mà chúng ta bố thí là làm cho chúng sanh mang thêm nghiệp nữa!

(46:05) Cho nên ông Ca Diếp nói mà : “Nếu mà bà cúng dường cho tôi thì bà được sanh vào cái sự đầy đủ hơn, mà tôi bố thí cho bà thì bà càng khổ sở hơn!” Cho nên chúng ta nhận của bố thí là chúng ta lại nghèo khổ hơn.

Mà người đời thì tưởng là bố thí được cái an lạc có một chút thôi, mà tiếp tục đó là cái sự nghèo khổ, tiếp tục khổ hơn nữa, vì mình thọ của người ta.

Cho nên do vì vậy mà không thấy được. Mình đem mình cho con kiến ăn, con kiến nó lại khổ hơn nữa, nó lại sanh những con vật khác nhỏ hơn nữa, đói khổ hơn nữa. Chớ đâu phải mình làm như vậy là nó no đâu! Nó no có một chút đó mà nó nợ của người ta biết bao nhiêu!

Quý thầy tưởng làm cái điều đó là quý thầy từ bi, nhưng mà không ngờ quý thầy đã giết nó thêm một cái kiếp khác nữa!

Đó, hôm nay Thầy nói như vậy để cho quý thầy biết rằng tu Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào đúng, như thế nào sai. Tưởng là giảng như vậy quý thầy đã hiểu được cái vai trò, cái hiện tại của cái thân phận của mình là như thế nào. Mình có phải thành Phật được chưa?

Bởi vậy, lời nói là một lẽ, mà hiểu đạo là một lý, không thể nào mà hiểu sai như vậy được! Nếu không có Thầy nhắc đi, nhắc lại thì chắc chắn là quý thầy đã lầm lạc trong cái sự hiểu biết này.

Thầy xin nhắc lại:

Ở đây quý thầy phải hiểu, những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình, cho người, trong hiện tại cũng như trong tương lai.

Chúng bao giờ cũng hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái và luôn luôn đầy đủ trí tuệ.

Quý thầy nhớ: “đầy đủ trí tuệ”, từ bi, bác ái phải đầy đủ trí tuệ!

Và lúc nào cũng phải đúng với chân lý của đạo Phật.

Nó phải áp dụng đúng với chân lý của Đạo Phật, tức là đúng cái thời gian và không gian, cái thời điểm của nó phải ứng dụng cái gì, cái gì.

Chứ quý vị ứng dụng cái cách đó là quý vị ứng dụng sai, không có đúng cách, cho nên làm sao mà đạt được cái đạo giải thoát này?

Nó khéo léo, nó thiện xảo mà áp dụng pháp nó, và cái đời sống của mình đúng cái lúc đó, đúng cái thời điểm đó thì nó mới có kết quả nó.

Nếu không đúng chân lý của Đạo Phật thì được xem đó là điều ác.

Đó! Thí dụ như quý thầy đem cơm, đem này kia bỏ cho kiến, không dám đạp trên cây cỏ, không dám quét, đi lúm túm, lúm túm làm như là cái người cúm vậy, thì như vậy là quý thầy đã là cái sai của quý thầy rồi. Cái tu đó là cái tu sai rồi, chớ đâu phải là cái tu đúng! Cho nên đó là thiếu trí tuệ. Nó không đúng được cái chân lý của Đạo Phật rồi, cái đó là cái sai.

Thì được xem đó là những hành động đó là những hành động ác, làm cho người ta thêm khổ nữa, làm cho người ta chuyển kiếp qua những cái nợ nần người ta nữa.

Vì đạo Phật gọi là đạo từ bi, thiếu từ bi là ác pháp.

Mà từ bi đúng cách nó mới đúng, mà từ bi không đúng cách là ác pháp. Đó quý thầy hiểu cái chỗ đó. Nếu mà quý thầy thực hiện từ bi mà từ bi không đúng cách là ác pháp. Quý thầy cứ đem cơm, đem gạo cho người khác, tức là quý thầy sẽ làm cho người ta đói khổ thêm chứ chưa hẳn đã hết. Bởi vì đó là cái nợ mà.

3.5- TẬP HUẤN CHO Ý THỨC BIẾT RÕ ĐIỀU LÀNH ĐIỀU DỮ

(49:06) Như chúng ta đã được biết: Có ba nơi hành động xuất phát thiện hay ác.

Tức là xuất phát pháp thiện. Như hồi nãy Thầy đã nói: Có ba nơi hành động trong thân của chúng ta mà nó xuất phát pháp thiện hay pháp ác ở đó, để chúng ta biết nó mà chúng ta trau dồi ngay những cái hành động đó chớ.

Còn nếu mà không biết thì chúng ta làm sao mà trau dồi nó được, hay tu tập ở trong cái hành động đó! Nó không phải thường.

Cho nên ở đây Thầy đã nói: Nó có ba nơi hành động, vậy thì ba nơi đó ở đâu? Ba nơi đó ở chỗ nào?

1. Ý hành;

Ý hành là cái ý mình suy nghĩ ở trong đầu của mình đó. Đó là cái ý hành.

2. Khẩu hành;

Hai là cái miệng mình hay nói đó, hay nói lép chép đó. Đó là cái khẩu hành đó.

3. Thân hành.

Thân hành của mình là đi đứng nắm, bắt, nằm, ngồi, đó. Đó là cái thân hành của mình đó.

Thì đó là có ba cái chỗ mà nó lưu xuất thiện pháp, ác pháp ở chỗ đó. Đó, như vậy thì chúng ta phải biết được ba cái chỗ mà nó xuất phát đó.

Nhưng chúng ta phải hiểu rằng: Ý hành là nơi trung tâm xuất phát điều lành, điều dữ.

Cái trung tâm - cái đó là cái trung tâm nó xuất phát, nó sai khiến cái miệng, nó sai khiến cái thân của chúng ta làm, nhưng mà cái ý hành đó là cái trung tâm xuất phát, nó điều khiển, nó chỉ huy đó.

Nói cho đúng, ý hành là bộ chỉ huy các pháp ác cũng như các pháp thiện.

Nghĩa là cái ý hành của chúng ta nó là bộ chỉ huy.

Khi còn vô minh thì nó chỉ huy làm các điều ác.

Đó, khi mà mình vô minh, mình mê mờ thì nó chỉ huy, nó chỉ huy thì mình cứ cho đó là tốt, là đẹp, là hỷ, là khả ái, khả hỷ, khả lạc, là thích, là thú, cho nên làm những cái điều ác mà không thấy, cho nên đó là cái vô minh.

Cho nên khi vô minh thì cái ý hành nó chỉ huy các thầy làm các điều ác mà các thầy không hay biết gì hết.

Khi nó đã minh…​

Tức là nó đã hiểu rõ rồi.

…​ thì nó chỉ huy làm các điều lành.

Cũng như bây giờ chúng ta hiểu Tứ Vô Lượng Tâm nè, chúng ta hiểu mười điều ác, mười điều lành nè, đó là chúng ta minh rồi đó.

Đó! Phải hiểu chữ “minh” và chữ “vô minh”. Minh là mình đã hiểu rõ cái nào ác, cái nào lành, cái nào đúng, cái nào sai, mình đã hiểu rõ nó gọi là minh.

Bây giờ đó cái ý hành của chúng ta bắt đầu nó điều khiển để làm các điều lành, mà vì mình đã minh rồi, cho nên mình làm các điều lành là đúng lành, nó không sai. Còn khi mà mình chưa có minh thì mình làm các điều ác mà mình cứ tưởng đó là lành.

Cũng như mình đi ăn trộm ăn cắp, mình có tiền có của về nuôi vợ nuôi con thì mình tưởng là lành, vợ con mình được êm ấm, không ngờ là người ta mất của người ta khổ. Thì đó là mình cứ ngỡ tưởng là mình lành, không ngờ là điều đó điều ác. Đó thì đó là gọi là vô minh.

Còn cái minh là mình không làm khổ mình, khổ người. Đó là pháp thiện.

Vì thế chúng ta bắt buộc bộ chỉ huy phải tập huấn mười điều dữ, mười điều lành.

Nghĩa là bắt buộc nó phải học tập đó. Tức là bắt cái ý thức của chúng ta phải học tập cho nó biết cái nào là lành, cái nào là dữ. Đó thì vậy đó, phải bắt buộc nó, phải tập huấn nó, cho nó học tập cho nó biết rõ.

Còn nếu mà không có bắt buộc cái ý hành của chúng ta mà nó học tập, thì nó chỉ huy tầm bậy, nó chỉ huy sai, nó đưa đến chúng ta nhiều điều đau khổ.

Và còn phải huấn luyện quân đội, trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm để áp dụng chiến đấu với mặt trận Lành và Dữ.

Đó, mình bây giờ mình phải trau dồi được cái tâm của mình nữa, mình ý thức của mình là đã minh rồi đó, đã hiểu rồi, nhưng mà phải huấn luyện bốn cái Tâm Vô Lượng của chúng ta.

Chớ nếu mà không huấn luyện, trau dồi bốn cái Tâm Vô Lượng này thì chúng ta lấy đâu mà chiến đấu với mặt trận Lành - Dữ này được?

Đó thì, chúng ta thấy cả một mặt trận mà để mà chúng ta mở màn cho một cuộc chiến trận đánh cái mặt trận Lành - Dữ ở trong cái cuộc đời của chúng ta, để chúng ta trở thành những con người chiến thắng.

3.6- TU TẬP TRAU DỒI BẰNG PHÁP TÙY VÀ PHÁP HƯỚNG

(53:04) Bây giờ chúng ta cũng cần phải biết nội dung của Tứ Chánh Cần.

Nghĩa là, hồi nãy tới giờ đó mình đã học biết nó như vậy rồi, nhưng mà mình cũng còn phải xem xét cái nội dung của Tứ Chánh Cần như thế nào?

Để giải rõ ra, nãy thì đại khái cho chúng ta biết là có bốn cái phần, nhưng mà chưa có giải rõ ra. Còn bây giờ thì chúng ta phải giải rõ ra cái nội dung của cái Tứ Chánh Cần cho nó rõ ra. Hồi nãy thì khái lược bốn cái nội dung đó.

1. Siêng năng, cần mẫn ngăn ngừa điều ác chưa phát sanh.

Đó là đại khái đó như vậy. Bây giờ mình giải thích ra cho nó rõ ra cái đại khái đó như thế nào.

Nơi ý hành lúc khởi ác, lúc không khởi ác…​

Nơi cái ý hành của chúng ta lúc thì nghĩ cái ác, lúc thì không nghĩ cái ác.

…​ ta biết làm sao ngăn cho được? Mà trong kinh dạy ngăn ngừa những điều ác?

Hầu hết các kinh sách giảng đến đây không thấy pháp hành, chỉ nói ngăn ngừa, ráng giữ gìn. Ngăn ngừa và ráng giữ gìn thì tâm không hình sắc lại không có dây dàm làm sao mà nắm, giữ nó được?

Cho nên lời nói ngăn ngừa và ráng giữ gìn là lời nói suông.

Muốn ngăn ngừa và giữ gìn không có ý hành ác pháp thì phải áp dụng tu tập trau dồi tâm bằng hai pháp:

Nghĩa là khi mà chúng ta muốn trau dồi về cái phần ngăn ngừa và giữ gìn này đó thì chúng ta phải - bởi vì ngăn ngừa và giữ gìn thì chúng ta phải trau dồi bằng hai cái pháp:

Một là Tùy Pháp, hai là Hướng Pháp.

Đó mình phải vạch ra cho nó rõ để mình biết cái cách pháp hành như thế nào thì mình mới hành. Chớ bây giờ nói Hướng Pháp không thì quý thầy cũng không biết, mà nói Tùy Pháp không thì quý thầy cũng không biết, mà Tùy Pháp không thì không đủ, mà Hướng Pháp không thì cũng không đủ.

Cho nên ở đây chúng ta phải câu hữu lại hai cái pháp này để mà chúng ta tu tập, để trau dồi, để mà đoạn dứt cái pháp ác mà tăng trưởng cái pháp lành.

Đó thì, Tùy Pháp là như thế nào, mà Hướng Pháp như thế nào?

Tùy Pháp là pháp tu tập như thế nào, mà Hướng Pháp tu tập như thế nào?

Để nói rõ ra để cho chúng ta biết được cái pháp tùy, pháp hướng thế nào.

Tùy Pháp là phải nương theo cái pháp mà Đức Phật đã chỉ dạy…​

Đó, thì bây giờ có cái pháp sẵn mình mới tùy theo, còn bây giờ chưa pháp thì làm sao tùy? Đó, các thầy phải hiểu chỗ đó.

Thì như vậy là chúng ta đã được Phật dạy những cái pháp nào thì chúng ta phải tùy theo cái pháp đó, tức là theo cái pháp đó, mà nương theo cái pháp đó mà chúng ta tu tập hằng ngày trau dồi mình theo cái pháp đó, thì đó là có cái pháp để chúng ta trau.

…​ để hằng ngày theo cái lý đó mà trau dồi các hành thân, khẩu, ý của mình để ngăn chặn các pháp ác không cho sanh.

(56:11) Ví dụ Phật dạy pháp Tứ Vô Lượng Tâm mà Thầy vừa dạy. Đã học và đã trau dồi tâm mình để cho tâm của quý vị phát sanh lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả, khi tâm này đã phát sanh thì tâm của quý vị không còn khởi ác pháp.

Nghĩa là, khi mà quý vị đã tu tập bốn cái Tứ Vô Lượng Tâm này thì các ác pháp không còn khởi sanh ở trong đó nữa.

Cái hành động hằng ngày mà quý vị trau dồi tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả là cái hành động ngăn ngừa, giữ gìn các pháp ác…​

Đó, cái hành động mà mình trau dồi cái tâm thương yêu của mình đó, cái tâm buông xả của mình đó, tâm vui theo đó, thì cái đó là cái hành động ngăn ác.

Bởi vì mình có thương yêu thì mình mới không có làm cho người ta đau khổ, cho nên đó là cái hành động ngăn ác, mình biết đó là ngăn ngừa.

Vì vậy cho nên ở đây nói ngăn ngừa mà nói danh từ suông thì chúng ta biết cái gì ngăn ngừa? Nếu mà chúng ta không trau dồi cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả thì làm sao chúng ta ngăn ngừa được!

Quý thầy thấy rõ không? Bởi vậy cho nên thấy rõ như vậy chúng ta mới biết đó là cái pháp ngăn ngừa.

…​ tức là quý vị dứt bỏ các pháp ác, hay nói một cách khác là đoạn dứt các pháp ác nơi tâm của quý vị.

Nghĩa là cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình có rồi thì tức là mình đoạn dứt các pháp ác. Đó là đoạn dứt nó đó.

Bởi vậy, Phật dạy các pháp ác cần phải dứt bỏ, đoạn trừ.

Ở đây lộ trình của người cư sĩ, của người tu sĩ cần phải trau dồi tâm mình trong pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm thì đó là pháp dứt ác, tăng trưởng pháp lành, chớ không phải Tứ Chánh Cần.

Nghĩa là bắt đầu chúng ta trau dồi cái tâm Tứ Vô Lượng Tâm của mình đó, đó là mình đã ngăn ngừa cái tâm ác của mình đó, tức là không có cho nó phát sanh ra, thì đó là Tứ Vô Lượng Tâm.

Còn Tứ Chánh Cần là chúng ta dùng nó để mà đoạn dứt. Nhưng trong Tứ Chánh Cần nó còn có cái pháp ngăn ngừa chứ không là phải chỉ riêng có Tứ Vô Lượng Tâm mới ngăn ngừa mà thôi.

3.7- TỨ VÔ LƯỢNG TÂM VÀ TỨ CHÁNH CẦN LÀ HAI CÁNH TAY TRÁI PHẢI

(58:34) Đến đây Thầy sẽ giảng thêm để cho quý thầy thấy rõ cái điều mà quý thầy cần phải rõ: Tứ Chánh Cần và Tứ Vô Lượng Tâm.

Chớ nếu mà không giảng chỗ này thì quý thầy tưởng Tứ Vô Lượng Tâm nó tu cái góc độ của Tứ Vô Lượng Tâm, nó không ăn nhập gì với Tứ Chánh Cần không. Không phải đâu!

Nó - Tứ Vô Lượng Tâm là cái pháp để ngăn ngừa các pháp ác, chúng ta phải hiểu như vậy mới đúng. Và Tứ Chánh Cần nó có những cái pháp ngăn ngừa riêng của nó nữa. Chớ không phải Tứ Chánh Cần nó không có pháp ngăn ngừa đâu, nó có cái pháp ngăn ngừa. Và nó có cái pháp đoạn dứt của nó nữa.

Đó, thì ở đây chúng ta thấy: Đức Phật nhắm xây dựng cho chúng ta đi trên con đường thiện, cho nên hoàn toàn chúng ta dứt ác để tâm chúng ta “tịnh, rồi do đó mà chúng ta “chỉ” mà chúng ta làm chủ được sanh tử luân hồi. Chớ không phải là chúng ta ức chế tâm.

Chúng ta phải hiểu được cái đường lối của đạo Phật. Ngồi đó mà chổng khu ức chế tâm đó là cái tu điên, tu sai, tu không đúng. Với ngồi nhiều mà không chịu đi kinh hành đó là tu điên, tu khùng.

Đến đây quý thầy thấy rõ Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Chánh Cần là như hai anh em song thai, là hai cánh tay: tay mặt và tay trái, nếu thiếu một tay thì không làm nên việc được.

Có pháp Tứ Vô Lượng Tâm mà không có Tứ Chánh Cần thì đương nhiên ta tu hành còn thiếu khuyết lớn.

Đó cho nên Thầy xếp hai cái pháp môn này nó đứng gần ở bên nhau để chúng ta thực hiện được cái pháp thiện. Còn nếu mà chúng ta xếp nó vào các pháp khác thì nó không thể đúng được.

Tứ Chánh Cần là bốn pháp bắt buộc chúng ta tu hành phải siêng năng cần mẫn; luôn luôn tu tập không được bỏ qua, cho nên gọi nó là Chánh Cần, tức là siêng năng trong Chánh Pháp thiện, diệt trừ tà pháp ác.

Nghĩa là luôn luôn lúc nào chúng ta - khi mà tu tới Chánh Cần nó còn siêng năng hơn là Tứ Vô Lượng Tâm nữa.

Nghĩa là nói Cần - tức là Chánh Tinh Tấn đó. Bởi vậy khi mà Phật nói Tấn Lực, thì tức là nói Tứ Chánh Cần đó là Tấn Lực. Cho nên nói về cái pháp mà siêng năng nhất ở trong các pháp của Phật thì phải nói Tứ Chánh Cần là cái pháp siêng năng nhất.

Mà siêng năng nó mới diệt được cái ác, nó mới dứt trừ được cái ác, nó mới tăng trưởng được cái thiện. Còn nếu không siêng năng thì nó không dứt trừ được ác, mà nó không tăng trưởng được thiện, và vì vậy cuộc đời chúng ta tu cũng chỉ hoài công thôi.

Cho nên cái pháp này gọi là pháp Chánh Tinh Tấn, ở trong cái nẻo Bát Chánh Đạo thì cái Chánh Tinh Tấn thì nó nằm ở trong cái Tứ Chánh Cần này.

Nếu mà người siêng năng mà hằng ngày trui luyện mình để dứt ác mà tăng trưởng thiện, thì cái người này gọi là Chánh Tinh Tấn.

Chớ không phải là Chánh Tinh Tấn mà ngồi nhiều, hay hoặc là ngồi thiền nhiều, nhiếp tâm nhiều là Chánh Tinh Tấn đâu, hay hoặc là ngồi nhập định nhiều là Chánh Tinh Tấn đâu.

Chánh Tinh Tấn là dứt ác mà tăng trưởng thiện, đó là Chánh Tinh Tấn.

Cho nên ở đây Thầy giảng từ cái pháp này nó có chuyền leo qua những cái pháp khác để chúng ta hiểu được Phật Pháp cái đúng cái sai của nó, chớ không khéo thì chúng ta chưa có biết ở chỗ nào.

Tứ Chánh Cần có pháp tu riêng không phải trau dồi tâm mình như Tứ Vô Lượng Tâm.

Đó, Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy rằng Tứ Chánh Cần thì nó cũng phải có pháp tu riêng của nó, chớ không phải là nó chỉ có ở trong cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm đâu, nó có cái sự riêng của nó.

Đến đây bây giờ nó cũng gần hết giờ rồi, chúng ta nghỉ.

3- GƯƠNG HẠNH TU TẬP THỜI ĐỨC PHẬT - PHẦN 1

(01:01:46) Thầy tiếp tục cái bài giảng buổi sáng để cho các con nghe lại cái băng, và đồng thời thì Thầy cũng nhắc cho mấy con trên cái bước đường tu tập.

Trước khi mà nhắc thì Thầy cũng muốn để cho các con nghe lại những cái gương hạnh của những bậc cao tăng, những bậc Thánh Tăng trong cái thời của Đức Phật, để lấy cái đó làm cái gương tu tập cho chính mình.

3.1- NGÀI BADUMAVATI QUÁN BẤT TỊNH

(01:02:19) Và cái bài Tứ Vô Lượng Tâm thì chúng ta cũng đã kết thúc. Cho nên để kết thúc cái bài Tứ Vô Lượng Tâm, ở bên nữ, Thầy nhắc lại cái gương của những vị Thánh Ni nữ như Ngài Trưởng lão - bà Badumavati.

Bà tu Định Vô Lu và quán bất tịnh. Bà có ghi lại một bài kệ. Sau khi tu cái Định Vô Lậu bà đã chứng đạt được Tam Minh, thành tựu được sự giải thoát. Qua cái bài kệ đó Thầy đọc cho các con nghe, bà nhắc lại cái công trình tu tập của mình:

Ta tu Định Vô Lậu

Từ đầu tóc trở xuống

Từ bàn chân trở lên

Hãy quán xét thân này

Thân này thật bất tịnh

Thật hôi hám thối tha

Ta an trú như vậy

Mọi tham dục nhổ sạch

Phiền não được đoạn trừ

Ta mát lạnh, tịch tịnh.

Đó là chỉ cho cái trạng thái giải thoát của chính bà. Nghĩa là bà tu cái Định Vô Lậu như thế nào? Bà bắt đầu từ ở trên tóc của bà đó, ở trên đầu của bà, bà quán sát, bà đặt cái niệm cái bất tịnh ở trên cái thân của bà, rồi bà quán sát từ ở trên đầu của bà.

Bà ngồi kiết già, bà thẳng lưng rồi bà nhìn, bà tưởng ra, bà nhìn cái đầu của bà, bà nhìn trở xuống, rồi dưới ở bàn chân, bà mới nhìn trở lên, bà quán sát lên xuống như vậy. Bà xem coi có cái gì là nó sạch, nó thơm tho, nó quý báu mà tại sao bà lại chấp cái thân bà dữ vậy?

Cho nên bây giờ đó thì bà mới quán sát cái thân của mình, thì bà thấy cái thân này rõ ràng là từ ở trên đầu tóc của mình, tóc của mình nó sạch chớ sự thật ra nó là bất tịnh, nó rất là dơ. Rồi cho đến dưới bàn chân của bà, từ cái da chân cho đến cái gì đi nữa nó rời ra thì nó cũng hôi thúi.

Mà bà quán sát như vậy, rồi bà quán sát từ dưới chân lên tới đỉnh đầu. Bà thấy cái thân này rõ ràng là bất tịnh, thật là hôi thúi, không có cái gì mà không hôi thúi, quăng nó ra một miếng thịt hay hoặc cái móng tay của mình ra rồi thì thấy nó quá là bẩn thỉu.

(01:04:33) Cho nên bà an trú ở trong cái thân mà bẩn thỉu như vậy đó, thì mọi cái lòng mà ham muốn của bà đó, bà nhổ sạch ra hết, bà không còn ham muốn nữa.

Cho nên, từ cái nhổ sạch cái lòng ham muốn đó, cái phiền não bà nó đoạn dứt, bà không có còn phiền não nữa, do đó đó, bà đã được cái sự giải thoát. Vì vậy chỉ có cần một cái Định Vô Lậu mà người ta được giải thoát.

Vậy thì, trong khi mà tu cái Định Vô Lậu đó, thì ở đây Thầy chưa có đến cái giai đoạn lộ trình thứ hai của cái người tu Định Vô Lậu như thế nào, nhưng Thầy cũng có dạy các con để tu tập cái Định Vô Lậu rồi, để quét sạch những cái tâm phiền não của mình đó.

Thường là mình ngồi mình quán rồi mình dùng pháp hướng mình nhắc để mình đoạn trừ nó, mình diệt trừ cái lậu hoặc.

Nhưng đến khi giảng thì Thầy sẽ dạy rõ hơn về cách thức tu tập như thế nào cho đúng cách, để nội cái Định Vô Lậu không thì quý thầy, các con cũng thấy được cái sự giải thoát, chớ không phải cần nhiếp tâm ở trong hơi thở.

Tại sao vậy? Tại vì hằng ngày chúng ta hay dùng cái pháp hướng, mà cái pháp hướng đó đó, cái pháp hướng tâm là như cái lý tác ý đó, là cái pháp dùng cái sức lực của tinh thần của chúng ta.

Thí dụ như các con nghe nói mình dùng cái câu nào đó, thí dụ như cái tâm mình hay tham, hay sân, hay là nó hay - nó thiếu lòng từ bi do đó mình đặt ra: “Cái tâm không có sân nữa! Từ đây phải chấm dứt!”

Mình chấm dứt, thì khi mình bảo nó: “Phải ngưng lại! Chấm dứt!” - ra lệnh như vậy, thì cái sức mình dồn cái hơi để mình tống nó ra như vậy đó là cái lực của tinh thần. Cái lực của tinh thần mình rất mạnh.

Và khi mà cái pháp hướng nó thành tựu rồi, mà cái tâm của quý vị đã nhổ sạch cái phiền não, cái lậu hoặc đó, thì cái tâm nó thanh tịnh rồi, thì lúc bấy giờ cái pháp hướng đó, dùng cái lực pháp hướng, thì mình có hướng tâm mình nhắc thế này: “Các hành trong thân ngưng!” Và “Cái hơi thở phải ngưng!” - thì lúc bấy giờ nó nghe theo cái lời truyền lệnh của chúng ta thì nó ngưng liền.

(01:06:26) Nó ngưng liền, thì lúc bấy giờ chúng ta có cần gì mà phải ngồi hít thở đâu! Tức là lúc bấy giờ chúng ta nhập Tứ Thiền. Mà nhập Tứ Thiền cái thân nó ngưng thì tức là nó định. Nó định thì nó định ở trên cái tâm thanh tịnh của nó, cho nên từng đó chúng ta hướng tâm đến Tam Minh rất dễ dàng và giải thoát.

Đó thì chúng ta chỉ tu có bây nhiêu đó mà chúng ta cũng vẫn thấy là sự giải thoát rồi. Chớ đâu cần phải ngồi hít thở.

Mà hít thở mà khi tâm quý thầy, của các con luôn luôn lúc nào cũng bị động, lúc thì phiền não, lúc thì giận hờn, lúc thì đau khổ, mọi chuyện nó đều làm cho các con cái tâm ray rứt nó đủ thứ hết. Mà như vậy thì bây giờ các con có bảo cái hơi thở ngưng hay hoặc là bảo như thế nào nó có ngưng không? Hay là nó tưởng ngưng chớ không phải là nó ngưng? Đó là những cái mà chúng ta đã lầm lạc, tu sai.

Vì Phật dạy “tịnh chỉ”. Tịnh là thanh tịnh, mà thanh tịnh thì tức là lậu hoặc nó phải hết, phiền não nó không còn, nó không còn giận hờn, phiền não, nó không còn khóc sướt mướt nữa, do đó nó không còn những cái lỗi lầm, cái lỗi ác, lỗi này kia, nó không còn ở trong các pháp ác, nó còn ở trong pháp thiện.

Mà bây giờ thì các con coi như hoàn toàn là ở trong pháp ác, hở một chút thì có phiền não, có đau khổ, thì là pháp ác rồi đâu có còn là pháp thiện được!

Đó, cho nên cái tâm nó còn dính dấp ở gia đình, tình thương này, tình thương kia, nó trăn trở đủ cái thứ mà nó không có lìa ra được, mà bây giờ bảo cái hơi thở ngưng thì làm sao nó ngưng? Các con thấy.

Phải chi người ta nói rằng mình bảo nó ngưng mà cái tâm mình nó còn ham muốn cái này kia mà bảo ngưng được thì cái đó nó dễ rồi. Nhưng mà Phật dạy cái tâm phải hết ham muốn, cái thân phải ly dục, ly bất thiện pháp, không còn ác pháp thì mới điều khiển, mới bảo nó được! Còn bây giờ cái tâm mình còn ê chề như vậy mà mình bảo làm sao bảo được!

Đó là những cái mình tu chưa có đúng cái đường lối của Phật, cho nên mình không có đạt được cái chỗ tu tập.

3.2- NGÀI CITTA QUÁN THÂN GIÀ YẾU

(01:08:04) Đây Thầy thuật lại một vị ni nữ trong cái thời của Đức Phật đã tu hành như thế nào, trong khi tuổi già, sức yếu mà vẫn đạt được cái Định Vô Lậu.

Bà Citta.

Gần bảy mươi tuổi bà mới được theo Phật tu hành. Thân già yếu, mệt mỏi bà cố gắng tu tập định vô lậu.

Đó bà đâu có làm sao bà nhiếp thở hơi thở được, bởi vì hít thở hơi thở như quý con bây giờ đó thì nó lại mệt, cho nên bà chỉ ngồi bà đặt cái niệm trước mặt bà quán vô lậu để bà phá sạch cái lậu hoặc.

Cho nên bà viết cái bài kệ như thế này:

Dầu ta có mệt mỏi,

Bệnh hoạn, quá yếu đuối,

Dựa trên gậy ta đi,

Ta leo lên đỉnh núi.

Với đại y vắt ngang,

Với bình bát lộn ngược,

Ta dựa mình tảng đá,

Phá tan khối si ám.

Đó, “phá tan khối si ám” là cái lậu hoặc đó, cái tham, sân, si, của mình đó, cái ngu si, cái phiền não, đau khổ đó, bà phá tan được cái đó thì cái tâm “tịnh”, bà thành tựu được đạo giải thoát. Cũng là một cái Định Vô Lậu.

Đó thì các con thấy, người ta tu có cái Định Vô Lậu mà người ta được giải thoát, mà người ta già tới bảy mươi tuổi rồi, chớ đâu phải còn nhỏ nhoi gì! Người ta đâu có cần dùng hơi thở đâu, nhưng mà người ta vẫn làm chủ được cái hơi thở.

Đây:

Dù ta có mệt mỏi,

Già tới bảy mươi tuổi mà bệnh hoạn nữa, làm sao không mệt mỏi!

Bệnh hoạn, quá yếu đuối ,

Bà quá yếu đuối.

Dựa trên gậy ta đi,

Nghĩa là bà xin Đức Phật vào xuất gia rồi thì các con biết, bây giờ các con già như cô Huệ Ân thì đâu có đi xin, phải không? Còn bà đó, bảy mươi tuổi rồi bà phải chống cây gậy, vì đâu có ai xin cơm cho mình đâu, bà phải tự xin ăn, mà đâu có ai nấu cơm sẵn cho mình ăn đâu, tới đúng giờ đó phải chống cây gậy đi ra ngoài chợ đó, để mà ra ngoài chỗ đó người ta mới cho, cho đủ rồi bưng về, bưng về thì phải trèo núi.

Cho nên bà phải leo lên trên đỉnh núi chớ không phải ở dưới đâu, già cả mà còn phải đi lên dốc núi như vậy đó, thì:

Với đại y vắt ngang,

Vắt ngang như thế nào? Như cái y Thầy đây là vắt xuôi đó các con. Vắt ngang là nó dài vầy cái rồi ấy cần cổ vầy, thòng xuống vầy, như vắt cái khăn vậy đó, gọi là vắt ngang, đặng trèo mới được chớ không mà vắt như vầy đi té làm sao? Kêu là vắt ngang đó. Vắt là như cái khăn mình vắt cổ vầy nè, kéo xuống hay thòng xuống vầy nè, đó gọi là vắt ngang:

Với bình bát lộn ngược,

Bình bát mang đây mà nó lộn ngược, bởi vì trèo núi nó phải lộn ngược, cái bình bát - cái miệng bát nó phải lận trở xuống chứ sao! Đó thì các con thấy cái cách vất vả không?

Nhưng mà khi đến chỗ rồi thì bà dựa mình vào tảng đá, bà ngồi đó bà đặt niệm đó, cho nên bà phá tan được cái khối si ám, thì lậu hoặc nó sạch rồi đó.

(01:10:40) Các con thấy những cái gương hạnh. Già yếu như vậy mà người ta nỗ lực người ta phá những cái si ám đó, người ta thấy đó là những cái lậu hoặc, cái khổ của đời người, cho nên người ta quét sạch.

Quét sạch - thì tức là khi mà quét sạch thì phải dùng cái gì các con biết không? Dùng pháp hướng, tức là ám thị đó! Mà pháp ám thị nó đâu có dùng cái gì đâu, mà mình chỉ nhắc thôi chớ có gì đâu!

Chẳng hạn như là bây giờ các con bảo nè: “Hơi thở ngưng!” - các con có nín không? Hay là bảo rồi các con nín? Cái kiểu đó là sai. Mình chỉ ra lệnh nó thôi, nó nín không nín thây kệ nó, mình cứ thở đi, mình thở bình thường giống mình thở, nhưng mà mình ra lệnh nó. Phải không các con?

Khi mà ra lệnh nó, mình ra lệnh riết nó có hiệu quả. Tới chừng hiệu quả rồi bảo cái nó ngưng. Nhưng mà nó hiệu quả đó là do cái tâm của mình thanh tịnh.

Bây giờ đó mình còn phiền não, còn giận hờn gì đó, mình cứ hướng mình nhắc: “Cái tâm phiền não này phải dứt, vì phiền não là khổ!”

Hoặc là mình quán cái thực phẩm ăn, mình thấy mình thích thú cái ăn, mình quán cái bất tịnh. Mình thấy cái thân này mình còn chấp cái ngã cho nên mình giận hờn, thì mình quán vô thường, khổ, không, vô ngã. Đó!

Đó là những cái định mà lậu hoặc để quét sạch những cái này. Mình thấy trong tâm trạng mình còn thấy nhớ thương hay hoặc là có những cái phiền não gì, thì mình biết cái mầm mống của lậu hoặc, cho nên từ đó mình phải quét sạch nó.

Chớ không có được để nó. Do mình để nó thì tức là nó huân tập những cái lậu hoặc khác nữa, nó nhiều ra nữa, thì làm sao mà cho hết được? Chẳng hạn là cứ một ngày mình thêm cái giận chút, ngày thêm giận chút, thì cái lậu hoặc càng ngày nó càng tăng lên.

Do đó vì vậy mình càng ngày phải xả xuống chớ! Mình xả xuống bằng cái pháp hướng của mình, rồi bằng cái trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm của mình.

Đó là hai cái gương hạnh rồi.

3.3- NGÀI METTIKA QUÁN THÂN GIÀ YẾU

(01:12:06) Bây giờ đến một cái gương hạnh nữa, cũng là một cái người phụ nữ, cũng già yếu rồi đi tu theo Phật.

Bà Mettika,

Cũng tuổi già yếu, bà bỏ cả gia đình sản nghiệp và con cái theo Phật tu hành.

Đó tới bảy, tám mươi tuổi rồi mà người ta ngộ được cái lý của đạo Phật rồi người ta thấy cái đời khổ quá: Từ nào có chồng, có con, có này kia, rất là khổ, cho nên vì vậy mà bây giờ tới già rồi bà cũng vẫn xin Phật theo tu được.

Vì khi mà có cái Tăng đoàn của nữ thì Đức Phật chấp nhận cho phụ nữ vào tu hết, già cả gì cũng cho tu hết. Cũng như Thầy bây giờ, già cả gì Thầy cũng cho tu hết. Nhưng mà các con thì không ráng tu, không có sống cho đúng những cái hạnh độc cư hoặc là sống cho đúng, xả hết cái tâm.

Còn hồi xưa sao các bà sao mà giỏi quá, họ đi tu cái họ bỏ hết, chồng con bỏ hết, tất cả những sản nghiệp bỏ hết.! Các con sẽ nghe những cái bài kệ của các bà, các con thấy các bà nói rất là chí lý lắm.

Đây, cái bài kệ của bà này:

Dầu ta có đau đớn,

Sức yếu tuổi trẻ qua.

Dựa trên gậy ta đi,

Ta leo lên đỉnh núi.

Với đại y vắt ngang,

Với bình bát lộn ngược.

Ta ngồi trên tảng đá,

Tâm ta được giải thoát.

Ba Minh chứng đạt được.

Thành tựu lời Phật dạy.

Đó thì các con thấy, người ta tu có cái Định Vô Lậu thôi. Bởi vì mấy người già này người ta không tu cái định hơi thở nổi đâu. Bởi vì hít thở nó khó lắm.

Còn tu cái Định Vô Lậu thì chỉ đặt cái niệm trước mặt, ngồi kiết già hẳn hòi, đàng hoàng rồi quán xét, từ đó phóng ra cái tri kiến, theo dõi quán xét cả thân tâm, phá vỡ những cái tâm ham muốn mình.

Mình thấy còn một chút gì mà mình còn thương, còn ghét, còn này kia, còn nhớ con, nhớ cái, nhớ nhà, nhớ cửa, thì ngay đó là đặt cái niệm ngay chỗ trước mặt là quán quét sạch, đập nó xuống hết, không có còn để cho cái niệm đó nó len lỏi trong đầu, tức là phá lậu hoặc đó.

Thí dụ như bây giờ các con đó, các con có gia đình nè, có con cái nè, có cháu chít nè, có nhà cửa nè, có tài sản của cải nè…​ bây giờ ngồi tu, thỉnh thoảng nó - cái niệm của mình nó nhảy ra những cái gì. Mà cái niệm nhảy ra tức là cái thương nhớ, cái ghét của mình nó còn đó, cho nên đặt cái niệm đó ra mà quán quét sạch.

Đó thì, những cái hôm nay Thầy dạy cho các con, nó thực tế để mà tu cho cái tâm nó thanh tịnh, cho nó phá đi những cái chướng ngại trong tâm, để giải thoát hoàn toàn.

3.4- NGÀI SANJHA SỐNG HẠNH ĐỘC CƯ

(01:14:25) Bà Sanjha thì bà nói lên cái bài kệ của bà trong khi bà cũng tu cái Định Vô Lậu mà đạt được cái sự giải thoát. Bà nói bài kệ:

Bỏ gia đình xuất gia,

Nghĩa bỏ hết cái gia đình, bà đi tu.

Ta từ bỏ con cái,

Từ bỏ gia súc quý,

Nghĩa là bà cũng nuôi gà, nuôi vịt, chắc bà cũng mến nó lắm đó, cho nên bà nói quý đó!

Từ bỏ tham, sân, si,

Còn đối với vô minh,

Ta sống hạnh viễn ly.

Nghĩa là ở chỗ này các con nhớ: “Còn đối với vô minh” - vô minh là những cái không có rõ, không có hiểu đó, cho nên bà phải sống cái hạnh viễn ly.

Sống viễn ly là sống gì các con biết không?

Vì vô minh, mình đứng đối trước tất cả các - mọi người, mình không có sáng suốt. Mà không sáng suốt người ta nói cái nó giận, nó hờn, phiền não liền hà. Cho nên bà phải sống viễn ly để mà đối trị với tâm vô minh mình được, tức là không có sống gần ai hết, là không có chuyện gì xảy ra thì đâu còn có sự vô minh phải không các con? Phải không?

Cho nên bà sống một mình bà, bà sống viễn ly, không có chơi chung ai hết. Cho nên bà viễn ly tất cả hết thì cái vô minh nó đâu có! Bởi vì nó không có đối tượng, cho nên nó không làm tâm bà chướng ngại.

Vậy bà nỗ lực bà sống độc cư, bà không nói chuyện ai hết. Cho nên bà cắt ly được cái duyên vô minh, cái vô minh lậu đó. Cho nên tâm bà không chướng ngại, từ đó lần lượt cái tâm nó thanh tịnh, bà quán vô lậu bà quét sạch cái ngã chấp, cái kiến chấp của bà ở trong tâm, cái thương, ghét của bà, bà quét sạch ra. Nhờ cái hạnh viễn ly đó mà bà đã quán được cái vô lậu mà bà thành tựu.

Còn các con thì cứ nay chuyện này, mai chuyện khác thì cái vô minh nó càng tràn trề! Mà hễ vô minh ra thì các con thấy gì? Phiền não, đau khổ đủ thứ hết, phải không? Các con thấy cái sự vô minh mình chưa?

Còn nếu mình không vô minh thì mình làm sao mình đau khổ, phiền não được? Vì có vô minh cho nên mình rất khổ. Cho nên mình sống độc cư, viễn ly đó là mình sống mình phá trừ cái vô minh.

Sau khi chinh phục được,

Đoạn tận gốc tham ái.

Cái tham ái là cái lòng ham muốn của mình đó, đoạn tận được.

Ta được sống thanh thản,

Tịch tịnh và an lặng.

Đó thì các con thấy, các bà sống sao tu hành coi dễ dàng quá! Chỉ nắm được cái mấu chốt nào đó là ngay đó là cái yếu điểm của mình, thì Ngài đã thực hiện được cái sự thành tựu của mình.

Như cái bà này thì bả đã nắm được cái mấu chốt là cái sự vô minh mình nhiều quá, đụng ai mình cũng có thể phiền não được, người ta nói nặng, nói nhẹ hay hoặc nói gì cái mình cũng đau khổ được.

Cho nên do vì vậy đó mà mình cố gắng mình phải sống cái đời sống viễn ly ra, viễn ly không có đối tượng nữa, cho nên mình sống hoàn toàn là…​ mình mới khắc phục được mình, nhất là mình chiến thắng được tâm mình.

Đó thì các con thấy, đó là những cái người phụ nữ mà trong thời Đức Phật họ là những bậc Thánh Ni ở trong thời đó đó. Họ tu tập như vậy đó, nó không có khó khăn gì hết.

Chớ phải như còn trẻ tuổi như mấy con thì không nói gì. Già bảy, tám mươi tuổi rồi, cũng như bằng cô Huệ Ân vậy rồi, mà người ta vẫn là giải thoát, người ta vẫn là bậc A La Hán hết.

Chỉ có một chút xíu thôi, dứt bỏ thế gian, tâm giải thoát liền, vô lậu thì thành đạo quả Bồ Đề. Còn dứt không được hết thế gian - thì hai cái lộ trình mà Thầy vạch ra, các con nghe băng thì các con sẽ thấy rằng, Thầy đã dạy rất rõ:

Cái lộ trình mà còn thế gian thì không bao giờ mà có thể trắng bạch như vỏ ốc được. Mà bước chân vào cái lộ trình mà xuất thế gian rồi thì nó trắng bạch như vỏ ốc.

Tức là cắt đứt toàn bộ cái sự dây mơ rễ má của thế gian không còn dính nữa. Từ đó, chúng ta quét sạch những cái lậu hoặc mà còn lại trong tâm, thì trong vài ba hôm thì nó quét sạch rồi đâu còn lâu nữa!

3.5- BÀ MẸ CỦA SUMANGALA TU TỨ BẤT HOẠI TỊNH

(01:18:00) Cái bà này thì người ta không biết tên, nhưng bà có một đứa con tên là Sumangala. Cho nên nói:

Mẹ của Sumangala.

Theo Phật Pháp tu Tứ Bất Hoại Tịnh.

Bà tu theo cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh tức là bà tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin Giới, cho nên bà niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới mà bà chứng quả A La Hán. Đó thì các con thấy, người ta tu có một pháp à! Hồi nãy là tu Định Vô Lậu, rồi bà này thì tu Tứ Bất Hoại Tịnh mà người ta thành tựu.

Đây, bà thành tựu đây nè:

Hỡi thiện giải thoát Ni!

Bà nói, bà gọi bà đó.

Lành thay khéo giải thoát

Khỏi cái chày giã gạo,

Tức là bà thoát được cái chày giã gạo của bà, chắc bộ bà giã gạo dữ lắm đó! Đó, cho nên bà nhắc lại đó, bà thoát được cái chày giã gạo.

Ta không còn xấu hổ,

Với ông chồng đan dù.

Bà có ông chồng chắc đan dù, cho nên bà xuất gia bà đi rồi thì bà thoát khỏi ông chồng đan dù của bà, cho nên bà không thấy xấu hổ rồi.

Với cái xoong chảo nấu ăn,

Bà còn lìa được cái xoong chảo nấu ăn của bà nữa!

Với nghèo đói tồi tàn

Chắc nhà bà chắc nghèo lắm, bà thoát ly được rồi!

Với nghèo đói tồi tàn

Chặt đứt được tham ái,

Tức là bà ly được tất cả những cái cuộc sống của gia đình đó. Bà thuật lại ở trên là cái cuộc sống gia đình của bà, bà ly ra được rồi, thì bây giờ bà mới chặt được cái tâm tham ái của bà.

Do cái bà sống đúng như Phật, bà sống đúng như Pháp, bà sống đúng như Tăng, bà sống đúng với giới luật, nó không phạm phải một cái lỗi lầm nào hết, cho nên bà đã đoạn dứt tâm tham, sân của bà.

Ta sống không tham, sân.

Ta đi đến gốc cây,

Ôi! An lạc ta thiền!

Sung sướng không? Các con thấy không? Người ta chỉ dứt đó, bây giờ người ta ngồi lại người ta nhập định tức là bà nhập Tứ Thiền liền đó! Cho nên:

Ôi! An lạc ta thiền!

Tức là bà nhập vô Tứ Thiền cái nó an lạc. Bởi vì cái thiền là cái lạc đệ nhất ở trong tất cả các lạc, đệ nhất hướng tối thắng cái lạc.

Bởi vì các con biết, nó có bốn cái lạc của thế gian, gọi là dục lạc, mà có bốn cái lạc của pháp xuất thế gian tức là Sơ Thiền là một cái lạc nè, Nhị Thiền cái lạc nè, Tam Thiền cái lạc nè, Tứ Thiền cái lạc tối thượng nhất của trong bốn cái lạc.

Cho nên các con thấy, khi mà các vị ngày xưa người ta đã hiểu được Phật Pháp rồi, người ta dứt bỏ được cuộc đời rồi, rồi bắt đầu người ta hiểu được, người ta tu cái Tứ Bất Hoại Tịnh - tức là bốn cái pháp bất hoại làm cho cái tâm người ta thanh tịnh - thì người ta chỉ sống như Phật, người ta chỉ tùy theo pháp của Phật mà người ta làm không sai, người ta sống giống như các bậc Thánh Tăng, người ta sống đúng giới luật, người ta không phạm phải một cái lỗi nào hết. Từ đó người ta quét sạch cái tâm tham, sân, si người ta.

(01:20:53) Do đó, người ta chỉ cần ra lệnh: “Hơi thở ngưng!” - bắt đầu người ta bảo “Các hành trong thân ngưng!” - bắt đầu nó ngưng hoàn toàn.

Cái thân đang sống như thế này bắt đầu hơi thở ngưng, đâu có cần phải mà tập luyện hơi thở như các con, phải thở chậm, thở nhẹ như thế này, thế khác, để rồi kéo dài từ ngày này, đến ngày khác mà nó không chịu ngưng. Người ta chỉ cần cái tâm thanh tịnh người ta ra lệnh thôi.

Bởi vì, nếu mà chúng ta sống giống như Phật, bây giờ ông Phật ổng phải đi xin ngày một bữa ổng ăn nè, thì mình niệm Phật - là cái thân niệm Phật thì cái thân mình phải niệm, phải ngày một bữa chớ đâu ăn phi thời được! Phải không?

Rồi cái thân của Phật là không có ngủ, thân của Phật thì sống thầm lặng, không có nói chuyện. Còn mình thì thích nói chuyện. Do đó, cái thân của mình không giống Phật chút nào hết. Do vì vậy làm sao mình niệm Phật? Niệm Phật là phải giống Phật, làm y như Phật, tâm Phật, thọ Phật, đều phải y giống nhau hết!

Rồi pháp của Phật phải tùy theo, đúng không có làm sai, pháp Phật tu không có sai.

Rồi Thánh Tăng sống như thế nào thì cái vị này người ta cũng nương theo đó mà người ta sống đúng, thân cũng y như các vị Thánh Tăng đó. Rồi tâm của cái vị đó cũng phải sống đúng như các vị Thánh Tăng đó.

Và cuối cùng thì giới luật không vi phạm. Cho nên vì vậy mà cái tâm hoàn toàn thanh tịnh, cho nên tới đó người ta đâu có ngồi thiền nhập định gì đâu!

Ôi! An lạc ta thiền.

Đó liền đó người ta thiền định liền, sung sướng không? Còn các con ngồi thiền thôi mỏi cổ, mỏi lưng gần chết, mà đau chân, nhức chân thôi lung tung hết, mà cuối cùng thì hơi thở không ngưng, các hành không ngưng, không làm chủ được sanh tử.

Còn người ta chỉ phá được cái tâm tham, sân, si, người ta ra lệnh - bây giờ muốn ngồi thiền, thì sung sướng biết bao nhiêu, người ta ngồi lại bắt đầu có chừng năm phút hay ba phút người ta ra lệnh: “Các hành ở trong thân ngưng! Hơi thở ngưng!” cái bắt đầu nó ngưng. Nó ngưng rồi cái thân nó cứng ngắc rồi, nó đâu có đau đớn gì. Người ta ngồi ba, bốn ngày đâu có đau!

Còn mấy con nói gì nói mà nó cứ đập hoài, ở trong ngực nó cứ đập hoài, cái hơi thở cứ phì phò, phì phò hoài. Lát cái đau phải rút chân đi kinh hành, hay hoặc là đau quá phải xoa chân, không thể ngồi lâu được!

Còn người ta nó ngưng rồi nó đâu có còn đau, cho nên người ta ngồi bao lâu cũng được.

Ôi! An lạc ta thiền!

Sướng không? Nghe câu cuối cùng thấy thiền người ta dễ không? Còn các con thiền gì mà coi vất vả quá vậy! Bởi vậy tu sai, tu không đúng, cho nên nó không được. Đó thì các con thấy chưa, thấy cái sai mình chưa?

Cho nên hầu hết, nhìn chung người mà tu thiền bây giờ không đúng vào con đường của đạo Phật, cho nên tu hoài mà tu sai. Tu sai cho nên không có đạt được.

3.6- NGÀI SUBHUTI TU TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

(01:23:11) Đây các con nghe một vị Thánh Tăng. Đây là Ni bên nữ đó, còn bây giờ bên nam đây, người ta tu Tứ Vô Lượng Tâm đây.

Hồi nãy tu Vô Lậu Định chứ gì? Rồi tu Tứ Bất Hoại Tịnh chứ gì? Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chứ gì?

Còn bây giờ Thầy nói, họ sắm cái xâu chuỗi sao mà dài như vầy, đeo vào cổ như vầy mà niệm Phật, mà sao Thầy thấy nó không giống Phật chút nào hết!

Ông Phật ăn ngày một bữa mà ông thầy niệm Phật sao ăn ba bữa thì làm sao mà niệm Phật? Niệm kiểu đó làm sao mà giải thoát được, phải không? Các con thấy cái đó là một cái sai, không đúng!

Đó, vì vậy bây giờ Thầy đọc lại cái câu chuyện của một vị Thánh Tăng trong cái thời Đức Phật. Đây, để Thầy đọc lại cái này cho các con nghe:

Để kết thúc cái bài Tứ Vô Lượng Tâm, Thầy thuật lại cho các con nghe một mẩu chuyện Thánh Tăng trong cái thời Đức Phật, tu tập thiền quán hướng niệm trau dồi Bốn Tâm Vô Lượng để trở thành một vị đệ tử Tỳ Kheo đệ nhất về hạnh Từ Bi Vô Lượng.

Nghĩa là, trong cái thời Đức Phật có cái vị này là cái người đệ nhất về hạnh Từ Bi Vô Lượng. Tại vì người tu Tứ Vô Lượng Tâm, cho nên nó là đệ nhất Từ Bi Vô Lượng.

Ngài Subhuti.

Ngài là em trai của ông Cấp Cô Độc.

Chắc nghe ông Cấp Cô Độc thì ai cũng biết, mà ngài là em trai của ông Cấp Cô Độc. Đó.

Trong ngày mà ông Cấp Cô Độc cúng dâng tịnh xá Kỳ Viên cho Đức Phật thì ông có chứng kiến và nghe pháp Phật đã thuyết giảng ở trong buổi đó. Sau đó, ông nghe thuyết giảng rồi ông mới đến xin Phật để xuất gia và thọ đại giới, và được Phật chấp nhận cho ông xuất gia và thọ đại giới.

Trong những ngày hôm sau, Ngài thâm hiểu được hai loại giới luật:

Ngài khi mà theo Phật thì Ngài chỉ có nghiên cứu về giới luật, và Ngài thâm hiểu được hai loại giới luật:

Nội giới và ngoại giới.

Ngoại giới thì các con thấy rằng, tất cả những giới luật của Phật mà ghi ra những cái lỗi này lỗi kia đó, những ai mà vi phạm vào những cái đó gọi là ngoại giới.

Còn nội giới là cái gì các con biết không? Là không có ham muốn. Có một cái giới nội giới thôi là không ham muốn, là tất cả những cái giới gì nó cũng là thanh tịnh hết!

Cho nên là Ngài đã thâm hiểu được hai cái loại giới: nội giới và ngoại giới. Nghĩa là, Ngài bắt đầu ngài nghiên cứu về cái giới ở bên ngoài, xong rồi Ngài thấy rõ ràng chỉ có một cái giới thứ nhất là cái giới không có ham muốn là nó sẽ thành tựu được giới hết.

Đó! Do vì vậy đó, Ngài không cần tu gì nữa hết, bắt đầu Ngài tu Tứ Vô Lượng Tâm.

Bởi vì, thực hiện được cái giới mà không ham muốn này là phải cái tâm thương yêu chúng sanh vô lượng kìa, nó mới là có thể hết ham muốn, chớ còn không thì nó ham muốn dữ lắm.

Ngài thâm hiểu được hai loại giới, được Đức Phật cho một đề tài thiền quán hướng tâm trau dồi thân tâm bằng pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm. Từ đó, Ngài trở thành một người đệ tử của Đức Phật có Từ Tâm đệ nhất.

Đó, tu cái Tứ Vô Lượng Tâm mà được cái - không có người đệ tử nào mà đệ nhất cái Từ Tâm, đệ nhất như ông ta hết!

(01:26:11) Đây, quý thầy nghe bài kệ của Ngài đây:

Từ Tâm ta trau dồi,

Đó, ông thường xuyên trau dồi cái tâm Từ của ông.

Phủ trùm khắp muôn phương.

Nghĩa là đối với chúng sanh, con vật, cây cỏ gì ông cũng thương xót hết, như Thầy đã dạy các con rồi đó.

Đó thì ông cũng tu tập như vậy chớ không gì khác hơn, cũng dùng pháp tùy - theo bốn cái Tứ Vô Lượng này, bốn Vô Lượng Tâm này rồi ông hướng, ông nhắc, ông trau dồi cái tâm của mình, để theo cái pháp đó mà cho nó thực hiện được cái lòng thương yêu của ông phủ trùm khắp muôn phương.

Bi Tâm ta trau dồi,

Thương khắp hết quần sinh.

Nghĩa là, tất cả những sự đau khổ gì của chúng sanh là cái lòng Bi của ông, ông thương hết, không có bỏ một con vật nào hết. Dù con vật dữ, con vật nhỏ gì, dù người thù, người oán, người ghét, người giận, người chửi mắng gì ông ta cũng thương hết, ông không có bỏ người nào hết.

Hỷ Tâm ta trau dồi,

Vui hòa cùng vạn pháp.

Tâm Hỷ của ông, ông trau dồi được thì tất cả các pháp đều là ông vui hết. Pháp người ta chửi ông cũng vui, pháp người ta mắng ông cũng vui, pháp người ta làm ông đau khổ ông cũng vui, pháp người ta chặt đầu ông cũng vui, cái gì làm ông sao cũng vui hết, ông không có buồn chút nào hết.

Cho nên đối với vạn pháp thì ông có sự hòa vui cùng vạn pháp.

Xả tâm ta trau dồi,

Vạn vật đều chung vui.

Nghĩa là cái tâm xả ông xả hết, không còn cái vật gì dính trong ông không. Cho nên vạn vật, cây cỏ…​ từ cây cỏ, thú vật gì tất cả đều là có sự vui chung với ông hết chớ không có cái gì mà riêng hết, ông vui là tất cả mọi vật vui, ông buồn là tất cả mọi vật buồn. Nhưng mà ông vui luôn chớ ông không có bao giờ ông buồn.

Tâm ta khéo định tĩnh,

Tinh cần sống giải thoát.

Đó, ông chỉ có tu bây nhiêu đó thôi. Các con thấy, chỉ tu Tứ Vô Lượng Tâm thôi - bốn cái Tâm Vô Lượng này mà ông chứng quả A La Hán, ông thành tựu.

Sau khi tu như vậy là các con biết, rèn luyện bằng cái pháp hướng, luôn liên tục rèn luyện trau dồi mình bằng pháp hướng chớ không có pháp hướng làm sao - mà pháp hướng đó là cái pháp ra lệnh điều khiển bằng cái sức tinh thần.

Cho nên đến khi đó ông chỉ cái tâm mà ông giải thoát hoàn toàn, mà phủ trùm bốn cái Tâm Vô Lượng này, thương yêu chúng sanh vậy, nó đâu còn cái ham muốn, đâu còn cái nội giới nữa, cái dục đâu còn, cái lòng ham muốn đâu còn.

Cho nên từng đó ông ra lệnh: “Cái hơi thở ngưng đi! Các hành ngưng đi!” - nó ngưng liền, ông nhập Tứ Thiền! Từng đó ông hướng tâm đến Tam Minh, Lậu Tận Minh đến, ông thấy rõ ràng rồi: “Tui giải thoát rồi, đời nay tui đâu có trở lại nữa, chỉ một kiếp này mà thôi!”

Đó, các con thấy, trên bước đường người ta tu hành là như vậy chớ, chớ đâu phải mình! Mình tu sao lâu quá! Tại vì mình tu trật, cứ lo thiền định mà không lo cái tâm. Cái tâm còn ô nhiễm, cái tâm còn tham muốn, cái tâm còn dục lạc, cái tâm chưa buông rời, cái tâm chưa xả ly, phải không các con? Nếu mà xả ly được thì các con sẽ thành tựu được đạo giải thoát.

Thôi, đến đây thì Thầy xin dừng lại để các con nghe cái bài giảng hồi sáng của Thầy qua cái băng.

4- PHẢI TỈNH THỨC MỚI GIỮ TRỌN ĐƯỢC HẠNH ĐỘC CƯ

(01:29:01) Trước khi mà nghe Thầy giảng tiếp tục cái giáo án, thì cái phần mà Thầy nhắc nhở quý thầy hôm nay để mà chúng ta áp dụng cho đúng cái giới luật.

Nhiều khi chúng ta mới đầu, chúng ta nghe giới luật thì chúng ta thích lắm, nhưng mà chúng ta áp dụng có một vài ba ngày thôi, hay hoặc là trong một tuần, hay một tháng.

Rồi lần lượt cái tâm phàm phu chúng ta nó sống theo cái thói quen, nó vui, thì do đó thì tuần tự nó tìm mọi cách, nó có cái cơ hội, bởi vì trong sống chung nhau thì nó có cái cơ hội để mà chúng ta có thể phạm phải những cái lỗi lầm ở trong cái giới luật. Tuy rằng những cái phạm phải đó nó nhỏ nhặt, nhưng nó sẽ dẫn đi đến những cái lỗi lầm lớn.

Cho nên ở đây qua cái hạnh độc cư mà xét qua quý thầy, thì từ cái duyên nó nhỏ nhỏ như mình dọn cơm, như vậy thì tức là nó sẽ có cái duyên để mà tập hợp, rồi từ cái duyên đó chúng ta sanh ra nói chuyện.

Mà từ nói chuyện nhỏ ít, mới đầu thì một hai tiếng nói thôi, nhưng mà sau đó thì nó lại quen đi, rồi bắt đầu nó tiếp tục nó làm cho cái nơi mà chúng ta tu hành nó bất an, nó động.

Cho nên Đức Phật ngày xưa Ngài thích trầm lặng, Ngài sống ở trong trầm lặng, Ngài đi kinh hành ở trong trầm lặng, Ngài ca ngợi sự trầm lặng.

Còn chúng ta thì không như vậy. Cái thói quen của chúng ta ngoài đời là thích vui, cho nên khi mà hở ra một chút mà quên đi, tức là thiếu cái sức tỉnh thức. Do cái tu Chánh Niệm Tỉnh Thức nó không có, cho nên cái sức tỉnh nó không có. Do đó cái tâm của chúng ta nó dễ buông lung, nó theo cái thói quen.

Rồi từng đó chúng ta có cái duyên nhỏ nhỏ rồi chúng ta bắt đầu nó sanh ra tới từ cái duyên lớn, rồi tới cái hạnh độc cư chúng ta nó bị tan nát, nó hư hoại, từ đó chúng ta không sống trầm lặng được nữa.

Vì vậy mà chúng ta thường cảnh giác như Thầy đã nhắc, như thầy Minh Tông ở đây đó, thầy thấy ai mà rề rề gần tới thầy, thầy lo thầy đi tránh chỗ khác, thầy biết cái duyên đó nó sẽ tạo ra cái phạm lỗi.

Cho nên Phật dạy chúng ta phải sợ hãi trước những cái lỗi nhỏ mà nó không đến cái lỗi lớn. Còn chúng ta không sợ hãi nó thì từ đó nó - cái lỗi nhỏ chúng ta xem thường, cái lỗi lớn chúng ta sẽ đi đến những cái phạm phải những cái giới luật khó hơn. Và đồng thời con đường tu của chúng ta sẽ mất đi những cái Phạm hạnh, nó không đúng là cái người tu sĩ.

(01:31:20) Vậy cho nên Thầy nhắc nhở: Cái duyên như buổi trưa mà đi ăn cơm thì quý thầy, ai có nhiệm vụ mà dọn cơm thì hai ba thầy, hay năm ba thầy, thì đến dọn cơm xong thì chúng ta - nói chung là nếu mà dọn cơm sớm quá thì chúng ta để nó dưới đất, hoặc là mùa này thì mưa thì đất nó không có bụi, nhưng mà lỡ cái mùa nắng thì bụi, gió thoáng qua thì nó sẽ làm cái thực phẩm của chúng ta nó bị dơ bẩn đi, đó là cái mình phải thấy.

Khi mình dọn xong rồi thì khoảng độ chừng năm phút là mình đánh kiểng, thì cái thời gian nó ngắn. Vả lại dọn quá lâu thì chó hay hoặc là mèo hay hoặc là con vật, rủi nó chạy ngang, nó cũng làm dơ bẩn thực phẩm của chúng ta. Đó là những cái mà chúng ta phải cảnh giác, mà chúng ta phải thấy.

Và đồng thời khi mà dọn lâu thì mình phải ngồi chờ, ngồi chờ thì trong khi ngồi chờ mà cô đơn thì không thể chịu được, rồi thành ra nó có sanh ra cái chuyện mà nói chuyện với nhau. Đó là mình phải đề phòng và ngừa.

Còn quý thầy không có nhiệm vụ thì mình cứ ở thất mình tu, khi nghe kiểng đổ thì mình lần lượt mình đến, thì nó cũng không sao. Khi đến mà trước Thầy thì đứng chào Thầy, mà đến sau mà chưa có chào Thầy đồng một lượt đó, thì khi Thầy vào đứng thì mình cũng xá Thầy, có gì đâu mà phải vội vàng!

Cho nên chúng ta phải thấy được cái điều nó nghiêm chỉnh một chút để chúng ta tránh những cái lỗi nhỏ. Mà Thầy đã nói rằng bí quyết thành công của thiền định tức là sống độc cư. Muốn đạt được cái tâm vô lậu, muốn đạt được cái sức thiền định làm chủ sự sống chết này, mà nếu không sống thầm lặng, không sống độc cư thì khó mà đi đến cái chỗ thành tựu được.

Vì vậy mà quý thầy cần phải nhớ kỹ những lời Thầy dạy, là vì còn Thầy, Thầy nhắc nhở, không còn Thầy thì từ cái thói quen của chúng ta lần lượt nó sẽ quen đi, rồi nó buông lung theo, nó làm cho chúng ta phạm phải những cái giới nhỏ, nhưng rồi từ đó những cái giới lớn chúng ta cũng không có giữ gìn được.

Cho nên ở đây trước khi mà giảng tiếp cái bài này thì Thầy cũng nhắc nhở quý thầy cố gắng thực hành để mà tập trong có mấy tháng chớ không lâu. Còn sống bên Thầy thì cố gắng giữ gìn độc cư cho trọn vẹn.

Bởi vì cái kỷ luật của Tu viện, cái giới mà độc cư nó là cái giới nòng cốt của Tu viện. Ăn, ngủ và độc cư là cái giới nòng cốt. Cho nên cố gắng mà giữ gìn để cho tâm lấy cái kinh nghiệm đó mà về sau này chúng ta nỗ lực thực hiện cho được tốt.

Vì vậy mà quý thầy phải ráng cố gắng hơn để thực hiện những lời Thầy dạy khi còn Thầy hiện tiền trước mặt. Còn sau khi Thầy đã ẩn bóng rồi thì chắc chắn không có ai, lấy ai mà nhắc nhở.

(01:34:10) Chỉ khi các thầy đã có sự quyết tâm sống độc cư đúng cách, tu hành gặp những khó khăn, tâm tha thiết van khẩn cầu Thầy để hộ trì thì lúc bấy giờ Thầy cảm thông được điều đó. Chớ còn quý thầy phạm giới mà kêu Thầy hộ trì thì chắc chắn là Thầy không hộ trì được

Bởi vì giới thanh tịnh làm cho thân tâm quý thầy thanh tịnh, nó mới có cảm ứng được Thầy. Còn nếu mà giới thân huệ mạng của quý thầy mà không được thanh tịnh thì không làm sao cảm ứng với chư Phật được, không làm sao cảm ứng với Thầy được, làm sao mà Thầy đến Thầy đến hộ trì các thầy được?

Bị vì nó còn có uế trược, nó còn ham vui theo dục lạc của thế gian thì làm sao mà Thầy cảm thông được? Thầy cảm thông với những người tâm thanh tịnh ở trong giới luật không phạm phải, thì nó mới cảm thông được, và sự cảm thông đó mới giúp đỡ quý thầy được trên bước đường tu tập còn nhiều gian nan và khó khăn.

Cho nên quý thầy càng giữ giới hạnh thanh tịnh bao nhiêu, thì quý thầy ở xa Thầy bao nhiêu thì Thầy lại gần quý thầy bấy nhiêu. Vì giới hạnh thanh tịnh là cái bậc thầy của quý thầy, và Thầy cũng ở trong cái thanh tịnh đó cho nên dễ cảm thông.

Còn nếu quý thầy mà phạm phải những giới nhỏ nhặt, mà phạm phải tức là tâm chúng ta đi theo con đường của dục giới, của cái tâm ham muốn rồi, của cái vui theo cái dục lạc của thế gian rồi.

Vì vậy mà tâm không thanh tịnh, thì làm sao những bậc, những chư Phật, chư Bồ Tát, bậc A La Hán và các bậc tâm thanh tịnh, giới hạnh nghiêm túc, làm sao họ cảm thông với quý thầy được?

Cho nên ở đây ngay từ lúc bây giờ quý thầy phải giữ gìn thanh tịnh trong hạnh độc cư. Để làm gì? Để cho cái lỗi nhỏ, lỗi lớn chúng ta không còn tiếp duyên ra ngoài. Vì tiếp duyên ra ngoài tức là sẽ còn có những lỗi nhỏ, lỗi lớn, mà khó có thể giúp cho quý thầy đạt được con đường tu tập theo đạo Phật.

Đó là những lời Thầy nhắc nhở. Quý thầy cảnh giác từng phút, từng giây trong những phút còn Thầy nhắc nhở. Nếu không có Thầy nhắc nhở thì chắc chắn là ai nhắc nhở cho mình nữa?

Mọi người người ta đang ở trong cái sống vui theo dục lạc thế gian, thì người ta thích nói chuyện, người ta thích bàn bạc cái này, người ta thích làm cái kia. Còn mình, ở đây tu hành thanh tịnh thì không thích làm việc gì hết, chỉ biết tu mà thôi, chỉ thích tu mà thôi. Suốt ngày tập tỉnh thức, để cho cái sức tỉnh thức để mà chúng ta thấy được những cái lỗi nhỏ mà chúng ta sợ hãi.

Do cái chỗ này mà Thầy xét qua cái sự tu tập của quý thầy là cái Chánh Niệm Tỉnh Thức của quý thầy quá kém.

Quý thầy cứ nghĩ rằng mình đi một vòng, hai vòng xung quanh của cái Tu viện mình trên cái lộ hành thiền mà không thấy có niệm vọng tưởng nào, luôn luôn liên tục biết bước chân mình đi kinh hành, hoặc là hành động làm hằng ngày quý thầy tưởng nó là tỉnh thức rồi. Chưa đâu!

Khi nào mà tỉnh thức đến mức độ quý thầy không nhắc nó mà quý thầy ngồi với một cái tâm thanh thản, nó không có một niệm gì ở trong đó hết, mà suốt từ ngày này, qua ngày khác, thì đó là sức tỉnh thức của quý thầy. Lúc bây giờ quý thầy mới ở trong Sơ Thiền.

(01:37:12) Còn nếu mà quý thầy chưa có được như vậy thì quý thầy phải dùng độc cư để mà cắt ly, để tạo cho mình có những cái sức tỉnh thức trong cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.

Chớ quý thầy nói chuyện, quý thầy lại làm mất cái sức tỉnh thức của mình rồi. Quý thầy đã tập trung nhau mà nói chuyện thì quá là tai hại cho quý thầy.

Tại sao vậy? Tại vì quý thầy nghĩ rằng, ở Tu viện chúng ta phải tạo cho quý thầy có những cái nơi để mà sinh hoạt riêng, như phòng vệ sinh hoặc là tắm rửa, hoặc là rửa bát, rửa chén riêng.

Tại sao vậy? Tại vì muốn cho quý thầy sống độc cư, sống trọn vẹn trong sự tu tập của quý thầy để quý thầy cắt ly những cái thói quen của mình còn đang mang nặng ở trong tâm tư của mình.

Do vì vậy mà quý thầy phải cảnh giác rất nhiều, khi ăn cơm xong thì ai mang bát hay hoặc là mâm của mình về thất của mình rửa. Tự tại, thung dung, cô độc một cuộc đời tu hành, chỉ sống biết một mình mình mà thôi. Thầm lặng trong cuộc sống một mình, an vui trong cuộc sống một mình.

Chừng nào cái tâm của quý vị mà quay được vào trong mà sống thầm lặng, thì lúc bấy giờ quý vị mới hưởng được cái Chánh Niệm Tỉnh Thức, sức tỉnh thức của quý vị rất cao rồi.

Còn bây giờ quý vị còn thấy vui ra ngoài, còn thấy thích nói chuyện này, còn thấy suy luận cái điều kia, để mà thưa hỏi Thầy điều này, thế kia, thì chắc chắn là quý thầy chưa tỉnh thức đâu.

Người tỉnh thức người ta gặp cái khó khăn người ta mới thưa hỏi, chớ không bao giờ người ta đem cái chuyện tào lao mà người ta thưa hỏi! Còn hầu như quý thầy có nhiều chuyện quý thầy thưa hỏi những chuyện tào lao.

Còn ngoài ra thì như Chánh Đức là vì cái trách nhiệm của nó là phải thu những cái lời của Thầy, cho nên nó phải trực tiếp đến hỏi cái này kia, và đó là cái vấn đề cái công vụ, cái việc làm. Vả lại thì nó cũng chưa có đủ cái duyên, vì gia duyên còn rất nhiều, cho nên nó chỉ làm công việc Phật sự để giúp cho cái giáo án thành tựu mà thôi.

Còn quý thầy đừng thấy nó như vậy rồi quý thầy mượn cớ đó. Quý thầy đến đây là quý thầy chuyên tu, không có nhiệm vụ gì hết. Còn nó có nhiệm vụ khác, nó phải làm cho trọn.

Thí dụ quý thầy nhờ nó sang băng, thì nó giúp cho quý thầy có những cái lời dạy của Thầy, cho nên nó phải bận rộn, nó không thể tu như quý thầy được.

Đó là Thầy phải phân hết, để không quý thầy nói sao Chánh Đức hay nói chuyện hay hoặc này kia, là vì nó phải - thí dụ như quý thầy đến cần nó - thì nó phải nói chuyện với quý thầy. Nhưng mà quý thầy biết giữ mình, đến cần nhờ nó rồi mình về, không nói bậy bạ gì hết, thì tức là mình biết tu.

Đó là mình phải cảnh giác từng chút, từng chút như vậy để cho cái tâm mình nó cắt ly được những cái tạp khí, cái thói quen của mình từng đã sống ở trong cuộc đời nhiều năm chớ không phải trong một hai năm đâu, nó đã nhiều năm mà còn nhiều kiếp nữa.

Đến đây Thầy nhắc nhở với quý thầy như vậy và chúng ta không có thì giờ nhiều, để chúng ta tiếp tục cái bài giảng để cho nó thu ngắn cái thời gian. Thầy sẽ cố gắng tranh thủ sao cho còn một tháng mấy nữa cho hết cái giáo án này, còn dài lắm./.

HẾT BĂNG

15 - PHÁP HÀNH TỨ CHÁNH CẦN

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 15 - PHÁP HÀNH TỨ CHÁNH CẦN

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- MỤC ĐÍCH CỦA ĐẠO PHẬT LÀ TÂM GIẢI THOÁT BẤT ĐỘNG

(00:00) Để tiếp tục cái buổi học, buổi giảng hôm nay, Thầy xin nhắc lại mục đích tu hành của đạo Phật từ lâu Thầy đã giảng dạy.

Này quý thầy!

Mục đích tu hành của đạo Phật không phải là làm Phật, làm Tổ, Bồ Tát, A La Hán, không phải làm Viện trưởng, Viện chủ, Tăng thống, Phó tăng thống, hoặc bất cứ một hàng giáo phẩm nào.

Cũng không phải vì lợi ích cho ai, cũng không phải vì lợi dưỡng, cũng không phải vì lợi ích thành tựu giới đức, mà cũng không phải lợi ích thành tựu thiền định, mà cũng không phải thành tựu tri kiến, tri kiến giải thoát, mà cũng không phải thành tựu lợi ích Tam Minh, mà cũng không phải vì sanh tử, luân hồi thoát kiếp đau khổ này!

Này quý thầy!

Mà vì chính tâm giải thoát bất động trước các pháp chính là mục đích Phạm hạnh của đạo Phật, là mục đích cuối cùng của Phạm hạnh.

Đó thì hôm nay xác định cho tất cả những điều mà chúng ta đã tu tập đó, để chúng ta đạt được cái mục đích bất động, tâm bất động giải thoát của chúng ta trước các pháp, trước thọ, đó là Phạm hạnh của đạo Phật.

Chớ không phải Phạm hạnh là cái đạo Phật giữ gìn nội cái giới luật, đạt được cái giới luật, đắc được cái giới luật là Phạm hạnh, không phải!

Cái phạm hạnh của đạo Phật tức là cái mục đích của nó để đạt được, đó là cái tâm bất động, tâm giải thoát bất động trước các pháp, trước các thọ của quý vị, đó là mục tiêu cuối cùng của Phạm hạnh.

Đó quý vị nhớ những cái điều này để chúng ta xác định được cái mục đích của chúng ta đến.

Nhiều thầy cứ nghĩ rằng mình phải tu thiền định, nhập Bốn Thiền, thực hiện Tam Minh để rồi cái đó là cái mãn nguyện của mình. Không phải đâu. Cái mà chúng ta đạt được, cái đó là cái mục tiêu cuối cùng là chúng ta phải thấy được cái tâm bất động của chúng ta.

Đó, thì hiểu được như vậy thì chúng ta biết rằng cái con đường mà từ Tứ Thiền để mà làm chủ cái sống chết cho đến chấm dứt cái sự luân hồi đau khổ này, thì nó chỉ là cái khoảng đường mà chúng ta đi để thực hiện cái tâm giải thoát bất động. Chớ không phải nó là cái mục đích chúng ta để đạt nó.

Do đó chúng ta không phải lấy thiền định mà làm cái mục đích, mà cũng không phải lấy tri kiến giải thoát mà làm mục đích, mà chỉ lấy cái sự - cái tâm giải thoát bất động của chúng ta.

Mà chỉ lấy cái tâm giải thoát bất động của chúng ta, đó là cái mục đích chính của Phạm hạnh của đạo Phật, là mục tiêu cuối cùng của đạo Phật.

Chớ không phải chúng ta nghĩ rằng chúng ta tu rồi chúng ta có một cảnh giới nào đó, hoặc là có một cái Phật Tánh, hoặc là có cái gì đó để mà chúng ta thường - lạc - ngã - tịnh ở trong đó mãi mãi, không có, cái mục đích đó không có. Mục đích có tức là còn có bị kiến chấp, còn bị cái thân kiến, đó là cái sai.

2- TỨ CHÁNH CẦN TU TẬP BẰNG PHÁP HƯỚNG VÀ PHÁP TÙY

(02:57) Cái bài học vừa rồi thì chúng ta - Thầy nhắc lại đó, thì:

…​ trong Chánh Pháp thiện, diệt trừ tà pháp ác.

Tứ Chánh Cần có pháp tu riêng…​

Cái này chắc có lẽ là đã học rồi, nhưng mà Thầy nhắc lại.

Tứ Chánh Cần có pháp tu riêng không phải trau dồi tâm mình như Tứ Vô Lượng Tâm.

Nghĩa là cái pháp Tứ Chánh Cần nó có cái sự tu riêng của nó. Cách thức nó trau dồi cái tâm nó - trau dồi các thiện pháp riêng, mà trau dứt đoạn các cái pháp ác riêng, chớ nó không phải như Tứ Vô Lượng Tâm.

Tứ Chánh Cần lấy mười điều ác và mười điều thiện mà tu tập theo tùy pháp Thập Thiện và tùy pháp Thập Ác, rồi dùng pháp hướng như truyền lệnh để cho tâm mình không sanh ác pháp và dứt bỏ ác pháp, sanh khởi pháp lành, tăng trưởng pháp lành.

Người tu sĩ phải nhận rõ theo pháp mà trạch ra thành câu hướng tâm Như Lý Tác Ý để đoạn dứt tâm sanh khởi ác pháp.

Đó thì, quý thầy nhớ trong cái vấn đề mà tu tập về các pháp này, thì chúng ta phải theo cái pháp tùy và cái pháp hướng mà áp dụng vào cái Tứ Chánh Cần này, thì chúng ta có cái pháp đoạn dứt và có cái pháp trau dồi để cho các thiện pháp sanh khởi.

Trước khi đến phần thực hành thì bây giờ Thầy sẽ đọc bài kệ của Phật để nhớ mà tu tập.

Đây là bài kệ, quý thầy nhớ kỹ bài kệ này:

Mười pháp cần dứt bỏ,

Mười pháp cần tăng trưởng.

Siêng tu tập như thế

Sống an vui hạnh phúc,

Được gọi bậc hiền nhân.

Nghĩa là chúng ta mà biết dứt bỏ mười cái pháp ác và tăng trưởng mười pháp lành bằng theo cách pháp hướng và pháp tùy mà tu tập thì chúng ta sẽ được gọi là bậc hiền nhân.

Như vậy chỉ cần tu Tứ Chánh Cần là chúng ta đã được sự giải thoát, đã được là cái bậc hiền chứ không còn xa lạ nữa. Không cần tu nhiều mà chỉ cần bây nhiêu đó cũng là thấy đã được hạnh phúc, an vui của đời sống này rồi.

3- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT SÁT SINH

(05:43) Vậy thì qua pháp hành như thế nào? Bây giờ quý vị phải trạch pháp câu này.

Câu thứ nhất:

Đây cái câu mà trạch pháp ra đây. Tức là chúng ta chọn cái câu đó ra để chúng ta dùng làm cái pháp hướng đó.

“Giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh là pháp ác, phải dứt trừ, phải đoạn trừ tận gốc cái tâm khả hỷ, khả ái này!”

Tức là cái tâm thích thú mà giết hại chúng sanh, cái tâm thích thú mà ăn thịt chúng sanh đó. Thì câu này có cái nghĩa là chúng ta phải đoạn trừ, đoạn dứt nó, không có được thích thú theo cái sự giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh.

Hằng ngày, chúng ta đều nương vào câu này mà chúng ta tu tập nhắc cái tâm của mình, để chúng ta dứt bỏ không có còn thích ăn thịt chúng sanh, mà không còn thích giết hại chúng sanh. Bởi vì chúng ta có thích giết hại chúng sanh, chúng ta mới có giết được chớ không phải là miễn cưỡng mà giết đâu.

Cho nên người ta cầm con gà, người ta cắt cổ con gà một cách an nhiên, người ta lấy cái con dao mà người ta đập con cá một cách rất tự nhiên. Một con vật la hét, một con cá giãy giụa, mà họ vẫn thản nhiên họ đập thêm mấy cái nữa!

Họ đập trong cái sự sung sướng chớ không phải là trong không có sự sung sướng. Cho nên nó Phật gọi là khả ái, khả hỷ đó. Cái hành động rất là đau đớn, thế mà họ rất là sung sướng.

Cho nên chúng ta dùng cái pháp hướng để nhắc cái tâm của mình để đoạn dứt. Đó là cái câu pháp hướng để đoạn dứt cái tâm ác.

Câu thứ hai:

“Chúng sanh có mạng sống như ta, cũng sợ đau, sợ chết như ta. Ta phải thương yêu như chính bản thân ta, như con ta và không được…​

Ở đây tới cái chỗ “như con ta” thì đó là cái câu để mà trau dồi cái thiện pháp.

Quý thầy nhớ: Một cái câu thì dứt bỏ, một cái câu thì trau dồi, làm cho nó tăng trưởng thiện pháp. Nó hai cái câu nó song song, chúng ta trạch pháp hai cái câu song song trong một cái điều ác để cho thực hiện được cái điều lành.

Bởi vì không giết hại chúng sanh đó là điều thiện, mà thương yêu chúng sanh thì chúng ta mới có làm điều thiện được, mà nếu không thương yêu chúng sanh thì chúng ta không làm được. Do đó, cho nên chúng ta trau dồi cái tâm chúng ta thương yêu, tức là chúng ta tăng trưởng thiện pháp.

Chớ không phải thiện pháp chưa sanh rồi chúng ta cho nó sanh, hay hoặc sanh là tăng trưởng - chúng ta nói như vậy là cái danh từ suông, nhưng ở đây chúng ta phải nhắc cái tâm của mình như Thầy (dạy) câu nói thứ hai:

“Chúng sanh có mạng sống như ta, cũng sợ đau, sợ chết như ta. Ta phải thương yêu như chính bản thân ta, như con ta vậy!”

Đó là, cái câu đó để chúng ta nhắc nhở trau dồi cái tình thương yêu của chúng ta. Cái sự đau, sợ, cái sự chết và sự đau khổ, thân ta ta biết sợ và chúng sanh cũng biết như vậy, để chúng ta giao cảm được cái nỗi khổ đau đó chung nhau. Cho nên chúng ta không nỡ giết chúng sanh, chúng ta cũng không nỡ ăn thịt chúng sanh.

(08:40) Đó là cái câu thứ hai. Câu trước là câu dứt bỏ, câu trước là dùng mệnh lệnh, câu sau thì trau dồi thân của mình, không có dùng mệnh lệnh.

Đó thì, các thầy thấy chỗ nào mà chúng ta cần nhấn mạnh thì cái chỗ đó là dứt, bắt buộc phải dứt. Còn chỗ nào mà chúng ta chưa dùng cái hướng lệnh thì chúng ta xoa dịu, chúng ta nhắc nhở êm ái để làm cho tâm chúng ta…​

Cũng như mình muốn dụ dỗ một con vật để mà mình rèn luyện nó, như con ngựa, hay hoặc là như con bò, con trâu để cho nó kéo cày, thì mình phải dụ dỗ nó, chớ mình la hét đánh đập nó thì chắc chắn mình gác ách mình cày không được đâu!

Cho nên mình phải dụ dỗ nó bằng cách là mình cho cỏ cho này, kia nó ăn. Các thầy thấy những cái nhà mà họ (làm) xiếc đó, cọp, voi hay hoặc là một con vật gì, họ cũng cho nó ăn rồi lần lượt dụ dỗ nó, rồi họ dạy nó múa, nó làm trò gì cũng được hết.

Thì cái tâm của chúng ta cũng vậy, nó vốn đã tích lũy những cái ác. Cho nên bây giờ chúng ta dụ dỗ để cho nó nhẹ nhàng, nó nghe được, rồi từng đó nó sửa lần, sửa lần, nó thấm nhuần được cái lòng thương yêu, chớ không được nạt nộ nó.

Cho nên cái câu thứ nhất là nạt nộ, bắt buộc, ra lệnh. Câu thứ hai thì xoa dịu, êm ái, nhẹ nhàng, làm cho tâm chúng ta dịu dàng nhẹ lại, để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, cái lòng từ bi của chúng ta.

Đó thì những cái câu như vậy quý thầy phải hiểu được, và lúc nào là dùng nó: Khi mà ra lệnh rồi thì bây giờ phải xoa dịu nó, chứ không thể nào mà quý thầy ra lệnh không thì chừng đó nó sẽ như thế nào? Nó cứng đầu, nó chống lại, nó không có chịu phục tùng đâu!

Cho nên vừa là dứt bỏ, mà cũng vừa là xoa dịu an ủi nó, để cho nó thấu đạt được cái lòng thương yêu của nó.

(10:24) Câu thứ nhất là dùng để đoạn trừ, dứt bỏ pháp ác, câu thứ hai dùng để trau dồi tâm ngăn ngừa pháp ác.

Nó ngăn ngừa cái pháp ác tức là nó sẽ phóng khởi cái pháp thiện.

Khi tâm chưa phóng khởi, tưởng điều ác thì ta phải hằng ngày trau dồi tâm ta bằng pháp hướng đến sự thương xót.

Nghĩa là cái tâm của mình nó chưa phát ra những cái điều ác, nó đương yên, nó đương thanh thản, nó đương sống yên lành, thì chúng ta phải tu tập.

Nhưng mà khi nó đã có những cái điều ác, nó có những cái hành động ác rồi thì chúng ta phải truyền lệnh ngăn, dứt nó liền! Đó là chúng ta dùng cái pháp dứt để ngăn dứt cái sự sự kiện xảy ra.

Cho nên phải biết áp dụng, Thầy nói phải biết áp dụng pháp hướng.

Khi bây giờ đó, mình có một cái sự việc gì đó, mình thấy một con rắn mình đập, đó mình đã giết con rắn rồi đó. Thì lúc bấy giờ đó, cái sự giết đó mình phải dùng cái pháp hướng ra lệnh: “Từ đây về sau phải chấm dứt!” Đó là dùng pháp hướng đúng, đúng chỗ, đúng thời điểm.

Còn bây giờ mình chưa có giết gì hết, mình bảo nó: “Đừng giết! Đừng giết! Dứt đi!” - thì cái đó là cái sai, truyền lệnh sai.

Bây giờ mình chưa có làm gì đau khổ chúng sanh hết, thì mình dùng cái pháp thương yêu chúng sanh mình nhắc nhở, mình trau dồi cái lòng thương của mình. Để cho nó mai mốt nó gặp con vật khác nó không có giết, nó gặp con vật dữ nó không có giết. Đó là chúng ta biết phải áp dụng đúng.

Chớ không, lúc nào chúng ta cũng ra lệnh, lúc nào chúng ta hét hò ở trong tâm chúng ta, thì cái đó là chúng ta làm cho nó rối loạn, nó không biết cái nào mà nó làm hết. Nó có làm ác đâu mà răn nó dữ vậy? Các thầy phải hiểu!

Bởi vậy, cho nên sự tu tập nó khó là khó cái chỗ mà chúng ta biết áp dụng. Mà không khéo áp dụng thì nó không có hiệu quả, nó không kết quả cho quý thầy, rồi nói sao mà pháp không có vi diệu. Nó không vi diệu là do chính chỗ áp dụng sai!

(12:14) Cho nên gần Thầy, các thầy mà sai thì có Thầy sửa, Thầy biết. Còn không gần Thầy là một điều rất là khó, vì áp dụng pháp hướng và pháp tùy này nó không đúng cách thì nó trở thành sai mất đi, nó không đơn giản được.

Khi tâm chưa phóng khởi, tưởng điều ác thì ta phải hằng trau dồi tâm ta bằng pháp hướng đến sự thương xót chúng sanh, để triển khai lòng từ bi của ta thì mới mong nó không sanh khởi ác pháp.

Pháp hướng để trau dồi lòng thương xót, ví như sợi dây mũi buộc con trâu, nhờ nó mà tâm không khởi ác pháp.

Nghĩa là cái pháp hướng là như chúng ta cột cái sợi dây nó đó, chúng ta muốn nó lôi nó ở đâu nó cũng đi theo hết, còn cái pháp dứt thì nó khác. Pháp dứt là khi mà nó đã thuần thục rồi thì chúng ta dứt. Còn bây giờ nó chưa thuần thục, nhưng khi nó làm một điều ác là chúng ta phải dứt, chúng ta phải la hét nó.

Cũng như bây giờ đó, con chó mình nuôi nó chưa thuần thục, mà nó hay đi bắt gà người ta, thì bắt đầu đó mình phải la hét nó, mình chặn nó trước đi, rồi sau đó mình tìm cách mình dụ dỗ nó, để cho nó thuần hóa trong cái thiện pháp, nó không có bắt gà, bắt vật của người ta nữa, thì như vậy đó là mình biết nuôi chó, mình biết dạy chó.

Nó là một phương pháp ngừa bệnh.

Cái pháp mà chúng ta trau dồi cái tâm mình như vậy, đó là trau dồi cái tâm từ bi thương yêu của mình đối với chúng sanh như vậy, đó là cái pháp ngừa bệnh.

Còn cái pháp dứt bỏ là cái pháp hướng để đoạn dứt tận gốc bằng sức lực tinh thần, làm cho nó không còn ác pháp trong tâm ta nữa.

Đó thì phải song song hành hai cái, bởi vì trong Tứ Chánh Cần thì quý thầy đã thấy, Đức Phật đã dạy: Các pháp chưa sanh không cho sanh, đã sanh thì phải đoạn dứt, mà các pháp thiện chưa sanh thì cho sanh, khởi sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng.

Rõ ràng là bốn cái Tứ Chánh Cần này luôn luôn liên tục thì chúng ta phải có sự song hành, chớ không thể nào mà không song hành được. Chớ không phải là làm cho dứt hết các pháp ác rồi mới tăng trưởng pháp lành, thì đó là cái quý thầy đã nghĩ sai.

Vừa là dứt các ác, thì phải là vừa phải thể hiện sanh các pháp thiện liền tức khắc. Bởi vì không giết hại chúng sanh thì tức là thiện rồi, thì ngay đó đã phát khởi thiện rồi. Cho nên từng đó chúng ta càng trau dồi thiện, thì tức là nó sẽ tăng trưởng lên, cho nên không làm ác nữa.

4- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT TRỘM CẮP

4.1- PHÁP HƯỚNG TỪ BỎ TRỘM CẮP

(14:39) 2. “Trộm cắp, cướp giật, lấy của không cho là một điều cực ác. Ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly, xa lánh vĩnh viễn!”

Cái câu này là cũng là cái câu để dứt trừ đó, nghĩa khi nào nghe nói dứt trừ, đoạn bỏ, viễn ly đó, xa lánh vĩnh viễn đó, thì đó là cái câu hướng để mà tu tập dứt trừ, đoạn dứt cái tâm ác của chúng ta.

Câu này chưa được đầy đủ, quý thầy nên thêm câu dưới đây:

“Trộm cắp, cướp giật, lấy của không cho dưới mọi hình thức nào cũng đều là một tội lỗi cực ác, phải dứt trừ, từ giã, xa lìa, từ bỏ, viễn ly, đoạn tận!”

Đó là cái câu chúng ta. Bởi vì chúng ta nói câu trên nó chưa được đầy đủ, chưa được đầy đủ nhưng nó ngắn gọn hơn để chúng ta ra lệnh ngay chóng khi mà chúng ta đã thông suốt.

Câu dưới mặc dù là trộm cắp, lấy của không cho nó nhiều cái hình thức lắm, như ăn lo hối lộ đồ, hay hoặc là thế này thế khác, biển thủ đồ…​ Đó là những cái tội trộm cắp chớ không phải là không trộm cắp.

Do nó nhiều hình thức lắm, nhiều hình thức có thể mình lường gạt người ta lấy, thì nó cũng là do cái tội trộm cắp - nằm ở trong cái tội trộm cắp, cướp giật.

Cho nên ở cái câu thứ hai nó trọn vẹn đầy đủ, để nhắc nhở chúng ta không có làm những cái điều như vậy. Điều đó là cái điều ác, cái điều không tốt, cho nên phải viễn ly, đoạn tận nó đi, từ giã, từ bỏ đi, dứt trừ đi. Đó là những cái câu đoạn dứt nó.

4.2- ÁP DỤNG CẢ PHÁP HƯỚNG, PHÁP TÙY VÀ PHÁP QUÁN

(16:12) Đó cho nên nghe nói mình dứt ác, các pháp ác đã sanh thì dứt liền, thật sự ra trong khi đó mình không trau dồi mình thì khi mà nổi cơn sân thì quý thầy có dứt được nổi không? Đâu có dễ gì dứt được! Nó làm như chúng ta điên khùng ở trong tâm rồi, còn đâu mà biết đâu mà sáng suốt nữa mà dứt!

Đó cho nên bây giờ chúng ta chuẩn bị cho mình những cái tư tưởng, những cái sự dứt bỏ bằng chúng ta thấu suốt được cái lý của pháp ác. Vì vậy mà chúng ta muốn thấu được cái lý pháp ác đó, nhờ cái pháp hướng nó nhắc đi nhắc lại, nó làm cho chúng ta thấu được cái lý pháp ác.

Và đồng thời chúng ta còn phải tu tập thêm cái pháp quán để suy xét những cái tâm niệm giận của chúng sanh như thế nào, nó bừng bốc nó cháy như lửa như thế nào, nó làm cho cái con người giận, sân, nó phải như thế nào?

Vì vậy, tất cả những cái mà chúng ta tu học chúng ta đều phải có quán nè, rồi có hướng nè, rồi có tùy nè, nó mới đúng. Cho nên cái Định Vô Lậu nó kèm thêm với cái Định Chánh Niệm Tỉnh Thức, vì vậy mà nó luôn luôn lúc nào nó cũng dùng pháp hướng, pháp tùy, nó không có xa lìa các cái hành động tu tập này.

Cho nên khi mà chúng ta chưa rõ cái pháp ác nó như thế nào thì chúng ta đặt cái niệm pháp ác đó. Bây giờ thí dụ chưa rõ cái pháp ăn trộm ăn cắp như thế nào, thì chúng ta đặt cái niệm ăn trộm, ăn cắp đó trước mặt rồi chúng ta dùng cái tri kiến chúng ta phóng ra để chúng ta quan sát, chúng ta theo dõi, chúng ta xem xét.

Trong khi chúng ta xem xét, chúng ta mới hiểu rõ đó là thật là cái pháp ác, làm cho người ta đau khổ, làm cho người ta mất của, làm cho người ta tự tử, làm cho người ta chết dở sống ở trong cuộc đời khi người ta bị mất của.

Khi mà quán sát được như vậy thì chúng ta thấy nó là cực ác. Mà cực ác thì chúng ta phải đoạn dứt. Vì vậy mà chúng ta mạnh mẽ mà đoạn dứt nó, không làm cái điều đó nữa. Còn nếu chúng ta không thông suốt, thấy nó là pháp thiện thì chắc chắn là chúng ta sẽ trộm cắp mãi, và giết hại chúng sanh mãi, không bao giờ mà tận cùng được.

Đó thì những cái điều mà thầy dạy hôm nay để cho quý thầy biết áp dụng, và biết áp dụng trong pháp Phật đã dạy.

Bởi vì cái Định Vô Lậu là để giúp cho chúng ta nhìn thấu được các pháp mà quán các pháp. Định Vô Lậu là định dùng quán, chớ không phải là dùng hướng.

Đó, thì như vậy là chúng ta phải biết lúc nào mà dùng pháp hướng, lúc nào dùng pháp tùy, lúc nào là dùng pháp quán, thì như vậy mới có cái hiệu quả trên bước đường tu tập.

Chớ không phải mà muốn tu như thế nào là cái tâm tham, sân, si chúng ta hết được liền đâu, không phải dễ đâu, hay hoặc là các pháp ác mà chúng ta dứt được liền đâu, không phải nói một cách đơn giản được mà cả một công trình tu tập.

5- KHI TU TẬP CẦN TÂM CHUYÊN NHẤT CẢNH

(18:35) Đây là những câu pháp hướng tâm, nhắc tâm Như Lý Tác Ý dẫn tâm vào đạo, giải thoát ác pháp. Quý vị phải biết: Trước khi dùng pháp này tu hành dứt bỏ các ác pháp thì quý vị phải tâm chuyên nhất cảnh.

Nghĩa là như thế nào?

Thầy xin nhắc lại cho quý thầy nhớ, chớ không được đụng đâu ngồi đó.

Nghĩa là mình muốn mà tâm chuyên nhất cảnh thì không được mà mình đụng đâu ngồi đó, mà mình dùng pháp tùy, pháp hướng, pháp này, kia lộn xộn.

Muốn tu một cái pháp nào đó phải nghiêm chỉnh, phải tìm một cái nơi ngồi cho nghiêm chỉnh. Bởi vì pháp không phải là đồ chơi, không phải là đụng đâu mình có thể mà làm chỗ đó được, mà đây là pháp để cứu mình ra khỏi những pháp ác, để cứu mình thoát ra khỏi những sự đau khổ của cuộc đời.

Cho nên phải xem nó là một cái vật quý báu, phải nghiêm chỉnh - trước khi mà dùng một cái câu nào hướng, trước khi dùng một cái sự quán xét nào thì cũng phải nghiêm chỉnh mà quán xét thì nó mới có cái kết quả.

Còn nếu mà chúng ta đụng đâu ngồi đó, thì ngồi chơi chút cái rồi chúng ta cũng ngồi đó mà quán xét cái này, quán xét cái kia, làm như là sanh vọng tưởng nghĩ ngợi chuyện làm ăn vậy, thì cái chuyện đó không phải là cái người tu.

Người tu là trước khi mà chúng ta muốn khởi một cái gì đó chúng ta chủ động điều khiển, ngồi xếp bằng, lưng ngay thẳng đàng hoàng, nơi cái cảnh yên tịnh, chớ không được mà ngồi cái chỗ giữa chợ, ngồi đó suy nghĩ như là tìm cái công ăn việc làm, hoặc là tìm cái cách mưu mô kế này, kế kia để lường gạt người để lấy của, thì cái điều đó không được.

Ở đây là cái chỗ giải quyết cái tâm giải thoát, làm cho chúng ta xa lìa các pháp ác thì phải:

Tìm một nơi yên tịnh, tịch mịch, rồi ngồi kiết già, lưng thẳng, hít mười hơi thở bình thường…​

Nghĩa là mình hít thở hơi thở bình thường, không được thở chậm mà cũng không được thở nhanh, mà thở bình thường.

…​ cho tâm gom lại…​

Cho cái tâm mình nó tập trung trong cái hơi thở, nó gom lại theo hơi thở bình thường.

…​ và tâm chuyên nhất trong hơi thở.

Bây giờ cái tâm nó đã bám chặt ở trong hơi thở chuyên nhất rồi, bởi vì nó tâm chuyên.

Thì quý vị đặt niệm hướng tâm này ngay trước mặt mà dẫn tâm dứt trừ các ác pháp.

Trong khi tu tập quý vị không nên để mất niệm.

Tức là thất niệm đó. Cái niệm mà đặt đó thì quý vị không được quên, quý vị một lát quý vị nhớ hơi thở, lát quý vị nhớ chuyện khác, lát quý vị không nhớ, tức là các vị bị thất niệm. Cho nên Phật dạy thất niệm là không đạt được kết quả gì hết.

Vì mất niệm tức là thất niệm, mà thất niệm thì tâm mê, dao động, thì sự tu không có kết quả.

(21:19) Cho nên khi đặt cái niệm là phải tập trung trong cái niệm đó. Hồi nãy là mình tập trung trong hơi thở để cho mình gom cái tâm của mình lại.

Khi mình đặt được cái niệm trước mặt rồi, thì cái niệm đó mình chăm chăm mà nhìn cái niệm đó, để quán xét cái niệm đó, để suy tư cái niệm đó, tìm ra cái niệm đó, để rồi chúng ta mới thấu suốt được cái niệm đó.

Có tu nghiêm chỉnh như vậy thì kết quả mới đến với quý vị vĩ đại, lậu hoặc của quý vị mới quét sạch. Còn nếu quý vị tu tập mà không nghiêm chỉnh thì ngàn đời quý vị cũng chẳng đạt được cái đạo này đâu.

Câu này quý thầy dùng nó làm niệm. Khi niệm hướng vừa dứt thì quý thầy tiếp một niệm nữa, nhưng phải có một khoảng cách…​

Nghĩa là, cái niệm đặt nó rồi quý vị quán xét cái niệm đó rồi, nhất là Vô Lậu, khi mà cái niệm được quán xét thông suốt rồi thì quý vị xả nghỉ, không được tiếp tục cái niệm nữa.

Nhưng về cái pháp hướng, thì cái niệm này quý vị đặt cái niệm đó để quý vị trạch cái câu đó ra, quý vị hướng tâm, nhắc cái tâm mình rồi, thì cái câu này quý vị xong rồi thì quý vị có một khoảng thời gian nghỉ, rồi quý vị mới đặt cái câu khác để quý vị thay vào đó, để cho quý vị trau dồi cái tâm của mình, lòng thương yêu của mình, hay hoặc là dứt bỏ mạnh hơn nữa, thì nó cũng phải có một khoảng cách ngăn nhau.

Chớ không phải câu này rồi cái bắt đầu đọc tới câu khác, đọc tới câu khác nữa. Quý vị liên tục như vậy thì một người mà huấn luyện voi, ngựa, bò, trâu, họ làm như vậy con trâu bò nó cũng điên đầu nó, nó cũng không biết đâu nó làm nữa.

Phải tập cho nó thuần thục cái này, nghỉ một chút rồi để cho cái tâm nó yên tịnh trở lại rồi mới đặt cái câu khác.

Đó, hôm nay Thầy dạy như vậy các thầy mới biết cách làm, biết cách tu, chớ không khéo các thầy tu điên, tu khùng nữa.

Bởi vậy không có kinh nghiệm tu thì làm sao mà hướng dẫn người ta tu được! Mà không hướng dẫn người ta tu được thì Phật Pháp mai một, không còn ở trong thế gian này nữa.

…​ thì quý thầy tiếp một niệm nữa, nhưng phải có một khoảng cách giữa tâm yên lặng theo hơi thở ra, hơi thở vào.

Quý thầy nhớ: Ông Phật dạy rất kỹ cái chỗ này. Bởi vì người ta không nghiên cứu được cái giáo pháp của Phật. Khi muốn tu Định Vô Lậu, cũng như Định Chánh Niệm Tỉnh Thức, cũng như tất cả mọi thứ định để cho tâm gom lại, vì vậy Phật nói “Định Niệm hơi thở ra hơi thở vô khéo tác ý” - là như thế nào?

Bây giờ quý vị muốn đi kinh hành, mà để cho tâm quý vị gom vô cái tập trung, thì cái hơi thở là cái đối tượng trước cái mặt của quý vị rất dễ: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra!” Là nhắc như vậy, hướng tâm như vậy, làm cho tâm của quý vị nó gom vô hơi thở.

Bây giờ đó quý vị nói: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành!” Rồi quý vị nghỉ, quý vị cứ bước đi. Cái tâm của quý vị nó tập trung trong cái hành động đó liền tức khắc. Nó rời khỏi hơi thở, nó tập trung đó.

Thì đi một lát nữa thì quý vị: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra!” Tức là quý vị phải gom lại cái thân của quý vị, vì cái hơi thở đó nó sẽ nằm trong thân quý vị, do quý vị gom vào thân nó.

Rồi bắt đầu quý vị nhắc: “Đi kinh hành, tôi biết tôi đang đi kinh hành!” Thì ngay đó nó tập trung dưới hành động thân của quý vị. Như vậy cái sức tỉnh thức của quý vị nó càng ngày càng rõ ra.

Bởi vì Thầy dạy các vị có cái tụ điểm. Các vị phải hiểu: có cái tụ điểm, mà tụ điểm lúc nào tâm nó cũng phải gom nằm đó, để nó quan sát tất cả hành động, chớ không phải nó nằm dưới chân của quý vị.

Mà nó nằm dưới chân quý vị thì nó sẽ bị thất niệm, cho nên tỉnh giác của quý vị chỉ tỉnh giác mơ hồ, chớ chưa phải là tỉnh giác.

(24:46) Vì vậy mà nhìn qua trong một tháng nay, cái sự sống của quý vị thiếu tỉnh giác cho nên phá độc cư.

Đó quý vị thấy rõ. Cho nên thấy cái sự tu của quý vị kết quả hay không, là một người thiện hữu tri thức người ta có kinh nghiệm, người ta biết được quý vị tu đúng, tu sai.

Đó, những lời Đức Phật dạy như vậy. Cho nên khi mà chúng ta nhập tới Diệt Thọ Tưởng Định, chúng ta phải dùng hơi thở mà chúng ta đi tới, chớ không bao giờ mà lìa xa hơi thở. Bởi vì hơi thở là cái tụ điểm của chúng ta.

Đó! Đó là những cái mà Thầy đã hiểu biết được Phật, và hiểu biết qua kinh nghiệm bản thân tu hành của mình đã làm được những gì, đã thành tựu được những gì.

…​ khoảng cách giữa tâm yên lặng theo hơi thở ra, hơi thở vào.

Quý vị nhớ phải nhắc tâm mình theo hơi thở, không để tạp niệm xen vào:

Nghĩa là lúc bấy giờ không được cho tạp niệm xen vào. Thì nhờ có nương - bám chặt hơi thở thì lúc bấy giờ tạp niệm mới không xen. Do đó:

“Hơi thở ra tôi biết tôi thở ra, hơi thở vào tôi biết hơi thở vào!” Khoảng độ mười hơi thở thì quý vị lại nhắc câu này để trau dồi lòng thương yêu của quý vị, để ngăn ngừa lòng tham lam của quý vị.

Quý vị trạch câu này ra để dùng pháp hướng nhắc tâm Như Lý Tác Ý:

“Của cải, tài sản của ta, ta mất ta còn buồn khổ, có thể ta đi đến chết quyên sinh, tự tử. Nỡ nào ta lấy của người bằng mọi hình thức cho được?”

Đó, cái câu này để cho chúng ta tu tập, trau dồi cái tâm của chúng ta biết thương cái người mất của, làm cho chúng ta không có bao giờ còn nỡ tâm lấy của người nữa. Đó là trau dồi cái tâm của mình, biết cái khổ của người khác, là cái người mất của cũng như mình mất của.

Đó là như vậy. Mà cái sự thực hành thì phải như lời Thầy dạy hồi nãy thì quý vị mới có kết quả. Cái câu trước là dứt đoạn, câu này là trau dồi cái tâm biết thương người, biết thương người mình không lấy của người, vì lấy của người làm khổ người.

Do vì vậy mà chúng ta phải có một khoảng cách, câu trên với câu dưới khoảng cách mười hơi thở. Và mười hơi thở đó để tập trung gom tâm làm cái sức tỉnh thức, làm cái tụ điểm để chúng ta hướng câu kế, để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta đối với muôn người. Vì vậy mà chúng ta không lấy của không cho.

Các thầy thấy Thầy dạy có cách thức, có hẳn hòi, có pháp hành rõ ràng, nhưng quý thầy tu sai là quý thầy chịu trách nhiệm, chớ còn Thầy không có trách nhiệm ở trong sự tu sai đó. Thầy dạy các thầy làm đúng thì các thầy có cái kết quả, mà làm không đúng thì quý thầy phải chịu lấy.

6- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT TÀ DÂM

(27:19) Câu 3:

Tà dâm là một thứ sắc dục không chân chánh, làm nát cửa, tan nhà người và cả mình, làm đau khổ gia đình mình và gia đình người. Ta phải chấm dứt thói sắc dục bất chánh này; ta ly khai, từ bỏ, xa lánh, viễn ly vĩnh viễn!”

Đó là cái câu mà đoạn dứt cái tâm ưa sắc dục, ưa đi ve vợ người khác, ưa làm những cái chuyện tồi bại, phá gia cang người khác, thì đó là cái hành động tội ác cực lớn chớ không phải là nhỏ đâu, làm tan nhà, nát cửa người. Cho nên lấy câu này mà nhắc để mà chúng ta hằng ngày trau dồi cái tâm mình dứt đoạn, không có được cho nó phạm vào cái lỗi ác này.

Đây là một câu trạch pháp để dùng hướng tâm đoạn dứt pháp ác, trừ tà dâm thói xấu. Quý vị nào có căn bệnh này thì phải ngày đêm chuyên cần tu tập pháp hướng.

Bởi vì cái tật này - có nhiều người mang cái tật này dữ lắm, còn có nhiều người, người ta không có, còn có nhiều người thì mang cái tật này rất nặng, thấy vợ con người ta là thích tới à! Đó là những cái hạng người chuyên môn tà dâm, cái tâm rất là tệ bạc.

“Tà dâm là một tánh rất xấu làm cho con người mất thể diện, thọ tiếng xấu bạc tình, bạc nghĩa muôn đời. Ta phải dứt bỏ như dứt bỏ một vật thối tha, bẩn thỉu nhất!”

Đó là cái câu dứt nữa đó, câu pháp hướng này là câu dứt nữa đó, chớ không phải là câu trau dồi.

Cho nên ở đây chúng ta phải nhận ra những cái pháp hướng, trạch pháp ra cái câu nào cho đúng nghĩa của nó, và đồng thời trong một thời gian mà tu hai câu này thì chúng ta cũng phải có một cái đoạn thời gian cách nó đi ra, để tập trung gom lại, rồi dùng cái lực tinh thần của chúng ta mà ra lệnh, để cho nó dứt bỏ, thì sau này tâm chúng ta nó mạnh dạn, nó xa lìa các pháp ác, nó không còn làm cái đó nữa.

Bởi vì cái thói quen của chúng ta mà tà dâm như vậy đó, thì nó có cái thói quen thích thú của nó, nó có cái khả hỷ, khả lạc, nó làm chúng ta thích. Cho nên chúng ta bị nó sai khiến chúng ta, vì vậy mà chúng ta không dằn được nó. Mà không dằn được nó thì chúng ta phạm phải cái tội ác rất lớn là phá gia cang gia đình của kẻ khác.

(29:32) Cho nên từng ngày chúng ta tập luyện như vậy, hai câu: câu trước và câu sau này, chúng ta thường phải nhắc nhở khi mà chúng ta có cái tật xấu đó.

Tiếp tục, quý thầy dùng câu thứ hai này làm pháp hướng để răn nhắc tâm mình thường xuyên để xa lìa tánh ác xấu đó:

“Đời người thường ao ước được cuộc sống hạnh phúc lứa đôi, bên nhau trung thành mãi mãi, chẳng bạc tình, bạc nghĩa. Vậy ta hãy biết thương người, mong cầu đem lại hạnh phúc cho người.

Thì tánh tà dâm là một tánh xấu đem lại ta khổ, người khổ, gia đình tan nát. Biết thương mình, thương người, ta hãy dứt trừ tánh xấu này!”

Đó thì, đây là cái câu pháp hướng để gợi cái lòng thương yêu của người, của mình, mà không làm hại gia đình mình, không làm hại gia đình người. Đó là cái câu pháp hướng trau dồi cái tâm của chúng ta thương yêu, thương mình, thương người đó, để không làm cho gia đình tan nát.

Đây là câu trạch pháp dùng để hướng tâm nuôi lớn lòng thương yêu với sự an vui hạnh phúc của mọi người.

Nghĩa là của mình, của người ở trong đó nữa. Cho nên nhắc cái tâm của mình thường xuyên, dùng cái câu này nhắc. Khi mà dùng hai câu trạch pháp trên để đoạn dứt cái tâm tà dâm thì chúng ta phải dùng câu dưới này để cho an ủi, chúng ta thấu suốt được cái lòng thương yêu chúng ta đối với sự làm tan nát cả đôi bên gia đình.

Đó thì, cái sự tu tập phải trau dồi, phải rèn luyện như vậy, gọi là dứt ác mà tăng trưởng thiện.

7- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT NÓI DỐI

(31:01) Câu 4:

Người có chánh hạnh…​

Bây giờ về phần 4 là về phần ngôn ngữ rồi đó.

Người có chánh hạnh ngôn ngữ không bao giờ nói chuyện không thật, luôn luôn nói những điều chân thật, không nói láo.

Đó về cái ngôn ngữ, mà cái chánh hạnh ngôn ngữ, thì không bao giờ mà cái người mà người ta đặt láo, nói chuyện không thật, nói luôn luôn lúc nào phải chân thật.

Nói láo là một lời nói dối gạt người, làm cho người tin theo phải khổ sở, nó là một pháp ác.

Đó, nói láo là một cái pháp ác, chớ không phải là…​ Bởi vì con người ta không chết mình nói chết, con người ta không té sông mình nói té sông, đó là một cái điều kiện là làm cho người ta khổ sở. Những cái điều mà nói như vậy, điều đó là không đúng.

Cho nên trong thời Đức Phật, Ngài La Hầu La mới đến tu thì ông cũng có cái tật hay nói láo. Do đó có những người mà đến thăm Phật, hỏi Đức Phật có trong tịnh xá không, thì Đức Phật có trong đó ông nói Đức Phật không có, họ bỏ đi về. Còn khi nào mà Đức Phật không có, thì ông nói có ở trong đó đó, có ở trong tịnh xá, họ vô họ tìm cùng không thấy ông Phật đâu hết.

Cho nên người ta mới nói với Phật là có ông - cái chú Sa Di đó chú hay vọng ngữ quá, chú nói láo dữ lắm. Do đó mà Phật mới dạy cho thầy - cho La Hầu La bằng những cái đức hạnh như thế nào, thì có dịp Thầy sẽ thuật lại những cái chuyện mà Đức Phật giáo dục cho đứa con một của mình, qua những cái pháp ác mà cái chú này đã phạm phải trong cái tuổi còn thơ ấu.

Bây giờ chúng ta trạch pháp ra, về cái phần mà nói láo đây:

Nói láo là một tánh xấu ác, ta phải dứt trừ, từ bỏ, viễn ly!”

Đó là chúng ta ngắn đó, nghĩa là chúng ta ngay đó chúng ta nhấn liền: “Nói láo là một tánh xấu ác, ta phải dứt trừ, từ bỏ, viễn ly!”

Câu 2:

“Nói láo là một tánh xấu, ác pháp, làm ta mất uy tín với mọi người. Vậy nay ta hãy từ bỏ, xa lánh pháp này!”

Đó, khi mà nói láo, người ta biết mình nói láo rồi thì mình sau này mình nói không ai tin mình hết. Cho nên câu thứ hai nó lại dài hơn, để chúng ta thấy rõ cái sự nói láo là nguy hại cho chính mình.

(33:17) Câu 3:

“Ta là người tu tập Tứ Vô Lượng Tâm - tâm thương yêu rộng lớn đối với muôn loài, ta nỡ nào dối gạt chúng sanh? Ta phải từ bỏ, xa lánh nơi nói láo để thực hiện lòng thương yêu rộng lớn!”

Mình lấy cái tâm Từ Bi Vô Lượng của mình đó mà mình áp dụng để mà xoa dịu cái tâm của mình đừng có nói láo, vì nói láo là như vậy làm cho không đúng cách, làm cho người khác khổ. Do đó mà chúng ta trau dồi cái lòng thương yêu của chúng ta.

Câu 4:

“Nói láo là không thương chúng sanh và không thương mình, ta phải chấm dứt, đoạn dứt tánh xấu ác này!”

Đó là một cái câu để mà chúng ta dùng pháp hướng.

Câu 5:

“Thương người không được nói láo, vì nói láo là không thương người!”

Đó là cái câu thứ 5.

Câu thứ 6:

Nói láo là một tánh xấu cực ác, ta phải chấm dứt ngay!”

Đó, cái câu đó là cũng là câu để mà chúng ta ngắn gọn, để mà chúng ta ra lệnh chấm dứt nó đó.

Quý thầy là đệ tử của Phật phải tu tập chánh hạnh ngôn ngữ, phải rèn luyện chánh hạnh ngôn ngữ, dù bất cứ trong trường hợp nào, dù có chết nát thây các thầy cũng không được nói lời thiếu chân thật!

Đó thì cái phần này, thì khi mà chúng ta đã nhận mình là đệ tử của Phật, do đó chúng ta không được nói thiếu lời chân thật. Dù lúc bấy giờ người ta bắt buộc mình phải nói cái lời dối mà họ không giết mình, thì nhất định là mình thà chết chớ không được nói dối, không được nói láo. Đó là cái người tu sĩ đạo Phật như vậy.

Cho nên xưa Đức Phật có một cái thời tu tập ở trong núi, có một nhà vua đi săn nai, đuổi con nai, còn con nai chạy ngang qua chỗ Đức Phật rồi lại chui dưới cái tảng đá chỗ Đức Phật mà nằm, mà trốn đó. Cho nên nhà vua chạy đến hỏi: “Ông có thấy con nai của tui ở đây hay không?”

Thì ông Phật làm thinh. Nếu mà nói con nai mà chạy luôn thì là nói vọng ngữ, mà nói con nai chui xuống ở dưới cái cục đá của mình, là nói thật, thì không vọng ngữ, thì ông vua sẽ bắt con vật mà giết đi, thì mình mang cái tội chỉ cho người ta giết chúng sanh, cho nên mang cái tội sát sanh.

Cho nên ông Phật ổng ngồi tu ông không dám nói gì hết, ổng làm thinh. Bởi vì hai cái giới này, hai cái pháp ác này nó kèm theo một trường hợp, cho nên ông Phật chỉ làm thinh mà chịu.

Nhà vua lẻo tai, cắt hai cái lỗ tai, ông cũng chẳng nói, móc hai con mắt cũng chẳng nói, chặt tay cũng chẳng nói. Cho nên cuối cùng thì ông đã thành tựu được cái chỗ giữ gìn giới luật nghiêm túc.

Đó thì các con thấy trong giới luật, mà người tu hành người ta giữ có cái nói láo và sát sanh không mà người ta chịu chết đó.

Đó thì, sự tu tập của chúng ta là đệ tử của Phật, hoàn toàn là chúng ta phải giống như Phật. Sau khi dạy Tứ Bất Hoại Tịnh thì thân của Phật như thế nào, ý của Phật như thế nào, thì chúng ta phải sống như vậy mới chính là Tứ Bất Hoại Tịnh Pháp.

Bây giờ chưa tới, Thầy chưa giảng dạy, chớ giảng dạy thì những cái câu chuyện này được nhắc đi nhắc lại cho quý thầy để rèn luyện mình sống đúng như Phật, tức là niệm Phật đó.

8- TÂM TÍCH LŨY NHIỀU ĐIỀU ÁC NÊN PHẢI THỌ THÂN NÀY

(36:38) Hàng ngày phải rèn luyện, siêng năng theo pháp Tứ Chánh Cần mà tu tập.

Nghĩa là phải siêng năng, vì cái pháp này là cái pháp siêng năng, mà siêng năng thì mới dứt ác, mới tăng thiện được. Còn nếu không siêng năng chưa chắc đã gì chúng ta đã dứt ác được.

Vì vốn cái tâm của chúng ta là cái tâm tích lũy, cái tâm nó tích trữ những pháp ác nhiều đời nhiều kiếp, cho nên mới có thọ thân này, nếu mà nó đã tích thiện thì nó đâu có thọ thân này, nó phải thọ cái hóa thân. Tức là nó sẽ biến hóa ra cái thân, chớ nó không phải nó còn cái thân mà sanh cái chỗ bẩn thỉu, cái thân mà sanh cái chỗ dục.

Cho nên ở đây chúng ta là do cái thai sanh, vì cái tâm của chúng ta nó có những cái ác pháp, cho nên nó mới sanh ở trong thai sanh. Còn những người mà thiện pháp, thì như Phật ví dụ, như các người cõi trời thì họ là hóa sanh, họ không có thai sanh.

Cho nên có người hỏi Thầy: Có hóa sanh hay không? Thật sự có hóa sanh.

Bởi vì các thầy cứ nghĩ rằng một cái người mà tu tập như chúng ta nè, tu tập như chúng ta vầy, mà khi mà thân định trên tâm, mà tâm định trên thân rồi, nhập được Tứ Thiền rồi, thì người ta ra lệnh, thì cái thân này nó sẽ biến muôn ngàn cái thân, không phải là hóa thân sao?

Ngồi đầy cái rừng này, ngồi đầy cái khu đất này, hàng trăm hàng vạn ông thầy như Thầy, giống y mặt, người nào cũng giống y hết. Mà bây giờ Thầy muốn cái thân này - tức là Dục Như Ý Túc mà - muốn nó như thế nào, muốn cái thân Thầy nó lớn bằng cả nửa bầu trời này, nó tự nhiên nó sẽ lớn như vậy đó.

Thì các thầy nghĩ có phải hóa không? Nếu không hóa làm sao được cái chuyện đó! Cái thân bây lớn đây mà hóa ra đứng nửa cái bầu trời này thì quý thầy nghĩ như thế nào? Cái chân nó có thể nói rằng, không có lượng được cái chân mà thò xuống là kể như trái đất này nhẹp đi. Thì đó không phải là hóa sao?

Vậy cho nên nó có cái thế giới hóa thân chớ đâu phải không có cái thế giới hóa thân! Cho nên Phật nói là cõi trời. Khi chúng ta hướng tâm về thiện thì chúng ta sẽ sanh vào hóa thân, mà chúng ta về dục thì chúng ta phải sanh về thai sanh. Đó thì, các thầy phải thấy được bốn cái sanh của con người.

Cho nên các thầy nghĩ rằng: Khi mà chúng ta hoàn toàn là dứt dục, không còn cái tình dục thì chắc chắn là con người trên thế gian này không có. Đâu ra không có? Chúng ta hóa sanh mà!

Như bây giờ Thầy muốn Thầy có một trăm người ngồi ở trong cái khu đất này, Thầy chỉ cần nhập cái Định đúng nó Thầy câu hữu, thì ngay đó thì nó ngồi một trăm người chớ đâu phải một người!

Quý thầy ngạc nhiên, quý thầy chưa đến chỗ này quý thầy chưa thấy. Khi nào ở đây có chúng tới đó rồi thì quý thầy sẽ trực tiếp thấy. Còn bây giờ đem ra biểu diễn cũng như làm trò xiếc cho quý thầy coi thì cái chuyện đó là cái chuyện mê hoặc, chuyện làm cho người ta không đi vào cái chánh của Phật Pháp.

9- TU TỨ CHÁNH CẦN LÀ THỰC HIỆN ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ

(39:19) Các thầy nên nhớ: Chỉ có tùy pháp Tứ Chánh Cần mà quý thầy dứt ác…​

Nghĩa là tùy theo, nương theo Tứ Chánh Cần đó, tức là cái pháp tùy. Tùy là như thế nào? Bởi vì theo cái pháp đó, là nương theo cái pháp đó mà dứt được các ác pháp, tăng trưởng các thiện pháp.

Các thầy nên nhớ chỉ có tùy pháp Tứ Chánh Cần mà quý thầy dứt ác, làm thiện. Đó là con đường đạo đức nhân quả chân chánh của đạo Phật.

Đó, thì con đường mà chân chánh của đạo Phật thì nó chỉ có cái pháp Tứ Chánh Cần là nó giúp cho quý thầy thực hiện được nhân quả chân chánh của nó, tức là đem lại những cái quả thiện, cái nhân thiện. Mà chính Đức Phật đã xây dựng đạo pháp của mình, giáo lý của mình trên con đường của nhân quả, trên cái nền tảng của nhân quả, của đạo đức nhân quả.

Quý thầy phải lấy những câu trên mà Thầy đã trạch ra pháp để quý thầy dùng nó hướng tâm Như Lý Tác Ý.

Hằng ngày phải siêng năng tinh tấn đặt niệm trước mặt, đừng để thất niệm, chuyên cần tu tập, như vậy tâm quý vị thanh tịnh. Quý vị sẽ “chỉ” được các hành trong thân, nhập Chánh Định, dẫn tâm đến Tam Minh, quý vị thành tựu đạo giải thoát.

Nghĩa là chỉ cần tu Tứ Chánh Cần, thực hiện được trí tuệ, thực hiện được cái các pháp thiện, thì tâm của quý vị nó sẽ thanh tịnh. Và khi thanh tịnh đó thì quý vị mới “chỉ” được các hành ở trong thân của quý vị.

Mà “chỉ” được các hành ở trong thân thì quý vị thân tâm mới nhập định được, mà nhập định được thì quý vị mới hướng tâm đến Tam Minh, quý vị mới thành tựu được đạo giải thoát vô lậu.

Nó không đơn giản, mà chỉ bắt đầu vô từng pháp đã có những cái hiệu quả của nó. Cho nên chúng ta càng đi sâu thì chúng ta thấy pháp này nó bổ túc cho pháp kia.

Nhưng mục đích của nó là nhắm vào dứt ác mà tùng thiện, tăng trưởng thiện, để thực hiện được cái tâm thanh tịnh không còn một chút ác pháp trong đó. Do vì vậy đó mà nó mới “tịnh”, nó mới “chỉ” được các hành, làm chủ được sự sống chết ở trong thân của chúng ta.

10- PHÁP HÀNH TỪ BỎ LỜI NÓI XẤU ÁC

(41:26) 5. Quý thầy là những người tu sĩ đạo Phật, quý thầy phải giữ gìn chánh hạnh trong ngôn ngữ, quý thầy không được nói xấu ác, không được đặt điều ra nói xấu hoặc vu khống cho người.

Đó thì cái câu, về cái phần mà nói về ác xấu đó, nói về cái chánh hạnh của cái ngôn ngữ, thì nó có bốn cái phần, những cái phần trước thì quý thầy đã học rồi, bây giờ tới cái phần mà mình nói xấu người khác.

Mà cái người mà trau luyện giữ gìn cái chánh hạnh ngôn ngữ thì không được nói xấu ai. Người ta xấu thì người ta làm xấu, không được đặt điều ra nói xấu người khác, hoặc là vu khống người khác, người ta không làm điều đó mình nói người ta làm.

Thí dụ như người ta không ăn trộm, mình nói người ta ăn trộm, người ta không lấy của mình, mình nói người ta lấy của mình, thì điều đó là đặt ra, mình vu khống, vu oan người ta. Thì cái đó là cái người mà trau dồi cái chánh hạnh ngôn ngữ thì không được nói những cái điều đó.

Đây là pháp ác thứ năm quý thầy cần phải tu tập trau dồi tâm mình để đoạn dứt, từ bỏ, để được xa lánh cái tánh ác này.

Có nhiều người họ lấy cái sự mà nói xấu người hoặc là đặt điều ra nói xấu người, họ thích lắm, họ làm cái đó họ thấy thích thú lắm. Cho nên họ thường hay đem chuyện người này nói chuyện người kia, nói xấu người ta.

Thì cái đó là cái tánh xấu ác đó, cái ngôn ngữ đó, cái đó là không phải là chánh hạnh ở trong ngôn ngữ, mà đó là những cái ngôn ngữ tệ bại, những cái ngôn ngữ không có ra gì.

“Đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết là một điều ác, làm cho người khác đau khổ. Ta phải dứt trừ, từ bỏ, viễn ly tật xấu ác này!”

Đây là cái câu hướng đây.

“Đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết là một điều ác, làm cho người khác đau khổ. Ta phải dứt trừ, từ bỏ, viễn ly tật xấu ác pháp này!”

(43:25) Câu 2:

“Đặt điều ra nói xấu người là một pháp ác, là một tánh xấu tệ của ta. Ta phải dứt trừ, ta phải từ bỏ, từ bỏ như bệnh cùi!

Đó là câu thứ 2 của pháp hướng

Câu thứ 3:

“Nói lời vu khống oan ức khiến người ta tức tối sanh ra tự tử, quyên sinh, hoặc oan ức tù tội tử hình, đó là một pháp ác, một pháp cực ác. Ta phải từ bỏ, dứt bỏ vĩnh viễn!”

Đó là cái câu 3.

Câu 4:

“Ta là tu sĩ đạo Từ Bi, thương khắp chúng sanh, nỡ nào đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết để cho người khổ sở, như vậy là ta làm mất Từ Bi, nên ta phải dứt bỏ tật xấu ác này vĩnh viễn!”

Đó là những cái điều kiện mà chúng ta cần phải dùng pháp hướng này để trau dồi và để dứt bỏ tâm chúng ta trong những cái ngôn ngữ thiếu chánh hạnh.

Câu 6:

“Ta là người trau dồi lòng thương khắp chúng sanh, nỡ nào ta đặt điều nói xấu người? Nói xấu người là một điều cực ác, như vậy ta không còn là con người biết thương chúng sanh. Vậy từ đây ta phải bỏ tật xấu này!”

Đó là một cái câu để chúng ta ngăn ngừa cái ngôn ngữ không được chánh hạnh.

“Vu khống, nói oan ức cho người là một hành động tà ngôn hạnh, giết người bằng gươm miệng, rất là ác độc!”

Đó, mình vu khống người ta, đó là mình giết người ta bằng cái lưỡi gươm miệng của mình, cho nên mình phải dứt bỏ.

“Người tu sĩ đạo Từ Bi thương khắp chúng sanh, ta phải dứt trừ vĩnh viễn tà hạnh ngôn ngữ này để thực hiện lòng thương yêu phủ trùm vạn hữu!”

Đó thì cái câu này là cái câu trau dồi tâm thương yêu của chúng ta.

(45:20) Ở đây quý thầy nhớ kỹ lấy những câu trạch pháp này làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để thường xuyên dứt bỏ và trau dồi lòng thương yêu chúng sanh rộng lớn, phải nghiêm chỉnh tu tập đừng để thất niệm, có như vậy quý thầy mới chứng được đạo quả Bồ Đề.

Đó thì, đến cái phần này là chúng ta dứt được bốn cái khẩu nghiệp mà nó không chánh hạnh, cho nên phải cố gắng mà trau dồi. Người ta tai họa mà xảy ra đều do cái miệng lưỡi của chúng ta mà ra.

Cho nên hầu như quý thầy không thấy cái hạnh độc cư, vì hạnh độc cư nó giúp cho quý thầy ngăn chặn được bốn cái điều xấu ác của cái miệng của chúng ta. Người mà làm thinh thì không bao giờ mà có xảy ra cái bốn cái ác khẩu này, mà người hay nói chuyện thì luôn luôn sẽ xảy ra bốn cái ác khẩu này.

Nghĩa là nói nặng nói nhẹ người, rồi từ người này, từ người kia, thì đó là những cái ác khẩu chớ không phải là những cái thiện khẩu. Vì thiện khẩu thì thương yêu nhau làm sao có từ giã nhau, làm sao mà có từ khước nhau, đó là những cái điều ác khẩu.

Cho nên ở đây những cái người dùng ác khẩu thì chúng ta đều biết là người nhiều chuyện, hay nói chuyện, mà người không dùng ác khẩu thì người không nói chuyện, mà không nói chuyện tức là độc cư.

Dù các thầy có nói lời lành đi nữa, nhưng lời lành đó chưa hẳn đã là lành, vì trong đó hàm ý có những gì cá nhân của mình trong đó, mà có những lời nói có cá nhân trong đó chắc là không phải lành.

Quán xét cho cùng chúng ta thấy lời nói là một tai hại rất lớn cho loài người, nếu mọi người không nói thì chắc chắn là cảnh giới ở thế gian này là có thể gọi là thiên đàng.

Lời nói là để biểu diễn ý nghĩ của chúng ta nhưng ý nghĩ sao lại là thương lại là tốt; mà lời nói làm cho mọi người hiểu được ý nghĩ ta mà làm cho đau khổ thì đó là cảnh giới thế gian này trở thành địa ngục.

11- PHÁP HÀNH TỪ BỎ LỜI NÓI HUNG DỮ

(47:24) 7. Lời nói hung ác là lời nói dữ tợn làm cho người ta khiếp sợ, chửi rủa, mạ nhục, lời nói nạt nộ làm cho người ta khiếp đảm, hăm dọa, đe dọa, nói chung là lời nói hung dữ làm cho chúng sanh sợ hãi đó là một lời nói tội ác rất lớn, khiến cho ta sợ hãi, bất an.

Vì thế chúng ta là những người tu sĩ đạo Phật luôn luôn phải giúp chúng sanh đừng sợ hãi, phải cho họ những lời nói, những hành động vô uý khiến cho họ không sợ và được an ổn vui mừng.

Muốn được ban vui cứu khổ, phò nguy cho chúng sinh thì ta phải luôn luôn tu tập dứt bỏ lời nói hung dữ.

“Lời nói hung dữ là lời nói cực ác làm cho chúng sanh sợ hãi. Ta hãy mạnh dạn quyết tâm từ bỏ, xa lìa, đoạn dứt lời nói hung dữ!”

Đó là câu hướng tâm thứ nhất.

Câu hướng tâm thứ hai:

“Từ đây về sau ta không được to tiếng, lớn tiếng bất kỳ với ai, vì to tiếng, lớn tiếng là lời nói hung dữ. Ta phải dứt bỏ và từ giã nó để chúng sanh không còn sợ hãi nữa!”

Đó là câu hai.

Câu ba:

“Ta là người tu sĩ đạo Phật phải biết thương người, cớ sao ta lại dùng lời nói hung dữ để làm cho mọi người sợ hãi? Từ đây thương người, ta không được nói lời hung dữ nữa!”

Đó là câu ba.

Câu bốn:

“Tâm ta luôn luôn thương khắp chúng sanh, ban rải lòng Từ khắp cùng, không làm cho chúng sanh sợ hãi. Vậy ta phải luôn luôn có những lời nói ôn tồn, nhã nhặn, từ hòa, sáng suốt, đúng thời!”

Đó là câu bốn.

12- DÙNG PHÁP HƯỚNG HỢP THỜI, HỢP LÝ, HỢP SỨC KHỎE

(49:05) Này quý thầy, quý thầy phải siêng năng dùng những câu pháp hướng này, đã trạch pháp tốt đẹp, cứ tùy theo pháp, tùy theo tâm, tùy theo sức mà nỗ lực tu tập trau dồi cho đúng cách.

Đến đây thì Thầy nói cho quý thầy thấy, bây giờ mình đặt ra rất nhiều, nhưng mình phải lựa câu nào cho hợp với mình, rồi tùy cái sức khỏe của mình.

Chớ không phải điên khùng mình thấy câu nào rồi cũng ngồi liên tục ngồi mà trau dồi, ngồi mà hướng tâm mà nhắc thế này thế khác. Ngồi riết quý thầy - cơ thể của quý thầy mỏi mệt, rồi quý thầy đâm ra ác pháp ở trong đó chớ không phải là thiện pháp nữa.

Cho nên chúng ta thí dụ như chúng ta lượng cái sức của mình, mỗi ngày chúng ta dùng một câu hoặc hai câu cũng đủ lắm rồi, đâu cần phải tu cho nhiều? Tu mà có vừa sức với nó chúng ta mới thấy có sự an lạc. Tu quá điên đầu, tu muốn tu cho mau thành Phật, thì cái chuyện đó là cái chuyện sai.

Chúng ta trau dồi đâu có nghĩa là trau dồi trong một bữa? Muốn huấn luyện một con vật chúng ta cũng phải từ từ, năm tháng, ba tháng nó sẽ trở thành thuần thục.

Chớ chúng ta vội vàng nghe như vậy rồi ngồi li bì, rồi quán li bì, rồi ngồi li bì mà hướng lu bù, tu không biết cái cơ thể mình ra sao, không biết cái sức khỏe mình ra sao! Tu riết chán nản, tu hết muốn tu nữa! Đó là cái sai, cái không đúng,

Cho nên Thầy thường nhắc nhở là mình phải tùy theo sức, mỗi ngày mình chia ra mình tu một lần, hai lần là đủ rồi. Để cho mình được xả nghỉ, cho tâm hồn mình thanh thản, cho tâm hồn mình nó có sức gom lại.

Còn mình tu vừa gom đó, bây giờ gom nữa, gom riết, cái đầu óc nó đen tối, cái đầu óc nó rối loạn, cái đầu óc nó không còn bình tĩnh, sáng suốt nữa, nó mệt nhọc, nằm đâu thì nó muốn ngủ đó rồi. Thì tức là bây giờ nó từ cái sai này nó dẫn đi đến cái sai khác, cuối cùng thì quý thầy chẳng thấy đạo, mà lại thấy gần như mình muốn điên.

Nói thì nhiều nhưng chọn ra những câu đúng để mà chúng ta tùy theo cái căn cơ của mình mà lấy những câu pháp hướng đó mà tu tập cho chín chắn, và nó phải hợp thời, hợp lý, hợp sức khỏe.

Đó những cái điều này Thầy chú ý quý thầy rất nhiều. Vì quý thầy có nhớ kỹ như vậy thì quý thầy trau dồi, tu tập thì nó mới có kết quả lớn.

(51:09) Đây Thầy nhắc lại:

Này quý thầy, quý thầy phải siêng năng dùng những câu pháp hướng này, để trạch pháp tốt đẹp, cứ tùy theo pháp, tùy theo tâm, tùy theo sức mà nỗ lực tu tập trau dồi cho đúng cách thì kết quả đến với quý vị cụ thể rõ ràng.

Vì quý thầy thường dùng pháp hướng nên pháp này có hiệu quả rất lớn.

Nghĩa là hàng ngày mình cứ dùng pháp hướng mình tu tập đó, cái hiệu quả của nó rất lớn. Vì pháp hướng là pháp dùng tinh thần mà để điều khiển, quý thầy lưu ý cái phần đó.

Còn bây giờ quý thầy mà vận dụng tập trung là quý thầy dùng cái sức tập trung, mặc dù nó có tinh thần tập trung thật nhưng mà nó ức chế. Và quý thầy còn phải dùng cơ để mà thở cách này cách khác, đó là cái sự ức chế, nó không phải đâu.

Còn dùng pháp hướng, chỉ chúng ta dùng tinh thần chúng ta hét lên một tiếng rồi chúng ta thản nhiên như thường, cho nên nó không có kéo dài cái sự tập trung, cho nên nó không ức chế ai hết, mà ra lệnh.

Mà cái sức tinh thần ra lệnh nó mạnh hơn cái sức ức chế của chúng ta nhiều. Cái sức tập trung chúng ta nó càng ngày nó làm cơ thể chúng ta mất đi sức khỏe, và nó không có đạt đến cái độ cao cũng như cái sức tinh thần của chúng ta.

Cho nên khi mà pháp hướng quý vị mà tu tập như vậy, sau này cái pháp hướng nó rất là hiệu quả. Mà nó rất hiệu quả thì tới chừng mà quý thầy muốn nhập định, quý thầy chỉ cần ra lệnh là nó đã nhập định. Bảo nó: “Các hành phải ngưng! Hơi thở phải ngưng!” là nó ngưng liền, thì quý thầy sẽ nhập được Tứ Thiền liền.

Vì quý thầy thường dùng pháp hướng nên pháp này có hiệu quả rất lớn về sau là quý thầy chỉ cần hướng tâm là quý thầy đã nhập định Tứ Thiền tức khắc, không phải chờ đợi tu tập lâu dài.

Cho nên quý thầy nghe ở trong kinh điển Phật dạy: Có nhiều người họ tu quét sạch cái vô lậu của họ thôi, mà họ dùng pháp hướng, pháp tùy thôi, chỉ có pháp mà thí dụ như trên thân quán thân họ thôi, rồi họ dùng cái pháp hướng như vậy, cuối cùng họ theo nương theo cái pháp tùy của Tứ Niệm Xứ hay hoặc là Tứ Vô Lượng Tâm, họ dùng như vậy.

Sau đó cái pháp hướng nó hiệu quả, cho nên đến khi mà vô Tứ Thiền thì họ chỉ ra lệnh, ra lệnh là họ đã nhập Tứ Thiền. Cho nên trong vòng một tuần lễ hay hoặc là nửa tháng là cái họ đã nhập Tứ Thiền.

Mình thấy trời ơi, sao mình tu lâu quá, mà vô Tứ Thiền vất vả vô cùng. Còn sao mà quý vị Tỳ Kheo trong thời đức Phật sao họ tu dễ vậy? Đó là tại vì mình tu không đúng cách, chớ không phải là nó khó.

Tại vì pháp hướng là cái pháp truyền lệnh của cái tinh thần rất mạnh, còn cái pháp của mình đang tu đây là mình ức chế tâm của mình để mình vào Bốn Thiền cho nên nó rất khó khăn, nó đâu phải dễ.

13- KẾT HỢP TU TẬP TỨ VÔ LƯỢNG TÂM VÀ TỨ CHÁNH CẦN

(53:32) Để làm sáng tỏ sự tu tập, trau dồi các hành động thân, tâm của quý vị đi về hướng thiện pháp thì quý vị cần phải lưu ý bài kệ này để quý vị thực hiện Từ Vô Lượng Tâm và Tứ Chánh Cần cho được viên mãn.

Đây bây giờ Thầy sẽ đọc cái bài kệ này để quý thầy biết được từ cái Tứ Chánh cần với cái Từ Vô Lượng Tâm, hai cái nó kết hợp để nó thành ra một cái bài kệ mà chúng ta theo đó mà chúng ta tu tập các thiện pháp:

Từ tình thương ta được sanh ra

Quý thầy thấy, nếu mà cha mẹ mà không thương nhau làm sao mình có mình đây? Cho nên từ cái tình thương cha mẹ thương ra mình mới sinh mình ra.

Bây giờ:

Do tình thương ta được nuôi lớn.

Nếu mà cha mẹ sanh con ra mà không thương thì quăng nó ngoài đồng chớ làm gì mà nuôi? Ôm ẵm nó còn bé bỏng như vậy nó quá là cực khổ chớ đâu phải!

Bây giờ thử hỏi quý thầy ẵm con người ta mà nuôi đi, quý thầy nếu mà không thương quý thầy ôm ẵm nổi không? Rất là vất vả cực khổ. Cho nên cũng do tình thương mà ta được nuôi lớn.

Có tình thương ta sống chan hòa.

Quý thầy thấy rõ. Nếu mà chúng ta không có tình thương thì chúng ta chưa sống với vạn hữu đâu, cho nên Từ, Bi, Hỷ, Xả đó là cái tình thương của chúng ta để sống chan hòa với vạn hữu. Cho nên chúng ta phải tập luyện nó chớ không thể nào tự dưng mà nó có được cái tình thương đó được!

Nhờ tình thương chúng ta giải thoát.

Vì chúng ta thực tập như vậy đó, do đó cái tình thương chúng ta đối với các pháp chúng ta được giải thoát, không còn bị chướng tâm, không có bị chướng ngại nữa.

Đó thì, trong một cái tình thương, cái tình thương đó mà chúng ta ở đây nó có một cái bài kệ: Từ - Do - Có - Nhờ; bốn cái chữ Từ - Do - Có - Nhờ mà chúng ta được giải thoát. Nếu chúng ta thiếu thì chắc chắn là chúng ta không giải thoát.

Nếu bây giờ không có từ tình thương cha mẹ sanh ra thì chúng ta có con người đâu mà tu tập, phải không? Cho nên Phật gọi là cái người mà sanh mình ra đó là đại bố thí.

Bây giờ do tình thương ta mới được nuôi lớn. Nếu mà không có tình thương của cha mẹ thì làm sao nuôi lớn. Do đó: “Công cha như núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.” Có cái ơn nào mà bằng cái ơn sanh thành, dưỡng dục đâu? Cho nên đó là một cái lớn, cái đại bố thí của chúng ta.

Rồi bây giờ chúng ta muốn cho được cái sự an ổn, cái sự hạnh phúc, sự an vui, sự giải thoát nơi tâm hồn của mình, thì mình phải tu tập rèn luyện cái tình thương đó thì mình mới sống hòa tan được với trong vạn hữu, với mọi người.

Còn bây giờ quý thầy đâu có thương, quý thầy thương quý thầy á, cho nên đụng ai quý thầy cũng xạc hết à, cũng mắng, cũng chửi người ta được hết, thì như vậy là có hòa chan với cái sự sống với ai không?

Đó. Cho nên chúng ta phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm. Mà tu tập Tứ Vô Lượng Tâm mà không có dứt bỏ các pháp ác thì làm sao mà thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm? Cho nên phải có Tứ Chánh Cần.

Các thầy thấy cái câu ở dưới, chúng ta thấy: Hai câu ở dưới chúng ta thấy con đường tu chúng ta rất rõ.

Rồi nhờ tình thương chúng ta mới giải thoát. Do đó chúng ta mới thấy được con đường giải thoát chúng ta cho đến khi đó tâm bất động trước mọi cảnh mà. Mục đích của đạo Phật là như vậy, nó trước mọi cảnh chớ đâu phải do thiền định, đâu phải do cái gì!

Đó là cái chỗ mà chúng ta đã thấy được bốn câu kệ này để chúng ta theo đó mà chúng ta tu tập Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Chánh Cần. Cho nên một cặp pháp này phải song song với nhau, theo nhau mà tu tập.

(56:43) Theo bài kệ này quý thầy phải hiểu:

Từ tình thương của cha mẹ thương nhau mới sanh chúng ta, chúng ta mới có ra đời, ơn rất nặng, nên Phật gọi cha mẹ là đại bố thí.

Do tình thương chúng ta được nuôi lớn: Khi sinh chúng ta ra, cha mẹ thấy mặt ta tự nhiên có một lòng thương con hơn thương một vật gì khác trên đời này, nên tận tụy, hy sinh mình nuôi con. Cha chịu vất vả dầm sương dang nắng, làm cực khổ để nuôi dưỡng con. Mẹ ăn đắng nằm cay, chịu ướt chịu hôi, chịu thúi, để con được lớn khôn, nên người.

Biết bao kể xiết công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Chỉ vì lòng thương mà chẳng bao giờ than thân trách phận, chỉ thấy con mạnh khỏe, an vui là sung sướng nhất cho mình. Vì lòng thương cha mẹ phải vượt qua những nỗi nhọc nhằn, những nỗi khổ đau.

Có tình thương ta sống chan hòa.

Vì tình thương có hai loại,

Ở đây tới chỗ này chúng ta mới phân biệt, hai câu dưới này chúng ta phân biệt để chúng ta thấy có hai cái loại tình thương:

Có tình thương ta sống chan hòa

Vì tình thương có hai loại

1. Loại thương hạn hẹp - thương cá nhân mình, do tình thương này mà tạo ra muôn ngàn thứ đau khổ cho mình, cho người.

Tình thương này gọi là tình thương ích kỷ, tình thương nhỏ mọn, tình thương hạn hẹp chỉ biết thương mình, chẳng biết thương ai.

Đó, cái tình thương đó là tình thương rất là nhỏ, chỉ có lo cho mình thôi. Như nhà vua mà nói thương bà hoàng hậu, mà bà đi với ai thì nhà vua giết bà đó. Đó là thương ích kỷ, thương nhỏ đó, chớ không phải thương lớn đâu.

(58:34) 2. Tình thương rộng lớn: Từ Bi Vô Lượng…​

Đó là Tứ Vô Lượng Tâm đó. Là tình thương rộng lớn đó.

…​ là tình thương rộng lớn vô tận vô cùng, tình thương này giải thoát cá nhân thoát khỏi bản ngã con người, tình thương bao la vô bờ bến.

Nó làm chúng ta thoát ra khỏi cái cá nhân của mình, cái ích kỷ của mình.

Hai câu trên là tình thương hạn hẹp…​

Nghĩa là thương cha mẹ, thương con, thương này kia mà thương mà sanh ra, đó là tình thương hạn hẹp đó.

…​ nhưng nó cũng xuất phát từ lòng thương, lòng thương yêu này là lòng thương yêu vô minh…​

Phải xét thấy cái đó là lòng thương yêu của hạn hẹp, đó là lòng thương yêu vô minh.

…​ không thấy xa nên thương mà khổ, gói ghém trong ích kỷ. Nhưng cũng nhờ có tình thương mà ta mới có mặt trên hành tinh này.

Nghĩa là, dù nó hạn hẹp, nhưng nó có tình thương chúng ta mới có cái sự hiện hữu ở trên cái hành tinh này.

Từ tình thương cá nhân nhỏ hẹp này ta chuyển biến, trau dồi lần lần tình thương này bằng một cái trí tuệ minh mẫn, thoát ra ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp hòi, từ đó biến tình thương này trở thành tâm Từ Bi Vô Lượng.

Đó, từ cái tình thương đó. Bây giờ chúng ta thấy có hai tình thương có khác nhau không? Nhưng mà chúng ta biến dần, biến dần làm cho chúng ta sáng suốt ra, không còn vô minh nữa, cho đến chúng ta dẹp được những cái ích kỷ nhỏ mọn của chúng ta, thì từ đó cái tâm Từ Bi Vô Lượng của ta nó sẽ thực hiện rộng lớn ra.

(01:00:02) Khi đã thấm nhuần lòng Đại Từ Bi Vô Lượng này thì tâm hồn ta bất động trước vạn pháp…​

Các thầy thấy chỉ có tu Tứ Vô Lượng Tâm không, tu cái Tứ Chánh Cần không, mà bất động trước vạn pháp, thì đó là mục đích của đạo Phật rồi, còn phải tu cái gì nữa.

Như vậy lúc bấy giờ chúng ta có định không? Có! Tại sao? Tại vì chúng ta có cần gì tu nó đâu, chúng ta chỉ cần dùng pháp hướng mà ra lệnh “Các hành ngưng!” là chúng ta đã làm chủ cái sống chết, thì nhập Tứ Thiền rồi!

Và đồng thời thì lúc bấy giờ chúng ta - bởi vì cái pháp hướng nó có hiệu quả, nó là cái sức lực của tinh thần của chúng ta đã từng tập trau dồi những cái này mà nó thành tựu được cái pháp này - thì lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần ra lệnh, chúng ta có tập tu gì Tứ Thiền đâu!

Cho nên trong khi nghe các thầy Tỳ Kheo chỉ trong vòng hít thở có mấy cái là các thầy đã nhập Tứ Thiền, trong một ngày, hai ngày hay hoặc một đêm mà người ta đã nhập Tứ Thiền.

Mà nhập Tứ Thiền xong, thì ông A Nan ổng chứng đạo xong thì ổng khỏi cần mở cửa hang ổng cũng chui vô được, ổng bay vô được. Thì các thầy thấy đó là ổng phải câu hữu Tứ Như Ý Túc sao? Cái chuyện mà ở đây quá thật chớ không phải là cái chuyện nói dối đâu. Đó là cái chuyện trên thân khi mà cái pháp hướng mà đã hiệu quả.

Bởi vì cái mục đích chúng ta là tu tập cái pháp hướng chớ không phải tu tập cái ức chế, mà tu tập ức chế nó sẽ trở thành thiền tà, thiền bậy, không đúng.

Ngồi đây mà giữ tâm không vọng tưởng là ức chế, ngồi đây mà nhiếp tâm trong hơi thở để đè nén tâm không vọng tưởng là ức chế, cái đó sai. Bởi vì do ly dục, ly bất thiện pháp là tâm chúng ta thanh thản, là định, chớ đâu có gì khác hơn!

Mà khi tâm thanh tịnh, định, thì tức là chúng ta điều khiển pháp hướng, thì làm gì cái gì không ngừng? Một thân biến ra muôn thân thì cái đó là dùng pháp hướng chớ gì? Vì chúng ta Dục Như Ý Túc, cái muốn của chúng ta muốn như thế nào, bây giờ chúng ta muốn cái thân này phải ngưng thở thì nó ngưng thở.

Thì các thầy có cần gì mà phải rèn luyện hằng ngày, phải nhắc phải ngưng, ngưng đâu! Còn bây giờ chúng ta ở trên cái hơi thở mà cứ “Ngưng! Ngưng!” hoài mà nó có ngưng được đâu?

Đó là cái tu sai không có đúng cách. Bây giờ Thầy nhắc trở lại để cho quý thầy thấy con đường của đạo Phật là nhắm cái chỗ nào? Cái chỗ tâm thanh tịnh. Mà thanh tịnh thì ác pháp phải lìa, mà ác pháp còn, tâm ham muốn còn thì không bao giờ gọi là thanh tịnh.

…​ sống chan hòa cùng muôn loài vạn vật cỏ cây bên nhau, thương yêu thắm thía: “Có tình thương ta sống chan hòa.”

Lúc bấy giờ tình thương đó luôn luôn ngự trị trong tâm ta, khiến tâm ta thanh tịnh và an lạc, không còn ô nhiễm các pháp thế gian, do thế ta “chỉ” các hành trong thân, nhập định ngay tức khắc, làm chủ được sống chết.

Và cũng từ nơi tâm thanh tịnh, an lạc đó ta hướng tâm đến Tam Minh, thế là Phạm hạnh đã xong, không còn trở lui cuộc đời này nữa.

“Nhờ tỉnh thương chúng ta giải thoát” - hai câu cuối cùng chỉ cho tình thương rộng lớn. Câu trên chỉ cho sự trau dồi tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả Vô Lượng, câu dưới chỉ cho tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả viên mãn được đạo giải thoát.

Bây giờ quý thầy tiếp tục tu tập dứt trừ các pháp ác và trau dồi các pháp thiện.

Như hồi nãy chúng ta đã học tập và trau dồi pháp ác và trau dồi pháp thiện thứ bảy. Kế, trau dồi pháp thiện thứ tám và dứt bỏ pháp ác thứ tám.

Đó, hồi nãy chúng ta mới trau dồi được cái thứ tám, rồi chúng ta đọc cái bài kệ. Cái bài kệ để chúng ta biết rõ từ cái tình thương ích kỷ rồi biến dần, biến dần tu tập nó tới cái tình thương rộng lớn - tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả rộng lớn của vô lượng.

Rồi từ đó chúng ta mới thấy được cái mục đích của thiền định là không có tập thiền định chút nào hết, chỉ có dùng pháp hướng mà chúng ta đã nhập thiền định, và từng đó chúng ta câu hữu tất cả những gì mà chúng ta muốn là nó có theo ý muốn của chúng ta, tức là Dục Như Ý Túc.

14- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT TÂM THAM

14.1- THAM DỤC LÀ NGUỒN GỐC KHỔ CỦA LOÀI NGƯỜI

(01:03:41) Bây giờ đến cái phần chúng ta học về đây là về phần ý, về phần cái ý của nó.

Ý nó có ba cái pháp ác, do đó ý có ba pháp ác thì chúng ta phải xem cái pháp ác nào trước của nó.

8. “Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó thường khiến ta ham muốn nhiều.”

Đó là bây giờ cái tham lam này là cái dục đó, quý thầy sẽ thấy tới đây là cái bài mà phân tích ra cho thấy được từng khía cạnh của cái tâm tham của chúng ta. Thầy sẽ phân tích ra cho quý thầy thấy.

Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó khiến ta ham muốn nhiều, thấy cái gì cũng muốn. Do sự ham muốn này, đầu tiên là ta đã tự tạo cho mình khổ, kế đến là tạo cho người khác khổ.

Vì mình ham muốn - đầu là mình ham muốn cái này cái kia là nó đã tạo cho mình khổ rồi, phải chạy theo nó, phải làm cho có tiền có bạc để sắm ra nó. Muốn cái này, muốn cái kia, thì cái nào nó cũng tạo cho chúng ta khổ.

Rồi do đó mà không có tiền có bạc thì sanh ra mới trộm cướp, mới lấy của người, mới biển thủ, mới làm cái này cái kia để cho gian lận ở trong đó mới có ra mà sắm những cái ham muốn đó.

Đó là những cái tội ác đó, tuần tự đó do cái tâm tham này mà nó sanh ra biết muôn vàn cái thứ tội ác không. Tất cả những cái gì ác là nó làm sạch hết.

Phật gọi tâm ham muốn này là dục, là nguồn gốc khổ của loài người.

Đó, thì cái tâm ham muốn là cái nguồn gốc khổ, nó tập hợp tất cả những cái pháp ác lại để nó thực hiện được cái ham muốn của nó, cho nên nó là nguồn gốc khổ.

Vậy chúng ta hãy truy ra coi từ đâu mà có dục?

Mình phải truy ra coi ở đâu mà nó sanh ra cái dục này?

Coi từ đâu mà có tham lam?

Đó, phải truy ra. Nếu mà không truy ra thì chúng ta nghe nói dục thì chúng ta chẳng hiểu nó ở đâu hết, chỉ nó ở trong bụng của mình nó ham muốn là ham muốn.

Cho nên mình không biết cái gốc của nó thì làm sao mình đốn được cái gốc. Mình phải biết được cái gốc, rồi cái gốc nó đi ra như thế nào, rồi từng đó chúng ta phải chặt tỉa như thế nào để tới cái gốc mới là đốn sạch nó mới được.

Như Phật đã dạy, do duyên Thủ mà gồm có…​

Thủ là mình giữ lại đó. Bây giờ giữ cái bàn, cái ghế cái này cái kia, nó do cái duyên đó mà nó mới có ra cái gì? Thì nó mới có là:

…​ Dục Thủ;

Mới muốn giữ đó, nó mới - mình muốn có cái này cái kia thì tức là nó có cái Dục Thủ ở trong đó.

…​ Hai là Kiến Thủ;

Những cái hiểu biết của mình cái gì đó là mình giữ lại. Thì khi mình giữ lại, thì:

Ba:

Thì nó mới có:

…​ Giới Cấm Thủ;

Giới Cấm Thủ là nghĩa là cái đó là có giới hạn rồi đó, nghĩa là ai mà chạm đến thì không được đó. Đó. Thì đó là, lần lượt mình sẽ triển khai ra tất cả những cái này để cho mình thấy được cái chỗ mà mình có cái tham, cái dục như thế đó.

Bốn: Ngã Chấp Thủ.

Bây giờ đó từ cái chỗ đó nó có xây xung quanh rồi đó, xây xung quanh của mình đồ đạc này kia rồi, bắt đầu từ đó cái đó là của mình rồi đó, thì tức là có cái ngã chấp rồi.

(01:06:30) Do cái chấp thủ này gồm có ba loại Hữu.

Do cái chấp thủ đó đó, mà Đức Phật chia nó ra làm có ba loại Hữu của nó, bởi vì Thủ rồi nó mới có Hữu. Cho nên nó do cái chấp thủ đó nó mới - do bốn cái chấp thủ này thì nó mới có sanh ra ba cái Hữu, ba cái loại Hữu. Vậy thì:

Một - Dục Hữu, hai là Sắc Hữu, ba là Vô Sắc Hữu.

Đó nó chia ra làm như vậy.

Dục Hữu là cái lòng muốn có của mình, nó mới có sanh ra cái lòng muốn có của mình.

Rồi Sắc Hữu là cái vật có, nó sanh ra mình có.

Vô Sắc Hữu là những cái vật không có, mà mình tưởng ra, để rồi mình chạy theo nó, là Vô Sắc Hữu.

Do Hữu mới có cái Ái.

Đó, bây giờ mới sinh ra cái Ái.

Ái thì gồm có sáu cái:

Đó, nó đi tuần tự, tuần tự rồi các thầy sẽ thấy nó tới cái chỗ nào đây. Nó đi từng phần, từng phần để mà chúng ta sẽ thấy.

Ái thì gồm có sáu cái:

1. Sắc Ái;

Bây giờ đó mình thấy cái hình sắc cái bàn cái ghế này cái mình thích, đó là Sắc Ái.

2. Thanh Ái;

Mình nghe âm thanh mình thích.

3. Hương Ái;

Mình nghe cái mùi hương thơm mình thích.

4. Vị Ái;

Mình ăn miếng gì ngon ngọt mình thích.

5. Xúc Ái;

Mình chạm mình nghe êm ái, thích thú, thì đó là Xúc Ái.

6. Pháp Ái.

Mình nghe cái gì mà vừa tai, nghe cái gì mà nó thích thú ở trong lòng của mình, cái đó là mình - thí dụ như người ta nói có một cái vật gì thường hằng, hoặc là có một cái gì đó hay hoặc là có cái thế giới Cực Lạc Tây Phương nào đó, cái mình nghe mình nghĩ rằng mình chết đi mình cũng về sanh đó đó, thì đó là cái Pháp Ái.

Cho nên nghe cái đó rồi mình chấp cái đó đi, mình cho đó là nữa mình chết, mình về đó mình sanh mình sung sướng như vậy, mình thích thú như vậy, ở đó là nhà cửa, lầu đài hay hoặc là ăn uống gì đầy đủ như cõi Cực Lạc vậy, thì do đó là mình bị Pháp Ái.

Do Ái mà sanh ra Thọ.

Đó, có Ái thì nó mới sanh ra cái Thọ.

Thọ gồm có sáu Thọ:

Đó lần lượt mình truy ra, để cho thấy được cái chỗ nào đó đặng mình biết được cái gốc của nó mình đoạn dứt:

1. Nhãn xúc sở sanh Thọ

Cái mắt của mình đó, nó chạm vào một cái vật gì đó, như bây giờ Thầy thấy cái đồng hồ đây, thì tức con mắt Thầy chạm vào đó, thì nó sanh ra cái Thọ, nó sanh ra cái Thọ tức là nó muốn cái vật đó.

(2. Nhĩ xúc sở sanh Thọ)

Nhĩ xúc nó sở sanh ra Thọ - cái lỗ tai mình nó tiếp xúc với cái âm thanh, nó sanh ra cái Thọ, cái Thọ thích cái âm thanh đó.

(3. Tỷ xúc sở sanh Thọ)

Tỷ xúc nó sanh ra Thọ - cái tỷ là cái lỗ mũi mình, thì nó xúc với cái hương thơm, thì nó mới sanh ra cái Thọ hương thơm.

(4. Thiệt xúc sở sanh Thọ)

Thiệt xúc thì nó sở sanh ra cái Thọ, thì thiệt - cái lưỡi của mình mà nó chạm xúc với cái đồ ăn, nó thấy ngon, thì nó sanh ra cái Thọ ngon.

(5. Thân xúc sở sanh Thọ)

Thân xúc nó sở sanh ra Thọ - Cái thân xúc của mình nó chạm vào cái chỗ êm ấm, hay hoặc là nóng mát, nó sanh ra cái Thọ biết nóng, mát, biết êm ấm, đó là nó sanh ra cái Thọ.

(6. Ý xúc sở sanh Thọ)

Ý xúc sở sanh ra Thọ - cái ý của mình nó tiếp xúc với các pháp thì nó sanh ra: Cái đó là pháp đúng, pháp sai, cái đó là pháp thiện, pháp ác, thì đó nó sanh ra cái Thọ đó.

Thì như vậy chúng ta đã thấy lần lượt nó đã sở sanh ra những cái Thọ như vậy.

(01:09:43) Do có Thọ mà sanh ra Ái.

Có mười một duyên kế tiếp để tạo thành ác pháp, bất thiện pháp trong thế gian này.

Đây bây giờ chúng ta thấy từ cái Ái này nó sẽ tiếp tục nó sinh ra các cái pháp mà nó - mười một cái duyên kế tiếp để sanh ra các ác pháp, mà bây giờ chúng ta đang tu tập để trừ các ác pháp đó - các ác pháp trong thế gian đó. Tu tập Tứ Vô Lượng Tâm nè, tu tập Tứ Chánh Cần nè, để diệt trừ các pháp ác này.

Vậy thì chúng ta biết ở đâu mà nó sanh ra các pháp ác này? Thì do cái Ái mà chúng ta sanh ra các pháp ác.

Bởi vì tất cả những cái Ái này mà nó sanh ra - do đó nó mới sanh ra Thọ. Nó sanh ra Thọ vì vậy mà đến đây thì chúng ta biết: Do có Thọ mà sanh ra các pháp pháp Ái. Như vậy thì chúng ta sẽ tiếp tục để cho thấy được do cái duyên nào mà nó sanh ra cái gì đây.

Ái thì nó có mười một cái Ái:

1. Do duyên Thọ mà có Ái sanh.

Đó: “Do duyên Thọ mà có Ái sanh.” Bắt đầu mình thấy cái Thọ nó mới có cái Ái nó sanh ra. Phải không. Mà mười một cái điều kiện mà nó sanh ra để chúng ta biết được, nó xảy sanh ra như thế nào mà cho đến khi nó thành ra các ác pháp đây, các bất thiện pháp đây?

Hai là:

2. Do duyên Ái mà có tìm cầu.

Có cái Ái là có cái ưa thích của mình rồi, thì ưa thích - bây giờ Thầy ưa cái đồng hồ Thầy phải tìm cầu cho có cái đồng hồ, Thầy ưa thích cái máy này thì Thầy phải tìm cầu có cái máy này, Thầy ưa thích cái người phụ nữ thì Thầy đi tìm cầu cái người vợ, thì đó là phải đi tìm cầu.

Đó thì chúng ta thấy nó sanh ra, do cái Ái đó nó sanh ra đi tìm cầu, đi tìm cầu chỗ này, chỗ kia.

3. Do tìm cầu mà lợi sanh.

Do mình tìm cầu thì có cái lợi nó sanh ra. Lợi - hồi đó mình không có gì hết, bây giờ tìm cầu, rồi bây giờ mình tích lũy là có vợ, có con, có này kia đủ thứ hết, thì đó là tiền bạc, của cải tài sản, đó là những cái lợi nó sanh ra, rất nhiều.

(01:11:33) 4. Do lợi sanh ra thì phải tiêu dùng.

Bây giờ mình có tiền bạc thì mình phải dùng, có cái bàn này mình phải sử dụng cái gì, có cái nhà này phải làm như thế nào, phải xài nó như thế nào, phải sử dụng nó sao cho nó hợp, cho nó trang hoàng như thế nào để cho hợp với cái đời sống của mình, cho nên phải có sự tiêu dùng.

5. Do sự tiêu dùng mà sanh ra dục sanh.

Do cái sự tiêu dùng này, mình thấy nó thích thú nó mới - cái ham muốn của mình nó mới sinh ra. Đó, do cái sự ham muốn này bắt đầu nó mới có sự sanh ra. Cái kia thì ở trên nó mới có ái thôi, mà tới đây thì chúng ta mới thấy được cái dục.

Hồi nãy tham lam là dục đó, là lòng ham muốn của chúng ta. Bây giờ đó, do cái sự tiêu dùng này nó sanh ra cái ham muốn này, cái tham muốn này, cái tham lam này.

6. Do tham dục sanh thì đắm trước sanh.

Hễ có sự mà ham muốn thì cái dính mắc, đắm trước nó mới sanh. Thấy - do cái lòng ham muốn của mình nó mới thấy cái đồng hồ, mới thích, nó mới sanh ra đắm trước, nó mới dính đó, dính mới có mua về.

7. Do đắm trước sanh thì chấp thủ sanh.

Thì mới mua về mới giữ, tức là có giữ lại, tức là chấp thủ sanh.

8. Chấp thủ sanh thì hà tiện sanh.

Bắt đầu mình thấy: Từ cái chỗ mình hồi nào tới giờ thì mình chưa có hà tiện đâu, nhưng mà khi mà nó bị dính mắc rồi, thì bắt đầu người ta xin cái đồng hồ không cho đâu, tức là hà tiện tới rồi đó.

Rồi bắt đầu đó mình hà tiện nữa, thấy người ta đến mà người ta xin tiền, mình thấy, bởi vì mình chấp thủ, mình dính rồi, cho nên mình đâu có dám bỏ ra cho họ, cho nên hà tiện nó sanh.

9. Hà tiện sanh thì thủ hộ sanh.

Tức là khi mà hà tiện có rồi thi có cái sự giữ gìn bảo vệ nó, không có cho mất mát. Nghĩa là làm chín đồng, muốn kiếm thêm bỏ đồng nữa chớ chưa dám lòi ra ăn nữa. Đó là thủ hộ nó sanh.

10. Do thủ hộ sanh, một số bất thiện pháp, ác pháp sanh.

Đó, bắt đầu cái giữ gìn đó đó, mà muốn bảo vệ nó bằng cách này bằng cách khác, thì ác pháp nó bắt đầu nó sanh đó.

11. Do ác, bất thiện pháp sanh thì trượng kiếm, đao búa, gậy gộc, tranh đấu, tranh luận, đấu khẩu, ác khẩu, vọng ngữ sanh.

Đó tất cả những cái đó nó bắt đầu nó mới có, những cái thập ác đó, nó mới sanh ra.

Thì như vậy là quý thầy đã thấy được cái con đường đi của Đức Phật, vạch từ cái duyên này đến cái duyên khác mà để cho các pháp ác sanh ra.

14.2- SỐNG PHẠM HẠNH ĐỂ DIỆT TÂM THAM

(01:13:47) Vậy thì bắt đầu bây giờ chúng ta dứt trừ những cái pháp ác này, tức là chúng ta sẽ dứt trừ lần lượt, chúng ta dứt trừ các Ái, các Thọ của chúng ta đó.

Cho nên tới đó thì chúng ta sẽ, tất cả các Ái các Thọ chúng ta dứt thì cái duyên Sanh, Tử, Ưu, Bi, Sầu, Khổ chúng ta dứt chớ có gì! Mà đi từ cái chỗ nào? Đi từ chỗ các ác pháp này.

Mà chính ác pháp này là từ cái chỗ đó nó sanh ra tới ác pháp. Bây giờ chúng ta phải đốn sạch những cái ác pháp này, cho nên Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Chánh Cần là pháp cần thiết cho chúng ta để dứt các ác pháp.

Chúng ta biết rõ được cái gốc của nó, thì đi từ cái gốc đó mà chúng ta đốn dần thì cái cây này nó phải - cái cây khổ này nó phải tiệt, nó phải đoạn dứt, nó không còn khổ nữa.

Nếu mà không hiểu được như vậy thì chúng ta cứ tu lòng vòng lòng vòng ở đâu mà tưởng là dứt khổ, nhưng sự thật là không dứt khổ.

Vì chúng ta chưa biết nó là ác pháp, mà ác pháp là cái gốc khổ, chớ không phải là lòng ham muốn chúng ta là gốc khổ đâu. Tại vì lòng ham muốn nó mới có sanh ra ác pháp đây.

Đó. Vậy thì chúng ta đi từ cái chỗ mà tu Tứ Chánh Cần và Tứ Vô Lượng Tâm thì ác pháp nó sẽ dứt. Ác pháp sẽ dứt thì giải thoát dứt, sanh tử dứt.

Ở đây quý thầy cần phải hiểu: Do tiêu dùng mà tham dục sanh. Nếu tiêu dùng không có bất cứ loại nào thì tiêu dùng diệt, mà tiêu dùng diệt thì tham dục diệt, tham dục diệt thì sân diệt, sân diệt thì si diệt.

Biết rõ như vậy nên Phật dạy: Sanh đã đoạn thì Phạm hạnh mới xong, con người mới giải thoát.

(01:15:11) Tại sao vậy?

Đức Phật nói: Bởi vì đời sống - như quý thầy đã thấy cái lộ trình thứ hai mà Thầy đã vạch ra đó - đời sống của tu sĩ trắng bạch như vỏ ốc, tức là chúng ta đã, tiêu dùng đó đã diệt sạch rồi.

Vì chúng ta đâu có tiền bạc đâu mà tiêu dùng, muốn gì cũng đâu có được? Cho nên ngay đó là chúng ta đã “Sanh đã tận” rồi.

Đó thì, ngay đó chúng ta đã thấy được cái chỗ mà cái bước mà chúng ta đoạn dứt được cái pháp ác, là ngay cái đời sống của chúng ta phải là đời sống Phạm hạnh. Mà đời sống Phạm hạnh là cái đời sống không còn tiền bạc, tiêu dùng, không còn muốn gì được nữa hết.

Nghĩa là đi xin ăn rồi, bây giờ người ta cho ăn ngon thì ngon, ăn dở thì dở chớ không nói: “Cho tui vậy không được, tui ăn vậy là thiếu dưỡng chất, chết tui đi! Để tui tu không được thì mấy ông không có phước đâu! Cho tui ăn cho ngon, đặng tui tu cho được để có phước!” - thì cái đó là cái sai rồi.

Cho nên ở đây chúng ta phải đoạn diệt cho được cái tham dục của mình. Mà đoạn diệt cái tiêu dùng trước. Tiêu dùng - người tu sĩ thì không còn tiêu dùng nữa rồi. Ba y một bát, thiểu dục tri túc rồi còn cái gì nữa tiêu dùng?

Không có thì chúng ta đến xin Phật tử. Chúng ta đến xin họ có cho là họ cho mà không cho thì chúng ta cũng chịu thôi.

Về thí dụ cái y này rách rồi, mà nó đã mục rồi, mà đến xin người ta nói: “Bây giờ tui chưa có để hôm nào tui có tui sẽ cúng dường cho thầy, bây giờ thì tui chưa có!” Thì mình cũng thôi, về chắp vá lại mà mặc đi, để cho kín thân chớ đừng để lõa lồ thôi, chớ cũng chưa có dám đòi hỏi ai nữa hết. Đó là mình đâu có tiêu dùng được, mình đâu có muốn được!

Còn bây giờ các vị có tiền, đâu có: “Cái này rách, thôi bỏ đi, đi ra chợ mua, may, sắm cái khác, chớ để gì mà để rách rưới như vậy?” Còn mình không có nữa thì đâu có tiêu dùng được, cho nên vì vậy mà phải chắp vá lại mà sống. Đó là đời sống của tu sĩ như vậy.

Cho nên trong cái thời Đức Phật, các thầy thấy bảy, tám mươi tuổi, các vị Tỳ Kheo trong cái thời đó bảy, tám mươi tuổi đi lụm cụm mà vẫn phải đi xin ăn, chớ không được cái người Tỳ Kheo khác mà xin về cho cái vị đó ăn.

Cho nên nghe qua những cái bài kệ của Trưởng Lão Ni Kệ hoặc Tăng Kệ chúng ta thấy sao mà cái đời tu sĩ lúc bấy giờ - lẽ ra thì họ nhập diệt cho rồi, chớ để chi lê thê mà đi xin quá khổ như vậy!

Mà đi đường non núi nữa, quá vất vả, phải nương cây gậy lụm cụm mà đi xin ăn. Bởi vì người ta đã thấy cái nhân quả của người ta, người ta vui vẻ để người ta trả chớ không phải người ta không thấy.

Biết rõ như vậy nên Phật dạy: Sanh đã đoạn thì Phạm hạnh mới xong, con người mới giải thoát.

Chúng ta truy tìm biết như vậy, bây giờ chúng ta mới biết đâu là sống đúng đời sống của người tu sĩ đạo Phật: Trắng bạch như vỏ ốc, không còn thằng phược và những sợi dây vật chất, thương ghét trói buộc, chỉ còn một lòng Từ Bi vô bờ bến.

Tuy là biết rõ như vậy, trước là để lập hạnh sống xuất gia ba y một bát, sống vô gia đình, không nhà cửa, không chùa to tháp lớn, một thân, một mình tiêu diêu, an lạc, có duyên thì giúp người, không duyên thì ẩn bóng, nhưng lúc ta còn đang tu thì phải siêng năng dứt bỏ pháp ác và trau dồi pháp thiện.

14.3- PHÁP HƯỚNG DIỆT TÂM THAM

(01:18:15) Như hồi nãy Thầy đã kể ra: Tham là do dục mới có tham. Vậy chúng ta phải trạch pháp câu này để dứt bỏ:

“Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó làm cho ta đau khổ và người khác đau khổ. Từ đây đứng trước mọi vật dù miếng ăn, manh áo tốt xấu, ngon dở, ta cũng phải từ khước, viễn ly, xa lìa; xem nó là rắn độc, là quỷ dữ, là ác thú trong tâm ta!”

Đó là cái câu pháp hướng để quý thầy nhắc nhở, để cho cái tâm mình đừng có tham ăn, tham mặc, tham y, tham áo, tham của cải tài sản, tham tiền, tham bạc…​ để chúng ta dứt bỏ tất cả những cái đó, để chúng ta không còn bị tâm tham nữa. Bởi vì tâm tham nó làm cho ta khổ mà người khác khổ.

Nhớ nhắc đi nhắc lại câu này nhiều lần, cho đến khi trước cái ăn và tất cả những vật dụng gì mà ta không còn ham muốn gì hết thì mới xong.

Nghĩa là đứng trước cái ăn, tức là cái vật thực hàng ngày của mình đó, tất cả những cái vật dụng hàng ngày mà cần thiết cho đời sống tu hành của mình, chớ đừng nói chi như người ngoài đời bằng cách này bằng cách khác đó, thì tâm ta chẳng còn ham muốn một vật gì hết. Thì lúc bấy giờ chúng ta mới thiểu dục tri túc - mới biết đủ đó, thì đó là lúc chúng ta mới xong.

Vậy phải nghiêm chỉnh tu hành, đừng xem thường nó, nó được Đức Phật gọi nó là một loại độc trong ba thứ độc.

Đó thì cái tham là Đức Phật gọi nó là một cái loại độc chớ không phải là nó thứ thường. Cho nên nó gọi trong tam độc thì nó là tham sân si, nó là cái độc đầu tiên của ba cái thứ độc đó. Vậy thì quý thầy đã hiểu được nó là cái thứ độc chớ không phải là cái thứ thường.

Đến phần này gọi là trau dồi ý hành, nó rất vi tế và khó khăn vô cùng. Vậy quý thầy cần phải siêng năng, đừng để thất niệm, nhưng cũng phải vừa với sức của mình.

Đó một lần nữa Thầy nhắc quý thầy đó: Tu vừa sức của mình. Mà nhớ là đừng để thất niệm, khi đang tu thì đừng để thất niệm, để vọng tưởng mà xen vô thì quý thầy hoài công rồi đó. Lúc bấy giờ chúng ta đặt cái niệm cho vững chắc không có được để thất niệm.

Cho nên trong kinh điển của Phật dạy: Khi mà đặt cái niệm rồi thì không được thất niệm, phải luôn luôn ở trong cái niệm cho nó rõ ràng, cho nó tỉnh táo, chớ không được để cho nó lờ mờ nữa.

…​ của mình.

Thành tựu hay không thành tựu là do ở chỗ quyết tâm, có muốn ra khỏi cuộc đời dục lạc đầy cạm bẫy này hay không. Nếu quý thầy không muốn xa lìa cuộc đời dục lạc thế gian thì xin quý thầy đừng tu hành theo đạo Phật, vì chẳng có ích lợi gì cho những người còn say mê dục lạc thế gian.

Vì mình còn ham mê dục lạc thế gian, còn thích ăn, thích ngủ, còn thích nói chuyện thì quý thầy đừng có theo đạo Phật. Tu uổng công lắm, mất cái thì giờ mà chẳng lợi ích cho mình, mà còn nợ của đàn na thí chủ nữa.

Cho nên khi quý thầy thấy nó còn thích, thôi, quý thầy đừng đi! Bởi vì cái cuộc đời thế gian quý thầy phải đoạn dứt nó, chớ quý thầy mà còn ham thích nó một chút xíu thôi, thì không có thể được.

Sau này Thầy sẽ đọc lại một câu kệ, chỉ có một chú Sa Di, chú đi tu mà chú nhớ mẹ chú, do cái chỗ này mà chú không thành tựu được cái đạo giải thoát.

Thì các thầy biết một chú Sa Di bảy, tám tuổi mà đi tu, làm sao không nhớ mẹ mình? Vậy mà về nhà bà mẹ khuyên một lời nói, mà chú về chú nỗ lực chú rời bỏ cái tình thương đó, để rồi chú nỗ lực chú thành một bậc A La Hán.

Đó là những cái mẩu chuyện của Trưởng Lão Tăng Kệ trong cái thời của Đức Phật như vậy đó.

15- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT TÂM SÂN

15.1- SÂN LÀ PHÁP ÁC NHẤT TRONG MƯỜI ĐIỀU ÁC

(01:22:03) Thứ hai:

“Sân là lòng giận dữ rất khó dằn, nó là pháp ác do tâm ý. Khi nó tức giận người ta có thể giết người không gớm tay, không sợ tù tội và cũng không sợ chết. Do thế mới biết lòng sân rất dữ.”

Đó, cái khi mà người ta giận người ta không còn sợ chết, sợ tù, sợ tội gì hết, người ta giết người, người ta không có gớm tay đâu. Cho nên cái lòng sân dữ lắm, không có phải hiền lành đâu.

Cho nên chúng ta thấy bây giờ mình sân, người ta chửi mình, người ta mắng mình, mình sân đó, mình ráng mình nén xuống chớ trong lòng tức lắm.

Còn người đời người ta chưa biết người ta không nhẫn, người ta không nén thì người ta ăn thua đủ, người ta không nhịn ai hết, thì cái sân này, nó tới cái sân khác, nó đưa đi đến cái chỗ mà có thể giết nhau, có thể nằm nhà thương hay đi ở tù.

Muốn biết người tu hành…​

Nghĩa là mình muốn biết cái người mà tu hành được giải thoát ở mức độ nào thì chúng ta chỉ cần nhận ở cái lòng sân của họ là dễ biết họ, rất là dễ biết. Thấy họ sân là biết họ tu ở cái mức độ nào rồi.

Cho nên có nhiều vị tu hành rất lâu năm ở rừng ở núi, mà khi đụng cái việc thì chúng ta thấy tâm sân họ bùng khởi lên, thì chúng ta biết rằng đó là họ chẳng có được gì hết, chỉ qua một cái hình thức mà ép của họ, qua cái sự tu tập của họ, có cái vẻ khổ hạnh bằng cách này bằng cách khác nhưng tâm sân của họ chưa xả được, thì tham, sân, si, đều là còn đủ chớ chưa hết.

Lòng sân còn thì lòng tham còn. Lòng sân còn thì ngu si còn.

Bởi vì chính mình ngu si cho nên mình chưa có minh được. Do đó vì vậy mà cái si còn thì tham còn, sân còn.

Người ta nói xấu nhau cũng vì lòng sân thù hận, người ta giết nhau cũng vì lòng sân thù hận, người ta cướp đoạt của nhau cũng vì lòng sân thù hận.

Bởi vậy sân là một pháp ác, một pháp cực ác lớn. Trong mười điều ác lòng sân là ác nhất.

15.2- PHÁP HƯỚNG DIỆT TÂM SÂN

Muốn tu tập dứt bỏ lòng sân ta hãy tu tập và trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm. Khi nào lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả có được thì lòng sân mới hết được.

(01:24:12) Nhưng Tứ Chánh Cần cũng có pháp tu. Vậy ta phải trạch pháp ra câu này để dùng nó mà hướng tâm tu tập:

“Ý sân là một hành động cực ác, đầy tội lỗi, làm cho ta khổ, người khác khóc. Ta phải từ bỏ, dứt trừ, phải mạnh dạn và quyết tâm xa lìa nó, từ bỏ nó, xem nó như thú dữ ác độc, như quỷ dữ la sát!”

Đó là những cái câu hướng tâm để chúng ta thấy cái lòng sân của chúng ta dữ tợn lắm, như quỷ dữ vậy, như la sát vậy.

Dùng câu này hướng tâm Như Lý Tác Ý phải ngồi kiết già, lưng ngay thẳng.

Vì chúng ta biết những cái pháp ác, cực ác thì chúng ta càng ngồi yên tịnh, càng ngồi kiết già để thân tâm gom lại một điểm mà chúng ta xua đuổi, chúng ta đánh đuổi nó mới được.

Chớ còn chúng ta ngồi - như cái ghế này mà ngồi, mà dùng để mà xoa cái tâm tham, tâm sân, si của chúng ta, không được!

Như cái bình thường, như chúng ta ngồi một cái ghế thường như thế này mà chúng ta tập trung cái niệm ở trước mặt chúng ta để xoa cái tâm mà đừng giết hại chúng sanh thì còn có thể được. Nhưng mà đến khi mà cái ý mà dừng tham, sân, si - ba cái ác độc này nó không đơn giản đâu.

Cho nên phải ngồi khoanh chân gom nó lại, tập trung cái niệm lại, do đó mới có đủ cái sức mà có thể dùng cái pháp hướng mới có thể đánh mạnh nó mới ra được.

Cho nên chúng ta phải biết tu, biết cách thức, chớ còn nếu mà không biết cách thì chúng ta cũng không có kết quả đâu.

Phải ngồi kiết già, lưng ngay thẳng, đặt pháp hướng trước mặt, dùng hết sức tinh thần xua đuổi như xua đuổi một con chó điên.

Nghĩa là mình biết nó, biết cái sân, cái tham, sân, si của mình là con chó điên đó, nếu mà mình không xua đuổi mạnh thì nó cắn mình chết đó, nó cắn mình điên đó. Cho nên mình phải đem hết cái sức của mình ra để mà xua đuổi như xua đuổi một con chó điên.

Đó, thì như vậy là chúng ta phải biết cái cách thức mà chúng ta ngồi kiết già là chúng ta gom hết toàn lực để mà đánh đuổi một con chó điên, để không nó đem lại cho chúng ta tai họa là điên khùng.

2. “Ý sân từ đây phải chấm dứt, phải từ bỏ không được phóng khởi!”

Nghĩa là mình nhắc nó không được - từ đây bất cứ hoàn cảnh nào - không được phóng khởi ra. Đó là cái câu mà mình hướng tâm để đoạn dứt nó.

3. “Ý sân phải chấm dứt ngay!”

Đó, mình chỉ nói như vậy, câu ngắn như vậy: “Chấm dứt ngay!” Mình ra lệnh nó như vậy là lâu ngày chúng ta dùng cái sức tinh thần của chúng ta, cái pháp hướng nó sẽ hiệu quả đến cùng.

Cho nên đến cuối cùng thì ngay cái chỗ mà người ta vừa chửi mình thì ngay đó nó có chấm dứt ngay liền ở trong đầu của mình, nó phóng ra: “Chấm dứt ngay!” - ngay đó tâm mình thản nhiên không sân nữa.

Thì quý vị thấy cái pháp hướng nó hiệu quả đến cái mức độ đó đó. Nó ngắn chừng nào thì cái lực của nó lại mạnh chừng nấy, mà nó dài - cái câu hướng mà dài thì cái lực nó yếu chừng nấy.

Cho nên khi mà cái pháp hướng để mà dứt, để từ bỏ, để chấm dứt đó, thì pháp hướng càng ngắn thì cái lực nó càng mạnh, cái tinh thần nó càng mạnh. Còn cái pháp hướng mà nó dài đó là cái pháp trau dồi chớ còn không phải pháp hướng (dứt bỏ).

Đó Thầy nhắc như vậy để sau này quý thầy (có) cái trí tuệ thông minh, sáng suốt, quý thầy tùy theo đó mà quý thầy trạch ra những cái pháp hướng cho nó đúng với cái môi trường, đúng với cái tâm của mình để cho mình tu tập.

(01:27:23) Trau dồi lòng thương yêu để phát triển tâm lành, ngăn ngừa tâm ác, quý thầy phải trạch pháp dùng pháp hướng dẫn tâm thương yêu chúng sanh:

Bây giờ đó mình trau dồi cái tâm thương yêu của mình.

4. “Ý sân giận dữ, chửi mắng, nạt nộ người khiến cho người ta sợ hãi, đau khổ. Ta phải thương yêu họ, không được làm cho họ sợ hãi. Vậy từ đây ta không nên chửi mắng, la hét mà phải thương yêu, an ủi, giúp đỡ họ đừng sợ hãi!”

Đó là cái câu trau dồi cái tâm thương yêu của mình đó. Cho nên câu này không có dùng cái nạt nộ hay ra lệnh, mà chỉ xoa dịu, nhẹ nhàng, an ủi nó, để cho nó lần lượt nó lớn lên cái lòng thương yêu mà không có la hét làm cho người ta sợ.

Mỗi khi mà chúng ta tức giận, la hét gì đó thì chúng ta nhớ là phải thương người, cho nên nó dịu xuống liền tức khắc mà nó không có la hét.

5. “Đời là khổ, ta không nên sân để làm cho người, vật khác đều khổ thêm. Thấy ai sân ta nên thương họ, ta phải tập thương họ cho chân thật!”

Đó là những cái điều mà chúng ta xoa dịu, làm cho cái tâm của chúng ta thấy người sân là chúng ta thương, nhắc nhở chúng ta thấy cái người mà giận dữ là chúng ta thương.

Và chúng ta cũng biết trạch pháp ra: “Đời là đã khổ rồi, cho nên sân lại làm cho người khác, vật khác đều khổ theo, vì vậy mà cái tâm không có được làm như vậy nữa mà phải thương yêu!”

Đó là cái câu ám thị để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, để nó phá đi cái tâm ác của chúng ta là sân.

15.3- ĐỊNH VÔ LẬU DIỆT TÂM SÂN

(01:29:00) Đến đây thì chúng ta lại còn phải dùng cái Định Vô Lậu mà tu cái Tứ Chánh Cần nữa. Đó, thì các thầy phải thấy được cái công trình tu tập chúng ta phải sử dụng liên tục những cái định, trừ ra có cái định Hiện Tại An Lạc Trú là Bốn Thiền là chúng ta không sử dụng trong này thôi.

Dùng Định Vô Lậu tu Tứ Chánh Cần là ta phải ngồi kiết già, lưng thẳng, đặt niệm sân trước mặt rồi tác ý đi tìm: Cái sân từ đâu có, từ đâu sanh, từ đâu diệt? Cứ như thế chúng ta phát sinh tri kiến giải thoát, làm cho ta hiểu rõ cái ý sân, bẻ vụn cái ý sân, làm cho tan vỡ cái ý sân, không còn đất đứng nơi tâm ta nữa.

Nghĩa là trong khi mà chúng ta quán xét, tự nó phóng ra, nó làm chúng ta thấu suốt được cái sân từ đâu đến, từ đâu có, từ đâu không, cho nên chúng ta biết rất rõ.

Do biết rất rõ đó, thì nó bẻ vụn cái ý sân của chúng ta, nó làm cho tan nát cái ý sân ra, nó làm cho cái ý sân không còn đất đứng nơi tâm ta nữa. Đó là chúng ta dùng Định Vô Lậu mà phá tâm sân.

Đó thì, chúng ta biết áp dụng ở trong Tứ Chánh Cần bằng Định Vô Lậu. Bởi vì cái Định Vô Lậu nó không phải dùng pháp hướng, mà nó dùng cái tri kiến nó quét sạch, nó suy tư, nó đi tìm cái nguồn gốc của cái tâm sân, rồi nó suy tư từ cái sân đó nó khổ như thế nào, nó làm sao…​ nó quét sạch ra. Nó làm cho tâm của chúng ta không còn sân đứng được ở đó.

Phải đặt niệm này trước mặt, đừng cho thất niệm…​

Luôn luôn lúc nào mà chúng ta tới, chúng ta mà thấu suốt được rồi thì chúng ta mới xả nghỉ, còn nếu chưa có thấu suốt được thì chúng ta đừng có xả nghỉ ngang mà chúng ta phải được liên tục, đừng có để thất niệm trong cái thời gian mà truy tìm cái sân, thì nó mới được.

Phải đặt niệm này trước mặt đừng cho thất niệm, có như vậy tu Tứ Chánh Cần câu hữu Vô Lậu Định.

Đó bắt đầu chúng ta tu Tứ Chánh Cần mà chúng ta câu hữu qua Định Vô Lậu đó, thì các thầy thấy mình phải khéo léo, mình phải áp dụng cho đúng cách. Chớ nếu mà mình cứ tu Tứ Chánh Cần không thì mình không thông suốt được cái tham, cái sân, si của mình, do đó mình nhắc ở ngoài da của nó không thì nó không có thấm đâu.

Cho nên chúng ta lại dùng cái Định Vô Lậu, do nhìn cái lậu hoặc của tham, sân, si, này là như thế nào, vì vậy mà chúng ta đốn sạch từ ở trong gốc nó, đập tan nó từ ở trong cái gốc sân của nó, dứt được cái ý sân của nó.

Đó thì quý thầy thấy tuyệt diệu không? Cho nên mình biết câu hữu được pháp này với pháp kia, cho nên mình câu hữu với Định Vô Lậu mà mình đạt được cái như ý nguyện của mình là tâm sân dứt.

Đó, thì như vậy là Thầy dạy quý thầy có cách thức để tu tập, có cách thức để câu hữu, chớ đâu phải là thiếu cái sự câu hữu đó: Mình cứ Định Vô Lậu là mình phải tu Vô Lậu, còn cái định tu Tứ Chánh Cần là phải cứ tu Tứ Chánh Cần, không phải đâu.

Chúng ta chính hồi nãy mà chúng ta tu Tứ Chánh Cần mà chúng ta tu tập lòng cái thương yêu của mình tức là câu hữu với Tứ Vô Lượng Tâm đó. Những cái mà chúng ta câu hữu, mà Thầy nhắc thì quý thầy mới biết, mà Thầy không nhắc thì quý thầy không biết đâu.

Đó, thì đó là những cái mà chúng ta câu hữu với nhau, pháp này câu hữu với pháp kia để mà chúng ta thực hiện cho đạt được cái mục đích của chúng ta là giải trừ được cái tâm ác của chúng ta, mười cái điều ác ra khỏi cái tâm của chúng ta, không còn đất đứng ở đó.

16- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT TÂM SI

16.1- SI LÀ TRẠNG THÁI CỦA VÔ MINH

(01:32:14) Si.

Bây giờ đến cái phần ngu si của cái ý của chúng ta đây.

Si là Vô Minh, là trạng thái ham ngủ, ham ăn.

Đó tức là cái si của chúng ta nó hiện ra cái trạng thái ham ăn, ham ngủ, đó là cái si đó. Cho nên vì vậy mà chúng ta biết cái trạng thái ham ăn, ham ngủ của chúng ta là si. Cái người nào mà còn thích ăn, thích ngủ là cái người đó đang si, chớ chưa phải là thông minh.

Mặc dù bây giờ họ là thông minh, họ là nhà bác học đi nữa, họ là những con người mà học tiến sĩ đi nữa mà còn ham ăn, ham ngủ là những người đó là những người si chớ không phải là những người không si đâu.

16.2- ĐỊNH CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC PHÁ TÂM SI

(01:32:45) Muốn đoạn dứt pháp ác này quý thầy phải tu Chánh Niệm Tỉnh Thức Định.

Đó, thì bây giờ muốn đạt được cái chỗ mà si này thì chỉ có cái Chánh Niệm Tỉnh Thức Định thôi, nó mới có sức tỉnh thức, chớ còn nếu không thì nó ham ăn, ham ngủ à.

Mà nó tỉnh thức thì nó diệt trừ cái ăn, do đó nó mới có sức tỉnh thức nó mới tu Định Vô Lậu, nó mới quét sạch được cái ăn, nó mới thấy cái ăn là bất tịnh.

Đó, thì từ cái chỗ này nó câu hữu với cái kia mà nó kết hợp, nó làm cho chúng ta có một cái lộ trình tu tập rất là dè dặt, rất là kỹ lưỡng, rất là dày mịt, không có để cho những cái pháp ác xen vô được.

Bởi vì chúng ta có những cái pháp nó làm như cái mạng lưới mà không cho pháp ác rơi trên đó được, nó đánh bại, nó đánh bạt ra hết, nó không có còn cái chỗ nào mà có thể lọt vào cái pháp ác lọt vào tâm chúng ta được.

Nhờ các pháp này mà chúng ta câu hữu liên tục, mà chúng ta đánh các pháp ác ra khỏi tâm chúng ta. Vì vậy đưa chúng ta ra con đường giải thoát rất là rõ ràng và cụ thể.

Cho nên Chánh Niệm Tỉnh Thức là chúng ta phải đi kinh hành nhiều, theo hành động đi mà chúng ta tỉnh thức thì không còn lười biếng, không còn buồn ngủ nữa.

Đó, nó phá cái si của chúng ta rất rõ, cái trạng thái si của chúng ta.

16.3- HỌC HIỂU, VÉN MÀN VÔ MINH ĐỂ PHÁ TÂM SI

(01:33:52) Muốn phá và dứt ác pháp si mê này thì quý thầy phải phá Vô Minh.

Đó, bây giờ đó, hồi nãy là đi kinh hành để tỉnh thức thôi. Còn bây giờ chúng ta si tức là Vô Minh chớ gì? Mà muốn phá Vô Minh thì phải làm sao? Chớ đâu phải là tỉnh thức không! Tỉnh thức không mà nó không hiểu gì hết thì cái tỉnh thức đó là chỉ để ngồi cứ suốt ngày chơi cho nó thanh thản thôi chớ có làm gì?

Đó bây giờ chúng ta phải dùng cái sức tỉnh thức này để mà chúng ta tu tập cái Định Chánh Niệm Tỉnh Thức làm cho chúng ta có sức tỉnh thức, từ tỉnh thức đó chúng ta mới phá cái Vô Minh. Mà phá cái Vô Minh thì nó phải có Minh.

Muốn phá Vô Minh quý thầy phải học hiểu những lời Phật dạy, Thầy dạy.

Đó, bây giờ nó muốn phá được cái Vô Minh đó thì mình phải là cái người học, chớ mình không học thì mình không biết, mà mình không biết thì mình lầm.

Chẳng hạn bây giờ nói đời khổ, quý thầy cho rằng đâu có khổ? Đó là cái (Vô) Minh của quý thầy. Nhưng khi nghe nói khổ, vạch ra cho từng li, từng tí mới thấy thật đây là khổ! Vì vậy bây giờ quý thầy mới thấy được cái khổ, mà thấy được cái khổ đó là vén được cái Vô Minh, vậy quý thầy đã Minh.

Minh là nhờ cái sự học hỏi những cái gì của người ta đi qua rồi người ta dạy lại cho mình để mình thấy được, mà mình thấy được đó là cái Minh của mình.

Cái nào chưa hiểu cần phải hiểu cho rõ.

Nghĩa là, khi mà lời dạy đó cái nào mình chưa hiểu thì mình cần phải hiểu rõ, hiểu cho rõ hiểu phải cho đúng, đừng có hiểu sai, vì hiểu sai tức là Vô Minh.

(01:35:17) Theo những điều mà từ lâu quý thầy chưa biết, bây giờ được học hiểu, quý thầy đã biết và biết rất rõ đó là: Phá si, dứt trừ si, tức là phá Vô Minh. Phá Vô Minh tức là Minh. Minh là hiểu rõ cái nào ác, cái nào thiện.

Đó như hồi nào tới giờ Thầy chưa có dạy Thập Thiện, cho nên quý thầy đâu có nghe nói là các pháp ác, rồi các pháp thiện. Bây giờ dạy các pháp ác, các pháp thiện thì quý thầy biết có mười cái pháp ác nè, có mười cái pháp thiện nè, làm sao là ác, làm sao thiện, thì như vậy đó là các thầy đã Minh rồi đó, đã biết được mười rồi.

Còn hồi đó Thầy chưa có nói mười, các thầy nghe nói pháp ác chớ không biết nó mười hay hai mươi hay cái gì đó, các thầy chưa có biết đâu. Còn bây giờ đã được học, các thầy biết đó là pháp ác, đó là pháp thiện, mười cái pháp thiện này, mười cái pháp ác này. Đó, hay hoặc là tất cả những cái pháp khác như thế nào, thế nào, thì bắt đầu quý thầy Minh rồi đó.

Vì vậy mà Minh thì tức là mình không theo ác pháp, mà Vô Minh thì mình theo ác pháp thì mình sai lệch.

Minh là hiểu rõ cái nào ác, cái nào thiện, cái nào đúng chân lý, cái nào sai chân lý, cái nào đúng nhân, cái nào đúng quả, cái nào cần trau dồi, cái nào không cần trau dồi, cái nào cần dứt bỏ, cái nào không cần dứt bỏ, cái nào tùy, cái nào chỉ, cái nào ức, cái nào quán, cái nào diệt, cái nào xả, cái nào hướng, cái nào ly, cái nào khởi, cái nào diệt, cái nào khổ, cái nào không khổ, cái nào còn khổ, cái nào hết khổ, cái nào sân, cái nào không sân, cái nào tham, cái nào không tham, và biết rất rõ, đó là Minh.

Tất cả những cái mình biết rõ như Thầy kể ở trên thì đó là gọi là Minh. Mình biết cái này khổ, cái này không khổ, cái này tham, cái này không tham, cái này ác, cái này không ác, đó là những cái đó gọi là Minh.

Nhờ có Minh mà si hết.

Nghĩa là mình rõ rồi thì cái si kia nó hết rồi, mình không có lầm nữa, cho nên gọi là hết.

Khi có Minh thì chúng ta hãy tinh tấn, chuyên cần tu tập, không phí bỏ thời gian vô ích, một lòng quyết tâm, quyết dứt bỏ các pháp ác.

Bây giờ mình đã Minh rồi mà mình lười biếng thì các pháp ác nó còn không? Còn.

Cho nên khi mình đã biết rõ rồi thì mình mới chuyên cần, siêng năng, tu tập để trau dồi cái thân, tâm của mình để dứt bỏ thì nó mới hết chớ! Chớ không phải biết rồi để khơi khơi nó hết đâu, nói tôi Minh rồi cái tôi biết.

Bởi vì cái Minh này là cái Minh của mình huân tập cái sự hiểu biết của người khác mình mới hiểu thôi, cho nên cái này Phật dạy đó là cái tri kiến chứ chưa phải là cái tri kiến giải thoát.

Còn cái tri kiến giải thoát của mình mà Thầy nói ngồi mà để phá cái vô lậu, nó tự phóng ra, rồi tự nó tìm hiểu ra, rồi nó quán xét, nó thấu suốt được cái lý đau khổ hay hoặc cái lý nào đó, rồi nó xả đi cái lý đó đi, nó làm cho không còn lậu hoặc, thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát.

Còn bây giờ cái Minh này nó mới là cái tri kiến của chúng ta thôi. Tức là chúng ta nhai lại những cái hiểu biết của người khác để cho mình hiểu cái đó đúng sai thôi, đó là cái tri kiến đúng. Còn nếu mà mình nhai lại cái tri kiến sai thì nó thành kiến chấp, tà chấp hay là thân chấp, do đó nó đưa chúng ta đi lầm lạc đến cái chỗ càng gây thêm pháp ác nữa, cho nên càng đem đến sự khổ đau.

16.4- ĐỊNH SÁNG SUỐT PHÁ TÂM SI

(01:38:25) Quý thầy ngồi kiết già, lưng ngay thẳng trước mặt, tưởng ánh sáng ngày như đêm rồi dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Tâm u tối si mê như đêm đen, ta hiện giờ thấy nó sáng suốt như ban ngày, không còn đen tối nữa!”

Đây là tu cái Định Sáng Suốt đây, để cho chúng ta từ đó nó mới có cái sự sáng suốt, nó như cái lý nó tác ý ra những cái phá cái sự - cái tri kiến giải thoát của chúng ta mới phát ra được.

Vậy thì khi mà tu cái Định Sáng Suốt này, thì thứ nhất là chúng ta được tỉnh thức, chúng ta ngồi giữ tâm thanh thản thì nó sáng suốt ngày như đêm, đêm như ngày.

Còn nếu mà chúng ta chưa có đủ tỉnh thức thì chúng ta phải tu tập dùng cái tưởng để thấy cái tâm chúng ta si mê nó như đêm đen, bây giờ nó sáng suốt, ngày như đêm, đêm như ngày, nó sáng suốt như ngày, nó không còn u tối nữa.

Do cái tưởng Sáng Suốt này nó làm cho tâm chúng ta luôn luôn ở trong cái chỗ sáng suốt đó và nó phát triển cái tâm thanh thản, tức là tâm tỉnh thức.

Đó thì, chúng ta phải thấy được cái mấu chốt tu cái chỗ này gọi là tu cái tâm sáng suốt, hay là cái Định Sáng Suốt.

Cái chỗ này là cái chỗ phần thêm để cho chúng ta biết. Còn trước kia Thầy dạy quý thầy là giữ cái tâm thanh thản, tức là giữ cái tâm sáng suốt của mình.

Còn bây giờ là chúng ta chưa có đủ cái tỉnh thức, cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, cho nên cái sức tỉnh chưa có, thì giữ cái tâm thanh thản nó không có được lâu, do đó chúng ta mới ngồi mới tưởng là cái tâm của chúng ta bây giờ si mê như đen tối, mà bây giờ nó phải sáng suốt như ban ngày, nó không còn đen tối nữa.

Đó là chúng ta dùng nhắc nó để rồi chúng ta ngồi đây chúng ta dùng cái tưởng thấy luôn luôn lúc nào cũng sáng suốt ở trước mắt của chúng ta. Do cái ánh sáng đó, do cái sáng tưởng tượng đó mà nó giúp cho chúng ta sáng suốt.

Những cái bài này đã được Phật dạy các vị Tỳ Kheo trong thời Đức Phật rất lâu và rất nhiều chớ không phải mới mà Thầy đặt ra đâu. Có dịp quý thầy nghiên cứu về kinh tạng Pali hoặc là kinh tạng A Hàm thì quý thầy sẽ thấy được những cái điều mà Phật dạy này./.

HÉT BĂNG

16 - CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC - ĐỊNH VÔ LẬU - TỔNG KẾT GIAI ĐOẠN 1

1- HIỂU ĐÚNG CHÁNH PHÁP MỚI THOÁT KHỎI VÔ MINH

(00:00) Để chấm dứt bài Tứ Chánh Cần Thầy xin đọc lại một bài kệ của Đức Phật:

Đây bây giờ, tới đây là mình tham, sân, si - mười cái pháp ác rồi, thì mình đã chấm dứt tới cái si là mình chấm dứt rồi, cho nên phải đọc lại một cái bài kệ của Đức Phật để chúng ta thấy được, tóm lại cái ý của nó như thế nào.

Đây bài kệ của Đức Phật đây:

Ai phản lại Chánh Pháp,

Đó, bây giờ mình hiểu được cái chánh cái tà rồi, cái ác cái thiện rồi, mà nếu mình còn phản lại thì tức là một cái tội rất lớn.

Ai phản lại Chánh Pháp,

Tham, sân, si, nuôi lớn

Thanh danh bị sứt mẻ

Nghĩa là biết rồi mà mình còn phạm phải thì coi như cái con người của mình nó bị sứt mẻ, nó không còn.

Như trăng khuyết đêm đen.

Trăng mà khuyết mà đêm đen nữa thì các con biết, các thầy biết rằng: Cái trăng nó khuyết nó nhỏ xíu vầy thì ánh sáng nó đâu có, mà đêm đen nữa, thì nó mờ tối vô cùng lận!

Người mà phản lại các Chánh Pháp này, phản lại các pháp thiện, thì tham, sân nuôi lớn, thì thanh danh bị sứt mẻ như trăng khuyết đêm đen.

Ai không phản Chánh Pháp

Tham, sân, si đoạn dứt

Thanh danh được tròn đủ

Như trăng tròn mười sáu.

Đó, thì quý thầy thấy bài kệ của Đức Phật, nếu mà chúng ta đi vào Chánh Pháp thì tham, sân, si ba cái pháp ác này đoạn dứt, thì bảy cái pháp ác kia nó sẽ cũng mất đi.

Do đó chúng ta sống như trăng tròn mười sáu, tròn đầy, không có thiếu khuyết một chỗ nào nữa hết. Trăng rằm nó còn khuyết một chút, chớ trăng mười sáu thì nó tròn thiệt tròn, không có còn thiếu chỗ nào nữa, tức là giải thoát hoàn toàn.

Chánh Pháp giúp cho quý thầy thấu rõ chân lý của đời người, đó gọi là Minh.

Các thầy không rõ Chánh Pháp nên không thấy chân lý đời là ác pháp, là khổ đau, nên phóng tâm chạy theo vật chất, ham muốn thế gian pháp, cái không hiểu này gọi là Vô Minh.

Đó mình chạy theo ham muốn như vậy, cái đó là cái Vô Minh. Còn cái mình hiểu đúng Chánh Pháp thì đó là cái Minh.

Do không hiểu nên lầm chấp ác pháp là thiện pháp. Do không hiểu, tưởng đời sống con người là hạnh phúc, nào ngờ là khổ đau, là không hạnh phúc.

Người đời vì lầm nên xây dựng an vui hạnh phúc trên một mảnh đất vô thường, không vững chắc, thay đổi liên tục không dừng nghỉ, vì thế công trình kiến tạo và xây dựng hạnh phúc, an lạc cho nhân loại là một công trình dã tràng.

Đó thì, các thầy thấy người ta phát minh cái này cái kia để người ta đem lại hạnh phúc cho con người chớ gì? Nhưng mà càng phát minh càng đem lại cái sự đau khổ cho con người càng nhiều.

Đó là chúng ta xây dựng trên cái mảnh đất vô thường, mọi vật đều vô thường mà người ta nghĩ đó là thường, người ta lầm chấp, cho nên người ta càng cố gắng xây dựng lên thì càng đem lại nỗi khổ cho nhân loại.

Càng xây dựng văn minh thì lại con người càng khổ bấy nhiêu, chỉ vì do họ xây dựng ngọn mà không xây dựng gốc. Do Vô Minh này mà loài người trên hành tinh này không lúc nào được hòa bình, chỗ này không chiến tranh thì chỗ khác chiến tranh.

Đó, càng khoa học, càng máy móc, càng tinh vi thì chúng ta thấy trên thế giới luôn lúc nào cũng có nước chiến tranh chớ không bao giờ hết. Tưởng là đem lại phục vụ cho nhân loại, cho con người được thanh bình, được an vui, được thương nhau, cuối cùng họ vẫn giết chóc nhau.

Họ vẫn tìm mọi cách - về quân sự thì họ cũng tìm mọi cách bằng súng đạn, mà về kinh tế thì họ cũng tìm mọi cách để hại các cơ xưởng, các công trình của kẻ khác, để làm cho suy sụp kinh tế của kẻ khác xuống.

Đó là những cái hậu quả của sự văn minh, của những sự tiến bộ mà xây dựng trên cái ngọn mà không xây dựng ở trên cái gốc. Vì xây dựng trên cái ngọn là xây dựng trên mảnh đất vô thường, trên các vật vô thường thì làm sao mà có sự hạnh phúc, an vui vĩnh cửu được?

2- HỶ LẠC CỦA PHÀM PHU LÀ ÁC PHÁP ĐƯA ĐẾN ĐAU KHỔ

(03:57) Vì hỷ lạc của cuộc đời nên người ta mê mệt, đắm đuối theo nó, do đó Đức Phật có phân tích cho chúng ta biết có bốn loại đam mê hỷ lạc thấp kém hạ liệt, thuộc về những phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không có lợi ích, không có hướng đến yểm ly, vô tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết Bàn.

Nghĩa là vì có những cái sự hỷ lạc của cuộc đời, tức là cái sự làm cho chúng ta thích thú đó, làm chúng ta khả ái, khả hỷ đó, cho nên con người mới đắm đuối, mê si, mới đắm đuối nó, chạy theo nó.

Do cái sự mê si đắm đuối chạy theo nó, thì Đức Phật là một người giác ngộ cho nên Ngài thấy được, Ngài phân tích cho chúng ta biết có bốn loại đam mê hỷ lạc thấp kém này, nó hạ liệt, nó làm cho chúng ta không có viễn ly, không có hướng đến cái sự yểm ly, vô tham, tịch diệt được, an tịnh được, cho nên càng lúc càng khổ.

Đó thì, trong khi mọi con người đang xây dựng cái hạnh phúc cho con người lại là đưa con người vào cái chỗ mà chạy theo những cái hỷ lạc của cuộc đời, mê mệt nó, đắm đuối nó.

Đây, quý thầy sẽ nghe cái lời của Phật dạy, và quý thầy sẽ thấy rằng những cái sự ngu si của chúng ta để xây dựng những cái đau khổ đó.

Này quý thầy, quý thầy có thấy chăng: Có hạng người ngu si, sau khi giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh, tự mình sung sướng, hoan hỷ, thích thú. Đó là hỷ lạc thứ nhất.

Các thầy thấy rõ không? Ngay bây giờ có nhiều người họ bắt gà, bắt vịt họ mần thịt đi, họ giết đi, phải không? Họ thích thú rồi đó, thích thú ngay cái sự giết rồi.

Rồi họ ăn thịt chúng sanh, lại ngon nữa, họ nói: “Chà bữa ăn nay rất ngon! Vợ chồng mình bữa nay làm cái bữa nay, trời! Ăn thích quá! Mai mốt có dịp làm nữa, ăn nữa!” Có phải thích không? Nếu không thích thì làm sao!

Đó là Đức Phật phân tích cho chúng ta, đó là cái giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh, đó là cái hỷ lạc thứ nhất. Đó, Đức Phật phân tích cho chúng ta thấy rõ mà, đó là cái hỷ lạc của cái dục đó, thứ nhất đó.

(06:02) Này các thầy, các thầy có thấy chăng: Có người sau khi lấy của không cho hoặc trộm cướp của người, tự mình sung sướng, hoan hỷ, thích thú. Đó là hỷ lạc thứ hai.

Có không? Thằng ăn trộm nào mà lấy xe đạp hay xe Honda người ta về bán lấy tiền, nó mua quần, mua áo, mua đồ đạc, mua ăn uống cho vợ con, nó thích thú lắm chớ, nó đâu có nghĩ rằng người ta mất của người ta khổ đâu! Nó sung sướng lắm: “Trời ơi! bữa nay mình làm cái này, một vố này là cả tháng mình khỏi đi!” Có phải thích không?

Đó là những cái sự đó đó, đó là Đức Phật cho chúng ta thấy đó là sự thích thú thứ hai, hỷ lạc thứ hai của con người của chúng ta.

Này quý thầy, quý thầy có thấy chăng: Có người sau khi nói láo gạt người, tự mình sung sướng, hoan hỷ. Đó là hỷ lạc thứ ba.

Có không? Nói láo người ta, gạt người ta được cái về cười hỉ hả sung sướng lắm, đó không phải là thích thú sao? Đó là cái hỷ lạc thứ ba.

Hoặc là mình nói xấu người, hoặc là mình nạt nộ người làm cho người ta sợ hãi, mình về mình thích thú: “Hồi nãy tao nạt một tiếng, trời! Nó run bây bẩy, tao thấy khoái!” Phải không?

Các con thấy cái điều đó là một cái bằng chứng cụ thể mà ông Phật ổng nói, Thầy thấy rất có, không có cái gì mà sai hết.

Còn ghét cái người nào đó mình nói xấu, mình đặt điều mình nói xấu người đó. Mình thấy cái người đó ngồi khóc lu bù, bởi vì họ không có xấu mà nghe người ta nói mình vậy, tức quá thành ra khóc lu bù. Thì lúc bấy giờ mình thích lắm, thấy người đó rầu rỉ khóc lóc vậy, mình khoái lắm.

Đó không phải là cái hỷ lạc sao? Đó là cái hỷ lạc thứ ba của họ đó.

Này quý thầy, quý thầy có thấy chăng: Người say đắm, đam mê vây quanh năm thứ dục lạc: Sắc, Danh, Lợi, Thực, Thùy.

Nghĩa là bây giờ chúng ta nhìn chung, chúng ta sẽ thấy này: Sắc là nữ sắc này phải không, là sắc dục đó; Danh là làm ông này bà kia, ông lớn bà nọ đó; Lợi là tiền của, ăn ngon; ngủ - muốn ngủ hồi nào ngủ đó. Đó là người ta vây quanh năm cái thứ dục lạc này.

Do đó nó có những cái hỷ lạc, mà cái hỷ lạc đó Đức Phật gọi là hỷ lạc thứ tư.

Ở trên kia thì nó những cái hỷ lạc - chúng ta thấy những cái hỷ lạc đó nó nằm ở trong những cái ác pháp thật, nhưng mà nó có thật sự đó. Rồi đến năm cái thứ dục lạc này mà họ vây quanh thì chúng ta có thấy họ hỷ lạc không? Họ khoái lắm chớ, làm sao mà không khoái cái điều này?

Ăn miếng ngon là mình thấy thích rồi thì tức là nó đã có hỷ lạc thứ tư rồi! Rồi mình ngủ, mình ngủ mình lười biếng li bì đó, mình nằm mình vật tới vật lui đó, thì đó cũng là cái hỷ lạc của cái thứ ngủ rồi. Có tiền nhiều thì mình cũng thấy vui. Có danh là ông lớn thì cũng thấy thích đó, thì đó là dục lạc rồi. Có sắc đẹp, nữ sắc thì lại thích thú. Thì do đó tất cả những cái này đều là cái hỷ lạc thứ tư.

Đó, ông Phật ổng nói Thầy thấy không có sai cái chỗ nào hết. Do chỗ mà hỷ lạc đó đó mà người ta không bỏ cuộc đời, người ta không dứt ra cuộc đời được. Mà mình là người hiểu biết thì các thầy có dứt được không? Phải dứt đi chớ, mình đã hiểu Phật dạy quá rõ rồi!

Thầy đã dạy đây thì chắc chắn là không còn thiếu cái chỗ nào hết, mà không còn thiếu thì mình thấy đó là khổ hay vui? Cái đó là vui giả, vui không thật đâu, mà chúng ta hãy tìm cái vui chân thật. Còn về cái phần tu hành chúng ta có cái hỷ lạc không? Có chớ, sao lại không! Phật cũng có dạy chúng ta biết chớ.

Bởi vì nói đến cái này - nói cái bài học này, tại vì nó dài dòng là vì phải nói cho đủ, nói cho quý thầy để hiểu được cái giáo án của nó, cái hướng nào cho nó rõ hướng nấy. Cho nên tuy rằng nói cái giai đoạn thứ nhất, chứ sự thật ra thì quý thầy thấy nó thông suốt gần như là chúng ta đã hiểu cái con đường đi của đạo Phật.

Đây là bốn thứ hỷ lạc phàm phu đầy đau khổ và tội ác.

Chắc đến đây quý thầy rõ lộ trình thế gian pháp là say mê chìm đắm ở trong bốn thứ hỷ lạc đê tiện, thấp hèn, hạ liệt, thuộc về hạng phàm phu, không xứng với Thánh hạnh.

Đó là những cái hỷ lạc ở trên đó, mà Thầy đã kể ra rồi đó, thì đó là những cái hỷ lạc của tội lỗi mà quý thầy đã nhận ra rồi.

3- HỶ LẠC CỦA BẬC THÁNH LÀ THIỆN PHÁP ĐƯA ĐẾN GIẢI THOÁT

(09:50) Này quý thầy!

Có bốn loại hỷ lạc nhất định đưa đến yểm ly, vô tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết Bàn.

Đây bây giờ nó bốn cái thứ hỷ lạc, mà cái lộ trình thứ hai mà chúng ta sẽ bước vào đây.

Bây giờ, bên kia nó hỷ lạc như vậy, nó đem đến đau khổ mà nó không được cái an tịnh cho cuộc đời chúng ta, nó là như cái bóng chớ không phải là cái miếng mồi thật. Còn đây bốn cái hỷ lạc này là cái thật đưa đến chúng ta giác ngộ và Niết Bàn, tâm hồn được an tịnh.

Vậy bốn loại hỷ lạc này là gì?

Đây chúng ta phải xét coi cái hỷ lạc này nó thuộc nằm ở chỗ nào đây, để mà chúng ta tìm lấy cái hỷ lạc của pháp giải thoát chớ? Nếu mà không chúng ta cứ chạy theo pháp hỷ lạc của dục không thì…​

Như vậy là bây giờ chúng ta tu, mà chúng ta không có hỷ lạc thì chúng ta tu cái gì đây? Ít ra nó cũng phải đem cho chúng ta có một cái gì thích để mà chúng ta tiến tới con đường giải thoát chớ! Chớ nếu mà tu mà quá khổ, luôn luôn bị hành hạ không thì chúng ta làm sao chúng ta ham tu?

Cho nên Đức Phật cũng phân tích cho chúng ta thấy có bốn loại hỷ để mà chúng ta thực hiện trên con đường tu, làm chúng ta thấy an ổn, làm chúng ta thích, làm chúng ta tiến bước trên con đường. Dù là con đường rất khổ nhưng nó có những cái an ủi cho chúng ta, làm chúng ta tiến tới mà chúng ta không có lùi bước.

Bốn loại hỷ này là gì?

  1.  

    Các thầy ly dục, ly ác pháp, chứng và trú Sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có Tầm có Tứ, đó là hỷ lạc thứ nhất.

Đó quý thầy thấy chưa? Dục chạy theo ác pháp thì nó sanh ra những cái hỷ lạc đó, bốn cái hỷ lạc trên. Còn bây giờ ở đây mình đi ngược lại, mình đi ngược lại thì nó cũng có sanh hỷ lạc cho mình.

Đó thì, có những cái hỷ lạc nó khác hơn cái hỷ lạc kia rất nhiều. Và nó tuyệt diệu hơn rất nhiều, là vì nó đưa đến cái tâm hồn mình an tịnh và thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn, tịch diệt; nó làm cho tâm vô tham, vô sân, vô si; nó làm cho mình không có khổ nữa. Cái hỷ lạc này nó làm cho mình không khổ nữa.

Cho nên do đó mình phải ly dục, ly ác pháp để chứng trú Sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh. Đó thì, đó là hỷ lạc thứ nhất của con đường tu tập của chúng ta, tức là lộ trình thứ hai đó.

(12:07) Vậy thì bây giờ về nói hỷ lạc thì Đức Phật nói có cái định gọi là Hiện Tại An Lạc Trú đó - an lạc - cho nên nó có cái lạc ở trong đó đó. Mà cái lạc đó là nó chứng qua trong bốn cái lạc này đây.

Đó là cái hỷ lạc thứ nhất.

  1.  

    Quý thầy tịnh chỉ Tầm, Tứ…​

Tịnh chỉ tức là ngưng lại, ngưng cho Tầm với Tứ nó không còn có nữa đó.

…​ chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không Tầm, không Tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Đó là hỷ lạc thứ hai.

Đó rõ ràng, thấy không? Quý thầy thấy định sanh cái hỷ lạc. Nó không giống như cái ly dục sanh hồi nãy, mà đây là cái định sanh, cái trạng thái định sanh này, cái hỷ lạc này nó có khác hơn, nhưng nó cũng không phải khác xa cái chỗ ly dục đó đâu.

Bởi vì ly dục là tâm thanh tịnh, mà cái nhất tâm này nó không Tầm không Tứ thì nó cũng là thanh tịnh. Cho nên nó không khác xa, nhưng mà nó sâu hơn, nó nhiều hơn. Đó.

  1.  

    Quý thầy lìa xa các trạng thái tưởng…​

Bây giờ đó, mình tới cái hỷ lạc thứ ba đó, thì quý thầy xa tất cả các trạng thái tưởng, xa cho đến khi mà xa cái giấc mộng chiêm bao của quý thầy luôn nữa. Đó.

Quý thầy lìa xa các trạng thái tưởng, trú ở hơi thở, ly sạch sáu cái loại tưởng, chứng và an trú Thiền thứ ba. Đó là hỷ lạc thứ ba.

Phải không? Ở trong kinh thì Phật nói ly hỷ, trú xả, chứng Thiền thứ ba, còn Thầy thì ở đây Thầy nói một cách rõ ràng hơn để cho chúng ta nhận ra được là do chúng ta lìa xa các cái trạng thái tưởng.

Bởi vì lúc này là cái ý thức chúng ta bị diệt Tầm Tứ rồi, cho nên ý thức nó ngưng rồi, cho nên cái tưởng thức nó hoạt động. Do tưởng thức nó hoạt động mới sanh ra những cái trạng thái nó làm chúng ta thích, vui, cho nên gọi là hỷ đó: Có cái này xảy ra, có kia xảy ra chúng ta vui.

Cho nên, thí dụ thấy hào quang, thấy bay bổng lên trời, thấy mình có thiên nhãn, thần nhãn, do đó mình thấy cái đó, nó làm cho mình thích thú, mình thích thú tức là vui. Vui cho nên Phật nói ly hỷ.

Còn nếu - đó Thầy nói tận cái gốc, còn Phật nói là cái trạng thái vui. Nhưng mà cái gì làm cho chúng ta vui? Nó phải có cái vui. Còn ở đây Thầy nói cái trạng thái làm cho chúng ta vui mà không nói hỷ, nhưng mà nói cái trạng thái đó.

Cho nên chúng ta phải lìa tất cả những cái trạng thái mà xảy ra cho chúng ta vui đó, thì do đó chúng ta gọi là ly hỷ.

Vậy thì chúng ta phải xả sạch, ly sạch sáu cái thứ tưởng này thì chúng ta mới chứng và trú, an trú Thiền thứ ba, do hỷ lạc thứ ba sanh. Đó chúng ta mới có cái hỷ lạc thứ ba sanh.

Đến đây quý thầy sẽ tiếp tục để chúng ta thấy nó có bốn cái loại hỷ lạc.

  1.  

    Quý thầy tịnh chỉ hơi thở, nhập Tứ Thiền.

Phật nói xả hỷ, xả lạc, xả niệm thanh tịnh thì nhập Tứ Thiền, ở đây Thầy không nói vậy, Thầy nói rất rõ ràng, cụ thể: Làm sao cho hơi thở ngưng thì nhập Tứ Thiền, chớ không cần mà phải xả. Mà ngưng thì tức là xả hỷ xả lạc rồi, phải dễ không?

Các thầy thấy cái chỗ mà Thầy dùng thì nó dễ hiểu mà dễ rõ. Còn nói xả hỷ, xả lạc không biết xả làm sao cho hết hỷ, xả làm sao cho hết lạc, xả làm sao cho hết niệm thanh tịnh, thì nó hơi khó! Nhưng mà ở đây Thầy chỉ cần tịnh chỉ hơi thở là nhập Tứ Thiền, mà nhập Tứ Thiền thì hỷ lạc do thứ tư sanh ra.

(15:16) Có gì đâu! Cái hỷ lạc đó ai tới đó thì biết cái hỷ lạc đó. Chớ bây giờ nói hỷ lạc như là dục lạc, như ăn miếng ngon thì cái đó là sai rồi, ăn miếng ngon mà thấy ngon đó là trật rồi! Bởi vì cái hỷ lạc đó đâu có ăn ngon? Cho nên có nhiều người nói tui nhập định tui thấy sung sướng lắm, sảng khoái lắm, cái điều đó là dục lạc chớ không phải hỷ lạc của thiền định.

Phải hiểu cho đúng cách thì chúng ta mới thấy được con đường tu của chúng ta đúng, còn nếu không thì chúng ta sẽ không thấy.

Bốn loại hỷ này nhất định đưa đến yểm ly, ly tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn, hỷ lạc này xứng Thánh Hạnh.

Đó, cái hỷ lạc này là cái hỷ lạc của những bậc thánh người ta thọ hưởng cái hỷ lạc này, chớ phàm phu thì không bao giờ rớ tới nó được.

Bây giờ nghe nói ly dục, ly bất thiện pháp để sanh hỷ lạc, thì quý thầy có biết ở đâu, cái hỷ lạc đó đâu mà biết ở đâu! Bởi vì mình chưa có ly dục mà, tâm mình còn ham muốn cái này cái kia mà, làm sao mình biết? Chừng nào mình ly sạch rồi mình mới biết. Thì đó, đó là những cái mình chưa làm được, cho nên mình chưa thấy hỷ lạc đó.

Cũng như bây giờ, người ta nói ăn miếng bánh này nó ngon quá, mà mình chưa có ăn mình biết nó ngon làm sao? Chỉ nghe theo, mình theo, mình nghe nói vậy thôi, chừng nào mình bỏ trong miệng, mình nhai, mình nuốt, thì đó là cái hỷ lạc của dục. Mình ăn mình mới biết nó ngon, nó ngọt, hay nó đắng cay trong đó.

Còn bây giờ chưa ăn, nghe người ta nói: “Trời! Cái bánh này ngon lắm! Cái bánh này làm ở đâu bên Huê Kỳ đó mới đem về đây! Cái thợ làm bánh này rất khéo, mà rất ngon! Ăn cái mùi vị nó đặc biệt không có cái bánh nào ngon (bằng)!” Người ta nói vậy chứ mình chưa có nếm lưỡi mình chưa biết.

Thì bây giờ bốn cái hỷ lạc mà của pháp này thì các thầy chưa có biết, chưa có nếm được. Mà nếm được rồi quý vị mới biết được cái mùi vị của nó. Nó không phải ngon như cái bánh mà chúng ta ăn mà nó có mùi ngọt ở trong miệng đâu. Mùi ngọt ở trong miệng đó là dục lạc chớ không phải là hỷ lạc.

Bởi vậy khi có tu tới rồi người ta nói thì biết, nói thì biết, mà chưa tới thì nói gì chúng ta cũng tưởng tượng ra cũng không nổi hết, mà tưởng tượng ra nó thành ra dục lạc.

Cho nên vì vậy quý thầy bởi vì do cái sức tưởng ra mới ngồi nghe khinh an, mới nghe nhẹ nhàng, mới thoải mái, nó sung sướng: “Chà! Cái này là hỷ lạc!” Đó là hỷ dục chớ hỷ lạc gì? Đó là cái sai, không có đúng.

Ở đây chúng ta có tám loại hỷ lạc: Bốn loại thuộc về phàm phu, thường sanh ác pháp; bốn loại thuộc về bậc thánh, thường sanh các thiện pháp.

Bây giờ quý thầy đã rõ hỷ lạc nào đúng và hỷ lạc nào sai thì hãy chọn cái đúng mà đi, còn cái sai thì bỏ đi, để kiếp kiếp, đời đời thoát khỏi khổ đau.

Đó, cái sai thì nó luôn luôn nó gắn liền với khổ đau, mà cái đúng thì nó mới thoát ra khỏi khổ đau. Thầy vạch quá rõ, còn đi hay không đi là quyền của quý thầy, còn muốn hay không muốn là do quý thầy, chớ Thầy không có còn mà cõng quý thầy đi được nữa!

Đó thì quý thầy nhớ Phật ngày xưa cũng nói: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi, ta không thắp đuốc cho các con đâu!” Đó, thì các con hiểu điều đó.

Bây giờ các con rõ rồi đó. Thầy vạch ra hai cái lộ trình rất rõ. Đầu tiên thì giảng nói cái này kia, nhưng bây giờ tới cái giai đoạn này thì các con biết Thầy đã chỉ cho thấy rõ ràng là hai cái lộ trình, phải bước một lộ trình chớ không thể nào bước hai lộ trình được.

4- TU TẬP CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC

4.1- TU TẬP TỈNH THỨC TRONG MỌI HÀNH ĐỘNG, VIỆC LÀM

(18:15) Sau khi tu tập Tứ Chánh Cần xong, các thầy nên tiếp tục tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức Định.

Ở lộ trình này, các cư sĩ đang tu, phải tu tập theo mọi hành động việc làm của mình. Hằng ngày làm bất cứ việc gì quý vị cứ chú ý việc ấy, không được xao nhãng hoặc nghĩ đến chuyện khác, phải luôn luôn chú ý hành động làm, tu trong tất cả việc làm.

Đó, nghĩa là luôn luôn cái người cư sĩ hiện bây giờ đang thực tập để cho mình bước qua một cái giai đoạn mới, cái lộ trình mới, cái lộ trình của người tu sĩ, thì mình luôn luôn tu tập ở trong các việc làm của mình, để tập cho có cái sức tỉnh thức ở trong đó, cho có một cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong đó.

Điều này rất khó nhưng Thầy dạy quý vị tu hành cũng không khó đâu.

Nghĩa là bây giờ bảo mình cứ tu tập theo cái hành động của mình, chú ý theo hành động, tu sao mà cứ chút có vọng tưởng, chút có vọng tưởng à. Trời đất ơi! Làm sao mà tỉnh thức được! Cho nên không có cách thức tu.

Cho nên từ lâu tới giờ có nhiều người dạy về tu trong mọi công việc, nhưng mà cái kết quả cho người ta tu mà được kéo dài từ ngày này đến ngày khác mà không có niệm vọng tưởng, không có vô ký trong đó thì ít có ai mà làm được hết.

Còn đến đây Thầy dạy cho quý thầy có sẽ làm được cái điều đó, mà có thể giúp cho quý thầy được tỉnh thức suốt ngày này qua ngày khác, trong mọi công việc, mà không cần phải có cái sự tập trung quá cao độ, quá tập trung trong các hành động.

4.2- VÔ KÝ VÀ VỌNG TƯỞNG ĐỀU LÀ THIẾU TỈNH THỨC

(19:40) Quý vị nên lưu ý: Tu trong hành động có hai điều cần tránh.

Đó bây giờ mình phải biết: Tu ở trong cái hành động, việc làm của mình có hai điều mình cần tránh:

  1.  

    Tránh suy tư chuyện khác…​

Nghĩa là, mình tránh suy tư ở trong hành động đó, mình tránh có sự suy tư có vọng tưởng ở trong đó. Nói thì dễ hiểu.

…​ đừng để vọng tưởng xen vào trong công việc đang làm. Nghĩa là, vừa làm việc mà vừa nghĩ chuyện khác, tức là thiếu sự tỉnh thức trong hành động.

  1.  

    Tránh vô ký…​

Đó, cái hành động mình vừa làm mà vừa nghĩ chuyện này chuyện kia, đó là thiếu tỉnh thức rồi, thì phải lưu ý là cái phần (thứ) nhất. Cái phần thứ hai là tránh vô ký.

…​ tức là đang làm mà không nhớ cử chỉ đang làm, lúc bấy giờ đang rơi vào trạng thái không nghĩ tưởng. Đó là thiếu tỉnh thức, thiếu tỉnh giác trong việc làm.

Tu Chánh Niệm Tỉnh Giác phải biết dùng hai pháp.

Nghĩa là, trước Thầy nêu lên hai cái lỗi ở trong cái sự tu tập đó: Cái thứ nhất là vọng tưởng ở trong hành động; cái thứ hai là vô ký ở trong hành động. Thì hai cái đó phải tiệt trừ, phải tiêu diệt nó, không được để ở trong cái sự tu tập thì như vậy là không đúng.

Chớ không phải là bây giờ tui tu vậy tui giữ tỉnh thức được năm, ba phút rồi kế đó nó có vọng tưởng, rồi tui tu năm, ba phút nữa rồi kế đó có vọng tưởng; hàng ngày tôi cũng tu ở trong công việc mà thường xuyên nó cũng có vọng tưởng xen ra, thì người đó dậm chân tại chỗ, tu ngàn đời cũng không được.

Tức là chúng ta phải biết tu như thế nào để làm chủ tuần tự cái thời gian chúng ta tăng dần, tăng dần lên, chớ không phải là ngày nào nói tu trong hành động rồi lúc nào cũng làm trong hành động, rồi tu có vọng tưởng ra vô ra vô hoài, cũng tu vậy mà tu Chánh Niệm Tỉnh Thức kiểu đó là kêu tu dậm chân.

Còn bắt đầu bây giờ chúng ta cho một cái thời gian nhất định, là chúng ta tu ba mươi phút ở trong cái hành động làm, hay hoặc là quét sân hay hoặc gì đó, đúng giờ chúng ta nghỉ, rồi bắt đầu chúng ta xả, chúng ta làm theo cái sự suy nghĩ gì của nó kệ nó.

Nhưng mà đúng giờ chúng ta tu, đúng giờ chúng ta tu. Chúng ta tu chừng năm phút hay là mười phút mà chúng ta đạt được cái kết quả chất lượng của tỉnh thức ở trong năm phút, ba phút thôi, rồi hoàn toàn chúng ta xả nghỉ. Chớ sức của chúng ta không có thể mà suốt ngày làm công việc mà chúng ta giữ nó được.

Cho nên phải hiểu được cái sức của mình. Nhiều khi nghe nói tu trong hành động, điên khùng mà tu suốt ngày, lúc nào cũng có vọng tưởng hết mà nói là tỉnh thức là tỉnh thức gì?

Chúng ta tỉnh thức được năm phút, ba phút đó là may lắm rồi, rồi từng đó mà chúng ta tập dần chúng ta tăng dần lên thì chúng ta sẽ có chất lượng cao, và từng đó chúng ta sẽ chiếm tất cả cái thời gian tỉnh thức trong mọi hành động.

Bởi vì tu phải biết chớ. Chớ còn tu mà không biết, mà cứ tu điên tu khùng, thì tu ngàn đời cũng nói là tu trong công việc làm, ai nói cũng hay hết, nhưng mà cuối cùng thì chẳng có tỉnh thức gì hết. Bởi vì luôn luôn có xen kẽ vọng tưởng ra vô, làm sao tỉnh thức được!

Đó, thì hôm nay Thầy dạy để cho quý thầy biết cách thức mà tu tập pháp tỉnh thức.

Cũng như nghe thầy nói tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, thôi đi kinh hành luôn lung tung, lung tung, suốt ngày Thầy thấy đi chăm chăm. Thầy nói tu cái kiểu này là tu mù, tu ngu. Tu như vậy là không bao giờ có tỉnh thức!

Cho nên cuối cùng Thầy nhìn thấy quý thầy càng ngày là càng sai. Càng sai là nó không có tập trung được cái độc cư, mà nó lại xuyên qua những cái khác, cho nên Thầy nhận ra rất rõ cái điều mà quý thầy…​

Thôi bây giờ chúng ta sắp tới giờ ăn cơm.

4.3- DÙNG PHÁP TÙY VÀ PHÁP HƯỚNG ĐỂ KÉO DÀI SỨC TỈNH THỨC

(22:54) Bây giờ bắt đầu tiếp tục cái bài học vừa rồi là tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác. Vậy thì phải tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác như thế nào?

Như Thầy đã dạy ở trong cái vừa rồi đó, ở cái sức của mình nó ở cái mức thời gian nào thì mình nên tập luyện cái mức thời gian đó, chớ không phải luôn lúc nào ở trong mọi cái hành động, mọi công việc mà mình tập tỉnh thức được liền.

Mà ngay trong cái thời gian đầu tiên mới tu thì mình chọn cái thời gian ngắn nhất với cái sức của mình, mình tập sao cho có chất lượng cao. Trong lúc đó, mình giữ gìn mọi hành động của mình mà cái sức tập trung của mình ở trong mọi hành động đó thì cái sức tỉnh thức nó mới có.

Muốn được vậy thì chúng ta phải nương vào hai cái pháp: cái pháp tùy và cái pháp hướng.

Tùy pháp là nương theo cái hành động.

Bởi vì cái hành động của chúng ta, đó là cái hành động mà chúng ta gọi là pháp. Vì hàng ngày cái đối tượng, cái hành động của chúng ta đó là cái pháp hành. Cho nên, chúng ta lấy cái hành động hàng ngày: đi, đứng hay hoặc làm công việc, thì đó là cái pháp tùy theo cái hành động đó.

Cho nên cái tâm nó chú ý vào cái hành động đó gọi là tùy pháp.

Còn hướng pháp là chúng ta nhắc nó.

(24:11) Cho nên chúng ta tu tập như thế nào mà nó tự nhiên, chớ không phải là tu tập theo cái kiểu mà thiếu tự nhiên.

Thí dụ như tùy pháp là cái thân của chúng ta làm công việc đó nó nhanh nhẹ thì chúng ta tùy theo cái sự nhanh nhẹ đó mà chúng ta tập luyện. Hoặc là chúng ta làm nó chậm chạp thì chúng ta cũng tuỳ theo cái sự chậm chạp mà tập luyện cho nó tự nhiên.

Chớ còn bây giờ, chúng ta thấy bây giờ mình phải chú ý cái hành động thân của mình, cái bắt đầu mình phải làm cho chậm thiệt chậm mới chú ý được, hay hoặc là làm cho nhanh để chú ý được, thì cái đó là mình mất tự nhiên, mình làm sai cái pháp hành của mình đi. Cái thân hành có người thì làm nhanh, có người thì làm chậm.

Cũng như bây giờ có người thì đi nhanh, mà cũng có người đi chậm. Nhưng mà cái người đi chậm thì tùy theo cái pháp hành đi chậm của mình mà mình tập cái tỉnh thức ở đó. Mà cái người đi nhanh thì cũng tùy theo cái đi nhanh mà mình tập tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức ở chỗ nhanh.

Chớ không phải là bắt buộc mình, mình đi nhanh mà bây giờ phải tu tập mình phải đi cho chậm trở lại. Mà đi chậm như vậy thì nó không thể nào là đúng cái cách tự nhiên của nó.

Cho nên chúng ta tu, nhiều khi chúng ta không biết, chúng ta tu, con người thì nhanh nhẹ, thanh thoát, mà tu riết rồi đi chậm như con rùa, thấy coi cũng không được. Đó là những cái sai.

Rồi có nhiều người lại thấy mình đi chậm quá như vậy là cái sức tập trung của mình - tu tập như vậy thấy nó quá lâu, cho nên lại là chạy nhảy, nhanh nhẹ để nương theo cái chỗ nhanh nhẹ như vượn đó để mà tu tập, thì nó cũng trật.

Tùy theo cái pháp hành của thân của chúng ta, nhanh thì chúng ta tu nhanh, chậm thì chúng ta tu chậm, chớ không phải bắt buộc nó vô cái khuôn khổ nào, chậm nhanh theo cái ý của mình được.

Bởi vì đây là cái pháp, tự nó nó có cái pháp của nó, cho nên mình chỉ có cái hướng theo mà thôi, nương theo, tùy theo cái pháp mà mình tu tập.

Đó là tùy pháp theo hành động, công việc làm sống hằng ngày mà tu tập sức tỉnh thức.

Muốn đạt được sức tỉnh thức này, người tu sĩ phải dùng pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý.

Bây giờ mình kèm theo cái pháp hướng tâm đó, mình nhắc để cái tâm của mình nó luôn luôn nó nhớ được cái hành động việc làm của mình.

Như mình nhắc: Tôi đang làm việc gì thì tôi nhắc tôi làm việc đó. Nghĩa là mình làm cái gì thì mình nhắc theo nó. Thí dụ như bây giờ mình đang quét nhà, đang chú ý - bây giờ mình đang quét nhà, thì tôi chú ý hành động đang quét nhà, và hướng tâm nhắc: “Tôi đang quét nhà!”

Đó thí dụ đó, thì bây giờ mình dùng cái câu pháp hướng của mình thì: “Tôi đang quét nhà!” Bây giờ mình đang quét nhà, cho nên mình nhắc: "Tôi đang quét nhà!" Như vậy là mình sẽ có nhắc cái tâm của mình nhớ được cái hành động mình đang quét. Như đang nấu cơm, thì mình lại nhắc: “Tôi đang nấu cơm!”

Đó thì, đó là những cái mình hướng theo để giúp cho cái ý thức của mình nó tỉnh thức ở trong cái hành động của nó, mà nó không bị thất niệm, nó ở trong cái chánh niệm của nó.

Cho nên cái chánh niệm của nó là cái hành động, vì chúng ta đặt lấy cái hành động để làm cho cái sức tỉnh của chúng ta có.

Cho nên lúc bấy giờ, cái chánh niệm là không phải là cái niệm nào mà nó thông suốt cái này cái kia gọi là chánh niệm, mà chính cái hành động đó là cái chánh niệm của chúng ta đã đặt ở trước mắt của chúng ta, trước cái ý của chúng ta, cho nên cái đó gọi là chánh niệm.

Mà nó chánh niệm ở luôn luôn lúc nào nó cũng biết được cái hành động đó đó, thì nó là tỉnh giác hay là tỉnh thức.

(27:57) Hiểu như vậy thì chúng ta biết rằng cái niệm của chúng ta là cái niệm gì. Cái niệm hành động, cái niệm đang làm cái gì đó, đang hiện đang làm công việc gì đó, đó là cái niệm, mà cái niệm mà đang hiện tiền trước mặt của mình đó gọi là chánh niệm.

Chớ không phải là mình đặt cái niệm khác vào ở chỗ đó được, hay hoặc là mình đặt cái hơi thở ở chỗ đó được. Vì chánh niệm mà ở trên cái hành động thì phải là cái hành động chớ không phải là cái hơi thở.

Còn nếu mà chúng ta vừa đặt cái đi kinh hành, vừa biết cái chân đi mà vừa biết hơi thở, thì như vậy là chúng ta đã đặt hai cái niệm một lượt, thì như vậy là chúng ta sai. Đó là không phải chánh niệm, mà nó niệm đôi ở trong đó thì nó trật.

Cho nên chúng ta chỉ biết có mình đi kinh hành mà thôi, thì như vậy là mình đặt cái chánh niệm, thì lúc bấy giờ nó tỉnh giác ở trong cái chánh niệm đó, cho nên cái định gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Hiểu như vậy thì chúng ta nó không có đi hàng hai, và không có đặt sai cái niệm. Mà nếu mà trong khi đương đi kinh hành có một cái niệm gì nghĩ ở trong đầu thì cái đó là sai.

Là tại vì, cái niệm khác chớ không phải là cái niệm hành động của chúng ta, cho nên nó đâu có chánh niệm? Vì cái niệm đó không phải là cái niệm mình đặt, cho nên nó là tà niệm.

Đi trên hè phố thì nhắc: “Tôi biết tôi đang đi trên hè phố!”

Đó thì mình đang đi trên hè phố thì mình nhắc: "Tôi biết tôi đang đi trên hè phố!" Đó là cái pháp hướng của mình, để cho cái chánh niệm của mình là đang đi ở trên hè phố.

Đó là những cái mà chúng ta cần phải hướng theo để cho cái tâm, cái ý của chúng ta luôn luôn lúc nào nó cũng tỉnh thức ở trên cái hành động mà chúng ta đang đi. Mà cái hành động đó là cái chánh niệm.

Chứ nghe chánh niệm thì chúng ta nói - bây giờ nói về cái niệm chân chánh của chúng ta thì nói: “Bây giờ nói “Đời là khổ” là cái niệm chân chánh”, thì như vậy là nó sai đi, nó thuộc về cái loại khác, cái loại định khác chớ không phải là cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức ở đây.

Mình nghe chánh niệm rồi mình đem cái chánh niệm nào đó vô chỗ này thì nó là sai. Mình phải hiểu được cái chánh niệm của trong khi mà đi kinh hành là cái niệm nó như thế nào.

Mà thất niệm, tức là mất cái niệm đó đi, Đức Phật gọi là thất niệm. Thí dụ mình đương đi kinh hành mà mình quên mình đi kinh hành, tức là mình bị thất niệm. Thầy giải thích như vậy để quý thầy thấy rõ chỗ thất niệm, để chúng ta biết cái chỗ tu chúng ta đúng hay là sai.

(30:10) Cũng như một người đang tu Định Vô Lậu, mà đang quán cái thân bất tịnh, bỗng dưng cái nhớ chuyện gì khác đi, không có quán cái thân bất tịnh mà lại quán một cái câu kinh "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", thì suy nghĩ về cái câu đó, thì như vậy là thất niệm.

Cái niệm đó - đang có cái niệm đó, cái niệm đó nó nói về cái tâm của mình như thế này, thế khác ở trong kinh điển, mà trong khi đó mình quán bất tịnh của cái thân này, thì cái thân này đang quán bất tịnh đó là cái chánh niệm, mà quán một cái câu kinh nào đó thì đó là thất niệm, nó là cái tà niệm chớ không phải là cái chánh niệm của cái người đang tu cái pháp môn Vô Lậu. Đó phải hiểu.

Mặc dù là cái niệm đó nó không phải là niệm thế gian, nhưng nó vẫn là một cái niệm không có đúng cái chỗ vị trí nó đứng, mà mình đặt cái niệm đó nó ngay cái chỗ mà mình đang tu cái pháp đó, nó không đúng cái pháp, thì do đó là cái niệm đó thuộc về tà niệm chớ không phải là chánh niệm.

Mà cái niệm như vậy xen vào thì đương nhiên coi như người tu hành đó bị thất niệm.

Đang súc miệng thì nhắc: “Tôi biết tôi đang súc miệng!”

Nghĩa là mình đang súc miệng, mình rửa mặt đó, thì mình nhắc: "Tôi súc miệng tôi biết tôi đang súc miệng!" Đang ăn cơm thì nói: "Tôi biết tôi đang ăn cơm!" Đang nhai thực phẩm: "Tôi biết tôi đang nhai thực phẩm!" Như vậy là lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức ở trong cái chánh niệm của cái hành động đang nhai.

Đang mặc áo thì tôi cũng nhắc: "Tôi biết tôi đang mặc áo!"

Đó mình nhắc như vậy, tức là cái pháp hướng của mình kèm theo để cho mình biết cái hành động mình đang xỏ tay vô cái tay áo, rồi đang gài nút. Thì đó là những cái mà nhắc chúng ta biết đang trong hiện tại đó, chúng ta đang làm cái việc đó.

Cho nên cái ý của chúng ta luôn luôn nó bị cái pháp hướng mà nó không có chạy ra khỏi cái chánh niệm của nó, cho nên luôn luôn lúc nào nó cũng ở trong cái chánh niệm của nó.

Như vậy là hôm nay, quý thầy đã biết một cái chánh niệm của nó là cái niệm gì khi chúng ta đã đặt nó trước mặt của chúng ta. Cho nên Phật bảo - thí dụ như, mình ngồi cái định nào, mình tu cái định nào, thì mình cứ đặt cái niệm trước mặt.

Thì bây giờ đó, mình đặt cái niệm Chánh Niệm Tỉnh Thức, cái niệm hành động, thì tức là trong hành động thì mình phải đặt nó trước mặt của mình, luôn luôn phải giữ nó, đừng có cho thất niệm đó, thì như vậy là chúng ta mới có cái sức tỉnh giác, tỉnh thức cao. Còn nếu mà bị thất niệm thì nó không có cái sức tỉnh giác cao đâu.

Đó là người tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định luôn luôn dùng pháp tùy và pháp hướng để giúp cho tâm có thời gian kéo dài sức tỉnh thức ra.

Mình cứ nhắc như vậy thì nó sẽ kéo dài cái thời gian tỉnh thức.

Nhưng như vừa rồi, Thầy cũng đã nhắc quý thầy là chúng ta phải khéo như thế nào, là vì cái sức của chúng ta nó không thể từ giờ này đến giờ khác mà nó tỉnh thức nổi đâu.

(33:05) Cho nên chúng ta thí dụ chúng ta tập chừng năm phút chúng ta nghỉ, nghỉ xả ba mươi phút hay hoặc là mười lăm phút cái bắt đầu chúng ta tu lại năm phút. Cái sức của chúng ta tu lại, cái sức tỉnh rất cao, rất tốt mà cái chánh niệm của chúng ta hoàn toàn nó an trú ở trong cái hành động, cái chánh niệm nó không có thất niệm, nó không có mất.

Còn chúng ta tu nhiều quá, nó lờ mờ. Mặc dù là nó không mất cái chánh niệm, tức là cái niệm hành động của chúng ta nó không mất, nhưng nó không rõ, do đó cái sức tỉnh nó không cao, vì vậy mà chúng ta tu mất thì giờ rất lớn.

4.4- CÓ SỨC TỈNH CAO MỚI PHÓNG RA ĐƯỢC TRI KIẾN GIẢI THOÁT

Lưu ý cái phần này thì quý thầy tu ít nhưng mà đạt cái chất lượng cao. Rồi từng cái sức tỉnh chúng ta ngày càng cao lên thì chúng ta lại tăng dần lên, thì cái thời gian chúng ta sẽ thấy rất là tỉnh.

Thà là mình tu ít, mà lúc bấy giờ đó mình tập trung vào một cái gì đó cái sức tỉnh mình rất cao. Và cái sức tỉnh rất cao thì nó mới có một cái tri kiến giải thoát nó phóng ra, nó mới tu cái Định Vô Lậu, nó quét sạch những cái lậu hoặc.

Còn cái sức tỉnh mình nó thấp quá, mình ngồi lại mình dùng cái cái Niệm Vô Lậu để mình quán xét, thì mình ngồi hoài nó ỳ hoài mà nó không phóng ra được. Đó là cái sức tỉnh mình không có cho nên cái tri kiến giải thoát phóng ra không được.

Vì vậy mà khi mà mình chưa có đủ sức tỉnh thì mình dùng cái tri kiến. Cái tri kiến tức là cái huân cái sự hiểu biết vay mượn của người khác để rồi mình suy xét, quán xét từ đầu đến chân của mình bằng cách này, bằng cách khác.

Còn khi mà chúng ta đã có được cái sức tỉnh thức rồi thì chúng ta không cần vay mượn của ai nữa hết, mà chúng ta chỉ đặt cái niệm trước mặt, thí dụ như: niệm thân bất tịnh, hay niệm thân vô thường, vô ngã.

Chúng ta đặt cái niệm trước mặt, chúng ta ngồi im lặng một chút xíu, tự ở trong tâm của chúng ta phóng ra cái tri kiến giải thoát, từ đó nó quán sát , nó thấy rất rõ tất cả những cái bất tịnh như thế nào, tự nó nó quán sát, nó không vay mượn của ai hết mà nó thông suốt như vậy đó. Đó là cái tri kiến giải thoát.

Nhưng vì cái sức tỉnh thức của chúng ta không có, cho nên chúng ta ngồi lại nó ỳ đó mà nó không phóng ra được. Bởi vì tỉnh thức không cao. Vì vậy mà khi chúng ta tu tập chừng năm phút hay mười phút mà cái sức cao rồi thì tự chúng ta ngồi im lặng là nó phóng ra liền.

Bởi vì người ta nói: "Định thì có Tuệ". Mà mình chưa có cái Định, tức là chưa có được cái sức tỉnh thức. Cái sức tỉnh thức tức là cái sức định chớ đâu phải là cái gì? Nó là cái sức nhất tâm của chúng ta. Cho nên chúng ta chưa có nó thì cho nên cái Tuệ nó không phóng ra được.

Mà nó không phóng ra được thì tri kiến giải thoát không có, mà tri kiến giải thoát không có thì bây giờ cái tâm chúng ta nó còn bao nhiêu cái sự ràng buộc, dính mắc, cho nên chúng ta muốn giải quyết cái sự ràng buộc dính mắc của lậu hoặc này thì chúng ta phải dùng cái tri kiến, tức là cái vay mượn, cái hiểu biết của kinh điển, của quý thầy dạy bảo, để chúng ta hiểu được cái bất tịnh như thế nào, cái vô thường như thế nào, để chúng ta quán xét theo cái sự hiểu biết của vay mượn, chớ không thể có tri kiến giải thoát được.

Đó thì, cái sự tu tập nó phải rõ như vậy. Chớ nếu mà không biết thì chúng ta ngồi ỳ đó hoài mà cái tri kiến giải thoát nó không phóng ra rồi cứ nương theo hơi thở, tưởng đó là mình thiền định chớ sự thực ra mình bị thất niệm.

Mình thất niệm là vì cái định này nó không thể nào là ở trong hơi thở được. Rồi mình tưởng rằng ở trong hơi thở nó không có vọng tưởng đó là mình không có thất niệm, nhưng mà thật sự đó mình tu lầm lạc rồi, mình tu sang qua một cái pháp khác, mà mình không có chủ động điều khiển được, tức là thiếu sức làm chủ.

4.5- HƯỚNG TÂM KHÔNG PHẢI LÀ NIỆM CÂU PHÁP HƯỚNG

(36:23) Nhưng quý vị lưu ý, ở đây hướng tâm chớ không phải niệm câu pháp hướng.

Cái phần này chúng ta cũng phải rõ là chúng ta hướng tâm, chớ không phải là niệm. Để không rồi chúng ta cứ liên miên mà niệm thì nó cũng lại trật.

Ở đây hướng tâm chớ không phải niệm câu pháp hướng. Vì hướng tâm phải có cách khoảng thời gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia.

Nghĩa là nó phải có một cái thời gian với câu - ví dụ bây giờ chúng ta hướng nè, bắt đầu: “Tôi quét sân tôi biết tôi quét sân!” Thì không thể nào mà chúng ta lặp lại một lần thứ hai kế tiếp nữa: “Tôi quét sân tôi biết tôi quét sân!” - rồi nói: “Tôi quét sân tôi biết tôi quét sân!” - mình lặp lia lịa vậy gọi là niệm.

Còn mình nhắc một cái câu: “Tôi quét sân, tôi biết tôi quét sân!” Rồi chúng ta cứ tự nhiên mà chúng ta quét, để cho cái sức ý thức của chúng ta tập trung nơi cái hành động chánh niệm của nó, cái hành động đó đang quét. Thì một lúc, khoảng độ chừng ba phút, năm phút chúng ta lại nhắc một lần nữa. Thì cứ có cái khoảng cách để cho cái tâm nó lặng theo cái hành động, nó tập trung theo cái hành động mà không cần tác ý ra nữa thì do đó gọi là pháp hướng.

Còn nếu mà không - còn nếu mà cứ liên tục niệm thì nó là niệm pháp hướng chớ không phải là hướng tâm.

Cho nên ở đây chúng ta cũng phải hiểu được cái điều này. Người mới tu họ không biết, thì cứ luôn luôn liên tục lúc nào cũng nhắc - thí dụ đi kinh hành thì họ cứ nhắc: "Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành!" *- *rồi lúc nữa họ cũng nhắc liên tục nữa, thì cái đó là cái sai.

Cho nên, khi mà nhắc rồi thì họ phải tuần tự để cho có khoảng thời gian để lắng tâm xuống trong cái chánh niệm - cái hành động đi của chúng ta. Thì khi mà lắng tâm trong cái khoảng thời gian đó, cái sức tỉnh nó tăng lên.

Và đồng thời, cái thời gian mà lắng tâm đó nó sẽ bị vơi đi, tức là cái sức tập trung của chúng ta nó sẽ dần dần - cái ý thức nó chưa có quen, cho nên nó không có tập trung chặt vào đó được, cho nên nó lơi lỏng.

Nó lơi lỏng thì chúng ta lại dùng một cái câu hướng nữa, chúng ta lại nhắc nó lần nữa: "Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành!" Thì bắt đầu, từ đó nó lại tập trung vào cái hành động đi nữa, thì nó lại tỉnh thức cao hơn nữa.

Do đó chúng ta tiếp tục cứ như vậy thì cái sức tỉnh nó càng cao.

4.6- CÓ THỂ KẾT HỢP HƠI THỞ VỚI CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC

(38:43) Nhưng mà rồi nó có cái trường hợp, là tại vì quý thầy đã tu tập cái hơi thở nhiều quá. Thay vì chúng ta chưa nên tập hơi thở trong cái lúc này, mà phải tu các định khác, bây giờ nó lại quen hơi thở đi, vừa đi mà vừa lại biết hơi thở.

Cho nên Phật dạy tất cả các pháp đều chúng ta có thể nương hơi thở mà tu tập được, do đó thì chúng ta nhắc cái câu ám thị, nó vừa là có hơi thở mà vừa có cái Chánh Niệm Tỉnh Thức của cái hành động chúng ta đi nữa, thì: “Hơi thở vô tôi biết tôi thở vô, hơi thở ra tôi biết hơi thở ra!” - “Hơi thở vô tôi biết tôi đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đi kinh hành!”

Đó là những cái câu nhắc để lấy dùng cái hơi thở để mà cho tập trung xuống với cái hành động đi, chớ không phải tập trung hơi thở.

Nhưng mà tại vì cái tâm của mình nó đã quen với hơi thở, cho nên vừa đi mà vừa biết hơi thở, cho nên mình nhắc: “Hơi thở vô tôi biết tôi đang đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đang đi kinh hành!” Mình dụng cái hơi thở, mình tập trung xuống cái hành động liền, nó làm cho mình tỉnh thức ngay liền, và đồng thời mình bỏ cái hơi thở được.

Đó là những cách mà có thể nương hơi thở mà tu vào cái Chánh Niệm Tỉnh Thức, để cho chúng ta càng sức càng tỉnh thức hơn.

Đó, đó là những cái cách thức mà tu tập để chúng ta tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức cho nó đạt được cái mức tỉnh thức cao.

4.7- HƯỚNG TÂM PHẢI CÓ CÁCH KHOẢNG THỜI GIAN

(40:02) Vì hướng tâm phải có cách khoảng thời gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia: Người mới tu ba mươi phút mới hướng một lần, còn người tu lâu có sức tỉnh thức nhiều, một phút hoặc hai phút hướng một lần.

Nghĩa là người mới tu mà tu ba mươi phút, thì họ phải tu trong một phút họ phải hướng một lần, hay hoặc hai phút họ hướng một lần. Còn người tu lâu thì có thể nó khoảng từ năm phút hay mười phút họ mới hướng một lần.

Nếu mà thấy cái sức tỉnh của mình mà nó luôn luôn nó bắt đầu nó tập trung ở dưới cái hành động đi của mình, thì lúc bấy giờ đó, lâu lâu mình mới hướng.

Mà nó thấy nó lờ mờ, nó không có (tỉnh), nó bị hàng hai như nó nương hơi thở hoặc là nó bị âm thanh gì tác động nó, nó đi hàng hai trong đó, thì ngay đó mình phải hướng liền để cho nó gom lại, chớ không khéo nó lờ mờ, lờ mờ. Nó đi hàng hai là nó lờ mờ rồi đó, nó không tập trung được rồi, nó không tỉnh thức đâu.

Cho nên khi đó chúng ta - người tu thì người ta thiện xảo lắm, người ta phải khéo léo ở trong cái sự tu tập. Người ta biết cái tâm mình lúc bấy giờ nó lờ mờ rồi, người ta biết lúc bấy giờ nó rất tỉnh rồi, mà lúc lờ mờ người ta biết.

Cho nên người ta rất khéo léo ở chỗ người ta dùng pháp hướng là cái chỗ lờ mờ, cái chỗ tỉnh. Hễ tỉnh thì người ta không có dùng hướng nữa để cho nó tập trung ở trong sức tỉnh. Mà nó lờ mờ thì chúng ta phải ngay đó dùng pháp hướng để phá liền, để cho cái ý thức của chúng ta nó gom lại cho nó mạnh hơn. Biết rõ như vậy thì chúng ta tu rất là có kết quả.

Ở đây không được nhắc liền miệng, vì nhắc liền miệng là niệm câu trạch pháp hướng. Như vậy là tu sai, sau này sẽ rơi vào định tưởng, lạc đường giải thoát của đạo Phật.

Nghĩa là rơi vào những cái định tưởng. Niệm riết rồi thành nó sẽ rơi vào những cái định tưởng, nó làm cho chúng ta có sự an lạc ở trong cái niệm mà nó không đúng cái pháp hướng.

5- TU TẬP ĐỊNH VÔ LẬU

5.1- ĐẶT NIỆM TRƯỚC MẶT, QUÁN XÉT ĐỂ PHÁ VÔ MINH

(41:57) Bây giờ quý vị tu Định Vô Lậu.

Ban đêm, tối đến, quý vị chọn giờ nào yên tịnh nhất, ngồi kiết già, lưng thẳng, rồi đặt niệm trước mặt, quán xét cha mẹ, anh em, bà con ruột thịt, vợ chồng, con cái, xét qua nhân quả khổ vui, giận hờn, thương ghét, đầy dẫy một cuộc sống đau khổ và bằng nước mắt do nghiệp nhân quả tạo nên.

Đó, khi bây giờ đó, mình còn là người cư sĩ ở trong gia đình thì mình đặt cái niệm gì? Cái niệm của một cuộc sống chung nhau ở trong gia đình: cha mẹ, anh em ruột thịt, con cái của mình, của cải, tài sản mình đặt ra trước, mình quán xét về nhân quả.

Mình mới suy tư lại, từ cái ngày mà mình lập gia đình cho đến khi mà mình sống có con, có cái như thế này, sự vui, sự khổ như thế nào, mình phơi bày ra tất cả những cái cuộc sống của mình, để cho mình thấy đó là bằng mồ hôi bằng nước mắt của mình, bằng sự đau khổ, mà do cái nhân quả nghiệp báo nó đưa đẩy chúng ta quá nhiều cái sự khổ đau đó, vui thì ít mà khổ thì nhiều.

Do cái sự tu tập như vậy, mà chúng ta đặt được cái niệm như vậy, tức là chúng ta sẽ - càng ngày chúng ta sẽ hướng về cái lối đi giải thoát, càng ngày cái tâm chúng ta càng rõ nét ở trên cái hướng giải thoát.

Còn nếu mà không chịu đặt như vậy thì chúng ta bị cái sự Vô Minh nó che mờ, nó làm cho chúng ta tưởng rằng cái cuộc sống của chúng ta là hạnh phúc, nhưng nó là cái hạnh phúc giả, rồi tiếp tục trên con đường nhân quả, nghiệp báo, rồi chúng ta cũng trôi lăn ở trong sáu nẻo.

Rồi những người thân của chúng ta cũng chẳng còn là người thân, mà chỉ là những người nhân quả, những người vay nợ với nhau, chớ không có nghĩa lý gì ở trong cuộc đời của chúng ta nữa.

Như vậy là, cái người cư sĩ mà chúng ta muốn bước qua một cái giai đoạn của cái người tu sĩ, thì chúng ta nên đặt cái niệm đó để chúng ta quán xét cái cuộc sống sum họp của gia đình, của tất cả những người thân, để xem coi: Có phải là thân thật hay là thân giả? Có phải là nợ vay hay là không nợ vay? Có phải là nghiệp báo, gặp nhau để mà trả nghiệp báo hay không?

Cho nên quán xét cuối cùng thì chúng ta thấy tâm chúng ta dửng dưng mà không còn bị trói buộc những cái dây thương, dây ghét nữa, cho nên chúng ta được xa lìa để tìm lấy con đường giải thoát hoàn toàn.

(44:14) Đó là, cái người mà ở trong cái lộ trình thứ nhất này - cái người cư sĩ chuẩn bị cho mình bước qua một cái giai đoạn tu tập của lộ trình thứ hai của tu sĩ - thì chúng ta nên đặt cái niệm đó ở trước để tu tập cái Định Vô Lậu.

Ở đây, đầu tiên Thầy dạy cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, kế đó thì cái Định Vô Lậu. Hai cái này là cái người cư sĩ ở trong cái giai đoạn đầu tiên phải tu tập.

Khuya thức dậy cũng ngồi kiết già, đặt niệm trước mặt, quán xét lại như buổi tối. Sáng, chiều cũng thế. Cứ mỗi lần quán xét là nó lại rõ thêm nhân quả.

Nghĩa là mỗi lần mà mình ngồi mình tu, thì càng ngày mình thấy cái đường đi của nhân quả rất rõ ràng.

Tại sao mà Thầy biết như vậy?

Tại vì trước kia Thầy cũng có tu cái này rất nhiều, cho nên tại sao mà Thầy biết được đường đi lối về của nhân quả? Là tại vì mình có đặt được cái nhân quả đó mà mình quán xét được cuộc đời mình, rồi quán xét của mọi người, cho nên càng ngày nó làm cho mình thấu rõ được cái đường đi của nhân quả.

Vì vậy mà bây giờ mà viết ra một cái giáo án của nhân quả - tức là đạo đức nhân quả - Thầy viết ra rất dễ dàng. Bởi vì Thầy đã thấu suốt được cái đường đi của nó rồi. Mỗi một cái hành động mà chúng ta làm thì nó sẽ có cái quả nào Thầy đã biết rồi.

Còn như quý thầy không chịu quán xét cho nên quý thầy: Hành động của mình làm đây chớ mình chưa biết cái quả nó ra sao hết! Còn cái người mà đã thông suốt cái nhân quả đó, thì người ta ngồi lại người ta biết cái hành động đó làm cái điều đó là sẽ có cái quả gì nó đến đó. Nó không có sai chỗ nào hết, nó không có trật. Bởi vì nhân quả mà!

Cho nên từng xét như vậy, thì cái tri kiến giải thoát của chúng ta nó thấu suốt được cái lý của nhân quả, cho nên nó thông suốt được cái đường đi của nhân quả, nó không có sai. Còn nếu không chịu tu cái Định Vô Lậu mà dùng cái pháp quán thì chúng ta khó mà thấy được đường đi nước bước của nhân quả.

5.2- CÁC ĐỀ MỤC ĐỊNH VÔ LẬU

(46:05) Đến đây, Thầy cho thêm vài đề mục Thiền Vô Lậu:

Nghĩa là Thầy cho thêm một vài cái đề mục, tức là một cái niệm để mà tu cái Định Vô Lậu.

Đặt niệm của cải, tài sản…​

Nghĩa là mình đem của cải, tài sản của mình đặt trước cái đó, để mình quán xét cái của cải, tài sản của mình nó vô lậu như thế nào.

…​ quán xét xem cho thấu lý về của cải, tài sản làm cho ta bất an, phải lo lắng bảo vệ và còn phải liên tục chạy theo để mà tạo nó ra nữa.

Đó thì, ở đây Thầy cho cái đại khái, chúng ta hiểu rằng: Khi mà chúng ta đặt cái niệm của cải tài sản trước mặt, thì chúng ta quán xét cái của cải, tài sản khi mà chúng ta làm ra có nó, rồi cho đến khi mà nó có rồi chúng ta phải bảo vệ giữ gìn nó như thế nào, mọi mặt, đủ cách làm cho chúng ta đau khổ ở trong cái cuộc đời chúng ta như thế nào đối với của cải, tài sản.

Quán xét đến khi chết có mang theo được không?

Nghĩa là khi mình chết rồi mình có mang được cái vật gì không? Tức là mình quán xét: Bây giờ phỏng chừng mình chết rồi, bây giờ cái gì quý nhất? Vàng bạc hay cái gì quý nhất mà mình muốn mang theo được, có thể mang theo được mình không?

Đó, mình quán xét cái vật chất, tiền của, châu báu mà mình đã làm ra được, vậy thì khi mình mất đi rồi, thì mình có mang cái vật gì theo được không? Để cho mình thấy nó, nó không phải là những cái người mà thân thương với mình, luôn luôn nó sẽ ở bên mình được.

Cho nên mình phải thấy được cái điều này là do mình phải đặt cái niệm đó rồi mình quán xét mình mới xả ly nó ra được, mình mới có vô lậu được với những cái đối tượng này.

Đặt niệm thân bất tịnh để quán xét;

Vì mình thường chấp cái thân của mình, cho nên mình phải đặt cái niệm bất tịnh để cho thấy nó thật sự là bất tịnh, vì vậy mà mình ngao ngán, mình không có còn dính vào cái thân này, chấp cái thân này nữa.

Đặt niệm thân vô ngã;

Nghĩa là mình đặt cái niệm thân của mình trước mặt của mình vô ngã để mình quán xét coi cái ngã của mình ở đâu để mình tìm. Khi mình thấu được cái lý vô ngã của nó, thấu suốt được cái lý vô ngã, cho nên mình thấy trong thân của mình không có cái gì gọi là có ngã trong đó.

Đặt niệm thân vô thường quán xét;

Tức là mình đặt cái niệm thân vô thường của mình rồi mình quán xét.

Đặt niệm thân khổ quán xét;

Mình đặt cái thân khổ của mình, mình quán xét.

Đặt niệm thực phẩm quán xét bất tịnh;

Những cái thực phẩm ăn hằng ngày của mình, mình cũng đặt cái niệm đó trước mặt, cái chánh niệm đó trước mặt, rồi mình quán xét nó, mình dùng pháp quán mà quán xét để thấy cái thực phẩm mình ăn có bất tịnh, đúng hay là sai? Từ đó mình thấu suốt được cho nên mình không có ham ăn, ham uống nữa.

Đặt niệm vợ con quán xét có phải là nhân quả vay nợ không?

Đó, mình đặt cái niệm vợ con. Bởi vì vợ con là những người gần gũi với mình nhất và dễ làm cho mình dính chặt ở trong cuộc đời của mình. Cho nên mình đặt cái niệm đó mình quán xét có phải là cái nhân quả vay nợ, hay hoặc là đó là một cái tình cảm thiêng liêng nào để mà có thành vợ thành chồng với nhau.

Đó là mình phải đặt cái niệm mình quán xét, vì vậy mà mình phá được cái lậu hoặc đó.

(49:11) Đặt niệm danh quán xét;

Cái danh - ai lại cũng ham danh này kia, do đó mình phải đặt cái niệm danh. Cái danh đó có thật hay là nó giả? Do đó mình phải đặt cái niệm danh để mình quán xét nó.

Đặt niệm sắc dục mình quán xét;

Thí dụ như sắc dục nó gợi cho mình ham thích tình dục, do đó mình đặt cái niệm đó để mình xem coi có cái niệm đó nó có thật sự là hạnh phúc không? Hay hoặc là đó là một cái giả để mà tạo cho chúng ta những cái nhân tái sanh luân hồi, những cái hành động bất tịnh, cái hành động không có sạch sẽ?

Đó là những cái mà chúng ta phải đặt cái niệm quán xét. Và quán xét thì chúng ta sẽ thấu triệt được tất cả những cái này, do đó mà chúng ta phá vỡ những cái lậu hoặc ở trong tâm của mình.

Đặt niệm ngủ;

Mình ngủ cũng đặt cái niệm ngủ mình quán xét cái ngủ từ đâu đến, cái ngủ nó đưa đến những cái gì, tai hại sao, sao? Tức là mình thấu suốt được cái ngủ thì mình không còn ham ngủ nữa.

Đặt niệm ăn;

Mình cũng đặt cái niệm về ăn, thì tức là mình quán xét về cái ăn của mình coi nó ngon chỗ nào, rồi nó hết ngon chỗ nào, rồi nó bất tịnh chỗ nào, nó dở chỗ nào, nó như thế nào? Do đó mình thấu suốt được cái ăn của mình.

Đặt niệm thân của người phụ nữ để mình quán xét.

Vì hầu hết là mình thấy thân của người phụ nữ là đẹp, là tốt, là cám dỗ, là mềm mại, là thích thú…​ cho nên mình đặt cái niệm đó, mình xem thử coi nó như thế nào.

Do mình thấu suốt được, mình thấy cái thân người phụ nữ mình thấy sợ, và mình ghê gớm, và mình xem như là một cái thân của một con rắn độc, mình quá sợ hãi.

Đây là một số chánh niệm để chúng ta đặt để tu cái Định Vô Lậu.

Đó thì, hôm nay quý thầy thấy rằng, trên bước đường mà tu tập, thì chúng ta phải biết cách để mà đặt cái niệm cho đúng cách để mà quán cái Vô Lậu, để diệt trừ cái tâm lậu hoặc của chúng ta.

6- PHẢI TU TẬP HẾT SỨC MỚI VƯỢT QUA LỘ TRÌNH THỨ NHẤT

(51:03) Đến đây quý vị chỉ có siêng năng thì quý vị đã vượt qua lộ trình thứ nhất, mà quý vị phải tu tập hết sức thì mới thoát ra khỏi lộ trình này.

Vì lộ trình này biết bao nhiêu dây mơ, rễ má chằng chịt buộc chặt quý vị, khó mà quý vị thoát ra được. Nếu không có lộ trình giáo án này thì quý vị khó mà thoát khỏi nhà lửa đang hừng hực cháy.

Nghĩa là quý vị mà không thấy được có cái giáo án này thì quý vị chấp, tưởng rằng mình đang sống ở trong cái lộ trình thứ nhất này là hạnh phúc, là chân thật.

Nhiều khi chúng ta đi tu rồi, chúng ta xuất gia rồi, nhưng mà chúng ta cũng vẫn còn ở trong cái lộ trình thứ nhất này: Nào là của cải, tài sản, nào là chùa to tháp lớn, nào là những cái vật chất xung quanh vây quanh chúng ta.

Rồi trong đó anh em, dòng họ, Phật tử…​ đủ loại, đủ cách ở trong đó, nó vây quanh còn hơn là cái người ở ngoài đời đang sống có một vợ hai ba con nữa, mình còn đông hơn nữa: Phật tử thì thôi không biết là bao nhiêu, đệ tử thì cũng không biết bao nhiêu, nó trói chặt mình còn hơn cái gì nữa!

Do cái chỗ mà tu hành mà chúng ta không thấy được cái lộ trình thứ nhất này, càng ngày nó càng bị xiết chặt hơn. Người ta có một hai con à, còn mình là ông thầy, mình có cả trăm, cả ngàn đứa con, chết được rồi!

Bây giờ đứa này nó nói vầy, đứa kia nói khác, nó hỏi pháp này, hỏi pháp kia, dạy hoài, tu không giải thoát mà nó cứ đem cái thứ này, đem cái thứ kia. Hầu hết là nó trói chặt mình thêm.

Chẳng hạn là bây giờ có một số đệ tử cư sĩ - thì một ông thầy mà - đệ tử cư sĩ họ đem tiền cúng. Ông thầy này có tiền nhiều thì ổng xài cái này, cái kia nọ, ổng tạo ra đủ thứ tội lỗi. Rồi bắt đầu nó đem máy đem móc này kia nó cúng dường, nó thương thầy nó cúng dường, thì cũng như đứa con mà, do đó nó đem ra của cải tài sản riết, ông thầy quá nhiều.

Rồi nó thấy cái nhà của ông thầy, cái thất ông thầy xấu, nó bỏ tiền ra cất thất ông thầy cho tốt. Rồi bắt đầu nó thấy ông thầy sao mà mệt nhọc quá, không có khỏe, cho nên nó đặt máy điều hòa không khí, rồi quạt máy, rồi tủ lạnh gì đủ thứ cho ông thầy hết. Cuối cùng thì nó đem bao nhiêu cái sự trói buộc ông thầy, chặt càng chặt thêm.

Còn ở ngoài đời người ta có một vợ, hai ba con, nó không có tiền nhiều như vậy đâu. Bởi vì nó ít cho nên cái ông cha nó bị trói buộc ít, còn cái ông thầy coi vậy chớ bị trói buộc nhiều!

Do vì vậy mà chúng ta càng ngày càng bị trói buộc mà giải thoát thì không có. Từ đó chúng ta càng ngày càng sa lầy xuống cái cuộc đời mà không thấy được giải thoát.

Cho nên ở đây cái lộ trình thứ nhất chúng ta phải thấy cho rõ ràng để mà chúng ta dứt khoát, để chúng ta bước qua cái lộ trình thứ hai là không có còn một cái gì mà trói buộc chúng ta được hết, trắng bạch như vỏ ốc, ba y một bát, cho nên nó đâu còn gì mà trói buộc mình, đó là giải thoát hoàn toàn.

Không có chùa, cũng không có đệ tử. Người ta đến hỏi đạo thì dạy người ta tu thôi, chớ đừng có bày mà cúng cái này, cúng cái kia, đủ thứ y áo cả đống mà còn cúng nữa, thì cái đó là cái trật.

Thầy thấy các Phật tử họ thương Thầy lắm, họ mua cái này cái kia, từ cái chai kem, từ cái bàn chải họ mua cũng đồ tốt nữa, từ cái khăn tốt họ cũng cho ông thầy nữa. Họ sắm cho ông thầy đủ thứ hết, họ coi từ cái đôi dép nữa. Đó, sắm đủ thứ. Cho đến khi mà cái mền, cái mùng mà của ông thầy họ cũng phải sắm đồ cho tốt nữa chớ không có sắm đồ xấu.

Và cũng từ đó ông thầy bị nhiễm. Nhiễm dính cứng ngắc à, không có ra được!

7- TỔNG KẾT GIAI ĐOẠN 1

7.1- TRƯỚC TIÊN CẦN THÔNG HIỂU ĐỂ VÉN MÀN VÔ MINH

(54:34) Để kết thúc cái bài này, cái lộ trình thứ nhất này thì (của) người cư sĩ, để kết thúc cái lộ trình thứ nhất này của người cư sĩ thì Thầy sẽ tóm tắt lại toàn bộ cái bài Thập Thiện để kết luận cái buổi giảng hôm nay.

Là chúng ta từ cái tu Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Chánh Cần, rồi đến cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, cho đến cái Định Vô Lậu, thì đây là một cái sự đơn sơ, thô sơ, nhưng nó cũng có được cái phương pháp tu tập. Còn về cái phần sau này của lộ trình của người tu sĩ, thì Thầy sẽ dạy kỹ hơn về các cái pháp này.

Vì ở đây là chúng ta sơ lược để cho cái người cư sĩ họ biết cách hành của họ một cách đơn giản, mà đạt được cái chất lượng của sự tu tập của họ, để cho họ tìm mọi cách mà họ dứt ra cái lộ trình thứ nhất, để họ bước sang qua cái lộ trình thứ hai, hoàn toàn là phải trắng bạch như cái vỏ ốc, mà không có bị còn một cái sợi dây mà trói buộc họ nữa, để rồi đi vào một cái con đường giải thoát chân thật của đạo Phật, khép mình ở trong những cái khuôn khổ của giới luật, của Phật sau này, để thực hiện được cái sự giải thoát hoàn toàn.

Đây, cái phần để kết luận của cái phần này, của cái lộ trình này, thì Thầy tiếp tục.

Để kết luận cái phần cái lộ trình thứ nhất, thì Phật đã dạy chúng ta đó: Muốn thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Bây giờ chúng ta đã thông hiểu được cái lộ trình thứ nhất rồi đó, thì đó là chúng ta đã muốn thông hiểu những gì cần phải thông hiểu.

Đó là cái giai đoạn của những người cư sĩ, cũng như những người Tỳ Kheo hữu học, họ phải học, phải hiểu biết, họ phải thường quán xét vạn pháp, tâm họ phải rõ cái nguồn gốc Vô Minh, phá trừ những cái tư tưởng dính mắc, chấp trước, hàng ngày tinh tấn tiến bước trên cái đường về nội tâm của mình để đập tan những cái màn Vô Minh đen tối.

Đó cho nên, để kết luận cái lộ trình thứ nhất này, thì chúng ta - như Phật đã dạy cái điều kiện thứ nhất ở trong bốn cái điều kiện, thì cái sự thông hiểu là phải thông hiểu thứ nhất - thì bây giờ chúng ta đã thông hiểu, thì phải thông hiểu tức là phải là những bậc hữu học mới thông hiểu. Còn nếu mà chúng ta không có chịu học hành, không có chịu nghe, không có chịu hiểu thì làm sao mà chúng ta hiểu!

Cho nên ở đây qua một cái giai đoạn mà quý thầy đã được nghe Thầy giảng đó, thì đó là cái chỗ mà thông hiểu để cho quý thầy rõ cái sự thông hiểu tất cả cái điều kiện mà chúng ta cần phải thông hiểu trên con đường tu tập, cái lộ trình mà chúng ta phải tu tập.

Cho nên khi mà thông hiểu như vậy, đó là chúng ta đã đập tan cái màn Vô Minh đen tối mà từ lâu nó đang phủ dày ở trong tâm tư của chúng ta.

7.2- PHÁ TRỪ SI MÊ ĐỂ THÀNH TỰU MƯỜI ĐIỀU CÔNG ĐỨC

(57:25) Quý thầy hãy lấy Thập Thiện mà làm vũ khí…​

Đó, bây giờ Thầy mới kết luận về cái…​ Bởi vì cái lộ trình của người cư sĩ là phải lấy Thập Thiện mà làm cái điều kiện mà chiến đấu lại với những cái sự si mê của mình.

Cho nên ở đây quý thầy phải lấy Thập Thiện mà làm vũ khí:

…​ phá trừ si mê, sẽ thành tựu được mười cái công đức mà kinh Thập Thiện đã dạy.

Tức là kinh Mười Điều Lành đã dạy.

  1.  

    Không si mê được ý vui chân thiện;

Nghĩa là mình phải lấy Thập Thiện mình tu tập đó, thì mình không có si mê cái ý vui mà thiếu cái sự thiện ở trong đó, nghĩa là bây giờ mình làm điều ác mà mình vui theo, đó là nó không đúng. Cho nên mình phải lấy một cái sự vui chân thiện, mà không được có si mê ở trong cái điều ác, mà phải vui theo cái sự thật, sự thiện chớ không phải là cái vui theo cái sự ác.

Bởi vì Thầy có phân tích cho quý thầy thông rõ đó: nó có bốn cái hỷ lạc của cái ác pháp, mà nó có bốn cái hỷ lạc của pháp xuất thế. Tức là nó có những cái vui, mà cái vui nó là cái vui ác. Còn cái vui của đạo, cái vui mà vượt ra, nó là thiện. Cho nên ở đây nó ly tất cả các pháp ác, thì nó là có cái vui của cái ly các pháp ác.

Mà cái vui của các pháp ác nó có cái vui đó, cho nên chúng ta lầm chấp, vì vậy mà chúng ta lấy Thập Thiện mà kê vào, để chúng ta thấy biết được cái vui nào chân thật, mà cái vui nào không chân thật.

Cho nên ở đây, cái thứ nhất là chúng ta không được si mê theo những cái vui của ác pháp, mà hãy vui theo cái chân pháp, cái thiện pháp. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai là:

  1.  

    Người cư sĩ phải tin sâu nhân quả;

Mình phải tin ở cái nhân quả.

Bởi vì nhân quả nó sẽ trở thành một cái nghiệp, mà nghiệp thì nó trở thành một cái nơi mà nó sản sinh ra mình. Rồi cũng từ cái nhân quả đó mình mới tạo ra những cái nghiệp, rồi từ cái nghiệp đó đó, khi mà sản sinh ra mình rồi mình tạo ra cái nghiệp thì tức là mình bỏ cái thân này mình cũng trở về nghiệp, rồi từ cái nghiệp đó nó lại sản sanh ra mình nữa.

Đó là mình đi trong cái lòng vòng của nhân quả mà mình không biết.

Đó là mình tin sâu nhân quả để cho mình thực hành cho đúng cái nhân thiện mà không làm cái nhân ác.

  1.  

    Tin sâu ba ngôi Tam Bảo;

Bởi vì Phật, Pháp, Tăng là cái nơi mà chúng ta phải nương tựa để chúng ta thoát ra khỏi cái nhân quả. Mà nếu mà chúng ta không có nương tựa, tin sâu ba cái ngôi Tam Bảo này thì chúng ta khó mà thoát ra nhân quả.

Vì ba ngôi Tam Bảo này đều đặt ở trên cái nền tảng của nhân quả, cho nên cái hành động của Phật, Pháp và các vị Tăng là cái hành động không có ác pháp, cái nhân lành, không có cái nhân ác ở trong đó. Vì vậy mà chúng ta tin sâu ba ngôi Tam Bảo tức là chúng ta đã thực hiện được cái nhân quả tốt, không phải là cái nhân quả xấu.

(01:00:37) Đó thì ở đây, thứ nhất là chúng ta tin nhân quả rồi. Thứ hai chúng ta tin ba ngôi Tam Bảo tức là những cái người, những cái pháp mà dạy chúng ta thoát ra nhân quả; những cái người đã sống vượt thoát ra nhân quả đó là Phật, là Tăng, và những cái pháp mà dạy chúng ta để vượt thoát ra nhân quả, đó là Pháp.

  1.  

    Tâm được Chánh Kiến;

Nghĩa là, khi mà chúng ta dùng cái Thập Thiện mà chúng ta dùng nó làm vũ khí, thì chúng ta sẽ có mười cái điều mà chúng ta cần phải lưu ý là: vui theo cái sự thiện, tin sâu nhân quả, tin sâu ba ngôi Tam Bảo, tâm thì nếu mà chúng ta tin sâu ba ngôi Tam Bảo thì luôn lúc nào chúng ta cũng thấy cái đúng chớ không có còn có thấy cái sai nữa.

Bởi vì tin nhân quả, rồi tin ba ngôi Tam Bảo thì những cái gì mà ở trong ba ngôi Tam Bảo này dạy, thì đó là những cái Chánh Kiến của chúng ta.

  1.  

    Không đọa ba đường ác;

Nghĩa là cái người mà có Chánh Kiến rồi thì lúc bấy giờ ba cái đường ác họ không có rơi vào trong đó. Còn nếu chưa có Chánh Kiến, thì lúc thì sân, lúc thì phiền não, lúc thì làm cái điều này, lúc làm cái kia đều là tạo cho chúng ta có những cái đau khổ liên tục ở trong cái hiện tại.

Chớ không phải là ba đường ác là chờ chúng ta để chết đi rồi mới đọa xuống địa ngục mới là gọi là ba đường ác đâu. Trong cái cuộc sống hiện tại chúng ta nó đã có ba đường ác ở trong đó rõ ràng. Cho nên vì vậy mà khi tâm mà được Chánh Kiến rồi thì chúng ta đoạn dứt được ba cái đường ác này.

Và khi mà ba cái đường ác này nó không có thì

  1.  

    Cái phước huệ của chúng ta không lường được;

Nghĩa là cuộc sống của chúng ta hạnh phúc vô cùng lận, nó rất là an vui.

  1.  

    Thấu rõ đường tà, tiến vào đường chánh;

Lúc bấy giờ chúng ta thấy rõ đường nào là tà, đường nào chánh chúng ta thấy rõ. Vì vậy mà trên con đường chúng ta tiến tới nó thuộc về nhân lành chớ không bao giờ có nhân ác ở trong đó.

(01:02:30)

  1.  

    Xả ngã, diệt tâm, chuyển hết nghiệp ác;

Nghĩa là bây giờ, lúc bấy giờ, cái tâm chúng ta lần lượt nó mới xả được cái ngã, nó mới diệt được cái tâm ham muốn của chúng ta, nó chuyển được hết các nghiệp ác.

Nghĩa là tất cả những cái nghiệp ác từ lâu mà chúng ta đã tích trữ, mà khi mà chúng ta chưa có biết được Phật pháp đó, chưa có biết nhân quả đó, chúng ta đã có những cái nhân ác nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta ở trong cái nhân ác đó, mà nó tạo thành cái quả của chúng ta, hiện giờ bây giờ chúng ta đang ôm ấp những cái quả đó đó.

Thì khi mà rõ được, thấu suốt cái này, thì chúng ta chuyển được, xả được cái ngã, diệt được cái tâm thì chuyển được tất cả những cái nghiệp ác, cái quả ác ở trong cái cuộc đời chúng ta đang nhận, đang thọ lãnh đó. Nó chuyển sạch ra hết, làm cho chúng ta không còn khổ đau nữa. Mặc dù đứng trước mọi cái cảnh nào, mọi cái tình huống nào chúng ta cũng không còn khổ nữa.

  1.  

    Luôn luôn trụ Chánh Kiến;

Lúc nào chúng ta cũng ở trong cái sự hiểu biết, luôn luôn lúc nào cái hiểu biết của chúng ta cũng chân chính, chứ không phải bị chấp cái này, chấp cái kia, chấp cái nọ.

Và cái cuộc sống của cái người này, thứ mười chín là:

  1.  

    Cuộc sống người này không còn bị tai nạn nữa;

Nghĩa là, thay vì người ta bị nhân quả thì người ta sẽ gặp tai nạn này, tai nạn khác hay hoặc chuyện này, hoặc chuyện khác, thậm chí như bệnh tật, thì đó là những cái mà có thể nói đến là làm cho con người đau khổ đó, cái người mà người ta thực hiện được, người ta lấy mười cái điều lành này mà người ta làm vũ khí để người ta chiến thắng thì người ta có được mười cái điều lợi như vậy đó, thì cuộc đời của người ta kể từ đây người ta chuyển hóa được cái nhân quả, chuyển hóa được cái nghiệp ác của người ta.

Thì do đó trước những cái hoàn cảnh nào, trước những cái đối tượng nào thì những cái tai họa, tai nạn mà xảy đến, họ hoàn toàn họ vượt ra được hết, không bao giờ mà còn có một cái gì mà bủa vây làm cho họ khổ sở trong tâm hồn của họ được. Thậm chí như cái bệnh họ, đau nhức đến mà có thể nói rằng cái sức tận cùng chịu đựng của thân họ, họ cũng vẫn thản nhiên.

Bởi vì họ đã thực hiện được đúng Thập Thiện cho nên họ thấy hoàn toàn tâm họ bất động trước những cái đau khổ nhất của cái thân của họ, họ vẫn thản nhiên. Cho nên họ thoát khỏi tai nạn là như vậy, họ chuyển hóa được cái nghiệp ác của họ, cái quả ác của họ, cho nên họ không còn thấy đau khổ nữa.

7.3- TU THẬP THIỆN ĐỂ BỎ NGHIỆP DỮ, THÀNH TỰU NGHIỆP LÀNH

(01:04:49) Người tu Thập Thiện thường chế ngự lòng buông lung, phóng dật, bỏ các nghiệp dữ, thành tựu các nghiệp lành, chuyển đời khổ đau, bất an, bất toại nguyện thành đời sống an vui hạnh phúc, mọi việc đều được toại nguyện như ý, đời sống luôn thuận theo chánh đạo.

Tu Thập Thiện chỉ có người trí mới có ý thức hiểu được sự lợi ích của nó đối với cuộc sống, tâm thường quyết thực hành, sống cho bằng được. Nhờ có quyết tâm sống đúng mười điều lành, chúng ta mới chuyển được kiếp sống địa ngục lầm than đầy khổ đau, phiền muộn biến thành cảnh thiên đàng, an lạc, hạnh phúc, an vui.

Đó thì, nội cái Thập Thiện không - thì quý thầy đã thấy rằng Thập Thiện nó thuộc về nhân quả, cho nên nó nhân quả thiện thì tức là cái nhân quả ác nó sẽ bị diệt đi, mà nó diệt đi thì nó đem lại cái đời sống an lạc, hạnh phúc cho con người.

Do thế cái điều kiện mà quan trọng cho cái con người ở trên cái hành tinh này là cái điều kiện là họ phải thực hiện những cái điều lành. Từ cái bàn tay, cái khối óc, cái hành động của họ, cái miệng của họ mà thực hiện điều lành thì họ mang lại cái sự an lạc, hạnh phúc cho đời sống của họ.

Mà nếu họ từ cái hành động thân, khẩu, ý của họ mà họ thực hiện điều ác thì tự họ, họ cũng đem lại cái sự đau khổ, cái sự bất an, cái sự bất toại nguyện cho họ. Và chính cái chỗ này cho nên đó là cái vấn đề trọng đại của đạo Phật.

Chớ không phải cái sự trọng đại của đạo Phật là chúng ta ngồi thiền, nhập định làm chủ sự sống chết, chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Cái đó là cái thiểu số, cái đó là cái số ít, cái (đó) là cái số ít người.

Còn cái chỗ Thập Thiện này là cái chỗ đông người, mọi người làm được, đem lại một cái hạnh phúc cho mọi người an vui, thanh bình, đem lại cho một cái xã hội có trật tự, cho con người biết thương nhau, cho con người không xa lìa với nhau, đem lại cho con người sống chan hòa một tình thương phủ trùm bên nhau. Đó là Thập Thiện đó.

Vì vậy mà cho nên cái lộ trình thứ nhất này mà quý thầy đã thấy là cái người mà theo đạo Phật người ta phải thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả.

(01:07:07) Để làm gì?

Để thực hiện cái tình thương chan hòa với nhau, để xây dựng một cái đời sống biết thương nhau, biết giúp đỡ nhau, biết an ủi nhau.

Vì con người sanh ra là do nhân quả, cho nên nhân quả là phải có sự khổ đau. Mà đã thực hiện được tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả thì do đó nó mới hết khổ đau, con người mới chấm dứt sự khổ đau. Cái mục đích đó là cái mục đích chính của đạo Phật, để đem lại sự thoát khổ cho con người.

Chớ không phải cái mục đích mà nhắm vào cái chỗ mà tu tập cao siêu đến cái mức độ mà có dùng Tứ Như Ý Túc là biến hóa thần thông phép tắc, không phải là mục đích đó đâu. Mà cái chính của đạo Phật là cái chỗ Thập Thiện này, là cái chỗ nhân quả lành này, chớ không phải là nhân quả ác.

Muốn hưởng được phước báu trời, người thì hãy dứt trừ, từ bỏ, xa lìa, viễn ly mười nghiệp ác…​

Mười điều dữ đó.

…​ hàng ngày trau dồi tu tập mười điều lành. Cứ mỗi lần bỏ xuống một nghiệp ác thì ngay đó nghiệp lành hiện ra. Thiện nghiệp càng nhiều, thân tâm càng được thanh thản, an vui, sống không biết khổ đau, không biết chán chường.

Biết được sự lợi ích và quả giải thoát lớn cho kiếp sống con người và xã hội, người cư sĩ phải quyết tâm nỗ lực thực hiện bằng mọi cách để sống đúng mười điều lành mà Đức Phật đã đem hết tâm huyết mình truyền lại cho đời sau, để con người trong cuộc sống được an vui, hạnh phúc bên nhau.

Kinh Thập Thiện dạy: Cứ tiếp tục mãi xây dựng tư tưởng và cuộc sống toàn Thập Thiện, không còn một chút thập ác thì sẽ được bốn ưu điểm trong cuộc sống:

  1.  

    Thân tâm thanh thản, nhẹ nhàng, an lạc, thường hiển lộ một niềm vui bất tận.

Đó là cái thứ nhất của cái lợi ích của Thập Thiện đó. Nó làm cho thân tâm của mình nó nhẹ nhàng, thanh thản, tâm hồn lúc nào cũng an vui với cái sự an vui của mười cái điều lành.

(01:09:24) Hành động thân khẩu ý biểu lộ đầy đủ đạo đức nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Lòng hiếu sát, hung hăng xưa kia biến mất, lòng từ bi bác ái hiện rõ, đối với người khác và loài vật đều thương. Thường lấy câu “lấy ân trả oán” thì oán sẽ trở thành ân nghĩa và thương yêu nhau.

  1.  

    Tâm không còn giận hờn thì dù oán, dù bất cứ sự việc gì cũng tiêu tan. Con người đối với con người không còn sự đấu tranh, giết hại lẫn nhau, chỉ còn một lòng tương thân, tương ái. Xã hội con người không còn biết ghét nhau, giận nhau, chỉ có một lòng thương yêu duy nhất.

Chúng ta hôm nay có đủ duyên lành mới được nghe lời thuyết giảng dạy của Đức Phật để thông hiểu và trau dồi và dứt bỏ để tu tập Thập Thiện.

Pháp môn Thập Thiện rất cụ thể, thực tế, có thứ lớp, trong khi thực hành rất khoa học để cho mọi người dễ dàng thực tập. Sống đúng Thập Thiện đạt được cuộc sống hạnh phúc, an lạc, đầy đủ.

Đã quyết tâm tiến bước trên đường về đất Phật, nếu không khởi hành bằng đường Thập Thiện thì đừng mong đến xứ Phật được. Ba đời chư Phật và các bậc Thánh Hiền thoát vòng sanh tử, chứng quả Vô Thượng Bồ Đề sống và tu tập đúng Thập Thiện. Các Ngài lấy Thập Thiện làm nền tảng vững chắc để xây dựng ngôi nhà thiền định của mình.

Thập Thiện có công năng giúp ta ngăn ngừa các hành vi độc ác thân, khẩu, ý của mình, nhờ thế, tất cả hoàn cảnh đều được yên vui, an lành và hạnh phúc.

Thập Thiện giúp cho ba nghiệp thân, khẩu, ý chúng ta lần lần tiêu tội và được thanh tịnh.

Nhờ thân khẩu, ý, thanh tịnh, thân tâm chúng ta mới thanh tịnh.

Nhờ thân tâm thanh tịnh chúng ta mới tịnh chỉ các hành trong thân.

Nhờ tịnh chỉ các hành trong thân chúng ta mới nhập định.

Nhờ nhập định chúng ta mới khai triển trí tuệ Tam Minh.

Nhờ Tam Minh chúng ta mới diệt sạch lậu hoặc.

Nhờ diệt sạch lậu hoặc chúng ta mới làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.

(01:12:21) Người biết tu Thập Thiện và sống đúng Thập Thiện là người đầy đủ hạnh phúc nhất trần gian. Nhờ tu Thập Thiện, vạn pháp không còn là chướng ngại của tâm thì sự đau khổ phiền não đoạn dứt, thân tâm thường được an ổn, thanh thản, đời sống hạnh phúc và phước báu rõ ràng.

Thập Thiện là cái nhân đoạn dứt ba đường ác khổ trong thân tâm. Tuy ta còn ở cõi Ta Bà, nhưng cuộc sống của chúng ta như ở cõi Trời, cõi Thiên Đàng.

Thông hiểu rõ sự lợi ích lớn của pháp môn này, chúng tôi thành tâm khuyến khích mọi người cư sĩ cũng như tu sĩ đừng thấy pháp môn Thập Thiện chê nó là pháp môn thấp bé, cho nó là những người ngu mới tu hành pháp này.

Hiểu như vậy rất là lầm lạc. Thập Thiện là pháp môn tu tập rèn luyện đạo đức nhân quả cho mỗi con người trở thành tốt đẹp và xây dựng xã hội thanh bình, an lạc.

Vì vậy, trước tiên quý vị phải tu tập Thập Thiện. Đừng ngồi thiền như cây, như đá, chẳng ích gì cho mình, cho người, cho xã hội.

Ngồi thiền riết không thành Phật mà thành cóc, hễ ai đụng tới thì tham, sân, si, mạn, nghi nổi lên ầm ầm như sóng bủa, hở ra một chút thì chướng tâm, ngại ý, luôn luôn tâm hồn bất toại nguyện, sống trong cảnh nào cũng bất an.

Đó thì quý thầy thấy, có nhiều người tu thiền rồi cứ dính mắc cảnh này, cảnh kia.

Bây giờ ở trong cảnh này xe cộ rần rần, nhà máy chạy xình xịch như vậy đó, thì: "Cảnh này tu không được đâu, tui đi tìm rừng rú kìa, không tiếng động kìa, tui mới tu được!" Đó là mình bất an, bất toại nguyện ở trước cái cảnh của mình rồi.

Tu thiền thì đâu có động tâm như vậy! Cho nên cái người mà thực hiện Thập Thiện người ta không có động tâm cái điều đó đâu, cho nên lúc bấy giờ người ta thực hiện thiền định ở cảnh nào người ta tu cũng tốt hết.

Còn mình thì cứ lo tìm cái cảnh yên tịnh để mà tu thiền định, nhưng mà cuối cùng thì đụng cảnh nào cũng bị động hết, không có cảnh nào mà gọi là toại nguyện cho mình.

Tu như vậy không giải thoát mà địa ngục mở cửa đón chờ, quỷ sứ hầu hạ!

Thập Thiện là đường lối, là pháp môn rèn luyện con người sống đạo đức không làm khổ mình khổ người, không làm rối loạn xã hội, đem lại sự an vui cho người, cho mình, cho xã hội.

Vậy quý thầy cần phải siêng năng tu tập và rèn luyện thân tâm mình trong pháp môn Thập Thiện này, nó là pháp môn rất quý báu ở thời đại, trong thế gian hiện đại của chúng ta.

7.4- KHẨU NGHIỆP TẠO CHO CON NGƯỜI NHIỀU ĐAU KHỔ NHẤT

(01:15:30) Để kết thúc cái giai đoạn tu Thập Thiện bằng một bài kệ:

Phàm con người ở đời,

Đây là cái bài kệ đây.

Phàm con người ở đời

Búa rìu từ trong miệng

Sở dĩ giết chết mình

Là do lời nói độc

Người đáng chê thì khen

Người đáng khen thì chê

Đây thuộc nghiệp ác khẩu

Mà thân chịu hành khổ.

Đó là cái bài kệ trong cái kinh Thập Thiện. Khi mà đến kết luận của bài Thập Thiện thì Thầy rút ra một cái bài kệ ở trong tất cả những cái kệ ngôn của Phật.

Nói về những cái điều mà làm ác của mình, thì Phật lại lấy cái lời nói của chúng ta mà cho nó là…​ Bởi vì ở trong Thập Thiện thì về cái hành động của khẩu nó có bốn cái hành động ác khẩu lận, chớ không phải một, mà về thân thì nó có ba, mà về ý có ba à, mà về khẩu rất nhiều.

Cho nên Phật mới nhắm vào cái chỗ khẩu nghiệp, mà tạo cho con người ta đau khổ nhiều nhất là cái khẩu nghiệp: Nói ra thì có chuyện này, nói ra có chuyện kia đó.

Cho nên ở đây cái bài kệ đó, Đức Phật lấy từ cái chỗ khẩu nghiệp mà nói ra để chúng ta biết rằng chúng ta khổ sở là do cái nghiệp khẩu của chúng ta rất nhiều.

Phàm con người ở đời

Búa rìu từ trong miệng.

Đức Phật nói: Cái lời nói của mình như búa rìu đó.

Sở dĩ giết chết mình

Nó giết mình chết, mà nó giết người khác nữa chớ không phải là nội giết mình đâu.

Là do lời nói độc

Người đáng chê thì khen

Người đáng khen thì chê

Đây thuộc nghiệp ác khẩu

Mà thân chịu hành khổ.

Đó, chỉ lấy cái Thập Thiện mà lấy về cái khẩu nghiệp - về bốn cái điều ác của cái miệng mà tạo con người quá khổ, mất hạnh phúc ở trong cuộc đời này.

(01:17:28) Cho nên kế tiếp thì Phật có đem ví dụ:

Dùng chú thuật đạt lợi

Tội ấy cũng còn nhẹ

Nghĩa là mình dùng bùa chú mình làm để mình lấy của người ta đó, thì Đức Phật xem như là cái tội nó còn nhẹ hơn là cái tội mà mình dùng cái khẩu - ác khẩu của mình đó. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai thì Đức Phật cũng đem cái so sánh nữa:

Nếu lấy kinh điển Phật

Hiểu không thấu nghĩa lý

Thành hủy báng Thánh Hiền

Tội ấy rất là nặng.

Nếu mà đem cái kinh điển của Phật mình dạy cứ thiền định không đó, thì tức là người ta không có hiểu được cái nghĩa lý của những cái điều mà tạo ra những cái đau khổ cho con người như thế này thì đó là mình phỉ báng Phật pháp rồi.

Cho nên hầu như người ta cứ lấy kinh điển Phật mà người ta cứ lo tu thiền mà người ta không có tu thiện, cho nên từ đó mà con người khổ vẫn hoàn khổ.

Cho nên đó là chỗ cái bài kệ này Đức Phật đem chúng ta thấy để chúng ta nhận cho rõ.

Nếu lấy kinh điển Phật

Không hiểu thấu nghĩa lý

Tức là mình không hiểu, cho nên mình lấy nó, lấy đó để mình tu thiền mà mình không thấy được cái Thập Thiện, vì vậy đó thành ra hủy báng Phật pháp đó.

Bởi vì cái bài kệ này nó liên tục để Đức Phật thấy cái chỗ mà chúng ta hiểu sai, mà không hiểu Thập Thiện mà lại hiểu về thiền định, hiểu về Bốn Thiền tám định hay hoặc là Tam Minh, mà không hiểu được cái chỗ mà căn bản nhất của cái đạo Phật, mà lợi ích nhất của đạo Phật đối với con người.

Bởi vì đạo Phật nhằm ra đời là để giải quyết cái nỗi khổ của con người, chớ đâu phải giải quyết Tam Minh, đâu phải giải quyết cái sự vi diệu, thần thông phép tắc đâu, đâu có giúp con người làm cái chuyện đó!

Mà giúp cho người thoát cảnh khổ, biết thương nhau, biết đùm bọc nhau, để biết xoa dịu những cái sự khổ của cái nhân quả nghiệp báo mà mỗi con người đều đã có mang theo nó ở trong thân tâm của mình rồi.

Cho nên ở đây mà hiểu kinh điển của Phật theo cái kiểu mà cứ biết thiền, biết định đó không thì cái đó là cái hiểu sai, cái đó thành hủy báng Phật pháp, cái tội đó rất nặng.

Cho nên chúng ta phải trở về với cái Thập Thiện thì chúng ta mới hiểu đúng Phật pháp, mà không trở về với Thập Thiện thì chúng ta hiểu sai Phật pháp.

(01:19:32) Đây cái bài kế nữa, Đức Phật cũng nhấn mạnh cái chỗ này để chúng ta thấy:

Nếu lấy kinh điển Phật

Không thấu hiểu nghĩa lý

Không thực hành viên mãn

Lại đem dạy người khác

Thành hủy báng Thánh Hiền

Tội ấy còn nặng hơn.

Đó. Bây giờ mình thực hiện Thập Thiện chưa được nè, mình chạy theo ham muốn, mình còn làm những cái điều ác bằng những cách này, bằng những cách khác, thế mà mình thực hiện chưa xong rồi mình đem mình dạy người khác, người khác người ta cũng thực hiện chưa xong, đó là mình phỉ báng Phật pháp.

Thay vì kinh điển của Phật đem ra dạy người để cho người ta được cái hạnh phúc, an vui, được cái sự thương yêu nhau, thì cái đó là cái đúng. Mà bây giờ người ta không thương nhau, mà người ta theo đạo Phật mà người ta dày xéo lên nhau bằng cách này, bằng cách khác, thì thử nghĩ cái đạo Phật bây giờ là cái đạo cứu khổ, mà bây giờ cứu ai đâu bây giờ?

Càng ngày họ càng học Phật pháp họ lại càng huênh hoang nữa, thì cái điều đó là cái điều càng lúc càng sai.

Và cái người mà không hiểu Phật pháp đem kinh điển của Phật pháp dạy như vậy đó, thì cái người đó phải thọ lấy những cái tội còn nặng hơn.

7.5- ĐẠO PHẬT THOÁT KHỔ NHỜ ĐI TRONG CON ĐƯỜNG THIỆN

Đó, kết thúc cái bài kinh mà cái lộ trình thứ nhất tu tập về Thập Thiện - mười cái điều lành để dứt trừ mười cái điều ác là cái lộ trình thứ nhất để chúng ta biết được cái đúng của đạo Phật. Mà chính cái chỗ này là cái mục đích của đạo Phật, muốn đem cái giáo pháp này để giúp cho đời thoát khổ.

Chớ không phải để giúp cho chúng ta có những cái thiền định cao siêu, làm cái chủ cái sống chết, để làm cho người ta thấy: "Cái ông đó nhập định không có thở nữa!" - hay hoặc là biến ra nhiều thân, hay hoặc là hóa lửa, hóa hào quang…​

Cái điều đó là không phải cái chỗ mục đích của đạo Phật đâu. Cũng như không phải là ngồi đó mà thực hiện Tam Minh nhớ lại nhiều đời nhiều kiếp của mình, gọi là cái đó hay đâu.

Cái chính của đạo Phật là cái chỗ làm sao cho con người ở trên thế gian này, trên hành tinh này là không còn khổ nữa. Cuộc sống không có cần mà thánh thiện gì hết, mà chỉ biết thương nhau, chỉ đừng có làm khổ nữa.

Mà chính những cái bàn tay khối óc của họ, họ hành đúng, ba cái hành động thân, khẩu, ý của họ toàn là thiện thì họ sẽ gặt được cái quả tốt của đời sống của họ. Từng đó họ chấm dứt được cái đau khổ, chính bàn tay của họ.

Cho nên Phật gọi là “tự thắp đuốc lên mà đi”. Đi ở trong con đường thiện để cứu lấy mình, chớ đâu phải đi trên con đường thiền định để mà cứu có mình mình à!

(01:21:48) Bây giờ Thầy nhập định được, thử hỏi quý thầy bây giờ muốn chết như Thầy được không? Mà Thầy có làm gì cho quý thầy chết được không? Có đâu được!

Thầy bảo hơi thở Thầy ngưng, còn quý thầy, Thầy nói bảo - Thầy bảo dùm cho các thầy, Thầy bảo hơi thở của các thầy ngưng, có ngưng được không? Thầy chỉ ngưng có mình Thầy à. Còn bao nhiêu người đó, muốn chết không có được. Bây giờ nó gần dở chết, dở sống, đau khổ gần chết mà bảo ngưng hoài nó ngưng không được!

Thầy đâu có bảo được, Thầy chỉ có bảo một mình Thầy, thì cái đó là cái ích kỷ của Thầy chớ không phải là cái thực hiện tốt đâu.

Còn cái Thập Thiện là cái chúng ta đem lại cái nguồn hạnh phúc chung cho mọi người, mà cái đó cái dễ, đâu có phải là cái khó.

Bởi vì chúng ta biết cái ác thì chúng ta đừng làm, chúng ta biết cái thiện thì chúng ta làm, thì cái điều đó là cái điều đem đến hạnh phúc cho mọi người. Và cái tầm vóc của con người nào cũng có thực hiện được hết, không có người nào mà làm không được.

Một trẻ con bây giờ năm, sáu tuổi, bảy, tám tuổi, bảo nó: "Đừng có giết mấy con kiến đ! Những con vật đó nó biết đau lắm, con đừng có giết nó!" Những cái đứa trẻ nó nghe vậy nó thấy nó không bao giờ nó giết đâu. Cái chuyện đó con nít làm được mà, nó vẫn tu được mà, đâu có gì mà khó đâu!

Đó là những cái điều kiện mà chúng ta dạy nó, từ đó nó không giết hại chúng sanh, nó không làm đau khổ chúng sanh, thì cái hành động đó nó sẽ đem lại cho nó sau này nó không có cái quả khổ đối với cái hành động của nó làm tốt.

Đó thì, tự nó, nó đã làm, chớ mình đâu có làm cho nó được đâu. Nó không giết hại thì nó không khổ, mà nó giết hại thì nó phải chịu lấy cái thọ khổ đó.

Đó là những điều mà hôm nay nó thực tế và cụ thể như vậy, thì con nít bây giờ năm tuổi mười tuổi nó vẫn tu tập được theo đạo Phật, mà nó đem lại cái hạnh phúc cho nó sau này, đâu có gì mà khó đâu! Thập Thiện Thầy nói không khó đâu.

Chớ không phải là ngồi thiền hít thở như chúng ta bằng cách này, bằng cách khác thì con nít làm không được. Hay hoặc là bảo ngưng hơi thở thế này thế khác thì nó làm không được. Chớ bảo nó: "Đừng giết chúng sanh, đi coi chừng đừng đạp kiến đồ đó!” - thì có thể nó làm được.

Mà nó làm được, cái tâm nó từng đó nó biết thương tất cả chúng sanh thì nó phải thương tất cả mọi người khác. Từng đó chúng ta tập luyện nó, mà những hành động hằng ngày nó làm như vậy, thì nó huân lại những cái điều đó, thì cái đời nó không có còn khổ nữa, chính cái đó là cái tốt của nó./.

HẾT BĂNG

17 - ĐIỀU KIỆN ĐỂ BƯỚC VÀO GIAI ĐOẠN 2

1- GIAI ĐOẠN THỨ HAI CÓ SƠ ĐỒ ĐẠO LỘ ĐẦY ĐỦ

(00:00) Trước khi bước vào đạo lộ thứ hai và tiếp tục bài học giới luật đã qua, Thầy đã giới thiệu với quý thầy một sơ đồ của đạo lộ thứ hai này, để chuẩn bị hành trang cho người tu sĩ khi bước chân vào lộ trình này không còn ngỡ ngàng: Từ giới luật đến thiền định và trí tuệ vô lậu, lý pháp và hành pháp thường ứng dụng liên tục, có thấp có cao, có dễ, có khó. Chỉ còn tùy ở người tu sĩ…​

Tức là hành giả.

…​ có nhiệt tâm, có tinh cần siêng năng tu tập đúng thì kết quả rất là nhanh chóng.

2- ĐIỀU KIỆN ĐỂ BƯỚC VÀO GIAI ĐOẠN 2

2.1- BUÔNG XẢ SẠCH CUỘC SỐNG THẾ GIAN

(00:50) Phần thứ nhất của người tu sĩ: Phải sẵn sàng trang bị buông xả cho thật sạch.

Nghĩa là cái phần thứ nhất này, khi mà bước vào cái đạo lộ thứ nhất này, thì cái người tu sĩ mà bước vào cái đạo lộ mà của người tu sĩ thì tức là phải sẵn sàng buông sạch, thật sạch, chớ không còn có để một dính mắc nào nọ thì chúng ta mới tu có kết quả rất lớn.

Còn nếu mà không có sẵn sàng buông sạch, nó còn dính một chút xíu gì ở thế gian, dù là một cái vật chất rất nhỏ đi, nó cũng khó cho chúng ta tiến bước ở trên con đường cái lộ trình thứ hai này được.

Đây là những cái lời mà của Đức Phật đã cân nhắc cho cái sự bước vào cái lộ trình thứ hai để chúng ta chuẩn bị cho cái tinh thần mình vững chắc, để thấy cuộc đời của người tu sĩ như thế nào. Cho nên Đức Phật có nêu lên nhiều cái điều kiện, để chúng ta bước vào cái lộ trình thứ hai.

1. Trong giáo pháp của Ta không có người tu sĩ mong cầu, cất chứa nhiều y phục và đồ ăn uống.

Đó là cái thứ nhất mà ông Phật đã nhắc nhở cái người tu sĩ bước chân vào - là trở thành một vị Tỳ Kheo đó - thì không có được cất chứa nhiều y phục và đồ ăn uống.

Đó là cái thứ nhất ở trong cái giáo pháp của Đức Phật. Cái phần thứ hai:

2. Trong giáo pháp Ta không có người tu sĩ kinh doanh buôn bán hoặc gieo trồng các loại cây.

Đó là cái vấn đề mà phải xác định đạo Phật, đây là những cái bài kinh mà Đức Phật xác định cái con đường mà của người tu sĩ phải làm. Đây là cái đạo lộ thứ hai rồi chớ không phải là đạo lộ thứ nhất của người cư sĩ nữa đâu, cho nên hoàn toàn là không có được kinh doanh buôn bán hoặc gieo trồng các loại cây.

Nghĩa là không có cấy lúa, không có trồng cây trồng này kia, tất cả những cái loại cây nào là cũng không có trồng hết. Nghĩa là cái người tu sĩ chỉ còn có cái chấp nhận là đi xin ăn thôi, người ta cho thì ăn mà không cho thì đói chớ còn không có trồng tỉa gì hết, hoàn toàn là không có làm tất cả những công việc gì hết.

Đây là cái giáo pháp của Phật đã dạy cho cái người tu sĩ, chớ không phải là Thầy bịa ra đâu. Mà đây là hẳn hòi là ở trong kinh điển chỉ dạy rất rõ ràng, đây là lời Phật dạy đó.

(03:05) 3. Trong giáo pháp của Ta không có người tu sĩ dùng nhiều phương tiện cầu lợi dưỡng cho mình, dùng ngà voi và những loại báu khác để làm giường cao rộng lớn, gối êm, nệm ấm, chăn ấm thêu màu rực rỡ.

Nghĩa là Đức Phật - cái điều kiện thứ ba Đức Phật cấm dứt là không có cho dùng những cái phương tiện để mà làm cho mình có những cái vật báu như ngà voi hay là châu báu đó, không có được!

Và cũng không có chấp nhận là cái người tu sĩ mà theo đạo Phật nằm giường cao rộng lớn mà gối êm nệm ấm, nào là nệm mút đồ đó, thì không có được, hoàn toàn là chấm dứt. Không có được mà chăn, mền mà thêu bông hoa rực rỡ bằng cách này bằng cách khác như người thế gian được, nghĩa là chấm dứt cái điều đó.

Đó là chuẩn bị cho cái tư tưởng, tinh thần của người tu sĩ, chứ nếu không thì chúng ta lầm lạc lắm, chúng ta không hiểu. Mà những cái bài pháp này là nằm ở trong kinh A Hàm và kinh nguyên thủy rất là rõ ràng. Những cái lời dạy này không có - luôn luôn lúc nào nó nhan nhản ở trước mắt của chúng ta - không thể nào mà chúng ta chối bỏ được!

4. Trong giáo pháp Ta không có người tu sĩ hay trang sức thân mình: tô thoa ướp bằng dầu thơm, tắm gội bằng nước thơm, hương bột rắc khắp mình, chải đầu với dầu thơm, mang tràng hoa đẹp, soi gương, thoa phấn, đi giày thêu, mặc quần áo thuần một màu trắng, dao, gậy luôn luôn đeo bên mình, đi có lọng che, tay cầm quạt, sửa soạn xe cộ lộng lẫy.

Đó là tất cả những cái mà Đức Phật đã chuẩn bị cho người tu sĩ mà theo đạo Phật thì đi đừng có cầm gậy ba toong hay hoặc này kia chống, không có xách cái kiểu mà gậy gộc như vậy, hay hoặc là dù, hoặc này kia, hoàn toàn là không có trang sức cho mình một cái gì.

Không có được giày dép hay hoặc là những cái loại mà làm cho mình đẹp, mình trang hoàng cho mình đẹp đẽ qua quần áo hoặc là gậy gộc, hoặc là đeo theo mình bằng cái này cái kia. Ở đây lọng che cũng không có nè, tay cầm quạt cũng không có nè.

Đó. Mà vì vậy mà theo ở đây, những cái bài kinh này như vậy, mà Thầy thấy các nhà sư, có quạt che đầu, rồi có dù, có những cái này kia mà sao trong những cái bài kinh này lại cấm không có cho sửa soạn như đó?

Mưa là mưa chớ không có xách dù xách lọng, thế mà Thầy thấy có nhiều nhà sư có dù, có lọng, rồi có cái quạt cầm tay đủ loại. Đó, sửa soạn xe cộ lộng lẫy, xe cộ mà đi mà ngồi xe cộ lộng lẫy thì chắc chắn là thời ông Phật không có rồi.

Cho nên ở đây Đức Phật đã quyết định là trong giáo pháp của Đức Phật là không có những cái hạng người mà sửa soạn như vậy.

(06:02) 5. Trong giáo pháp của Ta không có người tu sĩ ham thích vui chơi bằng những trò chơi giải trí vui đùa khác.

Nghĩa là trong cái giáo pháp của Phật thì không có người tu sĩ ham thích đá banh, chạy đua, hay hoặc là bơi lội, hay hoặc là đánh cờ, hay hoặc là tất cả những cái trò chơi giải trí, hay hoặc là đánh tennis đồ…​ hay hoặc là làm những chuyện giải trí khác, thì không có được chơi những cái trò chơi đó.

Đó là cái phần thứ năm. Cái phần thứ sáu:

6. Trong giáo pháp của Ta không có người tu sĩ thường nói những lời vô ích, chướng ngăn Thánh đạo.

Nghĩa là, người mà vào ở trong cái giáo pháp thì phải chuẩn bị - giáo pháp của Phật thì phải chuẩn bị không được nói lời phiếm, nói chuyện tào lao, nói chuyện tầm bậy tầm bạ, nói chuyện lời vô ích.

Không có nhắc chuyện đời xưa, mà cũng không nhắc chuyện trước kia mình làm cái nghề này, nghề kia, nghề nọ…​ mình là người ăn chơi hút xách, hay hoặc là làm cái này kia. Mình làm gì làm, bây giờ vô rồi không còn nhắc lại cái chuyện đó nữa.

Nghĩa là hồi đó đó, mình trác táng, bài bạc như thế nào, mặc, bây giờ vô rồi thì không có được nói cái chuyện đó ra. Tức là nói những cái chuyện đó là chuyện vô ích, chuyện đã qua, chuyện không có đúng. Cho nên trong giáo pháp của Phật thì không có người tu sĩ mà đem những cái chuyện đó mà thuật lại.

Hồi đó đó thì mình trai gái, mèo mỡ như thế nào, bây giờ đem vô cũng thuật lại cho ông thầy này nghe, ông thầy kia nghe. Hồi đó ngồi rình góc nhà người này, ngồi rình góc nhà người kia bằng cách là ve vợ, ve con người ta, bây giờ cũng đem vô đây nói! Đó là những cái chuyện vô ích, nói cái chuyện không có đúng cách của một người tu sĩ.

Cho nên trong giáo pháp của Phật thì không có những cái người tu sĩ mà đem nói những cái lời không có đúng cách như vậy.

Đó là cái điều kiện mà Phật đã nêu lên để chúng ta chuẩn bị, chúng ta bước vào cái lộ trình của người tu sĩ thì chúng ta phải chuẩn bị hẳn hòi những cái điều kiện đó. Cái gì mà xảy ra rồi trong cuộc đời chúng ta trước khi mà chúng ta chưa biết Phật Pháp thì bây giờ chúng ta phải dẹp bỏ hết, không có được nói lại, không được nhắc lại.

7. Trong giáo pháp của Ta không có những người tu sĩ trau chuốt văn chương, lời hay ý đẹp, hoặc làm ra vẻ nghiêm trang chê bai người khác lấy lợi, cầu lợi.

Nghĩa là, ở trong cái giáo pháp Đức Phật thì không có trau chuốt văn chương, làm thơ, làm văn, làm cái này kia đẹp đẽ để mà cầu lợi, cầu danh ở trong đó.

Cho nên ở đây Đức Phật cấm không có cho những người tu sĩ của mình ở trong giáo pháp của mình là không có những cái loại đệ tử như vậy. Chớ không phải là vô ở trong đó rồi bắt đầu làm thơ, làm văn, rồi ông thầy nào cũng có tập thơ hết, thơ thiền, thơ đạo đủ thứ hết. Đó là cái sai, không có đúng!

Bởi vậy đây là những cái lời của Phật răn dạy, chúng ta chỉ tu giải thoát chớ không phải làm thơ, làm văn để khoe cái hay, cái đẹp của mình qua cái thương vay, khóc mướn của thơ văn, cho nên tất cả những cái này đều là dẹp xuống hết.

(08:54) 8. Trong giáo pháp của Ta không có người tu sĩ cùng nhau tranh tụng, hoặc ở bất cứ nơi đâu cũng tranh nhau, cãi nhau các chuyện thị phi: Ta là người biết rõ kinh luật còn ngươi thì không biết rõ gì cả; ta hướng về chánh đạo còn ngươi hướng về tà đạo, lấy trước nói sau, lấy sau nói trước; ta đủ sức nhẫn nhục, còn ngươi thì không đủ sức nhẫn nhục.

Đó là những cái mà chê bai nhau, những cái tranh tụng nhau, cái không có làm đúng cái cách thức trong giáo pháp của Phật.

Cho nên Đức Phật nói rằng, khi mà cái người mà bước vào cái lộ trình thứ hai trong giáo pháp của Phật thì hoàn toàn là phải chấm dứt những cái điều tranh cãi. Không có tranh tụng hơn thua với nhau, không có lý luận cái điều này, lý luận điều kia, không có coi người ta không hiểu, không có coi mình hơn người ta, mà luôn luôn lúc nào mình cũng lo tu tập, đặt niệm trước mặt mà tu tập.

Đó là những cái điều kiện mà cần thiết cho một cái người tu sĩ theo đạo Phật trong cái lộ trình thứ hai.

(10:05) 9. Trong giáo pháp của Ta không có người tu sĩ làm sứ giả, thông tin đây kia, tự mình làm hoặc bảo người khác làm môi giới.

Nghĩa là Đức Phật cấm là không có cho mình đi làm thông tin, hoặc là làm gián điệp, hoặc là làm mai giong, móc người này, móc người khác, tất cả những cái này là trong giáo pháp Ta là không có người tu sĩ như vậy.

10. Trong giáo pháp của Ta không có người tu sĩ tập luyện đao kiếm, cung tên, hoặc đá gà, đua ngựa, hoặc phe nam, phe nữ đấu nhau, hoặc trỗi lên không ngớt những tiếng nhạc, tiếng cười đùa, vui hát.

Đó thì trong giáo pháp của Đức Phật thì không có những cái loại như vậy. Tức là không có tập luyện võ, không có tập kiếm cung, không có những cái trò chơi như đá gà, đá ngựa hay hoặc là tập hợp phe nam, phe nữ mà đấu với nhau, hoặc là trỗi lên những khúc nhạc, ca hát, vui đùa, cười cợt.

Cái đó là trong giáo pháp của Đức Phật không có những cái loại tu sĩ như vậy. Những vị tu sĩ mà tập luyện võ này kia đồ đó thì nó không đúng cách của đạo Phật. Mà không có trỗi lên giọng ca, giọng kèn, tiếng hát, cười đùa một cách vô trật tự thì Đức Phật không chấp nhận trong giáo pháp của Ngài.

11. Trong giáo pháp của Ta không có người tu sĩ làm những việc tà mạng, ngăn ngại đạo pháp để tự sinh sống như xem tướng lành, tướng dữ, tướng tốt, tướng xấu của con trai, con gái để mong cầu lợi dưỡng.

Nghĩa là, mấy người mà xem tướng đó, xem mụn ruồi, xem tướng này kia, xem chỉ tay đồ đó, thì ở trong giáo pháp của Đức Phật không có những cái loại đó. Những cái người mà làm như vậy là trong giáo pháp Phật không chấp nhận.

Tức là bước qua cái lộ trình thứ hai này mà những người mà còn làm những cái chuyện đó thì tức là Đức Phật không chấp nhận cho đó là một người tu sĩ trong đạo pháp của Ta.

12. Trong giáo pháp của Ta không có người tu sĩ làm những việc nuôi tà mạng, ngăn ngại đạo để tự sinh sống như: Kêu gọi quỷ thần, thực hiện các loại bùa chú trù yểm, dùng chú thuật, thực hành khổ hạnh để cầu mong danh lợi.

Đó, trong giáo pháp thì Đức Phật cấm là người đệ tử không có được dùng cái khổ hạnh mà để làm cho người ta quá cung kính mình để mà cầu danh lợi, cũng như không có được dùng bùa chú hoặc là kêu quỷ thần làm những cái chuyện không đúng cách.

Những cái điều đó là những cái điều mà tà nghiệp, tà mạng đó, thì Đức Phật cấm là không có cho cái người tu sĩ ở trong cái giáo pháp của Đức Phật làm.

(12:57) 13. Trong giáo pháp của Ta không có những người tu sĩ làm những điều tà nghiệp ngăn ngại đạo để tự sinh sống như đọc thần chú để chữa bệnh, hoặc đọc chú làm thuốc thang, châm chích, trị liệu, điểm huyệt các bệnh, hoặc tụng kinh, đọc chú, cầu cúng, cầu siêu, cầu an.

Tất cả những cái điều kiện này, trong giáo pháp của Đức Phật là cái người mà tu sĩ thì không được làm những cái nghề đó.

Không được làm những nghề thuốc thang, bùa chú hoặc là tụng kinh, tụng chú, tụng kinh, tụng kệ để làm những cái việc mê tín, thậm chí như là châm cứu, hay hoặc là chích, hay hoặc là điểm huyệt này kia để trị bệnh người ta, thì ở đây trong cái giáo pháp của Đức Phật cũng cấm không có cho chúng ta làm.

Cho nên trong giáo pháp của Đức Phật thì không có những cái loại tu sĩ như vậy.

14. Trong giáo pháp của Ta không có những người tu sĩ làm những điều tà mạng ngăn ngại đạo để tự sinh sống như: Tụng chú cầu nước…​

Cầu mưa đó.

…​ cầu quỷ thần nhập…​

Như mấy người mà lên đồng để nhập vào đó, cầu quỷ thần nhập vô để mà nói chuyện bệnh đau của họ.

…​ dùng bùa chú để yểm, trấn nhà cửa, mồ mả, đoán mây, xem tay tính quẻ, chiêm tinh hoặc là sách âm nhạc.

Đoán mộng đồ đó.

…​ hoặc là sách âm nhạc.

Thì trong cái giáo pháp của Đức Phật thì không có những loại tu sĩ mà làm, hành những cái tà nghiệp như vậy.

15. Trong giáo pháp của Ta không có những tu sĩ làm những điều tà nghiệp ngăn ngại đạo pháp để tự sinh sống như: đoán xem thời tiết có mưa hay không mưa, được mùa hay mất mùa, điều lành, điều dữ, coi ngày tốt xấu cưới vợ gả con, cất nhà, cất cửa, xem mồ, xem mả, coi sao, coi hạn.

Đó thì trong giáo pháp của Đức Phật thì không có - người tu sĩ của đạo Phật không được làm những cái nghề nghiệp đó. Những cái nghề nghiệp đó là không đúng cái đường lối thứ hai, cái lộ trình thứ hai của người tu sĩ của đạo Phật.

2.2- CHUYÊN TÂM TU TẬP THEO ĐÚNG THÁNH GIỚI

(15:10) 16. Trong giáo pháp của Ta không có những người tu sĩ làm những việc tà nghiệp ngăn ngại đạo để tự sinh sống như vậy.

Trái lại, những người tu sĩ ấy phải chuyên tu theo đúng Thánh Giới; không có tâm nhiễm trước; bên trong giữ tâm hỷ lạc; mắt thấy sắc không chấp tướng và không bị sắc ràng buộc; kiên cố vắng lặng độc cư; không có tham đắm…​

Nghĩa là trước mọi cái đối tượng của cái hình sắc của mọi vật, thì cái người tu sĩ đạo Phật thấy sắc thì không có chấp cái tướng riêng tướng chung của nó, không có bị sắc buộc ràng cái tâm của mình; luôn luôn giữ tâm:

…​ kiên cố, vắng lặng, độc cư, thầm lặng; không có tham đắm cái hình ảnh, cái sắc của mọi vật; cũng không có sợ hãi trước những cái sắc tướng đó.

Nghĩa là sắc đó có dữ tợn hay như thế nào, thí dụ thấy như cọp, beo, rắn dữ thì mặc nó, cũng chẳng sợ, mà thấy những cái gì mà làm cho dễ mến, dễ ưa thì cũng chẳng ham, chẳng thích. Thì đó là cái sự ngăn chặn.

Mà sự ngăn chặn đó, luôn luôn cái người mà ở trong giáo pháp của Phật thì luôn luôn ngăn chặn những cái sắc tướng đó, gọi là các ác pháp.

Kiên trì giữ gìn giới luật…​

Lúc nào chúng ta cũng phải giữ gìn giới luật cho nghiêm chặt để bảo vệ thân và tâm của mình.

…​ Khéo bảo vệ nhãn căn, nhĩ căn, thiệt căn và ý căn. Cũng như thế, khéo chế ngự sáu xúc, hộ trì và điều phục chúng khiến tâm được an ổn; Vừa ăn là biết đủ, cũng không tham những món ăn ngon, chỉ cần nuôi thân để khỏi bệnh tật; Không bao giờ cống cao, ngã mạn, luôn điều hòa thân tâm mình khiến cho khổ cũ tiêu diệt, khổ mới không phát sanh, có sức vô sự, làm cho thân được an lạc.

Đó là những cái lời mà Đức Phật dạy là - mười lăm cái điều ở trên là trong giáo pháp của Đức Phật không có làm những cái tà mạng đó, và cái phần mười sáu là Đức Phật nhắn chúng ta phải thực hiện trong cái con người mà đi vào cái lộ trình thứ hai này, phải thực hiện những cái điều mà Thầy vừa đọc ở trên. Để cho quý thầy biết rằng những cái điều đó là những cái điều mà căn bản và cần thiết khi bước chân vào cái lộ trình thứ hai này.

Trong đạo pháp của Ta, những người tu sĩ ăn đủ nuôi thân để mà hành đạo.

Những Tỳ Kheo thành những Thánh Giới như thế đắc được Thánh Căn, chỉ ăn vừa đủ, đầu đêm, cuối đêm siêng năng giác tỉnh và trọn ngày, nếu đi hoặc ngồi thường tỉnh giác nhất tâm để trừ các ấm cái.

Nửa đêm, nằm nghiêng phía bên tay mặt và nhớ thức dậy đúng giờ, giữ gìn tư tưởng luôn luôn trong sáng, tâm không rối loạn.

Đến cuối đêm liền thức dậy tư duy, hoặc đi, hoặc ngồi thường đặt niệm nhất tâm để trừ các ấm cái.

Tỳ Kheo có đầy đủ Thánh Giới như vậy nên được Thánh Căn, chỉ ăn vừa đủ, đầu đêm, cuối đêm tinh tấn giác tỉnh, thường niệm nhất tâm, không có tán loạn.

2.3- NIỆM KHÔNG TÁN LOẠN LÀ TRỤ TÂM TRÊN NHÂN TƯỚNG

(18:45) Thế nào là Tỳ Kheo niệm không tán loạn?

Tỳ Kheo quán thân trong thân, tinh cần, không giải đãi, ghi nhớ không quên để trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán ngoại thân, quán trong thân, quán hoài và hoài, tinh cần không giải đãi, ghi nhớ không quên để trừ bỏ các tham ưu ở đời. Quán thọ, quán tâm và quán pháp cũng như vậy.

Đây là trụ tâm trên nhân tướng, tu như vậy Tỳ Kheo niệm không tán loạn.

2.4- KHI TU TẬP CẦN TÌM HIỂU KỸ TỪNG THÀNH PHẦN CỦA GIỚI LUẬT

(19:23) Đó thì, cái phần này là cái phần sau này chúng ta sẽ học kỹ. Ở đây thì cái phần mà Phật tóm lược lại để chúng ta biết được những cái sơ đồ để chúng ta bước qua cái giai đoạn này phải tu tập như thế nào, thế nào. Ở đây Thầy cũng lược sơ mà nói thôi, chứ đến khi mà tu tập thì Thầy sẽ dạy rất kỹ.

Cho nên như bây giờ nói: Tỳ Kheo quán thân trong thân, hay hoặc là quán thân ngoại thân, thì sẽ dạy đó là tu Tứ Niệm Xứ rồi. Mà ở đây thì Phật chỉ dạy cho chúng ta biết rằng những cái hành động mà cái người mà tu sĩ trong đạo Phật, trong pháp môn của Phật là phải đi vào cái lộ trình thứ hai, là họ phải làm cái gì trước cái gì sau.

Thì đây là vạch ra chúng ta thấy từ cái chỗ mà chúng ta giữ gìn, ngăn ngại những cái nghề nghiệp mà chúng ta không có cho nó xen vào trong cái chuyện làm của cái người tu sĩ chúng ta.

Rồi chúng ta bắt đầu chúng ta phải giữ Thánh Giới như thế nào để cho Thánh Căn của chúng ta nó được tốt, được thanh tịnh? Cho đến khi mà mắt thấy sắc rồi chúng ta hộ trì như thế nào? Rồi cho đến khi mà chúng ta phải giữ cho những cái nghiệp mà khổ đau ở trong thân của chúng ta - nghiệp khổ cũ nó tiêu diệt mà nó không phát sanh những cái nghiệp mới.

Rồi đến khi cái ăn uống thì chúng ta - Phật nhắc đi nhắc lại về cái ăn uống, rồi tới cái ngủ nghỉ, rồi tới cái tỉnh thức, rồi cái đặt niệm nhất tâm, rồi cho đến khi quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán pháp trên pháp, quán tâm trên tâm.

Tất cả những cái này là một cái lộ trình mà chúng ta sẽ tóm lược lại để chúng ta sẽ tu tập. Vì vậy thì ở đây thì chúng ta cũng tóm lược để chúng ta hiểu được cái cách thức đơn sơ, sơ lược để chúng ta sẽ tu tập như vậy, như vậy trong cái lộ trình này.

Khi mà bước chân vào để mà tu tập thì chúng ta sẽ đi ra từng phần, cái nào trước, cái nào sau, cái nào giới luật như thế nào, Thầy sẽ dạy rõ để chúng ta thấy được cái chỗ nào là cái giới hạnh, cái chỗ nào là giới đức, cái chỗ nào là giới tuệ để chúng ta biết rõ. Chớ bây giờ nói giới chung chung thì chúng ta chẳng biết gì hết.

Bởi vì giới đức nó không phải là giới hạnh, mà giới hạnh thì nó cũng không phải là giới đức, mà giới tuệ thì nó cũng không phải là giới hạnh, giới đức, mà giới bổn thì nó lại khác nữa! Cho nên tất cả những cái này, hầu như một cái người mà dạy giới thì người ta phải hiểu biết được bốn cái loại giới này.

Đầu tiên thì chúng ta hiểu biết bằng giới bổn, thì như là tất cả các kinh giới đã ghi chép lại, đó gọi là giới bổn. Rồi cái giới hạnh như thế nào? Rồi cái giới đức như thế nào? Rồi cái giới tuệ như thế nào? Thì đó là chúng ta phải hiểu.

Mà hiểu như vậy thì hàng ngày thì chúng ta đã sống ở trong giới, hàng ngày thì cái đức giới chúng ta có, cái hành động giới chúng ta có, cái trí tuệ hiểu biết chúng ta hoàn toàn nằm ở trong giới gọi là giới tuệ.

2.5- NHẤT TÂM LÀ ĐỊNH

(22:04) Thế nào gọi là nhất tâm?

Phật dạy chúng ta nghe nói nhất tâm chớ chúng ta chưa biết nhất tâm là như thế nào. Đây là đại khái để chúng ta nắm được cái sơ lược của cái lộ trình mà chúng ta sắp sửa bước đi là lộ trình của người tu sĩ.

Thế nào gọi là nhất tâm?

Tỳ Kheo đi ra đi vào, nhìn ngó hai bên, co duỗi tay chân hay ngước lên, nhìn xuống, hoặc cầm giữ y bát, nhận lãnh thức ăn, thức uống, ngủ, thức, ngồi, đứng, nói năng, im lặng v.v…​ trong tất cả thời, thường niệm nhất tâm không có lo sợ.

Nghĩa là trong khi làm tất cả mọi công việc mà hành động ở trong thân của chúng ta, miệng chúng ta, tất cả mọi cái hành động đó nó đều có một cái sự thầm lặng của nó, cái sự im lặng của nó ở trong tâm của chúng ta. Thì cái sự thầm lặng, im lặng ở trong tâm của chúng ta nó không bị dính mắc một cái hành động nào, nó không bị dính mắc cái pháp nào thì đó gọi là nhất tâm.

Như vậy thì sau này Thầy sẽ dạy rõ, đây là chỉ sơ lược để chúng ta biết cái nghĩa của nhất tâm. Nghĩa là bây giờ mình còn ở trong một cái đối tượng của hơi thở, mình còn ở trong một cái đối tượng của hành động đi thì cái đó chưa phải là nhất tâm!

Cho nên Phật gồm cho cái dạng nhất tâm, Thầy đọc lại để cho quý thầy rõ cái nhất tâm như thế nào:

Thế nào gọi là nhất tâm?

Tỳ Kheo đi ra đi vào, hay nhìn ngó hai bên, co duỗi tay chân, hay ngước lên, nhìn xuống, hoặc cầm giữ y bát, nhận lãnh thức ăn, thức uống, ngủ, thức, ngồi, đứng, nói năng hay im lặng, sống trong thầm lặng trong tất cả thời gian, thường niệm nhất tâm không có lo sợ.

Đó thì, quý thầy đại khái quý thầy hiểu, tất cả những cái hành động mà không dính cái hành động nào hết thì cái đó là nhất tâm, mà nó dính hành động nào thì cái đó là không nhất tâm.

Cho nên khi mà có một cái niệm gì sợ hãi tức là bị dính rồi, có một niệm lo rồi thì bị dính rồi, mà có một niệm thích là bị dính rồi. Mà dính thì tức là nó nhất niệm chớ không phải nhất tâm. Mà tất cả những cái niệm, những cái hành động đó mà tâm mình không có dính vào cái chỗ nào hết thì cái đó là nhất tâm.

(24:25) Đó, hiểu như vậy thì đại khái như vậy. Mà nhất tâm là gì? Nhất tâm là định. Đó. Cho nên cái định nó rất đơn giản, nó không có khó khăn gì hết.

Mà bây giờ, thí dụ như bây giờ mình đang ở trong những hành động mà cái tâm tư mình khởi ra cái niệm, thì cái niệm đó nó có phải là nhất tâm đâu? Nó không nhất tâm, cho nên nó lại mất - thất cái niệm nhất tâm của mình liền. Bởi vì nó có cái niệm ở trong ý của mình, thì đó là mất. Cho nên đại khái như vậy.

Vì vậy mà chúng ta tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức Định là cái quan trọng nhất để chúng ta trở về - từ cái hành động đó mà chúng ta trở về cái nhất tâm, nó dễ hơn. Còn bây giờ mà chúng ta tu một cái đối tượng nào đó mà chúng ta trở về nhất tâm rất khó.

Cũng như bây giờ hơi thở là chúng ta trở về nhất tâm dễ. Là tại sao mà hơi thở dễ? Là vì hơi thở chúng ta thở đến cái mức độ nhẹ quá, chúng ta không thấy nó nữa thì mất cái niệm rồi. Mà mất cái niệm thì nó còn ở trong một cái tâm một của nó thì đó là nhất tâm. Cho nên chúng ta thấy cái hơi thở cũng không khó.

Vì vậy mà bắt đầu bây giờ học lại thì quý thầy thấy như là mình tu sai, tu sai hết. Nhưng không sai! Thật sự ra đâu có sai! Bởi vì những cái này là cái căn bản để sau này chúng ta tu tập thì nó rất tốt cho chúng ta chớ không phải là chúng ta tu sai.

Cho nên hầu hết là nghe Thầy nói người ta tu Tứ Vô Lượng Tâm, rồi tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả người ta thành tựu được đạo pháp, mình thấy: "Trời ơi! Thuở giờ mình tu hơi thở, thiệt uổng công mình vô cùng!"

Không phải uổng! Nếu mà quý thầy không chuẩn bị cho mình hơi thở như vậy đó - thì cái Định Niệm Hơi Thở của Phật vạch ra chúng ta sau này chúng ta tu ở trong cái lộ trình thứ hai, thì chúng ta lấy cái gì mà chúng ta tu? Chúng ta phải đi vào cái lộ trình hơi thở chứ! Cho nên khi mà bước chân chúng ta đi mà tập tỉnh giác, chúng ta cũng nương hơi thở chúng ta tu nữa.

Cho nên Phật nói: “Hơi thở ra tôi biết ra, hơi thở vào tôi biết vào!”, “Hơi thở ra tôi biết tôi đang đi kinh hành!” Không phải là cái lời nói đó là cái phương pháp hướng tâm chúng ta, để nhắc chúng ta tỉnh thức ở trên cái bước đi bằng một cái phương pháp hơi thở sao?

Cho nên Đức Phật nói: "Định niệm hơi thở khéo tác ý" là cái chỗ đó. Khéo tác ý để giúp cho cái tâm chúng ta tỉnh thức ở đó để mà nó giữ được nhất tâm ở trong cái hành động đó mà không bị tạp niệm.

Chớ đâu phải quý thầy tu - từ lâu tới giờ quý thầy tu nhiếp tâm vậy là phí của quý thầy đâu? Đâu có phí đâu! Quý thầy tu sao nó cũng có cái lợi ích cho quý thầy hết, nhưng phải biết sử dụng nó, còn nếu không biết sử dụng thì nó sẽ phí.

Cho nên quý thầy tu đâu có phải hoài công đâu! Bây giờ quý thầy ngồi bảy, tám giờ nè, hay hoặc là mười hai giờ đồng hồ nè, không phí của quý thầy đâu, không mất đi chỗ nào hết.

Nghĩa là Thầy hướng dẫn các thầy đi lại từ cái căn bản, rồi từng cái mà cái đó thì nó sẽ đưa cho quý thầy đến cái tốt nhất của nó, không có sai được cái chỗ nào hết, nó không mất cái thì giờ tu tập của quý thầy.

3- QUYẾT TÂM DỨT BỎ ĐỂ KHÔNG CÒN CHƯỚNG NGẠI

(26:58) Bước qua đạo lộ này, quý thầy phải mạnh dạn, quyết tâm dứt bỏ, từ giã những gì mà Đức Phật đã cảnh giác, nhắc ra ở đây, để đạo lộ này khi quý vị đi vào không còn có chướng ngại, hầm hố, chông gai, thú dữ, rắn độc, quỷ ma hoặc thần thánh cùng những tà kiến, tà pháp, tà thiền xen vào phá phách được, chỉ có một đạo lộ rộng thênh thang duy nhất để cho quý thầy tiến bước một cách dễ dàng, không còn trở ngại hiểm nguy nữa.

Đó thì, bước qua một cái giai đoạn mà tu tập ở trên cái đạo lộ này, chuẩn bị cho quý thầy được cái đại khái của cái người mà bước vào cái đạo lộ thứ hai này, thì nãy giờ thì quý thầy đã thấy được cái sự khái lược của cái đạo lộ thứ hai. Đây là khái lược thôi, chớ còn sau này giảng thì nó còn rộng rãi để cho quý thầy nhận rõ ra được cái hành trình của mình tu tập.

Chớ không phải là - nó khái lược như vậy thì quý thầy biết đâu mà tu tập, nhưng mà chúng ta phải - ở trong đầu chúng ta biết rằng cái đời sống của một người tu sĩ của đạo Phật phải sống như thế nào? Cho nên nó khái lược để chúng ta biết được cái mường tượng ra cái đời sống của chúng ta là đời sống như vậy.

Cho nên khi mà bước qua cái đạo lộ này thì quý thầy phải mạnh dạn, quyết tâm dứt bỏ. Nghĩa là mình phải dứt bỏ cái đạo lộ thứ nhất chớ không phải được để cái đạo lộ thứ nhất mà còn dính ở trong cái - bước qua cái đạo lộ thứ hai này mà còn để dính thì không có được. Cho nên phải có sự quyết tâm, mạnh dạn dứt bỏ liền tức khắc thì mới bước qua cái này mới được.

(28:42) Từ giã những gì mà Đức Phật đã cảnh giác.

Đó. Tức là Đức Phật đã khái lược cho chúng ta những cái ở trên đó, chúng ta phải từ bỏ.

Bây giờ chúng ta làm thầy thuốc nè, thì chúng ta phải từ bỏ liền. Chúng ta là một võ sư nè, chúng ta phải bỏ liền, không có được làm cái điều đó. Chúng ta là một nhạc sĩ nè, một nhà thơ nè, một nhà văn nè, phải dẹp liền, không có được dùng nó. Chúng ta là một thầy bùa nè, một ông phù thủy nè, chúng ta bỏ liền, không có được xài nó.

Tất cả những cái này chúng ta không có - bước vào cái đạo lộ này phải dẹp bỏ hết. Rồi dẹp bỏ cả gia đình, của cải, tài sản, con cái, con thơ, vợ yếu, nhà cửa gì, châu báu gì cũng dẹp sạch hết, thì đó là để chuẩn bị cho chúng ta bước qua cái đạo lộ này.

Để đạo lộ này khi quý thầy đi vào không còn chướng ngại.

Nó chướng ngại gì?

Nó có những cái điều mà chướng ngại - quý thầy chưa có dứt bỏ nó thì quý thầy sẽ bị gặp những cái chướng ngại như: hầm hố, chông gai, thú dữ, rắn độc, quỷ ma, thần thánh. Vì những cái này là ở trong đầu của quý vị mà còn những cái đó.

Rồi thậm chí như những cái tà kiến, tức là cái kiến chấp của quý vị, như bây giờ mình chấp cái gì đó: Pháp đó đúng, pháp này sai, xuất hồn là đúng hay hoặc là pháp thiền này đúng, thiền kia đúng, mình dẹp sạch hết.

Mình đi vào ở trong cái lộ trình của Đức Phật, thì ngay cái lộ trình đó chỉ có thiện pháp chớ không có gì khác hơn hết. Mà mình còn kiến chấp một cái gì ở trong đó là có cái Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh gì đó, thì cái đó là cái sai, không có đúng.

Bởi vì còn chấp nó có một cảnh giới nào đó là cực lạc thì cũng là sai, còn chấp một cảnh giới nào là thiên đàng cũng là sai. Tất cả những cái đó gọi là tà kiến. Hoặc là chấp còn có một cái bản thể của vũ trụ hay vạn hữu nào đó là thường hằng thì cái đó là cái ngã chấp, cái kiến chấp, đó là cái tà kiến, cái đó là cái sai.

Đối với cái lộ trình của đạo Phật thứ hai này mà còn có một cái tà kiến, một cái tà pháp nào xen vào đó thì con đường tu của chúng ta sẽ là những hầm hố, những chông gai, rất là khó khăn để mà chúng ta bước đi.

Cho nên ở đây tất cả những cái thiền gì mà gọi là siêu xuất nhất, như thí dụ như các phương pháp mà luyện tập yoga tuyệt đỉnh chúng ta cũng phá bỏ, các pháp dưỡng sinh mà hay nhất để mà trị được những bệnh này, bệnh kia cũng dẹp xuống.

Bởi vì ở đây chúng ta chỉ còn biết nhân quả nghiệp báo: Có thân nghiệp thì phải thọ lấy những khổ đau, không hề sợ hãi gì hết!

Đó là những cái điều kiện mà có cái tâm cương quyết và quyết tâm dứt như vậy thì chúng ta mới đi vào cái lộ trình này mới có thể thênh thang được.

Chỉ còn một đạo lộ rộng thênh thang duy nhất để cho quý thầy tiến bước một cách dễ dàng…​ (Mất tiếng)

4- KHÔNG THỂ TÁCH RỜI GIỚI HẠNH VÀ TRÍ TUỆ

(31:23) Để trang bị khái niệm Tam Vô Lậu Học…​

Ở đây, để trang bị cho quý thầy ba cái pháp môn vô lậu, cho nên Thầy nhắc lại.

Bởi vì qua cái này là chúng ta đã khái niệm được cái đường đi - cái lộ trình thứ hai, thì bắt đầu cái lộ trình thứ hai đó thì chúng ta phải áp dụng những cái pháp gì mà chúng ta tu tập? Cho nên chúng ta phải áp dụng là ba cái pháp vô lậu.

Cho nên ở đây Thầy mới nhắc:

Để trang bị khái niệm Tam Vô Lậu Học: Giới - Định - Tuệ.

Đến đây Thầy xin giới thiệu Trí Tuệ và Giới Hạnh. Nhắc đến mà Tam Vô Lậu Học Giới - Định - Tuệ, thì tức là phải giới thiệu cái trí tuệ và cái giới hạnh của mình như thế nào, để cho mình biết.

Bởi vì ở trong cái giới luật của Phật thì nó có cái giới hạnh, giới đức và giới tuệ, thì luôn lúc nào mà cái người tu hành nó cũng phải là cái trí tuệ với cái giới luật nó phải như thế nào để cho đúng? Cho nên ở đây Thầy xin giới thiệu thêm cái phần trí tuệ và cái giới hạnh để cho quý thầy bước đầu qua cái học tập về giới luật để cho nó thấm nhuần, để cho biết được cái chỗ giới và cái trí tuệ như thế nào.

Ở đây trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh.

Nghĩa là cái trí tuệ của chúng ta mà được thanh tịnh thì phải do giới luật, cái giới hạnh nó mới làm cho thanh tịnh.

Chẳng hạn là bây giờ cái giới hạnh như thế nào? Chúng ta đi mà chúng ta lưu ý ở dưới chân, chúng ta không đạp chết một con vật, tức là không sát hại chúng sanh, không giết hại chúng sanh bằng cái hành động thương yêu của chúng ta đó, đó là cái giới hạnh.

Mà cái giới hạnh nó làm cho cái trí tuệ chúng ta thanh tịnh. Vì lúc bấy giờ chúng ta có cái sự hiểu biết ở trong đó, mà cái sự hiểu biết đó nó thanh tịnh được tức là nó không làm đau khổ chúng sanh. Đó gọi là “trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh”. Đó, thì chúng ta thấy rất rõ mà.

Và giới hạnh cũng được trí tuệ làm cho thanh tịnh.

Bây giờ ngược lại thì cái giới hạnh mà nó được thanh tịnh, nó được hoàn mãn, thì cái trí tuệ chúng ta nó mới làm cho cái giới hạnh thanh tịnh.

Như vậy thì như thế nào? Nếu mà không có trí tuệ, không có sự sáng suốt mà bước đi thì chúng ta sẽ bị giết hại chúng sanh, cho nên nó phạm giới, nó làm cho đau khổ chúng sanh, cho nên giới làm sao thanh tịnh được?

Cho nên vì vậy mà giới hạnh cũng được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Đó, thì hai cái chúng ta thấy nó rất rõ, nó có sự liên hệ và cấu kết nhau ở trên cái sự tu tập của chúng ta, giới hạnh và cái trí tuệ nó phải liên tục với nhau chớ nó không phải rời xa được.

(34:00) Cho nên ở đây:

Chỗ nào có giới hạnh là chỗ ấy có trí tuệ.

Đó, quý thầy thấy rõ chưa? Chỗ nào mà có giới hạnh, tức là cái chỗ nào mà chúng ta bước đi mà chúng ta không giết hại chúng sanh á thì cái chỗ đó phải có trí tuệ, tức là phải có sự tỉnh thức.

Như vậy là các thầy thấy rất rõ chớ? Khi mà quý thầy áp dụng Tứ Vô Lượng Tâm thì quý thầy thấy rất rõ cái vấn đề này. Khi mà đặt cái tâm thương của chúng ta rồi, thì chúng ta luôn luôn lúc nào cũng tỉnh thức ở đó, thì cái trí tuệ sáng suốt chúng ta phải ở đó rồi, cho nên chúng ta không có phạm phải cái giới để làm đau khổ chúng sanh, tức là giết hại chúng sanh.

Chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh.

Nghĩa là chúng ta tỉnh thức ở chỗ đó thì ngay cái tâm thương yêu chúng ta nó đặt ngay chỗ đó, thì tức là cái giới hạnh chúng ta ở đó. Những cái này, chúng ta thấy như vậy là chúng ta đã biết giới luật với cái trí tuệ chúng ta nó kèm sát với nhau, không có xa với nhau chút nào hết.

Người có giới hạnh nhất định là có trí tuệ.

Bây giờ đây các con thấy nè: Có người họ thông minh lắm, nhưng mà cái hành động của họ nó không có giới luật.

Bây giờ họ là người ăn phi thời nè, ăn ba bữa ăn nè, thì thử hỏi họ là người có trí tuệ không? Họ không trí tuệ cho nên họ mới phạm phải cái giới luật. Mà họ phạm phải giới luật thi tức là họ không phải là người trí tuệ.

Mà họ nói cái gì có thông không? Họ nói rất thông, họ lý luận rất hay, nhưng cái lý luận của họ không phải là lý luận của giới luật, của giới hạnh, cho nên do cái chỗ đó là họ bị phạm giới. Chúng ta thấy rất rõ là người này không trí tuệ.

Đứng ở trong góc độ của đạo Phật phải nhìn cái trí tuệ bằng cái giới luật. Mà nhìn cái trí tuệ thông minh của họ, họ nói trên trời dưới đất mà họ sống không đúng, tức là tri hành không hợp nhất, thì như vậy rõ ràng là cái trí tuệ của họ với cái điều kiện của họ làm nó không có hợp nhau thì tức là họ không phải là người trí tuệ. Họ chỉ là người ba hoa mà thôi, nói cho nhiều, chớ không đúng.

Cho nên nhìn vào cái người tu sĩ của đạo Phật, chúng ta đánh giá trị họ được ở chỗ trí tuệ và giới hạnh của họ.

Bởi vì ở đây, cái người có giới hạnh thì nhất định phải có trí tuệ. Vì trí tuệ nó chứng minh cho cái hành động của họ là ở trong thiện pháp, là ở trong giới luật. Mà họ phạm giới tức là họ không có trí tuệ. Cho nên không có trí tuệ mới phạm giới, còn có trí tuệ làm sao phạm giới?

Đó, quý thầy hiểu được như vậy, thì quý thầy mới thấy được cái lộ trình của cái đạo Phật nó rất là rõ ràng và cụ thể.

Cho nên nói trí tuệ, ai cũng nói mình có trí tuệ hết, nhưng mà sự thật thấy đời sống của họ là biết họ là con người không trí tuệ. Mà không trí tuệ tức là họ phạm giới.

Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời.

Các thầy thấy chưa?

Bởi vì mình cứu mình ra khỏi cái cuộc đời đau khổ này, là phải xem giới hạnh và trí tuệ là tối thắng ở trên đời, vì mình hết đau khổ. Còn nếu mà mình nói mình thông suốt, mình hiểu mà cái giới hạnh mình không có, mình làm đau khổ chúng sanh thì tức là đâu phải trí tuệ? Vì trí tuệ không bao giờ làm đau khổ chúng sanh.

Mà không làm đau khổ chúng sanh thì mình có sân ở trong lòng mình không? Vì mình sân tức là mình cũng làm đau khổ cho chúng sanh, mà chúng sanh đó là chúng sanh mình. Các con thấy chưa?

(37:09) Cho nên ở đây, trong cái sự mà tu tập của chúng ta, chúng ta thấy được cái chỗ này rất là quan trọng. Giới luật tức là giới hạnh, hay là giới đức, hay hoặc là giới tuệ nó luôn luôn nó sống sát ở bên nhau, mà nó làm cho chúng ta được giải thoát, chớ không phải cái gì hết.

Thì như vậy là chúng ta phải tu tập như thế nào để chúng ta thấy giới luật với cái hạnh, với cái trí tuệ chúng ta luôn luôn nó phải sống với nhau như nhất, không có được rời ra, thì như vậy là chúng ta đã giải thoát chớ có cái gì đâu mà không giải thoát!

Cho nên ở đời hiện giờ, giới tu sĩ giới hạnh chẳng có thì trí tuệ cũng chẳng có. Họ chỉ thuyết giảng lung tung mà đời sống của họ đầy bụi bặm của ngũ dục lạc thế gian, do thế trí tuệ họ chẳng có.

Họ chỉ lý luận, giảng giải qua tưởng tuệ, qua tri kiến góp nhặt, qua đờm dãi của người xưa, lặp đi lặp lại, thêm râu, thêm ria như rắn thêm chân, rồng chẳng ra rồng, rắn chẳng ra rắn, khiến cho mọi người theo đạo Phật dở chết, dở sống, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo.

Lối sống của tu sĩ hiện giờ là lối sống phong kiến, quan liêu, tiền hô hậu ủng như vua chúa: Chùa to tháp lớn là cung vàng, điện ngọc của họ; viện chủ, viện trưởng là quan chức của họ; đi đâu cũng có hộ giá là Phật tử đưa đón, xe cộ rầm rộ.

Đó là, quý thầy thấy cái cách thức sống của họ, rồi cái danh của họ, rồi cái lối sống của họ có phải là giới luật không?

Ông Phật ngày xưa ổng tám mươi tuổi rồi mà ổng đi chân trần ổng đi, ổng đi từ chỗ này đến chỗ khác ông khất thực ổng sống, có ai mà xin cho ổng đem về cho ổng ăn đâu. Lẽ ra ổng già như vậy thì ông A Nan phải đi xin về cho ông ngồi trong thất ông ăn chớ! Đằng này không, ổng cũng mang bát ổng đi.

Nhiều khi các đệ tử của ổng không có chịu mang bát dùm ổng nữa, bỏ xuống đó, ổng cũng lượm cái bát ổng mang lên ổng đi ổng xin, chớ cũng không làm sao, cũng không rầy đệ tử mình. Ổng đâu có phong kiến, cho nên ổng đâu có quyền gì ổng rầy ai? Người ta muốn mang dùm mình thì mang, người ta không muốn mang thì thôi, chớ ông đâu có rầy!

Đó là những cái giới hạnh của người ta kèm theo, cái đức hạnh của người ta rất rõ ràng.

Còn mình bây giờ, thấy cái kiểu mà sống như vậy có đức hạnh không? Không đức hạnh. Phạm phải những cái giới luật của Phật, phạm phải những cái bất bình đẳng.

Đạo Phật là đạo bình đẳng mà, mà sống lại có người ủng hộ, có người cầm quạt quạt, có người che lọng, có người này kia, thì như vậy là có bình đẳng không? Có người còn hầu hạ mình mà!

Đó là những cái sai cái, cái không đúng của cái thời đại của chúng ta. Nó không đúng là cái hạnh của một người tu, tức là thiếu giới hạnh, thiếu trí tuệ, thiếu giới hạnh. Cho nên chúng ta lầm tưởng đó là cái sang, tưởng đó là cái quý, tưởng đó là cái giải thoát của mình, mà chính đó là cái sai.

Đến đây Thầy xin chấm dứt để chúng ta chuẩn bị ăn cơm.

5- GƯƠNG HẠNH TU TẬP THỜI ĐỨC PHẬT - PHẦN 2

[Phần 1 ở Giáo án 14]

(40:06) Để tiếp tục các con học cái buổi giảng hôm nay, thì Thầy xin đọc lại những cái mẩu chuyện của những bậc Thánh Tăng ở trong cái thời Đức Phật.

Rồi kế tiếp, các con sẽ được nghe - cái buổi sáng Thầy giảng cho quý thầy về cái lộ trình tu tập, cái lộ trình thứ nhất của cái giáo án, và cũng là cái kết luận của cái lộ trình thứ nhất trong cái buổi sáng hôm nay - và đồng thời tiếp tục chuyển qua cái lộ trình thứ hai.

Nhưng trước khi qua cái lộ trình thứ hai, thì chúng ta cũng lấy những cái gương hạnh của các bậc Thánh Tăng ở trong cái thời Đức Phật, để chúng ta thấy các vị tu hành như thế nào đúng và như thế nào sai, để chúng ta rút tỉa những kinh nghiệm của các bậc đó mà chúng ta lấy cái gương đó mà chúng ta tu tập cho mình qua những cái điều mà Thầy đã dạy.

Như vừa rồi thì chúng ta cũng đã nghe cái vị Thánh Tăng trong cái tuổi nhỏ mà đi theo Phật tu hành, rồi nhớ mẹ, rồi trở về thăm mẹ, rồi bà mẹ khuyên giúp, rồi ra đi mà tu tập đến chứng quả A La Hán.

5.1- NGÀI SOPÀKA TU TỨ VÔ LƯỢNG TÂM - PHẦN 1

(41:28) Rồi một vị Thánh Tăng cũng trong thời Đức Phật:

Ngài là một đứa bé sanh ra, mà vừa sanh ra là (mẹ) mất.

Ngài tên là Sopàka.

Ngài được một người cha nuôi…​

Chớ không phải là cha ruột mà cha nuôi.

…​ nuôi Ngài cho đến bảy tuổi, rồi cho Ngài xuất gia theo Phật tu hành.

Khi được xuất gia với Đức Phật tu hành và Đức Phật đã thấu rõ cái hoàn cảnh mồ côi của Ngài, cho nên cho Ngài thiền quán đề tài tu cái Tứ Vô Lượng Tâm.

Đó, bởi vì Ngài sống ở trong cái chỗ bất hạnh của Ngài, khi sanh ra thì mẹ chết, rồi được người cha nuôi, nuôi cho đến bảy tuổi rồi đi cho xuất gia tu hành. Phật thông cảm được cái hoàn cảnh đau khổ đó cho nên Đức Phật dạy cho Ngài tu cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm tức là Từ Bi Hỷ Xả đó.

Ngài triển khai thiền quán này và chứng quả A La Hán.

Nghĩa là Ngài triển khai cái Tứ Vô Lượng Tâm để tu tập cái tâm của mình, Ngài chứng quả A La Hán.

Cho nên ở đây, khi mà học Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Chánh Cần thì chúng ta thấy có những gương hạnh họ đã tu tập những cái pháp môn đó mà họ đã thành tựu chứng quả giải thoát của họ.

Vậy thì:

Sau khi chứng quả A La Hán thì Ngài có một bài kệ để nói lên cái công đức và kinh nghiệm tu hành của mình qua cái pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm.

Như vậy thì các con sẽ nghe cái bài kệ của Ngài mà lấy cái chỗ kinh nghiệm của Ngài để mà tu tập và cái kinh nghiệm mà Thầy đã dạy cho các con tu tập từ cái pháp hướng, pháp tuỳ để mà tu tập cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình, thì chắc chắn là các con biết cách thức tu rồi đó.

Và đồng thời thì tại sao mà Ngài hồi đó Ngài tu mà có cái pháp môn này mà Ngài chứng được đạo quả, thì Ngài cũng tu như chúng ta hiện giờ mà Thầy đã được dạy.

(43:35) Vậy thì nghe cái bài kệ:

Như người mẹ tốt lành

Thương người con độc nhất.

Đó. Thì người mẹ tốt thì bao giờ cũng thương người con, mà có một đứa con thì phải thương là thương rất là thương, thương nhiều đó.

Cũng vậy đối chúng sanh

Đủ mọi loài mọi chỗ

Hãy có lòng tốt đẹp

Thương mến và từ ái.

Đó là cái bài kệ của Ngài mà Ngài thực hiện cái tâm Từ của Ngài mà đối với chúng sanh, thì Ngài ví Ngài như một người bà mẹ tốt thương một đứa con độc nhất của mình, đối với tất cả chúng sanh, chúng sanh nào thì cũng thương như con một của mình.

Cho nên vì thế mà "thương mến và từ ái" - luôn luôn lúc nào, không có bao giờ mà ghét giận, không bao giờ mà làm hại, không bao giờ mà làm đau khổ. Do cái Từ Tâm đó, do cái Bi Tâm đó, do cái Xả Tâm, do cái Hỷ Tâm đó mà Ngài đã chứng quả A La Hán, nó chỉ có một pháp môn đó thôi.

Vì các con cũng thấy rằng, cái phương pháp tu nó giúp cho chúng ta cái sức tỉnh rất là lớn, rất là vĩ đại, và cũng từ đó cái tâm Từ chúng ta phủ trùm cho nên, ai chửi, ai mắng, ai làm gì chúng ta cũng không giận hờn, vì vậy mà Ngũ Triền Cái nó đã quét sạch, nó không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa.

Còn vì chúng ta không có tu được lòng Từ, lòng Bi cho nên mỗi mỗi chúng ta đều dễ phiền não, dễ đau khổ, dễ giận hờn. Vì vậy mà cái ngã chúng ta càng ngày càng to lớn, rồi huân thêm cái sân, cái phiền não, càng ngày càng dữ, càng nhiều hơn, làm cho chúng ta càng sống ở trong địa ngục hơn.

Còn Ngài tu tập về cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, cuối cùng thì Ngài xả sạch cái ngã của mình. Do cái lòng thương yêu mà cái ngã không còn có nữa, cho nên Ngài chứng được quả A La Hán. Đó là một cái gương hạnh tu Tứ Vô Lượng Tâm mà đã thành tựu được đạo giải thoát của đạo Phật do cái lòng thương yêu của mình.

Đó thì, các con thấy chỉ có tu có bây nhiêu đó thôi, mà tới chừng đó người ta nhập được Tam Minh, nhập được Tứ Thiền, người ta làm chủ được sống chết một cách rất dễ dàng, không còn khó khăn.

5.2- NGÀI POSIYA QUÁN BỐN SỰ THẬT - PHẦN 1

(45:34) Đó, thì đến đây, Thầy xin nhắc lại một cái gương hạnh nữa để mỗi ngày chúng ta có một vài cái gương hạnh, tuy ngắn nhưng mà cũng nhắc nhở chúng ta thấy người ta tu pháp gì, người ta làm gì mà người ta được tâm giải thoát, được tâm thanh tịnh.

Ngài Posiya.

Ngài là em trai của trưởng lão Sangàmaji. Khi lớn lên Ngài lập gia đình và có một đứa con. Đứng trước cái vấn đề sống chết nên Ngài mới đi xuất gia tu hành, Ngài sống một mình ở trong rừng già và tu tập đề tài bốn sự thật.

Ngài tu tập bốn sự thật là các con thấy, bốn sự thật là cái đề tài gì đây? Tức là Tứ Diệu Đế đó.

Cái sự thật thứ nhất là Ngài quán xét về khổ, đời người khổ.

Cái thứ hai, Ngài quán xét về cái nguyên nhân khổ, tức là cái lòng ham muốn của mình.

Cái thứ ba, Ngài quán xét được cái trạng thái không có khổ, tức là trạng thái Diệt Đế đó, tức là cái trạng thái mà thanh thản đó, Ngài thấy được cái trạng thái thanh thản tức là Niết Bàn đó.

Và Ngài nương theo cái sự thật cuối cùng đó, là cái sự thật thứ tư đó, là Bát Chánh Đạo - tám cái nẻo để mà được giải thoát. Cho nên Ngài theo cái đường lối đó mà Ngài quán bốn cái sự thật này - bốn cái chân lý, gọi là bốn sự thật đó, mà Ngài chứng quả A La Hán.

Nghĩa là, người ta tu có Tứ Diệu Đế không mà người ta chứng quả A La Hán. Trước kia thì mấy người kia họ tu Tứ Vô Lượng Tâm phải không? Bây giờ cái ông này ổng lại tu bốn sự thật.

Nghĩa là ổng suy tư, ổng đặt cái niệm đời là khổ, rồi ổng tu, ổng dùng cái Định Vô Lậu ổng quán xét, ổng suy tư thấy rõ ràng đời khổ thật, không có còn cái gì là không khổ.

Rồi ổng quán xét cái nguyên nhân khổ, ông thấy cái lòng ham muốn của mình mà sanh ra, tập khởi vô cùng thứ khổ cho con người. Cho nên ổng quán xét, ổng thấu triệt.

Rồi ổng quán xét cái trạng thái mà giải thoát không có còn khổ nữa, thì ổng thấy rõ ràng cái tâm hồn thanh thản rồi, không có khổ nữa. Cho nên luôn luôn ổng ở trong cái tâm hồn thanh thản đó, ông giữ gìn cái tâm hồn thanh thản đó.

Và cuối cùng thì ổng giữ gìn, ổng giữ gìn cho nó được thanh thản mãi mãi đó, thì ổng theo cái sự thật cuối cùng, đó là Bát Chánh Đạo - tám cái nẻo để mà đi vào cái sự giải thoát.

Cho nên nội cái Tứ Diệu Đế không mà ổng cũng đã thành tựu chớ ông đâu có tu nhập Bốn Thiền - Sơ Thiền, Nhị Thiền…​ gì đâu, ông có nương hơi thở gì đâu. Nhưng mà cuối cùng ổng chỉ cần đặt cái niệm tu cái Định Vô Lậu, là ổng quán xét, thấu triệt được, ông quán cái đề tài bốn cái sự thật này mà ổng thành tựu được đạo giải thoát.

Thì các con thấy: Người thì tu Tứ Vô Lượng Tâm, người thì tu Tứ Chánh Cần, người thì tu Thất Giác Chi, người thì tu Tứ Niệm Xứ, người thì tu bốn sự thật…​ mà người nào tu một pháp mà chuyên cần, mà thâm sâu vào cái Định Vô Lậu thì người nào cũng thành tựu được đạo giải thoát.

Bởi vì cái Định Vô Lậu rất là tuyệt. Còn cái định Hiện Tại An Lạc Trú nó chỉ đi từ cái hơi thở để mà tịnh chỉ các hành để mà nhập Tứ Thiền, thì nó chỉ có một góc độ nhỏ mà thôi, chớ nó không có lớn như cái Định Vô Lậu đâu.

(48:43) Đó thì chúng ta thấy, ở đây các vị Thánh Tăng thường thường họ không có nhắm vào cái Bốn Thiền, mà họ nhắm vào cái lậu hoặc, mà họ triệt tiêu cái lậu hoặc để nó giải thoát hoàn toàn.

Sau khi chứng quả A La Hán, Ngài đến đảnh lễ Thế Tôn và trở về thăm nhà cũ.

Tức là thăm cái nơi mà Ngài từ cái chỗ mà Ngài ra đi.

Người vợ Ngài muốn cám dỗ Ngài sống lại cuộc đời sống cũ. Ngài biết dụng ý của vợ nên Ngài liền từ giã ra đi, không ngó ngàng đến nhà cửa, vợ con nữa.

Nghĩa là Ngài biết cái ý của vợ con của Ngài vậy cho nên Ngài về thăm cái là Ngài đi liền, Ngài không có về nữa. Từ đó Ngài biệt, Ngài không có đến nhà cửa nữa, Ngài cắt đứt không còn có nghĩ đến cái chuyện tình thân nhỏ mọn - đối với cái chuyện nhỏ nhặt của gia đình nữa.

Ngài có bài kệ nói lên tâm tư và sự giải thoát khỏi những sợi dây thằng phược:

Tức là thoát ra khỏi những sợi dây ràng buộc của gia đình đó, của vợ, của con, của này kia đó, Ngài đã thoát ra khỏi.

Đây cái bài kệ của Ngài:

Không gần là tốt đẹp,

Đó, Ngài vô cái câu kệ ngay liền là Ngài nói: "không gần” - tức là không gần những người thân - "là tốt đẹp".

Kẻ trí thường biết vậy,

Từ làng đi đến rừng,

Từ rừng, ta vào nhà,

Từ đấy, đứng dậy đi,

Không đoái hoài, Posiya.

Posiya là tên ổng đó, ổng nhắc: "Đừng có đoái hoài nữa Posiya!" Ổng nhắc ổng: "Đừng có đoái hoài cái đó nữa" tức là dứt khoát đi.

Cho nên ở đây các con nghe cái bài kệ ổng nói: Chỉ có dứt khoát được cái tình cảm của gia đình là đã được sự giải thoát rồi. Và vì vậy mà dứt khoát được tình cảm thì tu cái bốn cái sự thật này nó mới có thể đưa đến cái sự giải thoát.

Còn nếu mà chúng ta còn dính anh em ruột thịt, hoặc là vợ con, hoặc là con cái, hoặc là tình cảm gia đình của mình…​ tất cả những cái đó là cái khổ đau đó, cái đó ràng buộc rất chặt.

Cho nên cái bài kệ nhắc nhở chúng ta rất nhiều, trong cái lộ trình mà sắp sửa chúng ta bước vào cái lộ trình thứ hai là phải dứt sạch, trắng bạch như vỏ ốc đó.

Đây Thầy đọc lại cho các con nghe cái bài kệ. Nó đơn giản mà nó thấm thía lắm, nó biết được cái chỗ mà chúng ta bứt. Bứt để mà chúng ta giải thoát, không bứt thì chúng ta không giải thoát được.

Không gần là tốt đẹp,

Như cái bài kệ, cái câu kệ chúng ta nghe “không gần là tốt đẹp” chúng ta chẳng biết gì. Nhưng mà khi mà đọc cái câu chuyện mà xảy ra giữa cái gia đình ông như vậy đó, thì ông mới nói lên cái bài kệ này, chúng ta biết: Gần là nó không có giải thoát được đâu, nó không có tốt đẹp được!

Kẻ trí thường biết vậy,

Cái người mà hiểu biết thì người ta biết rất rõ, gần là không bao giờ mà tốt đẹp được, nó thương, nó nhớ, nó đủ thứ, nó làm cho chúng ta khổ, nó không bao giờ thoát ra hết.

(51:37) Từ làng đi đến rừng,

Nghĩa là đi từ cái chỗ mà ổng từ bỏ gia đình ổng đi vào rừng ổng tu, tức là từ làng ổng đi đến rừng. Rồi khi mà tu mà đạt được rồi, bây giờ từ rừng ổng về ổng thăm nhà. Nhưng mà thăm nhà thấy nó sao mà nó dính dấp, nó muốn trói mình lại không à, nó không có muốn rời mình ra nữa! Cho nên từ đấy ổng lật đật, ổng đứng dậy ổng đi, ông không dám ở lại.

Bởi vì ở lại thì không thể được rồi, bởi vì cái tâm ổng giải thoát rồi, mà những người thân của mình họ luôn luôn họ trói mình trở lại, họ cột chân mình họ lôi trở lại, họ không cho mình giải thoát đâu. Cũng như họ bủa lưới xung quanh vậy, không cho mình thoát ra đâu. Cho nên ổng lật đật ổng bước đi, ổng thoát ra khỏi cái sự trói buộc đó.

Đó thì, cái tâm trạng đó là cái tâm trạng chung của quý vị. Quý vị mà nếu mà trở về gia đình quý vị thấy cái sự trói buộc không? Ôi thôi! Có con, thôi nghe nói "mẹ đi kỳ này là không bao giờ trở lại nữa" - thôi, nó khóc sướt mướt! Cái sợi dây nước mắt của nó nó trói chặt lắm, cho nên khó lắm chớ không phải dễ đâu.

Thầy nói không đơn giản đâu, các con thử nghĩ coi. Nghe về nói: "Kỳ này tao đi là tao đi luôn, tao không bao giờ trở lại nữa, bứt hết những sợi dây này mới là giải thoát nổi!" Bắt đầu thôi nó rùm lên nó khóc như là đưa đám ma như mình sắp chết! Thì các con biết, cái nước mắt của nó nó trói chặt lắm á!

Đó! Vì vậy mà cái vị Thánh Tăng này ông ta biết liền, ông về cái ông thấy cái dụng ý của bà vợ, ông: "Trời! Ôi thôi! Nó trói mình lại chớ không có thể nào mà nó tha mình đâu!"

Ổng lật đật ổng đứng dậy ổng đi mà không dám nói một lời nói từ giã. Hễ nói ra một lời nói nào thì nó cột thêm, cột thêm, lát hơi nữa chắc chắn là mình cũng như là một cái con gà mà bị trói, nó để dưới bếp, nó sắp sửa làm thịt. Không có thể nào mà thoát ra được hết đâu!

Đó! Đó thì các con thấy, trong - thì cái bài kệ này, tại vì Thầy nghĩ cái trường hợp và hoàn cảnh của các con hiện bây giờ nó đang ở trong cái như vậy, mà cái vị tu sĩ Thánh Tăng này trong cái thời đó nó cũng giống mình quá!

Cho nên Thầy mới đem ra để mà đọc cho các con nghe, để mà lấy cái kinh nghiệm đó mà cố gắng, về ngó một cái rồi lo đi, chớ mà ở đó một hơi đó, ăn cơm đó, coi chừng nó dính luôn ở trỏng đó. Nó không đơn giản đâu.

Tu sinh: …​

Trưởng lão: Cái chỗ nào con?

Từ rừng, ta vào nhà,

Bây giờ tu rồi đó, bây giờ mới trở về nhà, như mấy con mà vô Tu viện mình ở tu rồi bây giờ trở về đó, giống ổng đó.

Từ đấy, đứng dậy đi,

Về tới nhà cái lật đật đi chớ thấy cái kiểu đó không được rồi.

Từ đấy, đứng dậy đi,

Nó xách nó đưa công an, cảnh sát dí bắt trói lại đó! Hoảng hồn, hoảng vía, lật đật ổng vô rừng ổng trốn chớ hông dám ở ngoài nữa.

Đó, các con thấy không? Cái tâm trạng của các con là cái tâm trạng đang ở cái chỗ của ông, của cái vị tu sĩ này, chớ không phải thường đâu. Do cái chỗ đó mà Thầy trích ra những cái mẩu chuyện này để cho các con lấy rút tỉa kinh nghiệm mà - khi mà về thăm nhà mà từ giã, coi chừng, nước mắt nó trói chặt à.

5.3- NGÀI SIVÀLI QUÁN VỀ ĐAU KHỔ KHI ĐƯỢC SINH RA - PHẦN 1

(54:41) Đây, một cái mẩu chuyện nữa:

Ngài Sivàli.

Khi mẹ Ngài sanh, mẹ Ngài sanh quá khó, nằm và chịu đau khổ suốt bảy ngày đêm.

Nghĩa là, khi mà sanh Ngài ra thì bà mẹ đau bụng đẻ, suốt bảy ngày đêm mới có sanh Ngài được. Quá khổ sở!

Sau bảy ngày sanh Ngài ra thì mẹ ngài mất trong sự đau khổ tận cùng của một người con mất mẹ. Và đến khi được bảy tuổi thì Ngài xuất gia tu học với Đức Phật. Ngài Xá Lợi Phất am hiểu được cái hoàn cảnh của Ngài, cho nên khuyên Ngài nên lấy cái đề tài của sự đau khổ mà đặt ra trước mặt của mình thành cái niệm để mà tu tập thiền quán.

Định Vô Lậu đó.

Bởi vì sao hồi xưa người ta dạy hay quá? Là vì người ta biết được cái tâm niệm cái người đó, cái trạng thái người đó sống trong cái hoàn cảnh đau khổ nào đó thì cho cái đề tài thiền của cái đề mục đó để mà tu tập cái Định Vô Lậu.

Vì vậy mà cái ông này ổng sống trong cái tâm trạng đó, cho nên ổng mới lấy cái đề mục đó ổng mới tu, cho nên nó chuyên nhất, nó thành nhất tâm ở trong đó, do đó phá sạch những cái lậu hoặc, từ đó chứng quả A La Hán rất dễ.

Còn chúng ta giờ có gì đâu, đem cái hơi thở có đau khổ gì đâu mà quán? Quán riết cái hơi thở đi tuốt luốt, nó đi đâu không biết, nó đi mất tiêu, đi tới trên mây xanh!

Cho nên ngày xưa, Thầy đọc qua những cái mẩu chuyện của những bậc Thánh Tăng Thầy thấy các bậc ngày xưa, Đức Phật cho đến ông Xá Lợi Phất, hoặc là ông Mục Kiền Liên mà dạy cho các đệ tử của mình, họ đều tùy theo cái hoàn cảnh của những đệ tử của mình sống trong hoàn cảnh nào rồi đưa cái đề mục thiền đó, rồi bắt cái người đệ tử của mình sống độc cư trong rừng núi, thì do đó mà nỗ lực thực hiện cái đề mục thiền quán đó, quán đến khi quét sạch tất cả lậu hoặc. Chừng đó, cái tâm tịnh rồi, bắt đầu dạy hít thở vài ba cái cái nhập định, dễ dàng không có khó khăn.

Còn bây giờ mình cứ…​ Bởi vì cái đời của mình hiện giờ là người ta cứ nhắm vào thiền định, cho nên ai tu cái gì cũng lo ngồi cho nhiều, thở cho nhiều cho hết vọng tưởng để nhập định. Nhưng mà không ngờ cái đó là cái sai.

Chừng mà nghiên cứu lại Phật giáo, Thầy thấy cái này nó quá rõ rồi, nó không còn có cái mơ hồ nữa. Chúng ta đi từ cái chỗ thông suốt rồi đập sạch hết cái tâm tham muốn, từ đó cái lòng ham muốn hết. Hết thì nó đâu có còn cái ô trược nữa, tức là nó thanh tịnh. Từ thanh tịnh đó mà nó chỉ các hành nó, làm chủ được cái sống chết của nó. Mà nó dễ dàng, mà nó nhẹ nhàng, nó thanh thoát.

Từ cái tu Tứ Vô Lượng Tâm, tâm thương yêu chúng ta rộng lớn, từ biết bốn cái sự thật, biết rõ cuộc đời là khổ thật, biết rõ được cái cảnh giới Niết Bàn an lạc, thanh thản như thế nào, từ đó chúng ta thông suốt cho nên cái tâm chúng ta không còn dính, ai nói, ai mắng chửi gì chúng ta cũng trở thành cục đất hết.

(57:31) Còn từ lâu Thầy dạy các con nè, bắt đầu mình ly nè, ly dục, ly bất thiện pháp phải không? Dùng ba cái hạnh nè: ăn, ngủ, độc cư nè, rồi tùy, rồi nhẫn nhục - ba cái đức là nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, tu hết sức để cho ly. Mọi thứ, cô Út đập phá đủ thứ hết để cho ly ra, mà Thầy thấy ly rất là ít, không có ly nhiều.

Còn ông Phật ông cho có cái đề mục thiền quán thôi, mà quán cái nó ly ra được, thành nó ly dục ly bất thiện pháp được. Còn mình tu tập hết sức của mình mà để ly, rồi cái - các con nghe Thầy mới dạy các con ly thôi, mà tới cái giai đoạn diệt Thầy chưa có dạy, có phải không? Chưa có dạy tới diệt mà. Rồi tới cái xả cũng chưa nói nữa. Thành ra mới có giai đoạn ly mà chưa xong làm sao dạy tới cái giai đoạn diệt được?

Cho nên bây giờ đó mới trở về cái giai đoạn mà tu tập cho đúng đường lối của đạo Phật, chắc chắn mấy con sẽ đạt được kết quả tốt. Mà nhẹ nhàng, mà thanh thản, mà nó không phải quá khổ, quá nhọc nhằn. Chỉ có lấy cái Định Vô Lậu làm cái định mà chúng ta đi sâu vào cái tâm để cho phá cái lậu hoặc là tốt nhất và dễ dàng nhất.

Nhưng nói như vậy thì các con cũng đừng có nghĩ rằng từ lâu đến giờ chúng ta tu sai hết rồi. Có nhiều đứa nó nghĩ rằng: Hồi nào bây giờ nghe Thầy giảng cái giáo án này, coi như mình tu trật lất hết rồi, cứ lo chổng khu tu hơi thở không! Không phải đâu các con!

Những cái gì mà các con tu từ lâu tới giờ đều là có lợi ích cho các con rất lớn, cho cái bước đường hôm nay các con đã thực hiện trở lại những cái gì mà còn thiếu khuyết. Chớ đâu phải là bỏ cái đó đâu! Hơi thở cũng rất cần cho các con.

Bởi vì các con có ổn định hơi thở, có thở các con bây giờ mới biết hơi thở nào là bình thường, hơi thở nào là chậm nhẹ, hơi thở nào là sắp sửa nó ngưng, nó sẽ lạc vô trong các trạng thái của định tưởng, các con nắm rất rõ. Đó là cái lợi ích rất lớn cho các con chớ đâu phải là không lợi ích!

Nếu mà không tu, bây giờ nói về hơi thở các con có biết ở đâu mà mần. Đó, chúng ta ngưng, rồi chúng ta trở về hơi thở bình thường để trở về phục hồi con người sống bình thường, thì nó cũng còn phải có thời gian tập luyện.

Còn bây giờ các con đã sẵn rồi thì hằng đêm các con cứ giữ cái mực bình thường để giữ gìn hơi thở, để tập cho nó thuần thục mà thôi. Rồi tiếp tục tu tập những cái định khác để cho chúng ta quét sạch, làm cho tâm chúng ta thanh tịnh. Chừng đó nó thanh tịnh hoàn toàn thì chúng ta chỉ cần dùng cái pháp hướng mà chúng ta tịnh chỉ nó thì nó ngưng hoàn toàn, đâu có gì đâu khó khăn!

Mà các con đâu có lạc lối nữa, bây giờ đâu có - các con điên gì mà các con ngồi bảy tám giờ nữa đâu. Các con ngồi lắm thì bây giờ cũng một giờ hay hoặc là hai giờ thôi, chớ đâu có nhiều hơn nữa. Phải không? Cho nên các con không có lạc nữa.

Do vì vậy mà từ cái chỗ thiếu căn bản thì chúng ta lại có căn bản, từ cái chỗ không tỉnh thức thì chúng ta lại tu tập có tỉnh thức hơn. Càng ngày chúng ta không bao giờ mà lạc vào cái con đường thiền tà, mà cũng không lạc vào trong con đường thiền ma. Các con thấy có lợi ích không?

Như vậy là đâu phải là các con tu vô ích đâu! Đó, mà các con còn biết đường là cắt đứt những dây mơ rễ má, cắt đứt những cái sự sự thương ghét ở đời của bà con ruột thịt của mình, của con cái của mình để cho nó dứt khoát, để cho mình thành tựu được cái sự giải thoát. Không khéo rồi cuộc đời tu hành của mình cuối cùng thì cứ bị trói hoài mà mình không biết, bị trói chặt mà mình không hay.

Do cái chỗ đó mà cái giáo án Thầy viết ra, ghi ra để cho các con thấy rõ, biết được cái đường đi nước bước tu tập của mình.

(01:00:38) Bây giờ Thầy cho thêm một cái mẩu chuyện của Ngài Sivàli.

Ngài Sivàli cũng là một vị Thánh Tăng trong thời Đức Phật. Khi mẹ Ngài sanh Ngài, mẹ Ngài sanh quá khó, nằm và chịu đau suốt trong bảy ngày. Sau bảy ngày sanh Ngài ra thì mẹ Ngài mất trong sự đau khổ tận cùng.

Đến khi được bẩy tuổi, Ngài xuất gia tu học theo Phật. Ngài Xá Lợi Phất khuyên Ngài…​

Cái này rồi phải không các con? Đâu để Thầy đọc tới coi thử có phải không? Coi chừng có người khác nữa.

Ngài xuất gia tu học theo Phật. Ngài Xá Lợi Phất khuyên Ngài nên lấy đề tài sự đau khổ khi được sanh ra. Từ đó Ngài đem đề mục thiền quán Thọ…​

Tức là Ngài lấy cái Thọ Ngài đặt cái thiền quán của Ngài, Ngài dùng cái Thọ Ngài đặt ra. Bởi vì Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà.

Có người thì đặt lấy cái Thân - thân khổ, còn Ngài lấy cái thọ khổ mà Ngài làm cái đề mục để triển khai cái Định Vô Lậu. Ngài chứng quả A La Hán. Ngài có bài kệ:

Vì mục đích thoát khổ

Tức là cái thọ khổ đó, do thoát ra cái cảnh khổ đó.

Ta tu Vô Lậu Định.

Đặt niệm Thọ trước mặt,

Ta quán xét tư duy,

Đó, bây giờ đó, Ngài mới đặt cái niệm Thọ trước mặt để tu cái Định Vô Lậu đó. Ngài quán xét tư duy.

Tuỳ miên ta từ bỏ

Lúc bấy giờ, những cái vọng tưởng mà nó liên tục nó nối tiếp nhau đó, cho nên gọi là tùy miên đó, Ngài dứt, dứt mất đi.

Tham, sân cũng quét sạch,

Ngài cũng quét tham, sân Ngài ra hết.

Mạn, Nghi cũng xa lìa.

Tức là cái Ngũ Triền Cái - năm cái mà che mờ mắt của Ngài đó, cái Năm Triền Cái đó Ngài đã quét ra hết.

Vì những mục đích ấy,

Ta bước vào ngôi chòi,

Minh giải thoát ta đạt.

Đó, vì cái mục đích đó mà Ngài ngồi ở trong cái chòi lá mà Ngài đã đạt được cái Minh, tức là Tam Minh đó:

Minh giải thoát ta đạt.

Đó là, có phải giống cái Ngài trước không? Ngài cũng lấy cái chỗ khổ đau mà tu tập, Ngài này cũng lấy cái khổ đau mà tu tập nhưng Ngài lại lấy cái đề mục thiền của Ngài là Thọ, chớ không phải là lấy cái thân khổ mà Ngài tu.

(01:03:09) Đó thì ở đây có nhiều người họ dùng những cái đề mục thiền cũng đặc biệt, mà chúng ta thấy không ngoài là Tứ Niệm Xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp, mà được cái sự giải thoát rất là rõ ràng.

Vì vậy mà trong những cái gương hạnh này, chúng ta biết - bây giờ tại sao Thầy muốn nêu cái đề mục Thọ này làm gì?

Khi mà các con bị nhức tay, nhức chân, hay hoặc là bị nhức đầu, hay hoặc là bị tức, bị mệt, bị những cái thọ khổ cái thân đó, các con nên đặt cái niệm đó để tu vô lậu đi. Ngồi mà quán xét, coi cái Thọ nó từ đâu sanh? Tại sao nó có đau, có đớn như thế này? Tự dưng các con quán triệt nó được cái nó hết đau, nó lợi ích cho các con chứ gì? Đó là những cái niệm Thọ.

Còn thí dụ như, chẳng hạn là như bây giờ các con bị cô Út rầy cái gì đó, nó làm cho buồn bực: À bây giờ tâm Thọ - tâm thọ buồn mà nó ưu. Bởi vì các con thấy chữ "khổ", chữ "khổ" là cái sự khổ nó thuộc về thân. Như cái thân chúng ta đau nhức chỗ này chỗ kia gọi là khổ. Nhưng mà về cái tâm mà khổ đó thì gọi là "ưu".

Các con phải biết phân biệt cái chỗ này, chớ nếu mà…​ Cái tâm khổ nó khác mà cái thân khổ nó khác. Cái thân của mình nó khổ, nó nhức, nó nhối đó là “khổ”. Nó khổ của cái thân gọi là "khổ" chớ không thể gọi là "ưu". Nhưng mà cái tâm nó buồn khổ, nó đau xót, nó rầu rĩ đó, thì cái đó gọi là "ưu".

Cho nên Phật nói là "tham ưu" đó. Khi mà ham muốn mà không được á thì nó buồn phiền ở trong lòng nó gọi là "tham ưu". Cho nên cái "ưu" đó là cái khổ của tâm.

Cho nên ở đây, chúng ta thấy thí dụ như bị rầy hay bị gì đó rồi chúng ta buồn khổ, thì chúng ta lấy cái tâm mà chúng ta đặt - cái Thọ tâm ưu chúng ta đặt đó rồi chúng ta quán xét coi thử cái ưu này, cái phiền não, cái tâm nó khổ này nó ở đâu nó sanh ra, nó từ đâu?

Từ đó, chúng ta dùng cái Định Vô Lậu mà chúng ta quán xét, quán xét, thấu triệt, từ đó cởi mở, sáng ra cái - hay hoặc chừng ngồi tu chừng ba mươi phút, cái mặt chúng ta hân hoan, vui lên, không có còn mà nhăn nhăn, nhó nhó nữa, không còn mà buồn nữa, phải không các con?

Nhiều khi Thầy thấy khi mà bị rầy, bị này kia thì nhìn mấy con ba bốn ngày mới thấy mới vui vui à, cái mặt còn buồn hoài! Đó, cũng như - Thầy thấy như lúc này, Thầy thấy Đào cứ buồn hoài, không có vui chút nào, không có cười! Ai người ta cũng cười được, còn riêng nó, nó cứ buồn hoài, tức là nó ưu rồi, nó ưu phiền ở trong lòng.

Cho nên, vì cái sự ưu phiền đó là cái mình không có đem đặt cái niệm đó để cho mình dùng cái Định Vô Lậu mình quét ra. Mình quét ra để mình cứu mình chứ gì? Cho nên, mọi cái chuyện giải quyết thì phải có cái trí tuệ giải quyết, còn không thì nhân quả mình trả, mắc mớ gì để cái tâm mình ưu sầu, phải không? Các con hiểu.

Cho nên trong cái người tu nó thông minh, nó sáng suốt làm sao, nó không có một cái giờ nào mà cái mặt nó buồn. Phải không? Cái tâm nó không ưu thì cái mặt nó không buồn, mà cái tâm nó ưu sầu thì nó buồn, nó lo, nó nghĩ.

(01:06:05) Như Đào bây giờ lo nghĩ: "Không biết là em mình, hay là dì của mình, hay mẹ mình không cho đi. Trời ơi! Không biết ở đâu bây giờ! Tìm cái chỗ nào đây? Sao tu hành cho được?" Đó, tất cả mọi cái khó khăn nó làm cho ưu sầu trong lòng của mình.

Mình quyết định tu rồi thì không có ai mà cản trở, dây gì lòi tói cũng bứt hết chớ đừng có nói chuyện anh em, hay dì cháu, hay cha mẹ nữa. Bứt sạch!

Vua cha - ông Phật kia mà khi mà ổng đi tu rồi, ông vua cha còn cấm không được kia. Ổng có quyền lực nè, có quân lính nè, có cả đội quân nè, có cả cảnh sát, công an nữa, mà thế mà bắt trói chân ổng còn không được. Huống hồ thứ mình, anh em của mình có quân đội gì đâu? Chặt bứt hết chớ ở đó lo! Phải không? Các con thấy không?

Cho nên trong vấn đề tu hành là cái vấn đề phải cương quyết rất mạnh mẽ, không có ai mà cấm cản mình được hết. Bởi vì tui đi tìm con đường giải thoát mà, để rồi tui sống trong cái cuộc đời cũng khổ như mấy người nữa sao?

Cho nên quyết định, mình quyết định cho mình, mình chặt đứt hết, đem lại một cái nguồn vui chân thật ở trong lòng của mình, chớ không để một cái sự ưu phiền ở trong lòng của mình.

Mà ưu phiền có lợi ích gì? Có lợi ích gì cho ai đâu? Mà nhiều khi những người xung quanh thấy mình buồn khổ người ta cũng thấy nao nao trong lòng nữa. Mình buồn thì người khác cũng buồn.

Như Thầy nói Tâm Từ Vô Lượng, một con vật buồn, một người khác buồn thì hoàn cảnh mọi người người ta cũng buồn. Mặc dù người ta không nói ra nhưng thấy mình buồn người ta cũng buồn theo chớ! Đã là tu cái Tâm Từ thì làm sao người ta không buồn. Các con hiểu không?

Như vậy các con hiểu, cô Út không phải là ghét các con đâu. Cô Út rất thương, nhất là thương Đào rất nhiều đó, chớ không phải là ghét. Nhưng mà tại sao khi mà về Long Hải, mà về dưới, biết cái hoàn cảnh của Đào vậy, cô Út tổ chức xe xuống đó là quyết định là giải quyết cho Đào đó. Nhưng mà nó đâu có hiểu đâu, nó không hiểu. Giải quyết làm sao mà cho nó đạt được cái mục đích nó tu hành.

Rồi khi gần đây các con nghe không? Đào có hỏi Thầy có hai cái phương cách để mà giải quyết trong vấn đề nó. Nhưng mà Thầy bày ra thì cô Út cổ không chấp nhận đâu, theo ý của cổ, cổ nói bây giờ, theo cái ý cổ là mình phải trực tiếp đến đó mình giúp nó hơn là mình làm cái chuyện đó thì nó không hay. Cô Út sáng suốt lắm các con, cổ chịu khó cổ trực tiếp giải quyết nhưng mà các con có biết đâu. Cái đó là cái sự thật cô Út thương, chớ cổ chịu khó cực khổ làm gì?

Cho nên cổ nói bắt buộc là phải đưa Đào trả lại cho gia đình. Nhưng mà cách thức đó các con nghĩ sai, đâu phải trả gia đình đâu! Cổ đến trực tiếp để mà tìm mọi cách để mà gỡ đó! Các con phải hiểu được cái lòng cô Út chớ.

Thật sự ra, cổ thì cổ đứng ra cái chỗ mà lãnh đạo, cổ phải làm sao cho chúng phải theo cái sự điều khiển của cổ. Nếu mà người có ý kiến này, người có ý kiến kia, nó rối loạn hết, cổ điều khiển không nổi, cho nên bắt buộc cổ phải hét, phải dữ tợn vậy chớ.

Chớ cổ có ham muốn gì cái chuyện đó đâu. Nhưng mà đứng trong cái vai trò của mình phải lãnh đạo sao cho suôn, phải làm cho chúng phải theo mình chớ không được tùy chúng.

Tùy người này được thì người kia họ so bì, rồi họ lừng lên, người nào cũng - ai cũng có ý hết, trong lúc đó thì điều khiển sao cho nổi! Các con biết, đông người chớ đâu phải một người sao? Rất là khó trong cái bước đường mà dẫn chúng chớ không phải dễ.

Cho nên, bất kỳ người nào cổ cũng chặt hết, để hoàn toàn là phải theo cái sự điều khiển của cổ, để cổ dẫn dắt làm sao đưa cho những người đó phải đi đến con đường giải thoát.

(01:09:06) Thầy thấy có cô Út làm được, Thầy thì không làm được cho nên Thầy ẩn bóng, Thầy sợ! Thầy chỉ cười cười vậy chớ mà Thầy sợ lắm. Tổ chức như vậy Thầy tổ chức không nổi.

Còn cổ thì rất là - cái tâm của cổ chịu khó rất lớn, mà rất thương người. Mặc dù nói rất nặng, chửi người ta rất nặng, làm cho người ta bỏ cái tật đó đi, làm cho người ta trở thành tốt được. Mà cổ xài xễ, cổ nói thôi điên đầu, điên óc, nói tức tối, tức muốn chết được lắm chớ không phải dễ. Nhưng mà cuối cùng đó là cái tốt của cổ chớ không phải cái xấu.

Còn cái người mà cứ dùa dùa dùa theo như Thầy, coi chừng mấy con chết luôn! Cho nên, cái tốt của Thầy tức là cái mà không làm cho các con sửa đổi được. Mà cái mà các con gọi là xấu của cô Út lại là cách làm cho các con tỉnh thức để mà các con sửa lại những cái sai của mình.

Bởi vì ở đời người mà chúng ta tu hành làm sao chúng ta không có cái sai, mà chính có cái sai mà có người ta chỉ cho mình: Cái này là mình không thật nè, cái này là cái bản ngã của mình nè, cái này là như thế này nè, cái nghề này là mình phải thiếu khuyết cái gì, gì…​ mình không có đầy đủ những cái chuyện cuộc sống của mình.

Cho nên cô Út cô không đọc kinh sách mà cổ biết rất rõ. Tại sao vậy? Tại vì cổ cứ nghĩ ở trong đầu của cổ, cổ nghĩ là ông Phật phải có cái sự như vậy.

Cho nên con thấy, như ông Phật ổng đi lượm vải vụn, vải rách ổng về ổng kết tầm bậy tầm bạ, ổng có làm thợ may đâu, nhưng mà ổng cũng kết lại ổng làm cái y ổng đắp vô. Vậy mà sau này, ông Ca Diếp lại xin cái y đó chớ, quý báu cái y đó chớ!

Sau này thợ may đồ may khéo cho ông Phật thì ổng lấy những, ông nhận những cái y tốt đẹp đó ổng mặc, thì ông Ca Diếp lại xin cái y mà ông Phật vá víu tầm bậy tầm bạ đó.

Các con biết, không có biết may vá, mà các con biết, như Mật Hạnh đó, nó vá cái áo nó, trời ơi, nó xào xào vậy chỉ Thầy thấy, nó chỉ là sút cái lai vầy thôi mà Thầy thấy thiệt…​ đi ra đường người ta nói: "Ông thầy này vụng thiệt!"

Nhưng mà vụng mà ở trong cái khéo của mình, mà nó không có sút sổ cái áo của mình ra là may lắm rồi, vậy là quý rồi còn gì! Đó là cái đẹp của người tu sĩ.

Cho nên khi mà ông A Na Luật, các con thấy, ổng vì ổng hay ngủ cho nên Phật quở ổng. Do đó ổng cố gắng ổng không có ngủ nữa, ổng thức. Cho nên hai con mắt ổng bị mù. Ông bị mù rồi các con biết, y áo ổng rách thì đâu có ai vá cho ổng đâu, cho nên ổng phải tự vá.

Một hôm ông ngồi, ông xỏ kim đâu có được, mỗi lần mà ổng muốn dùng cái gì, ổng phải dùng thiên nhãn ổng mới được, còn ổng dùng con mắt thịt thì ổng đâu có thấy, ông ngồi ông mờ mắt rồi. Cho nên ổng nói, ổng ngồi ổng xỏ kim không được, ổng xỏ hoài mà cứ trật hoài, để ổng vá cái y của ổng, ổng mới nói: "Ai làm phước xỏ dùm tôi cây kim!"

Thì ông Phật ở gần bên cái phòng ở cái tăng xá gần bên, thì ông Phật ông mới bước qua nói: "Đưa đây Ta làm phước đi, xỏ dùm cho mũi kim!"

Thì qua câu chuyện như vậy, ông Phật mà ổng còn đi xỏ mũi kim để ổng tìm cái phước, thì tức là nhắc nhở cho mình phải tìm cái phước nhỏ, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai là nhắc nhở cho chúng ta thấy cái sự mù loà của ông A Na Luật như vậy mà ổng vẫn phải là mò để mà vá từ cái y rách của mình.

Các con Thấy chưa? Những bậc Thánh Tăng ngày xưa người ta tự làm lấy tất cả mọi cái. Cho nên tất cả những cái này chúng ta thấy, không có cần phải xấu đẹp, mà cần phải cho nó kín thân thôi, đừng có để rách nó lang thang như cái mang chài, mang lưới thì không được. Phải không?

(01:12:18) Đó là cái chỗ mà tu hành của những cái bậc Thánh Tăng ngày xưa, những cái gương hạnh.

Bởi vì Thầy - nếu mà Thầy không thông suốt - nếu mà không thông suốt những cái bậc Thánh Tăng thì làm sao mình gọi là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng? Quy là nương theo những cái hạnh của các Ngài.

Cho nên nhìn vào cuộc đời thì mình biết nương tựa vào những bậc tăng nào? Thì phải nương tựa vào những bậc Thánh Tăng. Mà vào những bậc Thánh Tăng mà mình không nghiên cứu những cái gương hạnh như thế này thì mình biết lấy đâu mà tu tập cho mình?

Cho nên hôm nay Thầy đọc lại những gương hạnh Thánh Tăng để cho các con rút tỉa những kinh nghiệm đó mà rút tỉa, nương vào những cái hạnh đó mà mình tu tập cho chính mình.

Bởi vì Phật dạy quy y Tăng mà, nương theo các vị tăng đó mà mình tu tập, thì bây giờ mình phải hiểu các Ngài, rồi mình hiểu các Ngài mình mới tu tập được chớ! Cho nên từ đó, những cái hạnh của con người của mình nó rất là cao quý.

Thì sắp sửa tới đây, Thầy sẽ dạy qua cái lộ trình thứ hai thì các con sẽ thấy, về cái giới luật của Phật, nó có giới bổn. Giới bổn thì chúng ta thấy những cái cuốn kinh giới nó ghi ra rằng giới - thí dụ như: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, hay hoặc là vọng ngữ, uống rượu…​ đồ đó, thì đó gọi là giới bổn.

Còn giới hạnh là gì các con biết không? Rồi giới đức là gì các con biết không? Giới tuệ là gì các con biết không? Nó hoàn toàn là chúng ta đang sống ở trong giới hết. Vì vậy mà sống trong giới thì oai nghi tế hạnh chúng ta mới là tròn đầy, mà mới có giải thoát.

Chẳng hạn bây giờ các con thấy nè, cái giới hạnh như thế nào? Giới hạnh là cái hành động của giới.

Nghĩa là bây giờ các con nhìn nè, một người mà tu Tứ Vô Lượng Tâm phải không? Mà thực hiện giới hạnh chứ gì, khi mà bước chân xuống để mà bước đi thì người ta đã hướng tâm người ta nhắc: "Dưới chân có nhiều chúng sanh…​", phải không? "

Dưới chân có nhiều chúng sanh, ta hãy chú ý để mà tránh sự giết hại chúng sanh dưới chân, vô tình mà đạp chúng sanh chết!" Do đó, cái lòng Từ của chúng ta thực hiện ở đó rồi. Thì khi mà bước chân thì cái bước chân đi, tức là cái hành động không giết hại chúng sanh của chúng ta bước chân đi, thì không phải đó là giới hạnh sao? Giới hạnh không sát sanh!

Các con hiểu. Cái đó là giới hạnh chớ gì? Cái hành động ở trong cái chỗ không sát sanh thì gọi là giới hạnh.

Cũng như tay Thầy nắm một cái vật gì mà Thầy lưu ý cái vật đó, coi có con vật gì không, Thầy mới nắm. Nếu mà không có lưu ý thì Thầy nắm chết một con kiến hay một con vật nhỏ trong tay, thì đó là bị sát sanh. Mà Thầy tránh không có cái sự giết hại làm cho đau khổ chúng sanh ở trong bàn tay của Thầy nắm thì đó là giới hạnh. Các con hiểu chỗ đó không?

Cho nên người tu người ta giới hạnh vậy, người ta có làm hấp tấp không? Có nắm chụp lại hay là không? Hay hoặc là từ tốn mà nhẹ nhàng? Mà cái sự nhẹ nhàng, từ tốn đó, nó làm cho chúng ta toát ra, nó đúng là cái hạnh của người tu, cho nên gọi là giới hạnh. Các con thấy chưa?

Vì vậy mà sau khi giảng về giới luật, Thầy sẽ dạy giới hạnh, rồi giới đức, giới tuệ, rồi giới bổn như thế nào để chúng ta biết mà chúng ta tu tập.

Bởi vì đạo Phật là đạo thiện pháp chớ đâu phải ác pháp, mà thiện pháp là giới luật. Giới luật trong hành động nè, giới luật ở trong cái đức, trong tâm của mình nè, giới luật ở trong cái trí tuệ của mình. Tất cả những cái này thì các con sẽ được học.

Bây giờ, Thầy sẽ cho các con nghe.

5.4- NGÀI SÀNU DỨT ÁI KIẾT SỬ MẸ CON

(01:15:27) Bây giờ chúng ta bắt đầu tiếp tục học. Nhưng trước khi nối tiếp cái bài học thì Thầy xin nhắc lại những cái gương hạnh của các vị Thánh Tăng trong cái thời Đức Phật để nhắc qua những cái bài học mà chúng ta đã học qua, để thấy cái gương hạnh của các ngài tu hành mà chúng ta theo đó mà chúng ta bắt chước.

Bây giờ Thầy xin nhắc lại một cái vị Sa Di Sànu.

Ngài tên là Sànu.

Ngài được đi tu lúc bảy tuổi nên thường nhớ mẹ. Một hôm Ngài cầm y bát về thăm mẹ trong một buổi sáng sớm. Thấy mẹ ngài sầu muộn, Ngài dùng cái bài kệ hỏi mẹ:

Thưa mẹ, người ta khóc,

Khóc vì người đã chết,

Hay đã khóc người sống,

Khi sống, không được thấy,

Thưa mẹ, con đang sống,

Và mẹ đang thấy con,

Vì vậy sao, thưa mẹ,

Mẹ lại khóc cho con?

Đó là Ngài - khi mà Ngài đi tu theo Phật Ngài mới có bảy tuổi cho nên Ngài thường nhớ mẹ Ngài lắm. Do đó một hôm Ngài lén Ngài trốn về để thăm mẹ. Ngài mang y và bát Ngài về thăm mẹ. Và khi về thăm mẹ thì Ngài thấy mẹ Ngài đang khóc, cho nên Ngài mới nói lên cái bài kệ để hỏi mẹ Ngài, mà cũng là nói lên cái lòng thương của mình đối với mẹ.

Cho nên cái bà mẹ trả lời lại với Ngài:

Người ta khóc cho con,

Là khóc con đã chết,

Hay khóc con còn sống,

Nhưng không thấy được mặt.

Này con, người ta khóc,

Là khóc cho con ấy,

Vì con đã được xem,

Còn sống cũng như chết.

Nghĩa là bà mẹ nói lên cái tình của người mẹ mà thương con, khi mà cho con đi tu thì coi như con mình còn sống nhưng mà không có còn gặp nữa. Đó thì, các thầy thấy nghĩ cái tình mẹ con mà ngày xưa cũng không có khác gì như chúng ta bây giờ đâu!

Khi cho một đứa con bảy tuổi mà ra đi tu thì chắc chắn là người mẹ phải đứt ruột lắm rồi. Không biết nó sống ở trong đó đi xin ăn như vậy có được đủ ăn, hay là đói khát hay như thế này hay hoặc trong giới luật của Phật nó có nhiều cái khó khăn, biết nó sống được hay không?

Rồi cái lòng thương mẹ biết nó có dằn được hay không, nó có quên được hay không mà tu hành? Cho nên nỗi lo lắng của bà mẹ rất là lo lắng.

(01:18:40) Cho nên khi mà đứa con về thăm bà đó, thì cái nỗi mừng ở trong lòng bà có, nhưng bà lại khổ. Cho nên bà nói lên cái lòng của bà đối với con, là vì biết con còn sống nhưng mà đã như chết rồi, mà nếu mà không có hiểu được như vậy thì con mình làm sao tu được!

Cho nên cái bài kệ thứ nhất, bà nói lên cái tình cảm của người mẹ đối với người con.

Kế đó, bà tiếp để khuyên nhủ người con của mình, thì bà nhắc:

Nhưng con hỡi, hỡi con!

Nay con được kéo ra,

Khỏi than hầm lửa rực,

Con còn muốn rơi vào,

Đống than hầm ấy chăng?

Nghĩa là bà hiểu biết được Phật pháp. Khi con bà - cho con bà đi tu như vậy là nó ra khỏi cái cuộc đời của nó, cuộc đời đau khổ. Cho nên năm cái câu kệ này thì bà khuyên con bà hãy đừng có thương nữa, hãy dứt đi, hãy nỗ lực mà tu hành, còn có cái lòng thương yêu đó thì con còn muốn rơi vào cái đống than hầm, cái hầm lửa đang rực cháy, cái hầm lửa đang khổ đau của cuộc đời con người đó.

Đó lòng người mẹ thương con, con còn sống như đã chết, nhưng muốn cho con dứt ra khỏi cái hầm lửa đau khổ, cho nên khuyên con đừng có nên thương mẹ nữa, đừng có nghĩ đến mẹ nữa, mà hãy nỗ lực ra khỏi cái hầm lửa rực cháy đó. Đó là, giữa mẹ con mà có những cái lời khuyên để cắt ly cái tình cảm, không còn dính dấp nữa.

Từ đó, ngài Sànu Ngài nỗ lực, Ngài thực hiện, Ngài lấy cái lời khuyên của mẹ, chẳng bao lâu thì Ngài đã chứng quả A La Hán. Do đó, Ngài đoạn dứt được cái tình cảm đó mà Ngài thực hiện được, Ngài biết đó là cái hầm lửa đỏ, cái nơi mà đau khổ sẽ lôi kéo con người từ kiếp này sang kiếp khác do cái tâm tham ưu đó, thương nhớ đó mà con người không thoát ra khỏi.

(01:20:49) Đó qua những cái gương hạnh của một cái người mẹ thương con, thương cho đúng. Rồi của người con còn dính dấp ở trong cái tình cảm của mẹ con, thì người mẹ thương con rất đúng cho nên khuyên con dứt ra khỏi cái tình cảm đó để thực hiện cái sự giải thoát.

Đây là cái lòng của người mẹ. Không có một người mẹ trong thế gian nào hơn là bà mẹ của ông Sanu này cả hết! Bà đã hiểu Phật pháp như thế nào mới cho đứa con bảy tuổi của mình theo Phật tu hành. Điều đó là điều rất hiếm.

Kế nữa, khi đứa con nhớ mẹ trở về thì bà lại khuyên một lời khuyên làm cho cái sự khuyên lơn đó thấm thía vào tâm hồn của một đứa trẻ mới bảy tuổi. Thế mà ông nỗ lực thực hiện cho đến khi chứng quả A La Hán mà cái thời gian không có dài.

Như vậy thì chúng ta biết rằng, khi mà chúng ta đã dứt khoát được cái lộ trình thứ nhất mà bước qua cái lộ trình thứ hai, nó không còn một chút tình cảm nào hết, thì tức là chúng ta đã thực hiện được cái con đường giải thoát của đạo Phật không khó.

Sợ e nó còn những sợi dây trói buộc, thương ghét của chúng ta, nó còn - tuy rằng nó rất ít, nó rất nhỏ - nhưng chúng ta không khéo rồi chúng ta cũng khó mà đi nốt quãng đường giải thoát của đạo Phật.

Chúng ta thử nghĩ có tình thương nào một người con mới bảy tuổi mà rời mẹ sớm như vậy mà không thương mẹ? Mà một người mẹ nào mà lìa con mới bảy tuổi mà không nức nở?

Thế mà giữa hai mẹ con này, người ta đã thấy được đạo, người ta đã hiểu được đạo, người ta khuyến khích đứa con bảy tuổi người ta để dứt khoát cái tình cảm mẹ con đi, để thực hiện, để ra khỏi cái hầm lửa của cuộc đời đau khổ, vì chính cái lòng thương yêu đó mà đã trói buộc muôn đời, muôn kiếp con người không thoát khỏi.

Có gì hơn là một đứa bé bảy tuổi mà thương mẹ? Có gì hơn là một người mẹ thương đứa con còn nhỏ bảy tuổi? Nhìn gương hạnh này chúng ta biết được Phật pháp thật là vi diệu. Chỉ một chút xíu mà dứt được thì chắc chắn mọi thứ gì trên thế gian này không còn trói buộc được nữa!

5.5- NGÀI SOPÀKA TU TỨ VÔ LƯỢNG TÂM - PHẦN 2

(01:22:55) Đây là một gương hạnh của một vị cao tăng thời Đức Phật:

Ngài Sopàka.

Ngài là đứa bé vừa sanh ra là mẹ đã mất. Ngài được một người cha nuôi nuôi dưỡng đến bảy tuổi, được cha nuôi cho xuất gia theo Phật, Ngài cũng được đi tu lúc bảy tuổi.

Khi được xuất gia theo Đức Phật, Đức Phật đã thấu hiểu được hoàn cảnh Ngài nên cho Ngài một đề tài thiền quán Tứ Vô Lượng Tâm.

Như hồi trước Thầy đã nhắc đó - như lúc trước Thầy đã nhắc đó, thì em của ông Cấp Cô Độc là ông Subhuti, ông cũng tu cái đề tài thiền quán Tứ Vô Lượng Tâm. Thì cái vị Thánh Tăng này, ông Sopàka ông cũng tu cái đề tài thiền quán Tứ Vô Lượng Tâm được Phật trao cho ông.

Tại sao vậy? Tại vì ông đi tu trong lúc bảy tuổi, mẹ mất sớm, không được cái sự chăm sóc, cho nên ông thực hiện cái Tứ Vô Lượng Tâm tức là lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả đó.

Ngài khai triển thiền quán này và chứng quả A La Hán.

Nghĩa là ngay cái thiền quán Tứ Vô Lượng Tâm thì Ngài cũng đã chứng quả A La Hán.

Sau khi chứng quả A La Hán, Ngài có bài kệ để nói lên công đức và kinh nghiệm tu hành của mình.

Ngài nói lên bài kệ trong khi Ngài thực hiện cái Tứ Vô Lượng Tâm đó. Ngài dùng cái bài kệ này Ngài làm cái pháp hướng để thường nhắc tâm Ngài. Ngài ví như Ngài là một người mẹ cho nên ngài viết cái bài kệ như thế này:

Như người mẹ tốt lành

Thương người con độc nhất,

Cũng vậy đối với chúng sanh,

Đủ mọi loài, mọi chỗ,

Hãy có lòng tốt đẹp,

Thương mến và từ ái.

Đó thì Ngài dùng cái pháp hướng, tức là cái đề mục thiền Tứ Vô Lượng Tâm đó. Ngài dùng cái pháp hướng này, Ngài trạch pháp cái câu kệ này ra, rồi Ngài thường nhắc cái tâm của Ngài để thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm.

Cho nên cuối cùng thì cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của Ngài nó phủ trùm các vạn hữu ở trong thế gian, các vạn vật, từ đó Ngài thấy cái lòng thương mến và cái từ ái của Ngài phủ trùm mọi phương, từ đó Ngài đã thành tựu, chứng quả A La Hán, giải thoát hoàn toàn.

(01:25:48) Như vậy là chúng ta đâu cần gì phải tu cho nhiều pháp môn, chỉ cần một trong những pháp môn mà Phật đã dạy, dùng một cái đề tài thiền quán, rồi từ đó chúng ta trạch pháp ra những cái câu phù hợp với thích hợp tâm chúng ta.

Hàng ngày, chúng ta dựng thân, ngồi kiết già dựng lưng thẳng đứng, rồi đặt cái niệm ở trước mặt, rồi dùng cái pháp hướng mà nhắc nhở tâm mình, để cho ngày ngày thấm nhuần ở trong cái đề mục đó, tạo cho chúng ta cái niềm thương yêu rộng lớn gọi là Tứ Vô Lượng Tâm.

Như vậy là Ngài cũng thành tựu, không phải thiền định bằng cách là nhiếp tâm, ức chế tâm, mà chỉ thực hiện cái lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình đến với muôn loài, muôn vật mà đã thành bậc quả A La Hán.

Như vậy chúng ta thấy con đường của đạo Phật đâu phải là khó? Đâu phải có sự mà ức chế làm cho chúng ta phải khó khăn, phải sanh ra bệnh tật thế này, thế khác? Chỉ cần sử dụng đúng pháp và đúng cái hoàn cảnh của mình.

Vì tại sao? Vì Ngài - vì Đức Phật dạy người hợp căn cơ của họ là như thế nào?

Ngài là một đứa bé vừa sanh ra đã mất mẹ, mồ côi, Ngài mất đi cái niềm thương, rồi được cha nuôi nuôi dưỡng cho lớn cho đến bảy tuổi rồi cho theo Phật xuất gia. Ngài sống ở trong cái cảnh thiếu tình thương, chỉ đến nương với Đức Phật, nhờ Đức Phật hiểu thông, cảm thông được cái nỗi khổ của một đứa bé mất mẹ, cho nên Đức Phật trao cho cái đề tài Tứ Vô Lượng Tâm.

Vì vậy mà Ngài thấm thía, thấm thía vô cùng. Mình là người mất tình thương, vì vậy mình phải thực hiện cái tâm tình thương của mình đối với muôn vật! Cho nên Ngài thực hiện rất nhanh chóng, vì nó hợp với căn cơ Ngài.

Còn nếu mà Ngài đầy đủ một cái tình thương thì Ngài sẽ xem thường cái tình thương. Còn Ngài là thiếu tình thương, cho nên Ngài thực hiện đúng với tâm nguyện của Ngài. Vì vậy mà Ngài đã thành tựu được Phật pháp.

Do như vậy mà hiện đời bây giờ, tùy theo căn cơ của mọi người mà dạy họ chắc chắn họ không tin mình đâu. Vì họ đã có những cái kiến chấp, những cái kiến chấp của họ, họ nghĩ rằng phải thiền này, thiền kia, thiền nọ, do hiểu những cái kiến chấp đó, họ phải tìm, họ phải dính mắc trong những cái pháp môn đó.

Bây giờ, vào căn cơ của họ, biết họ có cái duyên gì đúng cái căn cơ của họ, dạy họ pháp, thì họ chẳng tin cái pháp đó. Pháp đó họ nói đó là không thiền đâu, đó là cái thứ quán, cái thứ làm cho động tâm, không bao giờ thiền đâu.

Nhưng mà không ngờ khi mà đạt được cái mục đích của cái pháp đó thì trái lại, cái tâm nó thanh tịnh, mà nó thanh tịnh tức là thiền định chớ gì!

Vì vậy mà cái người tu theo đạo Phật thì cần phải tin vào một bậc thầy. Một bậc thầy có kinh nghiệm, người ta sáng suốt, người ta soi rõ từng cái căn cơ của mình nó hợp lý, hợp căn (cơ), để người ta hướng dẫn cái đề tài thiền quán hoặc là thiền định để giúp cho mình đạt được cái sở nguyện giải thoát sanh tử, chấm dứt luân hồi.

(01:28:47) Đó là cái mục đích chung nhưng mà cái hành - trên cái hành pháp thì người ta tùy cái căn cơ của mỗi người, người ta giúp. Còn như Thầy bây giờ mà tùy căn cơ của mọi người, chắc chắn là không ai tin hết:

“Tui muốn tu thiền định, tui ngồi tui muốn nhập định, tui muốn hưởng hỷ lạc, tui muốn nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền” hoặc là “tui muốn tìm Phật Tánh, tui ngồi đó để tui làm Phật, mà Thầy dạy cái kiểu này - Tứ Vô Lượng Tâm, biểu thương yêu người này, người kia hay hoặc là dạy Tứ Chánh Cần biểu phải xả, hay hoặc là tu bốn cái sự thật Tứ Diệu Đế, thì cái chuyện này nó xa vời quá, nó không đúng với cái chỗ mà ham thích của tui tu.

Tui muốn làm sao tui xuất hồn, tui muốn làm sao tui có hào quang, ánh sáng, tui muốn làm sao tui biết được ông Phật của tui, thế mà Thầy dạy cái kiểu này nó trật cái ý muốn của tui rồi!

Tui muốn làm sao tui tu thiền công án kìa, tui tham thoại đầu nè, tui phá triệt, tui ngộ triệt tất cả những công án, tui thông suốt tất cả những công án. Còn Thầy dạy vầy tui làm sao mà tui thông được cái công án nào đâu? Tui đâu có hiểu, người ta hỏi “Phật là gì” tui biết đâu tui trả lời?

Do đó nó không đúng với cái sở nguyện, cái ước ao của tui muốn, cho nên Thầy dạy kiểu này nó không đúng!”

Nhưng mà biết cái hoàn cảnh của họ trong cái căn cơ của họ phải tu cái pháp gì, thì lúc bấy giờ dạy họ thì họ không nghe, thì làm sao mà dạy được!

Cho nên Thầy thấy thời đại này rất là khó dạy người ta tu hành chớ không phải dễ, qua những cái gương hạnh mà Đức Phật tùy theo căn cơ của mọi người mà Đức Phật dạy cho người ta tu hành.

5.6- NGÀI POSIYA QUÁN BỐN SỰ THẬT - PHẦN 2

(01:30:14) Ngài Posiya.

Ngài là em trai của Trưởng lão Sangàmaji. Khi lớn lên, Ngài lập gia đình, có một đứa con. Đứng trước vấn đề sống chết nên Ngài xuất gia theo Phật tu hành.

Ngài sống một mình trong rừng và tu tập đề tài bốn sự thật.

Bốn sự thật tức là Tứ Diệu Đế đó. Ngài đặt cái đề tài Tứ Diệu Đế ngài quán xét Khổ, rồi Tập, rồi Diệt, rồi Đạo Đế. Ngài quán xét cái đề tài đó và Ngài thực hiện Bát Chánh Đạo - tám cái nẻo mà đi vào trong cái con đường mà tu tập của đạo Phật.

Sau thời gian Ngài chứng quả A La Hán.

Ngài tu có Tứ Diệu Đế không à, mà Ngài chứng quả A La Hán.

Sau khi chứng quả A La Hán, Ngài đến đảnh lễ Thế Tôn…​

Tức là đảnh lễ Phật đó.

…​ và trở về thăm nhà cũ.

Người vợ của Ngài muốn cám dỗ Ngài sống lại đời sống cũ. Ngài biết dụng ý của vợ nên Ngài liền từ giã ra đi liền, không ngó ngàng đến nhà cửa, vợ con nữa.

Ngài có làm bài kệ nói lên tâm tư và sự giải thoát khỏi những sợi dây trói buộc của gia đình:

Đó là khi mà Ngài đã chứng quả A La Hán rồi, Ngài trở về thăm Đức Phật, đảnh lễ Đức Phật để tỏ lòng biết ơn Đức Phật đã trao cho Ngài cái đề mục bốn sự thật.

Rồi Ngài sẵn cái dịp về thăm Phật đó, là nơi cái chỗ mà quê của Ngài ở, nhà của Ngài, vợ con của Ngài, cho nên Ngài sẵn dịp đó, Ngài ghé về thăm luôn cả nhà cửa, vợ con Ngài.

Nhưng mà về đó thì bà vợ có cái ý muốn lôi cuốn Ngài trở lại cái đời sống cũ - đời sống thế gian cũ đó. Ngài liền tức khắc Ngài ra đi liền mà không có một lời từ giã nào đối với vợ con cả. Ngài bỏ đi như một cái người vô tình, vô nghĩa, như một cái người vô tư, vô sự vậy.

Ngài thấy đó là cái sự trói buộc quá rộng, quá lớn mà cái người thế gian còn ngu si chưa có thấu hiểu. Vì vậy mà Ngài ra đi không có một lời khuyên nào được hết, vì có khuyên người ta cũng chẳng nghe, cho nên Ngài chỉ âm thầm ra đi với một người vô sự.

Ngài làm bài kệ như thế này:

Không gần là tốt đẹp,

Nghĩa là Ngài muốn nói lên cái chỗ mà gần cái cuộc sống với gia đình không có tốt đâu.

Không gần là tốt đẹp,

Kẻ trí thường biết vậy

Tức là người mà tu hành, người mà theo đạo Phật, tức là gọi là kẻ trí, phải biết, nghĩa là gần với thế gian là không bao giờ tốt hết. Phải xa lìa nó đi, phải cắt ly nó đi, phải đi theo cái lộ trình thứ hai mà của của người tu sĩ kìa, mới có được giải thoát.

Cho nên Ngài vô câu kệ đầu thì Ngài nói:

Không gần là tốt đẹp,

Kẻ trí thường biết vậy,

Từ làng đi đến rừng,

Nghĩa là, Ngài nói từ cái chỗ làng, tức là từ cái chỗ mà sống ở trong cái cuộc sống thế gian đó, Ngài bây giờ đi vào rừng để mà tu hành. Cho nên Ngài nói:

Từ làng đi đến rừng,

Từ rừng, ta vào nhà,

(01:33:21) Bây giờ sau khi thời gian tu xong rồi đó, Ngài về đảnh lễ Phật rồi vào thăm nhà đó.

Từ đấy, đứng dậy đi,

Nghĩa là, Ngài thấy nó không có được rồi, nghĩa là không có phải người thế gian như người tu nữa rồi, cho nên nó có cái sự lôi cuốn, nó cái sự này sự kia. Cho nên từ đấy Ngài đứng dậy đi.

Không đoái hoài, Posiya.

Nghĩa là Posiya tức là tên Ngài đó, Ngài nhắc nhở: Đừng có đoái hoài nữa Posiya! Tức là Ngài nhắc nhở. Cái bài kệ của Ngài là nói lên cái tâm tư nó đoạn dứt, nó không còn dính dấp một chút gì thế gian nữa. Thì như vậy mới gọi là người giải thoát.

Thí dụ như bây giờ chúng ta tu một thời gian, sau đó chúng ta trở về thăm nhà, gia đình, thì họ làm sao mà họ biết được cái cảnh giới tu hành của mình, cho nên họ cám dỗ. Họ nói này, nói kia rồi họ làm đồ ăn, thức uống rồi họ làm đủ cách để dụ dỗ chúng ta.

Nếu mà chúng ta không đứng dậy đi ngay liền thì cái tâm mà chúng ta chưa được giải thoát chắc chắn là chúng ta chưa có chịu đi đâu. Rồi chúng ta cà kê một vài giờ hay một, hai ngày rồi nó biết, nó cám dỗ dữ lắm á.

Nếu mà tâm chưa giải thoát thì nó sẽ bị rơi xuống, sau một thời gian mà chúng ta tu hành thì nó sẽ cám dỗ nó làm cho cái sự bùng dậy, cái sự ham thích của chúng ta nó mạnh mẽ hơn.

Còn nếu mà chúng ta đã là người giải thoát như ngài Posiya này, thì tức khắc Ngài đứng dậy Ngài đi liền.

Ngài biết đây là cái đời khổ, đây là cái sự sống khổ, đây là cái sự ràng rịt chặt như là cái những cái mạng lưới, như là những cái dây lòi tói rất chắc, cho nên phải bứt ra đi liền, không khéo nó trói thêm mình nữa. Nó càng lúc nó càng trói chớ nó không phải để cho chúng ta bước ra khỏi đâu.

Thì đây là những cái kinh nghiệm mà của những bậc Thánh Tăng ngày xưa họ đã tu chứng được đạo quả, vì thế mà bây giờ họ nói lên những cái bài kệ để cảnh giác cho chúng ta đời sau, chớ không phải họ đâu.

Họ muốn chúng ta đời sau lấy những cái kinh nghiệm của họ mà trải qua để vượt thoát những cái sợi dây thằng phược, những sợi dây của gia đình, của thế tục đang bủa, và đang lúc nào nó cũng ném vào chúng ta để mà trói chúng ta trở lại, cột chân chúng ta, cột tay chúng ta trở lại chớ không bao giờ nó muốn cho chúng ta thoát ra khỏi đâu.

Đó là một vị.

Vì những cái sự tu tập mà lợi ích cho quý thầy, buộc lòng Thầy phải đi tìm đọc lại những cái gương hạnh của những bậc Thánh Tăng ngày xưa để nhắc đi, nhắc lại cho quý thầy biết rằng chuẩn bị cho chúng ta một cái lộ trình để chúng ta hoàn toàn cắt đứt, để mà chúng ta hướng đến một sự giải thoát chân thật.

Vì con đường của Phật là con đường thật, không có dối gạt ai. Nếu mà người nào quyết tâm đoạn dứt được thì chắc chắn là phải giải thoát được hoàn toàn, mà cái danh từ ở trong kinh điển thường gọi là A La Hán là cái bậc đã giải thoát bứt ra khỏi tất cả những sợi dây trói buộc đó mới gọi là A La Hán.

5.7- NGÀI SIVÀLI QUÁN VỀ ĐAU KHỔ KHI ĐƯỢC SINH RA - PHẦN 2

(01:36:14) Ngài Sivàli.

Đây là một vị Thánh Tăng trong cái thời Đức Phật.

Khi mẹ Ngài sanh, mẹ Ngài sanh quá khó…​

Nghĩa là khi cái ngày mà Ngài được sanh ra đó. thì mẹ Ngài sanh ngài rất khó.

…​ phải nằm chịu đau khổ trong suốt bảy ngày liền, mới sanh Ngài ra được.

Nghĩa là cái người mẹ mà phải đau bụng suốt bảy ngày như vậy để mà sanh đứa con ra, thì các thầy cứ tưởng tượng rằng cái gia đình đó rất là khổ đau. Mà suốt bảy ngày như vậy mới sanh Ngài ra được.

Sau bảy ngày sanh Ngài ra, mẹ Ngài mất.

Nghĩa là quá sức chịu đựng của người mẹ mà, đâu có chịu nổi suốt bảy ngày mà đau khổ như vậy, cho nên cái sức chịu đựng không có nổi. Sau khi sanh Ngài ra thì Ngài sống, mẹ Ngài mất, không có còn sống được.

Khi được bảy tuổi, Ngài được xuất gia tu học theo Phật. Ngài Xá Lợi Phất khuyên Ngài nên lấy đề tài sự đau khổ khi được sanh ra mà tu tập.

Cho nên ông Xá Lợi Phất cũng là một vị thượng thủ ở trong thời Đức Phật, ông cũng biết sử dụng cái căn cơ của cái người tu hành cho nó hợp với cái đề tài tu tập, cho nên ông khuyên cái Ngài Sivàli này: Ngài nên lấy cái đề tài khổ mà đặt làm cái đề tài thiền quán của mình mà tu tập.

Từ đó, Ngài đem đề mục thiền quán Thọ…​

Thọ khổ đó.

…​ Ngài triển khai Định Vô Lậu.

Tức là Ngài tu cái Định Vô Lậu, trong cái quán Thọ, quán thọ khổ đó.

Ngài chứng quả A La Hán.

Nghĩa là Ngài chỉ đặt có một cái pháp hướng thôi, pháp hướng đó là thọ khổ thôi. Bởi vì Ngài sanh ra trong cái khổ, cái khổ cho đến đỗi bảy ngày…​ (Mất tiếng)

…​ thoát khổ,

Ta tu Vô Lậu Định,

Đặt niệm Thọ trước mặt,

Ta quán xét tư duy,

Tùy miên ta trừ bỏ,

Nghĩa là, đầu tiên ông trừ bỏ gì? Nhờ đặt cái niệm Thọ, ông thấy cái khổ: khổ của mẹ ông, khổ của thân ông bảy ngày mới sanh ra được.

Do đó, ông quán xét tư duy từ cái khổ mà xảy ra trong cuộc đời của ông đó thì tùy miên - tùy miên là cái vọng tưởng đó, liên tục nối tiếp từ cái niệm này đến niệm khác - nó dứt bỏ. Ông ta đã trừ bỏ được cái niệm tùy miên, tức là cái trạo cử đó, cái mà chúng ta gọi là vọng tưởng đó.

Ông không có dùng cái hơi thở hoặc là một cái đề mục nào mà để mà diệt vọng tưởng, nhưng mà ông quán xét cái Thọ tận cùng, ông thấy ông thấu suốt được, thì ông lại ngồi nó im lặng phăng phắc, nó không có một niệm gì khởi ra nữa, thì đó là ông đã biết là ông diệt tùy miên, ông từ bỏ được rồi.

Rồi kế đó, thì ông thấy tham, sân ở trong lòng của ông, ông cũng quét sạch, cho nên ông nói:

Tham, sân cũng quét sạch,

Mạn, nghi cũng xa lìa,

Tức là cái Ngũ Triền Cái đó ông quét sạch ra hết, không có còn ở trong tâm ông nữa.

(01:39:18)

Vì những mục đích ấy,

Ta bước vào ngôi chòi,

Minh, giải thoát, ta đạt,

Lúc bấy giờ ông thấy tâm ông như vậy, xa lìa mạn, nghi vậy, bây giờ cuối cùng, vì cái mục đích giải thoát cuối cùng để chứng quả A La Hán, ông mới bước vào một cái ngôi chòi lá ở trong cái đồng ruộng hay hoặc là trong một cái nơi nào đó, mà cái đó là cái chòi lá, cái chòi che mưa nắng vậy thôi chớ không có cái gì mà quý giá hết.

Ông bước vào trong đó rồi ông mới ngồi, ông giữ cái sự im lặng mà không tham, không sân, si, không mạn, nghi, tất cả những cái tâm yên lặng phăng phắc đó đó, thì bắt đầu Minh - tức là Tam Minh đó - nó hiện ra.

Giải thoát ta đã đạt.

Tức là, coi như là khi mà cái tâm ông tịnh, Ngũ Triền Cái này nó đã dừng đi rồi, thì cái tâm rất tịnh, tâm rất tịnh thì chắc chắn là ông phải điều khiển các hành ngưng rồi. Do các hành ngưng thì ông phải nhập Tứ Thiền. Mà ông nhập Tứ Thiền thì Minh nó phải hiện ra, mà Minh nó hiện ra thì giải thoát ông đã đạt!

Đó thì, cái vấn đề mà đơn giản qua một cái bài kệ thì chúng ta thấy tuy rằng nó nói chưa có đầy đủ, nhưng mà chúng ta phải hiểu một cách rất là đầy đủ.

Khi mà cái tâm tịnh rồi thì lúc bấy giờ, mà sau một cái thời gian mà dùng cái pháp hướng, tức là dùng cái pháp Như Lý Tác Ý mà ám thị như thế này thì nó quá nhuần nhuyễn.

Nó quá nhuần nhuyễn cho nên tùy miên nó hết nè, tham, sân nó hết nè, mạn, nghi nó tiêu nè. Nó nhuần nhuyễn nó mới quét sạch được cái này. Còn nếu nó không nhuần nhuyễn thì làm sao quét sạch được cái này! Mà quét sạch được cái này thì pháp hướng nó hiệu quả vô cùng.

Cho nên tới khi đó, ông mới vào trong cái chòi ông ngồi kiết già, ông thẳng lưng, ông giữ cái tâm thanh tịnh đó, rồi ông mới ra lệnh, ông dùng cái pháp hướng ông ra lệnh cho đến các hành, hơi thở ông ngưng, thì tức là ông nhập Tứ Thiền chứ gì? Do ông nhập Tứ Thiền thì Minh nó hiện, giải thoát ông đã đạt.

Đó là cách thức mà hiện hôm nay mà Thầy nhắc lại những cái trang của những cái bậc Thánh Tăng ngày xưa, họ chỉ tu trong một cái đề mục nào đó, cuối cùng thì tâm họ được thanh tịnh.

Mà tâm họ được thanh tịnh thì ngay cái tâm thanh tịnh đó là họ phải dùng cái pháp hướng rồi như cái lý tác ý ra để mà họ tu cái Định Vô Lậu, cho nên cái pháp hướng đó nó thành cái hiệu quả rất lớn của tinh thần.

Do cái sức sai khiến làm chủ bằng cái pháp hướng, vì vậy mà cuối cùng ông đâu lý mà ông chỉ hiểu sơ nó đâu, ông phải hiểu ít nhất nhập Tứ Thiền như thế nào ông cũng biết rồi. Cho nên vì vậy ông chỉ cần hướng tâm ông nhắc cái hơi thở ngưng hoặc là các hành trong thân ông ngưng thì ngay đó ông nhập Tứ Thiền, từ đó Minh phải hiện ra mà thôi.

Và khi mà Minh hiện ra, thì đâu có phải cái chuyện mà ông đã biết hướng cho các hành ngưng để nhập Tứ Thiền thì ông phải biết hướng Minh như thế nào: Lậu Tận Minh, Thiên Nhãn Minh, Túc Mạng Minh như thế nào, chắc chắn ông phải hiểu cái đó rồi.

Nhưng mà khi có cái tâm tịnh rồi thì cái chuyện đó là cái chuyện đối với ông rất dễ, không còn khó nữa.

Còn chúng ta cái tâm chưa tịnh thì cái chuyện mà chúng ta muốn cho được nhập Tứ Thiền hay hoặc cho Minh này được thì cái điều này là cái điều khó đối với chúng ta, cho nên tu tập hoài mà chúng ta không đạt được.

Còn trái lại, khi mà tâm chúng ta quét sạch Ngũ Triền Cái rồi thì tức là cái tịnh tâm của chúng ta sau này dễ thực hiện các định và các Minh rất là dễ dàng, không khó.

Đó là những cái gương hạnh để chúng ta rút tỉa những cái kinh nghiệm để mà chúng ta biết, khi mà chúng ta sử dụng cái sự tu tập của chúng ta, cái nào đúng, cái nào sai, để mà chúng ta thực hiện con đường giải thoát của mình.

5.8- NGÀI SAMITIGUTTA QUÁN VỀ BỆNH KHỔ

(01:42:46) Đây Thầy thuật lại một cái mẩu chuyện kế nữa để chúng ta biết được cái kinh nghiệm của các Ngài tu hành để mà lấy cái kinh nghiệm đó mà nương vào đó mà chúng ta tu hành.

Bởi vì chúng ta tin tăng, mà tăng của chúng ta tin bây giờ là những bậc Thánh Tăng trong cái thời Đức Phật! Cho nên chúng ta phải hiểu những cái hành trì, những cái hành trạng của các Ngài để mà chúng ta thực hiện, chúng ta áp dụng, chúng ta làm sao chúng ta giống các bậc Thánh Tăng, chúng ta noi qua gương hạnh của các Ngài mà chúng ta tu tập.

Do noi qua gương hạnh của các Ngài thì chúng ta sẽ thực hiện được cái sự tu tập. Do trước khi mà chúng ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh: Phật, Pháp, Tăng và Giới, thì lúc bấy giờ chúng ta phải tới cái chỗ tu bốn cái pháp Bất Hoại Tịnh này, thì bây giờ chúng ta đã hiểu Tăng như thế nào rồi. Tức là chúng ta phải hiểu qua những cái gương hạnh của các bậc Thánh Tăng.

Cho nên tới cái pháp này mà chúng ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh là chúng ta biết áp dụng ngay liền mà Thầy khỏi cần nhắc tới nhắc lui gì trong bốn cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh.

Cho nên trước khi mà đi vào pháp tu thì chúng ta đã sẵn sàng, chúng ta đã chuẩn bị cho mình những cái gương hạnh để mà chúng ta noi theo những cái gương hạnh của bậc Thánh Tăng mà chúng ta tu tập.

Ngài Samitigutta.

Ngài xuất gia và giữ gìn giới được thanh tịnh.

Nghĩa là khi mà Ngài xuất gia theo Phật thì Ngài rất là giữ gìn giới, rất là thanh tịnh.

Do nghiệp quả đời trước, Ngài bị bệnh cùi…​

Nghĩa là Ngài mặc dù Ngài giữ giới rất thanh tịnh, nhưng cái nghiệp quả đời trước của Ngài thì nó vẫn còn, cho nên cái thân của Ngài bị bệnh cùi.

…​ và tay chân của Ngài rụng xuống từng phần, từng phần một.

Nghĩa là cái bệnh cùi ngày xưa nó không có thuốc thang trị đâu, nó là cái bệnh nan y đó, mà Ngài được xuất gia khi Ngài còn chưa có bệnh, nhưng mà sau khi giữ giới thanh tịnh, một thời gian sau thì Ngài bị bệnh cùi. Do đó, ngón tay ngón chân của Ngài lần lượt nó rụng xuống, nó rớt từng mắt, từng lóng xuống, cho nên Ngài sống rất là khổ sở lắm chớ không phải tầm thường.

Ngài sống trong một nhà dưỡng bệnh.

Nghĩa là, chắc có lẽ là đây là những cái nơi mà Đức Phật đã cho thành lập những cái mái nhà tranh để mà các vị tu sĩ Tỳ Kheo hoặc là các vị tu sĩ nào bị bệnh thì được về ở đó mà dưỡng bệnh, và đồng thời cũng được những cư sĩ người ta giúp đỡ thuốc thang trực tiếp ngay đó để dễ dàng hơn. Cho nên Ngài cũng được vào ở trong cái khu nhà dưỡng bệnh đó.

(01:45:30) Một hôm tôn giả Xá Lợi Phất đi thăm các tu sĩ bệnh nhân…​

Nghĩa là các tu sĩ bệnh. Qua câu chuyện này mình mới thấy trong cái tổ chức của Đức Phật nó cũng không đơn giản đâu, nó cũng có những cái chỗ mà để trị bệnh. Chớ 1250 vị Tỳ Kheo đâu phải mạnh hết, đâu phải thần thánh hết, ai cũng có mang cái thân nghiệp, chắc chắn là cũng phải có bệnh đau.

Mà có bệnh đau thì chắc chắn là đâu có - hồi xưa đâu có bệnh viện như chúng ta bây giờ, thì tức Phật phải có một cái tổ chức, cái nơi nào đó để các vị có thể ở trong cái khu rừng đó để mà dưỡng bệnh, để cách ly những cái vị tu sĩ mạnh, không khéo nó lây lan làm sao? Cho nên cái tổ chức của Phật chắc cũng chặt chẽ lắm.

Cho nên ông Xá Lợi Phất là cái người mà thường hay đi thăm bệnh nhân nhất, cho nên ở đây chúng ta thấy ông đi đến thăm các bệnh nhân đây:

…​ thấy Samitigutta bệnh khổ như vậy…​

Thấy - khi ông Xá Lợi Phất đến thăm cái chỗ giường bệnh của vị tu sĩ này đó, thì Ngài thấy bệnh khổ ông này rụng từng ngón tay ngón chân như vậy thì ông thấy quá khổ!

…​ cho nên ông Xá Lợi Phất mới cho cái đề mục thiền quán tu Định Vô Lậu để diệt Thọ cho cái vị tu sĩ này:

“Toàn bộ khổ uẩn là…​

Đây là cái ông Xá Lợi Phất ổng đặt ra cái pháp hướng đây, ổng trạch ra pháp hướng cho vị này đây: “Bây giờ vị hãy lấy cái pháp hướng này mà để đặt thành cái đề tài thiền quán mà tu tập cái Định Vô Lậu.”

Bây giờ ông cho cái pháp hướng:

“Toàn bộ khổ uẩn là một vấn đề cảm thọ…​

Toàn bộ khổ uẩn của mình là gì? Là năm cái uẩn gì? Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức của mình chớ gì. Đó là ông Xá Lợi Phất nói: “Toàn bộ khổ uẩn là một vấn đề cảm thọ” - nghĩa là toàn bộ của nó mà phối hợp lại, đó là một vấn đề cảm thọ của nó.

…​ Và khi không có năm uẩn, thời không có đau khổ.”

Nghĩa là năm cái uẩn này mà không có thì cái đau khổ này nó đâu có? Cho nên vốn có cái năm uẩn này thì nó là vấn đề cảm thọ, mà không có năm uẩn này thì cái đau khổ nó có không? Do đó mà ông đặt cái trạch pháp cái câu này ra để làm cái pháp hướng cho cái vị tu sĩ này.

Nói xong tôn giả Xá Lợi Phất tiếp tục đi thăm nơi khác.

Nghĩa là thăm các bệnh nhân khác đó.

Ngài Samitigutta được bài pháp này, phấn khởi triển khai thiền quán, chẳng bao lâu Ngài chứng quả A La Hán.

Nghĩa là tu ở trong cái đau khổ, tu ở trong những cái ngón tay, ngón chân mình đang rời, đang rụng ra do cái bệnh cùi, mà trong lúc đó Ngài triển khai hết sức của mình ra để mà tu tập.

Cho nên sau khi chứng thì Ngài có làm một cái bài kệ, Ngài nói lên bài kệ. Ngài tu cái thọ như thế nào để Ngài được an ổn và Ngài chứng quả được đạo quả, qua cái bài kệ này chúng ta thấy Ngài quán xét đây:

Việc ác ta đã làm,

Trong các đời sống trước,

Đó Ngài quán xét: Bây giờ cái nhân quả mà cái thân của ngài đang thọ khổ mà ngón tay, ngón chân rụng đó, là do cái điều mà đời trước Ngài đã làm, chớ đời nay Ngài đi tu Ngài có làm gì đâu! Xét qua cái hiện tại thì Ngài không có gì hết, nhưng mà Ngài bây giờ thọ khổ tức là phải cái đời trước.

(01:48:49) Cho nên Ngài viết, Ngài nói lên bài kệ:

Việc ác ta đã làm,

Trong các đời sống trước,

Ở đây chỉ cảm thọ,

Thọ lãnh từ nghiệp ấy,

Bây giờ ông nghĩ rằng, bây giờ mình cảm thọ cái sự đau đớn, cái sự nhức nhối, cái sự mà rụng từng ngón tay, ngón chân ra thì đau nhức biết là bao nhiêu! Do đó, cái sự cảm thọ từ cái nghiệp ấy.

Căn bản các nghiệp khác,

Thật sự không còn nữa.

“Căn bản các nghiệp khác” - tức là cái nghiệp khác mà bây giờ chúng ta không tạo nữa thì các nghiệp khác sẽ không còn có nữa.

Do đó, ông thấy an nhiên trước cái cảm thọ mà để trả cái nhân quả của đời trước, cho nên ông chẳng có lo nữa và ông nhớ cái đề mục thiền mà ông Xá Lợi Phất đã cho đó: “Toàn bộ khổ uẩn này nó có thì nó mới có cái thọ khổ, mà nó không có thì nó không thọ khổ.”

Cho nên ông quán đến cái mức độ mà ông hoàn toàn ông thấy Ngũ Uẩn giai không, hoàn toàn là không, cho nên ông không còn thấy đau đớn nữa, do cái sự miên man, do cái sự quán triệt, do cái sự thấu triệt và đặt cái niệm không thất niệm.

Mình thất niệm là bị nhức nhối làm cho mình thất niệm. Còn ông, ông mặc nó đau, ông đã hiểu biết nó là cái nghiệp của từ kiếp trước của mình, cho nên ông không có ngại cái sự đau khổ đó, và ông cứ miên man để thấy tất cả các cái Ngũ Uẩn này hợp thì có cảm thọ, mà không hợp thì nó hoàn toàn không cảm thọ.

Do cái thọ nó không có thật, vì vậy mà ông quán thấu triệt được cái vô lậu này, cái Định Vô Lậu này. Cho nên lúc bấy giờ thân ông đang có cái nghiệp đau khổ đó mà cái cảm giác đau khổ ông không còn có nữa, toàn bộ chỉ còn có một tâm thanh tịnh duy nhất.

Cho nên lúc bấy giờ ông thực hiện Tứ Thiền, làm chủ được sự sống chết, ông thực hiện Tam Minh, cho nên ông đạt chứng quả A La Hán.

Đó là những cái vị Thánh Tăng trong thời Đức Phật mà người ta nỗ lực tu ở trong những cái sự đau khổ của họ. Đây là một gương hạnh tu trong cái thọ đau khổ. Chúng ta có can đảm tu như vậy không?

Thầy tin rằng khi đau khổ chúng ta thấy, chúng ta như chết rồi rồi, không còn nữa rồi, mà nếu mà chúng ta không có nỗ lực để giữ cái tâm thanh tịnh của mình hoàn toàn ở trong cái sự bất động, thì chắc chắn là chúng ta sẽ bị cảm thọ của Ngũ Uẩn lôi cuốn chúng ta không bao giờ mà chịu nổi. Cứ một lúc thì nhớ đau, một lúc thì nhớ nhức, thì cái chuyện đó là thất niệm rồi!

Còn chúng ta liên tục cái niệm trước mặt, không có để cho nó thất niệm, mà không thất niệm thì tâm nó sẽ thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh thì giải thoát không còn khó nữa.

Cho nên thường thường trong kinh điển của Phật dạy: Đừng để thất niệm! Một cái niệm gì mình đặt thì mình phải giữ liên tục, đừng có để cho nó thất niệm.

Đến đây Thầy xin nghỉ một chút./.

[Phần 3 ở Giáo án 18]

HẾT BĂNG

18 - HAI MƯƠI LĂM GIỚI HẠNH

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 18 - HAI MƯƠI LĂM GIỚI HẠNH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- PHẢI RÈN LUYỆN MỚI SỐNG ĐƯỢC THEO GIỚI HẠNH

(00:00) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học vừa rồi. Thầy xin nhắc lại:

Người tu sĩ đạo Phật ngày xưa đi chân trần, không xe, không cộ, chẳng có ai nghinh đón, chỉ ôm bình bát xin ăn mà thôi, già bảy, tám mươi tuổi còn phải chống gậy, ôm bát đi xin. Thật là cao quý thay những bậc Thánh Tăng ngày xưa!

Bây giờ thắp đuốc lên mà tìm những bậc ấy, chúng ta chẳng còn thấy ai được .

Đó thì, trong cái thời đại của chúng ta, gọi là tu sĩ Phật giáo mà nhìn thấy những cái gương hạnh cao quý như những bậc Thánh Tăng, như Đức Phật ngày xưa thì chúng ta không tìm thấy được nữa.

Cái hành động đó mất tiêu hết rồi. Bây giờ chỉ còn lại những cái sự cao sang, sung sướng và đầy đủ của những bậc tu hành, chớ không thấy những cái sự, những cái hạnh giải thoát của các Ngài ngày xưa.

Chúng ta mơ những cái hạnh đó, nhưng chúng ta biết sống có nổi không? Đó là một cái điều mà chúng ta phải có sự rèn luyện. Nếu không sự rèn luyện chắc chắn chúng ta không sống nổi.

Vì những cái hạnh cao quý, mà những hạnh cao quý thì nó phải có những cái sự khó khăn của những sự cao quý đó. Chúng ta thấy, chúng ta kính phục, chúng ta kính trọng, nhưng chúng ta không đủ sức mà có thể làm nổi.

Vì cuộc sống của thế gian, vì những vật chất của thế gian làm chúng ta đi tìm những cái…​ (Mất tiếng)

  1. như những gương hạnh của người xưa, của Đức Phật, của các vị Thánh Tăng.

2- CẦN HỌC ĐẦY ĐỦ CẢ BỐN PHẦN CỦA GIỚI LUẬT

(01:43) Để trở lại cái phần giới hạnh, mà chúng ta sắp sửa mà chúng ta sẽ học và sẽ hiểu biết những cái giới hạnh như thế nào.

1. Thế nào là giới hạnh?

2. Thế nào là giới đức?

3. Thế nào là giới tuệ?

4. Thế nào là giới bổn?

Đó, bây giờ chúng ta là những người mà chuẩn bị bước qua một cái giai đoạn của tu sĩ thì chúng ta phải hiểu biết giới hạnh là như thế nào, giới đức là như thế nào, mà giới tuệ như thế nào và giới bổn như thế nào.

Nếu mà không rõ được cái điều này thì chắc chắn là chúng ta sẽ không thể nào hiểu giới luật được. Nếu mà đem cái giới bổn ra mà đọc để hiểu những cái luật của Phật dạy răn cấm chúng Tỳ Kheo như thế nào, thế nào, thì nó chưa đủ đâu.

Cho nên chúng ta phải học cho đầy đủ để chúng ta biết rằng: Chúng ta từ cái thân mạng của chúng ta sanh ra từ giới, thì tức là chúng ta phải hiểu cha mẹ giới của mình là sao, như thế nào là đúng, như thế nào sai, như thế nào là Hạnh, như thế nào là Đức, như thế nào là Tuệ, như thế nào là Bổn?

Đó là những cái câu hỏi để đặt ra, để rồi chúng ta lần lượt mà chúng ta trả lời những câu hỏi đó qua những cái bài giảng trong cái giáo án này.

Để xác định và trả lời những câu hỏi trên đây để làm sáng tỏ cái giáo án tu tập của đạo Phật.

Nghĩa là muốn tu tập theo đạo Phật thì giới luật là thầy của mình. Mà giới luật là thầy của mình thì mình phải hiểu nó: giới hạnh sao, giới đức sao, giới tuệ sao, giới bổn sao. Nếu là thầy của mình mà mình không hiểu ông thầy của mình thì làm sao mình tin mà mình tu?

Đó. Cho nên vì vậy mình phải hiểu, hiểu rất đầy đủ, hiểu rất rõ ràng. Mình tu đây là tu ở trong những cái Hạnh, Đức, Tuệ thì phải tu như thế nào để cho đúng, chớ không khéo thì chúng ta khó mà biết được.

Bởi vì đạo Phật dạy: Chúng ta có lúc thì chúng ta phải hiểu, nhưng có lúc thì chúng ta phải dứt, nhưng có lúc thì chúng ta phải trau dồi, nhưng có lúc thì chúng ta phải tu tập. Nó bốn cái điều kiện mà chúng ta cần phải hiểu.

Vì vậy thì giới luật là một pháp môn để mà chúng ta tu học cho trọn vẹn, chớ còn nếu mà không hiểu, không có biết cách thì làm sao mà tu cho trọn vẹn được, cho nên chúng ta thường bị phạm giới.

3- CHỈ CÓ ĐỜI SỐNG XUẤT GIA MỚI TRỌN VẸN ĐƯỢC GIỚI HẠNH

(04:18) 1. Đời sống gia đình…​

Đây là bắt đầu để mà chúng ta đi vào ở trong con đường mà của giới luật đó, để mà hiểu giới luật thì chúng ta phải có một cái sự so sánh và có một sự hiểu biết rất tường tận để chúng ta thấy cái đời sống giới luật như thế nào.

1. Đời sống gia đình đầy triền phược, con đường đầy bụi bặm, trói buộc chằng chịt như mạng lưới, đụng đâu cũng toàn là nước mắt và khổ đau.

Đó thì, bây giờ mình muốn bước sang qua cái đường giới luật của Phật, nó không phải con đường của thế tục.

Vì vậy mình so sánh mình thấy con đường đời, sống ở trong gia đình thì luôn luôn nó bị trói buộc: thương, ghét, giận, hờn, phiền não, đau khổ…​ đầy toàn là nước mắt và khổ đau! Nó không có cái gì gọi là hạnh phúc, không có cái gì gọi là sung sướng cả. Vui đó, khổ đó, cười đó, khóc đó…​ liên tục, không có bao giờ mà gọi là hạnh phúc hết!

Về đời sống xuất gia: phóng khoáng như hư không! Thật rất khó cho một người sống ở trong gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.

Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình.

Đó thì, đây là mới có khởi một cái ý là phải cạo bỏ râu tóc.

Cũng như bây giờ Thầy thế phát các thầy đó, là mới bắt đầu để mà chúng ta khởi sự thôi chứ chưa có gì hết. Nghĩa là chúng ta mới bắt đầu để mà chúng ta ly cái cuộc sống thế gian thôi, mới có cạo đầu để thử thôi, chớ chưa phải là chúng ta là kẻ xuất gia, là đệ tử của Phật đâu.

Đây là mới thử, thử để mà coi thử coi cái - chúng ta lìa được cái đời sống thế gian được hay không. Bước qua cái giai đoạn này, cái đầu mà cạo, đắp áo cà sa vậy, thử coi chúng ta sống được cái giới luật hay không, cái giới hạnh của nó hay không.

Đây là những cách thức mà để chúng ta nói lên, để chúng ta thấy được. Bắt đầu mà cạo cái đầu đi, rồi cạo bỏ râu tóc đi, rồi cái đắp cái áo cà sa đi, rồi chúng ta làm theo cái kiểu như những người tu sĩ đi, chúng ta thấy, đó là cái hành động - cái hành động đó gọi là giới hạnh! Quý thầy hiểu chưa?

Đó thì, bắt đầu chúng ta trả lời cái câu: “Thế nào là giới hạnh?” - Thì giới hạnh đó!

Bây giờ chúng ta suy nghĩ: Chỉ có đời sống xuất gia mới có phóng khoáng, mới có giải thoát thôi, chớ còn sống ở trong gia đình thì không thể nào mà giải thoát được!

Cho nên bây giờ mình thử coi, cạo đầu nè, cạo râu tóc nè, rồi đắp cái áo cà sa nè, rồi thử coi mình sống theo cái đời sống của những vị tu sĩ đó coi được không. Bắt đầu nè, từ bỏ gia đình nè , sống không nhà cửa thử coi, thử coi làm được hay không?

Mình thử, mình thấy: “À! Như vậy là có giải thoát!” Mà như vậy mình thấy: “Cha! Sao mà tu kiểu này khổ quá! Trời đất! Bữa này xin không ai cho ăn chắc chắn là chắc mình cũng chết đói đây. Thôi về gia đình mình, dù sao đi nữa cũng có cơm, có gạo hay hoặc ít ra cũng có củ khoai sống, chớ kiểu này đi theo kiểu mấy ông thầy này chắc kiểu là chết tiêu luôn à!”

(07:13) Đó. Mình than thở như vậy là chắc chắn là mình không thể sống được rồi, mà mình sống không được tức là cái giới hạnh đầu tiên của mình là cái người mà cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, từ bỏ gia đình, cắt đứt gia đình ra, không có nhà cửa, không có tài sản gì nữa, ba y một bát.

Hồi đó thì ăn uống bàn mâm này, kia có người dọn rửa, còn bây giờ sao mà nó cực khổ quá trời! Xin rồi ăn rồi phải đi rửa bát, rồi này kia nọ đủ thứ, rồi ăn thì không có muỗng, nĩa nữa. Còn hồi đó mình muỗng nĩa, cái này, cái kia nọ đủ thứ, còn bây giờ còn có cái bát không, bốc ăn coi nó dơ bẩn quá, tay chân gì nghe nó rích rắm, còn hồi đó cầm đũa nĩa nghe nó sạch sẽ, nghe nó vệ sinh!

Từ cái tư tưởng suy nghĩ như vậy đó, đó là mình đã không đúng cái giới hạnh rồi đó.

Bởi vì đây là bắt đầu cái cuộc sống giới hạnh, cái hành động sống mà! Hành động sống để mà ly, để mà xả, để mà bỏ hết những cái thế gian. Cho nên bắt đầu qua đây, chúng ta đã - ngay từ đó chúng ta đã thấy cái hành động giới hạnh của chúng ta ở chỗ đó đó.

Chớ không phải là như là sát sanh, trộm cắp, tà dâm…​ Cái đó là sau, cái đó nó còn xa lắm! Còn bây giờ mới bắt đầu chúng ta đã vô, bước vào cái lộ trình này là giới hạnh ngay liền, tức khắc liền là cái đời sống chúng ta phải như vậy.

Đó, quý thầy hiểu như vậy thì quý thầy mới biết được, bắt đầu phải có giới hạnh.

Còn đợi mà chúng ta học giới rồi chúng ta giữ gìn không cho vi phạm này kia nọ, thì cái chuyện đó là cái chuyện sau nữa. Còn bây giờ chúng ta chưa học tới giới bổn mà! Mới có giới hạnh, giới đức rồi giới tuệ, rồi mới tới giới bổn, nó còn xa quá!

Bắt đầu chúng ta vô là chúng ta đã thấy được cái giới hạnh đầu tiên rồi đó.

Thì đây, bây giờ:

Sau một thời gian tư duy…​

Tức là chúng ta suy nghĩ, đắn đo kỹ lưỡng lắm. Bởi vì mình thấy những cái khổ của cái đời sống của tu sĩ quá rõ ràng mà.

Ở nhà, thí dụ như quý vị có vợ, có con nè, có người đầy tớ, có người sai vặt nè. Bắt đầu đó, muốn ăn thì nó dọn cơm lên ngồi ăn, khỏi có phải cực khổ này hết! Có người nấu cơm ăn nè, tới giờ ăn là nó mời, nó thỉnh mình, mà nhiều khi mình còn muốn rầy nó nữa, chớ chưa nói gì.

Còn bây giờ muốn ăn đâu phải chuyện dễ. Đi ra, đi xin mà người ta không cho là cũng không phải dám nói ai nữa, ôm cái mặt buồn rầu mà đi về đó, chớ đừng nói nhịn đói mà chịu đó! Thì đó là những cái hạnh, cái hạnh của giới hạnh của cái người tu nó phải như vậy.

Còn mình không làm được như vậy tức là không có giới hạnh. Mà không có giới hạnh thì thôi đừng có đi tu! Đi tu mà bây giờ có thị giả hầu hạ, bưng cơm, dồi nước! Trời đất ơi! Đi tu kiểu đó thì thôi thôi, làm sao mà tu được! Làm sao mà giới hạnh được cái chỗ này?

Đó, quý thầy thấy cái giới hạnh của người tu nó khác, chớ không phải là cái giới hạnh mà của người tu là mình đi tu rồi mình có thị giả ba, bốn đứa: đứa nấu cơm, đứa dọn lên, rồi ăn rồi nó dọn, nó rửa, rồi tới giờ nó dọn cái này cái kia lên cho mình ăn, rồi tới chừng ngủ thì có nó giũ mền, giũ chiếu đồ cho mình ngủ!

Cha! Cái kiểu đó - mà tu cái kiểu đó thì chắc ai không ham! Thế gian người ta còn ham cái chuyện đó mà người tu mà kiểu đó thì đâu gọi là giới hạnh được!

(10:07) Đó thì, hôm nay Thầy nói để cho quý thầy thấy một vị tu sĩ là phải tự mình làm lấy. Già đến bảy, tám mươi tuổi như Đức Phật cũng phải tự làm lấy chớ chưa có sai ai đâu.

Chỉ có những cái vị mà thương Phật, như làm thị giả như ông A Nan là thấy Phật đã lớn tuổi, đã già yếu rồi cho nên mới chăm sóc Phật, vì Phật còn bao nhiêu thứ việc phải làm, phải thuyết giảng, phải dạy người, phải đi kinh hành, phải chăm sóc các vị Tỳ Kheo, mà nếu mà để Phật làm những cái việc lặt vặt như vậy thì mất thì giờ của Phật rất nhiều.

Cũng như bây giờ các con thấy Thầy thuyết giảng như thế này Thầy mệt nhọc, Thầy về Thầy chỉ còn có nước nằm nghỉ thôi, mà thế mà Thầy phải đi giặt y, Thầy phải giặt đồ của Thầy. Bởi vì mồ hôi nhiều, mà không giặt thì chiều làm sao - do buổi chiều làm sao mà Thầy giảng được! Vì vậy cho nên các thầy thấy thương Thầy, giúp đỡ cho Thầy, chớ Thầy đâu có dám sai.

Bởi vì Thầy là một vị tu sĩ mà, đâu có sai người khác được, cho nên Thầy cũng phải ráng tự làm lấy. Nhưng mà các Thầy thương Thầy, các Thầy giúp đỡ Thầy.

Thì ông A Nan có cái nhiệm vụ là thương Phật, giúp Phật, để cho Phật có những cái thời giờ khác để Phật làm lợi ích cho chúng sanh. Đó là - chớ ông Phật ổng không bao giờ ổng sai ông A Nan. Y áo ông dơ hay hoặc là rách rưới thì ông ngồi ông vá.

Cho nên ông A Nan thấy Phật đang ngồi vá vậy thì ông A Nan lấy y áo ông A Nan vá. Cho nên ông A Nan vá, có lần ông A Nan lấy cái chân mà ông A Nan đạp cái y để mà căng ra cho thẳng để mà vá cho được đó. Cho nên ông Ca Diếp về mới bắt cái tội ông A Nan đạp trên y Phật đó! Các thầy thấy, trong vấn đề đó nó là thực như vậy thôi.

Nhưng vì mà không đạp cho nó thẳng ra thì ông A Nan ông vá nó dùn sao? Phật đắp nó coi xấu sao? Cho nên ông A Nan ông rất là khéo léo, ổng phải căng cái y ra cho thẳng, rồi ổng mới đặt cái miếng vá lên, rồi ổng mới vá cho nó thẳng để không nó dùn.

Do đó mà ông bị ông Ca Diếp sau này bắt tội. Đó thì, ai có học giới luật thì chúng ta cũng sẽ thấy được cái chỗ mà ông Ca Diếp bắt tội ông A Nan, mà ông A Nan không có mở miệng nào nói được hết, bởi vì đúng quá, đạp trên y Phật mà!

Mà không lấy cái chân đạp thì hai cái tay mắc may, mắc vá làm sao mà làm cho thẳng được, phải dùng cái chân mới đạp ra chớ nó mới thẳng ra được! Đó thì các thầy phải hiểu được cái tâm trạng đó. Mà đạp trên y Phật là đã có tội rồi, vì vậy mà thôi đành chịu tội thôi chớ không nói gì hết.

(12:22) Đó thì, hôm nay Thầy nhắc lại để cho quý thầy biết: Bắt đầu mà chúng ta đã cạo tóc, như Thầy đã cạo tóc vừa rồi một vị, thì các thầy phải biết đó là mới bắt đầu thôi chớ chưa phải là vị đệ tử của Phật đâu! Đó là chúng ta mới thử thôi, để cho coi chúng ta có giữ được cái giới hạnh hay không. Mà giữ được cái giới hạnh thì chúng ta mới có thể đi tới được.

Người ấy từ bỏ tài sản nhỏ, từ bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, bấy giờ mới chính thức là cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, thực sự mới xuất gia từ bỏ gia đình, sống không nhà cửa.

Nghĩa là hồi nãy đó, cạo thử, cũng như Thầy hồi nãy thế phát cho cái vị thầy hôm qua đó, là cạo thử đó, để thử xem coi có sống được cái hạnh viễn ly cái cuộc sống của thế gian không?

Mà nếu được thì bắt đầu bây giờ đó mình mới tư duy, mình mới (thấy): À bây giờ tâm mình, mình bỏ được tài sản nhỏ, tài sản lớn, của cải gì, nhà cửa mình bỏ hết, bà con quyến thuộc mình cũng không thấy còn thương nhớ gì hết!

Bây giờ mới chính thức là cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, thật sự mới xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Bây giờ mới sống theo các vị khất sĩ mới nổi đó.

Chớ còn mới, chưa đâu, nó còn thử thách dữ lắm. Rồi cái tâm tư của mình nó còn lý luận thế này, lý luận thế khác. Bởi vì đời sống của thế gian coi vậy chớ nó sung sướng lắm, còn cái đời sống xuất gia coi vậy nó vất vả lắm, coi vậy nó giải thoát chớ nó vất vả lắm.

Bởi vì muốn làm chủ sự sống chết mà, muốn chấm dứt sự luân hồi nó phải đi ngược toàn bộ hết. Tự mình phải lo lấy cái đời sống, tự mình phải chịu lấy tất cả mọi sự cực nhọc hết chớ không có còn cái gì. Mình chỉ lo cho mình thôi, mà lo cho mình đúng cái hạnh của nó thì đó là giải thoát, mà lo cho mình không đúng hạnh thì không giải thoát. Cho nên đó gọi là giới hạnh.

Bây giờ quý thầy đã hiểu được cái giới hạnh rồi đó. Mới có chút đó mà hiểu được cái giới hạnh chút chút rồi đó. Nó còn nữa chớ chưa phải đâu, nó còn nhiều lắm.

4- GIỮ GÌN GIỚI BỔN THANH TỊNH LÀ TRỞ THÀNH GIỚI HẠNH

(14:22) Sau khi đã xuất gia xong, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn…​

Đó, bắt đầu bây giờ đó, mình mới học giới bổn đó, bắt đầu mới lấy nó mà chế ngự.

Sau khi đã xuất gia xong, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokha.

Đó là cái giới bổn, cái giới mà người ta chép ra, giới thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư cho đến 250 giới đó, đó là cái giới bổn đó. Còn cái giới mà chúng ta đang sống hồi nãy đó, đang tập luyện đó, là giới hạnh đó, chớ không phải giới bổn đâu, giới bổn nó khác.

Do đó bây giờ chúng ta đã xuất gia rồi thì chúng ta phải học cho thuộc những cái giới bổn, để chúng ta biết được cái giới luật nó cấm như thế nào, thế nào. Từ đó chúng ta mới tăng thêm những cái giới hạnh của chúng ta, cái giới hạnh của chúng ta mới tăng thêm.

Tức là cái hành động sống hàng ngày của chúng ta, của một vị tu sĩ đó, nó phải oai nghi tế hạnh nó như thế nào để nó đúng với cái giới hạnh của nó. Còn nếu không thì nó sẽ trật hết, nó không có đúng. Nó không có đúng mà chúng ta cứ ngỡ tưởng.

Bởi vì hầu hết người ta học giới bổn Patimokha nhưng mà người ta không có học cái giới hạnh cho nên người ta phạm giới hạnh hết! Thầy thấy hầu hết tu sĩ mình bây giờ là phạm giới hạnh, giới đức và giới tuệ đều phạm hết. Chỉ có giới bổn là họ nói vanh vách thôi.

Họ thuộc làu làu, họ nói giới bổn, họ tụng ngày rằm, ngày 30 họ tụng giới vanh vách hết. Giới bổn họ rất thông, nhưng giới hạnh, giới đức và giới tuệ họ đều phạm hết, không có người nào là đúng hết, là đúng được.

Bây giờ đó thì nhờ cái giới bổn mà chúng ta thực hiện được cái giới hạnh của chúng ta song hành, cho nên chúng ta tiến tới những cái sự tu tập khác nữa để chúng ta thực hiện giới đức và giới tuệ.

Thấy sự nguy hiểm những cái lỗi nhỏ nhặt.

Bởi vì khi mình học được giới bổn thì mình mới thấy được cái sự nguy hiểm ở trong những cái lỗi nhỏ nhặt của chúng ta.

Thọ trì và học tập trong giới học. Ý nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp lần lần thanh tịnh.

Do chúng ta sợ những cái lỗi nhỏ nhặt đó mà chúng ta cố gắng mà giữ gìn trong những cái giới bổn, vì vậy mà cái hành động của ý và hành động của thân, hành động của khẩu - khẩu mình, cái miệng của mình lần lần nó thanh tịnh. Nó thanh tịnh tức là nó trở thành cái giới hạnh.

Đó, giới hạnh của thân, giới hạnh của khẩu, giới hạnh của ý, ba cái hành động thân khẩu ý này bắt đầu - bởi vì cái hành là cái hạnh, cho nên từ đó mà chúng ta giữ gìn không có cho lỗi những cái lỗi nhỏ nhặt mà nó xảy ra, vì vậy mà cái thân, khẩu và ý của chúng ta, tất cả những cái hành động của thân khẩu ý chúng ta nó thanh tịnh. Nó thanh tịnh tức là giới hạnh chúng ta đã tròn đầy, oai nghi tế hạnh chúng ta rất tốt.

Bởi vì mỗi lần cái thân chúng ta động dụng, thì ngay đó là động dụng của cái hành động, của giới luật.

Miệng chúng ta nói ra một cái điều gì, thì miệng chúng ta nói ra trong giới luật, trong cái hành động của giới luật, nó không có những cái điều mà nghịch lại, lỗi lại với giới luật.

Rồi cái ý chúng ta khởi nghĩ một cái điều gì thì nó cũng - cái hành động mà khởi nghĩ đó - nó đều nằm ở trong cái hạnh của giới luật.

(17:31) Cho nên thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta lần lần thanh tịnh.

Sinh hoạt trong sạch giới hạnh cụ túc.

Lúc bấy giờ cái sự sinh hoạt hằng ngày do thân khẩu ý chúng ta nó bắt đầu nó đầy đủ, nó trọn vẹn những cái giới hạnh.

Thủ hộ các căn, Chánh Niệm Tỉnh Giác và thiểu dục tri túc.

Đây là phần giới thiệu chuẩn bị cho đời sống xuất gia của người mới bắt đầu vào lộ trình thứ hai của đạo Phật, nhưng nó cũng là giới hạnh của vị tu sĩ phần thứ nhất trong đạo Phật.

Nghĩa là cái giới hạnh đầu tiên mà chúng ta bắt đầu là chúng ta phải thấy nó thực hiện qua những cái điều kiện này, đó là cái phần thứ nhất của giới hạnh của đạo Phật.

Kế tiếp, khi đã xuất gia xong thì vị Tỳ Kheo giới hạnh phải được học đầy đủ.

Nghĩa là bây giờ chúng ta đã xuất gia xong rồi, thì lúc bấy giờ chúng ta phải siêng năng, tuy ở trên giới thiệu những cái điều kiện như vậy để chúng ta rõ, nhưng chúng ta - cái giới luật nó đâu phải có một giới hai giới đâu, nó nhiều, nó 250 giới, 348 giới - do đó chúng ta phải học, học cho thuộc, biết từng cái lỗi nhỏ, lỗi lớn, chớ không thể nào mà thiếu học được.

Do cái sự học hỏi cho đầy đủ đó thì chúng ta mới thấy được cái giới của nó, vì vậy mà chúng ta mới - luôn luôn cái hành động của chúng ta sống toàn bộ nằm ở trong cái giới.

Vậy giới hạnh đầy đủ như thế nào?

Đó. Bởi vì giới hạnh cụ túc ở đây chúng ta giới thiệu, nhưng mà nó cũng là cái phần hành động của chúng ta bắt đầu chúng ta sử dụng trong cái cuộc đời tu hành của chúng ta, cái hành động sử dụng đó thì nó là giới hạnh.

Nhưng mà giới hạnh mới đầu nó chưa có được đầy đủ đâu, cho nên vì vậy mà tiến tới được cái giới hạnh được đầy đủ mà gọi là giới hạnh cụ túc - cụ túc tức là đầy đủ. Mà giới hạnh cụ túc thì phải làm gì, phải như thế nào?

Vậy giới hạnh đầy đủ là gì?

Tức là giới hạnh cụ túc là gì?

Đây, bây giờ chúng ta phải học cho biết cái giới hạnh đầy đủ cụ túc như thế nào, chớ giới bổn thì nó không nói đâu. Nó chỉ kê ra những cái lỗi này, lỗi kia chớ nó không có nói cái giới hạnh đâu.

Nhưng mà ở đây chúng ta phải học cái giới hạnh, mà cái giới hạnh cho nó được đầy đủ thì phải học như thế nào gọi là đầy đủ. Mà nếu mà không học đầy đủ thì chúng ta biết đâu mà hành động cho nó đúng là cái giới hạnh?

Còn nếu mà chúng ta hành động toàn bộ ở trong cái giới bổn hết - thì trong giới bổn ở trong đó nó có cái giới đức ở trong đó, nó có giới tuệ trong đó, nó có cả cái giới hạnh ở trong đó, chớ nó đâu có riêng một cái phần nào đâu?

Còn giới hạnh khác, giới đức khác, mà giới tuệ khác, nó đâu có giống nhau! Cho nên ở đây chúng ta phân loại ra cái giới hạnh nó phải nằm ở trong những vị trí nào, rồi cái giới đức nó nằm ở trong vị trí nào, giới tuệ nó nằm ở trong vị trí nào để chúng ta thực hiện con đường tu tập, chớ nếu mà không chúng ta đâu có biết được!

Do đó chúng ta sống ở trong giới luật của Phật là thầy của mình mà mình không rõ ông thầy của mình thì mình tu cái gì đây?

5- HAI MƯƠI LĂM GIỚI HẠNH

(20:37) Vậy giới hạnh đầy đủ là gì?

Tức là giới hạnh cụ túc là gì đó.

Vị Tỳ Kheo phải từ bỏ sát sanh.

Đây bắt đầu cái hạnh thứ nhất mà cái người bắt đầu vào tu - hồi nãy đó là chỉ giới thiệu chúng ta biết phần giới hạnh chứ chưa phải là cụ túc, còn bây giờ bắt đầu, ở đây chúng ta mới thấy được cái giới hạnh cụ túc đầy đủ thứ nhất là như thế nào. Cái thứ nhất của giới hạnh chúng ta phải làm gì?

Vị Tỳ Kheo phải từ bỏ sát sanh, tránh xa sự sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, bỏ gươm, đao, cung tên, súng đạn, dao rựa, mác, luôn luôn phải tu tập, biết xấu hổ và sợ hãi trước những lỗi nhỏ nhặt sát sanh, phải có lòng Từ Bi, sống phải thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh và loài hữu tình.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ nhất trong giới luật của Đức Phật.

Đó là cái giới hạnh thứ nhất của vị ấy, chúng ta nhớ, đây là cái giới hạnh là không giết hại chúng sanh đó. Bỏ trượng, bỏ gậy, bỏ làm cái sự đau khổ, luôn luôn khi mà lỡ chúng ta đạp chết một con kiến là chúng ta phải xấu hổ, chúng ta phải sợ hãi. Chớ đừng có nghĩ rằng…​ Đó là cái hành động sai lạc của chúng ta, vô tình của chúng ta chớ không phải là một cái chuyện chúng ta coi thường đâu!

Bởi vì một cái vị tu sĩ gọi là giới hạnh thì không được làm đau khổ chúng sanh một con vật nào hết thì mới gọi là giới hạnh, chớ không phải là ăn thịt chúng ở trong miệng mà gọi là giới hạnh được đâu, đó là một cái điều sai, rất sai.

Cho nên một người tu sĩ mà theo đạo Phật thì giới hạnh phải rõ ràng, phải biết được cái giới hạnh của nó, là cái hành động của cuộc sống của chúng ta hằng ngày gọi là giới hạnh.

Mà hằng ngày chúng ta đi chúng ta đạp chết côn trùng thì thử hỏi cái đó là giới hạnh của chúng ta sao? Hoặc là hằng ngày chúng ta ăn thịt chúng sanh mà cái đó là giới hạnh của chúng ta sao? Cho nên tất cả những cái điều này chúng ta phải thấy được cái chỗ đó.

Và chúng ta còn phải trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm của chúng ta trong những cái giới hạnh này để chúng ta thực hiện tâm Từ Bi chúng ta luôn luôn lúc nào nó cũng thực hiện với sự thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh. Từ đó chúng ta mới không có làm đau khổ chúng sanh, không giết hại chúng sanh, đó là sự tu tập cái giới hạnh của chúng ta.

Đây là chưa phải tới những cái pháp mà dạy tu. Nhưng đây là những cái pháp để mà chúng ta biết, để mà chúng ta ngăn ngừa, để mà chúng ta thực hiện trên cái sự tu tập.

Như chúng ta học hồi nãy, cái lộ trình thứ nhất Tứ Vô Lượng Tâm - Từ Bi Hỷ Xả, Tứ Chánh Cần - các việc ác chưa sanh không cho sanh mà đã sanh thì đoạn diệt, các việc thiện chưa sanh thì cho sanh và đã sanh thì tăng trưởng - đó là Tứ Chánh Cần, do những cái pháp mà tu tập như vậy.

Và đồng thời Thầy còn dạy nè: Chánh Niệm Tỉnh Thức Định nè hoặc là tu Định Vô Lậu nè, tất cả những cái này đã dạy cách thức, pháp Hướng cái này kia, Tùy - Hướng - Quán chúng ta đã có nắm được một số tu tập rồi. Thì bắt đầu bây giờ qua cái giới hạnh là chúng ta đã biết cách rồi, không cần nhắc đi, nhắc lại cái chỗ tu tập này nữa.

Sau khi dạy các pháp như là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo, như tu Tứ Niệm Xứ hay hoặc là Ngũ Căn, Ngũ Lực hay hoặc là Thất Bồ Đề thì từng đó mới dạy ra cách thức mà thêm cho nó sâu hơn trong những pháp hành. Còn bây giờ chúng ta chỉ nói về giới hạnh cho nên chúng ta chỉ lướt qua mà không nói về pháp hành, nhưng chúng ta phải biết pháp hành.

(23:48) Nói về phải thương xót chúng sanh thì tức là chúng ta phải biết Từ, Bi, Hỷ, Xả rồi, do đó chúng ta phải muốn cái giới hạnh chúng ta mà tròn đủ - cụ túc là đầy đủ đó - thì chúng ta phải thực hiện Từ, Bi, Hỷ, Xả chúng ta, phải thực hiện Tứ Chánh Cần rồi, thì thực hiện Tứ Chánh Cần thì chúng ta - Thầy đã có giảng cho các thầy biết cách để trạch pháp ra những câu pháp hướng, pháp tùy như thế nào, pháp quán như thế nào - thì quý thầy đã rõ rồi.

Do đó quý thầy vẫn hiểu biết được cái giới hạnh. Mà vẫn biết được cái giới hạnh thì quý thầy thực hiện ở những cái pháp đã học thì tức là quý thầy đã đạt được một cái giới hạnh thứ nhất mà trong giới luật của Đức Phật đã dạy.

Đó là cái giới hạnh thứ nhất, tức là dạy cái hành động chúng ta nó phải thực hiện cái tâm Từ Bi như thế nào để mà chúng ta giữ trọn được cái giới hạnh đó, không có còn giết hại chúng sanh, không có còn cầm một cái vật mà làm đau khổ chúng sanh nữa.

Đây, một cái giới hạnh thứ hai:

Vị Tỳ Kheo phải từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ được mong những vật đã được cho, tự sống thanh tịnh, ở hạnh tu này luôn luôn giữ gìn không để mang tiếng trộm cắp.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai trong giới luật của Đức Phật.

Đó chúng ta phân ra từng chút để thấy những cái hạnh của nó. Bây giờ mình lấy cái vật của người ta không cho, lén lấy cục kẹo hay một cái bánh ăn lén thì đó là trộm cắp rồi.

Hay hoặc là thấy ở ngoài vườn của mình có cái trái cây nào đó, thì thay vì hái nó đem vào giao cho tất cả chúng - chúng ta không ăn phi thời nè , không có ăn trộm nè, do đó chúng ta hái trả lại, không bao giờ mà chúng ta ăn như vậy.

Vì vậy đó là không có cái hành động như vậy là hành động không có trộm cắp. Còn bây giờ thấy một cái trái cây, ổi hay hoặc là trái nhãn hay trái gì chín, lấy cái lột bỏ vô miệng nhai, thì đó rõ ràng là trộm cắp rồi.

Mà trộm cắp như vậy là cái hạnh đó có tốt không, cái hành động đó có tốt không? Cái hành động đó không tốt tức là không phải là giới luật. Vì vậy không phải là giới hạnh.

Cho nên khi mà giới hạnh là cái hành động làm cho chúng ta thanh tịnh không còn trộm cắp, không còn ăn vụng, ăn vặt, không còn ăn uống phi thời thì đó là cái giới hạnh.

Cho nên ở đây cái cuộc sống của chúng ta, từng cái giới hạnh như vậy để mà nêu lên, để biết nó là cái giới hạnh nào, thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư, trong cái cuộc đời tu hành chúng ta phải giữ gìn nó.

Như vậy giới hạnh của vị ấy thứ hai trong giới luật của đạo Phật.

Nghĩa là mình không có trộm cắp, không lấy của không cho thì như vậy là cái giới hạnh thứ hai của đạo Phật.

(26:23) Vị Tỳ Kheo phải từ bỏ dâm dục, phải xa lánh sự dâm dục, luôn luôn tự sống tịnh hạnh trong sạch, trong ý không được mống khởi dâm dục.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ ba trong giới luật của Đức Phật.

Đó, thì các thầy thấy những cái giới hạnh này thì chúng ta thấy nằm như là, gần như là ở trong cái giới bổn của Ngũ Giới, rõ ràng. Nhưng không phải đâu, nó là giới hạnh để biến ra cái hành động của chúng ta, còn cái kia là giới bổn nhắc nhở chúng ta đừng có làm chuyện đó chớ không phải là giới hạnh.

Còn giới hạnh đây là cái cuộc sống của tu sĩ, cái hành động sống của tu sĩ phải nghiêm chỉnh trong cái hành động đó, gọi là oai nghi tế hạnh của vị đó, cho nên gọi là giới hạnh.

Vị Tỳ Kheo từ bỏ nói láo, tránh xa sự nói láo, phải luôn luôn nói lời chân thật, y chỉ trên sự thật mà nói, nói rất chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt, không phản lại lời nói.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ tư trong giới luật của Đức Phật.

Đó. Nếu mà cái người mà không nói láo đó là cái giới hạnh thứ tư trong giới luật của Đức Phật. Thì trong giới bổn của Đức Phật thì cái giới đó cũng là giới thứ tư, mà giới hạnh ở trong đây là cái hành động mà không nói láo, thì cái hành động oai nghi của chúng ta hằng ngày, thì cái oai nghi đó gọi là giới hạnh của chúng ta.

Vị Tỳ Kheo từ bỏ nói lưỡi hai chiều, tránh xa nói hai chiều: Nghe điều gì chỗ này không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sanh chia rẽ với những người kia.

Như vậy Tỳ Kheo ấy đang sống hòa hợp với những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, vui mừng trong sự hòa hợp, thoải mái trong sự hòa hợp, hân hoan trong sự hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ năm trong giới luật của Đức Phật.

Đó thì, chúng ta thấy rằng từ cái giới thứ tư đến giới thứ năm, thì ở cái giới này chúng ta thấy nó nằm ở trong Thập Thiện chớ không phải là nằm ở trong cái Ngũ Giới nữa, mà nó đi qua cái Thập Thiện.

Mà qua cái Thập Thiện thì chúng ta thấy đây là cái hành động của miệng của chúng ta. Mà miệng của chúng ta mà không nói những cái lời hai chiều như vậy, đó là cái giới hạnh của một người tu sĩ, nó có khác hơn là ở trong cái giới bổn ở cái chỗ này.

Đó chúng ta thấy cái chỗ giới bổn, thì khi mà nói Ngũ Giới thì nó chỉ có nói vọng ngữ thôi, mà nói về Thập Thiện thì nó mới có nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác đồ đó.

Đó thì ở đây chúng ta thấy qua cái giới hạnh thì nó lại có một cái sự sai khác hơn một chút xíu như vậy thôi, mà nó nói lên được cái hành động của nó, cái hành động của cái vị tu sĩ, cái oai nghi tế hạnh của nó ở chỗ cái hành động của cái miệng của nó.

Đó là giới thứ năm, giới hạnh thứ năm trong giới luật của Đức Phật.

(29:25) Vị Tỳ Kheo từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác. Vị ấy nói những lời không có lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, dễ cảm thông đến tâm của mọi người, luôn luôn có những lời tao nhã làm đẹp lòng người khác.

Như vậy (là) giới hạnh của vị ấy thứ sáu trong giới luật của Đức Phật.

Đó thì, cái giới hạnh thứ sáu này thì chúng ta thấy không có nói lời to tiếng, không có chửi mắng, không có nạt nộ, không có làm cho người ta khổ sở, không làm cho người ta sợ hãi, mà luôn luôn nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn thì đó là cái hạnh, cái oai nghi tế hạnh của cái hành động của miệng.

Cho nên nó là giới hạnh thứ sáu ở trong giới luật của Đức Phật.

Kế nữa:

Vị Tỳ Kheo từ bỏ nói lời phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, phải nói đúng thời, đúng lúc, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩ cao đẹp, nói những lời về Chánh Pháp, nói những lời về giới hạnh, giới đức, nói những lời đáng được ca ngợi, nói những lời hợp thời, hợp lý, hợp căn, hợp cơ, thuận lý, có mạch lạc, có hệ thống, có ích lợi cho người, cho mình.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ bảy trong giới luật của Đức Phật.

Đó thì, ở đây cũng trong cái hành động nói mà nói như thế nào mà được những cái hạnh, được cái giới hạnh đó, thì như vậy thì cái giới hạnh này là giới hạnh thứ bảy trong giới luật của Đức Phật.

Vị Tỳ Kheo từ bỏ làm hại các hạt giống và các loại cây cỏ thảo mộc; dùng ngày một bữa không ăn đêm, không ăn phi thời; từ bỏ, xa lánh ăn phi thời; từ bỏ đi xem múa hát, ca nhạc kịch; từ bỏ trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thơm, xà bông thơm và các thời trang khác; từ bỏ không dùng giường cao rộng lớn; từ bỏ tủ, bàn, ghế, sang đẹp; từ bỏ nhận vàng bạc, tiền bạc, của báu; từ bỏ không nhận các hạt giống sống; từ bỏ không nhận thịt sống, thịt chín; từ bỏ không nhận đàn bà, con gái; từ bỏ không nhận nô tì trai, gái; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa, ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương, đất đai; từ bỏ không nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ buôn bán các nghề thương mại; từ bỏ gian lận bằng cân, bằng thước, bằng tiền bạc, hoặc bằng các dụng cụ đo lường khác; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, ăn lo, gian trá, lừa đảo; từ bỏ làm tổn thương hoặc làm đau khổ chúng sanh: câu thúc, bức bách, bức đạp…​

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ tám trong giới luật của Đức Phật.

Đó là từ bỏ những cái việc làm như vậy, từ bỏ tất cả những điều kiện ở trên mà Thầy đã kể thì nó mới là cái giới hạnh thứ tám của trong đạo Phật, của giới luật của đạo Phật. Nó một loạt như vậy chớ nó không kể ra từng chút, từng chút.

(32:41) Nghĩa là ở đây Thầy xin giải thích thêm cái chỗ này: “Từ bỏ không nhận đàn bà con gái” là dưới hình thức mà người tu sĩ mà chúng ta nhận, đó là chúng ta nhận - hoặc là cái người mới vào mà tập sự tu hành là công quả - đó là hình thức mà tôi tớ ở trong nhà chùa đó.

Người ta công quả rồi sai người ta làm cái này, làm cái kia, làm cái nọ, sai họ làm đủ thứ ở chuyện nhà chùa hết. Đó hình thức là công quả, nhưng mà sự thật đó là mình nhận đàn bà hay hoặc là đàn ông hay hoặc con trai để làm nô tì cho mình ở trong chùa, đó là cái hình thức công quả.

Cho nên ở đây chúng ta phải xét rằng ông Phật hồi xưa không có làm cái điều này, không có nhận cái kiểu mà công quả đâu. Còn bây giờ thì chúng ta ngồi không đó mà nhận người vô để cho gọi là tập sự đó, gọi là tịnh nhân đó, để cho họ công quả, hay hoặc là những người cư sĩ ở ngoài họ muốn tạo thêm phước để họ vô chùa họ làm công quả đó.

Cái điều đó thật sự ra có nhiều khi mình hiểu lầm một chút xíu, mình tưởng đó là những người công quả để cho họ tạo phước họ, nhưng mà cuối cùng thì mình lại nhận họ trở thành những người nô tì của mình ở trong chùa để cho sai vặt họ làm cái này, cái kia cho mình, đặng cho mình khỏi làm.

Từ cái quét dọn nhà cửa, chùa chiền đồ, đều là sai những cái người công quả. Tu sĩ thì ngồi không chơi chớ còn để cho tất cả những cái vị cư sĩ - bởi vì hễ có nhiều người công quả nhiều thì toàn bộ tu sĩ đều là ngồi chơi. Thầy thấy cái điều này rất rõ.

Cho nên thí dụ như bây giờ, trong cái phần nhiệm vụ của các cô ở trong bếp nước, mà ni á, thì khi mà có những người cư sĩ vô công quả, họ giao phế hết cho mấy bà công quả đó làm chớ họ ngồi đó họ chỉ ngón tay, họ làm chủ họ sai.

Tức là biến những người công quả đó trở thành nô tì cho cái người tu sĩ, cho nên cái giai cấp của cái người tu sĩ trở thành cái giai cấp là chủ, chủ nhân, còn cái giai cấp của cư sĩ mà công quả là cái giai cấp nô tì.

Chúng ta phải hiểu thêm những cái hình thức mà nó qua cái danh từ thì coi như là công quả, nhưng mà qua cái hành động thì như là nô tì: sai, rồi bảo, rồi này, kia đủ thứ hết, làm đủ thứ mọi mặt hết.

Mà cái người mà làm nô tì như vậy người ta chỉ nghĩ mình làm cái điều đó được phước cho nên cứ ráng mà làm thôi. Phước đâu thì, có hay không có thì không biết nhưng mà chỉ nghe quý thầy nói làm công quả thì được phước thì cứ chổng khu mà làm thôi, người ta sai cái gì mình làm cái nấy thôi, bảo quét dọn cái gì, hốt rác hay hoặc là chỗ dơ bẩn nào cũng xông pha vô.

Như chẳng hạn là như quý thầy ở đông rồi, những cái hầm tiêu nó đầy ngập lên, thay vì quý thầy phải nhảy xuống dưới hốt, không, nhờ mấy ông cư sĩ mà vô mà công quả: “Mấy ông giúp dùm cái này phước báo lớn lắm!” - do đó mấy ổng nhảy xuống mà hốt!

(35:20) Đó là những cái mà chúng ta lợi dụng cái lòng tin Phật, cái sự cầu để được phước báo, cho nên cái sự tha cầu được phước báo đó mà chúng ta biến họ trở thành những nô tì làm những cái chuyện dơ bẩn thay cho chúng ta, trong khi chúng ta là những người tu sĩ chưa đến đâu mà cũng chỉ muốn ngồi trên để làm chủ mà sai họ.

Bởi vậy khi mà lật ra những cái giới hạnh này của đạo Phật, Thầy thấy Đức Phật dạy chúng ta quá kỹ, không có còn cái chỗ nào mà thiếu sót những cái hành động đúng, sai của chúng ta hết.

Nghĩa là lật ra tất cả những cái sự thật của cuộc sống tu hành của chúng ta thì những cái giới hạnh Thầy thấy Đức Phật dạy không còn cái chỗ nào mà Đức Phật không dạy cho chúng ta biết. Do biết như vậy mà chúng ta dạy cho rõ ràng, cho kỹ lưỡng chớ không khéo thì người ta cũng sẽ lầm lạc mất đi.

Tiếp tục:

Vị Tỳ Kheo không được trồng trọt tất cả các loại hạt giống…​

Nghĩa là cái hạt giống nào chúng ta cũng không được trồng hết.

…​ những loại giống từ rễ cây sanh ra.

Nghĩa là có cái loại giống, cái cây mình chặt cái rễ đi, rồi cái rễ đó nó lên cái tược, rồi mình lấy cái tược đó mình đem trồng, thì Đức Phật cũng cấm không có được lấy đó.

Những cái chiết cành, tháp cây đó, làm cho nó ra những cái cây con, cây nhánh đó rồi đem trồng thì Đức Phật cũng không có cho chúng ta trồng.

Những cái hạt giống mà ươm nó lên cây, rồi những cái rễ cây mà lên cây, cũng như thí dụ như cái cây chuối vậy đó, nó từ cái củ của nó, nó ra cái cây vậy đó, thì Đức Phật cũng không cho chúng ta trồng cái gì hết, tới cái cây chiết, cây tháp gì cũng không cho trồng hết.

Đó là tất cả những cái loại đó Đức Phật cấm không cho chúng ta làm.

Và cũng không được làm hại những loại giống đó.

Không có được làm cho những cái loại giống chết, nghĩa là chúng ta không được trồng, nhưng mà chúng ta không có được làm hại cho nó chết. Đó là những cái đặc biệt của đạo Phật đó.

Vì vị Tỳ Kheo chỉ dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà thôi.

Nghĩa là chúng ta chỉ đi xin ăn thôi chớ chúng ta không có làm cái điều đó được.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ chín trong giới luật của Đức Phật.

Nghĩa là các thầy thấy giới bổn nó có khác heng? Mà đến đây cái giới hạnh nó đi qua một cái góc độ khác rồi, nó đi qua một cái góc độ mà chúng ta không ngờ được cái hành động hằng ngày chúng ta phải sống, do đó chúng ta không học giới bổn thì chúng ta thấy hoàn toàn là ở cái chỗ mà trồng tỉa đồ thì nó không có phạm tội gì hết à.

Nhưng mà qua cái giới hạnh chúng ta thấy cái hành động mà của vị tu sĩ đó, chỉ có hành động đi xin mà thôi chớ còn hoàn toàn là không có làm được cái gì khác hết. Mà thật sự đi xin mới giải thoát, còn làm làm sao giải thoát được! Cho nên Đức Phật cấm từ không có nhận các hạt giống.

Đó là cái giới hạnh thứ chín của một người tu sĩ của đạo Phật.

(38:02) Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn cất chứa và thọ hưởng các đồ vật như cất chứa các món ăn, cất chứa đồ ăn uống, cất chứa vải, cất chứa xe cộ, cất chứa đồ nằm, cất chứa hương liệu, cất chứa các mỹ vị, như vậy không đúng giới hạnh, vị ấy phải từ bỏ cất chứa các vật trên.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười trong giới luật của Đức Phật.

Đó, cấm chúng ta không cất chứa được cái gì hết, nghĩa là dù là thuốc thang…​ cái gì cũng không cất chứa.

Cho nên Thầy nói trong cuộc đời tu hành của Thầy mà đọc đến cái chỗ giới hạnh Thầy thấy Thầy chưa có trọn vẹn được chút nào hết. Chỉ có bây giờ Thầy ẩn bóng, sống một cái đời sống du tăng, khất sĩ rày đây mai đó, lúc thì ở rừng, lúc thì ở núi, lúc thì giữa chợ, ai cho cái gì ăn cái nấy, hoàn toàn là ba y một bát không thêm không bớt, đau thì xin thuốc, mà không đau thì không có xin, không có để dành đó.

Còn chúng ta thì luôn luôn lúc nào cũng phòng ngừa, phòng ngừa để dành, mang ôm ấp, cứ sợ hãi bệnh đau chết thôi! Người tu sĩ khi mà nỗ lực mà thực hiện được như vậy rồi thì chúng ta chẳng còn sợ hãi gì nữa hết.

Như Thầy bây giờ còn sợ hãi cái gì? Cho nên thực hiện đúng cái hạnh của Đức Phật chớ còn để làm gì nữa đây! Nếu mà Thầy không thực hiện chắc cuộc đời này chẳng có ai thực hiện được những cái giới hạnh này hết.

Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống theo các trò du hí không chân chánh như múa, hát, ca nhạc kịch, ngâm vịnh, nhịp tay, nhịp chân, kệ tụng, ca ngâm í a, í à, hoặc tụng kinh, tụng thần chú, tay bắt ấn, đánh trống lớn, trống nhỏ, phèng la, chập chả, đẩu, mõ, diễn tuồng thần tiên, mãi võ, đấu voi, đấu ngựa, đấu bò, đấu trâu, đấu dê, đấu cừu, đá gà, đá dế, đá chim cun cút, đấu gậy, đấu côn, đấu quyền, đô vật, bắn súng, đấu gươm, thi bắn, tập dợt bắn, tập đánh giặc giả, tập thao dượt, diễu binh…​ Vị Tỳ Kheo phải từ bỏ các loại du hí đối với người tu nó không chân chính.

Tức là tất cả những cái điều kiện trên nó không có chân chánh đâu, đối với người tu thì nó không chân chánh, đối với ngoài đời thì người ta chân chánh làm sao kệ người ta, còn riêng mình là đi theo đạo Phật thì nó không chơn chánh.

Như vậy là giới hạnh của vị tu sĩ thứ mười một trong giới luật của Đức Phật.

Nó được ghép vào thứ mười một ở trong giới hạnh của giới luật của Đức Phật.

Đó thì, những cái điều mà hôm nay Thầy kể ra hết để cho quý thầy chuẩn bị cho một con đường mà học giới để rồi nó sáng tỏ như là ban ngày, nó không còn cái chỗ nào mờ ám hết.

(40:49) Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống theo các trò chơi giải trí trong thế gian như cờ tướng, cờ gánh, cờ quân, cờ vua, cờ tám hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ chơi trên đất, cờ chơi cò nhảy ô, chơi bỏ khăn, chơi làm mù bịt mắt, chơi u bắt mọi, chơi đánh gồng đánh trỏng, chơi u ấp, chơi nhảy dây cò cò, chơi bông vụ, chơi xúc xắc, chơi đá cầu, chơi bóng rổ, chơi đánh tennis, chơi đánh bóng, đá bóng, lội đua, chạy đua, đạp xe đạp đua, chơi thổi kèn bằng lá cây, chơi lộn nhào như xiếc, chơi đánh đu, chơi búp bê, chơi xe điện tử, chơi chong chóng, bông vụ, chơi giấu - chơi ú tim, chơi những xe tàu đồ chơi trẻ con, chơi cung tên, súng giả, chơi đoán chữ viết trên lưng, trên không, chơi bắt chước bộ điệu, chơi làm hề v.v…​

Đó là tất cả những cái trò chơi như vậy, hầu hết là cái giới hạnh của người tu sĩ không được làm cái trò chơi đó.

Bởi vì có nhiều chú bảy tuổi vô tu hành, các con biết không, nhảy cò cò, có không? Rồi ngồi chơi cái này, chơi ba, bốn chú ngồi chơi rồi bỏ khăn, rồi bịt mắt, rồi làm mù, đủ cách theo cái kiểu trẻ con ở ngoài thế gian.

Cho nên Đức Phật - những cái giới hạnh của người tu - hoàn toàn từ trẻ con mà vào tu mới bảy tuổi, tám tuổi cho đến người lớn, hoàn toàn là tất cả những cái trò chơi đó Đức Phật nêu ra đó là những cái giới hạnh mà người tu không có được làm, không có được chơi những cái trò chơi đó.

Cho nên trẻ con làm sao bảy, tám tuổi mà thấy súng giả không ham, thấy cung tên không thích, cho nên nó khoái lắm chớ gì? Còn bên nữ mà nhỏ nhỏ vô tu thấy búp bê làm sao không ôm? Mà ôm ẵm như vậy thì các con thấy nó thực hiện qua một cái tình ái của nó đó, cái tình thương con đó!

Cho nên vì vậy mà Đức Phật cấm không có cho chơi những cái trò chơi như vậy để từ đó mà tuyệt cho nó phá đi những cái tâm dục của nó.

Đó là những cái điều kiện giới hạnh nó nghiêm chỉnh như vậy, để bắt đầu chúng ta sống như một cái người lớn, một cái người thật sự là một người có những cái oai nghi tế hạnh chững chạc của một vị tu sĩ.

Vị Tỳ Kheo phải từ bỏ các loại giải trí như trên.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười hai trong giới luật của Đức Phật.

Xem được như - các trò chơi này được xem như cái giới hạnh thứ mười hai trong giới luật của Đức Phật.

(43:33) *Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống dùng các giường cao rộng lớn, ghế bành, ghế trường kỷ, nệm trải giường bằng len, trải giường bằng nệm cao su, nệm thông hơi, vải trải giường nhiều tấm nhiều màu, chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bông, nệm thêu hình các con thú, nệm bằng lông thú cả hai mặt, mền có đính ngọc, mền bằng lụa, khảm, mền có voi, mền ngựa, mền xe, mền bằng da sơn dương khâu lại, tấm thảm có lều che phía trên, ghế dài có gối đầu, gối chân, gối ôm, có những màu sắc rực rỡ, nói chung là tất cả những đồ dùng trong nhà như xe cộ, ti vi, tủ lạnh, tủ giặt, máy móc, vi tính, cát-sét thu băng, điện thoại, radio v.v*…​

Tất cả những cái đồ dùng đó hoàn toàn là người tu sĩ mà gọi là giới hạnh thì không có được dùng.

Vị Tỳ Kheo phải từ bỏ không dùng những vật vừa kể trên.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười ba trong giới luật của Đức Phật.

Mặc dù là tất cả những cái vật dụng này Đức Phật không có nói ở trong kinh, nhưng mà Đức Phật nói tất cả những cái gì mà có thể trong cái thời của Đức Phật có là Đức Phật đã vạch ra, nói ra. Cho nên Thầy dựa theo cái sự hiểu biết đó mà Thầy thêm những cái điều kiện như là ti vi, tủ lạnh, máy móc, vi tính, hay là cát-sét thu băng gì, tất cả radio, điện thoại đồ…​ trong cái thời đại này thì cái người tu sĩ không có được rớ tới một cái vật dụng đó.

Đó là nó mới hợp với cái ý Phật. Trong cái thời đại của Phật thì không có những vật dụng đó, nhưng Đức Phật nói như toàn bộ là tất cả những vật dụng mà sang đẹp, những vật dụng của vua chúa, những vật dụng của người giàu có mà xài trong cái thời đó, thì tất cả những cái vật dụng mà chúng ta hiện đại mà có thì nó cũng nằm ở trong cái sự đó.

Cho nên Thầy kê ra hết để chúng ta biết rằng đó là cái giới hạnh của chúng ta không được xài những cái thứ đó. Vì những cái thứ đó là làm chúng ta mất cái giới hạnh của một người tu.

Và cái giới hạnh của người tu mà không có xài tất cả những vật dụng đó đó thì được gọi là thứ mười ba trong giới luật của Đức Phật.

(45:50) Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà cũng vẫn còn dùng các đồ trang sức mỹ phẩm làm đẹp người như thoa dầu, đấm bóp, tắm giặt làm cho thơm tho đẹp đẽ, hoặc đập tay, đập chân, tập luyện làm cho mềm tay, mềm chân, mềm mại…​

Ở đây là trong thời Đức Phật có dạy cấm những cái khi mà thoa dầu để mà làm cho tay chân mình mềm dẻo, để cho mình làm như những cái người mà làm xiếc đó, uốn mình qua lại đồ đó, thì Đức Phật ở trong cái đoạn giới hạnh này Đức Phật cũng có dạy là chúng ta không có nên luyện tập cái điều đó.

Chớ không phải thoa dầu thơm, xức dầu thơm như ở đoạn trước đâu, mà đây là thoa dầu để làm cho nó mềm dẻo gân cốt của mình để mà luyện tập cho nó mềm dẻo đó. Cách thức mà ngày xưa người ta luyện tập để cho cái thân người người ta mềm dẻo, cái xương sống họ uốn cong như thế này đó là phải thoa dầu để mà tập luyện, chớ không phải là đơn sơ mà tập luyện đâu.

Theo cái bài kinh của Phật nói thì Thầy đã hiểu biết rằng người mà tập luyện cho dẻo dai để mà làm xiếc được trò này, trò kia được, như uốn cong người, như chân kéo lên tới trên đầu bên nây bên kia đều được hết, là phải thoa dầu rồi mới tập luyện chớ không phải là không thoa dầu mà tập luyện được.

Có khi tập luyện được nhưng mà nó rất khó khăn, nó không bằng những cái người mà người ta thoa dầu rồi người ta tập luyện.

…​ làm cho mềm mại, dẻo dai, uốn éo, hoặc dùng gương soi, kem đánh mặt, vòng hoa, chuỗi hạt, phấn son, phấn mặt, sáp mặt, vòng tay, tóc giả trên đầu, gậy cầm tay, xà quéo…​

Xà quéo tức là cây xà quéo đó.

*…​ gươm, lọng, dù, dép thêu, khăn đầu, mũ, nón, phất trần vải trắng có viền tua dài và còn nhiều thứ khác nữa. Vị Tỳ Kheo không được dùng các…​* (Mất tiếng)

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười bốn trong giới luật của Đức Phật.

Đó thì, những cái điều kiện mà kể trên để mà cái người tu sĩ giữ gìn cái giới hạnh mà không có vi phạm thì đó là cái thứ mười bốn, cái giới hạnh thứ mười bốn trong giới luật của Đức Phật.

Đó thì Thầy kể ra hết những cái gì mà Phật đã kể ra, để chúng ta biết những cái giới hạnh như thế nào, để chúng ta đừng có phạm phải cái hành động của chúng ta trong những cái sai đó mà làm mất cái oai nghi tế hạnh của người tu sĩ của đạo Phật, làm cho người ta thấy những cái điều đó mà người ta chê bai mình tu hành không đúng, hành động không có đúng cái hạnh của người tu.

(48:29) Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà không sống thầm lặng độc cư, cứ thường hay nói những câu chuyện vô ích, tầm thường.

Đó thì ở đây Phật cũng nhắc nhở chúng ta phải sống thầm lặng, phải độc cư, đừng có hay nói chuyện, nói chuyện vô ích tầm thường.

Như câu chuyện nói về vua chúa; câu chuyện nói về ăn trộm; câu chuyện nói về đại thần; câu chuyện nói về binh lính; câu chuyện nói về sự hãi hùng; câu chuyện nói về chiến tranh; câu chuyện nói về đồ ăn uống; câu chuyện nói về vải mặc; câu chuyện nói về máy móc; câu chuyện nói về khoa học; câu chuyện nói về tôn giáo; câu chuyện nói về thầy này thầy kia; câu chuyện nói về giáo hội; câu chuyện nói về giường nằm; câu chuyện nói về vòng hoa; câu chuyện nói về hương liệu; câu chuyện nói về bà con; câu chuyện nói về xe cộ; câu chuyện nói về tai nạn lưu thông; câu chuyện nói về làng xóm; câu chuyện nói về thị tứ; câu chuyện nói về thành phố; câu chuyện nói về thế giới; câu chuyện nói về đàn bà, đàn ông; câu chuyện nói về anh hùng, vị anh hùng này vị anh hùng khác; câu chuyện nói bên lề đường; câu chuyện tại chỗ giếng nước; câu chuyện về người chết thế này thế khác; câu chuyện tạp thoại, huyền thoại; câu chuyện biến trạng của trái đất; câu chuyện biến trạng của đại dương; câu chuyện về hiện hữu và không hiện hữu v.v…​

Đó, tất cả những cái chuyện này thì cái người tu sĩ không có được mà bàn bạc, không có được nói, mà phải sống thầm lặng độc cư không..

Hầu hết là những cái điều mà Đức Phật kê ra như vậy để mà chúng ta biết rằng chúng ta không có nên nói cái chuyện nhảm nhí như vậy, mà sống để mà thực hành những cái pháp mà chúng ta đang thực hành, tu hành, thì may ra thì giữ cái được cái giới hạnh này, thì chúng ta mới có thể tu đạt được những cái sự giải thoát.

Còn nếu mà không giữ được cái giới hạnh này, cứ mãi nói chuyện này chuyện kia thì không biết bao giờ mà chúng ta nói hết chuyện của cuộc đời chúng ta, mà của cái thế gian này nữa.

Nó lắm chuyện lắm, nó không bao giờ hết. Thử quý thầy cứ nói, cứ nhìn người ngoài đời, có bao giờ họ hết chuyện đâu, không chuyện này thì tới chuyện khác họ nói hoài không có hết, bởi vì cái miệng chúng ta nó nhiều lắm, nó nhiều chuyện lắm, nó nói không bao giờ dứt.

Cho nên Đức Phật dạy chúng ta sống thầm lặng, sống độc cư là chính cái chỗ đó để mà chúng ta dẹp đi, cái giới hạnh chúng ta đã tròn đầy ở trong cái chỗ mà dẹp những cái điều, mà không nói chuyện phiếm đó.

(51:15) Vị Tỳ Kheo ấy phải từ bỏ, xa lìa không nói những chuyện vô ích, tầm thường vừa kể ở trên.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười lăm trong giới luật của Đức Phật.

Đó là, đây là cái giới hạnh thứ mười lăm trong giới luật của Đức Phật. Cho nên khi mà nói đến cái giới hạnh thứ mười lăm là chúng ta biết là cái gì rồi, mà nói thứ ba, thứ tư là chúng ta biết gì.

Cái người mà học giới luật về giới hạnh mà nói đến bây giờ giới hạnh thứ năm là cái gì thì vị đó biết liền, mà nói thứ sáu là cái gì vị đó biết liền. Còn bây giờ chúng ta không có học, nói thứ mười lăm là cái gì chúng ta chẳng biết, mà nói thứ mười bốn chúng ta cũng chẳng biết.

Mà chúng ta học chúng ta biết những cái hành động đó nó nằm ở trong cái giới hạnh nào, trong cái thứ mấy của cái giới luật của Phật, đó là chúng ta đã thông suốt được cái giới hạnh, còn chưa thông suốt thì chúng ta cần phải học cho thông suốt.

Vị Tỳ Kheo mặc dù sống đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống bàn luận tranh chấp, kiến chấp tà kiến, tranh luận về thiền, tranh luận về kinh Đại Thừa, Tiểu Thừa, tranh luận về kiến giải, tưởng giải, tranh luận về giới luật học, tranh luận về luận Trung Quán A Tỳ Đàm, Thanh Tịnh Đạo Luận, tranh luận về trí Bát Nhã, tranh luận về Phật Tánh v.v…​

Tất cả những cái tranh luận này, điều đó là theo hầu hết là Đức Phật - ở trong kinh thì Đức Phật nói từ cái phân ra cái chánh kiến, cái tà kiến rồi kiến chấp này, kiến chấp kia, mà sáu mươi hai cái luận.

Nhưng bây giờ thì chúng ta thấy cái luận của chúng ta thì nó nằm ở đâu? Nó nằm ở trong cái kinh điển của Đại Thừa, Tiểu Thừa, rồi tranh hơn tranh thua, rồi tranh thiền, tranh đạo, rồi tranh Phật Tánh, rồi tranh nói Bát Nhã, rồi nói về Trung Quán Luận A Tì Đàm, hoặc là Thanh Tịnh Đạo Luận…​

Tất cả những cái này đều là chúng ta xoay quanh chứ không phải như trong thời Đức Phật là sáu mươi hai lập luận của thời Đức Phật.

Đức Phật - ở trong cái chỗ này Đức Phật nhắc chúng ta đừng có nên tranh luận trong sáu mươi hai lập luận đó, thì bây giờ Thầy lại nhắc các thầy đừng có tranh luận ở trong những cái tranh luận của trong cái thời đại chúng ta bây giờ là chúng ta tranh luận thiền, tranh luận đạo, tranh luận Tiểu Thừa, Đại Thừa, tranh luận Nam Tông, Bắc Tông.

Đó là chúng ta có những tranh luận đó. Lớp thì hòa giải, lớp thì tranh luận, lớp thì móc bên nây quéo bên kia, làm nhiều cái có thể làm cho tan nát cái nhà Phật giáo của chúng ta ra.

Cái đó là cái mà Đức Phật đã cấm. Và vì vậy mà người tu sĩ mà có cái giới hạnh thì không có nên làm cái điều này, không có nên tranh luận cái điều này. Ai nói gì thì làm thinh, không có tranh luận hơn thua.

Đó là những cái mà Đức Phật đã dạy chúng ta từ xưa, bây giờ chúng ta phải hiểu là lúc bây giờ cái giai đoạn chúng ta, họ đang tranh luận cái gì thì chúng ta phải đem cái đó ra mà nêu lên để cho cái người hiện nay người ta biết là người ta đang tranh luận cái đó là cái sai của người tu theo giới hạnh của Đức Phật.

(54:13) Vị Tỳ Kheo ấy phải từ bỏ, xa lánh những cuộc tranh luận, tranh chấp kể trên.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười sáu trong giới luật của Đức Phật.

Đó, cái sự tranh chấp này nó nằm ở trong cái hạnh thứ mười sáu, cái giới hạnh thứ mười sáu của Đức Phật.

Vị Tỳ Kheo mặc dù đã sống dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống đưa các tin tức người này, người kia, hoặc tự đứng ra làm môi giới, thuyết khách cho vua chúa, cho các vị đại thần; bàn mưu tính kế quốc sự, quốc dân; làm mai dong, môi giới bán nhà, bán ruộng, bán đất, môi giới buôn bán, môi giới trai gái, môi giới làm ăn, chạy áp phe, áp pháo để kiếm danh, kiếm lợi thêm.

Mặc dù là mình ăn của đàn na cúng dường mình rồi đó - của đàn na thí chủ cúng dường mình rồi - mà mình còn đi làm những cái nghề nghiệp như vậy, đi làm những cái môi giới như vậy, hoặc làm quốc sư đồ đó, thì cái điều đó là không phải.

Bởi vì mình người tu rồi, mình chỉ - người ta đến hỏi, nhà vua mà đến - tin mình đến hỏi - thì mình gợi ý họ thôi chớ mình không làm quốc sư. Điều đó phải bày mưu, tính kế này, nọ, kia, phải đánh giặc như thế này thế kia, thì cái điều đó là cái người tu sĩ của đạo Phật không có được làm cái điều đó. Cho nên làm cái điều đó Đức Phật gọi là làm môi giới.

Mình quốc sư của nhà vua thì tức là mình dạy đạo cho nhà vua thôi, chớ không phải là mình cố vấn quân sự cho nhà vua để đi chinh phạt nước người ta, hay hoặc là phải làm cái thế này để trị dân, trị nước.

Trị dân, trị nước - bây giờ nhà vua không hiểu, thì nhà vua hỏi mình, mình chỉ góp ý cho cái phần của nhà vua về cái phần đạo đức của mình đang tu tập để mà dạy thôi.

Còn cái phần khác thì nhà vua muốn làm sao đó làm, chớ không góp ý là phải xây dựng cái pháp luật này, cái pháp luật kia; phải sửa đổi cái này, sửa đổi cái kia, như vậy là trị nước như thế này thế khác…​ mình không có góp ý về cái phần đó.

Nhưng mình nói về cái thiện pháp thì nhà vua xét qua cái thiện pháp mà đặt ra giới luật như thế nào để đúng để mà cai trị dân, cai trị nước, để đem lại sự trật tự, an ninh cho dân giàu nước mạnh.

Thì cái đó là mình chỉ góp về cái đạo đức nhân quả, cái đạo đức chân chánh của đạo Phật, để cho nhà vua hiểu được cái đạo đức mà nhà vua tự làm lấy cái pháp luật mà áp dụng trong dân gian, để đem lại cái trật tự mà thôi. Chớ chúng ta không có góp ý về cái phần mà đặt ra pháp luật này, đặt ra pháp luật kia cho nhà vua.

Vị Tỳ Kheo ấy phải từ bỏ, xa lìa đưa tin, làm môi giới như trên.

Vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười bảy trong giới luật của Đức Phật.

Đó là cái giới hạnh thứ mười bảy của cái người tu theo đạo Phật.

Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường vẫn còn sống lừa đảo, nói lời xiểm nịnh, gợi ý dèm pha cầu lợi. Vị ấy phải từ bỏ, viễn ly lời nói lừa đảo, xiểm nịnh như trên.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười tám trong giới luật của Đức Phật.

(57:15) Có nhiều người ớ họ nịnh bợ vua lắm. Để làm gì? Để cho vua phong chức mình cái này cái kia. Đó là những vị tu sĩ như vậy không nên làm cái điều nịnh bợ đó.

Hoặc là thấy người ta giàu có cúng dường tiền mình nịnh bợ, cho nên họ đến xin xuất gia cái là mau mau xuất gia liền, cho họ thọ cụ túc liền, đó là mình nịnh bợ họ.

Mặc họ! Chừng nào họ giới luật được rồi mới là cho họ thọ giới đàng hoàng, còn họ chưa được thì không, nhất định là không cho, dù họ là vua cũng vậy nữa, chớ đừng có nói là nhà giàu.

Đó. Cho nên chúng ta là một cái người tu sĩ phải thẳng thắn, phải cương nghị để giữ gìn mạng mạch của Phật pháp. Chớ không, thấy người ta giàu có cúng chùa, cúng tiền cho mình cất chùa nhiều rồi, bây giờ chùa mình sang đẹp rồi là nhờ cái ông cư sĩ đó giàu có hay hoặc nhờ ông vua đó, bây giờ ổng muốn xuất gia cái, vô đó cái cạo đầu cái cho ổng thọ giới cụ túc liền.

Ổng ngồi, ổng bạch ngực, ổng quạt như là ông địa mà quạt như vậy đó. Thì thử hỏi quý thầy nghĩ sao? Là cái vị tu sĩ giới hạnh ở chỗ nào? Thế mà chúng ta hỉ hả rằng đó là một vị Di Lặc rồi, thì chúng ta thấy cái đó là cái sai của đạo.

Chúng ta phải mạnh dạn không có nịnh bợ vua chúa, không nịnh nhà giàu. Chúng ta đi xin từng người ăn, chớ không phải là chúng ta xin một người nào mà chúng ta sợ.

Vị Tỳ Kheo mặc dù dùng các món ăn do tín thí cúng dường vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà hạnh, tà nghiệp, như: xem tướng, coi tay, chiêm tinh, tuổi tác, tướng mạo, triệu tướng, mộng tướng, thân tướng, dấu chuột cắn, cúng bái, tế lửa, tế núi, tế sông, tế vỏ lúa, tế tấm, gạo, muối, tế thực tô, tế thực phẩm, tế máu...

Đó, tất cả những cái mà cúng tế cái kiểu này, các con thấy có nhiều chùa người ta chiều chiều lấy gạo với muối để cúng cô hồn đó, tức là tế cô hồn đó, đó là ở đây Phật dạy là tế gạo muối đó.

Tế thực tô - có người là lấy thực tô rồi tế thực phẩm cúng bái đồ ăn, đồ uống cúng lên đó. Có người lại cắt tay mình ra lấy máu hay hoặc này kia đó thề nguyền này kia đồ đó, tức là tế máu đó.

Đó là những cái sai, những cái mà không đúng, những hạnh đó là những cái hạnh không phải là cái người tu, cho nên làm những cái đó.

Như tế lửa tức là cúng thần lửa chứ gì, tế núi tức là cúng núi chứ gì, cúng thần núi, tế sông tức là cúng thần sông tức là cúng hà bá, thủy long ở dưới nước chứ gì! Đó là cúng những cái thần ở dưới đó.

Cúng vỏ lúa - hồi đó nói nghe - Thầy nghe nói cái vỏ lúa lớn lắm, và lúa mà khi nó chín rồi nó lăn về người ta khỏi có cắt gặt, cho nên bây giờ người ta nhớ như vậy đó mà người ta đem cái vỏ lúa, không biết là cái vỏ cây người ta tiện ra cái vỏ lúa, y như cái vỏ lúa, người ta để đó người ta thờ rồi người ta cúng bái, người ta nói hồi đó cái vỏ lúa hồi xưa như vậy.

(01:00:16) Nhưng sự thật ra Thầy nghĩ chắc không có điều đó đâu, người ta tưởng tượng ra như vậy.

Rồi cúng tấm, tế gạo, muối…​ đó là những cái mà hiện bây giờ chúng ta cũng còn những cái ảnh hưởng đó. Mà trong đạo Phật dạy chúng ta những cái hạnh của người tu là không được làm những cái điều đó.

Thế mà bây giờ ở trong chùa chúng ta thấy cũng có đem gạo muối tế cúng cô hồn các đảng, quyến rũ ba con ma nó đến rồi nó khua chén, khua bát ở trong chùa nói rằng quỷ chùa nó vậy. Sự thật ra mình rủ nó đến nó chẳng khua chén, khua bát của mình thì làm sao mà không vậy? Tại vì mình đem cho nó, mình kêu nó về nó ở, nó chẳng phá mình!

Còn như ở chỗ Thầy, Thầy không kêu nó làm sao có rung chuông có nó lúc (lắc) nồi, nó có lúc lắc chén bát ở đâu? Cho nên ở đây chẳng có quỷ chùa chút nào hết, mà chẳng có cô hồn, các đảng nào hết!

Bởi vì Thầy là một người tu Thầy không gần cái thứ đó, Thầy không cầu nó, Thầy không cúng nó, cho nên nó đâu có dám lại đây. Còn cái chỗ nào mà mê nó thì cứ mời, thỉnh nó thì nó phải tới, nó tới rồi không cho nó ăn thì nó khua chén, khua bát nó làm cho sợ, sợ đặng cho đem cơm, đem muối cho nó ăn, đem gạo!

Khoa xem tay, xem nốt ruồi…​

Có người thì xem nốt ruồi: “Cha! Nốt ruồi này làm quan, nốt ruồi này làm tướng nè, nốt ruồi này làm tôi tớ nè, nốt ruồi này nghèo khổ nè…​” làm cho mấy bà hoảng hồn đi, mới đem mới cắt đốt, mới làm cho đau khổ người ta.

Nói tầm bậy, tầm bạ! Trong da thịt của mình là vô thường, có gì đâu mà phải nói rằng tướng này, tướng kia, tướng nọ trong đó.

Khoa xem địa lý, khoa xem mộng, khoa cầu thần ban phước, khoa cầu quỷ ma, yếm đối trùng tang, yếm đối ma quỷ thần trùng…​

Có thần trùng nữa, đủ thứ hết!

…​ yếm đối nhà cửa mả mồ, dùng khoa trị rắn, thuốc rắn, dùng khoa thuốc độc, khoa trị bò cạp, đoán số mạng, cầu khẩn, ngăn ngừa tai nạn, khoa biết chim nói chuyện…​

Đó tất cả những cái khoa như vậy v.v…​ thì Đức Phật đã cấm cái người mà tu cái giới hạnh của Phật thì không được làm những cái điều mà đã kể ở trên.

Vị Tỳ Kheo ấy phải tránh xa, từ bỏ tà hạnh nghiệp đã kể trên.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười chín trong giới luật của Đức Phật.

Đó là giới hạnh thứ mười chín trong giới luật của Đức Phật là không được làm những cái nghề nghiệp, những cái điều mà - cái hành động làm như vậy tức là sai, không có đúng, đó là nuôi cái tà mạng của chúng ta. Cái tà nghiệp đó nuôi cái tà mạng.

Vị Tỳ Kheo ấy phải tránh xa…​

Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường vẫn còn nuôi sống bằng những tà nghiệp như làm nghề xem ngọc báu…​

Đó mấy cái người mà bán ngọc này kia đồ mình đem ngọc tốt đến họ xem coi ngọc này thứ thiệt hay thứ giả đó, đó là cái nghề xem ngọc báu đó.

…​ xem tướng que gậy, xem tướng áo quần, xem tướng gươm kiếm, xem tướng mũi tên, xem tướng cây cung, xem tướng võ khí, xem tướng đàn bà, xem tướng đàn ông, xem tướng thiếu niên, thiếu nữ, tướng đầy tớ nam, tướng đầy tớ nữ, tướng voi, tướng ngựa, tướng bò đực, tướng bò cái, tướng dê, tướng cừu, tướng gia cầm, tướng chim cun cút, tướng con tắc kè, tướng vật tai dài…​

(01:03:45) Tất cả những cái tướng này, hầu như người ta xem, các con, các thầy thấy, có người họ coi bò, trâu hay hoặc là ngựa, họ coi xoáy, coi bướm đó, coi con ngựa này có cái xoáy này - con ngựa hay, con ngựa dở, con bò này nó có cái xoáy này - con bò này ăn thịt chớ còn nó cày ruộng không được, đó là tất cả những cái điều kiện đó. Có nhiều người họ rành về bướm, xoáy dữ lắm cho nên họ coi tướng bò, tướng trâu, tướng ngựa đồ…​ là coi như vậy đó.

Còn ở đây thì nó - tất cả những cái này Đức Phật đều là cấm không có cho cái người tu sĩ, qua cái giới hạnh của người tu sĩ không có được hành động, không có được làm những cái nghề nghiệp đó như vậy.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi trong giới luật của Đức Phật.

Thì chúng ta thấy cái giới hạnh mà không có coi tướng, coi này, kia của người này, người kia hoặc là coi tướng bò, tướng trâu, tướng thú vật như ở trên đã kể, thì đó là cái giới hạnh thứ hai mươi trong giới luật của Đức Phật.

Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn nuôi sống bằng những tà nghiệp như đoán trước vua sẽ tiến quân, vua sẽ lui quân, vua bản xứ sẽ tấn công, vua ngoại bang sẽ triệt thoái, vua bản xứ thắng trận, vua ngoại bang thất trận, vua bản xứ bại trận, vua ngoại bang thắng trận, như vậy sẽ có sự thắng bại, sẽ có sự thắng trận cho phe bên này, sẽ có sự bại trận cho phe bên kia…​

Vị Tỳ Kheo này phải từ bỏ, từ giã những tà nghiệp như kể trên.

Đó là cái phần mà khi mà có chiến tranh đồ đó, thì mấy ông thầy chùm nhum lại bàn tính với nhau: ông vua này thắng, ông vua kia thắng.

Cũng như trong cái thời chiến tranh các con thấy không: “Mỹ nay nó đem quân qua nó đánh mình, chắc nó thắng á! Vũ khí nó quá trời nó bỏ bom ở Hà Nội tiêu hết rồi!” Đó là mấy ông thầy ngồi bàn chuyện với nhau như vậy đó.

Thì các thầy thấy rằng trong cái vấn đề đó là không phải cái vấn đề để chúng ta bàn, chúng ta là người tu sĩ phải giữ gìn cái hạnh, trường hợp nó xảy ra mặc nó, ai làm gì làm chúng ta chẳng biết hết! Còn mình bàn như vậy nó có lợi ích gì cho mình không? Mình có đem lại cái gì lợi ích cho mình không?

Nếu mình muốn bảo vệ Tổ quốc của mình thì mình phải khoác cái áo chiến trận ra, cởi chiếc áo tu sĩ chúng ta ra, rồi chúng ta sẽ làm công chuyện bổn phận của người dân để bảo vệ đất nước nó, thì hơn là mình ngồi đó là Mỹ thắng, là Tây thắng, là Việt Cộng thắng, là Việt Minh thắng…​ Điều đó là điều đâu có đúng!

(01:06:21) Cho nên vì vậy đó mình ngồi bàn, mấy ông thầy chùa ngồi với nhau bàn, bàn thắng trận, bàn này kia đủ cách, đủ loại, cho nên vì vậy đó là một cái sai.

Chúng ta muốn làm cái gì thì chúng ta phải làm cái nấy cho ra nấy. Là một tu sĩ chúng ta không có được nói đến cái vấn đề đó. Mà chúng ta muốn làm bổn phận người công dân thì chúng ta phải dẹp cái áo cà sa xuống đi, mặc cái chiếc áo chiến bào lên để mà chúng ta ra trận chiến đấu để dẹp giặc, thì như vậy đâu nó ra đó.

Còn bây giờ mặc chiếc áo này là phải cái hạnh chúng ta phải đàng hoàng, chớ không có được mà ở đó mà nói rằng cái này, cái nọ kia. Làm cái gì nó ra cái nấy cho đúng! Chớ còn mặc chiếc áo này mà xiên xẹo nói bên nây bên kia, rồi hùa bên nây bên kia, cuối cùng mai mốt đi ở tù, ở tù không có giá trị gì hết à!

Thà là mình đi chiến đấu mình ở tù nó có giá trị, mình dẹp giặc, mình bảo vệ đất nước của mình nó có giá trị, còn bây giờ mình nói cái chuyện tào lao như vậy chúng còng đầu mình bỏ tù, nói mấy ông thầy chùa này làm chính trị. Mà có làm chính trị đâu, nói miệng không à, mà bị ở tù! Oan ức không?

Đó là cái giới luật, cái giới hạnh của Phật cấm chúng ta là đúng chớ không phải là sai. Nhưng tại chúng ta không có học cái giới hạnh cho nên từ đó cái miệng của chúng ta nó đi đến cái sai lệch của nó, nó làm chúng ta lạc đường, lạc cái hạnh của một người tu.

Như vậy là giới hạnh của vị Tỳ Kheo thứ hai mươi mốt trong giới luật của Đức Phật.

Bởi vậy ở đây Thầy dạy cái nào nó ra cái nấy rất rõ ràng. Chúng ta là người như thế nào chúng ta phải làm đúng như thế nấy. Người tu sĩ phải làm đúng người tu sĩ, mà chúng ta muốn làm một bổn phận người công dân là chúng ta phải khoác áo người công dân chúng ta làm bổn phận của người công dân đất nước đó, chớ không phải là mang chiếc áo của tu sĩ mà làm bổn phận người công dân thì không đúng.

Mặc dù chúng ta biết chúng ta là người công dân nhưng mà chúng ta đã khoác chiếc áo này lên thì cái oai nghi tế hạnh của một người tu sĩ phải hẳn hòi của nó, chớ không thể nào mà lầm lạc được. Bởi vì Phật dạy nó quá rõ ràng, nó không thể nào lầm cái này qua cái kia được.

(01:08:13) Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà nghiệp như đoán trước sẽ có nguyệt thực; sẽ có nhật thực; sẽ có tinh thực; mặt trăng, mặt trời sẽ đi đúng chánh đạo; mặt trăng, mặt trời, sẽ đi ngoài chánh đạo; sẽ có sao băng; các tinh tú, sẽ đi đúng chánh đạo; các tinh tú, sẽ đi ngoài chánh đạo; sẽ có sao băng; sẽ có lửa cháy; phương hướng sẽ có động đất; sẽ có sấm sét; mặt trăng, mặt trời, các vì sao sẽ mọc, sẽ lặn, sẽ mờ, sẽ sáng; nguyệt thực sẽ có kết quả như thế này, nhật thực sẽ có kết quả như thế kia…​

Những điều trên đây vị Tỳ Kheo cần phải tránh xa, cần phải từ bỏ, không được lấy những nghề nghiệp này nuôi sống tà mạng.

Như vậy là giới hạnh của vị Tỳ Kheo thứ hai hai trong giới luật của đạo Phật.

Đó chúng ta biết, mặc sức chúng ta là người tu sĩ - đây là Thầy nói đơn sơ - chúng ta không làm cái nghề đó nhưng mà nghe nói nhật thực, nguyệt thực là chúng ta cũng chạy ra mà xem mặt trời mặt trăng ăn!

Mặc tình nó ăn gì nó ăn, kệ nó, ăn thua gì giới hạnh của chúng ta? Chúng ta là những người tu không có để ý đến cái hiện trạng xảy ra của trên cái trái đất này, nó làm gì thì kệ, trong cái vũ trụ này mặc tình nó làm gì làm.

Còn cái này, nghe người ta nói nhật thực cái mình cũng chạy ùa theo, cũng đi xem nhật thực, rồi nghe nguyệt thực cũng chạy ùa theo, nghe nói sao băng nó sẽ rớt ở trên quả địa cầu - ôm nhau mà khóc mà ráng, mà tu để cho nó thoát chết!

Thử hỏi một người tu sĩ mà như vậy là cái hạnh là như thế nào? Cái giới hạnh là như thế nào? Cho nên tâm luôn luôn lúc nào cũng dao động thì làm sao mà gọi là giới hạnh? Bị dao động trước mọi cái hiện tượng xảy ra của vũ trụ, bị dao động trước những hiện tượng của con người ở trên thế gian này, thì làm sao mà tâm chúng ta an ổn được?

Cho nên tất cả những này, chúng ta đã không hành nghề này mà chúng ta còn phải dẹp cái tâm dao động bằng cái giới hạnh của chúng ta, như vậy là chúng ta mới là những người tu sĩ của đạo Phật.

Đó thì, hôm nay được nghe giảng, được nói cho rõ từng chút, từng chút để quý thầy thấy cái tâm của chúng ta không dao động trước cái hiện tượng của thiên nhiên, chớ không phải là chúng ta bị dao động nó đâu.

Đây Thầy xin nhắc lại một câu chuyện để cho quý thầy thấy:

Trong một cái giáo đoàn của Đức Phật 1500 vị Tỳ Kheo, sau khi đi đến một cái bờ sông đó, thì trong khi trời tối cho nên không thể qua sông được, cho nên tất cả các đoàn tu sĩ đều là nằm ở trên cái bờ sông, nằm dựa theo bờ sông, nằm láng ở trên bờ sông và thậm chí như trong khu rừng nữa.

Nửa đêm bắt đầu nước nó dâng lên nó ngập, nó ngập rồi chúng hoảng hồn, hoảng vía nhao nhao hết. Đức Phật mới ra lệnh, mới ra lệnh cho một vị Tỳ Kheo: “Ông phải ngăn nước lại không có được cho nước tràn vô để chúng Tỳ Kheo ngủ, sáng ra đi!”

Thì cái vị Tỳ Kheo đó mới thực hiện chặn đứng nước lại, nước dâng lên cao mà không tràn vô, chúng Tỳ Kheo ngủ im rơ, sáng ra thì vị đó đưa chúng Tỳ Kheo đi hết rồi mới xả cho nước đi.

Thì các thầy thấy trong cái thời Đức Phật, Đức Phật ra lệnh cái vị nào làm cái phận sự nấy khi mà không có để chúng Tỳ Kheo nhôn nhao trong cái, trước thiên tai, trong cái, trước cái nạn mà có thể nói rằng nước lụt, nước trôi.

Cho nên đi ở trong cái giáo đoàn của Đức Phật, sự thật ra thì Đức Phật đã bảo vệ chúng Tỳ Kheo rất là nghiêm chỉnh không có để mà dao động trước cái hiện tượng của vũ trụ, của thời tiết.

(01:11:44) Đó. Đọc qua cái câu chuyện đó Thầy thấy, thật ra thì cái vị đó - nói lên cái chỗ mà Đức Phật sai thì vị đó mới làm. Nhưng mà sau khi vị đó làm rồi thì chúng Tỳ Kheo biết rằng cái vị đó đã có thần thông đến mức độ như vậy, thì lúc bấy giờ vị đó đã rời khỏi cái khu vực đó liền tức khắc, không có đi ở trong đoàn chúng đó nữa.

Nhưng mà đó là cái việc bất đắc dĩ để tạo cho chúng Tỳ Kheo được yên ổn nằm ở trên bờ sông mà không sợ nước cuốn trôi.

Nửa đêm nước dâng lên, tràn lên làm cho chúng hoảng hồn hết, do đó Đức Phật ra lệnh: “Ông hãy ra ông ngăn nước lại, không có được cho nước tràn!” Thì vị Tỳ Kheo đó dùng thần thông ngăn nước lại không cho tràn, tất cả các chúng Tỳ Kheo đều nằm yên, khô ráo không có một giọt nước.

Thì các thầy thấy trong lúc thời bấy giờ Đức Phật là như thế nào? Không phải là cái thần lực của Đức Phật đến mức độ mà Đức Phật không dùng thần lực của mình, sai người đệ tử của mình thôi!

Để tới những cái vấn đề đó Thầy sẽ nhắc lại cái vị cao tăng đó tên gì họ gì để cho quý thầy biết.

Vị Tỳ Kheo cần phải tránh xa, từ bỏ các tà nghiệp như kể trên.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi ba trong giới luật của Đức Phật.

Hồi nãy hai mươi mấy rồi con, hai mươi hai phải không? Như vậy là Thầy chưa có đọc cái đoạn này, cái giới hạnh hai mươi ba.

Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà nghiệp như: đoán trước sẽ có mưa nhiều, sẽ có đại hạn; sẽ được mùa, sẽ mất mùa; sẽ được an ổn, sẽ bị bệnh, bị hiểm họa; sẽ có những bệnh ôn dịch, sẽ có bệnh này, bệnh khác…​ Hay làm nghề như: đếm trên ngón tay, tính số, đoán quẻ âm dương, kế toán, làm sổ sách, làm thư ký, làm theo các nghề của thường tình thế gian.

Nghĩa là từ cái chỗ mà đoán cái nghề nghiệp, đoán mưa nhiều, mưa ít, rồi xem bệnh ôn dịch, bệnh - nào là bệnh đậu mùa, hoặc là như là làm nghề mà đếm ngón tay, tính sổ sách, rồi toán quẻ âm dương, hoặc là làm sổ sách như làm thư ký, hoặc là làm các nghề của thế gian khác, thì tất cả những cái nghề nghiệp này Đức Phật cấm luôn không có cho làm.

Như vậy đó là cái giới hạnh thứ hai mươi ba trong giới luật của Đức Phật.

(01:14:18) Vị Tỳ Kheo cần phải tránh xa, từ bỏ tà nghiệp như kể trên.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi ba trong giới luật của Đức Phật.

Đó thì, những cái giới hạnh mà Thầy kể ra các con, các thầy có thấy ở trong giới luật của Phật không? Không có, trong cái giới bổn của Phật không có nói. Nhưng mà ở đây kể rất kỹ những cái giới hạnh, bởi vì đây là những cái mà chúng ta lầm lạc.

Cho nên có nhiều người làm thầy thuốc nè, có nhiều người làm châm cứu nè, có nhiều người làm những cái chuyện mà họ tưởng đó là cái chuyện đúng, nhưng mà sự thật đó là cái chuyện sai, cái chuyện không đúng.

Có nhiều người làm thầy cúng, thầy bái, có nhiều người làm đủ loại hết, người ta vẫn cho đó là trong đạo Phật. Mà nhan nhản là hình ảnh đó trong đạo Phật chúng ta rất nhiều.

Mà cái giới hạnh thì không có ai dạy hết, cho nên người ta không biết đâu mà người ta - hễ nói đến họ thì họ nói giới luật không có nói cái điều đó. Bởi vì giới bổn thì đâu có nói cái điều đó, nhưng mà cuối cùng thì giới hạnh rất là đầy đủ, rất là rõ ràng.

Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn tự mình nuôi sống bằng những tà nghiệp như: chọn ngày lành để rước dâu hay rể về nhà; chọn ngày lành để đưa dâu hay rể; lựa ngày giờ tốt xấu để hòa giải…​

Để đi thưa kiện đó.

…​ lựa ngày giờ tốt xấu để chia rẽ; lựa ngày giờ tốt xấu để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt xấu để cho mượn, cho vay tiền, tiêu tiền; lựa ngày giờ tốt xấu mà xuất hành, nhập gia, ăn tân gia; lựa ngày giờ tốt xấu đi buôn, đi kiện thưa, tụng gởi; lựa ngày giờ tốt xấu an táng, trừ linh, trừ thần…​

Có không? Ở đời chúng ta thấy cái đó là nó quá nhiều, mà ở trong cái kinh giới của Phật thì nó không có, mà cái giới hạnh của Phật thì Phật đã dạy chúng ta rất là đầy đủ.

Cho nên tất cả những cái điều mà chúng ta làm như vậy đó là cái hạnh của chúng ta sai, của người tu sĩ sai. Cho nên chúng ta không có nên làm những cái điều đó.

Đó thì, chúng ta đã học tới đây là chúng ta không có chọn ngày giờ tốt xấu bằng cách này bằng cách khác.

Mà hầu như là hiện giờ tu sĩ của chúng ta trong chùa thì hầu hết là luôn luôn lúc nào - mà chính bản thân của Thầy đây, nghĩa là người ta đến đây người ta nhờ Thầy phải coi ngày tốt xấu, coi ngày ăn tân gia, coi này kia. Thiệt là một cái điều kiện mà Thầy thấy không có làm, mà họ năn nỉ thế này thế khác, họ nói Thầy thế này thế khác đủ thứ hết!

Cho nên Thầy thấy đó là một cái điều kiện không phải là người tu sĩ. Mà không làm những cái điều này cho thỏa mãn họ đó, thì họ nói mình tu sĩ không có giúp đỡ họ cái gì hết, không có làm gì cho Phật tử hết!

Người Phật tử nào mà gọi là ruột nhất là đòi hỏi nhất cái này nè! Họ nói Thầy coi một ngàn lần trúng một ngàn lần, cái gì nó hay vô cùng lận, nói đâu có đó, coi ngày tốt là tốt mà coi ngày xấu là xấu, họ tin như vậy lận đó.

(01:17:23) Cho nên Thầy thấy điều đó là một cái điều thiệt là nó không có đúng cái người tu sĩ của đạo Phật lúc nào!

…​ dùng bùa chú để giúp người buôn bán, làm ăn may mắn; dùng bùa chú để khiến người gặp tai nạn rủi ro; dùng bùa chú yếm nhà cửa, phá thai; dùng bùa chú khiến cho người ta cóng lưỡi, khiến cho quai hàm cử động, khiến cho tay chân múa men, nhảy nhót như điên khùng; dùng bùa chú khiến người đưa tay lên, xuống; dùng bùa chú khiến người bị điếc; dùng bùa chú hỏi gương; dùng bùa chú hỏi đồng cốt, thiếu nữ, hỏi tà ma, hỏi quỷ thần về tật bệnh, về tai nạn của con người; dùng bùa chú đi hỏi thiên thần để biết họa phước; thờ thần mặt trời, thần đất, thần núi, thần lửa, thần tài và cầu Si-ri thần tài để mang đến tài lợi cho gia chủ.

Nghĩa là cái ông thầy đó ổng dùng bùa chú, dùng thần chú để đọc để thần sông, thần núi, thần lửa đến, hay hoặc là thần tài Si-ri cũng đến để mà đem lại cho cái lợi cho cái gia chủ mà cái người đó rước ông thầy đến mà để mà rước thần, rước này kia.

Đó là những cái điều kiện như vậy đó, là Đức Phật cũng cấm không có cho chúng ta thực hiện những cái hành động, làm cái nghề nghiệp như vậy.

Vị Tỳ Kheo cần phải tránh xa, từ bỏ những nghề nghiệp không chân chánh ở trên.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi bốn trong giới luật của Đức Phật.

Đó là đừng có dùng bùa chú, đừng có dùng thần chú mà rước thần, kêu thần, kêu thánh đến để mà gia hộ, phù hộ cho gia chủ của mình được giàu sang, được hạnh phúc, thì cái điều đó là cái điều mà Đức Phật cấm các vị đệ tử của Ngài không có được làm.

Đó là những cái tà hạnh chớ không phải là cái giới hạnh của người tu sĩ đạo Phật, đó là thứ hai bốn.

(01:19:26) Vị Tỳ Kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn tự nuôi sống bằng tà nghiệp như: dùng chú thuật để gạt người, để tìm đất tốt làm nhà, để cầu phước cho nhà mới; làm lễ cúng bái, làm lễ tắm, lễ hy sinh; làm thuốc nôn mửa, làm thuốc bài tiết xổ, tẩy tịnh trong đầu; thoa dầu trong lỗ tai, lỗ mũi, nhỏ mắt lỗ tai, lỗ mũi; chữa mắt, chữa tai, chữa mũi; làm thầy thuốc, thầy mổ xẻ, thầy chữa bệnh con nít, làm thầy thuốc nam cho uống bằng rễ cây, lá cây…​

Đó, tất cả những cái này Phật cũng cấm chúng ta là những người tu sĩ không được làm tất cả những cái nghề thầy thuốc như vậy.

Dù là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của người ta đau bệnh gì thì đi đến ông thầy nào chuyên môn mà người ta chữa, chớ mình làm ông thầy tu rồi thì hoàn toàn là không làm cái điều đó, mà chỉ lo làm sao mà giữ cho đúng những cái giới hạnh để mà tu cho được giải thoát là cái điều quan trọng nhất.

Chớ làm cái chuyện đó rồi người ta thấy ông thầy tu nó thành ra ông thầy thuốc rồi, người ta thấy ông thầy tu nó thành ra ông thầy bùa rồi, người ta thấy ông thầy tu thành ra ông thầy trị mắt rồi, người ta thấy ông thầy tu nó trở thành ông thầy thuốc nam rồi.

Ông thầy chùa nay ổng thành ông thầy thuốc nam rồi: “Trời ơi, ổng đi chặt rễ cây, rễ rừng, ổng vác cả đống đống về đây, bà con mình xuống đến đó mà có đau bệnh ổng cho mình chớ gì!” Tức là trở thành cái ông thầy thuốc nam, rồi trở thành ông thầy chữa mắt, rồi trở thành ông thầy mổ xẻ bằng cách này, bằng cách khác.

Cuối cùng ông thầy tu, ông thầy giải thoát mà không giải thoát, mà vây quanh bao nhiêu cái nhân quả nghiệp báo của chúng! Chúng ta làm sao mà giải quyết được cái nghiệp báo đó, chỉ có cái hành động tu đúng giới luật của chúng ta là cái mục đích là giải thoát được cái nhân quả nghiệp báo, để cho người ta nương theo đó mà hết.

Còn bây giờ mình chặt lá cây, lá cối cho người ta uống bớt đó, mai mốt cái nghiệp người ta nó còn nữa chớ đâu phải hết, cho nên càng uống thấy bệnh càng nhiều. Nếu mà hết thì bây giờ nhà thương đâu có bệnh nhân? Mà thế mà uống thuốc càng nhiều, thầy thuốc càng nhiều lại sao bệnh nhân lại đống đống như vậy?

Quý thầy thấy không, chúng ta trị cái bệnh mà không trị ở cái gốc mà cứ trị ở cái ngọn làm sao cho nó hết? Do cái gốc nhân quả, mà chúng ta không trị được cái gốc bệnh nhân quả mà lại đi trị cái ngọn thì làm sao mà cho hết bệnh nhân của thế gian này?

Biết bao nhiêu người tốt nghiệp ở trong các trường y khoa, mà rồi thế gian này bệnh vẫn bệnh, mà có nhiều cái bệnh bây giờ gọi là những cái bệnh mà không có thuốc trị nữa, chết biết bao nhiêu người!

Cái bệnh gì? Cái bệnh Sida hay bệnh gì đó Thầy chả biết, nhưng mà Thầy nghe nói cái bệnh đó bây giờ không có thuốc trị. Thầy thuốc đông quá mà bây giờ trị bệnh không nổi rồi, chịu thua nó rồi. Cuối cùng thì càng ngày Thầy thấy các cái bệnh trạng nó càng có những cái bệnh khó hơn nữa.

(01:22:15) Do đó chúng ta phải từ ngay cái gốc, mà từ ngay gốc đó là những cái giới hạnh của người tu sĩ đó là trị ngay cái bệnh gốc. Thế mà chúng ta không trị ngay cái bệnh gốc của mình mà cứ đi dùng thuốc thang trị ở ngoài ngọn lá làm sao cho hết?

Cho nên đối với người tu sĩ có bệnh có sợ không? Bệnh cùi mà người ta rớt từng ngón tay kia mà người ta còn không sợ, người ta đặt cái thọ khổ trước mặt, người ta tu cái Định Vô Lậu người ta quét sạch, người ta giải thoát!

Các thầy không thấy điều đó, còn bệnh quý thầy có ăn nhằm nhò gì mà mỗi chút là mỗi rên, mỗi chút là mỗi sợ. Đối với người tu sĩ của đạo Phật, giới hạnh chúng ta nghiêm chỉnh thì chúng ta chẳng sợ trước cái thọ nào hết.

Cho nên trong một đêm bị cảm lạnh mà Thầy chỉ cần ngồi trên bồ đoàn nhiếp tâm trong hơi thở, hoàn toàn thắng được cái cơn cảm lạnh. Thì có gì đâu, các thầy thấy rất rõ. Chúng ta đừng có sợ hãi cái thọ, mà chúng ta chiến đấu nó bằng cái sức lực tinh thần của chúng ta thì chúng ta sẽ qua tất cả mọi cái. Thọ làm sao giết chúng ta được, nhân quả làm sao hại chúng ta được, khi mà chúng ta chuyển nó?

Đó là cái chỗ mà chúng ta phải đi về tận cái gốc mà trị, còn bây giờ chúng ta cứ làm cái nghề này là trị cái ngọn của thiên hạ chớ làm sao chúng ta trị cái gốc? Cho nên Đức Phật cấm không có cho những cái hành động của tu sĩ chúng ta làm những cái nghề đó.

Vị Tỳ Kheo cần phải tránh xa, từ bỏ những tà nghiệp không chân chánh đối với người tu sĩ đạo Phật.

Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi lăm trong giới luật của Đức Phật.

Đó, thì bắt đầu chúng ta thấy trong cái sự tu tập của chúng ta mà đến cái chỗ này chúng ta thấy cái giới hạnh hai mươi lăm của chúng ta là Đức Phật đã cấm chúng ta không có cho làm nghề thầy thuốc đó, dù thuốc nam, thuốc bắc, thuốc tây thuốc gì cũng không cho hết, cấm bặt.

Chúng ta phải thực hiện cái ông thầy thuốc trị cái bệnh gốc chớ không phải trị cái bệnh ngọn. Còn quý thầy mà làm thầy thuốc thì đó là quý thầy đã trị cái bệnh ngọn chớ không phải trị cái bệnh gốc.

Bởi vậy Đức Phật gọi là “y vương”. Y vương là ông vua thuốc mà trị thì trị cái bệnh gốc của chúng sanh chớ không phải trị cái bệnh ngọn của chúng sanh.

Vị Tỳ Kheo nhờ giữ giới hạnh không làm những tà nghiệp không đúng hạnh nghiệp của người tu sĩ, nhờ đầy đủ giới hạnh, luật nghi nên vị Tỳ Kheo ấy không thấy sợ hãi từ một phương diện nào của sự giữ gìn, hộ trì giới luật.

Đây quý thầy thấy cái câu chỗ này, hai mươi lăm cái hạnh, cái giới hạnh của người tu sĩ thì chúng ta - Đức Phật đã kết luận hai mươi lăm giới hạnh như thế nào? Nếu mà chúng ta giữ tròn những giới hạnh đó thì dù trước cái sợ hãi nào chúng ta cũng chẳng sợ hãi hết!

Đây Thầy đọc lại cho quý thầy thấy cái câu kết luận của Phật trong kinh rất rõ:

Vị Tỳ Kheo nhờ giữ giới hạnh không làm những tà nghiệp không đúng hạnh nghiệp của người tu sĩ, nhờ đầy đủ giới hạnh, luật nghi nên vị Tỳ Kheo ấy không thấy sợ hãi từ một phương diện nào.

(01:25:08) Đó, không có sợ, từ cái phương diện nào đến thì vị đó không bao giờ sợ hãi hết. Nghĩa là giới hạnh nó hộ trì vị đó không bao giờ sợ hãi, trước cái sống chết của vị đó mà giới hạnh nó sẽ cũng làm cho cái vị đó không sợ hãi.

Sự giữ gìn, hộ trì giới luật này…​

Nghĩa là với cái sự mà giữ gìn, hộ trì mà đúng cách của giới hạnh này thì quý vị không bao giờ có sợ hãi, trong khi quý vị sắp sửa chết quý vị cũng chẳng sợ hãi nữa, mà nếu quý vị mà không thực hiện được giới hạnh này thì quý vị luôn luôn là lúc nào quý vị cũng sợ hãi hết.

Vị ấy nhờ giới hạnh, luật nghi cao quý này nên hưởng thọ lạc, nội tâm thanh tịnh không còn si ám, đó là Tỳ Kheo đầy đủ giới hạnh, luật nghi.

Đây là giới hạnh luật nghi, là hai mươi lăm cái điều giới hạnh này, mà chúng ta giữ trọn đầy đủ thì chúng ta không còn si ám, nội tâm chúng ta thanh tịnh, và cái hạnh luật nghi này nó làm chúng ta có một cái thọ hưởng lạc rất là đầy đủ, nó làm chúng ta an ổn rất là đầy đủ. Cho nên trước những cái đối tượng trước những cái gì chúng ta cũng chẳng sợ hãi hết, cho nên gọi là “nên hưởng thọ lạc”.

Bây giờ Thầy đọc lại câu này của Phật ở trong kinh, Phật nói rất rõ:

Vị ấy nhờ giới hạnh, luật nghi cao quý này nên hưởng thọ lạc…​

Nghĩa là giữ gìn cho nó trọn vẹn thì vị ấy rất là thọ lạc.

…​ nội tâm thanh tịnh không còn si ám, đó là Tỳ Kheo đầy đủ giới hạnh, luật nghi.

Tức là giới hạnh cụ túc đó, giới hạnh đầy đủ. Như hồi nãy Thầy nói giới hạnh đầy đủ như thế nào đó, giới hạnh đầy đủ như thế nào, thì đây là kết luận để chúng ta thấy giới hạnh đầy đủ luật nghi là do cái chỗ chúng ta giữ gìn, sống đúng những cái hành động chúng ta, hai mươi lăm cái giới hạnh đó.

Đó thì như vậy chúng ta đã học được hai mươi lăm giới hạnh của một người tu sĩ, tức là học hai mươi lăm cái oai nghi tế hạnh của một cái người tu sĩ khi bước chân vào đạo là chúng ta phải hiểu cái giới hạnh đó.

(01:27:10) Đây là phần Sơ Thiện…​

Nghĩa là cái phần giới hạnh này Đức Phật được xem nó là cái phần Sơ Thiện mà Đức Phật đã từng nhắc nhở các vị Tỳ Kheo, các vị đệ tử của mình.

Đây là phần Sơ Thiện mà Đức Phật thường nhắc đi nhắc lại cho các đệ tử của mình để tránh xa những tà nghiệp mà luật nghi răn cấm, không cho vi phạm. Vì vi phạm những luật nghi này thì người tu sĩ khó mà đạt được mục đích giải thoát chân chánh của đạo.

Đó thì, quý thầy phải nhớ kỹ trong cái vấn đề luật nghi về cái giới hạnh này được xem như là Sơ Thiện của đạo Phật, chứ chưa phải là Trung Thiện, chưa phải là Hậu Thiện đâu.

Còn Trung Thiện và Hậu Thiện nó còn cao siêu hơn nữa, bởi vì cái Trung Thiện nó là giới đức mà Hậu Thiện nó là giới tuệ, nó phân ra từng chút, từng chút rất rõ, còn Sơ Thiện đó là cái phần giới hạnh của chúng ta.

Bởi vì đạo Phật là đạo thiện - đạo thiện pháp, cho nên nó đứng ở trong giới luật chúng ta phân ra chỗ nào là thiện chỗ nào là không thiện, chúng ta thấy rất rõ. Nếu mà chúng ta đi ngược lại hai mươi lăm giới này là không thiện, tức là không phải sơ thiện của chúng ta đâu.

Đây chính là phần giới hạnh của người tu sĩ đạo Phật. Các thầy phải cố tránh và giữ gìn cho nghiêm túc để viên mãn thành ly dục, ly ác pháp trong giới hạnh của Phật.

Nghĩa là, trong cái Sơ Thiện này mà quý vị đã giữ gìn được nó thì quý vị đã ly dục, ly ác pháp trong cái giới hạnh đó. Chớ không phải là ly dục, ly ác pháp ở trong cái thiền định mà nhập Sơ Thiền đâu, mà đây là ly dục, ly ác pháp ở trong cái giới hạnh.

Quý vị phải hiểu ở chỗ ly dục, ly ác pháp trong giới hạnh nó không phải là ly dục, ly ác pháp để nhập Sơ Thiền, hai cái này nó khác. Phải hiểu ở chỗ dùng để mà hiểu nó.

Bởi vì trong khi mà chúng ta thực hiện các hạnh như vậy tức là chúng ta phải có sự ly dục, có sự hàng phục, có sự khắc phục trong cái tâm ham muốn của chúng ta, do cái chỗ đó thì chúng ta mới ly tất cả ác pháp mới ra. Cho nên ly dục, ly ác pháp ở trong giới hạnh của Đức Phật là trong cái Sơ Thiện của nó.

Nếu quý vị không gìn giữ đúng giới hạnh này thì con đường tu tập theo đạo Phật của quý vị chỉ hoài công, mà biến quý vị thành trùng trong lông sư tử, trở lại giết sư tử chết. Cũng như bao thế kỷ nay, trùng trong lông sư tử đã giết sư tử chết mà ai ai cũng không ngờ!

Nghĩa là người ta không có ngờ rằng con sư tử đã chết mất rồi, mà người ta cứ tưởng rằng con trùng đó là sư tử, nhưng mà không ngờ là toàn là thứ trùng ở trong lông sư tử.

6- GIỚI HẠNH CẦN DỨT BỎ, GIỚI ĐỨC CẦN TRAU DỒI, TU TẬP

(01:29:48) Đến đây là giai đoạn phần giới đức của người tu sĩ…​

Đây là phần mà Thầy dạy tiếp cho cái kỳ sau đó, dạy tiếp cho quý thầy là phần giới đức của người cư (tu) sĩ của đạo Phật:

…​ cần phải trau dồi tu tập từng phút, hằng phút, hằng giây không được biếng trễ.

Tới cái giai đoạn giới đức thì quý vị tu tập, trau dồi nhiều hơn. Còn cái phần kia là quý vị phải dứt bỏ và sống cho đúng những cái hành động của mình ở trong cái Sơ Thiện, ở trong cái giới hạnh của nó là cái phần này nó ít có sự tu tập, trau dồi, mà phải sống, sống cho đúng, phải tập sống cho đúng, phải dứt bỏ những cái ác để cho chúng ta sống đúng thôi.

Còn cái phần giới đức thì trau dồi, tu tập hết sức, cái phần này là cái phần quan trọng chớ không phải là cái phần ít. Cho nên đến cái phần giai đoạn giữa này - giới đức - thì chúng ta - là cái phần rất là quan trọng.

Phần giới hạnh là phần dứt bỏ…​

Đây Thầy giải thích thêm để chúng ta biết:

Phần giới hạnh là phần dứt bỏ, phải từ giã, không làm nữa. Phần này là phần giữ gìn, cảnh giác nghiêm ngặt không được mọi hành động vi phạm, dù một sự việc rất nhỏ cũng không được lầm lạc.

Đó, thì cái phần giới hạnh là cái phần dứt bỏ, còn cái phần giới đức là cái phần tu tập, trau dồi. Hai cái phần này nó có hẳn hòi là nó phải có những cái pháp hành của nó như thế nào để mà chúng ta thấy biết rõ ràng.

Cho nên cái phần nào mà dứt bỏ, thì cái phần giới hạnh là cái phần dứt bỏ. Cho nên ở trong đầu chúng ta cứ nghe cái phần mà chúng ta nhắc đi, nhắc lại đó là “phải dứt bỏ”, là “phải từ giã”, là “phải xa lìa” đó. Đó là cái phần dứt bỏ đó.

(01:31:28) Cho nên mỗi cái hành động đó - bởi vì bây giờ mình muốn làm cái nghề thầy thuốc, hiện giờ cần mình phải dứt bỏ chớ, mình cứ mình làm thầy thuốc mà mình không dứt bỏ thì làm sao dứt bỏ? Bây giờ tu tập làm sao mà hết làm thầy thuốc đây, phải không?

Cứ vác rựa vô trong rừng chặt rễ cây, chặt cây về cứ vạt, rồi hốt cho người ta, thì giờ mình chỉ cần dừng lại đừng có…​ thì đó là dứt bỏ, mà cứ chặt vạt hoài, hốt hoài thì làm sao mà dứt bỏ!

Cho nên cái phần giới hạnh là cái phần dứt bỏ, chớ không phải là cái phần tu tập. Đó cho nên cái Sơ Thiện mà của đạo Phật dạy là cái phần dứt bỏ chớ không phải phần tu tập, phần trau dồi đâu.

Đó. Thì như vậy thì chúng ta thấy được cái phần nào dứt bỏ, cái phần nào tu tập, phần nào trau dồi.

Còn cái phần giới đức là cái phần tu tập và phần trau dồi, nó phải khác, nó ở đây nó có những cái khác chớ nó không phải giống như vậy.

Đó thì quý thầy đã hiểu rồi, quý thầy đã rõ rồi, thì như vậy quý thầy biết được cái phần dứt bỏ là phần nào rồi đó. Cho nên ở trên ớ Phật nói đó: thông hiểu, rồi dứt bỏ, rồi trau dồi, rồi tu tập. Cái phần dứt bỏ, bây giờ đó dạy tới cái giới hạnh thì quý thầy thấy cái phần dứt bỏ, dứt bỏ rất rõ ràng.

Còn phần giới đức, như Thầy đã dạy ở trên, phải siêng năng trau dồi, tu tập và còn phải…​

Cái phần giới đức nó còn phải có cái phần dứt đoạn nữa, phải dứt bỏ nữa. Nó vừa trau dồi, vừa tu tập mà cần phải dứt bỏ những cái gì?

Thí dụ như bây giờ mình ghiền thuốc phiện hay ghiền thuốc, mà bây giờ mình cứ mình trau dồi cái này cái kia mà mình không chịu, cứ hút thuốc hoài thì thử hỏi làm sao mà trau dồi cái giới đức mình được? Cho nên phải dứt bỏ không hút thuốc.

Dứt bỏ không ăn phi thời, dứt bỏ, cái đó là phải dứt bỏ. Ở trước kia là giới hạnh chúng ta dứt chưa hết, thì bây giờ tới đây nó còn dính dấp một chút gì đó thì phải tiếp tục dứt bỏ nữa, và đồng thời thì tu tập và trau dồi nó mới có kết quả.

…​ những (gì) chưa dứt bỏ hết (ở) cái phần thứ nhất và cái phần này về chuyên tu trau dồi nhiều hơn.

Về cái phần mà tu tập trau dồi, về cái phần thứ hai này, cái phần giới đức thì nhiều hơn, và cái phần dứt bỏ nó chỉ còn chút ít những cái thói quen mà không bỏ được, thì bây giờ chúng ta tiếp tục chúng ta dứt bỏ để cho thành tựu được cái giới hạnh, và đồng thời thì chúng ta tiếp tục tu tập và trau dồi những cái giới đức.

Đến đây thì Thầy xin ngưng lại vì chúng ta sẽ hết giờ rồi.

7- HIỂU MÀ CHƯA TU TẬP THÌ CHƯA CHỨNG ĐƯỢC LÝ

(01:33:51) …​ khi chúng ta thực hiện thì chúng ta lại thấy rằng, về cái sự mà thực hiện thì nó không phải như là chúng ta tưởng đâu.

Chúng ta nghĩ rằng: Bây giờ mình hiểu nó là bất tịnh, mình hiểu nó hôi thúi, mình cũng biết là máu, mủ, đờm, nhớt ở trong người của mình là bất tịnh, nhưng mà sự thật ra mình chưa có tu thì mình chưa thấm được cái lý đâu.

Cho nên cái hiểu của mình đó là mới có ngộ được cái lý bất tịnh chứ chưa phải là chứng được cái lý bất tịnh. Mà chứng được cái lý bất tịnh là phải siêng năng, chuyên cần, hằng ngày phải đặt cái niệm bất tịnh, cái thân bất tịnh trước mặt của mình, rồi mình quán xét, suy tư nó thấu được cái lý đó, nó chứng được cái lý đó, thi nó mới thật sự là mình mới giải thoát được cái tâm nó không còn phiền não tham, sân, si, nó không còn ham muốn nữa.

Chớ bây giờ mình nói mình hiểu được bất tịnh, nhưng mà nó chưa chứng được cái lý bất tịnh đó thì cái tâm vẫn còn ham muốn, thấy cái gì tốt đẹp vẫn còn ham muốn,thấy cái gì vẫn còn thương, vẫn còn ghét, vẫn còn giận hờn được, thì đó là chưa chứng được cái lý bất tịnh.

Còn chứng được cái lý thì cái tâm giận hờn phiền não tham,sân, si chúng ta nó mất hết rồi, nó không còn nữa. Cho nên lần lượt chúng ta đặt cái niệm thâm sâu để cho cái tâm nó thanh tịnh, nó chứng được một cái lý chân thật của pháp, thì lúc bấy giờ chúng ta mới giải thoát được.

8- GƯƠNG HẠNH TU TẬP THỜI ĐỨC PHẬT - PHẦN 3

[Phần 2 ở Giáo án 17]

8.1- NGÀI SÀMÀ THIỀN QUÁN VỀ TÂM KHÔNG PHÓNG DẬT

(01:35:06) Đây có một vị Thánh Ni cũng thời Đức Phật đã tu tập đạt được cái sự chứng đạo.

Bà Sàmà.

Khi mà còn là cư sĩ, bà có một người bạn rất thân. Người bạn của bà chết.

Tức là người bạn của bà tên là Sàmàvati, bà này chết.

Bà quá đau đớn và khổ sở khi người bạn mất.

Và cũng từ cái người bạn chết đi đó, bà mất đi tất cả những sự vui ở trong thế gian, vì không còn cái người bạn nào hơn là cái người bạn này.

Cho nên bà rất buồn khổ và bà xin xuất gia tu hành. Trong hai mươi lăm năm, bà sống ở trong tịnh xá…​

Ở trong cái nơi mà tu hành, trong ni chúng đó.

Hai mươi lăm năm trời, bà không nhiếp phục được tâm bà.

Bà có cái nỗi khổ đó, nỗi khổ của người bạn mất. Nhưng mà bà chỉ lấy cái sự buồn khổ đó mà vào tu hành thôi chớ còn bà không biết như thế nào để mà nhiếp phục tâm mình, cho nên tới suốt hai mươi lăm năm bà chẳng có nhiếp phục được tâm.

Cho đến khi trở về già, bà được nghe một bài thuyết pháp tu tập thiền quán.

Nghĩa là bà luôn luôn bà đi vào trong cái sự tu tập của đạo Phật là vốn vì thương người bạn mình chết đi, bà buồn khổ, bà vô đó bà ở tu để cho nó quên đi, chớ còn cái tu để mà giải thoát thì bà không có ý thức.

Qua cái chỗ này mới thấy là hai mươi lăm năm bà chịu đựng ở trong cái sự tu tập để tránh đi cái khổ của cuộc đời, cái khổ đi của người chết làm cho bà đau khổ đó.

Cho nên một hôm, bà đã già rồi, thì một hôm bà được nghe một cái bài thuyết pháp về cái đề tài thiền quán tâm không phóng dật. Đó các con thấy tâm không phóng dật, vậy tâm không phóng dật là như thế nào?

Sau đó bà lấy cái đề tài thiền quán đó mà bà nỗ lực bà tu tập thì bà đã chứng quả A La Hán. Từ cái chỗ đau khổ bà xuất gia tu hành, mãi tới hai mươi lăm năm, sau đó bà già rồi, bà mới được cái đề tài để mà tu tập tâm không phóng dật.

Chúng ta nghe thường cái danh từ “tâm không phóng dật”, nhưng chúng ta nói thì được, hiểu thì được, nhưng mà để mà chứng được cái lý mà tâm không phóng dật thì nó không có đơn giản đâu. Nó có những cái khó khăn của cái sự tâm không phóng dật.

Vì vậy sau khi bà đã chứng quả A La Hán bà làm một cái bài kệ để chứng tỏ rằng tâm không phóng dật như thế nào để mà nó thấu được cái lý đó, nó chứng được cái lý tâm không phóng dật.

Đây bà thuật lại cho chúng ta thấy được suốt cái thời gian tu tập của bà:

Từ khi ta xuất gia,

Đã được hai mươi lăm năm.

Ta không thắng tri tâm,

Không được tâm thăng bằng,

Tâm không được an tịnh,

Không nhiếp phục được tâm,

Do vậy ta dao động.

Nhớ đến lời Phật dạy,

Chú tâm không phóng dật,

(01:38:02) Đó, bây giờ bà mới nhớ đến được cái đề mục, cái pháp hướng tâm không phóng dật, cho nên bây giờ bà mới lấy cái câu đó mà hằng ngày bà rèn luyện cái tâm của mình không cho nó phóng dật.

Bà chứng được cái lý tâm không phóng dật thì bà thoát khỏi cái cảnh khổ của thế gian:

Ta gắng thoát pháp khổ,

Ái diệt, ta chứng đạt,

Thành tựu lời Phật dạy.

Hôm nay đêm mùng bảy,

Khát ái được khô cạn.

Khát ái tức là tâm ái dục, nó không còn nữa, mà suốt bảy ngày đêm. Cho nên ở đây:

Hôm nay đêm mùng bảy

Tức là bắt đầu ngày mà thực hiện cái đề mục tâm không phóng dật đó cho đến ngày thứ bảy, bà đã đạt được cái sức thiền định giải thoát, làm chủ được sanh tử luân hồi.

Đó thì tu đâu có lâu đâu, nhưng mà tu đúng, tu cách miên mật, tu cho tâm nó đừng có phóng ra, thì cái điều đó là một cái điều rất khó và phải có nhiều cái kinh nghiệm tu tập.

Cho nên suốt hai mươi lăm năm bà tu tập chẳng ra gì, cho đến khi mà bà được cái câu đề tài tu tập tâm không phóng dật, rồi bà lấy câu đó làm cái pháp hướng nhắc tâm của mình hằng ngày, chuyên cần hằng ngày.

Bởi vì bà hiểu qua một cái thời gian dài tâm bà luôn luôn dao động lúc nào cũng giận hờn, phiền não lúc nào cũng thấy cái gì cũng dính mắc, ham muốn. Cho nên bà xét qua hai mươi lăm năm tu hành mình chỉ còn có cái cách thức là mình trốn đau, trốn khổ của cuộc đời chớ mình không có cái giải thoát thật sự.

Do đó bà suy nghĩ như vậy mà bà dùng cái pháp hướng của tâm không phóng dật, bà nhắc đi nhắc lại cái tâm của mình cho đến khi nó thấm đạt, nó thấm được cái lý, cái lý không phóng dật. Từ đó bà đã chứng đạt đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.

Đó thì hai cái gương hạnh qua những cái bài pháp, qua những cái đề mục và những cái pháp hướng mà các ngài đã thực hiện được sự làm chủ sanh tử như vậy, thì lấy cái gương hạnh này, chúng ta, các con cũng nên chọn cho mình một cái đề tài như thế nào để phù hợp với tâm tư của mình, để mình thực hiện được giải thoát.

Đến đây Thầy xin dừng lại để các con tiếp tục nghe cái lời giảng của Thầy trong cái buổi sáng để thấu được thế nào là cái giới đức, thế nào là cái giới hạnh, thế nào là cái giới đức rồi thế nào là cái giới tuệ, thế nào là cái giới bổn, nó bốn cái điều kiện mà chúng ta cần phải thông suốt trên một cái con đường tu tập theo đạo Phật.

Vì đạo Phật, giới là duy nhất không có gì khác hơn hết toàn, bộ kinh sách của Phật đều là giới, mà giới là thiện pháp, mà thiện pháp tức là nhân quả thiện làm cho chúng ta thoát ra khỏi sự đau khổ.

Bây giờ thì các con sẽ tiếp tục nghe cái bài giảng hồi sáng.

8.2- NGÀI PHÚ LÂU NA HỘ TRÌ CÁC CĂN

(01:40:54) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái chương trình học. Nhưng trước khi học cái phần giới đức, thì chúng ta sẽ - Thầy sẽ thuật lại cho quý thầy nghe những cái mẩu chuyện của những bậc Thánh Tăng để chúng ta nương theo đó mà lấy cái kinh nghiệm, mà nương vào các bậc Thánh Tăng trong thời Đức Phật để mà lấy cái kinh nghiệm đó mà chúng ta rút tỉa tu hành cho chính mình, và cũng là những cái gương mà sách tấn làm cho chúng ta lấy cái đó mà làm gương tu ở trên bước đường theo đạo Phật.

Để tiếp tục học cái chương trình giáo án này Thầy sẽ nêu lên một vài cái gương của những bậc Thánh Tăng hiền đức để chúng ta lấy đó mà sách tấn trên bước đường tu hành.

…​ (Mất tiếng) Còn nghe cái ông mà tu xong rồi đó, ổng xin Đức Phật đi hóa độ chúng sanh ở cái vùng biên cương. Đức Phật hỏi ông thì ông trả lời những cái điều mà Đức Phật đã trắc nghiệm xem ông có thể thực hiện được cái con đường giáo hóa chúng sinh hay không.

Sau khi trả lời thì Đức Phật chứng nhận rằng ông là cái người mà có thể được đi giáo hóa ở cái vùng biên cương - cái vùng mà cái người dân chưa biết cái đạo đức, chưa biết gì hết đó. Cho nên ông ra đi mà ông độ chúng.

Thì đây là trên bước đường tu hành của ông, Thầy muốn nhắc lại đây là một vị đại đệ tử của Đức Phật ngày xưa, có những cái pháp tu hành nào mà ông đạt được đến cái mức mà ông đối với chúng sanh mà đến đỗi giết ông, ông còn thấy ông vui mừng đó, mà để ông độ chúng đó, thì chúng ta thấy những cái người mà tu hành như vậy lậu hoặc thật là quét sạch.

Vậy ông tu pháp nào? Thì qua cái câu chuyện của ông thì chúng ta sẽ thấy được cái sự tu tập của ông ta. Chớ không phải toàn bộ cái giáo lý của nhà Phật là người nào cũng tu sạch hết, pháp môn nào cũng tu sạch, không phải đâu.

Người ta chỉ dùng một cái đề mục thiền nào đó, rồi người ta quán xét, rồi người ta xả sạch cái tâm của người ta, cho nên lậu hoặc nó hết là người ta đã thành tựu, và từng đó người ta nhập Sơ Thiền hay Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền một cách rất dễ dàng không phải khó khăn.

Vì vậy mà chúng ta lấy kinh nghiệm này để mà chúng ta rút tỉa cho con đường tu tập của chúng ta cho nó dễ dàng hơn là chúng ta đi ngay vào một cái thiền định, Hiện Tại An Lạc Trú Định đó, nó rất là khó khăn từ cái hơi thở cho đến khi mà dừng hơi thở, mà chúng ta tâm nó chưa hết lậu hoặc thì tu rất khó.

(01:43:28) Khi đến tuổi trưởng thành ông đi với một đoàn lữ hành thương gia đến nước Xá Vệ quốc, bấy giờ ông được nghe Thế Tôn…​

Đức Phật đó.

…​ thuyết pháp. Ông khởi lòng tin và xin xuất gia. Đức Phật cho một đề tài thiền quán: hộ trì các căn.

Đó, chúng ta nghe ông chỉ có hộ trì các căn không à, chớ ông đâu có tu cái gì đâu! Thế mà ông lại thành tựu được, chứng đạo được Tam Minh.

Thì đây là một cái điều kiện mà chúng ta phải thấy rằng: Những cái giáo pháp của Phật đều là có những cái vi diệu của nó mà chúng ta chỉ chọn lấy một cái đề tài nào đó mà chúng ta thực hiện thì chúng ta sẽ đạt được cái con đường giải thoát chứng đến Tam Minh.

Chớ đâu phải cần nương vào cái hơi thở, để mà dừng hơi thở để mà nhập Tứ Thiền rồi chứng Tam Minh đâu! Nhiều khi chúng ta tu cái điều đó mà tâm chúng ta không hết lậu hoặc thì chúng ta cũng chưa đạt được Tam Minh.

Cho nên Đức Phật cho ông đề tài thiền quán là hộ trì các căn môn.

Tức là Phật nói Thánh hộ trì các căn đó, cái pháp môn Thánh hộ trì các căn nó làm cho ông không có dính mắc các pháp, các đối tượng, các pháp, cho nên từ đó ông xả ly, ông diệt được cái lậu hoặc mà thành tựu được Tam Minh.

Nhờ tu tập pháp này ông đã chứng được Tam Minh.

Tại sao mà Thầy đọc lại Thầy lại biết các vị này tu những cái điều đó? Thật sự ra Đức Phật đã trao cho các vị đó những cái đề mục thiền quán như vậy, mà các vị đó đã thực hiện rốt ráo trong cái thời gian ở trong cái nơi độc cư, yên tịnh, xa vắng ở trong rừng, Ngài nỗ lực thực hiện cho nên Ngài đạt được rất nhanh chóng.

Vì cái sự quyết tâm tu tập và cái sự hiểu rõ được cái đường đi của Đức Phật, cho nên chỉ nhắm vào cái lậu hoặc mà quét sạch thì sẽ đạt được những cái vi diệu của Phật pháp, chớ không phải tu luyện một cái gì khác hơn hết.

Sau đó thì Ngài được xin Đức Phật và đi giáo hóa người ta, do đó hơn năm trăm nam và nữ cư sĩ theo Ngài tu hành ở cái vùng biên cương đó chớ không phải là một cái số ít.

(01:45:26) Khi sắp lâm chung, Ngài có làm bài kệ kinh nghiệm tu hành của mình.

Ngài để lại một cái bài kệ nói qua kinh nghiệm tu hành của mình để cho đời sau. Thì những cái bài kinh mà gọi là Pháp Cú hay là kệ đó, mà người ta rút ra người ta không thấy được cái kinh nghiệm của các bậc này, nhưng mà riêng Thầy thì Thầy đọc lại Thầy thấy những cái bài kệ của các vị quá là có kinh nghiệm tu tập.

Đây Thầy xin đọc lại cái bài kệ đó cho quý thầy để quý thầy lấy đó mà làm cái kinh nghiệm.

Ở đây chỉ có giới,

Nghĩa là ông đến với Đức Phật là ông thấy chỉ có giới, mà các thầy biết rằng cái hộ trì các căn môn đó là cái giới hạnh mà chúng ta tu tập đó, đó là cái giới hạnh chớ không phải là cái gì khác hơn hết.

Cho nên ở đây thì ông nói:

Ở đây chỉ có giới,

Là pháp thật tối thượng,

Ông ca ngợi cái giới luật của Phật là pháp tối thượng.

Vị nào có trí tuệ,

Cũng chỉ là vô thượng,

Nghĩa là mình có trí tuệ, thì trí tuệ tức là giới luật mà giới luật là trí tuệ như Thầy đã xác định ở trong cái bài kinh của Phật đã dạy, cho nên dù là có trí tuệ thông minh đi nữa thì nó chỉ là vô thượng chứ không thể tối thượng được.

Vị nào đủ giới tuệ,

Làm thầy cõi nhân thiên.

Đó ông nói người nào mà có đủ giới tuệ, chúng ta phân biệt rõ mà: giới đức nè, giới hạnh nè, giới đức, giới tuệ, mà bây giờ đủ giới tuệ tức là chúng ta phải có giới hạnh, giới đức rồi mới tới giới tuệ, cho nên làm thầy cõi nhân thiên, làm thầy cõi trời, người.

Do cái giới tuệ này mà chúng ta nói chuyện với tam thiên được, chúng ta nghe chư thiên nói chuyện được, còn nếu mà chúng ta chưa có giới tuệ thì chắc chắn là chúng ta không thể nào mà nói chuyện với chư thiên được, cho nên chúng ta đâu có thể nào mà dạy chư thiên được. Cho nên lúc bấy giờ Đức Phật dạy người, dạy chư thiên tu hành.

Đó thì chúng ta thấy cái bài kệ của ông rất là…​ qua cái đề tài mục thì hộ trì các căn môn, tức là cái pháp mà để chúng ta giữ gìn giới hạnh nghiêm túc đó, tức là cái pháp giữ gìn hộ căn môn của chúng ta đó - đó thì Thánh hộ trì các căn, tức là cái pháp thánh để mà hộ trì các căn của mình.

Vì vậy mà Thầy đọc lại bài kệ này để chúng ta thấm thía được những cái bài học giới luật của chúng ta:

Ở đây chỉ có giới,

Là pháp (thật) tối thượng,

Vị nào có trí tuệ,

Cũng chỉ là vô thượng,

Dù có trí tuệ đi nữa cũng chỉ là vô thượng.

Vị nào đủ giới tuệ,

Làm thầy cõi nhân thiên.

Đó là bài kệ để mà nhắc nhở chúng ta, lấy kinh nghiệm của Ngài, Ngài đã kinh nghiệm tu cái này mà Ngài đạt được ba cái giới này mà Ngài thực hiện được làm thầy của cõi nhân thiên đó.

Đó là ngài Phú Lâu Na.

8.3- NGÀI VACCHAPÀLA THỰC HIỆN GIỚI HẠNH, GIỚI ĐỨC, GIỚI TUỆ

(01:47:56) Bây giờ Thầy đọc thêm một vị Thánh Tăng trong thời Đức Phật nữa:

Ngài Vacchapàla.

Buổi gặp gỡ vua Bình Sa Vương và Đức Phật, thấy Đức Phật hàng phục được ngài Ca Diếp, do thế Ngài khởi lòng tin và xuất gia.

Chỉ trong một tuần lễ Ngài triển khai thiền quán giới đức, giới hạnh, giới tuệ.

Đó Ngài triển khai cái giới đức, giới hạnh, giới tuệ mà Thầy đã giảng đó, thì:

Ngài chứng được sáu thắng trí và chứng quả A La Hán.

Chỉ trong có một tuần lễ, tức là bảy ngày chớ không có lâu, mà Ngài thực hiện cái giới đức, giới hạnh, giới tuệ mà Ngài đã đạt được cái quả A La Hán như vậy, mà có được sáu cái thắng trí nữa.

Ngài có làm bài kệ nói lên kinh nghiệm của mình:

Kinh nghiệm tu hành của mình đó. Thì bài kệ như thế này:

Nếu thấy được sự thật,

Thật vi diệu, vi tế,

Với trí tuệ thiện xảo,

Với tâm tư khiêm tốn,

Sống rập theo giới luật,

Do chính Đức Phật dạy,

Với người ấy Niết Bàn,

Chứng đạt không khó khăn.

Đó thì “sống rập theo giới luật” - nghĩa là cái giới luật của Phật đặt ra mình sống y như vậy đó thì mà “với trí tuệ thiện xảo, với tâm tư khiêm tốn” thì sống rập theo giới luật mới được.

Thì ông nói - bây giờ ông tu cái gì? Ông nói, khi mà hiểu được cái sự thật của pháp của Phật rồi, nó thật là vi diệu và vi tế. Vi tế là rất là nhỏ nhặt, nhỏ nhiệm, mà vi diệu - rất là diệu huyền.

Cho nên “với trí tuệ thiện xảo” - với cái sự hiểu biết của mình rất thiện xảo, với cái “tâm tư khiêm tốn” của mình thì mình sống rập theo cái giới luật của Phật thì không có khó khăn đâu, và cái Niết Bàn thì mình chứng không có khó.

Đó thì, ông đã qua kinh nghiệm tu tập của ông, thì đây dạy giới cho nên Thầy chọn lựa những cái bậc Thánh Tăng trong cái thời Đức Phật đã tu về cái giới.

Nhưng mà nếu mà dạy đến giới mà dạy đến giới đức thì Thầy sẽ chọn những cái bậc mà tu về giới đức tức là tu về thiền định, tu về Tứ Niệm Xứ hay hoặc là Bốn Định, hay hoặc là Tứ Diệu Đế đó, hay hoặc là Tứ Như Ý Túc đồ đó - thì Thầy sẽ có những cái bậc Thánh Tăng trong cái thời đó họ tu những cái pháp đó thì Thầy cũng sẽ đem ra những cái gương hạnh đó để chúng ta bắt chước mà noi gương.

Thì ở đây Thầy muốn đem ra nó đủ các vị Thánh Tăng để chúng ta thấy chúng ta hợp với vị Thánh Tăng nào đó thì chúng ta nương theo cái kinh nghiệm tu hành của vị đó mà chúng ta thực hiện. Còn chúng ta - bởi vì chúng ta chọn tăng để mà nương theo để quy y theo các vị tăng đó thì chúng ta phải chọn những bậc Thánh Tăng như vậy.

Vì vậy mà những cái gương hạnh này không thể thiếu ở trong cái giáo án này được, không thể bỏ qua trong cái giáo án này được. Cho nên Thầy phải nhắc nhở quý thầy lấy những cái gương hạnh phù hợp với mình để rút tỉa những kinh nghiệm của các Ngài mà tu tập cho chính mình.

8.4- NGÀI NITA XẢ TÂM HAM ĂN, HAM NGỦ, NÓI CHUYỆN NHẢM NHÍ

(01:50:58) Bây giờ đây là một vị thứ ba trong buổi giảng hôm nay:

Ngài Nita.

Ngài xin Phật xuất gia để được sống thoải mái đời sống của tu sĩ…​

Nghĩa là Ngài xin Phật để xuất gia là Ngài thấy cái đời sống tu sĩ ăn ngày một bữa, thoải mái đi xin ăn khỏi có làm, khỏi gì hết, cho nên Ngài muốn xuất gia là cái mục đích đó thôi. Cho nên Ngài đến Ngài xin Phật Ngài xuất gia để Ngài cũng ôm bát Ngài đi xin bữa ăn, ăn no, ngủ, rồi chơi chớ còn không có tu hành gì hết.

Nhưng mà thấy đời sống của tu sĩ sướng quá, không có làm mà sống thoải mái dễ chịu, ngủ suốt ngày cũng được, chỉ sáng đi xin ăn rồi trưa, chiều, tối, cứ chuyên ngủ thôi. Cho nên Ngài xét qua đời sống của các vị tu sĩ Ngài thấy sướng hơn ngoài đời nhiều, đời làm lụng cực khổ quá mà có nhiều khi còn đói khát, cho nên Ngài xin xuất gia.

Đây là cũng một vị lười biếng nhất ở trong những cái bậc Thánh Tăng ở trong cái thời Đức Phật đây.

Ngài đến xuất gia làm tu sĩ rồi thì Ngài không có chuyên chú đến cái sự tu tập đâu:

…​ chỉ tu lấy lệ, chuyên ăn no, nói chuyện nhảm nhí, và ban đêm thì ngủ dài.

Bậc Đạo Sư thấy vậy…​

Bậc Đạo Sư tức là Đức Phật.

…​ thấy vậy nên nói lên bài kệ để giáo giới cho Ngài:

Trọn đêm ngươi nằm ngủ,

Ban ngày thích tụ hội,

Kẻ ngu sống như vậy,

Sẽ đoạn khổ được sao?

Đó, bốn cái câu kệ của Đức Phật giáo dục Ngài. Thấy Ngài chuyên ăn, rồi chuyên nói chuyện nhảm, rồi ban đêm thì chuyên ngủ, cho nên Đức Phật khuyên Ngài làm sao mà đoạn được cái sự khổ, chuyên như vậy làm sao mà đoạn được sự khổ? Do cái lời dạy này Ngài bị dao động.

(01:52:47) Bị dao động bởi lời dạy của bậc Đạo Sư, Ngài triển khai thiền quán, đặt niệm ăn, uống, ngủ, nghỉ, nói chuyện nhảm nhí, tu Định Vô Lậu.

Nghĩa là bây giờ Ngài có cái tật đó đó, Ngài đặt cái niệm ăn, cái niệm ngủ và cái niệm chuyên nói chuyện nhảm nhí của Ngài đó, Ngài đặt ra trước mặt cái niệm đó trước mặt Ngài, Ngài quán xét về cái Định Vô Lậu, Ngài quét cho sạch cái ham ăn, cái ham ngủ, cái ham nói chuyện của Ngài.

Chẳng bao lâu Ngài chứng quả A La Hán. Ngài lấy bài kệ của Đạo Sư làm bài kệ chứng đạo của mình và cũng là bài pháp hướng tâm tu hành của mình.

Đó thì, các thầy thấy, khi người ta có bị cái tật gì đó, người ta bị quở rồi người ta thấy xấu hổ lắm, rồi người ta lấy cái đó mà người ta làm cái đề tài thiền quán người ta quét sạch cái đó thì cái tâm vô lậu người ta sạch liền.

Bởi vì cái tật của mình là cái tật đó đó, thì cho nên mình có cái tật nào mà nó xấu xa như vậy mình đặt nó mình quán, quán cho trôi, quét cho sạch cái tật đó ra, thì chúng ta sẽ thành tựu đạo Phật, chớ không có gì mà khó khăn hết.

Bởi vì cái đó là cái cốt cán của nó mà làm cho chúng ta hoàn toàn cuộc sống của chúng ta trở thành khổ.

Đó, thì hôm nay những cái gương hạnh như vậy đó, thì quý thầy phải nương theo những cái gương hạnh đó mà coi thử coi mình coi nó có bị vướng vấp vào cái chỗ nào đúng như các cái gương hạnh đó mà chúng ta tu tập.

Bây giờ về cái phần này thì Thầy cũng nhắc luôn là bên nữ, để cho cái giáo án nó có nam và có nữ, còn cái phần mà rầy dạy bảo riêng ở bên phái nữ thì Thầy không có thu băng vào. Bởi vì đó là thu riêng ra để cho bên giới nữ mà thôi.

Còn ở bên nây thì quý thầy, Thầy cũng dạy riêng ở trong cái bữa ăn, khi mà có phạm phải những cái điều gì đó Thầy nhắc nhở trong bữa ăn thôi chớ không có thu vào cái giáo án, mà những lấy cái gương hạnh của bên nữ và bên nam để chúng ta noi theo để mà chúng ta tu học.

8.5- NGÀI DANTIKÀ LÀM CHỦ TÂM NHƯ ĐIỀU KHIỂN VOI

(01:54:38) Bây giờ thì quý thầy nghe tiếp thêm những cái bậc Thánh Ni.

Bà Dantikà.

Bà là một đứa con gái của vị giáo sĩ nhà vua, khi đến tuổi trưởng thành bà trở thành một tín nữ của Kỳ Viên tịnh xá.

Nghĩa là lúc bà lớn lên thì bà trở thành một cái người mà hộ trì ở trong cái tịnh xá Kỳ Viên, lúc Đức Phật còn đang ở đó đó.

Về sau bà xuất gia, được hướng dẫn của bà Mahàpajàpati.

Một hôm, bà leo lên núi Linh Thứu chơi. Sau bữa ăn cơm ngọ, bà ngồi nghỉ và thấy một người nài điều khiển con voi. Nhờ thấy vậy bà tin nơi lời Phật dạy, nghĩa của Phật dạy điều khiển tâm mình như người nài voi điều khiển con voi.

Đó, bà lên trên núi bà chơi, bà ngồi ở trên cao trên núi Linh Thứu là cái chỗ Đức Phật ở đó. Bà lên đó, bà ăn cơm ngọ xong rồi bà lên đó, bà nghỉ, bà chơi, rồi bà nhìn xuống núi dưới cái dòng sông đó, bà thấy có một cái người nài voi họ điều khiển con voi như thế này thế khác, họ tập huấn luyện con voi.

Do đó bà mới nghĩ rằng Đức Phật dạy mình cũng như một người nài voi mà điều khiển cái tâm của mình. Vậy thì mình tin theo cái lời Đức Phật dạy đó mình về mình điều khiển cái tâm của mình như thế nào, như cái người nài voi mà điều khiển con voi vậy.

Do sự tùy pháp, hướng pháp bà điều khiển tâm mình và bà đã làm chủ được nó và chứng quả A La Hán.

Đó thì cái sự điều khiển đó đó, mà chúng ta đã làm chủ và chứng quả được A La Hán, vậy thì điều khiển như thế nào?

Bà có bài kệ nói lên kinh nghiệm tu tập của mình:

Ở đây ớ thì Thầy xin nhắc thêm: Bà điều khiển như thế nào.

Cũng như bây giờ chúng ta ăn một bữa mà một lát nữa nó thèm ăn cái gì đó thì chúng ta điều khiển “Đừng có ăn!”, thì tức là chúng ta hướng tâm, nó hay thèm ăn vặt như vậy thì chúng ta hướng tâm nhắc nó.

Tùy theo cái pháp mà chúng ta hướng tâm nhắc: “Đừng ăn! Ăn uống như vậy phi thời, người tu sĩ như thế này thế khác, không có được như vậy!” Đã biết Phật pháp rồi thì bây giờ mình là người cư sĩ cũng không được ăn lặt vặt, không ăn uống phi thời.

Do đó đó mình điều khiển cái tâm của mình, một ngày, hai ngày sau đó nó không thèm ăn nữa. Mà không thèm ăn nữa thì tức là mình điều khiển được con voi chớ gì, mà coi như cái tâm của mình là con voi chớ gì?

Cho nên bây giờ nó khởi muốn cái gì, cái gì, nó thấy cái đó nó ham muốn thì điều khiển nó đừng ham muốn. Mình biết là cái muốn đó là cái nguy hại, cái nguy hiểm, cho nên do đó bà điều khiển cái tâm bà như là một cái người nài voi mà huấn luyện con voi vậy.

(01:57:15) Đó thì, các Thầy thấy bà có ngồi quán, có gì không? Bà đâu có ngồi quán như các vị đó mà vô lậu đâu, nhưng mà cái điều khiển cái tâm của mình theo cái sự điều khiển của mình, do cái tâm đó mà nó trở thành một con voi thuần thục, cho nên bảo sao nó nghe vậy.

Cho nên thí dụ như bà điều khiển cho đến mức bà điều khiển “Cái hơi thở này ngưng! Các hành ngưng!” thì nó cũng ngưng theo, nó ngưng theo thì tức là bà điều khiển được cái tâm của bà rồi chớ gì! Cho nên bà chứng đạt được đạo quả A La Hán.

Các thầy thấy, cái điều kiện đó có phải là bà ngồi đó bà quán cái gì đâu, bà cứ theo dõi cái tâm của bà, tức là phòng hộ sáu căn đó quý thầy.

Như hồi nãy mà có vị Tỳ Kheo, vị Thánh Tăng mà phòng hộ sáu căn Đức Phật đưa ra đó, mà nói phòng hộ thì quý thầy không thấy phải không? Nhưng bây giờ nêu ra cái bà này, thì rõ ràng là bà điều khiển cái tâm của bà qua sự phòng hộ.

Bây giờ mình đi ra đường mình thấy - con mắt mình nó nhìn cái đó nó thấy nó thích, mà nó thích thì tức là mình sẽ làm sao, phải không quý thầy? Mình sẽ ngăn chặn nó đi: “Không có được thích! Mày không có được thích! Thích cái này là nguy hiểm, là hại, là khổ!” Cho nên nó lần lượt cái lần lượt nó thấm nhuần nó bỏ đi.

Mà cái lậu hoặc của mình càng ngày nó càng quét sạch mà mình có ngồi đó mình tu lậu hoặc không, phải không? Mình tu phòng hộ sáu căn của mình. Tai nghe âm thanh gì đó mà nó cứ dính, nó nhớ hoài đó, thì lúc bấy giờ mình cũng điều khiển nó “Đừng có bị dính mắc nữa!”

Do đó là mình đã thuần hóa được con voi tâm của mình để cho nó theo cái sự điều khiển của mình mà nó không muốn gì hết, mà nó không muốn gì hết thì lậu hoặc nó sạch, mà lậu hoặc nó sạch thì tâm nó thanh tịnh.

Tâm nó thanh tịnh thì cái sự điều khiển mà do pháp hướng này đó, mình do cái pháp hướng này nó thành ra cái hiệu quả, cho nên mình bảo: “Hơi thở ngưng! Các hành ngưng!” - nó ngưng theo hết, vì vậy mà mình làm chủ được cái sự sống chết của mình.

Đó, như vậy là chúng ta đã thấy qua những kinh nghiệm của các bà, Thầy thấy nó dễ dàng quá, nó đâu có khó khăn gì đâu!

Hồi nãy là có một vị Thánh Tăng là người nam, họ cũng tu cái pháp phòng hộ sáu căn. Bà thì không, đây không có nói cái pháp phòng hộ sáu căn, mà chúng ta thấy rõ ràng là phòng hộ sáu căn. Có phải không?

Nếu mà cái người mà không hiểu đọc cái này không biết là tu cái pháp gì hết. Mà Thầy là người có kinh nghiệm cho nên Thầy đọc qua đây Thầy biết bà này là tu phòng hộ sáu căn, cũng giống như ông kia phòng hộ sáu căn, tức là điều khiển con voi tâm của mình chớ không gì hết, huấn luyện con voi tâm mình chứ (không) gì hết, đó cuối cùng thì người ta vẫn thành chứng quả A La Hán.

(01:59:25) Bà có làm bài kệ nói lên kinh nghiệm tu tập của mình.

Đây cái bài kệ của bà cũng hơi dài đây:

Ra khỏi ngôi tịnh xá,

Để nghỉ trưa ban ngày,

Trên đỉnh núi Linh Thứu,

Ta thấy một con voi,

Dầm nước xong đi lên,

Trên bờ một con sông.

Một người cầm cái móc,

Yêu cầu nó đưa chân,

Con voi duỗi chân ra,

Và người nài lên voi.

Thấy kẻ chưa nhiếp phục,

Đi đến được nhiếp phục,

Ta thấy nó vâng chịu,

Theo quyền lực của người.

Như vậy ta định tâm,

Đi vào trong rừng ấy.

Nghĩa là bây giờ đó, bà đi vào trong cái rừng yên tịnh, vắng vắt, thanh vắng để mà điều khiển làm chủ cái tâm của mình đây:

Ta làm chủ được tâm,

Sai bảo nó vâng theo,

Sống chết ta tự tại,

Chấm dứt được luân hồi.

Đó thấy không? Người ta giải thoát, mà bà nói rất rõ, không có nói là chứng Tam Minh gì hết. Hồi nãy ông kia thì chứng Tam Minh, phải không? Thì nó cũng là làm chủ được sanh tử luân hồi chớ gì!

Còn bà đây nói rất rõ: “Sống chết ta tự tại” - nghĩa là bà muốn sống, muốn chết hồi nào cũng được rồi, và: “Chấm dứt được luân hồi” - tức là Tam Minh, tức là Lậu Tận Minh rồi chớ gì? Cho nên chấm dứt được luân hồi.

Đó, thấy cái bài kệ của Ngài. Ngài - Bà chỉ thấy có cái con voi và cái thằng nài thôi mà Ngài thức tỉnh được, Ngài về Ngài tu cái phòng hộ sáu căn chớ không có gì hết, đó mà vậy mà người ta chứng đạo.

Còn quý thầy tu sao đây? Mình phải lấy những kinh nghiệm đó.

Cho nên từ cái bài kia nói rõ cái pháp ra là Phật trao cho ông ta cái pháp để mà ông ta tu là phòng hộ sáu căn, nhưng bà này thì ông Phật không có trao. Bà trèo núi bà chơi thôi, bà thấy người ta điều khiển con voi thì bà về bà điều khiển tâm bà. Nhưng không ngờ bà lại tu tập cái pháp hộ trì các căn, nó nói cũng y như vậy thôi chớ không khác gì hết.

8.6- NGÀI UBIRÌ QUÁN VỀ CHẾT KHỔ

(02:01:29) Bà Ubirì.

Thuở tuổi thanh xuân bà rất đẹp và được đưa vào hậu cung của vua Kosala. Sau vài năm bà sanh một đứa con gái rất đẹp đặt tên là Jivà. Nhưng rồi đứa con gái bà bị chết, ngày nào bà cũng ra nghĩa địa than khóc. Bậc Đạo Sư thấy vậy liền đến và hỏi bà:

- Tại sao ngươi khóc?

Bà đáp:

- Bạch Thế Tôn, con khóc đứa con gái của con.

Thế Tôn nói:

- Tại nghĩa địa này có tám mươi bốn ngàn đứa con gái chết bị thiêu. Vậy người có khóc than cho ai?

Rồi đức Thế Tôn chỉ cho bà những chỗ đất mà những người chết bị thiêu. Thế Tôn nói xong đọc một bài kệ:

Hỡi nàng Ubirì,

Người khóc nơi nghĩa địa,

Khóc than ôi Jiva,

Con gái thân của tôi,

Hãy tự mình hồi tỉnh,

Hỡi này Ubiri!

Trong bãi đốt tử thi

Tất cả tám vạn tư,

Người đồng tên Jivà

Người khóc Jivà nào?

Nghĩa là Đức Phật khuyên: Ở trong cái nghĩa địa này nó có tám mươi bốn ngàn cái người con gái chết mà cũng đồng cái tên là Jivà như vậy, vậy bây giờ bà đến đây bà khóc cho cái người con gái Jivà nào, hay hoặc khóc cho tám mươi bốn ngàn cái người con gái này?

(02:03:12) Đó, ông Phật chỉ nhắc nhở như vậy thôi. Nghĩa là bao nhiêu người chết chớ đâu phải có Jivà chết, sao mà bà lại khóc, ý ông Phật ổng nói vậy đó! Bao nhiêu người cũng phải đi vào cái cõi sanh tử đó chớ đâu làm sao mà tránh khỏi, vậy mình khóc là khóc gì đây?

Cho nên được nhắc nhở như vậy.

Sau khi được bậc Đạo Sư chỉ dạy, bà suy tư, xin bậc Đạo Sư xuất gia tu hành. Chẳng bao lâu với đề tài thiền quán người chết, bà đã chứng quả A La Hán.

Tức là bà lấy ngay cái chỗ mà đau khổ nhất là cái người thân của bà chết, đứa con gái bà chết đó, thì chẳng bao lâu thì bà chứng quả A La Hán. Có phải là cái vấn đề mà ngoài cái vấn đề của Phật pháp không? Không phải đâu.

Bởi vì trong Phật pháp chúng ta thấy sanh, lão, bệnh, tử khổ mà, mà đây là một cái đề tài về cái chết khổ. Cho nên từ đó bà quán xét cái chết, thấu đạt được cái chết, chứng được cái lý sanh tử của nó, cho nên bà giải thoát chứng quả A La Hán.

Chúng ta thấy đó là một cái đề mục thiền rất là thực tế và cụ thể cho nội tâm của một người mẹ đang thương một người con quá nức nở, quá xót xa, lấy cái đó mà làm cái đề mục tu thì tức là nó giải quyết được bao nhiêu cái sự ham muốn, cái sự khổ đau của đời người! Cho nên lậu hoặc bà quét sạch.

Đây, bà đọc, bà nói lên cái bài kệ qua kinh nghiệm tu hành của mình:

Mũi tên khó nhìn thấy,

Đâm dính nơi tâm ta,

Chắc chắn đã được Ngài,

Nhổ lên khỏi tâm ta.

Sầu muộn vì con gái,

Làm cho ta sầu khổ.

Sầu muộn ấy không còn,

Đã được chấm dứt hẳn.

Nay mũi tên được nhổ,

Mọi ham muốn lắng dịu,

Ta đi đến quy y

Bậc ẩn sĩ Mâu Ni,

Quy y Ba ngôi báu

Phật, Pháp và chúng Tăng.

Đó. Thì chỉ có một cái nỗi đau khổ với đứa con thôi, thế mà được bài kệ của đức Phật, bà đã giải thoát được cái sự đau khổ, và khi mà đến tu hành, bà lấy cái đề tài đó bà làm cái pháp hướng bà tu tập, cho đến cuối cùng bà chứng quả được A La Hán.

(02:05:17) Như vậy bà tu pháp môn nào đây? Bà lấy cái chết bà quán để rồi bà phá đi những cái lậu hoặc của bà, tức là bà tu Định Vô Lậu đó! Khi mà mình thấy cái đề mục đó thì mình biết bà tu cái gì rồi, cái định nào rồi.

Đó. Còn cái kia người ta tu phòng hộ sáu căn, người ta không có nằm ở trong cái Định Vô Lậu, mà người ta điều khiển cái tâm của mình đừng cho nó dính mắc, đừng cho dính mắc, riết rồi nó không dính mắc nữa rồi nó cũng vô lậu mất. Thành ra nó không có thiền quán Vô Lậu mà nó bằng cái trực tiếp ý thức của chúng ta mà xả tâm.

Còn ở đây lấy đề cái mục người chết, tức là nó phải có một cái sự quá trình thấu suốt được cái lý cho nên nó phải là Vô Lậu, nó phải là đặt cái niệm đó trước mặt của mình rồi quán xét người chết này, đến người chết khác, mỗi cái chết nó đều cũng như nhau, cho nên cuối cùng thì bà không còn đau khổ nữa,và những cái tâm phiền muộn của bà, những cái tâm ham muốn của bà nó cũng đều tan biến mất đi, từ đó lậu hoặc nó sạch, cho nên bây giờ chính là bà mới là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

“Bậc ẩn sĩ Mâu Ni” tức là Đức Phật, là một người ẩn sĩ, rõ ràng là Đức Phật là người ẩn sĩ, nhưng mà độ chúng sanh đó, cho nên bà gọi cái chỗ này Thầy (thấy) rất là phù hợp. Người ẩn sĩ thì không cần cầu danh, cầu lợi mà chỉ ai khổ là Ngài đến Ngài độ đó.

Nghĩa là thấy cái bà này, bả mất con bả khổ thì Ngài đi khất thực Ngài đã biết được cái nỗi khổ đó, Đức Phật đến cái nghĩa địa, chớ đi khất thực mà đi vô cái nghĩa địa làm gì? Nhưng mà biết trong đó có người quá thống khổ, và người này có thể độ được, cho nên do đó lấy cái đề mục thiền đó mà hướng dẫn cho bà qua cái bài kệ.

Đó là cái những cái bậc ẩn sĩ thì người ta đi tìm những cái bậc mà có cái duyên sắp sửa thành tựu được cái chỗ tu hành, cho nên người ta chỉ dùng bài kệ.

Còn nếu mà cái người bình thường mà chưa có đủ duyên, mà chưa có những sự thống khổ đến mức độ vậy, dù Đức Phật có dùng một trăm cái bài kệ chắc độ người ta cũng không nổi đâu!

Người ta còn ham làm giàu, người ta còn ham vợ đẹp, con xinh, người ta còn ham nhà lầu, thì chắc chắn là bây giờ có nói gì nói họ cũng trơ trơ, họ cũng không tu nổi đâu.

Đó thì, cái phần những gương hạnh để chúng ta lấy đó mà làm cái gương tu hành cho chúng ta./.

[Phần 4 ở Giáo án 20]

HẾT BĂNG

19 - MƯỜI BA GIỚI ĐỨC

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 19 - MƯỜI BA GIỚI ĐỨC

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- CẦN LƯU Ý NHỮNG BÀI PHÁP BỔ TÚC THÊM CHO GIÁO ÁN

(00:00) Trước khi tiếp tục bài học giáo án tu tập, Thầy xin nhắc quý thầy cần lưu ý những cái bài pháp bổ túc thêm cho giáo án…​

Những cái bài pháp mà Thầy bổ túc thêm cho giáo án là nó làm sáng tỏ cho chúng ta thêm một cái phần để chúng ta tu tập cho nó đầy đủ.

…​ được đầy đủ lý pháp và hành pháp để quý thầy biết cách tu tập rő ràng sau này khi không có Thầy.

Nghĩa là những cái bài mà bổ túc thêm là nhắc nhở khéo léo cho quý thầy, khi mà quý thầy gặp khó khăn thì quý thầy nhớ những cái bài bổ túc thêm thì quý thầy sẽ sáng tỏ ra.

Còn nếu mà quý thầy cứ ở trong cái giáo án mà Thầy giảng suông suông như là giới hạnh, giới đức, rồi giới tuệ, thì nó suông suông mà nó không có những cái bổ túc thêm thì quý thầy không có nắm vững cái cách thức mà tu tập được.

Cho nên khi mà nghe nó suông suông như vậy thì chúng ta lại thấy có những cái bài bổ túc thêm cho cái phần giáo án, thì những cái bài bổ túc đó nó làm cho chúng ta thông hiểu rõ cái chỗ mà chúng ta tu tập.

Như vào đầu giáo án Đức Phật…​

Tức là chúng ta mới vào đầu mà cái bài học giáo án này thì:

…​ Đức Phật đã dạy chúng ta có bốn điều kiện cần phải thực hành cho đúng và cho nghiêm túc:

Đó là bốn cái điều kiện nào? Thầy nhắc lại nè:

Thông hiểu, trau dồi, dứt bỏ, tu tập.

Đó, thì bắt đầu, một là thông hiểu, hai - trau dồi, ba - dứt bỏ, bốn - tu tập. Bốn cái điều kiện này nó nhắc đi nhắc lại từ bắt đầu mà bây giờ Thầy cũng còn phải nhắc đi, nhắc lại.

Cái nào mà phải thông hiểu? Tức là mình phải thông hiểu giới hạnh nè, phải thông hiểu giới đức nè, phải thông hiểu giới tuệ nè. Mình thông hiểu rồi, thì bắt đầu bây giờ đó mình mới tới giai đoạn mình thông hiểu rồi thì mình trau dồi.

Còn mình chưa thông hiểu, thuở giờ có nghe nói ai nói giới đức, giới hạnh, giới tuệ bao giờ, mà bây giờ được nghe như vậy rồi được giảng thông hiểu được rồi, thì bắt đầu bây giờ chúng ta mới trau dồi giới hạnh như thế nào, giới đức như thế nào, giới tuệ như thế nào.

Thì trong khi mà trau dồi đó thì nó có những cái mà chúng ta cần phải dứt bỏ. Cho nên cái gì mà dứt bỏ, mà cái gì mà để lại? Đó thì, những cái bài bổ túc này để chúng ta biết cái nào để dứt bỏ mà cái nào để lại mà chúng ta trau dồi.

Rồi còn cái phần tu tập nữa. Phải chuyên cần tu tập nữa, hằng ngày giờ nào chúng ta cũng phải chuyên cần tu tập nữa, chớ không phải trau dồi, dứt bỏ.

Ở đây quý thầy cần phải biết những pháp nào thông hiểu, những pháp nào trau dồi, những pháp nào dứt bỏ, những pháp nào tu tập.

Đó, tức là cách thức nào tu tập, cách thức nào dứt bỏ, cách thức nào và cái pháp nào dứt bỏ, cái pháp nào mà tu tập, cái pháp nào mà phải thông hiểu.

2- MƯỜI PHÁP CAO THƯỢNG ĐƯA ĐẾN NIẾT BÀN

2.1- TỔNG QUAN MƯỜI THƯỢNG PHÁP

(02:40) Đây là một bài kệ mà Đức Phật đã dạy chúng Tỳ Kheo theo đó mà thực hành.

Ở đây là có một cái bài kệ, trước khi mà dạy cái bài này thì Đức Phật đã có nhắc cho chúng ta một cái bài kệ tóm tắt lại để chúng ta thuộc, để chúng ta nhớ mà nhắc mình phải như thế nào.

Đây là cái bài kệ bốn câu:

Ta nói thập thượng pháp,

Pháp đưa đến Niết Bàn,

Diệt trừ mọi khổ đau,

Giải thoát mọi triền phược.

Nghĩa là Đức Phật nói: Ta nói mười cái thượng pháp, đây là mười cái pháp cao thượng đó, để cho các vị phải lấy đó mà tu tập, mà trau dồi, mà dứt bỏ để cho đến được Niết Bàn, dứt trừ mọi khổ đau, giải thoát mọi triền phược, tức là mọi sợi dây trói buộc đó.

Qua cái bài kệ này nó có mười pháp tối thượng, nghĩa là mười pháp tối thượng để mà chúng ta tu tập. Vậy thì mười pháp đó là gì mà quý thầy cần phải hiểu rõ để thực hành cho bằng được? Nghĩa là mình phải làm đúng theo cái mười cái pháp này.

1. Một pháp có nhiều tác dụng;

Nghĩa là một cái pháp tu tập đó chớ nó có nhiều tác dụng cho cái cuộc sống của chúng ta hằng ngày. Nó tác dụng rất nhiều mặt chứ không phải là…​

Vậy thì cái pháp mà nó nhiều tác dụng đó là cái pháp nào? Chúng ta phải biết, chớ nếu mà không biết làm sao chúng ta tu tập được?

Giới luật thì chúng ta - giới đức, giới hạnh, giới tuệ chúng ta thông rồi đó, mà không biết nó cái pháp nào để mà nó tác dụng cho đạt được cái giới luật thì làm sao mà chúng ta tu?

Cho nên ở đây Thầy giảng để cho quý thầy thấy rằng từ cái chỗ lý pháp cho đến cái chỗ hành pháp thì tức là chúng ta phải biết một pháp, rồi đây rồi hai pháp, ba pháp cho đến mười pháp, rồi đến nhiều pháp nữa chớ đâu phải là một pháp. Nhưng bắt đầu chúng ta chỉ học một pháp, một pháp đó nó có nhiều tác dụng để chúng ta đạt được ba cái giới này.

(04:35) 2. Một pháp cần phải tu tập;

Nghĩa là có một cái pháp mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải cần tu tập thì chúng ta mới giữ trọn được cái giới đức, giới hạnh và cái giới tuệ.

3. Một pháp cần phải biến tri;

Đó, chữ “biến tri” - biến tri tức là biết thay đổi, biết thay đổi ngay ở trong cái chỗ tu tập của mình, khéo léo thiện xảo đó, đó là biến tri đó.

4. Một pháp cần phải đoạn trừ;

Nghĩa là chúng ta học một pháp này mà chúng ta đoạn trừ rất nhiều cái đối tượng của chúng ta, chúng ta phải học cái pháp đó. Cái pháp đó nó có cái tên của nó, và cái tên nó như thế nào để mà chúng ta biết đoạn trừ.

5. Một pháp chịu phần tai hại;

Chúng ta phải thấy được cái pháp nào mà nó chịu tai hại đối với cái cuộc tu hành của chúng ta, cho nên chúng ta phải biết một pháp đó mà chúng ta hoàn toàn là phải chấm dứt cái phần tai hại nó. Nghĩa là không cho chúng sống ở trong tâm của chúng ta, dứt bỏ cái pháp mà nó làm tai hại chúng ta.

6. Một pháp đưa đến thù thắng;

Chúng ta biết một cái pháp tu nào mà nó đưa đến sự thù thắng, cái sự thành tựu của sự tu tập của chúng ta.

7. Một pháp rất khó thể nhập;

Nghĩa là một cái pháp đó - nhập vào cái pháp đó rất khó, vậy mà chúng ta biết cái pháp đó khó, vậy mà chúng ta phải tu tập như thế nào để mà thể nhập được.

8. Một pháp cần được sanh khởi;

Nghĩa là chúng ta phải hiểu một cái pháp làm cho cái tâm mình sanh khởi, sanh khởi cái gì? Sanh khởi ác pháp hay là sanh khởi thiện pháp? Nếu sanh khởi thiện pháp thì chúng ta chấp nhận, mà sanh khởi ác pháp thì chúng ta không chấp nhận, mà một cái pháp đó nó sẽ sanh khởi ác pháp và thiện pháp.

9. Một pháp cần được thắng tri;

Nghĩa là một cái pháp cần được - phải hiểu cho thật rõ, thấu suốt chớ không có hiểu lơ mơ được, cho nên gọi là một pháp cần chúng ta phải thắng tri.

10. Một pháp cần được tác chứng.

Nghĩa là phải chứng được cái - tác chứng là phải chứng cho được cái lý của nó thâm sâu, bởi vì người ta ngộ, ngộ lý mà còn chứng lý. Còn ở đây tác chứng là chứng cái lý cho thật chứng, nghĩa là một cái pháp đó chúng ta phải tu tập như thế nào để chứng cho được cái lý.

2.2- NỘI DUNG MƯỜI THƯỢNG PHÁP

(06:41) Đó thì, trong mười cái pháp này chúng ta đã được liệt kê ra để được nghe nói vậy. Bây giờ Thầy sẽ giảng ra từng pháp để chúng ta biết được qua những cái câu hỏi, để chúng ta hiểu nó như thế nào là cái pháp mà chúng ta cần phải tu tập đây.

Hỏi: Thế nào là một pháp có nhiều tác dụng?

Một cái pháp mà nó có nhiều tác dụng bên nây, tác dụng bên nây, tác dụng bên nây, nó tác dụng đủ thứ hết, nó làm cho chúng ta sanh khởi đau khổ, rồi nó làm cho chúng ta không còn đau khổ đó.

Thì một cái pháp mà có nhiều tác dụng vậy đó, thì Phật đáp:

Bất phóng dật…​

Nói ngắn gọn như vậy.

…​ đối với các pháp ác, các pháp bất thiện - bất thiện pháp.

Nghĩa là, mình không có phóng dật theo các pháp ác và bất thiện pháp, thì đó là cái pháp mà có nhiều tác dụng. Nghĩa là mình chạy theo nó, mình phóng dật chạy theo nó thì muôn ngàn thứ khổ, mà mình không phóng dật theo các pháp ác và bất thiện pháp đó thì muôn ngàn thứ khổ sẽ chấm dứt.

Đó, chúng ta thấy rõ ràng. Mà cái pháp đó nó có tác dụng rất lớn, cho nên tâm không phóng dật thì chúng ta giải thoát chớ gì? Tâm có phóng dật thì chúng ta không giải thoát, cho nên chúng ta biết được cái tên của nó: “Bất phóng dật” là không phóng dật, phải không?

Quý thầy không phóng dật thì quý thầy sẽ thấy giải thoát liền tức khắc, mà quý thầy phóng dật là quý thầy bị các ác pháp và bất thiện pháp sẽ trì quý thầy xuống địa ngục đó.

Đó thì, mới vô đầu chúng ta học được cái pháp có nhiều cái tác dụng lắm, nghĩa là không phóng dật là nó không còn cái tác dụng nào mà ác pháp được với chúng ta hết cho nên tâm chúng ta thảnh thơi giải thoát, cho nên Phật dạy thường là tâm đừng phóng dật đó.

Đó, mà đây là một cái pháp, một cái pháp bất phóng dật là đã giải thoát chớ không còn đòi gì nữa hết.

Hỏi: Thế nào là một pháp được tu tập?

Đó, một pháp được tu tập. Đó thì các thầy thấy, bây giờ một pháp, có một pháp thôi chớ không có nhiều đó, nếu mà nói hai pháp thì nó còn lộn xộn đó, chớ nói một pháp thì chắc chắn là quý thầy thấy dễ rồi chớ gì?

Đầu tiên thì chúng ta nói “Bất phóng dật” là một pháp, không phóng dật thì nó có nhiều tác dụng lắm, nó có nhiều cái tốt ở trong tâm hồn chúng ta lắm, mà người nào mà cứ phóng dật ra thì người đó sẽ ảnh hưởng, sẽ đau khổ sẽ nhiều, mà người nào không phóng dật thì người đó sẽ giải thoát đó, cho nên nó tác dụng rất nhiều mặt.

Còn bây giờ một pháp cần được tu tập:

Đáp: Niệm thân câu hữu với khả ý.

Đó, cho nên ở đây cái “niệm thân câu hữu với khả ý” thì các thầy thấy đây là Tứ Niệm Xứ nè, không phải là một cái pháp Tứ Niệm Xứ sao?

Mà một cái pháp Tứ Niệm Xứ mà trên cái thân này câu hữu với khả ý, nghĩa là mình lấy cái thân của mình mình niệm, bởi vì Phật nói Thân Hành Niệm mà, có một pháp Thân Hành Niệm mà quý thầy sẽ được giải thoát, cho nên chỉ có một pháp là niệm thân thôi.

(09:31) Mà “niệm thân câu hữu với khả ý”, lúc bấy giờ chúng ta niệm ở trên thân chúng ta niệm mà nó có cái yên ổn, cái không đau đớn, cái này kia thì đó là đúng. Mà nó có cái trạng thái này, trạng thái kia đó là sai, niệm thân như vậy là sai.

Cho nên Phật nói: “Niệm thân câu hữu với khả ý”.

Nghĩa là lúc nào mình tu, thì trên thân mình cũng nghiệm xét thấy nó có sự an lạc, có sự yên ổn, có sự thảnh thơi, có sự thanh thản thì mình tu đúng. Mà nghe nhức, nghe nhối, nghe chỗ này nghe tức, nghe lói, hay hoặc là nghe nó trạo cử hay là nghe nó buồn ngủ đồ thì quý vị đã tu sai rồi, trên niệm thân của quý vị là sai rồi.

Cho nên nó chỉ có một pháp niệm thân thôi mà kèm theo cái khả ý của nó, câu hữu với khả ý tức là kết hợp với cái sự an ổn của cái thân của mình thì nó là đúng, mà không như vậy là không đúng. Nó đơn giản, rất là đơn giản, nó không có gì hết.

Bởi vì, cho nên, tu theo đạo Phật thì nó phải có giải thoát chớ. Mà mình tu theo đạo Phật mà mình không có giải thoát gì hết là như thế nào?

Cho nên, ngồi mà nghe có gì sai khác là quý thầy - khi mà ngồi mà lặn mất tiêu, ngủ gục hay hoặc là thùy miên luôn - thì kể như là quý thầy cũng là không có câu hữu với khả ý.

Khả ý là cái ý của mình đang biết được cái yên ổn của nó. Biết được cái sự thanh thản của nó, biết cái sự mức độ của nó ở trong đó, thân tâm của quý vị rất là an ổn, thì đó là khả ý.

Hỏi: Thế nào là một pháp cần được biến tri?

Đó, cần được biến tri tức là phải có cái sự linh động của cái sự hiểu biết đó.

Đó, thì Đức Phật đáp như thế nào?

Xúc hữu lậu hữu thủ.

“Xúc hữu lậu hữu thủ” - cái sự va chạm - xúc là va chạm chớ gì - vào những cái hữu lậu, thì vào những cái đối tượng là hữu lậu chớ gì? Hữu lậu là cái lậu hoặc mà có cái đối tượng của nó, mà xúc va chạm với cái vật đó.

Thí dụ bây giờ Thầy đụng cái bàn, Thầy đụng cái ghế, Thầy đụng tập vở, Thầy đụng cái máy, Thầy đụng tất cả mọi cái, tức là Thầy xúc chạm nó.

Mà mọi cái đều là có cái giữ của nó lại, tức là cái đó là mình phải biến tri để cho đừng có bị dính mắc nó lại. Thì như vậy mình phải - cái sự hiểu biết của mình phải theo cái nhịp đó mà mình chủ động điều khiển.

Thì nãy như các vị thấy rằng phòng hộ sáu căn đó, là cái chỗ xúc hữu lậu hữu thủ này đó là phòng hộ sáu căn đó. Đức Phật muốn nói đó là một pháp phòng hộ sáu căn đó, đó là “xúc hữu lậu hữu thủ”.

Nghe cái danh từ, thì nếu mà cái người mà không có tu chứng thì họ không có hiểu được cái danh từ này mà giải thích ra như vậy.

Bởi vì cái hữu lậu là nó có ba cái lậu hoặc: cái hữu lậu, cái dục lậu, cái vô minh lậu. Mà ở đây Đức Phật nói “xúc hữu lậu hữu thủ” nghĩa là mình đụng cái gì mình cứ dính vô mình giữ lại, giữ lại đó, thì tức là chúng ta phải phòng hộ sáu căn thì chúng ta mới quét sạch ra.

Thì như vậy, nói “xúc hữu lậu hữu thủ” thì chúng ta biết rằng phòng hộ sáu căn hay Thánh phòng hộ sáu căn. Đó thì một pháp Thánh phòng hộ sáu căn mà chúng ta cũng đã được giải thoát, cũng đã được chứng Niết Bàn.

(12:27) Hỏi: Thế nào là một pháp cần phải đoạn trừ?

Đó, bây giờ cái pháp nào mà đoạn trừ đây? Cái đầu tiên, vô đầu tiên Phật dạy chúng ta phải đoạn trừ cái gì, dứt bỏ cái gì?

Đáp: Ngã mạn.

Các thầy thấy: Ngã mạn - Đức Phật (nói) phải đoạn trừ. “Mỗi một cái tâm niệm mày mống lên, mày hơn người là ngã mạn rồi!” Mình hơi háy nguýt người ta là ngã mạn rồi, mình hơi coi cái vẻ, mình có cái vẻ mà - làm hơi cái vẻ mà đặc biệt hơn người, đó là ngã mạn của mình thể hiện ra.

Mình tự nhiên theo cái phong độ của mình tự nhiên thì nó không có ngã mạn. Chớ còn mình làm có vẻ gì khác hơn một chút, nghe bài học rồi cái mình tỏ vẻ ra khác hơn chút là đi mà không dám đi đó, thì đó là ngã mạn của quý vị theo pháp nó lớn lên rồi đó.

Cho nên, ở đây chúng ta phải sáng suốt từng chút để mà đoạn trừ cái ngã mạn của chúng ta. Bởi vì cái ngã mạn nó thực hiện cái ngã của chúng ta ở trong này nè, mà cái pháp đó chỉ có một pháp đoạn trừ ngã mạn mà quý thầy cũng đã được giải thoát chứ chưa nói gì.

Bởi vì người ta nói vô ngã là Niết Bàn mà, mà bây giờ cái ngã mạn của mình làm sao mình Niết Bàn được?

Đó thì như vậy là chúng ta thấy rằng Đức Phật dạy chúng ta một pháp một thôi mà chúng ta làm cái đề mục của nó mà chúng ta tu hành thì chúng ta cũng phải đạt đến cái sự giải thoát chớ không phải là tu nhiều.

Hỏi: Thế nào là một pháp chịu phần tai hại?

Đó, một pháp mà nó làm cho chúng ta tai hại cái này, cái khác đó. Thì Đức Phật đáp:

Bất chánh tác ý.

Nghĩa là, cái pháp mà nó làm cho phải chịu những cái phần tai hại đó, thì cái ý mà không có chân chánh của mình - bất chánh - nó tác ý ra.

Bây giờ khởi ham cái này, khởi ham cái kia là bất chánh chớ gì? Ghét người này, giận người kia là bất chánh, nghi người này, nghi người kia là bất chánh chớ gì? Sân người này, sân người kia là bất chánh chớ gì?

Đó là bất chánh tác ý, tác ý ra cái sự bất chánh, không có chân chánh. Cho nên đó là cái pháp tai hại. Nó làm cho mình hại mình liền. Trước tiên là mình hại mình. Cũng như thấy người ta, mình nghi người ta vầy đó, đó là bất chánh tác ý rồi.

Cho nên quý thầy phải ghi những cái này, phải nhớ kỹ những cái này, phải học thuộc làu những cái này, để biết từng tâm niệm của mình, để cho mình điều khiển con voi của mình đây.

Mình biết ở trong đầu mình nó tác ý ra cái pháp bất chánh rồi, thì đó là con voi của mình nó muốn đi theo cái kiểu rừng rú của nó rồi đó. Nó chưa có phải là con voi thuần mà để mà mình gác yên, gác bành lên để cho mình điều khiển ra chiến trận đâu.

Đó thì bắt đầu quý thầy thấy cái pháp tai hại chưa? Bất chánh tác ý là pháp tai hại.

Hỏi: Thế nào là một pháp đưa đến thù thắng?

Đó, cái pháp nào mà đưa đến thù thắng? Ngay cái bất chánh tác ý rồi, thì tức là có cái pháp thù thắng. Vậy cái pháp thù thắng là pháp như thế nào?

Đáp: Chân chánh tác ý.

Nghĩa là tác ý ra, bây giờ mình không có nghi người đó, mình không có thấy người đó ăn trộm ăn cắp, mình không nghi người đó tức là mình tác ý cái chân chánh đó ra, thì đó là cái pháp thù thắng làm cho tâm hồn mình giải thoát.

Đó, mình không tham, không sân, không si thì tức là mình tác ý ra những cái tâm không tham, không sân, không si của mình ra. Hoặc là mình không ham muốn thì mình tác ý ra.

Bây giờ thấy cái đồng hồ ra, mình tác ý “Đừng ham muốn!” thì tức là chân chánh pháp tác ý đó. Mình thấy một cái vật gì đó ham muốn hay hoặc mình thấy người phụ nữ đi ngang qua đẹp quá, thì mình tác ý không chân chánh là ham muốn liền, mà mình tác ý: “Đừng ham muốn!” - tức là tác ý chân chánh ra.

(15:47) Đó, cho nên tác ý, cái pháp mà tác ý - Như Lý Tác Ý đó, thì các thầy thấy Đức Phật đã dạy Như Lý Tác Ý tức là pháp ám thị, tức là pháp hướng của chúng ta mà.

Thấy ngang đó cái nó khởi tâm lên thì đó là mình biết là bất chánh tác ý rồi. Nó khởi cái tâm lên thấy cô ta đẹp là biết là bất chánh rồ, cho nên mình dặn mình phải tác ý ra liền. Tức là một cái pháp đưa đến thù thắng, là mình chân chánh tác ý: “Sắc đẹp của người nữ là khổ, là đau!” Mình tác ý như vậy là chân chánh tác ý.

Đó thì các thầy thấy những cái điều mà Đức Phật dạy Thầy thấy rất là tuyệt vời, biết từng tâm niệm của chúng ta để chúng ta từng điều khiển nó, để mà chúng ta thoát ra tất cả những cái cảnh khổ của cuộc đời của chúng ta.

Hỏi : Thế nào là một pháp rất khó thể nhập?

Nghĩa là cái pháp nào mà trong Phật pháp mà khó thể nhập vào? Thì Đức Phật đáp:

Vô gián tâm định.

Cha! Nghe “Vô gián tâm định”!

Bằng chứng là quý thầy bây giờ quý thầy nhập vô Nhị Thiền hay là Sơ Thiền hay hoặc là Tam Thiền, nói chung là cái bóng dáng Tứ Thiền. Mà vô gián đây là nó vô gián, có nghĩa là nó liên tục, chữ “vô gián” nghĩa là liên tục, nghĩa là cái pháp mà nhập vào để mà liên tục ở trong đó, kéo dài từ ngày này đến ngày khác, thậm chí như bảy ngày, cho đến một tháng, hai tháng, ba tháng, năm tháng, sáu tháng, một năm, hai năm mà luôn liên tục như vậy, đó là cái pháp khó có thể, rất là khó thể nhập.

Các thầy hiểu, bây giờ mình nhập nó trong vòng một phút thì có thể được, mà hai phút, ba phút thì có thể được, mà năm phút là thấy có thể là khó nhập vô rồi đó. Cho nên, ở đây Phật nói, cái pháp mà rất khó thể nhập đó là Vô gián tâm định - nghĩa là nhập mà nó liên tục, hoài, hoài, hoài, hoài.

Như Thầy nhập mà hai tháng nó liên tục ở trong đó, đó là cái khó, khó thể nhập. Mà cái người mà nhập được hai tháng như vậy, không phải là chuyện làm trong một ngày, hai ngày đâu.

Các thầy phải hiểu, Phật cho đó là cái pháp khó thể nhập. Mà cái người nào nhập được như vậy, ngồi suốt bảy ngày, không phải là chuyện dễ cho một người tầm thường.

Cho nên, các thầy muốn nhập cho được, nghe nói Tứ Thiền thì muốn nhập cho được, thì phải nhập từng phút, rồi ra, rồi vô, nhập cho nó quen dần. Chớ quý thầy vô ngồi mà quý thầy nhập mà vô gián tâm định như thế này mà nhập được liền, thì cái thân của quý thầy nó tiêu luôn, nó thành thây ma luôn chớ nó không sống nổi đâu.

(18:10) Cho nên phải nhập vô, nhập ra, kéo dài cái thời gian luyện tập nó từng chút, từng chút, tăng lên thời gian từng chút thì quý thầy không có bị khổ đau, không có bị hoại diệt cơ thể.

Cho nên, cái sức thiền định của Tứ Thiền, quý thầy phải biết: Có bốn mươi chín ngày nó còn giữ thân thôi, mà qua bốn mươi chín ngày, năm mươi ngày là cái thân của quý vị hoại diệt liền tức khắc, nó không còn hồi phục lại được.

Cho nên, nhập Tứ Thiền là tới bốn mươi chín ngày là tự nó xuất ra, quý thầy muốn kìm nó cũng không được nữa. Nó còn hồi phục được nó trở ra.

Còn quý thầy mà ráng kìm, mà kìm cho được, Thầy nói rằng, không ai kìm được hết. Nghĩa là lúc bấy giờ tới chừng đó nó ra rồi, bởi vì nó phải phục hồi cái sự sống nó, nó phải bung ra thôi.

Cũng như bây giờ cái sức của quý thầy có một phút à, quý thầy ráng hai phút nó bung ra. Rồi quý thầy nhắc nó, quý thầy gom lại nữa, quý thầy nhập vô nữa, thì nó nằm chút xíu nó cũng bung ra, nó chưa được một phút nữa đâu. Nó đâu có phải chuyện dễ đâu.

Cho nên muốn mà…​ Bởi vì ở trong này Phật dạy mà: “Thế nào là một pháp rất khó thể nhập?” Phật dạy là “vô gián tâm định”.

Cái câu nói “vô gián”, mình nghe nói thuở giờ, mình nghe nói cái vô gián địa ngục chớ gì? Có cái vô gián địa ngục là luôn luôn mình luôn luôn liên tục ở trong cái sự đau khổ, nó không có phút giây nào mà hở ra cái sự đau khổ, gọi là vô gián địa ngục. Các con hiểu không?

Bây giờ ở trong cái vạc dầu, mà người ta bỏ mình trong vạc dầu người ta đốt mình đó, nó nóng liên tục, nó không có phút nào là nó không nóng, cho nên gọi là vô gián địa ngục. Còn nó có phút mát, phút nóng, phút mát thì nó không phải là vô gián địa ngục.

Cũng như người ta đánh mình một hơi đã rồi người ta cho mình nằm nghỉ, thì phút mà nằm nghỉ thì nó không đau thì không thể gọi đó là vô gián địa ngục. Mà lọt vào vô gián địa ngục là liên tục từ ngày này đến ngày khác, nó liên tục đau khổ, không phút nào là không đau khổ.

Đó quý thầy hiểu, cho nên chữ vô gián mà tâm định, là liên tục ở trong định, không có phút nào mà kẻ hở ở trong đó mà bung ra, bung vô được, gọi là “vô gián”.

Vậy thì hôm nay, Thầy giảng cho quý thầy biết được cái Định Vô Gián như thế nào. Mà bây giờ quý thầy cứ từng phút, từng phút một chớ đâu có lâu được, phải không?

Đó, hiểu như vậy thì quý thầy thấy được con đường của đạo Phật, Phật vạch quá rõ, không có chỗ nào mà Phật không nói cho chúng ta biết cái khó, cái dễ của nó.

Cho nên, bây giờ chúng ta tu được một phút, hai phút, chưa chắc đã là chúng ta đã kéo dài một, hai ngày nổi. Cho nên sự tu tập chúng ta cần phải còn tu tập nhiều.

Hỏi: Thế nào là pháp cần được sanh khởi?

Đó, pháp nào mà cần được sanh khởi? Thì Phật đáp:

Bất động trí.

Mình muốn không có cái tâm mà sanh khởi, thì phải giữ cái trí của mình bất động, không có khởi cái niệm này, niệm kia thì bất động. Nói như vậy chớ đâu phải dễ đâu! Đó, như vậy muốn đạt được cái pháp này - bất động trí - thì chúng ta còn phải tu tập những cái pháp khác.

Kế đây Thầy sẽ cho hai pháp, rồi ba pháp, rồi bốn pháp, mỗi cái bài pháp về giới luật, về cái giáo án Thầy sẽ cho thêm những cái bài phụ hết, để chúng ta thấy xen kẽ, xen kẽ để mà chúng ta biết tu tập.

Chớ giờ nói bất động trí: Cha! Cái chuyện này khó quá! Ngồi đây mà tâm không có nghĩ ngợi thì như là một người nhập Sơ Thiền, hoàn toàn là thanh thản không có một cái trí gì hết, đó tức là bất động trí.

(21:10) Mà bất động trí, thí dụ như nhập Nhị Thiền, thì bây giờ suốt thời gian một giờ, hai giờ, cho đến một ngày, hai ngày, ba ngày, bảy ngày mà cái tâm luôn luôn nó không khởi niệm này, niệm kia, im phăng phắc thì đó là bất động trí!

Đó thì như vậy là chúng ta phải có một công trình tu tập dữ lắm mới có đạt được.

Cho nên thế nào là pháp cần được sanh khởi? Nó liên tục sanh khởi, lúc thì sanh cái này, lúc sanh cái kia. Cho nên vì vậy mà Đức Phật mới dạy, thế nào là pháp cần được sanh khởi? Cần được sanh khởi, tức là mình đi ngược lại cái pháp mà nó đang - cái tâm mình sanh khởi - thì bất động trí, phải không?

Mình nghe nói: Thế nào là pháp cần được sanh khởi? Cái tâm của mình bây giờ nó đang sanh khởi rồi mình sanh khởi nữa sao? Cho nên, cái pháp mà cần cho được nó sanh khởi để cho cái sanh khởi của tâm mình nó đừng sanh khởi. Các con hiểu chỗ đó không?

Cho nên, nghe cái câu này thì chúng ta nghe nó dường như là Phật nói mâu thuẫn. Nhưng mà sự thật là đúng. Bởi vì mình đang ở trong cái tâm sanh khởi, mà bây giờ cái pháp mà cần được sanh khởi, nó không còn sanh khởi nữa đó, thì như vậy là bất động trí. Nó phải hiểu như vậy mới hiểu được cái câu nói.

Bởi vì trong kinh thường thường cái người dịch và cái người mà hiểu thì nó có hai cái hiểu. Nó phải có - thay vì cái câu này phải đặt như vầy nè: Thế nào là pháp cần được không sanh khởi? - Thì nó đúng. Nhưng mà vì ở trong kinh người ta dịch như vậy thì Thầy cũng viết ra như vậy để mà chúng ta phải hiểu nó bằng cách - nhưng mà chúng ta hiểu rất đúng, bởi vì hiểu như thế nào?

Các pháp mà cần sanh khởi là các pháp ở trong tâm của chúng ta. Mà muốn cho tâm nó đừng sanh khởi thì bất động trí nó mới không sanh khởi. Chớ cái trí mà sanh khởi hoài thì nó làm sao mà nó đối lại với cái pháp đó được!

Đó là cái câu, cái câu hỏi và cái câu trả lời như vậy.

Hỏi: Thế nào là một pháp cần được thắng tri?

Thắng tri tức là phải hiểu cho sâu đó, hiểu cho thấu triệt đó, cái pháp đó cần phải hiểu, hiểu cho thấu triệt mình mới làm chủ được cái pháp đó. Thì:

Đáp: Tất cả loài hữu tình do ăn uống mà an trú.

Nghĩa là, mình hiểu cho được cái ăn uống này để cho mình làm chủ được cái ăn uống chứ không phải gì hết.

Đức Phật muốn nói “tất cả loài hữu tình” là con vật, con gì, tất cả những loài mà biết thì tất cả những loài hữu tình, cái thứ nào cũng phải do ăn uống mà an trú. Nếu không ăn uống thì an trú không được. Chúng ta bây giờ không ăn thì chúng ta có an trú nổi không? Có ăn nó no như thế này chúng ta mới an trú được.

(23:43) Cho nên, cái pháp “một pháp mà cần được thắng tri”, thì cái pháp đó là cái pháp phải thấu suốt được cái trí hiểu biết của mình, phải thấu suốt được cái lý do ăn uống và an trú của chúng ta.

Cho nên chúng ta ăn một ngày một bữa là chúng ta đã thấu suốt được cái lý ăn uống. Cho nên Phật dạy chúng ta ăn uống một bữa đó, không ăn uống phi thời. Mà ăn uống một bữa là chúng ta đã an trú được yên ổn nhất. Ăn nhiều chưa chắc đã an trú được.

Bởi vì ăn nhiều chúng ta phải giành giật, cũng như loài vật chúng sanh đó, ăn nhiều nó đánh lộn nhau, giành giật đồ ăn. Cũng như mình, con người cũng vậy, ăn nhiều rồi sanh ra đấu tranh, nó mới có chuyện này chuyện kia, nó mới có làm những cái điều ác.

Cho nên chúng ta ăn ngày một bữa, và một bữa đó chúng ta thấy nó an ổn, yên trú, thân và tâm của chúng ta rất là an ổn.

Đó là cái pháp cần phải được thắng tri.

Hỏi: Thế nào là một pháp cần được tác chứng?

Đó. Bây giờ là chứng cái lý, thì cái pháp đó cần phải được tác chứng. Thì:

Đáp: Bất động tâm giải thoát.

Đó thì bất động tâm giải thoát thì quý thầy thấy hiểu chưa! Mà Thầy nói cái mục đích của đạo Phật đó, một cái pháp này thôi để giữ cái tâm mình làm sao cho bất động tâm giải thoát thì đó là cái mục đích của đạo Phật, thì đó là cái sự thành tựu của đạo Phật.

Muốn được vậy thì chúng ta phải nỗ lực hết sức mình trên bước đường tu tập mới có đạt được cái mục đích bất động tâm giải thoát.

3- MƯỜI BA GIỚI ĐỨC

(25:08) Bây giờ chúng ta tiếp tục học giáo án trong phần giới đức cho xong để còn phải học giới tuệ và giới bổn nữa, nó còn rất nhiều cái phần mà chúng ta phải học. Mà Thầy thấy về học cái giới thì nó quá là tuyệt, cho nên chúng ta phải học cho nó kỹ hơn một chút để chúng ta biết được cái đường lối tu tập.

Bây giờ Thầy xin nhắc lại để cho nó nối tiếp với cái bài pháp vừa rồi về cái giới hạnh, bây giờ nó cái phần là giới đức.

3.1- GIỚI ĐỨC THỨ 1 - HỘ TRÌ CÁC CĂN

(25:46) Ở đây vị Tỳ Kheo phải hộ trì các căn.

Nghĩa là vị Tỳ Kheo phải giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình.

Bước qua cái giới đức, thì quý thầy thấy rằng cái pháp hộ trì các căn là đầu tiên hết. Mà chính đó là giới đức của chúng ta.

Bởi vì con mắt mình nhìn xuống, mình đi ra đường mình nhìn xuống, mình hộ trì con mắt mình không có thấy vật gì hết, thì cái tâm nó không tham muốn, thì tức là giới đức của chúng ta chớ gì? Cái đức ở trong tâm của chúng ta, còn cái kia cái hành động mà, các con hiểu điều đó không?

Cho nên người ta nhìn cái đức của cái người tu sĩ mà đi mà không ngó qua ngó lại, người ta thấy ông này thiệt là nghiêm chỉnh, cái đức nghiêm chỉnh, cái tâm không bị dao động. Bởi vì mình không ngó qua, ngó lại, mình đâu có thấy vật gì. Cho nên tâm mình đâu có dao động.

Mà phải là phòng hộ giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, đó là cái giới đức đầu tiên mà cái vị Tỳ Kheo cần phải học.

Thế nào là Tỳ Kheo hộ trì các căn?

Đó. Bây giờ chúng ta nêu lên cái sự hộ trì các căn. Hồi nãy mà trước khi mà học cái bài này, Thầy đã nêu lên có những vị Thánh tăng đã hộ trì các căn đó, đó là người ta tu ở trong cái giới đức đó.

Quý thầy thấy nêu lên một cái bài pháp là phải có một sự thực hiện ngay cái bài pháp đó liền tức khắc để chúng ta lấy cái gương hạnh đó mà chúng ta tu tập.

Thế nào là Tỳ Kheo hộ trì các căn?

Vị Tỳ Kheo khi mắt thấy sắc không nắm giữ tướng chung, tướng riêng; những nguyên nhân gì khiến cho nhãn căn không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các bất thiện pháp khởi lên, Tỳ Kheo phải chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn và nỗ lực thực hành sự hộ trì nhãn căn ấy.

Đó thì, quý thầy thấy, có những cái nguyên nhân nào mà khi con mắt thấy cái vật, rồi mà không được chế ngự nó thì nó sanh ra ham muốn chớ sao! Cho nên mình phải chế ngự nó.

Mà khi con mắt thấy một cái vật mà nó sanh ra tham ái, ưa thích, thì nó ưa thích thì nó sanh ra mình về rồi mình nhớ, mình nghĩ, mình thương, mình thấy như thế này ra.

Thí dụ đây Thầy đặt vấn đề ví dụ. Mình đi ra đường, mình thấy một cái cô gái đó, họ nhìn mình, rồi mình nhìn họ, họ cười mỉm chi, mình cười mỉm chi. Về cái bắt đầu cái tâm tham ái của mình bắt đầu nó nổi lên, mình không có chế ngự con mắt mình được.

Bây giờ mình thấy những cái hành động đó, những cái cử chỉ đó, về đó cái bắt đầu mình nằm đó mình buồn rầu “Phải chi gặp cô ta nữa! Thôi để ngày mai mình đi ra ngoài đường đó, mình đón cô ta có đi chợ không để gặp nữa!” Làm cho mình đêm đó ngày đó mình sầu tư, ưu bi - người ta gọi là tương tư đó.

(28:19) Đó, tương tư bóng dáng thôi, chỉ sơ sơ là người ta chỉ cười tình với mình, liếc háy mình có một chút thôi, mà về thôi sầu não gần chết, có phải là khổ không?

Cho nên vì vậy đó mà cái người biết rằng cái nguyên nhân, những cái nguyên nhân gì khiến cho nhãn căn không được chế ngự, mình thấy được cái sắc pháp đó nó làm cho nhãn căn mình không được chế ngự, khiến cho tâm tham ái, ưu bi chúng ta khởi lên, đó là nó làm cho chúng ta tương tư đó.

Đó là chúng ta phải biết đó là các ác bất thiện pháp khởi lên, vị Tỳ Kheo phải biết rõ cái nguyên nhân đó. Cho nên chúng ta trừ diệt, hộ trì cái nhãn căn, và nỗ lực thực hiện sự hộ trì nhãn căn không có cho nó dính cái hình ảnh đó nữa, quét sạch cái nụ cười đó ra, quét sạch cái đôi mắt mà liếc tình đó ra, cho nên vì vậy mà chúng ta thấy thanh thản trở lại, không có ưu bi, không có tương tư nữa.

Đó thì, ở đây Đức Phật dạy cho chúng ta hộ trì các căn làm cho chúng ta thoát ra khỏi cái vòng lôi cuốn, và cái vòng mà nó trói buộc chúng ta bằng những sợi dây vô hình mà rất là vĩ đại lắm, chớ không phải thường đâu.

Người ta thất tình, tương tư cũng bị ba cái này mà tiêu hết đó! Mà người tu sĩ đạo Phật mà chúng ta không có rõ được cái nguyên nhân đó, mà cứ để nằm lên, thở dài, thở xuống đó, thì cái kiểu đó tiêu ma luôn chớ đừng có nói chuyện tu!

Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi hương, thân cảm xúc, ý nhận thức các pháp, vị Tỳ Kheo ấy không nắm giữ tướng riêng, tướng chung nhờ hộ trì cao quý các căn ấy. Do sự hộ trì này, mà tâm không đắm nhiễm các pháp thế gian nên nội tâm thanh tịnh, thanh thản, không cấu uế, tham dục, do vậy thân tâm hưởng lạc trọn vẹn của giới đức này.

Nghĩa là khi mà chúng ta hộ trì các căn thì ngay cái giới đức đó chúng ta thực hiện được thì chúng ta hưởng trọn vẹn của cái sự học giới này.

Đó thì quý thầy thấy cái sự phòng hộ sáu căn của chúng ta rất là quan trọng cho cái vấn đề của một người mà trau dồi cái giới đức của họ.

Vị Tỳ Kheo trau dồi, tu tập phòng hộ giữ gìn sáu căn không cho dính mắc sáu trần như vậy được tâm thanh tịnh, trong sạch, không cấu uế trần cảnh.

Như vậy là giới đức của vị ấy thứ nhất trong giới luật của Đức Phật.

Nghĩa là chúng ta hộ trì các căn chúng ta mà được thanh tịnh như vậy, đó là thứ nhất ở trong giới luật của Đức Phật, tức là giới đức của vị ấy thứ nhất ở trong giới luật của Đức Phật.

Đó chúng ta thấy cái đó là cái thứ nhất đó, cái phần thứ nhất mà chúng ta tu tập cái giới đức của Đức Phật, của giới luật của Đức Phật.

3.2- GIỚI ĐỨC THỨ 2 - CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC

(31:01) Ở đây vị Tỳ Kheo phải Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Đó, bây giờ tới cái thứ hai nữa:

_Ở đây vị Tỳ Kheo phải Chánh Niệm Tỉnh Giác. Thế nào là vị Tỳ Kheo Chánh Niệm Tỉnh Giác? _

Chánh Niệm Tỉnh Giác là một giới đức của vị Tỳ Kheo mà cần phải trau dồi, tu tập hằng ngày, không được biếng trễ.

Nghĩa là chúng ta thấy Đức Phật có nói phòng hộ sáu căn, rồi Phật còn gọi cái tên phòng hộ sáu căn, Phật còn gọi là Thánh phòng hộ sáu căn, cho đến cái định mà gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định đó, thì Phật còn gọi là Thánh Chánh Niệm Tỉnh Giác, cái tên nghe - dùng cái tên nghe mình thấy các bậc Thánh tu hành chớ không phải là người tầm thường.

Vậy thì thế nào là Chánh Niệm Tỉnh Giác?

Thánh Chánh Niệm Tỉnh Giác là một giới đức của vị Tỳ Kheo mà cần phải trau dồi tu tập hàng ngày không được biếng trễ.

Đây là Phật dạy ra cái hành động mà chúng ta tu tập cái Thánh Chánh Niệm Tỉnh Giác này.

Tỳ Kheo khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác.

Nghĩa là mình tỉnh giác ở trên cái hành động đi tới, đi lui của mình đó.

Khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác.

Nghĩa là mình nhìn qua thì mình tỉnh giác ở trong cái sự nhìn qua của mình, nhìn tới, nhìn lui, nhìn qua, nhìn lại, những cái nhìn của mình đều phải tỉnh giác ở trong đó.

Tỉnh giác để làm gì? Các thầy nghĩ tỉnh giác để làm gì đây? Tỉnh giác để phòng hộ sáu căn của mình chứ làm gì, để cho nó đừng dính mắc chớ gì! Nếu mà không tỉnh giác thì nó sẽ dính à. Cho nên, mình lúc nào mình cũng tỉnh giác nó, mình giữ gìn trong cái hành động của mình, liếc nhìn, ngó quanh, ngó quất đều là tỉnh giác.

Khi co tay, khi duỗi tay, đều tỉnh giác. Khi mang y kép, bình bát, y thượng đều tỉnh giác. Khi ăn uống, nhai nuốt đều tỉnh giác. Khi đi đại, tiểu tiện đều tỉnh giác. Khi đi, đứng, nằm, ngồi, thức, nói, yên lặng, thầm lặng đều tỉnh giác.

Nói chung là tất cả các hành động trong thân, khẩu, ý đều lúc nào cũng có sự tỉnh giác.

Luôn luôn niệm hành động không mất - tức là thất niệm.

Nghĩa là luôn luôn mình giữ cái niệm hành động của mình đừng có mất, thì tức là mình không thất niệm, còn nếu mà nó mất tức là mình bị thất niệm. Thí dụ mình đương ngó qua cái mình quên đi, tức là thiếu tỉnh giác, đó là mình thất niệm rồi đó.

(33:34) Cho nên Đức Phật thường nhắc chúng ta là thất niệm đó, là khi tu một cái phần nào, luyện tập trau dồi cái phần nào, thì tức là mình phải luôn luôn phải đừng có để cho thất niệm, mà thất niệm thì đó là không tốt rồi.

Như vậy là giới đức của vị Tỳ Kheo thứ hai trong giới luật của Đức Phật.

Đó, chúng ta thấy từng cái giới, mà giới đức thứ nhất rồi giới đức thứ hai, nó có tuần tự. Nếu quý vị tu Chánh Niệm Tỉnh Giác trước mà không phòng hộ sáu căn trước thì cái đó là quý vị tu ngược, lớp một mà không tu lại tu lớp hai đó.

Cho nên bây giờ vô đó Thầy dạy quý thầy, dạy: “Đi kinh hành, biết tôi đi kinh hành”, đó là tu lớp hai chứ không phải tu lớp một. Còn dạy chúng ta phòng hộ sáu căn đó là bắt đầu chúng ta tu lớp một rồi đến tu lớp hai.

Cho nên khi mà tỉnh giác để làm gì? Để chúng ta giữ gìn, phòng hộ sáu căn của chúng ta đó. Khi nó thấy, khi nó nghe, khi này kia đó, mắt nhìn ngó, hay hoặc là cái gì động dụng gì của ý của mình đều là mình quan sát, mình tỉnh thức.

Cho nên mình tỉnh thức tức là mình ngăn cái lòng ham muốn của mình ngay liền tức khắc. Mình không tỉnh thức lòng ham muốn mình xâm chiếm liền, thì ác pháp vô đó mà xâm nhập tâm hồn của chúng ta.

Chúng ta thấy từ cái lớp một chớ, đó là cái lớp một chúng ta phải tu phòng hộ sáu căn - Thánh phòng hộ sáu căn. Lớp hai của giới đức thì chúng ta lại tu Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Cho nên, chúng ta tu cái này rồi, nó thấy được cái sự phòng hộ rồi, từ phòng hộ ăn uống, từ phòng hộ mặc y áo, từ phòng hộ tất cả mọi vật nó không còn dính mắc rồi, thì bây giờ tu Chánh Niệm Tỉnh Thức nó rất là tỉnh thức.

Các thầy thấy rất rõ, trên cái con đường của đạo Phật vạch chúng ta đi từng bước một, bước một của chúng ta, mà nó làm cho chúng ta tỉnh thức, rất là tỉnh thức.

Nhờ giới đức tỉnh thức này, nên Ngũ Triền Cái và Ngũ Kiết Sử không xâm chiếm được tâm của vị ấy.

Nghĩa là tỉnh thức rồi thì Ngũ Triền Cái với Ngũ Kiết Sử không bao giờ…​ Ngũ Kiết Sử hay là Thất Kiết Sử, sau này Thầy sẽ dạy cho quý thầy tới cái phần giới tuệ đó, thầy sẽ dạy cho quý thầy cái Ngũ Kiết Sử và cái Ngũ Triền Cái và Ngũ Kiết Sử, và Thất Kiết Sử để cho quý thầy biết những cái đó là cái gì mà chúng ta cần phải quét sạch nó ra.

Còn bây giờ thì chúng ta lướt qua để chúng ta biết rằng:

Nhờ giới đức tỉnh thức này nên Ngũ Triền Cái và Ngũ Kiết Sử không xâm chiếm được tâm của vị ấy. Vị ấy hoàn toàn sống thanh thản, an lạc, tâm vị ấy lần lần thanh tịnh, trong sạch.

3.3- GIỚI ĐỨC THỨ 3 - THIỂU DỤC TRI TÚC

(35:59) Ở đây, vị Tỳ Kheo ít muốn…​

Đây tới cái giới đức thứ ba đây. Đó là giới đức thứ hai là Chánh Niệm Tỉnh Giác, đó là giới đức thứ hai. Giới đức thứ ba:

Ở đây, vị Tỳ Kheo ít muốn biết đủ.

Ít muốn là thiểu dục tri túc đó. Đó là một cái đức, cái giới đức của một người tu sĩ, họ phải cần tập luyện đây.

Thế nào là ít muốn, biết đủ?

Ít muốn, biết đủ tức là thiểu dục tri túc. Thiểu dục tri túc là một giới đức của vị Tỳ Kheo nên cần phải trau dồi tu tập hàng ngày. Nếu không trau dồi tu tập hàng ngày thì khó mà sống được giới đức này.

Nghĩa là phải luôn luôn trau dồi nó. Vậy thì trau dồi nó như thế nào đây?

Ở đây, vị Tỳ Kheo phải chấp nhận, phải bằng lòng với ba tấm y để che thân, với đồ ăn đi xin để nuôi bụng. Đi đến chỗ nào cũng chỉ mang theo ba y, một bát, không được thêm cũng không được bớt.

Cũng như con chim bay đến chỗ nào nó cũng mang theo hai cái cánh và chiếc mỏ để sống, bữa đói, bữa no mà vẫn không quan tâm. Chỉ quan tâm đến cuộc sống thiểu dục tri túc của giới đức của người tu sĩ.

Nghĩa là mình quan tâm cái giới về giới đức của mình, cho nên luôn luôn mình sống thiểu dục tri túc, không có đòi hỏi, bữa đói, bữa no cũng không quan trọng nữa, mà chỉ cần phải giữ cái giới đức của mình, đó là mình đi đâu mình chỉ mang ba y, một bát của mình đến đó, và cái bát của mình đó là chiếc mỏ của mình đi xin ăn mà sống.

Bữa thì người ta cho ăn thì no, bữa mà người ta không cho ăn thì đói mà vẫn biết giữ, đói thì cũng vẫn là ít muốn, biết đủ. Chớ không phải đói là bắt đầu mình muốn, muốn cho ăn nhiều đó, thì cái đó không phải là tri túc thiểu dục đâu.

Ở đây cái tri túc thiểu dục là nói bây giờ đồ ăn mình dư dả quá nhiều rồi đó, mình ăn ít ít thôi. Nhưng mà sự thật khi mà đói mới biết được cái chỗ mà chúng ta có thiểu dục tri túc hay không. Đó là cái khó đó.

(38:01) Ở đây nó tới là cái giới đức mà thứ ba của Phật dạy rồi, cho nên nó khó chớ không phải dễ đâu. Nói thiểu dục tri túc, khi mà chúng ta đói rồi chúng ta mới biết thiểu dục tri túc chúng ta ở chỗ nào.

Khi mà quần áo chúng ta, y áo chúng ta đã rách nát hết rồi, không còn có mặc nữa hay hoặc là nó ướt át hết rồi chúng ta mới thấy là cái chỗ thiểu dục tri túc chúng ta nó mới có biết được chỗ đó. Chớ không phải là nghe nói thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ là như vậy là đơn giản cái danh từ như vậy đâu.

Khi cái trường hợp và hoàn cảnh chúng ta có đói, có khát chúng ta mới biết chỗ tri túc thiểu dục chúng ta ở chỗ đó đó, ở chỗ đói khát đó, ở chỗ mà cái người đời mà người ta gọi là không thể làm được tri túc thiểu dục đó đó.

Chớ còn bây giờ, thí dụ như người nghèo họ nói: “Tui cũng biết đủ rồi, tui đâu có gì đâu, tui đâu có ham giàu nữa.” Sức ông ta ổng làm giàu không được thì ông đâu có làm sao ổng ham được nữa, cho nên ổng cũng nói ông biết đủ rồi!

Đó thì cái đó là cái mà không thể nói rằng tri túc thiểu dục của giới đức của cái người tu sĩ được, mà giới đức của người tu sĩ để căn cứ vào cái chỗ mà đói, mà khát, mà rách, mà rưới, mà khi đau bệnh mà không thuốc thang đó, mà vẫn tri túc thiểu dục được trong lúc đó đó, mới gọi là tri túc thiểu dục.

Nếu mà Thầy không giảng như vậy thì quý thầy chỉ hiểu sơ sơ chỗ tri túc thiểu dục đó thì không thấu suốt được đạo Phật đâu.

Như vậy là giới đức của vị Tỳ Kheo thứ ba trong giới luật của Đức Phật.

Đó, cái chỗ mà thiểu dục tri túc này mà sống như vậy đó thì Đức Phật coi nó là cái giới đức của một vị Tỳ Kheo trong giới luật của mình đó.

Người tu sĩ nào sống ngược lại những giới đức này là vị Tỳ Kheo phạm giới đức…​

Phạm phải cái giới đức.

…​ của đạo Phật. Vị ấy là trùng trong lông sư tử.

Nghĩa là mình không giữ được tâm của mình khi mà trong cái cảnh khó, mà mình không giữ tâm của mình thiểu dục tri túc.

Cho nên hầu như người ta không giữ được cái thiểu dục tri túc đó, mà người ta phải để dành thuốc, để dành thang, để dành hai cái y, để dành hai cục xà bông, để dành hai cây kim để rủi cây này có gãy cây kia nó còn mà vá.

Còn bây giờ mình gãy sạch hết rồi, mà quần áo thì rách hết rồi, mà lấy gì vá đây? Thì không phải lúc bấy giờ mới là lúc mà thiểu dục tri túc sao? Chớ đâu phải mà lúc còn cây kim đó là thiểu dục tri túc đâu.

Quý thầy phải hiểu cái chỗ khó khăn là cái chỗ đó đó. Mà cái chỗ đó mới nói lên được cái đức của cái người tu, thiểu dục tri túc đến cái mức đó đó.

3.4- BA GIỚI ĐỨC ĐẦU TIÊN LÀ NỀN TẢNG TU TẬP QUAN TRỌNG

(40:19) Vị Tỳ Kheo khi đã thành tựu giới hạnh và ba giới đức cao quý trên đây…​

Đó phải xem được là ba cái giới đức cao quý của họ chớ không phải là tầm thường đâu. Nếu mà giữ gìn được ba cái giới đức này, thật ra một vị Tỳ Kheo đáng cho người ta cúi đầu mà người ta đảnh lễ, người ta cúng dâng tất cả những cái thực phẩm để coi như đương nhiên là một vị Phật sống ở tại thế gian rồi đó.

Thứ nhất là chúng ta phải hiểu là các giới hạnh mà chúng ta đã tu tập ở trên, nghĩa là giới hạnh đã học rồi ở trên đó, các giới hạnh chúng ta đã học ở trên, cộng với ba cái giới đức mà chúng ta vừa học đó, thì hai là giới đức hộ trì các căn, ba là giới đức Chánh Niệm Tỉnh Giác, bốn là giới đức thiểu dục tri túc. Đó ba cái giới đức này, nó quan trọng bước đầu của cái người mà tu tập về cái giới đức của đạo Phật.

…​ khi đã tu tập giới đức, giới hạnh này viên mãn thì nên lựa một cái chỗ thanh vắng.

Khi mà chúng ta giới đức, giới hạnh - tức là những cái giới hạnh, hai mươi lăm cái giới hạnh ở trên đó, và ba cái giới đức dưới này mà chúng ta tu tập, chúng ta sống được như vậy rồi, thì bắt đầu chúng ta mới đi đến một cái chỗ thanh vắng, tĩnh mịch, như rừng cây, ngoài trời, đống rơm, chòi lá, hay khe suối, hang đá, hang động…​

Bắt đầu chúng ta mới đi đến đó để chúng ta thực hiện những cái giới đức kế tiếp của chúng ta tu tập.

Sau khi khất thực ăn cơm xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú chánh niệm trước mặt.

Đó, bây giờ mới đi vào ở trong những cái giới đức kế tiếp. Còn nếu mà ba cái giới đức mà những cái giới hạnh ở trên mà chưa thực hiện được, thì cái chuyện mà đi làm cái chuyện này thì không có thể nào mà làm được cái tới nữa được đâu.

Bởi vì từ cái lớp thấp phải học cho nó xong thì mới đến cái lớp cao, và đến cái lớp cao này thì chúng ta phải đầy đủ giới hạnh và đạt được ba cái giới đức như Thầy đã giảng ở trên, thì bắt đầu bây giờ mới vào rừng để rồi chúng ta tu tập giới đức gì tiếp theo đây, để chúng ta thấy coi thử coi cách thức tu như thế nào đây.

3.5- GIỚI ĐỨC THỨ 4 - XẢ TÂM THAM ÁI

(42:36) Vị Tỳ Kheo sau khi ngồi kiết già, lưng thẳng đứng, vị ấy đặt niệm tham ái trước mặt…​

Đó, mặc dù là phòng hộ giữ gìn, Chánh Niệm Tỉnh Thức như vậy rồi, nhưng chưa hẳn đã là quét sạch tham ái trong lòng của mình.

Cho nên vị đó phải đi vào cái nơi thanh vắng, yên tịnh ở trong rừng, trong núi, rồi mới đặt cái lưng thẳng, ngồi kiết già, mới đặt cái niệm tham ái trước mặt mình:

…​ quán xét tận tường tham ái, vị ấy từ bỏ tham ái.

Quán xét cho nó thấu suốt của nó rồi, tức là tu Định Vô Lậu đây. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta mới từ bỏ cái lòng tham ái chúng ta được.

Đó thì quý thầy thấy cái chỗ tu của đạo Phật có từng bước, từng bước rất rõ ràng, chớ không phải là nói cái chuyện mà tu mù mờ, như bây giờ cứ ngồi thiền hít thở không thì đó là tu mù, tu mờ chớ tu không có đúng cái cách thức mà tu tập.

Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ.

Đó bắt đầu, bắt đầu các thầy thấy không, khi mà đặt cái niệm như vậy đó thì cái vị đó mới quán xét, tức là dùng cái pháp quán mà quán xét những cái tham ái của mình:

Nó như thế nào, nó khổ như thế nào, nó làm sao sao, để cho mình quét sạch nó ra - những cái tâm mà từ lâu tới giờ mình có những cái tham ái, nó làm cho mình dằn vặt đau khổ ở trong lòng của mình.

Mặc dù là qua những cái giới hạnh và cái giới đức ở trên, nó làm cho mình được tỉnh thức được cao, được xả ly rất nhiều rồi đó, thì bây giờ nó còn quét sạch những cái tham ái mà vi tế ở trong lòng chúng ta. Còn cái thô thì chúng ta hết rồi, những cái giới đức, giới hạnh ở trên chúng ta đã quét sạch cái thô rồi.

Còn bây giờ cái thô của mình chưa có tu tập cái này, mà nó còn thô mà ngồi đây mà quét sạch tham ái thì chắc chắn là chỉ là quét cái sơ, cũng như là mình xoa cái da của nó chớ nhằm nhò gì tới cái tâm của nó đâu, nó làm sao mà nó hết được!

Cho nên bắt đầu bây giờ đó mới là quán xét nó, từ đó cái trí tuệ chúng ta nó phóng ra những cái tri kiến giải thoát, nó làm chúng ta thấm, thấu suốt được cái tâm tham ái. Cho nên chúng ta ly nó ra, chúng ta gọt sạch nó hết cái tham ái này ra.

(44:36) Đó, bắt đầu cái tâm mà tham ái chúng ta đã gọt sạch ra hết rồi, thì bắt đầu chúng ta từ bỏ sân hận.

Vị ấy sống với tâm không sân hận…​

Tức là chúng ta đặt cái niệm sân trước mặt chúng ta nữa. Nghĩa là tâm tham ái đã quán xét nó rồi, thấu suốt nó rồi, xả ly nó rồi, từ bỏ nó rồi, thì bắt đầu bây giờ chúng ta mới đặt cái niệm sân ở trước mặt nữa, chúng ta tiếp tục,

Không có nghĩa là trong một cái thời gian mà ngồi ở tại khu đó đó, mà thời gian này quán xét cái tham ái rồi cứ tiếp tục cái sân nữa đâu, không phải đâu!

Nghĩa là chúng ta, tham ái chúng ta quét sạch rồi bắt đầu chúng ta xả nghỉ, chơi cho nó khỏe, rồi một lúc nữa chúng ta đặt, chúng ta tu cái tham ái nữa, quét cho thật sạch, chúng ta thấu suốt được cái lý mà ly cho hết cái tham ái.

Trong một ngày, hai ngày, một tuần lễ, hai tuần lễ…​ chúng ta thấy cái tâm tham ái của chúng ta nó quét sạch được rồi, bắt đầu chúng ta mới đặt cái niệm sân, đặt cái niệm sân rồi chúng ta cũng quán xét cái niệm sân như vậy, để chúng ta quét sạch cái sân ra.

Khi mà chúng ta quét sạch, từ giã cái tâm sân của chúng ta, thì:

…​ lòng từ mẫn, thương xót tất cả chúng sanh hữu tình.

Đó thì lúc bấy giờ chúng ta quét sạch cái tâm sân của chúng ta thì cái tâm từ mẫn của chúng ta - nó thương xót chúng sanh - nó hiện ra.

Đây là giới đức của vị ấy thứ tư trong giới luật của Đức Phật.

Nghĩa là khi mà quét sạch cái tâm tham ái, cái lòng sân hận, cái tâm Từ Bi của vị ấy phát triển ra được thì đó là cái giới đức thứ tư ở trong cái giới luật của Đức Phật.

Khi đã gột rửa tâm tham ái, vị ấy…​

À không, ở đây cái tâm sân chưa, Thầy lộn ở chỗ này nè.

Các thầy nhớ kỹ: Chỉ quét sạch cái tâm tham ái đó là cái giới đức của chúng ta thứ tư ở trong cái giới luật của Đức Phật. Còn cái tâm sân nó lại nằm riêng ở cái phần khác rồi đó, nó không có ở trong cái phần của tâm tham ái.

Bởi vì tham ái nó là một cái giới đức, quét sạch cái tham ái nó là một cái giới đức ở trong cái giới luật của Phật.

Ở đây Thầy tiếp tục. Vì hồi nãy Thầy bị ghi lộn chớ không phải gì hết.

3.6- GIỚI ĐỨC THỨ 5 - XẢ TÂM SÂN

(46:52) Khi đã gột rửa tâm tham ái xong rồi, thì vị ấy mới đặt lưng, ngồi thẳng…​

Kiết già đó, thì mới:

…​ đặt cái niệm sân trước mặt quán xét.

Bây giờ tới cái tâm sân đó.

Quán xét cái tâm sân, vị ấy từ bỏ sân ở đời, sống với tâm thoát ly sân hận, gột rửa hết tâm sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh, không chỗ nào mà tâm Từ Bi không biến mãn đến.

Đó, thì bắt đầu bây giờ quét sạch cái tâm sân, thì cái lòng thương xót của chúng sanh bắt đầu nó mới phủ trùm ra, nó mới thương xót tất cả chúng sanh.

Còn cái tâm sân thì không bao giờ mà thương xót chúng sanh đâu. Người ta còn giận một chút xíu thì chưa chắc đã là thương xót. Cái thương của chúng ta là cái thương đối đãi, cái thương mà của thường tình, chớ không phải là cái thương của Từ Bi đâu. Cho nên khi mà chúng ta quét sạch được cái tâm sân thì cái tâm Từ Bi chúng ta mới thực hiện ra được.

Vì vậy ớ mà muốn cho cái tâm sân của chúng ta mà đối trị nó thì người ta tu Tứ Vô Lượng Tâm đó, để thực hiện cái tâm Từ chớ, để rồi Từ Bi nó có nó mới quét sạch cái tâm sân.

Nhưng bây giờ ở đây chúng ta lại dùng cái Định Vô Lậu chúng ta quét cái tâm sân của chúng ta ra thì Từ Bi nó sẽ thể hiện ra. Nó đi ngược lại.

Hồi đó chúng ta còn là chiếc áo cư sĩ, thì chúng ta không thể tu cái này được, bởi vì chúng ta chưa có sống cái đời sống mà thoát ly, xuất gia được, chúng ta chưa có đời sống Chánh Niệm Tỉnh Thức, phòng hộ sáu căn được, cho nên chúng ta phải lấy tâm Từ mà tu, Tứ Vô Lượng tu, để cho cái tâm của chúng ta phủ trùm lòng thương yêu mà từ đó nó đối trị với cái tâm sân của chúng ta, để chúng ta không còn sân hận nữa.

Nhưng chưa phải quét sạch cái tận gốc của sân hận, cho nên chúng ta phải đi tới một cái giai đoạn này, là chúng ta dùng cái Định Vô Lậu đặt niệm sân, quán xét sân, rồi phá vỡ tâm sân, Từ Bi chúng ta bây giờ - tâm Từ, Bi, Hỷ Xả chúng ta bây giờ mới thực hiện chân thật của Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Đó, hai bên thì chúng ta thấy có cái khác nhau, nhưng mà nó cũng giúp cho hỗ trợ cho nhau.

Nếu mà cái người cư sĩ còn sân mà vào tu chưa chắc đã là giữ phòng hộ sáu căn, giữ được tất cả mọi cái. Cho nên chúng ta phải hiểu thấu suốt được, trau dồi cái lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của chúng ta trong cái chiếc áo cư sĩ, khi đến với Đức Phật thì chúng ta quét sạch cái tâm sân chúng ta rất dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn, và từ đó tâm Từ Bi của chúng ta lại còn thấm nhuần sâu hơn và cao hơn nữa.

Đây là giới (đức) thứ năm…​

Tâm sân đó.

…​ là giới (đức) thứ năm của vị ấy trong giới luật của Đức Phật.

3.7- GIỚI ĐỨC THỨ 6 - XẢ TÂM HÔN TRẦM THÙY MIÊN

(49:19) Khi đã gột rửa tâm sân hận hết sạch, vị ấy đặt niệm hôn trầm thùy miên trước mặt.

Đó, chúng ta lấy cái - hồi nãy có một vị Thánh Tăng đặt cái niệm buồn ngủ ở trước mặt để mà tu đó, thì bây giờ Đức Phật cũng đã dạy chúng ta ở chỗ này nè .

Tu cái giới đức này phải đặt cái niệm hôn trầm thùy miên ở trước mặt của mình, rồi mình quán xét cho thông suốt cái niệm thùy miên từ đâu đến, mà do đâu mà có mà sanh ra lười biếng, mà ham ngủ như vầy?

Do đó mình quán xét thấu suốt được, cái lý mà thấu suốt được thì mình sẽ từ bỏ thùy miên, từ bỏ hôn trầm thùy miên ở đời.

Sống với tâm thoát ly hôn trầm, thùy miên, sống cố gắng gột rửa cho hết tâm hôn trầm, thùy miên, với tâm tưởng về ánh sáng, luôn luôn phải giữ tâm Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Nghĩa là luôn luôn lúc nào bây giờ, lúc bấy giờ mình muốn quét sạch cái tâm hôn trầm thùy miên thì mình mới dùng cái tưởng của mình, tưởng cái tâm của mình sáng suốt như ngày, đêm thì như ngày chớ không có đen tối như đêm nữa.

Nghĩa là luôn luôn mình phải dùng cái tưởng kèm theo để cho cái tâm hôn trầm thùy miên của mình - nó vì nó ham ngủ thì nó thấy chỗ nào mà mờ mờ, tối tối là nó ham lắm, mà nó sáng chừng nào thì nó ghét lắm, cái tâm mà lười biếng nó thấy sáng nó ghét lắm, cho nên vì vậy đó mà mình phải tưởng cái tâm của mình sáng như ánh sáng, sáng như ban ngày làm cho cái hôn trầm thùy miên nó phải mất đi.

Cho nên ở đây luôn luôn phải giữ Chánh Niệm Tỉnh Thức. Chánh Niệm Tỉnh Thức ở đây là giữ cái tâm sáng suốt chớ không phải là Chánh Niệm Tỉnh Thức ở đây là giữ cái hành động của chúng ta như ở trước nữa.

Đó, các thầy phải hiểu cái chỗ Chánh Niệm Tỉnh Thức này là cái niệm chân chính của ánh sáng, và thức tỉnh nơi ánh sáng để làm cho cái hôn trầm thùy miên chúng ta không có.

Cho nên phải biết áp dụng, phải biết sử dụng nó ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Thức nào, mà ở trong cái chỗ pháp tu thì nó mới có kết quả. Còn nghĩ mà sai chúng ta chẳng biết đường mà chúng ta tu tập.

…​ thì mới mong gột rửa hết tâm hôn trầm, thùy miên. Từ đó muốn hết hôn trầm, thùy miên, vị ấy phải trau dồi lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh, (không) chỗ nào mà tâm Từ Bi không biến mãn đến.

Đây là giới đức thứ sáu của vị ấy trong giới luật của Đức Phật.

Đó thì, quý thầy thấy rằng trong cái sự tu tập của chúng ta mà xả bỏ được cái hôn trầm, thùy miên là cái giới đức thứ sáu của giới luật của Đức Phật.

Đây là giới đức thứ sáu của vị ấy trong giới luật của Đức Phật.

3.8- GIỚI ĐỨC THỨ 7 - XẢ TÂM TRẠO HỐI

(52:00) Khi vị Tỳ Kheo đã gột rửa hết hôn trầm thùy miên thì vị ấy đặt niệm trạo cử, hối tiếc trước mặt, quán xét cho thấu đáo, tường tận; sống tâm không còn trạo cử, hối tiếc; từ bỏ trạo cử, hối tiếc; sống với nội tâm trầm lặng, thanh thản, nhẹ nhàng, luôn luôn hân hoan, vì thế lòng từ mẫn thương yêu tất cả muôn loài chúng sanh, chỗ nào cũng có tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả biến mãn khắp cùng, nhờ thế trạo cử, hối tiếc mới quét sạch, mới gột rửa hết.

Đây là giới đức thứ bảy của vị ấy trong giới luật của Đức Phật.

Đó thì, cái trạo cử. Trạo cử là cái gì? Mà hối tiếc là cái gì?

Trạo cử là cái tâm lăng xăng nghĩ cái này đến cái kia, nó liên tục, Phật gọi nó là tùy miên. Tùy miên chớ không phải thùy miên. Thùy miên là ngủ còn tùy miên là nó liên tục.

Trạo cử là có cái dòng tư tưởng nó liên tục nó nhớ cái này, nó nhớ đến cái kia, nó nhớ đến cái nọ. Người nào mà có độc cư thì mới thấy được cái trạo cử.

Rồi nó hối tiếc hồi nhỏ mình làm cái này, cái kia, cái nọ, rồi làm cho cha mẹ buồn, làm cho anh em giận, làm cái này cái kia nó nhớ ra hết! Đó là nó tùy miên theo cái trạo cử, theo cái dòng tư tưởng của nó gọi là trạo cử đó.

Vì vậy cho nên khi mà có cái dòng tư tưởng mà trạo cử như vậy, nó hối tiếc như vậy đó, thì chúng ta phải đặt cái niệm, quán xét nó từ đâu mà nó sanh ra.

Nó từ ở đâu mà sanh ra? Nó ở trong những cái quá khứ, cái sự kiện đã xảy ra ở trong quá khứ, nó thường thường nó trào dâng lên một cách rất là tràn trề, nó không bao giờ dứt.

Cho nên có lần Minh Tông nói với Thầy là sống độc cư rồi chúng ta mới thấy nó tuôn tràn, nó tuôn tràn riết mãi, nó tuôn tràn sạch hết rồi thì nó mới hết tuôn tràn. Cho nên do vì vậy đó mà chúng ta biết rằng cái độc cư làm cho cái tâm trạo cử chúng ta nó tuôn tràn sạch.

Còn ở đây ớ Đức Phật lại phòng ngừa, chúng ta đặt cái niệm cho nó, rồi chúng ta quán xét cái trạo cử này, cái hối tiếc này đó, mà người ta dùng cái danh từ là trạo hối: Nó vừa khởi lên mà vừa là hối hận ở trong đó, nó vừa hối tiếc cái này, hối tiếc cái kia.

(54:15) Như trước kia đó mình làm sĩ quan, tướng tá đồ, bây giờ ở trong cái chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa thì mình chỉ là làm cái thằng xích lô vậy thôi, thì nghe nó buồn tủi, nó hối tiếc hồi mình lên voi đó, mình ra lệnh, mình sai thằng này, thằng kia, kẻ hầu, người hạ đầy đủ, la một tiếng là ai cũng chạy mù. Còn bây giờ đi ra đường nhiều cái bà mà chửi xiên chửi xỏ mình đủ cách hết, mà cũng hổng dám nói họ nữa.

Cho nên những cái nỗi mà nuối tiếc lại cái thời mà vàng son của mình nó làm cho mình đau lòng, làm cho mình khổ sở. Cái tư tưởng đó nó tuôn tràn ra, cái tư tưởng đó gọi là trạo cử, hay hoặc là trạo hối, hay là trạo cử hối tiếc.

Vì vậy mà chúng ta tu tập để cho nó không còn cái trạo cử hối tiếc đó nữa, thì chúng ta phải quán xét tường tận những cái trạo cử hối tiếc đó từ đâu sanh ra? Nó có thật hay là không? Hay hoặc là một cái nhân quả nào đó mà chúng ta phải trả với một cái giá rất đắt? Hay hoặc là chúng ta phải hưởng một cái thời vàng son nào đó là hết phước rồi thì bây giờ chúng ta nó phải trở về vị trí quá là khổ sở như thế này?

Trước kia mình giàu sang, bây giờ qua giải phóng rồi, mình không còn, hai bàn tay trắng không, mà mình luôn luôn mình cứ hối tiếc lại những cái chuyện vàng son của mình giàu có hồi trước, bây giờ mình đâm ra mình đau khổ thì tức là mình quá ngu si!

Cho nên mình quán xét, vì vậy cho nên mình thấy đó là cái luật nhân quả.

Người ta nói: “Không ai giàu ba họ mà cũng không ai khó ba đời” - thì đó là nhân quả, cho nên cái câu tục ngữ nói vậy là đúng chớ không có sai được. Cho nên đâu có ai mà giàu hoài được, mà cũng đâu có ai mà nghèo hoài, thì có lúc lên voi, có lúc xuống chó chớ!

Do cái chỗ đó chúng ta chỉ an ủi chúng ta, nhưng tâm trạng của con người khó mà hết cái trạo cử, hối tiếc này. Vì vậy đó mà đạo Phật dạy chúng ta phải quán xét, quét sạch cái trạo cử, hối tiếc ra khỏi cái tâm tư của chúng ta.

Nhờ cái sự trau dồi như vậy đó thì chúng ta mới gột rửa sạch hết cái trạo cử hối tiếc. Nó là cái giới đức thứ bảy của sự tu tập của chúng ta. Nó không phải thường đâu, nó không phải dễ đâu, cho nên phải nỗ lực tu tập ở trong cái Định Vô Lậu chúng ta mới quét sạch được cái trạo cử, hối tiếc này.

3.9- GIỚI ĐỨC THỨ 8 - XẢ TÂM NGÃ MẠN

(56:33) Khi vị Tỳ Kheo đã gọt sạch hết trạo cử, hối tiếc xong, vị ấy đặt niệm trước mặt, quán xét cho thấu đáo tường tận mạn.

Mạn là ngã mạn đó.

Vị ấy từ bỏ ngã mạn ở đời, sống với tâm thoát ly ngã mạn, gột rửa cho sạch hết tâm ngã mạn, nhờ thế lòng từ mẫn, thương yêu tất cả chúng sanh, loài hữu tình, với tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả vô bờ bến biến mãn khắp tất cả muôn phương, nhờ thế vị ấy mới gột rửa sạch tâm cống cao ngã mạn của mình.

Đây là giới đức thứ tám của vị ấy trong giới luật của Đức Phật.

Đó là cái giới đức thứ tám của cái tâm ngã mạn, mình quét sạch nó ra.

Ngã mạn coi vậy chứ khó lắm, bởi vì khi mà chúng ta đặt cái niệm trước mắt rồi chúng ta quán xét suy tư lại hằng ngày mình có những cái hành động ngã mạn ở trong đó.

Nó vi tế, rất vi tế, do đó chúng ta quán xét chúng ta mới thấy được cái hành động ngã mạn. Từ đó cái hành động ngã mạn mà mình chỉ sơ xuất thôi, mình thấy nó không có, nhưng mà rồi cái người khác người ta nhận xét mà người ta không dám nói ra.

Chẳng hạn là như mình lơ đễnh một chút cái ngã của mình nó lộ ra người ta thấy, mà mình không thấy cái ngã của mình. Mà hễ mình nhắc mình thì mình đỏ mặt lên liền, cho nên người ta ít có muốn nhắc là như vậy.

Nhưng mình phải là quán xét, mình đặt cái niệm ngã mạn của mình, mình quán xét. Ngày hôm đó mình có cái hành động nào mà ngã mạn, mình quán xét, mình suy tư. Mình vô tình chớ không phải mình hữu ý nhưng cái ngã của mình nó vẫn còn, cho nên cái hành động của mình nó có cái vẻ ra ta đây đó, thì tức là ngã mạn.

Nhất là khi mà chúng ta tu được một chút ít nào đó, coi chừng mà cái ngã mạn chúng ta theo đó. Cũng như chúng ta học được một ít gì đó, hay hoặc là chúng ta học giỏi hơn mọi người trong lớp rồi, tuần này chúng ta được hạng nhất rồi, coi bộ vô trong lớp, coi bộ thiên hạ mình đạp dưới chân hết, hiu hiu tự đắc lắm.

(58:24) Cho nên vì vậy mà tuần sau nó xuống cái hạng mười cái hoảng hồn rồi, lật đật! Bởi vì mình nghĩ rằng mình hạng nhất thì phải hạng nhất luôn, nhưng mà không ngờ lại người ta lại dở hơn mình thì người ta lại cố gắng học hơn, còn mình lại ngã mạn mình không lo học, cho nên mình lại thua.

Mình thua bắt đầu cái mặt mình nó buồn so. Buồn so tức là cũng ngã mạn của mình đó, chớ không phải là nói mình hiu hiu tự đắc đó là ngã mạn, mà lại buồn là không ngã mạn. Chính cái buồn cũng là cái ngã mạn, buồn vì mình thua người ta mình ngã mạn, tức là cái ngã mạn của mình.

Cho nên mình phải xét nhiều khía cạnh để cho mình diệt cái ngã mạn của mình, từ đó cái oai nghi tế hạnh của một người mà giới đức, họ không bao giờ để kẽ hở cho người khác thấy cái ngã mạn của họ. Còn nếu mà thiếu xét như vậy đó, thì cái ngã mạn của chúng ta càng ngày nó càng lừng lẫy, nó càng lộ ra những cái tướng, coi như mặt vác hất ở trên trời.

Mới có dự thi được vào cao đẳng Vạn Hạnh thôi, nghĩa là chưa học Vạn Hạnh ngày nào hết à, mới có tốt nghiệp qua trường Cơ bản Phật học thôi, rồi được thi vô cao đẳng Vạn Hạnh, thì Thầy thấy rằng cái mặt đã vác hất ở trên trời rồi.

Mà chưa học được cái ngày nào ở trong Vạn Hạnh, nó chưa có cấp bằng cử nhân nữa mà đã vác mặt đi coi nghênh nghênh rồi, coi như mình là sinh viên đại học rồi. Thầy thấy cái đó là cái ngã mạn, mà là một tu sĩ chớ đừng có nói chi là một cái người ngoài đời.

Đó là những cái mà chúng ta phải biết cái vi tế của cái ngã mạn của chúng ta, nó là một cái tâm rất là làm chúng ta đau khổ trong cái bước đường tu tập của chúng ta.

3.10- GIỚI ĐỨC THỨ 9 - XẢ TÂM NGHI NGỜ

(01:00:01) Khi vị Tỳ Kheo đã gột rửa hết tâm ngã mạn, cống cao xong, vị ấy đặt niệm nghi ngờ trước mặt quán xét thấu đáo, tường tận.

Đó, bây giờ bắt đầu chúng ta hết cái tâm ngã mạn cống cao rồi thì chúng ta lại đặt cái niệm nghi ngờ.

Bởi vì cái nghi ngờ chúng ta nhiều lắm. Thấy cái người đó vậy cái mình nghi ngờ người đó là vầy, khác, nói xấu mình hay hoặc thế này thế khác. Thấy người đó vầy cái mình nghi ngờ họ là không ưa mình, hơi có cái gì đó cái mình thấy không ưa.

Do cái tâm nghi ngờ đó mà nó sanh ra những cái giận, cái hờn, cái phiền não, rồi cái không ưa với nhau, nó tất cả mọi cái. Cho nên cái nghi ngờ đó là cái phải đặt cái niệm, mình phải quán xét. Nó làm cho cái tâm mình chướng lắm, chướng lắm.

Ai mà làm gì mặc, mình chả biết thì cái nghi ngờ của mình không có, chớ còn không thì chút chút mình sẽ dễ nghi ngờ.

Thấy cái thằng đó hơi liếc liếc ngó trong nhà mình: “Thằng này ăn cắp nè!” Mình nghi ngờ, kiểu đó người ta ngó người ta thấy cái nhà mình có trái ổi, hay hoặc là có gì lạ lạ, người ta ngó cái mình thấy người ta liếc liếc ngó cái mình nói: “Thằng ăn cắp!” Người ta chưa từng ăn cắp mà mình cũng nghi người ta ăn cắp nữa. Cái đó là có tội không?

Thì cái nghi ngờ là cái - chẳng hạn là như - đâu phải là tất cả là những cái bậc Thánh hết cho nên có những cái tốt, mà có những cái xấu, do đó mình xét qua cái người đó, mình xét phần nhiều mình xét qua cái xấu của họ, cho nên mình nói: “Ông này tu hành chẳng ra gì hết!”

Nhưng mà mình không xét cái tốt của người ta, ít ra người ta có mười cái người ta cũng được năm cái tốt, còn năm cái xấu. Mình xét năm cái xấu mình nói: “Ông này tu chẳng ra gì được hết!”

Đó là cái sai của mình, bởi vì cái đó là nghi, nghi người ta tu chẳng ra được gì hết. Nhưng mà người ta tu là phải có được cái tốt, cái xấu của người ta chớ, chớ đâu phải là không! Cho nên cái nghi đó là cái làm cho chúng ta ngã mạn chúng ta trở lên, mà nó không triệt tiêu cái ngã mạn của chúng ta.

Cho nên ở đây Thầy nói: Mình tu thì mình tìm cái sự giải thoát, không có khen chê một người nào hết. Mà lỡ mình khen chê, mình thấy người đó sai, đúng, coi chừng cái sai, đúng của mình chưa hẳn đã được sai đúng đâu. Cho nên đó là cái nghi của mình đó.

Vị ấy từ bỏ tâm nghi ngờ ở đời, sống với tâm thoát ly nghi ngờ, gột rửa hết tâm nghi ngờ đối với các thiện pháp. Đối với giới luật, đối với thiền định của Phật, đối với trí tuệ của Phật phải gột rửa hết tâm nghi ngờ.

Nghĩa là đối với Phật, Pháp, Tăng, Giới của Đức Phật mà đã dạy chúng ta, chúng ta không có nghi ngờ nó, chúng ta nghĩ rằng đó là những cái pháp mà đưa đến chúng ta giải thoát hoàn toàn.

Còn nếu mà chúng ta nghi ngờ: “Phật Pháp nói vậy chớ chẳng làm gì được hết đâu, thôi!” Đó là mình đã nghi rồi thì không bao giờ mình tu tập được đâu.

Cho nên mình phải nghĩ rằng trước Đức Phật đã làm được, sau Đức Phật còn nhiều bậc Thánh Tăng làm được, kế đó trong thời đại này còn có những người làm được chớ không phải không!

Cho nên chúng ta phải quét sạch cái tâm nghi ngờ đó, cho nên chúng ta tin, chúng ta rất tin ở Phật, ở thiền định của Phật, ở giới luật của Phật, ở Pháp của Phật và ở trí tuệ của Phật. Cho nên chúng ta gột rửa hết cái tâm nghi ngờ Phật, Pháp, Tăng và Giới luật.

Nhờ gột rửa hết tâm nghi ngờ đối với các pháp, nhờ thế mà lòng Từ Bi lân mẫn của chúng ta đối với chúng sanh, với tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả vô bờ bến, biến mãn phủ trùm tất cả sanh linh, vạn vật mười phương.

Đây là giới đức thứ chín của vị ấy trong giới luật của Đức Phật.

Đó thì đây là cái giới đức thứ chín mà khi xả hết cái tâm nghi ngờ.

Đó thì quý thầy sẽ học được những cái giới như vậy thì quý thầy thấy cái tâm hồn của mình như thế nào? Thanh thản vô cùng, vô lượng!

3.11- NHỜ QUÉT SẠCH NGŨ TRIỀN CÁI MÀ TIẾN TỚI ĐƯỢC THIỀN ĐỊNH

(01:03:35) Bây giờ chúng ta tiếp tục.

Như hồi nãy chúng ta đã biết rằng, chúng ta gột rửa cái tâm nghi ngờ của chúng ta, gột rửa cái tâm nghi ngờ cho hết sạch thì đó là chúng ta đã tu năm cái giới đức sau cùng này, là năm cái Ngũ Triền Cái, tức là tham, sân, si, mạn, nghi.

Đó là năm cái Ngũ Triền Cái này, mà thực hiện được năm cái Ngũ Triền Cái này quét sạch tức là chúng ta có năm được cái giới đức. Mà năm cái giới đức này nó nằm ở trong giới luật của Đức Phật.

Vị Tỳ Kheo nào sống ngược lại năm cái giới đức này là trùng trong lông sư tử…​

Nghĩa là cái vị tu sĩ mà làm ngược lại với năm cái giới đức này, nó là trùng trong lông sư tử, nó phá hoại Phật pháp.

…​ làm cho Phật pháp mất gốc, làm cho đèn Phật pháp bị tắt mất.

Nghĩa là năm cái triền cái này là người tu sĩ đến cái giai đoạn này là phải xả cho được. Mà xả không được năm cái triền cái này thì đương nhiên coi như người tu sĩ đó là trùng trong lông sư tử, nó làm cho Phật pháp bị mất đi, nó làm cho Phật pháp mất gốc, nó làm cho Phật pháp - đèn Phật pháp tắt mất.

Người tu tập và trau dồi giới đức này tự mình quán năm triền cái, xả ly đoạn diệt nó giống như người mắc nợ…​

Nghĩa là lấy năm cái triền cái này mà xả được, tức là năm cái giới đức này mà xả nó được nó thì cũng giống như cái người mắc nợ:

…​ mà đã trả nợ xong.

Nghĩa là chúng ta xả được nó như là cái người, như chúng ta đang mắc nợ đó, mà chúng ta xả được là chúng ta đã trả cái nợ xong.

Giống như người bị tù mà được trả tự do ra khỏi tù, giống như người nô lệ mà được hết cảnh nô lệ, giống như người đi trong sa mạc mà qua khỏi sa mạc, giống như người bệnh tật mà hết bệnh tật.

Nghĩa là chúng ta tu năm cái giới đức này, chúng ta xả được năm cái triền cái này thì cũng giống như những người mà đã được tự do, đã được trả nợ, đã được hết bệnh, đã không còn làm nô lệ, đã qua khỏi sa mạc.

(01:05:56) Đó thì chúng ta, cái người bệnh mà hết bệnh đó thì có mừng không? Rất mừng. Cái người mà đi qua sa mạc, mà qua khỏi sa mạc có mừng không? Mừng. Cái người nô lệ mà nay đã hết cảnh nô lệ có vui không? Vui. Người ở tù mà được trả tự do ra khỏi tù thì có vui không? Vui lắm chớ. Người mắc nợ mà nay là trả hết nợ rồi, không còn thiếu đồng nào hết thì có vui không? Rất vui, rất là sung sướng.

Người mà thoát ra cảnh đau khổ trên đây thì nỗi hân hoan vui mừng, sung sướng không thể nói hết được, thì người xa lìa, đoạn diệt năm triền cái này thì quý vị nhận xét họ có hân hoan vui mừng sung sướng không?

Đó là lẽ sung sướng của người tu tập giới đức này vậy.

Khi vị Tỳ Kheo trau dồi, tu tập giới đức này, quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy, hân hoan sinh.

Tức là vui mừng sinh.

Do hân hoan nên hỷ sinh. Do hỷ sinh nên tâm hoan hỷ sinh. Do tâm hoan hỷ sinh thì thân được khinh an. Do thân được khinh an thì lạc thọ sinh. Do lạc thọ sinh thì tâm được định tỉnh.

Đó, do xả ly năm triền cái mà được tâm định tỉnh, chúng ta thấy rõ ràng.

Bởi vậy, khi mà chúng ta xả được năm triền cái rồi, ly được nó rồi, thì nó có những cái làm chúng ta sung sướng ở trong đó. Cái sung sướng này có phải là dục lạc đâu! Bởi vì chạy theo năm triền cái nó là thuộc về dục lạc.

Còn chúng ta xả ly năm cái triền cái tức là chúng ta ly dục đó, lìa những cái dục đó, cho nên chúng ta có những cái nỗi vui mừng, có những nỗi hân hoan, có những cái tâm sanh hỷ lạc, có những cái thân khinh an, có những cái lạc thọ sanh, có những cái tâm định tỉnh sanh.

Bây giờ cái tâm chúng ta định tỉnh hoàn toàn, ngồi lại là coi như là một trạng thái của Sơ Thiền, nghĩa là lúc nào cũng thanh thản.

Thì cái đó là những cái định tỉnh của tâm, thì nó có những cái hoan hỷ của nó ở trong đó, nó có những cái khinh an của nó trong đó, nó có những cái lạc thọ của nó trong đó, có những cái vui mừng trong đó. Thì quý thầy thấy, một người mà chưa đạt tới chỗ này quý thầy có hiểu được cái lạc đó đâu? Đâu có hiểu được.

Cũng như cái bánh người ta nói ngon, mà người ta đã ăn rồi người ta biết ngon, còn mình thì chưa có biết ngon gì hết. Bởi vì mình chưa có xả ly năm cái triền cái này cho nên tâm mình nó chưa có được định tỉnh, vì vậy mà những cái lạc đó, cái hân hoan đó, cái vui mừng đó mình chưa có biết.

(01:08:36) Và mình chưa có biết cho nên cũng như là mình chưa có ăn được cái bánh ngon đó, cho nên mình chưa có biết được mùi vị đó, vì vậy mình thường dường như là mình tưởng tượng ra.

Hầu hết là một số tu sĩ hay tưởng tượng ra những khinh an, những cái hỷ lạc, mà bằng cách tưởng ra, rồi chúng ta có cái cảm giác theo cái tưởng đó chớ nó không phải thực là chúng ta đã ly được năm cái triền cái này.

Chừng nào mà chúng ta ly ra được chúng ta mới thấy nó thực. Còn chúng ta chưa ly ra được mà chúng ta muốn hưởng cái đó thì làm sao được! Chúng ta phải tách lìa nó ra khỏi, rồi từng đó nó có cái trạng thái khinh an, hỷ lạc của chính cái chỗ ly đó mà chúng ta mới thấy mình đã nếm được cái mùi vị đó.

Khi tâm được định tỉnh, vị Tỳ Kheo này sống độc cư, sống trầm lặng, sống một nơi hoang vắng. Đó là lúc Tỳ Kheo ly dục, ly ác pháp.

Đó, tới đây thì các thầy thấy: Cái giới đức của cái người này họ đi dần tới cái chỗ thiền định rất rõ ràng đó.

Đó từ cái bắt đầu chúng ta thấy phải xả năm cái triền cái này, từ cái tu tập cho những cái giới đức kia thì chúng ta thấy nó có sức định tỉnh, rồi lần lượt chúng ta mới tu xả cái năm triền cái. Chớ đâu phải nói năm triền cái chúng ta muốn bỏ nó là bỏ được liền đâu. Chúng ta phải tu tập hết sức đó mới xả được năm cái triền cái.

Mà khi mà xả được năm triền cái rồi thì chúng ta mới thấy được cái chỗ mà cái tâm nó khinh an, nó hỷ lạc như thế nào đó, do cái tâm định tỉnh như thế nào, nó rất tỉnh, nó ngồi đó mà thanh thản nó suốt cả ngày nó không có một niệm ở trong đầu, nó luôn luôn nó an ổn, nó yên lặng vô cùng lận.

Như vậy là chúng ta mới thấy được cái chỗ Sơ Thiền. Do đó bây giờ vị này họ còn phải đi tiến tới để mà họ nhập Sơ Thiền chớ đâu phải là cái chỗ như vậy là chúng ta nhập Sơ Thiền đâu!

Cho nên chưa, đây là mới có trạng thái mới ly có Ngũ Triền Cái mà thôi, mà cái tâm nó được định tỉnh như vậy đó, nó định như vậy đó, tỉnh như vậy đó, là trải qua bao nhiêu thứ tu tập, cho nên nó mới có được sức tỉnh.

Rồi trải qua bao nhiêu thứ mà luyện tập vô lậu cho nên mới quét sạch cái Ngũ Triền Cái nó mới được định tâm. Khi nó được định tâm nó hợp với cái tỉnh - tỉnh giác của chúng ta, cho nên mới được cái tâm định tỉnh. Và khi mà tâm được định tỉnh rồi thì vị Tỳ Kheo này mới sống độc cư được đó.

(01:10:42) Cho nên lúc bấy giờ quý vị mới độc cư được, còn bây giờ Thầy ép quý vị độc cư chớ thiệt ra cái sự độc cư của quý vị thiệt là khổ chớ không phải là không khổ. Đó, ép cho quý vị cũng như trái non mà ép cho nó chín vậy đó. Ép cho nó chín sớm cho nên nó chua lè nó không có ngon được đâu.

Khi tâm được định tỉnh, vị Tỳ Kheo sống độc cư, sống trầm lặng, sống một nơi hoang vắng. Đó là lúc Tỳ Kheo ly dục, ly ác pháp.

Bây giờ đó mình mới sống được, mình mới sống được, mình mới ly dục, ly bất thiện pháp được.

Chứ còn bây giờ cái tâm mình nó cục cựa hoài à, mình sống vậy chớ, cái thân thì trói nó không có cho nó…​ cái miệng thì bắt nó không nói chuyện, cái thân thì không cho đi đến thất người khác. Nhưng mà cái tâm của nó nó đi vòng vòng hết cái Tu viện này chớ nó đâu có phải nó ngồi độc cư đó được. Phải không? Quý thầy thấy phải không?

Rõ ràng là cái tâm của quý vị đi vòng vòng cái Tu viện của Thầy chớ nó đâu có ngồi ở trong thất đâu. Cái thân thì ngồi trong thất, cái chân thì nó cột chặt nó không đi, cái miệng thì không cho nó nói, thì quý vị kìm được cái đó, chớ cái tâm của quý vị có kìm được không?

Cho nên đâu có kìm được. Quý vị ngồi đây chớ quý vị đi tới Hà Nội á! Có không? Chùa mình ở ngoải quý vị tới hết, chỗ nào quý vị cũng tới hết à, chỗ nào quý vị cũng đi hết chớ chưa nói là độc cư. Độc cư thì đừng đi chớ, sao cái tâm đi lang thang dữ vậy?

Đó là những cái mà chúng ta thấy được cái chỗ, bây giờ một cái vị mà họ độc cư như vậy là tâm họ độc cư nè, thân họ độc cư nè, miệng họ độc cư nè. Phải không? Cho nên nó không có đi lang thang nữa. Vì nó ly dục rồi, nó ly được rồi, cho nên vì vậy nó xả được năm cái triền cái cho nên nó bây giờ nó mới ly dục, ly ác pháp được.

3.12- GIỚI ĐỨC THỨ 10: CHỨNG VÀ TRÚ SƠ THIỀN

(01:12:16) Ly dục, ly ác pháp thì chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với Tầm với Tứ.

Tỳ Kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, làm cho tràn đầy khắp thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không chỗ nào trên toàn thân mà không được hỷ lạc do ly dục ấy thấm nhuần.

Bởi ly dục nó thấm nhuần mà, nó thấm nhuần mình ly dục nó thấm nhuần, nó không còn cái dục ở trong này nữa, do đó nó mới có cái hỷ lạc, nó mới tràn đầy khắp cùng chúng ta.

Còn cái ly dục của mình, mình ly có - chẳng hạn là mười mình ly có hai, ba. Mình ly hai, ba cũng như bây giờ mình ly được cái ăn, mình ăn ráng một bữa thôi, mình ngủ thì cũng ráng ráng ly chớ còn ham ngủ chưa phải hết. Đó cho nên mình ly, nó ly có ít, nó chưa sạch.

Còn người ta ly sạch đó, nó thấm nhuần, nó thấm nhuần đến cái đỗi mà ly dục nó thấm nhuần trong tất cả các cái thân của mình nó không còn một chút nào mà dục ở trong đó hết. Cho nên đó là mới nhập Sơ Thiền. Thì quý vị thấy, cái con đường tu của đạo Phật tuyệt vời!

Mà chúng ta thực hiện từng cái bước, từng bước chúng ta mới đi tới, chứ nếu mà quý vị ngay vô quý vị cứ ngồi hít thở để mà cho nó ly dục, ly bất thiện pháp, ức chế cái tâm không vọng tưởng, tưởng là nó hết Tầm để mà nó nhập Sơ Thiền, thì chắc chắn là một cái điều quá khó cho quý vị. Khi quý vị đi tới nữa - Tứ Thiền - chắc chắn là quý vị phải dậm chân chớ còn quý vị không vô nổi đâu.

Giống như một người đi tắm với cục xà bông, chỗ nào trên thân cũng dính đầy xà bông, không có một chỗ nào là không dính.

Đó là cái ví dụ của Đức Phật, những cái sự hỷ lạc, khinh an, cái hỷ lạc nó dính khắp cùng cái thân của người đó. Mà do cái chỗ mà cái người đó đó, ly dục, ly dục nó thấm nhuần, rất là thấm nhuần cho toàn thân của họ nó mới có được thấm nhuần cái hỷ lạc đó.

Đây là giới đức thứ mười trong giới luật của Đức Phật, chỗ nào cũng thấm nhuần thân tâm của họ bằng đức giới ly dục, ly ác pháp.

Đó, bắt đầu đây mình thấy cái giới đức thứ mười này mình thấy rất quan trọng đó.

(01:14:19) Đây là giới đức thứ mười trong giới luật của Đức Phật, chỗ nào cũng thấm nhuần thân tâm của họ bằng đức giới ly dục, ly ác pháp.

Lúc nào, cái chỗ nào nó cũng ly ra hết, nó không còn cái chỗ nào ở trong đó. Ác pháp cũng không có mà cái dục, cái ham muốn của chúng ta cũng sạch bóng ở trong đó rồi.

Nhưng mà như vậy mà chưa có đạt được đó, chớ không phải là như vậy là chúng ta ly hết cái dục đó rồi chúng ta chấm dứt được sanh tử luân hồi liền đâu.Nó còn trải qua một cái thời gian tu tập nữa nó mới hết, chớ không phải là tới cái chỗ Sơ Thiền này mà thành tựu được đâu.

Cho nên có nhiều người lầm tưởng là tới cái chỗ Sơ Thiền này là Thiền Tối Thượng hay hoặc là Thiền Đại Thừa, nó ở chỗ này mà - thiền mà không xuất, không nhập do chỗ ly dục, ly bất thiện pháp này.

Do đó họ diệu dụng thần thông đủ cách, họ từ đó họ tri kiến giải thoát của họ, tất cả những cái trí tuệ họ phát sanh từ chỗ đó. Họ cho đó là cái kết quả cuối cùng của họ, họ là thành Phật, hay là giác ngộ.

Cho nên họ thấy cái trạng thái hỷ lạc đó, cho nên họ mới xây dựng nó ở trên cái chỗ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đó, bốn cái đức Niết Bàn, họ xây dựng bốn cái đức Niết Bàn cho nên gọi là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, vì vậy họ chấp nhận cái chỗ đó là cái cứu cánh cuối cùng của họ.

Nhưng không ngờ đó là cái trạng thái mới có ly dục, ly bất thiện pháp của Bốn Thiền của đạo Phật mà thôi.

Đó thì, ở đây người ta lầm tưởng đó là cái cứu cánh cuối cùng của họ, cho nên họ mới thấy còn có cái Thường, Lạc, Ngã Tịnh - bốn cái đức của Niết Bàn đó - Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Đó là họ nhận thấy cái trạng thái này, họ cho đó là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Nhưng mà đạo Phật đâu có chấp nhận cái chỗ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh này đâu, cho nên tâm bất động giải thoát chớ đâu phải chỗ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh này.

Vì cái Thường, Lạc, Ngã, Tịnh này nó chỉ là cái lạc của cái ly dục, nó còn những cái cao hơn nữa, cái lạc cao hơn nữa, cái hỷ lạc cao hơn nữa chớ không phải là ở chỗ đó. Chỗ đó là mới bắt đầu của đạo thôi.

Đó là những kết quả thiết thực hiện tại đức hạnh của người tu sĩ.

Nghĩa là cái giới đức của chúng ta mà tu tập được thì đó là cái kết quả của chúng ta tới đây chúng ta mới nếm được cái mùi vị của đạo, cái mùi vị hỷ lạc của đạo, chớ không phải là đơn sơ như chúng ta tưởng đâu.

3.13- GIỚI ĐỨC THỨ 11: CHỨNG VÀ TRÚ NHỊ THIỀN

(01:16:37) Bây giờ vị Tỳ Kheo với tâm định tỉnh, tràn đầy hỷ lạc do ly dục, ly ác pháp sanh, tâm rất thuần tịnh, tâm rất thanh tịnh, vị ấy hướng tịnh chỉ Tầm và Tứ.

Nghĩa là vị ấy dùng cái pháp hướng tâm đó, nhắc: “Tịnh chỉ Tầm, Tứ!” thì do đó Tầm, Tứ nó sẽ dừng lại, nó sẽ không có tác ý, nó sẽ không có một cái gì mà khởi ra được nữa hết, nó ngưng toàn bộ, nó ngưng đứng lại hết, toàn bộ.

Chứng và trú thiền thứ hai…​

Nghĩa là vị ấy chứng được và trú, là nhập được ở trong cái thiền thứ hai.

…​ một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không Tầm không Tứ, nội tỉnh nhất tâm, thấm nhuần, tẩm ướt làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc thấm nhuần.

Đó quý vị thấy, ở đây hồi nãy ly dục sanh, còn bây giờ do chỗ mình diệt Tầm, Tứ tức là mình tịnh chỉ Tầm Tứ nó ngưng đi, thì do đó, cái chỗ mà tịnh chỉ Tầm, Tứ với cái tâm của mình nó thấm nhuần, nó tỉnh - “nội tỉnh nhất tâm” - bây giờ ở trong nó tỉnh táo lắm, nó không có mất một chút nào, nó sáng suốt vô cùng, nó tỉnh thức vô cùng lận, vô cùng hơn là hồi nãy mà chúng ta ly dục nữa, nó hơn cái chỗ đó nữa.

Cho nên không có một cái chỗ nào mà máy ở trong thân của chúng ta mà nó không biết, nó có một cái chuyện gì làm xảy ra nó biết hết. Cho nên nó tỉnh rất là tỉnh.

Bởi vì nó tỉnh - “nội tỉnh nhất tâm”: Nó ở trong một cái tâm của nó mà nó tỉnh rất là tỉnh. “Nội tỉnh”- nó tỉnh ở bên trong hết, không có một cái gì mà nó ra ngoài hết, nó hoàn toàn nó quán sát ở trong hết.

Nó tẩm ướt, nó làm cho sung mãn đầy thân của nó bằng cái hỷ lạc do định sanh. Không một chỗ nào trên thân mà không có hỷ lạc thấm nhuần.

Đây là giới đức thứ mười một trong giới luật của Đức Phật, chỗ nào cũng thấm nhuần thân tâm của họ bằng đức giới ly dục, ly ác pháp thứ hai.

Đó là những kết quả thiết thực hiện tại đức hạnh của người tu sĩ mà không có một người nào phủ nhận được.

Nghĩa là lúc bấy giờ chúng ta mà được tới cái Nhị Thiền thì không ai mà dám phủ nhận đó là thiền sai được hết.

3.14- GIỚI ĐỨC THỨ 12: CHỨNG VÀ TRÚ TAM THIỀN

(01:18:55) Bấy giờ vị Tỳ Kheo nội tỉnh nhất tâm…​

Đó là nội tỉnh nhất tâm là ở chỗ cái trạng thái của Nhị Thiền đó.

…​ thấm nhuần, sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh.

Vị Tỳ Kheo ấy tiếp tục trau dồi giới đức lìa xa sáu trạng thái lạc tưởng…​

Nghĩa là lúc bấy giờ vị đó đó, phải lìa xa sáu cái trạng thái của lạc tưởng.

…​ sáu trạng thái dục khổ tưởng.

Phải lìa xa sáu trạng thái dục khổ tưởng nữa.

Rồi lìa xa sáu trạng thái bất lạc, bất thọ khổ tưởng mà trong kinh Phật đã dạy: Ly hỷ trú xả, chứng và trú thiền thứ ba, mà các bậc Thánh gọi là Xả Niệm Lạc Trú.

Đó thì ở đây Thầy giải thích thêm cho chúng ta biết được cái chỗ mà ly hỷ đó là cái trạng thái của tất cả những cái dục của tưởng.

Đó cho nên chúng ta phân biệt có sáu cái trạng thái của dục tưởng, sáu trạng thái của khổ dục tưởng, mà sáu cái trạng thái của bất lạc bất khổ của dục tưởng. Như vậy cộng lại là mười tám cái trạng thái của tưởng mà chúng ta phải lìa cho sạch ra, không có được để ở trong tâm của chúng ta.

Nghĩa là lúc bấy giờ chúng ta phải trú vào cái hơi thở như thế nào để mà chúng ta vượt qua. Mà khi vượt qua được cái này, chúng ta mới nhập được Tam Thiền, còn chưa vượt qua mười tám cái trạng thái của tưởng này thì không thể nào nhập Tam Thiền được.

Con đường nó khó khăn như vậy chớ nó đâu phải dễ. Khi mà Thầy dạy về Bốn Thiền Thầy sẽ dạy đường, lối cách thức mà tu vào để mà chúng ta thấy còn rõ ràng hơn.

Bây giờ chỉ là chúng ta hiểu để mà chúng ta biết được cái giới luật của chúng ta, cái giới đức của chúng ta đang ở chỗ nào, cái giới đó, cái thiền đó nó đang ở trong cái giới đức nào của giới luật của đạo Phật.

…​ mà các bậc thánh gọi là Xả Niệm Lạc Trú.

Tâm vị ấy luôn Chánh Niệm Tỉnh Giác, thấm nhuần tẩm ướt…​

Bây giờ các thầy thấy, ở trong cái chỗ này mà Đức Phật còn gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Vậy thì chánh niệm là chánh niệm chỗ nào? Cái niệm gì đây? Cái niệm của họ luôn luôn lúc nào cũng giữ, nếu mà không chánh niệm thì mười tám cái tưởng này nó làm mất đi rồi.

Cho nên ở chỗ này người ta dùng chánh niệm, mà tại sao trước kia, người ta ở trên kia người ta không - từ cái Sơ Thiền cho đến Nhị Thiền người ta nói nội tỉnh nhất tâm chớ người ta không nói chánh niệm, mà ở đây người ta bảo chánh niệm vì nếu mà cái niệm của chúng ta mà bị mười tám cái thứ loại tưởng dục này nó xen vô thì thất niệm rồi.

Các thầy thấy chưa? Nghe một cái trạng thái hỷ lạc mà cái tâm nó bám vào đó là các vị đã bị thất niệm rồi, tức là mất cái chánh niệm, bị cái tà niệm rồi. Cho nên cái tà niệm này nó thuộc về tà niệm của tưởng chớ không phải tà niệm của các pháp thế gian ở ngoài.

Phải thấy rõ được cái trạng thái của định này chúng ta mới biết được đó là chân chánh hay sai, hay đúng. Rồi nếu mà không biết được cái chỗ này, làm sao mà chúng ta ly hỷ mà trú xả được? Nghe nói ly hỷ, tưởng là cái nỗi mừng của mình nó hết!

(01:21:51) Cho nên có nhiều người mà dạy thiền, nói: “Sao lại con đạt được cái trạng thái đó rồi cái bắt đầu mất cái con cũng không có mừng nữa?” - Thì cái người dạy thiền nói: “Thì mình đạt được hồi đó mình mừng thôi chớ bây giờ nó luôn luôn nó có rồi mình còn mừng nữa đâu!”

Đó thiệt là, giải thích cái kiểu là danh từ, không có kinh nghiệm tu hành! Nghĩa là giống như ở ngoài đời, khi mà có người đi đâu xa về cái mừng, mừng đã rồi ít bữa cái rồi quen rồi cái không mừng nữa!

Cái đó là cái điều kiện là biết ăn cái bánh dục mà không biết ăn cái bánh ly dục, chưa có nếm được cái mùi vị của ly dục, cho nên chưa có hiểu được cái điều đó.

Nói thì nó phải nói cho rõ để cho quý thầy hiểu cho rõ cái chỗ đúng, chỗ sai. Cho nên có nhiều người họ chưa có biết nhập định như thế nào, họ dám dạy thiền định, họ nói tầm bậy, tầm bạ hết à, họ nói không có trúng. Cho nên cái nói không đúng làm cho người ta cũng tưởng là đúng.

Bởi vì họ cũng ở trong tâm trạng mà khi mừng thì họ mừng, mà khi hết thì họ hết mừng, thì như vậy quá đúng rồi còn gì nữa! Nhưng mà ở đây đâu phải là cái chuyện đó như vậy được! Bởi vì không nhập thiền định, đâu có biết được cái này!

Cho nên đến cái chỗ này mới thấy là chỗ mà chúng ta phải Chánh Niệm Tỉnh Giác ở cái chỗ Tam Thiền, tức là cái lộ trình mà đi từ Nhị Thiền mà đến Tam Thiền đó, để nhập được Tam Thiền, cái lộ trình đó phải luôn luôn Chánh Niệm Tỉnh Giác để tránh mười tám cái trạng thái của tưởng.

Mười tám cái trạng thái chứ không phải sáu cái loại tưởng đâu. Thầy nói tắt, nói gọn là sáu loại tưởng, nhưng mà sự thật ra phải thấy được mười tám cái loại tưởng, chớ không phải là một thứ đâu.

Có khi thì nó làm cho chúng ta ngỡ như chúng ta nhập Tam Thiền, tức là cái chỗ mà bất lạc - bất thọ lạc bất thọ khổ đó, của cái trạng thái dục tưởng đó, nó bất thọ lạc bất thọ khổ, tưởng là ở chỗ đó là mình nhập Tam Thiền chớ gì? Không ngờ là mình bị bất thọ lạc bất thọ khổ rồi, tức là bị sáu cái tưởng bất thọ lạc bất thọ khổ này.

Tưởng là mình nhập Tam Thiền, nhưng không ngờ là mình chưa có nhập được gì hết. Bởi vì mình chưa nhập được, cho nên vì vậy mà tới Tứ Thiền thì mình bớ ngớ, báo ngáo không biết đâu mà đi nữa hết. Chưa nhập Tam Thiền làm sao nhập Tứ Thiền được?

Đó là những cái mà chúng ta phải cần xét thấy được mười tám cái loại tưởng mà chúng ta phải ly nó ra.

Đây là giới đức thứ mười hai trong giới luật của Đức Phật, chỗ nào tâm vị ấy cũng tỉnh thức…​

Nghĩa là lúc nào bây giờ ở trong tâm cũng phải tỉnh thức rất rõ ràng chớ không phải là thức thiếu nó ở trong đó được.

…​ ở trong chánh niệm của giới đức này, không mất, không lặng…​

(01:24:26) Đây, quý thầy nghe cái chỗ này nè:

Đây là giới đức thứ mười hai trong giới luật của Đức Phật, chỗ nào tâm vị ấy cũng tỉnh thức ở trong chánh niệm của giới đức.

Của giới đức đó đó, ở trong cái chánh niệm của giới đức. Nếu mà lìa xa cái giới đức đó thì quý vị bị mười tám cái tưởng này nó phá quý vị liền tức khắc.

Giới đức này nó không mất…​

Nghĩa là nó không bị mất,

…​ nó không bị lặng, nó không động, nó không loạn, nó thấm nhuần, tẩm ướt làm cho sung mãn tràn đầy với lạc thọ, hoàn toàn không có trạng thái mười tám loại hỷ.

Nghĩa là hoàn toàn nó không có một xen kẽ nào mười tám cái loại hỷ này vào trong đó.

Mình thấy cái trạng thái như là bất thọ lạc bất thọ khổ của dục tưởng này, mình tưởng đó là mình nhập Tam Thiền, nhưng sự thật đó là mình bị lạc vào trong cái chỗ trạng thái bất thọ lạc bất thọ khổ của tưởng.

Thân tâm của vị ấy bây giờ thấm nhuần giới…​

Nghĩa là nó luôn một cái loạt mà Thầy nói rằng khi bây giờ mình nhập tới Tam Thiền rồi thì mình phải thấy được cái chỗ nó - bắt đầu nó - mình thấy được cái ly dục của mình đó, hoàn toàn nó cũng như là Sơ Thiền đó, ly ác pháp là ở Sơ Thiền đó.

…​ rồi ly dục tưởng pháp thứ ba.

Do đó, những kết quả thiết thực, hiện tại đức hạnh của người tu sĩ mà không có một người nào có thể phủ nhận được.

Nghĩa là mình phải ly các cái pháp dục tưởng thứ ba, tức là cái giai đoạn thứ ba - của thiền thứ ba đó, mình phải ly cái dục tưởng đó ra cho sạch, mười sáu (tám) cái tưởng đó ra cho sạch thì mới có kết quả thiết thực hiện tại, đức hạnh của người tu sĩ mà không có người nào phủ nhận được.

Còn mình đang còn ở trên cái dục tưởng đó thì người ta sẽ bác mình. Nghĩa là quý thầy bây giờ nói trạng thái đó như vậy Thầy biết liền, Thầy bác liền. Còn cái người mà không biết: “À, nói vậy đúng, đúng đó!” Còn cái người biết người ta ngầm người ta nói: “À như vậy là chưa đúng đâu!” Bởi vì quý vị phải như thế nào người ta mới được xét cái đúng đó.

Cho nên ở đây quý thầy tu như thế nào mà trình ra Thầy biết là nó ở cái chỗ nào Thầy biết, nhưng mà Thầy cứ từ từ Thầy để cho sách tấn quý thầy để ở trong cái chỗ tu đó mà quý thầy sửa lần đi đúng. Còn Thầy bác ngay liền, quý thầy chới với liền, không biết là mình tu làm sao được hết.

Bởi vì tu nó không có căn bản, nghĩa là bước từng bước nhỏ mà đi từ cái đạo Phật mà vô thì quý vị tu không có căn bản, cho nên bây giờ quý vị mất cái căn bản rồi. Cho nên từng đó Thầy mới nhắc nhở quý vị phải tập cái gì nhiều nhất để lần lần cái căn bản nó có, thì từ đó quý vị mới bước được qua khỏi cái bước này.

Chớ còn nếu mà bây giờ Thầy nói: “Tu vậy sai hết rồi! Bây giờ bỏ, trở lại!” Quý vị ngán chết rồi, ngán chết! Hồi nào khổ công hết sức, bây giờ hoàn toàn nhìn lại hai bàn tay không của mình, choáng váng mày mặt hết, không làm sao tu hành được nữa! Đó quý vị hiểu cái điều đó.

Bởi vậy cho nên Thầy là một người tâm lý rất là hiểu quý thầy, cho nên tuần tự quý thầy cứ tập giữ gìn cái chỗ đó, không mất đâu. Rồi quý thầy sửa lần, sửa lần những cái căn bản của quý thầy, bắt đầu quý thầy đi lên vững vàng không có gì sai hết.

(01:27:17) Cho nên cái lối mà hướng dẫn của Thầy là cái lối làm sao cho quý thầy đừng có bất mãn, không có để cho quý thầy bất mãn.

Biết rằng quý thầy sai cái chỗ đó nhưng mà không dám nói sai đâu, khuyến khích quý thầy cứ giữ gìn tu đi, rồi đồng thời khuyến khích quý thầy tu những cái khác để đem lại cái căn bản cho nó vững vàng, rồi quý thầy tới đó quý thầy vượt qua một cách dễ dàng. Đó là cái lối tâm lý của một người thầy không có để cho người học trò mình bất mãn trên con đường tu.

Vì từ lâu tới giờ, tất cả học trò của Thầy mà về đây tu hành là quý thầy đã - có một số người đã quá nhiễm những cái pháp môn nó không đúng con đường của đạo Phật, mà bây giờ dẫn quý thầy trở về đúng con đường của đạo Phật để làm chủ sanh tử, chấm dứt sự luân hồi là một điều khó của Thầy chớ không phải dễ.

Phá được những cái tri kiến, những cái tà kiến mà chấp ở trong đầu về pháp môn này, pháp môn khác đó là một cái khó rồi. Đâu có dám nói nặng nói nhẹ, vì nói nặng nói nhẹ tức là mình bị vào cái chỗ phỉ báng cái pháp môn của người.

Đâu có dám nói của ai sai! Chỉ cần âm thầm mà hướng dẫn người đệ tử quyết tâm theo mình để dẫn họ trở lại ngay cái đường chánh của đạo Phật, để giúp cho họ vượt thoát cái sự đau khổ của cuộc đời.

Đâu dám nói cái pháp nào sai đâu! Họ tu làm sao cũng không dám nói của ai sai hết, mà chỉ lần lượt khéo léo để chuyển cho họ lần lần từng cái đó họ trở về căn bản.

Cũng như hồ sen: sen xanh, sen hồng, sen trắng, sen đỏ, sen vàng, những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, nuôi sống trong nước, từ đầu ngọn đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt tràn đầy, thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không chỗ nào trên toàn thân sen không được ướt, không được nước mát lạnh thấm nhuần.

Cũng vậy, vị Tỳ Kheo thấm nhuần đức giới của Đức Phật, tràn đầy toàn thân với lạc thọ.

Nghĩa là đức giới thứ ba này của con đường bắt đầu vào cái Tam Thiền đó, cái đức giới này nó tràn đầy cái sự lạc thọ của họ.

Đó, thì cái đức giới đó nó làm cho họ có một cái hạnh phúc rất là an ổn ở trong cái chỗ mà giải thoát của họ, làm cho họ thấy rõ ràng là con đường giải thoát của đạo Phật thực chớ không phải là sai. Do đó họ sách tấn họ, khích lệ họ, họ ham thích tu nữa, chớ họ không có bất mãn trên cái sự tu tập của họ.

Bấy giờ vị Tỳ Kheo thấm nhuần đức giới thứ mười hai, tâm thường tỉnh thức, chánh niệm ở trong giới đức này, không mất, không lặng, không động, không loạn.

3.15- GIỚI ĐỨC THỨ 13: CHỨNG VÀ TRÚ TỨ THIỀN

(01:29:44) Vị Tỳ Kheo tịnh chỉ hơi thở và các hành về hơi thở, chứng và an trú thiền thứ tư: không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Bấy giờ vị Tỳ Kheo ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh đức giới trong sáng.

Ở đây không nói cái - tới cái thứ tư này thì Đức Phật nói “thuần tịnh đức giới trong sáng”, Đức Phật nói “trong sáng” tức là thức tỉnh hết sức thức tỉnh mà không còn ở trong cái chánh niệm nữa, không còn sợ cái tà niệm nữa, cho nên luôn luôn nó luôn luôn trong sáng, nó không còn phải kẹt vào cái niệm thanh tịnh, cái niệm mà hồi nãy Đức Phật nói đó: “xả niệm thanh tịnh” đó, “xả khổ, xả lạc, xả niệm thanh tịnh”.

Mà xả niệm thanh tịnh tức là cái niệm mà mình giữ cái chánh niệm của mình hồi ở Tam Thiền để mình xả cho hết mười tám cái trạng thái của tưởng đó.

Các thầy nhớ kỹ chớ: Mười tám cái trạng thái tưởng hồi nãy đó là tà niệm, cho nên phải chánh niệm ở trong cái chỗ đó, mà cái niệm đó là phải niệm thanh tịnh. Cái chánh niệm đó đó, là cái niệm phải thanh tịnh. Do cái niệm thanh tịnh phải giữ nó, chớ không cái tà niệm nó xen vô sao?

Vì vậy mà đến Tứ Thiền rồi thì cái niệm thanh tịnh nó đã xả mất đi, nó chỉ còn có một cái tâm trong sáng. Quý thầy nhận ra được chớ?

Cho nên “xả lạc, xả khổ” - bây giờ ngồi thiền không thấy lạc mà cũng không thấy khổ nữa. Mà cái niệm thanh tịnh nó cũng không còn, bởi vì cái chánh niệm nó đâu còn giữ nữa, tà niệm nó đâu có, Tứ Thiền nó đâu còn tà niệm nữa, cho nên đâu có cần giữ phải chánh niệm chi nữa, cho nên toàn bộ là cái tâm trong sáng. Phải không?

Cho nên nó gọi là xả niệm thanh tịnh. Trong sáng nhưng mà tỉnh thức rất tỉnh thức. Ở đây, quý thầy thấy cái chỗ này nè:

Chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Bấy giờ vị Tỳ Kheo ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh đức giới trong sáng.

“Thuần tịnh” nghĩa là không còn cái niệm, không còn cái niệm thanh tịnh, mà bây giờ nó thuần tịnh, các thầy hiểu chỗ thuần tịnh: Không có cái niệm - không có cái niệm chánh niệm ở trong đó, cái niệm thanh tịnh đó.

Tức là còn cái niệm thanh tịnh tức là còn ngừa cái niệm ác. Mà bây giờ không còn cái niệm thanh tịnh, tức là cái niệm ác nó hết rồi thì cái niệm thanh tịnh nó cũng phải xả. Các thầy hiểu chưa?

Cho nên khi mà nó xả rồi thì toàn thân nó thấm nhuần với một cái đức giới trong sáng. Nghĩa là rất là rõ ràng, mỗi mỗi điều gì nó ở trong đó nó sáng suốt vô cùng chớ không phải là như mình ngủ, mình quên mất đâu. Cho nên nhập Tứ Thiền hoàn toàn là chúng ta ngồi còn tỉnh hơn bây giờ mà Thầy đang ngồi đây nữa. Vô Tứ Thiền ngồi rất tỉnh.

(01:32:14) Cho nên ông Phật ngồi nhập Tứ Thiền không nghe tiếng động nè, trời sét không nghe nè, hoàn toàn không có cảm thọ gì hết hoàn toàn. Nhưng mà trời sét đánh hai con bò chết hỏi - người ta hỏi: “Ông có nghe không?” Nói: “Tui đâu có nghe!” Nói: “Ông ngủ không?” Nói: “Tui đâu có ngủ, tui tỉnh, rất tỉnh, tỉnh hơn mấy ông nữa!”

Đó thì các con thấy cái tỉnh của người ta là cái sự mà ở đây mà Phật diễn tả hai cái chữ “thuần tịnh đức giới trong sáng”.

Thường thường là ở trong kinh nó viết như thế này nè: “thuần tịnh, trong sáng” chớ không phải “đức giới”. Nhưng mà ở đây là chúng ta học giới luật chúng ta biết đó là cái đức giới của Tứ Thiền, cho nên nó “thuần tịnh đức giới trong sáng”, nó phải đúng cái nghĩa của nó như vậy.

Bởi vì chúng ta ở trong cái giới đó, cái đức giới đó thì nó phải là trong sáng của giới đức đó chớ sao!

Không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh, trong sáng ấy thấm nhuần đức giới của Đức Phật.

Ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng phủ trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân mà không được vải trắng ấy che hết.

Nghĩa là, Phật ví dụ như là chúng ta là một cái người ngồi, ngồi xuống vầy nè, lấy cái vải trắng trùm từ trên xuống dưới vầy, ở ngoài ngồi thấy một đống trắng chớ không có thấy cái da thịt chúng ta, cái quần áo chúng ta chỗ nào hết, toàn bộ là thấy một cái vải trắng trùm kín hết.

Thì cái trong sáng của chúng ta nó sáng suốt như là tấm vải trắng đó đó, nó không có bị hoen ố một chút nào. Và lúc bấy giờ tâm chúng ta rất là thanh tịnh, thuần tịnh đó.

Cũng như một cái đáy hồ mà nước trong xanh, chúng ta nhìn xuống đó chúng ta thấy tận đáy rồi đó. Cho nên vì vậy mà chúng ta mới hướng tâm đến Tam Minh thì chúng ta trông thấy cái gì? Các con thấy: Tam Minh là những đá, sỏi, cát hay hoặc là cá đồ bơi lội dưới đáy hồ đó đó.

Là cái tâm chúng ta nó trong sáng như một cái tấm vải trắng mà phủ trùm chúng ta, không một còn có chút nào mà thấy chúng ta được hết, tức là cái tâm trong sạch rồi, thì nơi đó gọi là Tứ Thiền đó, thì bây giờ chúng ta chỉ cần dẫn nó tới đâu thì nó tới đó hết, chúng ta muốn cái gì là nó làm được hết cái nấy hết.

Đó, thì quý thầy thấy, tu tới cái chỗ này quý thầy mới thấy là tuyệt vời.

Bởi vì nghe nói Tứ Thiền người ta nói là thiền Tiểu Thừa, thiền tiêu nha bại chủng, thiền của bậc A La Hán, nhưng mà không ngờ cái tâm người ta thuần tịnh đến cái mức độ người ta thấy được từ dưới đáy hồ sỏi, đá, cặn nhỏ lớn gì, cá lớn, cá nhỏ, cá bé gì chúng ta thấy hết, rùa, quy, trạch gì chúng ta cũng thấy toàn bộ ở đó hết, một con vật gì nhỏ ở dưới cái đáy hồ chúng ta cũng thấy, tức là tâm chúng ta thanh tịnh toàn bộ ở trong cái giới đức này, cái giới đức Tứ Thiền này.

Đây là giới đức thứ mười ba trong giới luật của Đức Phật, chỗ nào tâm của vị ấy cũng thuần tịnh, trong sáng, thấm nhuần, ly dục…​

Đây các thầy thấy:

…​ ly dục, ly bất thiện pháp, ly dục tưởng pháp, ly dục thọ pháp.

Đó, bây giờ chúng ta ly dục thọ pháp tức là ly hết các cái thọ pháp tức là thọ lạc, thọ khổ, ly hết rồi. Cho nên thứ tư:

Do đó những kết quả thiết thực hiện tại đức hạnh của người tu sĩ không ai dám phủ nhận được.

Chúng ta tu tới đây chúng ta thấy cái tâm chúng ta thuần tịnh như đến mức độ đó, trong như nước hồ./.

HẾT BĂNG

20 - TỔNG KẾT GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 20 - TỔNG KẾT GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- PHƯỚC BÁU LỚN NHẤT ĐỜI NGƯỜI LÀ TU TẬP ĐÚNG PHÁP

(00:00) Mười ba phần trọng yếu của giới đức trong giới luật của Đức Phật mà vị Tỳ Kheo cần phải trau dồi, tu tập không phải trong một sớm, một chiều mà thành tựu được, phải kiên gan, bền chí, hết sức chuyên cần tu tập.

Vì muốn thoát khỏi hầm lửa đỏ rực đang đốt cháy chúng ta từng phút, từng giây, chúng ta há dễ duôi để cho thời gian qua mất thì có hối tiếc việc cũng đã muộn rồi, đời đời, kiếp kiếp khó mà gặp lại được thân người, được pháp, được bậc thầy có kinh nghiệm dẫn dắt là điều diễm phúc nhất trong thế giới này.

Nghĩa là quý thầy mà được đúng pháp Phật, được một bậc thầy dạy dỗ có kinh nghiệm, được thân người mà quý thầy tu tập thì điều đó là điều diễm phúc nhất cho quý thầy ở trong cái giai đoạn này.

Quý thầy nhìn đây: Mấy người mà theo Thầy? Mà Thầy là một cái người đã có kinh nghiệm mới vạch ra rõ con đường tu này, nếu mà không có kinh nghiệm làm sao vạch được con đường này? Hầu như bao nhiêu thế kỷ nay người ta có vạch được con đường này không?

Kinh sách thì nhan nhản ai cũng đọc được, nhưng mà cái lối mà vạch ra người ta không có biết đường đi. Người ta không biết thiền là như thế nào nữa, người ta nói bậy, nói bạ chớ không có nói ra đúng gì hết.

Thế rồi mà dẫn cả đám nhau đi thì thử hỏi bây giờ chúng ta được mấy người ngồi đây nghe, mà còn bao nhiêu người không được nghe pháp này thì thử hỏi cái diễm phúc họ có hay không?

Rồi cái tà kiến của họ đang chấp những cái pháp sai như vậy mà họ cho rằng đúng, đời họ sẽ phí bỏ và thời gian tu tập của họ có cái sự ích lợi gì cho họ đâu, toàn bộ là phí bỏ tất cả hết.

Cho nên trong cuộc đời mà quý vị được đủ phước duyên mà về đây gặp Thầy, mà được cái lời giáo giới như thế này, tức là giáo giới luật của Đức Phật như thế này, là quý thầy là người có phước nhất ở trong thế gian này chớ chưa phải là ít phước.

Nếu ít phước, bao nhiêu người có được nghe không? Và cái giáo án tuy rằng giảng dạy như vầy nhưng ngày mai có đủ duyên để mà kết hợp thành một cái bộ kinh sách cho quý vị nữa không, hay hoặc là nó sẽ tiêu ma?

Thí dụ như bây giờ Chánh Đức về đây lo làm công việc này, nhưng mà rủi đi ra ngoài kia cái chúng hốt ăn cắp đi, nó đem đi mất đi, rồi nó đem đốt đi, rồi thử hỏi còn được không? Rồi ở đây Thầy để trong cái thất kia rủi lửa cháy sạch thì ai mà nói lại một lần thứ hai cho quý thầy nữa?

Quý thầy cứ nghĩ rằng mình có đủ phước mình nghe được đó là phước báu của mình, chứ chưa chắc đã là những cái tài sản quý báu này mà nó không đủ phước của chúng sanh thì chỉ trong chớp mắt là nó sẽ tiêu hủy, không còn nữa.

Chúng ta đâu có ngờ được cái phước báu chúng ta có và chúng sanh còn có được phước báu nghe hay không? Chắc chắn điều đó chưa đâu.

(02:44) Cho nên hôm nay Thầy nói xong như vậy thì Thầy thấy tâm niệm của quý thầy nghe thì nó hay, nhưng quý thầy chưa biết cái nào trước, cái nào sau. Thầy sẽ tóm lược cái bảng tóm tắt, quý thầy phải tu cái gì trước, tu cái gì sau, Thầy sẽ cho photo cái này ra, Thầy sẽ phát cho quý thầy một bản.

Nghe thì lòng vòng nhiều như vậy, chớ cái bản đồ mà Thầy đã vạch ra cho quý thầy, Thầy chỉ tóm lược bây giờ phải tu cái gì, cái gì, cái gì, gì, gì, cho đến cuối cùng, thì cái đó Thầy tóm lược lại chỉ vài ba trang giấy, cao lắm là chừng mười trang giấy là đủ cho quý thầy.

Chớ còn bây giờ, hàng lớp mà Thầy nói như thế này, quý thầy cũng chưa biết cái nào trước sau nữa.

Mặc dù là quý thầy có thể về đọc lại, suy ngẫm lại thì quý thầy thấy cái đường lối Thầy chỉ có bước lắm chớ không phải không, nhưng mà quý thầy không có đủ mà tóm lại, không có đủ sức mà résumé - cô đọng lại, cô đọng lại cho nó có một cái ngắn gọn để cho biết cái lộ trình mình phải tập cái gì trước, cái gì sau.

Cho nên cuối cùng, khi mà cái khóa hạ này xong, Thầy sẽ hoàn toàn sẽ cô đọng lại cái pháp này để cho quý thầy tu cái gì, cái gì, cái gì gì.

Do đó Thầy nhắc phải tu cái gì trước, cái gì trước, thì quý thầy được nghe ở đây thì quý thầy biết tu, còn những người khác mà không được nghe, họ không biết đâu hết.

Bởi vì cái đó là cái người được nghe mới biết được cái đường đi tu, còn cái người mà không nghe pháp thì cầm cái bản đồ này họ không biết gì hết, không biết cái pháp đó tu làm sao, họ không biết.

Còn quý vị nghe Thầy nói bây giờ phải tu Chánh Niệm Tỉnh Thức nè, phải tu cái gì, cái gì gì, phải xả, phải trau dồi cái gì gì, thì quý vị biết. Thí dụ như Thầy nói trau dồi, quý vị biết trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm, mà Thầy chỉ nói trau dồi thôi thì quý vị đã biết rồi.

Đó thì quý vị nhớ rằng, cái điều đó là cái điều quan trọng.

Mà Thầy nghĩ rằng, bây giờ có in thành cái bộ sách cho quý vị thì quý vị cũng đọc có nhiều khi để mà mua vui mà thôi. Còn bây giờ Thầy cô đọng lại cho một cái giáo án này, cái gì tu trước, cái gì tu sau cho đến khi cuối cùng, thì quý vị theo đó mà được nghe Thầy giảng thì quý vị tu không sai nữa.

Thì sau khi mà rời khỏi Tu viện thì Thầy sẽ trao cho quý vị mỗi người một bản cô đọng lại cái giáo án này thành ra một cái đường lối tu tập. Cho nên quý vị về, quý vị tìm cái nơi nào yên tịnh quý vị nỗ lực thì quý vị cũng đi tới cái con đường tu tập này.

2- TỔNG KẾT PHẦN GIỚI HẠNH

2.1- GIỚI HẠNH BIẾN KẺ PHÀM PHU THÀNH BẬC THÁNH HIỀN

(04:53) Hai mươi lăm giới hạnh trong giới luật của Đức Phật cũng vừa đủ trang bị cho một vị tu hành có đầy đủ oai nghi chánh hạnh, có một đời sống giải thoát, thanh thản an lạc mà trên đời này không một giáo pháp nào có được như trong đạo Phật.

Nghĩa là hai mươi lăm cái giới hạnh mà chúng ta tu trước đó, chúng ta học trước đó, mà nếu mà chúng ta thực hiện đúng những cái giới hạnh thì tâm hồn chúng ta thanh thản vô cùng, không còn bị những cái nghề nghiệp, bị những cái này kia trói buộc chúng ta đâu.

Hai mươi lăm giới hạnh trong giới luật của Đức Phật để biến người tu sĩ lột xác họ từ một kẻ phàm phu tục tử biến thành một bậc - một vị Thánh Hiền.

Đó thì quý thầy thấy, hai mươi lăm giới hạnh mà trước chúng ta đã học, đây Thầy nói - chưa nói mười ba cái giới đức chúng ta đâu, mà chúng ta chỉ nói giới hạnh thôi, mà nó có thể lột xác quý vị đó. Từ kẻ phàm phu, qua những cái oai nghi của quý vị mà sống, người ta vẫn thấy quý vị là Thánh Hiền.

Vì cuộc sống của họ toàn bộ mới mẻ, bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi đều thay đổi, họ không thể sống như những người thế gian được.

Bậc tu hành giới hạnh của đạo Phật trên đời này không ai là không quý trọng và kính mến. Xưa Phật đã dạy: Một người giữ gìn giới hạnh trong sạch của đạo Phật thì tất cả Phật tử, cư sĩ sẽ phủ tóc trên mặt đường cho vị ấy đi.

Hai mươi lăm giới hạnh này giúp cho hành giả ly dục, ly bất thiện pháp dễ dàng. Nếu hành giả giữ gìn đúng pháp, đoạn dứt đúng pháp thì cảnh giới Niết Bàn tại thế không phải là một giấc mơ mà là một thực tại của vị ấy.

Nghĩa là chúng ta chỉ cần giữ gìn hai mươi lăm giới hạnh này thôi thì chúng ta cũng thấy mình ly dục, ly bất thiện pháp được. Nhưng mà ly dục, ly bất thiện pháp trong giới hạnh chớ không phải ly dục, ly bất thiện pháp trong giới đức đâu.

Quý vị đừng có hiểu cái danh từ - ly dục, ly bất thiện pháp ở trong giới đức nó khác, mà ly dục, ly bất thiện pháp là ở trong giới hạnh nó là chuẩn bị cho chúng ta bước qua cái giai đoạn ly dục, ly bất thiện pháp trong giới đức.

Nó có những cái giai đoạn mà chúng ta tiến ở trong cái bước đường giới luật của Phật, nó có những cái giai đoạn thấp, giai đoạn cao của nó.

Thì cái Niết Bàn tại thế quý vị sẽ thấy đạt được liền chớ nó không phải là còn giấc mơ mà quý vị mơ tưởng đâu. Quý vị sống đúng theo hai mươi lăm cái giới hạnh này thì quý vị thấy Niết Bàn tại thế.

(07:25) Hai mươi lăm giới hạnh thuộc về tất cả hành động của thân, khẩu, ý, được thực hiện làm nên những đức hạnh sống của người tu sĩ đạo Phật. Vì thế kẻ nào giả danh tu sĩ đạo Phật đều để lộ chân tướng giả dối mà không một ai trên thế gian này không nhận ra được.

Nghĩa là, chúng ta đã học hiểu biết hai mươi lăm giới hạnh của Đức Phật rồi, thì một người mà giả là tu sĩ đạo Phật thì chúng ta nhận qua hai mươi lăm giới hạnh này chúng ta biết rằng người đó không phải là cái người tu sĩ thật mà cái người tu sĩ giả.

Thí dụ bây giờ thấy một ông thầy tu sĩ mà đi làm thầy thuốc trị bệnh người ta thì quý vị thấy có đúng không? Không đúng đâu.

Một ông thầy làm thầy, làm một người tu sĩ, làm một vị Tỳ Kheo mà đi ra cuốc đất trồng tỉa lúa, trồng tỉa đậu phộng, trồng tỉa dưa leo, dưa hấu, thì thử hỏi cái ông thầy đó có đúng không? Không có đúng.

Mà không đúng như vậy thì có phải là chúng ta nhận thấy biết cái người đó sai không? Có phải là ông thầy tu không? Có phải là đệ tử của Phật không hay là đệ tử của ngoại đạo?

Người tu thật, người tu giả của đạo Phật do hai mươi lăm giới hạnh này mà người ta nhận ra mặt thật, mặt giả của nó dễ dàng.

Qua hai mươi lăm giới hạnh mà đã học rồi thì chúng ta vẫn thấy biết được cái người tu thật, tu giả. Nhưng chúng ta không nói thôi. Ai làm được cái gì thì cứ làm, chúng ta là những người tu hành không làm khổ người, nói ra làm khổ người ta làm gì? Nói ra chê bai thì mình đâu có phải là người tốt. Nhưng mình phải nhận biết, chớ không phải mình không nhận biết.

Bởi vậy, khi giáo án hành trì, tu tập của đạo Phật ra đời nhằm làm sáng tỏ lại Phật giáo: Đâu đúng, đâu sai, đâu là những đệ tử của Đức Phật chân chính, đâu là những kẻ giả danh phá đạo, phá giới luật của Phật, phân minh rõ ràng để người đời không còn lầm lạc, vô tình phỉ báng Phật Pháp, vô tình không hiểu rõ Phật Pháp, dìm Phật Pháp xuống tận đáy thẳm tà kiến của ngoại đạo mà cứ ngỡ đó là Phật Pháp.

Hai mươi lăm giới hạnh trong giới luật của Đức Phật minh xác hai đạo lộ rất rõ ràng: Đời sống của người cư sĩ và đời sống của người tu sĩ khác biệt một trời một vực.

Nghĩa là đời sống của cư sĩ nó không giống cái đời sống của tu sĩ đâu, nó khác biệt một trời một vực, hai bên nó xa lắc, xa lơ. Người cư sĩ còn phải lao động, còn phải làm nghề này, nghề kia sống, còn người tu sĩ thì hoàn toàn không làm nghề gì sống hết, chỉ đi xin ăn mà thôi, cho nên hai lối sống này cách biệt xa vời.

2.2- ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ CỦA ĐẠO PHẬT GIÚP CẢ NHÂN LOẠI GIẢI THOÁT

(10:07) Đạo Phật ra đời không phải giải quyết cho một số người chuyên tu ít ỏi ở lộ trình thứ hai. Mà đạo Phật ra đời để giải thoát cho toàn cả nhân loại, không những trên hành tinh này mà còn các hành tinh khác, miễn ở đâu có con người.

Tức là có chúng sanh.

Nên lộ trình thứ nhất, con đường của cư sĩ đi, đó là đối tượng của đạo Phật giải quyết.

Thì quý thầy nghĩ rằng, đạo Phật ra đời không phải nhắm vào một số ít mấy người mà ngồi đây mà Thầy dạy cho quý thầy đến cái chỗ làm chủ sanh tử luân hồi đâu, mà đạo Phật nhắm cả toàn nhân loại trên cái hành tinh này để giải quyết cho họ thoát khổ.

Vì vậy họ phải đứng ở trong cái pháp môn nào để mà họ giải quyết cho họ thoát khổ. Họ không còn đói khổ, họ không còn nghèo khổ nữa mà họ đầy đủ hạnh phúc, họ thương yêu nhau.

Bởi vì đạo Phật chủ trương tự mình, cứu mình, không ai cứu mình được; tự mình đem lại sự an vui, hạnh phúc cho chính mính; tự mình xây dựng Niết Bàn cho chính mình; tự bàn tay và khối óc của mình đem lại một đời sống tươi đẹp, an lành cho chính mình, đem lại phước báu đầy đủ cho chính mình.

Vì thế đạo đức nhân quả của đạo Phật là một pháp môn rất cần thiết cho nhân loại để cho con người, ai ai cũng có thể trau dồi, tập luyện thân, khẩu, ý của mình trong các thiện pháp, xa lìa và đoạn dứt các ác pháp một cách dễ dàng, không khó khăn.

Đó là xây dựng cuộc sống của mình trong an lành, hạnh phúc và xã hội không rối trật tự, cuộc sống con người đối xử với nhau bằng các thiện pháp, tình thương nhau chan hòa, nhờ thế đất nước phồn vinh, thịnh trị, thái bình, trời đất, thời tiết mưa thuận, gió hòa, không có thiên tai, thủy nạn, không có những chứng bệnh nan y khó trị v.v…​

Đó là những giới hạnh mà Đức Phật nhấn mạnh vào tất cả chúng sanh để hướng dẫn và chỉ dạy họ, để tự họ thoát khỏi cảnh sống trầm luân, đau khổ của kiếp con người.

Có dịp Thầy sẽ giảng quý thầy giáo trình nhân quả, tức là đạo đức nhân quả. Giáo trình đạo đức này được ra đời, được phổ biến rộng rãi cho các tầng lớp con người trong xã hội, giáo trình này được áp dụng vào các trường học, xây dựng đạo đức nhân quả nơi các cháu thì các cháu là những mầm non của tổ quốc, các cháu trở thành những con người tốt, có lòng thương yêu chân thật đối với con người và chúng sanh, thì chừng ấy xã hội an lành, đất nước phồn vinh, không có nạn nghèo đói, không có nạn thất nghiệp, vì ai cũng thấy bổn phận của mình phải làm gì cho mình, cho người, cho xã hội, cho đất nước.

3- TỔNG KẾT PHẦN GIỚI ĐỨC

3.1- GIỚI ĐỨC GIÚP THỌ HƯỞNG ĐƯỢC HỶ LẠC XUẤT THẾ GIAN

(13:00) Mười ba giới đức trong giới luật của Đức Phật…​

Đây, Thầy nói đến cái giới đức đây, hồi nãy là giới hạnh, rồi nhắc cái đạo đức nhân quả, mà cái mục đích mà Đức Phật đưa ra đời là nhằm đem cái đạo đức nhân quả để giúp cho con người đứng ở trong cái hành thiện mà diệt trừ cái hành ác, để cho xã hội con người được an lành và thanh bình.

Còn mười ba giới đức này để giúp cho những người tu sĩ.

Mười ba giới đức trong giới luật của Đức Phật giúp cho người tu sĩ xa lìa những hỷ lạc tầm thường của thế gian…​

Xa lìa những cái hỷ lạc của thế gian.

…​ viễn ly, từ bỏ, không còn bị cám dỗ, lôi cuốn bởi những thứ hỷ lạc này, thay vào đó bằng thứ hỷ lạc phi dục lạc thế gian.

Nhờ thế, người tu sĩ mới nhận ra được đâu phải cuộc sống thế gian chỉ có dục lạc thế gian là tuyệt đỉnh, mà còn có một thứ hỷ lạc cao hơn nữa, tuyệt đỉnh hơn nữa, đó là hỷ lạc phi thế gian pháp. Nó còn gọi là hỷ lạc ly dục, ly ác pháp.

Thứ hỷ lạc này sẽ đưa con người tu sĩ đến yểm ly, ly tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn. Hỷ lạc này là thứ hỷ lạc của các bậc thánh, không phải kẻ phàm phu mà biết được, mà thọ hưởng được.

Nghĩa là cái thứ hỷ lạc mà dục lạc của thế gian thì hầu hết là người nào sanh ra trong cuộc đời này cũng đều có thọ hưởng, không ít thì nhiều.

Còn trái lại, cái hỷ lạc mà của các bậc xuất thế gian, các bậc tu sĩ, các đệ tử của Đức Phật mà tu sĩ, thì cái hỷ lạc này dành cho những bậc thánh chớ không phải là bậc phàm phu. Nếu quý vị mà không thực hiện mình là những bậc thánh thì chắc chắn quý vị không thể thọ hưởng được cái hỷ lạc này.

Mười ba giới đức trong giới luật của Đức Phật vượt tưởng tượng của loài người. Vì thế có người giàu tưởng tưởng tượng, biến cảnh giới của các bậc Thánh Hiền bằng cảnh giới Cực Lạc, mà hiện nay mọi người dựa vào kinh điển tưởng ra, biến cõi Phật thành cõi dục lạc tuyệt đỉnh như các kinh điển đã diễn đạt, thành một thế giới ảo huyền, hư vô, không có thật.

Mười ba giới đức trong giới luật của Đức Phật là một cảnh giới thực tế, cụ thể ở trạng thái tâm hồn của hành giả khi họ đã chắc chắn từ giã, từ biệt, xa lánh, ly dục, ly bất thiện pháp ở thế gian thì họ đã nhận ra được hỷ lạc này.

Như một người từ lâu nghe người ta khen ngợi một loại bánh đặc biệt ở thế gian này chưa từng có, và người thế gian chưa ai từng nếm được nên họ tưởng tượng ra cái ngon của bánh này, kẻ bảo ngon như thế này, kẻ bảo ngon như thế khác, cuối cùng thì chẳng có người nào được ăn và được nếm thử.

Chỉ có những bậc thánh tu hành đúng pháp mới biết được mùi vị của nó. Do thế, người đã có ăn, có nếm được loại bánh này, khi nghe mọi người nói ngon như thế này, nói ngọt như thế kia, thì người này đã bảo: “Quý vị chưa ăn, chưa có nếm nó bao giờ, nên bấy giờ quý vị nói đều sai hết!”

(16:27) Muốn nếm được mùi vị thì quý vị phải từ bỏ cái này, trau dồi cái kia, tu tập cái nọ thì quý vị sẽ vứt bỏ những hỷ lạc ngon ngọt của thế gian thường tình xong thì mới có thể nếm được mùi vị hỷ lạc xuất thế gian, bây giờ quý vị mới rõ, chớ không phải con đường tu hành theo đạo Phật khô cằn, khô cỗi như bãi sa mạc toàn là cát và nắng, nóng bức khó chịu!

Vì thế có người hỏi Thầy: Nếu tất cả mọi người đều tu theo đạo Phật thì thế gian này đâu còn có con người? Đó là đứng núi này mà trông núi khác hoặc là muốn hiểu núi khác thì không thể nào hiểu được. Như con cá ở dưới nước làm sao biết được sự sống trên đất bằng?

Cho nên con người thường sống hằng tưởng nên thường tưởng sai. Thậm chí ngay trong thân tâm này của họ, họ còn hiểu không nổi hết, huống là họ hiểu cảnh giới của các bậc Thánh Hiền.

Đó thì, các thầy muốn mà để hưởng được cái hỷ lạc của các bậc Thánh Hiền, của bậc xuất gia thì phải dứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian. Bởi vì nếu mà không có vứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian thì không thể nào mà hưởng cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian được.

Bởi vì cái hỷ lạc đó là cái hỷ lạc dục cho nên phải ly dục, ly ác pháp của thế gian ra, thì cái dục lạc của thế gian nó không còn có nữa, thì cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian nó mới có. Vì vậy bây giờ chúng ta còn ôm ấp cái dục lạc của thế gian thì làm sao chúng ta biết được cái mùi vị của xuất thế gian được!

Cho nên hầu hết là quý vị ngồi thiền mà nhập định mà có trạng thái hỷ lạc, khinh an, điều đó là điều sai hết.

Bởi vì chính mình chưa có ly được cái dục lạc của thế gian, tâm mình còn dính mắc cái này, cái kia, cái nọ, dù là mình là một vị tu sĩ nhưng mình vẫn còn dính cái chùa. Chớ đâu phải là mình một vị du tăng khất sĩ, ba y một bát, không còn chùa không còn cái vật gì gọi là của mình hết, thì như vậy mình mới thấy được cái hỷ lạc của bậc xuất thế.

Còn mình chưa có được như vậy mà mình tưởng tượng ra nào là khinh an, nào là hỷ lạc, nào thế này, thế kia, thì cái đó toàn là thứ dục lạc chớ không phải là hỷ lạc.

Bởi vậy tu hành chúng ta phải biết được cái hỷ lạc nào là chân chánh mà cái hỷ lạc nào mà nó không chân chánh.

Cái hỷ lạc mà đem đến chúng ta muôn thứ khổ, đó là cái hỷ lạc của dục, còn cái hỷ lạc mà đem chúng ta yểm ly, xa lánh tất cả các sự ham muốn, sự lôi cuốn của thế gian, của các pháp thế gian, nó làm chúng ta xa lìa được những cái khổ đau đó, thì đó là cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian.

(19:34) Nhưng muốn nếm được mùi vị của nó thì chúng ta phải tách lìa, xa lìa cái hỷ lạc của thế gian thì chúng ta mới thọ hưởng được cái đó. Còn nếu mà không xa lìa, không tách lìa thì chắc chắn là chúng ta không có thọ hưởng được.

Cũng như con cá mà muốn biết được ở trên đất bằng sống như thế nào thì ít ra nó cũng phải lìa khỏi cái hồ, cái sông, cái hồ nước của nó, mà nó lên đất bằng nó mới biết được. Còn bây giờ nó ở dưới nước mà nó muốn biết được ở trên đất bằng thì làm sao nó biết được!

Cho nên đó là những điều mà chúng ta phải ly được thì chúng ta mới thấy được.

Vì vậy mà chúng ta phải thấy được hai cái lộ trình mà Đức Phật đã vạch ra cho chúng ta biết đó là rất là rõ ràng.

Nếu mà chúng ta không thấy được hai lộ trình này thì chắc chắn khó mà chúng ta có thể đạt được cái kết quả của cái sự tu hành theo đạo Phật. Vì cái lộ trình của đạo Phật là xuất thế gian, ly tất cả các dục, các ác pháp của thế gian thì chúng ta mới thực hiện được cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian.

Đó thì, như vậy không có nghĩa là con đường mà đi tu theo đạo Phật nó khô cằn, khô cỗi, mà cho đến khi không còn cái người…​ (Mất tiếng)

Không có thai sanh, thì tức là chúng ta phải có hóa sanh, mà hóa sanh là nó phải là lìa cái dục nó mới hóa sanh được. Còn nếu mà chúng ta chưa lìa dục làm sao chúng ta hóa sanh được.

Cũng như bây giờ chúng ta còn ở trong dục mà chúng ta muốn có thần thông thì thần thông đó là thần thông gì? Thần thông huyễn hoặc, thần thông như là một cái trò ảo thuật gạt người ta.

Còn cái thần thông thực là chúng ta phải có một cái sự ly tất cả các dục này thì chúng ta mới sống được hóa sanh. Hóa sanh thì tức là chúng ta muốn như thế nào ? Như là Tứ Như Ý Túc, chúng ta Dục Như Ý Túc là chúng ta muốn như thế nào nó phải thành tựu như thế nấy. Chúng ta muốn sanh là sanh mà chúng ta không muốn sanh là không sanh.

Chớ không phải là bây giờ chúng ta muốn sanh nó cũng không được, mà chúng ta muốn chết cũng không được, muốn sống cũng không được, đó là chúng ta không có quyền.

Còn khi một cái người mà người ta ly được cái dục lạc của thế gian này rồi người ta có quyền sống chết, người ta muốn sanh như thế nào là theo ý của người ta muốn, muốn người lớn thì lớn, muốn người nhỏ là nhỏ.

Bởi vì khi mà chúng ta lìa khỏi những cái dục lạc thế gian rồi thì chúng ta có sự tự tại như vậy đó.

Cho nên đạo Phật nhắm vào cái chỗ mà chúng ta ly thế gian, ly các pháp thế gian ra thì chúng ta mới đạt được cái kết quả của cái sự làm chủ.

Mà cái sự làm chủ đó nó không có nghĩa là làm cho hoại diệt, làm cho tiêu diệt cái con người ở trên thế gian này. Mà thể hiện con người trên thế gian này càng cao đẹp, càng tốt đẹp hơn, và tâm hồn mỗi con người đều có những cái lòng thiện biết thương nhau, biết chan hòa những tình thương nhau chân thật, không biết ganh đua, không biết tỵ hiềm, không biết tham, sân, si, mạn, nghi, không có Ngũ Triền Cái, không có Ngũ Kiết Sử, không có Thất Kiết Sử trong đó, cho nên toàn là hạnh phúc của mọi người với nhau.

Vì vậy mà chúng ta thấy con đường của đạo Phật là con đường rất rõ ràng, thực hiện nó một cách là chúng ta lìa cho xa khỏi cái cuộc đời ham muốn của thế gian là chúng ta đã đạt được đạo Phật chớ đâu có gì khác hơn.

3.2- NHỮNG TÊN GỌI KHÁC CỦA GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC

(22:36) Như trước kia Thầy đã dạy:

Hai mươi lăm giới hạnh thuộc về thân hành, còn mười ba giới đức thuộc về tâm hành.

Trạng thái tâm hành là gì? Trạng thái tâm hành là thiền định, cho nên thân thuộc về giới hành hay là giới hạnhcòn tâm thuộc về giới định.

Vậy mười ba giới đức tức là mười ba định trong giới luật của đạo Phật. Cho nên có chỗ Phật gọi là Giới - Tâm - Tuệ.

Nghĩa là thay vì Phật gọi Tam Vô Lậu học đó, Phật gọi là Giới - Định - Tuệ, thì có chỗ Phật lại gọi là Giới - Tâm - Tuệ, cho nên tâm tức là giới đức của chúng ta.

Vì vậy mà chúng ta hiểu rõ được cái con đường đi của chúng ta chia làm ba cái giới rất rõ. Mà ba cái giới rất rõ này nó chỉ cho chúng ta nằm ở trong cái vị trí của Tam Vô Lậu học Giới - Định -Tuệ.

Vậy thì giới hạnh tức là giới bổn Pātimokkha, mà giới đức tức là Định, mà giới tuệ tức là Huệ.

Đó là những điều mà hôm nay thì quý thầy mới thấy rõ được điều kiện của đạo Phật Giới - Định - Tuệ hoàn toàn là nó thuộc về giới, chớ không có gì khác hơn hết.

Nhưng mà vì cái vị trí của giới nào nó ở vị trí nấy, nó có cái phận sự ở đó, nó làm cho tâm, làm cho hành động của chúng ta thanh tịnh, làm cho tâm chúng ta thanh tịnh, làm cho trí tuệ chúng ta thanh tịnh thì gọi là Giới.

(24:10) Cho nên lúc đầu Thầy có giới thiệu đó: Giới nó làm cho trí tuệ thanh tịnh mà trí tuệ làm cho giới thanh tịnh. Các thầy nhớ cái chỗ đó.

Vì ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới luật, mà ở đâu có giới luật thì ở đó có trí tuệ, cho nên cái trí tuệ của giới hạnh, nếu mà chúng ta có trí ở trong cái giới hạnh thì cái hành động hằng ngày của chúng ta nó phải thanh tịnh. Mà cái hành động mà được thanh tịnh như vậy thì ở đó phải có trí tuệ.

Cũng như giới đức: Ở đâu mà có tâm thanh tịnh thì ở đó nó sẽ có trí tuệ, mà có trí tuệ ở đó thì phải có giới đức ở đó.

Cũng vậy, cái giới tuệ nó cũng vậy: Ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới tuệ, mà ở đó mà có giới tuệ thì phải có trí tuệ.

Đó thì đến đây thì quý thầy đã thấy rõ được cái con đường đi của Phật toàn là những pháp thiện, cho nên gọi là Sơ Thiện là giới hạnh, mà Trung Thiện là giới đức, mà Hậu Thiện là giới tuệ, rất là rõ ràng.

Bởi vì đạo Phật là đạo thiện pháp, cho nên tất cả đều nằm ở trong giới, mà giới tức là thiện pháp chớ không phải là một cái pháp môn nào xa lạ.

Nhưng muốn thực hiện được những điều đó thì chúng ta có những ba mươi bảy phẩm trợ đạo để mà chúng ta thực hiện con đường tu, để thành tựu được cái con đường thiện pháp này. Con đường thiện pháp này tức là Giới - Định - Tuệ.

Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà thiền định là một cảnh giới thực tại có sự an lạc, tuyệt đỉnh trong cảnh giới đó, không phải không có.

Đó quý thầy hiểu. Bởi vì cái thiền định nó có những cái hỷ lạc của nó. Cho nên Phật có so sánh hai cái hỷ lạc.

Hỷ lạc của dục thế gian, thì chúng ta ăn miếng ngon chúng ta biết ngon, đó là dục lạc của hỷ lạc của thế gian. Có một cái sự êm ấm làm cho chúng ta thích thú, đó là cái dục lạc của thế gian.

Còn ở đây chúng ta ly cái đó ra, cho nên chúng ta đạt được cái sức thiền định thì nó có cái hỷ lạc tuyệt đỉnh hơn là cái dục lạc của thế gian. Nó làm chúng ta thấy có một cảnh giới rất là tuyệt diệu ở trong đó.

Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà thiền định là một cảnh giới thực tại…​

Có hiện chớ không phải là không có hiện. Nơi trong trạng thái tâm hồn chúng ta chớ đâu. Chớ không phải là cảnh giới nào ở xa xôi đâu, nó ở trong cái tâm trạng của chúng ta ở đây. Chỉ chúng ta ly dục là chúng ta sẽ có nó liền, mà chúng ta không ly dục là chúng ta không có nó mà thôi.

(26:38) …​ thực tại có sự an lạc tuyệt đỉnh trong cảnh giới đó, không phải không có. Đức Phật đã xác định điều này rất là rõ ràng qua bài so sánh bốn hỷ lạc thế gian của phàm phu và bốn hỷ lạc xuất thế gian của bậc Thánh.

Tiếc rằng, kẻ phàm phu tu hành chưa tới nơi tới chốn, cứ tưởng tượng ra hỷ lạc thế này, thế kia làm sai con đường tu hành theo đạo Phật, làm cho Phật Pháp gần như mất gốc, người tu thời nay hết biết đường tu, tu tầm bậy, tầm bạ, đời, đạo lẫn lộn, đạo Phật mà bây giờ lại giống như các tôn giáo khác trên thế gian này, thật rất đau lòng!

Kinh sách nguyên gốc của Đức Phật còn đó, mà người hiểu theo tâm dục lạc thế gian của mình nên thành sai lệch quá xa.

Đó thì, lấy cái tâm dục lạc của mình mà hiểu qua kinh điển của Phật thì làm sao hiểu cho nổi! Ít ra mình phải hiểu được cái kinh sách của Phật là cái tâm của mình phải ly dục lạc của thế gian mà thọ hưởng cái dục lạc của pháp xuất thế gian, thì chừng đó mình hiểu từng chữ, từng nghĩa rất rõ ràng không sai.

Mà bây giờ nhìn lại, ai là người mà đã ly được dục lạc thế gian? Mà đã thọ hưởng được dục lạc pháp xuất thế gian? Mà để nhìn lại kinh sách để dẫn chúng ta đi con đường này?

Tức là phải là những bậc A La Hán, những bậc mà có thể phải là có những cái kinh nghiệm tu hành chính xác ở trong giới luật của Phật, và sống đúng Phạm hạnh, đức hạnh của Phật, của đạo Phật thì mới có thể giải nghĩa và giải liễu pháp nghĩa và pháp của Phật, mới có thể đem lại cho chúng ta thấy rõ con đường tu tập.

Còn những bậc phàm phu có kiến thức học hỏi, nhưng làm sao hiểu được nghĩa lý này cho thông suốt? Cho nên làm sao vạch ra cho được! Từ đó tưởng ra thế này, tưởng ra thế khác làm cho con đường của Phật pháp quá xa xôi, quá xa lạ, làm cho chúng ta chẳng biết đường nào mà đi vào cho đạt được kết quả giải thoát.

(28:46) Mười ba giới đức trong giới luật của đạo Phật, của Đức Phật đã xác chứng thiền định của đạo Phật là giới luật nghiêm chỉnh mà thành thiền định.

Nghĩa là thiền định của đạo Phật phải là lấy giới luật nghiêm chỉnh nó mới có thiền định. Bởi vì thiền định của đạo Phật, mà muốn có thiền định của đạo Phật thì không thể một cái người mà tu thiền định đó mà còn sống ở trong dục lạc thế gian được.

Như quý vị bây giờ ăn ba, bốn bữa làm sao quý vị có thiền định được, còn chưa có ly cái dục ăn mà! Quý vị còn ham ngủ làm sao quý vị thực hiện được con đường thiền định này? Quý vị thấy rất rõ.

Cho nên từ cái kiếp sống của quý vị, quý vị còn ham thích từ cái nhà, từ cái cửa, từ cái vật dụng, từ Phật tử, từ cái danh, cái nhỏ nhỏ làm trụ trì, hoặc làm ông này, bà kia, thì thử hỏi cái đó là cái dục lạc của thế gian mà! Mà chưa có ly được nó thì làm sao mà quý vị thực hiện được con đường thiền định chân chánh của đạo Phật?

Cho nên hầu hết là cái sự tu hành của quý vị đều sai hết, không có còn cái chỗ nào gọi là đúng.

Bởi vì từ cái chỗ Sơ Thiền của Phật chúng ta thấy rõ ràng: Ly dục, ly bất thiện pháp, nhập Sơ Thiền, thì từ đó nó mới có cái hỷ lạc của sự ly dục, chớ đâu phải khi không mà có được, tức là mình phải ly cho sạch.

Đó thì thấy qua một cái Sơ Thiền, một cái thiền thứ nhất của đạo Phật mà chúng ta đã thấy được cái điều kiện mà Đức Phật đã xác định như vậy.

…​ chớ không phải ngoài giới luật mà đi tìm thiền định có được. Bởi vậy ly dục, ly bất thiện pháp mới nhập được Sơ Thiền. Điều này quá rõ ràng: Giới luật sanh ra thiền định.

Nghĩa là từ ở trong cái giới hạnh mà chúng ta mới có được cái giới đức chớ không phải là tự dưng mà không có giới hạnh mà giới đức có được.

Nghĩa là quý vị mà không dẹp bỏ tất cả những cái nghề nghiệp thế gian mà sống, mà còn có một bình bát, ba cái y mà đi xin ăn, thì chắc chắn là quý vị có làm một cái nghề gì đi mà sống trên cuộc đời này thì quý vị chẳng bao giờ mà xa lìa được cái dục lạc.

Mà chẳng xa lìa được cái dục lạc thì giới hạnh của quý vị chưa xong, thì quý vị không bao giờ mà có thể nếm được cái mùi vị của giới đức được! Do đó làm sao có thiền định được!

Nếu không có giới hạnh thì không bao giờ có giới đức.

Mà giới hạnh - quý thầy đã biết: Một vị tu sĩ chỉ còn ba y, một bát; không còn có một nghề nghiệp gì sanh sống, chỉ đi xin ăn mà thôi; đời sống không nhà, không cửa, không người thân thuộc, ruột thịt; giữa mọi con người tình thương bao la, rộng mở.

Có sống như thế thì định kia mới sanh ra, tức là giới đức mới tròn đủ.

Giới hạnh được Phật xem là Sơ Thiện, còn giới đức được xem là Trung Thiện. Vậy quý thầy học đến đây là chúng ta đã học được Sơ Thiện và Trung Thiện trong giới luật của đạo Phật.

Đến đây Thầy dừng lại.

4- NHỜ XẢ ĐƯỢC TÂM MỚI TU HÀNH DỄ DÀNG

(31:47) Trước khi mà nghe cái bài giảng buổi sáng của Thầy thì các con - Thầy kiểm điểm lại sự tu tập của các con trong cái giờ này.

Thì sau cái thời gian mà được nghe cái giáo án tu tập của Đức Phật, và cái sự mà trực tiếp được cô Út, mà gặp những cái duyên mà cô Út cổ tạo điều kiện cho mấy con xả được tâm. Cái vấn đề mà học tu tập theo đạo Phật và cái vấn đề xả tâm là cái vấn đề rất quan trọng.

Cho nên qua những cái gương hạnh của các bậc Thánh Ni cũng như Thánh Tăng trong thời Đức Phật, các con thấy người ta không phải là người ta tu thiền như mình, mà thường thường là người ta hay đặt cái niệm, cái hoàn cảnh của người ta.

Người ta gặp cái hoàn cảnh như cái lòng người ta khổ sở, như hồi sáng này Thầy có thuật lại cho quý thầy nghe một câu chuyện của một người mẹ. Bà là một hoàng hậu của một nhà vua, bà sanh ra được một đứa con, rồi đứa con gái đó chết, rồi bà khóc thương đứa con gái đó.

Do đó thì gặp Đức Phật, Đức Phật hướng dẫn cho bà, thì bà xả bỏ cái lòng thương đó, và khi xuất gia tu hành theo Phật thì Đức Phật khuyên bà nên lấy cái đề mục cái lòng thương yêu đó mà bà đặt trước mặt, rồi bà thực hiện cái tâm vô lậu của mình. Cuối cùng thì bà lấy cái đề mục đó mà bà đã thành tựu được đạo giải thoát.

Nó có nhiều cái gương hạnh mà chúng ta thấy rằng ngay cái tâm trạng của chúng ta khổ, khó khăn, gặp cái khó khăn nào đó, thì chúng ta lấy cái niệm đó mà chúng ta đặt trước mặt, rồi chúng ta dùng cái pháp tuỳ, pháp hướng, pháp quán, để chúng ta thấu triệt được, chúng ta phá vỡ cái tâm của chúng ta, từ đó cái lậu hoặc nó không còn nữa.

Mà nó không còn nữa thì tức là chúng ta sẽ thanh tịnh tâm. Mà thanh tịnh tâm thì trong cái thời gian mà dùng cái pháp hướng, cái pháp quán, cái pháp tùy đó thì nó giúp cho tâm chúng ta có cái - nhất là cái pháp hướng - thì nó có cái hiệu quả rất lớn là chúng ta chỉ cần ra lệnh.

Do đó khi mà cái pháp hướng mà đã thành tựu được cái Định Vô Lậu, thì nó rất hiệu quả, mà cái tâm thanh tịnh nữa rồi, do đó các vị đều có thể có cái sức làm chủ được cái thân hành, khẩu hành và ý hành. Thân hành là cái gì? Là hơi thở. Mà khẩu hành là cái gì? Là Tầm Tứ. Mà ý hành là cái gì? Là thọ tưởng.

(34:16) Cho nên lúc bây giờ cái pháp hướng đó nó có hiệu quả thì các ngài chỉ cần ra lệnh, các ngài truyền lệnh nó, bảo cái ý hành, cái khẩu hành nó ngưng nghỉ thì cái Tầm Tứ nó ngưng đi. Nó ngưng thì vị đó sẽ nhập Nhị Thiền.

Mà khi cái thân hành mà muốn điều khiển nó thì vị đó chỉ ra lệnh là: “Cái hơi thở ngưng đi! Các hành hoạt động của hơi thở ngưng đi!” - thì nó lại ngưng đi, thì vị đó nhập Tứ Thiền.

Mà nếu mà vị đó lại ra lệnh bảo: “Cái ý hành ngưng đi!” thì cái thọ với cái tưởng nó ngưng đi, nó không hoạt động nữa, thì lúc bây giờ các vị đó nhập Diệt Thọ Tưởng Định.

Thì các thầy, các con thấy người ta tu hành quá dễ dàng là vì người ta chỉ phá đi cái tâm vô lậu của mình thôi.

Thì trong cái bài giảng kế của Thầy đó, thì như các con đã thấy là sau khi mà học cái giới hạnh, rồi kế đó là chúng ta học đến cái giới đức, nó có cái kết quả rất lớn. Là vì cái giới đức nó nằm trong có mười ba cái giới đức của nó, nó tạo cho chúng ta thành một cái sức thiền định rất lớn chớ không phải tầm thường được.

Do vì vậy đó mà chúng ta học từ giới hạnh rồi đến giới đức rồi giới tuệ. Hồi sáng này, Thầy định giảng cho nó hết cái giới đức, nhưng cái thời gian nó không có dài được, nó tới giờ ăn cơm rồi, cho nên phải dừng lại còn một còn năm ba tờ nữa nó mới hết cái giới đức rồi mới chuyển qua cái giới tuệ.

Rồi khi mà học hết cái giới tuệ rồi thì chúng ta lại học tới cái giới bổn. Nội trong cái giới không mà chúng ta đã thấy rằng nó rất nhiều, mà nó rất là vi diệu, vì hầu hết là các vị Tỳ Kheo trong cái thời Đức Phật tăng cũng như ni đều là người ta ở trong giới mà người ta thành tựu đạo giải thoát chớ không phải ngoài giới mà đi tìm thiền định mà có được.

Cũng như ngoài cái giới mà đi tìm cái sự làm chủ thân tâm thì không có được. Bởi vì đạo Phật xây dựng trên cái thiện pháp cho nên giới là thiện pháp, tuy rằng cái giới hạnh, giới đức và giới tuệ nó cũng đều nằm trong cái thiện pháp tất cả hết. Cho nên chúng ta làm được chủ sanh tử đều nằm ở trên thiện pháp.

Vì lấy cái nhân quả mà làm cái nền móng cho cái thiền định của mình, do vì vậy mà phải tu tập cho đúng cái giới luật của Phật. Cũng vì cái giới luật của Phật mà bây giờ người ta coi nhẹ, người tu sĩ xem thường cái giới luật, cho nên người ta tu thiền mà nó không đạt được thành ra thiền điên, thiền khùng chớ không phải thiền đúng cách.

Còn chúng ta hiện giờ chúng ta tu đúng cách giới luật của Phật thì những cái thiền định của chúng ta tức là chánh thiền nó không phải là tà thiền. Và cái sự làm chủ sanh tử của chúng ta cũng rất dễ dàng.

Cho nên trên cái bước đường mà tu học thì các con nhớ kỹ rằng mỗi một cái niệm mà các con thấy, như cô Út quạt mấy con, tức là tìm mọi cách, kẻ hở nào là đập được là đập xuống liền để thấy cái tâm của các con ở chỗ nào, ở cái mức nào mà tu tập nó được hay là không.

Cho nên cô út bã thấy mấy con mà tu…​ (Mất tiếng) cô Út biết cái đó rất rõ.

(37:16) Cho nên hầu hết là các con thì - Thầy thì tùy thuận, ai muốn sao thì Thầy cũng duyên theo rồi lần lần gỡ lần cái rối của các con ra, còn cô Út nói:

“Như vậy mất thì giờ người ta nhiều lắm, Thầy dạy như vậy làm mất thì giờ lắm. Còn con đập ngay liền, xã được cái tâm thì nó thanh tịnh thì vô đó là vô định, mà không xã được thì bây giờ ngàn đời họ cũng chẳng có vô định được. Cho nên làm cho họ đừng có mất thì giờ mà họ đi vào cái rốt ráo cho nhanh hơn!”

Qua cái sự bàn bạc với cô Út Thầy thấy cô Út cổ có muốn các con tu nhanh hơn. Nhưng mà Thầy nói bây giờ nó lỡ cái thời đại rồi, cái thời đại này người ta phá giới nhiều quá, người ta chỉ chăm chú vào cái sự ức chế tâm để người ta vào định, thì mình lần lượt mình gỡ lần, chớ mình làm như vậy thì họ nghĩ rằng mình dạy không đúng Phật pháp.

Nhưng hôm nay vì cái giáo án này được ra đời thì vạch ra cái lối của Phật đi ngày xưa, tất cả các vị Thánh Tăng ngày xưa tu tập như vậy đó.

Và cũng là một cái điều, cái giáo án này ra đời cũng là một cái điều rất là chướng cho thiên hạ, là tại vì họ phá giới luật của Phật, họ không thấy con đường thiền định của đạo Phật xây dựng ở chỗ nào đúng, chỗ nào sai, cho nên cũng là một cái chướng ngại cho những người tu phá giới. Bởi vì, cái phá giới làm chúng ta nhìn rất rõ.

Như các con đã thấy, khi mà các con học giới hạnh rồi, thì các con biết nhìn vào cái giới tu sĩ hiện giờ mà trồng tỉa hoặc làm cái này, cái kia, toàn bộ là sai hết rồi, không có đúng giới rồi. Còn làm cái nghề này, còn làm cái nghề kia, hoặc thầy thuốc hoặc cái này kia, hoặc đi cúng bái, đều là sai hết không có đúng cái giới hạnh rồi.

Rồi đến cái giới đức thì các con thấy còn rõ ràng hơn nữa. Tới cái giới đức phải là như thế nào, thế nào thì bữa nay các con sẽ nghe cái lời giảng ở trong băng là như thế nào thì các con biết.

Cho nên qua những cái lần mà trắc nghiệm Thầy thấy trong chúng mình cũng có nhiều người tiến bộ lắm. Khi bị cô Út đập mà các con thấy vẫn thản nhiên, vẫn tươi tỉnh, thì cô Út xét người - Thầy nói sau cái thời gian tu tập cô Út xét người mà quyết đoán thì thấy có người tiến bộ, nhưng mà có người thì còn chậm lụt lắm chưa có tiến bộ được.

Nhưng mà Thầy tin rằng trong cái thời gian gần đây mà các con nỗ lực tu tập thì chắc chắn là đúng pháp, nó không sai nữa. Nhất là cái giáo án mà ra đời thì các con biết được cái đường lối của đạo Phật, cho nên các con không bị lạc nữa rồi. Vì vậy mà các con không còn tập trung chú tâm vào cái chỗ mà ức chế tâm của mình, để đi lạc vào thiền định.

Vì các con biết, trước kia Thầy có nói các con là có sáu cái tưởng chớ gì? Sáu cái tưởng. Nhưng mà Thầy giảng về cái giới đức, đến cái giai đoạn mà ở trong cái chỗ mà cái khoảng giữa cái Nhị Thiền, cái khoảng đường mà đi từ cái Nhị Thiền để đến nhập Tam Thiền, cái khoảng đường đó nó tới mười sáu cái tưởng chớ không phải là sáu cái tưởng đâu.

Mười sáu cái tưởng mà các con phải vượt qua mười sáu cái tưởng, mà nếu các con ức chế tâm thì mười sáu cái dục tưởng này các con không có vượt qua nổi, và con sẽ chết đuối ở tại cái chỗ - cái khoảng đường mà từ cái Nhị Thiền mà đi sang qua Tam Thiền chớ chưa có nhập được Tam Thiền đâu, nó mười sáu cái tưởng chớ không phải!

Bởi vì Thầy trước kia Thầy nói sáu cái tưởng thôi, nhưng mà khi mà dạy cái giới luật, mà về cái giới Đức đó, thì người ta bị mười sáu cái tưởng này mà rớt, không có người nào mà ngoi lên được cái chỗ này.

Cho nên khi mà ly dục, ly bất thiện pháp rồi, mà xa lìa năm triền cái mà chúng ta quăng sạch ra rồi, thì lúc bấy giờ chúng ta mới vượt qua chỗ này nổi.

Còn cái tâm mà phiền não tham, sân, si thì các con sẽ bị chìm đắm dưới này, quỷ la sát với hà bá long vương bắt quý vị, bắt các con nhận xuống biển hết, không có người nào mà ngoi đầu lên được hết, đi không có được tới Tứ Thiền đâu. Đó là con đường rất là khó khăn.

(40:38) Cho nên cô Út cổ nói với Thầy: “Mình phải ngay từ bây giờ phải đập phá những cái triền cái của các vị” - mà triền cái thì các con biết tham, sân, si, mạn, nghi chớ gì, nó làm cho các con phiền nảo vô cùng. Mà chính học tới giới đức các con mới thấy năm cái triền cái này mới rõ, nó nguy hiểm vô cùng.

Nó năm triền cái nè rồi nó năm, nó có năm cái hạ phần kiết sử nè, năm cái thượng phần kiết sử nè, rồi bảy cái kiết sử nữa, nó trói buộc các con quá chặt chẽ. Vì vậy mà cái lúc này là lúc mà các con phải đập cho sạch.

Cho nên cô Út cổ mạnh dạn cổ đập, đập cho được người nào là tốt người nấy. Cho nên các con thấy, người nào mà còn dính gia đình hay hoặc cái này kia cổ tìm mọi cách cổ đập ra, rồi cổ tìm mọi cách để mà cổ cứu vãn.

Thí dụ như Đào nó gặp cái trường hợp như vậy đó, cổ âm thầm, cổ nhiều cách, cổ tìm cách cổ cứu vãn để cho rứt cái gia đình ra, để cho cứu được một người nào mà ra khỏi cái trần gian là mình phước báu vô cùng lận, cho nên cổ tìm mọi cách.

Khi mà thấy Thầy đưa ra những cái phương án mà giúp cho Đào, cô bác hết, cô nói làm không được, cô nói vậy không đúng, cổ giải quyết à. Thì Cổ âm thầm không ai biết cái điều kiện cổ giải quyết như thế nào Thầy cũng chả biết, nhưng mà Thầy biết rằng cổ có cái khả năng có thể giúp cho mấy con được.

Còn riêng Thầy thì Thầy là một người nam, cho nên vì vậy mà Thầy thấy càng có người - khi mà cái giáo án ra đời hoặc là khi mà người ta hiểu được Thầy thì Thầy phải giữ được cái phẩm hạnh của một vị tu sĩ, của một bậc chân tu. Cho nên Thầy phải từ giã danh, từ giã lợi, từ giã sự cung kính và từ giã đồ chúng, từ giã tất cả mọi người để giữ được cái giềng mối của một người tu sĩ đạo Phật.

Cho nên Thầy vắng mặt, nhưng mà có cô Út, có những người đệ tử Thầy đã dạy có đủ kinh nghiệm ở bên nam để họ hướng dẫn các con, Thầy sẽ âm thầm ở trong cái ẩn bóng mà trợ giúp cho các người đệ tử của Thầy, những cái gì khó khăn thì lúc bấy giờ có mặt Thầy, còn không có khó khăn thì coi như là Thầy và các con không bao giờ gặp nữa.

Đó là những cái lúc mà cần phải - để giữ gìn cái mạng mạch của Phật pháp phải có những bậc chân tu của đạo Phật, để cho cái đạo Phật càng ngày càng sáng tỏ, và đem được cái nền đạo đức nhân quả để giúp cho mọi người ở trong thế gian này tự bàn tay của họ đem lại cái đời sống hạnh phúc, an vui xóa được cái đói nghèo của họ.

Chớ không phải chúng ta đem cơm, đem áo, đem tiền mà cho họ gọi là xóa đói giảm nghèo. Vì họ không có làm đủ cái điều thiện thì họ làm sao họ hưởng được cái phước báo thiện được? Họ làm ác mà làm sao họ không đói, không khổ, không nghèo!

Còn chúng ta dạy cho họ hiểu: Tự bàn tay họ, tự khối óc của họ, tự hành động của họ làm bằng những thiện pháp thì ngay đó họ đã hưởng được cái phước báu chính bản thân của họ chớ không ai xa lạ hơn.

Vì đó là một cái đạo đức nhân quả mà không thể nào mà chúng ta giúp cho họ mà hết cái nhân quả đó được, hết cái nhân quả khổ được. Cho nên ở đây cái mục đích của chúng ta là phải biết rằng tu hành không có phải nhằm vào cái mục đích giải thoát cá nhân của mình, mà phải giải thoát cho cả muôn người là ở cái chỗ này.

Đến đây Thầy sẽ nhường lại cái buổi sáng mà Thầy thuyết giảng cho quý vị nghe cái lời dạy trong băng.

5- GƯƠNG HẠNH TU TẬP THỜI ĐỨC PHẬT - PHẦN 4

[Phần 3 ở Giáo án 18]

(43:34) Bây giờ để tiếp tục cái chương trình học tập của giáo án, trước khi học đến giới tuệ thì Thầy xin thuật lại một vài mẩu chuyện của các bậc Thánh Tăng, để bước qua cái giới tuệ chúng ta biết giới tuệ là như thế nào. Nếu mà không có những cái gương hạnh này thì chắc chắn là chúng ta chưa biết cái giới tuệ của Phật là như thế nào.

Bởi vì hầu hết là các thầy cũng có học giới luật chớ không phải không, nhưng mà các thầy chưa có được nghe những cái lời giảng mà do từ kinh nghiệm bản thân của Thầy, mà Thầy thấy đó là một cái điều mà cần phải lưu lại cho cái giáo án này.

Cho nên qua những cái điều kiện mà nêu lên những cái gương hạnh của những bậc Thánh Tăng trong thời Đức Phật để quý thầy lấy cái đó mà thấy được khi mà bước sang qua cái giai đoạn giới tuệ là nó như thế nào. Chớ không khéo thì quý thầy tưởng là như là giới hạnh hay hoặc là giới đức nữa, nó lại khác rồi, nó không giống rồi.

Để tiếp tục học chương trình giáo án này ta nên noi gương các bậc Thánh Tăng thời Đức Phật để lấy đó mà làm gương hạnh sách tấn tu hành cho mình.

Bây giờ Thầy thuật lại:

Ông Phú Lâu Na.

Chắc ai cũng nghe cái ông này hết.

Khi đến tuổi trưởng thành…​

Hình như là ông Phú Lâu Na Thầy có thuật rồi phải không các con? Rồi phải không. Ngài Nita cũng có thuật rồi, ngài Vacchapàla cũng thuật rồi, bây giờ tới Ngài Gavampati.

1- NGÀI GAVAMPATI DÙNG THẦN THÔNG CHẶN ĐỨNG NƯỚC SÔNG

(45:09) Ngài Gavampati.

Ngài theo Phật xuất gia và chứng quả A La Hán.

Một hôm Đức Thế Tôn và một số đông Tỳ Kheo trên đường du hành vượt sông Sarabhà. Nhưng đến đó trời tối, mọi vị Tỳ Kheo phải nằm nghỉ trên bãi cát sông Sarabhà. Đến nửa đêm nước sông dâng lên và các thầy Tỳ Kheo trẻ tuổi la ồn náo. Thế Tôn nghe vậy bảo Gavampati can thiệp.

Vị Trưởng lão dùng giới tuệ Thần Túc Thông của mình làm theo lời Phật dạy, dừng dòng nước lại từ xa, khiến cho dòng nước dựng đứng lên như ngọn núi mà không tràn vào bãi cát được. Do vậy, mọi người biết Ngài có thần thông siêu việt. Hôm sau, chúng và Thế Tôn được Ngài đưa sang sông an lành.

Sau khi Đức Phật và đại chúng đi xong thì người ta không còn thấy Ngài nữa, Ngài đã ẩn bóng. Do vậy, Bậc Đạo Sư dùng kệ tán thán công đức của Ngài:

Với tuệ Thần Túc Thông,

Dựng đứng nước Sara,

Chính Gavampati,

Không ỷ lại, không động,

Ẩn bóng giấu tung tích,

Vượt qua mọi trói buộc,

Chư Thiên đều đảnh lễ,

Bậc Đại Sĩ Mâu Ni,

Đã vượt qua sanh hữu.

Đó là cái bài kệ của Đức Phật tán thán cái vị tu sĩ này. Đó thì khi mà đến giới tuệ thì các thầy thấy cái sức thần thông của họ đến cái mức độ nào. Nước sông tràn như vậy mà dùng thần thông chặn đứng nước sông cao như núi mà không tràn xuống được.

Đó là cái ý muốn của người ta muốn như thế nào được như thế nấy. Đó gọi là tuệ giải thoát đó, chớ không phải tri kiến giải thoát đâu. Ở đây chúng ta lầm tưởng, lấy cái chỗ tuệ của định mà sanh ra, là cái tuệ nó không phải là cái tuệ tầm thường của phàm phu, không phải là trí tuệ tầm thường.

Cho nên chúng ta thấy ở trong kinh sách thường nói, khi mà chúng ta niệm hương, có cái bài hương đầu tiên đó: giới hương nè, định hương nè, dữ huệ hương, thì cái huệ hương đó nó thuộc về nằm ở trong Giới - Định - Tuệ đó, thì nó khác rồi.

Nhưng mà tri kiến và tri kiến giải thoát hương thì hai cái hương sau cùng này, là cái hương tri kiến và cái hương tri kiến giải thoát nó không phải là tuệ đâu. Nhưng mà cái hương tri kiến giải thoát nó nằm trong góc độ của tuệ thứ nhất, của giới tuệ thứ nhất. Thì một lát nữa quý thầy sẽ học tới cái tuệ thứ nhất, cái giới tuệ thứ nhất thì quý vị biết đó là cái tri kiến giải thoát.

Còn cái tri kiến mà hiện chúng ta dùng đây nó không phải là tuệ đâu, nó là cái tri kiến, cho nên nó là cái sự kết tập những sự hiểu biết, chớ không phải là như các vị đã giảng, thường là giảng cho chúng ta biết là văn - tư - tu, nó có ba cái tuệ gọi là: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.

Những điều đó là những điều kiến giải của những bậc học giả, không phải là của những bậc tu hành chứng. Cho nên họ không có biết cái tri kiến như thế nào và tri kiến giải thoát như thế nào, cho nên họ gồm cho đó là trí tuệ của họ. Sự thật ra chưa phải, họ chưa hiểu.

(48:33) Bởi vì cái trí tuệ của đạo Phật mà khi từ định mà sanh ra, trí tuệ vô cùng tuyệt, siêu việt, không phải là cái trí tuệ tầm thường. Họ ở trong cái Tứ Như Ý Túc mà họ sử dụng cái trí tuệ đó chớ không phải là tầm thường.

Còn khi mà họ ra bình thường, họ sống như bình thường chúng ta thì họ dùng cái tri kiến giải thoát, cho nên gọi là tri kiến giải thoát.

Nhưng tri kiến giải thoát nó chỉ nằm ở trong mười ba cái giới tuệ của Đức Phật. Mà cái giới tuệ đầu tiên đó là cái tri kiến giải thoát của họ, còn tất cả những cái tuệ sau cùng, tới sau cùng đều là những cái tuệ do từ định mà sanh ra, cho nên cái tuệ siêu việt chớ không phải là tuệ tầm thường.

Để rồi học tới đó thì quý thầy mới thấy được cái giới tuệ của Đức Phật tuyệt diệu chớ không phải là cái thứ mà cái tri kiến kết tập, tích hợp lại những cái sự hiểu biết của kinh sách, của các vị kim cổ, hiểu biết của các bậc Thánh Hiền để lấy làm của mình đó, thì cái tri kiến đó gọi là cái tri kiến chớ chưa được gọi là trí tuệ, chưa được gọi là cái gì cả hết. Mà cũng chưa được gọi là cái tri kiến giải thoát nữa.

Đó thì, đủ biết rằng cái con đường của đạo Phật nó dạy chúng ta rất là rõ ràng và cụ thể. Cho nên ở đây chúng ta thấy cái vị này họ đạt được cái giới tuệ Thần Túc Thông. Ở đây người ta dùng cái danh từ là:

Với tuệ Thần Túc Thông,

Dựng đứng nước Sara,

Tức là dựng đứng nước sông Sarabhà.

Chính Gavampati,

Tức là ngài Gavampati, Ngài dựng đứng nước sông lại, không có cho nước tràn vào bờ, vào bãi cát để cho chúng Tỳ Kheo yên ổn mà ngủ suốt đêm đó để mà sáng mà lên đường đi.

Khi mà làm được những cái hành động đó vậy thì Ngài không có ỷ lại, Ngài không có ngã mạn cho nên:

Không ỷ lại, không động,

Tâm Ngài không có thấy đó là mình hơn ai hết, nghĩa là bình thường cũng như mọi người. Rồi khi mà đưa chúng Tỳ Kheo đi xong rồi thì Ngài lại ẩn bóng, Ngài giấu tung tích của mình, chẳng bao giờ ai thấy Ngài ở trong cái đoàn đó nữa.

(50:32) Vượt qua mọi trói buộc,

Ở đây mọi trói buộc không có nghĩa là - nghĩa là vượt qua cái sự khen tặng của các Tỳ Kheo, của các vị cư sĩ trong cái thời đó, cho nên Ngài đã ẩn bóng, Ngài không để cho lộ tung tích nữa. Đó là Ngài đã vượt qua cái sự khen của các vị đó.

Chư thiên đều đảnh lễ,

Hồi nãy cái chỗ cái câu này là “chư thiên” chớ không phải là “chư thiền”.

Chư thiên đều đánh lễ,

Nghĩa là các chư thiên đều thấy cái sự ẩn bóng, và thấy cái hành động của ông ta làm mà tâm không có ngã, không ỷ lại, thì cho nên chư thiên ở trên các cõi trời đều đến đảnh lễ Ngài.

Bậc Đại Sĩ Mâu Ni,

Những người đó gọi là Đại Sĩ Mâu Ni.

Đã vượt qua sanh hữu.

Nghĩa là không còn dính mắc cái sự sanh hữu, tức là khen chê, hoặc cái này kia, họ đã vượt qua hết những cái đó rồi.

Đó là qua bài kệ, như vậy chúng ta thấy khi mà cái trí tuệ, mà giới tuệ của họ, Thần Túc Thông như vậy, siêu việt như vậy đó, thì họ là những con người siêu việt rồi không thể nào mà tưởng tượng được.

Khi mà chúng ta tu hành tới cái tuệ, cái giới tuệ thì chúng ta cũng như vậy. Nghĩa là chúng ta muốn như thế nào là đạt như thế nấy, chớ không phải là cái muốn của chúng ta như còn phàm phu là muốn ăn, muốn ngủ đâu, hay hoặc là muốn nhà, muốn cửa, muốn chùa to, tháp lớn nữa đâu, hay hoặc là muốn làm danh làm ông này, ông kia đâu, không có đâu.

Người ta sẽ muốn cái khác, chớ không phải. Muốn làm sao cho tất cả thế gian này được hưởng hạnh phúc, muốn làm sao cho tất cả mọi người đều thực hiện những cái thiện pháp để đem lại những cái quả lành cho mọi con người để được an lành trong cuộc sống. Đó là cái muốn của những bậc mà người ta có trí tuệ, có giới tuệ.

Còn những bậc mà chưa có giới tuệ, họ còn muốn danh, muốn lợi của thế gian, họ còn muốn tiền tài của báu, họ còn muốn chùa to, tháp lớn, họ còn muốn đồ chúng, họ còn muốn bành trướng chỗ này đến chỗ kia để gây cơ sở bằng cách này, bằng cách khác. Đó là cái muốn của họ đó. Đó là cái muốn của thế gian.

2- NGÀI UTARA QUÁN XÉT KHỔ THỌ KHI BỊ TRA TẤN

(52:24) Bây giờ Thầy thuật lại cho quý thầy thấy một vị nữa.

Ngài Utara.

Ngài sanh ở thành Vương Xá, Ngài thông minh và thông suốt ba bộ kinh Vệ Đà, Ngài có danh tiếng tốt, Ngài có đức hạnh và dung sắc đẹp đẽ. Ngài được một vị bộ trưởng ở thành Ma Kiệt Đà gả con gái cho Ngài, nhưng Ngài từ chối.

Xuất gia với ông Xá Lợi Phất nên Ngài thường làm bổn phận của một chú Sa Di hầu thầy. Một hôm Tôn giả Xá Lợi Phất bị bệnh, Ngài phải ôm bình bát ra bờ hồ lấy nước cho ông Xá Lợi Phất. Khi lấy nước xong, Ngài để bình bát ở trên bờ rồi lội xuống hồ để tắm.

Cùng lúc ấy có một tên trộm bị lính đuổi chạy ra khỏi thành. Khi chạy ngang qua bình bát của Ngài đang để trên bờ sông, gã ăn trộm liền quăng của báu đánh cắp vào bát của Ngài. Các người lính đuổi theo thấy trong bình bát của Ngài có của báu ăn cắp nên bắt Ngài về đưa cho bộ trưởng Vasakàra…​

Đó là cái người muốn gả con cho ông ta đó, mà ông từ chối, ông đi tu đó.

…​ để trừng trị.

Nghĩa là bây giờ bắt ông đem về trừng trị do cái tội ông ăn cắp.

Ngài bị hành hạ đến chết đi sống lại. Bậc Đạo Sư liền đến khuyên Ngài: “Đây là kết quả của nghiệp đời trước của ngươi, ngươi cần phải chấp nhận và nhờ sức mạnh tư duy khổ thọ, tu tập Định Vô Lậu thì mới thoát khỏi nghiệp khổ này”.

Bậc Đạo Sư nói xong, đặt tay nhẹ lên đầu ông.

Trong lúc đó ông bị cột trói ở trong một cái trụ cột rất là to, và đồng thời thì Đức Phật hiện đến và khuyên ông nên lấy cái Định Vô Lậu đó mà thực hiện cái khổ thọ, lấy cái đề mục khổ thọ mà đặt ra trước mặt để mà thực hiện cái Định Vô Lậu. Và khi nói xong thì Đức Phật xoa đầu ông một cái rồi Đức Phật biến mất.

Nhờ thế mà tâm tư ông phấn khởi, đặt niệm quán xét thọ khổ, cuối cùng đoạn tận các uế nhiễm và lậu hoặc, chứng sáu thắng trí, chứng quả A La Hán.

Lúc bấy giờ ông đang bị cột trói trong một trụ cột rất to. Khi chứng quả xong, ông dùng giới tuệ Thần Túc Thông, vươn mình lên khỏi trụ cột, Ngài đứng trên hư không và hiện thần thông. Vì lòng từ mẫn đối với kẻ khác, Ngài không làm hại một người nào hết.

(55:20) Nghĩa là ông bị hành hạ đến cái mức độ mà tàn nhẫn đến sức không chịu đựng nổi. Bởi vì cái thù hận của cái ông bộ trưởng này đó, là vì gả con cho ông mà ông không có nhận, cho nên khi mà bắt ông là ăn trộm rồi thì ông này hành hạ rất là độc. Do đó thì, khi đó thì ông đã thực hiện được, nhưng mà cái lòng từ mẫn của ông, ông không bao giờ hại những cái kẻ mà đã làm hại ông.

Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, các vết thương trên thân Ngài đã bị tra tấn quá tàn ác đều được lành hẳn.

Nghĩa là lúc bấy giờ ông dùng thần thông thì các vết thương ở trong thân của ông nó đều lành hết, nó không còn bầm xanh, hoặc là còn đổ máu, hoặc còn rỉ máu, hoặc còn mủ máu nữa.

Có người hỏi Ngài: “Trong cảnh đau khổ ấy, làm sao Ngài còn bình tĩnh mà tu tập được?”

Ngài trả lời:

“Tôi nhờ bậc Đạo Sư nhắc nhở và an ủi. Khi tôi thấy rõ sự đau khổ là nhân quả kiếp trước tái sanh của tôi, và tánh nhân duyên sanh của sự vật, và sự nguy hiểm của sự đau khổ trước kia nhiều hơn hiện tại, vì thế tôi không còn dao động, tôi phát triển thiền quán Vô Lậu và chứng được kết quả. Sau khi chứng quả, tôi có làm bài kệ:”

Ở đây, cái chỗ này thì quý thầy phải hiểu: Ông thấy rõ, khi mà được Phật nhắc ông thì ông thấy rõ cái nhân quả của kiếp trước ông, ông đã tạo cho người ta khổ còn gấp mấy lần trong hiện tại ông đã chịu khổ.

Ổng đã thấy được cái điều đó, cho nên ông nhận mình kiếp trước mình đã làm cho người ta khổ biết bao nhiêu, thì bây giờ cái chuyện hiện tại ông là - cái khổ mà hiện bây giờ bị hành hạ như vậy nó không có khổ nhiều đâu.

Vì thế mà tâm ông không còn dao động nữa, ông đã hiểu như vậy tức là hiểu được cái nhân quả chớ gì, cho nên tâm ông không sợ hãi, không dao động nữa, từ đó ông yên tâm mà ông phát triển. Đang bị cột trói như vậy mà ông vẫn an nhiên mà phát triển cái con đường thiền quán của ông, cuối cùng ông thành quả.

Cho nên ông viết cái bài kệ để chúng ta rút tỉa những kinh nghiệm mà tu tập:

Không có gì có mặt,

Lại thường còn mãi mãi,

Không có ác hành gì,

Lại thường hằng, thường trú.

Các uẩn được khởi lên,

Đó là cái pháp hướng, cái đề mục của ông mà ông đã đặt thành một cái niệm tu cái Định Vô Lậu mà qua cái bài kệ này ông lấy ra.

Đến đời khác diệt vong.

Biết được nguy hiểm này,

Tôi chấm dứt sanh hữu,

Từ bỏ tất cả dục,

Tôi chứng lậu hoặc tận.

(58:03) Nghĩa là, ở đây Thầy giải thích từng câu để từng cái câu kệ cho quý thầy thấy rõ.

Khi mà quán vô thường, mà đặt cái niệm khổ - niệm thọ khổ này, ông thấy lúc có đau, lúc không đau, cho nên ông thấy:

*Không có gì có mặt*,

Nghĩa là, trong thế gian này không có một cái gì mà có mặt hết.

Lại thường còn mãi mãi,

Nghĩa là vật này có thì nó không có kéo dài được trường tồn. Cũng như bây giờ chúng ta có, chưa chắc đã là nó mãi mãi được, nó sẽ bị hoại diệt đi. Đó là cái sức quán của ông, thấy nó vô thường như vậy đó.

Không có các hành gì,

Tức là cái hành động nào.

Lại thường hằng, thường trú.

Nghĩa là không có cái hành động nào mà nó thường hoài được, mà không có cái pháp gì mà trong thế gian này mà thường trú được, nó luôn luôn nó thay đổi và hoại diệt. Đó là ông thấy các pháp vô thường đó!

Các uẩn được sanh khởi,

Tức là năm cái uẩn của chúng ta nó sanh khởi thì nó lên nó thành cái thân, mà nó không có sanh khởi thì nó hoại diệt, thì nó đâu có cái thân!

Đến đời khác diệt vong.

Nghĩa bây giờ, hiện đời này thì nó hợp nhau nó sanh khởi thì nó có mình, mà đến đời khác thì nó mất đi, cho nên đến đời khác thì nó diệt vong mất, nó đâu còn nữa.

Biết được nguy hiểm này,

Nghĩa là thấy sự sanh khởi, sự vô thường, sự vô ngã của nó, sự thọ khổ của nó như vậy, thì biết nó là cái sự nguy hiểm, rất là nguy hiểm.

Tôi chấm dứt sanh hữu,

Sanh hữu là cái gì các thầy biết không? Sanh hữu là tức là những cái dây mà trói buộc như nhà cửa, của cải, tài sản, anh em, cha mẹ, ruột thịt, dòng họ, tất cả những cái vật nhỏ, vật lớn, đó là gọi là sanh hữu.

Cho nên ông nghĩ rồi bắt đầu ổng buông hết, không có còn gì trong tui nữa hết, nghĩa là tui phải buông sạch, thì buông sạch như vậy là còn ba y, một bát chớ gì?

Từ lâu tới giờ ông có đi theo, ông thọ, theo làm Sa Di hầu với ông Xá Lợi Phất, nhưng ông có hết sanh hữu không? Còn sanh hữu chớ, chứ chưa phải hết! Cho nên, tới bây giờ ông mới quán được cái sanh hữu, ông mới diệt sạch nó, dứt sạch nó.

Từ bỏ tất cả dục,

Tất cả lòng ham muốn ông cũng đều bỏ hết xuống, không có ham muốn nữa. Mà dứt bỏ sanh hữu tức là dứt bỏ dục, bởi vì không có vật để mà dục nữa thì sao mà có dục! Cho nên ông không còn vật gì để mà ham muốn nữa.

Tôi chứng lậu hoặc tận.

Nghĩa là lậu hoặc ông quét sạch rồi, không còn nữa, cho nên Định Vô Lậu ông đã thành tựu, từ đó nó thực hiện được Tam Minh, tức là có cái trí tuệ, cái giới tuệ của ông hẳn hòi.

Đó thì, đó là một vị mà đã có thần thông, đã bị cột trói, rồi từ cái chỗ mà chứng đạt thì Ngài thực hiện cái tuệ, cái giới tuệ Vô Lậu của Ngài mà Ngài thực hiện được thì Ngài biến ra một con người đứng ở trên hư không. Rồi từng đó người ta hoảng sợ, người ta quá sợ hãi rồi, không còn ai mà có thể hành hạ ông ta được nữa hết.

Và cuối cùng thì ông không trả thù một người nào hết, hoàn toàn, người nào đối xử ông như thế nào ông cũng không có…​ nhưng ông chỉ nghĩ rằng mình được giải thoát mà thôi.

Đó hôm nay chúng ta thấy những cái đó là những cái mà chúng ta bước sang qua một cái điều kiện mà chúng ta học về cái giới tuệ, thì cái giới tuệ là cái vấn đề mà chúng ta phải có thiền định.

(01:01:12) Bởi vì nếu mà không có thiền định, làm sao mà chúng ta có cái này được? Nếu không có thiền định thì làm sao chúng ta có được? Có thiền định là như thế nào?

Chúng ta bảo nè: “Các hành phải ngưng!” - thì bây giờ trong thân chúng ta các hành ngưng thì tức là thân định, mà tâm chúng ta nó diệt Tầm Tứ thì nó là định rồi.

Cho nên lúc bấy giờ tâm nó định ở trên thân, mà thân bây giờ nó định ở trên tâm, cho nên Phật nói khi mà thân định trên tâm mà tâm định trên thân thì chúng ta câu hữu Tứ Như Ý Túc, là Dục Như Ý Túc - chúng ta muốn như thế nào là nó sẽ theo như thế nấy.

Mà bây giờ cái hơi thở, các hành trong thân của chúng ta mà chúng ta bảo nó ngưng thì nó ngưng được, thì cái lực mà của tinh thần của chúng ta trong cái pháp hướng nó vi diệu đến mức độ nào nó mới ngưng chớ?

Còn bây giờ chúng ta tập thở rồi chúng ta ngưng thở, thì cái điều đó không phải là chúng ta dùng cái lực của tinh thần mà chúng ta dùng cơ để nín thở. Mà dùng cơ nín thở thì chắc chắn là không đạt được kết quả, mà phải dùng pháp hướng mới kết quả.

Cho nên Thầy thường nhắc quý thầy, người ta chỉ dùng cái pháp hướng mà người ta tu Định Vô Lậu để người ta quét sạch, người ta quét sạch được cái lậu hoặc của người ta thì cái pháp hướng đó nó trở thành hiệu quả mà người ta điều khiển được cái thân nó ngưng hoạt động.

Chớ không phải là chúng ta ngay đây mà chúng ta tập thở chậm, hoặc là thở như thế nào chúng ta cũng có vận dụng cái sự thật chậm của nó thật, nhưng không phải quá sức của nó. Quá sức của nó sẽ rối loạn cơ thể và làm chúng ta sẽ trở thành bệnh. Cho nên chúng ta phải hiểu được.

Còn cái lực mà tinh thần của chúng ta điều khiển nó rất là vi tế, nó ra lệnh, tuần tự nó sẽ chậm, nhẹ lần theo nó mà nó không bị rối loạn, nó thay đổi toàn bộ cơ thể chúng ta, đến khi nó dừng mà chúng ta không chết.

Quý thầy phải hiểu con đường tu tập theo đạo Phật là như vậy nó mới đúng cách. Cho nên ở đây chúng ta cần làm sao ly dục, ly bất thiện pháp mà thôi, mà ly được rồi thì chừng cái điều khiển này nó không phải khó khăn.

Bởi vì trong cái thời gian mà ly dục, ly bất thiện pháp đó chúng ta phải tu tập Định Vô Lậu và Chánh Niệm Tỉnh Thức Định cho cái sức tỉnh của chúng ta rất cao độ, để chúng ta có một cái phóng ra những cái tri kiến, làm cho cái sự quán xét của tất cả lậu hoặc chúng ta đều bắt được nó, cho nên chúng ta quét cho ra khỏi tâm.

Mà quét ra khỏi tâm thì tâm chúng ta tịnh rồi, thì tức là cái pháp mà chúng ta đã dùng pháp hướng để quét tất cả lậu hoặc, nó trở thành một cái tinh thần, cái lực của tinh thần, cho nên gọi là lực định, hay hoặc là cái định lực.

Trong đạo Phật nó có năm cái lực, có Ngũ Lực đó, thì tín lực nè, rồi tấn lực nè, rồi niệm lực, rồi định lực rồi huệ lực, thì năm cái lực này chúng ta thấy rất rõ ràng, nếu mà chúng ta tu tập đúng thì chúng ta có năm cái lực đó.

Mà năm cái lực đó thì cái niệm lực là nơi mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu là nó đã có niệm lực, mà cái niệm lực đó thì đó là cái lực của tinh thần của chúng ta, nó là cái pháp hướng đó. Cho nên chúng ta ra lệnh thì ngay đó mà các hành ở trong thân chúng ta ngưng thì tức là cái định lực.

Do cái định lực nó đã điều động được cái thân định rồi thì lúc bấy giờ chúng ta mới dùng cái huệ lực của chúng ta, do vì vậy mà cái Tam Minh, Lậu Tận Minh nó mới thể hiện, nó mới thấy đây là khổ thật, đây là nguyên nhân của khổ, đây là con đường diệt khổ, đây là cảnh giới Niết Bàn.

Đó nó mới thấy thật, nó chứng được cái lý Khổ - Tập - Diệt - Đạo. Còn bây giờ chúng ta hiểu là cái ngộ chớ chưa phải là cái chứng lý. Chớ chờ khi nào mà cái Lậu Tận Minh nó hiện ra thì cái trí tuệ của cái giới tuệ này nó hiện ra, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy nó mới chứng được cái lý Khổ - Tập - Diệt - Đạo, nó mới rõ ràng hơn.

(01:04:32) Đó thì trên cái bước đường tu tập, thì quý thầy phải thấy, hiểu được những cái sự tu tập của chúng ta nó như thế nào mà đúng, như thế nào sai. Qua cái bài giảng của Thầy rồi thì quý thầy biết, quý thầy tu - từ lâu tới giờ quý thầy tu sai hay đúng quý thầy biết liền.

Còn ngay bây giờ quý thầy mà đi vào từ cái Chánh Niệm Tỉnh Thức, rồi bắt đầu từ cái Định Vô lậu mà quý thầy tu tập cho đến khi mà quý thầy thấy ly được dục, ly được ác pháp rồi thì quý thầy lấy những cái pháp hướng mà quý thầy đã từng tập luyện đó, nó có cái hiệu quả đó, thì ngay đó bây giờ quý thầy chỉ thay đổi, thay đổi trạch pháp cái câu ra, cái câu này bây giờ phải sử dụng cho nó như thế nào.

Sử dụng cho nó muốn nhập Nhị Thiền thì mình chỉ ra lệnh rằng: “Tầm Tứ phải tịnh chỉ, phải ngưng! Không có được hoạt động nữa!” Thì ngay đó chúng ta chỉ dùng cái pháp hướng đó, nhắc một lần, hai lần thì ngay đó là Tầm Tứ chúng ta diệt liền chớ khỏi cần mà phải ức chế nó đâu!

Các thầy thấy rất rõ. Bây giờ chúng ta muốn sáu cái loại tưởng hay là mười tám cái loại tưởng mà để cho nó ly ra thì chúng ta chỉ cần ra lệnh “Mười tám cái loại tưởng phải ra khỏi!” - tức là ly hỷ, trú xả đó, thì ngay đó là mười tám loại tưởng nó sẽ ra khỏi tâm chúng ta liền tức khắc, từ đó chúng ta sẽ nhập vào Tam Thiền, đâu phải là cái khó? Đâu phải còn ma chướng nữa?

Còn chúng ta chưa có cái hiệu quả của cái pháp hướng tức là cái lực của tinh thần chúng ta chưa có mà chúng ta thực hiện thì chúng ta không bao giờ mà đạt kết quả được hết. Chúng ta phải có một cái sức lực của tinh thần của chúng ta, mà lực tinh thần tức là niệm lực chớ cái gì? Cái niệm lực là cái pháp hướng, cái câu pháp hướng đó nó trở thành một cái niệm.

Nếu mà không có cái câu đó làm sao gọi là niệm? Chẳng hạn bây giờ chúng ta biểu: “Tầm Tứ phải diệt!” - thì không có cái tên “Tầm Tứ” thì làm sao gọi là cái niệm?

Quý thầy phải hiểu: Một cái đoạn văn, một cái câu nào đó, nó là cái niệm. Mà cái niệm đó để chúng ta ra lệnh, truyền lệnh cho cái hành động của cái đối tượng đó nó phải ngưng, phải dừng, cho nên gọi là cái niệm. Vì vậy mà gọi là niệm lực.

Mà niệm lực thì quý thầy phải biết nó là Tứ Niệm Xứ. Mà Tứ Niệm Xứ thì nó ở đâu? Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta ở trong thân của chúng ta chớ đâu, đâu phải ngoài thân? Cho nên chúng ta ra lệnh trong thân chúng ta để mà làm chủ.

Vì vậy mà học tới Tứ Niệm xứ Thầy sẽ giảng cái này rất rõ để cho quý thầy biết để mà sử dụng ở trong Tứ Niệm Xứ. Mà nếu mà chúng ta chưa tu Tứ Niệm Xứ mà vội tu Bốn Thiền thì cái chuyện đó hoài công.

Bởi vì Niệm rồi mới tới Định chớ? Chớ đâu lý nào mà Định đi trước Niệm được? Đó thì quý thầy phải biết. Chớ không thể nào mà chưa có Định mà có được cái trí tuệ Tam Minh thì làm sao có, làm sao có được trí tuệ mà thần thông được? Đâu có thể nào có trí tuệ đó được!

Cho nên phải tuần tự mà chúng ta tu tập từng cái bước của mỗi bước đi trên con đường của đạo Phật, xây dựng cho chúng ta từng chút để chúng ta không lạc lối.

3- NGÀI GANGÀTIRIYA GIỮ HẠNH ĐỘC CƯ KHÔNG NÓI CHUYỆN

(01:07:12) Bây giờ tới một cái Ngài nữa

Ngài Gangàtiriya.

Ngài này, thường cái tên của Ngài quá dài là tại vì cái tên này để mà dịch cái nghĩa ra là - Ngài trước kia thì Ngài không có cái tên, nhưng mà Ngài thường Ngài ở trên cái bờ sông Hằng. Ngài cất cái chòi ở trên đó, mà Ngài theo Phật xuất gia Ngài ở trên cái bờ sông đó Ngài tu, cho nên người ta gọi cái tên đó là “cái người sống ở trên bờ sông Hằng.”

Cái tên của Ngài đó là “người sống ở trên bờ sông Hằng”, chúng ta dịch ra Việt ngữ là như vậy đó. Còn gọi chung là cái tên của Ngài là như vậy.

Ngài xuất gia theo Phật tu hành, Ngài chọn đời sống khổ hạnh, ở trên bờ sông Hằng nên người ta gọi Ngài là “Người sống trên bờ sông Hằng”. Ngài làm một cái chòi để ở, Ngài nguyện không nói với một ai.

Nghĩa là Ngài nguyện là suốt cái thời gian tu hành, Ngài ở trên cái bờ sông Hằng đó, không bao giờ nói với ai một lời nào hết.

Suốt một năm, Ngài không thốt ra một lời nói nào. Trong năm thứ hai có một người nữ nhân trong làng thường mang thực phẩm đến cúng dường cho Ngài, muốn biết Ngài có phải là người câm hay không.

Bởi vì suốt cái thời gian cả năm trời mà không thấy ông này nói lời nói nào hết, cứ đem sớt bát rồi đi về chớ ông không có hỏi, không có gì hết, không có nói chuyện gì hết à, mà cũng không xin thêm cái gì hết, cứ cho cái gì ăn nấy chớ còn không hỏi gì hết.

Cho nên cái cô này, cô lại không biết cái ông thầy này ổng câm hay sao mà không thấy ổng nói tiếng nói nào hết, không thấy ổng nói gì hết! Cho nên muốn thử ông ta coi thử coi có nói hay không. Thì đến năm thứ hai, thì khi cô này cổ thấy ông này không biết có phải câm thật không cho nên cô mới đem cái đồ ăn uống đến cúng dường.

Nên khi đổ sữa cúng dường, cô làm đổ sữa ra ngoài.

Nghĩa là thay vì cô đổ vào trong bát cho ông ta thì cô lại làm cho nó đổ ra ngoài đi. Thì do đó đó:

Ngài mới nói: “Thôi, vừa rồi bà chị!”

Nghĩa là đổ ra ngoài tràn bát ông, thì ông thấy nó kỳ quá rồi, cho nên buộc lòng ông phải nói tiếng nói: “Thôi đủ rồi bà chị, đừng đổ nữa!”.

(01:09:17) Đó, như vậy là bà này biết rằng ông này nói chớ không phải là câm. Các con thấy bà này cũng khéo! Để dò biết, mà làm cho ông phải nói thôi: “Đổ thôi vừa thôi chớ! Đổ gì đổ dữ, đổ tràn ra cứ đổ hoài!”

Nhưng đến năm thứ ba thì ông chứng quả A La Hán.

Nghĩa là khi mà bà đã biết ông là nói được rồi thì bà ta cứ đem cơm đến cúng dường cho ông, rồi ông chẳng nói nữa, suốt năm thứ ba thì ông đã chứng quả A La Hán.

Ngài có làm bài kệ tán thán hạnh cũ của mình:

Đó, thì các thầy nói là Thầy dạy độc cư, mà các thầy mà giữ gìn đúng như vậy để chờ mà người ta thử vậy đó! Thấy nó kỳ lạ quá thì mới thoát ra nói thôi chớ còn cái chuyện mà không mà kỳ lạ chắc ông này không cạy miệng ổng được đâu. Cho nên ổng lập hạnh cũng dữ tợn lắm đó!

Trên bờ sông Hằng,

Dùng ba lá thốt nốt,

Ông có dùng có ba lá thốt nốt thôi chớ ông không có dùng cái gì hết.

Ta dựng lên cho ta

Một chòi lá nho nhỏ,

Bát ta là cái ghè,

Dùng cúng sữa người chết,

Nghĩa là ông lấy cái bát không phải cái bát như chúng mình đâu, là cái ghè của người ta để ngoài gò mả đó để mà khi mà người ta tảo mộ đó, người ta đổ sữa trong đó người ta cúng người chết, ông lấy cái đó ông làm cái bát ông ăn cơm. Các con thấy ghê gớm không? Mình chắc không dám đâu!

Bát ta là cái ghè,

Dùng cúng sữa người chết,

Còn y áo của ta

Lượm chấp từ đống rác.

Suốt hai năm sống vậy.

Ta chỉ nói một chữ,

Nghĩa là chỉ nói có một lời, có nói với cô ta đó thôi chớ còn không có nói với ai nữa hết.

Trong khoảng năm thứ ba,

Khối si ám tan tành.

Nghĩa là tất cả vô minh ông tiêu sạch hết rồi.

Đó thì qua cái bài kệ này chúng ta thấy những cái bậc trong cái thời Đức Phật có những bậc thiệt là vĩ đại thiệt chớ không phải thường đâu! Thậm chí câm đến nỗi mà người ta tưởng là ông này câm thiệt, không có nói cho nên người ta mới thử đó. Còn chúng ta chưa có gì hết là chúng ta lia lịa hết, không có còn giữ cái miệng gì được hết!

Đó qua những cái hạnh này Thầy mới ghi chép lại cho chúng ta biết rằng những cái sự tu tập của chúng ta nó phải theo những cái gương hạnh.

Bởi vì mình quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng mà? Mình phải quy y cho đúng các bậc Thánh Tăng chớ? Chớ không lẽ mình quy y nó không đúng các bậc Thánh Tăng thì mình nương với ai đây? Cho nên mình phải nương các bậc này, vì những bậc này chúng ta thấy tuyệt diệu và quá là tuyệt!

4- NGÀI SÌHA TU TẬP NHƯ LÝ TÁC Ý

(01:11:34) Bây giờ về bên phái nữ thì Thầy cũng khai triển luôn về cái phần nữ để chúng ta có những cái gương hạnh của người nữ. Vì chúng ta ở đây, tu viện chúng ta ở đây cũng có phái nữ, cho nên Thầy cũng khai triển thêm một vài vị tăng, một vài vị ni - Thánh Ni.

Bà Sìha.

Bà được cha mẹ cho xuất gia tu hành theo Phật. Bà tu tập thiền quán nhưng không thể chặn đứng tâm tư chạy theo ngoại vật khả ý.

Nghĩa là bà tuy tu vậy chớ lòng bà cứ luôn luôn nó chạy theo sự ham muốn ở bên ngoài chớ không có nhiếp tâm được.

Bảy năm bị dày vò…​

Nghĩa là bà tu tập bảy năm như vậy mà cái tâm ham muốn, cái tâm mà còn dính mắc cái này thế gian, còn thương mẹ, thương cha hoặc cái này kia nó vẫn còn hoài, nó không hết mà suốt bảy năm như vậy.

“Làm sao thoát khỏi nếp sống ức nhiễm này?…​

Bà nói cái ức nhiễm tức là nó cái thương, cái ghét, cái này, cái kia, cái nọ, cái ham muốn cái này, kia, làm sao mà cho thoát ra được? Mà ông Phật ổng dạy mình mà tu hoài nó không được! Nó không xả ra được, nó cứ dính hoài à! Cho nên bảy năm trời bà rất đau khổ!

…​ Ta hãy chết là tốt!”

Bà nghĩ rằng mình đi tu mình như vầy mà cái tâm nó như vầy mà dẹp nó không được thì thôi chết cho rồi đi, để làm gì?

Bà cột một cái dây thòng lọng ở trên nhánh cây, đút cái cổ vào cái dây thòng lọng để thắt cổ chết cho rồi. Trong những giờ phút cuối cùng bà cố gắng triển khai thiền quán.

Tức là bà đút cái cổ bà vô trong cái dây thòng lọng nhưng mà bà chưa có dám đạp cái ghế, sợ đạp nó siết họng chết đi! Cho nên lúc bấy giờ bà đút đó là bà chờ, nếu mà quán mà nó không trôi được rồi, nó không xa được rồi, thì bà đạp cái ghế một cái là nó siết cái họng bà cho chết cho rồi chớ đừng có để cho nó dính dính ở trỏng nữa.

Đó! Các con thấy, các thầy thấy cái gương hạnh của người xưa kinh không? Người ta tu mà người ta thấy cái tâm nó không có dẹp được, người ta chỉ còn tìm cái chết.

Mà bây giờ trước khi giờ chết người ta còn đem cái pháp để mà người ta tu hành coi nó - cái giờ phút cuối cùng này nó ra hay không, hay nó còn dính nữa? “Dính nữa cái tao đạp cái ghế cái cho mày đứt luôn!”

Đó, thì các con thấy cái sự tu hành của cái người xưa sao mà tuyệt quá! Họ không coi cái thân họ ra gì hết, mà họ chỉ coi cái sự giải thoát là hơn hết!

Bà cố gắng triển khai thiền quán. Trí tuệ viên mãn, nội tâm thiền quán tràn đầy, bà chứng được quả A La Hán, mở thòng lọng…​

Mở cái thòng lọng tức là cái dây cột cổ bà đó.

…​ bà trở về tịnh xá.

Nghĩa là bà chứng rồi đó, bà trở về tịnh xá. Chỉ có đút cái cổ vô cái đó mà bà đã tu chứng, xa lìa được cái tâm thế gian tức là ly dục, ly bất thiện pháp! Những cái gương hạnh thiệt là tuyệt vời!

Bà sung sướng, phấn khởi nói lên bài kệ:

Không như lý tác ý,

Bị dục tham ám ảnh,

Nghĩa là luôn luôn lúc nào bả tu tập theo lời Phật dạy mà bả không có như cái lý tác ý ra, tức là ám thị đó! Các thầy thấy, bà sơ xuất ở chỗ ám thị này!

(01:14:27) Bà nói, ở trong này bà nói “Không như lý tác ý” cho nên “Bị dục tham ám ảnh”, cái lòng ham muốn cái này, cái kia nó ám ảnh bà hoài mà không dứt được là do bà không có như lý tác ý, tức là bà không dùng pháp hướng.

Còn chúng ta bây giờ hằng ngày tâm chúng ta khởi ham muốn cái gì, hoặc là khởi có cái gì thì chúng ta dùng pháp hướng chúng ta đánh bạt nó đi, thì như vậy là chúng ta như lý tác ý chớ gì? Còn cái này không, bà không có dùng theo cái lời Phật dạy cho nên bà nói:

Không như lý tác ý,

Bị tham dục ám ảnh,

Nó cứ ám ảnh bà hoài à!

Ta trước bị dao động

Không chế ngự được tâm.

Bị phiền não chi phối,

Lạc tưởng ngự trị ta

Tâm ta không thăng bằng,

Bị tham tâm chi phối.

Bảy năm sống ốm yếu,

Da vàng, dung sắc xấu

Đêm ngày không an lạc

Ta sống chịu khổ đau.

Do vậy ta lấy dây,

Đi vào giữa khu rừng,

Tốt hơn ta treo cổ,

Còn hơn sống hạ liệt.

Nghĩa là bà thấy rằng cái tâm mà nó còn thương, còn ghét, còn ham, còn muốn này kia là cuộc sống hạ liệt, đâu phải là cuộc sống mà cao thượng đâu! Cho nên bà biết như vậy mà sao lại ly không được? Do cái chỗ bà không dùng pháp hướng.

Cho nên khi mà chứng rồi bà mới thấy, cái chính là không như lý tác ý, như cái lý tác ý nó mới chính là cái chỗ mà dẹp, còn bà không có dùng cái đó. Cho nên bây giờ bà mới vô đầu là bà nói: “Không như lý tác ý” cho nên tâm bà bị tham dục. Bà nhắc cho chúng ta thấy cái chỗ đó.

Bởi vì qua bài kệ này Thầy thấy qua những cái kinh nghiệm mà người ta - nếu một người có tu, người ta nghe cái câu đó người ta biết rằng cái bà này thiếu là như lý tác ý tức là pháp ám thị, cho nên bà mới khổ sở bảy năm trời như vậy.

Cho nên đến chừng mà đút cần cổ vô trong cổ gần chết rồi bà cứ nhắc lia, nhắc lịa, bà tác ý lia lịa, cho nên chừng đó cái bà xả được cái tâm của bà liền, bà thấy đúng là cái pháp Như Lý Tác Ý là tuyệt diệu nhất chớ không có gì hơn.

Đó thì hôm nay lấy bài kệ này thì các thầy đã biết cái pháp nào mà các thầy tu rồi chớ gì?

Cái gì mà tâm của quý vị mà nó mà máy động thì quý vị phải biết vì nó động tâm cái gì chớ gì, mà nó động tâm gì đó thì ngay ngay ngồi dậy thẳng lưng liền để mà đặt cái niệm đó trước mặt mà lấy cái pháp Như Lý đó mà tác nó ra cho nó ra ngoài, tát tai nó văng ra đi, đừng có để nó ôm ở trong bụng quý vị thì quý vị sẽ thoát khỏi chớ gì? Cứ như vậy mà tu tập thì vô lậu nó sẽ đến với quý vị chớ có gì khác hơn!

Còn hơn sống hạ liệt.

Làm chắc dây thòng lọng,

Ta cột ở cành cây,

Quàng thòng lọng quanh cổ,

Tâm ta liền giải thoát.

Mau không! Các thầy thấy, xỏ cái đầu vô cái dây rồi, bắt đầu ở đó mà quán mới dùng Như Lý Tác Ý ra: “Tất cả đều khổ, bây giờ có đứt cổ thì chết cũng là khổ, có nghẹt họng cũng chết là cũng là khổ!” - cho nên vì vậy mà bà quán riết trôi ra hết tất cả, từ đó giải thoát.

Đó thì, những cái gương hạnh của người tu nó gần gũi chúng ta quá chừng, mà gần lại cái pháp mà Thầy dạy cho các thầy quá độ. Mà cái người ta không có tu tập, người ta không khai triển được những cái gương hạnh này ra! Những cái bài kệ bà ta viết rõ ràng, bà ghi lại ở trong kinh rõ ràng như vậy, thế mà không có ai khai triển nổi ra những cái pháp tu hành!

Còn bây giờ, vì cái sự kinh nghiệm tu tập, qua cái pháp hướng mà Thầy biết rằng đó là ám thị chớ gì? Như Lý Tác Ý chớ gì? Do đó Thầy khai triển ra, thì đâu đâu in như là nó cũng giống nhau in rập khuôn hết.

Cho nên các vị đều là những bậc Thánh Tăng, những bậc Thánh Ni thời xưa, cũng đều là có những cái tu tập giống như mình không khác, mà người ta đạt được kết quả là do cái pháp hướng chớ không phải gì. Bởi vì chúng ta tu tập sai thì nó làm sao mà nó đúng được!

5- NGÀI HOA NI SẮC TỲ KHEO PATÀCÀRÀ QUÁN VÔ THƯỜNG

(01:17:52) Bây giờ Thầy nhắc đến bà Patàcàrà, bà Patàcàrà này là người ta còn dịch cái tên - theo cái âm của người Hoa đó - thì bà có gọi là cái tên là Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo, mà cái tên này thường thường chúng ta hay nghe thường lắm: Bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo.

Mà ở đây thì cái câu chuyện của bà thì dài dòng lắm, nó không có ngắn, nhưng mà ở đây thì Thầy tóm lược lại để cho chúng ta biết để mà qua những cái bài kệ của bà để mà chúng ta lấy kinh nghiệm mà tu tập thôi.

Khi bà đến với Đức Phật với một tâm trạng đau buồn nhất, hai đứa con đã chết, chồng cũng chết, cha mẹ và đứa em trai cũng chết.

Nghĩa là đồng thời trong một cái ngày hôm đó là cả một cái gia đình chết tan nát, chỉ còn có mình bà sống thôi.

Đức Thế Tôn dùng kệ khuyên bà:

Nước bốn biển ít hơn,

Nước mắt của loài người,

Đức Phật nói nước bốn biển nó còn ít hơn nước mắt loài người.

Khóc than vì đau khổ,

Vậy sao ngươi hủy hoại,

Nghĩa là bà đang ở trong cảnh đau khổ, hai đứa con chết, chồng chết, rồi cha mẹ, rồi đứa em trai cũng chết, làm sao bà không khổ?

Vì vậy mà Đức Phật khuyên có cái bài kệ để khuyên bà, thì Đức Phật ví như nước bốn biển ít hơn nước mắt của bà trong lúc này nữa, mà bà sao lại có cái ý mà Đức Phật trách bà đó, sao bà lại quá ngu si vậy, khóc than để mà tự mình giết hại mình, hủy hoại cái sinh mạng của mình sao?

Nghe kệ xong, bà nguôi được cơn đau buồn. Bậc Đạo Sư lại dạy tiếp :

Các con, cha, bà con,

Không phải chỗ nương tựa,

Khi thân hoại, mạng chung,

Bà con, huyết thống ngươi,

Không thể che chở ngươi!

Thấy được sự thật này,

Kẻ trí sống giới đức,

Và mau chóng thành tựu,

Con đường hướng Niết Bàn.

Đó, Đức Phật nói rằng dù mình có thương, có gì đi nữa mà mình - khi mà thân hoại, mạng chung hay hoặc mình đau bệnh, mình già chết, thì chắc chắn là bà con huyết thống của mình, những người thân, cha mẹ của mình không thay thế mình được cái điều đó đâu.

Cho nên cái người trí biết thì phải sống giới đức, tức là sống với giới hạnh đó, giới đức, giới hạnh đó. Còn cái người mà không biết thì không có sống cái giới đức, giới hạnh thì không có thể nào mà hướng đến con đường Niết Bàn được.

Và mau chóng thành tựu,

Con đường hướng Niết Bàn.

(01:20:25) Đức Đạo Sư lại dạy tiếp:

Người sống một trăm năm,

Không thấy pháp sanh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sanh diệt.

Nghĩa là Ngài khuyên như vậy để rồi Ngài cho một cái đề mục, Ngài khuyên cho cái bà này bả an ủi được bả rồi, bả hiểu được rồi là lấy giới mà sống, khi mà sống được với giới đức rồi thì cái người đó phải dùng cái Định Vô Lậu mà quán xét, quán xét cái sự vô thường, cái sự sanh diệt của các pháp, cho nên cái bài kệ, bốn câu kệ này :

Người sống một trăm tuổi,

Không thấy pháp sanh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sanh diệt.

Chúng ta tuy rằng biết cái thân này nó vô thường, nó sanh diệt liên tục ở trong này, mà chúng ta biết, hiểu như vậy, mà chúng ta không sợ hãi, không có lo lắng tu hành mà cứ sống để cho nó sanh diệt, sanh diệt mãi, cho nên, coi như là sống dù một trăm tuổi mà không biết nó sanh diệt, như bây giờ chúng ta là những người chưa biết sanh diệt, cho nên chúng ta chưa dám ly gia đình, chưa dám bỏ của cải, chưa dám bỏ tài sản. Đó là chúng ta chưa biết pháp sanh diệt.

Bởi vì pháp sanh diệt nó đâu phải - tất cả các pháp sanh diệt nó đều là thay đổi liên tục, bữa nay nó của mình, ngày mai nó của người ta chớ đâu phải của mình nữa sao? Mà thế mà mình cứ chấp là của mình, mình cứ ôm giữ nó hoài.

Cũng như bữa nay vợ mình, ngày mai biết là vợ ai đây? Cho nên vì vậy mà mình cứ ôm nó là vợ mình không à, mà không ngờ rằng ngày mai mình chết, mốt nó lấy thằng khác rồi! Mình đâu có biết được cái chuyện đó, vì nó là pháp sanh diệt mà! Nó đâu có phải là thường còn được!

Cho nên có ông Trang Tử đó ổng vỗ bụng ca đó, thì khi mà vợ ổng chết ổng đánh trống ổng vỗ ổng (nói): Vợ chết trước là vợ ổng mà vợ chết sau là vợ người ta!

Rõ ràng là cái lời của ông Trang Tử là nói rất đúng là pháp sanh diệt, cho nên nó đâu có thường hằng được!

Mình nghĩ rằng mình chết chắc vợ mình nó ở vậy nó nuôi con thôi chớ, nhưng mà sự thật ra ba bữa sau thì nó chờ cho mình chôn xuống mồ rồi, ba bữa sau nó đi theo thằng khác rồi! Cái điều đó là mình không ngờ được cái sự sanh diệt đó, thế mà mình cứ ôm ấp là mọi cái của mình hết.

Tiền của mình làm bữa nay do mồ hôi, nước mắt mình làm ra, chưa chắc gì mình đã thọ hưởng hết được, tối mình làm ra rồi mình đem mình cất trong tủ cái tối ăn trộm nó vô nó lấy hay hoặc ăn cướp nó vô cạy họng, nó đánh mình u đầu, đổ máu cũng lấy ra, cũng sạch.

Cho nên nó là pháp sanh diệt, nó càng đem đến cho sự khổ mình. Cho nên ở đây Đức Phật nói:

Tốt hơn sống một ngày,

Mà thấy được pháp sanh diệt.

Mà thấy được pháp sanh diệt thì người ta vứt bỏ hết, người ta đâu có thèm nữa! Nó là rắn độc mà, nó là thú dữ mà, tại sao mình cứ huân vô để mình lấy khổ? Nó không giải thoát được!

Cho nên ở đây, khi một người mà hiểu được Phật pháp rồi người ta rất sợ các pháp sanh diệt! Mà các pháp sanh diệt là cái gì? Là xung quanh chúng ta toàn là các pháp, nó luôn luôn sanh diệt! Cho nên chúng ta phải ra khỏi, ra khỏi cho mau chớ không phải - còn một phút giây nào là đau khổ!

Cũng như là bây giờ Thầy còn cái thân này nè, thì tức là Thầy còn đau khổ chớ! Bữa nay nó không đau ngày mai nó đau. Suốt cái thời gian mà Thầy giảng quý thầy, quý thầy thấy Thầy cũng mệt nhọc, cũng khổ sở, cũng đủ thứ hết, cũng nhức đầu, cũng mệt cái này, cũng mệt cái kia chớ đâu phải! Đó là pháp sanh diệt mà làm sao mà bảo nó đừng có làm chuyện đó được!

Cho nên bỏ nó là chúng ta khỏe. Vì vậy mà bỏ nó thì tức là Thầy được giải thoát hoàn toàn, cho nên đâu có tiếc gì cái thân này mà phải trường thọ làm gì?

(01:23:32) Khi nghe kệ xong, bà trạch pháp cái pháp đó, bà lấy các pháp vô thường sanh diệt đó bà đặt thành một cái pháp hướng. Cho nên từ đó bà quán cái pháp hướng đó mà bà tu tập cái Định Vô Lậu, bà chứng quả được A La Hán liền tức khắc.

Các thầy thấy chưa? Nội cái ông Phật, ổng cho bốn câu kệ này là bả đã biết được đó là cái pháp hướng của bà rồi. Còn chúng ta nghe câu kệ này chớ chưa biết đâu, phải không?

Nhưng mà Thầy giải thích ra thì quý thầy biết đây là một cái pháp hướng, trạch ra cái câu này, tức là ông Phật ông biết không có thể nào mà không dạy cho cái bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này mà hiểu được cái pháp hướng này thì chắc chắn là không hết cái lậu hoặc của bà ta đâu!

Cho nên ông Phật tiếp thêm cho bà cái câu cái trạch pháp ra, cái câu pháp hướng.

Người sống một trăm tuổi,

Không thấy pháp sanh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sanh diệt.

Do đó bà đặt cái câu này ra bà làm cái pháp trạch của bà, thì hằng ngày bà dùng cái đó mà quét sạch cái tâm vô lậu của bà, cho nên bà chứng quả A La Hán.

Sau khi bà chứng quả A La Hán rồi thì bà cũng có làm một cái bài kệ nói lên cái chỗ tu tập của mình:

Với cày, cày ruộng đất,

Gieo hạt giống trên đất,

Loài người được tài sản,

Nuôi dưỡng vợ và con.

Sao ta giới đầy đủ

Làm theo Đạo Sư dạy,

Lại không chứng Niết Bàn?

Không sợ, không dao động.

Khi ta đang rửa chân,

Làm cho dòng nước chảy,

Thấy được nước rửa chân

Từ cao chảy xuống thấp,

Nhờ vậy tâm ta được định,

Như ngựa hiền khéo luyện.

Đó thì, khi mà Đức Phật khuyên bà, khuyên bà để cho bà không có buồn khổ, rồi khuyên bà để bà thấy rằng các pháp thế gian không phải là chỗ nương tựa như cha mẹ, anh em, huyết thống gì đó không phải là chỗ nương tựa, của cải tài sản cũng không phải chỗ nương tựa.

Nhưng mà bà cứ bà tu hoài mà sao bà thấy rằng giới luật của Phật giảng cho bà như vậy, bà giữ giới luật như vậy - bởi vì trong cái bài kệ trước thì quý Thầy thấy có cái chỗ này “Kẻ trí sống giới đức” đó, cho nên bà giữ gìn giới đức của Phật dạy, cái giới nào bà cũng giữ rất là nghiêm chỉnh, nhưng mà thấy sao mình lại không chứng Niết Bàn?

Làm theo lời Đạo Sư dạy lại không chứng được Niết Bàn, mà tâm thì không sợ, không dao động, không có buồn lo nữa mà sao mà không có?

Thì một hôm đó bà - Đức Phật cho cái bài kệ tiếp bà cũng chưa hiểu nữa. Cho nên bây giờ một hôm đó bà đang rửa chân, bà rửa chân rồi bà dùng - bà thấy dòng nước mà nó chảy xuống, rồi thấy được nước rửa chân từ trên cao nó chảy xuống thấp: “Nhờ vậy tâm ta được định”.

Nghĩa là trong lúc đó bà mới nhớ lại cái câu kệ này, tức là cái dòng nước nó chảy hoài, chảy hoài thì bà nghĩ rằng nó chảy hoài tức là vô thường chớ gì?

(01:26:20) Đó thì, các pháp sinh diệt đó, nó không có còn cái chỗ mà nó một mực nữa, cho nên từng đó bà mới ngộ được cái câu mà bốn bài kệ trên, do đó bà mới đặt nó thành một cái câu thiền quán Vô Lậu của bà để cho bà quét sạch những lậu hoặc.

Đó nhờ cái thực hiện mà bà rửa chân rồi bà - bởi vì bà - Đức Phật nói mà bà chưa có hiểu, bà chưa có thấu đạt được cái lý đó, từ cái chỗ bà rửa chân, bà thấy nước nó chảy xuống, chảy xuống, chảy xuống mà nó không có chảy lại được, do đó bà mới thấy: “À cái dòng nước là cái dòng các pháp sanh diệt” - cho nên bà ngộ được rồi.

Bà ngộ được rồi thì cái tâm bà nó được định tỉnh rồi, được định tỉnh rồi thì bà mới như thế nào để cho tiếp tục ở trên con đường tu hành của bà?

Rồi ta cầm cây đèn,

Bước vào ngôi tịnh xá,

Nằm trên chiếc giường nhỏ,

Ta nhìn, quán ngọn đèn.

Rồi ta lấy cây kim nhỏ,

Dìm tim đèn xuống dần,

Thấy cây đèn Niết Bàn,

Tâm ta được giải thoát.

Như vậy là như thế nào? Bây giờ cái ngọn đèn như thế này, bắt đầu nó cháy ngọn lửa đó, bà lấy cây kim bà đè cái ngọn đèn cứ lần lần nó xuống, thì ngọn lửa càng thụt lần, thụt lần, thụt lần cho đến khi cái ngọn đèn bị - cái tim nó bị lún sâu quá - cái ngọn đèn nó tắt đi, thì bà thấy ngay đó là cái dòng sanh diệt nó đã hết rồi.

Các thầy thấy, đó là qua cái kinh nghiệm tu hành của người ta quán xét từng chút để người ta thấy được cái tâm của người ta thay đổi từng chút, từng chút ở trong cái sự quán xét của Định Vô Lậu nó như vậy.

Còn mình ngồi mình quán, quán gì mình cũng chả biết gì hết, còn người ta rất là vi tế ở trên cái sự tu tập của người ta, để người ta quán xét được cái chỗ tu tập đó.

Đó là những cái bài kệ qua những cái kinh nghiệm tu tập rất là vi tế khi mà chúng ta tu Định Vô Lậu. Chúng ta phải xét từng chút. Nếu chúng ta đặt một cái câu rồi chúng ta cứ quán thường nó không nhằm nhò gì đâu.

Cho nên Thầy nói Thầy ngồi ở trên núi, ở trên cái Hòn Sơn, mà Thầy ngồi mà Thầy dùng những cái sự mà quan sát những cái loài chúng sanh, Thầy thấy như thế này thế khác, nó làm cho tâm của Thầy nó mới có khởi lên những cái lòng thương yêu của chúng sanh sâu sắc.

Còn các thầy không chịu ngồi quan sát thì các thầy làm sao mà có lòng thương yêu đó được?

Cho nên ở đây chúng ta muốn Vô Lậu thì chúng ta phải quan sát tất cả những sự kiện thay đổi, mà những sự kiện thay đổi đó nó làm cho chúng ta sâu ở trong cái chỗ pháp, cho nên chúng ta mới chứng được cái lý vô thường.

Còn các thầy cứ nghe Thầy nói câu nào viết đó, mà cứ nhai đi, nhai lại cũng như nhai bã mía vậy thì thôi thôi nó có vô thường gì được! Các thầy hiểu điều đó không?

Cho nên vì vậy mà Thầy mới thấy bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này thiệt là hay! Cái bài kệ này tuyệt diệu, nó ở trong cái hành động để mà phá vỡ cái lậu hoặc, mà không đem cái bài này giảng ra cho quý thầy thì quý thầy chắc chắn là cũng nhai bã mía của Thầy thôi chứ cũng không gì khác hơn! Nhai hoài mà lậu hoặc nó vẫn còn, cũng vẫn còn nhớ nhà, nhớ cửa, cũng còn nhớ này kia mà nó không hết.

Đó, là đến đây là chúng ta đã qua những cái gương hạnh của Thánh Tăng và những bậc Thánh Ni tiếp tục trong cái phần giáo án hôm nay. Để nghỉ một chút./.

[Phần 5 ở Giáo án 22]

HẾT BĂNG

21 - BỔ TÚC PHẦN GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC - TÁM GIỚI TUỆ

GIÁO ÁN 21 - BỔ TÚC PHẦN GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC - TÁM GIỚI TUỆ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- BỔ TÚC PHẦN GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC

(00:01) Để bổ túc thêm phần giới hạnh và giới đức, quý thầy hãy lắng nghe cho kỹ ở phần này để biết mà giữ gìn và trau dồi thân, tâm đầy đủ giới hạnh và giới đức, để không còn vi phạm một lỗi lầm nhỏ nhặt nữa, để tâm trọn vẹn lìa xa lòng ham muốn và các ác pháp thế gian, để tâm sống trong cảnh giới thanh thản, an lạc mà các bậc Thánh đang thọ hưởng, đang sống thầm lặng trong cảnh giới đó, cảnh giới của giới hạnh và giới đức đã viên mãn.

1.1- TRUY TÌM GỐC TỘI LỖI VÀ ĐAU KHỔ CỦA LOÀI NGƯỜI

(00:37) Bây giờ quý thầy hãy lắng nghe những câu hỏi và trả lời những câu hỏi để truy tìm cái gốc tội lỗi, ngõ hầu để biết rõ dùng giới hạnh và giới đức đập tan tành cái gốc khổ của loài người.

Nghĩa là chúng ta phải truy tìm ra, khi mà học cái giới đức và giới hạnh xong thì chúng ta phải truy tìm coi những cái gốc khổ và cái gốc mà làm cho con người đau khổ như thế nào.

Mặc dù là trong kinh Phật có nói là do cái lòng ham muốn là đau khổ, nhưng chúng ta phải truy tìm cho nó sâu xa hơn nữa chớ không thể nói đơn là do cái sự ham muốn đó, do tâm dục mình là cái nguyên nhân sanh ra đau khổ, mà nó còn có những cái chi tiết li ti nhỏ mà chúng ta phải thấu đáo. Nếu không thấu đáo thì chúng ta không có biết đường đâu mà chúng ta dẹp.

Bây giờ đó, thì đầu tiên thì có một câu hỏi và có một sự trả lời để chúng ta theo đó mà chúng ta phăng ra coi cái lối nào mà cái tâm chúng ta nó đi đến chỗ tham dục đó:

Tại sao con người lại sanh ra oán thù và đánh đập nhau bằng dao gậy?

Đó, vào đầu cái câu hỏi đầu tiên thì chúng ta thấy cái sự đau khổ con người ở trên thế gian này là cái sự oán thù, sự đánh đập nhau bằng dao gậy

Bắt đầu để trả lời cái câu hỏi đó:

Sự sanh ra oán thù và đánh đập nhau đều do lòng tham lam và ganh ghét.

Do lòng ham muốn, tham lam của mình đó, tham cái này, tham cái kia, và cái sự ganh ghét đó nó mới có cái sự đánh đập nhau, mới có sự thù hằn nhau.

Thì chúng ta thấy nếu mà không có lòng tham lam, không có sự ganh ghét thì làm sao đánh đập nhau? Đúng không? Đó là trả lời một câu rất đúng. Không thể nào mà chúng ta phủ nhận rằng cái câu trả lời này là sai được.

Lòng tham lam và ganh ghét do đâu mà sinh ra?

Người ta lại đặt câu hỏi thêm để cho mình thấy, bây giờ mình nói bấy giờ cái sự đánh đập, cái sự thù hằn nhau là do lòng tham lam và ganh ghét, thì ai cũng chấp nhận rồi. Nhưng mà bây giờ người ta hỏi: “Vậy chớ lòng tham lam và ganh ghét này ở đâu mà sanh ra?”

Đó, thì tức là chúng ta phải truy ra thử coi nó ở chỗ nào? Thì đây là câu trả lời mà Phật đã trả lời trong kinh để chúng ta thấy rất rõ.

Lòng tham lam và ganh ghét là do thương, ghét mà sanh ra.

Có thương, có ghét thì mới sanh ra, chớ không phải là ngoài cái thương, ghét mà nó sanh ra cái lòng tham lam và ganh ghét được.

Thì người ta lại hỏi:

Thương, ghét do đâu mà sanh ra?

Thì trả lời:

Thương, ghét là do tham dục mà sanh ra.

Mình có thương, có ghét là do cái lòng ham muốn của mình mới sanh ra. Đó bây giờ mình mới thấy cái chỗ dục đó, thì từ cái chỗ mà truy ra từ cái chỗ mà oán thù, đánh đập đi đến cái chỗ tham dục thì mình mới biết rằng thương, ghét này nó do cái sự tham dục mà sanh ra.

Vậy chúng ta có thương thì cũng do tham dục, mà có ghét cũng do tham dục. Mà có thương, có ghét thì nó mới có tham lam và ganh ghét, mà có tham lam và ganh ghét thì nó mới có đánh đập và oán thù!

Đó, bây giờ mình đi ngược trở lại thì mình thấy rất rõ heng.

(03:38) Rồi bây giờ người ta hỏi:

Tham dục do đâu mà sanh ra?

Bắt đâu đó từ đó mình bắt đầu mình trở về cái gốc mà của tham dục đó, tức là Phật nói cái gốc muôn khổ đó.

Vậy thì người ta hỏi: “Vậy tham dục do đâu mà sanh ra?”

Thì trả lời: “Do tưởng mà sanh ra!”

Mình tưởng, chớ nó đâu phải có thật! Mình tưởng ra, mình ham muốn cái gì đó mình tưởng ra, chớ đâu phải khi không mà mình có ham muốn cái chỗ đó được?

Mình tưởng ra, mình tưởng ra nó đẹp, mình tưởng ra nó xấu, mình tưởng ra cái này kia, đó là do tưởng mà sanh ra! Đó, đúng không? Tham dục mình do tưởng sanh ra chớ còn không có tưởng thì chắc chắn…​

Cho nên cái người mà người ta dẹp cái tưởng rồi thì người ta có tham dục nữa không? Người ta hết tưởng là hết tham dục, mà còn tưởng là còn tham dục. Cho nên chúng ta biết rằng cái người mà tu thiền định là phải dẹp tưởng. Mà dẹp tưởng dừng thì hết dục, hết tham dục!

Tưởng do đâu mà sanh ra?

Người ta hỏi tưởng do đâu mà sanh ra? Bắt đầu đây bây giờ Đức Phật trả lời:

Tưởng do điệu hý mà sanh ra.

Điệu hý là cái gì? Các thầy hiểu hai chữ này không? Đó, điệu hý là có nghĩa là hý là vui, thích vui, mà hý, điệu hý là cái kiểu cách làm thế này, thế kia cho vui đó.

Cũng như bây giờ mình thấy người ta đá banh cái mình thấy mình thích, tức là mình bị điệu hý đó rồi, điệu hý đá banh rồi. Mình thấy người ta đánh cờ cái mình dòm một hơi cái mình cũng ngứa nghề vô đánh cờ, mình thấy người ta đánh bài bạc mình cũng ngứa nghề, mình thấy người ta uống rượu mình cũng ngứa nghề mình vô đó, gọi là điệu hý!

Phải không! Cái đó là nó vui, nó đủ cái màn cách của nó gọi là điệu hý của nó đó! Cái danh từ người ta dùng như vậy, mình hiểu như vậy là nó gợi cho mình những cái vui thích, nó gợi cho mình vui thích. Do cái sự vui thích đó nó mới có cái tưởng, phải không? Cái tưởng này nó mới sanh ra cái tham dục, nó mới có cái tham dục!

Mình tưởng cái đó là vui, phải không? Cái điệu hý đó, mình tưởng, tưởng nó do điệu hý nó sanh ra, cho nên do cái điệu hý mấy cái chuyện mà người ta làm đó, nó vui vẻ đó, cho nên mình tưởng đó là vui, cho nên cái tưởng nó mới có sanh ra.

Chớ biết đâu chừng cái chuyện đó là cái chuyện đau khổ của người ta! Đó, cho nên mình tưởng nó là - nó ngon rồi, nhưng mà không ngờ mình vào đó là thấy mệt.

Mấy thằng đá banh nó tưởng đâu là ngon lắm chớ nó đá, Thầy thấy nó thở muốn chết nó luôn, đâu có sung sướng gì đâu! Nhiều khi nó đá banh nó té, nó gãy chân, gãy giò nó nữa, coi nó muốn chết nó chớ đâu có sung sướng gì? Thế mà nó ở ngoài thì người ta vỗ tay khen, đó là điệu hý đó!

Thầy giải thích như vậy thì dùng cái danh từ đó như vậy thì quý thầy chắc hiểu nó rồi.

(06:00) Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý…​

Cho nên Phật cấm mình không có cho vui chơi gì hết đó các thầy thấy không? Cho nên vui chơi là nó điệu hý đó, nó sẽ không an trú được đâu!

Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng?

Đó, bây giờ có cái người mà hỏi Đức Phật: Bây giờ nếu mà nói như vậy là do cái này nó tưởng ra nó mới tham dục, bây giờ mình muốn diệt tham dục thì tức là mình phải diệt hết cái điệu hý này đi, thì chắc chắn là nó hết chớ gì?

Thì hỏi ông Phật, ông Phật nói:

Không có trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú cảnh giới tịch diệt…​

Nghĩa là ở câu này Thầy xin đọc lại để cho nó rõ ràng hơn:

Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Hay không trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú trong cảnh giới tịch diệt được chăng?

Nghĩa là hai câu hỏi này nó rất rõ ràng. Một câu hỏi thứ nhất là nói mình diệt trừ hết điệu hý thì mình có an trú trong cảnh tịch diệt được chăng, mà hay là không trừ bỏ hết điệu hý này thì mình cũng có thể an trú được trong cái cảnh giới tịch diệt chăng?

Đây, bây giờ Đức Phật trả lời đây:

Tu sĩ không trừ hết điệu hý mà an trú trong cảnh giới tịch diệt thì sao được?

Phải không? Nghĩa là mình còn vui làm sao mình an trú trong cảnh tịch diệt được? Cho nên ông Phật ông trả lời một câu mà bằng cách là trả lời luôn cả hai câu.

Vì thế gian có nhiều cõi, chúng sanh đều y cứ theo loại cảnh ấy và giữ gìn chắc chắn không thể rời bỏ, đồng thời họ cho đây là thật, ngoài ra là hư dối.

Đó. Nghĩa là thế gian thì người ta chấp cứng trong những cái vui đó, cái điệu hý đó, cho nên người ta cho những cái đó là cái vui, cái hạnh phúc của họ, cho nên ngoài ra thì nó không thật và nó hư dối hết, chỉ có những cái đó là cảnh giới của họ, dục lạc của họ, thích thú của họ mà thôi.

Cho nên nếu mà cái người mà muốn được ở trong cảnh giới tịch diệt, an trú thì phải ly trừ hết những cái điệu hý thì nó mới có an trú trong cảnh giới đó được!

Vì vậy mà Đức Phật trả lời này:

Tu sĩ không trừ hết điệu hý mà an trú cảnh giới tịch diệt sao được?

Đó Đức Phật nói như vậy thì chúng ta biết rõ.

Vậy có bao nhiêu điệu hý?

Có người hỏi Đức Phật thêm đó, có bao nhiêu cái điệu hý đó?

Có ba điệu hý: Một là về khẩu, hai là về tưởng, ba là về mong cầu.

Đó. Quý thầy thấy ông Phật ổng dạy chúng ta từng cái chi tiết nhỏ để chúng ta hiểu biết được, đó là chúng ta phăng ra để mà chúng ta diệt cái lòng tham dục của chúng ta.

Một người mà còn vui theo, thì tức là mình còn thích nói chuyện với nhau là còn vui theo chớ gì? Mà còn vui theo tức là điệu hý rồi! Nghe người ta thuật lại chuyện đông, chuyện tây mình cũng khoái lắm chớ! Nghe người ta thuật lại chuyện cổ tích rồi mình cũng nghe cũng thích chớ!

Đó thì tức là mình còn đang ở trong cái chỗ điệu hý. Nó không phải. Đó là điệu hý về khẩu.

(09:14) Về khẩu hành thì có ba điệu hý:

Một là hại mình.

Nói, đó, mình - cái sự vui chơi đó nó làm cho mình có hại. Rồi:

Hai là hại người.

Cái chuyện mà vui chơi đó nó có thể làm hại người đó, cái điệu hý đó nó có thể làm hại. Và:

Ba là hại cả hai.

Nghĩa là hại mình mà hại người nữa. Trong cái điệu hý đó nó có xảy ra về khẩu, thì một là mình nói ra mà hại mình, hai là mình nói ra hại người, ba là mình nói ra là hại cả hai, cả mình và cả người.

Đó là Đức Phật phân tích cho chúng ta thấy là về cái khẩu thì mình có những cái điều kiện đó.

Nếu mà xả bỏ lời nói hại mình, hại người, hại cả hai, và nói đúng lời nói chân thật, không hại mình, không hại người, không hại cả hai, thì chuyên niệm không tán loạn thành vô lậu.

Đó, Đức Phật nói mình nói ra cái lời nói về miệng của mình, mình nói ra cái lời nói mà hại mình thì không nên nói, đó là điệu hý thứ nhất. Điệu hý thứ hai là nói ra lời nói mà hại người thì không được nói. Mà cái điệu hý thứ ba là nói ra lời nói mà hại mình, hại người thì không được nói.

Cho nên mình phải nói như thế nào, nói như thế nào để cho đúng cách:

Nói lời nói đúng như thật, không hại mình, không hại người mà không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn thành vô lậu.

Vậy thì mình nói lời nói mà không hại ai hết thì cái đó nói làm sao quý thầy thấy chưa? Là không nói! Phải không? Không nói là độc cư thì nó đâu có hại ai, cho nên bây giờ nó chuyên niệm chớ gì? Cho nên tâm không tán loạn. Còn mình nói là tán loạn.

Rõ ràng heng! Đó là mình diệt trừ cái điệu hý thứ nhất về khẩu của mình đó! Có đúng không?

Đó, thì nhờ vậy là chúng ta biết rằng diệt điệu hý tức là chúng ta sẽ diệt lòng tham của mình chớ gì? Đi từ cái gốc nhỏ đó mà chúng ta diệt ra chớ gì? Vậy thì chúng ta sống độc cư, không nói thì tức là không hại mình, không hại người mà không hại ai hết. Do đó là tâm không tán loạn, thành ra vô lậu!

Đó thấy chưa? Thấy cái mà nội cái miệng của mình nó có được cái vô lậu rồi đó!

Về phần tưởng cũng có ba: Tưởng hại mình, tưởng hại người, tưởng hại cả hai.

Nếu xả bỏ tưởng ấy và dùng tưởng như thật, không bị hại mình, hại người, hại cả hai thì chuyên chú, nhớ mãi không quên, sáng suốt, thành vô lậu.

Không tưởng, thì các thầy nghĩ Đức Phật dạy như vậy thế nào? Nghĩa là ngồi đừng có tưởng tầm bậy! Mà không tưởng tầm bậy thì nó có hại ai đâu? Phải không? Mà không hại người, không hại mình, mà không hại cả hai thì lúc bấy giờ có tưởng nữa không?

Mà không tưởng vậy thì nó chuyên chú, nhớ mãi cái gì các con biết không? Nó nhớ mãi có một cái tâm của mình thanh tịnh, yên lặng, thanh thản đó thôi. Cho nên sáng suốt thành vô lậu, đúng không!

Ông Phật dạy rất đúng! Như vậy là mình phá cái tâm tham dục của mình rất là dễ dàng đâu có gì khó!

Đó, biết cách là như vậy, vì vậy cho nên bây giờ ngồi đừng có tưởng, ngồi đây mà tưởng về nhớ nhà thì cái đó là như thế nào? Điệu hý rồi còn cái gì đâu? Phải không? Nhớ cái này, nhớ cái kia là điệu hý rồi.

Bởi vậy ông Phật ông dạy để chúng ta biết rất rõ những cái điều kiện mà chúng ta ngồi một tâm niệm chúng ta biết rằng nó là thuộc về cái loại nào rồi!

(12:18) Cho nên ở đây nếu mà Thầy không giảng cái này ra thì Thầy thấy thiệt là cái lời ông Phật dạy là phí cho ổng, ổng mệt mỏi quá rồi! Ổng giảng ra cho chúng Tỳ Kheo trong thời đó mà bây giờ người ta cứ bỏ cái này đi, người ta nói cái gì mênh mông ở trên trời đất mà không dạy cho chúng ta biết từng cái chút này để mà chúng ta ly để mà chúng ta được cái tâm vô lậu.

Mà thấy cái này rồi chúng ta biết cái tâm tư của mình: Bây giờ nó ở trong tưởng nè, tưởng điệu hý nè, phải không?

Bây giờ nó - miệng mình đang nói gì đó mình biết đây là khẩu điệu hý nè, đó mình biết mình nói như vậy là hại mình, hại người, mà hại cả hai nữa. Thôi nhất định là không nói! Như vậy là mình ở trong cái chánh niệm của mình rồi. Đó, tức là nó thành vô lậu!

Thì cái tưởng nó cũng như vậy cho nên nó cũng thành vô lậu.

Về mong cầu cũng có ba:

Sự mong cầu của mình mà, mình ngồi mình mong cầu, cũng có ba cái điệu hý của nó:

Hại mình, hại người và hại cả hai.

Nếu xả bỏ sự mong cầu ấy và mong cầu đúng cho thật, không hại mình, hại người, hại cả hai thì mong cầu đúng như thế sẽ chuyên chú, nhớ mãi không quên thành vô lậu.

Mà sự mong cầu mà không hại mình, không hại người, không hại cả hai hết, thì cái sự mong cầu đó mong cầu cái gì quý thầy biết không?

Đó, tức là mong cầu sự giải thoát nơi tâm của mình, thành ra không có ai dính dấp vào trong tâm mình được hết, cho nên nó thành vô lậu! Có gì đâu mà khó khăn. Khi mà nó mong cầu một cái gì khác hơn thì mình biết liền, mà nó không mong cầu thì tức là nó ở trong thanh thản rồi, nó ở trong cái tâm rất là an ổn rồi, thì đó là vô lậu. Tâm niệm của mình chút nào là mình biết nó ở trong cái chỗ nào rồi.

Thì như vậy là chúng ta đã thấy được những cái điệu hý của nó rồi.

Như vậy là biết được cái nguồn gốc để mà chúng ta tu về cái Định Vô Lậu để cho nó quét sạch vô lậu, để cho nó quét sạch cái tâm tham dục của chúng ta.

1.2- BA CÁCH XẢ THÂN CỦA BẬC THÁNH HIỀN

(14:06) Bậc Thánh Hiền xả thân có ba:

Bây giờ cái thân của chúng ta có xả ba cái cách của nó. Bây giờ - hồi nãy là chúng ta do cái điệu hý, mà bây giờ chúng ta lại xả về cái thân của chúng ta.

Một là hỷ thân, hai là ưu thân, ba là xả thân.

Đó, bây giờ đến cái giai đoạn của những bậc Thánh Hiền tu tập, hồi nãy là những bậc phàm phu đó là chúng ta có những điệu hý, còn bây giờ bậc Thánh Hiền có vui nữa không? Có vui điệu hý như chúng ta nữa không? Không! Hết rồi!

Vậy thì bậc Thánh hiền có xả thân có ba: hỷ thân, ưu thân và xả thân.

Trong cái thân của chúng ta coi vậy chớ nó còn cái hỷ nè, còn cái ưu nè, rồi còn cái xả của nó nữa nè. Bây giờ chúng ta về bậc Thánh rồi, chúng ta đã xa lìa những cái tham dục của thế gian rồi, bây giờ còn cái phần thân của chúng ta để nó như thế nào đây? Cho nên bậc Thánh nó có ba phần này.

Hỷ thân cũng có ba: Hại mình, hại người và hại cả hai.

Bởi vì, khi mà mình đã đứng vào ở trong những bậc Thánh Hiền rồi thì mình coi chừng cái thân của mình nó cũng có thể làm hại mình, hại người và hại cả hai người hết.

Nếu xả bỏ hỷ ấy, chỉ dùng hỷ đúng như thật, không hại mình, hại người và hại cả hai, nhờ đó chuyên chú mãi không quên, đây là thọ cụ túc giới.

Đó. Bây giờ đó mới là một cái vị bậc Thánh Hiền, mới là gọi là thọ cụ túc giới đây, chớ không phải như hồi nãy là vô lậu đâu mà đây là thọ cụ túc giới, nó mới đầy đủ cái giới đầy đủ của cái vị tu sĩ đây.

Nếu mà chúng ta dùng cái hỷ, mà cái hỷ đó nó như là chúng ta tu về cái Hỷ Vô Lượng Tâm đó. Cái Hỷ Vô Lượng Tâm đó nó sẽ giúp chúng ta xả được không hại mình, hại người mà hại cả hai, cho nên chúng ta biết cái hỷ đó là hoan hỷ, vui theo với mọi sự, mọi vật, thì do đó chúng ta không làm hại người nào hết, không làm khổ ai hết, không làm khổ mình, khổ người nữa.

Do đó mà chúng ta đã thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm thì chúng ta thấy cái hỷ này rất là cần thiết cho cái sự tu tập của chúng ta. Do đó thì chúng ta nhớ mãi không quên do cái lòng hỷ này, thì đó là chúng ta mới thọ cụ túc giới.

Về ưu thân cũng có ba: Hại mình, hại người, hại cả hai.

Chữ ưu đây là cái sự buồn khổ đó, buồn khổ trong cái thân của mình. Thân mình nhức cái chỗ này, thân mình đau chỗ kia, lói chỗ nọ đó, là cái sự buồn khổ của cái thân đó.

Nếu xả bỏ ưu thân này, dùng ưu thân đúng như thật, không hại mình, không hại người, hại cả hai, đây gọi là thọ cụ túc giới.

Nghĩa là chúng ta dùng cái ưu thật, nghĩa là đừng có lấy cái đau khổ của mình mà làm cho mình khổ sở đó, là cái sai.

Mà lấy cái đau khổ phiền toái của chúng sinh mà làm cái chỗ mà thương xót, thì đó là chúng ta đã thọ cụ túc giới đó, như Thầy dạy Từ, Bi, Hỷ, Xả đó, quý thầy tu tập về cái lòng thương yêu của mình đó, đó là cái chỗ mà về ưu thân có ba đó, là không hại mình, hại người, hại cả hai, tức là thực hiện tâm Từ Bi của mình đó.

Đó là gọi là xả về cái ưu thân của mình, đây gọi là thọ cụ túc giới thứ hai.

(17:27) Về xả thân cũng có ba.

Mình xả, có cái mình xả mà hại người, có cái mình xả hại mình, có cái mình xả hại cả hai.

Cho nên mình phải xét cái nào mình xả, mình bỏ ra mà hại người khác, cũng như bây giờ mình tính thôi bây giờ mình bỏ đi, mình bỏ mình đi tu đi, mình xả bỏ hết của cải, tài sản đi, bỏ luôn cả vợ con đi. Lúc bấy giờ vợ con không ai nuôi, không ai làm cho nó sống hết, nó khổ sở.

Đó, mình xả kiểu đó mình xả kiểu mà hại người ta đó, chết đó! Bây giờ con mình mới sanh ra, nó chưa có ai mà chăm sóc, chưa ai lo lắng mình cũng xả bỏ con đi đi, thì lúc bấy giờ ai nuôi nó? Đó là mình xả như vậy là sai!

Vì vậy cho nên chúng ta khi mà xả những cái gì mà ở trong thân của chúng ta cũng như xả một cái gì đó thì chúng ta phải sáng suốt, khéo léo.

Cũng như bây giờ, cái thân của chúng ta như thế này, thôi bây giờ mình chặt cái đầu nó chết đi, nó là vô thường đi, mình xả bỏ nó đi mình cho nó không khổ nữa. Cái điều đó là mình xả ngu rồi chớ không phải là xả đúng.

Cho nên vì cái sự xả đó mà làm khổ mình đó, hại mình đó, thì cái đó là Phật nói xả kiểu đó là xả thân mà hại mình thì đừng có làm cái chuyện đó.

Cho nên có một thời Tỳ Kheo mà nghe quán cái thân bất tịnh, rồi họ thấy cái thân này ghê gớm quá, họ mướn người khác đâm cho họ chết đi, thì một lúc sau Đức Phật hay được, cấm không có cho làm cái chuyện đó, không phải là cái chỗ như vậy.

Đó thì, chúng ta thấy trong cái bước đường nói về xả thì chúng ta phải sáng suốt: xả mà không hại mình, không hại người mà không hại cả hai.

Chớ có nhiều người mà ham tu cái xả, cái bỏ gia đình, chồng con: “Trời ơi! Tức tối gần chết! Vợ con gì nói nó không biết nghe, nó bỏ đi tu vậy, thiệt là! Cái ông thầy chùa nào mà quyến rũ như vậy, tao đốt chùa!”

Bởi vậy ở trong cuốn Diệu Thiện đó, mà cái cô Diệu Thiện cổ đi tu đó, ông cha ông giận quá ông đốt chùa đó, các con không nghe! Ổng nói ông thầy quyến rũ con ổng, công chúa đi tu ổng giận đốt chùa, cho ớn, cho ghét!

…​ đây gọi là thọ cụ túc giới.

1.3- VỀ CÁC CĂN ĐÁNG VÀ KHÔNG ĐÁNG THÂN CẬN

(19:21) Về các căn, đầy đủ trong luật nghi của Hiền Thánh có chừng bao nhiêu tâm?

Có người hỏi: Về các căn mà được đầy đủ trong luật nghi của Thánh Hiền có chừng bao nhiêu căn?

Đó thì, Đức Phật cũng giải thích cho chúng ta thấy rằng về luật nghi mà đối với các căn của chúng ta được đầy đủ của Thánh Hiền.

Về mắt thấy sắc, Ta nói có hai:

Nghĩa là đối với mắt thì ta thấy cái sắc, thấy các pháp đó thì ta thấy phải có hai, để cho cái luật nghi của giới Thánh Hiền nó phải như thế nào đúng ở trong cái chỗ căn đó, cho nên đối với mắt thì nó có hai.

Một là đáng thân cận, hai là không đáng thân cận.

Đó thì, các thầy thấy khi chúng ta thấy một cái vật đó mà chúng ta đáng thân cận, mà khi chúng ta thấy vật đó mà chúng ta không đáng thân cận, thì chúng ta phải thấy khi con mắt thấy cái vật đó mà chúng ta thân cận, mà thấy cái vật đó mà chúng ta không nên thân cận, thì cái này nó là luật nghi của Phật đó, cái luật nghi của Phật.

Mình thấy một cái gì đó mà gợi cái tâm dục của mình lên là không nên đáng thân cận, mà thấy cái đó mà tâm dục mình không có gợi lên, không có ham thích đó, thì cái đó là đáng thân cận.

Đó. Cũng như bây giờ các thầy vô đây ăn ngày bữa cơm mà không cho quý thầy ăn phi thời thì cái đó là quý thầy đáng thân cận. Thấy thực phẩm ở đây mà bắt đầu mà cho quý thầy không thấy thèm, thấy khát cái gì hết đó, thì đó là đáng thân cận, mà thấy các thầy mà thấy còn thèm ăn, còn này kia thì không nên đáng thân cận, vì cái chỗ đó là không phải chỗ tu.

Cho đến tai nghe cũng vậy, mà mũi ngửi mùi cũng vậy, lưỡi nếm vị cũng vậy, thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy.

Nghĩa là cũng có hai pháp, hai pháp vậy, lúc thì cái mũi, cái mùi của mình, mà cái tai nghe tiếng của mình thì cái tiếng nào đáng thân cận.

Cũng như nghe Thầy thuyết giảng thì các con nghe cái tiếng đó là đáng thân cận, mà nghe ca, nghe hát, nghe mấy cô đào ở thành phố mà phát đài đó, các con mở đài ra nghe ca hát: “Trời du dương quá!” - tám câu vọng cổ, mười câu vọng cổ nghe trữ tình dữ tợn đó, nghe nó muốn xiệu hết đó, thì các con nên dẹp cái thứ đó đi, cái đó là không có đáng nghe! Cái tiếng đó không có được nghe!

Đó thì những cái vậy. Còn những cái mùi thơm, mùi này, mùi kia, mùi mà làm cho chúng ta gợi lên cái thích ăn rồi thích mà gần gũi, thì những cái mùi đó dẹp đi! Những cái mùi vị của đạo thì nên là gần gũi, mà cái mùi vị mà của thế gian thì không gần gũi.

Còn cái lưỡi nếm vị cũng vậy: vị ngon, vị đắng, vị này kia tất cả, xa lìa nó đi, đừng có nếm những cái vị đó, nó không có được! Phải nếm cái vị Cam Lồ của sự tu hành của chúng ta mà thôi!

Thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy, cho nên nó cũng có hai. Đó là quý thầy nhớ kỹ để mà chúng ta nỗ lực tu hành.

(22:02) Như thế nào mắt thấy sắc mà thiện pháp tổn giảm?

Nghĩa là Đức Phật nói: Khi con mắt chúng ta thấy một cái hình ảnh đó mà cái thiện pháp nó bị làm giảm xuống đi, mà bất thiện pháp nó tăng trưởng thì không nên thân cận cái đó. Các thầy hiểu chưa?

Mà bây giờ mắt thấy sắc đó mà cái thiện pháp nó tăng trưởng, bây giờ thấy - thí dụ như có người ăn mày đi sang qua đường của mình, đi ngang trước ngõ mình, mình thấy cái người đó đói khổ quá tội nghiệp, mình lấy gạo mình cho người đó, hay lấy cơm cho người đó, hay lấy thực phẩm cho người đó, hay lấy tiền cho người đó, thì cái đó là mình thân cận cái đó!

Còn mình thấy một cái người uống rượu mà mình nhào vô mình uống rượu với họ, thì thôi thôi, đừng đừng! Thấy cái này thôi thôi để mình - nó là ác pháp nó tăng trưởng rồi đó, mà thiện pháp nó giảm xuống thì mình tránh xa cái bọn uống rượu đi! Thì như vậy đó là mình mắt thấy sắc mà thiện pháp nó tổn giảm thì ngay đó là mình lui đi.

Thấy người ta bài bạc thôi đừng có rớ vô vì đó là cái ác pháp rồi. Bất thiện pháp nó sẽ tăng trưởng lên mà thiện pháp nó giảm, vì vậy cho nên mình tránh xa đi!

2. Mắt thấy sắc mà thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp tổn giảm thì nên đáng thân cận. Đây là các căn đầy đủ luật nghi Thánh Hiền.

Đó thì, quý thầy thấy chưa?

Bởi vì mình muốn cho cái luật nghi của Thánh Hiền mình, cái oai nghi, cái tế hạnh của luật của mình đầy đủ thì mình có con mắt, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình đối với cái pháp nào mà đáng thân cận mà pháp nào không đáng thân cận, hễ thiện pháp tăng trưởng thì thân cận, mà ác pháp tăng trưởng thì mình không được thân cận.

Đó Phật dạy cho mình từng chút để mình giữ oai nghi, cái luật nghi tế hạnh của mình ở trong những cái chỗ mà mình có thể tiếp xúc. Chớ đâu phải là Đức Phật dạy luật nghi mà không có cái hiểu biết như vậy thì quý thầy sẽ bị phạm hết sao!

Cho nên trong cái dạy về giới luật, Thầy dạy rất kỹ về cái vấn đề này để cho quý thầy thấy được cái chỗ tu tập của chúng ta trong cái giới hạnh cho nó nghiêm chỉnh, biết nó được cái nào là đúng, cái nào là sai ở trong cái oai nghi, chánh hạnh của bậc Thánh Hiền.

1.4- BA LOẠI CỨU CÁNH

(24:09) Có bao nhiêu cứu cánh?

Ở đây có người hỏi Đức Phật: “Có bao nhiêu cứu cánh?”

Bị ái làm khổ thân, tâm mà diệt được thì gọi là cứu cánh.

Đức Phật trả lời đó! Bị ái tức là bị thương ghét, bị ham muốn làm khổ thân, tâm của mình mà diệt được cái đó là cứu cánh!

Vậy thì cứu cánh có bao nhiêu?

Có ba cứu cánh:

Đó, Đức Phật phân tích cho chúng ta thấy nó có ba cứu cánh. Bây giờ chúng ta diệt ái mà nó sạch rồi thì thân, tâm của chúng ta không còn khổ được nữa, thì nó gọi là cứu cánh, chớ không phải là cứu cánh có một cảnh giới nào khác lạ hơn là cái chỗ mà chúng ta diệt cái lòng ham muốn của chúng ta.

Do đó, khi mà cái lòng ham muốn nó hết đó là gọi là cứu cánh. Nhưng mà nó có mấy loại cứu cánh? Ở đây Phật nói có ba loại cứu cánh.

1. Cứu cánh Phạm hạnh;

Cứu cánh Phạm hạnh tức là giới hạnh đó, các con thấy, giới hạnh đó. Vậy thì cứu cánh Phạm hạnh, một người mà còn làm nghề nông nè, còn làm thư ký nè, còn làm thầy thuốc nè, thì cái đó có Phạm hạnh không? Không có Phạm hạnh!

Cho nên nó còn bận tâm lo là đi vào rừng đào rễ cây về vạt, rồi mới là hốt, mới bằm, sắc, sao, rồi đốt hay hoặc là tẩm rồi chế cái này, chế kia ra rồi mới hốt cho họ thành thang để họ trị bệnh, thì như vậy họ có cứu cánh không? Hay hoặc là họ đang bận công việc?

Họ đâu có giải thoát đâu mà gọi là cứu cánh. Cho nên không thể nào gọi là cứu cánh Phạm hạnh được, mà cứu cánh Phạm hạnh thì gọi là giới hạnh.

Cái thứ hai là:

2. Cứu cánh an ổn;

Cứu cánh an ổn gọi là giới đức.

Một người tu mà ngồi thiền định mà nhập từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền, có an ổn không quý thầy? Rất an ổn, hỷ lạc rất tràn đầy, lúc bấy giờ ngồi như là ở trên cái cảnh giới Thiên đàng chớ đâu phải là ngồi dưới đất này đâu! Cho nên vì vậy đó gọi là giới đức.

3. Cứu cánh vô dư.

Đó là cái cứu cánh vô dư, đó là giới tuệ. Cái cứu cánh vô dư đó là giới tuệ.

Các thầy thấy: Ba cái cứu cánh này nó ứng với ba cái giới mà chúng ta đã học, giới hạnh, giới đức, giới tuệ.

Đó thì, qua những cái bài học như vậy thì chúng ta đã thấy, biết được rằng con đường mà chúng ta tu tập nó phải đi từng bậc nào để mà đi vào trong những cái giới luật mà chúng ta đã học.

Tiếp tục Thầy giảng thêm cái phần này để chúng ta thấy được con đường tu tập giới luật của chúng ta nó thực hiện như thế nào để mà chúng ta biết được cho nó rõ ràng hơn để mà chuẩn bị cho cái sự bước qua một cái giai đoạn giới tuệ cho nó thông suốt. Chớ còn nếu không mà bước qua giới tuệ thì tức là chúng ta thấy như mình ở trên trời xanh chớ chưa phải là ở dưới đất đâu!

1.5- NĂM PHÁP KHIẾN DỤC LẠC TĂNG TRƯỞNG

(26:38) Có năm pháp khiến dục lạc tăng trưởng:

Hồi nãy chúng ta nói dục đó, tham dục đó, thì bây giờ nó về dục lạc mà khiến cho nó tăng trưởng, có năm pháp khiến cho dục lạc tăng trưởng.

Người tu sĩ Phật giáo phải xem năm pháp này là dây xiềng xích, lòi tói trói chặt người tu sĩ, không có vẫy vùng, khó mà vẫy vùng ra khỏi.

Nghĩa là phải thấy năm pháp mà khiến cho cái dục lạc của thế gian nó tăng thịnh ở trong tâm của chúng ta. Vậy đó năm pháp đó là gì?

Những sắc pháp do mắt cảm nhận khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc, ái lạc.

Đó, thì cái pháp nào, lẽ ra thì Thầy đã giảng ở trong cái chỗ Ngũ Dục Lạc, rồi sáu cái dục lạc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đó, nhưng mà Thầy lướt qua cái chỗ đó đi. Cho nên bây giờ Thầy nghĩ rằng nếu mà không nhắc lại sơ cái này, coi như lược sơ, thì quý thầy - không có giảng cái phần đó thì coi như là hơi thiếu.

Thay vì phải giảng cái phần đó thì nó cũng quá nhiều cho nên Thầy không giảng, nhưng ở đây Thầy chỉ lược sơ để cho quý thầy thấy được cái chỗ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đó, đó là nó lôi hút, nó cám dỗ chúng ta cũng dữ lắm!

Nhưng ở đây, để xuyên qua trong cái phần giới luật của giới tuệ thì chúng ta nhắc lại cái phần này để chúng ta thấy được cái chỗ mà chúng ta tiến vào con đường của đạo Phật.

Những sắc pháp do mắt cảm nhận, nó làm cho chúng ta thấy khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc và ái lạc.

Đó, thì những cái pháp đó đó, chúng ta phải - nó là những cái sợi dây xiềng xích, lòi tói mà trói chặt chúng ta lắm đó! Coi chừng những cái hình ảnh, cái sắc pháp đó nó sẽ cám dỗ chúng ta mạnh lắm đó!

Những tiếng pháp do tai cảm nhận…​

Những cái âm thanh, cái tiếng pháp đó, coi chừng nó cũng có thể - nó cũng là những sợi dây xiềng xích, lòi tói, nó trói chặt chúng ta lắm đó!

(28:41) Những hương do mũi cảm nhận…​

Những hương thơm do mũi cảm nhận, nó cũng là sợi dây xiềng xích, lòi tói trói chặt chúng ta đó!

Những vị do lưỡi cảm nhận…​

Tức là những cái ngày mà chúng ta ăn cái món ăn ngon, ăn dở, coi chừng à nó trói chúng ta chặt lắm đó! Nó là sợi dây xiềng xích, lòi tói rất là chặt đó!

…​ do xúc thân cảm nhận.

Đó thì, những cái điều kiện đó nó là những cái sợi dây trói chặt.

Năm pháp này khiến cho con người chấp trước, mê đắm, bị trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly chúng.

Nếu mà chúng ta không nhận nó được thì nó sẽ trói buộc chúng ta rất chặt chớ không phải là đơn giản đâu. Thường thường là chúng ta xem thường nó lắm, nhưng mà rồi chúng ta sẽ bị nó trói chặt!

Cho nên ở đây, Phật chỉ nêu lên năm cái pháp để mà nó lôi cuốn, nó trói chặt chúng ta. Nhưng chúng ta còn quên có một cái pháp nữa, tức là cái pháp thứ sáu đó, do cái ý.

Ở đây nói nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý - thân thì có xúc, mà ý thì nó có khởi ra các pháp, cho nên cái pháp nó làm cho chúng ta trở thành những cái kiến chấp, nó cũng ghê gớm vô cùng, nó trói chặt chúng ta.

Biết cái pháp của mình là sai chớ chưa dám bỏ đâu, khi mà mình nghĩ rằng: “Con đường thiền của tui tu đây là đúng của Phật rồi!” - mà trật, sự thật ra nó trật lất à, nó không có đúng, mà họ nói đó là đúng rồi, họ bỏ không có được.

Cũng như họ tu tập thiền xuất hồn, họ nói đây là xuất hồn, tui có xuất hồn được rồi, cho nên từ đó họ không bỏ được. Đó là cái pháp, cái pháp làm cho họ dính mắc, nó cũng cám dỗ dữ lắm!

Khi mà đọc được một cái bài nào đó họ thích thú, cũng chẳng hạn là như có người đọc sách của ông Krisnamurti: “Trời ơi nó hay quá, quá chừng hay!” Do đó mở miệng ra thì cứ Krisnamurti không ở trỏng à, mà cuối cùng thì ông ta chỉ có miệng không à, chớ không có giải thoát như Krisnamurti chút nào hết.

Cho nên cuối cùng thì cái đó gọi là cái kiến chấp của pháp, mà cái đó nó lôi cuốn cũng mạnh lắm! Hở ra chút nào thì ông ta vươn cổ lên mà khạc ra ba cái thứ đó. Nó không phải là con đường giải thoát mà là con đường tà kiến, một con đường sai, mà lý luận nó nghe nó siêu việt dữ lắm, cho nên từ đó chúng ta bị cái lầm chấp đó, chúng ta thấy nó hay cho nên chúng ta bị dính nó rồi! Nó cũng làm chúng ta thích thú, cũng say mê, cho nên nó trói buộc chúng ta rất chặt.

Cho nên ở đây thì Phật nói năm chứ sự thật nó là sáu: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà! Chớ đâu phải là cái thứ thường đâu!

1.6- NĂM TRIỀN CÁI

(31:09) Bây giờ tiếp tục, chúng ta sẽ học cái phần này. Bởi vì chúng ta nghe triền cái rồi nghe nào là kiết sử mà chúng ta không hiểu nó thì chúng ta biết ở đâu mà chúng ta dẹp những cái triền cái này? Bắt đầu chúng ta phải học cái này.

Có năm triền cái được gọi là chướng ngại, được gọi là màn che, triền phược trong giới luật của bậc Thánh.

Nghĩa là năm cái này nó làm cho chúng ta - nó làm cho che mất cái giới luật nghi của các bậc Thánh, nó làm cho chúng ta không giữ trọn được các bậc Thánh là năm cái triền cái này.

Cho nên một cái người mà học về giới luật mà không thông được năm cái triền cái này thì chúng ta bị nó che. Bởi vì “cái” là cái màn che, nó che ngăn, nó làm cho chúng ta không có thấy được, cho nên chúng ta phạm giới chớ không phải gì hết. Còn chúng ta thấy được thì chúng ta không phạm giới.

Cho nên trong cái luật của bậc Thánh Hiền mà khi mà chúng ta rõ được năm triền cái này thì chúng ta không còn bị nó che mất cái luật của chúng ta đi. Còn nếu mà không rõ thì nó bị che mất đi, nó làm chúng ta phạm giới.

1. Dục cái;

Tức là tham cái đó.

2. Sân cái;

3. Hôn trầm - thùy miên cái;

4. Trạo hối cái;

5. Nghi cái.

Đó là năm cái được gọi là Ngũ Triền Cái đó! Năm cái triền cái, năm cái sự ngăn che làm chúng ta mờ mịt, làm chúng ta phạm giới của bậc Thánh Hiền đó, thì đó là năm cái này.

Dục cái hay là tham cái tức là cái lòng ham muốn của chúng ta, nó ngăn che, nó làm chúng ta phạm giới.

Bởi vì mình ham muốn, thí dụ như mình thấy cục đường hay hoặc là cái miếng kẹo hay cái bánh, cái mình thèm ăn rồi, thì bắt đầu mình lấy mình bỏ vô miệng mình nhai nuốt đi, thì tức là cái lòng tham muốn của mình đó đó mà nó che đi, làm cho mình phạm giới phi thời, phải không? Quý thầy thấy rất rõ không?

Cho nên chỉ một chút xíu thôi là mình bị phạm giới thôi, chỉ một chút cà, nó ham muốn cái đó thì nó bị che cái giới luật đi thì cái đó là mình bị phi thời mất.

Sân cái tức là cái tâm sân hận của chúng ta. Giận dữ lên thì nó làm chúng ta phạm vào những cái giới luật, lời ăn, tiếng nói chúng ta thô lỗ, tức là nó phạm vào cái giới luật đó rồi!

Nó chửi mắng người ta, nó nạt nộ người ta, nó làm dữ tợn, thì nó là phạm phải là cái giới luật về khẩu nghiệp của chúng ta. Đó, cho nên chúng ta nó phạm vào cái giới.

Ba là hôn trầm - thùy miên cái. Hôn trầm là ngủ gục, thùy miên là ngủ. Những cái người mà ngủ này họ thường thường là họ bị phi thời. Cho nên trong cái vấn đề mà hôn trầm - thùy miên này nó mới sanh ra cái si, mà cái si thì si cái đó, tức là cái ngu si, cái vô minh đó, thì gọi là hôn trầm - thùy miên cái tức là gọi là si.

(34:01) Cho nên gọi là tham, sân, si đó, nó là ba cái độc, thì hôn trầm - thùy miên là cái trạng thái của cái người ngu si, mà ngu si thì nó làm cho người ta vô minh, người ta không có thấy cái đúng, cái sai, cái nào là hại, cái nào không hại, cái nào là đúng chân lý, mà cái nào không đúng chân lý. Vì cái si mà, làm sao đúng được, cho nên do đó nó bị lầm chấp.

Cũng như bây giờ mình chấp một cái pháp nào đó, mình cứ cho nó đúng, tức là do cái si mê của mình, bị cái kiến chấp. Cũng như mình lầm chấp cái thân của mình có cái ngã ở trong này, có cái thật ở trong này, đó là cái lầm chấp, mà cái lầm chấp đó gọi là si, si mê.

Mà cái si mê đó nó hiện ra cái tướng hôn trầm - thùy miên, tức là cái người mà ngu si là cái người ham ngủ. Cái người mà ham ngủ, ngủ gà, ngủ gật là mấy người đó ngu si lắm! Họ không có thông minh.

Mặc dù là họ thông minh cái gì kệ họ, nhưng mà đối với Phật Pháp, đối với sự giải thoát, tu hành, họ là người ham ngủ thì họ là cái người ngu si, họ không sáng suốt được, họ không thấy được cái chân lý đúng là cái chỗ giải thoát.

Mà họ, cái người mà ngu si mà hôn trầm - thùy miên đó là cái người đó họ luôn luôn là - những hạng người đó họ chạy theo dục chớ không bao giờ mà họ thoát ra khỏi dục.

Bốn là trạo hối cái. Trạo hối cái là những cái loạn tưởng, những cái vọng tưởng nó liên tục, nó từ cái này đến cái khác, nó làm cho họ nhớ, tiếc thương cái này, nhớ, tiếc thương cái kia. Ngồi đây mà nhớ chuyện quá khứ không đó thì cái chuyện đó là trạo hối của họ, gọi là trạo hối cái, nó che làm cho họ không có thấy được cái tâm của họ đang dày vò, đang đau khổ, đang nhớ cái này, đang tiếc cái kia đó, gọi là trạo hối!

(Mất tiếng) …​ mình thế này, cũng như mình đến mình học với ông thầy nào đó dạy mình, nghi ông thầy: “Ổng chưa có tu chứng” như thế này, như thế khác, “thôi mình học ít bữa bỏ đi.”

Như mình thấy cái vị đó tu hành, mình đâu có hiểu được họ như thế nào, trong một ngày, hai ngày đâu làm sao thông họ được?

“Cái ông thầy này ổng ở bẩn quá, không có thể được!” Rồi mình ở với ông thầy này: “Ông thầy này ổng khổ hạnh quá, mình ở cũng không được!” - “Ông này ổng ăn uống ngày có một bữa như vậy, sống sao nổi mà tu!” - “Ông thầy này ổng làm cái kiểu cách ổng chớ chưa chắc đã là chứng!”

Do đó mình nghi ổng đi. Mình nghi ổng tức là mình phải bỏ ổng thôi, mình không làm sao mình tu. Cho nên, những cái nghi đó là nó che mờ mà mình không thấy được cái điều kiện.

Hoặc là ông thầy ổng thể hiện qua cái ổng thử thách người đệ tử, cái người đệ tử tưởng là: “Ông thầy này ổng còn phàm phu quá! Thấy kiểu cách của ổng không thấy ổng là bậc Thánh!

Nhưng mà không ngờ là người ta thử thách mình, nhưng mà cuối cùng thì mình bị người ta gạt mình, rồi mình đâm ra mình nghi ông thầy. Từ đó mình sẽ mất cái chỗ đứng của mình mình tu tập.

Bởi năm triền cái này mà người tu sĩ bị che khuất, bị trói buộc, bị triền phược, bị chướng ngại khiến cho người tu sĩ phạm giới.

Đó, thì năm cái triền cái đó nó sẽ làm cho cái người tu sĩ phạm giới, đều là do năm cái triền cái đó.

1.7- NĂM HẠ PHẦN KIẾT SỬ

(36:50) Đó thì chúng ta đã biết được năm cái triền cái rồi thì bây giờ chúng ta học thêm năm cái hạ phần kiết sử.

Bởi vì về kiết sử thì nó có năm hạ phần kiết sử và năm thượng phần kiết sử. Nếu mà chúng ta không học thì chúng ta làm sao biết được, do đó chúng ta thấy triền cái nó cũng giống, mà lại là kiết sử nó cũng giống, nó cũng giống như nhau, nó không khác nhau, là chỗ nào là kiết sử, mà chỗ nào là cái? Chúng ta phải phân biệt được cái chỗ này!

Năm hạ phần kiết sử:

1. Tham;

2. Sân;

3. Si;

4. Mạn;

5. Nghi.

Đó. Tham tức là hồi nãy là dục cái đó, chúng ta thấy, hễ nói về nó che ngăn, nó làm cho chúng ta không thấy, gọi là cái, mà nó làm cho chúng ta bị trói buộc, bị dính mắc đó, thì đó là kiết sử.

Kiết sử có nghĩa là nó trói chúng ta, rồi nó sai chúng ta, nó làm cho chúng ta chạy theo nó, gọi là kiết sử. Đó cho nên, khi mà chúng ta bị một cái tâm tham mà nó kiết sử thì chúng ta bị nó trói chúng ta, rồi nó sai chúng ta, gọi là kiết sử.

Mà khi mà cái tâm tham của chúng ta nó bị mờ ám, nó làm cho chúng ta phạm giới đó, thì cái đó là dục cái. Chúng ta không rõ cho nên do cái tâm ham muốn đó mà nó xảy ra, nó làm chúng ta phạm giới thì đó là dục cái.

(38:13) Chẳng hạn là như bây giờ đó, mình bị che mờ, mình thấy một cái cô phụ nữ đi ngang qua, trong tâm mình khởi lên có cái tâm dục, thì do đó là mình bị cái tâm dục mình nó che đi, tức là cái tâm tham dục đó nó che đi, do đó cái ý mình khởi lên thấy cô ta đẹp, chớ mình chưa khởi gì hết, thấy cô ta đẹp thì ngay đó là mình bị che mờ đi, do cái ý đó mình đã bị phạm giới.

Đó. Còn bây giờ thì kiết sử thì nó lôi chúng ta chạy theo cười cợt, nói chuyện với cô ta rồi đó, thì cái chuyện đó là kiết sử!

Bây giờ nó lại gần hơn đó, hồi đó nó che chúng ta, rồi chúng ta không thấy, chúng ta khởi, mới khởi ý thích thôi, thì bắt đầu cô này ngó mình một cái, cái liếc cái rồi mình cũng ngó theo, mình liếc theo. Bắt đầu bây giờ đi theo gót cô ta tìm cách gợi chuyện nói, thì như vậy đó là mình đã bị kiết sử nó trói mình đó.

Sân nó cũng vậy.

Mà si, ở đây chỗ si mà gọi là năm hạ phần kiết sử thì Phật còn có gọi một cái tên là giới cấm thủ.

Giới cấm thủ nghĩa là cái si nó làm cho mình dính mắc, giữ gìn cái đó trở lại, nó làm cho mình không có thấy cho nên mình không có buông ra được, mình không có ly ra được. Đó, mình chạy theo hoài mà không có biết mệt mỏi. Đó gọi là Si, cho nên Phật còn gọi là giới cấm thủ.

Mạn - tức là ở đây Phật còn gọi chữ mạn đó là thân kiến. Thân kiến nghĩa là mình chấp cái thân của mình.

Cái phần năm hạ phần kiết sử này là thay vì mạn là ngã mạn, là kiêu mạn, thì ở đây Phật - cái mạn của năm cái hạ phần kiết sử này thì Phật cho là thân kiến, tức là mình chấp cái thân của mình là có thật, ở trong cái thân Tứ Đại này nó có cái thật ở trong này, cho nên đó gọi là thân kiến hay là kiến chấp. Thân kiến tức là chấp cái thân có thật.

Cho nên chữ mạn đây là chỉ cái thân kiến chớ không phải là mạn là ngã mạn, cao ngạo, mà đây là thân kiến. Cho nên năm hạ phần kiết sử đây, mình chấp cái thân mình do có - vì vậy mà có những vật chất xung quanh là cái năng sở của nó, nó trói buộc mình, nó làm cho mình bị cái mạn này.

Nghi thì chắc chắn là hồi nãy Thầy có giảng ở nghi cái rồi, bởi vì cái nghi này nó nghi rồi bắt đầu nó cứ theo dõi nó này kia nọ, nó đủ cách nó lôi cuốn mình đó, gọi là nghi. Mà nó - cái kiết sử thì nó lôi mình đi theo cái sự nghi đó mà nó không bao giờ mà rời, gọi là kiết sử. Cho nên đây gọi là năm hạ phần kiết sử.

1.8- NĂM THƯỢNG PHẦN KIẾT SỬ

(40:47) Năm thượng phần kiết sử thì như thế nào:

1. Sắc tham;

2. Vô sắc tham;

3. Mạn;

4. Trạo cử;

5. Vô minh.

Vô minh ở đây chúng ta phải hiểu nó là si đó, là hôn trầm, thùy miên như hồi nãy đó, là ở trên cái cái kia. Còn chữ si ở chỗ năm hạ phần kiết sử này là giới cấm thủ tức là bị dính mắc, nó không rời ra được, nó giữ chặt, bị nó trói buộc ở trong cái vật chất, cái giới đó rồi, nó làm cho chúng ta chặt ở trong đó.

Cho nên cái si này nó bị mờ mịt, nó không thấy, nó vô minh không thấy mà cứ chính cho đó là cái chấp của mình, như mình bây giờ thân kiến, mình chấp cái thân này thật mà mình bị giới cấm thủ của cái si cho nên mình coi nó là thật, ai nói gì mình cũng chẳng nghe hết, tức là mình bị si, tức là giới cấm thủ đó!

Còn ở đây, còn ở năm thượng phần kiết sử này, sắc tham nghĩa là có một cái hình ảnh, có một cái sắc tướng nào đó làm cho mình chạy theo cái sắc đó, trói buộc mình chạy theo sắc đó tức là sắc tham.

Vô sắc tham tức là mình ngồi, mình tưởng tượng ra cái hình sắc này, hình sắc kia, mình thấy thích thú ở trong đó, đó là kiết sử nó vô sắc tham.

Ba là mạn. Mạn là mình - tức là ở chỗ mạn này là cao mạn, kiêu mạn đó, chớ không phải là mạn là thân kiến nữa đâu, nghĩa là nó coi mình là trên hết đó. Thì cái mạn cũng có nghĩa là thân kiến, mà cũng có nghĩa là cao ngạo, mà cũng có nghĩa là chấp ngã.

(42:18) Trạo cử - trạo cử như hồi nãy mà ở chỗ trạo hối đó. Trạo cử là nó lăng xăng, nó nghĩ chuyện này đến chuyện kia, lung tung đó. Đó là năm thượng phần kiết sử, thì cái triền miên của cái tư tưởng mà nó nối tiếp nhau nó gây chúng ta có cái sự liên tục, trói buộc nhau ở trong sự triền miên suy nghĩ đó, thì cái đó gọi là trạo cử của kiết sử - năm thượng phần kiết sử.

Vô minh tức là si. Thì si vô minh thì nó cũng giống như những cái si kia, nhưng mà cái si này nó thể hiện qua cái chỗ vô minh, mờ không thấy rõ năm cái thượng phần kiết sử này, là không thấy rõ cái chân lý giải thoát của đạo Phật.

Còn cái si hồi nãy đó là cái hôn trầm, thùy miên, đó là cái, là cái sự ngu si của một cái mất tỉnh thức, nó không sáng suốt.

Còn cái chỗ vô minh này nó có minh, người này có thể là một - cái chỗ vô minh của thượng phần kiết sử này, là cái người đó có thể là một nhà bác học, có thể là một nhà tiến sĩ học rất thông minh, thông minh mọi mặt của thế gian, nhưng mà họ không có thông minh cái con đường giải thoát của họ, họ không có trí tuệ hiểu biết chân thật như bốn cái chân lý của Phật là Khổ - Tập - Diệt - Đạo, cho nên họ không giải thoát được họ, thì vậy gọi là cái vô minh này gọi là si.

Họ không thấy được cái chân lý giải thoát mà họ thấy toàn là chạy theo cái danh lợi, chạy theo cái danh của thế gian, cái lợi của thế gian, cái sắc của thế gian, cái ăn, cái uống, ngủ của thế gian. Họ làm cái gì họ cũng lo phục vụ cho những cái đó thì họ gọi là vô minh.

Chớ họ thông minh lắm chớ không phải! Họ làm ông giám đốc, bà giám đốc không chớ đâu phải làm nhỏ đâu. Họ làm ông lớn không đó chớ không phải là làm nhỏ, nhưng mà họ vẫn vô minh là vì họ không giải thoát.

Cho nên chữ si của năm thượng phần kiết sử thì chúng ta phải hiểu chữ si này nó nằm ở chỗ nó là chạy theo những cái thông minh của dục lạc chớ không phải là si theo cái kiểu buồn ngủ mà như mấy thằng làm biếng đó đâu, như là triền cái đó đâu!

Đó thì phải hiểu như vậy thì chúng ta mới hiểu được những cái danh từ ở trong kinh điển của đạo Phật để chỉ cho cái tên của nó như thế nào.

1.9- BẢY KIẾT SỬ

(44:20) Và về phần kiết sử mà gọi chung thì Đức Phật có cho nó là bảy cái kiết sử. Nghĩa là hồi đó thì năm cái hạ phần kiết sử, rồi năm cái thượng phần kiết sử, tức là mười cái kiết sử. Nhưng mà Đức Phật tóm lại thì cho chúng ta biết rằng có bảy kiết sử. Đó là:

1. Ái kiết sử;

2. Sân kiết sử;

3. Kiến kiết sử;

4. Nghi kiết sử;

5. Mạn kiết sử;

6. Hữu tham kiết sử;

7. Vô minh kiết sử.

Đó, thì chúng ta thấy nó rõ ràng là bảy cái kiết sử này mà gồm chung nó là mười cái kiết sử kia là năm hạ phần kiết sử và năm thượng phần kiết sử, gồm lại thì nó chỉ có bảy kiết sử, tắt lại thì nó có bảy kiết sử mà thôi.

Ở đây thì những kiết sử cũng là - ái kiết sử tức là dục kiết sử hay là tham kiết sử thôi chớ không có gì; sân thì biết rồi; kiến thì thân kiến thì biết rồi; nghi thì quý vị cũng biết rồi; mạn thì cũng biết rồi; hữu tham kiết sử: Hữu tham kiết sử là các vị cũng biết rồi; mà vô minh kiết sử thì cũng biết rồi.

Hữu tham tức là có khởi một cái lòng ham muốn. Hữu là có mà, có khởi cái lòng ham muốn tức là có kiết sử liền tức khắc.

Đó như vậy là chúng ta đã rõ hết bảy cái kiết sử.

1.10- BẢY TÙY MIÊN

(45:37) Vậy thì rõ biết bảy kiết sử thì chúng ta phải rõ thêm bảy tùy miên.

Tùy miên đây không phải thùy miên. Thùy miên là buồn ngủ, còn tùy miên: Tùy là theo, miên là liên tục, theo liên tục. Cho nên cái này gọi là theo liên tục đó, thì gọi là bảy tùy miên.

Cho nên có nhiều người không hiểu, thấy trong kinh sách có chỗ sao để thùy miên, rồi có chỗ sao để tùy miên, họ không hiểu!

Họ không hiểu cái danh từ chỗ người ta dùng, và người ta cũng không hiểu bởi vì chữ “tùy” với chữ “thùy” nghe nó - gần như là cái âm nó gần giống nhau, nhưng mà cái nghĩa nó cách xa lắm! Chữ “thùy” là nó ngủ, mà chữ tùy là nó theo!

Đó phải hiểu như vậy để rồi chúng ta mới thấy được cái chỗ bảy tùy miên này. Nó có bảy tùy miên chớ không phải có thùy miên, hôn trầm, thùy miên không, cái kia là ngủ nghỉ, ngủ gục thôi, nó khác.

Cho nên bảy tùy miên này nó như thế nào?

Một là dục ái tùy miên. Nghĩa cái lòng mà tham ái, tham dục của mình nó miên man, nó thích thú ở trong đó, nó kéo dài chúng ta nó thích lắm, nó kéo dài cái thời gian miên miên ở trong đó đó.

Cái người mà có cái tâm dục nó miên man ở trong những cái hình ảnh của các cô gái mà khiêu gợi họ đó, họ không bao giờ quên những hình ảnh đó. Cho nên nó làm cho họ miên man ở trong cái chỗ thích dục đó!

Sân tùy miên cũng vậy. Người ta chửi mình cái bắt đầu suốt ngày đó nó cứ ở trong lòng, nó cứ liên tục nó phiền não, phiền não hoài đó, gọi là tùy miên sân đó, đó là mình phải hiểu cái chỗ đó.

Ngay sân rồi thì mình dứt đi liền, không, để nó kéo dài từ ngày này đến ngày khác, ba bốn bữa mới cười cười được chút, chớ cái mặt héo xào à! Đó là nó bị tùy miên sân đó!

Kiến tùy miên cũng vậy, luôn luôn lúc nào mình cũng chấp những cái ý nghĩ của mình, cái gì của mình đúng luôn luôn mình cứ cho đúng, luôn luôn liên tục hoài cái gì cũng cho đúng đó. Coi chừng cái đó nó kéo dài mình mà nó không bao giờ cho mình thoát ra khỏi những cái tà kiến nữa!

Nhiều khi những cái tà kiến của mình mà mình cứ cho mình đúng, rồi mình cứ miên mật, luôn liên tục ở trong cái chỗ đó mình cho nó rằng đúng, đúng, đúng, đúng không bao giờ sai hết, ai nói gì cũng trật, chỉ có mình là đúng thôi! Thì cái đó là cái tùy miên đó, tùy miên - kiến tùy miên.

Nghi tùy miên cũng vậy. Nghi người nào nghi chết thôi à, không có chịu suy nghĩ coi người ta có đúng hay sai, người ta có ăn trộm hay không, mà cứ nghi người ta ăn trộm, cứ để nghi ăn trộm hoài, mà người ta có ăn trộm đâu! Đó là tùy miên - nghi tùy miên.

(47:50) Mạn tuỳ miên cũng vậy. Ngã mạn, cống cao, luôn luôn lúc nào hở ra cũng nghênh mặt ở trên trời, đi thì không ngó dưới đất mà ngó lên trời coi thiên hạ không ra gì, coi người ta như kiến cỏ đó. Đó là mạn tùy miên!

Hữu tham tùy miên - lòng ham muốn của chúng ta, có cái gì cũng ham muốn liên tục ở trong đầu, thấy cái gì cũng ham, thấy cái gì cũng ham, gọi là hữu tham tùy miên. Thấy vật gì nhỏ, lớn gì cũng tham hết, cũng đem nhét cất hết, đó là tham tùy miên đó.

Vô minh tùy miên là luôn luôn lúc nào cũng không thấy hiểu biết cái gì hết à! Cái gì cũng chấp, cái gì cũng dính, cái gì cũng mắc hết đó, lúc nào nó cũng miên mật ở trong cái đầu của người đó hết, thì đó gọi là vô minh tùy miên, không có hiểu cái gì hết. Cái gì cũng bị dính mắc hết!

Đó là những cái phần mà chúng ta học về những cái từ để chúng ta biết được những cái trạng thái của tâm chúng ta nó rơi vào ở trong những cái trạng thái nào: của kiết sử, của năm triền cái, của bảy cái tùy miên. Chúng ta biết được những cái chỗ đó để mà chúng ta biết được cái tâm niệm của mình nó đang ở cái dạng nào mà chúng ta diệt trừ nó, chớ không có để.

Nói như vậy nó quá nhiều, quý thầy cũng khó nhớ, do đó quý thầy cũng cần phải đọc đi, đọc lại nhiều lần để nhớ những cái này. Khi cái tâm chúng ta khởi ra, chúng ta biết nó nằm ở trong cái kiết sử nào, cái dục cái nào như thế nào thì chúng ta mới loại trừ nó ra được, còn nếu không thì chúng ta khó mà loại trừ ra được nó!

Bây giờ Thầy đọc lại chỗ tùy miên con, để cho các con kiểm tra lại. Bảy hả con?

1. Dục ái tùy miên;

2. Sân tùy miên;

3. Kiến tùy miên;

4. Nghi tùy miên;

Nghi tuỳ miên phải không các con? Ừ thiếu nghi tuỳ miên. Nghi là nghi ngờ đó.

5. Mạn tùy miên;

6. Hữu tham tùy miên;

7. Vô minh tùy miên.

Đủ rồi phải không?

2- GIỚI TUỆ PHẢI ĐI TỪ NỀN TẢNG GIỚI ĐỨC, GIỚI HẠNH

(49:51) Để tiếp tục cái chương trình giáo án này, quý thầy học đến giới tuệ. Sau thời gian đã qua, đã được học giới hạnh, giới đức và bây giờ là học giới tuệ.

Giới tuệ phải được đặt trên nền tảng của giới đức, nếu không đặt trên nền tảng giới đức thì khó mà xây dựng ngôi nhà giới tuệ được. Nghĩa là không tu tập xong giới đức thì không thể nào tu tập giới tuệ được. Cũng như các thầy không tu tập giới hạnh được mà vội tu giới đức thì khó mà tu tập được.

Ví như trường học ngoài đời có ba cấp, một là Tiểu Học, hai là Trung Học, ba là Đại Học. Nếu học chưa xong Tiểu Học thì làm sao lên Trung Học học được? Nếu học chưa xong Trung Học mà lên Đại Học thì làm sao học được?

Vì vậy quý thầy muốn tu theo đạo Phật thì quý thầy phải tu tập lớp Sơ Thiện tức là giới hạnh. Khi đã tu tập lớp này xong mới tiến lên lớp Trung Thiện - giới đức. Sau khi đã tu tập xong lớp Trung Thiện xong quý thầy mới tiến lên lớp tu tập Hậu Thiện là giới tuệ.

Đó thì quý thầy thấy nó phải có từng bước, từng bước.

Cũng như bây giờ thí dụ như cái lớp Sơ Thiện là cái lớp giới hạnh, mà cái lớp giới hạnh thì quý thầy biết rằng đó là cái lộ trình của người tu sĩ. Mà bây giờ quý thầy còn ở trong chiếc áo của cư sĩ, còn gia duyên còn làm những công việc, còn bao nhiêu nghề nghiệp để sinh sống thì thử hỏi quý thầy không có thực hiện cái lớp đó mà bây giờ quý thầy ngồi cái lớp giới đức để tu thiền định thì có được không?

Như vậy là quý thầy không có học lớp Tiểu Học mà nhảy lên Trung Học học thì ngồi đó chỉ ngó thôi chớ làm cái gì? Người ta cho bài ra chỉ còn có nước cắn ngòi bút chớ làm sao mà làm?

Đó thì quý thầy thấy cái điều đó là một cái điều mà quý thầy đã lạc ở trên con đường tu tập.

Cho nên cái ba y, một bát mình vẫn chưa xong mà mình vội mình ngồi tu thiền thì chẳng qua là mình đi vào cái hang thiền quỷ thôi chớ làm sao mà thiền gì đúng được?

Bởi vì đức hạnh của con người là cái giới hạnh, là phải dẹp tất cả cái đời sống của thế gian mới đi vào con đường này được!

Bởi vậy đến giới tuệ, quý thầy mới thấy cái lực của giới tuệ nó tuyệt vời không có thể nào tưởng tượng được. Là vì người ta phải dẹp hẳn cái thế gian, cái cuộc sống của thế gian, người ta hoàn toàn là người ta thực hiện cái đời sống của bậc tu sĩ rồi, thì do đó mới đến cái giới tuệ này chúng ta mới thấy nó là cả một cái sự siêu việt của con người chớ đâu phải là tầm thường!

Cho nên muốn đi được vào cái chỗ này mà quý thầy còn sống ở trong thế gian thì thử hỏi làm sao mà quý thầy được! Cho nên cái lớp Sơ Thiện mà không được thì làm sao mà cái lớp Đại Học - cái lớp giới tuệ được, cái lớp Hậu Thiện được? Đâu có phải chuyện dễ đâu!

Lẽ ra người dạy đạo tu hành không thể dạy mênh mang như thế này được…​

(52:57) Nghĩa là đối với Thầy là một người mà dạy đạo thì không bao giờ mà dạy mênh mang như này.

…​ nhưng vì cái giáo án tu tập của Đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm.

Nghĩa là cái giáo án của Đức Phật đã để lại trong kinh sách của chúng ta mấy ngàn năm rồi chớ không phải là ít. Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm chớ đâu phải ít? Thế mà đến bây giờ chưa có ai sắp xếp lại được những cái thứ lớp này!

Cho nên ở đây thì, vì vậy mà Thầy phải dạy mênh mang như vầy chớ còn lẽ ra mà dạy đạo là tùy theo mỗi căn cơ của mọi người.

Bây giờ đến đây là phải sống đúng cái hạnh của người tu. Nghĩa là phải bỏ hết của cải, tài sản, dẹp hết những nghề nghiệp, đến đây chỉ ôm bát đi xin mà thôi, thì cái đó là cái giới hạnh thứ nhất!

Cho nên chấp nhận được thì vô tu, mà chấp nhận không được thì thôi, chớ còn tu lơ mơ mà như thế này thì tốn của đàn na thí chủ có ra ích gì đâu? Nó có đi đến chỗ nào được đâu? Cho nên khi mà chấp nhận cái đời sống xuất gia tu hành rồi thì phải ba y một bát rồi.

Đó là cái giới hạnh!

Về cái giới đức thì bắt đầu bây giờ mình đã ly được rồi thì ngay đó cái giới đức mình có thể mình tiếp tục mình tu được rồi, đâu có gì khó đâu! Đó thì quý thầy thấy cái điều kiện tu tập nó phải rõ như vậy.

Còn bây giờ mà Thầy dạy mênh mang như thế này thì thử hỏi cái lớp mình có ai dứt được chưa? Chưa! Phần nhiều là chúng ta còn đang ở trong những lưng chừng chứ chưa phải là rõ nét đâu, khó lắm chớ không phải dễ!

…​ nhưng vì giáo án tu tập của Đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm nhưng chưa ai sắp xếp có lớp lang, có kỹ thuật, thấp cao cho rõ ràng để người tu tập được dễ dàng. Vì thế Thầy phải sắp xếp có lớp lang, có kỹ thuật nên mới dạy mênh mang như thế này.

Vả lại nếu Thầy không làm điều này thì nhìn trước nhìn sau còn có ai làm được và làm sống lại giáo lý của Đức Phật?

Nghĩa là bây giờ nhìn trước nhìn sau thì Thầy thấy chưa có một vị thầy nào, chưa có một người nào mà có thể gánh vác cái trọng trách này được, cho nên buộc lòng Thầy phải dạy cách thức mênh mang như thế này nè, chuyện mà các thầy chưa tu tới mà phải nói đó, gọi là dạy mênh mang đó, thay vì phải tu tới đâu là dạy tới đó chớ không phải dạy như cái kiểu này được.

Cho nên ngày xưa Đức Phật dạy đệ tử của Ngài cũng vậy. Khi tu đến đâu thì Ngài dạy tới đó, mà người nào chưa tu tới đâu thì Ngài chưa có dạy tới những cái mà chưa có thể mà dạy cho họ được.

Còn bây giờ vì những cái điều kiện, nó có những cái điều kiện cần phải làm cho nên Thầy phải làm mà thôi. Chớ dạy như thế này nhiều khi gieo vào trong tâm tư của quý vị những cái tưởng giải trong đó không à, rồi những cái tưởng tượng của các vị trong đó không à, chớ không phải là cái tốt lành gì hết.

(55:35) Cho nên Thầy không có mong muốn làm cái điều này. Cho nên từ cái ngày mà Thầy tu hành xong Thầy ra thất, Thầy không bao giờ Thầy muốn viết một bài kinh nữa. Thầy đã hiểu biết cái lầm lạc đó, vì viết bài kinh là giết người ta chớ chưa phải là độ người ta đâu!

Bởi vì người ta - khi mà người ta hiểu nó hay thì người ta bị dính nó rồi. Rồi người ta - khi mà người ta chưa tu tới đó, người ta tập chưa có căn bản, đầu chưa có mà người ta tập, người ta thấy cái hay đó, người ta bắt đầu người ta tập cái đó, thì cái tưởng người ta nó sanh ra. Mà nó sanh ra thì nó là ma chướng của họ chớ đâu phải là chuyện dễ!

Cho nên cái viết kinh sách là một cái tai hại! Cho nên thời Đức Phật Ngài không có viết kinh sách, và người nào dạy tới đâu là tu tập tới đó, rồi sai thì Ngài nhắc nhở chớ cũng không cho ai mà lấy lá buông hay hoặc là lấy lá thốt nốt mà ngồi mà viết chữ trên đó hết để mà ghi nhớ lại như bây giờ đâu!

Còn bây giờ chúng ta ghi nhớ vậy nó làm cho đầu óc của chúng ta không có sống độc cư, không có sống trầm lặng được!

Thường thường là chúng ta hay quên, mà chúng ta tu tập, vốn tu tập chớ không phải vốn để nhớ, tu tập để giải thoát chớ không phải nhớ một cái bồ chữ đó đâu, một cái tủ đựng kinh sách đó đâu!

Cho nên chúng ta vốn để nhớ, nhớ mà nó trở thành - cái tâm của chúng ta trở thành một cái tủ đựng kinh sách, từ đó cái giải thoát nó không có mà nó chỉ toàn là có cái tri kiến mà thôi.

Đó là cái tai hại mà khi mà Thầy dạy đạo Thầy biết cái này rất là rõ ràng, không có phải là một cái chuyện đơn giản.

Vì vậy mà vì vấn đề giáo lý của nhà Phật bây giờ phải sắp xếp, mà nhìn trước, nhìn sau thì ai mà cái người mà làm cái này, cho nên Thầy phải buộc lòng mà làm, làm với cái sự bất đắc dĩ của mình, chớ không phải là làm với cái sự mà cầu danh, cầu lợi ở trong này đâu.

Thầy chỉ mong có người tu hành chứng đạo chớ không phải mong cho người ta có kiến thức hiểu biết như thế này đâu.

Cho nên cái viết ra là một cái tai hại rất lớn, cái nói ra mà khi người ta chưa tới là một cái điều rất tai hại cho tư tưởng, làm hư hoại tâm hồn của họ, làm hư hoại cái tư tưởng của họ.

Họ hiểu rồi, nó dính mắc ở trong đó, nó khó mà giãy giụa, cho nên họ đâu còn cái thanh thản được. Họ bị cái lời nói của Thầy, họ bị những cái dòng chữ của Thầy làm cho họ bị chi phối tâm hồn của họ. Cho nên họ đâu còn là một cái tờ giấy trong sạch nữa, họ bị Thầy gạch mực ở trên đó quá nhiều ở trong đó rồi.

Cho nên những cái điều này là cái điều bất đắc dĩ mà Thầy phải làm thôi.

3- TÁM GIỚI TUỆ

3.1- GIỚI TUỆ THỨ NHẤT: CHÁNH TRÍ, CHÁNH KIẾN

(57:44) Bây giờ quý thầy bắt đầu tu học, tập giới tuệ.

Khi tu tập giới đức xong thì toàn thân của quý thầy chỗ nào cũng được thấm nhuần, thuần tịnh, trong sạch.

Nghĩa là khi mà tu tập giới đức rồi đó, thì thân tâm của quý vị nó thuần tịnh, nó thấm nhuần, rất là trong sáng và thanh tịnh, rất là sáng suốt.

Nghĩa là lúc bấy giờ mà khi mà giới đức mà thực hiện xong rồi thì nó thuần tịnh lắm, tâm hồn của quý vị nó không còn ô nhiễm một cái chút gì thế gian hết, nó không còn có khởi một cái sự ham muốn dục lạc của thế gian, mặc dù là có bao nhiêu cái sức cám dỗ của nó cũng không lôi cuốn được quý vị nữa.

Cho nên nó gọi là thuần tịnh, thấm nhuần, thuần tịnh, trong sáng. Đó, thì bắt đầu bây giờ quý vị mới học cái giới tuệ thứ nhất của cái tâm này đây.

Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy…​

Nghĩa là lúc bấy giờ cái tâm của quý vị nó đang ở trong cái trạng thái như vậy đó.

Những cái danh từ mà Thầy chỉ giải, chỉ đọc ra đây để cho quý thầy nghe được cái tâm của mình như vậy đó, Thầy đọc lại một lần nữa để quý thầy xét cái tâm của mình khi mà đã tu cái giới đức xong thì luôn luôn cái tâm của quý vị bao giờ nó cũng ở trong cái trạng thái này này:

Với tâm định tỉnh - rất là định tỉnh, không có gì làm cho nó chao động được hết.

Thuần tịnh - thuần là thanh tịnh đó, nó không có còn mà bị một cái gì nhơ bẩn ở trong đó.

Cho nên nó không cấu nhiễm - không phiền não.

Nhu nhuyễn - nhu là nó mềm, nhuyễn là nó mềm dẻo.

Dễ sử dụng - cái tâm của quý vị bây giờ nó dễ sử dụng, sai sao nó làm vậy hết, nó không bao giờ có cái chỗ mà nó cứng đầu cứng cổ như bây giờ đâu.

Vững chắc - nó luôn luôn nó rất là vững chắc, cái sự nhu nhuyễn đó nó mềm dẻo vậy chớ nó rất là vững chắc, nó không có bị chao động.

Nó bình thản - nó thản nhiên, nó thanh thản, nó không một cái gì mà làm cho mất cái sự bình thản, thản nhiên của nó được.

Đó là lúc bấy giờ các vị đã học tu tập được cái giới đức rồi thì cái tâm của quý vị nó đến ở mức độ này. Mà nó đến ở mức độ này quý vị mới tập luyện được cái giới tuệ, chớ còn nếu nó không thì quý vị không bao giờ mà thực hiện được cái giới tuệ này đâu.

Lúc bấy giờ vị Tỳ Kheo dẫn tâm hướng đến Chánh Trí, Chánh Kiến…​

(01:00:13) Đó. Bây giờ đó chúng ta mới dẫn cái tâm. Tâm nó được thanh tịnh như vậy rồi thì quý vị mới dẫn cái tâm của quý vị đến Chánh Trí - tức là cái trí chân chánh của quý vị, rồi cái Chánh Kiến - cái hiểu biết chân chánh của quý vị.

…​ thì vị ấy biết rất rõ:

Nghĩa là cái người đó mà dẫn cái Chánh Trí, Chánh Kiến của mình thì biết rất rõ:

Thân này của ta là do sắc pháp, do bốn đại mà thành, do cha mẹ sanh mà có, do nhờ cơm cháo nuôi dưỡng mà lớn, nhưng nó lại vô thường, biến hoại, phiền toái, đoạn diệt, hoại diệt. Trong thân này chỉ có thức uẩn là bị trói buộc, là bị quên mất.

Nghĩa là khi mà cái người đó mà có cái sức định tỉnh của tâm như vậy rồi thì mới hướng cái tâm đến Chánh Trí, thì bây giờ mới nhìn thấy cái thân này nó rõ ràng như vậy, và biết được cái thức nó đang bị trói buộc ở trong những cái thân này, nó đang bị trói buộc ở trong đó, và nó bị như lãng quên mất đi, và bây giờ nó đang hiện ra được.

Đó, thì bây giờ mới thấy được cái chỗ mà Thức Thức nó đã từ lâu - chúng ta nói thân Ngũ Uẩn của chúng ta mà, Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức đó - thì cái Thức này từ lâu nó nằm ngủ yên đó, nó bị trói buộc, nó cột chặt, nó không có làm việc gì được hết. Tất cả mọi thằng khác thì làm việc, còn riêng nó thì nó nằm im lìm đó, nó như là ngủ quên vậy, như người ta không có nhớ nó được vậy đó.

Thì đó là khi mà chúng ta dùng cái sức định tỉnh của tâm chúng ta mới nhìn thấy được cái Thức của chúng ta nó đang bị ngủ quên, bị trói buộc từ lâu tới giờ vậy đó.

Bây giờ là lúc cần thiết dùng đến nó, nó sẽ làm các phận sự mà ta sai bảo trong khi tu tập giới tuệ.

Đó, bây giờ mình nhìn nó mình thấy từ lâu nó bị trói buộc, nó bị bỏ quên lãng đi, vì vậy bây giờ đó mình mới cần thiết mình dùng nó để cho mình sai nó làm những cái phận sự sau này, cho nên mình sai nó cái gì nó cũng nghe theo hết.

Đó thì, như vậy là khi mà chúng ta dùng được cái Chánh Kiến, Chánh Trí chúng ta mới quan sát lại nó, khi mà tâm chúng ta đã ở trong cái thanh tịnh, cái thuần tịnh này thì chúng ta mới có sai được cái Thức thức của chúng ta, nó mới dậy nó làm việc ở trong cái giới tuệ của nó mới được.

Ví như một hòn ngọc lưu ly bảo châu đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hoặc màu nâu, chúng ta đều nhìn thấy rõ sợi dây ấy màu gì, rõ ràng, không sai một chút nào.

(01:02:48) Nghĩa là Đức Phật ví như lúc mà cái tâm chúng ta mà thuần tịnh như vậy mà chúng ta hướng đến cái Chánh Trí và Chánh Kiến, mà thấy cái Thức của chúng ta bị trói buộc, bị bỏ quên, giống như là chúng ta xỏ một cái sợi dây qua một cái hòn ngọc bảo châu mà nó trong suốt, cho nên cái sợi dây màu vàng là chúng ta thấy vàng, màu xanh chúng ta thấy xanh, màu đỏ chúng ta thấy đỏ, nó không có thấy cái màu khác, mà không có mờ mịt chút nào hết.

Đó là Đức Phật đem cái ví dụ như vậy để chúng ta thấy rằng:

Cái tâm mà chúng ta thuần tịnh rồi thì chúng ta mới dùng cái tri kiến và cái Chánh Kiến và cái Chánh Trí của chúng ta, chúng ta thấy được cái Thức của chúng ta, thấy được cái thân này vô thường, biến hoại, nó luôn luôn là nó không có cái - nó luôn luôn là nó bị hoại diệt, nó luôn luôn là bị thay đổi, nó làm cho chúng ta phiền toái, nó làm chúng ta đau khổ.

Và đồng thời cái mà chúng ta đang cần dùng nó thì nó bị bỏ quên đi, đó là cái Thức Thức của chúng ta bị bỏ quên đi, nó chúng ta không thấy, nó bị trói buộc, nó bị bỏ quên đi, nó không có làm việc gì được hết.

Bây giờ là lúc chúng ta cần thiết phải đánh nó dậy, phải dùng nó dậy để sai bảo nó làm công việc trong cái sự tu tập của giới tuệ của chúng ta.

Nghĩa là chúng ta muốn mà tu tập giới tuệ thì chúng ta phải đánh Thức Thức của chúng ta dậy thì chúng ta mới tu tập được giới tuệ. Còn cái Thức Thức chúng ta không có dậy thì chúng ta không có tu tập được giới tuệ. Đó, quý thầy hiểu chưa?

Mà khi đó chúng ta phải thực hiện thiền định rồi thì chúng ta mới đánh thức nó dậy. Mà thiền định tức là giới đức, mà giới đức xong thì mới có được cái này. Còn nếu mà giới đức chưa xong thì thử hỏi làm sao có được?

Đó thì hôm nay quý thầy đã thấy từng cái chỗ mà chúng ta vô cái đoạn đầu chúng ta đã đánh thức được cái Thức Thức của chúng ta bằng cái Chánh Trí, bằng cái Chánh Kiến của chúng ta.

Ví như một hòn ngọc…​ - cái này rồi.

Đó là giới tuệ thứ nhất trong giới luật của Đức Phật, mà cũng là một kết quả tu tập thiết thực hiện tại của vị ấy.

Nghĩa là cái vị ấy mà tu được tới chỗ này là cái giới tuệ của vị đấy đánh thức được cái Thức Thức dậy rồi đó, đó là một cái kết quả thiết thực, hiện tại của vị ấy, cái kết quả rất là vi diệu.

Đó là cái giới tuệ thứ nhất. Đánh thức được cái Thức đó, là lúc bây giờ đó mới dùng cái Chánh Trí và cái Chánh Kiến mà đánh thức nó dậy, làm cho nó bật dậy bằng cái gì? Bằng cái pháp hướng.

Đó thì, đó là cái giới tuệ thứ nhất mà chúng ta phải tiếp tục ở trên con đường tu tập để đánh thức cái Thức Thức của chúng ta dậy, để sai cho nó tiếp tục ở trên con đường mà thực hiện những cái giới tuệ của nó, tu tập những giới tuệ của nó.

3.2- GIỚI TUỆ THỨ HAI: DÙNG Ý TẠO RA MỘT THÂN KHÁC

(01:05:25) 2. Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ Kheo chú tâm hướng đến sự hóa hiện một thân do ý làm ra.

Vị ấy tạo ra một thân khác từ thân này, cũng là sắc pháp, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào, cũng ví như người rút một cây lao ra khỏi vỏ lao; cũng ví như người rút thanh gươm, thanh kiếm ra từ bao kiếm; cũng ví như người lột xác một con rắn.

Đó, thì khi mà chúng ta đến đây chúng ta thực hiện cái giới tuệ của chúng ta, mà cái giới tuệ thứ hai này là chúng ta sai cái Thức Thức của chúng ta phải làm việc.

Bây giờ đó, từ ở trong một cái thân này phải biến ra một cái thân khác, hiện ra một cái thân khác, mà làm cho được đầy đủ cái thân đó cũng là sắc tướng cũng vậy, rồi các căn nó cũng vậy, lớn nhỏ gì nó cũng mắt, tai, mũi, miệng nó cũng y như cái thân của chúng ta, mà nó hiện ra nó ngồi y như hai người ngồi như là một, thì như vậy là chúng ta đã thực hiện được cái giới tuệ của chúng ta thứ hai này.

Đó là cái phần thứ hai để nói lên cái sức mà làm chủ, sai khiến của cái trí tuệ của chúng ta, lúc bấy giờ điều khiển thân và tâm của chúng ta nó phải thể hiện qua cái trí tuệ của chúng ta chớ không còn mà làm sai khác được cái ý của chúng ta.

Đó là giới tuệ thứ hai trong giới luật của Đức Phật, mà vị ấy đã đạt được một kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu và thù thắng.

Các thầy nghĩ coi bây giờ từ cái chỗ thiền định mà nhập Tứ Thiền rồi mình ngưng các hành trong thân của mình rồi, mình ngưng hơi thở mình rồi, thì bắt đầu cái tâm của mình nó thuần tịnh rồi, thì bắt đầu mình dùng tri kiến mình đánh thức cái Thức Thức của mình dậy.

(01:07:21) Mình đánh Thức Thức mình dậy rồi bắt đầu mình sai khiến nó, bắt đầu mình dùng nó. Bây giờ nó sử dụng cái thân này phải biến ra một thân nữa y như nhau, cũng có các căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý đàng hoàng, mặc y áo đồ giống nhau, thì nó ra nó ngồi đây một cái thân nữa.

Thì lúc bấy giờ quý thầy thấy cái giới tuệ nó như thế nào? Có thù diệu không? Có vi diệu không? Mà nó thiết thực, nó cụ thể, nó hiện tại chớ không phải là nói cái chuyện mù mờ, vu vơ đâu!

Lẽ ra cái này khi nào mà quý thầy tu tới đây Thầy mới giảng, và đồng thời giảng thì phải có một người thực hiện cho được. Còn cái này thật ra thì đây là xếp thành một cái giáo án chớ nó chưa phải là quý thầy tu tới. Chớ trong thời Đức Phật nói ra là có chứng minh liền tức khắc, chớ không phải nói vu vơ như thế này.

Còn bây giờ mà Thầy làm trò xiếc cho mấy thầy coi thì cái điều đó là cái điều quá là ngu si chớ chưa phải là cái người biết Phật pháp. Cũng như bây giờ thí dụ như nói về Tẩu Hỏa Nhập Ma thì phải có một người bị thì cái đó là chứng minh cho cụ thể, còn bây giờ nói như thế này…​

Hồi nãy Thầy đã nói lẽ ra thì không được giảng mênh mông như thế này mà chỉ giảng cái nào người ta tu tập mà thôi. Còn giảng mênh mông như thế này nhiều khi nó làm cho người ta bị lạc hướng mất đi, người ta tưởng tượng quá nhiều.

Nói đến cái giới tuệ này thì Thầy thấy nó là siêu việt, nó không thể mà cái người thế gian mà lường được, thành ra Thầy nói tới đây người ta dường như là người ta nói Thầy nói láo. Nhưng mà nó là một cái sự thật, nó không phải là nói láo đâu!

Bởi vì kinh sách của Phật còn đặt, nhưng mà bây giờ cái người mà thể hiện ra thì chưa có ai thể hiện, cho nên người ta vẫn nói đó là cái Phật cũng nói láo chớ chưa phải là không nói láo. Nhưng mà Thầy đã biết cái điều nói láo hay không nói láo, Thầy biết chớ làm sao ai biết được.

Cho nên hôm nay vì cái giáo án mà buộc lòng Thầy phải giảng hết những cái gì mà Phật đã dạy ở trong kinh, không thể nào mà thiếu một cái gì mà bỏ một cái gì được.

Vì đây là một cái đường đi của đạo Phật đã để lại cho chúng ta là một cái gia tài rất quý báu mà không giảng hết thì Thầy thấy có một cái lỗi của mình là nhìn tới, nhìn lui không ai làm được cho nên phải nói.

3.3- GIỚI TUỆ THỨ BA: DỤC NHƯ Ý TÚC

(01:09:15) Bây giờ về cái phần giới tuệ thứ ba.

Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ Kheo dẫn tâm hướng đến Dục Như Ý Túc.

Bây giờ đó tới cái Tứ Như Ý Túc đó, bây giờ Dục Như Ý Túc đó, cái phần Dục Như Ý Túc đó.

Vị ấy chứng được Dục Như Ý Túc: một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân.

Trước thì Đức Phật chỉ cái giới tuệ đầu tiên Đức Phật - một thân này hiện ra một thân, các căn mắt, tai, mũi, miệng đều y, quần áo đều mặc y giống nhau không khác. Đó là mới có biến ra một thân mà thôi. Thì các thầy thấy phải đi tuần tự chớ không thể nào mà nghe nói cái biến ra nhiều thân một lần được đâu!

Chúng ta phải tập tuần tự, cho nên khi mà chúng ta hướng ra một thân biến ra một thân được rồi thì bắt đầu bây giờ mới tới cái giai đoạn là chúng ta một thân biến ra nhiều thân. Bây giờ nó mới tới Dục Như Ý Túc đó!

Chớ hồi đầu thì nó chưa phải Dục Như Ý Túc đâu! Chúng ta mới tập luyện cho cái Thức Thức chúng ta sống dậy nó biết điều khiển mà thôi. Đó, nó mới biết điều khiển mà thôi chớ nó chưa phải là hoàn toàn là nó đủ cái Dục Như Ý Túc đâu!

Bây giờ bắt đầu chúng ta mới tới nữa thì chúng ta mới thấy tới cái giới tuệ thứ ba này chúng ta mới thấy một thân nó hiện ra nhiều thân.

Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân…​

Nhiều thân nó gồm lại một thân rồi một thân nó hiện ra nhiều thân.

…​ hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách đá, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không; độn thổ, trồi lên ngay qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay chạm rờ mặt trăng, mặt trời, những vật có đại oai lực, có đại thần lực như vậy.

Nghĩa là Đức Phật ví dụ như mặt trăng mặt trời nó cao xa, nó lớn như vậy đó, mà bàn tay chúng ta với tới chúng ta rờ mặt nó được. Kiểu này chắc rờ mặt trời chắc cháy tay chớ không chơi!

…​ có đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.

Lúc bấy giờ cái người đó có thể bay đến cõi Phạm Thiên được.

Ví như một người thợ gốm khéo tay với đất sét, khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích.

Đức Phật ví như người mà tu tới cái giới tuệ thứ ba này họ cũng như một cái người thợ đồ gốm mà khéo tay, với cục đất sét mà nhồi rất là nhuyễn rồi thì cái người đồ gốm này muốn làm cái chum, cái chén cái gì, tất cả cái gì họ làm cũng được hết, thậm chí họ nắn cả tượng Phật hay hoặc là bình sứ cái gì, bình bông gì, họ làm cũng muốn làm cái nào là họ khéo tay họ làm được hết.

Thì ví dụ như chúng ta tu tới đó, bấy giờ chúng ta muốn làm cái gì cũng được hết, không phải bảy mươi hai phép biến như là Dương Tiễn, cũng như là Tôn Ngộ Không đâu, có bảy mươi hai à! Còn ở đây nó vô lượng chớ đừng có nói!

Đó thì, quý thầy phải hiểu rằng cái đường lối của đạo Phật nó không phải tập luyện có bảy mươi hai cái phép biến đâu, mà đây là chúng ta muốn cái gì được cái nấy hết, chớ không phải!

Cho nên ví như một ông - một người thợ đồ gốm mà ông với cục đất sét mà ông nhồi rất nhuyễn rồi bây giờ ổng chỉ còn nắn, ổng muốn nắn con bò, con trâu, con voi, con ngựa gì cũng được hết à. Thì đó là một cái người mà đạt đến chỗ này thì họ muốn nắn cái gì cũng được hết như vậy đó!

Ví như một người thợ ngà voi khéo tay với ngà voi đẽo, dũa, có thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích.

Nghĩa là cái người thợ đó nó khéo tay thì lấy cái ngà voi đó họ làm cái gì đủ cách, họ tiện ông Phật chút chút vậy đeo cổ người ta cũng được nữa, không có cái gì mà khó khăn đối với ổng hết.

(01:12:48) Ví như người thợ vàng…​

Thợ kim hoàn đó.

…​ khéo tay với vàng khéo tinh luyện, có thể làm tất cả đồ trang sức bằng vàng tùy theo sở thích.

Đó là Đức Phật ví dụ như những người mà làm ra những cái điều đó thì cũng như là chúng ta đang ở trong một cái tâm định tỉnh như vậy mà chúng ta dùng cái thần lực của chúng ta, cái oai lực của chúng ta, chúng ta có thể làm tất cả những cái gì cũng được hết chớ không có khó khăn gì hết.

Đó là giới tuệ thứ ba trong giới luật của Đức Phật.

Đây là cái giới tuệ thứ ba thôi chớ chưa phải là nó hết những cái giới tuệ của Phật đâu! Mới bắt đầu, nghĩa là bước qua đầu cái giới tuệ là chúng ta đã thấy có những sự vi diệu tuyệt vời rồi đó.

Đó là giới tuệ thứ ba trong giới luật của Đức Phật, mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường.

Bây giờ chúng ta - cái đầu óc của chúng ta bây giờ nghĩ không có được ra cái này đâu! Thầy nói bây giờ mấy người nghĩ làm sao mà cái thân này biến ra ngàn thân, mấy người nghĩ đi! Cách thức nào làm cho được đi! Thì nghĩ sao cho ra không?

Mà thế mà người ta đạt được đến cái mức độ này người ta làm ra được, nó đâu phải là cái chuyện đối với cái chuyện đó là chuyện khó đâu. Nhưng mà bây giờ lấy cái đầu óc phàm phu mà nghĩ thì chắc chắn là không có được rồi, không có nghĩ làm sao ra. Cho nên khó nghĩ lường.

Ở đây nó vi diệu, thù thắng, mà thiết thực, hiện tại, chớ không phải là đợi ngày mai, ngày mốt đâu! Bây giờ - muốn bây giờ là bây giờ được, mà ngày mai muốn là ngày mai được. Muốn hồi nào là được hồi nấy chớ không phải là!

Bởi vậy Phật lại nói thêm: “Tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu.”

Đó trong cái thời gian hiện tại mà thiết thực, cụ thể chớ không phải là nói mơ hồ như cái bóng ma, như bóng khói, như cái đám mây mờ mờ ảo ảo đâu! Nó là cái sự thật như vậy.

3.4. GIỚI TUỆ THỨ TƯ: THIÊN NHĨ THÔNG

(01:14:30) 4. Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ Kheo dẫn tâm đến Thiên Nhĩ Thông. Tỳ Kheo với Thiên Nhĩ Thông thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng nói của chư thiên và của loài người dù ở xa, ở gần cũng đều nghe rõ không sai.

Ví như một người đang đi qua đường nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa, tiếng xập xả, tiếng kèn, tiếng kiểng, người ấy nghe biết rõ ràng. Cũng vậy, vị Tỳ Kheo tâm định tỉnh hướng tâm Thiên Nhãn Thông nghe thấy rõ ràng cũng vậy.

Đó là giới tuệ thứ tư trong giới luật của Đức Phật, mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường.

Đó thì, quý thầy thấy, khi người ta tâm như vậy người ta dẫn tâm người ta đến Thiên Nhãn Thông hoặc là Thiên Nhĩ Thông, hoặc là Tha Tâm Thông, tất cả những cái này đều là những cái điều kiện mà cái vị đó đã tu tập ở trong cái giới tuệ mà họ đạt được.

3.5- GIỚI TUỆ THỨ NĂM: THA TÂM THÔNG

(01:15:44) 5. Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỳ Kheo dẫn tâm và hướng tâm đến Tha Tâm Thông.

Thì ở đây Thầy nhắc nhở quý thầy hai cái danh từ: dẫn tâm và hướng tâm. Dẫn tâm là như thế nào? Và hướng tâm như thế nào? Sau này Thầy dạy về tới các pháp Thầy sẽ giải thích cái chỗ này ra. Còn bây giờ thì chúng ta học suông qua thôi.

…​ đến Tha Tâm Thông.

Bây giờ hướng dẫn đến Tha Tâm Thông đây:

Tỳ Kheo sau khi dẫn tâm đi sâu vào tâm chúng sanh…​

Đó, mình dẫn tâm của mình đi sâu vào - hướng tâm, dẫn tâm mình đi sâu vào tâm chúng sanh.

…​ của loài người, với tâm thuần tịnh, trong sáng, vị ấy biết được như sau: Tâm của chúng sanh có tham, biết là có tham; tâm không có tham, biết là tâm không có tham. Tâm của chúng sanh có sân, biết là tâm của chúng sanh có sân; tâm không có sân, biết là tâm không có sân. Tâm của chúng sanh có si, biết là tâm có si; tâm không có si, biết là tâm không có si. Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú; tâm tán loạn, biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm, biết là đại hành tâm; không phải đại hành tâm, biết là không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng; tâm vô thượng, biết là tâm vô thượng. Tâm thiền định biết là tâm thiền định; tâm không thiền định biết là tâm không thiền định. Tâm giải thoát, biết là tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết là tâm không giải thoát.

(01:17:24) Đó thì quý vị - khi mà được cái giới tuệ thứ năm này thì quý vị làm cái gì, tu tập đúng sai thì cái vị Thầy người ta đều biết hết, nhưng mà người ta không nói ra thôi, người ta lần lượt người ta điều khiển, người ta hướng dẫn cho quý vị tu đúng thôi, chứ người ta biết quý vị còn ở trong cái tâm nào người ta biết hết chớ không phải là người ta không biết.

Người ta sử dụng được cái tâm của người ta cho nên người ta phải thông suốt quý vị hết. Chớ còn nếu mà người ta không sử dụng được cái tâm người ta thì làm sao người ta biết quý vị?

Nhưng người ta không muốn làm quý vị bất mãn, không muốn làm cho quý vị trái ý, người ta tùy thuận quý vị, nhưng mà người ta lần lượt người ta hướng dẫn nhỏ nhẹ để cho quý vị sửa lần lần để đi vào cái con đường đúng mà thôi.

Bởi vì cái người mà tu người ta hiểu biết cái kiến chấp của quý vị nó rất nặng, nó không phải dễ mà một ngày, một bữa mà nó cởi ra được, mà phải tuần tự người ta khéo léo mà để giúp cho quý vị cởi ra.

Ví như một người đàn bà soi mặt mình trong một tấm gương trong sáng suốt, nếu mặt có tì vết liền biết mặt có tì vết, nếu mặt không có tì vết thì biết là không có tì vết; da mặt trắng biết là da mặt trắng, da mặt đen biết là da mặt đen; mặt có nốt ruồi biết là mặt có nốt ruồi, mặt không có nốt ruồi biết là mặt không có nốt ruồi; mặt có vết thẹo biết là mặt có vết thẹo, mặt không có viết thẹo biết là không có vết thẹo.

Đó thì Đức Phật ví dụ như một người đàn bà cầm cái gương soi vầy, thấy cái mặt mình như thế nào thì biết rõ, thì cái người mà người ta có được cái giới tuệ thứ năm này thì người ta dẫn cái tâm vào tâm của chúng sanh, vào tâm của các thầy, các thầy tu như thế nào người ta biết hết à, chớ không phải là người ta không biết đâu.

Đó là như là chúng ta soi một cái gương cũng như người phụ nữ mà soi cái gương trên mặt vậy đó, họ biết họ như thế nào cũng rõ như vậy, thì cũng ví một cái người mà người ta đã có được cái giới tuệ thứ năm này thì người ta thấy cái tâm chúng sanh nó cũng như vậy đó!

Đó là giới tuệ thứ năm trong giới luật của Đức Phật, vị này đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường.

Đó thì, chúng ta thấy tới cái giới tuệ thứ năm chúng ta đã thấy được thông suốt được những cái tâm sai khác của chúng sanh như thế nào, tu được - không được người ta biết hết, tu đúng - tu sai người ta biết hết chớ không phải là người ta không biết.

3.6. GIỚI TUỆ THỨ SÁU: TÚC MẠNG MINH

(01:19:43) 6. Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, thanh thản, như vậy vị ấy dẫn tâm hướng đến giới tuệ Túc Mạng Minh.

Đó bây giờ mới hướng đến Túc Mạng Minh đây:

Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như: một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp.

Vị ấy nhớ rõ ràng sanh tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này; sau khi chết tại chỗ kia ta được sanh ra tại chỗ nọ, tại chỗ ấy ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này; sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây.

Như vậy vị Tỳ Kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và chi tiết rất rõ ràng.

Đó, thì Đức Phật ví dụ như mà chúng ta dùng Túc Mạng Minh thì chúng ta thấy nhiều đời nhiều kiếp mình như vậy đó chớ không là thấy ít đâu.

Ví như một người đi từ làng mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa, và từ làng này trở về làng của mình, người ấy nghĩ: Ta từ làng của mình đi đến làng kia, nơi đây ta đã đứng như thế này, đã ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế này, từ nơi làng nọ ta trở về làng của ta.

Đó là trí tuệ thứ sáu trong giới luật của Đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường.

Đó thì, quý thầy thấy người ta thấy nhiều đời, nhiều kiếp người ta, như là mình đi từ làng này đến làng khác rồi mình trở về làng mình như vậy đó. Nghĩa là thấy từ cái quá khứ rồi trở về với cái hiện tại là cái vị đó cũng như mình ngồi tu đây, bắt đầu mình trở về quá khứ nhiều đời nhiều kiếp…​ (Mất tiếng)

Bây giờ bắt đầu chúng ta tiếp tục cái bài học vừa rồi thuộc về giới tuệ.

Đó là giới tuệ thứ sáu trong giới luật của Đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường.

3.7- GIỚI TUỆ THỨ BẢY: THIÊN NHÃN MINH

(01:22:26) Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, thanh thản như vậy, vị Tỳ Kheo dẫn tâm, hướng tâm đến giới tuệ về sanh tử của chúng sanh, tức là Thiên Nhãn Minh.

Vị ấy với Thiên Nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống, chết của chúng sanh, vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do nghiệp của chúng tạo ra.

Này các con! Người thường hay làm điều ác hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ do vô minh, không rõ theo tà kiến, phỉ báng xuyên tạc giới luật và pháp môn của các bậc Thánh Hiền, chạy theo tà kiến, tạo các tà nghiệp, nuôi sống tà mạng, những người này sau khi hết phước báu hiện tại, khi thân hoại mạng chung để lại cho thế gian chứng nghiệm một sự đau khổ của các vị ấy, cực kỳ đau khổ! Đến khi mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ địa ngục. Hiện giờ họ đang phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ.

Còn ngược lại những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ, không theo tà kiến, luôn luôn theo Chánh Kiến của Phật dạy nên không phỉ báng, thêm bớt giới luật và giáo pháp của Đức Phật, thường theo giới luật của Phật, không làm khổ mình, khổ người, không làm các tà nghiệp, không nuôi dưỡng bằng những thực phẩm bất tịnh, có ác pháp, có sự chết chóc, đau khổ bằng sinh mạng của chúng sinh, những người này sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, cõi trời, cõi người, hưởng đầy đủ phước báu, không có thiếu thốn một vật gì cho cuộc sống.

Với Thiên Nhãn Minh thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh rất rõ ràng. Ví như một người ở trên tòa lầu đài có thượng đài giữa ngã tư đường, một người có mắt nhìn xuống thấy rất rõ, sẽ thấy những người đi vào nhà, từ nhà đi ra, đi qua, đi lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư đường, hay trèo lên đài thượng, rất rõ ràng không thiếu một chi tiết nào hết.

Đó là giới tuệ thứ bảy trong Giới luật của Đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả giới tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường.

3.8. GIỚI TUỆ THỨ TÁM: LẬU TẬN MINH

(01:25:30) 8. Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, thanh thản như vậy, vị Tỳ Kheo dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu Tận Trí.

Vị ấy biết như thật đây là khổ, biết như thật đây là nguyên nhân của khổ, biết như thật đây là khổ diệt, biết như thật đây là con đường đưa đến khổ diệt, biết như thật đây là những lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những lậu hoặc, biết như thật đây là sự diệt trừ các lậu hoặc, biết như thật đây là con đường đưa đến diệt trừ các lậu hoặc.

Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu, đối với tự thân đã giải thoát. Như vậy, sự hiểu biết khởi lên một cách rất rõ ràng: “Ta đã giải thoát, Sanh đã tận, Phạm hạnh đã xong, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại này không còn có đời sống nào khác nữa!”

Đó là cái tuệ thứ tám của cái vị này mà nó hiện ra đó, thì đó là chứng đạt được cái lý Tứ Diệu Đế.

Cho nên trong cái Ngũ Lực thì Đức Phật có nói là cái Tuệ Lực là cái gì? Tuệ Lực là Tứ Diệu Đế. Cho nên thấy thật, chứng thật, thấy rõ.

Khi mà chúng ta nghe nói Tứ Diệu Đế chúng ta nói nghe khổ, đời là khổ, rồi nguyên nhân khổ, rồi cái cảnh giới thoát khổ, rồi tám cái nẻo để đưa đến cái cảnh giới thoát khổ đó, thì chúng ta hiểu biết như vậy, đó chúng ta mới ngộ được cái chân lý của đạo Phật mà thôi.

Còn ở đây khi mà cái giới tuệ của chúng ta thực hiện được cái Lậu Tận Minh thì chúng ta sẽ thấy được cái nguyên nhân khổ, khổ thật, chớ không phải là ngộ mà đây là chứng cái lý khổ.

(01:27:54) Cho nên Phật mới dạy là khi mà cái trí tuệ đó, cái giới tuệ đó mà nó hiện ra thì chúng ta thấy: Đây là khổ, đây là chứng thật cái sự khổ, chớ không phải đây là nói là khổ như chúng ta biết nó khổ thường thường đâu, mà đây là cái sự chứng thật, biết như thật.

Biết như thật tức là biết thật sự, thấm cái lý ở trong đó, do sau những ngày tu tập cái Định Vô Lậu mà nó thấm nhuần, nó mới thấy như thật được.

Thì đây là nguyên nhân của khổ thật, chúng ta biết rõ là lòng ham muốn khổ thật, nhưng bây giờ chúng ta hiểu nó là biết được cái nguyên nhân khổ là lòng ham muốn, nhưng mà chúng ta đoạn trừ không được, nhưng mà thời gian chúng ta nghiền ngẫm, đặt cái niệm đó trước mặt mà chúng ta nỗ lực thực hiện cái niệm đó bằng cái pháp hướng, tùy theo cái pháp mà chúng ta nỗ lực thực hiện, tâm chúng ta nó thấm được cái lý đó, nó chứng được cái lý đó, cho nên gọi là bây giờ đó mới là cái trí tuệ vô lậu nó thực hiện ra, chúng ta mới thấy nó như thật, biết nó như thật như vậy!

Cho nên mới biết đây là khổ thật, đây là nguyên nhân khổ thật, đây là cái nơi hết khổ, đây là cái chỗ mà chấm dứt khổ, và đây là con đường dẫn đến hết khổ.

Và kế đó thì Đức Phật lại nhắc lại thêm cho chúng ta thấy bốn cái Khổ Đế này rõ ràng, nhưng mà Đức Phật xác định cho chúng ta thấy bốn cái Khổ Đế nó nhằm vào bốn cái - những cái lậu hoặc của chúng ta để chúng ta thật thấy nó.

Biết như thật đây là những lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những lậu hoặc, biết như thật đây là diệt trừ các lậu hoặc, biết như thật đây là con đường đưa đến diệt trừ các lậu hoặc.

Đó, thì chúng ta sống ở trong cuộc sống chúng ta hàng ngày là chúng ta phải thấy cái mấu chốt của lậu hoặc là nó như thế nào.

Đó, nếu mà muốn cho lậu hoặc nó, muốn cho cái lậu hoặc - đó là cái khổ, phải không? Mà cái nguyên nhân mà có lậu hoặc thì đó là cái lòng ham muốn của chúng ta, mà diệt hết cái lòng ham muốn thì nó sẽ là hết cái lậu hoặc, mà hết cái lậu hoặc đó là con đường - là Niết Bàn - là cái cảnh hết khổ.

Mà muốn được như vậy thì chúng ta phải thấy được cái con đường đưa đến hết cái khổ đó tức là đoạn diệt cái lòng ham muốn, thì con đường đó thì chúng ta thấy muốn cho hết cái lậu hoặc hết ở trong tâm của chúng ta thì cái con đường đó là Bát Chánh Đạo - tám cái nẻo mà chúng ta cần phải tu tập.

(01:30:20) Cho nên ở đây cái giới tuệ nó giúp cho chúng ta biết rằng - chỉ bảo cho chúng ta biết rằng con đường nào sẽ đưa chúng ta đi đến tận diệt cái lậu hoặc, đó là chúng ta sẽ học.

Sau khi mà học xong giới luật thì bắt đầu chúng ta sẽ học đến tám cái nẻo này, và tám cái nẻo này thì chúng ta phải biết từ cái Chánh Kiến cho đến Chánh Định, mà từ cái Chánh Kiến đó chúng ta phải tu như thế nào, phải tập luyện như thế nào ở trong những cái Chánh Kiến.

Bắt đầu chúng ta phải tu cái định gì đối với cái Chánh Kiến đầu tiên. như bây giờ chúng ta tu - nói ví dụ như bây giờ chúng ta bắt đầu tu thì chúng ta phải tu trong Chánh Kiến, phải phòng hộ cái Chánh Kiến của chúng ta.

Phòng hộ Chánh Kiến chúng ta tức là phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, tức là Phật gọi là Thánh phòng hộ sáu căn.

Như vậy là mới đầu vô mà được Chánh Kiến là phải phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng của mình, cho nên tâm của chúng ta bây giờ nó không bị nhiễm trước, không bị đắm trước các đối tượng, các pháp, cho nên khi phòng hộ nó thì chúng ta đâu thấy vật nào!

Sau đó thì chúng ta phải dùng cái - trên cái mắt, tai, mũi, miệng của chúng ta - chúng ta phải tu tập cái sức tỉnh thức để khi mà chúng ta nhìn mọi vật mà chúng ta thấy không có cho cái tâm của chúng ta làm cái duyên, trở thành cái sự dính mắc của vật đó, thì đó là chúng ta phải tu Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Cho nên phòng hộ thì trước tiên, mà đây là mới có tu một cái nẻo Chánh Kiến mà chúng ta phải phòng hộ nó rồi.

Rồi đến tu cái - đến khi mà để cho mắt chúng ta mà nhìn các vật được - trước đó phòng hộ để cho chúng ta luyện tập cái sức tỉnh thức, sau khi tập luyện sức tỉnh thức được thì chúng ta mới cho mắt chúng ta nhìn các vật, do đó chúng ta thấy nó tỉnh thức trong mọi vật cho nên nó đã làm cho tâm chúng ta nó không còn khởi ham muốn mọi vật nữa.

Vì vậy mà lúc bấy giờ chúng ta đã tu hai cái định, và hai cái định đó để giúp chúng ta ở trong Chánh Kiến, và bây giờ chúng ta mới quét sạch - trong cái nhìn của chúng ta nó sẽ sanh ra lậu hoặc, do đó chúng ta phải tu cái Định Vô Lậu nữa.

Từ đó nó còn những cái khó khăn của nó vi tế nữa, cho nên chúng ta phải đi đến cái Định Hiện Tại An Lạc Trú để chúng ta quét sạch lậu hoặc, chứng được Tam Minh mới quét nó ra được.

Cho nên con đường đi chúng ta phải ba bốn thứ định trong một cái Chánh Kiến. Rồi từ cái Chánh Kiến rồi thì Chánh Tư Duy thì cũng phải tu như vậy, rồi Chánh Niệm - cho nên Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Niệm, Chánh Định chúng ta cũng phải tu trong mấy cái định này chứ đâu phải là tu có một cái không.

(01:32:40) Rồi còn phải tu trong cái hành tướng, cái nhân tướng, rồi cái đặc tướng của cái Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, Chánh Nghiệp, Chánh Định, Chánh Tinh Tấn, chớ đâu phải là có một cái không!

Cho nên giảng về Tứ Diệu Đế đâu phải là đơn giản mà nói suông suông được. Cho nên nó còn rất nhiều điều mà Thầy cần phải nói để cho quý thầy biết rằng con đường của đạo Phật rất là kỹ lưỡng trên bước đường hướng dẫn cho một người tu để đạt đến cái chỗ giải thoát hoàn toàn của tâm họ.

Chớ đâu phải là dạy sơ sơ trên cái nhân tướng là nói mình phải thấy đúng, hiểu đúng, như thế này, thế khác bằng thiện pháp, như Thầy dạy cách thức đơn giản thì người ta chỉ có được một chút ít nào giải thoát mà thôi, làm cho tâm hồn họ được an ổn mà thôi, chớ không thể nào mà như một vị tu hành phải hiểu cho rõ, cho đúng.

Đến đây là cái giới tuệ thứ tám mà chúng ta nhận ra được những cái lậu hoặc chúng ta còn hay là hết.

Ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước thuần tịnh, trong suốt tận đáy hồ, không cấu nhiễm, một người có mắt đứng trên bờ hồ sẽ nhìn thấy con hến, con sò, con ốc, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi lội qua lại hay đứng lại một chỗ, rất rõ ràng không có mờ mịt chút nào, không có chỗ nào còn che giấu được mắt họ.

Đó Đức Phật ví dụ khi mà cái tâm của chúng ta mà cái Lậu Tận Minh nó hiện ra rồi thì cái tâm của chúng ta bây giờ nó thuần tịnh, nó trong, cũng như là cái nước hồ trong suốt mà chúng ta đứng ở trên cái hồ rồi nhìn xuống dưới cái đáy hồ thấy tất cả những vật ở dưới đáy hồ rất rõ ràng.

Phật ví dụ tâm chúng ta đến cái chỗ giới tuệ thứ tám này thì nó trong suốt như vậy đó. Nó thanh tịnh trong suốt như vậy, nó không còn một chút tham dục nào trong đó, nó không còn một chút bất tịnh nào trong đó, cho nên nó trong suốt như vậy.

Khi tu đến đây rồi thì cái tâm chúng ta dễ sử dụng tất cả mọi thứ, điều khiển nó như thế nào thì nó làm được tất cả như thế nấy.

Đó là giới tuệ thứ tám trong giới luật của Đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả giới tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường./.

HẾT BĂNG

22 - PHÂN BIỆT TRÍ TUỆ VÀ TRI KIẾN

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 22 - PHÂN BIỆT TRÍ TUỆ VÀ TRI KIẾN

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- BẮT ĐẦU TU TẬP TỪ SƠ THIỆN, TRUNG THIỆN ĐẾN HẬU THIỆN

(00:00) Tóm lại, tám giới tuệ trong đạo Phật là tám loại trí tuệ thanh tịnh, siêu việt trong kinh Sa Môn Quả.

Đó là ở trong kinh Sa Môn Quả đó, nó nêu ra tám cái loại trí tuệ đó như vậy.

Nhưng ở đây chúng ta còn phải hiểu thêm cho đúng: Khi một người thọ trì tu tập đúng pháp của Phật là phải bắt đầu từ Sơ Thiện, Trung Thiện và Hậu Thiện.

Sơ Thiện là giới luật, còn gọi là giới bổn Patimokkha.

Trung Thiện gọi là thiền định, còn gọi là Bốn Thiền hay gọi là Tứ Thánh Định.

Nếu gọi thiền định của đạo Phật như vậy chưa đủ. Ta nên xem lại giới đức của đạo Phật có phân làm mười loại định.

Nghĩa là trong cái thiền định của Phật chia làm mười loại định chớ không phải như chúng ta nói rằng bốn cái thiền định đó đâu, có mười loại định.

2- MƯỜI LOẠI THIỀN ĐỊNH CỦA ĐẠO PHẬT

(01:02) Vậy thì mười loại định nó như thế nào? Thầy xin kể ra cho quý thầy nghe:

Thứ nhất:

1. Định Niệm Hơi Thở;

Đó là cái thứ nhất mà cái người tu bắt đầu vào để mà tu tập là phải ổn định hơi thở. Vì khi mà chúng ta ăn uống điều độ mà chúng ta giữ được hơi thở điều hòa thì cơ thể chúng ta không có bệnh tật.

Thì như quý thầy biết rằng vốn đạo Phật ra đời là một y vương để trị bệnh cho chúng sanh. Bệnh chúng sanh có hai loại bệnh: Bệnh thứ nhất là thân bệnh, bệnh thứ hai là tâm bệnh.

Mà Đức Phật dạy cho chúng ta để trị thân bệnh thì bằng cách ăn uống điều độ ngày một bữa chớ không được ăn nhiều, và hơi thở được ổn định, điều hòa thì cơ thể không có bệnh đau.

Cái thứ hai thì Đức Phật dạy cho chúng ta trị tâm bệnh. Vì tâm bệnh nó mới làm cho thân chúng ta mới bệnh, còn tâm người đó không bệnh thì ít khi mà thân chúng ta bị bệnh.

Một người mà phiền não, rầu buồn thì lâu ngày ăn uống không được thì sẽ bệnh. Một người giận dữ, tức giận thì cũng ăn uống không ngon, do đó tạo cho cơ thể rối loạn và từ đó dễ sanh bệnh. Cho nên những cái sân hận, phiền não, đau khổ, lo lắng, suy tư là cái tâm bệnh.

Cái tâm bệnh thì lấy gì mà trị? Đức Phật nói: Cái tâm bệnh lấy trí mà trị - lấy sự hiểu biết mà trị nó.

Cho nên ở đây hầu hết để trị cho chúng ta cái tâm bệnh vô lậu này thì phần nhiều là lấy trí tuệ. Mà lấy trí tuệ đó thì như quý thầy đã học rồi: Trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó. Bởi vì trí tuệ nó làm cho giới luật thanh tịnh, mà giới luật nó làm cho trí tuệ thanh tịnh.

Cho nên người có trí là người có giới luật, mà người không có trí là người không có giới luật. Dù là người đó là người có thông minh gì đi nữa mà đời sống họ không đúng giới hạnh, không đúng cái giới luật của Phật dạy thì đương nhiên người đó là người không có trí.

Cũng như quý thầy thấy, mọi vị ăn phi thời tức là người đó không có giới luật, mà không có giới luật tức là không có trí tuệ, mà không có trí tuệ thì người ăn phi thời sẽ có nhiều bệnh tật đem đến đau khổ cho họ.

Và khi mà chạy theo sự ăn uống đó là họ bị dục lạc của ăn uống cám dỗ làm cho tâm hồn của họ khi mà ăn cực khổ hoặc là khi không có ăn thì họ phải sanh ra đau khổ, phải sanh ra phiền não, phải sanh ra những cái ác pháp.

Đó, thì như vậy là người không có trí mà chỉ sống theo dục lạc cho nên luôn luôn tạo mình khổ, tức là tạo cho mình có bệnh, tâm bệnh hay hoặc là thân bệnh.

Đó cho nên ở đây là cái Định Niệm Hơi Thở vốn mục đích nó hợp với cái sự ăn uống điều độ của chúng ta thì giúp cho thân chúng ta không bệnh. Cho nên nó là định thứ nhất của đạo Phật để trị cái thân bệnh của chúng ta.

Còn các cái định khác, còn chín cái thứ định này vốn để trị cái tâm bệnh của chúng ta.

Đó thì cái Định Niệm Hơi Thở nó hợp với cái đời sống ăn uống của chúng ta hàng ngày thì nó trị được cái thân bệnh, còn chín cái loại định sau này nó hợp lại để mà nó trị cái tâm bệnh của chúng ta. Thì biết như vậy thì Thầy sẽ kể tiếp cho quý thầy nghe:

(04:14) Thứ hai là:

2. Thánh Định Phòng Hộ Sáu Căn;

Bởi vì phòng hộ sáu căn nó là một cái loại định làm cho mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý chúng ta thanh tịnh, và oai nghi, luật nghi - cái luật nghi mà giới hạnh đó, nó làm cho chúng ta rất rõ nét mà người nào nhìn vào cũng biết là cái người đó giới luật hẳn hòi.

Một người tu sĩ mà đi ra đường ngó qua, ngó lại thì biết rằng cái người đó không phòng hộ sáu căn. Mà không phòng hộ sáu căn thì tức là cái người đó đã phạm giới, không thể nào trong ý của họ không phạm giới.

Họ đi mà họ ngó qua, ngó lại thì cái ý họ bị dính kẹt ở trong những cái đối tượng của các pháp thế gian thì làm gì họ cũng bị phạm giới hết. Mặc dù là thân, khẩu họ không phạm, đời sống họ không phạm nhưng ý họ vẫn bị phạm giới.

Đó là Thánh Định Phòng Hộ Sáu Căn.

Thứ ba là:

3. Thánh Định Chánh Niệm Tỉnh Thức;

Nghĩa là cái người tu sĩ luôn luôn phải tỉnh giác, phải tỉnh thức, không có được mê mờ, cho nên khi đi luôn luôn họ tập trung dưới bàn chân họ, họ tránh tất cả những loài chúng sanh, và đồng thời họ giữ được cái chánh niệm là không hại chúng sanh, không làm đau khổ chúng sanh, tức là không giết hại chúng sanh, tức là giữ giới không sát hại chúng sanh.

Cho nên giới luật ngay từ cái chỗ bước đi của họ chớ không phải họ cầm dao họ giết con vật, hoặc là cầm dao giết người mới là gọi là sát sanh, mà chính vô tình đạp chết chúng sanh vẫn là thọ lấy cái giới - phạm giới sát sanh chớ không phải không.

Thứ tư:

4. Chánh Định Thiểu Dục Tri Túc;

Nghĩa là phải dùng cái sức định tâm hết sức mới giữ được cái thiểu dục tri túc, chớ không thể nào mà thiếu cái định tâm mà giữ gìn được thiểu dục tri túc đâu!

Cho nên ở đây thứ tư là Thánh Định Thiểu Dục Tri Túc, Phật gọi nó là Thánh Định. Cái thiểu dục tri túc là của bậc Thánh chớ không phải phàm phu mà thiểu dục tri túc được.

Quý thầy cứ nghĩ ba y một bát như thế này, sống ngày có người cho ăn mà ngày không có người cho ăn vẫn thấy mình biết đủ, chưa phải là thấy mình thiếu sót, đói khổ, quý thầy có nghĩ được cái điều đó không?

Cuộc sống của một người tu sĩ mà đến cái mức độ đó thì quý thầy thấy nếu mà ngoài đời sống thì không ai mà chịu nổi hết! Người ta nói quá khổ à, không thể nào cái khổ nào hơn là cái khổ của những bậc Thánh này. Vì vậy cho nên “thiểu dục” - “tri túc” nghe hai danh từ thì dễ lắm, nhưng mà sống không phải dễ.

Khi vào trong rừng không có cơm ăn, phải ăn lá cây rừng vẫn thấy thiểu dục tri túc, khi đau bệnh mà không có thuốc thang vẫn thấy thiểu dục tri túc, trước cái cơn ngặt nghèo mà chúng ta vẫn thấy thiểu dục tri túc, không đòi hỏi thì lúc bấy giờ mới thấy thiểu dục tri túc phải là Thánh Định, chớ còn không Thánh Định thì không thể nào chịu nổi trước cái cảnh thân và tâm quá khắc khổ trong cái cuộc sống.

Đó là gọi là Thánh Định Thiểu Dục Tri Túc, mà ở đây đã có kê ra từng cái giới đức của nó ở trong đó, mỗi cái giới đức thiểu dục tri túc là chứng tỏ qua một cái sự tu tập rèn luyện mình mới đạt được cái giới đức đó chớ không phải dễ. Cho nên định thì nó thuộc về giới đức.

5. Thánh Định Vô Lậu;

(07:21) Làm cho lậu hoặc chúng ta sạch cho nên gọi là Thánh Định Vô Lậu.

6. Thánh Định Sơ Thiền;

Còn gọi là Định Chói Sáng, hay gọi là Định Sáng Suốt. Đó, cái Sơ Thiền nó còn có cái tên gọi là Định Chói Sáng hay là Định Sáng Suốt, mà Thầy thường nhắc quý thầy ngồi lại mà giữ tâm thanh thản, giữ tâm vô sự đó, đó là cái Định Sơ Thiền đó, chớ không phải là gì.

Vì có ly dục ly bất thiện pháp thì mới nhập được Sơ Thiền, mà có nhập được Sơ Thiền thì ngồi nó mới thanh thản, còn không thì làm sao mà thanh thản được!

Cho nên cái Định Sáng Suốt - cái Định Chói Sáng thì cái định đó là cái định của Sơ Thiền. Vì vậy ở đây Phật gọi là Thánh Định Sơ Thiền, chớ không phải phàm phu mà nhập được cái định này đâu!

Kế đó thứ bảy thì Phật gọi là:

7. Thánh Định Nhị Thiền;

Nghĩa là diệt Tầm Tứ, không tác ý, không phải chuyện dễ làm của phàm phu, cho nên chỉ có bậc Thánh mới có thể làm được điều đó.

Thứ tám:

8. Thánh Định Tam Thiền;

Thánh Định Tam Thiền chỉ có bậc Thánh mới ly tất cả những trạng thái của ma tức là mười tám cái trạng thái của tưởng.

Mỗi cái trạng thái của tưởng nó khởi lên là nó làm cho chúng ta có cái niềm vui mừng, mà cái niềm vui mừng đó nó làm cho chúng ta - mà Phật gọi là “ly hỷ, trú xả”: Mỗi cái trạng thái của tưởng khởi lên làm cho thân chúng ta đang bị đau khổ, dày vò, do đó chúng ta phải ly cho được thì như vậy chúng ta mới nhập được Tam Thiền.

Mà ly mười tám cái trạng thái của tưởng này thì mới nhập được Tam Thiền cho nên mới gọi là Thánh Định. Thậm chí như giấc mộng, chiêm bao chúng ta cũng phải ly sạch ra, còn nếu còn mộng thì chưa nhập Tam Thiền.

Cho nên cái sức tỉnh của cái người đó dù ở trong lúc ngủ họ cũng phải tỉnh, mà không tỉnh thì phải có chiêm bao, mà chiêm bao tức là họ chưa ly được cái trạng thái của tưởng. Thì chưa ly được trạng thái của tưởng thì không bao giờ nhập được Tam Thiền.

Cho nên khi ngủ, cái người mà tu đến cái chỗ mà vượt qua mười sáu cái tưởng này thì người đó không còn mộng mị, mà không còn mộng mị thì ngủ phải tỉnh thức chớ không thể ngủ mê như cái người tầm thường, phàm phu được.

Đó thì, tới cái chỗ Thánh Định Tam Thiền này chúng ta mới biết rằng cái chỗ ngủ và chỗ thức của chúng ta nó không có sai khác chút nào hết.

9. Thánh Định Tứ Thiền;

Đây thì quý vị thấy cái Thánh Định Tứ Thiền là cái chỗ mà ngưng hoàn toàn hơi thở chúng ta, mà chỗ đó là cái chỗ thanh tịnh nhất mà chúng ta thực hiện được Tam Minh đó.

Đó là chỗ Thánh Định Tứ Thiền. Không phải kẻ phàm phu mà nhập được Tứ Thiền nổi đâu! Không phải chuyện dễ, hơi thở đương thở như thế này mà ngưng lại, các hành hoạt động trong hơi thở đang co bóp, phổi chúng ta hóp thở ra, thở vô, thế mà nó hoàn toàn ngưng mà chúng ta không chết thì không phải là những cái thiền của bậc Thánh mới làm được sao?

(10:17) Đó là cái chỗ làm chủ được sống chết của thân của chúng ta, cho nên chúng ta mà nếu mà muốn bỏ thân này thì cũng phải đều phải nhập vào Tứ Thiền mới bỏ thân này được.

Thứ mười:

10. Thánh Định Diệt Thọ Tưởng.

Nghĩa là cái định cuối cùng là định thứ mười đó là Diệt Thọ Tưởng. Cái định này nó giữ cái thân của quý vị ngàn năm không bị hoại diệt.

Nghĩa là Thánh Định Tứ Thiền nó chỉ có 49 ngày, nếu quá 49 ngày thì cái thân của quý vị bị hoại diệt, vì nó còn ở trong cái Thức Thức, nó chưa ly khỏi cái thân Ngũ Uẩn của nó.

Tứ Thiền nó chưa lìa khỏi cái thân Ngũ Uẩn của nó, nó còn ở trong cái Thức Thức của nó để nó sử dụng cái biết để mà trở về cái trí tuệ Tam Minh của nó, tức là cái giới tuệ của nó cuối cùng. Cho nên nó không giữ được cái thân nó lâu dài, chỉ có 49 ngày thì nó bị hoại diệt.

Nhưng chúng ta nhập tới 49 ngày tự cái thân của chúng ta nó phải phục hồi sự sống lại, nó sẽ bung ra chớ nó không ở trong Tứ Thiền. Cho nên chúng ta chẳng ngại vấn đề đó. Nếu chúng ta nhập Tứ Thiền, đến đó nó tự bung ra, nó không nằm ở trong đó cho chúng ta chết đâu!

Còn Diệt Thọ Tưởng Định thì cái định Thánh Định thứ mười này nó giúp cho chúng ta nhập vào cái định này cả trăm năm, cả ngàn năm thân này bất hoại, không hư, không hôi, không thúi, luôn luôn lúc nào nó cũng giữ gìn cái thân nó vững chắc như đá, không mòn, không hao, không có một vật gì phá hoại cái cơ thể này được.

(12:02) Đó là cái định giữ gìn cái cơ thể tối đa, và tất cả những cái bộ phận ở trong cái thân đó đều hoàn toàn ngưng hoạt động, thậm chí như cái ý căn của chúng ta cũng hoàn toàn là ngưng hoạt động, đó là cái bộ óc.

Còn Tứ Thiền thì cái bộ óc của chúng ta, cái ý căn của chúng ta vẫn còn hoạt động, nhưng các phần khác của bộ óc đều đình chỉ, như cái phần mà hoạt động của bộ óc chúng ta về ý thức của chúng ta thì ngưng hoạt động, về cái phần tưởng thức ngưng hoạt động, chỉ còn cái phần của Thức Thức là nó đang hoạt động mà thôi.

Đó thì, phân biệt được như vậy chúng ta mới thấy rằng cái định của Tứ Thiền thì cái ý căn của chúng ta còn hoạt động trong cái phần của Thức Thức, chớ không hoạt động của phần tưởng thức và ý thức của chúng ta.

Còn Thánh Định Diệt Thọ Tưởng thì hoàn toàn cái ý căn của chúng ta ngưng hoạt động hoàn toàn. Cho nên Phật gọi nhập Diệt Thọ Tưởng Định là cái ý hành phải ngưng, phải tịnh chỉ, phải tịnh chỉ ý hành thì mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định, mà tịnh chỉ ý hành tức là ý căn ngưng hoạt động.

Đó quý thầy hiểu cái chỗ đó thì như vậy quý thầy mới biết mười cái loại định. Trong khi người ta dạy thiền định chỉ có một thứ thiền định mà ở đây Phật dạy chúng ta tới mười cái loại thiền định.

Con đường của đạo Phật nó không đơn giản đâu, nó không phải có một loại định nào mà chúng ta (có) thể hoàn tất được cái sự giải thoát cho chúng ta, mà cả mười loại mà chúng ta phải tu chớ không có bỏ một cái loại nào được hết.

Cho nên hiện giờ quý thầy tu hơi thở cũng là tốt, mà tu làm mọi công việc, biết hành động làm mọi công việc cũng là tốt, chớ đâu có gì sai. Mà quý vị phòng hộ sáu căn, giữ gìn sáu căn của mình cũng là tốt, đâu có gì sai! Mỗi giới luật của quý thầy học được, quý vị giữ được một cái giới luật nào đó cũng đều nhằm ở trong mười loại định này chớ không ngoài mười loại định đâu mà sợ rằng chúng ta tu lầm, tu lạc.

Chỉ có chúng ta bị lạc vào những cái trạng thái của tưởng mà nó trở thành - khiến cho thân của chúng ta rối loạn mà trở thành điên khùng, trở thành bệnh thiền chớ không có gì khác hơn hết.

Chỉ có chỗ từ Nhị Thiền đến Tam Thiền, cái đoạn đường đó là quý vị sẽ lạc vào những cái thiền ma mà trở thành thân bệnh, tâm bệnh mà thôi.

Nếu mà vượt qua được cái chỗ từ Nhị Thiền đến Tam Thiền mà vượt qua mười sáu cái loại tưởng của tưởng uẩn thì quý thầy sẽ được an toàn trên bước đường tu tập, không có sợ điên, sợ khùng gì nữa hết. Nó chỉ có một đoạn đường đó mà người ta chết điêu chết đứng ở đó mà không đi tới đâu được hết.

3- NHỮNG TÊN GỌI KHÁC CỦA GIỚI ĐỨC, GIỚI HẠNH, GIỚI TUỆ

(14:45) Gồm chung mười loại định này gọi là giới đức.

Nghĩa là mười cái loại định này thì nó được cái tên gọi là giới đức.

Còn gọi là giới tâm hay gọi là thiền định, còn gọi là Trung Thiện.

Đó những cái tên của nó để gọi cho chúng ta biết mười cái loại định đó nó có những cái tên của nó như vậy để cho nó phù hợp với cái đạo Phật, đúng với cái nghĩa của đạo Phật. Bởi nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên xứng hợp với vị trí nó.

Như vậy là chúng ta phải hiểu: Khi mà bốn cái loại định này nó đứng ở trong cái vị trí của định thì nó gọi là thiền định, mà nó đứng ở trong giới luật thì gọi nó là giới đức, mà nó đứng ở trong các pháp thiện, nhân quả thì nó gọi là Trung Thiện.

Bởi vậy nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên xứng hợp ở vị trí nấy, như nó ở vị trí nhân quả, thiện ác thì gọi là Trung Thiện.

Đó, Thầy đem cái ví dụ cho quý thầy thấy rất rõ. Nếu nó ở trong cái nhân quả, thiện ác thì nó gọi là Trung Thiện, mà nó ở vị trí của giới luật thì gọi là giới đức, nếu mà nó ở trong cái vị trí của giới luật thì phải gọi nó là giới đức, nó ở vị trí tâm định tỉnh, trong sạch thì gọi nó là thiền định.

Nói chung nó là giới đức thanh tịnh tâm.

Nó có một cái tên chung của nó đó, gọi là giới đức thanh tịnh tâm.

Đó quý thầy có những cái tên của nó, nó đặc biệt có những cái tên riêng của nó, nhưng nó có những cái vị trí đứng của nó, nó có những cái tên riêng của vị trí đứng của nó.

(16:28) Như vậy là quý thầy nghe nói giới đức thì quý thầy hiểu nó là cái gì rồi. Mà nghe nó là giới đức thì quý thầy đứng ở trong nhân quả biết nó là cái Trung Thiện rồi, biết nó là cái tên gì rồi, mà nếu mà gọi chung nó thì đức giới thanh tịnh tâm. Đó thì quý vị có cái biết rằng, cái đức giới này nó làm cho cái tâm của quý vị thanh tịnh mà định tỉnh, rất là sáng suốt.

Còn về hai mươi lăm giới hạnh như Thầy đã dạy ở trên còn gọi là giới bổn Patimokkha.

Hai mươi lăm cái hạnh mà mình không làm nghề nghiệp này không làm nghề nghiệp kia đó, không sát hại chúng sanh đó, tất cả những cái ở trên đó thì nó là thuộc về giới bổn.

Sau này chúng ta ta sẽ học nó đây để chúng ta bồi, bổ túc thêm cho hai mươi lăm cái giới hạnh, cho nó rõ ràng là oai nghi tế hạnh của người tu sĩ.

Học giới bổn rồi chúng ta mới thấy được hai mươi lăm giới hạnh này nó còn thêm những cái hành động mà chúng ta chưa có học, có thu nhập, có hiểu biết chưa toàn diện. Khi mà học hết cái giới bổn Patimokkha này rồi thì chúng ta có đầy đủ hơn về những cái giới hạnh.

Hạnh giới Ly Trần Tâm.

Nghĩa là cái giới hạnh đó - hai mươi lăm giới hạnh này còn có một cái tên gọi là Hạnh Giới Ly Trần Tâm.

Nghĩa là cái giới hạnh này nó ly cái tâm thế tục của chúng ta, nó ly cái đời sống thế tục của chúng ta, chúng ta không còn có ở trong cái thế tục nữa, không còn sống như cái sống thế tục nữa, cho nên gọi nó - nó có cái tên gọi là Hạnh Giới Ly Trần Tâm.

Nó có một cái tên của nó - hai mươi lăm giới hạnh này gọi là Hạnh Giới Ly Trần Tâm: Chúng ta không còn cái hành động sống như các người thế gian nữa, cho nên nó ly ra tất cả hết cái tâm trần của chúng ta, nó lìa ra hết. Cho nên nội cái giới hạnh không là chúng ta đã lìa cái thế gian rồi.

Còn về tám giới tuệ như trong kinh Sa Môn Quả đã dạy thì chưa đủ. Nó có mười ba giới tuệ.

Đó bây giờ cái giới tuệ chúng ta phải xác định nó. Hồi nãy Thầy xác định cái định cho nó đủ để mười cái định, còn bây giờ nói - hồi nãy chúng ta có học có tám giới như trong kinh Sa Môn Quả đã dạy thì nó chưa có đủ đâu, mà chính nó phải đủ là mười ba cái giới tuệ chớ không phải là có tám giới tuệ đâu.

Nhưng mà theo kinh Sa Môn Quả thì chúng ta nêu ra tám cái giới tuệ, cho nên nó có sự tóm tắt lại để cho chúng ta ngắn gọn, để không nó dài dòng, cho nên ở đây nếu phải rõ thì nó là mười ba giới tuệ chớ không phải là có tám giới tuệ.

Chúng ta phải kể ra cho rõ, nghĩa là Thầy phải nói ra cho rõ để cho quý thầy biết như thế nào là mười ba cái giới tuệ này, mà ở trong kinh thì dạy có - ở trong kinh giới - kinh Sa Môn Quả thì dạy có tám giới tuệ mà thôi, vậy thì nó làm sao mà có được mười ba giới tuệ đây?

(19:18) Một, chúng ta phải thấy:

1. Bốn Như Ý Túc;

2. Lục Thông;

3. Tam Minh.

Quý thầy thấy, nó rõ ràng là Bốn Như Ý Túc, phải không? Bốn cái Như Ý Túc - mình muốn như thế nào nó làm theo như thế nấy hết, mà bốn cái lận chớ không phải là một cái Như Ý Túc đâu, cho nên nó là bốn.

Mà Lục Thông là sáu cái thông, phải không? Thiên Nhãn Thông nè, Thiên Nhĩ Thông nè, phải không? Tha Tâm Thông nè, cho đến Tha Tâm Thông là sáu cái. Mà sáu cái cộng với bốn không phải là mười sao?

Rồi ba cái Tam Minh nữa, phải không? Ba cái nữa là phải mười ba không? Cho nên phải nói đủ là phải mười ba cái giới tuệ. Đó, thì như vậy là chúng ta thấy cộng lại thì nó rất đủ là mười ba chớ không phải như trong kinh Sa Môn Quả nói đâu.

Trong kinh Sa Môn Quả chỉ nói cái Thiên Nhĩ Thông là khi - Thầy nhắc lại cái Thiên Nhĩ Thông ở trong này - là khi mà cái người mà đạt được cái Thiên Nhĩ Thông siêu nhân rồi đó, thì cũng nghe cái tiếng mà ở cách xa ngàn dặm đó, cũng như là nghe - mình nghe - mình đi ra ngoài đường mình nghe người ta đánh trống, thổi kèn, đánh xập xả vậy, nó y như vậy, rõ ràng như vậy, mà cái tiếng người ta nói chuyện ở đâu mình vẫn nghe được như vậy.

Đó là Đức Phật nói về Lục Thông thì Đức Phật có nêu lên có một cái mà thôi để nói nó là cái trí, cái tuệ, cái giới tuệ của nó ở trong cái - cho nó gọn thành lại tám, nhưng mà lôi ra cho đủ là nó phải sáu cái Lục Thông này mới đủ, chớ không phải một cái được.

Cho nên ở đây nó là:

Mười ba giới tuệ này còn gọi là trí tuệ viên mãn.

Đó, mười ba giới tuệ này cũng phải còn gọi nó là một cái tên là trí tuệ viên mãn, vì nó viên mãn cái trí tuệ này nó phải đủ là mười ba cái giới tuệ này, chớ một cái nói “Bây giờ chúng tôi có Tam Minh thôi” - thì cái người đó chỉ hiểu quá là cạn, đơn sơ quá đơn sơ.

Cho nên nói ngoại đạo nó cũng có Lục Thông, thì ở trong cái chỗ tu hành của chúng ta cũng thực hiện Lục Thông, đâu phải không có Lục Thông, mà chúng ta còn Tứ Như Ý Túc, muốn cái gì được như nấy, còn chúng nó chỉ có Lục Thông mà thôi.

Cho nên nó luyện có Lục Thông mà nó không có Tứ Như Ý Túc thì nó đâu có bằng cái phương pháp của Phật. Mà nó chưa có Tam Minh nữa thì nó đâu có sánh được bằng Phật, nó chỉ mới có Lục Thông mà thôi!

Cho nên cái Lục Thông của nó là do luyện tập để tạo cho có cái Lục Thông bằng tưởng pháp chớ không phải bằng cái Chánh Pháp đâu, bằng cái tưởng. Vì vậy mà khi mà đến tưởng thì chúng ta dùng Lục Thông này được.

Cũng như đồng cốt mà, nó chỉ dùng cái tưởng mà nó biết nhà mình cái gì, gì nó nói rõ hết, nó không có nói sai, thì quý thầy thấy cái vấn đề Lục Thông của ngoại đạo là nó Lục Thông nó ở trong cái trạng thái của tưởng uẩn mà nó thực hiện ra.

Còn chúng ta Lục Thông của chúng ta là ở chỗ cái tâm thanh tịnh. Sáu cái mắt, tai, mũi, miệng…​ chúng ta do cái ly ác pháp và ly dục cho nên nó thanh tịnh mà nó như cái hồ nước trong, vì vậy mà cái Lục Thông này tự thanh tịnh mà thông suốt ra, chớ không phải là do chúng ta luyện tập ở chỗ tưởng.

Nhớ biết như vậy thì chúng ta mới thấy được cái chỗ tuyệt vời của đạo Phật đến cái chỗ mười ba cái giới tuệ này.

Cho nên còn gọi nó là trí tuệ viên mãn.

Viên mãn tức là đầy đủ, trọn vẹn không còn thiếu nữa.

Còn gọi là trí tuệ siêu việt.

Nó còn có những cái tên đó: Trí tuệ viên mãn là trí tuệ đầy đủ không còn thiếu, tới mười ba cái giới tuệ này là cái trí tuệ đầy đủ không còn có một cái nào nữa thêm nữa được hết, đó gọi là trí tuệ viên mãn. Nó còn gọi là trí tuệ siêu việt, cái trí tuệ này nó điều khiển tất cả những cái mà người ta không có thể nghĩ lường được, cho nên nó gọi là siêu việt.

4- PHÂN BIỆT TRÍ TUỆ VÀ TRI KIẾN

4.1- VĂN - TƯ - TU LÀ TRI KIẾN, KHÔNG PHẢI TRÍ TUỆ VÔ LẬU

(22:56) Nói trí tuệ người ta tưởng lầm là tri kiến.

Bây giờ mình nói trí tuệ thì người ta nghĩ rằng đó là cái tri kiến của mình. Có nhiều người hiểu - bởi vì “tri” là biết, “kiến” là thấy, biết - thấy, thì người ta nghĩ như vậy.

Người ta cho tri kiến là trí tuệ, vì tri kiến là trí tuệ nên người ta phân chia làm ba trí tuệ:

Cho nên bây giờ Thầy nhắc lại, người ta lấy cái tri kiến đó mà người ta cho nó là trí tuệ, cho nên người ta phân chia cái trí tuệ đó làm ba cái trí tuệ của chúng ta. Đó là một cái hiểu sai của những người mà chưa có biết tu. Cho nên vì vậy đó, trong kinh rõ ràng là ghi như thế này này:

1. Văn tuệ;

2. Tư tuệ;

3. Tu tuệ.

Ai mà nghe những người mà giảng ra trí tuệ đó thì họ phân chia ra làm văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ. Phải không, văn - tư - tu đó!

Cho nên cái này nó chỉ là tri kiến chớ không phải là cái tuệ đâu, nó không phải là trí tuệ đâu, nó là cái tri kiến của chúng ta. Nó chưa đạt được cái tri kiến giải thoát nữa, cái chỗ mà văn - tư - tu này nó chưa đạt được cái tri kiến giải thoát của chúng ta nữa, nó chỉ mới ở chỗ tri kiến mà thôi.

Tức là cái nơi mà chúng ta tích trữ, tập hợp lại tất cả những sự hiểu biết của kinh sách, của những người xưa, người nay để chúng ta thành một cái hiểu biết của chúng ta, gọi là văn tuệ, tức là chúng ta nghe rồi chúng ta tích lũy lại gọi là văn tuệ.

Từ cái chỗ văn tuệ đó chúng ta suy tư bằng cách này, bằng cách khác để làm cho tâm chúng ta giảm bớt sự buồn khổ như thế này, thế khác hoặc là chúng ta suy tư ra để mà chúng ta tìm hiểu ra, hiểu thêm ra, thì cái đó gọi là tư tuệ.

“Tư” là suy tư hay là tư duy, cái suy nghĩ để mà hiểu thêm ra, để mà thấu suốt được một cái lý gì đó thì gọi tư tuệ. Nhưng đó cũng là cái tri kiến của chúng ta chớ không phải là cái trí tuệ.

Còn đến phần tu tuệ thì ở trong kinh sách dạy chúng ta lấy một cái sự hiểu biết - như bây giờ Phật dạy là cho chúng ta hiểu biết đó - đó là cái thân chúng ta nè, Ngũ Uẩn của thân Ngũ Uẩn chúng ta nè, là vô thường, khổ, vô ngã nè, thì chúng ta lấy cái chỗ đó mà chúng ta - lấy cái chỗ mà hiểu biết đó mà để chúng ta tu tập làm cho cái thân của chúng ta, cái tâm chúng ta không có phiền não, không có đau khổ nữa.

Vì thấy cái thân vô thường này mình không chấp ngã nè, mình không có giận hờn ai nữa nè, mình thấy cái thân vô thường nè, mình không có sợ đau, sợ khổ nữa nè. Cái mà làm cho mình không có đau khổ đó, gọi là lấy cái trí tuệ đó mà tu thì gọi là tu tuệ.

Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu ba cái trí tuệ này chỉ là một cái tri kiến của chúng ta thôi chớ không phải gì khác hơn hết.

Nó không phải là trí tuệ siêu việt, nó cũng không phải là trí tuệ viên mãn, nó chỉ là một cái tri kiến tầm thường của mọi con người trong thế gian này, ai cũng có chớ không phải cần tu tập mới có.

(25:32) Nhưng khi mà chúng ta tích lũy thì chúng ta ăn nói nó có lưu loát, nó có hơn cái người không tích lũy. Chúng ta nói ra văn chương bằng cách này bằng cách khác là vay mượn của kẻ khác nói thì nó hơn là cái người không có vay mượn văn chương, cho nên họ nói lời nói bình dân mộc mạc, họ nói không có mượn câu này kia.

Nói một hơi chúng ta đem một câu kinh Phật ra nói, nói một hơi chúng ta đem một câu nho ra nói thì cái đó là mượn, mượn - cái vay mượn của kẻ khác mà làm ra cái chỗ ăn nói của mình cho có vẻ lịch lãm mà thôi. Đó là cái vay mượn.

Cũng như bây giờ chúng ta vay mượn khoa học để chứng minh cho Phật pháp thế này thế kia, do đó Phật pháp có khoa học như vậy, như vậy. Đó là cái vay mượn của chúng ta qua những cái khoa học bằng máy móc của người ta tìm ra những cái thực của cái cuộc sống ở trong cái vũ trụ này, do đó chúng ta vay mượn cái đó để chứng minh cho Phật pháp nó cũng thực như vậy.

Đó là cái vay mượn. Mà cái vay mượn đó là cái trí tuệ - không phải là cái trí tuệ, đó là cái tri kiến góp nhặt mà nói ra để làm cho chúng ta như một cái người thông về khoa học, thông về cái này, thông về cái kia.

Đó là chứng tỏ cái bản ngã chúng ta, do cái tri kiến này mà cái bản ngã của chúng ta càng ngày càng to lớn lên chớ không phải giảm xuống và vô ngã được.

Văn - tư - tu tuệ này chỉ là một tri kiến góp nhặt chớ không thể được liệt vào Tam Vô Lậu Học Giới - Định - Tuệ của đạo Phật.

Bởi vì Giới - Định - Tuệ của đạo Phật nó là một cái loại giới luật.

Mặc dù nói là Giới - Định - Tuệ có cái tên riêng, nhưng mà sự thật toàn bộ Giới - Định - Tuệ là một cái giới luật như Thầy hồi nãy nói: Giới bổn tức là giới hạnh, mà Định tức là giới đức, Tuệ là giới tuệ. Cho nên toàn bộ của đạo Phật - toàn bộ là giới luật chớ không phải gì khác hơn hết.

Vì người dạy giới luật mà không hiểu được điều này mới thấy Giới là nó riêng mà Định nó riêng, Tuệ nó riêng, cho nên dạy giới luật rất là khô khan, làm cho con người ta học đến giới luật người ta chán, người ta thấy như một cái giáo điều, như một cái pháp luật khắc khổ trói buộc con người, cho nên người ta sống không có nổi với nó.

Còn trái lại ở đây Thầy dạy giới luật nó ở trong Tam Vô Lậu học, cho nên Giới - Định - Tuệ nó là một cái giới luật để đem lại sự giải thoát cho con người.

Từ bước đầu vô cái giới hạnh chúng ta đã thấy giải thoát, cho đến giới đức chúng ta thấy cả một sự định tâm vô cùng tuyệt diệu, cho đến cái giới tuệ chúng ta không nghĩ lường được cái sự mà - cái quyền lực của giới tuệ đến cái mức độ cao siêu vô cùng của đạo Phật như vậy.

Cho nên ở đây dạy về giới luật mà hiểu biết được giới kinh và hiểu biết được cái nhân quả của cái pháp môn Giới - Định - Tuệ này thì Thầy nói rằng người dạy giới luật rất là linh động, rất là khéo léo, rất là làm cho cái người nghe càng ngày càng thích và càng ham tu giới luật hơn. Còn nếu mà cái người mà không hiểu được như vậy, dạy giới luật người ta không bao giờ mà phát triển được giới luật.

(28:24) Đứng ở trên góc độ mà dạy giới luật như Thầy, Thầy tin rằng giới luật sẽ phục hồi rất nhanh và tiến bước trên con đường giới luật, mọi người người ta khép chặt mình trong cái giới luật để người ta thực hiện được cái đời sống giải thoát.

Người ta không hề sợ khổ, mà người ta thấy đó là một cuộc giải thoát thực sự, hoàn toàn là một cuộc cách mạng của con người làm cho chúng ta làm chủ được cái sanh tử.

Từ lâu chúng ta bị sanh tử làm chủ, bây giờ chúng ta đòi lại quyền sanh tử bằng một cuộc cách mạng. Bằng cuộc cách mạng tức là thay đổi cuộc sống của chúng ta toàn bộ.

Đó thì quý thầy thấy rất rõ: Nếu mà chúng ta không làm một cuộc cách mạng hoàn toàn thì chúng ta không đòi lại quyền làm chủ sanh tử đâu.

Đó là cái mục đích của Tam Vô Lậu Học là như vậy. Mà Tam Vô Lậu Học là một cái định lực của giới luật, nó làm chúng ta thay đổi toàn bộ của một cái cuộc cách mạng đời sống của chúng ta.

Cho nên quét sạch ra được thì chúng ta mới đạt được cái này, mà không quét sạch cái - không làm cái cuộc cách mạng cho cuộc sống chúng ta thì hoàn toàn chúng ta không đạt được cái sự giải thoát này đâu.

Vì Giới - Định - Tuệ của đạo Phật là ba pháp môn liên hoàn:

Nghĩa là ba cái pháp môn này coi như nó kết hợp, nó liên hoàn nhau trong một cái giới luật chớ không phải là hai.

Giới sinh Định, Định sinh Tuệ, không thể tách lìa ba pháp môn này ra từng pháp môn được.

Người không hiểu pháp môn này họ hay tách lìa nó ra từng pháp môn, từng pháp môn: Định nó khác rồi Giới nó khác. Người mà hiểu được ba pháp môn này đứng ở trên một cái nền tảng của giới luật thì hoàn toàn nó là - ba pháp môn là giới luật, không gì khác.

Người chưa có kinh nghiệm tu hành trong đạo Phật thì không thể nào liễu giải pháp và liễu giải nghĩa được. Thường họ giảng theo tri kiến phàm phu nên làm lệch nghĩa của Phật dạy. Tri kiến mà họ hiểu là trí tuệ thì rất là sai lạc, lầm lạc.

4.2- NGƯỜI TU XONG SỐNG VỚI TRI KIẾN GIẢI THOÁT

(30:10) Người phàm phu ai cũng có tri kiến, nhưng một người tu hành đã giải thoát có còn tri kiến hay không?

Đó, nếu mà cái người phàm phu thì luôn luôn họ có tri kiến thì đồng ý rồi, nhưng thử hỏi một người tu hành đã giải thoát rồi thì cái tri kiến họ có còn hay không? Thì ở đây Thầy xin trả lời:

Thưa không!

Nghĩa là cái tri kiến đó hoàn toàn họ không có.

Tại sao vậy?

Vì tri kiến phàm phu đầy dính mắc và uế trược.

Nghĩa là cái tri kiến đó đầy góp nhặt, đầy kiến chấp, tà kiến, học cái gì mà thấy khá hay thì họ dính vô đó rồi, họ cho đó cái hay, chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến, cái đó là đúng, cái đó là sai nữa.

Họ thấy hay, họ nghe cái câu kinh đó hay thì họ chấp nhận cái câu đó hay, họ nghe cái lời của một cổ nhân nào nói hay là họ chấp nhận hay chớ họ chưa biết cái đó là tà kiến hay là Chánh Kiến, họ chưa biết đâu.

Cho nên cái người mà tu hành giải thoát theo đạo Phật xong rồi họ không có tri kiến đó nữa, thì họ có cái gì mà họ dùng trong những cái cuộc sống của họ hàng ngày họ còn đang sống?

Đến đây Thầy sẽ trả lời để cho quý thầy thấy:

Vì tri kiến phàm phu đầy dính mắc…​

Cái tri kiến, cái sự hiểu biết đó nó đụng cái gì nó dính cái nấy.

…​ và uế trược.

Nó rất uế trược.

Vậy một người tu đã thành tựu viên mãn có phải họ sống với trí tuệ hay không?

Thưa không!

Nghĩa là họ cũng không sống với trí tuệ, cái trí tuệ siêu việt họ cũng không có sống đâu, họ không có sống với trí tuệ đó đâu. Khi họ sử dụng thì họ lấy họ dùng, mà không thì họ hoàn toàn họ không sống với trí tuệ đó.

Đừng nghĩ rằng khi một người tu chứng luôn luôn họ sống với trí tuệ, không! Họ sống với cái gì đây?

Vậy thì như thế nào?

Nghĩa là họ phải sống như thế nào đây?

Hàng ngày họ đang sống với tri kiến giải thoát.

Bởi vì quý thầy thấy cái tri kiến nó dính mắc, mà tri kiến giải thoát nó đâu có dính mắc! Bởi vì tri kiến họ cũng y như cái đầu chúng ta suy nghĩ sao thì họ cũng suy nghĩ vậy, họ không khác chúng ta, nhưng mà mỗi vật đến với họ, họ không bị dính mắc, họ không bị ô nhiễm từng miếng ăn, không ai gạt họ mà đem đút miệng họ được.

(32:17) Thí dụ như bây giờ Thầy sống với tri kiến giải thoát nè, heng, mà bây giờ một người làm cho Thầy một cái ly nước chanh để đây cho Thầy thấm cổ để mà Thầy thuyết giảng. Mà khi Thầy tưởng là nước trong Thầy nếm thử, Thầy biết rằng không phải, đây là nước chanh có đường, đây là cái sự cám dỗ, cho nên hoàn toàn, khô cổ là khô cổ, nhất định là không uống.

Đó là không thể cám dỗ cái tri kiến giải thoát của Thầy được. Bởi vì cái tri kiến Thầy biết rõ đây là cái nước có đường mà, thì đâu cám dỗ Thầy được!

Mà cái người bị tri kiến, đang sống trong tri kiến thì thấy cái ly nước này thấm cổ mà nghe thông nói cho nó suôn thì thấy thích rồi, ngay cái chỗ ngọt đó đã là cám dỗ vị ta rồi. Còn cái tri kiến giải thoát là không cám dỗ được.

Cho nên Thầy vẫn sống trong tri kiến mà tri kiến giải thoát chớ không phải tri kiến. Chúng ta phân biệt như vậy.

Cho nên trong cái kinh thường chúng ta thấy này: giới hương, định hương, dữ huệ hương nè, giải thoát, giải thoát tri kiến hương, có năm loại hương.

Thì cái người tu sĩ xong viên mãn rồi thì người ta sống ở trong cái tri kiến giải thoát chớ người ta không phải sống trong cái trí tuệ siêu việt đó đâu. Khi sử dụng thì người ta sử dụng, mà khi không sử dụng thì người ta đâu cần sử dụng nó, người ta chỉ cần sống với tri kiến giải thoát.

Đó thì quý thầy hôm nay mới thấy rõ được cái chỗ, cái bài mà hàng ngày quý thầy tụng kinh niệm Phật, bắt đầu mà cầm năm, ba cây hương lên mà niệm hương thì ngay đó đã là nói đến cái chỗ nào sống của quý vị.

Cho nên cái tri kiến giải thoát là cái hương cuối cùng mà quý vị dâng lên: Chúng tôi hãy sống hàng ngày cái chỗ này nè, để làm cho tâm chúng tôi thanh tịnh không bị uế nhiễm của những đối tượng phàm phu vật chất.

Đó là cái chỗ tu hành của một cái vị mà đã viên mãn. Họ không bị ai lường gạt họ được.

Cho nên nó có một cái giải thoát kèm bên cái tri kiến đó. Còn cái tri kiến kia là cái tri kiến mà tích tụ, kết tập, nó không có giải thoát đâu mà nó dính mắc.

(34:03) Cho nên ở đây Thầy giảng như vậy quý thầy chắc thấy rõ ràng, không còn mờ mịt gì nữa hết.

Bởi vậy khi một người tu hành xong luôn luôn họ sống đúng giới hạnh, còn gọi là giới hương. Họ sống đúng giới đức còn gọi là định hương.

Nghĩa là họ sống - cái hương tức là cái thơm chứ gì, các con hiểu không? Cho nên mình niệm hương đó, mình nói - mình thắp cây hương lên mình nói chớ không phải đâu!

Nghĩa là mình sống đúng giới hạnh đó, gọi là giới hương. Mà mình sống đúng giới đức thì gọi là định hương. Bởi vì giới đức nó thuộc về định mà cho nên gọi là định hương. Mà mình sống đúng giới tuệ thì gọi là tuệ hương. Phải không?

Họ sống đúng với tri kiến mà mọi người đang sống, đang biết, không lầm lẫn, còn gọi tri kiến hương.

Nghĩa là sống đúng với cái Chánh Pháp của Phật dạy, với cái sự hiểu biết đúng cái Chánh Kiến, Chánh Pháp của Phật thì cái đó mới được gọi là tri kiến hương.

Còn mình sống không đúng với cái Chánh Pháp của Phật dạy, không sống đúng với giới luật của Phật dạy cái tri kiến đó đó, nghĩa là mình chưa thành tựu cái gì hết, nhưng mình sống không có đúng, mình sống ngoài những cái tri kiến của Phật dạy, những cái lời của Phật dạy trong kinh mà mình sống không đúng thì cái đó không được gọi là tri kiến hương.

Còn mình sống đúng cái tri kiến mà đúng lời Phật dạy, không để tâm mình lầm lạc, không để cho mình lỗi lầm những cái phạm giới thì cái người đó được gọi là tri kiến hương.

Họ sống đúng với tri kiến giải thoát nên còn gọi là tri kiến giải thoát hương.

Đó thì, Thầy phân ra cho chúng ta thấy cái mùi thơm của các loại trí tuệ của chúng ta, các loại sống của chúng ta ở trong giới luật, đó là những cái mùi thơm của nó, của giới luật đó.

Cho nên cái giới luật mà đầu tiên đó là giới hạnh thì gọi là giới hương. Cái giới luật thứ hai thì gọi là giới đức, thì gọi là định hương. Cái giới luật thứ ba đó, tức là cái giới tuệ thứ ba đó gọi là tuệ hương.

Cái tri kiến mà chúng ta từng sống ở trong những cái lời Phật dạy đó gọi là tri kiến hương. Còn cái tri kiến mà hằng ngày mà các bậc mà viên mãn mà sống đó thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát hương.

Thấy như vậy chúng ta mới rõ được. Cái hương là cái mùi thơm mà, cái mùi thơm tức là cái mà làm cho ai cũng quý mến, cũng trọng hết. Còn nếu mà cái mùi thúi thì có ai quý trọng không? Đâu có quý trọng.

Cho nên hương không có nghĩa là cây nhang, hương không có nghĩa là cái bột nhang mà đốt lên có khói đó đâu. Hương đây là cái mùi thơm của giới đức, của giới tuệ, của giới hạnh, của tri kiến - của tri kiến đúng đó, chớ còn tri kiến sai thì cũng không được nữa, của tri kiến giải thoát, thì đó là những cái hương thơm của những cái loại giới luật này.

(36:56) Đối với Tam Vô Lậu học thì tri kiến không được gọi là Tuệ Vô Lậu.

Cái tri kiến của chúng ta không được gọi nó là tên Tuệ Vô Lậu đâu!

Trong mười ba giới tuệ này, giới tuệ thứ nhất: Dẫn tâm đến Chánh Trí và Chánh Kiến…​

Đây, quý vị mới nghe cái chỗ này nè , nếu mà cái người mà tu tập cái giới tuệ thứ nhất thì từ đó chúng ta mới có Chánh Tri Kiến, mới có được cái Chánh Tri Kiến.

Thì cái Chánh Tri Kiến này tức là cái tri kiến hương đó thì chúng ta phải đạt tới cái trí tuệ, cái giới tuệ đầu tiên, cái giới tuệ thứ nhất, lúc bây giờ chúng ta mới dẫn tâm nó để mà chúng ta mới đạt được cái tri kiến đó, chớ còn không phải cái tri kiến tầm thường như tri kiến của thế gian, cái tri kiến kết tập, cái tri kiến mà tích tụ, tích trữ lại những cái hiểu biết của người khác, thì cái tri kiến đó là tri kiến phàm phu.

Còn cái tri kiến ở đây là cái tri kiến mà chúng ta phải có sự tu tập, trau dồi nó cho đến khi mà trong cái Tuệ Vô Lậu nó đạt được cái giới tuệ đầu tiên thì cái tri kiến đó mới được gọi là tri kiến hương.

Giải thích cho rõ vậy thì chúng ta mới biết được cái tri kiến của chúng ta ở chỗ nào. Hồi nãy Thầy chỉ nói cái tri kiến đó phải thông hiểu cái lý của Phật pháp mà không được chấp cái kiến nào hết, nhưng ở đây thì Thầy dạy thêm để chúng ta thấy rằng: Khi chúng ta muốn đạt được cái tri kiến hương này, thì để thông suốt được cái lý của Phật pháp thì cái người đó phải nằm ở trong cái Tuệ Vô Lậu thứ nhất của cái giới tuệ của nó.

Trong mười ba giới tuệ này, giới tuệ thứ nhất: Dẫn tâm đến Chánh Trí và Chánh Kiến, tức là tri kiến mà hàng ngày người tu hành viên mãn.

Ở đây cái chỗ này Thầy hơi giảng lầm chút. Khi mà cái người đó mới tu học thì phải huân - Thầy xin lỗi, phần này đính chính lại chỗ này để cho quý thầy hiểu rõ hơn.

Khi cái người mới tu học mà theo đạo Phật thì chúng ta phải huân học, phải hiểu biết cái Phật pháp, cái nào đúng, cái nào sai, từ đó chúng ta mới thấy con đường của Phật pháp những cái hiểu biết đó là đúng, là chân lý, là sự thật, nói thân là khổ, vô thường thì nó là sự thật, nó không còn sai nữa.

Nói là khổ là con người sinh ra là khổ thì đó là cái chân lý không thể thay đổi được. Nói là cái nguyên nhân mà sanh ra đau khổ thì cũng không thể thay đổi được.

Mà nói một cái cảnh giới Niết Bàn thì đó là một cái trạng thái tâm hồn chúng ta hết khổ, mà nói đến tám cái nẻo mà đưa đi đến cái chỗ giải thoát thì chúng ta thấy đó là hoàn toàn là một cái chân lý không thể nào mà ai thay đổi tám cái nẻo giải thoát này được.

Cho nên cái hiểu biết như vậy, tích trữ cái hiểu biết đúng đắn như vậy đó là gọi là tri kiến.

(39:45) Còn đến khi mà chúng ta tu tập đến cái Tuệ Vô lậu thì cái Tuệ Vô lậu thứ nhất thì cái đó được gọi là tri kiến giải thoát chớ không phải là cái tri kiến mà mới có học hiểu biết rõ của cái Chánh Kiến của đạo Phật mà thôi.

Cái kia còn gọi là tri kiến, mà tri kiến đó thì nó mới chỉ hiểu biết Phật pháp, nó mới ngộ được cái lý của Phật pháp chứ chưa chứng được cái lý của Phật pháp.

Còn cái người tu mà đến cái giới tuệ thứ nhất ở trong cái Tuệ Vô Lậu, thì cái hiểu biết đó, cái tri kiến đó được gọi là cái tri kiến giải thoát. Cái đó là cái tuệ thứ nhất mới được gọi là tri kiến giải thoát.

Cho nên cái người tu họ không sống ở trong tất cả các cái Tuệ Vô Lậu mà họ chỉ sống ở cái tuệ thứ nhất, cái giới tuệ thứ nhất là cái tri kiến giải thoát. Cho nên cái tri kiến giải thoát ở đây nó được gọi là cái giới tuệ thứ nhất ở trong Tuệ Vô Lậu.

Đó thì quý thầy hiểu cho rõ như vậy. Hồi nãy thì Thầy giảng nó hơi lầm lạc, Thầy xin lỗi chỗ đó để sửa lại cho nó đúng cái nghĩa của nó để chúng ta hiểu cho rõ hơn.

Cho nên hằng ngày người tu hành viên mãn thường sử dụng cái tri kiến giải thoát chớ không sử dụng tri kiến như kẻ phàm phu. Cho nên tri kiến giải thoát được nằm trong giới tuệ được gọi là Tuệ Vô Lậu.

Nó cũng được gọi là Tuệ Vô Lậu, nhưng nó là cái giới tuệ thứ nhất ở trong mười ba cái giới tuệ chớ không phải là cái tuệ cuối cùng.

Thường thường cái người tu hành viên mãn thì họ sống ở trong cái tuệ - cái giới tuệ thứ nhất, họ sử dụng cái giới tuệ thứ nhất, cho nên cái giới tuệ đó để đưa cho họ có một cuộc sống không bị dính mắc, không bị đau khổ, không bị phiền toái nữa.

Ai làm gì thì họ trơ trơ, họ vẫn thanh thản, an nhiên mà không động tâm chút nào, không dao động tâm mình, tức là cái tri kiến giải thoát đó, hay hoặc là giới tuệ thứ nhất của trong mười ba giới tuệ.

Con đường tu hành theo đạo Phật đến đây đầy đủ Giới - Định - Tuệ, tức là viên mãn trên đường đi.

4.3- GIẢI THOÁT VIÊN MÃN THÌ KHÔNG CÒN CHẤP VÀO NIẾT BÀN

(42:05) Còn Niết Bàn là gì?

Ở đây chúng tôi không trả lời câu hỏi này.

Xin tóm lại buổi học hôm nay chúng ta đã viên mãn giới luật của Phật, hay nói một cách khác chúng ta đã hoàn thành được thiện pháp của đạo Phật.

Và cuối cùng xin quý thầy nên lưu ý chúng ta chỉ biết sau đời hiện tại của chúng ta đang sống ở đây không còn có một đời sống nào khác nữa.

Nghĩa là chúng ta - đến đây thì người ta hỏi chúng ta: Còn cái Niết Bàn là gì?

Nghĩa là chúng ta đến đây, chúng ta đã viên mãn được Giới - Định - Tuệ như vậy, tức là từ giới hạnh, rồi giới đức, rồi giới tuệ, chúng ta hoàn thành được những cái giới luật này rồi, thì có người hỏi: Khi mà hoàn thành được các giới luật này rồi - Giới, Định, Tuệ này rồi - thì viên mãn rồi, thì cái Niết Bàn nó là gì?

Có người hỏi chúng ta là cái Niết Bàn là gì, thì ở đây chúng ta không có trả lời cái câu hỏi như vậy, là cái Niết Bàn là gì thì chúng tôi không có trả lời. Nhưng khi mà giảng về Tứ Diệu Đế thì nói về Niết Bàn thì chúng tôi sẽ giảng cái Niết Bàn, còn ở đây mà hỏi cái chỗ này thì nó không phải là cái chỗ hỏi Niết Bàn của chúng tôi.

Vì chúng tôi đã hoàn thành được Giới - Định - Tuệ, mà nếu mà chúng tôi còn nói cái Niết Bàn thì đó là chúng tôi còn mộng, còn chấp kiến, còn chấp cái Niết Bàn.

Cho nên ở đây chúng tôi không nói Niết Bàn mà chúng tôi chỉ nói như thế nào cho đúng. Chúng tôi sẽ trả lời:

Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa.

Nghĩa là bây giờ chúng tôi đang sống đây là chúng tôi còn cái đời này thôi, chớ khi mà chúng tôi bỏ cái thân này rồi thì chúng tôi không còn cái đời nào nữa, tái sanh ở trong cuộc đời này nữa thôi, chứ chúng tôi không biết Niết Bàn nữa.

Mà những người nào mà tới đây mà còn nói cái Niết Bàn như thế này, thế này, thì cái người mới học Tứ Diệu Đế, mới ngộ cái lý Tứ Diệu Đế, chứ chưa phải là cái người đó đã chứng đạt Tứ Diệu Đế.

Quý thầy phải hiểu cái chỗ đạo Phật như vậy đó. Cho nên khi một người mà tới rồi mà còn nói rằng bốn đức thường - lạc - ngã - tịnh trong đó thì người đó chưa tới.

Cũng như cái người mà tới rồi họ nói: “Tui chứng quả A La Hán!” - thì người đó chưa chứng quả A La Hán đâu. Bởi vì mình còn thấy chứng quả A La Hán thì tức là mình mới ngộ thôi chứ chưa chứng đâu.

Mà mình tới đó rồi thì mình không thấy mình chứng nữa thì tức là mình chỉ biết nó như thế nào: “Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa hết.

Nghĩa là tui không có còn sanh Thiên, sanh chỗ nào nữa hết, hoàn toàn là tui không còn cái chỗ nào mà tui sống nữa hết. Rồi mấy người muốn nghĩ như thế nào đó nghĩ, muốn nghĩ nó Niết Bàn hay muốn nghĩ gì tự mấy người chứ tui không biết, tui tới đó là tui hết rồi.

Đó thì, quý thầy thấy cái chỗ Phật pháp vi diệu, hễ mở ra một cái hiểu biết gì sai là nó đã lệch con đường của đạo Phật rồi. Nói mình có chứng là không chứng rồi đó, là mình mới ngộ chứ chưa chứng đâu. Mà nói mình như thế nào, thế khác là cái người đó chưa có đâu. Ở đây rất là vi tế cái chỗ này.

Cho nên ở đây Thầy mới - khi mà viên mãn về ba cái giới này, vạch ra một cái đường đi cho đến cuối cùng tới hôm nay, thì quý thầy thấy rất rõ là tới cuối cùng không nói gì khác hơn là còn một câu nói: “Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống không còn có đời sống nào khác nữa!”

Quý thầy thấy hiểu cái chỗ đó hiểu sao đó hiểu. Nếu mà tui nói còn có cái gì đó thì tui chấp ngã tui rồi. Tui chấp cái ngã tui rồi cho nên nó có cảnh giới tui sống, còn nếu mà tui không có cái ngã tui thì tui không có cái gì mà tui sống nữa hết.

Cho nên nó còn hay mất thì quý vị muốn hiểu sao có hiểu được cũng hiểu, tui không cần nói cái điều đó nữa. Nghĩa là tới đó là tui giải thoát là tui giải thoát.

5- BỔ TÚC VỀ GIỚI BỔN PATIMOKKHA

5.1- GIỚI BỔN NÓI LÊN ĐẦY ĐỦ CÁC OAI NGHI TẾ HẠNH

(45:42) Bây giờ chúng ta tiếp tục học về giới bổn Patimokkha để thông suốt oai nghi tế hạnh của người tu sĩ. Vì trong giới hạnh chưa nói đủ, ta phải tiếp tục học thêm cho được đầy đủ hơn.

Nghĩa là trong cái giới hạnh mà chúng ta vừa học hai mươi lăm giới hạnh đó, nó chỉ nói đơn giản thôi chớ nó chưa có nói đến những cái hành động hàng ngày của chúng ta.

Vì vậy mà cái giới bổn Patimokkha này nó nói tất cả những cái hành động của chúng ta để mà chúng ta không có lầm lạc, để mà thực hiện những cái giới hạnh đó, để cho oai nghi tế hạnh của người tu sĩ phải được đầy đủ, phải được trọn vẹn.

Cái hành động của nó phải như thế nào để mà chinh phục mọi người, người ta thấy được cái đức hạnh của một người tu sĩ nó không phải tầm thường. Bởi vì giới hạnh nó phải học rất nhiều mới có thể mà thâm nhập được những cái oai nghi tế hạnh của nó.

Bởi vậy cho nên chúng ta phải tiếp tục lại cái giới hai mươi lăm giới hạnh là chúng ta phải học cái giới luật Patimokkha, cái giới luật này nó mới có thể đầy đủ, và cái giới luật này nó cũng rất nhiều chớ không phải ít.

Do vì vậy trước khi mà giáo cái giới luật Patimokkha này nó phải có một cái lời nói rất là dài, và đồng thời Thầy có bổ túc thêm những cái bài để mà chúng ta chuyển qua cái giới luật Patimokkha này.

5.2- DÙNG GIỚI BỔN ĐỂ TU TẬP CHỨ KHÔNG ĐỂ VẠCH LỖI NGƯỜI

(47:01) Để bổ túc thêm phần giáo án về giới luật Patimokkha cho rõ nét, ở đây Thầy nhấn mạnh:

Giáo pháp của Đức Phật dạy người không có tranh luận với một ai ở đời, vì thế mà ác tưởng sẽ không ám ảnh, do thế người ấy sống không bị dục, triền phược, không có nghi ngờ, do dự với mọi hối quá, đoạn diệt, không có tham ái đối với hữu và phi hữu.

Ở đây quý thầy phải hiểu khi mà bước sang qua cái giới bổn Patimokkha này thì chúng ta sẽ thấy tràn trề những cái sự sai lạc của cái người khác rất nhiều.

Nghĩa là học xong cái giới bổn này rồi thì chúng ta nhìn cái giới tu sĩ cũng như nhìn cái giới cư sĩ hiện giờ là đệ tử của Phật đó, hầu như là cái danh từ là đệ tử của Phật chớ hầu như là những cái người đó đều là hành ngoại đạo hết!

Cho nên vì vậy mà Thầy phải phòng ngừa trước khi mà bước đầu qua học cái giới luật Patimokkha thì chúng ta phải chuẩn bị cho tinh thần chúng ta vững vàng, để không khéo thì chúng ta toàn là thấy là ma quái không chớ không phải là Phật đâu!

Với một người mà người ta thông suốt được cái giới luật rồi thì người ta nhìn cái giới tu sĩ và nhìn cái giới cư sĩ hiện giờ người ta thấy là toàn là cái thứ phá đạo, toàn là cái thứ phá Phật pháp.

Cho nên chúng ta không nói ra, không có chống báng ai là vì vậy, cho nên ở đây Phật nói chúng ta khi mà học xong rồi thì không có một cái tâm tham ái. Tham ái tức là thấy những cái sai, cái không đúng của họ đó, đối với hữu - đối với cái có và cái không chúng ta xem thường hết.

Chúng ta đừng thấy cái tâm của chúng ta nó như thế này hay như thế khác rồi chúng ta sanh ra những cái bỉ thử ở trong đó, rồi vì vậy mà chúng ta có tranh luận, rồi có những cái sự không hay cho cái đời tu hành chúng ta.

Vì vậy mà rồi từ ở trong cái ác tưởng của chúng ta, cái tưởng của chúng ta nó khởi ra những cái ác kiến đối với những người đó, làm cho chúng ta có những sự ám ảnh không tốt đối với Phật pháp cũng như không tốt đối với bản thân của những người đó.

Họ sống như thế nào để nhân quả thì họ phải lãnh đủ những cái nhân quả đó. Còn riêng chúng ta thì hãy câm miệng lại, không nói ra một lời nào hết!

Biết pháp, luật rất rõ ràng, biết giới luật rất rõ ràng nhưng không động chạm đến một người nào, không nói người nào sai, không nói người nào đúng mà chỉ giữ mình để thực hiện cho đúng những cái lời Phật dạy mà thôi.

Mình cứu mình chớ không thể nào cứu ai được trong cái lúc này hết. Chừng nào mình cứu mình được thì chừng đó mình mới cứu người ta được. Mình đã ra khỏi được cái con đường của thế tục thì mình mới có mong mình cứu người còn đang ở trong thế tục.

Còn mình đang ở trong thế tục, mà mình cứu người thế tục thì không cứu được đâu, và đồng thời đôi khi mình lại chết chung với họ ở trong thế tục.

Cho nên những cái hạnh Bồ Tát mà gọi là sống trong thế tục để độ người thế tục, coi chừng Bồ Tát cũng chết luôn với những người thế tục mà không độ ai được hết!

5.3- PHẬT PHÁP LÀ BÁNH MẬT NẾU THỰC HIỆN ĐÚNG

(49:50) Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật.

Đó, Đức Phật nói giáo pháp của Đức Phật như một cái bánh ngọt, cái bánh mật, chớ không phải là một cái bánh cay đắng đâu! Cho nên đến giới luật thì người ta thấy cay đắng lắm. Sống mà như thế này, các thầy cứ nghĩ ba y một bát có cay đắng không?

Đi xin ăn người ta không cho, ngày nay không cho, ngày mai không cho, thì quý vị thấy như thế nào? Phải ăn lá cây rừng mà sống rồi! Mà ăn lá cây rừng quý vị chưa từng tập thì quý vị có thấy xót ruột không? Chưa chắc là đã là không mệt mỏi, đã khổ sở.

Thế mà Đức Phật nói “Giáo pháp của ta là bánh mật”. Bánh mật là tức là thứ bánh ngon chớ đâu phải thứ bánh dở! Thế mà bước đầu vào mà gặp tới cái giới luật, cái giới bổn Patimokkha này thì nó không phải là bánh mật thật đâu, mà chính nó là bánh mật nếu mà chúng ta thực hiện đúng.

Nó là bánh mật, mà nếu mà chúng ta thực hiện không đúng, nó là những cái bãi chông gai, nó là những cái chỗ nguy hiểm nhất, nó là những cái chỗ mà chúng ta không thể sống nổi!

Đó, khi mà đến đây Thầy cảnh giác những cái điều này mà mới dạy cái - trước khi dạy nó thì Thầy phải cảnh giác rất lớn đối với quý thầy, để khi quý thầy mà được học đến nó thì quý thầy mới thấy được cái chỗ nào là gọi là bánh mật mà cái chỗ nào không gọi là bánh mật.

Vì thế mà cái người dạy giới ở trong cái cuộc đời bây giờ đó, thì họ…​

Cho nên Đức Phật mới dạy chúng ta và cảnh giác chúng ta ở cái chỗ cái này để mà chúng ta chuẩn bị cho cái giới bổn này. Sau khi chúng ta học thì chúng ta mới biết nó là cái bánh mật như thế nào, chớ nó không phải là đơn giản.

(51:25) Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật đối với người đang đói lả và mỏi mệt. Cứ mỗi một miếng vị ấy nếm được vị ngọt thuần nhất. Cứ mỗi một miếng vị ấy thưởng thức càng lúc càng thích thú hơn, càng thấy người khỏe hơn, khinh an hơn.

Đó, nếu mà chúng ta tu đúng, chúng ta biết được cái giới bổn này đúng thì mỗi một cái miếng mà chúng ta - tức là mỗi một cái giới mà chúng ta thực hiện, thì giống như một người đang đói, đói lả người lận, mệt, mệt mỏi lắm, mà cứ mỗi một miếng ăn vô thì coi như là một cái giới luật mà chúng ta đã thực hiện vô, thì mỗi cái miếng đó thì chúng ta thấy được cái vị ngọt thuần nhất của nó ở trong cái đời sống của chúng ta, đời sống mà đang lúc mà chúng ta mệt mỏi đói khát đó. Mỗi một miếng nữa thì chúng ta thưởng thức mà càng thích thú hơn, và càng thấy khỏe hơn, và khinh an hơn.

Đó Đức Phật ví dụ cái giới bổn nó như vậy đó.

Đó là không phải là nói về thiền định mà khinh an đâu, mà đây là muốn nói rằng cái giới luật - mỗi cái giới luật mà chúng ta chấp hành nghiêm chỉnh nó đem đi đến cũng như chúng ta - cái bánh ngọt mà chúng ta cầm mỗi miếng mà chúng ta ăn mà trong lúc chúng ta là người đang đói, đang mệt đó, mà chúng ta ăn thì chúng ta thấy nó ngọt mà nó khỏe lắm, nó ngon lắm, nó thích lắm, mà nó làm cho cơ thể chúng ta càng ngày càng thấy cái sự sống nó - cái nguồn sống nó dồi dào trở lên, nó thích thú lắm!

Còn nếu mà sai thì các thầy thấy ngán quá, ớn quá, sợ quá: “Đây, đi xin đây ăn chắc không có ai cho chắc chết, bây giờ không có làm sao! Coi chừng công an nó bắt bỏ tù nữa, nó nói mình gian lận, làm biếng, nó làm thế này, thế khác!”

Từ cái tư tưởng đó, suy nghĩ đó thì ngay đó là mình đã thấy hoảng hồn rồi chớ chưa nói chi mà tới ôm bình bát đi xin nữa. Không biết đi xin - mới đây đi ôm bình bát xấu hổ quá! “Trời ơi thuở giờ mình không có đi xin, kiểu này không ai ngó - nó ngó tới đi mắc cỡ gần chết!” Cái tư tưởng đó vẫn có mà.

5.4- LẦN ĐẦU KHẤT THỰC CỦA THẦY KHI CÒN Ở CHÙA GIÁC NGỘ

(53:14) Lúc Thầy mới bắt đầu mà Thầy đi khất thực Thầy cũng vậy. Đi ra đường, ôm bình bát đi mà con mắt nhắm chớ không dám mở, mở sợ thấy người ta cười, cười mình: “Trời ơi! Mình vầy mà đi xin! Từ nào tới giờ mình đi dạy học, hoặc mình đi làm ai cũng biết mặt hết. Trời, đi ra đường vầy!”

Nhất là Thầy ở thành phố mà Thầy đi xin ở mấy cái chỗ chợ thành phố mà bên chùa Giác Ngộ nữa thì các thầy nghĩ sao? Bao nhiêu Phật tử quen mình quá rồi, hồi nào tới giờ họ kêu mình thầy mà bây giờ ôm cái bình bát mà đi xin! Mà chính cái chỗ đó họ lại còn kính trọng Thầy hơn nữa chớ!

Mà khi mình đi thì mình ngại ngùng vô cùng lận! Từ tới giờ ai có làm cái này kỳ vậy! Đó là những cái bắt đầu của Thầy, mà Thầy đi có một mình chớ phải đi có người nào hướng dẫn thì cũng đỡ đi, cái này tự mình à! Rồi mình nghĩ cách thức rồi mình bắt chước theo mấy ông khất sĩ thôi mình cũng làm đùa.

Trong kinh thì đâu có dạy kỹ cái vấn đề này. Bởi vì kinh Đại Thừa nó đâu có nói về chuyện khất thực đâu mà nó dạy. Đâu có phải như bên nguyên thủy kia nó dạy rất kỹ, còn bên nây nó đâu có dạy cái chuyện này. Cho nên học Đại Thừa rồi đi ra khất thực chẳng - ngơ ngáo chẳng biết gì hết!

Thầy mới hỏi thăm thầy Thiện Huệ là hồi ổng còn nhỏ đó ổng đi với thầy của ổng, cũng đi khất thực, cũng ở thành phố ở chùa Giác Ngộ đi khất thực. Thầy mới hỏi ổng: “Vậy khất thực làm sao”? Ổng nói: “Thì mình cứ ôm bình bát vầy, mình cứ nhắm mắt mình đi, mình ngó xuống đất mình đi đi. Rồi cái họ cho mình chứ cái gì!”

Thầy nghe vậy thôi, Thầy cũng ôm bình bát Thầy cũng đi vậy thôi. Mà hồi đó Thầy đâu có bình bát. Các con biết không, Thầy phải đi mua cái ô mà người ta để trầu cau đó, nó tròn tròn bằng nhôm đó, đó, Thầy mới may cái túi vầy Thầy mới bỏ trong đó Thầy ôm vậy Thầy đi.

Trời đất ơi! Người ta biết - hồi đó nó dễ chớ bây giờ mà kiểu này mà bưng cái kiểu đó là nó thấy không giống cái bình bát rồi nó ra nó chốp liền đó, chớ không phải dễ đâu! Còn hồi đó nó dễ lắm, hồi cái chế độ trước nó dễ lắm! Bởi vậy Thầy ôm bình bát đi Thầy xin như thường.

Mà Thầy cũng chả biết xin nhiều, ít như thế nào nữa, chỉ biết đi xin thôi! Nhưng mà không ngờ khi mà Thầy vào đến đầu chợ cái họ biết Thầy ở chùa Giác Ngộ rồi, Thầy ở lâu rồi, họ để cho Thầy đi mà họ không có cho. Trời! Mắc cỡ gần chết! Không có cái gì hết!

Nhưng mà Thầy đến cái - đi suốt hết cái đường chợ vầy mà tới cuối hết cái chợ thì họ để - họ gồm, họ để một đống, họ kêu xe xích lô chở về chùa Thầy. Thầy đâu có hay!

Bởi vì họ thấy cái bình bát Thầy thì nhỏ, mà Thầy đi như vậy thì bỏ đâu có bao nhiêu, cho nên họ nghĩ rằng Thầy đi xin cho cả chùa ăn mà, chớ đâu phải xin cho mình Thầy! Cho nên họ biết Thầy ở chùa đó thì phải xin cho các thầy ăn chung chớ đâu phải mình Thầy.

Cho nên Thầy đi hết cái đường chợ vầy không có cái gì trong bát Thầy hết, mà tới đầu - tới cuối chợ Thầy thấy họ chất một đống cải nào bánh mì, đồ ăn đủ thứ hết, đủ loại đường sữa gì đủ, chất một đống.

Cái họ nói - có một người Phật tử đứng đó: “Chúng con đã góp nhau hết chúng con để đây xin cúng dường Thầy!” - “Ôi trời ơi! Thầy xin có mình Thầy ăn mà sao cúng dường vậy?” - “Thầy ở chùa Giác Ngộ thì chúng con kêu xe kéo về cho Thầy, bây giờ mọi người cúng dường chớ đâu phải mình con à!” Thôi kêu xe kéo về chùa!

Các con thấy không? Đi xin như vậy đó! Còn bởi vì Thầy nói khi mới ra đi thì nó ngại ngùng lắm, nó mắc cỡ, nó sượng sùng sao đó! Cái tâm tư thuở giờ chưa có đi xin, đi xin nó kỳ lắm! Các con không biết đâu, làm thử coi, coi biết cái tâm của mình chút! Nó không có đơn giản đâu.

Thầy nói rồi ai cũng có tâm trạng đó hết. Từ thuở giờ không đi xin mà đi xin nghe nó kỳ lắm. Nhưng mà đi xin một vài lần rồi nó quen rồi bắt đầu thấy nó có trớn, nó làm tới! Nhất là thấy người ta cho nhiều lại còn hăng nữa!

(56:27) Ở đây Thầy nói, thuật lại cho nghe những cái mẩu chuyện vui vui cho nó khuây khỏa chút, chớ sự thật ra là như vậy đó các con. Tâm trạng của cái người mà đi tu như vậy.

Rồi bây giờ mà nghe Thầy nói, bây giờ chúng ta bước qua cái giai đoạn ba y một bát, sống không nhà, không cửa, nay ở chỗ này, chỗ kia đó thì các thầy nghe lo lắng trong lòng: “Chắc mình tu không nổi đâu!” Cái điều kiện đó là điều kiện duy nhất rồi, nghĩa là không thấu nổi.

Nhưng mà không phải đâu! Các thầy nghĩ, khi mà chúng ta đã thực hiện giới luật của Phật thì giới luật là một bậc Thánh hộ trì cho chúng ta trên bước đường tu tập, không bao giờ để chúng ta đói đâu. Thầy tin tưởng cái điều đó mà.

Thầy đã từng khất thực chỗ này mà đến chỗ kia Thầy đã biết chỗ đó. Thầy đi xuống Cửu Long, Vĩnh Long đó, Thầy cũng đi khất thực nè, Thầy ra Rạch Giá, An Giang Thầy cũng đi khất thực. Chỗ nào mà đến xin xe Thầy đi, lại đó xin xe, xe mình muốn đi chỗ nào đó lại xin xe đi, xe này không cho xe khác nó rước à, chớ nó cũng không có bỏ mình.

Còn đi đường đó, mà cái đoạn đường nào mà vắng vẻ đó, thì mình đứng đó mình chờ, cái đường mình còn đi xa đó thì mình đi bộ không thấu, mình đứng chờ, có cái xe Honda người nào đi ngang qua thì mình đón tay, thấy mình tu sĩ là họ rước chớ còn nếu mà thanh niên mà dân, dân đồ đó chắc chắn họ không dám rước đâu, sợ bẻ họng lấy xe! Còn Thầy thì thấy tu sĩ họ rước hết, họ không bỏ người nào hết. Cho nên đón xe quá giang rất dễ không khó gì hết.

Còn xe hơi, đến mình xin đi, từ - ví dụ như ở Sa Đéc, Rạch Giá hay hoặc là Châu Đốc mà xin về thành phố, lại mấy cái xe đò đó, xe này không cho xe khác nó mời lên xe. Nó cũng cho, mình quá giang cũng cho. Mà nó cũng lựa chỗ ngồi tốt chớ nó không phải nhét mình đằng sau đít đâu! Nó cũng quý trọng các thầy lắm, nó cũng biết.

Mà trong cái thời đó thì các con thấy rằng bên khất sĩ họ đang hưng thạnh lắm, bởi vì họ còn đang đi xin, rồi cái giới thiện tín của họ nó còn đang hộ trì dữ lắm, cho nên đi ra dễ xin lắm, dễ xin cơm, dễ này kia lắm, còn bây giờ thì khó lắm.

(58:17) Bây giờ khất sĩ nó không có đi xin nữa đâu, cho nên bây giờ mình a tùng, mình vô mình đi xin thì khó lắm. Còn hồi đó khất sĩ nó đi xin không hà, vì vậy cho nên nó có cái đà đó, nó dễ lắm, còn bây giờ khó, không phải dễ. Nhất là khi giải phóng xong rồi thì hầu hết là cái dạng đi xin chỉ có hình thức của bên khất sĩ, đi cho có chừng vậy thôi chớ không có nữa.

Còn cái giới mà mượn chiếc áo để đi xin, là đi xin tiền, đi xin đô la đồ đó, thì cái giới đó nó nhiều. Nó cũng mượn cái y vầy, nó cũng mượn cái áo tràng, rồi nó cũng làm cái túi nó kè kè vầy nó đi xin. Mới đầu thì cái số thiện tín người ta không hiểu, người ta cho cũng nhiều lắm, sau này người ta bị gạt rồi, rồi Giáo hội cũng lên tiếng là bây giờ họ không cho nữa đâu.

Cho nên các con biết bây giờ mà mình làm cái hạnh khất thực mà đi xin, chết đói á! Bởi vì báo công an nó rêu rao dữ lắm đó chớ không phải chuyện dễ, nó cho biết rằng cái đó là cái giới mà kêu là lường gạt người ta chớ không phải là tu sĩ đâu!

Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy để cho các con biết rằng trong cái cuộc đời tu hành chúng ta đừng sợ hãi trước một cái gì hết, đừng có dao động, mà phải lấy giới luật mà làm thầy của mình, nương tựa vào nó thì đi đâu cũng có phước báo đầy đủ hết, không có làm gì mà ai bắt bỏ tù mình được hết.

Vì mình - bỏ tù cũng như mình tu, có gì đâu mà sợ! Do đó tui chỉ đi xin ăn thì tui đi xin ăn thôi, tui giữ đúng hạnh của Phật dạy như vậy à, ai làm gì làm, bỏ tù tui thì tôi ngồi tù tôi cũng tu! Tui có nhà cửa đâu tui sợ! Mà vô tù thì còn có cái nhà, còn sướng hơn là ở ngoài, phải không?

Thì các con thấy không, mình có ai đâu mình sợ, người ta lo, đâu có ai đem cơm cho mình, buộc mình vô tù nó cũng có cho cơm cho mình ăn, không lẽ bỏ đói mình chết? Thành ra mình cũng khỏi đi khất thực, không phải sướng? Mà ăn cơm trong tù cũng có muối, có đồ ăn chớ đâu phải nó không cho mình ăn đâu mà sợ! Thế nào nó cũng cho ăn, cho ăn còn sướng hơn. Phải không?

Vì vậy mà mình rảnh, tu ở trong tù còn khỏe nữa. Mà mình có tội gì bắt bỏ tù mình lâu đâu? Phải không? Phải thả mình ra thôi, mai mốt tui cũng vác bát đi xin nữa, mấy ông làm gì làm, mặc, tui tu là tu, giải thoát là giải thoát chớ, đâu có sợ gì, ngại gì!

Cho nên vấn đề đó là mình vẫn làm, không ngán thằng nào hết! Mình có ăn trộm, ăn cắp ai đâu sợ. Tui đi xin mà, tui xin ăn để tu thôi, tui đâu có ngán ai, tui đâu có làm cái gì phi pháp đâu mà tui sợ!

Có bao giờ mà nhà nước ra cái lệnh là cấm đi xin bao giờ đâu? Nếu mà có cấm vậy thì tui không đi xin, còn bây giờ không có cái lệnh cấm, không có cái pháp luật cấm thì tui đi xin được! Có vậy thôi.

Thì như vậy là chúng ta thấy được cái lộ trình của cái lộ trình thứ hai mà chúng ta thực hiện, là cái người quyết tu giải thoát là thực hiện được, mà cái người nhát gan là thực hiện không được.

Chúng ta không phải cái người đói mà đi xin đâu, mà chúng ta là đi xin để xả ly cái thế gian ra, để cắt lìa nó ra, không còn dính ở trong ta chút nào. Đó là cái chỗ mà chúng ta thực hiện.

5.5- CÓ SỰ TU TẬP, CHUẨN BỊ KỸ MỚI SỐNG ĐƯỢC VỚI GIỚI BỔN

(01:00:55) Bởi vậy đặt niệm trước mặt đừng cho thất niệm.

Nếu mà chúng ta muốn được như vậy, cái vị ngọt mà nếm được, cái vị ngọt như là cái pháp lực mà cái giới bổn Patimokkha này đạt được như là cái bánh mật thì như thế nào? Ở đây Thầy nói: Phải đặt niệm trước mặt.

Cái niệm nào trước mặt? Cái niệm ăn uống của chúng ta trước mặt đó, cái niệm mà khổ, khắc khổ của chúng ta trong giới bổn của giới luật này, chúng ta phải đặt nó trước mặt mà chúng ta dùng cái pháp hướng mà chúng ta tu tập đó.

Chớ không phải đơn giản mà chúng ta nếm nó như bánh ngọt đâu! Mà cái người mà không biết pháp này rồi thì kể như là nếm mật nằm gai chớ chưa phải là ăn bánh ngọt đâu.

Bởi vậy đặt niệm trước mặt, đừng cho thất niệm.

Đừng có cho thất niệm, mà thất niệm là đói bụng, mà cái niệm còn là không đói bụng, đó phải hiểu cái chỗ đó đó.

Vị ấy dùng tri kiến giải thoát, cứ mỗi phần suy tư…​

Dùng cái tri kiến của mình, mình suy tư để mình đánh đuổi cái đói, cái khổ, cái gian khổ của mình trong cái giới luật này chớ không phải là tầm thường đâu. Quý vị muốn nếm được cái miếng mật này không phải là chuyện dễ đâu.

Cho nên phải tu tập hết sức ở trong cái Định Vô Lậu chớ không phải thường đâu. Cái lậu hoặc nó kéo lên là mình thấy cái thân của mình nó sắp thoi thóp, nó sắp chết chớ không phải là cái chuyện dễ, nó mệt mà đầu óc nó choáng váng hết khi nó đói bụng chớ không phải là thường đâu.

Cho nên phải đặt niệm, mà đừng có cho thất niệm, lúc bấy giờ là không cho thất niệm, cho nên nó mới mát lạnh cái thân của chúng ta, chớ còn không nó không có mát lạnh đâu, mà nó co giật, nó răn rúm, nó kéo gân tay, gân chân chúng ta, nó giật, nó méo hết đó!

Vị ấy dùng tri kiến giải thoát, cứ mỗi phần suy tư đến ý nghĩa của pháp môn càng lúc càng thâm sâu với tri kiến thì lậu hoặc càng lúc càng vơi đi. Cứ mỗi lần quán xét thấm lý vô thường của các pháp, của thực phẩm thì vị ấy thưởng thức sự hoan hỷ, hân hoan nơi tâm hồn của mình. Cứ mỗi lần được quán xét đúng lý vô lậu thì vị ấy được thưởng thức sự thoái mái, tâm trí an lạc vô cùng.

Đó trong lúc mà chúng ta phải chuẩn bị cho chúng ta một cái pháp như vậy đó, để chúng ta mới giữ được cái giới bổn đó đó, chớ còn lơ mơ thì không có sống nổi nó đâu.

Cho nên khi mà vô tù thì các vị nói: “Trời ơi! khổ quá! Ở ngoài mình đi tới đi lui, còn trong này, đi đái, đi ỉa cũng thấy quá khổ!” Trời đất ơi! Nó không có để cho mình cái ghè gì hết, hoặc nó để cho cái ghè đó vừa ỉa, vừa đái, mà vừa hôi thúi mà phải ở chỗ đó đó!

Thì lúc bấy giờ phải đặt cái niệm như thế nào mà an tịnh được tâm của mình chớ không khéo: “Thôi thôi! Tui mai mốt thôi tui dẹp cái bộ y này đi, tui về, tui sống với vợ con tui còn khỏe hơn chớ tui sống kiểu này chắc là tui chết.” Vô trong tù rồi mới biết cảnh đó!

Bây giờ thầy khuyên các thầy: Khi mà học được một cái gì rồi thì chúng ta phải chuẩn bị cái đó với cái tư tưởng rất là vững chắc chúng ta mới dám làm, chớ còn nếu mà không có vững chắc chúng ta không dám làm đâu.

(01:03:52) Trước khi mà Thầy lên Hòn Sơn Thầy cũng chuẩn bị cho tinh thần Thầy ở một mình ở trên Hòn Sơn, ở trên núi, trên Hòn Sơn là ở ngoài giữa biển mà trên núi ở giữa biển á, Thầy phải chuẩn bị tinh thần của mình ở trển một mình đó.

Chớ còn không chuẩn bị, lên trên đó thì nội ba con chim rừng, ba con chim biển nó vô, nó đáp ở trên hòn cũng là hồn phi phách tán với nó rồi. Nó kêu một cái “quéc” là thấy là mình lạnh xương sống rồi, chỉ ngày mai là lo xuống núi chớ đừng nói chuyện ở trên đó nổi!

Mà gió ở trên biển, gió biển mà nó thổi vô cái Hòn Sơn mà người ta gọi là Ma Thiên Lãnh, ở trên cái đỉnh Hòn Sơn mà gió nó lạnh, nó lạnh thấu xương chớ nó không phải lạnh ít đâu. Chui trong hang đó mà nó còn lạnh muốn run, người ta gọi là Ma Thiên Lãnh mà!

Thì các thầy biết rằng Thầy đã chuẩn bị cái tư thế của Thầy mà khi trèo lên Hòn Sơn không phải là chuyện tầm thường của một cái người nhút nhát mà dám lên đâu.

Cho nên những cái này mà không có tu tập, không có chuẩn bị cho cái này thì cái sự sợ hãi chúng ta không thể nào mà chúng ta ở một mình ở trong sự hoang vắng đó được. Nó khó lắm, phải có sự chuẩn bị tinh thần cho vững chắc.

Nghĩa là cái người phải liều chết, coi như cái mạng sống này như là chỉ mành treo chuông đó, thì mới có thực hiện được. Vì vậy cho nên khi mà chúng ta bắt đầu qua cái giới bổn này để mà học tập nó thì coi như thân của chúng ta là chỉ mành treo chuông trước giới luật thì chúng ta mới đạt được nó đó.

Vậy mà Thầy còn trang bị cho quý thầy một cái niệm để mà đặt trước mặt để mà thực hiện đó, thì quý thầy biết rằng Thầy đã chuẩn bị cho quý thầy rốt ráo hết mọi mặt, mà cái được hay không là do quý thầy chớ còn không phải là Thầy nữa.

6- CHỌN TRÚ XỨ TU HÀNH THEO LỜI KHUYÊN CỦA ĐỨC PHẬT

(01:05:18) Đây là lời khuyên của Đức Phật:

Kế tiếp thì Đức Phật có dạy chúng ta những cái rất là - cái bài kinh ở trong kinh Trung Bộ, cái bài kinh này tên là bài kinh Khu Rừng - thì đây là Thầy ghi lại những cái lời mà Phật khuyên chúng ta: Khi mà chúng ta thực hiện con đường tu này phải chọn lấy cái chỗ nào tu cho đúng, cái chỗ nào mà để mà ở tu, mà cái chỗ nào mà không nên ở tu, cái chỗ đó là cái chỗ quan trọng. Chớ không quý thầy nghe Thầy giảng rồi về đụng chỗ nào cũng ngồi tu hết thì cái chỗ đó coi chừng, nó không có đúng đâu!

Cho nên đây là một cái bài kinh mà Đức Phật đã khuyên cho những người mà đã học xong những cái con đường tu tập của đạo Phật thì nên chọn.

Thay vì cái bài kinh này để sau khi cái giáo án này xong Thầy thuật, nhưng mà vì trường hợp nó có xảy ra cho nên cái tâm của quý thầy cũng có hơi nhiều cái dao động, cho nên buộc lòng Thầy phải nói trước để quý thầy chuẩn bị tinh thần.

Đây là lời khuyên của Đức Phật:

Này các thầy Tỳ Kheo! Tỳ Kheo sống tại một khu rừng nào để tu tập…​

Đó, nếu mà mình chọn cái nơi nào đó để mà tu tập.

…​ thì các niệm chưa được an trú lại không được an trú; tâm tư chưa được định tỉnh lại không được định tỉnh; các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt; và những vật dụng này cần thiết cho đời sống người xuất gia cần phải sắm đủ như: y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, bát, y dược trị bệnh, những vật dụng này kiếm được khó khăn.

Này các thầy Tỳ Kheo!

Nghĩa là ở chỗ đó đó, tu hành thì tâm nó không được an ổn, giải thoát nó không được, lậu hoặc nó không có được gì hết, mà đồ ăn khất thực, y cụ, sàng tọa thì khó khăn lắm, kiếm khó khăn lắm, muốn ăn cũng khó nữa thì Đức Phật khuyên:

Này các thầy Tỳ Kheo! Các thầy cần phải suy nghĩ: Ta sống đây - ta sống tại khu rừng này, đời sống tu hành khó khăn quá và sự tu hành không có kết quả, ta phải từ bỏ ngôi rừng này không được ở lại, ngay lúc ban ngày cũng như lúc ban đêm phải đi liền không để mất thời gian vô ích!

Đức Phật khuyên nếu mình đến đó, mình an trú ở chỗ đó, mình ở chỗ đó, cái chùa hay hoặc là cái khu rừng hay hoặc là cái thất hay hoặc cái chỗ nào đó, mình cho rằng cái mình chọn tới chỗ đó mình ở, mà mình thấy mình ở đó mình tu một hai ngày, tâm sao mà nó không có được an tịnh, nó lậu hoặc thì nó không dẹp được hết, mà đồ ăn ở đây, đồ mà khất thực, y, bát đồ này, kia khất thực ở đây sao mà khó kiếm ăn quá, thì ngay đó đi liền chớ đừng có ở đó nữa. Trong vài ba ngày mà thử coi không được, thôi rút đi đi đừng có ở cái vùng đó nữa.

Đó, Đức Phật khuyên chúng ta như vậy. Đó là cái để chọn cái địa điểm để mà chúng ta tu tập đây.

Này các thầy Tỳ Kheo!

(01:08:12) Ở đây thì Đức Phật khuyên cái lần thứ hai này để chúng ta thấy cái chỗ này như thế nào:

Này các thầy Tỳ Kheo! Thầy Tỳ Kheo sống tại một khu rừng nào để tu tập, nếu các niệm chưa được an trú lại không được an trú; tâm tư chưa được định tỉnh không được định tỉnh; các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà người xuất gia cần phải sắm đủ như y phục, đồ ăn uống khất thực, sàng tọa, y dược, những vật liệu này kiếm một cách rất dễ dàng.

Nghĩa là đi xin đồ, những cái đồ đó kiếm một cách rất dễ dàng. Nghĩa là đồ sống của mình thì y phục này kia, ở đó người ta cúng dường nườm nượp, ăn uống đầy đủ hết không có thiếu cái gì hết đó, ốm đau bệnh gì cũng có thuốc thang hết, thì cái chỗ đó thì Đức Phật khuyên như thế nào?

Kiếm được một cách không khó khăn đó, tức là dễ dàng đó.

Nhưng không phải…​

Vị Tỳ Kheo đó mới suy nghĩ: Nhưng không phải vì y phục, không phải vì đồ ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không nhà cửa. Nhưng trong khi ta ở tại khu rừng này mà các niệm an trú chưa được an trú, và các triền phược chưa được chấm dứt, vô thượng an ổn chưa đạt được.

Này các thầy Tỳ Kheo! Các thầy suy tính như vậy thì các thầy phải từ bỏ khu rừng này, từ bỏ cái nơi này không được ở lại!

Đức Phật bảo khi mặc dù ở đó người ta cúng dường đầy đủ, như mình ở cái chùa nào đó bây giờ người ta cúng dường mình đầy đủ đồ ăn, thức uống, mà mình ở đó, cứ ít bữa họ vô họ làm động mình, mình không an trú được tâm, mình ngồi tu cũng không được mà họ cứ bắt mình đi tụng kinh đồ không. Thôi thôi từ bỏ cái chùa đó đi! Đừng có ở đó nữa, đừng có ở cái khu rừng đó!

Mặc dù là người ta nơm nớp người ta cúng dường mình thì Đức Phật khuyên thôi đừng có ở đó, ở đó tu không có được đâu. Ăn uống đầy đủ - không phải là vì mình bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ gia đình của mình, bỏ cha mẹ mình đi tu mà cái kiểu này đi tìm ăn uống đó, thì như vậy là mấy ông thôi nên bỏ đi, đừng có ở!

Đó là Đức Phật khuyên mình cái thứ hai: Đừng có tìm cái chỗ trụ xứ đầy đủ những y phục, thuốc thang hay ăn uống đầy đủ đó.

Thì hầu như là hiện bây giờ tu sĩ chúng ta tới chỗ nào mà coi ăn uống đầy đủ thì hầu như là chúng ta cũng mê lắm đó chớ. Chùa to đồ, tháp lớn, thì thấy ở cũng khang trang, phòng ốc đồ điện nước, rồi radio, tivi đầy đủ, máy ghi âm, cassette đầy đủ thì tập trung nhau mà ở dữ tợn chớ đừng có nói ít.

Thì do đó, thì cái nơi đó mà Phật khuyên là chúng ta thôi thôi, đi đi đừng có ở! Đừng có ở! Tu không có được đâu! Tâm nó không có an lạc đâu, cái tâm nó không có giải thoát đâu, lậu hoặc nó còn đó, triền phược nó trói buộc chặt lắm á. Đó là Đức Phật khuyên chúng ta như vậy.

Đó là cái mà để biết rằng ông Phật ổng đã định cho chúng ta biết cái nơi nào mà tu được, nơi nào tu không, ổng đã viết ra cái bài kinh đó, có giá trị rất lớn. Mà hiện bây giờ người ta đâu có đọc cái bài kinh đó làm gì, đọc xong mắc cỡ quá mà làm sao đọc!

Này các thầy Tỳ Kheo! Tỳ Kheo sống tại một khu rừng mà các niệm chưa được an trú được an trú, tâm chưa được định tỉnh được định tỉnh, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ được đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các triền phược chưa được chứng đạt đã được chứng đạt dù cho vật chất cần thiết cho đời sống của một người xuất gia cần phải sắm đủ như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật này kiếm được rất khó khăn.

(01:12:01) Nghĩa là tất cả ở cái chỗ đó mà mình tu hành được tâm mình nó được an ổn như vậy, mà vật thực thì rất khó khăn, y phục rất khó khăn, đau bệnh thì không có thuốc thang đó, nghĩa là cái chỗ đó rất là khổ, khổ cho cuộc sống mình, rất khổ đó, thì ông Phật khuyên như thế nào:

Này các thầy Tỳ Kheo! Các thầy cần phải suy nghĩ như sau: Những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn, nhưng không phải vì y phục, không phải vì món ăn, không phải vì sàng tọa, không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nhưng trong khi ở tại khu rừng này mà các niệm chưa được an trú đã được an trú.

Này các thầy Tỳ Kheo! Các thầy nên ở lại khu rừng này, không được bỏ đi!

Đó có thấy không! Đói mà biểu rằng không có được bỏ đi, vì lúc bấy giờ chúng ta ở đây tu được, không có ai quấy rầy, nghĩa là Phật tử không đến cúng dường nữa, yên ổn lắm, yên ổn lắm rồi, ăn lá cây đó, mà tu được đó quý thầy!

Đó quý thầy thấy không? Phật khuyên mình ăn lá cây mà tu được, còn mình ăn cơm, y áo đầy đủ, ăn có sữa, có bơ đồ đầy đủ đó, mập béo ra đó thì nên bỏ đi, phải không? Mà ăn lá cây mà được yên ổn mà tu tập, được cái tâm an ổn, được giải thoát các triền phược, thì cái nơi đó là cái nơi mà của những cái vị tu sĩ phải chọn lấy.

Ông Phật dạy kỹ lắm các con, chớ không phải là - dạy rất kỹ để chúng ta chọn lấy cái chỗ tu cho thật để mà giải thoát đó.

Này các thầy Tỳ Kheo!

Các thầy sống tại một khu rừng mà các niệm chưa được an trú được an trú, tâm tư chưa được định tỉnh được định tỉnh, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ được đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, những vật dụng cần thiết cho đời sống tu hành hàng ngày được xin một cách không khó khăn.

Này các thầy Tỳ Kheo! Các thầy suy nghĩ: Nơi đây là chỗ lý tưởng tu hành, phải ở lại khu rừng này cho đến trọn đời không được rời bỏ!

Chỗ đó nó vừa hợp phải không? Có đồ ăn, đồ uống nó vừa phải nó không có quá khó khăn - xin khó khăn, mà lại tu hành được, nó yên ổn, thì nên ở bám cái chỗ này mà tu hành suốt đời chớ không có được đi chỗ khác. Ông Phật dạy vậy.

(01:14:18) Còn cái kia, là cái chỗ đó tuy rằng mình tu hành được, nhưng mà nó có những cái đời sống nó khó khăn, nhưng mà đừng có bỏ, phải ở đó tu hành. Đó Đức Phật khuyên mình đừng có bỏ, nhưng mà không có bảo mình ở suốt đời, vì ở suốt đời đói chịu sao nổi!

Ông Phật cũng hay chớ! Ổng biết. Bởi vì mình ở đó mình tu cho xong rồi thì mình đi đi, chớ đừng có ở đó, ở đó cứ ăn lá cây không chắc là thành cây hết rồi, thành bò chứ! Chớ đâu phải thành Phật được.

Bởi vì mình tu theo hạnh con bò thì ăn lá cây rồi ăn cỏ đó, thì nó thành con bò chớ làm sao mà thành Phật! Cho nên ông Phật ông nói mình cũng phải ăn cơm chớ, cho nên từ đó khi mình tu xong rồi thì mình cũng sống hòa mình với chúng sanh, với mọi người. Mình là con người mà chớ đâu phải bò, trâu mà ăn cỏ hoài.

Nhưng mà bây giờ đang tu mà chỗ đó được an ổn thì ăn cỏ cũng nên ở chớ đừng có nói chuyện! Đó là cái chỗ mà Đức Phật khuyên, cho nên đừng có bỏ chỗ đó.

Nhưng mà đến cái chỗ mà có cơm, có y phục, có đủ thứ để cuộc sống của mình và chỗ đó tu hành được thì ở đó suốt đời, Phật nói ở đó suốt đời không nên bỏ. Vì chỗ đó có thể độ người được.

Bởi vì có người mới đem cơm cho mình ăn, do đó mình phải trả ơn người ta chớ mình bỏ đi rồi không ở suốt đời thì làm sao mà trả ơn họ được, phải không? Cho nên ông Phật khuyên có lý lắm các con!

Đó thì hôm nay, Đức Phật muốn nói cái chỗ này, và đồng thời thì cái bài pháp này còn dài, và Đức Phật có chỉ định chúng ta sẽ chọn một ông thầy nữa. Đây là chọn chỗ ở rồi chọn ông thầy nữa, chớ không phải là không chọn đâu, Đức Phật nói kỹ lắm.

Chọn ông thầy mà ở như thế nào để mà tu hành cho được. Mà cái chỗ đó, mà ông thầy ở chỗ đó mà ông thầy ăn lá cây mà tu hành được thì cứ sống với ông thầy, đừng có bỏ ông thầy, ông thầy có đuổi, có xô gì - ở đây Phật dạy mà - ông thầy có đuổi, xô gì thì đuổi à, miễn là mình cứ sống gần bên ông ta thì mình sẽ đạt được cái giải thoát.

Miễn ở đó ổng ăn lá cây ổng ăn gì ổng ăn thì mình cũng ráng ăn với ổng thì chắc chắn sớm muộn thì mình cũng giải thoát như ổng. Ông có đuổi xô mình cái gì đi nữa, ổng có đạp đá mình đi nữa nhất định là mình không rời ổng.

Còn cái chỗ nào mà có sung sướng mà tu hành không được thì bây giờ ông thầy có ngọt dịu mời mình ở cũng không ở, bỏ đi nữa!

Đó, những cái đó để sau này thì Thầy khi mà kết thúc Thầy sẽ đọc lại cái đoạn kinh đó để cho quý thầy chọn một bậc thầy mà tu hành. Còn bây giờ Thầy chỉ gợi lên cái ý để chọn cái nơi chốn chúng ta ở.

Trong kinh nó đầy đủ lắm các con, Phật nói cái gì cũng có những cái hay của nó hết, nhưng vì chúng ta chưa có thực hiện được cho nên ta chưa thấy cái hay của nó.

7- GƯƠNG HẠNH TU TẬP THỜI ĐỨC PHẬT - PHẦN 5

[Phần 4 ở Giáo án 20]

7.1- NGÀI RÀDHA CHẾ NGỰ TÂM NHƯ NGƯỜI LỢP MÁI NHÀ

(01:16:37) Đến đây thì Thầy cũng xin nhắc lại một vài cái mẩu chuyện để góp lại cho cái phần tu tập của chúng ta có những cái gương hạnh, mà trong mỗi bài kinh đều có những cái gương hạnh để chúng ta noi theo đó mà tu tập.

Bây giờ Thầy thuật lại một vị Thánh Tăng:

Ngài Ràdha.

Ngài là một Bà La Môn lớn tuổi, Ngài không làm hết bổn phận của mình đối với một Bà La Môn, Ngài không được các Bà La Môn khác chấp nhận, Ngài đi đến đức Thế Tôn và nói lên những lời ước muốn của Ngài.

Bậc Đạo Sư nhận xét Ngài và thấy Ngài có những điều kiện căn bản nên bảo ông Xá Lợi Phất chấp nhận cho Ngài xuất gia, và được Đạo Sư dạy bảo cho thấy rõ con người không khéo…​

Dạy cho ông thấy rõ cái sự khôn khéo tự huấn luyện tâm của mình, chế ngự các dục của mình. Đức Phật dạy cho ông cái pháp khéo léo huấn luyện cái tâm và chế ngự các cái lòng ham muốn của mình khi nó sanh khởi, thì dạy ông có những cái điều đó thôi.

Hiểu được cái lời dạy này, ông dùng cái thiền quán Định Vô Lậu và Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt, nhờ thế mà ông khéo huấn luyện tâm, khéo chế ngự các dục, không bao lâu ông chứng quả A La Hán.

Sau đó Ngài làm bài kệ để nói lên kinh nghiệm tu hành của mình.

Nghĩa là khi Đức Phật dạy ông đó, là dạy ông khéo, khéo léo để huấn luyện cái tâm, rồi khéo léo để chế ngự các dục ở trong tâm ông. Thì lúc bấy giờ ông được học với Đức Phật là cái Định Vô Lậu, rồi cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, cái Định Sáng Suốt, nhờ đó mà ông lấy cái pháp đó mà ông dùng để mà ông điều khiển, ông huấn luyện cái tâm của ông, ông chế ngự các cái lòng ham muốn của ông, cuối cùng thì ông chứng quả A La Hán.

Thì ông chỉ tu có ba cái định đó thôi chớ không có cái định hơi thở nhưng mà ông cũng thành tựu luôn cả cái định hơi thở luôn.

Bây giờ qua cái bài kệ của ông - nói kinh nghiệm của ông mà, để chúng ta thấy qua cái bài kệ ông, ông nói cách thức nào mà ông khéo léo mà huấn luyện cái tâm ông nè, rồi chế ngự được cái dục vọng của ông nè.

Đây là cái bài kệ, nó có cái giá trị là ở chỗ cái bài kệ đó:

Như mái nhà vụng lợp,

Mưa dễ thấm ướt vào,

Cũng vậy, tâm vụng tu

Tham ái được xâm nhập.

(01:19:09) Các thầy thấy ổng ví nghe rất rõ chớ gì! Hằng ngày chúng ta hằng sống đó, thì làm sao như cái mái nhà mình mà khéo lợp, chớ còn vụng lợp thì mưa xuống thì nó nhiễu nó dột ở trong nhà mình ướt hết, thì cái tâm của mình nó lậu hoặc nó cũng vậy, nó rỉ chảy, rỉ chảy ở trong đó tùm lum ở trong đó hết.

Ngồi đây mà để cái tâm mà nhớ nhà hoặc để cái tâm nghĩ cái này, lăng xăng cái kia, thì cái đó là mưa nó dột đó đó. Đó, cái đó là mưa dột đó, cái nhà chúng ta lợp không kỹ rồi.

Cho nên huấn luyện cái tâm của mình là như cái người mà lợp cái nhà, lợp cho kỹ đó. Lợp cho kỹ thì như thế nào? Ba cái pháp, ba cái định đó ông có kẽ hở không? Các con hiểu cái điều đó chưa?

Cho nên ở đây nếu mà ba cái pháp này liên tục hằng ngày tu có kẽ hở mà để cái tâm mình khởi nghĩ cái gì không? Mà nó không nghĩ thì các con thấy nó kín không? Mà nó kín thì nó đâu có dột, phải không?

Cho nên ông nói bài kệ sau nè:

Như mái nhà khéo lợp

Mưa không thể thấm vào,

Cũng vậy, tâm khéo tu

Tham ái không thâm nhập.

Mà nó không thâm nhập một thời gian hai năm, ba năm cái nó sạch bóng, nó không ướt, cái nhà mình khô reo rồi cái thì bắt đầu đó là thành tựu đạo Phật chớ gì, có gì đâu.

Đó là cái kinh nghiệm của ông qua cái sự tu tập của ông, ông nói lại, chúng ta thấy rất rõ. Còn hàng ngày…​ (Mất tiếng)

Đó như vậy là cái nhà của mình dột. Thường thường là Thầy thấy quý thầy tu chớ nó có kẽ hở trong đó, cho nên cái nhà quý thầy lợp đó thấy: “Trời! Mưa xuống nó dột ở trỏng hết!” Có không?

Quý thầy cứ nghĩ coi mình có - cái nhà của mình có dột không? Ai có dột thì biết chớ gì, ai không dột thì biết à. Bởi vì mình tu cái nhà của mình kín hay không kín mình biết chớ!

Đó là cách thức mà khéo huấn luyện cái tâm của mình đó, đó là vậy đó. Mà ở đây Đức Phật đã cho chúng ta ba cái loại định để mà huấn luyện nó mà, thế mà mình cứ để cho nó dột hoài à! Trời đất ơi! Cất có cái chòi, cái nhà mà cũng để cho nó dột ướt vậy thì thôi thôi Thầy nói thôi, còn cái gì mà gọi là tu! Phải không?

Các thầy nghĩ coi mình có để dột không? Có chớ làm sao không. Nếu mà không có thì từ hôm đầu, từ hôm vào hạ tới nay các thầy gần như là thành tiên hết rồi, có tâm đâu mà phiền não đâu? Nó không phải là nhìn cái gương mặt của quý thầy là nụ cười nở trên đó hết chớ đâu có còn mà lăng xăng, phải không?

Cái này nó chưa đâu, nó dột tùm lum, thành ra cái mặt nó héo. Cái nhà dột thì có ai mà vui được! Phải không? Cái nhà mà nó không dột thì mới vui được chớ!

Đó là cái thực của một cái đạo của Phật đã dạy thực chớ không phải. Qua cái bài kệ này thấm thía lắm quý thầy.

7.2- NĂM TRĂM BÀ LIÊN HOA SẮC THÔNG SUỐT LÝ NHÂN QUẢ

(01:21:36) Đây là một bên nữ, có một vị tu hành mà Thầy xin đọc để chúng ta thấy cái vị này.

Đây là tới năm trăm người lận, năm trăm bà Liên Hoa Sắc, đây là năm trăm cô gái mà đến tu tập chớ không phải một người, nhưng mà qua cái bài kệ để chứng tỏ rằng do các vị này tu tập những cái pháp môn nào mà có thể đi đến cái chỗ mà được giải thoát đây:

Có năm trăm cô gái lấy chồng, có con sống lo việc bếp nước trong gia đình. Chúng đều chịu sự đau khổ khi con của chúng bị chết, rồi chúng đi tìm bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo đảnh lễ bà rồi xin kể nỗi khổ đau của mình.

Bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo khuyên lơn, an ủi làm cho năm trăm cô Liên Hoa vơi bớt sự đau khổ và nói lên bài kệ như sau:

Nghĩa là bà Liên Hoa Sắc Tỳ Kheo bà nói lên cái bài kệ để mà an ủi các cô này bằng cái bài pháp. Nhưng đây là cũng là một cái pháp hướng, trạch ra một cái pháp hướng của những cái bài kệ này để cho các cô này dùng cái pháp đó để mà tu tập sau này.

Đây bà nói cái bài kệ:

Người không biết con đường

Nó đến hay nó đi,

Từ đâu con trai đến,

Người lại khóc: “Con tôi!”

Đó là bà nói bốn câu kệ thứ nhất. Bây giờ Thầy đọc lại, các thầy suy ngẫm:

Người không biết con đường

Nghĩa là nói như chúng ta là chưa có biết con đường đâu, chưa có biết con đường nhân quả đâu.

Nó đến hay nó đi,

Nghĩa là nói con mình đó, nó đến hay nó đi, từ đâu nó đến, mà từ đâu nó đi đây?

Từ đâu con trai đến,

Đứa con của mình là con trai một đó, nó đến, từ đâu nó đến đây?

Người lại khóc: “Con tôi!”

Nghĩa là các cô lại khóc con. Cái người đó họ đến chứ, họ là con của cô, mà cái người đó là ai? Cô có biết không? Đâu có biết.

Đó là cái ý của cái bài kệ nói. Nó đến nó đi đâu có biết được, mà nó đến thì mình lại khóc con mình! Chứ biết nó là con mình hay là ai đây? Mà tại sao nó - cái mình sanh nó ra rồi cái mình nhận nó là con mình rồi mình khóc à!

Còn hồi mà nó chưa có thì nó là ở đâu? Nó có phải con mình không? Mà bây giờ nó vô, nó đi, nó đến, nó đi, mình đâu có biết được nó đến nó đi hồi nào, mà nó lọt vô bụng mình, mình sanh ra cái rồi mình khóc con mình! Như vậy nó là ai đây? Cho nên mấy cô đâu có biết. Vì vậy mà khóc tầm bậy, không đúng. Phải không?

(01:24:09) Cho nên bây giờ thấy vợ mình, mình tưởng đó là vợ mình à? Nó đến đi do đường nhân quả nó đến đi nó mới vợ mình bây giờ chớ mai mốt nó vợ ai chớ đâu phải vợ mình, vậy mà ngồi đây mà nhớ nó! Đó là cái lầm lạc, cái hiểu sai. Cho nên ngồi đây mà thương vợ, nhớ con là cái điều trật, không đúng. Đâu có biết được cái đường đi nhân quả của nó đâu!

Cho nên bà nói rất đúng, bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo bà nói rất đúng:

Người đâu biết con đường,

Nó đến hay nó đi,

Người khóc nó làm gì?

Nó đến nó đi, nó đâu có phải cái liên hệ gì mình, nó là nhân quả mà, nó vay nợ mình nó đến nó đòi mình, rồi bây giờ mình lại khóc nó là khóc làm sao?

Người khóc nó làm gì?

Pháp hữu tình là vậy.

Phải không? Đó là các pháp nó đến, nó đi. Vợ mình, con mình, những người thân của mình, cha mẹ mình là các pháp hữu tình, chớ đâu phải là cái gì của riêng mình đâu mình giành?

Mình giành nó là của mình xong mình khóc! Vì tại vì mình mê muội cho nên mình giành nó là của mình, cho nên mình thấy nó chết mình khóc.

Chớ còn nếu mà mình đừng có giành nó thì nó là của ai đâu, thì nó đi đâu nó đi, nó đến, nó đi, cũng như bây giờ mình ngồi đây là chủ nhà này, có một người khách đi ngoài đường họ vô nhà mình, rồi cái họ đi ra, thì mình đâu có nghĩ mình thương tiếc gì!

Thì nó là người khách họ đến nhà mình rồi họ đi chớ họ đâu có ở, cho nên nó đến, nó đi thì mặc nó, có can dự gì với mình mà ngồi đây mà khóc, mà buồn! Phải hông? Thấy như vậy gọi là thấy được cái nẻo của nhân quả luân hồi.

Còn mình không thấy được vậy, cái tâm mình, hễ nó vô nhà mình rồi nó đi cái mình khóc. Cái đó là mình không thấy nẻo luân hồi! Các con thấy sâu sắc của đạo Phật chưa?

Cho nên từ đó mà mấy cô này mới tỉnh ngộ, mới không khóc nữa, mới không đau khổ chớ còn nếu bà này không có làm cái bài kệ này thì chắc chắn là mấy cô này chắc chết điêu, chết đứng với mấy đứa con mà bị chết rồi.

Thì thử nghĩ chúng ta coi có đứa con chết chúng ta có khổ không? Mà chúng ta đâu có thấy nhân quả phải không? Nó đến, nó ở đâu nó đến chớ mình biết nó ở đâu, là ai, mà nó vô nhà mình rồi cái mình nói nó là con. Rồi bây giờ nó chết cái mình khóc.

Chết tức là nó đi, nó ở đâu nó đến, rồi nó đi, mà mình cứ mình khóc, mình nói hô con mình, vợ mình hay hoặc là những người thân mình. Trời ơi! Thiệt là ngu si sao mà ngu si!

Bởi vì học Phật pháp rồi Thầy thấy: Cái người ta mà khóc người chết Thầy thấy sao mà ngu, ngu quá ngu, vô minh quá độ! Tại sao không thấy? Ngu quá!

Ở đâu nó đến, pháp các pháp - bởi vì pháp hữu vi, pháp hữu tình là nó như vậy, nó đến nó đi chớ đâu phải! Thì mọi người đều là có cái - mọi người là pháp chớ gì? Mà nó đến, đi mặc nó, chứ mắc mớ gì mình lại khóc?

Vô nhà mình rồi, bắt đầu nó đi cái mình khóc. Còn hồi đó nó ở ngoài đường sao mình không khóc? Đó là cái khóc bậy, khóc vô minh, không trúng!

Không có ai yêu cầu,

Từ chỗ kia, nó đến,

Mình có yêu cầu nó đến mình đâu, mà giờ nó tự đâu nó đến cái bắt đầu khóc. Chớ phải mình yêu cầu: “Thôi bây giờ chú hay anh đến nhà tui đi, làm con tui đi!” - thì thôi nó đến thì thôi mình cũng chấp nó là con mình, mình khóc cũng phải. Đằng này mình có yêu cầu nó đâu, nó đến cũng thình lình, mà nó đi cũng thình lình.

Cũng như bây giờ mấy chú thanh niên nhỏ nhỏ bây giờ, đâu có biết cái cô nào là vợ mình, bỗng dưng thấy cô đó cái cảm tình được, cái đi cưới cô ta về làm vợ, chớ đâu có chắc là cô đó, phải không?

Nó đến, tự nhiên nó đến trong cái vay nợ nhân quả mình, mình đâu có hay. Chừng nó gặp nhau, cái họp mặt nhau cái thấy được cảm tình với nhau, lôi nhau thành vợ chồng, đẻ ra một bầy con, phải báo khổ nhau không?

Ngu si gì mà ngu si đến cái độ! Rồi khi mà rủi nó có chết này kia lại khóc lóc. Trời đất! Sao mà không thấy nhân quả gì hết!

Bởi vậy cuộc đời tu hành của đạo Phật nó vạch ra từng cái khía cạnh nhỏ để chúng ta biết được cái điều đó. Thế mà con người ngu quá ngu! Thầy nói thiệt, họ cứ chấp chặt cái gia đình của họ, họ cột chặt, họ trói ở trong đó, họ không thấy nhân quả, họ không thấy là kẻ đó có phải mình muốn hoặc yêu cầu họ đến đâu.

Cho nên bà nói:

Không có ai yêu cầu,

Từ chỗ kia, nó đến,

Nó từ đâu nó đến mà đâu có ai yêu cầu nó?

Không có ai cho phép,

(01:27:45) Cũng không ai cho phép nó đến, phải không? Đâu có ai cho phép, nhân quả mà làm sao ai cho nó được!

Từ chỗ nọ, nó đi,

Nghĩa là bây giờ mình cũng đâu có bắt buộc mình cho phép nó đi đâu! Rồi nó muốn đi nó đi, tức là muốn chết nó chết chớ mình làm sao mình kéo nó được đâu!

Bài kệ quá tuyệt không, chỉ cái đường lối nhân quả quá hay mà, đâu có dở đâu! Rõ ràng là bà này thiệt là thông suốt nhân quả đây. Cho nên bả viết bài kệ này Thầy rất là tâm đắc cái chỗ cái bài kệ này, là Thầy đã hiểu nhân quả, thì bà này lại cũng hiểu nhân quả cũng như Thầy, không khác chút nào hết.

Thầy biết nó rất rõ, cho nên đối với Thầy không có nước mắt mà khóc bậy. Còn các con lơ mơ là đổ nước mắt cả đống, chớ không phải dễ đâu! Chưa có hiểu cái này các con khổ sở lắm.

Cho nên ông A Nan mà nghe Phật chết đó, ông khóc lu bù, là vì ổng chưa hiểu nhân quả. Các con biết ổng ra rừng mà ổng khóc hù hụ!

Mặc dù ông A Nan là thông kinh sách chứ chưa có thông nhân quả đâu, cho nên ông khóc dữ tợn lắm. Còn cái bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này bà đã thông nhân quả.

Không có ai cho phép,

Từ chỗ này, nó đi,

Từ đâu, nó đi đến!

Được sống bấy nhiêu ngày?

Nó được sống bao nhiêu ngày thì hay bao nhiêu ngày, chớ nó đâu có cần biết gì mà nó sống với mình nhiều, hay hoặc là nó sống bao nhiêu thì kệ nó, ăn thua gì với nó, nó đến, nó đi kệ nó, có mắc mớ gì mình đâu mình lại buồn khổ?

Từ chỗ này, nó đến,

Từ chỗ kia, nó đi,

Nó đến một con đường,

Nó đi một con đường,

Nó đến thì một con đường, nó đi một con đường, nhưng con đường đến, con đường đi nó chỉ là nhân quả chớ đâu có cái gì đâu!

Mạng chung, hình sắc người,

Luân hồi, nó sẽ đi!

Đến vậy, đi như kia,

Ở đây, khóc than gì?

Phải không? Cái câu bà kết luận nghe nó rất là thấm thía: “Ở đây, khóc than gì?” Mà bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo bả đã từng khóc hai đứa con của bà, từng khóc cha mẹ chết, từng khóc đứa em trai chết trong một lúc thì các con biết, bà đứt ruột biết bao nhiêu!

Sau khi theo tu đạo Phật bà mới thấu rõ được cái lý nhân quả, cho nên bà mới viết bài kệ thấm thía, đến thấm thía. Vì cái người mà đang sống ở trong cảnh đau khổ đó người ta mới hiểu được cái nhân quả. Người ta tu chứng được người ta thấy được cái nhân quả, còn người ta chưa chứng được người ta bị mờ mịt không thấy cái luật nhân quả.

Sau khi nghe xong bài kệ, năm trăm Liên Hoa Sắc cảm thấy tâm hồn dao động liền xuất gia dưới sự lãnh đạo của bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo.

Sau khi xuất gia năm trăm nàng với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ…​

Nghĩa là đây là Thầy đưa ra cái pháp mà cho năm trăm vị này mà tu tập đó, tức là bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo đưa ra cái pháp, với cái pháp, cái pháp đầu tiên là pháp tín thọ, cái pháp thứ hai là nghĩa tín thọ.

…​ các nàng triển khai thiền quán, tùy pháp, hướng pháp, chẳng bao lâu chứng quả A La Hán. Sau khi chứng quả A La Hán các nàng làm kệ:

Các bà đó làm kệ.

(01:30:44) Thì cái nghĩa như thế nào? Cái pháp tín thọ - khi mà nghe cái bài kệ rồi thì mấy cô Hoa Ni Sắc này - Liên Hoa Sắc này, các cô thấy rất rõ cái đường đi nhân quả, cho nên các cô tin thọ, tin mà thọ đó, tin là tức là tin sâu đó, tin không có bao giờ mà tin một cách lờ mờ đó, thấy rõ cái đường đi của nhân quả, cho nên các cô này đang còn cha mẹ gì hết, cắt bứt hết.

“Tui thấy rõ đường đi nhân quả rồi, nó đến, nó đi, cha mẹ tui có đến, đi cũng là nhân quả đi. Nó ở kia nó đến, mà nó hợp với cái nhân quả cho nên tui là con vậy thôi chớ không có cái gì khác hơn hết!”

Cho nên tin quá tin, kêu là tin thọ, tin quá tin không có…​ Mà ở đây cái nghĩa tín thọ, cái nghĩa đó, cái nghĩa mà hiểu ra làm cho các cái cô này rất là tin tưởng, tin tưởng từ ở trong thâm tâm của mình cho nên bắt đầu bỏ hết của cải, tài sản, bắt đầu bỏ hết cái sự sắc đẹp của các cô, dẹp hết, dẹp hết hoàn toàn.

Cho nên cái câu cái pháp tín thọ với pháp nghĩa tín thọ này nó có cái nghĩa đặc biệt là ở chỗ này, là cắt đứt tất cả những cái dây mơ rễ má mà cái lộ trình thứ nhất mà con người cư sĩ còn đang đi.

Còn chúng ta bây giờ có đủ cái niềm tin ở cái pháp tín thọ chưa? Có đủ cái niềm tin mà hiểu được cái nghĩa những cái bài kệ này chưa? Còn người ta chỉ nghe cái bài kệ thôi mà người ta đã với cái pháp tín thọ và nghĩa tín thọ.

Thì các thầy đã nghe Thầy giảng chớ, nhưng mà có được tin như vậy không? Có làm được như vậy không? Làm được như vậy mới gọi là pháp tín thọ mà nghĩa tín thọ, còn làm chưa được như vậy thì chưa gọi là pháp tín thọ và nghĩa tín thọ.

Đó, Thầy giải thích như vậy, quý thầy có hiểu chưa? Nghĩa là mình làm cho được như các cô này mà dứt bỏ được như vậy, để mà thực hiện con đường tu hành mà cho đến chứng quả A La Hán như vậy đó, mà dứt bỏ một cách “rụp” như vậy.

Đến đó quá khổ là bị dính mắc tất cả những sự thương ghét, cha mẹ, anh em, nhà cửa con cái của mình, đau khổ mới đến mà xin bà. Bà nói bài kệ cái thông suốt được cái lý nhân quả rồi, cho nên dứt bỏ liền tức khắc, xin xuất gia liền, tu hành theo bà liền, không có hề mà còn thương, ghét gì đối với gia đình, vì con đường nhân quả quá rõ rồi.

Nội cái bài kệ không, Thầy đã thấy rằng khi mà cái người tín thọ và nghĩa tín thọ này thì thấy cuộc đời không có gì nữa hết, không còn con cái, mà không còn cái gì nữa hết, nghĩa là dẹp sạch hết đó, thì mới đúng là cái nghĩa pháp tín thọ và nghĩa tín thọ.

Còn nếu mà chưa cắt đứt được vậy thì chúng ta chưa dám dụng cái danh từ, hoặc là cái pháp đó gọi là pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Còn nếu mà chúng ta làm được thì mới gọi là pháp tín thọ, nghĩa tín thọ.

(01:33:19) Đó thì, những cái danh từ mà dùng trong kinh, nó nhấn mạnh đến cái mức độ mà chúng ta không ngờ được ông Phật ông dùng đến những cái danh từ như vậy, để mà chỉ cho một cái người đoạn dứt, đoạn lìa ra cái sanh pháp của thế gian mà không cho nó dính mắc trong mình nữa. Cho nên sự chứng quả A La Hán của các vị này cũng rất là nhanh chóng, không phải là khó khăn.

Đây Thầy đọc bài kệ:

Cây tên, khó thấy được,

Nghĩa là các cô đó nói ví dụ như những cái tình thương, cái nhân quả mà tình thương đó giống như là cái mũi tên.

Từ tim ta, nhổ lên

Nó đâm từ ở trong tâm, cho nên cái khổ là ở chỗ nào các thầy biết: Từ ở trong tim! Chúng ta thương, chúng ta khổ đó, từ tim của chúng ta chớ đâu! Cho nên các thầy nhớ là đôi trai gái nó cứ vẽ trái tim đó, nó thương nhau cũng từ trái tim mà nó ghét nhau cũng từ trái tim. Phải không?

Đó, cái chỗ đó đó, cho nên nó từ trong trái tim đó mà nó đâm. Cái mũi tên đó nó vô hình lắm, nó không - khó thấy lắm, nhưng mà nó đâm nát tim người ta, nó giết chết người ta.

Ngồi tu chớ nó đâm nát tim của chúng ta, Ở đây thì nhớ con, nhớ vợ hoặc là nhớ của cải tài sản, đó là chúng ta bị cái mũi tên độc đó nó đâm ở trong tim chúng ta đó. Ở đây mà ngồi nhớ chùa, nhớ miểu thì nó cũng đâm nát tim của chúng ta chớ không phải thường đâu. Ngồi đây mà chúng ta nhớ ăn, nhớ uống thì nó cũng đâm nát tim của chúng ta chớ không phải đâu.

Đó thì cho nên, ở đây cái câu kệ đầu tiên:

Cây tên, khó thấy được,

Từ tim ta, nhổ lên:

Ta diệt sầu vì con,

Sầu ấy ám ảnh ta.

Nay cây tên được nhổ

Không ham muốn, tịch tịnh

Không thương ghét một ai

Ta quy y ẩn sĩ,

Phật, Pháp và chúng Tăng.

(01:35:04) Đó, các con thấy nghe nó đơn giản, nhổ được cái mũi tên đó ra thì dễ dàng tu hành lắm. Mà như chưa nhổ được cái mũi tên đó thì như là mình chưa có bứt ra được cái lộ trình thứ nhất thì không thể nào đi lộ trình thứ hai được.

Cho nên ở đây ví dụ thì Thầy thấy cái mũi tên này là cái lộ trình thứ nhất, nó phải nhổ cho được cái mũi tên ra.

Cho nên cái bài kệ quá thấm thía cho cái cuộc đời tu hành của các thầy hôm nay, để cho các thầy càng sáng lên, càng rõ lên, càng hiểu lên, càng minh mẫn ra, nó không phá trừ những cái vô minh mà từ lâu tới mình lầm chấp.

Đó thì hôm nay quý thầy thấy rõ rồi phải không? Bây giờ Thầy đọc lại bài kệ một lần nữa để cho quý thầy nhớ kỹ:

Cây tên, khó thấy được,

Đó mấy cô này ví dụ cây tên đó chúng ta khó thấy quá, mà không có cái người chỉ thì chắc chắn là tim của chúng ta bị nó đâm nát hết không có còn!

Từ tim ta, nhổ lên:

Cây tên đó nó đâm ở trong tim của chúng ta, bây giờ, từ đó mình nhổ lên chớ không có chỗ nào.

Ta diệt sầu vì con,

Sầu ấy ám ảnh ta.

Nay cây tên được nhổ

Không ham muốn, tịch tịnh

Không thương ghét một ai

Ta quy y ẩn sĩ,

Phật, Pháp và chúng Tăng.

Bây giờ mới thiệt là nương vào ba ngôi Tam Bảo đó.

Cho nên sắp sửa tới đây Thầy sẽ giảng cái giới bổn nói về quy y Tam Bảo, chớ nếu mà - bởi vì quy y Tam Bảo tức là quy y ba cái giới đầu tiên, chớ không phải nói là 250 giới, hay là 348 giới, hay hoặc là Ngũ Giới hay là Thập Giới, hay hoặc là mười cái Thập Thiện, không phải đâu, mà ba cái giới đầu tiên là ba giới gốc đó, là quy y Tam Bảo đó.

Phải học được ba cái giới gốc rồi mới lần đó mình mới phăng ra tới các giới khác nó mới đúng là mình biết quy y, là nương theo. Mà quy y theo ba Tam Bảo đó là nương theo ba cái giới, ba cái giới hạnh đó để cho mình tu hành. Mà ba cái giới hạnh này là Phật hạnh nè, Pháp hạnh nè, Tăng hạnh nè, phải không?

Nếu mà không có những gương hạnh này thì lấy ai mà làm gương cho mình tu? Cho nên ba cái này là mình phải hiểu ba cái giới đầu tiên của cái người bắt đầu mà quy y Tam Bảo.

Đó, đến đây thì chúng ta nghỉ chút xíu./.

[Phần 6 ở Giáo án 29]

HẾT BĂNG

23 - CHỈ GIỚI LUẬT CÓ ĐỦ OAI LỰC LÀM THẦY

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 23 - CHỈ GIỚI LUẬT CÓ ĐỦ OAI LỰC LÀM THẦY

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- Ý NGHĨA VÀ TÍNH CHẤT QUAN TRỌNG CỦA GIỚI LUẬT

1.1- GIỚI LUẬT LÀ MÔN HỌC ĐẠO ĐỨC, KHÔNG PHẢI LÀ PHÁP LUẬT

(00:00) Giới luật là một bộ môn học đạo đức giải thoát của người tu sĩ Đạo Phật, vì thế trong quá trình phát triển từ lúc sơ khởi đến bây giờ đã cho chúng ta nhận xét thấy được giá trị sứ mạng của nó về tinh thần cũng như về mỗi hành động đạo đức chân thật mà người tu sĩ không thể thiếu được.

Nhờ nhìn vào giới luật chung, chúng ta có thể xác định được triển vọng tương lai của Phật giáo ở ngày mai.

Nghĩa là khi mà cái bộ môn giới luật học này mà đã thực hiện được thì chúng ta mới có cái hy vọng của cái triển vọng, cái tương lai của Phật giáo. Nếu mà cái bộ môn giới luật này mà không thực hiện ở trong các vị tu sĩ mà thực hiện cái đạo đức của nó thì Phật giáo ở ngày mai chúng ta thấy đen tối, không bao giờ sáng sủa được.

Pháp luật của một quốc gia đối với người dân tuân giữ pháp luật vốn chẳng có tác dụng. Nếu muốn bảo vệ an toàn và lợi ích cho những người tuân giữ pháp luật, nên cần phải có pháp luật. Pháp luật cần phải được thiết lập vì trật tự, an ninh xã hội và cuộc sống của con người.

Ở đây thì đem cái ví dụ cũng như pháp luật của nhà nước: Nếu một người dân mà tuân giữ pháp luật thì pháp luật không có tác dụng.

Do có những người dân mà không có giữ được pháp luật, làm cho mất trật tự, an ninh đó, cho nên pháp luật mới ra đời để giữ gìn những cái người mà phạm pháp luật, làm mất trật tự, an ninh, đem lại cái sự an ninh cho những cái người mà tuân giữ pháp luật.

Đó là cái ý nghĩa của pháp luật của một quốc gia như vậy.

Vì cũng thế…​

Tương tự trong đạo Phật thì nó cũng vậy, cho nên:

Phật chế định giới luật không phải là bắt buộc đệ tử của mình…​

Chế giới luật không phải bắt buộc như là cái pháp luật của nhà nước bắt buộc những người phá giới. Nhưng mà chế giới luật ra đây nhằm để đưa cái người đệ tử của mình đi đến cái chỗ giải thoát, chớ không phải là bắt buộc.

Còn cái bắt buộc thì thôi, cái người vô tu mà bắt buộc họ phải giữ gìn giới luật như là pháp luật, thì thôi xin khuyên cái người đó ra đi, đừng có ở tu! Vì ở đời cũng có cái chỗ mà mấy người sống chớ mấy người vô đây mà bắt buộc mấy người khổ quá như vầy thì tui không có làm cái điều đó đâu!

Cái giới luật của chúng tôi mà đặt chế ở đây là để cho cái người đó được giải thoát, chớ không phải bắt buộc mấy người vô đây mà chịu khổ. Đó, thì do đó mấy người ở ngoài tự do đi, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, chớ còn ở đây thì ăn ngủ không có được tự do đâu!

(02:39) Cho nên không phải bắt buộc quý vị mà vô đây để khép quý vị ăn một bữa đâu, tui không có bắt buộc cái điều đó đâu! Quý vị thấy rằng ăn một bữa là có sự giải thoát cho quý vị thì quý vị cứ ở mà sống, mà ăn, chớ không phải là cái sự - đặt cái giới luật ra bắt buộc quý vị phải ăn một bữa.

Rồi quý vị người nào cũng vô đây ăn một bữa mà quý vị cứ đói lên, đói xuống hoài thì tui chịu không có nổi đâu, tui thấy quý vị khổ quá tui chịu không có nổi đâu! Tui đặt ra cái kiểu này tui làm khổ quý vị chắc tui không dám đặt đâu!

Cho nên ông Phật ổng khuyên: Cái giới luật của ông không phải là pháp luật của nhà nước. Pháp luật của nhà nước là muốn giữ trật tự, an ninh chung cho mọi người mà người ta tuân giữ pháp luật. Còn cái này, tui đặt ra cái pháp luật này là để cho người ta đi tìm lấy con đường giải thoát!

Còn quý vị muốn giải thoát thì quý vị sống như chúng tôi thì quý vị thấy giải thoát, mà không sống được mà bắt - lấy cái giới luật này bắt ép quý vị ăn ngày một bữa để cho người ta nói: “Tu sĩ hoàn toàn ăn ngày một bữa hết!” - mà trong đó có một số thì người ta lấy cái đó người ta làm giải thoát, còn một số thấy đói khổ quá thì chắc chắn là tui mời quý vị thôi về ngoài đó sống ăn ba, bốn bữa đi cho nó khỏe, chớ còn ở đây tui thấy khổ quá! Mà hơn nữa cái pháp tui đặt ra là để giải khổ mà bây giờ đem cho quý vị khổ như vầy tui không nỡ tâm nào hết!

Cho nên Đạo Phật không có giải thoát là tại ở chỗ tâm của quý vị, chớ không phải là pháp môn của tui! Đó, Đức Phật muốn nói vậy đó.

…​ mà chính vì con đường giải thoát của các tu sĩ và cư sĩ, và cũng là phương thuốc ngăn ngừa sự hư đốn của tăng đoàn.

Đó, thì chúng ta phải hiểu cái giới luật của Phật ra là đem cái pháp môn đó làm cho cái sự giải thoát cho tu sĩ và cư sĩ, mà cũng phải nói rằng trong cái tăng đoàn thì nó có nhiều người, thì cũng có những người hư đốn chớ đâu phải người nào cũng tốt hết sao! Cho nên đó là cái giới luật nó ra, nó ngăn ngừa cho những người mà hư đốn phạm phải những cái ăn phi thời hay hoặc làm những cái sai đó. Đó, cho nên đó là những cái hư đốn.

Thì như vậy là quý thầy đã hiểu được cái chỗ đó rồi thì mới thấy được cái giới luật, giới bổn của Phật giáo nó không phải là cái sự khô cằn cỗi đâu, nó không phải là sợi dây lòi tói mà trói buộc quý vị, bắt buộc quý vị phải ăn một bữa đâu, nó không có khép chặt quý vị như vậy.

Đó, quý vị hiểu như vậy thì mới thấy được cái giáo pháp của Đức Phật nó mới có một cái giải thoát, nó không làm khổ ai hết, nó không trói buộc ai hết.

1.2- GIỚI LUẬT CẦN NGHIÊM NHƯNG CŨNG CẦN LINH HOẠT

(04:51) Tu sĩ nếu không có giới luật làm tiêu chuẩn phép tắc cho sự sinh hoạt, tu tập hằng ngày liễu sanh thoát tử thì không phải dễ dàng đâu.

Nếu mà nó không có giới luật thì đi tìm cái liễu sanh thoát tử nó không có dễ dàng, là vì có giới luật đó thì chúng ta mới đi tìm cái liễu sanh thoát tử nó mới có dễ dàng. Cho nên cái giới luật nó rất là quan trọng, nhất là cái giới hạnh. Giới hạnh tức là giới bổn đó.

Tăng đoàn mà không có giới luật làm cương lĩnh thống nhiếp, giáo hóa thì tiền đồ của Phật giáo không những tan rã mà tu sĩ Phật giáo sống trong đen tối.

Chúng ta phải hiểu cái chỗ này nữa. Là vì nếu mà không có cái giới bổn này làm cái cương lĩnh thống nhiếp, giáo hóa thì chắc chắn là cái con đường của Phật giáo nó tan rã, chứ nó không có còn đâu.

Vì bây giờ tại sao mà chúng ta thấy, cái Phật giáo hiện giờ nó không có cái giới luật nghiêm chỉnh mà nó còn? Là có lúc nó hưng, có lúc nó thịnh đó, thì chúng ta phải suy nghĩ như thế này chúng ta thấy rất rõ:

Là vì bây giờ nó hưng là nó theo một vị thầy, nó theo một vị tổ, nó hưng theo cái vị thầy, vị tổ đó. Rồi cái vị thầy, vị tổ đó hướng dẫn sao nó tin tưởng theo nó theo đó, cho nên nó hưng là nó hưng theo cái vị thầy. Còn khi mà vị thầy đó mất rồi thì nó suy xuống, nó không còn ai theo nữa thì nó suy xuống.

Cho nên thường thường là Phật giáo Trung Hoa - Phật giáo bên Trung Quốc đó - là cái Phật giáo nó không có chấp hành cái giới luật nghiêm chỉnh, cho nên nó thịnh, suy là theo cái vị tổ của nó mà thôi, cái vị hướng dẫn đó.

Nó có lên, xuống, lên, xuống thường xuyên, lâu lâu vậy có một vị xuất hiện ra nói, ăn nói nghe lưu loát cái là bắt đầu họ tập trung theo, rồi họ tu tập, rồi hết, cái vị đó chết rồi không còn ai mà ăn nói lưu loát nữa, hay hoặc là cái số nói lưu loát đó họ cứ nghe hoài nhảm tai bây giờ rồi họ thấy nó cũng không có nhằm nhò gì đến cái sự giải thoát, cho nên họ bắt đầu họ lui dần, lui dần, thì trong cái bóng tối dần.

(06:59) Cũng như mình thấy thiền Trúc Lâm của mình đó, một thời của ba vị tổ như là Trần Nhân Tôn, như là Pháp Loa, như là Huyền Quang, ba vị đồng thời một lượt với nhau trong một cái thời điểm rồi phát huy cái thiền Trúc Lâm. Rồi do đó, sau đó sau khi các vị này tịch rồi thì hầu như nó chết lìm, chết lìm dần đi mất, không còn người nào nữa hết.

Là tại vì nó hưng thịnh theo cái giáo pháp của các ngài đó mà người ta nghe nó hay người ta tập trung, nhưng mà sau đó thì người ta không thấy nó không có đạt kết quả nữa, cho nên người ta lui dần ở trong - vì vậy mà cái thiền này nó bị lui vào ở trong bóng tối, nó không có còn sống được nữa.

Còn cái giới luật của Phật đặt ra mà từ cái ngày Đức Phật cho tới giờ nó không được thay đổi. Cho nên ông - cho nên ở đây trong cái giới luật Thầy sẽ nhắc lại đó - như ông Ca Diếp thì ổng khi mà kết tập giới luật xong thì ông nói - có nhiều người nói Đức Phật nói bảo thay đổi những cái giới nhỏ nhặt nào đó bỏ bớt đi, mà Đức Phật không nói ra những cái giới nhỏ nhặt nào đó, cho nên người ta cũng không biết sao hết.

Cho nên ông Ca Diếp nói: “Không có bỏ cái giới nhỏ nhoi nào hết, mà cũng không có thêm được cái giới nào hết!” Thì cái ông Ca Diếp ổng nói kiểu ổng thì chắc chắn là cái giới của ổng chắc là thành cái cây rồi.

Cho nên cái mà tuyên bố như vậy thì Thầy nghĩ rằng đó là cái giới cây, chớ không phải là cái giới luật của Phật. Cái giới luật của Phật nó linh động và nó khéo léo, mà nó không thêm mà nó cũng không bớt.

Bởi vì Đức Phật đã di chúc cho chúng ta hẳn hòi là - các thầy nhớ kỹ lời di chúc cuối cùng của Đức Phật như thế nào: “Các thầy Tỳ Kheo hãy lấy giới luật ta mà làm thầy!” - thì cái chỗ đó có bớt được không? Nếu bớt thì Đức Phật đã bớt trong khi Đức Phật còn sống, phải không?

Sau này các ông thấy giới luật nó gò bó quá như vậy, bớt ra đặng cho đỡ đỡ một chút, đặng có để muối có ăn - để dành có muối ăn chớ, còn nếu không bữa đi xin người ta cho cơm không, không có muối về ăn lạt chịu sao nổi!

Cho nên có cái ông Đại Thiên, ổng chế ra cái giới mới của ổng: “Đức Phật còn cho chúng ta để dành muối”. Thầy thấy cái chuyện đó là cái chuyện còn chạy theo dục lạc, ăn cơm mà không muối chắc nuốt không vô rồi.

Có gì đâu mấy con! Thầy nói thật sự ăn cơm mà không có muối có gì đâu, chế nước vô lua, cứ tống cho nó vô, nó không vô lấy cái muỗng mở cần cổ ra cho nó chạy vô trỏng thì nó cũng vô trỏng, có gì ở đó mà mặn lạt, phải không? Nó vô trong đó một hơi nó đầy thì nó cũng phải no thôi.

Cái chuyện đó là cái chuyện của người ăn để sống chớ không phải là cái người ăn để ngon. Còn mình sợ không có muối cho nên đặt ra cái giới “Phật còn chế ra cái cho chúng ta là bỏ bớt, là còn được cất giữ muối để dành” để bữa nào đi xin người ta cho cơm không về lấy muối đó ra ăn. Có phải là chạy theo dục lạc không?

Đây là Thầy nói cái muối không cũng là đủ biết rằng cái nghiện muối của chúng ta cũng là nghiện. Cho nên có người thì ăn mặn quá mà có người thì ăn lạt. Đó các con thấy cái điều đó là cái điều nghiện của chúng ta chớ đâu phải gì khác.

Thử bữa nào mà đem cơm không, mà không có cho đồ ăn, đừng có rau luộc cũng đừng cho muối các con nuốt coi vô không? Chắc gì mà vô.

Thầy thì bao nhiêu Thầy thọc cũng vô hết. Tại nó không vô, lấy cái muỗng nạy ra cho nó vô, đổ nước nó chạy vô hết, có gì đâu mà sợ. Cái cổ của mình là cái ống chớ đâu có phải là cái gì đâu mà nó không tuột!

(10:09) Còn mấy con mà nuốt nhai như vậy thôi nuốt trợn trắng con mắt nuốt không vô đâu. Biết cách thì nhét nó vô được hết thì nó no, mà không biết cách thì chắc nó đói ở trỏng. Đó là cách thức mà của người tu, chớ không phải là cái người mà không tu.

Cho nên ở đây Thầy thấy hầu hết là nói về giới bổn, Thầy thấy Thầy đọc Thầy mắc tức cười cho mấy cái ông ngày xưa sao mà mấy ổng thiệt là tìm mọi cách mà phá giới đó!

Mà ông Ca Diếp lại tuyên bố cái kiểu đó là ổng - Thầy không biết ổng hiểu giới thế nào. Nếu mà có ông Ưu Ba Li đó chắc là ổng rằn ri lắm: “Ông nói cái kiểu này chắc đời sau họ chết hết đó!” Nó khô quá khô, không cho thay đổi, mà không gì hết.

Tức là giới luật người ta linh động lắm chớ, nhưng mà người ta đâu có thêm, mà người ta đâu có bớt. Bởi vì giới luật là Thầy của mình rồi, mà Đức Phật đã xác định như vậy rồi thì cái giới luật đó không bao giờ được thêm mà cũng không bao giờ được bớt.

Tại sao vậy? Tại vì nó đầy đủ rồi, nó không thiếu.

Nghĩa là bây giờ tới thời đại nào nó cũng đầy đủ hết, cái hoàn cảnh nào, cái thời đại nào nó cũng phải như vậy là như vậy.

Nghĩa là nó là một cái chân lý của giới luật, là một bậc Thầy của chúng ta rồi thì không bao giờ mà ông Thầy đó được thay đổi, từ cái ngày Đức Phật chế nó ra cho tới bây giờ chúng ta sống nó phải như vậy. Mà kẻ nào làm khác là kẻ đó không bao giờ đi đúng con đường của đạo Phật.

Thầy nói như vậy là cái xác định của Thầy là cái xác định rất linh động, chớ không phải!

Chẳng hạn bây giờ, hồi đó nó đâu có tivi, đâu có tủ lạnh, đâu có máy điều hòa không khí, phải không? Nó đâu có cassette, nó đâu có video, phải không? các con hiểu. Nhưng bây giờ mà chúng ta - Đức Phật cấm cho chúng ta không ca hát thì chúng ta biết cái hạng đó là loại ca hát không chứ gì, thì dẹp quách nó đi thì có cái gì đâu mà lại phải chế giới mới, phải không? Các con hiểu điều đó.

Còn bây giờ, hồi đó thì nó không có cà phê, phải không? Nó có rượu thôi. Thì bây giờ nó có cà phê, thuốc phiện thì bây giờ mình cấm luôn, có gì đâu mà trật! Bởi vì cái thứ đó là thứ ghiền.

Hồi đó không biết có thuốc lá không, Thầy không biết, nhưng mà có cấm rượu, chắc chắn là hồi đó chắc bộ chưa biết sắc thuốc lá đâu, cho nên các ông đó chắc chưa biết hút, cho nên không nghe cấm hút thuốc, chớ còn bây giờ Thầy cấm thuốc.

Cho nên hồi đó ông Phật không cấm thuốc cho nên mấy thầy bây giờ cầm điếu thuốc hút như thường, nói ông Phật đâu có cấm thuốc! Là lúc bấy giờ ông Phật đâu có thuốc hút (mà) cấm, chớ mà ông Phật biết là hút thuốc mà ghiền, mà sanh bệnh như vậy là ổng cấm liền chớ đâu để mà tu sĩ mà cầm thuốc hút bậy bạ vậy, phải không?

(12:21) Cho nên bây giờ mấy ông thầy chúng ta thấy, thậm chí như Hòa thượng cũng rút điếu thuốc hút, mà rút điếu thuốc kêu là thuốc thơm, thuốc ngon nữa chớ đâu phải, thuốc có cán đàng hoàng, chớ đâu phải thứ hút thuốc rê!

Thầy thấy trên cái kiểu của họ xài như vậy là đủ biết rằng họ đã nhiễm, mà cái thứ nhiễm là Đức Phật đã không ưa rồi, thì giới luật của Phật là cấm cái thứ nhiễm.

Các con thấy giới luật của các tôn giáo khác đâu có cấm uống rượu, cho nên mấy ông cha uống rượu lia lịa. Còn ông Phật ổng chơi vậy, cái kiểu đó mấy ông thầy đâu dám uống! Cho nên cứ lén uống bia, phải không? Các con thấy cái chuyện đó là cái chuyện bậy bạ.

Mà Đức Phật biết đó là những cái nó làm cho mình thành cái thói quen nghiện ngập mà nó sanh ra những cái tồi tệ. Nó tồi tệ, những cái giới khác nó bị phạm, do cái chỗ mà nghiện ngập nó này mới sanh ra tham lam, trộm cắp, nó mới sanh ra cái thứ này, thứ kia là do cái chỗ nghiện rượu.

Nó là thứ năm chớ nó đặc biệt nó phạm hết tất cả các giới đó! Khi nó say sưa rồi nó biết cái thứ gì, con gái người ta nó cũng ôm nữa chớ đừng có nói nó tha, cái thứ mấy thằng say mà nó biết thứ gì!

Thầy nói đó là một cái sự thật hiển nhiên ở trong cái - tới chừng đó mà có đem bắt bỏ tù nó: “Hồi đó tui say rượu, chớ bộ tôi biết hả?” Có giam nó được không? Các thầy phải nghĩ cái điều đó, nó mượn rượu mà nó làm tầm bậy, rồi lúc bấy giờ người ta cũng đâu có bỏ tù nó được.

Bởi vậy cho nên có nhiều cái ông vậy, họ chửi cách mạng, mà họ mượn ba chén rượu, chửi cách mạng đã đời rồi, bắt nó bỏ tù nó: “Hồi đó tui say tui đâu biết!” Rốt cuộc rồi cũng phải thả nó ra, nó thằng say mà nó biết gì. Chớ sự thật nó mượn rượu nó chửi người ta, nó chửi cho đã mồm nó.

Đó thì, Thầy nói để cho thấy được cái chỗ giới luật cho đúng, mà từ xưa đến giờ nó nhiều cái - về giới bổn này nó đều là sai lệch hết!

1.3- NHIỀU BỘ LUẬT RA ĐỜI LÀM SAI LỆCH GIỚI LUẬT CHÂN CHÍNH

(14:06) Từ khi mà chia ra làm hai mươi bộ phái của Phật giáo rồi, người nào cũng chấp một cái giới luật nào đó, cái họ cái của họ đúng rồi họ làm cái bộ luật ra, cho nên năm, bảy bộ luật.

Thậm chí như người ta nói như thế này, trong kinh sách nói như thế này, nói cái lần kết tập đầu tiên, mà cái ông Upali đọc giới xong rồi người ta nói như thế này này: “Không có viết ra thành văn bản, chỉ đọc để mà nhớ thôi.”

Trời đất ơi! Cái bộ kết tập kinh điển bộ chuyện dễ sao, mà khi cái người lãnh đạo kết tập kinh điển như ông Ca Diếp là một bậc A La Hán, bậc thượng thủ trí tuệ, đâu có lý nào mà để đọc nghe chơi rồi cái đi về. Làm sao nhớ hết được không?

Cái chuyện đó đặt bịa ra nói không có ghi chép. Cho nên sau này hai mươi lăm bộ phái không có cái bộ luật chính, cho nên vì vậy mà ai muốn đặt sao đó đặt, họ lấy lý do đó để mà họ…​

Không ngờ là mấy cái ông này ổng đem ổng đốt cái bộ luật của ông Ca Diếp kết tập hồi ông Upali đọc đi, ổng đốt sạch đi, bây giờ ổng mới chế ra giới luật cho nên mới năm, bảy bộ luật.

Trời ơi! Đâu cũng có bộ luật, Tiểu Thừa cũng có bộ luật, Đại Thừa cũng năm, bảy bộ. Luật gì mà luật dữ vậy? Luật thì gồm có một bộ thôi chớ! Cái ông nào cũng có bộ hết à, bộ phái nào cũng có bộ luật hết à.

Hai mươi cái bộ phái thì chia làm hai mươi bộ luật. Mà bây giờ người ta rút lại còn có năm bộ luật à, chớ còn nếu mà để thì thôi bây giờ một đống luật của chúng ta cất tủ ngập hết á!

Đó là những cái sai của người ta. Người ta chạy theo cái dục lạc nơi đâu thì người ta chế theo cái giới luật đó để nó giảm bớt cái luật của Phật đi, để cho chúng ta sống theo thoải mái. Muốn hút thuốc thì nói Phật không có dạy hút thuốc, phải không? Muốn uống cà phê nói Phật không có dạy uống cà phê.

Bây giờ rượu - Phật hồi đó cấm uống rượu nếp rượu này kia chớ đâu có rượu lade. Còn bây giờ cứ cho uống rượu lade đã thôi đâu có sao! Cái chuyện đó đâu có phải là Phật cấm rượu lade đâu. Hồi đó đâu có rượu lade, còn bây giờ - hồi đó cao lắm là rượu nếp, rượu gạo thôi chớ đâu có rượu lade được!

Cho nên tất cả những cái này đều là những cái mà có thể cái miệng lưỡi của người ta vì ghiền cái đó rồi, bắt đầu lý luận phá giới luật.

Đó cho nên, mà nếu mà ông Ca Diếp ổng bảo rằng không có được thêm mà không được bớt, thì hồi đó ông nói không có được thêm thì tui đâu có thêm?

Vì Phật cấm uống rượu, bây giờ tui uống cà phê đâu có sao? Tui uống trà cũng đâu có sao, tui đâu có lỗi! Tui hút thuốc cũng đâu có sao, Phật cấm có uống rượu không, vậy thì bây giờ ai dám thêm chỗ này là cấm hút thuốc đâu!

Cho nên ông Ca Diếp nói họ bắt cái trớn ông Ca Diếp thì cái giới luật của Phật nó khô cằn rồi.

(16:25) Lúc bấy giờ tu sĩ mình nó ngồi nó nghiện, nó ngáp, nó hút á phiện nó gật gù, gật gù, thử hỏi còn cái dáng tướng của tu sĩ nữa không? Phải không? Các thầy phải hiểu chỗ đó không?

Đó, như vậy mà không linh động được cái pháp mà cấm họ thì như vậy bây giờ nhà cửa, trong cái thất của tu sĩ - hồi đó Phật đâu có cấm radio, tivi đồ này kia đâu, bởi vì có đâu mà cấm, chỉ cấm tui ca hát thôi! Bây giờ, máy nó hát chớ đâu phải có đào kép hát đâu, phải không?

Hồi đó đào kép hát Phật cấm không cho xem, còn bây giờ cái máy nó hát chớ đâu phải người hát, tui mặc tình tui nghe, có gì đâu! Họ lý luận cũng vẫn được chớ đâu có gì sai phải không, các con thấy không?

Cho nên giới luật của Phật rất linh động. Những cái lời ca tiếng hát nó làm chúng ta đắm nhiễm chớ đâu phải là cái con đào. Con đào là cái hình sắc nó cũng làm đắm nhiễm, nhưng mà nó đắm nhiễm trong cái lời ca của nó nữa.

Sắc nó cũng đắm nhiễm, âm thanh nó cũng đắm nhiễm, thì Phật thấy được, biết được cái điều này rồi, mà giới luật cấm ra là cấm ra để chúng ta đừng đắm nhiễm, đắm nhiễm sắc, đắm nhiễm âm thanh.

Rõ ràng là sáu cái sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đó nó đối trị với năm (sáu) cái căn của chúng ta, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta.

Đó thì, tất cả những cái điều này mà học đến giới luật thiệt Thầy…​ Nhiều khi Thầy nói, dạy tới giới luật đó nhiều khi Thầy bực mình cái chỗ này: Mấy cái ông già xưa sao mà không có sáng suốt cái chỗ nào hết, mà để cho giới luật của Phật nó chết mòn, chết dần như thế này. Mấy ông già thiệt là tệ, bế tệ quá!

Mà sự thật ra Thầy nghĩ rằng ông Ca Diếp không bao giờ nói lời nói đó đâu. Ông là cái người mà gọi là đệ nhất đầu đà của đạo Phật mà không bao giờ nói cái lời nói đó đâu, mà chính mấy ông sau này đặt điều nói ông Ca Diếp nói chớ không phải đâu, để cho cái giới luật đó, đặng chi? Các con biết: Không có được thêm, nghĩa là Đức Phật cấm uống rượu chớ không có cấm hút thuốc, thì mấy ông thầy bây giờ hút thuốc tự do, phải không?

Đó là cái chỗ mấy ổng đặt cái câu nói của ông Ca Diếp nói vậy đó, là xác định ông Ca Diếp là người kết tập kinh điển giới luật đầu tiên, mà ông xác định như vậy không cho thêm mà cũng không cho bớt. Nghĩa là lỗi nhỏ nhặt không bớt, mà thêm nữa thì không được.

Thì cái thời đại của chúng ta nó thêm biết bao nhiêu là cái thứ dục lạc, phải không? Thế mà ông Phật thời đó không có thì bây giờ chúng ta làm sao? Mà không thêm thì như vậy là tu sĩ chúng ta nó trở thành ra tu sĩ nghiện hết rồi chớ đâu còn tu sĩ giải thoát, mà tu sĩ mê dục lạc hết rồi!

Đó, thì như vậy chúng ta mới thấy được cái chỗ giới luật chớ còn không khéo thì chúng ta không thấy đâu.

Cho nên ở đây nếu mà nhìn thấy cái Tăng đoàn mà nó không có cái giới luật như vậy, mà không có cái giới luật linh động như vậy thì cái Phật giáo nó sẽ sống ở trong cái sự đen tối của nó.

Đó thì, bây giờ đến đây chúng ta xin nghỉ vì sắp sửa ăn cơm, để không…​

1.4- MUỐN HƯỚNG THƯỢNG PHẢI TRẢI QUA GIAN NAN THỬ THÁCH

(19:13) Tăng đoàn mà không có giới luật làm cương lĩnh thống nhiếp, giáo hóa thì tiền đồ của Phật giáo không những tan rã mà tu sĩ Phật giáo sống trong đen tối chẳng biết đường lối tu tập.

Cũng vì thế, khi Đức Phật sắp sửa nhập Niết Bàn, Ngài di chúc lại lời dạy cuối cùng: “Các thầy Tỳ Kheo nên lấy giới luật của ta mà làm thầy!”

Tục ngữ có câu: “Lời thẳng trái tai, thuốc đắng dã tật.” Phàm quy định một sự câu thúc nào, tuy khiến cho người ta dừng bước để đạt đến cảnh giới cao nhất, khiến cho mọi sự an ổn, yên vui, thích thú hơn, song sự hướng thượng nào cũng chưa chắc đã giúp cho mọi người tiến bước một cách dễ dàng.

Hẳn nhiên là có một cảnh giới tốt đẹp đang chờ đợi mọi người, nhưng trước khi đến đó, đầu tiên ta phải trả một giá rất đắt là sự gian nan, cay đắng.

Hãy xem người trượt tuyết: Từ trên cao trượt xuống thấp, mau chóng, dễ dàng, tuy có cái nguy hiểm mất mạng, mà ngay nơi đó rất là dễ chịu, dễ dàng. Còn hướng lên cao tuy có được cảnh giới an vui, xinh đẹp, hạnh phúc nhưng trước tiên phải chịu gian nan thử thách.

Vì thế hướng thượng ai cũng ước ao, ham muốn, nhưng mấy ai dễ đạt được mục đích?

Đó thì ở đây quý thầy thấy là cái giới luật của Phật là giúp cho chúng ta hướng thượng. Cho nên khi mà hướng thượng thì chúng ta phải có những cái gian nan, cái thử thách của nó.

Chớ còn nếu mà chúng ta đi xuống như theo ngoài đời, mà cuộc sống ở ngoài đời thì đó là một cái người ta đổ ở trên núi mà người ta đổ cái dốc người ta xuống đó, nó dễ dàng lắm. Chạy theo dục lạc thì đâu có gì khó. Nhưng mà chúng ta đi ngược trở lên, thì do đó chúng ta mới thấy cái khó khăn của nó.

(21:22) Như ở ngoài đời người ta ăn ba bữa, còn mình thì ăn một bữa, thì đó là họ chạy xuống còn chúng ta đi lên đó. Ở ngoài đời thì người ta vui cái này, vui cái kia, còn mình thì khép chặt ở trong sống trầm lặng, cho nên tất cả những cái đó là cái trái ngược. Nhưng khi mà chúng ta đạt được cái cao tuyệt hạnh phúc, thì nó ở cái độ cao chớ không phải ở độ đi xuống.

Đó thì, những cái gian nan đó thì như vậy nó mới có cái giới luật của Phật, nó mới có cái giới bổn, cái giới luật của Phật mà để khép chặt chúng ta trong cái khuôn khổ, để đưa chúng ta đi đến cái mục đích cao hơn, hạnh phúc hơn, an vui hơn.

Còn nếu mà không có cái giới luật của Phật thì chúng ta sẽ tuột xuống chớ không bao giờ mà đi lên được. Bằng chứng như bây giờ chúng ta đã thấy rõ: Người tu sĩ Phật giáo là đang trượt xuống chớ không phải đi lên!

Đó thì, muốn mà đi lên thì chúng ta phải khép chặt mình ở trong những cái giới luật, cái giới bổn của Phật.

Sau ngày Phật diệt độ, trong chúng Tỳ Kheo có một vị Tỳ Kheo tên là Bạt Nan Đà cảm thấy vô cùng thích thú khi hay tin Phật diệt độ.

Ông ta nói với mọi người: “Lão già ấy chết đi là tốt! Lúc còn sống chế điều này là phải làm, điều kia là không nên làm, nhất là hay nói về ăn, về ngủ, về độc cư, sống phải trầm lặng. Sống theo lão buồn chán và tẻ nhạt, chẳng có gì là thích thú của đời tu hành. Lão ấy chết rồi chúng ta được tự do!”

Đó là trong cái thời Đức Phật mà khi nghe Đức Phật nhập diệt thì có một vị Tỳ Kheo đó tên là Bạt Nan Đà, ông ta nói ra những cái lời nói đó, thì đủ biết trong cái thời Đức Phật người ta cũng không thích thú gì cái lối giới luật của Phật, cái lối pháp tu của Phật đâu.

Người ta cũng có người như vậy chớ không phải là không. Nhưng có người mà người ta hướng thượng, người ta chịu khó gian nan, vất vả, người ta đi lên được, người ta thấy được cái hạnh phúc thật sự của của cái giới luật của Phật như vậy.

Lời nói này được truyền đến tai tôn giả Ca Diếp. Ngài cảm thấy rất đau buồn cho đạo Phật ngày mai: “Nếu quả như vậy, tinh thần và công đức cứu thế của Phật giáo, nhân vì Đức Phật nhập diệt mà cũng theo đó kết thúc sao?”

Đó là cái ông Ca Diếp, ổng mới nghe cái lời nói đó thì ổng nghĩ rằng cái thời đại về sau, về tương lai, thì không lý nào mà Phật giáo lại kết thúc ở tại chỗ đó!

Nhưng sự thật chúng ta nhìn Phật giáo hiện giờ mà phải thấy rằng cái đà mà xuống dốc của nó, thì chúng ta thấy nó chẳng đi về đâu cả. Cho nên Phật giáo còn là cái hình thức còn, chớ còn cái nội dung về tinh thần giải thoát của Đạo Phật thì nó không còn có nữa.

Cho nên lời ông Ca Diếp nói chỗ này là một cái nghi vấn, nhưng mà nó là cái sự thật cho về sau của chúng ta, của những người bất hạnh mà không có được gặp Đức Phật hiện tiền trong cái thời Đức Phật.

Chúng ta không có gặp Phật mà chỉ gặp pháp, gặp giới luật của Phật, và cái đà đi xuống của dạo Phật làm chúng ta mất đường, mất lối, chúng ta không biết đâu mà đi lên để chúng ta hướng thượng, để chúng ta tìm lấy sự giải thoát chân thật của nó, để thoát ra sự cảnh khổ của cuộc đời mà mỗi con người đều đang khổ như nhau, không ai khác nhau.

2- TÌNH HÌNH GIỚI LUẬT VÀ GIÁO PHÁP SAU KHI PHẬT NHẬP DIỆT

2.1- KINH LUẬT ĐÃ ĐƯỢC KẾT TẬP NGAY SAU KHI PHẬT NHẬP DIỆT

(24:52) Nhớ lại lời dạy sau cùng của Đức Phật: “Này các thầy Tỳ Kheo, sau khi ta diệt độ các thầy phải nên tôn trọng và cung kính giới bổn Patimokkha như là một vị thầy của các ông. Giới luật là ánh sáng giúp cho các ông đi trong đêm tối. Giới luật là tài sản, của báu mà các ông là những người nghèo khổ được nó. Giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất. Các ông hãy cố gắng giữ gìn.”

Nhân đó Tôn giả Ca Diếp quyết tâm triệu tập các vị đại đệ tử đương thời kết tập luật tạng.

Đó thì, nhân cái chỗ mà qua cái lời di chúc của Đức Phật như vậy: Đạo Phật còn - giới luật còn là đạo Phật còn, mà giới luật mất là đạo Phật mất đó, thì do cái lời di chúc đó mà ông Ca Diếp ổng phải nỗ lực, ngay cái đám tang của Đức Phật xong đó thì Ngài triệu tập.

Vì lúc bấy giờ các đại đệ tử của Phật đều về trong cái đám tang đó đủ mặt, chớ không có thiếu ai hết. Cho nên nhân cái cơ hội đó thì ngay liền thì ông Ca Diếp triệu tập cái cuộc họp để mà tập kết kinh luật tạng chớ không để mà chờ cái cơ hội nào khác nữa.

Đó là cái dịp may, nhân cái đám tang đó mà làm cái việc kết tập kinh tạng, rất dễ không khỏi phải đi từ cái xứ này đến xứ khác mà mời các bậc, các vị đại đệ tử của Phật.

Vì lúc bấy giờ thì các vị đại đệ tử của Phật thường là đi du hóa, đi dạy đạo ở các nơi xa xôi, cho nên nhân cái dịp mà Đức Phật nhập diệt đó thì họ về cái đám tang đó, cho nên Ngài Ca Diếp lợi dụng chỗ đó dễ dàng để gặp từng người, nói với họ là chúng ta sẽ ở lại mà để kết tập xong cái giáo lý, cái giới luật của Phật xong rồi chúng ta sẽ trở về cái địa phương của chúng ta để giáo hóa chúng sanh.

Thì lúc bấy giờ các Ngài đều thấy cái mạng mạch của Phật pháp còn hay là mất là vô cái chỗ mà kinh tạng và cái kinh giới này mà còn thì mạng mạch của Phật pháp mới còn. Chứ Đức Phật đã mất rồi, mà lời di chúc của Đức Phật nói hẳn hòi rõ ràng là: Giới luật là thầy của các vị Tỳ Kheo sau này, mà không kết tập thì lấy cái gì mà làm thầy được?

Chớ đâu phải chỉ ông Ca Diếp hay hoặc là ông nào đó làm thầy thì thôi cái ông đó ổng khỏi cần kết tập chi kinh sách! Còn đằng này Đức Phật lại chỉ là cái giới luật, thì thử hỏi chúng ta làm sao?

(27:20) Các bậc Tỳ Kheo ở trong các bậc Thánh Tăng trong lúc đó, bấy giờ Đức Phật đã chỉ định cho một cái người mà thừa kế cái đạo Phật như vậy thì nó là một cái giới bổn rồi, nó là một cái giới rồi, nó không thể nào mà không viết thành văn bản được.

Cho nên buộc lòng thì các Ngài cũng phải tập trung nhau lại mà để kết hợp thành một cái văn bản thật sự của đạo Phật, để đó là làm cái khuôn vàng, thước ngọc cho các vị Tỳ Kheo nương theo đó mà thực hiện con đường tu hành giải thoát.

Đó thì, hôm nay chúng ta xét như vậy thì chúng ta thấy cái chỗ mà kết tập của ông Ca Diếp lần đầu tiên nó không phải là cái sự cạn cợt đâu, mà là cái sự tích cực hết sức để duy trì mạng mạch của Phật giáo về sau chớ không phải là cái chuyện làm tầm thường đâu.

Lời di chúc của Phật ngay đó là - trước đó vài giờ là Phật chưa thị tịch, thì Ngài đã nhắc đi, nhắc lại cái lời này, mà sau đó thì Ngài thị tịch rồi, thì cái lời đó nó còn một bên với các vị Đại Thánh Tăng đó chớ phải là Ngài nhắc một tháng, hai tháng thì nói các ngài quên.

Còn đằng này vừa xong ở - trong khi vừa sống đó, vừa nhắc cái lời cuối cùng đó thì Ngài là thị tịch, thì lúc bấy giờ đó thì các ngài phải nhớ mãi rằng: Phật pháp còn là giới luật còn, mà Phật pháp mất là giới luật mất.

Đó thì, như vậy là chúng ta thấy cái lời của Phật nói ở đây nhắc nhủ các đệ tử của mình: “Giới luật còn là đạo Ta còn, giới luật mất là đạo Ta mất!”

Cái câu nói này nó tha thiết đến - Thầy nói không có thể lường được cái chỗ đó. Mà một người tu sĩ Đạo Phật mà đọc đến câu này mà chúng ta phạm giới, thì chúng ta không thấy làm sao mà chúng ta không đau khổ! Nếu chúng ta phạm giới tức là chúng ta đã làm mất Phật pháp rồi, chúng ta đã hủy hoại Phật pháp rồi.

Cái lời nói này nó làm cho mỗi vị tu sĩ của Đạo Phật - nó thâm tâm nó sâu sắc đến cái mức độ nào, không ngờ mà người ta sao lại không có một cái tâm trạng đau đớn như vậy! Ngày ăn ba bữa mà họ nỡ tâm mà ăn được, Thầy không hiểu sao!

Họ sung sướng ở trong những ngôi chùa cao, tháp lớn, mà họ sung sướng, họ đầy dẫy những vật dụng ở trong phòng ốc của họ mà họ sung sướng được.

Mà cái lời nói của Phật: “Giới luật còn là đạo Ta còn, giới luật mất là đạo Ta mất!” Nếu chúng ta chẳng phải là đệ tử của Phật, chẳng phải là đệ tử xuất gia của Phật thì chúng ta làm gì cũng được, mà chúng ta là đệ tử xuất gia của Phật, là một vị Tỳ Kheo, mà tại sao chúng ta nỡ tâm trước cái lời di chúc tha thiết đến mức độ này mà chúng ta nỡ phá giới luật của Phật?

Thầy không hiểu làm sao mà các bậc tôn túc, các vị lớn của chúng ta đã từng là dịch ra những kinh sách luật, đã nói đến những điều, nhất là trong giới bổn.

Bởi vậy Thầy thấy là một cái - khi mà đọc đến đây, nhiều khi đọc qua cái lời di chúc của Phật, nói đến cái lời mà Thầy phải thấy cái bổn phận và trách nhiệm của một vị tu sĩ, Thầy phải rưng rưng nước mắt.

(30:19) Thầy nghĩ rằng: Một người tu sĩ là có bổn phận, trách nhiệm phải giữ gìn cái mạng mạch của Phật pháp. Mà giữ gìn nó bằng gì đây? Bằng cái lời nói: “Giới luật còn là đạo Ta còn, giới luật mất là đạo Ta mất!”

Lời nói của ông cha lành, ngàn xưa còn văng vẳng mãi bên tai chúng ta, mà thế nào người ta sung sướng được, thế nào mà người ta chạy theo dục lạc được để cho đạo Phật mất?

Đó là những điều mà cái người đệ tử của Phật phải từng tâm niệm thâm sâu, nỗi khắc khoải trong lòng của mình, nhìn thấy Phật giáo đi xuống mà đau lòng đứt ruột.

Đó là lần kết tập an cư thứ nhất sau khi Đức Phật nhập diệt, đó cũng là lần kết tập kinh luật thứ nhất tại hang Thất Diệp với sự tham gia của năm trăm vị Đại A La Hán.

Ngay sau khi tôn giả A Nan tụng xong kinh tạng, kế tôn giả Ưu Ba Ly tụng luật tạng. Đại chúng tham dự buổi kết tập này ấn chứng và thông qua, không có điều chi thêm hoặc bớt. Do thế tạng kinh và tạng luật đầu tiên được tuyên bố là hoàn thành.

Theo một giả thuyết người ta cho sự kết tập của thời ấy không có ghi chép lại thành văn tự chỉ là thống nhất do miệng tụng, tâm ghi nhớ mà thôi.

Riêng phần về ý kiến của tôi…​

Ý kiến của Thầy đó.

…​ thì tôi không hiểu đơn giản như vậy được. Khi kết tập là phải có viết thành văn tự, không thể kết tập mà chỉ đọc suông để ghi nhớ.

Vả lại lúc bấy giờ kết tập kinh luật là một điều quan trọng của Phật giáo, không thể các Ngài sơ sót như vậy được. Các Ngài bấy giờ là những bậc Thánh Tăng, đại đệ tử của Đức Phật, làm việc này với Thánh Trí để duy trì kinh luật của Phật giáo. Cho nên Phật nhập diệt xong, khi chúng tăng còn đông đủ, lợi dụng đều có mặt của các bậc Thánh Tăng, Ngài Ca Diếp mời chư tăng ở lại kết tập đều là những tay thượng thủ của Phật giáo lúc bấy giờ.

Chớ không như ý kiến của Thánh Nghiêm…​

Thánh Nghiêm là cái người mà viết cái bộ luật đó.

…​ ý kiến phỏng đoán:

Nghĩa là ông phỏng đoán, ông cho rằng không có viết thành văn bản đó.

Sau ngày Phật diệt độ có một số các Trưởng lão Tỳ Kheo không nhận lời mời của ngài Ma Ha Ca Diếp tham gia hội kết tập lần thứ nhất.

Đó là cái ông Thánh Nghiêm, ổng phỏng chừng là sau cái ngày mà Phật nhập Niết Bàn thì không có một số Trưởng lão khi mà ông Ca Diếp mời, thì cái số Trưởng lão đó không có nhận cái lời mời tham gia kết tập kinh sách.

Thì cái điều đó là cái điều sai, khi mà còn các bậc đệ tử - đại Thánh Tăng đệ tử, mà trong khi Đức Phật mà tịch thì chắc chắn là các Ngài phải về hết.

Theo Thầy thiết nghĩ mà không có người nào có thể bỏ cái chuyện cái đám tang của một vị đạo sư của mình hết, họ phải về hết. Và lợi dụng cái chỗ đó ông Ca Diếp khỏi cần đi xứ này, xứ kia để gọi các Ngài về, cho nên rất là tiện lợi, vì vậy ngay đó là kết tập liền.

Còn ở đây là phỏng chừng, phỏng đoán, và đồng thời ông Thánh Nghiêm ổng còn phỏng đoán là cái kiểu mà không viết thành văn tự nữa.

(33:43) Đó là cái sự phỏng đoán theo cái sự nghiên cứu giới luật mà thấy nó lộn xộn, nó lu bù, ông nghĩ rằng như vậy là có lẽ là tại không có cái bộ giới luật chính, cho nên các Ngài muốn thêm thắt như thế nào là tự ý thêm thắt. Do đó mà cái sự suy tư, cái kiến giải, cái tưởng giải của Thánh Nghiêm thì nó lệch lạc, nó không đúng.

Bởi vì các bậc Thánh Tăng người ta nghĩ rằng: Làm một việc gì người ta cũng phải có ý tứ chớ! Bây giờ nói rồi tới chừng đó rồi bây giờ nó không thành văn bản rồi lấy cái gì mà làm thầy của chúng tăng đây? Rồi nay ông này nói vầy, mai ông khác nói làm sao?

Phải lấy nó làm thành văn bản, bởi vì bây giờ chúng ta làm một cái điều gì đó nó phải có văn bản, nó có chứng cớ thì nhà nước người ta mới xử được, còn mình nói khơi khơi làm sao người ta xử được?

Cho nên mình muốn thưa kiện ai cũng phải văn bản, chớ mình lại mình nói: “Tui vậy vậy, tui đúng vậy” người kia cũng nói vậy, ông nội ai biết ai đúng, ai sai? Phải thành văn bản người ta xem đó.

Thì giới luật là thầy của mình nó phải thành văn bản, thì kinh giới nó cũng vậy, mà giới bổn nó cũng phải vậy. Cho nên không lý một cái người Thánh Tăng, trong những vị Thánh Tăng như vậy mà không hiểu cái điều đó sao?

Phải chi trong cái thời đó nó không có chữ viết thì thôi, đằng này chữ viết người ta có ba bộ kinh Vệ Đà hẳn hòi, thì lý đâu mà các thầy, các vị Thánh Tăng đó lại không biết chữ viết, cho nên chỉ ngồi nghe chơi không à! Thì như vậy làm sao mà cho nó có cái tập hợp cái - bởi vì giới luật là cái làm cho hòa hợp chúng tăng mà, nó là thiện pháp nữa mà, cho nên phải có một cái sự văn bản rõ ràng.

Mà nói về cái sự - vấn đề nghi vấn rằng khi Phật nhập diệt thì có một số Trưởng lão Tỳ Kheo không có nhận lời mời, điều đó điều sai! Cái trách nhiệm của quý vị hết mà.

Dù bây giờ người nhỏ, người lớn đi nữa, trừ ra có những người mà còn giữ lại ở địa điểm của mình nơi xa xôi đó, thì những người đó về không được thôi, chớ toàn bộ mà nếu mà có mặt ở đó thì người ta tham dự hết.

Nhưng mà rất đông, vì vậy mà người ta chọn lấy năm trăm vị thượng thủ, tức là năm trăm vị A La Hán mà kết tập chớ còn cái số Tỳ Kheo mà chưa chứng A La Hán thì hàng vạn mà về cái đám ma đó chớ đâu phải ít!

Thôi bây giờ Thầy đặt vấn đề như Hòa Thượng Thanh Từ tịch đi, có phải hàng vạn đệ tử về không? Chớ đâu phải là ít! Còn Đức Phật ngày xưa có bao nhiêu nữa? Đâu có chuyện đó mà nói cái chuyện dễ dàng như vậy, nói cái chuyện mà tưởng như vậy được.

Cho nên những cái người mà nghiên cứu về giới luật của Phật mà thấy nó khó khăn rồi chỉ tưởng ra thế này, tưởng ra thế kia, làm cho lệch lạc cái lịch sử trong cái thời của các đệ tử của Phật cũng như trong cái thời của Phật.

(36:11) Chỗ này chúng ta phải hiểu: Nếu là những bậc Thánh Tăng thì kỳ kết tập kinh luật lần thứ nhất thì các vị đều phải thấy bổn phận của mình đối với Phật giáo còn hay mất là ở chỗ kết tập kinh sách này. Cho nên không thể nào từ chối lần kết tập này được!

Nghĩa là dù bây giờ dù ông Ca Diếp có đi mời ở xứ này, xứ kia thì các Ngài cũng không có quyền mà từ chối nữa, cái bổn phận của các Ngài mà khi được Phật dạy như thế nào thì các Ngài về nghe: “Cái đó bây giờ ông A Nan ổng đọc, ổng nói cái đó, cái bài kinh đó, tui nghe hồi đó Phật dạy vậy là khác, ông phải sửa lại, ông cái này ông không hiểu, tôi hiểu cho nên tui chứng quả A La Hán như vậy đó!”

Thì các Ngài phải có bổn phận phải về để mà chỉnh đốn lại cái giáo lý của Đức Phật chớ, giới luật của Đức Phật chớ, đằng này nó còn từ chối nữa!

Thì như vậy cái vị đại đệ tử của Phật trong thời đó mà từ chối như vậy là đại đệ tử đó có trách nhiệm với đạo Phật không? Không có trách nhiệm! Coi như là đạo Phật ngoài cái vấn đề đó, thì đây là ngoại đạo chớ đâu phải là đệ tử của Phật, cho nên phải thấy cái bổn phận trách nhiệm của mình, mạng mạch của Phật pháp còn hay không.

Một đấng giáo chủ như Đức Phật đã đưa ra một cái tôn giáo như vậy là các vị đệ tử phải có sự hợp tác với nhau để mà trùng tu, để mà làm cho nó trường tồn mãi mãi với cái thế gian chớ!

Các thầy có nghe thấy khi mà đức Chúa không, khi mà ngài tịch rồi thì các thánh đồ của ngài luôn luôn lo lúc nào cũng kết tập lại những cái gì mà của Chúa để làm cho cái đạo nó luôn luôn nó sống mãi với con người. Thì các đệ tử Thánh Tăng của chúng ta cũng vậy chớ đâu phải là những người thiếu trách nhiệm.

Cho nên ở đây nói mời mà không đến, từ chối, thì cái chuyện đó là cái chuyện bịa đặt chớ còn Thầy nghĩ rằng người tu hành - bây giờ Thầy nói bây giờ nè, nếu một người nào mà kết tập kinh sách đúng, mà ở chỗ nào đúng, nói đúng giới luật của Phật, mà mời Thầy, Thầy đi ngay liền không từ chối.

Mặc dù trong lúc bấy giờ Thầy ẩn bóng nữa, Thầy thấy trách nhiệm Thầy phải đem hết cái khả năng của mình ra giúp cái người đó để làm thành phận sự của họ đối với Phật pháp để trường tồn, chớ chưa nói đâu.

Thầy không lộ hình ra là vì danh vì lợi, nhưng mà khi mà làm cái chuyện lợi ích cho Phật pháp Thầy lộ hình ra tức khắc làm cái chuyện lợi ích chớ đâu phải là Thầy ẩn bóng!

Thầy nói thật sự cho quý thầy thấy rằng trong vấn đề trách nhiệm, bổn phận của người tu sĩ phải thấy mạng mạch của Phật pháp, sống còn là do nơi mình, mình làm sao cho nó sống còn, chớ đâu phải mình làm cho nó chết?

Đó là cái mà chúng ta học để chúng ta hiểu, trong cái vấn đề giới luật hôm nay mà Thầy dạy ra, để chúng ta biết giới luật nào mà là thầy của chúng ta. Tới đây Thầy sẽ phân tích cho quý thầy thấy cái giới luật nào là thầy của chúng ta mà Đức Phật đã di chúc.

Vì nó phải được trung thực với lời dạy của Đức Phật, của Đức Bổn Sư, không thể thiếu vắng một vị nào, ngoại trừ những vị ấy đã nhập diệt cũng như những đệ tử của các Trưởng lão thì không tham dự có thể được.

Nghĩa là các đệ tử của các bậc Thánh Tăng thì họ không tham dự thì có thể được, chớ họ chưa chứng quả A La Hán thì có thể được, và họ chưa có trực tiếp nghe lời của Đức Phật dạy thì được. Chứ còn những cái bậc mà đã trực tiếp nghe lời Phật dạy cho mình tu hành chứng quả A La Hán thì chắc chắn là bổn phận của mình phải tham dự chớ không có thể!

Dù ở xa bao nhiêu, dù cái sự việc của mình đang phải làm công việc gì lớn lao gì cũng phải là thấy cái vấn đề đó nó không lớn lao nữa, mà chỉ có vấn đề kết tập kinh và luật của Phật là cái vấn đề quan trọng nhất, thì các Ngài phải có bổn phận, phải trở về để mà góp những cái ý kiến, những cái điều mà mình đã thực hiện được ở trong cái đời sống giải thoát của chính mình. Thì đó là bổn phận của các Ngài, các Ngài phải thấy chớ còn các Ngài không có từ chối được.

Vì các vị còn đang tu học theo với thầy của mình, chưa bao giờ được trực tiếp với Phật, vả lại có gặp cũng rất ít khi.

2.2- GIỚI LUẬT KHÔNG NGHIÊM NÊN PHÁP TU KHÔNG CÒN TÁC DỤNG

(39:57) Sau một trăm năm Phật nhập diệt, các đệ tử lớn của Đức Phật đều lần lượt nhập diệt hết.

Nghĩa là một trăm năm sau đó, các đệ tử của Phật như ông A Nan người này, người kia lần lượt họ nhập diệt hết. Bởi vì Phật nhập diệt rồi sau một trăm năm thì các đệ tử đều nhập diệt.

Khi Đức Phật còn tại thế thì giới luật rất nghiêm chỉnh, chúng Tỳ Kheo không dám vi phạm. Khi Đức Phật nhập diệt và các đệ tử của Đức Phật cũng lần lượt nhập diệt theo, giới luật không còn ai chăm sóc kỹ lưỡng, nên lần lần quý thầy dễ duôi đối với giới luật, nên lần lần các Ngài tự thay đổi giới luật theo cuộc sống tu hành của chính môi trường, các hoàn cảnh. Do thế tu sĩ giới luật không còn nghiêm chỉnh nữa.

Khi giới luật mà có sự thay đổi không còn nghiêm trì nữa thì Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo để tu hành của Đạo Phật cũng không có hiệu quả.

Tớ cái giai đoạn cái giáo án mà giai đoạn thứ ba, tức là cái giới hành đó, dạy về giới hành, ở đây là Thầy nói về giới bổn, giới hạnh đó, còn mà cái về giới hành, tức là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo mà Thầy dạy tới cái giai đoạn giáo án thứ ba, là dạy Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo đó, đó là gọi là giới hành.

Bởi vì giới luật thì phải có giới hành, nó không phải pháp luật, vì pháp luật nó không có cái hành mà cái bắt buộc! Quý thầy phải hiểu. Còn giáo pháp của Đức Phật, giới luật là một cái pháp môn tu, cho nên nó phải có một cái hành để mà tu. Vì vậy mà Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo đó là giới hành chớ không phải là cái gì khác hơn hết.

Phải hiểu như vậy chúng ta mới hiểu được giới luật của Phật là một pháp môn để đưa chúng ta đi đến cái chỗ giải thoát chớ không phải là trói buộc chúng ta để làm chúng ta khổ sở. Đó.

Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo để tu hành của đạo Phật…​

Nếu mà giới luật mà không nghiêm trì rồi, thì Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo mà để tu hành thì nó không còn hiệu quả nữa. Nó không còn hiệu quả nữa bởi vì giới luật mình phá rồi thì Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo này chỉ là nói suông chơi chớ còn không có thực hành được nữa.

Mà giới luật chúng ta nghiêm chỉnh thì Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo này là cái giới hành để chúng ta thực hiện những cái giới luật nó nghiêm chỉnh và nó giải thoát.

Từng cái giới luật mà chúng ta áp dụng trong Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo này bằng cách là trau dồi, rèn luyện, bằng cách tu tập ở trong Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo này, làm cho chúng ta đạt từng giới một, mà mỗi giới mà chúng ta đạt được là có sự giải thoát trong tâm hồn của chúng ta thực tiễn.

Đó là cái chỗ tu hành của chúng ta là như vậy.

2.3- SỰ THAY ĐỔI PHÁP MÔN TU TẬP DẪN ĐẾN SỰ PHÂN CHIA BỘ PHÁI

(42:33) Cho nên nói giới luật tức là nói giáo pháp của Đức Phật. Tại sao ? Vì Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo chỉ giúp cho người tu tập có hiệu quả là phải trì giới luật nghiêm chỉnh.

Nói cách khác là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo của đạo Phật nhằm phát triển thiện pháp, chấm dứt các ác pháp…​

Đó thì các thầy cứ thấy Phật bảo là mình tu trên thân quán ngoại thân để khắc phục tham ưu là ác pháp. Đó thì, rõ ràng là, như Tứ Niệm Xứ đó Phật dạy đó, mình trên thân quán thân rồi để cho mình khắc phục những tham ưu ở trong đời, ở trong tâm của mình, đó là ác pháp chớ gì.

Đó, thì chúng ta thấy đó là cái giới hành, cái giới hành của Phật pháp ở trong cái giới luật.

…​ chấm dứt các ác pháp, nên người nghiêm trì giới luật thì Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo là pháp tối thượng. Còn những người phạm giới, phá giới thì Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo chỉ là pháp môn Tiểu Thừa.

Nghĩa là họ xem như là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo nó nằm ở trong cái pháp môn gọi là Tiểu Thừa. Cho nên nó đâu có làm cái gì được đâu, họ phá giới thì tức là nó phải trở thành Tiểu Thừa rồi chớ làm sao mà gọi là giải thoát được mình gọi là Đại Thừa được!

Do thế, khi mà tu sĩ không nghiêm trì giới luật thì tất cả pháp môn cũng có đều sự thay đổi.

Nghĩa là không nghiêm trì giới luật thì pháp môn tu hành nó thay đổi. Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo tuy rằng nói vậy chớ nó có sự thay đổi, nó không có đúng như cái điều kiện.

Bởi vì thí dụ như nó thay đổi như thế nào? Phật dạy Như Lý Tác Ý, thì họ không biết cái gì hết thì đó là sự thay đổi của họ rồi, họ đâu có biết đó là cái pháp hành của họ, cho nên họ chẳng biết làm cái gì hết.

…​ cho nên gọi là Phật giáo phát triển.

Khi mà Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo nó thuộc về Tiểu Thừa rồi, thì bắt đầu họ không còn biết cái lối nào họ tu. Như cái lời Phật dạy như tùy pháp, quán pháp, hay hoặc là ức chế pháp hay hoặc là tịnh chỉ pháp, đều họ ngơ ngẩn họ không biết nữa.

Nói về Bốn Thiền họ chỉ nói “Ly dục ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền”, họ nói vậy chớ họ không biết ly dục cách nào nữa hết, họ không biết cách thức nào.

Bởi vì ly dục là giới luật rồi, mà giới luật là phải dùng những cái pháp hành nào để mà chúng ta mới thực hiện được cái giới luật, cho nên Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo nó thuộc về Tiểu Thừa. Vì vậy mà bây giờ họ không còn pháp mà tu, cho nên họ phải phát triển để phá giới luật, nghĩa là Phật Giáo càng phát triển bao nhiêu thì lại phá giới luật bấy nhiêu.

(45:05) Rồi họ phát triển pháp môn tu tập, không còn tu tập theo các pháp của Phật như trong kinh Nguyên Thủy đã dạy.

Nghĩa là bây giờ họ tu tập theo cái kiểu mới chớ không là phải theo cái kiểu cũ, như bây giờ họ ngồi họ lại giữ tâm họ bằng cách này bằng cách khác, hay hoặc là họ niệm kinh, hoặc là họ niệm Phật để cho tâm được nhất tâm, hay hoặc là họ giữ tâm mình bằng cách này bằng cách khác để cho nó không có vọng tưởng.

Tất cả những cái điều kiện như trong kinh Kim Cang dạy: “Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm”, họ giữ cái tâm mình đừng cho trụ chỗ nào để cái cái Phật Tánh kia sinh ra, thì đó là những cái họ phát triển mới.

Còn đạo Phật chúng ta muốn giữ cho cái tâm nó được thanh tịnh, được giải thoát, thì nó phải ly dục, ly bất thiện pháp. Nó khác xa, hai cái pháp đều tu khác xa không giống nhau. Cho nên họ phát triển họ đi dần dần đến cái chỗ xa lạ với Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo của Phật.

Vì không có bậc tu chứng nên chư tăng dựa vào kinh sách Nguyên Thủy rồi lý giải theo kiến thức của mình, từ kiến giải riêng tư của mình nên bất đồng mọi ý kiến. kiến giải của người khác.

Nghĩa là cũng dựa vào kinh sách Nguyên Thủy chớ họ không có đi xa, họ lấy kinh sách Nguyên Thủy rồi họ nghiên cứu. Vì họ không có tu chứng cho nên cái kinh nghiệm tu chứng họ không có, cho nên cái trụ cốt, cái cốt lõi nó không có, cho nên từ đó cái tư tưởng của họ nó xiên bên đây, nó xiên bên kia.

Mà họ nghiên cứu cuốn kinh Nguyên Thủy, tạng kinh Nguyên Thủy thì họ lại kiến giải thế này rồi kiến giải thế khác. Người thì kiến giải cái này, người thì kiến giải cái khác nó không có đồng với nhau một cái pháp hành, cho nên do đó mà họ kiến giải ra rồi họ không đồng nhau, cho nên họ chấp cái kiến của họ, họ bị kiến chấp đó đi, rồi họ mới có sự tranh chấp với nhau, họ nói rằng người này thấp, người kia cao, họ nói đủ thứ.

Cho nên vì vậy mà cái loại kinh phát triển nó làm cho…​ Đó là cái kiến chấp của những người mà tu không chứng.

Từ những kiến giải bất đồng và phi Phạm hạnh nên đưa đến kết quả phân chia bộ phái. Đó là sự việc xảy ra từ một trăm năm đến ba trăm năm sau khi Phật diệt độ.

Khi Phật diệt độ một trăm năm sau, có cuộc kết tập lần thứ hai tại Vesali, cuộc kết tập này không có nghĩa là kết tập kinh luật mà chỉ là giải quyết sự phân chia của các bộ phái. Kết quả kỳ này chỉ là thành lập giới luật của các bộ phái riêng tư.

Đó, phải nhớ là cái sự kết tập lần thứ hai này, ở tại Vesali, thì lần kết tập này là giải quyết cái sự bất đồng của chư tăng, do mọi người mỗi ý kiến riêng tư ở trong cái giáo lý Nguyên Thủy đó mà thành lập những cái bộ phái, do đó nó có hai mươi cái bộ luật. Hai mươi cái bộ luật chớ không phải là như chúng ta thấy nó còn - bây giờ là chúng ta còn thấy sáu bộ đó. Chớ lúc bấy giờ nó hai mươi bộ phái là nó phải có hai mươi cái bộ luật.

Bởi vì một tập thể nào nó cũng phải có nội quy, có kỷ luật của nó, nó mới giữ được cái tập thể đó, nó mới được yên ổn của nó, còn nếu không có thì lấy cái gì mà làm cái chuẩn cho họ sống chung với nhau được, cho nên nó phải có, phải đặt thành vấn đề là phải có hai mươi cái bộ luật.

(48:33) Một lần nữa chúng tăng lại cách xa giới luật của Phật. Thêm bớt và sửa lại rất nhiều, và người ta đã dẹp mất cái bộ luật mặt thực của giới luật kết tập lần đầu tiên.

Bởi vì bây giờ họ kiến chấp như vậy đó, họ làm sao họ để cái bộ luật đầu tiên đó được, buộc lòng họ phải đốt đi, hoặc là họ phải xé bỏ đi.

Mỗi bộ phái có giới luật riêng để lưu truyền trong bộ phái của mình. Thượng Tọa Bộ chiếm đa số luật tạng, còn Đại Chúng Bộ chỉ có một bộ luật mà thôi.

Ở đây thì theo như ở trong kinh sách thì nói là cái bộ phái Thượng Tọa Bộ thì nó lưu truyền - trong cái bộ phái mình thì nó chiếm đa số về luật tạng, nghĩa là nó còn giữ một cái số nguyên gốc của nó chớ còn nó cũng có sự thay đổi rất nhiều trong đó.

Còn Đại Chúng Bộ thì chỉ có một bộ luật mà thôi. Nghĩa là trong Đại Chúng Bộ thì nó chia ra làm nhiều bộ phái lắm, nhưng mà nói nó chỉ có một bộ luật mà thôi thì hầu hết là cái bộ luật của nó, nó đều giống nhau là cái bộ luật phá giới, chớ không phải là cái bộ luật không phá giới. Cho nên nó gần giống nhau.

Chia làm hai mươi bộ luật, nhưng mà hai mươi bộ luật đó thì có bên Thượng Tọa Bộ thì nó còn giữ được cái giới luật chiếm đa số cái luật tạng của Phật, còn có cái gốc chút.

Còn cái phần mà của Đại Chúng Bộ thì nó phát triển theo cái kinh điển phát triển, thì cái giới luật đó nó phá sạch, cho nên nó mới đẻ ra cái giới luật Bồ Tát giới đó, thì nó phá sạch cái giới luật của nguyên gốc đi, cho nên nó đặt thêm thứ này thứ kia để nó phá giới ở trong cái giới luật của Phật.

Do vì vậy đó mà gần như là cái Đại Chúng Bộ nó chỉ có một cái bộ luật chung là cái bộ luật phá giới mà thôi.

3- CHỈ GIỚI LUẬT CÓ ĐỦ OAI LỰC LÀM THẦY THAY ĐỨC PHẬT

(50:17) Giáo pháp của Đức Phật là Tam Vô Lậu Học Giới - Định - Tuệ, là cơ sở, là trung tâm thiện pháp của sự phát triển tu tập. Đó cũng là một giáo án ngắn gọn nhất và cô đọng nhất.

Ngay từ thời Đức Phật còn tại thế, các vị đại đệ tử của người đều lấy Tam Vô Lậu học làm cơ sở giới luật của mình tu tập. Nếu chẳng trì giới luật thì sự tiến tới con đường giải thoát trở thành vô vọng. Vì thế tất cả đệ tử của Đức Phật đều là những bậc trì giới nghiêm chỉnh, và người nghiêm chỉnh trong giới luật là ông Ưu Ba Ly.

Chúng ta thử kiểm thảo lại xem: Giới luật dù là căn bản của Phật pháp, tại sao người tu giới luật không cảm thấy hứng thú?

Nguyên lai người ta hiểu giới luật của đạo Phật như một pháp luật trong quốc gia. Người ta không hiểu giới luật của đạo Phật là một pháp môn toàn thiện đem lại sự giải thoát và ích lợi lớn cho con người.

Ở đây chúng ta phải hiểu: Giới luật của Đức Phật chính là những pháp môn tu hành, ngoài giới luật ra không có pháp môn tu hành nào khác riêng, cho nên Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo, từ lúc trợ đạo lành, tức là trợ giúp làm cho thành tựu thiện pháp.

Giới bổn Patimokkha chẳng qua là những oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đạo Phật thể hiện qua giới hạnh trong giới kinh của Đức Phật chớ không có gì mới mẻ và riêng biệt. Chỉ người sau không hiểu biến thành bộ kinh giới riêng biệt với kinh điển của Phật.

Ở đây Thầy xin giải thích thêm để hiểu chỗ này. Nghĩa là khi mà chúng ta nhìn qua Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo thì chúng ta biết nó là cái giới hành của cái giới bổn, giới luật của Phật.

Cho nên giới luật của Phật thì chúng ta biết nó là - cái giới luật của Phật là cái thiện pháp, còn giới bổn chẳng qua là những cái oai nghi tế hạnh để cho người ta bổ túc vào hai mươi lăm cái giới hạnh mà trong giới kinh Thầy đã dạy. Bởi vì hai mươi lăm giới hạnh nó nói tổng quát, nó nói chung mà cái chi tiết li ti thì nó chưa có nói ra, mà giới bổn thì nó nói những cái oai nghi tế hạnh đó.

Cũng như Thầy vừa giảng cho quý thầy nghe đó, những cái hành động nhỏ nhặt của chúng ta mà còn một cái tâm ham muốn, còn cái tâm vội vàng ở trong đó, thì đó là cái giới bổn nó sẽ chỉ những cái vi tế đó để mà chúng ta thấy rằng: Cái đó là còn cái tâm dục chưa có ly, còn cái tâm ham muốn, còn cái tâm vội vã, còn cái tâm muốn mình mau, người khác đến trước mà phải chịu sau mình đó, đó là còn cái tâm tham.

Cho nên cái giới bổn là nó chỉ cái vi tế đó để cho bổ túc thêm cho hai mươi lăm cái giới hạnh trong kinh mà chúng ta đã học rồi.

Đó chúng ta thấy được như vậy, chúng ta thấy cái giới bổn có quan trọng đâu? Nó đâu phải là thầy chúng ta được. Nó chỉ thêm để những cái oai nghi chúng ta được nó làm sáng tỏ trên cái giới hạnh mà thôi.

Chớ nó đâu có được cái giới đức, nó đâu có nằm ở trong cái giới đức được, mà nó đâu có nằm ở trong - bởi vì kinh giới, chúng ta thấy nó đâu có nói về thiền định được, mà kinh giới nó đâu có nói ra - cái kinh giới bổn đó thì nó đâu có nói ra cái giới tuệ được.

Còn ở đây giới kinh của chúng ta nó có giới hạnh nè, giới đức và giới tuệ, nó đầy đủ, trọn vẹn của một con đường toàn diện là giới bổn của Phật.

(53:59) Mà giới bổn của Phật như vậy là - Thầy nhắc lại, có một vị Bà La Môn hỏi Đức Phật: “Sau khi Đức Phật nhập diệt thì ai là người thừa kế Đức Phật để dẫn dắt chúng Tỳ Kheo sau này?”

Đức Phật nói một người mà phải có đủ ba cái điều kiện thì người đó sẽ là thay Phật dẫn dắt chúng tăng sau này. Ba cái điều kiện đó là gì?

Phật nói là cái người đó phải có hạnh lực, đó là thứ nhất, phải có thần lực là cái thứ hai, phải có huệ lực, thì cái đó là thứ ba, ba cái này thì cái người đó mới xứng đáng hướng dẫn chúng tăng sau này. Thì chúng ta nhìn thấy các bậc Thánh Tăng chưa có người nào mà xứng đáng có được ba cái oai lực này.

Một người được cái giới hạnh mà không được cái giới đức thì nó chỉ tạm thời, nó chưa có tròn đầy được. Cho nên mới có vị đệ tử này đệ nhất cái này mà đệ nhất cái kia, chớ đâu có ai mà đệ nhất cả hết sao, giống như Phật đâu được! Mà chỉ có giới bổn là đệ nhất đủ hết.

Như Thầy đã giảng rồi, thì các thầy thấy trong giới bổn: Giới đức có, giới hạnh có, giới tuệ có. Đó là đủ ba cái oai lực của một vị tu sĩ để lãnh đạo chúng tăng sau này. Cho nên Đức Phật không di chúc - cái người mà thừa kế Phật là ai? Không phải là giới luật sao?

Còn bây giờ chúng tăng nhìn ông Ca Diếp thì có cái hạnh đầu đà, ông Xá Lợi Phất thì có cái đại trí tuệ mà thôi, còn ông Mục Kiền Liên thì có đại thần thông thôi, đệ nhất thần thông thôi, mà ông La Hầu La thì có mật hạnh thôi.

Thì các thầy thấy: Mỗi người có một góc độ, làm sao mà tròn được cái oai lực đó mà làm thầy cho chúng Tỳ Kheo sau này?

Cho nên không có người nào mà thừa kế chúng ta là tại vì chúng ta thấy Đức Phật khen ông này đệ nhất, ông kia đệ nhất cái này cái nọ, cái khác, thì nó không tròn đủ rồi. Mà không tròn đủ thì tức là chưa có đủ một cái oai lực mà có thể nhiếp phục chúng tăng tu hành theo đúng cái sự giải thoát của đạo Phật. Chỉ có Đức Phật mới là người đủ ba cái oai lực đó.

Đó thì chúng ta đọc lại kinh chúng ta thấy cái chỗ mà Phật nói, chúng ta xác định rằng, nhìn chúng Tỳ Kheo của Phật, nhìn những cái bậc Thánh Tăng đệ tử của Phật không đủ ba cái oai lực đó thì làm sao mà làm cái người mà hướng dẫn chúng Tỳ Kheo sau này được? Chỉ có giới luật mới đủ mà thôi.

Cho nên Thầy giảng giới luật để chúng ta thấy giới bổn của Đức Phật là cái giới luật nào.

Còn cái giới bổn mà chúng ta đã học mà các Ngài kết tập lại thành, đó là chi tiết của giới hạnh chớ đâu phải là gì, cho nên đọc đến chúng ta thấy từ một trăm giới chúng học rõ ràng là những cái chi tiết lặt vặt, nhỏ nhặt chớ đâu phải là cái gì khác hơn hết.

Xét như vậy chúng ta mới thấy được cái giới nào là cái giới làm thầy của chúng ta, chứ còn không chúng ta cứ lấy giới luật đó làm thầy chúng ta như cái cây khô vậy, tu riết muốn chết luôn à, sống gì mà “Trời đất ơi! Quá khổ vầy nè!” Có giải thoát thứ gì đâu! Người ta ăn, mình ngồi đó mình nuốt nước miếng, có sung sướng chỗ nào?

Vì thế, giới bổn được xem như là pháp luật trong một quốc gia, cho nên tu sĩ tu giới luật quá khó khăn và xem như mất tự do, bị giới luật ràng buộc. Thế nên kinh điển Đại Thừa và Thiền Tông phá vỡ giới luật của đạo Phật. Phá giới luật tức là phá pháp môn tu hành của đạo Phật.

Người thuyết giảng giới luật gọi là giới sư, họ thuyết giảng khó khăn khiến cho người tu theo giới luật không có đường giải thoát, toàn thấy cuộc sống rất khổ hạnh đụng đâu cũng phạm phải lỗi lầm, lỗi lớn, lỗi nhỏ, tâm hồn họ không được thanh thản an vui. Do không hiểu giới luật nên người tu giới luật thành một pháp môn khắc khổ, cằn cỗi.

(57:33) Tại sao đệ tử của Phật lại có người được Ngài ca ngợi, tán thán đệ nhất pháp môn này, đệ nhất pháp môn kia?

Giới luật là một pháp môn có thấp có cao, có hạnh, có đức, có tuệ. Nếu ai chuyên trì ở chỗ nào, làm gương hạnh tu tốt cho người khác thì Đức Phật gọi là đệ nhất.

Như tôn giả Ưu Ba Ly là trì giới đệ nhất, nghĩa là ông giỏi về giới hạnh đệ nhất.

Nghĩa là ông Ưu Ba Ly ổng giỏi về giới hạnh đệ nhất, mà giới đức ông chưa giỏi. Bởi vì giới đức ông phải thiền định giỏi chớ còn đằng này giới đức ông đâu có giỏi. Và giới tuệ ổng cũng chưa có giỏi, cho nên ổng đâu có - ông chỉ có cái giới hạnh không à. Cho nên vì vậy ông chỉ có ở cái góc độ đó làm sao ổng xứng đáng là ổng làm thầy của mình ở sau này?

Đó là chúng ta thấy cái chỗ mà Thầy vạch ra để thấy cho rõ được: Tại sao Đức Phật không di chúc các ông đó làm thầy mình mà lại là di chúc giới luật là làm thầy mình?

Tôn giả Xá Lợi Phất giỏi nhất về tri kiến giải thoát thuộc phần thứ nhất giới tuệ - đệ nhất trí tuệ.

Nghĩa là Đức Phật gọi ông Xá Lợi Phất là đệ nhất trí tuệ đó, thì ông giỏi về tri kiến giải thoát ở trong cái phần thứ nhất của giới tuệ.

Chúng ta nói khi mà cái tâm mà nó định tỉnh rồi thì ở đó ông phát triển cái giới tuệ thứ nhất, nó phát triển cái tri kiến và cái Chánh Kiến với cái tri kiến nó sáng suốt vô cùng, thì ông ở đây ông sáng suốt, Phật chưa nói mà ông giải thích được.

Phật chưa bao giờ nói cái bài pháp đó, mà người hỏi thì ông đã giải thích, người đó đến hỏi Phật thì Phật nói: “Ta cũng nói cỡ vậy thôi.” Thì đó là ông phát triển được cái tuệ, cái giới tuệ ở chỗ cái mức độ đó, chứ chưa phải là toàn bộ cái giới tuệ.

Bởi vì giới tuệ nó có ba mươi ba cái giới lận, chớ đâu phải ít, mà ông chỉ có phát triển được cái đó thì Đức Phật chỉ khen ông ở chỗ đó chớ đâu phải khen ông toàn bộ được. Cho nên ông đâu phải cái người mà làm thầy chúng ta được!

Còn tôn giả Mục Kiền Liên thì giỏi nhất về giới tuệ thứ ba: thần thông đệ nhất.

Cái chỗ mà một thân biến ra nhiều thân, muốn biến ra cái gì cũng được hết đó, thì cái đó là cái giỏi về cái giới tuệ đó, mà cái giới thứ nhất, cái giới tuệ thứ nhất thì ông cũng luôn luôn lu mờ, ông đâu có, Phật nói làm sao ông nói lại vậy chớ ông có dám nói trật đâu.

(59:47) Còn ông Xá Lợi Phất thì Phật chưa dạy, ông dám nói trước được, mà nói không sai ý của Phật chút nào hết. Còn ông này khai triển chỗ đó không nổi, cho nên ông chỉ Phật dạy sao, bây giờ họ - chúng Tỳ Kheo hỏi sao ông cũng dạy y vậy chớ không dám nói, không dám sai khác cái chỗ khác. Đó là ông chỉ có cái phần là cái giới tuệ của ông ở cái phần thứ ba đó, thần thông đệ nhất mà thôi.

Còn ông A Na Luật thì thiên nhãn đệ nhất, tức là ông giỏi về tuệ thứ tư.

Ông giỏi về cái tuệ thứ tư, cái thiên nhãn của ông tức là ông giỏi về cái Lục Thông mà chỉ có cái Thiên Nhãn thôi chớ ông đâu có Nhĩ Thông được nữa!

Đó thì chúng ta thấy trong những bậc Thánh Tăng nó có giỏi từng góc độ của nó mới gọi là đệ nhất. Còn nếu mà cái người nào mà cũng đệ nhất hết thì cái người đó mới xứng đáng là thầy của chúng ta.

Cho nên ông Phật ông giao cho một cái người mà lãnh đạo Phật giáo sau này cho ổng, ổng phải giao một cái người đầy đủ chớ ổng giao con người mà không đầy đủ thì Phật giáo nó suy đồi sao?

Thế mà chúng ta có ông thầy đầy đủ chúng ta lại quăng cái ông thầy đó đi, rồi bây giờ chúng ta đặt hai chục ông thầy vô, rồi biết chọn ông nào bây giờ đây? Lấy ông nào mà làm thầy mình bây giờ đây? Ông nào nó cũng là cái cỡ tầm vóc mà kêu là phá giới không thì làm sao làm thầy mình?

Đó, thì như vậy là trên bước đường tu hành chúng ta, trong cái thời đại của chúng ta quá khó.

Ông thầy giới luật của chúng ta - mà bây giờ thì cứ nói ra đó là kinh à, chớ họ có nói cái đó giới đâu, mà hôm nay Thầy giảng quý thầy mới thấy đó là giới bổn của Phật đó. Nó phải đủ ba cái oai lực của một cái người mà lãnh đạo Phật Giáo sau này, thì ông Phật ngày xưa ông phải đủ ba cái oai lực, bởi vì hạnh lực, thần lực và tuệ lực của ông.

Chúng ta phải thấy được cái điều đó mà chúng ta mới biết rằng giới luật của Phật rất là tuyệt diệu, không có phải là cái thứ thường đâu.

Khi tu hành ta phải hiểu mỗi đặc tướng riêng của con người, tánh sở trường của người ấy ở đó, họ phải đạt cái đó cao nhất, vì thế Đức Phật gọi là đệ nhất, tức là đệ nhất sở trường của họ.

Trong giáo phái, giới luật của Phật cũng vậy.

(01:01:42) Nghĩa là trong giáo phái giới luật của Phật nó nhiều cái chỗ mà đạt cái sở trường, mà cái người nào mà thích cái đó thì họ đạt sở trường.

Cũng như bây giờ các con là học sinh nè, phải không, các con vô trong trường nè, các con học nè, tại sao có thằng giỏi toán mà có thằng giỏi văn, mà có thằng giỏi sử địa, đó là cái sở trường của nó, cái thích thú của nó, nó phải giỏi môn đó.

Cho nên đệ tử của Phật đâu phải toàn diện hết, nó thích cái nào là cái sở trường của nó, còn cái sở đoản nó học dở gần chết à.

Cái thằng giỏi văn, toán nó làm mù mờ nó không biết gì hết, vô nó cắn ngòi viết nó không làm được cái thứ gì hết, mà tới viết văn thôi nó viết thao thao bất tuyệt, viết không bao giờ ngòi bút nó dừng. Mà tới làm toán rồi nó ngồi nó cắn bút, thì đó là cái sở đoản của nó, mà cái sở trường của nó, nó phải thông chớ sao!

Đó thì quý thầy cũng biết con người chúng ta nó có đặc tướng riêng của nó, cho nên người thì thích văn, người thì thích toán, người thì thích cái này, người thích cái kia, mà cái sở thích của nó, còn cái người mà đồng đều hết lại là không giỏi thứ nào hết, cái nào cũng đều đều, là không có giỏi thứ nào hết, phải hiểu.

Còn có người mà giỏi hết tất cả các môn nữa, đó là mới gọi là bậc mà làm thầy của chúng ta. Mà trong cái thời Đức Phật chúng ta thấy Thánh Tăng không có người nào mà giỏi đồng đều hết. Đó, thì biết như vậy là chỉ có giới luật là thầy của chúng ta mới là đồng đều thôi chớ còn không có ai mà đồng đều được.

4- GIỚI LUẬT ĐỜI NAY KHÔNG CÒN LÀM THẦY ĐƯỢC

4.1- PHÁP MÔN VÀ GIỚI LUẬT BỊ THAY ĐỔI, PHÂN CHIA MANH MÚN

(01:02:53) Đời nay ít người thấu đạt giáo pháp này, nên đem phân chia giáo pháp ra từng manh mún, vụn vặt, biến thành nhiều pháp môn, mà mỗi pháp môn chẳng dẫn ai tu hành đi đến đâu cả, lừng chừng, lỡ dở, tu sĩ ương ương, gàn gàn, pháp môn nào chẳng ra pháp môn nào, giới luật nào cũng chẳng ra giới luật nào.

Nghĩa là cái nào nó cũng chẳng ra cái nào hết à, ương ương, gàn gàn, tu chẳng ra tu mà tới đâu cũng chẳng tới đâu, chỉ có nói mồm, nói mép thôi à, mà không làm được cái thứ gì hết.

Thì đó, thì quý thầy thấy họ phân chia ra làm - họ phân chia, họ dám cả gan, dám nói tám mươi bốn ngàn pháp môn: “Phật giáo có tám mươi bốn ngàn pháp môn chớ không phải có một pháp môn”, họ dám nói dóc như vậy đó.

Thử họ đếm thử coi, tính ra thử coi có tám mươi bốn ngàn pháp môn không? Kinh sách nào mà kê ra cho chúng ta thấy tám mươi bốn ngàn pháp môn không? Có không? Đếm cho lắm thì cũng cả trăm pháp môn đó là quá sức tưởng tượng rồi, chớ nói tới tám mươi bốn ngàn thì đặt ra nói cho dữ, chứ có ở đâu mà có dữ vậy!

Đó là cái vọng ngữ, quá là đại vọng ngữ chớ không còn gì nữa hết, dám cả gan nói cái lời nói như vậy.

Rồi nói Phật nói chớ, chớ phải mà dám nói mình nói đâu! Đưa ông Phật ra, ổng nói vậy! Ông Phật nói láo đến cái mức độ vậy sao? Nói sao ông không kê ra thử coi tui thấy coi ông nói vậy có đúng không?

Cuối cùng xét lại trong kinh sách đi, chúng ta đếm đi hết đi, từ Đại Thừa qua và Nguyên Thủy, Tiểu Thừa đi, chúng ta đếm hết thử coi đi coi có đủ không? Cộng luôn cả Thiền Tông mà cả luôn Thiên Chúa, cả luôn tất cả, đếm hết đi, tất cả tôn giáo trên thế gian này coi có tám mươi bốn ngàn pháp môn được không, chớ đừng có nói chi nội Phật giáo!

Tại vì sao?

Tại vì không còn người tu chứng pháp môn của Đức Phật nữa.

Nó mới chia ra làm tầm bậy như vậy đó, là tại vì không có người tu chứng, chứ có người tu chứng người ta kết tập lại pháp môn nào là ra pháp môn nấy chớ. Như bây giờ Thầy kết tập lại giới luật là giới luật, trong giới luật là pháp môn để chúng ta tu, không có pháp nào khác hơn hết. Đạo Phật gì mà nhiều quá vậy, biết đâu mà tu?

Chỉ có cái pháp môn đó, rồi có từ cái chỗ thấp đến chỗ cao, chớ không phải có nhiều pháp môn. Người mới tu phải tu cái gì trước, cái gì sau thì nó là một pháp môn.

Cũng như bây giờ chúng ta muốn thi đậu một ông bác sĩ, thì chúng ta phải đi học từ cái lớp một cho đến cái lớp mười hai rồi mới vào học trường Y khoa thì mới đỗ bác sĩ, cái đường lối nó phải vậy, thì chúng ta phải…​ chớ đâu phải là cái lớp một nó là một pháp môn, rồi cái lớp hai đó là một pháp môn rồi, cái lớp năm lớp sáu là một pháp môn, mấy ông nói sao mà lạ lùng vậy!

Nó chỉ là một cái giáo trình, một cái giáo án của người ta, học tập thì nó phải đi từ lớp thấp đến lớp cao, lại cho nó là mỗi cái cấp bậc học như vậy là cái pháp môn à? Mấy ông sao ngu si quá độ vậy!

Tại vì không còn người tu chứng pháp môn của Đức Phật nữa.

Tại vì người tu sống theo dục lạc thế gian, mới chẻ pháp môn của Phật ra để mình tu theo sở thích.

Chẻ nó ra để mình tu theo cái sở thích, chạy theo dục lạc đó, mình đặt ra cái pháp môn đó để cho mình chạy theo nó chớ không có gì khác.

Bởi vì dục lạc nó cám dỗ quá nhiều mà. Sống cái đời sống mà giới luật, họ đặt ra cái giới luật họ thấy khổ quá, sống kiểu này chắc tu có nổi gì đâu, cho nên đặt ra các pháp môn tu để theo cái sở thích đó mà thấy như không phạm giới, mà còn có hy vọng rằng có thể sanh được cõi trời hay hoặc là về cõi cực lạc, nó cũng sướng, cũng phè phỡn. Lên trển muốn ăn gì cũng có, còn ở thế gian này muốn ăn phải mần cực khổ mới có ăn, cho nên ước ao để mà lên cảnh giới đó, mới đặt ra những cái điều đó.

(01:06:30) Tại vì loài người thiếu phước, không đủ duyên với Phật pháp.

Đó thì chúng ta thấy Đức Phật nhập diệt rồi, sau một trăm năm thì chúng ta thấy lần lượt con người ở thế gian này thiếu phước, Đạo Phật có đó mà không có Chánh Pháp để chúng ta thực hiện, toàn là chia chẽ ra, chạy theo, biến nó trở thành tà pháp, tà kiến hết, nó không còn cái Chánh Pháp nữa.

Cho nên Phật giáo hiện tiền có trước mặt với nhân loại, mà pháp môn thì bị chẻ vụn như những miếng giấy xé nhỏ…​

Mà vò nát nữa chớ chưa nói xé nhỏ không, mà còn bị vò nát ra nữa!

…​ không còn dùng vào một việc gì được cả, chỉ còn bỏ mà thôi.

Họ lý luận thế này, thế khác là để che đậy những lỗi lầm tu sai, phạm giới của họ, giống như một lớp nước sơn ở ngoài còn bên trong là một khúc gỗ mối mọt, đục khoét tan nát.

Nếu đem tất cả kinh sách luật ra đọc, ta thấy có sự sai biệt, rất nhiều điểm khác nhau: Có bộ thì yêu cầu nghiêm trì giới luật, có bộ thì yêu cầu giảm bớt nhẹ nhàng.

Nếu đọc sách luật mà cho bộ này phải, bộ kia phải, hoặc bộ này trái, bộ kia trái thì người đọc sách luật là vô ích, không lợi ích cho đường tu, mà bị ảnh hưởng của những người xưa không hiểu luật pháp của đạo Phật mà viết ra thành luật thì giới luật của Phật thành ra bản hiến pháp của quốc gia chớ không phải là pháp môn tu hành của Phật nữa.

Đó thì quý thầy thấy, bây giờ giới luật của đạo Phật bây giờ nó thành bản hiến pháp. Nó thành bản hiến pháp cho nên tu sĩ bắt đầu mà vô thực hành cái bản - chấp nhận cái bản hiến pháp này, ông nào cũng le lưỡi hết trơn, đâu có chấp hành nổi!

Mà là giới luật của Phật là pháp môn tu làm cho người ta giải thoát người ta mới thích thú, còn cái này vô bắt đầu: “Trời ơi tui khổ quá trời! Giới luật như thế này chết! Đi thì đi chân trần như thế này, đạp ba cái nước cứt, trời ơi, về nó ngứa chân gần chết, đêm nó đâu có ngủ được!”

Đó, đó là những cái bản hiến pháp đó, cái pháp luật của nhà nước đó là bản hiến pháp đó. Đó cho nên ở đây, chúng ta phải thấy rằng cái chỗ giới luật của Phật nó không phải là cái chỗ hiến pháp đâu.

Do thế, giới bổn Patimokkha trở thành pháp chế.

Đó Thầy xác định cho qúy thầy thấy nó trở thành cái pháp chế chớ nó đâu có còn cái giới luật của Phật nữa!

Vì vậy tất cả các tu sĩ bị pháp chế gò bó, khổ sở cho đời sống tu hành, mất sự an lạc thanh thản.

Hầu hết tất cả các bộ luật hiện hành của Phật giáo bây giờ, trong các chùa, tu viện đều do những người không chứng giới pháp của Phật mà soạn hoặc viết ra, rồi tự thêm, tự bớt làm cho giới pháp mang đầy tính chất Khổng giáo, Lão giáo và còn có tính chất thần quyền, mê tín nữa.

Như ở trong giới luật các thầy thấy có một vị giới luật hỏi: “Vậy chớ tôi giữ gìn giới luật vậy tôi có còn phạm gì không?” - Hỏi ông thần hộ giới đó: “Tôi giữ gìn giới luật vậy tôi có còn phạm cái giới gì nữa không?” Ông thần hộ giới mới nói: “Ông ăn cơm rồi ông không có tráng nước bát cho nên vẫn còn những hột bựa ở trong đó, cho nên ông còn phạm giới!”

Trời đất ơi! Mình là người tu mà hỏi thần! Thầy không biết làm sao! Đó là cái sự mê tín. Giới luật mà nói cái chuyện đó thì Thầy thấy quá là thần quyền rồi!

Đọc trong kinh giới Thầy thấy Thầy buồn cười những cái chuyện - đặt ra những cái chuyện nói mơ hồ! Pháp luật của nhà nước, cái hiến pháp của nhà nước không biết có nói cái chuyện đó không?

4.2- SỰ THÔNG HIỂU VỀ GIỚI LUẬT CÒN NHIỀU THIẾU KHUYẾT

(01:10:14) Đơn giản mọi người chỉ biết giới luật tối thiểu là năm điều tức là Ngũ Giới, tối đa là ba trăm bốn mươi tám giới…​

Nghĩa là người ta biết có giới luật là từ cái năm điều rồi đến ba trăm bốn mươi tám giới là tối đa.

…​ của Tỳ Kheo ni giới. Đây chỉ là điều văn mà thôi. Một người chỉ biết học thuộc lòng điều văn của giới luật thì chẳng thành chuyên gia giới luật học.

Bởi vì trong mỗi điều giới có tướng có tánh, có thể của nó, phần nhiều đều có sự phân biệt Khai - Giá - Trì - Phạm. Mỗi điều giới có đẳng cấp khinh trọng, cho nên đồng phạm một điều giới mà động cơ phương tiện kết chẳng đồng.

Kết tội người ta chẳng đồng: Đồng thời một người phạm giới mà cái động cơ phương tiện nó phải có một sự sai khác, chớ không thể nào mà cái người đó phạm vậy, người kia cũng phạm vậy mà hai cái này nó đều đem ra kết tội người ta y như nhau thì không đúng. Bởi vì trường hợp người ta phạm tuy là cái giới đó nó phạm vậy, nhưng mà trường hợp nó khác.

Thí dụ như bây giờ phạm về cái giới dâm, mà khi mà cái người bị bắt buộc người ta dâm, còn cái người mà vui thích hành dâm thì hai cái tội dâm thì nó giống nhau, nhưng mà cái người bị bắt buộc còn cái người không bị bắt buộc. Như một cô gái bị bắt buộc, ép buộc người ta dâm, thì cũng kết tội người ta dâm sao?

Cho nên khi mà xử người ta, thì cái động cơ, phương tiện mà kết cái tội của người ta thì phải thấy được cái nguyên nhân đó. Còn nếu như mình kết tội người ta người nào cũng dâm hết, thì tức là người nào cũng tội Ba La Di - chặt đầu hết, thì cái chuyện đó là cái chuyện không đúng rồi.

(01:11:50) Còn người tìm người ta để hiếp dâm người ta thì cái tội đó là tội chặt đầu đáng rồi. Còn cái người người này bị người ta bắt buộc hiếp dâm, mà quý vị cũng bắt chặt đầu người ta thì cái tội đó là cái tội như thế nào? Người ta có là phải người ta đi tìm cái đó người ta hiếp người khác đâu?

Đó cũng đồng một cái tội. Thầy đem cái ví dụ như vậy để thấy rằng đồng một cái tội dâm, nhưng mà cái người phạt nặng mà cái người phạt nhẹ, và có thể nói là tha bổng nữa là khác. Đó chúng ta phải hiểu, không có tội nữa.

Do thế phạm tội khinh trọng mà phương thức sám hối cũng chẳng đồng.

Nghĩa là cái tội mà nhẹ mà sám hối cũng chẳng đồng nữa, người thì bắt quỳ hương, mà người chỉ phát lồ ra nói rồi xả hết tội, khỏi cần quỳ hương. Còn người phải quỳ hương, còn người phải cấm phòng nữa.

Đó là, những cái điều đó thì nó rất là khó ở trong giới luật chớ không phải dễ đối với một người mà cầm vận mệnh giới luật mà muốn sao cũng được đâu, ức oan người ta, cái chuyện đó không phải là chuyện đơn giản.

Cho nên ở đây giới luật của Phật không phải là cái điều đó, mà giới luật của Phật giúp chúng ta từng bước để xả cái tâm của chúng ta ly dục ly bất thiện pháp, để chúng ta tiến tới một con đường giải thoát hoàn toàn tâm hồn.

Cho nên giới luật của chúng ta nhẹ nhàng, và nó thảnh thơi, nó làm cho con người chúng ta mỗi ngày một giới luật thêm trong thân, tâm chúng ta, thì mỗi một bước giải thoát trong tâm hồn, thì như vậy mới gọi là giới luật của Phật chớ, mới là ông thầy của mình chớ!

Ông thầy gì mà đến đây cứ đánh tui hoài à, đập tui hoài, tối ngày cứ đập tui hoài tui chịu sao nổi! Ít ra ông cũng phải an ủi xoa dịu, ông phải nói những lời ngon ngọt tui mới thích ở ông chớ! Còn ông cứ làm cái chuyện này thôi tui đi, tui bỏ ông chứ tui đâu có ở đây được!

Thì cái giới bổn mà hiện bây giờ - hiện hành mà của Phật giáo đang dùng, nó là như ông thầy mà kêu là lấy roi mà quất mình đó.

Tuy nhiên trong giới bổn có những điều không ghi, nhưng điều gì làm trái với nguyên tắc Phật giáo cũng đều coi là phạm giới.

Phần nhiều là ở trong giới bổn có những điều nó sơ sót, nó không ghi, nhưng mà có điều thì nó lại làm trái với Phật pháp.

Phạm giới là gì? Phải có biện pháp nào? Đều phải phân biệt rõ ràng như chỉ trong lòng bàn tay.

Nghĩa là cái phạm giới - phạm giới là gì? Mình phải biết cái chỗ phạm giới, phải có những cái biện pháp nào để nó trừng trị cái phạm giới đó, đều là phải như là mình - người mà nắm vận mệnh của pháp giới để mà điều khiển pháp giới đó, điều khiển giới luật đó - thì phải rõ ràng như là…​

Phạm giới là gì? Phải có biện pháp nào? Đều phải phân biệt rõ ràng như chỉ trong lòng bàn tay mới được gọi là thông hiểu giới luật.

Một tu sĩ Phật giáo không những biết về phạm giới, tướng khinh, tướng trọng, mà còn phải biết về phương hướng sám hối.

(01:14:43) Nghĩa là nói chung về cái người tu sĩ Phật giáo chúng ta mà muốn làm một vị thầy mà hướng dẫn người ta thì mình phải rõ ràng được tất cả những cái này thì mới có thể làm thầy người ta.

Cho nên sau khi Thầy tu hành xong rồi thì Thầy đã từng nghiên cứu về cái giới luật rất nhiều. Mặc dù thầy Thanh Từ bảo Thầy đọc kinh sách Đại Thừa, Tiểu Thừa, nhưng mà cái phần nhiều mà Thầy nghiên cứu là về giới luật.

Bởi vì Thầy biết là cái pháp nào mà trong khi Thầy tu hành đạt được, bởi vì sau mười năm ở trong thất là Thầy giữ gìn rất trọn vẹn giới luật cho nên Thầy đã biết nó như thế nào.

Sau khi về thầy Thanh Từ thầy bảo là phải đọc tất cả những sử của Phật giáo nè, rồi sử của thiền Trúc Lâm nè, sử của các vị Thiền Tông Trung Hoa nè, hành trạng của các vị Thiền Tông Trung Hoa nè, rồi đọc lại kinh sách Đại Thừa nè, rồi A Hàm nè, rồi Nguyên Thủy nè, thầy Thanh Từ dạy Thầy như vậy, tất cả những cái điều kiện đó phải đọc lại hết để sau này giúp thầy.

Đó là cái lời của thầy Thanh Từ dạy vậy, nhưng mà Thầy về Thầy đặt hết cái thời gian mà Thầy nghiên cứu về giới luật của Phật, Thầy tìm mọi cái bộ luật mà Thầy nghiên cứu hết. Thầy thấy con đường giải thoát là ở nơi giới luật chớ không phải ở chỗ Thiền Tông hay hoặc là ở chỗ kinh sách nhảm nhí đó.

Cho nên Thầy có đọc tất cả những cái đó, Thầy mới viết ra thành một bộ sách, Thầy để là Đường Về Xứ Phật. Đường Về Xứ Phật là cái lý luận của Thầy bác cái sai, cái đúng ở trong đạo Phật chớ không phải là Thầy giải thích cái gì thêm ra hết. Cái bài kinh nào đúng, cái bài kinh nào sai là Thầy đã viết ở trong đó ra.

Nhưng mà Thầy thấy nó không có phù hợp cho nên Thầy đem Thầy bỏ, Thầy không có xài nó. Thầy để đó thành ra một đống giấy đó thôi. Nó không có phù hợp ở trong cái thời đại này, đưa nó ra thì đụng chạm với các bậc tôn túc, các thầy giáo hội ở trong cái thời đại này, cho nên Thầy hoàn toàn Thầy dẹp nó một bên, vì làm khổ người thì không nên, đạo Phật đã dạy như vậy.

Người ta đang có kiến giải, đang có nghĩ cái đó đúng mà mình cho đó là cái sai là người ta đau khổ rồi, mà người ta nhận đó là sai là người ta cũng thấy đau khổ người ta rồi. Cho nên không có nên làm cho người ta đau khổ, chỉ âm thầm tìm mọi cách làm sao mà chấn hưng được Phật pháp, làm sao cho người ta thấy cái đúng, cái sai mà thôi.

Cho nên Thầy rất là nghiên cứu về giới luật, vì vậy mà Thầy thấy, hầu như Thầy đọc các tác phẩm giới luật của các bậc tôn túc cũng như những người sau này mà viết ra, Thầy thấy thiệt là nhẩm lại cái lối mòn của người trước, mà nhẩm trật nữa chớ đừng có nói là nhẩm đúng.

(01:17:07) Người nghiên cứu giới luật của đạo Phật hiện giờ mà không thông hiểu giới luật Đại Thừa và Tiểu Thừa thì sự thông hiểu khiếm khuyết quá nhiều.

Nghĩa là mình mà không nghiên cứu cái giới luật của Đại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa mà kết hợp lại, thì tức là cái sự khiếm khuyết mình rất nhiều.

Chẳng hạn bây giờ ở bên Nguyên Thủy, các sư bên Nguyên Thủy họ chỉ nghiên cứu cái giới luật của Tiểu Thừa họ thôi. Còn ở bên Đại Thừa của mình thì cũng nghiên cứu sáu cái cái bộ luật của mình ở bên Đại Thừa thôi, thì tức là mình còn thiếu khuyết rất nhiều chớ chưa đủ đâu.

Cho nên cả cái giới luật ở bên Nguyên Thủy và cả cái giới luật của bên Đại Thừa đều là mình nghiên cứu coi các tổ của mình, các tổ luật họ viết như thế nào, họ làm sao, có đúng hay sai. Rồi mình nương vào cái giới kinh mà mình xét qua mình biết họ đúng hay sai.

Bởi vì khi mà tu hành rồi người ta thấy cái giới kinh nó rõ ràng lắm. Bởi vì kinh Nguyên Thủy Đức Phật - mặc dù trong kinh Nguyên Thủy nó có sự thêm bớt một hai bài kinh, nhưng mà cái giới kinh nó rất cụ thể rõ ràng.

Bởi vì nó chỉ cho chúng ta nè: Hạnh lực nè, thần lực nè, oai lực của nó là đủ những giới hạnh, giới đức và giới tuệ nó đủ. Cho nên nó là một bậc thầy của mình, vì vậy mình lấy cái đó mình làm cái chuẩn mà mình xét qua cái kinh giới của các bậc này viết sai hay đúng mình biết rõ.

Bởi vì giới luật là thầy của mình, mà bây giờ nó là giới bổn là thầy của mình chớ gì? Thế mà cái giới bổn mà viết như vậy thì nó có thầy của mình được không?

Đó thì hôm nay Thầy nói để cho quý thầy rõ được, khi một người mà đã tu học, đã có một cái sự thành tựu được sự giải thoát, nó có cái sự thông minh kinh khủng lắm, nó không lường được cái trí tuệ thông minh đó, cho nên nó nghiên cứu tất cả nó biết được cái sai, cái đúng.

Bây giờ Thầy nói cho quý thầy thấy như thế này. Hiện bây giờ nếu có một người mà tu như Thầy để làm một bằng chứng thì cái hình ảnh của Đức Phật Thích Ca không phải là cái hình ảnh như chúng ta thấy bây giờ đâu. Nói cho quý thầy biết: Không phải đâu!

Nghĩa là chúng ta dẫn tâm chúng ta trở về quá khứ, chúng ta sẽ thấy được cái mặt Đức Phật Thích Ca thật sự. Mà có một người mà tu được như Thầy, thì đó là một cái sự ấn chứng với nhau để nói rằng chúng ta thấy đúng. Còn bây giờ có một mình Thầy, Thầy nói ra người ta (bảo) nói láo, cho nên Thầy đâu có nói cái chuyện mà mơ hồ đó được!

Cho nên nếu mà có mười người hay trăm người mà tu được như Thầy thì đó là cái bằng chứng cụ thể nhất, là tất cả những hình ảnh của Đức Phật Thích Ca bây giờ dẹp bỏ hết, chúng ta không xài cái đó đâu.

Thầy nói thật sự với quý thầy. Bởi vì con đường tu hành nó không phải là nó còn cái thời gian quá khứ lâu xưa đâu. 2540 nay đâu phải là xa lắc, xa lơ gì, cái hình ảnh của Đức Phật Thích Ca nó vẫn còn ở trong cái quá khứ đó chớ đâu mất.

(01:19:40) Chúng ta trở về đó là cái hình ảnh Đức Phật như thế nào thì nó y như vậy, chớ không phải cái mặt y như búp bê vậy đâu! Nói thật đó! Cho nên phải có một người mà tu tập được như Thầy thì chúng ta sẽ có một người ấn chứng với chúng ta, tin tưởng. Hai người, mười người, một trăm người là càng làm cho người ta tin, thì tất cả những cái bộ mặt tượng đồng, cốt này chúng ta dẹp hết. Thầy nói thật!

Còn nếu bây giờ chúng ta dẹp, chúng ta nói ai tin? Người ta chỉ nói mình nói huyễn hoặc, nó không có cái bằng chứng cụ thể.

Cho nên Thầy mong rằng quý thầy nỗ lực tu hành đúng những cái lời mà Thầy dạy, các thầy sẽ đạt được, không có lâu đâu. Thầy một mình trong thất mười năm mà Thầy rèn luyện một mình không có người hướng dẫn mà Thầy còn làm được, còn các thầy làm sao làm không được, có Thầy hướng dẫn!

Chỉ có chuyên cần siêng năng, giữ gìn giới hạnh cho đúng, xa lìa những cái tâm dục, tâm ham muốn của mình, thì phải đạt được cái đó chớ, đâu có gì mà khó?

Pháp hành chúng ta rõ ràng cụ thể chớ đâu phải chúng ta - cái pháp hành là cái pháp mà dùng để mà chúng ta tạo ra một cái lực của cái tinh thần của chúng ta rất mạnh mà, sai bảo cái gì cũng được hết, thì quý thầy đã thấy rõ là cái pháp hành, ở đây Thầy chỉ dạy quý thầy cụ thể chớ đâu phải là cái chuyện mà mơ hồ, tu hành cái kiểu ngồi đó mà lơ mơ, lơ mơ rồi cái hành đó làm sao tới đâu?

Đó là những cái mà chúng ta cần phải biết để mà chúng ta thực hành cho rốt ráo những cái pháp vi diệu như vậy. Bỏ cuộc đời để đi làm một cái gì vĩ đại chớ, bỏ cuộc đời để đi làm cái chuyện nhỏ mọn như vậy sao?

4.3- DẠY GIỚI LUẬT THÌ KHÓ, GIẢNG KINH LUẬN THIỀN THÌ DỄ

(01:21:06) Giới luật của Đại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa là thứ giới luật phát triển theo các bộ phái.

Đó Thầy gồm chung cho quý thầy thấy rằng: Phát triển theo các bộ phái. Nghĩa là lúc bấy giờ nó chia ra làm hai mươi bộ phái, thì nó phát triển cái giới luật đó - nó phát triển theo bộ phái chớ làm sao mà còn cái nguyên chất của nó được?

Cho nên thêm bớt lung tung, đọc giới kinh Nguyên Thủy chúng ta thấy điều này rất rõ ràng.

Cho nên không thể nào lấy giới luật khô khan, cằn cỗi như thế này mà áp dụng vào đời sống tu hành của tu sĩ có kết quả được.

Nghĩa là lấy giới bổn mà bây giờ áp dụng cho nó làm thầy của mình thì làm sao mà chúng ta giải thoát được?

Tuy nhiên, nó chỉ nhắc nhở cho chúng ta ở phần giới hạnh mà thôi. Nghĩa là nó bổ túc cho phần giới hạnh rõ nét để người tu sĩ nhận ra oai nghi tế hạnh của mình mà tránh được mỗi hành động nhỏ nhặt, sai lầm.

Do giới bổn của các bộ phái đặt ra theo sở thích riêng tư của họ - từng bộ phái, nên người giảng dạy giới luật ít có người theo tu hành được.

Cho nên các thầy thấy về cái phần bộ môn giới luật không phát triển được, mà về bộ môn thiền định thì họ phát triển được lắm, mà về bộ môn kinh thì họ cũng phát triển được lắm, dạy học rồi này kia, học trò đồ học kinh khoái lắm, học thiền cũng khoái lắm!

Nhưng mà đụng tới giới luật mà dạy thì cái ông thầy cũng phạm giới luôn! Thành ra ổng dạy dạy chớ đâu dám mà rầy học trò. Thầy ăn ba bữa mà giờ ở trong kinh giới nói một bữa, mà thầy dám nói học trò ăn một bữa không? Đâu dám!

Nói: “Thầy dạy thầy cũng ăn ba bữa mà thầy bảo tui ăn một bữa!” Thì như vậy ông thầy đã là phạm giới rồi đâu dám dạy học trò. Mà dạy như vậy thì nó có giống không? Tri hành có hợp nhất không?

Như vậy làm sao phát triển được giới luật! Cho nên giới luật mới chết lìm, chết lịm, chết lịm dần dần. Chỉ nhắc, chỉ dạy cho có chừng vậy thôi, ở trong các trường hạ hoặc là trong các trường lớp chỉ dạy cho có chừng, cho có giới luật vậy thôi chớ đâu có dám nói giới luật!

Nói ra nó lôi ra, học trò nó lôi ra nó hỏi ông thầy (có) ăn một bữa đâu? Chết mồ ông thầy luôn! Đó là cái sống hàng ngày nó chỉ cho ông thầy, ông thầy cũng hoảng sợ luôn nữa.

(01:23:16) Tại sao?

1. Vì giới bổn Patimokkha khô cằn cỗi, gò bó, trói buộc, câu thúc, không thoải mái, khó chịu.

Nó - giới bổn nó thành ra cái pháp luật rồi, cho nên nó trói buộc cái người tu dữ lắm.

2. Người dạy giới luật phải trì giới nghiêm chỉnh, không vi phạm một lỗi nhỏ. Đằng này người dạy giới luật mà vi phạm giới luật, làm sao người ta theo mình tu được? Tức là người dạy giới luật tri hành không hợp nhất.

Vì giới luật Patimokkha khô cằn nên người dạy giới luật không trì giới nổi.

Nghĩa là chính cái người dạy giới luật - giới bổn đó đó, giới bổn Patimokkha đó, họ cũng không giữ nổi nữa, thì họ làm sao họ dạy giới luật mà phát triển được?

Mà giới luật vi phạm thì ai ai cũng nhận thấy rõ.

Nghĩa là giới luật mà chúng ta vi phạm thì người nào cũng thấy rõ. Như bây giờ nói: “Tui giữ gìn giới luật” mà thấy sáng ông uống cà phê rồi thì tức là ông có giữ không? Thì như vậy là ông đã sai rồi, thì đâu có ông giấu đâu được!

Còn cái gì có thể giấu, Thiền Tông thì có thể giấu, chỉ ráng ngồi cho được hai, ba tiếng đồng hồ, nói: “Trời! Tui nhập định ở trong đó hai, ba tiếng đồng hồ!” Nhưng mà có nhập được gì đâu?

Chỉ ngồi cho có tụ đó thôi, chớ trong đó tâm nó lung tung cũng như là nó nhảy múa ở trong đó, cũng như cái rạp hát vậy đó. Lúc thì nó ngủ, nó buồn ngủ, nó ngủ gục ở trỏng, lúc nó hứng rồi bắt đầu nó nhảy múa lung tung cũng như đào kép ở trỏng, thì có cái gì mà khác lạ!

Cho nên ráng ngồi được là cũng là cái hình thức để cho người ta nói: “À, ông này ngồi được hai giờ còn mình mới ngồi ba mươi phút, mình thua ổng, cho nên ổng chắc có cái gì trỏng rồi!” Chứ thật ra đâu có cái gì ở trỏng! Đều là đồ điên khùng ở trỏng chớ cái gì!

Mà giới luật vi phạm thì ai ai cũng nhận thấy, nên người dạy giới luật không hứng thú bằng giảng kinh, luận thiền.

Phải không? Cho nên cái người mà dạy giới luật riết rồi họ hết dám à, mà chỉ có cái người dạy kinh, dạy luận, dạy thiền thì khoái lắm, dạy chúng mê lắm, cho nên phát triển dễ lắm.

Vì thế pháp sư học giáo lý, giảng kinh có thể lên tòa thuyết pháp dễ dàng.

Nghĩa là mình hút thuốc chớ mình lên mình giảng kinh được, không sao, phải không? Còn cái người mà dạy giới mà lên cầm điếu thuốc hút thì nguy hiểm, hay hoặc là để cái lon bia để uống giải lao đó thì chắc chắn là không được rồi! Cho nên cái ông đó lên tòa không được. Còn cái ông sư mà dạy kinh thì ổng lên tòa được, thuyết pháp rất là dễ dàng.

Có thể thâu đồ chúng nhiều, có thể được cả danh, lẫn lợi nữa.

Nghĩa là lúc bấy giờ mình giảng hay là người ta tập trung chớ gì? “Ông đó nói hay quá trời! Nói thiệt đúng lý, nói mình không có cãi được cái chỗ nào! Ví dụ cụ thể nữa, thực tế, sát thực ở trong cái đời sống của mình nữa, hay quá! Ông giảng sư này tuyệt vời!”

Cho đến như vậy là đồ chúng cũng đông nè, người ta nghe hay thì người ta theo ông thầy chớ gì, do đó thì danh có, lợi có, khoái quá chừng mà còn gì nữa!

(01:26:10) Thì như vậy giới luật nó bắt buộc danh lợi phải tém ra hết, cho nên ông thầy ở trong cái chòi tranh. Còn cái ông thầy dạy kinh này, trời ơi, càng ngày cái nhà ổng, cái chùa ổng càng sang lên, khoái quá! Cho nên đi làm pháp sư mà thì khỏe quá, mà đi làm giới sư thì thấy khổ quá, cho nên ai muốn làm luật sư đâu, phải không?

Cho nên thiền sư cũng vậy…​

Thiền sư thì cũng ngon lắm chớ không có thua gì cái ông pháp sư đâu.

Thiền sư cũng vậy. Thiền sư có thể lên tòa thuyết pháp thiền, thu hút nhiều đệ tử và cả danh lẫn lợi nữa, nhưng rất dễ dàng.

Nghĩa là dùng cái pháp thiền mình nói ra, thì tự tại vô ngại mà, cả thậm chí như tranh Thập Mục Ngưu Đồ mà xách cá, xách rượu đi mà còn không phạm mà, phải không? Ăn thịt, uống rượu đâu có phạm tội đâu?

Cho nên thiền sư dễ dàng lắm, bao nhiêu tổ sư thiền của mình đã chứng minh điều đó, giải thoát hoàn toàn, đâu có bị ràng buộc! Giới người ta giới thể còn mấy ông là giới tướng mà, cho nên đâu có bằng tụi tui! Phải không?

Do chỗ đó đó, cho nên cái ông thiền sư thì thu đồ chúng dễ dàng lắm, miễn là ông nói sao mà có lý mà hợp lý, và dạy người ta ngồi được ba bốn tiếng đồng hồ hay bảy tám tiếng đồng hồ thì chắc ăn nhất!

Nghĩa là, cái người mới vô ngồi ba mươi phút là đau muốn chết rồi, còn cái ông này ngồi tám tiếng đồng hồ, mười hai tiếng đồng hồ không đau, tập luyện cho được vậy là mình làm cái tướng như vậy là cũng hấp dẫn người ta rồi.

Cho nên khoái, người nào cũng ráng mà ngồi cho bảy, tám tiếng đồng hồ cho ngon, nhưng mà trong đó cái tâm mình như thế nào? Như đống rác!

Còn tu chứng hay không, dường như các vị giảng kinh, thuyết thiền gần như không có trách nhiệm với các đệ tử của mình, chỉ đổ thừa căn cơ thấp kém nên tu lâu. Và người đệ tử có chợt ngộ một trạng thái nào do cái tưởng dục lưu xuất thì vội vàng ấn chứng cho người đó là ngộ Phật Tánh, nếu vị đó còn tham, sân, si thì bảo là còn tạp khí.

Nghĩa là: “Tui ngộ Phật Tánh sao giờ tui còn giận quá vậy?” Thì ông thiền sư biết làm sao? Trả lời: “Tại còn tạp khí!”

Bồ Tát còn tạp khí mà, mình mới chúng sanh mà, cho nên giờ còn giận hờn là còn tạp khí chớ sao! Đó là cái đổ thừa, để tránh né qua cái chỗ mình ấn chứng nó không đúng, chớ không phải là gì hết.

Chứ còn một người tu rồi thì người ta đâu có còn tham, sân, si nữa. Bởi vì ly dục ly bất thiện pháp mà, mà có Sơ Thiền của người ta thôi, thì đây là mới có cái giới đức của người ta mà người ta đã được ở chỗ đó rồi. Còn mình đi tới quá xa rồi, ngồi quá nhiều rồi, mà thế mà vẫn còn tham, sân, si, mà thấy được Phật Tánh.

…​ Phật Tánh, nếu vị đó còn tham, sân, si thì bảo là còn tạp khí.

Hầu hết các vị tu theo kinh giáo và thiền thời nay không có kinh nghiệm của bậc chân tu nên hỏi ra vị nào cũng còn tham, sân, si như thế tục, tuy cường độ có giảm nhẹ hơn một chút, thậm chí như các bậc thầy, giảng sư, thiền sư vẫn còn tạp khí nên che đậy bằng lối “Bồ Tát còn tạp khí."

Đúng ra là họ tu chưa đúng pháp môn của Phật, chỉ tưởng tượng theo chữ nghĩa, theo các tổ đi trước, người trước sai, người sau kế tục cũng thành sai và tiếp tục sai mãi, từ đó Phật giáo có người tu mà mất gốc, không còn ai tu chứng nữa./.

HẾT BĂNG

24 - NHỮNG TRỞ NGẠI KHI PHỔ BIẾN GIỚI LUẬT

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 24 - NHỮNG TRỞ NGẠI KHI PHỔ BIẾN GIỚI LUẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- KINH SƯ VÀ THIỀN SƯ DỄ DÀNG KINH DOANH PHẬT PHÁP

(00:00) Phải biết thời này dạy giới bổn Patimokkha không thích hợp với trào lưu hiện tại. Vì thế giới sử kiến văn…​

Phải biết thời nay dạy giới bổn Patimokkha không thích hợp với trào lưu hiện tại.

Vì cái giai đoạn của Phật giáo hiện giờ nó không có hợp, vì mọi người, người ta đua theo cái đà dục vọng đó thì mình dạy giới luật không có phù hợp đâu. Cho nên ở đây đem giới luật ra mà dạy thì nó không thích hợp ở trong cái thời đại của chúng ta.

Thiền sư và kinh sư dễ kinh doanh làm ăn hơn, giới sư khó kinh doanh nên các vị đều lặn mất, chỉ dạy lấy có mà thôi.

Kinh sách thuộc về giới cũng ít người thèm đọc nên bán ế ẩm, còn kinh sách thiền và kinh thì bán chạy như tôm tươi, hễ tưởng giải ra một loại thiền nào hợp lý một chút là dễ bán. Cho nên có những thiền sư lại giả dựa vào khoa học khuyếch đại Thiền Tông để gạt người, kinh doanh lợi dưỡng cho mình.

Nghĩa là người ta lấy cái sách thiền đó, người ta thấy bây giờ trong Phật giáo dạy thiền như vậy, bắt đầu họ nghiên cứu qua cái sách khoa học đi, rồi họ dựa vào đó cái họ dạy thiền như là khoa học vậy đó để cho người ta thấy nó có gì mới mẻ hơn chút, cho nên họ tu với nhau, họ mua sách thiền của ông này dữ tợn. Từ đó cái danh ông cũng có, rồi cái lợi thì ông này cũng thu cũng nhiều.

Đó là cái sự kinh doanh của các cái vị thiền sư mà chưa có tu chứng. Đó là những cái việc làm của họ là cái việc làm như vậy đó.

Nhưng mà chính bản thân của họ, họ cũng chưa biết cái điều đó nữa, họ chỉ nghĩ rằng mình nghĩ vậy là đúng, để đem ra, để phổ biến cho người ta tu. Mà chính bản thân họ thì chưa có giải thoát được cái đó, nhưng mà họ nghĩ rằng có thể giải thoát được, mình tu rồi dẫn người khác tu theo cũng được, cũng tốt, thế nào rồi thầy trò cũng giải thoát với nhau hết. Nhưng mà cuối cùng thì đi xuống hố thẳm hết cả đám!

Tuy giai đoạn Phật giáo hiện tại, kinh sư và thiền sư là những tay lấy Phật pháp kinh doanh làm ăn lớn nhất. Đáng thương cho những người Phật tử u mê, nghe sao làm vậy, chẳng có trí phán đoán đúng sai phải trái của đạo nên bị lừa bịp, rất là đáng thương.

Thầy nói thì các thầy cứ suy ngẫm coi, từ hai ba chục năm, bốn năm chục năm nay người ta tu đến đâu? Có đúng bị lừa bịp không? Bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả tài sản đi vô chùa tu, đến bây giờ hai bàn tay trắng, nhìn lại cũng hai bàn tay trắng. Có làm chủ được sống chết chưa? Có giải thoát hết được tham, sân, si chưa?

Đạo Phật thì không dối người, mà người bây giờ dạy đạo thì dối người. Thì đó là những cái nguyên nhân mà hôm nay Thầy nói để cho thấy rằng giới luật của Phật là một cái điều phải nói rằng giúp cho chúng ta vượt thoát ra những cái điều mê muội mà không theo cái lời nói của người khác.

Bởi vì mình thấy cái vị thầy đó phá giới là tức là tà sư rồi, chớ không phải là cái thứ thiền sư chính cống đâu! Một ông thầy mà giữ gìn đúng giới hạnh thì tức là dễ thấy nhất chứ còn cái gì! Mà giới hạnh không đúng thì tức là ông thầy đó là cái loại gì? Có phải là tà sư không? Dẫn mình đi đến đâu? Dẫn mình đi vào tà pháp, rơi vào hố thẳm chớ làm gì?

Cho nên muốn chọn một bậc thầy, không phải đụng ông thầy nào cũng chọn đâu, mà phải chọn những cái bậc giới hạnh hẳn hòi, đàng hoàng thì đó là thầy của mình. Mà giới hạnh không hẳn hòi thì thôi thôi, từ giã đi! Mấy ông này là tà sư ngoại đạo mượn cái điều gì đó, để rồi lý luận nghe cho thông đó, rồi làm cho mình khoái cái lỗ tai, mê theo mà đâm đầu chạy thì suốt cuộc đời của mình thì chẳng qua là đi xuống địa ngục chớ không có lên thiên đường được đâu.

2- NHỮNG TRỞ NGẠI KHI PHỔ BIẾN GIỚI LUẬT

2.1- BẢN THÂN VỊ THẦY DẠY GIỚI PHẢI CHỊU ĐƯỢC KHẮC KHỔ

(03:52) Đây quý thầy nghe giới sư Thánh Nghiêm nói: “Người học giới, trì giới tuyệt đối chẳng dám lạm thu đồ chúng, bằng không tức là phạm giới".

Nghĩa là thu đồ chúng, người giới sư - mà ông Thánh Nghiêm là ổng thuộc về loại giới sư đó, ổng xác định như thế này: Người mà học giới đó, mà trì giới tuyệt đối thì chẳng dám lạm thu đệ tử, mà hễ thu đệ tử thì phạm giới.

Tại sao vậy? Ổng thì ổng cố gắng ổng giữ gìn giới hạnh ổng nghiêm túc, mà đệ tử ổng ăn lén hai ba bữa, thì ăn trái cây hay hoặc ăn đường, thử hỏi ổng có phạm không? Ổng dạy đệ tử ổng phạm giới là ổng cũng bị phạm chớ gì?

Cho nên ổng đâu có dám thu đệ tử, thu đệ tử đông nó phạm tùm lum hết. Bảo nó đừng nói chuyện nó nói chuyện thì ông thầy ổng cũng bị tội chớ đâu phải không!

Đó các thầy nghĩ, bây giờ Thầy tu ở đây là mười mấy vị này, mà bảo đừng nói chuyện, độc cư, mà mấy ông cứ nói chuyện độc cư, nói chuyện thế tục, nói chuyện nhà chuyện cửa không thì Thầy cũng phạm tội trong đó chớ. Bởi vì cái giới tràng ở đây nó phải thanh tịnh, nó nghiêm tịnh ở trong thầm lặng chớ, sao lại có chuyện động vậy?

Người này đi qua thất người kia, người kia đi qua thất người nọ thì nó làm động vậy là Thầy đã phạm giới rồi! Phật đã dạy trong giới bổn mà: Phải thầm lặng, phải sống cô đơn, đó là những cái giới của người ta rõ ràng chớ đâu phải là cái chuyện mà nói đó là cái pháp.

Đó thì quý thầy thấy một cái người mà làm giới sư mà nhận đệ tử, mà đệ tử làm sai là ông thầy đó phải có lỗi rồi, mà có lỗi thì phải đọa địa ngục thôi chớ làm sao không? Cho nên Thầy còn dám nhận không? Ẩn bóng không! Phải không? Đã thấy, nhận mà mình đã cứ phạm lỗi hoài để mà dạy đệ tử không nghe thì tức là mình chịu cái lỗi đó chớ ai chịu! Cho nên do đó thì Thầy ẩn bóng là phải chớ.

Nếu mà không ẩn bóng, ngồi đây, thì sau khi cái giáo án này ra thì ai nghe cũng hay hết: “Trời ơi, giới luật tuyệt vời! Tu có thần thông như vậy, tu có gì cũng hay hết!”, do đó tập trung về đây mà tu, thì cả trăm, hai ba trăm người thì thử hỏi, cả trăm, hai ba trăm người phạm giới.

Hồi đó, bây giờ Thầy có mười mấy người phạm giới thôi nó còn nhẹ, mà giờ cả trăm, hai ba trăm người thì Thầy xuống địa ngục sớm chớ gì? Phải không? Các thầy thấy cái điều đó. Cho nên Thầy đâu dám, người mà biết giữ giới rồi rất là sợ.

Đó thì Thánh Nghiêm đã nói như vậy.

Do đó nếu muốn lập chí hoằng giới, trước tiên cần phải chuẩn bị chịu cam khổ. Bản thân là một người hoằng giới, sinh hoạt của người ấy chắc chắn phải là một vị Tỳ Kheo khắc khổ. Vật dụng nuôi thân chẳng dám quá tốt, bằng không sẽ thành phạm giới.

Nuôi thân cũng chẳng phải dám ăn cái gì ngon ngọt hết. Cho nên nó đâu có dám tầm bậy, tầm bạ được, cho nên nó quá khắc khổ rồi: “Bằng không thì sẽ phạm giới.”

Còn mấy ông thiền sư, kinh sư, các thầy thấy nghĩ sao? Ăn uống lúc nào cũng được, bánh trái lia lịa, cho nên ông nào ông nấy mập phì ra hết, có ông nào ốm đâu, phải không? Còn mấy ông giới sư: Trời đất ơi! Cái mình còn có bằng cái xương, cũng như con khỉ. Cái đít ổng ngồi mà lật lên, nó chai hai cục. Bởi vì có thịt ở đâu mà không chai!

2.2- PHẬT GIÁO HIỆN NAY KHÔNG CÒN QUÝ CHUỘNG GIỚI LUẬT

(06:43) Phật giáo hiện giờ ở Việt Nam vốn đã đánh mất một cái tập quán quý chuộng giới luật.

Nghĩa là bây giờ nói chung là Phật giáo Việt Nam của mình là không có quý chuộng giới luật đâu. Cho nên hầu hết là quý thầy cũng như cư sĩ cũng đều là không có quý chuộng cái giới luật đâu. Cho nên Thầy nói đây là cái sự thật: Phật giáo hiện giờ ở Việt Nam vốn đã đánh mất cái tập quán quý chuộng giới luật.

Họ bây giờ quý chuộng thiền à, quý chuộng học cho đỗ bằng cử nhân Phật học hay tiến sĩ Phật học, đó là cái quý chuộng của họ đó. Chớ còn cái mà quý chuộng về giới luật thì chẳng có ông thầy nào mà muốn học giới luật hết.

Vì thế chúng ta đề xướng hoằng dương giới luật đâu phải gặp những hoàn cảnh chẳng quý chuộng giới luật của giáo hội cũng như của các tu sĩ trong toàn nước.

Nghĩa là khi mà chúng ta hoằng dương giới luật thì điều mà chúng ta gặp khó khăn nhất trong mọi hoàn cảnh chống đối của quý vị, mà ngay của giáo hội nữa, chớ chưa nói gì khác nữa. Mặc dù là họ không nói được, nhưng mà họ cũng tìm cách ngầm để mà phá cái người mà hoằng dương cái giới luật đó đi.

Để làm sao? Để cho họ nó được tự tại một chút, nó không có sợ hãi. Chớ còn nếu cái giới luật mà nó hoằng dương được hưng thịnh thì mấy ông đó phải đi vào trong cái khuôn khổ hết, mặc dù đó là những ông giáo hội, chớ không phải là ngoài ra nữa.

Bởi vì giáo hội cũng đều là tu sĩ của Phật giáo cho nên phải thực hiện từ ông lớn đến ông nhỏ, từ Hòa thượng - mà mấy ông già đó bây giờ thì mấy ổng ăn ba bữa ổng quen rồi mà bắt đầu bây giờ bắt ổng ăn một bữa, mà ổng già kiểu đó chắc là ổng chắc chết luôn chớ đâu có sống nổi! Cho nên làm sao mà ổng không tìm cách ổng phá đi!

Đó thì quý thầy thấy do cái chỗ đó mà cái người hoằng dương cái giới luật rất là khó.

Nhưng mà Thầy nghĩ rằng, đối với Thầy, Thầy hoằng dương là không khó, tại vì Thầy có cái giới hành của nó theo, cho nên một cái giới mà Thầy dạy cho cái người nào đó thì cái người đó phải áp dụng cái giới hành theo, cho nên khi mà cái giới của họ bắt đầu vào thì họ sẽ có một sự mát lạnh ở trong cái sự an ổn tinh thần của họ.

Cho nên họ thấy mỗi cái giới là mỗi cái sung sướng của họ, chớ không phải là mỗi cái giới là trói buộc họ làm cho họ khô cằn, khô cỗi trong cái cuộc sống chết chóc, trong cái cuộc sống họ bất hạnh phúc đó đâu.

Cho nên Thầy không ngán chỗ đó đâu, vì vậy mà Thầy luôn luôn ca tụng giới luật, ca tụng cái đức giới của Phật.

(09:16) Đó là một sự trở ngại lớn nhất cho sự hoằng dương giới luật. Vì mọi tu sĩ đang sợ người đem lý do của giới luật ra để câu thúc hoặc phê bình, đả kích họ, cho nên nghe giới luật là họ đã không an tâm.

Đại sư Hoằng Nhất dạy luật, ngài nói: Rất nhiều nơi chẳng hoan nghênh ngài, thậm chí thấy ngài ăn mặc là một giới sư thiểu dục tri túc thì người ta coi ngài như là một quái vật.

Bây giờ mấy ông kinh sư, mấy ông thiền sư thì mặc đồ lòe loẹt, vải đồ thì tốt đẹp, còn cái ông giới sư thì mặc đồ vá, rách rưới lang thang. Trời họ thấy cái ông giới sư thì họ coi như là con quái vật giữa các ông đó rồi!

Cái kia người ta bệ vệ như một ông quan, còn cái này đi coi lom khọm như con khỉ, thì như vậy là con quái vật chớ gì? Các con thấy, các thầy thấy chưa?

Đó, cho nên ông Hoằng Nhất ổng nói ổng là cái người mà hoằng dương cái giới luật đó, mà ổng đi ra ngoài người ta xem ổng là con quái vật. Đúng không?

Bởi vì giới sư thì phải thiểu dục tri túc rồi, thế mà thiểu dục tri túc có bình bát với ba y rồi, mà đi lỡ đường rồi mà không giặt được, trời đi đến ông giới sư này sao mà hôi rình! Còn đến cái ông thiền sư với cái ông kinh sư, trời ơi nó thơm tho mà có dầu thơm nữa chớ, giặt quần áo bằng xà bông thơm! Phải không?

Còn cái ông giới sư này ổng đâu dám làm điều đó. Cho nên đi mà một ngày đi như vậy đâu có nghỉ, mà có một bộ đồ làm sao thay! Đi thì phải y trung, y hạ trong phải mặc đầy đủ, y ngoài thì y lớn, y thượng thì phải choàng đặng oai nghi tế hạnh của mình. Thế rồi đi tới chiều tối chưa có nước nôi, chỗ nào đó mà lại gần nhà ai thử coi, cái mình ổng nó hôi cũng như là cái đống rác chớ còn cái gì nữa!

Cho nên tới đâu ai cũng bịt mũi hết: “Trời! Con quái vật đó đến nhà tui!” - chớ đâu phải! Cho nên giới sư quá khổ. Vì thế mà giữ gìn giới hạnh của Phật không phải đơn giản.

Cho nên chính cái kinh nghiệm của Hoàng Nhất - người mà dạy giới luật này, ông hoằng dương giới luật ông nói, đến đâu thì người ta không có hoan nghênh mình chút nào hết, nói sao khô khan quá không ai nghe nó hay ho gì hết. Còn mấy ông kinh sư với thiền sư nói người ta hoan nghênh, người ta tập trung người ta nghe.

Cho nên ông nói, ở trong kinh giới thuật lại, ông đi hoằng dương cái giới luật, có nhiều chỗ người ta đến có hai ba người à, thậm chí như người ta nghe nói giới luật người ta chưa có biết, nghe ổng đến giảng thì bắt đầu người ta tập trung được hai ba chục người, nghe một hơi dòm lại còn có một ông ngồi đó mà ngủ gục! Chớ phải thức được đâu! Ngồi mà ngủ, còn mấy ông kia đi hết rồi!

Thầy nghe Thầy nói thiệt nó chán thiệt! Trời! Cứ đem ba cái kinh bổn mà dạy người ta. Rồi mình giữ cái hạnh thì đi ra ngoài họ coi mình như con quái vật. Bởi vì hạnh của giới luật, của giới sư tri túc thiểu dục thì giống như con quái vật rồi chớ không còn gì nữa khác.

(12:13) Thật sự mình suy ngẫm lại, đúng, ông Hoằng Nhất ổng nói rất đúng. Chúng ta phải thấy cái điều đó là cái điều thực của ông, ông nhắc lại, qua kinh nghiệm mà đi hoằng giới.

Ngược lại, cho thầy Tỳ Kheo sinh hoạt đúng hạnh, Tỳ Kheo là quái vật…​

Nghĩa là mình sinh hoạt đúng cái hạnh giới luật thì nó là quái vật.

…​ chẳng phải là kỳ quái sao?

Nghĩa là nhìn thấy nó rất là kỳ quái. Đúng là kỳ quái, không có…​ Người ta ai cũng là mặc đồ bệ vệ coi nó sang cả, Phật tử thì rần rộ hầu hạ, còn đằng này đi lổm tổm, lổm tổm không ai hầu hạ hết, mà leo teo, ốm nhom, ốm nhách như con khỉ.

Ăn uống như vậy làm sao mập được như người ta! Ngày một bữa mà ăn không dám ngon nữa, ăn không có dám mà ăn ngon, ai cho sữa cho bơ không dám uống, uống nó không có đúng cái hạnh. Cho nên đâu có dám lợi dưỡng? Vì vậy mà ốm nhom, ốm nhách. Còn mấy ông thiền sư, kinh sư uống đã thôi, uống cũng không hết thôi, nhiều khi có đổ nữa!

Thì đó là những cái mà chúng ta thấy nó giữa hai cái này ai chọn cái nào? Đời phải chọn cái sướng hơn chớ ai chọn cái khổ! Mà chọn cái khổ mà theo kiểu ông Hoằng Nhất này thì chắc chắn là ai dám chọn? Đó.

Nhưng dù nói thế nào, trong hoàn cảnh Phật giáo hiện giờ của đất nước thì giới luật là một chướng ngại cho cuộc sống sinh hoạt trong các chùa bây giờ.

Bây giờ các thầy nghĩ coi có phải không, giới luật là một cái sự chướng ngại rất lớn cho sinh hoạt trong các chùa. Họ làm những cái chuyện không có đúng cách hết rồi, làm sao mà giới luật đưa ra một cái là kể như chùa họ phải dẹp rồi!

Từ cái chùa to đó họ thành ra cái chỗ cổ tràng diện để cho người ta đến xem chơi chớ ổng ở trong đó đâu có được! Bởi vì ông thầy giới luật thì không có ở chỗ nơi sang cả, ở trong chòi tranh, vách lá nó mới đúng cái hạnh của người tu giới luật chớ! Còn ông thầy gì mà ở cái phòng sao mà tường cao, cửa rộng, cửa kiếng đồ đầy đủ, rồi máy điều hòa không khí còn đầy trong đó thì tức là còn cái gì nữa mà giới luật?

Đó thì quý thầy thấy cái vấn đề đó là cái vấn đề mà bây giờ nó là cái chướng ngại cho cái sự sinh hoạt mà chúng ta đem giới luật ra dạy trong các chùa bây giờ. Khó lắm không phải.

Chùa nào bây giờ cũng vậy hết, không có thấy chùa nào mà có giới luật, thì giờ đem ra dạy ai chấp nhận? Mà người ta tập thể đông, người ta đập nhẹp mình xuống liền ngay tức khắc, đi đường không biết chừng cho xe hơi đụng mình nữa.

Cái ông mà dạy giới luật đi bộ chớ đâu dám đi xe, cho nên xe nó ở sau nó chỉ cái xe Honda nó ủi một cái là ông thầy cũng tiêu mạng rồi. Để ổng nói láp dáp để mình ở trong chùa không có yên!

Đó thì các thầy thấy, cái vấn đề đó là tai nạn lưu thông, có ông thầy nào mà chịu tội? Thằng mà nó lái xe nó lỡ đụng đó thì nó ở tù ba bốn tháng thôi chớ. “Tui đâu phải tui quyết tui giết ổng đâu!”

Đó các con thấy cái chuyện đó là đi làm giới sư có sướng không? Khổ sở, mà lại sống cái hạnh thiểu dục tri túc nữa, trời ơi! Phật đâu không thấy mà thấy toàn là thứ khổ không, thì như vậy là có ham không? Đâu có ham.

2.3- VIỆC HỌC TẬP VÀ PHỔ BIẾN GIỚI LUẬT BỊ HẠN CHẾ, CẢN TRỞ

(15:06) Giới kinh và giới bổn là những bản kinh được in ấn hẳn hòi thì sự hoằng dương giới luật mọi người không thể phản đối được.

Nghĩa là giới kinh và giới bổn bây giờ nó có hẳn hòi rồi đó, thì mình đem ra giảng thì không ai phản đối được hết, nhưng mà họ lén họ ủi mình đằng sau đó, chớ đâu phải mà chuyện thường được.

Cho nên đem giới ra thì nói là ông thầy nào cũng câm miệng hết à, ngồi đó mà ngậm miệng chớ còn không dám nói gì hết, nhưng mà ở sau lưng nó lén đâm à, chớ không phải là chuyện đùa được.

Chẳng lấy lý do chỗ nào phỉ báng công khai được…​

Nghĩa là đem giới luật ra thì họ không có vạch cái chỗ nào mà họ công khai phỉ báng mình được hết.

…​ mà cũng không thể nào thủ tiêu được giới luật đó.

Bấy giờ nó nhan nhản là nó có kinh sách hẳn hòi rồi, đâu có thủ tiêu được. Hồi đó thì cái bộ luật đầu tiên ra thì nó chia làm hai mươi bộ phái thì người ta đồng ý với nhau. Bởi vì nó chia ra rồi, nó chia ra rồi thì mỗi người có một bộ luật riêng rồi thì bắt đầu mình thủ tiêu cái bộ chánh này đi, để cho cái bộ của mình nó chân chánh hơn chớ còn mình để nó ở đây rồi, nó làm cái gốc rồi những cái bộ luật của mình nó đâu có được.

Cho nên mấy ổng đồng ý với nhau. Bởi vì chia làm hai mươi lăm bộ phái, Thượng Tọa Bộ rồi Đại Chúng Bộ, nó chia ra làm hai mươi lăm bộ phái rồi bắt đầu mấy cái ông thầy lớn đồng ý đốt sạch cái bộ của ông Ca Diếp đi cho rồi, để cái thứ này nó mất công mình, sau này mình có lý luận mình nói rằng: “Tại hồi đó mấy ổng không viết chữ”.

Đó, có vậy thôi. Đó là quá rõ ràng rồi! Cho nên nó rất dễ dàng, vì vậy mà mấy ổng thủ tiêu đi, mới đặt ra hai chục bộ luật của mấy ổng, sau này thì người ta kết tập lại còn sáu bộ. Người ta coi những điểm dị, đồng và những cái điểm mà nó khác biệt rồi người ta kết tập lại cho nên nó còn sáu bộ mà thôi. Do đó bây giờ chúng ta cũng thấy khổ sở trong cái sáu bộ luật này dữ lắm chớ không phải dễ.

Họ cũng không thủ tiêu được giới luật của chúng ta được…​

Nghĩa là giới luật bây giờ nó thành văn, rồi kinh bây giờ nó cũng có kinh giới nó thành ra văn bản rồi, họ không thủ tiêu được những cái bản kinh, bản giới này được nữa.

…​ mà chỉ còn có cách là ngăn chặn không cho người khác tự do hợp tác.

Nghĩa là bây giờ ông dạy giới luật - không cho học trò mình học theo ông đó đâu: “Mày vô học tao từ mày!” Phải không? Không có cho học trò theo. Cho nên không có cho người hợp tác, mà cũng không có cho giúp đỡ nữa, đừng có cho Phật tử cúng dường ổng, riết ổng tiêu luôn cái thì ổng cũng không làm sao hoằng giới được.

Đó là những cái cách ngăn chặn, mà ngăn chặn bằng cách đó, chớ không phải là đem giới luật mà chỉ trích: “Ông nói giới luật vậy là sai, là này kia”, không, không dám nói đâu. Bởi vì giới luật mà đâu có gì sai được, cho nên không có dám nói điều đó được, không có phê phán, không chỉ trích được.

(17:39) Cũng như Thiền Tông thì người ta lấy thiền này, thiền kia người so sánh, người ta chỉ trích, còn giới luật thì không có lấy chỗ nào mà chỉ trích được hết. Cho nên không có chỉ trích rằng ông đó dạy sai, dạy đúng được, mà chỉ còn cách là mình không có cho người hợp tác với ông ta thôi để ông phát triển không được.

Cái thứ hai là mình bưng bít đi, mọi sách của ông ra mà phổ biến ra thì mình bưng bít, mình đừng có cho nó phổ biến rộng, thì tức là nó không có rộng rãi ra thì người ta cũng không hiểu giới luật.

Cho nên cái khéo léo là nói cư sĩ không được đọc giới luật, đọc giới luật là đọa địa ngục. Cho nên giới cư sĩ mà vô hàng sách mà gặp thấy cuốn luật không dám mua. Phải không? Các thầy thấy rõ mà.

Bởi vì vô chùa mấy ông thầy đã dạy rồi: “Mấy ông cư sĩ không có được đọc giới luật nghen, đọc giới luật thì mất gốc không có tu hành được đâu!” Cho nên mấy ông đó sợ, thấy giới luật thì không dám mua. Chớ mấy ổng cũng muốn đọc lắm, nhưng mà không dám mua, mua sợ mình đọc bậy đi.

Cho nên có một người nói với Thầy vầy: “Con đọc cái cuốn Kinh Thủ Lăng Nghiêm, con mới thọ Sa Di à, mà con đọc Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói thọ Sa Di thì chưa có thọ giới cụ túc thì không có được đọc giới luật của Tỳ Kheo. Cho nên con được cái bộ giới luật của một cái người bạn con tặng mà con không dám đọc ở trong đó làm sao hết, sợ nó mất cái căn tu đi!”

Đó, thì đó là những cái mà người ta làm cho nó bị hạn chế đi, nó làm cho không được phổ biến cái giới luật ra, các con hiểu điều đó.

Cho nên cư sĩ mấy con mà còn mặc chiếc áo cư sĩ đến cái hàng sách thì cứ lựa sách thiền với kinh mà mua thôi, còn cái giới luật thôi không dám rớ, rớ tới nó để đọa địa ngục chết! Mình đọc nó rồi đây bắt đầu đó, cái tâm của mình giữ không tròn đây coi chừng mình rớt địa ngục!

Đó thì, do cái chỗ đó là cái chỗ cái mánh khóe của các cái bậc đi trước, sợ người ta biết giới luật để chỉ vạch cái mặt của mình ra, đó cho nên mới có cái lối cấm đoán như vậy.

Thì trong cái kinh Bồ Tát Giới đó, các thầy nào mà có thọ Bồ Tát Giới rồi thì biết, nó cấm dữ lắm đó chớ đâu phải chuyện thường! Đó là cái giới của Bồ Tát Giới mà. Các vị là Bồ Tát thì các vị chỉ biết cúng dường bố thí thôi, chớ mà các vị rớ tới giới luật là các vị bị đọa địa ngục!

2.4- GIỚI LUẬT THIẾU PHÁP HÀNH NÊN BỊ CHẾT CỨNG

(19:43) Nếu một người biết giảng về giới luật thì sự linh động của giới luật càng tuyệt diệu, khiến cho mỗi thời đại và mỗi xã hội đều thích nghi, và người tu theo giới luật đạt được kết quả sở nguyện thiết thực, hiện tại.

Còn ngược lại đem giới luật, đem giới bổn mà dạy theo kiểu văn điều, giới luật khô cằn, chết cứng mà áp dụng vào sự diễn biến linh động của mỗi thời đại và mỗi xã hội sống động đang tiến lên thì không thích nghi. Cho nên giới luật - giới bổn phải bị chết non không thể phát triển được.

Nghĩa là bây giờ mà đem giới bổn ra mà dạy cho cái thời đại của chúng ta thì nó không phù hợp đâu, nó không linh động đâu, nhưng mà đem giới kinh mà dạy thì rất phù hợp.

Bởi vì giới kinh nó có giới hành cho nên nó rất phù hợp, người ta thích thú, mỗi một cái giới mà người ta được học rồi, người ta áp dụng vô người ta thấy giải thoát, người ta khoái vô cùng lận. “Trời ơi! Mình ăn ngày một bữa, bây giờ mình giải thoát được hai bữa mình thấy khoái quá, sáng, trưa, chiều không lo gì nữa hết!”

Mà trong khi mới học được cái giới ăn một bữa thì người nào cũng khổ sở hết, nhưng mà vì nó không có pháp hành, cho nên do đó mà cái người đó khổ sở hoài.

Còn chúng ta ăn một bữa chúng ta có pháp hành, cho nên chúng ta dùng pháp hướng nè, dùng pháp tùy nè, dùng cái pháp quán nè, từ đó chúng ta mới thấu đạt.

Miếng ăn thì bất tịnh có gì mà ham, bỏ vô cổ nó ngọt rồi cái nó mất đi, nó đâu có gì, ói ra thì không ai thèm hết, mùi hôi chua chát. Rồi một ngày đêm thì tống nó ra thì nó hôi thúi không có chỗ nào mà chê!

Thì do đó mình dùng pháp quán mình đã thấy nó rõ rồi, cho nên mình chán nó, phải không? Vì vậy mà bây giờ mà mình dùng pháp hướng mình đoạn dứt nó, cho nên những cái đó mình nhắc nhở mình dứt đoạn nó đi.

(21:36) Thì mình dứt đoạn nó thì tức là nó không còn thèm ăn nữa, thì trong vòng tuần lễ thì mình thấy đồ ăn mình ghê gớm quá, thôi cái gì ăn được nhét cho nó no bụng mình thôi chớ còn không ham ăn nữa, từ đó mình ăn một bữa mình thấy khỏe re!

Như vậy là rõ ràng cái người dạy giới bổn thì nó khô cằn, cho nên cả tháng trời mà cái người mà giữ giới ăn một bữa, trời, họ còn khổ! Còn Thầy dạy có tuần lễ thì quý thầy thấy an, nhưng mà ngay khi mà nghe nó quán bất tịnh rồi thì cũng thấy hết ham ăn rồi.

Cho nên từ cái chỗ mà biết giới rồi thì chúng ta thấy ăn ngày một bữa chúng ta thấy khỏe, chiều tối nó vừa xót ruột cái bắt đầu: “Đồ ăn dơ mà ở đó mà ham!”, thì ngay đó mình nhắc nó một cái là pháp hướng mình liền chớ gì? Do đó cái bụng nó nghe nó không xót nữa, phải không? Cho nên mình biết dẹp nó được liền.

Cho nên có giới hành nó kèm theo cái giới bổn, cho nên chúng ta đạt được cái kết quả giải thoát an vui. Sau đó chúng ta thấy bây giờ giờ này mà mình không ăn cũng không đói, còn mọi lần giờ này mà không ăn - tới bây giờ các con hiểu ăn ba bữa giờ này mà không ăn thì các con hiểu sao không? Trời đất ơi! Ngồi đây mà nó muốn lả người ấy chớ, phải không?

Cho nên bây giờ mình khỏe re, trưa mình ăn chiều mình cũng không có uống bột, uống gì hết, sướng gần chết, ngồi chơi thoải mái, tâm hồn thanh thản, không lo đói, lo no, khỏi lo gì hết, mà không ăn, không gì hết, phải khỏe không? Đó là giải thoát chớ gì!

Đó nó rõ ràng mà. Đó là những cái giới mà đem đến cho chúng ta những cái pháp để làm cho chúng ta giải thoát.

Đó Thầy đem cái ví dụ để chúng ta thấy được cái chỗ mà tu giới của chúng ta là như vậy. Vì vậy gọi là giới bổn, mà là thầy của chúng ta, ông thầy dạy chúng ta là có giải thoát cho nên chúng ta: “Ông thầy này dạy ngon quá! Ổng dạy mình ăn một bữa thì bây giờ mình làm được liền, cho nên bây giờ giải thoát được liền”. Vì vậy không tin ông thầy sao còn tin ai nữa? Đó ông thầy của mình là giới mà!

Đó thì quý thầy thấy nó rõ ràng, cụ thể. Mà Thầy đem cái giới này mà Thầy dạy thì tức là người ta phải thấy có thực tại cái sự giải thoát thì người ta phải ham thôi. Chớ đâu phải như mấy ông thầy dạy giới bổn đi lộm tộm như con khỉ mà người ta lại coi như là quái vật, tức là làm sao mà thực hiện được cái đạo pháp trở lại mà trường tồn lại được!

Muốn đem những văn điều giới luật Patimokkha chết cứng đặt lên đầu của mỗi người đệ tử Phật, của mỗi thời đại một cách sống động, thật là một sự kiện khó khăn, cũng là một việc làm chẳng hợp lý.

Nghĩa là bây giờ mình đem cái giới bổn Patimokkha này, mình đặt trên đầu mọi đệ tử của Phật, mình bảo họ phải chấp hành, phải làm như vậy cho đúng, phải ăn ngày một bữa, mà mình không có cái giới hành, thì đó là một cái điều rất là khó khăn, không phải là dễ, mà cũng không hợp lý nữa.

(24:04) Giới luật của Phật đâu phải là làm cho người ta khổ! Đó cho nên Thầy thường nhắc mà, đạo Phật không làm khổ mình mà không làm khổ người, mà giờ mình đem pháp môn giới luật ra mình bắt người ta vậy, phải làm khổ không?

Cho nên cái ông Hoằng Nhất này, ổng đi - ổng là luật sư, ông đi giảng luật ổng thấy, chính nghiệm bản thân ổng thấy ổng thiểu dục tri túc, ổng thấy ổng khổ quá mà, cho nên ai dám theo ổng!

Đó là những kẻ giảng dạy giới luật chết cứng ở trong giáo điều giới luật, đó là những kẻ không hiểu giới luật.

Giới luật là một pháp môn hành thiện, giới luật không phải là pháp luật, giới luật là một pháp cứu cánh giải thoát con người ra khỏi biển khổ, sông mê cuộc đời.

Người dạy giới luật mà không hiểu giới luật, đã biến pháp môn vi diệu này trở thành những sợi dây lòi tói, trói con người và làm khổ cho những kẻ tu hành nhiều hơn.

Đó thì Thầy nói như vậy thì quý thầy thấy rằng cái người dạy giới luật mà không hiểu được toàn bộ của cái giới kinh, mà cứ đứng ở trong cái giới bổn mà dạy thì biến cho cái người tu hành quá khổ sở, cho nên người ta làm sao người ta tu tập được!

Hầu hết các giới sư không hiểu lời của Tôn giả đã đề xuất ra nguyên tắc như thế này:

Nghĩa là khi mà tôn giả Ca Diếp ổng kết tập cái kinh giới rồi đó, thì ổng đề cái câu - cái câu mà ổng đề ra ổng nói như thế này nè:

“Điều Phật đã chế chẳng được phép bỏ, dù là những cái giới nhỏ. Điều Phật chưa chế chẳng được thêm vào”.

Đó là cái ông Ca Diếp ổng ra cái điều lệ mà khi mà ổng kết tập kinh xong rồi, thì khi mà mọi người đều thông qua hết rồi, chấp nhận đó là đúng rồi, thì bắt đầu ổng có cái ý kiến: “Tôi có ý kiến: Những cái điều mà Phật đã chế ra rồi dù nhỏ, dù lớn không được phế bỏ, mà những cái điều mà Phật chưa chế ra thì chắc không có được ai mà thêm vào!”

Ổng xác định như vậy. Bây giờ quý vị có đồng ý không? Đồng ý, thì như vậy là sau này không được ai thêm vào, mà cũng không ai được bớt ra. Đó là ổng quyết định như vậy, ông Ca Diếp hồi đó ổng quyết định như vậy thì tất cả năm trăm vị A La Hán lúc bấy giờ đưa tay lên đồng ý hết.

Vậy mà sau này phá vỡ dữ tợn đó. Họ đồng ý ở ngoài mặt chớ trong bụng - thì lúc bấy giờ là các vị đó Thánh Tăng thì người ta đồng ý rồi, nhưng mà sau này các vị đó chết đi rồi hết rồi, thì cái số đệ tử sau này tu chưa chứng đó thì mới bắt đầu tuôn nhau mà sửa, sửa cho đã đi để mà sống cho nó được hạnh phúc hơn.

Lời nói này tôi xem hết các bộ luật do các giới sư soạn ra và dịch thuật đều chẳng hiểu câu nói này.

Nghĩa là Thầy đọc hết các bộ luật Thầy thấy hầu như cái lời nói này thì các giới sư mà soạn kinh giới ra họ không hiểu cái lời nói ông Ca Diếp. Chúng ta phải hiểu lời nói của ông Ca Diếp nếu mà nói ra như vậy thì cái giới luật của Phật là một cái giới luật khô cằn cỗi, không linh động, không đáp ứng phù hợp cho cái thời đại đi lên hay hoặc về sau.

Thì lời nói đó là - hầu hết là các cái vị giới sư họ hiểu qua cái chỗ mà như là cái kiểu giới bổn đó, cho nên nó khô cằn đó. Còn Thầy thì hiểu cái lời nói của ông Ca Diếp không phải vậy đâu.

(27:31) Nghĩa là ông Ca Diếp xác định rằng cái giới luật của Phật đã đặt ra là làm Thầy cho tất cả các thầy Tỳ Kheo sau này, nó linh động và nó như là một Đức Phật sống tại thế, cho nên không được thêm mà cũng không được bớt gì hết. Nghĩa là ngay từ giới luật đó chúng ta có thể linh động được mà không phải thêm giới luật trong đó.

Thầy thí dụ chẳng hạn là bây giờ Phật đâu có cấm uống cà phê, đâu có cấm hút á phiện, mà bây giờ chúng ta linh động là ngay chỗ cái giới thứ năm là uống rượu là chúng ta biết rượu là nghiện ngập, làm cho mất trí tuệ, cà phê cũng làm nghiện, mà thuốc phiện cũng làm nghiện con người, thuốc lá cũng làm nghiện con người, thì lấy cái giới thứ năm đó mà chỉ họ ra đừng có phạm, chứ có đặt thêm cái giới thứ sáu đâu! Phải không?

Các thầy thấy có Thầy có phải đặt thêm cái giới thứ sáu đâu? Chỉ ở trong cái giới thứ năm mà Phật đặt ra như vậy nó đủ trọn vẹn ở trong đó rồi: Những cái gì mà làm cho chúng ta, mà gây cho chúng ta những cái thích thú theo cái dục lạc của thế gian thì dẹp nó qua một bên đi! Đó là cái điều của giới luật của Phật như vậy, thì nội cái giới thứ năm nó đã đủ cho chúng ta rồi.

Cấm người ta uống trà nè, cấm người ta uống cà phê nè, cấm người ta không có hút á phiện nè, không có hút cần sa nè, không có hút thuốc lá nè, thì đủ rồi, thì nó là giới thứ năm thôi chứ còn cái gì nữa mà Thầy thêm cái giới nào đâu mà nói là Thầy thêm?

Đó thì như vậy là chúng ta linh động được trong mỗi thời đại. Chớ còn nếu mà dạy giới luật mà không linh động vậy thì cứ chế ra, chế ra rồi bớt bớt, chế ra rồi bớt, chế ra hồi ba trăm bốn mươi tám giới giờ chế riết một trăm giới, hay là chế riết một ngàn giới nữa.

Chế riết rồi cái bản - bởi vì cái ngày hồi mới độc lập đó thì cái bản hiến chương nó có bao nhiêu giới thôi, bây giờ tính ra không biết là bao nhiêu giới nữa. Bộ luật bây giờ nó dầy như vầy! Trời đất ơi! Dân chúng đụng tới đâu cũng đụng ráo hết. Phải không, các con, thấy không? Đó là cứ mỗi ngày quốc hội cứ chế giới chế giới riết ra, trời ơi! Bộ luật dân sự với bộ luật hình sự gì nó quá nhiều, bớt thì không thấy bớt mà cứ chế ra riết.

Đó Thầy nói, bởi vậy giới luật của Phật mà nếu mà cứ cho chế thêm mà như ông Ca Diếp - bởi vậy ông Ca Diếp ổng nói câu này chặn đứng lại, giới luật của Phật đủ linh động, đủ cái sức mà có thể làm cho một người tu sĩ thanh tịnh được trong giới, chớ đâu cần phải chế thêm!

Mà bớt ra thì không được, bởi vì bớt ra làm thiếu, thiếu tức là cái oai nghi tế hạnh của nó bị mất đi.

Cho nên mình thấy những cái giới nhỏ nhặt, chẳng hạn là như Thầy nói bây giờ đó mình đứng để cho mọi người đều là xá của mình rồi tuần tự bưng cơm từng bát đi, xới bát vậy nó có cái trật tự oai nghi chớ gì, mà bây giờ mình bớt cái giới đó đi, thôi tới bữa đó cứ ngồi ăn đi, rồi đem cơm ra thì mọi người xúm nhau người này xúc rồi tới người kia, coi có phải chúng ta giành giựt, chòm chực nhau không? Còn oai nghi tế hạnh chỗ nào không?

Tuy rằng cái giới nhỏ nhưng mà nói lên được ý chí nhẫn nại của chúng ta trong khi chúng ta đứng chờ. Đó là một cái sự tu tập của chúng ta, đó là một cái sự rèn luyện con người của mình có cái đức tính nhẫn nhục chớ! Còn nếu không có vậy thì chúng ta bộp chộp lắm, ai lại không muốn đi trước, ai cũng muốn ngồi trước cho khỏe, chớ ai muốn…​ Bởi vì cái đó là cái dục lạc mà!

Cho nên giới luật nó làm cho chúng ta hạn chế, tránh xa những cái thứ dục lạc, ly dục mà. Phải hiểu được như vậy chúng ta mới biết được con đường giải thoát chớ!

(30:37) Đó hôm nay Thầy nói hết để cho quý Thầy thấy rằng khi mà dạy về giới luật, bởi vậy Thầy dạy, rồi đây tới cái giai đoạn thứ ba của giáo án mà dạy về cái giới hành, tức là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo, Thầy phải dạy hết cho quý thầy thấy trong cái hành như thế nào để đạt được những cái giới của chúng ta, chớ đâu phải là cái gì khác hơn?

Bởi vậy nó mới toàn diện là thầy của chúng ta, chớ còn ông thầy mà nó thiếu khuyết một chút thì làm sao ông thầy dạy chúng ta được!

Nếu mà ông thầy mà không có đủ ba cái oai lực như vậy thì không thể dạy chúng Tỳ Kheo sau này, không thể dạy cái đời sau này. Mà đủ ba cái oai lực như vậy, tức là cái giới luật mà Đức Phật đã di chúc lại làm thầy chúng ta thì mới có đủ ba cái oai lực đó, chỉ có giới mới đủ thôi, chớ không có một người tu sĩ nào mà đủ hết.

Ở đây Thầy nói, thật sự Thầy cũng có sở trường của Thầy chớ làm sao mà Thầy toàn diện được hết cái đó, cho nên Thầy đâu phải là thầy của quý thầy! Mà chỉ có giới luật nó mới đủ toàn diện ba cái oai lực đó, cho nên giới luật là thầy của quý thầy. Còn Thầy bây giờ Thầy có thực hiện cái gì được đi nữa nó cũng không phải là đệ nhất được.

Đó thí dụ như bây giờ Thầy giảng cho quý thầy nghe như vậy, thì Thầy có cái sở trường của Thầy ở chỗ nào ở trong đó thôi, chớ không thể nào Thầy toàn diện hết được, cho nên Thầy không thể làm thầy của quý thầy được. Mặc dù những cái khác Thầy làm được, nhưng mà nó không phải sở trường của Thầy

Thí dụ như bây giờ Thầy thí dụ, Thầy dùng cái Tứ Như Ý Túc, thì Dục Như Ý Túc, Thầy một thân Thầy biến ra một thân được, nhưng mà nó không phải là chuyên môn của thầy, Thầy làm được, nhưng mà nó không phải chuyên môn.

Còn cái sở trường của người ta nó chuyên môn lắm. Chẳng hạn là như bây giờ Thầy phải hai phút Thầy mới biến ra được một con người như Thầy ngồi bên, còn cái ông mà chuyên môn, nháy con mắt cái ngồi ra một đống rồi! Nó chuyên môn mà, nó lanh, nó lẹ, các con hiểu điều đó, cho nên người ta chuyên môn là người ta đệ nhất, người ta phải nhanh.

Còn ông Xá Lợi Phất, khi mà hỏi ổng thì ngay đó ổng phóng ra ổng trả lời liền, không cần suy nghĩ, còn Thầy, Thầy đâu có đệ nhất trí tuệ được, cho nên Thầy phải suy nghĩ rồi Thầy trả lời.

Thì Thầy trả lời cũng đúng, ông Xá Lợi Phất cũng đúng, nhưng mà ông Xá Lợi Phất ổng phóng ra liền, còn Thầy phải có thời gian, cũng ít ra một phút Thầy mới trả lời được, còn ông ta đâu cần, hỏi rồi trả lời liền! Thì như vậy là người ta đại trí tuệ, còn Thầy thứ tiểu trí tuệ mà đem ra làm sao làm thầy thiên hạ được, phải không?

Thì Thầy nói như vậy là quý thầy sẽ biết được ở trong con đường của Phật pháp là cái người nào làm thầy của mình. Còn giới luật của nó đủ hết trong này rồi, cho nên hỏi tới đâu là nó phóng ra nó trả lời liền tức khắc, chớ nó không có chậm chạp như chúng ta đâu. Bởi vì nó tròn đầy tất cả, các cái sở trường nó đều đầy đủ như Đức Phật ngày xưa.

Bởi vì chỉ có giới luật mới là chính Đức Phật còn tại thế. Cho nên ông Phật ổng xác định đó, nghĩa là “Giới luật còn là ta còn, mà giới luật mất là ta mất”, mà “Giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất”.

(33:13) Cho nên cái giới luật mà hôm nay Thầy giảng cho quý thầy thấy đó, đó là cái giới luật đó, chớ không phải giới bổn mà theo các sư dạy về giới luật mà kết tập lại đó gọi là giới, giới đó làm thầy của quý thầy đâu.

Lời nói này tôi xem hết các bộ luật do các giới sư soạn ra và dịch thuật đều chẳng hiểu câu nói này.

Nghĩa là không hiểu cái lời nói của ông Ca Diếp.

Nếu đọc lại kinh giới cho kỹ từng chỗ của Phật chế giới ra thì dù bất cứ thời đại nào, xã hội nào tiến đến đâu, lùi đến đâu, thì những chế giới này đều phù hợp cho mọi hoàn cảnh xã hội và sự thay đổi của thời đại đó, rất ăn khớp và rất linh động, không cần luật sư chế giới thêm mà cũng không cần giảm bớt.

Bởi vậy, Đức Phật mới di chúc lại “Các thầy Tỳ Kheo phải lấy giới luật của ta làm thầy!”

Bởi vì nó đủ như vậy đó, nó đủ cái oai đức nó như vậy mà nó linh động như vậy, trường hợp thời đại chúng ta tiến bộ tới cái mức độ nào thì giới luật của chúng ta cũng tiến tới mức độ đó. Mà thời đại lùi đến cái mức độ nào đến khi mà lạc hậu đi, còn những cái bộ lạc, thì giới luật của Phật nó cũng lùi lại để đứng cái tầm vóc đó để mà hướng dẫn người ta tu giải thoát.

Cái giới luật của Phật nó vi diệu như vậy, chớ không phải nói thời đại chúng ta khoa học tiến bộ thì giới luật của Phật đặt cách đây hai ngàn năm trăm bốn chục năm nó lỗi thời rồi, như mấy ông giới kinh đều nói là lỗi thời rồi, nó không hợp.

Đó là cái không hiểu giới luật của Phật, mà giới luật của Phật đã có cái sự định đoạt trước của Đức Phật đã suy nghĩ.

Cho nên đọc lại kinh giới chúng ta thấy ông Phật ổng không phải chế giới có một lần đâu, ổng chế nhiều lần mới chấp nhận một giới của ổng. Các thầy phải hiểu cái sự kỹ lưỡng của Đức Phật như vậy.

Chớ ổng chế ra một lần ổng để đó cái rồi bắt mình thì như vậy ổng chưa có chính xác đâu. Cho nên nhiều lần ổng chế, có khi một cái giới ổng chế ba lần, năm lần, quý thầy học kinh giới quý thầy biết liền à.

Chớ không có - tới đây Thầy dạy giới bổn rồi thầy sẽ thấy ông Phật ổng chế, ổng sửa đi, sửa lại nhiều lần để mà chính xác cho sau này sẽ làm thầy của các vị Tỳ Kheo, ổng đã biết trước cái vấn đề đó, trước khi ổng còn mười năm, hai chục năm ổng thị tịch là ổng đã biết là chuẩn bị.

Từ khi mà ổng soạn, ổng chế giới ra là ổng đã biết được cái người nào là thầy của chúng Tỳ Kheo sau này, cho nên ổng rất kỹ trên cái vấn đề mà viết ra cái bộ giới luật chớ đâu phải là viết một cách như hàm hồ như chúng ta bây giờ, đặt ra cái thanh quy bữa nay trật, bữa mai trật thì sửa lại, không phải đâu.

Đó là một ông thầy của chúng ta thì Đức Phật phải chỉnh đốn cái ông thầy cho những vị Tỳ Kheo sau này, cho những người đệ tử theo đạo Phật sau này. Cho nên Đức Phật phải chỉnh đốn nó rất kỹ chớ không phải là thường.

Bởi vì đọc chúng ta mới hiểu được cái chỗ chế giới tại sao chế nhiều lần. Chớ còn nếu mà ông Phật coi thường giới thì ổng chế một lần thôi, được được không được thôi chớ còn chế đi chế lại chi cho mất công!

Bắt buộc họ cứ khép vô vậy thôi, còn phải chế giảm tới, giảm lui cho nó phù hợp đó, nó phù hợp bởi vì cái người này phạm vầy, người kia phạm vầy mà nó chỉ có một cái giới thôi mà bị phạm vậy, mà cái người trường hợp này, người trường hợp kia, nó phải có sự sai khác. Cho nên Phật mới chế ra nhiều lần vậy để cho nó chỉnh đốn lại cái giới đó cho nó phù hợp.

(36:19) Nếu giới luật chưa được chỉnh đốn thành một pháp môn bất di, bất dịch, còn có sự thay đổi thêm bớt, chắc chắn Đức Phật không di chúc các thầy Tỳ Kheo lấy giới luật làm thầy.

Nghĩa là nó còn sự thay đổi, như cái lời của ông A Nan mà học lại đó, khi Đức Phật sắp nhập diệt thì nói có những cái lỗi nhỏ nhặt, có những cái giới luật nhỏ nhặt thì cần phải bớt đi, thì ông Ca Diếp mới bắt tội: “Sao hồi đó ông Phật nói vậy, sao không hỏi cái giới nhỏ nhặt nào mà bớt thì phải hỏi những giới đó giới nào mới biết mà bớt, chớ còn bây giờ ông nói giới nhỏ nhặt tôi biết cái giới nhỏ nhặt nào mà bớt?”

Phải không? Các thầy hiểu, ông nói chuyện nói bừa thôi chớ đâu nói chuyện đó được! Phật nói những cái giới nhỏ nhặt thì cần phải bớt ra, thì ông hỏi: “Thưa Đức Phật, bạch Đức Thế Tôn! Vậy những cái giới nhỏ nhặt đó là giới nào, giới nào, mà Đức Phật bảo bớt ra thì Đức Phật chỉ định cho chúng con sau này chúng con bớt ra!”

Còn đằng này tại sao ông không hỏi, bây giờ ông nói những cái giới nhỏ nhặt bớt ra, tui biết cái giới nào bây giờ tui bớt ra? Đọc thì đọc hết cái bộ giới vậy rồi, bây giờ biết cái giới nào là nhỏ, phải không? Thì thử hỏi các thầy coi cái ông A Nan coi nhiều chuyện không?

Thành ra Thầy nói đây là những cái người sau đặt điều chớ không phải ông A Nan nói đâu, ông A Nan không có bao giờ nói điều đó đâu. Đặt điều ra nhiều cái thứ chuyện để mà phá giới chớ không phải là, để thêm bớt ra đó.

Bởi vì mình xét ra những người mà trong cái thời Đức Phật là những bậc Thánh Tăng, không có bao giờ mà vọng ngữ, phi thời. Không lý cái trí tuệ của ông A Nan là một người đa văn như vậy mà khi Phật nói vậy mà ổng không hiểu sao mà hỏi? Đâu có ngu si đến cái mức độ đó! Để tới ông Ca Diếp mà nhắc vậy mới thấy cái lỗi của mình thì đâu có phải chuyện đó đâu!

Một người mà đa văn thông minh, nói đâu nghe đó rồi thì đâu phải là cái người thường. Mình có nghe rồi mình như cái máy này không, mà mình còn nhớ kìa, mình còn biết kìa, còn cái máy này mình nói đâu nó thu vô đó, thì ông A Nan là như cái máy cassette chớ gì, ông Phật nói đâu ông nhớ, cho nên ổng kết tập kinh điển ổng nói vanh vách không có một cách nào mà sai hết, Phật nói sao ông nói y như vậy.

Đó thì quý thầy thấy trong cái vấn đề đó phải là một người có trí tuệ thông minh như ông A Nan chớ đâu phải là người tầm thường, thế mà ông Phật nói cái chuyện như vậy mà ổng không hỏi, thì như vậy là ổng như thế nào?

(38:28) Họ đánh giá trị của ông A Nan quá thấp kém, làm y như là mình vậy, nói ra rồi không nhớ gì hết, quên hết, đầu óc chắc bộ lo đi chợ ở ngoải, ăn hủ tiếu!

Cho nên cái lời nói mà có những giới luật nhỏ nhặt sau này mà cần phải thêm bớt đó, cần phải bớt đi, tức là người sau này đặt điều ra, chớ còn không phải là ông A Nan hay hoặc là một vị Thánh Tăng nào trong cái thời Đức Phật mà nói điều đó hết.

Còn nói giới luật không linh động, chết cứng là tại giới sư chết cứng chớ không phải giới luật của Phật mà chết cứng.

Nghĩa là mình chế giới ra đó, mình không có hiểu giới, mình chế ra giới, rồi mình chế giới ra, rồi mình gò bó bắt buộc người ta phải giữ gìn vậy, thành ra cái giới hành nó không có.

Do đó đâu có biết, chỉ thấy ba cái - thí dụ như thấy Tứ Diệu Đế nè, Tứ Như Ý Túc nè, rồi thấy như là Thất Giác Chi nè, rồi Tứ Niệm Xứ nè, họ nói đó là pháp tu, chớ họ đâu có hiểu đó là cái giới hành của người ta!

Họ đâu có hiểu, cho nên mấy ông giới sư này ổng đâu có hiểu là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo là giới hành của giới luật của Phật. Ổng đâu có hiểu, cho nên ổng thấy đó là pháp môn tu chớ đâu phải là giới!

Nhưng mà cái người mà người ta am hiểu giới, người ta biết đó là cái hành động để thực hiện cái giới. Mà cái giới là cứu cánh, mà cái giới là thiện pháp, nó làm cho chúng ta thoát khỏi sự đau khổ, cho nên đó người ta mới biết là giới hành.

Còn cái người mà không tu, không biết, do đó thấy đó là pháp môn - chớ còn Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo là pháp môn tu chứ đâu phải là giới hành! Còn người tu người ta biết đó là giới hành để áp dụng cho chúng ta đạt được cái giới cho nên nó làm cho tâm chúng ta mát lạnh.

Đó thì quý thầy thấy, ở đây Thầy giải thích rất rõ, cái sai, cái lệch của cái người - từ cái người xưa cho đến bây giờ chớ không phải là cái người bây giờ không đâu!

Tại vì họ không có chứng đạt được cái sự tu hành của họ, họ không có cái đầu óc của một cái người mà chứng, cho nên họ không có thông minh được, cho nên họ không thể thấy được. Họ chỉ tưởng giải và kiến giải của họ ra bằng cách là nghĩ tưởng của nhà học giả. Họ nói, họ lý luận trên mây xanh mà rốt cuộc rồi họ không hiểu Phật pháp cái gì hết.

Giới luật của Phật là ông thầy sống động của chúng ta, như Đức Phật còn tại thế.

Bởi vì giới luật của Phật phải được là như ông thầy mà sống động như Đức Phật. Ông Phật bây giờ là một cái giới luật rất là sống động, cho nên chúng ta hỏi cái gì là ổng trả lời liền ngay cái đó. Thì cái ông thầy giới luật mà Đức Phật đã chỉ định cho chúng ta sau này nó cũng sống động như vậy chớ sao lại chết khô cằn?

Đó thì quý thầy mới hiểu được cái chỗ mà Thầy giảng cái giới luật hôm nay mới thấy rõ được cái đường đi mà của đạo Phật là ông thầy của chúng ta đó.

2.5- PHẬT GIÁO HIỆN NAY HIỂU SAI VỀ GIỚI - ĐỊNH - TUỆ

(40:59) Cho nên giới luật là pháp môn rất linh động cho mỗi trường hợp, mỗi hoàn cảnh, mỗi con người để thực hiện tu tập có kết quả ngay, thiết thực hiện tại mới xứng là ông thầy của các vị Tỳ Kheo.

Đâu như giới luật mà quý vị giới sư đang giảng dạy. Các vị này đang dạy giới điều chết cứng cho quý vị. Họ không hiểu gì về giới luật của đạo Phật, họ không hiểu ngay cả chữ Tam Vô Lậu Học…​

Họ không hiểu chữ Tam Vô Lậu học là cái gì nữa!

…​ thì làm sao dạy pháp môn của Phật? Họ hiểu theo kiểu thế gian thường tình: Giới là giới điều, là pháp luật, là bắt buộc mọi người tuân theo phải giữ gìn, dù có khổ đến đâu cũng phải giữ gìn, đó là cái sai thứ nhất.

Giới luật của Phật là pháp môn vô lậu khiến cho người tu được giải thoát, thế mà pháp môn này trở thành kiết sử, triền phược trói chặt người ta tu hành.

Có phải không? Các con thấy cái giới bổn mà đưa ra có phải là kiết sử không? Có phải là sợi dây trói chặt họ không?

Cho nên họ khổ quá! Trời ơi! Ăn ngày ba bữa đỡ, còn bây giờ quất một bữa thì như vầy thế này, thế này, thế này, phải khổ không? Có thấy giải thoát gì đâu! Ăn một cục đường chút cũng không cho, uống ly nước chanh cũng không được, phải không?

Các thầy phải nghĩ cái điều đó, gì mà quá khổ, đâu phải là nuốt cả bụng hay hoặc là ăn bữa cơm như người ta đâu, uống có chút xíu cũng không được, cũng phi thời, phi thời!

Đó thì như vậy là các thầy thấy nó khô cằn, nó thành những cái sợi dây kiết sử, nó trói buộc cái người tu chúng ta trở thành quá khắc khổ.

Vì thế mà họ phải phá giới và thay đổi giới, bằng cách bịa chuyện Đức Phật cho bỏ những giới nhỏ nhặt…​

Nghĩa là nó khổ quá như vậy thì tức là họ phải bịa ra chớ sao, họ phải bịa ra những cái chuyện mà bỏ những giới nhỏ nhặt.

…​ để cho phù hợp với bộ phái của mình.

Định là một pháp môn vô lậu thì thiền sư lại biến thành pháp môn ức chế tâm…​

(43:06) Đây, các con thấy, giới luật thì cái ông giới sư ổng biến nó thành cái pháp luật, ổng trói người ta như là sợi dây lòi tói. Còn ông thiền sư ổng tới cái pháp môn Định, bởi vì Tam Vô Lậu Học là Giới - Định - Tuệ mà, lại bắt đầu ông thiền sư thì ông lấy cái Định, ổng lấy cái pháp môn Định, Định Vô Lậu là nó làm cho chúng ta hết lậu hoặc, thì ổng lại ức chế tâm ổng, ổng làm, ổng nén tâm ổng xuống cho dữ tợn đi!

…​ nén tâm nên tham, si, lậu hoặc không hết.

Bởi vì mình nén tâm làm sao hết, còn người ta có cái pháp hành người ta nó xả tâm ra, nó ly ra, nó dùng pháp hướng nó quán triệt, nó làm cho xả ra hết, cho nên tham, sân, si nó không còn.

Còn cái này ổng nén tâm ức chế cho hết vọng tưởng, rồi ổng nén tâm ổng xuống, đè xuống cho đừng tham, sân, si, nên lậu hoặc ổng đầy dẫy ở trỏng, càng nén nó như cái lò xo, cho nên đến cái lúc mà ổng làm không được, đè không được nó bật lên, ổng nói là tạp khí, phải không?

Đó là những cái điều mà người ta không có hiểu được cái Định Vô Lậu mà trong Tam Vô Lậu Học, mà người ta đã biến nó thành những ra những pháp môn thiền định cái kiểu nén tâm.

Thì bây giờ các thầy cứ nghĩ, ngồi đây mà hít thở nén tâm cho hết vọng tưởng thì mai mốt nó bị hỏa tẩu nhập ma chứ sao! Làm sao trật được điều đó!

Còn ở đây người ta - tâm của người ta ly dục, ly bất thiện pháp sạch hết rồi, thì đó là giới luật chớ gì! Cho nên bắt đầu người ta điều khiển, người ta nói: “Ngưng! Nghỉ! Ngưng! Nghỉ”, nó ngưng hết, thì nó ngưng, nó vô định chớ gì! Cho nên nó làm chủ được sanh tử, có cái gì đâu mà khó.

Còn mình nén mình có ngưng được không? Nén riết nó bực tức trong người, nó rối loạn thần kinh, nó điên khùng hết cả đám chớ ở đó. May mà tu ít ít chớ mà tu nhiều nó mới chết được đó.

Cái người nào mà siêng năng nỗ lực tu thì nó bị nén nhiều, mà nén nhiều, nó tức tối nó làm cho cơ thể bị rối loạn, cho nên nó đi tới cái chỗ này, tới chỗ kia nó thành bệnh.

Còn cái người mà tu cầm chừng chơi chơi, tu không thấy gì hết, lúc có vọng tưởng, lúc hết vọng tưởng, cũng tu, nhưng mà tu không có tích cực tối đa đó, thì cái người đó không có bị rối loạn cơ thể, mà nó cũng chẳng tới đâu hết.

Lúc thì ngủ gục ở trong đó, lúc thì tỉnh bơ không vọng tưởng, lúc thì an lạc khoái quá, lúc thì thưởng thức cái này, lúc thì thưởng thức - ngồi đó mà thưởng thức đủ mùi vị không khoái sao, cho nên thiền sư khoái cái đó lắm. Cho nên mới tạo cái định ức chế tâm để mà ngồi thưởng thức các cái tưởng lạc ở trong đó, chớ có cái gì hơn đâu!

Rồi tới cuối cùng cũng đi rủ nhau đi xuống địa ngục với nhau cả đám chớ làm sao hơn được! Biết đường đâu mà đi khỏi cái địa ngục đó?

(45:33) Bởi vì đang ở trong cái dục lạc, cái hướng mà chạy theo cái hưởng lạc đó. Ngồi thì nghe nó không vọng tưởng, nghe nó khinh an, khoái quá! Trời ơi! Cái này là thiền định rồi!

Nhưng mà không ngờ đó là cái thứ dục lạc, dục lạc của tưởng dục, thì đó còn ham cái đó thì tức là còn tưởng dục chớ gì! Thì cái đó nó sẽ đưa mình cái hướng đi xuống địa ngục chớ cái gì nữa!

Như vậy thiền định của họ không thiết thực hiện tại, chỉ là một nguồn an ủi suông cho người tu.

Tuệ là một pháp môn vô lậu, thế mà họ lấy tưởng kiến làm tuệ…​

Đó bây giờ nói qua một cái ông thầy mà dạy kinh, kiến giải bằng kinh sách, bằng cái này kia đó, thì đó là họ lấy cái tuệ vô lậu của Phật mà họ đặt thành cái tưởng kiến của họ.

…​ làm tuệ, nên càng tu bản ngã càng to.

Họ tu riết rồi thấy họ sao mà dữ tợn, thấy ớn lắm, đó là cái bản ngã họ càng to, mà họ là trí tuệ họ nói thôi kinh sách nào họ cũng thông suốt hết, bao nhiêu bộ kinh họ viết ra cũng được hết, mà đụng tới họ thì mới thấy cái mặt họ nó chầm dầm ra một đống! Đó.

…​ bản ngã càng to, xây dựng đường lối tu hành bằng tập thể, bè phái, do đó mới có sự chống đối lẫn nhau trong đại gia đình của Phật giáo tan nát.

Đó bởi vì cái bản ngã to lớn thì phải xây dựng bè phái, bành trướng chỗ này, bành trướng chỗ kia. Cái phái của mình mà, phải nó bành trướng chỗ này, chỗ kia để cho nó thành lập cái bè phái của mình, do đó mới có sự chống lại cái bè phái bên kia, bè phái bên nọ, cho nên chống đối nhau làm cho cái đại gia đình Phật giáo của mình càng ngày càng tan nát, chớ có tốt lành gì đâu!

Quý thầy thấy rất rõ ràng. Ông thầy này thì chỉ trích ông thầy kia, chê, ông thầy kia chỉ trích ông thầy nọ, chê, chê nhau, chê qua, chê lại, cuối cùng thì chẳng ông thầy nào giải thoát.

Đó là sự hiểu biết Tam Vô Lậu Học của thời đại Phật giáo hiện nay.

Đó họ hiểu qua cái Tam Vô Lậu Học vậy đó. Đã là vô lậu mà họ không sạch vô lậu mà họ lại còn bè phái ra thêm nữa, thì thử hỏi cái đó không phải là cái bản ngã của họ sao?

Tóm lại, luật sư biến giới luật thành giáo điều, pháp luật, bằng chứng là các bộ luật đang hiện hành trên thế gian này.

Đó, bằng chứng là lấy các bộ luật đó chúng ta thấy rõ ràng là nó biến thành pháp luật chớ không có gì khác hơn hết. Thì đó là thuộc về luật sư đó, họ biến giới luật thành giáo điều, pháp luật, bằng chứng các bộ luật của họ đang hiện hành ở trong các chùa Phật giáo bây giờ đó.

Thiền sư thì biến Định Vô Lậu của Đức Phật thành giáo điều, định ức chế tâm, nén tâm, bằng chứng là những bộ sách thiền đang tung ra thị trường buôn bán khắp nơi.

Kinh sư thì biến Tuệ Vô Lậu của Phật thành tưởng kiến, làm cho tri kiến con người góp nhặt những hiểu biết đó trở thành kiến chấp. Mà đã có kiến chấp thì ngã chấp càng to, thay vì Trí Tuệ Vô Lậu thì diệt ngã xả tâm để được giải thoát, càng huân tập tưởng kiến nhiều thì sanh ra tranh luận, hý luận khiến cho người ta không giải thoát được. Bằng chứng kinh sách bán đầy chợ, thậm chí trên vỉa hè đường phố.

(48:47) Nghĩa là bây giờ kinh sách quý thầy có thấy không, kinh sư viết thôi quá nhiều! Để làm gì? Để bày bán ở trên vỉa hè. Mà kinh sách của Phật mà bày bán trên vỉa hè! Có cái nghĩa lý gì không?

Thầy đi qua chùa Xá Lợi Thầy thấy nó để một cái hàng vầy, mà mấy sạp dài dài ở trên cái lề đường, chỉ có cần cái mà mình xe Honda mình ngồi ở trên yên đó thôi, rồi mình sề vô sát cái lề cái rồi mình soạn soạn vầy. Trời ơi! Kinh sách mà cái kiểu ngồi trên xe mà thỉnh kinh, trời ơi!

Ông Tam Tạng ông đi thỉnh kinh mấy thầy biết, trần ai khoai củ mới được cái bộ kinh, mà đến đó còn phải lo lót cái bình bát bằng vàng mới được xách kinh về, còn bây giờ mình chỉ rề cái xe lại cái ngồi, cái lật lật vầy cái quăng hai ba đồng cái là lấy cuốn kinh đi về!

Kinh sách rẻ quá trời, mà dễ thỉnh nữa, khỏi cần đứng xuống nữa, khỏi cần chắp tay xá nữa, phải không? Các con thấy kinh sách đó là cái loại kinh sách của kinh sư đó, bởi vậy còn cái gì là quý trọng của Pháp Bảo nữa đâu!

Bởi vậy khi mà cái giáo án của Thầy ra các con phải nhớ rằng lưu ý cái vấn đề này, nó là Phật pháp, hoàn toàn là của Phật đó, mà nếu làm một cái hành động đó là mấy con đọa địa ngục đó, chớ không phải là chuyện đơn giản đâu!

Cái gì mà cần nghe là nghe, mà cái gì không cần nghe là quý vị không được cho nghe. Tại sao? Tại vì chúng ta không làm khổ ai. Có những lời Thầy giảng là Thầy phải giảng hết ra để cho quý thầy biết thôi. Còn những điều mà chúng ta không được cho người khác nghe, là tại vì người ta - đừng có nên làm động những người khác mà họ đang phạm giới.

Chúng ta phải thương họ chớ, nói ra làm cho động tâm họ thì chúng ta không nên nói. Chúng ta chỉ nghe, biết để chúng ta tu tập sửa mình, để thắp sáng lại cái ngọn đuốc của Phật pháp.

Còn bây giờ đem băng Thầy ra cho thiên hạ nghe rần rần thì thử hỏi cái thế gian này, cái đạo Phật bây giờ nó đảo lộn xuống cũng như cái đầu nó trồng chuối ngược xuống dưới hết, nó đưa hai cái cẳng nó lên trời nó đi chớ nó làm sao mà nó đi được nữa!

Các con biết, ông thầy nào bây giờ cũng đi ra đường cũng ụp mặt vầy chớ làm sao ngó ai! Hiểu kinh, hiểu thiền, hiểu kiểu đó thì còn ngó ai được nữa? Thử hỏi mấy ông chứng nghiệm được cái sự chứng của mấy ông chưa?

Thành ra mấy ổng có làm sao mà lôi cái người nào ra mà thực hiện được cái này đâu! Giới không được nè, rồi thiền định cũng chả làm xong gì hết. Còn trí tuệ siêu việt của họ có làm được cái gì đâu, một thân biến ra nhiều thân được không?

Thử mấy ông nói mấy ông ngon đi thì mấy ông làm coi thử được không? Thì có ông thiền sư nào bây giờ ở trong cái đời nay mà có làm được không? Thì thử hỏi họ, thử hỏi như vậy thì các thầy nghĩ sao?

Cho nên ổng không trồng chuối ngược ổng đi sao! Còn ra đường thì chắc chắn ổng phải lấy cái khăn hay cái nón ổng che cái mặt ổng lại chớ ngó ai?

(51:15) Cho nên đừng có đem những cái này ra mà để cho người khác nghe, mà làm cho người ta khổ thì không có được.

Để lần lượt đến cái thời điểm nào nó tốt, nó phù hợp, thì cái giáo án này ra là một cái cuốn sách, cuốn kinh của Phật, nó đầy đủ những cái điều hành, những cái pháp hành, những cái lý pháp và cái lý hành, nó đầy đủ để giúp cho những cái người chân tu, những cái người trùng tuyên lại Phật pháp - trùng tu lại Phật pháp, thì những người đó họ mới có thể đủ duyên mà nghe cái Pháp Bảo này.

Kể như là quý thầy hôm nay mà được về đây nghe Thầy giảng cái lời nói cuối cùng là quý thầy có duyên nhất. Chớ nếu mà không, bao giờ mà có thể được nghe?

Và nghe rồi thì không phải là những cái lời mà Thầy giảng đây mà tung ra thị trường, hay hoặc là tung ra cho mọi người nghe thì cái đó là cái sai của quý thầy.

Thầy không muốn làm động một người nào ở trong cái thế gian này, Thầy không muốn làm động một cái giáo hội nào hết, họ làm sao thì mặc họ, nhưng mà cái lời nói cuối cùng của Thầy là cái lời nói để trùng tuyên lại Phật giáo, để làm sáng tỏ lại Phật giáo, mà những gì người ta đã lầm lạc, người ta đã ném xuống.

Đây là lầm lạc chớ không phải họ cố ý đâu. Bởi vì từ người xưa cho đến giờ chớ không phải là tự họ bây giờ. Còn bây giờ Thầy đã thấy, đã biết qua cái sự tu hành của Thầy, Thầy chứng nghiệm được cái sự hiểu biết của Thầy, Thầy nói rất rõ ra hết, để rồi sau này có những người nhờ đó mà người ta thấy được cái đường lối của đạo Phật.

Đó là lỗi các vị tu hành không đến nơi đến chốn mà muốn làm Bồ Tát độ chúng sanh, thì cái ông Bồ Tát đui mù này sẽ dẫn một đám đui mù đi xuống địa ngục cả đám.

Trên thế gian này, sự lường gạt và lừa bịp con người không có chỗ nào hơn và khéo léo hơn là ở trong các tôn giáo. Sự lường gạt, tinh vi và vi tế cho đến người cầm đầu lường gạt mà họ vẫn tự còn không biết mình lừa gạt, mà cứ ngỡ mình là Phật, là Bồ Tát độ chúng sanh.

(53:18) Đó Thầy nói chính cái người mà đang làm cái phận sự lừa gạt thiên hạ, họ cũng chẳng biết nữa, họ nghĩ mình là Bồ Tát, là làm Phật sự để lợi ích cho chúng sanh thôi chớ họ chưa có nghĩ rằng đó là cái sự lường gạt.

Bởi vì mình dẫn dắt người ta mà mình chưa biết cái mục đích người ta đi tới đâu để giải thoát, rồi mình cứ dẫn dắt, nhắm mắt mà dẫn dắt, cứ nghĩ rằng ở đó như vậy là giải thoát, nhưng mà mình chưa có tới đó, mà mình chưa tới đó làm sao mình biết đường?

Vì vậy, mình cũng nghĩ tưởng rằng đây là làm cái chuyện lợi ích cho người ta, chớ không phải là cái chuyện xấu, cho nên cứ dẫn đi, dẫn đi, mà bỏ biết bao nhiêu, phế biết bao nhiêu con người theo tu mà cái đời họ không ra đời mà đạo không ra đạo.

Thay vì họ ở ngoài đời họ làm lợi ích cho bản thân họ và còn giúp cho bao nhiêu người bất hạnh trong xã hội, còn bây giờ họ vô tu đó, bao nhiêu của mồ hôi nước mắt họ nuốt, mà họ có làm gì lợi cho ai không? Đâu có lợi cho ai! Họ chỉ xây dựng những cái nơi để du lịch chơi thôi.

Nếu muốn thoát ra khỏi cảnh lường gạt, bịp bợm này thì người tu sĩ phải tu cho đến nơi, đến chốn. Nghĩa là phải chứng được đạo thì mới không còn lường gạt.

Nghĩa là mình chứng được, mình đến cái mục đích giải thoát, mình làm chủ được sanh tử, mình chấm dứt được luân hồi, thì lúc bấy giờ mình ra dạy đạo thì mình không lường gạt ai hết. Còn nếu mình chưa được thì đó là cái hình thức lường gạt hết.

Thà là không có Phật giáo, mà đã có Phật giáo thì phải Phật giáo thực chớ không phải Phật giáo giả. Còn Phật giáo giả thì thôi thà là đừng có ở trên thế gian này đi, để cho mang tiếng cái Phật giáo thế này, thế khác, người ta cười chê bằng cách này, bằng cách khác, thà là không có nó thì không ai cười, mà có nó phải có cho thực.

Và thà là một người, mà một người phải xứng đáng là một người tu sĩ của đạo Phật, còn cả bầy mà không xứng đáng thì thôi dẹp quách hết, không có chừa cái người nào!

Bởi vậy, phải nói nói cho hết, quét thì phải quét cho sạch, quét cái nhà mà quét có bên nây một chỗ, bên kia một chỗ thì rác rến nó còn, mà hễ quét thì phải quét cho sạch, chớ đừng có để cái rác rến đó thì làm cái nhà chúng ta dơ bẩn thêm chớ nó không ích lợi gì.

Vốn Phật giáo ra đời để giải quyết cái khổ của con người, vì thế giáo lý và giới luật của Phật là pháp môn để người tu chớ không phải để người học lấy đó làm cấp bằng danh lợi.

Đến đây là hết phần giới thiệu về giới bổn Patimokkha của đạo Phật.

3- THỌ TAM QUY NGŨ GIỚI

3.1- TAM QUY LÀ GIỚI LUẬT ĐẦU TIÊN ĐỂ BƯỚC VÀO ĐẠO PHẬT

(55:31) Vậy chúng ta sẽ thọ giới nào trước tiên?

Bây giờ mình nói giới bổn mà mình biết thọ cái giới nào trước đâu, phải không? Mình thấy năm giới, là thường thường người ta nói thọ Ngũ Giới chớ gì, rồi Thập Giới chớ gì, rồi Thập Thiện chớ gì, rồi hai trăm năm chục giới chớ gì, rồi ba trăm bốn mươi tám giới chớ gì, rồi Bồ Tát Giới chớ gì, đó mình nghe kê ra một loạt, nhưng mà chưa chắc đã là Ngũ Giới là đúng!

Bởi vì Ngũ Giới nó chưa phải là cái giai đoạn của nó mà khi một người mới bước vào mà để thọ giới của Phật. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu:

Thọ Tam Quy - Ngũ Giới.

Tại sao người ta nói thọ Tam Quy - Ngũ Giới mà người ta không nói là thọ Ngũ Giới không? Đó bây giờ Thầy mới mở màn cho chúng ta thấy, biết được cái chỗ mà chúng ta thọ như thế nào.

Có người bảo: Tin Phật chỉ cần thành tâm, hà tất nhất định cần phải quy y! Mới thoáng nghe qua dường như là có lý, thật ra thì cái lý đó chẳng vững.

Nó chẳng có vững đâu. Có người nói: Mình tin Phật là mình - coi như là mình theo pháp Phật mình tu thôi, cần gì mà phải quy y! Đó, thì như vậy thì chúng ta phải hiểu.

Tại sao? Ví như học sinh muốn học phải làm thủ tục giấy tờ đăng ký nhập học.

Nghĩa là mình muốn học thì mình phải…​ Thì mình muốn theo Phật thì mình phải đăng ký chớ, sao lại mình nói cái chuyện mà ngông cuồng vậy? Không đăng ký làm sao người ta biết tên, biết họ mình, mình có vô học không? Rồi cái trường học đó nó mở rồi ba cái thằng học sinh này không tên, họ, chừng đó người ta làm sao làm sao cấp giấy học bạ, cấp bằng cho nó?

(57:24) Đó là những cái mà chúng ta phải đem một cái ví dụ cụ thể cho một cái trường học. Bởi vì mình đây là cái trường học Phật, cho nên mình bắt đầu mình phải thọ Tam Quy.

Vậy thì Tam Quy là cái giới luật mà phải thọ đầu tiên, chớ cái gì khác hơn hết?

Đó, thì bây giờ quý vị mới thấy là cái giới mà chúng ta thọ đầu tiên là cái giới Tam Quy, chớ không phải là Ngũ Giới đâu, Ngũ Giới nó còn sau nữa mà, Tam Quy chưa xong mà làm sao, ba cái giới này chưa xong thì thọ Ngũ Giới làm sao làm được! Lớp thì phải đi từ từ lên chớ, lớp một, lớp hai chớ, sao lại thọ giới thọ giới mau quá vậy?

Nghe nói thì người nào nói tui thọ Ngũ Giới hết, ông cư sĩ nào cũng nói tui thọ Ngũ Giới hết, mà cái Tam Quy thì không hiểu làm sao hết! Trời ơi! Cái giới - ba cái giới đầu tiên hỏi tới ổng, ổng không biết gì hết, ổng nói Phật - Pháp - Tăng. Ổng nói Phật - Pháp - Tăng mà ông nói Phật - Pháp - Tăng chớ không biết giới.

Ông Phật không phải là giới sống động sao? Mà Pháp không phải là giới sao? Mà Tăng không phải sống giới sao? Thì đó là giới chớ còn gì. Mà giới thực tế, giới cụ thể, giới linh động nữa. Thì ba cái giới này đầu tiên không phải quy y theo nó sao?

Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy để cho quý thầy biết rằng chúng ta sẽ quy cái giới nào trước. Chớ không phải nói tui quy y thọ cụ túc hai trăm năm chục giới, hay hoặc là ba trăm bốn mươi tám giới ni đâu, không phải là cái chỗ đó là cái chỗ căn bản của chúng ta đâu, mà bắt đầu chúng ta phải thọ giới nào trước.

Bởi vì học giới mà không rành giới thì làm sao mà học, biết thọ cái giới nào trước, thọ giới nào sau? Hỏi cái ông mà dạy giới sư, hỏi cái giới nào thọ trước, ổng nói: “Ngũ Giới”, ông này mới nói: “Thiệt là quê mùa!” Phải không? Ổng không hiểu, ông tưởng là người cư sĩ vô tu là thọ Ngũ Giới à!

Bằng không trường học không có học tịch nên chỉ được miễn cưỡng dự thính.

Nghĩa là nó không có học tịch thì người ta có cho mình được dự thính đó là may lắm, mà miễn cưỡng chớ người ta làm sao người ta biết được thằng học trò đó như thế nào?

Đến cuối niên học không có giấy tờ chứng chỉ học bạ gì hết.

Một học sinh mà không có đăng ký như vậy đó, không có nhất định như vậy, thì phải chiếu theo cái niên học như thế nào mà đạt được, chứng chỉ học bạ như thế nào mà đạt được? Cho nên chúng ta phải có cái sự rõ ràng, phải có sự đăng ký.

Chứng chỉ học bạ để lên lớp, lên cấp từ tiểu học qua trung học rồi đến đại học…​

Đầu tiên vào tiểu học phải đăng ký, rồi khi mà hết tiểu học rồi thì phải đăng ký lên trung học, rồi hết trung học rồi thì phải đăng ký lên đại học, chớ đâu phải nói tui học luôn một lượt đâu được?

Cho nên thí dụ như bây giờ mình đăng ký thọ Tam Quy nè, rồi sau đó mình mới đăng ký thọ Ngũ Giới chớ, phải không? Các thầy thấy nó phải đi tuần tự chớ. Tam Quy mà chưa xong rồi mình chưa tin ông Phật nổi mà tui làm sao tui thọ giới nổi mà tui giữ gìn được, cho nên uống rượu cứ uống rượu hoài, nó làm sao mà chuyện nó Ngũ Giới được! Mình tin ông Phật không nổi cho nên mình cứ uống rượu à!

Đó cho nên cái giới đầu tiên mình chưa có làm được, thì mình chưa đăng ký được thì mình chưa nên đăng ký cái Ngũ Giới.

…​ và còn thi cử xem có đủ năng lực hay không.

Do đó người theo đạo Phật phải thọ Tam Quy. Thọ Tam Quy tức là thọ giới đầu tiên trong đạo Phật.

(01:00:17) Quý thầy thấy chưa, đây là thọ Tam Quy là thọ ba cái giới đầu tiên trong đạo Phật, nó mới đúng cái nghĩa của nó.

Ở đây Tam Quy được xem là pháp thiện thứ nhất trong đạo Phật, bằng những hành động cao quý và gương hạnh tuyệt vời, cả ba giới đầu tiên này đem lại một cuộc sống an lành, tràn đầy thiện pháp cho người cư sĩ đệ tử của Phật.

Vì thọ Tam Quy là bước đầu giới luật thứ nhất để tiến vào cửa ngõ đạo Phật.

Đó, ba cái giới đó là mình mới tiến vào cái cửa ngõ đạo Phật mới được chớ. Còn nếu mình chưa có thọ Tam Quy thì làm sao mình tiến vào cửa ngõ của đạo Phật được!

Cho nên dạy giới luật Thầy dạy rất rành. Bởi vì trải qua một cái thời gian mà Thầy về được thầy Thanh Từ khuyên nên đọc lại kinh sách, thì Thầy đọc kinh sách luật rất nhiều.

Bởi vì Thầy đã từng sống mười năm ở trong sự thực hiện giới luật ở trong sự tu tập của Thầy, cho nên Thầy biết nó là cái mấu chốt giải quyết cái sanh tử luân hồi của con người, cho nên Thầy nghiên cứu cái này rất nhiều. Vì vậy mà Thầy biết cái giới luật nào đầu tiên mà giới luật nào sau cùng của nó. Chớ còn hầu hết là cái người mà không có tu hành đến nơi đến chốn thì không có hiểu nổi cái điều này.

…​ để tiến vào cửa ngõ của đạo Phật. Nếu chẳng đi bước thứ nhất này, thì đâu thể bước thứ hai, thứ ba, thứ tư được! Muốn đi bước thứ hai, thứ ba, ắt phải bắt đầu đi bước thứ nhất.

Cấp bậc tu hành giải thoát theo đạo Phật của hàng đệ tử lấy theo thứ lớp của giới luật mà quy định.

Nghĩa là các thầy thấy không? Thọ Thập Giới thì người ta gọi là Sa Di, phải không? Mà thọ hai trăm năm chục giới thì người ta gọi Tỳ Kheo, nó cấp bậc rõ ràng mà. Cho nên bây giờ mình thọ Tam Quy thì cái cấp bậc của mình là mới bước vào cửa ngõ của đạo Phật.

Như vậy là ràng là mình phải có một sự đăng ký hẳn hòi, chớ đừng nói rằng: “Tui tin Phật, tui chỉ tu theo pháp Phật thôi chẳng cần quy y gì hết!” - thì như vậy là mình đâu có thọ?

Quy y Tam Bảo là lớp cơ bản đầu tiên học về đạo đức nhân quả giải thoát của hàng đệ tử Phật. Bao nhiêu giới luật và pháp môn của Phật cũng đều do ba giới đầu tiên này mà lưu xuất ra.

Mình phải thấy từ Phật - Pháp - Tăng nó cũng đều ở chỗ đó mà nó lưu xuất ra giới luật của Phật, lưu xuất ra các pháp, chớ không phải ngoài ông Phật làm sao có các pháp này?

Ai nói pháp này mà chúng ta biết? Không phải từ ông Phật sao? Mà ông Phật là cái giới đầu tiên của chúng ta thì nó phải lưu xuất ra tất cả những cái pháp khác, cái giới khác để chúng ta tu hành, đó là không phải sao?

Cho nên khi mà Thầy luận đến đây thì quý thầy thấy cái vấn đề Thầy nêu lên là vấn đề rất rõ, không có mơ hồ, không có tưởng tượng, mà đây là một cái sự thực, cái sự thực phơi bày cũng như là mọi vật ở trong cái lòng bàn tay của chúng ta.

Bởi vậy tất cả giới luật đều lấy quy y Tam Bảo làm căn bản.

Ngoài cái giới luật của Đức Phật hay pháp môn của Phật tu hành mà lìa xa cái Tam Bảo này thì nó không còn là giới luật của Phật nữa.

3.2- NÊN CHỌN MỘT VỊ THẦY XỨNG ĐÁNG ĐỂ LÀM LỄ QUY Y

(01:03:37) Có người cho rằng mình có đủ năng lực xem kinh thì tự mình trực tiếp hướng vào kinh Phật tìm ra con đường thành Phật, đâu cần phải quy y cũng có thể được sự thọ dụng của việc học Phật. Điều này trên lý thuyết thì nghe như là thông, mà trên thực hành thì sai bét!

Vì sự nghiên cứu vào Phật pháp - nội cái để mà hiểu cho đúng còn khó khăn, và đôi khi chẳng hiểu gì cả, mà lại hiểu một cách méo mó làm lệch lạc Phật pháp.

Hầu hết Phật giáo thời này, Phật pháp đều hiểu lệch lạc từ giới đến kinh. Một người mà đã được trang bị kiến thức đầy đủ như những ông tiến sĩ, nhưng đối với giáo lý của đạo Phật mà để kiến thức này nghiên cứu thì Phật pháp chẳng qua là biến thành một thứ giáo lý khô cằn cỗi.

Cũng như những người kiến thức tưởng giải, biến giáo lý Phật giáo thành bóng ma trong đêm tối.

Nghĩa là những cái nhà học giả đó, họ biến Phật giáo thành bóng ma trong đêm tối đó. Mà những nhà có học thức, có tiến sĩ mà nghiên cứu Phật giáo thì nó cũng biến Phật giáo thành một cái thứ giáo lý khô cằn, nó không có đem đến cái gì lợi ích cho con người hết.

Người muốn hiểu giáo lý và giới luật của đạo Phật phải là một hành giả…​

Nghĩa là cái người mà hiểu được giáo lý phải là một hành giả tới nơi tới chốn.

…​ được một bậc đạo sư, hay một vị minh sư có kinh nghiệm hành trì, tri hành hợp nhất dạy và bảo qua những kinh nghiệm của họ để cho người này tu hành thì mới hiểu được giáo lý nhà Phật…​

Đó, một người mà muốn hiểu được cái giáo lý của đạo Phật mà chính xác đúng thì cái người đó là phải là bậc hành giả. Mà bậc hành giả đó không phải tự họ hành mà tự họ hiểu được, mà phải có một bậc đạo sư, như Đức Phật chẳng hạn, hoặc là một vị minh sư có kinh nghiệm hành trì, tri hành hợp nhất, lời nói của họ phải đi đôi với cái hành động của họ, thì họ dạy qua những kinh nghiệm của họ cho cái người này, thì cái người này mới có hiểu được giáo lý.

Chớ không phải đụng người nào mà bước vô đọc kinh sách của Phật hiểu hết đâu. Người thì hiểu góc độ này, kẻ hiểu góc độ khác, cũng như cái thằng mù mà rờ voi: Rờ lỗ tai thì cho nó là con voi, mà rờ cái đuôi cho nó cũng là con voi, mà rờ cái chân thì cũng cho nó con voi, mà rờ con mắt nó cũng cho con voi, mà chẳng biết là con voi là toàn bộ là cách nào.

Đó là rờ cái giáo lý của Phật là như vậy, đó là rờ còn nó đúng cái chỗ vị trí nó đó, còn nếu mà rờ mà chẳng hiểu đó là cái gì nữa là khác! Đó thí dụ như con voi mà ỉa ra cục cứt rồi rờ đó không biết con voi nó nằm đây thể nào, thì cái chuyện đó là còn sai nữa đó!

Chớ đừng nói chi mà rờ biết được cái lỗ tai nó là may lắm rồi, rờ cái vòi biết cái vòi cũng là may đó. Còn sợ rờ cái vòi mà nói là cái roi mây thì nó lại trật luôn nữa đó!

(01:06:34) Đó thì, tất cả những cái sai sót của người ta ở trong cái đời do tưởng giải và kiến giải mà làm cho lệch lạc Phật pháp, mất đi con đường tu giải thoát mà bao nhiêu thế kỷ, hàng trăm thế kỷ, hàng ngàn thế kỷ, hàng trăm thế kỷ nay làm cho người ta khó mà đi lại con đường của đạo Phật.

…​ rất dễ hiểu. Vì mục đích giáo lý này là chỗ hành động của cuộc sống để đem lại cuộc sống thực, an lành, hạnh phúc cho mọi người. Còn kẻ nào nói giáo lý suông là đương nhiên không hiểu giáo lý.

Lời dạy của Phật là lời dạy sống động, hành động chớ không phải lời dạy suông. Còn hiện giờ kinh sách hiện hành là lời dạy suông, cho nên những ý kiến ở trên đều là sai hết.

Một người chẳng thọ Tam Quy mà lại tự xưng là Phật giáo đồ thì như những trang giấy trắng mà chưa có một hàng chữ nào viết trong đó, thì tư tưởng này là tư tưởng không dứt khoát. Kẻ này…​

Nghĩa là cái chỗ này, cái người mà chưa có thọ Tam Quy mà tự xưng mình là Phật giáo đồ, thì giống như cái trang giấy mà người ta chưa có viết chữ nào vào đó hết, thì cái tư tưởng này đối với Phật giáo nó không có dính gì hết.

Cho nên họ nói vậy, bữa nay họ thấy bây giờ mình nói vậy, mai mốt nghe cái Tin Lành nó nói ngang ngon quá cái nhảy qua. Mình đâu có thọ Tam Quy đâu, cho nên mình qua Tin Lành dễ dàng thôi, đâu có gì khó, phải không?

Cho nên cái ông này ông lừng chừng nhất nè. Ông này ổng hiểu Phật giáo một cách chưa có sâu đâu, nhưng mà bây giờ thấy nghe hay hay thôi mình cũng tự xưng mình Phật giáo đồ đi, rồi mai mốt cái bộ coi không được cái, ít bữa cái nghèo quá đi, cái ba Tin Lành ổng đến cái ổng cho một số tiền bạc cái nhào vô:

“Bây giờ mình theo Tin Lành ngon hơn! Trời ơi, có tiền mà có sắm sửa nhà cửa. Ít ra mấy ông Tin Lành này cũng cho mình được chiếc xe gắn máy chạy nữa!” - thì do đó thì, tức là bị cung cấp những cái đó thì cái ông này ổng nhảy qua luôn.

“Hồi đó tui đâu có quy y Phật đâu tui sợ!” Chớ lỡ mà quy y rồi đi ra vậy đó thì người ta nói mình ngoại đạo rồi, mình đi theo ngoại đạo rồi bỏ giáo của mình rồi, thành ra trong cái đầu óc nó hai tôn giáo nó sợ. Người ta nói mình mà theo cái đạo này mà theo cái đạo khác thì chết xuống địa ngục người ta chẻ mình làm hai, ông hoảng đi không dám!

Còn bây giờ mình đâu có quy y đâu mình sợ? Mình chưa có tôn giáo nào hết, mình nói nói chớ mình thấy Phật giáo hay vậy đó mình tự xưng vậy thôi chớ, chớ chưa có ai ấn chứng cho mình là mình đã theo Phật giáo. Cho nên vì vậy mà bây giờ Tin Lành nó giúp đỡ mình thì mình theo nó cũng phải ngon thôi, có gì đâu mà lo, phải không?

Cho nên có nhiều người theo Cao Đài giáo, bây giờ trở về Phật giáo nói: “Tui sợ quá, tại vì tui phản đạo tui rồi làm sao? Hồi đó tui đưa tay tui thề là không có thay đổi đạo, bây giờ lỡ thề rồi bây giờ nói làm sao bây giờ đây?” Cho nên cứ dính Cao Đài hoài không dám ra, phải không? Các thầy thấy.

Đó là một cái điều kiện, mà cái người mà không có dám quy y Tam Bảo đó, tức là không có dám quy vào cái giới của Phật đó, thì cái người đó họ lừng chừng lắm, họ còn đang lưỡng lự lắm, chưa phải là cái người dứt khoát đâu.

(01:09:28) Cho nên ở đây, những cái lý luận ở trên họ nói như vậy đó, là những kẻ lừng chừng. Bởi vì thấy cái tư tưởng đó là mình đã biết họ là cái loại người nào rồi.

Mình chọn cái tôn giáo đó mình vào là mình phải nghiên cứu cho kỹ lưỡng hẳn hòi mình vào, thì vào cho nó xứng đáng với cái sự vào cái tôn giáo đó. Còn cái này: “Biết mình vào đó mình có tu chứng không? Thôi để thử thử coi nó được không, được thì mình vô mà không được thì mình ra, nó cũng không sao!” Đó, cách thức đó là cách thức như vậy.

…​ thì tư tưởng này là tư tưởng không dứt khoát. Kẻ này là kẻ vui đâu xâu đó, thích thì tự xưng là Phật giáo đồ, mà không thích thì thôi, đó là lối thăm dò chớ chưa thực quyết tâm theo hướng thiện của đạo Phật.

Những người này thường hay dụng câu tự quy y Phật…​

Đó thường thường họ nói họ tự quy y Phật đó, coi chừng mà chúng ta thấy ở trong những cái bài kinh mà tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng đó, thì mấy cái ông này, họ lấy cái cớ đó họ nói tui tự quy y chớ không cần ông thầy nào quy y hết. Bây giờ quý thầy phạm giới đủ thứ tui không có quy y mấy ông đâu, tui quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng nè, chớ tui không cần mấy ông đâu, thì cái đó là điều sai, không đúng.

Bởi vậy Thầy nói cho hết để chúng ta thấy rằng, mình muốn quy y Phật là mình chọn một bậc thầy xứng đáng mình quy y. Còn không có thì thôi, mình nghiên cứu rồi mình đi tìm kiếm những bậc nào mà giới đức hẳn hòi thì mình đến mình quy y.

Còn mình quy y với ông thầy mà phạm giới thì từng đó mình cũng theo ông thầy đó cũng phạm vậy thôi, thầy mình sao thì mình vậy. Cho nên cái ông thầy có vợ con, thì mình theo ổng, mình quy y với ổng mình theo ổng thì vài ngày thì mình cũng có vợ, có con, cũng giữ cái chùa cũng như là cái gia đình vậy chớ cũng không khác gì hơn hết.

Thầy nói đó là một cái sự thật bằng chứng như vậy chớ không có làm cái…​ Còn mình theo ông thầy mà không vợ không con thì cũng đỡ một chút, mặc dù là ổng có phi thời đồ cũng đỡ đỡ chút. Còn ông thầy có vợ con thì quá tệ rồi, không có thể nào mà nói được!

Tới đây thì Thầy xin nghỉ để ăn cơm.

(01:11:21) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học.

Hiểu một cách cạn cợt đã đưa Phật giáo xuống hố thẳm của mê tín thần quyền hay lạc vào đỉnh núi khoa học, khoa tâm lý học, tất cả sự tự quy y này đã đưa Phật giáo đến chỗ sai lệch này đến chỗ sai lệch khác.

Cũng như những bậc thầy đứng ra đại diện ba ngôi Tam Bảo để làm lễ quy y, mà vị thầy ấy giới luật chưa nghiêm túc, và tu tập chưa ra gì mà đứng ra quy y cho mọi người thọ, cũng ví như một người mù mà dẫn đám người mù đi vào rừng thẳm, thì chắc chắn ông thầy và đám người mù này sẽ chết dưới vực thẳm trong rừng âm u, và có thể không còn một người nào còn sống sót.

Bởi vậy bắt đầu vào đạo Phật đừng tự vội quy y Phật - Pháp - Tăng mà hãy nghiên cứu trước - mà phải tìm những bậc minh sư, họ chỉ dạy cho cách nghiên cứu.

Bởi vì ở đây thì Thầy nói rằng, khi mà chúng ta muốn quy y Tam Bảo đó, tức là thọ Tam Quy đó, thì chúng ta phải chọn một cái vị thầy cho hẳn hòi đàng hoàng, một bậc minh sư của Phật giáo, chớ nếu mà chúng ta chọn không có đàng hoàng, thì ông thầy sao thì sau này mình cũng như vậy.

Ông thầy phá giới thì mình cũng phá giới, ông thầy có vợ thì mình cũng có vợ, ông thầy ăn uống phi thời thì mình cũng phi thời, ông thầy mà danh lợi thì mình cũng danh lợi.

Bởi vì cái ông thầy là tượng trưng cho cái Tăng Bảo, mà cái Tăng Bảo nó sống gần ở bên mình, cái oai nghi tế hạnh nó không có thì mình cũng chịu ảnh hưởng luôn cái đời sống của mình như vậy, mà không thể nào mình thoát ra khỏi. Không thể thầy mình mà sống như vậy mà mình làm khác thầy mình được. Cho nên đó là một cái điều khó cho cái người đệ tử sau này, muốn sửa lại cũng rất là khó.

Bởi vậy bắt đầu mà vào đạo Phật thì quý vị hãy đừng có vội vàng mà quy y, đừng có nghe theo cái miệng lưỡi của mấy ông, mà hãy nghiên cứu cho kỹ. Mà muốn nghiên cứu thì mình phải tìm những cái bậc minh sư mà người ta có giới đức, người ta có thiền định sâu mầu, thì mình đến đó mình xin những cái bậc đó dạy cho mình cách nghiên cứu Phật giáo.

Chứ kinh điển Phật giáo thì bây giờ không biết cái loại nào đúng, loại nào sai, cho nên chúng ta đụng cuốn kinh nào cũng nói là của Phật giáo hết thì sai. Vì vậy mà cần phải gặp những cái bậc mà người ta có tu đúng của đạo Phật, có giới hạnh, thì người ta mới chỉ cho mình phải nghiên cứu cuốn kinh nào, cuốn sách nào, chớ không phải đụng đâu mình đọc đó.

(01:14:04) Đó là đem cho mình hiểu biết Phật giáo một cách chân chính. Rồi từ đó đó, mình thấy mình nghiên cứu sao mình thấy cái đạo Phật nó tuyệt vời như thế nào, nó phù hợp như thế nào, nó đúng cái ước vọng của mình như thế nào, thì mới tìm đến cái bậc minh sư đó, cái người mà mình tin tưởng ông ta là giới hạnh nghiêm túc đó, mình mới xin quy y.

Rồi ông ta mới đứng ra, mới đại diện cho ba ngôi Tam Bảo mà ông ta quy y. Chớ không phải là mình cứ quy y ông ta đâu, mà mình quy y Tam Bảo. Cái đó là cái đúng.

Rồi cầu xin, đứng ra, mình cầu xin ông ta đứng ra quy y. Nhưng nếu mà ông thấy cái tư cách ông chưa có đủ, thì ông chỉ cho chúng ta một người có tư cách hơn ông. Bởi vì những cái bậc thiền đức, những bậc giới đức họ nhường lại cho những người mà có cái đức hạnh cao hơn họ, khi mà họ thấy họ còn thiếu.

Còn những cái người mà danh lợi thì ai vô quy y họ cũng quy y hết à. Họ quy y cho đệ tử cho đông, để làm gì? Để phục vụ cho đời sống của họ cho đầy đủ. Đó là những cái lợi, cái danh của họ, họ không thấy được cái lợi ích cho cái người đệ tử của họ quy y.

Còn cái người mà người ta giới luật nghiêm chỉnh, người ta sợ cái người đệ tử của mình theo giữ gìn không có nổi.

Mà nếu mà người ta thọ cái người đệ tử, cho người đệ tử quy y rồi, thì người ta có cái trách nhiệm làm sao cho người đệ tử của mình phải đi vào trong cái giới luật của Phật, khép mình ở trong thiện pháp, cho nên sợ đệ tử của mình giữ gìn không có trọn, cho nên người ta đưa đến những cái bậc cao hơn để cho cái oai lực và oai đức nó cảm hóa được cái người đệ tử đó để trở thành một người tốt, một người đệ tử của Phật sau này nghiêm chỉnh, trì giới luật rất nghiêm chỉnh.

Còn nếu mà ông thầy đó ổng đủ cách thì ổng đứng ra ổng đại diện, mà ổng không đủ cách thì ổng sẽ giới thiệu cho một người khác.

Họ từ chối, chỉ cho chúng ta đến với một người khác, để người thầy của quý vị là một tấm gương sáng chói, tấm gương sống cho quý vị sau này trên bước đường theo Phật giáo tu hành.

(01:16:03) Họ là một cái tấm gương sáng chói, làm cho chúng ta thấy cái gương hạnh đó mà chúng ta theo dõi cái bước chân tu hành của cái bậc thầy của mình, nhờ đó mà mình tiến bước trên con đường đạo Phật đến khi mà tu hành giải thoát.

Còn thời nay người chưa đủ tư cách đứng ra quy y mà vội vàng là để cầu danh. Càng quy y cho đệ tử càng đông, càng tốt, càng làm giàu, càng có danh, có tiếng nhiều.

Đó là cái số thầy mà người ta chỉ nhắm vào danh, vào lợi, vào số đệ tử để gây cái uy tín của người ta, thì người ta không có nghĩ đến cái lợi ích của cái người đệ tử của mình đến quy y.

Cho nên cái sự quy y, Thầy nói thật sự, quy y thường thường là nếu mà để tỏ ra mà dẫn dắt người đệ tử thì không có được quy y đông. Nghĩa là chỉ trong vòng hai người hay là ba người thì nghiêm chỉnh, ở trong cái giờ phút rất là nghiêm chỉnh để làm cho cái người đó người ta thọ được Tam Quy, người ta thanh tịnh.

Còn mình thọ một lần mười người, một trăm người, hay một ngàn người, điều đó là chỉ gieo cái nhân Phật pháp với họ, chớ còn nó không có nghiêm túc, không có thanh tịnh ở trong cái - không có đắc được cái Tam Quy.

Vì vậy nó - bởi vì cái giới đầu tiên là Tam Quy, mà Tam Quy mà thọ kiểu đó thì kể như là nó chỉ là cái nhân cho tốt cho những người đó, chớ sau này không có người nào mà đắc Tam Quy hết.

Cho nên bây giờ chúng ta nhìn thấy Phật giáo, thì đó là cái tình trạng mà hiện giờ ai cũng biết, chớ không phải là riêng mà Thầy nói đây mà quý thầy không có chứng nghiệm được điều đó.

Trong Phật giáo hiện giờ có những bậc thầy thống kê số đệ tử quy y của mình. Họ lấy đó làm hãnh diện với một số tín đồ đông đảo.

Nghĩa là có người họ thống kê lại: Bây giờ họ được mười ngàn, hai chục ngàn, hay là ba chục ngàn, hay một triệu tín đồ là họ thấy đó là cái hãnh diện nhất của họ.

Chớ còn họ không biết rằng cái số đệ tử đó nó có được giải thoát hay là không được giải thoát, nó có nằm ở trong được thiện pháp hay là không thiện pháp, thì họ chẳng cần, nhưng mà họ chỉ nhắm vào cái số đông đó.

Cho nên có những vị thầy họ đem sổ ra họ thống kê lại coi cái số đệ tử quy y của mình được bao nhiêu. Đó là - thứ nhất là họ thống kê vậy để khoe khoang cho mọi người biết rằng mình có số đệ tử đông như vậy.

Những sự đông đảo ấy nhìn lại không có chất lượng là đệ tử của Phật. Thọ Tam Quy chẳng phải chỉ là vấn đề trên hình thức, mà còn là một vấn đề nội tâm, giúp cho người đó nhớ mãi không quên những pháp thiện, những hình ảnh thiện.

(01:18:36) Bởi vì Phật - Pháp - Tăng là cái pháp thiện, mà những cái hình ảnh của Phật - Pháp - Tăng là những hình ảnh thiện, cho nên cái hình ảnh đó nó ghi khắc mãi ở trong tâm của chúng ta.

Khi mà chúng ta thọ với một bậc thầy mà thanh tịnh giới luật, thì họ chỉ cách cho chúng ta thọ nó rất đúng cách, nó làm cho cái ngày giờ mà chúng ta thọ nó thiêng liêng vô cùng, chớ không phải là đơn giản. Họ tạo ra cái cảnh giới làm cho chúng ta nhớ mãi không quên cái ngày mà chúng ta đến với đạo Phật, đến với ba ngôi Tam Bảo đó.

Ngày thọ Tam Quy là ngày có tính cách trang nghiêm và trọng yếu với một vị thầy giới hạnh nghiêm chỉnh, thiền đức sâu mầu, lực tuệ cao siêu thì vẻ trang nghiêm và trọng yếu càng tăng lên gấp bội.

Nghĩa là có một bậc thầy mà nó thanh tịnh giới luật, mà nó có thiền định sâu mầu và trí tuệ siêu việt, thì cái buổi lễ mà thọ Tam Quy đó nó làm cho cái người đệ tử đó, nó tăng lên gấp bội cái sự trọng yếu, cái sự trang nghiêm đó lên gấp bội trong tâm hồn của họ.

Điều này khiến cho người thọ Tam Quy khó quên, đã từng ghi mãi trong óc họ hình ảnh hành động Từ Bi Vô Lượng của Phật - Pháp - Tăng thể hiện trong ngày hôm đó.

Còn bây giờ chúng ta quy y rồi chúng ta chẳng thấy như là một cái buổi lễ thường thường, rồi một buổi họp để mà vui chơi chớ còn chẳng có nghĩa lý gì ở trong cái ngày thọ Tam Quy của chúng ta hết.

Đó là thọ ba cái giới đầu tiên mà chúng ta thấy một cái người mà bước vào đạo Phật, bước vào cổng của đạo Phật thì tức là phải thọ Tam Quy.

3.3- Ý NGHĨA CỦA QUY Y TAM BẢO

(01:20:12) Vậy thọ Tam Quy là gì?

Từ trên chữ giải thích thì “thọ” là hưởng, chịu lấy, chấp nhận, “tam” là ba, “quy” là quay đầu, quay về. Thọ Tam Quy là chấp nhận trở về ba nơi.

Đây là nói tắt, nói cho đầy đủ nghĩa là thọ Quy Y Tam Bảo. Thọ Quy Y Tam Bảo là trở về chấp nhận nương tựa ba nơi quý báu.

Nói cho dễ hiểu hơn là trở về chấp nhận nương tựa ba nơi thiện pháp cao quý.

Nói một cách khác nữa: Quyết tâm tu tập ba thiện pháp cao quý.

Nói một cách khác nữa: Quyết tâm sống đúng ba giới hạnh tuyệt đỉnh.

Đó thì mình nói cho hết cái nghĩa của nó, để mà khi mà chúng ta phải thông suốt được cái thọ Tam Quy nó như thế nào, vì vậy cho nên ở đây vạch hết tất cả những cái này.

Khi mà một cái người mà quyết tâm đến với Phật thì phải tu tập ba thiện pháp đó, rồi phải sống đúng ba cái giới hạnh tuyệt đỉnh đó, rồi phải chấp nhận nơi thiện pháp đó. Đó là tất cả những cái mà chúng ta muốn, về đó là chúng ta phải chấp nhận như vậy, phải lấy cái đó mà trau dồi thân tâm của mình nữa.

Cho nên nói một cách dễ hiểu để chúng ta hiểu rằng: Khi trở về đó không phải là trở về đó Phật độ mình, hay hoặc mình có tai nạn gì đó ổng xuống ổng rước mình, không phải vậy! Mà chính mình phải trau dồi thân tâm của mình để cái gương hạnh của Phật - Pháp - Tăng đó nó làm một cái nơi để mà chúng ta thấy được, để mà trau luyện cho mình được như những bậc đó, những pháp đó.

Đó là cái chỗ mà chúng ta tự cứu mình, chớ không phải mình quy y Tam Bảo rồi từng đó mình có tai nạn, có bệnh tật thì Tam Bảo gia hộ mình theo cái kiểu mà bây giờ quý thầy hiểu đó: “Tui làm Phật sự chớ Tam Bảo cũng gia hộ tôi!”

Sự thật ra Tam Bảo chỉ là pháp thiện thôi chớ đâu có cái gì mà gia hộ mình? Mà người ta cứ nghĩ tưởng là đó là những cái thần linh, những cái ông thần cho nên cứ phù hộ mình, cho nên hở hở ra: “Tui làm chuyện Phật pháp đây rồi Tam Bảo gia hộ tui!”

Sự thật là làm sao mà có sự gia hộ được! Phật giáo đâu có dạy cái vấn đề đó được. Nhưng mà người ta nghĩ, nghĩ qua một cái thần giáo rồi, cho nên nó có cái quyền năng ở đó để gia hộ mình.

(01:22:27) Sự thật ra mình làm bậy thì mình chịu, mà mình làm đúng thì mình hưởng, tức là cái điều nhân quả nó rõ ràng. Cho nên Phật giáo xây dựng cái đạo Phật nó ở trên cái nhân quả, nó cụ thể và rõ ràng như vậy. Cho nên từ cái bắt đầu mà ba ngôi Tam Bảo đều là thể hiện qua cái thiện pháp, chớ đâu phải là gì khác hơn?

Ba cái thiện pháp ở đây đầu tiên, tức là ba cái giới thiện đầu tiên mà chúng ta hướng về. Và nó là ba cái giới đầu tiên, tức là ba cái pháp đầu tiên mà chúng ta hướng về, chớ đâu phải là ba cái ông thần.

Mà người ta nghĩ rằng ba ngôi Tam Bảo đó là ba ông thần: Ông thần thứ nhất là ông thần Phật, ông thần thứ hai là ông thần Pháp, ông thần thứ ba là ông thần Tăng. Cho nên ba ông thần đó mà ngồi ở trên cái bàn đó rồi phò hộ chúng ta khi mà chúng ta nương vào đó, cũng như là các tôn giáo khác vậy, có ông thần phù hộ đó. Cho nên Phật giáo nó biến thành thần giáo mất đi.

Mà Phật giáo là ba ngôi này nó là ba cái pháp thiện, từ đó Phật là một cái pháp thiện để chúng ta nương vào đó mà chúng ta sửa mình lại trong cái pháp thiện, mà từ đó mà chúng ta cứu mình ra khỏi nhân quả.

Bởi vì nhân quả nó có thiện, ác, mà thiện thì nó đem đến phước báu chúng ta, mà ác thì chúng ta thọ lấy những cái quả khổ.

Ở đây thọ Quy Y Tam Bảo cũng còn nói tắt, nói cho đủ là thọ Quy y Phật - Pháp - Tăng.

Nghĩa là mình nói thọ Quy Y Tam Bảo là mình còn nói tắt đó. Mình nói cho đúng là thọ Quy Y Phật - Pháp - Tăng, tức là mình nương vào ba cái pháp thiện này.

Phật - Pháp - Tăng là gì?

Phật là chỉ Đức Phật, là một con người như chúng ta mà đã sống được với thiện pháp siêu việt, làm gương hạnh sống toàn thiện, chân thiện.

Pháp là lời dạy của Đức Phật, lời dạy toàn thiện, thánh thiện, chân thiện.

Tăng là những đệ tử của Đức Phật, đều là những con người bằng xương, bằng thịt như chúng ta theo Phật tu hành, sống đúng toàn thiện, chân thiện.

Gồm lại những chữ này giải thích: Thọ Quy Y Phật - Pháp - Tăng là quay về nương tựa Đức Phật, vâng theo lời dạy của Ngài và theo gương hạnh các bậc Thánh Tăng tu tập.

Đó, thì như vậy là chúng ta lấy ba cái gương hạnh của ba ngôi Tam Bảo này mà chúng ta tu tập chớ không phải là nhờ ba ngôi Tam Bảo này mà gia hộ cho chúng ta./.

HẾT BĂNG

25 - Ý NGHĨA CỦA QUY Y TAM BẢO

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 25 - Ý NGHĨA CỦA QUY Y TAM BẢO

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- GIỚI LUẬT LÀ BẬC THẦY THAY THẾ CHO ĐỨC PHẬT

1.1- ĐỨC PHẬT ĐỂ LẠI GIỚI LUẬT HOÀN CHỈNH TRƯỚC KHI NHẬP DIỆT

(00:00) Ở đây quý thầy phải hiểu: Phật - Pháp - Tăng là ba giới luật sống động. Vì thế Phật còn sống tại tiền thì tất cả chúng Tỳ Kheo đều nương vào Phật tu tập, Phật dạy sao họ tu tập như vậy, không có tu tập sai.

Cuộc sống của Phật là cuộc sống của giới luật nghiêm chỉnh, không sai phạm một lỗi nhỏ gì. Phật đã chế ra giới luật được nói lên gương hạnh sống giải thoát của Ngài qua hành động sống của Phật.

Cho nên phải thấy giới luật là một điều quan trọng trong việc hành trì theo đạo Phật. Vì thế Đức Phật phải quan tâm đến giới luật, cho nên Ngài phải chế giới nhiều lần để cho phù hợp với không gian và thời gian, có thời điểm và thời đại nào cũng phù hợp và thích nghi được.

Nghĩa là Ngài rất là quan trọng về cái giới luật chớ không phải là Ngài chế giới cái chuyện mà không có quan tâm đến nó. Ngài không có nông nổi mà đặt ra giới đại đâu, mà Ngài phải đắn đo, suy nghĩ rồi mới chế ra cái giới.

Và khi chế ra giới rồi Ngài còn sửa đi, sửa lại nhiều lần để cho nó phù hợp, để cho cái không gian và thời gian nó không có bị không thích hợp, và cái thời đại diễn biến từ cái thời Ngài cho đến về sau, lúc nào nó cũng thích nghi được với cái giới luật đó mà không có cần phải sửa tới, sửa lui.

Ngài quan tâm và hoàn chỉnh giới luật trước khi Ngài nhập diệt. Ngài biết rằng khi Ngài nhập diệt, không có một vị Thánh Tăng nào đệ tử của Ngài đủ tư cách làm thầy cho các vị Tỳ Kheo sau này.

Từ lâu Ngài phải có ý định ai là người thay Ngài để dẫn dắt những người tu sau này, chớ không phải lúc gần chết Ngài nông nổi di chúc “giới luật là thầy” cho chúng ta như vậy.

Nghĩa là Ngài đã nghĩ rằng giới luật là thầy của chúng ta, nó có đủ ba cái oai lực: Đại oai lực, đại thần lực và đại minh lực, thì nó phải đủ ba cái lực như vậy thì nó mới là xứng đáng là thầy.

Mà giới luật của Phật thì nó đủ ba cái oai lực đó, cho nên nó mới xứng đáng là làm thầy của người sau. Và nó không bao giờ có một sự thay đổi nào được hết, vì nó phải tròn đủ, chớ nó không thể thiếu mà nó không thể thừa.

Chúng ta nên xét: Một người như Đức Phật không thể nông nổi, bộp chộp, mà phải có sự đắn đo kỹ lưỡng, nhất là người cầm vận mệnh của tiền đồ Phật giáo sau này mà đặt sai thì quý thầy nghĩ sao?

Một công trình bốn mươi chín năm khai sáng Phật giáo, đem lại một cuộc sống an lành cho loài người trên quả đất này, Ngài lại không thấy trước sự thịnh, suy của Phật giáo hay sao?

Nghĩa là trong khi Ngài đặt cái giới luật mà làm thầy chúng ta, Ngài phải thấy được cái sự thịnh, suy của Phật giáo. Cho nên Ngài mới di chúc cho chúng ta: “Phật giáo còn là giới luật còn, mà Phật giáo mất là giới luật mất”.

(03:14) Chúng ta bây giờ thấy Phật giáo thì tu sĩ nhan nhản mà đều phá giới hết thì Phật giáo có còn không? Chắc chắn là lời Phật dạy chúng ta đã chứng minh điều đó rất rõ mà.

Mà Đức Phật còn nói: “Giới luật còn là Ta còn, mà giới luật mất là Ta mất”, nghĩa là giới luật còn tức là hiện tiền là Đức Phật còn ở tại thế, mà giới luật mất là Đức Phật đã mất. Mà bây giờ chúng ta thấy Đức Phật có còn không? Mất! Bởi vì giới luật đâu còn? Đối với tu sĩ bây giờ đâu có người nào mà giữ giới luật như thời Đức Phật đâu, cho nên giới luật mất.

Cho nên có một vị Tỳ Kheo khi mà ở xa Phật thì lúc bấy giờ đó, Ngài muốn đến để mà gần gũi bên Phật, thì Đức Phật nghe như vậy mới nhắn một người đến nói với Ngài, đến nói với vị Tỳ Kheo đó:

‘‘Khi mà ở xa Phật mà giữ gìn giới luật của Phật nghiêm chỉnh thì như Phật sống ở bên. Còn những người mà sống gần bên Ta hằng ngày mà thấy Ta, mà giới luật không nghiêm chỉnh thì cũng như xa Ta ngàn dặm’!’

Đó phải không? Ngay từ cái lúc mà thời Phật còn sống Đức Phật cũng xác định cái điều đó: Phật còn tại thế tức là giới còn, mà giới luật mất là Phật mất.

Đó, thì như vậy chúng ta đã biết hiện giờ Phật giáo của chúng ta mất hay còn, chúng ta đều xét qua những cái lời Ngài đã di chúc lại thì chúng ta biết. Mà nếu muốn còn thì chúng ta là những người đệ tử của Phật phải làm sao cho nó còn? Thì phải là giới hạnh, giới đức và giới tuệ chúng ta phải nghiêm chỉnh hẳn hòi, thì như vậy là Phật giáo sẽ còn.

Do thấy trước và hiểu biết đó, Ngài đã chuẩn bị hoàn chỉnh giới luật trước khi Ngài nhắm mắt: “Này các thầy Tỳ Kheo hãy lấy giới luật Ta làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành! Giới luật còn là Phật pháp còn, giới luật mất là Phật pháp mất.”

Ngài di chúc lời này tức là Ngài đã chuẩn bị cho đời sau một ông thầy như Đức Phật, như Ngài còn tại thế.

Đó Ngài chuẩn bị cho cái người mà thừa kế Ngài như là Ngài chớ không có thua kém Ngài chút nào hết.

Cũng như bây giờ Thầy có một số đệ tử, nhưng mà đệ tử của Thầy thì người nào cũng có cái sở trường của nó, làm sao Thầy dám di chúc! Ví dụ đó, thì Thầy phải di chúc một cái người nào mà phải toàn diện chớ, thì cái người toàn diện làm sao có được!

Ai cũng có sở trường, sở đoản hết, chỉ có duy nhất là Đức Phật là sở trường tròn đầy. Bởi vì Đức Phật mới có đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực nó tròn đầy, còn mấy ông kia thì một ông thì có đại thần lực nhưng mà không có đại oai lực, không có đại minh lực, một ông thì có đại minh lực mà lại không có đại thần lực thì làm sao mà tròn được, thì làm sao mà làm người hướng dẫn cho chúng ta sau này được?

Giới luật còn là Phật còn, giới luật mất là Phật mất. Cho nên lúc Phật còn tại thế, Phật thường dạy: ‘‘Các ông sống gần bên Ta mà giới luật không nghiêm chỉnh thì như sống xa Ta ngàn dặm. Nếu các ông sống xa Ta ngàn dặm mà giới luật nghiêm túc thì như sống gần bên Ta.’’

Đó cái lời mà Đức Phật nói ở trong kinh nó còn rõ ràng như vậy mà!

Cho nên Phật còn tại thế tượng trưng giới luật toàn chân, toàn thiện, và Đức Phật nhập diệt thì giới luật là ông thầy toàn chân, toàn thiện của chúng ta.

Hôm nay không phải là Thầy ca ngợi điều đó mà chính trong kinh Phật nhắc đi, nhắc lại điều này rất là nhiều. Vì vậy mà chúng ta là người tu sĩ đạo Phật, làm sao chúng ta quên được những lời này, làm sao chúng ta sống mà không giữ gìn giới hạnh mà gọi là Phật giáo được?

1.2- CẦN XÁC ĐỊNH BẬC THẦY GIỚI LUẬT LÀ GIỚI LUẬT NÀO

(06:37) Thế có kẻ ngu si dám đem giới luật của Phật sửa tới, sửa lui, đốt phá lung tung, đốt phá tạng luật của ông Ưu Ba Ly kết tập lần đầu tiên tại hang Thất Diệp, bảo rằng: “Kết tập luật không có viết thành văn!”

Đó là Thầy nhắc lại cái lời mà ở trong kinh nói rằng trong cái lúc mà kết tập kinh điển lần đầu tiên đó, kết tập luật thì không có viết thành văn, cho nên do đó, cái lý luận đó là cái lý luận phá giới đó, cái lý luận mà đập phá giới gốc của Phật đó.

Luật thì phải có một bộ, sao lại có nhiều bộ thế? Một ông thầy thì một ông thầy, sao bây giờ lại nhiều ông thầy quá vậy? Ông thầy nào là chân, ông thầy nào là giả?

Nghĩa là nhìn những bộ luật chúng ta không biết ông thầy nào là ông thầy mình hết, đông quá chừng đông! Cho nên bây giờ luật sao thì có một bộ thôi chớ luật gì mà đủ thứ luật hết?

Mà luật thì có bộ thì nói vầy, có bộ nói khác chớ đâu phải giống nhau hết đâu, nếu giống thì tức là một bộ rồi. Cho nên nó nhiều bộ tức là nó phải có cái khác ở trong đó rồi, chớ không phải là giống hết được.

Cho nên bây giờ chúng ta thấy rằng chúng ta hiện hành bây giờ, Phật giáo chúng ta có sáu cái bộ luật chớ không phải là ít bộ, có cái thì giống có cái thì khác, nhưng mà toàn những cái bộ này đều có những cái dị biệt khác nhau chớ không phải là giống hết.

Các thầy Tỳ Kheo sợ giới luật của Phật, chạy theo dục lạc thế gian, tham đắm sắc, danh, lợi, thực, thùy, cho nên mới đặt ra giới luật mới làm khác đi để chạy theo cái dục lạc của cuộc đời, làm đảo lộn Phật pháp. Hiện giờ thì người tu sĩ không biết ông thầy giới luật của mình là cái ông thầy nào!

Nghĩa là bây giờ đứng trước sáu cái bộ luật này thì chúng ta chẳng biết là cái bộ luật nào là ông thầy của mình hết! Đó thì như vậy là mình thấy quá khó khăn chớ đâu phải dễ.

Phật giáo chia ra làm hai mươi bộ phái, mỗi bộ phái có một bộ luật, vậy đạo Phật hiện giờ có hai mươi ông thầy. Vậy bây giờ biết chọn ông thầy nào như lời Phật đã dạy, đã di chúc?

Ông thầy được kết tập lần đầu tiên thì bị phế rồi, còn hai chục ông thầy mới này, biết ai là thầy của mình?

Hai mươi bộ luật này có những điểm tương đồng, có những điểm khác biệt. Do thế người sau mới lấy các điểm đồng và dị biệt mà kết tập lại thành sáu bộ luật:

(09:12) Đây quý thầy nghe cái tên của sáu bộ luật đặt ra đây:

1. Thập tụng luật;

2. Tứ phần luật;

3. Tăng kỳ luật;

4. Ngũ phần luật;

5. Giải thoát giới bổn kinh;

6. Nhất thiết hữu bộ luật.

Từ hai mươi ông thầy luật này còn lại sáu ông, thì thử hỏi biết ai là thầy của chính mình?

Như vừa rồi chúng ta đã học trong giới kinh có phân chia làm ba loại giới:

1. Giới hạnh;

2. Giới đức;

3. Giới tuệ.

Ba giới kinh này gọi chung là Giới - Định - Tuệ. Giới - Định - Tuệ không phải ngoài giáo pháp của Phật. Giáo pháp của Phật là pháp thiện: Sơ Thiện, Trung Thiện và Hậu Thiện. Vậy Giới - Định - Tuệ là pháp thiện của đạo Phật.

Pháp thiện của đạo Phật là giới hạnh, giới đức, giới tuệ, ba giới này là giới luật của Phật, còn gọi là giáo pháp của Phật.

Riêng giới bổn chỉ là những oai nghi tế hạnh ly dục, ly ác pháp của phần giới hạnh trong giới kinh mà thôi.

Nghĩa là cái giới bổn mà hiện giờ mà chia ra làm sáu cái bộ luật này thì nó thuộc về nằm ở trong giới bổn chớ không phải thuộc về giới kinh. Cho nên cái giới bổn này nó chỉ là chỉ cho chúng ta biết những oai nghi tế hạnh để giữ gìn ly dục, ly ác pháp ở trong cái phần giới hạnh mà chúng ta học ở trong cái phần giới kinh.

Giới kinh thì nó có chia ra làm ba cái giới rất rõ ràng: giới hạnh, giới đức và giới tuệ. Nhưng mà cái phần giới bổn thì nó chỉ là oai nghi tế hạnh li ti để giúp cho chúng ta ly dục, ly ác pháp trong cái phần giới hạnh, chớ nó không được nằm ở trong phần giới đức, nó không được nằm ở trong phần giới tuệ, nó chỉ là nằm ở trong cái phần của giới hạnh mà thôi, tức là trong giới kinh mà thôi.

Cho nên giới bổn dù có thay đổi một trăm ngàn bộ thì nó chỉ là một phần nhỏ trong giới kinh mà thôi.

Bây giờ có chia ra một ngàn, một trăm, một triệu bộ luật đi nữa, chúng ta vẫn xem nó là những cái phần nhỏ của cái trong giới hạnh, chớ nó đâu được toàn diện là giới luật của Phật! Cho nên chúng ta đâu có ngán nó.

Nó chưa đủ sức làm thầy của chúng Tỳ Kheo.

Nghĩa là cái giới bổn chưa có đủ sức làm thầy của chúng ta đâu. Bởi vì nó chỉ mới giới hạnh mà thôi, cho nên nó đâu có đủ sức làm thầy? Nó chưa đủ ba thần lực của nó mà, cho nên nó đâu có làm thầy chúng ta được!

Chỉ có giới kinh mới chính là thầy của các vị Tỳ Kheo sau này.

Đó, thì hôm nay Thầy phân cho để thấy được cái giới nào là thầy của chúng ta. Chớ không khéo họ cứ lấy giới bổn ra làm thầy thì chắc chắn là ông thầy này chỉ chắc chắn là đem chúng ta đi đến cái chỗ chết chớ không có còn cái chỗ sống nữa mà tới nói chuyện về giải thoát.

(12:16) Có một bài kinh nói về khi Phật còn tại thế, có người Bà La Môn hỏi Đức Phật: “Sau này ai là người thừa kế Đức Phật lái con thuyền đạo Phật?” Thì Đức Phật trả lời: “Người thừa kế Phật là người phải có đại oai lực, đại thần lực, đại minh lực!”

Nghĩa là ông Phật ổng xác định cái người mà thừa kế ổng là phải có những cái đại oai lực, đại thần lực như vậy.

Cho nên Thầy có nhắc lại với quý thầy là đại oai lực là như thế nào, mà đại thần lực như thế nào, thì Thầy có nhắc là đại hạnh lực, đại thần lực và đại huệ lực đó, đó là nó ứng vào trong cái đại minh lực, và cái đại thần lực và cái đại hạnh lực của nó.

Vậy đại hạnh lực là gì? Là giới hạnh. Mà đại thần lực là gì? Là giới đức. Đại oai lực là gì? Là giới tuệ, hay hoặc là đại minh lực là giới tuệ. Vậy giới hạnh, giới đức và giới tuệ gọi chung là giới luật của đạo Phật.

Cho nên trong kinh Di Giáo, Phật di chúc: “Này các thầy Tỳ Kheo, khi Ta diệt độ các thầy hãy lấy giới luật Ta mà làm thầy, làm chỗ nương tựa tu hành!”

Đó, trong cái kinh Di Giáo thì Phật chỉ nói như vậy, nhưng mà trong kinh A Hàm hay hoặc là trong kinh Nguyên Thủy thì lại có nói thêm cái chỗ này thêm, để Thầy - cũng là cái lời di chúc của Phật khi mà sắp sửa nhập Niết Bàn, thì Phật bảo hãy lấy giới luật Ta và giáo pháp Ta. Thành ra cái giáo pháp với giới luật nó chia làm hai, cho nên nó không có đúng đâu.

Đó là những cái người sau, người ta lấy cái giới luật đó, để lấy cái tên giới luật đó làm cái giới bổn. Chớ sự thật ra trong giáo pháp của Phật thì nó là giới luật, chớ nó đâu có cái gì khác hơn?

Bởi vì trong những cái Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo là tất cả những cái giới hành, đó là cái hành động để mà chúng ta thực hiện cái giới, chớ đâu phải là nó là pháp gì!

Cho nên họ tưởng Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo đó là giáo pháp, còn cái giới luật là những cái điều mà kê ra cũng như pháp luật đó, là giới luật. Cho nên cái người sau người ta không có hiểu, vì vậy mà người ta đem cái giáo pháp của Phật người ta chia ra làm có giới luật rồi có giáo pháp, thành ra hai cái.

Cho nên cái lời di chúc đó là họ cũng chỉ thêm vô mà thôi. Cho nên trong kinh Di Giáo thì cái lời này Thầy thấy rất đúng, là vì chỉ Đức Phật nói bảo lấy giới luật mà trong giới luật đó thì nó có giới hành.

Giới hành thì tức là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo chớ còn cái gì nữa? Đâu có cái gì mà ngoài ra? Mà lấy Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo làm cái giáo pháp thì nó là cái người không hiểu. Trong cái giới thì nó phải có giới hành rồi, không thể nào mà nói trật được.

Bởi vậy trong giới kinh có đầy đủ pháp hành…​

Pháp hành tức là giới hành đó.

…​ tức là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo, chớ không phải Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo ngoài giới luật mà có. Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo là giới hành của đạo Phật.

Cho nên có kinh ghi lời di chúc: “Hãy lấy giới luật và giáo pháp của Ta làm thầy”, điều này thừa.

Nghĩa là cái lời nói đó là lời nói thừa không có trọn, không có đúng cái nghĩa, mà tức là không có hiểu giới luật của Phật là cái pháp thiện.

Cái người mà ghi lại cái lời di giáo đó là…​ mặc dù là những cái bài kinh đó là những cái bài kinh trong kinh Nguyên Thủy đó, trong bộ kinh Nikaya đó, nhưng mà sự thật ra Thầy cũng vẫn thấy nó là cái sai không đúng.

(15:35) Bởi vì cái đó là hiểu không đúng. Bởi vì giáo pháp thì nó toàn diện ở trong đó, nó có giới và nó có giới hành và giới đức, giới tuệ, giới hạnh của nó đủ, chớ không phải là!

Bởi vì đạo Phật đứng trên nhân quả xây dựng thì nó là thiện pháp, thì thiện pháp nó có Sơ Thiện, Trung Thiện, Hậu Thiện, chớ đâu phải là ngoài cái đó ra mà có được?

Giáo pháp của Đức Phật được xây dựng trên nền tảng nhân quả, cho nên nó phải toàn là thiện pháp, không phải là ác pháp. Mà thiện pháp là giới luật, trong giới luật phải có giới hành, có giới hành mới gọi là giáo pháp.

Bởi vì có cái hành động tu nó mới gọi là giáo pháp, chớ còn nếu mà không có cái giới hành thì toàn giới đó tức là cái kỷ luật rồi, mà là cái pháp luật rồi. Nó không có giới hành thì tức là nó không có tu, bắt buộc người ta phải giữ gìn nó thôi, chớ nó không có - còn cái này người ta có giới hành cho nên nó thuộc về pháp rồi. Quý thầy thấy rất rõ không?

Cho nên muốn làm cho mình được thiện thì mình phải có cái sự trau dồi hành động, cho nên có sự tu tập. Còn cái pháp luật người ta đặt ra người ta có bắt mình trau dồi mình như thế nào không?

Tui bắt buộc anh là không có được ăn trộm là anh không có được ăn trộm, anh ăn trộm tui bỏ tù chớ không có biểu anh phải làm vậy, tập vậy, luyện vậy hay hoặc trau dồi vậy là không ăn trộm.

Còn cái này, cái Phật pháp - cái giới luật của Phật pháp nó có những cái giới hành, cho nên từ cái chỗ bây giờ mình không tham lam, mình không giết hại chúng sanh thì phải tu tập như thế nào, trau dồi như thế nào, thì đó nó có cái giới hành của nó rồi, cho nên nó trau dồi tuần tự, cho nên từng đó mình trở thành thiện pháp.

Đó quý thầy thấy Phật pháp nó hay cái chỗ đó đó, cái giới luật của Phật nó hay cái chỗ đó, nó có cái pháp hành, chớ nó không phải là khô cằn khô cỗi như cái pháp luật.

Mà người ta đưa ra cái giới bổn nó thành ra cái pháp luật, cho nên vì vậy mà bắt chúng ta theo cái pháp luật mà tu hành, chắc chắn là cái đời sống của chúng ta cũng như là chúng ta gò bó ở trong cái pháp luật của một nhà nước nào mà độc tài đi, chắc chắn là người dân trong nước đó đều tiêu hết chớ không sống nổi đâu.

Giáo pháp của Đức Phật được xây dựng trên nền tảng nhân quả, cho nên nó phải toàn là thiện pháp không phải là ác pháp, mà thiện pháp là giới luật. Trong giới luật phải có giới hành, có giới hành mới gọi là giáo pháp. Mà giáo pháp thì không phải là giáo điều, mà không phải là giáo điều thì không phải là pháp luật.

Pháp luật thì có sự bắt buộc, bắt ép, gò bó trong khuôn khổ kỷ luật, pháp luật thì không có pháp hành. Còn ngược lại thì giới luật của Phật có giới hành, nên một điều giới nào đưa ra làm việc lành, tránh việc ác thì có giới hành rèn luyện, tu tập, trau dồi thân tâm con người cho đến khi thuần hóa điều lành đó…​

(18:16) Đó, thí dụ như cái giới luật đưa ra, thì mình có những cái giới hành mình tu tập, mình rèn luyện theo cái hành động, để cho tới chừng mình thuần hóa được cái điều lành đó, làm cho thân tâm của mình ở trong cái pháp lành hoàn toàn là không có sai phạm nữa, chớ không phải nói suông mà bắt trói mình.

Vì vậy mà người mà người ta học giới luật mà người ta có cái giới hành, người ta thấy được cuộc sống người ta nó thoải mái, nó dễ chịu, nó thanh thản, nó an lạc, nó giải thoát thật sự.

Cho nên Phật nói thiết thực, cụ thể không có thời gian, đến với đạo Phật thì ngay đó là chúng ta đã thấy liền. Mà đến với đạo Phật là đến gì? Đến với pháp luật, mà pháp luật có pháp hành chớ không phải pháp luật thiếu pháp hành.

Đó thì chúng ta thấy được cái đạo Phật nó hay là hay cái chỗ này này. Nó đưa con người đến cái thiện, mà nó phải rèn luyện cái thiện cho con người chớ không phải nói miệng suông, hoặc là đưa ra một cái giáo điều nào đó bắt ép người ta.

…​ chớ không có bó buộc, bắt ép ai hết.

Cho nên thí dụ như một người mà đi vào cái lộ trình của người tu sĩ ly gia cắt ái, mà người ta chưa có đủ cái trình độ đó mà ép người ta vào đó sao được?

Cho nên người ta vẫn đứng ở trong cái lộ trình của người cư sĩ, mà người ta vẫn có những cái pháp hành thiện của người ta, thì cũng đem lại cái đời sống hạnh phúc an vui cho người ta, cho xã hội, cho đất nước, cho nên nó vẫn là đem lại cái tốt cho mọi người, chớ đâu phải là chờ cho chúng ta tu hành như cái lộ trình của người tu sĩ mới là giải thoát được đâu!

Nếu người nào biết lấy giới luật của Phật mà làm thầy tu tập thì thoải mái, dễ chịu, an lạc, yên vui và hạnh phúc.

Từng giới luật một, hễ tu được giới nào là có sự an lạc của giới nấy.

Nghĩa là mình chấp nhận cái giới nào là mình tu, mình trau dồi mình trong một cái thời gian thì mình thấy an lạc.

Cũng như bây giờ mình chấp nhận ăn ngày một bữa, mình chấp nhận, rồi mình trui luyện mình, mình tập luyện, rồi mình hướng tâm mình nhắc nhở, cho đến khi cuối cùng thì mình thấy thoải mái, dễ chịu ăn ngày một bữa.

Ở đây không ai bắt ép ai hết à, giới luật của Phật không buộc ai hết à. Bây giờ anh chưa ăn một bữa được thì anh nên ở trong cái giới cư sĩ đi, cái lộ trình thứ nhất đi, anh ăn ba bữa đi, rồi anh sẽ tu những cái - anh trau dồi những cái giới luật khác trong cái tầm vóc của anh, thì anh cũng được giải thoát à. Chớ không phải bắt ép anh vô đây ăn ngày một bữa để làm khổ anh.

Cho nên do cái đạo Phật nó vi diệu, nó hay như vậy, ở từng cái cấp độ của người mà muốn giải thoát, cao thì chúng ta phải giải thoát ở cái chỗ cao để mà chúng ta thoát ra các ác pháp, và cái người thấp thì cũng có những cái pháp để chúng ta rèn luyện ở trong cái thiện pháp thấp, mà cũng đem lại cái sự an vui hạnh phúc của chúng ta.

Chớ Phật đâu có bắt ai cũng ăn một bữa đâu? Nghĩa là xã hội này ai cũng ăn một bữa đâu, đâu có bắt buộc cái điều đó đâu! Chỉ có giới tu sĩ của chúng ta là ly gia cắt ái thì chúng ta mới ăn một bữa. Còn cái giới cư sĩ thì bây giờ Đức Phật đâu có khuyên mấy ông một ngày ăn bốn, năm bữa đâu, nhưng Đức Phật khuyên là ăn uống điều độ.

(21:03) Vì vậy mà chúng ta chọn ăn ngày ba bữa, hay hoặc hai bữa, hay hoặc là bốn bữa, hay năm bữa thì phải ăn điều độ thôi, chứ giới cư sĩ không có bắt ép người ta ăn một bữa, cũng không bắt ép người ta ăn hai bữa, mà cũng không bắt ép người ta ăn ba bữa.

Tùy người ta có của cải, người ta ăn bao nhiêu người ta ăn, nhưng mà ăn điều độ, ăn lung tung, ăn bữa nay ăn hai bữa, bữa kia ăn một bữa, bữa nọ ăn năm bữa thì nó không có điều độ, thì cái thân của họ dễ bị bệnh. Đức Phật khuyên như vậy, chớ đâu có bắt người ta phải ăn một bữa đâu!

Cho nên vì vậy chúng ta thấy cái giới luật của Phật nó rộng rãi, và nó là một cái pháp môn tu hành để đưa chúng ta từng cái sống, từng cuộc sống của chúng ta ăn, ngủ nó cũng có cái sự giải thoát ở trong đó.

Học Phật pháp mà chúng ta hiểu được như vậy thì chúng ta thấy rất là thích thú, vì mỗi cái bước đi, mỗi cái giai đoạn của cuộc đời người, chúng ta đều có cái pháp hành và có cái giới luật thiện pháp của nó kèm theo cái đời sống của chúng ta, làm cho chúng ta hân hoan, an lạc.

Tâm hồn họ hân hoan, luôn luôn vui tươi chẳng biết buồn giận, thương ghét ai, chẳng biết lo toan, sợ hãi ai, dù bất cứ điều gì. Chỉ có một sự trầm lặng bao la khắp cùng, tình thương yêu tất cả muôn loài, sống hòa tan cùng vạn hữu.

Sau khi được nghe lời giảng này, quý thầy đã biết giới luật nào là thầy của quý thầy, chớ không phải sáu bộ luật hiện hành của Phật giáo bây giờ mà quý thầy đã học và đã đọc nó, đã hiểu nó.

Sáu bộ giới luật không có đủ hạnh lực, thần lực và oai lực thì làm sao mà làm thầy của quý vị được?

Những bộ giới luật này nó chỉ là một phần lượm lặt trong giới hạnh của kinh giới và viết ra, lại còn thêm thắt làm lệch lạc oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Phật giáo.

Cho nên thí dụ như họ viết ra họ thêm thắt, họ bảo rằng mình phải ăn thịt chúng sanh bằng cách là không thấy, không nghe này kia, rồi họ tự nhau họ xúm nhau họ ăn thịt chúng sanh bằng cách là không thấy, không nghe, không nghi.

Do đó nó mới có những cái điều kiện sai lệch, làm cho cái người tu sĩ Phật giáo mà nuôi cái tà mạng bằng cái xương máu của chúng sanh ở trong người của mình.

Đó là chạy theo những cái dục lạc mà bằng cách là lấy giới che đậy mình, lấy cái giới mà đặt ra để che đậy mình, tưởng là mình không có phạm giới, nhưng chính đó là cái phạm giới rất lớn và rất nặng.

…​ oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Phật giáo.

Cho nên bây giờ tu sĩ Phật giáo ngang nhiên ăn thịt chúng sanh như cọp ăn. Thế mà giới hành Tứ Vô Lượng Tâm của các ngài từng học trong giáo lý của nhà Phật mà họ để đâu?

Họ ném trong sọt rác để ngang nhiên chạy theo dục lạc thế gian bằng sự thêm bớt giới bổn: “Phật cho ăn thịt chúng sanh không thấy, không nghe, không nghi” để thỏa thích khẩu vị nuôi tà mạng.

(24:11) Những người tu sĩ này mượn giới luật phá hủy đạo Phật giữa ban ngày.

Nghĩa là bây giờ họ ngang nhiên họ ăn thịt chớ không có ăn lén đâu.

Chẳng có vị tu sĩ nào nhập định được cả, và chẳng bao giờ có được Tam Minh.

Nghĩa là cái giới tu sĩ mà ăn thịt chúng sanh như vậy, thử hỏi họ làm sao họ có nhập định được, mà làm sao họ có Tam Minh được?

Họ lý luận đời mạt pháp chẳng có người tu chứng quả A La Hán.

Đó bắt đầu mấy cái lão tu sĩ này họ nói như thế nào? Họ nói cái đời mạt pháp của mình rồi thì không có người nào mà chứng quả A La Hán hết đâu, đừng có mong mà nhập định, chỉ ngồi có hưởng lạc đó làm chút đó là may lắm rồi. Ngồi mà nó không có vọng tưởng nó được yên lạc, nó thích thú đó là đã thiền định của cái thời đại này rồi, là phước lắm rồi, chớ còn không có tới nữa được đâu.

Không nương vào ông thầy giới luật chân chính của mình thì tu hành làm sao chứng được?

Nghĩa là ông thầy giới luật của mình không chân chính thì thân tâm mình làm sao thanh tịnh? Mà không thanh tịnh thì làm sao mình nhập được định, mình làm sao mà có được Tam Minh?

Đó là cái mà chứng nghiệm cho chúng ta thấy là các pháp của đạo Phật nó để chứng minh cho chúng ta đi vào con đường thiền định là phải ly dục, ly bất thiện pháp.

Để một lúc nữa Thầy sẽ nhắc lại: Ly dục, ly bất thiện pháp nó có nhiều cấp độ, để quý thầy biết rằng, khi mà chúng ta nhập vào bào thai, mà cái chỗ ly dục, ly bất thiện pháp nào mà chúng ta biết chúng ta nhập bào thai, còn cái chỗ nào chúng ta sẽ không biết nhập vào bào thai.

Thầy sẽ đọc lại cái bài kinh đó, để cho các thầy thấy rằng Đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rõ: Nó có nhiều cái giai đoạn ly dục, ly bất thiện pháp, chớ không phải là ly dục, ly bất thiện pháp là hoàn toàn là chúng ta sạch hết đâu, không phải!

Hầu hết tu sĩ Phật giáo không có thầy dẫn đạo…​

Nghĩa là bây giờ chúng ta không có ông thầy dẫn đạo.

…​ nên chẳng biết đường tu, tất cả đều tu hành đường lối của đạo Phật theo kiểu tưởng giải của học giả.

Nghĩa là theo cái tưởng giải của cái nhà học giả họ tưởng ra thôi, rồi họ soạn kinh họ viết ra cái kiểu này, kiểu kia, rồi chúng ta chạy theo đó mà chúng ta tu tập, chớ chúng ta chẳng có ông thầy mà dẫn đạo cho chúng ta tu tập.

Còn giới luật là giới bổn thì làm sao có giới hành mà tu? Giới bổn là một loại pháp luật khô cằn như cây khô không nhựa, đụng tới giới luật vị nào cũng le lưỡi. Người nào cũng ráng lắm giữ gìn thì cũng như người tu khổ hạnh của ngoại đạo, cũng chẳng ra gì, cũng chẳng đi tới đâu.

(26:53) Nghĩa là mình có ráng giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh cách gì đi nữa mà theo cái giới bổn thì trở thành là một người khổ hạnh, mà khổ hạnh của ngoại đạo chớ chưa phải là khổ hạnh đúng của đạo Phật nữa đâu.

Cho nên do đó thì cái sự tu hành nó cũng chẳng đi tới đâu, cuối cùng thì cũng chết quỵ ở trên cái sự khổ hạnh đó mà cũng chẳng ra ôn gì hết, cũng chẳng làm chủ sanh tử gì hết.

Bằng chứng như chúng ta đã thấy có một số tu sĩ bên khất sĩ, họ cũng chấp hành giới luật nghiêm chỉnh, họ đi chân không, đi khất thực xin ăn, họ cũng ở trong hang, trong núi, mà họ không có biết cái giới hành, cho nên họ không thực hiện được, họ chỉ ôm chặt cái giới bổn, rồi họ tu tập họ khép mình ở trong những khổ hạnh như vậy, cuối cùng họ cũng chết mòn ở trong hang, trong hốc chớ họ cũng chẳng có giải thoát được gì.

Bởi vậy Phật mới nói khi mà chúng ta khổ hạnh như con bò thì chúng ta sẽ thành con bò, mà khổ hạnh giống như con chó thì sẽ thành con chó chớ nó cũng không thành ông Phật hay hoặc là thành tiên được.

Cho nên chúng ta khổ hạnh ăn rau, thì nữa chúng ta ăn rau riết thì cũng thành rau, thành cải chớ cũng không thành gì! Đó là những cái điều mà chúng ta không có pháp hành, cho nên nó không thành gì hết. Nói bây giờ tui ăn rau cải là tui thiện pháp rồi, tui không có giết hại chúng sanh, nhưng cuối cùng thì mình cũng thành rau cải thì có ra cái gì?

Đó là cái hiểu sai Phật pháp. Bởi vì Phật nói mình hướng tâm về cái nào thì mình sẽ tái sanh về cái hướng đó, cho nên những cái tu hành sai là cái sự hướng tâm sai, cho nên nói “Tui tu vầy, vậy rồi nhiều đời tui sẽ đạt được.” Mình hướng trật, mình hướng phá giới thì làm sao mình hướng đúng giới được? Còn mình hướng đúng giới thì nó sẽ đúng giới.

Cho nên từ ngay bước đầu mình đi đúng là cái lộ trình đó nó sẽ đúng, mà cái bước đầu mình đi trật đường thì cái đường đó nó sẽ dẫn mình đi cái chỗ trật chớ không thể nào mà đi đúng được.

2- Ý NGHĨA CỦA QUY Y TAM BẢO

2.1- QUY Y LÀ QUAY VỀ NƯƠNG TỰA BA NƠI VỮNG CHẮC

(28:39) Bây giờ chúng ta trở về quy y Tam Bảo là ba cái giới sống động đầu tiên của giới luật Phật giáo.

Như chúng ta đã được nghe Thầy giảng, thọ quy y Phật - Pháp - Tăng là quay về nương tựa Đức Phật, vâng theo lời dạy của Ngài, và theo gương hạnh của các bậc Thánh Tăng đệ tử của Ngài mà tu tập.

Ví như cháu bé còn nhỏ sà vào lòng mẹ của nó, nương tựa mẹ nó, tin cậy mẹ nó, vì thế nó có cảm giác an toàn. Sự sinh ra của cảm giác an toàn này xuất phát từ sự bảo bọc thương yêu của người mẹ. Vì thế mà trở về nương tựa với Phật - Pháp - Tăng cũng là sự bảo bọc thương yêu vững chắc hơn sự bảo bọc thương yêu của người mẹ.

Phàm do nơi hành vi hướng về, tin cậy, đặt trọn lòng tin, đáng tin cậy có sự bảo bọc an toàn nhất thì gọi là quy y.

Nghĩa là chữ quy y đó là khi mà chúng ta quay nó về thì tức là phải có một cái sự tin tưởng ở trong cái sự bảo bọc của cái đó, thì chúng ta mới gọi là quy y.

Ở đời chúng ta cũng từng thấy ở cha mẹ…​

Nghĩa là mình ở đời thì mình sanh ra mình có cha mẹ thì mình nương cậy cha mẹ rồi.

…​ học sinh thì tin cậy ở thầy giáo; xí nghiệp thì tin cậy ở dự toán; thuộc hạ thì tin cậy ở trưởng quan. Có người thì tin cậy ở túc mạng, tin cậy ở vận mạng - người ta tin theo túc mạng thì tin cậy ở vận mạng. Người bạo ngược độc tài thì tin theo ở vũ lực, chính khách thì tin cậy vào mưu lược, người tham lam thì tin cậy vào tài sản v.v…​

Ở đây không được gọi là quy y…​

Nghĩa là mình tin cậy vào cái sự đó đó, là không được dùng cái danh từ quy y.

…​ vì sự nương tựa này không có bảo đảm vững chắc.

Nghĩa là mình nương tựa những cái hạng người đó không bảo đảm, như nương tựa cha mẹ mình cũng không bảo đảm vững chắc đâu.

Ví như bị tai nạn, nước lụt lớn, người ta có thể trèo lên một ngọn cây, trèo lên nóc nhà, chạy nên gò nhỏ, nhưng có thể nước và sóng gió to, nước dâng cao làm cho cây ngả, nhà sập, gò nhỏ bị ngập, vì thế mà nương tựa như vậy không có vững chắc, nên không thể được gọi là quy y.

(31:13) Nghĩa là bây giờ mình bị nước ngập đi, mình trèo lên nóc nhà mình ngồi, nhưng mà nước cứ dâng lên thì cái nóc nhà cũng ngập rồi mình cũng tiêu luôn chớ làm sao mình sống được!

Còn cây mình cũng trèo lên đó đặng mình tránh nước, nhưng mà gió nó to quá, nước nó chảy riết, cái cây nó ngả xuống thì mình cũng nhào xuống nước, mình uống nước cũng tiêu luôn. Thành ra mình nương tựa nó đỡ đó chớ còn sự thật ra nó chưa chắc.

Vì vậy cũng như mình nương tựa cha mẹ mình vậy, nương tự như vậy nó đỡ chớ còn thật sự ra nó không có bảo đảm cho cái đời sống của chúng ta là hết khổ, mà nhiều khi nó còn khổ nhiều hơn nữa. Bởi vì ngồi ở trên cây tránh nước chớ trong lòng nó run bần bật, nó tưởng là sắp chết chớ nó đâu có còn sung sướng gì được!

Cho nên mình nương vào cha mẹ chớ mình thấy trước cái chết, cái bệnh tật của mình, cái đau khổ của mình, cha mẹ có đau thế được không? Cho nên nương tựa, chớ nương tựa chỉ an ổn cơm ăn, áo mặc ông ta thôi, chứ ông ta lo cho mình, bà ta lo cho mình đi học đồ vậy thôi, chớ còn sự thật ra sự đau khổ của mình thì ông bà cũng không có gánh cho chúng ta được cái gì hết, cho nên đó không thể gọi là quy y.

Còn ở đây chúng ta quy y ba ngôi Tam Bảo này, nó gánh hết cho chúng ta tất cả những sự đau khổ hết, từ cái sống chết của chúng ta nó đều gánh hết, tức là nó làm hết.

Cho nên có nhiều người hiểu lệch lạc đó mới gọi là Tam Bảo gia hộ đó, đó là hiểu cái lệch lạc. Cho nên mỗi mỗi chúng ta làm gì thì chúng ta nói: “Tôi làm được cái này cũng nhờ Tam Bảo gia hộ”, chớ không ngờ là chính mình làm thiện mà nó được cái đó chớ không phải là chính Tam Bảo gia hộ!

Người ta không hiểu cái nhân quả, cho nên người ta mở miệng ra là nói là trật nhân quả hết rồi, do vì vậy đó, làm lệch lạc cái thiện pháp của đạo Phật mất đi.

Trong hoàn cảnh ấy, nếu gần đó có một trái núi cao, mọi người có thể chạy lên, trèo trên cái núi cao đó. Chỉ có những kẻ ngu si thì mới không có trèo trên đó mà thôi!

Mới bỏ sót cái cơ hội sống sót đó mà thôi, chớ không có điên gì mà có cái núi cao mà trèo trên cái cây hay là trèo trên nóc nhà mà chịu ở trên đó mà để cho chờ chết đâu, không có đâu! Chúng ta biết được như vậy.

Nghĩa là ở đây Phật ví dụ như là trong cái cuộc ngập lụt nó như vậy, thiên tai, thủy hoạn như vậy đó, mà có một cái hòn núi cao, thì trong khi mà nước sắp sửa ngập thì người ta lo người ta chạy trên cái núi cao chớ không ai dại gì trèo nóc nhà mà ngồi mà chờ nước ngập cho chết! Phải không?

(33:27) Chúng ta biết là ba ngôi Tam Bảo là cái chỗ mà chúng ta nương tựa vững chắc, thì chúng ta phải chạy đến ba ngôi Tam Bảo. Chớ bây giờ mình nương cha mẹ mình, mai mốt mình đau cha mẹ mình có chịu được không? Đâu có thay thế được!

Mà mình biết mình nương ba ngôi Tam Bảo, ba cái giới hạnh này, ba cái giới thiện này, thì nó sẽ giúp cho chúng ta thoát ra khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, đau khổ, thì như vậy là chúng ta đã nương tựa cái chỗ rất là vững chắc!

Đó thì như vậy là Thầy ví dụ như một cái - bây giờ giữa một cái cơn thủy nạn như vậy đó, thì mọi người sống ở trong cái khu này, họ phải trèo trên cái núi cao, họ lùa trâu, lùa bò lên trên cái núi cao hết chớ họ đâu có điên gì mà họ trèo trên cái nóc nhà họ ngồi trên đó, phải không? Hay hoặc họ trèo trên cái cây, họ đâu có điên!

Cho nên do chúng ta không có phải là người điên, chỉ có người ngu mới trèo nóc nhà mà ngồi chờ chết chớ còn cái người mà người ta có trí một chút không ai dại gì mà trèo hết. Người ta lùa trâu, lùa bò người ta lên trên núi đó mà người ta ở, làm sao mà nước ngập cái núi được, phải không? Các thầy thấy!

Mà Tam Bảo là cái núi cao để bảo vệ cái sự sống của chúng ta, cho nên chúng ta không có điên đâu. Và cái người mà hiểu biết được Tam Bảo như vậy thì không có bao giờ mà ai mà không quy y Tam Bảo! Còn chúng ta không hiểu cho nên chúng ta thấy “Tam Bảo thường thôi, có cái gì đâu!”

Mà cái người mà mê tín thì quy y Tam Bảo để cho Tam Bảo gia hộ, thì cái đó là biến ông Phật thành ông thần rồi, biến Tam Bảo thành ba ông thần phù hộ rồi, thành ra cũng là lệch mất đi.

Có nhiều người biến ba Tam Bảo này nó thành là khoa học mất nữa rồi. Bởi vì ông nghiên cứu cái nào, cái tưởng giải của ông, ông nghiên cứu cái nào rồi ông ảnh hưởng cái đó cái ổng đem Phật pháp ra ổng xen vô đó à! Ổng muốn làm sao là ổng làm theo cái kiểu tưởng của ổng đó.

Thành ra Phật pháp bây giờ nó xiên xẹo, nó đủ cách hết, làm cho con người ta không biết đường đâu mà tu hết. Hồi thì Phật giáo thì như ông thần, hồi thì Phật giáo như con quỷ, hồi thì Phật giáo nó như là khoa học, hồi thì Phật giáo nói như nhà tâm lý vậy, nói cái tâm của mình nó chia chẻ ra cũng như sợi tóc vậy.

Thật sự ra thì cái chuyện làm của các nhà gợi được cái thị hiếu của con người chứ chẳng đưa con người đi đến chỗ nào mà gọi là thiện pháp, là đem lại an lành hạnh phúc cho con người được hết.

Bởi vì núi cao đem đến sự bảo bọc an toàn vững chắc hơn những chỗ khác. Nó cao chẳng phải như ngọn cây, nóc nhà, gò nhỏ mà có thể sánh nó được.

Người nào nhận thức được thế sự là vô thường…​

Nhận thức được cái thế gian này vô thường, các pháp đều vô thường.

…​ tất cả tướng thế gian đều do nhân duyên đối đãi với nhau mà thành, mà khổ, mà vô ngã.

Đó, người nào mà nhận được như vậy thì người ta mới nhào vô ba ngôi Tam Bảo này người ta mới nương tựa. Cũng như người ta nhận được là nước sẽ tràn dâng lên thì người ta mau mau trèo lên núi cao, còn cái người mà không nhận được:

Người ấy có thể hiểu rõ ràng sự nương tựa về cha mẹ, thầy giáo, dự toán, trưởng quan, vận mệnh, vũ lực, tài sản v.v…​ nó chỉ là bảo bọc an ổn tạm thời, nhưng rốt cuộc những chỗ đó không bảo bọc an toàn vững chắc tuyệt đối.

(36:30) Cha mẹ sẽ chết và không thay thế sanh, lão, bệnh, tử của mình được; tri thức của thầy giáo sẽ lạc hậu; dự toán sẽ siêu ngạch; trưởng quan sẽ bị điều động đổi đi chỗ khác; vận mệnh dựa vào không chắc; vũ lực, mưu lược cùng tài sản cũng không bảo đảm được gì: Hôm nay làm vua, ngày mai thì làm tù nhân; hôm nay thì làm phú ông trăm vạn, ngày mai có thể là kẻ ăn mày đầu đường, xó chợ.

Tín ngưỡng của các tôn giáo khác có thể sanh lên trời, song hẳn do nơi tín ngưỡng mà quyết định được sanh lên cõi trời. Cõi trời ở trong Phật giáo vẫn còn sanh, tử, luân hồi; thọ mạng của trời tuy dài hơn người thế gian song cũng có giới hạn. Phước trời hưởng hết sau khi chết đọa xuống trần gian, do thế cõi trời chưa phải là chỗ nương tựa, bảo bọc vững chắc.

Đó, Đức Phật ví dụ các tôn giáo khác thì xây cõi cực lạc hay hoặc là thiên đàng, hay hoặc cõi trời thế này, thế khác, thì cõi trời nó vẫn là có một cái tuổi thọ nó dài hơn thế gian chúng ta thôi. Mà hưởng hết cái phước báu đó rồi thì nó cũng rơi xuống à, nó cũng còn tái sanh luân hồi, nó đâu có hết được, cho nên nó đâu có vững chắc!

Còn ba ngôi Tam Bảo của Phật thì nó vững chắc, nó chấm dứt sanh, tử, luân hồi, hoàn toàn vĩnh viễn nó không còn có tái sanh luân hồi, không còn có khổ đau nữa.

Còn bây giờ có sanh lên cõi nào rồi chúng ta cũng phải trở về. Nó hết phước rồi nó cũng trở về. Bởi vì nó còn nằm ở trong cái phước của nó mà phước hữu lậu, chớ chưa phải là vô lậu, cho nên hoàn toàn nó phải trở về.

Vì vậy mà đứng ở trên góc độ của Phật giáo chúng ta thấy ba ngôi Tam Bảo tức là ba cái giới mà chúng ta nương vào đầu tiên, nó tuyệt diệu, nó đưa chúng ta đi đến cái mà chỗ chấm dứt sanh tử luân hồi.

Từ ba cái giới này mà nó sanh ra bao nhiêu giới khác để mà chúng ta biết mà chúng ta trau dồi, chớ không phải riêng ba giới này mà nó có.

Cho nên ở trong kinh, mà thường thường ở trong kinh thiền thì các tổ luận: Ba cái giới gốc của nó là tham, sân, si; không tham, không sân, không si đó, thì nhưng mà không phải đâu.

Ba cái giới gốc đó nó đâu có phải nó sanh ra các giới được? Đó các con thấy không? Do đó mà nó chính là Phật - Pháp - Tăng nó mới sanh ra, nếu mà không có Phật thì làm sao có giới này? Chúng ta thấy rõ ông Phật ổng chế giới chớ đâu phải là tham, sân, si, chế giới! Tham, sân, si, nó biết cái gì nó chế giới? Nó là ba cái độc mà, chớ làm sao!

Cho nên mấy ông tổ luận sai hết. Cho nên Thầy thấy đọc ở trong sáu cửa vào động Thiếu Thất đó, Bồ Đề Đạt Ma luận đó, luận là tham, sân, si, là ba giới gốc, Thầy nói mấy ông tổ này cũng bày đặt ra nữa. Cho nên trong cái về mà đọc kinh giới rồi Thầy mới thấy thiệt cái sự bịa đặt của họ quá nhiều, mà họ làm lệch lạc.

Cũng như Bồ Tát giới, các thầy biết là Phật - bởi vì các cư sĩ mà có thọ Bồ Tát giới rồi biết rồi, khỏi cần - chưa có thọ Tam Quy mà vẫn thọ Bồ Tát giới được, có phải không? Người chưa thọ Tam Quy vẫn thọ Bồ Tát giới được.

(39:36) Bởi vì thọ Tam Quy rồi mới thọ Ngũ Giới, mới thọ Thập Giới Sa Di, mới lần lượt mới đi tới ba trăm bốn mươi tám giới Tỳ Kheo Ni. Còn cái này chưa có thọ Tam Quy mà vẫn thọ Bồ Tát giới được, thì cái đó đọc lại cái giới Bồ Tát giới Thầy thấy, cho nên giới Bồ Tát giới là giới của các tổ đặt sau này, cho nên nó ngoài Tam Quy ra.

Tam Quy mới đẻ nó ra chớ? Phật - Pháp - Tăng mới đẻ giới ra chớ? Còn cái này không có Phật - Pháp - Tăng thì ở đâu trên trời nó đẻ ra? Cho nên chưa có thọ Tam Quy mà thọ Bồ Tát giới được thì đó là một cái để cho chúng ta biết rằng cái kẽ hở của các vị tổ làm ra cái này đã là sai rồi.

Mà đọc vô Bồ Tát giới thì rất là cấm không có cho người cư sĩ đi đọc giới luật, thậm chí như cũng ngăn cản không có cho đọc kinh sách Tiểu Thừa nữa là khác!

Đó, chớ tất cả những cái mà nó đã làm lệch lạc thế này, thế khác. Cho nên khi mà nghiên cứu giới luật rồi mới biết được cái sai của các người xưa, mới biết được các ông tổ mình bày đủ thứ hết để làm cho cái Phật pháp bây giờ nó chới với, nó không biết đường đâu mà đi hết.

Từ cái chỗ sai này chúng ta thấy đến cái chỗ sai khác, nếu mà không vạch ra thì không có ai mà còn biết cái Phật pháp nó ra làm sao hết à. Nghĩa là Thầy không vạch ra thì người ta cũng nói Bồ Tát giới đó Phật chế đó, thì mấy ổng cũng viết rồi mấy ổng cũng nói Phật chế.

Nhưng mà không ngờ là cái kẽ hở của mấy ổng nói không có cần thọ Tam Quy mà thọ Bồ Tát giới vẫn được như thường, thì Thầy thấy thiệt là cái kẽ hở để cho chúng ta biết rằng những cái người mà gian xảo nó phải có cái kẽ hở.

Bởi vì cái người dối là làm sao không giấu ai được hết, mà cái người thật thì bao giờ nó cũng phải là không có kẽ hở đó đâu. Người thật là nói sao nó cũng thật, mà cái người dối rồi, giả rồi thì bao giờ cũng còn cái kẽ hở để chúng ta tìm thấy kẽ hở của người đó ra.

Cho nên ở đây, nếu một người mà người ta sáng suốt một chút thì bao nhiêu kẽ hở của các tổ để lộ ra hết, không có che giấu được ta. Bởi vì người gian là không bao giờ mà che giấu ai được hết.

Nhất là Phật pháp là những cái pháp thiện, cái pháp chân thật, cho nên tất cả những người mà làm gian ở trong đó đều là chúng ta vạch mặt được hết, không có cái chỗ nào mà chúng ta không thấy.

Chỉ chúng ta còn phàm phu, do cái tâm ly dục chúng ta chưa hết, cho nên chúng ta còn bị mê mờ, còn bị vô minh ở trong cái màn Ngũ Triền Cái nó làm chúng ta mê mờ, chúng ta không thấy được, cho nên cứ nghe các ông nói làm sao chúng ta tin vậy chứ chúng ta chưa biết.

Nhưng mà khi mà chúng ta quét sạch Ngũ Triền Cái rồi, tham, sân, si, mạn, nghi ra rồi, chúng ta nhìn thấy cái miệng của mấy ông chúng ta biết rằng cái miệng của mấy ông như thế nào chúng ta biết hết, chớ không có bao giờ mà chúng ta không rõ đâu.

(42:10) Cho nên ở đây thì xác định có cõi trời nó cũng không phải cái cõi trời mà có cái chỗ nương tựa vững chắc cho chúng ta. Cho nên các tôn giáo khác mà xây dựng cái thế giới siêu hình của họ, mà cõi trời này, cõi trời kia thì nó không phải là chỗ nương tựa vững chắc.

Cho nên chúng ta thấy tiên nó cứ bị đọa xuống hoài à! Nó xuống dưới trần gian của mình hoài. Ở trển cái nó nhìn xuống đây nó thấy ở dưới này mấy ông này nào là có tivi, video đồ…​ coi sướng quá, cho nên ở trển nó nhào xuống nó đầu thai xuống dưới thế gian chúng ta! Thậm chí như coi chừng Bắc Đẩu, Nam Tào cũng khoái rồi cũng nhảy xuống nữa chớ đừng nói!

Thật sự mà, Thầy nói thật. Bởi vì ở thế gian bây giờ nó khoa học quá chừng, thành ra nó cám dỗ mấy ông tiên ở trển lắc đầu hết: “Trời, tụi nó còn hơn mình! Nó ngồi đây mà nó nói bên Mỹ nghe được, còn mình phải dùng Thiên Nhãn rồi mới được, thành ra bây giờ nó hay hơn mình!”

Phải không? Các thầy thấy rất rõ mà, bây giờ mình ngồi đây mình nói chuyện ở bên Mỹ được. Đó thì, có thua mấy ông trời đó không?

Tụi nó còn hay hơn, nó dùng máy móc, còn mình phải tu tập thấy mẹ, cực gần chết mới làm được! Còn nó giờ nó có gì đâu, nó chế ra hàng loạt, thằng nào nó cũng nói chuyện với nhau được hết, còn mình có thằng nói được, có thằng nói không được, có thằng thấy được, có thằng thấy không được. Đó thí dụ như Thiên Nhĩ, Thiên Nhãn, hai cái thằng quỷ này nó thấy được, còn mình có luyện cái thứ đó đâu mình thấy được, phải không?

Cho nên còn bây giờ tụi nó, nó ở đây mà nó nói chuyện mà nó thấy được hình ảnh ở bên Mỹ bên Pháp á. Cho nên thằng ở dưới thế gian bây giờ nó hay hơn, mình xuống dưới chơi với tụi nó còn ngon hơn! Ở đây cõi trời giờ thua, dục lạc ở trển đâu có bằng?

Nhưng mà sánh với Phật pháp thì tụi nó đâu - bởi vì Phật pháp là cái chỗ mà nó hết dục lạc, còn cõi trời nó còn dục lạc mà, nó còn dục lạc tưởng của nó mà! Đó thì do đó nó đâu có là phải vĩnh viễn đâu, cho nên sanh lên cõi trời các con còn phải thấy.

Cho nên thường thường là những câu chuyện mà người ta nói tiên bị đọa đó. Ở trên trời không có nước tắm, đi xuống dưới mấy cái dòng suối của mình, bây giờ mới có chỗ Suối Tiên đồ đó, mới tắm: “Trời đất ơi! cảnh của mình đẹp hơn ở trển!” Phải không? Thầy nói bởi vậy cho nên đất nước của mình cũng có chỗ tiên tắm chớ bộ không à?

Đó, nó bằng chứng nó cụ thể như vậy đó chớ không phải là Thầy nói thừa đâu. Cho nên đó là những cái mà tiên nó còn dục, mà dục tưởng. Còn chúng ta nó về sắc dục, nó dục thân sắc, nó dục về cái tướng, tướng dục.

Đó cho nên cảnh trên trời nó không có cái chỗ nương tựa vững chắc. Chỉ có ba ngôi Tam Bảo là nơi vững chắc nhất cho chúng ta, tới đó là chấm dứt không còn dục nữa. Cho nên Phật - đạo Phật nói ly dục, ly bất thiện pháp mà, ly hết, cho nên nó không còn dục. Thì không còn dục tức là chúng ta không còn tái sanh luân hồi, chớ không có gì hết.

Chỉ có Phật giáo mới dám dùng chữ “quy y”. Nghĩa là Phật giáo là chỗ nương tựa vững chắc, bảo bọc an toàn, giải thoát mọi nơi, mọi nỗi đau khổ của kiếp người.

Nghĩa là chỉ có Phật giáo mới dám dùng chữ “quy y”, không có bao giờ mà Cao Đài nó nói “quy y Cao Đài Thiên Tôn” đâu, phải không? Các con thấy, “Nam Mô Cao Đài Thiên Ông” thôi chớ nó đâu có dám nói quy y Thiên Ông bao giờ! Hay hoặc là nó có thể nói rằng - Thiên Chúa nói rằng “Quy y Thiên Chúa” bao giờ?

(45:11) Phải không? Các con thấy đâu có dám dùng chữ “quy y” đâu, còn mình dùng chữ “quy y” tức là vững chắc, vào đó là chấm dứt sự đau khổ, không còn tái sanh luân hồi nữa.

Còn tụi nó thì nó còn lên, còn xuống dưới thế gian mình, đi lên, đi xuống, chơi lên, chơi xuống với cái cõi này, vì nó còn thích. Còn Phật giáo thì không còn thích, bởi vì ly dục hết rồi còn cái gì thích, tiêu hết!

Cho nên cái người nào mà còn dục thì chúng ta ở lộ trình thứ nhất mà tu tập thì nó cũng đem đến hạnh phúc cho mình ở trong cái cảnh - coi như là mình hướng thiện thì tức là mình sẽ sanh lên cõi trời, mà mình có ở trên cõi trời mình xuống thì mình cũng cố gắng mình giữ thiện nữa, thì ở cõi thế gian mình cũng vua chúa chứ có thua gì ai! Cũng là sung sướng, cũng đầy đủ cơm ăn, áo mặc.

Thì cái pháp của Phật cái lộ trình thứ nhất là đem cái cuộc đời chúng ta toàn là những người sướng không chớ không có người khổ. Chúng ta có ác pháp đâu mà chúng ta khổ? Mà sanh lên cõi trời thì chúng ta cũng hưởng sung sướng thôi.

Cho nên cái hướng của Phật là cái lộ trình thứ nhất thì đem lại cái đời người cũng được hưởng được hạnh phúc, thì nó cũng tương đương với các tôn giáo khác là sanh lên cõi trời rồi trở xuống hưởng cái cõi thế gian chớ cũng có gì đâu.

Nhưng mà họ lầm lạc, họ xuống đây họ hưởng họ khoái quá họ làm ác cái tiêu họ luôn. Còn chúng ta lại biết thiện, cho nên chúng ta hưởng nó vừa đủ, vì vậy chúng ta không có làm ác, cho nên chúng ta lại trở về cõi trời nữa. Phải không?

Cho nên cái đường của đạo Phật dạy chúng ta không có bao giờ mà trở về cái cảnh địa ngục. Còn thiên hạ không biết, hưởng hết cõi trời cái xuống dưới thế gian này, thấy máy móc này kia đồ, Honda đồ, hay hoặc xe cộ ngon quá lái chạy bậy bạ cán đụng rớt bể đầu chết cái đi xuống địa ngục luôn! Bởi vì ham dục thì phải địa ngục luôn chớ sao!

Đó thì đó là những cái cảnh cám dỗ của thế gian mà tạo họ thành dục, thành ác, cho nên từ đó họ bị rơi địa ngục. Còn chúng ta là những người mà theo Phật pháp trong cái lộ trình thứ nhất thì chúng ta biết thiện pháp cho nên chúng ta không có ham, cái gì có thì chúng ta xài, không có thì thôi, cho nên từng đó chúng ta ở trong thiện pháp rồi chúng ta lại sanh lên cõi trời nữa.

Hết phước cõi trời thì chúng ta trở về cõi thế gian thì chúng ta cũng giữ thiện pháp mà tu nữa, cho nên ở toàn bộ trong cõi thế gian chúng ta cũng hưởng hạnh phúc. Chúng ta đâu có hăng máu anh hùng bất tử mà ra xa lộ mà chạy đua với nhau ngoài đó. Phải không? Cho nên đâu có chết bậy!

Đó là cái thiện pháp mà, Phật dạy đâu có làm cái chuyện đó được! Cho nên người cư sĩ chúng ta vẫn hoàn toàn thanh tịnh tốt.

Tổng thể giới luật của Phật giáo không ngoài ba ngôi Tam Bảo.

Các con thấy, tổng thể của nó mà gồm chung thì chúng ta - giới luật của Phật giáo thì đâu có ngoài ba ngôi Tam Bảo đâu! Đó, hôm nay Thầy vạch ra, các con, các thầy thấy rất rõ.

Cho nên cái giới luật của Phật thì không ngoài ba ngôi Tam Bảo, mà cái giới luật nào mà đặt ngoài ba ngôi Tam Bảo thì coi như là giới của ngoại đạo. Cho nên Bồ Tát giới Thầy được xem như là ngoại đạo chớ không phải là giới luật của Phật.

Bởi vì chưa thọ Tam Quy mà dám thọ Bồ Tát giới thì Bồ Tát giới nó ở ngoài rồi chớ nó đâu ở trong Tam Quy mà ra! Đó, phải thấy được cái chỗ đó.

2.2- CÁCH THỨC QUY Y TAM BẢO

(47:53) Trên thực tế khuynh hướng của quy y trước tiên phải là bắt đầu từ quy y Tam Bảo.

Nghĩa là cái khuynh hướng mà chúng ta theo đạo Phật thì bắt đầu chúng ta phải quy y Tam Bảo chớ không thể nào - thọ Tam Quy chớ không thể nào mà thọ Ngũ Giới trước. Chưa thọ Tam Quy mà thọ Ngũ Giới thì trật đường rồi.

Bởi vì nó có từng cấp bậc của nó mà, từ như thế nào, thế nào. Bởi vì bảy thứ chúng - ở trong đạo Phật nó bảy thứ chúng chớ không phải là ba chúng hay là bốn chúng đâu, nó bảy cái loại đệ tử của Phật ở trong đó, gọi là bảy loại chúng đó. Thì bảy loại chúng đó nó phân ở trong cái giới luật của Phật ra chớ đâu phải là ngoài cái bảy loại chúng đó.

Thí dụ như Tỳ Kheo phải giới nào, mà Sa Di giới nào, Thức Xoa nó ở chỗ nào, và cư sĩ nó ở cái giới nào, cho nên nó phải nằm ở trong cái giới đó mà người ta phân ra bảy cái chúng của Phật.

Chúng ta thấy rõ mà, đâu có phải là - nó có từng cái phần, nó rất rõ là do cái giới luật đó, mà do cái thiện pháp đó, mà cái cấp độ tu tập cái thiện pháp đó, thì cái người đó nó phải ở cái chỗ cấp độ đó.

Đó như vậy là Thầy giải như vậy là quý thầy đã hiểu rõ được cái Phật pháp là cái chỗ đó đó, chớ không phải là cái chỗ nào khác.

Cũng như một người mà thọ Ngũ Giới thì không thể nào mà tu tập ở trong Ngũ Giới mà nó nhiều bằng cái người mà thọ hai trăm năm chục giới được, hay hoặc là bằng một chú Sa Di mười giới được, mình có Ngũ Giới còn người ta tu tập tới mười giới lận, thành ra người ta phải hơn mình rồi, tức là người ta đi gần về cái phía giải thoát hơn mình, chớ không phải là hơn ở trong cái giai cấp, mà đi gần về con đường giải thoát hơn.

Trên thực tế, khuynh hướng của quy y trước tiên là phải bắt đầu từ quy y Tam Bảo ở ngoài thân.

Nghĩa là mình bắt đầu là làm cái lễ đó, làm cái lễ quy y Tam Bảo thì nó ở bên ngoài.

Có nghĩa là hình thức, cách thức tổ chức lễ quy y…​

Nghĩa là nó ngoài thân của mình. Tức là mình phải tổ chức như bữa đó phải bông hoa hay là hương đăng trà quả hay hoặc cái này kia, tổ chức cho trang nghiêm cái cuộc lễ đó, thì nó mới có cái ý nghĩa của cái buổi quy y.

Chớ còn nếu mà mình trơ trẽn để cái bàn Phật như vậy không có bình hoa, không có gì hết, chẳng thèm đốt hương nữa, lại nói bậy bạ, lạy lạy vài ba lạy cái rồi “Tui quy y Phật - Pháp - Tăng” - thì cái điều đó không có đúng cách đâu .

(50:05) Cho nên trước khi mà ngày xưa - Thầy nhắc lại - các vị ngoại đạo cũng như là các vị cư sĩ, khi đến nghe Phật thuyết pháp xong rồi thì Ngài đứng - các vị đó mà muốn làm đệ tử Phật thì các ngài nói lên một cái lời nói.

Nghĩa là từ lâu tới giờ nghe được cái pháp mà Phật dạy rồi cái tâm các ngài nó thấy nó quá đúng, là quá - rất là tuyệt. Cho nên các ngài đứng trước Phật xin: “Con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, xin Tôn giả Gotama chấp nhận cho con là Ưu Bà Tắc hay Ưu Bà Di…​”

Thì các thầy thấy cái lời nói đó, cái lời là quy y đó, tức là quỳ xuống trước Đức Phật mà gọi Đức Phật là Tôn giả Gotama, chớ không phải gọi Đức Phật là Phật. Nhưng mà chính Đức Phật, ở trong Đức - bấy giờ Đức Phật đâu có ba ngôi Tam Bảo đâu, đâu có Phật - Pháp - Tăng đâu, có một mình Đức Phật à, mà trong Đức Phật nó đã đủ ba ngôi Tam Bảo.

Bởi vì Nhất Thể Tam Bảo mà, nó một mà nó là ba trong đó. Phật là cái sắc - cái hình sắc của Phật là Phật, là một phải không? Mà cái lời của Phật nói là Pháp phải không? Mà cái hành động sống mà không có tranh luận, hòa hợp, thì đó là Tăng. Một ông Phật nó đủ ba Phật - Pháp - Tăng ở trong đó chớ đâu phải thiếu.

Cho nên đứng trước Gotama là Gotama, nhưng mà Phật - Pháp - Tăng nhất thể là phải có một cái hình ảnh siêu việt của pháp giới của nó, cái giới luật thanh tịnh của nó trong đó.

Cho nên vì vậy đó mà do đó đứng trước tôn giả Gotama xin quy y Phật - Pháp - Tăng chớ không phải quy y tôn giả Gotama, các thầy phải hiểu cái chỗ đó!

Cho nên đọc ở trong kinh nguyên thủy Thầy thấy tuyệt quá, này là quy y Tam Bảo, mà quy y Phật - Pháp - Tăng chớ không phải quy y riêng có ông Gotama này.

Còn ông Gotama chỉ là Đức Phật Thích Ca thôi chớ gì, nhưng mà chính Đức Phật Thích Ca là Gotama, mà Gotama chỉ là một cái tên để mà đứng ra một con người thôi chứ chưa phải - chỉ là chứng minh cho cái vị cư sĩ đó mà quyết quy y Tam Bảo.

Đó các thầy thấy, Thầy giải thích như vậy là quý thầy thấy hồi xưa đơn giản lắm, không có làm lễ gì hết. Mà khi nghe một bài thuyết pháp rồi nó long trọng vô cùng lận, ngồi trang nghiêm nghe thuyết pháp mà không có hề nhúc nhích, không có hề ngủ gục trong đó, nghe nó thích thú, nghe nó làm sao như là một cái trận mưa - mưa pháp, nó làm cho toàn cả vạn vật nó tươi mát lên.

Cho nên tâm hồn của các vị nó tươi mát lên hết, vì vậy mà khi nghe cái bài pháp rồi thì ngài long trọng quỳ xuống trước mặt tôn giả Gotama mà xin quy y Phật - Pháp - Tăng.

Cái lời nói lên như vậy đó, là cái lời nói tự thâm tâm của mình thấy đúng là cái chân lý để mà đem được cho mình đến giải thoát, cho nên mới đứng ra mà phát nguyện cái lời nguyện lớn, gọi là quy y Tam Bảo.

(52:43) Thì cho nên bây giờ ở trong kinh giới mà dạy về giới đàn tăng đó - cách thức mà để quy y, thì họ không có nói hết cái đầy đủ, nhưng mà họ cũng bắt chước theo kiểu đó, là bắt đầu dạy cho cái người quy y Tam Bảo là phải nói lên Tam Quy đó, rồi tam tiết, rồi tam thệ đó.

Thiệt ra thì cái chuyện tam thệ Thầy thấy nghĩa là nó sau này họ bày đặt ra, chớ thiệt ra đã quy y Tam Bảo là mình đã tin tưởng Phật pháp rồi mình mới quy y, mà còn phải thệ! Thệ tức là không tin, bắt buộc người ta thề, thề rằng quy y Phật rồi không có quy y thiên thần, quỷ, vật gì nữa hết, có phải không? Thề mình quy y pháp rồi thì không có đọc kinh sách của ngoại đạo nữa, phải không?

Đó là những cái thề, nhưng mà ở trong cái chỗ quy y đó Thầy thấy chỗ thề nó không đúng cái tính cách của đạo Phật. Vì đạo Phật không có bắt buộc ai thề.

Thấy nó đúng, thấy nó đem lại sự giải thoát cho chính mình, thấy nó đoạn dứt được cái sự đau khổ của đời mình, thì mình tin tưởng mình theo nó là mình Tam Quy, mình nói lên cái lời nói tha thiết từ thâm tâm của mình, mình nương vào đó để thực hiện những cái đó, đem lại cái sự giải thoát cho chính mình. Đó là cái đúng.

Chớ còn cái Tam Quy rồi tam kết rồi - để kết cho người ta, để người ta sợ, người ta đừng có đi qua tôn giáo khác đó, kéo cho người ta dính vô đó rồi bắt buộc người ta thề nữa!

Cho nên hầu hết là các tôn giáo khác phải đưa tay lên thề, còn Phật giáo mình khôn hơn, bắt buộc ông phải nói ra, ông đừng có quy y thiên thần, quỷ, vật nữa, thì cũng là cái hình thức thề thôi.

Cho nên mấy ông thầy mà sau này họ không hiểu được cái lý giải thoát của đạo Phật, cái lý giới luật của đạo Phật, cái lý thiện pháp của đạo Phật, cho nên nó bày ra những cái điều này.

Chớ ngày xưa ông Phật ổng - Thầy thấy người ta đến người ta quy y Tam Bảo nghe cái dễ dàng, chỉ phát ra cái lời Tam Quy thôi, chỉ nói lên thôi, chớ còn không thấy ông Phật kết nữa.

Ông muốn vậy thì tui chấp nhận cho ông thôi. Nếu mà ông ráng ông tu được thì giải thoát cho ông, còn ông không ráng thì ông chịu chớ, tự ông làm chớ tui đâu có làm dùm ông được, tui đâu có cứu ông được! Cho nên tui đâu có kiết, trói ông vô trong này làm gì?

Nếu ông thấy được thì ông ráng, ông nỗ lực thì ông giải thoát cho ông, còn tui trói vô đây mà ông tu không được là cứ tui cực khổ với ông hoài rồi tui cũng chịu không được nữa, phải không? Cho nên ông Phật không có kiết, mà mình sau này thì mình kiết, tức là mình kết cho ông dính vô á.

2.3- TAM BẢO LÀ BÁU VẬT QUÝ GIÁ NHẤT CỦA LOÀI NGƯỜI

(55:08) Từ hôm nay, chúng ta bắt đầu quay về Tam Bảo tức là quay về thiện pháp. Chỉ có thiện pháp của Phật mới là chỗ an toàn, bảo bọc vững chắc cho chúng ta.

Tam Bảo là gì?

Ở đây Thầy sẽ…​

Tại sao gọi Phật - Pháp - Tăng là Bảo?

Đó là những cái mà để trả lời cho chúng ta biết cái chỗ.

Đây là điều rất quan trọng. Một người muốn tin Phật trước tiên cần phải quy y Tam Bảo, nhưng trước khi quy y cần phải hiểu rõ Tam Bảo, bằng không chẳng hiểu chỗ hay đẹp của Tam Bảo thì không được gọi là chân chánh quy y.

Nghĩa là mình chưa có hiểu nó mà mình quy y Tam Bảo thì nó không có được gọi là chân chánh quy y Tam Bảo. Cũng như, thí dụ như bây giờ mình chưa nghe một cái bài pháp, chưa có hiểu cái bài pháp như thế nào rồi mình vội đó mình quy y, thì cái đó là cái sai.

Cho nên hầu hết là những người mà xuất gia theo Phật cũng như là những người mà quy y làm cư sĩ đệ tử Phật đó đều là những người được nghe pháp rồi sau cái bài pháp đó mới xin quy y, xin thọ quy y, đó thì đó nó mới rõ ràng, và xin xuất gia.

Cũng như một ngoại đạo được nghe Phật thuyết giảng xong rồi, tâm - thâm tâm ổng nó thanh tịnh liền tức khắc, nó thấy đúng rất đúng rồi, nó không còn có một cái nẻo nào khác hơn là cái nẻo của Đức Phật giảng đây, cho nên từ đó xin Đức Phật xuất gia.

Mà vị ngoại đạo đó xuất gia thì Đức Phật nói bây giờ đó, phải bốn tháng chúng tăng sẽ xem xét coi như có thể những cái tà kiến mà từ lâu đã chấp ở trong các pháp của các ông, coi các ông có bỏ không, nếu bỏ thì chúng tôi sẽ chấp nhận, mà nếu không bỏ thì thôi. Thì cái vị ngoại đạo nói bốn năm chúng tôi cũng chịu nữa, chớ đừng nói chi là ba, bốn tháng!

Đó thì ở trong kinh nó hẳn hòi những cái bài kinh nó còn rất rõ ràng như vậy. Cho nên sau khi được nghe pháp rồi thì mới có quy y, mới có là xin xuất gia, chớ còn chưa nghe pháp mà xuất gia, chắc chắn là đến Đức Phật không cho đâu! Không bao giờ mà Đức Phật cho một cái người mà chưa biết pháp Phật mà như thế nào mà…​

Còn mình thấy người ta tập trung vô đông đông đến nghe thuyết giảng gì đó, rồi cái ùn nhau người nào cũng xin quy y, quy y hết chớ chẳng hiểu Phật pháp là cái chỗ nào thiện hay chỗ nào ác, chẳng biết hết, thấy người nào bu theo cái chỗ đó đông đảo thì mình cũng vô đó mà làm theo thôi, nghĩa là xu hướng theo đó, thì cái đó là cái không đúng của Phật pháp.

Cũng như chúng ta muốn thi vào trường đại học để cầu học, nếu chẳng biết tên của trường đại học ấy và trường ấy dạy môn học gì thì quả thật đáng buồn cười!

(57:47) Mình quy y Tam Bảo mà mình chẳng biết cái Tam Bảo là sao hết thì cũng như là mình muốn ghi tên vô đại học đó mà chẳng biết cái trường đại học đó dạy luật hay hoặc là dạy cái gì, mình chả biết, hay hoặc là dạy kiến trúc hay hoặc là dạy gì mình không biết hết, thì như vậy là mình ghi tên đó vô làm sao mình biết đâu mình học? Cho nên mình phải rõ, rõ rồi mình mới ghi tên vô.

Đó ở đây Thầy đem một cái ví dụ nó cụ thể như vậy để chúng ta biết.

…​ và trường ấy dạy môn học gì thì quả thật đáng buồn cười!

Đáng buồn cười cho cái người đó. Nếu mà muốn vào đại học đó mà chẳng biết như vậy thì chẳng qua là mình thấy quá là ngu si rồi, quá là si!

Hầu hết chúng ta phải xác định: Ngày nay đệ tử của Tam Bảo lúc mà thọ quy y chưa hẳn đã hiểu qua đại ý của Tam Bảo.

Nghĩa là bây giờ hầu hết là một cái số người đệ tử của Phật mà thọ quy y, họ chưa có hiểu, thấu hiểu được cái Tam Bảo.

Như nãy giờ mà Thầy dạy, hầu hết là quý thầy chưa có hiểu Tam Bảo, tưởng Phật - Pháp - Tăng là ông Phật nè, rồi pháp của Phật nè, rồi Tăng, chớ đâu hiểu nó là giới luật, phải không?

Hầu hết là bây giờ Thầy vạch ra thì mới thấy nó là giới luật, còn hồi nào tới giờ thì quý thầy tưởng là ông Phật, rồi chúng tăng, rồi pháp của Phật dạy thôi chớ các thầy có hiểu đó là giới luật không?

Đó là những cái mà quý thầy và một số nhiều người hiện bây giờ gọi là tín đồ của Phật giáo đó, họ chưa biết là ba cái này là giới luật của Phật đó, có không? Thầy nói như vậy có phải xét không? Thậm chí như bây giờ chúng ta là những người tu sĩ đi, thọ Tỳ Kheo rồi đây nè, mà chúng ta có biết là ba cái đó là giới luật chưa?

Nếu mà Thầy không nói ra thì chắc chắn là quý thầy cũng nghĩ đó là ba ngôi Tam Bảo là cái nơi mà mình đã quy y là Phật - Pháp - Tăng mà thôi, là chỉ thấy ông Phật, chỉ thấy lời của Phật dạy, chỉ thấy chư tăng mà thôi chớ còn không có thấy gì hết. Thậm chí có nhiều người lại còn không hiểu nữa, nói hiện giờ - chư tăng hiện giờ là mình quy y theo các tăng đó đó, thì còn lệch nữa.

Cái lỗi là ở các thầy truyền thọ quy y chưa chắc ắt hẳn đã khai ngộ rõ ràng về đại ý của Tam Bảo.

Nghĩa là cái lỗi thứ nhất là cái người mà truyền cái Tam Quy cho họ đó, truyền cho họ thọ Tam Quy đó, mà không có khai ngộ cho người ta hiểu cái này nữa. Họ cứ dựa vào những cái lối kinh của các tổ nói thì giống như là ông thần ngồi đó để chứng minh cho chúng ta để thọ quy y thôi chớ còn không có rõ ràng cái gì được hết.

(01:00:15) Nói ra là một điều xấu hổ của Phật giáo bây giờ. Hầu hết là quý thầy đều dựa vào giới đàn tăng mà làm lễ quy y và giải thích theo trong đó, khiến cho người Phật tử hiểu một cách lờ mờ.

Hiểu thì phải hiểu cho rõ ràng còn không hiểu thì thôi, mà hiểu lờ mờ, lờ mờ làm cho người ta chẳng biết gì hết, cho nên người ta càng ngày người ta quy y Phật pháp mà người ta biến ông Phật thành ông thần hết ráo à!

Cho nên vì vậy mà thậm chí như có những bậc tôn túc của chúng ta cũng còn nói là Tam Bảo gia hộ nữa, thì đủ biết rằng từ ông thầy lớn đến người Phật tử mà quy y Tam Bảo cũng vẫn thấy là Tam Bảo gia hộ thì không phải là ba cái ngôi này là thần sao?

Đó là những cái mà chúng ta thấy họ hiểu lệch lạc Phật pháp như vậy đó thì làm sao mà con đường của đạo Phật mà tu tới đâu? Hiểu không đúng làm sao tu cho đúng, hiểu đúng nó mới tu đúng chớ, còn hiểu không đúng làm sao tu cho đúng được!

Tam Bảo là Phật - Pháp - Tăng, bởi vì từ Phật - Pháp - Tăng là ba giới thiện cao tuyệt nên thường sanh ra công đức vô lượng phước báu, phát huy diệu dụng vô tận, hưởng thọ vô cùng, lấy đó chẳng cạn, dùng đó chẳng hết, vô cực, vô hạn, vô bến, vô bờ!

Thế gian cho vàng bạc châu báu, hột xoàn là có giá trị quý báu nhất, công dụng của nó rất lớn cho nhu cầu vật chất thế gian vì thế gọi là “bảo”.

Tức là thế gian là cho vàng bạc châu báu là nó quý báu.

Nhưng mà ngược lại thì phước báu công đức của diệu dụng của Phật - Pháp - Tăng…​

Tức là diệu dụng của cái ba cái giới này thì nó diệu dụng vô cùng lận,

…​ thì thông cả thế gian và xuất thế gian…​

Nghĩa là từ cái chỗ Phật - Pháp - Tăng này nó cả cái lộ trình thứ nhất và cái lộ trình thứ hai, cho nên nó thông cả thế gian và xuất thế gian. Thế gian là giới cư sĩ đó, mà xuất thế gian là giới tu sĩ đó. Tức là từ ở trong ba cái giới này mà nó lưu xuất ra thế gian và xuất thế gian.

…​ phước báu vô lượng vô biên. Vàng bạc của báu chỉ là một phước báu nhỏ của vật chất thế gian chẳng nhằm nhò gì với Tam Bảo.

Phước báu rộng lớn phủ trùm cả thế gian, xuất thế gian, vì thế mới đáng gọi là “bảo”.

Chữ “bảo” ở đây đáng gọi là như vậy đó, chớ còn gọi là “bảo” như cái kia thì “bảo” có chút xíu à!

Như Thầy đã nói ở trên, Tam Bảo là pháp môn thiện, nên khi đã quy y và nương pháp này thì phải được sự giáo hóa của nó, khiến cho người sống bình an, an vui hạnh phúc ở nhân gian, và làm cho con người ở nhân gian lìa khổ, được vui.

Vì thế Tam Bảo là báu vật quý nhất của loài người, cho nên Tam Bảo còn vượt hơn sự quý báu của các thứ quý báu tột đỉnh.

Đến đây Thầy xin dừng lại ở chỗ này, để rồi chúng ta sẽ tiếp tục những cái bài bổ túc thêm cái phần…​

3- LỜI ĐỨC PHẬT DI CHÚC VỀ NƯƠNG TỰA GIỚI LUẬT

(01:03:23) Trước khi mà đi sâu vào giới luật thì Thầy xin nhắc lại lời di chúc của Phật để bổ túc thêm cái phần mà giảng nãy giờ đó, để chúng ta thấy những cái lời di chúc của Phật để chúng ta thấy rõ. Bởi vì hồi nãy Thầy có nói là di chúc của Phật rất nhiều, nhưng mà nó chưa đủ đâu, cho nên Thầy bổ túc thêm cái phần này.

Và bổ túc thêm cái phần nhập thai về cái vấn đề ly dục, ly bất thiện pháp để cho các thầy thấy thấy được cái phần này thêm nữa. Bởi vì nếu mà không có bổ túc ngay chỗ này, thì sau này chúng ta bỏ qua cái này, thì làm cho quý thầy chưa thấy được cái chỗ ly dục, ly bất thiện pháp của Phật là nó tuyệt đỉnh như thế nào.

Cho nên trước khi đi sâu vào giới luật thì Thầy xin nhắc lại lời di chúc của Đức Phật. Đây là lời di chúc của Phật đây:

Này các thầy Tỳ Kheo! Các thầy hãy sống tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa vào một ai khác, lấy chánh pháp làm ngọn đèn, lấy chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa vào một ai khác!

Lời nhắc nhủ thứ hai của Phật:

Này các thầy Tỳ Kheo! Các thầy hãy lấy mình làm hòn đảo, làm chỗ ở vững chắc, rồi các thầy hãy lấy giới luật của Ta làm rào tường bao quanh bảo vệ.

Hãy lấy giới luật của Ta làm khuôn phép, khép mình trong khuôn vàng, thước ngọc này. Hãy lấy giới luật của Ta làm kỷ luật cho chính mình, không hề vi phạm, trái phạm. Hãy lấy giới luật của Ta làm thầy chỉ đạo tu tập, đừng nương tựa vào ai, đừng lấy ai làm thầy, làm tổ của mình, mà phải chính mình lấy giới luật của Ta làm thầy, làm tổ cho chính mình.

Đó là những cái lời của Phật mà Thầy thấy ở trong kinh ghi chép, Thầy đem ra đây để mà ghi lại để cho nó rõ ràng.

Hồi nãy Thầy chỉ trích ra một phần nhỏ để chứng minh cho cái chỗ mà quy y - thọ Tam Quy đó, để thấy cái giới luật của Phật - ba ngôi Tam Bảo nó quý báu như thế nào, và giới luật của Phật mà Phật đã chỉ định cho cái người mà làm thầy cho chúng ta sau này nó như thế nào đó.

Bây giờ thì qua cái lời dạy này, nó rất là đầy đủ và cặn kẽ, thì quý thầy phải hiểu đó là những lời cuối cùng khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Ngài rất là lo cho chúng ta đời sau không có cái ông thầy mà nhắc đi, nhắc lại những cái lời này để chúng ta nhớ mãi mà không quên, để lấy cái ông thầy đúng, cái ông thầy của chúng ta.

(01:05:55) Nhưng mà vì người sau họ làm lệch lạc mất đi, rồi chúng ta thấy giới bổn tức là giới luật, mà thấy pháp mà Phật dạy tu hành là pháp, cho nên đó là những cái họ làm cho lệch. Rồi bây giờ người ta bị lệch rồi người ta không biết là giới luật là những giới nào, mà giáo pháp của Phật là cái nào họ chẳng biết.

Cho nên bây giờ Thầy hợp lại để chúng ta thấy giới luật là giáo pháp của Phật. Mà giới luật thì nó có giới hành, cho nên nó không phải là rời ra gọi là giáo pháp mà là giới hành. Bởi vì giới hành là cái hành động giới để chúng ta đạt được những cái giới mà cái giới nó đã nêu lên, để chúng ta đạt được những cái hạnh và cái đức và cái tuệ của cái giới luật.

Đó, thì hôm nay thì quý thầy đã qua những cái lời di chúc của Phật như vậy thì quý thầy đã nắm rõ và vững vàng, trong những cái lời di chúc này thì nó nằm ở trong kinh Di Giáo hoặc là kinh Du Hành, hoặc là kinh Niết Bàn, những cái lời này đều nó còn nằm ở trong những cái bản kinh đó.

4- BỐN CÁCH NHẬP THAI DO BỐN MỨC ĐỘ TỈNH THỨC

(01:07:02) Bây giờ Thầy nhắc đến cái chỗ mà vì cái vấn đề tu tập về cái giáo pháp thiện này là cái mục đích nó ly cái tâm ham muốn của chúng ta ra, chúng ta thấy nó lìa cái tâm ham muốn của mình ra, mà nó lìa các cái ác pháp ra.

Bởi vì pháp của pháp thiện thì ác pháp nó phải không được xâm nhập vào, cho nên do cái nguyên nhân cái lòng ham muốn nó mới sanh ra ác pháp, mà cái lòng ham muốn không có thì ác pháp nó không có, cho nên phải ly dục.

Mà ly dục được thì ác pháp nó không còn có nữa thì nó toàn là thiện pháp, mà toàn thiện pháp thì nó là Phật - Pháp - Tăng. Đó chúng ta trở về cái bản gốc của nó là Phật - Pháp - Tăng.

Cho nên vì vậy mà chúng ta lấy cái chỗ ly dục, ly bất thiện pháp này chúng ta mới biết được cái chỗ tái sanh luân hồi của mình.

Bởi vì mình không ly dục, ly ác pháp thì nó luôn luôn nó phải tái sanh luân hồi à, nó không làm sao mà nó thoát khỏi được, mà mình ly dục, ly bất thiện pháp thì nó mới có cái chấm dứt được sự tái sanh luân hồi.

Nhưng bây giờ như thế nào để mà chúng ta biết nó:

Có bốn cách nhập thai:

Nghĩa là chúng ta sanh ra nó có bốn cách nhập thai chớ không phải một cách. Bởi vậy cho nên phân tích ra để mà chúng ta thấy rõ nè:

1. Người phàm phu nhập thai thì không biết mình nhập vào bụng mẹ, không biết mình trụ ở trong bụng mẹ, và không biết mình ra khỏi bụng mẹ.

Đó là loại nhập thai thứ nhất.

Đó Đức Phật - cũng như bây giờ quý thầy biết quý thầy vô bụng mẹ quý thầy đâu có biết! Mình vô mình cũng không biết, rồi mình nằm ở trong đó mình cũng chẳng biết, rồi mình đi ra mình cũng chẳng biết, họ đẻ ra, họ đẻ chớ còn mình cũng chả biết gì hết.

Rồi bắt đầu tới chừng mà mình biết được thì mình khóc thét lên đó, thì chắc chắn là có thể nó ngộp thở làm sao đó chịu không nổi mới la lên đặng cho thở cho được đó, chớ còn hồi đó chắc cũng chưa biết gì hết.

Đó, lúc đó là lúc mê muội, ngu si không có tỉnh. Cho nên vì vậy mà mình ly được cái phần nào thì mình tỉnh cái phần nấy.

Đây bây giờ Đức Phật nói cái phần thứ hai để cho người mà biết như thế nào gọi là như thế nào:

2. Lại nữa, có người tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.

Đó bây giờ chúng ta biết cái tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định là cái gì, tỉnh thức chớ gì? Đó quý thầy thấy.

Họ có đủ sức thức tỉnh, khi chết đi họ biết mình nhập thai vào bụng mẹ.

Có sức tỉnh rồi bắt đầu chết đi nhập vào bụng mẹ, thì cũng như mấy ông Lạt Ma mà quý thầy nghe nói mấy ổng là chết đi rồi mấy ổng biết mấy ổng sanh nước này, nước kia đồ vậy đó, mấy chú nhỏ sanh ra mà biết.

Đó là mới có tỉnh thức thôi, mới có Tỉnh Giác Định thôi, chớ mấy ổng có cái gì hay ho đâu! Đó để chứng minh cho chúng ta biết cái điều đó phải không?

(01:09:22) Họ có đủ sức tỉnh thức, khi chết đi họ biết mình nhập thai vào bụng mẹ, nhưng không biết mình an trú trong bụng mẹ, và không biết mình ra khỏi bụng mẹ.

Đó là loại nhập thai thứ hai.

Phải không? Cho nên cái sức tỉnh thức nó làm cho mình cũng có ly bớt dục rồi, bởi vì người ta chửi mình cũng bớt giận. Còn cái người mà chưa có tỉnh thức, người ta chửi mình, mình ăn thua đủ, mình đâu có nhịn ai. Phải không?

Mình tỉnh thức thì mình biết nhịn rồi, tức là mình có nhẫn rồi, tức là có ly rồi đó, phải không? Ly bớt được cái tâm sân, si, phiền não của mình rồi. Đó là ly một phần nhỏ của ly dục, ly bất thiện pháp đó, cho nên nó mới có sức tỉnh đây. Đó là loại thứ hai.

3. Người tu tập Định Vô Lậu, tâm tỉnh thức rất cao và Ngũ Triền Cái xả ly nên khi chết biết mình nhập thai vào bụng mẹ.

Khi mình chết rồi, mình biết nhập vào chỗ nào mình biết. Đó là bắt đầu ông này đã được một phần tỉnh thức cao hơn, cho nên mới xả được Ngũ Triền Cái, lậu hoặc nó đã - người này là tu cái Định Vô Lậu.

Hồi nãy là cái người tu cái định Tỉnh Giác Định - Chánh Niệm Tỉnh Giác Định đó. Còn bây giờ cái ông này hơn chút là ổng tu cái Định Vô Lậu, cho nên cái tâm nhờ cái Tỉnh Giác Định đó đó, Chánh Niệm Tỉnh Giác Định đó, ổng mới xả được cái lậu hoặc của ổng, cho nên Ngũ Triền Cái này ổng xả ly. Phải không?

Cho nên khi chết thì ổng nhập thai vào bụng mẹ thì ổng biết, ổng biết rất rõ.

…​ an trú trong bụng mẹ…​

Ông cũng biết nữa.

…​ nhưng không biết mình ra khỏi bụng mẹ.

Khi mà sanh ra thì chắc bộ hồi đó ổng quay đầu, ổng điên đầu, ổng hết biết rồi, còn hồi ổng nằm ở trỏng thì ổng biết, nhưng mà khi ổng quay đầu để sanh ổng ra đó, chớ còn nếu không quay đầu thì đẻ ngược sao, còn khổ ổng nữa. Cho nên khi mà quay đầu ra chắc dộng ngược cái đầu ổng ra đó, ổng điên cái đầu, ổng giờ ổng hết biết rồi, ổng mê rồi.

Cũng như cái người chết mà lúc gần chết rồi mê man không biết gì nữa đó, thì chắc là lúc sanh ra chắc cũng mê man, thì cái ông này mới có xả được cái triền cái chút ít, cho nên vì vậy mà ổng cũng còn mê chứ chưa có hoàn toàn.

Đó, như vậy là ổng mới xả ly - mới ly dục, ly bất thiện pháp ít ít thôi chứ chưa phải được nhiều, cho nên vì vậy đó mà nó còn cái chỗ mê muội, nó chưa có hết.

4. Có người ly dục, ly bất thiện pháp, khi thân hoại mạng chung biết mình nhập thai vào bụng mẹ, biết mình an trú trong bụng mẹ, và biết mình ra khỏi bụng mẹ.

Đó là nhập thai thứ tư.

Các con thấy, chỉ có ly dục, ly bất thiện pháp không thì mình vô bụng mẹ biết nè, an trú trong đó biết, thì như vậy rõ ràng là chúng ta đi vào con đường Tứ Thiền chứ gì? Cho nên chúng ta muốn thoát sanh có khó không? Quý thầy thấy không?

Bởi vì đầu tiên mà chúng ta đi vào Tứ Thiền thì phải ly dục, ly bất thiện pháp mới nhập Sơ Thiền, phải không? Nhập Sơ Thiền, từ đó cái con đường chúng ta đi, là hoàn toàn đi tới Tứ Thiền là hoàn toàn là ly dục, ly bất thiện pháp hết, toàn thiện, sạch bóng.

(01:12:09) Cho nên cái người này phải nói bắt đầu từ cái Sơ Thiền mà họ đi vào. Họ đi vào cho nên vì vậy mà họ muốn thoát sanh chớ gì? Dễ quá, cái chuyện đó dễ quá, cho nên muốn làm chủ sanh tử nó quá dễ rồi, đâu còn khó nữa, chỉ điều khiển nó.

Bây giờ coi cái nhà nào đó dùng cái - ở trong đó mình dùng cái Thiên Nhãn Minh của mình mình nhìn chớ gì, coi cái nhà nào mà có duyên phước với mình để mình đến mình độ cái gia đình đó luôn cả cha mẹ trong đó luôn hết, anh em dòng họ đó hết, cái mình nhào vô đó cái bắt đầu mình tái sanh.

Thì vô đó mình nhập bụng người ta thì mình đi chớ ai mà - nghiệp ở đâu mà lôi mình, phải không? Mình ly hết dục rồi thì đâu có cái nghiệp nào mà lôi mình được, đâu có ác pháp nào lôi mình đâu, cho nên tự mình đi.

Cho nên ở đây Phật nói: Có người ly dục, ly bất thiện pháp, khi mà thân hoại mạng chung biết mình nhập thai vào bụng mẹ. Biết mình - ở đây Thầy nói biết chớ không phải là đâu, mình nhập thai chớ không phải biết đâu!

Đó, mình tự tại, mình ở trong bụng mình nằm đó, mình muốn nó ba năm là ba năm, mình muốn hai năm là hai năm, mình muốn một ngày nó ra nó cũng ra nữa, phải không?

Đó là cái tự tại của mình mà, chớ đâu phải là - cái quyền lực của mình, mình muốn điều khiển như thế nào, cho nên toàn bộ là khi sanh ra thì mình cũng biết, mà khi nhập vào thì mình cũng biết, khi ở trong đó mình cũng biết, mình tỉnh táo. bởi vì cái sức tỉnh táo quá cao.

Cho nên chúng ta mới thấy: Tứ Thiền mà chúng ta ngồi đây mà như ngủ gục thì làm sao gọi Tứ Thiền? Cho nên người mà nhập Tứ Thiền là người ta hoàn toàn là người ta không có ngủ, ngày đêm người ta không có ngủ, người ta nằm đặt niệm trước mặt người ta tỉnh thức đó, mà người ta ngủ, ngủ mà không mê, cho nên luôn luôn lúc nào cũng biết.

Vì vậy mà khi mình nhập vào Tứ Thiền rất là tỉnh, trời sét không nghe mà vẫn biết rõ ràng, vẫn hẳn hòi đàng hoàng, mà muốn nghe thì nghe mà không muốn nghe thì không nghe. Đó là cái chỗ siêu việt của đạo Phật là như vậy.

Cho nên khi mà chúng ta tu hành mà chúng ta được đến cái chỗ này thì cái sự tự tại sanh tử chúng ta rất dễ dàng.

Và vì vậy mà chúng ta đọc qua bốn cái nơi mà đi tái sanh này, chúng ta thấy rõ được từ cái Tam Bảo này mà nó lưu xuất ra cái thiện pháp, cho nên chúng ta từ ở trong ba cái pháp thiện này mà chúng ta ly dục.

Ly dục tức là chúng ta đi gần về cái thiện pháp rồi, càng ngày càng xa ác pháp rồi. Cho nên cái tâm dục mà càng ly thì cái ác pháp nó càng xa,cho nên nó càng ly ác pháp.

Và đến khi mà toàn thiện thì tức là ly dục, ly bất thiện pháp, cho nên tâm nó thanh tịnh. Tâm thanh tịnh từ đó chúng ta có phải ức chế tâm đâu mà chúng ta đi vào Tứ Thiền một cách rất là tự tại, vì vậy mà chúng ta rất rõ ràng.

Cũng như bây giờ quý thầy ngồi đây mà quý thầy hít thở với cái hơi thở bình thường của quý thầy, mà bắt buộc cho nó đừng có nghe, đừng có biết hơi thở để mà nhập Sơ Thiền thì quý thầy có làm được không? Đâu có được!

Bởi vì tâm quý thầy còn dục nè, tâm quý thầy còn ác pháp nè, làm sao mà thanh tịnh được! Cho nên thở nó cứ - hễ ngồi đây mà không vọng tưởng thì cứ biết hơi thở, nó không rời ra.

Mà thở nhẹ nữa thì thở không được, bởi vì thở có ba giây làm sao thở nhẹ nữa được. Chớ không phải thở mười giây, hai chục giây thì mình thở, mình không thấy hơi thở được, còn đằng này thở cứ ra vô, ra vô liên tục vầy mà biểu nó đừng nghe làm sao nó đừng nghe? Vậy mà người ta nhập Sơ Thiền người ta không nghe!

(01:15:13) Đó thì quý Thầy thấy cái phương cách và cái sự tu tập của đạo Phật nó hay là hay ở cái chỗ này nè. Cho nên chúng ta tu sai là sai mà tu đúng là đúng à. Người tu sai là thấy sai biết liền mà người tu đúng là tu đúng biết liền.

Cho nên hiện thí dụ như bây giờ - mặc dù là bây giờ Thầy nói thí dụ như ở đây, như thầy Thiện Thuận nè, thầy Minh Tông nè, mặc dù là Thầy biết rằng cái Sơ Thiền chưa nhập được, nhưng mà Thầy bảo rằng các ngài đang tập cái sức tỉnh thức đó, nghĩa là tập sao mà cho đừng ngủ, phải không?

Mà khi không có ngủ thì tức là si hết, mà si hết thì Ngũ Triền Cái thì ly dục, ly bất thiện pháp sạch thì tức là nhập Sơ Thiền được. Mà nhập Sơ Thiền được thì Tam Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền quý thầy làm cái rẹt, phải không?

Cho nên chúng ta thấy coi vậy chớ quý thầy đang phá cái si đó, đang tập cho mình tỉnh thức đó. Hàng ngày các thầy đang nỗ lực để tu tập cái gì? Phải không? Các thầy phải hiểu chỗ đó.

Còn quý thầy bây giờ chưa chắc đã làm được như Minh Tông, như Thiện Thuận đâu, phải không? Vì mình chưa có đủ cái sức của mình để mà mình tập cái tỉnh thức đó được, mình nằm xuống mình hít thở ba, bốn hơi thở thì nó đi tuốt luốt rồi, nó mất tiêu.

Còn người ta còn được một giờ, hai giờ người ta nằm - còn được sáu, bảy tiếng đồng hồ người ta nằm đó mà người ta biết hơi thở ra vô, thì đó là sức tỉnh của người ta. Cho nên người ta phá được cái chiêm bao, mà phá được chiêm bao tức là người ta ly được mười tám cái loại tưởng của người ta rồi, chớ còn không khéo thì nó cứ lọt trong chiêm bao không.

Mà bây giờ người ta đã bị những cái trạng thái đó vật tới, vật lui người ta vô cùng tận chớ đâu phải, nhưng vậy người ta đang tập luyện cái đó để mà người ta phá cái si, mà tham, sân, si, là cái si nó rất quan trọng, si không có thì tham nó không có mà sân nó hết, cho nên Ngũ Triền Cái nó quét ra hết.

Các thầy phải hiểu chỗ đó. Đó là cái mấu chốt người ta để đi vào để người ta ly dục, ly bất thiện pháp. Phải hiểu không?

Cho nên vì vậy nghe thì nói các thầy này chưa có ly dục, ly bất thiện pháp, chưa có ly. Sự thật bây giờ họ chưa ly là tại vì họ còn đang ở trong cái sức tỉnh chưa đủ, chớ mà họ tập riết một thời gian nữa thì họ đủ.

Đó, thì như vậy là quý thầy thấy cái chỗ mà tu tập của đạo Phật nó quá rõ ràng và cụ thể, chớ nó không phải mơ hồ đâu. Mà cái người tu nào Thầy thấy chỗ nào đúng chỗ nào sai Thầy biết hết.

Cho nên Thầy xác định bây giờ, như Minh Tông nè, như Thiện Thuận chưa nhập được Sơ Thiền. Bởi vì các ngài thường là tu tập hơi thở từ nào tới giờ, chứ chưa có biết là cái Định Vô Lậu hay hoặc cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức này.

Nhưng mà chính cái Chánh Niệm Tỉnh Giác này nó giúp cho chúng ta cái sức tỉnh thức, nó làm cho chúng ta nằm ngủ mà nó không bị mê tức là phá si mê chớ gì? Quý thầy thấy rõ không?

Mà bây giờ thì những người này họ đang tập để mà phá cái ngủ của họ, tức là phá cái si. Mà phá niệm si được thì minh chớ gì? Do đó lậu hoặc tham, sân, si họ sẽ quét sạch ra. Hễ nó có cái đó rồi nó hết, nó tỉnh rồi thì cái đó nó phải ra thôi, nó phải ly thôi chớ nó không còn ở trong tâm chúng ta được nữa.

Đó. Cho nên từng đó thì bây giờ chúng ta thấy nó cụ thể và rõ ràng của đạo Phật. Cho nên nó đâu có lỗi thời, quý thầy đó tu không mất chỗ nào hết.

Cũng như quý thầy bây giờ tập luyện hơi thở cũng đâu có mất cái chỗ nào đâu. Nhưng mà phải biết cái chỗ nào là chúng ta đang đi để mà phá cái đó cho được, chớ không khéo rồi chúng ta không hiểu rồi chúng ta tu nó riết rồi nó cũng lệch mất đi.

5- KINH NGHIỆM HỌC HỎI GIÁO PHÁP CỦA NGÀI A NAN

(01:18:16) Đó những điều mà Thầy nói. Ở đây hôm nay Thầy thêm một cái đoạn này để chúng ta thấy được cái lộ trình của kinh nghiệm của các bậc Thánh Tăng ngày xưa, từ các cái vị Thánh Tăng từ ông A Nan cho đến ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, mỗi cái vị đều có kinh nghiệm, mà hôm nay Thầy trích ra một phần kinh nghiệm của ông A Nan nói trước.

Bởi vì ông A Nan là người đa văn mà ông chưa chứng đạo cho nên phải thấy cái chỗ tu của ổng trước để mà lấy kinh nghiệm của ổng, phải không? Rồi sau đó mình mới lấy kinh nghiệm của những bậc mà người ta đã tu xong, tu chứng quả A La Hán mình mới được - mình với tới chớ.

Còn mình lấy cái ông cao quá rồi mình đem lại cứu mình thì mình nhìn lại: Mình còn xa quá làm sao mình với cho được tới những kinh nghiệm của ông này?

Đó, cho nên vì vậy mà Thầy biết cách Thầy sắp xếp cho từng bậc Thánh Tăng, những người nào mà tu ở giai đoạn nào để cho nó phù hợp với mình. Thì bắt đầu chúng ta sẽ bắt đầu cái vị Thánh Tăng thứ nhất là ông A Nan.

Ông này cuối cùng Đức Phật chết rồi ổng mới chứng đạo lận, cho nên ổng chẳng biết cái thứ gì mà nói về kinh nghiệm mà chứng đạo trước được, mà ông chỉ biết nói cái kinh nghiệm của ổng trong khi theo Phật mà thôi.

Vậy thì đầu tiên chúng ta theo Phật là phải như thế nào, thì giờ phải giống ông A Nan chớ sao, phải không? Chớ đâu thể nào mà giống ông Mục Kiền Liên được!

Vậy thì bây giờ đây là cái câu chuyện ở trong cái kinh:

Trong rừng Gosinga.

Đây là một cái bài kinh trong cái bộ kinh Trung Bộ tập một, trang 463, bài kinh số 32.

Hôm nay thì tất cả những cái bài kinh mà Thầy bổ túc thêm cho cái giáo án này, Thầy đều nói trang, nói họ, nói tên cho đầy đủ để sau khi đó quý thầy mới trích lục ra đọc lại cái bài kinh đó cho nó cụ thể và rõ ràng. Phải không, cho nên khỏi cần phải đi tìm kiếm cho nó nhiều.

Còn Thầy giảng mà như trong đó Thầy không có nói kinh nào, kinh nào - mặc dù đó là hoàn toàn là những bài kinh của Phật hết chớ không phải là của Thầy nói ra, nhưng mà vì không có chỉ cho nó ở cái chỗ cái bài kinh nào, cuốn kinh nào, thì làm như là các thầy mà đi tìm ra những cái chỗ đó là quá khó.

Cho nên ở đây Thầy muốn vạch ra chỗ này để sau này để quý thầy đi tìm lại những cái bài kinh đó.

Bài kinh này nói lên những kinh nghiệm của các vị đại đệ tử của Đức Phật. Xin quý thầy lắng nghe để rút tỉa kinh nghiệm của các Ngài rồi tu tập cho chính mình.

Bây giờ:

Tôn giả Xá Lợi Phất nói:

Này hiền giả A Nan!

Ông hỏi ông A Nan đó.

Khu rừng Gosinga đêm nay trăng rằm sáng tỏ tuyệt đẹp, cây Ta-la trổ bông cùng khắp, hương trời bay tỏa khắp nơi.

Này hiền giả A Nan, hạng Tỳ Kheo làm chói sáng khu rừng Gosinga này như thế nào?

Bây giờ, cái ông Xá Lợi Phất ổng cũng chơi cắc cớ là trong cái đêm đó chắc có lẽ là trăng sáng quá rồi mấy ổng cũng ngồi, cũng là đem những cái chuyện đạo đồ để mà họp nhau bàn bạc cái kinh nghiệm để mà tu tập đó, thì lúc bấy giờ thì ông Xá Lợi Phất mới hỏi ông A Nan trước:

“Vậy thì ông nghĩ như thế nào? Trong cái khu rừng mà đẹp như thế này, trăng sáng như thế này nè, hương của bông cây Ta-la nó bay khắp như là hương trời làm chúng ta thấy ngào ngạt mùi hương.

Vậy thì người tu sĩ chúng ta làm sao cho cái khu rừng Gosinga này nó lại sáng chói lên nữa, nó đẹp hơn nữa, cái sức tu hành của chúng ta làm sao cho nó đẹp hơn nữa!”

(01:21:38) Thì bây giờ ông A Nan ổng đã trả lời. Bây giờ quý thầy thì lắng nghe những cái kinh nghiệm mà Đức Phật khéo sắp xếp cái bài kinh này cho hợp đường lối tu tập của Phật - của đạo Phật, bắt đầu phải tu cái gì trước, đó thì ông A Nan trả lời là tức là lấy kinh nghiệm…​

Chúng ta phải hiểu cái ý đó. Vì có hiểu được như vậy chúng ta mới lắng nghe để mà chúng ta rút tỉa những cái kinh nghiệm từ của ông A Nan rồi đến những cái bậc kế đó, những cái bậc mà tu gần gần ông A Nan đó, rồi những cái bậc tu xa hơn. Đó những cái kinh nghiệm rất hay.

Mà cái bài kinh này Thầy đọc Thầy thấy ông Phật cũng khéo ổng sắp xếp cái bài kinh này để mà chỉ cho chúng ta từng cái thấp cho đến cái cao trong cái quá trình mà tu tập theo cái đạo của Ngài.

Bắt đầu phải tu cái gì? Đây ông A Nan trả lời:

Ở đây này hiền giả Xá Lợi Phất, Tỳ Kheo nghe nhiều…​

Ông A Nan bắt đầu ổng nói. Bởi vì ổng là người nghe nhiều mà, thành ra ổng lấy kinh nghiệm của ổng, ổng nghe nhiều ổng nhắc chúng ta chớ gì!

Tỳ Kheo nghe nhiều, giữ gìn những điều đã được nghe…​

Nghĩa là phải nhớ giữ gìn những cái điều mà Phật nói, mình nghe hết, đừng có bỏ cái nào hết. Ông A Nan theo kinh nghiệm ổng mà, ổng bảo mình phải nghe cho nhiều, Phật nói gì mình phải nghe, đừng có không nghe, đừng có thiếu, đừng có bỏ, mà nghe cho nhiều.

Và giữ gìn những cái gì mình được nghe, chớ đừng có nghe rồi lỗ tai bên nây nó chui qua bên kia mất đó, cho nên cái đó là cái không nên.

…​ tích trữ lại những điều đã được nghe.

Đó ông A Nan ổng khuyên, cái đầu tiên ổng khuyên mình đó. Tức là ổng lấy kinh nghiệm của ổng, ổng nói ra mà, ổng nói ra như vậy.

Thì chúng ta biết rằng, muốn làm cho cái rừng Gosinga này nó sáng chói lên thì trước tiên là chúng ta làm vị Tỳ Kheo thì chúng ta phải nghe nhiều, và giữ gìn những cái điều mà đã được nghe, và tích tụ lại những cái điều đó, điều được nghe đó.

Vậy ở đây ông A Nan muốn bảo chúng ta nghe cái gì mà phải nghe nhiều, giữ những điều gì đã được nghe, tích tụ những điều gì đã được nghe, vậy nghe cái gì đây?

Đó, mình đặt ra câu hỏi: Ông bảo mình nghe, mình phải giữ gìn và nghe cái gì đây?

Quý thầy nghe ông A Nan nói tiếp:

Những pháp…​

Đó bây giờ ông A Nan ổng nói đây. Đây là những cái bài kinh mà, chớ đâu có phải! Bởi vì ông bảo mình nghe nhiều mà nghe cái gì đây? Không lẽ rồi mình nghe nào là Tứ Thiền, nào là Tứ Niệm Xứ hay hoặc cái này kia, lung tung đủ thứ, nghe cái đó có đúng không?

(01:24:11) Cho nên ổng bảo nghe - cái kiểu mà ổng bảo nghe đây là nghe cái gì? Vì vậy đó cho nên mình phải biết nghe những cái pháp, chớ còn nếu mà không biết nghe thì biết cái gì đây?

Cho nên ông A Nan ổng nói tiếp:

Những pháp Sơ Thiện, Trung Thiện, Hậu Thiện…​

Đó là ổng xác định cho mình nghe, nghe cái pháp gì? Nghe pháp Sơ Thiện, nghe cho kỹ, nghe cho rõ ràng. Rồi nghe cái pháp Trung Thiện, nghe cho kỹ, nghe cho rõ ràng. Và Hậu Thiện cũng phải nghe cho kỹ, nghe cho rõ ràng. Và nghe rồi thì phải giữ gìn và tích tụ, những cái điều nghe đó đừng có để quên.

Đó thì ông biểu như vậy đó.

…​ văn nghĩa phải đầy đủ…​

Nghĩa là nghe phải văn, phải nghĩa cho nó đầy đủ.

…​ Phạm hạnh phải được nói lên hoàn toàn thanh tịnh.

Nghĩa là khi nghe rồi đó thì những cái Phạm hạnh đó thì mình phải được nghe, mà được nói lên những cái Phạm hạnh nó phải thanh tịnh như thế nào, làm sao cho nó được thanh tịnh ở trong những cái pháp này.

Những pháp ấy quý vị phải được nghe nhiều, giữ gìn lấy, được lặp đi, lặp lại nhiều lần, lớn tiếng…​

Ở trong này thì ông A Nan bảo mình lặp đi, lặp lại, lớn tiếng.

…​ được ý tứ, duy trì, được tri kiến khéo quan sát.

Nghĩa là nghe những cái pháp đó rồi, mình phải lặp đi, lặp lại, mà lặp lớn tiếng nữa, rồi phải ý tứ duy trì những cái tri kiến đó, những cái sự hiểu biết đó, rồi còn phải quan sát, khéo quan sát nó nữa.

Vị ấy nói pháp cho bốn hội chúng…​

Nghĩa là khi mà mình hiểu đã biết rồi như vậy đó, thì mình đem ra mình lặp lại cho bốn hội chúng người ta nghe.

…​ văn cú viên dung, lưu loát, với mục đích khiến người hiểu biết đoạn trừ mọi tùy miên.

Cái mục đích của ông đó, là khi mình nghe, mình hiểu biết vậy rồi đó, thì mình làm sao mà giúp cho người ta đoạn trừ mọi cái tùy miên. Như Thầy đã dạy cho quý thầy có bảy cái tùy miên đó mà, phải không? Chớ không phải đây thùy miên đâu nhen! Bảy cái tùy miên chớ không phải là một.

Do vì vậy đó, cái mục đích của ông A Nan ở đây là khi nghe nhiều, hiểu nhiều, là ở trong cái pháp Sơ Thiện, Trung Thiện, Hậu Thiện, tức là pháp thiện của Phật, toàn thiện đó, lấy cái pháp thiện đó mà làm sao mà cho đoạn dứt bảy cái tùy miên.

Đó là cái mục đích của ông A Nan, chớ ổng không có nói thiền, nói đạo gì hết. Nghĩa là lấy cái pháp thiện đó mà đoạn dứt tùy miên, làm cho cái tâm mình nó đừng miên man ở trong đó, nghĩa là đừng có nối tiếp.

(01:26:27) Thí dụ bây giờ mình ham ngủ tức là thùy miên rồi đó, phải không? Mình vọng tưởng gọi là trạo cử tùy miên đó, tùy miên nó liên tục, nó nghĩ lăng xăng cái này cái kia, phải dứt cái đó đi. Rồi bây giờ sân tùy miên, sân mà nó cứ kéo dài ngày này qua ngày khác, nó tùy miên đó.

Còn ham muốn cái gì đó mà không chịu dứt nó ra đó, thì nó kéo, nó làm sao mà cho đến khi mình mua sắm được cái đó đó, gọi là tùy miên đó, nó lôi mình hoài đó, gọi là tùy miên. Chẳng hạn là thèm cái đó, thèm cái bánh hay cái trái gì chưa ăn được cứ nhớ hoài đó, nó gọi là tham tùy miên đó.

Đó nó kéo dài mình hoài đó. Mình nghi người nào đó, mình cứ nghi người ta ăn trộm hoài đó, thì đó là nghi tùy miên. Còn cái ngã của mình ai đụng tới nó sừng ra đó, thì đó là ngã tùy miên, nó làm cho bự ra đó, đó là nó tùy miên, nó lôi mình hoài mà mình không chịu chấm dứt.

Cho nên bây giờ đó, mình học Sơ Thiện, Hậu Thiện, Trung Thiện này để mục đích của mình là đoạn dứt mấy cái tùy miên này.

Đoạn dứt nó có hết không? Nó chưa có hết! Ông A Nan thì ông nói đoạn dứt như vậy là ngay cái mình giận mình biết: À bây giờ nó tùy miên cái giận này, bây giờ mình đừng có giận nữa nè, không có giận nữa nè!

Giận là nó tùy miên, cho nên nó cứ làm miên mật, nó làm cho liên tục cái sự giận của mình, kéo dài ngày này, cái mặt cứ buồn buồn hoài đó là nó tùy miên ở trong đó chớ gì?

Cho nên bây giờ: “Vui lên, không có được giận nữa! Giận như vậy là tùy miên, phải đoạn dứt nó đi!” - thì như vậy nó có hết giận không? Chưa, phải không? Cái ông A Nan - cái kinh nghiệm ổng bây giờ mới có dứt sơ sơ được cái - dứt tùy miên sơ sơ thôi.

Đó quý thầy thấy ông A Nan, ổng dạy cách tu chúng ta đơn giản không? Đâu có khó gì, giận: “Thôi bây giờ đừng giận nữa! Giận khổ chớ làm gì giận!” Mình nói vậy cái nó cũng bớt giận chút chút, tức là nó bớt tùy miên chút đó! Đó là cái lối của ông A Nan dạy.

Như vậy nó cũng làm sáng chói được cái khu rừng Gosinga này, phải không? Các con thấy, nó bớt được cái đó nó làm sáng chói chớ gì, tức là có giải thoát trong đó rồi!

Đến đây Thầy xin dừng lại để quý thầy suy ngẫm. Đó, bây giờ đó mình suy ngẫm cái giai đoạn đầu đi, rồi ngày mai này mình sẽ học thêm được cái của người khác nữa, phải không? Bắt đầu để mình suy ngẫm chớ. Còn nếu mà Thầy đưa ra một lố kinh nghiệm, bắt đầu quý thầy không biết cái kinh nghiệm nào hết!

Bắt đầu mình dứt sơ sơ cho nó bớt tùy miên chút đi, thì đó là cái đầu tiên. Mà cái đó phải nghe nhiều, rồi phải tích tụ những cái sự nghe ở trong các pháp, - pháp thiện: Sơ Thiện, Hậu Thiện, Trung Thiện.

Đó, thì như vậy chúng ta thấy cái kết quả của sự tu tập chưa? Mà bây giờ Thầy nói nhiều quá thì tức là quý thầy sẽ mất đi.

6- NÊN VIẾT RA GIẤY ĐỂ THƯA HỎI KINH NGHIỆM TU TẬP

(01:28:52) Và bây giờ thì tiếp tục là quý thầy - nếu mà quý thầy không có hỏi gì thì Thầy tiếp tục ở trong cái bài giảng, mà nếu quý thầy có hỏi thì chúng ta sẽ ngưng lại đây mấy phút để mà thưa hỏi những cái điều kinh nghiệm tu tập. Bây giờ chấm dứt chút đi.

Theo Thầy thiết nghĩ thì quý thầy nên viết một cái - thí dụ như muốn hỏi Thầy trong cái kinh nghiệm tu hành nào đó, thì để cho nó có cái lợi ích chung về sau đó, thì quý thầy sẽ viết trong cái tờ giấy hỏi những câu hỏi:

“Con bữa nay hay là ngày mai, hay ngày mốt, hay là hôm qua, hôm kia gì đó, con tu tập cái trường hợp mà con thấy vậy có đúng hay sai”, hoặc “Con hiểu qua cái bài Thầy giảng đó như vậy, vừa rồi đó, thì con hiểu cái đó nó như thế nào, thế nào, có đúng hay là sai?” Vì vậy mà do đó nó sẽ làm sáng tỏ thêm trong cái giáo án của chúng ta hơn.

Và cũng là trong cái lúc mà chúng ta đang có những cái phút mà gần bên Thầy để thưa hỏi những cái kinh nghiệm tu tập, cho nên do đó mà ghi lại những cái lúc mà mình tập ở trong hơi thở ổn định, hay hoặc là nhiếp tâm ở trong cái hơi thở để cho mình giúp cái tỉnh thức của mình, để cho nó phá được cái buồn ngủ, để cho nó phá được cái si mê.

Hoặc là tu những cái Định Vô Lậu mà đặt cái niệm - cái pháp hướng đó, để mình dùng cái pháp hướng để mà quét sạch những cái lậu hoặc của chúng ta, thì có nhiều người đặt sai, mà cũng có nhiều người đúng.

Cho nên những cái đặt sai, đặt đúng này được Thầy minh xác lại để mà chỉ định cho nó đúng, sai, rồi cũng rút tỉa từ kinh nghiệm đó, thì quý thầy dễ dàng nhận ra được.

Đó, vì vậy cho nên quý thầy có thể lấy một cái tờ giấy hay hoặc là ghi lại ở trong cái tập giấy của mình, cũng là lưu lại những cái kỷ niệm tu hành của mình chớ gì, thì do đó quý thầy cứ để cái tập giấy sau khi những cái buổi giảng vầy đó, thì quý thầy có hỏi gì đó thì quý thầy cứ để cái tập giấy lên đây, thì Thầy sẽ lật ra cái trang đó, Thầy sẽ thấy hỏi thưa vậy, Thầy sẽ trả lời.

Do đó thì chúng ta lại được thu vào băng, và đồng thời cũng là cái kinh nghiệm sống để cho quý thầy tu tập, và cũng là người sau. Nó có lợi ích cho mình và cho người sau sau này rất lớn./.

HẾT BĂNG

26 - CÁC CHỦNG LOẠI TAM BẢO

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 26 - CÁC CHỦNG LOẠI TAM BẢO

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- PHÂN BIỆT TAM BẢO DỰA TRÊN SỰ TƯỚNG VÀ LÝ THỂ

(00:00) Đó thì, đến đây thì hôm nay Thầy sẽ thuyết giảng luôn. Bởi vì nó chưa có chuẩn bị trong cái phần này, cho nên tiếp tục Thầy sẽ giảng cho quý thầy về cái phần - để mà hiểu rõ về cái phần Tam Bảo hơn, để tiếp tục cái phần quy y Tam Bảo.

Đến đây quý thầy đã hiểu rõ Tam Bảo là quý báu như thế nào rồi. Bây giờ chúng ta kê ra chủng loại Tam Bảo.

Mình đã hiểu rõ Tam Bảo là cái phần mình hiểu ở cái phần đó, nhưng mình chưa biết là cái chủng loại Tam Bảo như thế nào nữa. Bởi vậy giảng thì phải giảng cho sạch chớ còn giảng không sạch thì hiểu lờ mờ làm sao?

Làm ông thầy mà giảng không hết như thế này thì Thầy thôi chẳng thà đừng có làm thầy, mà làm thầy thì phải làm cho trọn cái bổn phận của mình là phải làm sao cho người ta hiểu cho hết cái Phật pháp.

Cho nên đến đây thì quý thầy đã hiểu rõ Tam Bảo là quý báu thôi, mới có hiểu rõ nó là quý báu thôi, chớ còn chưa có biết nó là cái chủng loại nào là Tam Bảo được, cho nên ở đây tiếp tục Thầy sẽ giảng cho quý thầy hiểu rõ cái chủng loại của Tam Bảo.

Xưa nay có nhiều cách phân biệt. Từ ở trên đại thể mà nói, chẳng ngoài do sự bất đồng của sự tướng và lý thể, nay Thầy làm lại.

Nghĩa là trong cái sự bất đồng của sự tướng và lý thể của nó do cái chủng loại của Tam Bảo, cho nên vì thế mà Thầy phải làm lại cho nó rõ ràng ra để cho chúng ta thấy được cái chủng loại Tam Bảo nào cho nó cụ thể hơn, cho các thầy sẽ nhận ra được.

Chớ còn nếu mà nói mà không rõ thì làm cho quý thầy chưa thấy cái sự tướng của Tam Bảo và lý thể của Tam Bảo như thế nào.

Quý thầy ghi lại:

1. Từ trên sự tướng có trụ trì Tam Bảo và hóa tướng Tam Bảo.

Đó, từ trên cái sự tướng thì nó phải có - nó có cái trụ trì Tam Bảo và hoá tướng Tam Bảo. Chúng ta phải hiểu cái chỗ đó, chớ không khéo nghe nói Tam Bảo thì chúng ta cứ tưởng là cái ông Phật bằng xi măng này nó là Tam Bảo, phải không?

Hay là một đống kinh để trong tủ sách kia là Tam Bảo, hay hoặc là mấy ông thầy mà đi khất thực ở ngoài đường kia là Tam Bảo. Thì cái đó nó thuộc về Tam Bảo gì? Mình phải hiểu chớ!

Vì vậy đó mà bây giờ đó mình phải phân loại ra, làm cho sáng tỏ cái này ra, chớ để mà không khéo thì chúng ta hễ hỏi Tam Bảo thì chúng ta nói: Trong chùa thờ mấy ông Phật đó là Phật Bảo, còn cái tủ kinh sách đó là Pháp Bảo và mấy ông Tăng ngồi đây mà thọ trai đây là Tăng Bảo.

Thì cái đó là thuộc về cái loại Tam Bảo nào? Nó cũng có cái loại Tam Bảo nó chớ không phải không. Cho nên nó còn nhiều cái loại lắm chớ đâu phải có hình thức đó không! Cho nên:

Từ trên sự tướng có trụ trì Tam Bảo và hóa tướng Tam Bảo.

Đó những cái danh từ này thì quý thầy mà chưa có nghe thì nghe nó lạ, còn hễ đã nghe rồi thì nó không lạ lắm.

2. Từ trên lý thể…​

Hồi nãy đó là tướng đó, từ ở trên tướng - sự tướng thì nó có như vậy, mà bây giờ từ ở trên cái lý thể thì nó như thế nào?

(03:15) 2. Từ trên lý thể nó có nhất thể Tam Bảo và lý thể Tam Bảo.

Đó, cho nên nó hai phần nó rất rõ ràng mà: sự tướng rồi lý thể. Cho nên nó phải thấy được cái chỗ này. Mà nếu mà không hiểu thì quý thầy chẳng hiểu như thế nào hết.

Trước khi Thầy giải thích chủng loại Tam Bảo, đầu tiên Thầy cần phải chỉ cho quý thầy biết hàm ý của Tam Bảo.

Cái hàm ý là nó bao gồm hết đó, phải biết cái hàm ý của nó, còn nếu mình không có bao gồm hết cái Tam Bảo thì mình đứng ở trên cái đó, coi như mình phân tích ra nó rời rạc ra mất tiêu hết rồi.

Cho nên vì vậy đó, phải thấy được cái bao gồm của cái ý của Tam Bảo trong đó rồi mới phân tích trên sự tướng và lý thể của nó mới được.

Phật là người giác ngộ, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

Đó, còn:

Pháp là phép tắc, là khuôn khổ, khiến cho người ta hiểu được và có khả năng tu tập, trau dồi, dứt bỏ các pháp ác, tăng trưởng các pháp lành, đó là Pháp Bảo.

Còn hồi nãy đó là cái người mà giác ngộ, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn đó, đó là Phật Bảo. Chúng ta phải hiểu nó bao hàm cái nghĩa của nó trong đó mà!

Tăng là hòa hợp chúng, hòa hợp mọi sự nơi cái lý chung với nhau.

Tức là nơi cái mục đích giải thoát chung nhau đó thì Tăng là phải có cái sự hòa hợp, mà Tăng mà không có sự hòa hợp thì nó không phải là cái mục đích chung của Tăng.

Vì vậy dù là bây giờ có hàng trăm Tăng mà không hòa hợp thì đương nhiên không được xem là Tăng. Mà Tăng mà có hòa hợp thì đương nhiên mới gọi là Tam Bảo, còn Tăng không hòa hợp thì đương nhiên là không được gọi Tam Bảo.

Cũng như bây giờ quý thầy thấy các thầy chống đối nhau bằng pháp môn này, pháp môn khác, ca ngợi nhau thì như vậy là Tăng không hòa hợp. Mà Tăng không hòa hợp thì tức là Tăng chống trái nhau, mà Tăng chống trái nhau thì không thể gọi được là Tăng Bảo.

Cho nên bây giờ mà muốn chọn Tăng Bảo thì phải chọn những vị Thánh Tăng trong thời Đức Phật nó mới có sự hòa hợp.

Đó thì hôm nay là nó bao hàm để mà chúng ta hiểu được cái nghĩa của Tam Bảo nó rõ ràng như vậy.

2- CÁC CHỦNG LOẠI TAM BẢO

2.1- TRỤ TRÌ TAM BẢO

(05:30) Bây giờ về cái phần:

1. Trụ trì Tam Bảo

Như hồi này mà Thầy nói cái phần một, nó có về cái sự tướng của nó - trụ trì Tam Bảo. Vậy trụ trì Tam Bảo là như thế nào? Bây giờ chúng ta phải thấy đây, Thầy giải thích ra:

1- Như dùng ngọc mà chạm; đá mà khắc, vàng mà đúc, nấu; đất mà đắp; xi măng mà đắp lên; gỗ chạm, sơn dầu, mực họa, thêu trên vải, vẽ ở trên giấy…​ Hình tượng Phật ấy là Phật Bảo.

Rõ ràng không? Bởi vì đó là cái trụ trì Tam Bảo mà, phải không? Cho nên như cái tượng Phật xi măng mình đây đó cũng là Tam Bảo chớ, cũng là Phật Bảo đó chớ.

Rồi có người thì người ta làm bằng lò gốm người ta đúc ra, có người lấy gỗ mà khắc, có người lấy đá mà chạm, rồi có người lấy ngọc mà làm. Tất cả những cái hình ảnh mà trở thành cái hình ảnh của một con người mà ngồi thiền, kiết già đồ đó, thì đó là hình ảnh của tượng Phật đó, thì gọi là Phật Bảo.

Phật Bảo đó là gọi là trụ trì Phật Bảo, hiểu không?

2- Tam tạng kinh điển hoặc là trứ thực về Phật giáo của chư Đại Đức xưa nay, ấy là Pháp Bảo.

Nghĩa là kinh điển của Phật như tam tạng kinh điển đó, bây giờ cất ở trong tủ đó, thì chúng ta gọi là trụ trì Tam Bảo đó, đó là Pháp Bảo - trụ trì Tam Bảo đó.

Đó, hiểu như vậy chúng ta mới hiểu rõ nó ràng mà, cái sự tướng của nó mà, nó đâu có cái trừu tượng đâu, nó rõ ràng.

(07:01) 3- Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni cạo tóc, mặc áo nhuộm, ấy là Tăng Bảo.

Mà phải hòa hợp, còn nếu không hòa hợp thì nó không thành. Nó phải hòa hợp thì nó mới thành, còn nó không hòa hợp thì - tu sĩ gì mà cãi cọ còn hơn ngoài đời, làm sao mà - tranh nhau còn hơn ngoài đời thì làm sao mà thành Tăng Bảo, làm sao là trụ trì Tam Bảo được?

Đó cho nên vì vậy nó phải có sự hòa hợp thì nó mới - mình cạo tóc, cạo đầu mà nó có hòa hợp thì cái đó - mặc áo nhuộm thì cái đó mới gọi Tăng Bảo - trụ trì Tăng Bảo.

Còn nếu mà mình tranh cãi nhau thì thôi, thôi, mấy ông này cư sĩ trọc rồi chớ không phải là Tăng Bảo nổi đâu. Bởi vì mình cạo đầu nè, mình mặc áo vậy, mà mình cãi cọ nhau thì nó đâu gọi được Tăng Bảo, vì đây Phật nói mấy ông cư sĩ trọc.

Ngày xưa Đức Phật nói những người mà cạo tóc mà cãi cọ, tranh cãi, không hòa hợp nhau thì được xem như là những người cư sĩ trọc, chớ không phải là Tăng Bảo.

Đó, thì chúng ta phải biết rõ cái trụ trì Tam Bảo là cái sự tướng của nó như vậy.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, mọi người phải nương tựa vào một loại Tam Bảo này để nối tiếp huệ mạng Phật Bảo, tinh thần Phật giáo và truyền bá giáo nghĩa Phật giáo.

Hình thức này gọi là trụ trì Tam Bảo.

Nghĩa là qua những cái hình thức đó đó, để mà - nó còn cái hình thức đó người ta mới thấy được.

Cũng như bây giờ nó có tượng nè, rồi nó có kinh nè, nó có những cái vị tu sĩ có sự hòa hợp nè, cho nên người ta mới thấy đó là Tam Bảo.

Còn nếu mà bây giờ tu sĩ không có, hoàn toàn là cư sĩ, cũng như Thầy nghe nói trong một cái thời nào đó khi mà chúng Tăng nó không còn có nữa - bởi vì cái xã hội mà, nó lúc bấy giờ nó thay đổi đi, mấy ông thầy không có dám tu nữa, cho nên ông nào cũng để tóc hết hoàn toàn hết, thì lúc bấy giờ không có thấy ông ta cho nên Tăng Bảo mất tiêu luôn.

Chùa thì có mấy ông từ, mấy ông cư sĩ ở giữ chùa thôi chớ hoàn toàn là không có ông thầy nữa. Mà hễ láng cháng có ông thầy thì bị mời đi ở tù hết, cho nên do vì vậy đó mà không có ông nào dám tu hết, cho nên Tăng Bảo mất tiêu.

Còn kinh sách thì lén lút giấu chỗ này, giấu chỗ kia chớ còn để bậy bạ cũng bị đốt nữa. Cho nên nó cũng là có một cái - trong những cái giai đoạn thí dụ như đời nhà Tùy là Phật giáo suy đó.

Ôi thôi! Mấy ông tăng hoàn tục hết chớ không có ông nào mà dám để tóc hết, không dám cạo đầu hết, cho nên Tăng Bảo mất. Rồi kinh sách thì trong lúc đó nhà Tùy đem đốt sạch hết, không có để kinh sách Phật nữa, cho nên Pháp Bảo cũng tiêu luôn.

Còn chùa mà những cái tượng Phật đó, những cái chùa đều là sung công cho mấy cái ông Lão giáo làm miểu hết. Còn cái tượng của mình - tượng Phật đó thì đem đập bỏ hết, tượng gỗ thì đem đốt sạch, cho nên Phật Bảo cũng tiêu luôn.

Tiêu - gọi là trụ trì Tam Bảo nó tiêu sạch hết đó, nó không còn gì. Trong cái đời nhà Tùy, Phật giáo nó suy đến cái mức độ đó.

Thì chúng ta thấy rằng trong những cái giai đoạn - của cái giai đoạn thịnh, suy của Phật giáo thì nó có những cái lúc mà nó suy đến cái mức độ mà Tam Bảo - trụ trì Tam Bảo nó không còn có nữa. Chùa thì người ta lấy người ta làm miểu hết rồi, nó không còn cái chùa nữa. Đó là những cái lúc mà suy của Phật giáo.

2.2- HÓA TƯỚNG TAM BẢO

(10:09) Còn bây giờ cái phần hai là:

2. Hóa tướng Tam Bảo

Của cái sự tướng đó.

Hồi nãy là cái sự tướng kia là chúng ta nói Phật - Pháp - Tăng là những cái tướng của nó là - như là hình tượng, như là kinh sách, như là chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni cạo tóc, hành đúng cái hòa hợp với nhau, thì đó là cái trụ trì Tam bảo. Còn bây giờ đó thì hóa tướng Tam Bảo.

1- Phật Thích Ca Mâu Ni từ khi xuất gia tu hành, thành chánh giác cho đến khi nhập diệt. Đức Phật Thích Ca là Phật Bảo.

Đó, bây giờ nó cũng là cái tướng đó nhưng mà cái ông Phật ổng đã chết rồi, nhưng mà cái tướng của ổng nó phải vẫn còn chớ nó không thể nào mất được. Từ khi ổng tu hành cho đến khi mà ổng nhập diệt thì cái ông Thích Ca đó ổng là Phật Bảo.

Chớ không có thể nói ông khác Phật Bảo được mà chỉ có ổng mà thôi. Cho nên không thể nói ông Phật Di Đà là Phật Bảo, hay là ông Phật Di Lặc là Phật Bảo được, mà chỉ có ông Phật Thích Ca mới gọi là Phật Bảo.

Cho nên không thể nào một cái tôn giáo mà có hai, ba ông giáo chủ ở trỏng được. Cho nên bây giờ chúng ta chỉ biết là ông Thích Ca là Phật Bảo thôi chớ không thể nào - đây là hóa tướng Tam Bảo. Phải hiểu như vậy.

Chớ nhiều người đem ông Phật Di Đà vô đây bảo nói ông Phật Di Đà cũng là Phật Bảo, thì cái điều đó là điều không đúng đâu. Bởi vì cái ông Phật Di Đà ổng có sáng lập cái tôn giáo Phật giáo đâu mà gọi là Phật Bảo? Ông chỉ là một cái người mà giới thiệu thôi - được giới thiệu thôi, để mà độ chúng sanh lên cõi Cực lạc thôi. Cho nên ổng đâu có phải Phật Bảo.

Cũng như ông Phật Di Lặc là đời sau, cũng là do sự giới thiệu của ông Phật Thích Ca thôi, chớ ông không thể nào mà nói ổng Phật Bảo được.

Cho nên vì vậy chỉ có ông Phật Thích Ca là cái hóa tướng của ổng là cái chỗ mà chúng ta nhận ra ổng là cái Phật Bảo.

2- Các thứ giáo pháp đương thời Đức Phật dạy đệ tử như là Tam Vô Lậu Học, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ý Túc vv…​ ấy là Pháp Bảo.

Nghĩa là các pháp mà Đức Phật dạy cho các đệ tử trong cái thời Đức Phật đó đó, mà bây giờ chúng ta đọc là Tứ Diệu Đế hay hoặc là Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ý Túc đồ đó thì đó là cái Pháp Bảo.

3- Đệ tử của Đức Phật Thích Ca đương thời là Tăng Bảo.

Nghĩa là như ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, ông La Hầu La đồ đó, ông A Na Luật đồ đó, thì đó là những bậc Thánh Tăng trong cái thời đó gọi là Tăng Bảo. Chớ không phải là như hồi nãy trụ trì Tam Bảo như mình đây đâu, mà đây là hóa tướng Tam Bảo.

Nghĩa là tất cả những cái người đó họ đã ra đi hết rồi, cho nên đó là hóa tướng mà, nhưng mà cái hình ảnh, cái tướng của họ nó vẫn còn ở trong thâm tâm của chúng ta, cho nên gọi là hóa tướng Tam Bảo. Đó, phải hiểu không?

Những cái lời mà Phật dạy ngày xưa nó cũng - bây giờ nó chép lại thành kinh sách chúng ta đọc ra, như Tứ Diệu Đế hay hoặc Tứ Niệm Xứ đồ đó, thì bây giờ ngay hồi đó thì Đức Phật thuyết giảng đó, thì bây giờ coi như nó đã qua rồi thì nó là hóa tướng Tam Bảo của Pháp Bảo.

Đó, chúng ta phải hiểu như vậy thì chúng ta mới biết được Tam Bảo.

Đây là hình tướng chỉ Đức Phật đang trụ thế dạy đạo nên gọi là hóa tướng Tam Bảo.

2.3- NHẤT THỂ TAM BẢO

(13:15) Đó thì bắt đầu chúng ta đã hiểu được cái chỗ trụ trì Tam Bảo và hóa tướng Tam Bảo rồi thì bắt đầu chúng ta hiểu nhất thể Tam Bảo.

Nhất thể Tam Bảo, cái phần thứ ba là:

3. Nhất thể Tam Bảo

Nhất thể Tam Bảo tức là chỉ có một mà nó đủ trong đó là Tam Bảo đó, đây chúng ta phải hiểu. Cho nên khi mà một cái người cư sĩ họ đứng trước Đức Phật, họ xin quy y Tam Bảo là nó đã đủ rồi.

Đó, bây giờ mới thấy cái nhất thể Tam Bảo đây.

1- Phật

a- Trong Tam Bảo Phật - Pháp - Tăng, mỗi điều riêng có công đức của Tam Bảo. Đời sống của Phật thường năng chiếu vì thế gọi là Phật Bảo.

Đó là một phải không? Nghĩa là Đức Phật luôn luôn giác chiếu chớ đâu có là mê mờ, đâu có ham ngủ như chúng ta, cho nên vì vậy mà gọi là Phật Bảo.

b- Phật thường hay thuyết pháp tự tại đối với pháp cho nên có khả năng quỷ trì, vì thế gọi là Pháp Bảo.

Ông Phật ổng nói pháp là Pháp Bảo chớ gì? Cho nên nó có cái (khả) năng quỷ trì, nó làm cho người ta hiểu rõ ràng, nó làm cho người ta thấy được cái đường lối giải thoát rất là rõ ràng, cho nên vì thế mới gọi là Pháp Bảo.

c- Phật không có tranh cãi hơn thua với ai, vì thế gọi là Tăng Bảo.

Cho nên ông Phật ông đâu có tranh đua. Cho nên có một ông Phật mà nó đã có đủ Tam Bảo rồi phải không? Cho nên chúng ta quy một ông Phật mà chúng ta lại thọ quy y Tam Bảo một cách rất là rõ ràng cụ thể.

Đó, thì đó quý thầy thấy nhất thể Tam Bảo. Phải không, có rõ chưa? Bây giờ:

2- Pháp

a- Bản thể của nó có đầy cái tánh năng sanh chư Phật, vì thế gọi là Phật Bảo.

Nghĩa là pháp đó, mình nếu mà nương vào Pháp thì nó sanh ra chư Phật mà, cho nên bây giờ ông Phật là thiện chớ gì, mà mình nương vào cái Pháp mà pháp thiện, thì nó sanh ra cái lòng thiện, thì lòng thiện là Phật chớ gì? Vì vậy gọi là Phật Bảo.

Cho nên nương vào Pháp mà thấy có Phật liền, phải không?

(15:25) b- Bản thân có công năng quỷ trì…​

Nghĩa là ngay cái bản thân của Pháp thì nó có công năng làm cho người ta sáng tỏ ra, làm cho người ta hiểu rõ ra.

…​ cho nên gọi là Pháp Bảo.

Bởi vì cái bản thân của Pháp, nó làm cho người ta hiểu rất rõ ra cái đường lối ác và thiện nó rất rõ, cũng như Thầy nói thập ác như thế nào mà thập thiện thế nào. Cho nên cái công năng quỷ trì nó làm cho người ta sáng tỏ cái đó ra, cho nên đó là Pháp Bảo. Đó thấy chưa?

Tự nó, nó đã làm cho người ta sáng ra. Bây giờ không sát sanh thì nó như thế nào, mà sát sanh nó như thế nào? Cho nên người ta sáng ra người ta biết: Sát sanh thì làm cho chết con vật này hay con vật khác, còn không sát sanh thì con vật nó không chết.

Thì do đó người ta thấy rõ ràng như vậy, thì nó - cái công năng nó sanh ra, trong cái pháp nó sanh ra chúng ta biết được thiện và ác như thế nào, cho nên từ đó mà nó gọi là Pháp Bảo.

c- Pháp pháp thì bình đẳng, chẳng chướng ngại nhau, vì thế gọi là Tăng Bảo.

Bởi vì nó không có tranh, nó không có chướng nhau, pháp thiện thì nó đâu có chướng? Pháp ác thì nó rõ ràng, mà pháp thiện thì nó đâu có chướng nhau!

Còn pháp thiện mà chướng nhau như thế nào? Pháp thiện gì mình tu thiền này mình chỉ trích thiền kia, nó có thiện không? Chỉ người ta mà thiện gì thiện, phải không? Mình giữ giới như vậy, mình chỉ giới người ta thì do đó có thiện không? Đâu có thiện.

Cho nên nó thường nó không có bình đẳng như vậy, cho nên không thể gọi là Tăng Bảo. Mà nó không có chỉ trích ai, nó hòa hợp, ai làm sao kệ, nó không nói ai hết thì đó là mới gọi là Tăng Bảo, phải không?

Từ ở trong cái pháp mà chúng ta thấy, cái pháp mà nó không chỉ trích ai hết, nó không có khen chê ai hết, mà nó hòa hợp, ai làm gì làm, nó chẳng có cần tranh cãi với ai hết, thì cái đó gọi là Tăng Bảo của Pháp, phải không?

Hồi nãy thì các thầy thấy từ cái Phật Bảo, từ cái nhất thể Tam Bảo của Phật thì nó cũng đủ ba Phật - Pháp - Tăng, rồi từ ở trong cái nhất thể của Pháp Bảo nó có đủ Phật - Pháp - Tăng. Đó, nó rõ ràng như vậy để chúng ta mới biết là nhất thể Tam Bảo.

(17:18) 3- Tăng

Cái phần Tăng:

a- Tăng thường quán chiếu là Phật Bảo.

Mình tu hành thì mình phải quán chiếu mình mới xả ly, mình mới ly dục, ly bất thiện pháp. Mình ngồi đây mà tâm giận hờn mà không có ly ra được thì có quán chiếu không?

Mình chưa quán chiếu thì chưa là - chắc chắn là mình không thể nào gọi là Phật Bảo được hết. Mà mình Tăng, mà mình quán chiếu, mình ly tất cả những cái ham muốn của mình, mình ly những cái ác pháp ra, thì cái đó là Phật Bảo.

b- Tăng có cái dụng quỷ trì là Pháp Bảo.

Nghĩa là mình có hành pháp, mình có trì pháp, mình có quán pháp đó, tức là mình sử dụng nó đó, để cho mình ly, mình lìa các cái triền cái, mình lìa cái Ngũ…​ cái lậu hoặc của mình, mình lìa ra, mình làm cho cái tâm mình nó trở thành về thiện pháp, nó trở thành xa lìa cái dục đi, đó là cái mà mình làm cho nó - mình tu tập như vậy đó, mình hành động như vậy, theo những cái tùy pháp, hướng pháp đó, thì cái đó gọi là Pháp Bảo.

Đó, cho nên từ cái ông tăng mà sử dụng cái đó thì gọi là Pháp Bảo. Còn mình không sử dụng, mình để cái tâm phiền não, cái tâm giận hờn, cái tâm tham muốn của mình hoài hoài, thì cái đó không thể nào gọi là Pháp Bảo. Đó.

c- Tăng có cái thể hòa hợp là Tăng Bảo.

Khi mà mình biết như vậy thì mình như thế nào? Một vị tăng mà đã có nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì nó là hòa hợp chớ gì? Mà đã biết tu tập để mà ly dục, ly ác pháp thì nó là hòa hợp rồi.

Mà hòa hợp thì tức là cái vị tăng đó sống luôn luôn lúc nào cũng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, không có bao giờ mà không có vui lòng trước mọi cái đối tượng nào hết, cho nên gọi là hòa hợp, mà hòa hợp gọi là Tăng Bảo.

Đó, quý thầy thấy từ ở trong Tăng mà nó có đủ những cái bản chất của nó gọi là nhất thể Tam Bảo, hay hoặc là nhất thể Tăng Bảo ở trong đó.

2.4- LÝ THỂ TAM BẢO

(19:07) Số bốn:

4. Lý thể Tam Bảo

Tam Bảo là thiện pháp sẵn có trong tất cả chúng sanh…​

Có chỗ nói Tam Bảo là Phật Tánh của chúng sanh. Thiệt ra thì Thầy thấy thiện pháp - bây giờ một cái người chưa tu đi nữa họ cũng có thiện pháp trong tâm họ chớ đâu phải có ác pháp không đâu, phải không?

Do cái lòng ham muốn họ mới nảy sanh ra ác pháp, chớ họ có thiện pháp mà. Vì vậy, mà chúng ta thấy rằng mỗi con người chúng ta có thiện pháp, mà vì cái lòng ham muốn đó mà chúng ta có ác pháp.

Đó, cho nên ở đây chúng ta không lấy cái bản tánh - cái Phật Tánh mà chỉ cho là thiện pháp, mà chúng ta thấy cái thiện pháp, bởi vì chúng ta đang tu học ở trong thiện pháp của Phật, ba ngôi Tam Bảo này toàn là thiện. Cho nên:

Tam Bảo là thiện pháp sẵn có trong tất cả chúng sanh…​

Nghĩa là sẵn có, bây giờ chúng ta chỉ trau dồi nó thôi, chúng ta tu tập để đem nó lại, để dứt trừ các ác pháp ra cho khỏi cái - nó dính vô cái thiện pháp của chúng ta đã sẵn có.

…​ không phải ở ngoài mà đem vào.

Nghĩa là trong tâm chúng ta có thiện pháp sẵn mà. Cho nên cái ông Khổng Tử ổng nói “nhân chi sơ tánh bổn thiện” đó mà: Người mà sanh ra thì tánh thiện.

Nhưng mà sự thật ra ổng nói đó là ổng nói trong cái chỗ mà cạn của ổng thôi, chứ sự thật ra chúng ta đã tích trữ bao nhiêu cái ác chúng ta mới sanh ra làm con người, mới thọ cái thân, mới chịu quả khổ như thế này, chớ nếu mà không có ác làm sao mà chúng ta sanh ra con người làm gì?

Nếu mà “nhân chi sơ tánh bổn thiện” thì ổng sanh ra làm người làm gì, phải không? Ổng sanh ra cõi nào chớ ở đây, hoặc là ổng chấm dứt cái sự sanh tử luân hồi rồi.

Cho nên cái ông Khổng Tử thì ổng thấy sanh ra thằng nhỏ chưa có biết gì hết, cứ khóc không đó, thì tức là ổng đâu có biết khóc là cái nhân quả ác của nó chớ còn cái gì! Nếu mà nó cười thì chắc là thiện rồi.

Mà thằng nhà nào mà sanh ra mà không khóc, có phải không? Có ai mà sanh ra không khóc đâu? Quý thầy coi có ai mà sanh ra không khóc? Miệng thét la làm người ta quá giật mình!

Mà nó khóc vậy đó là mấy bà mụ mừng á, chớ mà nó không khóc kể như tiêu luôn, phải không? Sanh ra mà không khóc kể như chết đó, còn nó khóc là người ta mừng. Còn không, nó không khóc, móc miệng nó ra cho nó khóc, phải không?

Cho nên người nào sanh ra cũng khóc. Người ta nói, cái gì, có cái nhà thơ nói: “Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra” đó. Có không? Không biết là cái ông nào, Thầy quên tên ông đó rồi. Chắc là ông…​ à không biết, có thể là Nguyễn Du hay là cái ông Nguyễn Gia Thiều.

(21:28) Đó thì, các con thấy người ta hiểu một chút Phật giáo thôi mà người ta cũng xét qua cái đời sống của con người sanh ra thì người ta cũng biết là: “Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra” - không có người nào mà mang tiếng cười mà ra hết.

Không biết ông Phật hồi sanh ra không biết là - thấy ổng sanh ra ổng nói - nghe người ta huyền thoại đó, ổng đi liền mà không biết ổng có khóc không chớ Thầy nói, chắc chắn là có quá chớ hồi Thầy ra chắc cũng khóc thấy mồ, thấy tổ!

Đó là cái sự thể nó như vậy thì chúng ta phải biết rằng nó - là chúng ta phải hiểu là trong cái người mà - mỗi con người chúng ta đều có thiện pháp, và vì cái lòng ham muốn đó mà nó mới có sanh ra ác pháp, nó mới tạo nhân quả, nó mới tạo ra những cái khổ đau cho chúng ta trong cái ác pháp.

1- Do sự trau dồi, tu tập, dứt trừ các ác pháp, chuyển mê mà thành ngộ gọi là Phật Bảo.

Đó thì, bây giờ nó lý thể Tam Bảo đó, thì chúng ta thấy: Mình trau dồi mà dứt trừ các ác pháp, chuyển mê thành ngộ, mình ngộ ra được cái chỗ thiện pháp, nó hoàn toàn là - nó không còn khổ nữa, cho nên chuyển khổ thành vui, gọi là chuyển mê thành ngộ thì gọi là Phật Bảo.

Mà chuyển khổ thành vui gọi là Pháp Bảo, mà chuyển họa thành phước gọi là Tăng Bảo.

Đó phải không? Quý thầy thấy mình chuyển cái này cái ra thành cái kia à, mà trong khi mình thọ Tam Quy thôi, có ba cái này thôi, mà mình chuyển được cái mình thành Phật Bảo, mà mình chuyển được cái nọ thì mình thành Pháp Bảo, mình chuyển được cái kia nữa là mình thành Tăng Bảo.

Đó, bây giờ Thầy lặp lại cho quý thầy thấy rõ:

Do sự trau dồi, tu tập, dứt trừ ác pháp mà chuyển mê thành ngộ gọi là Phật Bảo, mà chuyển khổ thành vui gọi là Pháp Bảo, mà chuyển họa thành phước gọi là Tăng Bảo.

Đó có rõ ràng không? Bởi vì cái giáo pháp của Phật nó là thiện pháp, mà mình biết chuyển nó thì tức là mình chuyển được nhân quả, mà chuyển được nhân quả thì đó là Phật - Pháp - Tăng, rất rõ ràng cụ thể.

Cho nên gọi là lý thể Tam Bảo, có đúng không? Rất đúng chớ không có sai đâu. Thầy mà Thầy nói ra thì quý thầy cứ suy ngẫm đi, nó - cái lý của nó, mà nếu mà chúng ta không có biết cách như vậy, không hiểu như vậy thì chúng ta chưa biết cách tu.

Mà chưa biết cách tu thì chúng ta cứ chổng khu mà đi tu cái loại thiền này, hay tụng chú hay tụng thần chú gì để cho nó thành Phật, thì thiệt ra cái chúng ta chưa có hiểu gì Phật pháp hết thì dù chúng ta có tụng kinh ngàn bộ đi nữa - Thầy nghe có người tụng có mấy ngàn bộ kinh Pháp Hoa mà đến bây giờ Thầy thấy cũng còn khan tiếng chớ chưa có thành Phật.

Nghe kinh Pháp Hoa tụng là dễ lắm, còn có nhiều người thôi niệm Phật cũng lần biết bao nhiêu xâu chuỗi, đứt biết bao nhiêu sợi dây chưa, mà cũng chẳng thấy đến Cực Lạc bao giờ hết!

(24:10) Mà hầu như là Thầy nói thật cho quý thầy thấy, trong kinh mà dạy về niệm Phật đó, người ta nói nhiều cái chuyện hay lắm. Có nhiều vị ở xứ này, xứ kia, tỉnh nọ đồ, niệm Phật cái được Đức Phật Di Đà rước lên Cực Lạc đồ hay lắm.

Nhưng mà nhìn chung là thực tế thì trong cái cuộc sống của chúng ta mà Tịnh Độ hưng thịnh, thì hầu như là tất cả các bậc tôn túc của chúng ta đều tu Tịnh Độ, nhưng mà đến khi chết thì chúng ta thấy các bậc tôn túc của chúng ta như thế nào?

Mê muội vô cùng lận, không có sáng suốt nữa. Cho nên đến cái giờ phút, nhiều khi để lại những cái sự đau khổ, bán thân bất toại nè, nằm đó mà cả một, hai năm mới chết, chớ không phải ít.

Mà xâu chuỗi ông nào ông nấy cũng bóng lưỡng hết, bởi vì tối ngày đêm, hở chút nào cứ niệm Phật để mau được sanh Cực Lạc, ai không muốn? Nhưng mà cuối cùng thì trước cái chết của họ, Thầy thấy cái địa ngục rất là đau khổ.

Đó bây giờ Thầy nhắc lại cho quý thầy, như bây giờ Sư trưởng ở Huê Lâm đó - Sư trưởng là - Sư trưởng tức là Hòa thượng của bên Ni đó, gọi là Sư trưởng đó là bên Tăng là gọi Hòa thượng còn bên Ni gọi là Sư trưởng đó, là cái chức vụ của cái vị Ni lớn đó là họ là Hòa thượng đó - thế mà Sư trưởng bây giờ không còn biết gì hết, nằm ở trên giường mà không biết.

Vừa rồi có một sư cô về cho biết là Sư trưởng giao hết cái trách nhiệm rồi, từ cái chỗ mà còn biết để đi lo lắng cho đến bây giờ mà khi mà nằm liệt rồi, thời gian mà đi không được nữa, đi mà phải - lúc mà còn biết đó thì ngồi ở trên cái xe lăn vầy mà đẩy đi nè, cứ ngồi mà lăn cũng như cái người mà hai cái chân đi không có được nữa.

Đó không biết là tu tập như thế nào mà đến bây giờ mà khổ sở như đến đó đó, như một cái người mà tàn tật mà hai cái chân hết có đi được rồi, không có bước đi.

Cho đến bây giờ là nằm im lìm đó mà không còn biết gì, đái, ỉa không còn biết cái gì nữa hết, hoàn toàn chờ có tới ngày chết thôi, mà giờ nó không chịu chết mà cứ nằm đó.

Đó, đó là những cái vị tôn túc lớn nhất, mà kinh sách các vị rất thông suốt chớ không phải không thông suốt đâu. Các vị viết kinh, nào kinh Bát Nhã rồi nào là tất cả những cái loại kinh mà gọi là trí tuệ siêu tuyệt đó, rồi cho đến khi những cái giới bổn bên Ni người ta rành rọt lắm.

Người ta làm những giảng sư mà người ta thuyết giảng cho bên Ni mà, cho nên người ta mới làm bậc Hòa thượng của Ni chớ đâu phải ít, thế mà bây giờ trong cái cảnh tượng đó chúng ta thấy quá khổ, quá khổ đau!

Đau đớn là khi chúng ta xét thấy không phải là chúng ta chê những vị đó đâu, mà chúng ta nghĩ đến cái thân phận của mình đây, thấy những cái người đó mà chúng ta nghĩ thân phận của mình: Mình tu hành rồi mình cũng đi vào con đường đó chăng?

Mình phải làm sao chớ? Mình phải hiểu làm sao cho Phật pháp cho đúng chớ? Bởi vì những người đó họ đã tu tập như thế nào, mà họ đi lạc đường như thế nào, bây giờ họ phải thọ lấy những cái quả khổ đó?

Mà trong khi họ làm bao nhiêu cái sự việc là để cho chúng Ni - toàn bộ là Ni bộ đều tập trung dưới Sư trưởng chớ đâu phải là làm lợi ích cho một người đâu. Bao nhiêu bên Ni đều là ngài lãnh đạo hết chớ đâu phải…​

(27:07) Coi như là về giới Ni là Sư trưởng Huê Lâm là ngài lãnh đạo hết chớ không phải là tầm thường đâu, cả trăm Ni ngài kêu một tiếng là người ta tập hợp về tức khắc, ở đâu cũng phải về đó. Mà bây giờ ngài phải khổ sở như vậy thì chúng ta biết rằng con đường của Phật pháp nếu mà sai một chút là chúng ta đã bị lạc đường. Lạc đường thì chúng ta rất khổ sở.

Cái phước thì chúng ta thấy: Chúng ta làm thì mọi người khác thấy chúng ta làm như làm phước. Ngài mở tiệm cơm chay để lấy cái tiền đó để nuôi chúng ăn học, cho nên mới có những cái chúng mà thông suốt được giáo lý, mới có những chúng nữ thông suốt được cái giáo lý của Phật, mới có cử nhân, mới có tiến sĩ Phật học chớ!

Thế mà bây giờ ngài tạo như vậy mà bây giờ ngài thọ cái khổ như vậy là cái nhân quả nào đây? Chúng ta phải suy xét cái đường đó, mà đạo Phật là đạo nhân quả mà. Ngài có làm gì cho cá nhân ngài đâu, ngài có đem về nuôi cha, nuôi mẹ ngài đâu, thế mà nuôi toàn cả những người tu hành mà bây giờ ngài phải khổ.

Còn chúng ta có làm gì lợi ích cho ai đâu, mà bây giờ chúng ta lại thọ dụng của đàn na thí chủ như thế này mà không giải quyết được thì chúng ta làm sao đây? Nó còn khổ hơn ngài gấp mấy nữa, phải không? Cho nên vì vậy mà chúng ta phải hiểu biết được cái lý tu hành sao mà cho nó đúng. Đó.

Do cái lý thể thiện pháp mà xét: Lý sự nhất như là Phật Bảo, lý sự sổ quán là Pháp Bảo, lý sự năng quán là Tăng Bảo.

Bây giờ chúng ta do cái chỗ lý thể Tam Bảo này thì chúng ta biết được những cái gì. Bởi vậy cho nên cái phần hai này chúng ta thấy rất rõ. Hồi nãy cái phần một là chúng ta trau dồi tu tập phải không? Còn cái phần hai này:

Do cái lý thể thiện pháp mà xét…​

Đứng ở trên cái lý thiện pháp của Tam Quy này chúng ta xét thì: Lý sự nhất như là Phật Bảo, mà lý sự sổ quán - tức là chúng ta tu quán đó - thì tức là Pháp Bảo, mà lý sự năng quán thì tức là Tăng Bảo.

Tam Bảo tuy phân ra làm bốn loại nhưng gồm lại thì có hai thứ tính chất: sự và lý.

Nghĩa là gồm nó làm bốn như vậy chớ - chia nó ra làm bốn loại như vậy, nhưng mà gồm lại thì nó chỉ có hai tính chất nó mà thôi, sự và lý mà thôi.

Sự tướng Tam Bảo là hiện thực cụ thể, vì thế rất dễ hiểu, còn lý thể Tam Bảo trừu tượng, rất là khó hiểu. Nhưng chúng ta cũng dễ nhận, ở đâu mà dục hết, ác pháp hết…​

Tức là ly dục ly bất thiện pháp á, thì hết.

…​ thì ở đó là lý thể Tam Bảo, là Niết Bàn.

Cho nên vì vậy mà bây giờ chúng ta trở về ly dục, ly bất thiện pháp chớ gì, đó là lý thể của Tam Bảo chớ gì? Còn nếu mà chúng ta không ly dục, ly bất thiện pháp thì đâu gọi là lý thể Tam Bảo được, phải không?

Còn sự tướng Tam Bảo thì chúng ta cũng thấy rõ, Bởi vì nó - tuy rằng nói bốn loại, nhưng mà nó gồm lại thì nó có hai cái tính chất của nó là sự và lý. Sự tướng Tam Bảo thì chúng ta dễ hiểu quá mà, đâu có gì mà khó, mà vì cái - còn cái lý thể Tam Bảo thì nó trừu tượng, nó khó hiểu.

Nhưng chúng ta biết ly dục, ly bất thiện pháp thì nó là lý thể của Tam Bảo rồi chớ gì? Đó là Niết Bàn của chúng ta chớ còn cái gì nữa! Người nào mà ly dục, ly ác pháp rồi không phải Niết Bàn sao? Đó…​

3- NHẬN BIẾT NHỮNG ĐIỀU LỆCH LẠC TRONG PHẬT GIÁO

3.1- KINH DI ĐÀ DO ĐỜI SAU THÊU DỆT

(30:21) Hôm nay tiếp tục cái bài giảng, thì vừa rồi, khi mà Thầy giảng xong cái bài giảng thì cũng có một vài cái ý kiến, do đó thì hôm nay Thầy xin trả lời cái ý kiến trước để cho nó thấu suốt cái bài giảng vừa rồi, rồi chúng ta sẽ tiếp tục tới cái bài giảng kế.

Thì đây có một vị thầy hỏi Thầy:

“Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy hoan hỷ, bố thí cho con thưa hỏi!

Như buổi thuyết giảng hôm qua đó, Thầy giảng về lý và sự quy y Tam Bảo, có đoạn hóa tướng Tam Bảo. Thưa Thầy, chỗ hóa tướng Tam Bảo Thầy chỉ Đức Phật giáo chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni hiện tại thuyết pháp độ sanh.

Vậy trong kinh Di Đà, Đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni tại hội thuyết ở nước Xá Vệ trong vườn của trưởng giả Cấp Cô Độc, kinh văn có đoạn Ngài bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất: “Từ đây sang phía tây, trải qua hơn mười vạn ức Phật độ, có một thế giới tên gọi là Cực Lạc, nước ấy có Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đang nói pháp.”

Thưa Thầy, Đức giáo chủ Thích Ca Ngài nói ra kinh này là ý chỉ giáo pháp gì? Và tại sao lại sinh ra pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh về Cực Lạc quốc? Cúi xin Thầy chỉ giáo cho con!”

Đó là cái câu hỏi.

Bởi vì Thầy giảng ở trong cái bài giảng đó, thì chỉ - Thầy biết rằng theo cái giáo lý của Đức Phật đó, một tôn giáo thì có một đức giáo chủ chớ không thể có nhiều giáo chủ.

Cho nên hầu hết là chúng ta cũng nhìn thấy ở trên cái hành tinh chúng ta có nhiều tôn giáo, nhưng mà mỗi tôn giáo đều có một đức giáo chủ chớ không có hai, ba giáo chủ.

Do vì vậy thì đạo Phật thì chúng ta cũng biết rằng chỉ có từ Đức Thích Ca mà thôi. Nhưng vì sau này, mình phải xác định như thế này nè: Sau này người ta thêm thắt ra, rồi người ta ở trong cái tư tưởng nào mà người ta thêm thắt ra.

Như thí dụ như trong kinh Di Đà thì Đức Phật không phải là giới thiệu có một cái đức Phật A Di Đà là một giáo chủ của cõi Tây Phương, mà trong đó Đức Phật còn giới thiệu bốn phương, rồi phương trên, phương dưới đều có những cái đức Phật là giáo chủ mỗi phương hết.

(33:12) Rồi ở trong kinh Duy Ma Cật thì Đức Phật cũng có - cũng chính Đức Phật Thích Ca, cũng giới thiệu ở trong kinh Duy Ma Cật thì có một cái nước Chúng Hương, thì ở đó cũng có một cõi giới, mà cái đức Phật ở cõi nước Chúng Hương đó cũng có Bồ Tát, cũng có Thinh Văn, cũng có đủ hết, người ta đến dự cái thuyết pháp ở trong cái buổi thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca. Do đó vì vậy mà Đức Phật cũng giới thiệu cho chúng ta biết cái nước Chúng Hương đó.

Như vậy thì chúng ta thấy: Những cái người mà sau này thêm vào, thì người ta đứng ở trên cái lập trường nào mà người ta thêm vào có nhiều cái giáo chủ mà của một cái đạo Phật như vậy?

Nhưng mà người ta - kẽ hở của người ta để cho chúng ta thấy rất rõ, là vì người ta tưởng tượng là có thể là mỗi một cái quốc gia đó là một ông vua đó là một giáo chủ.

Cũng như bây giờ trên hành tinh chúng ta có nhiều nước chớ đâu phải có một nước, phải không? Nhưng mà mỗi nước thì có một ông vua, phải không?

Vì vậy cho nên cái người mà thành lập những cái pháp mà sau này đặt ra đó để mà gạnh ra thì họ đứng ở trên cái môi trường của cái vai trò phong kiến, tức là thời vua chúa đồ đó, thành ra họ cứ nghĩ bây giờ mình đặt vậy là cái tôn giáo mà nó có nhiều giáo chủ là cũng giống như là một cái - trên hành tinh chúng ta có nhiều đất nước, có nhiều ông vua.

Họ nghĩ vậy mà, họ bị ảnh hưởng như vậy đó, mà họ không thấy kẽ hở. Bởi vì tôn giáo nó chỉ có một ông giáo chủ đó, cái giáo lý, cái triết lý của nó chỉ có một không thể hai được - không thể hai, ba được.

Bởi vì thí dụ bây giờ chúng ta đứng ở trên lập trường chúng ta nhìn nè: Cái tôn giáo mà hiện bây giờ chúng ta phải thấy, như tôn giáo Cao Đài người ta đến người ta nghiên cứu về tôn giáo Cao Đài, người ta tìm cái chân lý của nó không có, mà nó lấy Phật giáo rồi lấy Thiên giáo, lấy Khổng giáo, rồi lấy Thiên Chúa giáo, nó kết hợp lại nó thành ra một cái tôn giáo Cao Đài, là một cái tôn giáo Cao Đài nó không có chân lý thật của nó, không có chính của nó. Còn cái Thiên Chúa nó có của nó.

Đó cho nên một cái tôn giáo nó ra đời nó phải có cái triết lý của nó ở trong đó, mà nó phải có cái pháp của nó ở trong đó, nó riêng biệt, nó không giống ai, cho nên mới nói nó.

Còn bây giờ chúng ta tổng hợp các tôn giáo lại chúng ta gọi là Thông Thiên Học đi, thì Thông Thiên Học nó chỉ là kết hợp các tôn giáo lại để nó hòa hợp với nhau thôi, chớ nó làm sao mà nó có cái chân lý gì riêng của nó đâu mà gọi là Thông Thiên Học là cái giáo, cho nên nó đâu có giáo chủ.

Đó, bằng chứng như vậy là các thầy thấy rằng cái vấn đề mà người ta gạnh vô, người ta gạnh vô thêm một cái phần nào đó.

Cho nên đọc qua cái sử của Phật giáo thì chúng ta thấy: Khi mà vua Bình Sa Vương bị vua A Xà Thế giam ở trong tù á, thì chỉ có mình ông ta thôi, còn bà mẹ - bà Vi Đề Hy thì không có bị bắt.

(36:10) Nhưng mà khi trong kinh Tịnh Độ thì người ta gạnh cái câu sử đó để người ta nói ra là bà Vi Đề Hy và vua Bình Sa Vương bị A Xà Thế bắt giam ở trong tù, cho nên bà ở trong tù bà tha thiết bà cầu Đức Phật Thích Ca cứu độ bà, làm sao cho bà thoát ra cảnh khổ của vợ chồng như vậy. Thì lúc bấy giờ Đức Phật mới thể hiện thần thông, mới đến trong khám đường, mới dạy bà cách thức niệm Phật A Di Đà.

Chớ không phải như ở trong kinh mình giới thiệu một cách đơn giản đâu, nó giới thiệu bằng cách có lịch sử đàng hoàng, nhưng mà sự thật lịch sử thì nó không phải vậy.

Cho nên do đó mà chúng ta thấy trong lịch sử viết nó rất rõ là khi mà vua Bình Sa Vương bị bỏ tù, bị nhốt rồi thì bà Vi Đề Hy bà mới đem thực phẩm đến bà nuôi vua Bình Sa Vương, thì vua A Xà Thế mới cấm không có cho bà đem thực phẩm nữa.

Bà không biết làm sao mà vô thăm vua Bình Sa Vương, làm sao có gì ông này ăn mà sống được? Cho nên do đó bà mới thoa mật khắp cùng người của bà, rồi bà mới mặc áo vô, rồi bà mới xin đi, thì coi như lính nó xét - tay không mà, đâu có gì, nhưng mà trong người bà, bà thoa mật.

Nhưng mà vua A Xà Thế mới thấy sau một cái thời gian bà này ra thăm mà không có đem gì ăn mà ông này ông không chết. Lẽ ra bỏ đói cho ổng chết mà sao lại ổng không chết? Cho nên mới cho lính khám thì quả đúng là bà thoa mật ở trong người bả, cho nên vua Bình Sa Vương mới vô đó liếm từ cái mật đó mà sống.

Đó, cho nên ổng cấm luôn, cấm không cho bà Vi Đề Hy tức là mẹ của ổng, cấm không cho vô thăm nữa. Thì khi mà cấm như vậy đó, thì lúc bấy giờ đó, thì bà Vi Đề Hy đâu có vô được.

Cho nên lúc bấy giờ thì vua A Xà Thế vừa sanh ra đứa con. Vừa sanh ra đứa con thì ông thấy ông thương đứa con ông quá chừng, thương không có thể nào mà tưởng tượng. Ông mới chạy vô ông hỏi mẹ, khi mà mẹ sanh con á, vua Bình Sa Vương có…​ (Mất tiếng)

  1. diễn tả cách thức mà vua Bình Sa Vương thương vua A Xà Thế như thế nào. Nói một hôm con bị cái mụt nhọt ở cái đầu ngón tay, mà nó sưng, nó nhức, con khóc không có ai mà dỗ được hết. Cho nên cha con mới dỗ con, nhưng mà ông biết làm sao?

Bởi vì cái mụt - hễ vua mà ngậm ở trong miệng cái mụt nhọt - mà ngậm ngón tay con ở trong miệng, thì cái nhờ cái sức nóng của cái miệng của vua Bình Sa Vương thì con không có đau nhức, cho nên ông cứ ngậm hoài.

Mà hễ lấy ra nó lạnh thì nó đau nhức, con khóc, cho nên đến khi mà cái mụt nhọt ngậm như vậy mà đến khi cái mụt nhọt con ở ngón tay con nó bể ra mủ đi, mà ông cũng không dám lấy ra nữa, phải đành nuốt máu mủ con ở trong bụng.

Vua A Xà Thế nghe mẹ mình diễn tả cái tình thương của cha mình đến cái mức độ đó, ổng không còn đứng yên được nữa, ổng chạy vô khám để mà mở cửa khám đặng thả cha mình ra. Nhưng mà không ngờ là cha mình đã nhịn đói ba, bốn ngày, chết rồi còn đâu, ông đã chết đói ở trong khám rồi.

(39:17) Đó thì câu chuyện như vậy đó. Thế mà người ta dám đặt ra là bà Vi Đề Hy bị ở tù với ông Bình Sa Vương, rồi từ đó bà Vi Đề Hy - đàn bà thì người ta nhát gan lắm, người ta ở tù thì người ta sợ lắm cho nên người ta cứ cầu Phật thôi.

Cho nên ông Phật cảm động được cái chỗ đó mới hiện đến, mới dạy bà niệm Phật Di Đà để cầu vãng sanh, cho được lên cái cõi Cực Lạc an ổn, cho nên mới có những câu chuyện như vậy.

Thì các thầy thấy trong những cái chuyện mà - những cái dựa vào những cái chuyện lịch sử mà ghi như vậy, nó có đúng sử không?

Cho nên trong kinh Di Đà đó, hầu như là tất cả như kinh Quy Nguyên Trực Chỉ, kinh Di Đà, rồi kinh Vô Lượng Quang, hầu như là người ta tu về pháp môn Tịnh Độ thì nó rất nhiều chớ không phải.

Bởi vì, cái thời đại mà trước chúng ta - các bậc tôn túc của chúng ta như các bậc Hòa thượng, như bây giờ chúng ta thấy như Hòa thượng Thiện Hoa nè, Hòa thượng Tuyết Tịnh nè, rồi một số quý bậc Hòa thượng lớn bây giờ hiện họ còn đang tu Tịnh Độ đó.

Cho nên trong cái sự tu Tịnh Độ đó, thì trong kinh nó nhắc ở - như ở bên Trung Hoa thì nó nhắc nói có một ông này ở tỉnh kia, có một ông nọ ở cái làng nọ, ở xứ này kia, mọi người đều tu Tịnh Độ, tới cái ngày mà trực vãng Tây Phương thì có Phật Di Đà hoặc là có những cái triệu chứng này, triệu chứng kia, thì nghe rất hay, những cái huyền thoại, những câu chuyện chúng ta thấy tuyệt vời: Pháp môn Tịnh Độ người ta tu chứng rất đông.

Cho nên cái ngài - khi mà ngài thiền sư Huệ Viễn đó, ngài lập Liên Trì Thư Xã, ngài sớ giải tất cả những cái loại kinh Đại Thừa Tịnh Độ này hướng dẫn cho người ta, ngài là một thiền sư có danh tiếng, ngài thị tịch một cách tự tại.

Là khi mà vua mời ngài đến để mà đăng đàn để thuyết pháp thì ngài từ chối ba lần như vậy, thì trong một hôm đó thì ngài - cái người mà đến mời ngài, cái vị sứ quan mà đến mời ngài, thì cái ngày đó là cái ngày lần thứ ba:

“Nếu ngài kỳ này mà ngài không đến thuyết pháp cho vua trong cung vua thì tôi sẽ bị - cả gia đình bị tru di tam tộc đi. Xin ngài vì thương chúng tôi mà ngài đi dùm!” Thì ngài hứa: “Thôi được rồi ta sẽ đi.” Chớ ngài nguyện là ngài không có rời khỏi núi.

Cho nên hôm đó thì ngài họp chúng lại, ngài hỏi: “Ai đi với ta xuống được kinh đô?” Thì trong chúng ai cũng nói: Con thì đi được năm chục dặm, con thì đi bảy chục dặm, con thì đi trăm dặm, con đi hai trăm dặm.

Ông nói: “Mấy ông đi với ta không được đâu. Vậy còn ai đi được với ta nữa không, mới đi với ta xuống dưới?” Thì có một chú thị giả nói: “Con đi được với Hòa thượng!” Thì hỏi: “Vậy chớ ông đi bao nhiêu mà ông đòi đi theo ta?” Thì nói: “Hòa thượng đi tới đâu con đi tới đó à!”

Thì bắt đầu cái ông Huệ Viễn đó ổng ngồi ổng thị tịch, ổng ngồi đó ổng thị tịch ổng chết, thì chú thị giả đứng hầu bên đó cũng thị tịch luôn, hai thầy trò đứng chết. Trời! Chúng ta nghe hay quá chớ gì, thầy trò sao mà chết tự tại quá!

(42:20) Đó là cái câu chuyện của ngài Huệ Viễn. Nhưng mà ngài Huệ Viễn là một thiền sư tự tại như vậy mà không đem cái pháp môn tự tại dạy người ta, để thành lập cái Liên Trì Thư Xã dạy người ta.

Cho nên ngài Vĩnh Minh Diên Thọ sau này, ngài xương minh ngài nói như thế này nè: “Một người tu thiền mà tu Tịnh Độ như cọp mọc sừng, mười người đều đạt được mười người. Còn người tu thiền mà không tu Tịnh Độ mười người chưa đạt một người.” Như vậy là ngài Vĩnh Minh Diên Thọ xương minh cái Tịnh Độ hết mức.

Nhưng mà chúng ta - sự thật chúng ta đọc trong kinh Tịnh Độ chúng ta thấy có những cái mẩu chuyện mà người tu Tịnh Độ chứng đạt rất là vi diệu, nhưng mà nhìn thực tế thì chúng ta lại không thấy.

Bởi vì thực tế là các bậc tôn túc, thầy tổ của chúng ta đều là những người tu Tịnh Độ hết rồi bắt đầu Phật tử chúng ta ai cũng lần chuỗi hết, cho nên hiện giờ mà quý thầy thấy, quý thầy mà ra ngồi, lên đàn mà ngồi, ông nào cũng đeo xâu chuỗi dài tới dưới cổ hết.

Trời ơi trang trí, Thầy nói ông thầy nào cũng đẹp hết à! Phải không? Thầy mà đeo chuỗi, mà Thầy nói chuỗi tay rồi chuỗi cổ nữa, có nhiều người đeo hai, ba chuỗi chớ đâu phải một chuỗi. Ông thầy nào cũng có hết, không phải là thầy Tịnh Độ sao!

Nhưng mà quý thầy thấy, khi chết rồi quý thầy đó sao, quý thầy thấy không? Bằng chứng chúng ta phải thực tế, phải nhìn chớ để chúng ta biết cái pháp môn đó có dẫn chúng ta đến chỗ nào không chớ!

Nếu mà chúng ta cứ nghe cái chuyện nói dóc ở trong - nói láo, vọng ngữ ở trong kinh sách mà đặt điều ra nói, nói ông ở chỗ này, chỗ kia, cũng như bây giờ Thầy ngồi đây Thầy nói có một ông ở xã Thạnh Phước, hay ông ở xã Trường Lưu, hay hoặc là ở huyện Gò Dầu có ông đó vậy, nhưng mà đến đó hỏi không có ông đó, phải không?

Nhưng mà Thầy ở đây Thầy đặt được, Thầy nói ông đó ông tu Tịnh Độ vậy vậy đó, tới ngày vãng sanh, trời ơi mùi thơm ngào ngạt, hoa sen rớt cùng, hoa trời đầy hết!

Thầy nói ai cũng - ở trong bài thì Thầy viết thì như vậy, nhưng mà thực tế lại cái chỗ đó hỏi có ông đó tên đó không? Không! Không ai biết tên đó, ông đó hết. Có phải là vọng ngữ không? Gạt người ta để xương minh cái Tịnh Độ chớ gì!

Nhưng cuối cùng bây giờ chúng ta nhìn chung: Bao nhiêu người đã tu Tịnh Độ, từ cư sĩ có nhiều người chỉ nghe cái Tịnh Độ ai tu cũng được hết, dễ hết, bởi vì pháp môn dễ mà, niệm Phật là được vãng sanh. Cho nên bốn mươi tám lời nguyện của đức Phật như thế nào:

“Thiện nam tín nữ các người,

Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra.

Ta không rước ở nước ta,

Thệ không làm Phật chắc đà không sai.”

Các con thấy ông Phật Di Đà nguyện rất lớn. Nhưng mà người ta niệm Phật đâu có mười tiếng, trời đất ơi cả lố, phải không? Các con thấy đếm không có hết, chuỗi này lần tới chuỗi kia, ông nào cũng muốn sanh Cực Lạc chớ ai muốn ở thế gian, ở dưới cái cõi trần này nó cực khổ gần chết đây!

(45:04) Cho nên nó có những cái pháp môn mà nhiều người phải niệm Phật, phải la cho lớn để ức chế vọng tưởng chớ gì. Có nhiều người niệm Phật theo cái hơi thở, rồi nhiều người phải đếm xuôi, đếm ngược đủ loại, đủ cách để mà ức chế vọng tưởng, cuối cùng chẳng thấy ra ma nào mà có thể giải thoát sanh tử hết, không có làm chủ được sanh tử, mà không biết chết đi không biết đọa ở đâu chớ còn Thầy thấy khi mà chết rồi các bậc Hòa thượng thì mình còn dễ thấy. Bởi vì họ là những bậc thầy mình mà, họ đều là tu niệm Phật hết mà, nhưng mà tới chừng đó họ bán thân, họ nằm tới cái ngày chết họ mê muội luôn, tới chừng họ chết không biết gì hết, không có tỉnh gì hết!

Đó, thì bằng chứng Thầy dẫn chứng trong cái bài kinh của Phật dạy chúng ta rõ ràng, chúng ta tu chỉ Chánh Niệm Tỉnh Thức thôi mà chúng ta chết đi, chúng ta biết chúng ta được vào bào thai mẹ, phải không?

Có một cái Chánh Niệm Tỉnh Thức thôi, chúng ta chỉ đi mà chúng ta nhìn ở dưới chân chúng ta đừng có đạp chết chúng sanh là cũng đã đủ tỉnh thức rồi, là khi chết là chúng ta đã đi vào lòng mẹ là chúng ta biết. Tức là không phải nghiệp lực lôi chúng ta rồi, cho nên khi mà vào bào thai là chúng ta biết.

Chúng ta biết chúng ta đi vào bào thai, tức là biết chúng ta sanh vào cái nhà nào, cái người đó là ai, chúng ta biết được. Bởi vì cái sức tỉnh thức của chúng ta, cho nên không có cái cận tử nghiệp nào lôi chúng ta được. Còn cái sức tỉnh thức chúng ta không có thì chúng ta phải mê.

Rồi bây giờ vì cái duyên nghiệp nào mà các người niệm Phật mà lại nằm mê man ở trên cái giường bệnh? Người mà bán thân mà khi chết họ mê man họ không biết đâu.

Đó cho nên bây giờ, Thầy có nhắc lại cho quý thầy thấy đó, đó là như - thí dụ như bây giờ hiện Sư trưởng không phải là người không niệm Phật sao?

Không phải là các Hòa thượng tôn túc Thầy không nhắc, không kể tên ra cho quý thầy thấy, các bậc Hòa thượng danh tiếng ở trong đất nước chớ không phải không đâu. Những cái bậc đó đều danh tiếng. Cho nên hầu hết là những người đó đều là thông kinh sách hết, mà họ tu Tịnh Độ, nhưng cuối cùng họ trăn trở trên cái chỗ giường bệnh của họ, rất là khổ sở.

Đó là tất cả những cái mà thầy tổ của mình là những người mà đã hướng dẫn - Thầy nói Thầy và quý thầy hiện bây giờ mà biết được những bậc Hòa thượng danh tiếng chớ còn những bậc mà nhỏ nhỏ thôi chúng ta không biết được đâu, phải không? Không hiểu đâu.

Nhưng mà những bậc Hòa thượng danh tiếng là những người mà gọi là ai cũng biết tiếng, nhưng mà khi chết thì thấy rất đau khổ. Họ là những người mà gọi là tin Cực Lạc hết sức tin đó, niệm Phật hết sức niệm đó, đêm ngày niệm đó hở ra chút nào bây giờ ngồi ở trên pháp tọa chớ mà rảnh là ngồi lần chuỗi rồi, không có để kẽ hở đó!

Họ đáp từ, họ nói gì nói rồi cái bắt đầu ngồi không cái họ cũng…​ Họ đến cái chỗ mà họ thọ trai cũng vậy, họ ngồi họ ăn thôi chớ mà hở ra cái bắt đầu họ ngồi lần chuỗi rồi. Làm như cái thói quen của họ rồi!

Thầy thấy quý Hòa thượng vậy à, mà liên tục như vậy mà thế tới cuối cuộc đời của họ để lại cái hình ảnh đau khổ hết sức, nhiều khi mổ xẻ từng cái miếng da của họ ở trong thân của họ nữa. Thầy thấy qua những cái chuyện mà giải phẫu của bệnh viện, Thầy thấy tan nát cái thân họ hết.

(48:01) Mà họ là những người niệm Phật mà Phật Di Đà sao không cứu họ để họ khổ quá vậy? Vậy mà ông ta dám hứa vầy:

"Thiện nam tín nữ các người

Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra.”

Bởi vậy cho nên chúng ta chỉ tưởng, tưởng để mà sống cho hy vọng, nhưng mà tới cuối cùng thì chúng ta để lại những cái đau khổ. Mà chúng ta không sáng suốt. Con người chúng ta sao vô minh đến độ mà không nhìn thấy, cứ đọc ở trong kinh sách như thế nào chúng ta tin như thế nấy.

Thứ nhất, làm sao mà một tôn giáo lại có nhiều giáo chủ được? Dù Đức Phật Thích Ca có nói như vậy chúng ta cũng phải nghĩ rằng: Ông Phật Thích Ca chỉ là một người khiêm nhượng mà thôi.

Nếu mà đã có những bảy ông Phật quá khứ thì làm sao không có giáo pháp của đức Phật mà ông Phật Thích Ca phải đi tìm từng ông này đến ông kia, rồi phải bỏ đi, rồi tự mình đi phát triển ra một cái pháp tu hành?

Các con nghĩ: Đức Phật nói quá khứ có bảy vị Phật, phải không? Thế mà ông Phật phải đi tìm cái pháp để tu, nếu mà có bảy vị Phật thì tức là phải có cái giáo pháp chớ ? Sao lại có bảy người tu được mà lại không có giáo pháp để lại cho đời sau?

Lại là tu nào là nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, Không Vô Biên Xứ, rồi tu cái gì đủ thứ khổ hạnh. Ông Phật khổ hạnh đến cái mức độ mà còn da bọc xương, không còn gì hết, rờ da bụng đụng xương sống, rờ xương sống đụng da bụng, ngồi hết có nổi rồi, ông Phật chỉ còn nằm dẹp xuống đó mà thở thoi thóp như là sắp chết rồi. Nếu mà không may gặp cái cô chăn dê ở đó vắt sữa mà đổ cho ông Phật thì ổng cũng tiêu luôn rồi còn gì, còn gì tu?

Vậy thì có giáo pháp - mà tại sao không có cái giáo pháp của Đức Phật mà có bảy đức Phật ở quá khứ? Cái lý do gì không có? Mà ngoại đạo thì sáu cái giáo phái của tà giáo ngoại đạo, trong lúc đó lại bành trướng, lại phát triển rất lớn. Còn kinh sách của Phật giáo bấy giờ lại không có nữa, chỉ có ba bộ kinh Vệ Đà chớ chưa có bộ Áo (Nghĩa) Thư nữa, thì quý thầy nghĩ như thế nào?

Đâu phải đất nước Ấn Độ không có chữ nghĩa, mà có chữ nghĩa, lại là có những cái bộ kinh Vệ Đà lâu đời nhất ở trong cái đất nước đó. Thế mà Đức Phật ra đời thì đã có những kinh đó rồi, thế mà sao lại không có những kinh gì mà của bảy Đức Phật này đã tu thành tựu được như vậy, đều là bậc chánh giác?

Vả lại cái nữa, Đức Phật trong kinh nói: Đồng thời trong một lượt Đức Phật không có một bậc A La Hán mà lưu xuất hai người một lượt, thì đồng thời đâu có được! Các thầy thấy, không có được.

Bởi vì nếu mà đồng thời - mà bây giờ Đức Phật có giới thiệu có một đức giáo chủ ở chỗ nào đó, thì ở đại Ta Bà này có một đức giáo chủ, thì đồng thời một cái thời điểm trong cái không gian vũ trụ này đã có hai đức giáo chủ thì không thể có lưu xuất ra được một (lượt).

Kinh xác định quá rõ ràng, bài kinh Nguyên Thủy rõ ràng. Đức Phật xác định chỉ có một mà thôi chứ không thể hai. Cũng như vua Chuyển Luân Vương, chỉ có một vua Chuyển Luân Vương trong cái thời đại đó chớ không có thể có nhiều ông vua Chuyển Luân Vương ở trong cái thế gian này được.

Nghĩa là bây giờ ở trong cái thế giới mình, trên cái trái đất này hành tinh nó có nhiều nước, phải không? Mà chỉ có một ông Chuyển Luân Vương ra đời thôi chớ còn không phải nước khác có ông Chuyển Luân Vương được. Nếu có hai ông Chuyển Luân Vương này mà như vậy nó ngang nhau ổng đánh nhau chết hết còn cái gì?

(51:14) Cái kiểu đó các con hiểu. Bởi vì ông Chuyển Luân Vương này cũng có bảy cái báu thì ông kia cũng có bảy cái báu, mà đồng thời ra một lượt thì hai ông này choảng nhau thì bà con mình nhăn răng, méo miệng hết, đâu còn!

Cho nên Đức Phật nói đồng thời không có hai ông Chuyển Luân Vương được. Mà Đức Phật đã xưng mình trong cái bài Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, làm thầy trời và người.

Trời, người là cái ở trên hành tinh của chúng ta, và nơi đâu có những cái sắc thân con người đều là thầy của loài người. Mà chỗ nào cái thế giới vô hình - Tam Giới mà - cái thế giới vô hình, dù cõi trời hay cõi nào, vô hình ở đâu, bất kỳ ở chỗ nào cũng đều làm thầy hết. Vậy thì có một ông chứ sao lại có hai ông?

Đó thì như vậy là đời sau người ta không hiểu được cái ý đó, cho nên người ta gạnh thêm. Gạnh thêm thứ nhất là lịch sử sai, thứ hai là gạnh thêm như trong kinh mà nhắc ra vậy là sai hết.

Cho nên chúng ta là người có trí chớ đâu phải chúng ta ngu để mà người khác gạt chúng ta được! Chỉ có những người vô minh nói đâu nghe đó, làm tầm điên, tầm khùng, cuối cùng tu hành chẳng ra gì, tới chừng chết nhăn răng, méo miệng, nằm đó mê mờ cũng như là cái gì không biết gì hết.

Đó thì bằng chứng Thầy thấy hiện tiền là trải qua cái đời của Thầy thôi, chớ Thầy chưa nói những cái đời khác nữa, nhưng mà xét đến từ khi mà tất cả các đại đệ tử của Phật thị tịch hết rồi, thì Phật giáo vắng bóng rồi. Người ta chia ra làm hai mươi bộ phái là tiêu rồi đó, kể như là Phật giáo tiêu rồi đó, không còn nữa rồi.

Đó thì hiện bây giờ chúng ta thấy trong cái vấn đề đó nó cụ thể và rất rõ ràng. Cho nên chúng ta phải xét thấy được cái đường lối mà chúng ta hiện giờ tu hành. Tu hành làm sao mà chứng nghiệm được cái chúng ta làm chủ nè, làm sao mà chúng ta thức tỉnh được nè. Đó là những cái đặc biệt của Phật giáo.

Đó thì hôm nay Thầy giải thích như vậy để biết rằng: Tất cả những cái này là những người sau người ta thêm bớt, người ta làm ra, rồi người ta đặt ra nào Liên Trì Thư Xã, rồi người ta dạy đủ cách thức niệm Phật chớ không phải có một lối niệm Phật đâu, không phải niệm Phật thường đâu. Người ta niệm Phật thế này không được, người ta đặt niệm Phật cách khác đủ mọi loại.

3.2- CÁC PHÁP MÔN THÊM THẮT KHÔNG LÀM CHỦ ĐƯỢC SINH TỬ

(53:26) Đó, đó là những cái - một cái pháp môn mà nói về Tịnh Độ đó, chúng ta đủ biết là nó như vậy rồi. Còn tất cả những cái pháp môn khác mà họ đặt ra biết bao nhiêu thứ.

Cũng như bây giờ nghe Phật dạy Định Niệm Hơi Thở, họ chẳng biết Định Niệm Hơi Thở làm sao hết, họ dám đặt ra hơi thở.

Rồi cái người dạy hơi thở cũng chẳng biết hơi thở là cái gì ở trong thân của chúng ta nữa. Họ chỉ biết rằng hơi thở là cái mạng sống của con người thôi chớ họ chả biết cái hơi thở tu tập như thế nào đúng, như thế nào sai.

Cho nên người ta mới đặt ra pháp an bang, rồi người ta mới đặt ra là sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Rồi người ta thần thoại những cái chuyện vi diệu của một cái vị như ngài Thiên Thai, ngài còn nằm mộng ngài đi lên cái cõi núi Linh Thứu Ngài dự cái pháp hội Pháp Hoa của Đức Phật. Không phải là nằm mộng sao? Mà ông thầy nằm mộng mà làm sao mà vượt qua được Tam Thiền? Nhị Thiền chưa xong nữa!

Thì thử hỏi như ngài Hư Vân Hòa thượng, ngài còn thấy ngài - khi mà bị bắt giam ngài trong khám, ngài bị hành hạ quá độ, đêm đó ngài mê man, ngài thấy ngài xuất hồn ngài đi lên ở trên trời Đâu Suất, ngài gặp Đức Phật đang thuyết giảng kinh ở trên đó, ngài xin thôi cho ngài ở trên đó, ở thế gian này quá khổ.

Đó là những cái hiện tượng chiêm bao của ngài chớ đâu phải là cái thật có như vậy đâu! Mà ngài Hư Vân Hòa thượng các thầy nghe cái lịch sử của ngài tu hành dữ tợn lắm chớ đâu phải thường, thế mà ngài chẳng đi tới đâu hết.

Rồi các thầy thấy như các tổ, như Hoàng Bá còn mộng, mộng thấy mẹ được mình sanh lên cõi trời. Còn ngài Nam Tuyền thấy thần nhân mách bảo.

Tất cả những cái này đều là hoàn toàn là còn mộng mị hết. Mà còn mộng mị thì Thầy nghĩ Nhị Thiền chưa xong thì phải mộng mị chứ sao, đâu có làm sao mà dẹp được cái thứ này được?

Cho nên làm sao mà người ta phải phá được cái - tỉnh thức đến cái mức độ người ta không ngủ. Mà người ta không ngủ mà thân người ta ngủ cho nên nó đâu có mỏi mệt. Vì tỉnh thức cho nên nó không có mộng được, còn không tỉnh thức thì phải ngủ quên thì phải mộng thôi.

Do mộng thì thử hỏi cái sức độ của thiền sư tu đến cái mức độ nào mà còn mộng mà gọi mình là triệt ngộ, gọi là Chánh Đẳng, Chánh Giác được, gọi là làm chủ sanh tử được? Đủ bấy nhiêu đó chúng ta đủ biết rằng cái miệng lừa của họ, họ lừa chúng ta nhiều quá rồi, gạt chúng ta tận cùng rồi.

Đem hết cuộc đời chúng ta đã không lợi ích cho bản thân mình, mà không làm lợi ích cho người nào được hết. Tối ngày cứ ngồi mà liên miên ở trong thất tu hành riết cuối cùng rồi không lợi ích cho ai hết mà cuối cùng chẳng có đem lợi cho mình chút nào hết, chừng chết cũng nhăn răng, méo miệng.

Người này bưng bít người kia, người kia bưng bít người nọ, huyền thoại câu chuyện này, huyền thoại câu chuyện kia để gạt người ta, để rồi ngồi không đó mà tính tiền, tính bạc, kinh doanh những cái sự sống bằng mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Phật giáo thì phải ra cho đúng Phật giáo, Phật giáo gì mà không ra đúng gì hết!

3.3- ĐẠO PHẬT CHÂN CHÍNH KHÔNG ĂN THỊT CHÚNG SINH

(56:19) Bởi vậy nói, càng nói Thầy càng thấy giữa Bắc Tông chúng ta cũng vậy, mà đến Nam Tông chúng ta cũng thấy. Một cái đất nước mà gọi là Phật giáo - quốc giáo của họ, thế mà dân tộc của họ tàn sát con người đến cái mức độ các thầy cũng thấy rõ chớ?

Như dân tộc Campuchia bây giờ làm sao? Nó diệt chủng gần như muốn hết, không còn ai nữa. Nếu mà không có cái sự can thiệp của Việt Nam vào đó thì dân tộc nó còn gì?

Rồi nó giết những kiều bào Việt Nam chúng ta ở trên đất nước nó, khi mà nó vậy nó giết, nó không gớm tay chút nào hết, mà mỗi người dân nó mười tám tuổi là phải được - người thanh niên phải được vào chùa để mà ba năm tu tập trong đó.

Mà đạo Phật là đạo thiện pháp, nó là cái đạo Phật chân chính, cái gốc của đạo Phật, nó tự xưng là nó đạo Theravada tức là cái gốc của đạo Phật, thế mà cái gốc của đạo Phật nó ác như vậy đó!

Nó học hỏi trong kinh Phật dạy nó như vậy, là thiện pháp, là nhân quả, là giới luật như vậy, bây giờ nó ra nó cầm rựa, cầm súng, nó bắn người ta, nó giết người ta như vậy, thì thử hỏi coi Phật giáo như vậy là cái ông sãi vua đó - gọi là sãi vua đó - họ là những người điều khiển cái đạo đức cho một cái dân tộc đó mà họ điều khiển như vậy đó. Nó giết cả lại dân tộc nó như vậy, nó giết cả mọi như vậy, thì thử hỏi cái đạo Phật đó là đạo gì?

Có phải là cái ngày mười - chúng ta nhìn qua bên Thiên Chúa, chúng ta thấy cái ngày Barthélemy đó - tức là cái ngày bốn tháng bảy của đất nước Pháp, Tin Lành nó giết Thiên Chúa sạch hết, sáng ra người ta thấy kinh thành Pari không có người đi! Cái ngày kỷ niệm đau đớn nhất của tôn giáo ở bên Tây phương.

Còn bên đây chúng ta nhìn thấy cái đất nước Campuchia nó giết người đó, chúng ta cũng thấy đau đớn cho Phật giáo. Nhìn những cái trang sử đau đớn như vậy mà chúng ta thấy cái giáo pháp gọi là Từ, Bi, Hỷ, Xả!

(58:09) Từ, Bi, Hỷ, Xả của Phật ở chỗ đó được sao? Con kiến còn không dám giết, cái cọng cỏ không dám dẫm đạp cho nó héo, thế mà cầm gươm, cầm súng mà giết người hàng loạt như vậy! Thấy những cái đống xương sọ người ta là thấy kinh khủng rồi.

Thì các thầy cứ nghĩ coi, một cái đạo Phật mà dạy người ta như vậy có phải là chân chánh không? Có phải hiểu không?

Cho nên Thầy nói thật sự ra, tất cả những cái điều mà các thầy - tại sao mà bên đó Nguyên Thủy mà ăn thịt chúng sanh, mà tu theo đạo Phật mà ngồi đó mà nuốt từng cái miếng thịt chúng sanh được! Cho nên cái hành động giết người nó phải được thôi.

Còn Phật giáo Bắc Tông chúng ta nhờ ảnh hưởng Bà La Môn, chớ nếu mà nguyên gốc chắc cũng ních ba cái cục thịt cũng đầy miệng hết rồi! Nhờ ảnh hưởng Bà La Môn cho nên ăn chay, vì thế nó cũng đỡ, nó không đến đỗi mà giết người như vậy.

Cho nên các thầy cứ nghĩ đi. Nếu mà dân tộc của chúng ta như Campuchia đó, mà cái Phật giáo mà nguyên gốc như vậy đó, chắc chắn là khi mà giải phóng xong mấy ông sĩ quan này nó chặt đầu hết, có không? Nó dẹp sạch hết chớ, nó róc hết, nó róc từ cả trứng nước nữa chớ nó chưa chắc để, nó giết hết cả dòng họ, nó tru di tam tộc hết.

Hồi đó mấy ông biết không? Mấy ông cầm súng của Mỹ, của Tây, mấy ông bắn tụi tui biết bao nhiêu không? Bây giờ mấy ông cứ nhìn theo cái nghĩa trang coi, biết bao nhiêu người của cách mạng chết không? Bây giờ mấy ông chả nhằm nhò gì cái thứ mấy ông, phải không?

Nhưng mà Việt Nam chúng ta không có cái tàn ác như vậy. Nhờ ảnh hưởng Phật giáo của Đại Thừa, biết ăn chay đó, biết niệm Phật Di Đà đó, nó đỡ đó.

Hồi nãy Thầy chê là tại vì niệm Phật Di Đà nó đem đến - nó không có giải thoát thật sự, nhưng ít ra nó cũng còn có thiện hơn là những cái nước mà gọi là Phật giáo Nam Tông.

Bằng chứng đó! Bây giờ lịch sử như vậy chúng ta không có thể nào mà chối cãi được Phật giáo Nam Tông. Ảnh hưởng đó là tôn giáo đó phải chịu trách nhiệm, người mà lãnh đạo Phật giáo ở đó phải chịu trách nhiệm cái điều đó trước Đức Phật.

Đức Phật đâu có dạy mấy ông vậy? Bây giờ mấy ông dạy người ta ăn thịt, ăn cá để cho thấm nhuần ở trong thân tâm của mấy ông thịt cá, để mấy ông cầm gươm, cầm súng, mấy ông giết người, có không?

Mấy ông đừng có chối cãi được! Một người dân của - người thanh niên của đất nước mấy ông là quốc giáo mà, bắt buộc người ta vào tu ở trong đó, để đi ra làm cái chuyện tàn ác đó, thì đó là một cái lên án của mấy ông là đúng chớ không có làm sao mấy ông chối cãi được hết!

4- TÂM NGUYỆN LÀM SÁNG TỎ LẠI PHẬT GIÁO CỦA THẦY

(01:00:35) Đó, vả lại bây giờ thì Thầy sẽ nói thêm một cái phần của cái bài giảng vừa rồi, vì sợ có quý thầy có hiểu lầm qua cái ý của Thầy, khi đó Thầy có so sánh ở chỗ này:

Thầy có nói Thầy sanh ra cũng là từ cái chỗ con người, cũng khóc thét chớ đâu có cười được, cũng trong từ cái chỗ sanh ra của cha mẹ bẩn thỉu mà hôm nay Thầy làm được những cái điều mà cũng khó có người làm.

Nhưng mà đối với Đức Phật thì Thầy đâu có đủ đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực được! Đối với Phật thì Thầy còn xa, đối với chúng Thánh Tăng Thầy cũng còn xa, Thầy chỉ có một phần là làm chủ được cái sống chết của mình thôi.

Nghĩa là Thầy bây giờ Thầy muốn sống hồi nào Thầy sống, Thầy chết hồi nào Thầy chết, thì Thầy thấy có bấy nhiêu đó Thầy đủ cái ước vọng của mình rồi. Bởi vì con đường mà tu hành theo đạo Phật, trước cái sống chết mà mình không có ngại nó nữa rồi thì mình thấy được cái chỗ giải thoát rồi.

Và đồng thời mình xét qua cái tâm của mình, nó không còn tham đắm một cái gì trên thế gian này từ cái ăn, cái mặc, từ cái chùa, từ cái tháp, từ cái gì, tất cả mọi cái mình đều xả bỏ được, thì Thầy thấy đây là nó giải thoát rồi.

Thầy không ham tới những cái thần thông, oai lực cũng như các bậc, và Thầy cũng không ước vọng là mình một bậc đạo sư, và cũng không ước mình là một giáo chủ, hay hoặc là ước mình là một người thừa kế Đức Phật, cho nên Thầy thấy được giải thoát là đủ rồi.

Cho nên so với Đức Phật thì Thầy còn cách xa ngàn vạn dặm, mà so với đệ tử của Phật thì Thầy cũng còn cách xa trăm ngàn thước chớ chưa có nhằm nhò gì đối với các bậc Thánh Tăng.

Cho nên đối với Thầy, Thầy chỉ có ước vọng là nhìn các bậc tôn túc tu hành đến khi mà chết quá khổ, còn Thầy bây giờ chắc chắn là lúc nào chết Thầy chắc cũng là tự tại rồi, nó không có đến khổ nữa, Thầy - ước vọng của Thầy nó viên mãn.

Cho nên khi Thầy về thầy Thanh Từ là mục đích của Thầy thứ nhất là gợi lên cái ý để làm cho những người mà người ta bỏ hết cuộc đời người ta tu - để cho thầy Thanh Từ lấy cái chỗ đó đó mà khuyên Thầy nên thực hiện các sức thiền định làm chủ của mình coi cho những vị này người ta thấy, để người ta có cái niềm tin rằng mình có sức làm chủ như vậy.

Nhưng mà thầy Thanh Từ thầy không có hiểu cái điều đó cho nên thầy hỏi qua những công án, mà làm gì mà Thầy không hiểu công án!

Thầy Thanh Từ nói cái gì Thầy không biết ở trong bụng sao mà Thầy không hiểu? Cho nên lời nói để diễn tả cái hiểu của mình qua cái ý của người ta, nhưng mà hiểu hơn cái lời nói đó rồi thì có cái gì mà không hiểu, dù câu gì đi nữa!

Làm sao những cái công án làm sao mà gạt được những người mà tâm nó đã tịnh, người ta đã ly hết thế gian rồi, tâm nó tịnh thì người ta hiểu từng ở trong tâm ý chớ đâu phải người ta hiểu ở ngoài cái lời nói.

(01:03:23) Cho nên thầy Thanh Từ hỏi gì thì Thầy trả lời cái nấy hết, không có gì mà Thầy trả lời không đúng tâm của thầy Thanh Từ. Nếu mà Thầy không hiểu tâm của thầy Thanh Từ thì Thầy trả lời nó sẽ sai, mà Thầy đã hiểu tâm thầy Thanh Từ muốn nói câu đó là thầy Thanh Từ muốn Thầy phải trả lời câu nào cho nó đúng thì Thầy sẽ trả lời ngay câu đó thì đúng ý ông ta liền, có gì đâu!

Còn mấy thầy học hiểu như vậy là nắm được cái mấu chốt nào đó để mò mà trả lời, may nó trúng không may thì thôi, phải không? Đó là các thầy nghĩ rằng mình ngộ được cái công án như vậy, chớ còn Thầy hiểu trong tâm người ta mà trả lời chớ không phải là trả lời bằng cách ở bên ngoài sơ.

Đó là Thầy thấy cái chuyện mà Thầy làm là Thầy muốn là để gây lại cái niềm tin cho người ta biết đó là con đường tu để mà làm chủ sanh tử, có mục đích đó thôi.

Và đồng thời thì khi đó có cái sự yêu cầu của Hòa thượng, thì Thầy ghi lại những cái kinh nghiệm tu hành của Thầy giao cho Hòa thượng, từng đó Thầy thị tịch luôn để cho chúng - bao nhiêu chúng, lúc bấy giờ đông chớ đâu phải ít - bao nhiêu chúng nhìn thấy cái chỗ tự tại của Thầy để cho họ niềm tin, họ biết rằng cái pháp này làm được, từ đó họ sẽ - thầy Thanh Từ thầy sẽ khai triển cái này để giúp cho người ta.

Bây giờ - tới bây giờ đó, mười bảy năm, biết bao nhiêu người làm chủ sanh tử không? Nếu mà họ đã được cái chân pháp rồi, họ tin tưởng được rồi thì bao nhiêu người đã làm chủ sanh tử!

Còn tại sao mà Thầy không tự mình mở ra để mà cho người ta theo mình để làm chủ sanh tử? Làm sao được! Cái kiến chấp của Thiền Tông của họ đầy ắp ở trong đầu, cho nên họ về đây Thầy dạy họ chớ họ không tu đâu, họ không tin đâu, họ tu theo kiểu họ.

Hầu hết là người nào cũng vậy à, suốt mười bảy năm trời Thầy đã thấy cái điều đó quá chừng rồi. Còn cái người mà quyết theo Thầy, nghe lời Thầy tu thì quá ít.

Nói độc cư họ chẳng độc cư gì hết. Họ nói Thiền Đông Độ dạy tự tại đâu có chuyện mà khép ăn ngày một bữa cũng đâu có - hoàn toàn nó rộng rãi quá mà, cho nên hai mươi người họ trong cái thời gian rất ngắn, chừng hai ba tháng là họ đi muốn sạch, còn có hai người à!

Còn hai người là Mật Hạnh với Chơn Tịnh chớ ai, còn bao nhiêu quét đi hết, họ đi bay hết. Đó, rồi Chơn Tịnh sau này cũng bay luôn, ăn với ngủ, ngủ li bì không có chịu khắc phục, không chịu đi kinh hành, lười biếng nằm riết rồi cũng phải đi thôi.

Rồi sống như vậy độc cư không nói chuyện chịu không nổi, rồi đụng ai vô đây gặp mới, gặp cũ gì cũng kéo nhau nói chuyện với nhau hết, do đó làm sao tu hành được! Các thầy thấy trong vấn đề đó làm sao mà nghe lời Thầy dạy không? Mà không nghe lời Thầy dạy thì làm sao mà Thầy dạy được?

Cho nên vì vậy Thầy biết bây giờ đứng ra ngoài cái góc độ của Hòa thượng thì không thể độ ai được, chỉ có Hòa thượng nói là người ta tin. Mà cái chứng nghiệm để cho người ta tin sâu hơn là Thầy phải chứng nghiệm, Thầy phải ra đi.

Cái ra đi của Thầy để chứng minh rằng Thầy tự tại trong cái sự sống chết, để làm cho người ta tin sâu, từ đó Hòa thượng lấy kinh nghiệm đó mà dạy họ thì chắc chắn là bao nhiêu người - cái kiến giải Thiền Đông Độ họ quét sạch ra, họ đâu có thèm tu, phải không?

Họ đi vào con đường giới luật của Phật, từ đó người ta thực hiện được những cái sự giải thoát thật sự của đạo Phật, chừng đó là Hòa thượng đã dựng lại Phật pháp.

(01:06:19) Thầy đâu có cần danh, cần lợi mà Thầy ở đây Thầy dựng, nhưng mà vì Hòa thượng không chấp nhận, cho nên Thầy mới mười bảy năm trời lận đận, Thầy mới ở đây mà chịu nhận quý thầy để khổ sở hết sức Thầy chớ đâu phải!

Bao nhiêu lần khổ cực khổ! Mở ra bốn vị về, công an nó quạt, nó bắt đem ra ngoài khám, nó nhốt ngoài đó một ngày, một đêm. Đâu phải là chuyện dễ! Thầy cũng phải chạy đi lo, Thầy với ông thầy Châu chạy đi lo muốn chết mới ra chớ đâu phải chuyện dễ đâu quý thầy tưởng!

Mà đều là mấy ông già lụm cụm không, chỉ có một chú là Thiện Ngộ còn thanh niên thôi, nó bắt nó nhốt trong cái xô, trời nắng ở trong nhà thiếc mà thấp ủm vầy. Trời ơi! Ông đó ông về ổng hoảng sợ luôn, ông không dám ở, mà đây mà ổng trở về nhà ổng phải là - ở đây cô Út phải đưa đi á, ổng sợ quá sợ rồi! Trời ơi! Vô trong đó ở truồng chứ không có mặc quần áo gì được hết!

Nó như vậy đó. Các thầy biết rằng gian khổ, vất vả, gian khổ chớ không phải được như bây giờ đâu, đến đây nhà nước cho đăng ký đâu. Hồi đó giấy tờ cũng đàng hoàng đến đăng ký rồi bắt đầu mời ra hết, chớ không phải chuyện dễ đâu.

Đó Thầy nói tất cả những - đó lúc bấy giờ là lúc thầy Như Hải mà về đây đó, thầy Như Hải cũng bị nhốt ở ngoải, chớ đừng có nói khỏi!

Đó là những cái mà Thầy thấy rất là gian khổ, mười bảy năm trời tìm ra một người để đem cái chân pháp mình dạy không ai tin hết. Hễ dạy họ căn bản, họ đòi cái gì đâu, họ đòi phải nhập định liền à! Thì thử hỏi dạy làm sao dạy không? Cái bước đầu không đi mà cái bước sau họ đi!

Dạy họ ăn ngày một bữa họ nói: “Thầy cứ dạy ăn với ngủ không, không biết dạy gì hết!” Trời đất ơi! Ăn ngủ mà chưa làm chủ thì biểu làm chủ cái gì bây giờ, Thầy chả biết cái gì nói nữa!

Ăn ngày một bữa không được mà bây giờ còn muốn ăn cái bụng cho nhiều, cho đầy ba bữa thì dục nó sanh ra, ông nội Thầy cũng ngăn nó cũng không được nữa! Nó thấy con gái thì nó nhìn mê miết nó à, bảo Thầy làm sao bây giờ?

Bởi vì mình ăn ít, cái dục mình nó ít, lần lượt cái ngủ nó cũng giảm bớt đi, cái ăn ảnh hưởng nó dữ lắm, cho nên nó mới sanh ra ít có cái dục, từ đó mình mới khắc phục mình lần lần. Cái thân này nó đòi hỏi dữ lắm chớ đâu phải dễ!

Biết như vậy mà nói không ai nghe hết. Khép họ vô ăn họ nói chóng mặt, nhức đầu, ăn vầy làm sao tu, sức khỏe đâu mà tu! Trời ơi họ tu cái gì, Thầy chả biết cái gì hết!

Người ta tu - cái bộ xương người ta - còn cái bộ xương à, mà người ta cái tâm, cái tinh thần của người ta lớn lên. Còn quý thầy ăn uống mập ra mà cái tinh thần của quý thầy như hột cát vậy, đụng đâu là co đó!

Đó cho nên nhìn qua mười bảy năm trời Thầy thấy cả một vấn đề mà độ người chớ không phải. Nếu mà phải người nào đến đây nghe lời Thầy hết thì mười người hai chục người họ đều đạt được hết, thì cái chuyện đó quá dễ rồi.

Bởi vì Thầy biết là cái kiến giải, cái kiến chấp ở trong đầu của họ, họ mang nhiều cái pháp ở trong đó. Người thì mang Tịnh Độ, người thì mang pháp này, kia, phá cái đó không có được, vậy thì độ làm sao độ được!

Thầy nói như vậy thì quý thầy thấy cái nỗi khổ của Thầy ghê gớm lắm! Nhưng mà muốn chấn hưng Phật pháp phải chịu khó ở lại mấy năm trời mới chịu.

Cho đến bây giờ thì Thầy thấy họ vén lên một chút ít, người ta đã thấy được cái con đường, dù đi nữa vẫn bị cái sự cô lập của những cái giáo phái khác chớ đâu phải không.

(01:09:21) Hai cuộn băng mà Thầy đưa ra gần đây nhất là “Phật Môn Bảo Huấn” với “Trở Về Đạo Phật” là gợi ý cho Hòa thượng đó. Nghĩa là hai cuộn băng mặc dù Thầy không trao, nhưng mà Thầy gián tiếp trao cho thầy Thông Luận, thầy Thông Luận mới đưa về cho thầy Nhật Quang, thầy Nhật Quang mới đưa về Hòa thượng.

Do đó Hòa thượng nghe hai cuộn băng đó thì Hòa thượng chỉ nói như lời của thầy Thông Giác về nói lại Thầy là: “Người dám ăn dám nói vầy phải có những gì được” thôi, có nhiêu vậy thôi, rồi luôn luôn bưng bít, không bao giờ mà cho một người nào nghe.

Thậm chí như người ta nói như thế này: Nếu mà cho nghe hai cuộn băng này thì nó không ích lợi gì cho quý thầy. Nghĩa là Thầy nói sai mà, cho nên vì vậy nó đâu có ích lợi cho Thầy, các con hiểu không? Cho nên đó là cái lý luận của họ.

Chứ nếu nghe hai cuộn băng này - mà như ở trong cả cái miền Nam mình mà được phổ biến như Chánh Trực mang về miền Bắc mà phổ biến - thì bây giờ cái số người miền Bắc mà hôm nay mà còn ngồi đây được là được nghe những cái lời băng đó, lời băng của Thầy dạy.

Chớ còn nếu mà không có nghe, không có Chánh Trực mà làm điên, làm khùng mà đem về ngoải mà phổ biến thì chắc chắn bây giờ không có người nào mà ngồi đây ở miền Bắc đâu. Bưng bít như ở miền Nam này bưng bít không có cho…​

Bởi vì Thầy nói họ biết đúng là pháp họ không có thể phân tích được, phê bình được cái lời dạy của Thầy, nhưng họ vẫn bưng bít, họ vẫn không có cho người theo đó để mà tu tập, họ tìm mọi cách. Thầy biết rõ điều đó mà.

Cho nên Thầy muốn gợi ý là để không phải là Thầy muốn đoạt cái quyền của mình mà để hướng dẫn đâu. Bởi vì trong cái số đồ chúng như trong các Chiếu nó không phải là người nào cũng tu hết một lượt mà được đâu, nó còn tâm thương, tâm ghét, gia đình này kia, thì những người đó để lần lượt để Hòa thượng hướng dẫn cho họ trên con đường pháp đó.

Còn trong đó một số ít, rất ít là chọn những người mà người ta cắt đứt được gia đình người ta hết. Những người đó chọn đi vào một cái vị trí sâu hơn do Hòa thượng điều khiển, và Thầy chỉ âm thầm ở trong đó làm cái người hướng dẫn, thì có phải đào tạo những con người không?

Nhưng mà Hòa thượng không hiểu điều đó. Thầy đâu có về đó mà Thầy hằng ngày Thầy đi thuyết giảng thay Hòa thượng rồi để cho Hòa thượng làm Thái Thượng Hoàng đó ngồi đâu! Đâu có điều đó đâu.

Hòa thượng còn cái trách nhiệm dạy bao nhiêu cái thứ chúng mà đang - cũng như chúng cư sĩ, cũng như chúng tu sĩ mà đang ở trong cái bắt cá hai tay, thì Hòa thượng sẽ giảng dạy các pháp của Hòa thượng, rồi lần lượt từ đó giúp cho họ lần cái bàn tay của họ đi, đừng có nắm hai tay mà đi vào đạo!

Bởi vì hai tay - rõ ràng là Thầy nói hai tay rõ ràng: Đạo là phải ăn một bữa, đạo không thể ăn ba bữa. Mà cái người nào mà chấp hành được ăn một bữa thì mới khép vào cái chỗ tu hành sâu chớ!

Còn người nào ăn ba bữa thì thôi cứ để họ ăn ba bữa, dạy họ những cái gì với cái tầm vóc, với cái khả năng của họ thì không phải quý sao? Thì không phải giữa thầy trò họp nhau mà xây dựng Phật pháp sao? Đi vào đúng con đường của đạo Phật, từ cái giới hạnh của người ta hiện ra cuộc sống của tu sĩ, ai lại không quý trọng!

(01:12:23) Thì Thầy thử hỏi trong cái đất nước này mà có được cái sự hợp với nhau, mà thầy trò hợp với nhau thì bây giờ Phật giáo - bao nhiêu cái thời gian mà chúng tu hành - thì thử hỏi từ cái ngày mà Thầy về Hòa thượng cách đây mười là bảy năm, nếu mà cái ngày đó mà tới bây giờ Hòa thượng đã đào tạo biết bao nhiêu người không, với cái số người mà tin ở Hòa thượng?

Vì Hòa thượng là những người thuyết giảng dạy về giáo lý họ từ xưa đến giờ, từ hồi Hòa thượng Thiện Hoa lận, thì bây giờ cái số người mà theo Hòa thượng là những người đã học với Hòa thượng. Còn Thầy có giảng dạy cho ai bao giờ đâu, cho nên làm sao họ biết Thầy được mà họ theo, mà họ có tin nổi Thầy không?

Đó là cái đầu tiên mà Thầy về Thầy thị hiện để mà trợ giúp Hòa thượng, nhưng Hòa thượng không hiểu, Hòa thượng bảo Thầy về đọc kinh sách đi, đọc hết đi rồi giúp Hòa thượng.

Giúp Hòa thượng bằng cách đi thuyết giảng như vậy sao? Cho nên Thầy đọc là đọc chớ không bao giờ đi thuyết giảng, mà tìm người để mà dạy cho họ thực hiện cho được, để làm cho Phật pháp sáng tỏ.

Hôm nay vì cuối cùng Thầy thấy cái duyên khó mà có thể hợp tác làm cho sáng tỏ Phật pháp, giúp cho người ta bớt cái thời gian để cho mọi người đạt được cái sự cứu cánh, để uổng cuộc đời của mọi người đang tu ở trên cái hoàn cảnh này, nhưng mà cái duyên mà thôi.

Cho nên Thầy buộc lòng Thầy cuối cùng ẩn bóng là Thầy soạn cái giáo án này ra. Đường lối của đạo Phật như vậy đó, thì các ông tu sai là các ông sẽ bị.

Thầy đập hết, từ Nam Tông, Bắc Tông Thầy quét sạch hết, ai có nghe thì nghe, không nghe thôi. Hoàn toàn là Thầy là người không còn ở trong thế gian này nữa, coi như là ẩn bóng, coi như là Thầy đã thị tịch, cho nên không còn ai gặp được Thầy khi mà giáo án này ra đời.

Rồi ở đây thì các cư sĩ, các tu sĩ thấy đúng thì theo đó mà tu, mà thấy không đúng thì thôi, không có ai ép buộc. Bởi vì Thầy đâu có Tu viện, đâu có cái chỗ nào để cho các thầy theo Thầy đâu, cho nên chẳng ai chống trái Thầy, chẳng ai phạm cái gì hết.

Người ta chỉ biết bây giờ cái giáo án của Thầy viết ra như vậy, rồi sai, rồi đúng thì ai muốn luận sao thì mặc họ. Ai có duyên thì nghe được nó mà nỗ lực đúng từ cái bước đầu mà Thầy đã vạch ra thì họ sẽ đi đến nơi, lấy giới luật của Phật mà làm thầy, nương vào đó mà tu hành.

Cũng như Thầy chưa có ai dạy mà Thầy cũng nương vào giới luật, Thầy sống đúng giới hạnh thì từng đó tâm thanh tịnh, Thầy cũng đạt được thiền định, đâu có gì khó khăn.

Đó, hôm nay Thầy nói như vậy để rồi chúng ta sẽ biết rằng những cái sự mà Thầy nói ra đều là có cái những ý nghĩ, nhưng mà cái ý nghĩ đó nhiều khi người ta không hiểu, người ta tưởng qua một cái góc độ nào, kiến chấp cái góc độ đó, người ta phân tách những cái bài giảng Thầy ra để người ta phỉ báng Thầy, hoặc là người ta làm cho lệch lạc con đường của Phật pháp sau này, thì đó là cái nhân quả của họ, họ sẽ gánh chịu điều đó.

Còn Thầy hoàn toàn với cái tâm rất tốt, không chống trái ai, nói thẳng, nói thật, ai sai là bị thôi, chớ còn không nói người nào.

Bởi vì nhìn chung là Phật giáo hiện giờ chúng ta thấy đã lệch lạc. Từ Nam Tông đến Bắc Tông chớ không phải là riêng có quý thầy ở đây không, mà cả thế giới hiện bây giờ người ta đều chịu ảnh hưởng với một cách lệch lạc như vậy đó.

Thì cái bổn phận và vấn đề của Thầy đã thực hiện được, những cái gì mà làm chủ được, những cái gì giới luật được mà Thầy làm chủ thì Thầy phơi bày ra trên cái trang giấy này, để may ra người có hữu duyên người ta gặp được những cái bổn này mà người ta theo đó mà người ta tu hành, đừng có theo những cái người mà đã làm lệch lạc Phật pháp rồi uổng cuộc đời vô ích.

Đến đây Thầy xin dừng lại những cái trả lời qua những cái ý kiến của quý thầy, và đồng thời chúng ta tiếp tục cái bài học.

5- LY DỤC, LY ÁC PHÁP LÀ MỤC ĐÍCH CỦA TRỤ TRÌ TAM BẢO

(01:15:56) Tín ngưỡng Phật giáo bắt đầu từ tín ngưỡng trụ trì Tam Bảo. Mục đích của tín ngưỡng trụ trì Tam bảo là ly dục, ly bất thiện pháp thể hiện lý thể Tam Bảo.

Đó thì quý thầy thấy: Cái chỗ mà ly dục, ly bất thiện pháp nó là thực hiện cái sự giải thoát thật sự, lìa ra những cái tâm tham muốn của mình, lìa ra những cái ác pháp mà mình đang đầy ắp ở trong đầu óc của mình.

Đó, cho nên cái tín ngưỡng Phật giáo nó bắt đầu từ đó, thế mà người ta lại không có ly cái lòng ham muốn., không ly cái ác pháp, cho nên bàn tay người ta cầm súng, cầm dao mà người ta giết người không gớm tay. Đó là một cái không hiểu - không hiểu cái giáo lý của Phật pháp.

Mà tín ngưỡng của Phật pháp nó bắt đầu từ cái chỗ tín ngưỡng trụ trì Tam Bảo đó, tức là thọ Tam Quy đó, nó xuất khởi ra. Mà xuất khởi ra cái thọ Tam Quy đó, cái tín ngưỡng trụ trì Tam Bảo đó là nó - cái mục đích của nó là ly dục, ly bất thiện pháp, chớ đâu phải là chúng ta biết ông Phật, Phật là Pháp, Tăng để mà phù hộ, gia hộ chúng ta đâu!

Mà chúng ta biết nó để mà chúng ta ly cái lòng ham muốn của chúng ta ra, để mà diệt cái ác pháp trong tâm chúng ta, thì làm sao có cầm gươm, cầm súng, giết người? Đó thì, đó là chúng ta mới thấy rõ được cái lý thể của Tam Bảo, cho nên ly dục, ly bất thiện pháp là thể hiện lý thể Tam Bảo.

Bởi vậy không có trụ trì Tam Bảo thì cũng không làm sao ly dục, ly bất thiện pháp được.

Nghĩa là nếu mà chúng ta không thọ cái Tam Quy này, không có cái trụ trì Tam Bảo này thì cái hình ảnh đó làm sao mà chúng ta biết cách mà chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp?

Nghĩa là nhìn ba ngôi Tam Bảo người ta biết đó là những cái bậc ly dục, ly bất thiện pháp, thì do đó nương vào cái chỗ đó mà chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp nơi tâm của mình.

Đó thì, như vậy là nếu mà không có trụ trì Tam Bảo thì làm sao có ly dục, ly bất thiện pháp được để thể hiện lý thể Tam Bảo?

Mà không nhận thấy được chỗ ly dục, ly bất thiện pháp là lý thể Tam Bảo thì trụ trì Tam Bảo cũng không làm sao an lập được.

Nếu mà mình ly dục, ly bất thiện pháp không được thì bây giờ cái trụ trì Tam Bảo - bây giờ có chùa, có chiền, có hình tướng, có kinh sách cả đống đi nữa mà không ly dục, ly bất thiện pháp thì không thể nào an lập cái trụ trì Tam Bảo được.

Cho nên hình thức là bây giờ chùa chiền có mà người ta cầm súng, cầm dao, người ta giết được người, đó là người ta không an lập được trụ trì Tam Bảo.

Cho nên bây giờ Thầy kết án những cái loại sư mà không hiểu Phật pháp, để làm cho Phật pháp suy đồi đến đỗi mà Phật pháp trở thành những ác pháp. Giết người ta trong thế gian như thế này, xương máu đổ biết bao nhiêu!

(01:18:30) Mà đó là những nước mà gọi là lấy Phật giáo làm gốc đó, quốc giáo đó. Thì chúng ta thấy cái vấn đề đó là vấn đề đau lòng cho Phật giáo chớ đâu phải là…​

Phật giáo ở tại đất nước đó, gọi là quốc giáo đó, lại là Phật giáo suy đồi nhất. Hình thức thì chúng ta thấy cái trụ trì Tam Bảo thì quá rõ ràng, nhưng mà cái lý thể Tam Bảo thì chẳng có một cái gì hết, cho nên chẳng có ly dục, ly bất thiện pháp.

Cho nên cái hình ảnh Tam Bảo ở chỗ đó thật là máu xương. Trong chùa gì mà thịt, cá vô nghe tanh hết. Thử hỏi coi, cái mùi mà như vậy là cái mùi gì? Mùi sát khí!

Cho nên Hòa thượng Huệ Hưng nói khi mà đi đến cái khu vực của quý sư Nam Tông, nghe cái sát khí, nghe nó lạnh lùng, vô trong cái chùa của mấy ổng nghe mùi thịt bò nè, thịt heo nè, thịt gà, thịt vịt nè. Trời đất!

Mình ăn chay quen rồi vô đó mình chịu không có nổi, mà ngồi với mấy ông đó nghe cái mùi hôi của mấy ổng, nghe heo nè, nghe gà, nghe vịt ở trong đó! Thử một tu sĩ mà như vậy là làm sao?

Chớ mình ăn nó làm sao cái mồ hôi mình không toát ra cái thứ đó? Ăn heo thì nó phải toát ra heo, mà ăn bò nó phải ra hôi bò chớ, chớ làm gì mà không có cái mùi đó được!

Quý vị cứ đi - mấy quý vị ăn tỏi đi, ngồi gần Thầy nghe cái mùi tỏi liền à. Làm sao mùi mồ hôi mấy vị không toát ra, thấm cái gì thì nó ra cái nấy chớ, nó đâu làm sao trật được!

Cho nên tất cả những cái này đều là những cái trụ trì Tam Bảo nó thể hiện mà không đúng cách của nó, nó không ly dục, ly ác pháp thì cái lý thể Tam Bảo không bao giờ có. Cho nên cái mùi hôi của họ là cái mùi hôi của phàm phu tục tử, cái mùi hôi bất tịnh.

Lý thể Tam Bảo là quả của trụ trì Tam Bảo, do thế trụ trì Tam Bảo là nhân.

Đó các thầy thấy: Lý thể Tam Bảo là cái quả, mà cái quả thiện thì nó mới thực hiện cái trụ trì Tam Bảo nó là cái nhân, mà cái nhân thiện thì nó mới có quả thiện, mà cái nhân ác thì nó quả ác.

Ăn thịt chúng sanh thì đó là quả ác, cho nên cái thể hiện trụ trì Tam Bảo của họ như vậy thì cho nên cái lý thể Tam Bảo của họ là phải giết hại chúng sanh, không có thể nào mà họ là Từ, Bi, Hỷ, Xả được.

Cho nên người cư sĩ tại gia phải hiểu rõ điều này thì mới xin thọ Tam Quy. Thọ Tam Quy tức là thọ ba giới đầu tiên của đạo Phật.

Phải hiểu, hiểu rồi mình mới thọ, còn mình không hiểu mình thọ như mù mờ là mình chẳng biết gì hết. Nghe người ta có cái pháp danh thôi cũng xin cái pháp danh đó, thì cái điều đó là cái điều mình chạy theo cái tên, được cái tên đó là coi như là mình tín đồ của Phật rồi. Nhưng mà sự thật nó đâu phải vậy đâu.

Cho nên chúng ta phải hiểu cho rõ như thế nào là trụ trì Tam Bảo, như thế nào là lý thể Tam Bảo. Mà hiểu được như vậy rồi chúng ta mới biết là lý thể Tam Bảo là cái chính của cái nhân trụ trì Tam Bảo, là vì phải ly dục, ly bất thiện pháp nó mới là cái lý chính của nó.

6- TĂNG BẢO LÀ TRỌNG YẾU NHẤT TRONG TAM BẢO

(01:21:33) Ở đây quý thầy phải hiểu: Trong Tam Bảo, Phật Bảo là tôn quý nhất, Pháp Bảo là cao hơn hết, nhưng địa vị Tăng Bảo là trọng yếu hơn hết.

Đó, quý thầy thấy Thầy ở đây Thầy dùng những cái chữ để mà chỉ rõ: Phật Bảo là tôn quý nhất, nhưng Pháp Bảo là cao hơn hết, trái lại Tăng Bảo là trọng yếu hơn hết.

Nó trọng yếu hơn hết, nếu mà - dù là chúng ta tôn quý Phật Bảo và Pháp Bảo có cao hơn hết mà cái Tăng Bảo nó không ra gì, thì tức là nó sẽ làm lệch tất cả những cái Phật Bảo và cái Pháp Bảo hết. Cho nên Tăng Bảo coi vậy chớ trọng yếu lắm chớ không phải thường đâu.

Một vị tăng mà giới luật không nghiêm chỉnh thì đạo Phật sẽ sa đọa, mà một vị tăng mà giới luật nghiêm chỉnh, thiền đức sâu mầu, trí tuệ tuyệt luân thì Phật giáo hưng thịnh.

Dù là trong cái đất nước đó chỉ có một ông thầy thôi cũng là Phật giáo hưng thịnh, mà trong đất nước đó không có một bậc thầy như vậy đó, thì đất nước đó dù có hàng vạn ông thầy đi nữa cũng vẫn là suy đồi.

Bởi vậy sau khi Đức Phật nhập diệt, đạo tràng của Phật giáo phải do Tăng Bảo trụ trì.

Nghĩa là Đức Phật nhập rồi, bây giờ từ cái ngày Đức Phật nhập rồi sau đó thì phải coi như là Tăng Bảo giữ gìn cái riềng mối đó, cho nên Tăng Bảo phải trụ trì ở trong cái đạo tràng đó.

Kinh điển của Phật phải do Tăng Bảo bảo tồn…​

Chỉ có ông tăng mới bảo tồn được cái giáo lý này chớ nếu không có ông tăng thì làm sao ai bảo tồn được giáo lý này. Mà ông tăng bậy bạ thì họ đem đốt ba cái giáo lý thật đi, họ xen ba cái giáo lý tầm bậy vô đó thì chúng ta biết không? Cho nên ông tăng giả là giáo lý cũng bị hư, và Phật Bảo nó bị méo mó hết.

Ông Phật hồi nào cái mặt ra làm sao, bây giờ nó làm mặt ổng như ông búp bê vậy đó, như con búp bê vậy. Thì thử hỏi coi ông Phật như thế nào mà bây giờ nó vẽ ra như vậy đó. Thì nó làm lệch lạc tất cả, từ cái Pháp Bảo, coi là trụ trì Tam Bảo nó vẽ trật hết, nó làm khác hết, nó không có giống chút nào hết.

Rồi tới cái Pháp Bảo thì nó không có bảo vệ, nó muốn như thế nào, nó chạy theo dục lạc thế nào thì nó vẽ ra như thế nấy. Nó muốn ăn thịt chúng sanh thì nó vẽ ra cái nấy nó ăn à. Nó muốn uống rượu thì nó cũng vẽ ra nó uống rượu, nó muốn hút thuốc thì nó cũng vẽ ra hút thuốc, nó muốn làm sao nó vẽ ra, nói Phật dạy vậy, vậy đó.

Nó vẽ ra nó cũng nói ông Phật nói vậy đó. Nó nói: “Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc…​” - hồi ở tại Xá Vệ quốc thì ông Phật ổng cũng nói vậy, tui giờ tui cũng nói lại vậy chứ tui có thêm bớt sao!

Kinh điển của Phật phải do Tăng Bảo bảo tồn, văn hóa của Phật giáo phải do Tăng Bảo truyền bá, tín đồ của Phật giáo phải do Tăng Bảo tiếp dẫn.

Đó, những người mà bây giờ vào tu thì phải do mấy ông tăng, chớ bây giờ ông Phật ổng tịch rồi còn ai mà nói đâu, còn ai mà dẫn đâu, rồi pháp thì nằm yên đó mấy ổng muốn thay gì thay. Do đó cho nên Tăng Bảo nếu mà chân chính, Tăng Bảo mà đúng cách thì Phật pháp sẽ còn, mà Tăng Bảo mà sai rồi thì Phật pháp sẽ mất.

(01:24:30) Đó thì hôm nay Thầy giảng như vậy, quý thầy phải thấy rõ được cái quan trọng của Tăng Bảo chớ không phải là thường, ba ngôi Tam Bảo là Tăng Bảo là quan trọng.

Cho nên bây giờ chúng ta cứ dựa theo ông thầy mình, ông thầy bảo sao mình làm vậy. Mình làm, làm riết, làm trật hết trơn, hết trọi Phật pháp, đâu có thấy được cái đường sáng suốt của đạo Phật!

Lúc Đức Phật còn tại thế, Phật giáo lấy Đức Phật làm trọng tâm.

Nghĩa là lúc Đức Phật còn sống thì người ta lấy Đức Phật làm trọng tâm, cái gì sai, gì đúng thì người ta cứ hỏi Phật, thì Pháp cũng từ nơi miệng Phật mà lưu xuất ra, Tăng cũng từ nơi cái hành động của Phật mà hòa hợp mà người ta theo đó mà người ta nương vào Đức Phật.

Còn bây giờ thì chúng ta - ông Phật mất rồi thì có Tăng là cái người mà đại diện từ cái hành động, từ cái lời nói, từ những cái điều kiện mà của ông tăng làm ra, đều là người ta tin vào đó.

Mà bây giờ ông tăng nói bậy nói bạ người ta cũng nghe, mà nói đúng thì người ta cũng nghe, mà ông tăng nói đúng bây giờ chúng ta thấy có đúng không? Ông nào cũng nói trên trời, dưới đất không à, mà sống thì sống y như thế gian, hưởng thụ thì hưởng thụ dục lạc của thế gian, chớ có ông thầy nào mà gọi là sống đúng như Phật ngày xưa không?

Còn ngày nay nói tín ngưỡng của Phật giáo phải lấy Tăng Bảo làm chỗ quy y cung kính Tam Bảo, phải cung kính Tăng Bảo.

Nghĩa là bây giờ chúng ta lấy Tăng Bảo làm chỗ quy y của chúng ta, cung kính Tăng Bảo, lấy Tăng Bảo…​ Bây giờ Thầy đọc lại chỗ này:

Còn ngày nay nói tín ngưỡng của Phật giáo phải lấy Tăng Bảo làm chỗ quy y…​ (Mất tiếng)

Đó thì mình phải cung kính Tăng Bảo. Mà bây giờ mấy quý thầy, quý vị Tăng Bảo của chúng ta có đáng cung kính không? Ông nào bây giờ làm sao mà chúng ta cung kính được.

Mà cái hình ảnh đó bây giờ chúng ta cung kính các Thánh Tăng thời Đức Phật, thì mấy ông này nhập diệt mất rồi còn đâu mà làm cái gương cho chúng ta nữa, chỉ là chúng ta đọc lại những cái mẩu chuyện của các ngài rồi chúng ta nương theo như vậy chớ thiệt ra nó không có hình ảnh sống động.

Còn các vị tăng, các thầy của chúng ta bây giờ là cái hình ảnh sống động, mà sống động là sống động phá giới, phạm giới, làm sao mà chúng ta cung kính mấy ông đó được, mà bắt buộc chúng ta cứ đảnh lễ mấy ổng hoài à!

Đến lạy mấy ông đó, mà mấy ông đó ổng có sống hơn mình không? Ổng ăn cũng ngày ba bữa nè, cũng ỉa đái cũng hôi thúi như mình nè, chớ ổng có ỉa đái ra vàng bạc đâu mà bắt mình phải cung kính ổng hoài à!

Mà ổng thì coi bộ sống sung sướng hơn mình, mình thì làm lụng cực khổ hơn ổng. Ổng ngồi không ổng ăn ổng mập bự ra vầy, còn mình thì ốm nhom, ốm nhách, mần gần chết!

Mỗi ngày, mỗi tháng gì cũng dành dụm, gia đình phải chèn xén cái ngân quỹ gia đình của mình để dành dụm để đến cái ngày nào đó đi nghe thuyết pháp cúng ổng đi, đặng cho ổng ngồi đó ổng thuyết pháp cho mình nghe, đặng cho mình biết được Phật pháp, chớ còn không khéo…​

Nhưng mà cái gương hạnh của ổng có xứng đáng cho mình đảnh lễ không? Cuối cùng mình cứ đảnh lễ hoài mà rốt cuộc rồi cái đời của mình tới chừng đó nó cũng đọa địa ngục chớ đâu ổng có rước mình được!

Chính ổng, ổng cứu không được ổng. Cho đến cái ngày mà giờ ổng sắp chết, ổng nhăn răng, méo miệng, ổng chẳng làm sao được cái gì hết, thì ổng cứu ổng không được làm sao ổng cứu mình được? Mà mình đảnh lễ mong nhờ ổng sau khi mình có chết thì nhờ ổng cứu, thế mà ổng có cứu gì được đâu!

(01:27:32) Đó thì quý thầy thấy cái điều mà chúng ta lầm lạc, chúng ta lẫn lộn mà đến khi mà chúng ta chết đi chúng ta mới thấy cái sự lẫn lộn đó. Mà thậm chí như chúng ta cũng chưa hiểu nữa. Nó hướng đi cái hướng mà sai lệch như vậy, cuối cùng thì đời sống của chúng ta chẳng ra gì hết! Uổng cái đời của chúng ta, bị người ta gạt mà không thấy.

Trong hàng ngũ tăng sĩ hẳn có rồng, rắn lẫn lộn, rồng thì ít mà rắn thì nhiều, cho nên chúng ta quy y phải chọn rồng đừng chọn rắn.

Chúng ta muốn quy y ông thầy thì chúng ta phải chọn rồng, nhưng mà hầu như bây giờ rắn nó nhiều, mà rồng ở chung thì rắn cắn hết làm sao, phải không? Cho nên rồng nó phải chui trong rừng, trong núi hay hoặc nó xuống biển nó ở chớ, nó dám ở chung với mấy con rắn này sao? Nó cắn đầu hết! Rắn thì nó có nọc độc, còn rồng thì nó đâu có nọc, phải không?

Cho nên bây giờ mình kiếm tìm rồng mà mình đi quy y đâu phải chuyện dễ đâu, không phải dễ đâu, rắn không à! Rồng mà đâu có ở chung với rắn được. Đó là một cái điều mà thực tế như vậy, không có thể nào mà chúng ta lẫn lộn ở trong đó mà nói rồng rắn ở chung nhau được đâu, không có được!

Thử quý thầy bây giờ ăn ngày một bữa đi, quý thầy lại chùa người ta đi, quý thầy ở đi, họ cho ở lun á! Cho nên rồng, rắn đâu có ở chung nhau được. Ông ăn kiểu đó Phật tử nhìn tui bằng nửa con mắt rồi!

Có một câu kinh trong kinh Đại Thừa dạy: “Tỳ Kheo phá giới vẫn có đủ tư cách làm thầy trời, người.”

Trời ơi! Ở trong kinh Đại Thừa nó dạy câu này Thầy mắc giật mình chớ! Cái ông thầy Tỳ Kheo mà phá giới có đủ tư cách làm thầy trời, người! Trời ơi! Ai tin mà làm thầy trời, người đây!

Bởi vì chỉ có những trời, người ngu si họ mới đảnh lễ mấy cái ông thầy đó chớ còn ai mà đảnh lễ đâu mà làm thầy trời, người được? Bởi vậy, người ngu si thì cái miệng của ông thầy phá giới họ nói nghe hay quá, cho nên họ ngồi hút thuốc vẫn là nghe họ thuyết giảng chớ!

Lẽ ra thấy ông thầy mà phạm giới, mà ngồi một hơi cái lấy điếu thuốc vầy, thuốc cán rồi kẹp hút thuốc rồi phà phà hai ba hơi cái bắt đầu cái thuyết giảng nữa, như vậy thì thôi đi về đi còn ngồi đó. Ông thầy như vậy đó mà ngồi nghe thuyết pháp thì Thầy chẳng biết ra làm sao hết!

Một hơi thì uống một ly nước chanh, hơi thì uống ly nước đường, hay hoặc là coca đồ uống để giải lao đặng thuyết pháp, thế mà chổng khu nhau ngồi cả đám mà nghe!

Quỷ nó ngồi nó thuyết pháp đó chớ cái gì? Phạm giới, phá giới đủ cách, mà ngu si mà ngồi đó mà lắng tai mà nghe! Bài kinh họ nói cái gì? Họ nói cái kiểu ăn, kiểu uống đó chớ nói cái gì! Kiểu phá giới đó.

“Tỳ Kheo phá giới vẫn đủ tư cách làm thầy trời, người.”

Nghe câu kinh này Thầy phát lạnh xương sống Thầy!

(01:30:17) Như Đức Phật mới có thể làm thầy trời, người được là có đủ ba oai lực.

Còn nếu mà đủ có cái oai lực không thì chưa đủ. Tại sao mà Đức Phật nói đại oai lực, đại thần lực, đại minh lực?

Đại oai lực là cái gì các thầy biết không? Là giới hạnh đó, oai nghi tế hạnh, chữ “oai” đây là oai nghi tế hạnh. Một người tu sĩ mà oai nghi tế hạnh ra đường người ta đi, người ta ngó xuống đất, người ta không ngó qua, ngó lại, cái bước đi của người ta nó nhẹ nhàng, nó thanh thoát, đó là cái oai nghi của người ta.

Còn cái đại thần lực của người ta là cái gì? Là thiền định của người ta. Còn đại minh lực là cái trí tuệ của người ta. Cho nên đó là ba cái thần lực đó đó, ba cái đại oai lực đó nó mới xứng đáng là thầy trời, người.

Còn cái ông này ổng phá giới, ở trong này câu kinh nói: “Vị Tỳ Kheo mà phá giới vẫn đủ tư cách làm thầy trời, người”, ờ trong kinh nói rõ ràng như vậy đó. Thầy viết ra cái câu này rất rõ mà để cho quý thầy thấy mà. Họ luận như vậy đó: Đủ là thầy trời, người!

Ông trời ổng thấy ông thầy mà ăn phi thời, ổng đứng ở trên mây không dám xuống. Bởi vì ông trời ổng đâu có ăn phi thời kiểu đó, mà ổng dám lại gần cái ông thầy mà ăn phi thời thì ổng đứng ở trên chớ ổng đâu dám.

Trời nó bất tịnh, cái mùi hôi của ổng nó xuất lên, gặp mấy ông thầy Nam Tông đó, cái hơi thịt, hơi thịt bò, hơi thịt heo, thịt gà nó bay lên, ổng ở trển ổng còn ngộp ổng nữa chớ! Bởi vì ổng đâu có ham cái thứ đó, cho nên mấy ông trời đâu dám đến để mà mấy ông đó làm thầy mấy ổng.

Đó thì, Thầy nói như vậy các con biết rằng: Khi mà cái thân của chúng ta không thanh tịnh thì nó bốc ra những cái mùi thúi chớ không có cái mùi gì thơm đâu.

Bởi vì người phàm phu chúng ta cái lỗ mũi nó không có thính đâu, người ta trét dầu thơm vô cái: “Trời! Ông thầy ổng thơm quá!” Chớ không ngờ là ổng đem ba cái xà bông thơm ổng giặt quần áo ổng, có cái gì đâu! Còn cái thân của ổng thì ba ngày đau mà không đi tắm coi, quý vị có lại gần chịu nổi không? Đâu có chịu nổi được cái mùi hôi đó.

(01:32:18) Tam Bảo là nền tảng của niềm tin sâu vào thiện pháp của Phật.

Đó thì hôm nay đó thì quý thầy thấy rằng Tam Bảo là cái nền tảng của niềm tin làm cho chúng ta tin sâu vào thiện pháp của Phật, để chúng ta trau dồi cái thân tâm của chúng ta.

Do đó vì vậy mà Tam Bảo là cái gương hạnh sống của người tu sĩ đạo Phật, lấy Tam Bảo là ba cái giới đầu tiên, nó là cái gương hạnh sống cho chúng ta tu theo đạo Phật.

Cho nên từ đó, chúng ta trau dồi tâm mình ở trong thiện pháp, nó mới từ cái gương hạnh đó chúng ta mới trau dồi cái thiện pháp, chúng ta mới ly dục, ly bất thiện pháp được chớ!

Bộ muốn nó ly là nó ly sao? Đâu phải chuyện dễ. Bây giờ ăn ba bữa rồi muốn ăn một bữa, đâu phải chuyện nhào vô cái nuốt một bữa được sao?

Nó phải trau dồi, phải tập luyện, phải khắc phục mình, phải nhắc nhở như thế nào, để khi nó đói, nó mệt thì lúc bấy giờ mình phải có pháp mình nhắc nhở nó mới không thấy đói, thấy mệt chớ!

Đó là sự trau dồi. Còn khi không mà nhảy vô ăn một bữa ông nào cũng lắc lưỡi le đầu hết chớ đâu có làm sao mà chịu nổi!

Cho nên sau khi bước lên nền tảng để vào cửa Phật thì cũng chẳng được rời bỏ nền tảng này.

Nghĩa là bây giờ mình có tu tới đâu thì cái nền tảng Tam Quy cũng không bao giờ mình rời bỏ được nó.

Bởi vì nó là cuộc sống hàng ngày của tu sĩ. Dù cho chúng ta có chứng đạo quả cao siêu thì nền tảng Tam Quy này càng ngày càng rõ nét qua những oai nghi tế hạnh…​

Nghĩa là chúng ta có chứng đến cái mức độ nào, có đủ ba cái oai lực đi nữa, thì cái oai nghi tế hạnh này hàng ngày nó phải rõ nét ở trong Tam Quy.

…​ y như ba ngôi Tam Bảo.

Nghĩa là lúc nào nó cũng phải thực hiện đúng như là cái giới đầu tiên là Tam Quy đó, phải rõ nét ra, cái hành động sống, cái cử chỉ, cái lời nói của chúng ta nó phải rõ nét ra, nó không có bao giờ mà lệch lạc được.

Tam Quy là viên đá đầu tiên kiến trúc đạo nghiệp thiện.

Chúng ta thấy Tam Quy là ba cái giới đầu tiên, nó là những cái viên đá mà nó xây dựng cái tòa nhà đạo nghiệp thiện của chúng ta, chớ đâu phải nó là cái gì khác hơn hết!

Có thành tựu công trình kiến trúc vĩ đại thì viên đá này là viên đá đứng đầu trong các viên đá khác.

Đó, bây giờ cho tới 348 giới đi nữa thì đó là những cái viên đá khác để cho xây dựng cái tòa nhà. Những cái viên đá đầu tiên này để xây dựng cái tòa nhà thiện pháp của chúng ta, chớ đâu có cái pháp môn nào ngoài là giới luật này, ngoài là những cấp bậc tu hành giới luật này đâu!

HẾT BĂNG

27 - NGHI LỄ QUY Y TAM BẢO

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 27 - NGHI LỄ QUY Y TAM BẢO

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- SÁU BẬC QUY Y TAM BẢO

(00:00) Quy y Tam Bảo có năm bậc:

Đó thì bây giờ, lần lượt rồi Thầy mới phân ra cho các thầy thấy rằng nó như thế nào chớ nói suông suông không thì các thầy không rõ đâu. Cho nên quy y Tam Bảo có năm bậc.

1. Phiên Tà Tam Quy:

Nghĩa là:

Đầu tiên tiến vào cửa Phật.

Cái 1. Phiên Tà Tam Quy có nghĩa là đầu tiên mình bước vào cửa Phật đó, đó là quy y Tam Bảo đó, gọi là phiên tà. Thì quy y Tam Bảo nó có cái bước đầu, rồi nó có tới nữa:

2. Ngũ Giới Tam Quy;

Đó:

Sau khi tin Phật thọ thêm Ngũ Giới.

Nghĩa là bây giờ đó, đầu tiên là cái cửa cổng mình đi vào cái cửa nhà Phật thì nó là Tam Quy, đó gọi là - cái danh từ của nó gọi là phiên tà Tam Quy - theo trong kinh sách luật thì nó có những cái tên nó như vậy - để chỉ cho chúng ta mới bước đầu.

Và cái bước thứ hai chúng ta bước tới nữa đó là Ngũ Giới Tam Quy. Như là chúng ta thọ Ngũ Giới đó, thì Ngũ Giới nó nằm ở trong Tam Quy cho nên gọi là Ngũ Giới Tam Quy, các thầy hiểu chưa? Đó.

Còn phiên tà đó nghĩa là bắt đầu, sự bắt đầu của chúng ta tức là bắt đầu Tam Quy. Cho nên đầu tiên tiến vào cửa Phật đó là cái danh từ của nó gọi để chúng ta thấy rằng chúng ta bắt đầu vào đạo Phật thì chúng ta phải bắt đầu Tam Quy.

Kế đó thì chúng ta phải Ngũ Giới Tam Quy, thì từ Tam Quy nó lưu xuất ra Ngũ Giới, cho nên chúng ta phải thọ Ngũ Giới, đó là quy y Ngũ Giới. Sau khi tin thọ Phật thì chúng ta thọ thêm Ngũ Giới.

3. Bát Giới Tam Quy;

Là tức là Thọ Bát Quan Trai đó, các thầy thấy chưa?

Lẽ ra ở chỗ này thì chúng ta nên thêm cái chỗ này nó đúng, bởi vì theo Thầy thấy là cái chỗ này - cái Bát Giới Quan Trai là cái chỗ mà cái người cư sĩ người ta tập theo cái hạnh của người tu sĩ, cho nên người ta thọ một ngày đêm đó - các thầy nghe trong chùa mà hay dạy chúng ta thọ Bát Giới Quan Trai đó - thì đó là tập luyện để mà chúng ta bước qua cái giai đoạn thứ hai, cái lộ trình thứ hai.

Thì cái chỗ này theo trong kinh sách nó là thứ ba thì Thầy thấy, Thầy cũng viết ra đây để cho đúng, nhưng mà Thầy sửa lại, Thầy thấy nó không đúng. Là vì ở trong cái vai trò, cái lộ trình của người cư sĩ thì nó phải thọ Thập Thiện Tam Quy nó mới đúng. Bởi vì Thập Thiện là mười cái pháp lành rồi mới có thể Thọ Bát Quan Trai mới đúng, thì nó như vậy mới đúng.

Vậy cho nên quý thầy nên sửa lại là cái thứ ba đó là:

3. Thọ Thập Thiện Tam Quy;

Là trau dồi Thập Thiện đó, bởi vì cái người cư sĩ phải là thọ Thập Thiện để mà trau dồi. Khi mà Ngũ Giới rồi thì tức là Thập Thiện, nó phải đúng chớ.

Rồi bắt đầu chúng ta mới Thọ Bát Quan Trai thì chúng ta mới tập dần để mà chúng ta bước vào cái lộ trình thứ hai, để mà trở thành người tu sĩ. Thì Thọ Bát Quan Trai là một ngày, một đêm là tập cái hạnh của của người Sa Di đó, cho nên nó mới có Bát Quan Trai nè.

(03:06) Đó thì như vậy Thọ Bát Quan Trai là:

4. Bát Quan Trai Tam Quy;

Là thứ tư, còn Thập Thiện Tam Quy là thứ ba. Đó thì Thầy sửa lại, đổi lại cho nó đúng cái vị trí của nó.

Tới cái thứ năm là:

5. Thập Giới Tam Quy;

Đó là Sa Di, Sa Di Ni đó, thọ mười giới đó, tức là cái thứ năm này bắt đầu qua cái lộ trình thứ hai của tu sĩ rồi đó, nghĩa là cái người mà xuất gia rồi đó, ly gia cắt ái rồi đó.

Rồi thứ sáu thì:

6. Cụ Túc Giới Tam Quy.

Cũng từ Tam Quy đó mà sanh ra cụ túc giới cho nên Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni vâng thọ đại giới - bây giờ mà thọ đại giới đó, là 250 giới, 348 giới đó, là Cụ Túc Giới Tam Quy đó.

Đó là quy y Tam Bảo ở đây nó có sáu cái bậc chớ không phải năm bậc, mà nó có sáu cái bậc.

Bởi vì Thập Thiện Tam Quy mà ở trong kinh sách giới thì nó chỉ có để năm thôi, là nó năm bậc, cho nên Thầy thấy Thập Thiện Tam Quy họ không có viết, tức là họ đã bỏ. Họ đã bỏ trong cái vai trò của cái lộ trình của người cư sĩ thì cái đó là cái sai, cho nên họ bỏ ra.

Thì Thập Thiện Tam Quy nó rất là rõ ràng cái pháp thiện mà người cư sĩ cần phải thực hiện trong cái đời sống của họ, họ mới biết thiện, biết ác mà họ sửa mình chớ, còn nếu không biết thiện, biết ác làm sao họ biết đâu mà họ sửa?

Đó, thì cho nên ở đây Thầy thêm một cái phần Thập Thiện Tam Quy là nó có sáu cái điều kiện quy y Tam Bảo, nó có sáu cái bậc như vậy. Sáu cái bậc là sáu cấp bậc mà tu hành theo đó mà có thể phân chia ra cấp bậc mà chúng ta tu hành, nó mới đúng.

Tại sao mà Thầy dám thêm, Thầy dám bớt? Là tại vì Thầy thấy cái lộ trình của giới kinh nó rõ ràng lắm, cho nên Thầy nắm giới kinh mà Thầy biết cái chỗ nào, đi chỗ nào đúng, chỗ nào sai.

Còn cái giới bổn nó bỏ như vậy, nếu mà một người cầm giới bổn không thì chắc chắn là phải tin có năm thôi à, có năm bậc chớ không thể nào mà nói sáu bậc được.

Nhưng mà nằm trong giới bổn Thầy thấy rõ ràng là khi bước qua cái giới hạnh đó, thì Phật nói cái mười - bước qua cái giới hạnh mà tu tập thì Đức Phật dạy cái Thập Thiện này rất rõ: Về thân thì nó có ba hành động nè, rồi khẩu nó có bốn nè, rồi ý nó có ba tham, sân, si nè, thì đó là Thập Thiện rồi.

Do đó mà trong cái giới kinh Phật nhắc tới nhắc lui cái Thập Thiện rất nhiều, mà trong cái giới bổn thì làm như người ta quên đi, người ta bỏ cái Thập Thiện đi, đó là người ta đã coi thường Thập Thiện, mà người ta sơ sót người ta không thấy.

Cho nên ở đây Thầy dựa vào giới kinh mà Thầy thêm vào cái chỗ này, chúng ta mới thấy rằng quy y Tam Bảo nó có sáu bậc chớ không phải là năm bậc như ở trong kinh giới nói.

2- HIỂU TAM QUY KHÔNG ĐÚNG LÀM UỔNG PHÍ ĐỜI TU HÀNH

(05:57) Tam Quy chẳng những là căn bản của tất cả giới mà còn là căn bản của sự tu tập hàng ngày của tiền đồ Phật giáo. Tam Quy là gốc sanh ra Phật pháp, cho nên Phật giáo Nam Tông xem Tam Quy rất quan trọng, họ xướng Tam Quy bằng danh từ suông để hành trì.

Họ xem cái sự Tam Quy đó quan trọng lắm, cho nên khi mà họ xướng lên để mà thọ Tam Quy, nó có cái vẻ trịnh trọng lắm, nhưng mà đó là bằng những danh từ suông.

Và cũng xướng Tam Quy mê tín để khấn nguyện cho người.

Nghĩa là Thầy nói bên Nam Tông họ xướng cái Tam Quy đó nó có nhiều cách, nó xướng suông để làm cho cái vẻ long trọng của cái cuộc lễ Tam Quy đó.

Ở đây Thầy chỉ - Thầy không có được nghiên cứu nhiều ở bên nước nó, Thầy không có dịp đi để mà xem thọ cái Tam Quy nó như thế nào, nhưng mà dựa vào những kinh sách người ta nói, thì Thầy chỉ dựa vào đó Thầy nói ra ở chỗ này để chúng ta thấy được là họ làm cái lễ thì nó có nghiêm trang lắm, nhưng mà họ xướng lên thì đó là cái danh từ suông thôi.

Bằng chứng là tại vì - tại sao chúng ta biết là danh từ suông? Nếu mà một cái người mà nó có đi vào cái thâm tâm Tam Quy thì nó không có thể nào thực hiện cái ác pháp của nó mà cầm súng, cầm dao giết người như vậy.

Đó là cái thứ nhất, bằng chứng để chúng ta thấy cái hiện tại, chớ không thể nào chúng ta dựa vào cái hình thức tôn trọng trang nghiêm đó mà cho rằng nó là thiện pháp đâu.

Cho nên qua cái hành ác của họ thì chúng ta chứng minh rằng cái Thọ Tam Quy đó là cái hình thức suông, không có gieo được trong tâm hồn của họ một cái thiện pháp, cho nên họ dám cầm súng, cầm dao, cầm rựa họ giết người một cách rất là tàn nhẫn.

Và cũng xướng Tam Quy mê tín để khấn nguyện cho người.

Nghĩa là xướng Tam Quy lên cũng như mình nói là Tam Quy gia hộ cho mình thế này, thế khác, đó là cách thức của họ.

Vì vậy đó mà ở Việt Nam Đại Thừa của chúng ta cũng vậy, khi nói đến Tam Quy là cứ nói Tam Quy gia hộ đó.

Đó là cái lối dạy người mà khi thọ Tam Quy có hình thức mê tín trong đó, làm cho người ta mất cái - thấy thiện pháp ở trong Tam Quy, mà người ta thấy có cái vẻ trịnh trọng bằng cách này, bằng cách khác qua cái hình thức đó làm cho người ta hăng máu hơn chớ còn người ta không có thiện pháp được.

Vì thế tu sĩ Nam Tông hành Tam Quy bằng miệng lưỡi, đời sống họ chẳng giống Phật chút nào: Ăn uống phi thời, ăn thịt chúng sanh, dựa vào các bộ luật, phi luật của người đời sau nên không có giới lý rõ ràng, giới hành rõ ràng.

Nghĩa là cái giới lý của họ nó không có rõ ràng, nó phá chỗ này nó chắp chỗ kia, nó không có rõ ràng.

(09:00) Giới hành cũng không có rõ ràng…​

Nghĩa là nó không có cái giới hành nữa.

…​ làm cho người tu thiền Nam Tông sanh ra các loại thiền ngớ ngẩn, chẳng biết cách thức nhập định như thế này, như thế khác, tự kiến giải ra loại thiền Minh Sát Tuệ…​

Đó thì quý thầy có đọc cái thiền Minh Sát Tuệ không? Phật dạy: “Hít vô tôi biết hơi thở vô. Thở ra tôi biết hơi thở (ra).” Ông ta dạy biểu phình, xẹp, phình, xẹp, nếu mà cứ tập trung cái bụng mà phình lên, xẹp xuống kiểu này, ít bữa cái bụng nó thành cái trống chầu vầy nè, để cho mấy ông làng, ông xã họ đánh đặng mà rước thần! Rồi tu chẳng tới đâu hết, rồi cái minh sát ra, minh sát là vô thường, khổ, vô ngã.

Đó là những cái mà không hiểu được cái đường lối của đạo Phật, cho nên từ cái chỗ tu ức chế tâm bằng cách nương theo cái bụng lên xuống gọi là phình xẹp, phình xẹp đó, phình xẹp riết chắc là nó thành cái trống.

Cho nên do những cái không hiểu Phật pháp rồi dựa vào những cái kiến giải quá tầm thường - mà những cái bài kinh của Phật bên Nam Tông họ viết rất nhiều, kinh sách họ đâu có phải như mình đâu, bán đầy chợ đầy búa hết, loại nào cũng có hết!

…​ lấy Định Vô Lậu và Định Niệm Hơi Thở câu hữu không đúng cách; lấy Tứ Niệm Xứ làm thiền quán sai, chẳng rõ trong Tứ Niệm Xứ có ba tướng: Nhân tướng, hành tướng và đặc tướng, biến Tứ Niệm Xứ thành loại thiền quán sai bét.

Họ chẳng biết Tứ Niệm Xứ là niệm lực, mà còn niệm thì làm sao gọi là thiền? Vậy mà họ gọi Tứ Niệm Xứ là “trái tim thiền định”.

Đó họ đặt cái tên của Tứ Niệm Xứ là “trái tim thiền định”, quý thầy nghĩ sao? Mà Tứ Niệm Xứ là còn niệm làm sao gọi là thiền định? Họ hiểu như thế nào?

Người ngu si không thấu rõ giới hành của Phật, biến giới hành thành pháp môn thiền định điên khùng, cho nên không thể nhập được Bốn Thánh Định của đạo Phật.

Đó thì bằng chứng các thầy thấy: Có những vị thiền sư của Nam Tông họ tu, họ rút vô rồi họ nhả ra, rút vô, nhả ra, rồi họ nghe trời sét hay hoặc là đại địa này nó nổ bùng lên hết, rồi bắt đầu họ chứng ngộ, chứng theo kiểu Thiền Tông đó. Tu thiền của Phật giáo Nguyên Thủy mà họ chứng riết thành Thiền Tông hết ráo!

Đó thì, những cái trạng thái và những cái bài pháp của họ qua những kinh nghiệm họ để lại, những cái lời tự thuật của họ, của những vị thiền sư này, Thầy được đọc Thầy thấy toàn là thứ không hiểu Phật pháp, kiến giải ra tu hành.

Phật dạy cái lộ trình thiền định như thế nào để đi đến đó? Họ không chịu ly dục, ly bất thiện pháp, họ không chịu rời ăn thịt máu chúng sanh, mà họ làm sao họ ly được cái ác pháp được không?

(12:07) Cho nên làm sao – cái ác pháp ngay trong miệng họ, họ nuôi cái tà mạng họ bằng xương máu chúng sanh, mà họ gọi là họ ly, ly cái gì? Mà Phật dạy ly dục, ly bất thiện pháp - là ác pháp chớ gì, mà hàng ngày họ ăn những cái ác pháp làm sao họ ly? Mà họ không ly thì làm sao mà có định được?

Cho nên ba cái định này đều là ba cái định tưởng của họ, họ tưởng ra họ vẽ ra, họ dạy, bây giờ kinh sách họ ở bên nước họ mà đem qua Việt Nam bán đầy chợ, thử hỏi quý thầy có kinh đó không?

Nào là “trái tim thiền định”, nào là thiền Minh Sát Tuệ, ở trong chùa nào của mình bây giờ cũng có hết chớ đừng nói! Bây giờ cư sĩ các con cũng có nữa, coi như là các con cũng đọc nhàu hết mấy cái thứ đó rồi chứ không phải là không.

Còn bao nhiêu nó đặt ra, nào là thiền quán ba mươi mốt, ba mươi tám ngày gì, nội tu ba mốt ngày là nhập định. Trời ơi! Thiền gì mà nhập mau dữ vậy? Nói sao mà nói vọng ngữ đến cái mức cái độ Thầy không ngỡ được, phật Pháp gì mà - cái chuyện mà dạy kỳ vậy!

Nội cái ly dục, ly bất thiện pháp không, nhập cái Sơ Thiền không gần chết người ta rồi. Hở hở ra chút thì nó ham muốn cái này, hở hở ra chút thì nó sanh ra ác pháp, nó giận hờn, nó thương ghét đủ thứ ở trong này. Biểu ly có bây nhiêu đó mà ly không được còn ở đó mà nhiếp tâm, mà định cái gì?

Đó thì, nói cho hết để cho quý thầy thấy được cái con đường Phật pháp bây giờ nó lộn xộn, nó ngào xà ngầu hết, nó không có cái - đầu nó chẳng ra đuôi, đuôi chẳng ra đầu!

Che giấu sự vô minh, họ bảo đời mạt pháp không ai nhập định được.

Họ không nhận ra được định là do ly dục, ly ác pháp mà tâm có định. Vì thế, mọi pháp hành thiền định của họ toàn là thứ ức chế tâm và nén tâm cho nên tu hành chẳng đi đến đâu, rất uổng phí đời tu hành, rồi đây sẽ sa địa ngục cả đám để trả nợ máu xương của chúng sanh.

Luật nhân quả không tha từ một ông nào. Phước hết thì họa đến, sanh thiên còn phải đọa xuống địa ngục huống là các ông!

Đó thì ở đây Thầy nói như vậy để cho quý thầy biết rằng Phật giáo bây giờ nó không có cái lối mà chúng ta hiểu biết với các ông thầy này đâu. Bên Nam Tông cũng như là bên Bắc Tông của chúng ta chẳng ai mà có thể nói rằng…​

Thầy không phải hơn ai hết, nhưng mà phải dựa vào trong kinh sách của Phật Nguyên Thủy hẳn hòi gốc nói ra, chớ Thầy không có hơn ai hết. Nhưng mà Thầy nói là Thầy nói qua cái chỗ mà Thầy đã có cái kinh nghiệm biết được cái chỗ đó.

Từ mười năm ở trong giữ gìn giới hạnh nghiêm túc, cho đến ngày hôm nay được những chút đỉnh thiền định làm chủ được cái sống chết của mình, Thầy mới dám nói lời này. Nếu không được vậy, chẳng dám nói ai hết!

Vì mình nói như vậy, mình biết mình có đúng hay sai? Mình có làm được không, đây rồi mình sa xuống địa ngục làm sao? Nói người ta mai mốt mình ngáp gió, mình nằm đó mình lăn lộn ở trên giường bệnh chúng nó cười mình á, còn bây giờ mình làm được mình dám nói.

Mình dám nói để rồi mai mốt mình có chết đi thì người ta cũng thấy: “Ông thầy này ổng nói được chớ ổng cũng làm được đây!” - người ta còn tin chút, mình nói đúng.

Còn không khéo mình nói cho dữ đi rồi tới chừng đó nhăn răng, méo miệng, hả họng, người ta chở vô nhà thương mổ xẻ từng tấm da, lúc bấy giờ người ta cười á!

Phải biết cái chỗ nói mình nói chớ, mình nói mình phải làm sao cho được mình mới dám nói. Nói mà nó mạnh như thế này mà làm không được chúng còn xé xác mình nữa: “Ông nói giỏi, bao nhiêu ông thầy vô nhà thương, ổng nói giỏi bây giờ ông làm đi coi coi, tui đập ông đó chớ!”

Phải không? Đó là cái hẳn nhiên, bởi vì nhân nào thì quả nấy à. Mà mình nói mình làm được, chẳng sợ ông nào hết!

3- NGHI LỄ QUY Y TAM BẢO

3.1- TÌM BẬC THẦY THANH TỊNH ĐỂ XIN QUY Y TAM BẢO

(15:35) Sau khi chúng ta đã có khái niệm…​

Bây giờ đây, về phần:

1. Quy y Tam Bảo như thế nào?

Đây là đặt thành cái đề mục của nó.

Sau khi chúng ta đã khái niệm hiểu biết về quy y Tam Bảo rồi thì phải nên quy y Tam Bảo.

Nghĩa là mình đã hiểu được cái khái niệm của quy y Tam Bảo rồi, như Thầy đã nói quý thầy đã hiểu rồi, thì bắt đầu bây giờ quý thầy mới quy y Tam Bảo.

Nghĩa là khi bây giờ quý thầy đã quy y Tam Bảo rồi, nghĩa là quý thầy đã có những vị thầy quy y Tam Bảo rồi, nhưng bây giờ quý thầy thấy rằng quý thầy theo ông thầy đó quy y Tam Bảo không đúng cách, quý thầy có thể xin quy y Tam Bảo lại chớ không có lỗi lầm gì hết.

Bởi vì ông thầy đó không có đủ cái sức đại diện mà quy y Tam Bảo cho quý thầy đâu. Người ta không có dẫn quý thầy đi vào thiện pháp mà người ta dẫn quý thầy đi vào ác pháp, qua cái hành động sống của họ tức là họ sẽ dẫn quý thầy vào ác pháp.

Cho nên chúng ta từ giã mấy ông thầy đó đi, đi tìm những cái bậc nào mà nó đủ thanh tịnh, nghiêm túc như Tam Bảo để đứng ra làm cái lễ cho chúng ta quy y thì chúng ta hãy chọn những bậc thầy đó mà làm thầy của mình.

Thầy nói đây không có nghĩa là quý thầy xúm lại quy y với Thầy đâu, Thầy ẩn bóng rồi, đừng có mong mà tìm Thầy nữa!

Bởi vì nếu mà Thầy nói ra để cho quý thầy tập trung về Thầy mà quy y làm đệ tử của Thầy tức là Thầy còn danh, còn lợi đó. Cho nên Thầy đề nghị là khi mà Thầy nói ra tất cả những cái này rồi thì quý thầy khó mà tìm Thầy mà làm thầy quy y với Thầy đâu!

3.2- THỜI ĐỨC PHẬT KHÔNG CÓ NGHI LỄ QUY Y TAM BẢO

(17:00) Để nghi lễ quy y Tam Bảo lúc Đức Phật còn tại thế, người quy y Tam Bảo không có…​

Lúc mà Phật còn tại thế thì:

…​ người quy y Tam Bảo không có dùng cái nghi lễ.

Nghĩa là trong kinh nó diễn tả cái này rất rõ ràng, nghĩa là không phải dùng cái lễ gì hết.

Như người đệ tử đầu tiên quy y Tam Bảo với Đức Phật Thích Ca là cha của Da Du Già, ông chỉ ở trước Phật nói lên, phát lên ba lần như thế này: “Con nay quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, cúi xin Thế tôn nhận con làm Ưu Bà Tắc!”

Đó là ông nói ba lần như vậy, ông quỳ xuống trước Đức Phật ông nói ba lần vậy: “Xin Đức Thế Tôn nhận con làm Ưu Bà Tắc!”

Vì Đức Thế Tôn là nhất thể Tam Bảo cho nên ông đứng trước Đức Thế Tôn mà xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Đó thì, các thầy - mà khi nói lên là sau khi ông được nghe một cái bài pháp chớ không phải đơn giản đâu. Cái bài pháp đó nó làm cho ông thấm thía được cái cuộc đời của ông, ông thấy chỉ có ba ngôi Tam Bảo là thiện pháp, đem cái đời sống ông giải thoát mà thôi, từ đó ngộ được cái lý sâu sắc cái bài pháp đó.

Cho nên thường thường chúng ta đọc kinh, hầu hết là người ta - những người cư sĩ - họ chưa có cắt lìa được, họ chưa có xuất gia được, thì họ xin là làm Ưu Bà Tắc hay là Ưu Bà Di. Ưu Bà Tắc là nam, Ưu Bà Di là nữ.

Cho nên đây là cái ông này, ổng là Ưu Bà Tắc tức là nam, còn cái người nữ mà xin Phật làm cư sĩ nữ thì gọi là Ưu Bà Di. Đó Thầy phân biệt nó, bởi vì hai chúng cư sĩ mà, chúng nam, chúng nữ đó.

Cho nên vì vậy cái ông này ổng đứng lên, ổng quỳ xuống với Đức Phật. ổng xin ổng - là cái lời nói như vậy là - cái lời nói đó phát ra gọi là Tam Quy. Còn ông Phật thì ổng làm thinh, ổng chấp nhận thôi chớ ổng không nói gì hết tức là tam kết.

Chớ không phải như mình bây giờ: “À tốt lắm! Như vậy là quý lắm!” Đó là mình kết người ta chớ gì? Rồi bắt người ta thệ đừng có quy y quỷ, vật, thiên thần nữa, đó là bắt người ta thệ. Còn ông Phật hồi đó không bắt ai thệ.

Bắt người ta thệ tức là ghép người ta không có dám rời. Người ta tu hành mà thời gian người ta không thấy được người ta cứ rời chớ ép buộc người ta vào! Cái đạo của mình là đạo thiện pháp mà, có lợi ích thì người ta đến, mà người ta thấy không lợi ích, người ta muốn ở ác pháp thì người ta cứ về, chớ căn cớ gì mà bắt người ta thề, buộc chân người ta cứ theo mình hoài. Mà người ta theo mình mà người ta làm không được, phải làm khổ cho người ta thêm không? Đó, cho nên đạo Phật không có cái thề ở trong đó, còn các tôn giáo khác thì họ có bắt thề.

(19:32) Đức Phật làm thinh, biết là Đức Phật đã nhận lời.

Chớ còn mình đây, mấy ông thầy mình sao: “Thiện nhỉ! Làm tốt lắm! Được! Vậy tốt lắm!” Nói một lời - khi mà nói phát lên cái ông thầy nói “Tốt!” - như vậy là kết họ đó, cho họ dính vô đó, gọi là tốt.

Từ đó họ được xem là thọ quy y Tam Bảo rồi.

Nghĩa là sau cái lời đó rồi cuối cùng thì cái người cư sĩ đó là họ là đệ tử của Phật rồi, họ không còn là đệ tử của ngoại đạo nữa, từ đó họ đến với tịnh xá, đến với Đức Phật chớ không bao giờ họ đến cái nơi mà của ngoại đạo nữa.

Tại sao lúc bấy giờ chưa có đủ Tam Quy thì làm sao có quy y được? Phật có một mình, và Pháp chưa thuyết.

Nghĩa là lúc bấy giờ có một người đệ tử đầu tiên đó là cái ông cha của Da Du Già đó, chỉ có mình ông đó là người đầu tiên mà là đệ tử cư sĩ của Phật, chớ không phải năm anh em Kiều Trần Như đâu.

Quý thầy nói năm anh em Kiều Trần Như là tu sĩ, còn cái ông cư sĩ - mà không phải có một ông này đâu, còn hai người nữa là những cư sĩ đệ tử của Phật đầu tiên đó.

Thì bây giờ Đức Phật chỉ có một mình, Pháp thì chưa thuyết, chưa có nói, bởi vì Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên là dạy cho năm anh em Kiều Trần Như chớ đâu có dạy ai đâu. Các thầy hiểu!

Bởi vì đó là cái pháp đầu tiên Phật nói ra với năm anh em Kiều Trần Như, còn cái ông cư sĩ này có nói pháp cho ông nghe chưa đâu, phải không?

Nhưng mà qua oai nghi tế hạnh, rồi qua những cái điều kiện hoàn cảnh của ông ta ông hỏi, thì Phật thuyết pháp cho ông ta nghe nó đúng cái hoàn cảnh, ông ta mới thấy hiểu được cái giáo lý của đạo Phật. Thì tức là Đức Phật phải có thuyết pháp để có nó, nhưng đâu phải đó là cái bài pháp đầu tiên.

Bởi vì bài pháp đầu tiên phải nói là Tứ Diệu Đế rồi, thì những cái này là những cái duyên mà người ta gặp hỏi thôi. Rồi ông ta hỏi: “Bây giờ con tu vậy đó, sai hay là đúng?” Phải không? Thì do đó hay hoặc là: “Con nghe kinh đó như vậy, vậy như thế nào?” Ông Phật mới giải thích chớ không phải là đem pháp dạy, để dạy cho người ta hiểu đó là cái tà, cái chánh kiến thôi.

(21:35) Đó, thì như vậy thì các thầy thấy đó là không phải là cái bài pháp đầu tiên đâu, cái bài pháp đầu tiên là thuyết giảng cho năm anh em Kiều Trần Như. Cho nên đây là chỉ nhắc lại, nhưng mà ông này ổng lại nhận ra được cái lời của Phật dạy quá là tuyệt! Đúng, đúng là cái môi trường của ổng là như vậy sai quá sai rồi!

Cho nên ổng thấy rằng chỉ có Đức Phật là người hướng dẫn ông đúng chánh pháp. Mặc dù ông chưa hiểu cái chánh pháp đó ra sao hết, nhưng mà nói nghe hợp lý, nghe đúng, cho nên từng đó ông mới xin làm đệ tử cư sĩ của Phật.

Phật có một mình chưa thuyết pháp làm sao có Pháp Bảo? Tăng chưa độ làm sao có Tăng Bảo? Thế mà Đức Phật nhận quy y người.

Lúc nãy Thầy có dạy Nhất Thể Tam Bảo, quý thầy có nhớ không? Từ trong Phật có đủ ba ngôi Tam Bảo:

1. Phật có cái khả năng giác chiếu nên gọi là Phật Bảo.

2. Phật thuyết pháp tự tại vô ngại cho nên có cái khả năng qủy trì, vì thế gọi là pháp bảo.

3. Phật không có hý luận tranh luận, vì thế gọi là Tăng Bảo.

Do vậy từ một Đức Phật có đủ ba ngôi Tam Bảo. Như vậy, Da Du Già quy y Tam Bảo mà không thiếu một Bảo nào nên đã thành quy y Tam Bảo, còn thiếu thì chẳng thành.

Đó, bây giờ thí dụ có một mình Phật à, mà quy y có Phật không thì ba ngôi kia làm sao đủ? Thì ba ngôi kia không đủ thì làm sao gọi là thành Tam Bảo được! Đó, mà ở đây thì mọi - nhất thể Tam Bảo thì chúng ta thấy ông Phật là đủ hết rồi. Cho nên khi mà vị cư sĩ này đã quy y Phật là thành quy y Tam Bảo, không có còn thiếu nữa.

Tăng già đầu tiên của Đức Phật là khi đã độ được năm anh em Kiều Trần Như thì hóa tướng Tam Bảo mới đầy đủ.

Đây bây giờ cái này là hóa tướng Tam Bảo đây, còn hồi đó thì nhất thể Tam Bảo đó. Còn hóa tướng Tam Bảo thì bắt đầu có năm anh em Kiều Trần Như mới có được sáu người - Đức Phật nữa là sáu người. Cho nên Tăng Bảo là năm người đó. Đó thì chúng ta thấy nó có một cái giáo đoàn - cái tăng già rồi đó, thì bắt đầu từ năm anh em Kiều Trần Như.

Còn trước khi chưa độ năm anh em Kiều Trần Như thì quy y Tam Bảo chỉ là chỗ nhất thể Tam Bảo.

Đó, còn sau này có rồi thì gọi là hóa tướng Tam Bảo. Các con thấy cái danh từ như vậy mình phải hiểu, chớ còn nếu Phật pháp mà không hiểu như vậy, lúc người ta hỏi nhất thể Tam Bảo, hóa tướng Tam Bảo, lúc bấy giờ mình nghe mình không biết cái gì hết.

Nhất thể Tam Bảo thì mình biết là có một mình ông Phật thôi, mà hóa tướng Tam Bảo thì mình biết là ông Phật với năm anh em Kiều Trần Như, và sau này chúng càng đông thì đó là hóa tướng Tam Bảo hết.

(24:17) Cho nên được xem là thọ Tam Quy rồi. Sau đó Đức Phật còn truyền Tam Quy cho hai người lái buôn và long vương, rồi đến năm anh em Kiều Trần Như là chỗ nhất thể Tam Bảo.

Nghĩa là ông Phật ổng đã cho một cái vị cư sĩ cha của Da Du Già làm cư sĩ quy y Tam Bảo, rồi đến đó một vị lái buôn và một vị long vương, đó là ba cái người đệ tử đầu tiên cư sĩ, đó là ba cái vị đầu tiên, rồi sau đó mới độ năm anh em Kiều Trần Như là độ những người tu sĩ.

Bấy giờ thì trong khi mà độ như vậy, cho quy y ba vị đầu tiên cư sĩ đó gọi là nhất thể Tam Bảo, và đồng thời Đức Phật mà độ cho năm anh em Kiều Trần Như thì cũng gọi là nhất thể Tam Bảo.

Vì lúc bấy giờ Đức Phật đâu có Tam Bảo, mà ba cái người này cũng phải là từ bắt đầu mà muốn thành tu sĩ thì cũng phải quy y Tam Bảo, rồi Ngũ Giới, rồi Thập Giới, Thập Thiện, rồi cho đến hai trăm năm chục giới.

Cho nên những người này mà được thành tu sĩ Tỳ Kheo thì nó cũng phải trải qua các cấp bậc đó, chớ không phải là bây giờ có Đức Phật rồi cái thọ hai trăm năm chục giới liền, không phải đâu.

Mà lúc bấy giờ các thầy có thấy kinh bổn ra đời chưa? Chưa có, mà mười ba năm sau mới có kinh bổn ra chớ đâu phải, khi mà chúng Tỳ Kheo đã phạm pháp, đã phạm giới. Còn chúng bấy giờ là người ta không có phạm pháp, người ta không có phạm giới luật, người ta thanh tịnh, ăn ngày một bữa là một bữa.

Còn chúng sau này ăn lộn xộn, một ngày một bữa không ăn còn đi kiếm để dành để chác để ăn thêm, thì như vậy Phật phải chế ra để ngăn cản mấy ông đó. Đó là sau mười ba năm chứ không phải là khi mà năm anh em Kiều Trần Như là đã có chế giới đâu.

Cho nên vì vậy giới bổn nó sau này, cho nên nó không có cái giá trị, mà giới kinh thì lúc bấy giờ là Pháp Bảo của Phật là giới kinh, cho nên nó có từ ngay trong cái thời Đức Phật, nó lưu xuất từ cái miệng ông Phật, nó lưu xuất từ cái tâm tự tại vô ngại của Phật mà nói pháp ra, thì Pháp Bảo là giới kinh. Cho nên giới bổn nó ra đời - sau mười ba năm nó ra đời.

3.3- QUAN TRỌNG NHẤT LÀ NÓI LÊN TÂM THÀNH THA THIẾT QUY Y

(26:27) Nghe trong kinh tạng Nikaya, câu nói quy y Tam Bảo thật là rất đơn giản và đầy đủ ý nghĩa:

Đây trong kinh Nikaya, thường thường là các vị mà xin để quy y Tam Bảo thì các vị nói như thế này:

“Nay chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỳ Kheo Tăng, mong Tôn giả nhận chúng con! Từ nay trở đi cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng!”

Đó thì cái lời nói này thì - trong kinh Nikaya thì cái lời nói này rất là nhiều.

Đây là một câu nữa:

“Nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỳ Kheo Tăng, mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ! Từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!”

Bắt đầu quỳ xuống trước cái mặt - khi mà nghe cái bài thuyết pháp xong rồi, ngộ được cái lý của đạo Phật rồi, thì bắt đầu những người này mới quỳ xuống trước Phật mà xin Đức Phật cho mình được trọn đời cho đến ngày mà mạng chung mình đều là quy ngưỡng theo Tam Bảo.

Đó là câu trong kinh dạy quy y Tam Bảo rất là tự nhiên, đơn giản chớ không giống như cuội ở trong cái giới đàn tăng.

Ở trong giới đàn tăng nó dạy chúng ta theo các tổ mà đặt ra giới đàn tăng đồ đó, để làm những cái lễ quy y chúng ta cách cuội lắm: “Bây giờ thầy nhắc cái câu đó, bắt các con phải nói trở lại, nhắc lại!”

Cũng như là mấy ông mà đánh võ vậy đó, ở ngoài mình thấy mấy ông đánh ngon lắm, chứ sự thật ra mấy ông cuội để cho mình xem thấy đòn nào ngon, chớ còn đánh thật mấy ổng đó chắc dập mặt hết đó. Phải không các con? Đó là cái cuội.

Vì vậy mà cái sự quy y theo Phật - Pháp - Tăng như vậy Thầy thấy - làm cái kiểu ở trong giới đàn tăng Thầy đọc Thầy nghiên cứu Thầy thấy cái lối cuội. Ông thầy đọc rồi bắt đầu - mấy con không biết có quy y không, không biết, Thầy không biết có không, chớ còn Thầy thấy rõ ràng là mấy ổng nói trước, mấy con nói sau, cứ lặp lại, lặp lại.

(28:30) Ít ra mình muốn nói đó mình phải nói từ tâm nguyện của mình, chứ mình bắt chước mình nhại lại người ta thì cái tâm nguyện của mình lúc bấy giờ làm sao? Ráng lo mà nhớ cái lời ông ta nói đó là hết sức rồi còn ở đâu mà cái tâm của mình như thế nào gọi là quy y?

Các con phải biết. Nếu mà mình không nhớ được thì ít ra mình cũng phải soạn một cái câu nào đó để mình hướng đến Tam Bảo quy y, mình phải học thuộc lòng, rồi từng đó nó thuộc lòng rồi, cái tâm của mình nó duyên theo cái hình ảnh của Đức Phật, Tam Bảo đó mà mình nói lên cái lời nói của mình.

Tốt nhất là mình để tự nhiên của mình lưu xuất ra chớ mình học cái câu cũng không hay nữa. Thầy nói thật sự không hay.

Còn cái này mình cuội theo mấy lão ngồi đó mà nhắc chừng cũng như mà nhắc tuồng hát vậy đó! Thiệt ra thì rõ ràng là nhắc tuồng hát để rồi các người quy y đó nhắc theo chớ có làm gì, thì không phải là nhắc tuồng hát sao?

Đó thì Thầy thấy nó từ cái chỗ mà hình thức, nó đến cái hình thức nó sai - nó sai làm sao mà nói lên cái tâm thành quy y của cái người - nó đâu phải là cái chuyện cuội như vậy, cái chuyện mà làm giả như vậy được!

Thầy nói hết để cho thấy được cái trò bịp bợm người ta, gạt gẫm người ta nó đủ cách, nó không có còn cái hình thức thiêng liêng đối với một cái tôn giáo người ta đến đó. Mà người ta cứ ngỡ rằng - cái người mà làm đó, người ta ngỡ rằng đó là mình làm đúng, chớ người ta đâu có thấy được cái sai.

Người ta làm sao người ta gợi được cái ý của người đó đó, cái người mà muốn quy y Tam Bảo người ta hiểu được cái Tam Bảo như thế nào, để từ cái thâm tâm người ta, người ta quỳ trước cái tượng Phật, người ta quỳ trước Tam Bảo mà người ta phát lên cái lời nói tận đáy lòng của người ta, để người ta quy ngưỡng, để đem lại cái sự hạnh phúc, cái sự an vui, cái sự giải thoát cho họ.

Từ cái chỗ mà trôi lăn ở trong sanh tử đau khổ này mà người ta chấm dứt được cái sanh tử đó, người ta mới có cái sự tha thiết đó chớ!

(30:05) Nói như vậy ba lần tức là Chánh Thọ Tam Quy Giới.

Nói ba lần như vậy đó, đó gọi là Chánh Thọ Tam Quy Giới.

Sau là tam kết…​

Tức là cái ông thầy hứa khả đó gọi là tam kết.

…​ là được một vị thầy chấp nhận lời xin quy y đó.

Chỗ trọng yếu của quy y là nói lên ba lần Chánh Thọ Tam Quy, nhận lấy giới thể vô tát của Tam Quy.

Cái giới thể mà của Tam Quy gọi là giới thể vô tát, tức là cái hạnh sống của Tam Quy đó.

Cũng ở chỗ Chánh Thọ này, tuy đơn giản nhưng sự quy y như vậy trong một bầu không khí trang nghiêm, vắng lặng và trang trọng thì tạo cho người quy y Tam Bảo cảm giác như có một sự thiêng liêng, thâm u, huyền diệu biết bao.

Cái lời nói trong cái sự trang nghiêm vắng vẻ đó, một cái lời nói đó, chừng một, hai người quy y người ta nói lên cái lời nói từ cái tận đáy lòng, nó làm cho cái cảnh giới lúc bấy giờ nó thiêng liêng vô cùng, nó huyền diệu vô cùng, nó làm cho người ta xuyên vào cái thiện pháp rất là thấm nhuần ở trong tâm hồn, từ đó quy y rồi về người ta không dám làm giết hại chúng sanh, người ta không còn muốn ăn thịt chúng sanh.

Còn hầu hết bây giờ cư sĩ quy y Tam Bảo rồi về ba cái thịt nuốt sạch, ông nào cũng vậy! Thịt nó ngon mà, nó bổ mà, nó mập mà, còn ăn ba cái rau cải nó khô, nó héo hết!

Cho nên quy y rồi, ở trong quy y đã nương theo Phật rồi, mà về mà nuốt thịt được thì Thầy thấy không có còn cái chỗ nào mà Thầy chê được cái chỗ đó hết!

Ba cái tượng trưng, ba cái chỗ thiện pháp cao đỉnh nhất, mà giờ cúi đầu, to tiếng nói lên những cái giọng là quy y Tam Bảo rồi, thế mà về vợ con đem phở cái là ních, không có tha tô nào hết, còn thêm nhiều tô nữa chớ: “Bữa nay bà nó ở nhà nấu sao ngon quá! Cho tui tô nữa!”

Có không? Thầy nói đâu có trật! Nấu dở dở thì ăn vài miếng thịt trên thôi, dẹp, phải không? Ăn thịt thôi, chớ đâu có phải là lật ở dưới mà ăn giá đồ đâu? Đâu có thèm, bởi vì nó dở, chỉ nuốt ba miếng thịt nó ngon!

Quy y Tam Bảo mà còn thấy cái chỗ đó thì thiện pháp ở chỗ nào mà Thầy…​ Thật sự ra họ không thấy Phật pháp là thiện pháp! Cho nên Thầy quét cho ba cái ông theo Phật giáo mà làm cái điều ác.

Câu nói tuy đơn giản, ngắn ngủi, nhưng lời nói quy y rõ ràng, mạch lạc, nói ra lời nào, chữ nào cũng phải rõ ràng, nhấn mạnh, tự tâm hồn tha thiết hướng về người cha lành muôn một, tuyệt đối chẳng được lôi thôi.

Nghĩa là lúc bấy giờ là lúc mình nói lên những lời nói tận đáy lòng của mình, thì phải rõ ràng mạch lạc, lời nào ra lời nấy cho hẳn hòi. Bởi vì đó là cái đấng cha lành của mình, ba cái ngôi Tam Bảo là cái cha lành của mình. Trong ba cõi mà, đâu có phải một cõi đâu, cho nên mình hướng về đó là hướng về cả cái tâm hồn của mình.

(33:07) Đại sư Hoàng Nhất nói: Dù người xuất gia hay tại gia, lúc thọ Tam Quy trọng yếu nhất có hai điểm:

Thứ nhất là người thọ Tam Quy phải chú ý đến nghĩa của quy y Tam Bảo.

Thứ hai là ngay lúc thọ quy y, vị thầy chịu trách nhiệm quy y phải giảng nói rõ, văn ngôn phải đơn giản để cho người nghe dễ hiểu, dễ nhận.

Nếu không được vậy thì quyết chẳng đắc Tam Quy, hoặc cách xa, nghe không rõ cũng chẳng đắc Tam Quy, hoặc tuy nghe hiểu, biết, nhưng trong đó có hai, ba chỗ nghi mà không chịu hỏi, thưa giải nghi thì cũng chẳng đắc Tam Quy.

Đó thì ở đây ngài Hoằng Nhất, ngài là một giới sư cho nên ngài nêu ra: Khi mà thọ Tam Quy, mà cái người mà đứng ra làm lễ Tam Quy mà không giải nghĩa cho cái người thọ Tam Quy hiểu thì cái lỗi đó là lỗi của ông thầy đó.

Rồi giảng làm sao cho người ta nhận hiểu cho được rõ ràng, nếu mà người ta ngồi xa quá người ta không nghe thì người ta cũng không đắc Tam Quy đâu. Mà nghe mà có chỗ nghi nghi ở trong đó thì cũng chẳng đắc Tam Quy đâu.

Đó, thì cho nên vì vậy đó, khi mà mình muốn nghe cái gì đó, mà về cái thọ buổi lễ Tam Quy đó, mà khi ông thầy giảng cho mình hiểu để lát nữa mình phát tâm lên, mình nói lời nói mình quy y Tam Bảo cho nó tận ở trong lòng của mình, thì mình phải rõ thật rõ.

Có nhiều người quy y cả ngàn người hay hoặc cả trăm người ngồi đầy cái giảng đường này, đầy cái nơi này, mà rồi lúc bấy giờ đó họ ngồi ở dưới đó, dường như họ không nghe, họ ngủ nữa.

Tới chừng đó biểu quy y cái bắt đầu họ cũng quỳ lên họ cũng nói, nói tầm ruồng, tầm đế, ông thầy nói làm sao họ nói theo vậy, chớ hồi nãy không biết ông thầy ổng nói cái gì mà quy y Tam Bảo nữa.

Tới chừng ra hỏi: “Ông quy y Tam Bảo rồi ông biết hồi nãy ông thầy nói gì không?” “Trời đất ơi! Tui có biết nhất thể Tam Bảo như thế nào, mà trụ trì Tam Bảo thế nào tui chẳng biết hết à!”

Bây giờ quý thầy đã quy y rồi, Thầy hỏi nhất thể Tam Bảo hay hoặc là trụ trì Tam Bảo, mà nếu mà Thầy không giảng ra, Thầy hỏi quý thầy có hiểu không? Có biết làm sao mà trả lời không? Mà người nào cũng quy y rồi đó.

Bởi vậy nếu mà không có Thầy vạch ra cho rõ thì coi như là quý thầy có quy y Tam Bảo chớ chẳng biết Tam Bảo là cái thứ gì nữa chớ đừng nói, nó không biết là như thế nào nữa.

Tam Quy rất là đơn giản, song muốn thật sự đắc cái thể của Tam Quy cũng chẳng phải dễ dàng đâu.

Đó cho nên vì vậy mà quý thầy thọ Tam Quy rồi có ông nào mà đắc Tam Quy đâu! Thầy nói về cũng vẫn ăn thịt, cá thì có đắc cái chỗ nào được đâu? Còn đắc Tam Quy rồi thì mình phải giống ông Phật chớ, chớ làm sao mà…​

Cũng như các con nghe một cái câu chuyện của ông Visakha chớ gì, ổng đến ông nghe ông Phật thuyết rồi về cái bà vợ - mọi lần thì ổng đến nhà thì bà vợ bả đưa tay cái ông chồng ổng nắm cái hai vợ chồng mới dẫn đi lên, bữa nay nghe ông Phật không biết nói làm sao không biết, ông về bà vợ đưa tay ông không thèm nắm tay bả nữa.

(36:18) Ơi trời cái kiểu đó, bà sao tức tối: “Ông này ổng nghe Phật nói làm sao mà bây giờ ổng đối xử với mình kỳ vậy ta? Hay hoặc là có cái bà nào cư sĩ cũng vô ngồi nghe Phật rồi ổng nhiễm rồi, bây giờ ổng về ổng không thèm nắm tay mình nữa!” Đó cho nên bả nghi ngờ vậy.

Cho nên khi đó đó ổng đi trước, bả đi sau, mà mọi lần thì nắm tay nhau đi song song, hôm nay không được, ổng đi xa xa bả chớ ổng,.. bả mà đi ráng ráng lại gần là ổng ráng ổng đi xa hơn, không dám lại gần bả nữa!

Bả thấy hôm nay kỳ cục, cho nên đến cái phòng khách rồi thì bắt đầu ổng ngồi cái ghế kia, bả ngồi ghế bên nây, chớ mọi lần hai vợ chồng ngồi chung cái ghế, nay ngồi riêng ra. Rồi bả mới hỏi: “Sao mà nay ông sao kỳ quá vậy? Nay tui thấy ông không giống mọi lần vậy? Có ai không, có bà nào không?”

Bả nổi ghen trước cái đã. Như vậy lẽ đương nhiên là đàn bà là phải vậy thôi, có người nào mới làm vậy chớ còn không có thì sao mà kỳ vậy? Cho nên bả mới hỏi ổng.

Nói: “Đâu có! Tui nghe Phật thuyết pháp tui thấy đây là cái nhân sinh tử. Thôi bà đi nghe Phật thuyết pháp đi rồi bà biết, chớ bây giờ tui nói bà cũng không tin tui đâu, bà sợ tui có thấy cái cô nào cư sĩ cũng vô nghe Phật rồi tui nhiễm bà ta rồi về rồi bà ghen tuông bậy bạ thì không được.

Thôi bà cứ đến nghe Phật rồi bà mới biết lòng tui chớ giờ tui giãi bày bà chắc cũng không tin đâu! Bởi vì người ta nghe Phật thì có nam có nữ nhiều, mà bây giờ đi có mình tui không có bà cho nên giờ về bà nghi như vậy cũng phải. Nhưng mà tui làm vậy là đúng lời Phật dạy rồi, bởi vì tui biết đó là sanh tử. Nhưng bây giờ tui nói bà không nghe đâu, thôi bà cứ đi!”

Bà ta bà sửa soạn xe cộ bà đến bà nghe Phật thuyết pháp. Sau khi nghe thuyết pháp rồi đó, bà về bà xin ông chồng cho bà xuất gia đi, bà đi tu. Ổng bằng lòng, ổng ở nhà ổng nuôi con, phải không, còn bà đi tu.

Cho nên sau này Thầy sẽ nói lại cái chỗ mà ông Visakha là chồng của bà Dhammadinna, khi mà bà tu chứng rồi ông về ông hỏi pháp, ổng cật vấn bà dữ lắm chớ không phải không đâu, để coi bà thâm nhiễm như thế nào, đi tu theo Phật thế nào, bà Dhammadinna bà trả lời rất là tuyệt diệu.

Thầy nói những cái bài đó Thầy sẽ đọc. Lẽ ra bữa nay mà nó có đủ thì giờ Thầy sẽ đọc cái bài đó cho các con cái nghe gương hạnh của người xưa, người ta tu kinh lắm!

Cho nên phải hiểu những cái gì mà chúng ta phải hiểu. Cho nên nói mình đắc Tam Quy thì chắc chắn là Thầy nhìn hết cư sĩ mà thọ Tam Quy rồi - chưa nói là Ngũ Giới đâu, Thầy nói nội Tam Quy không - thì chưa có ai mà đắc Tam Quy hết.

Nghĩa là hầu như là nói là nói một lẽ thôi, cũng là Tam Quy, cũng là cái lòng khoái - người nào thọ Tam Quy Ngũ Giới rồi cũng cái lòng khoái rồi: Trời! đẹp đẽ lắm chớ…​ (Mất tiếng)

Do vì vậy đó, thì sau này các con sẽ được học cái bài của bà vợ của ông Visakha bà nói pháp. Cho đến cuối cùng thì ông cũng chưa có đủ cái niềm tin ở chỗ bà nữa, cho nên ông mới đến gặp Đức Phật, hỏi Đức Phật: “Bà đã giải thích như vậy, có đúng hay không?”

Đức Phật nói: “Ta cũng chỉ cỡ giải thích như là bà Dhammadinna mà thôi chớ không hơn.” Nghĩa là ta chỉ giảng như vậy thôi, cũng như là bà thôi, không hơn. Thì cho nên trong cái giới Ni bà là đệ nhất trí tuệ, Đức Phật đã khen ngợi bà là đệ nhất trí tuệ.

(39:31) Cho nên những cái mà bà giảng, hầu như là Đức Phật không có cho rằng sai cái chỗ nào được hết, không có sai chỗ nào. Có nhiều cái Đức Phật không giảng mà bà giảng ra được.

Cho nên tất cả những cái thiền định, tất cả - từ cái nhập Diệt Thọ Tưởng Định, các con sẽ nghe bà giải thích về Diệt Thọ Tưởng Định rất kỹ, rất là hay, rất là tuyệt. Rồi cách thức dùng cái định nào mà để cái sức - cái gì mà để mà tu tập thiền định, bà dạy rất hay, rất rõ.

Do đó thì trong những cái buổi giảng Thầy thêm những cái bài đó để sau này mà khi giảng về cái giới hành thì nó dễ hơn, nó ngắn hơn. Mà chúng ta đã chuẩn bị cho chúng ta có những cái bài học nó cụ thể rồi, sau khi dạy qua cái giới hành thì Thầy rất dễ dạy cho quý thầy thấy dễ hiểu.

Bởi vì cái trục mà Thầy sẽ nhắm vào là Thầy lấy Bát Chánh Đạo, mà dạy tất cả những Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo quay chung quanh ở trên cái Bát Chánh Đạo, tám cái ngành - tám cái ngõ mà đi đến giải thoát.

Cho nên vì vậy mà Thầy trang bị cho quý thầy ở trong khi mà học giới bổn này, hoặc là học những cái điều kiện khác, Thầy trang bị cho những cái bản kinh để quý Thầy chuẩn bị cho tinh thần mình có sự hiểu biết.

Chớ đến đó mà Thầy giảng mà nếu không trang bị, thì đem những cái bài kinh kia vô nữa thì nó quá nhiều, nó làm cho loãng đi. Còn bây giờ thỉnh thoảng xen vô trong những cái giới bổn này làm chúng ta có những cái gợi về thiền định, cũng làm cho chúng ta thích thú trong khi nghe.

Nó cũng như thay đổi. Nói hoàn toàn giới không nó khô lắm, cho nên đem những cái giới hành vô, để xen vô những cái kinh nghiệm của các vị tu hành đó, làm chúng ta có cái thay đổi về cái không khí, nó tốt hơn.

Chớ còn nói điều 1, điều 2, điều 3, điều 4, điều 5…​ nói riết chúng ta thấy cũng chán lắm, cho nên Thầy khéo léo để làm cho cái tâm lý của các con phấn khởi trong cái bước đường tu học.

Thầy xin đọc lại chỗ này:

Quy y Tam Bảo rất đơn giản, song muốn thật sự đắc giới thể của Tam Bảo cũng không phải là chuyện dễ. Bởi nhìn chung, mọi người Phật tử ai cũng đều quy y Tam Bảo, nhưng hầu hết không có người đắc Tam Bảo.

Nếu như tự biết không đắc Tam Bảo thì chẳng ngại gì thỉnh một bổn sư, hoặc là thỉnh thầy khác thọ quy y một lần nữa. Trong nghi thức thọ quy y đại quy mô của tập thể mấy chục người hoặc mấy trăm người, mấy ngàn người là chẳng thể tin cậy được, chỉ là gieo trồng căn lành cho họ mà thôi.

(42:12) Nghĩa là quy y đông nó không có cái sự thiêng liêng mà nó có cái sự vui nhộn ở trong đó thôi. Nghĩa là thấy người ta quy y là bắt chước đó thôi, cho nên gieo cái nhân đó thôi chó còn không có đắc cái Tam Bảo được.

Cho nên vì vậy mà cái số người quá lượng đông mà quy y Tam Bảo á, bây giờ về họ bán phở họ vẫn bán phở à, họ bán cháo lòng là vẫn bán cháo lòng, họ làm cái gì thì vẫn cái nấy, nhà họ ăn thịt thì họ cũng vẫn ăn thịt như thường à.

Mà họ vẫn là quy y Tam Bảo, họ vẫn là thọ Ngũ Giới rồi, nhưng mà họ nói rằng tui thọ Ngũ Giới là tui không cầm dao tui giết thôi, miễn là tui ra ngoài chợ họ mần gà, mần thịt, mần cá gì tui mua về tui ăn thôi chớ không sao hết.

Nhưng mà quy y Tam Bảo nó không phải là như Ngũ Giới đâu. Mà Ngũ Giới đó là cái bước thứ hai của chúng ta để tu tập, mà họ còn cái lý luận ở trong cái kêu là gián tiếp sát sanh đó. Mình không mua không ăn làm gì người ta giết? Chính mình mua mình ăn người ta mới giết chớ!

Cũng như quý thầy nói ăn không nghe, không thấy, không nghi, mà chính mình ăn người ta mới giết cho mình ăn chớ, chứ mắc mớ gì người ta đem thịt cá cho mình ăn? Mình ăn chay thì ai mà cho, một lần, hai lần người ta không biết người ta cho thôi.

Còn ngày xưa, có người nói Đức Phật đi khất thực thì người ta nấu ăn cái gì thì người ta cho mình ăn cái nấy, mình nói mình ăn chay làm sao chứ gì?

Thì lẽ đương nhiên là ông Phật ông không cãi rồi, ông không nói “Tui ăn chay!” rồi, nhưng mà ai cho ổng thì ổng có ăn hay là không ăn là cái quyền của ổng chớ, cái người đó có ép ổng được sao?

Cho nên bây giờ có bỏ ổng đầy bát thịt đi nữa ổng cũng mang về, nhưng mà cái ăn hay không ăn là quyền của ổng. Trước mắt ổng thấy những cái thịt chúng sanh vậy ổng ăn được không?

Là một cái người tu sĩ đạo Phật, tâm từ người ta đâu có đơn giản được, cho nên người ta không ăn thì người ta phải bỏ ở dưới đất đi chớ. Bởi vì cái đó là cái lòng của người cư sĩ họ cúng dường mình thì mình nhận chớ, nhưng mà mình không ăn là vì lòng từ của mình chớ.

Còn cái này mình thèm khát, mình nuốt hết thì tức là mình có phải là cái lòng từ đâu, cho nên mình nhai, mình nuốt hết. Rồi càng ngày nó càng ghiền ra nó muốn ăn, cho nên bữa nào mà người ta không có thịt cá cho mình đó, về mà ăn nuốt không vô!

Cần thọ Tam Quy vốn chỉ cần thỉnh cầu một vị thầy thanh tịnh giới hạnh, quy y ở trước Phật ba lần, mỗi lần nói lên với tâm thành tha thiết Tam Quy, tam kết là được.

3.4- TÁM MỤC TRONG NGHI LỄ THỌ TAM QUY

(44:28) Trong Tam Quy chính phạm có tám mục.

Ở trong cái quy y Tam Bảo đó, thì chánh cái phạm hạnh của nó thì nó chia làm tám mục.

1. Người thọ quy y phải dâng cúng hoa quả, đèn đuốc…​

Đây là cái nghi thức thầy nhắc ra để cho quý thầy biết: Khi mà mình muốn thọ quy y thì mình phải làm cho nó đúng cái cách của nó.

1. Người thọ quy y phải dâng cúng hoa quả, đèn đuốc chỉnh tề rồi đến đảnh lễ một vị thầy thanh tịnh giới hạnh lên tòa quy y.

Nghĩa là lên cái chỗ ngồi mà để làm cái lễ thọ quy y cho mình, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai:

2. Vị thầy thỉnh mười phương Tam Bảo chứng minh thọ quy y.

Trong cái buổi đó thì cái vị thầy đó phải - cái cách thức của họ đó, cái nghi lễ của họ đó, thì cái vị thầy đó phải thắp hương rồi hoàn nguyện mười phương để chứng minh cho mình cái ngày hôm nay mình đại diện mình quy y Tam Bảo. Đó là cách thứ hai.

Nghĩa là cách thứ nhất là cái người mà thọ quy y phải sắm sửa đầy đủ, rồi thỉnh cái vị thầy đó. Vị thầy đó chấp nhận rồi thì vị thầy đó đến mặc y áo đàng hoàng. Mình đại diện cho Phật, đâu có phải mặc cái đồ lè phè lên đó được, phải nghiêm chỉnh đàng hoàng.

Rồi bắt đầu mới thắp ba cây hương, mới quỳ xuống, mới đảnh lễ trước cái Tam Bảo đó, rồi mình mới thỉnh chư Phật mười phương ba đời chứng minh cho hôm nay là mình đại diện cho Phật - Pháp - Tăng để mà thọ quy y cho cái người đệ tử tên gì đó.

Đó là cái giai đoạn thứ hai. Thứ ba là:

(46:15) 3. Vị thầy khai thị ý nghĩa của Tam Quy.

Sau khi mà thắp hương thỉnh chư Phật chứng minh rồi, thì bắt đầu mình lên thượng tòa thì bắt đầu mình khai thị cái ý nghĩa của Tam Quy cho cái người đệ tử mình ngồi nghe, nghe cho rõ. Đó là cái giai đoạn thứ ba.

Bởi vì mình làm một cái lễ nào đó nó cũng phải có từng tiết mục của nó ở trong những cái lễ đó, mà nếu mà không nắm được cái này thì mình làm sao mình làm cái lễ quy y người ta được? Cái gì trước, cái gì sau?

Cho nên trong giới đàn tăng nó dạy chúng ta, nhiều khi cái người mà chưa có bao giờ đứng ra làm một cái chủ lễ một cái gì đó, thì đọc ở trong giới đàn tăng nhiều khi chúng ta chưa biết đâu.

Chúng ta phải có trực tiếp sống coi quý thầy họ làm cái nghi lễ như thế nào, thế nào, thì lúc bấy giờ có thấy rồi, có trực tiếp thấy - như người ta tổ chức một cái lễ giới đàn đi, cái gì làm trước, cái gì làm sau, người nào làm cái gì, gì, gì, chúng ta có trực tiếp sống trong đó rồi thì chúng ta mới đọc giới đàn chúng ta mới hiểu.

Do viết cái sách để mà có trực tiếp thấy rồi mới hiểu, thì Thầy thấy viết sách đó quá vụng. Thầy chê ngay liền giới đàn tăng này viết - một cái người mà chưa bao giờ có thấy làm cái lễ quy y, làm cái lễ thọ giới, làm cái lễ thọ tỳ kheo đồ, họ chưa có bao giờ mà đứng ở trong cái vai trò mà họ lãnh cái trách nhiệm mà đứng ra làm cái vị Hòa thượng đường đầu, để mà lãnh đạo cái chỗ mà thọ cái cuộc giới đó, họ chưa có làm một lần nào, chưa có được trực tiếp thấy lần nào, thì họ chới với đọc trong sách họ không làm được.

Còn trái lại mà khi Thầy viết kinh sách ra, cái người đọc kinh sách là họ biết từ cái tiết mục - tiết mục đó phải làm cái gì, ai làm cái đó, người đó làm sao, rồi cách trả lời như thế nào, ở chỗ đó thì cái người đó phải tùy tiện cái thông minh của mình mà trả lời cho nó hợp với cái chỗ đó.

Viết ra một cuốn sách như vậy nó mới có giá trị của giới đàn tăng, còn viết ra cuốn sách người ta - nói chung là, đây là những người Trung Hoa họ viết ra rồi Hòa thượng của mình dịch trở lại, chớ còn Việt Nam của mình các vị Hòa thượng không có ai mà dám đặt ra cái này hết, chỉ có nói Thầy - có Thầy đặt thôi.

(48:20) Nghĩa là chỉ có Thầy có thể nói rằng Thầy đặt giới đàn Tăng ra được, là vì Thầy đi từng tiết mục. Một cái người mà cầm cái bổn mục của Thầy ra, họ chưa bao giờ làm cái lễ nào hết, họ cầm đó họ làm cái lễ được. Họ biết rằng cái người nào làm trước, cái gì làm sau.

Bởi vì qua kinh nghiệm bản thân của Thầy từng ở trong những cái tổ chức, những cái giới đàn, những cái lễ này kia ở trong các pháp yết ma, Thầy đã nắm rất vững trong cái vấn đề này, cho nên Thầy rất thông suốt về vấn đề này, cho nên Thầy dám đặt ra những cái bản giới đàn Tăng.

Cái người mà chưa từng biết gì hết, bây giờ Thầy nói như Minh Tông nè, hoặc Mật Hạnh nè, hay hoặc là mấy con nè, chưa có từng biết thọ giới gì hết, nhưng mà cầm cái cuốn sách Thầy ra là các con biết tổ chức cái giới liền.

Phải làm cái gì, phải trang nghiêm thế nào, trong cái đạo tràng đó phải làm sao, làm sao, cái gì trước, cái gì sau, rồi cái người nào mà ngồi đâu, cái vị trí nào, tam sư thất chúng ở vị trí nào Thầy vẽ ra cái bản đồ hết. Các con coi theo đó mà có thể sắp xếp người ta, ngay đó là tổ chức cái giới đàn rất là nghiêm chỉnh. Chớ không phải là đọc ở trong đó chúng ta chẳng biết cái tổ chức làm sao hết à!

Đó là những cái mà người viết sách nó không có cái kinh nghiệm, mà qua cái chỗ mà dựa vào cái người này đến người kia nó có cái trừu tượng lắm, nó khó mà có thể mà chúng ta vạch ra được, tự mình làm ra một cái lễ được.

4. Người thọ quy y nguyện sám hối những lỗi lầm trước để ba nghiệp thanh tịnh, nhận được giới thể Tam Quy không tạp, không uế.

Đó thì các thầy thấy, khi mà từ mình chưa có quy y đó, là cái thân của mình là ăn thịt chúng sanh, là giết, là hại, là có những ác pháp, là tham, là sân, là si nó đủ cách, là nhiễm của thế gian rất nhiều rồi.

Mà khi mà nghe được cái lời dạy của cái vị thầy mà người ta giảng khai thị cho mình hiểu rồi, thì ngay đó cái người mà quy y Tam Bảo là họ quỳ xuống trước thầy đó mà người ta xin quy y liền.

Còn cái này có quy y đâu, họ có sám hối không? Quỳ xuống sám hối. Bởi vì nghe cái bài người ta giảng rồi, biết tất cả những cái lỗi lầm của mình, từ hồi nào tới giờ mình chưa biết Phật pháp rồi cho nên mình có những cái lỗi lầm ở trong những cái ác pháp đó.

Cho nên ngay liền đó thì sau cái lời khai thị của vị thầy mà đứng ra quy y rồi, thì cái người mà thọ quy y đó đâu có phải chờ tới mà quy y mới là nói lên đâu, mà ngay đó là biết mình đã có lỗi rồi, có lỗi từ những cái thời gian đã qua rồi.

Cho nên bây giờ đó đứng lên xin sám hối để cho thân tâm mình thanh tịnh, để cho mình nhận ba cái pháp thanh tịnh vào. Còn tâm mình chưa có sám hối nó chưa có thanh tịnh nè, mình chưa có thấy được cái lỗi lầm của mình, mình nhận thêm ba cái pháp thiện, làm sao nhét vô được?

Thiện với ác nó kỵ nhau, làm sao mà hai cái này nó ở chung nhau được một nhà? Thử hỏi coi, ông chồng thì dữ như cọp, bà vợ hiền như ông Bụt thì thử hỏi vợ chồng người đó ở được không?

(51:04) Phải không? Đâu có làm sao mà sống chung nhau được, một người hiền một người dữ không làm sao mà sống chung nhau được hết. Nó phải là hai người - nó phải là như nhau mới sống chung nhau được.

Cho nên vì vậy mà tâm của chúng ta đang ở trong tâm ác này, mà bây giờ nhét vô cái pháp thiện nó vô nổi không? Cho nên có người nào mà đắc Tam Quy đâu!

Đó, vì vậy đó, khi mà cái người mà biết quy y thì cái phần thứ tư này là cái người quy y phải quỳ ngay trước bậc thầy đó và quỳ trước Tam Bảo, xin sám hối những lỗi lầm: “Từ đây con sẽ hoàn toàn là con cố gắng giữ gìn không được vi phạm nữa, và con xin để mà con đem cái ba cái pháp thiện này vào trong thân tâm của con!”

Mình hứa khả như vậy, từ đó mình mới thọ Tam Quy nó mới có được chớ! Còn tâm chưa thanh tịnh gì hết cũng thọ đại à, nhét vô làm sao nhét vô nổi. Nhét vô cái ông thiện thì ổng bung ra ổng nhảy ra: “Trời ơi! Ông ác ổng đẩy tui chạy thấy mồ tui làm sao mà tui ở đó được!” Cho nên làm sao đắc Tam Quy!

Đó thì quý thầy phải hiểu, bởi vì đây là - cái nói của Thầy là cái nói phải nói hết, nói để cho quý thầy biết nhét chỗ nào mà nhét cho được, mà nhét không được thì đừng có nhét, nhét bậy thì nó càng khổ mình thêm!

5. Thọ Tam Quy, tam kết và tam thệ.

Cái phần thứ năm này là ở trong giới đàn kinh thì có dạy rõ là Tam Quy, tam kết và tam thệ.

Nhưng mà ở đây Thầy thấy cần thiết là chúng ta quy y, thọ Tam Quy, và cái sự chấp nhận của một vị thầy đó đại diện cho ba ngôi Tam Bảo là đủ, là tam kết, tam quy là đủ, còn tam thệ thì đó là để dành cho cái phần tôn giáo của người khác chớ không phải Phật giáo. Cái tam kết thì chúng ta bỏ.

Chúng ta được thì chúng ta cứ ở theo Phật mà chúng ta tu thì được phước báu, mà không được thì chúng ta muốn quy y thiên thần, quỷ, vật gì cũng được. Nghĩa là chúng ta muốn làm ác thì chúng ta muốn quy y ở đâu cũng được chớ có gì đâu mà bắt buộc người ta phải ở với mình mà người ta phải khổ?

Cho nên Phật không có bắt buộc một tín đồ nào hết. Được thì anh cứ ở tu để giải thoát cho anh, mà không được thì anh cứ ra chớ chúng tôi không có ép, cho nên không có tam thệ.

Sau đó rồi, khi mà quy y rồi thì cái vị thầy đó, tức là vị thầy mà đứng ra đó, thì thứ sáu - cái phần thứ sáu này vị thầy đó có lời khuyến chúc, nói rõ cái phần mà - cái sự mà nương theo Tam Bảo này nó đem lại cái kết quả gì cho cái đời sống của cái người mà thọ Tam Quy. Nghĩa là phải dạy rõ.

Ở đây Thầy viết như thế này:

6. Vị thầy khuyến chúc nói công đức Tam Quy thù thắng, và người thọ Tam Quy phải vâng làm, thực hành cho đúng để được kết quả hữu ích khi bước vào cổng nhà Phật.

Đó là cái lời viết ngắn ngọn như vậy chớ nhưng mà chúng ta phải biết rằng, khi mà cái vị thầy đó khuyến chúc nói được những khi mà chúng ta thực hiện cái hạnh sống của chúng ta đối với ba cái ngôi Tam Bảo này, sẽ đem đến cái hạnh phúc gia đình của anh như thế nào, và những người xung quanh của anh như thế nào, nó sẽ được cái sự giải thoát an vui như thế nào, nó đem lại cái cuộc sống của anh như thế nào trong cái đời sống của anh hiện tại, chớ không phải đợi ngày mai đâu.

(54:10) Nghĩa là quy y Tam Bảo rồi ngày nay anh về thì bắt đầu vợ con phải sửa soạn đồ chay hết, nghĩa là có thay đổi rồi đó, phải không? Các con thấy không, thiện pháp liền tức khắc ở trong nhà.

Còn mình quy y rồi về bữa nào cũng như bữa nào, cũng thịt bằm đầy thớt hết, chảo nào cũng ngập lút hết, thịt cá hết, thì cái quy y đó là có nghĩa lý gì? Cho nên ông thầy phải khuyến khích cho cái người đệ tử của mình quy y phải thấy được điều này.

Cho nên cái người quy y cư sĩ về rồi thì người nào toàn cũng ăn chay hết. Bởi vì cái ăn chay này nó chưa phải là ăn chay trên ăn chay đâu. Còn cái người tu sĩ chúng ta phải tâm từ bi biến mãn khắp chúng sanh đó, cho nên ăn chay nó trên ăn chay nữa.

Cái này ăn chay là mới có ăn chay sơ sơ thôi đó, nghĩa là tránh những cái hình ảnh đau xót mà mình nhét vào trong cái tà mạng của mình đó, đó là những người cư sĩ.

Cho nên hầu hết là những người theo Thầy mà là cư sĩ, mà đến mà Thầy chịu, mà Thầy chấp nhận Thầy quy y rồi thì về ăn chay chớ nếu mà về ăn mặn là đừng có nói đắc cái Tam Quy đâu, Thầy chẳng có chấp nhận mấy cái thằng đệ tử đó đâu! Nó phải đúng là đúng, theo đạo Phật là đúng là đúng mà không đúng thì thôi.

Còn bây giờ mình thấy mình chưa có thọ Tam Quy được, mình còn thích thịt, thì thôi, thì ở ngoài đó đi, đừng có vô đây mà làm cho Phật pháp người ta suy đồi đi, để cho người ta có được người nào nó quý người nấy, người nào mà gọi là cư sĩ đệ tử của Phật người ta cũng vẫn thấy thanh tịnh.

Còn mình vô mà mình quy y có hình thức rồi mình cũng ăn thịt, ăn cá, rồi mình cũng chửi mắng, la hét rầm rộ, tùm lum tà la thì thử hỏi Phật pháp còn cái gì nữa? Đạo Phật nó suy là suy do mấy ông đó!

7. Khi thọ Tam Quy và được khuyến cáo rồi thì người thọ quy y đó phải đảnh lễ thầy, tỏ lòng tri ân.

Đó là cái mục thứ bảy. Bây giờ Thầy vạch ra cho các thầy thấy từng mục, từng mục để mà chúng ta làm, thì các thầy bây giờ không có bao giờ mà - chưa bao giờ thấy đi nữa, nhưng mà nghe Thầy vạch ra từng mục như vậy các thầy dễ quá mà đâu có gì khó đâu? Thầy dạy quá rõ ràng rồi.

8. Người thọ Tam Quy hứa khả vâng lời dạy.

Bây giờ mình quỳ xuống mình đảnh lễ thầy để tri ơn thầy đã đứng ra thọ quy y cho mình rồi, và bắt đầu cái phần thứ tám thì mình phải nói cái lời hứa của mình, mà qua thầy đã dạy thì cho nên mình sẽ không bao giờ mình - đối với Tam Quy Phật - Pháp - Tăng mình không dám biếng trễ.

Nghĩa là cái hành động Phật pháp như thế nào, thanh tịnh như thế nào, mình cố gắng mình khắc phục cho được ba cái thiện pháp này.

(56:36) Đến đây là thọ Tam Quy đã xong.

Nghĩa là sau khi mình hứa khả, mình cố gắng về khắc phục đời sống của mình cho đúng cái người đệ tử của Phật - đệ tử cư sĩ của Phật, mình phải làm cho đời sống của mình phải đúng như những cái lời mà Phật dạy trong kinh, thì nó đem đến cái thiện pháp, nó đem đến cái sự an lành cho cái gia đình đó thực tế, cụ thể, chớ không còn mà bị đi ở tù đâu!

Thầy nói mình thọ Tam Quy rồi về mình còn đi ăn lo hối lộ thì mình ở tù chớ sao? Mình thọ Tam Quy rồi mình còn gian xảo, mình bán vàng mình còn bớt này kia, mình cân đo thiếu người ta, mai mốt công an đến nó coi cân mình nó non, nó bắt mình, không phải bỏ tù sao, nó phạt mình sao?

Đã quy y rồi, hỏi ra: “Ông là gì?” Nói: “Tui quy y Tam Bảo rồi, tui quy y thọ giới rồi, tui có pháp danh đàng hoàng rồi” - mà làm ăn như vậy đó, không phải là nhà nước họ cười sao? Ông đệ tử Phật gì mà gian xảo quá!

Đó là những cái mà cái giới cư sĩ không thấy được cái điều mình đã làm sáng tỏ Phật pháp hay làm suy đồi Phật pháp. Mà hầu hết là cư sĩ, đâu có nói là tu sĩ, bây giờ nói tu sĩ là chúng ta đã thấy đã làm cho Phật pháp suy rồi. Mà giới cư sĩ có làm không? Có chớ sao không làm!

Mấy ông ở tù mà nói là Phật tử đó là - rõ ràng là hỏi ra thì mấy ông cũng gian xảo đủ cách, mánh khóe các ông làm ra tiền, ra bạc bằng cách này, bằng cách khác mấy ông ở tù, thì không phải là cái đó là mấy ông đã hạ Phật pháp xuống sao?

Phật dạy các ông làm điều lành, tại sao các ông làm gian xảo như vậy? Phật dạy các ông không có ăn, không có giết hại chúng sanh mà các ông về bữa nào cũng dẫn nhau đi nhà hàng ăn tôm tươi nữa, chớ đừng có nói! Ăn cá tươi nữa, bắt lên bỏ con cá còn lăn lộn như vậy, bỏ trong chảo nó nhảy múa tùm lum, mấy ông ngồi đó gắp mà ngon!

Không phải sao? Thầy nói mấy ông Phật tử chớ ai vô đó, thấy vô nhà hàng là thấy mặt là biết liền!

4- THỰC HÀNH TAM QUY GIỚI

4.1 THỌ TAM QUY PHẢI HÀNH TAM QUY GIỚI

(58:24) Đến đây là thọ Tam Quy đã xong. Theo đạo Phật không có nghĩa là thọ Tam Quy suông mà phải có hành Tam Quy giới.

Nghĩa là đâu có phải mình thọ Tam Quy suông đâu, mà mình thọ phải có hành nó, mình hành nó tức là mình sống đó.

Bây giờ quý thầy hành như thế nào? Thậm chí có nhiều người bây giờ cả quy y Phật pháp rồi, cả bây giờ bảy, tám năm, mười năm, hai chục năm rồi, mà vẫn có thấy thay đổi cái gì đâu, mà nói là đệ tử Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di của Phật! Coi vọng ngữ không?

Có 4 điều kiện mà quý thầy phải hành, thì xin nhắc lại:

Thầy xin nhắc lại bốn cái điều kiện mà cái người cư sĩ phải chấp nhận, phải hành nó. Đó là Thầy xin nhắc lại, ở đây là nhắc lại chớ còn cái này là quý thầy đã nhớ rồi chớ không phải là không đâu.

1. Thông hiểu những gì chưa thông hiểu;

Đầu tiên quý thầy phải cần hiểu Phật pháp thêm, không phải quy y Tam Bảo rồi về có bao nhiêu đó là mấy vị đủ đâu, mấy vị còn phải tìm hiểu thêm nữa. Cho nên mấy vị phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu.

2. Trau dồi những gì chưa trau dồi;

Bây giờ quý vị về quý vị thay đổi cuộc sống của quý vị nè, ăn chay nè, nhỏ nhẹ với trong gia đình nè, không chửi mắng nhau nè, rồi có nghiện rượu, nghiện thuốc thì bỏ lần hết, do đó là quý vị đã trau dồi được một phần đó.

Nhưng mà còn những cái trau dồi nữa chớ đâu phải có bao nhiêu đó đủ, cho nên nó còn tiếp tục ở trên con đường để đi đến đem lại cái hạnh phúc an vui cho quý vị rất nhiều nữa, thì quý vị cần phải trau dồi những gì chưa trau dồi.

3. Tu tập những gì chưa tu tập;

Nghĩa là những cái gì mình đã biết được, mình tu tập nó chưa đủ đâu, nó còn phải tu tập nữa chớ đâu phải tới đó mình thỏa mãn: Bây giờ hạnh phúc gia đình của mình ngon quá rồi, tiền bạc cũng dư ăn, dư để rồi, thôi bây giờ nhiêu đó đủ!

Đạo Phật đâu có dạy chúng ta thỏa mãn, toại nguyện ngay cái nửa đường đâu, phải đi tới nữa chớ! Đó, cho nên vì vậy đó mà chúng ta phải biết.

Thứ tư là:

4. Dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ.

(01:00:16) Ba giới đầu tiên này quý vị cứ theo bốn điều kiện trên đây mà tu tập. Mà hàng ngày quý vị sống đúng giới hạnh của Tam Quy, chắc chắn quý vị sẽ có một đời sống hạnh phúc, an vui và yên ổn nhất, thiết thực, hiện tại, không có thời gian.

Đến phần giới hành, Thầy sẽ chỉ dạy tu tập ba giới đầu tiên này.

Từ ba giới đầu tiên này chúng sanh ra Ngũ Giới. Ngũ Giới là gì? Ngũ Giới là năm giới cấm, còn gọi là năm thiện pháp.

Kế đến, cũng từ ba giới đầu tiên này sanh ra Thập Thiện. Thập Thiện là gì? Là mười điều lành, còn gọi là mười giới cấm.

Kế đến nữa, từ ba giới đầu tiên này sanh ra Bát Quan Trai Giới. Bát Quan Trai Giới là gì? Là tám cửa ải phải vượt qua mới thanh tịnh được thân tâm, còn gọi là tám giới cấm, còn gọi là tám thiện pháp.

Những giới cấm này đều là của hàng cư sĩ tu tập, trau dồi những thiện pháp mà thôi.

Muốn thành tựu những pháp thiện này, người cư sĩ phải lấy giới hành trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Chánh Cần, phải lấy giới định tu tập Thánh phòng hộ sáu căn, Chánh Niệm Tỉnh Thức Định, Vô Lậu Định.

Đó là những cái mà cái người cư sĩ cần phải tu tập trong các định đó đó.

Đó thì để mà thực hiện các cái giới hạnh đó, từ thọ Bát Quan Trai cho đến tất cả các cái - ba cái thọ giới Tam Quy đều là phải tu những cái định: Cái định Chánh Niệm, cái định phòng hộ sáu căn, cái định Vô Lậu thì nó mới thực hiện được những cái pháp thiện đó. Thì đó là những cái điều kiện mà người cư sĩ - trong cái lộ trình của người cư sĩ, người cư sĩ phải tu tập những cái pháp đó.

Phải lấy giới pháp thực hành, pháp quán, tùy pháp, hướng pháp, tịnh pháp.

Nghĩa là lúc bấy giờ đó, thì các cái vị cư sĩ phải học, phải biết cho rõ các pháp hành như thế nào, các giới pháp như thế nào để mà thực hành, thì thực hành nó có quán pháp, tùy pháp, hướng pháp và tịnh pháp.

Đó nó làm cho chúng ta được thanh tịnh tâm gọi là tịnh pháp, cho nên đó là khi mà tịnh tâm thì nó là ly dục, ly bất thiện pháp.

Giới luật trong Phật giáo trên đại thể gồm có hai loại khác nhau:

Đó, mình phải thấy giới luật của Phật giáo nó chia làm hai loại, nó có khác nhau chớ nó không giống nhau.

1. Tiệm thứ giới;

2. Đốn lập giới.

Đó những cái danh từ này nếu mà không được Thầy giải thích, Thầy không nói rõ, thì nghe thì quý thầy khó mà hiểu. Còn ở đây Thầy cũng - hễ dạy giới là phải dạy hết, hết sức dạy của mình để làm cho quý thầy hiểu biết cho nó rõ ràng.

4.2- TIỆM THỨ GIỚI LÀ PHÁP LÀNH CỦA NGƯỜI CƯ SĨ

(01:03:19) Tiệm thứ giới chỉ cho Tam Quy Ngũ Giới, Bát Quan Trai giới, Thập Thiện giới, là giới tại gia hay là giới của người cư sĩ, còn gọi là pháp lành của người cư sĩ.

Đó thì tiệm thứ giới đó là những cái giới mà lần lượt mình tu tập dần dần dần dần đó, gọi là tiệm thứ giới, mà những cái giới này nó thuộc về - nó như là tam giới đó, Tam Quy đó, Tam Quy giới đó, Ngũ Giới đó, Bát Quan Trai giới đó, Thập Thiện giới đó, là những cái pháp mà của người cư sĩ đang hành ở tại gia.

Đó thì như vậy là cái người cư sĩ đã trang bị cho họ những cái giới hành của họ, những cái giới lý và giới hành của họ - là đầu tiên thì chúng ta gọi những cái giới đó thì gọi là tiệm thứ giới, nó có cái tên gọi là tiệm thứ giới.

Không thọ Tam Quy giới, Ngũ Giới, Bát Quan Trai giới, Thập Thiện giới thì sẽ không thọ được Thập Giới Sa Di.

Nghĩa là cái người mà không có thọ cái tiệm giới này thì không có bao giờ mà có thể đi qua cái lộ trình thứ hai mà thọ Thập Giới Sa Di được, nó khó như vậy đó.

Sa Di, Sa Di Ni không thọ thập giới Sa Di, Sa Di Ni sẽ không thọ được Tỳ Kheo giới, Tỳ Kheo Ni giới.

Nghĩa là, cái người mà muốn thọ Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni mà không thọ Sa Di thì không bao giờ mà có thể thọ Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni giới được.

Trong quá trình từ Sa Di tiến vào Tỳ Kheo Ni còn phải thọ giới pháp của Thức Xoa Ma Na.

Đó bên Tỳ Kheo Ni, Sa Di Ni với Tỳ Kheo Ni thì nó còn một cái đoạn nữa là để mà thử thách ở bên ni là họ phải thọ Thức Xoa Ma Na.

Do vì cần phải tuần tự tiến lên từng cấp thiện pháp này cho nên gọi là tiệm thứ giới.

Nghĩa là tất cả những cái giới mà như vậy đó, của cái lộ trình thứ hai của tu sĩ đó, thì nó cũng được gọi là tiệm thứ giới chớ chưa phải là đốn lập giới.

Đó thì chúng ta thấy cái tiệm thứ giới đó, bên cái lộ trình cư sĩ thì nó có những giới gì, mà bên tu sĩ thì nó có những cái giới gì, cho nên gọi là tiệm thứ giới.

Hai chúng tại gia cộng thêm năm chúng xuất gia thành ra bảy chúng đệ tử Phật đều lấy tiệm thứ giới để được danh phận theo thứ tự.

Nghĩa là lấy tiệm thứ giới đó mà chia ra làm bảy cái chúng đệ tử theo cấp bậc của giới luật.

4.3- ĐỐN LẬP GIỚI KHÔNG PHẢI GIỚI LUẬT CỦA PHẬT

(01:05:59) Đốn lập giới chỉ là Bát Giới và Bồ Tát giới của kinh Phạm Võng và kinh Anh Lạc, hai thứ giới này là giới biệt giải thoát ở ngoài thất chúng giới.

Tức là ở ngoài bảy cái tiệm giới ở trên đó. Cho nên cái đốn giới này nó có cái quan trọng gì không?

Đốn giới này không phải từ Tam Quy giới lưu xuất ra.

Đó, mình nghiên cứu về kinh sách đó, mình mới thấy rằng cái đốn giới này nó không có phải từ ở Tam Quy lưu xuất ra, cho nên cái nói đốn giới là nó do các tổ chúng ta đặt ra, làm ra.

Cho nên Thánh Nghiêm có xác định:

Cái ông giới sư Thánh Nghiêm này, ổng có xác định cho chúng ta thấy được cái điều đốn giới này nó không phải từ ở Tam Quy lưu xuất ra mà nó từ ở nơi những người khác mà lưu xuất ra.

Giới này và giới kia tuy đồng là Phật giới nhưng không thọ Tam Quy Ngũ Giới cũng có thể thọ ngay Bồ Tát giới và Bát Giới.

Đó, thì ông xác định cái câu ông nói để chúng ta thấy rõ, thì cái giới này với giới kia thì nó có giống nhau, nhưng mà nó cũng có những cái khác nhau chớ không phải là giống nhau hết đâu.

(01:07:15) Nhưng nó không phải từ ở Tam Quy. Nghĩa là cái người mà không có thọ Tam Quy thì thọ Bồ Tát giới hoặc là thọ Bát Giới này được. Đó thì, do đó thì chúng ta biết ngoài Tam Quy mà nó còn có những cái giới khác rồi thì tức là nó của ai rồi đó chớ không phải là…​

Bởi vì Tam Quy là Phật pháp mà, Phật - Pháp - Tăng, từ đó nó mới lưu xuất ra các giới, thế mà không cần thọ Tam Quy mà bây giờ thọ Bồ Tát giới là vẫn như thường, thì ông là một cái vị luật sư - ông Thánh Nghiêm là ổng là vị luật sư, ổng nghiên cứu rất là kỹ lưỡng trong các bộ luật, cho nên ổng xác định.

Đó là một cái điều mà chúng ta phải thấy rằng trong các cái bộ giới luật Bồ Tát giới hay là Bát Giới thì nó đều là ngoài cái Phật - Pháp - Tăng ra nó có những cái giới đó.

Đó là một thứ giới do các tổ chế ra để bít mồm, bít miệng người khác, để phá giới luật của đạo Phật mà chẳng ai dám nói.

Vì thế chúng ta phải biết tất cả giới đều do Tam Quy mà có. Tam Quy là mẹ sanh ra các giới, hay nói khác: Tam Quy là nơi sanh ra các pháp lành.

Còn Bồ Tát giới thì không nơi Tam Quy sanh ra mà nơi các tổ sanh ra, nên gọi là không thọ Tam Quy mà thọ Bồ Tát giới vẫn được.

Đó là một bằng chứng Bồ Tát giới không phải là giới luật của Phật.

Đó, xác định cho rõ những cái vị trí đó chúng ta mới biết là Bồ Tát giới không phải là giới luật của Phật, nó không từ Tam Quy mà ra.

Bởi vì muốn thọ cái nào đi nữa thì nó cũng phải từ Tam Quy, thọ Tam Quy rồi mới thọ Ngũ Giới chớ? Còn cái này chưa thọ Tam Quy thọ Ngũ Giới, thì tức là Ngũ Giới đó ngoài Tam Quy rồi. Cũng như là Bồ Tát giới nó ngoài cái Tam Quy mà nó có, thì tức là của tổ mình đẻ chớ không phải Phật đẻ rồi.

Đó thì chúng ta phải - khi mà nghiên cứu kinh giới vậy, chúng ta mới biết là hồi nào tới giờ nghe mà thọ Bồ Tát giới thì khoái lắm. Trời ơi! Mình chưa có gì hết, vô thọ Bồ Tát giới làm việc từ thiện rồi!

Các thầy biết thọ Bồ Tát giới để làm gì không? Để mình đi đến chùa mình cúng dường cho nhiều quý thầy chớ gì, đặng làm công quả đồ, đặng coi như làm công mà khỏi tốn tiền chớ gì!

Chùa bây giờ sắp sửa xây cất đây, quý Phật tử mà thọ Bồ Tát giới đó phải vô đó mà đẩy đất, phải vô đó mà khiêng gạch, phải vô đó trộn hồ mà làm, đó là được phước lớn á! Không phải là người thọ Bồ Tát giới là phải đi làm vậy không? Có phải không?

Đó là cái điều kiện mà người ta chế ra để mà người ta lợi dụng lấy công sức của người khác, lợi dụng cái mồ hôi nước mắt của người khác mà khỏi tốn tiền, khỏi trả công.

Cho nên có nhiều chùa biết bao nhiêu mà nói công quả, họ cất vĩ đại lắm, như tòa thánh Tây Ninh, biết bao nhiêu công sức của người ta bỏ vô công quả không?

Làm như vậy có lợi ích chớ, Bồ Tát giới của mấy ông mà mấy ông thọ rồi mấy ông không làm, làm sao có lợi ích? Đó là những điều mà người ta đặt ra để người ta lấy công sức của kẻ khác, hoặc là lấy tiền bạc của kẻ khác đóng góp vô.

Bồ Tát giới phải biết bố thí, phải biết cúng dường chớ, đó là cái hẳn nhiên, đó là những cái điều mà đọc lại trong kinh Phạm Võng Bồ Tát giới thì chúng ta thấy cái điều đó rất rõ.

4.4- NỘI DUNG CỦA NGŨ GIỚI - THẬP THIỆN - BÁT QUAN TRAI GIỚI

(01:10:22) Nội dung của Ngũ Giới:

Bây giờ Thầy nói về cái nội dung của Ngũ Giới, nhắc lại đó để chúng ta - ai thì chắc cũng biết rồi, nhưng mà ở đây thì mình phải nói cho nó hết chớ không khéo nói Ngũ Giới không thì ở trong cái lời giảng của Thầy nó không có nói ra Ngũ Giới như thế nào hết, thì tức là chúng ta ngầm biết nhưng mà chúng ta phải nói ra.

Nội dung của Ngũ Giới:

1. Không sát sanh;

2. Không trộm cắp;

3. Không tà dâm;

4. Không vọng ngữ;

5. Không uống rượu.

Nội dung của Thập Thiện:

1. Không sát sanh;

2. Không trộm cắp;

3. Không tà dâm;

4. Không vọng ngữ;

5. Không nói lưỡi hai chiều;

6. Không nói thêu dệt;

7. Không nói lời hung ác;

8. Không tham;

9. Không sân;

10. Không si.

Nội dung của Bát Quan Trai giới:

1. Không sát sanh;

2. Không trộm cắp;

3. Không dâm dục;

Ở đây Bát Quan Trai giới các thầy thấy: Ở trên kia Ngũ Giới thì không tà dâm, mà Bát Quan Trai giới là không dâm dục, nghĩa là cái ngày mà thọ Bát Quan Trai giới mà tâm tư, ý nghĩ mà còn nhớ vợ, nhớ con thì không được.

Đó là - cái vấn đề đó là không dâm dục, hoàn toàn là phải trong sạch đó, nó khác hơn là cái Ngũ Giới rồi. Mà ở - cho nên cái chỗ này là cái chỗ vấn đề quan trọng của cái vai trò mà chúng ta tập để mà chúng ta đi qua cái lộ trình thứ hai của người tu sĩ là cấm đứt dâm đó.

4. Không vọng ngữ;

5. Không uống rượu;

6. Không đeo tràng hoa, hương thơm, không xoa dầu thơm, không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không đến xem;

7. Không ngồi, nằm giường cao rộng lớn;

8. Không ăn phi thời.

Đó là cái Thọ Bát Quan Trai, nó kết hợp như vậy để mà chúng ta tập luyện để bước sang qua một vị Sa Di, một vị đầu tiên của đệ tử xuất gia của Phật, đó là tập luyện cho cái người cư sĩ như vậy.

4.5- BÁT QUAN TRAI LÀ GIỚI TRỪ DÂM DỤC VÀ TIẾT CHẾ ĂN UỐNG

(01:12:29) Về phần Bát Quan Trai có tám điều giới nhưng kỳ thật là chín điều giới trước của Thập Giới Sa Di.

Nghĩa là trong Bát Quan Trai chứ sự thật ra nó là chín cái giới của Sa Di chớ không phải là tám đâu,

Trừ điều thứ mười: Chẳng cất giữ tiền bạc của báu, hoàn toàn đều giống Sa Di giới, chỉ đem hai điều giới sáu và bảy hợp lại của Sa Di giới thành một điều giới thứ sáu.

Chỗ khác biệt nhất giữa Bát Quan Trai giới và Sa Di Thập Giới là chỉ chỗ thọ trì một ngày, một đêm trong sáu ngày trai, chẳng giống như Sa Di giới phải thọ trì suốt đời.

Nghĩa là chỗ khác biệt của Thọ Bát Quan Trai với cái Sa Di thì cái thứ nhất khác biệt là cái giới thứ mười là không cất giữ tiền bạc đó, và hai cái giới nó hợp lại nó thành một cái đó, là chỗ khác biệt của Sa Di giới, còn hoàn toàn thì nó đều giống Sa Di giới hết.

Đó, cho nên cái người mà Thọ Bát Quan Trai thì họ thọ có một ngày à, một ngày một đêm à, còn cái người Sa Di thì thọ trì suốt đời. Rồi cứ tháng nào chúng ta cũng thọ trong một ngày, hai ngày Thọ Bát Quan Trai hay hoặc sáu ngày, tùy theo ngày trai giới đó mà chúng ta thọ.

Cho nên nó có khác hơn là cái người Sa Di, họ thọ suốt đời cái giới của họ, họ không có rời cái giới của họ, còn cái kia thì bữa nay chúng ta tu tập như vậy, luyện tập như vậy, ngày mai chúng ta về cái đời sống nó khác, nó không giống như đời sống của Thọ Bát Quan Trai nữa.

Vì thọ Sa Di giới là người cư sĩ đã bước vào lộ trình thứ hai của đạo Phật

Nghĩa là cái người mà thọ Sa Di giới là cái người cư sĩ đã tu tập thọ Bát Quan Trai giới, đã có cái kết quả, đã có cái hướng đi vào cái lộ trình thứ hai. Người Sa Di giới là cái người đã tập luyện thuần thục ở Thọ Bát Quan Trai, là cái người cư sĩ đã Thọ Bát Quan Trai thuần thục.

Lộ trình này đi đến quả vị giải thoát cao nhất của nó là A La Hán.

Nghĩa là bắt đầu từ cái chú Sa Di này đi đến cái quả vị cao nhất của chú là chú sẽ đạt được quả A La Hán.

Bát Quan Trai giới là phương pháp tập sự của cư sĩ để tiến vào lộ trình thứ hai: vượt sanh, thoát tử.

Bộ phận chủ yếu của sinh tử là ở tại hai nguồn gốc đại họa là dâm dục và ăn uống.

Đó bây giờ Thầy xác định cho quý thầy thấy có ăn uống mới có dâm dục, không ăn uống chừng một ngày, hai ngày mấy người đói mệt lả, mấy người đòi dâm dục được không? Khỉ họ, làm sao mà dâm dục được! Cái thân nó đi hết muốn nổi, nó mệt thở cầm canh rồi làm sao? Chỉ có ăn nuốt vô cho nó mập ra đó thì nó mới sanh thôi chớ!

(01:15:20) Cho nên dâm dục với ăn uống nó là hai cái thằng nó kết hợp với nhau nó hại cái đời của quý vị trôi lăn ở trong sanh tử luân hồi đó. Cho nên ở đây người ta cứ nói Thầy dạy cứ ăn, uống không à, không có dạy gì hết!

Sắc dục, ẩm thực là nguyên nhân căn bản khiến chúng sanh thành chúng sanh.

Đó quý thầy thấy: Chúng ta thành chúng sanh mãi mãi là do cái ăn với cái sắc dục chớ không có gì hết. Ẩm thực thì nó bổ túc cho sắc dục, ăn nhiều thì nó sanh sắc dục nhiều, mà ăn ít thì sắc dục ít chớ không có gì.

Ăn uống là trợ duyên tăng thượng của sanh tử, dâm dục là nguyên nhân căn bản của sanh tử.

Đó. Ăn uống thì chúng ta nó trợ duyên cho cái sự dâm dục chớ gì, cho nên trợ duyên cho sanh tử, dâm dục là nguyên nhân căn bản của sanh tử.

Cho nên khi mà chúng ta đã hiểu biết được vậy, chúng ta nhìn thấy cái ăn uống là chúng ta quá quê nó rồi, rồi chúng ta thấy cái sự dâm dục mà nó đòi hỏi dâm dục là chúng ta thấy nó cũng sợ hãi rồi, cho nên thấy phụ nữ cũng như là thấy rắn vậy, thấy cọp vậy.

Còn quý thầy thấy phụ nữ mà cứ ngó hoài mà rớt con mắt mà không hay, thì cái điều đó là cái điều tai hại lớn, tu theo đạo Phật mà kiểu đó mà đi ra đường thì thấy xe đụng có ngày cũng chết!

Tất cả chúng sanh đều do chẳng đoạn dâm dục vì thế chẳng lìa sanh tử. Tất cả chúng sanh đều do tham luyến các khoái lạc dâm dục thành trợ duyên cho sự sanh tử, con cháu sau này khổ đau…​

Đó, đẻ ra con cháu đứa nào khỏi khổ đâu?

…​ tự thân cũng bị sợi dây sanh tử trói buộc.

Chúng sanh có dâm dục là bẩm sinh.

Cha mẹ sanh ra là có dâm dục rồi, nhưng mà đã biết nó là con đường sanh tử thì chừa nó đi! Nghe nói bẩm sanh dâm dục thì mê miết theo à, càng ngày càng khuếch trương, càng tăng trưởng cho lớn ra nữa, một vợ không đủ, ba bốn vợ còn thêm nữa, thì đó là những cái sai. Tăng trưởng cho dữ, thành ra khổ nhiều.

Sự giao tiếp hai tánh nam nữ hình thành sự dâm dục phải sau khi được no ấm.

Nghĩa là cái sự giao tiếp giữa hai cái tánh dâm dục là no ấm mới sanh ra, còn nếu mà đói khát thì làm sao sanh ra được?

No ấm thuộc về ăn mặc, ăn so với mặc còn trọng yếu hơn.

Bởi vì cái ăn có thể mình no được, còn cái mặc coi vậy chớ ở trần riết nó cũng quen rồi, lạnh lạnh chớ nó không thấy lạnh đâu. Còn mấy người mà cứ hở hở ra cứ mặc áo ấm thì nó cũng quen rồi, hể nghe hơi lạnh lạnh là đóng áo ấm vô, thì đó là nó ăn với mặc rồi. Còn như vậy cái người mà người ta ở trần hoài, mấy ông nông dân họ trùng trục à, mà họ không thấy lạnh tức là họ quen da với lạnh rồi, cho nên họ không cần mặc áo ấm.

Mình không mặc thì nó cũng không chết, có mặc mà không có ăn thì phải chết

Nghĩa là bây giờ nó lạnh vậy chớ nó không chết đâu, nhưng mà nó có thể nói rằng nó lạnh quá thì nó sanh bệnh của mình rồi nó cũng chết, nhưng mà nói rằng không có mặc thì nó không chết liền đâu, nhưng mà không có ăn thì phải chết liền.

(01:18:12) Vì thế dâm là căn bản của sanh tử, ăn là trợ duyên sanh tử. Nếu vượt ra ngoài dâm dục và ăn uống là liễu sanh thoát tử.

Nghĩa là mình vượt ra được cái ăn uống và cái dâm dục, cho nên các thầy thấy: Khi mà mình tịnh chỉ hơi thở nè, các hành ngưng nè, lúc bấy giờ mình ngồi bảy, tám ngày có ăn uống không? Thì mình - tức là mình vượt ra ăn uống rồi thì còn gì dâm dục nữa, dâm gì nổi? Ngồi như gộc cây mà còn gì dâm!

Cho nên đó là những cái mà mình đã thấy được cái sự làm chủ của mình rồi, cho nên liễu sanh thoát tử ngay chỗ đó chớ còn chỗ nào nữa mà gọi là liễu sanh thoát tử?

Trong tam giới, cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng của Vô Sắc Giới không còn có niệm dâm…​

Nghĩa là trong cái cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thì nó không có cảnh dâm.

…​ nhưng cũng chẳng lìa tưởng thực.

Nghĩa là lúc bấy giờ mấy ổng cũng còn khoái ăn à, cái ăn này coi bộ độc hơn! Thầy nói dâm dục mà người ta tu tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ người ta lìa được dâm dục mà cái ăn lìa không nổi! Phải không, các con thấy không? Mà nhập Tứ Thiền là chúng ta lìa cái ăn được, không thèm ăn nữa.

Đó là các con thấy cái chỗ mà Đức Phật dạy chúng ta rất rõ ràng để mà chúng ta thấy được cái chỗ làm chủ của mình. Dù là cõi trời nào chớ cũng cũng khoái ăn à, họ không khoái dục chớ họ khoái ăn, cho nên họ gọi là vô sắc dục mà, họ không có dục nữa, vô sắc, vô dục.

…​ nhưng cũng chẳng lìa tưởng thực, do thế vẫn không ra khỏi sanh tử.

Còn ăn đó là còn sanh tử đó! Cho nên cái người mà nhập Tứ Thiền rồi, nó tịnh chỉ hết, nó làm cho không còn đói khát nữa, từ đó nó hết ăn rồi, cho nên nó lìa sanh tử rồi. Còn cái người mà chưa nhập Tứ Thiền, Tam Thiền cũng còn một ít đó thì chắc chắn là còn sanh tử.

Vì vượt qua sanh tử nên giới không dâm là ức chế dâm dục, nó phải thọ trai giới rất là kỹ lưỡng.

Đối với dâm - thì chúng ta muốn vượt qua sanh tử thì đối với dâm là chúng ta phải cố gắng mà vượt qua.

Sinh hoạt lộ trình xuất gia, xuất thế bắt đầu thực hiện từ giới dâm và trì trai.

Đó bắt đầu qua cái giới bổn thì các thầy thấy giới dâm là đầu tiên. Thầy đã giảng rồi đó, giảng cái giới bổn mà khi mà bước qua Thầy có giảng nói về giới dâm rồi đó.

Đó là bắt đầu cái con đường mà thực hiện để làm chủ sanh tử, để chấm dứt cái sự luân hồi thì ngay đó là cái giới dâm đầu tiên nó trước, chớ đâu có nói giới sát. Sa Di thì nói sát, mà các vị mà thọ cụ túc giới, thọ 250 giới đó, các vị Tỳ Kheo, thì cái giới dâm là làm đầu.

Dâm dục do ăn uống đầy đủ mới nổi dậy.

Đó, ở đây Thầy xác định cái điều đó quá rõ ràng cụ thể mà.

Chính vì thế trì trai là giới điều thứ tám: Không ăn uống phi thời.

Mà không ăn uống phi thời mà Phật còn dạy chúng ta ăn ít ít thôi chớ đừng ăn nhiều, ăn nhiều nó cũng sanh ra nữa, mình sợ nó đói rồi mình ăn cho lung mà không ngờ là nó sanh dục.

(01:21:15) Bây giờ quý thầy mới thấy ăn ngày một bữa rất là quan trọng cho con đường tu hành theo đạo Phật.

Đó bây giờ quý thầy thấy, bây giờ dạy tới chỗ này quý thầy thấy cái sự ăn một bữa rất là quan trọng cho sự tu tập của chúng ta. Mà người ta không thấy quan trọng cho nên người ta thấy ăn ngày ba bữa hay hoặc thế này thế khác, cho nên tu sĩ mình bây giờ có ai mà chịu ăn một bữa không?

Họ đâu có thấy nó quan trọng! Họ đâu có muốn liễu sanh thoát tử! Họ muốn nó sanh tử luôn luôn ở trong này, cho nên chúng ta cứ làm Bồ Tát hạnh, cứ luôn luôn sanh tử trong này đi, để làm thầy dạy người ta hoài không phải khỏe hơn không?

Đời nào mình cũng làm ông lớn hết, không phải sướng sao! Nhưng mà chắc được không? Điều đó thì còn để nhân quả nó trả lời cho quý thầy.

Nghe sự giải thích Bát Quan Trai giới như thế này, quý vị sẽ không hài lòng vì tám giới mà chỉ có giải thích hai giới: dâm và ăn.

Ở đây quý thầy thấy Bát Quan Trai giới mà Thầy giải thích có hai giới đó mà nói nhiều quá nhiều, còn bao nhiêu thì không giải thích, thì quý thầy thấy Thầy dạy như vậy là thiếu khuyết quá nhiều.

Ở đây quý thầy phải hiểu: Mục đích thọ Bát Quan Trai giới là bắt đầu sự tu tập chấm dứt sanh tử luân hồi cho nên hai giới này rất quan trọng, vì thế phải giải thích cho rõ ràng.

Năm giới đầu của Bát Quan Trai bất đồng với Ngũ Giới là ở chỗ giới không tà dâm và giới không dâm.

Đó là chỗ phân biệt, chúng ta thấy Ngũ Giới nó khác với Bát Quan Trai giới là chỗ: Cái kia là không tà dâm nhưng mà còn dâm được, dâm với vợ chớ không có thể dâm loạn với người khác được. Đó, còn ở đây hoàn toàn là bước qua trai giới rồi thì người cư sĩ này không còn dâm. Đó là chỗ sai khác của hai cái giới này.

Giới thứ sáu và giới thứ bảy là những giới hành gián tiếp đến dâm.

Tại sao mà nói nó là - những cái giới thứ sáu, thứ bảy nó là gián tiếp đến dâm? Để chúng ta sẽ thấy:

Những hành động đó đều là môi giới phóng túng dâm dục, cho nên phải biết…​

Bây giờ mình trang sức là làm gì? Thoa son, đánh phấn đồ này kia, chải tóc đồ cho đẹp thì không phải gợi lên người ta dâm sao? Đó không phải là cái đó là nó - nó là cái gián tiếp để gợi ra cái dâm dục của người ta sao?

Cho nên ông thầy mà đi ra còn vuốt vuốt cái đầu mình coi cạo có còn có cọng tóc nào nó sót không á, thì cũng đều là sửa soạn cho cái hình thức của mình. Mặc dù cái đầu cạo trọc có đẹp đẽ gì đâu, mà vẫn sợ nó còn ló ló mấy cọng tóc dài dài ra người ta coi nó xấu đi!

Đó cũng là hình thức để mà giao tiếp trên cái sự môi giới của dâm chớ không phải gì, sợ mấy cô kia coi đầu ông thầy này trọc mà coi nó chưa sạch, nó lam nham như cóc gặm đó.

Cho nên những cái hình ảnh mà chúng ta soi gương này kia, điều đó là còn trong cái hình ảnh của những cái giới mà có thể nói rằng nó tạo ra cái gián tiếp của dâm. Muốn làm đẹp đó! Đó là những cái hẳn nhiên rồi. Vì vậy mà:

Những hành động đó đều là môi giới, phóng túng dâm dục, cho nên phải biết: Các điều giới vẫn thuộc về phạm vi dâm.

Nghĩa là các cái giới đó đều là phạm vi dâm hết. Ca hát, cất giọng lên ca hát để làm cho mấy cô nghe khoái chơi. Ông thầy tụng cất giọng lên xướng cái gì đó, trời ơi mấy cô khóc ngất hết! Tới chừng ông thầy về cái nhớ cái tiếng ông thầy tụng bữa đó, mấy cô nhớ mãi muôn đời, thì ông thầy khoái lắm chớ có gì đâu.

Đó là cái kiểu ca hát, Thầy nói đây ca hát ở trong mấy ông thầy mà tụng đám đó, ông thầy nào mà có tiếng ca giọng lên một cái là Thầy nói mấy cô rơi nước mắt hết! Kêu là cái gì mà sanh…​Thầy quên rồi! Mình không làm thầy đám mình không biết!

(01:24:56) Không phải, sám thì cũng có, nhưng mà cái Thiết Minh Sanh - à mấy ông thầy Thiết Minh Sanh, trời ơi! Nói lên cái, cất giọng lên một cái là mấy bà rơi nước mắt hết. Cái gì, kêu cái gì, ông cha, mồ tổ gì đó cho nó dậy đó mà không làm sao người ta động tâm, động ý được, mà cái giọng của mấy ông lại hay nữa!

Đó là những cái điều kiện, mà như vậy thì quý thầy thấy rõ ràng là mấy ông thầy tụng kinh sám đồ hay, mấy ông tụng thu băng để làm gì? Đó là hình thức giao tiếp của cái sự mà - với cái dâm chớ gì, làm cho mấy cô cảm động được cái lời tụng kinh của mấy ổng!

“Ông thầy tụng kinh hay quá, bữa nào mình ra cái chùa đó để xem coi mặt ổng làm sao!” Thấy đẹp cái rồi thôi dính à chớ không có…​ Vậy là làm sao tu hành được? Các thầy thấy!

Trong vấn đề đó, từ cái chỗ mà mình đem cái âm thanh có giọng cao, giọng thấp, giọng bổng trầm của mình để tụng kinh để gây cái quyến rũ người ta, thì tức là ngay đó là người ta đã biết cái tâm dâm mình nó hết chưa? Chưa hết!

Ở đây giới luật quá chỉ rõ mà để chúng ta thấy được cái bộ mặt dâm của nó ở chỗ nào mà chớ đâu phải là giấu được chúng ta được đâu! Thấy cái hành động là biết được cái tâm dâm nó ở mức độ nào.

Bởi vậy quý thầy phải hiểu: Bát Quan Trai giới là giới trừ dâm dục và tiết chế ăn uống.

Bát Quan Trai giới là một giới hạnh trong Tam Quy mà ra. Ở đây người cư sĩ chỉ sống có một ngày một đêm, còn người tu sĩ thì phải hằng sống, lấy đó làm cuộc sống hàng ngày của mình.

Đời sống của người xuất gia mặc y hoại sắc, cho nên người tại gia cư sĩ khi Thọ Bát Quan Trai thì cũng phải ăn mặc thô xấu…​

Chớ không phải là cái ngày đó mà vô trong chùa đó Thọ Bát Quan Trai thì hầu hết mấy cô thoa son đánh phấn. Trời đất! Thọ Bát Quan Trai cái kiểu đó đó thì Thầy nói thôi hết rồi!

Đã là gợi những cái - đây là tám cái giới để mà diệt cái tâm dâm của chúng ta, để mà hoàn toàn chúng ta sống trong một ngày, một đêm, để mà thực hiện được những cái con đường sinh tử.

Thế mà đi vô Thọ Bát Quan Trai, hầu hết là Thầy thấy mấy bà cũng đi Thọ Bát Quan Trai: son phấn lòe loẹt, mặc áo thiếu điều muốn bành ngực ra đó cho người ta xem! Cũng là Thọ Bát Quan Trai!

(01:27:08) Lẽ ra thì chúng ta phải mặc đồ thô, đồ xấu, những cái quần áo rách ở nhà mà nhét lỗ cống đó, lấy ra mà mặc đi Thọ Bát Quan Trai thì mới đúng cái nghĩa.

Ông Phật ngày xưa ổng còn lượm vải thây ma ở ngoài đồng, ổng kết lại thành một cái y ổng vấn, mà ông Ca Diếp là ông đắc cái y đó lắm, cho nên khi Đức Phật được cái người khác cúng dường là ổng quỳ xuống ông xin Đức Phật cho ổng cái y đó tức khắc liền, ổng sẽ luôn luôn mà mặc mãi trong đời ổng.

Thì Thọ Bát Quan Trai là cái hình ảnh phá cái dâm dục, phá cái con đường sinh tử, thì cái hình ảnh mà mặc y tốt đẹp là cái hình ảnh gì? Là cái môi giới dâm dục chớ gì!

Đó thì hôm nay Thầy dạy hết cho quý thầy thấy biết được từng cái chi tiết tâm lý của con người nó như thế nào.

Cho nên cái bản chất cái người nữ là bản chất dâm dục chớ gì, cho nên sanh ra là họ sửa soạn rồi. Còn mấy cậu con trai mà hay rọi kiếng coi mặt, coi mày, coi nặn mụn đồ đó, thì cũng là cái hình ảnh dâm dục chứ gì? Chớ còn không dâm dục thì ai làm đẹp làm gì!

Do chạy theo cái kiểu dâm dục đó mà nó thực hiện qua cái sự trang điểm mặt mày, quần áo, đi thì ngó tới, ngó lui coi áo quần mình nó nề nếp - có nếp không, có ly thẳng không, nhăn nheo sợ chúng nói: “Cái thằng này nó bù xù như cái thằng khùng, cái thằng bờm thì ai mà thương được!”

Đó, thì cái đó là cái hình thức mà chúng ta tạo ra những cái cảnh giới để mà dâm dục.

Đời sống của người xuất gia mặc y hoại sắc, cho nên người tại gia cư sĩ khi Thọ Bát Quan Trai đều nên mặc y phục mộc mạc, thô, không trang điểm như giới thứ sáu và thứ bảy đã dạy. Đó là hạnh sống giải thoát của người cư sĩ, của người tu sĩ đạo Phật.

Trong thời Đức Phật còn tại thế, có một bà quyền uy, có tiền của, địa vị lớn lao trong xã hội, bà tên là Tỳ Xá Khư Mẫu. Có một lần bà đi đến bái kiến Đức Phật. Khi đến gần cửa tịnh Xá Kỳ Viên bà mới nhớ ra những đồ trang sức trên thân đều là những vòng hoa anh lạc chiếu sáng ngời.

Bà biết rằng đi bái kiến Đức Phật như thế này không nên, nhưng trở về nhà thì đường xa mà cởi đồ trang sức thì bất tiện.

Cho nên trở về nhà thì nó xa quá, đi đến cửa cái tịnh Xá Kỳ Viên rồi, mà bây giờ bà trở về nhà bà cũng như đây mình ra chợ Trảng Bàng vậy đó, thì bà thấy nó xa quá. Mà bây giờ làm sao đây? Đeo đồ này mình quên - hồi đi đó mình quên bỏ ở nhà hết đi, lỡ đeo rồi bây giờ làm sao đây?

Bà làm sao, để bà cư xử như thế nào để bà mới diện kiến Đức Phật được chớ bà đeo như thế này vô ông Phật ông quở một cái là từ đây về sau chắc bà không dám thấy mặt ông Phật nữa! Đó, thì như thế này:

(01:30:01) Nhưng trở về nhà cởi đồ trang sức thì bất tiện, do thế bà tùy tiện cởi vòng hoa anh lạc bỏ dưới gốc cây trong tịnh xá, mộc mạc, không trang sức đi bái kiến Đức Phật.

Đó. Thì như vậy là trong khi bà bỏ đó rồi, bà lại - khi mà về bà lại quên đi, bà đi về luôn. Bà phải bà lại gốc cây bà lấy ra thì cũng được, bà quên đi. Cái câu chuyện đó nó rõ ràng lắm, bà quên đi. Rồi do đó đó, thì cái ông A Nan ổng thấy, ổng lượm, ổng đem vô giao Đức Phật.

Thì trong khi đó đó, thì bà trở về, bà trở lại tịnh xá, bà sai cái người đầy tớ của bà trở lại, để lại gốc cây đó lượm mà không thấy. Cho nên ông A Nan biết được, cho nên vì vậy ông A Nan nói với Phật đem trả cái đó.

Thì bà mới đem cái đó bà cúng dường cho Đức Phật để xây dựng thêm những cái gì cho chư tăng, bà không có nhận cái đó trở về, coi như đây là cái của mà cúng dường luôn.

Đó thì các con thấy trong cái khi đó, người ta đến với Đức Phật là người ta phải có một cái sự như vậy, mộc mạc như vậy, đồ trang sức người ta dẹp hết người ta mới dám đến mà gặp Phật.

Còn bây giờ thì hầu hết là họ đến gần như họ - Phật tử các con thấy - họ đến đây họ nghe Thầy thuyết pháp làm sao? Trời đất ơi Thầy nói, thôi khỏi nói rồi! Thầy không còn nói chỗ nào nữa hết!

Mà Thầy đến đi các cái chỗ khác cũng vậy, nhất là phụ nữ, nam thì nó ít hơn chút, phụ nữ thì quá tệ. Thầy nói thiệt, các con khỏi nói. Mặc quần áo Thầy thấy cũng hết chỗ chê, còn mà sửa sang thì cũng không có chỗ nào mà nói được hết. Đó là đi yết kiến những cái bậc tu hành mà như vậy.

Cho nên thường thường là mấy cô mà đến mà ngồi nghe một hơi là Thầy nẹt. Thầy nẹt liền: Đến cái chỗ này không phải là chỗ thoa son đánh phấn đâu, không phải là chỗ dạ hội đâu, không phải là cái chỗ đám cưới đâu, ở đây là cái chỗ nghe Phật pháp tu hành, xả ba cái thứ đó xuống đi, dẹp ba cái thứ đó đi, đi ra rửa mặt đi!

HẾT BĂNG

28 - HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG XUẤT GIA

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 28 - HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG XUẤT GIA

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- XUẤT GIA LÀ TỪ BỎ CUỘC SỐNG THẾ TỤC

(00:00) Đến đây là chúng ta đã hoàn chỉnh lộ trình thứ nhất trong giới luật của đạo Phật, hay nói khác là chúng ta đã tu tập đúng cách thiện pháp của đạo Phật.

Đến đây là lộ trình thứ hai của người xuất gia.

Nghĩa là cái lộ trình thứ nhất là chúng ta hoàn chỉnh rồi đó, cái giới luật lộ trình thứ nhất chúng ta đã hoàn chỉnh. Bây giờ cái lộ trình thứ hai là lộ trình xuất gia.

Xuất gia là - cái mục đích là chúng ta đi tìm con đường giải thoát, nghĩa là phải lìa cái cuộc đời chớ không có phải là xuất gia với cái danh từ suông đâu. Hầu hết là bây giờ chúng ta xuất gia với danh từ suông đó, cho nên không có lìa cái sự giải thoát.

Xuất gia là gì?

Xuất gia là ra khỏi nhà. “Xuất” là ra khỏi, “gia” là nhà, của cải, tài sản, anh em, chị em, vợ chồng, con cái, cha mẹ…​

Nghĩa là giải thích hai cái chữ xuất gia để chúng ta thấy rõ, chữ “xuất” là ra khỏi, chữ “gia” là nhà, của cải, tài sản, anh em, chị em, vợ chồng, con cái, cha mẹ…​

Xuất gia nghĩa là từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, sống không gia đình, không nhà cửa, chỉ còn ba y một bát mới gọi là xuất gia.

Chớ không phải xuất gia theo kiểu mình bây giờ đó, như Thầy bây giờ cũng chưa chắc gọi là xuất gia. Cái chùa gì mà dữ tợn như thế này mà còn cái gì mà xuất gia? Xuất gia là bỏ hết không có cái chùa cái gì hết mới được xuất gia chớ! Thầy còn có được cái Tu viện Chơn Như, Thầy làm sao mà gọi là xuất gia, còn cái nhà rõ ràng mà.

Rồi còn cái này, cái kia, cái nọ. Bây giờ ai dám nói cái này là của quý vị đâu? Có ai dám lại lấy mấy cái máy này mà của họ - Phật tử đem đến cho Thầy mượn, mấy vị dám lấy xài không?

Chỉ có Thầy dám xài thôi, họ giao cho Thầy, Thầy dám xài, chứ quý vị dám xài không? Có ai mà dám rinh cái máy Thầy đem lại thất chơi không? Thì như vậy đâu phải của quý thầy phải không? Mà Thầy dám đem chỗ này chỗ kia được thì tức là của Thầy chớ còn của ai!

Nói bằng cách của Phật tử, chớ thật sự là mình sử dụng là của mình rồi, như vậy là Thầy có phải là xuất gia không? Chưa! Chưa xuất gia đâu, còn dính mắc cả đống nè, bàn ghế nè, tủ bàn nè, ông Phật còn ngồi trên bàn, của Thầy hết chứ của ai vô đó!

Như vậy là Thầy cũng chưa phải là hạng xuất gia đâu. Chừng nào mà Thầy ba y một bát mà ẩn bóng chỗ này, nay chỗ này, mai chỗ kia mới gọi là Thầy là chân thật xuất gia đó. Cho nên cái hình ảnh đó là cái hình ảnh Thầy sắp sửa bước đi để cho mình thực hiện là cái người xuất gia!

Chớ đừng có nói xuất gia mà nghe cái kiểu mà danh từ nó thì không có đúng đâu. Đó thì cho nó đúng cái chỗ mà chúng ta còn ba y một bát nó mới gọi là xuất gia.

Khi từ bỏ như vậy mà đi lang thang không biết pháp tu hành từ bắt đầu cho đến viên mãn thì cũng uổng phí một đời.

Nghĩa là mình nói mình xuất gia, mình bỏ hết, mình bỏ hết dòng họ, bà con, mình đi lang thang đầu đường, xó chợ, đi từ chỗ này đến chỗ khác, thì thầy thử hỏi coi cái sự xuất gia đó nó có nghĩa lý gì không? Đâu có nghĩa lý gì!

2- BƯỚC CHÂN VÀO ĐẠO PHẢI CHỌN BẬC THẦY CÓ GIỚI HẠNH

(02:53) Trước khi nghe băng Thầy giảng ở trong cái buổi sáng hôm qua thì các con nghe Thầy nói một vài vấn đề rất là quan trọng trong cái sự tu hành của đạo Phật.

Bởi vì cái quan trọng của đạo Phật là vốn chúng ta khi bước chân vào đạo Phật thì chúng ta phải chọn cái bậc thầy của mình, mà cái bậc thầy của mình là cái bậc có giới hạnh.

Mà cái giới hạnh của cái người mà đầu tiên bước vào cái con đường tu tập của đạo Phật đó là thọ Thập Giới Sa Di. Chắc quý thầy ai cũng biết thọ Thập Giới Sa Di hết chớ? Cho nên cái hình ảnh một vị tăng mà ăn ngày một bữa là trong cái Thập Giới Sa Di nó đã có rồi.

Mà hiện bây giờ đó thì hầu hết là quý vị mà theo tu hành theo đạo Phật đó, thì cứ nhắm cái chùa nào mà có Phật tử đông theo quy y chớ không nhắm cái ông thầy, xem coi ông thầy mình cái đức hạnh về cái ăn với cái ngủ coi ổng có xứng đáng chưa?

Rồi về cách sống của ổng như nhà cửa, chùa chiền của ổng có sống đúng không? Bởi vì năm cái giới của người Sa Di mà cái giới hạnh đó thì không có nằm ở trên giường cao rộng lớn, rồi không có ở trong những nhà cao rộng lớn nữa, rồi tất cả đồ đạc nó cũng không có nữa.

Đó là cái hạnh của cái người Sa Di chớ chưa phải là người Tỳ Kheo đâu. Thế mà họ là bậc Thầy của chúng ta là họ là bậc Tỳ Kheo rồi, thế mà họ không sống đúng cái hạnh của người Sa Di - thì đó là mười cái giới đầu tiên cho cái nẻo, cái lộ trình mà cái người xuất gia bắt đầu.

(04:25) Nghĩa là Thầy dạy cho các con: Khi mà chúng ta thọ Tam Quy, thọ ba cái giới đầu tiên là Phật - Pháp - Tăng đó, là của người cư sĩ chớ không phải là người tu sĩ thọ cái đó đâu.

Rồi thọ Ngũ Giới thì cũng người cư sĩ chớ không phải người tu sĩ đâu, phải không? Ai cũng thấy điều kiện chuyện đó hết. Rồi tới thọ Thập Thiện - mười cái điều lành - thì cũng là người cư sĩ chớ đâu phải là người tu sĩ đâu.

Đó, do vì vậy mà chúng ta thấy từ cái bước đầu, cái lộ trình thứ nhất mà Thầy đã vạch ra trong cái giáo án này thì các con đã thấy rõ là cái người cư sĩ phải ở trong cái giới pháp nào của đạo Phật.

Mà thấy cái đầu tiên mà vô mà thấy cái người cư sĩ nói là tín đồ của đạo Phật mà còn bán phở, bán cháo lòng hay hoặc bán bánh canh thì quý vị có nghĩ đó là người cư sĩ của đạo Phật không?

Bởi vì Phật đã cấm sáu cái nghề không được làm mà, phải không? Nếu mà chấp nhận là cư sĩ, là đệ tử của Phật thì sáu cái nghề đó không được làm! Nghề bán thịt sống có không? Nghề săn bắn, nghề chài lưới có không?

Mà bây giờ cái ông chài lưới ổng cũng xưng ổng là Phật tử, rồi cái ông bán thịt ở ngoài chợ, bán thịt mà cắt ký, ký bán cho người ta, ổng cũng xưng ổng là Phật tử nữa, ổng cũng tu hành theo Phật được, cũng là cư sĩ nữa. Rồi cái người mà bán phở, cháo lòng ngoài chợ họ cũng xưng họ là đệ tử cư sĩ nữa, thì cái đó có đúng không?

Rồi bây giờ bắt đầu qua cái nẻo thứ hai, thì chúng ta thấy cái lộ trình của người tu sĩ thì nó là Thập Giới Sa Di là bắt đầu, phải không?

Thì chúng ta muốn mà được trở thành vị tu sĩ thì ít ra chúng ta cũng phải thọ Tam Quy nè, rồi Ngũ Giới nè, rồi Thập Thiện nè, rồi bây giờ mới bắt đầu qua là thọ Thập Giới Sa Di chớ, thì như vậy là cái hành động sống của chúng ta nó sống có giống người thế gian nữa không? Nội Thập Giới Sa Di không chúng ta đã thấy rồi.

Vậy mà chúng ta nhắm mắt, đui mù không thấy bậc thầy của mình là người nào hết, chỉ thấy cái bộ áo bệ vệ của ông ta, đắp y đồ dữ tợn, đội mão từ lư, hay mang hia như vua chúa thì coi như là thầy mình rồi, phải không?

Tập trung năm, mười ông ngồi hàng hàng vầy, bắt đầu tổ giới đàn ra cái bắt đầu cho mình thọ Sa Di chớ gì, thọ Tỳ Kheo chớ gì? Mê lắm! Làm được như mấy ông đó cũng đội mão từ lư đồ lên làm vậy là ngon rồi chớ gì?

(06:41) Nhưng mà không ngờ là cái hành động của ông ta có phải đúng là những bậc chân nhân không? Đâu có phải bậc chân nhân, đâu phải bậc thánh! Ăn uống như phàm phu, ngày ba, bốn bữa, mà còn dối trá che đậy nữa.

Dối trá che đậy làm sao? Các thầy thấy, sáng họ lại còn bày đặt nói “tiểu thực”! Ăn thì ăn chớ còn tiểu thực! Tiểu cái gì? Ăn cũng nuốt đầy bụng chớ Thầy có thấy ông nào mà nuốt nữa bụng bao giờ đâu mà gọi là tiểu, tiểu với đại, phải không?

Chiều thì ông nào cũng quất một tô bột bây lớn vầy, cái bụng nó phình ra như cái trống chầu mà hô là uống bột chớ không có ăn! Có không? Thầy nói đụng chạm hết cả đám hết, nhưng mà sự thật phải nói để thấy biết.

Một người Sa Di, Phật nói ăn một bữa ăn còn không có ăn nhiều. Bởi vì ăn là nó giúp cho chúng ta sanh ra cái dục, mà cái dục tức là con đường sanh tử, mà đạo Phật là chấm dứt con đường sanh tử.

Chúng ta phải biết ăn ít nó mới sanh ít dục, còn ăn nhiều nó sanh dục, mà ăn một bữa người ta còn không dám ăn nhiều. Còn mấy ông ăn ba bữa mấy ông còn bày đặt che đậy người ta, nói: “Sáng tui tiểu thực chớ tui đâu có ăn đầy bụng!” Mà thấy ông nào cũng quất no hết chớ ông nào mà…​

Bởi vì Thầy cũng ăn tiểu thực chớ, Thầy biết cũng no cành hông chớ, đi hết muốn nổi, làm sao Thầy không biết! Thầy đã từng sống mà Thầy không biết sao?

Chiều uống chừng một chén bột vầy không uống đâu, quất một tô vầy nó mới vừa, có không? Ít ít thì đâu chịu. Còn thêm đường, thêm sữa đồ ở trỏng nữa cho nó bổ. Trong vòng ba tháng hạ thôi, ông nào thôi thấy đi cũng hết muốn nổi! Còn hồi ở chùa mình thì thôi muốn ốm tong ốm teo, có không?

Bởi vậy, chọn cái ông thầy như vậy, cho nên ở đây có một cái bài kinh - sau này thì đây là những cái bài mà Thầy sẽ giảng ở trong cái giới hành, nó thuộc về giới hành rồi.

Nhưng mà bây giờ chúng ta chưa học giới bổn xong. Bởi vì mới - bây giờ là bắt đầu chúng ta mới học Tam Quy, Ngũ Giới chưa rồi mà làm sao học tới giới bổn được phải không? Cho nên khi mà tới giới bổn xong rồi thì mới tới giới hành.

Nhưng mà ở đây Thầy cũng nhắc nhở cho các con thấy rằng, trong cái con đường tu hành của đạo Phật, cái gì chúng ta cũng phải có con mắt rõ ràng là chọn những bậc thánh, những bậc chân nhân là thầy của mình chớ, đâu có đụng ai cũng làm thầy mình được!

Làm thầy của mình, ông thầy có vợ con, mình sống riết với ổng rồi cũng có vợ con à. Ông thầy của mình đó họ sống bừa bãi như thế nào đó, riết rồi mình cũng vậy thôi.

Bởi vì cái đó là cái ảnh hưởng xấu, mà mình không thấy được rồi mình cứ nói: “Ổng tu vậy mà ổng còn vậy, mình sao? Thôi mình cũng vậy được rồi!” Hay là hoặc mình khá khá hơn ổng chút cũng ngon rồi. Không ngờ là dẫn nhau cả đám đi tầm bậy hết à!

(09:09) Cho nên vì vậy đó, tất cả những cái này là cái khó. Các con cứ nhìn thấy đi, Phật giáo Campuchia chớ gì, Phật giáo Nam Tông chớ gì? Người ta nói Phật giáo là quốc giáo của các nước đó chớ gì? Có đúng không, các con thấy: Ăn thịt đống đống mà quốc giáo! Đem mà chôn sống mấy ông sư đó hết chứ quốc giáo! Phải không? Các con thấy không?

Thầy muốn nói như thế nào: Đạo Phật là đạo thiện, mà tại sao quốc giáo - mỗi người dân của nước đó khi lớn lên phải được vào học ba năm tu ở trong cái chùa, có phải không? Thanh niên là phải đi học hết, đi vô tu hết, thậm chí ông vua cũng phải vô tu nữa. Thế mà các con thấy họ diệt chủng như thế nào? Campuchia diệt chủng như thế nào?

Cái người mà tu theo đạo Phật con kiến còn không dám giết mà bây giờ con người của nó, dân tộc của nó, nó giết cả đống như vậy thử hỏi là nó tu theo Phật cái gì đó? Phật của nó là gì, ác quỷ hay là cái gì? Phải không? Rồi nó giết đồng bào Việt Nam của mình nó thả trôi sông Cửu Long nè, trôi bồng bềnh ở dưới sông Tiền Giang, Hậu Giang nè, có không?

Thầy có một ông bác cũng ở gần biên giới Cao Miên, nói chung là ở trong đất Miên chớ không phải ở biên giới gì hết, ở trong đất Miên á. Tới chừng nó “cáp duồn” chạy không còn xách một cái gì theo được hết. Mà con cái đồ chạy không khỏi nó chặt chết hết, chạy có một mình ra khỏi cái đó.

Đó thì các con thấy. Mà người ta nói người ta quốc giáo, được những cái chùa như là Đế Thiên, Đế Thích, những cái chùa mà ở trên Campuchia chúng ta thấy vĩ đại, biết bao nhiêu là mồ hôi, nước mắt tiền bạc của dân tộc đó đổ vào để xây dựng những cái ngôi chùa vĩ đại như vậy. Quốc giáo mà, cái chùa lớn lắm mà, phải không? Các con thấy không?

Nhưng mà cái đạo đức họ có không? Họ giết người không gớm tay, chính họ diệt chủng họ, họ giết dân họ. Nếu không có quân đội Việt Nam lên trên đó can dự vào, thì chắc chắn là ba cái ông cộng sản đỏ đó chặt hết không còn cái gì! Phải không? Các con thấy không? Còn cái gì không?

Vậy mà - đó thì chúng ta thấy cái chỗ mà nó ăn thịt chúng sanh đó, nó phải hung dữ chớ! Còn Phật giáo của mình đó, Đại Thừa chớ, coi vậy chớ ăn rau cải nó cũng hiền. Nó tu Thiền Đông Độ đồ bậy bạ, nó không có phải là quốc giáo, nó không phải là Nguyên Thủy thật, nhưng mà nó không đến đổi mà giết người quá!

Trong chiến tranh của chúng ta biết bao nhiêu người Việt bị chết? Biết bao nhiêu là những gia đình mà chúng ta hiện giờ nhắc lại thì con em của chúng ta đã đổ xương, đổ máu trên cái quả đất này, là vì người ta không có biết đạo Phật!

Nhưng mà đạo Phật giáo Đại Thừa không có dạy dân tộc Việt Nam chúng ta đi xâm chiếm đất nước người ta mà giết người như vậy. Các con thấy không có, phải không? Cho nên thấy nó cũng đỡ chớ, nó đâu có đến đổi mà quá tệ.

Còn mình thuộc về quốc giáo mà quốc giáo Nguyên Thủy gốc của đạo Phật nữa, kinh điển thì kinh điển Nguyên Thủy nữa, mà là không hiểu cái thứ gì hết à!

Mà người dân bắt buộc phải là lớn lên mười tám tuổi là phải vô chùa ba năm tu rồi, sau đó muốn tu thì ở luôn mà không muốn tu thì ra đời. Thì ra đời cũng còn mang cái thiện pháp chớ ra đời gì mang cái ác pháp, vác cây rựa chém người ta đứt đầu mà không thương chút nào!

(12:10) Đó là họ học giáo pháp của Phật, họ học luật của Phật bằng cách nó khô như pháp luật đó. Cho nên vì vậy mà họ ra họ bực quá trời, hồi tui vô trỏng khép tui ăn ngày một bữa, đi xin cực quá, tui ra tui chém đầu tui lấy của tui ăn không phải sướng không?

Các con thấy không, Phật giáo mà giáo dục người ta như vậy thì như vậy chánh giáo hay là tà giáo? Dù bây giờ nói Phật gì đi nữa Thầy cũng xem đó là tà giáo chớ!

Bởi vậy Thầy quét sạch ba cái thứ này ra hết, thà là Thầy như thế nào mặc Thầy, Thầy không quan trọng, ai nói gì nói, nhưng mà những người nào phá Phật pháp thì Thầy đã quét ra hết.

Giới luật của Phật là cái pháp thiện, không phải là cái pháp ác, không thể giết người được! Tứ Vô Lượng Tâm là bốn cái tâm vô lượng của người ta rộng lớn phủ trùm cả tất cả chúng sanh thì tại sao không làm được những điều đó?

Cho nên các con thấy không, trong cái số của chúng ta học tập ở đây, ai là người có duyên đủ học pháp thiện? Bắt đầu nghe cái giáo án thì ai cũng thấy hay hết phải không? Nhưng mà lần lượt các con thấy họ có đủ phước họ ở đây họ học chúng ta không? Nó xảy ra đủ chuyện để cho họ phải dứt đi thôi.

Thầy tiếc nhứt là con Đào. Quá tệ! Cái người mà đã có công ở đây rất nhiều, cực khổ với cô Út rất nhiều, thế mà rất là tối tăm, ngu si…​ Ít ra các con phải học cho tới tận cùng các con mới biết được cái chỗ nào mà bắt đầu, chớ từ nào tới giờ Thầy chưa có dám bắt đầu cái chỗ nào của Phật pháp.

Tại sao không có dám bắt đầu? Tại vì người ta tu sai hết, bắt đầu người ta không có tin mình! Tại sao vậy? Tại sao Thầy biết rằng người ta không tin Thầy? Thầy biết rất rõ. Là tại vì lúc bấy giờ thì các con thấy, nghĩa là người ta có những cái kiến chấp.

Chẳng hạn là như mấy con học Thiền Tông chớ gì, mấy con kiến chấp Phật Tánh. Rồi mấy con học cái Tịnh Độ Tông chớ gì, mấy con niệm Phật, mấy con chấp là có cõi Cực Lạc rồi. Bây giờ Thầy bắt buộc các con phải tu lại những cái gì mà của đạo Phật, các con không tin Thầy đâu.

Chắc chắn là các con không có làm đâu, các con sẽ làm theo cái của các con. Bởi vì đạo Phật nói rồi, cái kiến chấp của người ta, người ta chấp chặt rồi, mình không làm sao mà cho người ta xả được hết.

Chỉ bây giờ chờ cho cái duyên nào mà người ta làm không có được, người ta quá khắc khổ, người ta thấy người ta đứng ở trên đó mà người ta dậm chân mãi năm năm, mười năm, hai, ba chục năm, người ta tu không tới nữa đó, rồi người ta ngán người ta không biết cái pháp nó đi tới đâu, cái tâm tư, cái chấp của người ta nó bị vơi bớt đi, nó không còn nặng nữa thì lúc bấy giờ đó, mình mới chỉ cho họ, lần lượt họ mới từ từ họ sáng ra, thì lúc bấy giờ mình mới dạy lại.

Như vậy là Thầy chưa có dạy các con cái ban đầu như thế nào. Tại sao bây giờ Thầy cứ dạy các con là pháp hướng hay hoặc thế này thế khác? Là tại vì có người hướng có hiệu quả, nhắc các con để các con bắt chước theo thôi.

Như thấy Minh Tông hướng bảo: “Hơi thở ngưng!” hay hoặc là cái này kia đồ, hay hoặc là bảo ngủ, hay thức, hay hoặc là bảo đừng có nhức, đừng có đau cái thọ đồ vậy, để các con thấy làm nó cũng có hiệu quả chung chung nó vậy thôi, để phá cái chấp của các con thôi.

Chớ sự thật ra các con biết không, mỗi cái trạch pháp là cái bước đầu các con phải tu cái gì, trạch pháp cái câu nào để cho nó đúng với cái đó. Các con gọi trật cái tên là các con trạch pháp nó cũng không hiệu quả nữa chớ đừng nói.

Thí dụ như nội cái tâm với cái ý, mà các con gọi cái tên ý với cái tâm mà con còn gọi trật nó cũng không hiệu quả nữa chớ đừng nói.

Cũng như cái thằng xoài con gọi thằng mít, nó đâu có biết nó là tên gì đâu, nó đi vô, nó ngó ngó, nó đâu có tưởng gọi nó! Nhưng mà con tính con gọi thằng mít, nhưng mà con cứ gọi thằng xoài: “Xoài! Mày vô biểu!” Nó biết ở đâu mà nó vô? Các con hiểu điều đó.

Cho nên cái tu hành nó cũng như vậy, thế mà các con tưởng là học hiểu nội bây nhiêu Thầy nói đủ rồi, bây giờ về cứ ở chỗ nào yên tịnh đó tu. Không phải dễ đâu! Nó không có đơn giản đâu!

(15:38) Bởi vì ở đây nè, các con thấy nè:

Cư sĩ Visakha hỏi Ni sư Dhammadinna, hỏi:

Đây nè Thầy đọc lại cái chỗ này để cho các con thấy nè:

Thưa Ni sư! Thủ ở trong mười hai…​

Thập Nhị Nhân Duyên đó.

…​ mười hai nhân duyên…​

Cái Thủ của trong mười hai nhân duyên, các con biết Thủ rồi Hữu rồi Sanh đó, trong mười hai nhân duyên phải không?

…​ nó có khác với năm thủ uẩn hay không?

Ông Visakha này ổng hỏi cắc cớ với cái bà Ni sư này lắm. Bà Ni sư này, tức là vợ của ông. Đây, Thầy thuật lại câu chuyện của Ni sư Dhammadinna.

Khi mà ông Visakha ổng đến ổng nghe Phật thuyết pháp rồi đó, thì ổng ngộ được cái lý sanh tử rồi, cho nên lúc bấy giờ ổng về nhà.

Thì ổng về nhà, thường thường thì ổng đi đâu ổng về nhà thì bà vợ đưa cái tay cho ổng nắm, rồi ổng nắm cái tay bà vợ ổng mới dẫn đi lên trên cái phòng khách, hai vợ chồng mới ngồi nói chuyện.

Mà hôm nay lạ lùng là ổng đi đến Phật rồi ổng về, thì bà đưa cái tay ra thì ổng không có nắm! Các con thấy, cái câu chuyện nói nghe nó cũng hay lắm, chớ không phải là không hay đâu!

Ổng không nắm, bà mới ngạc nhiên: “Sao kỳ! Ông này ổng đi nghe Phật rồi ổng về ổng không chịu nắm tay mình nữa, lạ!” Bắt đầu đó, ổng đi trước, bả đi theo sau, mà không có đưa tay nắm nữa.

Cho nên bả đi lên tới cái phòng khách, rồi ổng ngồi cái ghế khác, bả ngồi ghế khác, chớ hồi đó thì hai ông bà ngồi chung một cái ghế, cũng như ngồi cái ghế salon mà ghế dài đó. Còn cái này ổng ngồi một cái, bà ngồi một cái, bây giờ ổng ngồi riêng không có ngồi chung nữa.

Bây giờ đó, bà mới hỏi: “Ông nay sao lại kỳ quá vậy? Mọi lần thì ông đi đâu thì ông về thì đâu có cái tình trạng như vậy, mà sao nay ông đối xử với vợ con như vậy?”

“Đâu phải! Bởi vì cái đó là cái đường sanh tử. Tôi hôm nay về tôi bàn với bà đó, là bà nên đến nghe Đức Phật đi - Đức Thế Tôn đi. Rồi bà sẽ nghe rồi đó thì tôi tin rằng bà sẽ theo Đức Phật liền!”

Thì bà nói: “Không biết ông Phật ổng nói cái thứ gì mà cái ông này ổng mê quá trời! Ổng biểu mình đi nghe ông Phật chớ ổng cũng không thèm nói cho mình biết nữa!” Thôi bà cũng sửa soạn, bà đến bà nghe ông Phật thuyết pháp.

Khi bà đến thì bà nghe ông Phật thuyết pháp xong rồi, thì bà xin ông Phật xuất gia luôn, bà đi luôn, đi tu luôn. Bà về bà giao nhà giao cửa, giao con lại cho ông. Ổng nói: “Được! Tui bằng lòng, tui lo hết, bà cứ yên tâm bà đi tu đi! Miễn là bà tu được là tui mừng!” Do đó cái bà đi luôn, bà cạo tóc, bà vô trong giới ni bà tu luôn ở trong đó.

Sau khi bà chứng quả bà mới trở về bả thăm nhà đây, là hai ông bà mới gặp nhau. Ông Visakha ổng cũng là một cư sĩ tài ba của đạo Phật lắm chớ không phải! Hỏi bà, cật vấn bà, nghĩa là sát ván, Phật pháp mà ông rất thông suốt - là một cư sĩ.

(18:20) Rồi sau này Thầy sẽ đọc hết những cái bài này cho các con nghe toàn bộ. Bây giờ Thầy chỉ đọc một cái đoạn để cho các con thấy rằng cái chỗ mà ổng hỏi thôi.

Ổng hỏi cái chỗ này là cái sự phải hiểu biết mới có hỏi: Làm sao mà chữ Thủ này nó ăn khớp gì với chữ thủ ngũ uẩn đâu? Mà ổng dám hỏi câu hỏi với cái bà ni sư này thì ông cũng phải là người mà thông hiểu.

Bởi vì phải thông những gì đã thông đó. Khi mình mới vào đạo Thầy giảng cái giáo án các con hiểu không? Bốn cái điều kiện mà, phải không? Tức là muốn vào đạo Phật thì phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu, cái đó đầu tiên, phải không?

Rồi kế đó thì các con thấy cái gì nữa nè: Trau dồi những gì phải trau dồi, rồi dứt bỏ những gì phải dứt bỏ, rồi tu tập những gì phải tu tập. Các con nhớ bốn cái điều kiện chưa? Học rồi quên mất rồi!

Bây giờ ông cư sĩ này là ông đã thông hiểu như vậy đó, thì các con thấy ổng sẽ đối xử với - ổng hỏi bà, Thầy nói thiệt ra, tu sĩ bây giờ cũng chưa biết chắc đã dám biết hỏi câu hỏi này nữa. Đây nè, nếu mà ông không biết, làm sao ông hỏi câu hỏi như thế này với bà? Mà bà trả lời rất đúng:

Thưa Ni sư!

Bây giờ thì ông gọi bà Ni sư chớ không dám gọi bà nửa đâu, không dám gọi là bà vợ nữa đâu, coi như là bà là một bậc thầy rồi đó.

- Thưa Ni sư! Thủ trong mười hai nhân duyên này có khác với năm thủ uẩn hay không? Hay thủ uẩn này là năm thủ uẩn?

Đó ông hỏi. Các con từ lâu đến giờ đã học kinh sách dám hỏi điều đó không? Thì có biết gì đâu mà hỏi!

- Này Hiền giả Visakha!

Bà không có kêu ông là chồng nữa đâu, kêu là Hiền giả thôi.

Thủ trong mười hai nhân duyên tức là năm thủ uẩn.

Bà xác định như vậy. Các con thấy chưa? Bởi vì nó có sắc, thọ, tưởng, hành, thức này nó mới có dính mắc chớ còn nếu không có cái này làm sao gọi là Thủ, phải không? Bởi vì dính cái bàn, cái ghế này, mà nếu không có cái thân này thì nó dính để làm ai, cho ai đây?

Bà nói trúng chớ. Thủ ở đây là năm thủ uẩn đó, có năm thủ uẩn nó mới có dính đó, mới có Thủ đó đó - mới có Thủ mười hai nhân duyên đó. Đúng không? Các con thấy bà trả lời có sai không?

(20:24) Bởi vậy ông Phật ổng nói: “Bà Dhammadinna đó bà trả lời như vậy thì Ta cũng trả lời như vậy thôi, chớ cũng không hơn bà nổi!” Ông Phật ổng xác định bà là một đại trí tuệ, đệ nhất trí tuệ bên Ni mà, đâu có thường đâu!

- Này Hiền giả Visakha! Thủ trong mười hai nhân duyên tức là năm thủ uẩn. Thủ này không khác với năm thủ uẩn. Phàm có dục đối với năm thủ uẩn tức là có Thủ đối với chúng ở đây.

Nghĩa là có dục ngay đó thì nó dính rồi thì nó - cái vật gì nó cũng dính theo hết cả đám thì không phải là Thủ mười hai nhân duyên sao? Đó cho nên mới có nhà cửa, mới có anh em, mới có dòng họ, mới có ruộng vườn, mới của cải chớ, đó nó mới dính mắc, nó mới có sanh tử, ưu bi chớ!

Bây giờ ông hỏi tới nữa nè:

- Thưa Ni sư! Thế nào là thân kiến?

Đó, bây giờ chính cái Thủ này - năm thủ uẩn này nó mới tạo thành cái thân kiến đó, cho nên ông mới hỏi câu kế đó. Chớ chúng ta chưa hiểu đâu, cho nên ông mới lần ông đi tới ông hỏi:

- Thưa Ni sư! Thế nào là thân kiến?

- Ở đây, này Hiền giả Visakha! Kẻ vô văn phàm phu không đến yết kiến với bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đến yết kiến các bậc chân nhân, không thuần thục pháp các bậc chân nhân, không tu tập pháp các bậc chân nhân.

Đó!

Thường nghe những tà sư ngoại đạo nói pháp, giảng pháp không đúng sự chân thật, không đem lại sự ích lợi nhất thiết, cụ thể, thường sống những hành động phi Phạm hạnh mà các bậc trí thường không tán thán.

Đó thì các con thấy thường thường mình không chọn - ở đây…​ (Mất tiếng)

3- TU SAI PHÁP THÌ CÓ XUẤT GIA CŨNG KHÔNG CÓ Ý NGHĨA

(22:04) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học.

Khi từ bỏ như vậy mà đi lang thang, không biết pháp tu hành từ bắt đầu cho đến viên mãn thì cũng uổng phí một đời người mà chẳng giải thoát được gì, chỉ thành một gã lang thang, phiêu bạt giang hồ, rày đây mai đó, chẳng có ý nghĩa gì cả.

Đó thì quý thầy thấy: Khi mà chúng ta đã xuất gia, từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc, từ bỏ tất cả tài sản, không còn có một gì, chỉ còn có ba y một bát, mà đi lang thang như vậy mà không có pháp tu hành thì quý thầy thấy, như hiện giờ mà chúng ta đã thấy bên cái phái khất sĩ mà hiện là đã thành lập ở đất nước của chúng ta đó.

Lấy ba y một bát mà thực hiện, từ cái ngay bắt đầu mà tổ sư Minh Đăng Quang đã hướng dẫn người ta thực hiện ba y một bát, sống trong cái túp lều tranh. Chớ không phải như bây giờ, khất sĩ mà ở những cái tịnh xá mà sang giàu như vậy đâu.

Hồi khởi sự ai cũng rất là mến cái đức hạnh của khất sĩ hết, người ta thấy cái sống người ta rất là quý cái hạnh đó. Nhưng mà cuối cùng không có cái pháp hành, cho nên hầu hết là khất sĩ người ta đã không có cái đường lối người ta giải thoát.

Lấy cái giới bổn khép chặt cái kỷ luật làm cho người ta sống cái cuộc đời sống rất là khắc khổ, nhưng cuối cùng thì không thể nào mà duy trì được cái ba y một bát đó được, cho nên cuối cùng thì vẫn cáo chung, cho nên thành một gã lang thang rày đây mai đó, hoặc là ở hang, ở núi.

Tất cả những khất sĩ người ta cũng tha thiết cái sự tu hành để giải thoát, nhưng cuối cùng thì họ không có pháp hành cho nên họ không có hiểu được cái đường lối của đạo Phật, thực hiện cho đúng cái pháp hành, vì vậy mà không có đạt được cái con đường giải thoát. Cuối cùng thì họ cũng chết dần chết mòn ở trong những hang hốc hay hoặc là những cái nơi hành.

Cuối cùng thì hầu hết Thầy thấy có nhiều người họ ngồi thiền mà họ ngủ ngay ở trên cái sự ngồi thiền đó, họ không có dám nằm nữa, họ rất là khắc khổ. Vì vậy mà cuối cùng họ hoàn toàn là họ thành những con cóc hết trơn, chẳng có ra một cái gì hết à!

Cuối cùng thì các thầy suy ngẫm coi: Bên khất sĩ họ hiện bây giờ họ đang tu hành như vậy, nhưng mà những người mà khổ công tu hành như vậy họ chẳng đạt gì hết, vì vậy cuối cùng những cái người mà còn lại làm sao mà họ không phá giới?

(24:35) Cho nên hiện giờ là hầu hết khất sĩ phải nói rằng phá giới. Cái hình thức thì nói ăn một bữa, đi khất thực, chớ sự thật đó là còn cái hình thức thôi chớ còn không còn có cái mà có thể gọi là ba y một bát, mà có thể thực hiện cái đời sống Phạm hạnh của Đức Phật ngày xưa được nữa.

Bởi vì trải qua một cái thời gian mà người ta không có cái pháp hành, tức là cái giới hành người ta không có, cho nên người ta không làm sao để thực hiện được cái giới luật của Phật, cho nên từ đó cái giới luật nó khô đi, nó khô cằn đi, nó làm cho người ta quá khổ sở.

Vì vậy mà người ta phải thay đổi để cho cái cuộc sống của người ta nó có cái gì hơn chớ! Vì vậy đến để mà giải thoát thì không giải thoát được.

Do cái chỗ đó cho nên họ không đạt được cái sức mà làm chủ sanh tử, họ không đạt được cái cứu cánh Niết Bàn của họ, mà chỉ có ở trên cái giới luật không thì cuối cùng họ phải bỏ dở giới luật, họ không thể nào sống nổi ở trong giới luật. Còn chúng ta mà có đủ cái pháp hành thì chúng ta không có bỏ dở.

Cho nên cái bộ Chân Lý của tổ sư Minh Đăng Quang mà viết ra đó thì hầu như là cái pháp hành không có mà chỉ có cái lý giải của nó mà thôi. Mà lại nó tạp nhạp là vì nó kết hợp với Nam Tông, với Bắc Tông, rồi nó lại có ảnh hưởng ở bên Thiền Đông Độ nữa, cho nên nó là cái áo vá, thành ra nó không có thực hiện được cái giới hành của Phật.

Còn trái lại đạo Phật thì nó có cái giới luật của nó, cái giới luật của nó nó có, nhưng mà nó có giới hành của nó, cho nên nó tạo cho chúng ta thực hiện được cái đời sống Phạm hạnh rất là nghiêm chỉnh mà nó có một cái nguồn giải thoát.

Tự thân tâm của nó có một cái hỷ lạc rất là cao độ, nó làm cho cái người mà thọ dục cái hỷ lạc của thế gian, nó thấy cái hỷ lạc của cái đạo Phật là cái hỷ lạc ly dục ly bất thiện pháp đó, nó tuyệt vời hơn cái dục lạc của thế gian.

Thí dụ như bây giờ chúng ta ăn cái miếng ăn nó ngon, thì cái đó là gọi là hỷ lạc của cái ăn. Chúng ta nằm ở trên cái nệm nghe êm ấm, cái đó là cái hỷ lạc của cái sự êm ấm, của cái thân của chúng ta. Nhưng cái hỷ lạc mà ly những cái trạng thái đó thì nó lại là tuyệt vời hơn nữa.

Cho nên từ đó người ta dùng cái pháp - cái giới hành đó - mà người ta thực hiện được, thì nó đem lại cái sự an lạc vô cùng cho cái tinh thần của người ta. Vì vậy mà cái giới luật người ta rất là nghiêm chỉnh, Phạm hạnh của người ta rất là đầy đủ, trọn vẹn.

Người ta sống thì - người nhìn vào thì thấy như là khổ hạnh, nhưng mà trong tâm hồn của người ta không có chút nào khổ hạnh, vì đó là một cái nguồn giải thoát thật sự, chân thật của tâm hồn của người ta, cho nên ngay cái cuộc sống hàng ngày của người khất sĩ mà người ta đã thấy được cái Niết Bàn tại cái cuộc sống của họ rồi.

(27:16) Chớ không phải đợi họ phải nhập Niết Bàn mới là thấy Niết Bàn, mà chính hằng ngày họ đi xin đó, họ đã thấy cái Niết Bàn ở tại cái hành động xin của họ rồi. Chớ không phải như người ta không có cái pháp hành thì người ta thấy đó là cái khổ, đó là cái đói khát, đó cái là hèn hạ.

Do cái chỗ mà không biết, vì vậy đó mà người ta đã không có hiểu được cái pháp hành mà người ta thành lập cái giới luật như vậy là người ta trói buộc cái con người đi vào trong cái cảnh địa ngục. Hình thức thì tu, nhưng mà đó là cái cảnh địa ngục.

Cũng như bây giờ người ta ở ngoài đời người ta chạy xuống, người ta ăn ba bữa, mình ăn một bữa không dám thưởng thức cái ngon, cái dở gì hết. Thì không phải là bây giờ mà nếu mà không có cái pháp hành thì cái ăn của chúng ta bây giờ nó là cái địa ngục rồi! Nó không có cái an lạc gì cho cái sự ăn của chúng ta hết mà nó lại còn làm cho chúng ta khổ. Thì chúng ta thiếu cái pháp hành, cái giới hành thì cái giới luật ăn nó sẽ bị phá vỡ.

Cho nên sau này như quý thầy đã thấy, khất sĩ sáng họ cũng phải ăn tiểu thực. Họ nói là một lẽ, nhưng mà sáng họ phải ăn tiểu thực, chiều họ phải có ăn dặm, hoặc là nước uống cái gì chớ còn họ không có thể không ngơ được. Có nhiều chỗ thì họ còn cố gắng họ giữ chiều không có uống phi thời đồ, nhưng mà buổi sáng họ không ăn họ cũng không chịu được.

Cho nên hiện giờ thì nói về khất sĩ thì chỉ là còn cái danh từ suông mà thôi, chớ không thể nào mà giới luật của họ như ngày lúc mà tổ sư Minh Đăng Quang mới thành lập cái giới khất sĩ. Lúc bấy giờ nghĩa là lúc đầu tiên mà cái phái khất sĩ ra đời, người ta rất ngưỡng mộ qua cái giới hạnh của họ dữ lắm.

Nhưng mà vì không có pháp hành cho nên lần lượt nó đi đến cái chỗ phá giới hết, và cái hành động nó không có được giải thoát, nó không có được cái hỷ lạc của cái thiền định mà chính của cái giới hành của đạo Phật cho nên từng đó cái giới bổn của đạo Phật nó bị thay đổi đi, nó thay đổi từng chút để cho nó phù hợp với cái cuộc sống của người tu, chớ nếu không thì làm sao người ta sống nổi!

Đó thì hôm nay, đến đây thì quý thầy thấy rõ: Nếu mà chúng ta không khéo mà lấy giới bổn mà trói mình thì coi chừng chúng ta sẽ là những người phạm giới chớ chưa phải.

Bởi vì hầu hết đầu tiên là chúng ta phạm giới ý, ý phạm, sau đó thì khẩu phạm, rồi tới cái thân của chúng ta phạm, tất cả những cái này lần lượt chúng ta sẽ bị phạm. Nếu mà chúng ta không có giới hành thì chúng ta lần lượt sẽ bị phạm hết.

Khi chấp nhận đời sống vô vật chất, vô gia đình thì phải thọ pháp trau dồi tu tập để dứt bỏ những gì mà tâm ta còn đắm nhiễm.

Nghĩa là tuy rằng chúng ta chấp nhận cái giới luật như vậy, nhưng mà chúng ta sống trong một ngày hai ngày, một tháng, hai tháng hay một năm, nhưng mà chúng ta không có cái pháp - cái giới hành mà trau dồi thân tâm của chúng ta thì chúng ta không thể kéo dài hơn được nữa, thì chúng ta phải phá giới mà thôi.

4- SỐNG ĐƯỢC MƯỜI GIỚI SA DI MỚI GỌI LÀ XUẤT GIA

(30:09) Vậy pháp đầu tiên tu tập của người xuất gia là gì? Người xuất gia chân chính mở đầu từ pháp môn Sa Di Thập Giới.

Nghĩa là chúng ta phải thấy cái giới luật đầu tiên của chúng ta đó là Sa Di Thập Giới.

Người xuất gia mà không thọ Thập Giới Sa Di không được kể là người xuất gia.

Nghĩa là chúng ta - cái người mà gọi là xuất gia mà không thọ Thập Giới Sa Di thì cái người đó không được gọi là cái người xuất gia. Dù bây giờ người đó nhảy ngang đi mà thọ Tỳ Kheo đi nữa mà không thọ cái Thập Giới Sa Di thì người đó cũng chưa có gọi là cái người mà có thể là xuất gia được nữa.

Bởi vì chúng ta phải đi từng cấp bậc của sự tu tập. Sau khi thực hiện cái giới Thập Giới Sa Di được thì chúng ta mới có thể thực hiện được các giới khác của Tỳ Kheo.

Còn nếu mà Thập Giới Sa Di mà thực hiện không được, đời sống của chúng ta không đúng mười cái giới Sa Di này thì kể như vị Tỳ Kheo đó dù là bây giờ Hòa thượng đi nữa cũng chỉ là một cái người cư sĩ trọc mà thôi.

Nghĩa là nhìn Thập Giới Sa Di mà người đó ăn phi thời nè, cất giữ tiền bạc nè, ở chùa to tháp lớn thì coi như cái vị đó là cư sĩ chớ không phải là một vị thầy đâu.

Thầy xác định để cho thấy là một bậc xuất gia là một bậc ly trần, lìa tất cả những thế gian, mà còn cất giữ của cải, tài sản, còn cái nhà cửa cao sang thì cái người đó vẫn là cái người cư sĩ chớ không phải là - cái lộ trình của người cư sĩ chớ không phải là lộ trình của tu sĩ. Vì tu sĩ phải xả bỏ hết, mà tu sĩ không xả bỏ hết thì người đó chưa phải là tu sĩ.

Đây là chúng ta nhìn vào cái Thập Giới - mười cái giới của Sa Di mà chúng ta đoán được cái người đó là người tu sĩ hay là người không tu sĩ.

Nó phải rõ như vậy, chớ đạo Phật mà nó mù mờ thì nó là một cái hình thức gạt người ta. Mà đạo Phật đã xác định rất rõ: Cái người mà gọi là đệ tử của Phật xuất gia là phải thọ Thập Giới Sa Di, mà không thọ Thập Giới Sa Di thì người đó không phải là kẻ xuất gia.

Mà người đó dù bây giờ là Hòa thượng hay là một bậc gì ở trong hàng giáo phẩm mà người đó không sống đúng Thập Giới Sa Di thì đương nhiên chúng ta cũng không xem cái người đó là một bậc xuất gia mà là một người cư sĩ.

Đó thì hôm nay Thầy giải thích như vậy để quý thầy nhận được cái người xuất gia hay là những người không xuất gia. Dù bây giờ họ là - họ đứng ở trong hàng giáo phẩm, họ có thể gọi họ là Hòa thượng đi nữa, họ mặc y áo bệ vệ cách nào đi nữa, mà hình thức sống không đúng giới hạnh của Sa Di thì chúng ta vẫn xem họ là cái người chưa có xuất gia.

Vì thế Sa Di Thập Giới là cơ sở của người xuất gia.

Đó thì cơ sở của người xuất gia mà cái cơ sở đó mà không có thì cái người xuất gia đó là gì? Thì chẳng qua là đi ăn cắp cái bộ đồ của tu sĩ mặc vào để mà giả mạo mà thôi chớ có cái lý do gì.

Vì cái hành động của Sa Di là cái cơ sở vững chắc của nó là một cái người tu sĩ, mà cái cơ sở nó không có thì bây giờ cái người đó bây giờ họ có là vua sãi đi nữa người ta cũng vẫn xem họ là cái người cư sĩ chớ làm sao mà gọi họ là tu sĩ được.

(33:05) Ở đây quý thầy nhận xét qua người tu thường là nhận xét qua Thập Giới Sa Di.

Nghĩa là đừng có nhận xét qua cái bộ áo, qua chuỗi hạt, tràng hạt của họ, qua cái chức phẩm của họ, qua cách bệ vệ có kẻ hầu người hạ họ, qua cái chùa to, tháp lớn của họ, mà hãy nhận qua cái pháp của Thập Giới Sa Di.

Họ chẳng có gìn giữ nghiêm túc đúng cách của một chú Sa Di, mặc dù bây giờ họ là những vị Tỳ Kheo trong hàng giáo phẩm, họ là Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng mà đời sống Thập Giới Sa Di của họ chưa được thì thử hỏi họ còn tu pháp môn gì của Phật được?

Xin quý thầy suy ngẫm để mà xét người tu hành cho đúng của đạo Phật.

Đó thì bây giờ quý thầy cứ suy ngẫm, rồi xét cái người mà tu theo đạo Phật người đó có đúng là vị đệ tử của đạo Phật không? Có đúng là người xuất gia của đạo Phật không? Chỉ xét qua Thập Giới Sa Di là chúng ta đã biết.

Nghĩa là bây giờ chúng ta thấy nhan nhản tu sĩ, nhưng mà xét qua Thập Giới Sa Di thì chúng ta biết họ là tu sĩ, họ là người xuất gia hay là người chưa xuất gia chúng ta biết.

Mặc dù là bây giờ họ xuất gia biết bao nhiêu lần chưa, nhưng mà cái xuất gia của họ mà Thập giới Sa Di nó chưa được, chưa có thọ được, thì tức là họ chưa phải là kẻ xuất gia.

Mà nếu Thập Giới Sa Di chưa có được tròn đủ, thì thử hỏi họ có tu pháp gì, dù có cao siêu tối thượng thì nó cũng không phải là Phật pháp.

Nghĩa là là Phật pháp phải đi vào cái cơ sở đầu tiên của nó, mà bây giờ cái cơ sở đầu tiên của nó không có thì bây giờ họ có tu pháp gì, họ có nói pháp họ tối thượng đi nữa thì cái pháp của họ cũng chỉ chẳng qua là tà pháp ngoại đạo mà thôi.

Bị vì cơ sở đầu tiên không có thì những cái gì ở sau đó cũng đều là những cái sai chứ không thể nào đúng được.

Tại sao vậy?

Tại vì Sa Di Thập Giới là pháp môn tu hành cơ bản của người tu sĩ đạo Phật, mà pháp môn cơ bản không có tu tập, không sống đúng pháp môn cơ bản này thì những pháp hành của vị đó hiện giờ không phải là tà pháp hay sao?

Nghĩa là bây giờ vị đó dù bây giờ có hành pháp gì đi nữa mà cái cơ sở đầu tiên của vị đó mà nó không đúng cái Thập Giới Sa Di, thì vị đó dù có hành pháp nào thì không phải là tà pháp sao?

Cho nên chúng ta nhận xét qua thì rất là dễ nhận chớ không có sai được. Bởi vì đây là cái cơ bản của Phật pháp mà, làm sao mà chúng ta học hiểu biết như vậy mà làm sao mà chúng ta tin được những cái người đó được, và tin được những cái pháp của người đó, mà điên khùng mà theo những người đó mà gọi là theo đạo Phật?

Họ có nói, họ có lý luận - bởi vì cái lý luận của người ta là người ta có cái lý luận của người ta hay, nhưng mà người ta cũng đều là lọt vào trong sáu mươi hai cái lập luận của tà giáo ngoại đạo mà Đức Phật đã xác định ở trong kinh rất rõ mà.

(36:10) Cho nên bây giờ cái hình thức của họ là cái người đầu tiên đệ tử của Phật là phải Thập Giới Sa Di, thế mà họ không giữ trọn đúng, họ không sống đúng như vậy thì họ không phải là đệ tử của Phật rồi, thì tức là không xuất gia rồi.

Mà không xuất gia rồi thì dù họ có lý luận pháp gì đi nữa, họ có nói đây là Phật pháp thì chúng ta cũng biết rằng họ là những kẻ mạo nhận Phật pháp chớ chưa phải là đạo Phật như vậy.

Vì đạo Phật chứng minh cho rõ là cái người tu sĩ của đạo Phật phải thực hiện cái cơ sở đầu tiên của nó là một cái rất dễ dàng. Có mười cái điều lành, có mười cái điều giới đó mà họ không sống được thì thử hỏi họ sống cái gì nữa? Mà có mười cái điều đó mà họ tu không được thì họ tu cái gì nữa?

Thì tức là nó phải thấy đó là cái sai rất lớn cho Phật giáo hiện giờ. Dù bây giờ chúng ta thấy có hàng vạn tu sĩ Phật giáo đi nữa, nhưng mà mười cái giới căn bản, cơ bản của cái người xuất gia mà không có một cái người nào mà sống đúng thì chúng ta vẫn xem là Phật giáo đã suy đồi rồi, đã chết mất rồi.

Vì những cái hạng người này nó là tà giáo ngoại đạo mang cái hình thức của Phật giáo, của tu sĩ Phật giáo chớ không phải là Phật giáo thật, cho nên Phật giáo đã chết đi, giáo lý của nó đã bị dẹp bỏ đi, nó không còn có nữa.

Vì cái giáo lý cơ bản đó đã bị dẹp rồi thì cái giáo lý gì đi nữa họ cũng dẹp hết chớ họ đâu có để! Mà nói cho đúng ra tại vì họ chưa hiểu được cái giáo lý của đạo Phật, cho nên họ không sống đúng mười cái giới Thập Giới Sa Di.

Vì từ người trước đến người sau cho nên họ truyền nối như vậy làm cho người sau bít lối không biết chớ không phải là người sau muốn sai phạm như vậy đâu, họ không muốn sai phạm đâu.

Nhưng mà tại vì người trước đã mê mờ, đã không thấy được con đường của đạo Phật, hay hoặc là đã phá giới rồi làm lệch lạc, đặt bày ra đủ loại kinh để nó phá những cái đường lối của đạo Phật, làm cho người sau mờ mịt không biết đường đi.

Chớ không phải người sau chúng ta phạm mà chính là những cái người trước, vì tu không chứng cho nên mới sanh ra chạy theo dục lạc mà phá đi tất cả những cái đường lối của đạo Phật, làm cho đời sau người ta không biết đường lối của đạo Phật mà tu tập.

Nhưng chúng ta vẫn còn thấy rõ ràng Thập Giới Sa Di là có mười cái điều mà cái người tu sĩ phải thể hiện, mà không thể hiện được thì tức là chúng ta vẫn xét được chớ không phải là không xét được.

Người tu sĩ hiện giờ của đạo Phật chỉ biết nói Sa Di Thập Giới chớ không có ai biết tu nó, biết sống cho đúng nó, cho nên đạo Phật hiện giờ mất gốc người chân tu.

Nghĩa là cái người chân tu mà theo đạo Phật thì đã mất gốc rồi, bởi vì Sa Di Thập Giới mà không có thực hiện được thì coi như là bậc chân tu của Phật giáo đã mất rồi.

Mục đích xuất gia là cầu đắc đạo Niết Bàn, giải thoát sanh tử. Ba đời chư Phật ở tại nhân gian thành Phật đều là hiện tướng xuất gia…​

Nó hiện tướng xuất gia là tức là phải oai nghi tế hạnh đó chớ, tại sao hiện tướng xuất gia mà bây giờ nó lại là kỳ cục vậy? Phạm hết tất cả các mười cái điều giới của Đức Phật là cái oai nghi tế hạnh đầu tiên của một vị tu sĩ!

…​ thành Phật đều là hiện tướng xuất gia, sống đúng oai nghi tế hạnh của pháp Sa Di Thập Giới. Không có Đức Phật nào mà không xuất gia, mà không sống đúng hạnh Sa Di Thập Giới mà thành Phật được.

Nghĩa là từ xưa đến giờ phải nói là không có cái vị Phật nào mà thành Phật mà sống ngoài mười cái điều giới của Sa Di Thập Giới mà thành Phật được.

Vì thế Sa Di Thập Giới là cơ sở của đạo giải thoát.

5- HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG XUẤT GIA

5.1- XUẤT GIA LÀ HIỆN TƯỢNG CHUNG CỦA NHIỀU TÔN GIÁO

(39:43) Xuất gia chẳng phải là điều Phật giáo phát minh trước nhất.

Nghĩa là cái sự xuất gia này đâu phải là đạo Phật đã phát minh trước nhất đâu, cũng chẳng phải chỉ có Phật giáo mới có cái sự xuất gia này đâu!

Ở Ấn Độ trước khi Đức Phật Thích Ca giáng sanh đã có nhiều thứ ngoại đạo. Sa Môn có nghĩa là dứt tận, dứt tâm ác, tịnh chỉ, nên gọi chung là những người tu sĩ Ấn Độ xuất gia.

Nghĩa là khi mà Đức Phật chưa ra đời thì nó cũng có những bậc Sa Môn, nhưng mà nói cái danh từ Sa Môn có nghĩa là dứt cái tâm ác của chúng ta để tịnh chỉ, làm cho cái tâm chúng ta thanh tịnh trở lại.

Thì tất cả các cái - sáu cái ngoại đạo mà trong cái thời Đức Phật giáng sinh đó, thì cái mục đích họ cũng làm cho cái tâm họ dứt cái ác, tịnh chỉ để cái tâm được thanh tịnh, chớ đâu có phải cái giáo pháp nào, cái ngoại đạo nào mà ra đời để làm cái điều ác đâu?

Họ đều làm điều lành, nhưng vì cái hành, cái pháp hành họ không đúng cho nên họ không có giải thoát được, dứt được cái tâm ác của họ, mà họ không được tịnh chỉ cho tâm họ thanh tịnh.

Cho nên cuối cùng thì Đức Phật ra đời để chỉ cho chúng ta có cái pháp hành. Chớ họ cũng có giới luật, họ cũng có những cái để cho họ dứt cái tâm ác họ, nhưng mà vì nó không có cái pháp hành cho nên họ dứt không được.

Còn bây giờ chúng ta lấy giới luật mà khép mình như ở khất sĩ rồi không có pháp hành thì cuối cùng thì chúng ta cũng vẫn bị phạm giới à, không có làm sao mà chúng ta thoát ra được!

Thì cũng như lục sư ngoại đạo, lúc bấy giờ họ cũng có những cái giới luật của họ để ngăn chận cái tâm ác của họ, để tịnh chỉ làm cho tâm họ nó thanh tịnh, nhưng vì nó không có pháp hành đúng đắn cho nên nó khó mà dứt được cái tâm ác, mà khó được làm cho tâm thanh tịnh.

Cho nên cáo chung thì họ chẳng đưa cái con người đến cái chỗ giải thoát, mà những cái giới luật, những cái hành của họ nó sai đi.

Nó làm cho những người tu hành mà trong cái thời Đức Phật có nói là những người khổ hạnh đó, họ sống cái hạnh con bò, họ sống cái hạnh con chó, rồi họ sống cái hạnh nằm trên phân, nằm trên dơ, nằm dưới nước ngâm mình, đủ loại đủ cách đó, đó là người ta cũng quyết dứt cái ác để người ta làm cái thiện người ta mới chịu khổ hạnh như vậy.

Nhưng mà cái khổ hạnh đó không có đưa họ đi đến đâu. Họ trở thành con bò hoặc con chó hoặc là con heo, vì họ làm cái nào giống cái nấy, thì cái thú hướng đó nó sẽ đưa họ đi đến.

(42:11) Nhưng mà họ đâu có biết cái pháp hành như thế nào, thì họ phải hành cái khổ hạnh như vậy. Họ tưởng là khổ hạnh như vậy để được giải thoát, nhưng cuối cùng thì lại làm khổ họ mà cuối cùng lại là sanh vào địa ngục.

Cho nên chúng ta - nếu mà chúng ta lấy cái giới bổn mà khô khan, mà của các hai mươi bộ phái và cũng bây giờ mà đã chia làm sáu cái bộ luật như vậy đó mà chúng ta hành đi, thì chắc chắn là chúng ta cũng như là các cái vị khổ hạnh trong lục sư ngoại đạo kia chớ không khác gì hết.

Bởi vì nó không có cái pháp hành, cho nên chúng ta không thể nào sống được. Và đồng thời chúng ta lại sống không có đúng cái cơ sở căn bản của một cái người mới xuất gia nữa, cho nên Thập Giới Sa Di chúng ta không có thực hiện được, từ đó mà chúng ta trở thành những ngoại đạo.

Mặc dù hiện giờ là Phật giáo, nhưng mà cái tên Phật giáo chớ cái hành sống của chúng ta là ngoại đạo chớ không phải là Phật giáo nữa.

Sau khi Phật giáo sáng lập để phân biệt Sa Môn ngoại đạo với Sa Môn Phật giáo nên gọi Sa Môn Phật giáo là Sa Môn Thích Tử.

Nó có cái danh từ để chúng ta gọi cái Sa Môn của ngoại đạo với Sa Môn của Phật giáo nó khác nhau có một chút là Sa Môn Thích Tử. Thì quý thầy thấy nó chỉ có cái danh từ để gọi chớ còn cái hành thì - cái hình tướng thì của ngoại đạo lúc bấy giờ với cái vị Sa Môn của Phật giáo nó giống nhau.

Người ta cũng mặc y hoại sắc chớ người ta đâu có mặc cái đồ trắng, đồ vải, người ta cũng mặc đồ thô, người ta cũng sống khổ hạnh, chớ đâu phải là người ta sống lợi dưỡng như quý thầy bây giờ đâu!

Người ta sống rất là khổ hạnh, thế mà người ta vẫn hành nó không đúng, cái pháp hành nó không đúng, nó không đem đến cái sự giải thoát, nó không lìa được cái ác pháp, nó không ly được dục, cho nên do đó mà người ta không đạt được cái cứu cánh. Tại vì cái pháp hành người ta không có nhưng mà cái giới thì người ta có.

(44:03) Đó thì chúng ta hiểu được như vậy thì cái Sa Môn của ngoại đạo nó cũng là cái hình thức của Sa Môn của Phật giáo, nhưng ở đây cái Sa Môn của Phật giáo Thích Tử thì nó có cái giới hành, nó có cái pháp hành, cho nên nó thực hiện được cái tâm giải thoát cứu cánh, cho nên nó đến cái chỗ hoàn toàn là thanh tịnh tâm nó.

Quan niệm về hình thái xuất gia tu hành gần như là hiện tượng chung của các tôn giáo trên thế giới.

Nghĩa là nói về cái hình thức mà xuất gia đó, mà tu hành đó, thì những cái hiện tượng đó thì các tôn giáo trên thế giới gần giống như nhau hết, chớ không có khác nhau bao nhiêu đâu.

Mục đích tối cao của tôn giáo là sự tìm cầu giải thoát khỏi nhục dục và sự tự tại của tâm linh.

Đó thì cái tôn giáo nào nó cũng nhắm vào cái chỗ đó chớ không có tôn giáo nào mà khác cái chỗ đó. Nhưng có làm được hay không là do cái chỗ pháp hành đúng hay là sai, vì pháp hành sai là đưa chúng ta đi đến chỗ không giải thoát được, mà pháp hành đúng thì sẽ đưa chúng ta đi đến chỗ giải thoát.

Vì thế tôn giáo mới được gọi là tôn giáo.

Đó, nó có như vậy mới gọi nó là tôn giáo, chớ nếu mà không được vậy thì ai gọi là tôn giáo làm gì.

Cho nên tất cả các phương pháp bất luận là những hành pháp nào, tu tập hay trau dồi, tất nhiên cũng phải ra khỏi cái cuộc đời thế gian.

Nghĩa là tôn giáo nào thì cái người mà tu theo cái tôn giáo đó thì cũng phải ra khỏi, sống ra khỏi cái cuộc đời sống thế gian, chớ không thể nào mà nằm ở trong cái cuộc đời sống của thế gian mà thực hiện cái pháp môn đó mà được.

Cho nên mới gọi là xuất gia…​

Đó!

…​ hay hoặc gọi là xuất thế gian.

Đó thì quý thầy phải hiểu cái chỗ này, chớ nếu mà không hiểu thì mình cứ sống ở trong thế gian mà mình cứ nói rằng: “Tui xuất thế gian” thì nó không được.

Cho nên Thầy mới dựa vào những cái bài kinh của Phật mà Thầy vạch ra cho thấy hai cái lộ trình rất rõ, để chúng ta thực hiện những cái pháp nào ở trong cái lộ trình nấy, để chúng ta chuẩn bị cho bước sang cái lộ trình thứ hai là cái đời sống của người xuất gia nó phải như thế nào đúng, giữ những cái hạnh nào đúng, rồi những cái pháp nào để trau dồi, để cho cái hạnh đó mà chúng ta được viên mãn cho đến khi mà chúng ta thành tựu được cái sự hoàn toàn giải thoát.

Đó là một cái điều mà chúng ta phải lưu ý, chớ còn nếu không lưu ý thì nhiều khi chúng ta sống ở trong thế gian mà như là tưởng mình là xuất thế, thì cái đó không có đúng cái tính cách của cái người tu sĩ, dù là tôn giáo nào cũng vậy.

5.2- TU SĨ ĐẠO PHẬT CÓ HÌNH THỨC KHÁC VỚI NGƯỜI THẾ TỤC

(46:40) Cho nên chúng ta thấy rất dễ: Các tôn giáo khác, cái hình thức của họ, họ không phải như là Phật giáo. Phật giáo vào thì cái đầu phải cạo trọc, nghĩa là thay đổi cái tướng của nó rồi đó, rồi y áo nó phải thay đổi hết, nó không có ăn mặc theo cái kiểu thế gian.

Còn trái lại thì chúng ta phải thấy các tôn giáo khác thì họ - cái đầu họ không có thay đổi đâu, họ để tóc cũng y như cái người thế tục. Cho nên do cái chỗ mà cái hình dáng của họ như vậy đó, họ làm bậy làm bạ, họ sống theo kiểu dục lạc thế gian thì dễ gạt người ta lắm.

Bởi vì thí dụ như bây giờ có một vị linh mục, ông mặc cái chiếc áo linh mục vô thì nói ông linh mục, nhưng ổng bỏ cái chiếc áo linh mục ra thì ổng đi ra cái quán rượu ổng ngồi ổng uống như thường, hay hoặc là ổng vô cái lầu xanh đi nữa thì người ta cũng đâu có biết ổng là linh mục!

Cho nên vẫn thấy ổng là linh mục khi mà ông ở trong nhà thờ, nhưng mà ổng khi đi ra ngoài rồi thì người ta không nhận ra ông là linh mục, cho nên ổng có thể làm những cái điều sai quấy có thể dễ dàng lắm.

Còn cái ông tu sĩ chúng ta mà đi làm bậy bạ, vô cái nhà lầu xanh mà thấy cái đầu trọc mà ở trong đó thì chắc chắn là thiên hạ cười ngất rồi, không có thể nào mà chịu được thấy cái đầu trọc mà vô trong đó!

Cho nên Thầy có một lần Thầy nghe cái câu chuyện của Khưu Trường Xuân. Ổng tu theo tiên đạo như thế nào đó không biết, mà cái tâm dục ổng như thế nào đó mà ổng muốn vô lầu xanh ổng thử ổng, mà ổng vô đó ổng lại gặp Bồ Đề Đạt Ma cái đầu trọc lóc thì còn cái gì của đạo Phật nữa không?

(48:07) Các thầy nghĩ cái điều đó, cái điều mà không biết, họ viết, họ đặt điều như vậy, không lẽ là Bồ Đề Đạt Ma mang cái đầu trọc mà vô lầu xanh ở trong đó để thí nghiệm nữa thì Thầy không biết làm sao! Cái kiểu đó là cái kiểu thiệt là bịa đặt đủ thứ để mà mạ nhục Phật giáo của chúng ta!

Cho nên cái đầu trọc không có dám đi đâu hết à, đừng có nói chuyện mà vô trong quán mà ngồi uống rượu, cái đầu trọc này mà ngồi đó uống rượu được nữa! Thế mà có mấy ông đầu trọc cũng ngồi đó uống rượu tự nhiên chớ.

Không phải Thầy nói không có đâu! Có tự nhiên lắm chớ không phải không đâu! Họ xem cái sắc tướng của một cái vị tu sĩ đạo Phật quá tầm thường, họ phạm pháp hết sức không thể nào tưởng tượng nổi!

Cho nên người ta - người đời người ta xem Phật giáo bây giờ có ra gì đâu! Đó là những cái mà người ta không thấy được cái trách nhiệm, cái bổn phận của người tu phải làm sao mà làm sáng tỏ Phật pháp lại.

Đó thì các thầy thấy rõ không? Các tôn giáo khác người ta rất dễ lắm.

Cũng như bây giờ ông Cao Đài ổng mặc cái áo trắng vô mình thấy đó là cái ông chức sắc Cao Đài rồi. Ổng cởi cái áo trắng ra rồi thì bắt đầu ổng ngồi chỗ nào cũng được hết, ổng ở chỗ nào cũng không ai nói ông Cao Đài hết à! Đó thì rất dễ, cái chuyện ổng chạy theo dục lạc rất dễ.

Còn ông tu sĩ ông Phật ổng chơi độc lắm, ông bắt chúng ta cạo đầu, mà cấm không có cho chúng ta uống rượu. Còn cái kia các tôn giáo khác không có cấm uống rượu, cái giới luật của họ không cấm uống rượu, cho nên thả cửa.

Mà lại còn hàng năm các thầy - Thầy nghe mấy ông cha mấy ổng nói mà, hằng năm ở Vatican là cung cấp cho mỗi ông cha là bao nhiêu cái chai rượu nho mà thứ đặc biệt đó, để cho mấy ổng uống cho ngon đó.

Chớ không phải là như chúng ta, ông thầy chùa mà vô mà uống rượu là bị phạt liền đó. Nó có những cái - tu hành của đạo Phật nó có những cái khắc khổ, là vì nó không có cho hưởng lạc của thế gian.

Mà cái rượu nó là một cái mà kích thích nam nhi chúng ta mạnh lắm, thích lắm chớ không phải, mà gợi chí anh hùng, gợi cái anh hùng cá nhân của chúng ta cũng dữ tợn lắm. Cho nên khi mà cái người say rượu rồi cái anh hùng của ông ta nổi lên thì ông ta chẳng sợ cái gì hết.

Cho nên cái đó là cái nguy hiểm nhất, ác nhất của con người mà Đức Phật đã hiểu được, cho nên mới có cái giới luật đó cấm. Còn trái lại các tôn giáo khác không có cái giới luật đó.

Chúng ta phải hiểu được cái chỗ tu hành của đạo Phật nó phải nằm ở trong toàn thiện thì cái rượu, cái đồ mà nghiện ngập đó nó sẽ đưa chúng ta đi đến chỗ ác độc nhất, cho nên Đức Phật cấm không có cho chúng ta nghiện ngập.

Và Đức Phật là xây dựng trên nhân quả, mà nghiện ngập tức là cái nghiệp, nó tạo thành cái nghiệp, nghiệp là cái thói quen, mà nghiện ngập nó mới thành cái thói quen, cho nên do cái chỗ đó mà Đức Phật mới cấm chúng ta, chớ không phải là làm chúng ta khổ sở đâu.

Đó có hiểu biết như vậy chúng ta mới thấy được cái đạo Phật nó trên hết tất cả các cái tôn giáo khác là nó không có đem cái hình dáng của nó mà làm tầm bậy được.

Còn bây giờ tại vì chúng ta bắt chước, nhưng mà bắt chước để chúng cười, còn cái kia người ta bắt chước mà chúng không cười. Nghĩa là người ta chạy theo dục lạc mà đâu có ai biết đâu mà cười, còn mình hở ra cái đầu trọc không lẽ bây giờ để tóc hay hoặc là mua đồ tóc giả chụp lên để mà hưởng dục lạc thế gian?

Cho nên Thầy có nghe trong báo Công an đăng thế này: Có một Ni cô và một cái ông thầy, rồi hai người bị đầu trọc hết rồi làm sao? Ni cô thì mua cái đầu tóc giả quăn chụp lên, ông thầy thì cũng mua cái đầu tóc giả chụp lên, rồi hai người mới rủ nhau đi Vũng Tàu chơi.

Không ngờ trên đường đi lại nó bị tai nạn lưu thông cho nên té bật ngửa ra đó, công an nó lại nó thấy. Trời ơi, lòi ra hai ông thầy với Ni cô này! Chơi kiểu này thôi chết rồi!

(51:45) Nó bại lộ tất cả những cái bại lộ, bởi vì cái đầu trọc của mình bây giờ tóc nó mọc sao kịp, phải không? Nó văng ra hai cái đầu tóc giả nó nằm đó, thì tức là người ta thấy, vì vậy mà nó bại lộ, nó xấu xa quá độ!

Nó xấu mấy người đó thì chúng ta đâu có yên tâm? Chúng ta là những người tu sĩ mà. “Xấu lá, xấu nem, xấu anh, xấu em”, một người xấu là cả bầy xấu nhau, người ta cũng nhìn mình cái bộ mắt đó chớ làm sao người ta nhìn khác hơn nữa! Người ta cũng nói ông thầy nào cũng vậy chớ làm sao người ta khen mình được!

Cho nên tất cả những cái sai lầm này nó làm cho Phật Pháp suy đồi, nó làm cho cái người tu hành chân chánh người ta rất ngại ngùng.

Các thầy phải hiểu cái điều đó. Đau lòng lắm chớ đâu phải sung sướng đâu! Khi mà cái tờ báo Công an mà nói giáo chủ này mà rờ đít người kia, trời đất ơi! Chúng ta không phải sống yên tâm đâu, sung sướng gì đâu!

Cái đầu trọc của chúng ta với cái đầu trọc kia nó có khác nhau chỗ nào đâu? Hai cái đầu nó cũng không có tóc mà chúng ta sung sướng được sao? Nghe người ta chửi ông kia thì ông này cũng động tâm chớ!

Người ta nói “thố tử hồ bi” - con thỏ chết con hồ, con cáo nó còn khóc. Còn chúng ta là đồng con người mà đồng một tôn giáo như vậy mà bây giờ các ông làm bậy để cho chúng ta những cái nỗi đau khổ chúng ta chớ đâu phải là sung sướng gì.

Thế mà nhan nhản những cái sự đó, hiện bây giờ còn chứ không phải là hết đâu. Làm sao chúng ta dẹp cho sạch? Cái hạng tu hành mà còn dục lạc, không có chịu xả bỏ thì làm sao mà đi trên con đường này được!

Thế cho nên vì vậy mà Thập Giới Sa Di là cái cơ sở để mà xây dựng cái người tu sĩ của đạo Phật, thế mà bây giờ không còn cái Thập Giới Sa Di ra gì nữa hết thì 250 giới có nghĩa lý gì đối với mấy người đó? Người ta hoàn toàn là ở trong cái hình thức chớ không còn có cái thật sự là xuất gia nữa.

5.3- NỀN MÓNG ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN NHÂN QUẢ

(53:31) Hình thái xuất gia tuy các tôn giáo đều có, song xuất gia mà đạt được sự thật đến cảnh giới giải thoát sanh tử thì chỉ có Phật giáo, do hình thái xuất gia tuy gần giống nhau nhưng nội dung xuất gia hoàn toàn bất đồng.

Nghĩa là chúng ta thấy nó có giống nhau vậy chớ nhưng mà nó có những cái sự bất đồng, nó không có giống nhau hết đâu.

Phật giáo đặt nền móng trên nhân bản…​

Nghĩa là cái nền móng của Phật giáo ra đời là nhắm vào con người, từng cá nhân con người, từng cái cấp thăng hoa của nó:

…​ để xuất phát từ cái lý trí phán đoán, quyết trạch…​

Nghĩa là Phật giáo lấy cái con người mà làm cái hướng, làm cái đối tượng để mà từng cái pháp môn để thăng hoa cho con người đi đến cái toàn thiện của nó, xuất phát từ cái lý trí của cá nhân đó, của cái bản thân của người đó, phán đoán và quyết trạch để cứu mình chớ không phải là có một người nào cứu họ được.

Đó chúng ta phải hiểu, từ cái chỗ lý trí chúng ta mà phán đoán, quyết trạch đó, thì nó mới lưu xuất ra trong những cảnh giới đích thân chứng ngộ của chính người đó, và cũng chính đó là cái chỗ mà Đức Phật đã đích thân Đức Phật chứng ngộ.

Chúng ta phải hiểu như vậy nó mới đúng cái nghĩa, chớ không phải là đến với cái tôn giáo của đạo Phật mà không phải chính cái hành động của mình thì chắc chắn là mình không thể nào đạt được.

Cũng như bây giờ chính cái hành động của các vị đó mà chạy theo dục lạc như vậy thì làm sao mà có được giải thoát? Mà chính những cái hành động của các vị đó phải từ bỏ, phải ly tất cả những cái dục, ly tất cả những ác pháp thì nó mới chứng được cái đích, cái sự chứng ngộ của đạo Phật, mới chứng thật.

…​ chớ không phải cấm dục cực đoan như trong các kinh, trong các giới bổn.

Nghĩa là quý thầy phải hiểu rằng chính chúng ta phải thực hiện trau dồi chúng ta để chúng ta thực hiện được cái giới bổn đó bằng cái chứng nghiệm của cái sự giải thoát, chớ không phải lấy giới bổn đó mà cấm dục cực đoan.

(55:37) Các thầy phải hiểu cái chỗ Thầy nói. Nghĩa là mình đừng có lấy giới bổn đó mình cấm dục, cấm cái dục của mình, mà mình phải trau dồi để mình ly ra chớ không phải là lấy cái giới bổn mà cấm dục.

Đó thì cái chỗ này là cái chỗ quan trọng để mà chúng ta hiểu được cái giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề. Còn nếu mà không hiểu như vậy thì coi như là chúng ta lấy giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề mà cấm dục để cho cực đoan để chúng ta đến chỗ chết chúng ta chớ chúng ta chẳng có giải thoát được gì.

Ở đây Phật giáo đặt giáo pháp của mình trên cái lộ trình nhân quả căn cứ vào suối nguồn thiện ác.

Đó thì quý thầy thấy rõ ràng: Phật giáo đặt cái lộ trình của mình trên cái nhân quả, cho nên căn cứ vào cái suối nguồn thiện ác mà thực hiện trau dồi.

Bởi vì ác với thiện mình phải thấy rõ, cho nên giới luật của Phật phải nằm ở trên thiện ác đó mà chúng ta thực hiện theo nhân bản, tức là luôn luôn lúc nào cái nhân bản của chúng ta càng ngày càng thiện thì nó đề cao cái nhân bản chúng ta lên. Còn bây giờ chúng ta cứ làm những cái điều ác thì làm sao cái nhân bản chúng ta cao lên được?

Cho nên ở đây Đức Phật nhắm vào con người để đề cao cái nhân bản họ càng ngày càng tăng lên trên cái thiện pháp, chớ không…​

Xả ly tất cả các ác pháp ra, thì cái nhân bản của con người đó nó càng ngày càng được cao lên, và những cái pháp ác càng ngày càng dứt bỏ ra, căn bản những cái pháp ác đều là bị thoái trừ ra qua cái đường lối tu tập của đạo Phật.

Đó chúng ta thấy rất rõ mà, càng ngày càng thấy cái đạo đức của đạo Phật càng thể hiện ở trên cái con người tu sĩ của đạo Phật chớ.

Còn đằng này, càng ngày càng thấy các thầy mà cái hình thức chúng ta thấy giả dối, đội cái tóc giả mà đi như vậy, đi hưởng dục lạc thì đó là sống ở trong pháp ác chớ, thì hai cái người này chỉ còn có cái nước mà chui xuống đất chớ còn ở đó mà nhìn thấy ai nữa không?

Mà quý thầy phải biết khi mà người ta phát giác ra, những vị này đều là những vị có giáo phẩm ở trong hàng giáo hội chúng ta chớ đâu phải là những cái tay thường đâu, chớ đâu phải là những cái chú Sa Di, những cái tu sĩ mà chẳng danh chẳng lợi gì đâu, đều là những người có chùa to tháp lớn hết chớ không phải là thứ nhỏ đâu.

(57:37) Đó là những cái điều mà Thầy thấy thiệt là một cái rất là sai. Bởi vì của cải, tiền bạc nhiều thì dục lạc nó phải sanh ra chớ làm sao! Còn cái ông tu sĩ chẳng có cái gì hết, làm sao có dục lạc?

Còn cái này của cải, tiền bạc chất ngập chùa thì tức là phải sanh cái chuyện tầm bậy, rồi mới cặp đi tầm bậy như vậy để hưởng lạc ở Vũng Tàu. Cho nên đó là những cái mà càng làm lớn bao nhiêu, tiền bạc càng nhiều bấy nhiêu thì nó lại sanh ra dục lạc bấy nhiêu đó đó.

Cho nên Phật dạy chúng ta xả bỏ, xả bỏ cho sạch, người lớn cũng như người nhỏ, không có người nào còn một cái tài sản nào hết thì mới có thể giải thoát, mới có nhân bản, chúng ta càng ngày mới dứt các pháp ác thì cái nhân bản thiện pháp chúng ta càng ngày càng tăng trưởng.

Còn nếu mà còn một vật chất gì đó thì nó xui khiến cho chúng ta làm những cái điều ác thêm chớ không phải là…​ Bởi vì dục lạc nó có cái sự cám dỗ rất lớn, mà nếu mà chúng ta có cái phương tiện, có đầy đủ thì nó sanh ra cám dỗ chúng ta, nó đẩy chúng ta đi đến chỗ con người rất là xấu xa, tệ bạc.

Bởi vậy đạo Phật đặt nền tảng quan hệ đạo đức nhân quả để thăng hoa từng cấp bậc.

Nghĩa là chúng ta từ cái Sa Di đó mà thăng lên từ Tỳ Kheo, rồi tới các bậc cao hơn nữa đến cái chỗ mức giải thoát, nó thăng hoa chúng ta lên từng cấp bậc.

Mà mỗi cấp bậc thì cái oai nghi tế hạnh của người ta thực hiện ra nó như thế nào chớ, còn đằng này mình thăng cái cấp của mình lên quá cao trong hàng giáo phẩm, tới cái bậc Hòa thượng rồi, mà nhìn cái đời sống của mình nó thua cái chú Sa Di mới vào tu à, thì thử hỏi nó còn cái chỗ nào mà chúng ta có thể gọi là đạo Phật được!

Thầy lặp lại chỗ này:

Bởi vậy đạo Phật đặt nền tảng quan hệ đạo đức nhân quả để thăng hoa từng cấp bậc. Từ sinh hoạt tại gia…​

Nghĩa là bây giờ mình muốn thăng hoa cái cấp bậc của mình đi trên con đường mà giải thoát đó, để thể hiện cho đúng sự giải thoát của nó.

Từ sinh hoạt tại gia lấy Tam Quy làm gốc, Ngũ Giới làm hành động sống hàng ngày, Bát Giới chỉ là tập luyện cho quen dần với đời sống xuất gia mà thôi.

Nghĩa là cái đời sống người cư sĩ, người ta còn phải có sự tu tập của nó như vậy: Lấy Tam Quy làm gốc, Ngũ Giới nó làm cái hành động sống của họ, và cái Thọ Bát Quan Trai nó chỉ là người ta tập luyện cho người ta quen với đời sống xuất gia.

Thì quý thầy thấy rất rõ, từ cái sinh hoạt tại gia của cái người tại gia tức là cư sĩ đó, thì họ cũng phải lấy gốc Tam Quy nó làm cái gốc của họ, mà lấy Ngũ Giới làm cái hành động sống hàng ngày của họ, cho nên nó làm sao mà nó sai lệch được!

Còn Bát Giới, Bát Quan Trai Giới chỉ là cái sự tu tập của cái người cư sĩ tại gia để mà họ tập quen với đời sống xuất gia. Chúng ta thấy người ta - cái đường lối của cư sĩ người ta còn phải thực hiện như vậy.

Còn huống hồ là mình tu sĩ, bắt đầu từ Thập Giới Sa Di rồi thì mình đi lên nữa chớ! Đằng này mình đi lui xuống cư sĩ, mình đi mình còn thua người cư sĩ nữa, thì thử hỏi như vậy làm sao mà gọi là…​

(01:00:37) Nghĩa là mình đi lui, rõ ràng đi lui, nhìn Thập Giới Sa Di mình thấy mình đi lui rõ ràng à. Tu sĩ gì một ngày mà ăn ba bốn bữa, không phải đi lui xuống cư sĩ sao? Rồi tu sĩ gì mà cất giữ tiền bạc, không phải là đi lui xuống cư sĩ sao?

Tu sĩ gì mà còn hành nghề? Hành nghề nào là thầy thuốc nè, rồi thầy bùa nè, thầy coi ngày tốt xấu nè, thầy chiêm tinh, toán quẻ nè, thầy cúng bái nè, tu sĩ gì mà đi lui lại cái người cư sĩ à! Có phải đi lui không hay là đi tới?

Đó thì quý thầy thấy, thầy thuốc - tu sĩ gì mà đi trồng rừng, đi trồng cây trái, đi làm lập vườn cà phê, đi làm cái này, cái kia? Tu sĩ gì mà không bỏ cái thế gian mà lại còn ham tiền ham bạc mà đi làm, thì không phải đó là đi lui sao? Đi lui xuống dưới cái dạng của người cư sĩ, chớ không phải là người tu sĩ đâu.

Đó, người cư sĩ người ta dần người ta đi lên người ta tập Thọ Bát Quan Trai để tập đời sống của xuất gia, còn mình là tu sĩ rồi, thọ 250 giới rồi, 348 giới rồi, mà bây giờ đi lui lại, đi ra làm ruộng để lấy lúa mà ăn, thì thử hỏi còn cái gì là người tu sĩ không?

Đi lập vườn tiêu nè, đi lập vườn thanh long nè, đi lập cơ sở này, cơ sở khác, thậm chí có người còn đi ra buôn bán nữa, mở tiệm cơm chay đồ đi bán nữa, thì thử hỏi những cái đó là cái đúng, hay cái sai?

Phật có dạy chúng ta ở trong kinh không? Bảo chúng ta bỏ hết chỉ còn cái nghề đi xin ăn mà thôi, ai có cho thì ăn mà không cho thì đói, còn đằng này không, thôi làm đủ thứ hết nghề, nào đương đát rổ rá gì đủ thứ, không có còn chỗ nào mà chừa hết.

Trong cái nghề thế gian thì để cho con người thế gian người ta làm ăn, mình cũng đi tu rồi cũng muốn tranh nữa, cũng muốn giành các nghề của người ta nữa, thì thử hỏi quý thầy cứ nghĩ như thế nào, là đúng là sai không?

Đó là những cái sai, mà cái lùi của người tu sĩ chớ không phải là cái thăng hoa, cái tiến cấp của cái người tu sĩ giải thoát, mà lùi trở lại để đi về với cái dục lạc của thế gian, cái kiếp sống của con người thế gian.

Người thế gian người ta chưa hiểu cái đường tu thì người ta lấy cái đó mà người ta làm cái kiếp sống của người ta. Còn mình là người đã hiểu Phật pháp rồi, mà mình lại hiểu là giới kinh của Phật dạy rất rõ rồi mà mình còn đi lùi trở lại sống như vậy.

Nếu mình tu được thì mình tu, mình tu không được thì mình đi trở về cái đời sống của cư sĩ, của thế gian đi, chớ còn mình đừng có mặc cái chiếc áo này mà làm nhục, làm mạ lụy Phật pháp, làm suy đồi Phật pháp, thì tội đó quý vị sẽ thọ lấy những cái quả báo sau này là phải đọa biết bao nhiêu cái địa ngục chớ không phải một cái địa ngục.

(01:03:12) Là tại sao vậy? Tại vì đạo Phật nhắm vào để giải thoát cho con người trên thế gian này ra khỏi sự đau khổ của chính họ, thế mà chúng ta lại làm cho Phật pháp suy đồi, làm cho Phật pháp mất gốc, thì những người này phải chịu quả báo rất lớn đối với cái sự đau khổ của con người trong thế gian này.

Ngũ Giới và Thập Thiện là đặt nền móng đạo đức nhân quả để xây dựng đạo đức luân lý của xã hội loài người. Do đặt trên nền móng nhân quả, Phật giáo mong muốn mọi người đều tin Phật, học Phật để tự giải thoát cho mình và cho người.

Vì thế đạo Phật tuyệt nhiên không ép buộc mọi người theo đạo Phật, hoặc ép buộc mọi người phải xuất gia. Vì lợi ích thiết thực, cụ thể, giải thoát sự đau khổ của mọi người nên họ tin Phật, học Phật, tuyệt nhiên không được ai có quyền bắt ép họ thọ Tam Quy hoặc xuất gia.

Đó là đạo Phật là một cái đạo nó không có buộc, không có quyến rũ ai hết, thế mà có Tứ Nhiếp Pháp.

Tứ Nhiếp Pháp để làm gì? Để quyến rũ người ta chớ làm gì, cho tiền người ta bảo vào đạo Phật mình, lại nói ngon nói ngọt như thế này để dụ người ta vào đạo Phật của mình, không phải là có cái chỗ quyến rũ sao?

Cho nên Tứ Nhiếp Pháp từ đâu sanh ra, quý thầy có biết không? Để lần lượt rồi Thầy sẽ giảng tới rồi quý thầy thấy những cái lối đó nó không có đúng với Phật Pháp chút nào hết.

Bởi vì Phật Pháp xây dựng ở trên cái nền tảng giải thoát cho con người, thì cái người đó người ta thấy được cái hành động thiện thì đem lại cái sự an lạc cho họ, và cái hành động ác đem đến cái sự đau khổ cho họ, từ đó họ thấy đúng cho nên họ mới tin Phật, họ mới theo Phật.

Còn họ không hiểu, không biết thì chúng ta không có dụ dỗ họ, không có ép họ. Dụ dỗ họ, mai mốt không tiền cho cái họ đi ra tôn giáo khác, phải không? Hay hoặc là họ vô đó họ quậy, họ phá, họ làm tùm lum ra đó, thì như vậy dụ dỗ họ để họ phá đạo chớ làm gì?

Cho nên đạo Phật không có ép buộc ai hết, không có buộc người nào xuất gia hết. Vậy mà có một số người cứ đến rỉ tai vô cái lỗ tai của mấy người cư sĩ: “Xuất gia đi! Xuất gia đi! Xuất gia đi!” Rốt cuộc rồi đi làm công quả các chùa, lau chùa, lau miểu họ chớ có làm cái thứ gì mà nên trò trống gì?

Hầu như cứ nghe nói xuất gia, xuất gia, cái xuất gia vô rồi, bắt đầu đi vô đó mà lau chùa chớ có làm cái gì! Rồi đi làm ruộng, làm rẫy, đi trồng vườn, trồng tược để mà ăn, mà sống thì cũng như bao nhiêu người thế gian.

Rủ nhau cả đám để mình xuất gia mình làm bậy. Thì rủ người ta làm bậy không ai cười, còn để có mình mình làm bậy thì chúng cười, cho nên rủ nhau cả đám cho đông chớ có làm cái thứ gì nên trò trống gì?

Tu hành cho tới bây giờ hai, ba chục năm rồi nhìn ông nào, bà nấy cũng là - cái mặt cũng y như là người thế gian chớ có khác chút nào đâu, có thể nói rằng dục lạc còn hơn nữa!

Muốn biết người nào đã có thích nghi với sự xuất gia hoặc tại gia ở trong Phật giáo, chỉ cần xem người đó có tiếp thọ được tinh thần nhân quả trong giới luật của đạo Phật hay không?

(01:06:13) Người ta nói căn cơ - người có căn tu người không có căn tu, sự thật căn gì? Ở đây chúng ta biết được cái nhân quả của cái người đó họ có thích nghi được cái nhân quả đó không? Họ có thích làm điều thiện hay không? Hay hoặc là họ thích làm điều ác?

Một ông đồ tể chuyên môn đi giết heo, giết bò, mà ổng có thích nghi được cái chuyện của chúng ta không? Nếu ông không thích nghi được cứ rủ ổng đi, ổng cũng vô đạo Phật ổng đem tiền ổng cúng chùa để mà ổng cầu cho con heo đừng ăn ổng, chớ có ai mà phù hộ ổng được!

Thì thử hỏi trong cái vấn đề mà đi quyến rũ một cái người mà đang cầm cái dao mà giết bò giết heo như vậy, thì chúng ta quyến rũ họ được không? Vậy mà có người bằm thịt mà gọi là thấy Phật Tánh thì quý thầy nghĩ sao?

Giới luật xuất gia do quan niệm đạo đức nhân quả thăng hoa mà lập thành.

Đó thì quý thầy thấy: Cái giới luật của Đức Phật đó chúng ta thấy rõ, giới luật xuất gia rõ ràng là nằm ở trên cái nhân quả thiện ác rồi, mà nhân quả thiện ác - rõ ràng là giới luật của Phật nó đâu có đi làm cái điều ác?

Do đó vì vậy mà chúng ta mới thấy rõ ràng, nó thăng hoa lên từng cấp bậc thiện của chúng ta càng ngày càng cao lên trên cái nền đạo đức của nhân quả.

Nhân quả chấm dứt thì cảnh giới Niết Bàn giải thoát.

Nghĩa là khi mà nhân quả mà chúng ta đã chấm dứt được cái nhân quả thì cái cảnh giới Niết Bàn nó giải thoát, nó hiện tiền.

Còn cái nhân quả mà nó còn chi phối chúng ta có thiện có ác thì nó luôn luôn nó tiếp tục tái sanh luân hồi, nó đưa chúng ta từ cái nghiệp này đến cái nghiệp khác để mà thọ lấy hạnh phúc hay hoặc là thọ lấy sự khổ đau của nó mà thôi.

Cho nên con đường của đạo Phật vạch ra chúng ta thấy rõ: Muốn giải thoát thì chúng ta phải chấm dứt nhân quả, mà còn nhân quả thì chúng ta không thể nào mà giải thoát.

Đây chẳng phải là sự siêu xuất sanh tử một cách đột ngột…​

Nghĩa là chúng ta muốn làm chủ sanh tử không phải là cái sự siêu việt nào mà chúng ta làm chủ nó được, mà chúng ta phải thấy cái lộ trình của nhân quả, thì do đó chúng ta mới chấm dứt được cái lộ trình nhân quả thì sanh tử chúng ta sẽ làm chủ.

Đây chẳng phải là sự siêu xuất sanh tử một cách đột nhiên như các tà giáo ngoại đạo khác tưởng ra.

Nghĩa là hầu hết là các tà giáo ngoại đạo khác tưởng là mình phải khổ hạnh như thế này nè, làm như thế này đó thì mới là liễu sanh thoát tử được, hay hoặc là tu tập như thế này nè, thì nó mới liễu sanh thoát tử được, mà nó do cái sự tu tập đó đột nhiên nó đến.

Còn ở đây chúng ta biết mà, nó thăng hoa từng chút mà. Chúng ta làm một điều lành, rồi chúng ta dứt một điều ác, rồi lần lượt chúng ta cứ lần lượt mà chúng ta dứt trừ các cái điều ác rồi tăng trưởng các cái điều lành, thì tức là thăng hoa cho đến khi mà nhân quả chấm dứt.

Thì lúc bấy giờ cái làm chủ sanh tử chúng ta không phải là sự siêu xuất, mà cũng không phải là sự đột nhiên mà đến, mà do cái quá trình trau dồi, xa lìa cái ác pháp để rồi tuần tự mà thực hiện toàn thiện pháp.

Khi mà còn thiện pháp không mà không còn ác pháp, thì lúc bấy giờ nhân quả nó không còn đối đãi nữa, mà không còn đối đãi nữa thì tức là nhân quả nó dứt, mà nhân quả nó dứt thì Niết Bàn giải thoát chớ có cái gì mà khác lạ! Nó đâu phải là một cái sự đột xuất nào một cách là siêu việt ở đâu mà đến mà làm chủ sanh tử được!

(01:09:28) Nhân bản của đạo đức nhân quả phải được sự thăng hoa từng cấp giới luật đạo đức nhân quả của đạo Phật…​

Đó chúng ta thấy ở đây Thầy lặp lại như vậy để thấy được cái chỗ mà đạo đức của nhân quả nó đưa chúng ta từng cấp, từng cấp mà đi lên cho đến khi mà cho đến khi mà chúng ta giải thoát, đó mới gọi là đạo đức của đạo Phật.

…​ mới hoàn thành được sự giải thoát.

Vì thế đây chẳng phải là vô căn cứ mà phải đặt trên nền móng sinh hoạt hàng ngày tại gia của mỗi cá nhân cư sĩ.

Nghĩa là bắt đầu chúng ta phải đi vào đạo Phật là chúng ta phải thực hành hàng ngày ở tại gia đình của chúng ta trong những cái lộ trình của nhân quả, chớ không phải là đợi chúng ta xuất gia mới thực hiện.

Mà bây giờ xuất gia mà thực hiện thì chúng ta phải hơn chớ, tại sao chúng ta lùi lại cư sĩ? Chúng ta còn tệ hơn những người cư sĩ mà người ta mới có thọ Tam Quy à!

Đó thì chúng ta thấy chúng ta đã thọ cái gì? Bây giờ là 250 giới, 348 giới rồi, trở thành những cái bậc thượng thủ của đạo Phật rồi, đệ tử xuất gia cao rồi, thế mà cái đời sống của chúng ta còn thua cái người mà cư sĩ mới thọ Tam Quy.

Thì bằng chứng là quý thầy cứ - bây giờ cứ nhìn những cái vị tu sĩ Phật giáo ở trong đất nước của chúng ta có phải họ đang lui, mà còn lui hơn là những người cư sĩ mới thọ Tam Quy không?

Người ta còn biết tập luyện Thọ Bát Quan Trai, người ta còn biết giữ gìn năm giới của người ta nghiêm chỉnh. Còn mình thì năm giới chẳng có nghiêm chỉnh gì hết, ăn thịt cá như mấy ông Nam Tông thì thử hỏi có gìn giữ cái thứ gì đâu?

Đó thì chúng ta thấy quá rõ ràng. Như vậy là còn thua cư sĩ của mình bây giờ người ta còn có được ngày chay nữa, còn ổng một tháng ba mươi ngày ních thịt hết ba mươi ngày có cái ngày nào mấy ổng chừa?

Đó thì quý thầy thấy rõ ràng à, tâm họ như vậy thì cái lòng họ làm sao mà gọi là - ở trong cái ác pháp, mà nhân quả ăn thịt chúng sanh là cái ác pháp chớ làm sao mà gọi là thiện pháp được?

Mà đạo Phật đâu có phải xây dựng ngoài cái vấn đề nhân quả đó, thiện ác đó, thế mà họ ngồi ăn thịt, ba mươi ngày không có một ngày chay thì thử hỏi còn cái gì nữa mà là thiện là ác? Vậy mà gọi là sư sãi, gọi là vua sãi!

5.4- NĂM CẤP BẬC XUẤT GIA CỦA LỘ TRÌNH THỨ HAI

(01:11:45) Đến lộ trình thứ hai của đạo Phật người xuất gia được chia làm năm cấp:

Nghĩa là đến cái lộ trình thứ hai của đạo Phật thì cái người xuất gia chúng ta chia làm năm cấp.

Nãy giờ Thầy nói cái người xuất gia chúng ta nó lui lại cái đời sống cư sĩ, thì chúng ta thấy rằng nó không có bằng cái chú Sa Di mà mới ba tuổi, kêu là chú Sa Di mà đuổi gà đó, đuổi chim đó, nó chưa bằng đâu.

Chú vô đó chớ chú còn không có tiền bạc nè, chú còn không có cái gì hết, hoàn toàn chú chỉ là sai đuổi chim, đuổi gà đó thôi, chớ còn để nó ăn, nó làm động ở trong chùa đó, thì do đó thì cái chú này chú chỉ có cái việc làm đó thôi. Vậy mà chú còn hơn mấy cái bậc tôn túc Hòa thượng của chúng ta nữa đó.

Đó là cái người - mà cái năm cấp này đó thì chúng ta phải rõ.

Cái đầu tiên là cái chú:

1. Sa Di;

Tức là nam đó. Kế đó là thứ hai đó, là:

2. Sa Di Ni;

Cái thứ ba đó là:

3. Thức Xoa Ma Ni;

Cái người mà sắp sửa lên làm Tỳ Kheo ni đó, thì nó giữa Sa Di Ni và giữa Tỳ Kheo Ni, thì nó có một cái cấp bậc của cái người nữ đó, thì họ phải ở đó, họ trụ ở đó ít ra hai năm để trắc nghiệm, sau đó họ mới thọ cái giới cụ túc Tỳ Kheo Ni mới được, cho nên có cái tên gọi là Thức Xoa Ma Ni hay hoặc Ma Na.

4. Tỳ Kheo Tăng;

Năm đo là:

5. Tỳ Kheo Ni.

Cho nên nó năm cái cấp bậc đó, nó rất là rõ ràng, không có thể nào mà xóa một cấp bậc nào được hết.

(01:13:22) Nghĩa là vào đạo Phật thì nó có năm cái cấp bậc đó rất là cụ thể. Đó là cái lộ trình thứ hai của đạo Phật nó có năm cấp bậc của tu sĩ.

Năm hạng tu sĩ này là năm loại đẳng cấp của nó.

Năm loại tu sĩ này thì nó có năm loại đẳng cấp của nó đó.

Người nam dù già, trẻ, bé, lớn thọ Thập Giới xong đều được gọi là Sa Di.

Nghĩa là bây giờ người có 80 tuổi mà mới vô mà thọ Thập Giới của Sa Di đều gọi là Sa Di hết. Chớ không phải nói tui lớn rồi tui trưởng lão đâu, không phải đâu, mà cái chú mới 3 tuổi cho đến 8 tuổi, 10 tuổi, 20 tuổi, thì cái chú đó thọ Thập Giới Sa Di đều gọi là Sa Di hết.

Người nữ thọ thập giới xong cũng đều được gọi là Sa Di Ni.

Người nam trên 20 tuổi thọ toàn bộ giới - 250 giới mới gọi là Tỳ Kheo. Người nữ thọ toàn bộ giới 348 giới…​

Giới bổn á.

…​ xuất gia thì gọi là Tỳ Kheo Ni.

Thức Xoa Ma Ni là một quá trình của giai đoạn giữa từ Sa Di Ni đến Tỳ Kheo Ni. Mỗi Sa Di Ni cần phải trải qua quá trình hai năm Thức Xoa Ma Ni mới có thể thọ giới Tỳ Kheo và trở thành Tỳ Kheo Ni./.

HẾT BĂNG

29 - BA LOẠI XUẤT GIA

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 29 - BA LOẠI XUẤT GIA

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- BA LOẠI XUẤT GIA

(00:00) Về tính chất xuất gia, Phật giáo chia làm ba loại:

Đó, bây giờ về cái - bởi vì Thầy dạy về giới bổn thì Thầy phải dạy cho quý thầy hiểu được từ cái đẳng cấp của cái lộ trình xuất gia nó có bao nhiêu cái đẳng cấp của nó, rồi bây giờ về cái tính chất xuất gia nó có phân chia làm mấy loại Thầy cũng dạy cho quý thầy hiểu, để không quý thầy chẳng hiểu xuất gia nó như thế nào, thế nào, quý thầy không hiểu đâu.

Mà hiểu như vậy để làm gì? Để chúng ta biết cái đúng, cái sai, để chúng ta nhìn cái số tu sĩ của chúng ta hiện giờ đang thực hiện họ có biết hay không, họ có làm đúng hay không.

Nếu mà chúng ta không hiểu cái này thì chúng ta phê phán họ một cách mù mờ, còn chúng ta hiểu rõ, chúng ta chỉ định rằng họ là những cái hạng người như thế nào, chúng ta thông suốt hết.

1.1- THÂN TÂM ĐỀU XUẤT GIA

(00:50) Một là:

1. Thân tâm đều xuất gia.

Đó, thì bây giờ cái tính chất xuất gia nó chia làm ba loại. Cái loại thứ nhất là thân, tâm xuất gia - thân cũng xuất gia mà tâm cũng xuất gia.

Đó, thì như vậy chúng ta phải thấy cái thân, tâm xuất gia là như thế nào? Đây Thầy giảng ra để cho thấy:

Thân trụ ở rừng, núi, hang, chòi lá, chùa, am, thất, cốc…​ đó là thân xuất gia.

Nghĩa là cái thân của mình ở cái chỗ mà nó không có giàu sang, nó xa lánh những cái cám dỗ của vật chất đó, thì cái đó gọi là thân xuất gia.

Trong tâm thì không còn luyến mộ khoái lạc ngũ dục thế tục: sắc, lợi, danh, thực, thùy.

Nghĩa là năm cái dục lạc nó cám dỗ người, mà trong tâm chúng ta mà không còn luyến mộ nó, không còn ham nó nữa, từ bỏ xa lìa những cái đó đó, danh lợi, dâm, ăn ít, ngủ ít, là tâm xuất gia.

Đó thì Thầy nói như vậy, rõ là cái thân của chúng ta xuất gia thế nào. Một cái thân xuất gia mà ở trong cái chùa to thử (hỏi) có xuất gia không? Nó đâu có đúng nghĩa rồi.

Cái thân mà chúng ta xuất gia thì nó phải nằm ở trong cái vị trí của cái nơi nào mà gọi là xuất gia, tức là nó phải có cái sự giải thoát ở trong đó chớ! Cái thân gì mà còn ở trong cái chỗ sang quá, cái thân gì mà còn nằm ở trên cái nệm mút một cọc vầy thì thử hỏi là xuất gia kiểu đó là xuất gia cái gì?

Cái đó là cái sai. Thân mà còn nằm ở trong cái nhà mà quạt máy rồi máy điều hòa không khí thì cái thân đó là cái thân thế gian chớ đâu phải là cái thân xuất gia!

Cái thân xuất gia nóng lạnh thì phải chịu, chớ không có thể mà làm cho nó thế này thế khác để chạy theo cái dục lạc của cái cảm giác mát hay ấm đó, thì cái đó là không phải là thân xuất gia.

(02:28) Còn cái thân mà ở trong lều, am, thất…​ nhỏ bé mà cái tâm cứ rong ruổi theo sắc dục, nhìn cô này, ngó cô kia, thèm ăn cái này, thèm khát cái kia, ham ngủ, sống độc cư không được, thì cái tâm đó là tâm chưa có xuất gia đâu, cái tâm đó là tâm còn thế dục đó, thì dù bây giờ có thọ 250 giới hay là 348 giới đi nữa thì chúng ta phải biết cái tính chất đó là cái tính chất chưa phải là xuất gia.

Vì vậy, thôi, biết cái tâm mình như vậy, thôi mình ra đời đi, đừng có mặc cái chiếc áo này mà làm xấu hổ Phật giáo đi, làm cho người ta cười chê Phật giáo đi!

Mình biết mình cái tâm xuất gia chưa có được, và cái thân của mình mà còn ở nhà cửa sang đẹp, giường chõng êm ấm, quần áo lụa là thì thôi thôi, cái thân đó thôi đi ra ngoài đời đi, đừng có ở trong cái chỗ mà xuất gia mà gọi mình thế này, thế khác thì không có được đâu!

Là làm cho người ta cười thêm chớ không…​ Người ta thấy như vậy người ta biết liền mình có xuất gia hay không, tâm xuất gia, thân xuất gia hay không đó, thì cái đó là cái sai đó.

Thân tâm nhất trí, an tâm vui đạo là thân tâm xuất gia.

Nghĩa là mình vui vẻ với cái tri túc thiểu dục của mình ba y một bát, thì đó gọi là thân tâm xuất gia, đó phải hiểu.

Đây là phép tắc xuất gia chân chính, cũng là bổn phận của người xuất gia.

Đó là cái thứ nhất, cái tính chất mà xuất gia của nó là cái thứ nhất. Chúng ta phải thấy cái bổn phận xuất gia của chúng ta.

Có nhiều người không có thấy bổn phận xuất gia của mình, xuất gia rồi mà ăn mặc lòe loẹt, xe cộ rườm rà, đi đâu cũng có tiền hô hậu ủng, người tới kẻ lui đủ thứ, rồi nhà cửa sang đẹp, thất của mình thì hơn là cái lầu đài của người khác thì cái đó là thôi thôi, không phải là cái thân xuất gia. Còn cái tâm mà ăn uống một ngày ba, bốn bữa thì thôi thôi, cái tâm đó cũng chưa phải xuất gia.

Thôi mấy cái người này đi ra đời đi, sống theo người thế tục đi cho rồi đi, rồi để cho Phật pháp cho những người mà người ta chân chánh thiểu dục tri túc, người ta biết được thân tâm xuất gia của người ta, cái bổn phận của người ta để người ta làm sáng tỏ lại Phật pháp.

Còn mình thấy mình đắm nhiễm như vậy thì thôi thôi, đừng có ở cái chỗ xuất gia này mà làm ô nhục cho cái pháp xuất gia của đạo Phật thì cái đó là cái đọa địa ngục chớ chưa phải! Hết phước rồi đây quý vị sẽ biết cái địa ngục của quý vị.

1.2- THÂN XUẤT GIA, TÂM KHÔNG XUẤT GIA

(04:45) 2. Thân xuất gia mà tâm chẳng xuất gia.

Đó bây giờ cái phần thứ hai thì chúng ta thấy cái người mà thân xuất gia mà cái tâm chẳng xuất gia, ở đây nó giải thích cho chúng ta thấy rõ.

Có người tuy cạo tóc, mặc Tăng phục, trụ tự viện, không lấy vợ, không lấy chồng, hoặc cũng giữ được thân thanh tịnh, thân thanh khiết song nội tâm của họ lại khao khát…​

Nghĩa là không lấy vợ lấy chồng mà khao khát chồng vợ, khao khát ăn uống như hồi nãy Thầy nói đó, thì cái người đó là cái tâm không xuất gia.

Mà cái thân của họ thì họ ráng họ giữ gìn cho nó được người ta thấy cái tướng của họ đó là tướng xuất gia đó, cũng ăn mặc rách rưới, cũng ba y một bát, cũng theo kiểu như mấy ông khất sĩ vậy đó, đó là thân xuất gia.

Còn cái tâm mấy ổng lung tung, cho nên mấy ổng chịu khổ không nổi đó, đó là cái tâm không xuất gia.

Do vì vậy đó hai cái này nó không hợp nhau được, cho nên nó làm cho mấy ổng điêu đứng lận, nó làm cho vị tu sĩ khổ sở lắm.

Nếu mà hai cái nó hợp lại, nó đúng cái xuất gia thì nó giải thoát, mà nó không hợp lại, hai cái này nó đi hai ngả đó, một ngả cái tâm thì nó chạy theo đời mà cái thân thì trói ép nó ở trong giới luật để cho nó tu, thì kiểu đó là hai cái đứa này nó đánh lộn với nhau ở trỏng.

(06:05) Bởi vì nó có cái mặt trận tư tưởng ở trong đó, cái thằng thân nó nói: “Tao làm như vậy thì tao mới xuất gia!” Còn cái thằng tâm nói: “Mày xuất gia kiểu đó chết tao không có thọ hưởng được!” Nó mặt trận tư tưởng nó đánh ở trỏng, tan nát ở trỏng.

Thì quý thầy thấy cái vấn đề đó là cái vấn đề hẳn nhiên là cái người tu sĩ chúng ta mà không có thực hiện mà thống nhất được, thân tâm mà không thống nhất được, thì nó là cái cuộc nội chiến rất mạnh trong đó đó, nó dằng dai lắm.

Thấy cái món đó muốn ăn, cái thằng thân nó nói: “Ăn không có được, tao là xuất gia!” Thằng tâm nó nói: “Mày xuất gia kiểu đó tao thèm!” Phải không? Thì như vậy là chết với nhau. Đó nó có cái cuộc đánh lộn với nhau trong đó, cho nên thân tâm nó đánh vã nhau dữ lắm.

Vì vậy mà khi tu hành chúng ta phải nhìn thấy được cái chỗ này. Bởi vì đó là tính chất xuất gia mà, xuất gia làm sao cho đúng chớ mà xuất gia không đúng cái cuộc nội chiến ở trỏng đó đánh, cho nên nó làm khổ chúng ta lắm.

…​ song nội tâm của họ lại khao khát tưởng nhớ đến ngũ dục. Họ vì sinh hoạt cho đến vì danh vọng và địa vị của xã hội mà xuất gia.

Nghĩa là cái tâm khao khát của họ, họ cũng thích làm ông này bà kia, cũng thích cấp bằng này cấp bằng kia, cũng thích muốn mình địa vị ở trong xã hội có người này kia, cho nên họ xuất gia là cái danh, vì vậy mà nó có cái cuộc nội chiến ở trong đó.

Cái thân của họ thì khép vô coi bộ khổ hạnh lắm, nhưng mà cái tâm của họ nó muốn làm ông này bà kia, thì nó đấu tranh với nhau dữ lắm.

Đó là những cái mà Thầy kể thêm ra để thấy cái cuộc nội chiến ở trong tâm của chúng ta của một người xuất gia không đúng cách.

Đối với phương thức sinh hoạt xuất gia họ không cảm thấy hứng thú, nhưng vì vấn đề sinh hoạt và sự bó buộc của quan hệ xã hội nên miễn cưỡng xuất gia.

Vì cái sự mà danh, sự mà quan hệ xã hội đó bắt buộc họ xuất gia miễn cưỡng như vậy, chớ họ không có thích.

Bây giờ thí dụ như bây giờ mình muốn làm cái ông đại diện của Phật giáo ở huyện này, mà nếu mà không xuất gia thì làm sao mà đại diện Phật giáo được?

Cho nên buộc vô phải làm cái ông lớn để mình coi tất cả các tu sĩ ở trong huyện này, thì do đó mình cũng là ngon lành, mình coi được một cái số tu sĩ ở trong huyện mà, do đó bây giờ phải xuất gia.

Xuất gia vô rồi bắt đầu đó mình chạy chọt như thế nào để làm được cái ông đại diện của Phật giáo của huyện. Do đó khi mà được làm đại diện rồi thì mình mới có cái quyền mà sai bảo mấy cái chùa khác được chớ, mấy ông thầy khác mới được chớ, kêu họ hội họp, bảo họ làm cái này làm cái kia chớ!

Đó là những cái quyền hạn của mình có quan hệ, vì vậy mình thích cái đó cho nên mình xuất gia, chớ sự thật không phải nhắm vào cái chỗ giải thoát xuất gia, mà đó là cái chỗ danh lợi của mình.

(08:38) Cho nên cái tâm của mấy ông này nó không có thanh tịnh đâu, nó lăng xăng dữ lắm.

Những hạng người này thật đáng thương xót. Họ không được cái thú vị của sinh hoạt thực tại tu hành, cũng không được sự lợi ích của Phật pháp.

Nghĩa là họ cũng chẳng được Phật pháp gì, họ mang cái hình thức tu sĩ đó chớ sự thật ra họ chạy theo những cái danh lợi của dục lạc thế gian.

Họ sẽ bị quả báo đời vị lai rất đáng sợ, do vì họ đối với tín ngưỡng Phật giáo có vấn đề.

Nghĩa là họ vô tín ngưỡng Phật giáo là họ đặt thành vấn đề rồi, vấn đề danh, lợi của họ đó, cho nên họ phải đọa địa ngục đó.

Mượn đạo tạo đời nên sinh hoạt xuất gia không được hoàn chỉnh và còn nhiều sự lầm lẫn.

Vì thế, đây là một loại người xuất gia xưa Đức Phật thường quở trách. Trong thời đại của chúng ta hạng tu sĩ này gần như là tám, chín chục phần trăm.

Đó Thầy xác định như vậy thì quý thầy cứ thấy rất là rõ ràng, cái hạng người này là cái hạng người rất nhiều ở trong cái giai cấp tu sĩ của Phật giáo bây giờ.

Xưa Đức Phật quở trách mấy ông này là gì? Trong thời Đức Phật không phải không có những cái loại tu sĩ này đâu, có chớ không phải không. Cho nên mới có một cái bài kinh mà Phật quở: “Mấy ông toàn là cư sĩ trọc!” Ông Phật ổng dùng cái danh từ là cư sĩ trọc, chớ không có thể nào mà nói tu sĩ được.

Đó thì Thầy nhắc lại để cho quý thầy thấy cái tính chất của cái giai đoạn thứ hai này là nó không đúng cái tính chất của người xuất gia đâu.

1.3- TÂM XUẤT GIA, THÂN KHÔNG XUẤT GIA

(10:14) Đây bây giờ đến cái giai đoạn của người - cái tính chất thứ ba. Bởi vì hồi nãy Thầy có giới thiệu đó, về tính chất xuất gia thì phân chia làm ba loại, bây giờ nó mới loại thứ hai, Thầy giải thích cho quý thầy nghe. Bây giờ tới loại thứ ba:

3. Tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia.

Đây là Bồ Tát chứng vị Thánh.

Đó bắt đầu đây mấy thầy thấy, Thầy mới đập cái chỗ này để cho Bồ Tát vị Thánh!

Tâm xuất gia mà thân thì chẳng xuất gia: Đây là Bồ Tát chứng Thánh vị. Các ngài không tham luyến ái của ngũ dục, vì hóa độ chúng sanh nên thường hóa hiện thân phận người tại gia có vợ có con, như các ngài Duy Ma Cật, ngài Hiền Hộ.

Các ngài tuy ở tại gia, có vợ có con nhưng tâm các ngài không nhiễm, không đắm, không tham, không dục, thanh tịnh, sáng suốt, không động.

Nhưng đây không phải là pháp tắc thông thường của xuất gia nên chẳng thể thành phương thức sinh hoạt của xuất gia.

Người cư sĩ họ đâu có thọ Sa Di Thập Giới như mình đâu, cho nên họ đâu có thành phép tắc xuất gia đâu, vì vậy mà mấy ông này đâu có thuộc về loại xuất gia!

Bởi vì họ có vợ con mà làm sao họ xuất gia? Họ là cư sĩ mà, họ còn ở lộ trình thứ nhất, cho nên họ chưa có thọ Thập Giới Sa Di, cho nên cái lộ trình thứ hai họ chưa có bước qua. Thế mà người ta gọi họ là những cái Bồ Tát chứng Thánh vị, thì quý vị nghĩ sao nè?

Họ có vợ có con, mà bây giờ họ không có - Thầy nói bây giờ đặt thành vấn đề nè, một người Thánh vị rồi thì cái tâm dục nó không còn có, mà tâm dục không có thì họ ở với vợ họ được không? Các thầy cứ nghĩ đi!

(12:10) Còn cái này ổng ở ổng có vợ có con, ổng đẻ con ra thì tức là ổng có dục rồi chớ gì? Các thầy thấy không? Ơi trời đất ơi, mấy ông cư sĩ này là Duy Ma Cật có vợ con nè, ông Hiền Hộ có vợ con nè!

Chớ phải nói ổng có vợ thôi, thì: “Thôi bây giờ mình kết nhau thôi, bây giờ tui không thể nào mà tui dục được hết, thì tui kết làm vợ chồng với bà vậy để cho tui thị hiện là tui Bồ Tát tui độ chúng sanh, tui dẫn dắt đi.”

Còn đằng này đẻ con ra, mà đẻ con ra thì không dục làm sao đẻ? Các thầy cứ nghĩ đi! Như vậy là mấy ông này là như thế nào, các thầy nghĩ sao? Họ đặt ra như vậy chớ có được không?

Đó, đó là những cái mà kinh Duy Ma Cật đã thấy được một cái vị gọi là thượng thủ mà tất cả các đại đệ tử của Đức Phật trong thời bấy giờ - ông Xá Lợi Phất cũng không dám đương đầu nữa.

Các thầy cứ đọc kinh Duy Ma Cật biết, thì các thầy thấy nó rất rõ phải không? Chỉ có ông Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mới có thể đương đầu với ông ta, mới có thăm bệnh ông ta được, chớ còn không ai dám thăm bệnh ông ta được.

Thiệt là ba cái ông Đại Thừa này thiệt! Ổng đưa cái ông dâm dục như vậy vô đây mà gọi - mà dâm dục là con đường sanh tử, thế mà đem vô, gán vô trong đạo Phật gọi là thượng thủ thì Thầy thấy thiệt là quá tệ, không có chỗ nào mà nói được! Đặt kinh Duy Ma Cật ra để mà hạ cái Phật giáo xuống tận gốc đó, chớ không phải thường đâu.

Bày đặt ra cái pháp môn bất nhị - sáu mươi hai lập luận của ngoại đạo trong thời đó, cái pháp môn bất nhị vẫn có chớ không phải không. Thế mà bây giờ người ta lại lấy, nhẩm lên cái sáu mươi hai lập luận của ngoại đạo để mà thành lập cái bộ kinh Duy Ma Cật để mà phá Phật giáo tận cùng.

Coi như là các bậc đại đệ tử của Đức Phật là cái người trí tuệ đệ nhất là ông Xá Lợi Phất mà Đức Phật thường ca ngợi mà còn không dám đương đầu với ông Duy Ma Cật, thì đủ biết rằng họ ca ngợi cái ông cư sĩ mà còn dục, đẻ con, chứ chưa phải hết!

Đó ở trong này, trong kinh nói mà, ổng có vợ có con, chớ phải nói có vợ không thì Thầy cũng nghĩ à, ổng có vợ mà không có con đi, chắc là hai ông bà này chắc không có gần nhau. Còn cái này đẻ con ra làm sao - Thầy nói, trời đất ơi! Một cái người mà không có dục thì làm sao mà sanh ra được cái điều đó!

Thầy nói bây giờ cái người - các con thì chưa có chứng tới chỗ đó đâu, mà chứng tới chỗ đó các con biết. Cho nên Đức Phật nói là “Mã Âm Tàng” của Đức Phật như thế nào? Nó không dục nó phải rút lại, còn cái người còn dục thì nó đâu có rút lại!

Thầy nói thật đó các con, đừng có nghĩ cái chuyện đó, Thầy biết quá rõ mà, cái người còn dục thì nó đâu có phải cái chuyện đó. Cho nên ông A Nan ổng mới lật y cho người ta xem coi của ông Phật coi như thế nào, vì vậy mà ông Ca Diếp ổng bắt tội đó!

Đó thì tất cả những cái câu chuyện nó lặt vặt như vậy, nhưng mà chúng ta không nói ra thì chúng ta không hiểu được cái đạo Phật như thế nào, mà nó lầm lạc đủ cách mà người ta đặt như thế này thế khác.

Đọc kinh sách Đại Thừa ta rất ngạc nhiên khi thấy cư sĩ Duy Ma Cật và ngài Hiền Hộ, các ngài thể hiện là một cư sĩ tâm xuất gia mà thân không xuất gia.

Chỗ này rất đặc biệt của kinh Đại Thừa: Tâm thanh tịnh mà thân cứ hưởng dục lạc!

(15:27) Đó thì làm sao? Tâm mình thanh tịnh, cái tâm là cái chủ chốt, nó thanh tịnh rồi, thì cái thân nó làm sao nó dục được! Phải không, các con thấy!

Bây giờ Thầy nói về trong cái vấn đề ăn thôi, mà cái tâm của Thầy nó không có thèm ăn, nó thấy cái gì nó cũng không muốn ăn, thì bây giờ cái món ngon nào cái thân Thầy nó có thèm muốn ăn không? Phải không?

Do cái tâm nó thèm cái thân nó mới lấy nó ăn mới thích ngon, còn cái thân, cái tâm mà nó không thèm thì giờ có bỏ ngon nó cũng nuốt không ngon nữa, có phải không?

Cái người người ta thèm ăn thì thấy người ta ăn ngon thì ai thèm? Cái tâm chớ cái gì, chứ đâu phải cái thân! Cho nên khi đó cái món đồ mà nó thèm thì nó bỏ vô nó: “Trời! Ăn ngon quá!” Phải không?

Cũng như bây giờ chúng ta đói, thì cái thân nó đói thì cái tâm nó mới sanh ra nó thèm, phải không? Do đó nó mới có đòi hỏi.

Còn cái này, cái ông này cái tâm ông nó sạch hết rồi, mà cái thân ổng thì sống hưởng dục lạc. Bởi vì thân cư sĩ mà, không dục lạc mà rõ bằng chứng là có con, cho nên do đó chúng ta thấy cái dục lạc nó phải có.

Như vậy chúng ta có đáng tin không?

Nhìn thấy cái thân mà hưởng dục lạc như vậy chúng ta có đáng tin không? Cho nên cái kẽ hở của những người mà viết kinh này làm cho kẽ hở chúng ta thấy.

Bởi vì khi chúng ta tu chưa chứng thì chúng ta chưa hiểu đâu, nhưng mà khi chứng rồi chúng ta biết. Bởi vì cái ly dục, ly bất thiện pháp nó có cái lạc của cái ly dục, ly bất thiện pháp, nó đặc biệt lắm, nó làm chúng ta thấy được cái dục lạc của thế gian như thế nào rất rõ rồi, cho nên cái người mà nói sai là chúng ta biết.

Còn cái người mà chúng ta chưa nếm được cái mùi ly dục, chưa có nếm được cái hỷ lạc của ly dục, ly bất thiện pháp thì chúng ta chưa có rõ, cho nên nghe người ta nói sao mình tin vậy thôi chớ mình chưa biết.

Chớ khi ly nó rồi nó không còn có cái chuyện đó nữa đâu. Mà nó không còn chuyện đó thì có ông trời làm sao ép nó được?

Đó Thầy nói, đó là một cái phải suy ngẫm cho nó - hai cái lộ trình nó rất rõ ràng. Cái lộ trình người cư sĩ còn dục lạc nó khác cái lộ trình của người tu sĩ không còn dục lạc.

Mà đã - ở trong kinh đã nói rằng - Duy Ma Cật đã chứng Thánh vị, vì độ chúng sanh mới thể hiện cư sĩ. Thể hiện cư sĩ kiểu nào chứ thể hiện cư sĩ mà kiểu đẻ con thì chắc chắn là Thầy không tin rồi! Đó.

Hay đây là một loại kinh phá giới bằng một cái lập luận bất nhị để phá toàn triệt giới luật của đạo Phật?

Thầy đặt câu hỏi để cho quý thầy suy ngẫm coi có phải nó phá giới không? Bởi vì cái tâm nó thanh tịnh nó thành quả Phật rồi, mà cái thân nó, nó ở với vợ nó thì cái chuyện đó thì Thầy làm sao mà - không phải là những cái kinh này là kinh phá giới của Phật sao?

(18:00) Nó tự tại quá mà, nó vô ngại quá độ mà, cho nên nó xách rượu, xách cá nó đi tùm lum cũng được hết mà! Nó thể hiện như là Tế Điên Hòa thượng vậy đó mà! Thành ra làm sao mà chúng ta không nghi ngờ cái Phật giáo được?

Thân thì dâm dục với vợ mà tâm thì thanh tịnh như Thánh, ai mà có tin nổi!

Đó, thiệt đó, thì quý thầy có tin nổi không? Bây giờ quý vị nói, như Thầy bây giờ nè, Thầy nói Thầy tu như vậy, vậy, Thầy làm chủ sanh tử, mà Thầy kè thêm một bà vợ nữa thì quý vị có tin nổi không?

Phải không? Ít ra nó cũng phải ly cái gì mới có tin được chớ! Còn bây giờ đi song song hay là hai người ngồi ở trên Honda mà chở nhau, trời ơi! Ông thầy ổng làm chủ sanh tử cái kiểu này chắc ông ấy tử luôn ấy chớ!

Phải không? Đâu có cái chuyện đó được đâu! Thấy như vậy chúng ta đoán được chớ không phải là chúng ta là người không có trí. Bởi vậy Phật nói chỉ có con người có trí mới hiểu biết được cái điều này thôi, còn cái người không trí thì không có hiểu ra.

Còn chúng ta là con người là phải có trí chớ, thấy biết cái đúng cái sai chớ, đâu lý nào mà đụng đâu cũng tin hết! Mà kinh Duy Ma Cật biết là in biết bao nhiêu không? Thế mà người ta ngu, ngu đến cái mức độ…​

Nghe pháp môn bất nhị hay lắm, nhưng mà đó là 62 cái lập luận của tà giáo ngoại đạo trong thời Đức Phật chớ đâu phải hay ho gì. Nếu mà cứ đem ra thì chúng ta kê ra chúng ta thấy rất rõ chớ đâu phải là cái gì hay. Ngày xưa họ cũng có những cái triết lý của họ, họ cũng lập luận rất là tuyệt vời chớ đâu phải là đợi chúng ta bây giờ mới lập luận như vậy.

Xưa khi Đức Phật còn tại thế, có một vị Bà La Môn hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi một người chứng quả giải thoát còn sống trong dục lạc nữa hay không?

Đó, có người thắc mắc mà. Ông nói ông giải thoát rồi, vậy bây giờ ông sống trong dục lạc có được không, hay là không có còn sống được ở trong đó nữa? Đó thì cái Bà La Môn đó hỏi Phật như vậy.

Đức Phật dạy:

- Khi một người đã chứng quả giải thoát, tâm bất động trước các pháp, tức là tâm không còn bị tham dục tất cả các pháp, thì làm sao sống dục lạc thế gian được!

Đó Đức Phật xác định như vậy mà. Tâm mình nó hết dục rồi mà bây giờ mình làm sao mình dục được ở thế gian? Tâm bây giờ hết thích ăn rồi, mà bây giờ bảo thích ngon thì làm sao thích được?

Đó là những cái cụ thể và thực tế, rất là cụ thể rõ ràng. Chớ không như là cái kinh Duy Ma Cật nói cái kiểu đó thì như ở trên trời rớt xuống.

Đây là không biết là cái bậc nào đây, kỳ cục quá! Tâm thì giải thoát hoàn toàn không còn dục lạc, mà cái thân thì ngủ với vợ, thì thử hỏi là cái chuyện đó làm sao mà chúng ta tin nổi không? Đẻ con nữa chớ, không biết đẻ mấy con, chớ phải năm, bảy đứa thì chúng ta chắc còn hoảng hồn nữa!

Ví dụ: Một vị đã sống chứng ngộ được lý bất tịnh của các pháp thì làm sao còn thích ăn, thích dâm dục được? Mà tâm đã thanh tịnh, không mống khởi dâm dục thì làm sao có dâm dục được?

Thế mà các vị này có vợ, sanh con được, đây là lấy vải thưa che mắt Thánh! Kinh Đại Thừa như vậy, một người trí không thế nào tin nổi các loại kinh sách này, chỉ là người ngu mới tin mà thôi.

(21:20) Cho nên các loại kinh không thiết thực, cụ thể…​

Nghĩa là kinh mà dạy mà không thiết thực, cụ thể cho cái đời sống giải thoát của chúng ta như vậy, mơ hồ như vậy, thì chúng ta chẳng có nên tin, mà xem nó như là những cuốn sách tiểu thuyết đọc chơi cho vui vậy thôi, giải trí thôi chớ còn nó không phải là những cái pháp môn mà chúng ta tu đâu.

…​ chỉ có những người vô minh, ngu si không thấy, không hiểu mới tin mà thôi.

Xét cho cùng trong cái cuộc đời tu hành của chúng ta, về cái đời sau khi Đức Phật nhập diệt đó, thì kinh sách và luật người ta đã viết rất nhiều.

Và viết rất nhiều để làm gì? Để phá toàn bộ giới luật của đạo Phật. Để làm gì? Để cho người ta chạy theo những cái dục lạc thế gian mà không bị phạm phải cái lỗi.

Thì cái hình thức của kinh này nó cũng là vấn đề đó, để viện cớ cho những tu sĩ chúng ta lấy cái cớ của ông Duy Ma Cật đó mà chúng ta coi như là tổ chức phái tân tăng có một vợ, một con cũng đều là những vị tu sĩ được hết. Đó nó là cái hình thức mà chúng ta đã thấy người ta hô hào phái tân tăng thế này, thế khác đó.

Những hình ảnh của đạo Phật bây giờ, tu sĩ hầu hết là tâm xuất gia mà thân thì chẳng xuất gia.

Nghĩa là cái thân của họ bây giờ, họ sống họ không có xuất gia, mà cái tâm của họ thì họ nói họ thanh tịnh, họ xuất gia. Đó là cái phần mà chúng ta thấy cái hiện tướng của nó, nó rõ ràng như vậy.

Chớ không phải là cái tâm xuất gia thật của họ đâu, mà đây là cái tâm xuất gia giả của họ, cho nên cái thân của họ nó rong chơi, nó chạy theo dục lạc nó chơi, chơi tạm, chơi đỡ đó, chớ nó không có chơi thiệt đâu.

Nhưng mà để chừng nào cái tâm họ thanh tịnh thật thì nó mới lôi cái thân họ trở về được, còn bây giờ nó chưa thanh tịnh thật, thì nó để cái thân nó chạy rong ở ngoài đường chơi chút xíu thôi, quý thầy cũng đừng có lấy đó mà quở trách nó tội nghiệp!

Đó thì quý thầy thấy cái vấn đề mà chúng ta như vậy, thì chúng ta cũng không nên lấy đó mà chê cười họ, để chờ cho cái tâm họ thanh tịnh thì nó cũng lôi cái thân họ trở về được cái chánh pháp của đạo Phật.

Chớ mình cười chê họ nhiều quá rồi họ nhột rồi họ cũng không tu được rồi cũng thành tội họ, để cho họ tu được ngày nào, họ thắp hương Phật được ngày nào cũng là có cái lợi ích chớ không phải là không lợi ích.

Do những cái điều kiện mà họ tu tập như vậy đó thì họ phải có những cái sự lừa gạt của thế gian, lừa gạt những cái người khác.

Cho nên cái sự lừa gạt của họ thì bằng cách nào? Thì các thầy cũng sẽ thấy rằng, họ lừa gạt thì họ nói đó là những cái hành động của họ phải nhập vào thế gian mới độ chúng sanh được, làm những cái hành động đó mới độ được, chớ còn nếu mình không làm hành động đó làm sao độ được?

Cho nên thí dụ như ông Duy Ma Cật ổng có vợ con, thì coi như là: “Tui phải nhập thế gian, thân tui phải nhập thế gian chớ tâm tui là Thánh vị rồi. Do tui nhập thế gian tui mới biết cái ngũ dục lạc đó cỡ mức độ nào tui mới biết mấy ông, tui mới lôi mấy ông ra, chớ còn tui mà không có nhập vô đó thì làm sao tui biết cái khoái lạc nó như thế nào, rồi tui làm sao tui lôi mấy ông ra được?

Tui phải biết cái cấp độ khoái lạc đó là dục lạc nó như thế nào rồi, mà bây giờ tui Thánh vị thì tui đâu có biết được?

Cho nên bây giờ tui phải nhập xuống tui làm cư sĩ, để tui hiểu được cái đó rồi, tui biết cái cấp độ đó là cái cấp độ khổ hay là nó khoái lạc như thế nào, tôi mới lôi mấy ông ra: Bây giờ cái cấp độ giải thoát ly dục nó hơn cái đó nhiều, cho nên mấy ông phải bỏ cái khoái lạc của dục lạc đó đi mà theo tui đi!”

(24:44) Thì đó là cái lối lý luận của cái kiểu mà nhập thế gian để độ chúng sanh. Cũng như có người nói: “Tôi có vô lầu xanh, tôi làm lầu xanh thì tui mới độ mấy bà lầu xanh được!” Phải không?

Có nhiều người nói: “Tui uống rượu thì tui mới dẫn dắt mấy ông kia nó khỏi uống rượu. Tui có nhập vô tui mới làm bợm rượu với mấy ổng, tui mới nói chuyện mấy ổng nghe. Chớ còn nếu mà tui không có làm bợm rượu thì tui làm sao mà tui nói chuyện mấy ông đó nghe?”

Đó là những cái lý luận của những cái người nghiện rượu mà lại nói rằng mình độ chúng sanh đó!

(Mất tiếng) …​ pháp thế gian, nghĩa là luôn luôn lúc nào cũng phải nhập thế gian chớ, đâu có lý nào mà rời thế gian mà độ chúng sanh được? Cho nên Phật pháp thì bất ly thế gian. Họ nói vậy đó, thì quý thầy thấy cái kiểu họ nói đó là lấy cái màn thưa, cái vải thưa mà che mắt Thánh!

Khi chưa tu thành đạo, Đức Phật còn là một phàm phu thì có vợ, sanh con giống như mọi người khác.

Nghĩa là chúng ta thấy rất rõ mà. Khi Đức Phật mà chưa có tu hành thì ông có vợ nè, rồi ông sinh con nè, thì ông phải có dâm dục, phải không? Vậy mà dám nói là ông là Bồ Tát Phổ Minh ở đâu trên cung trời Đâu Suất, thì như vậy ông Bồ Tát rồi ông còn dâm dục nữa không mà ổng xuống ổng đẻ đứa con? Bằng chứng là có La Hầu La, có phải không?

Như vậy là người ta huyền thoại ông này một cách sai lệch, cho nên ông Duy Ma Cật cũng là Bồ Tát chớ gì, cho nên ổng cũng đẻ con được, và ông Phật cũng là Bồ Tát ở trên cõi trời Đâu Suất - tức là Bồ Tát Phổ Minh chớ gì, ổng lưu xuất, ổng đầu thai xuống, cho nên giờ ông cũng đẻ con được, thì như vậy là hai ông cũng giống nhau. Cho nên có ai dám nói ông Phật đâu, lấy ông Phật làm cái nề đó.

Nhưng mà không ngờ là ông Phật lúc bấy giờ ổng tu chưa có chứng, phải không? Ổng còn phàm phu, chớ lúc ổng chứng rồi ổng đâu có làm chuyện bậy bạ đó. Còn cái ông Duy Ma Cật ổng đã là người Thánh vị rồi, phải không? Đó, chúng ta thấy rõ ràng phải không?

Do vì vậy đó mà ở đây Thầy mới nêu cái hạnh của ông Phật để không khéo người ta cũng lấy - ông Phật cũng có vợ con thì ông Duy Ma Cật cũng có vợ con, thì tức là hai ông này cũng Thánh hết chớ gì? Tại sao mà Thầy lại chê ông Duy Ma Cật mà Thầy không nói ông Phật?

Thầy dám nói ông Phật luôn: Ông Phật tại vì lúc bấy giờ ổng tu chưa chứng! Sáu năm khổ hạnh dưới cội bồ đề mới chứng đạo, phải không?

Thì lúc bấy giờ đó, ổng mới bỏ vợ, bỏ con, ổng mới làm được chuyện đó, cho nên ông mới cắt được, ổng mới ly được dục, ly tất cả những ác pháp, cho nên ổng mới thành tựu được, mới là có cái đạo Phật. Chớ đâu phải ổng là Bồ Tát ổng ly được rồi sao?

(27:12) Cho nên vì vậy - mà ở đây ông Duy Ma Cật là những cái bậc Thánh, không có thể nào mà có những hàng đại đệ tử ly dục mà đến nói chuyện ổng được, mà trong lúc đó ổng còn dục!

Thì thử hỏi nếu mà bây giờ có một ông Xá Lợi Phất trong cái thời Đức Phật mà còn là phàm phu, thì ông Xá Lợi Phất có phải là thầy của ông Phật lúc bấy giờ không? Phải không?

Các thầy thấy: Ông Xá Lợi Phất hiện bây giờ tất cả những cái giáo lý gì của Phật đều là ổng thông suốt hết, mà nếu mà có một ông Xá Lợi Phất khi mà ông Phật chưa đi tu thì ông Xá Lợi Phất phải là thầy ông Phật.

Còn đằng này ông Phật phải tu chứng rồi mới độ ông Xá Lợi Phất. Thì cho nên ông Xá Lợi Phất chỉ đệ nhất về cái trí tuệ, về pháp, thì lúc bấy giờ Đức Phật chứng minh cho ông là đệ nhất trí tuệ, là vì ông Phật truyền dạy cái pháp cho ông Xá Lợi Phất tu giải thoát ly được dục, ly ác pháp, phải không?

Mà ông Phật thì phải sáu năm khổ hạnh, rồi thực hiện dưới cội bồ đề bốn mươi chín ngày mới ly tất cả các cái dục lạc thế gian được.

Và như vậy bây giờ các thầy có thấy khi mà ông Phật đã thực hiện được rồi, thì vợ ổng còn đó, con ổng còn đó, tại sao ổng không về ổng đẻ một đứa nữa? Phải không?

Nếu mà đẻ đứa nữa thì nói ông đó là Duy Ma Cật Thầy đồng ý. Còn đằng này ông Phật không có làm cái chuyện đó nữa thì Thầy thấy: Đó! Người ta hết dục rồi thì người ta làm sao còn đẻ đứa con nữa? Thì đâu có La Hầu La thứ hai nữa được, phải không? Chỉ có một La Hầu La thôi chớ đâu có còn La Hầu La thứ hai nữa được!

Đó là cái bằng chứng hiển nhiên để chúng ta thấy rằng kinh Đại Thừa nó là một cái phá đạo Phật hết chỗ nói, không có thể nào mà chúng ta tin tưởng được nó hết.

Thầy nói là Thầy nói, dù là Thầy có đọa địa ngục cách gì Thầy vẫn nói, không sợ thằng nào hết!

Nghĩa là bây giờ Thầy làm chủ được cái sống chết của Thầy rồi, Thầy muốn chết hồi nào Thầy chết, thì bây giờ cái thân của Thầy bây giờ nó làm sao hành hạ Thầy được nữa? Cho nên Thầy có nói thì địa ngục cũng không tới với Thầy được, phải không?

Còn cái người nào mà chưa có làm chủ được mà nói bậy như vậy là coi chừng, cái thân nó nó nằm sình trương hết đó, đó là cái địa ngục thế gian cho mà biết!

Còn bây giờ đối với Thầy, Thầy đâu có ngán cái địa ngục nữa đâu? Thầy coi cái địa ngục cũng như là cái thiên đàng của Thầy rồi. Vậy cho nên Thầy đâu có sợ! Kinh nào nói bậy là Thầy đập đầu nó xuống hết, chớ mấy ông đừng có nói tổ mấy ông viết tầm bậy vô đây phá đạo Phật mà dễ với Thầy đâu!

Đó, hôm nay lời Thầy nói nó còn ở trong băng, nó không bao giờ mất đâu, Thầy không sợ đâu, ngàn đời nó cũng vẫn còn. Nếu mà các con mà giữ được một triệu năm nó vẫn còn tiếng nói của Thầy, mà giữ không được thì thời gian nó xóa mất thôi.

Thì cái đó là cái lời dạy đúng đắn của Thầy, Thầy không sợ ai hết.

Thế mà ở đây ông Duy Ma Cật, ông Hiền Hộ, lại là dâm dục với vợ, sanh con mà được gọi là Bồ Tát chứng Thánh vị! Bồ Tát này thuộc về loại Bồ Tát giả hiệu.

(30:00) Tất cả hàng đại đệ tử của Đức Phật trong thời bấy giờ đều sợ ông ta hết, không ai dám đến đương đầu với ông ta, chỉ có Đại Trí Văn Thù tưởng tượng của kinh Đại Thừa mới dám đương đầu với ông Duy Ma Cật.

Kẻ ngoại đạo dám cả gan viết kinh này hạ bệ Phật Giáo tận gốc. Nếu đời sau này không có người chứng nghiệm lời dạy của Đức Phật, thì ai là người mà dựng lại giáo lý và chấn hưng Đạo Phật?

Biết bao nhiêu kinh sách phá hoại Phật Pháp, che mờ. Do những loại kinh này, làm sao họ hiểu đâu là kinh của Phật thật, đâu là kinh giả của Phật?

Đó, những cái loại kinh này cũng đều là nói kinh Phật hết à, cũng do Phật thuyết hết à, do đó những cái kinh như vậy làm sao mà cái người đời sau, mà chúng ta làm sao hiểu đâu là kinh của Phật thật, mà kinh của Phật giả?

Đó thì chúng ta thấy những cái khó khăn cho cái cuộc đời tu hành của cái người sau này rất là khó, là những cái kinh mà phá giới, phá luật như vậy nó nhan nhản ở trong kinh sách rất nhiều.

Và những cái giới luật đặt ra để mà phá giới nữa, nó rất nhiều ở trong những cái kinh sách của Đạo Phật hiện giờ, thì làm sao người sau chúng ta biết ở đâu?

Nếu mà không có một người chứng nghiệm được con đường của Đạo Phật thì ai mà vạch cái lối này ra cho quý vị? Ai đã làm sao cho người sau này người ta thấy được?

Nếu mà không có người thực hiện được cái giải thoát đúng là như lời Phật đã dạy thì làm sao mà biết được cái tà, cái chánh của Đạo Phật ở trong cái số đống kinh như thế này? Một cái đống kinh như rừng, như núi vậy đó!

Cái tạng kinh của Đạo Phật bây giờ nó quá vĩ đại, có thể nói rằng nếu một người mà đọc nó - có thể nói rằng nghiên cứu mà cho kỹ - thì suốt cả đời của chúng ta cũng chưa đọc hết nó nữa, chơ chưa nói nữa.

Do vì vậy mà nó là một cái quá khó chớ không phải là cái dễ. Nếu một bậc mà không có thực hiện được cái đạo giải thoát mà chính của Đạo Phật rồi, không có giữ gìn giới luật của Phật nghiêm túc thì không thể nào mà đi đến cái chỗ giải thoát được.

Bởi vì ba cái luật, ba cái kinh này nó là kinh phá giới, làm sao cho cái người mà tu giữ gìn giới luật được? Hễ đụng tới đâu thì thấy cái đó nó cũng vậy, nó đâu có phạm đâu, do đó cái giới luật không thanh tịnh.

Mà giới luật không thanh tịnh thì làm sao ly dục, ly bất thiện pháp, mà đạt được cái thiền định của Đạo Phật? Mà không đạt được thiền định của Đạo Phật thì làm sao có một cái trí tuệ mà thấy kinh nào đúng, kinh nào sai?

Cho nên khi mà đạt được cái thiền định của Đạo Phật thì nó mới lưu xuất ra được cái trí tuệ. Từ cái trí tuệ đó nó mới phán đoán được cái sai, cái đúng ở trong kinh điển của Đạo Phật, mới vạch ra.

Mà cái hạng người đó thì đâu phải là dễ dàng ở trong một cái thời đại nào mà có thể lưu xuất cái hạng người đó, dễ lắm sao? Đâu phải tìm được những cái bậc đó đâu!

May ra mới có được một vị, hai vị Độc Giác nào đó mà người ta giữ gìn giới hạnh cho nghiêm túc, từng đó người ta mới thấy được cái sai của Đạo Phật bây giờ người ta mới vạch ra được, chớ còn không khéo thì ngàn đời chúng ta cũng mù mờ ở trong cái đống kinh này, biết cái nào đúng, cái nào sai?

Cho nên rất là khổ tâm đối với Phật pháp bây giờ, mà cái người đứng ra dựng không phải là một cái chuyện dễ.

(33:04) Họ hiểu biết Phật Giáo và cố ý phá hoại Phật Pháp.

Nghĩa là phải nói rằng cái người mà họ hiểu Phật Pháp, thì chắc chắn phải nói rằng, những cái người mà viết ra kinh này họ chưa hiểu Phật Pháp nữa.

Bởi vì họ chưa có thực hiện được cái giới hạnh nghiêm túc, cho nên họ chưa có hiểu được Phật Pháp. Do không hiểu đó thì - chớ không phải là họ cố ý phá Phật Pháp, mà vì không hiểu họ mới viết ra cái kiểu hiểu của họ, cho nên từ đó họ phá Phật Pháp mà họ không biết họ phá Phật Pháp.

Phải nói rằng các tổ của chúng ta do không hiểu Phật Pháp cho nên viết ra kinh để mà sống theo cái lợi dưỡng của dục lạc thế gian, làm giảm bớt cái giá trị của cái pháp ly dục, ly bất thiện pháp của Đạo Phật, để cho cái giới luật mới của họ nó nhẹ bớt cái chỗ đi, làm cho nó giảm cái sự ly bớt đi, để cho họ sống nó thoải mái một chút, để cho cái hình thức tu hành của họ nó dễ dãi hơn một chút.

Bởi vì họ không có cái giới hành, họ không biết cái giới hành, cho nên họ muốn cho đời sống họ được vững vàng ở trong cái chiếc áo tu sĩ, cho nên họ giảm bớt cái giới luật đi.

Mà càng giảm bớt cái giới luật thì họ chẳng bao giờ đạt được cái quả giải thoát của Đạo Phật. Từng đó họ mới nghĩ ra cái này cái khác họ viết ra, vô tình mà họ phá hoại Phật Pháp chớ không phải họ là người cố ý phá hoại Phật Pháp.

Đó là cái sự luận cứ vào cái sự hiểu biết của Thầy. Không ai mà có thể có cái ý đồ phá Phật Pháp, nhưng vì không hiểu rồi chúng ta phá Phật Pháp. Cũng như bây giờ quý thầy đang giảng thuyết, quý thầy đâu có hiểu là quý thầy đang phá Phật Pháp?

Đó bây giờ các giảng sư hiện bây giờ, họ đang ở trong các trường cao cấp hoặc là trong các trường cơ bản, họ đang giảng những cái bài pháp, kinh của Phật. Họ nghĩ rằng họ giảng cái đó là giảng đúng cái ý của Phật, nhưng họ đâu có hiểu rằng đó họ chưa có thực hiện tu tập giải thoát, cho nên những cái điều mà họ giảng ra đó là họ phỉ báng Phật Pháp!

Họ đâu có hiểu, bởi vì chính không hiểu đó họ mới giảng như vậy, chớ còn họ hiểu thì họ đâu có giảng như vậy! Vì vậy cho nên cái hành động sống của họ nó không nghiêm túc ở trong giới luật, và cái lời giảng của họ nó không đúng cái giáo lý của Đức Phật.

Cho nên họ vô tình chớ không phải họ hữu ý họ phá hoại Phật Pháp. Vì vậy họ cũng muốn xương minh, họ cũng muốn làm cho Phật Pháp sáng tỏ lên với cái sự hiểu biết của họ, nhưng lầm lạc, họ đã phá hủy Phật Pháp!

Chúng ta hiểu được như vậy, chúng ta mới thấy cái tội là cái tội do cái sự vô minh của cái người, chớ không phải là cái ý đồ của cái người đó, hay hoặc là họ là những tu sĩ của ngoại đạo đến đây để phá Phật Pháp. Họ không phải, họ là những tu sĩ Phật Giáo chớ không phải là tu sĩ ngoại đạo.

Họ muốn xương minh, họ muốn dựng lại Phật Pháp, nhưng vì không hiểu mà họ dựng sai, thành ra thay vì cất cái nhà của Phật Giáo ở trên cái đám đất nó khô ráo, nó không có sình lầy, trái lại họ đặt cái nền móng của Phật Giáo ở dưới cái đám sình lầy, cho nên cái nhà Phật Giáo nó không có vững vàng, nó sẽ sụp đổ một cái ngày nào họ không hay biết.

(36:12) Bởi vì cái thời đại con người nó càng có cái sự thông minh, và nó còn có cái sự phát triển về cái vấn đề cuộc sống của họ càng đi lên, mà họ thấy cái Đạo Phật mà như thế này thì một ngày nào đó không còn ai đến với Đạo Phật thì Đạo Phật sẽ bị diệt hoàn toàn, không còn có một cái hình ảnh nào là của một cái vị tu sĩ nữa.

Đời cha tui tu hành cũng đi tụng niệm, đời bây giờ tui chưa có thèm đi làm cái cái chuyện đó đâu, tui thà tui đi cấy, đi cày tui ăn còn sướng hơn!

Đó thì như vậy rõ ràng là vấn đề đó. Bây giờ tất cả những cái chuyện mà làm cái danh lợi của mấy ông bây giờ, ở trong bây giờ các chùa thì mấy ông còn làm cái chuyện đó, kiếm ăn đồ được, kinh doanh đồ được.

Nhưng mà sau này khoa học đến, những cái việc làm của người ta, người ta tạo ra cái thực phẩm người ta sống nó dễ dàng hơn, nó thoải mái hơn, hơn là mấy ông thầy chùa bây giờ kinh doanh, thì bắt đầu mấy ông thầy chùa đó: “Tui kinh doanh kiểu này cũng thua mấy thằng cha ở ngoài đó, nó làm khoa học nó còn ngon hơn mình!” Phải không?

Cho nên từ đó nó không ở trong chùa kinh doanh nữa, cho nên ai mà thèm vô chùa tu nữa? Rồi rốt cuộc cái chùa để chúng ta chơi: “Hồi đó, trời! Mấy cái chùa này nó làm vậy, vậy đó!” Người ta đến người ta thấy mấy cái chùa người ta chỉ: “Phật Giáo là vậy, vậy chớ không có gì hết!”

Đó thì càng lúc thì nó sẽ đi lên, thì con người nó sẽ đưa những cái tôn giáo mà sai lệch đó nó sẽ đi vào bóng tối hết, nó không còn có nữa. Nếu mà không có một cái sự dựng lại cho đúng đắn để xây dựng một cái đạo đức con người mà nhân quả như thế này thì chắc chắn là Phật Giáo sẽ đi vào bóng tối!

Trải qua hơn hai mươi thế kỷ, những loại kinh sách phát triển này đã làm thay đổi bộ mặt thật của Phật Giáo thành một bộ mặt Phật Giáo mới: “Tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia.”

Vì thế trong các chùa hiện giờ ngũ dục lạc đầy đủ còn hơn người thế tục, hưởng dục lạc bằng mồ hôi nước mắt của kẻ khác.

Đó thì bắt đầu quý thầy thấy: Hiện giờ cái chùa của Phật Giáo bây giờ rất là đầy đủ cũng như là những cái người nhà giàu vậy: Xe hơi có nè, cái gì cũng có. Tất cả những cái vật dụng của thế gian mà tiện nghi nhất thì trong chùa chúng ta đủ hết, tủ lạnh đồ, cái gì cũng có hết à. Tất cả những cái vật dụng mà của người thế gian như nào thì cái vật dụng ở trong chùa bây giờ cũng như thế nấy.

Họ sinh hoạt cái đời sống, họ ăn uống ngủ nghỉ cũng giống như cái đời sống của thế gian. Nó chỉ khác có một cái là họ tụng niệm, rồi họ đi giảng dạy về giáo pháp của kinh sách mà thôi.

Đó là chúng ta thấy trong những cái vấn đề đó nó cụ thể và rất là rõ ràng.

(39:00) Giảng đến đây thì Thầy còn nhớ lại một cái chỗ này nữa:

Giảng đến đây Thầy nhớ lại một bộ kinh tưởng của Đại Thừa rất lớn, đó là kinh Pháp Hoa, gọi tắt nó là kinh Pháp Hoa.

Mà cái tên của nó thì nó cũng có dài lắm, cho nên cái tên của nó gọi là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.

Kinh này hiện Phật tử tại gia cũng như tu sĩ đều lấy đó làm kinh nhật tụng hàng ngày của mình.

Nghĩa là lấy đó mà làm cái sự nhật tụng tu tập của mình đó, cho nên nghe đến kinh này thì hầu hết là người nào - người cư sĩ họ cũng chổng khu chổng gọng mà tụng để may ra được cứu khổ hay hoặc là thế này thế khác. Rồi tu sĩ thì tụng kinh này thì nghe nó là tụng kinh nó mát mẻ lắm, nó sẽ thành Phật giải thoát sau này đó. Do đó thì ai cũng thích tụng nó hết.

Đọc phẩm Phổ Môn, Thầy rất là buồn cười.

Nghĩa là đọc ngay cái phẩm Phổ Môn là Thầy thấy là nó có cái gì đó nó làm cho nó sai lệch của Đạo Phật rồi.

Người viết kinh này chẳng hiểu Phật Giáo.

Nghĩa là cái người mà soạn ra cái bộ kinh này phải nói rằng họ không hiểu Phật Giáo. Vì như Thầy đã nói: Phật Giáo - cái giáo lý của Đạo Phật nó xây trên cái nền tảng của nhân quả, còn cái bộ kinh này nó lại là xây dựng ở trên cái phi nhân quả.

Tại sao là phi nhân quả? Vì ở trong cái bộ kinh Phổ Môn là nói rằng chúng ta mà có gặp tai nạn gì đó, hoặc là có gặp cái bị tù tội, hoặc là bị rắn độc, hoặc là bị thuốc độc gì đó thì cứ niệm bỉ Quan Âm lực - tức là niệm đức Quan Thế Âm - thì cái lực của Quan Thế Âm sẽ cứu khổ, cứu mình thoát khổ.

Như vậy là đặt thành một cái vấn đề, là bây giờ có một người ăn trộm ăn cắp đi, rồi nó cũng bị bắt ở tù đi, nó cũng - bao giờ thằng ăn trộm ăn cắp nó muốn ở tù đâu? Cho nên nó niệm Quan Thế Âm đi, thì Đức Phật Quan Thế Âm đó hộ trì cho nó thoát ra tù. Nó khoái quá, có ông này phù hộ mình ăn cắp cho dữ tợn nữa! Phải không?

Thì như vậy cái kinh này nó thuộc về loại cái kinh phi Phật Pháp, phi nhân quả rồi, phi cái đạo đức nhân quả rồi, làm sao gọi là kinh điển của Đạo Phật được? Nội trong cái phẩm Phổ Môn là chúng ta đã thấy nó không phải là kinh của Đạo Phật rồi.

Mà bây giờ có người luận là như thế này: Nếu mà chúng ta làm cái điều lành thì đức Bồ Tát Quan Âm mới phù hộ, mà làm cái điều ác thì đức Quan Âm đâu có phù hộ? Thì cái đó lại luận sai nữa rồi! Nếu mà kinh mà viết như vậy thì thôi nói nhân quả thì hơn, nói cái kinh này làm gì?

Thì bây giờ chúng ta làm lành thì chúng ta không ăn trộm ăn cắp thì ai bắt mình bỏ tù? Còn mình ăn trộm ăn cắp thì chúng bắt bỏ tù thì mới có cầu khẩn, chớ còn nếu mà không có làm cái chuyện ác thì làm sao có chuyện tội lỗi đó, có chuyện cái quả khổ đó mà cầu, phải không?

Nếu mà làm thiện hết thì có ai có khổ đâu, thì có còn cầu ai nữa đâu? Thì như vậy là kinh này chỉ là người lý luận thế này, người lý luận thế khác, cái miệng của họ thì lý luận như vậy, nhưng mà lý luận rốt cuộc rồi sai, vậy thì chúng ta đứng trên nhân quả là hơn!

(42:05) Nếu mà tâm chúng ta làm tốt thì cần gì phải cầu Quan Âm? Còn nếu mà chúng ta làm xấu thì chúng ta mới cầu Quan Âm chớ, mà Quan Âm phù hộ kiểu đó thì cái xã hội, hành tinh này nó ra sao? Có phải là rối trật tự không?

Cái thằng ăn trộm, ăn cắp, giết người này, cái thằng buôn thuốc phiện lậu mà nó đi qua mặt được hải quan thì cả một - bao nhiêu con người chúng ta ghiền thuốc phiện cũng riết cũng chết hết còn gì, phải không?

Vì vậy cái kinh này thiệt là kinh của Đại Thừa thiệt chớ không phải là kinh giả đâu. Chỉ có Đại Thừa mới dám làm chuyện này chớ!

Bởi vì Đại Thừa nó lớn cho nên nó mới dám làm cái chuyện như vậy, chớ còn nhỏ nhỏ nó đâu có dám làm chuyện đó. Nghĩa là cái người hung ác mà nó thả được, nó ban bố cho cái người đó được, thì như vậy nó như thế nào? Thì các thầy thấy quá rõ ràng à.

Mà cái kinh này là hầu hết là Phật tử chúng ta đều tin tưởng hết. Bây giờ kinh này nó bán thiếu gì! Nghĩa là muốn hồi nào cũng có hết. Bởi vì cái kinh rất là phổ thông, mà tưởng ra rất hay, nghĩa là Phật Tánh cũng tuyệt diệu.

Các thầy cứ nghe Người Cùng Tử coi, phải hay không? Mà nó ví dụ cái nhà lửa cũng tuyệt vời! Đó chỗ nào nó ví dụ những cái bài, cái phẩm kinh nào Thầy thấy nó cũng hay. Bởi vì nó thuộc kinh tưởng mà, nó tưởng ra nó rất tuyệt lắm, rất hay, làm cho ai cũng đọc cái kinh thấy tuyệt diệu.

Cho đến cái phẩm Phổ Môn thì các thầy thấy sao? Đâu đâu cái chùa nào cũng có thờ đức Quan Âm hết, để mà cho ngài ngự trị chỗ nào là phù hộ cho mình tai qua, nạn khỏi chớ gì! Đâu đâu cũng có.

Đó thì quý thầy thấy, tất cả những cái này nếu mà Thầy không vạch ra thì ai mà dám vạch? Thầy nói không có người nào mà dám vạch cái này hết, chỉ có Thầy cả gan dám vạch ra. Ai làm gì làm, Thầy chết ở trong Phật Pháp chớ Thầy không có chết mà để Phật Pháp suy đồi.

Nghĩa là Thầy đem cái thân mạng của Thầy mà chấn hưng lại Phật Pháp, Thầy thà chết ở trong giáo pháp của Phật, làm sao cho Phật Pháp phải đúng của nó chớ không thể mà đem những thứ cái thứ này, tạp nhạp này mà gọi là của Phật được!

Cho nên các thầy nghe, các tổ đều là nghe Đức Phật giảng ở trên núi Linh Thứu kinh Pháp Hoa chớ gì? Phải không? Các con nghe thử coi có không? Luôn luôn lúc nào mà các tổ cũng - người nào mà tu thiền khá khá được thì xuất hồn lên trên đó, trên trời Đâu Suất để mà nghe Đức Phật Thích Ca đang thuyết pháp kinh Pháp Hoa rền cũng như sấm vậy!

(44:17) Mà kinh Pháp Hoa là kinh vậy đó, kinh để độ người bằng cách như vậy đó thì chúng ta thấy đau lòng lắm! Nhìn Phật Pháp chúng ta thấy những cái chân pháp của Phật, cái thiện pháp của Phật, cái đạo đức nhân quả của đạo Phật nó dìm xuống tận dưới bùn rồi, nó không còn có cái gì mà có thể gọi là được hết. Cho nên rất là đau lòng!

Phật Pháp rất là vi diệu! Làm cho từ cái người cư sĩ cuộc sống rất là an hòa, rất là hạnh phúc, giải thoát rất thực tế. Bởi vì cái hành động thiện của họ là họ đem đến cái hạnh phúc của họ.

Bởi vì nhân quả mà, cái luật nhân quả nó công bằng vô cùng, không có một đấng tạo hóa nào mà có thể ban phước cho chúng ta được, mà cũng không ai làm một con quỷ, con ma gì mà làm hại chúng ta được hết, không có giết chúng ta được hết.

Nhân quả là cái luật công bằng nhất của con người. Từ cái nhân quả chúng ta sanh ra rồi chúng ta cũng trở về nhân quả thì có ai hơn là cái nhân quả? Do đó đạo Phật dạy chúng ta chấm dứt nhân quả là chấm dứt sanh tử luân hồi, chớ đâu phải là cái gì khác hơn hết!

Thế mà người ta không hiểu được nhân quả, người ta lập luận theo cái kiểu đó thì thử hỏi có phải là đưa đạo Phật đi vào mê tín không? Cầu khẩn - làm ác mà cầu khẩn thì cái kẻ mà làm ác nó lại càng bành trướng rộng ra, càng đông ra nữa, thì cái xã hội này còn cái gì?

Có ai mà muốn sung sướng được mà - có ai mà muốn ngồi không mà hưởng? Ai cũng muốn ngồi không hưởng hết! Vì vậy mới chà đạp lên nhau.

Chớ còn ai cũng thấy bổn phận mình phải làm những cái hành động tốt thì mình phải thọ hưởng, còn mình không làm thì mình không thọ hưởng, đằng này mình tu hành mình cũng muốn ngồi ở trên mồ hôi nước mắt của người ta mình ăn thì như vậy mình tu cái gì? Mình phải hiểu được cái chỗ tu hành của mình chớ?

Nói cho hết cùng, để rồi chúng ta thấy cái giáo án nó thành lập cho đúng cái người xuất gia.

Tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia.

Đó, thì quý thầy thấy rằng cái tâm xuất gia mà cái thân chẳng xuất gia là cái thân mà chúng ta đang ở trong cái hình ảnh của ông Duy Ma Cật, là cái tâm mà chúng ta giải thoát mà cái thân chúng ta chẳng xuất gia đó, thì nó đúng hay là sai?

Nghĩa là chúng ta phải chọn lấy thân, tâm phải xuất gia chớ còn nói một cái chỗ nào thì cũng không được hết. Nghĩa là nói thân xuất gia mà tâm không xuất gia thì không đúng, tà nói tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì cũng không đúng.

Nghĩa là ba cái điều mà Thầy đã nêu lên đó thì chỉ có điều thứ nhất là đúng thôi, còn hai điều thứ hai đều là sai hết. Người nào mà đi vào cái quỹ đạo đó đều là trật hết, không có đúng cái người xuất gia.

Đến đây Thầy xin chấm dứt, rồi ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục nữa.

2- GƯƠNG HẠNH TU TẬP THỜI ĐỨC PHẬT - PHẦN 6

[Phần 5 ở Giáo án 22]

(46:49) Bây giờ bắt đầu cái giáo án mà chúng ta học đó, thì Thầy xin nêu lên những cái gương hạnh để cho nó làm sáng tỏ cái giáo án của chúng ta.

Hồi hôm qua thì chúng ta có đập phá những cái sai của các tổ, của các kinh sách, cho nên bây giờ chúng ta phải thuật lại những cái gương hạnh của các bậc Thánh Tăng người ta tu cái nào đúng mà tu cái nào sai.

Cho nên ở đây hôm nay Thầy nêu lên hai cái vị - những cái bậc Thánh Tăng ở bên nữ, do để chúng ta biết rằng: Cái thứ nhất là để chỉnh đốn lại cái pháp hành của chúng ta.

Cách thức mà Thầy dạy quý thầy là tu tập cái định Vô Lậu. Nhiều khi quý thầy chỉ đặt nó đơn giản một cái câu trạch pháp ra như thế này: “Thân thì vô thường, khổ, vô ngã…​” rồi cứ ngồi đó mà cứ đọc nhẩm cái đó thì nó không đúng đâu.

Thì các thầy sẽ thấy một cái vị Thánh Ni mà người ta đã đặt ra một cái pháp trạch mà người ta quán từ cái tóc tai của người ta cho đến khi mà người ta toàn triệt được cái lý vô thường, cái lý khổ của nó, người ta phá được những cái vô lậu của cái tâm người ta, người ta diệt sạch ba cái Ngũ Triền Cái, cho nên người ta chứng quả A La Hán liền.

Đó là những cái gương hạnh mà người ta rất là tỉ mỉ đi từng chút để người ta đi vào. Qua những cái bài kệ của cái vị Thánh Ni này đã để lại cho chúng ta biết là cách thức mà hành trì của các cái pháp hành nó như thế nào đúng.

Cho nên ở đây có nhiều cái gương hạnh mà chúng ta không có nêu ra được rồi chúng ta không có biết cách hành, chớ còn nếu mà thật sự mà Thầy đem những cái gương hạnh này ra thì Thầy chắc chắn là quý thầy sẽ trạch pháp rất là kỹ khi mà chúng ta quán vô thường, quán cái thân của chúng ta như thế nào, rồi chúng ta biết từng chút, từng chút.

NGÀI AMBAPÀLI QUÁN THÂN VÔ THƯỜNG GIÀ XẤU

(48:34) Đây Thầy sẽ đọc lại một cái gương hạnh của bà Ambapàli.

Bà Ambapàli.

Bà tên như vậy.

Khi còn là thiếu nữ thì bà rất là đẹp, cho nên những vương tôn, công tử thường cạnh tranh để chiếm bà.

Vì vậy đó bà - khi mà bà còn trẻ bà rất đẹp cho nên mọi người tranh với nhau để mà chiếm cho được bà. Bà là một người rất giàu trong cái thời của Đức Phật, cho nên bà cất một cái ngôi tịnh xá trong cái khu vườn của nhà bà đó, rồi bà dâng cúng lên Đức Phật và chúng tăng.

Lúc bấy giờ đó thì bà có một đứa con trai đã được đi theo - đã xuất gia theo đạo Phật tu hành, thì cái đứa con trai đó khi mà về thăm bà đó, thì nó thuyết pháp cho bà nghe.

Do nghe cái bài pháp cái lý vô thường thì bà thấy bà rất hiểu. Bà rất hiểu từ cái tuổi trẻ của bà đó, bà thấy bà là một cái người rất đẹp, bà hãnh diện với cái sắc đẹp của bà, cho nên bà thấy những cái vương tôn, công tử mả đến cạnh tranh để chiếm đoạt bà, bà hãnh diện hơn ai hết.

Cho nên bà nghe cái bài thuyết giảng của đứa con bà về mà nói về cái lý vô thường thì bà thấy bà chứng nghiệm tới bây giờ tuổi già bà cũng thấy quá rõ trong cái lý vô thường đó.

Ngày xưa bà đẹp đẽ như thế nào, bây giờ thì nó ra như thế nào. Do qua những cái bài, cái lời giảng đó thì bà quán xét cái thân của bà. Và cuối cùng thì bà đã chứng đạo được quả A La Hán trong chiếc áo cư sĩ chớ chưa phải là tu sĩ đâu.

Người ta chỉ thấu được cái lý của vô thường là người ta đã chứng được đạo đó, mà chưa phải là xuất gia, mà khi nghe đứa con người ta thuyết giảng rồi người ta nhận ra được cái lý đó rồi, thì bắt dầu bà dùng cái pháp trạch, bà trạch ra một cái câu để rồi bà cứ quán từ đầu đến chân bà như thế nào. Đây quý Thầy sẽ nghe qua cái bài kệ coi bà quán như thế nào đây.

Đây là những cái gương hạnh mà chúng ta bắt chước để mà chúng ta tu tập cho đúng cách, để mà chúng ta được giải thoát chớ không phải là gì khác hơn hết.

Đây bà ví dụ, bà bắt đầu bà đặt cái niệm trước mặt bà, bà quán cái thân vô thường của bà đây:

Đen như sắc con ong,

Nghĩa là bà ví tóc của bà hồi mà còn thiếu nữ nó đen như là con ong, nó đen mượt, đen tốt lắm.

Tóc dài ta khéo uốn,

Tóc bà rất dài, bà uốn lên, coi như là trên cái đầu bà uốn là đẹp đẽ vô cùng lận chớ không phải ít.

Nay biến đổi vì già,

Như vải gai, vỏ cây,

(51:12) Đây các con thấy hai câu kệ này. Bây giờ nó già rồi, nhìn cái tóc của bà như là cái vải gai, vải thô, vải xấu đó, nó không còn cái đẹp đẽ gì như ngày xưa nữa, giống như cái vỏ cây mà phủ ở trên đầu bà vậy, cứng ngơ cứng ngắt nó không có mềm mại gì như hồi còn con gái, mà nó không có đen như là con ong nữa.

Đó. Tức là bà suy nghĩ mà, bà nghĩ hồi cái thời mà tuổi trẻ của bà tóc nó như thế nào, các con thấy, tức là người ta quán chớ gì!

Còn mình, mình quán cái gì: “Thân này vô thường, khổ, vô ngã!” Rồi cái ngồi một hơi cái rồi: “Thân vô thường, khổ, vô ngã!” Cứ nhiêu nhập đi nhập lại nó có nhằm nhò gì, có thấy được cái gì đâu?

Còn người ta phải suy nghĩ từng cái chút ở trong cái thân của người ta, người ta mới tìm được cái lý vô thường của nó chớ. Hồi đó sao nó đẹp đẽ, nó như vậy, còn bây giờ thì nó là như thế nào?

Rờ cái đầu tóc mình, cái cọng tóc hồi đó nó mềm, bây giờ thì nó cứng như cái dây gai gì ở trển á, mà nó bạc, nó có khúc đen, khúc bạc nó làm kỳ cục như là đồ bỏ vậy. Đó cho nên bà ví như vải gai, như vỏ cây.

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Bậc nói sự thật là Đức Phật đó. Tức là bà không có nói bậc Thế Tôn nhưng mà bậc nói sự thật. Ông Phật ổng nói là cái sự thật mà, bây giờ mình quán xét mình thấy rõ quá: Ông Phật ổng nói sự thật!

Cũng như bây giờ mình nói, Phật nói là: “Thân vô thường, khổ, vô ngã!” Thì mình biết như vậy, nhưng mà mình không quán biết như vậy thì mình làm sao mình biết đó là bậc nói sự thật, phải không?

Cho nên đó là cái bài kệ thứ nhất, bà bắt đầu bà quán cái mái tóc đẹp của bà đó. Cái mái tóc đẹp mà bà khen nó đen bóng như là - sắc như con ong mà, đẹp lắm!

Đây bà bắt đầu đây, cái mái tóc đó đâu phải là hôi như chuột xạ đâu, phải không? Nó thơm chớ! Cho nên như thế nào đây, bà mới quán:

Thơm như hộp ướp hương,

Nghĩa là cái mái tóc bà bị tối ngày xức dầu dừa, rồi ướp dầu thơm ở trển mà nó không thơm sao được!

Đầu ta đầy những hoa,

Thì lúc bấy giờ bà còn thiếu nữ thì chắc chắn là phải giắt bông, giắt hoa trên đó làm cho đẹp thêm cái mái tóc của mình chớ, để cho mấy chàng trai mới ngó chớ, chớ nếu mà làm xấu ai nhìn, ai ngó làm gì? Cho nên bà cũng là tay sửa soạn dữ lắm đó. Cho nên bà mới quán những gì quá cụ thể, rõ ràng.

Nay biến đổi vì già,

Hôi như lông con thỏ,

Đó người ta quán người ta nghĩ, bây giờ thật sự ra thì không có còn mà xức dầu thơm nữa thì ba bữa hay là một tuần lễ, Thầy nói, cái đầu tóc phụ nữ một tuần lễ đó chắc không ai dám lại gần đâu!

Bà ví dụ nó hôi như con thỏ chớ Thầy nói còn hôi hơn chuột cống ở dưới lỗ cống nữa chớ đừng nói. Vậy mà mấy ông thấy khoái lắm, hít thở tùm lum ở trển hết!

Đó, bà quán như vậy các thầy thấy có thấu không, có thấu cái lý vô thường không? Trước thì nó thơm tho, nó như là cái hộp ướp hương ở trong đó lận, phải không? Trên đầu thì hoa đồ giắt. Trời ơi nhìn đẹp biết bao nhiêu! Nhưng bây giờ nó hôi như cái lông con thỏ thì còn cái thứ gì nữa? Đâu có còn cái thứ gì nữa!

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

(54:07) Đó, lấy những kinh nghiệm này mà chúng ta tập từ từ, chúng ta tập quán, tập suy tư ra chớ!

Nhiều khi quý thầy lười biếng lắm không chịu có suy tư, nghe Phật nói vô thường, khổ, không, vô ngã thì cũng nhập đi nhập lại hoài, không có chịu quán sát. Bởi vì quán sát nó mới có những cái tri kiến, cái sự hiểu biết của chúng ta nó mới - cái tri kiến giải thoát nó mới ra.

Chớ còn mình lười biếng mình cứ nói “vô thường, khổ, vô ngã” rồi cái nằm đó chơi cho đã, một lát cũng nói “vô thường, khổ, vô ngã” thì ngàn đời nó cũng không vô thường, khổ, vô ngã nữa! Ai đụng tới cái mặt nó chầm dầm nó muốn đánh người ta, thì cái đó không phải là vô thường đâu.

Bây giờ bà mới quán tới cái gì nữa đây:

Như rừng khéo vun trồng,

Lược kim ta chói sáng,

Nghĩa là bà cắm lược nè, rồi kim, hoa đồ bà giắt trên đó, cũng như cái rừng mà người ta khéo trồng cây. Bà ví cái đầu bà, lúc bà sửa soạn bà cắm lược gài trâm giắt ở trên đó, thì giống như là cái người mà khéo trồng rừng. Nghĩa là cái khu rừng họ chắc khéo trồng cây cho nó đầy ở trên đó hết, thì bà cũng làm cái đầu bà cũng đầy ở trên đó vậy.

Đó, thì các thầy có đúng không? Đúng lắm chớ, bà nào mà không sửa soạn, không cài lược, không giắt kim, không giắt hoa ở trển, cho nên giống như là cái người trồng rừng ở trên đó.

Nay biến đổi vì già,

Tóc lơ thơ rơi rụng,

Trời ơi! Sói sọi hết rồi còn cái thứ gì! Còn có đẹp ở chỗ nào đâu nữa, còn giắt cái gì được nữa, nó thưa, ba cái cọng tóc mà thưa như vầy giắt nó tuột xuống hết còn cái gì đâu mà trồng rừng ở trển được nữa. Cho nên giờ còn đẹp đẽ gì nữa!

Đó, các con thấy không? Cái duy nhất mà để cho người ta ngó là cái gì? Cái đầu của phụ nữ, mà bà bây giờ bà quán như vậy. Thì cái phụ nữ họ hãnh diện cái đầu họ lắm, chớ không phải là không hãnh diện đâu.

Họ đẹp là họ hãnh diện cái gì? Cái nhất là cái đầu của họ. Cho nên vì vậy đó mà bà đem cái đầu bà quán trước, cái đó là bà hãnh diện nhứt đó. Bây giờ bà quán trước bà ném cái đầu bà xuống đi, phải không? Bà ném cho sạch cái đầu bà xuống rồi thì bà mới thấy được cái sự vô thường thật sự của nó.

Bà ví dụ:

Tóc lơ thơ rơi rụng,

Thiệt là, cái rừng cũng như là rừng nó cỗi hết rồi, cây người ta đốt sạch hết rồi, còn thứ gì!

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Rồi bây giờ bà tới đó rồi, bây giờ bà tới cái gì nữa đây? Bà quán tới nữa. Các thầy thấy: Đi tuần tự người ta quán chớ không phải là người ta quán cái ồ cái tới dưới chân liền.

Còn quý thầy quán một cái nó hết cả toàn thân, mà không thấy tóc tai của mình nay nó điểm hoa râm hết như muối tiêu ở trển hết mà không nghe người nào nói hết. Phải không?

Đầu mình hoa râm mà mình không quán cái hoa râm đó để mình thấy nó vô thường, mà mình cứ quán: “Cái thân này vô thường, khổ, vô ngã” rồi cái thôi. Cái đó là quá vắn tắt rồi, nó không có thấu suốt được cái lý vô ngã, còn quán như bà thiệt là thấu.

Bởi vậy Thầy đọc đến đây Thầy nói người xưa thiệt là có những cái kinh nghiệm tu, còn thời nay nghe đâu nhai đó. Nhai bã mía mà khi mà nhai nó không có nước mà cứ nhai, chớ phải có nước ngọt thì cũng ráng nhai cũng chúp chúp cũng đỡ! Người ta nuốt hết nước ngọt rồi mình cứ nhai hoài mà không chịu nhả ra bỏ.

(57:01) Mình ít ra mình phải nhai cái gì nó có cái chất gì chớ, còn cái này nhai mà nó không có chất mà cứ nhai thì cái đó là cái tệ quá tệ! Bởi vậy đừng có nhai lại những cái điều đó, mà hãy tìm ra cái gì mình nhai có những cái chất gì, vị gì thì mình nhai thêm, thì nó mới là cái lý vô thường nó mới đúng.

Bây giờ bà cũng tiếp tục ở trên cái đầu của bà nữa đây:

Trang điểm với bện tóc,

Đó, bây giờ bà trang điểm, tóc thì bà bện lên bện xuống, có người thắt đuôi sam, đuôi chuột, đuôi gì đủ thứ hết, thả lòng thòng, kéo lên kéo xuống, quấn ở trên đầu đủ loại ở trên đó.

Thầy thấy đủ thứ hết, người thì uốn phải không, người thì thắt đuôi chệt, đuôi sẩm gì đó, quấn qua quấn lại, người thì thả lòng thòng xuống, làm đủ kiểu. Đó, đó là những cái mà làm dáng làm đẹp, coi như là cái thân không có vô thường đó.

Sáng chói nữ trang vàng,

Nghĩa là dù là trang điểm cách nào, bện tóc cách nào thì cũng giắt những cái trang điểm, những cái vòng vàng ở trên đó để làm cho cái đầu của mình lại đẹp thêm nữa.

Tóc mềm mại êm dịu,

Lúc bấy giờ tóc nó mềm mại nó êm dịu, giắt cái gì nó cũng tốt hết.

Thơm ngát với mùi hương,

Nghĩa là cái lúc bấy giờ sửa soạn là nó thơm tho như vậy đó.

Nay biến đổi về già,

Rơi rụng, đầu sói trọc,

Hồi nãy nó còn lưa thưa, còn tới bây giờ nó sói trọc hết rồi, còn cái gì nữa mà đẹp đẽ! Đó người ta suy nghĩ: Bây giờ mặc dù là mình chưa có sói trọc, nhưng rồi đây nó sẽ rơi rụng hết nó sói trọc chớ không có nó còn ở trong đó cọng nào đâu!

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Đó, qua cái bài kệ đó các thầy thấy người ta quán từng chút, từng chút mà. Rồi bắt đầu đây cái đầu nó rụng hết rồi, không còn nữa, sói trọc rồi, bây giờ còn cái gì nói nữa? Cho nên bà đi tới cái gì đây:

Trước lông mày của ta,

Đó bà đi xuống cái lông mày rồi đó. Thấy chưa? Thấy người ta quán từ từ, người ta quán hết cái đầu của người ta rồi, bây giờ nó rơi rụng, nó sói trọc rồi, bắt đầu người ta mới tới cái lông mày.

Còn quý thầy làm nhanh quá, vô chặt rừng, phát vô đầu cái nhảy tới cuối rừng cái (xong) rồi! Thành ra cái sự quán như vậy nó không có thấu đâu, nó không có thấm cái lý, mà nó không có chứng được cái lý vô thường đâu.

Đi từ từ như bà đó, chúng ta đi từ từ, tới đâu chúng ta chặt cho nó sát đó hết, thì tức là cái lý nó sẽ thấm được.

Trước lông mày của ta,

Chói sáng khéo tô vẽ,

Trời! Bà này chắc vẽ vòng nguyệt dữ lắm à chớ không phải không đâu! Phải không? Bởi vì cái lông mày của bà, bà phải nhổ cho nó như thế nào chớ thiên nhiên tự nhiên thì nó cũng mọc tầm bậy chớ làm sao mà nó mọc ngay hàng được, cho nên bà phải nhổ, phải làm cho nó coi nó ngay hàng thẳng lối.

Rồi còn phải vẽ, cho nên nó làm chói sáng cái…​ Bà nói khéo tô vẽ nữa mà: “Chói sáng khéo tô vẽ.” Cái lông mày mình tự nhiên nó không có chói sáng bằng đâu, tô vẽ thêm, nó lợt lợt thì mình tô đậm lên.

Thì hầu hết là quý thầy thấy mấy bà chớ gì, rõ ràng là họ tô trên đó chớ gì, có nhiều khi họ còn cắm lông nheo giả cho nó dài ra, cho nó đẹp nữa chớ đừng nói! Phải không? Đó là những cái mà chúng ta không thấy nó vô thường, cho nên chúng ta chạy theo nó để làm cho nó đẹp.

Nay biến đổi về già,

Nhăn nheo, rơi suy sụp,

(01:00:09) Nghĩa là lông nheo nó cũng rụng xuống hết. Mà cái mắt như thế nào? Cái chỗ này, cái chân mày chỗ này bây giờ nó nhăn nhăn hai ba lằn rồi còn cái thứ gì nữa mà đẹp! Có vẽ gì đi nữa coi cũng không có ra gì hết. Đó bà nói :

Nhăn nheo, rơi suy sụp,

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Đó thì chúng ta thấy bà lần lượt bà quán tới cái lông mày rồi đó. Rồi bây giờ lông mày hết rồi thì còn quán cái thứ gì nữa đây? Bà quán tới con mắt của bà, phải không?

Mắt ta xanh và dài,

Đẹp quá phải không? Như chúng ta thấy cái rặng núi mà nó nhô lên mà nó kéo dài, quá đẹp phải không?

Sáng đẹp như châu báu,

Nay biến đổi vì già,

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Con mắt bây giờ nó sâu như hai cái hố à, bởi vì nó già quá nó lỏm ở trỏng, rồi hai cái mí mắt ở trên này nó nổi lên, bởi vì già nó nhăn nheo, rồi hai cái chân mày này nó nổi lên nó che cụp xuống, rồi con mắt nó sâu o ở trỏng, thì còn cái gì đâu cái vẻ đẹp đẽ nữa?

Đó, là cái quán của nó thấy cái sự vô thường từ cái lúc trẻ của mình nó đẹp, nó tròn trịa, mắt nó xanh dài ra nó đẹp, rồi bây giờ nó đâu có còn gì nữa, nó thụt vô trong đó rồi, nó lờ mờ rồi. Rồi ở ngoài cái chân mày của mình thì nó nhăn nheo, nó phủ xuống, nó làm coi cái vẻ như hai cái giếng ở trong đó, có cái gì còn đẹp nữa!

Đó là mình suy, mình quán, mình xét cái thân của mình, mình thấy nó thay đổi vậy thật là vô thường. Mà mỗi lần thay đổi như vậy đó thì mình xấu xí, mình có buồn không?

Buồn lắm chớ! Ai phụ nữ mà thấy mặt mình xấu mà mình không buồn! Cho nên nó cũng đau khổ. Cho nên Phật nói cái gì mà - các pháp mà vô thường đều là khổ, nó có sự thay đổi là nó làm khổ cho mình.

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Rồi bây giờ con mắt rồi thì bà quán tới cái gì nữa đây? Bà quán tới cái lỗ mũi:

Lỗ mũi mềm và thon,

Đây là lỗ mũi dọc dừa chớ không phải là lỗ mũi thường đâu, không phải lỗ mũi tẹt đâu, mà đây là dọc dừa, cho nên bà nói thon là Thầy hiểu biết là dọc dừa rồi. Mà mềm nữa chớ không phải cứng như cái vỏ cây đâu.

Sáng chói như trẻ măng -

Sáng chói như măng tre,

Nghĩa là bà ví cái mũi bà cũng như cái mụt măng mà nó rất đẹp, đó.

Nay biến đổi vì già,

Héo khô và tàn tạ,

Cái mũi bây giờ có khi mà nó sụp vô, nó méo, nó móm, nó không có tròn trịa như hồi - nó không thon như hồi trước nữa, mà nó cũng không mềm mại nữa, nó làm sao mà nó khó coi, nó khó coi vô cùng lận!

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Rồi, bắt đầu bây giờ bà đã quán được cái lỗ mũi bà rồi, bà thấy nó xấu quá rồi, không còn đẹp đẽ gì nữa hết. Bây giờ bà quán tới cái gì? Tới răng, phải không? Bà đi tuần tự từ ở trên tóc rồi xuống tới cái chân mày, rồi tới cái lỗ mũi, rồi bây giờ tới răng.

Như răng ta sáng chói,

Như búp nụ chuối hoa,

Nghĩa là mỗi cái răng của bà nó giống như là cái buồng chuối mà nó mới trổ ra đó, nó y như vậy, cho nên bà so sánh cái hàm răng của bà. Những cái răng của bà quá đẹp!

Nay biến đổi vì già,

Bẻ gãy vàng như lúa,

Nghĩa là bà thấy cái răng của bà bây giờ cái đưa tới, cái đưa lui như là cây lúa mà nó chín vàng người ta sắp đập rồi, đâu còn thứ gì nữa đâu gọi là đẹp đẽ nữa?

Cho nên nhìn mấy bà già mà bây giờ đừng có trồng răng xương thì chắc chắn là Thầy thấy, cái miệng của mấy bà đó thì thôi thấy mắt cũng không có còn cái đẹp đẽ gì hết.

Cái thì đưa tới bởi vì nó lung lơ rồi, nó đưa ra, cái thì đưa vô, còn cái thì gãy, cắm chỗ này rồi khoét chỗ kia, ăn uống thì mắp mắp vầy chớ có nuốt gì được, rất là đau khổ!

(01:03:48) Do vì vậy đó, cái sắc đẹp đó nó có thường đâu, ai chắc cũng có gãy răng hết chớ không ai không gãy răng, mà nhất là già thì còn gãy răng nhiều hơn hết.

Đó là bà quán tới cái bộ răng của bà, bà thấy thiệt là vô thường thiệt. Nếu mà thường thì bây giờ nó cũng phải như hồi trước chớ, sao lại bây giờ nó xẹo qua xẹo lại vậy, nó ngã tới ngã lui vậy? Như là một cái rừng cây mà bị bão vậy, coi sao cho được!

Như vậy thì chúng ta đã thấy được cái sự quán xét của bà, nó vô thường từng chút của cái cơ thể của bà, chớ không phải như chúng ta quán nhanh quá.

Rồi bây giờ tới cái răng rồi thì bà quán tới cái gì đây? Bà quán tới giọng nói của bà. Bởi vì phụ nữ mà có giọng nói thanh tao thì lên khán đài hoặc là lên chỗ nào để mà ca hát thì chắc chắn cất giọng ra thì bên nam chắc là khoái lắm rồi đó.

Cái giọng bà chắc cũng là ngon lắm cho nên bà mới quán cái giọng của bà đây, chớ còn ồ ề như ếch kêu ở dưới giếng thì chắc bà không nói đâu. Cái giọng của bà cũng thanh tao lắm, lên sáu câu vọng cổ là Thầy thấy cũng là ăn đứt đó! Cho nên bà mới đem ra bà quán đây:

Ngọt là giọng nói ta,

Nghĩa là giọng nói rất là - cái giọng nói chắc êm ái lắm, nghe thanh tao lắm cho nên bà nói nó ngọt, đó là cái ví dụ là cái giọng nói bà rất là thanh tao.

Ngọt là giọng nói ta,

Như chim cu hát rừng,

Bà ví nó như là tiếng hát của buổi sớm mà con chim cu hót ở trong rừng, nó thanh như vậy đó. Đó thì biết là cái giọng nói của bà là như thế nào rồi.

Nay biến đổi về già,

Tiếng bể la dứt đoạn,

Y như cái tiếng đồng la, mà đồng la bể chớ không phải là đồng la còn nguyên nữa. Đó, bà so sánh cái tiếng nói của bà hồi còn là thiếu nữ, nó thanh tao như tiếng chim cu hót, tiếng chim cu rừng hót, mà bây giờ bà nói ra cái tiếng nói của bà như là cái đồng la bể vậy.

Thì quý thầy còn thấy nó có thường không? Nó vô thường quá đỗi mà, nó đâu còn thanh tao nữa đâu! Kiểu này mà lên cất giọng ca thì chắc chắn ai còn thèm nghe nữa!

Đúng như lời giảng dạy,

Các bậc nói sự thật.

Rồi bây giờ bà quán được cái giọng nói của bà rồi, bà thấy nó vô thường rồi, thì bà tới cái gì nữa đây? Bà quán tới cái cổ của bà. Thì thật sự ra thì bà quán tất cả những cái gì mà gọi là đẹp đẽ nhất ở trong cái thân của bà, thì bà đã tuần tự, bà lần lượt bà quán nó thấy sự vô thường.

(01:06:10) Thì cái cổ của người phụ nữ thì cũng là một cái đối tượng cho nam nhân nhìn chớ đâu phải là cái chuyện tầm thường đâu. Cho nên bà cũng biết nó là cái chỗ mà lôi cuốn người ta chớ đâu phải biết - chớ không phải không, cho nên bà cũng sửa soạn cái cổ của bà để cho lôi cuốn thiên hạ chớ bà đâu phải ngu!

Cho nên vương tôn công tử mới tranh nhau, chớ còn nếu mà bà để cái cổ bà như cái cổ cò thì chắc ai mà thèm, phải không? Các thầy thấy, như mà để cái cổ cò thì ai mà thèm. Cho nên vì vậy bà phải sửa soạn cái cổ bà như thế nào chớ.

Cho nên bà biết cái đó nó vô thường rồi. Còn chúng ta không có để ý thì chúng ta không có thấy được cái chỗ nào mà chúng ta quán đâu. Còn bà, bà quán từng chút từng chút, bà biết cái đẹp, cái xấu, cái vô thường, cái không vô thường, cho nên bà đặt nó ra bà quán:

Trước cổ ta sáng chói,

Mềm đầy đặn, nhu nhuyến,

Cổ mà rất là mềm, đẹp lắm đó chớ không phải!

Nay biến đổi vì già,

Nhiều ngấn và khô cằn.

Bây giờ nhìn mấy cổ bà già coi, gân hai cái gân cổ nổi lên nè, ngấn qua ngấn lại đủ thứ hết, giờ có ai thèm ngó nữa đâu! Cho nên nó khô cằn như là cái da cây mà nứt lằn lằn vậy, thì thử hỏi còn cái gì nữa? Đó không phải là vô thường sao?

Đó các thầy thấy nó là cái sự thật mà, nó là cái sự thật, khi mà chúng ta quán nó là sự thật nó làm cho chúng ta xả bỏ được cái tâm. Còn mình quán cái kiểu mà quán không có thấy cái sự thật thì nó như là mình bị che mờ hết đi, mà mình nói cái danh từ suông không à, mà không nhìn ra sự thật.

Cho nên khi mà quán thì chúng ta nhìn, đặt cái quán là chúng ta tưởng ngay cái cổ của chúng ta như thế nào, hồi đó như thế nào, nó bóng, nó mượt như thế nào, nó liền như thế nào, nó làm hấp dẫn người ta như thế nào?

Thì bây giờ, nó già cằn cỗi rồi thì bây giờ nó nhìn như cái vỏ cây, nó lằn nứt như thế nào, rồi nhiều cái ngấn ở trên cổ chúng ta như thế nào, rồi gân cổ nó nổi nên như thế nào?

Thì nhìn thiệt là thấy giống như là cổ rắn rồi chớ đâu còn cái thứ gì mà ai mê nữa! Cho nên đó là một cái sự vô thường rồi, đâu có còn gì! Đó là một cái sự thật để mà chúng ta nhìn thấy cái thân vô thường này.

Rồi bây giờ bắt đầu bà tới cái gì nữa đây? Bà tới cái cánh tay của bà:

Trước cánh tay của ta,

Như sáng chói cột tròn,

Nghĩa là cái tay của bà nó tròn lắm, chớ không phải là nó méo, nó dẹp gì đâu. Đây là những cái tay rất đẹp đó, cái cánh tay rất đẹp đó.

Nay biến đổi vì già,

Như hoa kèn yếu ớt,

Nghĩa là hoa kèn, chắc là Thầy nghĩ là hoa phù dung hay hoa gì mà nó có cái đầu dài ra vầy nè, bây giờ nó tàn rồi nó gục cái đầu nó xuống, cái tay của bà bây giờ nó cũng kiệt cỡ đó, cho nên bà thấy nó yếu ớt quá. Còn hồi đó thì nó tròn trịa, nó đẹp đẽ, nó làm cho ai thấy cũng muốn nắm tay bà hết!

Đó, thì như vậy là bà đem cái chỗ mà nó đẹp đẽ đó bà quán đến cái chỗ mà tàn tạ của nó, đó là cái lối vô thường chớ gì? Đó các thầy thấy chưa? Hồi đó mình thích nó bao nhiêu thì bây giờ mình thấy nó mình gớm bấy nhiêu.

Đó cho nên bà nói hôi như lông con thỏ, tức là làm cho mình gớm nó chớ gì? Đó là phá, đó là đập cái tâm mà chấp của chúng ta, để thấy cái sự thật là cái sự thật vô thường. Cho nên bà cứ nhắc lại cái lời của Đức Phật là tại làm sao:

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Bà quán tới đâu bà thấy Đức Phật nói đúng, nói thật, không có sai. Còn mình nghe Đức Phật nói mình cũng biết đúng thật, nhưng mà mình không quán vậy đó thì cái mình hiểu biết đúng thật nó mới ngộ mà thôi chớ chưa chứng cái lý. Còn bà quán như vậy bà sẽ chứng được cái lý vô thường đó thật lắm.

(01:09:30) Cho nên chúng ta tu mà đúng cách thì chúng ta ngồi một tiếng đồng hồ mà suy ngẫm cái thân của mình rồi, sau một tiếng đồng hồ rồi, ra người ra chửi hết muốn giận ai nữa rồi.

Còn mình ngồi một tiếng đồng hồ rồi mình đi ra, hay hoặc là mình ngồi nửa tiếng hay một tiếng đồng hồ mà mình cứ quán vô thường, khổ, vô ngã, mình đi ra rồi ai động tới mình cái nghe bực bực mình rồi.

Thì như vậy có vô thường không? Có vô ngã không? Hoàn toàn nó còn nằm một đống đó, nó chưa có hết.

Rồi bây giờ bà quán tới cái gì? Cái cánh tay bà rồi, thì bắt đầu bà quán tới cái bàn tay.

Trước bàn tay của ta,

Mềm mại như cánh hoa,

Sáng như mở rương vàng,

Nghĩa là cái tay của bà như là - nó khi mà đưa ra thì nó chắc là đeo vàng nhiều lắm, như là mở cái rương vàng, nhẫn đồ chắc bà đeo cũng nhiều lắm đó, cho nên bà nói như là mở cái rương vàng vậy đó.

Tức là ngón tay bà chắc là năm ngón là đeo hết chớ không có còn chừa ngón nào! Nhà giàu mà, chắc có lẽ vậy rồi. Cho nên bà nói:

Sáng như mở rương vàng,

Đó mở cái rương ra nó ánh sáng lên, tức là cái bàn tay bà đưa ra cái là người ta thấy vàng đầy ở trên đó rồi.

Nay biến đổi vì già,

Như rễ cây khô cằn,

Đúng vậy các con! Các con bây giờ đưa bàn tay già các con ra coi giống rễ cây không? Gân nó nổi lên không giống rễ cây? Y như vậy, đâu có khác đâu! Khô cằn nữa, nó đâu còn - hồi đó mà lì bóng mà coi nó mát ướt đâu, coi sao mà coi bộ nó khô, nó muốn nhăn nheo, nó muốn chết nó rồi!

Nhăn nheo và thô nhám,

Đúng rồi, chúng ta rờ cái coi: Gân rồi da chúng ta sao mà nhám như ồ à, còn hồi đó nó lì thôi, nghe nó mượt ở trên đó à, nó không có cái kiểu đó. Đó cứ nhìn mấy cái bàn tay của quý thầy rồi quý thầy nhìn cái bàn tay của quý thầy trẻ coi, nó có khác xa phải không? Gân cái gì đâu mà nổi như cái rễ cây ở trển vậy?

Đó là cái quán thực đó các thầy! Bởi vì cái này là bà quán thực, bà đem cái sự thật ra để mà phá cái tâm của bà còn chấp cái ngã, bà không thấy nó vô thường, cho nên bà quán thật cho nên bà thấy nó vô thường.

Vì vậy cái lý của bà đưa ra Thầy thấy cái người phụ nữ này quá là tuyệt vời trong cái sức mà quán cái lý của Phật Pháp dạy.

Đúng như lời Phật dạy,

Các bậc nói sự thật.

Đó, quý thầy thấy chưa? Đo là một cái sự thật hiển nhiên mà chúng ta không biết áp dụng đúng cách thì chúng ta cũng chẳng làm sao mà giải thoát được, mà chúng ta biết đúng cách thì chúng ta sẽ giải thoát được.

Đây bà tới cái bàn tay của bà rồi thì bà quán tới cái gì đây? Bà đâu có quán chung chung như các thầy đâu, bà quán từng cái từng cái. Bây giờ bà quán tới cái vú của bà đây.

(01:12:05) Bởi vì cái bộ vú của bà cũng là làm cái sự thu hút người ta, hồi trước bà - cái vú nếu mà nó không có cao lên thì bà phải độn lên, còn bây giờ đó thì bà mới thấy rằng cái đó là cái sai của mình, cho nên bà đem nó ra bà quán nó như thế nào đây:

Trước vú ta sáng chói,

Căng thẳng và tròn đầy,

Nghĩa là bà đem cái - nó tươi đẹp của tuổi trẻ đó.

Nay biến đổi vì già,

Trống rỗng treo lủng lẳng,

Trời đất! Còn cái thứ gì? Thiệt là trống rỗng, treo lủng lẳng! Bà nói thật, nói đúng. Thầy thấy cái quán cái này - Thầy không phải là người phụ nữ, nhưng mà họ đã nghĩ đến cái chỗ mà vô thường của cái đôi vú của họ như vậy đó, mà họ nói trống rỗng - trống rỗng treo lủng lẳng.

Như da không có nước,

Nghĩa là bây giờ coi trong đó coi như là nó không có nước, như hồi trước thì còn nước rồi này kia trong đó, tức là sữa chớ gì? Còn bây giờ nó khô queo hết rồi còn cái gì!

Như da không có nước,

Trống không, không căng tròn,

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Đúng vậy không? Bà quán như vậy bà mới thấy rằng cái bộ vú của mình không còn đẹp đâu, nó là vô thường. Phải chi mà nó thường thì bây giờ nó cũng phải như trước, nó phải đẹp vậy. Còn bây giờ nó trống rỗng, treo lủng lẳng như cái - nó không còn cái gì - như là cái gì mà tươi mát được nữa hết.

Đó, thì do đó thì chúng ta thấy cái sự quán của bà thấm thía lắm.

Rồi bây giờ bà quán tới cái gì đây? Bà quán tới cái thân mình của bà. Bây giờ nó tới cái toàn thân của bà:

Trước thân ta chói sáng,

Như giáp vàng đánh bóng,

Nghĩa là cái thân của bà hồi đó chắc là da đẹp lắm, cho nên coi như nó tròn trịa, không có còn một cái chỗ nào mà có thể nó nhăn nheo gì ở trong cái thân đó hết.

Nay biến đổi vì già,

Trông nếp nhăn nhỏ xíu,

Thiệt ra chúng ta không để ý, chớ chúng ta để ý coi, nhìn cái thân của mình coi: Hồi đó thì nó căng, nó tròn, nó không có nếp nhăn nhỏ xíu nào hết, còn bây giờ mình nhìn coi, nó lăn nhăn ở trong cái thân của mình, nó lăn nhăn.

Mấy thầy cứ dòm đi, cái chỗ nào mà gọi là da nó thẳng hồi đó, bây giờ mấy thầy coi nó lăn nhăn, nó lít nhít, nó nứt nẻ ra hết trơn hết trọi à, có không? Cho nên bà quán thiệt tỉ mỉ đó.

Nó vô thường đến cái mức độ chúng ta không để ý, chớ cứ chúng ta già rồi chúng ta nhìn hồi tuổi trẻ chúng ta, bây giờ nhìn cái da của mình: bắp đùi nè, rồi đít, rồi khu này, rồi ngực, bụng…​ coi nó lăn nhăn đủ thứ, nó nứt nẻ hết trơn hết trọi, nó đâu có còn cái gì đâu mà gọi tốt đẹp nữa.

Đó cho nên do đó mình mới thấy nó được là vô thường chớ, mới thấy nó được là vô ngã chớ!

Đầy vết nhăn nhỏ xíu,

Bà nói đầy vết nhăn là nhiều lắm, không có ít. Mà đúng vậy, chúng ta cứ quan sát đi, quan sát coi phải cái bàn tay của chúng ta bây giờ, có phải những cái lằn nhăn nhỏ xíu, nhỏ xíu, chớ hồi đó nó thẳng bóng lên nó đâu có nhăn, bây giờ nó nhăn nheo hết.

Rồi bắt đầu bây giờ bà quán cái thân bà như vậy rồi thì bà bắt đầu bà quán tới cái gì nữa đây?

Trước bắp vế của ta,

Bà quán tới cái bắp vế của bà đây:

Sáng chói như vòi voi,

(01:15:01) Các thầy thấy, nghĩa là cái vòi voi nó tròn trịa như thế nào thì bà sánh cái bắp vế của bà như thế nấy.

Nay biến đổi vì già,

Giống như những ống tre,

Nghĩa là nó suôn đuột à, nó đâu còn như cái vòi voi, nó xấu quá xấu rồi!

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Đó, bây giờ bà đã quán sát cái bắp đùi bả rồi, bắp vế bả rồi, thì bây giờ bà quán tới cái ống chân của bà:

Trước ống chân của ta,

Mềm mại như kiềng vàng,

Nghĩa là cái ống chân bà, bà sánh như là chiếc kiềng vàng.

Nay biến đổi vì già,

Chẳng khác gậy cây mè,

Thầy thấy cây mè là cái cây mà nó có ba, bốn cái góc đó, nó ốm, khi mà chúng ta chặt cây mè không biết là cái gậy mè này nó có phải cây mè đó không?

Cây mè mà chúng ta làm muối vừng dó, thì Thầy thấy cây mè thường thường nó vuông, khi mà nó già rồi nó không có tròn như hồi nó còn mới lên, mà nó chia làm bốn cái cạnh, nó làm lòi ba cái xương ra đó.

Thì chắc chắn là cái cây gậy, gậy cây mè - thì chắc chắn Thầy nghĩ rằng cái chân của bà bây giờ nó đã ốm, nó đã lòi những cái xương ống chân nó ra, nó có góc, có cạnh rồi. Đó là cái gợi ý vô thường của nó. Khi trước thì nó mềm mại, nó tròn đầy, mà bây giờ thì nó như góc cạnh rồi, đó là cái sự vô thường.

Bây giờ bà cũng quán thêm cái phần mà của chân bà nữa đây:

Trước chân ta chói sáng,

Với lông mềm như bông,

Đó, bà quán tới những cái lông mà ở trên chân của bà, nó mềm mại.

Nay biến đổi vì già,

Nứt nẻ đầy đường nhăn,

Bây giờ lông nó rụng hết rồi, nó không có còn mềm mại như xưa nữa mà toàn để lại những cái vết nứt nẻ đầy đường nhăn ở trên cái chân đó, nó không còn có cái gì mà đẹp đẽ nữa.

Đúng như lời giảng dạy,

Của bậc nói sự thật.

Thân này là như vậy,

Nay già, chứa nhiều khổ,

Nghĩa là cái thân này là nó vô thường như vậy đó, nó sự thật như vậy, nó không thể nào mà ai nói gì được hết. Đó là một cái chân lý thay đổi, hoàn toàn là cái sự thay đổi của cái vô thường của nó, không có thể nói rằng nó thường được nữa.

Nay nó già thì nó chứa nhiều cái khổ lắm, bây giờ nó chính nó đã gầy mòn, nó già như vậy thì trong đó nó sẽ có nhiều cái khổ cho con người lắm. Cho nên chúng ta phải nỗ lực mau mau mà thoát ra cái cảnh khổ của cái tuổi già.

Mà nếu để thì các thầy - chắc các thầy cũng biết rằng khi tuổi trẻ các thầy đâu có bệnh cái này, bệnh cái kia, nay nhức chân, mai nhức khớp, đâu có cái chuyện đó, mà bây giờ - mà tới già rồi thì quý thầy mới thấy nó đổ ra bao nhiêu thứ không?

Hở hở ra cái trời lạnh trời nóng gì nó cũng đổ ra hết, còn cái tuổi trẻ thì lâu lâu nó mới có một đợt thôi, chớ còn nó không phải là như tuổi già. Cho nên chúng ta thấy cái thân mà nó già rồi là một cái khổ của nó.

Cho nên ở đây nói:

Nay già chứa nhiều khổ,

Tức là cái thân già nó chứa nhiều khổ.

Ngôi nhà đã cũ kỹ,

(01:18:10) Coi như cái nhà, cái thân của mình là bà quán nó là cái nhà cũ kỹ rồi.

Vôi trét tường rơi xuống,

Nghĩa là từ lâu tới giờ cái nhà của mình nó mới thì trét vôi nó còn dính đó, bây giờ nó cũ rồi, lần lượt mình thấy từng mảng vôi nó rớt xuống, rớt xuống.

Thiệt là bà quan sát cái nhà cũ nó rớt từng cái mảnh vôi, mảnh gạch, nó rớt xuống tuần tự, thì bà nhìn cái thân của bà nó cũng rơi rớt xuống tuần tự theo cái sự vô thường của nó. Còn mình không để ý cho nên mình không thấy.

Còn bà quán xét bà thấy quá - nó rơi rớt từng cái, bữa nay thấy nó làm rớt một miếng - cái miếng vôi mà tô cái tường đó nó rớt một miếng, ngày mai làm chỗ kia một miếng, ngày nọ làm chỗ nọ một miếng, lần lượt nó để lòi ba cái gạch ra hết. Rồi bắt đầu ba cái gạch nó bục, lần lượt nó cũng đổ chỗ này xuống một đống, chỗ kia xuống một đống, cái thân của mình nó y như vậy đó.

Bà đem cái chỗ này bà ví dụ thiệt là để cho mình thấy mình hết có chấp cái thân của mình là thường, chấp cái thân của mình là ngã ở trong đó. Quán như vậy nó mới thấu triệt được cái lý vô thường, khổ, vô ngã chớ!

Cho nên chúng ta mới thấy được cái chỗ mà bà quán qua một bài kệ rất dài để dẫn dắt cho chúng ta thấy từ cái chút mà chúng ta đi dần vào cái pháp quán vô lậu. Đó mới đúng cách là chúng ta tu cái con đường của đạo Phật.

Còn nhiều khi chúng ta lười biếng, chúng ta không có chịu suy nghĩ. Từ cái đầu đến cái chân của chúng ta, chúng ta có nhiều cái mà trong cuộc đời chúng ta sẽ gặp thấy cái thân vô thường chúng ta, nó có những cái nó không phải giống như bà như vậy mà nó phù hợp với cái cuộc sống của chúng ta, thì những cái đó là cái tri kiến giải thoát của chúng ta phóng ra để nó thực hiện được cái chỗ giải thoát của chính nó.

Đó thì quý thầy thấy rất là rõ chớ đâu có phải làm cái chuyện mà mù mờ đâu, cái chuyện này là cái chuyện mà phải thực tu, thực chứng cà mới được!

Khi quán xét như vậy là thấy rõ hình tướng vô thường trên thân của mình, nhận thức được tánh vô thường của ba giới:

Nghĩa là nhận được cái thân vô thường rồi thì mình lại nhận qua được ba giới, ba cái cảnh giới chớ không phải là một cái cảnh giới đâu: Cảnh giới thứ nhất thì Dục Giới, cảnh giới thứ hai là Sắc Giới, cảnh giới thứ ba là Vô Sắc Giới.

Cho nên bà nói: Khi bà quán như vậy rồi thì bà lại thông suốt được cái ba cái cõi giới. Ba cõi giới nó đều là vô thường hết chớ nó không có cái cõi giới nào là thường còn. Đó bà thông suốt được như vậy.

Khi mà quán được, phá được cái thân chấp của bà là thường thì bà lại phá được cái ngã của nó rồi, thì bà nhìn qua trong cái thế gian này thì bà đã thông suốt được các tánh vô thường của ba giới, ba cái cõi giới:

Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới.

Tự tâm bà quán triệt tánh vô thường, khổ, vô ngã, và từ đó phát triển tuệ quán, bà chứng quả A La Hán, thành tựu được Tam Minh.

Từ cái chỗ bà mà phá vỡ được rồi thì nó phát triển được cái tuệ quán - cái tuệ quán tức là cái giới tuệ đó - cho nên bà hoàn toàn bà nhập Tứ Thiền, rồi bà chứng được Tam Minh, thành tựu được quả A La Hán.

Đó là cái kết luận của cái bài kệ này, mà do từ cái pháp môn này mà thực hiện được sự giải thoát chính chỗ này.

Như vậy là chúng ta có thấy rằng cái con đường tu nó có khó không? Nếu mà hàng ngày mà chúng ta cứ suy tư để mà phóng ra những cái tri kiến mới mẻ để phá cái thân vô thường chúng ta, thì ba cõi Tam Giới này chúng ta làm sao không thấu suốt nó là vô thường, nó là vô ngã! Đó là một cái bài thứ nhất./.

[Phần 7 ở Giáo án 30]

HẾT BĂNG

30 - NHẬN BIẾT BẬC TU HÀNH CHÂN CHÍNH

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 30 - NHẬN BIẾT BẬC TU HÀNH CHÂN CHÍNH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- GƯƠNG HẠNH TU TẬP THỜI ĐỨC PHẬT - PHẦN 7

NGÀI ROHINI NHẬN BIẾT BẬC TU HÀNH CHÂN CHÍNH

[Phần 6 ở Giáo án 29]

(00:00) Đến một cái bài thứ hai của một vị Thánh Ni để cho chúng ta thấy rằng qua cái bài pháp vừa rồi mà Thầy đã giảng, để chúng ta biết rằng cái hạnh Sa Môn, cái người tu thế nào đúng sai, để chứng minh cho cái lời dạy của Thầy. Chớ không khéo mà không có một bậc Thánh Ni trong cái thời Đức Phật mà tu hành mà nói lên cái chỗ đúng chỗ sai…​

Ngày xưa người ta cũng nhận thấy cái ông Sa Môn nào đúng, bởi vì nó có nhiều Sa Môn, như Thầy đã giảng đó: Sa Môn Thích tử là đệ tử của Phật, mà Sa Môn mà không phải là đệ tử của Phật là của ngoại đạo, của Bà La Môn nó cũng vẫn là Sa Môn.

Vậy thì mình chọn ông Sa Môn nào đây? Ông nào cũng giống y như vầy hết, cũng đi xin ăn, mình biết ông nào là của Thích tử? Cho nên phải nhận như thế nào? Cho nên không khéo để lầm lạc.

Vì vậy bây giờ đời chúng ta cũng vậy, là qua cái giáo án của Thầy vạch ra cho chúng ta biết rằng cái ông tu sĩ nào mà của Phật giáo đúng trong hiện thời, mà cái ông tu sĩ nào mà của Phật giáo sai, để chúng ta biết nó mà chúng ta theo cho đúng chớ, còn nếu không biết thì làm sao theo đúng.

Vì vậy cho nên ở đây cái bà này bả nói ra cái bài kệ để chúng ta nhận được cái ông Sa Môn đúng, ông Sa Môn sai, thì để nó áp dụng vào trong cái bài pháp trong cái giáo án mà chúng ta vừa học.

Đó như vậy. Các con, các thầy phải nghĩ rằng Thầy phải đi tìm những cái gương hạnh nào mà cho phù hợp ở trong cái bài giáo án Thầy đang dạy để cho áp dụng cho đúng, thì đó là một cái rất là cực khổ.

Là vì - bởi vì kinh điển của Phật nó quá nhiều, mà nói về các bậc Thánh Tăng, Thánh Ni nó cũng quá đông, cho nên làm sao mình chọn lựa được cho nó phù hợp ngay khi mình giảng cái bài đó mà có một vị đó để chứng minh cho được cái chỗ mình chọn lấy một cái người Sa Môn đúng hay là người Sa Môn sai.

Đây, bây giờ Thầy nhắc lại:

Bà Rohini.

Bà tên là Rohini.

Đến tuổi trưởng thành, khi Đức Phật còn tại Vesali, bà đến nghe pháp, chứng được quả Dự Lưu.

Bà nghe được cái pháp thì bà chứng được quả Dự Lưu, tức là khi nghe cái pháp nào đó Phật nói thì bà thấy cái cuộc đời bà hết ham rồi. Nghĩa là bà không có ưa, bà không có còn thích cái ăn, uống, ngủ nghỉ hay hoặc nhà cửa, tiền bạc, của cải tài sản thế gian nữa rồi, thì cái đó Đức Phật gọi là Dự Lưu.

Còn mình còn ưa, còn thích, còn ham vợ, ham con đồ đó, còn thích quần, thích áo, thích ăn ngon, mặc đẹp đó thì nó chưa Dự Lưu đâu, bởi vì cái đó là cái tâm trạng của thế gian mà làm sao dự phần Thánh được!

Cho nên khi bà nghe thuyết pháp xong rồi thì bà hết thích rồi, bà ly hết rồi, bà không ham nữa rồi, cái gì bây giờ đem mà cám dỗ bà cũng không được rồi. Bà nghe qua bài pháp, thì như vậy nghe qua bài pháp mà nghe nói chứng Dự Lưu thì chúng ta nói: Gì mà nghe cái chứng liền?

Sự thật ra mình nghe mình thấy cái đó nó đúng rồi thì mình bỏ nó đi thì đó là mình chứng chớ gì, mình không còn ham nữa. Còn cái gì mình nghe rồi mình cũng vẫn về mình cũng thích uống rượu thì cái chuyện đó làm sao? Thì cái đó là cái mình đâu có chứng được Dự Lưu!

Còn bây giờ thí dụ mình nghe cái bài pháp của Thầy thuyết rồi, mà mình hồi nào tới giờ mình uống rượu, mà bây giờ mình nghe rồi mình không uống rượu nữa thì đó là mình chứng Dự Lưu chớ sao?

(03:05) Thầy nói đơn giản thôi, một cái bài giảng thôi, mà mình nghe mình dứt ngay liền. Tật mình nghiền rượu, mà bây giờ đó mình thấy đúng rồi, thôi từ đây chết bỏ nhất định không uống rượu nữa, rượu nó hành hạ gì cũng không uống nữa.

Cũng như bây giờ một người mà nghiện thuốc phiện, nghe Thầy nói cái bài pháp rồi, biết thuốc phiện là tai hại rồi, biết thuốc phiện là dẫn dắt mình đi vào con đường đau khổ rồi, thì ngay đó là họ nhất định là từ đây về sau không hút thuốc phiện nữa, thì như vậy là họ chứng Dự Lưu rồi đó quý thầy, chớ đừng có nghĩ là mình phải tu tập cái gì đâu!

Cho nên mình nghe Đức Phật thuyết giảng: Sao lại các bậc này chứng Dự Lưu nhanh quá mà mình không biết chứng Dự Lưu là chứng cái gì! Cho nên ở đây chứng Dự Lưu là gì? Mình dự vào được dòng Thánh.

Mà dự vào được dòng Thánh thì tức là mình phải dứt bỏ cái tâm thế gian chớ - cái tâm ham muốn thế gian mới Thánh chớ! Thánh gì mà còn ham ăn ham ngủ thì đâu có Thánh được? Mà nghe nói ham ăn ham ngủ là không phải Thánh thì làm sao mình Dự Lưu được? Mình phải hiểu vậy.

Bây giờ tui không ham ăn ham ngủ nữa, tui không thích, ai cho ăn gì sống thôi chớ tui không thèm nữa, ngày một bữa tui thấy là quá đủ rồi, không còn ham. Còn cái gì mình đã nghe nói ăn một bữa mà về ăn một bữa mà thấy nó đòi hỏi cái này, đòi hỏi cái kia thì đó là Dự Lưu sao được? Đâu có Dự Lưu!

Cho nên ở đây, muốn hiểu cái phần cái quả Dự Lưu thì chúng ta phải hiểu chỗ đó. Cho nên ông Phật ổng dạy hồi đó không có nói dối đâu. Vì vậy cho nên nhiều người cũng nghe nói: Gì mà nhanh quá, tui tu thấy bà, tui chưa có Dự Lưu được, còn ông ngồi ông nghe hay hoặc bà ngồi bà nghe cái là Phật nói Dự Lưu rồi!

Thì cái Dự Lưu là cái dự gì? Là cái người ta lìa những cái ham muốn của cái tâm người ta ra, người ta không chạy theo năm cái dục lạc nữa thì tức là người ta Dự Lưu chớ gì? Nhưng mà từ đó người ta phải đoạn dứt cho nó sạch.

Chớ còn người ta bây giờ người ta mới có hiểu biết, người ta thấy cái đó là cái khổ rồi người ta không ham nữa thì như vậy là người ta Dự Lưu rồi, chớ đâu phải là phải cái gì mà Dự Lưu!

Cha mẹ bà thường không đồng ý với người tu sĩ ăn không ngồi rồi.

Nghĩa là cái thời đó thì có nhiều người đi xin, Sa Môn nào cũng đi xin, ăn không ngồi rồi hết. Thì trong cái Sa Môn Thích tử - đệ tử của Phật và Đức Phật cũng là những tay ăn không ngồi rồi, phải không? Cho nên vì vậy cha mẹ của bà thì không có đồng ý.

Cái người mà ở đời thì mình phải làm ăn chớ, mình làm mình ăn chớ mình ngồi không mình đi xin người ta như vậy là mình ăn lường người ta rồi, mình chùm gởi rồi, mình bám người ta rồi. Cho nên cái người mà hiểu cái đạo đức của thế gian thì người ta thấy những cái loại đi xin đó là loại lười biếng.

Cho nên bây giờ thí dụ như, ngày mà giải phóng thì nhà nước người ta về người ta thấy cái loại thầy chùa mà ngồi không, ăn ngồi không, người ta ngồi trong mát ăn bát vàng: Mấy ông ngồi đó mấy ông không có làm gì hết, người ta lao động gần chết à mới có cơm ăn, còn mấy ông thì chỉ ngồi đó làm bộ lần chuỗi niệm Phật, rồi bắt đầu đó bày ra chuyện này chuyện kia mà để ăn không ngồi rồi trên mồ hôi nước mắt của người ta!

Đúng vậy! Mình có tu ra gì, mình ngồi đó mình làm cái chuyện mê tín người ta thì mình không phải là ngồi trong mát ăn bát vàng sao? Cái đó là cái sai. Cho nên cách mạng về mà phá vỡ cái này, Thầy rất đồng ý.

(06:06) Còn cái người mà tu thật đâu có phải là người đó người ta đi xin ăn rồi người ta về đó người ta ngồi chơi như mình đâu, hay hoặc là ngồi đó để mình tính cách thức này cách thức kia, ngày mai này có cái đám ma này rước mình đi để mình vừa có ăn ngon nè, mà lại vừa là có tiền nữa nè, không phải khoái sao?

Đó là những cái ngồi không để tìm cái cách nghề nghiệp - ngồi không để mà khỏi có lao động, khỏi có cày ruộng mà có gạo lúa ăn, mà có tiền bạc xài nữa, mà lại có chùa giàu sang nữa, cất chùa tường, chùa gạch nữa, thì cái này là cái mà phải phá bỏ chớ không có để cái hư này được. Cái này là cái sai, không có đúng.

Còn cái người tu như thế nào? Vì thế cho nên cái ông bà này - ông bà cha mẹ của cái bà này đã là đứng ở trong cái tư tưởng mà bây giờ cách mạng chúng ta cũng thấy cái điều đó đó, chớ không phải đâu!

Thấy mấy cái ông gì, tay chân thì lành lặn còn đi làm được mà không có chịu đi làm ăn, cứ trưa nào hay chiều chiều nào cũng lại nhà mình, đứng trước cổng đó mà đòi xin à, không cho thì không đi, làm cái nhà của mình hôm nay nó bận quá, không biết làm sao mà đuổi mấy ông này đi hết!

Cho nên ông bà này tức giận lắm chớ không phải là không tức giận. Vì thấy cái đứa con gái này cứ nghe lời Phật dạy như vậy đó mà cứ lui tới, lui tới cái tịnh xá đó hoài, thấy mắc ghét à! Đó thì cái gia đình này là gia đình nó nghịch duyên như vậy đó.

Vì thế bà thuyết phục cha mẹ bà…​

Bà nghe Phật nói cái gì, cái gì bà nắm được, cho nên bà Dự Lưu được, bà hiểu được, khi mà Dự Lưu được rồi người ta hiểu được cái đúng cái sai ở trong đó rồi, cho nên bà về bà thuyết pháp cha mẹ bà.

…​ để được cha mẹ đồng ý xuất gia.

Chớ lúc bấy giờ thời Đức Phật mà cha mẹ hay hoặc là có người thân mà không cho xuất gia là không được xuất gia. Thời Đức Phật nghiêm ngặt lắm, chớ không phải là như bây giờ mà chúng ta nói xuất gia rồi chúng ta lấy cớ như Đức Phật trốn đi rồi bây giờ chúng ta trốn đi, không được đâu!

Nghĩa là chúng ta làm một cái tội gì hoặc là trộm cướp mà trốn vô chùa là cũng không được Phật chấp nhận đâu, mà làm một cái chuyện chính trị gì mà trốn trong chùa cũng không được nữa đâu, mà thất tình, thất vọng mà vô tu hành thì Đức Phật cũng không chấp nhận đâu.

Nó không phải dễ đâu, chỉ sau này người ta rộng rãi, phá những cái giới luật của Phật. Cho nên cha mẹ mà không chấp nhận, cho đến tới bảy chục, bảy mươi mấy tuổi cha mẹ chết rồi, hay hoặc là cái thời gian mà chồng không cho đi mà tới bảy tám chục tuổi mà chồng chết rồi mới có thể mà đi tu mới được, đâu phải dễ.

Thì đó là những cái gương hạnh mà để nhắc lại cái thời của Đức Phật, mà Đức Phật rất là kỹ ở trong đó: Không làm khổ mình, không làm khổ người.

Cho nên ở đây thì quý thầy thấy: Khi mà bà hiểu biết được cha mẹ mình như vậy rồi thì bà cố gắng bà thuyết phục cha mẹ để cha mẹ cho bà xuất gia.

Vì thế bà thuyết phục cha mẹ để được xuất gia. Khi cha mẹ cho phép xuất gia thì bà triển khai thiền quán, chẳng bao lâu bà chứng quả A La Hán.

Nhớ lại cuộc đàm thoại giữa bà và phụ thân…​

Và ông thân của bà đó.

…​ khi bà mới có đặt niềm tin ở Phật mà đã thuyết phục được ông thân của bà hiểu được sự chân thật của sự tu hành của các vị Thánh Tăng trong thời đó.

Nghĩa là bà đem cái lời bà thuyết phục, bà mới hướng dẫn cho ông thân của bà đó thấy được cái chỗ Sa Môn nào đúng, Sa Môn nào tu sai, để cho ông bà mới không có vơ đũa cả nắm mà cho rằng cái thứ làm biếng hết.

(09:44) Đó thì bắt đầu đây thì cái ông thân của bà đặt ra câu hỏi bà trước. Ông thân bà nói với bà như thế này:

Con chỉ cho ta thấy,

Đây là cái bài kệ đây, tức là bà đó, chỉ cho ổng thấy đó.

Con chỉ cho ta thấy,

Đây là một Sa Môn,

Con thức tỉnh ta dậy,

Đây là một Sa Môn,

Con khen tặng Sa Môn,

Muốn thành nữ Sa Môn.

Nghĩa là ông cha ổng nói, ổng khi mà nghe con ổng thuyết phục ổng được rồi, ông thấy rõ rồi thì ông mới đọc cái bài kệ, đầu tiên là ổng nói ổng giới thiệu:

Con chỉ cho ta thấy,

Đây là một Sa Môn,

Con thức tỉnh ta dậy,

Đây là một Sa Môn,

Con khen tặng Sa Môn,

Muốn thành nữ Sa Môn.

Nghĩa là con muốn thành một tu sĩ cho nên con khen tặng Sa Môn, mà khen tặng đúng chớ không phải khen tặng sai.

Đó, bây giờ đó thì bà như thế nào để mà chúng ta hiểu cái chỗ mà bà làm cho cha bà là ngộ được, thấy được cái quý của những cái vị tu sĩ trong thời Đức Phật.

Con tìm cho Sa Môn

Cái ông cha đó ổng nhắc tới những cái hành động của đứa con - của bà đó - là đối xử với các bậc Sa Môn như thế nào thì ổng nhắc ra:

Con tìm cho Sa Môn

Rất nhiều đồ ăn uống,

Con hỡi, Rohini,

Sao con quý Sa Môn?

Chúng biếng, không thích làm,

Sống với đồ người cho,

Chúng ham lợi thích ngọt,

Sao con quý Sa Môn?

Đó, ông cha ổng đặt ra câu hỏi, trước tiên ông hỏi. Bây giờ đó ổng - mặc dù cái bài kệ trước, ổng biết rằng con ổng thức tỉnh nói ổng như thế này thế khác, nhưng mà ông đặt câu hỏi để đi tuần tự, để nó trở thành một cái bài kệ để thấy rằng bà giải quyết như thế nào để mà cho ông nhận ra được cái bậc Sa Môn đáng kính, đáng trọng.

Đó cho nên ông mới đặt ra, ông mới đưa ra, nêu ra những câu hỏi:

Con tìm đến Sa Môn

Rất nhiều đồ ăn uống,

Nghĩa là bà đến với mấy ông Sa Môn này thì bà đem đồ ăn đồ uống này kia bà cúng dường cho các vị tu sĩ theo Đức Phật đó. Cho nên ông mới hỏi:

Con hỡi, Rohini,

Sao con quý Sa Môn?

Chúng biếng, không thích làm,

(12:17) Họ đều là họ ngồi không mà mình làm gần chết mà cứ đem cho họ ăn, vậy thì chúng lười biếng quá mà sao con ngu quá vậy, con không thấy?

Sống với đồ người cho,

Họ không có làm gì hết, sống với cái đồ người ta cho chớ gì, dơ, thiu, thúi, cũ gì cũng ăn hết, không có bỏ cái gì hết. Bởi vì họ đi xin mà, cho nên cái đời sống của họ nguội lạnh gì họ cũng ăn. Phải họ mần họ nấu thì họ ăn sớm, còn đằng này mình cho họ thì phải đồ nguội thôi. Mà sống với đồ người cho thì có ngon gì đâu! Mà sao con ngu quá vậy, con đem cứ đem cái đồ mà con đem đến cho họ, mà họ là người lười biếng nhất, họ không chịu làm. Đó.

Chúng ham lợi thích ngọt,

Chúng thì cũng ham tiền ham bạc, cũng thích ngọt, thích ăn cái này cái kia nọ! Đó thì ổng gợi cho chúng ta thấy không, thấy ông cha của bà ta nói đúng không? Đúng, rất đúng mà!

Sao con quý Sa Môn?

Sa Môn gì mà kỳ quá, ham danh ham lợi đủ thứ, nhà cửa họ còn giàu hơn mình nữa, mà con cứ đem vô con cho họ ăn à, con ngu quá vậy?

Đó thì rõ ràng là ông cha này ổng thấy rõ ràng mà, chúng thì biếng, làm biếng lắm, không có làm. nói bậy bạ rồi gạt người ta kiếm ăn thôi, mà ngu gì mà cứ nghe họ để mà bị lường gạt như vậy? Cho nên ông cha này ổng rầy đứa con, ổng rầy bà: Con ngu quá, con không thấy, mà con cứ đến với mấy ông đó, không có đúng đâu!

Rồi bắt đầu bà nói như thế nào?

Lâu rồi cha thân mến,

Bây giờ bà mới trả lời ông cha đây: Lâu lắm rồi, con hiểu cha lắm rồi, nhưng mà con chưa có nói chuyện với cha thôi! Cho nên bà mới nói:

Lâu rồi cha thân mến,

Hỏi con về Sa Môn,

Không phải là bây giờ ông cha rầy bà có một lần này đâu, mà nhiều lần ông đã rầy bà: Không có nên đem của mình đem cho những cái người làm biếng đó đâu, mà họ cũng ham danh ham lợi, cũng thích ngọt, cũng ăn cũng uống như mình mà đem cho họ như vậy.

Thì cái ông này thiệt là chánh kiến chớ không phải là tà kiến đâu. Còn như bây giờ chúng ta có phải là chúng ta tà kiến không? Thấy một cái đám thầy bây giờ, họ danh họ lợi, họ ăn ba, bốn bữa như vậy, mà họ ngồi không mà cứ đem cung cấp cho họ!

Ôi thôi, bao nhiêu người cứ đem cung cấp cho họ, rồi họ mượn cái hình thức tu cái này tu cái kia. Mình có biết gì tu trong đó, mà có thấy ông nào giải thoát đâu, ông nào cũng ăn cả bụng hết à, mà còn chơi, còn hát còn xướng, còn đá banh đá bóng nữa, còn nhảy còn múa nữa, đủ loại y như ngoài thế gian, vậy mà cứ ngu mà đem cho!

Thì tức là ông cha không phải là cái người mà không thấy. Ổng thấy, mà thấy cái không đúng chớ còn ổng đâu có thấy cái đúng được! Cho nên đứa con mới vạch cho ông thấy cái đúng của những người tu sĩ.

Lâu rồi cha thân mến,

Hỏi con về Sa Môn,

Nghĩa là lâu lắm rồi cha có hỏi con nhiều lần, tại vì con chưa có nói mà thôi. Bây giờ bà mới trả lời:

Con tán thán Sa Môn

Tuệ giới hạnh tinh cần.

(15:12) Đó bà chỉ cho chúng ta rõ ràng: Tại sao mà con ca ngợi những vị Sa Môn đó, còn cha thì cha nhìn những cái vị Sa Môn nào mà cha không chấp nhận, còn con thì con nhìn cái Sa Môn nào mà con chấp nhận, thì cha có thấy:

Tuệ giới hạnh tinh cần.

Họ siêng năng họ giữ gìn cái trí tuệ của họ, họ tinh cần những giới hạnh của họ, thì như thế nào? Một vị tu sĩ chơn chánh thì đi ra đường có ngó qua ngó lại không? Thì có phải mình kính trọng cái ông Sa Môn không! Còn cái ông mà đi qua đi lại, đi ra đường mà ngó qua ngó lại thì có kính trọng không?

Cũng hai ông Sa Môn, mà cái ông kính trọng, ông không kính trọng chớ! Con thì con kính trọng những cái bậc giới hạnh, chớ còn con đâu có kính trọng cái thứ mà ăn không ngồi rồi làm biếng đó, mà ăn ba, bốn bữa đâu. Đó, thì bà nói thẳng với ông cha vậy.

Cho nên cha đừng thấy cái bọn mà ăn ba, bốn bữa mà con tin họ đâu! Con tin là con vô tịnh xá của Đức Phật là con thấy những bậc Thánh Tăng này người ta ăn ngày một bữa, còn những cái Sa Môn kia đó họ ăn phi thời, họ thích cái này thích cái kia đủ thứ, họ bày ra chuyện này chuyện kia, đó là cái loại Sa Môn mà con không có đến. Cha thấy rất rõ mà! Chớ con đâu phải đụng đâu mà con cũng đến đâu mà cha rầy con!

Đó, cho nên bà mới giải thích cho ông cha nghe. Vậy thì những cái Sa Môn Thích tử nào mà nó được như vậy?

Tuệ giới hạnh tinh cần.

Người ta siêng năng hàng ngày người ta làm cái chuyện đó.

Chúng thích làm không biếng,

Nghĩa là hàng ngày mà rèn luyện mình tinh cần ở trên những giới hạnh, bước ra đi thì phải ngó xuống chân đàng hoàng, thì đó là rèn luyện, mà phải siêng năng chớ lười biếng làm được không? Phải không?

Cho nên tuệ giới hạnh người ta phải tinh cần, người ta tu tập, trau dồi như thế nào, thì đừng có gọi là người ta làm biếng! Người ta xin mình ăn để người ta ngồi người ta làm cái chuyện đó, vĩ đại hơn mình mà.

Mình đâu có làm được, mình chỉ làm ra cơm gạo chớ mình đâu có làm được cái tâm của mình nó được thanh tịnh như vậy được! Cho nên cái việc làm đó không phải là việc làm thường của chúng ta.

Đó cho nên bà giải thích:

Tuệ giới hạnh tinh cần.

Chúng thích làm không biếng,

Không có lười biếng đâu, những cái người Sa Môn đó họ hoàn toàn họ siêng năng lắm.

Chúng làm việc tối thắng,

Phải không? Bà nói rằng những cái người Sa Môn đó họ đang làm cái việc tối thắng chớ không phải là làm cái việc tầm thường!

Chúng từ bỏ tham sân,

Nghĩa là hàng ngày người ta khắc phục cái tham sân, người ta không còn tham danh, tham lợi, tham ăn, tham ngủ, cho nên hình tướng người ta, giới hạnh người ta nghiêm túc, người ta ăn ngày một bữa, còn mấy cái ông Sa Môn kia ăn ba, bốn bữa mà cha vơ đũa cả nắm, cha nói người ta hết!

Còn con, con đi đến những cái ông đó như vậy thì cha phải tán thán chớ, cái người mà người ta bỏ được, từ bỏ cái tham, sân, si, đâu có phải người ta làm một ngày nó hết sao? Nó quá cực khổ chớ, đâu có phải dễ!

Đó cho nên bà mới giải thích ra cho cha bà thấy, đó như vậy là: Con đi đến với cái tịnh xá của Đức Phật là vì con tán thán những cái Sa Môn đó đó, chớ con không có thán thán cái thứ Sa Môn ngoài kia đâu.

Cái Sa Môn ngoài kia là Sa Môn chùa to tháp lớn đó, con đến cái tịnh xá của ông Phật chòi tranh vách lá. Mà cha nói con đâu có ngu con đem đồ ăn cho những cái người mà giàu sang đó đâu? Họ lợi dụng mồ hôi nước mắt của mình.

(18:13) Còn con đem đến những người này là những người này là siêng năng, họ rất là siêng năng, họ giữ gìn giới hạnh nè, họ tu tập giới tuệ nè, họ tu tập giới đức nè, họ từ bỏ tham, sân, si nè, họ làm những cái việc mà có thể là cái người thế gian khó làm lắm, không có làm nổi, cho nên cái việc làm của họ là tối thắng. Đó, cha thấy như vậy không ?

Thì ông cha ổng: “Ờ mày nói chắc có lẽ đúng rồi. Tao thì tao nhìn cả đám với nhau tao thấy, chớ bây giờ mày chỉ ra thì tao thấy được rồi!”

Đó ông cha thì nghe đứa con nói phải quá mà, nó nói đúng rồi! “Thế nào tao cũng thấy chớ, nhưng mà tại vì tao nhìn chung!”

Ba cội gốc ác pháp,

Chúng quét sạch, thanh tịnh,

Mọi điều ác đoạn tận,

Do vậy con quý chúng.

Đó, bà mới nói ba cái cội gốc của tham, sân, si đó là ác pháp chớ gì, mà những cái người tu Sa Môn này họ quét sạch ra hết cho tâm họ thanh tịnh, mọi điều ác họ đoạn tận hết, do vậy con mới quý trọng họ chớ!

Còn nếu mà họ tham, họ sân, họ si, họ tích lũy, họ cất chùa to tháp lớn, họ đầy đủ những vật dụng thế gian, quần này áo nọ y kia nhiều thì thử hỏi làm sao con quý?

Đó thì như vậy. Vậy cái bài pháp này chúng ta thấy rõ ràng là người xưa người ta cũng có cái để mắt để mà người ta chọn được bậc Sa Môn người ta thờ chớ, người ta theo chớ.

Còn mình có phải là người đui mù không? Phải không? Các thầy thấy chưa, mình có phải người đui mù? Hoàn toàn là thấy quý thầy sống ở trong dục lạc mà nhảy theo vô ngồi tu tùm lum cả đống nhau ở trong đó, có đúng không?

Người xưa người ta còn có cái đôi mắt người ta nhìn được, người ta tìm được cái bậc Sa Môn chơn chánh, tu hành giới hạnh nghiêm túc, người ta sống để mà người ta ly những cái pháp ác, người ta đoạn dứt những cái pháp ác. Còn những người đó họ nuôi dưỡng pháp ác chớ làm sao mà pháp thiện được, chạy theo dục lạc làm sao mà pháp thiện được!

Đó thì như vậy. Do vậy những cái mà Thầy đập phá xuống đây là không có nghĩa là Thầy ganh ghét họ, mà Thầy muốn cho mọi người thấy cái đúng để cho chúng ta thắp lại cái ngọn đuốc của Phật pháp.

Còn nếu mọi người mờ mịt như vậy thì chúng ta có thắp lại cái ngọn đuốc Phật Pháp không? Đem cái giáo lý gì vô đó nói Phật pháp chớ làm sao mà nói Phật pháp được!

Cho nên từng cái bài kinh, từng những cuốn kinh sai mà phá giới luật của Phật, phá cái hạnh của người tu thì Thầy đập xuống hết, chớ không phải là Thầy không thấy cái điều đó. Đập làm chi cho người ta…​ Nhưng mà tại vì cái kiến chấp của quý thầy bây giờ đầy ắp ở trong đầu, quý thầy không có biết cái đúng cái sai, buộc lòng Thầy phải vạch ra.

Như Thầy nói kinh Duy Ma Cật như vậy, thì Thầy nêu lên các thầy thấy rõ ràng một ông Duy Ma Cật mà có vợ có con mà làm sao gọi là Bồ Tát Thánh vị được, mà đem viết ra cái bài kinh đó để mà nêu lên, để mà chà đạp Phật pháp xuống một cách rất là tàn nhẫn như vậy! Chúng ta thấy rõ ràng mà. Ở với vợ sanh con mà còn gọi là không dục thì Thầy nói làm sao mà không dục, mà làm sao có được chuyện đó?

(21:01) Còn kinh Pháp Hoa đứng ở trên cái góc độ cầu khẩn như vậy thì thử hỏi làm sao mà cái giáo lý của đạo Phật chấp nhận được? Nhân quả mà làm sao mà có cái chuyện đó được, thế mà người ta chổng khu người ta thờ cái kinh Pháp Hoa còn hơn là thờ ông Phật nữa! Nhưng mà đó là cái tà pháp, cái kiến chấp của người khác.

Cho nên vì vậy bây giờ cái bài này để chứng minh cho chúng ta biết rằng cái chỗ nào đúng cái chỗ nào sai, để thấy cái người xưa người ta cũng biết chọn được cái bậc thầy của người ta chớ, cái bậc Sa Môn đúng chớ!

Bây giờ chúng ta cũng vậy chớ, chúng ta là con người đi vào đạo Phật thì cũng phải biết chọn ông thầy đúng chớ, biết chọn những Sa Môn đúng chớ, tại sao đụng Sa Môn nào cũng nhào vô hết?

Hồi xưa đâu phải không có Sa Môn? Thứ Sa Môn lục sư ngoại đạo đâu phải là ít, nó cũng đầy đường đầy xá hết, nó cũng đi chật nẻo hết chớ nó đâu có ít. Bởi vì ngồi không ăn mà, lại còn được cung cấp, lại còn cái này cái kia nữa thì ai lại không thích mà vào? Phải hiểu như vậy.

Đây bây giờ cái bài kệ tới bà nói:

Thân nghiệp chúng trong sạch,

Khẩu nghiệp chúng cũng vậy,

Ý nghiệp chúng trong sạch,

Do vậy con quý chúng.

Bà này bả nói: Bởi vì những cái Sa Môn này thân nghiệp họ rất thanh tịnh, họ làm những cái hành động gì nó không có còn dính mắc, tham đắm. Họ đâu có rờ mặt phụ nữ, họ đâu có ôm hôn phụ nữ, mà nếu mà họ ôm hôn phụ nữ thì con làm sao mà con kính trọng họ?

Còn miệng họ nói có lời ác không? Họ có nói ra cái lời hung dữ không? Họ sống thầm lặng, họ không có nói, mà nói một lời nói là họ khuyên không làm khổ mình, không làm khổ người, làm sao con không quý trọng họ?

Còn ý nghiệp họ là như thế nào? Luôn luôn lúc nào cũng giữ trong sạch, không có nghĩ bậy nghĩ bạ, làm sao con không quý trọng họ? Còn gì mà ngồi lại nghĩ tầm bậy tầm bạ, nghĩ ăn nghĩ uống, nghĩ lát chiều nay mình phải nấu nồi chè ăn cho ngon chơi, thì cái nghĩ như vậy là con làm sao mà con quý trọng họ được?

Đó thì thí dụ như quý thầy nghĩ như vậy có phải là bà này sáng suốt không? Bà sáng suốt bà chọn bậc thầy bà mà, cho nên bà nói ra những cái bài kệ này để vừa là chỉ cho ông cha thấy rằng ông cha nên chọn lấy cái đó.

Và ông cha ổng thông cảm, ổng nghe nói rồi thì ổng cho bà xuất gia liền: Đúng, tao chấp nhận mày xuất gia theo mấy vị thầy này là tốt nhất, chớ đừng có theo cái bọn kia! Bọn kia là tao cấm không có cho, mày mà bước mẻn vào cái loại đó là tao chặt chân á, chớ không phải vừa đâu!

Đó thì lẽ đương nhiên là ông cha ổng phải có sự giáo dục con ổng, mà ổng nghe đúng là ổng cho đi liền.

Đó. Bây giờ bà mới giải thích thêm để cho ông cha thấy thêm nữa đây:

Không cấu uế, giải thoát,

Như vỏ ốc trong sạch,

Trong sạch cả bên trong,

Trong sạch cả bên ngoài,

Công đức chúng trắng tinh,

Do vậy con quý chúng.

Đó, đó thấy không? Người ta không có cấu uế cho nên người ta giải thoát. Mà trắng như vỏ ốc trong sạch, thì nhìn vào ba y một bát nó đâu còn cái gì thì trắng như vỏ ốc trong sạch chớ gì?

Người ta cũng không thấy đem gia đình vợ con người ta đến hay dòng họ đến nói chuyện này chuyện kia. Còn mình cái gì đâu mà - ông thầy gì mà dòng họ vợ con gì đến tùm lum à, thì thử hỏi là làm sao mà cái đó trắng bạch vỏ ốc được?

Cho nên bà lại thêm cho chúng ta thấy:

Trong sạch cả bên trong,

Sạch ở bên trong, tâm cũng trong sạch, mà:

Trong sạch cả bên ngoài,

(24:08) Còn chúng ta nghe các thầy nói như thế nào? Tâm xuất gia tức là trong sạch ở bên trong, mà ở bên ngoài không xuất gia thì tức là nó không trong sạch bên ngoài, thì như vậy là có đáng chọn không?

Thầy có giảng trong cái bài giáo án rồi mà. Như ông Duy Ma Cật đó, tâm thì trong sạch - Thánh vị rồi, nhưng mà cái thân thì còn là cư sĩ, cho nên có vợ có con, đó là cái thân nó chưa trong sạch.

Do đó thì ở đây bà này bà có chấp nhận cái thân không trong sạch ở bên ngoài không? Đó.

Công đức chúng trắng tinh,

Nghĩa là nhìn cái công đức tức là cái hạnh tu đó, nó trắng tinh không có hề một vết nhơ ở trong đó.

Đó thì như vậy. Rõ ràng là chúng ta nhìn cái trong sạch ở bên ngoài như thế nào, thấy một ông thầy ăn ba bữa là chúng ta đã biết có trong sạch bên ngoài không. Rõ ràng chúng ta nhận.

Còn bên trong thì nói trong sạch, chúng ta biết làm sao mà rõ bên trong ông ta được? Bên trong mà chúng ta muốn rõ thì ông thầy ai nói cái gì mà ổng sân lên thì chắc chắn là chúng ta biết là ông thầy đó ở bên trong không có trong sạch đâu. Mà thấy mình nói cái gì mà trái ý ông ta, ổng trợn mắt ổng phùng mang ổng cãi thì chắc chắn là mình thấy cái đó là không trong sạch ở bên trong rồi. Thì đó là cũng dễ nhận thôi chớ đâu có gì khó.

Nhưng mà chúng ta thấy bên ngoài rất dễ. Rất dễ nhận bên ngoài, nó không trong sạch ở bên ngoài là chúng ta thấy rất dễ. Mà ở đây phải trong sạch bên trong và trong sạch bên ngoài, trắng như vỏ ốc, không có cái cấu uế nữa, thì như vậy con làm sao con không quý chúng, không có quý những người đó?

Đó thì bà trả lời cho ông cha bà thấy cái chỗ quý kính của bà nó đúng hay không đúng? Đúng, rất đúng.

Nghe nhiều thọ trì pháp,

Mạng sống đúng chánh pháp,

Nhất tâm giữ chánh niệm,

Lời sáng suốt khiêm nhường,

Chúng chấm dứt đau khổ,

Do vậy con quý chúng.

Đó, thì bà giải thích cho chúng ta nghe: Cái người này họ chịu khó họ nghe rất nhiều, họ thông - tức là thông hiểu những gì chưa thông hiểu đó. Mình nghe nhiều mình mới thông hiểu chớ, mà mình thông hiểu đúng chánh pháp.

Rồi mạng sống đúng chánh pháp: Cái mạng sống của họ không có ăn thịt ăn cá, không có ăn phi thời, họ không có uống ăn lặt vặt, không có lấy viên thuốc C bỏ miệng ngậm chơi, không có làm cái chuyện mà tào lao, tầm bậy đó. Lúc nào đúng ăn là ăn, mà đúng uống là uống, lúc nào có giờ giấc nghiêm chỉnh.

Như vậy làm sao mà con không có quý kính họ? Đó, thì bà đã giải thích cho ông cha thấy.

Từ làng chúng đi ra,

Không nhìn ngó vật gì,

Chúng đi không mong chờ,

Do vậy con quý chúng.

Đây là bà diễn tả cho cái hình tướng của các vị tu sĩ mà bà đã quý kính. Thì từ làng này mà đi tới đi ra, nghĩa là từ trong tịnh xá mà đi ra làng rồi từ làng đi về tịnh xá, thì luôn luôn lúc nào cái mắt của cái vị đó đều không có ngó vật gì hết. Mà không ngó vật gì thì quý thầy sẽ nghĩ sao? Họ ngó xuống chớ họ có ngó qua lại không?

Mà bà đã quan sát rất rõ những bậc này là đáng bậc kính. Còn cái người ngó qua ngó lại là bà đã nghĩ như thế nào? Cũng giống như mình vậy thì có gì hơn mà mình phải quý kính!

Đó, cho nên cách thức người ta đi mà đã làm cho bà đã cảm hóa được cái hạnh đi của cái người tu sĩ rồi.

Chúng đi không mong chờ,

Nghĩa là đi xin đó cũng không mong chờ cho người ta cho mình nhiều ít nữa, cho được bao nhiêu hay bao nhiêu, thì như vậy rõ ràng là những cái bậc đó là đáng quý kính rồi chớ gì?

(27:21) Còn có nhiều người ôm bình bát đi xin mong cho người ta cho mình nhiều: Bữa nay đức Phật Quan Âm phù hộ tui đi khất thực, bữa nay làm sao cho Phật tử cho tui những cái gì ăn cho ngon chớ hôm qua cho ba (thứ) cơm muối nuốt không được! Đó là mình còn mong chờ, phải không?

Mà đi bây giờ cầu khẩn ai bây giờ? Bởi vì mình có học đức Quan Âm phù hộ rồi, mấy bữa rày khổ gần chết, thôi để cầu Quan Âm phù hộ cho gặp sướng một chút, chứ bữa nay cho mấy ổ bánh mì không, hay hoặc nó xách trái dừa nó bỏ vô, chắc chắn là đầy bát phải ôm về, ăn trái dừa sao no được! Phải không?

Cho nên vì vậy mà cầu Quan Âm cho nó đừng có chơi cái kiểu đó chắc chết! Mà hễ mang trái dừa về thì nó đầy bát thì phải mang về chớ không lẽ đi xin nữa, phải không?

Đó là những cái mà đức Phật Quan Âm ngự trị để cứu khổ mấy ông thầy này ấy chớ, mấy ông thầy mà mong cầu á, chớ còn mấy ông thầy không mong cầu thì người ta đâu có cầu Quan Âm đâu, phải không? Người ta chỉ là người tu hành đúng. Thì như vậy là những ông thầy mong cầu thì chúng ta thấy ổng phải thọ lấy những cái khổ mà ôm trái dừa đi về ăn đó, ăn ba cái vỏ đó cho nó no!

Ở đây chúng ta thấy cái bà này thiệt là bà rất là sáng suốt, từng cái hành động nhỏ của tu sĩ chúng ta bà không có bỏ qua chút nào hết. Bây giờ bà tiếp thêm đây:

Không tìm cầu kho tàng,

Không kho chứa, kho cất,

Chúng tìm cầu cứu cánh,

Do vậy con quý chúng.

Nghĩa là nhìn thấy người ta không - ở trong cái thất người ta nó không phải là cái kho tàng, nó không có cầu cái kho tàng cho nên không có thấy vật gì hết, phải không? Rồi vô nhìn cái chỗ ở của người ta thì toàn bộ không có thấy cái kho mà chất chứa của cải tài sản gì hết. Nghĩa là vô trong cái thất người ta đã nhìn là thấy không có gì hết.

Vô trong thất mà thấy cái giường của quý thầy mà kín mít, không biết chừng nó đầy ở trỏng đó. Mặc dù là không biết chứ, nhưng mà không biết chừng cái giường mà kín đó là chắc có rồi. Chớ còn gặp Thầy nằm ở trên cục đá rồi, đâu có nhét cái gì trong đó được, cho nên hoàn toàn không có. Phải không? Các thầy hiểu.

Các thầy có cái giường trống - thì có cái bệ trống vầy các thầy nằm người ta nhìn: “Trời ơi! Ông thầy này thiệt là đúng là ổng không có kho tàng!”

Còn nhìn cái giường của quý thầy mà có cái hộc rồi người ta nói ông này có cái kho tàng nhỏ đó. Thầy nói có không? Thế nào cũng phải có chất chứa ở trong đó, không ít thì nhiều. Còn cái ông mà không có gì hết, lấy gì chất chứa? Đút ở đâu mà chất chứa? Để đâu người ta cũng thấy hết, cho nên đâu có giấu ai được.

Cho nên vô cái nhà mà thấy tủ bàn ghế thì kho tàng chớ cái gì, đó là chỗ mà chất chứa của cải tài sản chớ gì? Như vậy là cái người đó họ có tìm cầu cứu cánh không? Họ tìm cầu những cái vật chất chớ làm sao tìm cầu cứu cánh được!

Còn cái ông thầy mà vô nhìn thấy có cục đá nằm đó thì chắc chắn là không có tìm cầu rồi. Mà không có tìm cầu tức là cứu cánh rồi.

Nhưng mà thí dụ như bây giờ đặt thành vấn đề, như Thầy bây giờ đây Thầy là trụ trì, Thầy là một người mà coi trong Tu viện này, thì tất cả những cái gì này cũng của Thầy hết chớ sao? Phải không? Như vậy là tủ, bàn, ghế hay kinh sách đồ, thư viện đồ này kia cũng của Thầy hết chớ làm sao mà nói của quý thầy được!

(30:14) Cho nên vì vậy đó mà Thầy ẩn bóng ra đi một thân, ba y một bát, thì đó là Thầy đã xả hết rồi. Còn nếu mà Thầy cứ sống tới chết thì Thầy cũng còn dính mắc cái kho tàng chớ chưa chắc đã là hết cái kho tàng. Phải không?

Như vậy là một cái người tu người ta phải ý thức được cái điều đó: Có xả hết hay không? Có dám xả được không? Nó đâu phải chuyện dễ đâu!

Thầy nói một cắc chưa dám bỏ, mà bây giờ cả một cái tài sản lớn - cũng như bây giờ cái Thiền viện Trúc Lâm đó, dám bỏ không? Còn Thầy bây giờ cái tài sản nhỏ hơn Thiền viện Trúc Lâm cả trăm ngàn lần mà Thầy dám bỏ cũng là gan dạ rồi, chớ còn cái người mà nhiều như Trúc Lâm thì dám bỏ không? Dễ bỏ sao?

Các con thấy trong cái vấn đề đó là hẳn nhiên à, càng của cải tài sản bao nhiêu nó trói mình chặt bấy nhiêu. Còn Thầy đây nó ít, còn mấy con giờ đâu có gì, phải không? Vậy mà bỏ còn không được nữa chớ đừng có nói chuyện!

Có cái giường nằm không mà cái hộc nhỏ vầy mà bỏ không ra thì thử hỏi Thầy nhiều quá vầy làm sao Thầy bỏ? Nào là thiền đường, trai đường, nào là thất này thất kia của quý thầy đều là hoàn toàn của Thầy hết cấp cho mấy con chớ làm sao của ai!

Bây giờ nói Phật tử ai dám nhận không? Nhận tui làm sao tui điều khiển nổi cái này? Cũng phải giao Thầy, mà bây giờ Thầy không bỏ tức là ai bỏ? Phải không? Nó dính theo Thầy nó sát như sợi dây vậy.

Cho nên cái mà Thầy đã ẩn bóng tức là cái mà thể hiện cho các thầy thấy là Thầy bỏ sạch, không có cái gì của Thầy nữa hết. Giao lại của ai, làm gì làm Thầy không biết, ủy quyền họ, người nào có làm được làm, không làm được bỏ.

Còn đằng này sợ giao người ta rồi nó làm hư hao, mất hao của tài sản. Trời ơi của Phật tử để cho người khác người ta điều khiển, người ta ở người ta tu chớ mình cứ mình giành của mình để mình điều khiển à, như vậy là mình quá tham!

Đó Thầy nói hết để cho quý thầy biết rõ rằng khi mà chúng ta xả là phải xả sạch, và vì vậy mới thấy cái đời giải thoát của chúng ta thật sự.

Bởi vì hưởng cái hương vị giải thoát, cái hỷ lạc giải thoát Thầy đã thấy rồi, nó không phải là cái chùa này đâu, không phải là những cái đồ chúng mà đang ngồi trước mặt Thầy đâu, mà cả một cái trạng thái rất là tuyệt diệu.

Vì vậy mà Thầy đâu có ngu gì mà Thầy ôm ba cái thứ nặng nề này như treo đá đây mà để Thầy chết mòn, chết dần ở trong này? Thầy đâu có ngu!

Một người đã có trí rồi thì không còn ngu, mà cái người mà không trí thì phải ngu. Mà ngu thì ba cái đồ này nó trói chặt. Nó đè xuống đó cũng như nó nhận mình dưới nước đó, thở thiếu điều muốn ngộp! Đó các thầy phải thấy điều đó chớ!

Bởi vậy Thầy điên gì mà Thầy chịu nó nhận Thầy xuống nước cho Thầy ngộp, Thầy thở không được? Cho nên Thầy cũng ráng Thầy ngoi lên để mà Thầy đi chớ! Đó là cái khôn của một vị có trí.

Còn cái người ngu thì cứ ôm ấp nó vô, nó đè xuống đó mà như là mộc đè. Không biết các thầy có nằm ngủ bị mộc đè không? Trời ơi muốn la cho người ta cứu mà cứ cứng mình, nhúc nhích không có được, phải không? Cho nên lúc bấy giờ là bị mộc đè, thì của cải tài sản nó đè cũng cỡ đó đó, nó đè hơn nữa chớ không phải đè vậy đâu.

Cho nên ở đây Thầy thấy cái bà này - khi mà đọc đến cái gương hạnh của bà này Thầy thấy sao mà cái duyên chớ Thầy thiệt ra tìm kiếm chắc không nổi trong đống kinh đâu. Mà tại sao Thầy lật sao nó trúng ngay cái chỗ mà Thầy giảng như thế này để mà chúng ta nhận ra được những bậc thầy của chúng ta mà chúng ta theo đó mà chúng ta tu.

(33:13) Bởi vì cái hình thức tu sĩ bây giờ chúng ta biết ai là người chánh không? Chỉ có những cái bài này mà mở con mắt, chúng ta đã thấy được cái người chơn chánh tu theo đạo Phật đúng hay sai, để chúng ta biết kẻ tu đúng kẻ tu sai.

Mà cái mà Thầy dập xuống đó là dập đúng chớ không phải dập sai, dập những cái kẻ phá Phật pháp, cái kẻ mà mượn danh, mượn lợi, mượn tôn giáo mà làm danh làm lợi để mà phè phỡn ở trong cuộc sống bằng mồ hôi nước mắt của người khác, phải đập xuống hết!

Đó thì ở đây bà này bả chỉ cho chúng ta thấy những cái điều đó:

Chúng không nắm giữ tiền,

Không nắm vàng, nắm bạc,

Chúng sống với hiện tại,

Do vậy con quý chúng.

Mới nhìn thấy một ông thầy mà có tiền có bạc mà mua cái này sắm cái kia thì thử hỏi còn có tin được không? Mà bây giờ chúng ta nhìn thấy quý thầy người nào là không tiền không bạc, phải không?

Vô đây các thầy thấy Thầy giảng tới cái chỗ mà - cái khéo léo đến cái mức độ mà - ông thầy khéo léo lắm, không cất giữ tiền bạc, giao cho người cư sĩ nào đó, mà sổ sách thì mình nắm hết! Cái đó là cái gian nữa, cái đó là cái khéo léo nữa của những cái tu sĩ.

Còn cái người mà nó không khéo léo đó thì họ lại nắm giữ tiền bạc, họ lại chi phí tiền bạc, còn cái người khéo léo người ta tổ chức, nhưng mà cái sự điều khiển chi phí đó là cái ông thầy đó, thì quá cha rồi chớ còn cái gì! Ổng làm cái vẻ ông thanh tịnh không cất giữ tiền bạc!

Đó, cho nên Thầy mới nói đây, Thầy vạch hết cái bộ mặt ra hết mà, để cho thấy hết mà, để cho biết. Thì quý thầy sẽ thấy được cái giáo án của Thầy nó lật bày hết cái sai của Phật giáo bây giờ, mà nó đã làm cho Phật giáo chết đi biết bao nhiêu thế kỷ đây không? Hai mươi mấy thế kỷ, từ khi Đức Phật đến bây giờ là hai mươi mấy thế kỷ rồi, mà nó đã giết Phật giáo không có còn một cái gì mà gọi là Phật giáo hết!

Chúng không nắm giữ tiền,

Không nắm vàng, nắm bạc,

Chúng sống với hiện tại,

Trong hiện tại có gì sống nấy chớ không có cất giữ tiền, bởi vì cất giữ tiền bạc là lo vị lai đó, các con thấy không? Phải không, nếu mà không có tiền bạc thì ngày mai mình lấy gì đây? Thì tức là mình nghĩ vị lai có chuyện gì, bây giờ tui mạnh đây, tui cất giữ tiền bạc để ngày mai ốm tui mua thuốc chớ gì? Thì đâu có sống hiện tại được! Đó là sống ngày mai rồi đó, cho nên mới cất giữ tiền bạc.

Đó, câu kệ nói như vậy, mà nếu mà Thầy không phân tích ra thì quý thầy không hiểu được. Cho nên ở đây cái câu nói:

Chúng sống với hiện tại,

Chỉ biết sống hiện tại thôi. Bây giờ mạnh là bây giờ biết ăn ngày một bữa thôi, ngày mai đau thì xin thuốc uống, mà không đau nhất định không có giữ thuốc lại.

Đó, là cái người như vậy là con mới quý kính chớ! Còn cái người mà bây giờ chưa có gì hết, chưa đau mà lo để dành tiền để mai đau mua thuốc thì con không có quý kính cái điều đó đâu!

Đó là cái chuyện nhỏ nhặt về cái nhu cầu cần thiết mà chính bà này bà còn thấy, bà còn không chấp nhận, chớ không phải là cất tiền bạc mà hàng trăm lượng vàng ở trong một cái tu viện. Cho nên quý thầy bây giờ có người cả hàng trăm cái lượng vàng ở trong tu viện mà chưa dám bỏ ra nuôi chúng nữa!

Từ gia đình, quốc độ,

Xuất gia sống khác nhau,

Nhưng chúng thương kính nhau,

Do vậy con quý chúng.

(36:18) Nghĩa là từ cái gia đình này, gia đình nọ, mỗi người đều ở trong mỗi cái gia đình, rồi mỗi cái quốc độ nước này nước kia nữa, mà họ đến họ xuất gia, họ sống chung nhau mà họ thương nhau như là anh em ruột vậy, họ không bao giờ mà có tranh cãi nhau.

Còn chúng ta thấy bây giờ có không? Trời ơi họ sống - ở chỗ này chỗ kia đến họ sống, chút cái họ tranh nhau à! Có nhiều người ở chung nhau một xứ nữa, cũng một nơi nữa, mà đến ít hôm cái rầy rà nhau, tranh cãi nhau, thì cái đó có phải là hòa hợp chúng không?

Cho nên nhìn cái chúng như vậy là bà có cung kính không? Không, bà không cung kính đâu. Bà thấy sao mà người ta ở mỗi người mỗi gia đình, mỗi người mỗi xa lạ nhau, mỗi người một nước mà đến sống chung nhau ở trong cái mái nhà tu hành này, sao mà họ thương nhau, họ kính nhau quá, họ trọng nhau quá!

Đó, bây giờ chúng ta thấy như cái bữa thọ trai chúng ta thôi, chúng ta đứng chờ trong cái thời gian trật tự như vậy, rồi chúng ta chào hỏi nhau rất là kính trọng nhau. Đây là cái hình thức thôi, chứ chưa nói là cái tâm thật của chúng ta đâu.

Nhưng mà từ cái hình thức đó nó sẽ biến dần cái tâm thật của chúng ta mà đi đến con đường mà chúng ta càng ngày càng trau dồi được thân tâm, nó thể hiện qua cái tâm thương yêu hòa thuận nhau, không có chống trái nhau nó mới đi đến cái thật được.

Nhưng mà cái hình thức mà chúng ta không tập luyện thì thử hỏi làm sao chúng ta chúng ta có được cái tâm sau này? Cho nên nó từ cái hình thức nó mới đi đến cái tâm niệm của chúng ta mới được.

Do cái chỗ đó nó mới thể hiện qua người ta thấy người ta mới quý kính cái bậc tu sĩ của chúng ta. Còn tu sĩ gì mà thiếu điều muốn đánh lộn với nhau thì làm sao mà người ta quý kính được?

Đó, thì do như vậy bà mới chỉ cho chúng ta từ cái chút, từ chút để chúng ta nhận ra cái người thầy của mình, cái người tu đúng, cái người Sa Môn đúng. Còn cái hạng Sa Môn sai nó nhiều lắm, nó không phải ít ở trong cái thế gian này.

Hỡi này Rohini,

Con sanh trong gia đình,

Con đem lại hạnh phúc,

Cho gia đình chúng ta,

Con tin Phật - Pháp - Tăng,

Lòng tin kính, sắc bén.

Đó, ông cha ổng mới - khi mà nghe xong rồi thì ông cha ổng mới nói với đứa con gái của ông: Chỉ có con mới đem lại trong gia đình hạnh phúc, rất là hạnh phúc, mà chỉ có cái tin ở Phật - Pháp - Tăng mà con mới đem lại cái hạnh phúc cho gia đình của mình ngày hôm nay.

Nghĩa là làm cho ông cha ổng sáng ra được, ổng mới thấy đó là cái chân hạnh phúc của cái gia đình của ông. Tức là người mà hiểu biết được Phật pháp rồi thì họ sẽ mang đến cái chân hạnh phúc cho gia đình của họ liền tức khắc, chớ họ không phải làm khổ gia đình của họ đâu.

Đó là cái chỗ mà chúng ta đứng ở trên cái thiện pháp, ở trên cái nhân quả. Mà cái câu kết luận của ông cha ổng đã hiểu được cái nhân quả mà đứa con đã kể cho ông thấy được cái hành động của các vị Sa Môn, của các vị tu sĩ theo đạo Phật ngày xưa đó là như vậy đó.

(39:09) Cho nên ổng xác định rằng: Con hiểu được Phật pháp mà sắc bén như vậy, con đem đến cho gia đình của chúng ta một cái hạnh phúc rất là lớn. Đó!

Con biết rõ cái này,

Là ruộng phước vô thượng,

Cả gia đình tín kính,

Các vị Sa Môn này,

Tế đàn thiết lập đây,

Đối với cha rất lớn.

Nghĩa là bây giờ đó - ông cha ổng là cũng người giàu có chớ không phải là người nghèo đâu - sau khi nghe con rồi đó, ổng mới tế cái đàn để mà trai tăng cúng dường cho các bậc Sa Môn đó. Cho nên đó là cả gia đình đem hết cái lòng kính tín.

Đó là cái ruộng phước, nghĩa là các bậc Sa Môn đó là ruộng phước của gia đình của mình, cho nên mình đem hết cái sức của mình ra để mà cúng dường, cung kính cái ruộng phước, mong cái ruộng phước đó được sống mãi.

Ruộng phước đó không có nghĩa là Phật - Pháp - Tăng này mà đem lại giàu sang cho họ đâu, mà chính đem lại họ cái thiện pháp, cho họ biết để mà họ hành động sống hàng ngày họ đem lại sự hạnh phúc an vui của họ, nếu mà những bậc Thánh Tăng này, cái gương hạnh sống mà đức hạnh như vậy đã làm cho họ hành động toàn thiện ở trên cái đường nhân quả.

Cho nên đây là một cái rất là quý, cho nên họ ở đây. Cho nên ông cha ổng mới nói: Con biết rõ cái này nó là ruộng phước vô thượng lận, nó đem lại hạnh phúc cho mọi gia đình, mọi con người đó.

Cho nên cái giáo án, cái giáo trình đạo đức nhân quả nó phải ra đời để mà nó đem lại cái hạnh phúc cho con người ở trên cái thế gian này, trên cái hành tinh này. Mà nếu không có thì đạo Phật sẽ mất đi rồi, không còn có nữa.

Vì vậy mà quý thầy đã thấy được cái chỗ bài kệ này nó có một cái giá trị rất lớn là nó từ cái chỗ hành động của các Sa Môn mà nó đem đến cái đạo đức nhân quả, nó làm cho mọi gia đình của con người ở trên cái hành tinh này được hạnh phúc an vui.

Nếu cha sợ đau khổ,

Và cha không thích khổ,

Hãy quy y Phật pháp,

Đó, đứa con nó khuyên ông cha.

Quy y Pháp và Tăng,

Hãy chấp nhận giới đức,

Cha sẽ được hạnh phúc.

Đó, thì lúc bấy giờ thì bà con gái này, bà này bà khuyên cha bà đó:

Nếu cha sợ đau khổ,

Như cha thấy là có cái sự đau khổ như vậy đó, và cha không có thích cái khổ nữa, cha làm sao mà cho cha không có ưa cái khổ nữa, cha thoát ra cái khổ, thì cha hãy quy y Phật đi, rồi quy y Pháp và chúng Tăng đi, và chấp nhận giới đức, giới hạnh, thì từng đó - giới đức, giới hạnh tức là nó là nhân quả chớ gì - thì cha sẽ được hạnh phúc. Nghĩa là lúc bây giờ cha sẽ được an vui, không có lúc nào mà cha không an vui.

Bà khuyên người cha bà rất là thành thật, rất là đúng đắn.

Cha hãy nói quy Phật,

Quy Pháp và quy Tăng,

Tôi chấp nhận giới luật,

Tôi sẽ được hạnh phúc.

Đó bắt đầu cái cô con gái này cổ khuyên ông cha: Mình nên đứng ở trước Phật đó, mình nên xin Đức Phật đi, cha hãy nói quy Phật đi, quy y Pháp và Tăng đi!

(42:15) Rồi cha sẽ nói:

Con chấp nhận giới luật,

Con sẽ được hạnh phúc.

Cái lòng tin như vậy đó, cha sẽ nói như vậy, cha sẽ được hạnh phúc hoàn toàn.

Đó, bà khuyên ông cha bà như vậy đó. Thì để đem lại cái hạnh phúc cho gia đình, cho cha bà, bà khuyên ông cha, thiệt là bà là người con có hiếu, rất là có hiếu, không có thể nào…​ (Mất tiếng)

Cái bà này bả khuyên cha bả:

Cha hãy nói quy y,

Quy y Pháp và Tăng,

Tôi chấp nhận giới luật,

Tôi sẽ được hạnh phúc.

Đó bà khuyên ông cha bà và gia đình cha mẹ bà như vậy đó. Thì đó là cái lời mà thọ Tam Quy đó các con, kêu cái lời mà xin thọ Tam Quy đó, mà bà lấy câu này ra là cái câu thọ Tam Quy đó. Khi mình Tam Quy đó, mình phát ra cái lời nói tự thân tâm của mình thấy cái chân chánh của nó rồi, cho nên:

Tôi chấp nhận giới luật,

Nghĩa là không bao giờ - khi mà hứa rằng mình chấp nhận giới luật là không bao giờ vi phạm.

Tôi sẽ được hạnh phúc,

Sẽ được hạnh phúc ở trên cái giới luật đó đó. Đó là cái câu mà phát ra tận đáy lòng của mình, biết là chánh pháp của Phật đã đem lại một cái số người Sa Môn mà giữ được cái hạnh như vậy là cái hạnh giải thoát thật sự. Còn những cái hành động mà không đúng như vậy là cái hành động không giải thoát, nó không ly các pháp thế gian được thì không giải thoát.

Bây giờ kế tiếp nữa:

Lúc trước cha chỉ là

Bà con của Phạm Thiên,

Tức là bà là Bà La Môn đó, cho nên ổng mới nói ổng là bà con của Phạm Thiên.

Nay cha thật chính là

Một vị Bà La Môn,

Cha chứng đạt Ba Minh,

Được an toàn yên ổn,

Ba Vệ Đà chứng ngộ,

Cha tắm rửa thật sạch.

Nghĩa là sau khi được con khuyên ông rồi ông đến ông quy y Phật pháp rồi đó, bắt đầu về ông thực hiện những cái giới luật của Phật dạy thì ông cũng đã chứng được Ba Minh chớ không phải là tầm thường đâu!

Cái ông cha này cũng là cái tay dữ tợn lắm chớ không phải! Tu dữ lắm á, khi mà ngộ được cái lý của Phật rồi. Còn chúng ta thiệt ngộ Phật pháp mà chúng ta chưa có dứt khoát được.

Cho nên ông này kể như là cả gia đình của ổng giao hết cho bà vợ làm gì làm rồi, cho nên ổng theo cái bước chân của đứa con gái của ông ta, cho nên ông nói cái câu cuối cùng, ông nói rất là chí lý và rất là tha thiết với cái sự giải thoát thật sự.

Khi trước ổng cấm con ổng, thôi ổng tức giận con ổng biết bao nhiêu, bây giờ ổng trở thành đệ tử của Phật cũng không thể nào mà tưởng tượng được! Đó là những cái người ta hiểu, người ta trước kia người ta hiểu nó không đúng, bây giờ người ta hiểu đúng thì người ta trở thành đệ tử của Phật rất là xứng đáng.

Lúc trước cha chỉ là

Bà con của Phạm thiên,

Nay cha thật chính là

Một vị Bà La Môn,

Cha chứng đạt Ba Minh,

Được an toàn yên ổn,

Ba Vệ Đà chứng ngộ,

(45:03) Chứng ngộ nghĩa là biết cái Vệ Đà đúng hay là sai đó, chớ không phải là chứng ngộ ở trong kinh Vệ Đà đâu, mà biết kinh Vệ Đà hồi trước ổng đã học như thế nào đó, ổng đã ngộ được cái lý của Vệ Đà như thế nào đó, đúng hay sai.

Cha tắm rửa thật sạch.

Nghĩa là bây giờ ông đã sạch hết không còn cái gì nữa, cả ba cái bộ kinh Vệ Đà ông đã hiểu nó như thế nào ông cũng quét ra luôn hết, là cái ý nghĩa như vậy đó.

Khi mà đến với đạo Phật rồi chứng Ba Minh rồi thì cái gì lại không hiểu? Cho nên lúc bấy giờ coi như là ông đã tắm sạch hết rồi, tắm sạch ở trên các pháp thế gian hết rồi, rời ra hết rồi, dứt ra hết rồi, không còn nữa rồi, cho nên:

Cha tắm rửa thật sạch.

Bây giờ ổng tắm rửa thật sạch rồi, không còn một vết gì ở trong cái bộ kinh Vệ Đà dính trong đầu, tức là không còn cái kiến chấp nữa.

Các con thấy cái bài kệ nói như vậy là chúng ta đã biết là ông không còn cái kiến chấp mà ở trong bộ kinh Vệ Đà cái đó đúng, cái đó sai, ông thấy Phật hoàn toàn là đúng là vì giải thoát thật sự chớ không còn cái mù mờ, những cái kiến chấp mà không giải thoát. Cho nên bây giờ chúng ta vì những kiến chấp mà chúng ta không giải thoát.

Đó là những cái bậc Thánh Tăng trong cái ngày xưa, mà những gương hạnh để lại qua những cái bài kệ mà nó quá là thực tế, quá là cụ thể, làm chúng ta thấy con đường tu hành chúng ta nó vui thích, càng thấy những bậc Thánh Tăng mà thực hiện được cái thiện pháp như vậy chúng ta thích quá.

Chúng ta không bao giờ mà có thể nói rằng khi hiểu được lời Thầy giảng ở đây rồi, chúng ta không có thể nào bỏ Phật pháp được hết, chúng ta không bao giờ từ giã nó được hết mà đi vào cái tôn giáo nào khác, hay hoặc là chúng ta trở về cuộc đời mà sống một cách hưởng lạc ở thế gian nữa, chúng ta hết có ham rồi, chúng ta biết nó vô thường rồi, chúng ta không còn thích thú nữa.

2- XÂY DỰNG LẠI GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT

(46:36) Bây giờ thì tới cái giai đoạn này thì Thầy xin nhắc lại một cái phần này nữa để chúng ta càng rõ đi trên con đường mà chúng ta sắp sửa học những cái giáo án này.

Vì muốn dạy về giới luật mà nếu chúng ta cứ tiến tới mà cứ đập phá người ta hoài thì nó cũng làm chúng ta chán đi, mà chúng ta phải thấy khi đập phá rồi chúng ta phải xây dựng nó lại, chúng ta làm nó lại tốt để chúng ta hiểu.

Như nãy giờ Thầy nêu lên những cái gương - bởi vì cái việc làm của Thầy, Thầy hiểu biết: Khi đập phá người ta rồi thì mình phải xây dựng. Mình xây dựng để cho mình thấy được cái đường lối đúng, cái đường lối sai đặng mình tu chớ, còn mình đập phá người ta riết mà không có xây dựng cho mình biết thì tức là mình thằng điên mất rồi!

Cho nên xây dựng một cái giáo án của Phật rất là khó là ở chỗ này nè: Biết lúc nào đập mà lúc nào xây dựng. Đó là cái việc làm của một người phải có cái trọng trách của nó, phải thấy cái trọng trách của nó.

2.1- VỮNG TIẾN, KHÔNG CHÙN BƯỚC TRÊN CON ĐƯỜNG TU TẬP

(47:33) Vì vậy đó mà chúng ta phải hiểu:

Con đường tu hành của đạo Phật quả thật là dài dẳng và gian nan.

Bởi vì khi mà chúng ta phải thấy được cái con đường của tu hành nó không phải là trong một ngày, hai ngày đâu. Như khi mà chúng ta nghe những cái bài kệ đó thì chúng ta thấy nó nhanh quá, nó không phải đâu! Nó cả một cái vấn đề chớ không phải không.

Chúng ta có nghe ở trong những cái gương hạnh của các bậc Thánh Ni đó, họ tu 25 năm, 30 năm chớ không phải ít, nhưng mà tại vì họ dứt không được. Nhưng mà có người thì nhanh chóng lắm, tại vì người ta bước chân vào mà ngộ được cái lý rồi người ta dứt ra được thì nó rất nhanh. Còn có người cũng ngộ ra nhưng mà dứt không được, bỏ không được, cho nên cả 25 năm, 30 năm, là tại vì dứt chớ không phải là cái lý do gì khác hơn hết.

Cho nên chúng ta phải nói rằng cái dứt bỏ đó là một cái có cái gan dạ, cái lầm lỳ, cái dữ tợn à mới dứt bỏ, chớ không khéo chúng ta bị nó trói dằng nhằng mà chúng ta cứ ngỡ tưởng là mình dứt chớ chưa phải dứt đâu.

Con đường tu hành của đạo Phật quả thật là dài dẳng và gian nan, không ai nói là dễ dàng.

Nghĩa là bước vào chúng ta phải - khi có tu tập rồi chúng ta thấy không phải dễ dàng đâu.

Tuy nhiên đó là con đường duy nhất dẫn đến giải thoát, đến trạng thái chấm dứt bất toại nguyện hay đau khổ.

Những ai trong chúng ta có nguyện vọng tha thiết thành tựu sự chấm dứt đau khổ ấy, cuối cùng phải đơn độc tiến bước trên con đường khó khăn muôn vàn này.

Nhiều lúc chúng ta đành ngã gục bên đường, nhưng phải có đủ can đảm và ý chí cương quyết sắt đá, mỗi lần té ngã là mỗi lần tiếp tục đứng lên không chùn bước, luôn tiếp tục vững tiến.

(49:17) Như vậy là chúng ta biết nó khó khăn như vậy thì mỗi lần có ngã xuống thì chúng ta cứ đứng lên mà tiếp tục tiến tới chớ không có lui. Bữa nay chúng ta dùng pháp hướng đó chưa được, ngày mai chúng ta thay đổi pháp hướng khác, quyết định quét sạch cho ra tất cả các lậu hoặc.

Chớ không phải là chúng ta tu thấy nó không kết quả rồi chúng ta cứ ngồi tu chơi ỳ đó, cứ nhai đi nhai lại hoài, không phải đâu, chúng ta phải nỗ lực. Bởi vì chúng ta biết nó không có kết quả là chúng ta phải thay đổi.

Trong một tuần lễ hay hoặc là hai ngày, ba ngày mà thấy cái pháp hướng nó không kết quả, nó không hết lậu hoặc của chúng ta thì ngay đó là chúng ta phải tìm một cái pháp hướng khác. Trạch pháp liên tục, chớ đâu phải là một pháp mà chết đứng.

Như một cái câu học thuộc lòng mình cứ đọc hoài, đọc hoài, thuộc lòng hoài, mà giờ cứ đọc Tâm Kinh Bát Nhã hoài mà thấy Ngũ Uẩn nó cũng chưa giai không mà cứ đọc Tâm Kinh hoài thì nó có hết giai không không?

Các thầy thấy rõ không? Bao nhiêu người đọc Tâm Kinh Bát Nhã là “Ngũ Uẩn giai không”, mà cho tới giờ phút này tám chục tuổi rồi thì cũng đọc “Ngũ Uẩn giai không” mà Ngũ Uẩn có giai không không ? Như vậy là chúng ta cứ dùng một cái pháp hướng đó mà chúng ta nhai hoài thì có đúng không?

Cho nên Thầy phải nói, khi mà chúng ta chừng ba ngày, hai ngày mà chúng ta thấy nó không kết quả là chúng ta phải thay đổi cái pháp hướng liền. Chỉ trừ ra cái pháp hướng nào mà có thể nó quét sạch được mà nó không có làm chúng ta còn những cái trạng thái ham muốn đau khổ nữa thì lúc bấy giờ mới chính là cái kết quả.

Còn nếu chưa kết quả là phải thay chứ, đâu có phải mà đọc nhẩm cái Tâm Kinh Bát Nhã hoài. Mà không có giờ phút nào mà ông thầy nào không có đọc Tâm Kinh Bát Nhã, mà Thầy thấy ông thầy nào cũng là dính mắc ở trong Ngũ Uẩn hết chớ không ông thầy nào mà gọi là giai không nổi hết!

Đó thì phải biết được cái chỗ mà tu tập, đó là cứ dùng cái pháp hướng như vậy đó mà hướng hoài nó không được thì tức là nó không có hiệu quả thì phải quăng nó đi. Điên gì mà tối cũng Bát Nhã rồi chiều Bát Nhã, khuya cũng Bát Nhã, cái nào lúc nào cũng Bát Nhã, ăn cơm cũng Bát Nhã. Thầy nói thiếu điều họ muốn đi cầu, đi đái đi ỉa họ cũng tụng Bát Nhã luôn nữa để cho nó giai không nữa đó!

Mà nó có giai không được - người ta nghe nói giai không thì nó hay quá rồi - Ngũ Uẩn mà giai không thì thành Phật rồi chớ gì? Thế mà đụng đâu họ cũng Bát Nhã hết! Cho nên Thầy nói cái đó không phải thừa đâu.

Chúng ta có thể nói đi cầu, đi ỉa đi đái cũng là ngồi tụng Bát Nhã rồi mới đi cầu đi đái nữa, để cho nó giai không ở trong lúc đó, đặng cho nó đừng có đau bụng, mà có hết đau bụng đâu! Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy cái pháp hướng nó chưa đúng, cho nên chúng ta xả bỏ đi.

Có dịp Thầy đập Bát Nhã xuống cho quý thầy thấy, nhưng mà có duyên, chớ còn không duyên thì không đập. Đây là mới sơ sơ giáo đầu cho nó chút đó thôi.

2.2- PHẢI TÌM HỌC BẬC THẦY CHÂN CHÍNH

(51:47) Muốn được vậy, cần phải có sự hướng dẫn của những người đã thực hiện giáo pháp chơn chánh ấy. Lời dạy…​

Nghĩa là muốn mà được cái sự giải thoát được như vậy thì chúng ta phải tìm một cái bậc minh sư chơn chánh, họ có giới hạnh, giới đức, giới tuệ hẳn hòi đàng hoàng thì họ sẽ dạy chúng ta thì chúng ta mới có kết quả, còn nếu mà chúng ta tu khơi khơi khó mà kết quả lắm.

Cho nên Thầy nói nội sơ cái trạch pháp ra cái câu mà để chúng ta tu để mà kết quả, nếu mà không có bậc thầy hướng dẫn chúng ta, chắc chắn là chúng ta cứ nghĩ ra, chúng ta tìm cái câu cho đúng để mà chúng ta tu để mà giải được cái tâm chúng ta cũng không phải là chuyện dễ đâu.

Chỉ có một bậc thầy, sau một cái thời gian tu tập người ta sẽ tìm kiếm cái đặc tính của quý vị như thế nào để mà áp dụng cái pháp hướng đó cho đúng thì quý vị mới phá được cái tâm của quý vị chớ đâu phải đơn giản! Đó là một cái lời thật của Thầy nói.

Chỉ có người mà người ta đi trước rồi người ta mới tìm hiểu cái căn tánh, cái đặc tướng riêng của cái vị đệ tử của mình sau cái thời gian mà hướng dẫn người ta thì mới thấy được cái đặc tướng của người đó, cho nên biết được cái sở trường, sở đoản họ chỗ nào, người ta mới nhắm vào cái sở trường mà người ta đưa cái pháp hướng đó ra thì cái sở trường của người đó nó mới thích thú, họ mới quán thấu triệt.

Còn cứ đưa cái pháp hướng mà cái sở đoản của người ta, người ta không thích thú mà người ta ngồi đó người ta quán nó khô cũng như gộc cây, thì thử hỏi làm sao người ta đi tới đâu được?

Cho nên cái khó là khó ở chỗ mà trạch ra cái pháp, cho nên Phật nói Trạch Pháp Giác Chi là cái khó là chỗ trạch pháp. Còn cái chỗ mà quán niệm thì nó hướng thì nó không khó đâu, nhưng mà chỗ trạch pháp là chỗ rất khó.

Trạch pháp sao cho đúng cái đặc tướng của người ta, trạch pháp sao mà cho đúng cái hành tướng của người ta, mà trạch pháp sao cho đúng cái nhân tướng của người ta, cái đó là cái khó của cái người hướng dẫn.

Do vì vậy đó, khi mà chúng ta chọn được cái người rồi, thì cái lời dạy của họ, lời dạy của bậc thầy đó là những cái kinh nghiệm tu tập từ bản thân của họ, và họ là người sáng suốt có trí tuệ đầy đủ cho nên họ mới quán sát, họ biết được mình nằm ở trong cái trạch pháp nào, cái đặc tướng nào mà họ giúp cho mình tu tập.

…​ phải tin tưởng vững chắc nơi họ, và kỷ luật họ đặt ra là phải chịu khép mình trong cái khuôn khổ tu tập.

(54:04) Nghĩa là cái người thầy mà họ dạy mình, mình phải tin họ, rồi cái kỷ luật họ đặt ra, họ bảo mình phải khép mình như vậy là mình phải khép mình vậy, bảo không nói chuyện là không nói chuyện, bảo ăn một bữa là phải ăn một bữa, bảo làm cái gì là phải làm đúng theo cái đó, phải sống đúng như vậy, thì cái vị thầy này người ta mới dẫn dắt mình được.

Còn nếu mình làm ngược lại thì cái vị thầy này thôi người ta cũng đầu hàng thôi!

Do khép mình ở trong cái kỷ luật đó, được sự hướng dẫn thì mình mới tìm thấy được sự giải thoát chân thật, cụ thể và tuyệt đối ngay ở đây, trong hiện tại.

Nghĩa là ngay trong lúc mình tu tập mà mình khép chặt cái lời dạy trong kỷ luật của cái vị thầy đó, thì ngay liền tức khắc người ta đưa cái trạch pháp ra là mình đã thấy có kết quả giải thoát. Ngay liền chớ không phải là đợi tui tu một ngày, hai ngày, năm ngày đâu, mà ngay liền người ta dạy mình, mình áp dụng mình thấy có sự giải thoát.

Mình lắng cái tâm, mình thấy cái điều kiện mà người ta dạy cái pháp hành là mình thấy có giải thoát trong tâm mình liền tức khắc. Mặc dù nó chưa thuần thục nhưng mà có sự giải thoát thật sự. Rồi một thời gian mình tập thuần thục thì mình thấy thiệt là giải thoát hoàn toàn thật sự.

Đến đây Thầy xin nhắc lại: Giai đoạn tu tập này là một bắt đầu giai đoạn thứ hai.

Nghĩa là bây giờ, cái giai đoạn mà Thầy đang dạy trong cái giáo án này là cái giai đoạn mà tu tập cái giai đoạn thứ hai của cái người tu sĩ, chớ không phải còn là cái giai đoạn thứ nhất nữa.

Nhưng nó rất là cơ bản cho đời sống tu tập theo Phật giáo.

Như vậy Thầy đã nhắc quý thầy đó là Tam Quy là cái cơ bản mà chúng ta thọ để mà chúng ta thực hiện cái lộ trình thứ hai này, nó là cái cơ bản nhất. Cho nên chúng ta phải hiểu cho nó thông suốt được cái này mà chúng ta thực hiện con đường tu tập của mình.

Nó giúp cho quý vị nhận ra được sự đúng sai của người tu theo Phật giáo.

Cái thứ nhất là khi mà cái người mà không quy y Tam Bảo mà coi thường Tam Bảo, sống không đúng Phật - Pháp - Tăng, nghĩa là Thầy nói như thế này: Một vị thầy mà sống không đúng Phật là sao?

Ông Phật ăn ngày một bữa mà ông thầy đó ăn ba bữa, thì ông ta đã nói quy y Phật mà ông không sống đúng như Phật thì ông quy y ai đây? Có phải ông quy thiên thần không?

Ông nói Phật chớ sự thật ông quy y cái ông nhà giàu á, bởi vì ông nhà giàu ổng ăn ba bữa! Phải không? Mà mình quy y Phật thì mình phải ăn một bữa như Phật chớ, sao lại mình ăn giống như ông nhà giàu?

Rồi lại còn ăn ba, bốn bữa thì có phải mấy ông Ba Tàu ổng ăn nhiều không? Thì như vậy là rõ ràng mình quy y mấy ông Ba Tàu chớ đâu phải quy y Phật! Mình phải xét chớ: Tại sao tui quy y Phật mà bây giờ tui lại làm giống ông Ba Tàu ở ngoài chợ kìa? Ông muốn ăn - ổng bởi vì có tiền ổng muốn ăn hồi nào ổng ăn. Thì như vậy là mình đã sai rồi, đâu có đúng được!

Đó, Thầy nói như vậy để quý thầy thấy cái hành động mà chúng ta đã quy y Phật thì chúng ta phải làm sống giống như Phật, đừng có sống mấy cái ông nhà giàu, đừng có sống mấy cái ông trưởng giả, đừng có sống theo kiểu vua chúa, ăn phải cao lương mỹ vị! Cái sống đó là cái hiện tiền mà chúng ta đã nhìn thấy được cái sai trong đạo Phật, chúng ta phải ly cái đó ra.

Đó là chúng ta đã nhận cho đúng cái ông thầy của chúng ta, cái người mà chúng ta có thể theo tu tập trong cái lộ trình thứ nhất.

(57:03) Nó giúp cho quý vị không có một giáo pháp nào lường gạt được.

Bởi vì hầu như mấy cái ông đó họ có những cái lời lẽ, họ có lý luận, họ gạt quý vị, họ nói cái này cái kia, cho nên quý vị thấy cái cuộc sống của họ ăn ba bữa, họ còn thích xem hát, xem tivi, còn thích đá banh đá bóng, họ còn thích coi người ta đá cầu đồ…​

Thì những người mà còn ham thích những cái dục lạc của thế gian như vậy thì đâu phải là quy y Phật! Mặc dù bây giờ họ có quy y một ngàn lần đi nữa mà cái chùa mà cái tượng ông Phật đứng cả cái bầu trời đi nữa thì Thầy thấy cũng không phải là quy y Phật đâu! Đó là những cái mà chúng ta không có thể để cho họ lừa bịp mình được.

Nếu quý vị muốn tìm tu giải thoát trong Phật giáo thì quý vị hãy nhìn Sa Di Thập Giới…​

Nghĩa là nhìn mười cái giới của Sa Di.

…​ của một vị thầy thì biết vị thầy đó là tu sĩ Phật giáo hay là tu sĩ ngoại đạo.

Mặc dù họ cũng thờ Phật nè, họ cũng thờ tất cả những bậc Thánh Tăng ở trong chùa nè, mà cách sống của họ đó là họ quy y của vua chúa, họ quy y ông nhà giàu, họ quy y ông trưởng giả, cho nên cách thức họ sống là sống theo cái ông trưởng giả, ông nhà giàu, thì đó là chúng ta thấy không phải họ quy y Phật.

Họ mượn cái hình ảnh Phật để họ quy y, nhưng mà cái lối sống đó là theo mấy ông trưởng giả, nhà giàu, vua chúa, thì tức là không phải là cái ông thầy của chúng ta đâu, đó là ngoại đạo đó.

Ở đây quý vị đừng phân biệt chiếc áo, cái đầu tròn mà hãy nhìn cái oai nghi tế hạnh của vị thầy ấy có đúng oai nghi tế hạnh của Thập Giới Sa Di hay không.

Đó là cái lời khuyên của Thầy để chúng ta nhận xét cái người đúng, người sai, cái người là thầy của mình, chớ đừng có nương vào những cái ông thầy bậy bạ đó mà rồi chúng ta sẽ cũng là trở thành những nhà trưởng giả, những ông phú ông, những cái người vua chúa, để chúng ta sẽ thành bắt chước nhau cả đám đó để mà chạy theo những cái lợi dưỡng của thế gian.

2.3- CON ĐƯỜNG THOÁT KHỔ KHÔNG PHÂN BIỆT TÔN GIÁO VÀ GIAI CẤP

(59:09) Mục đích của đạo Phật là đưa nhân loại thoát khỏi đau khổ chớ không phải tranh giành con người, bành trướng thế lực tôn giáo của mình, nên Đức Phật đã xác định:

Bây giờ cái bài kinh của Đức Phật đã xác định cho chúng ta thấy: Cái mục đích của đạo Phật nêu lên để mà giúp cho con người thoát cái cảnh khổ, chớ không phải tranh giành con người, chớ không phải giật mà đem tín đồ người ta vào tín đồ của mình, hay hoặc là đem mọi người, khuyên họ - mọi người về với tôn giáo của mình, hay hoặc là xuất gia theo thọ Tam Quy theo cái tôn giáo của mình.

Đức Phật xác định cái bài này rất là rõ ràng và cụ thể. Đây là qua cái lời của Đức Phật mà xác định, nói với một cái vị Bà La Môn ở trong cái thời Đức Phật đây:

Này Nigrodha!

Tức là cái vị cư sĩ đó tên là Nigrodha.

Lời tuyên ngôn của Như Lai khẳng định: Như Lai không muốn gồm thâu tất cả tín đồ trên thế gian này về mình.

Đó là cái lời của Đức Phật xác định mà. Cho nên chúng ta mới thấy được cái đạo Phật nó cao quý ở chỗ đó, không có giành cái tôn giáo của ai, không có giành tín đồ của ai hết, không có muốn giật của ai hết.

Như Lai không muốn các ông từ bỏ công trình tu học theo đạo giáo của các ông…​

Đó lời Đức Phật xác định như vậy, nghĩa là Đức Phật không có muốn các ông bỏ cái đạo giáo của các ông.

…​ từ bỏ lối sống của các ông.

Nghĩa là không có từ bỏ cái lối sống các ông, các ông sống sao các ông cứ sống, nhưng mà Như Lai chỉ có cái là dạy cho các ông biết cái sống đó nó thiện hay ác, nó đem đến khổ hay là không khổ cho các ông thôi, rồi các ông cứ ở trong cái tôn giáo rồi các ông biết cái này nó làm khổ ông thì ông đừng có làm, mà cái này nó đem lại hạnh phúc thì các ông cứ làm.

Ông Phật chỉ muốn các ông giải thoát chớ không phải muốn các ông về với Phật giáo, về làm đệ tử của Phật nữa đâu. Ông Phật ổng xác định như vậy. Mà Đức Phật chỉ vạch ra cái này nó làm cho các ông khổ thì ông đừng có làm thôi, còn cái này mà nó làm cho các ông không khổ thì các ông hãy làm, thì cái đời sống các ông sẽ hạnh phúc để sẽ giải thoát. Ông Phật muốn như vậy.

Nghĩa là bây giờ Thiên Chúa, Cao Đài, Hòa Hảo…​ tất cả mọi tôn giáo trên thế gian này, thì ông Phật không có muốn người nào bỏ cái tôn giáo của họ hết. Nhưng mà Đức Phật chỉ cho: Bây giờ các ông theo cái tôn giáo này mà dạy vậy đó, mà cái này là khổ thì ông đừng có tu tập, mà cái này là không khổ thì ông tu tập, ông làm cho nó đem lại cái hạnh phúc của đời sống ông.

(01:01:35) Ông Hòa Hảo là Hòa Hảo mà Cao Đài là Cao Đài, đừng có nói ông mượn cái danh là ông Phật mà rồi ông cũng làm tầm bậy thì cũng không đúng là Phật giáo đâu. Mà chính ông ở trong một cái tôn giáo Cao Đài mà ông làm những điều đem lại hạnh phúc cho ông thì ông làm sáng tỏ cái tôn giáo của ông ra.

Người tu ở trong cái tôn giáo tui chỉ có bổn phận là tui dạy các ông đem lại cái hạnh phúc cho các ông giải thoát cái khổ thôi, mà ông có làm sáng tỏ lên tôn giáo của ông thêm chớ đâu có lợi ích gì cho Phật giáo chúng tôi đâu?

Cho nên đâu có nghĩa là chúng tôi lôi cuốn ông vào tôn giáo Phật giáo đâu? Mà tôi muốn cái đời sống của các ông, con người ở trên thế gian này không phân biệt tôn giáo, giai cấp nào hết, ai cũng được giải thoát. Đó là chính cái mục đích của Đức Phật đã xác định như vậy mà!

Cho nên ở đây Thầy đọc lại cái lời của Phật đã nói ở trong kinh mà người ta đã dịch ra rất là rõ ràng, cụ thể. Có nhiều chữ thì họ dịch không có thoát nghĩa cho nên Thầy có sửa lại một vài chữ để cho nó thoát nghĩa cho đúng cái ý nghĩ của Phật.

Bởi vì mình đọc một cái câu kinh, mặc dù là họ dịch ra dùng chữ không có sát nghĩa, nhưng mình phải hiểu được ý của Đức Phật nắm ở trong cái câu nói đó, cho nên mình phải dùng những cái chữ cho nó xác đáng hơn để cho người ta hiểu được cái ý của Phật.

Như Lai không muốn các ông từ bỏ công trình tu học theo đạo giáo của các ông, từ bỏ lối sống hiện giờ của các ông.

Như Lai cũng không phải đặt các ông tin vững chắc vào những việc mà chính các ông và các thầy của các ông xem là xấu xa và bất thiện.

Đây là Như Lai cũng nói: Bây giờ thầy các ông dạy cái đó là xấu xa nè, cái đó là bất thiện nè, thì các ông cứ tin vào ở đó đi, phải không? Các ông đừng có bỏ những cái đó đi. Thầy của các ông bảo đó xấu thì các ông đừng làm, mà bảo cái đó là bất thiện thì các ông đừng làm, mà bảo cái đó thiện thì các ông cứ làm.

Nhưng mà bây giờ tôi là một cái người tôi chỉ, bây giờ các thầy của các ông nói cái đó thiện, nhưng mà tui vạch cho các ông thấy cái thiện này nó đem lại cho các ông có được an vui không? Nếu nó không được an vui thì tức là nó chưa thiện thì các ông không nên làm.

(01:03:36) Mà cái này thì nó là thiện, cái này là xấu xa, mà cái này nó đem lại cho các ông hạnh phúc, an vui, thì các ông - mặc dù là thầy các ông dạy nó xấu xa, nhưng mà cái này mà tui giải thích cho các ông nghe mà nó đem đến cho các ông hạnh phúc, nó không xấu xa, nó không ác pháp nữa thì các ông nên làm, chớ tui không biểu các ông bỏ những cái này. Các ông hiểu không?

Vì cái này các ông hiểu như thế nào đó mà các ông không có làm cho các ông được hạnh phúc, mặc dù nó là cái giáo lý của người khác nói cái đó là xấu xa, cái đó là tệ, không nên làm, nhưng mà trong cái xấu xa đó nó chưa phải tệ, tui vạch cho các ông thấy, vì vậy cho nên các ông thấy cái này nó chưa phải xấu xa, nó còn có cái làm cho mình không khổ mà làm cho người khác không khổ.

Cũng như bây giờ có những cái mà nói rằng đó là thiện, là phải khổ hạnh như thế này thế khác là đem cho mình được giải thoát. Tui sẽ nói rằng bây giờ mình tu những cái hạnh khổ hạnh như con bò hoặc là như con chó thì nữa là mình cái thú hướng đó - mình biết rằng cái đó là cái khổ hạnh là cái tốt, mình đâu có hại ai, nhưng mình ráng mình tập theo, mình giống theo con bò mình ăn cỏ, rồi mình ỉa đái mình cũng làm như con bò, cho nên tui mới nói đó là mình tu tập như vậy là nó sẽ đưa đến cái thú hướng này, nó sẽ (đưa) mình thành con bò, mà quý vị có muốn thành con bò thì quý vị cứ tu. Còn quý vị không muốn thành con bò, thành con người thì quý vị cứ theo đây mà đừng có làm cái hành động đó nữa.

Thì vậy đó, thiện hay là ác là do tui vạch ra cho quý thầy thấy thôi, chớ tui không biểu là quý vị bỏ cái pháp đó để đừng có thành con bò, mà quý vị muốn thành con bò thì tui đâu có cấm cản được, thì quý vị cứ thực hiện cái hạnh con bò thì nó sẽ thành con bò, thì tui chỉ vạch ra cho quý vị biết. Quý vị là con người mà quý vị muốn thành con bò thì quý vị cứ làm cái này đi, thì nó là pháp thiện của quý vị.

Còn nếu quý vị thấy cái hạnh này làm con bò, thôi quý vị thấy cái này không được, nó xấu xa quá, mình là con người mà mình làm cái kiểu ỉa đái đồ, giống con bò nằm rồi quất đuôi quất cẳng rồi thì nó giống con bò thì không được, thôi quý vị đừng có làm! Thì quý vị thấy con người mà làm giống con bò kỳ quá cho nên quý vị không làm, vì vậy mà quý vị phải không thực hiện nó. Đó rồi quý vị thấy nó là cái pháp không hợp quý vị thôi.

Thì như vậy là tui không có bài bác cái pháp người ta nói là đúng, bởi vì người ta muốn thành con bò thì người ta cứ tu tập thành con bò chớ làm cản người ta sao? Tại vì người ta muốn như vậy!

Đó thì, đó là Đức Phật muốn nói như vậy để chúng ta thấy biết rằng Đức Phật không có can dự vào các tôn giáo của ai, ai tu đúng, tu sai. Nhưng mà Đức Phật muốn mọi người ở trong tôn giáo đều có một sự giải thoát làm cho họ hết khổ thôi. Đó là cái mục đích của đạo Phật mà!

Mặc dù anh ở tôn giáo nào đó thì anh cũng có cái khổ trong đó chớ, cái khổ của đời sống của anh, cái khổ vì vật chất, cái khổ vì tham muốn, cho nên tui chỉ vạch cho các anh thấy, các ông thấy. Các ông ở tôn giáo nào cũng vậy, nhưng mà làm sao các ông thoát ra được khổ là cái mục đích của tui.

Tui muốn giúp đời cho thoát khổ, chứ tui không muốn đem lại cái tôn giáo tui có hàng triệu người theo tui đó, thì tui không muốn đâu. Dù bây giờ không có một người nào theo tui, tui vẫn đem cái giáo pháp này mà tui dạy cho tất cả các người đều được giải thoát, đó là cái nguyện vọng của tui.

Chớ tui không muốn tui có một cái tôn giáo mà có hàng vạn, hàng triệu, như người ta thường ca ngợi là Phật giáo bây giờ trên thế giới đều tập trung, chỉ có Phật giáo là độc nhất, là có người theo tu nhất, còn Thiên Chúa hay hoặc là các tôn giáo khác bây giờ chỉ có số không, thì cái điều đó chắc ông Phật ổng không muốn cái điều đó đâu.

(01:06:36) Quý thầy phải hiểu ở trong cái mục đích, cái ý của đạo Phật. Khi đọc kinh Thầy mới hiểu được cái giáo lý của Phật, nó cao siêu đến cái mức độ mà người ta không có thành lập một cái tập thể để bành trướng cho rộng từ Đông sang Tây, từ cái nước này qua nước khác để mà bành trướng cái tôn giáo người ta đâu.

Phật giáo không có mục đích đó đâu. Mà chỉ có mục đích đem cái giáo lý đạo đức nhân quả để lồng vào cái khuôn khổ con người, để giúp cho con người ở trong cái tôn giáo nào người ta cũng vượt thoát ra được cái khổ đau của cái lộ trình nhân quả.

Đó là cái hay của đạo Phật nhất mà Thầy thấy Thầy phục, nói chung là Thầy tu rồi Thầy thấy ở trên đời này không có một cái tôn giáo nào hơn Phật giáo ở chỗ này hết. Tôn giáo nào cũng muốn bành trướng rộng ra hết à, từ nước này muốn bành trướng ra nước kia. Cho nên từ Đại Thừa nó phát triển rồi nó đi tùm lum hết để nó hoằng dương đạo pháp để nó bành trướng chớ gì?

Còn ông Phật thì muốn đem cái giáo pháp đó đến dạy cho người ta. Người ta ở đó có tôn giáo nào mặc người ta, nhưng mà làm sao cho người ta thực hiện được cái thiện pháp, cái nhân quả để người ta thấy cho rõ, đem lại hạnh phúc người ta là đủ rồi. Chớ đừng có phô trương rằng tôn giáo của mình có hàng triệu người đó, thì cái đó là cái hiểu Phật không có đúng Phật đâu.

Đó thì hôm nay thì quý thầy được nghe Thầy giảng tới đây quý thầy mới thấy được cái mục đích của đạo Phật, nó không phải là cái mục đích đi xâm chiếm người ta, phá cái tôn giáo người ta, cho nên Đức Phật không bao giờ muốn tranh luận với ai hết.

Này Nigrodha! Như Lai chỉ nói lên những điều xấu xa và bất thiện mà không buộc ai lại bỏ những điều đó.

Nghĩa là nói lên nhưng mà cũng không bắt buộc ai, miễn là người ta thấy cái điều đó là đem đến cái sự mà người ta giải thoát được thì người ta an vui, hạnh phúc được thì người ta làm, chớ không bắt buộc người nào hết.

Cho nên cái bổn phận là Đức Phật nói lên cái sự thật để cho người ta thấy thôi, rồi người ta đứng ở trong vị trí cuộc sống như thế nào đó mà người ta chấp hành cái sự thật đó để đem lại cho người ta có một cuộc đời giải thoát.

Bởi vì Đức Phật chỉ nêu lên cho chúng ta thấy những điều ác, những điều liên hệ đến sự ô nhiễm, nghiện ngập, thói quen dẫn đến để trở thành từ không đến có.

Nghĩa là Đức Phật muốn dạy chúng ta từ cái không có đó mà chúng ta trở thành cái có. Như bây giờ chúng ta chưa nghiện thuốc điếu nè, rồi bắt đầu đó chưa có hút thuốc chớ gì, bắt đầu chúng ta nghiện ngập thì từ đó, từ cái chỗ “không” chúng ta tới có cái ghiền.

Cũng như bây giờ chúng ta chưa có quen uống rượu, kê miếng rượu vô đắng nghét, phun ra không kịp, rồi bắt đầu từ đó chúng ta tập quen với bè bạn, rồi bây giờ nốc từ cái chai này đến chai khác nó cũng cạn sạch hết, thì do đó từ cái không mà đến cái có.

(01:09:12) Đó Đức Phật nói cho chúng ta thấy cái giáo pháp của Đức Phật mà, nó chỉ cho chúng ta thấy con người từ cái không mà nó đi đến cái có, nó trở thành cái nghiệp, từ cái nghiệp đó nó mới dẫn chúng ta đi tái sanh luân hồi chớ không phải có một đấng vạn năng nào mà tái sanh luân hồi chúng ta.

Những điều này phiền nhiễu và quấy rầy, chướng ngại, tạo hậu quả đau khổ, dẫn đến chỗ nương tựa bất an cho mọi người.

Đó những cái điều mà Đức Phật dạy chúng ta thấy, chớ không phải là đem cái giáo pháp mà nói thiền này thiền kia cao siêu tuyệt vời, hay hoặc là nói làm chủ sanh tử, lòe người ta, thì cái đó là cái không có đúng của đạo Phật đâu.

Mà chính cái chỗ đúng là cái chỗ chỉ cho người ta, vì cái chỗ mà người ta từ không mà đến có, nó thành cái nghiệp của họ, những cái đó nó mới tạo ra những cái hậu quả đau khổ, dẫn đến cái chỗ nương tựa bất an cho mọi người, người ta không còn cái chỗ nương tựa yên ổn được nữa, nó bất an.

Cũng như bây giờ trong gia đình mình có người nghiện thuốc phiện, mỗi lần mà không có thuốc phiện nó co nó giật ông ta, thì cả gia đình đau khổ chớ làm sao mà sung sướng được? Đó quý thầy thấy cái vấn đề đó.

Vì vậy mà Đức Phật muốn làm sao người ta từ cái không mà người ta đi đến cái không nữa, để cho người ta thoát ra khỏi, để bây giờ từ cái không người ta đi đến cái có mà cái có kiểu đó là cái có khổ sở của cuộc đời, biết bao nhiêu là người khổ.

Cho nên nhìn chung đạo Phật có ai mà dạy được đúng để cho con người thoát ra khổ không? Cho nên cái ước vọng của Thầy khi mà Thầy ẩn bóng Thầy vẫn tiếp tục soạn cái giáo trình đạo đức nhân quả để cứu con người thoát ra khỏi, dẫn con người thoát ra khỏi.

Mặc dù họ ở cái tôn giáo nào mặc họ, Thầy làm đúng y như lời Phật đã nói ở trong cái bài kinh này. Thầy không cần là người ta theo Thầy thọ Tam Quy Ngũ Giới với Thầy gì hết, Thầy không cần có người đệ tử nào hết, nhưng mà người nào mà đã thực hiện được giải thoát thì đó là phải nói rằng người đó là đệ tử của Phật. Đó, cho nên vì dù họ ở Thiên Chúa, tôn giáo nào đi nữa thì họ cũng là thực hiện được cái pháp lành, đó là cái hạnh phúc của đạo Phật đã dẫn dắt con người ra khỏi cái bể khổ trầm mê này rồi.

Đó thì Thầy - cái ước vọng của Thầy - thì cái ước vọng mà Thầy đã hiểu được Phật, và Thầy là cái người mới tập tành được cái đường lối của đạo Phật chút ít cái sự giải thoát trong thân tâm của mình, xa lìa những cái dục lạc của thế gian, Thầy đã thấy được và hiểu được cái tâm nguyện của Đức Phật.

Cho nên Thầy là một cái người đi sau mà hiểu được như vậy thì làm sao mà Thầy làm ngơ trước cái con đường của đạo Phật được, thì làm sao mà Thầy làm ngơ trước Đức Phật mà đã có tâm tha thiết đối với chúng sanh mà để lại cái giáo pháp cứu con người ra khỏi những cái sự đau khổ, mà chính bàn tay và khối óc của họ đã tạo cho họ đau khổ.

Từ duyên có đến duyên sanh tạo thành mạng lưới trói buộc, phiền não, tái tê, u sầu và bệnh chết suốt cả đời này sang đời khác của kiếp con người mãi mãi.

Nghĩa nhìn thấy như vậy làm sao mà không thương xót chúng sanh được? Thấy mọi người ngồi trước mặt của Thầy, Thầy biết rằng nó sẽ lưu chuyển mãi mãi đời này sang đời khác, làm sao chấm dứt được!

Thầy chỉ chấm dứt có mình Thầy, còn các thầy làm sao đây? Đâu phải Thầy là cây là đá mà ngồi đó thấy người ta đang lăn lộn ở trên cái sự đau khổ của cái sự tái sinh luân hồi này! Mỗi một kiếp người là đau khổ, Thầy đâu phải là những cái thứ vô tri mà không biết thương xót người?

(01:12:27) Cho nên Thầy đâu có làm ngơ được, vì vậy mà buộc lòng Thầy phải viết cái giáo án này, chớ Thầy có ham danh, ham lợi gì mà viết ra cái này để mà cầu tên tuổi mình đâu? Mà vì sự đau khổ của con người, vì tất cả con người trên thế gian này mà viết ra cái giáo án, để xây dựng lại con đường đúng của đạo Phật, để đem lại một cái đạo đức nhân quả cho mọi người, để người ta thọ hưởng được cái sự giải thoát chính bản thân của họ, chính hành động của họ.

Đó là cái điều mà Thầy ao ước, ước muốn. Cho nên suốt cái thời gian ba tháng nay mà Thầy nỗ lực ngày đêm liên tục không giờ nào ngơi nghỉ, để làm gì?

Để thành lập, để xây dựng lại cái giáo trình, cái giáo án của Đức Phật mà ngày xưa Đức Phật đã có công khổ công tu tập tìm ra được cái chân lý này, cái giáo pháp này mà giúp cho con người trên thế gian này thoát khổ.

Mà bây giờ Thầy là người thừa kế cái giáo pháp này, được thấy sự giải thoát nơi tâm hồn của mình, mà lại làm ngơ trước sự đau khổ của chúng sanh thì Thầy làm sao mà làm được? Cho nên dù là thân của Thầy có tan rã, sức khỏe Thầy có mòn mỏi đến cách nào Thầy cũng cố gắng cái giáo pháp này phải được ra đời, phải được thực hiện ở trong cái đời nay, để cứu con người thoát ra khỏi.

Vì thế Như Lai muốn loại bỏ những điều ấy giúp mọi người thoát khổ, nên không phân biệt giai cấp của xã hội và tất cả các tôn giáo trên thế gian này.

Đó thì quý thầy thấy, ở đây các thầy thấy qua cái ý của Đức Phật, những cái bài kinh ngắn mà Thầy đọc ở trên đó, thì chúng ta biết được cái ý của Đức Phật:

Vì thế Như Lai muốn loại bỏ những điều ấy giúp mọi người thoát khổ, nên không phân biệt giai cấp của xã hội…​

Giai cấp nào ở trong xã hội thì Đức Phật cũng không có phân biệt.

…​ và tất cả các tôn giáo trên thế gian này. Do vậy, Như Lai mới tuyên dạy giáo pháp của mình.

Do có cái tư tưởng mà không có phân biệt giai cấp ở trên xã hội này, cho nên trong cái giáo đoàn của Đức Phật - Thánh Tăng, các con, các thầy thấy có những bậc trong cái giai cấp rất là hạ tiện, là cái giai cấp mà như hốt phân đồ đó, cái giai cấp rất là hạ tiện mà Đức Phật vẫn chấp nhận vào cái giáo đoàn của mình, làm cho vua chúa quá sợ hãi đó.

Như ông Ca Chiên Diên là cái người hốt phân ở trong thành Xá Vệ đó, là đi lại đi từng nhà mà xin rác, xin phân của người ta để về làm trồng tỉa cái gì đó, cho nên cái giai cấp là giai cấp rất hạ tiện.

Hay hoặc là đi hốt rác, hốt phân của nhà người ta để mà dọn dẹp nhà cửa người ta cho sạch sẽ, rồi đem ra cái gò mả hay cái đồng trống nào đó gánh đổ ngoài đó để không hôi thúi đó, thậm chí như con người ta ỉa đái gì đó thì ông cũng phải gánh để mà đem ra đồng mà đổ đó.

Ngày ngày đi kiếm cơm, kiếm gạo bằng cái cảnh hạ tiện như vậy, thế mà là một bậc Thánh Tăng ở trong cái thời Đức Phật thì đủ biết rằng ở trong đạo Phật nó không có cái giai cấp nào hết, cho nên phá vỡ những giai cấp.

(01:15:38) Nhưng mà Đức Phật không có phân biệt cái giai cấp. Nếu mà đạo Phật phân biệt giai cấp thì làm sao mà thu nhận ông Ca Chiên Diên? Đó thì quý thầy thấy nó rất rõ.

Nếu sống đúng theo giáo pháp, những gì có liên hệ đến ô nhiễm, làm mọi người đau khổ sẽ được loại trừ.

Đó, thì các thầy thấy những cái pháp mà ô nhiễm, nó làm cho chúng ta có sự liên hệ đến ô nhiễm, thì chúng ta nên hãy đoạn trừ nó đi, dứt trừ đi.

Thì cái ô nhiễm nó là cái gì? Cái ăn cũng không phải là ô nhiễm sao? Cho nên ở đời người ta cũng thích ăn. Rồi cái ngủ cũng không phải ô nhiễm sao? Tất cả những cái đó là cái pháp ô nhiễm, nhưng mà tại sao chúng ta không thấy?

Mà bây giờ đó, quý thầy cứ nói là ăn ít thì nó thiếu sức khỏe, nó là cái pháp ô nhiễm chớ nó thiếu sức khỏe nào? Bằng chứng như chúng ta sống ở đây ăn ngày một bữa chúng ta có thấy thiếu sức khỏe đâu?

Người nào thấy Thầy cũng nói: Từ ngày vô tới giờ Thầy thấy cũng không có người nào ốm hơn chút nào hết, đâu có người nào mà còn cái bộ xương đâu mà gọi là ăn thiếu chất!

Cho nên chúng ta, mấy người có đem theo bánh trái ăn phụ không? Đâu có người nào mà nhét trong giường được. Do đó thì làm sao mà gọi là ốm yếu đâu? Người nào ốm thì nó cũng vậy mà người nào mà bình thường nó cũng vậy, mà người nào mập thì Thầy thấy cũng ăn ngày một bữa vậy thôi chớ cũng không thấy sa sút chút nào hết.

Đó là những cái mà chúng ta thấy đó là những cai pháp ô nhiễm. Chúng ta nhận ra cho được cái pháp ô nhiễm đó mà chúng ta tránh nó đi để chúng ta không còn ô nhiễm nữa.

Những pháp thiện pháp làm cho con người trở nên trong sạch và an vui thanh thản…​

Bởi vì những cái ác pháp nó làm cho chúng ta không có an ổn được, nó phiền não, nó giận hờn, nó đau khổ, thì làm sao cho tâm hồn của chúng ta trong sạch được! Mà chỉ có thiện pháp nó mới giúp cho chúng ta trở nên trong sạch và an ổn, thanh thản, hạnh phúc sẽ được tăng trưởng.

Đó là những cái lời của Phật dạy rất là thực tế, cụ thể, chớ đâu có cái sự mê mờ, cứ ngồi thiền chổng khu, chổng gọng ngồi thiền, mà trong khi đó ăn ngày ba, bốn bữa thì cứ sống với cái pháp ô nhiễm thì thử hỏi rằng ngồi thiền nó có thanh tịnh nổi không?

Đâu có gạn lọc được cái tâm! Hằng ngày mình tiếp xúc ba bữa rồi ăn lặt vặt tầm bậy tầm bạ, bánh trái lúc nào cũng nhét vô miệng hết, thì mình cứ ô nhiễm hoài cái ô nhiễm đó.

Rồi tối thì tới giờ ngủ thì không có chịu thức dậy tu tập tỉnh thức, mà hễ nó buồn ngủ thì leo trên giường nằm ngủ, ngủ đã giấc rồi thì lười biếng không chịu dậy nữa, nằm đó nướng qua nướng lại cũng như nướng bánh phồng vậy!

Thì thử hỏi quý thầy nghĩ sao? Những người như vậy có phải là những người sống ở trong cái pháp ô nhiễm không? Mà giờ nào khuya nào cũng dậy ngồi thiền thì ngồi thiền cái đó là ngồi thiền cái gì? Mình ngồi thiền thì mình phải biết mình tránh những cái pháp ô nhiễm chớ, để cho tâm mình tỉnh lên chớ! Còn đằng này không thấy gì hết, ô nhiễm vẫn ô nhiễm.

Cho nên Thầy thấy một số người ở đây, họ về tu đây, thời gian trước buồn ngủ ngủ gục cái bắt đầu họ - mới đầu thì họ ngồi thiền họ tranh nhau dữ lắm, họ ngồi dám tới mười hai, một giờ khuya họ mới xả họ đi nghỉ, họ làm cho họ ngồi có hơn. Nhưng mà họ làm có mấy bữa à, sau đó chín giờ hay là tám giờ đó họ đã chui trong cái góc nào đó rồi họ ngủ.

Hỏi Mật Hạnh coi có không? Ở đây Mật Hạnh là chứng kiến cái điều đó quá rõ mà đâu có gì sai đâu! Họ đâu có thực hiện được. Còn Mật Hạnh thì nó lăn, buồn ngủ là nó lăn theo cái hàng ba ở ngoài trước cái tổ đường ở đằng trước đó, nó lăn vòng vòng để cho nó không ngủ.

Còn quý thầy ngồi gục xuống mà ngáy khò khò, Thầy đi ngang qua, trời đất! Giờ này mà tu kiểu này chắc là thành Phật hết rồi! Mấy ông đó nhập định hết rồi! Định không phải định Tứ Thiền đâu, nó định “ngủ thiền” đó. Bởi vậy Thầy khi đi kinh hành mà Thầy ngang qua Thầy xem thấy quý thầy thôi rồi, kiểu này quý thầy nhập ngủ hết, “ngủ thiền” hết!

Bởi vậy cho nên chúng ta phải thấy được cái pháp thiện, cái pháp ác, rồi cái pháp ô nhiễm, nó như thế nào là ô nhiễm, như thế nào không ô nhiễm, thì chúng ta phải biết rằng cái gần gũi nhất là cái pháp ăn của chúng ta cái là pháp ô nhiễm nhất.

…​ sẽ được tăng trưởng, và chúng ta cũng như mọi người có thể sống an vui hạnh phúc bên nhau mà không làm khổ cho nhau ngay tại đây và trong hiện tại mãi mãi.

2.4- NỀN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ DÀNH CHO TOÀN NHÂN LOẠI

(01:19:35) Bởi vậy nền giáo dục của Đức Phật đã vững chắc duy trì giá trị hướng dẫn thực dụng vào đời sống đạo đức nhân quả của con người. Từ xưa cho đến ngày nay không có một nền giáo dục đạo đức nào so sánh hơn được.

Nghĩa là chúng ta thấy cái nền đạo đức nhân quả của đạo Phật thì không có một cái nền đạo đức nào mà từ xưa đến giờ mà hơn cái đạo đức này được. Bởi vì họ đạo đức chứ nhưng mà sự thật ra họ không có làm sao mà thoát được cái cảnh khổ là làm - không làm khổ mình khổ người.

Cái đạo đức của nhân quả nó không còn làm cho mình đau khổ mà cũng không làm cho ai đau khổ hết. Cái đạo đức nhân quả nó đặc biệt như vậy, nó làm cho chúng ta có một cái hạnh phúc, tràn đầy cái sự sống của chúng ta trong cái cuộc sống của con người hàng ngày.

Nền giáo dục của Phật giáo không phải dành riêng cho một chủng tộc, một quốc gia hay một vùng nào, mà phải phổ cập khắp cùng mọi nơi trên toàn thế giới.

Nghĩa là cái mục đích mà đạo đức nhân quả này phải được phổ cập rộng rãi như vậy mới cứu hết con người ở trên thế gian này, chứ nếu không thì không có thể cứu người ta được.

Chứ không phải là một cái tôn giáo nhỏ mọn như Phật giáo mà truyền dạy thiền này thiền kia, rồi tu theo có một số người ít đâu, không phải đâu. Cái giáo pháp của Phật, cái nền giáo dục đạo đức của Đức Phật nó phải sâu rộng như đến đó để cứu con người ra khỏi từng cái bàn tay, từng cái hành động do chính họ đã tạo ra cái sự đau khổ chính họ.

(01:21:02) Nền giáo dục của Phật giáo dạy con người có lối sống vững vàng, mạnh mẽ và thuần đạo lý nhân quả.

Nền giáo dục của Phật giáo là một giáo lý thực dụng và hợp với lý trí của con người nhất, không có một lý luận, một luận cứ dưới mọi hình thức mê tín, cuồng tín nào xen vào được đạo đức nhân quả được.

Nghĩa là quý thầy thấy Thầy xác định cái câu nói đó rất đúng mà: Không có một cái mê tín, một cái cuồng tín nào mà xen vào cái đạo đức nhân quả được. Nghĩa là nó cầu ông Thánh, ông Phật thì cái đó là bị luật nhân quả đập liền tức khắc.

Cho nên kinh sách mà đứng ở trên luật nhân quả rồi Thầy đập xuống hết. Bởi vì Thầy biết rõ là Đức Phật xây dựng cái đạo đức đó để cứu con người ra cho khỏi cái kiếp trầm luân đau khổ của họ, mà chính người nào đã xây dựng mà xen vào cái giáo pháp của Đức Phật bằng những cái cuồng tín, mê tín tầm bậy tầm bạ đó, thì lúc bấy giờ là đạo đức nhân quả nó sẽ đốn xuống hết, nó không để chừa một cái bài kinh nào mà bậy bạ đó được hết.

Bức thông điệp của Đức Phật để lại cho mọi người thời đại và ngày nay. Chúng ta đều nhận thức rằng: Nền giáo dục đạo đức nhân quả của đạo Phật cung ứng, thích nghi, giải đáp cho những thắc mắc mà tâm trí của con người hiện đại đang khao khát mong tìm một nền đạo đức nhân bản chân thật…​

Đó là một cái nền đạo đức nhân bản chân thật. Nhân bản tức là cái đạo đức của con người đó, dùng ở đây cho sát nghĩa chữ nó là chữ nhân bản đó, thì để quý thầy thấy rằng cái nền đạo đức nhân quả đó là một cái nền đạo đức nhân bản chân thật.

…​ để giải quyết những khó khăn trên khắp toàn cầu.

Bây giờ chúng ta đâu có cái đạo đức nào mà có thể toàn triệt như vậy, mà giải quyết cho cái con người ở khắp hoàn cầu này được, chỉ có cái đạo đức nhân quả mới có thể giải quyết được con người, bởi vì mọi con người đều có hành động nhân quả hết. Còn những cái đạo đức kia thì nó đâu có thể nằm ở trong cái hành động đó? Cho nên họ làm sao mà họ phổ cập khắp hoàn cầu được!

Cho nên người trong bộ lạc này, kẻ ở bộ lạc kia đều là những người dân - họ có lạc hậu đến mấy đi nữa mà chúng ta vẫn đem cái đạo đức này đến dạy họ, họ vẫn thấy cái đúng cái sai liền tức khắc, không ai là con người sanh trên trái đất này mà không hiểu được.

Nó đâu có gì mù mờ, nó rất rõ! Một cái hành động mà anh giết một con vật thì anh phải thấy sự đau đớn của con vật chớ làm sao anh không thấy? Mà anh thấy cái sự đau đớn đó thì chính cái thấy đau đớn của thân anh, tại sao anh nỡ tâm anh làm điều đó? Thì do đó làm sao cái người đó bây giờ họ là lạc hậu cách gì đi nữa Thầy nói ra họ cũng hiểu được.

Cho nên Thầy lên án Phật giáo ở bên Nam Tông là do cái sự dạy người ta không đúng cái đạo đức nhân quả, cho nên cái dân tộc có đi tu nhưng mà không thấy đạo đức nhân quả, cho nên cầm súng cầm gươm mà giết nhau như vậy thì lên án là phải chớ làm sao mà không phải!

Bởi vì họ không hiểu đạo đức nhân quả là cái gì. Họ tưởng là nào là Tứ Niệm Xứ nè, Tứ Diệu Đế nè, nào là Thất Giác Chi nè, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề nè, rồi họ thuyết giảng ba cái đó ra, rồi họ chế tầm bậy tầm bạ ra đủ loại thiền, đủ loại này kia, kinh sách thì bán đầy chợ, mà dân tộc thì hung ác như là con quỷ sứ, thì thử hỏi chúng ta thấy như thế nào?

Đạo Phật quốc giáo mà để dạy con người như vậy, đưa con người đi đến cái chỗ mà tàn ác giết người như vậy thì cái quốc giáo đó là quốc giáo gì? Có phải là tà giáo không? Nói Phật giáo chớ sự thật ra đó là tà giáo. Phật giáo đứng ở trên nhân quả làm sao mà xây dựng con người tàn ác như vậy!

3- SỰ TẬP KHỞI, ĐOẠN DIỆT VÀ CON ĐƯỜNG DIỆT TỰ THÂN

3.1- NHÂN DUYÊN CƯ SĨ VISAKHA HỎI PHÁP NI SƯ DHAMMADINNA

(01:24:36) Đến đây Thầy bổ túc thêm cho bài kinh Trung Bộ - Tiểu kinh Phương Quảng, trang 655, số 44. Bài kinh này là một bài pháp thoại giữa nam cư sĩ Visakha vấn hỏi Tỳ Kheo Ni Dhammadinna.

Đây là một cái bài pháp giữa cư sĩ Visakha đó là chồng của bà Dhammadinna, bà xuất gia bà thành Ni Tỳ Kheo, khi bà từ giã gia đình bà được chồng bà chấp nhận cho xuất gia, và khi mà thành tựu được đạo pháp bà trở về thăm nhà thì chồng bà hỏi bà, vấn đáp, vấn nạn bà qua những cái điều bà đã hiểu qua Phật pháp tu hành như thế nào mà hiện giờ bà được Đức Phật chấp nhận là một vị A La Hán.

Ổng cũng đâu có tin bà nói rằng cái vấn đề là bà đã chứng quả A La Hán đâu, ít ra bà phải trả lời cho tui nghe sao mà cho ngọt cái lỗ tai tui, tui mới chấp nhận chớ bà nói lơ mơ thì tui méc với Đức Phật liền, chớ bà đừng có về đây bà tự xưng bà là A La Hán là chết đó!

Đâu có phải chuyện dễ đâu! Đối với cái ông cư sĩ này cũng đâu phải tay thường, ổng là đệ tử cư sĩ mà cũng là đệ nhất của Phật chớ đâu phải là thường.

Cho nên khi bà về thì gặp lại ông, thì Thầy nhắc lại: Khi mà ông Visakha đó ổng đến với Đức Phật, ổng được nghe một bài thuyết pháp, sau đó ổng về - Thầy có nhắc lại cho các thầy nghe một lần rồi mà.

Thì về thì thường thường ông đi đâu về thì bà Dhammadinna bà đón tiếp với ông dưới cầu thang, rồi đưa bàn tay cho ông nắm, rồi hai người mới dẫn nhau mà đi lên nhà khách hay hoặc là lên cái phòng nghỉ. Thì hôm nay bà đưa tay thì ông không nắm, rồi ông lách bà ông đi trước, không có đi song song nữa, chơi cái kiểu đó đó!

(01:26:31) Cho nên bà đi sau chớ trong bụng bà nghe nó ấm ức lắm, nó tức, không biết bữa nay ổng đi vào tịnh xá nghe Phật thuyết giảng, không biết là có bà nào - mà cái kiểu này chắc là có bà nào rồi! Kiểu này là không có được rồi!

Thế nào là lên phòng khách đây là cũng phải cật vấn ổng một hơi cho đã mới được, chớ còn không khéo thì phải cho mấy con đầy tớ nó đi rình coi ông này ổng đi nghe Phật thuyết giảng kiểu nào mà ổng về ổng làm cái hành động như thế này.

Vì vậy đó, cho nên khi mà đến vào phòng khách ngồi rồi, thì thay vì mọi lần thì ông bà ngồi chung nhau một ghế, nay ổng chơi ổng ngồi riêng bên kia ổng ngó ở ngoài: “Bà! Bà ngồi riêng bên nây!” Bà xích xích lại gần, ổng nói: “Không có được! Bà ngồi qua đây!”

Đó, người ta hiểu Phật pháp, người ta đã nhập lưu được tức là người ta có hành động xả liền đó. Còn các con nghe Thầy thuyết giảng mỏi miệng à chớ chưa chắc đâu, về cái vợ con ngồi, trời nó chạy ra nó ôm thì ẵm nó luôn á, chớ chưa đâu!

Thầy nói thật mà! Ôi đứa này đứa kia tùm lum nó chạy: "Ba đi lâu quá! Ba tháng trời nay con nhớ ba quá!" Thôi ẵm đứa này đã, ẵm đứa kia vuốt, hun hít đứa này nọ kia. Thử hỏi nghe Thầy thuyết pháp vậy có nhập Dự Lưu chưa? Chưa!

Còn bà này, cái ông này ổng nghe Phật thuyết pháp rồi về cắt ly, bà xích xích lại gần: "Bà ngồi đó đi! Không có lại gần đây!" Đó thấy chưa? Đó là người ta nhập lưu Thánh rồi, người ta không có còn thấy cái dục lạc đó, thấy cái cảm giác giữa nam, nữ nữa.

Người ta biết đó là cái khổ, cho nên người ta cắt ly liền, người ta không còn cái thích thú mà ngồi nói chuyện với cái chuyện tầm thường của thế gian nữa, mà người ta nhắm vào cái sự giải thoát chớ người ta không còn nhắm cái phàm phu tục tử đó nữa.

Cho nên cái người chưa hiểu thì người ta còn cái tâm, người ta còn dính mắc, người ta thấy đó là hạnh phúc. Còn cái người đã hiểu rồi, người ta thấy đó là cái khổ nạn, cái đau đớn chớ đâu phải là cái hạnh phúc!

Cho nên hai cái - người mà nhập lưu rồi, nghe vừa nghe bài pháp rồi thì ông này nhập lưu rồi, vào Thánh quả rồi, cho nên cái hành động ông là hành động Thánh rồi.

Chớ còn hành động phàm phu chúng ta gặp con, gặp vợ là thấy ẵm thôi, hun hít lia lịa thôi. Rồi lại nói: “Ba đi, ba về, ba không mua bánh đồ này kia cho con, thôi để chút nữa ba dẫn con đi ra nhà hàng, cha con vợ chồng mình ăn một bữa cho nó…​ lâu ngày vắng nhau bây giờ làm cho vui một bữa!”

Đó là những cái tâm phàm phu thật mà, Thầy nói thật sự. Đó làm sao gọi là chứng Thánh quả được? Mà Thầy nói mỏi miệng các con có chứng Thánh quả không? Mà ông Phật ổng nói bài pháp rồi thì ông này ổng chứng Thánh quả liền. Đó gọi là nhập Dự Lưu.

Các con thấy rõ phải không? Đó rõ ràng người ta nghe người ta dứt được là đó là Dự Lưu, chớ chưa phải là người ta tu tập gì hết, người ta dứt bỏ được đó là Dự Lưu. Đó!

3.2- TỰ THÂN LÀ NĂM THỦ UẨN

(01:28:53) Bây giờ ông Visakha hỏi nè:

- Thưa Ni sư! Bản thân của chúng ta được gọi là ngã, còn Thế Tôn gọi nó như thế nào?

Đó, ông trắc nghiệm bà thử coi. Đó, bây giờ cái thân của mình đây thì ai cũng biết nó là ngã, vậy còn Thế Tôn - bà học với Thế Tôn thì Đức Thế Tôn gọi nó là cái gì?

- Này Hiền giả Visakha! Thế Tôn gọi năm thủ uẩn là tự thân chớ không phải là ngã.

Thấy không? Thấy ông Phật ổng nói rất rõ phải không? Chớ không các con cũng nói là Đức Phật nói năm cái thủ uẩn này nó hợp lại là cái ngã của mình, nếu vậy là mấy con đã phỉ báng Phật rồi đó!

Phải không? Còn ông Phật ông nói rất rõ phải không? Nè, các con sẽ nghe những cái bài này mới thấm thía được những cái chỗ mà Đức Phật dạy nè:

- Này Hiền giả Visakha! Thế Tôn gọi năm thủ uẩn là tự thân chớ không gọi là tự ngã. Tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức thủ uẩn - năm thủ uẩn này Thế Tôn gọi là tự thân, không gọi là tự ngã.

Đó là nhắc lại, bà nhắc lại. Bởi vì ông Visakha hỏi: Chúng ta thấy cái thân này - cái thân của chúng ta đó là gọi là tự ngã, còn Thế Tôn gọi nó như thế nào? Bà giải thích ra chúng ta thấy rõ cái chỗ mà gọi là tự thân nó khác mà gọi tự ngã nó khác. Chúng ta phải phân biệt được hai cái danh từ dùng đó thì chúng ta mới hiểu được cái chỗ nói.

3.3- TỰ THÂN TẬP KHỞI DO DỤC ÁI, HỮU ÁI VÀ PHI HỮU ÁI

(01:30:18)

- Lành thay! Thưa Ni sư, xin Ni sư cho hỏi một câu nữa!

Được rồi, bà nói đúng quá rồi, tui chấp nhận rồi. Tui cũng nghe ông Phật nói vậy rồi, bà nói thì không sai rồi. Thì bây giờ cho tui hỏi câu nữa, chớ bây nhiêu đó tui chưa có đủ tin bà đâu!

Bà có nói hay đi nữa bà cũng nhại lại cái miệng của ông Phật chớ đâu phải là của bà, cho nên tui đâu có tin, tui hỏi nữa. Bà có vui lòng thì tui hỏi nữa, bà không vui lòng thì thôi, tui đi nghỉ. Nhưng bà này thì: “Cứ tự tiện, Hiền giả thì cứ tự tiện mà hỏi!”

- Tự thân tập khởi được gọi như vậy. Còn Thế Tôn gọi như thế nào?

Cái tự thân mà nó tập khởi năm cái thủ uẩn, nó tập khởi như vậy thì gọi nó là tự thân, còn bây giờ Thế Tôn gọi nó như thế nào?

Đó. Bây giờ cái tự thân mà nó tập khởi như vậy đó thì chúng ta đã được trả lời ở trên đó là cái tự thân rồi chớ không phải gọi là tự ngã. Vậy thì nó có cái gì ở trong đó nữa không? Nó còn có cái gì ở trong đó nữa không? Cái câu của ông Visakha hỏi cái câu này:

- Tự thân tập khởi được gọi như vậy.

Tức là gọi như ở trên rồi.

Còn Thế Tôn gọi như thế nào nữa?

Gọi cái tự thân đó đó, cái tự thân nó còn cái tên gì nữa không? Đó, nó còn có cái dụng gì ở trong đó nữa không, hay hoặc là còn cái thể gì ở trong đó nữa không, hay hoặc là nó chỉ bây nhiêu đó gọi là tự thân thôi?

Quý thầy hiểu cái chỗ đó. Cho nên ở trong cái chỗ đó thì bây giờ được gọi nó là tự thân rồi, Đức Thế Tôn gọi nó là tự thân rồi, tui chấp nhận đúng rồi. Nhưng bây giờ ở trong cái tự thân đó, nó còn có cái gì nữa không? Mà có thể gọi nó một cái tên khác được không? Hay là chỉ có gọi nó tự thân thôi?

Đó thì cái ông này cũng rắc rối cái bà này dữ lắm, cho nên ông hỏi cái kiểu mà thiệt là rắc rối chớ! Đã nói tự thân rồi thì thôi làm thinh, còn hỏi ở trong đó còn cái gì nữa, mà còn có gọi nó cái tên gì nữa, ông còn đòi nó nhiều tên nữa! Thì bà Visakha cũng vui vẻ mà trả lời:

- Này Hiền giả Visakha! Khát ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ, tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái và phi hữu ái.

Khát ái này Thế Tôn gọi là thân tập khởi.

Phải không? Bây giờ cái nhóm của nó là năm cái thủ uẩn nó hợp lại thì gọi là tự thân, nhưng mà trong tự thân nó còn cái dụng gì ở trong đó, cho nên nó phải có cái - bây giờ nó tự thân không nó nằm cứng ngắc đó rồi nó cũng như gộc cây thì có nghĩa lý gì đâu, phải không?

Cho nên cái ông này ổng rắc rối bà này dữ lắm, ổng hỏi, nhưng mà bà này cũng lanh trí thiệt chớ không phải không.

(01:33:01) Bà biết được cái chỗ mà bả đã tu học, cho nên bà biết được cái sự hoạt dụng của thân, nó phải có cái khát ái trong đó cái thân nó mới có linh động chớ, nếu mà nó như cái gộc cây mà hợp lại cũng như cái bàn này thì thôi rồi rồi, thì làm sao mà gọi là cái tự thân con người được, phải không?

Cái bàn bây giờ nó cũng là duyên hợp, nó cũng là đất, nước, gió, lửa nó hợp thành cái bàn. Nhưng mà rốt cuộc rồi cái bàn nó đâu phải là cái thân con người đâu! Cái cây kia nó cũng làm sao nó giống được con người được! Cho nên nó có những cái trí tuệ, nó có gì ở trong tự thân đó.

Cho nên cái câu hỏi của ông Visakha là như vậy để chúng ta thấy từ cái chỗ tự thân của chúng ta nó có cái gì đó mà chúng ta nó mới chấp thành cái ngã, chớ còn nếu nó không có thì ai mà gọi nó là cái ngã? Cho nên nói tự thân tức là nói một cái phần của thủ uẩn nó hợp lại mà thôi.

Cho nên vì vậy mà bà Dhammadinna bà mới trả lời:

- Này Hiền giả Visakha! Khát ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham…​

Đây nè, ở trong cái tự thân đó nó cái khát ái, nó cái sự khao khát, có cái sự yêu, có cái sự ham muốn, khao khát ở trong đó chớ không phải là nó không có. Mà nó có như vậy là nó sẽ đưa đến cái sự tái sanh của nó.

Cái mục đích của cái thân Ngũ Uẩn này nó có tiếp diễn được cái thân này đến thân đến thân khác Ngũ Uẩn như vậy đó là nó phải có cái mầm mống của cái sự khát ái của nó ở trong đó.

Mà cái khát ái đó nó sẽ làm gì? Nếu một mình nó thì nó không thành. Nó không thành cho nên nó câu hữu với cái gì? Nó câu hữu với hỷ - nó câu hữu với cái sự thích, cái sự vui mừng, chớ nó câu hữu với khổ thì chắc nó không dám rồi! Nó phải câu hữu với - tức là nó kết hợp, cái khát ái đó nó kết hợp với cái sự thích thú của nó, cái sự hỷ của nó.

Vậy thì khi mà nó câu hữu với hỷ rồi, và nếu tham rồi thì nó mới có sự tìm cầu hỷ lạc. Đó, cái khát ái đó nó bây giờ nó kết hợp với cái hỷ và cái tham thì nó mới có đi tìm cầu cái hỷ lạc.

(01:35:06) Đó thì cái bản chất của con người mình có cái thân, thì bây giờ mình đi tìm cầu cái gì? Bây giờ kết hợp với cái gì? Mình muốn ăn ngon, phải không? Mà mình muốn ăn ngon thì mình phải kết hợp cái tham, cái tham nó mới muốn có đồ ăn chớ còn không có tham thì nó đâu làm gì muốn, phải không? Các thầy thấy rất rõ.

Bây giờ nó có tham nó mới có khởi ra - bây giờ mình muốn ăn ngon, muốn ăn chén chè nè, thì bây giờ mình muốn ăn chén chè thì tức là mình phải có câu hữu với cái tham. Tham là đi phải mua đậu, mua đường mới về nấu nếp mình mới nấu ra chè. Đó là nó tới bắt đầu nó có cái tham.

Và khi mà nó thành cái chén chè rồi thì nó mới cầu được cái hỷ lạc của nó, thì bắt đầu mình mới bỏ miệng mình ăn, nó mới có cái ngon của nó đó. Đó là cái hỷ lạc của nó. Chỗ này chỗ kia, hoặc là cái này cái kia - hỷ lạc cái này cái kia chớ không phải là nói nội chén chè không. Cái này cái nọ kia mà nó sanh ra cái Hỷ đó.

Mà khi mà cái chỗ này chỗ kia nó có đó, thì tức là dục ái. Phải không? Cái danh từ là dục ái. Cho nên quý thầy thấy rõ đó, từ cái bước nhỏ nhắt của nó đó, đi từ từ nó câu hữu cho đến khi nó dục ái. Thì dục ái thì nó có hữu ái và có phi hữu ái trong đó. Nghĩa là từ đó nó mới sanh ra dục ái, hữu ái và phi hữu ái.

Cho nên:

Khát ái này, Đức Phật gọi là thân tập khởi.

Bởi vì nó kết hợp lại thì nó phải có khát ái. Bởi vì Ngũ Uẩn nó kết hợp lại nó mới thành ra cái thân của chúng ta gọi là tự thân, mà khi nó kết hợp lại thì nó phải có cái khát ái trong đó.

Đó chúng ta phải thấy được cái chỗ mà do cái nguyên nhân nào mà chúng ta bây giờ không rời được mà có tham, có sân, có si, có thích thú cái này cái kia đó, là do cái chỗ tập khởi của cái thân, mà tập khởi của cái thân thì cái tên nó gọi là khát ái.

Còn hồi nãy thì năm cái thủ uẩn nó hợp lại, nó duyên hợp lại mà chúng ta gọi là tự thân. Còn bây giờ nó tập khởi thêm thì nó gọi là nó có dục ái, hữu ái, phi hữu ái đó, thì nó gọi là tập khởi của thân. Cho nên:

Khát ái này được Thế Tôn gọi là thân tập khởi.

3.4- TỰ THÂN DIỆT LÀ SỰ ĐOẠN DIỆT CỦA BA LOẠI KHÁT ÁI

(01:37:02) Đó thì ông Visakha ổng nghe nói vậy: À bà nói cũng có lý đó, đúng! Hay á! Bà thông rồi, tui chấp nhận bà nói cái này là được, là hay rồi. Bây giờ tui xin hỏi thêm bà một câu nữa:

- Thưa Ni Sư! Thế nào là thân diệt?

Cái thân mà - ổng hỏi cái kiểu này thiệt là - từ cái Tập rồi bây giờ tới ông hỏi Diệt đó.

Thì các thầy thấy, từ khi mà hỏi cái thân tập, hỏi cái bản ngã, thì bản ngã là do năm cái duyên Ngũ Uẩn mà hợp lại, bây giờ ông mới hỏi nó tập khởi, cái thân tập khởi này - nó cái kia nó duyên hợp, còn cái này nó tập khởi, nó thành ra ba cái thứ dục: dục ái, hữu ái và phi hữu ái.

Đó là nó tập khởi để rồi thành ba cái dục đó, mà trong cái cuộc đời chúng ta không có người nào mà chạy ra khỏi ba cái dục này hết, ba cái thứ ái này hết.

Cho nên chúng ta phải thấy được cái chỗ này rồi thì chúng ta mới tiếp tới cái chỗ - ở đây là nó tập khởi, mà bây giờ đến cái giai đoạn này thì ông hỏi cái tự thân này nó diệt là nó diệt cái tập khởi đó như thế nào? Nó làm cho mình giải thoát đó!

- Thưa Ni Sư! Thế nào là thân diệt? Và Đức Thế Tôn gọi thân diệt là như thế nào?

Đó. Muốn mà diệt cái tập khởi làm cho nó dứt ba cái dục ái nè, rồi hữu ái, phi hữu ái nè, làm cho nó dứt cái ái đi, thì nó gọi là đoạn diệt chớ gì? Thì đó là ông Visakha hỏi bà ni sư Dhammadinna. Vì vậy đó mà bây giờ thì bà trả lời:

- Này Hiền giả Visakha! Sự đoạn diệt, không tham đắm, không có dư tàn của khát ái ấy, sự xả ly, sự vất bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp. Này hiền giả Visakha! Sự đoạn diệt này Thế Tôn gọi là tự thân đoạn diệt.

Đây bà dùng một cái lố để mà chúng ta thấy. Bây giờ đó:

- Này Hiền giả Visakha! Sự đoạn diệt…​

(01:39:05) Sự đoạn diệt nó như thế nào? Là không tham đắm.

Bây giờ chúng ta thấy chúng ta muốn ăn cái đó, thì chúng ta biết cái tâm tham của mình chớ gì? Phải không? Do biết nó tâm tham thì chúng ta đừng có cho nó tham, mình đoạn dứt nó đi: “Tham là khổ đó! Không được, đừng có tham ăn!” Do đó chúng ta dứt.

Chưa tới giờ cơm mình đói bụng muốn ăn rồi thì đó là tham ăn chớ gì? Cho nên đó là mình cũng chấm dứt: “Đúng giờ ăn cơm chớ không đúng giờ mà đòi đòi, cái bụng này tao khoét ra, tao mổ tao quăng ra hết chớ ở đó mà sôi ruột ở trỏng!” Thì mình ám thị mình hướng vậy, nó hoảng hồn đi, cho nên nó đâu có sôi ruột nữa.

Bây giờ nó đói rồi bắt đầu bọt bèo ở trong đó nó sôi rột, rột, rột, nó đói bụng nó muốn ăn rồi, thì bắt đầu mình phải thấy đây là cái tâm tham nó thể hiện qua cái thân đây. Bởi vì nó tập khởi với nhau mà, nó kết hợp với nhau đó.

Bây giờ cái tâm thì nó muốn ăn, thì cái bụng nó sôi lên rột rột ở trong đó thì chắc là: “Mày muốn dữ rồi hả? Tao rút dao tao rọc ra cho coi mày có cái chỗ nào mày tham!” Thì vì vậy là mình dứt tham chớ gì? Cho nên cái tâm nó hết thèm.

Chớ còn không nó rột rột một hơi cái nó muốn ăn, ra ngoài đó nó thấy cái cục kẹo hay trái ổi thì: “Nuốt đại cho lẹ chớ để không đói quá!” Phải không? Từ đó cái bắt đầu mình tham thật, mình ăn cắp rồi, phải không? Thành ra ăn trộm. Đó, tức là cái xấu từ cái chỗ tham đắm đó nó đi đến cái chỗ không hay.

Cho nên ở đây chúng ta phải ngăn chừa nó liền tức khắc. Cho nên bà Visakha dạy: Đoạn diệt đó thì không có được tham đắm.

Hễ nó hở ra ra chút nào mà nó làm cái chuyện gì, thân nó kết hợp nó làm sao mà mình nghe khó chịu, nhức đầu, nó làm cho mình nặng đầu: “Đói bụng quá! Trời ơi! Chóng mặt quá, bây giờ đứng lên không thấy đường. Như vậy là mình phải kiếm nước cơm hay hoặc là cái bánh cái trái gì nuốt cho nó đỡ chóng mặt, lát ra ăn cơm chớ không khéo làm sao ăn cơm được?”

Do nó lý luận cái kiểu đó đó, thì tức là mình có cái mình đoạn cái lòng tham này đi, thì mình nói: “Chết bỏ nhất định tới giờ tao lê mặt ra đó tao ăn cơm, hay kéo chân tao ra đó ăn cơm, chớ bây giờ mày chết tao nằm đây cho mày chết chớ đừng có nói chuyện mày đòi ăn!”

Thì một chút nó tỉnh bơ à, nó không có đói, nó đói giả mà! Đó là tưởng nó làm vậy chớ không phải đâu. Tưởng nó câu hữu nó làm cho chúng ta tham đắm đó. Cho nên chúng ta biết là chúng ta hàng phục ngay liền, dứt liền.

Cho nên Phật dạy: Những gì dứt bỏ cần dứt bỏ mà. Chúng ta thấy cái tâm tham của mình là biết mình tham rồi, thì dứt bỏ ngay liền, không được để cho nó kéo dài. Chết bỏ chớ người tu hành mà sợ chết sao mà…​ Nếu mà sợ chết thì thôi đừng đi tu! Đã không sợ chết mới đi tu chớ, để làm chủ sanh tử mà!

Mà bà Dhammadinna bà còn bảo: “Không có dư tàn” - nghĩa là mình dứt bỏ nó rồi, dứt bỏ cái tâm tham rồi mà để nó cứ - nó còn sôi lục bục ở trong đó, nó cứ nhắc mình hoài đó, coi chừng cái dư tàn đó mà một lát mình phạm á.

Cho nên phải dứt đi, mình phải tìm mọi cách mà để cho quên cái sôi lụp bụp ở trong bụng mình, nó cồn cào ở trong đó nó muốn đòi ăn đó thì mình phải làm sao dứt. Lúc bấy giờ chúng ta phải dùng cái pháp nào mà chúng ta để dứt.

Đó là những cái pháp hành mà chúng ta để phá cái tâm tham của chúng ta đó. Nó phải có chớ không phải là chúng ta dứt là chúng ta nói bảo như vậy là nó dứt đâu, chúng ta phải duyên cái tâm của mình đi vào cái chỗ nào thì cái bụng nó mới hết sôi, nó mới hết làm khó chịu mình. Đó là cách thức mà chúng ta xả ly.

Đó thì:

Không có dư tàn của khát ái ấy,

Nghĩa là đừng có để cho cái tâm tham muốn của cái khát ái đó nó nằm ở cái chỗ đó mà nó duy trì hoài hoài đó. mình phải dứt cho không có cái tàn tích gì ở trong đó thì mới là giải thoát.

Sự xả ly, sự dứt bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp.

Đó là những cái mà bà thêm cho chúng ta thấy cái sự mạnh mẽ để chúng ta dùng những cái pháp hướng qua những cái danh từ này để chứng ta dứt, đoạn dứt, lấy tinh thần chúng ta quét sạch, trong khi đó chúng ta giữ cho đúng cơm Ngọ mà không có ăn bậy bạ.

Thế Tôn gọi là tự thân đoạn diệt.

Tức là tự cái thân của mình mình phải làm cái đó chớ không ai làm cho mình được hết. Đó.

3.5- CON ĐƯỜNG TỰ THÂN DIỆT LÀ BÁT CHÁNH ĐẠO

(01:42:46) Bây giờ ông lại hỏi cái nữa.

- Thưa Ni Sư! Tự thân diệt đạo như thế nào?

Đó bây giờ ông đã hỏi bà hồi nãy đó, thì cái câu hỏi trên thì quý thầy thấy:

- Thưa Ni Sư! Thế nào là tự thân diệt?

Chớ đâu có hỏi đạo, phải không? Còn bây giờ đó là ông hỏi tới nữa. Hồi nãy là tự mình đoạn diệt đó, là tự của mình, mình thấy cái điều đó là cái tham, mình biết nó tham rồi mình phải dứt trừ liền, mà nó không có cái đường lối tu tập, phải không?

Mình phải dứt trừ, rồi mình dùng những cái pháp để cho mình quên cái tâm mình đi ngay ở chỗ đó đi chớ để nó cứ sôi lụp bụp hoài thì không được. Cho nên bắt đầu mình đi làm cái gì một hơi cái nó quên đói à. Có không? Quý thầy cứ ngồi đó mà nhớ đói thì nó sôi ruột dữ lắm, nhưng mà đi ra nhổ cỏ hay cuốc đất một hơi cái sau nó quên mất.

Đó Thầy nói cái đó là cách thức để cho mình đừng có dư tàn cái chuyện đó. Một người mà có tu mới thấy được cái kinh nghiệm này. Bởi vì đây chưa có pháp tu, cho nên do đó đó mà nếu mà chúng ta không sử dụng cái đó thì chúng ta không thể nào mà khác hơn được.

Cho nên một người, người ta làm việc người ta quên đói là cái chỗ đó, là mê mà đâu có đói được. Còn mình ngồi không nó hay đói lắm. Thử hỏi mấy người ngồi không là hay đói lắm, mà cái người làm ít có đói, nó ít có thấy đói. Đó, là cái chỗ đó!

Do vì vậy đó, bây giờ mà cái ông Visakha đó ổng lại hỏi:

- Tự thân diệt đạo như thế nào? Và Đức Thế Tôn gọi tự thân diệt đạo như thế nào?

Ông hỏi bà rồi ông hỏi Đức Thế Tôn gọi như vậy có đúng không, hai người có nói đúng không? Chớ ông không có hỏi riêng một mình bà không đâu, mà ổng còn thêm cái Đức Thế Tôn gọi tự thân diệt đạo như thế nào, và coi bà dùng cái đạo nào bà diệt được cái thân tham khát ái đó, mà Đức Thế Tôn lại dùng cái đạo nào mà để diệt cái đó.

Còn bây giờ cái trên thì bà nói chung rồi. Tui làm việc thì tui cũng quên đói cũng được rồi đâu có gì, cái chuyện đó là tự thân nó diệt được cái tham ái đó được rồi, thì bà nói thì tui cũng chấp nhận rồi, đâu có cái gì khác. Cho nên bây giờ tới cái giai đoạn này thì bà nói, thì Phật phải nói cho nó đúng nhau chớ còn nói trật tui không có chấp nhận.

(01:45:03) Ông căn vặn, ổng hỏi như vậy là ổng nêu lên hai câu hỏi, tui hỏi bà mà bà nói trúng Phật mà Phật nói trúng bà thì tui chấp nhận, mà bà nói sai Phật mà Phật nói không đúng bà thì tui không chấp nhận cái chỗ đạo diệt này đâu.

Cũng như thí dụ như ông Phật nói diệt cái này bằng cái con đường nào đó mà bà nói con đường khác thì tui không chấp nhận. Tui sẽ hỏi Phật lại và tui méc Phật, bà nói bậy là chết với tui! Đó.

Do cái chỗ mà thưa hỏi này thì vì vậy mà bà trả lời:

- Này Hiền giả Visakha! Con đường Thánh Đạo tám ngành Thế Tôn gọi là tự thân diệt đạo, tức là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.

Đó, thì bà trả lời cho ông thấy đó là Đức Phật dạy, và bà chấp nhận rằng con đường này chỉ là con đường mà có thể nói rằng nó là tự thân diệt đạo, chớ không còn cái con đường khác nào hơn hết. Bà cũng chỉ hiểu như vậy mà thôi chớ bà cũng không có hiểu khác được hết.

Nghĩa là hoàn toàn là chỉ có tám cái nẻo này là cái gọi là tự thân diệt đạo mà thôi chớ không có cái pháp nào khác. Ngoài cái pháp này thì không có pháp nào gọi là tự thân diệt đạo nữa. Nghĩa là không có cái pháp nào mà diệt cái khát ái đó, diệt ba cái dục đó được. Đó, cho nên ngoài cái tám đường này thì không có.

Sau này Thầy sẽ giảng lấy cái trục tám Chánh Đạo này nó sẽ làm một cái pháp chính mà tất cả mọi cái pháp mà của Phật đó - Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo đều quây ở trên cái trục chính này mà để thực hiện con đường tu, chớ không phải là ngoài tám nẻo này mà chúng ta tu những cái pháp khác đâu.

Cũng như nói Thất Giác Chi. Thất Giác Chi nó cũng phải nằm ở trên cái Bát Chánh Đạo - tám cái nẻo này mà nó tu chớ không phải ngoài cái tám nẻo này mà tu được. Đó thì quý thầy phải hiểu con đường mà tu tập như vậy nó mới đúng cái điều kiện tu tập.

Ở đây Thầy muốn thay đổi về cái phần giới một chút cho quý thầy thấy, nhắc - thay vì những cái bài này phải được áp dụng vào cái giới hành, nhưng mà vì cái giới hành nó đến đó nó còn nhiều cái bài giảng, nó quá nhiều đi, không thể nào mà nhắc những cái bài của vợ chồng ông Visakha này vào ở trong cái chỗ giới hành mà Thầy nhắc.

Bởi vì cái giới hành nó thuộc về hành động rồi. Còn ở đây chúng ta phải nên lên những cái lý thuyết của cái phần hai người này mà đối đáp nhau để chúng ta thấy làm sáng tỏ được con đường tu tập của chúng ta, trong những cái giới luật mà chúng ta học.

Đến đây Thầy xin chấm dứt vì sắp sửa đến giờ ăn cơm rồi./.

HẾT BĂNG

31 - TÁC DỤNG CỦA XUẤT GIA

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 31 - TÁC DỤNG CỦA XUẤT GIA

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- LÀM SAI LỆCH PHẬT GIÁO VÌ KHÔNG HIỂU LUẬT NHÂN QUẢ

(0:00) Bây giờ bắt đầu lại cái bài học mà của cái giáo án về giới luật.

Trải qua hơn hai mươi mấy thế kỷ, những loại kinh sách phát triển này đã làm thay đổi bộ mặt thật của Phật giáo thành một bộ mặt Phật giáo mới: Tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia.

Vì thế trong các chùa hiện giờ ngũ dục lạc đầy đủ còn hơn người thế tục, hưởng dục lạc bằng mồ hôi nước mắt của người khác. Họ đã hiểu Phật giáo mà cố ý phá hoại Phật giáo…​

Nghĩa là người ta hiểu giới luật của Phật giáo lắm chớ không phải là người ta không hiểu. Bởi vì cái Thập Giới Sa Di chúng ta thấy rất rõ, đi vào con đường cái lộ trình thứ hai là cái lộ trình của người tu sĩ thì Thập Giới Sa Di là cái căn bản nhất.

Thế mà hiện bây giờ đó chúng ta thấy hầu hết tu sĩ chúng ta biết cái giới luật đó chớ không phải không biết, biết không cất giữ tiền bạc nhưng mà cất giữ tiền bạc, biết không ăn phi thời nhưng mà vẫn ăn phi thời, biết không trang điểm những đồ quần áo y phục đẹp mà vẫn mặc quần áo y phục đẹp, biết cấm ca hát hay hoặc là xem ca hát thế mà người ta vẫn xem ca hát.

Đó là tất cả những cái điều mà Phật đã cấm cái người mà bước vào cái lộ trình thứ hai để mà tu tập để được giải thoát, tức là được ly dục, ly ác pháp, thế mà người ta không ly được, cho nên người ta mãi biết mà cố ý phạm giới luật của Phật.

Mà đã phạm giới luật của Phật thì tức là:

…​ cố ý phá hoại Phật giáo bằng những câu kinh.

Đó, thì khi mà người ta đã cố ý mà phạm cái giới luật của Phật rồi, cố ý phá hoại Phật giáo rồi thì người ta phải tìm những cái người ta phát triển những cái loại kinh mà nó không có đúng tính cách của đạo Phật, nó làm lệch đi con đường của đạo Phật.

Cho nên đạo Phật đứng ở trên nhân quả thì mọi cái hành động của chúng ta, thiện thì đem đến cái hạnh phúc cho mình, mà làm một cái điều ác thì đem đến cái tai họa cho mình, cũng do chính mình chớ không có cầu khẩn. Thế mà ở đây có những loại kinh nó lại dạy cái người Phật tử thì phải cầu khẩn thì tai nạn nó mới qua.

Cho nên có những cái câu kinh: Ai có tai nạn gì cần niệm câu Quan Thế Âm Bồ Tát thì được cứu khổ. Như vậy làm cho cái người mà mê tín không có hiểu Phật pháp thì người ta tin rằng đó là Phật dạy, mà mình cứ niệm thì tức là nó sẽ có cái hiệu quả của cái sự cứu nạn đó.

Cho nên hầu như người ta có niệm Quan Thế Âm, rồi người ta cũng thấy có những cái hiệu quả cho nên họ đâm tin, tin thật, tin rằng có thật. Nhưng cái đó nó do đâu mà nó có cái hiệu quả đó thì họ không biết, họ tưởng rằng có một đức Phật Quan Thế Âm thương chúng sanh, ai có đau khổ, ai có gặp tai nạn gì, có tù tội thì cứ niệm Quan Thế Âm thì được cứu khổ.

(03:11) Nên bây giờ mọi Phật tử gặp tai nạn gì hoặc đau ốm đều thắp hương niệm: Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ, cứu nạn. Trong nguyên bản kinh:

Trong cái nguyên bản kinh của phẩm Phổ Môn của kinh Diệu Pháp Liên Hoa đó, thì cái phẩm Phổ Môn ở trong đó có cái đoạn mà những cái bài kệ sau nó tóm tắt lại đó, thì có những cái câu ngắn gọn để chúng ta dễ nhớ, dễ thuộc ở trong đó thì Thầy tạm dịch như thế này:

“Hoặc bị tù tội, hoặc bị tai nạn, hoặc bị rắn độc, thì người đó niệm Bỉ Quan Âm Lực thì sẽ được giải cứu ngay.”

Đó là những cái lời dạy ở trong kinh như vậy làm cho người ta lấy cái bộ kinh này, cái phẩm kinh này người ta biến thành cái bộ kinh cầu an ở trong gia đình của mình. Nên thường các chùa cũng như ở trong mọi gia đình người ta lấy cái phẩm này người ta tụng hàng đêm người ta tụng để mà cầu đức Quan Âm gia hộ cho gia đình họ được bình an, thì như vậy nó đã làm lệch cái ý của đạo Phật.

Bởi vì cái ý của đạo Phật thì không ai cứu khổ mình được, mà chỉ có tự mình cứu mình mà thôi. Cho nên Đức Phật khi mà còn sống tại tiền thì Đức Phật nói các đệ tử: “Các thầy hãy tự thắp đuốc lên mà đi, ta chỉ là người hướng dẫn mà thôi!” Mà bây giờ biến chư Phật, Bồ Tát thành ra những người phù hộ chớ không còn là cái tự thắp đuốc lên đi.

Qua cái bộ kinh này chúng ta xét thấy rất là phi lý. Thầy đặt thành vấn đề: Một kẻ cướp của giết người bây giờ bị công an bắt bỏ tù, pháp luật kết án tử hình. Lúc bấy giờ kẻ trộm cướp này muốn sống hay là muốn chết, muốn ra tù hay muốn ở tù? Chắc chắn là họ muốn sống chớ không bao giờ muốn chết.

Vậy thì cứ việc niệm Quan Thế Âm Bồ Tát thì sẽ được ra tù, sẽ khỏi chết thì những con người ở trên hành tinh này sẽ ra sao với những cái bọn hung ác này?

Nghĩa là khi mà được giải cứu như vậy thì chắc chắn là cái bọn hung ác này sẽ có một vị thần phù hộ rồi, thì mình cứ việc tiếp tục làm những cái chuyện ác đó nữa. Và như vậy thì cái luật nhân quả nó còn có cái luật công bằng của nhân quả không? Thì chắc chắn là không có cái công bằng của nhân quả nữa thì thế gian này đâu có cái trật tự, đâu có gọi là nhân quả được!

Thầy cho một ví dụ nữa: Ví như bọn buôn lậu ma túy mà cứ niệm Quan Thế Âm Bồ Tát thì chúng không bị hải quan bắt thì nhân loại trên thế gian này sẽ ra sao? Tất cả đều nghiện thuốc phiện, cơ thể thì suy yếu dần mòn từ thế kỷ này sang đến thế kỷ khác.

(06:02) Đó thì nếu mà cái thuốc phiện mà nếu mà nó đã được cái sự gia hộ mà nó thoát qua như vậy đó, thì thử hỏi trên cái thế gian này con người sẽ trở thành như thế nào? Nó bạc nhược tất cả hết rồi, còn cái gì đâu mà gọi là hạnh phúc cho con người nữa. Cho nên nếu mà có những kinh như vậy thì nó đi ngược lại cái sự cứu khổ của kinh, nó giải khổ cho con người.

Thế mà cái kinh được mà cầu khẩn như vậy mà được thành tựu, được theo cái ý nghĩ như vậy thì chắc chắn ai cũng muốn như vậy hết. Thí dụ như bây giờ mình có muốn trúng vé số thì mình cứ niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ, cứu nạn tui, bây giờ gia đình tui nghèo quá mong ngài phù hộ cho tui trúng vé số một triệu, hai triệu, ba triệu…​

Thì chắc chắn mà nếu được như vậy hết thì có ai mà thèm làm chi, cứ việc mà niệm Quan Thế Âm mua vé số thì bây giờ cả triệu dân Việt Nam, hay là năm chục triệu dân Việt Nam cứ chổng khu niệm thì cái chỗ mà phát vé số ra chắc nó sạt nghiệp chết nó hết còn gì!

Đó thì như vậy là mình thấy cái lý nó không có vững, mà mình biết rằng trong những kinh mà viết như vậy thì nó là phi cái Phật pháp rồi, nó không đúng. Bởi vì ở đây Đức Phật mới nói tự mình hành động mình mới có mình ăn, mà tự mình hành động mình mới có cái phước báu, mà mình cứ ngồi đó mình tham tưởng những cái sai, cái quấy, cái ác thì chắc chắn là không thể hưởng được.

Nếu quả có một Bồ Tát Quan Âm thật sự như vậy thì Bồ Tát Quan Âm có phải là một kẻ từ bi thương người không, hay là Bồ Tát Quan Âm là một ác quỷ để gia hộ cho kẻ xấu hung ác cường hào, ác bá? Hạng người này thế gian chẳng thiếu gì hiện giờ. Kinh sách mà dạy như vậy có phải là kinh sách tà giáo, ngoại đạo không? Xin quý thầy suy ngẫm.

Người ta còn kiến giải biện hộ: Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ, cứu nạn cho người lành chớ không cứu khổ, cứu nạn cho người dữ.

Thầy sẽ hỏi quý vị: Đứng trên lập trường nhân quả, người lành sao có tai nạn?

Mình làm lành mà sao mình lại có tai nạn? Ít ra mình cũng phải có hung ác gì nó mới có cái quả đó chớ? Vậy thì cái quả đó là do cái hành động hung ác của mình bây giờ tới cái quả thì mình phải trả, tại sao giờ đi cầu Quan Âm để rồi Quan Âm cứu mình, rồi bây giờ nói Quan Âm cứu người lành! Thì người lành làm sao có tai nạn? Mà (không) có tai nạn thì ai mà có đi cầu Quan Âm làm gì?

Chẳng hạn là như bây giờ mình không đi ăn trộm thì làm gì có người ta bắt mình đánh hay hoặc bỏ tù? Mà không có bắt đánh bỏ tù thì mình cầu Quan Âm làm gì? Có đánh, có bỏ tù, có khổ, có sở, có tai nạn thì mới cầu Quan Âm chớ, còn bây giờ không có thì làm sao mà cầu? Đó là những cái lý luận nó không vững.

Người lành sao lại có tai nạn? Ví dụ Thầy không đi ăn trộm ăn cắp làm sao ở tù? Thầy không giết hại chúng sanh làm sao có thọ thân bệnh tật? Thầy không làm khổ ai, làm sao có tai nạn? Nếu được đức Quan Thế Âm độ người lành thì thừa.

(09:16) Bởi vì người ta không có tai nạn mà bây giờ có ai cầu đâu mà độ, thì do đó bằng thừa. Mà nếu độ cái người có tai nạn thì họ lại làm ác, thì do đó là mình làm gì? Tức là mình cũng thành ác quỷ mất rồi!

Bởi vì nếu mà độ người ác thì nó sẽ làm hại bao nhiêu người khác! Đó cho nên thành ra mình là ác thần chớ không phải là thiện thần, cho nên mới giúp cho những người ác.

Vì thế kinh Pháp Hoa phi Phạm hạnh mà còn phi nhân quả của Đạo Phật, một loại kinh tưởng của người sau viết ra gây mê tín cho những người thiếu trí tuệ, vô minh, ngu si.

Mà hiện giờ thì quý thầy xem thấy cái lời nói của Thầy giảng ở đây có đúng không? Và hầu hết từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc, các bậc Hòa thượng đến các hàng cư sĩ Bắc Tông đều là tin tưởng một cách rất là mù quáng. Người ta lấy nó mà làm cái kinh nhật tụng đó, ai ai cũng cố gắng mà tụng niệm hàng đêm hàng ngày, mà cũng lấy nó mà làm cái thời khóa tu tập nữa.

Có người vẽ vời câu chuyện này, câu chuyện kia của Bồ Tát Quan Thế Âm cứu khổ, cứu nạn một cách linh thiêng và huyền diệu khiến người ngu mê càng mê mờ hơn nữa.

Nghĩa là người ta nói có một cái chuyện như thế này: Một cái xe đi xuống đổ xuống dốc trong khi cái thắng nó đứt hết rồi, mà ở trên xe hơi thì bốn năm người ở trên xe hơi, thì có một cái người cư sĩ ở trên xe hơi đó thường là thờ đức Phật Quan Thế Âm ở trong nhà, rồi thường hay niệm Quan Thế Âm.

Cho nên khi mà xe hơi mà đứt thắng vậy nó sắp sửa nó đổ xuống hố rồi, thì cái ông ta ổng sợ quá ổng chuyên ổng nỗ lực ổng niệm Phật thì tự dưng cái xe đương chúc xuống hố thì nó dừng lại liền, làm như có ai chặn đứng lại một cách linh thiêng vô cùng vậy, thì người ta tưởng là cái thần lực của Quan Thế Âm đã chặn đứng cái xe.

Cho nên có những cái ngôi chùa - có những cái mà để tên chùa Quan Âm này kìa đồ đó thì đó cũng là người ta nghĩ rằng có sự linh thiêng nào đó người ta mới cất cái chùa đó lên, rồi người ta mới đặt cái tên hiệu của đức Quan Âm để người ta tưởng nhớ cái công ơn ngài cứu khổ cho những người mà thoát nạn như vậy. Đó là những cái vấn đề mà người ta nêu lên.

Mà nó có đúng vậy không? Xin để trả lời rằng cái chuyện đó nó có đúng hay không, nó có hay là không có, mà nó có là do đâu mà nó có vậy? Đó, đó là những cái để mà chúng ta trả lời cho nó đúng cái lý của nhân quả, đúng với cái lý đạo Phật.

Chớ không khéo thì chúng ta cũng thấy có sự linh hiển lắm chớ đâu phải không có những sự linh hiển đó. Nhưng mà sự linh hiển đó nó do đâu mà nó ra, chớ không phải do một đức Bồ Tát mà gia hộ. Cho nên qua những cái sự kiện này nếu mà nói mà không giải thích cho rành thì chắc chắn là người ta cũng sẽ không có tin mình nói đâu.

Bởi vì hiện tiền là người ta có niệm Quan Thế Âm, người ta thấy cũng có sự hiển hiện chớ đâu phải là không có, cho nên người ta phải tin kinh Pháp Hoa chớ! Còn bây giờ mình nói mà mình không có cái lý gì rõ ràng, cụ thể thì người ta sẽ nói mình chỉ là phỉ báng cái kinh đó mà thôi chớ cũng không có gì.

(12:25) Cho nên ở đây Thầy dẫn chứng thêm để quý thầy thấy những cái điều đó cho nó rõ ràng hơn.

Họ đâu biết rằng đó là tưởng uẩn của họ lưu xuất ra cứu họ, vì trong cuộc đời của họ, họ đã làm những việc lành.

Nghĩa là trong cái cuộc đời của những người đó mà khi họ biết niệm Quan Thế Âm thì chắc chắn là họ cũng phải có những hành động tốt rồi, chớ không đến đỗi mà khi một người biết niệm Phật mà họ lại làm việc ác.

Đó cho nên vì cái sự việc lành của họ làm, hay hoặc là họ không niệm Phật nhưng mà cũng có người, người ta có những cái tâm lành, gặp ai có tai nạn gì người ta cũng giúp đỡ, chớ không có - là con người thì phải nói là có cái lòng, cái tình thương của con người, tự dưng nó phải có, khi mà sanh ra thì chúng ta phải có cái thiện ở trong cái ác của chúng ta rồi.

Nhưng mà có người thì cái thiện nhiều có người thì thiện ác (ít) do cái sự huân tập của kiếp này đến kiếp khác, cho nên khi mà sinh ra thì họ cũng có tạo được những cái phước của họ, sẵn có trong tiền kiếp cũng có mà trong hiện kiếp họ tạo thêm những cái nhân thiện thì cũng có. Do vì vậy nó - khi mà cái quả của những cái ác nghiệp của họ đến thì trong lúc đó nó sẽ chuyển cái nghiệp khổ của họ đi.

Đó là cái trường hợp cũng như có một người thường hay niệm Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát. Một hôm thì họ lên một cái chiếc xe đó họ đi, thì đồng thời cái xe nó chạy vượt đi, nó không rước họ đi, thì họ đi cái chiếc xe khác, nhưng mà khi mà cái xe của cái người mà đi sau đó họ đến thì cái xe kia nó đã lật dù xuống ruộng, bao nhiêu người bị thương và chết, thì họ nói: “Trời ơi, tui nhờ niệm Quan Thế Âm mà tui thoát được tai nạn!”

Do vì vậy đó mà người ta mãi tin như vậy. Nhưng mà sự thật ra đó là cái nhân, cái hành động thiện của họ mà nó đã báo trước cho họ, hay hoặc là nó tạo cho cái hoàn cảnh của họ nó trượt đi chiếc xe, tức là chiếc xe nó đầy đi, nó không có rước họ.

Bởi vì khi đó cái người mà lái xe đó họ muốn cái xe họ nhiều hơn, nhưng mà họ biết rằng có cái đoạn đường đó, có cái chỗ đó cảnh sát sẽ xét xe mà nếu có dư người thì nó không được, cho nên họ không dám nhét thêm. Vì vậy mà khi cái người này họ đón tay thì nó lại gặp cái xe đầy đi rồi do đó cho nên nó không rước, vì vậy mà người này thoát nạn.

Là vì cái đó là do tạo cái duyên thiện của mình mà đến cái giờ đó, thay vì mình sẽ đồng chung số phận với những người kia trong cái gặp tai nạn đó, nhưng mà vì mình đã có tạo những cái duyên thiện, cho nên do cái nhân cái quả nó đến thì nó chuyển được, nó làm cho mình trượt chiếc xe, chớ không phải có ai phù hộ hết.

Nhưng mà phải nói rằng trong cái niệm Quan Thế Âm Bồ Tát đó - thì cái ý niệm của một cái người niệm Phật thì phải nói rằng khi mà người ta niệm thì người ta cũng phải có cái nghĩa là người ta phải biết làm lành chớ không phải là gì khác hơn hết. Nhưng nếu mà chúng ta hiểu sai thành ra biến Phật pháp làm cho lệch lạc đi là mình thành mê tín.

(15:34) Còn mình hiểu đúng cái nhân quả đó thì cái tụng kinh niệm Phật cũng là cái tốt chớ đâu phải là cái sai, đâu phải là cái bậy! Bởi vì không lẽ mình tụng kinh Phật mà mình đi làm ác sao?

Cũng như có nhiều người: “Tui tụng kinh mà tui giết hại chúng sanh thì tui đâu có làm cái chuyện đó!” Mà bây giờ, bữa nay mình tụng kinh Pháp Hoa, mà bây giờ ngày mai mình đi mua cá về mình đập, giết nó thì không có được!

Cho nên người ta cũng suy nghĩ, người ta cũng có đầu óc suy nghĩ chứ: Mình tụng kinh Phật mà! Đã tin nó là kinh Phật thì không thế nào mà làm cái chuyện ác.

Do từ cái chỗ mà tụng kinh niệm Phật nó có cái tốt chớ không phải cái xấu, nhưng mà vì chúng ta không hiểu đúng cách thì trái lại cái tụng kinh niệm Phật nó bắt đầu nó biến cho chúng ta trở thành mê tín, trở thành cầu khẩn, trở thành van xin, cho nên cứ ngỡ tưởng rằng mình niệm đức Quan Âm nó phù hộ cho mình. Không ngờ vì chính mình đọc kinh hay niệm kinh thì do đó nó giúp cho chúng ta có những hành động thiện theo cái chỗ niệm kinh, theo cái chỗ tụng niệm đó.

Cho nên khi mà một người thầy phải giải thích cho người ta hiểu rõ, để không mà người ta không hiểu rõ thì người ta không có hiểu cái nhân quả mà người ta tụng kinh thì cứ ngỡ rằng đó là có chư Phật hay chư Bồ Tát gia hộ mình, thì cái đó là cái sai.

Cho nên ở đây Thầy cũng phân tích thấy cho rõ là do cái hành động thiện ác của mình chớ không phải là do cái chỗ cầu khẩn mà đạt được, mà chính cái chỗ tụng kinh mà mình giữ được cái thiện thì cái đó tốt.

Chứ nhiều người tụng kinh, vừa tụng xong cái bộ kinh thì nghe đầy tớ ở dưới nhà nó cãi cọ như thế nào: “Tao mà tụng kinh xong xuống bay chết á!” Đó thì cái chuyện mà như vậy thì nó có phải là thiện không?

Tụng kinh mà như vậy thì họ nghĩ là tụng kinh cầu chư Phật gia hộ cho họ thôi, chớ còn cái chuyện mà làm ác họ vẫn làm ác thì cái tụng kinh đó đâu có nghĩa lý gì. Cho nên cái phước báu đó nó không bao giờ mà có thể đem đến cho cái người mà tụng kinh được, hay hoặc là gia đình của người tụng kinh được.

Đó Thầy nói đây là có một cái sự thật mà. Có một cái bà đó bả theo cái đạo Phật, rồi bả được dạy cho tụng kinh, thì bả về nhà bả tụng kinh. Mấy đứa ở nó làm gì không xong gì đó, không biết nó la rầy gì đó bả ngồi đương tụng kinh đó bả tức, bả kìm cũng không được, bả nói: “Tao đang tụng kinh chớ mà không tụng kinh là bay chết hết á!”

Đó thì cái đó là cái tâm ác của bà. Thay vì mình tụng kinh thôi, mình ráng tụng cho hết cái thời kinh đi, mình thấy mình tụng kinh mình phải có những cái nhẫn nhục đó chớ, không! Cái này bà cũng đang tụng kinh đó mà dằn không có được, nói cái lời mà như thế đó thì nó không phải là cái người mà biết tụng kinh.

(18:06) Cho nên ở đây mình dạy người thì mình phải dạy cho họ rõ rằng cái nhân quả để cho họ thấy cái tụng kinh nó giúp cho chúng ta khởi cái niệm hoặc là cái hành động, hoặc là cái lời nói cho chúng ta ở trong cái thiện pháp, mà cũng từ đó đem lại cái hạnh phúc cho mình, cho cả gia đình của mình, và tai qua nạn khỏi đều là được chuyển qua.

Bởi vì cái luật nhân quả chớ không phải là cái cái định mệnh. Cái định mệnh nó khác là cái số mình. Cái định mệnh thì cũng hành động thiện hành động ác, nhưng mà nó không có chuyển, là vì mình làm ác thì mình phải thọ lấy những cái tai họa tất cả những cái gì điều ác của mình, mà mình làm lành thì mình phải thọ hưởng những cái phước báu, nhưng mà nó có số định.

Còn ở đây cái nhân quả nó không có số định mà nó chuyển. Mình làm - thay vì bây giờ tuổi của mình sắp sửa chết - mà mình biết làm một cái chuyện gì mà cứu chúng sanh thì cái tuổi nó kéo dài thêm ra.

Cũng như trong câu chuyện mà ở trong kinh giới đó, có một cái chú Sa Di đó theo một vị thầy tu học ở trên núi. Vị thầy đó là một vị A La Hán cho nên biết chú này là còn bảy ngày nữa là chú chết, cho nên mới khuyên chú thôi về thăm cha mẹ đi.

Thì trên đường chú về thăm cha mẹ là ông thầy tưởng là chú về kỳ này là chú về thăm cha mẹ rồi chú chết ở gia đình của chú. Nhưng mà không ngờ trên bước đường đi thì chú lội ngang qua một cái dòng suối, chú thấy có một cái ổ kiến trôi trên dòng suối đó, mà cho nên chú vớt cái bầy kiến đó đi, chú để trên bờ, gác lên trên cây cho cái đoàn kiến đó không có chết, rồi chú đi về nhà chú.

Sau bảy ngày chú trở về ông thầy, chú thăm cha mẹ chú rồi chú trở về ông thầy, ông thầy mới ngạc nhiên: Biết cái số chú này là bảy ngày nữa chết mà sao giờ chú sống nhăn chú trở về? Cho nên ông thầy mới hỏi: Tại sao mà thầy nghĩ rằng con về kỳ này là thăm cha mẹ là không có trở về mà sao lại con được trở về? Trên đường con có làm cái chuyện gì không?

Thì chú này mới thuật lại cái câu chuyện mà chú lấy cái áo tràng mà chú cứu cái bầy kiến, mà lôi nó khỏi cái dòng suối, khỏi dòng nước mà chết đó, thì ông thầy nói là quả là chú đã tạo được cái tuổi thọ chú thêm. Đó là do cái nhân thiện của chú tạo mà chú mới sống chớ còn thầy thấy cái số yểu tử của chú chỉ còn trong có bảy ngày nữa mà thôi.

Đó là cái câu chuyện như vậy. Nhưng mà chúng ta vẫn thấy rằng đó là cái chuyển của nhân quả, nó chuyển của cái nhân quả chớ không phải là định mệnh.

Như ví dụ chẳng hạn bây giờ, chú có làm cái điều đó đi nữa mà về cái thuyết định mệnh thì chú cũng phải chết, để rồi cái chuyện mà chú làm cái việc mà cứu chúng sanh thoát khổ - bầy kiến thoát khổ đó, thì kiếp sau cái tuổi thọ chú nó sẽ tăng lên chớ không phải chuyển ngay ở trong kiếp này.

Nhưng cái chuyện này là rõ ràng là ở trong kinh giới đã thuật lại như vậy, thì chúng ta đã biết rằng phải có một cái sự chuyển ở trong cái nhân quả hiện tại.

(21:08) Mà đúng vậy, chúng ta phải xét rõ ràng nó có đúng chớ không phải sai. Bởi vì chúng ta phải thấy: Khi một người họ chửi mình mà mình không chửi họ thì cái sự việc nó xảy ra nó sẽ êm dịu lần xuống, mà người ta chửi mình một mình chửi người ta hai thì nó lần lượt nó tăng lên, cái nhân quả nó càng tăng lên. mà cái quả khổ nó càng tăng lên cho chúng ta.

Cho nên nó có sự linh động, di chuyển chớ nó đâu có cố định được. Mình chửi họ mà họ nhịn thì cái lòng tức của mình nó cũng giảm lần xuống, mà người ta chửi lại mình thì cái lòng căm tức của mình lại bừng bốc lên, thì đó là cái nhân quả nó càng lên, càng xuống, tức là nó có sự thay đổi, di chuyển.

Cho nên chúng ta thấy cái định luật định mệnh mà cố định thì nó không đúng, mà cái định luật nhân quả di chuyển thì chúng ta thấy có sự thay đổi đúng.

Do vì vậy mà Đức Phật thấy cái chỗ này mới đem cái đạo đức nhân quả dạy chúng ta để chuyển hóa cái đời khổ con người thành ra cái cuộc sống an vui, hạnh phúc. Và cũng vì cái chỗ này mà Đức Phật mới đem cái giáo lý của mình ra mà giảng dạy cho con người ta chuyển cái tâm tham muốn, chuyển cái tâm dục của người ta, chuyển cái ác pháp để cho người ta ly hết để mà người ta trở thành giải thoát.

Chớ nếu mà cái định mệnh - cái định luật nhân quả mà nó là định mệnh thì chắc chắn Đức Phật không dạy đâu.

Bởi vì dạy mà người ta chuyển rồi, kiếp sau người ta cũng phải như vậy, như vậy, thì tức là cũng không có ngay trong đời hiện tại làm sao có giải thoát được mà gọi là mình giải thoát? Cho nên vì chuyển ngay từ ở trong đời thì chúng ta đã giải thoát được liền tức khắc. Đó là cái thực tế và cụ thể.

Nếu mà chúng ta không hiểu chỗ này thì chúng ta sẽ - trong cái giai đoạn này chúng ta không hiểu thì chúng ta dễ biến Phật giáo thành sự mê tín lắm. Cho nên hầu hết là hình ảnh của Phật giáo chúng ta là…​

Vì các bậc tôn túc của chúng ta từ trước đến giờ họ không thực hiện được sự giải thoát, họ không thấy được cái lộ trình này, cho nên có những câu chuyện là cái người mà thành Phật rồi mà cũng bị nhức đầu! Câu chuyện mà ông Phật xách cái đầu cá mà lúc nhỏ mà dồi chơi, cho đến bây giờ thành Phật rồi ổng cũng bị trả cái quả nhức đầu.

Rồi một cái Bách Trượng Dã Hồ đó, cái câu chuyện của một cái ông lão mà trước kia ổng là cái vị Thượng tọa mà ổng nói sai đi một lời nói nó không đúng thì sau này ổng phải đọa làm thân chồn.

Đó là những cái câu chuyện định luật chớ không phải là nhân quả. Định mệnh - nghĩa là mình làm sai rồi mình phải chịu trả cái quả đó thôi chớ không có chuyển được. Do đó làm cái nào thì mình chịu cái nấy, chỉ mình biết nó đừng có khổ là thôi à, chỉ mình biết nó là như vậy, là như vậy thì mình đừng có chấp, đừng có dính nó là mình thoát, chớ còn nó là vậy, là vậy chớ không có thể nào thay đổi được. Thì như vậy là có cái sự cố định.

Cho nên câu chuyện mà Đức Phật dồi cái đầu cá rồi bị nhức đầu ba lần khi Đức Phật thành Phật, thì như vậy là từ lâu tới giờ mình đã bao nhiêu cái việc thiện: Không dám giết hại, không dám đạp một con kiến, không dám đạp ở trên cây cỏ để héo úa, thì cái chuyện đó nó có chuyển được cho cái kia không? Chắc chắn là nó không chuyển cho nên mới bị nhức đầu. Còn nó chuyển thì nó có nhức đầu nữa không? Chắc chắn là phải hết.

(24:18) Đó thì thấy, từ cái chỗ thiện mà chúng ta đã không làm đau khổ nữa, mà cái này chỉ là trẻ con vô tình thôi, lấy một cái đầu cá mà dồi chơi như là dồi trái banh thôi mà còn phải trả quả, mà trả quả là trả quả rất là cố định, không có được thay đổi, thành Phật rồi mà không chuyển được nữa, thì như vậy có phải là phỉ báng Phật pháp không?

Cho nên không hiểu được cái nhân quả nó linh động và di chuyển như vậy thì tức là chúng ta đã sai lệch qua cái thuyết định mệnh. Mà chúng ta đã biến cái thuyết nhân quả thành cái thuyết định mệnh thì nó đã lệch Phật Pháp mất rồi, nó không chuyển được.

Mà không chuyển được thì làm sao gọi giải thoát? Nếu ông Phật không chuyển từ cái pháp thiện thì cái giải thoát làm sao mà được? Cho nên phải nói rằng phải chuyển.

Như vậy nếu mà chúng ta chuyển thì chúng ta cũng phải có phương pháp chuyển. Cái thân này là cái thân vô thường, cái thân của nhân quả, thì tức là nó có sự hoại diệt, mà nó có sự hoại diệt thì Phật nói cái gì mà vô thường thì khổ, nó có sự thay đổi thì phải khổ.

Khổ thì như thế nào? Nó phải bệnh nó mới khổ, chớ nó không bệnh thì làm sao chúng ta khổ! Mà bệnh thì chúng ta có chuyển vì chúng ta có phương pháp chúng ta chuyển, thành ra khi nó bệnh, nó khổ thì chúng ta chuyển thì chúng ta đâu có thấy khổ?

Bởi vì chính nó là vô thường, cho nên chúng ta chuyển bằng cái sức tu tập của chúng ta, thì lúc bấy giờ chúng ta thấy - ly dục, ly bất thiện pháp mà, chúng ta ly tất cả các cái pháp mà thay đổi đó đi, thì trong tâm tư chúng ta không còn nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ có một sự mát lạnh.

Cho nên Phật nói: Khi cái sức tận cùng chịu đựng của thân mạng của chúng ta trong cái thọ khổ thì nó có một cái cảm giác rất là mát lạnh. Đó là cái chỗ chúng ta chuyển, cho nên tâm chúng ta luôn luôn bất động.

Còn cái người mà chúng ta không có thực hiện đến cái chỗ mà giải quyết được cái nhân quả, làm chủ được cái sanh tử nhân quả, thì lúc bấy giờ đau quá chúng ta chịu không nổi cho nên nó không mát lạnh, vì cứ bị tập trung ở trong cái sự mà vô thường của các pháp thọ cho nên do vì vậy mà chúng ta không thể thoát khổ.

Bây giờ chúng ta trở lại cái vấn đề là vấn đề chính của cái bài học, cái giáo án này. Nãy giờ thì nó bàn ra ngoài vấn đề để chúng ta thấy được cái đúng, cái sai của đạo Phật và cái tư duy cho đúng đắn để cho chúng ta không có lạc lầm vào cái sự mê tín, mà chúng ta phải hiểu kinh chớ không…​

Ở đây không phải là Thầy muốn nói rằng đừng có tụng kinh niệm Phật, không phải! Tụng kinh niệm Phật rất tốt chớ đâu có sao, vì nó cũng giúp cho chúng ta thực hiện được cái nhân lành để thọ hưởng được cái phước lành, cái sự an ổn, yên vui của mình - bản thân của mình và của mọi người xung quanh nữa.

2- TÁC DỤNG CỦA XUẤT GIA

(27:02) Phương thức sinh hoạt xuất gia của Phật giáo có tác dụng nhiều giai đoạn tu tập.

Nghĩa là khi mà chúng ta bước đầu vào cái lộ trình xuất gia trở thành người tu sĩ thì nó không có đơn giản, mà nó có nhiều cái phương thức để chúng ta tu tập qua nhiều cái giai đoạn để mà chúng ta tu tập. Chớ không phải là có một cái giai đoạn nào mà nó đạt được liền ngay liền được, mà nó có nhiều giai đoạn.

2.1- VÌ LIỄU SANH THOÁT TỬ

(27:30) Vì lý do một, thứ nhất là:

1. Vì lý do liễu sanh thoát tử.

Ở đây chúng ta thấy cái phương thức sinh hoạt của cái giới xuất gia đó nó có nhiều cái tác dụng mà nhiều cái giai đoạn tu tập, thì thứ nhất chúng ta vì cái lý do gì?

Vì cái lý do là liễu sanh thoát tử, tức là chấm dứt cái tái sanh luân hồi để làm chủ được cái sanh tử, nó không còn chi phối trong cái sự đau khổ của kiếp con người nữa.

Đó là cái lý do thứ nhất để một người mà bước vào cái lộ trình này họ sẽ gặp những cái khó khăn là đi ngược lại cái dòng đời, họ không có chạy theo cái sự dục lạc của thế gian được nữa., do vì vậy đó mà họ phải chấp nhận ở trong cái cuộc sống đó để mà họ liễu sanh thoát tử.

Còn nếu mà họ thấy bây giờ bước qua cái lộ trình này quá khổ, muốn cái gì cũng không được, cái gì cũng hoàn toàn nó khép mình ở trong những cái khuôn khổ của Thập Giới Sa Di đi, thì chúng ta thấy một cái người bước vào mà khép chặt mình ở trong Thập Giới Sa Di đã là cái người mà không có cái ý mà đi tìm cái sự liễu sanh thoát tử thì chắc chắn khó mà sống được cái này.

Hầu hết là chúng ta cũng muốn đi tìm cái đó, nhưng mà chúng ta thấy cũng đâu có phải dễ mà bước vào cái Thập Giới Sa Di này nổi! Cho nên vì vậy đó mà chúng ta thấy phải có một cái lý do rất là chơn chánh, của cái tư tưởng của chúng ta nó phải rất là mạnh mẽ. Phải có một sự nhiệt tâm hết sức ở trong cái ước vọng đó.

Tức là ước vọng gì? Ước vọng liễu sanh thoát tử. Cho nên chúng ta phải đặt mạnh cái tâm của chúng ta ở cái chỗ mà làm sao mà thoát ra khỏi cuộc đời đau khổ này, làm sao mà liễu sanh được cái sống chết này, làm sao mà chấm dứt được sự luân hồi, thì đó là cái lý do thứ nhất của cái người mà bước qua cái lộ trình thứ hai này.

Bởi vì chúng ta phải biết cái lộ trình thứ hai này nó không phải sống như cái đời sống của thế tục được, nó không phải chạy theo cái ăn uống, ngủ nghỉ được, mà nó phải sống một cách rất là khắc khổ. Nếu mà không khắc khổ thì chúng ta không thể sống nổi.

Nó đến đổi mà - tri túc thiểu dục đến cái mức độ có gì chúng ta vẫn thấy biết đủ chớ không có đòi hỏi thêm nữa, vẫn thấy nó đủ.

Thiểu dục đến cái mức độ mà bây giờ bệnh đau như thế này mà không có thuốc thang thì chúng ta cũng có cái tinh thần là thiểu dục biết đủ, không có rên la, có ai có bố thí thuốc cho mình giúp cho mình thì mình cứ thọ dụng, mà không có thì mình vẫn thấy biết đủ.

Biết đủ là mình biết được cái nghiệp của mình, mình chịu ở trên cái nghiệp chớ không có đòi hỏi, không có chạy Đông chạy Tây, không có chạy tới chạy lui. Nhận qua cái chỗ đó thì chúng ta mới thấy được cái tinh thần xuất thế.

Đó thì chúng ta mới thấy được. Nếu mà chúng ta không nhận ra được cái chỗ này, mà chúng ta không đặt nặng cái chỗ này thì cái sự hướng về cái tinh thần xuất thế thì chúng ta khó mà có thể sinh hoạt ở trong cái xuất thế được, cái xuất gia được.

Vì lý do liễu sanh thoát tử.

Ở đây mà không có đặt nặng về cái sự hướng về tinh thần xuất thế thì không có thể nào mà chúng ta sinh hoạt ở trong cái lộ trình thứ hai này được hết. Đó.

2.2- VÌ CẢNH TỈNH VÀ DẪN DẮT THẾ TỤC

(30:47) Về cái lý do thứ hai là lý do:

2. Cảnh tỉnh và dẫn dắt thế tục.

Nghĩa là cái lý do chúng ta nghĩ rằng mình phải nỗ lực mình tu hành để mình giải thoát được cho mình rồi, thì mình đem cái sự hiểu biết này, đem cái sự lợi ích này để dẫn dắt chúng sanh, để dẫn dắt mọi người, để người ta cũng được giải thoát như mình. Đó.

Đây là vì đối trị những người mê luyến ở trong trận đồ thanh sắc, chìm đắm say sưa trong biển ngũ dục mà mở ra pháp môn thức tỉnh, giải độc cho họ.

Đó là cái lý do thứ hai để mà chúng ta thấy rằng khi mình tu xong rồi thì mình dẫn dắt họ để cho họ ra khỏi cái sông mê bể khổ, thức tỉnh họ để giải những cái độc ở trong cái tâm của họ đang lầm chấp, say đắm cái ngũ dục lạc ở trong cái thế gian, đó là những cái chất độc mà họ không thấy. Cho nên chúng ta tu được rồi, chúng ta mới giải độc cho họ, để cho họ thấy cái ngũ dục lạc là những cái thuốc độc.

Lý do thứ hai này là một biện luận…​

Trong khi mà chúng ta tu chưa có xong, chưa có thực hiện được thì có nhiều người họ lấy cái lý do này để họ làm Bồ Tát hạnh mà độ chúng sanh đó, thì nó trở thành một cái lý luận, cái biện luận che đậy. Còn cái người mà tu xong rồi, thì cái này mới chính là cái chỗ mà họ độ chúng sanh.

Cho nên hầu hết là chúng ta có nhiều người tu chưa xong mà chúng ta lại lấy cái lý do thứ hai này - cái lý do thứ là chúng ta chưa có liễu sanh thoát tử, chúng ta chưa có làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi, nhưng mà vì cái cám dỗ của dục lạc thế gian danh, sắc nó làm cho chúng ta mờ mắt đi, do đó chúng ta lấy cái lý do rằng chúng ta sẽ dẫn dắt chúng sanh, để độ cho mọi người. Mình biết được tới đâu thì mình dẫn dắt tới đó, đều là có lợi ích như nhau.

Không ngờ khi mà cái biết của mình nó chỉ là cái tưởng mà thôi, cái tri kiến mà thôi, nó không có cái gì mà kinh nghiệm, cho nên mình dẫn dắt mình đi chưa xong, rồi dẫn dắt tiếp một số người nữa, thì một số cùng với mình đi thì chắc chắn là những người này sẽ bị lạc ở trong rừng sâu, và có thể bị rơi vào hố thẳm mà chết hết.

Chúng ta phải hiểu. Bởi vì nó có nhiều cái lý do như vậy đó, mà chúng ta phải nắm cho vững để không chúng ta sẽ bị những cái lý luận đó nó sẽ che đậy và gạt gẫm chúng ta.

Cho nên hầu như chúng ta chưa tu có xong gì hết mà ra lãnh một cái chùa, nhiệm vụ của một cái chùa là phải hướng dẫn Phật tử và tăng ni tu học, thì cái gánh vác đó, mà khi mà chúng ta chưa có xong mà chúng ta gánh vác đó thì chúng ta đã bị chìm ở trong cái đó rồi, bị chìm nghỉm ở trong cái danh lợi là một cái vị trụ trì đó rồi.

(33:27) Cho nên do vì vậy đó mình tiếp tục mình dẫn dắt một số người này nữa thì đó là mình dẫn dắt họ đi xuống địa ngục với nhau hết, nó không được giải thoát.

Nó có những cái lý do mà hiện bây giờ trong những kinh đều có thể ca ngợi, tán thán những công hạnh của những bậc Bồ Tát như vậy, cho nên chúng ta không khéo rồi chúng ta bị lầm lạc rồi cuộc đời tu hành chúng ta chẳng đi đến đâu hết.

Ở đây hiện giờ quý thầy cũng có các vị làm trụ trì, thì các thầy thấy cái lời nói của Thầy có đúng không? Từ ngày mà lãnh cái chùa rồi thì chúng ta thấy quá bận rộn không có cái thời gian nào mà có thể nói rằng mình tu hành cho mình được nhiều hết.

Nhiều khi mình ráng hết sức là phải là giao lại cái gì cho người ta mới nhập thất được đôi ba tháng, đó là may lắm. Mà trong ba bốn tháng đó họ kêu tới kêu lui mình nữa, họ chưa muốn để cho mình yên ở trong thất nữa.

Mà vì họ quý trọng ông thầy, họ ráng họ giữ ông thầy ở để không ông thầy ổng đi, cho nên họ ráng để cho ông thầy nhập thất ba tháng hay là sáu tháng gì đó, chờ mong cho ông thầy ra cái bao nhiêu công chuyện cái họ giao cái ông thầy ổng đầy ắp.

Khi mà ra thất rồi, tưởng là giải thoát, không ngờ là nào chuyện này, nào chuyện kia họ để thôi cả đống đó họ không giải quyết. Ra mà giải quyết một hồi đó là thấy bắt mệt! Mệt rồi thấy: “Thôi cuộc đời mình tu riết kiểu này là tiêu chớ không còn gì nữa hết!”

Ba bốn tháng ở trong thất tưởng đâu là an ổn với cái sự tu tập, không ngờ ra một đống những bao nhiêu thứ chuyện mà chất chất ở trong chùa đầy hết: Nào giải quyết thứ này, nào giải quyết thứ kia, nội ra đó mà giải quyết không cũng đã thấy hết tu nổi rồi.

Đó thì như vậy chúng ta có làm trụ trì rồi chúng ta biết được cái gánh vác, nó không phải dễ mà độ chúng sanh đâu. Cho nên khi nào mà chúng ta tu xong rồi thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy dễ dàng.

Lý do thứ hai này là một biện luận che đậy tâm tham danh lợi của chính mình, vừa gạt vừa bịp mình mà người nữa.

Khi họ là người tu hành chưa chứng đắc thì câu nói trên đây là câu nói bịp người, bịp mình rõ ràng. Còn khi họ là người đã tu xong, liễu sanh thoát tử được rồi thì câu nói này là câu nói từ tâm từ của họ toát ra, lưu xuất ra để thương xót tất cả chúng sanh.

Khi mà cái người tu xong rồi thì cái lời nói mà để độ chúng sanh, dẫn dắt chúng sanh như vậy đó, là do cái tâm thương yêu của họ chân thật. Còn cái người mà chưa có xong thì cái câu nói đó là cái lời nói để mà che đậy cái tâm danh lợi của họ, cho nên họ chết ở trong danh lợi mà họ không biết, họ bị lường gạt mà họ không biết, họ tưởng đó là Bồ Tát hạnh làm lợi ích cho chúng sanh.

(36:06) Lý do rất là chính đáng, nhưng người tu thì chưa chứng đạo mà lấy cái lý do này để cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục, cũng ví như người mù mà dẫn dắt một đám mù thì tất cả mọi người đều phải chết hết. Và cũng vì cái lý do này mà có nhiều người lợi dụng nó mà để kinh doanh tôn giáo.

Đó, đứng ra một cái mặt, người ta cũng nói tui độ chúng sanh, làm như vậy, vậy, nhưng mà không ngờ những cái người họ có những cái thủ đoạn họ lợi dụng chỗ đó, họ tập trung một số tu sĩ ở cho đông rồi họ cũng giúp đỡ họ, không ngờ là họ ở phía sau đó họ lại kinh doanh cái sự làm giàu làm có cho họ.

Cho nên có một câu chuyện như thế này: Có hai cái ông nhà giàu, họ có tiền bạc, ở thôn quê họ cũng là những cái gia đình mà địa chủ, giàu có. Thì hai ông này mới bàn: “Tui với anh bây giờ ra thành phố mình sẽ lập nghiệp.”

Thì ông kia nói: “Tui nghĩ rằng bây giờ ở thành phố người ta sẽ - đến đó mình lập cái khách sạn - người ta sẽ đến ở thì hàng ngày mình sẽ thu được tiền bạc này kia nhiều, và đồng thời như vậy là mình phát triển được, giàu có được.”

Cái ông kia nói: “Anh tính như vậy chớ không bằng tui. Tui sẽ ra đó tui lập cái chùa, rồi tui thờ Phật, do đó tui kêu quý thầy đến ở, tui giúp đỡ họ. Rồi bắt đầu đó người ta cúng bái này kia, thì họ thuyết giảng này kia, thì tui nghĩ rằng tui phải thực hiện cái này là vì tui cũng làm một ông thầy chùa đi, rồi tui cũng thuyết giảng, tui cũng học hiểu cho giỏi để rồi tui thuyết giảng hấp dẫn, rồi bắt đầu họ tập họ trung họ nghe, đúng lý thì từng đó họ cúng dường, hằng ngày họ tấp nập cúng.”

Quả vậy, hai ông này ra thực hiện. Một ông thì cất chùa ở thành phố, một ông thì cất khách sạn. Nhưng mà khách sạn lần lượt thì nó ế ẩm, mà cái chùa thì lần lượt nó tập trung càng ngày càng đông. Cái ông mà kinh doanh này càng thấy ổng cất nhiều chùa lên, tức là cũng…​ còn ông kia cất có cái khách sạn thôi chớ không cất nữa được.

Còn ông này, chỗ này cũng có cái chùa, chỗ kia cũng có cái chùa, mà cái chùa nào người ta cũng đến tấp nập hết, qua những cái lời mà thuyết giảng của ổng hợp lý quá, người ta thấy đúng lý cho nên người ta đến rất đông. Còn tu chứng hay không chứng thì ông ta không cần biết, nhưng nói làm sao có lý được là hay à. Cho nên cuối cùng thì ông ta khuếch trương rất nhiều chùa mà người ta rất là tin tưởng.

Còn cái ông kia, khuếch trương mà cất hai, ba cái khách sạn thì người ta nói: Ông này ổng làm ăn theo kiểu đời, không có đúng, còn ông này vì Phật pháp mà làm cho nên ca ngợi ông này, coi ông này như là Phật.

Thì cái điều đó, thì cả hai ông cái nhà giàu này, hai ông nhà giàu địa chủ này, sau này một ông thì người ta ca ngợi như Bồ Tát, thành ra từ cái chỗ đó mà chúng ta thấy có cái lợi là cái ông này được cái danh lớn hơn.

Còn ông kia cuối cùng thì chẳng là cái ông giám đốc khách sạn mà thôi chớ không có hơn gì hết, mà cũng không ai lạy ông ta nữa. Còn ông này người ta lạy ổng tối ngày, sáng đêm, đụng đâu người ta cũng cung kính ổng hết, cho nên cái ông này kinh doanh mà danh lợi rất là lớn. Còn cái ông kia kinh doanh mà không bằng.

(39:20) Cho nên hầu hết là người ta có thể lợi dụng tôn giáo làm những cái việc rất là phi pháp. Nhưng ở đây, thì khi mà làm như vậy, mà có cái ý đồ như vậy, thiệt là ác!

Còn nhiều khi có những người, người ta nghĩ là người ta vì chúng sanh, vì thấy cái sự đau khổ chúng sanh, người ta cố gắng nghiên cứu giáo lý của Phật, người ta hiểu để mà người ta dạy cho họ làm những điều lành, nhưng mà người ta không có nghĩ đến mình là chưa có đạt, nhưng mà người ta vì thương chúng sanh.

Cái tâm của nhiều người…​ thì những người này đều là những người chưa có hiểu cái sự giải thoát của mình, mình chưa có làm chủ, mình chưa có hiểu mình, nhưng mà chính cái mà hiểu mà độ chúng sanh đó, do cái lý luận hiểu độ chúng sanh đó, thương chúng sanh đó, nó lại lừa bịp mình.

Nó lừa bịp mình, rồi do đó nó vô tình mà lừa bịp người khác. Chớ cái người này không có cái thủ đoạn mà kinh doanh làm giàu, mà chính bị cái lý luận mà trong kinh sách để như thế này.

Thì chúng ta thấy cái lý do thứ hai, nó thường thường là nó bị lầm. Bị lầm là chính cái người thầy cũng vẫn bị lầm mà bị lường gạt ở qua cái lý do thứ hai này mà làm cho người ta có tội lỗi. Nhưng mà cái tội lỗi này là cái tội lỗi còn nhẹ là vì người ta vô tình mà thôi, người ta không có hiểu qua cái lý do đó.

Cho nên ở đây Đức Phật dạy là các đệ tử khi mà tu xong rồi thì mới đi độ người ta, mà chưa xong thì ông Phật ổng không cho đi độ ai hết.

Do vì vậy mà chúng ta thấy như cái ông Phú Lâu Na, ổng xin đi đến một cái chỗ nào nào để độ, thì Đức Phật trắc nghiệm ổng xong rồi thì Đức Phật chấp nhận cho ông đến đó ông độ, mà nếu mà ổng trả lời không được thì ông Phật không cho ổng đi đâu. Cho nên cuối cùng thì ông Phú Lâu Na trả lời với Phật như thế nào? Họ giết con, con thấy càng tốt đó, càng thiện đó, họ thương con đó.

Đó, khi mà người ta giết mình mà mình không có giận hờn mà không có thù oán họ mà thấy họ là còn thương mình, thì chính là mình mới đi độ được. Tức là Đức Phật trắc nghiệm ông ta ở trên cái thiện pháp chớ không phải trên ác pháp, tức là đứng ở trên nhân quả.

Chúng ta thấy qua cái câu chuyện mà của ông Phú Lâu Na với Đức Phật, mà khi ông Phú Lâu Na xin đi để độ chúng sanh ở biên cương, thì ở đó cái dân đó nó rất là hung ác. Cho nên Đức Phật mới gợi từng chút, từng chút để cho ông Phú Lâu Na, đến khi mà nói: “Họ lấy dao gươm họ giết ông thì ông nghĩ sao?” Nói: “Họ còn thương con à, thương con nhất đó!” Thì do đó ông Phật nói: “Được, thôi ông cứ đi!”

Đó thì, cái chỗ mà trắc nghiệm người đệ tử mình không phải cái chỗ thiền định, mà cũng không phải là chỗ thần thông, mà cái chỗ nhân quả, cái chỗ thiện ác đó. Chúng ta thấy qua cái bài pháp chúng ta thấm thía lắm, cái đạo Phật nó nhắm vào cái chỗ đó để mà độ chúng sanh đó.

Cho nên ở đây nó không phải lưu xuất ra những cái gì tuyệt vời để mà gạt người, mà chỉ thực chất là làm cho người ta ở trong thiện pháp, cái nhân quả mà người ta đạt được cái chỗ giải thoát của họ.

2.3- VÌ TRỤ TRÌ VÀ HOẰNG DƯƠNG PHẬT PHÁP

(42:06) Lý do thứ ba là gì?

3. Lý do Phật pháp trụ ở thế gian mà có.

Đây là để ý vào sự kiến lập tăng đoàn mong có quy luật để vĩnh cửu triển khai, và nối tiếp nhiệm vụ hoằng dương Phật pháp.

Đó thì cái lý do thứ ba này, cái lý do hồi nãy là mình vì độ chúng sanh, mà cái lý do thứ ba này là vì muốn cho Phật pháp cửu trụ. Cũng như Thầy mà viết cái giáo án này cũng là ý muốn cho Phật pháp cửu trụ, mà nếu mà Thầy mà không có hiểu thì Thầy cũng là bị cái ý này nó làm lệch Thầy đi.

Mình nói rằng mình cũng sẽ viết cái giáo án này ra để cho người ta hiểu biết được cái chánh pháp, người ta theo đúng cái nhân quả, thiện ác người ta tu hành, người ta hiểu được những cái lý hành để người ta thực hiện cho đâu rốt ráo, mà Thầy cứ ngồi chường ường ra đây thì chắc chắn là ông thầy coi chừng chấp danh chấp lợi mất rồi.

Bởi vì người ta hiểu biết được thì người ta phải đến người ta tu tập chớ sao? Mà người ta không dựa vào cái giáo pháp này mà người ta cứ dựa vào Thầy, thì người ta dựa vào Thầy thì Phật dạy là phải dựa vào giới luật là thầy chớ không phải Thầy!

Đó là cái chỗ mà để chúng ta thấy rõ được cái chỗ mà tại sao Thầy phải tránh danh tránh lợi, tránh sự cung kính là như vậy. Là vì khi mà viết ra rồi thì nó là một cái thực chất, cụ thể của nó, nó không thể nào mà lệch lạc được. Mà chính ông Phật đã di chúc lại cho chúng ta sau này là ông thầy giới luật là ông thầy của mình, thì tức là Đức Phật đã hoàn chỉnh được cái ông thầy này trước khi Đức Phật nhập Niết Bàn.

Do vì vậy, bây giờ Thầy mới đi vẽ ra cái lộ trình này, không phải ngoài cái ông thầy giới luật nữa, mà chính ở trong cái giới luật mà khai triển ra cái - tới cái hành của giới luật để giúp chúng ta hiểu rõ, để tự chúng ta đi, thắp đuốc lên mà đi theo cái ông thầy này chớ không phải theo Thầy. Đó các thầy hiểu cái điều đó.

Cho nên mà khi Thầy có ẩn bóng đi, thì quý thầy cũng có một cái lộ trình là ông thầy giới luật của quý thầy rõ ràng mà Thầy đã vạch ra qua cái kinh nghiệm tu của mình, được ông thầy giới luật đã dạy Thầy như thế nào, thế nào, thì Thầy đã vạch ra cho quý vị như vậy.

Và quý vị cứ sống đúng rồi quý vị tập đúng thì quý vị sẽ đến, chớ không cần phải là ai hướng dẫn hết. Bởi vì Đạo Phật là đạo tự mình, chính ông Phật ngày xưa cũng tự ổng cứu ổng chớ có ai dạy cái đạo đó cho ổng đâu!

Và bây giờ ổng để lại ông thầy là cái gương hạnh của giới luật để chúng ta nương vào đó, lấy đó mà làm cuộc sống, lấy đó làm những cái pháp hành mà chúng ta tiến vào con đường giải thoát, thì như vậy chúng ta đời đời, kiếp kiếp đâu có cần phải thay đổi ông thầy đâu, lúc nào chúng ta cũng có ông thầy giới luật.

Và vì vậy mà cái giáo án của Thầy ra nó thực tế và cụ thể để chúng ta thấy được cái lộ trình của một người xuất gia tu hành giải thoát đi đến đỗi mà chấm dứt sanh tử luân hồi, thì chính là cái chỗ này chớ không phải là Thầy đâu.

(45:09) Thầy chỉ lấy qua kinh nghiệm của mình mà tu tập được rồi dựng nó lại những cái gì mà người ta đã bỏ quên, mà người ta không làm được.

Thì qua ba cái điều kiện này thì chúng ta thấy nó rất là chính đáng. Nếu mà chúng ta lầm lạc những cái cái lý do mà vì Phật pháp cửu trụ, rồi chúng ta ngồi đó mà để đón nhận thì coi chừng chúng ta cũng bị lầm lạc mất đi.

Cái lý do thứ ba cũng vậy, nếu người tu hành chứng đạo thì lý do thứ ba là tốt đẹp.

Nghĩa là mình chứng đạo rồi, Phật pháp mình mới giữ cửu trụ được, còn mình chưa chứng đạo thì mình đón thì cũng là nguy hiểm. Mà khi mà chứng đạo rồi thì người ta cửu trụ đó là bằng thừa, người ta ở đó bằng thừa.

Tại sao? Tại vì giới luật nó hẳn hòi rồi, đâu đâu nó ra đó, pháp hành người ta đâu đó nó cũng đủ rồi, thì mọi người nương theo giới luật mà làm thầy. Thì do đó, cái ông thầy mà đứng ở trong cái giai đoạn thứ ba muốn cửu trụ thì phải thực hiện cái giới pháp của Phật hẳn hòi đàng hoàng, giải thoát, thì ông thầy đó làm sao không hiểu được cái giới luật rõ ràng!

Mà khi hiểu được giới luật rõ ràng thì ổng đã vẽ ra một cái đường đi, vẽ ra một cái gì mà Phật đã dạy thì nó rất đúng rồi, nó không còn sai nữa. Thì ông thầy đó ổng có ở đó nữa không? Không! Nếu ổng ở đó thì bằng thừa.

Bởi vì ông thầy giới luật đã có rồi mà lại thêm ông thầy bằng xương bằng thịt ngồi gần bên nữa, thì đây cả hai ông, vậy thì mọi người, người ta biết nương vào ông nào đây?

Bây giờ thì nương vào ông thầy có thịt có da này, còn ông thầy kia ông câm miệng không nói, thì cho nên họ làm biếng, họ không chịu nghiên cứu. Vì vậy cho nên họ càng không có cái trí tuệ sáng ra, họ không chịu nghiên cứu cả thân họ, họ không chịu nghiên cứu cái đường lối của Phật dạy qua cái giới luật này, cho nên họ cứ nương vào ông thầy.

Nương vào ông thầy để làm gì? Để sống cho nhờ ông thầy có cơm ăn áo mặc, khỏi cần đi khất thực chứ gì? Nhưng mà rốt cuộc rồi thì nó sai cái hạnh của mình đi, nó không đúng.

Đó, thì tới đây thì quý thầy thấy rất rõ là con đường của đạo Phật nó có cái ông thầy chúng ta sẵn có, tuy rằng nó vô hình nhưng nó có một cái đường lối để chúng ta theo ông thầy mà đi tới nơi tới chốn.

2.4- NGƯỜI MỚI TU CHỈ XUẤT GIA VÌ LIỄU SANH THOÁT TỬ

(47:16) Khi một người xuất gia theo đạo Phật tuyệt đại đa số phải có toàn bộ tác dụng của ba phương thức này.

Nghĩa là chúng ta mà muốn theo đạo Phật mà tu hành thì chúng ta phải có ba cái ý nghĩ này. Nhưng chúng ta phải thực hiện từng ý nghĩ chớ không thể nào mà ba ý nghĩ này mà chúng ta chưa tu chứng mà chúng ta nghĩ một lượt thì không thể được.

Đối với chính mình là cầu giải thoát sanh tử, đối với người khác là vì cảnh tỉnh, dẫn dắt thế tục, đối với Phật Pháp là vì trụ trì, hoằng dương.

Đó là ba cái.

Trụ trì hoằng dương đây là làm gì? Là làm cho sáng tỏ lại cái con đường đó, và đồng thời thì mình truyền những cái kinh nghiệm của mình cho một vài người như thế nào, để cho nó có đủ cái niềm tin cho những người khác. Rồi đồng thời cái đường lối đó nó hẳn hòi là cái ông thầy của mọi người rồi, thì họ tự đó mà họ đi.

Ba điều này, thiếu một thì không hoàn chỉnh được.

Nghĩa là ba cái điều kiện trên, thiếu một không hoàn chỉnh. Nhưng mà cái vị thầy mà đã vạch ra được cái này thì phải khéo léo, không khéo thì cũng bị danh bị lợi nó che mắt ông thầy này.

Nhưng mà ông thầy đã là giải thoát rồi thì ổng biết cái thời gian nào, cái thời điểm nào mà ổng còn ở trong cái ba ngôi Tam Bảo này, cái thời gian nào ổng ẩn bóng, thời gian nào ổng thị tịch, chớ không phải là ổng không biết cái điều này, ổng phải biết rõ.

Xuất gia mà chẳng tự cầu thoát sanh tử thì chẳng cần xuất gia.

Nghĩa là mình xuất gia mà mình không cầu sanh tử thì mình xuất gia làm gì? Chẳng cần xuất gia! Thì mình không cầu sanh tử thì mình xuất gia làm gì, cho nên chẳng cần xuất gia.

(49:11) Xuất gia mà chẳng cảnh tỉnh, dẫn dắt thế tục ấy là trái với tinh thần Phật giáo.

Nghĩa là không hóa độ chúng sanh.

Xuất gia mà chẳng trụ trì Phật pháp, ấy là cô phụ cái ân lớn của Tam Bảo.

Thí dụ bây giờ Thầy xuất gia Thầy giải thoát rồi, mặc ai Thầy không thèm độ, mà cũng không thèm viết ra cái giáo án để cho người ta thấy con đường của đạo Phật thì đó là mình cô phụ Phật pháp.

Mà xuất gia mà không làm cho người ta hiểu đúng, để cho người ta cứ hiểu sai Phật pháp thì cái xuất gia mình cũng chẳng có nghĩa lý gì hết. Nghĩa là mình chứng đạo rồi mà thấy họ tu sai, thôi không dám nói, nói đây họ thù họ oán họ này kia, rồi họ giết mình đi, hay hoặc là họ hại mình bằng cách này bằng cách khác, thì cái xuất gia của mình không có ý nghĩa.

Mình xuất gia, mình biết cái sai cái đúng rồi thì mình phải nói, nói thật ra để cho người ta biết được cái sai cái đúng mà người ta sửa, người ta đi theo con đường của đạo Phật cho đúng. Đó thì quý thầy phải hiểu cái chỗ này.

Cho nên Thầy làm sao mà Thầy câm miệng lại được mà khi mọi người, người ta không thấy cái đúng cái sai của đạo Phật. Còn bây giờ Thầy nói lên, mặc dù là có những cái sự kiện có thể xảy đến cho Thầy bằng cách nào Thầy cũng phải nói lên, để mình dựng lại những cái gì mà của Phật pháp rất là đem đến cái lợi ích cho con người rất là lớn.

Mà bây giờ mình không dám nói ra, nói ra sợ bao nhiêu người, người ta tu sai, rồi người ta sẽ phiền não, người ta sẽ tìm cách người ta hại mình, thì như vậy Phật pháp biết bao giờ mà có thể mà phơi bày ra cái sự thật của nó được.

Cho nên đứng ở trong ba cái lý do này, thì cái người mà tu đã làm chủ sanh tử rồi thì họ không có ngần ngại gì trước cái sống chết, trước những cái danh, cái xấu, tất cả, miễn là làm sao mà phơi bày được Phật pháp, làm cho người ta trở về đúng cái chánh pháp của Phật là cái đó là cái viên mãn được cái ước nguyện của cái người tu đó.

Ba lý do trên đây, chỉ có lý do thứ nhất được chấp nhận cho người mới tu.

Nghĩa là cái lý do thứ nhất là chúng ta phải lo cái vấn đề này trước cho chúng ta đã, còn hai cái lý do kia là khi mà chúng ta tu xong rồi thì chúng ta mới tiếp tục để làm cái nhiệm vụ này.

Vì vậy mà 17 năm trời khi mà tu được, làm chủ được cái sự sống chết của Thầy rồi, thì 17 năm trời Thầy khắc khổ với cái nỗi lòng lo lắng cái vấn đề mà mình phải làm gì cho lợi ích chúng sanh, phải làm gì cho Phật pháp trường tồn cho nó đúng.

Bây giờ mình nhìn chung là người ta đang tu sai rồi, mà bây giờ mình làm sao đây? Nói làm sao được! Thầy tổ của mình không có ai hết, nói ra thì biết thầy tổ mình có nghe không? Cho nên đó là cái khổ tâm của Thầy rất lớn. Còn tuỳ, chiều theo họ thì nó lệch Phật pháp đi, rồi người sau người ta đâu biết đâu lối mà đi nữa, như vậy là cái nỗi khổ rất là khổ.

Cho đến giờ phút cuối cùng này, Thầy thấy không còn giải quyết gì được hơn hết, không còn âm thầm được mà làm những cái gì mà cho nó êm đẹp được hết, buộc lòng phải nói tất cả những sự thật ra mà thôi. Đó là đúng lúc mà đúng thời rồi, không còn cái chỗ nào mà có thể không nói.

Ba lý do trên đây, chỉ có lý do thứ nhất được chấp nhận cho người mới tu. Còn hai lý do sau người đang tu không được nghĩ đến, nghĩ đến là tai hại khó đo lường cho người đó, và Phật pháp sẽ mất lối giải thoát, chỉ còn lại là hình thức mà thôi.

Nếu mà cái người tu chưa xong thì coi đương nhiên mà độ chúng sanh thì chỉ còn cái hình thức tu hành chớ không còn có cái thực chất là để giải thoát nữa.

3- TINH THẦN TÍCH CỰC TRONG XUẤT GIA

3.1- XUẤT GIA KHÔNG PHẢI LÀ TIÊU CỰC, YẾM THẾ

(52:39) Người xuất gia phải buông bỏ hết tất cả, thấy suốt tất cả, không tranh thị phi, không phân biệt nhân ngã, trường đoản, vì thế ở đời ít có người làm được.

Nghĩa là cái người xuất gia phải thông suốt được những cái này, không có tranh hơn thua với thị phi, không có phân biệt nhân ngã, trường đoản, tất cả những cái gì chúng ta cũng phải bỏ hết, vì thế ở đời ít có người mà làm được như vậy. Cho nên cái lộ trình xuất gia rất là khó chớ không phải dễ.

Nhưng có một số người tu theo kiểu Phật giáo thời đại hiện nay bảo những người tu này là tiêu cực, yếm thế, khổ hạnh, ép xác.

Họ thấy những người mà đi vào cái Thập Giới Sa Di mà sống đúng những cái hạnh mà của cái người tu sĩ như vậy đó, thì họ cho đó là tiêu cực, yếm thế, khổ hạnh, ép xác…​ Đó là cái Phật giáo hiện nay, thì người ta nhìn vào cái Phật giáo mà tu tập đúng cái giới luật của cái người Sa Di thì họ cho đó là tiêu cực, yếm thế, khổ hạnh.

Đúng nghĩa người xuất gia đạo Phật phải chính mình buông bỏ sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Ngoài ba y một bát, nếu người này không tích cực làm sao bỏ xuống hết được?

Nếu mà chúng ta không tích cực mà từ bỏ thì không bao giờ mà chúng ta bỏ xuống được hết này, cho nên chúng ta không thể nào mà thực hiện được cái Thập Giới Sa Di hết.

Cho nên phải hết sức tích cực, chớ đừng nghĩ rằng những người mà yếm thế, những người mà ép xác, những người mà tiêu cực, là những người đó là những người tiêu cực đâu, không phải đâu. Người ta mà muốn sống được Thập Giới Sa Di là phải hết sức tích cực trên cái bước đường tu tập.

(54:21) Vì chính bỏ hết mới hết tai họa và đau khổ.

Nghĩa là bỏ hết mới hết tai họa, đau khổ, còn không bỏ hết thì chúng ta sẽ còn tai họa và đau khổ.

Tội ác và đau khổ của con người đâu phải chẳng toàn là do con người không chịu buông xuống…​

Nghĩa là chính những cái sự mà đau khổ, tội ác của chúng ta là tại vì chúng ta chưa chịu buông xuống mà thôi. Chứ nếu mọi người đều biết buông xuống như một chú Sa Di Thập Giới thì chắc chắn đâu còn cái tội ác, mà đâu có còn đau khổ nữa!

Đó thì như vậy chúng ta thấy được cái chỗ này chúng ta mới thấy cái lộ trình của đạo Phật, là từ cái cuộc sống của chúng ta mà thay đổi thì chúng ta mới thấy là cái cuộc sống buông bỏ, buông xả đó.

…​và không sáng suốt mà tạo ra ư?

Nghĩa là chúng ta - đây Thầy đọc lại:

Tội ác và đau khổ của con người đâu phải chẳng toàn là do con người không chịu buông xuống và không sáng suốt mà tạo ra ư?

Nghĩa là do người ta không chịu buông xuống thì người ta mới có những cái tội ác và có những sự đau khổ. Và cũng chính vì không sáng suốt cho nên người ta không có buông xuống được, còn cái người mà người ta sáng suốt thì người ta buông xuống được.

Cho nên mình thấy, mình nói mình sáng suốt, nhưng sự thật, sự thật ra mình đi tu rồi mà mình cũng chưa bỏ được hết thì đó là mình chưa sáng suốt. Mà nếu mình bỏ xuống hết được hết thì đó là mình mới là sáng suốt, thì như vậy đó là mình sẽ không còn khổ đau nữa.

Người xuất gia là người sáng suốt, biết buông xuống hết, danh lợi, tư dục cần phải can đảm buông xuống hết, như thế đâu gọi là tiêu cực được?

Nghĩa là mình buông xuống hết, đâu phải là cái người mà tiêu cực làm được, là cái người phải tích cực lắm mới có thể buông xuống hết được.

3.2- XUẤT GIA LÀ VIỆC LÀM CỦA BẬC ĐẠI TRƯỢNG PHU, THÁNH HIỀN

(56:09) Mục đích xuất gia của Đạo Phật: Tự mình cầu giải thoát, và khi tu xong trợ giúp người khác giải thoát, lấy việc tự cứu mình rồi sau cứu người và mọi người đều được giải thoát như mình.

Vì thế xuất gia quý thầy phải hiểu là việc làm của bậc đại trượng phu, chẳng phải việc quan tướng có thể làm được.

Nghĩa là cái việc xuất gia là cái việc của bậc đại trượng phu, chớ không phải quan trường, cái việc mà làm quan làm vua. Cái việc làm quan làm vua nó không phải là cái việc của bậc đại trượng phu, còn cái việc mà của chúng ta buông xả xuống hết là cái việc của bậc đại trượng phu.

Còn làm quan làm vua là cái việc làm của họ là nó tích, nó không có buông xuống, mà nó tích lũy, nó đem vô thêm, cho nên cái việc đó dù làm quan, làm tướng, làm gì đi nữa thì cái vấn đề đó vẫn đem vô chớ không xả xuống, cho nên không thể nào gọi họ là trượng phu được.

Việc quan tướng là điển hình cho anh hùng hào kiệt.

Đó thì bây giờ mình thấy những người mà làm quan, làm tướng thì người ta gọi là anh hùng hào kiệt, nhưng mà những người này có buông xuống không? Không có buông xuống. Cho nên nó gọi là anh hùng hào kiệt.

Còn việc làm của đại trượng phu là điển hình như Thánh Hiền.

Nghĩa là người ta buông xuống hết mà. Đó là những cái bậc Thánh Hiền người ta mới xả hết cái lòng ham muốn, những cái vật dụng của thế gian, những cái tình cảm nhỏ mọn ở thế gian.

Hào kiệt dựa vào khí thế mà thành. Thánh Hiền thì bám vào khí chất mà thành.

Ở đây thì quý thầy thấy nè, hào kiệt họ vào cái khí thế mà họ thành, nghĩa là mình muốn thành anh hùng, mình muốn thành hào kiệt thì mình phải dựa vào cái khí thế tạo cho mình nó mạnh lên, sức mạnh lên thì mình mới thành là anh hùng hào kiệt.

Còn Thánh Hiền thì bám vào cái khí chất mà thành, nghĩa là mình bám vào cái khí chất mà thành. Tức là cái khí chất đó là gì? Là cái sự buông xả của mình nó tạo cho thành một cái toàn là thiện pháp, cho nên mới gọi là Thánh Hiền.

Trong khí chất của Thánh Hiền thì hàm dung cả cái khí thế của hào kiệt.

Đó ở đây Thầy chỉ dạy cho thấy cái khí chất - trong cái khí chất mà của Thánh Hiền nó có bao hàm cái khí thế của hào kiệt. Bởi vì nếu mà không có cái khí thế mạnh thì chắc chắn là chúng ta sẽ không bao giờ buông xả xuống được hết.

Nhưng trong cái khí thế của hào kiệt chẳng có cái khí chất của Thánh Hiền.

Cho nên nó có thể nói rằng anh hùng hào kiệt chớ nó giết hại con người như cỏ rác chớ nó đâu có tha, cho nên nó đâu có cái bản chất Thánh Hiền được, cho nên nó đâu có thiện.

Nên nếu muốn làm anh hùng, thì ít ra hào kiệt anh hùng thì ít ra phải đầu rơi máu đổ dữ lắm nó mới làm tướng, làm nên danh phận chớ không thể nào. Một danh tướng mà làm nên được cái danh tướng thì đầu rơi máu đổ của thiên hạ không biết là bao nhiêu mới là danh tướng được, chớ đâu phải ít!

Đó là cái chỗ mà phân tích để biết được những hào kiệt, những anh hùng, và những Thánh Hiền là như thế nào, và bám vào cái khí chất hay là khí thế, cả hai cái này nó có khác nhau chớ không phải giống nhau.

3.3- XUẤT GIA LÀ NOI THEO GƯƠNG ĐỨC PHẬT

(59:34) Vì thế, người xuất gia theo đạo Phật, lấy Phật mà làm điển hình để noi theo. Phật vì giải thoát cái sanh, già, bệnh, chết của chúng sanh, chỉ có xuất gia tu chứng thì giải đáp được sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, sầu, khổ.

Chỉ có chúng ta tu chứng thì chúng ta mới giải đáp được cái đó mà thôi, còn chúng ta tu chưa chứng thì chúng ta không giải đáp được cái chỗ mà sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, sầu, khổ của chúng ta được.

Mục đích của người xuất gia trong Phật giáo, trên nguyên tắc là phải sống y như Phật, nghĩa là phải ra khỏi nhà thế tục, lìa bỏ vợ con, lìa bỏ cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc, đó là đi ra khỏi cái nhà khổ của sanh tử.

Nghĩa là mình lìa cái bà con này kia, vợ con, hay là anh em, cha mẹ đó, đó là mình ra khỏi cái nhà khổ sanh tử, chỗ đó là chỗ sanh tử. Bởi vì chính chỗ đó mới sanh mình ra mà, cho nên không phải là chỗ đó chỗ sanh tử sao? Cũng chính từ chỗ đó mà mình chết.

Còn mình đi ra mình xuất gia rồi là mình ra khỏi cái nhà sanh tử đó. Mà ra khỏi nhà sanh tử đó rồi, mà quý thầy ngồi đây tu mà nhớ, thì thử có ra khỏi không? Không có ra khỏi. Cho nên chúng ta ra khỏi không phải thân ra khỏi mà còn cả tâm chúng ta phải ra khỏi nữa.

Hiểu như vậy thì chúng ta thấy cái lộ trình thứ hai của cái người xuất gia rất là khó chớ không phải dễ đâu. Cái tình cảm của chúng ta đâu có phải dễ, cái nhân quả của chúng ta nó trói chặt rất là bền chặt, chắc lắm, không có thể nào mà chúng ta rứt cái tình thương của chúng ta đối với những người thân của mình dễ dàng đâu.

3.4- XUẤT GIA KHI CÒN TRẺ LÀ TỐT NHẤT

(01:01:13) Đến với đường tu theo đạo Phật, tốt nhất là nên xuất gia vào lúc tuổi còn trẻ.

Nghĩa là, ở đây Thầy cũng xác định rằng: Nếu mà đi vào con đường của đạo Phật từ lúc tuổi còn trẻ là tốt nhất. Tại sao vậy? Sức khỏe chúng ta còn, chúng ta sống mới nổi cái cảnh giới mà ly dục, ly bất thiện pháp, sống cái cảnh ăn một ngày một bữa mới nổi. Còn già rồi có nhiều khi chúng ta sống không nổi nữa, ăn một bữa chúng ta thấy khó sống lắm.

Chỉ có chúng ta tu xong rồi, chúng ta quen thì chúng ta mới sống được, chớ còn không thì cũng phải thêm cái này kia chớ còn ăn một lần thì họ ăn không được đâu.

Tốt nhất là nên xuất gia vào lúc tuổi còn trẻ, sức lực còn cường tráng, thì lúc tu hành tốt nhất và dễ thành tựu nhất.

Có người nói: “Thôi để đợi về già rồi tui hẵng tu, chớ bây giờ thôi tui cũng lo cho hết cái nợ nần, trang trải cho nó xong để già rồi tu rồi cũng được chớ không gì!” - “Sớm thì Cam La cũng tốt, mà muộn Khương Tử cũng sinh”, họ lấy câu nói đó để mà họ kéo dài cái thời gian mà chạy theo dục lạc chớ không có gì hết.

Mà phí đi cái tuổi trẻ quá uổng, là vì cái thân người rất khó, mà Phật Pháp thì đâu có phải dễ tìm được cái chánh pháp được, thế mà họ cứ lần lựa, hẹn lần hẹn lựa, đến khi mà cái thân hoại mạng chung rồi thì ôi thôi, không làm sao mà cứu kịp!

3.5- VÌ THẤT BẠI MÀ XUẤT GIA THÌ TU HÀNH KHÔNG ĐI ĐẾN ĐÂU

(01:02:32) Nếu vì thất bại trên đường tình ái và sự nghiệp mà xuất gia…​

Đó, bây giờ đến cái giai đoạn của những người mà họ vì thất bại ở trên cái việc làm ăn hay hoặc là thất tình, thất vọng gì đó mà đi vào xuất gia.

…​thì Phật giáo cũng không có cự tuyệt…​

Nghĩa là, không cấm họ.

…​ song cũng không có khuyến khích, có cổ xúy họ và cũng không có thể nào mà nhiệt liệt hoan nghênh những kẻ nấy.

Nghĩa là mặc dù là họ đến với cái tâm đau khổ thì Phật giáo cũng cho họ xuất gia, cũng cho tu để cho họ an ủi, nhưng mà cái mục đích của họ không phải là cái chỗ mà giải thoát sanh tử đâu, mà chính họ để quên đi cái nỗi khổ thất tình, thất vọng của họ thôi, vì họ không đạt được cái ý muốn chạy theo dục lạc thế gian thôi. Có vậy thôi.

Cho nên đối với cái người mà nhận họ thì người ta cũng không nhiệt liệt hoan nghênh những cái người này, biết rằng họ có tu cũng chẳng tới đâu.

Vì những kẻ ấy có xuất gia tu hành cũng chẳng đi tới đâu hết, nghĩa là không bao giờ tìm được sự giải thoát.

Nghĩa là cái người thất tình, thất vọng mà vào tu thì nó cũng chẳng có đi tới đâu hết.

Vì tâm tư của kẻ thất tình, thất vọng là tâm tư của người chạy theo dục lạc thế gian. Còn đạo Phật là đạo dứt bỏ thế gian.

Hai cái này nó khác. Ông ta thất tình tức là ông bị bạc đãi gì ở ngoài thế gian, ông ta chạy theo dục lạc không có đạt được, cho nên ổng đau khổ.

Do đó thí dụ như có một chàng trai yêu một cô gái nào đó, cô này cổ đi lấy chồng khác đi, ông này mới thương quá rồi thất tình, thôi buồn khổ vô chùa tu. Thì tu cái kiểu đó là không có giải thoát mà chỉ để quên cái hình bóng của cô ta mà thôi, lấy câu kinh tiếng mõ để tụng niệm hàng ngày để quên đi cái hình bóng.

Cũng như câu chuyện mà ở trong cái Tâm Hồn Cao Thượng, Lan với Ngọc hay hoặc là trong cái Hoa Rơi Cửa Phật gì đó, chú tiểu Lan đồ đó cắt đứt dây chuông đồ đó, đó là cái tình cảnh mà tu kiểu đó là chắc chắn là ngàn đời cũng không thành Phật được.

Đó, thì cái người tu của chúng ta nó cũng có nhiều dạng như vậy lắm chớ không phải không. Cho nên ở đây Thầy nói hết để cho quý thầy thấy rằng tu như vậy nó không có đúng cái nghĩa của người mà xuất gia theo đạo Phật tu.

Cũng mặc áo tu nhưng mà tâm tư nó thường đau khổ, nó nhớ tình nhân của nó ở ngoài đời, rồi nó không có làm sao gặp được bởi vì cái người tình nhân nó đã có vợ có con rồi, hay hoặc là có chồng rồi, bây giờ ngồi tu mà cứ nhớ hình dáng trong lúc mà còn gặp nhau ở ngoài đời như thế này thế khác, thì cái tu như vậy là tu đau khổ chớ không phải là giải thoát.

4- SƠ LƯỢC VỀ SA DI

4.1- BA HẠNG SA DI

(01:05:10) Bây giờ quý thầy phải thông hiểu về:

Sa Di giới và các loại Sa Di.

Bây giờ mình tới cái giai đoạn mình phải hiểu cái giới Sa Di rồi, thì bây giờ các loại Sa Di như thế nào, tại sao gọi là Sa Di và Sa Di ni?

Như quý thầy đã học, lộ trình thứ hai của đạo Phật gồm có năm hạng chúng. Ở giai đoạn này chỉ có ba hạng Sa Di:

1. Sa Di;

2. Sa Di Ni;

3. Thức Xoa Ma Ni.

Người ta còn gọi là Thức Xoa Ma Na. Ở đây thì chúng ta lấy chữ Ni nó đúng hơn, cho nên vì Sa Di Ni, thì trên cái bậc Sa Di Ni một chút để hai năm nữa mới thọ Tỳ Kheo Ni thì cái bậc này gọi là Thức Xoa Ma Ni.

Trong nhà Phật gọi là tam tiểu chúng.

Coi như là ba cái giai đoạn này thì gọi là ba tiểu chúng, tức là ba chúng nhỏ.

Nam, nữ xuất gia hai mươi tuổi trở xuống không được thọ Tỳ Kheo giới và Tỳ Kheo Ni giới.

Giới luật của Sa Di và Sa Di Ni có mười điều giống nhau, chỉ điểm khác nhau là ở giới oai nghi đại chúng học.

Nghĩa là đối với ni thì cái oai nghi của nó khác hơn là bên Sa Di nam.

Sa Di phải học theo luật nghi Tỳ Kheo còn Sa Di Ni phải học theo luật nghi của Tỳ Kheo Ni. Do vì thế nên có sự khác biệt của Sa Di và Sa Di Ni.

Nghĩa là bên nây phải học luật nghi của tăng, thì bên kia phải học luật nghi của Tỳ Kheo Ni chớ không phải học luật nghi của tăng được. Cũng như là tăng không học theo luật nghi của ni được.

Ở đây quý thầy chỉ học Sa Di giới là thông suốt Sa Di Ni giới.

4.2- Ý NGHĨA CỦA SA DI

(01:07:13) Sa Di dịch âm chữ Phạn là Sràmanera. Chữ này có ba cách dịch nghĩa.

Tức là ba cách dịch nghĩa:

Nghĩa thứ nhất gọi là “tức từ”, nghĩa thứ hai là “cần sách”, nghĩa thứ ba là “cầu tịch”.

Tức từ nghĩa là dứt ác mà hành thiện.

Tức từ tức là dứt, tức là chấm dứt đó, từ là lành, là thiện, cho nên có nghĩa là dứt ác mà hành thiện.

Cần sách có nghĩa là khuyến khích, siêng năng.

Gọi là cần sách.

Mà cầu tịch có nghĩa là cầu lấy đạo Niết Bàn và quả viên tịch.

Viên mãn đó, tức là quả giải thoát đó.

Thì cái Sa Di nó có ba cái nghĩa như vậy. Cho nên cái nghĩa thứ nhất của nó là cái người Sa Di đi vào thì phải dứt ác hành thiện, cho nên Thập Giới Sa Di cũng dạy chúng ta rất là rõ cái điều mà dứt ác hành thiện.

Cần sách thì chúng ta phải siêng năng. Có siêng năng, có khuyến khích, khích lệ trên con đường dứt ác hành thiện thì chúng ta mới làm trọn vẹn được.

Và cái nghĩa thứ ba của nó là cầu tịch đó, là cái nghĩa mà cầu lấy đạo Niết Bàn giải thoát cho đến viên mãn hoàn toàn.

Thì như vậy là cái nghĩa của chữ Sa Di nó nằm ở trong ba cái nghĩa này. Cho nên hiểu nghĩa Sa Di, là chúng ta là người bước qua cái lộ trình thứ hai nó vững chắc không có còn mà…​

Hiểu như vậy, chúng ta khi làm Sa Di, bước vào cái lộ trình thứ hai tu hành thì chúng ta không có còn lưỡng lự nữa, mà không còn lo lắng nữa, vì chúng ta đã chuẩn bị cho tinh thần của chúng ta khi bước vào nó phải có ba cái nghĩa của cái Sa Di, ba cái nghĩa của cái sự bắt đầu cho chúng ta tu tập.

Vì thế, một người xuất gia làm Sa Di đi tu mà cầu tịch là đúng nghĩa của đạo. Một người mà thất tình, thất vọng mà đi tu làm sao đúng nghĩa được?

` Đó thì quý thầy thấy rõ không? Phân biệt được như vậy chúng ta mới thấy rõ được cái chỗ mà người thất tình, thất vọng.

Bởi vậy chỉ có cầu tịch là đúng nghĩa hơn hết.

Nhưng ở đây chúng ta phải nói nếu mà cầu tịch được thì nó phải có tức từ, tức là phải dứt ác hành thiện. Mà nếu không có siêng năng, không có cần sách thì làm sao có siêng năng được?

Cho nên phải nói là chỉ có một cái cầu tịch là đúng, đúng là chúng ta có cái tâm hướng đến cầu giải thoát đó, nhưng chúng ta phải có thực hiện từng cái bước đầu. Cho nên Sa Di nó còn có cái bao hàm cả những cái hành động để thực hiện cái lộ trình của cái người Sa Di.

Sa Di Ni có nghĩa là “cầu tịch nữ”, chữ ni ở đây chỉ cho chữ nữ.

4.3- MƯỜI GIỚI SA DI

(01:10:05) Nội dung của Sa Di Thập Giới:

Sa Di Thập Giới trong Bát Quan Trai giới là đã đủ chín điều của Sa Di, chỉ còn có một điều là giới không cất giữ tiền bạc mà thôi.

Nghĩa là khi mà học Thọ Bát Quan Trai, thì quý thầy đã thấy Thầy giảng nó là chín cái điều rồi, phải không? Bây giờ chúng ta giảng lại thì nó mất công lắm, cho nên chúng ta hiểu qua Bát Quan Trai là chín điều, còn một điều của Sa Di là không cất giữ tiền bạc châu báu là hết.

Ở đây Thầy liệt kê lại cho quý thầy thấy rõ hình thức, hình thái của Thập Giới Sa Di mà có lần Thầy đã dạy rồi.

Mười giới của Sa Di là:

1. Không sát sanh;

2. Không trộm cắp;

3. Không dâm dục;

Chớ còn cái Ngũ Giới của cư sĩ là không tà dâm, còn ở đây Sa Di là không dâm dục, nghĩa là không có phi Phạm hạnh được.

4. Không vọng ngữ;

5. Không uống rượu;

6. Không đeo tràng hoa, chuỗi hạt, không dầu thơm;

7. Không ca múa và biểu diễn các cái bộ môn nghệ thuật, không cố ý xem hát, nghe ca hát;

8. Không ngồi giường cao rộng lớn;

9. Không ăn phi thời;

10. Không cất giữ tiền bạc, của báu.

5- KHÔNG CẤT GIỮ TIỀN BẠC, CỦA CẢI ĐỂ TRÁNH BỊ DÍNH MẮC

(01:11:39) Đó là, tất cả các cái giới này Thầy đã giảng dạy trong Thọ Bát Quan Trai, chỉ có giới thứ mười là chưa giảng - không cất giữ tiền bạc. Bây giờ Thầy mới giảng tiếp là cái giới không cất giữ tiền bạc để cho quý thầy hiểu đủ cái mười giới Sa Di.

Ở đây quý thầy phải hiểu:

Người xuất gia vì phá trừ tâm tham, phá trừ cái thói quen - người ta thường nói “con người chết vì của cải”, có người lại nói “con người không sống được ngàn năm mà lo tính chuyện vạn năm”.

Sự ham muốn và tích tập chất chứa của cải của con người có thể nói là bẩm sinh. Có một trăm mong muốn một ngàn, có một ngàn thì mong muốn một vạn, cho đến thành phú ông trăm vạn, ngàn vạn rồi lại mong muốn lũng đoạn kinh tế thế giới, muốn cả thế giới này đều thuộc về sở hữu của mình.

Điều này ở trong xã hội Tư Bản Chủ Nghĩa của công thương nghiệp thì được cổ vũ, nhưng ở trong thế giới đại đồng Xã Hội Chủ Nghĩa thì lại không được hoan nghênh. Trong Phật giáo của chúng ta lại càng không có chấp nhận.

Nghĩa là không có chấp nhận cái chuyện mà làm giàu như vậy, có cứ thêm hoài, thêm hoài, thì không có chấp nhận, bởi vì đạo Phật thì phải bỏ ra chớ không có chấp nhận tích vô.

(01:13:07) Của cải có thể tạo phước cho con người, đó là một lẽ thật không thể phủ nhận được. Nhưng của cải có thể trở thành chủ nhân của loài người và con người trở thành nô lệ cho của cải cũng là sự thật không ai có thể phủ nhận được.

Ai cũng biết của cải là vật ở ngoài thân, xem của cải là vật ở ngoài thân lại là một điều mà ít ai mà bỏ được.

Nghĩa là nó ở ngoài thân chớ nó không phải ở trong thân, thế mà không có người nào mà bỏ nó được hết. Đó, đó là một cái khó.

Ai cũng biết của cải là một vật ngoài thân, xem của cải là một vật ở ngoài thân lại là một điều ít ai mà bỏ được.

Nghĩa là nói nó ở bên ngoài chớ bỏ nó ra không được. Chớ phải ở trong ruột mình bỏ ra nó khó, thế mà nó không ở trong ruột mà ở ngoài mà bỏ không được.

Do thế chúng ta phải biết, của cải dù ít, dù nhiều nó vẫn có khả năng lớn sai khiến loài người. Cho nên người xuất gia trong đạo Phật chủ trương buông xả sạch, không tích tụ của cải. Vì thế, giới luật của Phật cất giữ của cải, tài sản là hành vi phạm giới.

Khi đã thấy và thấu suốt tính chất trói buộc của tài sản, của cải đối với sự ham muốn, chiếm hữu mãnh liệt của con người đối với của cải…​

Khi mà chúng ta đã thấu suốt cái sự trói buộc của cải tài sản đối với mình là như vậy đó, thì mình phải sợ lắm.

Còn nếu mình mà không sợ thì mình sẽ bị cột chặt, vì vậy mà con đường tu hành của mình, càng tu thì mình bị của cải tài sản, những cái sự vật chất của thế gian nó trói mình rất chặt. Mặc dù là hình thức mình tu, nhưng mà mình không để ý thì mình bị trói chặt rất lớn.

Cho nên mình phải nhìn thấy cái cuộc sống của mình, mình đừng có nghĩ rằng gian khổ. Mà hơi mình nghĩ rằng mình gian khổ, hay hoặc như Thầy bây giờ Thầy nghĩ rằng bây giờ ba y một bát, mà đi chỗ này ở chỗ kia như vậy đó, nay ở hang, mai ở núi thì gian khổ lắm, thì do đó mà không dám thì tức là chưa dám xả đâu.

(01:15:15) Còn một cái người mà đã thấy rằng cái thân này là vô thường thật sự rồi, thì không có cần nó nữa, thì người ta xả hết, người ta xả bỏ hết. Cho nên vì vậy mà người ta không có ngại gian khổ.

…​ biết như thế nên muốn cho đệ tử xuất gia của mình đừng bị dính mắc nên Ngài mới chế giới cấm không có cất giữ tiền bạc, châu báu. Vì của cải, tiền bạc làm động tâm khiến khởi tâm tham đắm, ham mê.

Quý vị nào mà đã có sự tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, quán xét Ngũ Triền Cái thì bây giờ mới thấy thấu suốt được, mới buông xuống được.

Còn nếu mà chúng ta chưa có tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức thì chưa có đủ cái sức mà tỉnh thức sáng suốt, thì chúng ta thấy mình ham mê nó mà chúng ta ngỡ rằng mình không ham mê.

Cho nên cái vấn đề mà tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức nó rất là quan trọng, để khi mà chúng ta đặt một cái niệm gì đó, tham thì ngay đó chúng ta quán xét cái tâm tham của mình coi nó còn tham ở chỗ nào không. Thì chừng đó cái mình thấy những cái vi tế của cái vật chất nó còn dính mình đó, thì mình thấy cái tâm tham mình rất rõ.

Cho nên cái vấn đề ở đây là tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức nó làm cho chúng ta sáng suốt để mà chúng ta quét sạch cái tâm tham, và quét sạch cái tâm tham của chúng ta thì những cái vật chất, những cái tiền bạc của cải xung quanh chúng ta đều bị buông xuống được hết.

Còn nếu mà chúng ta không có tu tập cái đó thì coi như chúng ta không sáng suốt mà chúng ta cứ ngỡ là mình buông xả, nhưng mà sự thật ra là mình bị dính hết chớ không thể nào mà không dính.

Không tu thì thôi, mà đã tu thì phải thật tu, tu cho rốt ráo, cho thành đạt, cho giải thoát.

Mình đã không đặt mình tu thôi, mà mình đã cạo cái đầu tròn rồi, mình đã bước vào chùa rồi thì quyết định là phải tu cho đến giải thoát, thì quyết định phải xả cho sạch, phải quán xét cho thông suốt, không còn một vật gì mà dính, mà không chướng ngại lo rằng mình sẽ - sợ nó là đói, khổ, hay lạnh lẽo hay y áo nó rách hay hoặc là nó như thế này thế khác.

(01:17:24) Vì cái chính chúng ta sợ cái thân của chúng ta khổ, cho nên chúng ta không dám hành những cái giới luật của Phật chớ không gì. Mà nếu mà chúng ta không có gan dạ - mà chúng ta không có sợ, thì chắc chắn là chúng ta sẽ đạt được những cái kết quả rất lớn của cái sự tu tập của mình.

Đó thì hôm nay thì Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy, khi bước qua cái lộ trình này chúng ta phải hiểu để mà chúng ta bước, chớ còn nếu mà chúng ta chưa hiểu mà chúng ta bước mà không trọn vẹn thì chúng ta cũng chẳng đi tới đâu hết.

Người tu theo đạo Phật xem của cải như đồ vô dụng, giữa ngày ăn một bữa, sau khi đi từng nhà khất thực, ngủ đêm dưới gốc cây là chỗ có thể an thân của người tu sĩ.

Đó mình phải chấp nhận, mình phải thấy được của cải, tài sản, nhà cửa thì nó không có cái quan trọng đối với người tu sĩ nữa.

Nghĩa là cái bữa ăn chúng ta đi xin, có cái gì ăn cái nấy, rồi đi xin từng nhà, rồi ngủ đêm dưới gốc cây hoặc là cái nơi nào, cái đống rơm nào đó chúng ta có thể chui vào ngủ cũng được, không cần phải có nhà có cửa gì hết.

Gặp cái gò mả hay là cái nhà mồ của người Hoa chỗ nào đó, chúng ta chui vào đó ngủ chung với mấy cái thây ma đó cũng an ổn, một đêm sáng ra thì nó cũng yên ổn mà không có gì hết. Còn mà người nhút nhát, vô đó thấy mấy cái quan quách của người Hoa họ để ở trong cái nhà mồ, không dám ở, thì không thể nào lập cái hạnh của cái người xuất gia được.

Cho nên vì vậy mà trước khi xuất gia thì người nào mà có tánh sợ ma đồ đó thì phải tập sửa đó, đừng có sợ ma nữa. Vì cuộc đời chúng ta còn sợ ma tức là còn sợ chết. Bởi vì ma nó có làm hại gì mình đâu được, mà mình sợ tức là mình còn sợ chết, mà sợ chết thì tức là còn sợ ma.

Cho nên vì vậy mà mình phải cố gắng tập, đừng có sợ ma nữa, thì do đó thì mình ngủ nhà mồ, ngủ ở đâu mình cũng không sợ hết, ngủ rừng, ngủ bụi mình cũng không sợ hết. Còn mình còn chút sợ chết, sợ khổ là không thể nào thực hiện cái hạnh của người tu giải thoát của đạo Phật được.

Đó chúng ta phải thấy được cái mục đích, vì chúng ta sợ khổ, sợ chết mà chúng ta không dám rời cái gia đình, cũng không dám rời cái cuộc sống, cho nên chúng ta không thực hiện được cái đạo giải thoát.

6- THIỂU DỤC TRI TÚC PHẢI TÙY THEO HOÀN CẢNH

(01:19:44) Ở bên Ấn Độ là miền nhiệt đới, thân cây to lớn, nhánh lá sum suê, ngủ dưới gốc cây giống như ngủ ở trong một cái lọng thiên nhiên. Khí hậu Ấn Độ thì rất nóng, giả sử đêm đông lạnh nhất, Đức Phật đã từng sống ba y một bát có thể đủ ấm.

Nghĩa là trong cái thời Đức Phật thì cái thời tiết của Ấn Độ là cái đất nước đó nó nóng chớ không phải là như những cái đất nước lạnh, nhân vì vậy mà Đức Phật sống ba y một bát rất dễ dàng. Còn gặp chúng ta ở Liên Xô mà ba y một bát chắc là tiêu luôn!

Cho nên nó cũng phải tùy theo cái đất nước, cái địa thế, cái nơi đó khí hậu như thế nào, chớ còn nếu mà cũng chấp nhận ba y mà không có mặc áo bông mà ở Liên Xô thì chắc cũng phải chết chớ không sống, bởi vì lạnh quá, lạnh dưới 0 độ.

Mà Thầy nghe nói dưới 0 độ tới 75-76 độ chớ không phải là dưới 0 độ 1-2 đâu. Mà dưới 0 độ đến cái mức độ đó thì cái nước đá của chúng ta nó không có chảy nước, còn của mình bây giờ cục nước đá để đó là - nó đông nó là 0 độ đó, nhưng mà vì cái độ nóng của nó, nó tan nó chảy nước ướt.

Còn cái kia người ta chui ở trong nước đá mà người ta ở trong đó mà người ta thấy ấm hơn là ở ngoài. Còn mình đụng vô nước đá là thấy tê cóng tay chân rồi, người nào mà cầm cục nước đá một hơi thấy cái tay nó ẻo hết, nó cóng lên liền, nó cứng ngắc hết.

(01:21:08) Đó như vậy mà người ta chui ở trong đó người ta sống được, còn ở bên Ấn Độ thì chắc cái điều đó không có đâu, cho nên vì vậy mà Phật ba y một bát.

Nếu mà cái người không hiểu rồi cũng sống như vậy, chúng ta xả bỏ, nhưng mà vì cái đất mà lạnh quá thì chúng ta cũng phải y áo cho ấm cái thân của chúng ta, nhưng mà không được nhiều, vừa đủ.

Đừng có nghĩ rằng cái nước tui lạnh, thôi để tui phải sắm năm bảy cái bộ áo lông cừu cho dữ tợn đó, thì cái đó là ôm theo cả đống thì còn nguy hiểm hơn. Cho nên vừa đủ một cái ấm thân thôi chớ đừng có theo mang thêm nhiều, thì như vậy thì nó mới đúng cái nghĩa của người tu.

Thay vì ở bên Ấn Độ thì ba y một bát nó mỏng, mà qua đó thì ba y một bát nó dày, nó cứng, nó ấm cho nó đủ cái sức mà giữ cái độ ấm trong người mà không bị cái thời tiết lạnh làm hại mình. Đó thì phải biết sử dụng cho đúng cách, nhưng mà cái mục đích của nó là buông xả chớ không phải là cố chấp ở ba y, một bát. Đó.

Còn ở đất nước của chúng ta thì nó là đất nước cũng trong cái nhiệt đới, nó không phải là xích đạo nhưng mà nó là nhiệt đới thì nó cũng nóng chớ nó đâu có phải lạnh như các nước khác.

Nhưng mà ở miền Bắc thì cũng có lạnh lắm chớ không phải là không lạnh đâu. Chớ đừng có ở cái mùa lạnh mà nói tui cũng ba y, một bát mà theo cái y của Thầy đây là chắc là tiêu, chịu cũng không nổi đâu.

Đó thì mình cũng phải sáng suốt làm sao khi cái y này mà trời lạnh ở miền Bắc thì chúng ta cũng choàng thêm một cái áo ấm để giữ cái thân của chúng ta được mạnh khỏe mà tiến bước trên con đường tu. Nhưng mà đừng có nhiều cái áo, hai ba cái áo ấm thì trật, một cái mà thôi.

Đó thì tùy tiện để mà chúng ta giữ được cái thân của mình chớ đừng cố chấp ba y một bát.

Đồng thời, phong tục Ấn Độ đương thời người chết phần nhiều đem bỏ vào thi lâm để lộ thiên cho tan rã, để mặc cho đến khi chim thú ăn chỉ còn xương trắng mà thôi.

Nghĩa là cái phần nhiều ở bên Ấn Độ người ta có những cái rừng gọi là thi lâm đó, lâm là rừng, thi là cái thây ma đó. Khi mà người chết thì họ đem vô đó, họ khiêng vô trong cái rừng đó họ bỏ, rồi chim đồ này kia - sình lên hôi thúi chim chóc nó đến nó ăn, ăn nó rỉa riết còn cái xương trắng thôi. Họ kêu là họ chôn cái thây ma ở trong cái rừng.

Cho nên vì vậy mà bên Ấn Độ theo cái kiểu chôn cất như vậy tức là cái môi trường nó ô nhiễm, rất là ô nhiễm, nó rất bẩn lắm, do vì vậy cái đó là cái không đúng. Nhưng mà tại vì ngày xưa chắc có lẽ là người ta chỉ làm vậy thôi để cho nó khỏi mất công đào hầm, đào hố đồ, lẽ ra thì đốt thì tốt nhất đó.

Do đó thì những quần áo của những thây ma đó vứt bỏ đầy rừng.

Nghĩa là chết rồi người ta cũng đem vải rồi người ta quấn cái thây ma đi, rồi người ta cũng đem bỏ luôn, rồi sau khi chim rồi những cái loài vật nó xé cái thây ma đó nó ăn, thì những cái vải đó nó vung vãi nó cùng rừng, thì những cái người mà xuất gia người ta chỉ cần đi nhặt những cái vải đó mà thôi.

(01:24:16) Chúng ta bây giờ mà mặc thì chắc chắn là tối ngủ thấy ma. Đó là cái sự thật mà, Thầy nghe nói có nhiều người họ - cái miếng vải mà trùm cái người chết, họ có cái miếng vải mà đậy mặt đó, mà họ lấy cái miếng vải đó đi, khi mà chôn cái người đó rồi mà cái người nào mà dạn lấy cái miếng vải đi, rồi cái mình trùm lên mặt, tối mình trùm mặt cái mình thấy cái người chết đó liền à.

Đó là cái thấy ma đó! Thì như vậy là họ nói như vậy chớ còn chắc không có ai làm, nhưng mà chắc chắn là họ cũng nghĩ vậy thôi, và cái tưởng của họ có thể lưu xuất qua cái chiếc khăn mà đậy cái mặt của người chết, thì Thầy cũng nghe những người xưa người ta nói như vậy.

Người ta còn nói cái chiếc chiếu mà cái người chết mà chết đi rồi đó, mà đem cái chiếc chiếu đó đó, đừng có chôn theo, rồi giặt cái chiếc chiếu đi, rồi để trên cái bàn thờ đi. Trong nhà mình mà có trộm cướp gì đó thì coi như là cái linh hồn của cái người đó họ còn nằm ở trên chiếc chiếu chớ họ chưa có đi đâu, cho nên nhà mình có ăn trộm gì đó, thì mình sẽ được - ăn trộm vô nhà thì sẽ được cái người chết đó báo mộng, hay hoặc kêu mình dậy, thì đồng thời thì ăn trộm không lấy đồ được. Thầy nghe nói như vậy.

Là vì có một cái sự kiện như vầy. Lúc mà Thầy còn nhỏ thì ở bên ngoại Thầy thì bà cố của Thầy chết, cho nên bà ngoại Thầy với ông ngoại Thầy mới lấy cái chiếc chiếu mà của bà cố Thầy chết nằm, mới đem giặt rồi mới trải trên cái giường thờ, bởi vì ở trên cái bàn thờ - người xưa nó có cái giường thờ với cái bàn thờ nó khác nhau, phải hiểu - mới trải trên đó đi. Cho nên nhà có ăn trộm gì thì cứ bà cố Thầy cứ về kêu, thành ra ăn trộm không lấy đồ được, đó.

Đó là những cái mê tín của người ta như thế nào Thầy chẳng biết, nhưng mà nghe thuật lại như vậy. Cho nên Thầy thấy cũng là cái chuyện tạo ra cái tưởng của mình thôi.

Người này đồn người kia rồi tạo ra cái tưởng, rồi từ cái niềm tin đó cái tưởng nó lưu xuất, và cái duyên của họ là có những cái duyên lành, họ không có tham lam của cải ai, cho nên từ đó cái người ăn trộm mà vô lấy của cải cái người đó thì tự dưng cái tưởng của họ nó sẽ lưu xuất.

Cũng như bây giờ mình không có tham lam, trộm cắp, mình làm bằng mồ hôi nước mắt, cái kiếp trước mình cũng không có ăn trộm, ăn cắp ai hết. Cho nên bây giờ ăn trộm vô, thì chừng đó nó giục mình tự thức giấc à, thằng ăn trộm nó vừa móc vách mình, nó đào lỗ nó sắp sửa nó vô thì mình thức giấc rồi, thì mình nghe lộp cộp thì nó hoảng hồn nó chạy rồi, nó cũng không lấy được nữa. Đó, đây là một cái chuyện thật sự.

Còn nếu mà mình có tham lam, trộm cắp, cái nhân quả nào đó, thì do đó mình ngủ mê, lúc bấy giờ lại còn mê hơn là cái lúc mà mình là chưa có ăn trộm nữa. Nó khiến cho mình ngủ rất mê, để cho thằng ăn trộm lấy sạch rồi, nó đi mất rồi, thức dậy thì thấy nhà mình trống trơn.

(01:27:00) Đó là tại cái nhân quả của mình, chớ không phải là - theo Thầy nghĩ thì không phải là tự dưng mà nó một cái sự mất của một cách vô cớ, một cách ngẫu nhiên như vậy, mà cái đó là cái nhân quả, cho nên khi mà cái người mà không mất của, thì ngay cái thằng ăn trộm đút đầu vô là họ đã thức, phải không ? Cho nên vì vậy mà thằng ăn trộm không làm sao lấy được.

Còn cái này là cái nguồn tin, tin tưởng như vậy, cho nên mới lấy cái chiếc chiếu đó để mà giữ cái nhà của mình. Tức là bắt bà cố Thầy phải ở đó trên chiếc chiếu đó mà giữ nhà, không có cho đi đầu thai á, cái kiểu đó là như vậy.

Vì vậy cho nên cái đó là những cái mê tín, một cái nghĩ sai chớ không có đúng. Do cái hành động thiện ác của mình mà mình đem lại cái bảo bọc được cái chỗ tài sản của mình.

Cho nên khi mà ở bên Ấn Độ mà nó quán về cái xương trắng thì nó quán rất dễ, nó quán về cái thân bất tịnh thì rất dễ. Nó chỉ cần vô rừng đó, nó thấy cái thây ma mà nằm sình lên sộp xuống, mà hôi, nó đi tới đó, mình đi lại mình nhìn nó mình phải bụm mũi mình đó, mình giở ra mình ngửi thử một chút coi thúi thế nào, thì tức là mình về đó, mình ngồi đó mình nghe thúi rồi à. Phải không ?

Còn bây giờ mình đi đâu mình đi tìm cái thây ma sình đâu có - khó lắm chớ đâu phải dễ! Người ta chôn hết hoặc đốt sạch rồi, đâu còn tìm đâu được mà biết. Mình tưởng tượng ra cái mùi thúi, tưởng không nổi.

Nhưng mà mình có con chuột chết hay hoặc là con chó nào chết mình mới tưởng tượng là cái thây ma nó thúi. Cái thây ma nó thúi hơn là cái con chó chết nữa! Cái thây của con người nó thúi ghê lắm, ghê gớm lắm, cho nên chúng ta tưởng tượng không ra đâu.

Chúng ta bây giờ nghe con chuột chết chúng ta nghe thúi vậy đó, hay hoặc con mèo nào chết, con chó nào chết chúng ta nghe thúi cũng khó chịu rồi, thế mà cái thây con người chết còn thúi hơn nữa.

Bởi vì nó huân ba cái đồ gì độc không ở trong này thì nó phải thúi hơn chứ, con chó thì nó ăn thừa lại của mình thì nó ít thúi hơn mình. Bởi vì mình ăn ngon nhiều là mình thúi nhiều, còn nó, nó ăn dở thì ít thúi. Đó Thầy nói sự thật mà, cái gì mà gọi là mình chấp nó là ngon nhất là cái bẩn nhất đó, nó bất tịnh nhất đó, chớ không phải là…​

Đó. Thì như vậy là khi một người mà quán cái Định Vô Lậu, mà quán bất tịnh thì chúng ta nên trực tiếp đến những cái rừng đó. Mà rừng của mình thì không có cái chuyện bỏ thây ma đó rồi. Có lỡ mà có cái hơi thúi là thiên hạ đã chạy, cả xóm chạy lại đó, nó đi đào lỗ nó dập liền chớ nó không có để.

Quần áo của cái người mà chết trong rừng đó thì mấy vị sư, mấy người mà xuất gia thì đi lượm cái đó mà kết lại thành cái áo mà để mặc, đắp, thì những người đó thiệt là những người không có nhát gan rồi đó. Còn chúng ta mà nhát gan thì chắc chắn chẳng dám rớ đâu, mà lại còn gớm nữa.

Còn những người mà tu hành họ không có gớm đâu, bởi vì chính cái gớm cũng là chính cái chỗ cái tâm của chúng ta nó còn chấp đó, nó còn dính mắc đó, nó còn chê dơ chê sạch đó. Nhưng mà đứng ở trên một cái nhìn: Vệ sinh hay không vệ sinh, cái đó là quan trọng lắm đó.

Bởi vì chúng ta phải hiểu: Muốn lấy những cái vải đó mà làm cái vải mà đắp trên mình của mình là phải tẩy nó như thế nào để cho nó rất vệ sinh mới đắp, chớ theo cái ông bệnh cùi mà mình lấy cái vải ông sắp chết mình đắp lên, ba, bốn bữa nó rụng tay, rụng chân mình hết á, chớ đừng có nghĩ là cái chuyện đó đâu!

Bởi vậy nó cũng là một cái cho chúng ta có sự suy tư, chớ không phải là không suy tư, chớ không phải là đụng đâu mà chúng ta: “Bây giờ tui làm giống ông Phật”, đụng đâu mình cũng chắp vá lại bằng cách này kia, nhưng mà cái vải mình chắp vá nó phải là vệ sinh chớ không phải là thiếu vệ sinh.

Bởi vì cái thân của chúng ta dễ nhiễm bệnh, mà cái bệnh mà bị vi trùng là rất nguy hiểm. Cái bệnh mà rối loạn thần kinh nó không nguy hiểm đâu, mà cái bệnh vi trùng nó rất nguy hiểm. Bởi vì nó có một cái loài vật nó đục phá cơ thể chúng ta, nó làm cho cơ thể chúng ta sẽ bị hoại diệt trước khi chúng ta thành tựu sự tu tập.

(01:30:44) Mà loại trừ cái vi trùng trong thân chúng ta rất khó, mà phục hồi cái chức năng của cái rối loạn cơ thể chúng ta rất dễ khi chúng ta dùng thiền định, rất dễ. Còn loại trừ cái vi trùng mà trong thân chúng ta sẵn có, mà dùng bằng cái sức tu tập chúng ta loại trừ nó ra nó rất khó, nó không phải đơn giản.

Thí dụ như bây giờ một người bệnh phổi bị vi trùng Koch, mà dùng cái sức thiền định mà loại trừ cho nó ra được thì cái người này cũng không phải là một cái chuyện dễ với cái loại vi trùng này đâu, nó khó lắm. Còn cái bệnh rối loạn cơ thể chúng ta thế này thế khác thì chúng ta chỉ ngồi thiền là nó phục hồi được mau lắm.

Cho nên phải hiểu được cái điều kiện cho nó rõ ràng. Cho nên vì vậy mà cái sự vệ sinh về cái y áo mặc của chúng ta - mặc dù là nó không tốt, nó không đẹp, nhưng ít ra nó cũng phải có vệ sinh.

Bởi vì cái chỗ hiểu biết của chúng ta, cái kiến thức của chúng ta không thể nào như kiến thức của người xưa nữa, chúng ta có hiểu biết rất nhiều, là vì khoa học nó đã cho biết rằng nó có những loại vi trùng thế này thế khác đục phá cơ thể chúng ta.

Vì thế nguyên lai “phấn tảo y” cũng lấy từ vải từ gò mả, người sau này muốn làm kiểu đó nên lấy vải nguyên cắt vụn ra rồi may lại làm giống như y phấn tảo.

Nghĩa là mấy ông khất sĩ của mình họ không có đi lượm vải ở ngoài đồng mả được, cho nên bây giờ họ ra chợ họ mua một tấm vải lớn vầy, hai thước, ba thước, mười thước đó, họ cắt cắt nhỏ nhỏ ra vầy, rồi bắt đầu đem mấy ông thợ may, mấy bà thợ may kết lại từng miếng, từng miếng nhỏ, họ làm cái y phấn tảo theo kiểu của Phật.

Nhưng mà cái hình thức này theo Thầy thấy thôi để cái tấm vải đó nó khỏe đi, đắp lên nó còn khỏe, đỡ cực, làm chi vậy! Bởi vì ngày xưa thì tại vì vải nó chim chóc, chó đồ nó xé cái thây ma nó ăn đi, nó rách tùm lum, tà la đi, thì bây giờ làm sao rồi? Thì bây giờ mới kết lại từng miếng nhỏ nhỏ vầy. Còn mấy ông này bây giờ vải lớn không để, làm chi cho nó cực!

Theo Thầy thấy tấm vải cứ để nguyên đó mà đắp lên cho nó khỏe. Mình tu giải thoát tâm chớ đâu phải giải thoát ở cái chỗ tấm vải. Nhưng mà đừng có trưng diện cái tấm vải đó, đừng có hãnh diện ở trong tấm vải đó là tui là cái người mà mặc y phấn tảo.

Nhiều khi chúng ta thấy cái người mặc y như thế này, những cái miếng lớn này, thì họ nói: Thầy mặc cái y này không xứng đáng, Thầy giữ gìn giới hạnh như vậy đó thì phải mặc cái y bá nạp cà, nó từng miếng, từng miếng nhỏ cà nó mới xứng đáng đó là cái y phấn tảo. Đó như vậy là cũng sai rồi.

(01:33:22) Bởi vì cái hình thức là nó như vậy, nhưng mà cái chuyện mình làm nó lại trật rồi. Bây giờ mà nói, bây giờ Thầy phải mặc cái y mà lượm giẻ ở ngoài đồng mà từ miếng nhỏ người ta quăng ra đó, tự mình mới kết lại thì để làm cái y như vậy là đúng.

Còn bây giờ mình mua ngoài chợ cái tấm vải quá bự, cắt nhỏ ra rồi cũng làm như vậy, phải qua cái hình thức, cho rằng đó là cái y phấn tảo, thì những người sau này họ hay làm cái hình thức quá, cho nên nó mất cái ý nghĩa của cái y phấn tảo.

Nếu Đức Phật còn tại thế, Ngài cũng bật cười.

Nghĩa là thấy các sư mà mặc cái áo đó, Ngài bật cười: Mấy ông - y phấn tảo của mấy ông thiệt là mấy ông làm cực khổ người ta không! Chớ làm sao mà nín cười được. Bởi vì tui thì đi lượm từng miếng nhỏ tui chắp lại cho nó thành miếng lớn tui đắp, còn mấy ông, cái miếng lớn mấy ông lại cắt nhỏ ra mấy ông đắp! Thành ra phải cười mấy ông chớ sao?

Chọn cái hình thức phấn tảo bên ngoài mà không chọn cái phấn tảo ở trong tâm của mình.

Nghĩa là ở đây thì các ông chọn cái hình thức phấn tảo ở bên ngoài cái áo, mà không chọn cái phấn tảo ở bên tâm của mình.

Phấn tảo có nghĩa là bỏ sạch đi.

Đó. Cái phấn tảo có nghĩa là: “tảo” là quét mà, quét cho sạch ra mà, thì mình mặc cái y đó là có nghĩa là mình quét hết rồi chớ không còn nữa. Thế mà mình quét ở trong tâm của mình - cái này là lại quét ở ngoài hình thức thì đâu có được!

Phấn tảo có nghĩa là bỏ sạch đi, lượm đồ bỏ của người ta bỏ mà mặc. Chúng ta cũng vì cái chỗ bắt chước mà không thấu cái lý tu hành, cho nên biến ra cái sự tu hành bằng hình thức, như vậy nó không có đúng cách của cái y phấn tảo.

(01:35:13) Cho đến đây Thầy giải thích cái y phấn tảo để chúng ta thấy cho nó đúng cái nghĩa của nó.

Cho nên nếu muốn mặc đúng thì chúng ta nên đi lượm vải rách của mấy người thợ may, họ để thừa dư đó, họ may rồi đồ họ miếng lớn miếng nhỏ này họ bỏ ra, chớ đừng có mua vải lớn mà cắt ra thì nó là cái hình thức. Mình đi xin những cái người thợ may, họ cắt vụn thiếu gì! Do đó mình về mình kết lại mình mặc thì nó cũng đỡ đi.

Chớ còn đúng nghĩa của nó là phải đi lượm cái vải mà người ta chùi đít con họ đó, mà họ quăng ở ngoài thùng rác đó, thì đúng cái nghĩa là người ta phải quăng ở thùng rác, người ta bỏ đó. Còn cái vải mà người ta may vụn chớ người ta còn làm chổi người ta bán được.

Thầy nói thật mà! Mấy cái người mà họ ở không đó, rồi họ lấy vải vụn họ kết lại rồi họ lấy dầu hắc gì đó, rồi họ chấm cho dính dính ở trong cái cán vầy cái họ làm chổi cũng quét nhà đồ được, thì vậy chưa phải là đồ bỏ, nó còn đồ dùng được. Cho nên chúng ta xin thì họ cũng thương mấy nhà sư thôi cũng cho chớ thiệt ra họ còn bán được, họ còn làm cái chuyện họ bán được, họ chưa bỏ.

Đó thì chúng ta thấy rằng cái vật bỏ là cái vật mà người ta quăng ở trong cái thùng rác, hoặc là vải mà mấy cái ông thợ máy họ lau tay mà dầu dính vô dữ tợn, họ hết xài được, họ quăng, thì mình lượm về mình giặt cái đó đó, mình đắp lên thì thiệt ra là mình là phấn tảo thiệt.

Bởi vì đất nước của mình nó không có vải bó thây ma mà quăng ra ngoài rừng, cho nên nó khó kiếm. Vì vậy mình cứ đi theo mấy cái thùng rác, lại gần mấy cái ông thợ máy mà cái vải mà ổng lau tay đã ổng quăng đó, không xài được nữa mình lượm về, ba cái đó mình giặt chút đi rồi mình kết lại cho được thành một cái y, thì đúng là cái nghĩa của phấn tảo, của người ta bỏ rồi.

Thì trong cái sự tu hành nó phải có những cái sự đúng nghĩa của nó, chớ nếu mà không đúng nghĩa của nó thì mình trở thành hình thức mất đi.

Cho nên ở đây, Thầy nói bây giờ, hiện giờ Phật tử cúng gì mình có mình xài thôi, mình không ham thêm nữa, miễn là cái y của mình đắp lành lặn thôi, đừng có nghĩ rằng phải miếng lớn miếng nhỏ thế này thế khác, thì cái đó nó thuộc về hình thức.

Bởi vì bây giờ mình đâu có kiếm vải thây ma được mà gọi là phấn tảo? Mà mình đi nhiều cái thùng rác chưa chắc đã bây giờ có rác, người ta chùi đít con người ta giờ cũng đâu có người ta lấy giẻ đâu, người ta cũng lấy giấy đồ, thành ra cũng khó tìm những cái vải bỏ lắm, hầu như là khó tìm cái vải mà người ta bỏ./.

HẾT BĂNG

32 - HẠNH BUÔNG XẢ CỦA NGƯỜI TU SĨ

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 32 - HẠNH BUÔNG XẢ CỦA NGƯỜI TU SĨ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- LÝ LUẬN ĐỂ PHÁ GIỚI KHÔNG CẤT GIỮ TIỀN BẠC

(00:03) Xin quý thầy nghe một vị luật sư Thánh Nghiêm giới thiệu cho chúng ta biết rằng những người xuất gia như thế nào:

Đây là một vị luật sư tên là Thánh Nghiêm.

“Những người xuất gia của Phật giáo mỗi ngày càng đông. Thể chất người xuất gia có người thì tráng kiện, có người thì yếu đuối. Tập tánh của người xuất gia có người thì cam sống đạm bạc, cũng có người thì không chịu nổi phong sương, mưa nắng dãi dầu, thậm chí cũng có người mang tạp khí tham cũng rất nặng, có người thì không có súc tích của cải nhiều, nhưng cũng có người thì súc tích của cải rất nhiều.”

Đó là luật sư Thánh Nghiêm có giới thiệu chúng ta thấy: So sánh ở trong cái giới xuất gia của chúng ta hiện giờ, có người thì dãi gió phong sương thì chịu được, có người thì chịu không được, có người thì tâm tham cũng còn, cái tạp khí tham cũng còn rất nặng, có người thì cũng súc tích của cải cũng nhiều, nhưng có người thì không có súc tích của cải, trong giới tu hành thì cũng có người tráng kiện, nhưng mà cũng có người yếu đuối.

Cho nên cái giới tu sĩ hiện giờ thì nó nằm ở trong cái sự phân tích của sư Thánh Nghiêm, chúng ta thấy rất rõ.

Ở đây thì chúng ta phải thấy đây là cái lối luận của luật sư. Thầy xin xác định lập trường của tu sĩ đạo Phật: Nếu tu được thì lập hạnh thiểu dục tri túc, nếu tu không được thì đừng có đổ thừa thể chất này hay thể chất khác.

Nghĩa là mình đổ thừa như luật sư Thánh Nghiêm thì cho rằng cái thể chất của chúng ta người như thế này thế khác, cho nên lần lượt rồi chúng ta phải tu tập bỏ cái này bỏ cái khác.

Lần lượt nghĩa là mình cũng xuất gia, mình thọ giới Sa Di, nhưng giờ tâm tham thì mình còn giữ chút ít tiền chút ít, mình đừng có giữ nhiều, đừng có cất cả triệu bạc, chỉ cần vài trăm thôi, để cho có hữu sự hay đi xe đồ nó có, ý của sư nói vậy mà. Bởi vì cái tạp khí của mình còn tham đó thì mình cũng phải cất giữ chút ít.

Còn cái người mà yếu đuối thì biết đâu bữa nay đau, mai ốm, thôi cũng còn giữ chút chút đi, để rồi đau ốm rồi hỏi xin rồi ông thầy trụ trì ổng lúc bấy giờ ổng không có thì ổng làm sao ổng cung cấp mình được, nằm chịu đau sao nổi? Đó là cái ý của ổng muốn nói vậy đó.

Có người thích đạm bạc, nhưng mà có người thì không thích đạm bạc - thì mình người đạm bạc đó thì người ta thiểu dục thì nó cũng đỡ, còn mình chưa thích đạm bạc thì mình còn - thay vì người ta thích đạm bạc người ta nằm cái giường không cũng được, còn cái này mình nằm cái giường không nghe nó lạnh quá, không được, cho nên thôi cũng cho ông này trải tấm ga hay cái gì đó chút. Hay hoặc là ông này hơi ốm, xương nó cấn, ổng nằm cái giường không nó cấn, thôi cũng cho ổng tấm mút để cho ổng nằm êm.

(03:18) Đó là những cái mà luật sư Thánh Nghiêm giới thiệu để chúng ta biết qua cái ý. Mặc dù ông không nói ra, nhưng mà Thầy hiểu cái ý của ổng nói: Bây giờ giới tu sĩ mình cũng có nhiều loại như vậy đó, thì mình cũng nới nới bớt một chút để cho người ta tu cho được chớ.

Nhưng mà sự thật ra, những cái người mà tu như vậy Thầy thấy rằng khó mà đi đến con đường giải thoát lắm, khó lắm.

Bởi vì nếu mà tu được thì lập hạnh thiểu dục tri túc, còn tu không được thà chết, bây giờ nằm cấn là cấn chớ nhất định không có trải thêm một cái gì ở trên cái mặt giường hết, đó là chúng ta mới có sự quyết định để mà đi tìm cái chết, để mà tìm cái sống, để mà giải thoát cái cuộc đời của chúng ta.

Nếu tu không được thì đừng có đổ thừa thể chất thế này thế khác, đổ thừa không chịu nổi phong sương, đổ thừa tạp khí nặng. Những lối lý luận này là lối lý luận khéo che đậy để phá giới của đạo Phật mà thôi.

Bởi vì hầu hết là người ta nhìn vào một cái số tu sĩ, thí dụ như một trăm người mà toàn là sống đúng cái giới hạnh của Sa Di, người ta quá kính trọng. Mà một trăm người thì có ba người sống đúng mà cả lố người không sống đúng, thì thử hỏi người ta nhìn cái số tu sĩ này ra sao?

Đó là một cái mà mình cứ bào chữa, bào chữa để cho cái số này nó cũng thọ Sa Di hết, mà cuối cùng thì Sa Di này là Sa Di thế gian chớ không phải là Sa Di của xuất thế gian, nó thuộc về Sa Di còn ở trong thế gian.

Cho nên mà nói Sa Di thế gian thì thôi tốt hơn là ở ông cư sĩ đi, tập luyện cho nó được rồi mới vô. Còn cái này tập luyện không được thì cũng muốn vô làm tu sĩ nữa thì thôi, cái tu sĩ này chắc là hư hại Phật pháp hết!

Đó cho nên bây giờ theo Thầy thì nghĩ: Thôi quý vị còn những cái phong sương chịu không nổi, còn những cái tạp khí mà bỏ tiền không được, phải có còn bỏ túi chút ít, thì thôi quý vị cứ ở trong cái lộ trình của người cư sĩ đi. Chừng nào mình thấy bỏ được thì mình bước vô, mà mình chưa bỏ được thì thôi, chớ đừng có vội bước vô mà người ta nhìn quý vị mà người ta chê cười Phật pháp.

Đó là cái lý mà Thầy bàn ở trên cái vấn đề mà của giới sư Thánh Nghiêm nêu ra để giảm bớt cái giới luật, để làm cho nó nhẹ bớt, có một số tu sĩ tu như vậy mà không lấy cái chỗ đó mà phiền hà các vị. Nhưng riêng Thầy thì không được, vì đó là làm hư Phật pháp đi.

Nhìn vô một cái số tu sĩ, như một trăm người mà có hai, ba người giữ đúng giới thì người ta cũng vẫn chê một đám với nhau hết. Hay hoặc là Thầy nói cho năm chục người giữ giới, mà còn năm chục người mà không giữ giới nghiêm túc vậy thì người ta cũng cho đó là hư hết, chớ người ta có khen được đâu? Bởi vì có người vầy, kẻ khác là người ta đã thấy rồi.

Những hạng người này có xuất gia mà cứ phạm giới thì tu hành tới đâu? Tu mà đạo chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời.

Bởi vì đời người ta cất giữ tiền bạc rất nhiều, thậm chí người ta còn gởi ngân hàng, đó là đời thật đời đi. Còn bây giờ mình không dám cất giữ nhiều, mà cất giữ làm chi năm, ba chục làm chi cho nó mất công ở trong túi, nhiều khi đi giặt quần áo quên đi, vò nó nát cũng uổng, thôi tốt hơn đừng cất thì đâu có vò nát! Cho nên không có thấy cái điều đó.

(06:29) Thường đừng nên đứng ái vị trí của người cư sĩ mà trông vào cái vị trí của người tu sĩ.

Nghĩa là chúng ta đừng có đứng ở cái vị trí của người cư sĩ của chúng ta đó là chúng ta chưa có xả bỏ mà chúng ta ham vào để đứng ở trong cái vị trí của người tu sĩ thì không có được. Phật giáo như vậy là không có chấp nhận.

Vào tu mà sợ ăn ngày một bữa, sợ ngủ ít, sợ không được nói chuyện, sợ nắng, sợ mưa, sợ không tiêu tiền, sợ mất hết tài sản, của cải, sợ xa nhà, xa vợ, xa con, sợ xa cha, xa mẹ…​

Đi tu mà sợ như vậy thì tu nó chẳng có đến đâu hết.

Nếu ai tu hành mà sợ những loại này thì xin lột áo tu sĩ trả lại cho Phật giáo đi, để cho đạo của Phật được thanh tịnh, trong sạch.

Nó phải thực hiện cái hạnh tri túc thiểu dục, chớ còn mình tu như vậy thì làm cho người ta thấy cái đạo Phật nó chẳng có ra gì hết. Cho nên mình có sợ thì thôi mình ở trong vị trí của cư sĩ, mà mình thấy rằng mình không có sợ những cái loại này thì mình hãy vào tu, mà mình giữ đúng cái hạnh thiểu dục tri túc.

Xứng đáng là người tu sĩ buông xả, giải thoát vòng thế tục mới đáng là đệ tử của Phật.

Đây quý thầy nghe tiếp một sự bào chữa cho những tu sĩ phạm giới hiện tiền trong thế gian này:

“Do đó Đức Phật vì nhu yếu dần dần cho phép chúng tăng có chùa chiền, có tịnh xá, có tăng phòng, có súc tích đồ cần dùng cho cuộc sống cũng như khai mở ra cho phép được tiếp nhận của cải, tiền bạc.”

Đó thì cái câu này là sư Thánh Nghiêm cũng nêu lên để chúng ta thấy rằng trong cái giới bổn của Đức Phật nó có những cái câu viết như vậy đó.

Cho nên Thầy có đóng lại cái câu này là ở trong những cái giới bổn mà sư Thánh Nghiêm đã trích ra: Là vì Đức Phật đã thấy dần dần cái pháp tu xuất gia nó khó khăn quá, nhất là giới Sa Di nó khó khăn quá, do đó mà cho phép là - sợ dầm sương, dang nắng khổ sở đồ đó - cho phép chúng ta được ở chùa chiền, tịnh xá, và cho tăng phòng nó được khang trang, súc tích đồ đạc, của cải, cho nó có ở trong chùa, rồi dần dần cho tiếp nhận tiền bạc, của cải nữa.

(09:21) Đó là cái điều này thì thật ra cái lời nói phá giới, rất là phá giới. Ông Phật đã dạy mình là ông thầy rất thanh tịnh, mà ông thầy này Thầy thấy coi bộ là ông thầy giới luật này - coi bộ là thêm như vầy là ông thầy này bớt thanh tịnh rồi.

Ổng còn có nhà, có cửa, có tăng phòng, rồi súc tích đồ đạc, của cải, rồi bây giờ cuối cùng thì ông Phật cũng cho tiếp nhận tiền bạc cất nữa, thì cái ông thầy giới luật mà chấp nhận cho như vậy rồi thì bây giờ tu sĩ của chúng ta bây giờ nó thiệt là giống y hết, nó không khác.

Ông Phật ổng nói cái nó làm liền! Nói bảo nó là giữ gìn Thập Giới Sa Di thì nó còn lâu, phải không? Mà nói mà như vầy mau đó, mau liền, nó cất chùa liền, nó cất tịnh xá liền, nó cất chứa đồ vật, súc tích đồ vật ở trong chùa đầy đủ hết liền! Và đồng thời nó tiếp nhận tiền bạc, nó không phải tiếp ít đâu, giờ nó tiếp nhiều.

Đó là cái hiện tượng mà chúng ta đã thấy được cái giới luật của Phật, cái lời mà ghi như thế này. Cho nên bây giờ chúng tăng người ta dựa vào cái này người ta nói người ta không có sai, người ta làm đúng là vì Phật đã dạy mà!

Cái câu kinh này dạy rõ ràng: Trong giới luật Phật có chế ra như vậy, bảo chúng ta vì cái cần dùng, vì dầm sương dãi nắng cho nên nó có cái sự khó khăn, từ đây đến đó nó dễ sanh bệnh sanh tật, cho nên cho phép chúng tăng có chùa, có tịnh xá, rồi cất chứa đồ đạc để cho dùng cái cuộc sống, rồi khai mở cho phép các tu sĩ được nhận tiền bạc.

Đó thì như vậy là nó muốn đi tiêu tùng giới luật hết rồi. Tức là bây giờ Thập Giới Sa Di bảo không cất giữ tiền bạc, không có đồ đạc châu báu, không có chùa to tháp lớn, thế mà bây giờ vẫn là cho phép được, thì như vậy thì người ta cứ mặc tình! Thì như vậy chúng ta thấy ông Phật này ổng xây dựng ông thầy cho chúng ta mà bây giờ ổng sửa, ổng sửa sao mà ông thầy này Thầy thấy từ hai chân ổng còn có một chân à! Thử hỏi rồi ông thầy giới luật này ổng đứng sao mà cho vững? Chắc chắn là ổng phải té.

Giọng luận điệu già hàm, lẻo mép, tự đặt ra những lời nói này mà dám bảo là Phật nói.

Bởi vì cái ông thầy giới luật là ông thầy thanh tịnh, mà thêm bớt như vậy là một cái điều rất tội lỗi của đạo Phật rồi.

Bởi vì có cái hạnh nào mà chúng ta suy nghĩ - mình mà ly dục, ly bất thiện pháp mà có cái hạnh nào mà hơn là những cái giới luật của Phật? Mà cái mục đích để làm chủ sanh tử thì phải ly dục, ly bất thiện pháp chớ, chúng ta hiểu! Đó là một cái thiền định mà chúng ta cần phải đạt được.

Thế mà những cái - qua cái giới luật của Phật là mục đích giúp cho chúng ta không phải là cái hình thức, mà không phải vì giới luật mà giải thoát, mà vì ly dục, ly bất thiện pháp. Cho nên cái giới luật giúp chúng ta ly được cái đó để chúng ta đạt được cái sự giải thoát, chớ đâu phải là cái gì khác hơn hết.

Mà bây giờ chế như vậy là chúng ta làm sao ly? Ly gì, ổng có cái chùa rồi ổng làm sao ổng ly được? Tối ngày ổng cứ lau quét chùa, thành ra ổng làm nô lệ cho cái chùa rồi còn gì!

Rồi bây giờ ổng lại có tiền bạc, của cải, rồi ổng cứ sợ ăn trộm ăn cắp nó vô lấy mấy cái máy của ổng làm sao, cho nên ổng ngủ mà ổng cứ chập chờn, chập chờn, ổng không dám ngủ, thì như vậy ổng có giải thoát được đâu?

Rồi bây giờ lại có tiền bạc nữa, rồi ổng gởi ngân hàng, rồi ổng sợ không biết rồi ngân hàng không biết nó có sập tiệm hay không, nó sập tiệm tiêu cha hết!

(12:42) Đó tất cả những cái nỗi lo mà của người tu sĩ kiểu đó thì Thầy thấy thiệt ra nó bị trói hết rồi. Do vì vậy đó mà chúng ta thấy cái nỗi khổ là người ta phá cái giới bằng những cái câu nói đó, thì cái ông này ổng có ly được không? Mà ổng ly không được thì ổng tu ngàn cái đời của ổng, ổng có nhập được Sơ Thiền không? Mà không nhập được Sơ Thiền thì làm sao ông nhập được Tứ Thiền?

Các thầy thấy cái mục đích chính của Đức Phật là nhắm vào chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp, mà trong khi đó chúng ta sống cái đời sống không ly thì làm sao mà chúng ta ly được!

Cũng như giờ ăn một ngày ba bữa thì chúng ta đâu có ly được. Mà ăn còn thích ngon thì chúng ta cũng chưa ly được, mặc dù ăn một bữa mà chúng ta còn thấy muốn ăn ngon thì chúng ta cũng chưa ly được đâu. Ly dục nó phải hiểu được cái dục, vì mình còn thích ăn ngon thì tức là còn dục rồi. Phải hiểu như vậy.

Mà cái mục đích của Phật dạy chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp là ác pháp, thế mà chúng ta không làm được, không sống được thì chúng ta lại chế ra như vầy thì chúng ta thấy làm sao đúng giới luật của Phật được?

Cái chỗ đó làm sao chỗ ly, cái chỗ đó là chỗ lìa. Họ tưởng là chế như vậy để sống rồi cũng giữ gìn giới luật, rồi lần lượt, đâu có được! Bởi vì ly là ly mà không ly là thôi chớ đâu có làm sao được cái này.

Đó, cái hiểu được như vậy thì quý thầy mới thấy rằng cái luận điệu già hàm, lẻo mép của người sau, họ mới đặt ra, họ mới nói rằng Phật nói.

Vì xét hết tạng kinh…​

Nghĩa là Thầy đọc hết trong cái tạng kinh giới của Phật, tất cả những tạng kinh Thầy thấy không có câu nói này hết, mà sao ở trong cái giới bổn lại có lòi cái câu nói này, nó đặc biệt kỳ cục vậy?

Thì có lẽ là khi mà phân chia hai mươi bộ phái, thì chắc chắn là mấy ông cũng có muốn cất giữ tiền, rồi cũng có muốn của cải, tài sản gì đó, hay hoặc là đi lang thang cũng cực khổ, dầm sương dang nắng, thôi mấy ổng cũng thôi, Phật chế ra cho có chùa có này kia, tịnh xá, mình ở một chỗ yên, để khỏi phong sương, dãi nắng dầm mưa. Cho nên mấy ổng đặt cái này để gán vô cho Phật.

Đó thì, các thầy thấy người sau họ cũng khôn ngoan, khéo léo mà gán cho Phật đủ mọi cái điều của ông Phật, thành ra ông Phật mình mâu thuẫn quá, trước thì nói như vầy, sau thì nói khác, thành ra không có làm sao mà tin được.

Bây giờ thời đại hiện tại của chúng ta lại có thêm biết bao nhiêu là giới sư, luật sư nói cái kiểu như vậy thì rất nhiều.

Họ luận cái kiểu như vậy rất nhiều, chớ không phải là chỉ có một cái bộ kinh này nói như vậy, một ông luật sư đó nói như vậy đâu.

(15:02) Đây là ông Thánh Nghiêm ổng nêu ra để cho chúng ta thấy những cái bộ luật mà đã có những cái câu nói như vậy, để chúng ta biết rằng nó đúng hay là sai. Mà trải qua những cái bộ giới luật thì biết bao nhiêu là luật sư, luận sư, người ta luận kiểu này, luận kiểu nọ để mà phá giới thì rất nhiều chớ không phải không có.

Thì lúc bấy giờ mà luận như vậy thì chúng ta mới nghĩ rằng, chúng ta hiểu biết đúng là ly dục, ly bất thiện pháp thì nó phải nương vào cái giới luật đúng nó mới có ly được, mà cái giới luật mà sai thì không thể nào ly được. Vì vậy, mà chúng ta nghĩ rằng, Phật pháp khi mà những cái luận đó mà xen vô thì chúng ta nghĩ rằng Phật pháp có còn gì đâu, nó không còn gì nữa hết.

Chỉ là những người chạy theo danh, lợi, sắc, thực, thùy mà đặt điều gán cho Phật nói, cho phép.

Nghĩa là nói cho Phật cho phép đó.

Những luật sư sau này, họ không căn cứ vào giới kinh mà cứ dựa vào giới bổn.

Nghĩa là người sau - các luật sư sau này cứ dựa vào giới bổn rồi thấy ghi ở trong những cái giới bổn có những cái lời của Phật nói, cho phép đồ như vậy, vậy đó là họ tin theo thôi. Họ cũng không dám sửa, cũng không dám gì.

Bởi vì họ là cái người luật sư, họ đâu có hiểu rằng cái giới kinh, cái luật của kinh là cái pháp tu, họ đâu có hiểu. Cho nên do đó họ đâu có lấy cái pháp, cái giới hành mà họ hành, thì đó họ chưa có chứng đạt, họ chỉ ở trên giới bổn rồi họ nghiên cứu.

Do đó, mà họ dựa vào những cái bản kinh mà nó ở trong đó - những cái bản kinh giới, những cái bản giới luật mà do Phật có cho phép như vậy đó, thì họ cũng phải viết ra như vậy thôi, và họ thấy đó là cũng đúng chớ họ không dám nghĩ đó là sai. Bởi vì Phật mà, cho phép mà, đâu dám nghĩ sai được.

…​ mà cứ dựa vào giới bổn.

Giới bổn đâu phải là chỗ tin cậy của chúng ta! Xin quý vị phải sáng suốt nhận xét cho phân minh, đừng dựa vào người xưa cho là đúng mà cứ theo đó mà luận thì sẽ sai hết.

Nghĩa là mình cứ dựa vào những cái giới bổn mà người ta đã luận người ta viết ra: Phật cho phép như vậy, vậy đó, thì đừng có dựa vào đó mà mình cho rằng đúng, mình phải sáng suốt hơn thì mình không bị lạc lầm.

Đạo Phật vốn đem lại sự giải thoát chân thật cho mọi người, chỉ có mục đích là buông xả, ly dục, ly ác pháp, mà không xả mà còn súc tích thêm thì thử hỏi có đúng đường lối tu hành giải thoát của đạo Phật không?

Đây quý thầy nghe một đoạn kinh giới của các giới sư:

“Nhân vì tiền tệ là tài sản, vật chất của nền văn minh nhân loại, nó có thể làm môi giới cho sự đổi chác.

Thí chủ cúng dường cho người xuất gia các thứ như quần áo, thức ăn, đồ nằm, thuốc thang, nhưng trong nhà thí chủ thì không thể là một tiệm buôn vải, tiệm buôn lương thực, xưởng chế tạo đồ dùng và nhà thuốc. Giả sử có mở tiệm cũng không hoàn toàn có đủ các thứ này. Nếu như hoàn toàn đủ đi nữa thì khi đem phẩm vật cúng dường cho người xuất gia cũng chưa ắt là thích hợp với nhu cầu người xuất gia.

Do đó, sự nhận lấy tiền tệ đối với người xuất gia thì không phải là tuyệt đối cấm ngăn được”.

(18:38) Đó thì mấy ông luận sư họ luận như vậy đó. Nghĩa là bây giờ cho một cái người cư sĩ đó đó, họ có một cái tiệm kêu là siêu thị đi, bán đủ thứ hết đó, mà đem lại cúng dường cho cái ông thầy thì cũng chưa chắc là đúng cái nhu cầu của ông ta được nữa. Đó, luận như vậy đó.

Cho nên cái sự cấm không có cất giữ tiền bạc, thì không có được ngăn cấm cái điều đó được, là vì để cho cái nhu cầu ông ta muốn cái gì đó, cần thiết gì đó thì ông ta phải có tiền ông ta mua thì ông ta sắm mới đúng.

Thì như vậy rõ ràng là những cái luận như thế này thì Thầy thấy thiệt là nó phá Phật pháp hết tận cùng! Bởi vì mình còn có tiền thì mình chạy theo cái tâm nào các thầy biết không? Mình nói cái nhu cầu của mình chớ cái tâm tham của mình chớ nhu cầu gì!

Mình thiểu dục, bây giờ đau mà không có thuốc, thì mình thiểu dục thì mình cần gì? Mình đã biết rằng thọ là vô thường rồi, nó đâu có thật, cho nên mình đâu có sợ. Còn cái người mà không thấy nó vô thường thì mới sợ chết, cho nên vì vậy mới giữ tiền để chạy mua thuốc uống, chớ còn cái người mà không sợ chết, thấy đúng nhân quả rồi thì người ta đâu có ngại.

Khi đau mà nếu mình có phước thì có người mang thuốc đến mình uống, mà mình thiếu phước thì bây giờ có đau cách gì đi, có chạy cách gì đi nữa, có xin tiền cách gì đi nữa cũng chạy bậy bạ thuốc chớ chưa chắc đã hết bệnh. Bởi vì cái nghiệp của mình mà.

Cho nên có nhiều người chạy tùm lum đủ thứ ông thầy hết mà không hết bệnh, còn có người, người ta đau cái người ta chạy ra cái đúng ông thầy liền hết bệnh liền, đúng thuốc, đúng thầy. Còn mình chạy tùm lum đủ thứ hết mà không hết, là tại cái nghiệp của mình phải trải qua cái thời gian bao nhiêu ngày đó để trả cho hết nghiệp đau khổ đó.

Cho nên có người thì uống ba, bốn tháng, nhưng có người uống một viên cái hết. Đó, thì các thầy thấy cái nghiệp của nó, nó có một cái thời gian để mà trả chớ không phải lật đật mà được.

Cho nên ở đây chúng ta nghĩ rằng cái bệnh là cái thân của chúng ta là phải có một cái nhu cầu như tiền bạc để mình mua thuốc để mình trị nó mau hết, chưa chắc đã là trị mau hết đâu! Phải hiểu nó còn trầm kha, nó kéo dài cái khoảng thời gian mà trả nghiệp thì có tiền cũng vậy mà không tiền nó cũng vậy, chớ đâu có phải mà nó có tiền nó giải quyết được cái đó được đâu.

Đọc đoạn luận phá giới này của các luật sư, Thầy nghe cái mùi hương danh lợi nó bắt đầu nơi đây, bay nực nồng và bay lan rộng ra khắp thế giới hiện nay. Cái mùi hương này mà giới tu sĩ Phật giáo bây giờ tu hành mới chẳng ra gì.

Bởi vì nó có những cái lời mà luận như thế này, cho nên các cái vị tu sĩ chúng ta phạm giới thì chúng ta thấy - mà chúng ta phạm giới chúng ta đâu có biết rằng cái giới luật của Phật là ly dục, ly bất thiện pháp, cho nên chúng ta đâu có nghĩ. Chỉ cần thấy là mình được cái lời nói này mình không có phạm là mình thấy khỏe rồi, thì mình cứ tu lần lần Thiền Tông rồi đây nó cũng tới, thấy Phật là thành Phật rồi đâu còn gì mà phải sợ mà phải ly dục.

(21:26) Nhưng mà không ngờ chính cái chỗ mà không ly, mình tưởng là thấy ông Phật nhưng mà sự thật ra ông Phật nó không có tới với mình. Bởi vì cái tâm mà chưa ly dục, nó còn phàm phu, thì ông Phật ổng làm sao ổng hiện ra với mình được?

Ổng là thanh tịnh rồi, còn mình thì quá uế trược, trong khi tay thì còn nắm tiền, thì ổng đâu dám tới với mấy cái ông nắm tiền! Nắm tiền đây rồi mai mốt ông nói tui ăn cắp tiền của ông làm sao?

Ông Phật thì thuở giờ ổng đâu có ăn cắp, thế mà cái ông mà cầm tiền thì mai mốt ổng mất thì ổng phải đổ thừa ông Phật, thì ông Phật bây giờ chỉ có nước nhẫn mà làm thinh mà chịu ăn cắp tiền thôi chớ làm sao? Cho nên ổng Phật ổng đâu dám lại gần mình!

Vì vậy cho nên cái tâm mình, mình nói mình thấy Phật, chứ sự thật ra mình còn cất giữ tiền thì ông Phật ổng không dám tới với mình đâu. Cho nên thấy cái đó là tưởng của mình chớ không phải ông Phật thật. Ông Phật thì phải ly dục, ly bất thiện pháp, tay không cất giữ tiền, đó là mới đúng cách của nó, đúng cách của đạo Phật.

Đó là người tu sĩ chấp nhận thiểu dục tri túc mà muốn có tiền đổi chác theo nhu cầu ham muốn của mình thì làm sao là tri túc thiểu dục được?

Nghĩa là có tiền làm sao mình tri túc thiểu dục được đâu, Thầy nói tri túc không nổi. Mà không có tiền thì mình nói là cam chịu đó, tức là mình mới thấy biết đủ, mình ít muốn là mình biết đủ rồi.

Còn người cư sĩ họ có quyền sử dụng tiền bạc thì muốn mua sắm thứ nào lại chẳng được, mà chẳng có.

Nghĩa là họ bây giờ họ là người cư sĩ mà, họ có quyền cất giữ tiền bạc mà, cho nên họ muốn mua thứ nào cũng có hết, nghĩa là chợ bán ở cái chỗ nào, mà có thứ gì họ đến họ mua cũng được hết.

Thì bây giờ họ muốn cúng dường cho ông thầy đó cái nhu cầu cần thiết cho ông thầy đó thì họ chỉ bỏ tiền ra, họ biết bây giờ ông thầy đó cần thuốc uống nè, mà thuốc này là nhức đầu nè, thì họ chạy ra cái tiệm thuốc đó họ mua đi, họ đem về họ cúng dường cho ông thầy đó, thì không phải là hợp với cái chỗ mà cái nhu cầu ông thầy đó cần không? Chớ cần gì mình phải cất tiền mình chạy ra tiệm thuốc mình mua thuốc, thì cái đó là cái sai.

Cho nên thí dụ như bây giờ mình đau bệnh thì mình đến mình xin cư sĩ, bây giờ mình bị bệnh gì mình nói: “Tôi nhức đầu này kia, xin cư sĩ cúng dường cho tôi ít viên thuốc nhức đầu!” Thì người ta sẽ bỏ tiền ra người ta mua người ta cho mình. Không lẽ thấy trước người đau bệnh mà là người tu mà người ta làm ngơ sao người ta không cho? Chắc chắn là người ta cho.

Đó, nhưng mà mình đâu có làm sao mình có quyền mình sử dụng được, cho nên mình đâu có muốn mua thuốc tốt, thuốc xấu được. Họ có tiền ít thì họ ra họ mua mấy viên thuốc aspirin đồ bậy bạ, còn hễ họ có khá khá thì họ mua mình những cái viên thuốc mà nó đắt tiền hơn, thì do đó là tùy cái người người ta cúng dường mà cũng tùy cái phước báu của mình thôi.

(24:09) Cho nên đó là cái chỗ phước báu của mình nó rất rõ. Do mình - thí dụ như người mà cúng dường thuốc mình tốt thì mình uống nó mau mạnh, mà người cúng dường thuốc mình xấu thì nó lâu hết, uống nhiều thì nó cũng vậy thôi. Đó là mình trả cái nhân quả của mình.

Còn những cái phẩm vật mà họ cúng dường như thực phẩm hay y áo của chúng ta thì cái người cư sĩ họ có quyền họ mua đồ xấu, đồ tốt họ cúng dường mình được. Còn mình có tiền thì mình nghĩ sao? Ờ, thôi để mua cái đồ nào…​ (Mất tiếng)

Nếu mình có tiền và cất giữ thì mình sẽ lựa đồ tốt, thuốc tốt mà mua, thì đâu còn gọi là thiểu dục tri túc nữa! Thiểu dục tri túc là ít muốn biết đủ, nhưng nếu muốn sống đúng hạnh thiểu dục tri túc thì phải không cất giữ tiền bạc.

Tại sao vậy? Tại vì đó là hạnh của người tu sĩ không để các pháp sai khiến mình. Nói một cách cho rõ ràng hơn là không làm nô lệ cho các pháp. Hay nói một cách cụ thể hơn nữa là để cho các pháp không sai khiến tâm mình. Nói như kinh sách Đại Thừa là không để các pháp dính mắc tâm.

Nhưng ở đây không phải là Đại Thừa nói suông mà là lập hạnh sống thiểu dục tri túc để các pháp không dính mắc tâm. Vì tâm không dính mắc các pháp, tâm sẽ ly được dục, ly ác pháp, do đó mà con đường tu tập sẽ đạt được kết quả giải thoát.

Phật dạy tri túc thiểu dục là để ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền, một thứ thiền rất là cao quý của đạo Phật, làm cho tâm được giải thoát không còn tái sanh luân hồi, một pháp môn cần thiết cho người tu sĩ sống đúng Phạm hạnh giải thoát của đạo Phật.

Phần đông hiện giờ các thầy không lập hạnh này nên tâm chạy rong theo các pháp, tâm càng lúc càng sa đọa, sống theo kiểu thế gian, dục lạc. Họ đang sa đọa xuống địa ngục mà không hay biết, thật là đáng thương!

2- CÁCH TÁC Ý PHÁ ÂM THANH - PHẦN 1

[Phần 2 ở Giáo án 33]

(26:21) Hôm nay thầy Thiện Thuận có thuật lại công phu tu tập của mình để quý thầy rút tỉa kinh nghiệm tu tập cho chính xác hơn.

  1. trạch pháp rồi phải có những cái tùy pháp. Thí dụ như thầy Thiện Thuận có báo cáo về cái sự tu tập của thầy như thế này:

“Sau khi mà tu cái định Vô Lậu, dùng cái ý thức quán xét, thì diệt cái tâm dục của mình, thì hơi thở nó mới thấy nó chấm dứt, các hành nó mới ngưng. Sáng nay thì con nhập định, ngưng được thở 45 phút, toàn thân đều lạnh cứng, chỉ còn lại sự hoạt động của bộ não và cái biết.”

Tức là cái bộ não còn hoạt động thì cái biết nó còn à.

“Ngưng thở đến phút 30 thì con thấy trước mặt sáng chói, không biết là hiện tượng gì, kéo dài khoảng 1 phút, xả ra 40 phút mới xong. Toàn thân thì êm nhẹ, khỏe bình thường.”

Đó là cái trạng thái thứ nhất là sau khi tu cái Định Vô Lậu mà xả được cái tâm sắc dục của mình, Cho nên nó khi đó thì mới thấy cái nhập định, nhưng mà đây chưa phải là cái trạng thái của định Tứ Thiền, là vì sau đó thì thầy còn trình thêm là:

“Còn về âm thanh thì con còn vẫn nghe. Con không tìm ra câu nào để ám thị cho chấm dứt được âm thanh.”

Vì trong lúc bấy giờ tuy rằng cái hơi thở tạm thấy nó ngưng, nhưng nó vẫn còn có nghe âm thanh thì tức là chưa có đúng cái trạng thái của Tứ Thiền.

Vậy thì chúng ta thấy cái âm thanh và cái thọ là hai cái đối tượng của cái định Tứ Thiền. Nếu hai cái này dừng mà cái tâm chúng ta còn tỉnh, rất là tỉnh táo ở trong cái trạng thái mà hai cái sự hoạt động này dừng mà tỉnh táo, thì đó là lúc bấy giờ chúng ta mới nhập Tứ Thiền.

(28:16) Mà muốn nhập Tứ Thiền thì điều kiện là chúng ta phải phá âm thanh trước, rồi sau đó chúng ta phá cái thọ, hoặc là đồng thời chúng ta phá thọ và phá âm thanh.

Bởi vì cái âm thanh phải phá trước thì chúng ta mới có thể phá cái thọ dễ dàng. Mà nếu mà phá cái thọ trước, thì cái thời gian chúng ta phải ngồi dài ra, nó mới đụng cái thọ. Và cái thọ nó có khó là là vì thời gian ngồi dài ra thì nó có quen, nó quen thì nó giảm bớt cái thọ, và đồng thời thì chúng ta cứ phăng lên dài thì cái thời gian ngồi quá dài, cái sức của chúng ta sẽ mòn mỏi.

Còn phá âm thanh thì luôn luôn lúc nào ở bên ngoài cũng có thanh trần, cho nên nó thường tác động làm cho cái nhĩ thức của chúng ta nó cứ chạy ra ngoài mà không chịu bám vào trong. Mà nhĩ thức là một phần sáu thức của cái sắc thức, cho nên cái nhĩ thức mà đi ra ngoài nghe âm thanh thì tất cả các cái thức kia nó đều cũng duyên theo đó mà ra, do vì vậy đó mà chúng ta không nằm yên được ở trong Tứ Thiền.

Cho nên Phật nói phải là thiện xảo an trú ở trong định. Thiện xảo an trú - bây giờ mình thiện xảo mình nhập được là tức là các hành nó ngưng, nhưng mà mình không an trú được, thì cái khéo léo mà an trú cho được là phải rất thiện xảo.

Mà rất thiện xảo thì chúng ta phải biết âm thanh là phải ngưng bặt, chớ không để âm thanh nó tác động thì chúng ta bị bung ra liền.

Bởi vì cái nhĩ thức chúng ta phải hiểu: Nhĩ căn, rồi nhĩ thức, rồi nhĩ trần, thì đó là ba cái điều kiện mà nó tác động nó thành ra một cái động, nó mất cái định là nó thành ra cái động. Vì vậy mà chúng ta phải phá âm thanh trước.

Đó thì chúng ta thấy tất cả những cái trạng thái như hiện tượng chói sáng đồ này kia, mà khi mà chưa nhập được Tứ Thiền thì nó còn ở trong cái trạng thái từ Nhị Thiền cho đến Tam Thiền thì nó phải có những hiện tượng.

(30:04) Bởi vì khi mà nhập Tứ Thiền mà hơi thở ngưng nghỉ thì nó hoàn toàn nó thanh tịnh, nó không còn có cái trạng thái gì hết. Chỉ khi nào mình muốn dùng hào quang là mình thị hiện hào quang, mình ở trong Tứ Thiền mình bảo rằng: “Cái thân này phải phóng ra ánh sáng như mặt trời!” - là nó phóng ra ánh sáng như mặt trời, chớ không phải tự dưng nó phóng ra.

Còn bây giờ tự dưng mà thấy sáng thì đó là cái hiện tượng của - ở trong cái trạng thái của Nhị Thiền và Tam Thiền thì do cái cái sắc tưởng nó hiện ra nó làm cho chúng ta thấy như vậy, chớ nó không phải là cái chỗ mà chúng ta sử dụng ánh sáng.

Cũng như bây giờ chúng ta bảo: “Cái đầu nè, phải phóng hào quang lên - cái ánh sáng lên!” Mấy màu, năm màu, mười màu thì nó cũng phóng ra năm màu, mười màu.

Đó là chúng ta nhập ở trong Tứ Thiền, từ đó cái thân định trên tâm, tâm định trên thân, chúng ta muốn như thế nào thì nó sẽ thực hiện như thế nấy.

Đó thì trong cái sự tu hành chúng ta phải biết tự dưng ở đâu mà hiện ra một cái hình ảnh hay hoặc là cái gì đó thì chúng ta biết rằng, trên cái quãng đường mà chúng ta đi vào những cái bốn thiền này thì nó phải từ cái Nhị Thiền đến Tam Thiền nó mới có cái này.

Mà khi đến Tam Thiền, mà bắt đầu từ Tam Thiền mà đến Tứ Thiền thì nó hết rồi, nó không còn có những trạng thái này nữa, thì mới gọi là Tứ Thiền.

Cho nên bây giờ cái hơi thở ngưng nghỉ đó, nó cũng ngưng chớ không phải không ngưng. Nhưng mà nó có một phần là bị cái tưởng của chúng ta trong cái khoảng mà chưa có ra hết Tam Thiền, cho nên nó cũng vẫn còn cái bị che lấp.

Thì thấy như vậy thì Thầy giải thích như vậy để quý thầy chuẩn bị cho mình biết rằng mình thấy nó ngưng, chứ chưa hẳn là đã ngưng.

Vì nó khi mà vào cái định của - cái khoảng đường mà đi ở trên cái khoảng mà để vào Tam Thiền để ly các hỷ, ly hỷ hết đó, thì chúng ta dễ bị cái tưởng của chúng ta gạt gẫm chúng ta.

Cho nên âm thanh vẫn còn tác động mà. Âm thanh còn tác động thì tức là chứng tỏ rằng chúng ta còn ở trên cái khoảng đường của thinh trần rồi, mà của thinh trần thì tức là khoảng đường của Nhị Thiền, Tam Thiền rồi, chứ chưa phải là từ Tam Thiền đến Tứ Thiền được.

Nếu từ Tam Thiền đến Tứ Thiền thì chắc chắn là cái tụ điểm của chúng ta, cái nơi mà chúng ta cho sáu cái thức chúng ta nằm vững chắc, thì chắc chắn là nó bám rất chặt rồi, không còn nó di động được, nó không còn chạy ra ngoài được.

“Còn về âm thanh con vẫn còn nghe, con không tìm ra câu nào để ám thị…​”

Tức là để Như Lý Tác Ý đó, để hướng tâm đó.

“…​ cho chấm dứt âm thanh được. Con chỉ dùng câu: “Âm thanh không thật, tâm bất động trước âm thanh!””

Ở đây chúng ta không có - ở đây cái câu trạch pháp này thì nó chưa được đúng lắm, là tại vì chúng ta thấy nó không thật, là nó do cái chỗ không thật đó thì chúng ta quán cái chỗ Vô Lậu để chúng ta không bị cái âm thanh nó cám dỗ, chớ không phải là âm thanh không thật.

Vì âm thanh là thinh trần, thinh trần nó mới tác động cái nhĩ thức của chúng ta, nó mới làm cho chúng ta có cái dính mắc vào đó mới nghe ra tiếng động. Do đó cái thinh trần nó không phải là ở chỗ này, không thể nào mà dùng cái trạch như vậy mà đúng. Cho nên khó mà phá được.

“Tâm bất động trước âm thanh” - “tâm bất động” tức là nhĩ thức bất động trước âm thanh, mà nhĩ thức bất động thì làm sao nó bất động được? Cho nên bây giờ nó chỉ bị kia tác động hoài nó làm sao nó bất động được.

Cho nên mình phải hướng tâm nó: “Nhĩ thức…​” - kêu cái tên nó, bởi vì cái nhĩ là cái lỗ tai, mà thức là cái biết của cái lỗ tai - “Cái biết của lỗ tai phải bám cho chặt cái tụ điểm!” Phải nhớ cái câu ám thị như vậy.

Thì nó bám chặt cái tụ điểm thì nó nằm đó nó không có chạy ra ngoài, cho nên do đó nó không nghe. Âm thanh thì mặt ngoài nó tác động vô, nhưng mà nó nằm chặt ở trên cái tụ điểm thì nó không còn nghe nữa.

(33:42) Đó thì phải hiểu như vậy là chúng ta dùng, chớ còn chúng ta dùng “cái âm thanh là không thật” thì như là mình dùng cái quán để cho mình thấy các pháp là không thật thôi, thì đó là cái pháp quán để cho phá cái tâm vô lậu của mình khỏi dính mắc, chớ không phải là cái chỗ mà bị âm thanh tác động. Nhưng mà âm thanh thì thường xuyên tác động, cho nên âm thanh gọi là thinh trần.

“Bởi con nghĩ âm thanh là tiếng bên ngoài, mình nghe mà ám thị cho tâm không chạy theo là được.”

Nghĩa là nó có cái lực, cái lực của âm thanh nó tác động cho cái nhĩ căn của mình nó nằm không yên. Cũng như cái thọ, nó tác động cho cái tâm của mình, cái thân thức của mình nó nằm không yên, cho nên nó mới nhảy xuống cái chỗ đau mà nó thấy đau.

Cũng như nó chạy ra ngoài để nó đón, nó nghe âm thanh, vì vậy mà âm thanh tác vô mà nó nằm không chặt thì buộc nó phải nghe. Còn bây giờ nó bám chặt, nó chỉ nghe trở lại cái gì, thì lúc bấy giờ chúng ta phải dùng cái câu pháp hướng để cho bắt đầu nó phải tập trung nó nghe cái gì.

Thí dụ như bây giờ bắt buộc nó: “Nhĩ thức phải nghe cái hơi thở!” Khi mình còn thấy cái hơi thở, bắt buộc nó: “Phải bám chặt cái tụ điểm, nghe hơi thở, không được nghe ra ngoài!” Thì nó có một cái đối tượng để nó nghe, cho nên nó không nghe ra ngoài. Đó.

Còn nếu mà để cho nó nằm không không, nó nằm ở trên đó thì cái kia cứ tác động nó phải nghe, bởi vì nó còn đang hoạt động chớ chưa phải là nó ngưng.

“Nhưng xin Thầy giúp cho con trạch pháp một câu để phá âm thanh, không còn nghe nữa, để con dựa vào câu đó mà xem thử đặc tướng của nhĩ căn con là hợp với câu nào.”

Đó. Thầy sẽ cho một câu ám thị, cái câu mà hướng tâm đó, để mà như cái lý đó mà tác ý, mà nhắc cái nhĩ thức của mình.

“Còn về phần giấc ngủ thì kết quả rất tốt. Con đặt niệm trước mặt bằng câu: “Hãy sáng suốt lên!” - niệm liên tục rất kết quả.”

Nghĩa là nhắc nó hãy sáng suốt lên, tức là cái pháp hướng là cái câu như vậy: ““Hãy sáng suốt lên!” - niệm liên tục rất là kết quả” thì cái câu đó nhắc nó phù hợp với cái đặc tướng của mình.

Còn riêng những người khác thì không thể dùng câu đó được, còn riêng con thì con dùng câu đó, nếu mà thấy có hiệu quả thì nên áp dụng nó hàng ngày để cho nó sáng suốt, mà luôn luôn lúc nào cái thân nó ngủ mà cái tâm nó tỉnh táo, nó tỉnh thức.

“Và câu này nó làm cho con rất tỉnh thức, vì vậy mà con phá được cái tâm sắc dục của mình, làm cho nó rất là có hiệu quả. Con huấn luyện và khi ngủ thời gian thuần thục thì sẽ tỉnh thức toàn bộ giấc ngủ, hiện trên đà đang tiến dần tới.”

(36:21) Đó là cái sự trình bày của thầy Thiện Thuận trong cái thời gian rất ngắn, gần, mà cũng có nhiều cái kết quả của sức tỉnh thức của mình. Ráng cố gắng tu mà phá được cái ngủ của mình.

Thầy ở đây, Thầy xin nhắc lại cái ngủ rất khó chớ không phải dễ. Có khi thì thấy nó giảm bớt, có khi thì nó hết rồi, nhưng mà nó trở lại nó tái đi tái lại rất nhiều lần. Cho nên chúng ta phải bền chí mà tập luyện nó thì nó mới có tỉnh thức thật sự.

Nếu mà chúng ta tập quá nhiều thì nó lại mệt mỏi thì nó lại bị hôn trầm, bị thùy miên nhiều nữa, cho nên cái này rất khó. Vì vậy mà quý thầy tập từ từ, tỉnh tới mức nào chúng ta giữ mức đó mà chúng ta tiến dần tới.

Giờ phút nào mà chúng ta đã quy định, khi chúng ta - khi mà nó có buồn ngủ thì chúng ta nhất định là không cho ngủ, phải tìm mọi cách mà phá cho được, chớ không được để cho nó gục tới gục lui. Nó rất khó, đi mà chúng ta cũng ngủ đó, chớ không phải! Động thân đó mà chúng ta nó vẫn ngủ đó, nó làm cho lờ đờ, lờ đờ.

Đây là Thầy cho một cái câu pháp hướng để phá âm thanh:

Âm thanh là pháp trần.

Tức là thinh trần đó.

Muốn phá âm thanh thì nhĩ thức phải bám chặt vào tụ điểm.

Cho nên Thầy dạy cái tụ điểm tức là cái niệm lực đó, để tạo thành cái tụ điểm. Một người mà chưa có nhập thiền định gì hết nhưng mà người ta bám chặt tụ điểm phá âm thanh, và cái cảm giác thọ không có thì người ta chưa nhập Tứ Thiền, tức là hơi thở chưa ngưng á, mà vẫn là người ta có thể nói là nằm ở trong trạng thái Tứ Thiền đó. Cho nên cái tụ điểm - cái niệm lực mà tạo thành cái tụ điểm nó rất là quan trọng.

Cho nên trong cái giai đoạn mà ổn định hơi thở, cái thứ nhất là chúng ta ổn định cái hơi thở bình thường, để khi mà chúng ta xuất định ra thì cái tâm chúng ta biết cái hơi thở bình thường mà trở về đó, thì đời sống chúng ta phục hồi hoàn toàn là một cái người rất là tỉnh táo, sáng suốt chớ không phải là vô phân biệt.

(38:09) Còn trái lại khi mà chúng ta mà tu cái giai đoạn ổn định hơi thở thứ hai đó, là một cái hơi thở dài, chậm để có sức gom chúng ta vào một cái điểm nào đó ở trên thân chúng ta, nhưng mà bất kỳ cái chỗ nào trên thân chúng ta không có thể mà tập trung tạo cái tụ điểm tốt nhất mà chỉ có ở chỗ cái nhân trung, lỗ mũi của chúng ta là cái chỗ tốt nhất.

Vì cái tụ điểm nó rất là nguy hiểm, đặt nó chỗ nào đó, thì nó sẽ sanh ra các tưởng, và các tưởng đó nó ảnh hưởng đến cơ thể mà làm rối loạn cơ thể chúng ta.

Cho nên chỉ có đặt ở tại chỗ nhân trung giữa hai cái lỗ mũi thở ra, thở vô là tốt nhất, nó không làm cho chúng ta khô cổ hay hoặc là không làm chúng ta có những cái trạng thái bệnh.

Và khi mà sáu cái thức của chúng ta bám được chặt trong cái tụ điểm, giống như là sáu con vật bị cột chặt, cho nên nó chỉ còn nước là nằm yên đó mà chịu chớ không còn lôi kéo ở đâu được nữa.

Đó, còn cái tụ điểm của chúng ta mà nó không chặt, thì sáu con vật này nó lôi nó kéo, nó làm cho văng cái cây cọc đi, thì con nào mạnh con nấy nó kéo đi theo cái hướng của nó.

Muốn bám chặt vào tụ điểm, phải Như Lý Tác Ý:

Đúng như cái lời của Phật dạy là phải Như Lý Tác Ý, thì cái câu trạch pháp của Thầy để giúp cho thầy Thiện Thuận theo cái câu này mà tu tập.

Nếu mà cái tụ điểm chưa có bám chặt được, thì nên tạo lại cái tụ điểm cho chặt. Nghĩa là phải tạo cho chặt, tâm bám cho thật chặt ở trên một cái điểm, không được lúc điểm chỗ này, lúc điểm chỗ khác thì cái tâm nó theo cái điểm di động đó mà nó dễ tác động ra ngoài, nó dễ chạy đi. Còn một cái chỗ, sau đó nó quen rồi nó nằm im đó thì nó không có tác động ra ngoài.

Cho nên chúng ta dùng cái pháp hướng mà chúng ta nhắc cái tâm thì chúng ta sẽ đạt được cái kết quả. Đây là câu trạch pháp:

“Nhĩ thức phải bám chặt tụ điểm, không được nghe ra ngoài, phải nghe hơi thở, phải nghe động dụng trong thân!”

Đó mình bắt nó gom vô à, chớ không có được cho nó chạy ra ngoài. Thì câu trạch pháp này thì thầy Thiện Thuận nhớ về dùng thử coi nó có đúng với cái đặc tướng của mình không. Nếu nó đúng thì nó rất hiệu quả.

Mà nếu nó chưa đúng thì nó còn nghe âm thanh, thì mình tìm cách để cho nó phù hợp với cái đặc tướng của mình, thì mình cũng phải dùng cái “nhĩ thức” hay là cái “ý thức” của mình. “Ý thức” thì nó có cái sự điều khiển, coi như là nó chung ở trong cái đó, hay hoặc là dùng một cái “tâm thức” là nó chung cho sáu cái thức của mình.

Thì cái đó là tùy theo cái đặc tướng mà đặt cái tên cho nó đúng nó, để chúng ta kêu nó thì nó sẽ quay trở lại. Còn nếu mà chúng ta đặt sai cái tên nó, chúng ta kêu nó, nó không quay đâu. Nó phải đúng.

Đó thì như vậy là qua cái phần mà trả lời cho thầy Thiện Thuận đến đây là xong. Bây giờ Thầy nghỉ chút.

3- ĐỨC PHẬT DẠY CÁCH CHỌN THẦY

(40:58) Hôm nay Thầy nhắc thêm cái phần này nữa là vì trên bước đường tu hành chúng ta cũng rất là có nhiều cái khó khăn.

Là vì qua một cái đặc tướng của mọi người, cho nên khi mà chúng ta tu một mình, nhiều khi chúng ta xét qua cái đặc tướng của mình nó không có đủ cái kinh nghiệm mà xét, cho nên cần phải có một bậc thầy có kinh nghiệm, rồi người ta theo dõi cái đặc tướng của mình mà người ta hướng dẫn thì nó rất dễ.

Do cái bài kinh Khu Rừng ở trong Trung Bộ thì Phật dạy - như trước thì Đức Phật đã dạy chúng ta tìm cái cái chỗ ở đó để mà chúng ta tu tập cho được. Rồi sau đây, bây giờ cái bài này nó cũng là bài Khu rừng mà kế tiếp, khi mà chọn được cái chỗ ở rồi thì chúng ta phải chọn một vị thầy.

Một cái vị thầy thì cái người đó nó phải có những cái kinh nghiệm của bản thân của mình tu tập, và cái người đó cũng có cái kinh nghiệm mà xét qua được cái đặc tướng của mọi con người, để tùy theo cái đặc tướng của họ mà giúp đỡ họ trên con đường tu tập để đạt đến cái chỗ cứu cánh giải thoát theo cái đường của Đạo Phật.

(42:02) Bởi vì Đức Phật đã nhận thấy vì con người có những cái đặc tướng riêng cho nên rất khó mà đi chung vào một cái sự tu tập có một cái pháp. Tuy rằng cái đại khái của cái pháp thì chung, nhưng mà cái sự thực hành đó nó phải tùy theo cái đặc tướng của mọi người, cho nên nó linh động và khéo léo.

Vì vậy mà Phật nói thiện xảo và khéo tác ý - khéo thiện xảo, khéo tác ý. Thiện xảo là mình phải tùy theo, khéo tác ý là cũng mình phải tùy theo cái đặc tướng, chớ còn bắt buộc người nào cũng trạch pháp một câu đó, rồi người nào cũng áp dụng câu đó thì nó không có hiệu quả.

Nó hiệu quả có người này mà không hiệu quả với người khác, cũng như một cái tên đó gọi nó hiệu quả của người này, mà lại cái tên đó gọi cho cái tâm người kia thì nó không hiệu quả.

Đó, cho nên vì vậy mà mỗi đặc tướng của cái con người nó có khác, rất là khó trên bước cái đường tu theo đạo Phật là vì cái chỗ đặc tướng.

Là vì cái sự sai khác đó mà không thể nào đặt thành một cái công thức cố định để hàng loạt mà chúng ta ra từng loạt nó giống nhau được. Nó phải chênh lệch, nó phải sai khác, nó phải ngắn, phải dài, phải tùy theo cái người đó, cái đặc tướng người đó mà cái câu trạch pháp nó phải tùy theo đó mà nó thể hiện, thì cái kết quả tu hành nó mới có.

Do như vậy mà Đức Phật giảng là bảo chúng ta tìm cái nơi để yên ổn được tu tốt, rồi kế đó tìm một bậc thầy.

Này các thầy Tỳ Kheo, các thầy sống tại một làng nào, một thị trấn nào, một đô thị nào, một quốc độ nào, một quốc gia nào, hay sống gần một người nào…​

Nghĩa là trong một cái quốc gia, trong một cái quốc độ nào đó, trong một cái làng nào đó, một cái xã nào đó, một cái đô thị nào đó, thì phải tìm một cái người ở tại đó đó - chớ không phải là mình đến đó rồi mình muốn tu chỗ nào đó mình tu, không phải đâu, mình phải tìm ở tại đó coi có cái người nào không.

Mà cái người đó mà tâm họ chưa được an trú thì họ lại được an trú, tâm họ chưa được yên tĩnh thì họ lại được yên tĩnh, tất cả những cái tâm chưa hết lậu hoặc là được hết lậu hoặc, vô thượng tâm an ổn, và họ đã đạt được hoàn toàn sạch hết các lậu hoặc, thì cái nơi đó, cái ông thầy đó mà làm được như vậy thì mình sẽ theo đó mà mình nương vào cái ông thầy đó.

Còn ở đó, cái người đó họ sống tại một cái làng, cái xã, cái quốc độ đó, mà có một ông thầy, mà mình đến đó cái tâm mình nó chưa được an trú mà bây giờ nó cũng chưa được an trú, cái tâm của mình nó chưa được hết lậu hoặc mà bây giờ nó cũng chưa hết lậu hoặc, cái tâm mình nó chưa định tĩnh được mà mình bây giờ cũng chưa được định tĩnh, ở gần với ông thầy đó mà có những đồ ăn khất thực cũng rất là khó kiếm chớ không phải được dễ.

Nghĩa là cái chỗ mà thân tâm giải thoát của mình tu tập thì nó chẳng được, mà đồ ăn lại - thực phẩm về y phục hay thuốc thang, để mà cái đời sống cho cái người xuất gia vừa đủ mà lại kiếm một cách rất khó khăn, thì Đức Phật dạy:

(45:06) Các thầy cần phải đi ngay trong đêm ấy hay là ngày ấy.

Nghĩa là phải đi ngay.

Phải bỏ ngay người ấy mà đi, không cần phải xin phép, không cần phải sống sát người ấy nữa.

Đức Phật nói: Khi mình đến một cái chỗ trụ xứ nào đó, cái làng đó, cái xã đó, cái đô thị đó, mình tìm một cái vị thầy, rồi cái vị thầy đó, mình với vị thầy đó ở chung nhau, mà vị thầy đó tu tập mà dạy mình tu tập, tâm họ cũng không được an trú, mình không được an trú, tâm chưa được định tĩnh nó cũng chưa được tĩnh, tâm vô lậu nó cũng không được vô lậu, mà ăn uống thì cũng kiếm khó khăn lắm, do đó phải đi ngay liền, trong đêm đó cũng phải bỏ đi chớ đừng nói.

Vừa tới đó mà mình thấy được vậy thì phải bỏ đi ngay thôi, không có còn ở đó nữa với vị thầy đó nữa. Nghĩa là không có cần sống sát với vị thầy đó nữa, mà khỏi cần xin phép nữa. Đức Phật nói trong này: Khỏi cần phải xin phép ông ta nữa, đến mà thấy như vậy thì mình bỏ đi.

Này các thầy Tỳ Kheo, các thầy sống gần một người nào…​

Đó tức là chúng ta tìm cái quốc độ nào đó, cái nơi nào đó rồi. nhưng mà chúng ta đến đó gặp với ông thầy thì:

*…​ các niệm chưa được an trú không được an trú, lậu hoặc chưa được đoạn trừ lại không được đoạn trừ, tâm định tĩnh chưa được định tĩnh, những vật dụng cần thiết kiếm được một cách dễ dàng*.

Nghĩa là ở đây với ông thầy đó thì cái tâm tu hành nó chưa được định tĩnh, nó chưa được vô lậu, mà đồ ăn thực phẩm thì kiếm được rất dễ dàng.

Nhưng…​

Thì các thầy phải suy nghĩ:

…​ ta xuất gia tu hành, từ bỏ gia đình, sống không gia đình…​ không phải vì y phục, đồ ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì dược phẩm trị bệnh.

Ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú mà không được an trú, vô thượng an ổn không được an ổn khỏi các ách phược, vô lậu chưa hoàn toàn chấm dứt mà cũng không được chấm dứt…​

Thì do đó dù là thực phẩm, đồ ăn này kia có đầy đủ thì:

…​ ta cũng phải từ bỏ mà đi, không cần xin phép, không cần sống sát bên người đó nữa.

Mặc dù ở đó là rất sung sướng, rất đầy đủ, mà nhất định là - tâm mà không được an trú, không được định tĩnh thì chúng ta phải bỏ đi, không được ở với người đó.

Đó thì Đức Phật khuyên chúng ta là khi mà dù ở đó có ăn uống đầy đủ, có đời sống chúng ta rất là tiện nghi đi nữa mà tu hành mà chẳng ra gì đó, thì chúng ta cũng nên bỏ đi.

Bởi vì vốn Đức Phật bảo suy nghĩ mà: Chúng ta từ bỏ gia đình, không gia đình, sống một cách rất cực khổ thế này, mà rồi đến đó để cầu ăn uống thì thôi ở gia đình mình ăn uống có phải khỏe hơn không, đi làm gì cho nó cực? Đó, đó là cái ý của Đức Phật khuyên.

(48:03) Này các thầy Tỳ Kheo, ta sống gần một người nào, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm không định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ được đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, và những vật cần thiết cho đời sống của người xuất gia cần phải sắm đủ như đồ ăn khất thực, sàng tọa…​ kiếm được một cách khó khăn.

Này các thầy Tỳ Kheo, các thầy cần phải suy nghĩ: Ta sống gần người này, cần phải theo sát người này, không được bỏ đi.

Nghĩa là ta cầu cái pháp giải thoát chớ không phải cầu ăn uống mà ta bỏ gia đình, vì vậy mà sống gần cái người này ta thấy có được cái sự lợi ích của các pháp, cho nên ta luôn luôn bám sát người này, không có được bỏ người này đi, mặc dù ở đó đồ ăn, đồ uống này rất khắc khổ.

Chúng ta có thể ăn lá cây mà sống, có thể sống bằng rễ cây, bằng củ rạng, củ mài trong rừng mà sống, nhưng chúng ta thấy cái sự tu tập nó có kết quả, nó có hiệu quả, thì chúng ta không có nên bỏ cái người này mà đi, mà cũng không nên bỏ cái trụ xứ đó mà đi.

Kế đó Đức Phật lại khuyên chúng ta lần cuối cùng:

Này các thầy Tỳ Kheo, các thầy sống gần một người nào, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm chưa được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ hoàn toàn nay đã được đoạn trừ hoàn toàn, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được đạt thành nay đã được đạt thành, và những vật cần thiết cho đời sống xuất gia kiếm một cách dễ dàng.

Đó ở đây nó vừa là tu tập tốt mà vừa lại có đời sống đầy đủ, những cái tiện nghi vừa đủ cho một người xuất gia, cơm ngày một bữa, ăn mà khỏi cần phải ăn lá cây rừng, ăn củ rừng, thì đó là Đức Phật khuyên:

Các thầy phải trọn đời theo sát người này, không được bỏ đi, dù cho có bị xua đuổi cũng không được bỏ đi.

Đó, bây giờ thí dụ như mình gần cái người đó nè, cơm ngày một bữa đủ sống cho cái đời sống xuất gia, y áo của mình cũng ấm đầy đủ không có gì thiếu hụt hết, mà cũng rất dễ dàng tìm kiếm chớ không phải là khó khăn như những chỗ đó, mà bây giờ tu hành lại được an ổn, thì bây giờ dù có xua đuổi cách gì cũng không có được bỏ ông thầy đó hết. Đó, không có được bỏ ông thầy đó.

Cho nên Đức Phật dạy trong cái bài Khu Rừng nó có một ý nghĩa là chúng ta phải tìm một cái nơi - thứ nhất. Thứ hai chúng ta phải tìm một bậc thầy, mà khi đã tìm được bậc thầy xứng đáng rồi thì chúng ta không được rời, dù là bất cứ một cái hoàn cảnh nào, thì như vậy là con đường giải thoát chúng ta mới đến nơi đến chốn được. Còn nếu không thì khó mà đến nơi đến chốn.

4- HẠNH BUÔNG XẢ CỦA NGƯỜI TU SĨ

4.1- NGƯỜI XUẤT GIA CHỈ CÓ NHU CẦU BA Y MỘT BÁT

(50:40) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái giáo án mà học về cái giới bổn. Bây giờ chúng ta tiếp tục cái giáo án mà Thầy đã giảng vừa qua.

Quý thầy suy ngẫm: Người tu sĩ đã xuất gia thì ở trên cái thế gian này đâu có còn thích hội họp, đâu có còn thích ăn uống, đâu có còn thích áo quần lượt là, vải gói, cho nên vì vậy người tu sĩ thì phải đi lượm những cái vải gói của thây ma thì còn gì gọi là cái nhu cầu của người đó mà gọi là “cái nhu cầu”?

Nghĩa là cái người mà xuất gia người ta tu theo đạo Phật, thì người ta - ngày xưa Đức Phật còn đi lượm cái vải thây ma gọi là y phấn tảo, cho nên lấy những cái vải đó mà kết lại thành cái y mình mặc, thì bây giờ cái nhu cầu mà cần thiết của cái vị đó đâu còn nữa, đâu có còn gì mà gọi là cái nhu cầu cần thiết?

(52:01) Mà ở trên này thì phải nói là mình có tiền mình mới mua cái này cái kia để cho nó đúng cái nhu cầu cần thiết của mình. Cho nên cái người mà xuất gia theo Đạo Phật rồi thì cái nhu cầu cần thiết của họ nó không còn có nữa.

Nghĩa là họ có cái gì là họ sẽ sử dụng cái nấy cho cuộc sống của mình mà thôi, còn không có thì họ phải tri túc thiểu dục, tức là cái không có mà trong khi đó họ phải tri túc, ít muốn. Nghĩa là lúc bấy giờ mà chúng ta không có chúng ta mới muốn chớ, cho nên muốn tức là nhu cầu, mà không muốn thì đâu còn cái nhu cầu?

Do chúng ta hiểu cái chữ tri túc thiểu dục, nếu bây giờ Thầy có như thế này Thầy nói là Thầy tri túc thiểu dục, nhưng mai mốt nó không có cái này thì Thầy nói hết tri túc thiểu dục rồi sao? Tri túc nó theo từng cái cấp độ của nó.

Bây giờ một cái người, một vị tăng có đầy đủ y áo rất là đầy đủ, cơm ăn áo mặc đầy đủ, nhưng vị đó không có đòi hỏi hơn nữa thì cũng gọi là tri túc. Nhưng vị đó bây giờ nó trong cảnh khó khăn, cơm thì ngày có ngày không, y áo thì rách bươi hết, có khi phải chịu lạnh lẽo, do đó thì cái vị đó cũng phải tri túc theo cái hoàn cảnh đó chớ, chớ đâu đòi hỏi mà như cái hoàn cảnh lúc mà mình ở ngoài thành phố đâu!

Cũng như bây giờ mình vào rừng mình ở rồi, thì bắt đầu mình ăn lá cây rồi, thì mình thiểu dục tri túc ở trong cái môi trường của rừng rú, thì ăn lá cây sống mình vẫn thấy an nhiên.

Còn bây giờ mình ở trong đó mình nói cái nhu cầu cần thiết ở đây nó không có như ở thành phố hồi trước, vì vậy đó, bây giờ mình làm sao cho có được cái nhu cầu cần thiết đó như vậy nó vừa đủ để cho ấm áp, chớ giờ đây nó thiếu quá chừng, nó lạnh lẽo, hay hoặc là đau bệnh không có thuốc thang ở trong rừng núi, do vì vậy đó cái nhu cầu cần thiết đó nó không thể sử dụng ở một vị tu sĩ theo đạo Phật được.

Bởi vì cái hạnh tri túc thiểu dục của Ngài, của các vị tu sĩ này luôn luôn nó đi theo cái đời sống của nó. Nó tới đâu thì nó thiểu dục tới đó. Nó có thì nó cũng thiểu dục tri túc, mà nó không có thì nó cũng thiểu dục tri túc. Nghĩa là nó không đòi hơn cái chỗ nó có. Còn nếu mà cái không có mà mình đòi hơn tức là cái đó không còn gọi là thiểu dục tri túc.

Hiểu được chữ thiểu dục tri túc - cũng như bây giờ hôm nay chúng ta có ngày một bữa cơm chúng ta ăn, ngày mai chúng ta có cháo chúng ta ăn, chúng ta đòi hỏi: “Bây giờ cái nhu cầu tui phải ăn cơm, chớ ăn cháo vầy tui sống không có được” - thì cái người đó không phải là thiểu dục tri túc.

Mà cái người đó đó, còn đòi hỏi ở chỗ nhu cầu của ngày hôm qua. Ngày hôm nay ăn cháo mà ngày hôm qua ăn cơm, mà đòi hỏi ngày hôm nay phải ăn cơm thì tức là cái người đó không phải thiểu dục tri túc. Mà thiểu dục tri túc, ngày hôm qua chúng ta ăn cơm…​ (Mất tiếng)

(54:38) Tiếp tục học.

Bởi vậy cái hạnh tri túc nó phải từng cái cuộc sống của chúng ta nó phải phù hợp, mà nó phù hợp thì cái nhu cầu mà gọi là cần thiết cho một cái vị tu sĩ thì nó ba y một bát. Mà giờ ba y một bát đó mà nếu mà chúng ta không có đủ thì cái người mà thiểu dục tri túc vẫn thấy biết đủ.

Chớ nếu mình biết cho nó bằng như cái ba y một bát của mình, thí dụ như bây giờ nó lỡ là mình có ba y, mà bây giờ nó đã lỡ nó rách nát hết một cái rồi, thì bắt đầu bây giờ chúng ta cũng biết tri túc thiểu dục ngay lúc bây giờ chớ chúng ta cũng không có đòi hỏi nữa.

Nhưng mà khi mà có đủ cái duyên mà gặp cái người cư sĩ thì chúng ta xin: “Bây giờ thầy đã có một cái y đó đã rách nát mà thầy không còn sử dụng được, xin cư sĩ cúng dường cho thầy một cái chiếc y!” - thì họ sẵn sàng cúng dường. Nhưng mà chúng ta không đòi hỏi hơn cái mức mà thiểu dục tri túc của ba y một bát.

Đó, chúng ta phải lấy cái cơ bản đó. Chớ còn nếu mà chúng ta nói cái nhu cầu cần thiết thì cái nhu cầu cần thiết của chúng ta, bây giờ cái người nhà giàu, bây giờ cái nhu cầu cần thiết họ nó đến cái mức độ nào thì họ cũng đòi hỏi theo cái nhu cầu cần thiết của họ, thì biết cái nhu cầu cần thiết như thế nào?

Mà trong cái giới luật hiện hành mà chúng ta đã đọc trong cái giới bổn chúng ta thấy, thì cái vị tu sĩ mà phải đòi hỏi cái chỗ mà nhu cầu cần thiết, thí dụ như bây giờ như Thầy đã giảng: Một cái ông nhà giàu đó, họ giàu có, mà họ làm sao họ có bán được cái siêu thị đủ thứ đâu, cho nên họ làm sao họ cúng dường mình cho đủ cái nhu cầu cần thiết của mình được?

Đó. Cho nên vì vậy mà chúng ta phải căn cứ vào ba y một bát là tối thiểu của một cái người tu sĩ, mà dưới ba y một bát chúng ta vẫn thấy thiểu dục tri túc thì nó mới đúng. Còn bây giờ chúng ta lại đòi hỏi cái nhu cầu cần thiết hơn cái ba y một bát thì nó không đúng rồi.

Như vậy chúng ta mới hiểu được cái chỗ mà - cái người tu sĩ của chúng ta nó có cái khó cái chỗ mà giữ được cái hạnh thiểu dục tri túc.

Chỉ có những kẻ còn mang đầy tâm tham muốn, mới đòi hỏi nhu cầu cần thiết của thế gian.

Mà cái nhu cầu cần thiết của thế gian, biết chừng nào là cho đủ cái nhu cầu cần thiết của thế gian? Chúng ta suy coi, một cái người thế gian mà họ ai cũng đòi hỏi cái nhu cầu cần thiết của họ chớ gì?

Bây giờ chúng ta có một cái nhà ngói rồi, thì cái nhu cầu cần thiết của cái nhà ngói mà nếu mà chúng ta thiểu dục tri túc thì chúng ta cũng thấy biết đủ rồi.

Nhưng mà cái người đó đòi hỏi cái nhu cầu cần thiết: “Tui phải tiện nghi hơn cái nhà này, cho nên tui giờ phải cất cái nhà lầu hoặc là cái villa cà, chớ còn cái nhà này nó chưa có đủ cái nhu cầu cần thiết của tui, đời sống tui nó phải hơn nữa à!” Do đó cái nhu cầu mà đòi hỏi thì không thể nào mà gọi là nó đúng được.

Cho nên vì vậy mà trong giới luật nói rằng cái nhu cầu cần thiết - họ cứ nghĩ rằng nhu cầu cần thiết cho một cái người tu sĩ là nó phải ở cái mực nào, mà không có căn cứ vào cái mực nào thì nói cái nhu cầu cần thiết đó thì nó như là bằng thừa.

Còn bây giờ chúng ta phải căn cứ vào cái nhu cầu cần thiết của người tu sĩ đủ, thì bây giờ đó, thì chúng ta phải ba y một bát, ngày thì một bữa chớ không được đòi hơn cái bữa nữa. Mà đòi hơn thì tức là chúng ta đòi theo cái nhu cầu của thế gian rồi chớ không phải là nhu cầu của người tu sĩ.

Mà bây giờ nó dưới cái mực ba y một bát, bữa nay có cơm mà ngày mai không có cơm, thì chúng ta là người thiểu dục ít muốn cho nên nó có thì chúng ta cũng vui mà không có chúng ta cũng vui, vì chúng ta là người giữ hạnh thiểu dục tri túc.

4.2- TIẾP THỌ ĐỨC HẠNH, TRÍ TUỆ CHỨ KHÔNG TIẾP THỌ VẬT CHẤT

(57:54) Người ta viện lý do Tam Bảo có thể tiếp thọ, người khác có thể tiếp thọ, cho đến vị tu sĩ cũng phải có tiếp thọ.

Nghĩa là Tam Bảo thì cũng phải tiếp thọ, như Tam Bảo tiếp thọ thì phải chùa to tháp lớn, rồi cái người khác thì người ta cũng phải tiếp thọ Phật pháp, vì vậy cho nên nó phải cần hỏi kinh sách hay hỏi thế này thế kia. Và vị tu sĩ nó cũng cần phải có sự tiếp thọ, như bây giờ tiếp thọ như thế nào? Phải có cơm ăn, phải có áo mặc, phải có cái này kia, thì có những cái sự tiếp thọ.

Nhưng mà sự tiếp thọ ở trong cái hạnh tri túc thiểu dục chớ không phải tiếp thọ theo cái nhu cầu đòi hỏi của mỗi cá nhân, của mỗi cái sự sống, thì như vậy là không đúng.

Nhưng mà trong giới luật thì nó đưa ra những cái này để mà nó đòi hỏi cái nhu cầu, nhưng mà lại cái nhu cầu đó nó không có cái ranh giới, cho nên Thầy thấy những cái đòi hỏi của giới bổn như vậy là nó đi vào cái hướng phá giới.

Cho nên ở đây Thầy muốn nêu lên để chúng ta thấy rằng những cái danh từ này, nhiều khi chúng ta sẽ bị gạt. Bị gạt mà chúng ta thấy cái nhu cầu cần thiết của người tu sĩ phải vậy, vậy, chứ nếu thiếu nữa thì không thể tu được.

Mà mình chấp nhận là đời sống tu sĩ rồi thì mình còn thấy cái gì là thiếu nữa? Bởi vì chúng ta thấy cuộc sống của chúng ta đây là nó tạm bợ, nó không thật, cái thân thì nó vô thường, nó khổ, và bây giờ có giàu sang cách mấy đi, làm như vua chúa đi nữa nó cũng là khổ.

Mà bây giờ có nghèo đến đâu thì cái mực khổ nó cũng như vậy chớ không thể nào…​ Tại vì chúng ta chưa biết giữ cái tâm của mình thiểu dục tri túc, cho nên vì vậy mà mình thấy khổ. Chớ còn mình biết giữ thiểu dục tri túc thì chắc chắn là mình hết khổ rồi.

Tam Bảo tiếp thọ cái gì?

Tam Bảo tiếp thọ - không phải tiếp thọ chùa cao rộng lớn, không phải tiếp thọ chuông đồng, chuông vàng, Phật tượng đồng, Phật tượng vàng mà Tam Bảo tiếp thọ hiện bằng giới hạnh, giới đức, giới tuệ.

Nghĩa là chùa tranh vách lá đơn sơ, nó cái hình thức của một cái hạnh của một người tu, và cái chùa mà như vậy người ta mới thấy quý trọng hơn là một cái chùa mà cao sang như cái dinh thự của các vua chúa. Cho nên vì vậy đó mình phải thấy rằng Tam Bảo phải tiếp thọ cho đúng cách của nó.

Cái đằng này, tượng thì tượng bằng vàng, bằng đồng, bằng những cái chất mà có giá trị, có thể nói rằng bằng những cái thứ vô giá nữa, đó là những cái mà chúng ta thấy hiện giờ ở trên cái thế gian này đều là nhan nhản những cái điều đó. Đó là người ta quý trọng cái chỗ quý báu, coi rằng như là nhờ những cái này mà duy trì được cái mạng mạch cái Phật pháp, hiện tiền của Phật pháp.

(01:00:31) Chúng ta cũng chấp nhận cái điều này chớ không phải chúng ta không chấp nhận. Nhưng chúng ta phải suy xét: Những tượng vàng, tượng đồng này, những cái chùa mà tháp vàng, tháp đồng này, mà cao vút, mà kiên cố, mà vĩ đại, mà người ta gọi là những kỳ quan của thế giới, thì chúng ta lại thấy rằng nhìn ở trong những cái ngôi chùa đó đó, những nơi mà tôn giáo của Phật giáo như vậy đó, thì biết bao nhiêu là mồ hôi nước mắt của cái người dân không, của chúng sanh không? Biết bao nhiêu là cái công lao của người ta mà xây dựng, cất lên những cái kỳ quan đó không?

Nhưng mà cái người dân lúc bấy giờ họ có muốn không? Chắc chắn là họ không muốn đâu. Họ muốn cho họ hạnh phúc trong gia đình chớ ai muốn đi làm sưu, làm thuê, bắt sưu cao thuế nặng như vậy để mà đóng góp làm như vậy, để mà trở nên như vậy.

Lúc bấy giờ những cái ngôi chùa mà vĩ đại như vậy đó thì cả mồ hôi nước mắt của nhân dân, của cái nước đó. Nhà vua bắt buộc họ, họ là dân thì họ phải nghe theo chớ họ dám à, dám thì chống lại, ở tù, bị giết sao? Cho nên họ phải đem cả cái thân mạng của họ sống chết để mà lo, biết bao nhiêu người chết ở trên những cái công trình vĩ đại đó không?

Chúng ta nghe cái Vạn Lý Trường Thành là một kỳ quan của thế giới hiện giờ, thì chúng ta đọc lại cái lịch sử của Tần Thủy Hoàng thì chúng ta vẫn thấy biết rằng biết bao nhiêu người mà chết ở trên cái Vạn Lý Trường Thành!

Đó. Còn những cái chùa mà cao, đẹp, tốt như những cái nước mà có những cái kỳ quan mà do - như chùa Vàng, chùa Bạc đó, mà ở trên Campuchia hoặc là Thái Lan đó, thì chúng ta thấy rằng những cái ngôi chùa đó cũng là mồ hôi nước mắt của dân tộc ở đó đổ vô đó biết bao nhiêu không? Biết bao nhiêu là cái sự đau khổ của họ không?

Nhưng vì những nhà vua bấy giờ tôn sùng Phật giáo đến cái mức độ mà không thấy rằng trong cái mái chùa tranh vách lá đó nó tượng trưng nói lên được cái giới hạnh, giới đức của nó, cái giới tuệ của nó, mà nó không làm đau khổ cho một người nào.

Bởi vì mục đích của đạo Phật ra đời là không làm khổ mình, không làm khổ người, thế mà người ta tập trung vào những cái vĩ đại đó, để cho mãi mãi đời sau ca ngợi là công trình vĩ đại của người, nhưng mà trái lại để nỗi đau khổ, vì Phật giáo - vì Tam Bảo, vì Phật Bảo mà người ta để lại những sự đau khổ muôn đời, muôn kiếp.

Nhớ đến, nhìn thấy cái công trình vĩ đại, kiến trúc của người xưa mà vì tôn giáo như vậy thì nó không đúng cái lòng từ bi của Đức Phật chút nào hết. Nếu phỏng chừng ông Phật lúc bấy giờ còn tại thế mà nhìn thấy mọi người phải sưu cao thuế nặng để đóng góp, xây dựng những ngôi chùa như vậy, chắc ông Phật đến đó mà ổng xin rằng đừng có làm cái điều đó, vì đạo Phật không thể thực hiện được cái điều đau khổ đó.

(01:03:15) Cho nên chúng ta thấy rằng người ta nói vì Tam Bảo tiếp thọ, thì người ta nghĩ rằng phải tiếp thọ những cái gì mà để đời đời kiếp kiếp, nhưng chúng ta phải để những cái gì? Bằng những cái hạnh, bằng những cái đức, bằng những cái tuệ của nó, để làm cho những cái nét đó nó đơn sơ, nó làm cho người ta thấy được cái chỗ an vui cho mọi người ở trên thế gian này, thì đó là mới đúng.

Cho nên ở đây người ta dùng những cái này để mà dùng những cái danh từ là Tam Bảo tiếp thọ nè, thì phải tiếp thọ cái gì? Phải tiếp thọ sao cho nó trường cửu. Nhưng nó trường cửu bằng những cái đau khổ của mọi người, mọi chúng sanh thì cái trường cửu đó nó đi ngược lại với cái tinh thần từ bi của đạo Phật, nó không đúng cách.

Còn người khác tiếp thọ là tiếp thọ buông xả.

Nghĩa là mọi người mà đến với đạo Phật là người ta tiếp thọ là tiếp thọ cái gì? Tiếp thọ buông xả.

Còn tu sĩ thì tiếp thọ cái gì? Tiếp thọ tri túc thiểu dục.

Đó. Cái người cư sĩ, cái người mà theo đạo Phật mà đến với đạo Phật để tiếp thọ cái Phật pháp là tiếp thọ buông xả, vì có buông xả chúng ta mới có được an vui hạnh phúc. Nếu mà không buông xả thì làm sao chúng ta có được cuộc sống an vui?

Còn tu sĩ thì tiếp thọ gì? Chúng ta phải tiếp thọ tri túc thiểu dục, như vậy mới là ly dục, ly bất thiện pháp được, chớ còn không tiếp thọ tri túc thiểu dục thì không bao giờ mà chúng ta có thể ly dục, ly bất thiện pháp được .

4.3- PHÁP THIẾT TỊNH LÀ HÌNH THỨC CHO TU SĨ NHẬN TIỀN BẠC

Nên trên nguyên tắc của đạo Phật không cho tự thọ, tự cất chứa.

Những cái vật tiền bạc hay hoặc là tất cả những vật chất, nghĩa là không có cho chúng ta tự thọ bằng cách này bằng cách khác của mọi vật chất của thế gian.

Vì không được tự thọ, không được cất chứa nên hàng tu sĩ chạy theo dục lạc thế gian mới chế ra một thứ pháp thiết tịnh.

Đó bắt đầu bây giờ, chúng ta vì cái giới luật của Phật nó hạn chế mà không được:

Không được tự thọ, không được tự cất chứa nên hàng tu sĩ chạy theo dục lạc thế gian mới chế ra một thứ pháp gọi là thiết tịnh.

Nghĩa là không có cho mình cất giữ tiền bạc, hay hoặc cái này kia, hay hoặc là làm cái này cái kia, thì bây giờ mới chế ra cái pháp thiết tịnh. Vậy thì cái pháp thiết tịnh này là gì?

“Pháp thiết tịnh là mời một người cư sĩ…​

Bởi vì trong giới luật, người tu sĩ mình không có cất giữ tiền bạc, phải không? Mà bây giờ mà cất giữ tiền bạc thì đâu được, cho nên mới mời người cư sĩ:

…​ đến làm tịnh chủ. Hễ thu nhận được tiền bạc bèn nói là thay người cư sĩ kia thụ nhận:”

Chớ không phải là mình nhận mà người cư sĩ đó nhận.

“Đây là của tịnh chủ chớ không phải của chính của chúng tôi là tu sĩ.”

(01:06:13) Đó thì cái cách thức thiết tịnh là phải mời một người cư sĩ đến, rồi người cư sĩ đó đó, khi mà cái vị thầy đó có nhận thì nói với người cư sĩ đó: “Ông chịu làm cái tịnh chủ để nhận cái số tiền mà Phật tử cúng dường, vì cái giới luật của tui thì tui không có giữ được, không có nắm được tiền bạc.

Vậy thì bây giờ ông chịu làm cái người tịnh chủ để ông giữ giùm cái tiền bạc này. Khi đó muốn cất chùa hay hoặc là chùa hư, hoặc chúng thiếu thang thuốc cái gì đó, thì tui có thì tui mới lấy ra tui mua giúp cho chúng được, chớ còn nếu không thì tui đâu có tiền đâu mà tui tiêu! Còn đi xin Phật tử thì lúc bấy giờ mà gặp trường hợp như vậy thì xin cũng khó khăn.”

Cho nên cái vị thầy đó nói với vị cư sĩ như vậy cũng hợp lý. Cho nên vị cư sĩ này đến làm cái tịnh chủ. Nhưng mà làm cái tịnh chủ này bằng cái hình thức, chớ không phải là cái vị tịnh chủ này cất tiền bạc đâu.

Cái ông thầy cất tiền bạc, nhưng mà cái vị tịnh chủ này chỉ là chứng vậy thôi, rồi vị này về, từ sau về đó thì cái thiết tịnh này thì cái ông thầy đó được cất giữ tiền bạc, vì đương nhiên coi như là cái người cư sĩ này đã nhận cất giữ tiền bạc rồi, nhưng mà chính ông thầy đó cất giữ tiền bạc.

Quý thầy không có nghiên cứu kinh giới chớ Thầy nghiên cứu kinh giới Thầy thấy họ đặt ra nhiều cái nó lạ lùng lắm, nó kỳ cục lắm. Cho nên Thầy mới - Thầy nói thiệt ra thì mấy ông giới sư này họ cũng hay lắm, họ phá giới mà họ cũng đặt chuyện ra cũng giỏi lắm.

Cho nên muốn cất giữ tiền bạc thì kêu người cư sĩ đến làm cái bù nhìn trước cái đã, do đó sau đó mình cứ thu giữ tiền bạc mà không sao hết. Bởi vì coi đương nhiên là có cái ông đó nhận rồi, cho nên vì vậy mà mình có nhận đây là ổng nhận chớ không phải mình. Cái cách thức của họ là như vậy.

“Nhìn thì từ hình thức pháp thiết tịnh này giống như không cần phải có.”

Giống như là không cần phải có cái ông đó. Nghĩa là bây giờ ông đó ông đến ổng chỉ có cái buổi đầu tiên đó ổng nhận như vậy, rồi mình làm lễ cái pháp thiết tịnh này xong rồi thì ông ta về nhà chớ ông ta cũng không biết chùa mình bao nhiêu tiền hết à! Mình cứ ai cúng dường thì mình cứ cất, nhưng mà mình đã làm cái lễ đó rồi thì đương nhiên là coi như ông ta cất chớ mình không có cất.

Đó là một cái hình thức thiệt là Thầy thấy, không biết là Thầy hiểu làm sao không biết! Do đó bây giờ ông thầy ổng cất giữ tiền, ổng muốn mua gì mua chớ còn thiệt ra cư sĩ không có quyền mà chỉ đạo trên cái vấn đề mua hay này kia hết. Đó.

“Nhìn từ cái hình thức pháp thiết tịnh này thì giống như không cần phải có.”

Nghĩa là đâu cần có gì, bây giờ ông thầy ông cất chớ đâu có - ông kia chỉ có buổi lễ đó ổng làm cái lễ vậy thôi, rồi ổng về nhà ổng ngủ ở nhà, ổng không giữ đồng bạc nào của chùa hết à.

Thì bây giờ không có thì mình cất cũng được, có gì đâu, tại vì mình muốn phá giới thì mình cứ phá đi chớ còn mình bày đặt làm chi vậy? Đó là những cái lạ lùng ở trong cái giới luật mà - nghĩa là Thầy không biết là quý thầy có học tới không Thầy không biết, chớ Thầy đọc tới Thầy thấy sao nó kỳ quá!

“Kỳ thật nó có giá trị của sự tuân hành, vì người xuất gia ở trên bản chất tuyệt đối là không được thọ nhận tiền bạc. Nhưng đây cũng là một phương tiện bất đắc dĩ, quyết chẳng nên nhận vì có pháp thiết tịnh mà tham lam không biết chán.”

(01:09:19) Nghĩa là nhờ cái chỗ cái pháp thiết tịnh này, cái lòng tham lam của vị tu sĩ nó không có chán. Bởi vì dù sao đây trong tinh thần mình nghĩ là người ta cất chớ đâu phải mình cất, nhưng mà mình cất giữ cả tủ tiền mà mình vẫn cất giữ không sao hết, vì mình đã thiết tịnh, mình nói với chư Phật rằng: “Tui không có cất giữ tiền đâu, có ông cư sĩ ổng chịu cất giữ rồi!”

Cái đó là làm cái bùa để mà che mắt mấy ông Phật mà, để nói rằng: “Tui giữ gìn giới” chớ đâu có phải gì! Thầy biết là mấy cái ông này khôn lắm! Đó cái cách khôn của ổng đó là thiết cái pháp thiết tịnh như vậy đó.

Bởi vì thấy những cái điều mà sai khác, mà nó lạ ở trong kinh giới như vậy cho nên Thầy mới nêu ra để thấy được cái giả dối của cái người xưa, họ nhiều cách họ giả dối, hết sức giả dối.

Đã mình không cất giữ tiền bạc là mình phải hiểu cái ý nghĩa không cất giữ tiền bạc là mục đích gì? Là mục đích ly dục, ly bất thiện pháp, để cho mình đạt được cái chỗ mà giải thoát, chớ đâu phải là - bởi vì Phật biết cất giữ tiền bạc là nó không giải thoát, nó không ly.

Mà bây giờ mình cứ mình mạo những cái pháp này pháp kia để mình tự cất giữ tiền bạc, thì bắt đầu bây giờ nó có tiền bạc rồi thì cái tâm tham muốn của mình nó phải bừng lên, thì cái lòng dục của mình nó phải muốn chớ làm sao?

Từ cái chùa của mình bây giờ xấu quá mà thấy cái chùa người ta kia tốt hơn, mà bây giờ tiền mình cả đống đây không xài, không đem ra cất là sao? Mình phải cất! Đó là nó từ cái chỗ đó nó tham. Còn bây giờ mình không có đồng nào thì bây giờ chùa ai cất thì cất cái mình kệ, mình không có mình làm sao mình cất?

Và đồng thời mình tu sĩ như vầy mình mở miệng mình xin tiền ai cho được? Mình xin cơm người ta kia còn chưa được mà Phật dạy đâu có xin tiền, bây giờ mình đi xin tiền sao được? Cho nên cuối cùng thì mình ở chòi tranh vách lá, còn người ta thì người ta mạnh miệng, người ta có pháp thiết tịnh đồ người ta đi xin đồ được, chớ còn mình mình đâu có pháp thiết tịnh!

Đó là những điều mà chúng ta thấy trong cái giới bổn mà các tổ thường là luận về giới, hay hoặc là viết ra kinh giới, nó có nhiều cái nêu ra những cái pháp mà chúng ta thấy nó kỳ cục, nó không có đúng cái giới luật của Phật, nó làm cho con người không có ly được dục, ly bất thiện pháp.

“Pháp thiết tịnh có thể cảnh sách người xuất gia chẳng nên tiếp thọ tiền bạc quá nhiều.”

Ở đây, cái người mà luận về cái chỗ mà cất giữ tiền bạc này thì họ muốn nói cái pháp thiết tịnh này làm cho cái người xuất gia nó không có nhận tiền bạc nhiều.

Nhưng mà sự thật ra thì không có thể nào mà nói cái chuyện. Một cái - bây giờ một đồng bạc ông ta nhận rồi thì hai đồng ông ta nhận à. Mà bây giờ một đồng bạc không nhận thì bây giờ bao nhiêu ổng không nhận hết.

Còn bây giờ ổng đã nhận được một đồng, Thầy nói bây giờ ổng nhận được một cắc ổng cất rồi thì ổng sẽ nhận một đồng đó, chắc chắn là nó bắt đầu nó leo thang chớ nó không có đứng ở chỗ đó đâu.

Còn bây giờ chúng ta không nhận thì không thể nào là mình tiếp thọ thêm tiền bạc nữa. Còn nếu mà mình cứ cất giữ, là nó sẽ tiếp tục nó cất giữ và cất giữ càng ngày càng nhiều lên, chớ nó không giảm xuống đâu.

(01:12:09) Cho nên đối với cái pháp thiết tịnh Thầy thấy người ta nói để cho làm chúng ta bớt cái tâm tham, không cất nhiều, nhưng mà sự thật ra nó sẽ cất nhiều chớ không thể nào mà nói. Cái tâm con người nó khó lắm.

Cũng như bây giờ chúng ta nói: “Bây giờ, thôi bây giờ nó mệt mỏi quá, mình bị hôn trầm thôi mình nghỉ một chút cho khỏe đi!” Nhưng mà chính cái luận đó nó khỏe một chút đó chớ ngày mai nó sẽ tăng thêm một chút, cứ ngày tăng thêm chút, thì từ đó mình phá hôn trầm không được. Vì vậy mà lúc bấy giờ chúng ta muốn phá hôn trầm chúng ta phải tìm mọi cách để cho nó đừng có hôn trầm nữa.

Thì cái lòng tham của mình nó cũng y như vậy. Nếu mà hôm nay mình cất giữ một chút thì ngày mai mình cũng sẽ bị thêm nữa chớ không có bớt được.

Cho nên thiết tịnh có nghĩa là ở đây trong giới luật thì nó nói đó là một cái hành động, một cái pháp để làm cho chúng ta cất giữ tiền bạc nhưng mà không cất nhiều, nhưng mà sự thật cái đó là qua cái tâm lý con người thì cái pháp thiết tịnh này nó không có đúng cái lý của - không có hiểu được cái tâm lý con người đâu.

“Vì thế người xuất gia tốt nhất là không nên thọ nhận tiền bạc.”

Đó, bởi vậy cho nên cái người mà xuất gia rồi theo chúng ta nghĩ: Đừng có nên nhận tiền bạc.

“Nhưng nếu có nhu cầu giữa tiền bạc, chi phí thuốc thang lúc bệnh và chi phí sinh hoạt hàng ngày thì tự nhiên không ngại gì dùng pháp thiết tịnh để tiếp thọ tiền bạc.”

Nghĩa là nói ở đây chúng ta thì không có nên cất giữ tiền bạc, nhưng vì những cái nhu cầu thiết yếu như thuốc thang hay hoặc là sinh hoạt hàng ngày tiêu bao nhiêu nhiêu đó thì chúng ta nên cất giữ tiền bạc.

Thì Thầy thấy cái luận cứ như vậy để mà giữa cái cất giữ tiền bạc và cái không cất giữ tiền bạc thì đem cái pháp thiết tịnh này ra để làm cho cái người tu sĩ khỏi bị phạm cái hình thức giới luật. Nhưng mà về cái tâm thì không thể nào mà khỏi là phạm giới luật, bởi vì cái tâm tham của người ta nó chưa phải sạch.

Thậm chí như ông Phật ổng đã sạch cái lòng tham ổng rồi, thì thay vì ổng cất giữ tiền bạc cũng được chớ có gì mà phải vua chúa cất từ cái chòi lá cho cực? Cất giữ tiền bạc rồi đưa ông Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên bảo: “Bây giờ hai thầy đi ra ngoài chợ này mua một số lá dừa về cất đi, mình đi lại ông vua mình xin cũng cực, rồi rủi ổng có chuyện gì ổng quên đi rồi chư tăng đâu có nhà ở, thôi mình tiền sẵn!”

Nhưng ông Phật ổng đã ly dục rồi, ổng ly bất thiện pháp rồi, bây giờ đưa tiền ông đâu có cất nữa. Bởi vì ổng thấy cái đó là như thế nào đó, cho nên ổng đâu có cất. Tại sao mình không bắt chước ông Phật để rồi mình thiết cái pháp thiết tịnh này để rồi tu sĩ cũng bị kẹt ở trong đó?

Quý thầy nghe qua cái pháp thiết tịnh thì rất có lý nhưng thực tế thì không thể được, vì con người đâu phải là thánh nhân! Đụng tới tiền bạc là có sự cám dỗ, thu hút của nó, mà để bị nó cám dỗ thì biết bao nhiêu tiền bạc là đủ?

Đó, thì như vậy là trong giới luật chúng ta thấy họ luận ra nhiều cái pháp để mà phá giới mà coi như là mình không bị phạm giới.

4.4- TỔ CHỨC CƯ SĨ ĐỂ CHƯ TĂNG KHÔNG CẤT GIỮ TIỀN BẠC

(01:14:55) “Căn cứ sự quy định trong luật, người xuất gia là nương tựa chúng và sinh hoạt ở trong Tăng đoàn, nhu yếu phẩm trong sinh hoạt của người xuất gia, đều phải do Tăng đoàn sở tại cung cấp. Vì thế thường trụ tự viện có thể tiếp thọ tiền bạc, nhưng cũng bị hạn chế rất là nghiêm khắc.”

Ở đây thì trong các sách giới, các giới bổn thì nói là cái người tu sĩ của chúng ta là mình phải sống ở trong cái Tăng đoàn, mà trong cái nhu yếu phẩm hàng ngày sinh hoạt của người xuất gia thì phải do cái Tăng đoàn đó sử dụng.

Thì như bây giờ chúng ta đang ở trong cái Tu viện nè, chúng ta tu hành nè, thì bây giờ ăn, uống, mặc nè, rồi thuốc thang nè, đều là do cái Tu viện đài thọ, phải không? Chớ bây giờ chúng ta có đi xin người nào đâu.

Nhưng mà sự thật ra thì mình phải biết rằng, nếu mà mình cứ sống thế này thì chắc chắn là…​ Các thầy thì hiện bây giờ các thầy thấy rằng mình không cất giữ tiền bạc gì hết, không có ai cho gì hết, chỉ ở trong cái Tăng đoàn này cung cấp cho quý thầy thôi, nhưng mà cái người mà lãnh đạo, cái người đó đó phải cất giữ tiền bạc rồi.

Làm sao không cất giữ tiền bạc được? Không cất giữ tiền bạc làm sao hàng ngày mà có bữa cơm cho quý thầy ăn, hàng ngày mà quý thầy áo y mà rách thì làm sao có cung cấp cho quý thầy?

Cho nên ở đây cái lý luận của những giới luật thì nó lý luận là cái trụ thế tăng trụ ở một cái chỗ nào đó, một cái chùa nào đó, thì cái sinh hoạt nó phải có một cái sự tiếp thu tiền bạc hoặc thế này thế khác để cho cái nhu cầu cần thiết cho chư tăng nó được cung cấp đầy đủ cho cái bước đường tu tập của nó.

Nhưng mà không ngờ khi một vị thầy mà đã cất giữ tiền bạc rồi thì cái đám học trò này: “Thầy đã cất giữ tiền bạc được thì chúng con cũng cất giữ được chớ sao? Không lẽ bây giờ Thầy cất giữ mà không cho chúng con?”

(01:16:44) Thì như vậy chẳng hạn bây giờ Thầy nói Thầy là giảng này kia Thầy ăn ba bữa, mấy con tu hành không có giảng mệt như Thầy thì ăn một bữa, thì chúng chịu không? Đâu có cái lý do đó được! Bởi vì Thầy sao thì học trò như vậy.

Vì vậy mà trong cái thời Đức Phật, Đức Phật đâu có cất giữ tiền bạc, cho nên chúng đâu có nói Đức Phật được. Mà Đức Phật đâu có ăn phi thời, cho nên chúng không có nói được. Phỏng chừng bây giờ chúng ta có một ông thầy nào đó mà ăn phi thời thì bảo chúng ta ăn một bữa thì chúng ta có chịu không? Chắc chắn là chúng ta không chịu đâu! Đó là những cái…​

Mà bây giờ chúng ta trụ một cái nơi nào đó thì cũng như Đức Phật mà di chuyển đến một cái trụ xứ nào đó, thì Đức Phật cũng ở tầm một tháng, hai tháng, ba tháng, tức là trong cái mùa an cư kiết hạ, thì trong mùa an cư kiết hạ đó, thì Đức Phật cũng phải xin cư sĩ người ta cung cấp cho mình hàng ngày là bao nhiêu cái thực phẩm để cho một số chư tăng đó mà sống trong ba tháng. Thì tức là hàng ngày cư sĩ đó họ đến hay hoặc là họ giao cho ở đó có một cái người cư sĩ nào lo lắng.

Cũng như cái ông cư sĩ trưởng giả nào đó, ổng đâu có đến ông nấu cơm, ổng vô giao cho mấy thằng tỉ tất của ổng hay mấy đầy tớ ổng đến đó nấu cơm, để mà hàng ngày chư tăng phải đến đó để mà lãnh cơm về ăn. Hay hoặc là trong mùa an cư thì phải chở cơm gạo đến đó để mà cho chư tăng ở đó ăn ở trong mùa an cư mà không ra các cái giới đàn, giới tràng.

Đó, thì quý thầy thấy cái tổ chức nó phải có một cái tổ chức hẳn hòi.

(01:18:05) Còn như bây giờ đứng ở trong cái góc độ của Thầy bây giờ thì Thầy không cất giữ tiền bạc thật, nhưng mà dù sao đi nữa thì giao cho cô Út là một người cư sĩ đi nữa, nhưng mà cô Út cũng phải chi phí cũng phải dưới cái quyền của Thầy chớ, bây giờ chi cái gì cũng phải hỏi Thầy chứ, để không chi tầm bậy làm sao? Là như vậy Thầy cũng còn dính kẹt rồi.

Đó là một cái điều mà Thầy thấy Thầy chưa có đứng ở đúng cái cách thức của một vị tu sĩ trong cái thời Đức Phật. Cho nên bây giờ Thầy ba y một bát Thầy ra đi từ chỗ này đến chỗ khác, ai muốn theo Thầy thì sống cứ đi xin như Thầy vậy đó sống, còn chớ Thầy không có đi xin cho ăn nữa đâu.

Đó Thầy làm như vậy đó. Ai giỏi thì đến cái Thầy ở chỗ xóm đó thì bắt đầu cứ theo Thầy, rồi tới giờ Thầy cũng đi xin, người học trò cũng đi xin, làm giống như Phật vậy đó. Có xin được ăn mà không xin được thì đói chịu, còn Thầy xin được Thầy cũng không cho ăn đâu, bởi vì Thầy xin có đủ Thầy thôi!

Đó, làm như vậy chúng ta mới thấy được cái đời sống của một cái vị tu sĩ, thiểu dục tri túc mà. Ngày hôm đó Thầy xin được, thì học trò xin không được không có nghĩa là Thầy sớt cho cái người học trò ăn đâu, mà Thầy cứ tự nhiên Thầy ăn thôi, còn người học trò phải sống thiểu dục tri túc ngày hôm đó.

Đó, có như vậy là mới thấy được cái sự giải thoát. Chớ còn nếu không thì quý thầy cứ y rằng ngày nào cũng có bữa cơm chắc ăn hết thì cái đó là mình cũng chưa chắc là đã thiểu dục tri túc, vì mình chắc chắn ở trong tâm của mình yên ổn.

Nhưng ở đâu mà có vị chân tu như Thầy đã nói, thì ở đó không bao giờ có chết đói, đi khất thực là có ăn, đi khất thực là có ăn. Tại vì cái phước báo của cái vị đó rất lớn, nó có đủ cái duyên để cho những cái người khác mà theo họ mà đi xin đều là có sống hết, không có đói.

Đó, thì như vậy chúng ta thấy rằng trong giới luật nó có nhiều cái quy định mà nó chế ra những cái pháp nó làm cho cái giới luật của Phật sau này nó bị mất đi, vì vậy mà hình thức tu sĩ của chúng ta hiện giờ mà nó phạm giới, nó sống theo cái kiểu thế gian, thì chúng ta đâu có nên trách họ mà chúng ta hãy thương họ. Đó, thương họ.

“Căn cứ sự quy định trong luật, xuất gia là nương tựa chúng sinh hoạt ở trong Tăng đoàn, nhu yếu phẩm trong sinh hoạt của người xuất gia đều phải do Tăng đoàn sở tại cung cấp.

Vì thế, thường trụ tự viện có thể tiếp thọ tiền bạc, nhưng cũng bị hạn chế rất nghiêm khắc: Tỳ Kheo không được chính tay mình cầm nắm, Sa Di cũng không có thể cầm nắm giữ, chỉ có tịnh nhân Ngũ Giới phụ trách trách nhiệm tiếp thọ, bảo quản. Cho đến…​”

Nghĩa là cái “chỉ” ở đây chúng ta thấy chỉ có cái người tịnh nhân là cái người cận sự nam hay cận sự nữ, hay là hoặc là những cái người tịnh nhân mà mới vào tu đó, gọi là cận trụ nam hay là cận trụ nữ đó.

Ở đây giới cư sĩ thì chúng ta có chia làm bốn cái hạng người. Cái hạng người cận trụ, tịnh nhân mà cận trụ là cái người đó là người cư sĩ đang ở trong chùa, thì cái người đó cầm nắm giữ tiền bạc được. Còn cái người cận sự nam, cận sự nữ là cái người đó ở ngoài gia đình, họ đến đây họ cúng dường rồi họ về chớ không có ở đây.

(01:21:12) Còn cận trụ á, cận trụ là ở tại chùa. Cho nên ở chùa chúng ta thấy có những người cư sĩ mà họ tập sự đó, để mà họ lần lượt họ mới xuất gia, họ mới thọ Thập Giới Sa Di, thì cái người đó gọi là tịnh nhân, thì như vậy là chúng ta biết cái người tịnh nhân họ vô đó họ phụ trách cái nhiệm vụ bảo quản, nhận tiền bạc cúng dường này kia.

Vì vậy mà chúng ta thấy, rõ ràng là hầu hết là bắt đầu mà nếu mà giao cho một cái người nào đó thì chúng ta tin cậy giao cho họ, mà không có cái người tịnh nhân như vậy đó thì chúng ta không thể giao cho họ.

Mà ở đời chúng ta thấy, cái lòng tham của cái người khi mà họ tiếp nhận cái tài sản của tu viện, nó lớn lắm, Thầy nói nó chưa có nhỏ đâu, và cái người cận trụ nam hay cận trụ nữ mà quản lý cái tiền bạc đó đó, thì họ sẽ bị đắm.

Bởi vì họ là người mới tập sự, họ bị đắm chìm ở trên cái tiền bạc đó đi, nhiều khi họ ôm đi hết, do đó cuối cùng thì chùa chẳng có đồng gì hết, mà lại làm thêm cái tội nữa.

Cho nên tốt hơn hết là chúng ta phải tổ chức như thế nào để giao cho một cái người cư sĩ họ có cái khả năng họ làm ra tiền bạc, rồi họ tổ chức cho một cái câu lạc bộ hay hoặc một cái tiệm ăn nào đó, rồi họ buôn bán ở trên cái tiệm đó, rồi họ phát tâm cúng dường cho chúng ta một số tu sĩ là 100, 200 người thì hàng ngày chúng ta đến chỗ đó chúng ta xin ăn, thì trong cái giai đoạn hiện tại chúng ta tu tập như vậy là nó có thể là đúng cách.

Còn bây giờ mình ôm bát mình đi xin từng nhà thì nhà nghèo họ cũng cho mà nhà giàu cũng cho. Nhưng mà cái người nghèo họ rất khổ, nhưng mà họ quý trọng Phật pháp, họ quý trọng cái đức hạnh của chúng ta, họ phải nhịn từng bát cơm mà cúng dường ta, thì cái người tu sĩ mà chúng ta đã không làm khổ người, không làm khổ mình mà thấy họ dành dụm từng cái bát cơm để cho mình ăn thì chắc chắn là mình người tu sĩ mình không nỡ tâm đâu.

Cho nên mình thấy có nhiều người nhà giàu rất giàu, họ bây giờ bỏ bạc triệu họ cúng dường mình chẳng bao giờ họ có thể đói, mà cái người nhà nghèo họ bỏ ra bát cơm cho chúng ta ăn thì chiều hôm đó vợ chồng người ta đói.

Thì trong cái thời Đức Phật, có hai vợ chồng đó chỉ còn có cái y thôi à, hễ mà vợ đi ra mặc cái y đó thì chồng ở trong hang chớ không dám ra, bởi vì lõa lồ thân thể đâu có gì mà che! Cho nên vì vậy đó mà hai vợ chồng có cái y à, mà đến khi Đức Phật đi ngang qua đó thì ngưỡng mộ Đức Phật cho nên mới đem cả chiếc y của mình mà cúng dường cho Đức Phật.

Do chỗ đó đó thì người ta mới nói rằng khi mà nghe vậy đó, thì có nhà vua đang nghe Phật thuyết pháp, và Đức Phật mới thuyết pháp đến chỗ này, nhà vua mới nghĩ đến thương hai người vợ chồng này mới kêu, mới cho y áo rất đầy đủ. Do vì vậy mà người ta nói cái ý như vậy đó là mình nghèo mà mình cúng dường như vậy đó chắc chắn là sẽ được y áo đầy đủ.

Mà trong hiện tại thì thật ra thì - trong thời Đức Phật thì có chớ nếu mà ai mà đem y áo như vậy mà đem cúng dường Thầy rồi thì chắc chắn hai vợ chồng này ở truồng không dám đi ra, chắc chết đói luôn ở trỏng đó!

Thật sự cúng dường, bây giờ cúng dường Thầy đi, rồi bây giờ Thầy có vua chúa nào đến đây đâu mà Thầy nói mà cúng dường cho phải không? Thì chắc chắn hai vợ chồng ông đó đâu có dám ra, ở truồng mà làm sao có dám ra, có cái y mà, thì do vì vậy mà có thể chết luôn ở trong đó nữa chớ chưa hẳn đã là…​

(01:24:24) Bởi vậy cho nên một khi mà chúng ta nhận một cái gì chúng ta phải suy nghĩ lắm: Cái người đó có thể cúng dường mình mà người ta còn có thể sống được hay không?

Còn người ta cúng dường mình mà người ta nghèo quá thì mình tìm mọi cách mình an ủi họ, mình giúp họ bằng cách nào để cho họ tu tập trong cái hành động thiện của họ để lần lượt họ chuyển đi.

Chứ bây giờ mà ngay đó họ bố thí cho mình như vậy để cầu cho được cái y áo, được ăn mặc đầy đủ như vậy, thì chắc chắn là cái phước của mình nó không thể chuyển được cái nghiệp khổ của họ nổi đâu. Bởi vì chính họ họ phải chuyển chớ đâu phải là lấy cái phước của Thầy mà chuyển được họ đâu!

Thầy có tu thành Phật đi nữa, cái phước của Thầy Thầy hưởng chớ làm sao cái người đó hưởng được. Mà khi mà Thầy tu cái phước của Thầy, mà cứ họ làm ác không, thì bắt đầu làm sao mà họ - mặc dù họ đem hết cái sự làm ác của họ mà họ đem cúng dường Thầy thì tức là họ cũng không chuyển được cái nghiệp của họ đâu.

Cũng như bây giờ họ ăn trộm ăn cướp, nhưng mà họ ngưỡng mộ Thầy, thì cái chuyện ăn trộm ăn cướp của họ là một lẽ làm ác, nhưng mà ngưỡng mộ một vị tu sĩ thì họ vẫn đem cúng dường chớ sao, nhưng mà cúng dường như vậy nó có tốt lành gì cho cái người cư sĩ đó đâu?

Cho nên ở đây chúng ta - về cái đạo đức nhân quả thì Thầy sẽ dạy rất rành ở chỗ này, còn bây giờ thì chúng ta đi qua cái chỗ này để cho nó nhanh hơn.

“Điều này ngày nay không có cách nào làm được.”

Nghĩa là bây giờ đó, coi như là giao cho người tịnh nhân như vậy rồi thì - hoặc là vì cái sự mất mát, vì cái sự tiền bạc cám dỗ đối với những người cư sĩ mà giao tiền bạc đó, nhiều khi họ lợi dụng cái chỗ đó mà họ làm cho chùa nhiều cái điều mang tiếng, rất là mang tiếng, cho nên vì vậy mà bắt đầu các thầy đều là cất giữ tiền bạc hết.

“Như có thể giữ cho không tham cũng đã là khó rồi, chớ tuyệt đối mà không cất giữ tiền bạc gần như là việc ít thấy ở trong đời nay.”

Nghĩa là giữ cho tâm mình đừng có tham là nó là quá khó rồi đó, chớ tuyệt đối mà không cho cất giữ tiền bạc thì gần như là hiện thời Phật giáo chúng ta thì ít có thấy lắm.

Đúng vậy, trong giới luật nó cũng đã xác định được cái điều này rất là khó. Nhưng mà khi một người cất giữ tiền bạc mà giữ cái lòng tham của mình đừng có tham thì nó không bao giờ có được đâu. Nó có tiền bạc rồi thì nó phải có tham thôi, nó không tham cái này thì cũng tham cái khác, cho nên rất khó.

Con đường của đạo Phật chúng ta thấy cái chỗ này là cái chỗ rất khó nhất chớ không phải là dễ. Không đơn giản đâu, nói thì nó dễ chớ không đơn giản đâu.

Tiền bạc nó có sự thu hút, và nó - cái nhu cầu, cái ước muốn của chúng ta, bởi vì từ cái chỗ tiền bạc đó nó có tham, tham thì chúng ta mới thấy cái dục của chúng ta, cho nên là làm sao chúng ta ly được mà chúng ta nhập được Sơ Thiền.

Muốn ly dục, ly ác pháp, người xuất gia chẳng những không được cầm giữ tiền bạc mà…​

Tiền bạc, vàng bạc, châu báu nữa.

…​ mà tất cả vật báu quý…​

Nghĩa là các vật báu quý cũng không cất giữ được nữa.

…​ đương nhiên cũng không được cất giấu và súc tích.

Một cái gì nữa hết.

(01:27:20) “Nhân vì đồ quý làm cho tâm tham đắm, một khi đối với vật bên ngoài sanh khởi tâm tham đắm, đó là tâm bị vật chuyển, do thế tâm khó giải thoát được.

Thuở xưa, có một vị xuất gia, vị ấy đã thấy suốt thế sự danh lợi, ở ẩn một mình nơi chỗ yên tịnh tu tập, đã chẳng viếng thăm ai và cũng không tiếp khách đến thăm. Nhưng vị ấy còn yêu thích và quý có chiếc bát đựng thức ăn mà thôi.”

Nghĩa là ba y một bát đó, mà cái vị này còn thích cái chiếc bát của mình lắm

“Có một vị đạo nhân biết vị ấy còn một khuyết điểm này, bèn đến gõ vào chiếc bát của vị ấy. Khi đang ngồi thiền, vị ấy nghe tiếng gõ cái bát của mình, sợ người ta gõ bể cái bát của mình đi, vị ấy liền vội vàng từ chỗ ngồi thiền chạy ra, người gõ bát bèn giáo giới cho vị ấy: “Tôi biết ông tất cả đều buông xả hết, chỉ có cái bát này là chưa buông xuống mà thôi.””

Đó, các con thấy chưa? Thấy một vật nhỏ mà chưa buông tức là chưa ly rồi, mà chưa ly làm sao đạt được đạo? Mà cái bát hàng ngày mình sợ nó đụng tới nó bể đi, mà bát đất mà nó có gì đâu quý! Bể lấy gì ăn đây? Cho nên còn một chút đó, bể mặc nó, không có lo nữa. Do cái xả hết đi, xả sạch đi thì cái ly nó mới hết, còn một chút…​

Cho nên cái câu chuyện nói thì cũng là cái câu chuyện đặt thôi, nhưng mà nó có lắm. Bởi vì chúng ta xả hết chớ những vật mà nhỏ nhất chúng ta chưa xả được. Thầy nói một cái chai dầu mà dầu gió thôi, nhiều khi chúng ta cũng chưa dám xả nữa, chớ chưa nói là chúng ta xả đâu: “Thôi để dành đó ít bữa có sổ mũi, trét nó một cái.” Thì như vậy là chúng ta cũng chưa dám xả chớ gì?

Cho nên có hay không thì chúng ta biết được cái chỗ tu hành của chúng ta là cái chỗ ly dục, ly bất thiện pháp. Khó lắm, khó lắm quý thầy! Chớ không phải đơn giản, nói thì nghe như vậy chớ xả ra rất khó. Bởi vì xả cái lớn chúng ta xả được đó, mà xả cái nhỏ chúng ta xả không được.

Cũng như một vị quan họ thanh liêm ở trong cái vật chất nhỏ, nhưng mà đến cái vật chất lớn quá họ thanh liêm không nổi. Một hai ký vàng đó thì họ - một, hai lượng vàng thì họ còn thanh liêm được, tới chừng đó họ năm, mười ký vàng người ta hối lộ, cái ông thanh liêm này ổng hết nổi, thành ra ổng chịu lấy mấy ký lô vàng.

Hồi đó một hai ký vàng thì ổng còn thanh liêm, ổng nói ít quá ổng thanh liêm được, nhiều quá cái ổng thanh liêm không được! Còn cái người tu sĩ mình bỏ cái lớn được hết, mà tới cái nhỏ coi chừng cái đó nó chưa ly.

Vì vậy cho nên cái mục đích của đạo Phật mà Thầy thường nhắc quý thầy là do ly dục, ly ác pháp. Mà nếu ly được thì chúng ta sẽ là thành tựu được cái giới hạnh rất là cao quý mà Đức Phật nhắm vào giới luật để dạy chúng ta đó.

Bởi vì có giới luật nó mới kiểm nghiệm được cái chỗ ly của mình, mà không có giới luật thì làm sao kiểm điểm được cái chỗ ly của mình? Bây giờ còn cất giữ tiền bạc mà nói: “Tui ly dục, ly bất thiện pháp, tui nhập Sơ Thiền” thì cái ông đó chẳng qua là nói láo rồi! Ông còn một túi bạc kè kè mà ông biểu - ông đi đâu ông cũng mang theo mà ông biểu ông ly thì tui ly chỗ nào?

Đó là cái bằng chứng cụ thể, chớ không phải là một cái không có cái bằng chứng cụ thể.

5- SỰ XUẤT HIỆN CỦA SA DI TRONG TĂNG ĐOÀN

(01:30:27) Bây giờ Thầy nói qua đẳng vị của các bậc, các loại Sa Di.

“Giáo hội đầu tiên lúc Phật còn tại thế, trong Tăng đoàn không có Sa Di. Sự xuất hiện của Sa Di trong Phật giáo so với sự xuất hiện của Tỳ Kheo Ni sớm hơn một chút.”

Nghĩa là Sa Di mà có mặt thì nó trước Tỳ Kheo Ni một chút mà thôi.

“La Hầu La là con của Đức Phật xuất gia mới bắt đầu có Sa Di.”

Nghĩa là cái đứa bé đầu tiên mà thọ giới Sa Di thì đó là La Hầu La, còn trước kia thì hoàn toàn là Tỳ Kheo không chớ không có La Hầu La.

Các thầy sẽ thấy trong giới luật nó đặt điều những cái đủ thứ để nó làm các pháp Yết Ma, nó rườm rà vô cùng lận. Còn trong thời Đức Phật thì đơn giản, rất đơn giản, nó không có làm những nghi thức mà nó rườm rà.

Càng tới chúng ta sẽ thấy được cái người sau họ ảnh hưởng của cái tôn giáo này, cái tôn giáo kia bằng cái nghi lễ, rồi họ đem vô họ nhét vô trong Phật giáo quá nhiều. Cho nên bây giờ mà chúng ta tổ chức giới đàn hay hoặc là tổ chức cái gì đó, hầu như là chúng ta cũng đạp cứt mấy cái tôn giáo khác chớ không phải của Phật giáo đâu! Bởi vì chúng ta nhìn kinh giới của Phật dạy đâu có cái điều này.

“Tăng đoàn của người xuất gia Phật giáo cũng tương tự như tình hình của đại gia đình.”

Nghĩa là trong cái Tăng đoàn của Phật giáo thì nó cũng giống như một cái đại gia đình vậy, cũng như giống như trong một cái gia đình. Nhưng mà cái gia đình thì có ít người, còn cái Tăng đoàn thì nó đông người, cho nên gọi là cái đại gia đình.

“Người xuất gia ra khỏi “nhà hữu vi” của thế tục và vào “nhà vô vi” của xuất thế.”

Đó thì cái người xuất gia thì người ta ra khỏi cái nhà hữu vi mà người ta vào cái nhà vô vi của xuất thế, thì chúng ta thấy từ cái nhà này chúng ta bước qua cái nhà kia. Mà nhà kia là cái nhà hữu vi còn cái nhà này là nhà vô vi, cho nên chúng ta buông xả hết, chớ còn nếu có một chút gì thì nó không còn có được nữa.

“Trong cái đại gia đình vô vi không tạo nghiệp sanh tử này có nam, có nữ, có già, có trẻ, có lớn, có nhỏ dung hợp đối xử nhau hòa thuận, vui vẻ. Sự tiếp nhận Tăng đoàn của Sa Di là nhân tài của Phật giáo…​”

(01:33:02) Nghĩa là, ở đây Thầy muốn nói như thế này. Nghĩa là sự tiếp nhận Tăng đoàn của Sa Di mà vào ở trong Phật giáo là để cái mầm non của Phật giáo nó tiếp nối, là cái nhân tài của Phật giáo sau này nó sẽ tiếp nối.

Đó thì quý thầy thấy rằng: Khi mà có những Sa Di mà vào ở trong cái Tăng đoàn của Phật giáo là những cái người mà tiếp nối cho cái Tăng đoàn. Còn nếu không có Sa Di, mấy ông già chết riết hết rồi còn có ai mà tiếp nối đâu? Mấy chú trẻ đâu còn!

Cho nên bây giờ ở trong cái đại gia đình của mình bây giờ ở đây là mười mấy người đây thì chúng ta thấy có già, có trẻ. Nếu mà cỡ già không thì chúng ta chết quách hết rồi, thì còn ai gọi là Tăng đoàn nữa? Thì như vậy là Tăng Bảo nó mất đi.

Cho nên bây giờ chúng ta nhìn cũng có người già, người trẻ, chúng ta chết rồi cũng có người kế, rồi những người kế này họ sống, rồi họ lớn lên, họ nhận những người trẻ nữa thì nó có những chú Sa Di vào nữa, và cứ như thế mà tăng già nó vẫn còn hoài, nó không mất.

“…​ tăng thêm sự nối tiếp lực lượng mới sanh.”

Nghĩa là có Sa Di thì nó mới có tăng thêm cái lực lượng mới.

“Vì thế, phần tử Sa Di lấy nó mà làm chủ yếu.”

Lấy cái Sa Di đó làm cái chủ yếu cho cái Tăng đoàn mà nối tiếp sau này.

“Phần chủ yếu của Sa Di là nhi đồng.”

Đó, các thầy thấy. Nếu mà cái phần chủ yếu của Sa Di mà lấy người già mà làm Sa Di thì nó cũng chết như lượt với mình. Cũng như quý thầy bây giờ già phải vô thọ giới Sa Di chớ làm sao mà thọ gì hơn nữa, mấy ông già này Sa Di chưa thọ Tỳ Kheo ổng đã chết ngắc rồi thì còn ai mà nối tiếp nữa? Mấy ông Sa Di già này tiêu hết rồi thì sao có mấy ông Tỳ Kheo!

Cho nên cái phần chủ yếu của Sa Di là lấy nhi đồng mà làm. Mà nhi đồng thì phải từ bảy tuổi, tám tuổi trở lên chớ còn dưới đó thì không được độ. Nhỏ quá thì đâu có độ được.

Bởi vì con nít mà làm sao sống được cái đời sống tu sĩ. Mà đã là Sa Di thì phải thọ Thập Giới rồi, mà ăn ngày một bữa thì làm sao mấy chú nhỏ này họ làm sao họ sống được. Cho nên nó phải từ bảy, tám tuổi trở lên nó mới có thể sống được.

Trong luật, dưới bảy tuổi không được xuất gia.

Nghĩa là dưới bảy tuổi thì không sống được cái đời sống của xuất gia đâu.

Già mà trên bảy mươi tuổi cũng không cho xuất gia nữa.

Bảy mươi mốt tuổi thì không được xuất gia rồi. Vì tại sao vậy? Già thì cũng không sống được trong cái Tăng đoàn này, vì đi xin ăn.

Nhưng mà chúng ta thấy ở trong những cái trang Thánh Ni, những cái trang Thánh Tăng ở trong cái thời Đức Phật, người ta già bảy mươi mấy, tám chục tuổi như ông Hiếp Tôn Giả đức Phật còn thu mà, cũng còn cho thọ Tỳ Kheo nữa chớ đừng nói thọ Sa Di không.

Do vì vậy mà chúng ta thấy trong cái thời Đức Phật nó rộng rãi vô cùng lận. Miễn là người đó vào tu mà chứng đạo là thôi, miễn là làm sao cho người đó giải thoát thôi chớ không có hạn chế cái tuổi tác. Mà ở đây trong giới luật các thầy thấy nó giới hạn ghê gớm lắm.

Một chú mà dưới bảy tuổi thì không cho xuất gia, nhưng biết đâu chú mới có năm tuổi mà là thần đồng làm sao? Mà không cho xuất gia thì một chú thần đồng năm tuổi mà vô đó nó là làm Trưởng lão rồi thì quý vị nghĩ sao?

Nó giải thoát rồi. Nó còn đi móc dế à, mà nó là chỉ cái ông Thượng tọa mà phải tu theo kiểu móc dế của nó: “Muốn bắt con dế thì phải đậy cái lỗ như thế này nè, nó có sáu cái lỗ nè, ông phải đậy hết năm cái lỗ này, ông chừa cái lỗ này, thì ông sẽ bắt được con dế à!” Nó dạy như vậy đó. Nói bắt dế mà nó nói cái chuyện tu của nó mà nói chuyện bắt dế không à.

(01:36:32) Mà cái vị Thượng tọa đó tu quá lâu rồi, lớn tuổi rồi, mà năm, sáu chục tuổi rồi mà tu không chứng, mà lại đến hỏi cái chú Sa Di. Bắt đầu ổng hỏi ai, ai cũng không chỉ hết, thì ai cũng không nói: “Ông cứ về ông tu đi chớ tui cũng không biết, tui mắc tu.”

Đến cái chú Sa Di nhỏ tuổi nhất ở trong cái đoàn đó, thì lại chú, chú lại chỉ bịt mấy cái lỗ con dế đi hết, ông bịt hết, bịt hết, ông chừa một lỗ cái ông bắt nó được. Như vậy thì rõ ràng là mình có cái tụ điểm mình nằm đó chớ gì? Cho nên bắt được sáu con dế hết. Các con thấy không?

Đó là những cái mẩu chuyện mà sau này Thầy có thể Thầy thuật lại cho quý thầy nghe cái chuyện - nó mắc tức cười là một cái người mà tu rất lâu, học giáo lý rất thông, mà cái chú Sa Di mới vô mà chỉ ổng bày cách bắt dế là cái ông này đã chứng đạo quả A La Hán liền. Đó là cái hay của cái người…​

Bởi vậy Thầy nói thần đồng ở trong Phật giáo mà! Mà ngay đó là chú đó lại là Trưởng lão, Thượng tọa đó, chớ không phải là thường đâu. Bởi vì Đức Phật mà gọi là Trưởng lão là cái bậc mà đã tu chứng rồi đó, dù là cái người đó mới là Sa Di cũng vẫn là Trưởng lão chớ không phải khi chê người ta tuổi trẻ đâu.

Cho nên vô đó, cái chú dẫn lại cái hang dế chú chỉ cho ông đó, ông đó ổng hiểu liền tức khắc, ông về ông bịt hết sáu cái mắt, tai, mũi, miệng, ông chừa có cái ý thức ổng thôi, năm cái lỗ kia ông bịt lại hết, bịt riết hết nghe hết gì hết, tức là ổng thành tựu chớ gì! Rõ ràng là tu đúng đó.

Hiểu được mà biết bịt thì được phải có pháp hành dữ lắm, vì vậy chắc là cái ông thầy này ổng phải đến hỏi: “Chú bịt cách nào mà nó không nghe đó?” Phải không? “Chứ tui bịt sao mà nó nghe hoài!” Do đó thì cái chú này mới nói: “Thầy, thầy bịt như vầy nè nó không nghe! Đó, thầy bắt chước thầy bịt đi!”

Thì về cái ổng làm thử: “Chà nó không nghe được. Đúng! Chú nhỏ này hay thiệt chứ, chú Sa Di này ngon thiệt chớ! Vậy mới là A La Hán chớ! Mới thầy của mình chớ!” Tới cuối cùng thì cái ông thầy này trở lại là làm đệ tử cho một chú Sa Di năm tuổi chớ đừng nói là bảy tuổi.

(01:38:23) Cho nên trong cái giới luật Thầy nói nó nhiều cái mà nó có thể nó vô lý lắm, nó bắt hạn chế tuổi người ta thế này, thế kia, thế nọ, đủ thứ hết.

Một cái người mà - thật sự ra thì trong cái Tăng đoàn á, thì nó có cấm là cái người mà cụt tay, què chân đồ, chột mắt thì không có cho tu, không có cho xuất gia, không có cho thọ Tỳ Kheo, là tại sao vậy? Tại vì là trong cái Tăng đoàn mà đi ra đó mà đi xin đó, mà người ta thấy cụt tay, cụt chân người ta nói: “Trời ơi, Phật giáo gì mà toàn là thứ cụt chân, cụt tay không!” Cho nên vì vậy đó trong giới luật nó cũng cấm nữa.

Nhưng mà trong cái bình đẳng của đạo Phật chúng ta phải hiểu là: Cụt tay, cụt chân là cái nhân quả của người ta chứ cái tâm người ta đâu có cụt tay, cụt chân, cho nên chúng ta cũng dạy họ tu được chớ đâu phải họ không giải thoát được? Cái thân là nó là vô thường mà, đâu phải vì cái thân mà bỏ người ta như vậy!

Cho nên vì vậy đó, theo Thầy thiết nghĩ, người nào thì kệ, ai chê Tăng đoàn chúng ta cụt tay, cụt chân cũng được, như vậy là chúng ta mới thấy thương người chớ. Còn cái này chê người ta cụt tay, cụt chân không cho thọ gì hết: “Thôi ông tu vậy ông vô cái Tăng đoàn tui ông làm xấu hết. Người ta nói tu sĩ của Phật giáo sao mà què tay, què chân, cụt cẳng, cụt giò hết trơn vậy, tất cả vậy!”

Cái đó là cái nghiệp của người ta riêng, nhưng mà mình phải độ cho người ta giải thoát thôi. Do cái tâm ly dục, ly bất thiện pháp của người ta, nhiều khi người ta cụt tay cụt chân mà người ta có thể người ta ly được. Còn mình còn nguyên tay nguyên chân, nhiều khi mình ly không được làm sao?

Cho nên Thầy nhiều khi mà Thầy đọc giới luật Thầy thấy rất thương. Tại sao mà họ chế giới ra họ ngăn cản quá độ như vậy?

Cũng như một vị mà - các thầy nghe một vị Tỳ Kheo mà đã bị bệnh cùi, mà nó rụng từng lóng tay lóng chân, nó rụng từng cánh tay xuống, thì ông này ông không cụt tay cụt chân sao? Phải không? Nó cũng cụt tay cụt chân chớ sao! Thế mà Đức Phật vẫn cho ông ta vào tu thì chúng ta nghĩ sao?

Đó, chúng ta phải thấy được cái chỗ mà theo đạo Phật nó có những cái điều kiện mà chúng ta phải cần thiết mà hiểu, để chúng ta thấy cái giới luật nó có sự hạn chế rất tội cho chúng sanh, rất tội cho con người.

Nhiều khi Thầy thấy một người cụt tay họ có khả năng hiểu biết Phật pháp rất là sâu, họ hiểu biết lắm, nhưng mà họ không được thọ Tỳ Kheo, họ không được gì hết. Nghĩa là coi như cao lắm là cái vị thầy nào thương cho thọ Sa Di đó là may lắm, còn không thì họ cho làm tịnh nhân không à, chớ họ không cho đâu. Cho nên đó là những cái rất là đau lòng.

Đến đây Thầy xin chấm dứt. Chúng ta sẽ tiếp tục vào cái buổi chiều nay./.

HẾT BĂNG

33 - QUY CỦ VÀ NGHI THỨC XUẤT GIA

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 33 - QUY CỦ VÀ NGHI THỨC XUẤT GIA

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- CÁCH TÁC Ý PHÁ ÂM THANH - PHẦN 2

[Phần 1 ở Giáo án 32]

(00:00) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài giảng hồi sáng. Và Thầy cũng tiếp tục để trả lời cái câu hỏi của thầy Thiện Thuận hỏi về cái câu ám thị hồi sáng:

“Bạch Thầy! Cho con xin hỏi thêm về cách phá âm thanh.

Nếu ám thị bằng câu trạch pháp như trên thì con phải ám thị, ra lệnh lúc ngồi thiền khi còn ở hơi thở 5 giây, hay là 10 giây hoặc là 20 giây, hay là ám thị cùng một lúc với ra lệnh các hành ngưng và hơi thở ngưng? Xin Thầy chỉ thêm. Và khi xả ra bằng câu nào?”

Đó thì quý thầy lưu ý cái chỗ này, để Thầy chỉ cho cách thức mà ám thị.

Khi mà vào ở trong cái trạng thái mà mình đã ra lệnh cái hơi thở, nó đã không có thấy hơi thở nữa - tức là mình thấy nó đã ngưng đó - thì lúc bấy giờ đó mà mình còn nghe âm thanh thì bây giờ mình mới dùng cái câu ám thị mà hồi sáng Thầy đã cho, mình gọi nó, rồi mình ra lệnh bảo nó ngưng. Và cứ làm như vậy, mà cứ hễ còn nghe âm thanh là cứ ra lệnh mãi, còn hết nghe thì thôi, mà còn nghe thì ra lệnh.

Còn nếu mà muốn dùng cái câu này mà bám vào tụ điểm thì bắt đầu từ 5 giây - tức là chúng ta thở hơi thở 5 giây - rồi chúng ta ám thị cho âm thanh từ ở bắt đầu cho nó hết.

Mà khi nó hết nghe âm thanh ở 5 giây thì lúc bấy giờ đến 10 giây, 20 giây thì nó không còn nghe nữa. Còn nếu mà nó còn nghe nữa tức là nó chưa bám chặt cái tụ điểm, vì vậy mà chúng ta hãy trở về cái tụ điểm mà gọi cái nhĩ thức bám cho chặt vào trong cái tụ điểm, đừng có nghe âm thanh ra ngoài.

Còn nếu mà nó đã ở trong 5 giây - một hơi thở 5 giây mà nó có nghe âm thanh thì ngay đó ở 5 giây mà chúng ta luyện tập, chớ đừng nên 10 giây, 20 giây.

Còn nếu mà đang lúc mà chúng ta ở 10 giây, 20 giây mà gọi “Hơi thở ngưng!” - và thấy nó ngưng, nó không còn thở nữa, “Các hành ngưng!” - nó ngưng, thì ở đó mà còn nghe âm thanh thì chúng ta dùng cái câu ám thị này mà chúng ta ám thị cho nó không có nghe.

Và khi mà nó không nghe rồi, thì bắt đầu chúng ta muốn ra trở ra thử coi nó có nghe không thì chúng ta ra lệnh: “Cái nhĩ thức phải ra khỏi cái tụ điểm! Nghe lại coi có nghe âm thanh bên ngoài không!”.

Mà bắt đầu chúng ta ra lệnh chúng ta nghe, nó nghe ra ngoài được, thì đó là chúng ta đã điều khiển cái ra và cái vô được, tức là xuất và nhập định được. Qua cái âm thanh, dựa vào cái âm thanh mà chúng ta đã điều khiển nhập định và xuất định.

Đó thì như vậy là quý thầy đã rõ thấy một cái câu ám thị đó, mà chúng ta chỉ kêu nó bám chặt vào tụ điểm để không nghe âm thanh thì đó là vô, là nhập. Còn nếu khi mà chúng ta cũng từ ở chỗ tụ điểm đó mà chúng ta bảo: “Cái nhĩ thức hãy trở ra nghe âm thanh!” - mà nó trở ra nó nghe âm thanh thì tức là cũng cái câu ám thị đó mà chúng ta gọi nó trở ra và gọi nó trở vô.

(03:16) Đó thì như vậy là chúng ta dùng một câu mà có thể sử dụng được hai cái ra và vô, chớ khỏi cần phải là nhiều. Bởi vì chúng ta gọi đúng tên nó là nhĩ thức là nó rồi, bởi vì nhĩ thức nó mới có bám cái thanh trần, chớ còn có cái khác thì nó không bám được cái thanh trần. Đây là chúng ta lấy một cái chỗ mà chúng ta tu tập.

Như hồi sáng Thầy đã nói một chú Sa Di dạy một vị Trưởng lão tu cách thức kiểu chú bé mà đi bắt dế: Một con dế này nó có làm sáu cái hang ngách, cho nên chú chỉ chừa có cái hang ngách của cái ý thức mà thôi, còn sáu cái lỗ kia thì chú bít lại hết, cho nên con dế chú đổ nước, con dế nó phải lên ngay cái lỗ ý thức thôi chớ nó không có đi chỗ nào được.

Do vì vậy đó mà chú dạy cái vị thầy đó là bây giờ phải bít cái lỗ nào trước và bít cái lỗ nào sau, và lần lượt bít tất cả các lỗ, chừa có một cái lỗ mà thôi, và cuối cùng thì nó là nhập định.

Như vậy là chúng ta thấy rằng mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta là sáu cái lỗ của một con dế. Con dế đó dụ cho cái ý thức của chúng ta, cái thức của chúng ta mà, nó xuyên qua sáu cái lỗ nó làm việc.

Do vì vậy đó bắt đầu chúng ta phải bít cái lỗ nào trước, bít cái lỗ nào sau. Nhất là cái lỗ mà cái nhĩ thức, cái lỗ tai, cái nhĩ căn, cái đó khó nhất. Và cái kế đó là cái thân thức, cái hang đó cũng khó đó, bởi vì nó xúc chạm nó làm chúng ta đau, có cái thọ lạc hay hoặc thọ khổ.

Do những cái hang đó là cái hang độc đáo lắm, vì vậy mà chúng ta khi mà tu tập thì chúng ta chuẩn bị, nhất là chúng ta phải chuẩn bị cái âm thanh. Coi chớ âm thanh nó khó lắm.

Còn cái thọ mà chúng ta chuẩn bị để đánh với thọ, chúng ta cứ tăng dần, tăng dần lên thì chúng ta sẽ - cái thời gian ngồi dài quá để mà đánh thọ thì nó phải tăng lên thì cái thọ nó mới lui, mà không tăng lên thì cái thọ nó không lui.

Mà hễ tăng lên thì cái thọ lui, thì cái thân chúng ta ngồi lâu, mà ngồi lâu thì nó sanh ra vô minh, nó vô ký, hôn trầm, nó lặn vào trong các cái trạng thái vô ký. Cho nên vì vậy mà chúng ta mất tỉnh giác, mà hễ mất tỉnh giác thì chúng ta rơi vào 18 cái loại tưởng. Và 18 cái loại tưởng thì rất là nguy hiểm cho nên nó chẳng đưa chúng ta đi đến chỗ nào được.

Vì vậy mà chúng ta không cần ngồi nhiều, mà chỉ cần cái thời gian ngắn mà chúng ta phá được âm thanh. Mà phá được âm thanh thì cái thọ phá rất dễ, chớ còn không khéo không phá được âm thanh thì cái âm thanh nó câu hữu với cái thọ, nó làm cho cái ý của chúng ta chạy ra cái thân thức, nó làm chúng ta có cảm giác đau đớn. Đó thì, cho nên chúng ta không thể ngồi lâu được.

Vì vậy mà biết được cái chỗ này và cái cách thức của một chú Sa Di mà dạy để bít sáu cái căn của chúng ta, thì chúng ta biết rằng cái điều kiện cần thiết là chúng ta tu tập dùng pháp hướng là cái lỗ ngách thứ nhất của con dế là cái lỗ tai của chúng ta, cho nên chúng ta phải bịt cái lỗ trước.

(06:17) Và khi mà bước vào con đường thiền định thì chúng ta phải thấy cái lỗ tai là rất cần, cái nhĩ thức rất cần thiết phải bịt nó, rồi kế đó thì thân thức chúng ta mới bịt, rồi tất cả các cái khác thì dễ lắm không khó nữa. Nghĩa là cần bít được cái lỗ tai thì tất cả những cái khác đều chúng ta bít hết các lỗ được.

Vậy mà trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đó, Phật dạy đó, một cái khăn sáu cái gút mà chúng ta mở ra một cái gút thì mở ra hết. Mà bây giờ chúng ta vào cái gút của cái nhĩ căn mà chúng ta bít nó được thì chúng ta sẽ bít tất cả các lỗ khác dễ, tức là mở cái gút này thì tất cả năm cái gút kia đều mở hết.

Đó là những cái điều kiện mà chúng ta biết được cái đó là cái quan trọng, bởi vì âm thanh rất là khó chớ không phải dễ, mà phá được âm thanh thì phá được tất cả.

Vì vậy mà trong kinh đó nó lấy rằng “phản văn văn tự tánh” - nghe lại cái tánh nghe của mình để làm, nhưng mà vì nó luận ở trên cái sự siêu xuất quá cho nên nó không có cách thức.

Vì vậy mà ngay từ khi mà tu cái Thánh phòng hộ sáu căn thì chúng ta cũng phòng hộ mắt, tai , mũi, miệng, thân, ý của mình, thì mắt với tai là cái vấn đề rất quan trọng, nó tiếp xúc với trần rất là rõ ràng. Vì mắt thì tiếp với sắc, mà tai thì tiếp với âm thanh, cho nên do những cái đó là chúng ta phải phòng hộ hơn là tất cả các cái căn khác.

Quý thầy lưu ý trong mỗi cái phần mà tới chừng mà dạy về cái giới hành thì Thầy sẽ chỉ cái nào quan trọng, trong khi mà chúng ta tu cái Thánh phòng hộ sáu căn thì phòng hộ cái nào trước, cái nào sau, đó là cái giới hành, và tu tập những cái gì để cho chúng ta làm chủ được từng bước một của cái nấy, nó rõ ràng và cụ thể.

Đó thì qua cái lời của thầy Thiện Thuận hỏi thì Thầy trả lời, thì thầy nhớ kỹ. Như vậy chúng ta lấy từ cái hơi thở 5 giây mà chúng ta hướng tâm cho cái tâm bám trụ, cái nhĩ thức bám trụ cho chặt ở tụ điểm, và đồng thời hướng tâm cho nó quay trở vô, nó không có bung ra ngoài thì âm thanh nó sẽ phá từ nơi đó.

Và khi mà chúng ta kéo dài tới 10 giây cho đến 20 giây thì chúng ta hướng tâm: ”Hơi thở ngưng nghỉ!” - thì lúc bấy giờ cái âm thanh cũng không còn nghe nữa, thì như vậy là chúng ta đang ở trong cái trạng thái của Tứ Thiền mà không có một trạng thái gì ngoài ra một trạng thái thanh tịnh.

Đó đến đây Thầy xin chấm dứt trả lời cái này, và chúng ta tiếp tục qua cái bài học buổi sáng.

2- THÀNH PHẦN CỦA SA DI

(08:36) Bây giờ chúng ta trở về cái bài học buổi sáng.

Lý do người mà quá trẻ tuổi như các chú Sa Di đó, dưới 7 tuổi thì không làm sao chịu nổi cái cuộc sống xuất gia, bởi vì chúng ta thấy cuộc sống xuất gia nó không phải sống theo ở ngoài thế tục rồi, nó có cái lối sống khác của nó, cho nên cái người mà còn nhỏ quá không thể sống được.

Thành phần của Sa Di có chia ra làm hai loại và ba đẳng vị của nó.

Nghĩa là cái giới mà thọ giới Sa Di xong rồi thì nó chia làm hai loại và ba đẳng vị:

Từ 7 tuổi đến 13 tuổi gọi là Khu ô Sa Di;

Cái tên của nó gọi là Khu ô Sa Di, nghĩa là Sa Di đuổi quạ đuổi chim đó chớ không có làm gì được hết. Từ 7 tuổi đến 13 tuổi đó là Sa Di khu ô, nó có cái tên là Sa Di khu ô.

14 đến 19 tuổi gọi là Ứng pháp Sa Di;

Nghĩa là bắt đầu từ cái tuổi 14 đến 19 tuổi, thì bắt đầu đây nó mới là thực hiện cái pháp Sa Di mới đúng.

Chớ còn cái 7 tuổi đến 13 tuổi thì nó chưa thực hiện cái pháp Sa Di được, cho nên nó còn có những cái lỗi lầm có rất nhiều ở trong cái pháp Sa Di, cho nên do đó thì nó gọi là Khu ô Sa Di chớ không thể nào mà gọi là Ứng pháp Sa Di được.

Còn từ 14 tuổi đến 19 tuổi thì nó sống đúng pháp Sa Di cho nên gọi là Ứng pháp Sa Di.

(10:04) Từ 20 tuổi đến 70 tuổi gọi là Danh tự Sa Di.

Nghĩa là từ 20 tuổi mà đến 70 tuổi mà thọ Sa Di thì gọi là Danh tự Sa Di.

Còn hai chủng loại là:

Cạo tóc, nhuộm áo nhưng chưa thọ Sa Di Thập Giới gọi là Hình đồng Sa Di;

Nghĩa là cái hình dáng thì nó giống Sa Di chớ nó chưa phải là Sa Di gì hết.

Nghĩa là như quý thầy mà mới có làm cái lễ cạo tóc thôi, thế phát đó, thì chưa có thọ giới Sa Di, chưa gì hết đó, thì coi như đương nhiên mình chưa có vào cái lộ trình của người tu sĩ, mà mình còn ở trong cái lộ trình của cư sĩ nhưng mà mình cạo đầu thôi chớ không có gì, thì cái Sa Di đó gọi là Hình đồng Sa Di.

Đã thọ Sa Di Thập Giới gọi là Pháp đồng Sa Di.

Nếu mà từ 20 tuổi mà đến 70 tuổi mà thọ Thập Giới Sa Di rồi thì gọi là Pháp đồng Sa Di. Bây giờ nó có pháp rồi, nó cũng như là cái Ứng pháp Sa Di đó, nó lấy cái pháp, nó đã thực hiện cái giới pháp được rồi.

Còn cái người mà 20 tuổi đến 70 tuổi, mà cái tên của nó đó, mình mới chỉ cạo tóc thôi đó, chưa có thọ Sa Di, thì nó là Danh tự Sa Di. Cái tên gọi là danh tự, danh tự là cái tên thôi, cái tên Sa Di chứ nó chưa có nghĩa lý gì hết.

Cho nên nó còn có cái tên gọi là Hình đồng Sa Di, cái hình nó thì giống Sa Di, nhưng mà nó chưa có phải là Sa Di. Nhưng mà sau khi đó thọ Thập Giới Sa Di thì mới gọi là Pháp đồng Sa Di, bây giờ nó mới đúng là Sa Di đó.

Cho nên chúng ta thấy Sa Di nó có nhiều cái thành phần ở trong đó chớ không phải mà nó chỉ có thấy người nào cạo tóc là cũng là Sa Di hết đâu, không phải đâu. Nó có rất nhiều cấp độ, nó có nhiều thành phần.

3- QUY CỦ ĐỘ NGƯỜI XUẤT GIA

3.1- ĐIỀU KIỆN ĐỘ SA DI XUẤT GIA

(12:00) Người độ Sa Di xuất gia tuy không có quyền có giai cấp, nhưng có sự hạn chế trên tư cách.

Nghĩa là cái người mà độ cho cái người Sa Di xuất gia đó thì không phải là lấy cái sự độ đó là cái quyền của mình, mà nó cũng không có giai cấp lớn hay nhỏ nữa, nhưng nó có sự hạn chế trên cái tư cách của cái người đó có độ được Sa Di hay là không.

Ví dụ như bây giờ một vị Hòa thượng mà cái tư cách nó không đúng thì cũng không độ được cái vị Sa Di nữa, chớ chưa nói chi nữa là một cái người Đại đức, một cái người hàng giáo phẩm thấp hơn bậc Hòa thượng mà cái giới luật, cái tư cách của họ không có đúng là cái người tu sĩ của đạo Phật thì họ cũng không được độ Sa Di nữa.

Nghĩa là cái người có đủ cái tư cách mới độ cái chú Sa Di, còn cái người mà không đủ tư cách là không có được độ Sa Di.

Tại sao vậy? Tại vì mình không có đủ cái tư cách của một vị tu sĩ, giới luật mình không có nghiêm túc, mình độ cái chú Sa Di đó thì mình làm cho cái mầm non, cái nhân tài của Phật giáo nó sẽ bị hư hoại đi, cũng như cái mầm non nó bị thúi đi, nó làm cho thúi đi.

Chẳng hạn mình phá giới, mình độ người ta cũng tu thì nó sẽ phá giới, tức là cái mầm non đó nó sẽ bị tiêu đi. Đó là như vậy, thì cho nên đó là cái vấn đề rất quan trọng.

Nhưng mà không phải là cái người đó họ có quyền, hay hoặc là cái giai cấp mà như thế nào đó bắt buộc người ta phải thọ giới Sa Di hay hoặc thế này kia phải có cái giai cấp: Bây giờ tui phải giai cấp là vua chúa thì tui mới độ Sa Di được, hay hoặc là cái giai cấp của tui, hay hoặc là tui có quyền, quan quyền tui mới độ Sa Di. Không phải, ở trong đạo Phật thì không phải. Cái người mà độ cái chú Sa Di là phải cái người có cái tư cách, cái đạo đức của một vị tu sĩ.

Tức là cái người đó phải có giới hạnh nghiêm chỉnh, thì dù là cái người đó Thầy nói họ mới có thọ Tỳ Kheo thôi, mới có thọ Tỳ Kheo bữa nay ngày mai thôi mà cái tư cách họ - họ giữ gìn cái giới hạnh của họ đúng cái tư cách của một vị thầy.

Nghĩa là bây giờ họ thọ cụ túc giới, mà Thập Giới Sa Di họ rất là nghiêm chỉnh, họ không có vi phạm. Nghĩa là cái người mà thọ Tỳ Kheo thì tức là họ giữ gìn giới hạnh Sa Di họ rất là nghiêm chỉnh rồi, bây giờ bước đầu họ vô họ thọ giới cụ túc giới rồi, thì cái người đó ngay liền đó là họ độ cái chú Sa Di được rồi.

Còn bây giờ cái vị đó họ đã sống liên tục ở trong cái đạo mà họ đã thọ giới cụ túc nay là 20 năm hay là 40 năm hay là 60 năm rồi, tuổi đạo họ có tới 60 năm rồi, mà cái giới hạnh Sa Di họ chẳng ra gì thì họ cũng chưa có đủ cái tư cách mà độ Sa Di nữa.

Bởi vì phải hiểu Sa Di là cái mầm non của Phật giáo, cái nhân tài của Phật giáo sau này, cái Tăng đoàn, cái giáo đoàn của Phật nó còn hay mất là do mấy cái chú Sa Di này.

Phải hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy cái tư cách của một vị độ người Sa Di là cái người bắt đầu vào cái lộ trình thứ hai của lộ trình tu sĩ đó, thì phải là cái người có đủ tư cách như vậy nó mới được. Nghĩa là nói chung là cái người đó phải đủ Thập Giới Sa Di, nghĩa là giữ tròn nghiêm chỉnh Thập Giới Sa Di.

Thì ở đây nó cho cái tư cách đó phải nằm ở trong cái chỗ nào? Đây Thầy - ở trong cái giới luật của Phật nó cho cái vị Tỳ Kheo đó:

(15:20) Phải có đủ 10 năm học giới luật…​

Nghĩa là sau khi thọ Tỳ Kheo rồi 10 năm thì mới có độ Sa Di được, đó là cái thứ nhất. Nghĩa là trải qua một thời gian, cái vị Tỳ Kheo đó phải 10 năm học giới luật, học 250 giới đó, hay hoặc là Tỳ Kheo Ni cũng phải vậy, 348 giới.

…​ mới được độ người. Nếu chẳng biết Ngũ Pháp thì suốt đời cũng chẳng được độ người.

Ở trong giới luật thì nó còn nói thêm: Nếu 10 năm học giới luật thông suốt rồi mà chẳng biết Ngũ Pháp thì cũng không được độ người nữa.

Vậy thì Ngũ Pháp là gì? Ở đây nó sẽ nêu lên năm cái pháp mà cái người mà độ cái chú Sa Di thì phải biết rõ năm pháp.

1. Phải thông hiểu sự lợi ích rộng lớn của giới luật Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni;

Như vậy là cái người này phải 10 năm học giới rồi thì đúng rồi.

2. Giải quyết được nghi vấn và tội khinh, tội trọng đáng phạm của đệ tử;

Nghĩa là mình phải giải quyết được những cái nghi vấn về cái tội trọng, tội nặng, tội nhẹ của các đệ tử của mình thì mình mới có thể nhận Sa Di, nhận đệ tử.

3. Đệ tử ở phương xa, đủ sức khiến cho đệ tử quay về;

Nghĩa là đệ tử của mình đi đâu xa đó, mình gọi là phải về, thì như vậy đó là mình mới có độ Sa Di mới được. Còn nếu mình gọi nó không về thì mình không có độ nó được.

4. Phá được kiến chấp tà ác của đệ tử và răn dạy đừng làm điều ác;

Nghĩa là đệ tử mà nó có những cái tà kiến, tà ác ở trong đầu của nó, nó đã nhiễm những cái kiến giải của những người khác, nó không có chịu…​ (Mất tiếng)

Nghĩa là một vị thầy đó phải đủ cái sức mà phá được cái kiến chấp của đệ tử của mình thì mới nhận, mới độ Sa Di. Còn nếu mà phá không được kiến chấp của họ, thì không có nên độ Sa Di.

Bởi vì mình răn dạy mà nó mang cái kiến chấp của nó đầy ắp ở trong cái đầu của nó, nó đâu có nghe lời mình dạy. Mình dạy giới luật, nó cứ nghe những cái lời dạy của những cái tà giáo ngoại đạo nó đem nó phá giới, phá luật, mà mình dạy nó không được thì thôi mình khép chân đi, mình đầu hàng đi, đừng có nhận đệ tử nữa, đừng có nhận thọ giới Sa Di cho ai hết.

Bởi vì mình dạy nó không được thì tốt hơn là mình đừng có nhận. Bởi vì mình phá không nổi cái kiến chấp, tà chấp của nó thì mình đóng cửa đi, đừng có nhận người nào nữa hết.

(18:07) Do vì vậy đó mà quý thầy thấy trong 17 năm trời mà Thầy phá những cái kiến chấp của họ. Ở trong đầu của họ, họ mang đầy những cái kiến chấp của Thiền Tông, cái kiến chấp của Đại Thừa.

Thầy biết rằng họ không đi tới đâu, nhưng mà bảo họ quay về giới luật thì họ nói Thầy ép xác khổ hạnh bằng cách này bằng cách khác, không có thể tu hành được. Thầy dạy cái ăn cái ngủ không, không có dạy tu tập cái gì cả hết, mà chính cái chỗ đó là phá cái kiến chấp của họ, để họ (khỏi) lầm lạc, nhưng mà cuối cùng thì họ chẳng nghe.

Vì vậy mình thấy mình không có đủ cái khả năng phá cái kiến chấp họ, cho nên mình không có nhận họ nữa. Do vì vậy đó mà ở trong năm cái điều này, Thầy thấy nó rất là chí lý. Mình không có đủ khả năng phá kiến chấp, tà chấp của họ thì thôi, đừng có nhận họ làm đệ tử, họ muốn tu sao đó được họ tu.

5. Nếu đệ tử bệnh, chăm sóc như cha nuôi con.

Nghĩa là cái điều kiện thứ năm: Cái người mà biết thương đệ tử của mình như là một người cha thương con thì mình nên độ cái chú Sa Di cho theo tu học với mình. Còn nếu mình không thương nó thì thôi mình cũng đừng có nên độ. Mình độ rồi mình bỏ nó khi đau ốm, nó không có cha có mẹ săn sóc nó, ai săn sóc? Chỉ có thầy mà thôi.

Đó thì như vậy đó, mình thấy cái bổn phận của mình. Năm cái điều kiện này - ngoài những cái giới luật mà căn bản đủ cái tư cách làm thầy nó còn phải có những cái điều kiện mà mình phải đủ cái sức của mình, đủ cái khả năng, đủ cái oai đức của mình để mình lôi những cái đệ tử mà có những cái tà kiến, kiến chấp trở lại.

Điều đó là một điều rất khó, năm cái điều này coi vậy chớ nó không đơn giản, mà ở trong cái chỗ giới luật mà nó đưa ra như thế này, thật khó cho một vị làm thầy chớ không phải dễ.

Cho nên đừng thấy người ta ai cũng xin vô mà thọ Sa Di, coi chừng mình thọ Sa Di Thập Giới rồi hoàn toàn nó tan nát giới luật của Phật hết, nó không có thực hiện được.

(20:01) Nếu không thấy năm điều này, độ người sẽ đắc tội…​

Đắc tội gì đây?

…​ Đột Kiết La.

Nghĩa là mình không thấy năm điều này, mình độ người ta thì mình sẽ đắc vào cái tội Đột Kiết La.

Muốn độ Sa Di phải đủ năm điều theo giới kinh dạy:

Theo ở trong kinh giới dạy thì nó có năm cái điều mình mới có độ được chú Sa Di.

1. Phải thông suốt 4 bộ A Hàm;

Nghĩa là thứ nhất là vị thầy đó phải - theo giới kinh thì nó dạy là mình phải thông suốt 4 bộ A Hàm, mình phải thông suốt 4 bộ kinh đó.

2. Phải biết giới;

Tức là mình phải thuộc giới bổn đó.

Ba đó, mình:

3. Phải biết kinh;

Tức là tất cả những kinh như kinh A Hàm đó, hay hoặc là kinh Nguyên Thủy, hay hoặc là kinh Đại Thừa, kinh gì mình cũng phải biết, biết hết.

4. Phải có huệ;

Tức là phải có trí tuệ.

5. Phải có đức.

Đó. Đó thì ở trong cái kinh giới Phật dạy một người mà muốn độ Sa Di tu theo mình thì thứ nhất mình phải thông suốt 4 cái bộ A Hàm, kế đó là giới luật, rồi tất cả những kinh khác mình phải thông, rồi mình phải có trí tuệ và phải có đức hạnh, thì những cái điều đó là cái điều cần thiết cho một vị mà làm thầy độ cái chú Sa Di.

Mà lại còn có năm điều nữa:

Nghĩa là muốn độ một chú Sa Di thì vị thầy phải có năm cái điều nữa chớ không phải bây nhiêu đó đủ, nhưng mà tạm đủ cho năm điều đó để cho thấy một vị thầy có đủ những cái năm điều đó là có thể độ được rồi, nhưng lại còn có thêm thì càng tốt chớ không sao hết. Vì vậy mà lại có năm điều nữa.

Thứ nhất là:

1. Phải thọ trì giới;

Nghĩa là cái vị thầy đó giới luật phải nghiêm chỉnh đó, gọi là thọ trì giới.

2. Phải không phạm giới;

Nghĩa là cái vị thầy đó luôn luôn là không có phạm giới, chớ còn phạm giới là không được rồi.

Ba, vị thầy đó:

3. Phải nhẫn nhục;

Phải có cái đức nhẫn nhục.

4. Phải hiểu suốt được kinh;

Nghĩa là hiểu thấu suốt được tất cả các kinh.

5. Phải tự giữ tất cả.

Năm là phải giữ gìn tất cả. Đó thì giữ gìn tất cả gì? Tất cả những cái oai nghi, tế hạnh của mình phải là nghiêm chỉnh đừng có để sơ suất, để cho cái người học trò mình, mình dạy nó cái oai nghi như vậy mà rồi mình làm sai cái oai nghi đó thì nó sẽ cười mình, nó sẽ không có đủ cái niềm tin ở mình, mình hướng dẫn rất khó.

Cho nên phải giữ gìn rất là cẩn thận. Khi mình nhận học trò thì từ chút, từ chút mình phải cẩn thận, chớ để không thì nó sẽ hư đời nó, tội nghiệp.

3.2- ĐIỀU KIỆN ĐỘ TỲ KHEO THỌ CỤ TÚC GIỚI

(22:52) Phật dạy phải có 10 pháp thành tựu mới độ được người xuất gia thọ cụ túc giới:

Bây giờ tới cái người mà thọ cụ túc giới, thì cái vị thầy đó phải có đủ 10 pháp mới có thể độ người xuất gia thọ cụ túc.

Thứ nhất thì cái vị thầy đó phải:

1. Trì giới;

Nghĩa là giới luật phải là nghiêm túc rồi đó.

Thứ hai là phải:

2. Học rộng A Tỳ Đàm luận;

Tức là phải thông suốt A Tỳ Đàm luận. Nghĩa là cái người làm thầy cho người xuất gia thọ cụ túc phải rộng rãi hơn Sa Di nữa cà, nghĩa là phải hiểu về các luật như A Tỳ Đàm luật.

Ba, phải:

3. Học rộng Tỳ Ni luật;

Tất cả các bộ luật Tỳ Ni phải thông suốt hết, nó không có cái bộ nào mà không thông. Bởi vì nó thông suốt rồi nó mới thấy được cái đúng cái sai, còn nếu không thông suốt thì mình không có thấy cái đúng cái sai, rồi mình chấp vào cái bộ luật nào đó, rồi mình bắt người ta phải học khô khan trong cái bộ luật đó.

Thí dụ như hiện thời thì người ta chấp vào cái Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Như Thích đó, người ta bắt tất cả thầy Tỳ Kheo cũng như là mọi vị Tỳ Kheo Ni đều phải chấp vào cái bộ luật đó, còn tất cả các bộ luật khác thì người ta thấy nó không quan trọng bằng cái bộ luật như vậy. Đó thì cái đó là cái khô khan quá.

(24:07) Ba là phải:

3. Học rộng Tỳ Ni luật;

4. Học Giới;

5. Học Định;

6. Học Tuệ;

Bắt đầu đây, ở đây chỗ này Giới - Định - Tuệ đó, là người ta nghĩ đây là Giới học - Định học - Tuệ học, nhưng mà không phải, giới bổn nó khác mà Giới học - Định học - Tuệ học nó là giới kinh.

Ba cái này Giới - Định - Tuệ nó là ba cái giới kinh, mà họ tưởng đây là ba cái pháp môn vô lậu, ba cái này nó ngoài ra cái giới, nhưng mà sự thật ra nó không phải. Như Thầy đã giảng dạy đó thì nó có giới hạnh, rồi giới đức và giới tuệ, thì nó ứng vào trong ba cái học Giới - Định - Tuệ, thì nó hiểu đó là thuộc về loại giới kinh rồi.

Còn cái giới bổn nó chỉ bổ túc cho cái giới học mà thôi, tức là cái oai nghi tế hạnh đó thôi, tức là giới hạnh thôi, chớ nó không có nghĩa gì khác hơn hết. Vậy mà người ta hiểu cái giới nó khác với cái giới kinh, cho nên nó là cái lầm lạc của cái người sau này.

7. Có thể xuất tội và khiến cho người xuất tội;

Thứ 7 này, mình có thể - cái người thầy đó có thể xuất tội cái người đó, và có thể cho cái người đó họ sám hối cái tội họ, hoặc là mình phạt họ bằng cách này bằng cách khác, đều là mình có cái khả năng cho họ, kết họ cái tội hoặc là xả cái tội họ, đều có cái khả năng làm được cái đó thì mới có thể là mới làm thầy họ.

Bởi vì Tỳ Kheo khó lắm chớ không phải dễ, nó đủ cái sự hiểu biết, mà mình không có biết xuất tội và cái phạm tội cho nó rõ ràng thì mình khó mà khiến nó được lắm.

8. Có thể săn sóc bệnh và sai người săn sóc bệnh;

Nghĩa là cái phần thứ 8 này tự thân mình chăm sóc cho Tỳ Kheo, mà cũng là có thể sai Tỳ Kheo khác chăm sóc những người khác mà họ không dám cãi lại mình, thì như vậy mình mới đứng ra mình thọ cụ túc cho họ được.

9. Đệ tử gặp nạn có thể sai người đưa đi, hoặc là giải cứu nạn cho họ;

Nghĩa là đệ tử của mình mà khi có gặp nạn, mình thấy mình có đủ khả năng mà cứu vớt họ, hoặc là đưa họ đi cho thoát nạn thì mình mới có thọ cụ túc giới.

10. Đủ 10 tuổi hạ.

Nghĩa là phải có 10 cái tuổi hạ, tức là 10 cái tuổi đạo đó. Nghĩa là mỗi năm họ phải có ba tháng an cư kiết hạ, mà đủ 10 năm như vậy thì họ mới có đủ cái tư cách mà thọ cái cụ túc giới cho cái người mới vào thọ Tỳ Kheo.

Tóm lại, một thầy Tỳ Kheo độ người tu phải đủ hai điều kiện:

1. Tỳ Kheo giới lạp phải đủ 10 năm;

2. Thông hiểu hai bộ Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni.

Đó là hai cái phần mà chắc chắn là cái người mà muốn cho người khác thọ cụ túc thì phải đủ hai cái điều kiện này.

(27:20) Tỳ Kheo cũng chỉ có thể độ Sa Di, không được độ Sa Di Ni.

Nghĩa là cái vị Tỳ Kheo thì độ Sa Di mà thôi, chớ không được độ Sa Di Ni.

Vì chính là ngày xưa Đức Phật cũng không có độ Sa Di Ni.

Khi mà các thầy đọc lại kinh các thầy thấy rất rõ cái điều này. Ông Phật ổng là Phật rồi đó mà chính ổng không có đứng ra ổng thọ cái giới Tỳ Kheo Ni cho các vị Tỳ Kheo Ni, mà chính ổng đặt ra cái Pháp Kỉnh, rồi từ đó các vị ni - các vị nữ họ đối trước cái Bát Pháp Kỉnh, họ đảnh lễ các Pháp Kỉnh đó - tức là tám cái giới đó đó - là làm thầy của họ, để rồi từ đó họ thọ vào đó mà họ theo cái đường lối của đạo Phật mà họ tu.

Bởi vậy họ chấp nhận cái Bát Kỉnh Pháp dữ lắm, vì đó là cái bậc thầy mà có thể đứng ra mà quy y cho họ thọ giới đó, chớ không phải Đức Phật.

Vậy cho nên ở đây chúng ta mới thấy cái đặc biệt lạ lùng là đạo Phật - cái người nam không có đứng thọ cho cái vị nữ.

Cho nên Thầy có nhớ một lần thầy Như Hải có nói là có ông sư ở Bến Tre, ổng cũng tu tập, cũng có thiền định, cũng có những chút ít thần thông dữ lắm. Cho nên do đó sau đó thì có một cái người phụ nữ là con của một cái ông tòa đại sứ nào đó ở trên Thái Lan hay Miên gì xuống đây nè, rồi cái cô này lại mến phục cái tài đức của ông thầy này lắm, cho nên cứ xin ổng thọ quy y cho cô ta.

Nhưng mà khi thọ quy y rồi thì cô này cổ nói cổ là đệ tử của ông ta, rồi cổ cứ cổ hầu hạ ông ta hoài, làm cho ông ta không có thể nào thoát khỏi bàn tay của cổ. Cuối cùng thì ông thầy này bị lọt vào cái vòng bàn tay của cô ta. Cuối cùng thì ông hạ sơn chớ không còn ở trong vị trí tu hành được nữa.

Đó thì, ghê gớm lắm! Chúng ta phải nói rằng Đức Phật rất là hay là cái chỗ mà nhận biết được cái chỗ này, cho nên ngay cả Đức Phật cũng không có đứng ra mà để làm thầy độ bên cái giới nữ.

Tỳ Kheo cũng chỉ có thể độ Sa Di chớ không được thế độ cho Sa Di Ni. Chính Đức Phật cũng chưa từng đích thân độ người nữ xuất gia. Phật từng đích thân độ nhiều Tỳ Kheo và cũng độ hai người Sa Di là Nan Đà và Gia Xá nhưng chưa từng đích thân độ một nữ chúng.

Nghĩa là cái chúng Tỳ Kheo, cái chúng tu tập đó, thì Đức Phật không có đứng ra mà độ.

Luận Tát Bà Đa, quyển 2.

(30:06) Trong cái bộ luận này, nó đem nêu ra những cái câu chuyện này, thế nhưng chúng ta không có thấy ở trong kinh giới có nói vấn đề này.

Nhưng mà theo những cái bản kinh giới thì Thầy thấy những hàng cư sĩ và cũng là những nữ cư sĩ, cũng như là những cái người nữ mà đến nghe pháp rồi xin Phật xuất gia, thì các vị đó theo Thầy thấy trong kinh giới thì rất rõ là các vị đó cũng chỉ nói lên ba lần xin quy y Phật, quy y Pháp để con trở thành cư sĩ hay là Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, có vậy thôi, rồi đương nhiên là Đức Phật chấp nhận đã là thành Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di.

Thì như vậy tức là Đức Phật đã thọ chớ gì, đã đứng ra nhận cái người nữ đó để làm đệ tử cư sĩ của mình chứ gì? Là như vậy đã nhận rồi chớ còn gì?

Mà người ta thọ Tam Bảo mà Đức Phật cũng nghe người ta xưng lên ba lần, nói như vậy để xin người ta quy y Phật - Pháp - Tăng, thì xin với Đức Phật, thì như vậy Đức Phật đã chấp nhận họ, thì như vậy đâu phải là không độ họ.

Rồi có một nữ cư sĩ họ đến, họ khi nghe pháp xong họ xin Đức Phật độ cho họ xuất gia. Thì lúc bấy giờ nó có cái giáo đoàn ni, thì lúc bấy giờ người đó cũng cũng đứng lên xin Đức Phật như vậy ba lần, Đức Phật chấp nhận, cho nên mới gởi về bên giáo hội ni do cái người ở bên ni người ta lãnh cái chúng ni, chớ đâu có cho ở bên nây được.

Do đó thì nó cũng đâu có gì đâu? Nhưng mà ở trong kinh thì nó lại nói như vậy. Thì Thầy thấy ra cái điều đó Thầy cũng đặt cái câu hỏi: Không biết có hay chăng?

Nhưng mà trong kinh nó rõ ràng là có những cái điều kiện, mà những cái bài kinh chúng ta thấy rất rõ là Đức Phật có nhận đệ tử nữ chớ đâu phải không có nhận, đâu có không nhận họ xuất gia hay hoặc là cư sĩ đâu, có nhận chớ không phải không. Nhưng mà ở đây thì kinh giới này không biết nó kiếm cái bộ kinh nào đâu nó nói ra đây, Thầy cũng chưa biết.

(32:05) Cho nên những cái điều này chúng ta còn đặt những câu hỏi, và chúng ta sẽ tìm tất cả những bộ kinh giới, từ ở đâu mà lưu xuất ra những cái đoạn kinh này.

Cho nên đọc hết trong kinh từ A Hàm cho đến kinh Nguyên Thủy thì Thầy cũng không thấy cái chỗ này. Thường thường là Thầy thấy rất là có, Phật có nhận người nữ trở thành đệ tử cư sĩ của mình cũng nhiều, và cũng là nhận cho họ xuất gia, Người nữ cũng xuất gia rồi đưa cho họ về cái giáo đoàn ni của họ, chớ không được ở trong cái giáo đoàn tăng.

Tỳ Kheo Ni phải đủ 12 năm giới lạp trở lên mới được độ người xuất gia.

Nghĩa là Tỳ Kheo Tăng thì có 10 năm à, còn Tỳ Kheo Ni thì phải 12 năm mới có độ được.

Ở đây Thầy nhắc lại:

Ni chúng đầu tiên do Bát Kỉnh Pháp mà xuất gia, về sau ni chúng thế độ ni chúng.

Nghĩa là về sau thì ni chúng độ ni chúng, còn khi mà đầu tiên nó chưa có ni thì ni chúng lấy cái Bát Kỉnh Pháp mà xuất gia chớ không phải xuất gia với Phật. Đó là cái cách thức mà ở trong cái giới bổn nó nêu lên những cái câu nói đó.

Chớ còn thật sự Thầy đọc ở trong giới kinh, trong những cái bài kinh của Phật ở trong kinh Nguyên Thủy cũng như là kinh A Hàm, thì Thầy thấy Phật có độ cư sĩ, mà cũng có độ nữ cư sĩ, cũng có độ nữ cư sĩ xuất gia tu hành chớ không phải không.

Cho nên khi mà chúng ta đọc những Thánh Ni đó chúng ta thấy rất rõ. Khi có người thì được Đức Phật trực tiếp độ họ đó, rồi cho họ cái pháp, cho họ cái bài kệ, họ nghe bài kệ cái họ lấy cái bài kệ họ làm cái pháp hướng, từ đó họ tu họ chứng quả A La Hán, chớ đâu phải là qua một ai đâu?

Đó Thầy thấy rất rõ. Khi mà ngộ được cái lý nghe Phật giảng rồi thì ngay đó người ta xin Phật xuất gia, thì Phật chấp nhận cho họ xuất gia tức là họ Tam Quy rồi chớ gì? Khi mà thọ rồi thì Đức Phật đưa cho họ qua bên ni giới, họ ở bên đó.

Mà trong cái thời Đức Phật nó rất đơn giản. Khi mà chấp nhận họ rồi thì coi như là họ thọ cụ túc rồi, chớ không còn cái Sa Di hay hoặc cái này cái kia nọ tùm lum như mình ở trong cái giới bổn bây giờ, nó nhiều cái đẳng cấp.

Qua những cái đẳng cấp này, chúng ta thấy ở trong giới bổn thì dường như là nó chịu ảnh hưởng của pháp luật của thế gian, của phong kiến ngày xưa mà nó đặt ra quá nhiều, quá rườm rà những cái pháp Yết Ma, nó giống như cái kiểu cách cái bộ lễ của vua chúa đó, nó phải làm cái lễ này, lễ kia, lễ nọ.

Hình như là các ngài đều là những cái người mà nghiên cứu về cái lễ nghi của vua chúa, của phong kiến, rồi họ rút tỉa ra họ viết thành cái bộ các pháp Yết Ma, cho nên nó quá phiền phức.

3.3- VẤN ĐỀ THẾ ĐỘ XUẤT GIA CHO NHIỀU SA DI MỘT LƯỢT

(34:51) Theo quy định trong giới bổn thì không cho đồng thời thế độ hai người Sa Di xuất gia một lượt.

Nghĩa là, hai người Sa Di mà xuất gia một lượt vầy, Thầy bữa nay làm cái lễ cho hai người mà độ hai người Sa Di một lượt, thì trong giới bổn nó không cho phép. Độ một người thôi chớ không cho hai người.

Vì nó nói như thế này nè: Mình cho hai người Sa Di xuất gia một lượt thì bắt đầu nó vô ở chùa mình. Rồi hai cái thằng nhỏ này nó ở chung nhau nó giỡn dữ lắm, rồi nó đánh lộn nữa, rồi nhiều khi nó làm đủ cái trò của nó, nó còn quen cái thói thế tục mà, cho nên mình cho một thằng thôi.

Thằng này mình kèm cho được rồi năm sau mình cho thằng nữa, thì cái thằng này nó giữ được cái hạnh nó rồi, thì thằng sau vô nó kèm thằng nọ thì nó đỡ mình. Mà cho hai thằng thọ một lượt thì vô đây nó làm những cái trò coi như là - mình không có kèm dạy nó được đâu. Hai thằng quỷ này không phải chuyện dễ. Bởi vì nó con nít mà, nó mới 7, 8 tuổi, rồi mười mấy tuổi đó, thì nguy hiểm, nó không dễ đâu.

Cho nên cái người lớn mà mình độ nó dễ hơn là con nít. Nhưng mà cái người mà có duyên với con nít thì cũng độ được. Thầy thấy ở ngoài Long Thành có thầy An Lạc Hạnh đó, thầy nuôi chúng toàn là con nít không à, như cái trại mồ côi vậy. Chốp chốp vậy nó cả mười mấy chú vậy đó mà ông thầy đó ổng nuôi được, ổng răn tụi nó sợ, còn có người thì con nít không sợ.

Ở đây thì nó nêu:

Có hai lý do:

1. Đồng thời không nên nuôi hai Sa Di.

2. Đệ tử Sa Di nhiều, sức dạy dỗ không đủ.

Nghĩa là Sa Di mà nhiều quá, cái sức dạy dỗ mình không đủ, rồi cái giới luật nó dễ bị phạm.

Trong giới luật cũng có khai lệ: Nếu vị thầy trí tuệ cao sâu, phước lực thù thắng có đủ khả năng dạy dỗ, nuôi thì không ngại gì nuôi hai Sa Di trở nên.

Nghĩa là mình có đủ cái đức độ thì mình không ngại gì mình nuôi hai Sa Di hay là năm, mười Sa Di cũng được chớ không phải hạn chế.

Nhưng buổi làm lễ một lần hai chú thì không được.

Nghĩa là làm lễ mà thọ cho hai người một lượt thì không được. Nhưng bây giờ thì chúng ta gồm cho nó dễ, để bữa nay cũng làm cái lễ thọ một chú, ngày mai thì làm cái lễ một chú, cực gần chết đâu phải sung sướng gì.

Kinh giới gì mà bày đặt thiệt là vất vả quá! Gộp cho nó năm, mười đứa vậy cho nó làm cái lễ một lần cho nó mau, cho gọn, còn cứ bữa nay làm một đứa, bữa kia làm lễ một đứa, nó rất là vất vả.

3.4- BẬC THẦY LÝ TƯỞNG: VỪA CÓ PHÁP VỪA CÓ CƠM ĂN

(37:26) Giới kinh có dạy có bốn bậc thầy:

1. Có pháp lại có cơm ăn.

Ở đây, nó dựa vào ở trong cái giới kinh mà nó nói ra cái này, mà như hồi sáng Thầy nói để chọn cái chỗ ông thầy mà ở đó, đó là nó dựa vào chỗ này nó cũng viết ra cái chỗ này nè, là cái bài kinh gọi là Khu Rừng đó, thì nó dựa vào chỗ này mà viết ra.

Có bốn bậc thầy:

1. Có pháp lại có cơm ăn;

2. Có pháp mà không có cơm ăn;

3. Có cơm mà không có pháp;

4. Có pháp mà không có cơm.

Vị thầy lý tưởng nhất là vị thầy thứ nhất.

Nghĩa là có pháp mà có cơm. Cho nên chúng ta chọn cái vị thầy có pháp mà có cơm đó. Nó không nói cái chỗ mà ở đó có cơm ăn, rồi có pháp tu như thế nào thì nó không nói. Nhưng mà nó lấy, chọn bốn cái vị thầy đó mà nó chỉ cho chúng ta là cái chỗ có pháp có cơm, còn tất cả những kia thì nó không xài.

Nhưng mà ở trong cái kinh mà Đức Phật dạy đó là có pháp mà không có cơm thì cũng không được lìa ông thầy đó, như hồi sáng Thầy đã dạy rồi mà. Đó. Còn cái chỗ đó đó mà có pháp có cơm thì chúng ta ở suốt đời.

Đó. Còn ở đây ba vị thầy sau thì không nên ở, dù có pháp mà không có cơm thì cũng nên đi, dù có cơm mà không có pháp thì cũng nên đi, có pháp mà cũng không có cơm thì cũng không có ở. Nghĩa là có pháp mà không có cơm thì cũng không có ở, chỉ có vị thầy là có pháp lại có cơm thì ở.

Chẳng được ly khai vị thầy thứ hai: có pháp mà không có cơm áo.

Ở đây nó cũng dựa vào kinh ấy nó cũng nói: Một vị thầy thứ hai là có pháp mà không có cơm cũng không được ly khai.

Còn hai vị thầy kia thì chẳng nên theo mà tu hành.

Nó dựa vào giới kinh thì nói đó là đúng á, Thầy thấy đúng.

3.5- THẦY KHÔNG DẠY ĐỆ TỬ ĐÚNG PHÁP LÀ CÓ TỘI LỚN

(39:22) Thật ra người chỉ biết thu đồ chúng xuất gia mà tự mình lại không thể dạy đồ chúng, dạy đệ tử xuất gia đúng như pháp, ấy là người có lỗi rất lớn.

Nghĩa là mình thu đồ chúng xuất gia mà mình không có dạy đồ chúng theo đúng như pháp xuất gia thì là mình có tội rất lớn.

Nghĩa là thay vì pháp xuất gia thì chúng ta thấy rất rõ chớ gì, Thập Giới Sa Di rất rõ chớ gì: Ăn ngày một bữa nè, không cất giữ tiền bạc nè, không có nằm giường cao rộng lớn nè, không có xem ca hát, không có ca hát nè, mà bây giờ để đệ tử mình ca hát, xem ca hát nè, rồi đá banh đá bóng nè, rồi giữ tiền giữ bạc nè, rồi ăn uống phi thời nè, thì thử hỏi ông thầy như vậy đó là có tội lớn không? Có tội rất lớn! Ở đây trong cái giới bổn nó cũng nói rất đúng nè.

Thật ra người chỉ biết thu đồ chúng xuất gia mà lại tự mình lại không thể dạy dỗ đệ tử xuất gia đúng như pháp, ấy là người có tội rất lớn.

Đó thì nó kết cái tội rất lớn là bây giờ chúng ta nhìn thấy có nhiều người thu đồ chúng rất nhiều, nhưng mà cái giới luật Sa Di có đúng không? Bởi vì mình thu đồ chúng tức là mình phải thọ giới Sa Di cho người ta chớ gì, mà giờ Sa Di có đúng không?

Rồi ông thầy cũng giống như đồ chúng, đồ chúng cũng giống như ông thầy. Ông thầy cũng xem tivi thì học trò cũng xem tivi, ông thầy ca hát học trò cũng xem ca hát, rồi ông thầy ăn phi thời thì học trò cũng ăn phi thời, ông thầy cất giữ tiền bạc thì học trò cũng cất giữ tiền bạc, ông thầy có xe cup thì học trò cũng có xe honda.

Ông thầy có gì nó cũng có nấy hết, thành ra thầy trò giống nhau, giới luật thì bỏ qua một bên, thì như vậy là thầy trò đều là có tội, rất có tội rất lớn.

Dù kẻ đồ tể tuy làm nghề ác nhưng không phá hoại chánh pháp Như Lai thì không nhất định đọa ba đường ác.

Ở đây trong cái giới bổn, cái người mà viết kinh này, viết kinh giới họ cho chúng ta thấy: Dù một kẻ đồ tể hàng ngày nó giết heo, giết bò, giết trâu mà nó đem bán thịt ngoài chợ đó, làm một cái nghề nghiệp rất là ác, nhưng nó không có phá hoại chánh pháp đâu. Nó không bằng một cái ông thầy mà nhận đồ chúng xuất gia mà để cho chúng phạm 10 cái giới của Sa Di như vậy đó, thì nó không có đọa vào ba đường ác bằng ông thầy đó sẽ bị đọa ba đường ác đó.

Làm thầy mà không răn dạy đệ tử, làm phá hoại Phật pháp, nhất định sẽ đọa vào địa ngục.

Đó thì đây là cái giới luật nó đã nhất định như vậy. Nhưng mà Thầy thấy nói thì nói chớ không phải như vậy đâu. Đồ tể nó giết hại thì phải nó đọa địa ngục chớ nó làm gì nó tránh được cái nhân quả nó khỏi đọa địa ngục đâu. Chúng ta phải hiểu những cái điều kiện.

Còn cái ông thầy mà dạy đệ tử như vậy đó là phá hoại Phật pháp, thì như vậy là ông thầy đó chỉ mang nợ của đàn na thí chủ nhiều đời nhiều kiếp, và đồng thời làm cho Phật pháp suy vi, suy đồi, thì ông thầy đó cũng phải chịu gánh cái tội lỗi đó chớ không phải là không có gánh chịu.

(42:23) Mặc dù bây giờ cái phước ông có, ông làm Hòa thượng, ông làm thầy này thầy kia, nhưng mà cuối cùng thì ông phải thọ lãnh cái điều kiện mà cái đám học trò và ông có phạm giới, làm cho Phật pháp nó mất đi cái sự tin tưởng của người khác, làm cho người ta không thể nương vào Phật pháp mà người ta được giải thoát để cứu người ta ra khỏi cảnh khổ của nhân quả, thì ông thầy cũng phải lãnh đủ những cái tội lỗi chớ không thể nào tránh khỏi.

Mà ở đây so sánh cái người đồ tể với ông thầy thì Thầy thấy nó cũng hơi thái quá. Vì cái người đồ tể họ không biết nhưng mà họ vẫn làm ác thì họ phải chịu cái quả khổ. Dù một người không biết, nhưng mà làm cái điều đó thì nhân quả cũng phải đến với họ.

Còn cái người biết mà làm sai thì nó cũng - cái nhân quả thì nó công bằng lắm! Anh biết mà anh làm sai thì cũng vậy, cũng phạt anh vậy thôi. Chớ không phải là pháp luật, anh biết pháp luật mà anh làm sai thì tui phạt anh nặng, không phải. Anh biết anh làm sai tui cũng phạt vậy, bởi vì cái tội ác anh cũng y như cái người không biết.

Cho nên thí dụ như mình biết mà mình cố gắng mình giữ mình không đạp kiến, còn người ta không biết thì người ta đạp kiến, thì vô tình người ta đạp kiến nhưng mà con kiến chết thì người ta phải có cái sự đau khổ của con kiến, thì cái nhân quả đó họ cũng phải trả, cái tai nạn gì đến với họ, xe đụng này kia nó cũng không chạy khỏi.

Còn chúng ta bây giờ có biết mà chúng ta cố gắng chúng ta tránh thì chúng ta không có làm cái điều ác, còn nếu mà chúng ta biết rồi chúng ta cũng nhắm con mắt chúng ta đi, đạp kiến gãy giò, gãy cẳng, thì chúng ta cũng phải trả như cái người kia thôi, chớ cũng không phải là cái nhân quả nó bắt chúng ta phải trả nặng hơn: Anh biết mà anh làm đó anh phải nặng hơn! Không phải đâu, không phải vậy.

Cái nhân quả nó rất công bằng ở chỗ đó, dù biết hay không biết thì chúng ta vẫn có cái sự đau khổ của chúng sanh do cái thân của chúng ta làm, thì chúng ta phải chịu lấy cái quả khổ bằng với nhau chớ không hơn.

(44:03) Bởi vì vô minh, mà bây giờ mình minh rồi mà mình lại còn làm thì mình cũng chịu cái tội cũng như người vô minh chớ cũng không có hơn gì hết. Chớ không phải là mình biết rồi nó nặng hơn, không phải, nó không có nặng hơn đâu.

Nghĩa là cái người biết rồi mà còn đạp gãy giò, cẳng kiến thì hai lần xe đụng, còn cái người mà không biết có một lần xe đụng, thì cái chuyện đó không có đâu. Bởi vì mình làm một lần, con kiến gãy chân đau nó, thì mình cũng phải trả một lần, mình cũng bị xe đụng gãy chân một lần chớ không phải hai lần được.

Cái nhân quả nó công bằng như vậy đó. Dù là mình biết, tức là mình minh rồi mà mình có làm cái sự đau khổ thì mình cũng trả một lần, mà cái người mà người ta không biết, người ta vô tình, người ta không biết gì hết, người ta đi người ta cũng làm cái sự đau khổ đó, thì cái sự đau khổ của người biết mà làm đau khổ thì hai cái đau khổ bằng nhau chớ không khác.

Một con kiến gãy chân thì nó đau cũng bằng con kiến kia gãy chân chớ không phải người không biết mà làm nó đau hơn, hay hoặc là người biết đã làm nó đau hơn, cái mức độ đau thì nó cũng ngang nhau, cho nên cái trả nó cũng như vậy thôi.

Ở đây nó phải luận cho nó công bằng, nó hợp lý, chớ không có thế nào mà ngoài cái công bằng đó mà được. Bởi vì luật nhân quả nó rất công bằng.

Vậy mà người xuất gia ngày nay có được bao nhiêu vị thầy thông hiểu giới kinh và giới bổn?

Nhìn vào cái giới xuất gia của chúng ta ngày nay thì chúng ta thấy: Cái người mà hiểu giới kinh với giới bổn có nhiều được hay không?

Họ có nhiều người chuyên môn về giới, mà toàn là giới bổn, còn có nhiều người thì học kinh mà không biết đó là giới kinh, mà chỉ nói là kinh thôi chớ còn không biết đó là giới kinh. Thì cái người mà hiểu cả giới bổn và giới kinh thì theo Thầy thiết nghĩ hiện bây giờ rất hiếm, không có nữa chớ đừng nói rất hiếm!

Thành ra khi họ giảng kinh là họ giảng kinh chớ họ không biết đó là họ giảng giới, còn trái lại một cái người mà giảng giới thì họ biết họ giảng giới chớ không biết giảng kinh, cho nên hai cái này nó trở thành ra hai cái pháp môn mà họ không thấy. Do vì cái chỗ mà không thấy đó, nó có những cái sự lầm lạc của Phật pháp rất lớn.

Như muốn hợp với quy định, cơ hồ không ai dám độ người thế tục xuất gia nữa.

Nghĩa là bây giờ đó, nếu mà mình lấy cái chỗ mà hiện bây giờ mình thấy cái hiện tượng xã hội mình bây giờ đó, thì chắc chắn nếu mà đứng ở trong giới kinh và giới bổn mà mình xuất gia cho họ, thì mình thấy họ không có thể nào mà họ tu tập nổi thì mình không có dám độ ai hết.

Nghĩa là họ không tu tập nổi thì họ phạm giới, mà họ phạm giới thì mình cũng có tội trong đó, cho nên không có dám xuất gia cho ai hết.

4- NGHI THỨC XUẤT GIA

4.1- NGHI THỨC PHẢI CÓ GIÁ TRỊ PHÁP HÀNH

(46:38) Sa Di cần phải xuất gia…​

Nghĩa là cái người Sa Di đó cần phải xuất gia, tức là cần phải đi cái lộ trình tu tập chớ không phải là Sa Di hình đồng rồi mình cũng ở lừng chừng lừng chừng cái cư sĩ đó không thì không được.

…​ sau khi xuất gia và thọ Thập Giới, nếu chưa phải một Pháp đồng Sa Di thì được gọi là Hình đồng Sa Di.

Nếu bây giờ đó mình chưa có cái pháp, tức là mình chưa có thọ Thập Giới Sa Di, mình chưa có cái pháp tu của mình, chưa có pháp giữ đức hạnh của mình, thì lúc bấy giờ mình chỉ được gọi là Hình đồng Sa Di mà thôi, cái hình tướng Sa Di mà thôi.

Xuất gia có nghi thức xuất gia, các chùa tự thâu nhận người xuất gia nhưng rất ít khi cử hành nghi thức xuất gia.

Nghĩa là có khi mình thu nhận người ta, nhưng mà tổ chức cái nghi lễ xuất gia thì cũng rất ít, chờ khi nào mà có giáo hội đồ cho phép rồi mới mở ra giáo đàn cho thọ giới Sa Di rồi hoặc là cho thọ giới Tỳ Kheo thì mới dám, còn không có cho thì không có dám.

Bởi vì khi mà mở cái giới đàn như vậy là phải xin phép, mà không xin phép thì nhà nước không cho thì không có thể mở được cái giới đàn, dù là thọ Sa Di cũng phải có mở cái giới đàn.

Nhưng ngày xưa thì chúng ta rất dễ, chúng ta mời mười vị thầy - tam sư thất chứng lại, bảy cái vị chứng và ba ông thầy lại, rồi chúng ta tổ chức cái giới đàn cho thọ.

(48:04) Như thọ Sa Di thì chúng ta đơn giản là ba vị thầy, hai vị thầy đủ rồi. Còn thọ Tỳ Kheo thì mười vị, thì chúng ta mời các vị Trưởng lão đến rồi chúng ta chia ra làm mỗi người phận sự theo pháp Yết Ma chúng ta tổ chức giới đàn.

Trong khi chúng ta ba đứa đệ tử, hay là bốn đứa đệ tử, hay là hai đứa đệ tử chúng ta cũng tổ (chức) cái giới đàn, cái giới đàn đó gọi là giới đàn Phương trượng. Còn cái giới đàn mà sinh lớn mà ầm ì tổ chức cỡ một trăm, hai trăm người thọ giới, thì cái giới đàn đó tổ chức nó phải có tiền bạc rất nhiều.

Còn cái tổ chức giới đàn Phương trượng rất dễ, không có khó. Chúng ta có ba đứa học trò, mà giờ chúng ta mời một số quý thầy đến đây, bữa đó nấu một bữa cơm chay đãi quý thầy, rồi chúng ta họp nhau làm một cái giới đàn để mà cho mấy chú này thọ cụ túc.

Thì lúc bấy giờ chúng ta cũng là đàn tràng rất là nghiêm chỉnh, y áo đồ này kia chúng ta hẳn hòi, y bát chúng ta hẳn hòi để trao cho chúng, và cật vấn chúng bằng những cái sự thông hiểu của giới luật chúng đã học như thế nào, sau đó trắc nghiệm chúng đã được đủ cái tư cách làm một vị tu sĩ thì chúng ta chấp nhận cho chú đó thọ cái giới cụ túc, hay hoặc là thọ Sa Di.

Thì như vậy chúng ta thấy các cái pháp Yết Ma nó đơn giản như vậy, nó dễ dàng. Và đồng thời chỉ chuyên lo mà tu hành mà thôi, không có làm giấy tờ gì hết, không có chứng điệp gì hết.

Cho nên mấy chú này dù là có thọ đi nữa cũng không có giấy tờ. Bởi vì mình tu mà, mình cần gì giấy tờ, chỉ cho mình biết là bây giờ thọ như vậy thôi. Rồi sau khi thọ như vậy đó, thì cái người này 20 năm - từ bắt đầu thọ Tỳ Kheo cho đến 20 năm sau, 20 năm ở trong cái - mỗi năm đều là có một cái tuổi đạo, tức là mỗi năm đều là an cư kiết hạ, thì 20 năm liên tục như vậy đó, thì cái vị Tỳ Kheo này được gọi là Thượng tọa.

Còn bây giờ không có đâu, phải tấn phong cũng như là phong quan chức vua vậy mới được, mới tổ chức một cái lễ, hay hoặc là kỳ đại hội Phật giáo mới đưa tên họ vô rồi mới tấn phong. Chớ còn lơ mơ thì hai chục năm tuổi hạ đó chưa được là Thượng tọa đâu, chưa được đâu.

Nhưng mà trong Phật giáo thì chúng ta thấy rất rõ: Một vị mà vào tu chừng ba tháng, năm tháng thôi, miễn là cái vị đó mà chứng được cái đạo quả, giải thoát được, chứng quả A La Hán thì đương nhiên là vị đó là Thượng tọa rồi, chớ chưa phải là đợi hai chục năm đâu.

Còn bây giờ chúng ta phải hai chục năm cà, thì ngay đó là chúng ta 20 tuổi đạo đó, thì đương nhiên là từ cái ngày mà chúng ta thọ cụ túc tới 20 năm sau thì đương nhiên là chúng ta là Thượng tọa rồi. Đó. Và nếu mà bốn chục năm sau thì chúng ta là Hòa thượng rồi đó. Cho nên cứ kéo dài cái thời gian đó lên thì chúng ta thành sư cụ hết chớ không có gì hết.

Nhưng mà cái sư cụ của chúng ta nó có phải là ở trong cái giới đức, cái sự thanh tịnh của nó? Mà bốn chục năm mà làm Hòa thượng, ít ra là chúng ta phải chứng quả A La Hán. Còn đằng này chúng ta phá giới tùm lum ra thì sáu chục năm hay bốn chục năm như vậy, thử hỏi chúng ta chưa ly dục, ly bất thiện pháp làm sao mà chúng ta chứng quả A La Hán được?

(51:16) Cho nên cuối cùng thì giới luật nó trở thành nằm ở trong bổn giới luật mà con người thì con người của phàm phu, mà rồi tới cái dịp nào đó lại tấn phong, lại phong là Hòa thượng, rồi phong lại là Thượng tọa, có cái chức vị thế này thế khác, nhưng mà nhìn vào cái giới luật thì không có nghiêm chỉnh. Cho nên khi mà người ta nhìn vào giới luật thì người ta thấy được cái vị đó đáng là Thượng tọa hay là không đáng Thượng tọa mà người ta biết.

Bởi vì trong đạo Phật mới vô trong năm tháng à, tui theo Phật năm tháng à, mà tui chứng quả A La Hán thì coi như là vị Trưởng lão rồi đó, tức là Thượng tọa rồi đó. Bởi vì cái danh từ Trưởng lão của Phật ngày xưa gọi đó là Thượng tọa đó. Đó, thì như vậy chúng ta thấy nó không phải là tấn phong như là quan chức phong.

Còn bây giờ Phật giáo chúng ta nó ảnh hưởng của phong kiến, cho nên khi mà chúng ta muốn lên cái chức vụ Thượng tọa phải có một cái tổ chức, rồi phong giữa đám đông, tuyên bố cái vị đó, tên họ gì đó, “Thích” gì đó, nay được tấn phong là Thượng tọa, để làm cho người ta biết tên biết tuổi của mình.

Nhưng mà cuối cùng thì ông chui qua cục đá nó bể đầu ông chớ ông chui không nổi. Còn người ta tu hành mà người ta chứng quả A La Hán đó, thì người ta mới có 20 tuổi à, nó chưa có lớn tuổi chút nào, mà hôm qua chúng ta vào xin Phật xuất gia mà bữa nay chúng ta chứng rồi thì chúng ta đi ngang qua cục đá được, thì ông Phật ổng cho đó là Thượng tọa liền tức khắc.

Cho nên vì vậy đó, Ngài Ca Chiên Diên là một cái người hốt phân ở cái kinh thành Xá Vệ đó, cho nên ai cũng thấy Ngài là cái dạng cùng đinh tệ nhất ở trong cái xã hội, cái giai cấp tệ nhất ở trong xã hội.

Khi mà Đức Phật nhận ông ta vào tu, thì khi được nhận ông ta vào tu thì ông tu có mấy hôm à, có một tuần lễ à, ổng chứng quả A La Hán. Thì ông Phật (vua) nghe nhận ông Ca Chiên Diên là cái thằng hốt phân ở chợ ổng, ở kinh đô của ổng, thì ổng: “Hỡi ơi rồi! Trời ơi nhận cái ông này mà tui làm vua mà tui lạy ổng là chắc chết tui còn gì!”

Thì các thầy nghĩ như thế nào? Ông vua ổng nghĩ ổng thấy: Khổ quá! Trời ơi! Cái ông này từ lâu tới giờ ông quảy gánh ông đi, buổi sáng mà ổng đi - rạng đông xe cộ mà vô kinh thành buôn bán mà ổng còn quảy cái gánh này thì thiên hạ họ đâu có dám! Ổng phải nửa đêm ổng quảy gánh ổng đi hốt phân cà, rồi sáng ra ổng phải biệt cái mặt ổng chớ còn ổng ở đây thì thiên hạ đâu có dám. Cũng như mấy người mà hốt rác ở thành phố mình vậy đó.

Đó thì các con thấy, các thầy thấy. Khi đó đó, Đức Phật mới biết như vậy đó, thế nào là sáng hôm nay là nhà vua cũng đến hỏi Đức Phật: “Sao ông lại thu cái ông cùng đinh như vậy, rồi làm sao mà tui đến cái tịnh xá này được? Thấy ông nào tui cũng phải đảnh lễ hết chớ làm sao!”

Thì do đó Đức Phật đã biết cái ý đó cho nên cho ông Ca Chiên Diên…​ Bởi vì thu nếu mà cỡ một tháng, hai tháng, ba tháng thì ông ta tu chưa chứng như mình làm sao ông chui cục đá qua được, rồi chừng đó ăn nói làm sao với ông vua. Phải không? Cho nên cái ông này cũng là khôn lắm, ổng vô tu là ổng cũng biết hết mình ổng nỗ lực ổng thực hiện, cho nên ông chứng quả A La Hán.

Vì vậy mà Đức Phật sai ông ra gác cái cửa cổng buổi sáng này, thế nào nhà vua cũng đến cật vấn Đức Phật hết. Cho nên mới cho ổng ra ổng gác cái cửa tịnh xá. Nhà vua đến thì mới hỏi: “Có Đức Phật trong đó không?” Thì ổng nói: “Bạch đại vương, có Đức Phật ở trỏng, để xin Đại Vương chờ một chút thì tui vô trỏng bạch với Đức Thế Tôn!”

(54:32) Thì ổng không có đi vào cái cửa đâu, ông Phật đã dặn mà: “Ông phải chui qua cục đá ở chỗ cổng á!” Thì ông Ca Chiên Diên ổng nói với ông vua rồi ổng chui qua cục đá ổng đi vô trỏng, rồi cái ổng ra ổng đón ông vua vô.

Ông vua ổng vô rồi cái thì ổng đứng hầu bên Phật. Thì ông Phật nói về chuyện ông Ca Chiên Diên mà Đức Phật thu, thì Đức Phật mới chỉ: “Ông Ca Chiên Diên ổng đứng đây nè!” - “Trời đất ơi! Cái ông chui qua cục đá, thôi vậy tui đảnh lễ là phải rồi!”

Thấy không, các thầy thấy chưa? Trong cái chỗ độ người phải như vậy đó, thì các thầy thấy đó là bậc Trưởng lão liền tức khắc, chớ đâu cần gì phải mười năm, hai chục năm đâu.

Còn chúng ta tại vì mười năm, hai chục năm là trải cái qua quá trình để chúng ta tập luyện cái giới luật, mà tập luyện cái giới luật sống đúng cái giới luật đó là ly dục, ly bất thiện pháp thì tức là chúng ta xứng đáng là cái bậc Thượng tọa chớ gì.

Mà hai chục năm hạ lạp tu hành như vậy, mà tới chừng đó giới luật chúng ta còn phạm tùm lum hết: Tiền còn cất nè, ăn phi thời nè, còn xem ca hát nè, rồi còn xức dầu thơm nè, còn cạo râu tỉa râu nè, còn làm những cái điều y áo mà mặc nhăn thì không chịu nè, tất cả mọi cái, phải đeo chuỗi đồ nữa, thì quý thầy nghĩ sao?

Một cái ông thầy như vậy mà hai chục tuổi đạo rồi mà còn sửa sang như vậy, thì làm cái vẻ dáng đẹp đẽ như vậy thì thử hỏi còn cái gì là một vị Thượng tọa? Cho nên đâu có xứng đáng.

Mà bây giờ, đùng cái là tổ chức ra tấn phong là Thượng tọa, Hòa thượng, thì chỉ có cái cách thức tổ chức của vua chúa mà thôi chớ đâu còn gì hơn nữa, tức là phong kiến rồi.

Cho nên ở đây chúng ta thấy, xét lại trong kinh giới của Phật, chúng ta thấy về cái hàng giáo phẩm, cái chức giáo phẩm Thượng tọa ở trong cái đạo Phật nó đơn giản mà nó đúng cái cách của nó.

Miễn là cái người đó thực hiện được cái giới luật là cái vị đó xứng đáng là Thượng tọa, mà cái người mà chưa có thực hiện được giới luật, dù bây giờ ở trong đạo cho tới 80 tuổi đó thì người này cũng là cái chú Sa Di hình đồng mà thôi.

Bởi vì cái giới luật Sa Di mà ông ta thực hiện không được thì ông ta là chỉ Sa Di hình đồng thôi chớ làm sao hơn được! Nghĩa là cái chú đó là chưa có được Sa Di, phải nói rằng…​

Cho nên hiện giờ chúng ta thấy cái giới luật của quý thầy hiện giờ đó quý thầy có giữ gìn được cái giới luật Sa Di chưa? Mà chưa thì quý thầy cũng chỉ là Sa Di hình đồng thôi. Bởi vì nhìn cái giới luật mà chúng ta biết mình là Sa Di hình đồng chớ không phải là một vị Tỳ Kheo đâu, hay hoặc là một vị Trưởng lão, Thượng tọa đâu.

(57:05) Nhưng mà bây giờ giáo hội mình tổ chức ra, đem tên quý vị đặt ra làm Thượng tọa đồ cái quý vị cũng khoái lắm. Nhưng mà nhìn lại cái giới Sa Di đó mình có giữ trọn không? Mà chưa giữ trọn thì mình xấu hổ lắm chớ! Ai mà nhận cái chức Thượng tọa gì kỳ vậy: Tiền tui còn cất nè, tui ăn phi thời một ngày ba bốn bữa nè, mà bây giờ mà biểu tui làm Thượng tọa thì tui làm Thượng tọa tui xấu hổ.

Vậy mà có người không xấu hổ chớ, họ còn dương dương cái mặt họ lên chớ! Họ đâu thấy rằng cái giới luật để chứng minh cho cái chỗ tu hành họ ly dục, ly bất thiện pháp, mà họ không thấy, mà họ còn tưởng là mình thiệt là Thượng tọa chớ! Nghĩa là khi mà phong chức cho họ là Thượng tọa, coi như họ đi ở trên trời chớ họ không có đi dưới đất đâu. Cái mặt họ vênh lên trên, họ nói ngon lắm rồi.

Nhưng mà cái giới luật của họ, thiệt ra thì họ dưới phàm phu, họ không bằng cái chú Sa Di Thập Giới rồi. Nghĩa là họ chỉ ngang với cái chú Sa Di hình đồng thôi chớ còn không gì hết, thế mà họ là Thượng tọa, Hòa thượng thì chúng ta thấy đau lòng cho Phật giáo, đau lòng rất đau lòng chớ!

Làm gì mà Phật giáo mà có những cái hạng người như vậy? Mới có Sa Di hình đồng mà bây giờ là Thượng tọa, Hòa thượng rồi, thì làm sao được? Một vị Hòa thượng dù chết thì chết chớ người ta cũng phải ăn một bữa chớ, sao lại ăn ba, bốn bữa như vậy?

Như vậy là nhìn chung là chúng ta thấy cái đau khổ của Phật giáo chúng ta, cái sa đọa của Phật giáo chúng ta hiện giờ.

Đạo Phật không chấp nhận nghi thức quá rườm rà, không có giá trị hành pháp tu tập.

Nghĩa là Đức Phật không có chấp nhận những cái nghi thức rườm rà tổ chức mà tấn phong thế này thế khác, không có cái giá trị của sự hành pháp. Nghĩa là rườm rà mà không có cái sự tu tập thì Đức Phật không chấp nhận.

Xét trong kinh giáo của Phật, Phật giáo ở thời kỳ đầu vốn không có một nghi thức tôn giáo nào cả.

Nghĩa là ở kỳ đầu đâu có cái nghi thức nào đâu, người nào muốn xin là tự xưng lên là đã nhận là đệ tử của mình rồi.

Nhưng về sau tăng chúng càng đông thì cần phải có nghi thức, nhưng rất đơn giản.

Nghĩa là trong cái thời Đức Phật, khi mà chúng tăng nó đông rồi thì bắt đầu nó cũng có những cái nghi thức, nhưng mà rất đơn giản chớ không phải là quá rắc rối như vậy, như bây giờ chúng ta nữa.

Nghi thức thế độ Sa Di thành hình sớm nhất cũng là từ việc La Hầu La xuất gia.

Nghĩa là cái hình thức thọ Sa Di sớm nhất là cái việc mà cho La Hầu La xuất gia, là cái người Sa Di đầu tiên trong cái giáo đoàn của đạo Phật đó.

4.2- NỘI DUNG NGHI THỨC XUẤT GIA

(59:29) Sa Di xuất gia phải có hai thầy:

Ở đây thì ba thầy cũng được, mà hai thầy cũng được, ở đây thì lấy tối thiểu là hai thầy.

Phải có hai thầy: Một vị làm thầy thế độ là Hòa thượng…​

Tức là Hòa thượng đường đầu đó.

…​ để truyền giới, còn một vị thầy nữa làm giáo thọ A Xà Lê.

Vì thế, người xuất gia trước phải lễ thọ thỉnh Hòa thượng…​

Tức là thỉnh vị thầy của mình đó, làm Hòa thượng đường đầu để thọ giới Sa Di cho mình.

…​ và thỉnh một vị A Xà Lê để làm giáo thọ.

Để giúp cho Hòa thượng đường đầu đó làm cái buổi lễ cho nó được trang nghiêm và tốt đẹp.

Người xuất gia sau khi thỉnh hai vị thầy xong, ở trong đạo tràng phải thiết lập hai chỗ ngồi, mặc y phục tề chỉnh, hướng về cha mẹ lạy từ biệt mỗi người ba lạy, và quỳ xuống đọc kệ:

Nghĩa là cái người mà xin làm lễ xuất gia đó, thì trước tiên, khi mà thỉnh được hai vị thầy rồi đó, thì họ làm lễ ở tại cái đạo tràng đó họ thiết cái lễ đạo tràng, họ mặc y phục tề chỉnh, họ hướng về cái phía cha mẹ tức là nhà cha mẹ họ ở đó, họ lạy cha mẹ ba lạy.

Nếu mà cái người đó xuất gia khi mà họ chưa rời khỏi gia đình của họ đó, họ còn sống bên cha mẹ đó, thì cái ngày đó họ phải lạy cha mẹ rồi họ mới đi đến chùa mới làm lễ xuất gia. Nó như vậy là mới đúng cách.

(01:01:11) Rồi họ còn phải học một cái bài kệ, nhưng mà ở trong kinh giới nó dạy như thế này thì theo Thầy thấy nó cũng quá rườm rà đó, nó không đúng, mình chỉ lạy cha mẹ rồi đến đó rồi mình xin xuất gia là đủ. Bài kệ như thế này:

Trôi lăn trong ba cõi

Ân ái không thể thoát

Bỏ ân vào vô vi

Là chân thật báo ân.

Nghĩa là từ lâu mình trôi lăn ở trong ba cõi, do ân ái mà không thoát ra, bây giờ mình bỏ ân ái đó, mình vào trong cái cõi vô vi là chân thật báo ơn. Nghĩa là bây giờ mình báo ơn cho cha mẹ của mình là mình phải bỏ ân ái, mình trở về với cái đạo vô vi, đó là mình mới báo ơn cha mẹ của mình.

Đó là mình đọc cái bài kệ, khi mình lạy rồi mình đọc cái bài kệ đó, mình nói lên cái sự báo ơn của mình, không phải là mình ở gần bên cha mẹ là mình báo ơn, mà mình đi tu đó đó là mình mới chính là báo ơn. Đó là cái bài kệ cái ý nghĩa như vậy.

Sau khi nói kệ xong, cởi bỏ y phục thế tục.

Nghĩa là khi đọc cái bài kệ đó rồi, thì đây là trong cái điều hướng dẫn ở trong giới đàn tăng đó, người ta dạy cho mình trong các cái pháp Yết Ma, dạy cho mình là sau khi mình đọc kệ xong rồi thì mình cởi bỏ đồ thế tục, như quần áo của mình mặc ở thế tục đó, mình cởi bỏ, rồi mình mặc tăng phục vào, như tất cả các cái y áo của mình, của các vị thầy đang mặc, thì mình mặc vào.

Khi mặc vào rồi thì mình quỳ trước Hòa thượng, và chắp tay xin Hòa thượng giảng cho mình hiểu biết như thế nào về kinh, về cái thân bất tịnh, về cái sự vô thường, về cái sự vô ngã, sự khổ của con người. Đó, mình xin Hòa thượng để giảng cho mình hiểu.

(01:03:05) Kế đó thì A Xà Lê - khi mà giảng xong rồi thì cái vị A Xà Lê giáo thọ đó, mới rải nước lên trên đầu mình, thì cái vị đó mới đọc kệ. Đây Thầy đọc cho cái bài kệ để thấy luôn:

Hay thay đại trượng phu

Hiểu thế gian vô thường

Bỏ tục hướng Niết Bàn

Hy hữu khó nghĩ bàn.

Đó, cái vị thầy họ đọc cái bài kệ đó để cho khi mà nghe được cái thân vô thường…​ (Mất tiếng)

Cho nên cái vị A Xà Lê đó đọc cái bài kệ để nhắc nhở, để khen, để tán thán cái việc làm của chúng ta, việc làm của cái người mà xin xuất gia đó.

Người xuất gia lễ thập phương chư Phật ba lạy và nói kệ:

Quy y Đại Thế Tôn

Thường độ ba cõi khổ

Cùng nguyện các chúng sanh

Đều nhập vô vi lạc.

Đó là cái người mà đã được hai người này chấp nhận cho mình quy y rồi đó, sau khi đó mình lạy thập phương chư Phật rồi mình đọc bài kệ, thì vị A Xà Lê đó bắt đầu cạo tóc mình, đọc kệ rồi cạo tóc mình:

Hủy hình giữ chí tiết

Cắt ái từ mẹ cha

Bỏ nhà, tìm Thánh Đạo

Nguyện độ hết mọi người.

Đó là cái bài kệ của cái vị A Xà Lê đó đọc lên khi mà cắt tóc của mình, cạo đầu của mình đó, thì coi như là hủy hình làm cho hoại cái hình tốt đẹp của mình hồi nào tới giờ đó, để cho mình giữ được cái chí khí, cái chí tiết của mình.

Cắt ái từ mẹ cha

Bỏ nhà tìm Thánh Đạo

Nguyện độ hết mọi người.

Đó là cái vị A Xà Lê vừa cắt tóc vừa nhắc nhở cho mình qua cái câu kệ đó.

Vị A Xà Lê cạo tóc chỉ còn để lại ít cọng tóc ở trên đầu.

Nghĩa là cạo vậy chớ còn để chừng mấy cọng tóc loe hoe ở trên đầu, chớ còn chưa cạo hết. Để đó làm gì đây? Chúng ta thấy những cái nghi thức mà ở trong các pháp Yết Ma nó…​ Còn hầu hết là bây giờ Thầy thấy nó cạo trụi hết rồi, xong rồi nó xách cái ông thầy mới xuất gia đó vô cái làm lễ thôi, chớ nó không có cạo mà để mấy cọng tóc loe hoe đâu.

Còn cái này nó để cho còn có mấy cọng tóc loe hoe ở trên đỉnh đầu đó, thì đây là cái cách thức của trong các pháp Yết Ma để mà thọ, mà Thầy đọc ra đây để cho chúng ta biết cách thức để mà chúng ta thấy có đúng hay là sai, để mà chúng ta làm cho nó đúng cách.

Chỉ còn để lại một ít cọng tóc trên đầu thì cái vị Hòa thượng đường đầu đó, tức là cái vị mà truyền giới đó - thì có hai thầy mà, thầy giáo thọ và một vị Hòa thượng - thì vị Hòa thượng đó mới cầm cái dao cạo mấy cọng tóc đó đi. Rồi vị Hòa thượng mới nói:

“Hiện tại vì ông mà cạo mấy cọng tóc ở trên đỉnh đầu của ông (được không?)”

Tui vì ông mà tui cạo cái tóc ở trên đầu của ông để cho ông được giải thoát đó.

(01:06:00) Người xuất gia đáp: “Vâng ạ! Con xin Hòa thượng cạo cho!”

Đó, để mấy cọng tóc đó tượng trưng rằng ông hủy hết tất cả những cái thế tục ở trên cái đầu ông xuống đi, đừng có để ông mang cái đó nó nặng nề, nó không giải thoát cho ông.

Bây giờ, cái ông giáo thọ ổng cạo ổng để lại dành cho Hòa thượng đó đặng mấy cái câu đó để mà nói lên, làm cho cái ý nghĩa thâm sâu của cái người mà bữa đó mà xuất gia như vậy đó họ nhớ mãi muôn đời của họ, và đồng thời họ trả lời : “Vâng, xin Hòa thượng cạo cho!” Nghĩa là cạo sạch giùm con để cho con được nhẹ nhàng, con được giải thoát. Đó là những cái điều kiện làm cho người ta có cái sự thâm sâu ở vào trong cái thân tâm của cái người xuất gia.

Cạo tóc xong, truyền cà sa.

Tức là truyền cái y.

Người xuất gia đội y…​

Cái người xuất gia đó mới có đội cái y, khi mà cạo tóc xong rồi thì Hòa thượng mới trao cái cà sa, thì cái người xuất gia này họ mới lấy cái y đó để ở trên cái đầu, rồi lại giao cho Hòa thượng lần nữa, giao qua giao lại như vậy ba lần.

Nghĩa là mỗi lần cái vị Hòa thượng đưa, thì cái vị xuất gia đó mới để lên trên đầu mình đội, đội rồi mới cầm cái y đó mới trao lại cho Hòa thượng. Rồi Hòa thượng mới trao lại cho mình nữa, mình nhận cái y đó mình đội lên trên đầu nữa, và mình trao lại cho Hòa thượng lần nữa. Rồi Hòa thượng trao ba lần như vậy đó, chứng tỏ rằng mình rất quý trọng cái y giải thoát này.

Vì cái y này nó đem lại cuộc đời của mình hoàn toàn là nó khác tục rồi, mình ly dục, ly bất thiện pháp rồi, mình không còn sống ở trong cái chỗ ham muốn, cái chỗ đắm mê của thế gian nữa, mình trong sạch rồi. Cho nên cái y này mặc vào là nó làm cho mình giải thoát, gọi là giải thoát y đó.

Cho nên ba lần truyền như vậy và ba lần nhận như vậy để cho nó có một cái sự thâm sâu của một cái chiếc áo giải thoát. Cái ý nghĩa nó như vậy đó.

Hòa Thượng - bắt đầu đó, khi ba lần như vậy rồi thì không phải cái người xuất gia đó tự mặc cái y vô đâu, mà cái vị Hòa thượng lại đắp cái y cho cái người đệ tử của mình.

Đó, nó có cái hình thức nó đầy đủ những cái ý nghĩa đó. Cho nên hôm nay Thầy giảng về giới luật, để mà thầy thấy cái nhiệm vụ cái vị thầy làm sao mà cho nhớ mãi, đó thầy nhớ lại trong những cái tình nghĩa thầy trò.

Bây giờ người học trò mình nó chưa có hiểu giới luật, mà mình mặc cái y này là cái y giới luật cho nó, tức là mặc cho nó vào, phủ trên mình nó một cái giới luật thanh tịnh, nó làm cho nó ly tất cả những cái đau khổ cuộc đời của nó. Cho nên vị Hòa thượng đó mới đem cái y đó mới đắp cho nó, rồi mới vắt cái y nó cho xong, rồi bắt lên tay nó như thế nào để đúng cách là một vị tu sĩ hẳn hòi, rồi bắt đầu nó mới đảnh lễ Hòa thượng để mà tỏ ơn, để mà nhận cái y cà sa đó.

Cho nên khi mà cái vị Hòa thượng mặc y vào cho người xuất gia rồi thì vị Hòa thượng mới nói cái câu kệ:

Lớn thay! Áo giải thoát

Y vô tướng phước điền

Mặc vào sống giới hạnh

Rộng độ các quần sanh.

(01:09:12) Nghĩa là mặc cái y này vào thì phải sống cho đúng cái giới hạnh, nó đừng có phạm cái giới hạnh. Nghĩa là thấy cái y của mình rồi thì hoàn toàn là phải giữ gìn không có cho nó phạm giới. Thế mà người ta mặc cái áo, cái y, mà bây giờ người ta không có thấy cái điều đó.

Chắc có lẽ hồi mà quy y, mà đã là thành một tu sĩ, một Sa Di, chắc ông thầy, ông Hòa thượng ổng không có mặc y đâu, bởi vì đông quá, ổng làm sao ổng mặc hết? Nghĩa là phát, phát cho mỗi đứa đó rồi cứ đem ra đó mà mặc, đứa nào mặc không được!

Cái y chớ đâu phải dễ mặc? Có biết mặc rồi nó mới mặc được chớ không phải xỏ tầm bậy tầm bạ, cũng như lấy cái vải mà quấn vậy chớ có làm biết cái thứ gì! Cho nên phải có học trước.

Vì vậy mà hầu hết là Thầy thấy mấy cái chú mà muốn xuất gia đồ đó, đêm mà sáng ra mà thọ Thập Giới, thọ để mà trao y bát, đêm đó mấy chú đó thôi tập vấn thôi lia lịa hết.

Chớ không vấn rồi làm sao biết vấn? Như Thầy bây giờ vắt vầy, quý thầy Thầy đưa cái không biết vấn làm sao nữa, chắc có lẽ là quấn như cái bánh tét chớ đâu có làm gì khác hơn, phải không? Cho nên phải có một cách thức mà có thể làm mới đúng, chớ còn không biết cách thức thì không thể đúng được.

Cho nên ở đây cái bài kệ Thầy thấy cũng có làm cho cái ý nghĩa của cái sự xuất gia chúng ta nó có những cái ý nhớ thâm sâu trong tâm hồn của chúng ta:

Lớn thay! Áo giải thoát

Y vô tướng phước điền

Mặc vào sống giới hạnh

Rộng độ các quần sanh.

Người mặc áo cà sa xong, phải đi ba vòng đàn tự nói kệ:

Nghĩa là khi mặc cái áo cà sa, ông thầy - ông Hòa thượng ổng đắp cho cái áo cà sa mình rồi ổng nói kệ rồi, thì bắt đầu mình đứng dậy mình đi, bắt đầu mình đi, mình đi ba vòng của giới đàn và vừa đi thì vừa đọc kệ:

Nếu được gặp Đức Phật

Người nào không vui mừng?

Phước nguyện gặp đúng lúc

Con nay được pháp lợi.

Đó là cái người mà xuất gia rồi đó, khi đó đi ba vòng, đọc kệ ba lần như vậy.

Người xuất gia lễ tạ thầy xong rồi lui về.

Nghĩa là lúc bấy giờ đó, khi mà như vậy xong rồi đi ba vòng đọc kệ rồi, mới là lạy lễ tạ thầy, hai vị thầy đó, rồi mình mới lui về thất của mình. Từ đó thì coi như mình là ở luôn ở trong chùa chớ không có về gia đình nữa, ông thầy dạy sao thì mình tu tập như vậy, và giới luật thì luôn luôn lúc nào mình cũng hẳn hòi để mình giữ gìn sống cái giới luật.

Cho nên đọc ở trên: “Mặc vào sống giới hạnh”, thiệt là đúng, chúng ta mặc cái y này, mặc cái bộ đồ này mà giới hạnh chúng ta chẳng ra gì thì chúng ta xấu hổ lắm.

Thầy khuyên quý thầy cứ nhìn cái áo của mình là cái áo giải thoát, cái áo phước điền. Cái áo giải thoát mà mình không giải thoát thì còn ai giải thoát được cho mình? Cái áo nhắc nhở cái hình tướng giải thoát bằng cái giới hạnh, thế mà mình không sống đúng giới hạnh thì quá uổng cái đời tu của mình rồi.

5- THỌ GIỚI THEO ĐÚNG THỨ TỰ THÌ GIỚI LUẬT MỚI TRỌN VẸN

(01:11:59) Thứ lớp của sự thọ giới.

Bây giờ kế tiếp thì chúng ta cũng phải học đến cái sự thứ lớp của thọ giới.

Trước tiên phải thọ Tam Quy Ngũ Giới rồi sau đó mới Thập Giới.

Nhân vì thất chúng là tiệm thứ giới phải thọ theo thứ tự, chẳng được một phen tiến vào cửa Phật xuất gia liền thọ Thập Giới Sa Di. Ở trên tâm lý người thọ giới chuẩn bị không kịp.

Nghĩa là một cái mình vô cái mình thọ cụ túc giới rồi, thì trên cái tâm lý con người nó không có kịp chuẩn bị cho những cái giới trước, giới sau được.

Cho nên vì vậy theo cái thứ tự mình phải thọ Tam Quy, rồi Ngũ Giới, rồi Thập Giới tuần tự, thì nó như vậy thì nó mới có chuẩn bị cho cái sự học hỏi về giới luật, và mình mới sống đúng những cái giới hạnh. Còn mình đùng cái mình vô cái mình thọ Tỳ Kheo liền!

Cho nên có nhiều người họ vô cái họ thọ ngay liền, làm ngay liền à, là Tỳ Kheo liền à! Nghĩa là thọ cụ túc liền à, cho vô cái thọ Sa Di cái là thọ liền liền, trong vòng chừng một tháng là họ thọ luôn cả ba, bốn cái giới hết: Nào là thọ Tam Quy, rồi Ngũ Giới, rồi Thập Giới Sa Di, họ thọ luôn, tháng sau là ba tháng cái họ thọ cụ túc giới luôn.

Không biết là cái ông thầy này, không biết cái kiểu cách nào mà ổng sống đúng một lượt cả bao nhiêu giới không biết, Thầy không hiểu làm sao! Tam Quy Y, ba cái giới đầu tiên của Phật, không biết chúng ta có sống có đúng được không nữa, rồi đến Ngũ Giới đâu phải chuyện dễ, rồi đến Thập Giới quá khó.

(01:13:38) Thế mà đùng cái, có nhiều người có ba, bốn tháng sau cái Thượng tọa, Tỳ Kheo rồi, Thầy thấy quá nhanh, về cái lãnh trụ trì liền mà không có thấy ngày nào tu hết.

Tứ Phần Luật giới bổn Tùy Giảng Biệt Lục của đại sư Hoằng Nhất dạy: “Cạo tóc xong, trước thọ Ngũ Giới điều phục thân tâm…​”

Nghĩa là trước phải thọ Ngũ Giới. Theo đại sư Hoàng Nhất thì ngài không có cho cái người thọ Sa Di mà ngay thọ Thập Giới liền, ngài cho thọ Ngũ Giới trước. Bởi vì tuy rằng hồi ở còn cư sĩ đã thọ Ngũ Giới rồi, nhưng bây giờ vô thì ngài chia ra làm hai phần: Cái phần thọ Ngũ Giới trước, và sau đó sáu tháng sau thì ngài mới cho thọ năm cái giới sau, cho nên nó mới thọ đủ Thập Giới.

Ngài còn chia ra cho nó từng bậc, để cho năm giới đó cho nó thuần thục ở trong sáu tháng. Nghĩa là vô đó bắt cái chú Sa Di đó hàng ngày phải tu tập là Tứ Vô Lượng Tâm rồi đó, đi phải không có được đạp chết trùng dế rồi đó, phải tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức trở lại, phải tu Tứ Chánh Cần, phải ngăn ngừa các pháp ác mà tăng trưởng các pháp thiện.

Thì suốt cái thời gian đó, thì đi cầu, đi tiểu, đi giải, hoặc là súc miệng, ăn cơm gì, chú này chắc chắn là cũng phải luôn luôn tỉnh thức hết, không có được mà mê mờ. Sáu tháng đó rồi sau mới cho thọ luôn năm giới sau nữa, thì nó mới đúng là Thập Giới.

Cho nên Thầy thấy là đại sư Hoằng Nhất này ổng cẩn thận lắm, mà cho như vậy Thầy rất đồng ý. Là vì dạy đệ tử của mình phải dạy từ từ, từ cấp bậc thấp rồi lần lượt nó ít nó tập dần, nó quen đi rồi tới nhiều thì nó sẽ trọn vẹn. Còn cho vô cái là nhiều quá, nó tập không hết, nó sống không kham, rồi từng đó nó phạm giới.

6- KHÔNG ĐẮC GIỚI THÌ THỌ GIỚI CŨNG NHƯ DIỄN TUỒNG

(01:15:33) Bất luận Ngũ Giới, Thập Giới, Tỳ Kheo Giới và Tỳ Kheo Ni Giới, toàn bộ đều ở trong đạo tràng giới. Ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam chỉ chiếu theo các bộ sách Truyền Giới Chánh Phạm.

Nghĩa là ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc thì người ta dựa theo cái bộ giới luật là cái Truyền Giới Chánh Phạm, của cái bộ giới luật đó mà người ta làm cái nghi thức tổ chức các cái lễ truyền giới.

Cho nên người ta chỉ có theo cái bộ giới luật truyền giới đó mà thôi, người ta không có cái gì khác hơn hết. Và đồng thời thì người ta cũng dùng những cái ở trong cái bộ luật - ở trong cái bộ Truyền Giới Chánh Phạm đó đó - là:

Các việc xướng, niệm, quỳ, lạy mấy mươi ngày giống như diễn kịch…​

Nghĩa là cái bộ Truyền Giới Chánh Phạm đó nó làm như một cái tuồng kịch ở trên cái sân khấu. Vì vậy mà khi truyền giới cho các đệ tử của mình thì cũng như là bắt nó diễn kịch ở trên cái tuồng sân khấu như vậy đó, chớ nó không có khác gì hết.

Mà ở Việt Nam mình và ở Trung Quốc đều là lấy cái bộ Truyền Giới Chánh Phạm này mà nó làm những cái nghi thức các pháp Yết Ma, xướng niệm cái gì nó cũng làm sẵn ra hết, như là các diễn viên diễn kịch mà có cái bổn để mà nhắc tuồng vậy đó.

…​ y theo kịch bản làm một tuồng.

Nghĩa là không có làm hai tuồng được. Nghĩa là cái kịch bản của cái Truyền Giới Chánh Phạm này, khi nào quý thầy đọc cái đó thì giống như là Giới Đàn Tăng của Hoà thượng Thiện Hòa đã dịch, đã soạn ra vậy đó, nó giống y như cái bản kịch.

Đạo tràng truyền giới chỉ chú ý sự quỳ lạy xướng niệm chỉnh tề đẹp mắt của một số đông giới tử, mà không có xem giới tử có lãnh hội được ý nghĩa của sự thọ giới hay không? Có đắc giới hay không?

Đến như tư cách của giới sư có hợp với yêu cầu thống nhất ở trong luật hay không…​

Nghĩa là cái cuốn Truyền Giới Chánh Phạm này nó không có cần thiết ở cái chỗ đó, mà nó chỉ cần thiết có như là một cái tuồng hát, bắt buộc cái vai trò đào kép nó phải như thế nào thế nào đó, thì nó ra phải đóng cái vai trò như vậy thôi đó, thì ở trong cái chỗ cái cuốn sách này, cái cuốn kinh giới này, thì nó lầm như vậy đó.

Thì chúng ta thấy rằng nó có đúng cái tính cách của đạo Phật không? Nó không có đúng cái tính cách. Họ chỉ vẽ ra một cái tuồng mà để truyền giới đó.

(01:18:20) Trên thực tế, Sa Di thọ Thập Giới rất đơn giản. Tại sao các thầy đặt ra những sách vở như vậy để thế độ người lại bỏ một quyền lợi, nghĩa vụ thiêng liêng của họ?

Nghĩa là mình đặt ra một cái tuồng như vậy để mình làm cho đẹp mắt cho người xem, đẹp mắt cho mọi người, mà mình quên rằng cái truyền giới cho một người đệ tử mình nó có một cái thiêng liêng ở trong đó, nó làm cho cái người đó suốt cuộc đời của họ nó giữ gìn giới hạnh rất nghiêm chỉnh.

Còn mình làm như vậy họ có giữ gìn giới không? Một diễn tuồng cho người ta xem chơi chớ đâu phải là có cái gì đâu.

Cho nên như vậy là những cuốn sách đó có còn đáng để cho chúng ta theo cái đó mà làm không, hay là đem đốt đi? Để sau này quý thầy có dịp mà nghiên cứu về những cuốn sách đó rồi quý thầy mới thấy được cái lời mà Thầy nói: Đáng đốt hay là đáng để?

Chúng ta đâu phải là những tu sĩ để mà soạn tuồng để diễn kịch cho người ta xem, mà chúng ta là những người phải thực hiện những cái tâm linh để giải thoát, chớ đâu phải là chúng ta là những người đến đây để làm tuồng cho họ coi?

Vì vậy mà những cái kinh sách đó iến người tu sĩ chúng ta bây giờ trở thành những ông thầy tụng niệm, ca hát. Nghe cái giọng cao, giọng thấp, nghe tiếng đẩu, tiếng trống, tiếng kèn, tiếng đờn của họ, nó ăn rợp rình làm cho cám dỗ những cái người mà ham thích ca hát. Thay vì người ta nghe ca hát nó quen quá rồi, gặp mấy ông thầy chùa này ca hát cái lạ lạ nữa, thành ra họ khoái chớ có gì?

Đó là những cái kinh sách như vậy thì chúng ta có đáng nêu để mà chúng ta giữ gìn cái sự tu tập của chúng ta để giải thoát không, hay là gợi cho chúng ta những cái làm trò cho người ta coi, làm hát cho người ta xem?

Đó thì quý thầy thấy, có những vị mà đi đám ma rồi xướng minh sanh đó, cất cái giọng theo Thầy nói y là như cái ông hát bội, cái ông đào kép gì hát bội mà hát cái tuồng Lưu Kim Đính Giải Giá Thọ Châu, nó cao cái giọng lên quá độ mà Thầy nói không có thể tưởng tượng được!

Thì như vậy là một ông thầy chùa mà làm như là một cái đào kép hát thì còn ra gì mà thể thống! Vậy mà người ta thích lắm, mọi người đều thích lắm. “Trời, cái đám ma của tui mà có ông thầy đó mà xướng một cái thì thiên hạ rớt nước mắt hết!”

7- CƯ SĨ CŨNG CẦN CẦN ĐỌC VÀ HỌC TẬP TOÀN BỘ KINH GIỚI

(01:20:38) Nhưng đối với cụ túc giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni cũng phải học tập và thủ trì nghiêm chỉnh. Trong các giới luật đều có cấm…​

Nghĩa là từ cái Sa Di chỉ có 10 cái điều giới, nhưng cụ túc của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni thì cũng phải học hết mà giữ gìn nghiêm trì hết chớ không có cái giới nào mà bỏ hết. Nghĩa là phải học hết, học tập hết, nghiêm trì giữ gìn cho nghiêm chỉnh hết chớ không có bỏ cái giới nào hết.

Trong các giới luật đều có cấm: Tiểu chúng không được nghe thuyết giới cụ túc và Yết Ma của đại chúng.

Nghĩa là cấm không có cho cái chúng Sa Di, Sa Di nam cũng như Sa Di nữ không có được nghe cái giới cụ túc, cấm không cho chúng nghe. Mà cũng không có cho được nghe các pháp Yết Ma nữa. Nghĩa là không có cho được nghe các cái pháp Yết Ma phải làm vậy, vậy, như thế nào, thế nào, thì cấm không có cho nghe.

Cũng như cái bộ Truyền Giới Chánh Phạm này chắc chắn là cấm không có cho được người nào mà xem hết. Tức là không có được coi xem cái tuồng này trước, để người ta diễn mấy người mới giựt mình chứ còn cho xem rồi nó không có hay!

Đó thì cho nên đó là cái lối của các bậc tôn túc của chúng ta mà soạn những cái kinh giới, họ rất sợ người ta xem rồi mình diễn ra không có hay, để cho mình diễn cái thình lình họ thấy hay. Đó là cách thức mà có lẽ là mấy vị cũng là những cái tay đào kép hát cũng sành lắm đó mới có soạn ra được cái thứ này, chớ còn lơ mơ thì đâu có soạn được!

(01:22:21) Vì thế cho nên ở đây là chúng ta phải thấy rằng cái sự cấm đoán như vậy, khi mà chúng ta không biết, một vị tiểu chúng mà nó không biết cái giới cụ túc thì làm sao mà nó biết cái đó là nó khó hay là dễ? Nó biết, nó thấy khó thì nó thôi, nó xin về gia đình nó, nó làm cái người cư sĩ tốt đi, nó thấy khó quá.

Mà nó biết dễ, nó biết bây giờ mình phải giữ gìn cái đó để được giải thoát, thì nó biết có khó đi nữa mà được giải thoát, thì nó thấy rằng đúng, nó phải đi vào con đường này, thì vậy mà nó đã nghiên cứu sẵn, nó có chuẩn bị cho cái tinh thần nó sẵn sàng để nó chấp nhận được cái giới cụ túc. Cho nên đến khi mà thọ được giới cụ túc thì nó rất là mừng, nó được thọ là nó rất mừng, vì đó là coi như nó được pháp để nó sống, để ly dục, ly bất thiện pháp rồi.

Còn đằng này không cho nó biết, tới chừng đùng cái mà đem ra nói vậy, trời ơi! Như trên trời nó rớt xuống vậy: “Trời! Gặp ba cái giới này, chắc chết khô mình luôn rồi còn cái gì!” Cho nên nó làm sao nó dám thọ.

Vì vậy mà tới cuối cùng thì thọ để mà lên chức là Đại đức rồi hay hoặc là lên chức Thượng tọa, rồi lên chức Hòa thượng, nhưng mà giới nó phạm tùm lum ra hết cả đám hết, nó không có cái gì hết. Bởi vì nó đâu có chuẩn bị tinh thần, cho nên đến đó rồi thì nó cứ phạm, cứ phạm mặc phạm, chớ nó làm sao bây giờ?

Đó. Còn chúng ta phải cho những cái tiểu chúng này nó phải nghiên cứu về cái giới, nó hiểu, rồi mình mới hỏi nó: “Vậy con nghiên cứu những cái giới luật này, con biết những cái giới luật này, con có giữ nổi không?”

“Bạch Hoà thượng” hay: “Bạch Thầy! Con giữ nổi. Con quyết, con thấy cái giới này ly dục, ly bất thiện pháp rất là cụ thể, con quyết tâm con giải thoát! Xin Hòa thượng chọn cái ngày tháng nào cho - con tới tuổi rồi đó, Hòa thượng chọn ngày tháng nào cho con thọ cụ túc! Con rất ham nó nè, con rất thích tu nó nè, con muốn, con thích sống nó nè!” Đó là như vậy nó chuẩn bị tinh thần nó rồi.

Còn bây giờ không có cho nó biết gì hết, đùng cái rồi cho nó thọ cụ túc, thọ cụ túc rồi nó mới học, thì chừng đó nó học nó ê mày, ê mặt nó. Chừng nó sống không nổi nó thì lúc bấy giờ - chính là lúc bấy giờ nó lại phá Phật pháp đó.

(01:24:13) Vì thế phần nhiều, cổ đức nhận định: Cấm đoán người chưa thọ cụ túc giới cũng không được duyệt đọc đại giới…​

Nghĩa là cũng không cho người ta đọc những cái kinh đại giới nữa.

…​ bằng không thì thành tặc trụ chướng ngại.

Nếu mà cho những cái người đó mà đọc kinh giới thì họ sẽ thành tặc trụ chướng ngại - thành giặc ở trong chùa đó, thành giặc ở trong cái đạo đó. Họ cho là những người đó chưa có được thọ giới mà đọc những kinh giới, đại giới như vậy, họ sẽ thành giặc ở trong chùa.

Đó là những cái nhận xét sai của những người xưa mà đã viết ra những kinh giới mà cấm đoán người ta như vậy, chớ không phải Phật cấm, để rồi mỗi cái cũng đều đổ thừa ông Phật cấm hết à, chứ sự thật ông Phật không có cấm những cái đó.

Đã không được nghe, mà cũng không được đọc, thì do đâu mà học tập?

Nghĩa là mình đã không được nghe, không được học, không được đọc thì do đâu mình học tập giới luật? Cho nên vì vậy mà mình thọ giới rồi mình mới học tập thì nó quá muộn màng rồi.

Cho nên, vì cái sai của cái người xưa sợ mấy chú nhỏ này mà họ thấy mình làm lỗi đi, vì vậy đó nó cười mình đi, nó chê mình đi, tức là mình có phạm giới rất nhiều cho nên mình mới đặt ra cái này để không cho chúng biết.

Chớ mấy chú nhỏ này mà nó mới thọ Thập Giới, mà nó thấy mình không có thọ tới cụ túc mà nó đọc thấy, hiểu: “Ông thầy này, trời đất ơi! Ổng nói chớ ổng phạm tùm lum hết! Như vậy là đâu có tốt gì, mấy ông thầy này xấu quá!” Mấy ổng sợ mà mấy ổng cấm đoán dữ tợn.

Theo thiểu ý của tôi thì tất cả cư sĩ nam cũng như cư sĩ nữ và tiểu chúng đều đọc và học tập tất cả kinh giới.

Giới kinh cũng học nè, giới bổn cũng học, đọc thông suốt hết. Khi mình muốn chuẩn bị cho mình vào đạo Phật thì bây giờ đó, người cư sĩ cũng được đọc nè, người cư sĩ nữ, cư sĩ nam nè, rồi tiểu chúng, tất cả những người mà thọ Sa Di đó, đều là được đọc hết tất cả kinh giới. Kinh giới nên phổ biến rất rộng và in rất nhiều để cho tất cả mọi người đều đọc.

Để làm gì? Họ thông suốt được, cái ông thầy nào mà phạm giới là họ chỉ à, họ chỉ cho ổng mắc cỡ đi. Ổng mắc cỡ thì ổng tu không được thì ổng ra đời, mà ổng tu được thì ổng ở lại ổng là thành một bậc Thánh Tăng, thì vậy là còn ít mà tốt hơn là bây giờ cả đám mà phạm giới nhau thì đâu có tốt!

Cho nên, đem kinh giới ra in nhiều. Bây giờ kinh giới in rất ít, mà hầu như là người ta còn không thích đọc. Bởi vì đọc thì đọa địa ngục cho nên họ không dám đọc.

Họ có thông suốt giới luật, tu sĩ mới ít phạm, vả lại khi phạm thì bị họ chỉ trích nên sợ.

Do đó cái người ta đọc thông suốt, ai cũng thông suốt giới luật của nhà Phật hết rồi, cho nên cái ông thầy không dám phạm, vì vậy mà từ đó ông thầy nó ly dục ly bất thiện pháp được.

(01:27:10) Do vì vậy mà trong giới luật, nhất là cái giới kinh, Thầy nói thiệt ra nếu mà điều kiện mà có phương tiện mà có đủ cái kinh tế, Thầy cho in giới kinh này Thầy phổ biến, Thầy cho chớ Thầy không bán, cho mọi người ai cũng biết giới kinh hết.

Gặp mấy ông thầy mà lạng chạng, bậy bạ đó: “Tôi chịu đọa địa ngục, tôi chỉ mấy ông phạm giới, mấy ông làm như vậy không đúng Phật giáo đâu!” Riết rồi mấy ông thầy này mắc cỡ, riết rồi mấy ông giữ không được cái mấy ông ra đời hết, còn bao nhiêu ông thầy giữ được thì cái bắt đầu Phật giáo bắt đầu tốt, phải không?

Vậy là bắt đầu tự mấy ông cư sĩ đó họ xây dựng mấy ông thầy mình tốt lần lên, như vậy là chùa bây giờ bắt đầu tốt hết, không có cái gì mà còn xấu nữa.

Do nhờ như vậy mà bây giờ Thầy nói ước ao mình có tiền mới in mới phát ra được, còn mình không có tiền làm sao phát được? Cho nên cái duyên cũng còn khó khăn.

Do đó mà viết tất cả những kinh sách này ra cho dữ tợn đi, còn thiền đồ đó mình dẹp bớt đi, đọc ru ngủ họ chớ chẳng tu tới đâu đâu. Còn cái kinh giới này chứ giúp Phật giáo nè, rất tốt đẹp đó!

Khi phạm thì bị họ chỉ trích nên sợ, do đó ít phạm giới. Nhờ đó quen dần, quen dần rồi đắc giới, tâm thanh tịnh nhập Sơ Thiền.

Tức là họ ly dục, ly bất thiện pháp. Bởi vì nhờ giới cho nên lần lượt họ sẽ nhập được Sơ Thiền.

Còn tiểu chúng nhỏ cho đọc và học tập, thứ nhất là chuẩn bị cho tinh thần tiến tới thọ đại giới dễ dàng hơn.

Mình chuẩn bị cho tiểu chúng nó chuẩn bị cho cái tinh thần của nó, cho nên cái giới luật nó được dễ dàng hơn.

Cái thứ hai là chúng gần gũi các thầy, mà thấy các thầy phạm giới chúng chỉ liền.

Do thầy phạm giới thầy phải sửa chớ! Chúng vì gần đó, ổng ăn hai bữa hay ổng lén ăn cục đường: “Thầy vậy đó hả, được ha? Tui ăn có một cục mà thầy ăn hai cục thì đâu có được!” Đó, do đó mà mấy cái chú nhỏ này chỉ ông thầy, ông thầy ổng cũng hoảng sợ, do đó không có phạm.

Ổng không phạm thì thầy trò cũng không phạm. Ông thầy nói: “Mình làm bậy nó cười mình, thôi mình giữ gìn. Tao rình rình tao coi mày có hái trái cây chùa không, mày ăn là mày chết!” Do đó thì ông thầy coi chừng đệ tử. Do đệ tử cũng sợ ông thầy mà ông thầy cũng sợ đệ tử, từ đó thầy trò đều thanh tịnh giới hết. Cho nên từ cái chỗ đó mà nó tốt với nhau hết.

Vì vậy đó mình phải…​ Bởi vì nó có cái sự sống chung nhau, mà cái giới luật thì ông thầy cũng biết mà học trò cũng biết, cho nên lỡ mình phạm nó cười mình, mà mình phạm nó nói mình thì mình cũng xấu. Cho nên hai thầy trò cũng đều nhìn ngó nhau mà riết mà giữ gìn giới luật rất là thanh tịnh.

Do cái chỗ giới luật đó mà đưa đến cái chỗ tâm ly dục, ly bất thiện pháp ngày nào mà chúng ta không hay. Do đến cái mức độ cuối cùng thì thầy trò đều là chứng quả A La Hán hết.

Còn bưng bít như các tổ mà đã viết ở trong kinh sách của Đại Thừa, bịt miệng, bịt mắt thiên hạ thì thử hỏi có ai mà chỉ lỗi cho mình sửa?

Mà lỗi nhỏ không sửa thì lỗi lớn nó bắt đầu nó tăng trưởng lên hoài, do vì vậy mà tu sĩ mình càng ngày càng đi đến cái chỗ hư đốn, càng đi đến cái chỗ phá giới, nó làm cho Phật pháp suy đồi. Đó là cách thức mà chúng ta thấy rất rõ.

(01:30:11) Trong Tăng Kỳ Luật quy định Tỳ Kheo nếu nói tên thất tụ cho người chưa thọ cụ túc nghe, phạm tội Việt Tỳ Ni.

Nghĩa là trong Tăng Kỳ Luật - trong cái bộ kinh, bộ giới luật gọi tên là Tăng Kỳ Luật quy định: Tỳ Kheo mà nói cái thất tụ cho cái người mà chưa thọ cụ túc nghe thì cái vị Tỳ Kheo đó phạm tội Việt Tỳ Ni. Nghe trong cái bộ luật này mà nói vậy, mấy cái vị thầy Tỳ Kheo mà không có dám nói về thất tụ cho người khác nghe.

Cụ túc giới đối với Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni phân là ngũ thiên thất tụ, cũng là 7 loại tội hạnh của 5 thứ tội danh. Còn đối với Sa Di và Sa Di Ni chỉ có một thứ tội danh gọi là Đột Kiết La.

Nghĩa là, trong ngũ thiên thất tụ cũng là 7 cái loại tội của 5 cái thứ tội danh, nghĩa là ở trong những cái tội mà Thầy đã có nhắc sơ ở trong cái giai đoạn một mà nói về giới luật rồi đó, nó có những cái tội gì, tội gì đó thì Thầy có nhắc sơ, tới đây thì Thầy sẽ nói rõ ra.

Nhưng mà ở đây là cái phần Sa Di thì chúng ta thấy dù là cái Thập Giới Sa Di nó có những cái giới dâm, nhưng mà cái chú Sa Di mà có phạm vào cái giới dâm, hay hoặc là phạm vào cái giới sát hay giới vọng ngữ thì nó chưa phải là cái giới Ba La Di mà nó chỉ có phạm cái tội là Đột Kiết La mà thôi.

Chú Sa Di thì nó nhẹ lắm. Cái chú này mà có phạm thì chỉ là sám hối thôi chớ không có cái gì mà khó. Còn các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni mà phạm vào bốn cái giới kia đó, thì tức là bị đứt đầu, bị trục xuất ra khỏi cái giáo đoàn, cái Tăng đoàn.

Cho nên không có thể nào mà cái vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni mà xử theo cái tội của chú Sa Di được. Vì chú Sa Di còn trẻ, còn nhỏ, chú chưa có thọ cụ túc cho nên cái tội chú chỉ tội Đột Kiết La mà thôi.

Thường Tỳ Kheo mỗi nửa tháng nghe tụng giới một lần, cũng phải trải qua thời gian 5 năm mới có thể học tốt về giới luật Patimokkha, huống là Sa Di phải học.

Cho nên 5 năm như vậy đó, nghĩa là thọ cụ túc rồi 5 năm học giới thì mới có thông suốt được cái giới luật Patimokkha. Còn chú Sa Di chỉ có 10 giới của chú thôi, thì phải cho chú học nữa.

Cho nên vì vậy mà chú từ cái chỗ Sa Di chú một năm, hai năm hay là ba năm đó, mà chú đã học giới cụ túc xong rồi thì chú thọ giới chú rất nhẹ học, còn nếu mà đợi cho chừng thọ giới cụ túc rồi mà cho học thì chú phải 5 năm mà chưa chắc đã là chú thông suốt cái bộ giới Patimokkha. Cho nên đó là một cái rất khó.

Tiểu chúng tuy học đại giới, nhưng cũng phải học hết toàn bộ giới luật cụ túc.

Nghĩa là cái tiểu chúng học đại giới nhưng mà phải học hết toàn bộ giới luật, thì giới luật nó phải có giới kinh nè, giới bổn, chớ đâu phải là học có giới bổn không, mà còn phải học hết toàn bộ giới kinh.

(01:33:28) Mà cái tiểu chúng phải như vậy đó, thì chuẩn bị tinh thần cho cái tiểu chúng đó nó sang qua một cái đại giới rồi thì nó đầy đủ, nó không có còn bị dao động. Còn bây giờ mình không chuẩn bị cho nó, sau này nó đâu có biết gì đâu.

Cho nên khi mà nhận một chú Sa Di, như các thầy bây giờ đang còn mặc chiếc áo đó, đó là Sa Di hình đồng. Bởi vì Thầy chưa có nhắc cái Sa Di hình đồng, nghĩa là hoàn toàn mặc chiếc áo đời, chưa có cạo đầu, chưa gì hết, vẫn vô chùa học kinh, học giới. Cái đó là cái Sa Di hình đồng rất là tuyệt vời, mà cái tổ chức này người ta không chê cười.

Còn quý thầy mà cạo tóc mà các thầy đi ra ngồi quán ngồi tiệm mà ăn uống, lơ mơ là các thầy là phá giới làm - người ta đâu có biết mình Sa Di hình đồng, người ta tưởng là một vị thầy, rồi mình phá giới làm cho người ta phỉ báng Phật pháp thì cái tội của mình rất là nặng.

Còn các thầy mà bây giờ quý thầy ngồi đây, mặc dù quý thầy là tóc tai nó bùm xùm vậy đó, nhưng mà quý thầy là quý thầy hết, là Sa Di hết đó. Bởi vì quý thầy đang học giới nè, quý thầy đang thụ những cái pháp của Phật pháp để giải quyết cái tâm ly dục, ly ác pháp của mình ra nè, thì chính là quý thầy là Sa Di hình đồng.

Nghĩa là mặc đồ đời, hoàn toàn đồ đời, không có gì hết, không có cái hình thức mà nó như là cái chú Sa Di, nhưng mà nó là Sa Di chớ không phải là thường đâu. Cho nên phải hiểu biết cái này, để tới đây Thầy sẽ giảng cho thấy cái chỗ mà các thầy là những vị tu sĩ đang ở trong chùa chúng ta là những tu sĩ hoàn toàn.

Còn những người mà cạo tóc mà không giữ được, cái hình dáng thì của Sa Di đó mà lại phạm giới thì rất là tội, làm cho Phật pháp người ta khi bỉ, người ta chê. Người cư sĩ họ sáng lắm, họ biết lắm. Mình cắt đầu mình trọc, mình vô mình ngồi quán, hay hoặc là mình có oai nghi gì sơ suất là người ta khi bỉ Phật pháp lắm, người ta coi…​

Cũng như quý thầy ở đây cạo tóc mà quý thầy làm sai, đi ra người ta cười, người ta nói cái Tu viện đó đó, có quý thầy tu ở đó coi bộ nó nghiện ngập say sưa này kia đồ, người ta chửi lắm, người ta nói nặng nhẹ lắm. Mà mình làm như vậy là người ta chê cái Tu viện mình tức là người ta chê Phật pháp, mà người ta chê Phật pháp thì cái lỗi đó ai? Tại vì mình!

HẾT BĂNG

34 - OAI NGHI CỦA SA DI VÀ SA DI NI

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 34 - OAI NGHI CỦA SA DI VÀ SA DI NI

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- MƯỜI HAI ĐIỀU KHÔNG TRÌ KHÔNG PHẠM CỦA SA DI - PHẦN 1

(00:00) Trong Thọ Giới Quy Tắc có ghi ở Tam Tạng Nghĩa Tịnh nói:

Cái ông giới luật Nghĩa Tịnh ông nói:

“Sa Di chỉ cần hiểu ở trong luật tạng mà không phạm 12 điều.”

Những gì là mười hai?

Nghĩa là cái chú Sa Di chỉ cần không có phạm 12 điều là đủ mà thôi. 12 cái điều đó như thế nào? Ở đây nó chia ra chúng ta thấy là cái 12 điều:

1. Không phân biệt y;

Nó không có phân biệt y, cái y xấu, y tốt, y thô gì đó, khi mà trao cái y đó cho cái người Sa Di thì Sa Di phải y mang chớ đâu có y điều được. Cho nên do vì vậy đó thì cái người Sa Di đừng có nghĩ khi người ta trao y mình là thô xấu, mình còn phân biệt thì không có được.

Cho nên khi mà trao cái nào, y xấu, y tốt, y gì ngắn dài gì cũng được hết, miễn là có đắp ở trong thân mình là được, thì đó là một cái điều thứ nhất của cái người thọ Sa Di thì họ không có phân biệt cái y của họ.

Nhiều khi cái chú Sa Di phân biệt: “Cái y tui sao màu nó xấu quá, còn y của chú Sa Di này sao cái màu tốt quá, nó vàng quá, còn y tui sao mà nó lợt lợt, hay có quần nó quèo, nó xấu quá!” Thì đó là còn phân biệt, thì cái chú đó chưa có đắc cái giới Sa Di đâu.

2. Lìa y ngủ;

Nghĩa là cái chú Sa Di này khi mà thọ giới rồi thì luôn luôn cái y của họ phải để ở gần ở bên chỗ cái giường của họ ngủ, chớ không được lìa cái y mà ngủ, bỏ quên cái y đó.

Ba là cái chú Sa Di này được:

3. Nhóm lửa;

Chớ thường thường là Tỳ Kheo không có được nhóm lửa đâu, chú Sa Di được nhóm lửa.

4. Túc thực;

Túc thực là cái chú Sa Di này phải ăn vừa thôi chớ không có ăn phi thời đó.

5. Không hại sinh chủng;

Sinh chủng tức là cái chú Sa Di này không có làm những cái hạt giống, trồng trỉa hay hoặc cái này kia.

6. Bỏ đồ bất tịnh trên cỏ tươi;

Nghĩa là đồ ăn hay hoặc là nước tiểu, nước giải của mình không được vảy ở trên cỏ làm cho cỏ héo úa.

Bảy là không có:

7. Tự leo lên cây;

Vì tự leo lên cây thì mất oai nghi.

8. Cầm nắm vật báu;

Nghĩa là không có được cầm nắm vật - ở đây thì nó cho rằng cái chú Sa Di cầm nắm vật báu, còn theo trong cái kinh, trong cái giới luật thì không có cho chú Sa Di mà cất giữ cầm nắm, mà ở đây nó viết ra cái này, nó cho là cầm nắm vật báu.

9. Ăn đồ ăn dư cách đêm;

10 . Đào đất;

11. Không thọ thực;

Nghĩa là cái chú Sa Di này thọ thực hai lần được đó.

12. Nhổ cỏ chặt cây.

Có kinh giới dạy 12 điều này Sa Di và Sa Di Ni không trì không lỗi.

Nghĩa là trong 12 cái điều này đó, thì Sa Di Ni và Sa Di không có trì thì không có lỗi. Đến đây Thầy xin dừng lại.

2- KINH THẬP THƯỢNG, PHẦN HAI PHÁP - PHẦN 1

[Phần 2 ở Giáo án 35]

(03:07) Bây giờ chúng ta tiếp tục.

Sau khi học xong giới của Sa Di và Sa Di Ni xong rồi chúng ta sẽ tiếp tục tới những cái bài của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. Nhưng trước khi mà học các cái giới bổn này thì chúng ta phải học những cái pháp để chúng ta biết, sau đó chúng ta học cái giới hành thì chúng ta biết để mà tu tập.

Trước khi học giới bổn Patimokkha, Thầy sẽ giảng trạch thêm hai mươi pháp cần phải hiểu rõ trong lúc thực hành, tu tập giới luật.

Thế nào là hai mươi pháp?

1. Có hai pháp có nhiều tác dụng;

2. Có hai pháp cần phải tu tập;

Đó thì chúng ta phải học những cái pháp: Tại sao cái pháp đó nó có nhiều tác dụng như thế nào, để chúng ta biết rằng hai cái pháp đó chúng ta phải thực tập như thế nào, phải trau dồi như thế nào, để cho nó có cái sự tác dụng làm cho tâm chúng ta được giải thoát.

Rồi hai cái pháp mà chúng ta cần phải tu tập, như trước kia Thầy có dạy một lần đó, thì bắt đầu chúng ta có một cái pháp mà nó có nhiều tác dụng, rồi có một cái pháp mà cần phải tu tập, rồi có một cái pháp cần phải biến tri…​ Thì ở đây nó tới cái phần này là nó có hai pháp, rồi nó tới có ba pháp, rồi bốn pháp.

Vì vậy chúng ta phải nhớ kỹ những cái điều mà Thầy dạy để sau khi chúng ta học cái giới hành thì chúng ta biết mà chúng ta áp dụng cho nó đúng cách.

Còn nếu mà không nhớ thì tức là chúng ta phải đọc lại, hoặc là chúng ta nghiên cứu lại, hoặc là chúng ta nghe lại cái lời Thầy dạy để chúng ta biết khi mà chúng ta bước vào cái giới hành thì chúng ta phải tu tập cái gì trước, cái gì sau.

Và đồng thời phải áp dụng trong một pháp có nhiều tác dụng, rồi một pháp cần phải tu tập, hay hoặc là hai pháp có nhiều tác dụng, mà hai pháp cần phải tu tập, thì ở đây là Thầy giảng về cái phần hai pháp. Cho nên:

1. Có hai pháp có nhiều tác dụng;

2. Có hai pháp cần phải tu tập;

3. Có hai pháp cần phải biến tri;

4. Có hai pháp cần phải đoạn trừ;

5. Có hai pháp chịu phần tai hại;

6. Có hai pháp đưa đến thù thắng;

7. Có hai pháp cần được sanh khởi;

8. Có hai pháp cần được thắng tri;

9. Có hai pháp cần được tác chứng;

10. Có hai pháp rất khó thể nhập.

Đó, thì tất cả những cái này chúng ta cần phải hiểu rõ để mà chúng ta biết cái nào mà khó thể nhập chúng ta phải cố gắng, phải tu tập như thế nào để mà chúng ta thể nhập được như nó.

Thí dụ như bây giờ nói - thí dụ như Phật dạy thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, mà thân, thọ, tâm, pháp là vô thường, khổ, không, vô ngã, nhưng mà chúng ta làm sao mà thể nhập được cái vô thường, khổ, không, vô ngã này thì cái đó là cái khó.

(06:02) Nhưng mà chúng ta phải tập luyện, hàng ngày phải tu tập, trau dồi thì nó sẽ thấm được cái lý đó. Mà thấm được cái lý đó tức là chúng ta đã chứng được cái lý chớ không phải ngộ.

Còn bây giờ chúng ta nghe nói thân này là vô thường, là khổ, là vô ngã, thì chúng ta biết như vậy tức là ngộ như vậy là đúng như vậy thôi. Còn chúng ta chưa có thấu được cái lý, chưa có thấm được cái lý, cho nên chúng ta chưa chứng được cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã.

Bây giờ chúng ta trải qua một thời gian tu tập thì chúng ta mới chứng được cái lý. Và chứng được cái lý thì bây giờ người ta chửi mình mình không giận là vì mình thấy vô ngã.

Bây giờ mình chứng được cái lý thì mình không có còn dính mắc các pháp, cho nên do đó thì chúng ta mới thấy nó là vô thường, các pháp là vô thường do cái chỗ mà chúng ta cần phải tu tập và cần phải thể nhập, cần phải chứng cho được.

Đó thì những cái điều kiện ở đây để chúng ta thấy hai cái pháp nào mà nó có thể mà khó thể nhập thì chúng ta phải hiểu hai cái pháp đó để chúng ta nỗ lực chúng ta tu cái đó nhiều hơn, chớ còn nếu mà chúng ta nói dễ thì chúng ta bỏ qua, chúng ta tu sơ sơ rồi thì nó không có chứng được cái lý đạo, nó không chứng được cái pháp.

Và không chứng được cái pháp thì chúng ta chỉ ngộ rồi chúng ta lý luận, chúng ta tranh cãi nhau, nhưng cuối cùng thì đụng đâu thì chúng ta vẫn có phiền não, vẫn có giận hờn, tham, sân, si vẫn còn, chưa có hết được.

2.1- HAI PHÁP CÓ NHIỀU TÁC DỤNG: NIỆM VÀ TỈNH GIÁC

(07:19) Như vậy bây giờ đó thì bắt đầu trở lại cái câu số một.

Hỏi: Thế nào là hai pháp có nhiều tác dụng?

Đáp: Niệm và tỉnh giác. Đó là hai pháp có nhiều tác dụng.

Niệm là gì? Thì chúng ta biết rằng ở trong Tứ Niệm Xứ là có bốn cái chỗ niệm, trong Tứ Bất Hoại Tịnh thì nó cũng có bốn cái chỗ niệm.

Bởi vậy cho nên chúng ta lấy thân, thọ, tâm, pháp của mình mà niệm bốn cái chỗ gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh. Thì bắt đầu đây chúng ta sẽ học về cái giới hành thì chúng ta đi vào ba cái giới đầu tiên của chúng ta là Phật, Pháp, Tăng và Giới - giới bổn chúng ta đã học đó.

Thì do ba cái chỗ mà chúng ta đã thọ Tam Quy là ba cái giới đầu tiên của chúng ta - Phật, Pháp, Tăng, thì người ta nói niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng. Vậy niệm thì nó có bốn chỗ niệm, Tứ Niệm Xứ - bốn chỗ niệm: Thân, thọ , tâm, pháp niệm. Vậy thì Tứ Bất Hoại Tịnh là dùng cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh để trau dồi cái giới luật đầu tiên mà chúng ta đã thọ, tức là Tam Quy: Phật, Pháp, Tăng.

Vậy thì thân Phật như thế nào thì thân của chúng ta phải sống như vậy, tâm Phật như thế nào thì tâm chúng ta sống như thế vậy, thọ của Phật sống như thế nào thì thọ chúng ta phải sống như vậy, các pháp như thế nào đối với Phật thì các pháp đối với ta cũng như Phật vậy. Đó là chúng ta niệm Phật. Rồi chúng ta niệm Pháp nó cũng vậy, rồi niệm Tăng nó cũng vậy.

Niệm như thế nào? Thì cái đó lần lượt Thầy sẽ dạy các pháp hành để chúng ta thực hiện ba cái giới đầu tiên Phật, Pháp, Tăng, rồi kế đó chúng ta sẽ niệm Giới. Thì ở đây chúng ta thấy cái đầu tiên mà cái pháp có nhiều tác dụng đó là niệm. Vậy thì chúng ta biết Tứ Niệm Xứ là bốn cái chỗ để chúng ta niệm, vậy thì niệm cái gì? Thì sau này tới đó thì chúng ta sẽ biết.

Và cái nữa Phật gọi là - ở trong này Phật nói niệm là một cái pháp, và hai là tỉnh giác, đó là tỉnh giác. Nếu mà muốn được chánh niệm thì phải có tỉnh giác, mà nếu không có tỉnh giác thì làm sao chánh niệm?

Mà cái niệm với tỉnh giác đó là luôn luôn nó đi đôi, cho nên Phật gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định. Đó thì muốn cho được chánh niệm ở trong cái niệm và cái tỉnh giác thì chúng ta phải tu tập cái định gì? Cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác.

(09:43) Vì cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác nó làm cho chúng ta có cái sức tỉnh thức, nó làm cho chúng ta tỉnh táo ở trước các pháp, cho nên cái niệm của chúng ta nó thành ra cái niệm chân chính, nó không có tà niệm.

Vậy thì chúng ta phải tu tập như thế nào để cho cái sức tỉnh chúng ta có, tức là cái pháp tỉnh giác, và đồng thời tu như thế nào, học hiểu như thế nào để cho cái niệm của chúng ta nó luôn luôn là chánh niệm.

Đó thì hai cái pháp đầu tiên mà nó có nhiều tác dụng sau này để trên bước đường tu tập của chúng ta nó có lợi lạc, có lợi ích rất lớn cho cái sự giải thoát thân tâm của chúng ta, vì vậy mà chúng ta phải nhớ biệm và tỉnh giác .

Hằng ngày Thầy thường - khi mà cái người cư sĩ, cái lộ trình cái người cư sĩ mà Thầy giảng dạy đó, họ bước đầu vào theo đạo Phật để mà trở thành vị cư sĩ đệ tử của Phật đó, thì họ cũng phải ở trong cái niệm và cái tỉnh giác.

Cho nên họ dùng Tứ Vô Lượng Tâm, họ đặt cái tâm từ của họ trước mặt, cho nên họ bước đi, họ nhìn xuống đất họ nhìn, để mà họ tránh cái sự vô tình mà đạp con trùng, con kiến hay hoặc là tất cả những loài chúng sanh dưới chân họ. Do cái tâm từ đó nó làm cho cái sức tỉnh giác của họ mà không có cái sự gò bó tâm họ bằng cách ức chế tâm tập trung.

Cho nên nếu mà chúng ta cứ tập trung ở trên cái bước đi của chúng ta mà không tạo cái tâm Từ chúng ta nơi đó, thì coi như chúng ta bị ức chế trong sự tỉnh thức, cho nên vì ức chế chúng ta lâu ngày chúng ta sẽ rơi vào cái trạng thái vô ký, nó làm chúng ta mê chớ không tỉnh nữa.

(11:15) Còn cái này chúng ta thư thản, mà với cái tâm thương yêu của chúng ta, lòng từ chúng ta, cho nên chúng ta sợ đạp chết con kiến, con trùng mà chúng ta đi từng bước, từng bước để tránh không đạp. Do đó mà chúng ta đi mãi mà chúng ta không cần phải dùng pháp hướng, mà rất là tỉnh thức với cái lòng thương yêu của chúng ta.

Từng đó chúng ta nuôi được cái tâm từ của chúng ta sống mãi và lớn lên dần, tăng trưởng theo cái Chánh Niệm Tỉnh Thức. Do đó cái lòng từ của chúng ta thực hiện thì cái tâm sân của chúng ta nó sẽ không - nó đối trị được tâm sân của chúng ta, đứng trước các pháp, đứng trước các cái pháp ác thì tâm sân chúng ta không nổi lên được.

Do chúng ta tu một pháp mà chúng ta đạt được nhiều pháp là cái chỗ kết quả như vậy, cho nên Phật nói: “Có hai pháp có nhiều tác dụng”. Đó thì quý thầy thấy cái lời của Đức Phật dạy: “Có nhiều tác dụng”. Chúng ta tu niệm - chánh niệm và tỉnh giác nó sẽ có nhiều tác dụng cho sự giải thoát cuộc đời của chúng ta, nếu chúng ta biết áp dụng.

Biết áp dụng nó như thế nào? Biết áp dụng dựa vào Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả vào cái Tứ Chánh Cần: Các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, mà đã sanh thì đoạn dứt, các pháp thiện chưa sanh thì cho sanh, đã sanh thì tăng trưởng.

Đó là chúng ta là người cư sĩ, chúng ta nên tu những cái đó để chúng ta đi vào cái lộ trình của nhân quả thì nó rất lợi ích. Ở đây mới có hai pháp: Niệm và tỉnh giác là hai pháp nó có lợi ích cho tác dụng trong cái cuộc sống tu hành giải thoát của mình.

Nếu mà người nào đừng có vội vàng mà cứ ngồi thiền nhập định, mà cứ ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác này mà tu, thì cái chánh niệm cũng vẫn đưa đến cho họ một cái tâm hồn giải thoát sống an lạc, thanh thản, không còn khổ đau nữa, không còn tham, sân, si, nữa, Ngũ Triền Cái họ sẽ quét sạch ra khỏi tâm của họ, không còn nữa, và Thất Kiết Sử cũng không còn trói buộc họ được nữa.

2.2- HAI PHÁP CẦN PHẢI TU TẬP: CHỈ VÀ QUÁN - PHẦN 1

(13:06) Đó bây giờ tới cái câu 2 kế:

Hỏi: Thế nào là hai pháp cần phải tu tập?

Đó, thì bắt đầu bây giờ chúng ta biết là có hai pháp nó có nhiều cái tác dụng cho cái đời sống tu sĩ của chúng ta, lợi ích cho cái sự tu tập của chúng ta, thì bây giờ tới kế tới thì có hai pháp cần phải tu tập. Vậy thì cần phải tu tập như thế nào đây? Thì ở đây Phật dạy:

Đáp: Chỉ và quán.

Đó là hai pháp cần phải tu tập: Chỉ và quán.

Vậy chỉ là cái gì? Chỉ là ngưng lại, như chúng ta dùng hơi thở mà chúng ta tu tập để chúng ta nương vào cái hơi thở mà chúng ta chỉ cái hơi thở.

Tại sao chúng ta chỉ hơi thở được mà chỉ cái khác không được? Là tại vì cái hơi thở nó có thể bây giờ nó thở bình thường, chúng ta bảo nó thở chậm thì chúng ta có thể theo cái sức thở chậm của chúng ta, chúng ta thở chậm được.

Cho nên nó có cái chỉ, nó không ở bình thường thì tức là nó chậm rồi. Chúng ta có thể - nó đang thở như thế này, nó mạnh như thế này, chúng ta bảo thở nhẹ, thì chúng ta thở nhẹ xuống một chút nữa, không sao hết.

Bây giờ chúng ta sẽ dừng lại đây. Là vì cái đoạn băng này Thầy muốn nối tiếp cho nó hết cái phần của cái đoạn băng thứ 33, nó chỉ còn một cái đoạn nữa mà chúng ta phí thì nó rất uổng. Cho nên Thầy nối tiếp về các pháp, để chúng ta biết là có hai pháp nó có nhiều tác dụng, có hai pháp nó cần phải tu tập, do…​ (Mất tiếng)

3- TU TẬP TỈNH THỨC TRONG GIẤC NGỦ

(14:33) Hôm nay thì Thầy xin nhắc lại qua cái vấn đề của thầy Minh Tông, trong cái vấn đề tu tập để làm chủ ở trong cái giấc ngủ, tức là tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ. Đây Thầy có nhắc nhở cái phần này, để hầu như quý thầy cũng rút tỉa những kinh nghiệm mà có thể tu tập.

Tu tập tỉnh thức trong lúc ngủ là phải tu tập từ từ.

Nghĩa là mình tu tập mà ở trong cái giấc ngủ để cho nó ngủ mà nó tỉnh thức thì phải biết cách tu tập thì nó mới biết được, chớ còn không khéo thì nó không có biết được.

Mà nếu mình cố gắng mình tu nhiều thì cái cơ thể mình mất ngủ thì nó sẽ sanh bệnh, nó rối loạn cơ thể. Cho nên chúng ta cái gì tu tập thì nó cũng phải lần lượt rồi nó sẽ quen, rồi nó sẽ tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ.

Còn nếu mà không tu tập thì đương nhiên chúng ta cũng sẽ không bao giờ mà có thể tỉnh thức được.

Muốn được vậy thì chúng ta:

Thứ nhất là:

1. Tập ngủ có giờ giấc rõ ràng.

Nghĩa là muốn ngủ thì mình phải điều khiển cho nó ngủ. Thí dụ bây giờ giờ này lên mà nó không ngủ, thì tức là tập làm sao cho nó ngủ cho được.

Thứ nhất là chúng ta phải tập cho nó muốn ngủ là phải cho nó ngủ, thì chúng ta phải dùng cái pháp hướng để cho khi nằm lên chúng ta nương 5, 10 hơi thở, 20 hơi thở là nó ngủ. Nghĩa là tập cho nó ngủ cho nó hẳn hòi, giờ giấc cho rõ ràng, muốn ngủ là cho nó ngủ.

Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai:

2. Tập tỉnh thức trong khi ngủ phải tu tập vừa với sức của mình, không được thái quá.

(16:03) Nghĩa là lúc bấy giờ đó, mình tập được cho nó ngủ giờ giấc nó rõ ràng, thí dụ như trưa mình ngủ ba mươi phút hay một giờ, còn tối mình cho nó ngủ hai tiếng hay hoặc là một tiếng cho nó rõ ràng.

Và khi nằm lên thì mình điều khiển sao cho nó ngủ chớ không khéo nó thức cho tới khi mà mình sắp sửa mình dậy công phu nó mới ngủ, thì cái kiểu đó nó trật hết à, thì nó không thể nào mà tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ được. Phải hiểu như vậy thì mới có thể tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ.

Và khi mà điều khiển được giấc ngủ rồi, thì lúc bấy giờ chúng ta mới tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ. Còn lúc nó ngủ vầy, lúc nó ngủ khác, giờ này nó lộn qua giờ kia, thì tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ không được đâu, nó sẽ sai hết, nó không có đúng.

Cho nên ở đây phải hiểu được cái chỗ mà khi cần thiết tập thì chúng ta phải tập như thế nào cho đúng cách.

3. Tập dần từ 5 phút đến 10 phút, rồi tập cho nó ngủ lại.

Nghĩa là thí dụ bây giờ mình muốn cho tập nó tỉnh thức thì mình tập từ 5 phút đến 10 phút, rồi bắt đầu mình biểu nó ngủ đi, không có cho nó thức nữa, chớ không khéo nó lại thức thì nó lại làm cho mình mỏi mệt thì nó rối loạn cơ thể.

Đó phải biết cách tập chớ còn không biết cách tập thì không có thể tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ được.

4. Khi mới tu tập, nên siêng năng dùng pháp hướng để giúp cho sức tỉnh nhiều hơn.

Nghĩa là lúc tập thì mình nằm đó, mình đặt cái niệm hơi thở ở trước mắt của mình, thì thường xuyên là mình phải - bởi vì mình biết rằng khi mình nằm khoảng độ 5 hay 10 hơi thở thì nó dễ thiếp trong giấc ngủ của, do vì vậy đó mình phải dùng cái pháp hướng để nó kéo dài được từ 5 phút đến 10 phút hay là 30 phút để mà tỉnh thức ở trong đó.

Nhưng mà Thầy thiết nghĩ thì tới 30 phút thì nó dài quá, nó sẽ mệt mỏi cơ thể. Đó thì phải tập từ từ. Rồi tăng dần lên, để cho cái lúc bấy giờ chúng ta tới cái lúc mà chúng ta ngủ thì chúng ta cho nó ngủ là chúng ta cũng hướng tâm nhắc rồi nó bắt đầu 5, 10 hơi thở cái nó ngủ.

Cho nên trước khi mà tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ thì phải tập ngủ trước. Ngủ có giờ giấc cho nghiêm chỉnh rồi mới tập tỉnh thức mới được, chớ không phải muốn tập là lúc nào cũng tập được. Nó khó là khó cái chỗ đó.

4- PHÁ ĐƯỢC ÂM THANH MỚI NHẬP ĐƯỢC TỨ THIỀN

(18:08) Và khi mà - và nhớ cái điều kiện nữa đó là trong cái bước đường mà tu tập về cái định Hiện Tại An Lạc Trú, tức là từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền, cái mục đích của Tứ Thiền là phải phá sạch âm thanh, không còn cái âm thanh xen vào.

Do đó vì vậy mà lúc nào mà chúng ta thấy cái tâm nó lặng lẽ, nó yên lặng tức là nó thanh tịnh thì chúng ta nằm ở trên cái sự thanh tịnh đó mà chúng ta nhẹ nhàng mà hướng tâm để cho nó phá âm thanh.

Vì mặc dù là nó yên lặng hay hoặc là vắng lặng nhưng nó vẫn là có âm thanh tác động, chúng ta còn nghe âm thanh chớ chưa phải sạch, cho nên khi đó tuy rằng ở trong cái không gian và cái thời gian lúc bấy giờ nó rất là vắng lặng, nhưng nó chưa có sạch sự vắng lặng đó.

Cho nên chúng ta muốn cho nó cái không gian và cái thời gian đó cho thật là vắng lặng - nghĩa là bấy giờ chúng ta mới thấy nó chỉ có mới yên lặng chớ chưa phải là vắng lặng - muốn cho nó được vắng lặng, nó không còn âm thanh tác động vào thì chúng ta luôn luôn phải dùng pháp hướng để mà phá âm thanh. Có như vậy thì chúng ta mới có thể phá được cái âm thanh, chớ còn không khéo thì bị âm thanh tác động.

Và vì vậy đó mà cái âm thanh mà còn tác động thì nó sẽ câu hữu với cái thọ, do vì vậy mà chúng ta không có thể dừng các hành ở trong thân chúng ta được, nó luôn luôn nó hoạt động, và nó hoạt động thì chúng ta không thể nào mà nhập Tứ Thiền được.

Cho nên ngay từ khi mà chúng ta nương vào hơi thở, rồi nằm chặt ở trên tụ điểm - gom chặt, nằm chặt ở trên tụ điểm, hoặc là chúng ta dời cái tâm đi xa cái âm thanh để phá, nhưng mà sau khi dời nó đi xa để phá hết âm thanh thì chúng ta lại nằm ở trong cái chỗ mà xa vắng, cái chỗ mà vắng lặng.

Trong cái chỗ mà sâu sắc, vắng lặng đó, không có âm thanh đó, thì chúng ta lại nằm yên ở trên chỗ đó, thì cái chỗ đó nó không phải là cái tụ điểm mà chính là cái tụ điểm của cái trạng thái vắng lặng.

Nếu mà nó nằm ở trên một cái tụ điểm mà chúng ta không phá được thì chúng ta hãy đưa cái tâm chúng ta cách xa, rời xa cái âm thanh. Còn nếu mà nó bám chặt được cái tụ điểm mà nó phá được âm thanh thì chúng ta nằm yên ở trên đó mà luôn liên tục hướng tâm nhắc để phá âm thanh, để cho cái nhĩ thức của chúng ta bám chặt vào đó mà nó không có tác động ra ngoài, nó không tiếp nhận cái âm thanh.

Nhớ như vậy thì chúng ta sẽ lần lượt phá cho được âm thanh. Mà khi phá cho được âm thanh thì các hành ở trong thân chúng ta dễ dàng phá lắm, không còn khó nữa. Và vì vậy mà cái thọ chúng ta sẽ xả lạc, xả khổ và xả niệm thanh tịnh, chúng ta nhập Tứ Thiền rất dễ dàng.

Đến đây về cái phần trả lời cho thầy Minh Tông là xong, do đó còn có rút tỉa những kinh nghiệm bản thân của mình nữa mà tu tập mà thôi. Bây giờ chúng ta tiếp tục qua cái phần học về cái giáo án.

5- MƯỜI HAI ĐIỀU KHÔNG TRÌ KHÔNG PHẠM CỦA SA DI - PHẦN 2

(21:00)

1. Tỳ Kheo có ba y, Tỳ Kheo Ni có năm y…​

Đó, ở đây thì chúng ta sẽ thấy cái vị Tỳ Kheo thì có ba y mà thôi, còn Tỳ Kheo Ni thì có năm y. Bởi vì người nữ thì họ phải nhiều hơn chúng ta, vì cái thân của họ bất tịnh lắm cho nên họ phải có sự thay đổi để giặt dễ hơn. Do đó thì ở trong giới luật của Phật cũng có cho ở bên ni nó có rộng rãi hơn ở bên nam của chúng ta, cho nên Tỳ Kheo có ba y mà thôi.

…​ Tỳ Kheo Ni có năm y, còn Sa Di có hai mạn y mà thôi: Một là y trên, hai là y dưới.

Nó có hai y mà thôi chớ nó không có ba y, nó có hai y.

2. Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni không được lìa ba y ngủ, chủ yếu là không được lìa xa cái đại y của mình.

Nghĩa là cái y lớn của mình, y thượng của mình không được lìa xa, luôn luôn lúc nào mình cũng giữ gìn. Bởi vì chỉ có cái đại y nó mới có giữ cái thân của mình kín đáo, còn cái y trung và y hạ như cái bộ đồ ngắn của mình ở trong thân thì nó không có kín đáo lắm.

Nhất là bên ni thì cần phải là cái y thượng, cần phải cái đại y đó phải sát ở bên mình, khi mình ngủ mình cũng giữ gìn cái y đó mình phủ trong người của mình. Nói: “Trời nóng nực quá, tui bỏ cái y đó” thì không được. Bởi vì cái người phụ nữ mặc cái bộ đồ ngắn quá thì để cái thân người nó không có tốt, cho nên vì vậy mà cần phải giữ kín đáo, dù là nóng nực gì cũng phải giữ cái đại y.

Tỳ Kheo cũng vậy, không được lìa cái y thượng của mình, vì khi ngủ thì trong khi đó mình không có còn chủ động được cho nên do vì vậy mà quần áo nó xốc xếch, tức là y áo của mình nó xốc xếch, nó hở hang, mà mặc có cái y hạ và cái y trung không thì da thịt nó bày ra, nó không tốt, cho nên cần phải có cái y thượng mà phủ lên, để cho nó kín đáo cái thân hơn.

Sa Di không có đại y nên không phạm.

Bởi vì Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni có y như vậy là tại vì mình lớn rồi, cho nên nếu mình bỏ cái y đi thì mình để cái thân của mình nó bày ra thì nó rất là có cái tai hại của cái người lớn, nó có thể đi đến những cái phạm vào cái tội dâm, nó nguy hiểm.

Còn cái chú Sa Di nó còn trẻ cho nên nó chưa có đại y, vì vậy mà nó không có cần mà phải phủ cái y thượng lên, do đó nó chỉ mặc cái bộ đồ ngắn, tức là y hạ và y trung mà thôi, nó không có phạm.

3. Tỳ Kheo không được nhóm lửa.

Nghĩa là cái vị Tỳ Kheo cũng như Tỳ Kheo Ni không có được nhóm lửa nấu ăn cái này cái kia, không có được làm cái đó.

Sa Di có thể nhóm lửa, nấu cháo hoặc nấu cơm cho đại chúng dùng.

Ở đây thì - ở trong giới luật thì nó chế đó, nó chế ra như vậy để cho cái vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni thì không có nấu, nhưng mà mấy chú Sa Di thì nấu cho đại chúng ở trong chùa ăn cái này, cái kia được. Nhưng mà đúng là trong giới luật của Phật không được, dù là Sa Di cũng không được nấu nữa, chỉ đi xin ăn mà thôi.

Tức là giới kinh thì nó cấm rất ngặt, nó không có cho nấu nướng cái gì hết, hoàn toàn. Bởi vì khi mình bước đầu mình vào tu mà mình nấu nướng như vậy nó quen đi. Cho nên Đức Phật cũng - ngay từ lúc đầu mà cái chú Sa Di mới vào như La Hầu La cũng đi xin ăn mà thôi chớ còn không có được nấu.

(24:25) Còn ở đây giới luật nó chế ra thì nó có sự thay đổi. Nó thay đổi để làm cho nó nhẹ nhàng hơn, cho nên bắt mấy chú Sa Di này chẻ củi, nấu cơm hoặc là lặt rau, hay hoặc là làm thực phẩm đủ thứ, nhất là mấy chú Sa Di.

4. Tỳ Kheo giả sử sau khi đã ăn bữa ăn chính từ sớm rồi, thí chủ có đem đồ ngon đến cúng dường, trong bụng có thể ăn thêm cũng không được ăn nữa. Đây gọi là “túc thực”.

Nghĩa là ăn biết đủ chớ không có được ăn thêm.

Nếu như nhất định muốn ăn thêm phải nhờ một Tỳ Kheo khác, họ chưa có ăn, làm lễ dư thực bằng cách nhờ Tỳ Kheo kia ăn trước một miếng rồi sau đó mình mới ăn được.

Sa Di tuổi nhỏ không bị hạn chế của túc thực.

Nghĩa là ở đây khi mà mình ăn rồi, cái vị Tỳ Kheo đó ăn rồi, nhưng mà có người đem cúng đồ ăn ngon nữa, thì vị Tỳ Kheo đó muốn ăn thì phải nhờ cái vị Tỳ Kheo chưa có ăn đó họ ăn cho - ở trong cái tô, hay hoặc cái bát thực phẩm đó, thì nhờ họ ăn một miếng rồi bắt đầu mình mới ăn lại được. Còn nếu mà không có thì không có được ăn.

Thiệt ra thì cái chế như thế này Thầy thấy, một vị Tỳ Kheo mà còn thèm ăn như vậy thì làm sao gọi là ly dục, ly bất thiện pháp, cho nên cái giới luật chế ra Thầy thấy nó không còn đúng cái chỗ cái pháp để mà chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp, nó sai hết rồi.

Nhưng mà đọc ra để cho quý thầy nghe để biết rằng cái giới bổn của cái người sau họ chế tầm bậy tầm bạ là như vậy đó. Bởi vì cái mục đích chúng ta giữ gìn giới là chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp chớ đâu phải là còn muốn ăn, thế mà vị Tỳ Kheo thấy đồ ngon còn muốn ăn.

Mà muốn ăn vậy phải nhờ vị Tỳ Kheo khác, bởi vì giới luật cấm không có cho ăn như vậy, cho nên mới nhờ cái người khác ăn một miếng rồi. Cũng như bây giờ người ta đem đến một cái tô hủ tiếu ngon quá, do đó bây giờ muốn ăn cái tô này, do đó nhờ cái vị kia: “Anh làm ơn anh múc anh ăn giùm tui miếng đi, rồi tui mới ăn cái tô này được!”

Thầy thấy nghe nó kỳ cục quá, thế mà họ dám chế như vậy. để rồi các vị sau này cũng nhờ như vậy để mà mình cứ thỏa thích trong cái sự ăn uống chớ đâu có cái gì khác hơn hết.

Đó là cái giới bổn trong kinh giới mà Thầy thấy hầu hết là các ngài chế giới ra một cách quá rộng rãi, và mục đích cũng sợ phạm giới cho nên chế ra những cách này cách kia để mà nuốt cho trôi ba cái thực phẩm cho nó trôi vô cổ.

Còn cái chú Sa Di thì không có hạn chế, nghĩa là chú muốn ăn thì ăn, muốn không thì không, thì thiệt là Thầy thấy Thập Giới Sa Di quá rõ ràng rồi chớ không còn gì nữa hết, cho nên ở đây nói chú tiểu chớ Thầy thấy chú tiểu nó chưa hẳn là làm cái chuyện như vậy được, thế mà ở trong giới luật thì coi như chú tiểu về ăn uống là muốn ăn hồi nào là ăn đó.

(27:11)

5. Sanh chủng là hạt giống và ngũ cốc, Tỳ Kheo không được trồng và làm tổn hại, Sa Di có thể thay Tỳ Kheo xử lý.

Tức là trồng hoặc là xay, giã, nấu những cái hạt ngũ cốc đó được. Thí dụ như bây giờ người ta cho mình một ký hột đậu xanh, thì cái vị Tỳ Kheo đó không được đem cái hột đậu xanh đó xay ra rồi nấu chè ăn được, thì bây giờ chỉ sai cái chú Sa Di thay xử lý cái này được:

“Chú đem cái này đem vô cái cối xay chú xay ra đi, tụi tui thì làm không được đâu, tụi tui thì giới luật nó nhiều hơn chú rồi. Chú xay bể hột này đi, rồi chú đem ngâm đi, rồi chú nấu chè đi, rồi tụi mình xử lý với nhau đi!”

Thì cái chuyện đó là cái chuyện ở đây là ở trong các giới bổn nó chế ra như vậy, thì thiệt ra mấy chú Sa Di này không còn cái giới hạnh nào nữa hết. Bởi vì phải thay các vị Tỳ Kheo mà làm những cái điều phi giới luật.

6. Bất tịnh là chỉ cho các vật nhơ bẩn như đại tiểu tiện và đàm dãi.

Nghĩa là cái phần thứ sáu này, khi mà những cái vật bất tịnh như đồ ăn của chúng ta mà ăn thừa thì chúng ta không nên bỏ trên cỏ rác, ở trên những cái loại cây, nó làm cho chết cây. Cũng như khi cái đại tiểu tiện, đừng có đại tiểu tiện ở trên cái cỏ cây mà làm cho nó chết.

Do ở đây cái giới thứ sáu này thì cái người Tỳ Kheo phải giữ gìn như vậy và cái chú Sa Di cũng giữ gìn như vậy.

7. Leo lên cây làm mất oai nghi.

Tức là cái vị Tỳ Kheo cũng như Tỳ Kheo Ni không có được leo lên cây, chỉ có chú Sa Di leo mà thôi. Nhưng mà ở trong cái giới luật thì nó có chế thêm như thế này, là vì cái trường hợp mà như cần thiết phải có những cái điều kiện leo cây thì chúng ta cũng phải leo cây, nó cũng có chế ra cái phần này.

Thí dụ như bây giờ trong chùa có những cái cây xoài hay cây mít, thì đâu ở ngoài người ta trèo trong chùa mà người ta hái được, do đó thì mấy chú Sa Di phải trèo trên đó hái mấy trái xoài, còn Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni thì không có được trèo. Bởi vì lớn rồi, trèo như vậy mất cái oai nghi của một vị làm thầy, chỉ có mấy chú nhỏ là trèo được.

8. Tỳ Kheo không được cầm nắm vật báu, chỉ có Sa Di có thể thay Tỳ Kheo mà cầm nắm và giữ vật báu.

Trong khi đó chúng ta thấy Thập Giới Sa Di có cấm không? Thế mà ở đây ở trong giới bổn thì cứ cái gì cũng đổ thừa cho Sa Di làm được hết à, chỉ Tỳ Kheo với Tỳ Kheo Ni thì không có làm được mà thôi. Đó.

9. Đồ ăn còn thừa để cách đêm, Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni chẳng được ăn lại, chỉ có Sa Di là có thể được ăn lại.

Đó thì Sa Di thì ăn lại được chớ còn Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni không ăn lại được.

10. Tỳ Kheo không được đào đất, chỉ có Sa Di thì có thể đào đất hoặc là vun trồng.

Chớ còn Tỳ Kheo thì không có được làm cái điều đó.

(30:11)

11. Các vật thực không do người khác đưa cho, Tỳ Kheo không được ăn. Sa Di không bị hạn chế và làm người dâng thực phẩm cho Tỳ Kheo.

Nghĩa là bây giờ cái vật thực đó đó, thường thường là người đi khất thực, thì người ta đem người ta cúng dường, người ta sớt bát cho cái vị Tỳ Kheo, thì cái vị Tỳ Kheo đó được ăn.

Mà nếu mà người ta không có sớt bát, người ta không có cho vị Tỳ Kheo đó thì cái vị Tỳ Kheo đó không được lấy thực phẩm mà ăn, chỉ có cái - bây giờ ở trong chùa chúng ta có những người người ta đem cúng Phật, cúng trái cây hay cúng gì đó, thì cái vị Tỳ Kheo với Tỳ Kheo Ni không được lấy ăn. Bởi vì người ta cúng Phật chớ không phải là người ta cúng cho vị Tỳ Kheo đó hay hoặc là cái vị Tỳ Kheo Ni.

Chỉ có mấy chú Sa Di đó mới lấy ở trên bàn Phật những cái trái cây cúng đó, mới đem vô dâng lên cho các vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni thì bấy giờ thì các vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni mới được ăn, bởi vì mấy cái chú đó mới lấy ra, mới dâng lên. Còn nếu mà không có lấy thì để thúi đó thôi chớ vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni không có được lấy cái của người ta cúng Phật ở trên bàn mà ra ăn.

Đó, thì như vậy là cũng để cái điều kiện. Bởi vì trong giới luật của Phật người ta cúng dường, người ta sớt bát của mình thì cái gì mình ăn, mà người ta không cho thì thôi không có được lấy ăn, lấy ăn như ăn cắp, ăn trộm. Do vì vậy đó thì chỉ có mấy chú Sa Di thì lấy cái của cúng đó đó, mà đem dâng lại cho các vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni thì các vị mới có được ăn.

Mà hầu hết là cái giới luật này thì Thầy thấy rằng hầu hết thì mấy chú Sa Di họ lấy họ quất hết chớ họ đâu có để cho mấy ông thầy lớn! Vậy cho nên mấy ông thầy lớn cũng lo bưng xuống để mà chia nhau ăn chớ đâu có để cho mấy chú, hay hoặc là sai mấy chú Sa Di lên bưng cái dĩa trái cây ở trên bàn Phật đem xuống đây rồi thầy chia cho, thì tức là ông thầy ổng chia cho ổng một mớ rồi mấy chú Sa Di một mớ, chớ không phải là chia hết cho mấy chú Sa Di không.

Đó thì trong cái giới luật thì nó có ghi như vậy, nhưng mà nó làm không có đúng cái tính cách của cái giới kinh để chúng ta thực hiện cái tâm ly dục, ly bất thiện pháp.

Tuy rằng những cái vật nhỏ mọn mà nó vẫn còn những cái chút chút làm cho chúng ta khó ly lắm chớ không phải dễ. Mà giới luật - hầu như giới bổn mà viết ra như vậy đó thì nó cũng nuôi lớn cái tâm dục của chúng ta chớ không phải ly, cách thức từ cái ăn cái này cái kia đủ cách như vậy đó là tạo cái thế cho chúng ta chạy theo cái dục lạc của thế gian.

12. Tỳ Kheo không nhổ cỏ, không chặt cây. Sa Di thì không hạn chế về nhổ cỏ, chặt cây.

Cho nên tất cả những cái sự gánh nặng mà của ở trong chùa phải nói là Sa Di gánh nặng, nào là nhổ cỏ dẹp cho sạch này nọ, còn Tỳ Kheo với Tỳ Kheo Ni là khỏe lắm, ngồi không, không có làm gì hết: “Phật dạy không có động, không có làm cái gì hết, chỉ có mấy chú là làm thôi chớ còn tụi tôi lớn rồi, không có làm.”

Cho nên mấy thầy lớn thì ngồi không chớ không có làm gì hết, không có được làm cỏ, nhổ cỏ, hay hoặc là quét nữa, quét đây rồi kiến nó lăn nó chết nó tội, còn mấy chú thì cứ quét đùa, không có sao hết.

Thì tất cả những cái tội lỗi, tất cả những cái mà phạm giới đều đổ cho Sa Di hết, còn tất cả các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni thì không có lãnh những cái điều kiện đó, nhưng mà cứ chạy theo dục thì không làm sao mà tránh khỏi được.

(33:26) Bởi vậy Thầy thấy trong cái vấn đề mà tu học theo đạo Phật nó rất khó là đời sống nó phải như thế nào cho đúng cách của giới luật thì nó mới có ly được dục, nó mới có ly được ác pháp, chứ nếu mà không có đúng cách thì chúng ta sẽ bị phạm giới hết, không có người nào mà không phạm, dù ít dù nhiều chúng ta vẫn bị phạm hết.

Nhất là chúng ta trụ thế tăng đó, ở đâu một cái chùa mà ở mãi đó thì chắc chắn là chúng ta bị dính hết, không thể nào mà chúng ta giữ gìn giới luật cho trọn vẹn được.

Chánh nữ học tức là Thức Xoa Ma Ni.

Thức Xoa Ma Ni người ta còn gọi là chánh nữ học.

Bởi vì ở trong bên ni thì nó có chia làm những cái giai đoạn: Khi mà vào xuất gia thì gọi là Sa Di Ni, khi mà muốn lên làm Tỳ Kheo Ni thì họ còn một cái giai đoạn nữa, cái giai đoạn nữa đó là cái giai đoạn gọi là Thức Xoa Ma Ni. Họ phải có 2 năm ở trong cái Thức Xoa Ma Ni này, sau đó mới được thọ Tỳ Kheo.

Chánh nữ học tức là Thức Xoa Ma Ni. Trong 12 điều này, 7 điều trước không trì không phạm, 5 điều sau không trì thì phạm.

Đó tức là 12 điều ở trên đó, thì cái chú Sa Di cũng như cái vị Tỳ Kheo - nói chung là Thức Xoa, Sa Di, Sa Di Ni mà trong 12 cái điều này trì - 7 cái điều kiện ở trên không trì thì không phạm, mà 5 cái điều ở dưới thì không trì vẫn bị phạm.

Đó thì cái chỗ để mà trong kinh giới nó chỉ như vậy, chúng ta học để biết sơ qua mà thôi. Mục đích của chúng ta học để làm sao mà chúng ta tu cho được giải thoát chớ không phải học giới luật theo cái kiểu này, nhưng chúng ta ít ra cũng biết.

Chúng ta biết cái sai của giới bổn để mà chúng ta không có chấp nhận nó, mà chúng ta lấy những cái oai nghi của nó, cái nào đúng để mà chúng ta sửa mình, để mà chúng ta ly dục ly ác pháp, để mà chúng ta đi đến con đường giải thoát.

Chớ không phải chấp vào cái giới luật, cái giới bổn đó, mà nó khô cằn khô cỗi đó, bằng cách mà chế cái này chế kia để chúng ta không có ly được dục, không có ly được ác pháp, thì suốt đời chúng ta theo đạo Phật cũng chẳng có lợi ích gì cho cuộc đời tu hành của mình.

6- OAI NGHI CỦA SA DI VÀ SA DI NI

6.1- OAI NGHI TRONG KINH GIỚI BỊ ẢNH HƯỞNG NHIỀU TỪ NHO GIÁO

(35:45) Cho nên bây giờ thì Thầy sẽ đọc oai nghi. Tới đây chúng ta cũng học sơ về oai nghi của Sa Di và Sa Di Ni để chúng ta biết sơ qua cái phần này, nếu không thì chúng ta là những người tu sĩ của đạo Phật mà không biết cái oai nghi của nó như thế nào.

Nhưng ở đây thì Thầy xét qua, nếu mà cần phải soạn ra những cái oai nghi này thì phải có một cái thời gian, còn ở đây họ đã soạn sẵn cho chúng ta, từ các kinh giới họ đã soạn ra những cái oai nghi của Sa Di và Sa Di Ni để chúng ta…​

Nhưng mà Thầy đọc thì Thầy thấy hầu hết là các vị tổ ở bên luật mà họ chế ra những cái oai nghi này đều là họ nằm ở trong cái giai đoạn phong kiến vua chúa mà họ chế ra, cho nên nó cũng không phù hợp với cái đạo Phật lắm.

Nhưng chúng ta thấy hiện giờ thì chưa có một vị nào mà soạn ra những cái oai nghi của Sa Di, Sa Di Ni cũng như Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni để cho chúng ta thực hiện cái oai nghi của một người tu sĩ đạo Phật.

Chính Đức Phật đã dạy chúng ta cái oai nghi của chúng ta là Thánh phòng hộ sáu căn. Tức là chúng ta thực hiện ở trên cái pháp phòng hộ sáu căn đó nó sẽ đầy đủ oai nghi.

Nhưng vì đi vào những cái chi tiết thì ít ra phải có thời gian Thầy mới có thể nghiên cứu tất cả những cái oai nghi mà đi, đứng…​ trong khi phòng hộ sáu căn như thế nào gọi là oai nghi của nó. Bởi vì nó rất nhiều những cái điều kiện mà chúng ta sẽ gặp phải mà nó sẽ làm mất cái oai nghi của chúng ta đi khi chúng ta phòng hộ.

Đó thì, còn ở đây thì họ dựa vào cái phong kiến, vua chúa, cách thức những cái đối xử, tiếp xử với nhau, cũng như chú Sa Di đối với thầy nó phải như thế nào, hầu thầy như thế nào, thì cái lối đó là cái lối của phong kiến chớ không phải là của một vị tu xuất gia.

Cho nên Đức Phật cũng là một thái tử, cũng ở trong một cái vai trò của thời đại phong kiến vua chúa, thế mà đi tu rồi mà còn phải có người hầu kẻ hạ, rồi còn phải có này kia thì chắc chắn là Đức Phật không có đồng ý cái điều đó đâu.

Nhưng ở đây thì chúng ta thấy rằng trong cái giới thì nó nói về cái oai nghi, chúng ta xét qua thì chúng ta biết rằng các vị tổ trong giới luật mà viết ra thì họ là những người chịu ảnh hưởng của phong kiến, của nho giáo. Cách thức mà đối xử với vua như thế nào thì cách thức mà cái vị học trò đối xử với ông thầy cũng na ná gần giống như là đối xử với vua.

(38:17) Oai nghi của Sa Di và Sa Di Ni.

Quan hệ của Sa Di và Sa Di Ni trong Đại Chánh Tạng có năm bộ sách sau đây có thể dùng nghiên cứu tham khảo:

1. Sa Di Thập Giới Tinh Oai Nghi;

2. Sa Di Oai Nghi;

3. Kinh Phật Thuyết Sa Di Thập Giới Nghi Tắc;

4. Sa Di Ni Giới Kinh;

5. Sa Di Ni Ly Giới Văn.

Nhưng vì nội dung của năm bộ sách này trước sau trùng lặp, không có cương lĩnh thống nhất, người sơ học rất khó nắm được đầu mối, vì (thế) cuối đời nhà Minh có đại sư Liên Trì chỉnh lý và biên tập thành một quyển Sa Di Ni Luật Nghi Yếu Lược, về sau lại có ngài Hoằng Tán làm chú thích thêm. Cuối đời nhà Minh còn có đại sư Ngẫu Ích biên tập một quyển Sa Di Thập Giới Oai Nghi Luật Yếu. Quyển trước kĩ càng, quyển sau giản dị sáng sủa, mỗi quyển đều có chỗ hay, đều có giá trị đáng cho chúng ta tham khảo việc học. Hiện nay ở Đài Loan Ấn Kinh Xứ có bản đơn hành lưu động.

Trong Sa Di Thập Giới Tinh Oai Nghi nói: “Sa Di có 72 oai nghi gồm có 14 việc”. Trong Sa Di Ni Ly Giới Văn nói: “Oai nghi 70 sự kiện”. Trừ những oai nghi có quan hệ riêng cho nam nữ bất bất đồng ra, oai nghi của Sa Di và Sa Di Ni phần nhiều tương đồng. Nay tôi xin đem một vài oai nghi được xem là trọng yếu phân làm hai tổ nam nữ trích lục như sau:

6.2- OAI NGHI CỦA SA DI

(40:03) Oai nghi của Sa Di

1. Pháp thầy dạy Sa Di:

Phải kính Đại Sa môn, không được kêu tên của Đại Sa môn. Lúc Đại Sa môn thuyết giới kinh không được lén nghe. Không được tìm điều hay dở của Đại Sa môn. Đại Sa môn có lỗi lầm không được nói với người khác. Không được nói xấu Đại Sa Môn khi vắng mặt. Không được khinh dễ cười cợt trước mặt Đại Sa môn và nhái theo ngôn ngữ hình tướng của Đại Sa môn. Thấy Đại Sa môn phải lập tức đứng dậy, trừ khi đọc kinh, ăn cơm, công tác. Giữa đường gặp Đại Sa môn, phải đứng nép qua một bên. Nếu lúc cười đùa thấy Đại Sa môn liền phải ngưng ngay.

Đó là cái oai nghi đầu tiên của cái thầy Sa Di, phải học cái lòng cung kính đối với cái bậc Đại Sa môn như vậy. Cái oai nghi thứ hai của Sa Di là:

2. Pháp Sa Di thờ thầy:

Phải xem thầy như cha, phải dậy sớm. Muốn vào cửa phòng thầy trước phải búng ngón tay ba lần. Phải chuẩn bị đồ súc miệng rửa mặt cho thầy. Phải rải nước khi quét đất. Phải xếp y phục, dọn dẹp lau quét giường chiếu cho thầy. Thầy đi chưa về, không được bỏ phòng ra đi. Nếu có lỗi, thầy răn dạy không được cãi lại, phải cúi đầu lắng nghe lời thầy và phải ghi nhớ để vâng làm. Đi ra phải đóng cửa lại cẩn thận.

Đó là cái oai nghi thứ hai. Oai nghi thứ ba:

3. Pháp Sa Di bạch thầy:

Ngoại trừ 5 việc: Súc miệng, uống nước, đại tiện, tiểu tiện và lễ kính tháp Phật trong vòng 49 tầm (mỗi tầm là 8 thước tàu)…​

Tám thước tàu là cái thước tay của mình, tức là cái cánh tay của mình đây gọi là thước tầm đó, mà 8 thước như vậy.

…​ của phạm vi kiết giới, có làm việc gì đều phải bạch với thầy.

(42:07) Nghĩa là khi mà mình - cái cách thức của vị Sa Di đó, phải cách xa vị thầy hay hoặc là phải cách xa tháp tượng Phật, mà khi mình đảnh lễ đó thì mình phải đứng cách xa là 8 thước tàu, tức là 8 cái cánh tay của mình như vậy, thì đo 8 cánh tay thì cái người Sa Di phải đứng cách như vây đó. Khi mà kiết giới cũng như là khi mà đảnh lễ thầy hoặc là đảnh lễ Phật thì phải cách 8 thước như vậy. Đó là cái oai nghi khi đảnh lễ.

Mà khi mà đảnh lễ thì không được - đang súc miệng mà đảnh lễ thì không được, uống nước thì không được, đại tiểu tiện không được, cho nên khi mà đảnh lễ thì hoàn toàn là những cái việc làm đó không có được làm, vừa làm mà vừa đảnh lễ thì không được.

4. Pháp Sa Di nhập chúng:

Phải học cho rõ, phải tập làm việc. Phải vì chúng phục vụ. Phải vì Đại Sa môn mà đưa vật dụng. Phải lễ Phật, phải lễ Tỳ Kheo tăng. Phải chào hỏi bậc Thượng tọa, Hạ tọa. Phải nhường chỗ ngồi cho bậc Thượng tọa, không được giành chỗ ngồi, không được ở trên tòa ngồi kêu gọi cười giỡn. Không được luôn luôn đứng dậy đi ra ngoài. Nếu trong chúng có gọi đến tên mình thì liền dạ. Tỳ Kheo chấp sự có sai làm việc gì trước phải bạch lại với thầy.

Nghĩa là cái vị Tỳ Kheo chấp sự đó là cái vị cũng như là cái vị tri sự ở trong chùa đó, mà sai mình làm cái việc gì đó thì mình phải thưa với thầy trước rồi mình mới nhận cái sự chấp sự của cái vị đó sai mình.

Thí dụ vị đó bảo mình phải tri duyên để giữ giường, thì trước đó mình phải xin bạch với thầy của mình coi thầy mình có đồng ý không, nếu đồng ý thì mình chấp sự đó mình làm tri duyên, còn nếu mà không có thì không có được làm. Đó là cách thức cái oai nghi của cái chú Sa Di.

5. Pháp Sa Di làm trị nhật:

Phải tiếc vật của chúng tăng. Chẳng được ở giữa đường làm việc. Làm việc chưa xong chẳng được giữa chừng bỏ đi. Đang lúc làm việc, nếu bị thầy gọi phải thưa cho Tỳ Kheo chấp sự biết. Phải phục tùng sự chỉ đạo và giáo lệnh của thầy Tỳ Kheo chấp sự, chẳng được trái nghịch.

Đó là cái oai nghi của cái chú Sa Di trị nhật. Cái thứ sáu:

6. Pháp Sa Di vào phòng tắm:

Phải cúi đầu vào nhà tắm. Trong nhà tắm phải tránh chỗ của bậc Thượng tọa. Không được đùa giỡn tạt nước lên nhau. Không được tạt nước cho lửa tắt. Không được cười giỡn trong phòng tắm. Không được làm hư hại vật dụng trong phòng tắm. Không được dùng nước quá phí. Không được để nước và xà bông đổ vào hồ tắm.

(44:51) Đó là cái oai nghi thứ sáu.

Oai nghi thứ bảy:

7. Pháp Sa Di vào cầu xí:

Muốn đại tiểu tiện phải đi liền. Lúc đi, không được liếc ngó hai bên. Đi đến cầu xí trước hết phải búng tay ba lần cho người bên trong biết, chẳng được hối thúc người trong cầu ra. Bước lên cầu tiêu rồi lại phải búng ngón tay ba lần nữa để cho quỷ thần ăn phân biết mà tránh đi. Không được cúi đầu nhìn xuống bộ phận sinh dục. Không được rặn ra tiếng. Không được nhổ nước miếng đàm dãi làm dơ vách. Không được vẽ lên vách hoặc dưới đất. Không được ngồi lâu ở trong cầu xí. Trong lúc đi cầu xí gặp người không làm lễ, phải lánh đường đi. Lúc ra khỏi cầu xí phải rửa tay, chưa rửa tay không được cầm đồ vật, Phải lấy nước rửa đường đại tiểu tiện, gọi là tẩy tịnh. Không tẩy tịnh không được lễ Phật. Phải dùng nước trong súc miệng, không súc miệng chẳng được tụng kinh.

Đó là cách thức mà dạy ở trong cái cầu xí của cái người Sa Di như vậy. Thì ở đây nó có nhiều cái mà Thầy thấy nó cũng…​ Một cái người mà họ bệnh kiết mà trong khi bảo họ ngồi đó mà họ không rặn thì chắc chắn họ chịu sao nổi!

Cho nên những cái này đều là chúng ta phải có sự những chỉnh đốn lại, chớ không khéo cứ bắt như vậy thì có thể nói rằng nó có những cái mà nó chưa có hợp. Vì vậy khi mà nghiên cứu lại những cái oai nghi của Sa Di thì hầu như là chúng ta phải dựa vào những cái kinh giới của Phật thì chúng ta mới có thể viết ra những cái oai nghi cho nó thực tế và đúng cái hạnh của người tu hơn là những cái oai nghi này, quá là rườm rà.

(46:40) Pháp Sa Di thứ tám:

8. Pháp Sa Di lễ thầy:

Thầy tọa thiền không nên làm lễ, thầy kinh hành không nên làm lễ, thầy đang ăn không nên làm lễ, thầy thuyết kinh không nên làm lễ, gặp bên tay trái thầy không nên làm lễ, không nên làm lễ thầy nằm bệnh, đất nhơ không nên làm lễ.

Nghĩa là khi - thí dụ như bây giờ thầy đang đi như vậy, rồi cái cúi xuống lễ thầy ở dưới đất dơ như vậy thì cái đó là không nên. Nghĩa là muốn lễ thì xin thỉnh thầy đến cái chỗ nào đó, rồi thầy ngồi đàng hoàng ở chỗ sạch sẽ đàng hoàng chớ không phải đụng đâu lễ đó.

Cho nên có nhiều người Phật tử họ chưa có biết cái oai nghi này, cho nên họ đụng đâu họ lễ thầy ở đó, quần áo lấm lem đất cát hết. Đó là những cái nó không đúng.

9. Sa Di vào nhà cư sĩ:

Đến cửa nhà, phải tự xét oai nghi của mình, cũng không được thấy người mà làm oai nghi. Nhà không có người nam không được vào cửa. Nhà có thờ Phật, lúc bước vào, trước tiên phải lễ Phật. Vào nhà, nếu ngồi, trước phải xem: Chỗ có binh khí không nên ngồi, chỗ có vật báu không nên ngồi, chỗ có y phục, đồ trang sức của phụ nữ không nên ngồi. Không được một mình ngồi với người nữ ở chỗ có ngăn che, cùng ngồi, cùng nói chuyện. Không được cố đùa với trẻ con. Không được nói nhiều, không được đùa cợt. Phải ngồi yên lặng, phải ngồi ngay thẳng. Không được kết thân với cư sĩ làm cha mẹ, chị em.

(48:12) Nghĩa là mình không có được làm thân với cái gia đình của cái người khác, nghĩa là đừng có kết làm em nuôi hay chị em nuôi hay hoặc là cái này kia.

Cho nên hầu hết là có một số quý thầy cũng nhận cư sĩ làm người nuôi, giúp đỡ cho trên bước đường học tập của mình bằng cách này bằng cách khác, thì cái đó là theo ở trong cái oai nghi của Sa Di thì không có chấp nhận cho mình kết thân như vậy.

Bởi vì mình là cái người cắt ái ly gia, tức là mình đoạn dứt tất cả cái tình thân, bây giờ còn làm con nuôi hay hoặc làm em nuôi họ để cho họ giúp đỡ mình thì cái chuyện đó là sai quá sai rồi. Bởi vì ở đời cái tình cảm người ta nó còn lưu luyến, còn mình cắt đứt thì nó không còn lưu luyến ai, nhiều khi do cái chỗ đó mà mình làm khổ.

Và đâu biết chừng vì cái sự lợi dụng mà để cho mình có cái sự cung cấp cúng dường - gia đình đó cung cấp cúng dường cho mình trên bước đường tu học, thì tức là mình còn chạy theo dục lạc mất rồi. Thì như vậy là nhận làm cha nuôi, hay là em nuôi, hay chị nuôi thì cái điều đó là cái điều không đúng của cái người tu rồi.

10. Pháp Sa Di vào chợ:

Phải cúi đầu đi thẳng đến nơi và đi thẳng về. Không được cùng người nữ trước sau đi theo nhau. Không được ngó qua ngó lại. Không được cố nhìn người nữ. Không được đến chỗ náo nhiệt. Mua đồ không được tranh giành đắt rẻ. Không được ngồi ở trong cửa hàng của người nữ. Nếu bị người giành phải khéo lánh đi, đừng theo trả giá. Nếu đã mua vật ở chỗ A đắt, chỗ B tuy rẻ cũng không được bỏ chỗ A mà mua chỗ B, làm cho chỗ A sanh giận hờn.

Thật sự ra thì ở đây cái oai nghi chỗ này, thật sự ra thì trong cái kinh giới bổn cho phép Sa Di đi mua đi sắm cái này cái kia là vì cất giữ tiền bạc, còn trong giới luật của Phật thì đâu có cái chuyện này mà làm sao đi mua?

Cho nên nó nhiều cái nó không sai, vì vậy mà cái oai nghi của nó coi như là cái oai nghi của một vị mà đã cất tiền bạc để đi mua. Cho nên cái oai nghi này nói như vậy là chúng ta thấy rằng cái vị tu sĩ mà đi ra chợ rồi phải mua, phải giữ gìn như thế này thế khác, nhưng mà đã đi mua như vậy đã là sai cái giới luật rồi, thì nó không có đúng tính cách của một vị tu sĩ mà đi khất thực xin ăn.

11. Pháp Sa Di vào chùa ni:

Phải có đồng bạn vào chùa ni.

Nghĩa là đi phải có hai, ba người chớ không phải đi một mình vào chùa ni được.

Vào chùa trước lễ Phật. Nếu không có chỗ dành riêng cho khách thì không được ngồi. Không được thuyết pháp không hợp thời. Nếu từ chùa ni trở về, không được nói sự đẹp xấu của chùa ni. Không được thư từ qua lại với ni. Không được nhờ may vá và giặt giũ quần áo.

Nghĩa là khi mà vào chùa ni thì phải đi hai, ba người, mà cũng không có được đến đó mà mình tự mình thuyết pháp thế này thế khác, nó không hợp. Khi nào mà có người ta mời thỉnh, bên ni họ mời thỉnh mình thuyết pháp thì mình thượng tòa, mình mới thuyết pháp, chớ còn không, đụng đâu mình nói đó thì cái chuyện đó là cái sai, coi như là mình khoe khoang cái này kia thì không đúng, nhất là cái giới nữ.

Và khi về rồi thì chùa người ta người ta trang trí người ta làm gì làm, mình cũng không nói đẹp xấu, khen người ta đẹp xấu này kia, do đó mình coi bình thường thôi.

Đó là cái oai nghi của Sa Di thứ mười một.

6.2- OAI NGHI CỦA SA DI NI

(51:39) Bây giờ đến cái phần oai nghi của Sa Di Ni. Mười một cái pháp Sa Di nam thì chúng ta đã vừa học xong, bây giờ về cái phần của Sa Di Ni .

1. Pháp Sa Di Ni đi ra ngoài: Đi ra ngoài không được đi một mình, phải cùng đi với Đại ni hoặc hai, ba ni cùng đi.

Nghĩa là cái Sa Di Ni không có được đi một mình mà phải đi có nhiều người, hoặc là đi với một người Đại ni tức là một người ni lớn tuổi, già đó, để bảo vệ cho.

Nếu không có ni phải cùng với thân tín Ưu Bà Di đồng đi.

Nếu mà không có ni đi thì phải có người cư sĩ nữ đi với mình.

Phải nhìn thẳng trước 6 thước.

Sáu thước tầm á, 6 thước tầm của mình thì chỉ có 2 mét mà thôi. Nghĩa là mình đi mình nhìn ngó cách từ chỗ mình đi đến chỗ mình nhìn xuống như vậy là 2 thước.

Không được đi cùng với nam hoặc theo nhau đi chung đường.

Đó là cách thức ở bên Sa Di Ni.

2. Pháp Sa Di Ni ngủ:

Không được nằm ngửa, nằm sấp, nằm nghiêng bên trái; phải nằm kiết tường nghiêng bên phải. Không được để lộ vai, ở trần. Không được đặt tay ở chỗ kín.

Đó là cái pháp của Sa Di Ni.

3. Pháp Sa Di Ni vào nhà cư sĩ:

Không được vào phòng của phụ nữ nói cười. Không được ngồi ăn dưới bếp. Không được cùng người giúp việc nói chuyện riêng. Không được đi một mình đến cầu xí. Không được cùng người đồng lên cầu xí. Không được lên chỗ cầu xí của người nam. Không được lấy tay trao đồ vật cho người nam, phải để ở trên đất hoặc chỗ thích đáng để người đó tự lấy. Không được đùa giỡn với trẻ con.

Nghĩa là hầu hết là bên ni hay thích con nít lắm, cho nên ở đây, ở trong cái oai nghi này cũng cấm cái người ni không có được ẵm, hay bồng, hay giỡn đùa hay là cười cợt với trẻ con.

4. Pháp Sa Di Ni vào nhà tắm:

Không được lõa lồ tắm chung với Ưu Bà Di.

Tức là nữ cư sĩ đó.

(54:01) Không được bàn luận về việc tắm rửa. Không được cùng Ưu Bà Di kì cọ lẫn nhau. Không được tắm chung với trẻ con. Không được dùng nước rửa của người khác để rửa. Không được tự mình nhìn chỗ kín của thân mình.

5. Pháp Sa Di Ni vào chùa tăng:

Phải theo Đại ni hoặc hai, ba người cùng đi.

Nghĩa là vào chùa tăng - Sa Di Ni mà vào chùa tăng phải đi nhiều người.

Vào chùa trước phải bạch tri sự tăng. Không được cùng Tỳ Kheo ngồi chung trong một nhà. Không được cùng Tỳ Kheo ngồi chung trong một tòa. Không được cùng Tỳ Kheo cười đùa. Không được nằm ngồi trên mền nệm của Sa Di.

Sa Di nam đó.

Không được cùng Tỳ Kheo ăn chung bát. Không được mặc lầm y của Tỳ Kheo.

6.3- OAI NGHI CỦA SA DI CŨNG LÀ TOÁT YẾU OAI NGHI CỦA TU SĨ

(54:50) Trên đây tóm lược oai nghi của Sa Di và Sa Di Ni, thật ra cũng là toát yếu oai nghi của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. Sa Di Ni cũng phải đồng học những phần chung của oai nghi Sa Di. Ngày lục trai, cư sĩ cũng nên học trì oai nghi Sa Di. Đây là điều cần phải biết.

Tăng ni ngày nay, trừ sự phục sức khác người tục ra, có thể không phạm dâm dục và không ăn thịt, uống rượu đã kể là khá rồi, đến hạnh chân thật Tỳ Kheo không làm sao thấy, giới hạn sinh hoạt của nam nữ tăng và tục gần như không còn. Các cô ni nhận người giàu sang thế tục làm cha mẹ nuôi, lấy đó làm vinh, phục dịch cho người thế tục có tiền, cho đó là hạnh, cho đến ẵm bé con, đùa giỡn đã là việc thường thấy.

Phẩm cách của tăng ni như vậy đâu có hi vọng là trụ trì Phật pháp và chấn hưng Phật giáo? Nhưng băng đóng ba thước chẳng phải là do cái lạnh của một ngày. Đâu chỉ trách tăng ni ngày nay, đây cũng là thói tệ đã tích tập trải qua nhiều đời nhiều kiếp.

Nghĩa là hiện giờ thấy tăng ni mà phạm giới luật, có những cái oai nghi nó không đúng đắn như vậy, thì nó không phải là mới bây giờ mà đã nhiều đời nhiều kiếp nó đã quen đi rồi, bây giờ rất là khó sửa.

(56:24) Cho nên ở đây cái vị Thánh Nghiêm này viết cái cuốn luật này, vị nói: Băng mà đóng dầy ba thước thì đâu phải là trong một ngày mà nó đóng được? Mình muốn mà cho nó thực hiện những cái oai nghi này thì đâu phải một ngày mà làm xong được? Nhưng mà cứ để như thế này thì Thầy nghĩ rằng bây giờ có muôn kiếp đi nữa thì nó cũng không có thành được nữa.

Phải bắt đầu ngay từ khi người ta bước chân vào đạo thì cái gì ra nghiêm túc cái nấy, người nào được thì được, người nào không được thì thôi, chớ đừng có tập dần dần, để rồi nó lần lượt ngày nó thêm lạnh một chút lạnh chút nó mới đóng được vài ba thước, thì cái chuyện đó khó quá.

Cho nên từ bao nhiêu thế kỉ nay mà giới luật bị sai phạm rồi, thì từ người trước cho đến người sau đều là tiếp nhau mà sai phạm chớ đâu thấy - chúng ta có thấy sửa được đâu?

Mà không thấy sửa được thì Phật giáo làm sao còn, và cái con đường tu làm sao có giải thoát được? Vì giới luật nó cho giúp chúng ta ly dục, ly ác pháp, chớ còn nếu không thì không thể nào ly dục, ly ác pháp được.

Đây là hết cái phần oai nghi, do đó thì chúng ta chỉ có một cái phần nhỏ như vậy. Chớ còn sự thật ra mà nói về oai nghi của một vị tu sĩ, của một vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cũng như là Sa Di, Sa Di Ni thì phải viết rất nhiều để chúng ta có một cái phương pháp phòng hộ sáu căn, giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình nó không bị dính mắc trong sáu trần, làm cho tâm chúng ta được ly dục, ly ác pháp, làm cho tâm chúng ta được giải thoát nó mới chính là giới luật của Phật.

Chớ không phải là những cái oai nghi ở trong cái vừa đọc rồi, nó chưa có đủ chút nào hết. Mà nhiều khi nó nêu lên những cái sai phạm ở trong đó rất lớn nữa, chứ chưa hẳn đã đúng ở trong cái giới, trong các bộ kinh của Phật.

7- OAI NGHI CỦA THỨC XOA MA NI

7.1- THỨC XOA MA NI LÀ SA DI NI SẮP SỬA THỌ CỤ TÚC GIỚI

(58:13) Bây giờ về cái phần mà thầy giảng tiếp, để chúng ta hiểu thêm về cái phần Thức Xoa Ma Ni.

Thức Xoa Ma Ni là gì?

Thức Xoa Ma Ni không phải là nữ cư sĩ ở tại chùa công quả…​

Nghĩa là Thức Xoa Ma Ni không phải là cái người cư sĩ, tịnh nhân ở tại chùa công quả làm cái này cái kia.

…​ mà Thức Xoa Ma Ni là một Sa Di Ni sắp sửa soạn thọ cụ túc.

Nghĩa là thọ Tỳ Kheo Ni, nghĩa là cái bước của họ là bước sắp sửa đến thọ cụ túc.

Ở đây phải hiểu: Cư sĩ chia làm bốn thứ.

Nghĩa là cái giới cư sĩ - bởi vì nhắc đến ở đây Thức Xoa Ma Ni thì có người lầm tưởng rằng đó là cái tịnh nhân, tịnh nữ ở tại chùa làm công quả, vì vậy cho nên ở đây Thầy cũng nhắc cho biết rằng ở trong chùa, mà cái giới cư sĩ thì chúng ta có chia làm bốn cái thứ.

…​ mà ở tại gia thì gọi là cận sự nam, cận sự nữ.

Nghĩa là họ còn ở nhà của họ, mà họ là cư sĩ họ hay đến chùa cúng dường, hay hoặc là lâu lâu họ đến họ phụ ở trong chùa thế này thế kia đó, thì những người cư sĩ nam, cư sĩ nữ đó đó là gọi là cận sự nam, cận sự nữ.

Mà nam, nữ cư sĩ mà ở tại trụ, tại luôn ở trong chùa đó, luôn luôn làm công quả bằng cách này kia, coi như mình tập sự để cho mình sau này đặng mình thọ Sa Di, thì những nam nữ như vậy đó gọi là cận trụ nam, cận trụ nữ.

Quý thầy phân biệt được cho rõ. Cái người cư sĩ mà còn ở gia đình của mình thì gọi là cận sự nam, cận sự nữ, mà cái người ở trong chùa tập sự gọi là tịnh nhân đó, thì gọi là cận trụ nam, cận trụ nữ.

Vì thể tính của nữ để tóc tu hành tại chùa thì gọi là cận trụ nữ. Họ chỉ là một trong bốn chúng cư sĩ để trau dồi, tu tập để chuyển qua cái lộ trình thứ hai xuất gia mà thôi.

(01:00:15) Nghĩa là cái người cận trụ nam, cận trụ nữ này họ luôn ở trong chùa, coi đương nhiên là họ xuất gia rồi, nhưng mà vì họ tóc tai họ còn, họ chưa có cạo, họ chưa có mặc y áo như quý thầy, như Sa Di, họ còn mặc đồ đời, nhưng mà họ tập sự để họ trau dồi thân tâm của họ, để họ thấy được thì họ mới xin xuất gia, còn họ thấy chưa được thì họ chưa có xin xuất gia.

Ở tự viện, không cạo tóc, không đổi trang phục…​

Họ vẫn mặc đồ cư sĩ đó.

…​ mà sống và hành động, giới luật và giáo pháp của Phật họ rất là nghiêm túc, đáng được kính phục và đáng được noi theo.

Cái hạng cư sĩ cận trụ nam với cận trụ nữ, họ giữ gìn giới luật nghiêm túc hơn là các vị Tỳ Kheo chúng ta nữa. Họ giữ gìn giới luật rất là nghiêm túc.

Thí dụ như họ ở vậy, họ vô vậy, mặc dù là họ là cư sĩ, họ có quyền họ cất giữ tiền bạc, nhưng mà họ tập sự, họ không cất giữ tiền bạc, họ chỉ làm công quả rồi trong chùa coi như cho họ ăn là họ ăn chớ họ không cất giữ tiền bạc, thì đó là những người cận trụ nam, cận trụ nữ đó là một cái gương mà chúng ta rất là đáng kính phục. Bởi vì hầu hết là các thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni vẫn cất giữ tiền bạc, vẫn ăn phi thời, còn họ, họ không ăn phi thời.

Cũng như bây giờ chúng ta nhìn thấy như các thầy về đây hầu hết là cận trụ nam đó, rồi quý cô ở đằng trước là cận trụ nữ đó, chứ chưa phải tu sĩ đâu. Chưa có xuất gia mà, chưa có đi qua cái lộ trình này.

Nhưng mà ăn một ngày một bữa nè, không cất giữ tiền bạc nè, rồi sống không xem ca hát này nè, cái quyền của các cư sĩ vẫn có cái quyền xem hát xem ca, thế mà vẫn sống đúng những cái giới hạnh của một cái người tu sĩ, thì cái này là đáng phục chớ sao? Rất là đáng phục những cái gương hạnh của các cư sĩ mà các con về đây tu tập. Đó là những cái chúng ta đáng noi gương mà đáng phục nữa.

Còn bây giờ, hiện giờ chúng ta nhìn quý thầy có bằng các cận trụ nam, cận trụ nữ này không? Đâu có bằng. Bởi vì họ ăn phi thời nè, họ cất giữ tiền bạc nè, họ lái xe họ chạy ào ào nè, thì họ đâu có bằng những cận trụ nam, cận trụ nữ này. Những người này người ta tập sự mà người ta giữ gìn giới luật nghiêm túc như vậy, thì người ta có cái giá trị rất lớn.

Và đồng thời người ta thực hiện trên con đường tu tập thì người ta có người thì - giống như bây giờ chúng ta nhìn Minh Tông nè, có phải là một vị tu sĩ đâu? Cũng vẫn còn tóc tai, cũng vẫn còn ăn mặc như ở - quần áo như cái y phục ngoài đời, thế mà bây giờ người ta đã tịnh chỉ được cái hơi thở, người ta tu tập được những cái mà có thể rằng cái vị tu sĩ chúng ta không làm được, chưa làm được.

Đó, bắt đầu bây giờ người ta tu tập đến người ta tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ của người ta. Còn bây giờ tu sĩ chúng ta nằm xuống là ngáy pho pho rồi, từ ông lớn đến ông nhỏ, làm sao sánh với một cái người cận trụ nam vầy nổi?

Đó thì như vậy chúng ta phải thấy rằng đáng kính phục những cái người đó, rất là đáng kính phục. Cho nên nhìn thấy nó ở ngoài cái chiếc áo, cái đầu mà cái chỗ tu tập, cái người cận trụ nam, cận trụ nữ chúng ta thấy tuyệt hơn chúng ta nhiều.

(01:03:11) Khi Đức Phật chấp nhận cho nữ giới xuất gia, Ngài chế ra Bát Kỉnh Pháp, nhờ pháp này mà giáo đoàn tỳ ni ra đời. Như vậy người nữ xuất gia chỉ y cứ vào Bát Kỉnh Pháp mà thành Tỳ Kheo Ni, không trải qua Sa Di Ni, và cũng không có Thức Xoa Ma Ni.

Nghĩa là trong cái thời Đức Phật, khi mà ông A Nan xin Đức Phật chấp nhận cho ni rồi, thì Đức Phật chế ra Bát Kỉnh Pháp, từ đó ở bên ni người ta lấy Bát Kỉnh Pháp đó người ta làm cái chỗ mà người ta quy hướng, người ta đi vào trong cái Tỳ Kheo Ni, chứ người ta không có trải qua Sa Di Ni hoặc là Thức Xoa, người ta không có trải qua những cái cấp bậc đó, mà ngay đó là người ta Tỳ Kheo Ni liền tức khắc.

Lấy Kỉnh Pháp chớ không phải lấy Đức Phật, cho nên Đức Phật không có quy y cho bên ni, mà chính cái Bát Kỉnh Pháp đó đã quy y - đã cho cái giới nữ xuất gia là Bát Kỉnh Pháp.

Trong giới bổn, người ta xưa có nêu lên những câu chuyện như thế này: Có một vị Tỳ Kheo Ni độ một người mới xuất gia, không biết có mang thai. Sau khi xuất gia thọ Tỳ Kheo rồi thì bụng to ra và sanh em bé, khiến cho người đời người ta phỉ báng rằng Tỳ Kheo Ni phạm giới dâm. Do đó, Đức Phật mới chế ra giai đoạn Thức Xoa Ma Ni.

Thiệt ra thì những cái này là theo Thầy nghĩ rằng kinh giới nó đặt ra, chứ khi người ta mà muốn đi tu rồi không lẽ nào người ta mang thai mà người ta vô chùa người ta xin làm Tỳ Kheo Ni? Không có được, thầy nói không có được đâu!

Bởi vì ít ra người ta muốn vào để mà thành một vị tu sĩ Tỳ Kheo Ni như vậy, thì ít ra người ta muốn như vậy mà người ta biết người ta mang thai, thì ai mà vô đó mà xin đi làm Tỳ Kheo Ni như vậy trong khi mang thai!

Cho nên ở đây cũng là một cái bịa đặt cái câu chuyện này ra để gài vô cái chỗ mà Đức Phật mới chế ra Thức Xoa Ma Ni mà bắt cho bên ni nó có một giai đoạn nữa, chớ không được từ Sa Di mà lên cấp bậc là Tỳ Kheo Ni liền, mà làm cho họ chậm trễ ra một chút nữa, để cho họ không có được đi vào cái Tỳ Kheo Ni mau hơn mà bắt buộc họ như vậy bằng cách là đặt điều như vậy.

Chớ thật sự ra Thầy thấy nếu một người nữ mà có mang thai thì ai dám vô chùa mà xin đi tu bao giờ? Chờ cho mình sanh nở rồi xong rồi giao con cho ai nuôi rồi mới vô chùa tu chớ! Cái đó là một cái bịa mà mình thiệt ra mình thấy nó vô lý, hết sức vô lý.

Không lẽ vô đó rồi sanh con, rồi ẵm con nuôi, một vị Tỳ Kheo Ni mà giờ ẵm con nuôi làm sao đây? Đó là những cái nó khó khăn. Hơn nữa đi xin bữa đói bữa no rồi làm sao mà nuôi con được? Đó là những cái khó.

Mà ở đây nó vẽ ra câu chuyện chúng ta thấy, một vị Tỳ Kheo Ni mà như vậy, bây giờ thọ Tỳ Kheo rồi, đã là thành Tỳ Kheo rồi bây giờ sanh đứa con ra, rồi bây giờ ẵm, rồi bây giờ bao nhiêu ni đó xúm nuôi đứa nhỏ đó, rồi bắt đầu đây rồi bao nhiêu cô này cứ nựng nịu đứa nhỏ này, còn cái thứ gì tu hành?

Bởi vì bên ni nó thấy con nít nó khoái lắm, cái bản chất của nó như vậy mà. Mà bà này sanh con rồi thì coi như là đứa nào cũng giành hết, bởi vì nó đâu có con, cho nên nó giành. Vì vậy mà từ đó nó sai phạm hết, không có đúng cái cách thức của một vị tu sĩ nữ.

7.2- OAI NGHI CỦA THỨC XOA MA NI

(01:06:26) Thức Xoa Ma Ni chỉ hơn Sa Di Ni ở chỗ Lục Pháp.

Nghĩa là Sa Di Ni với Sa Di thì nó chỉ có Thập Giới mà thôi, mà bây giờ Thức Xoa thì nó thêm cho cái Lục Pháp nữa để cho nó hơn Sa Di Ni một chút thôi. Nhưng mà sự thật ra nó cũng lấy từ ở trong cái Thập Giới của Sa Di mà nó vẽ ra cho thêm như vậy thôi chớ đâu có gì khác hơn hết.

Và đồng thời nó vẽ vời ra một cái - thí dụ như ở trong kia, thí dụ Lục Pháp đây, Thầy đọc Lục Pháp để cho thấy đây:

1. Cùng với người nam không được xúc chạm.

Thì lẽ đương nhiên là không có tà dâm thì làm sao mà cái - ở trong cái giới Thập Giới Sa Di không có dâm dục, không có dâm dục thì làm sao mà cùng với người nam mà xúc chạm? Thì cũng lấy từ cái giới dâm mà nó ghi ra đây thì có gì khác đâu, mà nói là Lục Pháp nó hơn Sa Di đâu?

2. Trộm của người từ 4 tiền trở xuống, cho đến một cây kim, cọng cỏ.

Trộm thì ở trong cái giới Sa Di nó cũng có trộm cắp rồi, thì đây là cũng đặt thêm thôi.

3. Giết mạng súc sanh, khiến cho nó chết.

Thì ở trong cái giới không sát sanh, thì ở trong đó nó cũng có ở trong Sa Di rồi, thì ở đây đặt ba cái giới vô thì chúng ta đã thấy nó nằm trong cái Sa Di rồi, còn cái gì đâu mà gọi là…​

4. Tiểu vọng ngữ: Nói trái lại điều mình thấy hay là mình biết.

Tức là nó là cái giới thứ tư của Sa Di là vọng ngữ, mà bây giờ đặt ra tiểu vọng ngữ, thì mình nói trái lại là vọng ngữ chớ gì, còn tiểu vọng ngữ hay đại vọng ngữ nữa! Đó.

Rồi cái thứ năm:

5. Ăn phi thời.

Thì ở trong cái giới Sa Di không có cho cái chú Sa Di ăn phi thời, thì ở đây cũng nói là ăn phi thời, có cái gì khác lạ không? Đặt cái gì đâu, Thầy thấy đâu có cái mới đâu? Thế mà đặt ra được!

Rồi cái điều thứ sáu:

6. Uống rượu.

Thì Thầy thấy ở trong cái Ngũ Giới thì nó đã có cái cấm không có cho uống rượu, thì nó cũng có cái không uống rượu rồi, thì như vậy là Thập Giới Sa Di nó cũng nằm ở trong này.

Mà điều vẽ vời ra nói là Thức Xoa Ma Ni nó hơn Sa Di và Sa Di Ni là sáu cái pháp, mà sáu pháp này Thầy thấy nó cũng nằm ở trong cái Thập Giới Sa Di chớ đâu có gì khác hơn hết, nó đâu có mới mẻ cái chỗ nào đâu?

Cho nên mấy cái ông tổ của mình mà viết kinh luật này nó đặt, rồi cái người sau cứ nhắm mắt nghe chớ còn không có so sánh, mà khi so sánh thì chúng ta mới thấy cái điều của họ đặt ra nó vô lý, rất là vô lý. Vậy thì giữ Thập Giới Sa Di nó cũng đủ rồi, cần gì phải nặn ra sáu cái pháp này nữa, rồi gọi là Lục Pháp làm gì?

(01:09:12) Đó, cho nên tất cả những cái này là cái bịa của người sau để làm thêm thắt cái này cái nọ kia cho nó rườm rà, mà để ghép vào cho có cái Thức Xoa Ma Ni này, cho nó có cái giai đoạn của nó cho nó hơn cái giới luật kia một chút. Nhưng mà giới luật đó nó cũng nằm ở trong Thập Giới Sa Di chứ có gì khác hơn hết?

Thức Xoa phạm 4 giới trước bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn.

Thì 4 cái giới trước này rõ ràng là 4 cái pháp tứ khí rồi chớ còn cái gì nữa, cho nên không trục xuất ra khỏi Tăng đoàn thì còn cái gì nữa?

Lục Pháp trong Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bí Sô Ni Tỳ Nại Da không giống ở trên.

Bây giờ đó, nghĩa là cái này là cái bộ giới luật nào đó, nó không giống với cái bộ giới luật dưới.

Thầy xin đọc lại cho quý thầy nghe Lục Pháp:

Lục Pháp của cái bộ Bí Sô Ni Tỳ Nại Da này thì nó lại khác:

1. Không được đi đứng một mình;

Nghĩa là đây nó lấy ghép ra cái oai nghi, nó lấy cái oai nghi ra nó cho rằng ở bên ni, ở bên cái người mà giữ Thức Xoa đó thì không được đi một mình.

2. Không được qua sông một mình;

3. Không được chạm vào thân người nam;

4. Không được ở chung với người nam;

5. Không được làm mai mối gả cưới;

6. Không được che giấu Tỳ Kheo Ni phạm tội.

Đó là sáu cái điều mà ở trong cái kinh giới đó nó nêu lên. Mình thấy nghe nó có khác, nhưng mà sự thật ra Thầy thấy cái điều này nó đâu có cái gì quan trọng. Đó là cái oai nghi 100 giới chúng học thì ở trong Tỳ Kheo Ni nó đã có rồi, mà bây giờ oai nghi của người Sa Di thì nó cũng có cái này rồi.

Thì thay vì lấy giới của Sa Di mà làm ra Lục Pháp này thì nó đã bị nhầm rồi, Thầy đã bác rồi, bây giờ lấy oai nghi của Sa Di, của Sa Di Ni mà đem ra làm Lục Pháp này, thì đây là những cái oai nghi chớ cái gì?

Hồi nãy Thầy đọc có oai nghi rồi đó, thì tất cả những cái này nó thuộc về oai nghi rồi, nó không thuộc về giới nhưng mà nó thuộc về oai nghi. Thì như vậy là cái bổn kinh giới này lấy Thập Giới mà nêu lên làm Lục Pháp, còn cái bổn kinh giới này lại lấy oai nghi của Sa Di mà làm cái Lục Pháp.

Thì Thầy thấy nếu mà chúng ta ngồi chúng ta so sánh chúng ta thấy: Thiệt là mấy ông này ổng không biết chỗ nào ổng lựa, ổng cứ rút bên nây rút bên kia ra cũng lẫn lộn có bây nhiêu đó thôi, cũng nằm ở trong Sa Di với Sa Di Ni thôi chớ không gì, không giới luật của Sa Di, Sa Di Ni thì cũng oai nghi của Sa Di với Sa Di Ni chớ đâu có gì khác hơn hết!

Cho nên những cái mà họ đặt ra Thầy thấy nó không ngoài Thập Giới và oai nghi của Sa Di, mà gọi là Thức Xoa hơn cái người Sa Di và Sa Di Ni thì nó không có đúng.

Lục Tùy Pháp:

(01:12:01)

1. Không được cầm vàng bạc thuộc về mình;

2. Không được cạo lông mặt, lông mày hoặc là chỗ kín đáo;

3. Không được đào đất chỗ ẩm ướt có côn trùng;

4. Không được cố ý nhổ cỏ chặt cây;

5. Không được tự mình lấy thức ăn, phải do người khác đưa;

6. Không được ăn đồ ăn thừa.

Đó là sáu cái tùy pháp này lại đặt ra ở trên cái phần những cái oai nghi của cái vị Sa Di, Sa Di Ni chớ không có cái gì khác hơn hết.

Cho nên ở đây chúng ta nghe rồi chúng ta thấy: Các ngài chỉ đặt giới luật ra nó lòng vòng lòng vòng cũng chẳng qua từ cái giới bổn, cái giới căn bản, rồi qua những cái oai nghi chớ không có cái mới mẻ, mà đặt ra cho nhiều để thành ra những cái bộ kinh giới nó dầy cộm mà nó không có nghĩa lý gì sâu sắc hết.

Thức Xoa được quyền ngủ đồng phòng ba đêm.

Nghĩa là Thức Xoa ngủ với một người khác đó, Thức Xoa Ma Ni với cái người Sa Di hoặc là Tỳ Kheo được ngủ đồng phòng. Mà thử hỏi trong giới luật Đức Phật đâu có cho Sa Di Ni và Tỳ Kheo Ni ngủ chung đồng phòng đâu? Ở đây thì nó cho được quyền ngủ ba đêm.

Sa Di Ni cũng chỉ ngủ ba đêm.

Nghĩa là Sa Di Ni thì cũng được ngủ ba đêm, mà Thức Xoa thì cũng ngủ đồng phòng được ba đêm. Nghĩa là ba đêm ngủ chung nhau ở trong phòng được, chắc chắn là không có cho ngủ đồng giường nhưng mà ngủ đồng phòng.

Tăng có 4 Ba La Di. Tỳ Kheo Ni có 8 Ba La Di.

Tức là bên tăng mình nó có 4 cái giới mà đứt đầu đó, còn bên Tỳ Kheo Ni thì có 8 cái giới đứt đầu.

Bốn Ba La Di sau là:

Nghĩa là bên nữ, 4 Ba La Di sau đó thì:

1. Cùng với người nam có tâm ô nhiễm bất tịnh, đụng chạm nhau ở trong thân;

Nghĩa là cái người Tỳ Kheo Ni hay hoặc là cái người Sa Di Ni mà có cái sự đụng chạm vào cái thân người nam thì đương nhiên là cái tội đứt đầu, cái tội trục xuất đó.

2. Cùng với người nam có tâm nhiễm, nắm tay nắm chân vào chỗ khuất, cùng đứng, cùng ngồi, cùng nói chuyện, cùng đi song song, cùng dựa thân vào nhau, cùng hẹn hò;

Đó là cái Ba La Di thứ hai của bên nữ, làm những cái chuyện hẹn hò, nắm tay nắm chân nhau thì đó là phạm vào cái giới dâm hết.

3. Biết Tỳ Kheo Ni có tội trọng mà che giấu, không nói cho người khác biết;

Nghĩa là thấy cái vị Tỳ Kheo Ni đó nói chuyện với cái người Tỳ Kheo Tăng hay hoặc là với người cận trụ nam, cận trụ nữ, nói chuyện với nhau một mình, mà thấy biết mà mình không nói, thì tức là mình cũng - biết Tỳ Kheo Ni có tội trọng mà che giấu về cái vấn đề nam nữ, mình không có nói thì tức là mình phạm vào cũng cái tội Ba La Di đó.

(01:15:27)

4. Thuận tòng cúng dường Tỳ Kheo bị tăng cử tội mà không…​

Nghĩa là cái người Tỳ Kheo Tăng bị cử tội, thì cái người Tỳ Kheo Ni tìm cách để mà che giấu cái tội của cái vị Tỳ Kheo Tăng đó, thì đương nhiên cái vị Tỳ Kheo Ni đó phạm vào cái tội trục xuất đó. Đó là cái phần thứ tư.

Nếu phạm 19 Tăng Già Bà Thi Xa trở xuống (Tăng Kỳ Luật, Tỳ Kheo Ni có 19 giới Tăng Tàn, Tứ Phần Luật chỉ có 17 điều) tất cả làm pháp sám hối Đột Kiết La.

Nghĩa là tất cả những cái tội mà nhẹ thì làm cái tội sám hối, mà tội nặng thì có thể trục xuất, mà trong bốn cái điều này thì coi như là bị trục xuất chớ không thể nào mà tội sám hối được.

Nghĩa là thay vì ở trên kia đó Tỳ Kheo nó có 4 điều kiện trục xuất, thì ở đây cộng thêm với 4 điều kiện của ni nữa là 8 điều kiện mà bên ni nó phải chịu trục xuất khỏi Tăng đoàn.

Nếu 5 giới: Ăn phi thời, ăn vặt, thường nhặt vàng bạc và tiền, uống rượu, đeo tràng hoa, tùy theo ngày phạm phải thọ và bắt đầu học lại.

Nghĩa là ở đây, 5 cái giới sau của Sa Di đó, mà nếu mà phạm thì bắt đầu họ phải thọ 5 cái giới đó lại, rồi bắt đầu họ phải học lại và buộc họ phải sám hối, chớ không có cái người mà phá - như bây giờ đó ăn phi thời là bắt buộc họ phải sám hối nè, rồi bắt họ phải thọ lại cái giới đó lại, chớ không được sám hối suông không đâu, mà phải thọ trở lại.

(01:17:23) Mà họ nhận tiền bạc, họ cất giữ thì cũng bắt họ thọ lại, và bắt họ phải trả lại tiền bạc, hoặc là họ đeo tràng hoa, rồi tùy theo chỗ phạm của họ - hoặc là họ xem ca hát, thì tất cả những cái phạm này đều là bắt họ phải thọ cái giới đó lại hết, hễ họ phạm rồi thì bắt họ thọ trở lại. Theo trong cái giới bổn thì nó bắt buộc như vậy chớ không phải đơn giản.

Nhưng mà theo Thầy thiết nghĩ thì trong cái vấn đề này chúng ta phải hiểu vì 5 cái giới của Sa Di sau này là giúp chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp, không lý bây giờ chúng ta vào tu để chúng ta ly những cái tâm ham muốn chúng ta để chúng ta được giải thoát mà bây giờ chúng ta cứ giữ gìn nó như thế này thì chúng ta vô tu làm gì?

Cũng như bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa, mà ăn không được thì thôi chúng ta vô tu làm gì? Thì thôi chúng ta ra đời đi, sống như mọi người.

Bởi vì đó là cái pháp, cái giới luật đó để ly dục, ly bất thiện pháp mà, cho nên chúng ta xét thấy không cần phải thọ lại. Mà thọ rồi chúng ta cũng phạm như thường thì thọ làm gì? Mà bắt sám hối làm gì, sám hối rồi cũng như không thì sám hối làm gì?

Hơn nữa thì càng ngày nó càng phạm những cái sai hơn nữa là chúng ta lại lén ăn phi thời. Bởi vì bây giờ người ta bắt được thì mình lại vi tế hơn, muốn ăn phi thời thì mình phải lén ăn như thế nào để cho người ta không thấy, do đó càng tội lỗi hơn nữa.

Thà là mình thấy mình không sống ly dục được, ly ác pháp được thì mình nên trở về với chiếc áo cư sĩ của mình, sống với đời sống thiện pháp là tốt hơn, đừng có theo 5 cái giới này mà làm cho Phật pháp nó suy đồi, và chúng ta cũng chẳng được giải thoát gì.

Cho nên nhìn vào trong 5 giới của Sa Di mà chúng ta thấy: Hầu hết là hiện giờ tu sĩ chúng ta không có giữ trọn được hết. Cho nên theo Thầy thiết nghĩ thì những người này họ nên ra đời hơn là họ ở trong chiếc áo tu sĩ.

Bởi vì họ chẳng ly dục được thì làm sao họ có giải thoát? Mà cứ ở trong chiếc áo này mà sống trong dục thì ngàn đời họ cũng như vậy thôi! Mang tiếng là tu sĩ chớ họ không có gì khác hơn hết, cũng y như ngoài - cái tâm niệm của họ cũng như ngoài đời.

8- PHÁP SÁM HỐI CỦA TỘI ĐỘT KIẾT LA

(01:19:21) Pháp sám hối của tội Đột Kiết La.

Tội Đột Kiết La gồm có hai thứ: Một là cố ý phạm, hai là vô ý phạm.

Pháp sám hối cũng có hai thứ: Một là đối trước một vị Đại đức mà mà sám hối…​

Tức là phát lồ ra mà sám hối.

…​ hai là tự hối trách tâm sám hối của mình.

Người sám hối phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh, hướng về một vị Đại đức, một vị Thượng tọa, một Hòa thượng, quỳ gối chắp tay bạch như vầy:

“Đại đức ức niệm con là Sa Di gì đó, con phạm tội Đột Kiết La, nay hướng về Đại đức phát lồ sám hối, xin đại đức ức niệm xót thương!”

Đó là mình phát ra mình nói những cái lời xin sám hối những cái tội trạng của mình để cho cái người đó nghe, nghe rồi thì mình cố gắng mình đừng có phạm cái lỗi đó nữa.

Đại đức thọ sám hối liền nói: “Tự trách lấy tâm ngươi!”

Nghĩa là khi mà mình phát lồ ra, thì cái người mà nghe cái lời xin nhận sám hối thì cái người đó nói rằng mình phải tự trách lấy tâm mình để cho mình sửa, chớ còn xin sám hối mà rồi mình không tự sửa thì sám hối nó cũng không có nghĩa gì. Thì cái người sám hối đó thì lại vâng lên:

“Con xin vâng lời!”

Nghĩa là - vâng lời tức là tự trách mình để cho mình không còn tái phạm nữa.

Tự trách sám hối tùy lúc phạm liền hối lỗi.

Nghĩa là lúc bấy giờ đó, mà nó có hai cái phần sám hối. Một cái phần thứ nhất là mình đến với một cái vị thầy, mình trình qua cái tội lỗi của mình rồi mình xin sám hối, thì cái vị thầy đó - mình phải tự tâm của mình sám hối chớ không thể nào mà nói với vị thầy đó mà sám hối hết tội được.

(01:21:11) Còn cái tự trách sám hối thì khi mình làm cái lỗi đó mình thấy cái đó là cái lỗi, cũng như bây giờ mình lỡ mình uống một cái ly nước ngọt phi thời rồi, thì bắt đầu mình có sửa lại cái này, thì mình cũng phải sám hối rồi mình sửa.

Mình thấy đó là xấu hổ cho nên mình tự suy nghĩ ở trong đầu của mình: “Cái việc làm này nó không phải đúng là cái người tu sĩ rồi. Từ đây về sau ta phải sửa, ta không có phạm nữa!” Do cái đó là tự sám hối. Còn cái kia là phát lồ sám hối với một vị thầy.

Thức Xoa Ma Ni trừ việc phạm Lục Pháp có cách xử lý riêng, còn ngoài ra phạm các điều khác cũng chỉ có một tội Đột Kiết La. Phương cách sám hối đồng với phương pháp Sa Di và Sa Di Ni.

Nghĩa là sám hối như hồi nãy Thầy nói có hai phần sám hối đó, thì cái sám hối thứ nhất là mình đến với bậc thầy, mình phát lồ ra sám hối. Cái thứ hai là mình tự trách cái lỗi của mình rồi mình bỏ mình không làm nữa, không cần phải phát lồ với ai hết. Đó là cái tự trách sám hối./.

HẾT BĂNG

35 - NGUỒN GỐC TĂNG ĐOÀN VÀ GIỚI LUẬT

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 35 - NGUỒN GỐC TĂNG ĐOÀN VÀ GIỚI LUẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- GIỚI BỔN CHỈ LÀ BỔ TÚC THÊM CHO GIỚI HẠNH

(00:00) Về giới bổn Patimokkha, hôm nay Thầy muốn như thế này. Bởi vì về giới nó cũng rất là nhiều mà cái thời gian chúng ta thì còn quá ít, cho nên Thầy muốn đại khái để mà chúng ta không có dài dòng nhiều, để chúng ta hiểu qua cái giới bổn cho nó nhanh chóng.

Và đồng thời thì cái cần thiết cho cái đời sống tu hành của chúng ta là cái giới hành, mà bước sang qua cái giới hành là rất là quan trọng. Vì vậy mà chúng ta còn cái thời gian rất ngắn, cho nên chúng ta dành cái thời gian đó để mà Thầy giảng hết cái giới hành để cho quý thầy khi mà rời khỏi đây, quý thầy nắm được cái giới hành mà về tu tập thì cái điều đó là điều quan trọng.

Còn cái giới bổn nó chẳng qua nó bổ túc thêm những cái oai nghi tế hạnh của cái giới hạnh của chúng ta mà thôi, cho nên chúng ta học để hiểu, và đồng thời chúng ta biết được những cái sai của các kinh giới mà các bậc tôn túc và tổ viết về các bộ kinh giới đều là sai, thì chúng ta biết để mà chúng ta không có nhẩm theo các bộ kinh giới đó mà chúng ta nên lấy những cái kinh giới ở trong kinh điển nguyên thủy của Phật, ở trong kinh A Hàm của Phật mà làm cái gốc giới để mà chúng ta tu tập, chớ không phải chúng ta lấy cái kinh giới của các ngài mà gọi là giới bổn đó làm cái chỗ làm thầy chúng ta.

Cho nên ở đây cần thiết là chúng ta chỉ hiểu mà thôi, để biết được cái sai cái đúng của giới bổn của đạo Phật hiện giờ là hầu như các tổ về giới luật đều viết nó theo cái ý muốn của mình hơn là dựa vào cái ý của Phật mà viết ra. Cho nên do vì vậy đó mà chúng ta hiểu thôi, rồi chúng ta lấy những cái oai nghi chánh hạnh của nó, cái nào đúng để chúng ta bổ túc cho cái phần giới hạnh của chúng ta.

Còn về cái phần giới hạnh mà chúng ta tu tập thì đây là những cái pháp đúng để chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp, và từng đó chúng ta nhờ cái giới hạnh, cái giới hành đó mà chúng ta thực hiện cái đời sống chúng ta thì chúng ta mới có ly dục, ly bất thiện pháp, chúng ta mới nhập thiền, chúng ta mới có trí tuệ siêu việt, chớ còn không khéo thì chúng ta cứ nhẩm lại ba cái giới này thì nó lại mất thì giờ chúng ta rất nhiều.

Cho nên đến đây Thầy cũng cô đọng lại, không có nói dài dòng, không có đem những kinh giới ra mà nói nặng nói nhẹ nữa. Bởi vì chúng ta đã hiểu nó là sai rồi thì giờ có nói bao nhiêu đi nữa thì nó cũng sai, nó đâu có gì ích lợi cho chúng ta nữa mà lại làm mất thì giờ. Vì vậy mà Thầy sẽ cố gắng mà cô đọng lại cho nó gọn, và để chúng ta hiểu đại khái là đủ rồi.

Giới bổn Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni giới là đại giới trọng yếu trong Phật Giới, giới hạnh phong phú nhất. Nhìn từ góc độ trụ thế của Phật pháp, Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni giới giải thoát, còn ngoài ra thì giới này rất là trọng yếu cho sự trợ giúp về giới hành…​

Nghĩa là trong cái giới bổn nó trợ giúp cho chúng ta chỉ hiểu nó để mà chúng ta tập luyện những cái oai nghi của chúng ta cho đúng cách, để cho nó trợ giúp cho cái giới hành của chúng ta là ly dục, ly bất thiện pháp, một cách rất là quan trọng trong cái việc hành trì Giới - Định - Tuệ của Phật.

Vì giới này rất trọng yếu và trợ giúp cho giới hành ly dục, ly bất thiện pháp, rất quan trọng trong việc hành trì Giới - Định - Tuệ.

(03:14) Tức là chúng ta trở về Tam Vô Lậu Học đó, thì chúng ta mới thấy cái giới bổn nó chỉ là trợ giúp cho cái oai nghi của cái giới hạnh, mà nó giúp cho cái giới hành của chúng ta tu tập để chúng ta ly dục ly bất thiện pháp.

Trong Đại Tạng Kinh Hán Dịch có Quảng Bản Đại Luật của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni giới có bốn hoặc là năm trăm quyển, đó là chưa kể đến phần chú sớ, trứ thuật của Lịch đại tổ sư về giới.

Nghĩa là trong cái tạng kinh giới nó quá nhiều chớ không có ít, không có thể ai mà đọc hết được, vì các ngài đặt ra đủ thứ đủ loại ở trong đó, rồi lặp đi lặp lại trùng hợp với nhau đủ cách ở trong đó.

Như hồi nãy Thầy thấy từ cái giới Sa Di không mà họ đặt ra Lục Pháp này Lục Pháp kia, rồi lấy oai nghi cũng đặt ra thế này thế kia để thành ra những cái giới bằng cách này bằng cách khác. Họ làm tùm lum đủ thứ hết mà không có một cái điểm chính của nó để mà được giải thoát.

Xét qua bộ luật, sư Thánh Nghiêm nói:

“Thật tâm mà nói, chính tôi cũng chưa thật xứng đáng là một Tỳ Kheo của Tỳ Kheo giới, thậm chí tôi cũng không phải là một Sa Di đúng như pháp, tôi chỉ là một Ưu Bà Tắc hiện tướng xuất gia mà thôi…​”

Đó thì giới sư Thánh Nghiêm khi ông viết đến đây thì ông mới thấy được rõ ràng là chính ông chưa phải là một vị Tỳ Kheo giới đâu, nghĩa là chưa phải là một Tỳ Kheo của Tỳ Kheo giới đâu. Thậm chí ông còn nói rằng ông chưa có phải đúng là một Sa Di mà như pháp nữa.

Nghĩa là ông thấy cái cách thức sống ăn ngày hai ba bữa, rồi sống trong cái ngôi nhà sang cả như vậy thì làm sao mà cái giới luật của ông nghiêm chỉnh được, cho nên ông nói ông chỉ là một Ưu Bà Tắc hiện tướng của xuất gia, nghĩa là mặc y áo của người xuất gia chớ ông là Ưu Bà Tắc mà thôi.

Thiệt ra Thầy thấy ông cả gan mà dám tự nhận mình như vậy là một cái người cũng phải có cái sự nghiên cứu ở trong kinh sách này. Và chính vì vậy đó mà ông Thánh Nghiêm ổng viết cái cuốn Giới Luật Cương Yếu này, do cái sự nghiên cứu của ổng, ổng mới viết ra cái cuốn luật này, và đồng thời ông cũng tự phê bình mình một cách rất là xứng đáng, tự nói lên những cái điều mà mình nhận xét qua cái giới luật của mình chưa có xứng đáng là một vị Tỳ Kheo.

“…​ dẫu cho muốn thực hành đúng như luật cũng khó khăn biết bao! Vì thế, nội dung của thiên này tôi vẫn không cổ động độc giả chưa đầy đủ Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni giới đọc. Nhưng đương nhiên tôi cũng không kịch liệt phản đối.”

Nghĩa là cái ông giới sư Thánh Nghiêm này ổng cũng không phản đối, mà ổng cũng không có khuyến khích chúng ta đọc giới. Bởi vì khuyến khích chúng ta đọc giới thì chúng ta thấy những cái tỳ vết, những cái xấu xa của chúng ta quá đầy đủ, không có chỗ nào chúng ta không phạm.

Mà ổng cũng không phản đối về vấn đề mà mình đọc hay không đọc, ổng cũng rộng rãi chỗ đó. Còn các tổ của mình thì cấm đoán, thôi không có cho đọc. Còn cái ông này khi mà nghiên cứu giới rồi thì ổng đã suy ngẫm được, ổng đã thấy được.

Trong cái thời đại chúng ta có những bậc giới sư họ cũng đã thấy được cái chỗ sai, chỗ đúng, cho nên sư Thánh Nghiêm ông có cái lời nói Thầy thấy rất là chí lý lắm.

Ông hiểu mình đó, hiểu giới luật được đó, nhưng mà ổng không dám động, coi như ổng không dám nói là các tổ sai đâu, không dám nói là các tổ thêm bớt cái gì, không dám nói. Nhưng mà ông nói như vậy, chúng ta đã biết ông đã hiểu được tất cả các giới bổn đúng sai, ông đã hiểu hết rồi, nhưng mà ông không dám động các tổ.

2- NGUỒN GỐC CỦA TĂNG ĐOÀN VÀ GIỚI LUẬT

2.1- Ý NGHĨA TÊN GỌI TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI

(06:39) Nguyên khởi của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni.

1. Vì sao gọi là Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni?

Tỳ Kheo là dịch âm của phạn văn là Bhiksu, ý nghĩa chủ yếu của nó là khất sĩ. Trên thì theo Như Lai khất cầu Phật pháp để dưỡng dục huệ mạng của pháp thân, dưới thì hướng về thế gian xin cầu cơm áo để nuôi sống sinh mạng của sắc thân, vì thế gọi là khất sĩ.

Ngoài ra còn các nghĩa phụ: Bố ma, phá ác, tịnh mạng, tịnh trì giới.

Nhân vì xuất gia học Phật làm Tỳ Kheo là muốn liễu sanh thoát tử, không còn bị sự khuấy nhiễu và chi phối của ma nghiệp cùng ma cảnh, ma vương bớt đi một ma dân để lợi dụng và chi phối, cho nên ma cảm thấy sợ hãi vì thế gọi là “bố ma”.

Nghĩa là Tỳ Kheo phải hiểu là còn cái danh từ gọi là bố ma. Chữ “tỳ kheo” thì gọi là khất sĩ, là trên thì xin pháp, cầu pháp, dưới thì xin cơm để ăn sống, để tu hành gọi là khất sĩ, nó có cái nghĩa khất sĩ, nhưng nó còn có cái nghĩa là bố ma.

Bố ma có nghĩa là làm cho tất cả những cái sự sợ hãi của ma chướng, ma nghiệp nó không còn khuấy động mình nữa, gọi là bố ma.

Tỳ Kheo trì giới khai phá được phiền não ác nghiệp, ly dục ly ác pháp, vì thế gọi là “phá ma”.

Đó, thì cái chỗ mà - cái Tỳ Kheo còn cái tên là phá ma. Nếu mình không gọi Tỳ Kheo thì mình gọi là cái vị tu sĩ phá ma thì nó là cũng Tỳ Kheo, hay hoặc là cái vị Tỳ Kheo bố ma thì đó là - hay hoặc là vị tu sĩ bố ma, hay hoặc vị tu sĩ phá ma.

Tỳ Kheo không làm các nghề buôn bán, trồng trọt, thợ thuyền mưu sinh, mà chỉ thanh tịnh khất thực để tự sống, vì thế mà gọi là “tịnh mạng”.

Hay là tinh mạng. Ở trong cái chỗ đó nếu mà nói về Tỳ Kheo thì nói là tịnh mạng, thì thay vì mình gọi là Tỳ Kheo thì mình gọi cái vị tu sĩ đó là tịnh mạng.

Tỳ Kheo đem cả hình tướng, thọ mạng của suốt cuộc đời mình mà kiên trì giới luật thanh tịnh, làm gương hạnh buông xả ly dục ly ác pháp, vì thế gọi là “tịnh trì giới”.

Nó còn có cái tên - Tỳ Kheo gọi là tịnh trì giới.

Dịch âm còn gọi là Bí Sô…​

Dịch cái âm của nó, cái tên Tỳ Kheo đó, dịch cái âm nó gọi là Bí Sô.

…​ hay là Bật Sô.

Người xưa dịch âm là Bí Sô, còn người nay gọi là Tỳ Kheo.

Người ngày xưa đó thì người ta gọi Tỳ Kheo đó là Bí Sô, còn bây giờ mình gọi là Tỳ Kheo.

Tỳ Kheo Ni là dịch âm của Phạn văn Bhiksuni, ý nghĩa của nó cũng tương đồng với Tỳ Kheo, chỉ dùng chữ “ni” biểu tượng cho nữ tánh mà thôi.

2.2- PHẬT GIÁO PHẢI LẤY GIỚI LUẬT LÀM TRUNG TÂM

(09:51) Phật giáo nói ba đời chư Phật đều có 7 hoặc 9 chúng đệ tử tăng tục nam nữ. Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni đứng trong 7 chúng, đây là hai bậc cốt cán trong đạo Phật.

Thời Đức Phật còn tại thế, hoạt động của Phật giáo lấy Đức Phật làm trung tâm. Sau khi Phật diệt độ, thay vì 7 chúng hoạt động Phật giáo lấy giới luật làm trung tâm, họ lại lấy những người xuất gia làm trung tâm, do thế Phật giáo càng lúc càng suy thoái, người tu sĩ giữ gìn giới luật không còn nghiêm chỉnh, chỉ có người tu mà không có chất lượng tu.

Đó thì bởi vì khi mà Đức Phật còn tại thế thì tất cả các vị Tỳ Kheo, những người tu sĩ lấy Phật mà làm cái trung tâm của mình. Sau khi mà Phật diệt độ rồi, thay vì Phật di chúc lấy giới luật của Phật làm trung tâm tu tập của mình, thì hiện giờ người ta không có lấy giới luật của Phật mà làm trung tâm mà người ta lấy 7 cái chúng này người ta làm trung tâm của người ta tu hành.

Cho nên từ cái lấy 7 cái chúng này do đó Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, rồi Sa Di, Sa Di Ni, rồi cư sĩ nam, cư sĩ nữ đó, 7 cái chúng đó, mà họ lấy cái 7 chúng đó mà họ làm cái Tăng đoàn của họ, họ lấy chúng tăng đó họ làm cái chỗ trung tâm tu tập của họ, cho nên từng đó giới luật nó bị mất đi, do đó Phật giáo càng lúc càng suy thoái.

Và người tu sĩ giới luật không còn nghiêm chỉnh là vì không có lấy giới luật - thay vì ông Phật đã dạy cho chúng ta đó, khi Đức Phật nhập diệt là lấy giới luật làm thầy, làm chỗ nương tựa, thì khi Đức Phật còn thì mình lấy Phật làm chỗ nương tựa, làm cái trung tâm tu tập, mà ông Phật chết rồi thì lấy giới luật, đằng này không có lấy giới luật mà lấy chư tăng, lấy 7 chúng của Phật làm cái chỗ nương tựa của mình. Cho nên từ đó nó sai, sai lần sai lần, cho đến bây giờ thì chúng ta thấy không còn cái cách gì mà chúng ta cứu vãn được trong cái Phật giáo được nữa.

Tăng đoàn xuất gia hoạt động của Phật giáo mà không lấy giới luật của Phật làm cuộc sống cho chính mình thì Phật giáo ở thế gian này sẽ mất đi giá trị tôn giáo của nó, mà chỉ còn có giá trị của triết học hoặc học thuyết văn hóa.

Nghĩa là bây giờ chúng ta thấy Phật giáo bây giờ nó chỉ là nằm trên triết học của nó và cái học thuyết văn hóa của nó thôi, chớ nó không còn có nghĩa gì của tôn giáo nữa hết. Nghĩa là giới luật nó quét sạch hết rồi, đâu còn. Người tu sĩ bây giờ phạm như vậy thì chúng ta thấy nó đâu còn gì mà Phật giáo nữa?

2.3- LỊCH SỬ TĂNG ĐOÀN TRONG GIỚI BỔN CÓ NHIỀU MÂU THUẪN

(12:19) Sự xuất hiện Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni.

Trên hành tinh này, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa về sự xuất hiện của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni…​

Nghĩa là hiện giờ trên Trái Đất của chúng ta có - như vậy là chúng ta nói Phật giáo có.

…​ (là do) cách đây hơn 2500 năm về trước, trong nhân loại xuất hiện một ngôi sao sáng, đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài ra đời cứu tất cả chúng sanh thoát cảnh khổ ách của kiếp người.

Trong Ngũ Phần Luật có chia 11 thứ Tỳ Kheo; Khất Tỳ Kheo không phải là Tỳ Kheo đúng như pháp của Phật. Riêng 7 chúng của đạo Phật là hoàn toàn không giống đồ chúng của ngoại đạo. Chính ngoại đạo cũng chưa có thể phân chia đồ chúng của mình ra thứ bậc kỹ lưỡng như Phật giáo.

Cái sự tu tập theo Phật giáo, từ cái chỗ mình ly tất cả các dục thì mình phải ly từng phần, từng phần, cho nên vì vậy do cái sự tu tập đó mà người ta chia làm 7 chúng. 7 chúng tức là 7 cái giai đoạn tu tập chớ không phải 7 chúng là có 7 cái giai cấp chúng ở trong đó đâu, 7 cái giai đoạn tu tập giới luật của Phật đó.

Chúng ta phải hiểu như vậy. Hầu như người ta nghĩ rằng 7 chúng là 7 cái giai cấp đệ tử của Phật, không phải. Bảy chúng tức là 7 cái giai đoạn tu tập theo cái giới luật, theo cái giáo pháp của Phật.

Nghĩa là cái người cư sĩ mới vào tu như thế nào, và cái người mà cận sự nam, cận sự nữ tu như thế nào, mà cận trụ nam, cận trụ nữ tu như thế nào, và khi mà thọ Sa Di thì phải tu như thế nào, rồi thọ Tỳ Kheo phải tu thế nào.

Đó là những cái vai trò, cái giai đoạn từng cấp bậc, lớp để mà tu tập chớ không phải là trong cái hàng giáo phẩm có sự cao thấp ở trong đó, nó không phải như vậy, không phải chia chúng ra làm cái sự cao thấp, mà là chia cái chỗ tu tập có sự cao thấp.

Thí dụ như bây giờ cái người cư sĩ mới vào đó, cận sự nam hay cận sự nữ mới vào tu thì họ phải vào lớp 1 đó, rồi bây giờ cận trụ nam, cận trụ nữ là phải lớp 2 đó, rồi Sa Di, Sa Di Ni là lớp 3 đó.

Đó tuần tự nó đi lên, đi lên như vậy, thì chúng ta thấy cái lớp học của Phật giáo để giải thoát nó phải đi từng giai đoạn của cái cấp bậc học, chớ không phải là cấp bậc của người đó lớn hay người đó nhỏ, mà nghe nói Tỳ Kheo là lớn, mà Sa Di là nhỏ, không phải. Tại vì người ta còn đang học ở lớp nhỏ chớ chưa phải là người ta nhỏ. Mình phải hiểu như vậy mới hiểu được Phật pháp.

Căn cứ vào Ngũ Phần Luật quyển 15: Sau khi thành đạo đầu tiên Ngài nhận sự cúng dường của hai người lái buôn tên là Ly Vị và Ba Lỵ.

(15:01) Nghĩa là đầu tiên sau khi mà Đức Phật thành đạo đó, thì đầu tiên Ngài đã nhận hai cái người cư sĩ chớ không phải là nhận tu sĩ đâu, đó đầu tiên.

Nhưng mà ở trong này nó lại quên rằng - Thầy có nhắc lại, trong cái kỳ trước Thầy có giảng - đầu tiên Đức Phật đã nhận một người cư sĩ đầu tiên chớ không phải là hai vị lái buôn này, sau này rồi kế đó thì mới nhận hai vị lái buôn này là ba vị cư sĩ đầu tiên của mình.

Nhưng ở trong giới luật thì các thầy đã nhớ rằng lúc mà Thầy giảng cái đó, khi lúc bấy giờ chỉ có một mình Đức Phật cho nên nó đâu có Tam Bảo, nhưng mà nhất thể Tam Bảo thì Phật nó đã đủ Tam Bảo hết rồi, nó không thể nào mà sai được.

Vậy mà trong giới luật nói Đức Phật khi mà cho hai người cư sĩ này quy y thì chỉ có Nhị Quy Y mà thôi chớ không có Tam Quy Y, nghĩa là quy y Phật, quy y Pháp thôi chớ còn Tăng không có. Đó là cái sai không có thấy được nhất thể Tam Bảo, đó là cái sai.

Mà khi Đức Phật nhận năm anh em Kiều Trần Như để trở thành tu sĩ của mình, thì lúc bấy giờ đâu có cái Tăng đoàn đâu mà gọi là Tam Bảo? Thế mà mấy vị này cũng vẫn là Tỳ Kheo, thì như vậy là như thế nào? Thì phải là nhất thể Tam Bảo, thì lúc bấy giờ các vị đó phải hướng về Tam Bảo Phật - Pháp - Tăng rồi, chớ không phải là chỉ có Đức Phật không.

Cho nên những kinh sách mà họ dạy về giới luật thì họ đặt ra như Nhị Quy Y chớ còn không có được mà Tam Quy Y: quy y Phật, quy y Pháp.

Phật lại còn cho con gái của bà la môn Tư Na tên là Tu Xà Đà thọ Nhị Quy Y.

Nghĩa là theo Đức Phật - mà theo Thầy thấy ở trong kinh giới này nó cho rằng Đức Phật đã cho hai cái người lái buôn làm cư sĩ đầu tiên, rồi kế đó một người con gái là ba người.

Nhưng mà sự thật ở trong kinh thì Thầy thấy rằng cái người đầu tiên là chỉ một ông già, đầu tiên là làm đệ tử cư sĩ đầu tiên của Đức Phật, rồi kế hai vị lái buôn này là Ly Vị và Ba Lỵ này, kế đó là hai vị cư sĩ này kế đến, rồi sau đó là mới có cái con gái tên là Tu Xà Đà thọ Tam Quy - kế đến đó là cái vị con gái này.

Coi như là có bốn, đầu tiên Đức Phật thành đạo thì độ bốn người cư sĩ đầu tiên, mà trong đó là ba người nam, một người nữ.

Đọc qua Ngũ Phần Luật giới bổn ta thấy sai, không đúng trong giới kinh. Trong giới kinh Phật độ cư sĩ đầu tiên là cha của Da Du Đà, rồi kế đó mới hai người lái buôn Ly Vị và Ba Lỵ, và sau nữa mới quy y cho cô gái Tu Xà Đà, thì đó là bốn người.

Phật - Pháp - Tăng, tại sao có một mình Phật mà đủ Phật - Pháp - Tăng? Thì đó là nhất thể Tam Bảo. Do thế ta thấy kinh giới trong giới bổn hay bịa đặt và viết sai về sự thật ở trong thời Đức Phật như vậy.

Họ muốn viết sao họ viết, họ muốn đặt sao họ đặt, họ muốn thêm thắt như thế nào là họ tự thêm lấy.

(18:04) Mà trong giới kinh thì lẽ đương nhiên là phải dựa vào kinh mới nêu ra giới, còn bây giờ kinh nó không có mà giới lại có thì Thầy cũng thấy cái điều đó, đặt cái câu hỏi để rồi chúng ta phải tìm thấy cái chỗ nào đúng cái chỗ nào sai về sau mà để thực hiện được cái sự giải thoát, chớ không phải là cái chỗ đúng sai để rồi chúng ta chết ở chỗ đó, mà để đi tìm cái chỗ đúng sai mà làm gì, để biết để mà chúng ta tránh mà thôi.

Lần chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc Giả, Phật độ năm anh em Kiều Trần Như. Thế mà trong kinh giới Tứ Phần Luật Thọ Giới Kiền Độ nói rằng Phật độ 5 người thị tùng theo Phật ở buổi đầu xuất gia, 5 người thị tùng này do vua Tịnh Phạn phái đến vừa hầu hạ thái tử mà vừa phục vụ thái tử tu hành. Điều này hết sức vô lý.

Đó thì các thầy thấy nó đặt ra như thế này nè. Theo Thầy đọc ở trong giới kinh thì khi mà Đức Phật đến cái chỗ tu tập ở cái vườn nai đó thì nhà vua Bình Sa Vương mới thấy Đức Phật tu như vậy đó, là cái hạnh như vậy, thì nhà vua mới nghĩ rằng chia cho Đức Phật nửa cái giang san của mình cai trị, nhưng Đức Phật từ chối, tu hành.

Do cái sự tu tập đó thì nhà vua mới tìm những cái vị ở trong nước mà tu hành của mình, mà tu những hạnh tốt, để rồi cho vào ở trong cái khu rừng nai đó để cùng Đức Phật mà làm bạn tu hành.

Còn cái này thì lại nói rằng là do vua Tịnh Phạn cho năm cái người thị tùng này giả làm cái người tu tập để theo mà vừa hầu hạ Phật mà vừa tu tập.

Cho nên nếu mà năm cái người này, năm anh em Kiều Trần Như là thị tùng của Phật thì làm sao mà dám chống đối Phật? Cho nên Phật mà bỏ cái khổ hạnh thì năm người này đâu có dám chống đối. Vì những người này là những người tu khổ hạnh, cho nên khi thấy Phật mà lợi dưỡng lại thì họ không có ưa Phật rồi.

Cho nên đó là những cái mà chúng ta thấy nó sai ở trong cái sử, nó không có đúng. Do vì vậy mà Thầy thấy nó nhiều cái ở trong kinh giới mà các tổ đặt ra nhiều cái nó không đúng là lịch sử.

Điều này hết sức vô lý. Trong giới kinh không có nói, thế mà ở đây các tổ lại dựa vào đâu mà lại đặt ra như thế này? Đây quý thầy nghe tiếp Luật Kiền Độ kể:

“Sau vì thái tử bỏ sự khổ hạnh cực đoan, làm cho năm người thị tùng hiểu lầm cho rằng thái tử thoái đạo tâm, vì thế họ khinh khi và ly khai thái tử.”

Đó. họ làm thị tùng mà họ dám khinh khi thái tử, họ ly khai thái tử thì Thầy cũng chả hiểu như thế nào! Nếu mà họ là cái người tu thì họ khinh khi là phải, họ ly khai thái tử là phải, còn họ là thị tùng đâu có nghĩa là - vua sai họ đến đó để phục vụ thái tử, thế mà họ lại khinh khi thái tử thì cái lý đó các tổ viết ra nó không vững.

“Sau khi thái tử thành đạo, Ngài nhớ lại năm vị Tỳ Kheo này làm việc khó nhọc phục vụ Ngài, không kể nóng lạnh hầu hạ cúng dường, nên trước tiên độ năm người này.”

(21:15) Nghĩa là Đức Phật thành đạo rồi mới nghĩ đến năm cái vị thị tùng này. Khi mình ở đây, năm cái người này là lo cơm nước, hay hoặc là nóng lạnh này, lo này kia cho mình, săn sóc cho mình đủ thứ cho nên nhớ, bây giờ mới về độ mấy người này.

Cái này là cái sai nữa. Thầy thấy sự thật ra một khi mình đi tu rồi mà còn người hầu hạ thì làm sao? Thiệt ra đi tu mà còn có người kẻ hầu người hạ thì Thầy thấy - bây giờ Đức Phật cởi y cũng có người lại cởi y, rồi phơi, rồi giặt cho Đức Phật, thì như vậy là Đức Phật thôi ở nhà đi chứ đi tu làm gì?

Đó là những cái mà Thầy thấy…​ Mà nhớ công ơn của những người hầu hạ này, bây giờ Đức Phật mới trở về! Thiệt ra không phải vậy. Thầy thấy không phải cái điều đó đâu.

Đến đây quý thầy có thấy các bộ luật này đặt điều không?

Nếu quý thầy thấy rõ thì quý thầy thấy người ta thêm thắt, người ta đặt những cái điều mà nó không có mà người ta đặt ra được.

“Tỳ Kheo Ni xuất hiện rất muộn. Ngày Đức Phật thành đạo cũng là ngày mà Tôn giả A Nan chào đời.”

Nghĩa là cái ngày mà Đức Phật tu thành đạo thì cái ngày ông A Nan mới có sanh à. Đó.

Sau Phật thành đạo 25 năm thì Ngài A Nan mới làm thị giả cho Phật.

Tức là khi Đức Phật thành đạo thì Ngài A Nan mới có sanh, mà sau 25 năm thì Đức Phật mới có - ông A Nan mới làm thị giả cho Phật, thì như vậy là cái thời gian chúng ta thấy như thế nào?

Và ni chúng mà được xuất gia là có ông A Nan xin, nếu không có ông A Nan xin thì ông Phật đâu có chấp nhận cho bên ni tu tập. Thì như vậy là từ cái ngày mà Đức Phật thành đạo cho đến khi mà Đức Phật nhận ni tu hành đó, là 25 năm.

Do lúc bấy giờ là ông A Nan là thị giả hầu Phật là 25 năm sau khi Ngài thành Phật thì ông A Nan 25 tuổi, thì như vậy là bây giờ ông A Nan mới xin Phật cho ở bên ni xuất gia, thì như vậy là bên ni xuất gia rất là muộn, mà tăng là rất sớm, trước 25 năm.

Còn trong Tứ Phần Luật San Bổ - Tùy Cơ Yết Ma Tùy Giảng Biệt Lục của Đại sư Hoằng Nhất lại dạy: “Sau khi Như Lai thành đạo 14 năm, Di mẫu ái đạo cầu xuất gia.”

14 năm - thì như vậy là không đúng, ông A Nan mới có 14 tuổi làm sao mà ai xin cho bà xuất gia? Cho nên trong cái kinh giới nó nói cái thời gian mình thấy nó cũng không có đúng rồi đó.

Ở đây đem giới bổn so với giới kinh qua những câu chuyện lịch sử như vậy thì hầu hết các luật sư viết luật tự mình đặt ra không cần biết đúng sai. Nếu không có lịch sử trong giới kinh thì ai biết cái gì đúng? Do thế chúng ta có tin được giới bổn hay không?

Đó, đem những câu chuyện này ra mình thấy nó quá rõ ràng là các ông luật sư muốn viết sao thì viết à!

Rõ ràng là 25 năm sau ông A Nan mới làm thị giả cho Đức Phật, mà bây giờ đây mới có 14 năm là bà Di mẫu đã đi cầu xuất gia rồi. Ai mà xin? Ông A Nan mới 14 tuổi mà ổng xin Phật được sao? Ổng chưa đi xuất gia làm sao mà xin được!

Tức là ông A Nan ổng vào tu với Phật là ổng là Tỳ Kheo chớ đâu phải là còn Sa Di, thì ít ra cũng phải 20 tuổi chớ đâu có dưới 20 tuổi được, mà mới 14 tuổi làm sao ổng xin? Thì quý thầy thấy có vô lý không?

Như vậy chúng ta có đáng tin ở cái giới bổn của các luật sư viết ra không? Họ thêm - họ muốn cái nào họ đặt ra, họ thêm họ thắt cái gì cũng được hết, họ muốn làm sao cũng được hết.

Thiệt ra Thầy thấy cái người tu hành đời sau này người ta muốn đặt cái gì cũng được hết, người ta không dựa vào một cái bản kinh nguyên gốc, cái sự thật của Phật giáo để giữ nó cho nó chính cái nguồn gốc của nó, để đừng có làm lệch lạc.

2.4- GIỚI LUẬT LÀ PHÁP MÔN TU HÀNH

(24:55) Chủng loại của giới luật Tăng Ni.

Giới luật của đạo Phật là một pháp môn tu hành để được giải thoát vì chính nó mới lìa được mục đích đau khổ chớ đâu phải pháp môn nào khác mà lìa được!

Nguyên nhân gốc khổ của con người là lòng ham muốn thì chỉ có giới luật của Phật mới lìa được, ly dục ly ác pháp. Mà đã ly dục ly ác pháp là đã giải thoát.

Nghĩa là khi mà chúng ta đã ly dục ly ác pháp thì tâm chúng ta đã giải thoát rồi, ác pháp là những cái tâm tham, sân, si là ác pháp, mà dục là những cái lòng ham muốn của mình, thế mình ly được thì đó là giải thoát rồi, do đó nó cũng là chấm dứt sanh tử luân hồi của mình rồi.

Vậy thì giới luật nó giúp cho chúng ta thành một cuộc sống ly dục, ly bất thiện pháp. Mà bây giờ giới luật mà như vậy thì nó có ly được không? Nó không ly được thì làm sao mà giải thoát được!

Cho nên Phật chế giới luật là một điều cần thiết quan trọng cho việc tu hành giải thoát của đạo Phật. Việc hoàn thành giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni cũng không phải là việc làm trong một ngày, một lát mà phải có một thời gian.

Nhất là giới luật vừa là một pháp môn tu tập, vừa là một ông thầy chỉ đạo cho việc tu hành, cho nên nó rất là quan trọng. Vì biết nó là người thừa kế Đức Phật sau này nên Ngài phải hoàn chỉnh nó trước khi ngài nhắm mắt để nó thay Ngài dẫn dắt các đệ tử và làm sáng tỏ Phật pháp muôn đời.

Giới luật của Phật, chúng ta thấy Đức Phật chưa từng chủ động chế qua một điều giới nào. Chẳng qua vì lý do nơi người phạm lỗi bị sự chê trách của người ngoài, rồi đó các đệ tử thiểu dục tri túc, thích hạnh đầu đà, biết hổ thẹn, biết sống trầm lặng cô đơn, biết dùng giới luật ly dục ly ác pháp nên trình lại với Đức Phật.

Nghĩa là trong cái số chúng đó đó, có những người mà người ta biết thiểu dục tri túc, người ta thích hạnh đầu đà, người ta biết hổ thẹn những cái lỗi lầm, người ta thường sống trầm lặng cô đơn, người ta biết dùng giới luật để ly dục, ly bất thiện pháp, nên khi thấy có một số người Tỳ Kheo tu tập mà nó phạm như vậy, do đó các Ngài mới đến trình với Phật là người cư sĩ họ chê các Tỳ Kheo đó giới luật như vậy, vậy - hay hoặc là những cái hành động nó như vậy chớ trước kia thì chưa có giới luật - cho nên những cái hành động đó người ta chê trách như vậy thì Phật nghĩ như thế nào?

(27:29) Do cái sự sai đó mà Đức Phật mới chế ra, mà chế ra để nhằm, để cho chúng ta ly cái tâm dục của chúng ta. Chớ không phải chế ra để mà làm cho người ta tốt để cho được người ta khen, mà chế ra là nhằm - Đức Phật biết rằng cái phạm đó là cái nhân để gieo cái tâm nó không có ly dục, cái tâm đó nó sẽ đi đến cái ác pháp, cho nên Phật nương vào chỗ đó mà chế ra.

Chế giới vì lợi ích tu hành cho đại chúng, vì thuận theo yêu cầu của đại chúng, Đức Phật còn đem những điều giới để mà đem ra tu sửa hai ba phen.

Nghĩa là Đức Phật khi mà chế một cái giới rồi mà thấy nó chưa được hoàn chỉnh thì Đức Phật đem cái giới đó ra nữa, sửa nó lại bằng cách chế lại cho nó giảm bớt hoặc là nó tăng lên, để giữ gìn cho nó ly dục, ly bất thiện pháp cho được. Đó là chế một cái giới nhiều phen lắm chớ không phải là một phen.

Chúng ta đọc ở trong kinh giới Đức Phật chế ra rồi thì thấy cái giới đó chế ra như vậy, nó chỉ trong các thời đó nó hiệu quả, nhưng nó có những cái sai khác nó nhẹ hơn thì phải chế nó lại, làm cho nó đúng cái trường hợp đó, cái thời gian đó.

Cho nên Phật cân nhắc từng cái thời gian để cho các giới đó nó hoàn chỉnh được, khi mà Đức Phật nhập diệt thì nó sẽ hoàn chỉnh, cho nên không gian và thời gian nó không có lỗi thời nữa, cho nên không còn ai sau này mà chế thêm chế bớt được.

Còn bây giờ chúng ta chế thêm chế bớt đủ loại, mà chúng ta thấy nó có hợp không? Nó không có hợp, nó đâu có bằng ông Phật, lúc bấy giờ mà ổng chế ra ổng đã cẩn thận và kỹ lưỡng mà chế ra nhiều lần.

Đây là biểu hiện tinh thần dân chủ một cách đầy đủ, và cũng là chỉnh đốn cho người thừa kế mình sau phải đầy đủ trọn vẹn ba thần lực: Đại oai lực, đại thần lực, đại minh lực.

Đó, Đức Phật chuẩn bị cho cái ông thầy giới luật này nó đủ ba cái oai lực đó mới xứng đáng là ông thầy của chúng ta sau này.

Cho nên vì vậy đó mà chúng ta thấy rằng cái giới luật mà chúng ta đang học ở đây, đang tu tập ở đây là cái giới luật, là cái pháp môn rất là tuyệt vời, chớ không phải như giới bổn mà các vị giới sư giới luật mà viết ra thì các giới đó nó không có giá trị.

Vì lịch sử thì nó cũng không có giá trị rồi, về lịch sử cái sự việc xảy ra thì các ngài nói không có đúng cái thời gian, mà không có nói đúng cái sự thật của câu chuyện nữa.

Cho nên tất cả những cái này chúng ta phải hiểu, và do đó chúng ta phải đi vào trong con đường giới kinh. Những cái bộ kinh như kinh Nikaya - kinh Nguyên Thủy đó, rồi những cái bộ kinh như bộ kinh A Hàm, chúng ta theo những cái giới ở trong đó đó mà chúng ta lấy làm cái gốc để mà chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp.

(30:06) Vì sau này chúng ta sẽ học các cái giới hành thì chúng ta sẽ học toàn bộ ở trong những cái hành động tu tập ở trong những cái giới kinh này chớ không phải gì khác hơn hết. Nhưng mà giới kinh này mà giới hành thì nó là ba mươi bảy phẩm trợ đạo như Thầy từng nhắc các thầy, để rồi chúng ta sẽ đi dần vào những giới hành rồi chúng ta sẽ thấy được cái sự thực tập của chúng ta trong cái giới luật.

Đức Phật tuyệt nhiên không muốn các đệ tử có lỗi lầm, các đệ tử hảo tâm xuất gia tự họ cũng không muốn trong Tăng đoàn có người phạm lỗi; đây là một thứ yêu cầu của tâm tự trọng.

Giới luật của đạo Phật không phải cưỡng chế. Phạm lỗi lầm rồi mới chế giới, đó là nguyên nhân từ nơi phạm giới mới chế ra.

Nghĩa là nếu mà chưa có phạm giới mà chúng ta chế giới tức là cưỡng giới, mình chế ra tức là mình buộc người ta phải theo đó.

Còn bây giờ người ta vì lỗi lầm, mà lỗi lầm đó nó không phải là cái lỗi lầm với cái chỗ đó do cái sự khen chê, mà lỗi lầm ở đây là lỗi lầm đã không ly dục, ly bất thiện pháp, lỗi lầm là lỗi lầm ở trong ác pháp, cho nên cái lỗi lầm này nó không giải thoát cho cái người đó, cho nên Phật chế cái giới đó ra để cho cái người đó giữ gìn, để cho nó ly được, nó không có lỗi lầm, nó không ở trong ác pháp nữa, thì đó là mới hiểu cái điều mà Phật chế giới.

Cho nên ở đây phạm lỗi rồi mới chế giới chớ không phải là chế giới một cách cưỡng bức người ta.

Sự chế giới của Đức Phật nhìn từ thực tế là ý của đại chúng trong Tăng đoàn. Tức Phật chỉ là người chủ trì hoặc là người chứng minh trong quá trình chế giới.

Nghĩa là mình phải xét rằng Đức Phật chỉ là người chủ trì để mà chế cái giới đó ra, để làm cho cái người phạm giới đó họ biết đó là cái ác pháp, đó là cái mà không nên, vì như vậy là không giải thoát được, chớ không phải là cái giới đó để cưỡng bức cái người đó không có được phạm.

Giới luật là phương thức phòng ngừa sự hư đốn của đại chúng.

Nhìn qua giới bổn và giới kinh của Phật, chúng ta mới hiểu một cách sâu sắc rằng Đức Phật là một vị đại đạo sư rất vĩ đại và từ bi. Do giới bổn và giới kinh này mà cứu hộ tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ ách của nhân quả, trên nhân quả Đức Phật đã dụng tâm không chỗ vi tế nào mà không đến. Vì thế Ngài đã tôn trọng ý tứ của đại chúng, luôn luôn chế giới để hộ niệm đến những khuyết điểm của đại chúng.

Nghĩ đến sự chế giới kinh và giới bổn khiến ta cảm động đến rơi nước mắt, vì lòng từ bi của Phật vô bờ bến là ở chỗ này.

Nghĩa là thấy cái phạm lỗi của chúng sanh là thấy ở chỗ ác pháp, thấy phạm lỗi của chúng sanh không phải thấy ở chỗ khen chê của người cư sĩ, mà thấy phạm lỗi của chúng sanh là chạy theo dục, cho nên Phật mới chế ra cái giới. Mà chế ra cái giới tức là chế ra cái pháp để cho họ ly dục, ly bất thiện pháp - tức là ác pháp, để mà cứu họ ra khỏi cái sự đau khổ của cái cuộc đời của họ.

Nghĩ như vậy chúng ta mới thấy rằng cái người mà chủ trì cái chế giới này phải là có một lòng từ bi thương đệ tử của mình rất là tha thiết ở trong đó mới khó mà chế ra những cái giới này để cho nó phù hợp, để làm sao cho nó ly được cái đau khổ của nó, đó là cái chỗ rất khó.

2.5- NGƯỜI ĐỜI SAU CHẾ GIỚI LÀM LỆCH PHẬT PHÁP

(33:47) Giới dâm là giới luật chế thứ nhất của Đức Phật.

Lúc bấy giờ Đức Phật đang ở thành Tỳ Xá Ly, thành (Phật) 5 năm, nửa tháng thứ 5 mùa Đông, ngày 12 sau khi dùng bữa trưa, mặt trời bóng ngả về hướng Đông bằng một người rưỡi, Phật chế giới này.

Ở đây thì chúng ta thấy là khi mà nói về chế 4 cái giới đầu tiên thì ở trong kinh giới nó ghi lại ngày tháng nó rất rõ ràng, nhưng mà ở trong cái giới bổn mà của các Tổ viết ra thì nó ghi lại ngày tháng mà Đức Phật chế cái giới đó lúc nào, buổi hướng khi lúc bấy giờ cái bóng nó ngả là bao nhiêu, một người rưỡi hay là hai người ba người mà chế cái giới đó, lúc giờ nào, ngày nào, năm nào, sau 5 năm mà Đức Phật thành đạo đó thì Đức Phật ở thành Xá Ly, thì Đức Phật đã chế ra cái giới này.

Nhưng mà theo trong cái kinh thì 13 năm cà chúng mới có phạm lỗi chớ còn 5 năm thì chưa có ai phạm lỗi hết. Bởi vì lúc bấy giờ chúng Tỳ Kheo nó vô lậu, nó không có lậu hoặc, cho nên nó đâu có người nào mà phạm lỗi, cho nên họ ly dục, ly bất thiện pháp hết rồi.

Vậy mà ở trong kinh giới lại nói 5 năm Đức Phật chế giới, và trong nửa tháng 5 mùa Đông, ngày 12 sau khi dùng bữa trưa xong thì bóng mặt trời đã ngả về hướng Đông bằng một người rưỡi - tức là cái bóng nó ngả một người rưỡi vậy, Phật mới chế cái giới này.

Thì Thầy thấy đây là những cái chuyện họ đặt nghe có lý thật nhưng mà cái lý đó - 5 năm thì chưa có giới đâu, 13 năm cà, rõ ràng mà, ở trong kinh Phật nói 13 năm Phật mới có chế giới vì sau này chúng Tỳ Kheo nó mới có phạm, còn bây giờ nó chưa có phạm mà, làm sao mà chế được.

Bây giờ chúng ta nghỉ một chút.

(35:38) Phật chế cái giới đầu tiên đó là cho con trai của trưởng giả Da Xá Ca Lan Đà. Đó là cái giới đầu tiên.

Giới thứ hai là giới trộm cắp: Đức Phật đang ở trong thành Vương Xá sau 6 năm thành Phật.

Đó là cái giới thứ nhất là 5 năm, cái giới thứ hai là 6 năm mới chế cái giới trộm cắp, cái giới dâm thì Đức Phật chế cái giới đó đầu tiên là 5 năm sau khi thành Phật, rồi 6 năm Đức Phật mới chế cái giới nữa, thì đó là ở trong cái kinh giới bổn thì nó thuật lại như vậy.

Nửa tháng thứ 2 của mùa Đông, ngày mùng 10 sau bữa ăn trưa, mặt trời đã ngả về hướng Đông bằng hai người rưỡi, Phật chế giới này cho người thợ gốm tên là Đạt Ni Ca, Bình Sa Vương và Tỳ Kheo phấn tảo y.

Đó là Đức Phật chế giới đó cho ba cái vị đó.

Giới thứ ba là giới sát sanh: Đức Thế Tôn ở thành Tỳ Xá Ly, sau khi thành Phật 6 năm, nửa tháng thứ 3 của mùa Đông, ngày mùng 9 trước bữa ăn trưa, bóng mặt trời ngả về phía Bắc, nhân Tỳ Kheo tu tập quán bất tịnh đâm ra chán ghét sắc thân, nhờ ngoại đạo Trương Lộc giết mà chế giới.

(37:11) Đó thì do cái nguyên nhân mà người ta quán bất tịnh rồi người ta chán cái thân rồi nhờ cái ngoại đạo Trương Lộc giết cái thân của mình mà Phật chế cái giới sát sanh.

Giới thứ tư là đại vọng ngữ: Lúc bấy giờ Đức Phật đang ở thành Xá Vệ, sau khi thành Phật 6 năm, nửa tháng thứ tư của mùa Đông, ngày 13 sau bữa ăn trưa, bóng đã ngả về hướng Đông bằng ba người rưỡi, vì nhiều Tỳ Kheo đi vào xóm làng cùng gọi nhau là A La Hán, vì những tăng thượng mạn này mà Đức Phật chế giới này ra.

Tức là cứ gọi - người này gọi A La Hán, người kia cũng gọi A La Hán đó, thì trong cái giới bổn thì nó nói như vậy, cho nên Phật mới chế cái giới vọng ngữ đó là không có được mà gọi như vậy, không có được nói vọng ngữ như vậy.

Vì cái mục đích là các cái vị Tỳ Kheo này đó muốn gọi với nhau A La Hán để cho cái người ta nói rằng mình A La Hán đó, người này gọi vị kia là A La Hán, người kia gọi vị nọ là A La Hán. Nghĩa là không tự mình xưng mình A La Hán, nhưng mà gọi người khác là bậc A La Hán để cho các cư sĩ người ta lầm là các ông này là A La Hán hết, cho nên mới đem tiền bạc cúng dường cho, hoặc là thực phẩm cúng dường cho mấy ổng đầy đủ.

Do cái chỗ đó là Đức Phật gọi là đại vọng ngữ, tăng thượng mạn, cho nên mới chế ra cái giới vọng ngữ.

Đọc giới kinh rồi xem giới bổn thấy các tổ chế giới ra, thời gian sai khác lạ lùng. Chỗ thì nói 12 năm mới chế giới, chỗ thì nói 5 năm, 6 năm mới chế giới, chế giới cho đến khi nhập diệt mới đình chỉ.

Nghĩa là Đức Phật chế giới cho đến khi mà Đức Phật nhập Niết Bàn rồi mới không có chế giới nữa.

(39:01) Cái này Thầy thấy rằng trong một cái số giới luật thì nó có một cái sự sai phạm là do cái không có ly dục ly ác pháp nó mới có sai, mà nó mới có sai thì mới có chế giới ra, còn đằng này chế cho tới khi mà Đức Phật nhập diệt rồi mới hết chế, thì Thầy không biết là giới gì mà chế dữ vậy? Không hiểu là giới như thế nào mà chế cho đến khi…​

Bởi vì pháp thì nó có một cái số như ba mươi bảy phẩm trợ đạo thì nó là cái giới hành rồi, thì cái giới hành này từ cái ngày mà Đức Phật ra mà thuyết giảng cho đến bây giờ nó không thêm không bớt cái chỗ nào cái giới hành này được.

Thì như vậy là cái giới hành này thì nó chỉ có cái oai nghi nó sơ suất một vài thôi, nhưng mà khi mà người ta đã thực hiện những cái giới hành thì nó đã ly dục, ly bất thiện pháp, thì những cái oai nghi tế hạnh đó không cần học nó cũng là oai nghi tế hạnh rồi.

Một người mà tu ở trong cái pháp Thánh phòng hộ sáu căn, họ đi ra họ không nhìn qua nhìn lại là đã có oai nghi tế hạnh rồi, cần gì vẽ vời cái điều này điều kia nữa, thì đó là nói về giới oai nghi tế hạnh này, oai nghi tế hạnh khác thì đó là cái nó rườm rà mà nó không đúng.

Mà khi một người mà người ta thực hiện ở trong cái chánh kiến mà người ta phòng hộ sáu căn người ta, thì luôn lúc nào con mắt người ta cũng nhìn xuống đường người ta đi, người ta thực hiện cái tâm từ của người ta, ở trên bước đường đi người ta tránh không có đạp hại chúng sanh ở dưới chân thì đó là người ta thực hiện cái lòng thương yêu của người ta đối với chúng sanh, thì những cái vật xung quanh hai bên đường người ta đâu có còn nhìn ngó nữa, cho nên cái oai nghi tế hạnh người ta rất đầy đủ.

Chỉ có cái pháp hành, mà pháp hành đó thì chúng ta thấy rõ ràng là nơi cái chánh kiến không à mà người ta thực hiện được, như vậy thì người ta đâu cần gì mà phải giới luật gì đâu mà rườm rà?

Các tổ không thấy được cái giới hành đó, mà các tổ nghĩ rằng phải chế cái này chế cái kia để cho người ta đừng ngó qua ngó lại, nhưng mà cuối cùng thì người ta vẫn nhìn ngó tùm lum, mà trái lại nó không có cái pháp hành tức là không có giới hành cho nên người ta đâu có giữ người ta được.

Đó thì, rồi chúng ta sẽ thấy 5 năm, rồi 6 năm chế giới, rồi 13 năm chế giới, chúng ta chẳng biết cái thời gian mà chế giới lúc nào. Mà các tổ lại còn nói chế giới cho đến khi Phật nhập Niết Bàn rồi mới hết chế giới, giới gì mà dữ vậy?

Thầy thấy tới chừng chết rồi mà còn chế giới như vậy là các ông tiếp tục chế giới nữa. Bởi vì Đức Phật chế chưa rồi, ổng tới chết rồi mà ổng còn chế giới mà, cho nên bây giờ mình phải tiếp tục mình chế thêm nữa, chế riết không biết là bao nhiêu giới mà nói!

Cho nên đó là cái người ta lý luận để rồi người ta sửa giới, rồi chế thêm ra bằng cách này bằng cách khác đủ cách đủ loại làm cho nó lệch lạc. Chớ Thầy thấy Đức Phật giảng ba mươi bảy phẩm trợ đạo tức là cái giới hành rồi, thì không thấy có thay đổi thêm, mà ba mươi bảy phẩm trợ đạo từ lúc mà Đức Phật dạy người ta tu hành cho đến bây giờ không thấy Đức Phật thêm.

Cũng như nói Tứ Diệu Đế thì không có Năm Diệu Đế được, Tứ Diệu Đế là nói Tứ Diệu Đế chớ bây giờ không có ai nói Sáu Diệu Đế hay là Bảy Diệu Đế được, đâu có thêm vô được!

Thế mà giới thì họ thêm được, còn cái giới hành thì họ không thêm được. Đức Phật nói Tứ Vô Lượng Tâm thì nói Tứ Vô Lượng Tâm chớ giờ không ai mà nói Ngũ Vô Lượng Tâm hết. Đâu có thêm được!

Cho nên tất cả những cái giới đó gọi là cái giới hành, còn cái giới của các ngài là cái giới bổn, các ngài thêm thắt cái này kia được, cho nên các ngài dễ dàng lắm. Do vì cái chỗ đó là cái chỗ mà người ta không hiểu Phật pháp mà thôi.

(42:16) Đây quý thầy nghe Đức Phật của các tổ trong Ngũ Phần Luật quyển 22 đã nói: “Tuy là giới của ta chế…​”

Đây ông Phật nói ở trong cái giới của các ngài, ông Phật nói đây - nghĩa là các ngài viết trong đó các ngài nói ông Phật nói chớ không phải là các ngài nói, cho nên ông Phật nói đây:

“Tuy là giới của ta chế nhưng ở phương khác không cho là thanh tịnh thì đều không được dùng.”

Nghĩa là bây giờ Đức Phật chế giới cho chúng ta ở cái cõi Ta Bà này, nhưng bây giờ có cái cõi nào đó, hay hoặc là chế cho cái nước Việt Nam này, chúng tu cái giới này, nhưng bây giờ Mỹ nó không phù hợp đâu, vậy nó phải thay đổi chớ còn không có dùng được.

Ông Phật ổng nói: Tuy rằng giới của Ta chế, nhưng ở cái nước này, ở cái phương này nó thanh tịnh thì ở đây nó tu được thôi, mà đưa lại cái chỗ khác mà nó không thanh tịnh thì cái giới đó không áp dụng được.

Cho nên các ông tổ giới của mình họ đặt hay lắm. Vì vậy mà Thầy thấy Đức Phật nói: “Ta là thiên nhân chi đạo sư”, phải không? Thầy của trời người, mà cái giới luật là thầy rồi, mà tại sao nước này lại được mà nước kia lại không được, cái phương này lại tu được mà phương khác tu không được là phải thay đổi, phải bỏ?

Ở đây thiệt mấy ông lẻo mép thiệt! Thầy nói miệng của họ thiệt là người ta nói: Cái miệng không vành nó méo tứ tung, cái lưỡi không xương nó nhiều điều lắt léo, nó nói qua nói lại được lắm! Cho nên mấy ông tổ mình - bởi vậy có nhiều người họ nói tổ là lưỡi lừa.

Đức Phật là thầy của trời người và giới luật là thầy của trời người, tại sao lại có nước này nước khác thanh tịnh mà nước kia không thanh tịnh, không có tu tập được?

Đó là những cái lý mà chúng ta thấy, chúng ta nên đặt những câu hỏi, chúng ta thấy các tổ chúng ta sau này họ có những cái thêm thắt, rồi họ muốn đặt như thế nào đó họ đặt.

Giới luật của Phật là thiện pháp còn phương khác đây là ác pháp nên không được dùng?

Đây cũng là một câu nữa cũng trong Ngũ Phần Luật quyển 22 đã nói: “Tuy chẳng phải giới luật của ta chế…​

Đức Phật nói tuy không có phải là giới luật của ta chế:

…​ nhưng ở cái phương khác phải nên làm thì không được chẳng nên làm”.

Nghĩa là không phải là giới luật của Phật, nhưng mà cái chỗ đó là cái phương đó nó đúng như vậy, thì cái giới luật mà không phải Đức Phật chế mà nó hợp với cái chỗ đó thì nên đem cái giới luật đó mà áp dụng cho cái phương đó

Như vậy là ông Phật ổng chỉ là - cái ông Phật chỉ có ở trong một cái phương nào đó thôi chớ ổng không phải là thiên nhân chi đạo sư rồi! Ở chỗ cái kinh giới này nó nói như vậy nghĩa là Đức Phật chỉ dạy ở cõi Ta Bà này thôi chớ còn không có dạy cõi nào được đâu.

Nghĩa là ông Phật chỉ gói ghém là ở trong cái cõi Nam Thiện Bội Châu của mình đây thôi chớ qua Bắc Cưu Lưu Châu hay là Đông Thắng Thần Châu thì chắc chắn là không có dạy được, vì ở đó nó có khác. Hoặc là ở Việt Nam, hay hoặc là ông Phật ở Ấn Độ đem qua Việt Nam thì nó không phù hợp đâu, cho nên đem về Việt Nam thì phải thay đổi chớ còn đem qua Việt Nam áp dụng cái giới luật của Phật nó không phù hợp.

Đó là cái ý của các tổ muốn nói vậy, cho nên từ đó thì khi mà giới luật của Phật ở Ấn Độ thì nó áp dụng cho đúng người Ấn Độ, là lúc bấy giờ Đức Phật đã chế cho người Ấn Độ chớ không phải chế cho người Việt Nam, mà người Việt Nam thì chúng ta phải - ở đây nó có những cái mà gọi là Đức Phật không chế mà bây giờ chúng ta thấy nó phù hợp với dân Việt Nam thì chúng ta đem vô cái này, thì ông Phật cũng chấp nhận chớ không phải ông Phật bỏ.

Đó là các thầy nghe cái câu ở trong kinh giới nói:

“Tuy chẳng phải giới của ta chế, nhưng ở phương khác phải nên làm thì không được chẳng làm!”

(45:46) Đó cái câu nói như vậy thì chúng ta thấy hiểu chưa? Nó rõ ràng như vậy.

Xét cho cùng giới luật của Phật đã đặt ra là pháp môn để tu hành giải thoát thân tâm, làm chủ sinh tử, thế mà ở đây Đức Phật còn chấp nhận pháp luật của người khác, tức là họ hay, giỏi hơn Đức Phật nữa!

Nghĩa là Đức Phật còn chấp nhận cái giới luật của người khác nó hay hơn, nó ly dục, ly bất thiện pháp hơn, cho nên nó ở cái xứ đó nó phải hay hơn cái giới luật của Đức Phật ở Ấn Độ rồi. Cho nên vì vậy mà khi qua Việt Nam, khi qua Trung Quốc thì nó phải theo thay đổi cho nó phù hợp, thì nó hay hơn là cái giới luật của Phật chế.

Cho nên mấy ổng chế ra đó, mấy ông Trung Hoa mấy ổng chế ra thì bắt đầu qua Việt Nam mình mấy ông giới luật của mình ở bên đây cũng chế thêm nữa cho nó phù hợp với Việt Nam, vì vậy mà chế tùm lum nhau. Bởi vậy kinh giới nó chế đủ thứ ở trỏng. Nó hay hơn ông Phật rồi, cho nên người ta nói tổ thì phải hơn Phật chớ sao!

Đó, vì vậy mà có người nói Phật ngồi thiền thì bốn mươi chín ngày à, còn tổ chẳng có ngồi giờ nào hết cho nên tổ hay hơn, còn Phật phải ngồi bốn mươi chín ngày mới thành Phật được, còn tổ chẳng ngồi cái ngày nào hết cũng thành Phật như thường!

Đó là chúng ta thấy từ cái chỗ pháp tu cho đến cái chỗ giới luật thì nó đều có cái sự bôi bác Phật giáo rất nhiều, nó làm cho thấy Đức Phật thua xa.

(47:08) Cho nên chúng ta thấy rõ ràng là đứng qua cái góc độ kinh sách thì chúng ta thấy Phật giáo là Tiểu Thừa, phải không? Kinh mà của Phật dạy là Tiểu Thừa, mà kinh của các tổ thì Đại Thừa, phải không? Lớn hơn Phật. Đó là những cái mà chúng ta thấy rất rõ. Cho nên cái gì mà của tổ làm ra thì nó là đại, là tối thượng, còn của Phật - tiểu là nhỏ.

Còn bốn thiền của Phật thì chúng ta thấy mình tu rất là vất vả chớ gì, muốn làm chủ cái thân này phải tịnh chỉ hơi thở, phải ngưng các hành ở trong thân để mới làm chủ nó được, thì các tổ gọi là thiền phàm phu, bốn thiền phàm phu của người phàm phu chớ còn của cái Bồ Tát với của Phật thì không có cái loại thiền này đâu. Cho nên nó hạ bệ cái giáo lý, tới cái thiền của Phật mà họ hạ xuống như vậy.

Rồi bây giờ mình nhìn qua giới luật, họ cũng hạ giới luật của Phật qua những câu này. Các thầy thấy có hạ không? Bởi vì ông Phật ổng còn chấp nhận giới luật của người ta hơn Phật rồi thì giới luật của Phật thua rồi thì còn cái gì là hơn? Đó.

Cho nên từ cái chỗ này chúng ta mới thấy, từ cái chỗ mà tu thiền thì vẫn thấy họ hạ Phật xuống, rồi từ cái giới luật vẫn thấy người ta cũng đang tâm người ta hạ cái giới luật của Phật xuống thấp nữa chớ chưa phải là nêu cao. Họ nói là nói một lẽ nhưng mà qua những cái lời này chúng ta thấy họ đem cái giáo pháp của Phật họ dìm xuống tận dưới cái đáy bùn.

Xét cho cùng giới luật của Phật đã đặt ra là pháp môn để tu hành giải thoát thân tâm, làm chủ sinh tử, thế mà ở đây Đức Phật còn chấp nhận pháp luật của người khác, tức là họ hay, giỏi hơn Đức Phật.

Đúng như vậy! Chỉ có các tổ mới giỏi hơn Đức Phật, mới dám dùng câu này mà nói. Chính vì vậy mà người đời sau phá giới toàn triệt, nói chung là không còn một giới nào của tu sĩ đời nay giữ trọn. Cũng vì những bộ giới luật này phi Phạm hạnh đã đưa ra con người mất lối tu hành của đạo Phật.

Đọc những câu này ta thấy rất là đau lòng. Những kẻ hậu sinh sau Đức Phật đã nỡ tâm lấp lối ngăn đường giải thoát của đạo Phật. Những người soạn ra những bộ luật này muôn đời nghĩ rằng họ phải đọa địa ngục. Vì chúng sanh đang đau khổ nhờ lối của Phật mà thoát khổ, thế mà họ bít lối, không cho chúng ta thấy được đường lối tu hành giải thoát, thì những người này phải chịu lấy những hậu quả mà họ đã làm sai lệch của Phật pháp.

Đến giới luật, chẳng ai tìm được con đường chân chính của Đạo Phật chỉ vì toàn là phá giới.

Mình nhìn vào trong cái giới luật hiện giờ của đạo Phật thì mình thấy cái người tu sĩ bây giờ toàn là phá giới hết, không còn cái gì nữa.

2.6- TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI ĐƯỢC SINH RA TỪ GIỚI LUẬT

(49:56) Thân phận Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni.

Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni cố nhiên là phải giữ gìn Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni giới, vì thế thân phận và tư cách của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni là phải do thủ trì Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni giới mà ra.

Nghĩa là cái tư cách của cái người tu sĩ là phải do giới luật mà ra. Mà chính do giới luật mà ra thì cái hành động, cái tư cách này là cái tư cách giải thoát, nó làm cho chúng ta ly những cái dục, ly những cái ác pháp, chớ không phải cái tư cách này là cái tư cách hình tướng, làm ra vẻ là mình có những cái oai nghi tế hạnh nghiêm chỉnh, mà cuối cùng thì không có ly ở trong lòng của mình thì cái đó là cái hình tướng sai.

Cho nên ở đây, cái mục đích của nó là thực hiện cái oai nghi của cái người tu sĩ Tỳ Kheo cũng như Tỳ Kheo Ni, cái tư cách của nó, nó phải thực hiện qua cái sự giải thoát chính thật sự của tâm họ, chớ không phải làm cái hình tướng oai nghi đó. Cho nên những cái kinh giới bổn nó đặt ra cái oai nghi để chúng ta làm ra vẻ mình có oai nghi, nhưng mà sự thật cái tâm nó chưa có ly, cho nên nó lén ăn vụng ăn vặt đủ thứ à!

Đó thì như vậy chúng ta thấy, nó phải hiểu được như vậy thì chúng ta từ đó chúng ta mới lấy giới luật mà chúng ta ly được, chớ còn không khéo thì chúng ta sẽ phạm những cái lỗi rất là nặng.

(51:18) Nếu Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni không giữ gìn giới luật thì thân phận và tư cách của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni chẳng ra gì, nghĩa là hoàn toàn thiếu đạo đức của đạo Phật.

Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni mà tư cách không đúng giới luật thì chẳng ai còn xem ra gì, và người ta nhìn Phật giáo với đôi mắt khinh khi và không có quý trọng nữa.

Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni mà biết áp dụng giữ gìn giới luật thì ly dục ly ác pháp. Nếu không có giới luật này thì làm sao ly dục ly ác pháp được, vì thế Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni tu hành hoài công vô ích.

Nghĩa là cái người Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni mà không biết áp dụng cái giới luật để cho nó đúng cái tư cách ly dục, ly bất thiện pháp của mình thì dù có tu đi nữa thì cũng là vô ích cho cuộc đời của mình chớ không có gì.

Hiện giờ những tu sĩ này đều tu tập mà giới luật không nghiêm chỉnh nên sự tu tập hoài công vô ích, không giải thoát mà còn thêm tội lỗi rất nặng.

Trong các kinh giới bổn họ luận như thế này: “Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni không phải có là do giới luật mà ra…​”

Nghĩa là ở trong kinh giới nó luận như thế này nè, nghĩa là không phải giới luật mà đẻ ra các vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, vì vậy cho nên nó nói giới luật chỉ là cái khuôn khổ khép cho Tỳ Kheo Ni và Tỳ Kheo mà thôi chớ không phải là Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni do giới luật mà đẻ ra.

Mà chính là chúng ta phải hiểu: Nếu chúng ta là một Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni là phải do giới luật mà sanh ra, vì vậy chúng ta mới ly dục, ly bất thiện pháp. Còn trong kinh giới thì nó nói Tỳ Kheo với Tỳ Kheo Ni nó không phải do giới luật sanh ra đâu, mà giới luật là một cái điều kiện làm cho Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni phải giữ gìn mà thôi.

“…​ sự có mặt của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni giới là do nhu yếu của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni.”

Cho nên người ta luận: Trong cái thời Đức Phật mà độ người ta tu thì đâu có giới luật mà nó có Tỳ Kheo với Tỳ Kheo Ni rồi, phải không? Như vậy là khi mà chưa có chế giới ra đó thì nó vẫn có Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, cho nên đâu phải giới mà đẻ ra Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni đâu? Đó nó luận như vậy đó.

Bởi vì trong lúc bấy giờ đó, tất cả các vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni trong cái thời Đức Phật 13 năm trước mà chưa chế giới đó là người ta vô lậu, người ta ly dục, ly bất thiện pháp cho nên đâu cần gì phải chế giới. Sau này Tỳ Kheo nó còn lậu hoặc cho nên buộc lòng Đức Phật mới chế giới ra để cho người ta không có lậu hoặc.

Cho nên cái luận của nó thì nghe có lý nhưng mà rất vô lý. Tại vì Phật chế giới ra, có phạm mới chế chớ không phạm thì đâu có chế giới ra làm gì? Đó.

(54:18) Cho nên ở trong giới kinh thì chúng ta thấy Đức Phật chế ra cái giới hành chúng ta đầu tiên. Vì vậy mà Đức Phật đến giảng cho năm anh em Kiều Trần Như không phải đó là giới sao?

Tại vì họ thấy giới bổn mà họ không thấy giới kinh, cho nên họ nói không có giới mà đẻ ra Tỳ Kheo. Mà nếu không có giới thì làm sao mà năm vị Tỳ Kheo này mà trở thành năm vị Tỳ Kheo đầu tiên của Đức Phật?

Sau khi nghe cái bài thuyết pháp Tứ Diệu Đế, không phải đó là giới sao? Đó là thuộc về giới hành ly dục, ly bất thiện pháp! Đó thì quý thầy thấy rất rõ không? Nhưng mà các vị giới sư thì cho đó là pháp chớ không phải là giới.

Bởi vì giới - bây giờ chế giới ra mà chúng ta giữ thì vốn nó cũng là ly dục, ly bất thiện pháp. Mà bây giờ Tứ Diệu Đế để cho chúng ta thấy đời là khổ nè, rồi cái nguyên nhân nó khổ là như thế nào, nó do cái lòng ham muốn nè, rồi do cái chỗ, cái cảnh giới Diệt Đế nè, là cái nơi giải thoát tâm trạng của mình nè, rồi tám cái nẻo để mà đi đến cái chỗ giải thoát này, không phải là giới sao? Đó là giới mà!

Do cái chỗ này thuộc về giới hành, vì vậy mà các vị Tỳ Kheo này, các vị tu sĩ này, năm anh em Kiều Trần Như khi mà nghe thuyết Tứ Diệu Đế rồi thì họ chứng ngay liền, là Dự Lưu liền tức khắc, sau đó thì bắt đầu họ thực hiện, cho nên họ chứng tới quả A La Hán. Chúng ta thấy rất rõ.

Cho nên đó là giới chớ cái gì? Thì vậy là những cái giới chớ đâu phải là cái gì khác hơn, mà các vị giới sư, giới luật này họ không thấy cái chỗ đó là giới, họ chỉ đó là thấy cái pháp, cho nên cái thấy của họ không phải thấy.

Bởi vì Đức Phật có ra đời, thì khi mà Đức Phật đã thành tựu Đức Phật mới thấy: Chỉ có cái pháp mà ta tôn kính nhất là nó đem đến cho chúng ta giải thoát. Vậy thì cái pháp đó là cái gì? Đức Phật đã thấy được cái pháp, mà thấy được cái pháp tức là giới luật!

(56:02) Đó, cho nên trong cái sự tu tập mà chúng ta hiểu được, thì tới cái giai đoạn mà Thầy dạy về ba mươi bảy phẩm trợ đạo thì quý thầy thấy cái giới hành này nó rất là quan trọng, quan trọng rất là lớn ở trong cái cuộc đời tu tập.

Còn cái giới bổn mà chúng ta đọc đây để chúng ta thấy cái sai của người sau, để biết cái người sau họ thêm thắt bậy bạ, họ không hiểu Phật pháp, họ hiểu Phật pháp bằng một cái đơn thuần của họ, họ thấy ba mươi bảy phẩm trợ đạo đó là cái pháp chớ không phải là cái giới, cho nên cái đó là cái sai.

Quý thầy nghe lời nói này là phi giới luật. Những kẻ viết giới luật mà chẳng hiểu giới luật của Phật. Giới luật là pháp môn để dùng làm phương tiện cho người tu tập.

Thì không phải là Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo…​ không phải là những cái phương tiện để chúng ta tu tập sao? Để khắc kỷ, để giữ gìn thân tâm của mình không còn ở trong ác pháp, để ly những cái tâm ham muốn của mình chớ sao?

Chẳng hạn bây giờ giới đặt ra như thế này, giới bổn đặt ra cấm mình không cho ăn phi thời, ăn ngày một bữa, phải không? Nhưng khi mà một người mà người ta ở trong cái pháp người ta ly dục thì người ta có cần gì mà phải ăn hai ba bữa đâu? Người ta ăn đủ sống mà người ta cũng không thèm ăn cái món ăn, người ta thấy nó là bất tịnh rồi, thì không phải là không cần cấm mà người ta vẫn là giữ được không?

Còn bây giờ mấy ông hiểu Phật pháp mà theo kiểu không hiểu là giới luật của Phật như là phòng hộ sáu căn, mắt, tai, mũi, miệng của mình, hay hoặc không hiểu là nuôi chánh mạng.

Nuôi chánh mạng gì mà ăn phi thời, phải không? Do đó ở trong cái tám nẻo thì Chánh Mạng nè, rồi Chánh Nghiệp nè, phải không? Mà bây giờ Chánh Mạng mà mình ăn phi thời thì tức là nuôi chánh mạng đâu, là tà mạng chớ! Do đó nó không đúng rồi.

Vì vậy đó không phải là giới sao? Nhưng mà người ta đâu có cấm mình ăn, người ta đâu có dạy mình là giới phải ăn Ngọ, ăn một bữa thôi, người ta đâu có nói như vậy, đâu có nói rõ ra. Nhưng khi mình nuôi chánh mạng thì ai ăn phi thời?

Đó thì chúng ta mới hiểu được cái giới kinh, cái giới mà ở trong pháp đó là cái giới hành, nó rất là vi diệu và nó đưa chúng ta đến cái ly dục, ly bất thiện pháp rất là rõ ràng.

Vì đời sau không hiểu cho nên mới có cái giới bổn ra đời mà thôi, chớ còn hiểu được như là 13 năm trước các vị Tỳ Kheo đó hiểu thì cần gì phải giới bổn ra đời làm gì? Người ta chỉ giới hành là người ta đủ giải thoát rồi!

Người nào sống đúng giới hạnh mà tu tập giới hành thì có kết quả ngay trong sự giải thoát hiện tiền.

3- PHÂN LOẠI TỲ KHEO THEO GIỚI BỔN

(58:26) Vì không hiểu giới luật là pháp môn cứu cánh giải thoát cho con người nên các tổ giới luật chia làm mười một thứ Tỳ Kheo.

Bởi vì một Tỳ Kheo là Tỳ Kheo giải thoát thôi, còn bây giờ chia ra làm mười một Tỳ Kheo lận chớ không phải là một thứ Tỳ Kheo!

Vậy thì Thầy sẽ đọc cho các tổ chia làm mười một loại Tỳ Kheo đây. Đây là về phần:

A.

1. Tỳ Kheo ăn xin;

Nghĩa là thấy Tỳ Kheo mà đi xin ở ngoài đường, họ ăn xin chớ chưa hẳn đã là giới luật đâu, cho nên họ phân ra đó. Bởi vì họ đi như vậy chớ chưa hẳn họ đã là một cái người ly dục đâu, cho nên chưa chắc Tỳ Kheo ăn xin đó là ly đâu.

2. Tỳ Kheo trì y hoại sắc;

Nghĩa là giữ cái y phấn tảo đó, cái y mà cắt rọc ra từng miếng nhỏ đó, lượm y đó, thì Tỳ Kheo mà giữ cái y như vậy cũng chưa chắc đã hoàn toàn là giữ gìn giới luật hết, chưa chắc đã là ly dục hết.

3. Tỳ Kheo phá ác;

4.Tỳ Kheo như thật;

Nghĩa là Tỳ Kheo không nói láo đó.

5. Tỳ Kheo kiên cố;

6. Tỳ Kheo thấy lỗi;

7. Tỳ Kheo do một lời thọ giới;

8. Tỳ Kheo do hai lời thọ giới;

9. Tỳ Kheo do ba lời thọ giới;

10. Tỳ Kheo thiện lai;

11. Tỳ Kheo đúng như pháp bạch Tứ Yết Ma thọ giới.

(01:00:03) Đó ở đây chúng ta thấy cái Tỳ Kheo xin ăn là bây giờ chúng ta không có cần bạch Tứ Yết Ma hay hoặc thọ giới Tỳ Kheo gì hết, chúng ta chỉ cần may cái bộ y như Thầy vầy, cầm cái bát, rồi tới giờ đi ra ngoài chợ để xin ăn rồi về cái ăn, rồi, đó là mình cũng là Tỳ Kheo rồi, đó là cái thứ nhất, mà cũng chẳng cần biết giới luật gì hết.

Rồi bây giờ đó, mình muốn làm cái khổ hạnh chơi thì mình coi vải vụn ở đâu đó mình lượm rồi mình nối lại, mình làm cái y như thế này, miếng nhỏ miếng lớn vầy cái mình vắt lên, mình đắp mình đi ra, thì cái vị Tỳ Kheo đó gọi là Tỳ Kheo hoại sắc - mặc cái y áo phấn tảo đó.

Đó là vị Tỳ Kheo thứ hai, chẳng có cần biết là tu tập tới cái gì cũng chẳng cần biết, mà chỉ cần cái hoại sắc đó là đủ rồi, cái hình tướng của mình như vậy đủ rồi.

Cái vị Tỳ Kheo thứ ba là phá ác. Phá ác đây là cái vị Tỳ Kheo mới là - mình mới thấy là cái chỗ này, mà có cái Tỳ Kheo mà đặt cái chỗ này mình mới thấy. Phá ác tức là ác pháp, mà còn dục thì tức là còn ác, cho nên cái chỗ này mới ly dục, ly bất thiện pháp nè. Cái vị Tỳ Kheo này là cái vị Tỳ Kheo ngay ở trong giới luật mà thực hiện chớ không phải là ngay các pháp bạch Tứ Yết Ma để mà thọ cụ túc.

Đó cho nên cái Tỳ Kheo này là cái Tỳ Kheo phá ác, tức là dứt các pháp ác, ly dục ly ác pháp, đây Tỳ Kheo thứ ba này là Tỳ Kheo có thể nói rằng họ không cần phải cái mặt đi xin, họ cũng không cần phải mặc y mà miếng rách miếng lành, nhưng mà họ luôn luôn lúc nào họ cũng thực hiện tu tập ly dục, ly bất thiện pháp đó, đó là cái Tỳ Kheo xứng đáng nhất.

Và Tỳ Kheo mà như thật là không có nói dối đó, thì nó chỉ có một phần nhỏ thôi, không có cái gì đáng hết.

Tỳ Kheo kiên cố, nghĩa là mình giữ những cái oai nghi tế hạnh của mình không có cho sai phạm một cái gì hết, nhưng mà không có biết cái pháp thiện pháp ác thì cái sự kiên cố đó - chẳng hạn là như bây giờ trong cái oai nghi tế hạnh của một vị Tỳ Kheo phải như thế nào, thế nào, họ làm đúng như vậy, nhưng mà cái tâm họ không có ly được. thì cái Tỳ Kheo đó nó cũng chỉ là cái hình thức kiên cố mà thôi.

Thứ sáu: Tỳ Kheo thấy lỗi - thấy cái lỗi của mình để mà sửa đó, thì cái vị Tỳ Kheo này cũng khá, nếu mà thấy lỗi tức là thấy pháp ác.

Tỳ Kheo do một lời mà thọ giới: Khi mà Đức Phật - thường ngày xưa Đức Phật thuyết hoặc nói một cái lời nào đó thì người ta xin quy y Phật - Pháp - Tăng đó, xin thọ Tỳ Kheo đó, thì cái vị Tỳ Kheo đó chỉ một lời đó họ đã thành Tỳ Kheo.

Còn cái vị Tỳ Kheo do hai lời họ mới thành Tỳ Kheo, vị Tỳ Kheo do ba lời họ mới thành Tỳ Kheo, thì thí dụ như thế nào, một lời như thế nào? Khi nghe một cái bài pháp đó rồi thì vị Tỳ Kheo đó nói lên một cái lời nói của mình: “Con xin thọ giới Tỳ Kheo, thọ Phật - Pháp - Tăng để làm một vị Tỳ Kheo do Đức Phật hướng dẫn!” Thì nói một lời đó, đó là Tỳ Kheo một lời.

Thứ tám: Tỳ Kheo mà hai lời, thì vị này nói lên lời thứ nhất thì Đức Phật chưa chấp nhận, cho nên vị ta nói lần thứ hai thì Đức Phật đã chấp nhận, vì vậy đó là Tỳ Kheo hai lời.

Tỳ Kheo ba lời thì vị này nói ba lần Đức Phật mới chấp nhận, do đó là Tỳ Kheo ba lần.

(01:03:16) Rồi thứ mười là vị Tỳ Kheo thiện lai. Thiện lai là cái người đó nghe pháp rồi râu tóc tự nó rụng ra hết, rồi tự y áo nó ở đâu nó bay đến nó đắp vô trong mình của vị đó đó, thì Đức Phật gọi là thiện lai Tỳ Kheo. Cho nên cái vị Tỳ Kheo thiện lai này đó là cái quả - tức là vị A La Hán chớ không phải là vị tầm thường.

Còn hiện giờ chúng ta mà Tỳ Kheo đó, Tỳ Kheo của chúng ta hiện giờ là cái Tỳ Kheo thứ mười mười một này nó không phải như là các loại Tỳ Kheo trên, mà là Tỳ Kheo của cái đời của chúng ta, là Tỳ Kheo đúng như pháp bạch Tứ Yết Ma rồi thọ giới.

Hiện giờ ai mà không có thọ Tỳ Kheo thì coi như là không có là Tỳ Kheo được. Cho nên cái mười một này ở trong giới nó nói rằng Tỳ Kheo phải bạch Tứ Yết Ma rồi mới thọ giới thì mới là Tỳ Kheo.

Chớ còn làm như trước thì không được, một lời, hai lời, ba lời thì không được, mà thiện lai Tỳ Kheo thì không được, vì chúng ta không phải là chứng quả A La Hán được. Còn nói về phá ác thì chúng ta cũng không có làm được, nói là một lẽ nhưng mà chúng ta hiện bây giờ chưa có vị Tỳ Kheo nào phá ác.

Rồi có những cái vị Tỳ Kheo đi xin ăn, có những Tỳ Kheo mặc y hoại sắc, nhưng mà nó cũng không có thể chấp nhận được là những vị Tỳ Kheo đó. Bây giờ cái thằng nó đi lường gạt người ta nó cũng kiếm cái y như Thầy, rồi nó cũng đắp nó vô đi xin thì cũng nói là Tỳ Kheo chớ sao? Đó là cái vấn đề đó, cho nên không có chấp nhận nó được.

B. Căn Bản Tát Bà Đa Bộ Luật Nhiếp…​

Nhiếp phục này, thì:

…​ có mười thứ Tỳ Kheo:

Ở đây về cái bản B thì ở trong cái kinh giới này nó cho rằng có mười thứ Tỳ Kheo:

1. Tỳ Kheo không có thầy;

Đó, thứ nhất là Tỳ Kheo không có thầy, tự mình tu cũng như là Bích Chi Phật hay hoặc là những bậc Độc Giác Phật đó, Tỳ Kheo mà không có thầy.

2. Tỳ Kheo chứng trí;

Chứng trí tức là cái trí tuệ giải thoát của mình thì đó là Tỳ Kheo thứ hai là chứng trí.

3. Tỳ Kheo vấn tấn;

Vấn tấn là sau khi mà hỏi một cái pháp gì đó mà được Đức Phật trả lời xong thì trở thành một vị Tỳ Kheo gọi là Tỳ Kheo vấn tấn.

4. Tỳ Kheo quy y;

Khi mà quy y Phật rồi, quy y Tam Bảo rồi thì cái vị này trở thành Tỳ Kheo liền, chớ không phải là mình như quy y Phật rồi phải là thọ Ngũ Giới rồi thọ Thập Giới đồ, nó đi lần lượt như vậy là các pháp Yết Ma rồi, Tỳ Kheo đúng như pháp tác bạch Yết Ma rồi, còn cái này mình quy y rồi là Tỳ Kheo rồi.

5. Tỳ Kheo năm vị luật sư truyền thọ giới;

Nghĩa là mình trở thành một vị Tỳ Kheo là nơi biên cương, nó ít thầy, ít luật, cho nên ít người, cho nên chỉ có năm người họ tam sư nhị chứng đó, họ cũng truyền giới thọ cụ túc của mình cũng được nữa. Đó gọi là Tỳ Kheo năm vị luật sư.

(01:06:11)

6. Tỳ Kheo mười vị luật sư truyền thọ giới;

Thường thường là các cái giới đàn để mà thọ Tỳ Kheo đó thì nó phải mười vị, tam sư thất chứng đó, để truyền thọ cụ túc đó, thì đó gọi là Tỳ Kheo mười vị luật sư.

7. Tỳ Kheo thọ kinh pháp;

Khi mà mình hiểu được, thọ được các kinh pháp dạy thì mình trở thành Tỳ Kheo, thì không phải do mười vị, do năm vị này mà thọ giới cho mình, mà mình hiểu kinh pháp rồi đó mình cạo tóc rồi mình mặc y pháp, rồi mình chấp nhận cái giới luật của Phật, mình trở thành vị Tỳ Kheo.

8. Tỳ Kheo khiển sứ;

Thí dụ như mình muốn làm Tỳ Kheo, mình sai cái người nào đó đến xin với một cái vị nào để cho mình được làm Tỳ Kheo, thì cái người sứ đến đó xin với một vị Hòa thượng hay vị ai đó, vị Hòa thượng chấp nhận thì đương nhiên mình ở đây là mình đã Tỳ Kheo.

9. Tỳ Kheo hai chúng;

Có hai người chứng nhận cho nhau thì họ vẫn làm được Tỳ Kheo.

10. Tỳ Kheo thiện lai.

Tức là cái bậc A La Hán. Cho nên ở trong cái kinh này, cái bộ giới luật này - Căn Bản Tát Bà Đa đó, thì cái bộ này nó cho có mười cái dạng Tỳ Kheo như vậy, còn kinh hồi nãy ở trên kinh giới kia thì nó cho là mười một cái vị Tỳ Kheo…​ (Mất tiếng)

(C. Thập Tụng Luật ) có mười pháp thọ cụ túc:

1. Thọ cụ túc mà không thầy;

Một là thọ cụ túc mà không thầy. Hai là:

2. Năm thầy Tỳ Kheo đắc đạo;

Nghĩa là mình thọ cụ túc với năm thầy Tỳ Kheo đã đắc đạo. Ba là:

3. Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp tự thệ liền đắc cụ túc giới;

Đó là cái đắc cụ túc, tức là có mười thọ cụ túc, cho nên mình tự thệ nguyện là mình đã thọ cụ túc giới rồi, mình thọ nguyện mình giữ gìn cái giới luật nghiêm chỉnh như ngài trưởng lão Ma Ha Ca Diếp, ngài tự thệ liền đắc cụ túc giới rồi.

4. Ông Tô Đà tùy thuận đáp;

Ông tùy thuận đáp mà qua những cái lời thưa hỏi thì ông cũng đã đắc cụ túc giới rồi.

5. Năm thầy truyền giới;

Năm người mà truyền giới thì mình cũng đắc cụ túc giới rồi;

6. Thầy Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề thọ Bát Kỉnh, đắc cụ túc giới;

Nghĩa là cái bên ni người ta lấy Bát Kỉnh Pháp người ta thọ thì người ta cũng đắc cụ túc giới.

7. Bán Ca Thi Na sai sứ được thọ cụ túc;

Nghĩa là sai sứ đến xin, sai cái người đến xin cho mình thọ cụ túc, thì cái người đó đến xin thì ngay đó là mình đã thọ cụ túc được rồi.

8. Thiện lai;

9. Quy mạng Tam Bảo;

(01:09:01) Nghĩa là mình quy mạng Tam Bảo là mình cũng thọ cụ túc rồi.

10. Bạch Tứ Yết Ma.

Nghĩa là phải có mười vị hay năm vị để bạch Tứ Yết Ma để rồi các vị truyền thọ giới của mình thì cũng thọ cụ túc giới.

D. (Kinh) Tỳ Ni Mẫu có 5 pháp thọ cụ túc:

1. Thiện lai Tỳ Kheo;

2. Tam Quy;

3. Bạch Tứ Yết Ma;

4. Bát Kỉnh Pháp;

5. Thọ cụ túc bậc thượng, nghe pháp mà đắc quả A La Hán.

Sáu là:

E. Tứ Phần Luật có 8 thứ Tỳ Kheo:

Ở trong Tứ Phần Luật thì nó có dạy có 8 thứ Tỳ Kheo:

1. Danh tự Tỳ Kheo;

Danh tự là cái tên gọi Tỳ Kheo, nó không có cái nghĩa gì hết.

2. Tương tự Tỳ Kheo;

Nghĩa là cái hình thức mình giống Tỳ Kheo.

3. Tự xưng Tỳ Kheo;

4. Thiện lai Tỳ Kheo;

5. Khất cầu Tỳ Kheo;

6. Tỳ Kheo mặc y cắt rọc;

7. Tỳ Kheo chứng quả A La Hán;

8. Tỳ Kheo bạch Tứ Yết Ma.

Ở đây có thể quy nạp làm 10 loại Tỳ Kheo:

Cho nên tất cả những cái Tỳ Kheo, cái người mà tu hành của đạo Phật nó chia làm nhiều cái loại Tỳ Kheo như vậy đó là do bị cái kinh giới đó, chứ sự thật ra Thầy thấy có một loại Tỳ Kheo là ly dục ly ác pháp thôi, còn không có cái loại Tỳ Kheo nào mà bằng cách này bằng cách khác được hết.

Ở đây thì nó đặt ra cho nhiều chớ còn thiệt ra đúng đạo Phật là chúng ta ly dục ly ác pháp là Tỳ Kheo đó là Tỳ Kheo chân chính nhất.

Còn cái Tỳ Kheo mà chứng quả A La Hán thì đó là chúng ta phải nói rằng cái đó là bịa thôi. Một người phàm phu mà muốn thành cái vị A La Hán tức là chúng ta phải ly dục, ly bất thiện pháp à, chớ không thể nào mà chúng ta ly rồi mà chúng ta còn là một cái vị tu sĩ nữa mà gọi là A La Hán được. Cho nên khi mà chứng quả A La Hán tức là chúng ta phải ly dục, ly bất thiện pháp rồi chúng ta mới chứng quả A La Hán.

Ở đây có thể quy nạp được làm 10 loại Tỳ Kheo nữa:

Một, Tỳ Kheo:

1. Không có thầy;

2. Một lời;

3. Hai lời;

4. Ba lời;

5. Phá kiết sử;

6. Tự thệ;

7. Thiện lai;

8. Vấn tấn;

9. Luận đáp;

10. Bạch Tứ Yết Ma;

Thì nó cũng nhai đi nhai lại ở trên kia chớ cũng không có cái gì mới mẻ hết. Nghĩa là luật này rồi luật kia nó cũng thêm thắt vào chỗ này chỗ kia nó đổi qua đổi lại, chớ Thầy thấy hoàn toàn là nó cũng chỉ một số Tỳ Kheo như vậy thôi chớ không có gì.

Riêng Thầy, Thầy nói chỉ có Tỳ Kheo ly dục, ly bất thiện pháp mới chính là đệ tử của Phật, còn những cái loại này đều là hình tướng mà thôi, cho nên nói là thế này thế khác đều là cái hình tướng chớ không có cái gì khác hơn hết.

(01:11:49) Suốt cuộc đời của Đức Phật, Ngài độ bao nhiêu Thiện lai Tỳ Kheo?

Các vị đại đệ tử được Đức Phật độ ở thời kỳ đầu tiên đều là Thiện lai Tỳ Kheo như: 5 người trong nhóm 5 anh em Kiều Trần Như, 30 người trong nhóm ông Mẫn Từ Tử, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp và 500 đệ tử, Dà Da Ca Diếp và 200 đệ tử, Ưu Ba Tư Na và 250 đệ tử, Đại Mục Kiền Liên và 250 đệ tử, con cháu dòng vương thất Thích Ca 500 người, nhóm ông Bạt Độ Đế 500 người, nhóm quần tặc 500 người.

Tư liệu này thấy trong Ma Ha Tăng Kỳ Luật.

Nghĩa là trong cái bộ luật Ma Ha Tăng Kỳ Luật thì nó ghi ra một cái số người mà theo Đức Phật trong cái thời đó gọi là Thiện lai Tỳ Kheo đó, nghĩa là không có lập cái giới đàn, không có bạch Tứ Yết Ma, không có làm các pháp Yết Ma.

Do đây đủ thấy Thiện lai Tỳ Kheo ở trong Tăng đoàn đương thời là giai tầng lãnh đạo, cũng là thành phần chủ yếu.

Tỳ Kheo bạch Tứ Yết Ma thọ cụ túc giới là sau này. Bạch Tứ Yết Ma có nghĩa là một phen báo cáo, ba phen trưng cầu.

Ý kiến đó, trưng cầu mọi người đó, một phen mình báo cáo, rồi cái sự trưng cầu ý kiến có cái sự im lặng chấp nhận thì như vậy mới thành phép Yết Ma.

Trong mười người chỉ có một người phản đối thì không thành Yết Ma.

Nghĩa là người ta không chấp nhận. Cho nên đây là cái sự trưng cầu ý kiến, mà ý kiến đồng thì các pháp Yết Ma coi như là mình báo cáo lên cái điều đó mà mọi người đồng ý thì tức là mình sẽ thành tựu được các pháp đó.

4- PHÂN BIỆT GIỚI VÀ LUẬT, CHỈ TRÌ VÀ TÁC TRÌ

(01:13:41) Chỉ trì và tác trì.

Giới luật là tiếng gọi chung của hai thứ loại biệt. Nói theo nghĩa rộng, Tỳ Kheo giới cũng bao quát Tỳ Kheo luật. Nói theo nghĩa hẹp, giới là giới, luật là luật, trong luật có bao hàm giới, nhưng trong giới không có bao hàm luật.

Luật bao gồm có cả chỉ trì và tác trì, còn giới thì chỉ có chỉ trì không có tác trì. Vì thế trì luật bao hàm trì giới, trì giới không bao hàm trì luật. Trì luật là việc cộng đồng của đại chúng trong Tăng đoàn, còn trì giới là việc của mỗi cá nhân.

Trì giới gọi là chỉ trì, chỉ trì tức là không làm ác pháp. Trì luật gọi là tác trì, tác trì là làm việc thiện.

Giới tướng gọi là chỉ trì, quy định các pháp Yết Ma là tác trì.

Trong sinh hoạt cá nhân lấy giới làm chủ yếu, cá nhân muốn giải thoát sanh tử cần phải trì giới. Phật giáo muốn tồn tại tốt đẹp lâu dài cần phải trì luật. Một vị Tỳ Kheo chân chánh không thể không trì giới. Một Tăng đoàn có thể triển vọng không thể không trì luật.

Tỳ Kheo giới và Tỳ Kheo Ni giới thông thường phân làm ngũ thiên, thất tụ. Ngũ thiên là 5 thứ tội hạnh, thất tụ là 7 hạng tội danh.

Đến đây là phần thông hiểu phận sự của giới và luật, chỉ trì và tác trì.

Bây giờ quý thầy trở về giới bổn Patimokkha. Hôm trước thầy đã giảng dạy giới thứ nhất, bây giờ thì chúng ta sẽ học đến giới thứ hai tiếp tục. Nhưng bây giờ đã hết giờ, chúng ta sẽ nghỉ.

5- KINH THẬP THƯỢNG, PHẦN HAI PHÁP - PHẦN 2

[Phần 1 ở Giáo án 34]

5.1- GIẢNG VỀ GIỚI LUẬT CẦN LINH ĐỘNG, KHÉO LÉO

(01:15:34) Chúng ta sẽ tiếp tục vào cái đoạn băng thứ 33 trong 20 cái pháp cần phải hiểu biết để trên bước đường trau dồi cũng như là tu tập về cái giới hành của chúng ta sau này, nếu mà không học bây giờ, tới chừng mà chuyên vào cái giới hành thì chúng ta sẽ quên mất đi những cái điều cần thiết mà chúng ta phải chuẩn bị trước khi chúng ta học vào cái giới hành.

Thì hôm nay thầy xin nhắc lại là để chúng ta biết rằng, vì có cái sự gián đoạn ở trong những cái đoạn băng, nhưng Thầy muốn nhận vào cho nó toàn bộ cho nó được đầy đủ ở trong cái giáo án tu tập, nó không có phí bỏ và cũng không khuyết.

Cho nên nhiều khi chúng ta nghe qua cái đoạn này rồi đến cái đoạn kia rồi chúng ta sẽ trở lại cái đoạn nọ. Như vậy cũng là có cái lợi ích là giúp cho chúng ta không chán khi mà chúng ta nghe mãi một cái pháp nào, mà chúng ta thường có sự thay đổi từ cái giải thích các pháp này rồi chúng ta chuyển qua một cái pháp khác để chúng ta thấy nó có những cái mới mẻ và có cái thích thú hơn.

Nếu mà giảng giới luật mà cứ đem cái giới luật mà giảng khô khan thì Thầy thấy nó đâm ra rất chán, và cái người mà biết giảng giới luật làm sao cho cái giới luật nó linh động, nó khéo léo mà người ta nghe người ta thích. Còn giảng giới luật gì mà nhìn xuống cái số tu sĩ nghe giới luật nó ngồi nó ngủ hết ráo thì cái đó nó không còn hay ho gì nữa hết.

Cho nên ở đây Thầy đã hiểu cái tâm lý của cái người mà nghe giới luật thì hầu như là phải giảng giới luật phải sống động, phải làm cho người ta thấy được cái giới luật là một cái pháp môn đưa con người đi đến cái chỗ giải thoát, chớ không phải là cái pháp môn trói buộc người ta sống một cuộc sống quá khắc khổ, quá khổ hạnh, làm cho người ta không thể nào sống được ở trong giới luật của Đức Phật.

Vì chỉ có giới luật của Đức Phật là nhiều nhất, không có một cái tôn giáo nào nhiều như giới luật của Phật. Và phải nói rằng từ 3 cái giới đầu tiên như Tam Quy cho đến giới bổn 348 giới của Tỳ Kheo Ni, và tất cả các hành pháp ở trong đạo Phật, giáo lý của đạo Phật đều là phải nói bằng giới luật.

Là vì Đức Phật cũng có dạy cho chúng ta biết rằng - Đức Phật dạy từ cái Sơ Thiện, Trung Thiện và Hậu Thiện, mà Sơ Thiện, Trung Thiện và Hậu Thiện tức là giới luật của Phật, mà giới luật của Phật tức là thiện pháp.

5.2- HAI PHÁP CẦN PHẢI TU TẬP: CHỈ VÀ QUÁN - PHẦN 2

(01:18:14) Bây giờ Thầy xin tiếp tục để chúng ta biết rằng có hai cái pháp mà cần phải tu tập đó là chỉ và quán.

Vậy chỉ là chúng ta phải nương vào cái hơi thở để mà chỉ, chớ không thể nào mà chúng ta muốn chỉ mà không nương vào hơi thở thì rất là rất khó chỉ.

Như đầu tiên Đức Phật dạy muốn nhập Sơ Thiền thì chúng ta phải tịnh chỉ ngôn ngữ. Nghĩa là cái người mà tu tập muốn nhập Sơ Thiền thì không được nói chuyện, tịnh chỉ ngôn ngữ là không được nói chuyện.

Do đó nhờ cái không nói chuyện nó mới cắt ly được cái duyên, mọi chướng duyên, mọi pháp, làm cho tâm của chúng ta nó mới ly dục ly ác pháp được. Do ly dục ly ác pháp đó mà chúng ta mới nhập được Sơ Thiền. Như vậy muốn nhập Sơ Thiền thì chúng ta phải chỉ - tịnh chỉ cái ngôn ngữ.

Mà muốn nhập Nhị Thiền thì phải tịnh chỉ Tầm Tứ. Vậy thì muốn tịnh chỉ Tầm Tứ thì không thể nào mà chúng ta thở cái hơi thở bình thường như thế này mà Tầm Tứ chúng ta tịnh chỉ được, do đó chúng ta phải đi vào cái lộ trình của hơi thở.

Từ cái hơi thở bình thường chúng ta phải hướng tâm chúng ta phải nhắc nó: “Hơi thở phải chậm và nhẹ nữa!” Và cứ thở chậm và nhẹ với cái sức của chúng ta chớ không được ráng, vì ráng chậm và nhẹ quá sức thì bị rối loạn cơ thể sanh bệnh, còn thở với cái độ chậm nhẹ vừa với sức của mình, cơ thể không rối loạn.

Và dùng pháp hướng nhắc đi nhắc lại, thì do đó chúng ta sẽ tịnh chỉ được Tầm Tứ, do cái hơi thở chậm nhẹ mà tịnh chỉ được Tầm Tứ. Vì cái độ chậm nhẹ của nó làm cho các hành trong thân của chúng ta không còn hoạt động bình thường, cho nên Tầm Tứ tịnh chỉ. Chớ không phải ngồi đó mà tịnh chỉ Tầm Tứ được, mà phải dùng cái hơi thở chậm nhẹ mới tịnh chỉ Tầm Tứ.

Như vậy là quý thầy mới rõ được con đường tu tập của đạo Phật rất là cụ thể. Cho nên Phật nói muốn nhập Nhị Thiền thì “định niệm hơi thở vô, hơi thở ra chúng ta cần phải khéo tác ý” - thì tức là Đức Phật dạy chúng ta phải dùng cái hơi thở để mà chúng ta mới tịnh chỉ được Tầm Tứ.

Thậm chí như đến cái thiền Tam Thiền ly hỷ, tức là ly mười tám cái trạng thái của hỷ, thì Đức Phật cũng dạy chúng ta phải “định niệm hơi thở vô, hơi thở ra cần phải khéo tác ý”. Cần phải khéo tác ý tức là điều khiển hay hướng tâm làm cho nó chậm nhẹ cho nên nó mới ly ra được. Nó chậm nhẹ đến cái mức độ, nó tỉnh đến độ nó không còn ngủ nữa, nó không còn chiêm bao nữa thì nó mới ly tất cả các trạng thái hỷ.

Bởi vì hỷ là cái nỗi vui, mà khi có một trạng thái gì mà làm chúng ta thích thú ở trong sự tu tập thiền thì chúng ta thấy thích thú. Do sự thích thú đó nó làm chúng ta vui mừng, như thấy hào quang, như thấy ánh sáng, đó là những cái trạng thái - điều đó là điều sai, nó thuộc về trạng thái của 18 cái loại tưởng, chớ không phải 8 cái loại tưởng mà 18 cái loại tưởng.

Do chính mà chúng ta thấy khi mà chúng ta ly tất cả các hỷ hết thì chiêm bao chúng ta không còn có nữa, và cái sức tỉnh thức của cái người đó nó phải cao độ đến cái mức độ mà người ta ngủ mà người ta tỉnh thức, người ta không còn mê cho nên nó không còn mộng, mà không còn mộng tức là ly tất cả các trạng thái hỷ. Vì vậy Phật gọi là “ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền”.

(01:21:38) Đó quý thầy thầy rất rõ. Và đến khi Đức Phật bảo chúng ta là muốn nhập Tứ Thiền thì phải tịnh chỉ hơi thở. Vậy chỉ hơi thở là làm sao đây? Nó phải chậm cho đến mức độ nó ngưng. Còn bây giờ như thở bình thường mình bảo nó ngưng nó ngưng được không?

Cho nên quý thầy thấy cái vấn đề mà người ta ngồi thiền mà cứ thở phì phèo như cái ống bễ như vậy đó mà bảo nhập định như vậy thì nhập định làm sao được?

Đó cho nên chỉ ở đây - Đức Phật dạy cái pháp mà chúng ta cần phải tu tập đó là chỉ và quán. Ở đây Thầy mới dạy cho quý thầy cái chỉ để chúng ta thấy trên cái lộ trình của hơi thở là chúng ta mới chỉ để nhập bốn thiền của Phật, từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền.

Thậm trí như Diệt Thọ Tưởng Định cũng phải dùng hơi thở để mà chỉ cái ý hành của chúng ta. Mà ý hành Phật đã xác định cho chúng ta biết đó là thọ và tưởng của chúng ta phải ngưng hoàn toàn, mà thọ và tưởng mà ngưng thì cái ý căn chúng ta hoàn toàn phải ngưng.

Bởi vì ý căn của chúng ta là cái bộ óc, mà bộ óc còn hoạt động thì lúc bấy giờ chỉ có cái hành, cái thân hành của chúng ta ngưng là hơi thở ngưng, các hoạt động của hơi thở ngưng, chớ còn cái ý căn của chúng ta còn thở, còn hoạt động - chớ không phải thở mà nó còn hoạt động - thì tức là chúng ta chưa nhập Diệt Thọ Tưởng Định, mà cái ý căn của chúng ta ngưng hoàn toàn thì lúc bấy giờ chúng ta mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định.

Cho nên Phật xác định khi chúng ta nương vào hơi thở để mà chúng ta hướng tâm để tịnh chỉ cái ý hành của chúng ta - tức là cái ý căn của chúng ta - ngưng hoạt động, thì thọ và tưởng sẽ hoàn toàn không còn hoạt động nữa, và như vậy là chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định.

Chớ không phải chúng ta vượt qua Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ rồi mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định, nói cái đó là nói cái lý pháp chớ không thể nói cái hành pháp được. Còn ở đây chúng ta nương hơi thở mà chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định, đó là hành pháp.

Vì vậy mà chúng ta biết cái nào là lý pháp và cái nào là hành pháp. Nếu không hiểu được như vậy thì Diệt Thọ Tưởng Định chúng ta chẳng bao giờ mà có thể mà tu tập tới đó được.

Đó thì ở đây Thầy mới dạy cho chúng ta biết chỉ, còn bây giờ quán là như thế nào? Quán là phải động, phải có sự suy tư, phải dùng cái tri kiến, tri kiến giải thoát của chúng ta gọi là quán.

(01:24:02) Vậy sao lại hai cái chỗ này lại ghép nhau, chỉ cần phải tu tập chỉ và quán? Chỉ là im lặng mà quán là động, tại sao hai cái này nó lại như vậy? Cho nên có những người mà không hiểu chỗ này, không hiểu Phật pháp, người ta nói rằng khi mình chỉ, ở trong đó mình vẫn tỉnh táo, mình biết là quán. Đó là cái hiểu của những người chưa có kinh nghiệm tu.

Ở đây Đức Phật muốn nói quán đây là Định Vô Lậu chớ không phải Định Hiện Tại An Lạc Trú. Chỉ để dùng cho Bốn Thiền, nhờ hơi thở để mà chúng ta chỉ để mà chúng ta nhập Tứ Thiền của Phật, từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền. Còn quán ở đây chúng ta tu tập cái Định Vô Lậu làm cho lậu hoặc chúng ta quét sạch ra.

Cho nên bây giờ chúng ta còn chấp cái ngã nè, chúng ta thấy cái thân mình thanh tịnh nè, sạch sẽ nè, không bất tịnh nè, chúng ta phải đặt cái niệm đó rồi chúng ta quán từ ở trên đầu chúng ta xuống tới chân, từ chân đến trên đầu, chúng ta xem coi nó bất tịnh chỗ nào, nó vô thường như thế nào, nó vô ngã như thế nào, đó là chúng ta suy tư.

Cái Định Vô Lậu là cái định dùng cái tri kiến và tri kiến giải thoát để quán xét, để quét sạch cái lậu hoặc, để diệt trọn Ngũ Triền Cái, Thất Kiết Sử, đó là cái quán này là quán để dùng cái Định Vô Lậu chớ không phải dùng cái Bốn Thiền đâu. Bốn Thiền là Hiện Tại An Lạc Trú, còn quán là Định Vô Lậu, cho nên ở đây hai cái này chúng ta cần phải tu tập.

Bởi vì khi chúng ta dùng Định Vô Lậu thì chúng ta mới ly dục ly bất thiện pháp, còn nếu mà chúng ta dùng chỉ không, làm sao chúng ta ly? Nó ngồi im lìm, nó đâu có ly được, cho nên nó nuôi lớn, từ đó không ly dục, ly bất thiện pháp thì tâm không thanh tịnh.

Mà tâm không thanh tịnh thì pháp hướng chúng ta vô hiệu quả. Vô hiệu quả thì chúng ta có chỉ nó cũng không có chỉ được, nó không ngưng được. Mà nó không ngưng được thì làm sao chúng ta nhập Tứ Thiền được?

Đó thì quý thầy phải nói: Cái tâm thanh tịnh do cái Định Vô Lậu, tức là nó ly dục, ly bất thiện pháp, cho nên cái Định Vô Lậu nó giúp chúng ta đầu tiên là chúng ta bước vào nhập Sơ Thiền. Đó thì quý thầy thấy rõ.

(01:26:09) Cho nên ở đây chỉ và quán chúng ta đừng hiểu theo cái lối của những người xưa là trong khi chúng ta ngưng hoạt động không có nghĩ ngợi gì hết mà cái biết chúng ta vẫn còn, không bao giờ có điều kiện đó được.

Là vì hơi thở chúng ta vẫn thở bình thường thì lúc bấy giờ chúng ta chỉ được vọng tưởng tức là Tầm nhưng ý chúng ta vẫn tác ý. Nhưng mà không tác ý thì chúng ta sẽ rơi vào vô ký, chúng ta quên mất, không bao giờ nó đứng yên cho chúng ta ở chỗ tỉnh thức đó đâu mà gọi là quán.

Cho nên cái mà người ta nghĩ ra như vậy gọi là tưởng, vì vậy mà có cái loại thiền định gọi là chỉ quán. Đó, cho nên sau này có những cái pháp môn sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh là người ta chỉ rồi người ta quán đó, là người ta nghĩ rằng trong một cái thời gian, một cái thời điểm mà người ta chỉ được cái vọng tưởng, rồi lúc bấy giờ cái sức tỉnh nó nằm ở đó liên tục, nó không có mất đi đó thì người ta gọi là quán hay là tịch chiếu, đó người ta dùng những danh từ đó.

Nhưng đúng ở trong góc độ của Đạo Phật nó không phải vậy. Người ta vốn người ta muốn đi vào một cái định để mà người ta làm chủ được thân tâm, thì người ta phải đi vào cái định để người ta làm chủ được cái tâm của người ta thanh tịnh, rồi người ta làm chủ mới được cái thân, hai cái nó rõ ràng.

Vì vậy cái chỉ và quán ở đây nó rõ ràng là hai pháp ở trên hai cái thứ định, chớ không phải trong một cái thứ định mà đồng thời một lượt.

Có xác định được như vậy thì chúng ta mới thấy được con đường của Đạo Phật rất cần thiết cho cái sự tu tập cho con người do hai pháp cần thiết phải tu tập.

Cho nên bây giờ mà quý thầy chỉ tu có cái hơi thở không là quý thầy tu không đủ, tức là tu không đúng, mà quý thầy chỉ chuyên về Bốn Thiền không thì quý thầy tu không đúng, là quý thầy chưa có thanh tịnh tâm được.

Quý thầy phải tu quán, tức là dùng Định Vô Lậu, do đó quý thầy đặt niệm trước mặt - ngồi kiết già đặt niệm trước mặt để quý thầy diệt trừ tham ưu của quý thầy, do vì vậy mà lậu hoặc của quý thầy sẽ được quét sạch, tâm quý thầy được ly dục, ly bất thiện pháp.

Đó là hai pháp cần phải tu tập.

Đây là cái phần thứ hai.

5.3- HAI PHÁP CẦN ĐƯỢC BIẾN TRI: DANH VÀ SẮC

(01:28:12) Phần thứ ba:

Thế nào là hai pháp cần được biến tri?

Bây giờ trả lời:

Danh và sắc, đó là hai pháp cần được biến tri.

Thường thường trong Thập Nhị Nhân Duyên có nói Danh và Sắc, vậy danh và sắc là cái gì mà cần phải được hiểu một cách biến tri? Tri tức là phải tri hiểu biết, mà trong danh sắc có nhiều cái sự thay đổi và biến hóa của nó, cho nên chúng ta phải hiểu cho nó rất là rõ ràng.

Ở đây là cái chỗ mà Đức Phật dạy hai cái pháp này là cái pháp: Những gì chưa thông hiểu cần phải thông hiểu, thì cái chỗ hai pháp này chúng ta phải tìm hiểu danh sắc, chúng ta phải hiểu rất nhiều ở trong danh sắc.

Nếu mà chúng ta không hiểu nó thì chúng ta sẽ bị danh sắc lường gạt chúng ta. Do người ta không hiểu, người ta mới chấp lầm danh sắc là ngã, là thường hằng, là lạc, là thanh tịnh, là thường còn, do đó người ta không chấp danh người ta cũng chấp sắc, không chấp sắc thì người cũng chấp danh.

Trên bước đường tu tập, ở đây sau này Thầy sẽ giảng dạy về cái phần giới hành, thì nói về danh sắc thì Thầy sẽ giảng dạy cho quý thầy hiểu rõ, chớ nếu không chữ danh sắc này thì quý thầy không hiểu rõ.

Danh sắc là thân tâm của quý vị đó, mà hiểu rõ thân tâm của quý vị thế nào là vô thường, thế nào là vô ngã, thế nào là khổ thì Phật đã giảng rất nhiều ở trong kinh rồi, và Thầy cũng dựa vào đó để mà giảng thêm để cho quý thầy hiểu cho rõ.

5.4- HAI PHÁP CẦN PHẢI ĐOẠN TRỪ: VÔ MINH VÀ HỮU ÁI

(01:29:51) Bây giờ đến cái pháp thứ tư:

Thế nào là hai pháp cần phải đoạn trừ?

Hai pháp cần phải đoạn trừ, tức là cái phần mà Đức Phật đã dạy trước kia, chúng ta phải dứt bỏ đó, đoạn trừ tức là dứt bỏ, thì hai cái pháp này cần phải đoạn trừ nó. Vậy thì muốn đoạn trừ nó phải làm sao?

Thế nào là hai pháp cần phải đoạn trừ?

Đức Phật đáp:

Vô minh và hữu ái.

Là hai cái pháp mà chúng ta cần phải đoạn trừ.

Vô minh mà muốn đoạn trừ thì chúng ta phải làm sao? Tức là chúng ta phải minh. Vậy thì muốn đoạn trừ vô minh chúng ta phải dùng cái tri kiến, phải hiểu biết, tức là trau dồi danh và sắc này.

Đó thì muốn phá trừ vô minh thì chúng ta phải trau dồi danh sắc, từ đó chúng ta phải đặt cái niệm của danh sắc để tu cái Định Vô Lậu, từng đó chúng ta mới dùng cái tri kiến giải thoát.

Ở đây Thầy xin nhắc lại quý thầy: Cái tri kiến nó khác. Cái tri kiến là cái nơi mà chúng ta được thầy và Phật dạy cho chúng ta hiểu biết thông suốt được cái lý của đạo, còn cái tri kiến giải thoát là khi mà đặt niệm ở trước mặt chúng ta rồi chúng ta quán xét, tự ở trong đó nó phóng ra có những cái sự hiểu biết làm cho chúng ta thấm được cái lý của đạo, làm chúng ta được cái tâm giải thoát, quét sạch được lậu hoặc, thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát.

Cho nên cái Định Vô Lậu rất cần thiết ở chỗ mà hai pháp mà cần tu tập đó, đó là quán đó. Quán để tri kiến giải thoát phát triển, khai triển cái tri kiến giải thoát.

Cho nên khi mà chúng ta đã phá được vô minh, thì ở đây đoạn trừ vô minh, thì quý thầy phải siêng năng học tập, phải siêng năng tu tập Định Vô Lậu thì như vậy quý thầy mới có được cái tri kiến, và kế đó quý thầy mới có được cái tri kiến giải thoát, từ đó nó mới phá cái vô minh làm cho chúng ta không còn lầm chấp nữa, vì vậy người ta chửi mình mình không giận tức là mình phá được cái ngã chấp.

Và những cái kiến chấp - từ lâu tới giờ chúng ta nghe nói thiền này thiền kia, chúng ta vô minh, chúng ta không hiểu, tưởng nó là đúng, là hay, cho nên chúng ta cứ ôm ấp ở trong đầu chúng ta cái đó là đúng, cho nên vì vậy mà chúng ta lầm, chúng ta không có xả ra được, ai nói cái đúng chúng ta cũng không nghe, ai nói giới luật thì chúng ta cũng không chấp nhận, vì chúng ta thấy rằng chỉ có Phật Tánh là hơn hết.

(01:32:15) Do cái lầm chấp đó mà chúng ta không ngờ rằng chúng ta đã lạc lầm trong 62 lập luận của ngoại đạo vẫn có nói về cái bản thể không sanh không diệt đó chớ không phải không có.

Vì vậy mà cái kiến chấp của chúng ta nó làm chúng ta trở thành vô minh mà không thấy, vì vậy bây giờ chúng ta phải trở về con đường của đạo Phật để được giảng dạy cho chúng ta thông hiểu, làm cho tri kiến chúng ta thông suốt để chúng ta phá đi cái kiến chấp đó. Và phá đi kiến chấp đó thì chúng ta mới có minh chớ không còn vô minh nữa.

Và hữu ái, hữu ái tức là cái lòng ham muốn của mình, cái tâm ái của mình, cái này phải đoạn dứt. Cái lòng ham muốn của mình, bây giờ Thầy thấy cái máy này, khởi cái lòng ham muốn thì thầy biết đây là hữu ái. Hữu là có, có một cái đối tượng nó gợi cho mình ham thích.

Ở đây là cái đồng hồ mà Thầy thấy có cái vật này, Thầy thấy cái vật này vừa ý Thầy, nó khởi khả hỷ khả ái làm cho Thầy thích nó, cho nên cái đó Thầy biết rằng phải đoạn trừ, nếu mình không đoạn trừ thì mình sẽ dính mắc nó, mà mình dính mắc đó thì nó sẽ có sự đau khổ cho chính mình, và lậu hoặc nó sẽ càng ngày càng nhiều, càng lớn lên, nó làm cho đời sống của chúng ta không giải thoát.

Cho nên ở đây hai pháp cần phải đoạn trừ là vô minh và hữu ái. Như vô minh hồi nãy Thầy nói lúc nãy từ cái tri kiến đến tri kiến giải thoát là phải tu tập như thế nào để chúng ta có minh.

Và bây giờ mọi vật mà mắt thấy, tai nghe, tất cả sáu căn chúng ta tiếp xúc sáu trần mà đừng có cho cái hữu ái nó dính vào, thì lúc bấy giờ chúng ta cấm, dứt bỏ cái lòng ham muốn chúng ta với tất cả các pháp, thì ngay đó thì chúng ta sẽ đoạn trừ được, thì như vậy thì chúng ta tu tập rất là dễ dàng, làm cho lậu hoặc của chúng ta mau diệt, và thiền định Tứ Thiền chúng ta mau nhập.

Còn nếu mà chúng ta cứ để hữu ái, cứ dính mắc mình hoài không đoạn trừ nó - những pháp này là những pháp cần phải đoạn trừ, cần phải dứt bỏ, không ai dứt bỏ cho mình được, chỉ có mình hiểu được, thông hiểu được thì mình dứt bỏ nó, mình thấy nó muốn cái gì thì mình không chấp nhận, do đó tự mình phải dứt mà thôi.

Chớ mình ham muốn thì người ta bảo mình đừng ham muốn mình chẳng có nghe đâu, chỉ có mình biết những cái mà nó làm cho mình ham muốn đó là cái đau khổ cho cái cuộc đời của mình, và nó sẽ kéo dài cho cuộc sống này sang cuộc sống khác, luân hồi mãi mãi trên cái lòng ham muốn đó.

Muốn được vậy thì chúng ta phải học hai cái pháp này, siêng năng mà đoạn trừ, lúc nào chúng ta cũng phải tỉnh thức để chúng ta biết lúc này nó muốn cái gì, cái tâm nó tham hay hoặc là tâm sân, tâm ham muốn cái vật gì, thì lúc giờ chúng ta phải đoạn trừ nó liền, không được để cho nó ở trong cái thân tâm của chúng ta.

Đó là hai pháp cần phải đoạn trừ.

5.5- HAI PHÁP CHỊU PHẦN TAI HẠI: ÁC NGÔN VÀ ÁC HỮU

(01:35:04) 5. Thế nào là hai pháp chịu phần tai hại?

Bây giờ hỏi tới hai cái pháp mà luôn luôn lúc nào nó cũng đem đến cái sự tai hại cho chúng ta, thì chúng ta biết hai cái pháp đó để mà chúng ta ngăn ngừa và chúng ta không có cho nó gần gũi, không có cho nó ở gần mình.

Đáp: Ác ngôn và ác hữu, đó là hai pháp chịu phần tai hại.

Ác ngôn là cái gì? Là lời nói dữ, là lời nói ác. Trong ác ngôn thì nó có bốn cái điều kiện ác ngôn mà trong Thập Thiện Thầy đã dạy rồi, thì chúng ta đã biết rồi, vì vậy từ đây về sau chúng ta đừng có gần gũi cái ác ngôn đó nữa, tức là cái miệng đừng có nói cái điều đó nữa.

Ác hữu là những người bạn ác chúng ta không nên gần. Đó là hai cái pháp mà chúng ta phải chịu những cái phần tai hại rất lớn. Nếu chúng ta mở miệng ra ác ngôn thì chúng ta phải chịu tai hại, không thể nào chúng ta tránh khỏi, và chúng ta ở gần người bạn ác thì chúng ta cũng không thể nào mà chúng ta tránh khỏi những cái tai họa, cái đau khổ.

Đó thì hôm nay Thầy nói để Thầy giảng dạy như vậy để chúng ta biết. Thứ nhất là chúng ta cần phải xa lánh hai cái pháp để chúng ta không có chịu phần tai hại, thì đó là ác ngôn và ác hữu.

Mình chọn bạn mà chơi, đừng có chơi những người bạn ác, mình xa lánh những người bạn ác, mình chọn cái ngôn ngữ không có ác chớ đừng có chọn cái ngôn ngữ ác mà nói ra thì nó tai hại cho mình và tai hại cho người.

5.6- HAI PHÁP HƯỚNG ĐẾN THÙ THẮNG: THIỆN NGÔN VÀ THIỆN HỮU

(01:36:35) 6. Hỏi: Thế nào là hai pháp hướng đến thù thắng?

Bây giờ, hai pháp mà hướng đến cho mình được an vui, được hạnh phúc, được yên ổn, được giải thoát đó, mà ở đây Đức Phật dùng là thù thắng.

Đáp: Là thiện ngôn và thiện hữu.

Đó là cái lời nói lành và cái người bạn tốt, thì nó ngược lại như hồi nãy ở trên là ác ngôn và ác hữu.

Thì chúng ta biết rằng những cái lời nói lành nó đem đến cho mình vui và người khác vui, nó đem đến cho mình hạnh phúc, người khác hạnh phúc. Và ở gần người bạn lành thì luôn luôn chúng ta sẽ được hạnh phúc, và được sự an ổn, và cái sự thanh thản tâm hồn, không còn có khổ đau nữa. Còn với người bạn ác thì chúng ta sẽ luôn luôn có những cái đau khổ, có những tai hại.

Đó thì chúng ta học như vậy để chúng ta biết như vậy để mà chúng ta tránh, chúng ta ngừa, chúng ta dứt bỏ.

5.7- HAI PHÁP RẤT KHÓ THỂ NHẬP: NHÂN DUYÊN ÁC NHIỄM VÀ THANH TỊNH

(01:37:28) 7. Hỏi: Thế nào là hai pháp rất khó thể nhập?

Đó thì, bây giờ về câu số bảy thì hỏi thế nào là hai pháp rất là khó nhập?

Đáp: Nhân và duyên làm ác nhiễm các loài hữu tình, nhân và duyên làm thanh tịnh các loài hữu tình, đó là hai pháp rất khó thể nhập.

Nghĩa là cái nhân rồi cái duyên nó đến, nghĩa là bây giờ chúng ta có một cái duyên gì nó đến thì chúng ta tạo cái nhân đó liền.

Mà nếu mà nó là ác nhiễm làm cho các loài hữu tình - tức là tất cả chúng sanh đó - thì cái nhân duyên ác nó sẽ làm cho chúng ta đau khổ. Mà nếu mà chúng ta nhận ra được cái pháp đó thì chúng ta chấm dứt nó đi, không có để cái nhân duyên đó nó tạo ra cái hoàn cảnh để xảy đến cái sự đau khổ cho mình cho người gọi là ác nhiễm các loài hữu tình. Nó làm cho mình đau khổ, làm cho người khác đau khổ tức là nó nhiễm những cái ác đó.

Nhân và duyên làm cho thanh tịnh các loài hữu tình - khi nào mà cái nhân và duyên nào mà nó đến để làm cho nó thành cái thiện pháp, nó làm cho tất cả các loài hữu tình, mình và người được giải thoát đó.

Thì đó là chúng ta phải thấy được hai pháp này mà để chúng ta thể nhập, nó rất khó. Bởi vì nó vừa xảy ra - cái duyên nó xảy ra nó tạo thành cái nhân ác, thì lúc bấy giờ chúng ta sáng suốt chớ không khéo mà không sáng suốt chỗ đó thì ngay đó chúng ta thể nhập vào cái pháp ác liền tức khắc, mà khó mà thể nhập vào cái pháp thiện.

Do đó khi mà nhân duyên ác mà đến với chúng ta mà chúng ta biết thì chúng ta ngay đó chúng ta phải dứt bỏ nó liền, mà không để cho thân tâm chúng ta tạo thành một cái duyên, cái nhân cái quả của nó tiếp diễn do cái duyên đó.

(01:39:22) Cũng như bây giờ Thầy ví dụ như hai cái nhà đó có hai đứa con. Hai đứa bé đó nó mới được người mẹ nó mua cho một trái banh nó chơi, thì một cái thằng nhỏ hàng xóm cũng là người gần bên đó - có một đứa nhỏ nó không có được mẹ nó cho nó trái banh chơi, cho nên nó đứng ra, nó đứng ở cửa nó nhìn. Thì thằng kia đá banh một mình thì cũng buồn, do đó mới gọi nó, bảo: “Mày ra đây chơi banh với tao” - thì hai thằng này nó dẫn banh với nhau.

Trong khi dẫn thì thằng kia nó không có trái banh nhưng mà cái sức nó mạnh hơn, do đó nó giành trái banh nó làm cho thằng kia té đau đi, từ đó cái thằng này mới khóc lên, mới la lên, thì do đó mẹ của cái thằng bé có trái banh này tưởng là thằng bé kia giật trái banh của thằng này, mới ra xỉa xói thằng này mà đánh nó. Do cái nhân duyên đó thì cái bà mẹ này tạo thành cái nhân ác chửi người khác, chửi thằng bé khác.

Nhưng không ngờ là thằng bé nhỏ này nó rủ thằng bé kia chơi chớ không phải là thằng bé này đi vào giật trái banh của nó, nhưng mà khi thấy con mình khóc thì không biết cái đúng cái sai, không có lường được cái chỗ đó, cứ ngỡ rằng thằng nhỏ này thấy trái banh của con mình, mình mua cho nó chơi, thằng này chắc chạy ra giật cho nên đánh thằng nhỏ này khóc, vì vậy mà xói xỉa hay đánh thằng nhỏ này.

Do đó bên nhà kia thì cha mẹ người kia thì cũng bênh con mình, cho nên cũng không hiểu là phải trái như thế nào, do đó hai nhà đều chửi lộn và đánh lộn nhau.

Thì như vậy từ cái chỗ cái duyên ác nó làm cho nhiễm các loài hữu tình, nó trở thành những cuộc ẩu đả như vậy đó, là hai cái pháp mà nó có thể khó thể nhập, làm cho chúng ta không nhập được ở chỗ cái giải thoát.

Cho nên chúng ta phải dè dặt nhân và duyên, luôn luôn lúc nào hễ có duyên thì có nhân theo đó, mà có nhân theo đó tức là có quả. Đây là hai cái pháp dạy chúng ta trên cái lộ trình nhân quả. Mà lộ trình nhân quả này tức là đạo đức giải thoát của đạo Phật.

5.8- HAI PHÁP CẦN ĐƯỢC SANH KHỞI: TẬN TRÍ VÀ VÔ SANH TRÍ

(01:41:24) Hỏi:

Câu 8:

Thế nào là hai pháp cần được sanh khởi?

Bây giờ cái pháp mà chúng ta cần phải tu tập sanh khởi đó thì Đức Phật đáp:

Tận trí và vô sanh trí, đó là hai pháp cần được sanh khởi.

Cái tận trí đây là lậu tận trí, nó làm cho cái trí vô lậu của chúng ta nó phải quét sạch. Và cái vô sanh trí - cái trí mà không có khởi một cái niệm gì hết gọi là vô sanh trí. Thì hai cái pháp này cần phải được sanh khởi, mà sanh khởi thì quá trình tu tập chúng ta ghê gớm lắm.

Lậu tận trí hay là Lậu Tận Minh, thì chúng ta thấy rằng mà con đường Giới - Định - Tuệ của Phật, Gới - Định - Tuệ cho đến khi mà tuệ Tam Minh thực hiện thì mới có lậu tận trí, tức là Lậu Tận Minh.

Còn vô sanh trí tức là cái trí thiền định của chúng ta, nó không có khởi một cái niệm gì cả hết mới gọi là vô sanh trí, hay là bất động tâm giải thoát, đó là vô sanh trí.

Cho nên hai cái trí này cần phải được sanh khởi, cần phải được làm cho nó sống, làm cho nó khởi lên. Bây giờ nó chìm lịm, trong chúng ta hiện giờ chưa có người nào có lậu tận trí và vô sanh trí hết, cho nên bây giờ hai cái pháp này cần phải chúng ta khơi nó dậy, làm cho nó được sanh khởi lên. Vậy thì trên bước đường tu tập chúng ta phải tu cái gì trước, tu cái gì sau để đến đó chúng ta mới khởi nó dậy được.

Đó là hai pháp cần phải được sanh khởi.

5.9- HAI PHÁP CẦN ĐƯỢC THẮNG TRI: HỮU VI GIỚI VÀ VÔ VI GIỚI

(01:42:55) 9. Thế nào là hai pháp cần được thắng tri?

Đó, thì bây giờ thắng tri tức là cái trí chúng ta phải hiểu thế nào để làm chủ được cái cuộc sống của chúng ta. Cái cuộc sống của chúng ta thì nó như thế nào?

Ở đây đáp có hai giới:

Hữu vi giới và vô vi giới.

Đó, chúng ta phải làm chủ được cái hữu vi giới và vô vi giới, tức là hai cái pháp đó là chúng ta cần phải thắng tri nó.

Thì hữu vi giới là cái gì mà có hình sắc, có hình tướng thì cái đó gọi là hữu vi giới. Còn cái vô vi giới là cái phần mà vô hình tướng, vô sắc thì cái đó gọi là vô vi giới.

Thì ở đây chúng ta thấy rất rõ là hữu vi giới do cái sắc thân của chúng ta và các pháp có hình tướng, và vô vi giới do tưởng của chúng ta - sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Một khi mà chúng ta nằm ở trong giấc mộng thì những cái hình sắc mà chúng ta thấy đều thuộc về vô vi giới. Còn cái mà hiện tiền đối với cái thân của chúng ta, đối xúc với các vật mà chúng ta thấy, đó là hữu vi giới.

(01:44:23) Do cái chỗ mà chúng ta tu tập hai cái pháp này để chúng ta được cái thắng tri, làm chủ được hai cái này.

Thí dụ như bây giờ chúng ta diệt Tầm Tứ nhập Nhị Thiền, thì lúc bấy giờ chúng ta mới là tịnh chỉ được hữu vi giới, còn vô vi giới thì chúng ta phải đi tới một cái giai đoạn nữa là ly hỷ, trú xả nhập Tam Thiền, lúc bấy giờ chúng ta không còn mộng mị nữa, cái vô vi giới nó sẽ không còn có nữa. Còn khi mà chúng ta nhập tới Tứ Thiền rồi thì nó chỉ là một cái trạng thái thanh tịnh, rất là thanh tịnh, nó không còn có vô vi hay hữu vi nữa.

Cho nên ở đây chúng ta nói để chúng ta thấy được hai cái giới này mà chúng ta cần phải được cái pháp thắng tri. Thắng tri là hiểu rất thấu suốt mà làm chủ được cái hữu vi giới và cái vô vi giới. Thắng tri là làm cái trí của chúng ta sẽ làm chủ được, vậy thì cái trí như thế nào? Mà Thầy nói là cái giới tuệ, giới tuệ tức là cái trí gì?

Chúng ta bảo: “Cái hơi thở ngưng nghỉ!” - thì nó ngưng nghỉ, chúng ta bảo: “Hơi thở chậm và nhẹ, nhập Nhị Thiền, diệt Tầm Tứ!” - thì nó làm theo đúng như vậy, là chúng ta làm chủ được, là thắng tri được cái hữu vi giới và thắng tri được cái vô vi giới. Còn nếu chúng ta chưa có sai khiến được như vậy thì chúng ta chưa có thắng tri đâu.

Thắng tri tức là làm sao mà chúng ta bảo như thế nào mà thân tâm chúng ta nó đều làm chủ được cái giới đó. Cho nên hai cái giới này mà chúng ta đã làm chủ được thì cái đó gọi là các pháp thắng tri.

5.10- HAI PHÁP CẦN ĐƯỢC TÁC CHỨNG: MINH VÀ GIẢI THOÁT

(01:46:06) 10. Thế nào là hai pháp cần được tác chứng?

Ở đây Đức Phật dạy:

Đáp: Minh và giải thoát, đó là hai pháp cần được tác chứng.

Như hồi nãy ở trên chúng ta cần phải phá vô minh thì chúng ta sẽ được minh. Vậy thì minh cần phải tác chứng, ở đây chúng ta phải thấy cái chỗ cuối cùng của vd câu hỏi thứ mười này, hai cái pháp này minh tức là chúng ta phải hiểu là Tam Minh, chớ không phải minh là cái tri kiến và cái tri kiến giải thoát như hồi nãy.

Hồi nãy ở trên, cái chỗ vô minh đó để chỉ cho minh đó chớ không phải là minh ở chỗ này. Bởi vì minh ở chỗ này nó kèm theo sự giải thoát - tâm bất động giải thoát, cho nên chữ minh này nó phải là Lậu Tận Minh, Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, thì chữ minh này là chúng ta phải - hai cái pháp này cần phải tác chứng, tức là phải chứng cho được hai cái này thì tâm giải thoát bất động của chúng ta.

Cho nên Phật nói Phạm hạnh của Đức Phật không phải giới luật, không phải thiền định, không phải trí tuệ, mà chính tâm giải thoát bất động của chúng ta đối trước các pháp, đối trước cái thọ là cái Phạm hạnh của người tu, là cái lõi cây, là cái mục đích của cái người tu. Cho nên ở đây mà chúng ta có minh và giải thoát, thì nó mới tâm bất động giải thoát mới được.

Đó là những cái pháp cuối cùng cần phải tác chứng, tức là phải chứng ngộ được cái pháp đó.

Đó là những điều - hai mươi pháp này chúng ta phải đi ở trên con đường đó, không thể nào mà chúng ta bỏ một cái nào mà có thể chúng ta thực hiện được con đường giải thoát của Đạo Phật.

Cho nên nói bây giờ một người mà nhập Tứ Thiền mà không cần Tam Minh thì cái người đó là không đúng. Bởi vì Giới - Định - Tuệ chưa đủ, mới có Định thì chưa đủ, vì vậy mà còn phải Tuệ. Vì vậy mà cái câu thứ mười này, hai pháp cần phải tác chứng tức là cần phải chứng cái pháp đó là minh và giải thoát thì nó mới hoàn tất được Giới - Định - Tuệ.

(01:48:07) Vậy thì đến đây chúng ta đã học được:

Hai mươi pháp này là thực, chân, như thị, không phải không như thị, không thể sai khác, được Như Lai giác ngộ Chánh Đẳng Giác.

Ở đây Đức Phật đã Chánh Đẳng Giác mới thấy được hai mươi cái pháp này mà dạy lại cho chúng ta, chúng ta nhớ khắc ghi mãi để khi mà chúng ta trau dồi tu tập giới hạnh thì hoàn toàn chúng ta phải đem áp dụng tất cả hai mươi pháp này trong cuộc đời tu hành của chúng ta, không thể bỏ một pháp nào được.

Vì nó là một cái con đường, một cái bản đồ để chỉ cho chúng ta phải đi tới đó. Nếu mà chúng ta không chịu đi tới đó thì chắc chắn là trên con đường chúng ta chưa có hoàn mãn được, chưa có viên mãn được sự giải thoát, thì chúng ta còn sanh tử luân hồi chưa có hết được, mặc dù nó có giảm bớt nhưng phải đi tới.

Cũng chẳng lẽ là bây giờ một người tu thiền mà nhập được cái Định Vô Lậu, tâm đã ly dục, ly bất thiện pháp rồi mà cứ ở chỗ ly dục, ly bất thiện pháp này mà nhập Sơ Thiền không, mà không đi đến tịnh chỉ Tầm Tứ để nhập Nhị Thiền thì cái người này quá điên!

Trừ ra có tuổi già sức yếu, người ta không thể tu tập đến nữa thì người ta chịu mà thôi, chớ còn người ta còn đủ sức, còn có mang được cái thân này thì người ta phải tiến tới để tịnh chỉ các hành để mà nhập Tứ Thiền, như vậy thì mới hoàn tất được con đường tu tập của Đạo Phật. Cho nên hễ tu tới thì chúng ta cứ đi tới mãi.

Bởi vì chúng ta bỏ hết, cả cuộc đời chúng ta không còn những người thân, không còn nhà cửa, không còn gì hết, trắng bạch như vỏ ốc, chỉ còn ba y một bát, đời sống vất vả vô cùng, không nhà, không cửa, mưa gió lạnh lẽo, nắng mưa đủ thứ dầm sương dang nắng để mà thực hiện cái đời khổ hạnh của một cái người tu sĩ theo Đạo Phật, không còn một cái gì, không còn một người an ủi mình trong lúc đau bệnh, già thì chịu chớ không ai chăm sóc cho mình hết, do thế mà mình không nỗ lực đến tận cùng giải thoát thì ai cứu mình đây?

Cho nên khi mà bước chân vào Đạo Phật chúng ta phải có một sự suy nghĩ sâu sắc như vậy thì chúng ta mới đạt được những cái thành quả của sự tu tập sau này. Còn nếu mà chúng ta nghĩ rằng cứ sống mà lợi dưỡng, ăn uống mà sung sướng, có người hầu hạ kẻ cung cấp, thì chắc chắn con đường này chúng ta không đi tới đâu được hết./.

HẾT BĂNG

36 - GIỚI BA LA DI - GIỚI TĂNG TÀN 01

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 36 - GIỚI BA LA DI - GIỚI TĂNG TÀN 01

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- BỐN GIỚI BA LA DI

(00:00) Bây giờ chúng ta sẽ chuyển qua về cái giới bổn. Hôm nay Thầy nghĩ rằng chúng ta cần phải học hết cái giới bổn để chúng ta hoàn tất cái giới bổn.

Vì sợ cái giới bổn mà chúng ta đọc từng giới ra nó không có - nó làm cho chúng ta khô khan, cho nên dựa vào những cái bài kinh giới mà Phật chế ra những giới nó có những cái mẩu chuyện để làm cho chúng ta vui ở trong khi mà chúng ta học giới. Nếu mà không có nhắc ra những cái mẩu chuyện đó thì chắc chắn là chúng ta sẽ thấy nó khô khan lắm.

1) GIỚI KHÔNG DÂM DỤC

[Trưởng lão đã giảng ở Giáo án 02]

2) GIỚI KHÔNG TRỘM CẮP

(00:36) Do đó Thầy đã dạy cho quý thầy đã học xong cái giới thứ nhất rồi, bắt đầu bây giờ chúng ta sẽ học cái giới thứ hai. Giới thứ hai:

2. Giới không cho mà lấy.

Tức là giới ăn trộm ăn cắp.

Vì sao Phật kiết giới này? Vì khi Phật ở thành Vương Xá, có Tỳ Kheo Đàn Ni Ca bị một người tiều phu dỡ cái am tranh. Vị Tỳ Kheo này mới lấy đất vỗ làm gạch, lấy củi mà đốt, hầm, làm lại cái am toàn bằng gạch. Phật bảo chư tăng đập đi.

Nghĩa là Đức Phật thấy cái vị Tỳ Kheo này - khi mà cái thất của vị đó bằng tranh, bằng cây thì bị cái chú tiều phu rút lấy hết, rồi cái ông thầy Tỳ Kheo này ổng mới lấy đất ổng đắp lên ổng làm gạch, rồi ổng đem ổng nung ổng đốt đi cho thành gạch, rồi ổng mới dựng lên làm cái thất của ông bằng gạch. Do Đức Phật thấy cái thất ổng bằng gạch, Đức Phật bảo chúng Tỳ Kheo đập phá đi.

Tỳ Kheo ấy lại nói dối người giữ gỗ của vua Bình Sa Vương, lấy gỗ tốt về cất am.

Khi bị đập cái thất gạch của ổng đi rồi đó, thì ổng đến ổng gạt cái người giữ gỗ của nhà vua, ổng lấy một cái số gỗ tốt để về cất cái thất của ổng.

Ông đại thần tâu với vua. Vua nói không vì chút gỗ mà giết hại người xuất gia, liền kêu Tỳ Kheo ấy vào quở mắng và đuổi đi.

Phật hỏi các Tỳ Kheo: “Theo pháp nhà vua, ăn trộm của vật bao nhiêu mà đáng tội chết?” Bạch: “Nếu lấy của vật đáng năm tiền thì phạm tội chết.” Phật liền nương theo pháp vua mà kiết giới: Nếu Tỳ Kheo trộm năm tiền hoặc là vật đáng giá năm tiền thì phạm tội Ba La Di.

Tức là tội đuổi ra khỏi chúng đó.

Trường hợp khai cho ăn cắp mà không phạm giới:

Xưa có vị Tỳ Kheo thường đến nhà cư sĩ khất thực, cư sĩ ấy có hai cháu trai rất ngoan và rất thương mến Tỳ Kheo, khi thấy Tỳ Kheo đến nhà chúng nó lại gần bên cạnh ôm chân thầy mừng rỡ.

Một hôm nhà cư sĩ ấy bị ăn cắp bắt cả hai cháu, ngày sau Tỳ Kheo kia đến khất thực thì cư sĩ ấy kể chuyện, buồn rầu khóc lóc. Tỳ Kheo liền quán biết bọn ăn cướp còn đậu thuyền bên kia bờ sông, ngay lúc đó Tỳ Kheo vận thần thông đến bế hai cháu nhỏ mang về, cư sĩ ấy rất vui mừng.

(03:25) Hôm sau Phật hay biết, kêu Tỳ Kheo kia đến hỏi:

- Ông lấy tâm gì mà ăn cắp hai cháu nhỏ?

- Bạch Thế Tôn! Con lấy tâm từ bi mà ăn cắp để cứu cho gia đình cư sĩ ấy hết buồn khổ.

Phật bảo:

- Nếu ông lấy tâm từ bi mà ăn cắp thì được.

Hỏi: Tại sao con cháu mình bị ăn cắp bắt, mình lấy lại mà gọi là ăn cắp? Tuy của mình nhưng khi bấy giờ thuộc quyền sở hữu của bọn cướp, nếu mình lén lấy là ăn cắp.

Đó thì, ở đây cái câu chuyện như vậy thì chúng ta thấy: Thứ nhất là chúng ta thấy trong cái thời Đức Phật mà cất am bằng gạch, bằng ngói, bằng này kia thì Đức Phật không bằng lòng, sai chúng Tỳ Kheo đập phá, chỉ có chúng ta là những người tu sĩ phải ở chòi tranh vách lá bằng cây đơn sơ chớ không được cây tốt nữa.

Đó là qua cái câu chuyện này thì chúng ta thấy rằng trong cái thời Đức Phật rất là kỹ đối với cái sự tu tập là không cho Tỳ Kheo dính mắc cái sự kiên cố, cái sự sang đẹp như người thế gian.

Cho nên đó là những cái tâm ham muốn để mà kiên cố giữ gìn nó không hư đó, thì cuối cùng thì mình bị dính mắc nó đi. Còn nó hư, nó sập, nó này kia thì chúng ta phải chịu cái đời sống vất vả khổ sở để rèn luyện cái sự giải thoát, để chấm dứt cái sự sanh tử.

Vì Đức Phật đã dạy chúng ta biết các pháp đều là vô thường, thì dù là cái nhà gạch, cái nhà có sang đẹp kiên cố thì một ngày nào đó nó cũng hoại diệt, mà bây giờ chúng ta bỏ công ra như vậy nó mất nhiều cái thời gian, thay vì đó để mà chúng ta tu thì trái lại chúng ta lại lo cái công việc đó, làm sao chúng ta tu được giải thoát? Cho nên mất nhiều thời gian rất uổng. Mà do vì vậy đó mà Đức Phật không chấp nhận chùa to, tháp lớn.

Còn bây giờ thì ngược lại là quý thầy người nào cũng lo chùa to, tháp lớn, rồi học hỏi cho nhiều để mất thi giờ. Trái lại chúng ta hiểu biết được mà chúng ta tu tập giải thoát được, cứu mình ra khỏi ba nẻo sáu đường này thì chúng ta còn ham muốn gì ở trong thế gian này mà danh mà lợi nữa! Ngược lại thì chúng ta thấy đạo Phật rất là thực tế và cụ thể.

Còn bây giờ chúng ta tu, hầu như là danh lợi nó làm chúng ta mờ mắt đi, mà chúng ta thấy nghĩ rằng mình tu là giải thoát, nhưng cái giải thoát của chúng ta nó vẫn bị trói buộc rất nhiều chớ không có giải thoát được.

Qua những cái giới như vậy thì chúng ta thấy rất rõ, ở đây chúng ta lại học thêm được: Khi mình bị ăn cắp hoặc ăn cướp lấy của mình mà mình lấy lại mà Đức Phật còn cho rằng mình làm như vậy là mình ăn cắp của người khác.

(06:06) Thì thiệt ra nếu mà cái vị Tỳ Kheo này nói không phải lòng từ bi mà ăn cắp hai cháu này, mà vì muốn - mà vì thấy những người ăn cắp này lấy của tiền của người ta thì mình lấy trở lại để trả người ta chớ không phải vì lòng từ bi gì hết, thì chắc chắn là ông Phật sẽ bắt cái tội cái vị tu sĩ này là phải kết cái án, cái tội là ăn cắp, cho nên không thể nào mà ở trong cái Tăng đoàn được nữa.

Trái lại cái vị này thì nói đúng với cái tâm của mình, trước khi thấy gia đình mất con thì cư sĩ này rất khóc đau khổ, cho nên thấy cái lòng đó, thấy như vậy là do lòng thương yêu mình mới dùng thần thông để mình cứu hai đứa trẻ này, để đem lại cho sự vui mừng của gia đình này, thì như vậy là do lòng từ bi, cho nên Đức Phật nói không có lỗi trong cái tội ăn cắp. Là khai - cái trường hợp đó khai cái giới ra để cho chúng ta thấy rằng cái lỗi đó nó không có cái lỗi ăn cắp.

Ở đây là, thí dụ như bây giờ có một người đó bị một tội gì đó mà khai cái giới đó ra cho nó rõ ràng ra thì thấy cái giới đó không phải là cái tội. Cũng như cái vị Tỳ Kheo này dùng thần thông mà đem hai cháu về với gia đình thì bây giờ khai cái giới ra, thì cái vị này không phải là ăn cắp mà là vì cái lòng thương yêu gia đình đó mất con đau khổ mới đem về, thì không có tội, đó là khai giới.

Khai giới nó có nhiều cách. Khi chúng ta đi ở trên một cái bờ sông, mà trong giới thì không cho một cái người Tỳ Kheo mà đụng vào cái thân của người nữ, nhưng mà có một cái cô gái đã chết đuối ở ngoài sông, đang hấp hối, đang trồi lên hụp xuống, chỉ còn một chút nữa là chết, mà bây giờ ông thầy này nói: “Tui giữ giới” - mà không có nắm mà lôi cái cô này, hay là lội xuống đó ẵm cô này lên thì chắc chắn cô ta sẽ chết mất đi rồi.

Cho nên vì vậy đó, cái ông thầy đó ngay liền: “Tui xin khai giới, khai về cái giới mà đụng chạm vào cái thân người nữ!” - nghĩa là tự ngay liền mình thấy cái cấp tốc đó là: “Tui xin khai giới liền để tui cứu người!” - thì ngay đó mình đã khai giới liền.

Do khai giới rồi thì chúng ta nhảy xuống sông lội ngay ra cái chỗ cái người chết đuối đó, ẵm cái người chết đuối đó lên rồi đem lên bờ, rồi hô hấp cái người đó cho thở, mà khi đó người đó thở rồi thì ngay đó là chúng ta giá lại - đóng cái giới lại liền tức khắc, chúng ta không có đụng vào thân cái người nữ nữa, rồi chúng ta giao lại cho những người khác, rồi chúng ta ra đi với một cái tâm thanh thản, không còn vướng bận ở trong cái sự xúc chạm cái thân của người nữ. Đó như vậy gọi là giá - khai.

Còn ở đây khai thì cái người đó có cái lỗi đó, rồi chúng ta đem cái giới đó ra khai thử coi cái giới đó nó có phải đúng hay sai, gọi là khai. Cho nên ở đây khai, giá, trì, phạm. Cái người học giới mà không hiểu khai thì do đó mới là học Bồ Tát Giới để chúng ta có sẵn sàng.

(09:04) Vì chúng ta học giới chúng ta đâu dám đụng thân người nữ, cho nên mà chúng ta không hiểu khai thì chúng ta đâu có dám rớ, do vì vậy mà chúng ta sợ phạm giới cho nên chúng ta để cho người ta chết. Còn trái lại chúng ta hiểu Phật dạy khai, giá, trì, phạm cho nên lúc bấy giờ, lúc cần thiết là chúng ta khai, mà không cần thiết chúng ta không khai.

Chẳng hạn bây giờ bữa trưa này chúng ta bị bệnh nè, chúng ta ăn uống không được, phải không? Bây giờ người ta đem cơm, đem này kia người ta cúng dường mình mà mình ăn không được. Mà mình ăn không được thì cái cơ thể của mình nó sẽ bị hao mòn, nó sẽ bị kiệt quệ đi, cho nên có một người cư sĩ thấy như vậy họ mới nấu cháo.

Nhưng mà bây giờ họ nấu cháo đến cho chúng ta thì nó quá Ngọ rồi, nếu mà chúng ta ăn quá Ngọ thì ăn phi thời! Cho nên chúng ta khai giới liền. Nghĩa là chúng ta khai liền để chúng ta dùng cái bát cháo để mà chúng ta uống thuốc. Thì lúc bấy giờ chúng ta khai rồi, khi mà ăn cái cháo này rồi, uống thuốc rồi thì chúng ta đóng lại, từ đây về sau chúng ta không có ăn cháo, ăn phi thời nữa được.

Thì đó lúc bấy giờ để chúng ta khai để mà chúng ta uống thuốc trị bệnh cho cơ thể chúng ta khỏe mạnh, cho nên chúng ta biết. Nhưng nếu mà nói như vậy thì chúng ta coi chừng cái tâm dục của chúng ta ham ăn, ham uống, lúc nào chúng ta cũng khai ăn lia lịa đó thì cái đó là nguy hiểm nữa, cái đó là trật. Nói lúc nào tui cũng khai được hết là tui khai lia lịa đó.

Bây giờ có cái bà đó bả đem cái bánh cam ngon quá, thôi tui khai ra tui ăn rồi cái bắt đầu tui đóng lại! Thì kiểu đó không được! Có cái người đó họ đem chục xoài. Trời ơi chục xoài mà bây giờ để ngày mai thúi, bỏ uổng, thôi bây giờ tui khai ra tui ăn, để bỏ là phí của đàn na!

Mình luận như vậy, nhưng mà sự thật đó là phạm giới. Cho nên ở đây khai thì phải đúng, chớ còn mà khai bậy là phạm giới. Thì khi mà người ta đem cái giới đó ra, người ta khai triển cái giới đó ra, mà mình sử dụng cái đó là mình khai giới bậy là mình tiêu mình đó.

Cho nên một cái ông thầy mà nắm giới luật thì người ta phải rành về cái khai, giá, trì, phạm. Còn nếu mà không rành thì chúng nó hay luận thế này thế kia, ông thầy cũng bít luôn đó, lúc bấy giờ nó phạm giới thôi tùm lum, nhất là cái giới ăn thì khó lắm chớ không phải dễ.

Cho nên Thầy ở đây hầu hết là quý thầy cứ nói Thầy dạy ăn với ngủ không đó, thì quý thầy biết là cái giới ăn không phải là dễ đâu, nó rất khó.

Giới này có 6 duyên mới thành phạm tội:

1. Chân thật Tỳ Kheo, đủ thập sư Yết Ma thọ cụ túc;

2. Cố tâm ăn trộm;

3. Tự mình lấy hoặc bảo người khác lấy;

4. Vật của người mà mình khởi tưởng là có chủ;

5. Vật quý giá đáng năm tiền, hay đủ số năm tiền;

6. Lấy vật lìa khỏi chỗ, khởi tưởng vật này của mình.

Đó là 6 cái điều kiện mà mới kết thành cái tội của mình. Thí dụ như một vị Tỳ Kheo đủ thập sư Yết Ma thọ cụ túc rồi mà phạm thì tức là bị phạm liền à, còn cái người Sa Di thì thọ có Thập Giới Sa Di không, thì chưa đủ phạm cái tội như vậy.

Bởi vì Sa Di nó ở trong giới luật, giới bổn thì Sa Di chỉ phạm tội Đột Kiết La chớ không phải phạm tội Ba La Di. Còn ở đây Tỳ Kheo mà thọ cụ túc giới rồi thì đương nhiên là phạm vào cái giới Ba La Di, nó khác hơn cái vị Sa Di.

Sa Di nó chỉ là sám hối mà thôi, còn ở đây thì coi như là tẩn xuất, là đuổi, cho nên khi mà đã thọ cụ túc rồi thì đương nhiên phạm thì phải bị đuổi thôi, không có mà còn ở trong cái Tăng đoàn, ở trong chùa được nữa.

(12:39) Nếu 6 duyên trên không đủ thì phạm tội nhẹ, tội Thâu Lan Giá.

Nên biết rằng ăn cắp ba tiền hay bốn tiền chưa đủ năm tiền thì phạm tội Thâu Lan Giá; ăn cắp từ năm tiền trở lên thì phạm tội nặng tức là Ba La Di. Nếu tự mình ăn cắp hay bảo người ăn cắp thì tội cũng đồng nhau, tức là Ba La Di.

Thí dụ anh A bảo anh B ăn cắp ba tiền, tôi ăn cắp ba tiền là sáu tiền, phạm tội Ba La Di.

Hai người, mỗi người ăn cắp có ba tiền, ba tiền hết, nhưng mà cộng lại là sáu tiền thì hai người đều là phạm tội. Bởi vì cái anh A bảo anh B ăn cắp, rồi anh A lại ăn cắp thêm ba tiền nữa, anh B ăn cắp có ba tiền, và hai người cộng lại đều là phạm tội Ba La Di hết.

Anh A bảo anh B ăn cắp hai tiền, anh A ăn cắp hai tiền là bốn tiền thì phạm tội Thâu Lan Giá.

Vì không cho mà lén lấy là ăn cắp nên những vật của người ta gửi mình hoặc nhặt được của rơi phải tìm chủ mà trả lại.

Xưa có một người đàn bà rất tốt. Ông chồng tên là Khuê Lạc Tử, ra đường lượm được gói vàng lật đật đem về khoe với vợ. Bà vợ nói: “Người xưa dạy: Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thụ, thế mà anh là người tu mi nam tử lại đi nhặt của rơi thì thật là xấu hổ quá!” Khuê Lạc Tử cả thẹn với vợ liền đem trả gói vàng ấy lại chỗ cũ.

Người đời còn trong sạch như thế, huống chi ta là trang Thích tử há lại không lấy đó làm gương ư? Vậy muốn diệt trừ lòng tham lam trộm cắp thì phải phát tâm bố thí.

Ở đây dạy chúng ta bố thí nhưng không phải đâu, ở đây chúng ta phải tu tập trau dồi. Để tới kỳ Thầy dạy về cái giới hành thì chúng ta sẽ trau dồi nó như thế nào để chúng ta không có còn cái tham lam như vậy nữa, dù là một trái cây nhỏ chúng ta cũng không ăn phi thời.

Vì ăn phi thời mọi người không ăn thì chúng ta lại ăn trộm ăn cắp rồi, một cục đường mà ăn lén, một cái ly nước ngọt mà uống lén là chúng ta đã ăn cắp của đàn na thí chủ rồi, ăn cắp của tu sĩ rồi. Bởi vì mọi người người ta ăn có một bữa à, mình ăn thêm một chút là mình ăn cắp rồi.

Do sau này Thầy sẽ dạy cái giới hành, Thầy sẽ chỉ dạy về trau dồi cái giới này để chúng ta hoàn toàn thanh tịnh mà không bị phạm.

3) GIỚI KHÔNG SÁT SINH

(15:15) Giới thứ ba là:

3. Giới giết mạng người.

Vì sao Phật kiết giới này?

Vì khi Phật ở tại giảng đường bên sông Di Hầu, thành Quảng Nghiêm, nói pháp bất tịnh. Các Tỳ Kheo chuyên tu pháp quán này, nhàm cái thân bất tịnh, không vui, muốn tìm dao giết mình, khen ngợi cái chết, khuyên chết.

Một hôm có người ngoại đạo tên là Vật Lực Già Nan Đề cầm con dao bén vào rừng Bà Cừu. Có các Tỳ Kheo bảo giết hộ rồi lấy y bát. Vật Lực chịu thuê, lần lần giết đến sáu chục Tỳ Kheo. Các Tỳ Kheo thấy thế bạch Phật. Phật nhóm chúng lại nói A Na Ban Na Tam Muội thì đều yên lặng vui vẻ, và Phật liền cho họp chúng Tỳ Kheo kiết giới này.

So sánh Tiểu Thừa và Đại Thừa: Theo Tiểu Thừa sát nhân phạm tội trọng, bàng sanh phạm tội khinh vì người với súc sanh khác nhau một trời một vực, còn Đại Thừa gọi là Phật Tính bình đẳng, chẳng phân biệt dị lại cho nên sát sanh vẫn kết tội trọng như sát nhân vậy.

Ở đây theo cái kiểu mà so sánh của Đại Thừa, nó cho rằng Tiểu Thừa giết người mới tội trọng nặng mà giết chúng sanh thì tội trọng nhẹ, hầu hết là cái này sai.

Hầu hết Thầy đọc trong kinh nguyên thủy Phật nói: Khi ăn một miếng ăn mà người ta còn khởi tâm từ người ta rộng khắp tất cả mười phương, cho nên trong cái miếng ăn người ta nhìn cái miếng ăn đó mà người ta đáng ăn hay là không đáng ăn, nghĩa là có cái sự đau khổ trong đó người ta không ăn rồi.

Cho nên cái tâm từ của người ta phải biến mãn khắp mười phương, cây cỏ người ta không đạp nữa, thì huống hồ là - gọi là giết chúng sanh là tội nhẹ, còn giết người mới là tội nặng! Thật sự con kiến Đức Phật đi còn không muốn đạp, huống hồ là con người!

Thì như vậy chúng ta chỉ nhìn thấy cái thân mạng con người là lớn, do đó nói rằng - Tiểu Thừa thì cho rằng giết con người mới tội trọng nặng, mà giết chúng sanh thì tội trọng nhẹ, cho nên quý sư ở bên Nam Tông cứ mãi ăn thịt chúng sanh là vậy, cho nên ăn thịt chúng sanh là vẫn tội nhẹ mà, có gì đâu, cứ ăn!

Nhưng mà không ngờ trong cái bài kinh Jivaka, tức là vị cư sĩ Jivaka hỏi Đức Phật thì Đức Phật nói khi một cái người mà thọ - một cái vị tu sĩ, một vị Tỳ Kheo mà theo đạo Phật, thì khi mà người ta thọ dụng cái thực phẩm đó thì cái tâm từ bi người ta phải biến mãn khắp cùng chớ không phải ở trong cái thực phẩm không. Nghĩa là ta phải nhìn cái thực phẩm đó có cái sự đau khổ, có sự chết chóc trong đó không rồi người ta mới thọ dụng.

(18:05) Do vì vậy đó cái sự ăn chay của Phật nó phải trên cái sự ăn chay của Đại Thừa, chớ không phải là ăn chay theo kiểu mà ở đây quý sư đã luận ra như vậy để mà phạm cái tội sát sanh, để nuôi cái tà mạng của mình bằng thịt chúng sanh như vậy gọi là tu giải thoát.

Cho nên ngàn đời Thầy nói, bên Nam Tông mà họ ăn thịt chúng sanh vậy mà tu có thiền định được, thì chẳng bao giờ mà có thiền định được.

Cái thân của họ bất tịnh, nhét ba cái thịt chúng sanh vào trong đó thì cái mồ hôi của họ - ngồi gần chúng ta nghe cái mùi hôi của họ, cá thì nó tanh cá, mà thịt thì tanh thịt, bò thì hôi bò, chó thì hôi chó, có ra cái gì! Thế mà họ làm sao họ thanh tịnh được mà họ nhập định? Mà Phật nói tịnh chỉ, tịnh là thanh tịnh, mà cái thân nó hôi rình như vậy làm sao tịnh?

Cho nên do vì vậy cái hiểu lầm - vì vậy mà người ta vẫn thấy Đại Thừa là hơn hết, bởi vì Đại Thừa coi như tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh trong đó, cho nên nó bình đẳng, giết con người cũng như giết chúng sanh. Không ngờ là Đức Phật - phải nói rằng chúng ta hằng tu tập Tứ Vô Lượng Tâm - từ, bi, hỷ, xả vô lượng của chúng ta, làm sao mà chúng ta nhét miếng thịt trong miệng chúng ta được?

Nếu không có bốn Tứ Vô Lượng Tâm mà Phật dạy thì chắc chắn ông Phật ăn thịt thì Thầy đồng ý rằng đạo Phật không có Tứ Vô Lượng Tâm. Đằng này Đức Phật dạy chúng ta bốn pháp để chúng ta từ, bi, hỷ, xả.

Nghĩa là bây giờ cái món ăn đó rất ngon, rất thích khẩu đó, mà lúc bấy giờ có sự đau khổ thì ngay đó chúng ta phải xả nó xuống chớ không được gắp nó mà ăn, như vậy mới gọi là từ, bi hỷ, xả.

Cho cái chỗ này chúng ta mới thấy được cái chỗ lý luận qua cái giới bổn, mà chúng ta thấy các sư mà thành lập các giới bổn, phần nhiều họ luôn luôn lúc nào cũng đè xuống cái giới luật của Đức Phật mà họ không đọc ở trong giới kinh của Phật ở trong kinh của Phật, họ không thấy được cái chỗ Phật dạy cái người đệ tử của Phật như thế nào.

Bởi vì Đức Phật dạy Sơ Thiện, Trung Thiện và Hậu Thiện. Sơ Thiện như thế nào? Sơ Thiện thì cái giới bổn nó mới nằm ở trong Sơ Thiện thôi, còn cái Trung Thiện thì cái giới bổn nó có được không? Nó đâu có được! Làm sao mà nó biết được cái tâm từ của Đức Phật ở chỗ nào mà nó dám nói như vậy?

Cho nên cái lý luận này là cái lý luận của Đại Thừa, cái lý luận của những người viết giới mà không có hiểu kinh sách của Phật, viết bừa viết đại, rồi đặt thêm đặt bớt ra đủ cách để nói thế này thế khác để làm lệch lạc đi. Rồi cái người mà tu theo Nguyên Thủy cũng nhạo đi nhạo lại ba cái này, cũng chẳng biết gì.

Bởi vì chia làm 20 bộ phái thì tất cả các ông đều có thể đặt ra đủ thứ ở trong cái giới bổn hết, muốn đặt ra như thế nào như thế nấy, rồi chấp vô đó, rồi ăn thịt chúng sanh, rồi tu tầm bậy, rồi mới đẻ ra thiền Minh Sát Tuệ, rồi thiền này thiền kia.

Có bao giờ nhập được Tứ Thiền chưa? Có bao giờ mà ngưng nghỉ được hơi thở chưa? Mấy ông không có biết đường lối gì hết, cho nên tu theo cái kiểu mà tưởng ra.

Thay vì Tứ Niệm Xứ là một cái pháp người ta rất là tuyệt vời để người ta bắt đầu người ta đi vào bốn thiền, bốn định, thế mà mấy ông ngồi đó mà quán. Tu một thời gian ức chế tâm rồi đem ra mà quán gọi là Minh Sát, thì minh sát cái gì?

(21:16) Trong giới này, phương tiện sát có ba lối:

1. Thân sát: Là nếu lấy tay mình hoặc ngói, đá, dao, gậy mà sát hại gọi là thân sát.

2. Thân ngữ sát: Cầm dao đưa cho người bảo người khác giết.

Nghĩa là thân của mình cầm cái dao mà mình không có giết, đưa cho người khác mình bảo: “Anh hãy cầm cái dao này anh cắt cổ con gà đi, lát nữa mình nấu cháo ăn! Như vậy là anh giết chớ không phải tui giết, tui là tu sĩ tui không giết đâu.

Bây giờ trước khi tui đưa cái dao thì tui đi tránh đi, để không người ta nói, tui nghe, tui thấy, rồi tui nghi thì tui ăn không có được. Bây giờ tui đưa cái dao rồi, bây giờ tui đi chỗ khác đây, anh ở đây anh cắt cổ nó đi, rồi lát anh làm cháo cúng dường tui thì được. Như vậy là tui với anh cũng ăn được chớ không có sao hết.”

Thì cái ông cư sĩ này ổng làm đùa hết chớ ông đâu có ngán, bởi vì ổng cư sĩ mà, ông đâu có biết, ông thầy dạy sao ổng làm vậy. Rồi ông thầy này đi tránh đi đừng có nghe con gà la, đừng có thấy cái ông này cắt cổ con gà, rồi cũng không có nghi nữa.

Bởi vì do đó thì khi mà dâng lên cúng dường thì ông thầy này nói: “Tui đâu có nghe, tui đâu có thấy! Hồi đó tui chỉ đưa con dao thôi chớ tui đâu có thấy cái chuyện đó!” Cho nên cứ làm bừa, ăn đã thôi, không có gì hết.

3. Ngữ sát: Mắng, chê, khuyên, khen khiến cho người chết, nghĩa là vì một lời nói mà làm cho người ta chết, ấy gọi là ngữ sát.

Giới này có đủ 5 duyên mới thành phạm tội:

1. Chân thật Tỳ Kheo, bản thể Tỳ Kheo chưa mất;

2. Cảnh người là nam, nữ, huỳnh môn từ khi vào thai về sau;

3. Cố tâm sát;

4. Tưởng thật là người để sát, đúng đối tượng, không nhầm lẫn;

5. Xui khiến cho nó chết bằng ba phương tiện trên.

Nếu thiếu một trong 5 duyên trên thì không thành phạm tội trọng.

Còn sát không phạm là ngộ sát, không để tâm giết hại, cuồng si tâm loạn thì không tội.

Ở đây thì nó đặt ra những cái điều đó. Ở đây Thầy cứ nghĩ rằng kẻ nào mà tu theo đạo Phật mà thiếu ý tứ, thiếu tỉnh giác mà vô tình giết hại chúng sanh thì chúng sanh chết là phải trả cái nghiệp đó à, chớ không có thể nào mà nói: “Tui vô tình là không có tội” - không phải đâu. Ở đây nó lý luận những cái điều này, nó đặt ra như vậy, nó không đúng.

Bởi vì Đức Phật dạy chúng ta Chánh Niệm Tỉnh Thức, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải chánh niệm, không bao giờ mà chúng ta hại chúng sanh. Cho nên một người tu theo đạo Phật rất là tỉnh táo, không có mê mờ, không có vô tình được. Mà đây là hữu tình không à, chớ không có vô tình được.

Anh không tu Chánh Niệm Tỉnh Thức thì anh là người - anh nói anh vô tình là tại anh không theo con đường của đạo Phật, mà anh đã theo con đường đạo Phật thì bắt đầu vô thì tui đã dạy anh rằng anh phải tu tỉnh thức ở trong cái tâm của anh, hằng bước đi của anh, anh phải không có giết hại chúng sanh, thì cái chuyện mà anh cầm cái dao anh đưa người ta thì anh cũng phải biết chớ, đâu có lý nào mà anh vô tình anh không biết? Cho nên anh nói ra một cái lời nói nào thì anh cũng phải hiểu lời nói, anh tỉnh thức mà!

(24:17) Đầu tiên đến với đạo Phật tui dạy anh Chánh Niệm Tỉnh Thức Định chớ đâu phải tui không dạy! Tui dạy anh phòng hộ sáu căn nè, giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của anh nè, thì làm sao mà anh dính mắc với vật nào mà anh ham muốn? Mà anh không ham muốn làm sao anh có những cái tội sát sanh, những cái tội ăn trộm ăn cắp?

Do ham muốn của anh, anh mới ăn trộm ăn cắp. Do anh không phòng hộ sáu căn anh mới bị ham muốn, anh mới ăn trộm ăn cắp, anh mới giết người cướp của. Do ham muốn anh mới làm tội này, tội kia. Còn tôi bảo anh phòng hộ sáu căn, không cho lòng ham muốn anh dính mắc các vật thì anh đâu có làm gì mà anh giết hại chúng sanh?

Đó là cái đầu tiên là phòng hộ sáu căn. Cái kế đó là anh thường thường anh phải tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, sau đó anh phải tu Tứ Vô Lượng Tâm thì làm gì mà trong cuộc đời này anh phạm những cái giới này?

Chỉ có anh chẳng muốn tu cái này cho nên anh phạm giới này, rồi anh chế ra anh nói rằng tội nhẹ, tội trọng, chớ tất cả những cái này tôi quy vào một cái tội là Ba La Di, anh giết hại chúng sanh là tui đuổi anh ra khỏi chùa!

Nghĩa là anh đạp chết một con kiến là tui đuổi anh khỏi chùa. Anh có tu được thì anh tu, anh tu không được thì anh đừng có đến đây mà anh giả đò vô tình mà anh sát sanh, anh giết hại chúng sanh bằng cách là vô tình vậy.

Anh đi con mắt anh ngó lên trời, anh thấy con gái anh không có ngó dưới đất đâu, anh đạp tùm lum à, chết biết bao nhiêu con trùng không? Mà có con gái đó không à, mà anh làm như vậy, thì như vậy là anh đã sai quá sai rồi. Anh đến đây anh tu chớ đâu phải anh đến đây anh đi tìm con gái anh nhìn?

Đó là những cái điều kiện mà giới luật đặt ra như vậy, thì do đó nó phải có một cái sự hiểu biết đúng, là mình đi tu giải thoát rồi thì mình phải chuyên nhất vào những cái pháp được Phật dạy để cho mình không có vô tình mà cũng không có cố ý ở trong đó mới đúng. Luôn lúc nào chúng ta cũng phải ý tứ từng cái hành động thân khẩu ý của chúng ta.

Bởi vì đó là ba cái nơi mà để tạo nghiệp cho chúng ta, để tạo cái nhân quả tốt hay xấu cho đời chúng ta, giải thoát hay không là ba nơi đó. Tại sao chúng ta đến đây chúng ta tu hành để tỉnh thức từng ba cái hành động này, mà tại sao chúng ta lại còn gọi là vô tình?

Không thể nào một người tu sĩ đạo Phật gọi là vô tình được. Một chú Sa Di mới vào là người ta đã giữ Thập Giới là người ta cũng đã phải học, không có vô tình được nữa rồi, mà anh còn vô tình thì đâu có được nữa!

Người xuất gia không được giết hại người và vật, vật lớn như con voi, con bò, cho đến vật nhỏ như con gà, con muỗi, con kiến, vi trùng, mà phải đặt lòng từ bi trên hết, coi tất cả người vật đều đồng một thể.

Nói về quả báo: Ưa sát sanh thì bị giảm kỷ, chết yểu, ưa phóng sanh thì được tăng kỷ, trường thọ. Thế nên trong kinh dạy tất cả chúng sanh không gây nghiệp sát thì thế giới được hòa bình:

“Nhất thiết chúng sanh vô sát nghiệp

Hà sầu thế giới động binh đao.”

Ở đây thì nói như vậy, nhưng mà Thầy thấy nó chưa được vậy đâu. Cho nên chúng ta phải tu, phải trau dồi, phải luyện tập như thế nào để mà chúng ta không phạm giới này, chớ không phải nói bằng một cái lý như vậy được, mà phải đi vào cái sự thực hành bằng cái phòng hộ sáu căn mà Phật gọi là Thánh phòng hộ, bằng cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định gọi là Thánh Chánh Niệm Tỉnh Giác định, thì tất cả những cái này chúng ta phải thực hiện cho kỳ được, chớ không phải thực hiện hơi thở đâu.

Ở đây quý thầy cứ chổng khu chổng gọng mà cứ tu tập hơi thở mà quên đi rằng chúng ta phải tu tập cái gì để chúng ta đoạn dứt cái nhân quả mà đang luôn luôn chi phối cái đời sống của chúng ta.

4) GIỚI KHÔNG VỌNG NGỮ

(27:31) Bây giới tới cái giới thứ tư:

4. Giới đại vọng ngữ.

Vì sao Phật kiết giới này?

Vì khi Phật ở trên gác giảng đường bên sông Di Hầu, thành Quảng Nghiêm, các Tỳ Kheo an cư trong chùa gần sông Ba Cừu nhằm gạo thóc đắt đỏ, ít người cúng, các Tỳ Kheo đến nhà cư sĩ nói rằng: “Tôi chứng pháp thượng nhân” và khen các Tỳ Kheo khác cũng thế, họ gọi nhau là A La Hán.

Nghĩa là ông thầy này gọi ông thầy kia là A La Hán hết, cho nên cư sĩ lầm tất mấy ông này đều là A La Hán hết, cho nên nghèo đói cứ bỏ ra cúng dường mấy ông này là được phước.

Các cư sĩ tin và quý trọng, đem thực phẩm, thức ăn đến cúng dường đầy đủ. An cư xong đến yết kiến Phật. Phật hỏi, các thầy Tỳ Kheo bạch Phật đủ điều, Phật bảo: “Các ông là ngu si! Việc có thật còn không đem trước người mà nói, huống chi là việc không thật!” Phật quở trách rồi họp chúng lại kiết giới này.

Đây là cái câu chuyện mà chúng ta thấy ngày xưa vì khi mà cái hạn hán, rồi thất mùa, rồi cư sĩ cũng nghèo đói, rồi quý thầy thì cư sĩ nghèo đói thì họ cúng dường ít, cho nên mấy ông này mới nói bàn tính với nhau: “Nếu mình nói mình A La Hán thì người ta nói mình đại vọng ngữ, bắt đầu mình gọi người khác A La Hán đi, rồi anh gọi lại tui A La Hán đi, thì tất cả những cái này mình đâu có vọng ngữ!”

Khôn khéo thiệt! Mấy ông thầy này cũng là mưu kế dữ lắm chớ không phải không. Khi mà đến gần nhà cư sĩ rồi thì mình gọi ông thầy kia bằng A La Hán, ông thầy nọ gọi mình A La Hán, mấy ông cư sĩ ở trong nhà nghe: “Trời ơi, toàn là A La Hán không! Mà không có ông nào tự xưng mình A La Hán hết mà chỉ ông khác gọi nhau. Cho nên do đó mà nghèo thì nghèo chớ thôi kệ, mình nhịn đói mà cúng dường mấy ông này đi!”

Và cứ như vậy đó mà cúng dường, vì vậy mà trong cái ba mùa an cư kiết hạ mấy ông này mập ú ra hết, mấy ông cư sĩ bây giờ thật sự họ nhịn ăn nhịn mặc, họ còn có xương với da không. Bởi vì thất mùa mà, nhịn cho mấy ông A La Hán này ăn mà!

Thay vì A La Hán thì còn xương da thì đúng, nhưng mà A La Hán này bây giờ mập đi hết muốn nổi rồi. Bởi vì nghe A La Hán thì ai không có kính ngưỡng, ai không có lòng tin mà cúng dường? Thà đói chớ ai để A La Hán đói!

Cho nên cái lòng kính ngưỡng như vậy, Phật nghe được như vậy, Phật nói: Khi mình chứng mình còn không nói thay, huống hồ là mấy ông chưa ra gì hết mà mấy ông nói bậy nói bạ như vậy, đó là mấy ông đắc cái tội vọng ngữ rồi, đại vọng ngữ rồi đó. Mặc dù mấy ông không tự xưng mấy ông, nhưng mà chính là mấy ông đã tạo cái đó là mấy ông đại vọng ngữ.

(30:06) Khi bấy giờ tăng thượng mạn Tỳ Kheo nói với Người rằng: “Tôi đắc đạo xong vẫn tinh tấn tu hành chứng được pháp tối thượng.”

Ở đây là bên cái vấn đề mà lý luận. Một cái người mà đã vọng ngữ để đi tìm cái ăn như vậy là không bao giờ chứng đạo quả A La Hán hết. Họ còn chạy theo cái ăn mà.

Mình bây giờ không có, xin người ta không có, mà thấy trước cảnh nghèo đói của người ta thì mình là người tu sĩ, mình đi vào rừng đào củ mài củ rạng ăn chớ không đi xin nữa.

Xin người ta đói mình không thương, lòng từ bi của mình mà trước cái cảnh đói, thất mùa của người ta mà mình cứ mình đi xin người ta gì? Rồi còn lại dối gạt người ta là A La Hán để cho người ta bỏ gạo, người ta nhịn đói để cho người ta khổ sở, còn mình thì được no, thì như vậy là những người này họ có tu thành A La Hán không?

Ở đây thì trong cái kinh giới này lại nói như thế này nè: Bây giờ chúng ta là tăng thượng mạn, chúng ta nói vậy, nhưng mà chúng ta ráng tiếp tục chúng ta tu chứng quả A La Hán, thì mình đâu có tội vọng ngữ đâu?

Đó là cái lý luận để che đậy, những hạng mà còn chạy theo cái dục lạc ăn uống này, ham thích ăn uống này là không bao giờ chứng quả A La Hán được hết! Không bao giờ ly dục, ly bất thiện pháp mà, làm sao chứng được? Trong cái cảnh khổ mà chúng ta ly được, chúng ta thiểu dục tri túc được ở trong cái chỗ đó thì chúng ta mới thành tựu.

Bởi vì cái mức độ thiểu dục tri túc mà Phật gọi là Thánh thiểu dục tri túc, nghĩa là bây giờ chúng ta có ba y một bát là chúng ta thiểu dục tri túc được rồi.

Nhưng bây giờ cái y chúng ta rách nè, cái bát chúng ta bể nè, thì bây giờ chúng ta chỉ còn có lấy cái lá thốt nốt mà chúng ta gói lại làm cái bát để mà chúng ta chằm lại để mà chúng ta đi xin thôi, cái bát bể rồi bây giờ đâu có! Nhưng như vậy chúng ta vẫn lấy cái lá mà chúng ta vẫn thấy cái chỗ chúng ta là thiểu dục tri túc, không đòi hỏi thêm, không xin thêm.

Bây giờ cái y chúng ta rách rồi nè, mà bây giờ nó mục hết rồi, mà bây giờ chưa có đủ, gặp cái lúc mà dân chúng Phật tử nghèo đói, chúng ta không có dám mở miệng xin thì chúng ta chấp nhận cái sự rách rưới của chúng ta mà chúng ta không có xin, thì cái đó gọi là thiểu dục tri túc.

Cho nên thiểu dục tri túc đến cái mức độ như vậy. Bây giờ chúng ta chỉ còn có cái y thượng mà cái y trung và y hạ chúng ta đã rách hết rồi, chúng ta không còn mặc nữa, mà bây giờ trước cái cảnh đói khổ của Phật tử, của mọi người xung quanh ở đây, họ không có thể cúng dường chúng ta được, cho nên chúng ta cũng chẳng hề mà mở miệng xin, và chúng ta chấp nhận cái tri túc thiểu dục chúng ta.

Cho nên cái tri túc thiểu dục, mà nếu mà nói bây giờ ngày một bữa cơm như mình đây thì mình nói: “Như vậy tui cũng thiểu dục tri túc.” Nhưng chưa!

Ngày mai mình không có cơm ăn, mà mình chỉ có củ mài củ rạng mình ăn thì lúc bấy giờ mình mới thấy thiểu dục tri túc của mình! Rồi ngày mốt mình không có củ mài củ rạng ăn, mình ăn toàn là lá cây rừng mình cũng thiểu dục tri túc, chớ không phải đòi hỏi phải có cơm ăn, phải có củ mài củ rạng.

Có nhiều người thì họ không có cơm ăn, họ có củ mài củ rạng họ ăn thì họ nói thiểu dục tri túc, nhưng mà khi ăn lá cây họ xót ruột quá, bắt đầu họ thiểu dục tri túc không nổi nữa rồi thì bắt đầu họ mới chạy đi tìm. Bây giờ ở trong rừng xa, nguy hiểm ghê gớm mà họ cũng phải vác mai vác cuốc họ đi vô trỏng họ đào đặng kiếm được cái củ mài củ rạng về ăn, thì cái người này chưa phải là tri túc thiểu dục.

(33:07) Phải hiểu được cái tri túc thiểu dục nó đến cái mức độ để mà chúng ta giải thoát chớ! Đời có gì đâu, các pháp đều vô thường, thân này cũng vô thường, tại sao chúng ta còn chấp nó như thế này thế khác, mà phải cực khổ như thế này thế khác để đi tìm củ mài củ rạng?

Đó. Như vậy là rõ ràng là những cái vị tu sĩ này đừng có hòng mà bào chữa họ, rằng có thể họ bây giờ họ tăng thượng mạn rồi họ ráng họ tu thành quả A La Hán thì họ không có phạm tội vọng ngữ. Không! Những bọn này là những bọn dẹp! Đối với Thầy là tu được là được, mà không được thì mấy ông đã sai thì tui đuổi mấy ông ra, bởi vì đây là phạm tội vọng ngữ.

Mấy ông đừng có gạt người ta để mà mấy ông ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta, ăn trên cái sự đau khổ của người ta như vậy! Thì theo Thầy mà trong cái thời Đức Phật là đem cái bọn này là quét ra khỏi tu viện, không có để cho làm Tỳ Kheo nữa, để trở về nó làm ăn đi cho rồi, nó như vậy mới là giới luật của Phật.

Các anh tu, các thầy tu là các thầy phải giữ gìn thiểu dục tri túc. Trong khi người ta đói thì các thầy cũng phải chịu đói với người ta chớ, các thầy lại bày đặt ra để cho mình mập ú lên, người ta đói khổ, thì các thầy nghĩ như thế nào? Từ, bi, hỷ, xả của quý thầy đó!

Giới này có đủ 5 duyên mới phạm tội Ba La Di:

1. Đắc xứ sở Tỳ Kheo;

Tức là Tỳ Kheo đắc giới cụ túc. Mà đã đắc giới cụ túc thì làm sao mà còn phạm?

2. Có người và cảnh, đối tượng, không phải nói một mình;

Có người nghe và mình nói cho người khác nghe thì mình phạm tội.

3. Có cố tâm nói dối thì phạm tội;

4. Thân, khẩu hiện tướng nói dối thì phạm tội.

5. Nói ở trước nhiều người, hoặc một người hiểu biết mà nói không thật thì cái người này có tội.

Nếu không đủ 5 duyên trên thì phạm tội nhẹ.

Nói như thế này thì không phạm tội: Tưởng lầm là mình thật chứng, hiểu sao nói vậy, khi trước người thuyết pháp nói giễu cợt, ở chỗ vắng nói một mình, nói lúc chiêm bao, nói lịu lẫn thì không thành nói dối.

Cái này là còn bào chữa nữa. Thật sự ra những cái kinh giới Thầy đọc tới cái chỗ này Thầy thấy hoàn toàn là họ bào chữa, họ đặt ra họ bào chữa. Nói là nói có ý chớ làm sao mà nói kiểu lầm tưởng mà nói được!

Nhất là nói: “Tui chứng thánh quả” thì không có thể nào nói, nói: “Tui nhập Tứ Thiền, tui làm chủ sanh tử”, thì ông có làm được ông mới nói chớ ông làm không được ông nói cái kiểu đó là coi chừng ông tiêu, tui đem giới ra tui đập ông xuống, tui đuổi ông ra khỏi chùa chớ đừng nói!

Ông nói láo cái điều đó không được. Ông làm được thì ông nói, mà ông làm không được tui bắt ông ngồi đó, ông nhập định không được thì coi chừng ông ngồi chừng 3 tiếng đồng hồ ông ê chân, ông nhảy đi đó thì coi chừng tui! Thì như vậy là ông nói láo rồi, chớ đừng có nói!

Hiểu sao nói vậy, trước người thuyết pháp nói giễu cợt.

Người thuyết pháp, người tu sĩ mà nói giễu cợt, nói chơi, nói đùa, nói: “Tui nhập Tứ Thiền, tui nói chơi chớ tui tôi không có nhập Tứ Thiền!” Nói rồi mà bây giờ nói lại, nói chơi à? Nói giễu với người ta được à? Một người tu sĩ đâu có giễu cợt, đâu có nói chuyện như vậy được?

Rồi nói trong chiêm bao, mình giả đò mình chiêm bao, mình nói đặng mình gạt người ta nữa! Đừng có nói chiêm bao mà nói cái chuyện đó, anh có nhập được định thì anh nhập, anh không nhập được định thì - anh nhập Tứ Thiền làm sao mà anh chiêm bao? Tam Thiền người ta còn hết chiêm bao, bây giờ anh nói anh nhập Tứ Thiền, anh chứng quả Thánh rồi mà anh còn chiêm bao là anh nói láo rồi.

Hầu hết ba kinh giới này nó chẳng biết thiền định cái thứ gì hết, nó nói tưởng là thành chứng quả A La Hán rồi còn chiêm bao à? Hèn chi mấy ông tổ, ông nào cũng còn chiêm bao hết là vậy.

(36:32) Cho nên ở đây thì các thầy thấy rõ ràng là người ta nhập Tứ Thiền người ta ly các hỷ, các trạng thái hỷ, mà các trạng thái hỷ thì chiêm bao là một cái trạng thái hỷ chớ đâu phải là gì khác.

Thế mà không hiểu gì hết, cho nên bây giờ nói trong lúc chiêm bao, nói: “Tui chứng Thánh quả ở trong chiêm bao, tui chứng Tam Minh ở trong chiêm bao tui nói ra.” Chiêm bao mà, làm sao có Tam Minh được mà chiêm bao? Mấy ông đừng có gạt người ta! Chỉ có người người ta tu người ta mới thấy rõ, người ta biết, mấy ông đừng có nói láo!

Bởi vậy kinh giới này, toàn là mấy cái ông này viết tầm bậy chớ đâu có đúng. Nếu mà người ta biết được - cái người mà chứng Thánh quả làm sao có chiêm bao, mà dám nói là chiêm bao, nói mình chứng Thánh quả, có phải là nói láo không? Đó thì đủ biết rằng họ biện hộ, họ che đậy để mà khỏi cái tội vọng ngữ, đại vọng ngữ này.

Ví dụ có người thợ săn đuổi theo một con vật vào cái vườn chùa, hỏi: “Sư có thấy một chúng sanh chạy ngang qua đây không?” Sư bấm ngón tay nói: “Trong giới Chơn Như tôi không thấy một chúng sanh nào hết”. Giới Chơn Như nói là: “Vô Phật chúng sanh chi giả danh, bình đẳng tánh chung, vô tự tha chi bình hình tướng.”

Nghĩa là ông lấy cái giới kêu là Phật Tánh, thì nói như vậy là ông không có phạm giới.

Sự thật ra cái câu chuyện này trong cái thời Đức Phật quá rõ ràng rồi. Ngày xưa Đức Phật tu ở dưới một cái tảng đá trong một cái khu rừng, do đó nhà vua mới đuổi săn một con nai chạy ngang qua đó. Nhưng mà con nai nó chạy ngang qua đó nó lại chui vào cái tảng đá của ông Phật, nó ngồi ở dưới, nó núp ở dưới, thì nhà vua mới chạy đến mới hỏi: “Ông ngồi tu đây ông có thấy con nai tui chạy ngang qua đây không?”

Mà nếu bây giờ ông Phật nói thật thì chỉ con nai ở dưới sau: “Bây giờ con nai nó chui ở sau, cục đá tui ngồi đây, cái hang nó ở sau đó!” - thì ông nhà vua sẽ lôi con nai giết nó đi, thì mang cái tội sát sanh. Mình chỉ cho người khác giết con vật thì tội sát sanh, thì ông Phật không có nói được. Mà nói: “Bây giờ con nai nó chạy luôn rồi, nó chạy tuốt, ông hãy chạy theo nó!” - thì như vậy là gạt người, nói láo, vọng ngữ.

Cho nên ông Phật không có nói như cái kiểu mà nói trả lời như cái ông thầy này, thiệt ông thầy này Đại Thừa thiệt, ổng dám nói cái chuyện đó chớ còn không ai dám nói cái chuyện đó hết. Ổng lấy một cái chuyện Phật Tánh của ổng ổng nói ra, Chơn Như giới của ổng đó, đó là giới Phật Tánh đó, mà ổng nói ra cái chuyện đó.

Còn trái lại, ông Phật rất là giữ gìn đúng giới, không sát sanh mà không vọng ngữ. Nhà vua tức giận cắt tai, khoét mắt, làm tất cả mọi cái, ông vẫn giữ im lặng mà thôi. Chỉ có im lặng mới giữ gìn được giới luật của mình được mà thôi. Còn bây giờ mình muốn sợ chết thì thôi mình đi tu làm gì? Mình đi tu thì mình phải giữ gìn cái giới hạnh của mình là không vọng ngữ, là không sát hại chúng sanh.

(39:13) Thì bây giờ nó kề một lúc mà hai cái giới, làm sao bây giờ? Chỉ chúng ta phải hy sinh mình cho cái chánh pháp, cho cái giới luật tức là chánh pháp chớ gì? Như vậy là hành động của Đức Phật lúc bấy giờ là hành động của một vị chân tu, của một vị đã theo cái giới luật mà làm thầy để nương vào cái sự giải thoát cho chính mình, không hề sợ.

Cho nên các thầy tụng Bát Nhã hàng ngày, hàng đêm “ngũ uẩn giai không”, mà đụng chuyện thì bắt đầu nói để cho người ta khỏi tra khỏi hại mình chớ gì? Cũng là sợ chết đây mới lấy cái giới Chơn Như, cái giới Phật Tánh ra mà nói để cho ông này bắt bẻ không được đặng bẻ qua bẻ lại với ổng thôi, cái ông này trả lời không được cái ổng rút đi đi, đâu có làm hại mình!

Còn ông Phật ngồi đó mà chịu chứ không bao giờ mà lý luận một cách vô cớ như vậy. Còn cái ông sư này ổng nói cái giới Chơn Như của ổng chớ gì, lát ông này hỏi cái ổng đem giới Phật Tánh như thế này thế kia, ông kia luận không được thì bỏ, phải đâu có giết ông được! Cho nên ông này cũng khéo, nói láo mà cũng khéo léo.

Đó là cái lối già hàm lẻo mép của những cái người đó, chớ còn ông Phật vẫn giữ cái hạnh của mình. Chết là chết ở trên giới luật, chết là chết ở trên cái ông thầy của mình, chớ không chết ở cái xảo ngôn, cái lý luận để che đậy, để bảo vệ cái thân ngũ uẩn của mình.

Cho nên đạo Phật phải thấy cái ngũ uẩn của mình là không thật, nó vô thường thật, cho nên nó không dính. Còn cái kia chúng ta thấy tụng Bát Nhã hàng đêm, ông thầy nào mà đến chùa là cũng tụng Bát Nhã hết: “Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, hở một chút nói Phật Tánh à! Để làm gì? Để lý luận để rồi người ta khỏi hại cái ngũ uẩn của mình chớ gì?

Đó là do cái chỗ này mà Thầy thấy nó có nhiều cái lý luận nó không đúng theo cái giới hạnh của một người tu theo đạo Phật.

Trong Luật Tăng Kỳ nói: Thà nuốt lửa than, thà ăn phẩn, đất, thà lấy dao rạch bụng cho chết chớ không nên nói dối mà được sự cúng dường.

Đó, thì ở trong Luật Tăng Kỳ thì nói như vậy, nhưng ở ngoài này thì nó có nhiều cái bào chữa để cho chúng ta phạm giới mà nó không có bị cái tội nặng.

2- MƯỜI BA GIỚI TĂNG TÀN - PHẦN 1

[Phần 2 ở Giáo án 38]

(41:24) II. Kiết giới Thập Tam Tăng Tàn.

Tức là 13 cái giới Tăng Tàn. Hồi nãy đó là 4 cái giới Ba La Di, bây giờ nói 13 cái giới Tăng Tàn.

Tiếng Phạn: Tăng Già Bà Thi Sa, Tàu dịch là Tăng Tàn.

Bốn tội Ba La Di trước có nghĩa là vô dư: Vi phạm một giới thì không còn phương nào cứu chữa được, còn mười ba tội Tăng Tàn này còn có thể nói là hữu dư: Nếu phạm một giới nào còn có thể cứu tội được. Cũng như người bị cắt cổ mà còn cái cuống họng, gặp thầy thuốc hay có thể cứu chữa được.

Không phải một, hai, ba Tỳ Kheo mà phải đủ số hai mươi Tỳ Kheo thanh tịnh mới tác pháp xuất tội này được.

Nghĩa là không phải một hai người vị Tỳ Kheo mà - 13 cái tội Tăng Tàn này mà một, hai Tỳ Kheo có thể xả cái tội, xuất cái tội họ được, mà phải hai chục Tỳ Kheo cà, hợp lại mới có thể xuất 13 cái tội Tăng Tàn này được.

1) GIỚI KHÔNG THỦ DÂM

(42:31) Ở đây thì giới thứ nhất ở trong cái giới này, thứ nhất thì Phật dạy:

1. Giới cấm thủ dâm.

Nghĩa là dâm, mà ở đây dâm với người nữ là dâm dục, còn ở đây là thủ dâm, tự mình hành dâm.

Cho nên có một số tu sĩ chúng ta không có pháp tu hành, rồi cái dâm dục sanh ra mà không có cái sự tu hành, thì do đó cái tuổi thanh niên không có thắng được, mà vì bị gò bó ở trong cái giới luật rồi tự mình thủ dâm, làm cái chuyện rất là bẩn thỉu. Do vì vậy mà cái giới Tăng Tàn này - giới thứ nhất nó là cái giới cấm thủ dâm.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do khi ở thành Xá Vệ, ông Ca Lưu Đà Di dục ý bồng bột, chiều theo ý tưởng dục này, chọc phá nam căn xuất tinh. Các Tỳ Kheo đem việc ấy bạch Phật.

Phật nói: “Thế nào ở trong pháp tu thanh tịnh xuất gia mà cái hạnh nhơ uế như thế được? Ông là người ngu si! Thường ngày dúi tay nhận thức ăn của tín thí, lại đem tay ấn vào chọc phá nam căn!” Phật quở trách rồi cùng họp các Tỳ Kheo mà kiết giới.

Bởi vậy cho nên quý thầy thấy: Một cái người tu sĩ, nam cũng như nữ, khi mà chúng ta đứng chắp tay như thế này, chúng ta chắp tay thế này, hoặc là chúng ta nắm hai bàn tay lại để tập trung tâm mình gom lại ở bàn tay. Đừng có để ở dưới, đứng mà để cái tay đậy cái nam căn của chúng ta như thế này, nó rất là kỳ, ở đó là người ta nhìn thấy người ta đánh giá trị của mình.

Cho nên luôn luôn là tay chúng ta luôn luôn phải để lên trên, cho ở dưới này nó khoảng trống hoàn toàn, vì vậy mà chứng minh rằng chúng ta rất là thanh tịnh.

Và đồng thời khi mà gom tay lại như thế này là chúng ta gom vào, hai bàn tay gom lại, cái ý chúng ta đều gom lại, tâm chúng ta tập trung vào một cái điểm, làm cho tâm nó luôn luôn nó nhiếp phục ở trong, cái tâm không có chạy loạn xạ, nó không có bị dao động ở bên các pháp ở bên ngoài.

Còn nếu mà chúng ta mỏi tay, chúng ta hạ xuống vầy thì nó không đúng oai nghi, mà chúng ta khoanh tay thì nó giống như nho giáo, mà chúng ta để tay xuống dưới cái phần hạ bộ của chúng ta thì coi như chúng ta đậy lại, thì như vậy thấy nó cũng là không thanh tịnh.

(45:04) Cho nên khi mà đứng thì chúng ta phải nghiêm chỉnh, mà chúng ta thấy cái nào đúng, cái nào sai, những cái oai nghi nào đúng, những cái oai nghi nào sai.

Cho nên nói tới đây thì qua cái phần 13 cái giới Tăng Tàn thì nó cũng phải có những cái oai nghi của nó, để khi mà chúng ta đứng trước đám đông hoặc mọi người, cái tay chúng ta để như thế nào để đúng cách là một cái oai nghi của một người tu sĩ.

Có nhiều vị tu sĩ đứng khoanh tay vầy, thì người ta thấy giống mấy ông nhà nho quá, đây là mấy ông học trò lễ rồi! Đứng hầu như là cái người hầu nhà vua vậy thì tức là không có đúng cách rồi.

Rồi bây giờ đứng chắp tay hoài vầy, thì ông này chắc bộ niệm kinh niệm Phật gì hoài, cho nên vì vậy mà nó cũng đâu có phải là cái chỗ mà nhiếp phục tâm của mình, do đó nó bị động ở qua những cái bài kinh, cho nên cái tâm nó không được trụ vào một cái điểm thanh thản của nó.

Do đó chúng ta nắm nó lại như vầy, hoặc là chúng ta nắm như thế này, thì tức là hai bàn tay chúng ta gom lại, tức là gom cái tâm chúng ta lại.

Như chúng ta ngồi thiền thì chúng ta để hai bàn tay, chân khoanh lại, tức là chúng ta gom lại cái tâm, chúng ta gom lại, trụ lại, thân và tâm chúng ta gom lại một điểm cho nó nhiếp phục cái tâm của mình không có bị chạy qua chạy lại.

Và khi mà đứng chúng ta phải gom nó như thế này, hoặc là chúng ta ôm hai cái tay như thế này, để cho cái tâm của chúng ta cũng gom theo hai bàn tay chúng ta lại mà nó không bị động.

Còn chúng ta thả lỏng xuống và chúng ta thả xuôi xuống, chúng ta khoanh tay, đều là nó không có đúng cách của oai nghi của một người tu sĩ đạo Phật.

Vì người tu sĩ đạo Phật luôn luôn phải nhiếp tâm, phải nhiếp tâm trong từng mọi giờ phút, không để tâm chúng ta rong chơi chạy lang thang ở bên ngoài, bởi vì các pháp thường là các pháp cám dỗ nó.

Cho nên chúng ta luôn luôn giữ gìn nó, cũng như mình chăn một con trâu, cũng như mình xem mình chăm một cái đứa trẻ thơ, không khéo thì nó sẽ bị khóc, hay hoặc là bị dơ bẩn, hay hoặc là thế này thế khác, hay hoặc ăn bậy bạ. Cho nên chúng ta giữ gìn cái tâm của mình như là chăm đứa con nít, cũng như chăn một con trâu vậy.

Khi bấy giờ có thầy Tỳ Kheo có loạn ý ngủ mê, ở trong chiêm bao xuất tinh. Khi nghĩ rằng, nghi rằng mình phạm tội Tăng Tàn, đem việc ấy bạch Phật.

Phật bảo: “Ở trong chiêm bao thì không phạm, vì chiêm bao là giả dối, không thật. Nếu chiêm bao là chân thật thì người ở trong pháp Ta tu Phạm hạnh không ai được giải thoát. Vị tất chiêm bao đều không chân thật cho nên người tu Phạm hạnh ở trong pháp ta được dứt hết khổ.”

Ở đây cũng là một cái lý luận của người sau viết. Theo cái sự tu tập theo đạo Phật, khi bước vào thì tức là Đức Phật đã chế cái giới đầu tiên là cái giới dâm, thì cái vấn đề đó là cái vấn đề quan trọng cho tuổi thanh niên, cho cái người thanh niên của chúng ta.

Vì chúng ta phải biết rằng nó có cái sự tàng tinh và cái sự xuất tinh bằng cái mộng, bằng chiêm bao, mà không có chạy theo cái sự ham sắc dục thì làm sao có mộng, có chiêm bao được?

(48:03) Ít ra chúng ta thấy cô này chúng ta cũng nhìn, thấy cô kia chúng ta cũng háy cũng huýt, thấy cô nọ cười mỉm chi với mình là thỏa thích trong lòng rồi, do đó mới chiêm bao, mới nằm mới thấy cô ta mới xuất tinh chớ! Chớ bộ khi không mà xuất được sao? Quý thầy nói cái chuyện!

Là một người thanh niên, từng ở tuổi thanh niên Thầy cũng đã từng biết những cái điều này thì làm gì mà Thầy không biết, sau khi tu đúng giới luật của Phật, hoàn toàn không còn có nữa. Chớ đâu phải là…​

Một cái người mà chưa biết Phật pháp vẫn có mộng tinh. Thấy cô ta đó cười cười mỉm chi với mình, tối nằm chiêm bao thấy cô ta à, đâu có trật. Vì mình thích cô ta là mình thấy, còn không thích làm sao thấy?

Cho nên ở đây không có nghĩa là khi không mà chiêm bao nó hiện đến đâu! Hình ảnh của cô nào có cô nấy trong đó chớ đâu phải khi không mà có được! Bây giờ, từ lâu tới giờ chúng ta chẳng thấy cái mặt của cô gái nào hết, làm sao chúng ta chiêm bao thấy cô gái được? Mấy người nói coi có không? Bây giờ ở trong rừng thấy cọp không à, thì nằm chiêm bao có thấy cọp chớ làm sao thấy cô gái được!

Còn bây giờ chúng ta hàng ngày thấy mấy cái cô cư sĩ son phấn đi vô đi ra cúng Phật, cúng này kia, lạy lễ đồ, nhìn cái bộ mặt của các cô, rồi nhìn cái thân hình của các cô, nó gây cho chúng ta những cái tình dục, rồi do đó ban đêm mới nằm mới thấy các cô, mới xuất tinh chớ, đâu phải là cái chuyện dễ dàng!

Bởi vậy Thầy nói, ở đây kinh sách mà nói thiếu kinh nghiệm, không có cái sự tu tập mà nói như vậy là những cái người này họ chỉ che đậy họ. Chính họ họ cũng biết chớ đâu phải họ không biết, nhưng mà họ tu chưa thấy, họ tưởng rằng thành chứng quả A La Hán còn xuất tinh. Trời! Họ nói cái kiểu đó! Mộng không còn có nữa mà xuất tinh, làm sao xuất?

Bởi vì khi người ta tu rồi, cái tâm người ta không còn duyên ra cái cảnh ngoài, cho nên lúc bấy giờ luôn luôn lúc nào người ta cũng phòng hộ sáu căn, người ta giữ gìn. Mới đầu người ta phòng hộ, sau đó nó thấm nhuần được, rồi cái Định Vô Lậu người ta đã quét sạch được cái tâm ái, tâm tham dục của người ta hoàn toàn nó không còn có nữa, thì toàn bộ cái thân người ta rất thanh tịnh, không bao giờ nó tập trung tầm bậy do cái dục đó mà nó làm sao nó xuất được!

Cho nên hoàn toàn cái thân người ta rất thanh tịnh, cho nên người ta mới đi vào Bốn Thiền được chớ đâu phải là nó còn bất tịnh như vậy mà làm sao nhập! Thân còn xuất tinh mà biểu nhập định. Nhập khỉ họ, Thầy nói nhập khỉ!

Cái thân người ta thanh tịnh người ta mới nhập được, cái thân mà còn dơ bẩn, sáng dậy một đống thì kiểu đó thì đem đó mà đem mà giặt rửa, đem mà quét ra đi, tu tập trở lại đi chứ đừng có nói chuyện mà nhập định!

Cho nên ở đây chúng ta phải thấy từng cái thân tâm của chúng ta tu tập nó phải thay đổi. Bởi vì mình thở chậm thì cái thân của mình nó phải thay đổi theo kiểu chậm. Mà nó thay đổi nó đâu phải nằm ở cái dạng bình thường này nữa đâu, cho nên nó đâu có theo cái kiểu thế gian được. Từ đó cái tâm của chúng ta không còn luyến ái thì làm sao mà có sắc dục được!

Cho nên ở đây hầu hết là người ta chỉ luận như vậy để che đậy những cái tội người ta. Nói là Phật nói là chiêm bao không tội chớ người nào mà chiêm bao xuất tinh Thầy nói cũng là dâm dục đó, nhưng mà gián tiếp mà thôi.

Ban ngày mình thấy người ta mình thương yêu, ban đêm mình nằm mộng, tức là mình tưởng ra cho thỏa mãn cái tâm sắc dục của mình chứ cái gì! Nó là một cái sự thật như vậy.

Nếu mà mình không có thích thú làm sao mà có chiêm bao được? Mình đi đòi hỏi, mình ham muốn, thì như vậy ban ngày mình không dám đụng họ thì ban đêm mình phải thực hiện qua cái tưởng của mình nó lưu xuất ra cô này để cho mình đụng chạm, mà mình đụng chạm người nữ thì nó xuất tinh chớ gì!

(51:20) Nếu để người nữ nắm trước, nắm sau, Tỳ Kheo động thân xuất tinh bất tịnh thì phạm tội Tăng Tàn.

Cái này rõ ràng là hai người đã là đụng chạm với nhau thì cái chuyện đó là cái chuyện phải tội rồi chớ còn cái gì nữa. Còn chiêm bao thì không tội thì đó là Thầy mới nói, chớ sự thật ra chiêm bao cũng tội thôi, không có cái gì mà không tội hết.

Nhưng chúng ta phải biết tu tập. Nghĩa là mới bắt đầu, người cư sĩ mới vào chùa mà tu tập thì dạy như thế nào để cho người ta tu tập, người ta hoàn toàn là giữ được cái thân người ta thanh tịnh.

Đến khi một chú Sa Di vào thì chú Sa Di này đâu còn ở trong cái tội Ba La Di đâu, thì cái chú này mới có tội Đột Kiết La mà thôi, sám hối thôi. Do đó thì bây giờ dạy cái chú này, chú còn nhỏ phải dạy chú cách thức tu tập, từng đó chú lớn lên chú làm sao chú có mộng? Chú làm sao mà chú - từ khi mà chú thọ cụ túc rồi thì hoàn toàn là thân chú thanh tịnh rồi.

Mà dạy không đúng thì cho nên tới chừng mà chú thọ Tỳ Kheo, thọ cụ túc giới rồi, thân của chú bắt đầu nó phát triển, bắt đầu nó lớn như con voi rồi, hay hoặc là lớn như con trâu rồi bắt đầu từ đó cái tâm dục nó còn mạnh hơn nữa, thì lúc bấy giờ thì nó phải xuất tinh chớ làm sao mà trật khỏi được!

Còn bắt đầu cái chú còn nhỏ kia nó chưa bao giờ có xuất tinh, mình đã dạy cách thức chú để tu tập rồi, cho nên bây giờ chú đâu có thèm ngó người con gái đâu, mà chú có thấy người con gái là chú thấy một đống thịt thúi, chú thấy một cái xương trắng đó chớ chú có thèm mà chú ngó đâu!

Còn mình không dạy, cho nên từ từ chú lớn lên chú thấy con gái là đẹp, chú thấy con gái là thích. Do mình dạy sai, cứ đem ba cái giới rồi nói sắc nói này nói kia, dâm dục này kia, nói suông suông vậy à, còn không dạy người ta tu tập cho nên người ta làm chủ sao được!

Mà người ta làm chủ không được thì người ta thấy con gái người ta phải thích thôi. Nam giới với nữ giới, hai cái giới này nó thấy nó như nam châm nó hít thì làm sao mà - mình không có pháp tu thì nó làm sao không hít! Mà nó hít thì nó phải xuất tinh thôi chớ làm sao mà tránh đâu khỏi.

Cho nên Thầy nói thẳng, nói thật, nó làm cho đụng chạm quý thầy xét thấy mình tu chẳng ra gì hết! Bởi vì xét qua mình chẳng có gì hết thì tức là mình còn ở trong cái chỗ thấp.

Nhưng mà thà là mình còn ở chỗ thấp, một chú Sa Di mà mình luyện tập cho đến khi mình thọ cụ túc hoàn toàn là thanh tịnh, mình mới trở thành một vị tu sĩ xứng đáng. Một Tỳ Kheo là phải xứng đáng thanh tịnh chớ, một Tỳ Kheo gì mà còn bất tịnh quá vậy sao được?

Cho nên cũng từ cái ăn cái ngủ của quý vị, mà quý vị cố ăn cố ngủ thì nó phải có cái tâm sắc dục, nó phải ra. Còn quý vị ăn vừa phải, ngủ vừa đúng, tu tập đúng cách thì làm sao mà có tâm sắc dục được, thì làm sao mà quý vị mộng tinh được?

Nếu tự tay mình nắm vuốt làm vui, mò rớ khiến nó xuất tinh thì đó là thọ tội Thâu Lan Giá.

Nếu mà thấy cầm thú giao hội, tâm dục khởi lên, xuất tinh, thì nên tự trách tâm mình.

(54:06) Tức là tự sám hối đó. Thì ở đây hoàn toàn là cái người tu hành làm sao mà đi nhìn cái con vật mà đang giao cấu với nhau không? Phòng hộ sáu căn của mình, đi ra thì ngó xuống sợ đạp kiến rồi, phải không?

Làm sao mà có thể nói rằng luôn luôn một cái người dè dặt, cẩn thận tu tập - nhất là những người mới tu là càng phải phòng hộ sáu căn, đó là những cái pháp đầu tiên của cái người mới vào tu theo đạo Phật thì phòng hộ sáu căn là cái pháp duy nhất để cho cái người đó tu tập - thì tất cả những cái sự kiện mà xảy ra xung quanh, chúng ta đâu còn để ý nữa. Mà để ý thì tâm chúng ta còn yếu tức là nó bị dính mắc làm sao?

Đó, thì cho nên ở đây nó nêu ra những cái tội nhẹ tội nặng để chúng ta thấy, chớ riêng Thầy, nếu mà kết thì chúng ta kết ngay liền những cái người mà không có đúng. Vào tu thì cái ông thầy phải dạy cái người đệ tử của mình đúng cách ngay từ lúc đầu để cho người ta phá cái tâm dâm người ta liền tức khắc.

Bởi vì do dâm dục mà có con đường sanh tử, mà ngay đó mà không có dạy người ta những cái pháp để người ta đối trị thì tức là đưa người ta đi đến chỗ chết, càng ngày càng phạm giới của Phật, thì nói đuổi người ta ra vô là tại lỗi mình chớ, tại lỗi ông thầy chớ!

Loạn ý mà ngủ là có năm điều tội:

1. Có chiêm bao xấu;

2. Chư Thiên không ủng hộ;

3. Tâm không thâm nhập Phật pháp;

4. Không nghĩ minh tướng;

5. Ở trong chiêm bao xuất tinh.

Còn thiện ý mà ngủ là có năm công đức trái ngược trên.

Ở đây người ta cho rằng năm cái điều này là tại vì - năm cái điều tội lỗi mà do mình loạn ý cho nên chiêm bao. Sự thật đây là một cái lý của họ, họ nói một cái lý thôi, họ nêu ra năm cái điều này là cái lý chớ không phải là cái hành, cái lý pháp chớ không phải cái hành pháp.

Họ nói mình loạn ý, nhưng mà làm sao người ta không loạn ý? Anh dạy cái pháp nào cho người ta không loạn ý chớ! Còn anh để anh nêu ra bây giờ có chiêm bao xấu nè, chư Thiên không ủng hộ nè, tâm không thâm nhập Phật pháp nè, anh dạy làm sao tâm người ta thâm nhập Phật pháp?

(56:10) Bây giờ anh không dạy người ta gì hết, anh bảo như vậy người ta biết làm sao mà tâm không nhập Phật pháp, chư Thiên làm sao không ủng hộ người ta, rồi có chiêm bao làm sao lại là - làm sao cho hết chiêm bao?

Anh không dạy người ta cách thức để người ta tu tập, thế mà anh cứ đem cái lý luận không à, anh luận ra như vậy, anh nói như vậy, rồi anh cho đó là kết tội người ta. Thì cái này là cái lỗi của người dạy, cái người mà viết ra kinh sách này là cái lỗi, nó không đúng.

Phải có pháp hành cho người ta chớ! Bây giờ anh muốn thoát ra khỏi cái tâm mà - cái giới luật này anh phải tu vậy vậy đó…​ thì làm sao anh có những cái lỗi này? Đâu làm sao anh có năm cái lỗi này?

Còn ngược lại thì còn năm cái:

Còn thiện ý mà ngủ có năm công đức trái lại nghĩa trên.

Nghĩa là trái ngược lại cái nghĩa trên này là năm cái thiện ý. Nhưng mà làm sao người ta có cái pháp nào người ta thực hiện được năm cái thiện ý này?

Thì bằng chứng là anh chỉ nói lý thôi chớ còn thật sự anh chưa có cái hành, cho nên anh chỉ nói người ta vậy, người ta cũng chẳng biết đâu làm, mà chính anh nói cái này ra anh cũng chẳng biết đâu anh làm hết. Anh viết ra là viết ra chớ anh chưa biết gì hết.

Đó thì trong những cái lời dạy của Thầy ở trong cuộn băng, hầu hết là Thầy đập phá xuống cái nói lý mà không có hành pháp, mà lý pháp nói ra cái này cái kia, đặt ra cái lý thì nói, mà cái hành để cho người ta đạt được cái chỗ đó thì không có nói ra được.

Cho nên tất cả những cái này thì chúng ta phải biết rằng: Một cái người mà dạy đạo Phật là lý pháp và hành pháp phải nắm cho vững mới dạy người ta. Còn mình có cái lý pháp, mình nói khơi khơi ở trên mây xanh á, rồi cái hành pháp không có, rồi mình bảo người ta nằm chiêm bao xuất tinh nó không có lỗi, thì như vậy là mình bào chữa, mình không có lý cái hành pháp, mình bào chữa như vậy là cái sai.

Nếu ban ngày anh không huân cái tâm ham muốn đó thì làm sao ban đêm anh chiêm bao? Cho nên nói tội người ta thế này, nói tội người ta thế kia được mà không có lý để cho người ta thoát ra cái tội thì cái đó là cái không đúng của Phật pháp.

2) GIỚI KHÔNG CÙNG NGƯỜI NỮ XÚC CHẠM NHAU

(58:04) 2. Giới cùng người nữ thân xúc chạm nhau.

Đó bây giờ kết cái giới này nữa.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do xưa Phật ở nước Xá Vệ, khi bấy giờ ông Ca Lưu Đà Di nghe Phật cấm không được chọc nam căn, đợi phụ nữ đến phòng, vì dục ý mà rờ mó, hôn hít. Các Tỳ Kheo đem việc này bạch Phật. Phật kêu ông Ca Lưu Đà Di đến quở trách rồi họp chúng Tỳ Kheo lại kiết giới.

Cho nên có một cái trường hợp là Thầy nghe ở trong báo công an có đăng, có một vị thầy bị bắt. Họ nói giới luật của Phật là không có cấm vị Tỳ Kheo có vợ, cho nên vì vậy đó vị Tỳ Kheo vẫn có vợ được như thường. Do nói như vậy thì cái báo công an nó cũng viết ra cái lời nói như vậy.

Thầy thấy thiệt là cái ông này, không biết ổng này tu cái hạng nào mà ổng đặt ra ổng nói như vậy, Thầy cũng chẳng biết là sao hết! Đã ly gia cắt ái là không còn cái chỗ ái dục, không còn cái thương ghét nữa, thế mà còn có vợ được thì Thầy không biết - như vị Tỳ Kheo đó ra cái gì Thầy không hiểu!

Đó, thì bây giờ cái ông này đó, ông Ca Lưu Đà Di này ổng nghe Phật cấm không có thủ dâm, thì ổng đợi cái người phụ nữ đến phòng ổng rồi hôn hít. Thì ổng nói rằng Phật dạy như vậy, không có - cấm thủ dâm nhưng mà người phụ nữ đến phòng mình hôn hít được. Thì giống như cái ông thầy kia vậy đó, cái kiểu này thiệt là nó ngược ngạo lại với Đức Phật.

Dục ý là gì? Dục ý là sao? Là tâm sanh ái nhiễm; xúc chạm với người nữ từ tóc cho đến chân của người nữ; nắm, kéo, xô, đẩy, đạp trên lưng người nữ mà sanh tâm nhiễm đắm; hoặc người nữ đạp trên thân phần của người Tỳ Kheo; hoặc bóp tay, bóp chân, đấm lưng; hay là y vật ngăn cách, tùy theo xúc chạm hoặc nhiều hoặc ít đều bị phạm tội Tăng Tàn.

Nếu cả hai có y vật ngăn cách mà xúc chạm thì chỉ phạm tội Ác Tác, hễ xúc đến thân người nữ thì phạm tội hữu dư. Nương dựa vào người nữ như ghế, giường mà khởi động dâm tâm thì phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu người nữ lễ Tỳ Kheo nắm chân hôn, Tỳ Kheo xúc tâm thọ lạc thì bị tội Tăng Tàn.

(01:00:39) Chuyện công chúa hôn chân thái tử:

Tiền thân của Đức Phật làm thái tử tìm ngọc báu. Trước khi đi, nàng ôm chân thái tử khóc vì sợ chàng bị chết nơi bí hiểm ấy, nhưng chàng quyết chí ra đi. Tìm được ngọc trở về, thấy nàng hấp hối mà không có gạo rang để nấu nước cho nàng uống, chàng liền lấy ngọc đổi bằng một lon gạo để cứu nàng khỏe mà không tiếc viên ngọc đáng giá tiền của cả nước mới so được.

“Cái phước vì lòng từ bi cứu công chúa ấy không bằng một hạt sương mốc trên ống chân con nai trong rừng để so với cái phước của Ta tìm ra được đạo cứu đời hôm nay.”

Nghĩa là Đức Phật vì cái - người ta nói cái tiền kiếp của Đức Phật với bà vợ của ông ta là Da Du đó, là trước khi mà đi tìm cái viên ngọc như vậy đó thì bà ta khóc sợ ông đi tìm như vậy là ông sẽ vào cái nơi nguy hiểm mà không tìm được. Nhưng mà khi tìm được cái viên ngọc đó…​

Bà ôm chân ông ta bà khóc lóc như vậy, do cái sự xúc chạm như vậy đó mà đến khi mà về rồi đó, thì cái viên ngọc đó đối với ông Phật - lúc bấy giờ ổng tìm được rồi, ổng thấy không còn quý nữa là khi lúc bấy giờ cái nạn đói khổ, người ta không có gạo mà ăn. Cho nên ông đem cái viên ngọc đó mà đổi lấy một cái bát gạo để về mà nấu cháo hay hoặc là nấu cơm cho cái người vợ này ăn đó, thì vì cái lòng từ bi cứu như vậy do đó nó mới có cái tiền kiếp, mà sau cái đời này được gặp Đức Phật mà thành vợ thành chồng đó.

Thì trong cái giới này nó đem diễn tả như vậy, là nói như vậy có nghĩa là người phụ nữ mà ôm chân cái người chồng như vậy là không có phạm cái tội. Nó muốn lấy cái cớ đó để nó nói như Đức Phật làm như vậy là không có phạm tội.

Nhưng sự thật ra thì theo Thầy nghĩ là như Đức Phật lúc bấy giờ là một cái chàng công tử hay là một cái vị vương tử đi, có một cái người vợ như vậy thì đó là cái tình cảm của người ta, người ta còn là cư sĩ có gì là phải tội mà đem nêu vô chỗ này?

Thì đây là một cái biện luận bằng cách là đem cái câu chuyện này biện luận ra, một cái người cư sĩ với một người tu sĩ Tỳ Kheo thì Thầy thấy nó có như thế nào đâu? Nó đâu có cái gì đâu, mà ăn nhầm nhò gì chỗ này mà gọi là tiền kiếp của Đức Phật với nàng Da Du như thế đó!

(01:03:13) Thì lẽ đương nhiên là tình nghĩa vợ chồng, bây giờ người ta tìm cái ngọc này để nữa sau người ta về người ta làm giàu làm có với nhau, thì cũng nuôi vợ nuôi con thôi, có gì đâu, mà đem ra chi cái câu chuyện như vậy để mà luận cái chỗ dâm dục, cái chỗ người phụ nữ mà ôm chân ông thầy rồi khóc hay hoặc là hôn hít cái chân ông thầy.

Hôn hít cái chân ông thầy mà ông thầy đắm nhiễm thì ông thầy tội rồi chớ còn cái gì! Còn cái người cư sĩ này, cái bà này bả ôm chân chồng bả, bả hôn hít thì kệ bả chớ ăn thua gì mà đem cái chỗ này? Bày đặt!

Bởi vậy mấy ông thầy viết giới luật mà đem cái chỗ này để so sánh Thầy thấy không có đúng. Mình so sánh ông tu sĩ thì khác mà đem so sánh ông cư sĩ thì khác rồi.

Bởi vậy hai cái lộ trình mà Thầy vạch ra, cư sĩ nó khác rồi. Cư sĩ không tà dâm nghĩa là không có lấy vợ bé, vợ mọn làm cho gia đình mình khổ đau, không có làm hại gia đình người khác. Còn tu sĩ thì hoàn toàn là phải dứt dâm, đó là cái đường lối mà không còn sanh tử luân hồi.

Lại đem cái câu chuyện này thì Thầy thấy ra: Mấy ông viết giới này không có biết cách cho nên viết như vậy để bào chữa cái tội dâm tầm bậy.

Như vầy thì không phạm: Khi nhận lấy vật cho chạm vào nhau; hoặc trượt chân ngã nhằm người nữ; hoặc người nữ té xuống sông, rơi trong hầm, trong lửa, hoặc người nữ ăn nhầm thuốc độc tự đâm cổ, cắt cổ, vì lòng từ cứu tế họ khỏi mà tâm không xúc động thọ vui thì không phạm.

Thật sự ra, Thầy nói thật sự ra phải đúng là cái người mà tu xong rồi thì khi xúc chạm nó không động. Còn cái người mà tu chưa xong, mà từ nhỏ tới lớn chưa có đụng cái người nữ, rờ tới nó là nó rung thân rung tâm của mình hết rồi. Nó có cái sự dao động rất mạnh về cái tâm dục, nó không phải thường đâu.

Cái da thịt của người nữ coi vậy chớ nó kỳ cục lắm. Thầy nói mấy ông phải cố gắng tránh nó chớ không phải là…​ Nó là rắn độc! Phải sợ nó lắm chớ không phải là chuyện thường đâu. Bởi vậy nó không có đơn giản được đâu. Con mắt thấy nó ở xa mà nó cứ nó ngó, nó không có chịu ngó chỗ khác, đó là đủ biết nó có sự thu hút dữ lắm.

Cho nên trong kinh Tăng Chi Phật nói: “Ta không thấy một pháp nào mà cám dỗ, thu hút người nam bằng sắc của người nữ, bằng da thịt của người nữ, bằng mái tóc của người nữ, bằng tiếng nói của người nữ!” Thiệt là đúng lắm chớ không phải không đúng đâu. Nguy hiểm lắm chớ không phải không.

Bởi vậy họ rớt sông, rớt hầm lửa, họ rớt gì rớt, chờ cái ông nào mà tu xong thì mới dám nắm tay họ, chớ nắm cứu họ rồi, về cái ơn cái tình nghĩa đó nó cứ theo nó quy y ông thầy đó hoài, chắc chết ông thầy luôn! Thật sự mà! Thầy nói thật, cái đó là không phải đơn giản đâu.

Cho nên trong cái bước đường tu tập chúng ta phải dè dặt lắm, dè dặt. Nhất là chúng ta muốn cứu người, chúng ta phải suy nghĩ rất kỹ. Một khi mà chúng ta đã nắm tay nắm chân rồi, về chúng ta quán xét hết sức để mà xả, phải xả cho thật sạch, chớ không phải đơn giản đâu. Nó nhớ muôn đời.

Rồi cái người mà đã được chúng ta cứu đó, họ được cái ơn đó, họ muôn đời họ đi tìm chúng ta, họ không bao giờ mà tha chúng ta chút nào hết, từ cái chỗ đó nó đi đến cái chỗ mà làm chúng ta tu hành nó chẳng đi được đến đâu đâu, nó khổ lắm.

(01:06:25) Bởi vậy, biết được đạo, hiểu được đạo, rất sợ. Một vị thầy mà nhận người đệ tử vô tu rồi, người ta dạy độc cư là độc cư một trăm phần trăm.

Nghĩa là vị thầy làm cái bóng, cái tàn cây bồ đề, làm cái hàng rào vững chắc cho các đệ tử của mình để giữ gìn, để dạy các pháp tu một năm, hai năm cho đến ba năm, thân tâm thanh tịnh rồi thì vị thầy đó thả cho mình đi ra. Người ta thấy được người ta thả cho mình ra.

Cho nên các thầy nhớ, trong cái thời Đức Phật, nếu mà cái vị đó chứng quả A La Hán xong rồi, thì xin về gia đình mà thăm thì Đức Phật chấp nhận liền. Mà chưa chứng quả A La Hán, xin Đức Phật không dám cho.

Đọc lại trong kinh chúng ta thấy cái điều này rất rõ. Bởi vì khi mà cho về rồi thì nó bị đắm nhiễm liền, nó không thể nào, bởi vì tu chưa xong, nó dễ bị cám dỗ trong gia đình chúng ta lắm.

Trong luật Thiện Kiến nói: Nếu người nữ đập Tỳ Kheo, Tỳ Kheo khởi dục tâm thọ lạc thì phạm tội Đột Kiết La. Nếu người mẹ lâu ngày đến thăm nắm tay mừng rỡ, hoặc chỗ đường hẹp như ở trên xe bị dằn, miệng chạm đến môi người nữ thì không phạm. Nhưng khi nương qua sông, không được cưỡi các con vật như voi cái, trâu cái, ngựa cái.

Ở trong kinh giới mà Phật dạy như vậy, thì chúng cũng vẫn thấy rằng có thể trước một con vật cái tâm chúng ta cũng dễ bị xúc động lắm về cái tâm dục chớ không phải không đâu. Cho nên chúng ta tránh không được cưỡi voi cái, ngựa cái, trâu cái, tất cả những cái loài vật.

Sự cứu người nữ của Tỳ Kheo và Bồ Tát: Nếu người nữ rơi xuống nước cầu cứu, cứu nó Tỳ Kheo khởi tưởng như đất, nắm kéo lên thì không phạm.

Trời ơi! Nói cái chuyện mà tưởng như đất thì Thầy thấy khó mà tưởng lắm. Bây giờ tưởng không kịp đâu. Muốn cứu người mà bây giờ tưởng như đất rồi cứu thì không kịp. Chỉ bấy giờ chúng ta nắm kéo lên cứu, rồi về chúng ta mới đặt niệm mà quán, quán ngày quán đêm cho nó trôi ra đó thì thời may.

Và từ đây về sau đó, cái vị tu sĩ mà nắm kéo được cái người nữ mà cứu họ khỏi chết đuối rồi đó, thì bắt đầu cái vị đó bây giờ ở cái chùa đó rồi, ai cũng biết rồi, thì nên xin đến cái chùa khác ở đi. Đó là cách thức tốt nhất.

Còn nếu ở cái chùa đó thì vài ngày cái cô này thế nào cũng tới cái chùa đó kiếm á, thì có đường là cô này sẽ xỏ mũi ông thầy này dẫn ra chớ không có trật. Cho nên khi mà về rồi đó, thì bắt đầu cái ông thầy này phải đi cái chỗ khác ở chớ không có được ở cái chùa đó nữa.

(01:09:00) Mà cái ông thầy mà ở tại chùa đó làm cái vị lãnh chúng ở đó biết như vậy rồi, cái vị thầy mà đã cứu cái người chết đuối hay hoặc gặp tai nạn nào đó mà cứu cái người nữ sống rồi đó, thì cái vị thầy đó tìm cách đưa cái vị đệ tử của mình đi đến cái chỗ khác ở chớ không được ở chỗ đó nữa.

Nghĩa là cái cô này mà lấn quấn, lấn quấn đi đến đây tìm cái ông thầy mà cứu mình, hỏi riết không được thì cô này cổ buồn bã lắm, nhưng mà buồn có một hồi thôi rồi sau đó cổ hết buồn. Đó thì như vậy thì vừa cứu khổ mà vừa là giải thoát được cho người đệ tử của mình, chớ không khó lắm.

Còn Bồ Tát khi bấy giờ nắm áo, nắm tay kéo lên, không lựa chọn chỗ nào, chỉ cần sẵn lòng từ bi cứu khổ, người sống là được.

Bồ Tát thì ngon lắm, chúng ta không dám sánh Bồ Tát đâu! Bồ Tát thì ôm chỗ nào cũng được hết không có phạm lỗi, cho nên ổng ôm chỗ nào cũng được. Còn chúng ta là những vị Tỳ Kheo, những cái người mà tu Tiểu Thừa đó, nhỏ lắm, chúng ta sợ lắm, đụng tới chỗ nào là nó dính chỗ nấy hết, cho nên chúng ta phải cố gắng mà giữ gìn. Khi có hữu sự như vậy, cứu người rồi thì chúng ta rời khỏi chỗ đó.

Cũng như khi mà chúng ta có cái công chuyện gì mà chúng ta độ, thị hiện cái thần thông. Thị hiện thân thông rồi thì lúc bấy giờ chúng ta cũng rời ngay khỏi chỗ đó, đừng có để ai biết tung tích của mình nữa, vì có sự thần thông là có sự cung kính rất lớn.

Cho nên hai cái phần này, cứu người, nhất là người nữ, thì cũng phải rời khỏi cái nơi mà chúng ta ở, và thị hiện thần thông thì cũng phải rời khỏi cái chỗ chúng ta ở và mai danh ẩn tích, không để lộ tung tích nữa. Đó thì, một cái người tu sĩ của Phật giáo chân chính là như vậy.

Còn chúng ta chưa có lộ gì hết thì thư thả mà cứ ở chỗ nào cũng được hết, mà hễ lộ ra rồi thì không được. Mà hễ cứu người rồi thì cũng không được ở chỗ đó nữa, phải di chuyển ở chỗ khác, để cho con đường tu tập của mình đi tới nơi tới chốn. Còn mình ở chỗ đó là không tới nơi tới chốn nữa, và chúng ta sẽ gặp ác pháp, và con đường tu hành chúng ta sẽ bị gián đoạn.

Khi bấy giờ Đức Phật dạo đi trong nhân gian, trông thấy đống lửa bùng cháy, bảo các thầy Tỳ Kheo: “Giả sử có người nắm lửa mà rờ mó, hôn hít liền cháy da, thịt, gân, xương tiêu hết, nếu lại có người nắm con gái của họ rờ mó, hôn hít, thì hai cái sự này, sự nào hơn?”

Các vị Tỳ Kheo bạch: “Theo người đời nắm con gái của họ hôn hít là hơn. Nếu mà nắm lửa thì bị cháy da, cháy thịt, gân, xương tiêu hết, đau khổ không thể chịu được.”

Phật bảo: “Thà nắm lửa mà hôn lửa cho gân xương mình tiêu hết còn hơn. Vì sao? Vì không do nhân duyên này mà chịu đoạ trong ba đường ác.”

Nghĩa là mình nắm lửa cho nó cháy gân cháy xương mình đi mà mình không có đọa ba đường ác, còn mình nắm cô gái mình hôn hít thì cái nhân duyên này mình sẽ đọa vào trong ba đường ác mà không có thể mà thoát ra khỏi.

Đó thì trong cái giới thứ hai là như vậy, đến đây là cái giới thứ ba, quá nhiều.

3) GIỚI KHÔNG NÓI LỜI LẲNG LƠ, THÔ XẤU

(01:12:23) Giới thứ ba:

3. Giới nói lời lẳng lơ, thô xấu.

Vì sao Phật kiết giới này?

Do cái duyên trước, xưa Phật ở nước Xá Vệ, khi bấy giờ lại cũng do ông Ca Lưu Đà Di nói lời dâm dục thô xấu với người nữ là kể nói hai đường tiểu tiện, dâm dục tương đương với nhau. Các thầy Tỳ Kheo bạch Phật. Phật gọi ông Ca Lưu Đà Di quở mắng, rồi họp chúng Tỳ Kheo lại kiết giới này.

Nói lời lẳng lơ…​

Tức là nói tục tĩu đồ đó.

…​ thô xấu như thế, nói mà rõ ràng là phạm tội Tăng Tàn. Nếu vì người nữ mà nói pháp bất tịnh hay nói luật lần lượt đến đây, như nói về nhũ…​

Là vú của người nữ đó.

…​ nữ căn hay hoặc nhũ, hoặc nói trong chiêm bao thì không phạm.

Thật sự ra thì ở đây cứ luận là chiêm bao thì không phạm, còn mình nói, ngồi đây mình nói cái chuyện này kia nọ về cái phần hình sắc của cái phần dâm dục, và những cái lời tục tĩu, nói cái lời nói không đúng thì coi như là cái người đó phạm lỗi.

Theo Thầy nghĩ rằng cái người mà có cái tâm mà hay nói vậy là cái tâm dục họ rất mạnh. Và cái tâm dục rất mạnh thì cái người này thôi đừng có tu mà hãy về cuộc đời đi, sống với cái cuộc đời cư sĩ đi, chứ vô mặc chiếc áo này mà còn khởi tâm mà miệng nói ra thì cái ý nó tan nát hết rồi, nó không còn nữa.

Ngồi đây mà tưởng ra cái hình ảnh cái nữ căn, rồi tưởng ra cái hình sắc của người nữ khiêu dâm bằng eo, bằng vú, bằng mồm của họ, thì Thầy thấy toàn bộ là những cái người mà tu như vậy thôi đừng có đi tu theo đạo Phật đi! Đạo Phật không có chấp nhận những cái người đó.

(01:14:22) Mà cái ý mà đã như vậy rồi, tới cái miệng nói ra thì còn cái gì nữa? Đâu có còn cái gì mà tu hành nữa! Thì cái vị Tỳ Kheo này thôi xin ra đi cho rồi, chớ còn để họp chúng đuổi ra thì xấu hổ quá xấu hổ.

Nếu người nữ nói lời tục tĩu ấy, thì Tỳ Kheo nhận mà vui theo, tuy không nói ra cũng bị phạm tội hữu dư.

Nếu ở trong cõi nước mình nói lời thô ác song không phải chỗ kiêng cữ đều không phạm. Gặp những chữ cần kiêng cữ thì phải nên để ý.

Như chữ “giới” mình nói chữ “giái”, ở Nam thì nói “chiếc ghe” nhưng ở Bắc thì nói “nữ căn”, ở “Bắc Câu Lưu Châu” thì nói “Bắc Cu” thì cái đó, chữ “Cu” thì không có được nói, những cái danh từ đó mình không được nói.

Do đó thì ở đây trong giới luật, mình nói những cái từ để chỉ những cái căn - nam căn và nữ căn á - thì không nên nói, cho nó gợi lên những cái ý, cái suy nghĩ cho người khác, thì cái đó là không nên nói.

Thì ở đây là cẩn thận, bởi vì Phật nói mình phải phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân ý của mình. Phòng hộ miệng mình gì? Mình phòng hộ là mình đừng có nói tầm bậy tầm bạ.

Mà ở đây còn nhắc nhở cái gì? Nội cái pháp hành của chúng ta, nội cái giới hành của chúng ta là phòng hộ sáu căn là chúng ta cũng đã thấy đủ rồi, thì cái người này làm sao có những cái phạm này đâu?

Cho nên những cái giới nó dạy bằng thừa. Khi mà chúng ta học đến cái giới hành, mà trong cái giới kinh của Phật thì chúng ta thấy cái pháp phòng hộ sáu căn nó đầy đủ, cần gì phải nhắc ra như thế này, để nó thành ra cái giới bổn quá nhiều mà bằng thừa của người ta.

Người ta chỉ cần có thực hiện cái pháp phòng hộ sáu căn là người ta đã thanh tịnh được, thân, khẩu, ý của người ta quá thanh tịnh rồi, nó đâu có phạm phải!

4) GIỚI KHÔNG KHEN MÌNH ĐỂ ĐÒI CÚNG DƯỜNG

(01:16:11) 4. Giới khen mình, đòi cúng dường.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do khi bấy giờ Phật ở trong thành Xá Vệ, ông Ca Lưu Đà Di có ý dâm dục, ở trước người nữ tự khen mình là dòng trưởng giả, tu hạnh thanh tịnh, bảo người nữ nên đem sự dâm dục ấy mà cúng dường cho tôi.

Trời ơi cái ông sư này quá tệ! Thầy thấy thôi thôi thôi, cái này là mấy ông giáo chủ rồi chớ không còn nhỏ nữa đâu!

Các thầy Tỳ Kheo hay biết việc ấy, sự tình như vậy, mới đem đến bạch Phật. Phật kêu ông Ca Lưu Đà Di quở mắng rồi họp chúng lại mà kiết giới: Đây là đòi sự cúng dường phi pháp. Nếu ở trước người nữ khen mình, nói rõ ràng thì phạm tội Tăng Tàn, nói mà không rõ ràng chỉ phạm tội Thâu Lan Giá.

Ở đây, những cái này thiệt ra thì Thầy thấy, cái người tu sĩ làm sao mà ăn nói được cái chuyện này! Chỉ có những cái tay mà kêu là mượn chiếc áo đạo mà đi tạo những cái chạy theo cái dâm dục của cuộc đời mới đi nói với những người cư sĩ, mới nói những người đời như vậy thôi, để mà gạt họ thôi, lầm tưởng thôi.

Và mấy cái bà mà kêu là thấy cái ông thầy này có tiền nè, có chùa tốt nè, mấy bả ham mấy bả mới vậy chớ còn những cái người mà đàng hoàng, người ta thấy ông thầy này là quỷ sứ chớ người ta đâu có còn tin ông ta nữa. Biểu cúng dường bằng cái kiểu đó thì thiệt ra có ông thần ác thần nó mới chứng minh cho, quỷ thần, ác thần nó mới chứng cho chớ còn ai mà dám chứng không!

Thì những cái giới này thiệt ra Thầy thấy đặt ra mà đặt chớ thiệt ra nếu mà đem vào cái kinh giới của Phật mà khép vị tu sĩ vào, mà Thầy khép rồi, những cái giới này đều là thừa, không có cái gì mà gọi là giới được hết. Người ta vô người ta phòng hộ sáu căn, người ta tu đâu ra đó hết, có đâu mà phạm giới được.

Cho nên ngày xưa, mười ba năm trời Đức Phật dạy người ta không phạm giới, không có chế giới ra, sau này mới chế giới ra. Thì đủ biết rằng trong mười ba năm đầu không có người nào phạm giới là do người ta phòng hộ sáu căn, người ta giữ gìn đâu đúng đó hết, người ta tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, ở trong cái chánh niệm làm sao có tà niệm mà khởi nghĩ những cái tà niệm như vậy, cho nên làm sao mà có giới luật mà chế ra!

Chỉ có những người sau này không có tu đúng, không phòng hộ sáu căn, không tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, do đó mà cái tâm nó xiên xẹo, cái ý nó nghĩ tầm bậy tầm bạ mới chế ba cái giới này, nói thiệt ra bằng thừa!

Nội cái giới kinh, nội cái giới hành ở trong cái giới kinh là chúng ta đã khắc phục được con người chúng ta trở thành những người Thánh Tăng hết rồi, chớ đâu phải cần giới bổn này mới Thánh Tăng! Giới bổn này càng đưa ra bao nhiêu thì người ta lại càng thấy những cái sai phạm họ càng nhiều ra bấy nhiêu, và làm người ta đã phạm cái giới nhiều nữa.

5) GIỚI KHÔNG LÀM MAI, GẢ CƯỚI

(01:19:02) Giới thứ năm:

5. Giới làm mai, gả cưới.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do khi xưa Phật ở núi Linh Thứu, lúc bấy giờ Tỳ Kheo Ca La khéo biết việc thế tục, vì người mà làm mai mối gả cưới. Cặp vợ chồng nào gả cưới được vừa ý mừng vui thì cúng dường khen ngợi, cặp vợ chồng nào không vừa ý thì oán trách mắng la.

Các Tỳ Kheo đem việc này bạch Phật. Phật kêu Ca La đến quở trách, rồi họp chúng Tỳ Kheo lại kiết giới.

Trong Luật Thiện Kiến nói: Nếu cha mẹ bất hòa, cha đuổi mẹ về nhà bên ngoại, sau cha ăn năn bảo con Tỳ Kheo rằng: “Tôi tuổi già hôm sớm không người hầu nuôi, nên bảo mẹ ông trở về thăm tôi!” Tỳ kheo nhận lời, bảo mẹ trở về thăm cha thì phạm tội Tăng Tàn.

Vì sao vậy?

Nếu hai vợ chồng cư sĩ tranh cãi, Tỳ Kheo khuyên dỗ hòa hợp thì phạm tội Thâu Lan Giá. Nhưng nếu vợ chồng kia không hòa hợp, hoặc ở trong tăng sự hay Phật sự có chỗ kém thiếu, vì cớ phúc sự khuyên kiến cho hòa hợp thì không tội.

Có hai Tỳ Kheo, một người có con trai, một người có con gái cùng cưới gả nhau, cả hai đều phạm tội Tăng Tàn.

Năm giới trên thuộc về ái dục: Giới thứ nhất tuy không có cảnh người nữ mà được thọ…​

Giới mà làm mai gả cưới này thì Thầy thấy một cái người tu sĩ không có nên làm cái chuyện này. Bởi vì mình làm cho cái - bởi vì mình biết rõ rằng Phật nói con đường sanh tử là cái chỗ mà giữa nam nữ, mà bây giờ mình đã là người tu theo đạo Phật mà đi làm môi giới như vậy là không có được.

(01:21:03) Hầu hết là có một số quý thầy cũng hay làm môi giới, đợi cho cặp vợ chồng người ta hòa thuận nhau thì người ta cúng dường mình thế này kia, mà cặp vợ chồng người ta chẳng may là người ta có cái sự xích mích rầy rà, thì người ta nói ông mai này làm mối không có đúng này kia rồi chửi mắng ông thầy chùa, thì như vậy rõ ràng là mình làm sai, không có đúng.

Hơn nữa, dù là có đem lại cái hạnh phúc cho người ta đi nữa, mình làm môi giới thì tức là mình phải thêu dệt chớ gì?

Cái cô này cái lỗ mũi nó xẹp lép à, mình nói cô ta lại đẹp lắm thế này thế khác, cái ông kia đi cà thọt mà mình nói ổng là thế này thế khác, mình ca ngợi, để tới chừng đó người ta hỡi ôi rồi, cặp vợ chồng này thiệt là nó không ra gì hết!

Cô này thì không ra gì hết, mình nói công dung ngôn hạnh cô này đầy đủ lắm, may vá…​ tới chừng về nhà người ta rồi đưa miếng vải may vá không được, vợ chồng tức giận cái ông mai này thiệt ổng gạt mình chớ không…​

Đó là những cái làm môi, thường thường phải nói láo, gạt người này gạt người kia. Cho nên tất cả những cái này là người tu sĩ chúng ta không có được làm cái chuyện này, phải nói như vậy. Cái thứ nhất là phải ca ngợi, phải khen cho hai người, người ta mới thích nhau, làm môi giới đó!

Cho nên trong cái giới mà cấm làm môi giới này là rất đúng. Là ông thầy chùa không bao giờ mà có thể làm cái điều này được, nghĩa là không có làm môi giới chỗ này.

Ở trong giới kinh Phật nói làm sứ giả cũng không cho nữa chớ đừng nói làm môi giới. Trong giới kinh Phật dạy rất rõ đó, không có được đem cái chuyện này mà làm môi giới chuyện kia, không có được làm môi giới làm ăn cho người khác nữa. Tất cả mọi cái đó đều là Phật cấm ở trong cái giới kinh rất rõ.

Còn ở đây cái giới này đưa ra như vậy rồi nói bào chữa rằng cái môi giới làm như vậy là không tội, như thế này thế khác, đây chúng ta nghe:

Năm giới trên thuộc về ái dục:

- Giới thứ nhất tuy không có cảnh người nữ mà được thọ lạc.

- Giới thứ hai do thân nữ mà thọ dục lạc.

- Giới thứ ba do lời nói thô xấu, nhân tốt xấu bất tịnh, đương nhiên sẽ chiêu cảm quả bất như ý.

- Giới thứ tư do khéo phương tiện mà cầu dục lạc.

- Giới thứ năm vì dục lạc của người mà ở trong đó nhận sự cúng dường cầu y thực.

Cái giới thứ năm là cái giới làm môi giới này, thì theo Thầy nghĩ thì nó không - bây giờ như cha mẹ mà rời nhau, thì vị Tỳ Kheo - tự cha mẹ mình, mình lìa khỏi gia đình rồi thì mình không có quyền mà gọi cha gọi mẹ mình để làm môi giới cha mẹ mình sống lại, cha mẹ mình tự giải quyết lấy.

Thì bây giờ ổng già rồi, mà ổng giận vợ ổng, ổng đuổi bả đi đi, thì bây giờ vấn đề đó thì mình tu hành rồi, mình không còn dính dấp nữa. Mình phải nhìn đó là cái nhân quả chớ!

(01:23:45) Còn cái này mình về mình gọi mẹ mình bây giờ phải về sống với cha mình bằng cách này bằng cách khác, thì như vậy thay vì mẹ mình mà rời khỏi cha mình rồi thì mình khuyên mẹ mình nên tu hành bằng cách này bằng cách khác thì tốt nhất. Còn cha mình mà rời khỏi mẹ mình thì mình nên khuyên cha mình nên tu hành tốt nhất.

Để rồi ông bà sống với nhau bằng cái - mặc dù là trong cái tình dâm dục thì già cả rồi không có đi nữa, nhưng mà cái tình mà có thể nói rằng cái con người nó còn những cái - nó nối tiếp nhau những cái tình cảm.

Cho nên chúng ta ngay đó chúng ta đem Phật pháp, cái trường hợp xảy ra chúng ta đem Phật pháp mà giúp cho ông bà lo cái vấn đề tu hành vượt thoát sanh tử thì phải quý hơn không?

Cái trường hợp xảy ra là trường hợp rất quý, thế mà chúng ta không biết lợi dụng đó mà để kêu ông bà trở về sống với nhau, thì cái điều đó là cái điều không có phải, mà cái điều đó cũng là cái điều làm môi giới cho sống trở lại trong cái cuộc tình, cái tình thường, thường tình nhỏ mọn của cái thế gian, nó không có đúng cách.

Cho nên cái người tu theo đạo Phật mà khi hiểu biết thì ngay cái trường hợp đó xảy ra thì chúng ta giúp cho cha mẹ chúng ta tiến bước trên con đường tu tập, mà không có để kẽ hở, để cho cha mẹ mình còn trở lại cái tâm tánh thường tình của thế gian nữa, lấy cái hoàn cảnh đó mà chúng ta giúp cho cha mẹ vượt thoát ra.

6) GIỚI KHÔNG LÀM NHÀ QUÁ LƯỢNG

(01:25:02) Giới thứ sáu:

6. Giới riêng làm nhà quá lượng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Do duyên xưa Phật ở trong núi Linh Thứu thành Vương Xá, cho các Tỳ Kheo làm phòng nhà riêng. Khi bấy giờ có Tỳ Kheo ở nước Khoáng Dã nghe Phật hứa cho liền riêng làm nhà lớn, công lực rất nhiều nên thường đi cầu xin cư sĩ. Lại có một Tỳ Kheo nữa…​

Nghĩa là nhờ các người cư sĩ trông nom để mà xây cất những cái chòi lớn đó, những cái nhà lớn để cho mình ở tu tập đó.

Lại có Tỳ Kheo nữa muốn cất phòng nhà lớn, tự mình đốn cây, ông thần cây mất chỗ nương tựa đến bạch Phật.

Khi đó ngài Đại Ca Diếp đến trong thành Khoáng Dã, các cư sĩ xa xa trông thấy đều tự trốn tránh. Ngài hỏi ra mới biết duyên cớ, đem bạch Phật. Phật mới gọi hai Tỳ Kheo ấy đến quở trách rồi họp chúng Tỳ Kheo mà kiết giới.

Bây giờ chúng ta thấy nè, hầu hết là có một số cư sĩ về đây nói với Thầy như thế này dây: Bây giờ chúng con mà thấy quý thầy đi quyên cất chùa, chúng con trốn muốn chết đi!

Thì giống như là ông Ca Diếp mà đi vào thành đó, mà mấy người cư sĩ thấy ông Ca Diếp là hoảng hồn, không biết chừng mấy ông này ổng đi đây ổng xin cây xin đồ mình cất nhà nữa đây! Thấy tu sĩ là người ta hoảng sợ à!

Cất chùa, chùa chưa có hư mà nó cũ cũ vậy thôi chớ chưa có gì hết, mà lo xin tiền, quyên xin tiền này kia để mà cất chùa một hai tỷ bạc. Cho nên hầu hết một số cư sĩ bây giờ gặp quý thầy mà xách cái bị mà đi quyên tiền cất chùa là họ đã trốn à!

Thấy cái người tu sĩ mà bước vào nhà họ đó, thì bắt đầu họ hỏi, cái người chồng hay hoặc là người vợ hỏi mấy cái người đầy tớ trong nhà: Ông thầy đó làm sao? Ổng có mang cái túi không? Hay hoặc là ổng có mang cuốn sổ gì không? Hỏi cho biết coi phải ông thầy có phải họ đến xin tiền hay hoặc họ đến họ làm gì.

Hỏi rồi cái nghe mà biết ông thầy đó, sai người đầy tớ hỏi: “Thầy đến có chuyện gì?” Nói: “Đến xin góp mà để cất chùa” - thì bắt đầu vợ chồng đi tìm cái lô khác trốn, nói rằng vợ chồng không có ở nhà, để chiều hay mai gì mới có. Đó là những cái người cư sĩ mà hiện bây giờ họ rất sợ quý thầy của chúng ta là vậy, trong cái trường hợp này.

(01:27:16) Hầu hết quý thầy muốn cất là đi quyên đi góp thôi tùm lum tà la hết, làm cho người ta nghèo khổ người ta lại nghèo khổ hơn, mà trong khi cái chùa của mình chưa phải là dột nát gì hết. Đó là những cái đau khổ.

Và cũng chính vì cái chỗ này, mà đọc đến chỗ này Thầy thấy ông Ca Diếp vô thành đi khất thực thôi, mà người ta thấy là người ta trốn hết, người ta không dám lại gần ổng, biết đâu ông này cũng như mấy ông kia vậy! Cho nên ông Ca Diếp về mới bạch Phật, Phật mới kêu hai cái vị Tỳ Kheo này, mới kiết giới.

Theo lượng Phật chế: Am, thất, cốc bề dài 12 gang tay Phật, bề ngang 7 gang Phật. Một gang của Phật so bằng ba gang của người thường…​

Tay của Phật chắc dài quá! Tay này không biết là dài như thế nào mà nghe ghê thiệt chớ không phải chơi! Bàn tay chắc phải vai vậy!

…​ nên ở trên núi Linh Thứu, cái cốc của Phật có hai mét rưỡi vuông.

Nghĩa là bề này hai mét rưỡi, bề kia hai mét rưỡi thôi.

Còn cốc của ông A Nan thì có hai mét hai vuông.

Nghĩa là vuông vức á, tương đương cũng như là, gần như là cái thất của mình đó các con, cũng cỡ khoảng độ hai thước rưỡi, hai thước hai, hai thước tư vậy thôi.

Tăng phòng ở tại Lộc Uyển thì có hai thước bảy.

Cái tăng phòng mà có hai thước bảy à!

Chỗ có nạn các thú dữ cho đến nhiều ổ kiến, thì chỗ đó là bốn phía nhà xe cộ qua lại ồn náo, quanh lánh không thường. Nếu không được tăng chỉ chỗ làm mà làm quá lượng thì phạm tội Tăng Tàn. Nhưng nếu mà vì Phật, vì tăng cất giảng đường, cất thảo am, am lá đủ dung thân thì không phạm.

Cất nhỏ thì không phạm mà cất lớn thì phạm hết. Đó thì như vậy là trong cái thời Đức phật mà giới luật này chế ra như vậy thì Thầy thấy có thể nó hợp mà có thể nó cũng thừa.

(01:29:15) Thầy thấy một vị tu sĩ mà ở cái cốc cỡ hai mét rưỡi, hai mét hai này nó cũng thừa, chỉ bằng chừng hai tấm tôn là chúng ta đục mưa đục nắng được rồi. Nghĩa là tấm tôn dài vầy, tấm tôn vầy là cái bề ngang chúng ta ngồi thiền được, cỡ chừng tám tấc bề ngang đó là đủ rồi, còn rộng quá thì thôi.

Trời mưa gió thì chúng ta ngồi thiền, tu Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, rồi tu cái định hơi thở, thì trời mưa, còn trời nắng ráo thì chúng ta đi kinh hành tu Chánh Niệm Tỉnh Thức thì nó quá tiện rồi, có gì đâu. Thì do nắng ráo thì mình tu cái này, mưa gió mình tu cái kia, có gì đâu.

Và đồng thời như vậy nó cũng không hao tốn mà cất nó cũng dễ nữa, nó chỉ có hai tấm tôn mình lợp lên, thì cái nhà nó vừa, khoảng độ bề ngang một thước à, bề dài thì hai thước là đủ mình nằm thôi. Một thước thì mình nằm đâu có đến nỗi hẹp, cho nên Thầy thấy như vậy là gọn.

Thất của mình đó là cũng hơi rộng đó các thầy. Bởi vì nó rộng quá mình thấy bằng thừa, mà thừa thì nó cũng hao tốn chớ không phải là không hao tốn. Nó thoải mái cho mình chút thôi chớ nó cũng không gì.

Cho nên thậm chí như Thầy chui vào cái hang Thầy ở cũng bình thường thôi có gì đâu, nó cũng như cái thất của mình vậy chớ có gì đâu. Hang hẹp nó cũng vậy mà hang rộng Thầy thấy cũng vậy thôi. Có nhiều khi nó rộng quá Thầy sợ rắn rít ở xa nó lại cắn Thầy nữa, còn nó hẹp hẹp thì mình quan sát kỹ thì mình cũng không sợ, còn nó rộng quá mình đâu có quan sát hết. Đó, thì nếu không được…​

Cho nên khi mà cất rộng quá thì chúng ta cũng thấy hao tốn, do đó cái giới này chế ra thì thấy cũng đúng cách chớ không phải là không đúng cách. Cho nên cái giới làm nhà thì không quá cái lượng, phải nhỏ hẹp, nó gọn, nó không hao tốn của đàn na thí chủ. Vì mình không có làm ra tiền, mình xin họ.

Nhiều khi Thầy thấy họ cất cái thất y như cái biệt thự vậy, mặc dù là bằng lá đi nữa, bằng lá dừa đi nữa mà Thầy thấy quý thầy cất những cái thất Thầy thấy quá đẹp: Nó có sàn ở trên, rồi có thang đi lên, rồi ở trên có mái che, rồi làm đủ cách, kiểu cách quá đẹp.

Thầy chỉ nói rằng cất làm sao mà cho nó gọn là chúng ta ở đừng mưa gió, đừng có nắng là được, chúng ta ở trong đó đừng ướt là được rồi, chớ đừng có làm đẹp làm gì hết. Đời còn gì đẹp nữa? Các pháp đều vô thường, có gì tốt đẹp đâu! Mà nhiều khi cái thất của các thầy Thầy thấy làm quá đẹp.

7) GIỚI KHÔNG LÀM NHÀ LỚN, KHÔNG CÓ TỲ KHEO CHỈ CHỖ LÀM

(01:31:32) 7. Giới làm nhà lớn, không Tỳ Kheo chỉ chỗ làm.

Vì sao Phật kiết giới này?

Do duyên xưa Phật ở trong vườn của trưởng giả Ni Câu Luật nước Câu Thiểm Di. Khi bấy giờ vua Ưu Điền cùng Tôn giả Xiển Đà là bạn thân nhau nên tùy ý tha hồ làm nhà lớn.

Gần thành có cây thần Ni Câu Luật, người ngựa đi qua lại phần nhiều đều dừng nghỉ ở dưới cội cây đó. Xiển Đà liền đốn cây đại thọ ấy mà làm nhà lớn, các cư sĩ thấy vậy chê hiềm. Các Tỳ Kheo nghe đem chuyện ấy bạch Phật. Phật họp chúng lại mà kiết giới này.

Giới đây tự vì mình mà làm nhà lớn, mà không mời Tỳ Kheo chỉ định chỗ làm để tránh chỗ có nạn, có ngại, nên phạm tội. Giới này cũng là một giới thứ sáu nhưng chỉ khác là làm nhà lớn, quá lớn.

Đó là cái giới mà Phật cấm là không có cho làm cái nhà lớn, mà không có được tự ý. Khi mình muốn làm cái nhà nào đó thì mình phải hỏi chúng Tỳ Kheo, phải hỏi Phật, để rồi chúng Tỳ Kheo hay Phật chỉ định làm cái chỗ nào cho xứng hợp.

Về chỗ đông người mình làm cái thất làm sao mình tu? Mình chỉ ở đó để mình đón danh đón lợi, đón sự cúng dường cho nó tiện lợi, thì cái chuyện đó là hầu hết là chúng ta thấy cái chỗ nào có Phật tử đi trẩy hội đồ đó, thì nơi đó thì chúng ta đến tu hành, coi chừng mấy ông thầy đó nó thuộc về những cái loại mà cất nhà lớn, phạm cái giới cất nhà riêng, cất nhà lớn này, thì nó không đúng.

Bây giờ chúng ta chuẩn bị ăn cơm./.

HẾT BĂNG

37 - THẦN LỰC CỦA DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 37 - THẦN LỰC CỦA DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- KHÔNG THỂ ĐÁNH THỨC NGƯỜI NHẬP DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH

(00:00) Như cô Cảnh đã hỏi Thầy là hai cái vị mà nhập cái Diệt Thọ Tưởng Định ở đây đúng hay là sai, coi những cái định đó có nhập đúng hay sai.

Thứ nhất là cái vị đó trên cái nhập Diệt Thọ Tưởng Định như vậy, lửa bốc cháy làm cho cái da của vị đó bị cháy nám đi, y áo cháy hết đi, thì cái từ trường của vị đó không có.

Cho nên bây giờ thí dụ như Thầy mặc y áo như thế này nè, mà Thầy nhập cái Diệt Thọ Tưởng Định rồi thì không có lửa mà cháy được y áo của Thầy đâu. Cái từ trường nó bảo vệ tất cả những cái gì mà đang ở trong xung quanh thân của Thầy khi mà Thầy nhập Diệt Thọ Tưởng Định.

Còn cái này y áo cháy hết thì ông này chắc là nhập cái tưởng định nào đó cho nên nó cháy sạch đó chớ không còn cái gì, mà thậm chí như còn cháy nám da vị đó nữa. Cho nên ở đây họ chưa có nhập được Diệt Thọ Tưởng Định mà họ lầm tưởng đó là Diệt Thọ Tưởng Định.

Và nhập cái Diệt Thọ Tưởng Định thì không thể nào mà lấy đồng la hoặc là lấy một cái vật gì khua mà cái người đó tỉnh lại được. Chỉ có cái người đó xuất định là xuất định chớ còn không có xuất định thì không có làm tiếng động gì mà vị đó tỉnh lại được hết. Chỉ có những cái định tưởng thì chúng ta có thể nói rằng lấy cái tiếng động làm cho vị đó trở về xuất định mà thôi, chớ còn cái định Diệt Thọ Tưởng Định thì không có thể nào dùng cái gì mà kêu được hết.

Nhập vào cái định Tứ Thiền thì cái thức của chúng ta vẫn còn tỉnh táo, rất tỉnh táo, cho nên cái tâm của cái vị mà đang nhập Tứ Thiền nó giao cảm tất cả mọi chúng sanh. Còn cái Diệt Thọ Tưởng Định hoàn toàn cái thức nó không có còn, nó im phăng phắc, nó lặng lẽ vô cùng, nó chỉ còn nhất như có một cái yên lặng của nó mà thôi, cho nên nó không còn cái thức có cái đối tượng ở trong cái thanh tịnh nữa.

Do như vậy đó, khi một người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định mà có cầu khẩn van xin gì nó cũng không giao cảm với cái người nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Bởi vì toàn bộ cái bộ óc - cái ý căn của họ đó là cái bộ óc - nó ngưng hoạt động hoàn toàn, cho nên họ không còn giao cảm với ai được.

Các con phải hiểu điều đó. Cho nên khi mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định, bây giờ thí dụ như Thầy nhập Diệt Thọ Tưởng Định, ở ngoài các con tu gặp khó khăn gì các con cũng không bao giờ mà có thể gọi Thầy được hết.

Bởi vì hoàn toàn Thầy ở trong cái trạng thái rất là thanh tịnh của cái tâm của Thầy rồi, cái thân Thầy thì được cái từ trường của cái định đó, cái thần lực của cái định đó nó bảo vệ vô cùng chắc chắn là không có bị hư hoại, không có bị một cái vật gì mà có thể làm hư cái thân đó được, thì cái đó gọi là Diệt Thọ Tưởng Định.

Bởi vì cái thần lực đó nó đặc biệt như vậy, cho nên ở đây chúng ta phải hiểu rằng khi mà cái người mà tu tới chỗ này, khi mà họ có Tam Minh rồi thì chắc chắn là họ cũng phải đi đến cái Diệt Thọ Tưởng Định để họ thăm dò, để xem coi như thế nào.

Cũng như bây giờ Thầy biết Thầy nhập được Diệt Thọ Tưởng Định, nhưng cái thời gian không cho phép Thầy ba năm hay mười năm để nhập thử nó như thế nào, thì bây giờ làm sao cho phép?

Vì bây giờ hướng dẫn mấy con như thế này, mà bây giờ bỏ mà nhập trong đó rồi mấy con ở ngoài này tu điên tu khùng, tới chừng mà Thầy xuất Diệt Thọ Tưởng Định ra người nào cũng nhăn răng cười cũng như khỉ hết, thì chắc lúc đó thì Thầy ra Thầy thấy một đám điên hết rồi làm sao?

(03:17) Thì như vậy là cái trách nhiệm của Thầy nó không có. Cho nên Thầy chỉ nhập vào những cái định - thí dụ như Tứ Thiền là cao lắm trong vòng chừng khoảng độ một tuần lễ hoặc là một nửa tháng là cao lắm, chưa dám bỏ đi mà nhập tới một tháng nữa.

Còn trong lúc kia đó Thầy một mình Thầy ở trong thất, Thầy có thể nhập một hai tháng, ba tháng được, nhưng mà một hai tháng, ba tháng đều là có thể đi vào cái Diệt Thọ Tưởng Định chớ không phải Tứ Thiền, hoặc là một hai tháng nó phải có một cái lúc ra rồi mới đưa nó trở vào gom lại.

Thí dụ như bây giờ bốn mươi chín ngày thì nó ra, bốn mươi chín ngày thì nó mới có một tháng mười mấy ngày mà thôi, cho nên nó ra khỏi cái định của Tứ Thiền, thì bắt đầu bây giờ Thầy mới gom cái tâm, Thầy mới trở vào lại nữa, để cho nó tịnh chỉ lại, nó ngưng cái hơi thở lại, do đó mới tiếp tục nữa.

Nhưng rồi cái thời gian kế đó nó không có nằm lâu trong đó, nó cứ ra vô ra vô, cho nên bốn mươi chín ngày rồi thì nó cứ ra vô ra vô, buộc lòng cái người đó phải đi tới, hoàn toàn ngưng hơi thở, tịnh chỉ cái ý hành của nó, tức là cái ý căn nó phải ngưng hoạt động, cái bộ óc của nó phải hoạt động ngưng hoàn toàn, để bắt đầu nằm im ở trong đó thì nó mới không bung ra bung vô được nữa.

Thì các con thấy bây giờ các con muốn cho nó ngưng chừng khoảng độ - nó ngưng hơi thở, nó ngưng hoạt động chừng một phút cái nó bung trở ra. Nếu mà nó kéo dài thì các con chết luôn.

Bởi vì cái thân của các con chưa có thuần ở trong cái định đó, cho nên các con ngưng thì nó chừng một phút thì bắt đầu nó bung ra, rồi các con tập riết nó hai phút rồi ba phút nó tăng dần lên, nó cứ bung ra tăng dần lên, rồi cứ tăng dần riết mãi, cho nên mới được bảy ngày bảy đêm hay hoặc là một tháng, hay bốn mươi chín ngày.

Nhưng mà cái mốc cuối cùng của cái Tứ Thiền thì nó có bốn mươi chín ngày mà thôi, các con hiểu điều đó. Nhưng mà khi chúng ta tu tập thì nó phải tuần tự chớ không phải là trong một lát mà có thể đạt được.

Đó là cái phần mà trả lời của hai vị này, một vị thì xách đồng la đánh mà tỉnh dậy thì cái vị này chưa phải là Diệt Thọ Tưởng Định hay hoặc Diệt Tận Định, còn cái vị kia bị y áo cháy hết thì cái từ trường của vị đó không đủ cái thần lực, thì đương nhiên coi như là không phải Diệt Thọ Tưởng Định hay hoặc là Diệt Tận Định. Đó thì hai cái phần Thầy trả lời cái câu hỏi của con ở trên rồi.

2- DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH KHÔNG DÀNH CHO PHÀM PHU

(05:29) “Đại pháp sư dạy: Nhập Diệt Thọ Tưởng Định là Tiểu Thừa, là tiêu nha bại chủng…​”

Cái ông pháp sư mà dạy cái này, ổng tưởng là cái nhập Diệt Thọ Tưởng Định là cái chuyện như trẻ con đồ chơi. Đâu có phải chuyện làm dễ đâu! Đến đỗi mà cái thần lực của người ta bảo vệ cái cơ thể của người ta như vậy, không phải cái chuyện của Tiểu Thừa đâu, mà đây là của những bậc Thánh người ta mới làm được.

Sau khi mà người ta đạt Tam Minh rồi người ta mới thực hiện được cái này, chứ nếu mà chưa đạt được Tam Minh, cái tâm chúng ta chưa thanh tịnh đến cái mức tối đa, chắc chắn chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định cũng chưa được đâu. Các con phải hiểu.

Bây giờ chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp chúng ta nhập Sơ Thiền, cái tâm ly dục nó vô lậu thì chúng ta mới nhập, chúng ta mới đi vào chúng ta mới nhập Nhị Thiền mới được, là diệt Tầm Tứ mới được, hơi thở chúng ta mới chậm nhẹ và đúng mức của nó nó mới nhập Nhị Thiền. Tâm mà chưa ly dục, ly bất thiện pháp nhập Nhị Thiền là tà thiền chớ không phải là Chánh Thiền đâu. Đó là những cái sai, nó không đúng.

Cho nên khi mà chúng ta có Tam Minh, Lậu Tận Minh quét sạch được lậu hoặc rồi, hoàn toàn chúng ta chấm dứt được sanh tử luân hồi rồi thì chúng ta mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định được, còn không chúng ta cũng nhập chưa được đâu.

Nghĩa là cái người chưa nhập Tứ Thiền đừng có mong gọi là nhập Diệt Thọ Tưởng Định được. Cái định đó là định cao, mà cái định đó là có cái thần lực rất là vi diệu, nó bảo vệ cái thân của chúng ta. Trời mưa mà không ướt mà! Thì các con biết ngồi ngoài trời mà trời mưa không ướt thì đâu phải là cái chuyện thường!

Đó thì cái từ trường của nó, nó làm cho chúng ta trở thành một cái vách đá vô hình, không người ta ngỡ tưởng được. Nhìn thấy như ngồi ngoài trời, nhưng mà mưa xuống không ướt, nắng không có làm cho nóng được, thì đủ biết cái từ trường của họ đến cái lực như thế nào mà gọi là đại thần lực đó.

Thì các con biết là cái định đó đâu phải là định thường của phàm phu được, mà gọi là Tiểu Thừa? Cho nên họ nói tiêu nha bại chủng, họ nói như vậy chớ họ có làm được sao? Làm gì mà tiêu nha bại chủng! Người ta ngồi cả ngàn năm người ta không mất mà làm sao tiêu!

(07:26) Còn họ ngồi ba, bốn - chừng 100 năm hoặc là tuổi thọ họ sống bao nhiêu họ tiêu mất, họ không biết là đọa địa ngục hay làm cái gì họ đâu có biết. Họ cứ ngỡ tưởng là họ hành Bồ Tát Đạo, rồi họ lên xuống trong sanh tử để độ chúng sanh, không ngờ họ ở dưới địa ngục ở dưới đó chớ làm sao mà họ lên! Tại vì họ làm những cái điều sai pháp luật, sai cái giới luật của Phật, cho nên họ phải đọa xuống địa ngục.

Bây giờ thí dụ như bây giờ Thầy sai pháp luật nè, mấy con cũng đến đây cũng sai pháp luật. Thầy ăn ba bữa các con cũng ăn ba bữa, Thầy nói như là Bồ Tát, nhưng mà cuối cùng Thầy phạm những cái giới này.

Mồ hôi nước mắt của Phật tử đóng góp, các con biết người ta làm đâu phải chuyện dễ. Thầy trò chúng ta ngồi không tu, mà rốt cuộc rồi nó ngày ba bữa sung sướng, nào bơ nào sữa rồi chùa to tháp lớn, còn người ta ở ngoài người ta làm lụng rất cực khổ, thế rồi mình cứ tưởng là mình Bồ Tát. Nhưng cuối cùng khi mà cái phước mình hết rồi thì bắt đầu mình chết thì thầy trò rủ nhau đi xuống địa ngục mà ngồi cả đám.

Diêm Vương nó hỏi hồi đó mấy ông ở trên gạt người ta bao nhiêu không? Phật dạy ăn ngày một bữa, mấy ông ăn cho dữ tợn, da thịt của mấy ông mập như thế này, xuống tụi tui lấy ra mà để thắng mấy ông ra mà lấy dầu để mà đốt đèn ở dưới địa ngục cho nó sáng lên mới là đủ! Cho nên nó bắt chúng ta mà nó đem vô đó, nó thẻo ra nó bỏ vô chảo, cũng như mình thắng mỡ vậy, thì các con biết nó đau khổ dường nào không?

Cho nên đừng có ham mà ngồi đây mà tu sai giới luật của Phật là chúng ta phải tiêu tùng hết đó. Đừng có nghĩ rằng thầy trò sung sướng đâu, nó sung sướng hiện tại này chớ vị lai là chúng ta nó thắng mỡ hết đó!

Đó là những cái sai. Vì vậy mà chúng ta phải sống đúng cái giới luật của Phật thì không ai mà dám thắng mỡ chúng ta hết. Còn nếu không, lơ mơ thì thắng mỡ hết á!

(09:21) “Còn Đại Thừa, các ngài Bồ Tát thì thể hiện nguyện vào trong sanh tử để độ chúng sanh, cho nên Phật pháp tồn tại mãi mãi.

Có đúng sự thật như vậy hay không?”

Bây giờ thì Phật pháp nó tồn tại các con thấy cái tồn tại đó có đúng không? Có đúng không hay là đó là sai?

Dẫn người ta đi, cuối cùng người ta bỏ đời, bỏ vợ bỏ con, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ cha bỏ mẹ, không làm cái gì lợi ích hết, mà bây giờ rủ nhau đi tu, tới cuối cùng bây giờ - như Minh Cảnh, bây giờ con thấy con sắp sửa chết rồi mà con thấy con có làm chủ sinh tử không? Có buồn, có khổ không?

Như vậy là dẫn con đi vào cái chỗ chết chớ có chỗ giải thoát đâu? Cuối cùng nhìn lại, như vậy là Phật pháp còn nhưng là tà pháp không chớ đâu phải là Phật pháp?

Tại sao ông Phật ăn ngày một bữa mà bây giờ mình rủ nhau mình ăn ba bữa rồi đi xuống ruộng cày cấy, hoặc là làm cái này làm cái kia, cất chùa lên to lớn!

Còn ông Phật thì các con thấy: Một vị Tỳ Kheo bị một người tiều phu họ rút cái thất của ông đi, lấy củi họ về họ chụm đi, ông mất cái thất đi, rồi ổng nói: “Nếu mà mình cất cây nữa đây rồi chúng cũng rút nữa, thôi mình đào đất lên, mình nắn gạch lên rồi mình làm cái thất của mình.”

Nhưng mà khi mà làm cái thất xong rồi thì ông Phật ổng sai Tỳ Kheo khác đập bỏ, người tu sĩ không có được ở nhà gạch! Các con thấy không? Không có cho được ở nhà gạch. Thế mà bây giờ chúng ta ông nào cũng ở nhà gạch hết, mà lót gạch là phải nói là gạch ốp lát đàng hoàng chớ không phải là gạch thứ thường nữa, chùa nào bây giờ cũng thấy sang đẹp hết. Do như vậy chúng ta thấy đó là cái sai của Phật pháp. Ngày xưa ông Phật không cho vị Tỳ Kheo ở trong cái nhà gạch, toàn là nhà lá nhà tranh.

Đó thì, bây giờ chúng ta thấy họ nói họ đi vào trong sanh tử để độ chúng sanh. Độ kiểu đó độ ma độ quỷ với nhau hết cả đám, dẫn dắt đi xuống địa ngục hết chớ làm gì mà giải thoát!

Chính bây giờ chúng ta không được giải thoát, ngay cái bước đầu chúng ta vô là chúng ta không giải thoát được cái ăn cái ngủ thì giải thoát cái gì? Không ly được dục, không ly được ác pháp thì làm sao mà chúng ta được cái gì mà giải thoát?

Nghĩa là ly nó mới có những cái hỷ lạc của cái sự ly, cho nên ly dục, ly ác pháp mới sanh hỷ lạc, do đó mới nhập Sơ Thiền. Chúng ta phải có cái hỷ lạc của cái sự giải thoát của cái người tu.

Còn đằng này chạy theo dục lạc thì cái dục lạc đó là của thế gian rồi. Cho nên toàn bộ là sai hết, không có đúng cách. Cho nên gọi là đi vào sanh tử để rồi dẫn dắt đi tuốt luốt ở trong sanh tử chớ làm sao mà thoát sanh tử, vì hàng ngày chạy theo trong dục lạc của thế gian!

3- DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH KHÔNG CÓ LỢI ÍCH THIẾT THỰC

(11:52) “Và khi nhập Diệt Tận Định có mất Tam Minh Lục Thông không?”

Diệt Tận Định nó có cái gì đâu là Tam Minh Lục Thông ở trong đó nữa? Các con thấy không?

Mình chỉ nhập Tứ Thiền là dẫn tâm đi thì nó mới có Tam Minh Lục Thông, còn có bao giờ mà trong kinh sách Phật nói nhập Diệt Thọ Tưởng Định rồi dẫn Tam Minh đi vào Tam Minh không? Đâu có! Đâu có cái chỗ đó đâu?

Cho nên nhập Diệt Thọ Tưởng Định chỉ là một cái thần lực của thiền định để thấy cái sự bảo vệ, cái thần lực đó nó giữ gìn cái thân của họ.

Nhưng mà Đức Phật vốn đâu có để mà duy trì cái thân này ngàn năm triệu năm đâu? Cho nên thấy nó là vô thường, dù biết cái định đó nó có giữ cái thân đến cả triệu năm đi nữa vẫn không chấp nhận nó. Cho nên Diệt Tận Định chỉ nói để cho biết chơi vậy chớ còn không phải mục đích của đạo Phật đâu.

“Và có lợi ích gì cho Phật pháp, cho chúng sanh?”

Thì cái Diệt Thọ Tưởng Định nó không có lợi ích đâu. Chúng ta tới Tứ Thiền, chúng ta thực hiện Tam Minh là Giới - Định - Tuệ chúng ta đã đủ cái sự mà chấm dứt sanh tử luân hồi, cái sự đau khổ cho cái thân phận làm người là đủ rồi, giải thoát được cái sự đau khổ chúng ta là đủ rồi.

Nhưng mà tới đây chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định để chúng ta thấy được cái thần lực của định, để biết được cái sự tu tập của chúng ta có những cái thần lực tuyệt vời như vậy thôi, chớ cái đó không phải là mục đích của chúng ta.

“Thí dụ Thầy nhập Diệt Tận Định, con tu có gặp tai nạn, con kêu Thầy: “Thầy ơi cứu con với!” Thầy có thể ở trong Diệt Tận Định mà biết để cứu con được không?”

Đó là cái điều kiện hồi nãy Thầy đã trả lời. Vì nhập Diệt Thọ Tưởng Định cái thức nó không còn, cho nên dù có kêu gì đi nữa thì ở ngoài cũng chịu chết mà thôi chớ không bao giờ mà Thầy có thể giao cảm được cái cái sự nỗi khổ của các con ở bên ngoài được.

(13:38) “Trong kinh nói Phật có đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. Tại sao Phật không nhập Diệt Tận Định để nhục thân lại cho hậu sanh chiêm ngưỡng mà Ngài lại hoại thân nhập Niết Bàn?”

Tức là trong kinh nói Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, tức là phải là cái thân của Phật đẹp đẽ hơn con người, rất là đẹp. Thế mà ông Phật ổng còn không có giữ nó để mà chúng ta ở sau này chúng ta chiêm ngưỡng những cái đẹp đó.

Thế mà chúng ta, cái thân của chúng ta xấu xí như thế này mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định để giữ lại, người ta nói cái ông gì đâu mà cái miệng méo xẹo mà cũng để cái miệng đó mà bây giờ nhập Diệt Thọ Tưởng Định.! Phải không? Cái lỗ mũi gì mà xẹp lép mà cũng để! Thật sự ra, nếu mà như Thầy bây giờ mà để thì người ta sẽ nói: Cái ông gì, vậy mà cũng để cái thân lại coi nó xấu xí gần chết!

Muốn để cái thân thì chúng ta phải như Phật, 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, để thì cái điều đó nó cũng đáng để, còn như Thầy mà để làm gì? Do đó Thầy nói ông Phật ổng còn không để, tướng ổng tốt như vậy mà ổng không để thì Thầy ra gì mà Thầy phải để? Các con hiểu điều đó, cho nên Thầy chẳng bao giờ muốn.

Cũng như bây giờ các con thấy cái ngài Vũ Khắc Minh phải không? Ngài để nhục thân của ngài. Trời ơi! Nhìn ngài móm sọm móm sẹo, cái miệng gì mà nó còn cái gì! Do đó mà các con có đến thăm không? Như vậy người ta chỉ ca ngợi cái sức thiền định của ngài, chớ thấy cái nhục thân của ngài đâu có đẹp đẽ gì! Thế mà phải đẹp thì ngài để thì không nói gì, không đẹp mà cũng để cho người ta cười chớ làm gì?

(15:14) Các con thấy thường thường những nhà điêu khắc người ta tạc những cái tượng rất đẹp, người ta để trong nhà rồi người ta chơi. Ông Phật ổng đâu có ngu, ổng đâu có làm cái đồ chơi của thiên hạ, phải không? Cho nên ổng diệt, ổng đốt bỏ đi. Tao đâu có ngu để cho tụi bây (mỗi) thằng cứ làm cái tượng về để trong nhà chơi!

Cho nên bây giờ các con thấy không, mấy ông mà làm lớn đồ hay hoặc này kia có danh tiếng, họ hay làm cái tượng vầy. Tưởng là ngon, không ngờ để làm đồ chơi của người ta! Người ta để trong cái nhà người ta, rồi để cái tượng lên, tưởng đâu người ta thờ, sự thật có thờ đâu, họ làm đồ chơi!

Vừa rồi Thầy xuống nhà của của Tâm Như, Thầy thấy người ta làm cái tượng bằng đồng, mà đồng giả, nó làm không biết bằng chì gì đó rồi nó mạ đồng lên, nó làm cái tượng của Hòa thượng. Trời ơi! Thầy nói Hòa thượng là người tu hành, mà các cư sĩ làm cái tượng này để chơi in là như như búp bê vậy à!

Trời đất ơi! Bây giờ một vị tu sĩ mà để cho người ta tưởng như vậy, thôi người ta làm tổng thống hay hoặc này kia người ta để để cho toàn dân người ta chiêm ngưỡng cái người đó, còn mình là người tu, mình để làm chi?

Cho nên Thầy thấy hầu như là người ta cứ tạc cái tượng nhỏ nhỏ vầy, làm như bằng đồng. Họ làm đồng giả, chớ đồng thiệt thì mắc lắm, cho nên họ làm đồng giả thì rẻ, mướn ông tạc tượng nào đó cho giống Hòa thượng đi, rồi bắt đầu bây giờ cứ - Thầy thấy vô trong cái nhà phòng khách họ để, đặng cho ông khách nào cũng lại nhìn. Trời! Hòa thượng bây giờ làm cái đồ chơi của thiên hạ rồi, còn thứ gì nữa gọi là Hòa Thượng!

Cho nên hầu như Đức Phật rất là thông minh cái chỗ đó, không có để cái nhục thân. Nếu mà cái 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Đức Phật mà để lại thì bây giờ người ta thấy người ta giật mình: Không có con người nào mà đẹp được như vậy hết! Do đó bắt đầu bây giờ bao nhiêu cái tượng mà đúc ra, bây giờ khắp cả thế giới này người ta để cái hình Đức Phật để làm đồ chơi chứ chưa phải để…​ Bây giờ chúng ta cái hình tượng như thế này là người ta tưởng tượng ra người ta còn đốt nhang, còn cái kia nó đẹp quá không dám đốt nhang đâu, để chơi cho đã!

Bởi vậy ông Phật ổng khôn, Thầy thì cũng đâu có dại, cho nên Thầy chỉ nói là đừng có quay hình của Thầy, mai mốt rồi quay hình của Thầy rồi các con biết sao không? Thay vì cứ xem hát xem tuồng rồi bắt đầu Thầy cũng nhảy múa ở trển cho mấy con xem hát xem tuồng nữa, phải không?

Xem đã ở ngoài đời chưa đã đâu, bắt đầu bây giờ Thầy thuyết pháp đây, hay hoặc là thấy cái thất của Thầy cũng quay, thấy Thầy quét sân cũng quay, quay vô đó rồi bây giờ lâu lâu mở ra coi Thầy có quét sân coi nó sạch không! Trời đất! Làm như là Thầy đóng tuồng cho mấy con coi vậy. Đó là những cái sai.

Người ta thầm tôn kính một vị thầy, cái vị thầy đó vô hình nhưng nó thiêng liêng ở trong lòng của chúng ta hơn là chúng ta xem những cái hình ảnh, mà cái hình ảnh một cái ông thầy mà đi quét sân mà có đẹp gì mà coi!

Thật sự ra mấy thầy quá là kính trọng, rồi kính trọng đến cái mức độ quá tệ, để biến ông thầy của mình trở thành một cái người tuồng hát diễn tả cho mình coi. Biết mình bắt chước được vậy không mà mình diễn tả mình coi? Chắc chắn là cái điều đó là cái điều sai.

Cho nên Thầy luôn luôn là không muốn bao giờ nhưng mà tùy thuận, vì người ta muốn để lại cái hình, mình không có cho người ta chụp thì người ta cũng buồn. Mà người ta không hiểu một vị thầy mà lưu hình lưu ảnh như vậy có đáng giá gì là một bậc chân tu?

(18:32) Mình khoe hình khoe ảnh của mình, mình có tốt đẹp gì? Ốm o gầy mòn như Thầy, có bữa thì thiếu điều đi hết muốn nổi, có bữa hai gò má ốp vô cũng không còn thứ gì, còn có bữa thì ăn uống có gì đó nó phình ra cũng như là nhận nước ở trong đó, thấy nó được được một chút, có bữa thì như con khỉ khô không có ra gì hết, mà hình này hình kia đồ đủ thứ.

Thành ra đó là những cái sai. Chúng ta không phải cầu danh ở chỗ đó mà phải đem cái gì để lợi ích cho cái người sau này người ta được giải thoát. Đó là cái phần bổn phận của cái người tu.

“Còn tượng đúc, tượng vẽ bây giờ do người sau tưởng tượng vẽ vời ra, làm sao tin Phật có 32 tướng tốt?

Xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho con những điều con chưa hiểu biết, để sau này Thầy nhập Diệt Tận Định có người hỏi con trả lời cho thông suốt, không bị người ta nói: Nhập Diệt Thọ Tưởng Định là Tiểu Thừa, là tiêu nha bại chủng.”

Đó như vậy là các con thấy, trong cái vấn đề mà người ta đặt như thế nào thì người ta luận như thế nào cũng được, nhưng ở đây thì chúng ta hiểu rằng: Một vị thầy mà tu như Thầy thì không bao giờ mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định để giữ cái thân của mình để làm cho đời sau người ta chiêm ngưỡng, mà một vị thầy thực hiện trong cái sự vô thường của nó mà thôi.

Nghĩa là chết thì cũng chết như mọi người, nhưng tự tại ở trong cái sự chết chớ không phải là chết trong cái khổ như cái người phàm phu. Có vậy thôi.

Còn Tiểu Thừa hay Đại Thừa, có gọi sao thây kệ nó. Tại vì họ chưa phải là những người biết được con đường này, cho nên họ đứng ở trên một cái góc độ cao với thấp, cho nên mới có Đại Thừa, Tiểu Thừa.

Thấy những cái định mà quá tuyệt vời của Phật pháp thì họ muốn hạ Phật pháp xuống để mà họ gọi cái đó là cái định của Tiểu Thừa, chớ họ không biết cái đó là một cái công phu tu hết sức chớ không phải trong một ngày, hai ngày mà làm được cái chuyện này.

4- CHƯA LY DỤC LY ÁC PHÁP THÌ CHƯA THỂ TỰ TẠI SINH TỬ

(20:31) “Xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy rõ cho con được thông hiểu, làm cho con đường của đạo Phật sáng thêm.

Tổ và các thiền sư nói rằng: “Sinh như đắp chăn mùa đông, tử như cởi chiếc áo mùa hạ”, cho nên họ vào ra sanh tử độ chúng sanh tự tại, không sợ cực khổ. Như vậy Phật với tổ khác nhau như thế nào?”

Ở đây con thấy rõ ràng, người ta nói cái lý luận là như vậy, chớ Thầy thấy ông thầy, ông tổ nào mà khi chết Thầy thấy sao ổng đau ổng rên quá trời! Có ông nào mà không rên đâu?

Họ nằm trên giường bệnh đôi ba tháng hoặc là một năm hai năm, nhất là những vị mà đã bán thân, thì các con thấy khi chết thì mê muội không còn biết, mà trước đó thì cái tay nó bại hết một thân người, không đưa lên được, đi đái, đi tiểu, đi giải bằng cách là người ta phải đặt cái bô vào, rất là khổ sở cho cái vị đó. Thế mà họ nói họ như là đắp chăn bông ở trong mùa hạ. Trời ơi chăn bông gì mà được?

Các con thấy, tưởng tượng một cái người mà bán thân, họ nằm liệt, hai cái chân đi không được, ngồi trên cái xe lăn. Thử hỏi bây giờ họ đi cầu làm sao? Có khổ không các con?

Bây giờ Thầy nói bây giờ chúng ta nè, đau chỉ đơn sơ thôi, chỉ là thần kinh tọa, cái chân chúng ta bị nhức từ trên này dưới nè, mà khi chúng ta ngồi đi cầu xuống nó đau nhức buốt như thế này, chúng ta ngồi được không? Ngồi có yên - khi mà chúng ta ngồi cầu có yên không? Đau khổ vô cùng chớ đâu phải dễ!

Vì vậy đừng nói chi mà cái chuyện đắp chăn bông được! Đâu có chuyện đi ra vào sanh tử mà đắp chăn bông, mà như cởi chiếc áo mùa hạ được? Đừng có nói chuyện! Đó là cái lý luận.

Nhưng mà sự thật trước cái cảnh đau khổ, trước cái cảnh sanh tử, Thầy thấy ông nào cũng mặt mày tái mét hết, chớ đừng có nói không có sợ! Đều là nói là nói chớ còn không có ông nào tự tại. Tự tại khi nào người ta nhập Tứ Thiền, người ta không sợ. Nghĩa là người ta làm chủ được cái sống chết của cái thân, người ta không sợ.

(22:39) Như bây giờ các con chưa làm chủ, các con sợ lắm. Tới chừng đó các con biết nó giựt méo miệng bên nây, méo miệng bên kia, nằm lên ngồi xuống. Các con thấy những người chết chưa? Nghĩa là vừa nằm xuống vầy, đỡ nằm xuống, bắt buộc phải đỡ dậy, kêu là trăn trở đó.

Rồi đỡ dậy chưa có gì được, mà không biết ở trong cái người đó nó ra sao Thầy cũng chẳng biết, nó khổ sở như thế nào, đỡ vừa đỡ cái biểu nằm xuống, nó làm như khó chịu quá! Mà nằm xuống chưa được nằm thì bắt đầu: “Đỡ dậy! Đỡ dậy! Chịu không nổi!” Lúc trăn trở các con - các con có nuôi người bệnh đau sắp chết các con mới biết được cái tình trạng lúc bấy giờ chết rất khổ.

Đây là những cái bệnh không ngặt ngèo lắm đó mà người ta còn khổ như vậy, còn huống hồ là những bệnh ngặt nghèo nó còn khổ biết mấy! Đừng có nói mà đắp chăn mùa đông, mà cởi áo mùa hạ. Mấy ông tổ này miệng nói vậy chớ Thầy thấy ông nào cũng méo xẹo hết khi mà sanh tử đến chớ đừng gọi là ra vào sanh tử tự tại đâu.

Tự tại là những người nào mà nhập Tứ Thiền là người ta ra vào sanh tử tự tại, người ta biết khi mà người ta nhập Tứ Thiền là người ta làm chủ được cái thân, nó không còn khổ nữa, bất kỳ cái thân này nó bệnh như thế nào người ta không khổ nữa. Người ta bảo nó ngưng là nó ngưng, người ta bảo nó không đau là nó không đau liền.

Còn các ông có làm cách nào được không mà các ông dám nói là tự tại trong sanh tử mà như đắp chăn bông mùa hạ mùa đông? Điều đó là cái ông nói chớ các ông chưa có nói được cái lý hành.

Còn ở đây người ta nói được cái lý hành, cái pháp hành của người ta, cho nên người ta nói được cái hành động người ta làm chủ được. Thầy nói các con xét, Thầy bảo nó ngưng là nó ngưng, còn các ông có dám bảo không? Vậy mà các ông dám nói tự tại trong sanh tử? Là các ông nói láo rồi, không có thật. Đó là cái gạt người chớ không phải là cái nói thật.

(24:20) Còn bây giờ khi mà người ta đã làm chủ được như vậy rồi thì khi mà người ta muốn đi tái sanh, người ta làm chủ được tái sanh. Cho nên Thầy nói chỉ tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức thôi mà khi đi vào cái tái sanh là người ta đã biết sanh vào bụng mẹ, đi như thế nào người ta biết, người ta tỉnh thức thôi, chớ chưa phải ly dục, ly bất thiện pháp đâu. Các con biết.

Rồi người ta tu tới cái sức tỉnh thức đến cái mức độ nào, chúng ta ly được cái gì, thì lúc bấy giờ chúng ta ở trong bụng mẹ, vào bụng mẹ - tức là bây giờ Thầy bỏ cái thân này mà Thầy tu được cái Chánh Niệm Tỉnh Thức thì lúc bấy giờ Thầy bỏ cái thân này, Thầy biết Thầy đi vào cái bụng mẹ nơi đâu, Thầy vào đó Thầy thọ thai ở đó Thầy biết, tức là đi vào ở chỗ thác sanh Thầy biết rồi. Thầy tỉnh thức Thầy biết Thầy đi, không phải nghiệp lôi Thầy được.

Rồi bây giờ Thầy tu đến mức độ nào, cái sức tỉnh của Thầy đến mức độ nào, do đó Thầy biết Thầy nằm ở trong bụng mẹ, Thầy biết rất rõ đang ở trong bụng mẹ. Mặc dù là cái bào thai còn rất nhỏ nhưng mà Thầy vẫn biết rằng Thầy đang ở trong bụng mẹ.

Rồi Thầy tu đến cái mức độ nào, cái sức tỉnh thức nào mà khi người mẹ sanh Thầy ra Thầy còn rất là tỉnh táo, Thầy biết rằng Thầy được sanh ra, Thầy biết Thầy đang sanh ra, đó là ba cái lần biết.

Lần biết thứ tư là khi mà Thầy tu đến cái sức tỉnh thức mà ly dục ly ác pháp xong đó, nhập được Sơ Thiền, là lúc bấy giờ khi mà Thầy sanh ra, Thầy biết được cái đời trước của Thầy, Thầy chết là ông gì bà gì, rồi Thầy sanh ra trong cái đời này. Thì các con biết nội cái Sơ Thiền không mà người ta đã làm chủ được cái sống chết.

Còn mấy ông này ăn thì ba bữa có ly chỗ nào đâu mà dám nói tự tại trong sanh tử như đắp chăn bông mùa đông? Nói dóc rồi, ông ta nói không có lý rồi! Còn Thầy ly dục, ly bất thiện pháp, cho nên bây giờ Thầy tỉnh táo, cho nên khi mà vô đi tái sanh Thầy biết, mà bây giờ đi ra Thầy còn nhớ được nhiều đời.

Bởi vì Thầy chết cái thân đó thì nó đã qua một cái kiếp rồi, nhưng bây giờ sanh ra Thầy lại nhớ được cái kiếp của Thầy đã qua rồi, thì sanh ra Thầy nhớ được, tức là Thầy phải ly dục, ly bất thiện pháp thì Thầy mới nhớ được.

Trong kinh Phật đã dạy cái này rất rõ mà, đâu phải Thầy đặt điều! Các con thấy. Cn mấy ông này có nói đúng được không? Ổng nói dốc, ổng gạt người ta.

“Phật thì nhập Niết Bàn, còn Tổ thì vào ra trong cõi Ta Bà độ chúng sanh, không nhập Niết Bàn. Như vậy là tổ từ bi hơn Phật hay sao?”

Tổ thì nói láo chớ còn sự thật ra ổng có biết ổng đi đâu! Cho nên vì vậy mà ổng nói khơi khơi, ổng nói cái lý, chớ còn cái hành thì ổng nói không được. Còn ông Phật ổng nói: “Ba tháng nữa tui chết!” - thì ổng chết rõ ràng phải không?

Còn ông tổ có dám nói ba tháng chết không? Nói ông chết đi, chúng bắt uống thuốc độc chết liền á, chớ không chết chúng cười sao? Cho nên ông tổ không dám hứa gì hết, từng nào mà chết thì tới đó hay chớ không dám nói trước.

Cho nên thường thường các con nghe nói tổ thì nhập diệt, thì nói vậy nhập chứ còn đâu có dám nói trước! Còn không thì huyền thoại nói láo thôi, chớ không thể nào mà hẹn trước được.

Còn ông Phật người ta làm chủ được cái sống chết rất rõ ràng, ta nói mấy tháng, mấy ngày người ta chết, người ta muốn chết hồi nào người ta chết, tức là người ta tự tại ở trong sanh tử.

(27:23) Người ta nói từ bi để mà người ta ra vào, tức là người ta còn háo danh, phải không? Các con thấy. Cái gì cũng giành mình đi ra vào để độ chúng sanh hết!

Như ông Phật bây giờ ông tự tại vậy, ông muốn sanh muốn diệt thì ổng có mình ổng, ổng đi độ chúng sanh cứ kiếp này kiếp khác, ổng độ hoài như vậy, chỉ có mình ổng thôi, còn bao nhiêu người để cho họ tu, thì như vậy là ổng giành cái danh cái lợi, đời nào ổng cũng có danh, ổng cũng làm Phật hết, đời kiếp nào ổng cũng…​ Thì như vậy ông Phật háo danh quá độ, như vậy là quá độ còn cái gì nữa?

Mà tổ thì muốn cho mình mình độ chúng sanh thôi, không được ai hết. Nghĩa là nói chung là thí dụ như Thầy bây giờ Thầy tu vầy, Thầy cũng muốn kiếp sau Thầy cũng lên làm nữa, kiếp sau cũng làm nữa. Mình làm Hòa thượng không mà, ngon quá mà, làm lớn mà, cho nên kiếp nào cũng ngon hết, thì bây giờ cứ kiếp này rồi cứ mình vô đi trong đường sanh tử làm chủ cái mình trở ra làm nữa, làm hoài, như vậy ai cũng là kêu mình thầy, thế gian này toàn là thiên nhân chi đạo sư, mình là đạo sư hết, không phải ngon sao?

Cho nên ông Phật ổng không phải là người háo danh, còn mấy ông tổ này thật sự ra mấy ổng nói tự tại trong sanh tử độ chúng sanh, chúng ta nghe mấy ông này thương chúng sanh dữ lắm, ra vào không có sợ ngại gì hết, nhưng mà đó là cái hình thức háo danh.

Cho nên vì vậy mà háo danh riết rồi bây giờ mấy ổng cất chùa làm sao mấy con thấy không? Ổng đâu có dám ở nhà tranh! Còn ông Phật ổng có một kiếp đời ổng ở nhà tranh, ổng ngán quá, nhà tranh mưa dột cho nên ổng chết là phải.

Còn ông tổ bây giờ ổng không ngán. Đời nào kiếp nào ổng cũng làm tổ cho nên ở chùa cao rộng lớn như vua rồi, đền đài sung sướng rồi thì còn cái gì mà bỏ uổng? Như vậy ổng có ly không? Như vậy ổng không có ly thế gian đâu.

Kiếp này ổng cất chùa tốt, kiếp sau ổng lên ổng ở cái chùa nữa, tốt nữa. Và kiếp này ổng cất ba bốn cái chùa, kiếp sau ổng cất năm bảy cái chùa, cứ mỗi một kiếp ổng cất chừng mười cái chùa, mà mười lần như vậy, thì các con thấy các tổ có thể một ông như vậy cất cả trăm cái chùa không?

Ổng háo danh kinh khủng, mà ổng tham lợi cũng dữ tợn. Một mình ổng làm đủ thứ hết, không có để ai làm lợi ích cho chúng sanh hết. Ổng giành hết à, công đức của ổng lớn hơn hết, cho nên ổng hơn Phật là chỗ đó chớ sao! Tại vì ổng tham quá nhiều ổng mới hơn Phật.

Ông Phật thì ổng diệt cái lòng tham, cho nên ổng chỉ một đời ổng thôi. Ổng nói: Đời nay ổng chấm dứt thôi, không làm nữa, để cho những người đệ tử của mình người ta làm, chớ không phải là giành với đệ tử của mình.

Cũng chẳng hạn bây giờ Thầy thuyết pháp mà có hay cách gì đi nữa, người ta cứ tập trung nghe Thầy, mà ba cái thằng đệ tử của Thầy nó nói gì họ cũng không thèm nghe hết, mà cuối cùng thì Thầy giành. Giành rồi Thầy chết rồi, bắt đầu mấy thằng đệ tử thuyết không ai nghe hết, chờ cho Thầy lớn lên Thầy thuyết bao nhiêu người cũng tập trung nghe Thầy. Vậy có phải là Thầy giành với đệ tử của mình không?

Đó, cho nên đó là những cái mà Thầy thấy người ta bị cái tâm danh tâm lợi mà nó che khuất đi, mà người ta lý luận bằng cách là người ta thương chúng sanh, từ bi hơn Phật, chứ làm gì mà hơn Phật được!

(30:08) Từ bi hơn Phật, tại sao chúng ta ăn ba bữa trước mồ hôi nước mắt của người khác mà chúng ta ăn được? Các con thấy à. Phải không?

Nếu mà chúng ta từ bi thì mỗi món ăn chúng ta bỏ để nuôi cái chánh mạng của chúng ta, thì chúng ta biết cái sự đau khổ của mọi người làm ra mới có thực phẩm này. Thế mà chúng ta nỡ chúng ta ăn ba bốn bữa còn ăn thêm năm bảy bữa nữa, thì thử hỏi như vậy là chúng ta có từ bi không? Hay là ăn trên mồ hôi nước mắt của người khác? Có đúng không?

Bởi vì Thầy thấy thật sự chúng ta có làm ra đồng bạc nào chúng ta sống đâu, thế mà chúng ta ngồi không ăn mà còn lại nói từ bi độ chúng sanh nữa!

Còn ông Phật thấy mỗi một ngày mà chúng ta ăn, nó đã hao tốn mồ hôi nước mắt của người khác rất nhiều, chúng ta phải thực hiện cái sự giải thoát cho thật sự để hoàn toàn ly tất cả những cái ham muốn ăn này, cho nên người ta đặt cái niệm thực phẩm bất tịnh để mà người ta quán xét, từ đó người ta không còn cái tâm tham đắm trên cái ăn.

Cho nên người ta ăn để sống, coi như là một cái liều thuốc, chớ đâu có phải thấy cái đó mà thích. Như vậy chính người ta đặt cái niệm đó mà người ta tu tập hàng ngày làm cho cái lậu hoặc ăn uống người ta quét sạch ra.

Còn trái lại chúng ta ăn ngày ba bữa, rồi ăn thêm dặm năm bữa, rồi còn thêm bánh trái rồi sữa bơ đủ loại, thì như vậy là chúng ta ăn trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác chớ gì?

Trên một cái chuyến đi vừa rồi, Thầy luôn luôn giữ cái hạnh không bao giờ vô quán vô lều, thế mà mấy cái chú cư sĩ này, cứ một lát thì rề xe lại quán này đã, tới rề xe lại quán kia. Thầy nói: Cuộc đời của mấy con là cuộc đời phí cái ăn, cái thời gian của mấy con chỉ biết ăn chớ không biết gì hết! Làm ra tiền chỉ phục vụ cho cái ăn!

Các con biết cái giờ này mà ngồi đây Thầy phải tốn biết bao nhiêu cái thời giờ của Thầy không? Mấy con thì chỉ ăn biết ngon cái miệng để ngồi đó phá cái thì giờ của người khác, không biết cái giờ của người ta quý báu.

Mỗi một cái giờ mà nó qua là nó làm cho cái thân của chúng ta nó hoại diệt từng phút giây ở trong đó mà các con đâu có biết! Các con tưởng là các con sống hoài hoài ha? Mai mốt mất thân rồi tìm không được đâu. Cho nên đừng có chạy theo ăn uống.

Rồi mua cái này, nước ngọt cái này kia, hoàn toàn là Thầy không chấp nhận hết, mới xách ra hai cái chai nước biển. Thầy hỏi hai chai nước biển này là nước lạnh hay cái gì, nó có bổ không? Mấy con nói trong này chất bổ. Mấy con là những người bị người khác lừa gạt!

Đi xin, lại cái phông tên (fontaine) kia kìa, lấy cái ca này nè, lại đằng kia, múc nước đó Thầy uống có chết không? Bỏ ra sáu bảy ngàn một cái chai như vậy, mà hai chai là mười mấy ngàn bạc, mồ hôi nước mắt của các con làm ra, nhiều khi các con đi ở tù nữa là khác.

Bao nhiêu người bất hạnh người ta không có tiền bạc, người ta đói cơm khát nước, còn mấy con đi mua cái nước lạnh như thế này mà để cho Thầy uống mà gọi là thương Thầy à? Mấy con làm bậy, không đúng. Thầy sạc liền ở trên xe liền tức khắc. Làm thinh không ai dám nói gì hết.

Thầy đâu có cần phải uống cái thứ này đâu? Thầy chỉ cần uống cái nước lạnh, nước phông tên kia kìa là đủ Thầy sống rồi. Ngày xưa Đức Phật đâu có nước phông tên uống, phải đi lại cái vũng nước dơ kia kìa, uống kìa, như vậy nó mới là người tu chớ!

Còn bây giờ hở ra là quăng tiền, hở ra quăng tiền, mấy con có tiền mấy con ỷ lắm. Các con đừng có nghĩ như vậy, là sai. Đối với một bậc tu hành các con phải giữ cái hạnh, chứ mấy con mà phí như vậy không được. Đụng đâu cũng rề, đụng đâu cũng ăn uống, đụng đâu cũng rề ăn uống, mấy con tưởng là có tiền mấy con xài, trong khi bao nhiêu người khác người ta đói.

Thầy sài cho một nước làm thinh hết, mặt mày xanh lét hết, không dám nói gì hết, mai mốt chừa không có mua cái thứ nầy nữa. Đừng có ngu si mà bị người ta gạt, rồi bổ rồi béo ở trong đó. Bổ béo gì? Uống ba cái nước đó Thầy thấy bao nhiêu cái nước mắt của người ta ở trong đó.

5- HÌNH TƯỢNG CÁC VỊ TỔ, BỒ TÁT THỂ HIỆN SỰ PHÁ GIỚI LUẬT

(33:47) “Tượng Phật lúc nào cũng ngồi thiền, đôi mắt nhìn xuống hiền từ, còn tượng tổ Bồ đề Đạt Ma thì vẽ đôi mắt sống động, vẽ mặt bặm trợn hùng hồn. Sao tượng Phật vẽ mặt hiền từ, tượng trưng cho cái gì? Tại sao tượng tổ lại vẽ mặt bặm trợn hùng hồn như vậy?

Còn tại sao tượng các vị Bồ Tát như ngài Văn Thù, ngài Đại Thế Chí, Quan Âm mặc đồ trang sức rất đẹp, mang tràng hoa, chuỗi anh lạc, mặc y áo thêu thùa, trang sức rất đẹp, cưỡi sư tử, coi oai hùng như tướng quân ra trận?”

Đó thì các con thấy những cái điều kiện mà người ta vẽ vời ở bên Đại Thừa rất là rõ ràng.

Hình ảnh của Đức Phật là hình ảnh rất là từ bi, rõ ràng. Còn ông tổ gì mà con mắt trợn trắng, trợn tròng mà nhìn thiên hạ, con nít nó thấy nó khóc ngất à, nó không có dám nhìn nữa, thì thử hỏi các con thấy cái hình tổ như vậy là cái hình tổ có từ không? Ông ta nói trừng tâm. Tâm gì mà trừng? Bộ tâm nó dữ lắm mà sao ngó nó dữ vậy?

Do đó những cái đó là những cái người ta lý luận để người ta thực hiện không có - thiếu cái lòng từ của Đức…​ Đạo Phật dạy chúng ta từ, bi, hỷ, xả, Tứ Vô Lượng Tâm của chúng ta luôn luôn phải thực hiện những cái oai nghi từ bi của chúng ta, thế mà tổ trừng tâm như vậy, là nhìn cái tâm hung dữ như vậy, thì thử hỏi làm sao mà thoát ra khỏi cái sự ác pháp ở trong đó?

Rồi chúng ta thấy những cái tượng trưng cho những cái điều kiện đó là người ta tưởng rằng đó là những cái giải thoát chính của họ, nhưng mà sự thật đâu phải là cái chuyện đó. Một hình ảnh hiền từ thì nó mới có nói lên được cái sự lòng thương yêu của chúng ta.

Còn các vị Bồ Tát như ngài Văn Thù, ngài Đại Thế Chí, ngài Quan Âm thì ăn mặc trang sức đẹp đẽ như cô gái nhà giàu, như công chúa vậy. Thử hỏi đem những cái hình ảnh này chúng ta thấy như thế nào? Có phạm pháp luật không? Họ có phạm giới luật của Phật không? Không có cho trang điểm, không này kia, mà hình ảnh các ngài đều là ăn mặc như vậy thì có phải là cái người tu theo đạo Phật không? Đó thì chúng ta so sánh.

Con hỏi như vậy Thầy mới trả lời, chứ nếu mà không hỏi thì mặc ai làm gì thì làm Thầy đâu có cần mà phải móc ra làm gì! Nhưng mà những cái hình ảnh này là những người gọi là đạo Phật, là những người mà gọi là đệ tử của Phật mà ăn mặc như thế này là có đúng phải là theo ông thầy giới luật không?

(36:17) Ông Phật thì mặc y phấn tảo, lượm cái vải thây ma, còn các ngài này thì hàng lụa phải đẹp, rồi còn trang trí vòng hoa rất đẹp. Ông Phật thì từ bi, còn các ngài thì leo lên lưng cỡi trên sư tử á, bắt con vật làm cho chở mình đi, có ác không? Các con thấy có cái ác không? Lấy con vật mà chở mình đi có ác không? Ông Phật thì đâu có dám làm cái điều đó đâu!

Mỗi con vật mà gọi là Phật Tánh bình đẳng - mấy ông có nói đó, nói thì hay lắm, nói thì mọi vật chúng sanh đều là bình đẳng với mình hết, ai cũng có Phật Tánh hết, vậy thì con sư tử này nó không phải là Phật Tánh sao? Thế mà ổng trèo lên lưng nó ông ngồi đó, thì ổng là cha nó chớ còn con cái gì? Phải không?

Như vậy là các con thấy rõ ràng là Đại Thừa nó nói một điều, nhưng mà nó sống có đúng bình đẳng không? Còn ông Phật có nói Phật Tánh, có nói chúng sanh Phật Tánh không? Nhưng mà cái hành động sống của ông Phật là luôn luôn bình đẳng với chúng sanh, thậm chí như con kiến còn không có giết nữa.

Còn mấy ông nói tất cả chúng sanh đều bình đẳng, có Phật Tánh, cho nên đối xử với nhau bình đẳng nhau hết, nhưng mà trèo lên lưng nó ngồi, chết cha nó không, vậy mà bình đẳng cái gì? Thì các con thấy hình ảnh của ông Văn Thù nè, rồi Quan Thế Âm là ngồi ở trên lưng con bạch tượng nè, rồi Văn Thù thì ngồi ở trên con sư tử lông xanh nè, còn Địa Tạng thì ngồi ở trên lưng con đề thính nè, có không?

Bắt mấy con vật, mình trèo lên trển ngồi làm cha nó hết mà gọi là bình đẳng với nó, là Phật Tánh chung nhau, nghĩa là Phật Tánh của con vật đó là nó phải làm cho vật mình cưỡi đi, thay ông Phật của cái con vật đó thì nó là cái đồ cưỡi của cái ông kia, thì như vậy là cái gì?

Đó là nói một điều mà thực hiện nó một ngả, nó không đúng cái tâm bình đẳng với nhau.

“Còn Tiểu Thừa, hình ảnh của Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên hiền từ, đi nhìn xuống, không có hiên ngang tự tại như các vị Bồ Tát. Làm sao con rõ, kính mong Thầy chỉ dạy cho con rõ hơn?”

Đó thì con thấy những đại đệ tử của Phật như ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, ông La Hầu La, ông A Na Luật, các cái vị đệ tử của Đức Phật họ toàn là đi bộ, họ không có cưỡi ở trên lưng con vật này. Mà bên Đại Thừa thì họ gọi là - Đại Thừa họ nói là bình đẳng, là Phật Tánh như nhau, mà họ sống một cách không có giống nhau chút nào hết.

Rồi giới luật của Phật thì các ông này mặc y phấn tảo, như ông Ca Diếp thì suốt cuộc đời sống lập 13 cái hạnh đầu đà, không có trang điểm, không có trang sức gì hết, hoàn toàn.

Thế mà ở bên Đại Thừa thì nhìn các đại đệ tử như Văn Thù, Thế Chí, Quan Âm, Địa Tạng, ông nào cũng trang điểm chuỗi ngọc đồ đeo đầy cổ hết, mặc y áo đồ sao mà sáng rực rỡ, trang trí rất là đẹp đẽ!

(39:04) Thậm chí Thầy thấy như ngài Thế Chí thôi dắt bông dắt hoa trên đầu cũng như là công chúa vậy. Có không? Các hình tượng rõ ràng mà, họ vẽ chúng ta thấy chứ chúng ta đâu có biết được.

Mà họ tưởng tượng ra vậy là các vị Bồ Tát quá đẹp, còn các ông Thanh Văn, các ông A La Hán này Thầy nói quá cùi đài, ăn mặc gì mà rách rưới lang thang như cái người nghèo đói! Đúng vậy! Những người nghèo đói này mới là giải thoát á, những người kia mới là chạy theo dục lạc thế gian đó.

Đó thì, so sánh những hình ảnh này chúng ta mới thấy cái đúng cái sai của đạo Phật, cái nào mà Đại Thừa, mà cái nào Tiểu Thừa, chúng ta mới biết rõ được những cái người mà chạy theo dục lạc, ham thích dục lạc, luôn luôn đè nén Phật pháp, đạo lý của đạo Phật xuống tận đáy bùn, cho nó là Tiểu Thừa, cho nó là tiêu nha bại chủng.

Hôm nay nhân cái dịp mà Minh Cảnh hỏi Thầy, Thầy sẽ trả lời chung để cho các con hiểu, chớ Thầy thì cũng chẳng muốn làm động ai hết. Vì động người ta thì người ta cũng có những cái lý luận, vì cái kiến chấp của họ họ cũng che đậy những cái lỗi lầm này cái lỗi lầm khác, làm cho người ta khổ thì mình cũng không nên.

Nhưng vì cái lợi ích chung cho các con hôm nay, buộc lòng Thầy nói cho đúng cái pháp nào là pháp của Phật, cái pháp nào là pháp không phải của Phật. Vì nhìn trong giới luật của Phật thì chúng ta biết, nhìn qua hình ảnh của các ngài thì chúng ta biết là các ngài không sống đúng cái giới hạnh của Phật, thì không thể nào gọi các ngài là đệ tử của Phật được.

Mà vì vậy mà Thầy phải nói rằng, về khi mà Đức Phật đã nhập diệt, sau này các đại đệ tử của Ngài chết rồi, thì Phật giáo trong thời vị lai mà gọi là Đức Phật Di Lặc ra đời thì cái hình ảnh một cái tôn giáo Phật giáo - phải nói rằng Phật giáo mới chớ không còn Phật giáo cũ nữa. Vì Phật giáo cũ mà do Đức Phật Thích Ca sáng lập ra thì đã bị che mất đi, nó thuộc về Tiểu Thừa rồi.

Còn cái Phật giáo về tương lai mà các tổ đã dựng lên, cái Phật giáo Đại Thừa và cái Phật giáo Tiểu Thừa thì hôm nay chúng ta biết cái đường nào mà dẫn dắt chúng ta đến giải thoát, tu tập giải thoát, thì cái đường đó là cái đường của đạo Phật.

Và cái giới luật nào để giúp chúng ta ly được dục, ly bất thiện pháp để chúng ta thoát ra khỏi cái tâm ham muốn, cái tâm ác pháp của chúng ta, để chúng ta thoát khỏi sự đau khổ, thì con đường đó là con đường chúng ta chọn để đi, để cứu chúng ta ra khỏi cái cuộc đời đau khổ của kiếp người đau khổ.

Thì dù nó là Tiểu Thừa, hoặc dù nó là tiêu nha bại chủng nhưng nó vẫn đưa chúng ta đến con đường giải thoát được thì chúng ta chấp nhận. Còn ai nói tiêu nha bại chủng, ai nói như thế nào thì mặc họ, riêng chúng ta chẳng nên nói ai hết.

Do vì vậy chúng ta hiểu biết Đại Thừa nó phạm giới, phá giới nhưng mặc nó, bởi vì nó có giới luật riêng của nó, cho nên nó phá giới là phá giới của Phật chớ không phải phá giới của nó.

(42:01) Do đó, vì vậy mà chúng ta đừng lấy cái giới luật của Phật mà ghép những cái người này là sai, là tại vì những người Đại Thừa họ có những cái giới luật của họ, họ sống trong dục lạc của họ thì họ cứ tu tập theo họ.

Còn riêng chúng ta hãy chọn lấy con đường đúng mà theo cái con đường mà dẫn chúng ta đến chỗ giải thoát, làm chúng ta không còn sanh tử luân hồi, làm chúng ta hết sự đau khổ của đời người, thì chúng ta chọn lấy nó.

Mặc dù người ta có kêu đó là Phật giáo Tiểu Thừa, Phật giáo như thế nào đó thì chúng ta vui lòng mà nhận những cái danh từ mà họ cho rằng nhỏ bé, thấp bé, không bằng họ, chúng ta vẫn vui lòng nhận cái đó. Vì nhận cái đó mà chúng ta thấy được hàng ngày sự tu tập chúng ta có những sự kết quả rất rõ ràng thì chúng ta chấp nhập.

Còn nếu mà hàng ngày chúng ta tu tập mà không thấy kết quả, không đem lại một cái sự hạnh phúc an vui, không đem lại cái sự giải thoát cho chúng ta thì đó là con đường sai, thì chúng ta hãy cố gắng mà đi tìm cho đúng con đường mà tu tập cho nó được giải thoát, chớ đừng vì một cái kiến chấp nào mà chúng ta bị dính mắc, rồi chúng ta cho đó là tại chúng ta tu chưa tới.

Vì Đức Phật đã xác định: Một ngày chúng ta tu là phải có kết quả của cái sự giải thoát đó thật sự, nếu mà không kết quả tức là chúng ta đã tu sai.

Vì vậy mà chúng ta nên tìm đến một vị thầy, hỏi: “Tại sao Phật dạy trong khi mà thực hiện pháp của Phật thì ngay hiện tại đó là có kết quả, nhưng con tu một ngày mà con thấy không kết quả, vậy thì con tu sai chỗ nào? Xin thầy dạy cho con để cho con thực hiện được cái giải thoát trong một ngày con tu tập!”

Mà ngày này được giải thoát thì ngày kế chúng ta cũng được giải thoát, cho nên cái thời gian chúng ta sẽ thu ngắn được và cuối cùng thì chúng ta giải thoát hoàn toàn.

Còn nếu tu mà ngày này ngày kia, mãi mãi mà không thấy giải thoát thì đó là chúng ta tu sai, tu không đúng, hoặc là pháp môn không đúng, hoặc là những cái pháp môn của tà giáo ngoại đạo mà chúng ta lầm là nó của Phật giáo.

6- KHÔNG CẦN MONG CẦU TAM MINH, LỤC THÔNG

(44:03) “Nếu không có sự thị hiện ra đời thì rừng kinh điển ấy con không ra khỏi luân hồi sanh tử. Thưa hỏi cho hiểu rồi, sau khi Thầy ẩn bóng, con nỗ lực tu để tự cứu mình sau đó cứu người, hầu mong đền đáp lại công ơn của Thầy và cô Út để nói lên con đường của Phật rất thực tế và cụ thể.

Kính trình Thầy!”

Đây là cái lời của cô Minh Cảnh thưa hỏi để thông hiểu.

Nhưng ở đây Thầy xin xác định cho các con biết rằng Thầy không có Tam Minh, không có Lục Thông, hoàn toàn Thầy không có. Trên bước đường tu hành Thầy có đi ngang qua, Thầy biết, trong khi nhập định Thầy có đi ngang qua đó, Thầy biết nó, nhưng mà nói Thầy có cái đó thì Thầy không có.

Bởi vì các con có thấy Thầy thực hiện Lục Thông chưa? Cho nên nói có thì phải có thực hiện chớ? Đằng này Thầy không có có, cho nên Thầy không có thực hiện.

Nên trên bước đường tu tập để nhập các định thì Thầy có đi ngang qua những cái Lục Thông, cũng như là Tam Minh Thầy có đi ngang qua, nhưng vì Thầy không có những cái pháp này, không có chứng những cái pháp này, cho nên Thầy không có thực hiện cho mấy con xem.

Nếu mà - do vì vậy Thầy biết được cái điều kiện tu tập này có thể thực hiện được Lục Thông, có thể thực hiện được Tam Minh, Thầy dạy cho các con. Chừng nào mà các con thực hiện được thì các con thấy à cái này Thầy dạy mình tu đúng, mình làm được, ở đây mình dùng cái Thiên Nhãn Thông, cái Thiên Nhĩ Thông của mình mà đã mình thấy đó là một cái điều kiện rất là vi diệu. Thì đó là các con thực hiện đi ngang qua con đường tu tập, các con thực hiện xem coi nó có được như vậy không.

Mà nếu được như vậy…​ (Mất tiếng)

  1. cái đó làm cứu cánh của mình đâu, mà cái đó chỉ là con đường đi phải gặp mà thôi. Sau đó các con thực hiện rồi, các con cũng phải bỏ nó xuống. Cho nên người ta nói con có Lục Thông thì con vẫn thấy con không có Lục Thông.

(46:04) Chẳng hạn là như bây giờ Thầy thực hiện con đường mà nhập Tứ Thiền thì thường Thầy dùng cái pháp hướng, Thầy bảo cho cái hơi thở Thầy ngưng nghỉ, các hành Thầy ngưng nghỉ.

Bây giờ trên cái bước đường mà nó ngưng nghỉ như vậy, thì trong khi Thầy đang tu tập cho đến khi nó ngưng nghỉ hoàn toàn, và trong khi nó ngưng nghỉ hoàn toàn thì lúc bấy giờ Thầy cũng biết, và những người nào mà trực tiếp ở lúc bấy giờ đã thấy Thầy nhập cái định Tứ Thiền, hơi thở và các hành nó ngưng như vậy, ai cũng biết điều đó. Nhưng mà khi mà Thầy đi rồi thì bắt Thầy để mà thực hiện lại cho các con xem thì Thầy không biết cái điều đó.

Bởi vì Thầy đã đi qua rồi, Thầy biết rồi, thì bây giờ lúc nào mà gần sắp sửa bỏ thân thì Thầy sử dụng nó mà bỏ thân thôi. Bởi vì cái mục đích giải thoát cho Thầy, chớ đâu phải mục đích biểu diễn cho các con xem, cho nên Thầy không có cái điều kiện đó. Nhưng mà Thầy có cái khả năng làm chủ được mình trên bước đường tu tập.

Cho nên bây giờ nói về Tam Minh thì Thầy không thể nào mà thực hiện Tam Minh cho các con xem, mà vì Thầy biết cái quá trình, cái đường đi trên đó, Thầy biết nó như vậy, bây giờ Thầy dạy lại cái kinh nghiệm đó để cho các con thực hiện.

Nhưng mà khi đến đó thì các con sẽ thực hiện rồi, mà khi có Tam Minh, con thấy được cái sự Tam Minh đó rồi thì bắt đầu con cũng vẫn thấy mình không có Tam Minh. Nghĩa là mình có sử dụng nó nữa đâu mình có? Nhưng mà cần thì nó sẽ có, mà không cần thì coi như là mình không có.

Vì vậy cho nên ở đây thì các con phải hiểu, như cô Minh Cảnh thì xác định như thế này: Thầy thì trong cái đời của Thầy tu Thầy có Lục Thông, Tam Minh, thật sự ra Thầy không có gì hết. Cho nên nói như vậy là nói sai ở Thầy, không đúng.

Còn nói Thầy có Tam Minh, Lục Thông tức là nói sai, không đúng ở chỗ Thầy, tức là phỉ báng Thầy. Các con hiểu điều đó. Vì phỉ báng Thầy, nói Thầy có điều đó điều này điều kia làm cho người ta lầm tưởng rằng Thầy là người tự mình xưng mình có điều đó.

Sự thật Thầy không có. Trên con đường đi của Thầy, mục đích là Thầy làm sao làm chủ được cái sống chết và chấm dứt được sự tái sanh luân hồi, cái Phạm hạnh của Thầy là lúc nào cái tâm nó cũng bất động trước các đối tượng, trước các pháp, trước cái thọ đau khổ của Thầy nó không có dao động, thì đó là cái mục đích của Thầy, Thầy chỉ biết làm được cái điều này mà thôi.

(48:17) Còn hoàn toàn những cái khác Thầy không biết, Thầy không có cái gì hết. Nhưng mà khi mà Thầy tu tập để cho cái tâm Thầy bất động, không có còn dao động, thì những cái này đều là Thầy có gặp hết. Thầy có gặp hết tất cả những cái oai lực, cái thần lực này đều là Thầy có gặp hết, Thầy có hết, nhưng mà Thầy không chấp nhận nó cho nên Thầy không có nó.

Các con hiểu điều vậy. Cho nên khi đó mà các con nói Thầy có Lục Thông, Thầy có Tam Minh thì cái đó là các con phỉ báng thầy. Tại vì Thầy tu hành, mục đích của Thầy là giải thoát chớ đâu phải đi tìm cái đó! Mà có cái đó làm gì? Cho nên hiện giờ có cũng như là không có. Các con hiểu.

Do đó các con không khéo rồi các con nói bậy thì lúc người ta hiểu Thầy là Lục Thông, là lúc bấy giờ người ta tìm đến Thầy để tu tập là Lục Thông, là Tam Minh thì cái đó là sai.

Mà người ta tìm Thầy, đến để tu tập ly dục, ly bất thiện pháp, làm cho tâm không còn lậu hoặc để làm chủ được cái sự tái sanh luân hồi, để điều khiển các hành ngưng để nhập Tứ Thiền, làm chủ cái sống chết của họ, tức là liễu sanh thoát tử. Các con hiểu điều đó là cái mục đích của người tu theo đạo Phật, hoàn toàn ngoài ra không có Lục Thông Tam Minh gì, không có cái gì hoàn toàn hết.

Một người bình thường, cũng ăn cũng uống cũng như các con hết, thì như vậy là một người giống như mọi người, không khác. Đó có vậy thôi. Chết thì cũng không để nhục thân cho ai mà thờ phượng, mà sống thì đem lại những kinh nghiệm dạy lại cho người khác tu tập như mình thôi, cũng giải thoát được như mình thôi, có vậy thôi.

Chớ còn Thầy không phải là Phật, cũng không phải Bồ Tát, cũng không phải A La Hán, vì tất cả những cái này Thầy không có cầu mong. Thầy tu hành Thầy không làm A La Hán mà Thầy chỉ tìm làm sao mà làm chủ được cái thân của mình, cái thân quá đau khổ, làm chủ được cái tâm của mình, cái tâm quá tham, sân, si, phiền não, chỉ mục đích của Thầy là như vậy.

Thì các con cũng nên nhớ rằng theo Thầy là cũng nhắm cái mục đích đó, chớ đừng có Tam Minh, Lục Thông, cái kiểu đó là chắc chắn là mình thành tà giáo ngoại đạo mất rồi, nó trật rồi. Đó, hiểu chưa?

7- DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH LÀ MỘT ĐẠI THẦN LỰC

(50:17) Bây giờ Thầy sẽ trả lời tiếp cho con, con lấy tập đi con. Bây giờ Thầy trả lời tiếp cho các con nghe.

Mục đích của các con là - đến với Thầy là phải tu cho được giải thoát. Mỗi người nào Thầy mong rằng các con đến với Thầy, không đến thôi, dù lớn tuổi, dù còn trẻ tuổi đều là cái mục đích phải làm chủ được cái sự sống chết và chấm dứt sự luân hồi. Đó là cái điều kiện thứ nhất của các con.

Còn cái vấn đề mà người ta hỏi cái này kia, thì lúc bấy giờ các con đừng hỏi trước. Vì hỏi trước các con - nhiều khi những cái kiến chấp của các con được hỏi Thầy trước đó, các con trang bị cho mình cái hiểu biết để trả lời thiên hạ: Bây giờ Diệt Thọ Tưởng Định như vậy đúng, sai.

Chừng mà các con đi ở trên con đường mà được giải thoát làm chủ được sanh tử rồi thì cái chuyện Diệt Thọ Tưởng Định hay hoặc là Tứ Thiền hay hoặc là những thần lực gì các con cũng đều hiểu biết hết. Phải có hiểu biết thì mới làm chủ được, chớ không hiểu biết thì không làm chủ được đâu.

Chớ không phải nói tui ly dục không rồi cái tu bắt đầu tui giải thoát, không phải đâu. Nó sẽ có đủ những cái quyền lực mới có đủ sức làm chủ cái sống chết của chúng ta chớ không phải đâu. Các con đừng tưởng là tui làm không tới đâu, không phải! Các con tu đúng là các con cũng như Thầy, y như vậy à, mọi người cũng giống nhau như vậy, không khác đâu.

Bây giờ thì các con chưa làm được đó, nhưng mà Thầy nghĩ rằng các con sẽ đi cái lộ trình này thì các con sẽ tới đó y như Thầy, Thầy làm sao được thì các con cũng được như vậy. Miễn là các con bỏ hết một cuộc đời của các con mà quyết thực hiện được sự giải thoát này, thì các con tới chừng mà thông rồi thì bây giờ Thầy có trả lời các con bao nhiêu cái hiểu biết đi nữa, chừng đó các con cũng trả lời cỡ mực mà Thầy nói bây giờ thôi. Phải không?

Nhưng mà bây giờ các con học như vậy mà các con không tu, các con nghe người ta hỏi các con lấy của Thầy các con trả lời, nhiều khi cái đó là cái khổ đau nhất, cái đó là cái sai nhất.

Cho nên ở đây chúng ta cần đừng có hiểu gì hết mà phải nỗ lực tu, chừng đó ai hỏi mình móc ở trong bụng mình ra mà trả lời, cũng như Thầy bây giờ móc ở trong bụng mà trả lời các con đó, cái đó là cái hay nhất. Phải không? Không có dựa vào kinh sách đâu.

Kinh sách nó nói đâu có ra cái này đâu? Các con thấy, Diệt Tận Định nó nói tầm bậy tầm bạ. Nó nói nhập định gì mà y áo bị lửa cháy hết, rồi còn xám da nữa, rồi lấy đồng la đánh nữa. Trời! Nó nói Diệt Tận Định cái kiểu đó thì Thầy nói thiệt là! Nó nói cái định gì chớ nó đâu có biết thứ gì đâu.

Đó là những cái sai của các người sau này không có nhập Diệt Thọ Tưởng Định mà nói ưởng, nói đại, nói cho qua, nói gạt người ta, chưa có biết. Các con hiểu điều kiện.

Vì vậy một cái người mà tu Diệt Thọ Tưởng Định như hồi nãy Thầy nói, cái từ trường của họ đâu có phải chuyện dễ của một cái người thường. Thầy nói bây giờ Thầy ngồi nhập Diệt Thọ Tưởng Định đây nè, các con đi vô, cái vô hình như vầy các con vô không được đâu, chớ đừng có nói.

Các con vô làm như là đi không có được. Nó như là cái tường đồng vách sắt vậy chớ đừng có nói xâm chiếm vô cái thân của Thầy được đâu! Nó đâu có dễ đâu. Một con vật còn vô không được thì huống hồ các con làm sao đi qua được cái tường đồng vách sắt vô hình đó. Mặc dù đứng ở ngoài thấy đó, nhưng mà bước vô không được chớ đâu phải dễ đâu!

Nghĩa là, thí dụ như bây giờ Thầy ngồi trong thất đó mà cái từ trường của Thầy rộng ra ngoài kia, con đi vòng vòng ngoài kia mà đi vô không được. Biết nó vậy mà vô không được, vô để sáp vô không được.

Nó có cái lực của nó như vậy đó, chớ đừng có nói mà đến gần được cái thân của người nhập Diệt Thọ Tưởng Định đâu. Còn nhập Tứ Thiền thì được. Nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì không có được đâu.

Đó. Thì như vậy là các con biết được cái từ trường của cái lực, cái đại thần lực của một người nhập Diệt Thọ Tưởng Định không phải là cái tầm thường, của bậc thánh nhân chớ không phải là Tiểu Thừa đâu. Cho nên các con hiểu theo cái kiểu mà hiểu của các nhà Đại Thừa thì cái đó là cái sai.

Đó, đến đây thì…​ (Mất tiếng)

(53:41) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học hôm nay. Thì vừa rồi có một cái người tu sĩ hỏi Thầy về cái Diệt Tưởng Định, cho nên Thầy tiếp tục tới cái chỗ Diệt Thọ Tưởng Định để cho quý thầy thấy.

Cái định Diệt Thọ Tưởng Định là cái định nó không có - theo cái sự tu tập về thiền định thì cái định Diệt Thọ Tưởng Định là một cái đại thần lực, cái đại thần lực rất là ghê gớm chớ không phải là tầm thường như người ta nghĩ nó là một cái định của Tiểu Thừa, mà nó là một cái định rất là vĩ đại.

Bởi vì Bốn Thiền - khi mà một cái người mà nhập Tứ Thiền thì người ta ở trong cái sức tỉnh thức, cái biết rất là rõ ràng cụ thể, nhưng trời sét người ta không nghe, mọi sự kiện xảy ra người ta không có biết, nhưng mà người ta rất tỉnh, tỉnh hơn là chúng ta đang lúc tỉnh thức như thế này.

Khi mà nhập vào Tứ Thiền là như vậy. Còn khi mà nhập vào Diệt Thọ Tưởng Định thì cái thức nó hoàn toàn là nó không có nữa, nó chỉ còn có một trạng thái rất là thanh tịnh, vắng lặng, nó không còn có tiếng động, tiếng gì cả hết. Cho nên khi một người mà nhập vào Tứ Thiền thì cũng không thể nào mà lấy cái đồng la mà có thể đánh mà cái người đó xuất định.

Cho nên hầu như là các tổ, Thầy thấy như ngài Hám Sơn, ngài nhập bốn năm ngày, rồi những người bạn của ngài đến cái thất của ngài thì người ta phá cái cửa sổ vô, người ta thấy ngài ngồi ở trong đó mà như cái gộc cây vậy đó, rồi người ta lấy cái cái linh hay hoặc là cái chuông người ta đánh một hơi thì ngài xuất định, thì cái đó nó còn dùng cái tiếng động mà gọi cái người xuất định ra, còn người ta nhập thì cái định đó nó chưa phải là cái Diệt Thọ Tưởng Định đâu.

(55:39) Còn một cái người mà nhập một cái định một ngàn năm như trong các truyền thuyết, do các cây nó bao lại rồi sau đó người ta chẻ cái cây ra, và đồng thời cũng lấy đồng la mà đánh vị đó thức, xuất định. Do cái định như vậy đó thì hầu như là người ta chưa có hiểu về cái định Diệt Thọ Tưởng Định.

Bởi vì cái định Diệt Thọ Tưởng Định nó có một cái từ trường rất là bảo vệ chúng ta rất vững vàng. Cái định Tứ Thiền, theo Thầy biết, cái sức cái ý thức của người ta, cái thức của người ta nó rất tỉnh táo ở trong cái định Tứ Thiền, nhưng âm thanh không còn tác động được, đánh thức người ta được, thậm chí như trời sét không còn đánh thức người ta được.

Chớ không phải lúc bấy giờ mà Đức Phật nhập cái Diệt Thọ Tưởng Định đâu, mà chính Đức Phật đang nhập vào cái Tứ Thiền đó mà trời sét còn không nghe, còn huống hồ là cái Diệt Thọ Tưởng Định thì nó là toàn bộ cái thân của chúng ta, tất cả các hành đều ngưng hết.

Còn cái định Tứ Thiền thì cái ý hành chưa có ngưng, cho nên thọ với tưởng nó chưa hoàn toàn nó ngưng. Bởi vì cái ý căn hoàn toàn nó còn hoạt động, bộ óc của chúng ta còn hoạt động, vậy mà âm thanh không tác động được nó, nó không còn nghe một cái tiếng động, tiếng lớn tiếng nhỏ gì cả hết, còn huống hồ là cái Diệt Thọ Tưởng Định.

Và cái Diệt Thọ Tưởng Định nó lại có cái mực là nó giữ được cái thân, dù chúng ta nhập trong cái thời gian bao lâu nó cũng bảo vệ được cái thân của nó, cho nên cái từ trường của nó rất là mạnh và nó rất là bảo vệ vĩ đại lắm.

Cho nên chúng ta đừng có nghĩ rằng những cái định của Phật là cái thứ định Tiểu Thừa, là cái thứ tầm thường. Một cái thứ định mà nó có cái thần lực, nó chỉ ra lệnh mà nó làm được, chớ không phải là nó như người ta mà ức chế nó, hay bằng ép buộc nó bằng cách này, hay hoặc nó rơi tự động, nó rơi vào cái chỗ này hay rơi vào chỗ kia, mà đây là người ta điều khiển.

(57:28) Cho nên khi mà đọc lại cái cuốn của ngài Ajahn Chah viết: Thiền mà để tự nhiên, để nó vào để cho tâm chúng ta tự nhiên nó vào định, thì ngài dạy như vậy theo Thầy thấy đó là một cái chưa biết thiền.

Đức Phật đã bảo chúng ta đó: Thiện xảo, thiện xảo nhập định, rồi thiện xảo an trú trong định, thiện xảo sống trong cảnh giới định, rồi thiện xảo xuất định.

Thiện xảo là cách thức chúng ta phải khéo léo điều khiển, nó mới nhập định được. Rồi thiện xảo an trú - kéo dài cái thời gian gọi là an trú ở trong định. Rồi thiện xảo sống ở trong cái định. Rõ ràng là Phật dạy chúng ta có cái sự điều khiển rất rõ ràng. Thế mà các ngài dạy chúng ta tự nhiên để mà vào định.

Rồi Đức Phật dạy chúng ta, bảo chúng ra phải định niệm hơi thở ra hơi thở vô, khéo mà tác ý nó để nhập vào các định.

Còn trái lại thì các ngài lại dạy chúng ta như cái ngài thiền sư ở Miến Điện, ngài dạy thiền định thì ngài dạy về hơi thở, thì ngài dạy bảo chúng ta biết phình xộp, tức là cái bụng cứ lên xuống, lên xuống, ngài cứ nhắc chừng cái bụng của ngài lên xuống. Sau một thời gian ức chế cái tâm của mình nó không có cái Tầm, rồi bắt đầu các ngài lại dùng nó mà quán ra.

Thì cái hình thức đó thì nó gần giống như là Lục Diệu Pháp Môn vậy: Sổ, tùy, rồi chỉ - chỉ tức là cái Tầm nó ngưng đi, rồi bắt đầu bây giờ nó mới quán. Thì như vậy nó đều là sai tất cả.

Ngay từ lúc đầu cái người mà muốn ly dục, ly bất thiện pháp thì người ta đã dùng cái pháp quán để người ta quét sạch cái lậu hoặc của người ta. Nhưng mà cái cốt của lậu hoặc thì nó chờ phải có cái trí tuệ Tam Minh, Lậu Tận Minh nó mới đốn sạch cái gốc của lậu hoặc.

Còn bây giờ tất cả những cái nhánh, lá, những cái giác của lậu hoặc thì chúng ta phải dùng cái Định Vô Lậu mà chúng ta quét nó, do đó mà chúng ta mới diệt năm cái triền cái, những cái kiết sử, vì vậy mà chúng ta gọi là ly dục, ly bất thiện pháp chúng ta mới nhập Sơ Thiền.

Đến đây Thầy sẽ dạy cho quý thầy thấy, từ cái Sơ Thiền mà cho đến Nhị Thiền chúng ta phải trải qua ba cái giai đoạn định nữa chứ không phải là một cái giai đoạn định mà được. Nghĩa là từ cái Sơ Thiền, từ cái hơi thở bình thường nè mà chúng ta muốn diệt Tầm Tứ để chúng ta nhập được Nhị Thiền thì nó phải trải qua ba cái giai đoạn định.

Quý thầy thấy, ba cái giai đoạn định mà chúng ta cần phải tu tập chúng ta mới diệt được, là phải có thiện xảo, phải có khéo léo, phải có hướng tâm, phải có tác ý thì nó mới có được, chớ không phải để tự nhiên mà nó vào được đâu

Cho nên hầu hết là các thầy nghiên cứu kinh sách của Phật mà không thấy được cái lời ông Phật dạy khi mà đến cái thiền định. Để đến đây Thầy sẽ dạy, khi mà học về giới hành thì đến cái giai đoạn tu về Tứ Niệm Xứ cho đến tu Tứ Thiền thì quý thầy sẽ thấy Thầy dạy rất rõ ràng.

(01:00:31) Và một lúc đây Thầy sẽ cho quý thầy hiểu ba cái giai đoạn định mà chúng ta từ cái Sơ Thiền đến Nhị Thiền nó phải tu tập cái định nào trước, cái định nào sau, để thấy cái chỗ mà chúng ta đi vào Nhị Thiền nó không phải đơn giản đâu.

Phải ba lần, ba kiểu, ba cách thức tu tập nó mới đạt được Nhị Thiền, chớ không phải nói Nhị Thiền là diệt Tầm Tứ cái vào Nhị Thiền được đâu, không phải dễ đâu, nó không phải đơn giản đâu.

Từ cái Sơ Thiền ly dục, ly bất thiện pháp đã là khó khăn rồi, thế mà còn phải xét qua cái ý của chúng ta lúc bấy giờ nó nằm ở cái dạng nào, cái định nào, cái thiền nào, để rồi nó mới đi tới được Nhị Thiền chớ không phải một cách là đơn giản.

Cho nên cái Diệt Thọ Tưởng Định chúng ta đừng có lầm tưởng như các ngài diễn tả cách thức lấy loa, lấy chuông, lấy những cái thỏi đồng để đánh cho phát âm ra rồi đánh thức cái người đó xuất định, không phải đâu. Thiền của đạo Phật không phải là loại thiền của ngoại đạo, không thể nào dùng tiếng động.

Người mà nhập Tứ Thiền, lúc bấy giờ quý thầy mà có gặp cái trường hợp khó khăn trên bước đường tu hành, chỉ thầm tâm niệm hướng đến một vị mà đang nhập Tứ Thiền, thì người ta ở trong cái thức đó người ta giao cảm được cái nỗi khổ của quý thầy là người ta sẽ xuất hiện, người ta sẽ đến với quý thầy, người ta giúp đỡ quý thầy.

Còn khi nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì quý thầy có cầu gì cũng không được hết. Đó là những cái người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì không có còn giao cảm với quý thầy ở chỗ nào được cả hết.

Nhưng Tứ Thiền vẫn giao cảm được với quý thầy, là vì cái Thức Thức của họ luôn luôn làm việc liên tục ở trong đó, không bao giờ nó ngưng nghỉ. Cho nên cái sức tỉnh của nó luôn luôn ở trong cái dạng của Tứ Thiền. Nó giao cảm tất cả mọi tâm niệm của chúng sanh, nghĩa là cái người nào mà có sự đau khổ đúng của nó thì nó giao cảm được.

Thí dụ như giao cảm như thế nào? Khi nào mà quý vị tu hành, giới luật nghiêm chỉnh, thân quý vị thanh tịnh thì lúc bấy giờ quý vị gặp khó khăn thì quý vị giao cảm được với cái vị nhập Tứ Thiền. Tại sao?

Vị nhập Tứ Thiền là ly dục, ly bất thiện pháp, tâm họ rất thanh tịnh, thân họ cũng rất thanh tịnh, cho nên hai cái thân đều là thanh tịnh, hai cái tâm đều thanh tịnh sẽ dễ giao cảm. Còn quý vị phá giới, quý vị không có giữ trọn vẹn giới luật, mà quý vị có cầu khẩn gì thì cũng không thể nào giao cảm với người nhập Tứ Thiền được. Đó, thì quý thầy hiểu.

Khi quý thầy giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, giữ gìn thân tâm của quý vị không có phạm giới, thì lúc bấy giờ quý vị có một cái sự khó khăn trên bước đường tu tập thì quý vị chỉ cần khởi tâm hướng đến chư Phật, hướng đến những vị đã nhập Tứ Thiền, thì ngay đó người ta đã cảm thông được cái sự khó khăn tu hành của quý vị, và người ta đến giúp quý vị liền.

(01:03:20) Cho nên dù bất cứ ở nơi nào mà quý vị giữ gìn giới luật thì quý vị sẽ được sự cảm thông đó và có sự giúp đỡ cho quý vị.

Thí dụ như bây giờ quý vị đang tu tập mà bị hôn trầm nặng, không có thể nào vượt qua được. Do cái sự giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không có ăn uống phi thời, không có - tinh tấn siêng năng mà gặp những cái khó khăn đó thì quý vị chỉ cần van xin, cầu xin, cầu cho chư Phật, những vị mà tu hành đã đạt được sự giải thoát đến giúp con gặp cái khó khăn, thì ngay đó người ta sẽ thể hiện đến để mà giúp đỡ quý vị tu hành. Quý vị đừng sợ.

Cũng như quý vị gặp những cái trường hợp nghiệp lực quá đau khổ, mà thân tâm của quý vị đã giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì ngay đó quý vị chỉ cần khởi một cái ý cầu xin chư Phật mười phương hoặc là những bậc chân tu, giới đức thanh tịnh, có sức giải cứu được nghiệp của con thì hãy đến cứu con trong cái lúc này, thì ngay đó người ta cảm thông được điều đó, mà thân tâm của quý vị thanh tịnh bằng giới luật thì người ta sẽ đến giúp quý vị liền, người ta không bỏ quý vị.

Còn quý vị phạm giới thì quý vị cầu gì thì mặc, đó là cái điều kiện của quý vị, cái thân của quý vị nó không trong sạch, nó không thể giao cảm được với người ta, người ta không thể cứu giúp quý vị được.

Đó là những điều mà Thầy căn dặn quý thầy. Nếu mà quý thầy dù bất cứ ở nơi đâu mà yên ổn, mà quý thầy gặp khó khăn, mà quý thầy giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì nơi đó sẽ có thiện hữu tri thức giúp đỡ quý vị khi quý vị gặp khó khăn.

Đó là cái phần mà Thầy nói về cái định Diệt Thọ Tưởng Định. Nó vi diệu, cái từ trường của nó nó bảo vệ chúng ta. Khi một người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định quý vị đừng có nghĩ rằng, nghe ở trong kinh nói thì lấy gươm lấy dao đâm cái người đó không lủng. Đúng vậy! Nó không có những vậy mà nó còn không bước vào sát cái thân của người đó được.

Cho nên Thầy nghe một cái câu chuyện thuật lại là sau khi cái vị Tỳ Kheo đi đến thấy một cái tháp của một cái vị ni mà ngỡ là một cái vị tăng, cho nên cái vị sư đó mới đi vòng quanh cái tháp đó ba lần.

Nhưng mà nhìn thấy là cái tháp của người ni, cho nên cái vị này tức giận mới đập phá cái tháp đi, rồi khi đó đó thì mới bỏ đi. Thì cái số người ni mà giữ tháp này chạy về báo cho bên ni hay. Ni nó mới đuổi theo, đứa thì xách dao xách mác đuổi theo.

Cái vị này thấy cái bọn ni này dữ tợn quá cho nên không thể nào chạy thoát khỏi, mới đi đến gần cái bìa rừng đó đó, mới ngồi nhập cái định Diệt Thọ Tưởng Định để mà chịu đựng. Do đó thì một số người ni này họ đến thấy cái vị thầy mà đã phá cái tháp của họ đó, họ mới đâm mới chém cái vị đó, đến đỗi mà cái y của vị đó như cái y Thầy đây nè, tan nát hết, không còn gì hết.

(01:06:14) Cho nên cái vị này khi mà họ đâm đã rồi đó họ mới rút về, thì cái vị này mới xuất định ra rồi mới về gặp ông A Nan. Ông A Nan hỏi: “Sao mà nay thiền giả cái y rách nát vậy?” Mới thuật lại cho ông A Nan nghe là: “Nhờ tui nhập Diệt Thọ Tưởng Định chớ không đâm tiêu tui rồi!”

Đó thì các thầy thấy, câu chuyện mà thuật như vậy Thầy thấy dường như là nó không có đúng là cái người nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Cái người nhập Diệt Thọ Tưởng Định mà ngồi đây, cái từ trường của họ nó bao bọc rộng lớn như thế này nè. Nghĩa là một cái người mà ở ngoài kia bước vô đây đi vô không được, mặc dù vô hình mà bước vô không được.

Thầy nói thậm chí như ở trên này mà trời mưa đổ xuống như thế này nè, cái người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định nó có một cái từ trường nó làm cho nước mưa không có đổ ướt cái thân của người đó được. Nó bảo vệ cái thân của người đó như vậy đó, chớ không phải đợi mà đến mà lấy dao lấy mác mà đâm ở trong thân người đó mà cái y áo rách tan nát đâu.

Cho nên cô Minh Cảnh hỏi Thầy: Nghe nói có người nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì cái rừng nó cháy đi, thì cái y áo của vị đó cháy đi, rồi cái da của vị đó bị lửa cháy nám đi. Thầy nói thiệt ra cái này là chẳng hiểu gì hết!

Bởi vì khi mà cái y áo này, cái từ trường của vị đó mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định nó bảo vệ cái y áo không bao giờ có lửa cháy được, nước không trôi được, nghĩa là nước không bén mảng. Thầy nói cái từ trường nó như thế này nè, bây giờ nước nó ngập lụt đi, nước nó dựng đứng lên như núi vậy chớ nó cũng không tràn vô được cái thân của cái người nhập Diệt Thọ Tưởng Định nữa.

Đến đỗi nó bảo vệ như vậy mới hiểu được cái lực, bởi vì đó là đại thần lực. Mà nói về đại thần lực thì cái cái thần lực nó kinh khủng lắm chớ nó không phải thường.

Cho nên đạo Phật nó có ba cái thần lực: Đại oại lực - khi một vị tu sĩ mà đi ra, mắt nhìn xuống mà giữ gìn cái oai nghi thì gọi là đại oai lực, làm cho mọi người thấy cái tướng, cái hành động của vị tu sĩ đó người ta rất kính trọng, gọi là đại oai lực.

Đại thần lực nó thuộc về thiền định. Cho nên người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định là cái định tuyệt đỉnh của Bốn - khi mà nhập Bốn Thiền, Tứ Thiền thì nó mới có ngưng nghỉ hơi thở thôi, còn nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì toàn bộ cái thân chúng ta không còn hoạt động nữa, cho nên từ cái khẩu hành, ý hành, từ khẩu hành, thân hành và ý hành đều hoàn toàn ngưng sạch hết.

Cho nên đó là cái định cao nhất của đạo Phật chớ không phải ít. Vì vậy mà cái thần lực của nó phải vĩ đại, rất là vĩ đại, không lường được, mà bây giờ người ta diễn tả theo cái kiểu người ta hiểu mà không ai nhập được nó thì người ta nói cái chuyện đùa chơi chứ không thể người ta hiểu được cái thần lực.

Tại sao có cái đại thần lực như vậy mà còn lấy gươm dao đâm cái thân người ta mà tan nát cái áo? Người ta chỉ muốn diễn tả cái định Diệt Thọ Tưởng Định là như cái thân của chúng ta như là như Thiết Bố Sam, như một người mà luyện võ, họ luyện cái thân của họ cũng cứng như đồng.

(01:09:06) Một người mà luyện gồng, họ gồng đến đỗi mà dao chặt không đứt họ, thì cái thân của chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định cũng như một người luyện võ, thì có nghĩa lý gì? Cái đó đâu phải là thần lực.

Cho nên ở đây Thầy nói để cho quý thầy thấy cái đại thần lực của Phật là phải như thế nào mới gọi là đại thần lực. Mà thần lực tức là nói về thiền định của đạo Phật.

Mà nói về đại minh lực là nói về cái trí tuệ của Phật, là nó siêu việt không thể tưởng tượng được.

Cho nên ở đây, tất cả những cái này là từ ba cái oai lực này là chỉ có Phật mới đủ mà thôi, còn tất cả các đệ tử của Ngài không đủ. Bởi vì hầu hết tất cả các đệ tử của Ngài không có được cái người nào mà Đức Phật chỉ định là thừa kế Đức Phật dạy chúng ta sau này, là tại sao vậy? Tại vì những vị đó đều là có sở trường sở đản, không toàn diện như Đức Phật được, không đủ ba cái oai lực.

Cũng như ông Mục Kiền Liên, thì ổng giỏi về có cái thần thông, cho nên gọi là ổng thần thông đệ nhất, thì ổng chỉ có cái đại thần lực, còn cái đại minh lực thì ổng không có, rồi cái đại oai lực thì ổng cũng chưa đủ. Đó.

Còn cái ông Ưu Ba Ly thì ổng là đệ nhất giới luật. Đệ nhất giới luật thì phải xem như là ổng chỉ đạt có một cái đại oai lực, chứ ổng đâu có đại thần lực mà cũng đâu có đại minh lực, vậy làm sao ông đủ!

Còn nói ông Xá Lợi Phất thì ổng đệ nhất trí tuệ, thì ổng chỉ có cái đại minh lực mà ổng đâu có cái đại thần lực, làm sao ổng đủ!

Cho nên mỗi người đệ tử của Phật đều có cái sở trường riêng biệt của nó, cho nên Phật nói đệ nhất, đệ nhất cái này, đệ nhất cái kia, không có người nào mà toàn diện. Cho nên đâu có người nào mà xứng đáng là người thừa kế Phật mà dạy chúng ta! Chúng ta phải hiểu như vậy.

Chỉ có giới luật của Phật mới đủ ba cái thần lực này, mới là người thừa kế Phật dạy chúng ta sau này. Do đó chúng ta lấy giới luật mà làm thầy của mình mới là một vị thầy xứng đáng có đủ ba oai lực.

Như vậy quý thầy mới hiểu được, trên con đường mà theo đạo Phật tu hành mới đến nơi đến chốn, và đủ thần lực như vậy mới gọi là một vị đệ tử của Phật, mới gọi là một người xứng đáng lãnh đạo Phật giáo sau này. Nhưng chúng ta làm sao chúng ta có đủ?

Thầy nói như thế này: Người nào cũng có thần thông hết, nhưng mà cái người đệ nhất thần thông chớp mắt là người ta thực hiện ra được liền. Cũng như bây giờ đối với ông Xá Lợi Phất ông cũng có thần thông, ổng cũng bay lên trời được, nhưng tại sao Đức Phật không khen ổng là đệ nhất thần thông mà lại gọi ông Mục Kiền Liên là đệ nhất?

Đây Thầy ví dụ cho các thầy thấy, như ông Mục Kiền Liên ổng nói: “Một cái thân này phải biến ra một cái thân nữa ngồi đây!” - thì ngay tức khắc trong chớp mắt ổng ra lệnh thì có một cái thân ngồi liền tức khắc. Còn ông Xá Lợi Phất ổng cũng biến được, nhưng ít ra cũng phải 5 phút thì mới có một cái thân ngồi.

Như vậy là cái sức của ông Xá Lợi Phất không thể nào gọi là đệ nhất thần thông được. Cái oai lực của ổng, cái đại thần lực của ổng nó chưa có đại thần lực nổi. Cho nên mặc dù là biến hóa thần thông được nhưng cái chậm cái nhanh, là do chỗ đó mà người ta mới gọi là đệ nhất hay hoặc là không đệ nhất.

(01:12:24) Như vậy là quý thầy đã hiểu được chỗ này. Và cái định Diệt Thọ Tưởng Định nó không phải là định Tứ Thiền, mà là người mà chưa nhập được Tứ Thiền thì không thể nào nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Vì hơi thở chưa ngưng nghỉ, làm sao ý hành ngưng nghỉ được? Thân hành không ngưng nghỉ thì ý hành làm sao ngưng được?

Mà cái người mà chưa nhập Nhị Thiền thì làm sao mà nhập Tứ Thiền được? Cho nên người mà nhập Sơ Thiền chưa được, khẩu hành chưa ngưng nghỉ, hay nói chuyện láp dáp, hay nói chuyện phi thời mà muốn nhập Nhị Thiền thì làm sao nhập được?

Cái chuyện đó cũng như bây giờ quý thầy cứ tập trung nhau nói chuyện thì làm sao mà quý thầy nhập Nhị Thiền được? Sơ Thiền là phải tịnh chỉ ngôn ngữ, mà tịnh chỉ ngôn ngữ không phải trong một ngày mà phải một năm, hai năm, ba năm nó mới có thể ly dục ly ác pháp được.

Đó quý thầy thấy, cái điều kiện Phật dạy ở đâu nó phải đúng nấy, chớ không phải tự nhiên mà nó nhập định được, hay hoặc là ngồi hoài ức chế tâm mà nó nhập định được, không phải đâu. Một cái lối cách thức chúng ta phải điều khiển, phải thiện xảo thì chúng ta mới vào được.

Đó thì hôm nay Thầy nói để cho quý thầy tiếp tục trong cái cuộc trả lời của cô Minh Cảnh để cho quý thầy hiểu rằng cái Diệt Thọ Tưởng Định, mà hầu như tất cả những câu chuyện huyền thoại về những vị sư mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định, cho nó là tiêu nha bại chủng, cho nó là cái định Tiểu Thừa, cho là Bốn Thiền là thiền phàm phu, thì đó là những cái người họ muốn diệt, họ muốn hạ bệ, họ muốn diệt cái con đường của đạo Phật, họ cho nó rằng không có giá trị, không có xứng đáng là những cái pháp tối thượng, cho nên họ dùng những điều đó.

Nhưng chúng ta biết những cái định này nó phải có những cái thần lực như thế nào, tập luyện như thế nào, nó đòi hỏi công phu chúng ta rất lớn chớ không phải ngồi mà ức chế tâm đó mà đạt được đâu.

Nó đòi hỏi ở cái công phu của chúng ta và đời sống của chúng ta phải sống đúng hạnh, mà sống sai cái hạnh cũng không bao giờ thực hiện được. Phải hiểu biết nếu mà đời sống chúng ta còn dính mắc một chút gì thế gian là chúng ta chưa bao giờ thực hiện được cái định này.

Cho nên giới luật là cái điều kiện mà để chúng ta so sánh được cái đời sống của phàm phu với đời sống của tu sĩ, nó phải khác xa, nó không giống nhau.

Người tu sĩ phải xả bỏ hết, người cư sĩ thì còn nắm giữ một ít, chớ còn người tu sĩ thì không còn gì cả, cuộc đời này không còn thương, không còn ghét, không còn vật dụng gì cả, chỉ có ở chòi tranh vách lá, không được ở nhà ngói, nhà gạch, không được ở chỗ sang đẹp, không được nằm chỗ sang đẹp, không có một vật gì tùy thân ngoài ba y một bát mà thôi, thì như vậy mới thực hiện thiền định của đạo Phật mới được, còn nếu không thì không bao giờ thực hiện được./.

HẾT BĂNG

38 - GIỚI TĂNG TÀN 02 - GIỚI BẤT ĐỊNH

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 38 - GIỚI TĂNG TÀN 02 - GIỚI BẤT ĐỊNH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- KINH THẬP THƯỢNG, PHẦN BA PHÁP

(00:00) Bây giờ quý thầy tiếp tục học:

Có ba pháp…​

Trước kia thì quý thầy học hai pháp, học một pháp rồi hai pháp, bây giờ học tới ba pháp đây:

Có ba pháp có nhiều tác dụng, có ba pháp cần được tu tập, có ba pháp cần được biến tri, có ba pháp cần phải đoạn trừ, có ba pháp cần phải hiểu phần tai hại, có ba pháp đưa đến thắng tri, có ba pháp rất khó thể nhập, có ba pháp cần được sanh khởi, có ba pháp cần được thắng tri, có ba pháp cần được tác chứng.

1.1- BA PHÁP CÓ NHIỀU TÁC DỤNG

(00:42) Thứ nhất:

1. Thế nào là ba pháp có nhiều tác dụng?

Đây quý thầy nghe ba pháp, để rồi quý thầy nhớ rằng cuộc đời tu hành quý thầy phải như thế nào mà nằm trọn ở trong ba pháp này để thực hiện con đường giải thoát của chính mình.

Một - pháp thứ nhất là:

1- Giao thiệp với người lành;

Tức là thiện hữu tri thức. Nghĩa là trong cuộc đời tu hành của chúng ta phải chọn người lành. Mà chọn cái người hý luận, cái người tà kiến, cái người chấp kiến, mà chơi với những người ác, những cái người còn chạy theo danh lợi, những cái người còn chạy theo ăn ngủ, những cái người phá giới thì đó toàn là ác tri thức, không phải thiện tri thức.

Mà chơi với những người là phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, phải có những oai nghi tế hạnh của Phạm hạnh, của người tu sĩ đạo Phật, những người hoàn toàn phải là người lành, người tốt, không có ở trong ác pháp thì chúng ta nên giao thiệp, nên chơi với những người đó, để chúng ta học hỏi và nương theo cái hạnh lành của họ mà mình trở thành cái người tốt, người giải thoát, không làm khổ mình, không làm khổ người.

Đó là chúng ta - thứ nhất, cái pháp thứ nhất đó. Nó có ba pháp nó có nhiều tác dụng, nó làm cho chúng ta có nhiều cái sự lợi ích. Do đó, thứ nhất là chúng ta phải giao thiệp với bạn lành, với người tốt, với người không phá giới.

Hiện giờ chúng ta tìm trong các thầy chúng ta thấy ai là người bạn lành của chúng ta? Nếu là một người mà giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì đó là người bạn lành của chúng ta. Những người mà tu tập thiền định, nhập Tứ Thiền, đó là những người ly dục, ly bất thiện pháp để thọ hưởng những cái lạc của ly dục ly bất thiện pháp, đó là những người bạn lành của chúng ta. Chúng ta hãy tìm những người đó mà làm bạn với họ.

(02:32)

2- Nghe thiện pháp nhân quả;

Nghĩa là chúng ta luôn lúc nào nghe ở đâu có giảng về nhân quả, những pháp thiện: Sơ Thiện, Trung Thiện và Hậu Thiện thì mau mau chúng ta hãy đến đó mà nghe những cái pháp đó để hiểu biết, để thông suốt những cái pháp đó.

Chớ không có được nghe: Nghe nói thiền xuất hồn, nghe nói thiền 100 ngày, nghe nói thiền 38 ngày, nghe nói thiền niệm thần chú thế này thế kia, nghe nói thiền tối thượng này tối thượng kia, thì thôi thôi, nó không phải là thiện pháp đâu, chúng ta hãy tránh xa, đừng có nghe nó rồi nó bị kiến chấp và chấp chặt ở trong tâm của chúng ta những cái tà kiến, tà chấp đó, rồi chúng ta bỏ xuống rất là khó.

Vì mỗi pháp của họ đều có những cái lý luận nghe thì hữu lý nhưng thực hiện thì nó toàn là ác pháp. Vì chính chúng ta nhận thấy cái người mà đang nói pháp họ sống chưa đúng những cái Phạm hạnh của họ, họ còn phi thời, họ còn thích ngủ, họ còn thích ăn, họ còn thích nhà lầu xe hơi, họ còn thích những cái tốt, đẹp, sang của thế gian, thì đó là những pháp bất thiện chớ không phải những pháp thiện.

3- Hành trì pháp và tùy pháp.

Nghĩa là khi mà chúng ta nghe được các pháp thiện, gần những người bạn lành thì chúng ta luôn luôn phải trì cái pháp lành, phải tùy theo cái pháp lành mà sống, không được đi ngược lại các pháp đó.

Đó là ba pháp nó có nhiều tác dụng mà quý thầy cần phải ghi nhớ.

1.2- BA PHÁP CẦN PHẢI TU TẬP

(04:09) Thứ hai:

2. Thế nào là ba pháp cần phải tu tập?

Đây là những cái pháp mà quý thầy cần phải siêng năng hàng ngày tu tập.

Cái kia là những cái pháp mà nó vừa sống gần những người đó rồi vừa trì cái pháp thiện của cái người đó, vừa tùy các pháp để cho chúng ta sống nương vào các pháp mà chúng ta được nghe pháp thiện, pháp nhân quả. Nó có tác dụng làm cho đời sống chúng ta được giải thoát, được an vui, được hạnh phúc.

Còn bây giờ cái thứ hai này: Thế nào là ba pháp cần phải tu tập?

Có ba cái định:

Đây là ba cái định. Vậy thì ba cái định này nó nằm ở chỗ nào?

1- Hữu Tầm hữu Tứ định;

Đó thì. cái định có Tầm có Tứ. Mà cái định có Tầm có Tứ này là cái định nào đây?

Cho nên Phật nói: “Ly dục, ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỷ lạc có Tầm có Tứ.” Thì như vậy là cái chỗ mà Phật nói, cái thứ nhất này hữu Tầm hữu Tứ - có Tầm có Tứ, tức là có Tầm có Tứ đây là Sơ Thiền. Quý thầy thấy chưa? Như vậy là lúc bấy giờ chúng ta có động địa gì đến hơi thở chưa? Chỉ có ly dục ly bất thiện pháp là đã cái có định có Tầm có Tứ là Sơ Thiền.

Vậy thì Sơ Thiền này mà ly dục, ly bất thiện pháp rồi, Tầm Tứ này nó còn ở ác pháp không? Nó còn suy nghĩ cái chuyện ăn trộm ăn cắp không? Nó còn suy nghĩ đến cái chuyện mà đi theo, đi tìm những cái dâm dục không? Nó còn có suy nghĩ ăn cái ngon cái dở không?

Đó là cái Tầm cái Tứ của nó, tác ý ra cái Tầm Tứ của nó hoàn toàn ở trong thiện pháp, nó không còn khao khát những cái dục lạc của thế gian nữa. Bởi vì nó ly rồi, cho nên Tầm Tứ này là Tầm Tứ Thiền chớ không phải là Tầm Tứ ác nữa, vì tất cả những cái ác chúng ta đã ly ra rồi, cho nên bây giờ nó mới được gọi là Sơ Thiền.

Và Sơ Thiền như vậy mà so với cái hơi thở thì chúng ta đang thở ở một cái bình thường, cho nên đầu óc chúng ta vẫn còn có sự suy tư, nhưng suy tư thiện pháp. Đầu óc chúng ta còn có sự tác ý, nhưng tác ý ở trong thiện pháp chớ không tác ý hại ai hết, tác ý làm những điều mình làm không khổ người, không khổ mình. Đó là sự tác ý tốt chớ không phải xấu nữa. Cho nên ở đây Phật nói: Nhập Sơ Thiền có Tầm có Tứ chớ không phải diệt Tầm diệt Tứ.

Mà từ lâu quý vị cứ ngỡ rằng mình ngồi ức chế hết vọng tưởng là mình nhập Sơ Thiền. không phải đâu, không phải vậy đâu. Ở đây chúng ta sẽ học thấy cái này rất rõ ràng là chỉ cần ly dục, ly bất thiện pháp, luôn luôn hơi thở chúng ta thở trong cái dạng bình thường, tâm hồn thanh thản, không bị dính mắc ở trong một cái hơi thở, trong một cái đối tượng nào, luôn luôn lúc nào tâm cũng thản nhiên, thì lúc bấy giờ là lúc chúng ta nhập Sơ Thiền.

Chúng ta có khởi nghĩ nhưng khởi nghĩ thiện pháp chớ không phải khởi nghĩ ác pháp. Chúng ta có tác ý nhưng tác ý ở trong thiện pháp chớ không phải tác ý ở trong ác pháp. Đó gọi là Sơ Thiền.

(07:12) Cái định thứ hai là:

2- Vô Tầm hữu Tứ định;

Bây giờ chúng ta tiến tới một cái định nữa thì chúng ta thấy rõ ràng. Bây giờ mình muốn làm sao cho hết Tầm, hết vọng tưởng? Bởi vì nó còn vọng tưởng thiện mà. Vì nhập Sơ Thiền nó còn khởi nghĩ điều thiện chớ nó đâu có hết, cho nên nó còn Tầm. Bây giờ cái định thứ hai là vô Tầm mà hữu Tứ.

Vậy thì bây giờ quý thầy ngồi đây quý thầy nương cái hơi thở nè, quý thầy nói: “Hơi thở chậm và nhẹ!”- thì tức là quý thầy còn tác ý chậm và nhẹ, thì lúc bấy giờ cái vọng tưởng có không? Không có.

Rồi quý vị thở 5 - 10 hơi thở, quý vị lại tác ý ra: “Hơi thở phải chậm và nhẹ nữa!” Quý vị cứ tác ý như vậy tức là chúng ta còn Tứ mà tác ý, mà Tầm thì còn được không? Không được, không có Tầm. Cho nên do đó chúng ta thoát ra khỏi cái Sơ Thiền, tức là xuất cái Sơ Thiền để mà chúng ta không còn hữu Tầm hữu Tứ mà chúng ta diệt Tầm mà còn Tứ.

Do đó chúng ta nương vào cái pháp hướng mà tác ý. Vì vậy mà chúng ta luôn luôn thời gian 30 phút, 1 giờ luôn luôn không có Tầm, dù là Tầm ác Tầm thiện gì cũng hoàn toàn không có, tức là không có niệm. Mà do cái pháp hướng làm cho chúng ta không có tập trung quá căng thẳng, quá gò bó, cho nên thỉnh thoảng chúng ta lại nhắc nhẹ: “Hơi thở phải chậm nhẹ nữa!”

Nhưng mà cái sức hơi thở chúng ta nó có chậm nhẹ được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu chớ chúng ta không ráng. Do đó chúng ta cứ dùng pháp hướng mãi, chừng nào cái pháp hướng hiệu quả, nhắc tới đâu nó chậm nhẹ tới đó thì đó là có hiệu quả của pháp hướng.

Như vậy là chúng ta tập thần lực, chúng ta đang luyện tập cái thần lực của định. Còn nếu mà chúng ta không dùng pháp hướng như vậy làm sao chúng ta có thần lực sau này, làm sao chúng ta sai khiến được? Cho nên bắt đầu chúng ta đã tập nó, tức là chúng ta phải như lý mà tác cái ý ra, như cái lý của đạo mà tác ý ra, cho nên chúng ta cứ giữ cái Tứ mà chúng ta diệt được cái Tầm.

Đó là cái định thứ hai mà chúng ta cần phải siêng năng hàng ngày tu tập để cho cái pháp hướng của chúng ta càng ngày càng có hiệu quả, do đó chúng ta tự tu tập tạo thành một cái thần lực của thiền định, sau này chúng ta ra lệnh cái gì thì nó làm theo cái nấy hết.

(09:27) Cái định thứ ba là:

3- Vô Tầm vô Tứ định.

Thì cái định này là cái định của Nhị Thiền rồi đây.

Khi mà chúng ta tu tập vô Tầm hữu Tứ này mà nó đã có hiệu quả thì lúc bấy giờ chúng ta bảo hơi thở của chúng ta nhẹ, chậm và nhẹ, và nhẹ không còn thấy hơi thở nữa, thì lúc bấy giờ cái độ chậm của hơi thở thì còn thở nhưng mà cái độ nhẹ hơi thở không còn nữa, chúng ta mất hơi thở, không thấy hơi thở nữa, thì lúc bấy giờ cái ý của chúng ta không còn dùng cái pháp hướng mà tác ý nữa, nhắc nó là phải chậm và nhẹ nữa, do như vậy là Tứ chúng ta không còn mà Tầm cũng không còn.

Do cái hơi thở không có đối tượng nữa thì còn một cái tâm yên lặng và thanh tịnh, thì lúc bấy giờ chúng ta gọi là cái định vô Tầm vô Tứ tức là diệt Tầm Tứ nhập Nhị Thiền, lúc bấy giờ chúng ta mới nhập Nhị Thiền đó. Thì từ cái Sơ Thiền hữu Tầm hữu Tứ cho đến cái Nhị Thiền vô Tầm vô Tứ nó phải trải qua một cái giai đoạn tu tập là vô Tầm mà hữu Tứ. Quý thầy hiểu rõ chớ?

Nếu quý thầy sống đúng giới luật, quý thầy ly dục, ly bất thiện pháp là quý thầy đã có một tâm thanh thản, đồng thời quý thầy cũng phải tu cái Định Sáng Suốt giữ cái tâm thanh thản của mình để trợ duyên giúp cho cái tâm của quý thầy ly dục ly ác pháp.

Thì hàng ngày chúng ta mới vào đầu tu thì chúng ta nhớ tu tập rất nhẹ nhàng, giữ tâm thanh thản, có gì đâu mà gò bó, ức chế nó. Đó thì phải hiểu biết ba cái định này thì quý thầy tu có kết quả.

Và có kết quả chúng ta phải tu từng bước một, chúng ta đừng vội nhập Nhị Thiền rồi Tam Thiền, Tứ Thiền, lật đật quá độ thì quý thầy sẽ hỏng chân à. Mà quý thầy nghe ở đây ba cái pháp cần phải tu tập nghĩa là cần phải siêng năng hàng ngày tu tập, nhưng tu tập quá sức thì giống như dây đàn mà quá căng thẳng thì cũng không thành vấn đề được.

(11:19) Còn quý thầy mà lười biếng, tập ngày có một lần, tối tập sơ sơ có một lần thì như vậy là dây đàn chùng quá nó cũng không thành tiếng. Cho nên ít ra cũng phải tập vừa với sức của mình, không lười biếng mà cũng không quá, tích cực quá trên sự tu tập thì cũng rất là tai hại.

Đó là ba pháp cần - quý thầy muốn đi vào thiền định của Phật thì ba cái định này quý thầy cần phải hàng ngày siêng năng tu tập, nhất là cái định vô Tầm hữu Tứ cần phải tập luyện rất nhiều, vì cái hữu Tứ này là cái pháp hướng, là cái pháp mà làm cho quý vị sau này có được cái đại thần lực trên bước đường tu tập của quý vị đó. Thầy nhắc nhở như vậy, quý thầy có hiểu rõ thì quý thầy phải nhớ kỹ cái này để mà siêng năng mà nắm cho vững để mà tu tập.

Đó là ba pháp cần phải tu tập.

Đó, cái gì mà cần phải tu tập thì mình phải hiểu rõ. Còn cái này, cái ba pháp mà có nó nhiều cái tác dụng thì quý thầy chỉ cần nghe pháp thiện, rồi sống với người lành, rồi các thầy giữ gìn theo các pháp lành thì cái đó có cần phải tu tập đâu.

Cái pháp nó làm sao đó mình giữ gìn cho đúng vậy thôi chớ mình đâu có cần tu tập, và nó đem lại cái sự tác dụng rất lợi ích cho cái đời sống của mình nó được an ổn, và do đó nhờ đó mà mình ly dục, ly bất thiện pháp chớ mình đâu cần tu tập.

Nhưng ba cái pháp mà cần phải tu tập này, là ba cái định này còn tới Tam Thiền, Tứ Thiền là quý vị đã có một cái thần lực của của thiền định rồi, tức là cái pháp hướng có hiệu quả rồi, thì quý vị ra lệnh thì lần lượt nó sẽ đi đến chỗ ngưng nghỉ hoàn toàn để nhập Tứ Thiền, không còn khó nữa.

1.3- BA PHÁP CẦN PHẢI BIẾN TRI

(13:02) 3. Thế nào là ba pháp cần phải biến tri? Đó là ba thọ: Một là thọ lạc, hai là thọ khổ, ba là thọ bất lạc bất khổ.

Đó là Đức Phật chỉ ba cái thọ mà chúng ta cần phải biến tri, cần phải hiểu cho rõ ba cái khổ này, ba cái lạc này để chúng ta không bị lầm lạc.

Vì nhiều khi chúng ta ở trong một cái định nó sẽ bất lạc bất thọ khổ, chúng ta cho đó là một cái định rồi thì tức là chúng ta đã lạc vào cái thọ này, thì cái này là sai rồi. Thọ lạc thì chúng ta thích nè, thọ khổ thì chúng ta sợ nè, mà thọ bất lạc bất khổ thì chúng ta cho nó là Niết Bàn thì cái kiểu đó là cái kiểu trật của quý vị rồi.

Cho nên có nhiều người nói tui bây giờ không có vọng tưởng nè, tui luôn luôn tui giữ cái biết của tui nè, tui ửo trong cái trạng thái bất khổ bất lạc thọ nè, đó là Phật Tánh của tui nè, đó là giải thoát của tui. Sự thật đây là rơi vào cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ, không phải là cái trạng thái của một cái người cứu cánh làm chủ được đâu.

Chúng ta phải hiểu. Vì vậy mà phải biến tri, tức là phải hiểu cho rất rõ, mà phải rất thấu suốt nó thì tức là chúng ta sẽ không lầm lạc ba cái thọ lạc này.

Chẳng hạn bây giờ ngồi thiền mà nghe nó khinh an, nghe hỷ lạc, nghe nó thích thú, quý vị nói đây là thiền định, ngon rồi. Sự thật đây là lạc thọ của dục chớ đâu phải là của ly dục đâu! Bởi vì khi mà cái bánh ly dục, quý vị chưa có ăn, biết cái hỷ lạc của ly dục như thế nào thì quý vị đâu làm sao biết được?

Còn bây giờ quý vị đang ăn những cái bánh dục lạc, cái hỷ của dục lạc quý vị biết, cho nên khi ngồi thiền quý vị nghe khinh an, nghe này kia. Có người hỏi: “Quý vị tu hành nay ra sao?” “Nay tui ngồi thiền nghe khinh an lắm, nghe nó hỷ lạc lắm.” “Ờ như vậy tốt, tốt!” Những kẻ đó chẳng biết thiền định gì hết. Cái hỷ lạc mà nghe khoái, nghe thích là cái dục lạc chớ đâu phải là cái ly dục!

Cho nên phải hiểu, khi mà chúng ta nếm được cái mùi vị của ly dục rồi, cái hỷ lạc của ly dục rồi thì chúng ta sẽ thấy rằng cái lạc của dục lạc nó chẳng ra gì hết, nó chẳng ra ôn ra quái gì hết.

Cho nên người tu thiền mà không nắm được, không biến tri được ba cái thọ này thì khi ngồi thiền gặp thọ lạc thì chúng ta tưởng đó là đúng rồi, đó là thiền định rồi, không ngờ đó là thiền ma, nó chạy theo dục tưởng lạc chớ không phải là gì khác.

Rồi không phải - khi mà chúng ta ngồi thiền mà chúng ta nghe nó đau nhức, nó khổ sở, nó nóng rát vô cùng nhưng mà lôi chân xuống thì hết đau, đây không phải là cái thứ thọ khổ này nó thuộc về cái tưởng sao? Nếu đau thật thì lôi chân xuống nó đau hoài chớ sao lại cứ đau có chút là hết? Ngồi thì đau mà lôi chân xuống thì hết đau. Thì đây là ma đau, đây là tưởng đau chớ đâu phải là cái sắc của chúng ta đau!

Đó chúng ta cũng phải rõ như vậy gọi là biến tri. Còn nếu mà không rõ thì chúng ta bị rơi vào ở trong chỗ này, tưởng là thân mình ngồi đây chắc đau như thế này, đây…​ (Mất tiếng)

Đó là ba pháp cần phải biến tri.

1.4- BA PHÁP CẦN PHẢI ĐOẠN TRỪ

(16:09) 4. Thế nào là ba pháp cần phải đoạn trừ? Ba ái:

Nghĩa là ba cái pháp cần phải đoạn trừ, nghĩa là phải dứt trừ nó, vậy thì ở đây Đức Phật nói là ba cái ái.

Một là dục ái, hai là hữu ái, ba là phi hữu ái.

Nghĩa là ba cái ái này, chúng ta khi mà nó khởi ra một cái lòng ham muốn nào đó bất kỳ đều là nằm ở trong ba cái ái này tất cả hết. Nghĩa là cái lòng ham muốn của chúng ta bất kỳ khởi ra một cái lòng ham muốn nào thì nó đều nằm ở trong ba cái ái này cả hết.

Cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ, cần phải dứt trừ liền, không có để. Chẳng hạn là thấy cái ca này nó khởi cái tâm thích rồi thì ngay đó là chúng ta biết rằng nó là hữu ái, cho nên chúng ta dứt liền.

Còn bây giờ ngồi đây mà tưởng đến một cái cô gái nào thì - mà nó lại thích thú, nhớ cái miệng cô ta cười hôm qua, bữa nay còn thấy hàm răng trắng tươi đó, thì do đó chúng ta phải dứt liền, không có để cái tâm của chúng ta mà thương nhớ một cách vu vơ như vậy, bằng cách như vậy, thì đó là chúng ta phải dứt nó liền.

Cho nên vì vậy luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải phòng hộ sáu căn của chúng ta: mắt, tai, mũi, miệng…​ khi nó tiếp xúc với vật gì thì không cho nó chấp trước, không cho nó dính mắc, đoạn dứt liền, thì đó là chúng ta đoạn dứt các cái ái của chúng ta chớ không gì hết.

Có như vậy thì chúng ta mới không bị dính mắc các pháp của thế gian, các pháp dục lạc của thế gian lôi cuốn chúng ta. Cho nên ba cái pháp này quý thầy nhớ kỹ: Dục ái, hữu ái, phi hữu ái. ba cái pháp này luôn luôn chúng ta phải đoạn dứt. Nếu mà không đoạn dứt, cứ để nuôi lớn ở trong lòng thì nó sẽ dính mắc cái này nó dính mắc tới cái khác.

Đó thì phải nhớ kỹ, những cái gì mà đoạn dứt thì cần phải đoạn dứt, không thể nuôi nấng nó ở trong lòng được. Cái gì mà cần phải hiểu rõ thì phải hiểu cho rõ để mà không lầm lạc trong bước đường tu tập. Cái gì cần tu tập thì phải tu tập, chớ đừng có thiếu tu tập thì không được.

Ở đây thì cần phải đoạn trừ thì phải đoạn trừ, nó mở, tâm nó khởi muốn cái gì là nhất định là phải đoạn, không có được. Bữa nay nó ngồi đây mà nó muốn ăn chè thì đoạn nó đi, đó là ái dục đó, nó không phải là thứ thường đâu, phải giết nó đi, thì do đó nó không phải ngon gì hết, cho nên đặt cái niệm cái chén chè trước mặt đó, quán nó bất tịnh, nuốt vô khỏi cổ rồi ói ra con chó cũng không muốn ăn nữa chớ đừng nói người ta!

Nó bất tịnh như vậy, thì do đó chúng ta phải quán xét nó để mà chúng ta xa lìa cái tâm ái đó, cái dục ái đó, cái hữu ái đó, cái phi hữu ái đó.

Đó là ba pháp cần phải đoạn trừ.

1.5- BA PHÁP CHỊU PHẦN TAI HẠI

(18:49) 5. Thế nào là ba pháp chịu phần tai hại?

Ba cái pháp mà nó đem đến cái tai hại của chúng ta.

Ba bất thiện căn:

Ba bất thiện căn tức là cái gốc bất thiện, cái gốc ác, ba cái chỗ ác đó nó làm cho chúng ta phải chịu nhiều cái sự đau khổ, gọi là chịu phần tai hại là chịu cái sự đau khổ, phiền não.

Vậy thì cái pháp thứ nhất nó là gì?

Tham bất thiện căn;

Cái tham nó đem đến cho chúng ta nó có nhiều sự đau khổ, phiền não, cho nên gọi là tham bất thiện căn. Cái gốc của nó là tham, cho nên nó làm cho các ác pháp nó sanh ra làm cho tâm của chúng ta bất an, thấy cái này muốn, thấy cái kia muốn, thấy cái nọ thích, thì điều đó là tham bất thiện căn.

Hai là:

Sân bất thiện căn;

Lòng sân hận của chúng ta nổi lên làm cho chúng ta khổ sở, giận hờn, thì đó là cái gốc. Cái căn là cái gốc làm cho các ác pháp sanh ra, cho nên làm cho chúng ta khổ sở.

Si là bất thiện căn.

Cho nên chúng ta biết khi mà mê mờ không hiểu rõ làm cho chúng ta lầm chấp cái này, lầm chấp cái kia mà không xả được cho nên chúng ta có những cái sự đau khổ do cái sự si mê này.

Thí dụ như người ta chửi mình chó, ngay đó mình tưởng mình là chó thật, cho nên vì cái lòng si mê đó mình không thấy cho nên mình căm tức, rồi do đó mình chửi mắng lại người ta. Thì như vậy làm cho tâm của mình - cái ác pháp nó khởi lên làm cho tâm mình khổ sở.

(20:28) Thay vì người ta chửi mình chó thì mình biết rằng người ta đã si, người ta làm sao một con người mình như thế này mà chó được? Tại vì họ tưởng ra mình là chó như vậy chớ làm sao mà chó!

Cho nên họ tức quá họ xỉ mạ mình là chó, thì như vậy mình biết đó là người ta đã khổ quá khổ rồi, người ta không có còn sáng suốt nữa, người ta thấy con người mà người ta tưởng là con chó rồi, cho nên mình hãy thương cái người đó.

Trái lại mình không thương cái người đó, mình lại ngu si hơn nữa, mình lại thấy mình là con chó thật cho nên mình mới chửi lại họ, do đó hai đàng cũng đều là si hết.

Vì vậy mà muốn không còn si thì chúng ta phải gần thiện hữu tri thức, gần những cái bậc Thánh hiền, chúng ta học hỏi những cái điều, những cái pháp thiện, những cái điều thiện, từng đó chúng ta không còn si nữa, tức là chúng ta có những cái tri kiến của cái sự hiểu biết Phật pháp, của Thánh hiền, thì chúng ta mới hết si. Còn nếu mà chúng ta không chịu học, không chịu hiểu biết thì chúng ta sẽ mãi mãi muôn đời si chớ không bao giờ chúng ta sáng suốt được.

Đó là ba pháp chịu phần tai hại.

Chúng ta biết rằng trong cuộc đời chúng ta tham, sân, si làm chúng ta rất khổ sở, làm chúng ta bất an trong cuộc đời, làm chúng ta có những sự đưa đến những nhân quả ác càng chồng chất lên những quả ác khác nữa là do ba cái độc này, ba cái căn bất thiện này, là tham, sân, si này đã đưa đến chúng ta khổ sở vô cùng.

Như vậy là chúng ta đã biết nó là pháp đem đến cái tai hại cho chúng ta, vì vậy mà từ đây chúng ta phải nỗ lực dứt trừ, đoạn trừ cái tâm tham, cái tâm sân, và cái tâm si của mình làm cho cái căn gốc tham, sân, si nó không còn nữa, do đó chúng ta mới được giải thoát. Đó là ba pháp mà chúng ta thấy mỗi con người đều chịu cái phần tai hại của ba pháp này.

1.6- BA PHÁP ĐƯA ĐẾN THÙ THẮNG

(22:27) 6. Thế nào là ba pháp đưa đến thù thắng?

Ba thiện căn: Một là vô tham thiện căn, hai là vô sân thiện căn, ba là vô si thiện căn.

Ở đây chúng ta thấy tham sân si, còn bây giờ là không tham, không sân, không si thì nó đi ngược lại, như vậy đó là ba pháp đưa đến cho chúng ta thù thắng, đưa đến chúng ta được an ổn, đưa đến chúng ta được hạnh phúc, đưa đến chúng ta được yên vui, cho nên gọi là thù thắng.

Ba cái pháp này chúng ta thấy nó là ba cái pháp đem đến cuộc sống chúng ta tốt lành, an lạc. Như vậy từ đây về sau chúng ta vô tham, vô sân, vô si, cố gắng và cố gắng hơn.

Nếu được vô tham, vô sân, vô si thì hằng ngày chúng ta phải đặt cái niệm tham, cái niệm sân, cái niệm si, dùng pháp hướng quét sạch ra:

“Tham là tai hại, là làm sự khổ đau cho bản thân mình, cho mọi người, vậy từ đây cái tham không được xâm chiếm tâm hồn, tâm của chúng ta nữa, phải dứt trừ! Ai chửi mắng ta, ai làm gì, thì ta thấy gì cũng không được khởi tham muốn, vì tham đem đến sự đau khổ cho mình cho người, từ đây phải dứt bỏ!”

Chúng ta đặt ra, trạch pháp ra một cái câu để dùng pháp hướng, hàng ngày nhắc cái tâm tham của chúng ta càng lúc càng sâu, càng thấm nhuần, để nó vô tham, vô sân, vô si, và như vậy là đời sống chúng ta được hạnh phúc. Và cũng chính từ vô tham, vô sân, vô si này là chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền sau này.

Đó là những cái pháp thù thắng. Chúng ta hàng ngày phải tu cái Như Lý Tác Ý ra bằng cái trạch pháp để hướng tâm chúng ta đi đến chỗ vô tham, vô sân, vô si, thì lâu ngày thấm nhuần cái chân lý giải thoát đó thì chúng ta mới thành tựu được cái sự tâm hồn thanh thản.

Đó là ba pháp đưa đến thù thắng.

Như vậy là ba pháp này muốn được thù thắng thì hàng ngày chúng ta phải đặt niệm tham, niệm sân, niệm si quán xét, rồi chúng ta dùng pháp hướng mà đập nó xuống, không để cho nó ở trong tâm chúng ta, để biến tâm hồn của chúng ta trở thành như cục đất.

1.7- BA PHÁP RẤT KHÓ THỂ NHẬP

(24:38) 7. Thế nào là ba pháp rất khó thể nhập?

Phật dạy:

Ba xuất yếu giới:

Có ba cái cái giới rất là yếu điểm. Vậy thì:

1- Xuất ly khỏi các dục…​

Nghĩa là thứ nhất chúng ta phải xuất ra khỏi các cái lòng dục, lòng ham muốn của chúng ta.

…​ gọi là ly dục;

Đó gọi là ly dục, thứ nhất.

2- Xuất ly khỏi các sắc pháp, tức là vô sắc;

Nghĩa là mình ra khỏi các sắc pháp. Những cái pháp nào có hình tướng làm cho tâm chúng ta khởi lên những cái ham muốn như cái bàn cái ghế, cái máy cái móc, cái nhà cái cửa, chùa to tháp lớn…​ tất cả những đồ dùng mà sang, mà đẹp, mà tiện nghi, hay hoặc là những thực phẩm ăn ngon làm chúng ta thích thú, đều là chúng ta phải xuất ly khỏi các sắc pháp đó, tức là chúng ta trở thành vô sắc.

3- Phàm các pháp hiện hữu, hữu vi, do duyên khởi, sự xuất ly khỏi các pháp ấy tức là diệt các pháp.

Đó là bây giờ chúng ta biết các pháp là hữu vi, nó đều do duyên hợp, duyên khởi ra mà có, cho nên chúng ta biết nó là những cái - nó không phải có độc lập riêng của nó là một cái pháp riêng của nó, mà nó do duyên này duyên khác mà hợp lại thành ra các pháp.

(26:13) Do các pháp đó nó lôi cuốn chúng ta làm cho tâm chúng ta bị dính mắc, cho nên hiện bây giờ chúng ta phải tu theo cái con đường của đạo Phật là chúng ta phải xuất ly khỏi các pháp, không để cho các pháp dính vào tâm chúng ta, tức là chúng ta diệt các pháp.

Nghĩa là - diệt các pháp tức là làm cho các pháp không dính ở tâm chúng ta, tâm chúng ta không bị dính mắc các pháp. Do đó sau này, ở cái chỗ ba cái pháp này thì nó sẽ có những cái pháp để mà chúng ta tu tập, để mà chúng ta tập luyện, để mà chúng ta làm cho tâm chúng ta không dính mắc ở các pháp.

Nhưng ở đây để học biết rằng đó là có ba cái pháp: Cái pháp thứ nhất là xuất ly khỏi các dục, tức là ly dục; thứ hai là xuất ly khỏi các sắc pháp, tức là vô sắc; thứ ba là xuất ly các pháp duyên khởi, làm cho tâm của chúng ta diệt các pháp duyên khởi đó, đó là ba pháp rất khó thể nhập.

Bởi vì ba pháp này muốn ly dục nó rất khó chớ không phải dễ, mà muốn cho ly khỏi các sắc pháp cũng không phải là chuyện dễ. Vì xung quanh chúng ta là tất cả các sắc pháp, rồi các sắc pháp đó nó hợp lại, nó duyên khởi, từ pháp này nó chuyển sang qua pháp khác, nó làm cho tâm chúng ta luôn luôn bị động theo các pháp, lôi cuốn theo các pháp, cho nên chúng ta phải rất khó mà thể nhập.

Nếu nó đứng yên thì chúng ta dễ phá, còn đằng này nó rất là linh động, lúc thì vầy, lúc thì khác, chúng ta không ngờ trước những cái pháp duyên khởi đó. Cũng như bây giờ chúng ta thấy trong cái hoàn cảnh chúng ta rất yên ổn, một lát có người này người kia đến quậy phá ở trong cái Tu viện chúng ta làm chúng ta đều là động hết, đó là chúng ta thấy các pháp duyên khởi đó.

Như vậy là chúng ta đâu có chuẩn bị trước một cái tinh thần nào để đón nó đâu, nhưng mà cái người mà biết tu theo đạo Phật thì chúng ta sẵn sàng đón nhận mà sẵn sàng diệt nó, chớ không để cho nó làm động chúng ta nữa.

Chẳng hạn bây giờ đó, các thầy thấy như chúng ta đương yên ổn như thế này, không có ai bệnh đau hết, bỗng dưng một lát nữa có một người rên la đau khổ, thập tử nhất sanh, thì lúc bấy giờ tất cả chúng chúng ta đều là động hết, thì như vậy là các pháp nó duyên hợp, nó khởi lên nó làm chúng ta bị động hết. Do cái sự tu hành của chúng ta, chúng ta phải diệt các pháp đó, không làm để chúng ta động.

Đó là ba pháp rất khó thể nhập.

1.8- BA PHÁP CẦN PHẢI SANH KHỞI

(28:40) 8. Thế nào là ba pháp cần phải sanh khởi?

Ở đây Phật dạy là:

Ba trí: Một là trí đối với quá khứ, hai là trí đối với tương lai, ba là trí đối với hiện tại.

Nghĩa là chúng ta phải có một cái trí tuệ, khi mà có cái sự việc ở quá khứ mà khởi lên trong đầu chúng ta thì chúng ta phải có sự hiểu biết đối phó cái những cái sự kiện mà xảy ra ở quá khứ của chúng ta đã qua rồi.

Rồi trí đối về tương lai: Ngồi đây mà chúng ta nghĩ cái này cái nọ kia, phải làm cái này, phải độ chúng sanh bằng cách này cách kia đó, phải là xây dựng đạo tràng, phải là tu xong rồi phải làm thế này thế khác, thì cái trí đó chúng ta phải có sự đối phó với cái sự nghĩ ngợi xa vời như vậy, nó không đúng cách của chúng ta trong cái giai đoạn tu tập.

Rồi cái trí của chúng ta đối với hiện tại là chúng ta phải sống như thế nào trong hiện tại cho nó đúng với cái hiện tại của nó, chớ không phải hiện tại ngồi đây mà nhớ quá khứ, ngồi đây mà lo chuyện vị lai, thì cái điều đó là cái điều sai.

Cho nên ba cái trí này luôn luôn chúng ta phải sanh khởi, luôn luôn cần phải sanh khởi, để chúng ta tu tập, để chúng ta đón nhận những cái điều kiện mà chúng ta giải quyết cho tâm của chúng ta được thanh thản nhẹ nhàng mà không bị ba cái quá khứ, vị lai - ba cái thời gian quá khứ, vị lai này nó làm cho chúng ta rối ren và bận rộn, không được giải thoát.

Đó là ba pháp cần phải sanh khởi.

Tức là chúng ta luôn luôn giữ cái trí của chúng ta liên tục ở trong quá khứ, vị lai và hiện tại, để luôn luôn lúc nào chúng ta cũng được thanh thản trong hiện tại.

1.9- BA PHÁP CẦN PHẢI THẮNG TRI

(30:19) 9. Thế nào là ba pháp cần phải thắng tri?

Ba giới: Một là dục giới, hai là sắc giới, ba là vô sắc giới.

Đó là ba pháp cần phải thắng tri: Dục giới là sự ham muốn; sắc giới là các pháp đối với các sắc pháp, đối với cái lòng ham muốn của chúng ta; và vô sắc pháp. Ở đây Thầy xin giải thích lại cho thấy rõ.

Dục giới là cái lòng ham muốn của cái giới ham muốn, của cái lòng ham muốn của chúng ta. Sắc giới đây là thuộc về cái sắc thân của chúng ta, ý thức của chúng ta. Còn vô sắc giới đây thuộc về tưởng thức của chúng ta. Thi như vậy là dục giới là nói về cái lòng ham muốn của của chúng ta, mà nói sắc giới tức là nói về cái ý thức của chúng ta, còn nói về vô sắc giới là nói về tưởng thức của chúng ta.

Cho nên ở đây chúng ta phải thực tế hơn là chúng ta cần phải thắng tri, tức là cần phải hiểu cho rất rõ. Một khi mà cái tâm ham muốn chúng ta khởi lên thì phải có một cái sắc tướng của nó, thì lúc bấy giờ muốn nói về dục giới thì tức là phải nói là sắc thức của chúng ta.

Mà bây giờ nó không có một cái đối tượng, không có một hình ảnh nào hết, mà ngồi đây mà chúng ta thấy được những cái điều kiện ham muốn của chúng ta, như bây giờ Thầy ví dụ cho thấy được cái vô sắc giới đây:

Như ngồi đây mà chúng ta nghe cái người khác nói có một cái bánh trung thu năm nay, cái tiệm bánh ở Đồng Khánh nó làm cái bánh trung thu rất là ngon, mọi người đều là thưởng thức cái bánh đó rất là ngon.

(32:03) Chúng ta mới tưởng ra, nhớ hồi nào tới giờ mình cũng ăn nhiều cái loại bánh trung thu, bữa nay thì mình cũng nghĩ đến cái bánh này, chắc có lẽ là ông ta thêm nào là hột sen, nào là vỏ bưởi, vỏ cam, nào là trần bì hay hoặc là cái gì đủ thứ ở trong này, ông làm cái nhân chắc tuyệt vời lắm.

Mình tưởng tượng ra như vậy, do đó mình mới nghĩ ra: Cái bánh này làm như vậy chắc là ngon lắm, mà chắc cái ông Đồng Khánh này ổng hay làm như vậy đó, cho nên người ta ăn người ta khen quá khen.

Nhưng mà sự thật ra mình chưa có ăn mà mình nghĩ tưởng ra như vậy thì đó gọi là vô sắc giới, cho nên không biết nó ngon như thế nào mà mình tưởng ra cái ngon chỗ đó. Thì do đó vô sắc giới nó thuộc về tâm của chúng ta, nó thuộc về tưởng, còn sắc giới nó thuộc về thân. Còn dục giới là nó chỉ chung cho sắc giới và vô sắc giới.

Bởi vì nếu mà nói ba cõi thì chúng ta phân khác, mà đây là nói ba pháp, ba pháp chỉ cho trong thân của chúng ta là thân Ngũ Uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Mà sắc giới là chỉ cho sắc thân của chúng ta, mà vô sắc giới chỉ cho tưởng của chúng ta, và dục là chỉ chung cho cái thân Ngũ Uẩn này nó mang cái dục của nó, tức là cái lòng ham muốn của nó. Cho nên ở đây nó sử dụng ở sắc giới và ở vô sắc giới do cái lòng dục của nó.

Cho nên ban ngày mình ham muốn cái gì thì ban đêm nó thực hiện ở trong giấc mộng ham muốn cái đó. Đó là qua cái tưởng mộng của chúng ta hay là tưởng uẩn của chúng ta.

Đó thì như vậy chúng ta biết đây là những cái pháp để chỉ cho một con người mà cần phải thắng tri, tức là cần phải hiểu ba giới đó. Ba cái giới đó nó ở trong một con người của chúng ta, nó không thực hiện cái dục ở sắc thì nó phải thực hiện ở vô sắc.

Đó là ba pháp cần được phải hiểu rõ, cần được thấu suốt. Mà hiểu rõ như vậy thì khi nằm mộng chúng ta biết đó là nó ở trong cái ba pháp nào, và khi mà ở trong cái sắc giới mà nó khởi ra cái dục ham muốn gì thì chúng ta biết đó là nó ở trong cái pháp nào. Chúng ta hiểu rõ như vậy thì chúng ta sẽ không bị lầm lạc, không bị lường gạt của ba cái pháp này.

1.10- BA PHÁP CẦN PHẢI TÁC CHỨNG

(34:21) 10. Thế nào là ba pháp cần phải tác chứng?

Bây giờ tới cái ba pháp mà cần phải chứng, cần phải tu chứng, thì Đức Phật nói:

Ba minh: Một là Túc Mạng Trí Minh, hai là Hữu Tình Sanh Diệt Trí Minh, ba là Lậu Tận Trí Minh.

Đó là ba pháp cần được tác chứng.

Như vậy thì ba cái pháp này là chúng ta phải nhập Tứ Thiền rồi chúng ta mới thực hiện được ba pháp này. Còn nếu chưa nhập được Tứ Thiền, tâm chưa định trên thân, thân chưa định trên tâm thì không thể nào mà thực hiện ba cái pháp này, tức là không có chứng được ba cái pháp này đâu.

Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta có ba cái pháp cần phải tác chứng, tức là cần phải chứng cái pháp đó, cần phải tu để chứng được cái pháp đó, thì đó là ba cái pháp: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh, thì ở đây Phật dạy: Túc Mạng Trí Minh, Hữu Tình Sanh Diệt Trí Minh và Lậu Tận Trí Minh.

Đây là những cái danh từ để chỉ, chứ sự thật nó là Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu Tận Minh mà thôi, không có gì hết. Đó là ba pháp cần phải tu chứng, cần phải tác chứng.

Như vậy, ba mươi pháp này là thực, là chơn, là như thị, không phải không như thị, không thể sai khác được. Như Lai giác ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác đã nói ra.

Đó là ba mươi pháp này, hồi đầu chúng ta học mười pháp, sau đó vừa rồi chúng ta học hai mươi pháp, bây giờ chúng ta học ba mươi pháp, và mỗi pháp chúng ta thấy càng ngày làm sáng tỏ thêm.

Như hồi nãy Thầy nói về ba định mà chỉ có từ Sơ Thiền cho đến Nhị Thiền là một cái lộ trình để chúng ta tu tập. Đến khi dạy Bốn Thiền, Thầy nhắc lại và Thầy dạy rõ ở chỗ này hơn để quý thầy biết cái chỗ tu tập, và những cái pháp mà khác ở đây đều là ba pháp, ba pháp như vậy quý thầy nhớ kỹ, tới đâu Thầy sẽ nhắc lại và Thầy chỉ cho quý thầy hành trì cho đúng cách để đạt được những cái kết quả giải thoát nơi tâm hồn của quý vị.

Đến đây Thầy xin dừng lại vì đây là học 30 pháp rồi, và tiếp tục chúng ta lại học giới bổn.

2- MƯỜI BA GIỚI TĂNG TÀN - PHẦN 2

[Phần 1 ở Giáo án 36]

8) GIỚI CHÊ GIÈM NGƯỜI TỘI KHÔNG CĂN CỨ

(36:38) 8. Giới chê gièm người tội không căn cứ.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do khi xưa Phật ở núi Linh Thứu, bấy giờ Tôn giả Đạp Bà Ma La được chứng quả A La Hán rồi tự nghĩ rằng: “Ta nên ra sức để cúng dường chúng tăng”, liền đến bạch Phật. Phật khiến các Tỳ Kheo bạch Nhị Yết Ma, sai Tỳ Kheo Đạp Bà chia tọa cụ cho chư tăng, và sai tăng lần lượt thọ thỉnh, có người mời phó trai.

Khi bấy giờ có Tỳ Kheo Từ Địa là bậc hạ tọa, theo sự lần lượt được chia ngọa cụ và cái phòng rất xấu, liền sanh lòng tức giận. Hôm sau sai tăng thọ thỉnh, Từ Địa đến lượt bị sai đến nhà đàn việt. Đàn việt nghe là Từ Địa liền trải tọa cụ xấu, đặt thức ăn xoàng, Từ Địa lại càng thêm tức giận, bèn khiến người em gái là Từ Địa Tỳ Kheo Ni khi ở trong Phật tăng hội họp gièm chê tôn giả Đạp Bà đến phạm tội.

Phật biết nhưng cố hỏi Tôn giả, Tôn giả đáp: “Con từ lúc sanh ra đến nay, trong chiêm bao còn không có việc ấy, huống chi là lúc giác ngộ lại có ư?”

Phật bảo các Tỳ Kheo rằng: “Có hai hạng người một bề vào địa ngục:

1- Người không có Phạm hạnh mà tự xưng rằng có Phạm hạnh;

2- Người có Phạm hạnh thật mà đem việc phi Phạm hạnh không căn cứ mà gièm chê người.”

Phật quở trách rồi họp các Tỳ Kheo lại kiết giới này.

Phạm tội: Nếu Tỳ Kheo đem pháp Tứ Ba La Di mà chê bai Tỳ Kheo khác, nói rõ ràng thì phạm tội Tăng Tàn, nói không rõ ràng thì phạm tội Thâu Lan Giá.

Không phạm: Nếu Tỳ Kheo có thấy, nghe, nghi, nói chân thật, nói giễu cợt hay nói lầm lẫn thì không phạm.

(39:01) Qua cái giới thứ sáu này thì Thầy thấy nó có những cái điều kiện mà người ta đem những cái câu chuyện như vậy người ta nói.

Sự thật ra thì cái vị Tỳ Kheo Từ Địa này vị còn những cái lòng, khi mà được cái phòng xấu ở, được người ta chia cho cái phòng xấu ở, rồi được thực phẩm không có được ngon, không có được tốt, không có được ngon thì vị sanh lòng tỵ hiềm cái vị Tỳ Kheo kia, cho nên do đó mà sai cái người em gái của mình để gièm pha cái vị Tỳ Kheo kia phạm cái tội là tội dâm đó.

Có nghĩa là cái vị Tỳ Kheo Từ Địa này mới bàn mưu với em gái của mình để mà nói xấu cái vị Tỳ Kheo mà đã chia những cái phần, những cái đồ cúng dường - tức là cái vị Tỳ Kheo Đạp Bà Ma La này đã chia những cái phần cho người khác - là nói xấu cái vị Tỳ Kheo đó là đã có cái tâm dâm, đã có gợi ý tình tứ với cô em gái của Từ Địa này. Do đó cái cô ni nghe lời người anh mình thì nói giữa tăng chúng như vậy.

Lúc bấy giờ thì Đức Phật không có tin là cái người mà đã tu chứng quả A La Hán rồi mà còn những cái tâm đó, cho nên Đức Phật mới hỏi cái vị Tỳ Kheo Đạp Bà Ma La này có phải như vậy không. Thì ông ta nói trong chiêm bao ông ta còn không có mộng mà xuất tinh nữa, thì làm gì mà có cái chuyện đó được!

Thì Đức Phật nói thấy rằng đó là cái sự mà người ta tìm cách người ta gièm pha cái người mà Phạm hạnh tốt, cho nên mới đặt ra cái giới này để mà ghép những cái tội cho những người mà nói xấu người khác khi mà người ta đã có những Phạm hạnh tốt.

Thi dụ như bây giờ thấy quý thầy ở đây ăn ngày một bữa tốt thì người ta tìm cách người ta nói xấu quý thầy đi: “Tưởng học trò của ông đó ra làm sao, ai dè tu vậy, đi ra thôi mấy ông không những mà ăn một bữa đâu, ở trong chùa thì như làm bộ vậy chớ đi ra đụng đâu mà ăn đó hết, gặp cái gì mấy ông cũng ních hết, cà phê cũng uống, rượu Caravelle cũng ních.

Thật sự ra ở trong đó thì làm bộ chớ ra ngoài thì cái gì cũng ních hết. Mà nói thì nói ở trên trời dưới đất không à, nói gì giới luật đồ cũng hay lắm, nhưng mà cuối cùng thấy cái đám học trò của ông đó chẳng ra gì hết!”

(41:33) Thì như vậy là là người ta gièm pha mình, mình không có mà người ta gièm pha mình, do đó thì cái người này phải kết cái tội kêu là gièm pha đó. Thì cái tội đó nó thuộc về cái tội - nếu mà phạm về cái tội Ba La Di mà đúng, thì vị Tỳ Kheo mà phạm tội Ba La Di tức là phạm tội bất tịnh hạnh đó thì phải chịu.

Còn cái này người ta không có mà gièm pha, cũng như mình ăn ngày một bữa, mình ra rồi mình cũng sống đúng cái hạnh không có ăn phi thời mà người ta nói mình, thì cái những người mà gièm pha như vậy thì họ đều là mang cái tội là Thâu Lan Giá, hoặc là phạm cái tội ở trong Tăng Tàn, nhẹ hơn thì họ là Thâu Lan Giá.

Đó là những cái điều kiện mà chế cái giới này ra để ghép cái tội chúng ta là tội phạm vào tội Tăng Tàn và cái tội Thâu Lan Giá. Còn nếu mà chúng ta có thật như vậy thì họ không có gièm pha mà họ nói thật như vậy thì chúng ta phải lãnh đủ cái tội này.

Thí dụ như bây giờ chúng ta ăn phi thời, thì kết vào cái tội phi thời chúng ta là chúng ta phải chịu cái tội phi thời, ăn uống phi thời, ra ngồi quán ngồi lều, thì cái đó là cái tội của mình, mình phải chịu lấy, không thể nào mình chạy đâu khỏi hết.

Và cái tội đó mình sẽ sám hối, hoặc là mình nếu không sám hối thì mình sau này mình phải đọa địa ngục mình chịu lấy, còn mình sám hối là tức là mình phải chừa bỏ, từ đây về sau mình không có phạm nữa.

Bởi vậy khi một người mà xuất gia tu hành rồi mà thọ giới của Phật rất là khó. Phạm một chút mà nếu mà chúng ta không chừa bỏ, không sám hối, thì để càng ngày càng lâu dần thì cái tội nó càng chồng lên, do đó mình đã phá Phật pháp, làm suy đồi Phật pháp đó, cư sĩ người ta chê cười, người ta không quý trọng cái người tu sĩ nữa, từng đó người ta coi Tăng đoàn không ra gì thì mình tội rất nặng.

9) GIỚI KHÔNG CĂN CỨ MÀ CHÊ BAI TỲ KHEO

(43:23) 9. Giới không căn cứ mà chê bai Tỳ Kheo.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi bấy giờ Phật ở núi Linh Thứu, có Từ Địa Tỳ Kheo từ trên núi xuống thấy con dê đực cùng con dê cái hành dục, liền chỉ con dê đực mà sánh là Tôn giả Đạp Bà, con dê cái sánh là Từ Địa Tỳ Kheo Ni.

Cái ông này ổng ghép cái vị Tỳ Kheo này với em gái của ổng, ông này ổng chơi mới độc!

Đến nói với các Tỳ Kheo rằng: “Trước tôi lấy việc không căn cứ mà chê gièm, nay chính con mắt tôi thấy.” Các thầy Tỳ Kheo theo gặng hỏi, Từ Địa tự nói rằng: “Tôi lấy việc tương tự so sánh mà nói.” Các thầy Tỳ Kheo đem việc ấy bạch Phật. Phật kêu Từ Địa quở trách rồi họp chúng lại kiết giới này.

Lấy chút ít trong phần việc khác mà vu cho người là phạm tội hữu dư; hoặc thấy người phạm tội Tăng Tàn cho đến tội Đột Kiết La, ác thuyết mà vu cho người phạm tội trọng thì bị phạm tội hữu dư.

Lấy việc người này vu cho người kia; hoặc thấy, nghe người kia khi ở tại gia phạm tội, nay đem việc ấy ra chê gièm; mà còn tất cả việc khác lấy chút ít mà chê gièm người; nói rõ ràng thì phạm tội Tăng Tàn.

Nghĩa là nói như cái vị Tỳ Kheo như hồi nãy đó, vị Tỳ Kheo Từ Địa đó, mà lấy ghép hai cái con vật mà cho rằng cái vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni mà như vậy đó, thì đó là gièm chê người ta như vậy, làm cho người ta xấu hổ như vậy thì cái vị Tỳ Kheo Từ Địa đó phải phạm tội Tăng Tàn, tức là cái tội hữu dư đó.

10) GIỚI PHÁ HOẠI HÒA HỢP TĂNG

(45:19) 10. Giới không bỏ sự phá hoại hòa hợp tăng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa Phật ở núi Linh Thứu, khi bấy giờ ông Điều Đạt vì lợi dưỡng mà học được phép thần thông giáo hóa thái tử A Xà Thế.

Điều Đạt…​

Ông Điều Đạt đây tức là ông Đề Bà Đạt Đa. Phải nói ở đây nó dịch là Điều Đạt, nhưng chúng ta phải hiểu là ông Đề Bà Đạt Đa.

…​ học được phép thần thông giáo hóa thái tử A Xà Thế khiến sanh lòng yêu mến, cúng dường rất nhiều, chỉ vì không bằng Phật mà sanh tâm ganh ghét liền mất thần thông. Ông Đề Bà Đạt Đa muốn thâu đồ chúng mới đến cầu Phật phó chúc cho ông, Phật nhân đó mà quở trách.

Đề Bà Đạt Đa không bằng lòng, liền xui A Xà Thế hại cha, khiến người hại Phật mà chưa thỏa nguyện liền lên núi lấy đá liệng Phật, bởi thế tiếng xấu đồn khắp, sợ lợi dưỡng bị cắt đứt liền cùng bốn Tỳ Kheo đi khất thực. Phật ngăn không cho và buộc phải biệt chúng thực.

Đề Bà Đạt Đa nghĩ rằng: “Ta có thể phá hòa hợp tăng, thân ta sau khi chết sẽ được tiếng khen rằng: Cù Đàm có đại thần thông trí tuệ mà Đề Bà Đạt Đa phá được”, liền cùng bốn Tỳ Kheo làm bạn, lấy năm pháp dạy các Tỳ Kheo:

1. Suốt đời đi khất thực;

2. Mặc y phấn tảo;

3. Ngồi dưới đất trống;

4. Chẳng dùng sanh tô và muối;

5. Không ăn thịt cá.

Nghĩa là cái ông - chính cái chỗ này mà người ta mới lấy cái chỗ này mà người ta nói Phật đây. Ông Đề Bà Đạt Đa đặt ra năm cái pháp, năm cái giới, nghĩa là suốt đời đi xin ăn, mặc y rách rưới, ngồi dưới đất chớ không có ngồi trên ghế, chẳng dùng sanh tô tức là sữa này kia nọ mà không dùng muối.

Ở đây cái chỗ này, thật sự ra mà nếu ông Đề Bà Đạt Đa mà ăn uống mà không dùng muối, thì Thầy nghĩ rằng một tháng cái mình của ổng chắc là nó thành một cái bệnh không có thể tưởng tượng được. Mà ở đây mà ổng đặt kiểu này là năm cái ông này mà đi theo ổng chắc cũng bệnh luôn hết á!

Rồi ổng đặt cái hơn nữa là ở chỗ này, mà hầu hết là bên Nam Tông người ta lấy cái chỗ này mà người ta nói đây, là cái thứ năm là ổng đặt không có ăn thịt cá. Nghĩa là hoàn toàn không ăn thịt cá, tức là Phật có ăn thịt cá.

(48:12) Đó là cái chỗ mà người ta có thể xét thấy được cái chỗ sai chỗ đúng, mà cái chỗ này có đúng là ông Đề Bà Đạt Đa đặt ra hay là người sau đặt đây? Đó là một cái câu hỏi để chúng ta thấy được.

Vì Đức Phật dạy ở trong cái bài kinh Kinh Trung Bộ, bài kinh Jivaka đó, thì Đức Phật nói: Khi một vị Tỳ Kheo đó, là khi mà mà thọ thực thì tâm từ bi họ biến mãn khắp cùng tất cả mười phương, tất cả chúng sanh.

Cho nên những cái thực phẩm mà ăn vào mà thấy có thịt thì không ăn. Mà nghe ở trong đó - mặc dù là trên cái món ăn không thấy thịt, nhưng mà nghe người ta nói thịt nó bằm ra thì không ăn.

Mà nghe mà nghi ở trong đó có thịt, nghĩa là người ta không thấy, mình không thấy, không nghe, mà rồi có cái khởi nghi: “Cái bánh này nó cuốn lá như vậy chớ ở trong nó làm cái nhân bằng thịt á” - thì nghi nó như vậy.

Nghĩa là bây giờ Đức Phật cầm cái bánh đó lên mà nghe cái mùi mỡ, nghe mùi bò, nghe mùi heo, nghe mùi cá, nghe mùi tôm, thì tức là Đức Phật đã nghi ở trong đó có thịt chúng sanh. Cho nên ăn mà không nghe, không thấy, không nghi thì mới ăn, mà ăn mà nghe, mà thấy, mà nghi thì không ăn. Do đó khi cầm lên mà nghe cái mùi mỡ, nghe cái mùi tanh cá thì Đức Phật biết đó là có thịt chúng sanh, cho nên Đức Phật không có ăn là vì cái tâm từ bi.

Thì như vậy là Đức Phật bao giờ mà ăn thịt chúng sanh? Không bao giờ mà ăn thịt chúng sanh hết! Ăn thịt chúng sanh mà cái tâm từ bi làm sao cho phép Đức Phật ăn được?

Thế mà ở đây cái câu thứ năm này, cái giới thứ năm của Đề Bà Đạt Đa đặt ra để muốn hơn Phật, vì vậy mà người ta nghĩ rằng trong thời Đức Phật có ăn thịt chúng sanh, cho nên ông Đề Bà Đạt Đa muốn hơn Phật mới đặt cái câu này ra.

Do lấy cái lý do này mà người ta nói Phật còn ăn thịt chúng sanh, thì người ta không hiểu được cái kinh giới mà ở trong cái kinh Nguyên Thủy mà người ta đã dịch ra cái bài kinh Thầy thấy rất là sâu sắc, ăn chay mà trên ăn chay. Còn Đề Bà Đạt Đa chỉ cấm thôi, không ăn thịt cá chúng sanh, nhưng mà ăn lén làm sao? Còn cái này người ta ăn ở trên cái tâm từ thì người ta đâu có ăn lén?

Còn ông này ổng cấm: Bây giờ mình là năm người nè, mình hợp nhau nè, mình không ăn thịt chúng sanh nè! Nhưng mà mình thèm thì mình phải ăn thôi. Còn Đức Phật dạy chúng ta ăn tất cả những thực phẩm, tâm từ bi chúng ta phải thể hiện trên cái đó thì làm gì chúng ta ăn! Phải không? Cái nào cao hơn, cái nào thấp hơn?

Ông Đề Bà Đạt Đa chỉ đặt ra một cái giới là không ăn thịt cá chúng sanh, thì như vậy là quá thấp, đâu có cao siêu gì, đâu có bằng Phật được! Thế mà người ta nói Phật ăn thịt chúng sanh cho nên ông Đề Bà Đạt Đa muốn đặt năm cái giới này cho hơn lên nữa để mà không ăn thịt chúng sanh.

Rồi đặt một cái giới mà Thầy thấy cái giới rất là vô lý là chẳng dùng sanh tô và muối. Nếu mà ông ăn lạt không riết chắc ông thành bò, ông không có muối chút nào hết thì chắc ông cũng chết luôn chớ đừng nói! Con người ta mà không muối làm sao mà chịu nổi? Cho nên dù là đồng bào ở trong rừng núi đi nữa họ coi cái hạt muối rất là quý.

(51:17) Chúng ta cũng nên biết rằng ăn lạt đâu có phải, ăn nhiều quá, mặn quá thì cũng không tốt, mà ăn ít, không có muối thì cũng không tốt. Cho nên do vì vậy mà chúng ta biết rằng con người là cái thân của chúng ta là cái nơi mà chúng ta phải có những chất để cho nó đủ để mà nó nuôi dưỡng, thì muối cũng là một cái phần rất cần thiết cho thân.

Thế mà đặt cái giới này ra thì chắc chắn là tiêu mấy ông Tỳ Kheo này hết, không có còn mà sống, kéo dài cái thời gian mà để mà thực hiện những cái giới này. Cho nên đó là những cái giới mà đặt ra vô lý, nó không có cái lý, làm sao mà con người sống được!

…​ làm cho các Tỳ Kheo tân học vô trí tin ưa. Các Tỳ Kheo nghe thế đến bạch Phật. Phật nói rằng phá hòa hợp tăng phạm tội rất nặng, ở trong địa ngục một kiếp chịu khổ, không thể cứu chữa được.

Phật liền họp chúng lại quở trách ông Đề Bà Đạt Đa, rồi bảo tăng làm phép ha gián, quở can, bạch Tứ Yết Ma rồi kiết giới này.

Như Thầy nói bạch Tứ Yết Ma đó, như quý thầy hiểu là nêu lên rồi hỏi ý kiến của các ngài, tức là chúng ta đề ra một cái ý kiến, rồi hỏi cái ý kiến đó, tất cả mọi người đều chấp nhận cái ý kiến đó thì coi như là pháp Yết Ma đã thành tựu.

Trong đó mười vị thầy mà có một vị thầy không chấp nhận, tức là không có ý kiến, thì coi như là nêu lên cái điều kiện đó thì điều kiện đó không thành Yết Ma. Còn nếu nêu lên mà mười người đều chấp nhận hết, tán thành hết, thì đó là thành Yết Ma.

Thì ở đây chúng ta thấy đạo Phật rất là giữ cái tự do, cái bình đẳng ở trong cái tư tưởng, cái tinh thần tự do rất là tự do, cho nên muốn làm một cái điều gì đều phải hỏi qua ý kiến, cho nên gọi là bạch Tứ Yết Ma.

Phá tăng nếu một cho đến bảy Tỳ Kheo chẳng hòa hợp cũng không phải phá. Nếu chẳng hỏi trên Thượng tọa mà làm tăng sự, ấy là chẳng hòa hợp cũng chẳng phải phá tăng. Nếu chẳng cùng đồng đều ăn ở chỗ khác, khi ăn ngồi chỗ khác tranh cãi nhau chẳng gọi là phá.

Cốt ở trong giới tám Tỳ Kheo trở lên chia làm hai bộ riêng làm tăng sự mới gọi là phá tăng. Người làm chủ phá tăng bị một kiếp đọa địa ngục.

Ở đây Đức Phật - ở trong giới bổn này nói Đức Phật có chia làm từ một đến bảy vị Tỳ Kheo mà không hòa hợp thì chưa gọi là phá tăng, mà chỉ tám vị trở lên mới gọi là phá tăng.

Thì chúng ta thấy cái số phải đông đủ tám người thì mới gọi là phá tăng. Chín người, mười người trở lên mà không có hòa hợp nhau thì gọi là phá Tăng đoàn, còn từ một đến bảy người mà không hòa hợp thì chưa gọi là phá Tăng đoàn.

Mà cái tội phá Tăng đoàn thì cái tội đó coi như là đọa địa ngục một kiếp chớ còn không có xử, không có gì được hết. Khuyên can mà không nghe mà cứ mải phá Tăng đoàn thì làm cho cái Tăng đoàn nó không có hòa hợp được, thì như vậy coi đương nhiên là bị đọa địa ngục chớ không còn có một cái giới nào mà có thể ghép cái người đó vào cái giới luật được hết, mà chỉ còn đợi một kiếp đọa địa ngục mà thôi.

11) GIỚI LẬP BÈ ĐẢNG PHÁ TĂNG

(54:44) 11. Giới lập bè đảng giúp phá tăng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Vì Đề Bà Đạt Đa chủ mưu phá tăng, một số Tỳ Kheo thuận tùng, bênh vực. Các Tỳ Kheo này là trong nhóm sáu người. Nhân đó Phật họp các Tỳ Kheo, bạch Tứ Yết Ma kiết giới này và khuyên các Tỳ Kheo can gián họ.

Giới này dạy trong lúc tăng như pháp tác Yết Ma ha gián đối với Tỳ Kheo phá tăng, Tỳ Kheo nào lên tiếng bênh vực, bất kể là đồng hay là bất đồng quan điểm với kẻ phá tăng, sự lên tiếng này tức là hành vi cản trở Yết Ma của chư Tăng, đấy là xác định yếu tố trợ bạn của Tỳ Kheo ấy, phạm Tăng Già Bà Thi Sa.

Đối với Tỳ Kheo trợ bạn, chư Tăng có nhiệm vụ can gián hoặc cử một người có uy tín có khả năng can gián. Nếu bất thành, cử hai hoặc ba người. Nếu cũng bất thành, Tăng sẽ họp tác pháp Yết Ma ha gián thứ lớp như lần đầu khuyến cáo. Nếu Tỳ Kheo trợ bạn không hối cải, bấy giờ tiếp tác bạch ba lần nữa.

Nghĩa là liên tục họp chúng liên tục làm cho cái sự hòa hợp tăng cho được, mà không được thì coi như là những cái người mà phá hòa hợp đó đều là phạm tội đọa địa ngục.

12. - Giới 12:

Giới làm hạnh xấu nhơ nhà người, bị đuổi.

(56:19) Ở đây Thầy xin đọc lại một cái phần mà làm các pháp Yết Ma đây. Đây là phải ba lần tác bạch, tức là nêu lên một cái ý để cho chư tăng thông suốt, để quý thầy thông cái chỗ phá Tăng đoàn, vì phá Tăng đoàn rất là quan trọng với cái sự tu tập của Phật giáo:

“Đại đức Tăng xin lắng nghe. Tỳ Kheo…​ này, (tên gì đó) là trợ bạn của Tỳ Kheo…​ (nào đó), thuận tùy…​ mà nói như vầy: “Chúng tôi chấp nhận.” Tăng nay vì Tỳ Kheo…​ (tên gì đó) trợ bạn của Tỳ Kheo…​ mà tác pháp ha gián cho bỏ sự ấy.

Các trưởng lão nào bằng lòng Tăng nay vì Tỳ Kheo…​ là trợ bạn…​ tác pháp ha gián cho bỏ sự ấy thì im lặng. Ai không bằng lòng thì nói.

Đây là pháp Yết Ma thứ nhất.”

Và thứ hai, thứ ba, thứ tư, nếu tất cả mọi người đều im lặng hết thì đó là người ta chấp nhận. Còn người ta có người nào mà nói lên, tức là người ta không có đồng ý thì người ta sẽ nói lên, còn nếu mà làm thinh hết là người ta chấp nhận.

“Lần chót Tăng đã bằng lòng vì Tỳ Kheo …​ đó là trợ bạn của…​ tác pháp ha gián cho bỏ sự ấy, vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy.”

Nghĩa là tất cả im lặng là bắt đầu từ đó thì cái vị Tỳ Kheo mà trợ giúp cho cái người bạn phá Tăng đoàn đó họ sẽ chừa bỏ, họ sẽ không làm nữa.

Tức là họp chúng như vậy để mà can ngăn, khuyên những người khác đừng có trợ giúp những người phá Tăng đoàn, cũng như đừng có trợ giúp Đề Bà Đạt Đa vậy. Do đó một cái số người được những cái pháp Yết Ma, họ trở về những cái người tu tốt, không có trợ giúp cho Đề Bà Đạt Đa phá tăng nữa.

Đó là cái phần mà trong cái giới thứ 11.

12) GIỚI LÀM HOEN Ố NHÀ NGƯỜI

(58:10) Cái giới thứ 12:

12. Giới làm hạnh xấu nhơ nhà người, bị đuổi.

Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa Phật ở nước Xá Vệ, khi bấy giờ ở trong ấp Kỳ Viên có hai Tỳ Kheo Mã Sư (Mã Túc) và Mãn Túc làm hạnh phi pháp: Tự trồng hoa, tự hái hoa, tự dung tứ, tự hái hoa rồi xâu thành tràng mang đem cho người, cùng với phụ nữ đồng ngồi chung một giường, cho đến ca múa, hát xướng, làm trò giễu cợt.

Khi đó có các Tỳ Kheo đến ấp Kỳ Viên khất thực, y phục chỉnh tề, chậm rãi đi tới, không trông hai bên. Các cư sĩ trông thấy trái lại cho là phi pháp, không cúng dường các thực phẩm ăn uống. Các thầy Tỳ Kheo hỏi ra mới biết có hai Tỳ Kheo làm hạnh nhơ xấu nhà tín thí, liền đem bạch Phật.

Nghĩa là lúc bấy giờ có hai Tỳ Kheo là Mã Sư và Mãn Túc tự trồng hoa, bông kiểng, rồi cắt hoa xâu lại thành tràng, rồi đem biếu cho mấy người phụ nữ, rồi ngồi chung với mấy người phụ nữ, ca hát xướng ở đó, tạo những hạnh đó, cho nên những người cư sĩ ở đó nói rằng những người này họ là những người tốt, là biết trồng hoa, biết sản xuất cái này cái kia đem lại những cái sự lợi ích cho mọi người, biết làm tốt cho người này người kia, biết làm cho nhà họ vui vẻ, ca hát, trò giễu làm cho họ thấy cũng thích: Mấy ông thầy này ca hát cũng hay, ngâm thơ cũng tuyệt.

Do đó thì những cái số người cư sĩ ở trong cái xã đó, cái làng đó họ thích hai ông thầy này dữ lắm. Họ nói hai ông thầy thiệt là con người lịch thiệp; tu hành mà không có lìa cái thế gian, luôn luôn lúc nào cũng nhập thế gian mà đẻ độ đó, cho nên họ rất là thích.

(01:00:01) Trái lại thì có một cái số các Tỳ Kheo khác đến đó, đi thì không dám ngó qua ngó lại, đi thì nhìn xuống đất. Mấy vị cư sĩ ở cái xã này, cái ấp này thấy mấy ông thầy này làm cái gì quá là con cù lần, đi gì mà kỳ cục không dám ngó ai hết. Còn ở đây mình có mấy vị Tỳ Kheo biết vui vẻ này kia đồ, ca hát làm vui làng vui xóm, còn mấy ông thầy này làm cái gì mà làm thinh, đi không nói chuyện gì hết!

Do đó họ chẳng có đem đồ cúng dường hết: Mấy ông này không có đúng cái hạnh. Hai ông Tỳ Kheo ở đây người ta làm đúng hạnh, còn mấy ông này làm như là mình gì á. Thành ra do đó họ không cúng dường gì hết.

Vậy mà sau đó mấy vị Tỳ Kheo này đi về mới trình lại với Đức Phật cái trường hợp xảy ra như vậy, vì vậy Đức Phật mới sai ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên đến làm Yết Ma khu tẩn, xua đuổi hai vị Tôn giả này.

Hai Tôn giả nhận lời Phật dạy đến họp tăng, rồi hai vị Tỳ Kheo kia làm phép cử tội, định tội, bạch Tứ Yết Ma. Hai vị Tỳ Kheo kia nói rằng: “Chúng tăng có ưu, có giận, có sợ, có si, lại có Tỳ Kheo khác đồng tội, có người bị đuổi, có người không bị đuổi, mà sao riêng đuổi chúng tôi?”

Hai Tôn giả trở về đem việc ấy bạch Phật, Phật khiến cho Tăng cùng hai Tỳ Kheo kia làm phép ha gián, bạch Tứ Yết Ma mà kết giới này.

Làm nhơ nhà người là sao?

Nhà cư sĩ trước có lòng tin trọng kính, nhân vì hai Tỳ Kheo lấy hoa, vật tặng bạch y thời làm phá tâm tốt, bình đẳng người trước. Với người được vật thời họ vui mừng yêu kính, người không được vật dù cho gặp Thánh hiền họ cũng không yêu kính.

Như thế là mất cái phúc lợi sâu dày của người trước, mà trái ngược lại trong Phật pháp, phàm là người tại gia nên cúng dường cho những người xuất gia, mà trái lại người xuất gia lại cúng dường cho người bạch y.

Nghĩa là hai vị Tỳ Kheo này luôn luôn lao động, làm những công việc để rồi đem cho những người cư sĩ, làm cho những người cư sĩ tưởng đây là đúng, đây là rất đúng Phật pháp, nhưng mà không ngờ đó là cái sai.

Cũng như bây giờ chúng ta là những người tu sĩ chưa có làm được đồng xu đồng điếu nào hết mà cứ rủ nhau đi bố thí thì cái điều đó là cái điều rất sai. Bởi vì chúng ta còn xin ăn mà, làm sao chúng ta có tiền đâu?

Thế mà hiện bây giờ thì hầu hết quý thầy đang làm cái việc từ thiện, bố thí đầu này đầu kia, chỉ có nước là kêu gọi người ta chớ mình có làm đồng tiền nào đâu. Thế mà cái danh thì được ai? Được ai nhận là cái danh đó? Ông thầy này làm việc từ thiện, ông thầy kia làm việc từ thiện, chớ có bao giờ mà ai nói là người cư sĩ!

Do vì vậy đó mà nhiều khi chúng ta muốn được lòng người cư sĩ, cho nên người cư sĩ muốn cái gì thì chúng ta làm theo cái nấy để cho được lòng người cư sĩ. Hầu hết là các chùa chúng ta hay vị cái người cư sĩ lắm.

(01:03:06) Cho nên mình - thí dụ như Thầy bây giờ Thầy là một tu sĩ nè, Thầy đến Thầy xin vô cái tu viện đó rất là khó, nhưng mà Thầy biết được bây giờ có cái ông cư sĩ đó ổng thường hay đến cái chùa đó, ổng quen với ông thầy trụ trì đó, chỉ cần nhờ cái ông cư sĩ đó ông đến nói thì Thầy được ở liền à.

Cho nên họ làm vừa lòng với người cư sĩ lắm. Thậm chí như bây giờ cái người cư sĩ đó họ tu hành chẳng ra gì hết à, mà họ muốn làm Tỳ Kheo đi nữa, cái họ chỉ nói cái ông thầy đó, ổng liền cái ổng cho vô thọ giới Tỳ Kheo liền tức khắc, khỏi cần đợi một tháng, hai tháng, ba tháng, một năm gì hết.

Chỉ cần cái vị cư sĩ đó đã từng cúng dường nhiều tiền nhiều bạc thì cái ông thầy ở đó ổng cũng làm vừa lòng vị cư sĩ đó. Do vì vậy mà làm lệch lạc Phật pháp.

Ở đây cái hình thức này, đây là Phật nói hai vị tu sĩ này họ chỉ trồng hoa họ biếu tặng cho những cái nhà người cư sĩ thôi mà đã làm cho những người cư sĩ đó thích thú, hết sức thích thú.

Cũng như là bây giờ chúng ta thấy những cái chuyện mê tín mà chúng ta vẫn thấy nhan nhản ở trong các chùa, là chúng ta hiện giờ - người cư sĩ họ mất cha mất mẹ họ chết đi, họ đến họ rước mình đến tụng kinh, rồi mình bày ra họ làm trai tăng cúng dường thế này thế nọ thế kia đủ thứ. Rồi bắt đầu bây giờ có cái sự làm như vậy thì có lợi ích cho cư sĩ cái gì?

Bây giờ thấy ông thầy không làm, không tụng kinh, không niệm Phật gì hết do đó chỉ chuyên tu như chúng ta, không ai muốn cúng dường hết à. Có không?

Bởi vậy cho nên đó là những cái bậc mà người ta tu hành người ta xả bỏ, người ta xin ăn có một bữa. Còn mấy ông này cúng bái đủ thứ, ăn uống phi thời đủ thứ hết, nhưng mà người ta thấy có lợi ích cho cư sĩ mà!

Có giúp cho người ta ma chay, rồi cầu siêu cầu an, không biết có siêu sanh Tịnh Độ không, không biết, nhưng miễn thấy là an ủi tinh thần họ được, họ thấy như cha mẹ họ được sanh về cõi Phật là họ thấy thích rồi.

Do vì vậy đó mà họ thấy mấy ông thầy này là hơn thấy mấy ông thầy mà tu hành. Cuối cùng thì cái chánh pháp nó đã bị mất đi mà cái tà pháp thì nó nhan nhản nó sống, hiện bây giờ chúng ta đã thấy từ cái sai này cho đến nó sai cái kia.

(01:05:04) Cho nên cái giới luật mà thấy hai vị Tỳ Kheo này làm thì chúng ta đã thấy được, hiện bây giờ tất cả Tỳ Kheo chúng ta đã làm vì những cái lợi nho nhỏ của cư sĩ mà không thấy cái lợi lớn của Phật pháp, làm cho Phật pháp mất đi con đường tu hành chân chánh, mất đi cái Phạm hạnh của người khác. May là chỉ có biếu hoa tặng hoa thôi, mà tất cả những cái vị Tỳ Kheo khác đi đến xin đó mà họ đã không muốn cho thực phẩm cho các vị khác rồi.

Trong khi người ta tu hành người ta đi người ta giữ phòng hộ sáu căn, người ta đi người ta ngó xuống đường, người ta không dám ngó qua lại, còn hai vị tu sĩ này thì ca hát xướng hát với những người nữ cư sĩ ở trong cái xóm làng đó, mà họ vẫn cho đó là đúng, còn những người mà tu chân chánh họ vẫn cho là sai, thì đủ thấy là Phật pháp nó sẽ đi về đâu. Do những cái hành động sai của người tu mà đã làm cho người ta hiểu lệch Phật pháp mất rồi.

Phàm người tại gia nên cúng dường cho người xuất gia, mà trái lại người xuất gia lại cúng dường cho bạch y, cho cư sĩ.

Nếu lấy một chút ít vật tặng biếu cho bạch y thì dù có xây tháp bảy báu, các thứ trang nghiêm, cũng không bằng tịnh tọa trì giới thanh tịnh, tức là cúng dường chân thật pháp thân Như Lai. Nếu có người cường lực phá tháp, phá chùa, cầu của tặng cho để họ bảo vệ tháp chùa thì nên bán hoa quả ở đất tháp lấy tiền mà biếu cho họ thì được.

Thì chúng ta thấy ở đây qua những cái câu chuyện ở trong cái giới thứ mười hai này, thì chúng ta thấy rõ, là vì cái đúng cái sai của người tu đã làm lệch đi thì cái giới này là cái giới mà cái người tu sĩ chúng ta dễ phạm lắm, không có khó phạm, nhưng mà vẫn thấy đó là cái sự lợi ích cho chúng sanh, lợi ích cho thế gian mà người ta cứ làm, chứ người ta chưa biết rằng cái hạnh tu giải thoát là cái lợi ích rất lớn, Phật pháp còn hay mất là cái chỗ này.

13) GIỚI KHÔNG BỎ TÁNH XẤU

(01:07:08) 13. Giới không bỏ tánh xấu.

Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa Phật ở vườn trưởng giả Mỹ Âm, nước Câu Diệm Di. Khi bấy giờ Tôn giả Xiển Đà tánh xấu không chịu nghe lời các Tỳ Kheo dạy bảo, các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật cho họp chư tăng lại làm phép Yết Ma ha gián mà kết giới này.

Như Lai sau biết được nghiệp tánh chúng sanh cần phải đủ 20 vị Thánh Tăng thanh tịnh tội mới được dứt trừ, chẳng như thế thì không thoát khỏi. Như người kia bị người khác giết hại mà còn dính cuống họng, nếu không thuốc hay, thầy thuốc giỏi ít ra công hiệu thì không thể sống được.

Đây cũng như thế, nếu không y pháp và không có thanh tịnh tăng, thiếu chúng, thiếu duyên mà được giới thanh tịnh sanh thì không có lý ấy được.

Nghĩa là khi mà phạm phải cái giới này thì cũng như cái người mà đã đứt cái họng mà cái cuống họng nó còn, do đó phải có thầy thuốc giỏi, phải có thuốc trị.

Mà đây là muốn nói thầy thuốc giỏi là cái những bậc tăng thanh tịnh giới luật thì người ta mới có thể cứu mình được, còn nếu mà không có những bậc tăng thanh tịnh giới luật thì cái người bị phạm giới đó khó mà cứu được, cũng như là không có thầy thuốc giỏi, không có thuốc hay.

Phải có chúng được thanh tịnh, phải có duyên được thanh tịnh, ở trong cái hoàn cảnh tu tập, như bây giờ chúng ta ở đây, chúng ta là một cái số chúng như chúng ta thanh tịnh giới luật nghiêm chỉnh như thế này, thì những người mà phạm giới đó họ đều theo cái hướng của chúng ta thì họ sẽ sửa cái lỗi của họ được.

Cho nên nếu mà họ ở trong một cái chúng mà phạm giới, ăn phi thời, ngủ phi thời, lung tung chạy theo dục lạc thế gian thì họ phạm giới đó thì kể như họ đứt họng luôn, họ không còn - cái cuống họng họ đứt luôn họ không thể nào trị được.

Còn nếu những cái chúng mà phạm giới đó mà được sống ở với mình đây, thì họ sẽ được cái sức thanh tịnh của chúng ta giữ gìn giới thì cứu họ, họ không có chết, họ sẽ được thanh tịnh.

Bởi vì những cái lỗi lầm này mà ở gần những người mà phạm giới thì họ đâu có thấy cái lỗi đó đâu? Cho nên họ càng phạm nữa, do đó họ đứt họng luôn, không có thể nào mà sống được.

Còn nếu mà được những từ 20 vị tăng thanh tịnh, thì như bây giờ chúng ta ở đây chúng ta giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, mà những người phạm giới đó mà họ được vào đây thì tức là họ sẽ thanh tịnh với chúng ta, họ sẽ không còn có bị đứt họng, không có chết nữa, coi như đương nhiên là họ được thầy thuốc hay và thuốc giỏi để trị họ lành bệnh.

Bởi vì cái giới luật là như vậy, là vì chúng ta gần với những bậc thanh tịnh giới là chúng ta phải chịu ảnh hưởng và chúng ta sẽ tốt mà chúng ta không còn tái phạm nữa. Còn trái lại ở với những người mà phá giới, phạm giới thì chúng ta dù muốn dù không chúng ta cũng sẽ bị phạm giới mãi mà không hết được.

3- HAI GIỚI BẤT ĐỊNH

(01:10:20) III - Kiết giới nhị Bất Định.

Có hai cái giới Bất Định

1) GIỚI BẤT ĐỊNH THỨ NHẤT

1. Giới Bất Định trước.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do xưa Phật ở nước Xá Vệ, khi ông Ca Lưu Đà Di chưa xuất gia, có vợ của người bạn thân tên là Trai Ưu Bà Di để ý tưởng nhau. Khi đi khất thực đến nhà Trai Ưu Bà Di, ở chỗ khuất, cùng giường mà ngồi, nói lời phi pháp. Bà Tỳ Sá già…​

Bà mẹ đó.

…​ nghe tiếng, đến trông thấy thế liền bạch Phật. Phật gọi ông Ca Lưu Đà Di đến quở trách rồi họp chúng Tỳ Kheo lại kiết giới này.

Phật cùng các Tỳ Kheo kiết giới này:

1- Ngăn sự chê bai;

2- Trừ sự đấu tranh;

3- Tăng trưởng pháp của Phật, Tỳ Kheo xuất gia dứt hẳn việc nhơ uế trần tục để cho người đời tôn hướng kính tin.

Sự thật ra cái giới bổn nó hay viết cái này, Thầy thấy nó không đúng cái pháp tu của giới.

4. Vì dứt trừ nghiệp xấu.

Ở đây Thầy thấy người ta sợ chê bai, ngăn sự chê bai, sợ sự đấu tranh, sợ mất cái lòng tôn kính của cái người đời đối với cái người tu sĩ.

Ở đây cái mục đích mà chúng ta đến tu không phải là vì cái sự tôn kính của Phật tử đâu, mà cũng không sợ gì cái sự chê bai của ai đâu, mà chính chúng ta tu hành là mục đích chúng ta là làm sao tu tập cho mình được giải thoát, chấm dứt được sự sanh tử, cái mục đích của mình là như vậy.

(01:12:13) Cho nên mình đâu phải đi tu vào đây để mình sợ người ta chê cười, mà sợ người ta không có tôn kính mình, sợ người ta thế này, sợ người ta thế khác, mà chế giới ra như vậy là không có đúng ý nghĩa của Đức Phật. Đức Phật chế giới ra là chế ra cái pháp để làm chúng ta lấy cái pháp đó mà ly dục, ly bất thiện pháp, làm chúng ta được giải thoát.

Cái mục đích chính giới luật là như vậy, chớ không phải vì sợ người ta chê bai, sợ người ta không có tôn kính về cái Tăng đoàn của mình, những Tỳ Kheo xuất gia, mà chúng ta chỉ - chúng ta phải lấy cái giới luật mà làm cái pháp để chúng ta thực hiện ly dục ly ác pháp, để chúng ta được giải thoát.

Từ cái giải thoát đó ai khen thì khen, ai chê là chê, mặc. Có nhiều người người ta chê mà lại là người ta chê đúng thì mình phải chấp nhận chớ sao? Mà có nhiều nguời người ta khen mà khen sai, thì cái đó mình đâu có chấp nhận được! Cho nên khen với chê nó không có quan trọng đối với người tu sĩ đạo Phật.

Cho nên trên cái bước đường mà du hành, Đức Phật đi thì đi trước có hai vị ngoại đạo, một cái người đệ tử và một cái người học trò. Người học trò thì khen Phật đủ điều hết, còn cái ông thầy thì tìm mọi cách chê Phật đủ điều hết. Thì như vậy cái khen chê đối với Phật có nhằm nhò gì đâu! Khen đúng thì nó đúng mà khen trật thì nó là phỉ báng.

Cũng như có nhiều người họ khen Thầy. nào là có người đi buôn bán đến đây nhờ Thầy vẽ cái bùa cái rồi đi buôn bán đắt, cái đó khen chớ đâu phải chê, nhưng mà khen đó là khen sai.

Có người nói Thầy thì ngồi đây nè mà nói chuyện ở trên núi Linh Sơn, ở trên Hy Mã Lạp Sơn á, nói chuyện với mấy người tu sĩ ở trên đó, thì họ nói cái chuyện khen chớ đâu phải là chuyện chê, nhưng mà nói cái đó nói chuyện bậy, nói chuyện không đúng, tức là khen không đúng.

Khen làm cho người ta mê tín, khen làm cho người ta sai lệch con đường của đạo Phật, khen Thầy kiểu đó tức là chê Thầy chớ không phải khen.

Còn khen Thầy như thế này là đúng nè: Thầy tu hành giữ gìn giới luật, không có giết hại chúng sanh nè, không có nói láo nè, không có trộm cắp nè, không có tà dâm nè, không có dâm dục nè, đó là khen Thầy đúng. Khen Thầy không hút thuốc nè, không uống rượu là khen Thầy đúng. Khen Thầy không trang điểm, không nằm giường cao rộng lớn là đúng. Khen Thầy không cất giữ tiền bạc, ăn ngày một bữa nè, không ăn phi thời nè, đó là khen Thầy đúng.

Mà khen trật thì không đúng. Khen Thầy thần thông phép tắc, biết chuyện quá khứ vị lai, coi bói coi khoa, coi ngày tốt xấu, cúng vong trừ linh, trừ thần, khen Thầy thông suốt tất cả những bài kệ tụng niệm, cái gì cũng thông hết, thì cái đó khen Thầy trật, không đúng.

Khen Thầy làm bột ngọt, khen Thầy làm bánh mì, khen Thầy làm thợ mộc, thợ hồ, cái đó khen Thầy trật. Người tu sĩ đâu có làm cái chuyện như vậy? Tức là khen đó là khen sai. Khen Thầy khéo tay đúc tượng làm Phật thì đó là khen bậy, khen không đúng.

(01:15:08) Đó là tất cả những cái khen chê đối với đạo Phật không có phải lúc nào mà cũng chấp nhận. Mà chúng ta - chê chúng ta cũng không có tranh cãi bào chữa, mà khen chúng ta cũng không có vui mừng. Đức Phật đã căn dặn các đệ tử của Ngài như vậy chớ không phải mới bây giờ mà Thầy nói.

Người ta chê mặc người ta, người ta khen mặc người ta, đúng sai người ta làm sao người ta biết được mình? Mình phải giữ cái tâm giải thoát của mình. Chính ở đây mà chế giới luật còn ngăn sự khen chê, còn này kia thì không đúng.

Phật chế giới luật là nhằm đưa ra cái pháp để chúng ta tu tập ly dục ly ác pháp, để tuần tự mà chúng ta nhập các thiền, các định, làm chủ được sanh tử, chấm dứt luân hồi. Chế giới ra mà sợ người ta chê bọn mình là vầy vầy này, chế ra ngăn chặn, thì hóa là lấy dây mà trói quý thầy đừng có làm điều đó người ta cười mình!

Cũng như bây giờ quý thầy ăn phi thời, quý thầy ở đây quý thầy ăn một bữa, quý thầy ra ngoài quý thầy ăn hai ba bữa, chúng cười chê, Thầy nói: “Quý thầy đừng có làm như vậy, làm như vậy người ta cười chê mình, phải ăn một bữa để cho người ta kính trọng chớ!” Như vậy là sai, dạy như vậy là sai.

Bây giờ Thầy nói quý thầy ăn ngày một bữa là quý thầy thấy được sự giải thoát của hai bữa kia, cho nên vì vậy mà chiều quý thầy không có lo, sáng quý thầy không có lo, chớ không phải là sợ người ta cười chê.

Còn quý thầy bây giờ ăn ở đây một bữa mà quý thầy ra quán ra lều ngồi ăn hai ba bữa, mặc quý thầy! Người ta chê cười, người ta làm gì làm, ăn thua gì Thầy? Người ta nói quý thầy ở đây tu hành, nghe nói ở đây ăn ngày một bữa, mà quý thầy ra ăn ba bốn bữa, thì người ta có nói gì người ta nói, kệ!

Ở đây Thầy dạy mục đích quý thầy ăn để mà giải thoát cái sự ly dục, ly bất thiện pháp, chớ đâu phải dạy quý thầy ra ngoài đó để mà khen chê! Nhưng quý thầy biết ly dục rồi thì ra ngoài quán lều quý thầy đâu có ăn. Bởi vì ăn là đâu có ly, còn ham ăn mà, còn thích, thấy ly sữa còn muốn, thấy ly kem còn muốn ăn mà, thì như vậy là quý thầy chưa có ly.

Mà ở đây mục đích của Thầy dạy ly, cho nên khi mà quý thầy ra ngoài người ta mời ly sữa, mời ly nước ngọt, quý thầy không ăn tức là quý thầy đã ly, chứng tỏ quý thầy đã giải thoát, chớ không phải vì cái không ăn đó mà để cho người ta khen mình.

Người ta khen mình biết đâu chừng mình về mình thèm quá mình uống vụng thì sao, mình ăn vụng thì sao? Cái điều đó là cái điều sai, còn mình ly rồi thì bắt đầu mình đâu có ăn vụng!

Đó, nó phải đúng pháp. Cho nên ở đây Phật pháp nhắm vào cái thực chớ không phải nhắm vào cái hư giả, cái danh hư giả đó. Mà giới luật, giới bổn dạy cái kiểu này là dạy cái hư giả chớ không phải dạy cái thật. Dạy cái thật là phải dạy cho chúng ta giải thoát chớ? Cho nên Thầy vạch ra những cái để chúng ta thấy được cái sai, cái không đúng của giới bổn.

Trước ở chỗ vắng, sau lần lần đắm nhiễm, yêu mến nhau rồi việc chi cũng làm được. Cho nên vì ngăn ngừa đó mà Phật chế ra giới này.

Thật sự ra chế ra giới để chúng ta biết mà chúng ta tránh, để mà chúng ta phòng hộ sáu căn của chúng ta mà không có được sát gần với giới nữ, không có được ở chỗ che khuất mà nó sanh ra những cái tâm dục.

(01:18:04) Ở chỗ che khuất như trong bụi, sương mù, chỗ ở nhỏ mà không ai nghe, chỗ cách vách, cách rào, cách màn, cách vật ngăn che thân mình để giấu sự xấu hổ.

Hỏi tội:

Nếu Tỳ Kheo cứ thật mà xưng tội đã phạm thì như lời khai mà trị. Nếu của Tỳ Kheo nói không giống với Ưu Bà Di thì không như lời của Ưu Bà Di nói mà trị. Nếu Tỳ Kheo chống cự không chịu thì cho bạch Tứ Yết Ma làm phép bất kiến cử tội. Nếu vị Ưu Bà Di vì ủng hộ Tỳ Kheo không chịu nói rõ thì nên như lời Tỳ Kheo kia nói mà trị.

Nếu Tỳ Kheo không chịu xưng tội thì suốt đời không giải Yết Ma được.

Như lời dặn nhắc:

Nếu muốn khỏi người ta nghi ngờ thì phải có người thứ ba, nhưng mời ra chỗ trống mà tiếp chuyện. Nếu gặp trường hợp không có người thứ ba thì cũng nên mời ra giữa nhà, nhưng nói to tiếng lên, mà nói cho nghiêm nghị, đừng cười đùa, nói ở chỗ khuất mà nói lại nho nhỏ làm mầm sanh ra tội lỗi, cũng tùy theo cử chỉ tiếp chuyện mà thấy người ta nghi ngờ hay không nghi ngờ, vì người ta trông thấy mà nhận biết được.

Bởi vì mình kê vô lỗ tai mình nói nhỏ nhỏ nhỏ với người ta, không biết cái bà này hay là cái ông này nhiều chuyện gì đây? Nói xấu người nào đây?

Mình nói cái gì mình phải công minh mình nói lớn để cho người khác nghe người ta không nghi ngờ mình, thì cái điều đó tốt. Thường thường là quý thầy ngồi thì thầm thì thầm đó, đó là sai đó.

Cho nên chúng ta muốn nói gì thì nói cho to lên, cho người khác người ta nghe, vì vậy đó là những cái mình không có tội. Còn nếu mà mình nói thì thầm thì thầm, lén lén mình nói đó, đó là những cái làm cho người ta nghi, làm cho người ta thấy mình không có đúng cái giới hạnh.

Vậy đó là cái giới thứ nhất là giới Bất Định.

2) GIỚI BẤT ĐỊNH THỨ HAI

(01:20:07) Cái giới thứ hai:

2. Giới Bất Định thứ hai.

Vì sao Phật chế giới này?

Duyên sự đồng như giới trước nhưng có khác trước là ở chỗ che khuất có thể làm việc dâm được, còn giới này ông Ca Lưu Đà Di ở chỗ trống nói chuyện với phụ nữ, chỗ không thể làm việc dâm được nên tội vô dư, không do đâu mà sanh nên Phật kiết giới này.

Vì ở chỗ trống hoặc nói lời thô xấu, phi pháp, hoặc nói lời cầu xin cúng dường, hoặc thân phần xúc chạm nhau nên chỉ phạm tội hữu dư.

Tội hữu dư tức là tội Tăng Tàn đó.

Hoặc tùy theo việc làm mà phạm tội nặng hay nhẹ, không nhất định.

Tùy theo cái việc làm, bây giờ ở ngoài trống chớ không có ở chỗ kín nữa. Cái tội, cái giới Bất Định này là lúc bấy giờ nó đang ở chỗ trống, nhưng mà - nói thí dụ như là xúc chạm nhau hoặc là nói nho nhỏ nhau, không có nói lớn, nhưng mà ở chỗ trống chớ không phải ở chỗ kín nữa, còn cái giới Bất Định kia là ở chỗ kín.

Đó là những cái điều có thể phạm tội về giới Bất Định.

Hai pháp trên đây gọi là Bất Định. Nghĩa là thể của tội này không có tướng nhất định, là không biết tội tướng nặng hay nhẹ, cũng không biết tên của tội. Dù có thầy Tỳ Kheo cùng người nữ ngồi một chỗ, nhưng không biết sẽ làm việc gì, hoặc hành dâm, hoặc rờ mó, hay hoặc nói lời thô xấu, giới này không nhất định là tội nào, hoặc hữu dư, hoặc vô dư, hoặc đọa, nên tùy theo chỗ phạm mà định tội.

Nghĩa là cái giới Bất Định này nó nặng ở phía nào thì chúng ta đưa qua phía đó mà chúng ta trị tội. Thí dụ như cái giới Bất Định này nó xiên qua cái Ba La Di thì lấy cái giới Ba La Di mà kết tội họ, mà nó nhẹ thì nó xiên qua Tăng Tàn thì chúng ta theo cái giới Tăng Tàn mà chúng ta định tội. Cho nên gọi là hai cái giới Bất Định này.

Những cái giới này nó phần nhiều là nó thuộc về cái giới dâm, cái giới mà không tốt, cái giới mà nó có những cái tâm thầm kín, lén lút, cho nên nó thuộc về cái giới Ba La Di.

Cho nên nếu mà nó nặng, nó hướng về cái phía kia thì nó là bốn cái giới Tứ Khí đó, thì coi như là theo đó mà xử tội họ. Còn nếu mà nhẹ thì nó thuộc về Tăng Tàn, cho nên nó chỉ là cho sám hối, tác bạch, phát lồ để mà nhờ cái số quý thầy, cái số chúng mà thanh tịnh để cứu họ thoát ra khỏi. Còn hễ mà thuộc về Ba La Di thì không còn cứu họ được./.

HẾT BĂNG

39 - GIỚI XẢ ĐỌA - NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHO NGƯỜI MỚI TU

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 39 - GIỚI XẢ ĐỌA - NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHO NGƯỜI MỚI TU

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- BA MƯƠI GIỚI XẢ ĐỌA

(00:00) IV- Kiết giới Tam Thập Xả Đọa.

Ba mươi cái giới Xả Đọa.

Xả Đọa có nghĩa là có của vật đã phạm đều nên xả cho tăng, đã xả rồi còn tội đọa, nên đối với một vị Thượng tọa cầu xin sám hối, nhưng vì có của vật, tâm tham khinh rất mạnh mà sanh tội, cho nên Phật dạy phải xả cho tăng để dứt trừ cái sự tham lam.

Xả Đọa nghĩa là mình xả bỏ cái tài sản của mình đi. Chẳng hạn bây giờ mình có một cái y là đủ rồi, mình có thêm một cái y nữa thì tức là mình thừa đó, thì mình phải xả cái y đó đi. Cũng như bây giờ mình có hai cái bàn chải đánh răng, thì nó hai cái tức là mình thừa rồi thì mình phải xả bỏ cái đó ra đi. Thì xả tức là mình giao lại cho chư tăng, ai không có thì người ta cho cái người đó.

Cũng như bây giờ mình có hai cục xà bông để mà gội đầu thì tức là có hai cục là dư rồi, do đó mình phải xả cái cục xà bông dư đó ra đi, mình để mình còn một cục mà xài thôi. Cái gì mà nó thừa ở hai hay ba, bốn thì mình phải xả cái vật đó ra, rồi mình giao lại cho chư tăng, và đồng thời mà mình còn cất giữ như vậy đó thì đó là mình còn cái tội đọa.

Cho nên khi mà đọa như vậy đó, mình xả ra rồi nó chưa phải hết đâu, do đó mình phải đến mình tác bạch, mình phát lồ với một vị Thượng tọa cầu xin sám hối: “Từ đây về sau tôi không cất giữ hai vật trong một lượt mà để tích trữ lại những cái vật đó!” Thì như vậy gọi là ba mươi cái tội Xả Đọa này.

1) GIỚI CHỨA Y DƯ NHIỀU

(01:34) 1. Giới chứa y dư nhiều.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do xưa Phật ở nước Xá Vệ cho các thầy Tỳ Kheo thọ trì ba y, không được chứa y dư nhiều. Lục quần Tỳ Kheo ở trong ba thời sớm, trưa và chiều đều chia y thừa, Phật cố ngăn không cho.

Khi bấy giờ ngài A Nan được một y phấn tảo, muốn cúng cho ngài Ca Diếp do ngài Ca Diếp tu hạnh đầu đà thường mặc y này. Mà ngài Ca Diếp không có ở nhà, ngài A Nan sợ phạm y thừa liền đến bạch Phật. Phật hỏi: “Ông Ca Diếp lúc nào trở về?” Bạch: “Lui lại sau 10 ngày Ca Diếp trở về.” Phật nhân thế mà kiết giới cho chứa y thừa trong chừng 10 ngày thọ công đức y.

Ông A Nan ổng có được cái y phấn tảo mà ổng thấy ông Ca Diếp là cái người mà thường dùng y phấn tảo này, cho nên muốn cất giữ để chờ ông Ca Diếp về mà trao cái y này, nhưng sợ cái giới luật cấm mình không có cất giữ y thừa được, cho nên mới đến trình Đức Phật.

Phật hỏi: “Bao giờ ông Ca Diếp về?” Thì ông A Nan nói khoảng độ 10 ngày nữa thì ông Ca Diếp về, cho nên Phật kiết cái giới này: Cất giữ được 10 ngày, ngoài mười ngày thì phải đem ra trình thì nó không có bị tội.

Thọ công đức y:

Thầy Tỳ Kheo ở trong ba tháng hạ tu tập tinh tấn đủ 5 đức hạnh tốt:

1. Không yêu ai;

2. Không giận ai;

Không yêu ai tức nghĩa là không thương ghét người nào đó, hai là không giận người nào hết.

3. Không sợ ai;

4. Không si mê;

5. Biết người nào thọ giới, người nào chưa thọ giới.

Được thọ công đức y 5 tháng từ 16 tháng 7 đến 15 tháng Chạp. Tăng làm pháp Yết Ma xả ở trong khoảng 5 tháng được chứa y thừa ấy mà không phạm.

Nghĩa là trong cái an cư kiết hạ đó, khi mà người ta cúng dường thì mình chưa có rời khỏi cái mùa hạ, thì những y này kia người ta cúng dường thì mình cất không có phạm.

(03:59) Bạch Yết Ma hỏi: Ai có thể thọ công đức y?

Người có 5 đức đáp: Tôi có thể thọ y!

Nếu người được cúng dường nhiều y vật nên lấy một cái tốt làm công đức y, còn ra làm pháp Yết Ma mà chia cho chư tăng.

Nghĩa là một cái người mà ở trong cái hạ đó thì chỉ được nhận có một cái y thôi, còn bao nhiêu thì mình phải trao lại cho chư tăng chớ không có được cất giữ nhiều.

Trong khoảng 10 ngày Phật cho chứa y, là tín chủ cúng y cái nào nên thọ trì thì thọ trì, cái nào nên tịnh thí thì tịnh thí. Không như thế đến ngày thứ 11 lúc minh tướng…​

Tức là mặt trời mà mọc ra đó.

…​ hiện ra thì bị phạm tội Xả Đọa.

Xả Đọa tức là bỏ, phải giao lại cái đó và đồng thời phải sám hối. Nghĩa là qua ngày 11, lúc mặt trời mọc là mình bị cái tội Xả Đọa.

Như vậy là ở đây chúng ta phải hiểu Đức Phật cho cái giới mà chúng ta cất y chỉ có 10 ngày mà thôi, ngoài 10 ngày thì chúng ta phải trao lại cho người khác chớ không được cất. Vì vậy cho nên chúng ta không được có những đồ thừa, đồ dư được, vừa đủ để chúng ta xài cho một cái đời sống tu sĩ mà thôi.

2) GIỚI RỜI Y MÀ NGỦ

(05:15) 2. Giới rời y mà ngủ.

Vì sao Phật kiết giới này?

Do duyên xưa Phật ở nước Xá Vệ, Lục Quần Tỳ Kheo dạo đi trong nhân gian, đem y gởi cho Tỳ Kheo bạn thân. Bạn thân thường thường đem phơi, các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật cho kiết giới này.

Khi bấy giờ có Tỳ Kheo mắc bệnh khô gầy còm cõi, có cái y cũ phấn tảo rất là nặng, có duyên sự muốn đi trong nhân gian, không có thể mang y được. Các Tỳ Kheo vì vị ấy bạch Phật. Phật cho tăng cùng các Tỳ Kheo bệnh bạch Nhị Yết Ma kiết giới bất thất y.

Kiết giới bất thất y trước là kiết ba lớp tiêu tướng, sau là kiết giới bất thất y bằng khuôn của đại giới. Khi ngủ ngoài đại giới để y ở nội giới được, nếu không kiết giới bất thất y thì ba y lúc ngủ phải để gần bên mình, đi đâu ở đêm phải mang ba y theo mình, nếu không, mang ba y vào làng thế tục thì phạm tội, trừ khi bệnh.

Trong Luật Tăng Kỳ nói: Nên kỉnh ba y như là tướng pháp, gìn giữ ba y như là hộ da mỏng trên thân, thường mang theo mình như lông cánh chim bay chạy theo nhau. Đời nay ít có người không cách đêm, huống chi thường mang theo mình.

Thiệt ra thì ba cái y này thì ở trong cái Bắc Tông thì nghĩ rằng ba cái y này là ba cái y, chớ không phải là nghĩ rằng ba cái y này là một cái bộ đồ của một tu sĩ.

(07:04) Chúng ta phải hiểu rằng Đức Phật ngày xưa chỉ có một bộ đồ mà thôi. Bộ đồ đó là cái y hạ, là cái chăn mà vấn ở dưới, đó là cái y hạ, gọi là cái y hạ. Còn cái áo ngắn mà mặc ở trong đó là cái y trung. Còn cái y thượng, y mà Thầy choàng ở ngoài gọi là y thượng, thì Đức Phật chỉ có một bộ đồ như vậy mà thôi.

Khi tắm giặt, mà tắm giặt thì cái y hạ và y trung, thì cái y thượng choàng cho kín thân, như Thầy thường nhắc. Và nếu mà khi giặt cái y thượng thì mặc cái y hạ và y trung để giữ cho kín thân.

Có bấy nhiêu đó thôi chớ không có nhiều, không có ba y mà ôm kè kè như vậy. Cho nên làm sao mà còn cái gì đâu mà dư mà ôm kè kè, mà làm sao mà gọi là mất? Như bây giờ Thầy có đi đâu thì cũng phải y thượng rồi y trung, y hạ, chớ Thầy cởi Thầy bỏ nó chỗ nào được? Cho nên đâu có ôm kè kè.

Cho nên ba y một bát là ba cái y đó chớ không phải là ba cái y cũ, y ngũ điều, y hai mươi lăm điều như Bắc Tông mà ôm kè kè một đống đó, rồi còn mặc bộ đồ, rồi còn áo tràng, rồi hậu, rồi đủ thứ đó, thì cái đó là nhà giàu chớ không phải là nhà nghèo đâu, không phải là người tu sĩ.

Để ba cái y đó đêm ngủ để ngoài đó, gần bên đó, đêm đó mà kiến hay gì vô nó đóng ổ trên đó thì thử hỏi cái ông thầy đó có giải thoát không? Ổng quá khổ vì ba con kiến với cái đống y của ổng, đi đâu cũng ôm nặng nề.

Thầy thấy mấy cô với mấy thầy sợ bỏ ba cái y không có rời, Thầy thấy đi đâu cũng mang một cái túi quá lớn, nặng nề quá tay, vậy là giải thoát cái thứ gì? Nội một cái đống vải đó cũng thấy là quá sợ rồi.

Còn ở đây Thầy chỉ mang vô trong mình Thầy là đủ ba y rồi, còn cái gì mà Thầy ôm thêm nữa? Có một cái bát không bỏ trong cái túi ở bên hông này, đi nó nhẹ nhàng, nó giải thoát, đi cũng như chim bay vậy! Đúng như vậy, không có khổ sở, không có chút nào hết.

Mà ở đây thì giới bổn nó chế như vậy, nó làm cho cái người tu sĩ chúng ta đi đâu phải kè kè một cái rương cà, chớ còn không lơ mơ thì nó rời ba y thì không có được, ngủ thì ôm một bên!

Trời, ngủ mà thí dụ như trời lạnh mà Thầy đắp ba cái y này nó còn lạnh gần chết chớ huống hồ là phải ôm thêm ba cái y để một bên nữa thì Thầy thấy thiệt là! Cái giới luật gì mà chế ra người ta không có giải thoát, mà người ta còn bận cái của cải tài sản quá nhiều đi!

Mà lỡ mất y làm sao? Thì coi như là bị phạm tội đó. Thành ra cứ ôm kè kè nó, có của thì phải sợ ăn trộm chứ sao? Ông thầy nào mà ổng thấy ba y này ổng lén đêm đó ổng hốt đi cái rồi, bắt đầu sáng mất y rồi kể như là tiêu rồi, đó là mất y là phải tiêu rồi!

(09:26) Cho nên vì vậy đó mà rất là khổ tâm cho cái người có của. Đời người ta có của người ta khổ, còn mình đi tu là giải thoát mà còn ôm ba y để làm của nữa thì Thầy thấy thiệt là quá khổ!

Vì sao Phật cho mặc chỉ ba y?

Xưa có vị Tỳ Kheo lúc tại gia giàu có, sắm y phục rất nhiều, sớm mai thay bộ này, chiều thay bộ khác, khi xuất gia cũng thế. Một hôm đi đường gặp Phật, Tỳ Kheo ấy khiêng gánh rương rất nặng nề. Phật hỏi: “Tỳ Kheo mang chi nặng thế?” Tỳ Kheo đáp: “Dạ, y phục của con!”

Phật thấy sắm y phục nhiều không tiện mới thử mặc một y ngồi giữa sân, đến khuya lạnh quá Phật mặc thêm một cái y thứ hai. Quá khuya cũng còn lạnh, Phật mặc vào cái y thứ ba nữa, ngồi tới sáng không còn lạnh.

Phật nói rằng ba y vừa rồi, nên Phật cho chế ra ba y: Ngũ điều, thất điều, cửu điều. Công dụng của ba y là y ngũ điều thường để làm việc, và y thất điều mặc để tụng kinh, lễ bái, tham thiền, niệm Phật, y cửu điều mặc để đi khất thực và thuyết pháp.

Vì công dụng của ba y có khác nhau như thế nên kệ chú của ba y cũng có ý nghĩa khác nhau. Ba y còn tiêu biểu dứt trừ tam độc, siêu thoát tam giới, vì thiểu dục tri túc mà ba y chẳng nhiều chẳng ít nên cốt để cho ấm thân hành đạo vậy mà thôi.

Ở đây Thầy thấy người ta cũng đặt ra những cái điều này để mà nói rằng Phật mặc ba y, đầu hôm thì mặc cái y nó còn lạnh quá, nửa đêm thì mặc thêm cái nữa, rồi nó cũng còn lạnh quá, mặc thêm cái y nữa rồi nó mới hết lạnh, mới ngồi mới được. Sự thật ra Thầy thấy như vậy nó cũng là những cái điều kiện nó không có phù hợp, dù bây giờ Thầy có mặc ba cái y như thế này mà trời lạnh nó cũng vẫn lạnh à!

Tại sao vậy? Tại vì chúng ta phải mặc những cái áo lạnh nó mới hết lạnh, chớ còn cái vải này nó lạnh là nó lạnh à, nó không có hết lạnh được đâu! Quý vị ở Hà Nội quý vị biết à, mặc cái vải này đi, mặc ba bốn lớp thử coi nó có còn lạnh không?

Đem áo bông kêu là áo ấm đó mặc, mà trong khi trời lạnh không độ hay hoặc ba bốn độ thì lúc bấy giờ chỉ có áo lạnh mới mặc nó mới hết lạnh. Chớ còn nếu mà mặc cái vải này mà mặc, bây giờ đổ một đống vải lên nó cũng vẫn lạnh như thường. Đâu có phải cái chuyện đó được!

(11:58) Cho nên ở đây chúng ta nghe cái lý thì nó có hợp, nhưng mà cái thực thì nó không hợp đâu. Nếu mà cỡ sức người ta mặc ba bốn áo mà nó không lạnh thì thôi người ta đi mua áo lạnh làm gì? Chỉ cần lúc mà trời lạnh lấy ba bốn cái chụp vô là được rồi! Thì cái đó là cái lý, chớ còn cái thực thì không thực đâu.

Cho nên ngày xưa người ta nghèo đó, người ta phải may cái áo, rồi người ta nhét cái bông lau ở trong đó đó, như ngài Mẫn Tử Khiên đó mà đẩy cha, cái áo bông lau nó bung ra đó, đó như vậy nó mới ấm. Chớ còn nếu mà không thì cần gì phải may áo bông lau cho ông ta, ông chỉ cần mặc ba cái áo là ông đẩy xe ông cha chạy vù vù rồi chớ gì? Nhưng mà đâu có thực như vậy được! Chúng ta phải biết trời lạnh kinh khủng lắm chớ không phải thường.

Do vì vậy đó, khi mà gặp trời lạnh thì cái bộ y áo mà chúng ta - ba cái bộ y áo chúng ta đang mặc vầy, thì khi mà trời lạnh quá vậy chúng ta chỉ cần choàng lên một cái áo lạnh là nó đã ấm được cái thân của chúng ta rồi. Cho nên những cái xứ lạnh người ta mặc áo lạnh chớ người ta đâu có mặc ba bốn cái áo một lần? Đó là chúng ta phải hiểu, và cái lý đúng.

Cho nên ở đây chỉ là người ta đặt ra, nói có lý nhưng mà cái sự thật thì nó không có lý đâu, làm cho cái ông thầy ở cái mùa nắng, mùa nực cỡ như cái xứ Việt Nam này, luôn luôn cứ ôm ba cái y không, thiếu điều nó - tới đâu, nếu mà trùm lên thì cũng thấy là mệt với nó rồi.

Mà vả lại cái xứ Ấn Độ thì chúng ta cũng biết rằng là cái xứ nóng nực chớ không phải là cái xứ mà nó lạnh lẽo như là những cái xứ như Liên Xô, hay hoặc là như ở Bắc Cực, hay hoặc là ở như Nam Cực, nó quá lạnh. Còn cái xứ Ấn Độ là cái xứ xích đạo, nó rất nóng, nó không có cái độ lạnh mà như ở các xứ lạnh đâu, cho nên ba y của Phật là nhằm vào cái xứ nóng mà lại là nó phù hợp, vậy mà nó còn có khó khăn kia.

Đó thì ở đây chúng ta thấy bàn sơ về vấn đề ba y mà cũng làm cho chúng ta rất là khó khăn ở trên cái bước đường tu hành, vì nó còn nhiều, những vật dụng còn nhiều quá.

3) GIỚI CHỨA Y VẢI QUÁ MỘT THÁNG

(14:05) 3. Giới chứa y vải quá một tháng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Do duyên khi xưa Phật ở nước Xá vệ, một Tỳ Kheo y cũ bị rách nát, trong khoảng 10 ngày không thể may y xong, sợ phạm y thừa. Bạn đồng học bạch Phật. Phật cho Tỳ Kheo chứa y dư để chờ đủ số vậy. Lúc bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo chứa nhiều thứ y vải khác, cùng một thứ mà không đủ, các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật cho kiết giới này nêu rõ pháp may y.

Khi bấy giờ Phật dạy ngài A Nan bảo các Tỳ Kheo may các y rọc cho ngay thẳng, may dáng y như là bờ mẫu ruộng, quá khứ, vị lai đệ tử của Phật đều mặc y như thế. Như ta ngày nay lấy dao cắt rọc may thành y Sa Môn, như thế là chẳng bị trộm cắp cướp giật.

Y phi thời: Nếu không thọ công đức y, sau khi Tự Tứ một tháng; nếu thọ công đức y, sau khi Tự Tứ năm tháng gọi là thời y. Quá thời hạn ấy gọi là phi thời y.

Nghĩa là cái thời hạn Đức Phật cho năm tháng, mà nếu quá cái thời hạn năm tháng thì nó là phi thời y, chúng ta phải giao cái y đó lại, không được cất giữ nữa.

4) GIỚI LẤY Y CỦA TỲ KHEO NI KHÔNG PHẢI BÀ CON

(15:29) 4. Giới lấy y của Tỳ Kheo Ni không phải bà con.

Vì sao Phật kiết giới này?

Do duyên xưa ở thành Vương Xá, khi bấy giờ có một Tỳ Kheo mặc y cũ, chằm vá, cũ rách. Liên Hoa Sắc Tỳ Kheo thấy thế rồi phát lòng từ bi thương xót, liền cởi cái y quý giá của mình đang mặc cho Tỳ Kheo ấy đổi, rồi mặc cái y rách đến yết kiến Phật.

Phật bảo: “Liên Hoa Sắc không nên làm như thế, Ta đã cho ni chứa năm y lành tốt còn y khác tùy ý mà tịnh thí cho người.” Nhân vì đó mà Phật kiết giới không cho ni lấy y của mình mà cho.

Các Tỳ Kheo sợ, dè dặt không dám cho ni bà con lấy y. Phật nói: “Cho lấy y của ni bà con. Vì sao? Nếu là bà con thì họ biết so lường có hay không, hoặc tốt hay xấu, hoặc mới hay cũ, nên lấy hay là không nên lấy.”

Theo Thầy thiết nghĩ: Cái người nữ, người ni, mà lấy cái y của người ni mà cho cái người tăng, thì dù là bà con cũng không nhận nữa. Bởi vì một cái người tu thì chúng ta - không phải chúng ta chấp, nhưng chúng ta rất sợ khi mà trao những cái vật.

Vì cái tâm chúng ta bây giờ - người tu chứng thì nó thanh tịnh thì không nói gì, nó ly dục, ly bất thiện pháp rồi, không gì, những cái người mà tu chưa chứng mà cái tâm nó sợ phải sống ở trong cái giới hạnh của Phật thì nó cô đơn lắm. Cho nên khi vật gì của nữ mà nó trao tặng cho mình coi như là cái kỷ vật khó quên, cái tâm của chúng ta nó khó quên lắm.

Cho nên từ đó với người nữ mà trao cho chúng ta, thì theo Thầy thiết nghĩ thì chúng ta đừng có nên nhận, nhận nó làm cái đầu óc của chúng ta nhớ mãi à, khó lắm!

Cho nên chúng ta biết được cái tâm của chúng ta chưa giải thoát thì chúng ta từ chối trước đi, đừng có nhận của cái người nữ, dù cái cái khăn mui xoa chúng ta cũng đừng có nhận nữa, nhận nó rồi nó thành cái kỷ vật, nó lại gây lại cái lưu niệm, nó khó lắm. Cho nên chúng ta phải làm sao cho cái tâm chúng ta nó thật trong sạch để chúng ta ly, để chúng ta xa lìa cho được.

Cho nên dù là cái người ni, Thầy thấy hầu như trong cái dịp mà Thầy về thành phố, Thầy ở chùa Giác Ngộ Thầy đi dạy học đó, bên cái giới ni họ mua từ cây bút, từ cái khăn, từ cái vật này vật kia họ đem họ biếu Thầy.

Họ làm gì? Họ khéo câu Thầy lắm, làm cho Thầy cứ thấy vật đó mà nhớ họ. Cho nên họ cũng khéo lắm chớ không phải là vụng. Vì vậy mà Thầy rất là từ chối. Mà mấy cái ông mà muốn lết lết gần với mấy người nữ thì họ cũng tìm cách này kia để trao những cái vật để mà nhớ nhau, nhớ qua nhớ lại đó. Nhớ riết rồi cái nó lôi ra hết!

(18:17) Đó là những cái họ dùng cái mồi để họ câu với nhau. Bên nữ thì họ câu bên nam, bên nam thì cũng khéo léo mua cuốn kinh này cuốn kinh kia, hoặc là có cái gì đẹp đẹp tốt tốt thì đem biếu cô đó. Cô đó cổ kiếm cái gì tốt tốt cổ biếu ông này, để rồi một mình buồn mới lấy ra, mới nhìn, nhìn thì nhớ cô! Cô ta cũng vậy. Đó là cái lối câu móc với nhau.

Cho nên ở đây, một người tu mà chân thật thì chúng ta tránh cái này đi. Mấy cô tặng biếu cái gì? Tôi chỉ có cái vật gì mà hoàn toàn là thanh tịnh, trong sạch, không có một cái hình ảnh lưu niệm đó thì như vậy là tôi chấp nhận nhận, chớ còn có cái hình ảnh lưu niệm của mấy cô tui sợ lắm! Nó cứ nó nhắc tui nhớ hoài mấy cô đó chắc tui ngồi chắc tui cũng chết! Ngồi thiền gì mà tui cứ thấy cái miệng cô cười hoài, chắc tiêu!

Đó, đó là cái tai họa, nó không phải là đơn giản được. Ngồi yên tịnh thì cái món vật của cô, cái khăn mui xoa cô nó hiện lên cái đầu tui rồi. Mà cái khăn mui xoa cô nó hiện lên rồi thì cái mặt cô nó không trật ở trong cái đầu của tui! Cho nên nguy hiểm!

Vì vậy mà một cái người tu chúng ta đừng có nhận cái đồ gì của mấy cô ni, mà cũng đừng có nhận mấy cái đồ của mấy người nữ. Cái đồ người nam thì mình có thể nhận được, mà cái đồ người nữ thôi thôi!

Mấy người cư sĩ nam biếu thì mình có thể nhận được, nhưng mà nhận vừa đủ thôi, nhận dư họ cũng khi mình nữa, họ nói mình tham. Coi vậy chớ họ cũng khéo lắm chớ, bữa nay họ cho mình cái đó, ngày mai họ cho thêm cái nữa họ nói mình tham rồi á! Mình khéo léo mình từ chối.

Cũng như bữa nay người ta cúng dường mình trăm đồng, ngày mai họ cúng dường trăm đồng nữa, coi chừng! Họ nói ông thầy này tham, mới cúng dường ổng một trăm nay ổng lấy một trăm nữa.

Cho nên mình là người tu mình phải khéo, chớ còn mình không khéo thì không được. Họ làm bộ, cái người cư sĩ họ khéo léo lắm. Thầy nói thật sự, đọc tới những cái giới mà giới đặt ra cho đúng cách để mà chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp không phải những cái giới mà viết ra đây đâu.

Thật sự ra, nếu mà đặt ra cái giới để mà chúng ta thấy là cái pháp để giải thoát thì nó phải là những cái giới như thế nào, chớ không phải là như cái giới bổn mà của các giới sư, các luật sư mà viết ra để mà chúng ta học bây giờ đó, thì đọc qua trong kinh giới, trong kinh thì chúng ta thấy giới Phật rất hay, nhưng mà đọc qua tới giới bổn thì chúng ta thấy nhiều cái nó không có hay.

Do vì vậy mà viết lại cái giới bổn để nó trở thành cái pháp để chúng ta giải thoát thì nó phải viết như thế nào cho hợp. Cho nên từ những cái mà để cho tâm chúng ta đắm nhiễm nó thì chúng ta phải viết như thế nào.

Do vì vậy mà cái người soạn giới mà đã hiểu được được giới là thầy của chúng ta, thì cái giới bổn là cái hạnh của một người tu thì chúng ta phải soạn cho nó đúng cái hạnh thì cái giới nó rất là tuyệt diệu. Còn soạn mà nó không đúng thì dường như là chúng ta lấy vải thưa mà che mắt thánh, để che nó để làm cho mình như là người giữ gìn giới, nhưng sự thật nó tan nát ở trong đó hết rồi.

Cho nên ở đây lấy cái giới mà viết rằng cho Đức Phật chế giới, bảo là ni bà con cho thì cứ lấy, trời! Đâu có phải chuyện dễ đâu! Bà con xa - bà con gần thì không nói gì, bà con xa nó nhớ hoài nó đâu có quên! Cái chuyện đó cũng không phải dễ đâu, nó khó lắm chớ không phải dễ đâu.

5) GIỚI KHIẾN TỲ KHEO NI KHÔNG PHẢI LÀ BÀ CON GIẶT, NHUỘM Y

(21:20) 5. Giới khiến Tỳ Kheo Ni không phải là bà con giặt, nhuộm y.

Tại sao Phật kiết giới này?

Duyên xưa Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Độc, khi bấy giờ ông Ca Lưu Đà Di cùng với cô Thâu Lan Nan Đà Tỳ Kheo Ni ngồi ngang nhau tạo cảnh bất tịnh. Sau đó Phật nghe được điều này mới kiết giới không cho ni giặt y áo của Tỳ Kheo.

Nghĩa là khi mà nghe cái sự mà cái người Tỳ Kheo với Tỳ Kheo Ni, hai người ngồi gần nhau rồi trao y áo cho nhau, mà giặt cho nhau, thì Đức Phật thấy cái điều này là bất ổn cho nên mới đặt cái giới này ra, cấm không được mà Tỳ Kheo ni giặt y áo cho tăng, mà cũng như là không được tăng mà giặt y áo cho Tỳ Kheo Ni. Đây là cái sự ngăn cấm đúng cách đó. Bởi cái này nó không có đúng cái tư cách của một cái người tu sĩ.

Đây là sự ngăn ngừa, không phải là ngăn ngừa sự chê bai, mà ở đây - ở trong kinh giới này thì nói đây là ngăn ngừa sự chê bai, nên khai cho ni bà con giặt được y, còn những người ni khác thì không có cho được giặt y. Thì Thầy thấy cái vấn đề này, trong cái kinh giới mà dạy như vậy Thầy thấy nó không hay chút nào hết à.

Là tại sao? Tại vì chúng ta phải hiểu là cái sự chăm sóc, giặt y áo, mà một cái người ni như…​ (Mất tiếng)

6) GIỚI THEO NGƯỜI CƯ SĨ KHÔNG PHẢI BÀ CON MÀ XIN Y

(22:59) Trong cái chương trình học về cái giới bổn mà hồi sáng Thầy đã giảng, bây giờ thì chúng ta học tới:

6. Giới theo người cư sĩ không phải bà con mà xin y.

Vì sao mà Phật kiết giới này?

Duyên do khi bấy giờ Phật ở nước Xá Vệ, ông Bạt Nan Đà Thích Tử gượng cầu đòi cái áo bạch điệp quý giá của trưởng giả, người thế tục chê hiềm, nhân thế mà Phật kiết giới này. Các Tỳ Kheo dè dặt, không dám theo cư sĩ bà con cầu xin. Phật nói rằng cho theo cư sĩ bà con xin y được.

Phật chế cái giới mà không cấm cái người không phải bà con thì không có được xin những cái áo như áo lạnh, áo đẹp, áo tốt, còn mình có bà con cư sĩ ruột thì mình xin được những cái áo tốt được. Nhưng cái sự thật ra, chế giới như vậy - Đức Phật mà chế giới như vậy Thầy thấy nó không có đúng cách. Đây là cái người sau chế giới. Tại sao?

Các con cứ nghĩ cái giới của Phật là cái pháp để chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp, mà còn xin áo đẹp, áo bạch điệp là cái áo đẹp, áo đẹp nhất mà cái người tu sĩ còn muốn mặc cái áo đẹp làm sao, các con nghĩ coi? Thì làm sao gọi là ly dục, ly bất thiện pháp? Mà giới luật chế như vầy, viết như vầy bằng giấy trắng mực đen như thế này làm sao xóa được, mà nói là Phật chế thì Thầy không tin được.

Bởi vì vốn giới luật của Phật, pháp của Phật nhằm giúp chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp để chúng ta sống thoát ra khỏi cảnh thế tục, sống thoát ra khỏi cảnh trầm luân của cái thế gian, thế mà cái giới luật của Phật cho chúng ta có bà con ruột thịt giàu có thì xin áo đẹp được!

Mà vị tu sĩ - bây giờ tất cả những tu sĩ chúng ta đều nghèo hết đi, có một vị tu sĩ nhà giàu đi, có cha mẹ giàu đi, họ xin cái áo bông, áo ấm đi, mặc quá đẹp, thì chúng ta nghĩ như thế nào?

(25:05) Phải không? Các con thấy. Cái giới luật mà chế như vậy thì chỉ có các tổ sau này chế thôi chớ còn Phật đâu có chế kỳ vậy!

Sống cái đời sống của Phật các con thấy cái lục hòa không? Thân hoà đồng trụ, nghĩa là cái thân của người này cũng như người kia đều sống hòa hợp nhau, mặc thì mặc y phấn tảo hay hoặc là có thì cao sang hơn một chút là không có những cái giẻ thây ma thì mặc những cái y thô xấu, chớ đâu lý mà đòi hỏi cái áo bạch điệp, là cái thứ hàng vải lúc bấy giờ cái thứ đó là tốt nhất ở trong cái thời đại của Đức Phật đó.

Mà cái ông Bạt Nan Đà Thích Tử này, cái ông Tỳ Kheo này ông đòi cái áo đó cho được, cái vị trưởng giả này là cái người xa lạ cho nên vị trưởng giả này mới chê cười, đến tai Phật, Phật mới cấm không có cho xin cái người (không) thân, mà hãy xin cái áo đẹp tốt là xin cái người thân của mình, cái người cư sĩ mà người thân, thì như vậy Phật không có chế cái giới cấm là xin cái người lạ mà cho xin cái người thân, như vậy thì không có đúng cái pháp của Phật đâu.

Cho nên đọc những cái câu chuyện như vậy, mà Phật chế giới như vậy, Thầy thấy ông Phật ổng chế giới mà theo cái kiểu này thì Thầy biết rằng tổ chế giới chớ không phải Phật chế giới.

Mục đích của giới luật của Phật là thầy của chúng ta, là cái ông thầy phải thanh tịnh, giới luật phải thanh tịnh, tức là ông thầy phải ly dục, ly bất thiện pháp rồi, mà ly dục, ly bất thiện pháp làm sao ông thầy còn đi xin bà con ruột của mình để kiếm cái áo lạnh hay cái áo đẹp mặc, hay hoặc cái y cho đẹp?

Cũng như bây giờ cái hàng vải này là hàng vải nội, người ta dệt nó thô, mình cái người tu sĩ có bà con giàu có thì xin cho cái hàng vải ở ngoại nhập vào cho nó láng, nó mượt, nó đẹp, còn cái ở đây thô mặc xấu quá. Mà vị tu sĩ mà còn cái xấu cái tốt như vậy thì thử hỏi làm sao ly dục, ly bất thiện pháp? Cho nên cái giới luật chế ra là Thầy đã thấy sai cái ý của Phật rồi, thì đâu có thể nào nói giới này là của Phật được!

(27:03) Cho nên ở đây cái này là phải cấm luôn, không có xin người cư sĩ xa mà cũng không xin người cư sĩ thân thuộc của mình được, là vì tu sĩ là phải mặc y áo là thô xấu, không có được mặc đồ tốt, vì chúng ta còn trang điểm chỗ nào nữa mà tốt mà mặc, mà đòi cái tốt cái xấu? Đó là những cái sai.

Khi đó các Tỳ Kheo an cư kiết hạ xong đến bái yết kiến Phật, sợ ban ngày nóng, để ban đêm đi, lạc đường bị giặc cướp giật y, vẫn để trần hình đến chùa. Tại sao để trần hình mà đi? Vì Phật chế giới là không được dám xin y.

Nghĩa là bị ăn cướp lấy hết y rồi, bây giờ không dám vô trong xóm xin ai hết, bởi vì cấm không có cho xin y, cho nên mấy ông này bị ăn cướp nó lột hết áo y hết rồi, bây giờ chỉ còn mặc cái quần đùi đi về chùa, thì hỏi tại sao lại để ở trần ở truồng như vậy mà đi? Thì nói Phật chế giới, không dám xin ai hết, bây giờ đi vậy!

Đó là những cái mà Thầy nói thiệt là nó nhiều cái trường hợp xảy ra.

Vì tương lai Tỳ Kheo cũng có cái nạn này nên muốn làm nhân duyên để Phật khai thông.

Khai thông tức là chế lại cái giới đó, giới mà xin y đó.

Phật dạy: Trần hình mà đi phạm tội Ác Tác, nên lấy cỏ mềm hay lá cây mà che thân hình đi đến chùa, nếu trước có y thừa thì nên lấy y mà mặc, hoặc lấy vật mà che thân hình. Cầu xin…​

Ở đây cái chế giới này, cái chỗ mà nói y thừa, đã không cho mình hai cái bộ y, làm sao y thừa được? Ba y vừa đủ bộ đồ như vậy làm sao có y thừa? Mà bây giờ ăn cướp nó lột hết rồi, bây giờ làm sao mà gọi là còn y thừa mà che thân? Thì đâu có lý do mà nói như vậy được! Ông Phật gì mâu thuẫn cái miệng quá vậy? Ở đây có mấy ông tổ à, chớ thật sự ông Phật không có nhiều cái chuyện vậy đâu.

Đó, tất cả những cái này mà chế ra Thầy đọc, Thầy thấy, bởi mà khi mà Thầy soạn ra cái giáo án, Thầy mà viết, Thầy đọc lại Thầy viết chắc là Thầy phải sửa hết, sửa hết tất cả các giới hết chớ Thầy không có để như vầy được. Để như vầy là phỉ báng Phật rồi đó, viết như vầy là phỉ báng Phật đó!

Mà tại sao họ viết như vầy mà họ không biết rằng ông Phật là cái người như vậy mà đi chế giới như vậy sao mà viết y chang như vậy à! Mấy ông tổ cũng là những cái người thiệt là vô minh, viết làm sao cũng để vậy chớ không thấy cái đúng cái sai hết. Ông Phật thì viết cái giới luật như thế nào? Là thầy của các vị Tỳ Kheo thì phải thông minh chứ, viết gì mà không có thông minh gì hết.

Đó, đó là những cái…​ Bây giờ đó, mình có y áo này mà ăn cướp nó lấy hết rồi, thì bây giờ mình muốn đi thì mình thì mình phải - thiếu gì, vô trong rừng bẻ lá cây cái mình - nhất là cái lá mật cật đồ đó, thì mình cột một chùm đây cái mình che lên, mình ở trên này mình làm một cái nùi mình cột vô cổ vầy, mình che lên đi vầy, đi cũng như một cái ông mang cái áo tời mà đi trời mưa vậy đó. Đâu có làm sao, người ta thấy cũng như cái bó cây vậy chớ có gì, chớ đâu có điên gì mà đi trần truồng!

Nó dễ, cái chuyện mà vô rừng lá cây thiếu gì, cột một chùm mà mang đi thì rất là tốt có gì đâu. Bây giờ mình có áo, có quần chớ còn ngày xưa người ta đâu có áo quần đó, thì người ta cũng lấy vỏ cây, lấy này kia người ta kết lại người ta cũng làm, người ta cũng mặc được như thường.

(30:19) Khi bấy giờ có Tỳ Kheo bị cướp y, y bị lửa cháy, y bị nước trôi, sợ dè dặt không dám theo cư sĩ không phải bà con mà xin y, Phật nói cho theo cư sĩ không phải bà con xin y. Do duyên đó mà Phật chế giới lại.

Nghĩa là hồi chế giới thì không có cho xin cư sĩ không bà con, rồi sau đó thì cho xin bà con y, rồi bây giờ chế lại thì cho xin y những cư sĩ không phải bà con, thì Thầy thấy nhiều khi chế một cái giới mà Phật chế qua chế lại như vậy mà nó không có đúng cái lý nữa.

Bắt đầu bây giờ nếu mà Thầy chế giới thì Thầy phải biết cái giới đó nó xảy ra cái gì, cái gì trước hết, Bây giờ chế cái giới là không xin y, khi mình có cái y mặc này mà lỡ cái trường hợp bị nước trôi, bị lửa cháy, bị trộm cắp lấy, thì lúc bấy giờ đó chúng ta trở về chùa, thì ban đầu chúng ta vào rừng kiếm lá cây chúng ta làm cho kín thân, rồi chúng ta đi về chùa, rồi từ ở chùa đó thì các vị Tỳ Kheo người ta tìm cách người ta giúp cho mình y áo, chớ không cần phải vô nhà cư sĩ xin đâu.

Ở trong chùa đó người ta có thể, bây giờ cái vị đó về tu viện rồi, rồi bắt đầu cái vị đó ở đó đi: “Bây giờ huynh đệ với nhau, bây giờ tôi có ba cái y này, bây giờ tôi mặc cái y hạ y trung này, tôi biếu cho thầy cái y thượng này.”

Bây giờ đó, trong cái dịp mà Phật tử người ta đến chùa, thì cái vị lãnh chúng ở trong chùa lớn đó thì người ta mới xin Phật tử: “Bây giờ ở trong tu viện có một vị đó bị lửa cháy y hết, hoặc là bị trộm cướp lấy hết y rồi, xin Phật tử cúng dường cho họ một bộ y!”

Thì lẽ đương nhiên là người ta cúng chớ đâu phải đợi cái vị tu sĩ đó đi từng nhà vô xin người ta, ở truồng ở trần đi vô nhà xin người ta còn sợ nữa, cái chuyện đó là cấm. Như vậy là cái giới luật cấm ra, đưa ra là hoàn toàn rất tốt.

Bây giờ y áo không có thì vị tu sĩ đó trở về tịnh xá của mình, trở về tu viện của mình, thì ở đó người ta giải quyết cho mình y áo. Mình có chỗ có nơi chớ đâu phải, mình có thầy có bạn chớ đâu phải là không thầy không bạn sao mà y áo mất rồi cứ vô nhà cư sĩ người ta xin? Cái chuyện đó là mình làm tầm bậy. Chỉ có mình đi khất thực mình xin là mình đi từng nhà mình xin đó là phải, còn y áo là cái vấn đề đó là ở tu viện có người.

Bây giờ các con đói Thầy xin gạo người ta cũng cho, phải không? Bây giờ các con không có áo quần nè, bây giờ rách mục hết nè, Thầy xin người ta cho liền à, không ai bỏ các con hết. Chớ đâu là cần phải các con đi ra xin từng người đâu, các con hiểu điều đó.

Thí dụ như bây giờ Phật tử đến, các con y áo đến, các con ra các con xin người ta cười Thầy nữa chớ đâu phải là - người ta cười chung hết chớ đâu phải là cười riêng nội con không.

Cho nên cái giới luật cấm tu sĩ không có được xin y áo của cư sĩ, trừ ra trong tu viện cái người đại diện cho tu sĩ đó, người ta đứng ra người ta xin khi tu sĩ ở đó không có, rách hết, người ta xin cho. Đó là cái giới luật rất đúng, nghiêm chỉnh, là làm cho người tu sĩ không có hai ba bộ.

Còn nếu mà mình tự xin đó, nhiều khi mình xin mình đút cả đống đó chớ đừng nói, thấy mấy người nhà giàu cứ lại nói: “Bây giờ y áo tui bây giờ cũ rách rồi, cái y này xấu quá, thô quá” hay hoặc là “nay nó bị kiến đồ nó đùn ở trỏng, ẩm rồi bận ngứa này kia, mặc ngứa, thôi xin cho cái khác!” Mình kiếm cớ đủ cách mình xin người ta được hết. Do đó cấm cái giới này thì cấm như vậy là đúng.

7) GIỚI QUÁ THỌ Y

(33:40) Giới thứ bảy:

7. Giới quá thọ y.

Vì sao Phật kiết giới này?

Duyên vì khi Phật ở nước Xá Vệ, có nhiều Tỳ Kheo gặp giặc, mất y…​

Kêu là giặc giã đến á.

…​ đến Kỳ Hoàn Tịnh Xá. Có cư sĩ nghe Tỳ Kheo mất y, mang nhiều y tốt đến cúng, tùy ý mà lấy, các Tỳ Kheo đáp rằng: “Chúng tôi tự có ba y, không muốn nữa”.

Lục Quần Tỳ Kheo bảo các Tỳ Kheo rằng: “Sao chẳng lấy cho chúng tôi hoặc để cho người khác?” Các thầy Tỳ Kheo liền lấy cho Lục Quần Tỳ Kheo.

Lục Quần Tỳ Kheo là sáu cái vị Tỳ Kheo, sáu cái vị này là phá giới, phá luật trong cái thời Đức Phật gọi là Lục Quần Tỳ Kheo đó.

Khi bấy giờ các Tỳ Kheo thiểu dục hiềm trách, bạch Phật. Phật họp tăng lại và kiết giới này.

Khi mà Lục Quần Tỳ Kheo nghe cái tin mà các vị Tỳ Kheo bị giặc giã đến cướp, lấy quần áo hết, y áo hết, cho nên các vị cư sĩ họ đem y áo đến họ cúng dường rất nhiều, thì mấy vị Tỳ Kheo mà người ta thiểu dục tri túc thì người ta vừa lấy đủ một bộ người ta mặc thôi, người ta không xin nhiều.

Trái lại thì cái Lục Quần Tỳ Kheo nói: “Các ông sao không lấy cho nhiều, nếu mà các ông mặc không hết thì mấy ông cứ cho tụi tui, tụi tui cất rồi sau mấy ông không có thì tui cho lại!”

Nói vậy nghe cũng ngọt lắm, cho nên mấy ông này cũng lấy, lấy rồi nhưng mà thấy cái hạnh thiểu dục tri túc như vậy nó không đúng, cho nên các ông này mới trình với Phật, Phật mới cấm giới cái giới là không có cho mình thọ quá nhiều y như vậy, chỉ ba y một bát mà thôi. Đó là Phật cấm, cấm cái này là đúng, không có sai.

8) GIỚI CẦU THÊM TIỀN MAY Y TỐT

(35:22) Thứ tám:

8. Giới cầu thêm tiền may y tốt.

Vì sao Phật kiết giới này?

Duyên xưa Phật ở nước Xá Vệ, có Bạt Nan Đà Thích Tử nghe có vợ chồng đàn việt sắm tiền mua y cúng cho Bạt Nan Đà, ông biết việc ấy bèn đến nhà đòi y mới đó phải tốt, phải chắc.

Có một cái người cư sĩ đó họ định sắm cho cái vị Tỳ Kheo đó tức là ông Bạt Nan Đà đó, họ sắm cho cái bộ y áo. Thì ông này biết rằng cái ông bà cư sĩ này muốn sắm cho mình, nhưng mà sợ ông mua vải xấu đi, không có mua vải nhập đi, rồi mua vải trong nước nó xấu đi, ông ta đến ông nói:

“Ông bà nên mua tui vải thứ của Mỹ đồ, của Pháp đồ nó nó mới tốt, xoa xít xoa pháp gì cho nó chớ còn mua ở trong Việt Nam mà nó dệt ở Việt Nam thì nó xấu lắm, mua đồ hàng ngoại thì nó mới tốt!”

Do đó cái ông này ổng đến ổng nói như vậy, và may phải là loại chỉ này chỉ kia đồ chớ còn cái thứ chỉ Việt Nam nó dồn cục, nó may coi xấu lắm! Ông bàn với cái vị cư sĩ đó.

Cho nên vị cư sĩ đó đó, mới đến mới thưa lại với Phật: “Tôi thì có cái ý muốn cúng dường cho ổng, nhưng mà ổng sao ổng đòi hỏi nhiều quá, ổng đòi hỏi thứ gì đâu không à! Tụi tui thì tiền ít, mà làm sao ổng đòi hỏi thứ đắt tiền quá làm sao mà tui cúng dường cho ổng được?” Do như vậy đó mà Phật được nghe cái điều đó mà Phật mới kiết cái giới.

Tỳ Kheo Ni phạm giới, Phật nhân đó mà kiết giới này.

Khi ấy có cư sĩ yêu cầu Tỳ Kheo tùy ý mà hỏi: “Đại đức cần y thế nào?”

Có cái người cư sĩ người ta muốn cúng dường cho cái vị Tỳ Kheo đó thì người ta hỏi cái ông thầy đó: “Thầy muốn cái loại vải nào, muốn may cái y cỡ nào, thầy nói tui sẽ may tui cúng dường thầy!” Thì có cái người như vậy.

(37:14) Lại có cư sĩ muốn vì Tỳ Kheo may một cái y có giá trị quý giá để cúng cho vị ấy. Vị ấy là Tỳ Kheo tri túc, muốn được cái y không quý giá, cũng nghi sợ phạm giới nên không dám nói theo ý muốn tri túc của mình.

Phật dạy: Nếu có thỉnh tùy ý thì cho phép nói.

Nghĩa là người tu sĩ mà tri túc thiểu dục đó, thì khi mà cái người tu sĩ nói: “Thầy muốn cái loại y nào đó thầy nói thì con sẽ mua sắm rồi con may cho thầy”, thì cái vị đó thiểu dục tri túc thì vị đó không có dám nói: “Thôi tùy hỷ, cư sĩ muốn sắm làm sao thì tui mặc vậy”, thì do đó cái vị đó nói với cư sĩ như vậy.

Nhưng mà Phật lại chế trở lại, là khi mà có sự cầu thỉnh như vậy thì mình phải nói cái ý của mình ra để cho người ta cúng dường cho đúng với cái ý của mình.

Mà sự thật ra theo Thầy thiết nghĩ, cái người tu sĩ mà khi cái người cư sĩ họ có gợi ý họ nói như vậy, thì mình cũng chẳng có cái ý kiến gì ở trên cái ăn mặc này hết mới đúng là cái hạnh thiểu dục tri túc, còn mình nói theo cái ý của mình muốn thì coi chừng nó không thiểu dục tri túc nữa đâu.

Và vì vậy những cái giới luật mà chế, mà nói tới nói lui như thế này Thầy thấy nó không đúng. Bởi vì cái giới như vậy nó đâu có gì mà khó mà lại phải chế mà nói tới nói lui?

Do đó Phật cấm, nghĩa là một vị tu sĩ là luôn luôn phải thiểu dục tri túc, khi cái người cư sĩ mà người ta có lòng cúng dường cho mình thì mình chỉ nói: “Tùy hỷ, cư sĩ muốn cúng như thế nào thì tui nhận lãnh như thế nấy”. Đó như vậy thôi.

“Nhưng tôi cũng khuyên cư sĩ rằng một người tu sĩ như chúng tôi là không có làm gì lợi ích, chúng tôi chỉ tu giải thoát làm gương hạnh cho quý vị mà thôi, cho nên quý vị phải sắm mặc cho chúng tôi ba y như thế nào, thô xấu như thế nào để xứng là một cái vị tu Phạm hạnh, chớ đừng có sắm những cái đồ tốt. Vì chúng tôi là những người tu sĩ không có trang điểm, không có ăn mặc cái thứ tốt được, cho nên các vị cư sĩ hãy thông cảm mà hiểu chúng tôi, chúng tôi không đòi hỏi chỗ tốt!”

(39:12) Còn cái này người ta sắm xấu là mình chê rồi à, thì cái điều đó là chưa có hẳn là ly dục ly ác pháp. Cho nên khi đó, mặc dù là người ta cầu thỉnh cái ý của mình, nhưng mình vẫn đưa cái ý của mình là ý thiểu dục tri túc mới đúng là cái hạnh của người tu. Đó thì như vậy mới đúng.

Thì như vậy là Phật chế cái giới này như vậy đâu có chế tới chế lui chi, một lần một đủ rồi. Vì cái giới nó thuộc về cái pháp để làm cho chúng ta có cái hàng rào để mà chúng ta ly dục ly ác pháp, cái tâm chúng ta không có khởi ham muốn được, cho nên vì vậy mà chúng ta mới sống cái đời sống Phạm hạnh, mới giải thoát được. Còn chế tới lui như vầy, thêm bớt, thêm bớt như thế này là các tổ thêm bớt để chạy theo cái tâm dục của chúng ta chớ không phải gì hết.

Nghĩa là bây giờ khi mà cái người đó người ta cúng mình, mà mình đến mình đòi hỏi này kia thì Đức Phật chế giới cấm, không có được đòi hỏi. Bây giờ người cư sĩ họ yêu cầu mình có những ý kiến, vậy mà Đức Phật cũng cho rằng mình phải có ý kiến cho người ta nữa, thì như vậy là mình cũng chạy theo dục rồi, như vậy ông Phật chế giới này để làm gì?

Cầu mà được đều là phạm Xả Đọa, cầu mà không được thì mắc tội Ác Tác.

Luật Ngũ Phần nói: Đến nơi thân quyến đòi y đẹp, phạm tội Ác Tác. Luật Căn Bản nói: Nếu chỉ xin một miếng vải thôi mà người khác cho là đại y thì không phạm.

Nghĩa là tội Xả Đọa, xả thì là mình buông ra, giao lại cho Tăng đoàn vì nó dư, nó thừa. Khi mà bỏ cái của đó giao lại cho người khác rồi thì bắt đầu phải đối diện với cái vị Thượng tọa hay hoặc là cái vị Đại đức lớn có cái hạ lạp cao, mình đến đó mình phát lồ, rồi mình xin sám hối.

Cho nên cái mà xin phát lồ, sám hối đó là phạm vào tội Ác Tác, cho nên mình phải sám hối, rồi từng đó về sau mình chừa bỏ, không có phạm nữa. Còn xả là phải bỏ vật đó ra, mình có một y thì thôi mà hai cái y là phải giao trở lại gọi là xả, phạm cái tội đó gọi là Xả Đọa.

9) GIỚI KHUYÊN HỢP GIÁ TIỀN MUA Y

(41:21) 9. Giới khuyên hợp giá tiền mua y.

Vì sao Phật kiết giới này?

Duyên xưa Phật ở nước Xá Vệ, Bạt Nan Đà nghe vợ chồng hai cư sĩ cùng nghĩ bàn để dành tiền mua sắm y cúng dường cho ông. Bạt Nan Đà liền đích thân đến nhà hai cư sĩ đó, bảo hợp tiền lại để may được cái y cho rộng, và y cho thật tốt. Phật nhân đó mà kiết giới.

Nghĩa là cái ông Bạt Nan Đà này ổng được nghe hai người cư sĩ nói: “Bây giờ mình thì ít tiền, nhưng mình hợp tiền nhau lại, mình mua sắm để cúng dường ông một bộ y cho nó đẹp.”

Thì ông nghe được vậy thì ông đến ông bàn với hai vị cư sĩ này: “Mấy ông hợp tiền lại, mấy ông hãy mua, may cho tui cái y cho nó rộng ra, chớ đừng có y hẹp quá tui mặc nó nực lắm, nó chật lắm. Và phải may cho tốt nữa cà, may cho khéo cà, chớ đừng có may cái đường to quá vầy tui mặc đi ra người ta coi nó xấu. Cho nên nó phải tinh xảo, nghĩa là may cho khéo léo!”

Do đó thì ông đề nghị với mấy người cư sĩ đó. Nhân cái điều này Đức Phật được nghe, cho nên Đức Phật kiết giới.

Cái người mà phạm như vậy thì nó phạm vào cái giới Ác Tác, phải sám hối, và cái y đó phải xả ra. Thì phạm vào cái tội Xả Đọa cho nên vừa phải phát lồ sám hối mà còn phải bỏ cái y đó, không được mặc cái y đó. Đó là giới thứ 9.

10) GIỚI ĐÒI Y QUÁ 6 LẦN

(42:48) Giới thứ 10:

10. Giới đòi y quá 6 lần.

Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa khi Phật ở nước Xá Vệ, bấy giờ trong thành La Duyệt có một đại thần sai sứ đem tiền may y đến cho Bạt Nan Đà.

Sao mà cái ông này có duyên cứ may cho ổng không vầy nè? Hay là không có cái tên nào mà cứ lấy cái tên này đặt ra cho nó nhiều, chớ không lẽ cứ có một ông? Mấy ông đặt giới này mà, đâu có biết tên đâu mà đặt nữa, cứ lấy cái ông này ra mà lôi tới lôi lui đây. Thầy nói là rõ ràng là mình đặt rồi bắt đầu bây giờ không có ai rồi cứ cái ông này lôi à!

Ông liền cùng với người sứ vào trong thành, đem tiền may y gửi cho một trưởng giả quen thân cất. Thời gian khác đại thần hỏi người sứ: “Trước tôi đây sai tiền đến cho ông Bạt Nan Đà sắm y, nay Tỳ Kheo ấy có mặc y đó không?” Sứ giả thưa: “Không thấy mặc.”

Đại thần bèn sai sứ đòi tiền may y lại. Bạt Nan Đà liền gấp gáp đến trưởng giả đòi may y, đến nỗi trưởng giả không đi vào hội nghị được, cho nên vị trưởng giả này bị phạt 500 tiền. Các cư sĩ biết việc ấy nên chê hiềm. Đức Phật nhân đó mà kiết giới này.

Nghĩa là cái ông này, ổng được nhà vua cho một cái số tiền để may y, một vị đại thần đó đem số tiền đó giao cho ông, thì ông đem đến một vị trưởng giả thân của ông cất giữ nó đi. Bây giờ ông còn y: “Khoan để dành đã, lúc nào y tui rách hãy may, ông cất nó đi1”

Bởi vì Phật chế giới tu sĩ không cất giữ tiền bạc, ông đem lại cho ông trưởng giả này cất, ai dè ông trưởng giả này thì ổng cũng tưởng là nó không có chuyện gì, không ngờ là cái ông quan đại thần sứ giả kia lâu quá mà không thấy cái ông này đi tới đi lui, mà không thấy ông mặc cái y mới nào hết, cũng còn cái y cũ, mới hỏi: “Tiền tui cúng dường ông đâu mà sao giờ ông không có mặc cái y mới?”

Do vì vậy đó mà ông đến, ông thúc hối vị trưởng giả này, nhưng không ngờ ông này ổng lại lấy cái số tiền ổng chơi hụi rồi, thì bây giờ lấy đâu mà trả? Do đó nó lòi ra cái thì ông này bị phạt là 500 tiền. Trời! Oan uổng cho ổng hết sức!

(45:05) Đó thì cái thầy thấy, trong cái vấn đề mà chế giới một cách thiệt là - Thầy nói nó lạ lùng vô cùng, cái cách thức lạ lùng mà người ta đọc cái kinh giới này người ta mắc tức cười!

Cho cái vị cứ một cái ông - thứ nhất là cái tên đó lôi tới lôi lui, mà đặt ra cái chuyện nói cho có lý, rồi cái đặt giới rồi sửa đi sửa lại, nó không có hợp lý, một ông Phật mà cái trí tuệ nó không có như vậy thì làm sao mà chế giới được, mà làm sao chết đi mà di chúc là giới là thầy của những người sau!

Các con thấy nó nhiều cái nó vô lý, nhưng mà chúng ta biết nói làm sao, khi các bậc tôn túc của chúng ta, những người đi trước đã làm những cái sự lệch lạc, bây giờ chúng ta chỉ còn biết cố gắng sửa lại từng chút để cho nó đúng cái giới luật của Phật, để chúng ta có cái đường đi, chúng ta tu tập cho đến nơi đến chốn, chớ bây giờ biết trách ai bây giờ?

“Tôi không được phép nhận tiền may y này, đây là pháp của Tỳ Kheo không được chứa tiền bạc, của báu. Hợp thời thanh tịnh tôi sẽ nhận, mà không hợp thời thì tôi không nhận.”

Tức là khi Tỳ Kheo cần y đúng lúc, hay lúc Phật cho phép Tỳ Kheo được chứa, nhận và may thành y vậy.

Thật sự ra nói Đức Phật cho chứa, nhận để mà may thành y thì chắc chắn là ông Phật không bao giờ mà ổng cho Tỳ Kheo chứa, nhận đâu.

Nghĩa là bây giờ mà thí dụ như Thầy tổ chức các con là một cái Tăng đoàn của Thầy đi, Thầy lãnh đạo các con để mà hướng dẫn các con tu hành đi. Mọi người đều có y áo, bây giờ trong chúng các con có một người rách, Thầy phải có bổn phận là Thầy xin cho các con thôi chớ các con khỏi cần phải đi xin, nó lộn xộn lắm, kẻ xin vầy xin khác, tâm các con còn yếu, khi đó nó sẽ bị đắm chìm ở trong cái đẹp cái xấu rồi. Còn Thầy xin, Thầy cho các con cái nào các con mặc cái nấy, nó làm cho các con ly dục ly ác pháp được.

Đó là cái cuộc sống của một cái đại gia đình có một cái người cha lo lắng các con, mà các con là những người hiếu thảo, những người biết tu thì luôn luôn lúc nào cũng lo tu để ly dục ly ác pháp, chỉ miễn làm sao có cái vải hay hoặc có ăn để mà đủ sống, để mà đủ mặc ấm thân mà thôi chớ không cần đẹp nữa, chỉ có mục đích chúng ta làm sao để giải thoát mà thôi, thì không lẽ nào mà còn đi đòi hỏi y này y kia để mà chế giới luật như thế này?

Cho nên 13 cái năm đầu là không chế giới luật, rồi kế sau đó từ 14 năm, 15 năm trở về sau thì Phật chế giới luật, giới này đến giới khác. Thì Thầy nghĩ rằng nếu mà trong con đường tu hành của đạo Phật đã 13 năm không chế giới, thì 13 năm đó và kế tiếp sau thì những gương hạnh của những bậc mà tu trước đều là những gương hạnh thanh tịnh, không phạm giới, thì những người sau mà theo tu đó, thứ nhất là lấy gương hạnh Phật, thứ hai là chúng tăng, thì tất cả những người sau làm sao mà phạm giới được?

(47:52) Chỉ có những cái không phạm giới này thì từ đó những cái pháp mà của Phật mà chúng ta đang tu tập nó đều là cái giới chớ còn cái gì nữa. Do cái giới đó mà chúng ta ly dục, chúng ta mới sống được 13 năm thanh tịnh, tất cả những người theo Phật đều được thanh tịnh, đó là cái giới chớ còn cái gì?

Mặc dù là lúc bấy giờ không có chế ra cái giới bổn, không có phải điều 1, điều 2, điều 3, điều 4 nhưng mà trong kinh giới có Sơ Thiện, Hậu Thiện, Trung Thiện, thì như vậy nó rõ ràng là có giới chớ đâu phải không, mà giới đó nó không phải giới bổn bắt người ta khô khan, mà người tu sĩ phải hiểu cái này là cái pháp ly ác pháp.

Ví dụ như bây giờ nói sát sanh, mà chúng ta không sát sanh thì đó là thiện pháp, mà sát sanh là ác pháp, chớ đâu phải nói là cấm chúng ta đừng sát sanh! Các con hiểu. Cấm không sát sanh có nghĩa là giới bổn, mà sát sanh là cái ác pháp giết hại làm cho đau khổ chúng sanh là ác pháp, mà không giết hại làm cho đau khổ chúng sanh là thiện pháp, mà không giết hại làm đau khổ chúng sanh là ly dục ly ác pháp.

Các con hiểu điều đó. Cho nên đâu có cần gì mà phải giới, nó là giới mà đâu cần, nó là pháp để tu giải thoát. Cho nên 13 năm đầu Phật không chế giới mà có giới chớ đâu phải không!

Đó như vậy. Bây giờ chế giới ra chúng ta lại thấy nó bằng thừa, mà nó lại không có một cái gì mà nó gọi là ly dục được ở trong cái giới này, mà nó lại nhiều cách thức nó vô lý và mâu thuẫn từ cái trước đến cái sau.

11) GIỚI MAY NGỌA CỤ BẰNG TƠ LỤA

(49:15) Giới 11:

11. Giới may ngoạ cụ bằng bông gai tơ lụa.

Vì sao Phật kiết giới này?

Hầu hết là Thầy thấy ba cái y áo, ba cái này không à, ăn rồi y áo chớ cũng không có cái gì, lộn xộn ba cái này không à, không có cái gì mà khác lạ hết, lăng xăng ba cái trang điểm này chớ không có gì. Nãy giờ ba cái y áo mà chưa có ra khỏi nữa, không có nói cái gì, ăn với mặc mà chưa có xong, thành ra chưa có gì mà tới cái gì hết!

Vì sao Phật kiết giới này?

Duyên xưa khi Phật ở nước Khoáng Dã, bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo làm ngọa cụ mới, đến nơi nhà nuôi tằm xin tơ, đứng bên bờ sông để đợi, xem họ ươm tơ, kén quay tơ, tiếng kén kêu. Cư sĩ chê hiềm. Phật nhân đó mà kiết giới.

Ngọa cụ tức là mền chăn, hoặc là mình làm, hoặc là khiến người làm thành thì phạm tội Xả Đọa, không thành thì phạm tội Ác Tác. Nếu vì người khác làm bằng bông gai tơ lụa, thành hay không thành đều phạm tội Ác Tác hết.

Nghĩa là phạm tội sám hối hết. Đó thì, nói chung là Phật cấm không có cho.

Cũng như bây giờ chúng ta mà ngồi thiền rồi mua mút đồ làm một cái toạ cụ, cái bồ đoàn cho nó êm để mà ngồi cho êm đó, thì cái đó là phạm tội, Đức Phật cấm không có cho. Chúng ta chỉ trải một cái miếng vải hay hoặc là trải một cái gì đơn sơ cho nó sạch sẽ để ngồi trên đó mà ngồi thiền thôi cũng đủ rồi, đừng có làm cho êm ấm, đừng có làm.

Cái này đi chờ đợi mấy cái chỗ mà người ta nuôi tằm nuôi tơ để người ta quay tằm tơ đó, chờ cho ổ kén người ta nó bị cắn ra đó, rồi lượm cái đó về dồn vô để làm cái cái bồ đoàn, cái tọa cụ cho nó êm để mà ngồi ở trên đó. Cho nên vì vậy đó, ở đây cái chỗ mà ví dụ chỗ này là tiếng con kén, con kén nó cắn cái ổ kén nó ra đó, nó thành con bươm bướm nó bay đi đó.

Đó là những điều kiện mà chúng ta thấy rằng khi làm tơ được như vậy đó, họ bỏ cái kén vô trong đó họ luộc con kén cho chết đi, rồi họ mới lấy từng sợi tơ họ kéo ra thành chỉ, như vậy mà chúng ta nỡ nào mà chúng ta đứng đó mà chờ để lấy cái đó đem về để mà ngồi cho êm?

12) GIỚI MAY NGỌA CỤ BẰNG LÔNG DÊ RẶT ĐEN

(51:38) Giới 12:

12. Giới may ngọa cụ bằng lông dê rặt đen.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi xưa Đức Phật ở tại nước Xá Ly, bấy giờ bên sông Di Hầu, ở trên lầu các. Các Lê Xa Tử hầu hết là tà dâm, dùng lông dê toàn màu đen may mặc để đi đêm khiến cho người khỏi trông thấy. Lục Quần Tỳ Kheo bắt chước dùng làm ngọa cụ, ai nấy đều chê hiềm. Phật nhân đó mà kiết giới này.

Nếu nhận được vật đã thành, hoặc cắt rọc, làm cho hư hoại, hoặc mỏng, nhẹ may thành hai lớp, nếu làm mền làm gối thì không phạm. Tỳ Kheo là bậc thiểu dục không nên được dùng những đồ đó.

Đó thì Đức Phật cấm chúng ta không có nên dùng những cái đồ da những con vật này con vật kia. Như quý vị thấy ngay cả như đôi dép của chúng ta mà mang bằng da thú là Đức Phật cũng không đồng ý rồi. Chúng ta mang bằng cao su đó là tốt nhất rồi đó.

Còn nhiều khi có nhiều người mang bằng da bò da trâu hay hoặc là những cái loại da mà người ta thuộc ra, thì cái phần đó chúng ta là người tu sĩ chúng ta không thể nào nhìn dưới bàn chân chúng ta mà bằng những cái da của loài súc sanh được. Chúng ta nên tránh mang dép bằng cái loại da của chúng sanh.

Và những cái mền hay hoặc là cái lông cừu mà người ta lấy da người ta thuộc ra để - Thầy thấy có nhiều cái áo ấm, người ta làm một cái - dệt da của con vật có lông, rồi người ta làm cái cổ áo cho nó ấm cái cổ của mình, thì những cái đó chúng ta là người tu sĩ chúng ta không nên dùng, vì đó là có những cái sự đau khổ.

Người ta lột da con vật, rồi người ta thuộc, người ta đi giữ cái lông con vật cho nó dính ở trong cái da đó cho nó khô, người ta kết vào cái cổ áo của mình để làm cho cái cổ mình ấm. Thấy thì sang lắm, đẹp lắm, nhưng với người tu sĩ của chúng ta không có nỡ tâm mà mang cái vật đau khổ ở trong thân của chúng ta được, chúng ta nên tránh.

13) GIỚI MAY NGỌA CỤ KHÔNG LẪN MÀU

(53:48) 13. Giới may ngọa cụ không lẫn màu.

Vì sao Phật kiết giới này?

Do duyên khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo dùng toàn lông dê màu trắng làm ngọa cụ. Cư sĩ chê hiềm các Tỳ Kheo ấy tựa vua và các đại thần. Nhân đó Phật kiết giới này.

Nghĩa là Đức Phật luôn luôn lúc nào cũng kiết giới để mà cấm chúng ta làm theo cái kiểu sang của các nhà vua, nào là thứ màu lông dê đen tuyền, rồi đến lông dê màu trắng cũng như lông thỏ, tất cả những cái điều đó thì hầu hết là người thế gian người ta ưa người ta thích, còn cái người tu sĩ chúng ta không nên, chúng ta nên tránh sử dụng những cái vật đó ở trên thân của chúng ta.

Cho nên cái giới 13 này là cái giới mà Đức Phật cấm chúng ta không sử dụng những cái gì mà xung quanh những vật dụng của người tu sĩ.

14) GIỚI DÙNG NGỌA CỤ CHƯA ĐẦY 6 NĂM

(54:39) 14. Giới dùng ngọa cụ chưa đầy sáu năm.

Vì sao Phật chế giới này?

Nguyên do khi Đức Phật còn tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo chê ngọa cụ cũ lại sắm cái mới, chứa rất nhiều. Phật nhân đó mà kiết giới.

Giới này phạm dưới 6 năm không được xả cái cũ, hễ sắm cái mới thì phạm tội Xả Đọa.

Ở đây chỉ nói 6 năm chứ sự thật ra Thầy thấy đối với người tu sĩ chúng ta không cần phải 6 năm, mà chúng ta cũng không cần cái vật dụng cái tọa cụ, hoặc là chúng ta chỉ cần lấy cái y cũ như chúng ta vầy, trải chúng ta nằm là được rồi, chứ không cần phải thêm những cái gì để mang thêm, nó nặng nề mà nó không giải thoát. Đã là một đời sống tu sĩ rồi thì chúng ta còn cần thêm cái thứ này làm gì cho nó mệt, cho nó nhọc!

Như các con thấy, người ta chế ra cái bồ đoàn là một cái gối tròn như thế này để kê cái đít ngồi, rồi người ta làm cái tọa cụ là một cái miếng mút như thế này rồi may cái vải vàng lên, thì đi đâu Thầy thấy giống một bao, quảy một quảy, nội ba cái tọa cụ, cái bồ đoàn không cũng thấy phát mệt rồi.

Đó thì các con thấy rằng chỉ có mình ngồi êm cái một chút à, mà từ cái chỗ nhà mình đi đến chùa Thầy thôi, ở đây thôi, mấy con cũng quảy một quảy rồi. Chi cho nó mệt vậy? Chúng ta đi đến đâu chúng ta ngồi tại đó cho nó khỏe hơn mà nó sung sướng hơn, nghĩa là mình ngồi tự nhiên mà nó tốt hơn là cái mình ngồi kê nó lên xuống, nó êm đó chớ nó không có cái tự nhiên đâu.

Giới may tọa cụ mới không khâu miếng cũ.

Thật sự ra trong cuộc đời tu hành, theo Thầy thấy sống buông xả hết, buông xả sạch hết chừng nào sạch hết là chúng ta sung sướng nấy, chúng ta giải thoát hết. Còn mà chúng ta còn thêm một vật gì nhỏ - như vừa rồi Thầy có nói cho các con nghe một câu chuyện đó.

Ông sư đó ổng xả hết ổng còn có cái bát, phải không? Mà khi người ta đến gõ cái bát thì ổng sợ bể cái bát ăn cơm của ổng tiêu đi, do đó ổng lật đật, đương ngồi thiền ổng lật đật ổng buông chân ổng chạy ra coi cái bát có bể không. Thì như vậy là do cái chỗ đó nó cũng còn dính mắc nữa, mà bây giờ chúng ta thêm cái này thêm cái kia cái nọ thì tức là chúng ta không giải thoát đâu.

Cho nên chúng ta càng tu chúng ta càng bỏ xuống, bỏ xuống, chúng ta tập làm sao mà chúng ta đụng đâu chúng ta ngồi đó cũng được hết, đó là cái giải thoát của chúng ta. Tu như vậy mới thật tu, tu như vậy mới thật là sự giải thoát, tu như vậy mới không còn cái sự dính mắc đối với thân tâm, và cái dục của chúng ta không còn nữa.

15) GIỚI MAY TỌA CỤ MỚI KHÔNG KHÂU MIẾNG CŨ

(57:05) 15. Giới may tọa cụ mới không khâu miếng cũ.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do khi Phật còn tại vườn Cấp Cô Độc, chư tăng đi thọ thỉnh, Phật ở tại tịnh xá đi khắp các phòng, thấy tọa cụ cũ bỏ bừa bãi khắp nơi, Phật biết rằng vì họ chê hoặc là quá mỏng, hoặc là quá dày, quá nặng.

Thật sự ra trong cái thời Đức Phật Thầy thấy ba y một bát, không có cái bồ đoàn, không tọa cụ. Mà cái hình thức này các con biết nè: Nào là bồ đoàn, tọa cụ, cái dày cái mỏng, là ai mà có đây các con biết không? Thiền sư chớ ai! Thiệt ra mấy ông cha này chớ ai, nào là bồ đoàn, nào là tọa cụ đây chớ ai mà mấy ổng viết giới đây chớ ai vô đây!

Chớ còn ông Phật ổng đâu có viết cái kiểu này, bởi vậy thời Đức Phật các con biết đâu có chuyện này. Ổng trải cỏ ổng ngồi, ngồi xong rồi ổng ở trên tảng đá ổng bỏ ổng đi chớ đâu có mang cỏ đi theo, phải không? Đâu có cực!

Ổng rời ổng đi chỉ có cái bình bát ổng mang theo thôi, mà đệ tử ổng có nhiều khi nó không thèm mang nữa, nó bỏ giữa đường nữa! Nó bỏ giữa đường, rồi ổng cũng phải ôm cái bình bát ổng đi, đó là đủ biết là Đức Phật xả quá xả.

Còn đọc cái này mình biết là mấy ông thiền sư đây chớ không ai hết, bởi vì cái tăng phòng của ổng, ổng mới đi coi thấy nào là tọa cụ, nào bồ đoàn bỏ bừa bãi, cái cũ cái mới tùm lum đây, rõ ràng là đúng là các thiền sư chớ không phải ông Phật đâu, mà ổng nói là ông Phật đi thấy.

Biết rằng họ chê hoặc quá mỏng, hoặc quá dày, hoặc quá nặng.

Bởi vì có ông làm cái bồ đoàn gì mà cao vầy nè, trời ơi làm cái gối gì Thầy nói quá cao! Còn có người thì làm cái tọa cụ mỏng mỏng vầy, có người thì làm một gang, ngồi thiếu điều nó lún, thiếu điều là mất chân mất cẳng hết.

Phật biết rằng…​ Nhân đó Phật họp tăng, dạy các thầy Tỳ Kheo mỗi khi làm tọa cụ, bồ đoàn mới phải lấy một gang tay cái cũ may lên cái mới.

Nghĩa là lấy cái này chồng lên, đừng có bỏ cái cũ mà chồng lên, chắc là - nếu mà 10 năm chắc chồng cái bồ đoàn chắc phải cao chớ không có thấp!

Lục Quần Tỳ Kheo không tuân lời Phật dạy, vì vậy nên Ngài mới kiết giới này. Sở dĩ phải lấy miếng cũ khâu lên miếng mới là để phá cái sắc cái mới, ấy là phép tắc của Tỳ Kheo thiểu dục nên dùng đồ hoại sắc như giới trước vậy.

Vậy mà Thầy thấy có nhiều người, cái áo nó không có rách mà họ muốn hoại sắc cái họ lượm cái miếng vải, cái áo còn mới lắm, thiệt là đồ còn mới lắm, cái họ lấy cái miếng vải, họ vá chỗ này một miếng, và chỗ này một miếng, làm cho người ta mắc tức cười!

Áo rách thì nó vá thì nó phải, coi nó được, còn cái áo mà vải nó còn mới vầy mà đem vá tùm lum để người ta nói: “Trời! Cái vải còn mới toanh mà sao mà lủng kỳ vậy?” Có phải không các con? Đó là cái - làm cái chuyện đó coi không có được.

Đó là cách thức mình giả dối đó. Nghĩa là người ta nói làm như vậy nó hoại sắc, nó không ấy, vậy cho nên có nhiều thầy cũng làm cái kiểu mình mặc áo vá đồ, nhưng mà thấy cái bộ đồ ông ta mới quá mà vá kiểu đó thì biết rằng nó không phải.

Mà về cái chỗ thí dụ như cái chỗ nào mà nó bị thẳng đồ như cùi chỏ mình vầy thì nó rách thì cũng phải, ổng về cái chỗ này nó đâu có gì đâu mà ổng vá cái chỗ này, nó trật đi, thành ra nó đâu có thẳng mà rách. Cho nên nhiều cái nó vá bậy bạ thành ra thấy không đúng chỗ. Đó, đó là những cái làm cho nó hoại sắc mà nó không có hợp, làm cho người ta biết rằng mình giả tạo, mình gạt người khác.

Vì vậy Phật chế cái giới 15 này là không có phí bỏ những cái đồ mà mình phí bỏ. Người nào phí bỏ thì phạm tội Xả Đọa.

16) GIỚI TỰ MANG LÔNG DÊ QUÁ 3 DO TUẦN

(01:00:38) 16. Giới tự mang lông dê quá 3 do tuần.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật vẫn ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, bấy giờ Bạt Nan Đà đi đường được nhiều lông dê…​

Ai mà bỏ giữa đường dữ vậy?

…​ xâu vào đầu gậy quảy đi.

Ổng lượm được ổng quảy đi, ba cái da dê của ai lột, chắc mần thịt bỏ giữa đường, ổng lượm về.

Cư sĩ chê hiềm: “Thích tử tại sao mua bán lông dê, da dê?” Nhân đó Phật kiết giới.

Người nào mà lượm da dê may giày may dép hoặc là tọa cụ, bồ đoàn thì đều là phạm tội Ác Tác, đều là phạm tội Xả Đọa.

Đức Phật cấm như vậy.

17) GIỚI KHIẾN NI KHÔNG PHẢI BÀ CON NHUỘM LÔNG DÊ

(01:01:22) Giới thứ 17:

17. Giới khiến ni không phải bà con nhuộm lông dê.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do khi Phật ở tại nước Sí Sấu, Ca Duy La Vệ, trong vườn Ni Câu Luật, lúc này Tỳ Kheo lấy lông dê sai bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề Tỳ Kheo Ni nhuộm giùm, nhuộm màu nhớp tay của bà. Đức Phật thấy, nhân đó mà Ngài kiết giới.

Tại sao mà lấy da dê, lấy này kia mà đem nhuộm mà để nấu được, Thầy không hiểu á! Cái cách như thế nào mà cái người tu sĩ đi làm cái chuyện đó, Thầy coi sao được? Thế mà cũng làm được vậy!

Các Tỳ Kheo cẩn thận, sợ không dám nhờ ni quyến thuộc nhuộm. Phật dạy: Được phép nhờ, liền kiết giới lại, thêm câu: “sai Tỳ Kheo Ni không phải bà con” giặt, nhuộm, vỗ, ba việc mắc ba tội Xả Đọa. Tùy theo việc nào không làm thì không mắc tội Đột Kiết La, còn làm thì mắc tội Xả Đọa.

Nhờ tịnh nữ, học pháp nữ tức là Thức Xoa Ma Ni không phải bà con thì làm được, không có phạm tội Ác Tác.

Nghĩa là nói chung là làm những cái việc mà nhuộm y, nhuộm áo, hoặc là làm những điều này thì nhờ Sa Di, Sa Di Ni làm thì không có phạm tội, còn Tỳ Kheo là đều là phạm tội Ác Tác và phạm tội tội Xả Đọa.

Nếu vì người bệnh, vì Phật, vì pháp mà sai nhờ làm thì không phạm.

Đằng này thì thật sự ra những cái giới này họ chế ra, họ nói vì Phật mà làm cái chuyện này, nhuộm cho Phật, hay hoặc làm cho Phật thì không có tội. Mà ông Phật ổng cần gì ổng phải nhuộm, ổng cần gì ổng phải làm? Nghĩa là mặc tới rách rồi thì người khác cúng dường, có gì đâu mà phải vì Phật làm?

Rồi pháp, pháp nó đâu có mặc y, mặc áo mà nó đòi giày đòi dép bằng da dê, bằng da cừu đâu, mà làm sao mà đặt ra mà gọi là không có phạm? Ở đây chỉ lấy cái giới tịnh nữ hoặc là Sa Di, Sa Di Ni, những người mà có thể làm những cái chuyện nhuộm hay hoặc là may này kia thì được, còn cái Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni thì không được.

18) GIỚI THỌ TIỀN, VÀNG BẠC

(01:03:52) 18. Giới thọ tiền, vàng bạc.

Vì sao Phật kiết giới này?

Bấy giờ tại núi Kỳ Xà Quật, có một đại thần bảo vợ để dành phần thịt cho Bạt Nan Đà, sau đó con của ông lấy ăn. Sáng ngày Bạt Nan Đà đến nhà đại thần, người vợ muốn cầm tiền ra chợ mua thịt trả lại cho ông Bạt Nan Đà.

Ông Bạt Nan Đà nói: “Nếu vì tôi mà mua thì đưa số tiền đó cho tôi cũng được”. Bà vợ vị đại thần liền để tiền dưới đất, ông Bạt Nan Đà cầm tiền đem gửi cho người bán quán mà đi. Lúc bấy giờ người cư sĩ thấy vậy chê cười.

Cũng cái ông Bạt Nan Đà nữa! Cái ông này thì người ta cúng ổng thịt để dành cho ổng ăn, nhưng cái bà vợ bả lấy thịt cho con bả ăn rồi, cho nên sáng ông Bạt Nan Đà này đến thì thịt nó hết rồi, bà vợ mới cầm tiền mới ra chợ mua, thì ổng sẵn đó ổng nói: “Thôi bà đừng có mua, nay tui có đồ chay rồi, tui không có ăn thịt nữa. Bà đưa tiền lại tui đi!”

Do đó thì ổng cầm cái số tiền của bà kia đưa ổng, thì ổng đưa cho cái người chủ quán, bảo ông này cất giùm đi. Do đó người ta biết được người ta chê cười ổng cất giữ tiền bạc như vậy. Mặc dù ổng không bỏ trong cái y áo ông cất ông đem về, nhưng mà ổng gởi cho người cư sĩ khác cất, do đó là giữ lại tiền của ổng.

Còn hồi đó là tiền thịt của cái bà kia, bả lấy thịt của ổng bả cho con bả ăn đi rồi, bây giờ bả mới lấy tiền bả mua thịt bả trả lại, thì ông này ổng đòi tiền chớ không đòi thịt nữa, bộ ổng ăn ớn rồi, cho nên ông không có đòi nữa.

Do những cái chuyện này mà hầu hết là bên Nam Tông nó nói: “Đúng rồi, đệ tử của Phật ngày xưa ăn thịt thỏa thích, bây giờ mình cũng ăn chứ có gì đâu!”

Đó là những cái giới mà có thể nói rằng nó chế ra như vậy, rồi cái mẩu chuyện này nó làm cho cái người tu sĩ hết thanh tịnh được. Cho nên do đó mà cứ ăn khoái khẩu mà thôi, rồi từ đó không bao giờ mà ly dục ly ác pháp được. Những cái tội đó là những cái tội mà không thể dung tha được.

“Nhờ sự giải thích của ông, với chánh pháp được nhiều lợi ích. Sa Môn Thích tử xả ly châu báu, nếu thấy người nào gọi Ta là thầy mà cầm nắm tiền bạc châu báu thì quyết định đó không phải là đệ tử của Phật nữa.”

Khi ấy Đức Phật dùng vô số phương tiện quở trách Bạt Nan Đà rồi kiết giới này. Dù trực tiếp hay gián tiếp nhận đều là phạm tội Xả Đọa.

Tất cả những người mà giữ tiền bạc là Tỳ Kheo đều là phạm tội Xả Đọa hết. Nghĩa là trước phải trả lại tiền bạc, rồi phải còn xin sám hối, đứng trước một vị phát lồ, gọi là tội Xả Đọa.

(01:06:35) Nếu được tiền, vật báu mà muốn xả đúng pháp thì phải sám hối, rồi tới người tịnh nhân hay là Ưu Bà Tắc đáng tin ưa, nói với họ: “Đây là vật mà tôi không nên nhận, ông nên biết cho!”

Người đó nhận rồi trả lại cho Tỳ Kheo để đổi lấy những vật tịnh cần để thọ dụng như y bát, tọa cụ. Nếu người ấy nhận rồi mà không trả lại thì nên nhờ Tỳ Kheo khác nói mà đòi giùm.

Cái này còn bày đặt nữa! Nghĩa là bây giờ đó, tiền bạc của cái ông này, ông này ổng không có dám giữ cất, ổng giao lại cho tịnh nhân là cái người cư sĩ hay hoặc là cho chú Sa Di nào đó. Bây giờ chú này chú chơi tay trên đi, chú phỗng đi, chú không có trả, thì ông này không biết làm sao đòi được, phải nhờ một vị Tỳ Kheo khác đòi giùm, chớ của mình mình đòi thì kỳ lắm, để nhờ người khác đòi cho mình thì được.

Sao giới luật của Phật chế nó kỳ cục, nó lạ lùng! Hễ khi mà mình không cất giữ tiền bạc thì mình không có tiền bạc, mà mình không có tiền bạc thì mình giao trả lại cho tu viện rồi, hay hoặc là cho Tăng đoàn, hay hoặc là giao cho cư sĩ, người nào người ta muốn sử dụng, người ta làm gì làm, mình coi như không có.

Còn như vậy nó chi phối. Ở trong chùa tu rồi tối ngồi thiền rồi cứ nhớ: “Tiền tui gởi không biết - tui gởi ông đó một trăm, ông kia trăm rưỡi, ông nọ ba trăm, ông nọ hai trăm, không biết bây giờ mấy ổng mua cái gì, còn hay mất?” Hỏi lại nó mất, trời ổng ngồi tu thiền không có được!

Các con nghĩ cái tâm niệm của con người mà, đâu có phải dễ. Mà cứ hễ cái người này cho mình được một trăm hai trăm, gởi cho người kia gởi người nọ, riết rồi gởi riết rồi tính ra mình cả triệu bạc lận. Nhưng mà ngồi đó mà không biết ổng còn giữ cho mình hay ổng lấy ồng làm tiêu mất rồi, chết được!

Đó thì các con thấy, khi mà mình có tiền mình gởi người này người kia, mình bất an lắm. Mà người tu sĩ rồi thì hoàn toàn Phật cấm là chúng ta không cất giữ tiền bạc, thì chúng ta không có đồng xu nào hết thì chúng ta rất an, mà còn có đồng xu nào thì chúng ta không có an đâu.

Cho nên khó lắm. Thầy nói mấy con cứ nghĩ đi, mấy con thấy có khó không mấy con biết. Đối với Thầy, bao nhiêu Thầy giao cho cô Út muốn làm gì làm, Thầy chả biết, còn còn mất mất không biết gì hết, cho nên tâm Thầy rất an, không có còn lo còn lắng còn nghĩ gì hết à! Ai làm gì làm, còn còn hết hết chuyện đó không phải chuyện của Thầy.

Thầy là cái chuyện là phải làm sao ngày đêm cho nó ngủ ngon thôi, ngồi lại chơi thì tâm thanh thản thôi, còn cái chuyện tới trưa người ta cho mình cái gì thì mình ăn, nuốt cho nó no cái bụng mình rồi thì mình ngồi chơi cho nó khỏe thôi.

Thầy chỉ mong ngày nào mà Thầy giảng hết cái giáo án này rồi, trưa Thầy khỏi cần soạn, tối Thầy cũng khỏi cần thức, cho nên Thầy ngồi thiền nhập định, hay hoặc là những cái gì cho nó an ổn cái cuộc đời của Thầy trong cái lúc tuổi già là Thầy thấy thích nhất rồi. Chớ còn cái chuyện mà ngồi đây mà tính phải viết cái bài này, phải soạn cái bài kia, nghe đầu óc nó cũng mắc mệt nữa!

Nhưng mà vì các con chưa biết đường đi, chưa biết pháp hành, chưa biết được cái giới hành, chưa biết cái đường đi mà không có chỉ dạy, làm sao cho các con biết được? Cho nên kỳ này Thầy sẽ chỉ dạy hết, chỉ dạy rất là đầy đủ, từng đó các con biết cái dễ cái khó, cái nào trước cái nào sau, theo đó mà cứ tu tập, đừng có hỏi Thầy, bận tâm Thầy lắm!

Để cho Thầy yên ổn một chút, thanh thản một chút là khỏe. Ngồi từ đây, từ buổi sáng Thầy ngồi trên ghế Thầy ngồi như thế này, tới chiều cái tâm Thầy thanh thản, Thầy không có bận nghĩ gì hết là Thầy thấy hạnh phúc nhất cuộc đời rồi, không cần nhập định gì hết. Cho nên đủ là Thầy như vậy rồi. Ở ngoài ai làm gì làm Thầy chả biết hết là Thầy thích thú nhất.

(01:09:52) Cho nên Thầy ẩn bóng là làm gì? Để ngồi đó mà thưởng thức cái - còn một hai năm nữa để mình thưởng thức được cái tâm thanh thản. Hồi nào dạy các con thanh thản mà các con không chịu sống thanh thản thì bây giờ để Thầy thanh thản cho, coi nào sướng, phải không?

Các con biết không? Dạy các con thanh thản mà thấy các con không thanh thản, thôi để bây giờ mình Thầy thanh thản coi ai ngu ai khôn! Ai dè Thầy khôn Thầy ngồi thanh thản, còn các con thì mắc bận rộn đủ thứ ráng chịu. Chớ Thầy đâu không dạy, dạy mà tại các con không chịu nghe thì thôi. Cho nên bây giờ Thầy mới ngồi Thầy thanh thản. Đó là lúc mà Thầy thanh thản rồi thì không ai kêu Thầy được hết. Đó.

Còn nhập định đồi chớ, nhập Tứ Thiền rồi các con còn réo Thầy, Thầy còn giật mình. Bởi vì ở trong đó người ta réo quá cái mình động mình giật mình. Còn thanh thản không ai giật mình được, phải không?

Bởi vì Thầy tâm thanh thản thì không ai réo Thầy giật mình được. Mà nhập định thì các con ở ngoài các con tu không được, các con cầu khẩn, cứ cái tên của Thầy gọi hoài, nó ở trong nó giựt Thầy không biết bao nhiêu lần, Thầy chịu không có nổi! Còn khi nào mà Thầy nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì các con gọi Thầy như cục đá Thầy cũng không biết, cho nên Thầy cũng rất yên.

Cho nên vì vậy mà Thầy muốn Thầy thanh thản hơn là Thầy nhập Tứ Thiền, bởi vì nhập Tứ Thiền cái thức thức của Thầy nó tỉnh, sức tỉnh nó vô cùng lận. Cái sức tỉnh mà Thầy nói rằng nó không còn có cái mà ngủ mê ngủ man được nữa hết, nó tỉnh lắm, cho nên cái đó mà ở ngoài ai động cái gì thì nó - giao cảm được nó thì nó đều là động hết, nó biết được hết. Cho nên cái chỗ mà nhập Tứ Thiền nó rất là tỉnh táo lắm, nó tỉnh rất cao độ.

Nó khó lắm. Cho nên ở đây thì trong khi đó, khi mà Thầy ngồi thanh thản mà các con bắt chước theo được thanh thản, thì nội cái chùa của mình không khí nó thanh thản hết, phải không? Nó yên phăng phắc. Còn mấy con mà không thanh thản được thì tự các con chịu lấy, chớ Thầy không có gánh vác được cái điều đó đâu.

19) GIỚI KINH DOANH TÀI BẢO

[Trưởng lão không giảng trong băng]

20) GIỚI ĐỔI CHÁC CÁC THỨ

(01:11:41) 20. Giới đổi chác các thứ.

Vì sao Phật kiết giới này?

Do duyên khi Phật ở nước Xá Vệ, vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ Tỳ Kheo Bạt Nan Đà đem gừng sống đến chợ đổi thức ăn.

Ông này chơi kiểu mua bán rồi đây! Cũng cái ông này, giờ ổng trồng gừng, ổng đào gừng ổng đem xuống chợ ổng buôn bán, ông đổi chác. Đi xin ăn không chịu đi xin ăn còn đem gừng mà đổi! Đâu mà giới luật gì chế kỳ cục vậy Thầy không biết, trong cái thời ông Phật mà có cái lạ như thế này, không hiểu làm sao!

Đem gừng sống đến chợ đổi thức ăn, lại nhuộm y cũ…​

Đem lại mấy ông thợ nhuộm đặng đem gừng đổi, ổng nhuộm đặng về ổng lấy gừng.

…​ lấy y mới. Ngoại đạo biết bị lầm nên ăn năn xin đổi lại y. Bạt Nan Đà không chịu đổi. làm mang tai tiếng. Nhân đó Phật kiết giới.

Cái ông này đem xuống chợ, ổng lấy gừng sống đó ổng trồng rồi ổng đem đổi thức ăn, rồi ổng đem lại ổng nhuộm cái y cũ của ổng, ổng lấy gừng ổng đem nhuộm y cũ. Rồi ổng đem lại ngoại đạo ổng nói y ổng y mới, ổng đổi cho người ta, ổng gạt người ta, rồi ổng lấy cái y mới của ngoại đạo ổng đi về.

Rồi ngoại đạo nó về rồi ổng dòm lại thì thấy cái ông này mới có đem nhuộm cái y cũ của ổng đây, ổng nhuộm lại cho nó mới mới đây, rồi ổng đem ổng nói y mới của ổng đổi mình lấy cái y, ổng đi mất rồi. Cho nên mấy cái ông ngoại đạo này tức mình mới đến mới trình với Đức Phật. Đức Phật nhân cái dịp đó mới chế giới.

Cái ông này thiệt là gian xảo, ông Nan Đà này không có chỗ nào chê ổng hết! Tu hành để trồng gừng rồi đem đổi chác, rồi đem nhuộm y áo cũ làm y áo mới rồi đem gạt mấy cái ông ngoại đạo, cho nên bị mắng vốn là phải.

Trường hợp phạm: Nếu Tỳ Kheo mậu dịch dưới mọi hình thức, kết quả thì phạm Xả Đọa, không có kết quả thì mắc tội Ác Tác.

Pháp Xả Đọa là hối hận trả lại như giới chứa y dư. Giới trước dùng vàng bạc, bảo vật đổi chác, mua bán nên bảo xả cùng với tịnh nhân, giới này dùng y dược, phẩm vật đổi chác nên bảo xả bỏ, không được cất giữ nữa.

21) GIỚI CHỨA BÁT DƯ

(01:13:59) 21. Giới chứa bát dư.

Bây giờ tới cái bát rồi đây.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do khi Phật ở tại nước Xá Vệ, Lục Quần Tỳ Kheo vì tìm cầu bát mới nên chứa bát cũ rất nhiều, do đó Phật kiết giới không cho phép chứa bát dư.

Khi ấy Tôn giả A Nan được người cúng một chiếc bát quý giá, muốn cúng lại cho ngài Ca Diếp mà ngài Ca Diếp thì không có ở nhà. Sợ phạm tội bát dư, Tôn giả A Nan đến bạch Phật.

Phật hỏi: “Ca Diếp bao lâu mới về?” Tôn giả A Nan thưa: “Sau 10 ngày nữa ngài Ca Diếp mới về.” Do đó Phật cho phép chứa y dư được 10 ngày.

Cũng lấy ông Ca Diếp rồi lấy ông A Nan để mà lấy cái cớ để mà lấy mười ngày, mấy ông mà viết giới luật này không còn biết ai hết! Hồi nãy thì cũng ông Ca Diếp về cái y, ông A Nan muốn cúng dường cho ông Ca Diếp cái y rồi cũng là phải chờ ông Ca Diếp mười ngày, rồi bây giờ bát dư.

Ông này chỉ đi có 10 ngày chớ đâu có 20 ngày? Các con thấy cái người mà đặt giới này họ lấy cái giới 10 ngày, cho nên bắt ông Ca Diếp là phải đi xa Phật có 10 ngày rồi trở về chớ không có đi lâu.

Mà có nhiều khi Thầy thấy ông Ca Diếp mà ổng đi, hồi lúc mà Đức Phật nhập diệt đó, ổng chạy về hổng cẳng không kịp, chắc ổng đi xa lắm, đâu có 10 ngày được! Do đó mà ở đây cứ 10 ngày 10 ngày không à, thì Thầy thấy đây là một cái cuội, không có thật. Chế giới cái kiểu này thiệt là cái chế giới…​ Cái người mà có trí thì người ta làm sao tin cái này được, do những cái câu chuyện đặt ra mà nó không có cái lý.

Bát có hai loại: Thiếc và sành.

Nghĩa là có loại bát bằng thiếc. Mà ngày xưa không biết có thiếc không? Thầy nghĩ rằng lúc bấy giờ chắc đồ đồng đó là có quá lắm rồi chớ đâu có thiếc được, nghĩa là biết hồi đó có không? Sành thì chắc có.

(01:16:01) Hai màu đỏ và đen. Bát lớn chứa ba đấu, bát nhỏ chứa một đấu rưỡi. Bát bằng đá là bát của Như Lai, bát bằng gỗ là bát của ngoại đạo, bát bằng vàng, bạc, lưu ly, bảy báu là bát của bạch y…​

Của cư sĩ đó.

…​ đều không phải là đồ ứng lượng của Tỳ Kheo thọ trì.

Nghĩa là Đức Phật thì bát bằng đá, ở đây cái chỗ này thì mình không biết nó có như thế nào Thầy không biết, nhưng mà cái bát bằng đá thì của Phật, chắc là các vị Tỳ Kheo cũng làm bằng đất đá. Bát bằng gỗ thì của ngoại đạo, ngoại đạo chắc nó lấy cây nó đẽo làm cái bát. Bát này coi chừng cháy á!

Còn bát bằng vàng, bạc, lưu ly, bảy báu thì của cư sĩ.

Chắc ngày xưa, chắc là người dân, người cư sĩ cũng như là người tu sĩ đều là ăn ở trong cái bát không chớ không có cái chén như mình bây giờ, hay tộ đồ như mình bây giờ, cho nên người nào cũng dùng bát hết, vì vậy mà Phật cũng dùng bát. Mà Thầy không hiểu là trong cái thời đó không biết người ta có chén đũa người ta ăn không, hay hoặc là toàn là ăn bát.

Ở đây thì nói vậy mình hay vậy, nhưng mà mình không có trở về cái thời quá khứ đó được cho nên mình không biết, nhưng mình nghĩ rằng cái bát đá, bát đất, chắc chắn có thể là Đức Phật chấp nhận, còn cái bát gỗ coi vậy chớ nó không có sạch đâu. Bởi vì cái bát gỗ mình ăn, lâu ngày những cái đóng ở trong cái bựa hay hoặc nước đồ rửa nó không sạch bằng cái bát đá, bát sành.

Còn cái bát bằng vàng, bằng bạc, bằng thiếc đồ đó, cái thứ đó nó ra sét, nó ra những cái chất độc mình ăn vô độc lắm, nó không có tốt đâu. Cho nên cái bát mà bằng đất, bằng sành của mình chớ ăn tốt lắm, còn cái bát bằng nhôm hay bằng này kia ăn không tốt.

Không biết bây giờ bằng nhựa, không biết mấy con ăn nó ra sao chớ Thầy thấy kiểu đó không biết chừng nuốt ba cái nhựa vô, càng ngày cái bụng nó càng bự ra, chết được á! Bằng cao su mà, hay bằng nhựa gì đó Thầy không biết, thấy mỗi ngày mình ăn nó mòn một chút một chút đó, nuốt vô trong bụng mình không biết.

Cho nên Thầy thấy mấy cái mâm mà đựng đồ ăn đó nó cũng làm bằng nhựa đó, nó cũng độc lắm. Nhưng cái thân mình vô thường thì thôi kệ nó, nó chết sớm chừng nào tốt chừng nấy, chớ nó sống dai nó cũng cực!

22) GIỚI KÉM LẰN RANH CẦU BÁT MỚI

(01:18:20) 22. Giới kém lằn ranh cầu bát mới.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật cũng ở nước Xá Vệ, bấy giờ Tỳ Kheo Bạt Nan Đà bị bể một cái bát…​

Cũng ông này luôn!

…​ tìm xin được nhiều bát mới. Cư sĩ chê hiềm. Phật nhân đó mà kiết giới này.

Ranh nghĩa là cái bát mà nó nứt thành đường ranh đó. Nếu mà đủ năm đường ranh mà không rỉ chảy thì đi tìm xin cái bát mới được, mà nếu mà nó ranh nứt mà nó chảy thì phải xin cái bát mới. Dưới năm đường nứt mà không bị rỉ chảy thì khỏi có tìm cái bát mới, mà nó có rỉ chảy thì nên tìm bát mới, xả bỏ cái bát cũ.

Phép xả bát này, người phạm phải đến nơi vị Thượng tọa quỳ gối chắp tay tác bạch: “Bạch Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ Kheo…​ bát bị nứt dưới năm lằn ranh và nó đã chảy nước rồi, lại tìm xin bát mới, có phạm Xả Đọa, nay xin xả cho tăng.”

Xả rồi nên sám hối. Tăng nên Yết Ma trao bát cho. Bát này nếu là loại quý nên lưu lại, lấy cái bát tối hạ, bạch Nhị Yết Ma mà trao cho. Tác Yết Ma xong, vị kia đem cái bát đó đến trong tăng, thứ lớp hành xả. Nếu mọi người không ai lấy nên trả lại cho vị Tỳ Kheo ấy nếu họ giữ trọn đời, còn cái bát trước kia họ thọ trì nên như pháp mà thọ trì.

Nghĩa là cái bát nứt đó năm đường mà nó chưa rỉ chảy thì cái ông Tỳ Kheo này không có được lấy cái bát mới mà phải xài cái bát cũ, còn cái bát mới đó giao cho Tỳ Kheo, những người mà người ta ở trong đó người ta thiếu, người ta lấy người ta xài.

Còn nếu mà tất cả mọi người người ta đủ người ta không có lấy, thì bắt đầu mới giao cái bát đó lại cho cái vị mà đi xin cái bát đó, thì cái vị mà cái bát nứt đó, cái bát mà bị ranh chảy đó mới bỏ cái bát đó được, chớ còn không thì cũng phải dùng cái bát nứt đó chớ không có bỏ được.

Thầy thấy cái giới này tạm thời thì như vậy cũng tạm được, là vì thiểu dục tri túc, là vì mình ăn cơm chớ đâu phải ăn canh đâu mà sợ chảy nước. Do cái uống nước nó có rỉ chảy thì nó cũng ướt tay chớ nó đâu có chảy tới mà ướt áo ướt y mình được, do nó mới có ranh thôi chớ nó không phải bể một cái lỗ lớn nữa. Vì vậy còn có thể dùng được thì mình cứ dùng cho tận cùng, không nên phí bỏ mà chạy đi xin bát mới.

Đó thì, nếu mà cái người tái phạm mà hai cái bát, cái bát này vừa muốn ranh nứt là mình để dành cái bát mới để cho khi cái bát này hư là mình bỏ, là mình lấy cái bát mới mình xài, thì trong cái khoảng thời gian mà dành đó thì mình phạm tội là Xả Đọa, hay hoặc là Ác Tác, phải bỏ, không có được dùng nó nữa.

23) GIỚI KHIẾN THỢ DỆT KHÔNG PHẢI BÀ CON DỆT

(01:21:16) 23. Giới khiến thợ dệt không phải bà con dệt.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên khi Phật vẫn còn ở nước Xá Vệ, Tỳ Kheo Bạt Nan Đà…​

Cũng ông này nữa à, cứ ông này không à!

…​ muốn may y Tăng Già Lê, xin được nhiều tơ đem đến cho thợ dệt, bảo dệt ba y, tự tay giúp vào việc của thợ dệt, tự coi dệt. Phật nhân đó mà kiết giới.

Pháp xả: Ăn năn trả lại đúng như giới dư y.

Trường hợp không phạm: Thợ dệt và người cho chỉ đều là thân quyến; nếu tự dệt làm đãy đựng bình bát, dây ngồi thiền, dây lưng, mão, khăn lau.

Cái vị Tỳ Kheo này đủ loại hết. Nghĩa là trong khi đi xin nào là dây lưng nè, nào mão nè, rồi dây để ngồi thiền nè, rồi đãy đựng bình bát nè, rồi bị đựng bình bát nè, tất cả mọi cái này đều nhờ những người thợ dệt mà người ta là những người thân của mình thì được, mà người lạ thì không được, thì thật sự cái này thân hay lạ theo Thầy nghĩ cũng không được hết.

Tại vì những cái này là những cái thừa của người tu sĩ. Những cái này là cái người mà có thể không ly dục rồi, không có ly ác pháp rồi, cho nên còn đắm đuối theo. Đời chúng ta bỏ hết rồi còn gì mà đi ham muốn, như cái túi đựng bát phải cho nó làm đẹp như thế này thế khác.

Điều đó cũng là những cái sai mà người ta không thấy được cái pháp để cho chúng ta tu tập ly dục ly ác pháp. Đó, những cái điều kiện rất là sai.

24) GIỚI KHUYÊN DỆT Y TỐT ĐẸP

(01:22:47) 24. Giới khuyên dệt y tốt đẹp.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở nơi vườn Cấp Cô Độc có một cư sĩ xuất tơ tốt, khiến thợ dệt may y, cúng cho Bạt Nan Đà.

Làm cái gì tốt cũng cúng ông này mà ông này tệ nhất hết! Bởi vậy cái giới luật này nó cứ lôi cái ông này ra à, mà ông này tu chẳng có ra gì mà người ta cũng cúng ổng, cái tốt cũng đem cúng ổng, cái xấu cũng đem gán ổng, cho nên Phật nhờ ổng mà chế giới đủ thứ hết. Như vậy là nhờ cái ông này mà các tổ chúng ta chế giới ra chớ không phải là ông Phật. Chúng ta thấy rõ ràng là cái tên Bạt Nan Đà này nó nhiều quá.

Bạt Nan Đà liền đến nhà cư sĩ xin tơ thêm nơi vợ của cư sĩ…​

Ông lại ông xin ông chồng, lại xin bà vợ.

…​ đem cho thợ dệt, bảo dệt cho dài, rộng và chắc, đẹp, và hứa trả thêm tiền công.

Ông này ổng làm sao có tiền mà ông đòi trả thêm tiền công người ta nữa! Thì ông này chắc là dư lắm, dư nhiều lắm, ổng gởi cư sĩ cất tiền không biết bao nhiêu mà nói.

May y xong, cư sĩ thấy không phải như trước khiến thợ dệt, hỏi ra mới biết vấn đề. Cư sĩ chê hiềm. Phật nhân đó mà kiết giới này.

Khi có cư sĩ yêu cầu thỉnh tùy ý, các Tỳ Kheo nghi không dám trả lời, không dám đòi hỏi như ý mình. Đức Phật dạy cho phép nhận, cho phép đòi hỏi.

Cấm không cho đòi hỏi, không cho ý kiến ở trên cái sự dệt y áo của mình. Thật sự ra thì theo Thầy nghĩ, khi người ta muốn cúng dường y áo của mình, người ta may hẹp thì mình mặc hẹp, may rộng mặc rộng, may sao cũng được hết, miễn là có cái y áo mình mặc là được rồi.

Nhưng mà không lý người ta may hẹp làm sao mình mặc được? Người ta cũng nhắm mình coi rộng, người cao lớn hay là ốm hay là mập, người ta cũng may cho mình vừa, cho nên tùy người ta cúng làm sao mình nhận vậy, không đòi hỏi không ý kiến gì hết. Nghĩa là cái người đi xin mà, đâu có ý kiến gì. Còn ở đây hầu như là chúng ta - trong giới luật này hầu như là có ý kiến.

Rồi khi mà có những cái điều mà cư sĩ người ta giả đò người ta hỏi: “Bây giờ tui muốn may cho thầy cái y như vậy, thầy có ý gì không? Muốn hàng nào, vải nào?” Người ta nói vậy chớ mình đòi hỏi mình chỉ rồi cái họ về họ cười mình à! Thầy nói các con cứ nghĩ có không thì biết à.

(01:25:00) Có người họ đến: “Bây giờ con xin thầy, con cúng dường thầy bộ y áo, thầy muốn loại nào thầy cứ nói, con sắm cho thầy!” Mà ông thầy nói: “Tùy con, con muốn cúng dường sao cũng được” thì họ còn quý trọng mình, chớ mình nói: “Bây giờ phải mua thứ vải này, hàng này, màu này vầy vầy vầy, làm cho thầy bộ y áo vậy đó” là về cái họ cười mình liền á.

Họ khéo léo lắm, họ làm bộ. Thầy biết mà, Thầy đi chung với cư sĩ nhiều lần Thầy biết lắm. Họ đem một cái ly nước ra họ mời Thầy cái ly nước, thí dụ như ly nước chanh hay hoặc là ly nước ngọt đi, hay hoặc cái hộp Coca vầy đi, để giải khát đi. Mà Thầy không uống thì họ quý trọng Thầy, mà Thầy nhận Thầy uống rồi thì hồi đó họ không nói đâu, không gì hết đâu, mai mốt Thầy nghe họ nói lại: “Biết không? Ông thầy ổng cũng thèm nước thấy mồ!”

Thật sự ra đó là những cái điều kiện, họ đều là những cái người không có phải kính trọng mình đâu, họ nhìn cái đám tu sĩ của chúng ta, rồi thấy một cái người giữ giới mà không có nghiêm trì được, họ dụ lắm. Mà mình á, mình giữ cho trọn, mình biết là ly dục ly ác pháp rồi, mình không thèm, do đó mình mới giữ trọn.

Chớ còn họ đem nhiều cái họ bẹo cho mình thèm lận, mà người nào mà không giữ trọn, Thầy nói đi với Thầy các con sẽ thấy. Họ đem cái này, đem cái kia, đem cái nọ họ bẹo thôi, cái ông nào mà đi với Thầy lát ổng cũng rớt hết à! Không uống ly sữa thì lát cũng ních cái hộp kem hay hoặc là hộp da ua à.

Thế nào mấy ông đó ổng dụ riết mấy ổng cũng ních hết: “Ôi Thầy thì vậy chớ mấy thầy mới tu mà, giữ ít ít thôi để cho nó còn sức khỏe mấy thầy tu!” Chớ họ nói ngọt lắm, làm một hơi mấy ổng xiêu lòng mấy ông ních hết, ních tới chừng rồi đi về rồi họ cười thôi, họ cười ngả cười nghiêng, họ nói: “Mấy ông thầy có tu ra gì đâu!”

Mà họ dụ mình để rồi họ cười mình, các con nên nhớ điều đó chớ chưa hẳn họ đã là kính trọng mình đâu. Cho nên Thầy biết mấy ông cư sĩ lắm, mấy bà cư sĩ mấy ông cư sĩ lắm, họ nói vậy chớ họ không có quý trọng mình đâu.

Nhưng mình giữ nghiêm chỉnh, không có vi phạm, họ rất nể, họ rất sợ, họ kính lắm. Mà không phải vì họ kính mà mình giữ, mà vì ly dục, ly bất thiện pháp để làm chủ được sanh tử, các con nhớ cái điều đó.

Vì vậy Thầy không phải vì đi ra mà không ăn uống chỗ này hay hoặc vào quán chỗ kia, mà vì cái mục đích mình làm sao đạt được cái chỗ mình tu thiền định, mình làm sao mình ra lệnh mà cho được cái thân mình hoàn toàn nó ngưng nghỉ, nó làm chủ được cái sống chết này, cái đó là mục đích của Thầy.

Chớ không phải là mình ra mình không ăn không uống để cho họ nể, họ kính trọng mình đâu, không phải. Cái việc đó không phải đâu. Mà chính cái chỗ mục đích của mình là cái chỗ làm sao giải thoát.

Cho nên giới luật mà đặt ra đây Thầy thấy là cái này chỉ là viết chơi vậy chớ không có đúng cách của một cái người tu sĩ giới luật đâu. Cái mục đích là cái Phạm hạnh người ta giữ cái tâm bất động trước các đối tượng cám dỗ mà người ta không có bị say mê trước cái sự cám dỗ đó, là cái mục đích của người ta, chớ đâu phải.

Mà chính cái mục đích đó là cái giới hạnh của người ta chớ không phải vì một cái gì mà cấm người ta được. Cấm người ta mà người ta không giữ trọn thì người ta phải làm lén làm lút thì cũng là như không, đâu có gì mà hơn?

25) GIỚI CHO Y RỒI LẤY LẠI

(01:28:01) 25. Giới cho y, giật lấy lại.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật còn tại vườn ông Cấp Cô Độc, Bạt Nan Đà trước cho đệ tử của Nan Đà một pháp y, sau nhân bảo cùng đi không chịu đi bèn sân hận, cưỡng lại lấy y. Đức Phật nhân đó mà kiết giới.

Ông này có một đệ tử, cho nên khi ông nuôi đệ tử ổng, ổng cho cái vị đệ tử ổng một cái bộ y, sau đó bảo cái vị đệ tử đi với ổng. Ông này bộ đi cũng xấu hổ cho nên ổng không dám, không thèm đi, tức mình quá ổng giận quá ổng lấy cái y lại: “Mày mà không đi với tao, tao lấy y lại cho mày còn y đâu mà đi!” Đó thì cái ông thầy này chơi cũng ngọt thiệt, cho đệ tử cái bộ y rồi bắt đầu giựt trở lại: “Tại mày không đi tao lấy lại!”

Do đó đó, Phật mới nhân cái chuyện đó mới chế cái giới cấm ổng, làm cái chuyện đó là ông phạm tội Ác Tác, ông phải - phạm cái tội phải sám hối đó, cho người ta rồi cướp lại đó, thì không có được.

Ở đây giới cho y rồi sau giựt lại đó, bắt buộc cái tội đó như vậy. Ông cho người ta rồi ông biểu người ta đi với ông để đến xin Phật tử nữa, thì cái chuyện đó là ông làm cái chuyện đó không phải rồi, ông học trò không chịu đi ổng giựt cái y lại: “Mày không đi, tao lấy y lại!” Cũng cái ông này!

26) GIỚI DÙNG THUỐC QUÁ 7 NGÀY

(01:29:16) 26. Giới dùng thuốc quá 7 ngày.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật vẫn ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, các Tỳ Kheo bị gió mùa thu sanh bệnh, hình thể khô táo, lại mọc ghẻ dữ. Phật cho phép uống 5 loại thuốc: tô, dầu, sanh tô, mật (, đường mía).

Các Tỳ Kheo do không được ăn phi thời, phần nhiều không ăn kịp, bệnh càng tăng. Thế Tôn cho phép Tỳ Kheo bệnh được ăn kịp thời và phi thời. Các Tỳ Kheo lại do được ăn phi thời cho nên bỏ những thức ăn béo, ngon, của thừa lại. Phật lại dạy cho phép các người bệnh được ăn thức ăn còn dư.

Nghĩa là trong khi bệnh đau Đức Phật chế cái giới cho mấy ông ăn phi thời. Lúc bấy giờ mấy ông được cái phép ăn phi thời rồi thì cái bữa trưa đó ông ăn cái bắt đầu ổng để lại để còn dư đó cái chiều ông ăn nữa.

Chiều thì mấy ổng uống chỉ có nước mật hay hoặc này kia đồ, cháo đồ chút ít, mấy ổng lại thấy buổi chiều mà còn thêm thịt thà hay hoặc là đồ ăn đồ nữa thì lại khoái nữa, cho nên trưa mấy ổng ăn, còn bao nhiêu ổng để dành lại để chiều ổng ăn. Phật cho mấy ổng ăn cái đồ dư đó cho nên mấy ổng để lại.

Dư là từ người khác nhận rồi ăn, hoặc không ăn đến ngày kế thì gọi là dư. Khi ấy các Tỳ Kheo ăn tiểu thực buổi sáng rồi vào thôn khất thực, ăn đủ rồi về lại trong tăng già lam dùng thức ăn buổi sáng cho các Tỳ Kheo. Tỳ Kheo ăn rồi không dám ăn nữa nên vứt bỏ. Phật dạy: “Nếu thọ bữa ăn tiểu thực buổi sáng rồi, hay ăn xong, cho phép làm pháp dư thực để ăn lại.”

Pháp làm phép dư thực này: “Thưa Đại đức, tôi đã ăn xong. Ngài xem đây, biết đây.”

Đó là - thiệt ra chế cái giới này Thầy thấy thiệt là phi pháp, hết sức là phi pháp.

Nghĩa là khi ăn rồi, rồi bây giờ ăn nữa thì làm cái pháp để mà ăn thêm nữa, thì như vậy là rõ ràng là Đức Phật chế một cái giới này để lợi dụng vào những cái người có bệnh, rồi sau khi bệnh rồi họ bắt đầu họ cũng ăn phi thời nữa, rồi bắt đầu các vị Tỳ Kheo ăn tiểu thực buổi sáng rồi buổi chiều lại nói đau bệnh rồi lại ăn thêm nữa, thì tất cả như vậy là ăn ba bữa như thế gian rồi, còn cái thứ gì đâu mà gọi là tu!

Chế cái giới này ra thì kể như là Thầy nói thôi là tu sĩ hết rồi, đâu còn gì nữa. Mượn cái cớ bệnh để rồi phá cái giới, rất là rõ ràng.

Như vậy là chế giới để rồi phá giới, mà phá giới tức là không ly dục ly ác pháp, làm cho cái người tu sĩ càng ngày càng chạy theo trong cái dục lạc ăn ngủ mà không còn có sự tu tập được nữa.

Vậy cho nên chế cái giới này ra làm cho cái sự ăn uống đó nó bớt đi cái tội, nó không còn cái tội nặng mà chỉ là cái tội sám hối nhẹ mà thôi.

27) GIỚI QUÁ TRƯỚC HẠN CẦU ÁO TẮM MƯA

(01:32:17) 27. Giới quá trước hạn cầu áo tắm mưa.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật còn ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, Tỳ Xá Khư Mẫu sai người giúp việc đến thỉnh Phật và tăng. Gặp lúc trời mưa lớn, Phật cho phép các Tỳ Kheo tắm mưa. Người giúp việc đến trong tăng già lam từ xa thấy các Tỳ Kheo lõa lồ, tưởng là ngoại đạo, trở về báo cáo với Khư Mẫu. Khư Mẫu bảo trở lại thỉnh Phật và tăng đến nhà thí chủ.

Thọ cúng xong, Khư Mẫu liền phát nguyện xin Phật cho phép cúng thức ăn cho các khách Tỳ Kheo, cúng thức ăn cho các Tỳ Kheo đi xa, cúng thuốc cho các Tỳ Kheo bệnh, cúng thức ăn cho các Tỳ Kheo bệnh, cúng thức ăn cho người nuôi bệnh, cúng cháo cho các Tỳ Kheo, cung cấp áo tắm mưa, Đức Phật đều chấp nhận.

Lúc bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo cả bốn thời xuân, hạ, thu, đông thường tìm cầu áo tắm mưa đem dùng vào việc khác, hiện dù sẵn có áo tắm mưa vẫn lõa hình tắm. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Ngài nhân đó mà kiết giới.

Nghĩa là khi mà ở bên Ấn Độ lúc bấy giờ đó nó không phải như chúng ta đâu, có khi mà các vị Tỳ Kheo cũng phải xuống sông tắm, cho nên khi mà tắm thì phải có cái áo quần mặc cho nó kín thân rồi mới tắm. Cũng như trời mưa vầy đó, thì muốn tắm nó đâu có phải như phòng tắm kia, cho nên phải mặc cái áo tắm mưa, tức là mặc cái áo cho nó kín thân rồi mới tắm.

Thì như vậy, nó có nhiều cái mà Thầy nói theo cái thời trước không hiểu như thế nào. Người ta muốn tắm giặt hay hoặc là một cái điều gì đó mà nhất là cái người tu sĩ thì càng phải giữ gìn cái thân thể chúng ta rất kín đáo, cho nên ít ra chúng ta cũng phải có lá cây hay cái này kia chúng ta dựng cái phòng tắm, đó thì nó mới tiện.

Còn đằng này trời mưa cái chạy ra sân tắm cũng như con nít vậy đó thì thôi Thầy nói còn cái gì nữa? Mà nguyên là mấy cái ông tăng thì không các con nghĩ sao? Mà đây rõ ràng là cái người của cái bà Khư Mẫu là bà cúng dường cái khu đất này, đứng ở xa thấy toàn là một đám tăng chạy ra trời mưa tắm thì còn cái thứ gì?

Mà nói thì Thầy tưởng tượng ra cũng như hồi Thầy còn mới con nít mới lớn, trời mưa mừng lắm, chạy ra tắm, mà cả một xóm thì bao nhiêu đứa con nít, năm mười đứa con nít chạy tắm theo mấy cái giọt nhà vầy tắm, thì các con thấy như là con nít thì đâu có nghĩa gì nữa!

Cho nên vì vậy mà chư tăng tắm cái kiểu này thì Thầy thấy…​ Cho nên cái bà Khư Mẫu này bả mới cúng dường cho những cái áo tắm, thấy mấy cái vị này ở truồng như vậy mà chạy tắm như con nít vậy thì làm sao, cho nên mới phải cúng dường. Nhưng mà Lục Quần Tỳ Kheo lại lấy cái này sử dụng cái khác, do đó Phật mới chế giới. Đó.

Tất cả những cái này Thầy không biết hồi xưa sao, Thầy cũng không biết sao, họ già rồi mà họ còn chạy tắm trời mưa, thấy trời mưa mừng! Cho nên Thầy không hiểu, bởi vì cái thời đó không hiểu sao hết!

Mà giới này Thầy thấy thiệt ra nó chế sao mà vô lý, quá là vô lý rồi. Bởi vì ít ra con người ta nó phải có cái đầu óc như thế nào, cho nên muốn tắm giặt dù là sông suối ở chỗ nào đi nữa nó cũng phải có những cái gì để cho người ta - nhất là cái người tu sĩ mà Phật đã dạy những cái oai nghi.

Các con thấy khi mà nằm cái y người ta cũng vẫn giữ cái thân của người ta rất kín đáo mà, đâu có để bày da bày thịt, thế mà đi tắm như vậy thì thử hỏi còn cái gì nữa!

Đó, những người mà phạm phải cái tội như vậy đó thì tội Xả Đọa, tội Ác Tác, nếu mà làm sai thì phạm vào những cái tội đó.

28) GIỚI QUÁ THỜI CHỨA Y CẤP THÍ

(01:35:49) Giới 28:

Còn hai cái giới nữa là 30 cái giới Tăng Tàn (Xả Đọa) là chúng ta đã hết, vậy thì ráng hết mấy cái giới này rồi chúng ta sẽ nghe băng.

28. Giới quá thời chứa y cấp thí.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật tại nước Tỳ Lan Nhã, hạ an cư xong cho phép các Tỳ Kheo nhận y mùa hạ. Lúc bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo tất cả thời xuân, hạ. đông thường xin y, an cư chưa xong cũng xin y, cũng nhận y. Khi ấy Bạt Nan Đà an cư ở trụ xứ này rồi, nghe trụ xứ khác đến an cư cũng xin y, bèn tới trụ xứ đó cũng nhận rất nhiều y.

Cũng như bây giờ ở cái chùa Thầy đây, bây giờ cũng an cư. Sau cái mùa an cư này người ta cúng y cũng nhận, rồi nhận ở đây 13 thì ở kia nghe 18 cái chúng ta chạy lại đằng kia chúng ta cũng xin an cư, ở đẳng cúng y chúng ta cũng nhận, ở đằng kia 20 người ta cũng giải hạ, thì mình nghe cái hạ đằng kia nó tới 20 nó giải thì ở đây mình xả, giải hạ đây rồi cái mình lại cái kia nữa. Như vậy chạy tứ tung binh tàng để tìm y, thì do đó thì rõ ràng là ở cái kiểu này chớ không có gì hết.

Cũng như ở đây 12 là xả hạ, thì ở kia 13, thì ở đây xả rồi mấy ông thầy đi lại chỗ kia, rồi lại chỗ nọ, cho đến khi tới 20 mà xả hạ hết, bao nhiêu cái trường hạ đều là mấy ổng đến để người ta cúng dường y hết. Mấy ông này chỉ đi tìm y chớ đâu phải là tìm giải thoát!

Đó là những giới luật mà cấm đi xin y, cấm kêu là xin y đó. Người nào mà đi xin như vậy đó, gọi là tội Xả Đọa và tội Ác Tác.

29) GIỚI THÁNG CA ĐỀ RỜI Y QUÁ 6 ĐÊM

(01:37:34) 29. Giới tháng Ca Đề rời y quá 6 đêm.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc, các Tỳ Kheo hạ an cư xong còn một tháng hậu an cư (Ca Đề), ngày 16 tháng 7 đến rằm tháng 8 là nơi a lan nhã có nhiều bọn cướp giật y. Các Tỳ Kheo sợ sệt, đều đến nơi tịnh xá Kỳ Hoàn.

Phật dạy: “Các Tỳ Kheo ở chỗ a lan nhã có nghi ngờ, nhiều sợ sệt, trong ba y được một y lưu trong nhà dân.”

Bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo bèn gởi y trong nhân gian để đi du hành. Phật kêu họ quở trách, rồi họp tăng, kiết giới.

Vì ở trong cái thời Đức Phật nó có những cái bọn cướp, nó hay lấy y phục của chư tăng lắm, cho nên vì vậy mà Đức Phật bảo họ nên gởi những cái y thượng của mình cho những cái người cư sĩ họ cất giùm, sau khi mình đi rồi thì những người cư sĩ họ tìm đến họ giao lại cho mình, hơn là mình mang đi. Thì người tu sĩ của mình thì người ta giựt thì mình chịu thôi, còn người cư sĩ họ đi có thể cả đoàn, cả đoàn, họ bảo vệ được, do đó cho nên mới gởi như vậy.

Do lợi dụng cái đó thì Lục Quần Tỳ Kheo họ lợi dụng cái chỗ đó đó, họ đi cái chỗ hạ này hạ kia, họ có nhiều y họ cũng đem họ gởi hết, rồi do đó họ gởi để mà cho họ rất nhiều y đó. Do Phật mà biết được, Phật chế cái giới mà họ rời y quá 6 đêm thì bị tội Xả Đọa, bị tội Ác Tác.

30) GIỚI ĐEM CỦA TĂNG GIÀ VỀ MÌNH

(01:39:05) 30. Giới đem của Tăng Già về mình.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, có một cư sĩ muốn cúng Phật và tăng rất nhiều đồ trai phạn và y vật. Tỳ Kheo Bạt Nan Đà đến nhà cư sĩ ấy nói: “Vấn đề dâng cúng chúng tăng nhiều lắm. Ông nên cúng thức ăn cho chúng tăng, còn y có thể cho tôi”.

Ông đó ổng giành y à, ông ham y lắm!

Cư sĩ thuận theo ý. Sáng hôm sau chúng tăng đến thọ thực, cư sĩ thấy các Tỳ Kheo oai nghi tề chỉnh đầy đủ, liền nói lớn rằng: “Tại sao chúng tăng nghiêm chỉnh thế này mà tôi không được cúng y?”

Các Tỳ Kheo hỏi. Biết rõ vấn đề, Đức Phật vì nhân đó mới kiết giới.

Bởi vì ông Bạt Nan Đà này ổng đã đón trước rồi: “Cúng đồ ăn thôi, còn bao nhiêu y thì cúng cho tui cất đi, chớ còn đừng có cúng cho mấy ổng!”

Do đó thì khi mà thấy Tỳ Kheo đến tề tựu để mà thọ thực, người nào cũng oai nghi tề chỉnh, mà sao không có cúng y cho người ta trong cái hạ như vậy, mà ra hạ rồi mà không có y áo gì cúng cho người ta hết, cho nên mới hỏi ra thì mới biết rằng ông Bạt Nan Đà ổng đã cản mũi trước rồi.

Do đó Phật mới kiết giới này để cho người nào mà phạm cái giới này, thì đương nhiên là phạm vào cái tội Xả Đọa và cái tội Ác Tác. Vì vậy mà cái người nào mà cản những cái sự cúng y áo như vậy là bị cái tội đó.

Đến đây là 30 cái tội Xả Đọa, 30 cái giới Xả Đọa đó, mà chúng ta đã học xong.

2- NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHO NGƯỜI MỚI TU TẬP

(01:40:37) Trước khi học cái giới bổn, hôm nay Thầy nhắc lại. Vì có một thầy đến xin Thầy ghi lại cái bảng tóm tắt cho cái sự tu tập mình ở lúc cái ban đầu, nhân cái dịp thì Thầy ghi rồi Thầy cũng ghi lại ở trong băng để cho nó không có quên. Quý thầy nhớ kỹ:

Người mới tu tập phải sống ba hạnh:

Nghĩa là mới vào tu tập theo đạo Phật thì chúng ta phải sống ba cái hạnh:

1. Ăn;

2. Ngủ;

3. Độc cư, sống trầm lặng.

Kế đến phải lập ba đức:

1. Nhẫn nhục;

2. Tùy thuận;

3. Bằng lòng.

Hằng ngày quán xét thân tâm, xa lìa các ác pháp, tăng trưởng các pháp lành.

Cái người mới tu thì chúng ta phải thường xuyên học Thập Thiện, biết Thập Ác để mà chúng ta xa lìa các pháp ác mà tăng trưởng các pháp lành. Kế đến thì chúng ta hãy dứt bỏ các thói quen, tật xấu, tứ đổ tường như rượu chè, bài bạc hay hút sách…​ tất cả những cái tật xấu đó, hay hoặc là cái tâm mà hay thích dâm dục, thì phải từ bỏ tất cả cái tật xấu đó hết thì mới có thể đi vào con đường của Đạo Phật mới được.

Kế đến thì tu tập các loại định:

1. Định Sáng Suốt giữ tâm thanh thản, tâm vô sự.

Đó là cái thứ nhất mà cái người mới tu thì nên tu tập cái Định Sáng Suốt giữ tâm thanh thản, tâm vô sự.

Cái thứ hai là:

2. Chánh Niệm Tỉnh Giác Định;

Tu tập cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức đó, đó là cái thứ hai, nhưng mà phải đi kinh hành, tức là nương vào cái đi kinh hành mà tu tập.

(01:42:28) Cái thứ ba đó:

3. Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên Bốn Tâm Vô Lượng;

Phải thực hiện ở trên cái Bốn Tâm Vô Lượng Từ, Bi, Hỷ, Xả mà tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên cái Bốn Tâm Vô Lượng đó. Nghĩa là hằng ngày chúng ta, lúc nào chúng ta cũng phải tập tỉnh giác ở trên bốn cái Tâm Vô Lượng Từ, Bi, Hỷ, Xả của chúng ta.

4. Chánh Niệm Tỉnh Giác trong hơi thở;

Quý thầy chắc biết Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong hơi thở chớ gì? Tức là lấy cái hơi thở bình thường, không được thở dài, thở ngắn, mà phải dụng cái hơi thở bình thường đó, rồi cái sức tỉnh thức của chúng ta ở trên cái hơi thở, cái niệm của hơi thở: Hơi thở vô tôi biết vô, mà hơi thở ra tôi biết ra đó. Đó là cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên cái hơi thở.

5. Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong mọi công việc làm.

Chúng ta làm cái gì thì chúng ta phải ý tứ ở trong công việc đó. Thường thường thì chúng ta phải nhắc cái tâm của mình ở trên cái pháp hướng, nhắc cái việc làm mình đang làm đó để cho cái nó tâm nhớ cái việc làm đó mà nó không có quên, nó không có sanh ra vọng tưởng hay hoặc là vô ký.

6. Chánh Niệm Tỉnh Giác trong ăn cơm;

Trong khi mà đang ăn cơm chúng ta cũng phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong khi đang ăn cơm. chớ không phải là tỉnh giác ở trong các hành động khác rồi ăn cơm ngồi đó ăn cứ lo ăn đó mà không có tỉnh giác là sai, hay hoặc là ngồi đó đi tìm món ngon, món ăn dở đo, thì sai, mà phải tỉnh giác từng cái món ăn mà chúng ta bỏ từng ở trong miệng, khi nhai, khi nuốt đều là phải tỉnh giác hết.

Đó là tỉnh giác ở trong khi ăn cơm.

7. Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong giấc ngủ.

Chúng ta cũng phải tập tỉnh giác ở trong giấc ngủ, như vừa rồi Thầy dạy: Ngủ mà không mộng mị đó là tỉnh giác ở trong giấc ngủ đó.

8. Chánh Niệm Tỉnh Giác đối với các pháp.

Đối với các pháp như người ta mắng, người ta chửi mình, hay hoặc là các cái pháp đến làm cho tâm chúng ta ham muốn, hay lôi cuốn tâm chúng ta đi vào cái chỗ mà say mê, thì chúng ta phải tỉnh giác các pháp để chúng ta ngăn chặn cái tâm ham muốn của chúng ta, để chúng ta tránh được sự tham ưu, đau khổ của cuộc đời. Vì các pháp nó sẽ đem đến cho chúng ta nhiều sự đau khổ, cho nên chúng ta cũng phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác ờ trên các pháp.

9. Chánh Niệm Tỉnh Giác khi tiếp chuyện.

Nghĩa là khi mà nói chuyện với ai thì chúng ta nên Chánh Niệm Tỉnh Giác khi tiếp chuyện, người đó nói đúng nói sai chúng ta cũng phải tỉnh giác chớ không phải là nghe người ta nói có lý rồi chấp nhận rồi thành ra cái kiến chấp, thành ra cái tà kiến mất đi, cho nên chúng ta không còn thấy cái đúng cái sai nữa.

Cho nên khi mà tiếp chuyện thì chúng ta cũng phải tỉnh giác ở trong khi tiếp chuyện với người khác.

10. Chánh Niệm Tỉnh Giác khi tu tất cả các loại định.

Nghĩa là chúng ta tu cái gì chúng ta cũng phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên cái hành động đang tu, chớ không phải nói: “Tui tu cái đó rồi tui biết cái đó thôi”, thì không phải. Chúng ta phải tỉnh giác, coi cái sự tu đó nó có xảy ra cái gì.

(01:45:08) Thí dụ như bây giờ mình đang dùng cái hơi thở, mình hướng để mình tịnh chỉ Tầm Tứ để mình nhập Nhị Thiền, mà bây giờ cái hơi thở đó nó sẽ đứng đó mà nó không chậm nữa, hay hoặc là nó không nhẹ nữa, thì mình phải tỉnh giác ở trong những cái đó để cho mình thiện xảo mình vận dụng như thế nào, hoặc là mình hướng tâm như thế nào để cho nó đi sâu hơn, hoặc là nó phải đi ra như thế nào.

Đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong khi tu các loại pháp như Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, hoặc là cái định Hiện Tại An Lạc Trú, nhập từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền chúng ta đều phải tỉnh giác hết.

Đó là cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định là cái vấn đề rất là quan trọng mà người mới tu thì phải tập cái này rất nhiều.

Kế đến chúng ta tu tập Định Vô Lậu:

Cái Định Vô Lậu thứ nhất:

1. Đặt niệm thân trước mặt, quán vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh;

Lấy cái thân của chúng ta đặt rồi chúng ta xem xét, quán xét từ đầu đến chân, từ chân đến đầu coi nó bất tịnh như thế nào, coi nó vô thường như thế nào, coi nó khổ như thế nào, coi nó vô ngã như thế nào, để cho nó thấu suốt, nó chứng được cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã của nó, và bất tịnh.

2. Đặt niệm thực phẩm ăn trước mặt, quán bất tịnh;

Hằng ngày chúng ta vì cái ăn mà chúng ta có sự tham đắm ở trong đó, do đó chúng ta hãy đặt cái niệm thực phẩm trước mặt của chúng ta mà quán xét.

Chừng nào mà thấu cái lý chúng ta thấy rằng thực phẩm bất tịnh, chúng ta không còn thích ăn nó nữa, ăn để sống như một cái liều thuốc thì chừng đó chúng ta không có tu nữa. Nhưng mà bây giờ chúng ta còn thấy thèm, thấy muốn ăn cái ngon, cái dở, thì lúc bấy giờ đó chúng ta phải cần đặt niệm để mà quán triệt, để mà xả cái lậu hoặc vì cái ăn.

3. Đặt niệm sắc dục trước mắt, quán bất tịnh, quán rắn độc, quán khổ;

Tức là chúng ta sẽ đặt cái niệm sắc dục trước mặt của chúng ta để chúng ta quán nó bất tịnh, quán rắn độc, quán khổ. Chừng nào nó thấm cái lý, nó làm cho cái thân của chúng ta không tràn tinh, không xuất tinh, không mộng mị nữa thì đó là chúng ta đã đạt được cái quán vô lậu của sắc dục.

4. Đặt niệm danh trước mặt, quán vô thường, khổ, nguy hại như cọp dữ;

Chúng ta thấy cái danh coi vậy chớ nó cũng rất khó, vì nghe người ta khen là mình mừng, nghe người ta chê là mình buồn, đó là cái danh, chứ chưa nói là cái sự mà chúng ta làm ông này bà kia, hay hoặc là đỗ cấp bằng này cấp bằng kia, nó đều làm cho chúng ta có cái chạy theo của cái danh.

Cho nên do đó mà chúng ta đặt cái niệm danh trước mặt để chúng ta quán, thấy nó vô thường, nó đem đến sự khổ, nó nguy hại cho đời sống chúng ta, nó giống như là cọp dữ. Đó thì chúng ta phải đặt cái niệm đó để quán xét cho thấu suốt, để cái danh nó được xả đi, nó không còn ở trong tâm chúng ta nữa.

5. Đặt niệm lợi trước mặt, quán vô thường, khổ, nguy hại như thuốc độc, như rắn độc;

Chúng ta phải đặt cái niệm lợi như tiền bạc, châu báu, hay hoặc là nhà cửa, xe cộ, chùa chiền, tháp to tháp lớn gì đó, tất cả mọi cái chúng ta đặt rồi chúng ta quán xét để chúng ta thấy nó là như thuốc độc, nó có thể giết chúng ta hồi nào cũng có thể được, nó như rắn độc, nó có thể cắn chúng ta hồi nào cũng được.

6. Đặt niệm hôn trầm, thùy miên, quán tối tăm u mê, ngu muội, lười biếng, hèn nhát;

Chúng ta phải đặt cái niệm hôn trầm, vì hầu hết là Thầy thấy cái vần đề hôn trầm thùy miên rất là khó. Phải đặt cái niệm đó, rồi quán xét, rồi tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Thức, trong khi ngủ phải tỉnh thức, thì do đó nó mới phá được cái hôn trầm thùy miên. Chớ không khéo thì cái bệnh hôn trầm thùy miên là bệnh si này rất là nguy hiểm, nó làm chúng ta không có cái tri kiến, không có cái tri kiến giải thoát được.

(01:48:47)

7. Đặt niệm tham trước mặt, quán khổ, nguy hiểm, tai hại, nghèo khổ, bần cùng;

Cái niệm tham của chúng ta thì chúng ta đặt nó trước mặt để chúng ta quán xét, quán cái tham coi từ đâu đến, nó do đâu mà có, mà làm chúng ta khổ suốt cả đời chúng ta.

Rồi từ cái tham đó, nó hễ có cái này rồi nó đòi hỏi tới cái khác, nó tham tới cái khác, một đồng nó muốn mười đồng, mười đồng muốn trăm đồng đó, thì cái tham nó cứ từng bước nó lên, nó leo thang lên chớ nó không có dừng lại. Do đó chúng ta thấy càng tham thì càng khổ, vì vậy mà chúng ta phải quán xét để phá cái tâm tham của chúng ta nó trở thành vô lậu.

8. Đặt niệm sân trước mặt, quán khổ, hung dữ như cọp, như rắn độc, hại mình, hại người;

Chúng ta phải đặt cái niệm sân, vì cái niệm sân nó làm chúng ta rất khổ đó, do đó chúng ta phải quán xét cái niệm sân và dùng cái pháp hướng để đoạn dứt nó đi.

Nói chung là mỗi cái niệm mà chúng ta đặt đây đều là chúng ta phải có một cái pháp hướng. Sau khi chúng ta quán xét xong rồi thì chúng ta kế tiếp bồi một cái lệnh truyền tạo cho thành một cái lực để mà đoạn dứt nó, đoạn dứt những cái tâm đó, do đó nó nhờ cái pháp hướng đó mà nó sẽ đoạn dứt nhanh chóng hơn.

Quán là chúng ta thông suốt, thấu suốt được cái lý của nó đúng để chúng ta không còn cái tâm đó nữa, nhưng dù sao chúng ta phải có một sự truyền lệnh làm chủ, thì cái pháp hướng đó nó giúp chúng ta sẽ làm chủ được.

9. Đặt niệm kiêu mạn trước mặt, quán vô thường, khổ, vô ngã;

Cái tâm kiêu mạn, cái tâm ngã mạn của chúng ta - thường thường là ai cũng có cái ngã, thấy mình hơn người một chút là mình thấy có cái ngã rồi, nghe người ta khen mình là mình nở mũi rồi, đó là cái ngã, nghe người ta chê mình, mình buồn, đó là cái ngã của mình.

Vì vậy mà tất cả những cái này chúng ta phải đặt cái niệm đó trước mặt để từng dùng cái Định Vô Lậu mà quét sạch cái tâm kiêu mạn của chúng ta ra khỏi cái tâm của chúng ta.

10. Đặt niệm nghi trước mặt, quán về cái niệm nghi đó.

Quán cái tâm nghi của mình đó, nó hay sanh những tội lỗi và do đó mà đời sống của chúng ta - cái nghi đó nó sẽ làm cho chúng ta nhức đầu.

Thí dụ như mình nghi vị thầy mình tu chưa chứng, nghi vị thầy mình như thế này thế khác. Mà mình không có đủ sức mà mình dò xét cái vị thầy mình, coi như thế nào là người giới hạnh, giới đức, giới tuệ như thế nào, mình chưa đủ sức quán xét, nhưng mà mình sống gần một vị thầy mình mà mình vội vàng mình nghi thì chưa đúng, mình hãy còn xem xét.

Cho nên nghi không phải là nghi thầy mình không, mà nghi tất cả những cái sự kiện khác. Thấy hai người nói to nhỏ nhau, không biết họ nói xấu mình gì đó, mình nghi người ta nói xấu mình, thì do đó là cái nghi. Vì vậy mà mình phải đặt cái niệm nghi mình phá đi, từng đó mình không có nghi ai nữa hết thì tâm mình mới được giải thoát, mới hết lậu hoặc.

(01:51:25) Đó là ở đây nó có 10 cái điều kiện để tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và 10 cái điều kiện để tu cái Định Vô Lậu. Đây là cái sự tóm lược của Thầy, chớ nó còn biết bao nhiêu, có thể nó từ cả trăm cái điều kiện mà chúng ta có thể chúng ta đặt cái niệm trước mặt mà chúng ta tu tập.

Hằng ngày, nếu chúng ta hằng ngày chúng ta thấy cái tâm của mình ở cái góc độ nào thì mình nên lấy cái góc độ đó, mình đặt cái niệm ra mình tu, mình thấu triệt được cái góc độ đó thì nó sẽ phá được cái tâm vô lậu của mình.

Và hằng ngày mình làm những công việc, hay hoặc có những duyên sự gì đó thì mình lấy cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác, mình đặt cái sự hành động của mình ngay cái chỗ đó mình tu tập, thì nó sẽ ngay cái đặc tướng riêng biệt của mình, thì nó đem lại cái kết quả tốt cho cái sự tu tập của mình, nhanh chóng và tỉnh táo nhất.

Và đồng thời thì Thầy thấy qua cái sự tu tập thì Thầy thấy các thầy nên tập tỉnh thức ngay ở trong giấc ngủ của mình, phá cái niệm si trước tiên để chúng ta không còn có Vô Minh thì cái Minh nó thể hiện được, thì cái trí tuệ mà thể hiện được thì tu cái Định Vô Lậu rất là nhanh chóng, vì cái tri kiến giải thoát chúng ta phát hiện, chớ không phải là cái tri kiến suông.

Vì cái tri kiến suông là cái tri kiến được huân học của kinh sách, của các thầy, nhờ đó mà chúng ta làm cái điểm tựa thôi. Còn trái lại cái tri kiến giải thoát của chúng ta được phóng ra được thì đó là phải nhờ cái sức tỉnh thức mới có phóng ra được.

Như vậy là quý thầy ghi tạm thời có 10 cái điều kiện để tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, và 10 cái điều kiện mà tu tập cái Định Vô Lậu. Bây giờ Thầy xin trả lại cuốn tập cho cư sĩ./.

HẾT BĂNG

40 - ĐẠT ƯỚC NGUYỆN NHỜ THÀNH TỰU GIỚI LUẬT - GIỚI ĐỌA 01

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 40 - ĐẠT ƯỚC NGUYỆN NHỜ THÀNH TỰU GIỚI LUẬT - GIỚI ĐỌA 01

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- ĐẠT ƯỚC NGUYỆN NHỜ THÀNH TỰU GIỚI LUẬT

(00:03) Trước khi mà học tiếp cái giới bổn thì Thầy thấy có một cái bài kinh ở trong cái Kinh Trung Bộ, cái bài kinh số 6, kinh Ước Nguyện, Thầy thấy cái bài kinh này nó nhắc đến mọi cái điều kiện mà chúng ta ước muốn một cái điều gì đó, thì cần thiết cái điều kiện là chúng ta phải thành tựu, phải viên mãn được cái giới luật.

Cho nên ở đây học giới luật thì Thầy sẽ đem cái bài kinh này ra để chứng minh cho Phật nhắc nhở các vị Tỳ Kheo trong thời Đức Phật…​ (Mất tiếng)

Thầy nhận xét thấy cái bài kinh Ước Nguyện của Phật, trang 79, Kinh Trung Bộ Tập 1, của Tạng Kinh Việt Nam, do thấy cái bài kinh đó nó nhằm để chỉ dạy cho chúng ta thấy cái giới luật nó rất là quan trọng trên con đường tu tập của chúng ta. Đối với cái sự giải thoát thân tâm và làm chủ sanh tử thì giới luật rất là quan trọng đối với cái người tu tập.

Bây giờ quý thầy sẽ nghe cái lời Phật dạy, Thầy sẽ đọc lại nguyên bổn của kinh để quý thầy thấy đây là cái lời khuyên của Phật trong cái thời Đức Phật còn tại thế:

Này các thầy Tỳ kheo, các thầy hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới.

Đó thì Đức Phật khuyên chúng ta vào giới thiệu về cái giới luật, thì Đức Phật đã giới thiệu cho chúng ta biết cần phải trau dồi, học tập và rèn luyện cái giới luật để mà chúng ta được ly lục, ly bất thiện pháp mà sau này mới có thể nhập được các thiền định.

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện…​

Tức là ước mong mình, ước mong một cái điều gì đó.

…​ “Mong rằng ta được các đồng Phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính và tôn trọng!”

Đó là khi mà - Đức Phật dạy khi mà chúng ta vào tu theo Đạo Phật, muốn cho các vị tu tập trước cũng như sau, đồng một cái pháp môn, đồng Phạm hạnh, mà thương mến kính trọng mình, muốn được như vậy thì Đức Phật Khuyên:

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy muốn ước nguyện được như vậy thì các thầy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì giữ gìn giới luật, nội tâm tịch tĩnh, ly dục, ly ác pháp, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống độc cư tại các trụ xứ yên tịnh, vắng lặng.

Đó thì Đức Phật khuyên chúng ta nên sống độc cư, nên thành tựu các quán hạnh, sống độc cư tại các trụ xứ yên tịnh, vắng lặng. Nghĩa là một người Tỳ Kheo mà tu tập theo cái đạo giải thoát thì không nên sống ở cái chỗ ồn náo như thành thị, nơi mà có đông đúc người, mà phải tìm cái sống yên lặng, độc cư tại các trụ xứ yên tịnh, vắng lặng.

(03:07) Đó thì, đó là cái bài kinh của Phật khuyên chúng ta như vậy, thì chúng ta thích sống như vậy và chúng ta giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh như vậy thì các vị đồng Phạm hạnh chúng ta đều là kính trọng chúng ta.

Còn quý vị sống mà nói chuyện với nhau, tiếp duyên với nhau, rồi bằng cách này bằng cách khác nói chuyện y áo, nói chuyện ăn, nói chuyện mặc, nói chuyện ngủ, nói chuyện nghỉ, nói chuyện tào lao, phiến diện thì chắc chắn là các vị mà người ta có Phạm hạnh người ta không có kính trọng mình đâu, người ta sẽ xem thường mình đó. Mà mình sống đúng hạnh, mình sống đúng giới luật thì người ta rất kính trọng mình.

Đó là cái lời khuyên thứ nhất đối với chúng ta muốn được các bạn, các người đồng tu Phạm hạnh quý trọng mình thì mình hãy giữ gìn giới luật, thọ trì giới luật cho nghiêm chỉnh, và ly dục ly ác pháp. Do cái sự ly dục ly ác pháp này chúng ta thiểu dục ít muốn, cho nên vì vậy đó mà người ta quý trọng mình.

Rồi thiền định thì mình liên tục mình tu tập không có bỏ ngày nào hết, mình tu tập thiền Định Vô Lậu là mình quán được các hạnh làm cho mình thể hiện ra cuộc sống, người ta thấy những cái hạnh của mình rất là tốt, và đồng thời người ta xét thấy qua cái hạnh độc cư của mình, không có nói chuyện với ai hết, do đó người ta quý trọng mình.

Và mình lại còn tìm cái chỗ trụ xứ vắng vẻ, đến cái chùa nào mà yên tịnh, trong rừng, trong núi hơn là ở những cái chùa mà ở thành phố, đó là người ta quý trọng những cái vị tu đó đó. Còn quý vị mà ở thành phố vui chơi hoặc thế này thế khác thì người ta không quý trọng đâu, các vị Phạm hạnh người ta không quý trọng.

Tiếp đến, Đức Phật đã dạy đến:

Này các thầy Tỳ kheo, các thầy có ước nguyện: “Mong rằng ta được các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh!”

Nghĩa là mong cho mình được cái đó để cho đời sống của mình không có đói khổ, không có thiếu thuốc thang khi bệnh đau, thì:

Tỳ Kheo ấy cũng phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì giữ gìn giới luật, nội tâm tịch tĩnh, ly dục ly ác pháp, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống độc cư tại các trụ xứ yên tịnh, vắng lặng.

Đó thì Đức Phật cũng khuyên chúng ta cũng nên phải thực hiện giới luật trước tiên, kiên trì giữ gìn giới luật, mà chúng ta sẽ - khi mà chúng ta giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh như vậy thì cái ước muốn của chúng ta được y phục, được các món ăn, được dược phẩm để trị bệnh đều là ở đâu chúng ta cũng sẽ được đầy đủ hết.

Nghĩa là ước muốn chúng ta sẽ đạt được là khi chúng ta giữ gìn được giới luật nghiêm chỉnh. Chúng ta sống đúng như vậy thì ở đâu cúng ta cũng được đầy đủ, không có thiếu.

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện: “Mong rằng những người cúng dường cho ta vật dụng, y phục, món ăn khất thực, sàng tọa, nhà ở và dược phẩm trị bệnh sẽ được quả báo tốt đẹp, sẽ được lợi ích lớn!”

(06:11) Nghĩa là mình nhận của cúng dường của người ta mọi vật để cho mình sống, mình tu hành được đầy đủ không có thiếu, không có khổ sở trong cái sự thiếu hụt đó, thì cầu cho những người đó đó, ước mong cho những người mà cúng dường cho mình họ được những cái quả báo tốt đẹp và được lợi ích lớn cho họ, thì ước muốn của chúng ta mà muốn cho họ đạt được cái điều kiện đó thì chúng ta phải thế nào?

Phật dạy chúng ta phải giữ gìn cái giới:

…​ phải thành tựu giới luật viên mãn, phải kiên trì giữ gìn giới luật, nội tâm phải được định tĩnh, ly dục ly ác pháp, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống độc cư tại các trụ xứ tịch tĩnh, vắng lặng.

Đó là Đức Phật dạy chúng ta muốn ước nguyện cho người khác cúng dường cho mình được thành tựu cái lợi ích lớn thì mình cũng là một cái người phải thành tựu viên mãn cái giới luật, chớ không thể nào mà thiếu cái thành tựu viên mãn giới luật mà ước nguyện cho người ta được. Đó là cái ý ở trong cái bài kinh này là như vậy.

Cho nên ở đây quý thầy thấy mỗi cái mong muốn của chúng ta, cái gì mà có lợi ích đều là ở trong cái giới luật, cái hạnh của chúng ta sống cho đúng giới luật, thì chúng ta muốn làm sao cho người khác đều là được mãn nguyện cái ý muốn của chúng ta.

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước mong: “Mong rằng những bà con huyết thống với ta, khi họ chết và mệnh chung được tâm định tỉnh, không bị hôn mê, không bị cận tử nghiệp lôi, tỉnh thức đi thoát sanh!” Này các thầy Tỳ Kheo, nếu muốn được như vậy, các thầy phải thành tựu viên mãn giới luật.

Đó là Đức Phật cũng nhắc chúng ta là những vị mà ước muốn cho những người thân của mình, chớ không phải là bảo mình về tụng kinh, cầu siêu, cầu an cho những cái linh hồn đó siêu sanh Tịnh Độ, mà Đức Phật bảo mình phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì cái ước muốn của mình, những người thân mình có chết đi, mạng chung đó, thì họ cũng sẽ đạt được cái ý nguyện của họ, cũng tỉnh thức để không bị những cái cận tử nghiệp lôi đi, không bị những cái hôn mê, trong khi bị chết họ vẫn sáng suốt, tỉnh táo hoàn toàn, khi mà chúng ta giữ gìn giới luật thì chúng ta sẽ ước muốn cái điều đó, bà con huyết thống của chúng ta sẽ đạt được.

Ví dụ như cha mẹ mình, mà trong khi mình tu chưa có thành tựu nhưng mình giữ gìn giới luật và cái lòng ước muốn của mình cha mẹ mình chết đi được tỉnh thức, không có bị mê muội, không có bị cận tử nghiệp lôi đi thác sanh, do đó thì cái ước muốn của mình sẽ thành tựu đối với cha mẹ của mình.

Nó vi diệu như vậy, lời Phật nói như vậy. Thầy tin rằng một vị mà trì giới luật thanh tịnh chắc chắn là cái ước muốn đó sẽ thành tựu được chớ không sai được.

Đó thì đến đây, cái phần kế nữa:

(09:02) Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc thọ chứ không phải lạc và bất lạc thọ nhiếp phục ta, mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục bất lạc thọ, được khởi lên!” Muốn được vậy thì Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật.

Đó thì, cũng là nhắc chúng ta phải thành tựu viên mãn giới luật. Cho nên, thí dụ bây giờ trong khi tu hành chúng ta tu dễ bị cái lạc lắm, cái thọ lạc nó lôi chúng ta lắm, rồi cái thọ bất lạc nó cũng lôi chúng ta lắm, cho nên vì vậy mà chúng ta thấy rất khổ.

Khi ăn miếng ăn đó mà chúng ta thấy nó ngon tức là chúng ta thấy lạc rồi, mà thọ lạc nó làm chúng ta còn thèm ăn nữa. Cho nên muốn nhiếp phục cho nó đừng có lôi mình được, nó đừng có làm cho mình thích nữa, nó không phải là một cái chuyện dễ.

Cho nên ở đây cái ước muốn như vậy đó, thì muốn được như vậy thì chúng ta cần phải viên mãn cái giới luật của Phật, chớ không thể nào mà chúng ta không viên mãn giới luật của Phật mà ước muốn vậy được. Mà giới luật thì nó làm cho chúng ta xa lìa cái đó, xa lìa cái ham ăn, ham uống đó.

Cho nên ở đây Thầy nhắc quý thầy phải nhớ rằng cái lời của Phật dạy là những cái lời vàng, lời ngọc, những cái lời mà chúng ta cần phải thực hiện, bởi vì con đường giải thoát của Phật là người đi trước.

Và Thầy mười năm trong thất Thầy cũng đã sống từng những cái giới luật của Phật rất là nghiêm chỉnh đối với mình, khắc phục với mình, cho nên Thầy biết cái này. Nếu mà hôm nay Thầy có được cái sức thiền định mà làm chủ được cái sống chết của mình, Thầy cũng biết rằng đó chỉ có giới luật chớ không phải là cái gì khác hơn hết.

Cho nên Thầy cứ nhắc các thầy là đạo Phật ly dục ly ác pháp là quan trọng, chớ không phải ngồi mà hít thở mà quan trọng đâu. Cái hít thở đó là phụ mà thôi, nó là mượn cái hơi thở để đi vào nhập cái định, chớ không phải là cái chỗ hít thở, không phải chỗ ức chế tâm mà cái chỗ ly dục ly ác pháp.

Mà chỉ có giới luật của Phật mới ly dục ly ác pháp, còn hoàn toàn ngoài ra làm sao được, làm sao có pháp nào mà làm được! Cho nên ở đây mới thấy được cái quý giá của giới luật của Phật là ở chỗ này.

Tiếp đến, Đức Phật khuyên các thầy Tỳ Kheo:

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các Thầy có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi chứ không phải khiếp đảm sợ hãi nhiếp phục ta! Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên!” Muốn được vậy, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật.

Đó thì, các thầy thấy Đức Phật cũng nhắc chúng ta cũng phải thành tựu viên mãn giới luật thì chúng ta mới khắc phục được cái tâm khiếp đảm của chúng ta, sợ hãi của chúng ta.

Hầu hết là chúng ta ở rừng ở núi, những nơi mà không cơm không gạo, chúng ta sợ đói lắm, sợ rắn độc, sợ hơi độc, sợ khí độc, đủ mọi cách có thể làm chúng ta chết người, chúng ta sợ, chúng ta khiếp đảm lắm.

Nhưng mà khi chúng ta giữ gìn giới luật mà thanh tịnh, viên mãn được giới luật, chúng ta chẳng có sợ cái điều đó đâu. Không sợ cọp dữ mà cũng không sợ rắn độc, cũng không sợ nước độc, khí thiêng gì chúng ta chẳng sợ hết khi mà giới luật chúng ta đã viên mãn.

Đó thì, cái lời của Phật dạy rất là hay và rất là tuyệt. Bởi vậy, giới luật là thầy, là người bảo hộ cho chúng ta tận cùng trên con đường giải thoát. Mà chúng ta cứ xa lìa giới luật, không chấp nhận giới luật thì làm gì cái đời sống chúng ta đạt được đến cái cứu cánh giải thoát được?

(12:15) Đây quý thầy nghe tiếp:

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện: “Mong rằng ta tùy theo ý muốn của ta, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta chứng Bốn Thiền một cách dễ dàng, thuộc về tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú!”

Đó là Đức Phật muốn nói đến bốn cái loại thiền mà chúng ta đang tu tập nương cái hơi thở đó, mà chúng ta quá tu tập khó khăn phải không? Mà phí sức rất nhiều, nhọc nhằn rất nhiều mà chưa chứng được. Thì cái ước nguyện mà chúng ta muốn đạt được bốn cái thiền này thì cái điều kiện mà tiên quyết là chúng ta phải giữ gìn, phải viên mãn, phải thành tựu giới luật.

Muốn được vậy Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật.

Đó thì Đức Phật nói muốn mà nhập được Bốn Thiền thì các thầy Tỳ Kheo cũng phải thành tựu viên mãn giới luật mới có thể dễ dàng nhập mà không có phí sức, không có khó khăn, không có mệt nhọc. Còn nếu không thì chúng ta rất là mệt nhọc, rất là phí sức, rất là khó khăn. Đức Phật nói đúng lắm, bởi vì xét qua chúng ta chưa ly dục hoàn toàn, ly ác pháp hoàn toàn cho nên chúng ta tu thấy vào Bốn Thiền rất là khó.

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy Tỳ Kheo có ước nguyện: “Có những giải thoát tịch tĩnh, siêu thoát sắc giới và vô sắc giới, mong rằng ta có thể cảm xúc với thân và sống an trú cảnh giới ấy!

Nghĩa là cái ước muốn ấy là khi mà cái tâm của chúng ta luôn luôn ở trong cái cảnh sắc giới và vô sắc giới đó, luôn luôn nó được siêu thoát, nó được tịch tĩnh ở trong những cái cảnh giới, tức là cảnh giới thiền định đó.

Nói ở đây, Đức Phật muốn nói rằng cái cảnh giới mà ở trong cái thân này mà chúng ta luôn luôn giữ cái tâm của chúng ta tịch tĩnh, siêu thoát ra ngoài cái thân mà không có - mặc dù chúng ta đang sống ở trong cái sắc giới, và chúng ta đang sống ở trong cái vô sắc giới, khi mà chúng ta lọt vào trong cái trạng thái tưởng thì các cái thân: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý chúng ta hoàn toàn nó ngưng nghỉ, nó không tiếp xúc nữa, giống như cái người ngủ, mà chúng ta cũng vẫn tịch tĩnh, siêu thoát ở trong cái cảnh giới đó, thì như vậy là chúng ta đã vượt qua, coi gọi là chúng ta ly hỷ trú xả, tức là chúng ta đã nhập được Tam Thiền rồi đó.

Ở đây mà chúng ta mong muốn được cái điều này, cái sự mong muốn đó muốn đạt được thì tức là chúng ta phải giữ gìn giới luật phải được viên mãn, chớ còn không phải là thiếu giới luật mà đạt được cái ước muốn đó đâu. Đó thì ở đây chúng ta cũng thấy rằng:

Muốn được như vậy, Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật.

Tiếp tới nữa:

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện: “Mong rằng ta diệt trừ ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, ta chứng được Nhất Lai, chỉ còn trở lại một đời này nữa để đoạn trừ khổ đau!” Nếu muốn được vậy, Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật.

Nó cũng là nhắc chúng ta, bây giờ chúng ta muốn diệt trừ ba kiết sử, ba kiết sử đầu tiên là tham, sân, si chớ gì, mà muốn diệt nó thì chúng ta cũng phải giữ gìn giới luật, chớ còn thiếu giới luật mà muốn diệt tham, sân, si thì chúng ta diệt không nổi đâu.

Ở đây Đức Phật từ cái ước muốn này cho đến cái ước muốn khác, chúng ta thấy tham, sân, si là ba độc, muốn cho nó dứt đi thì chúng ta cũng phải lấy giới luật mà sống thì chúng ta sẽ dứt được nó.

(15:49) Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện: “Mong rằng ta sẽ diệt trừ năm hạ phần kiết sử, ta được hóa sanh, chứng được Niết Bàn ngay tại cảnh giới ấy, không còn trở lại trong trạng thái này nữa.” Muốn được vậy Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật.

Đó Đức Phật cũng nhắc chúng ta muốn diệt trừ năm cái hạ phần kiết sử, tức là tham, sân, si, mạn, nghi nó không còn có nữa đó, thì để chứng được Niết Bàn ở trong cái tâm trạng của chúng ta và lúc bấy giờ chúng ta không còn có thai sanh nữa mà chúng ta được hóa sanh, tức là chúng ta sẽ được sanh vào một cái cõi trời nào đó, cõi trời đó hoàn toàn là hóa sanh chớ không còn thai sanh nữa.

Ngay tại cảnh giới ấy - dù đó là cảnh trời nào thì chúng ta cũng được tự tại hết. Không còn trở lui cái trạng thái này nữa - tức là chúng ta không còn tái sanh ở trong cái thế gian này nữa.

Mà muốn được vậy thì Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật. Cho nên nãy giờ chúng ta thấy giới luật rất là quan trọng, quan trọng cho con đường tu của người tu sĩ.

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện: “Mong rằng ta chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; ta hiện hình các loại cầm thú, biến hình, đi ngang qua vách, qua thành, qua núi như đi ngang qua hư không; ta độn thổ trồi lên ngang qua mặt đất liền như ở trong nước; ta đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ta ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay ta chạm và rờ mặt trăng, mặt trời, những vật có đại oai lực, đại thần lực như vậy; thân ta có thần thông bay đến cõi Phạm Thiên!”

Muốn được vậy Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật.

Dù chúng ta có muốn thần thông được như vậy thì chúng ta cũng phải giữ gìn giới luật, phải viên mãn giới luật. Thì đó là những cái điều kiện mà chúng ta cần phải hiểu, nếu không hiểu thì chúng ta không có giới luật gì hết mà cứ niệm chú, niệm bùa để có thần thông, thì cái đó là không đúng của đạo Phật.

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện: “Mong rằng với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài người, ở xa hay ở gần!"

(18:05) Nếu mình có cái sự ước muốn như vậy thì:

Muốn được như vậy, thầy Tỳ Kheo cần phải thành tựu viên mãn giới luật.

Đức Phật cũng nhắc chúng ta cũng phải thành tựu viên mãn giới luật, chớ còn không có thành tựu viên mãn giới luật thì chắc chắn là chúng ta không đạt được đâu.

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện: “Mong rằng với tâm của ta, ta biết được tâm của các chúng sanh và loài người. Tâm có tham, ta biết tâm có tham. Tâm không tham, ta biết tâm không tham. Tâm có sân, ta biết tâm có sân. Tâm không sân, ta biết tâm không sân. Tâm có si, ta biết tâm có si. Tâm không si, ta biết tâm không si. Tâm chuyên chú, ta biết tâm chuyên chú. Tâm không chuyên chú, ta biết tâm không chuyên chú. Tâm tán loạn, ta biết tâm tán loạn. Tâm đại hành, ta biết tâm đại hành. Tâm không đại hành, ta biết tâm không đại hành, Tâm chưa vô thượng, ta biết tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng, ta biết tâm vô thượng. Tâm thiền định, ta biết tâm thiền định. Tâm không thiền định, ta biết tâm không thiền định. Tâm giải thoát, ta biết tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, ta biết tâm không giải thoát!”

Muốn được vậy, Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật.

Đó, muốn mà mình biết mọi cái tâm niệm của chúng sanh: Bây giờ họ ngồi thiền họ có định hay không định, thì mình phải thành tựu giới luật thì mình mới có được cái biết đó, còn nếu mà không thành tựu giới luật thì chẳng biết gì hết.

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện: “Mong rằng ta nhớ đến các đời quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, vô lượng đời, nhiều kiếp thành kiếp hoại!

Muốn được vậy Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật.

Đó là chúng ta cũng nhớ: Nếu mà chúng ta có cái hiểu biết nhiều đời của chúng ta, tức là Túc Mạng Minh á, thì nếu mà chúng ta muốn có Túc Mạng Minh mà hiểu biết như vậy thì chúng ta cũng phải là giữ gìn thành tựu viên mãn giới luật.

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy ước nguyện: “Mong rằng ta có Thiên Nhãn Minh thấy sự sống chết của chúng sanh!”

Muốn được như vậy, Tỳ Kheo cũng phải thành tựu viên mãn giới luật.

(20:08) Đó là Đức Phật - cuối cùng mà chúng ta có những cái Lậu Tận Minh hay hoặc là có cái Thiên Nhãn Minh đi nữa thì cũng phải giới luật là làm hàng đầu.

Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện: “Với sự diệt trừ các lậu hoặc tận gốc, ta phải có Lậu Tận Minh!”

Muốn được vậy, Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật.

Đó thì đến đây thì ba cái Minh là xong rồi đó, thì chúng ta ước muốn - đi tu mà chúng ta không ước muốn quét sạch lậu hoặc thì làm sao giải thoát, làm sao chấm dứt luân hồi? Cho nên đó là sự ước muốn của chúng ta rồi.

Mà ước muốn như vậy thì chúng ta phải lấy cái gì? Phật khuyên là chúng ta phải thành tựu và viên mãn giới luật chớ không có cái gì khác hơn hết.

Này các thầy Tỳ Kheo, muốn được vậy, bây giờ, ngay lúc này, các thầy hãy sống…​

Nghĩa là muốn được như vậy đó, muốn được những cái ước muốn mà Đức Phật nêu bên trên á, chúng ta muốn được như vậy đó, thì ngay bây giờ:

…​ lúc này, các thầy hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu học các học giới. Như vậy, phàm đã nói gì, chính duyên ở đây mà nói vậy.

Tức là cái đúng ở chỗ giới mà nhắc nhở cho quý thầy thấy được cái con đường mà tu tập theo đúng của đạo Phật là lấy giới luật mà làm đầu.

Bởi vậy Tam Vô Lậu Học, chúng ta thấy học giới tức là cái giới là cái pháp môn học đầu tiên Giới - Định - Tuệ, cho nên giới là phải thành tựu viên mãn thì tất cả những cái khác, Định và Tuệ chúng ta cũng sẽ dễ dàng mà thành tựu được.

Đó thì quý thầy thấy rất rõ chớ? Cho nên ở đây, khi mà học giới nếu mà bỏ cái bài kinh này thì Thầy thấy quá là uổng, không có thể nào mà thiếu được nó! Cho nên bây giờ chúng ta lại tiếp tục ở trên cái bài học giới.

2- CHÍN MƯƠI GIỚI ĐỌA - PHẦN 1

(22:03) Chúng ta tiếp tục giới bổn.

V- Kiết giới Cửu Thập Đọa.

Chín mươi tội đọa, nếu phạm vào một tội nào cũng bị đọa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, ác đạo, nhận lấy cái khổ thiêu đốt, nếu không ân cần sám hối bèn có thể trở ngại cho thiện pháp.

Đó thì chúng ta thấy rằng bây giờ nó tới 90 cái tội đọa. 90 cái tội đoạ này nếu mà nếu chúng ta không có học thì chúng ta không có biết.

Và ở đây mục đích chúng ta học không có nghĩa là chúng ta chấp nhận những cái giới luật ở đây là đúng đắn của Phật đâu. Bởi vì hầu hết khi mà giảng qua những cái giới luật của Phật xong rồi, Thầy thấy hầu như là cái người sau thêm nó không đúng cái giới luật của Phật, nó giảm đi, nó làm cho cái người mà chấp nhận giới đó nó có phạm những cái dục lạc của thế gian, nó có chạy theo những cái dục lạc của thế gian.

Như những giới y đò đó, chế ra để cho nó rộng rãi ra, cho Tỳ Kheo đắm đuối ở trong những cái dục lạc, cái cám dỗ của các pháp thế gian như y, áo, đồ ăn, đồ uống.

Tất cả những cái này đều là do người sau mà chế ra. Cho nên ở đây chúng ta học, bởi vì Thầy không có cái thời gian mà có thể soạn lại những cái kinh giới này đề mà cái nào là của Phật, còn cái nào là của người sau là chúng ta gạt ra.

Vì cái giới luật của Phật là vốn giúp cho chúng ta để đạt được những cái kết quả giải thoát chớ không phải là cái pháp luật, không phải là cái điều lệ mà bắt buộc chúng ta, trói buộc chúng ta bằng cách khô khan, để rồi rộng rãi cho chúng ta hưởng từng giọt dục lạc của thế gian.

Chúng ta thấy quá rõ những cái giới luật của Phật, mà trong cái giới bổn này mà gọi là của Phật á, hầu như là chế đi chế lại, là như là bắt đầu gắt thì không cho chúng ta thọ hưởng cái dục lạc thế gian, sau đó chế lại để cho chúng ta nhỏ từng giọt cái dục lạc thế gian để cho chúng ta thọ hưởng cái dục lạc đó.

Có phải là chúng ta thấy cái giới đó nó không có ly được cái dục lạc, để rồi chúng ta lại chế ra, cái giới đó nó làm chúng ta không hưởng được cái dục lạc của thế gian, rồi rộng ra một chút để chúng ta nhỏ từng giọt hưởng!

Hưởng, thôi thôi thà hưởng hưởng cho sạch, còn không hưởng thì thôi, hưởng chi từng giọt, từng giọt để cho nó thèm khát thêm? Chế giới luật cái kiểu đó làm nhấp nhem, nhấp nhem cho mấy ông tu sĩ càng thèm càng khát thêm nữa chớ làm cái gì!

(24:30) Cho nên Thầy đọc giới luật Thầy phát bực với những cái người mà viết giới mà không thấy được cái pháp của Phật, làm những cái điều sai trái, làm cho con đường của Phật lệch lạc đi. Nghĩa là cái dục lạc của thế gian nó đem chúng ta đi đến cái khổ, thế mà còn nhấp nhem cho nó.

Cứ không cho nó ăn no mà cứ cho ăn đói, cứ một lát nắm một nắm cỏ vầy cho đút vô ở trong cái miệng voi, con voi nó đói gần chết, nó thấy nắm cỏ là nó phát thèm! Lúc bấy giờ cứ nhử nhử như vậy, chế giới rộng rãi mà nhử nhử như vậy có phải chết nó không? Con voi lúc đó bấy giờ nó chết đói bằng cách kiểu đó.

Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu được cái tâm lý con người. Dứt là dứt mà không dứt thì thôi chứ đừng có nhấp nhem, nhấp nhem nữa, cái thứ đó là cái thứ nó còn khổ sở cho người khác nữa. Cho nên hầu hết là cái người phạm giới là vì bị nhấp nhem những cái đó đó mà phạm giới, rồi lén làm tầm bậy.

Cho nên có người thì tới bảy, tám mươi tuổi rồi mà tu hành bảy, tám mươi tuổi rồi, thọ đến cái niên, cái tuổi đạo là sáu, bảy, bốn, năm chục tuổi đạo, thế mà còn cõng một bà vợ thì thử hỏi coi có phải bị nhấp nhem không?

Đó là những cái sai của giới luật để làm cho người ta không có giữ trọn được cái Phạm hạnh của người ta. Cho nên Thầy không có cái dịp rảnh rang mà soạn lại cái giới bổn để làm cho nó đúng cái con đường, để khép cái mình của tu sĩ vào cái khuôn khổ để đi đến cái sự giải thoát hoàn toàn, ly dục, ly ác pháp.

Còn đằng này đọc giới luật gì Thầy thấy thiệt là bày đặt đủ cách đủ kiểu. Có một ông Tỳ kheo mà xách tới xách lui có một ông đó à. Không lẽ ổng phạm một lần, ổng hoảng hồn hoảng vía rồi bây giờ cũng còn phạm hoài à?

Thầy thấy cái đó là cái đặc biệt, cái đó là đặt ra cái điều kiện đó, nói cái ông đó như vậy. Nếu mà một lần phạm thì đã tống cổ ông ra tu viện, còn đâu phạm nữa? Lột chiếc áo ông ra, ông thành cư sĩ còn đâu phạm nữa, mà để ông đó cứ chế giới, chế đi chế lại hoài à.

Rồi cứ phạm giới này cho đến phạm giới khác, cũng có một ông, cũng có mấy ông thôi chớ không có nhiều. Thì mấy ông mà phạm giới như vậy, tống nó ra hết rồi còn đâu nữa mà phạm, đâu nữa mà chế! Đó là những cái sai của giới bổn.

1) GIỚI NÓI DỐI

(26:33) Bây giờ chúng ta học giới thứ nhất:

1. Giới cố nói dối.

Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa khi Phật ở nước Thích Súy Sấu, Ca Duy La Vệ, trong vườn Ni Câu Loại, có Tỳ Kheo dòng họ Thích tên là Tượng Lực có tài nghề đàm luận, mỗi khi cùng với ngoại đạo, Phạm chí nghị luận, nếu bị đuối lý liền nói nghịch lại, phản lại với lời nói trước của mình. Trong chúng tăng, khi hỏi đến cũng nói ngược lại như vậy, trong chúng biết mà vẫn nói không thật. Phạm chí chê hiềm. Phật nhân đó mà kiết giới.

Thật sự ra Thầy thấy cái chuyện này cũng chỉ là chuyện bịa đặt mà thôi. Một cái người mà đã tu hành Phạm hạnh thì đâu có cái chuyện mà Đức Phật đã cấm không có tranh luận với người khác, thế mà ở trong cái tu viện của mình vậy mà ngoại đạo vô đó để cho một vị Tỳ Kheo ngồi mà tranh luận với họ, tranh luận rồi đuối lý!

Phật pháp có cái chỗ nào đuối lý không? Từ khi mà Thầy xét cái kinh điển của Phật, không có một cái ngoại đạo nào mà có thể đến mà cật vấn được Phật hết. Cái gì mà nói không đúng là Đức Phật từ chối không nói, cái đó là nói ngoài cái vấn đề rồi. Mà nói trong cái vấn đề đúng là đem lại cái sự giải thoát cho con người, thì Đức Phật trả lời, mà hoàn toàn là ngoài cái vấn đề đó thì Đức Phật không trả lời, có đâu mà lý luận?

Lại là cái vị Tỳ Kheo này lại lý luận, lý luận với ngoại đạo đuối lý, cũng như người ta hỏi mình: “Từ đâu mà sanh vô minh?” Thì ông này đuối lý rồi. Ổng không thấy cái vòng tròn của Thập Nhị Nhân Duyên cho nên ổng không biết đâu ổng trả lời hết à, do vì vậy đó mà ổng bị đứt đi, vì vậy mà ông đuối lý rồi ông nói ngược nói ngạo, thành ra chế cái giới này nói ổng nói dối.

Sự thật ra nó đâu có cái việc Tỳ Kheo đệ tử của Đức Phật đi lý luận với thiên hạ đâu! Người ta nói không đúng là nói: “Cái đó là ngoài vấn đề của tui rồi. Ông nói hỏi đúng thì tui trả lời, mà hỏi câu hỏi không đúng nhất định là tui không trả lời.” Có đâu mà lý luận với thiên hạ, có đâu mà tranh cãi với thiên hạ?

Còn cái này hầu hết là theo kiểu tu sĩ của mình học ba cái kinh Đại Thừa, học ba cái Thiền Đông Độ, rống họng với nhau mà tranh luận với nhau cho hơn thua với nhau, cho nên mới có lý luận đó chớ, vì vậy nó thuộc về loại 62 lập luận của ngoại đạo mà trong thời Đức Phật đã cho chúng ta biết.

Cho nên bây giờ hầu hết tu sĩ - ngoại đạo hồi trước cũng hay tranh luận, rồi bây giờ tu sĩ của chúng ta bây giờ cũng hay tranh luận như vậy, muốn hơn muốn thua, nhưng mà nhìn cái giới luật của mấy vị ê chề không có ra gì hết, thì quý vị có hơn thua ai?

Cái đời sống của quý vị chẳng bằng ai hết mà quý vị lại còn muốn hơn thua người khác thì hơn thua cái gì? Một đời sống của tu sĩ nó phải ra tu sĩ chứ, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo mà đi tranh luận hơn người ta, nói cái gì cũng cao siêu chứ sự thật ra ở dưới đất cái á, chẳng bằng ai hết!

Đó là một cái giới mà chế ra, rồi cái câu chuyện đặt ra như vậy, làm sao chúng ta tin được cái điều này!

2) GIỚI NÓI LỜI CHÊ BAI

(29:28) Giới thứ hai:

2. Giới nói lời chê bai.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi xưa Đức Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo đoán tránh sự, dùng chủng loại mắng Tỳ Kheo. Tỳ Kheo xấu hổ, quên trước quên sau, không nói được. Các thầy Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân đó mà kiết giới.

Kiết giới là cấm không có cho chê bai người khác. Nhưng ở đây quý thầy thấy có cái đám Lục Quần Tỳ Kheo à, có sáu cái vị Tỳ Kheo này à, mà hầu hết là Thầy thấy, hầu hết là trong giới luật của Phật cứ lôi ba cái ông - sáu ông Tỳ Kheo này ra là phạm cái này kia.

Theo Thầy nghĩ, Đức Phật ngày xưa nếu mà sáu ông này phạm một lần, hai lần mà thấy nó không được là lôi đầu mấy ông đuổi ra chớ đâu có để cái chuyện ở trong cái giáo đoàn như vậy, để rồi chế bao nhiêu giới cũng cái đám Lục Quần Tỳ Kheo này, cũng có mấy cái ông đó nhảy qua nhảy lại mà không đuổi được à? Thì như vậy là các pháp Yết Ma đặt ra làm gì? Cái tập thể của Đức Phật ngày xưa không có người sao? Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật không còn ai sao?

Đó là những cái bịa ra, không có đúng cách, chế giới ra mà bịa ra không đúng cách. Ít ra thì cũng có người này phạm, người kia phạm chớ? Sao lại có một đám đó à? Có một bọn đó, có mấy người đó thôi à, mà chế được cái giới luật như thế này, người ta nói đó là Bồ Tát thị hiện nghịch hạnh để cho chế giới! Còn bày đặt Bồ Tát nghịch hạnh nữa!

Sự thật ra mình tu đúng, 13 năm đầu Đức Phật đệ tử không có phạm thì bây giờ còn đặt ra cái đám phạm này để mà chế giới ra làm gì? Thì bây giờ cho tới khi mà Đức Phật nhập diệt đi nữa khỏi cần chế giới thì ngay trỏng, cái kinh điển của Phật, cái lời Phật dạy, các pháp của Phật tu đó là giới luật chớ còn gì nữa, chớ cần phải chế ra cái giới bổn này sao?

Cho nên tất cả những cái này là những cái sai của người sau, không hiểu được giáo pháp của Phật mới rặn ra cái này cái kia. Cho nên thậm chí như cái bài đầu tiên Thầy thuyết giảng, người ta dám đặt điều là khi mà kiết giới đó, ông Ưu Ba Ly đọc giới, thì người ta chỉ đọc để nghe thôi chớ không có ghi chép, trong giới bổn nó nói vậy đó.

Cho nên bây giờ đó, cái bộ kinh giới đầu tiên mà được ông Ưu Ba Ly đọc thì không có chép lại thành bản, do đó bây giờ nó không còn có nữa. Vì vậy mà sau này chia làm hai chục bộ phái, rồi bắt đầu đó nó có hai chục cái bộ luật của các cái bộ phái này, rồi cho đến sau cùng người ta thấy giống nhau, người ta bỏ bớt, bỏ bớt, giờ còn năm, sáu bộ luật thôi.

Thì cái đó là cái bày đặt của họ chớ không lý nào ông Ca Diếp lúc bấy giờ là một thượng thủ mà Thầy đã nhắc lại trong cái lúc trước các con thấy rõ ràng, mà thiếu thông minh như vậy sao? Phật đã chết rồi thì còn ai mà dám đặt giới thêm giới bớt nữa, cho nên chúng ta phải ghi lại những cái gì mà của Phật đã dạy thì lý đâu mà có sai chỗ đó được?

Chỉ muốn phá giới, đem cái bộ kinh giới đầu tiên mà kết tập đó, mấy ông đốt đi, rồi mới tự chế ra đặng chạy theo dục lạc, thì có như vậy nó mới đốt cái bộ kinh giới đó, cho nên mới nói rằng hồi đó ông Ca Diếp kết tập không có ghi chép, cho nên cái bộ kinh giới không có. Đó là các vị đó nói láo phải không? Đó là mới đại vọng ngữ đó.

Ở đây Phật chế cái giới mà mình không có được chê bai người, thì Thầy thấy cái giới đó đúng chớ không phải sai đâu. Thầy tạm thời cho nó được.

3) GIỚI NÓI LƯỠI HAI CHIỀU

(32:34) 3. Giới nói lưỡi đôi chiều.

Thì ở trong cái giới kinh thì Phật cũng có dạy cái này rồi, thì bây giờ ở đây thì lấy ra cái này thì cũng đúng rồi chớ không có sai nữa.

Vì sao Phật kiết giới này?

Cũng vì khi Đức Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo truyền lời nói riêng của đôi bên, khiến cho trong chúng chưa có đấu tranh sanh ra đấu tranh, đã có đấu tranh thì không có chấm dứt được.

  1. sự đấu tranh đó nữa mà tăng rộng ra cái sự đấu tranh bằng miệng lưỡi đó nữa.

Nhân đó Phật mới kiết giới này.

Không được nói lưỡi đôi chiều, đem chuyện bên đây nói theo bên đây, bên kia nói theo bên kia để cho người ta giận hờn người ta đấu tranh nhau, đó là những cái giới, nó cũng ở trong cái giới kinh, Thầy thấy những cái này Phật chế như vậy đều là đúng.

Nhưng mà ở đây, lấy cái câu chuyện là của Lục Quần Tỳ Kheo, lấy những cái người xấu này mà nói như vậy thì Thầy thấy rằng ngay đó là đuổi mấy cái ông này hết rồi, còn đâu mà nói chuyện nữa!

4) GIỚI CÙNG PHỤ NỮ ĐỒNG NHÀ MÀ NGỦ

(33:33) 4. Giới cùng phụ nữ đồng nhà mà ngủ.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi xưa Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, Tôn giả A Na Luật trên đường đi tại nước Câu Tát La, nơi không có trú xứ của Tỳ Kheo, ngủ nhờ nhà của dâm nữ.

Đầu đêm, cuối đêm dâm nữ đều tha thiết yêu cầu được làm vợ, Tôn giả không trả lời cũng chẳng ngó đến cô ta. Cô ta bèn thoát y, nắm lấy Tôn giả. Tôn giả bỗng hiện người lên trên hư không. Dâm nữ xấu hổ, hướng lên trên hư không, ba lần lạy xin sám hối. Tôn giả nói diệu pháp, cô đắc nhãn tịnh và cầu thọ giới Ưu Bà Di.

Tôn giả sau khi nhận bữa cơm do cô cúng dường rồi về tăng già lam kể lại chuyện ấy. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân chuyện này mà kiết giới.

Ở đây thì thuật lại một câu chuyện, thiệt ra thì Thầy thấy cái câu chuyện nó không đúng. Một bậc Thánh Tăng mà đi vô cái nhà dâm nữ, dâm nữ tức là phải nói lầu xanh hoặc lầu hồng gì đó, cái nơi mà bán dâm.

Không phải có một bà này đâu, bởi vì bà là dâm nữ thì tức là bà phải mở những cái phòng nhà của bà để mà bán dâm rồi. Thế mà cái ông tu sĩ này lại dám vô trong cái nhà này mà xin ngủ đêm thì Thầy thấy, thà là ngủ rừng ngủ bụi chớ ai vô cái nhà đó, kỳ cục vậy!

Ở đây thiệt ra, họ đặt những cái chuyện mà Thầy thấy không có, một cái vị mà tu hành thanh tịnh rồi thì biết cái chỗ nào mình ngủ mà chỗ nào không ngủ, nhất là cái ông A Na Luật, chớ không phải là một cái vị thường.

A Na Luật là một cái vị có thiên nhãn thuần tịnh siêu nhiên chớ không phải là một cái tay tầm thường, Đệ Nhất Thiên Nhãn đó, mà Đức Phật đã từng ca ngợi đó, thế mà ông không có đủ cái trí tuệ để mà đi đến cái nhà dâm nữ, mà ở cái nhà dâm nữ, để rồi bắt đầu cô ta mới mến thương ông A Na Luật mà ông phải thể hiện thần thông trên hư không như vậy, thì cái điều đó Thầy thấy hoàn toàn là không thể có được.

Cũng chẳng hạn bây giờ Thầy cũng chỉ là một phàm phu thôi, mà nói cái chỗ đó là cái chỗ bán dâm là chắc chắn là Thầy không đến đó đâu. Thầy nói bây giờ quý thầy thôi à, mình mới tu đây thôi à, mà nghe cái chỗ đó cũng chưa chắc dám đến mà ngủ đó nữa. Người ta là cái chỗ bất tịnh, cái chỗ nhơ uế, làm gì một vị tu sĩ thanh tịnh như ngài A Na Luật mà đến đó?

Rồi người ta đổ thừa tại cái duyên phải độ cái bà đó cho nên ông này phải thị hiện. Cái đó là còn sai nữa. Nếu mà cái nhân duyên của bà ta đến thì bà ta phải tự đến chớ không phải là tự mình đến làm cái chuyện đó.

(36:17) Cho nên ở đây đặt ra những cái này, Thầy thấy nhiều khi nó làm cho cái người tu sĩ của Phật giáo - khi mà đến đó mà chúng ta có độ được đi nữa, thì khi đi ra các cư sĩ nhìn hai bên: “Cái nhà của bà đó bán dâm, mà có ông thầy chùa ổng vô đó đó!” Thì thử hỏi các thầy nghĩ sao?

Người ta ở ngoài đời, người ta đâu phải là thánh nhân, người ta thấy cái bước đi cùa mình vô cái nhà đó, thì người ta đã đặt câu hỏi rồi, rồi từ đó người ta sẽ nhìn thấy Phật giáo ra sao không? Người ta đâu có biết. Chính mình làm cái hành động mình vô đó, bao nhiêu người người ta phỉ báng Phật pháp.

Rồi mình nói, mình đổ thừa rằng tại mình độ con người đó, mình độ cái bà bán dâm đó. Nhưng mà sự thật mình độ bà bán dâm bằng mình đổ hết bao nhiêu Phật pháp xuống không?

Mình phải hiểu được cái hành động mình, cái nào lợi mà cái nào không. Nếu bà ta có đủ duyên, chắc chắn sớm muộn gì bà ta cũng có được đọc kinh sách hoặc được nghe cái bài thuyết pháp nào đó của Phật, thì chắc chắn bà ta đến chớ đâu phải mình đi đến tìm bà ta!

Cho nên do vì vậy mà mình đến tìm bà ta bằng cái nhà của cái người đó, ai cũng biết cái bà này bà bán dâm hết, mà mình dám đến đó mình ngủ đêm thì tức là người ta đã đánh giá trị ông thầy đó rồi: “Dù ông là Thánh đi nữa tui cũng coi ông là thường rồi. Tui đâu có biết được! Ông tốt hay xấu tôi đâu có biết được! Trong cái nhà bà ta có mình bà ta với ông rồi ông nói ông tốt tui đâu có tin!”

Đó cho nên đó là những cái mà chúng ta thấy rằng, cái lầm lạc của cái người đặt ra cái những cái kinh giới mà hầu như muốn dìm cái Phạm hạnh, dìm Phật giáo xuống rất sâu.

Nếu mình tâm lý mình đặt ra, thử hỏi một ông thầy bước vào đó, công an nó theo dõi coi ông thầy này làm cái gì, phải không? Mà nếu mà lơ mơ nó lôi ra nó bỏ tù, rồi nó đăng trên báo chí tùm lum ra đó rồi mặc tình biết!

Bởi vậy cho nên bây giờ bao nhiêu thầy mà được công an nó đăng báo không? Bởi vì nó theo nó thấy ông thầy lụi xụi lụi xụi cái vô cái nhà đó, rồi nó biết cái nhà đó là cái nhà không tốt rồi, người không tốt người ta mới đến đó chớ người lành, người có đạo đức, mà bình thường cư sĩ người ta không đến đó, mà ông thầy chùa đến đó thì thử hỏi như thế nào?

Mà đây rõ ràng là biết dâm nữ mà đến đó ngủ đêm! Đâu phải thiếu nhà cửa, đâu có phải. Ông A Na Luật có thần thông như vậy mà ông sợ ngủ rừng ngủ bụi sao mà phải đi tìm nhà vô ở cái nhà đó?

Nhất là cái giới luật như vậy, nó có phản lại giới luật không? Chúng ta thấy rõ ràng là có một cái bài trong giới luật nói: "Gia vô nam tử, bất khả nhập môn" - nhà không con trai thì không có bao giờ mà cái người tu sĩ đến. Thế mà ông A Na Luật là người nam mà đến nhà của một bà nữ nữa thì thử hỏi có phải là cái giới Tỳ Kheo này có phải là sai không, có đúng không?

Cho nên viết tầm bậy tầm bạ, đặt vô không có đúng cách. Vậy mà cứ đọc kinh giới này, dạy người này dạy người kia bao đời, biết chừng nào mà có người mà viết lại cái bộ kinh giới này cho chúng sanh đời sau này để mà tu tập chưa? Thật sự ra cái nhiệm vụ của Thầy quá nặng nề, mà Thầy làm sao Thầy gánh vác hết! Đọc tới kinh giới Thầy thấy tan nát hết, không có còn gì nữa hết.

5) GIỚI NGỦ CÙNG NGƯỜI CHƯA THỌ ĐẠI GIỚI

(39:05) 5. Giới với người chưa thọ đại giới cùng ngủ.

Vì sao Phật kiết giới này?

Duyên xưa khi Phật ở thành Khoãng Dã, Lục Quần Tỳ Kheo cùng với trưởng giả ngủ chung tại một nhà giảng. Có một vị trong Lục Quần loạn ý ngủ mê, trở mình lộ hình. Trưởng giả chê hiềm. Đức Phật nhân đó mà kiết giới.

Nghĩa là có lẽ là ông ngủ mê rồi ông bành da bành thịt, ông lộ những cái thân thể của ông, nó không có được cái tốt đẹp, cho nên được người cư sĩ trưởng giả này chê, cho nên Đức Phật nhân đó mà đặt cái giới.

Bởi vì cái thứ nhất là tại sao chúng ta ngủ riêng một mình mà Đức Phật không cho ngủ chung? Là ngủ chung nó sẽ sanh ra những cái đồng tính luyến ái, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai đó, ngủ chung nó sanh ra chúng ta không có dạn dĩ, nó luôn luôn nó sợ hãi. Cái ngủ chung nó sanh ra những cái tình cảm bậy bạ, nó không tốt, do vì vậy đó mà Đức Phật chế không ngủ chung.

Và đồng thời ngủ chung, nhiều khi ngủ một mình mình lỡ nó có hở hang, có gì đó thì cũng không ai thấy, còn ngủ chung với người này thì khi mình lỡ mình vô tình xốc xếch y áo của mình, người ta thấy, hay hoặc là nước miếng mình chảy ra, hay hoặc là ghèn cháo hay hoặc là cái gì đó làm bất tịnh thì người ta thấy không có oai nghi của một người tu sĩ, người ta chê.

Nhưng ở đây không phải là chính chỗ đó, mà chính chỗ hai người mà ở chung sợ đồng tính luyến ái, sợ có cái tình cảm qua lại giữa nam với nữ, cũng như nam và nam, mà nữ với nữ, nó cũng sanh ra cái tình cảm bậy bạ, không tốt. Đó là Đức Phật cấm cho chúng ta không có được ngủ chung là vậy.

Sau đó vì La Hầu La chưa thọ đại giới nên các thầy Tỳ Kheo đuổi ra ngoài nhà tắm, cầu xí. Đức Phật biết mà vẫn nói: “Các thầy Tỳ Kheo không có lòng từ nên mới đuổi con nít như thế. Đã là con Phật mà không bảo vệ được…​”

Ý của Phật: “Từ nay về sau cho phép Tỳ Kheo cùng với người chưa thọ đại giới ngủ đêm, đến đêm thứ ba, khi mặt trời mọc thì phải đi tránh, không được ở lại. Đêm thứ tư hoặc tự mình, hoặc bảo người thọ đại giới đi, không được ở lại.”

Thì Thầy thấy chế cái giới này Thầy thấy nó không có đúng. Nhiều khi một vị Tỳ Kheo mà ngủ chung với một cái chú Sa Di nhỏ đó, tự nhiên cái tình cha con nó thực hiện qua cái tình cảm đó. Nó khó lắm chớ không phải dễ đâu. Nó thấy rồi từng đó nó thương cái chú đó, nó không có xa lìa, vì vậy mà cứ quấn quýt như vậy là làm sao mà ly dục, ly ác pháp được?

Cho nên ở đây nhiều khi cái duyên nó nhỏ mà nó lại trở thành lớn, mà trở thành lớn là nó cản con đường tu tập, không giải thoát được. Cho nên ở đây thật sự ra thì cái thất của La Hầu La, mặc dù là một Sa Di vẫn có một cái thất riêng của nó ở, mà Tỳ Kheo không được đến đó, (không được) quyền đuổi cái chú Sa Di đó.

Còn mình ỷ mình Tỳ Kheo mình đến mình đuổi người ta, thì cái đó là Phật chế cái giới cấm là các vị Tỳ Kheo dù sao đi nữa mình cũng là con người, mà cái chú Sa Di cũng là một con người, mà chú Sa Di là một cái mầm non tương lai của Phật giáo, của Giáo đoàn, của Tăng già sau này, thì không lý nào một vị Tỳ Kheo lại đuổi một cái chú này. Mình không có nhà thì mình ngủ rừng ngủ bụi, mình lớn rồi, đuổi một cái chú nhỏ mà đi ra khỏi cái nhà để cho mình ngủ, có phải là phàm phu không?

Nó đặt ra như vậy chúng ta thấy, ở đây rõ ràng câu chuyện như vậy là chúng ta thấy các vị Tỳ Kheo này toàn là thứ phàm phu, chưa phải là những cái bậc tu giải thoát đâu. Những cái bậc tu giải thoát người ta phải nhìn thấy, người ta phải có trí tuệ chớ?

Đặt giới luật mà không thấy cái chỗ, nêu lên những cái câu chuyện quá là tầm thường, quá là phàm phu tục tử. Cho nên đối với Thầy, mà những cái sai này Thầy đập xuống sạch.

6) GIỚI CÙNG VỚI NGƯỜI CHƯA THỌ CỤ TÚC GIỚI TỤNG KINH

(42:44) 6. Giới cùng với người chưa thọ cụ túc giới tụng kinh.

Vì sao Phật kiết giới này?

Duyên khi Phật cùng ở tại thành Khoáng Dã, Lục Quần Tỳ Kheo cùng với trưởng giả cùng đọc lời của Phật…​

Tức là tụng kinh.

…​ tại giảng đường, như Bà La Môn đọc sách, không khác, làm loạn tâm các vị ngồi thiền ngồi ở gần một bên. Đức Phật nhân đó mà kiết giới.

Ở đây chúng ta thấy cái sai thứ nhất là rất rõ ràng. Qua cái bài này, chúng ta thấy ở cái thời Đức Phật, Thầy thấy nó không có kinh điển, nghĩa là Đức Phật dạy tu thôi chớ không có chép, không có ghi không có chép gì hết. Do đó làm sao mà có những cái bản kinh mà cái Lục Quần Tỳ Kheo này ngồi mới tụng kinh với các trưởng giả, mà làm động người ta tu thiền?

Hầu hết là Thầy đọc lại trong kinh sách của Phật đó, các vị Thánh Tăng, Thánh Ni, thường thường là người ta sống người ta đi kinh hành, rồi người ta ngồi thiền, người ta đặt niệm trước mặt người ta phá những cái tham ưu ở đời, ở trong thân tâm của mình, chớ người ta đâu có tụng niệm. Thế mà ở đây lại đem cái tụng niệm, tức là cái người mà viết giới luật này là phải là trong cái đời của chúng ta.

Nghĩa là trong cái thời của chúng ta, có kinh sách, có sự tụng niệm rồi mới viết ra. Họ lầm tưởng rằng trong cái thời Đức Phật là luôn luôn có sự tụng niệm. Theo Thầy biết rằng, trong thời Đức Phật không có tụng niệm.

Cho nên bốn cái chỗ niệm, bốn cái chỗ mà Phật gọi là niệm, tức là Tứ Niệm Xứ, lấy cái thân mà niệm Phật thì đâu có phải là “Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”, đâu có đọc được như vậy!

Lấy cái thân, làm sao cái thân mà đọc cái chỗ nào được? Lấy cái miệng mà đọc, lấy cái ý mà đọc thì có thể được. Nhưng Phật đâu có nói là cái ý niệm Phật, mà cái miệng niệm Phật đâu, mà Phật nói Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Như vậy là chúng ta mới thấy tu Tứ Bất Hoại Tịnh, thì chúng ta mới thấy rõ rằng Phật dạy chúng ta không phải miệng niệm, không phải là ý niệm, mà là Thân niệm, mà là Tâm niệm, mà là Pháp niệm, mà là Thọ niệm. Đó là bốn cái chỗ để mà chúng ta niệm Phật - Pháp - Tăng, như vậy là mới đúng cái đường lối của đạo Phật chớ! Còn đằng này chúng ta dạy tầm bậy!

Mà bây giờ tụng kinh là bằng miệng thì cái đó là còn sai nữa. Kinh không có lấy gì tụng? Không phải là đặt giới tầm bậy sao? Đặt giới trong cái thời của chúng ta rồi. Ở đây bây giờ có kinh rồi, bây giờ đặt như vậy là đúng, chớ còn thời Đức Phật đâu có cái chuyện đó, cho nên đến cuối cùng ông Ca Diếp mới kết tập kinh, mới có kinh. Lấy cái kinh gì đọc đây? Không lẽ lấy kinh Vệ Đà mà đọc tụng sao?

Đó chúng ta phải hiểu được cái chỗ sai, sai ở trong cái dòng lịch sử mà chúng ta đã biết được cái điều này là do chúng ta đọc lại những kinh Nguyên Thủy mà chúng ta đã thấy rất rõ.

7) GIỚI ĐẾN NGƯỜI CHƯA THỌ CỤ TÚC NÓI TỘI THÔ

(45:20) Giới đến người chưa thọ cụ túc nói tội thô.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật, có Tỳ Kheo hành Ma Na Đỏa (sám hối) ngồi nơi hàng dưới. Lục Quần nói với bạch y…​

Tức là nói với các cư sĩ.

…​ ở tại núi Kỳ Xà Quật, có Tỳ Kheo hành Ma Na Đỏa ngồi ở hàng dưới. Lục Quần nói với bạch y…​

Với các cư sĩ đó.

…​ là các vị ấy phạm tội thô ác. Tỳ Kheo kia và các vị khác nghe đều xấu hổ. Đức Phật quở Lục Quần Tỳ Kheo rồi kiết giới này.

Khi ấy có Tỳ Kheo không biết mắc tội thô ác, sau mới biết, tác pháp sám Ba Dật Đề. Phật dạy: “Không biết thì không phạm.”

Tôn giả Xá Lợi Phất được trong tăng sai đến vua và nhân dân nói tội của Đề Bà Đạt Đa, nghe Phật kiết giới này như thế, tâm sanh sợ sệt. Phật dạy: “Tăng sai thì không phạm.” Do đó Ngài kiết giới lại, thêm câu: “ trừ Tăng Yết Ma cho nói.”

Tội thô ác là Ba La Di và Tăng Tàn.

Nghĩa là cái người mà được Phật sai, hay được tăng sai đến kiết cái tội lỗi của người ta thì cái người đó mới chỉ cái người đó tội lỗi, còn cái người mà không được Phật nói thì không có được chỉ lỗi. Đây cũng là một cái điều kiện của giới luật đặt ra để bịt miệng thiên hạ đây. Thầy thấy vần đề này là cái vấn đề của người sau hay đặt ra.

(47:01) Bây giờ một cái người đó, bởi vì Lục Quần Tỳ Kheo mà nói cái vị Tỳ Kheo Ma Na Đỏa này là phạm cái tội này, phạm tội kia là nói xấu người khác, là tại sao vậy? Tại vì có sự hiềm khích hay hoặc là có sự ganh tị qua cái Phạm hạnh của người ta mới nói như vậy.

Cho nên khi Phật xét thì cái vị đó không có tội, còn nếu mà cái vị đó có tội thì người ta nói để cho cái người đó sửa chớ không phải đem nói cho bạch y người ta biết để người ta cười cái vị đó.

Chẳng hạn bây giờ trong chúng của chúng ta có một cái người mà có phạm một cái lỗi là tại vì sống độc cư không được, nói chuyện, mà bây giờ quý vị đem ra nói cho các vị cư sĩ ở ngoài biết rằng: “Cái thầy đó đó, ở trong Tu viện, không có giữ gìn cái giới luật nghiêm chỉnh được như vậy” - thì cái đó là cái xấu của quý thầy.

Còn trái lại quý thầy nói: “Thầy phạm cái giới đó, thầy hay nói chuyện như vậy thì thầy Phương trượng sẽ buồn lắm, thầy sẽ không có dạy quý thầy tu đâu, cho nên quý thầy hãy cố gắng mà giữ!” Đó là cái lời của mình nói cái lỗi của người đó để cho người đó sửa, thì cái đó là tốt.

Còn mình đem mình nói cho người khác cười chê cái vị đó, mà vị đó người ta không có làm cái điều đó, người ta không có lỗi điều đó, thì cái đó là cái sai của mình, là cái không tốt.

Vậy mà cái bọn Lục Quần Tỳ Kheo này luôn luôn có hiện tiền ở trong các cái bài kinh giới hết, cho nên cứ lấy mấy cái ông này ra mà không có đuổi, tống cổ. Đã một cái lời nói xấu người ta như vậy rồi, Phật đã biết rồi, thì sao lại không tống cổ sáu cái vị Tỳ Kheo này ra khỏi cái Giáo đoàn, cứ để cho mà chế giới làm cái gì? Có cái gì đâu mà chế giới!

Đó thì như vậy chúng ta thấy rằng cái giới thứ bảy này mà đem cái câu chuyện này ra, Thầy thấy là chỉ bịa đặt ra mà thôi chứ không phải là đúng đâu. Nhưng mà cái đúng là người ta nói xấu mình để cho mình sửa, cái đó là cái tốt để cho mình sửa, chớ không phải bịt miệng người ta bằng cách này. Đợi tăng sai, hay hoặc là đợi Phật sai thì mới nói tội người ta, còn không có thì không được nói tội người ta, thì cái đó là bít miệng, để cho người ta cứ phạm tội hoài.

8) GIỚI ĐẾN NGƯỜI CHƯA THỌ ĐẠI GIỚI NÓI PHÁP TỰ CHỨNG

(49:05) 8. Giới đến người chưa thọ đại giới nói pháp tự chứng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở bên sông Di Hầu, tập hợp các Tỳ Kheo trong vườn Bà Cầu lại để quở trách, rồi kiết giới này.

Trường hợp nào mà điều bốn của Ba La Di là phạm tội khí thì ở đây phạm tội Đọa, trường hợp nào mà điều bốn Ba La Di phạm Thâu Lan Giá hoặc là Đột Cát La thì ở đây phạm tội Đột Cát La.

Vì đây là hành vi thuộc ngữ nghiệp, nên cần hội đủ 5 yếu tố như điều một Ba La Di và điều bốn Ba La Di mới thành tội.

Có 5 điều:

1. Người nói: Tỳ Kheo chưa mất bản thể;

2. Người khởi tâm vọng cố nói xấu người;

3. Nói rõ ràng, và thân khẩu hiện tướng nói dối rõ ràng;

4. Người nghe lãnh hội;

5. Người, đối tượng chứ không phải có một mình.

Nghĩa là mình nói xấu cái người đó, có người chứng, có người hẳn hòi đàng hoàng thì mình không có tội. Còn nếu mà không có cái người chứng, mình nói xấu mà không có ai thấy cái người đó xấu thật đó thì mình sẽ đắc tội, mà thuộc cái tội Ba La Di chớ không phải là tội sám hối, tội Tăng Tàn.

Đó là cái chỗ này nói thêm để chúng ta biết rằng cái giới mà nói xấu người thì cái giới đó nó có phạm tội vào cái tội vọng ngữ.

9) GIỚI CÙNG PHỤ NỮ NÓI PHÁP QUÁ LỜI

(50:40) 9. Giới cùng phụ nữ nói pháp quá lời.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc, Ca Lưu Đà Di…​

Cũng ông Ca Lưu Đà Di này nữa, có mấy ông à. Chắc có lẽ là cái đám Lục Quần Tỳ Kheo này chớ không ai mà vô đây hết, tên qua tên lại thì cũng có mấy ông này à!

…​ đến nhà trưởng giả khất thực, cùng với đàn bà nói pháp giọng nhỏ, giọng to. Bà mẹ chồng thấy vậy chê hiềm.

Về vợ của người ta, dâu của người ta mà mình lại mình nói chuyện, ông thầy gì nói chuyện nhỏ nhỏ với dâu người ta, thì bà mẹ chồng bả thấy bả coi rẻ cái ông thầy quá.

Cho nên đến trình cho Phật hay, và Phật nhân đó mà kiết giới này.

Sau có người nữ mời thuyết pháp, các Tỳ Kheo đều cẩn thận, sợ phạm giới cho nên không dám thuyết pháp.

Đó, bắt đầu từ cái ông này phạm cái lỗi, các thầy nghe cho rõ này: Cái ông này ổng nói to, nói nhỏ với bà ta, không biết tình tứ gì đó chớ đâu phải thuyết pháp, thế rồi cái bà mẹ chồng thấy vậy đó, mới chê cái ông thầy, mới đến nói với Phật. Phật mới cấm từ đây về sau các thầy không được thuyết pháp.

Bởi vì về hỏi cái ông thầy này, ông Ca Lưu Đà Di này, ông nói ổng thuyết pháp cho cái bà đó nghe chớ ổng đâu có nói chuyện nói nhỏ hoặc là nói tình nói tứ với bà ta đâu: “Tại bà mẹ chồng này nghe không được cho nên bả đến bả báo cáo với Phật đó, chớ còn con thì con đâu có nói nhỏ nói to, tình tứ với bà ta, chỉ dạy cho bà ta pháp để bà ta tu thôi!”

(52:10) Cái ông tu sĩ này ổng về nói với Phật vậy. Cho nên Phật mới cấm: “Thôi từ đây về sau thì các thầy đừng có nói chuyện với đàn bà nữa, không có được thuyết pháp cho mấy bà đó nghe!”

Do đó sau này có một cái người cư sĩ nữ họ mời các thầy thuyết pháp, nghĩa là đến thuyết pháp hoàn toàn, đến có chỗ ngồi hoàn toàn thuyết pháp. Nhưng mà các thầy Tỳ Kheo sợ Phật chế cái giới này cấm không cho được thuyết pháp, do đó mà các thầy không có thuyết pháp được.

Vì vậy mà có nhiều người về trình với Phật, và chính cái bà nữ cư sĩ đó họ đến họ trình với Phật: “Con mời quý thầy đến thuyết pháp cho gia đình con nghe, cho mọi người nghe để người ta theo Phật người ta tu, tại sao mà Thế Tôn lại cấm không có cho các Tỳ Kheo theo thuyết pháp?”

Cho nên Đức Phật nghe nói vậy mới cho phép người ta nói năm lời, sáu lời thôi. Thuyết pháp mà có năm lời, sáu lời thì thuyết pháp cái thứ gì? Mà nó dám đặt ở trong này nó nói như vậy đó!

Và kiết giới này thêm quá năm, sáu lời - hơn năm, sáu lời thì cũng được:

Các thầy lại có tâm cẩn thận, sợ do không có nam tử nên không dám nói pháp cùng với nữ nhân. Đức Phật dạy trừ có tri nam tử, cho phép nói quá năm, sáu lời. Lại kiết giới này thêm: “Trừ hữu tri nam tử.”

Khi ấy có các nữ nhân thỉnh thọ năm giới, tám giới hoặc là tám Thánh đạo, nói mười thiện pháp, cầu giải thích nghĩa. Vì không có tri nam tử, các thầy Tỳ Kheo cũng sợ, cẩn thận không có dám nói nữa.

Phật dạy: “Không có tri nam tử, đều (được) vì người nữ mà trao giới cho đến giải nghĩa v.v…​” Nhân đó Phật kiết giới này.

Đó thì quý thầy thấy, cái vấn đề ông Phật mà làm như là…​ Thầy nói thật sự ông Phật mà chế giới này Thầy thấy, qua cái giới Thầy thấy ông Phật quá là đần độn! Chế cái giới mà cứ chế mò, chế mò, chế mò, làm như cái người không biết vậy! Chế thì phải chế như thế nào, đâu nó sát thực đó. Chế mà cứ lần lần, lần lần!

Thầy thấy khi một cái sự kiện mà xảy ra thì chúng ta biết rằng cái chỗ mà cái ông thầy này họ như thế nào mà bị hiềm chê đó chớ không phải là thuyết pháp.

Bởi vì thuyết pháp đâu phải có một cái bà đó mà ngồi nghe! Bả mời mình đi thuyết pháp tức là bả phải đâu có ngồi chỗ kín chỗ đáo, mà phải lên pháp tọa đàng hoàng, thì trong gia đình của bả đâu có phải là của riêng bả mà phải có mẹ chồng nữa chớ đâu phải là riêng.

Mình là người tu sĩ giới hạnh đàng hoàng, ý tứ đàng hoàng, tức là mình tu được Chánh Niệm Tỉnh Thức rồi, luôn luôn lúc nào mình cũng phải có ý tứ hết. Mình nhận người ta thuyết pháp, thì sau khi mà ngồi nói một cái gì đó, đâu phải là ngồi chỗ lén chỗ lút mà phải hoàn toàn chứ!

Không lẽ bây giờ rước Thầy đến thuyết pháp, mà bây giờ đem vô trong buồng á, rồi bà phụ nữ đó ngồi ở bên Thầy, Thầy nói pháp cho bà ta nghe riêng như vậy sao? Đó có lẽ là truyền tâm ấn đó chớ đâu có phải là nói pháp! Đó Thầy nói thật sự đó, cái đó là mấy cái ông truyền tâm ấn đó. Họ truyền bà ta đó, mai mốt truyền cho bà một bụng á, chứ đừng có nói truyền truyền! Cái thứ đó là cái thứ phá giới.

(55:21) Cho nên ở đây người ta rước mình đến thuyết pháp, thì tức là đường đường mình phải ngồi ở trên giảng đường chớ đâu phải, bây giờ nhà người ta cũng phải có cái phòng khách đàng hoàng, gia đình người ta phải tập hợp nam nữ chớ đâu phải mình thuyết pháp cho một người nghe? Cái chuyện làm tầm bậy.

Bởi vậy cho nên ở đây đặt giới vầy, đặt những cái điều kiện mà ông Phật Thầy nói ổng sao mà ổng không có trí tuệ chỗ nào, coi như ông Phật là cái người ngu si à! Bởi vì ông Phật ổng chế giới ra, bây giờ đó mình đặt cái giới này ra, mình thuyết pháp cho phụ nữ thì khi được mời đến cái pháp tọa như thế nào, hẳn hòi đàng hoàng thì quý thầy chấp nhận, còn nếu không thì nhất định là không thuyết pháp.

Người ta dụ mình, mời mình thuyết pháp mà đến cái phòng ngủ của người ta, bảo mình nói pháp, chắc chắn là cái điều kiện đó mưu đồ rồi, mưu đồ của bà này như thế nào đối với mình rồi. Thì như vậy là ngay đó là mình ôm bát mình đi ra chớ ai ở đó, ngồi đó!

Đó thì tức là cái người tu sĩ chúng ta ý tứ lắm, vô cái phòng mà thấy người ta dọn sẵn cho mình cái pháp đàn để cho mình thuyết pháp thì mình còn ở, mà vô đó mà dẫn mình đi qua cái hành lang ngõ ngách mà vô cái buồng của bà ta là kể như là mình rút lui rồi: “Thôi thôi bà đừng có dẫn tui kiểu này, bà chôn hết Phật pháp của chúng tui xuống hết!”

Mình nói ngay thẳng mặt chớ mình vị tình gì, bộ bà ta không cho cơm thì người khác cho cơm chớ đâu phải có mình bà ta mình mới no bụng sao? Bởi vì ham y áo cho đẹp, cho nên mới theo mấy phụ nữ đó mà làm cái chuyện tầm bậy.

Đó thì đọc giới như vậy, Thầy sạc hết á. Cho nên Thầy dạy giới không phải là dạy giới theo cái kiểu mấy ông giới sư mà giảng, sao cũng theo khuôn khổ đó hết, nghe sao cũng hay vậy hết chớ không có dám nói ra cái sai cái đúng. Cái này là cái sai mà, đem ông Phật trí tuệ như vậy, ba đại thần lực như vậy, mà kiết giới như vậy thì thử hỏi ông Phật là cái gì? Có phải đem là Phật trở thành một cái…​

Cho nên Đại Thừa nó nói là ông Phật Tiểu Thừa là phải, đúng đó, các bậc A La Hán là Tiểu Thừa đó, phải, cho nên tiêu nha bại chủng. Cái kiểu mà chế giới này chẳng phải là tiêu nha bại chủng sao? Chế giới riết rồi bao nhiêu tu sĩ phạm giới hết, không phải là tiêu nha bại chủng sao?

10) GIỚI ĐÀO ĐẤT

(57:17) 10. Giới đào đất.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại thành Khoáng Dã, Lục Quần Tỳ Kheo tu bổ nhà giảng của Phật, tự tay đào đất xung quanh. Trưởng giả chê hiềm, nói: “Thích Tử mà còn đoạn mạng căn của của chúng sanh.”

Tức là - đào đất tức là làm giết hại chúng sanh chớ gì?

Đức Phật nhân đó mà kiết giới.

Các vị ấy lại sai người đào, nói đào chỗ này chỗ kia, cư sĩ cũng chê hiềm. Đức Phật lại kiết giới này lại nữa.

Đó như vậy Thầy thấy Đức Phật cấm là chúng ta chỉ lấy một cái nghề là chúng ta đi xin ăn, nhà rách thì chúng ta xin người khác cất chứ chúng ta không có làm. Đó là cái giới luật của Phật như vậy đó. Bởi vì chúng ta làm là chúng ta làm theo cái ý muốn của mình cho nên nó không có đúng là cái người tu giải thoát.

Cho nên ở chỗ này mà đào đất, thì ở trong cái giới mà Thầy giới thiệu đầu vô giới bổn thì các thầy thấy cái giới Sa Di nó đào đất được mà cái giới của Tỳ Kheo thì không đào đất được. Mấy ông này là ông lớn mà cha không có đào đất để bắt mấy ông con đào đất, cho nên bắt mấy chú Sa Di đào đất. Chứ sự thật ra mấy chú Sa Di vẫn không đào đất, giới luật của Phật cấm, nghĩa là đi ăn xin thôi chớ không có đào đất.

Còn mấy ông đặt giới ra bắt mấy chú Sa Di này lao tác thấy mồ, làm chùa cũng bắt mấy ông Sa Di này đẩy xe đất, đẩy, chùa nào đến cũng bắt xây cất, xây cất, đẩy mấy ông gần chết luôn.

Thầy nói thật sự, hồi ông thân Thầy cũng đi tu, mà riết rồi, vô chùa riết rồi bắt đầu về cưới vợ thôi. Tới chùa nào cũng bắt đẩy đất đắp nền, xây nhà, xây chùa, trời đất ơi, thôi thôi, chết! Ông già ổng chết!

Sau Thầy đi tu, ổng nói: “Không có được con ơi, thôi đừng, đừng, đừng! Đừng có tu! Thôi bây giờ ở chùa nhà, thầy dạy sao thì con tu vậy thôi, chứ đừng có đi mấy cái chùa. Đi đâu họ cũng bắt mình xây cất hết, lấy cái sức của mình ra làm riết, điêu đứng hết, không có học hành cái thứ gì được đâu! Không có tu hành cái thứ gì được đâu! Tới đâu nó cũng xây cất hết à. Nó làm cái này ít bữa rồi nó làm cái khác, nó chưa có đẹp mắt rồi nó làm hoài. Mấy ông Hòa Thượng kỳ cục lắm!”

Chính ông thân Thầy hồi đó nói, cho nên không bao giờ muốn cho Thầy đi tu hết. Vì vậy mà Thầy đã từng qua nhiều cái kinh nghiệm của ông thân của Thầy để lại, nhắc Thầy tới lui dữ lắm chớ không phải không.

Nhưng mà Thầy cái duyên tu hành, cho nên từ đó Thầy đến Hòa thượng, Thầy thấy giới luật không nghiêm chỉnh là Thầy bỏ đi. Ba tháng Thầy đi, Thầy nói đi là đi, người nào mà giới luật nghiêm chỉnh là ở chớ không ở đó đẩy đất đâu.

Mà thật sự Hòa thượng thì cũng thương Thầy lắm, cho Thầy làm hương đăng đốt nhang thôi chớ không làm gì. Còn quý thầy, trời ơi lăn đá Thầy thấy…​ Thầy Nhật Quang cái sức như vậy đó mà lăn đá ẹo xương sống đó, chớ không phải là thường đâu. Còn Thầy mà cỡ lăn cục đá chắc nó đè nhẹp luôn! Cái nhỏ con như Thầy mà, đâu có làm nổi đâu!

Đá mà đá núi các con biết nó nặng kinh khủng lắm chớ không phải gì. Hai, ba ông xeo lại đẩy một cục đá đi, đặng làm được cái nền, cất cái thất, trời ơi gian khổ! Bởi vì núi nó dốc dốc là là vầy này, mà muốn làm cho nó bằng được cái mặt mà cất cái thất đâu phải chuyện dễ, cực lắm!

Đó Thầy nói. Mà đúng vậy, Thầy đến cái chùa nào cũng là cứ xây cất không, cứ ít bữa là Thầy thấy đổ ra cái này cất, đổ ra cái kia cất. Mà tiền của Phật tử đâu mà cứ đổ ra cho họ cất Thầy không biết nữa! Báo cho mấy ông tăng cực gần chết, ít bữa xây hồ nước, ít bữa xây cái này, ít bữa xây cái kia, tùm lum hết. Họ ở riết rồi Thầy thấy như cái dinh Độc Lập!

Đó là cái vấn đề cái giới đào đất. Thật sự ra Đức Phật không có dạy chúng ta đào đất. Đi mà còn không đạp lên cỏ mà chết nữa mà, làm sao mà đào đất được!

11) GIỚI PHÁ HOẠI CHỖ CỦA QUỶ THẦN

(01:00:44) 11. Giới phá hoại chỗ của quỷ thần.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật cũng ở tại thành Khoáng Dã, có Tỳ Kheo tu bổ phòng xá, cố ý tự mình chặt cây. Đức Phật vì đó mà kiết giới này.

Nếu có đại sự, chẳng phải cố ý phá hoại thì không phạm.

Nghĩa là mình chặt cây mà không phạm. Thật sự ra cái cây cũng không nên chặt nữa. Nói chung là giới của Phật là không có làm cái gì, động cái gì hết à. Nghĩa là chuyên môn ăn no rồi tu tập thôi chớ không có gì.

Đi xin người ta cho dở ăn dở, cho ngon ăn ngon, về đó cứ tu tập đi kinh hành, rồi tập Chánh Niệm Tỉnh Thức, tập Định Vô Lậu, Định Hiện Tại An Lạc Trú, Định Sáng Suốt, luôn liên tục dùng hơi thở, định niệm hơi thở ra, hơi thở vô, hoàn toàn là chúng ta nỗ lực tu hành chớ không có một cái thời giờ nào mà rảnh rang đi đào đất hết.

Cho nên Thầy thấy quý thầy mà vác cuốc đi đào đất, Thầy biết quý thầy rảnh lắm. Còn thích, quý thầy làm cái này làm cái kia Thầy biết là quý thầy còn rảnh lắm. Chớ còn người ta có thời giờ đâu mà rảnh? Thầy cho bao nhiêu pháp rồi, đặt ra một ngày một đêm là luôn liên tục, đâu phải…​

Thí dụ như quý thầy tu có cái hơi thở không thì quý thầy sẽ bị nhức đầu, quý thầy sẽ khó khăn. Nhưng mà quý thầy tu hơi thở chỉ một ngày một đêm có một lần, rồi tu những cái định khác, chia nó ra từng phần, từng phần các thầy tu, các thầy thấy thoải mái, dễ chịu, giải thoát ngay liền trong cái thời gian tu, không có khổ sở không có gì hết, mà tuần tự cái tâm của quý thầy nó ly dục, ly ác pháp ra thấy một cách rất rõ ràng, cơ thể không có bệnh đau không có gì hết, không có buồn bã, không có gì. Hằng ngày, mình có cái pháp cho nên mình sống cô đơn, sống trầm lặng, rất là thích thú.

Còn trái lại, quý thầy cứ ngồi không đó mà quý thầy buồn bã rồi quý thầy sanh ra chuyện làm cái này, làm cái kia, rồi đi trồng rau trồng cải đủ thứ đó, kiểu đó là cái kiểu nó đi lạc đường rồi đó. Thầy thấy quý thầy mà làm cái sai là Thầy biết nó đi lạc đường rồi, biết là quý thầy tu có đúng hay sai là biết là cái chỗ, thấy cái việc của quý thầy mà biết.

12) GIỚI NÓI LỜI ÁC LÀM NÃO NGƯỜI

(01:02:36) 12. Giới nói lời khác làm não người.

Vì sao Phật kiết giới này?

Bấy giờ Phật ở nước Câu Diệm Di, Xiển Đà phạm tội. Các thầy Tỳ Kheo hỏi: “Thầy có tự biết phạm tội hay không?’ Xiển Đà nói quanh: “Thầy nói với ai? Nói việc gì? Luận bàn vấn đề gì? Vì tôi nói, hay là vì ai mà nói? Ai phạm tội? Tội do đâu mà sanh? Tôi không thấy có tội!”

Nói theo kiểu Tổ Sư Thiền đó, cái giọng của ông thầy này là nói theo kiểu Tổ Sư Thiền, nghĩa là ổng nói kê ra một cái loạt này, đặt thành một câu hỏi, thì ổng thấy như là Phật Tánh của ổng, hoàn toàn ổng không có làm cái gì có tội hết, hoàn toàn. Đó là cái lối mà cái giọng điệu của các tổ sư: “Tội do đâu mà sanh? Tôi không thấy có tội!”

Bởi vì cái câu trong Thiền Tông đó: “Tánh tội vốn không do tâm tạo” mà, “tâm đã diệt rồi tội sạch không”, tâm ổng diệt hết rồi, cho nên: “Giờ tui đâu thấy có tội gì đâu? Mấy ông nói tội, tội gì đâu? Mấy ông nói đi!” Làm mấy ông thầy kia đâu có nói được.

Các thầy Tỳ Kheo mới bạch Phật. Phật bảo tăng tác pháp dư ngữ.

Bạch Yết Ma: “Đại đức Tăng xin lắng nghe! Xiển Đà Tỳ Kheo này phạm tội, các thầy Tỳ Kheo hỏi…​ “Tôi không thấy tội!” Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận sẽ gọi Tỳ Kheo Xiển Đà là người tác dư ngữ…​”

(01:04:04) Nghĩa là nói lý luận đó, kêu là tác dư ngữ là nói lý luận che đậy cái tội lỗi của mình đó.

“…​Đây là lời tác bạch.”

Bạch rồi kiết giới: Nếu Tỳ Kheo nói quanh, phạm tội Ba Dật Đề. Tăng đã chế cấm không được nói quanh.

Nghĩa là cái lối lý luận quanh, kêu là Đức Phật nói 62 cái lập luận của ngoại đạo đó, thì nó có một cái giới ngoại đạo mà nói trườn uốn như con lươn á, thì cái lối này là cái lối mà của Thiền Tông á, nói kê tội nó phạm giới cái bắt đầu nó trườn qua trườn lại, nó uốn qua uốn lại, nó tránh né cái tội nó bằng cách này bằng cách khác đó.

Đó là lập luận của 62 lập luận của ngoại đạo trong cái thời đó, thì ở đây chúng ta thấy cái vị Tỳ Kheo này cũng là cái kiểu đó. Mà tất cả chúng ta tiếp xúc các cái vị mà tu Thiền Đông Độ, hầu như cái lối luận của họ theo cái miệng tổ của họ dạy, thì cách thức của họ cũng trườn uốn như vậy.

Họ phạm tội rõ ràng chớ, ăn phi thời, nói họ có thấy tội gì đâu? Họ ăn họ coi như họ không có ăn vậy. Đó là cái lối lý luận trườn uốn con lươn của họ.

Cho nên ở đây Thầy đứng ở trong góc độ của Phật Thầy đập mấy cái ông này hết. Mấy ông phạm tội là phạm tội, mấy ông chạy theo dục lạc, mấy ông nói không tội!

Mấy ông còn đắm nhiễm cái ăn, cái uống của mấy ông, mấy ông có một ngày được như chúng tôi không? Mấy ông đâu có làm được! Còn mấy ông nói hay, mấy ông có ngồi thiền được như chúng tôi không? Mấy ông có nhập định được như chúng tôi không? Những cái điều mấy ông nói là cái điều mấy ông lách qua lách lại mà tránh né chớ không phải là cái điều mấy ông làm được.

Sau Xiển Đà lại xúc não chúng tăng, kêu đến không đến, không kêu lại đến, nên đứng dậy lại không đứng dậy, không nên đứng dậy lại đứng dậy, nên nói không nói, không nên nói lại nói. Đức Phật bảo chúng tăng tác pháp xúc não.

Bạch Yết Ma: “Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ Kheo Xiển Đà này xúc não chúng tăng, kêu đến không đến…​ Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, chấp chế Tỳ Kheo Xiển Đà tác pháp xúc não. Đây là lời tác bạch.”

Hiệp hai việc kết thành văn giới này.

Đó là những cái người mà hay lý luận trườn uốn như vậy đó, thì những cái người này chúng ta mời họ ra khỏi cái tu viện cho rồi chớ không có để cho họ làm cái chuyện mà như vậy được.

Theo Thầy thì cái giới đó là phải mời thôi, coi như là nó thuộc về Ba La Di đi cho rồi chớ còn không có tính cái gì nữa hết, đứt đầu cho mấy ông này luôn luôn đi, cho nó khỏi cái Tăng đoàn của chúng ta, để cho những người này họ muốn ra đời, họ muốn nói hay nói dở gì với người ta, tranh luận với thiên hạ, chớ còn ở đây chúng ta mệt với mấy ông này lắm.

13) GIỚI HIỀM MẮNG NGƯỜI

(01:06:44) 13. Giới hiềm mắng người.

Vì sao Phật chế giới này?

Xưa Kia Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật, bấy giờ, Đạp Bà Ma La Tử vì chúng tăng chia ngọa cụ, mời tăng theo thứ tự đi thọ thỉnh. Từ Địa liền ở chỗ mắt thấy, tai không nghe, chê hiềm Đạp Bà Tử có ái, có sân, có sợ, có si. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật kiết giới.

Sau ở chỗ tai nghe, mắt thấy…​ có ái…​ Phật hiệp lại hai việc, kết thành giới này.

Nghĩa là cái ghét người khác rồi tìm cách mắng chửi người ta bằng cách này bằng cách khác, thì Đức Phật kết tội cái người này trong cái tội để mà họ phải sám hối, hoặc là cái tội đọa địa ngục, và khi họ mắng người khác thì đương nhiên là Phật kết cái tội họ là phải đọa địa ngục.

Và đọa địa ngục như vậy đó không có nghĩa là những cái người đó mà còn ở trong Tăng đoàn. Cho nên cái tội này theo Thầy thiết nghĩ cũng khép vào cái tội đứt đầu của họ, đuổi ra khỏi tu viện tận sức ra cho rồi, không có để cái vị tu sĩ mà hay nói xấu người ta, hiềm hận trong lòng cái rồi đặt điều nói xấu người ta, do cái sự xích mích nào nhỏ thôi, rồi để trong lòng đó, rồi sau đó kiếm cách kiếm cớ nói xấu người khác.

Hầu như ở đây Thầy cũng biết được những cái điều đó rất lớn, khi mà có chuyện gì mà không có thuận nhau rồi bắt đầu đó thì thầy này đem cái chuyện không có đặt điều nói xấu ông thầy khác.

Thậm chí như còn đặt điều nói xấu thầy của mình là người dạy mình, là người thầy của mình đã đứng ra để mà xuất gia cho mình nữa, mà mình còn dám nói xấu, thì những người học trò như vậy, những người tu sĩ như vậy thì còn để họ ở trong cái Tu viện chúng ta làm gì nữa?

Những người mà chỉ hiềm hận trong lòng của mình rồi đặt điều nói xấu, thì cái giới luật đó chế ra như vậy là đuổi họ đi chớ không có nói mà còn đọa địa ngục, còn nói cho họ sợ làm gì? Mấy cái người đó họ đọa bao nhiêu địa ngục họ có sợ đâu!

14) GIỚI TRẢI TỌA CỤ CỦA TĂNG KHÔNG TỰ CẤT

(01:08:47) 14. Giới trải tọa cụ của tăng không tự cất.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ có hai trưởng giả mời. Thập Thất Quần Tỳ Kheo lấy tọa cụ của tăng trải nơi kinh thành, không dọn cất bỏ đi, bị đất bụi, trùng, chim cắn hư, ô uế không sạch. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Nhân đó Phật mới chế giới này.

Nghĩa là lấy cái tọa cụ là trải mình ngồi thiền đó, rồi chắc có lẽ vô kinh thành, vô cái vườn ngự, cái vườn bông, vườn gì của nhà vua đó, rồi trải trong đó ngồi thiền ở trong đó, rồi tới chừng đi, mượn của người ta trải rồi bỏ đi, do đó thì không có đem về. Vì vậy mà Đức Phật chế cái giới này để cấm không có được trải tọa cụ rồi không tự cất bỏ.

Thì cũng như bây giờ, mình có cái thiền đường đây, rồi bắt đầu lấy một cái đống tọa cụ, mỗi người ngồi một cái trên cái tọa cụ để ngồi thiền, sau khi ngồi rồi thì để y nguyên đó chớ không có dẹp. Cho nên hầu hết là Thầy thấy có số quý thầy rất là lười biếng.

Khi mà về Trúc Lâm Thầy thấy cũng vậy. Vô thăm, thầy Hòa thượng dẫn vô, Thầy thấy sao bồ đoàn còn để dài dài đó hết mà không dẹp, có phải là lười biếng không? Khi ngồi thì để đó mà khi không ngồi thì cũng để luôn đó. Như vậy nó làm cho khi mà người khách người ta đến, người ta thấy mấy ông thầy này lười biếng thiệt.

Cái bồ đoàn của mình, cái tọa cụ của mình ngồi mà còn để y nguyên đó à! Do đó, hai ba chục cái để hàng hàng đó, theo Thầy nghĩ rằng họ lười biếng, họ để lát vô ngồi nữa. Sự thật ra khi mình ngồi rồi thì mình chỉ còn có cái đó mình xách về thất của mình đi, rồi sau khi tới đó thì mình lại để lên mình ngồi thì không phải tiện sao? Cái này là sợ mất công.

Ngay cả cái đầu tiên đó, mà ý tứ như vậy mà Đức Phật cũng đã thấy cái điều này cho nên mới chế cái giới này ra, biết rằng cái người cư sĩ chúng ta phải tập siêng năng chớ, đâu có lý nào mà lười biếng đến mức độ đó!

Cho nên Thầy nhìn vô cái chỗ đó Thầy biết rằng cái bọn này là bọn lười biếng. Trong thiền đường của Thầy mà ngồi tu mà để tọa cụ mà ngồi vậy thì Thầy quét ra, Thầy cho quý thầy ra chớ đừng có nói chuyện mà lười biếng được.

Ở đây một cái ý tứ phải hẳn hòi, chớ mà làm sai là Thầy thấy là…​ Tập siêng năng gọi là Chánh Tinh Tấn, tập tinh tấn chớ đâu phải là tập lười biếng? Mà ở đây mà bỏ qua một cái là Thầy thấy đó là cái lười biếng chớ không phải là cái siêng năng. Từ cái tập siêng năng đó nó mới có trở thành cái Chánh Tinh Tấn của chúng ta, nó mới trở thành cái Tấn Lực.

Mà trong khi tu tập, cái chuyện ngồi thiền nó là đơn giản, còn cái tâm hung dữ nè, cái tâm hung ác của chúng ta nè, mà không siêng năng mà loại trừ nó ra thì làm sao cho hết?

Cho nên muốn siêng năng chúng ta phải tập hết sức cái siêng năng đó chớ! Từ cái chuyện nhỏ chúng ta phải siêng năng cho đến cái chuyện lớn chúng ta mới siêng năng được, còn cái chuyện nhỏ chúng ta lười biếng được thì cái chuyện lớn nó cũng sẽ lười biếng theo.

Cho nên cái Chánh Tinh Tấn không phải là cái chuyện dễ cho một cái người mà mới tu tập, mà phải giảng cho người ta hiểu từng cái chút một, phải siêng năng từng cái chút, như vậy là sau này người ta mới tích tụ được những cái siêng năng đó mới trở thành Chánh Tinh Tấn.

Chưa dạy tới Bát Chánh Đạo, chớ dạy tới Bát Chánh Đạo thì Thầy sẽ dạy Chánh Tinh Tấn như thế nào để quý thầy biết được cái sự siêng năng cùa quý thầy từng chút chớ.

15) GIỚI TRONG PHÒNG TĂNG TRẢI TỌA CỤ KHÔNG CẤT

(01:11:54) 15. Giới trong phòng tăng trải tọa cụ không cất.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, có khách Tỳ Kheo nói với vị cựu trú rằng: “Tôi xin trải ngọa cụ tăng tại bên phòng của tăng để ngủ.” Sau đó không nói với chủ bèn bỏ đi. Ngọa cụ bị biến sắc, hư. Phật nhân đó mà kiết giới này.

Đó cũng là một cái vị tăng mà lười biếng nhất á. Hành động đó là biết là hành động thiếu tinh tấn rồi đó. Ở đây chế cái giới để mà cho họ siêng năng chớ không phải là gì hết.

16) GIỚI CƯỠNG ĐOẠT CHỖ NGỦ NGHỈ

(01:12:32) 16. Giới cưỡng đoạt chỗ ngủ nghỉ.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần cùng với Thập Thất Quần trên đường đi tại nước Câu Tát La, đến thôn không có trú xứ của Tỳ Kheo.

Thập Thất Quần nói với Lục Quần Tỳ Kheo: “Các ngài là bề trên của chúng tôi, nên tìm chỗ để nghỉ trước!” Lục Quần trả lời: “Các ông tự đi tìm chỗ cho mình chứ chúng tôi không tìm chỗ nghỉ làm gì.” Khi ấy Thập Thất Quần tìm chỗ để nghỉ rồi, Lục Quần đến sau, cưỡng bức trải tọa cụ chính giữa mà nằm. Phật do đó mà kiết giới.

Mấy ông Lục Quần này là chơi cha đó, xúi cho mấy cái ông nhỏ nhỏ là Thập Thất Quần Tỳ Kheo này đi kiếm chỗ rồi vô đó mà cưỡng người ta để mà lấy cái chỗ ngủ, đó là Phật chế giới là…​ Sao lại, ở trong cái Tăng đoàn mà tu hành theo giới luật của Phật mà lại có những cái chuyện này. Thầy thấy nó quá phi lý mà người ta đặt ra như vậy.

Một cái người mà tu theo đạo Phật người ta phải có bốn cái Tâm Vô Lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả ở trong đó, mà vô đầu là người ta đã luyện tập trau dồi cái người đó qua một cái hạnh Chánh Niệm Tỉnh Thúc rồi, làm sao lại có những cái sai trái như thế này, Thầy chẳng biết sao! Mấy ông chế giới này họ không hiểu Phật pháp là cái gì hết!

Một người cư sĩ người ta đã luyện tập được Tứ Vô Lượng Tâm người ta rồi, cho nên hầu hết là nói đến Tứ Vô Lượng Tâm, chờ Bồ Tát mới có tập luyện Tứ Vô Lượng Tâm, cái đó là cái không đúng.

(01:14:07) Ngay từ lúc đầu chúng ta đã luyện tập cái tâm để chúng ta phá cái sân, cái si, cái tham của chúng ta. Nếu mà không có cái tâm từ thì làm sao đối trị được cái tâm sân của chúng ta được? Cho nên ngay từ đó chúng ta phải tập luyện Tứ Vô Lượng Tâm rồi. Thế mà còn có cái sự kiện mà xảy ra như thế này sao?

Cái ông lớn đi ăn hiếp ông nhỏ để mà tranh chỗ nằm, chỗ ngủ! Giàu sang gì, đi ở những cái chòi tranh vách lá mà còn cái gì nữa mà tranh! Ngủ hang ngủ hốc, ngủ rừng ngủ bụi, ngủ đồng mả thây ma, ngủ ở trong nhà mồ, mà còn cái gì bảnh đâu mà giành giật?

Mấy ông Thập Thất Tỳ Kheo này, mấy ông này, 17 cái vị Tỳ Kheo này - Thập Thất Quần Tỳ Kheo này đi tìm ở trong cái nhà mồ, tìm xong rồi trải tọa cụ thì mấy ổng vô mấy ổng giành. Tưởng là giành cái nhà lầu, nhà đài gì mà giành, giành cái nhà mồ!

Trời ơi, thây ma nó để trỏng cả đống ở trỏng đó mà giành nhau mà ngủ! Hôi hám, thúi rùm ở trong đó mà ham mà giành! Thử hỏi mấy ông này sao ngu quá ngu vậy không biết? Vậy mà Lục Quần - sáu cái vị Tỳ Kheo này sao ngu quá ngu, tưởng là mình lớn mình đi làm cái chuyện đó đúng hay sao?

Cho nên ở đây Thầy thấy nó vô lý đến là vô lý, giới luật của Phật, giới bổn á, đọc đến những cái giới này Thầy thấy vô lý, mấy ông này đặt tầm bậy. Người ta bỏ nhà bỏ cửa, bỏ cái sự sung sướng rồi bây giờ còn đi giành cái chỗ nằm như vậy đó, thì đâu có cái lý nào mà có cái chuyện đó được đâu.

Cho nên giới luật - cái giới kinh của Phật dạy chúng ta tu hành những cái pháp rất là rõ ràng, đâu có cái tâm mà còn bỉ thử, còn tham cái chuyện mà tham không đúng tham. Bởi vậy Thầy nói là tham là tham như người đời đi, mà không tham thì thôi chứ đừng có vô chùa mà tranh từ cái bàn chải, cây kem, hay hoặc từ cục xà bông thì cái đó - hay hoặc là tham tranh cái chỗ ngồi trước ngồi sau, chỗ nào cũng được!

Đó cho nên vì vậy mà Thầy thấy cái tâm phàm phu của chúng ta quá là phàm phu. Mà đã đi tu rồi mà còn phàm phu vậy sao? Mà học, mà tới các vị này là Tỳ Kheo rồi mà không thấy được cái chỗ tu tập của mình sao? Tứ Vô Lượng Tâm còn để chỗ nào? Cho nên đặt giới như vậy đặt làm gì?

17) GIỚI ĐUỔI TỲ KHEO KHỎI PHÒNG

(01:16:02) 17. Giới đuổi Tỳ Kheo khỏi phòng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Phật cũng tại vườn của ông Cấp Cô Độc, Thập Thất Quần vào trong chùa trải tọa cụ ngủ rồi Lục Quần đến sau lôi kéo ra ngoài phòng. Phật nhân đó mà kiết giới.

Mấy cái ông Thất Quần này vô trong chùa người ta trải tọa cụ rồi ngủ, mấy ông này đến sau lôi mấy ông này ra: “Mấy ông ngủ chật hết, mấy ông ra ngoài nằm ngoài sân đi! Tui giành cái thiền đường này!”

Sáu ông này giành cái thiền đường ngủ, làm cái chuyện Thầy nói, thiệt ra Thầy nói người tu sĩ mà làm còn hơn ở ngoài đời thì Thầy thấy, còn những cái giới hạnh này Thầy thấy thiệt là…​ Ngoài đời người ta cũng không có làm vậy nữa!

Bây giờ nè, các con ngoài đời nè, các con vô đây mà các con thấy cái chùa này trống nè, các con trải đồ các con ngủ, thì mấy ông kia có vô sau thì bây giờ thôi mình cũng nằm ké ké nhau ngủ, chớ đâu mà lôi người ta quăng ra ngoài! Chuyện đó là thiệt chuyện ngoài đời rồi, chuyện này là chuyện - cái bọn này là bọn cướp giật, cái bọn này bọn không phải đúng là tu sĩ của đạo Phật đâu!

18) GIỚI TRÊN TẦNG GÁC, NGỒI TRÊN GIƯỜNG SÚT CHÂN

(01:17:02) 18. Giới trên tầng gác, ngồi trên giường sút chân.

Vì sao Phật kiết giới này?

Phật cũng tại vườn Cấp Cô Độc, có Tỳ Kheo ở trên lầu gác, ngồi giường chân bị sổ, ngồi không vững, chân rớt xuống trúng Tỳ Kheo ngồi tầng dưới, bị chảy máu.

Nói cái chuyện quá là chân tay!

Phật quở trách rồi kiết giới.

Cái ông này chắc bộ là thương binh rồi! Sao mà họ đặt giới kỳ cục, Thầy không biết sao mà nói.

Bây giờ mình ngồi ở trên giường cao, giường này là kiểu sinh viên mà ở trong các cái nôi trú, ở trong các cái trường đại học nội trú nó có những cái giường tầng thấp tầng cao vầy nè, cái người ở dưới này, rồi người chui lên trên ngủ trên này, ba bốn tầng vậy, một cái giường mà ba bốn người ngủ đó.

Do đó là cái ông này cũng cái kiểu mà bộ là sinh viên rồi, cho nên cái ông mà đặt giới này chắc hồi đó ổng cũng học ở trường đại học cho nên ổng biết cái này mà ổng đặt ra đây chớ gì? Cái ông giới sư này kiểu này chớ không phải đâu. Chớ làm gì mà Đức Phật hồi đó mà có cái giường kiểu đó mà ngồi ở trển mà sút chân!

Mà trong cái thời Đức Phật đâu có lý nào mà gãy chân mà vô xuất gia tu bao giờ, đi khất thực làm sao được? Vậy mà cũng mang cái chân gãy này đi khất thực thì Thầy thấy nó cũng dữ tợn chớ! Thế mà rồi ổng ngồi đó ổng lơ mơ gì đó, sút dây rớt cái cây làm u đầu người ta chảy máu, cho nên Phật mới chế ra.

Cái này là cũng cái ý nói để mà chúng ta cẩn thận ý tứ thôi, nhưng mà đây là nó vô lý, rất là vô lý, nó không có phải như vậy! Cái câu chuyện thì nói mắc tức cười chớ sự thật ra nó vô lý quá, nó không có đâu.

Vì sao Phật kiết giới này?

19) GIỚI DÙNG NƯỚC CÓ TRÙNG XỐI LÊN BÙN CỎ

(01:18:44) 19. Dùng dùng nước có trùng xối lên bùn cỏ.

Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa khi Phật ở tại nước Câu Diệm Di, Xiển Đà Tỳ Kheo cất nhà lớn, dùng nước trùng trộn hồ và bảo người trộn. Đức Phật nhân đó mà kiết giới này.

Khi có thầy Tỳ Kheo không biết có trùng, sau mới biết nên tác pháp sám hối. Phật dạy: “Không biết, không phạm.” Và Phật kiết giới này lại: “Nếu biết có trùng mà dùng tưới lên bùn cỏ, phạm Ba Dật Đề.”

Thật sự ra thì trong khi ở đây Phật cấm các vị Tỳ Kheo không có cho cất nhà tường, nhà gạch, ở đây thì chắc có lẽ các ngài mới trộn đất để trét cái vách đất như liếp mình á, trét vách đất để cho nó mưa đừng có tạt ướt, thì nhân đó mà cứ múc, thấy cái vũng nước ở đâu đó có lăng quăng hay hoặc là có cá nhái, cá cóc gì ở trong đó nó lội tùm lum đó, mấy ông đó nhắm con mắt đi, múc lên đổ, trộn trong bùn rồi trét, bao nhiêu cái con trùng đó, con vật đó nó chết đi.

Do vì vậy đó mà Đức Phật nói mình vô tình, mình không thấy, không biết, mình phạm thì không có tội. Nhưng mà sự thật ra Thầy nói vô tình gì ở đây Thầy cũng quét ra.

Mấy ông tu theo Đạo Phật thì mấy ông phải ý tứ rồi, muốn múc cái vũng nước đó thì mấy ông phải coi nó có không. Mà bây giờ mấy ông nói mấy ông vô tình thì cái chuyện đó là cái chuyện là ông đã từng ở đâu ông vô đây, ông đã tu tới bây giờ ông là thọ Tỳ Kheo rồi thì đâu có lý nào mà ông không Chánh Niệm Tỉnh Thức, Tỉnh Giác Định được, do ít ra ông phải tỉnh thức chớ, vì vậy mà ông múc nước ông phải biết đó là có trùng hay là không trùng ở dưới đó chớ, tại sao ông giết hại chúng sanh rồi ông nói rằng ông vô ý, không có phạm?

Điều đó là - Phật mà chế giới này như vậy là cũng - Thầy thấy nó không - nếu mà ông Phật chế như vậy là không đúng đó. Nghĩa là cái người tu sĩ của đạo Phật là cái người phải có ý tứ hẳn hòi đàng hoàng mới gọi là tu sĩ đạo Phật.

Còn cái người vô ý là cái người mà chưa có phải đệ tử của Phật, còn là cư sĩ, còn tập luyện những cái Chánh Niệm Tỉnh Thức, tu ở trong những cái hành động hàng ngày, chừng nào mà người ta có đủ cái ý tứ rồi thì mới chấp nhận cho người ta xuất gia tu hành trở thành tu sĩ của mình, thì đâu có làm cái chuyện phi pháp như vậy, đâu có chuyện làm sự tàn sát hại chúng sanh như vậy!

Đó thì đọc qua cái này, thì cái giới này chúng ta phải chế như thế nào để cho đúng cách của một cái người tu sĩ chúng ta phải làm cho đúng. Thì như vậy Thầy chỉ phê phán cái này, sau này mà có dịp Thầy sẽ soạn lại cái bộ kinh giới này, chớ Thầy không để ba cái thứ kinh này được. Không phải Thầy giỏi, nhưng mà tại vì nó nói vô lý quá vô lý rồi, không có thể chịu đựng nổi được nữa thì phải dẹp nó đi chớ!

20) GIỚI LỢP NHÀ QUÁ BA LỚP

(01:21:31) 20. Giới lợp nhà quá ba lớp.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên khi Phật vẫn ở tại nước Câu Diệm Di. Xiển Đà cất phòng xá lớn, tranh dư, lợp hai, ba lớp không thôi, nhà sập xuống. Cư sĩ chê hiềm. Phật nhân đó mà kiết giới.

Trời, cái ông này sao mà ông ngu, bao nhiêu tranh dư thì ông chất lên hết trên nhà để cho sập! Thiệt là, Thầy thấy, sao mà chế cái giới sao mà quá ngu vậy thì Thầy không biết sao!

Người ta muốn lợp - bây giờ Thầy muốn lợp cái nhà này thì ít ra Thầy cũng phải có một cái đầu óc suy nghĩ nó: Bây giờ mình để fibro thì cái cột cây này nó phải chịu như thế nào mới gác fibro chớ, còn tôn thì nó nhẹ thì lợp nó như thế nào, tranh lá nó phải như thế nào, Thầy cũng phải suy tính chớ.

Ông này, sao mà cái ông Tỳ Kheo này sao ông ngu đến mức độ bao nhiêu dư ổng đem ổng đắp lên trển hết, để cho chuột ở chớ làm cái gì? Ổng tiếc gì vậy, cho người khác người ta cất cái thất không phải được sao?

Cho nên những cái, Thầy nói giới gì mà đặt nó làm sao mà thấy Tỳ Kheo sao mà nó si, sao không có thể tưởng tượng được nổi! Vậy mà đệ tử của Phật nữa. Thầy không hiểu làm sao hết!

Đó thì các Thầy thấy, đọc những kinh giới chúng ta mắc tức cười à. Mà các thầy không nghe Thầy giảng ra thì các thầy chấp nó, các thầy nói nó hay chớ nó không có dở đâu. Mà Thầy giảng rồi các thầy thấy rõ ràng là cái thứ thiệt là thứ tầm bậy không à.

Đem ba cái thằng ngu si vô trong này gọi là Tỳ Kheo, thật sự ra nó ngu, nó ngu hơn là cái người ngoài đời nữa. Người ngoài đời người ta còn khôn ngoan chớ, ai điên gì mà lợp dữ vậy, lợp cho tới sập nhà! Viết gì mà kỳ cục vậy? Vậy mà đem nêu vô trong này mà nói, đặt cái giới đó ra, thiệt là quá tệ!

[Phần 2 ở Giáo án 41]

HẾT BĂNG

41 - GIỚI ĐỌA 02 - QUÁN VÔ LẬU PHẢI QUÁN CHO THÔNG

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 41 - GIỚI ĐỌA 02 - QUÁN VÔ LẬU PHẢI QUÁN CHO THÔNG

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- CHÍN MƯƠI GIỚI ĐỌA - PHẦN 2

[Phần 1 ở Giáo án 40]

21) GIỚI TỰ ĐI DẠY BẢO NI

(00:00) 21. Giới tự đi dạy bảo ni.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, bà Đại Ái Đạo Tỳ Kheo Ni thỉnh cầu Phật cho phép các Tỳ Kheo vì ni mà giáo giới thuyết pháp. Đức Phật bảo ông A Nan theo thứ tự mời vị Thượng tọa đến giáo giới, vì ni nói pháp.

Khi ấy theo thứ tự nên mời Tôn giả Bàn Đà đến dạy, song Tôn giả chỉ thuộc một bài kệ, nên đến nơi, ba phen chỉ nói một bài kệ, mỗi lần nói xong liền vào Đệ Tứ Thiền.

Tức là nói xong thì ông nhập Tứ Thiền, chớ còn không nhập Tứ Thiền, người ta hỏi, ông biết đâu ông nói! Ông thuộc có bốn câu kệ thôi chớ ông làm sao ông nói, cho nên hễ ông nói bốn câu kệ rồi thì ông nhập vô Tứ Thiền, ông ngồi im re đó.

Các La Hán Ni đều rất hoan hỉ, còn Lục Quần Ni thì lại kêu giọng giỡn cợt, chê bai. Tôn giả liền thăng lên hư không, hiện ra các thần thông biến hóa, nói pháp mà đi.

Lúc khi ấy, Lục Quần Tỳ Kheo tự tiện đến giáo hóa, nói bao nhiêu chuyện khác, không nói Chánh Pháp, chỉ nói các chuyện thế tục trong thế gian, Lục Quần Ni rất là hoan hỉ. Bà Đại Ái Đạo biết, đến bạch Phật. Ngài bảo: “Các Tỳ Kheo này…​ Từ nay về sau, tăng phải bạch Nhị Yết Ma sai người đến giáo thọ ni.”

Lúc ấy, Lục Quần Tỳ Kheo bèn ra ngoài giới, cùng nhau sai đến. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật dạy: “Tỳ Kheo nào thành tựu 10 pháp, về sau mới được giáo thọ Tỳ Kheo Ni.” Nhân đó Phật kiết giới này.

Nghĩa là cái ông Bàn Đặc thì ổng thuộc có bốn cái câu kệ thôi chớ ông không có thuộc nhiều, cho nên ông A Nan sắp xếp cho ổng đi giảng ở cho bên ni, thì ổng đến đó ổng nói bốn câu kệ rồi ông nhập Tứ Thiền, thì những người ni mà đã chứng quả A La Hán thì họ rất là tán thán về cái sự thuyết giảng của ông, còn trái lại thì những người ni, Lục Quần Ni Tỳ Kheo thì lại chê bai ông nói không hay.

Cho nên sau đó thì ông thấy các vị đó chê như vậy, ông không có đến thuyết giảng nữa. Do vì vậy mà sau này Lục Quần Tỳ Kheo mới tự tiện mình, mới thay phiên nhau đến thuyết giảng cho bên ni.

Thì trong lúc đó, chắc ông A Nan ổng ở đâu không biết, chắc ông ngủ quên rồi chứ sao, chớ không lẽ mà ông A Nan không phái mà mấy ông này dám đến thuyết như vậy, thì Thầy thấy đây là những cái chuyện mà bịa đặt, nó không có lý đâu.

Phật đã sai ông A Nan sắp xếp những người nào mà đi thuyết giảng cho bên ni thì nó phải có người chớ? Còn đằng này không có sắp xếp Lục Quần Tỳ Kheo, thế mà mấy ông này tự nhiên đi mà ông A Nan ổng không biết à?

(02:51) Bữa nay là ông Bàn Đặc đi nè, thì ông Bàn Đặc ít ra ông về ổng cũng trình lại ông A Nan: “Tui đến tui thuyết giảng như vậy, mà bên ni họ được nghe vậy, và đồng thời họ không có hiểu được cái thâm ý của tui là muốn chứng tỏ rằng cái chỗ mà nhập Tứ Thiền là cái chỗ vi diệu nhất, chỗ giải thoát nhất, để cho các người đó nương cái câu kệ của tôi đã học được Phật đó, thì bắt đầu lấy cái câu kệ đó mà tu để được giải thoát, làm như chính tui đã làm, nhưng mà các vị đó không có hiểu. Vậy thì ông A Nan phải phái cái người khác thay tôi để trong cái ngày mai đó đến giáo giới cho bên ni.”

Bởi vì ông này ông thấy bên ni có người chứng quả A La Hán rồi thì họ đâu có cần, họ rất là tán thán rồi, còn những cái người mà còn mê muội chưa chứng thì cần phải có cái người giảng như thế nào để cho hiểu. “Chứ nhè tui mà tui giảng như vậy, tui đọc có bốn câu kệ rồi cái bắt đầu tui nhập Tứ Thiền rồi thì họ tiêu hết, họ làm sao họ hiểu! Vậy thì ông hãy phái người khác đến!” Thì do đó ông A Nan phái.

Đằng này ông ta về cũng chằng nói gì. Một bậc Thánh Tăng như ông mà ông không biết nói cái điều gì đó thì như vậy là quá phỉ báng ông rồi. Bởi vì cái nhiệm vụ, cái trọng trách mà khi được mình nhận lãnh cái trọng trách mình đi giảng người ta, dạy người ta để tu tập thì cái nhiệm vụ trọng trách mình có chớ!

Nhưng mà mình thấy người ta không có nhận được, cho nên vì vậy đó mình thấy cái duyên nó không có thì mình về báo lại cho ông A Nan biết, để ông A Nan ổng sắp xếp cho cái người khác người ta thay mình để mà người ta giảng, thì như vậy mới đúng cái lý của Phật pháp chớ!

Không lẽ là mình không giảng là mình nghỉ à? Mình nghỉ rồi mấy cái ông này thừa nước đục mà thả câu á, kêu là thừa nước để mà đi vào đó để dạy tầm bậy tầm bạ cho bên nây, cho nên bên kia, mấy cô mà thích ăn thích ngủ nghe mấy cái ông Lục Quần Tỳ Kheo này nói, nào là giới này giới kia đồ, Phật chế rộng rãi rồi, bây giờ mình ăn thỏa thích đi, mình đi coi hát cũng được nè, mình mua radio, ti vi đồ hay hoặc là video về, mình chiếu phim đồ lên mình coi thỏa thích đi, thì mấy bà đó là phải khoái rồi chớ gì?

Mà gặp Lục Quần Tỳ Kheo này là còn thích nhất nữa. Gặp cái thời đại chúng ta, trong cái thất, trong cái cốc của mấy ông đó, chắc để đầy đủ máy móc hết rồi, không có thiếu cái gì cả hết.

Cho nên ở đây, theo Thầy thiết nghĩ là nó đặt cái giới nó không có hợp lý. Cho nên làm sao có những người mà am tường, hiểu biết được cái giới luật của Phật để chúng ta soạn lại cái bộ kinh giới, nó đầy đủ hơn, nó đúng với cái nghĩa của nó hơn, để cho cái người mà người ta giữ giới mà người ta được ly dục, ly ác pháp, người ta được giải thoát, là cái nhiệm vụ và trọng trách, chớ không thể nào những cái bộ kinh giới như thế này mà lưu hành ra thì toàn bộ là tai hại cho tu sĩ chúng ta, phá giới hết chớ không còn nữa.

(05:24) Chúng ta phải biết được cái bộ kinh nào nó đem đến cái sự lợi lạc cho con người tu hành sau này, và cái bộ kinh nào nó sẽ tai hại, chớ không phải. Bởi vậy Thầy đọc toàn bộ kinh từ Đại Thừa đến Tiểu Thừa mà Thầy viết ra một cái bộ sách gọi là Đường Về Xứ Phật, cái bài kinh nào đúng của Đức Phật là Thầy để, mà bài kinh nào không đúng của Phật Thầy bác ra hết, Thầy quét sạch ra hết.

Cả một cái hệ thống mà toàn cả cái tạng kinh của Phật, mà Thầy hết sức công phu viết. Nhưng mà Thầy thấy đem ra cái này cũng là một cái điều rất là đau khổ cho cái người thời nay, cho nên Thầy chẳng bao giờ mà Thầy cho ai đọc hết.

Và cuối cùng thì hôm nay Thầy giảng như thế này, thật sự ra từ lâu tới giờ Thầy có học giới thật sự, nhưng mà Thầy lo tu chớ Thầy không có nghiên cứu ba cái này đâu, giữ gìn mình đúng trong những giới hạnh mình tu. Đến khi mà đọc để giảng cho quý thầy, Thầy thấy toàn là tan nát hết rồi. Mấy cái ông ba lăng nhăng này viết tầm bậy tầm bạ cũng gọi là tổ này tổ kia dữ tợn!

Thật sự Thầy nói, tội Thầy đọa địa ngục Thầy chịu chớ Thầy chẳng có thấy cái giới luật của Phật như thế này mà Thầy chấp nhận được. Bởi vì Thầy hiểu biết cái giới luật của Phật là ly dục, ly ác pháp chớ không phải là cái thứ giới mà như thế này được!

Đây là 10 cái pháp:

1. Giới luật đầy đủ;

2. Học rộng hiểu nhiều;

Thông suốt hai bộ kinh;

Hai bộ giới đó, tăng và ni đó.

4. Quyết đoán, không nghi ngờ;

5. Thuyết pháp khéo léo;

6. Xuất thân từ chủng tộc cao;

7. Dung mạo đoan trang, thấy liền hoan hỉ;

8. Có khả năng thuyết pháp khiến Ni hoan hỉ;

9. Không vì Phật xuất gia mặc pháp phục mà phá các trọng cấm;

10. Đã đủ 20 hạ trở lên.

Thì 10 cái điều kiện nêu ra cho một vị thuyết pháp bên ni là phải như vậy, nhưng có những điều mà có thể chúng ta thấy nó không hợp đâu. Nhưng nói nhiều quá, động chạm mấy ông này hết, thôi Thầy chẳng thèm nói làm gì, vạch ba cái này ra nữa thì chịu không có nổi rồi.

Khi nào mà Thầy có dịp rảnh Thầy soạn ra rồi Thầy mới kết lại như thế nào mà đúng một cái người đi thuyết giảng cho bên ni, cái Phạm hạnh như thế nào mới được thuyết giảng cho bên ni, bên nữ, còn không đúng thì không có nên mà đến đó. Đến đó mà tâm chúng ta còn yếu, cái hình sắc, cái nụ cười, cái hình tướng của cái người nữ nó làm cho chúng ta…​

Và đồng thời thì mấy cái cô này nó cũng chưa tới đâu đâu, gặp một cái ông thầy mà nói có duyên rồi thì mấy cô đó mai mốt mấy cô đến phòng rồi đem cái này kia biếu, câu như là câu cá đó, thì cái điều đó là cái điều còn tai hại lắm, chớ không phải là thường cho cái sự tu hành, mà làm nó càng ngày càng sa đọa trong cái giới tu hành của Phật giáo.

Cho nên ở đây, khi mà có dịp mà Thầy được rảnh Thầy soạn lại cái bộ kinh giới. Mặc dù Thầy không phải giới sư đâu, nhưng mà Thầy phải soạn để lại cho đời sau có một cái giáo án của Phật, đường lối tu tập từ dễ đến thấp, có cái lý pháp và cái hành pháp nó rõ ràng, và đồng thời thì phải có một cái bộ giới luật rất là cụ thể rõ ràng cho mỗi giới đều là có một cái pháp để chúng ta tập luyện ly dục, ly ác pháp, để chúng ta đi thẳng vào con đường giải thoát của đạo Phật.

Chứ giới luật như thế này Thầy thấy nó không phải là cái pháp ly dục, ly ác pháp đâu, mà nó còn có thể nuôi lớn những cái tâm dục của chúng ta bằng cách nhỏ giọt làm cho chúng ta ham thích theo cái dục lạc của thế gian thêm nữa.

22) GIỚI DẠY BẢO NI ĐẾN CHIỀU TỐI

(8:36) 22. Giới dạy bảo ni đến chiều tối.

Vì sao Phật kiết giới này?

*Đức Phật vẫn ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, khi ấy, tôn giả Nan Đà được tăng sai đến giáo thọ ni chúng. Tôn giả âm thanh tốt, nói pháp người nghe ưa thích nên đến mặt trời lặn ni chúng…​* (Mất tiếng)

Cửa thành đã đóng, phải ngủ bên ngoài. Sáng, thành mở cửa, vào trước mọi người. Các trưởng giả thấy, chê hiềm, hủy báng ni chúng cũng cùng Tỳ Kheo ngủ đêm. Nhân đó Phật kiết giới này.

Ở đây cái câu chuyện đặt ra như vậy, là tại vì cái ông này thuyết giảng hay quá cho nên quá giờ rồi mà chúng ni không có ra về, cho nên về tối rồi cửa thành bị đóng, vì vậy mà ở ngoài cửa thành mà ngủ, sáng ra thì mới vào, thì các vị cư sĩ ở trong thành người ta thấy ni sao mà ở ngoài thành?

Có lẽ là trong cái thời Đức Phật mà đọc qua cái chỗ này thì chúng ta thấy có lẽ cái tổ chức của Phật ngày xưa thì bên ni - bên nữ á, thì cái tịnh xá hay hoặc là cái nơi mà các ni ở thì nó ở trong thành, còn tăng thì ở ngoài thành, ở trong cái khu rừng nào đó.

Cho nên các ni thì thường thường là đến nghe Phật thuyết pháp, thì bữa hôm đó thì cái ông Nan Đà này ổng thuyết pháp, và ông thuyết pháp quá hay làm cho các cô ni này quên về đi, vì vậy mà cuối cùng thì ở ngoài cửa thành.

Thật sự ra, trong khi mà có cái sự tổ chức như vậy, Thầy thấy cái nhiệm vụ của cái ông giảng sư, không có nghĩa là ông Nan Đà mà ổng để cho mấy bà này ở lại nghe cho tới tối rồi mới về đâu, không phải đâu. Nghĩa là đúng giờ cho mấy người về mấy người còn vô thành.

Bởi vì mình ở gần bên thành mình biết mà, là đóng cửa nào, lúc nào mà đóng cửa, lúc nào mở cửa mình biết, cho nên giờ này là quý cô hãy về, không được ở lại, về để vào kịp ở trong tịnh xá mà nghỉ, không được ngủ ở ngoài đường ngoài xá, nhất là thân nữ. Cho nên đâu có lý do mà chế cái giới này kỳ cục như vậy. Cho nên ở đây nhiều cái Thầy nói, nó nhiều cái mà không có thể nào tưởng tượng được hết!

Cũng như bây giờ Thầy giảng các con này, buổi chiều nè, Thầy giảng cho các thầy nghe nè, mà bây giờ các thầy không có được ở đây mà ở ngoài Trảng Bàng nè, phải về ngoài đó, thì lúc bấy giờ khi mà Thầy thấy đúng giờ Thầy phải cho về liền để cho về kịp chớ đâu có lý nào mà để ở lại đây?

Ở lại đây không có chỗ ngủ làm sao ở lại được? Do vì vậy đó mà tới giờ là phải nghỉ thôi, không có thể nào mà không cho nghỉ, thì như vậy làm sao có cái chuyện mà xảy ra như vậy được!

…​ trừ dạy tụng kinh hoặc việc khác, phạm Ác Tác.

Nghĩa là ở đây còn gạnh thêm cái chỗ “trừ tụng kinh” nữa. Bởi vì tụng kinh 7 giờ tối mà, cho nên cửa thành đóng mất rồi làm sao? Cho nên còn thêm là cái trừ tụng kinh mới không có phạm cái tội. Nghĩa là ở lại tụng kinh chứ nghe pháp là phạm tội. Nghe pháp nó phải còn hay hơn là cái tụng kinh không?

(11:23) Cho nên ở đây Thầy thấy đặt cái giới chỗ này là đã không có cái nghĩa rồi. Cái người mà thuyết pháp không phải không biết được cái thời gian. Cũng như bây giờ, Thầy nói bây giờ Thầy thuyết pháp nè, dù Thầy có ráng đi nữa thì chắc chắn là cũng 5, 10 phút chớ không thể nào mà hơn cái giờ mà chúng ta ăn cơm được, cũng phải đình chỉ lại à, chớ không thể nào hơn được.

Thì quý thầy thấy đó là cái bổn phận của người giảng, còn quý thầy có nghe hay là quý thầy có thích nghe đi nữa, Thầy đình là Thầy đình thôi chớ không làm sao mà nói: “Bây giờ con thích nghe, Thầy cứ nói thêm nữa đi” hay “giảng thêm nữa đi!” Đâu có được! Giờ này không phải là giờ ngồi đây mà còn…​ Giờ chúng ta sắp sửa ăn cơm rồi thì phải đình, phải không? Cho nên giờ mà mấy cô phải về thì mấy cô phải về.

Mà vả lại Thầy biết rằng khi Đức Phật sai một cái vị Tỳ Kheo thuyết giảng cho cái bên ni tu tập thì chắc chắn là phải có cái định giờ giấc hẳn hòi, chớ bên ni nó lộn xộn lắm. Nó tối rồi đây bắt đầu nó ngủ ở trong cái chùa của mình là tiêu tan hết chớ không phải lơ mơ đâu, rồi đây là mang tiếng cả đám nhau: “Tăng, ni nó ngủ chung nhau đó!” Đâu có phải chuyện dễ đâu!

Cho nên mình dạy rồi bắt đầu: “Mấy cô tới giờ này phải đi chớ không có được ở đây!” Phải nói thẳng à, ở đây nó mang tiếng lắm. Tăng, ni phải đâu ra đó. Cho nên do cái chỗ hướng dẫn nghiêm chỉnh như vậy thì cái Giáo đoàn, Tăng đoàn nó mới có thanh tịnh.

Chớ đâu phải tối rồi, giờ này tối rồi mà còn ngồi ở đây, ngồi đống đống ở đây, rồi tăng đi qua đi lại, nó thấy mấy cô nó khoái lắm, nó đi qua đi lại như diều, cho nên như vậy làm sao mà cái tâm người ta thanh tịnh người ta tu được, làm sao người ta tu, ác pháp, bao nhiêu cái hình ảnh nó gợi trong ý.

Rồi tăng thì cũng đi qua đi lại, mặc áo đẹp đẽ, ủi láng coóng, đi tới đi lui, làm cho mấy bà ngồi đó cũng điêu đứng hết, ngồi mà không dám nhúc nhích! Thì tất cả những cái này là cái làm cho tâm người ta quá rối loạn, điêu đứng.

Cho nên ở đây chúng ta tu hành, chúng ta không thấy cái bóng dáng hình nữ thì chúng ta thấy cái tâm càng ngày nó càng thanh tịnh, mà thấy cái thứ đó rồi nó khó lắm, nó khó móc ra lắm chớ không phải dễ đâu. Nuốt vô thì được chớ ói ra nó khó lắm chớ không phải dễ!

23) GIỚI CHÊ BÁNG TỲ KHEO KHÁC DẠY BẢO NI

(13:27) 23. Giới chê báng Tỳ Kheo khác dạy bảo ni.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật vẫn ở tại vườn của ông Cấp Cô Độc, khi ấy các Tỳ Kheo Ni nghe thầy giáo thọ đến nên ra nửa do tuần đón rước, phòng xá thoải mái, thức ăn, chỗ ngồi tốt, chỗ tắm rửa khang trang.

Lục Quần Tỳ Kheo không được tăng sai, sanh lòng tật đố, nói: “Các thầy Tỳ Kheo không có chân thật, chỉ vì ăn uống nên mới giáo thọ ni chúng.” Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân đó mà kiết giới này.

Thầy nói thật sự đây, những cái này viết nó rất sai nè. Các thầy thấy nè, một vị tu sĩ, tăng mà đến thuyết giảng nơi của người nữ ở đó, thì cái sự tiếp đón họ mình phải công nhận rồi, phòng xá chỗ mà giảng dạy thì nó phải rồi, thức ăn, chỗ ngồi tốt thì đúng rồi, còn cái chỗ tắm rửa khang trang nữa thì ai mà vô cái phòng tắm của người ni mà tắm bao giờ?

Các thầy thấy không? Ở đây mà nó dám viết cái điều đó! Thầy bây giờ, mời Thầy một trăm ngàn lần mà vô cái phòng tắm của người ni, Thầy chả thèm vô, dù ở đó bây giờ cái phòng có sang gì Thầy cũng không thèm nữa. Thầy nói thật á! Làm cái gì mà vô cái phòng tắm của họ, Thầy đâu có thèm!

Bởi vậy, ở đây nhiều cái nó nói Thầy thấy vô lý thiệt vô lý. Một ông tăng mà tu cái tâm thanh tịnh rồi không bao giờ họ thèm đến cái chỗ phòng tắm của người nữ đâu, họ chẳng bao giờ mà vô cái phòng ngủ của người nữ đâu, nói thật sự đó!

Thầy nói đúng cách của một cái người giới luật thanh tịnh rồi, họ không bao giờ mà có thể nói rằng…​ Từ cái chỗ họ biết như thế nào, như cái lý như thế nào của pháp rồi thì họ biết cái chỗ nào là bất tịnh mà chỗ nào là không bất tịnh họ biết rồi, họ đâu có bao giờ họ ngu si mà họ đem cái thân, cái tâm của họ vô cái chỗ bất tịnh đó để mà họ nhồi nhét nó thêm đâu! Họ thoát ra được, họ bỏ ra được họ bỏ, chớ đâu có lý nào!

Bởi vậy viết giới mà sao không thấy cái chỗ này? Cái ông mà viết giới này ổng cũng muốn vô phòng tắm của phụ nữ rồi, cho nên ổng mới viết như vậy đó, để rồi mình thuyết giảng rồi bắt đầu…​

Phòng tắm của phụ nữ nào là xà bông thơm nè, nào là dầu thơm nè, rồi kiếng soi mặt nè, vô trong đó rồi soi mặt ra rồi cái mặt của mình nó đẹp đẽ lên, cho nên mấy ổng cũng khoái lắm.

Còn cái phòng tắm của tăng coi, nó kèm hèm, rác rến, cỏ rác tùm lum, nó đâu có bằng bên ni đâu. Thì như vậy là, viết như vậy là Thầy thấy thiệt là nó cũng, nó không có cái lý đúng của một cái sự tu tập, cái chỗ mà ly dục, ly ác pháp của cái người tu.

24) GIỚI CHO Y TỲ KHEO NI KHÔNG PHẢI BÀ CON

(16:00) 24. Giới cho y Tỳ Kheo Ni không phải bà con.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật cũng vẫn ở tại vườn Cấp Cô Độc, trong thành có một Tỳ Kheo khất thực, oai nghi đầy đủ. Khi ấy, có một cô ni thấy và thường xin được cúng thức ăn, vị Tỳ Kheo ấy không nhận.

Nghĩa là, trong cái thời Đức Phật có nói như thế này nè: Câu chuyện của bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo, trong khi đó đó, là trong cái khu vực nó bị hạn hán, nó bị đói khổ, rồi bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo bả đi xin, bà được cái thực phẩm, do đó có cái vị Tỳ Kheo đi tới, thì vị Tỳ Kheo nói: “Bà có xin được thì bỏ vô bát tui đi!”

Bà này thì - bởi vì bên cái giới ni mà Bát Kỉnh á, thì khi như vậy thì bà trút hết cái bát của đồ bả xin ăn cho cái vị Tỳ Kheo này. Vị Tỳ Kheo này mang bát đồ ăn của bà xin được đem về ăn.

Còn bà này thì đi hồi sáng tới bây giờ kiếm được có một bát à, rồi đâu có kiếm được nữa, bởi vì người ta nghèo đói hết mà, thất mùa mà, cho nên bà đó ngất xỉu, bà ngất xỉu, bà nằm ở dưới đường bà đi, bởi vì đói mà. Cho nên hôm trưa hôm qua ăn tới bữa nay mà xin được có nhiêu đó, ông này ông trút bát ông sớt ông đi rồi, cũng như con quạ, con vạc mà bóp cổ con cò ói ra con cá nó ăn vậy mà.

Cho nên do cái hành động đó đó, vì vậy mà chúng ta thấy rằng cái vấn đề Bát Kỉnh này nó quá sai. Cái ông Tỳ Kheo mặc dù ít ra thì người nữ người nam cũng có cái sự bình đẳng giống nhau, Bát Kỉnh là kỉnh ông ta thôi, để cho mình có cái lòng cung kính thôi. Cái này cung kính đến - có phải cái ông Tỳ Kheo ổng cũng chơi khôn đó, ổng chờ cho mấy bà ni đi khất thực xong rồi về cái kêu bả đó: “Trút vô bát tui đi!” Chơi kiểu đó chơi cha!

Các con thấy không, cái giới luật gì mà đặt kỳ cục cái kiểu này, mà Thầy nói thiệt ra đọc Thầy thấy nó bực mình vô cùng lận! Nó không có chơi cái kiểu đó được.

Cho nên cái bà này, bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo bả xin, bả không có được ăn rồi bả mệt bả đói, bả đi không nổi nữa, thì có một vị trưởng giả đó, đi cưỡi con ngựa đi ngang qua, thấy sao cái bà ni này sao lại nằm mà gần chết vậy? Mới xuống, mới đỡ bà ta, mới đem về nhà, mới cho ăn cho uống bà mới tỉnh lại, mới hỏi ra cái duyên sự như vậy, do đó mới đến trình Phật. Phật mới chế cái giới này ra.

Thì đây là cái giới này, thì như vậy là ở đây cũng có một cái sự kiện như vậy mà mới chế cái giới này ra. Thì thiệt ra Thầy thấy những cái điều kiện mà chế giới của Phật ở trong này, từ khi mình chế cái Bát Kỉnh ra, nó không biết thế nào mà gọi là Bát Kỉnh, người ta không hiểu như thế nào, rồi người ta bóp cổ người ta, người ta lấy thức ăn ở trước miệng của người khác.

Người ta đi xin cực khổ, mà trong khi mà nó dễ dàng thì không nói, mà nó khó khăn thì xin được miếng cơm đâu phải chuyện dễ. Thế mà mấy ông Tỳ Kheo này ngon lắm, cứ ngồi núp ở trong rào thôi, đợi cho mấy bà ni đi, đi xin mà có đầy bát thì mấy ổng ra! Thì cái kiểu đó khỏi mình đi chứ gì? Cái giới luật gì mà kỳ cục, Thầy chẳng biết sao nói là Bát Kỉnh.

Cho nên đọc lại cái chỗ Bát Kỉnh Thầy thấy không có cái điều đó, mà mấy ổng lại đặt ở trong cái giới này là có những cái sự kiện xảy ra như vậy, do đó Phật mới chế giới ra, thì thiệt ra thì cái chuyện họ đặt ra, họ đặt làm sao cũng được! Khó mà có thể lường được cái tâm con người.

25) GIỚI MAY Y CHO NI KHÔNG PHẢI BÀ CON

(19:23) 25. Giới may y cho ni không phải bà con.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật còn tại vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ có cô ni muốn may đại y đem đến trong chùa. Ca Lưu Đà Di nhận may và thêu hình nam nữ hành dâm.

Ông này chơi, may cái y của mình mà may nam nữ, hay hoặc là Thầy nói thôi thêu trái tim thôi cũng thấy chết được rồi chớ đừng nói chi mà thêu cái hình nam nữ! Thì cái đó là cũng là một cái nói tầm bậy tầm bạ, không bao giờ có cái chuyện đó được hết à!

Cô ni đến nhận y, dặn: “Không được tự tiện…​”

Khi mà cô này đến nhận y thì cái ông thầy đó dặn, cái ông Ca Lưu Đà Di này dặn - ở chùa mình chắc cũng có nhiều chùa cũng may y lắm á, mà cái ông này cũng chơi cắc cớ cái chuyện đó.

Dặn: “Không được tự tiện trải y ra xem, khi nào mà có đông chúng rồi mới trải y ra. Cũng không được cho người nào xem, khi nào đến giờ mới mặc mà đi sau chúng.”

Thì cô ni kia làm theo cái lời dặn, cư sĩ thấy mới vỗ tay cười! Cô này cũng đâu có để ý được, cái ông thầy này chơi cắc cớ, kêu là giễu cợt chơi như vậy đó, may y cho người ta mà diễu cợt như vậy đó. Phá, kêu là phá đám.

Các ni bạch Tỳ Kheo, Tỳ Kheo bạch Phật. Phật mới kiết giới này: “Nếu Tỳ Kheo may y cho Tỳ Kheo Ni mà làm cái kiểu đó là phạm Ba Dật Đề.”

Thì các con thấy đâu có cái chuyện mà…​ Bởi vậy Thầy nói có nhiều thầy họ làm hề, làm này làm kia, thì cái ông này cũng cái kiểu mà chọc phá trời đất đó chớ không phải tay thường đâu. Cái kiểu này là cũng là cái kiểu quậy trời quậy nước á! Nghĩa là mấy bà ni này đến nhờ may y cái ổng may y, ổng may y rồi ổng thêu tầm bậy, ổng dặn người ta như vậy để rồi cho người ta cười chơi.

Thì Thầy thấy những cái chuyện tiếu lâm, những cái chuyện cổ dân gian có nhiều cái chuyện mà người ta làm những cái chuyện gọi là làm mắc tức cười. Nhưng mà sự thật ra một người tu sĩ của đạo Phật đâu có những cái hành động đó.

Cho nên Thầy thấy khi mà nhìn cái cuộn phim nào ở Thường Chiếu lần đầu tiên đó, Thầy thấy có một ông thầy ngồi ôm cái đầu gối mà làm cây đờn mà kêu là cây đờn cò, ò e ò e đó, Thầy trời đất! Lấy cái đầu gối mình làm cây đờn mà gảy cho chúng cười lộn gan lộn ruột lên, thiệt là mình làm hề, làm giễu cho người ta thì cái giới hạnh, cái oai nghi của mình còn ở chỗ nào đâu?

Cách thức đó là cách thức phá giới, phá Phật pháp bằng cách đó. Thì cái ông thầy này, ông Ca Lưu Đà Di này cũng là cái loại đó đó, cái loại kêu là phá Phật pháp á. Mà phá ngay bên ni nữa chớ mới độc!

Đó thì cái giới mà chế ra như vậy Thầy thấy hầu hết là cái số mà giễu cợt này, từ khi vô thì Đức Phật đã nhắm vào cái số mà có hai cái trò phá đời như vậy đó, thì ít ra thì phải nói rằng ông Phật ổng phải sửa những cái người này ngay từ lúc đầu: “Mình là người tu hành phải nghiêm chỉnh, không có được giễu cợt, mà giễu cợt thì đâu phải là cái người tu!” - thì đâu cần phải chế cái giới này làm gì?

26) GIỚI CÙNG VỚI NI NGỒI CHỖ KHUẤT

(22:31) Giới 26: Giới cùng với ni ngồi chỗ khuất.

Vì sao Phật chế giới này?

Đức Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, Ca Lưu Đà Di đến nơi cửa ngoài của Thâu Nan Đà Tỳ Kheo Ni cùng ngồi một chỗ. Cư sĩ chê hiềm. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Nhân đó Phật kiết giới này.

…​ bốn chúng dưới phạm Ác Tác.

Không phạm: có bạn, có người trí, không đui, không điếc, hoặc đi ngang qua xỉu té, bệnh liệt, bị nhốt trói, mạng nạn, bị thế lực lôi kéo.

Ở đây Phật chế cái người tu sĩ cùng ngồi với người ni ở chỗ khuất thì bị phạm. Đúng vậy! Mình một cái người nam và một cái người nữ, nhất là tu sĩ nữ, mà có hai người mà ngồi ở chỗ khuất, như bây giờ mình ngồi đây nè, ở bên cái thư viện của Thầy, có một ông thầy ngồi nói chuyện với một cô ni, thử hỏi các thầy nghĩ sao với cô đó không? Với ông thầy đó không? Tức là phải phạm tội rồi.

Bởi vì mình muốn nói là phải có phòng khách, phải có nơi có chốn, mà nói phải có hai người, ba người, chớ không có thể mà có một mình với cô ta được. Mà hầu như là người ta không có hiểu cái giới này vì đó là giữ cái Phạm hạnh của chúng ta, vì cái tâm của chúng ta ngồi riêng với một người khác phái nó hay sanh cái dục.

Chúng ta đâu phải Phật, chưa phải Phật mà, chưa ly hết dục mà, làm sao chúng ta hết được! Thế mà chúng ta không có thấy được cái quan trọng đó mà chúng ta thấy thích, thích với người nữ, thích với cái người ni, cho nên gặp thấy người ni là muốn nói chuyện à.

Rồi người ni họ cũng thích người nam, họ cũng thích như vậy chớ đâu phải không, mà trong khi thích thì họ muốn nói chuyện một mình chớ họ đâu có muốn nói chuyện với nhiều người, vì nhiều người đâu có dám cười tình, cười với nhau được, đâu có dám là háy huýt với nhau được!

Còn một mình đó, hai con mắt nó đá lia lịa, rồi cái lời nói, nó lại nói những cái gì nó có thể, nó cũng không có sợ hãi, còn có người này người kia thì đâu có dè dặt được.

Cho nên đúng là cái nghĩa của cái người tu sĩ Phật giáo là chúng ta phải sống độc cư, cắt ly không có bao giờ mà nói chuyện với người nữ. Không phải là chúng ta sợ. Ngay bây giờ chúng ta là những người mới tu, chúng ta còn yếu, chứ khi mà chúng ta đã đạt thành được cái sức làm chủ rồi, tâm bất động rồi thì mặc tình chúng ta gặp.

Nhưng mà lúc bấy giờ chúng ta cũng chẳng thèm gặp làm gì nữa. Đi thì mắt ngó xuống, có đâu mà chúng ta ngó qua ngó lại. Còn khi mà chúng ta ngồi nói chuyện, làm gì mà chúng ta cười tình với người nữ được, cái tâm dục nó đâu còn mà cười tình với họ được? Cho nên chúng ta chẳng còn sợ nữa.

Còn bây giờ coi chừng á, cái tâm của chúng ta khởi lên với cái nụ cười nè, với cái ánh mắt của chúng ta nè, coi chừng nó liếc tình, nó cười tình với nhau đó, rồi nó gây cho chúng ta không bao giờ tu tới đâu được hết.

Cho nên ở đây, giới luật đó cấm là đúng. Thầy công nhận, những cái nào đúng Thầy công nhận, mà những cái nào không đúng, Thầy thấy rằng chế giới đó chế ra không có đúng cách.

27) GIỚI HẸN VỚI NI CÙNG ĐI MỘT ĐƯỜNG

(25:27) 27. Giới hẹn với ni cùng đi một đường.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi đó Phật ở nước Xá Vệ, Lục Quần Tỳ Kheo với Lục Quần Ni du hành trong dân gian. Cư sĩ cơ hiềm. Nhân đó nên Phật kiết giới.

Cũng như bây giờ Thầy nói như thế này nè. Bây giờ chúng ta có hai cái tu viện nè, một cái tu viện nữ nè, một cái tu viện nam nè. Rồi bắt đầu quý thầy mới rủ ở bên nữ đi, hôm nay mình đi Vũng Tàu chơi này nghen, tổ chức đi một cái xe. Rồi bắt đầu ở bên nữ cũng đi, bên nam cũng đi ra ngoải.

Bởi vì mình nghĩ rằng mình một thầy mà, các trò đều là một thầy mà, cho nên cứ việc xả láng với nhau đó, thì cái điều đó là cái điều mai mốt cái tu viện nó tan nát hết, không còn gì hết.

Đó là những cái sai. Chúng ta chưa phải là Thánh, nhưng mà khi Thánh rồi chúng ta cũng không bao giờ mà có những cái chuyện mà đi chơi với người nữ như vậy.

Cho nên Thầy thấy hầu như các tu viện thiền á, hầu như có cái dịp mà rảnh rang, bên ni với bên nam họ rủ nhau đi chơi. Điều đó là họ tổ chức họ đi du ngoạn, họ đi chơi, họ đi tham quan chỗ này chỗ kia, họ đi tùm lum tà la, rồi họ cặp nhau họ nói chuyện tầm bậy tầm bạ, cuối cùng về Thầy thấy hai, ba cặp ra đời hết. Cái chuyện đó là cái chuyện thường thôi!

27. Giới hẹn với ni cùng đi một đường.

Vì sao Đức Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở nước Xá Vệ, Lục Quần Tỳ Kheo cùng với Lục Quần Ni du hành trong nhân gian.

Cái này rồi phải không các con?

Khi ấy Tỳ Kheo không hẹn mà trên đường đi gặp ni, vì cẩn thận, sợ nên không dám đi. Phật dạy: “Không hẹn thì không phạm.” Ngài kiết giới này thêm. Cùng hẹn…​

Khi ấy Tăng, Ni hai chúng đều muốn đến nước Tỳ Xá Ly. Do không cùng đi nên các ni phải đi sau nên bị giặc cướp. Đức Phật lại kiết giới thêm: “Trừ trường hợp đặc biệt.”

Nghĩa là khi mà cấm cái giới này ni với tăng không cùng đi được, do đó ni không dám đi với tăng, cho nên đi sau, bị trộm cướp lấy hết đồ đạc, mấy ông tăng đi trước không có ai mà bảo vệ cho mấy người ni, cho nên Phật kiết giới trở lại.

Thật sự ra ở đây Thầy nói, khi mà muốn đi trên cái đường vắng như vậy thì không phải là ni nó không có cái lực lượng của nó đâu. Thầy cho một vài bà ni có võ nghệ coi, ba thằng ăn cướp nó bẻ đầu hết chớ nó làm gì mà dám hiếp đáp!

Thì trong cái giới ni đâu có phải là - khi mà họ xuất thân mà họ vô tu, có nghĩa là họ ở ngoài đời họ cũng là có những người rất là thông suốt chớ phải không, cho nên họ đi đâu phải đi một mình, họ muốn đến cái tu viện, muốn đến thăm Phật thì ít ra họ phải đi từ mười người, hai chục người, thì làm gì cái bọn cướp ăn hiếp họ được? Cho nên đâu cần phải tăng che chở họ.

(28:11) Do vì vậy đó, thì cấm cái giới này thì cấm cùng đi là đúng, nghĩa là Thầy nói cùng đi là đúng. Họ có thể bảo vệ tự họ được, đừng có nghĩ rằng đàn bà họ yếu đuối đâu. Họ cầm súng họ bắn giặc được thì tức là họ cũng làm cái gì cũng được, họ làm tổng thống được chớ đâu phải họ làm không được. Họ cũng lãnh đạo chúng ni cũng hẳn hòi còn hơn tăng mình nữa.

Thầy thấy bây giờ mấy cái chùa ni coi, đông trùng trùng điệp điệp, còn chùa tăng loe hoe có mấy ông à, chưa bằng họ chút nào đâu. Họ tổ chức cất chùa cũng vĩ đại, cũng không thua gì mấy ông tăng đâu, chùa nào họ cũng cất kiên cố.

Thí dụ như sư cô Diệu Hoa, đệ tử của sư bà Huyền Ngọc, trên đường đi xuống dưới Hóc Môn, các thầy có thấy cất cái chùa ở Vĩnh Phước không? Quá chừng đồ sộ chớ đâu phải! Cô cũng đâu có thua gì bên tăng bao nhiêu đâu. Thầy Nhật Quang làm bao nhiêu cô cũng làm hơn nữa chớ thua đâu.

Đó mà thầy Nhật Quang có sự ủng hộ của Hòa thượng, còn cô ta có Hòa thượng ủng hộ đâu, cô cũng làm cái chùa cũng vĩ đại chớ đâu có thường. Đó thì thấy như vậy đâu có nghĩa là bên ni họ thua chúng ta chỗ nào đâu, nói về xây cất thì họ đâu có thua.

Nhưng mà về cái sự tu hành thì họ cũng đâu có thua gì, trong những Thánh Ni mà chúng ta đọc, chúng ta thấy rằng đâu có thua kém gì bên tăng chúng ta đâu, cho nên đâu có nghĩa là mấy cô đó sợ ăn cướp đâu mà phải nương nhờ mấy ông tăng. Bộ mấy ông tăng mạnh lắm sao, đi lớ quớ ba thằng ăn cướp nó cũng xỏ đầu mấy ông hết chứ ở đó! Cho nên Thầy thấy ni nó cũng có trí tuệ, nó cũng có đủ sức của nó, nó phải chiến đấu chớ nó đâu có phải!

Ở đây chúng ta cứ bắt ni nó phải thường nhường nhường, là tại vì nó có cái bản ngã dữ tợn, nó cũng có tài có ba, bản ngã nó lớn, nó có tình cảm nó cũng sâu, cho nên chúng ta phải - Đức Phật mới đặt ra Bát Kỉnh để cho nó khép cái mình nó trong khuôn khổ để cho cái ngã của nó dẹp xuống, chớ còn nếu mà để cho nó lừng lên đó thì thử hỏi mấy ông thầy nó vuốt đầu hết á.

Thiệt ra Thầy nói mà, cô Thủy hồi đó đó, như thầy Thông Quả đó với mấy chú nhỏ nhỏ vầy nè, thầy Thông Quả nói cái kiểu mà cô Thủy cổ muốn vuốt đầu mấy chú nhỏ hết. Như thầy Thông Không vầy đó, còn nhỏ nhỏ đó, cổ muốn rờ đầu mấy chú đó coi như là em út, coi như là con cháu cổ không đó. Như vậy là mấy vị đó thọ Tỳ Kheo rồi mà cổ còn vuốt đầu thì mấy thầy biết à!

Thầy Thông Quả nói với Thầy mà, chớ đâu phải là không có đâu, thầy nói cái kiểu cô Thủy cổ vuốt đầu mấy cái thầy nhỏ nhỏ này hết. Mấy thầy này thọ Tỳ Kheo rồi chớ cổ đâu có quỳ kỉnh đâu, cổ thò tay cổ muốn rờ đầu hết!

Đó, thì như vậy là cái ngã của bên ni dữ lắm. Mà khi đó các thầy thấy cô Thủy cô thuyết giảng ai cũng ca ngợi cổ hết, thì bây giờ cổ phải là bậc đại sư rồi còn gì nữa, cho nên cổ vuốt đầu mấy ông nhỏ này là phải lắm chớ đâu có thường!

Phải hiểu được cái tâm trạng của người ni như vậy, cho nên Phật chế Bát Kỉnh là để dằn cái ngã của họ xuống. Họ là những người mà tu chưa chứng thì cái ngã họ dữ tợn lắm. Thì trong cuộc đời chúng ta, chúng ta cũng thấy được cái chỗ đó chớ đâu phải không thấy, mà thấy được như vậy là mới thấy Bát Kỉnh của Phật.

28) GIỚI CÙNG NI ĐỒNG ĐI MỘT THUYỀN

(31:04) 28. Giới cùng ni đồng đi một thuyền.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại nước Xá Vệ, Lục Quần Tỳ Kheo Ni đi trên thuyền ngược dòng và xuôi dòng. Cư sĩ chê hiềm, nên Phật chế giới này.

Khi ấy Tỳ Kheo không hẹn mà gặp ni, cẩn thận sợ, không dám đi, Phật dạy: “Không hẹn thì không phạm.”

Bởi vì mình không có hẹn thì làm sao phạm? Bây giờ mình lên xe, đụng cô ta ở đâu Tây Ninh, cô ta ngồi đó sẵn trên đó rồi. Bắt đầu thấy mặt cô ta cái mình nhảy xuống xe: “Không đi, không đi, không được!” Làm quá, thấy cô ta như quỷ sứ vậy sao? Đâu có chuyện đó, cô với mình đâu có quen biết.

Đừng có ngồi sát lại tìm cách gợi chuyện: “Cô cũng đầu tròn, tui cũng đầu tròn…​” rồi ngồi nói chuyện với nhau thì không có được. Do đó mình lên xe thì mình thấy cô ta ngồi cái băng đó thì mình ngồi lút ở băng sau, hoặc ngồi trước ở sau, thì cô - mình cách làm sao cho đừng có nói chuyện với nhau đó là điều tốt.

Còn cái này mình sề lại gần bên đó mình kiếm chuyện nói với cô ta thì cái kiểu đó, làm quen, hỏi cô ở chùa nào, ở đâu này kia, mai mốt tui có rảnh, tui dịp tui về thăm chùa, thăm cô này kia…​ đó là mình kết bạn kết tình như vậy là sai.

Nó gợi tình gợi cảm như vậy đó là mình không có ly dục, ly bất thiện pháp. Mình biết nó là rắn độc thì mình nên tránh. Còn đằng này, mình thấy rắn độc mà mình cứ đến nó để cho nó quấn đầu mình thì mình ráng chịu.

Còn ở đây thì mình thấy như vậy không có nghĩa là Phật cấm cái giới đó rồi cái mình bước lên xe đò cái mình vừa thấy cô ni ngồi trên đó cái mình lật đật nhảy xuống: “Không được, không được mấy ông, tui đi xe sau chớ xe này tui không đi!” Mấy ông lơ hỏi: “Gì vậy? Ở đây còn chỗ mà, sao thầy không đi?” Nói: “Không không, ở đây có rắn độc, tui không dám đi!” Thì như vậy là mình nói tầm bậy rồi. Đó là cái sai, cái không đúng.

Cho nên ở đây, thật sự ra khỏi cần chế đi nữa Thầy cũng nói mình không hẹn là không có tội lỗi gì hết, mình cứ đi nhưng mà đừng có nói chuyện với họ thôi. Bởi vậy khi mà Đức Phật dạy đó, lỡ mình gặp thì đừng có nói, lỡ mình gặp thì đừng có nhìn, mà lỡ mà có nhìn rồi thì đừng có nói chuyện.

Thì Đức Phật đã dặn mình trước rồi, bây giờ mình lỡ mình thấy nó rồi thì mình đi ra lại chỗ khác, mình đừng có nhìn nó nữa, và mình đừng có nói chuyện nó thì đâu có sao? Tới chừng mình tới chỗ mình xuống, còn tới chỗ nó nó xuống, khỏi cần ai nói chuyện ai hết. Đó là cái phòng hộ sáu căn của mình ngay từ cái đó đó, đó là những cái pháp mà Phật đã dạy phòng hộ sáu căn.

Đó thì những cái giới này có chế đi nữa, mà có chế qua chế lại đi nữa, hẹn thì tức là lỗi rồi đó, mà không hẹn thì làm sao có lỗi được? Cho nên vì vậy mình cứ mặc nhiên, không có gì mà lo. Đó là những cái đó khỏi cần phải chế những cái giới làm chi cho mất công, cho nó nhiều, để rồi mất ngày giờ mà tụng giới hay học thì nó mất thì giờ.

29) GIỚI NI KHEN NGỢI, ĐƯỢC THỨC ĂN NGON

(33:24) 29. Giới ni khen ngợi, được thức ăn ngon.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại nước Xá Vệ, bấy giờ trong thành có một cư sĩ thỉnh ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên dùng cơm. Thâu Lan Nan Đà Ni đến trước nhà kia, nói với cư sĩ rằng hai Tôn giả là người hà tiện lắm, khen Đề Bà Đạt Đa là một bậc rồng, một loại rồng lớn. Khi đang nói thì hai Tôn giả đến, cô ta liền đổi lại, nói là bậc rồng trong loài rồng đã đến.

Cô này khéo miệng dữ lắm!

Hai Tôn giả thọ trai rồi về bạch Phật. Phật quở trách bè đảng của Đề Bà Đạt Đa cho Ni đi khuyến hóa để được ăn. Nhân đó Phật kiết giới.

Sau đó có Tỳ Kheo trước không biết là do Ni khuyến hóa ăn rồi cầu sám hối. Phật dạy: “Không biết, không phạm.” Phật kiết giới này, lại thêm chữ “biết” thay chữ “sai”.

Lúc ấy trong thành La Duyệt có một trưởng giả là bạn thân của tôn giả Lê Sư Đạt, nghĩ rằng: “Nếu Lê Sư Đạt đến, ta sẽ vì Tôn giả từ đầu đến cuối cúng dường cho chúng tăng.” Một cô ni biết việc đó nên thấy Tôn giả đến thành liền báo cho trưởng giả hay để sắm phẩm vật cúng dường. Tôn giả cho đó là phạm giới, do lời khen của ni mà được ăn, nên không dám ăn.

Phật dạy: “Nếu đàn việt có định trước thì không phạm.” Phật kiết giới này là một lần nữa mới hoàn thành.

Thì cái giới này thì các con thấy, hầu hết là cái giới ni nó hay làm môi giới lắm, nó đến Phật tử. nó đến nói: “Ông thầy đó tu vậy vậy đó, nên cúng dường cho ông ta. Bữa nay mà ổng đến đây mà ổng đến thăm gia đình thì phải làm cái gì cúng dường cho xứng đáng!” Nó giới thiệu này kia để cho ông thầy đó. Tức là nó có cái tình cảm với ông thầy đó nó mới giới thiệu như vậy, nó mới làm cái chuyện như vậy.

Do những cái chuyện như vậy đó mà Phật chế cái giới là khi cái người ni mà giới thiệu như vậy thì ăn chúng ta cũng không ăn nữa, mà lãnh cái gì mà cúng dường, nhận không có lãnh, còn nếu lãnh thì phạm tội.

Thì do như vậy là Đức Phật cấm cái điều mà khi mình đến để cho tự nhiên người ta cúng dường mình, hơn là có người giới thiệu rồi mình đến thì người ta cúng dường mình bằng cách là thực phẩm ngon, bằng cách là đồ đạc tốt, dược phẩm tốt, thì cái điều đó là có cái người giới thiệu, thì họ phải sắm sửa cái tốt.

Còn tự nhiên mình đến, họ thình lình, họ cúng dường mình với cái tư cách là họ không có đặt trước, không có nghĩ trước, cho nên nó không có phải sắm sửa trước. Vì vậy đó là giới của Phật để chúng ta đến một cách rất tự nhiên và tu một cách rất tự nhiên.

30) GIỚI HÓA THỌ CÚNG MỘT BỮA

(36:07) 30. Giới hóa thọ cúng một bữa.

Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa Phật ở tại nước Xá Vệ, lúc ấy ở nước Câu Tát La có một cư sĩ ở nơi không có trú xứ của Tăng, thường cung cấp cho Tỳ Kheo một bữa ăn. Lục Quần đến nơi đó tham đắm thức ăn ngon, ở lại đến đêm thứ hai, do không chịu đi, cư sĩ chê hiềm. Đức Phật vì vậy mà kiết giới này.

Khi ấy ngài Xá Lợi Phất đến đó rồi mắc bệnh, sợ phạm giới này, ngài liền phải dời đi, do vậy mà bệnh nguy kịch. Do nhân duyên đó mà Phật kiết giới lại, thêm vô chữ: “vô bệnh”.

Cái giới này là tại vì khi du tăng khất sĩ trong cái thời Đức Phật họ đến cái chỗ này vài ba bữa, rồi họ xin rồi họ đi chỗ khác, còn mình thấy ở chỗ này cúng dường đồ ăn ngon rồi ở miệt ăn đó, thì cái người cư sĩ họ ngày nào họ cũng cung cấp mình, riết họ thấy họ bực mình, họ nói: “Mấy ông này nghe nói du tăng khất sĩ chớ ổng có du tăng gì! Ổng ở đây ông ăn được rồi ông cứ ăn riết hoài, không có chịu đi!” Đó là do cái chỗ đó mà Phật chế giới này.

Vì vậy mà khi đó ông Xá Lợi Phất ổng đến cái chỗ đó mới có một bữa, hai bữa à, mà bây giờ ổng gặp bệnh, do vì vậy đó mà ổng cũng phải đi chớ không dám ở. Ở người ta nói mấy ông này du tăng khất sĩ mà cứ ở miệt đây ăn hoài thì mang cái tiếng, cho nên vì vậy đó mà ông Xá Lợi Phất bị bệnh mà đi, cho nên Phật mới chế trở lại: Vô bệnh thì đi mà có bệnh thì ở lại. Đó là như vậy.

Thì trong cái giới này Thầy thấy đó là cái đời sống Phạm hạnh. Đúng vậy, chúng ta ở một chỗ nào thì chúng ta tiêu phí bao nhiêu cái mồ hôi nước mắt của người khác, mà ở lâu thì người ta nghèo đói, cho nên chúng ta phải đi chỗ khác, không có ở một chỗ.

Vì vậy mà khi đó, người ta cúng dường mình một ngày, hai ngày là người ta đã thấy cái ngân quỹ gia đình của người ta cũng quá kém khuyết rồi, mình đi chỗ khác để nhờ người khác nữa, chớ còn ở một chỗ thì người ta phải kiệt quệ, gia sản người ta phải tiêu vì cái lòng ngưỡng mộ Phật pháp mà người ta cúng dường mình.

Cho nên cái đoàn du tăng khất sĩ của Phật có lẽ là qua một cái bài này, Thầy nghĩ rằng người ta ở đó chắc cao lắm cũng chừng năm ngày, mười ngày là hết sức chớ không có ở lâu mà đi chỗ khác.

Mà với một cái số lượng đông như vậy mà gặp cái chỗ nghèo thì càng đi mau, có thể ở đó chừng một ngày, rồi xin được bữa ăn rồi họ đi chỗ khác, vì thấy nghèo quá. Còn chỗ nào mà trù phú, đầy đủ gạo thóc thì chắc có lẽ ở đó lâu, hoặc là an cư kiết hạ đó ba tháng. Chớ còn ngoài ba tháng an cư kiết hạ là lâu nhất, chớ còn chắc ở chỗ này chừng vài hôm, năm mười hôm rồi đi chỗ khác.

Đó là trong cái đời sống du tăng khất sĩ của Phật, khi đọc qua những cái mẩu chuyện của Thánh Tăng và những cái mẩu chuyện mà ở trong kinh giới thì chúng ta thấy cái đời sống nó rất là phù hợp cho cái sự giải thoát của sự tu hành của mình.

31) GIỚI CÙNG PHỤ NỮ ĐỒNG ĐI MỘT ĐƯỜNG

(38:55) 31. Giới cùng phụ nữ đồng đi một đường.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật vẫn ở tại nước Xá Vệ, bấy giờ Tôn giả A Na Luật trên đường đi. Có một phụ nữ cùng với mẹ chồng cãi lộn, muốn về lại phía ngoại, bèn đi theo cùng đường với Tôn giả. Người chồng của bà ta rượt theo, gọi Tôn giả dụ vợ mình cùng đi trốn, bèn đánh Tôn giả gần chết.

Tôn giả liền đứng qua một bên đường nơi chỗ vắng, ngồi kiết già nhập hỏa quang tam muội. Người đàn ông kia sanh thiện tâm, đợi Tôn giả xuất định đảnh lễ sám hối. Tôn giả vì ông mà nói diệu pháp cho nghe rồi đi. Khi về chùa nói lại cho các Tỳ Kheo nghe, các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân đó mà kiết giới.

Thật sự ra cái câu chuyện này đặt cái giới này, Thầy thấy một vị tu sĩ như ông A Na Luật là có thiên nhãn siêu nhiên thuần tịnh, mà thế mà không hiểu được cái nhân quả hay sao?

Cùng đi trên một cái đường - có một cái người nữ đi cùng bà mẹ chồng, mà bây giờ đó, vì cái hiềm hận nào đó mà bà ta bỏ bà mẹ chồng, đi qua cái nẻo khác với ông A Na Luật, thì lúc bấy giờ ông A Na Luật ổng điên gì mà ổng đi cùng với bà ta sao?

Ổng là một người trí tuệ, là một cái người hiểu biết nhân quả, thì ổng biết rằng bây giờ đi với bà ta, cái chuyện này, hồi nãy là cái bà này - bà mẹ bả chửi cái bà dâu này dữ tợn rồi, bà này bả buồn bả bỏ đi, mà bây giờ mình cứ đi chung với cái bà này thì biết đâu chừng cái bà mẹ nghi rằng mình dụ cái con dâu của người ta, phải nguy hiểm không?

Đây là cái hình ảnh mà - hành động đi ở trên đường mà tỉnh thức, chúng ta vẫn xét qua nhân quả, chúng ta vẫn biết có thể tai họa đến cho chúng ta.

Một người ngu si như Thầy nè, mà Thầy làm cái việc gì Thầy cũng nghĩ đến cái hậu quả của nó, đến cái sự suy nghĩ của nó như thế nào để đem đến cái tốt hay cái xấu chớ. Mỗi một lời nói ra Thầy còn phải suy nghĩ bây giờ lời nói đó nó nằm ở trong cái nhân nào, cái quả nào chớ! Không lý là ông A Na Luật là một bậc Thánh Tăng, là đệ tử của thời Đức Phật, ông không hiểu đường đi nhân quả hay sao, ông không biết sao?

Để tới chừng mà ông chồng ổng theo ổng đập ông gần chết rồi ổng mới ngồi ổng nhập định hỏa quang tam muội để ổng phục hồi ổng lại, thì thiệt là ông này đợi cho tới chết rồi ổng mới có chuyện làm đó, làm cho ông kia hoảng hồn mà đảnh lễ ông. Thì đây là muốn nói chuyện về thần thông chơi chớ có cái nghĩa lý gì?

Chứ ngay từ đầu là cái người tu sĩ người ta đã ý tứ rồi, người ta biết là cái bà này là như thế nào rồi, con người này như thế nào rồi, người ta biết ngay cả cái tâm trạng. Mà có thiên nhãn như vậy rồi thì làm sao không biết, tâm tham biết tâm tham nè, tâm sân biết tâm sân nè, tâm gì biết của người khác hết rồi, thì đâu có lý nào mà không rõ nhân quả?

(41:36) Cho nên kiết giới như vậy là kiết giới để hạ những bậc A La Hán trong thời Đức Phật đó, Thầy nói thẳng! Xem người ta là những bậc Thánh Tăng, phải chi mà đưa cái ông nào khác ra như Đề Bà Đạt Đa hay hoặc là cái ông Tỳ Kheo nào thì Thầy cũng cho - Lục Quần Tỳ Kheo đi cũng được đi, đằng này xách cái ông A Na Luật ra mà đưa vô chỗ này thì thiệt ra là hạ các bậc A La Hán trong cái thời Đức Phật, những bậc Thánh Tăng mà chúng ta thường phải là tán thán và ca ngợi những cái hạnh tu.

Các thầy nhớ ông A Na Luật mà sống với ông Kim Tôn giả, ông Nan Đà Tôn giả, ba vị sống chung nhau một cái nhà mà độc cư hoàn toàn là không nói, ba năm mà không nói chuyện, cái hạnh đó chúng ta đâu có phải là dễ làm sao? Sống chung nhau mà không nói! Người nào cũng trình bày như này: “Con sống con tùy theo cái tâm của huynh đệ con, con không sống cho cái tâm của con.”

Cái câu nói đó Thầy thấy người mà sống tùy thuận ở tâm người ta, ở ý kiến của người ta để sống thì làm sao mà lại không có thấy được cái nhân quả? Người ta thấy được cái nhân quả cho nên người ta sống với ý kiến của người khác, người ta không sống ý kiến của mình là người đã hiểu nhân quả.

Còn cái người mà chưa hiểu nhân quả sống với ý của mình không à, cho nên đem lại bao nhiêu cái sự khổ. Còn cái người mà người ta - bởi vì Thầy dạy tùy thuận nè, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng nè. Mà cái tùy thuận đó là chúng ta sống ở trong những cái ý của người khác.

Mà ông A Na Luật đã trình bày cho Phật: “Con sống giữ được cái độc cư, sống không nói chuyện với nhau là con đã sống tùy thuận ở ý của các Tôn giả khác, của hai Tôn giả kia, cho nên chúng con sống rất là an ổn.” Rồi hỏi hai Tôn giả kia, thì hai Tôn giả kia cũng trình bày: “Con cũng sống tùy thuận lại cái ý của các Tôn giả khác, cho nên con rất an ổn, không có gì.”

Thiệt ra thì, chúng ta bây giờ ở trong Tu viện chúng ta mười mấy vị nè, mà chúng ta sống tùy thuận với ý của người khác, làm sao chúng ta có nghịch ý không? Tại vì mình không có tùy thuận được ý người ta, cho nên mình mới sống không có…​

Mà lại, ở trong luật này lại lôi cái ông này ra thì Thầy thấy, qua cái hạnh ổng là tuyệt vời, tức là ổng đã sống trong nhân quả rất rõ. Tùy thuận, tùy thuận tức là chúng ta đã dừng cái ác, cái con đường, cái nhân quả ác, mà chúng ta sống ở trong cái con đường thiện rồi.

Rõ ràng là chúng ta phải thông suốt được cái chỗ sống này mà chúng ta biết được là mấy ông này là những cái bậc mà thông suốt nhân quả. Bởi vì cái đường đi nhân quả nó vẽ cho chúng ta thấy rất rõ ràng, cái sống của người nào, chúng ta biết là cái người đó đã rõ.

Vậy mà lôi ông này ra, đợi tới chừng mà đập gần chết ổng rồi ổng mới ngồi nhập cái định hỏa quang tam muội để rồi phục hồi cái sự sống ổng lại, làm cho ông kia thấy cái định, hoảng hồn mới sám hối, thì cái chuyện đó là lấy thần thông dọa người ta chớ người ta có sợ ông đâu: “Ông là cái người mà dẫn vợ tui thì tui đập ông chứ tui có tha ông đâu, bây giờ ông làm bộ ông hiện thần thông, ông niệm chú gì đây, ông làm cho tui sợ!”

Thì rõ ràng là chỉ biết lấy cái thần thông để mà dọa người ta chớ không phải lấy cái nhân quả để mà sống đúng. Cho nên giới luật như vậy là Thầy thấy chỉ có người sau mới làm cái chuyện này mà phỉ báng những bậc Thánh Tăng trong cái thời Đức Phật. Qua một cái giới là đã thấy họ đã phỉ báng Phật pháp chúng ta rồi.

32) GIỚI LẦN LƯỢT ĂN

(44:25) 32. Giới lần lượt ăn.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở thành La Duyệt, do chuyến du hóa nhân gian, có Sa Nậu Bà La Môn chở 500 chiếc xe thực phẩm thức ăn, trải qua mùa đông đến mùa hạ, bên cạnh Thế Tôn, chờ đợi được cúng dường mà không có ngày nào mà không có người cúng.

Người ấy đến nói với Tôn giả A Nan thay mặt bạch Phật, muốn dùng thức ăn này trải nơi đất để Đức Phật và tăng đi qua, gọi là nhận sự thọ dụng cúng dường. Đức Phật bèn cho phép nấu cháo, làm bánh cúng chư tăng, sau khi ăn sẽ thọ thời thực.

Khi ấy nước Tần Già có một đại thần có một chút lòng tin, sắm những thức ăn ngon mời tăng, song tăng cũng dùng cháo đặc nên không thể ăn nhiều được, đại thần chê hiềm. Phật chế không cho phép ăn cháo đặc.

Cái đó là cái sai! Ông Phật mà chế như vậy là Thầy thấy là quá sai rồi, không có cho ăn cháo đặc, bây giờ có đồ ăn của ông quan đại thần đó cúng ngon quá rồi chế giới cấm không cho ăn cháo đặc, cháo dở.

Do cái lòng cúng dường của người ta, mà như vậy Thầy thấy thật sự cái lòng cúng dường của người cư sĩ này họ kéo 500 cái cỗ xe đến, bây giờ chỉ còn nấu cháo đặc ăn, nhiều đồ ăn quá rồi ăn không hết rồi nấu cháo đặc để cho mấy người này ăn, thì như vậy mà tới chừng có cái vị đại thần cúng thì lại cấm không có cho ăn cháo đặc nữa, đem phí bỏ cái của mà 500 cỗ xe thực phẩm của cái người này đi, thì như vậy ông Phật là cái gì? Thầy thấy cái đó là trật.

Bây giờ ông A Nan vô nói: “Bây giờ có một vị cư sĩ đó, họ kéo 500 cỗ xe đến để cúng dường trong cái mùa hạ này cho chư tăng ăn”, thì như vậy là Đức Phật phải phân bố: “Bây giờ các ông chưa cúng dường là các ông chưa được nấu!” Phải không, các con thấy không? “Đây là người ta kéo từ xa người ta đến đây rồi, người ta có cái lòng. Bây giờ mấy ông xin cúng dường, ngày hôm nay mấy ông dừng lại.

Tôi chấp nhận cho cái vị cư sĩ này nè, đem những cái thực phẩm này nấu nè, hoàn toàn là 1200 vị Tỳ Kheo này thọ dụng của cái ông này, cái lòng của ông đó từ hôm ấy đến nay ổng chờ cả tháng nè, bây giờ bắt đầu cho ổng đặng ổng cúng dường rồi ổng về, chớ không lẽ mà ổng cứ neo ổng ở hoài đây? Còn mấy vị ở đây thì tuần tự mấy vị sẽ cúng dường, không có lật đật gì hết!” Cái đó lẽ đương nhiên là Đức Phật phải truyền lệnh rồi.

Ông Phật gì đến đỗi mà không thấy gì hết, rồi bắt đầu bây giờ mới cho người ta nấu cháo để mà đổ trên đất để cho các vị Tỳ Kheo đi ở trên đó là đủ rồi, để mà coi như là thọ dụng cúng dường rồi, rồi trong khi ăn đồ ăn lại thọ thêm mỗi người một bát cháo để cho chứng minh vậy thôi. Có phải phí của người ta không? Mồ hôi nước mắt người ta làm ra, ông Phật mà như vậy là ông Phật là thứ gì?

Cho nên đối với Thầy, nếu mà cái giới này mà ông Phật đặt ra là Thầy cũng quật ông Phật luôn xuống nữa chớ đừng nói chuyện Thầy tha. Của mồ hôi nước mắt người ta làm ra mà, thì ít ra bây giờ người ta có cái lòng người ta tưởng mình đến cúng, thì mình ngăn mấy người này đi:

“Mấy người khoan nấu đã! Ngày mai này tôi chấp nhận cho 500 cỗ xe bò này cho 1200 vị Tỳ Kheo này thọ dụng cái của này nè, cái lòng cúng dường của họ nè, thì ngày mốt quý vị sẽ bắt đầu quý vị sẽ tiếp tục cúng dường.” Đó là cái lệnh của Đức Phật mà, đâu có làm cái chuyện đó được, vì vậy mà cần phải chế gì cái giới này?

Đó thì, Thầy nói đó như vậy là chúng ta phải thấy được cái tổ chức của chúng ta có cái nghiêm chỉnh, hẳn hòi, đàng hoàng, chớ đâu phải là bây giờ người ta cúng nhiều quá rồi cái mình đem đổ đồ ăn xuống để mình đi ở trên đó để coi như mình thọ dụng. Phí quá vậy! Đâu có được cái chuyện đó đâu. Đó là cái giới đó.

33) GIỚI RIÊNG CHO CHÚNG MÀ ĂN

(47:42) 33. Giới riêng cho chúng mà ăn.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật, Đề Bà Đạt Đa bị tiếng xấu truyền khắp, phương tiện sống bị chấm dứt, bèn cùng năm Tỳ Kheo nhà nhà khất thực. Phật nhân đó mà kiết giới này: “Nếu Tỳ Kheo biệt chúng thực, phạm Ba Dật Đề.”

Khi ấy có Tỳ Kheo bệnh, không dám biệt chúng thực, Phật dạy cho phép Tỳ Kheo bệnh được ăn riêng.

Khi ấy tự tứ xong, trong tháng Ca Đề, khi may y có Ưu Bà Tắc sợ Tỳ Kheo vất vả, không ăn được nên mời ăn. Các Tỳ Kheo nói: “Chỉ thỉnh ba vị ăn, chúng tôi không được biệt chúng thực.” Phật dạy: “Cho phép khi may y được phép thọ biệt chúng thực.”

Ở đây Thầy thấy cái chế giới như vậy là quá lợi dưỡng cho cái người sau này người ta lợi dụng cái giới luật của Phật mà người ta làm không có đúng cái cách những cái giới như vậy.

Thí dụ như bây giờ đó, Đức Phật chế ra cái giới là cái người biệt chúng tức là bị phạm cái giới nào đó, người ta cho biệt chúng cái người đó là ở một cái nơi nào đó, thì cái người đó họ vẫn đi khất thực hàng ngày họ sống chớ, tại sao không cho họ đi khất thực, rồi ai đem cơm cho họ ăn? Đó là cái riêng.

Rồi bây giờ khi mà họ bệnh thì lại cho họ ăn riêng ra. Họ bệnh thì họ cũng ăn một bữa, rồi chừng nào, khi nào mà họ thấy rằng bữa trưa họ ăn không được, do đó họ cần phải uống thuốc hay cái gì đó để họ ăn thêm hay hoặc cháo gì đó cho họ khỏe, thì họ khai cái giới ra, chứ cần gì mà phải chế ra như vậy, nó luộm thuộm, nó đủ cách như thế này?

Thành ra những cái chế giới như vậy nó không có đúng cách. Bởi vì khi - thí dụ như bây giờ mình bệnh thì ngày hôm nay mình uống thuốc, ngày mai nó bớt thì mình cứ giữ Ngọ mình ăn, mình đâu có gì mà phạm mà phải chế tới chế lui?

(49:36) Cho nên chế như vậy đó, để rồi người ta lợi dụng bệnh người ta ăn riêng, người ta ăn hai ba bữa, người ta bị bệnh phải ăn cho nó mau khoẻ! Sự thật ra không phải đâu. Ở đây là mấy vị sau này bày đặt ra đủ thứ để mà phá giới của Phật đó, phá giới ngày ăn một bữa.

Bởi vì chính nó ăn một bữa là ly dục, vì vậy mà dù chúng ta có uống thuốc, có gì đi nữa thì chúng ta cũng chỉ khai giới ra, bây giờ trong cái buổi chiều này mình không có ăn nè, mình khai giới ra, mà mình vì uống thuốc đó nó sẽ cào bao tử mình nè, mình khai cái giới ra.

Khai rồi bắt đầu mình lấy cái ly sữa hay gì đó, mình uống thuốc với cái ly sữa đó, xong rồi thì coi như mình giá lại liền, tức là từ đây về sau không có ăn uống phi thời nữa, vì mình uống thuốc rồi, và cái ly sữa nó bảo đảm cho cái bụng của mình không bị cào, thì do đó mình khai ra, mình khai rồi mình đóng liền.

Như vậy là đúng rồi, còn bày đặt chế làm thế này cho ăn riêng! Ăn riêng tư để rồi lát nữa ăn nữa, lát nữa ăn nữa! Cái bụng của mình, cái tham dục của mình mà, biết chừng nào mà cái miệng của mình nó mới dừng lại được? Nó khoái ăn lắm.

Mà cho nó cái giới riêng biệt như vậy rồi bắt đầu nó lợi dụng cái đó nó ăn lia lịa, rồi bắt đầu nó cứ nằm dật nằm dựa đó nó bệnh hoài đó đặng nó ăn. Cái đó là cái bệnh ăn chớ đâu phải là bệnh!

Còn người ta bệnh thật là người ta khai ra rồi người ta uống thuốc rồi người ta giá lại liền, người ta đóng lại liền. Đó là những người bệnh thật, mà người ta biết trì, phạm, khai, giá cho đúng cách của nó, thì đó là chúng ta đâu có cần gì phải phạm mà phải đem ra xử phạt tội này tội kia?

Đó thì như vậy là chúng ta thấy được những cái điều kiện mà chúng ta cần phải học giới. Đến chỗ này thì Thầy xin dừng lại, chiều nay chúng ta sẽ học tiếp nữa.

[Phần 3 ở Giáo án 43]

2- CHẾ GIỚI LUẬT PHẢI ĐẠT MỤC ĐÍCH LY DỤC LY ÁC PHÁP

(51:13) Bây giờ Thầy tiếp tục giảng cho mấy con nghe tiếp tục về cái giới bổn. Và trước khi mà nghe giới bổn thì Thầy cũng nhắc nhở cho các con thấy con đường tu theo đạo Phật.

Vừa rồi buổi sáng, trước khi mà học về cái giới bổn thì Thầy cũng tóm lược lại cho các con thấy rằng mới bước đầu chúng ta phải tu cái gì, tập luyện cái gì, rồi sau đó chúng ta mới tập tới những cái xa hơn.

Thầy có cho về cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, thì Thầy có nêu ra 10 cái điều kiện mà tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định. Và cái Định Vô Lậu thì Thầy cũng có nêu ra 10 cái điều kiện để mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu.

Nếu mà Thầy ngồi mà Thầy soạn ra cho các con tu thì cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định nó không phải 10 điều đâu, cả hai ba chục điều kiện để mà chúng ta tu hàng ngày chớ không phải là ít. Và cái Định Vô Lậu cũng rất nhiều chớ không phải ít, bởi vì các pháp, mà các pháp nó làm cho chúng ta sanh ra lậu hoặc, do đó chúng ta phải tùy theo các pháp mà đặt niệm để mà tu cái Định Vô Lậu quét sạch.

Cho đến bây giờ thì chúng ta khi mà nghe được cái giới bổn thì hầu hết các giới đều là có cái sự vô lý hết sức, đặt vô lý, và cái người mà phạm giới thì chỉ có một cái số quanh quẩn, có một số rất ít. Mà tại sao khi những cái người đó phạm giới như vậy mà không tống cổ họ ra khỏi tu viện để cho cái tịnh xá nó bị tiếng tai thế này thế khác? Cũng có bấy nhiêu người đó mà thôi!

Cho nên vì vậy muốn thanh tịnh, muốn không có chế cái giới bổn thì chúng ta đã có những cái giới kinh, thì cái giới kinh là những cái bài pháp mà chúng ta tu học, thì nó đã giữ gìn cái thân và cái tâm của chúng ta nó thanh tịnh, nó ly dục ly ác pháp rồi, thì cần gì mà phải chế giới bổn?

Mà nếu mà có chế giới bổn đi nữa thì cũng phải chế như thế nào để cho nó phù hợp, nó làm cái hàng rào, hay hoặc là làm một cái tường đồng để ngăn chặn những cái điều, các pháp ở bên ngoài có thể xâm chiếm vào tâm của người tu sĩ, để trở thành người tu sĩ rất khó khăn để ly dục ly ác pháp, thì như vậy mới chế giới bổn. Còn chế giới bổn gì mà còn rộng rãi, rồi còn thêm, còn bớt để cho…​

(53:25) Cũng như là bây giờ chúng ta ly dục, thì ly thì thiệt ly đi, còn không thì còn nhỏ giọt, nhỏ giọt. Cũng như bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa, mà rồi chế giới để bớt đi, để sáng rồi chúng ta còn ăn tiểu thực, rồi chiều chúng ta còn uống sữa, uống cà phê hay hoặc là uống nước sinh tố, trái cây gì đó.

Làm như vậy cũng như là - thôi thà là chúng ta sống ở ngoài dục lạc thế gian đi, chúng ta ăn uống ăn cho đã đi, rồi tu thì tu cho thiệt tu đi, còn đằng này cứ nhỏ giọt, nhỏ giọt, nó thèm thấy mồ à! Uống một ly đâu có đã, nó muốn uống năm ba ly chớ đâu phải uống một ly mà cứ nhỏ từng giọt như vậy thử hỏi có ghẹo gan không? Thì như vậy là làm sao mà tu hành?

Thầy nói thật sự. Thà dứt là dứt mà không dứt thì thôi, còn cho bày đặt uống buổi chiều. Uống buổi chiều, uống nhiều thì không dám, sợ no bụng ngồi thiền không được, hôn trầm, uống ít ít. Ít ít nó cứ thèm hoài! Người ta uống, uống đã, nó không thèm, còn mình uống ít ít nó cứ thèm hoài, nó muốn uống hoài à, do đó coi như là ghẹo gan cho dục lạc nó dẫn dắt chúng ta chớ làm cái gì?

Cho nên Thầy thấy chế giới kiểu đó là chế riết mấy ông tu sĩ phạm giới hết là phải. Bởi vậy những cái người sau họ chế tầm bậy tầm bạ, họ làm cho cái người đời sau tu không có được, phạm giới hết.

Do vì vậy đó mà hôm nay thì trước khi học thì Thầy muốn hỏi các con, cũng như bên nam, thì ai có điều gì thưa hỏi Thầy? Bởi vì cái thời gian Thầy thấy nó quá ngắn rồi, nó còn có mười mấy ngày nữa, mà nó hết cái mùa hạ rồi, hôm nay là 28, 29 rồi, thì còn 14, tức là tới ngày 14 là Thầy giải hạ để cho quý thầy còn về chùa cúng rằm đồ chớ để không cái chùa người ta vắng hoe, không có ai cúng quảy gì hết, thì nói đi tu thiền riết rồi cái chùa bỏ…​ (Mất tiếng)

  1. để về cúng bái trong cái ngày rằm. Vậy thì bây giờ các con có ai hỏi thì cứ hỏi con! Con xích lại gần đây đi con!

3- QUÁN VÔ LẬU PHẢI QUÁN CHO THÔNG

3.1- TU SINH HỎI VỀ ĐỊNH VÔ LẬU VÀ HƠI THỞ

(55:14) Tu sinh Diệu Hồng: Mô Phật! Bạch Thầy!

Con tu Định Vô Lậu, trước kia thì con tu như mấy cái bài Thầy dạy mấy vị Thánh Ni hồi trước thời Đức Phật á, thì tu Định Vô Lậu như định Bốn Sự Thật với định Tứ Bất Hoại Tịnh, con quán hai cái đề tài đó con tu, rồi con ngồi con đặt niệm trước mặt, con ngồi 30 phút, rồi con quán thân vô thường, rồi các pháp cũng vô thường, vô ngã, không có thật…​ Con quán đủ thứ hết để mà con cho thấu triệt được cái lý đó, và con xả bỏ, và con quét sạch nó ra.

Con tu như vậy thời gian một tuần lễ thì thấy cái sự kết quả nó không có được khả quan lắm, cho nên rồi con đổi lại con tu.

Bởi vì thường thường tối con nằm ngủ con theo dõi hơi thở đó, rồi con để cái ý con theo dõi hơi thở thì thấy cái tâm nó yên lặng lắm, rồi con mới đổi lại con ngồi thử, con ngồi ghế dựa hay là con nằm rồi con quán tâm, con quán xét tâm con á Thầy, coi nó khởi nghĩ những cái gì.

Nếu nó khởi nghĩ ra, nó khởi nghĩ rồi con xét coi nó nghĩ nó lọt gì nằm, cho nên khi mình tham, sân, hay là thương ghét, hay là si mê, những cái gì dục lạc ở thế gian đó, thì con cũng dứt bỏ nó. Rồi con cũng thường đem cái tâm ý con quán như vậy đó, thành ra cái tâm nó được yên ổn, rồi nó không có còn lăng xăng như hôm trước, vì cái tưởng thưa Thầy, cái ý mà mình không có làm việc thì cái tưởng nó ưa xen vô.

Còn mấy hôm mà con quán về tâm thì cái ý thức nó làm việc thường xuyên đó, khi con ngồi con thở bình thường thì con cũng theo dõi hơi thở, rồi cái ý nó cũng nương theo đó mà nó quán xét cái tâm coi nó nghĩ cái gì, nó khởi cái gì, mà hễ nó khởi nghĩ lên thì con đoạn dứt nó. Mà khi con quán như vậy thì nó ít có khởi nghĩ lắm, nó cứ theo dõi cái hơi thở bình thường đó thì nó yên ổn. Đó.

Rồi như hôm trước thì Thầy dạy con tu tác ý để cho hơi thở ngừng nghỉ đó, thì sau này con nghe Thầy dạy như thầy Thiện Thuận mà thầy tu rồi thầy tịnh chỉ được hơi thở mà âm thanh còn nghe, với thầy bị tẩu hỏa nhập ma đó, thành ra con sợ khi mà âm thanh còn nghe là mình tịnh chỉ nó, tịnh chỉ rồi sợ tẩu hỏa nhập ma.

Cho nên con không dám ám thị tịnh chỉ nữa mà con chỉ ám thị cho dừng âm thanh đó, dừng âm thanh cho nó không có tác động vô. Cũng như con biểu cái nhĩ căn nó quay vô trong nó nghe hơi thở đi, thì hôm rày con quán như vậy chớ con không có ám thị mà biểu tịnh chỉ.

(58:32) Rồi con ám thị như vậy thì nó có hiệu lực lắm, nó quay trở vô liền Thầy! Con vừa ám thị nó gom chặt thật chặt cái nó quay trở vô, thì cái âm thanh đó thì, những tiếng động nhỏ con cũng không nghe, như là heo kêu, giết heo mà kêu đó con cũng không nghe nữa. Nó gom thật chặt, nó gom cứng lại luôn, mà con giờ bảo “Quay vào trong nghe!” - nó quay vô liền! Đó, thì con thấy nó rất là hiệu quả hơn trước nhiều lắm.

Đó thì hôm rày con tu như vậy, với con tu về hơi thở chậm nhẹ đó thì con kêu “Chậm, nhẹ!” - thì ban đầu vô thì nó cũng chừng hai chục giây, rồi từ từ…​ Mới vô tu thì con thở ba giây bình thường, con thở chừng năm phút thì con thở chậm nhẹ, chậm nhẹ chừng hai chục giây, lần lần rồi chừng ba mươi phút cái nó nhẹ hơn, nó nhẹ thật nhẹ, rồi nó chậm thật chậm đó, thì con thở được cỡ chừng chắc gần một phút đó Thầy, hơi thở á, thì thấy hơi thở nó rất là nhẹ, rất là chậm, mà con không biết là nó mấy giây, chắc có lẽ cũng gần một phút.

Như vậy thì con thấy cái tâm con nó rất là yên lặng, nó tỉnh thức là nhờ mấy bữa rày con tập cái hơi thở, mà con ngủ con cũng theo dõi cái hơi thở thưa Thầy, cũng để ý, lưu ý theo hơi thở bình thường đó, rồi cái tâm mình nó tỉnh thức lắm, với cái tưởng thức nó cũng ít có đánh vào nữa, với khi tu thì cũng nhờ cái hôm rày, mấy bữa mà nó rất là kết quả, nó ít có tưởng vô.

Lúc trước thì con có trình với Thầy, con mới ngồi thở có mấy hơi thì tưởng nó vô, con đưa ra nó dập một cái, cái nó đi luôn cả tiếng đồng hồ không có thở vô được đó Thầy, thì con tin rằng cái đó là tưởng, cho nên nghe thầy Thiện Thuận mà tịnh chỉ được thì con hiểu rằng chắc cái đó là do tưởng chớ không phải là do sức định thật, cho nên hôm rày con không có dám ám thị.

Nếu mà con không trình Thầy, Thầy không có dạy con thì hôm rày chắc con cũng có là tịnh chỉ được cái đó rồi đó, nó là do tưởng chớ không phải do định thật, tưởng nó vô thật lẹ.

Đó, thành ra con tu như vậy, rồi con trình Thầy coi có thể như vậy được hay là…​ Thầy chỉ dạy cho con! Dạ!

3.2- PHÒNG HỘ SÁU CĂN LÀ ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT KHI MỚI TU TẬP

(01:01:00) Trưởng lão: Bây giờ Thầy sẽ trả lời cho cô Diệu Hồng, cũng là trả lời chung cho các con để các con chuẩn bị cho cái sự tu tập của mình cho nó đúng cách.

Coi vậy chớ trong cái sự tu tập nó không có đơn giản, còn Thầy ở đây thì các con có nghe cái lời thuyết giảng của Thầy thì có Thầy còn sửa, mà nếu mà không có Thầy thì khi đó thì các con không có biết đâu mà sửa hết.

Mặc dù cái lời giảng của Thầy, nhưng mà tới dù sao đi nữa Thầy thấy cái trách nhiệm của Thầy mà giảng cái giáo án này thì đến cái giới hành - tức là cái hành động tu tập hàng ngày của các con đó là cái điều rất quan trọng.

Cho nên Thầy đặt thành cái vấn đề là phải trọng yếu cho cuộc đời, bỏ hết cuộc đời, chỉ còn có cái giới hành này mà dẫn các con đi đến nơi đến chốn hay là không đến nơi đến chốn là cái chỗ này.

Còn từ hôm rày Thầy giảng cái giáo án để biết được cái đường lối của đạo Phật, tu tập như thế nào đúng như thế nào sai, cái gì đúng cái gì sai của đạo Phật, Thầy đã dựng lại cho nó đúng của đạo Phật. Chớ hầu hết là bởi vì người ta đã dùng những cái pháp khác mà người ta đã ném cái đường lối pháp môn của Phật quá xa, làm cho người ta bây giờ không biết cái đường của đạo Phật tu như thế nào hết.

Vì vậy thì đến cái giai đoạn mà cái giới hành là cái vấn đề rất quan trọng, và cũng đồng thời những cái buổi học tập như thế này, các con được thưa hỏi để mà rút tỉa những cái kinh nghiệm, và đồng thời để bổ túc sau những cái bài học giới hành mà Thầy sắp sửa dạy, thì các con cũng biết được những cái sai cái đúng của mình.

Như vừa rồi cô Diệu Hồng có trình bày cho Thầy thì có những cái định mà tu tập nhưng nó không có rõ ràng và cụ thể. Đây Thầy nói để cho các con thấy cái tu tập, tu tập cái định nào thì nó phải ra cái định nấy, nó rõ ràng lắm.

Thứ nhất là cái Định Sáng Suốt, cái định mà giữ cái tâm thanh thản của mình đó, để cho chúng ta ở trong cái trạng thái thanh thản đó mà chúng ta biết rằng lúc bấy giờ tâm của chúng ta đã vô lậu, đã ly dục ly ác pháp chưa, nó được thanh thản như thế nào.

Thì cái kết quả mà đầu tiên của cái người tu thiền định của đạo Phật, theo đạo Phật, thì cái mục đích của nó mà chúng ta giữ gìn cái giới hạnh, ăn ngày một bữa, sống mà ít ngủ, độc cư không nói chuyện, hoặc là lao tác những cái chuyện nhẹ nhẹ để cho nó khuây khỏa trong cuộc sống của chúng ta đó, thì cái mục đích nhắm của nó đó là làm sao chúng ta đạt được cái chỗ mà ly dục ly ác pháp, đó là cái đầu tiên.

(01:03:37) Tiếp thì, các con hầu hết là không có lưu ý ở trong cái Định Sáng Suốt này, cái định này là định rất cần thiết. Nhưng nếu mà muốn đạt được cái Định Sáng Suốt này, cái tâm luôn lúc nào cũng được thanh thản á, thì nó không phải là chỉ có giữ cái tâm này mà được thanh thản lâu dài đâu. Do vì vậy mà chúng ta phải tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, cái mà Thầy đã nêu lên 10 cái điều kiện mà chúng ta phải tu tập nó.

Còn cái Định Niệm Hơi Thở mà hiện giờ mấy con mà đang tu tập cái hơi thở đó, thì cái này nó chờ cái thời gian sau cà, nó mới có tới cái giai đoạn của nó, nhưng vì chúng ta đã từng tu tập quen rồi, bây giờ chúng ta biết được thì chúng ta nên mỗi ngày một đêm vậy đó thì chúng ta chỉ tu tập một lần mà thôi, mỗi lần thì chừng 30 phút thôi, còn chúng ta dồn những cái công phu cho những cái định khác.

Bởi vì đây là một cái giáo án cái đường lối của đạo Phật nó hẳn hòi rồi, chớ không còn mờ mịt như trước kia cho nên chúng ta cứ nghĩ tưởng rằng mình ngồi mình tập trung cho hết vọng tưởng rồi sẽ nhập định này hay hoặc nhập định khác để làm chủ cái thân tâm của mình, chấm dứt cái luân hồi bằng cái sức ức chế cái tâm của mình nó hết vọng tưởng, hết Tầm hết Tứ.

Bây giờ chúng ta đã hiểu nó không phải vậy đâu, mà chính là cái đường đi của đạo Phật á, cái bắt đầu thì nó là cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, mà nó bắt đầu hơn nữa thì nó lại là cái Thánh phòng hộ sáu căn, cách thức chúng ta phải giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, mà trong ba cái đức mà cái giới luật nòng cốt của Tu viện ở trong cái thanh quy đó là nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.

Các con hiểu cái giới luật nòng cốt đó, đó là cái phòng hộ sáu căn, giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng của mình là bằng ba cái đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng đó.

Cho nên chúng ta có mắt - khi một người mà bước vào tu theo đạo Phật, có mắt như không có mắt, có lỗ tai như không có lỗ tai, vì vậy tâm của chúng ta mới đạt được yên ổn, mới tu cái Định Chánh Niệm Tỉnh Thức nó mới có đủ sức tỉnh thức. Còn không phòng hộ sáu căn, đụng đâu nó dính đó thì tỉnh thức không nổi đâu.

Các con thấy, khi tâm chúng ta đụng chuyện gì chúng ta cũng dễ phiền não, buồn giận thì lúc bấy giờ chúng ta còn tỉnh thức cái chỗ nào nữa? Còn phiền não, buồn giận thì làm sao mà chúng ta tỉnh thức đâu, cho nên rất khó.

Vì vậy mà chúng ta phải biết phòng hộ sáu căn là một cái điều kiện tiên quyết cho cái sự tu tập của cái người mới tu. Và kế đó thì là Chánh Niệm Tỉnh Thức, sau đó mới là Định Sáng Suốt hay là giữ tâm thanh thản, giữ tâm vô sự.

Đó thì các con thấy, từng cái bước đi của chúng ta tu tập nó có những cái bước đi, rồi trong đó nó có những cái trạch pháp, những cái câu để mà trạch ra, để mà dùng cái pháp hướng, để mà nhắc đi nhắc lại tâm mình cho nó thấm cái lý. Đó.

3.3- QUÁN VÔ LẬU PHẢI QUÁN CHO THÔNG

(01:06:33) Còn riêng phần cô Diệu Hồng thì Thầy thấy, về cái phần Định Vô Lậu thì con quán lung tung, coi như quán nhiều, quán đủ thứ quá. Quán rồi nó xả, nó không xả thì cũng đành chịu thôi, chỉ còn có giữ cái tâm trong hơi thở, rồi cho nó có cái niệm nào đó thì dừng nó lại liền để rồi cứ nương hơi thở thì nghe nó thoải mái dễ chịu, nó không có còn lo lắng thương nhớ nữa.

Còn ngồi mà quán lung tung, nó quán một hơi rồi nó nhớ nhà quá trời quá đất, nó muốn đi về. Tại vì ghẹo nó, nó hiện ra, cho nên nó nhớ cái này nó nhớ cái kia, thành ra cái đó là sai.

Khi mà đặt một cái niệm mà tu cái Định Vô Lậu thì chúng ta phải…​ Bởi vì Thầy đưa ra 10 cái điều kiện tức là 10 cái đề mục đặt cái niệm.

Bây giờ tâm của chúng ta đang nó có một cái - thường nó hay sanh những cái vọng tưởng, khởi cái niệm, thí dụ như con bây giờ con đang…​ thường thường mà khi mà xả thiền ra không còn ở trong pháp tu, thì nó có cái tâm nó nhớ mấy đứa nhỏ con của con, không biết là làm ăn như thế nào, sao, hôm đó nghe nó làm vậy mà không biết nó có thất bại hay là sao, hay là nợ nần nó còn mà nó chưa trả hết? Tuy vậy chớ cái tình cảm của mẹ con nó vẫn còn, chưa phải ly đâu.

Cho nên khi mà cái niệm nó khởi như vậy đó thì chúng ta mới đem cái niệm đó đặt ra trước mặt của mình, trạch ra một cái câu rồi quán xét, đứng ở trong cái lý nhân quả mà tìm hiểu, từ chỗ chúng ta không hiểu nhân quả mà chúng ta suy ra, tìm ra, thì cái tri kiến giải thoát của chúng ta nó phóng ra, nó tìm hiểu lý nhân quả: Nó do đâu mà có mẹ có con, nó do đâu mới có sự dính dấp như thế này, nó đâu mà nó có nhân có quả như thế này?

Từng đó chúng ta phá từng cái mảnh của cái nhân quả, từng cái nghiệp mà nó đã tạo thành một cái cuộc sống giữa mình với người khác để thành ra thương, ghét, giận, hờn.

Đó, chúng ta phải đặt cái niệm. Mà cái đó nó - khi mà đặt cái niệm đó nó chưa rồi, nó quán chưa thông, thì một lát nữa hay hoặc là buổi tối mình đặt niệm đó trở lại.

Rồi mình quán cũng chưa thấy được, chưa thông, nó cũng còn đây, cái niệm nó cũng còn đây, nó cũng còn nhớ đây, nó chưa có hết, do đó mình đặt nữa, mình đặt chừng nào mà nó hết nhớ thì mình mới thôi.

Còn cái này quán lung tung, quán lung tung nó lại nhớ nhiều…​ Nó cũng vô vậy à. Coi như là mình nhai lại cái bã mía của Phật, bây giờ nó cũng là vô thường, cũng khổ, cũng không, cũng vô ngã, cũng bất tịnh, mình nói tùm lum một số danh từ vậy, trời ơi nó nhiều quá mà, thành ra đâu biết cái nào là nó vô thường, cái nào nó không, cái nào nó khổ, cứ theo ba cái đờm dãi của người xưa mình nhai riết.

Nhai một hơi nó lạt bách cái miệng, không có chút ngọt nào hết, cái nhả bỏ đi. Bỏ đi cái nghe nó nhào vô, nhào vô cũng nói nữa: Mày là vô thường, khổ, vô ngã gì đủ thứ tùm, quán riết, rồi nghỉ. Nghỉ cái thấy nó cũng nhào vô nữa. Trời! Sao mà lại nó không hết? Hễ buông ra là nó nhào vô.

Bởi vậy Thầy mới nói khi mà chúng ta ngồi không, không có pháp tu mà chúng ta thấy nó có thì biết rằng nó chưa có hết lậu hoặc, nó còn nữa, do đó chúng ta mới đặt cái niệm chúng ta tu nữa.

Tu chừng nào mà ngồi không mà chúng ta thấy tâm nó thanh thản, nó không có nghĩ gì hết, nó cũng không thương không ghét thì biết là lúc bấy giờ nó ly dục ly ác pháp rồi, cho nên nó ở trong trạng thái Sơ Thiền đây, rõ ràng là cái tâm thanh thản vô sự của mình.

(01:09:53) Còn bây giờ các con ngồi không một hơi nó suy nghĩ cái này suy nghĩ cái khác thì đó là chúng ta biết lậu hoặc còn, mà không suy nghĩ thì nó sanh ra chuyện: “Bây giờ cái thất của mình phải cột cái sợi dây này lại!” Cột lại rồi nó nói: “Khiêng cái bàn này để qua, và cái giường để lại!” Nó cứ dời, dọn đặng cho nó quên chuyện, còn hễ nó ngồi không một hơi nó nhớ nhà. Phải không?

Các con thấy không, hễ nó làm lắt xắt lắt xắt thì không nhớ. Thầy thấy như cô An Tịnh đó, cô lo trồng cây này cây kia đồ vậy, cô không nhớ ai hết, mà hễ cô ngồi không cái cô nhớ nhà, không có trật!

Bởi vì cái Vô Lậu chúng ta phải biết, khi mà nó nhớ như vậy là khi tới cái giờ tu chúng ta đặt cái niệm đó, chúng ta làm sao chúng ta phóng ra những cái tri kiến giải thoát.

Bởi vì chúng ta phải biết chúng ta có cái tri kiến, cái tri kiến đó là cái sự mà chúng ta dùng nó để hiểu những cái lời Phật dạy, các tổ dạy, các thầy dạy cho biết các pháp là vô thường như thế này thế kia nhưng đó là cái tri kiến mà thôi.

Vì vậy mà chúng ta phải đặt cái niệm đó để rồi tuần tự chúng ta phóng ra những cái tri kiến giải thoát, từng đó chúng ta phải có cái sự hiểu biết riêng của mình, cho nên nó phá vỡ từng cái mảnh.

Mà Thầy nhắc các con: Những cái sự liên hệ, thương ghét của gia đình của mình đều là nó nằm ở trong cái lộ trình của nhân quả, do đó chúng ta đặt cái nhân quả mà chúng ta quán xét thì chúng ta thấu triệt được. Cho nên từ đó chúng ta không còn khởi cái niệm thương ghét hay lo lắng cho mấy cháu nữa hết, chúng ta yên. Bây giờ chúng ta có lo gì thì nó cũng vậy thôi.

(01:11:10) Cũng như bây giờ Diệu Hồng con ở đây con lo con tu thì phải tốt hơn không, mà ngồi đây mà lo tụi nó thì con có phỏng chừng có ở gần bên nó cũng coi con nó thôi chứ có làm gì hơn là lo cho nó được, đâu có ra mà gánh vác cái chuyện buôn bán đó được đâu! Già rồi, chỉ coi con coi cháu nó để cho nó đi bán đi buôn hay hoặc nó làm ăn thôi chứ có làm gì khác hơn?

Cho nên thay vì bây giờ mình tu thì có lợi ích hơn. Đã chăm, đã nuôi nấng tụi nó cho bây giờ lớn khôn rồi, bây giờ còn phải làm đầy tớ đặng coi con nó nữa sao? Mà coi con nó mình ngồi không mình ăn cơm không có được! Nó kỳ vậy, cái nghiệp báo, cái nhân quả nó vậy đó, các con cứ thử nghĩ đi.

Bây giờ nè, như Từ Đức nè, như Diệu Hồng nè, như An Tịnh nè, các con có con cái nè, rồi các con cứ về trụ xứ của mình ở đi, rồi cũng có giờ thì mình cũng tu vậy, nhưng mà sao mình bỏ không có được, thấy cháu thì thấy mặt nó cũng thương à! Bởi vì cái thứ dòng họ của mình mà, bỏ không có được.

Đó là những cái mà chúng ta phải tu cái Định Vô Lậu, tu hết sức tu, chớ không phải là tu lơ mơ đâu! Tu cho thấm nhuần, tu cho chứng được cái lý của nó cà, nó mới thấy được cái đường đi nhân quả, từ đó tâm chúng ta mới thanh thản, mới vô sự được, chớ không nó hữu sự lắm, nó ngồi lại thì nó có sự có việc à, còn không thì nó bắt thân của quý vị chạy Đông chạy Tây ra ngoài, nào nhổ cỏ, nào làm cái này kia đủ thứ để cho nó quên, còn không thì nó nhớ.

Cho nên vì vậy mà khi tu hành chúng ta biết được cái vô thường, khổ, không, vô ngã, nhưng mình chứng được cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã là cả một công phu tu tập chớ không phải ít đâu.

Nhưng mà đến cái thiền định hơi thở, thì khi mà cái tâm nó tịnh rồi, nó không còn lậu hoặc rồi thì chừng đó các thầy, các con mà nhập tới Bốn Thiền nó không còn khó nữa, các con chỉ cần ra lệnh là nó nghe. Bởi vì tâm chúng ta đã thanh tịnh rồi thì nó có cái lực của nó rồi.

Để tới chừng mà Thầy dạy các cái giới hành, thì Thầy dạy Ngũ Căn, Ngũ Lực, tới cái Ngũ Lực thì các con biết rằng, bước đầu vào cái Ngũ Lực thì các con biết nó rất rõ.

Cũng như vừa rồi thì Thầy chưa dạy các con tu cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, vì Tứ Bất Hoại Tịnh là pháp bắt đầu cho cái người mà thọ Tam Quy, học giới bổn xong thì người ta mới niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, mà niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng thì người ta mới tu Tứ Bất Hoại Tịnh, bốn cái pháp làm cho tâm chúng ta thanh tịnh mà không bị hoại diệt, thanh tịnh đó, thì Thầy mới dạy.

Nhưng ở đây Thầy chưa dạy mà con vội tu sớm quá, không biết tu cái nào đây cho nó thanh tịnh.

4- HIỂU CHI TIẾT TỪNG PHẦN ĐỂ TU TỨ BẤT HOẠI TỊNH

Phật tử:…​ (Không nghe rõ)

(01:13:57) Trưởng lão: Ờ, thì nghe nói vậy đó là cái lý, cái pháp lý chớ không phải là cái pháp hành. Cho nên nói thì một lẽ, nhưng mà khi mà nói ra cái pháp hành thì bắt đầu nó phải chỉ ra từng cái phần nhỏ chớ không thể nào mà nói tổng quát.

Bây giờ nói giống ông Phật, bây giờ tui giống ổng chỉ có chút là tui ăn được ngày một bữa à, còn tui ngủ, tối tui ngủ tui đâu có ngủ như ông Phật được, ít ra tui cũng còn chiêm bao còn ông Phật ổng hết chiêm bao rồi mà ổng đặt niệm trước mặt ông nằm, ổng đâu có ngủ! Còn ông Phật thì thân ổng - ổng nhập định thì ổng thần thông đủ cách, còn mấy con thì nhập định tưởng hết ráo rồi, thành ra đâu có giống ổng chút nào đâu?

Cho nên bây giờ mà nói thân niệm Phật, hay là tâm niệm Phật, hay là thọ niệm Phật thì nhiều khi các con đau cái chân, hai cái chân đau hay cái gì đau, các con méo miệng, còn ông Phật thì ổng ngồi không có đau gì, ổng đau ổng không có méo miệng chút nào hết, còn mình thì đau chịu không nổi rồi.

Do đó vì vậy mà nói về cái thân, cái thọ, tâm và các pháp mà niệm Phật thì chúng ta phải đi từ cái pháp hành, cái giới hành để chúng ta thực hiện cái nào trước cái nào sau, để tuần tự cái thân của chúng ta nó phải niệm Phật như thế nào đúng như thế nào sai, rồi cái thọ của chúng ta thì niệm Phật như thế nào đúng, như thế nào sai, rồi cái pháp niệm Phật như thế nào đúng, như thế nào sai, rồi cái tâm của chúng ta niệm Phật như thế nào đúng, như thế nào sai.

Cũng lần lượt từng chút mà chúng ta đi vào thì lúc bấy giờ chúng ta lại có sự phân ra, chúng ta biết rằng chúng ta đang ở cái nẻo nào ở trong Bát Chánh Đạo mà niệm Phật. Bây giờ mình niệm Phật mà mình phải ở cái nẻo nào? Bởi vì tám cái nẻo lận chớ đâu phải một nẻo.

(01:15:34) Tám cái nẻo đó mà lấy cái thân này niệm Phật, mà trong cái nẻo thứ nhất là Chánh Kiến thì nó phải làm sao đây? Phải tập luyện như thế nào, phải hành như thế nào ở trong cái Chánh Kiến này, cái nẻo này, để cho thân của chúng ta cho giống ông Phật? Ông Phật thì ổng - cái thân ổng thì ổng ở trong cái Chánh Kiến thì Chánh Kiến nào?

Cho nên bây giờ hỏi con cũng nói là tu Tứ Bất Hoại Tịnh chớ không biết là cái thân của mình nó sao, rồi cái thân ông Phật ở Chánh Kiến ở chỗ nào hết thì chưa có biết.

Cho nên tới đó thì Thầy sẽ giảng cho các con nghe để rồi các con phải hành, từ bắt đầu chúng ta mà khi quy y Tam Bảo, tức là thọ ba cái giới đầu tiên Phật - Pháp - Tăng, kế đó là học giới bổn nữa là bốn cái đối tượng để mà chúng ta niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới.

Mà bây giờ thì cái giới bổn nó chưa hết cho nên lần lượt thì Thầy dạy cho hết cái giới bổn để mà chúng ta có cái giới để từng đó bắt đầu vô Tứ Bất Hoại Tịnh.

Tứ Bất Hoại Tịnh còn một cái tên gọi là Tứ Kỉnh Pháp - bốn cái pháp cung kính, bốn cái pháp tỏ lòng cung kính của mình gọi là Tứ Kỉnh Pháp. Nhưng mà Tứ Bất Hoại Tịnh nó còn có một cái tên nữa là Tín Lực. Các con thấy trong Ngũ Lực thì Tín Lực là đầu tiên, mà Tín Lực là Tứ Bất Hoại Tịnh, hay hoặc là Tứ Kỉnh Pháp.

Phải không? Cái kia các con nghe khi mà Đức Phật chế Bát Kỉnh Pháp cho bên ni là cái giới chớ gì, bây giờ đó hay là cái này là giới hành của mọi tu sĩ tăng và ni cho nên gọi là Tứ Kỉnh Pháp chớ không phải Bát Kỉnh Pháp nữa.

Từ lâu tới giờ các con đâu có nghe, nhưng bây giờ Thầy nói thì các con mới thấy được cái tên này. Rõ ràng là trong kinh đã nói cái tên này, nhưng mà người ta không có để ý cái tên này, người ta coi là quá thường.

Cho nên bây giờ vạch ra các con thấy: Giới luật của Phật chế Bát Kỉnh Pháp cho ni nhưng mà chế cho tăng và ni đều là tu tập Tứ Kỉnh Pháp, thấy chưa? Mà Tứ Kỉnh Pháp là Tứ Bất Hoại Tịnh, phải không? Mà Tứ Bất Hoại Tịnh tức là Tín Lực, cái sự tin tưởng rất là dũng mãnh, cái lực, lòng tin của chúng ta.

Cho nên tu làm sao mà đạt được cái lòng tin? Phải có những cái kết quả mới có tin chớ, còn không kết quả làm sao chúng ta tin được!

5- GIỚI BỔN PHẦN NHIỀU DO NGƯỜI SAU CHẾ

(01:17:47) Bây giờ như các con đã thấy, một số giới luật mà Thầy đã dạy trong giới bổn thì các con đã thấy rằng có quá nhiều cái sai.

Đọc một số giới bổn vừa rồi, ta nhận thấy người sau chế giới không phải Phật chế.

Nghĩa là toàn bộ giới bổn, phần nhiều là cái người sau chế chớ không phải là trong cái thời Đức Phật chế đâu.

Bởi vì chế qua chế lại, chế rồi gia giảm, làm cho cái dục lạc của tu sĩ nó theo cái nhỏ giọt của dục lạc để làm cho người ta rộng rãi mà người ta sống được ở trong giới, nhưng cuối cùng là người ta phá giới. Bởi vì chế như vậy cái kiểu đó là đưa người ta đi đến chỗ…​

Thay vì thí dụ như chế cái giới, rồi nói cái người lạ thì không có được xin y, mà cái người cư sĩ bà con của mình thì xin y, mà xin y tốt của bà con thì được mà xin của cái người cư sĩ lạ thì không được xin y tốt được. Ông Phật mà chế giới kiểu đó để cho mấy người nhà giàu họ vô họ tu, bà con họ cho y tốt, y đẹp thì mấy ông thầy đó còn tu cái thứ gì nữa, phải không?

Các con thấy chế giới kiểu đó là chế giới người sau chế, không phải ông Phật chế đâu. Đạo Phật là đạo ly dục thì người nghèo cũng như người giàu, phải ly hết chớ, chế gì mà kỳ cục vậy! Cho nên hầu hết là mấy cái ông sau này bày đặt. Gặp Thầy, Thầy đập xuống như vậy đó, gặp ba cái giới bổn này đập xuống cho sạch thiệt là mệt Thầy vô cùng!

(01:19:05) Từ lâu thì Thầy hồi đó Thầy có học nó, nhưng mà trong lúc học mình cũng không để ý, nói giới nào thì mình hay vậy thôi, nhưng bây giờ khi mà tu rồi mà soạn ra, tới bây giờ mà Thầy dạy về giới Thầy thấy thiệt là sai.

Bây giờ mà Thầy ngồi lại mà Thầy soạn ra cái bộ giới bổn này để cho người sau, mà đúng là cái giới để ly dục ly ác pháp thì tất cả những cái giới này Thầy quét ra hết, Thầy soạn cái khác.

Thầy dựa vào ở trong kinh giới của Phật, ở trong kinh Thầy soạn ra thì đúng cách, rất là đúng, rất là hợp. Hợp vừa kinh giới, mà lại hợp vừa cái kinh bổn, làm cho cái người mà người ta lấy kinh bổn người ta làm cái hàng rào, người ta giữ gìn rồi người ta ly dục ly ác pháp.

Còn cái này giữ hàng rào gì? Muốn cái y cho đẹp cái lại bà con của mình cư sĩ xin cái y, Phật chế cái giới cho như vậy thì đâu có phải lỗi đâu, cho nên cứ làm bừa vô, thì cuối cùng…​ Hoặc là tiền bạc không cất giữ, giao cho bà con mình cất giữ đi, rồi ít bữa xì ra: “Bà con đứng ra cất chùa giùm tui đi!” Cũng tiền của ông thầy đó chớ ai vô đó! Làm cái chuyện kêu là che mặt người ta, trong cái giới luật làm như vậy là sai, quá sai, làm sao mà ly được?

Còn giới bổn chế tới chế lui, cho Tỳ Kheo sống rộng rãi để chạy theo những dục lạc thế gian. Giới bổn giống như điều lệ, hiến pháp, pháp luật của một đất nước, của một xã hội, một tập thể.

Xưa tập thể của Đức Phật 13 năm không có giới điều.

Nghĩa là khi mà Đức Phật độ năm anh em Kiều Trần Như, độ những cư sĩ đầu tiên, không có chế giới ra mà tới 13 năm người ta không có phạm một cái pháp gì hết, từ nơi pháp của Phật dạy là giới luật rồi, người ta ly dục ly ác pháp rồi, người ta không có còn phạm, mà tới sau này nhận ba cái ông Lục Quần Tỳ Kheo rồi Thất Tỳ Kheo Ni, rồi mấy cái bà mấy ông này đưa vô để mà làm cho phá giới rồi mới đặt ra.

Sự thật ra cái người tu theo đạo Phật mà ngay từ lúc đầu mà khép chặt, như mấy con mà vô đây Thầy khép chặt chắc chắn là - đúng là cách thức mà tổ chức mà Thầy khép chặt, các con chưa phạm cái lỗi nào đâu, mà chưa có thể nói rằng phải chế giới này, chế giới kia nữa. Còn cái này để lỏng lẻo để rồi người ta mới làm cái chuyện này chuyện khác, nó bậy bạ, nó làm cho không có đúng cách.

(01:21:24) Xưa tập thể của Đức Phật 13 năm đầu không có giới điều. Tại sao? Tại vì tâm các Tỳ Kheo đều sống ở trong tinh thần ly dục ly ác pháp nên ai cũng thấy mình giải thoát hoàn toàn, thoát ra khỏi dục lạc.

Vì thoát ra khỏi dục lạc là không bị sự cám dỗ của dục lạc thì đó là con đường của đạo Phật, cho nên ai cũng thấy giải thoát hết, còn ai mà ham nữa!

Cũng như bây giờ, không lẽ bây giờ Thầy ăn ngày một bữa Thầy Thấy giải thoát rồi, mà bây giờ người ta đem cái bánh hay gì ngon, hoặc ly nước sữa gì ngon: “Thầy uống đi cho nó khỏe, Thầy thấy ốm quá!” Họ nói thì nói mặc họ chớ, Thầy uống quyền Thầy chớ, phải không các con? Đâu có điên gì mà Thầy đi phạm.

Mà Thầy thấy cái đồ đó đâu phải là đồ ngon. Đối với thế gian thì họ cho ngon, đối với Thầy nhìn nó là Thầy thấy đồ bất tịnh, phải không? Cái đồ mà không có thể mà Thầy chấp nhận được. Bởi vì tâm hồn của Thầy nó ly dục ly ác pháp, nó có một trạng thái hỷ lạc cao tuyệt hơn cái đó rất nhiều.

Để Thầy nhắc lại cho các con nghe: Xưa nhà vua mới hỏi: “Tôi là một vị vua đó, thì cái hỷ lạc của dục lạc thế gian tui đầy đủ, tui muốn cái gì cũng có hết!”

Ông Phật hỏi: “Vậy thì cái dục lạc của ông, ông đem một cái mâm đồ ăn của ông này nè, ông ngồi ông ăn đây nè, bắt đầu bây giờ ông ngồi ông ăn đi, cái dục lạc ngon cái miệng ông nó có tới sáng được không? Ông bỏ vô khỏi cổ nó hết ngon rồi. Phải không, ông làm sao nó ngon tới sáng được?

Còn tui mà ngồi thiền, thì bây giờ tui ngồi thiền nè, mà tới sáng mai cái dục lạc mà ly hỷ, ly dục lạc nó vẫn là đầy đủ. Nghĩa là tới sáng nó liên tục nó có cái ly hỷ dục lạc nó đầy đủ.

Còn bây giờ ông ngồi ông ăn đi, ông bỏ cái miếng ăn này ông ăn riết một hơi ông ớn, ông thấy dục lạc còn không? Như vậy đâu có dục lạc đâu mà ông nói rằng ông đầy đủ, ông muốn cái gì nó có dục lạc đâu? Dục lạc của ông nó chỉ cấp thời, nó có đó rồi nó sẽ mất đi, làm sao mà được một ngày một đêm như tui được. Đó là tui nói ít đó.

Còn bây giờ ông nói cái dục lạc gì ở trên thế gian này đi, ông thấy nó là hạnh phúc nhất của ông đi, kéo dài một ngày một đêm, ông chưa có, còn cái dục lạc mà do ly dục ly ác pháp nó kéo dài bảy ngày bảy đêm!”

(01:23:32) Các con thấy, ông Phật ông nói rõ ràng, nghĩa là liên tục, thời gian liên tục tui ở trong cái trạng thái ly dục, liên tục tui thấy có một cái sự an lạc rất là thanh tịnh, an lạc rất là vĩ đại, nó kéo dài mãi bảy ngày bảy đêm chưa hết!

Các con có ngờ không? Các con ăn cái bánh đó các con ngọt, bỏ vô miệng nghe nó ngon quá, nuốt vô khỏi cổ rồi còn không? Còn ngọt, còn chỗ nào đâu chỉ cho Thầy xem coi, cái lạc đó còn không?

Thì các con thấy cái dục lạc nó chớp thời, nó chớp mắt, nó không có kéo dài được thì cái đó là nó vô thường, còn cái này người ta kéo dài từ đêm này đến ngày kia đêm nọ, bảy ngày đêm vậy, liên tục như vậy, có phải là nó thường không?

Vậy thì chúng ta đi tìm cái gì chớ, còn đi tìm cái đồ mà giả dối, đồ đó làm cái gì mà chúng ta ham! Thế mà Phật pháp đưa ra cái pháp để chúng ta ly những cái lạc tầm thường đó mà chúng ta lại không thấy, bây giờ còn lại thấy người ta đem đồ ăn lại thích ăn, thích uống nữa, thì có phải ngu không? Các con thấy, cái đó là cái quá ngu, phải không!

Đó thì hôm nay lẽ ra thì Thầy sẽ tiếp tục Thầy giảng về cái giới cho các con nghe, nhưng mới có trả lời được có một mình cô Diệu Hồng thôi.

Sửa soạn con phải chuẩn bị tu lại, chớ không khéo tu như kiểu đó thì cái tâm vô lậu nó không vô lậu được đâu. Rồi chỉ dùng cái định Hiện Tại An Lạc Trú là cái định hơi thở để cho nó yên ổn ở trong cái yên lặng của cái đó mà tránh né nó, rốt cuộc rồi hễ khi ngồi bình thường rồi nó cũng lại nhớ ra, nó đâu hết lậu hoặc, nó đâu có ly được ác pháp ly được dục!

Do vì vậy đó mà con phải nhớ kỹ, sắp xếp lại, trạch pháp những cái câu, bởi vì nó khó là cái Định Vô Lậu, nó khó là phải trạch pháp câu cho đúng cách, gọi đúng tên để mà chúng ta xả được cái lậu hoặc của nó thì nó mới có kết quả, còn nếu xả không được thì nó không có kết quả.

Đến đây Thầy xin chấm dứt, các con tiếp tục nghe băng./.

HẾT BĂNG

42 - BA GIAI ĐOẠN VƯỢT QUA NHÂN QUẢ

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 42 - BA GIAI ĐOẠN VƯỢT QUA NHÂN QUẢ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- BA GIAI ĐOẠN VƯỢT QUA NHÂN QUẢ

(00:01) Vừa rồi thì Thầy có giảng cái đoạn kinh này, nhưng mà vì có lẽ là cái máy nó trục trặc, nó không thu được.

Hôm qua Thầy giảng cho bên nữ, nhưng cái bài này cũng là có một cái sự lợi ích rất lớn cho cái người mới theo đạo Phật, nếu mà không biết được ba cái điều kiện này thì đương nhiên theo đạo Phật chúng ta không biết cái lối nào mà vào trước, lối nào vào sau, cho nên cái bài kinh này rất là có giá trị.

Vì vậy hôm qua Thầy có giảng ở bên nữ nhưng vì không thu được cho nên hôm nay Thầy phải giảng lại cái bài này cho bên nam. Rồi trước khi mà nghe xong cái bài này thì chúng ta sẽ tiếp tục cái giới luật, cái giới bổn.

1.1- CON ĐƯỜNG THỨ NHẤT: LY DỤC, LY BẤT THIỆN PHÁP

(00:54) Bước đầu tu tập đạo Phật chúng ta nên phải lưu ý có ba điều kiện rất quan trọng:

1. Phàm con người ai ai cũng thân cận dục lạc, thân cận bất thiện pháp ở trong thế gian này.

Nói chung phần nhiều là cái con người mà sinh ra ở đời thì chúng ta thường thường là thích cái dục lạc của thế gian, cho nên ai cũng thân cận cái dục lạc đó, và cái ác pháp thì ai cũng thân cận, ít có khi mà thân cận cái thiện pháp lắm.

Vì vậy mà cái điều kiện quan trọng ở đây của đạo Phật là chúng ta phải nhận ra, phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu, thông hiểu coi cái dục lạc đó nó như thế nào mà con người ai cũng thích, rồi thân cận cái ác pháp, tại sao chúng ta lại thích ác pháp?

Đó, thì như vậy là chúng ta phải tìm hiểu, phải thông hiểu. Vì có thông hiểu thì chúng ta mới có thể dứt bỏ được, còn nếu mà không hiểu thì chúng ta không thể dứt bỏ được.

Ví dụ như một người họ ghiền thuốc hút, hay hoặc là thuốc phiện, hay hoặc là rượu, mà họ biết rằng rượu là tai hại, thuốc hút là tai hại, thuốc phiện là tai hại, khi họ biết rõ những cái loại đó là cái sự tai hại cho cơ thể họ dễ sanh ra bệnh tật làm cho họ đau khổ, thì như vậy họ biết nó tai hại thì họ bỏ. Còn nếu mà họ thấy cái đó không tai hại thì chắc chắn là họ sẽ không bỏ.

Muốn được như vậy thì chúng ta phải có sự thông hiểu. Mà muốn thông hiểu thì chỉ có Thánh pháp mới dạy cho chúng ta mới có thông hiểu được mà thôi, chớ không có Thánh pháp thì chúng ta khó mà hiểu được cái dục lạc của thế gian, cái bất thiện pháp ở trong thế gian.

Bởi vậy Thầy thấy có nhiều thầy mà còn trẻ tuổi, họ thích thân cận ở bên phái nữ lắm, cho nên họ hay đi tìm ở bên cái phái nữ.

Cũng như Tu viện của chúng ta ở đây tuy vậy chớ hầu hết là cái tuổi trẻ - bởi vì nó có nam có nữ mà - cho nên cái tuổi trẻ không thấy cái thân cận cái dục lạc đó là cái tai hại, cái khổ, cái nguy hại, mà cứ mải thích đi tìm nó, thì nó sẽ đem đến cái tai hại cho mình chứ gì? Thế mà cứ đi tìm nó thì cái đó là cái nguy hiểm, chúng ta nên tránh. Cái khu vực của chúng ta thì chúng ta ở, đừng có nên lảng vảng đến cái khu vực của người nữ.

Vì vậy đó là những cái nguy hiểm nhất mà trong đạo Phật người ta rất sợ, cái đó rất sợ, khi đi tu rồi người ta xem cái đó là người ta rất lo lắng, rất sợ.

(03:25) Cho nên Thầy nhắc lại: Ông A Nan ngày xưa ông hỏi Phật: “Thưa Đức Thế Tôn! Chúng con là những người tu sĩ trẻ tuổi, đối với phái nữ chúng con phải làm sao?” Thì ông Phật nói: “Đừng có gặp!”

Rõ ràng là ông Phật ngăn ngừa chúng ta đừng có gặp phái nữ, thì ông A Nan hỏi: “Lỡ chúng con gặp làm sao?” Thì Đức Phật nói: “Đừng có nhìn nó!” Có gặp thì đừng có nhìn.

Thì ông A Nan hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu mà chúng con lỡ nhìn làm sao?” Thì ông Phật nói: “Đừng có nói chuyện!” Lỡ đã nhìn nó rồi thì đừng có nói.

Rồi ông A Nan hỏi Phật: “Lỡ chúng con nói làm sao?” Thì Đức Phật còn cái nước cuối cùng là: “Hãy xem họ như chị, như mẹ, hay hoặc là như em ruột của mình.” Thì chỉ còn có cái nước đó nữa là cuối cùng. Đây là tới cái bệnh tật rồi thì chỉ còn có uống thuốc mà trị thôi.

Nhưng mà vua Ba Tư Nặc ngồi đó nghe thì vua lại nói như thế này: “Như các thầy đã xuất gia rồi thì coi tất cả như là anh, như là chị, như em, như mẹ của mình được, còn chúng con là cư sĩ làm sao coi được như vậy, làm sao nghĩ được như vậy?”

Bởi vì mình ly gia cắt ái rồi, mình bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ anh, bỏ em, bỏ chị em của mình hết rồi thì mình coi tất cả mọi người đều như là ruột thịt của mình hết, là chị em ruột thịt của mình hết, còn chúng con là cư sĩ thì chúng con làm sao mà nghĩ như vậy được?

Thì Đức Phật mới nói: “Chỉ còn quán bất tịnh mà thôi!”

Đó là cái cuối cùng, cái đỡ gạt cuối cùng, chứ cái đầu tiên thì chúng ta không nên gặp. Khi mà biết đi tu rồi thì tuổi trẻ chúng ta nên xa lìa nó đi, để cho chúng ta tu cho rốt ráo rồi, xong rồi thì mặc tình chúng ta có gặp thì nó cũng chẳng lôi cuốn chúng ta được. Chớ còn bây giờ mà chúng ta mới tu, mà chúng ta gặp, nó xỏ mũi chúng ta nó dẫn đi, cũng như là một cái người chăn trâu họ xỏ cái mũi con trâu rồi họ kéo đi đâu cũng được hết. Cái đó nó khó lắm.

Bởi vậy biết được cái đó rất khó là khó, nhưng mà quý thầy trẻ tuổi quý thầy không có thấy cái đó là khó mà không thấy cái đó là rắn độc, cho nên rất nguy hiểm cho quý thầy đó.

Ở đây cho nên cái bài kinh này là vì thân cận dục, thì trong cái dục đó nó không phải có cái ái dục không, có cái dâm dục không, có cái tình dục không, mà nó có nhiều cái dục, mà cái dục nào nó cũng có những cái lạc chớ không phải là không có lạc, nhưng mà cái lạc đó nó cấp thời.

Cho nên nhà vua mới nói với Đức Phật như thế này: “Chúng con là những vua chúa, là những người mà có đủ cái dục lạc, ngũ dục lạc thế gian chúng tui hưởng đầy đủ, không thiếu gì hết!”

Do đó Đức Phật hỏi nhà vua: “Vậy cái dục lạc của nhà vua một đêm một ngày nó có thể kéo dài được không?” Nhà vua nói: “Đâu có được!” Nghĩa là chúng ta ăn một cái miếng ăn thì nó ngon tới cổ, nuốt hết thì nó hết ngon rồi, thì đâu còn lạc ở chỗ đó nữa.

Cho nên vì vậy Đức Phật nói: “Cái ly dục, cái ly bất thiện pháp thì cái hỷ lạc đó nó sẽ kéo dài một ngày một đêm vẫn được như thường, nó không có gián đoạn. Còn bây giờ ông chạy theo cái dục lạc của ngũ dục lạc, nó chỉ có một chút xíu thôi chớ nó không thể kéo dài một ngày một đêm được.”

(06:39) Và Đức Phật nói: Một ngày một đêm, rồi hai ngày hai đêm, ba ngày ba đêm cho đến bảy ngày đêm, thì cái người mà ly dục, ly bất thiện pháp người ta có thể kéo dài cái trạng thái bảy ngày đêm vẫn được như thường, nó không có gián đoạn.

Đó, thì như vậy là chúng ta thấy: Khi mà chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp thì nó có cái trạng thái giải thoát, nó hỷ lạc làm cho chúng ta sống suốt một cái thời gian rất dài mà không bao giờ dứt đoạn.

Còn cái dục lạc của thế gian ngay đó nó có cái hỷ lạc, nó một chút rồi cái nó mất, rồi nó đem lại cái khổ cho chúng ta chớ chưa phải là nó đã kéo dài được. Cho nên Đức Phật đã dạy cho thấy rằng cái dục lạc thế gian nó quá ngắn ngủi, mà luôn liên tục nó có sự khổ đau kề cận bên đó.

Cho nên ở đây:

Phàm con người ai ai cũng thân cận dục lạc, thân cận bất thiện pháp ở thế gian.

Nói chung là con người ai cũng vậy. Cho nên điều thứ nhất:

Sau khi được nghe Thánh pháp Như Lý Tác Ý…​

Tức là ám thị đó quý thầy, đó là pháp hướng đó, cái đó là rất quan trọng. Mình hiểu được Phật pháp rồi thì thường phải nhắc đi nhắc lại, ám thị tâm của mình để mình chứng được cái chánh pháp, chứng được cái lý của pháp đó, và nương theo cái pháp đó mà hằng ngày chúng ta sống gọi là tùy pháp đó.

Tùy là nương theo. Cũng như bây giờ hằng ngày mình nương theo cái hơi thở mà cái thân mạng của mình sống đó, còn nếu mà mình không nương theo cái hơi thở, nó không thở ra thở vô thì chắc chắn là mình chết.

Vì vậy cho nên khi mà chúng ta biết được Thánh pháp, hiểu được Thánh pháp thì chúng ta thường phải Như Lý Tác Ý để chúng ta không có một thời gian gián đoạn, vì vậy mà chúng ta sống ở trong cái tùy pháp đó.

…​ thì người này sống không thân cận dục lạc.

Nghĩa là chúng ta nương vào cái Thánh pháp đó thì chúng ta sẽ không thân cận dục lạc nữa. Còn hầu hết là quý thầy không có chịu sống nương theo cái Thánh pháp, cho nên hễ để cái tâm nó kẽ hở thì quý thầy chạy đi tìm cái dục lạc của thế gian, thân cận người này, thân cận người kia, rồi nói chuyện này, nói chuyện kia, lăng xăng, lích xích, làm cho tâm của quý vị luôn luôn bị dính mắc ở trong cái dục lạc của thế gian.

Rồi từ cái dục lạc thế gian đó nó mới là sanh ra, khởi ra những cái ác pháp, cho nên luôn luôn dính mắc thân cận ở trong các ác pháp, bất thiện pháp, không bao giờ xa lìa được.

(09:00) Nhờ sống không thân cận dục lạc, không thân cận bất thiện pháp thì an lạc của cuộc sống khởi lên, lòng vui mừng sung sướng khởi lên, thấy rõ con đường giải thoát của đạo Phật, và đối với hằng ngày của cuộc sống không còn có sự va chạm làm cho tâm hồn đau khổ nữa.

Tức là mình nương vào cái Thánh pháp rồi thì cái tâm của mình nó sẽ thoát khổ. Mình không có thân cận dục, không có thân cận cái ác pháp ở thế gian nữa thì lúc bấy giờ mình nương vào, mình theo cái pháp của Thánh pháp, thì mình va chạm trong cái cuộc sống hằng ngày của mình, mình hoàn toàn được giải thoát, mình không có còn đau khổ nữa.

Đó là con đường tắt đưa đến an lạc, hạnh phúc thứ nhất của đạo Phật.

Đó thì, ở đầu tiên chúng ta mới vào đạo Phật thì chúng ta nên hiểu biết được Phật pháp, hiểu biết được Phật pháp thì chúng ta không có nên thân cận với dục lạc, không có thân cận với ác pháp. Đó là điều tiên quyết mà cái người tu phải hiểu.

Do cái chỗ hiểu này, chúng ta không thân cận nó thì chúng ta sẽ ly nó được, sẽ cắt đứt nó được. Vì vậy mà ở đây Thầy dạy cho các thầy là sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình, sống trầm lặng, cho nên đó là một cái chúng ta sống không thân cận với dục lạc, không thân cận với ác pháp đó.

Cách thức sống của chúng ta mà! Chúng ta sống như vậy là chúng ta sẽ không thân cận. Còn sống mà chạy tới chạy lui, đến thất này thất kia nói chuyện thì quý thầy nghĩ sao? Có thân cận không? Thân cận với ác pháp chớ!

Quý thầy nói quý thầy là nam, nhưng sự thật quý thầy nói chuyện qua lại thì có sự bất toại nguyện ở trong lòng quý thầy, tức là ác pháp chớ gì? Nó làm cho quý thầy buồn bã cái này cái kia nọ đủ thứ, đó là quý thầy đã thân cận ác pháp.

Còn nếu quý thầy sống độc cư một mình mình trong thất, quý thầy không nói chuyện với ai, làm sao có thân cận ác pháp đâu? Cho nên ở đây Thầy chỉ nêu ra là sống độc cư, sống trầm lặng là quý thầy đã không thân cận dục lạc thế gian, đã không thân cận ác pháp, thì quý thầy đã tự cứu quý thầy rồi.

Rồi từ cái cuộc sống đó quý thầy sẽ đi tới những cái pháp khác, do đó mà quý thầy được giải thoát, chớ không phải đã bấy nhiêu mà đủ, nhưng mà đây là bước đầu của quý thầy, đây là một cái pháp thứ nhất để đem đến hạnh phúc, đem đến sự giải thoát cho quý thầy.

Cho nên người mà sống độc cư được là cái người đã không thân cận dục lạc, đã không thân cận ác pháp. Đó, quý thầy hiểu.

Như vậy một cái danh từ độc cư cũng đủ thấy là cái điều mà Thầy dạy có đúng Phật pháp không. Rất đúng! Bởi vì Phật dạy chúng ta ở đây là không thân cận dục lạc, không thân cận ác pháp, mà Thầy chỉ dạy là sống độc cư, như vậy là không thân cận dục lạc, không thân cận ác pháp. Đó.

1.2- CON ĐƯỜNG THỨ HAI: TRAU DỒI LÀM AN TỊNH THÂN, KHẨU, Ý

(11:46) Thứ hai:

2. Phàm con người chưa được trau dồi thân, miệng, ý nên thân hành thô lậu chưa được an tịnh, khẩu hành thô lậu chưa được an tịnh, ý hành thô lậu chưa được an tịnh.

Đó thì, Đức Phật nói: Khi mà chúng ta đã sống độc cư rồi, đã không có thân cận những dục lạc rồi, đã không có thân cận các ác pháp rồi, thì bắt đầu chúng ta hiểu biết rằng cái thân hành, cái khẩu hành và ý hành của chúng ta từ lâu chúng ta chưa có trau dồi nó, cho nên hễ hở một chút là chúng ta có thể sanh ra, khởi ra những cái ác pháp ở trong thân hành, khẩu hành, ý hành.

Thì cái mục đích cái lộ trình nhân quả mà chúng ta đang đi, thì quý thầy thấy nó ở đâu? Ba cái hành này chớ đâu! Thân hành, khẩu hành, ý hành mới tạo ra nhân, mới tạo ra quả, chớ còn nếu không có thì làm sao có nhân có quả được? Đó quý thầy thấy chưa?

Ở đây Đức Phật dạy rất rõ: Thứ nhất là chúng ta hãy tránh cái lộ trình mà nó có thể sanh ra cái nhân quả, tức là dục lạc và ác pháp nó sẽ sanh ra nhân quả. Mà bây giờ chúng ta tránh tức là chúng ta sống độc cư. Nhưng mà chúng ta sống độc cư mà chúng ta không chịu trau dồi thân, miệng, ý của mình thì phỏng chừng mình có đi đến cái cứu cánh không? Không có cứu cánh. Mình phải trau dồi ba cái hành động thân, khẩu, ý của mình để chấm dứt cái nhân quả.

(13:06) Các thầy đâu hiểu rằng chúng ta là những con người đang sống ở trong cái bầu trời của nhân quả, nó đang phủ trùm mọi người, mà quý vị không có vượt ra khỏi bầu trời thì quý vị sẽ luôn luôn bị chi phối ở trong cái luật nhân quả.

Người ta sống ở trong nhân quả, người ta biết nhân quả sanh mình ra, người ta biết từ nhân quả đó mà mình chết đi, mình trở về nhân quả, thế thì chúng ta bị bao vây bởi cái nhân quả. Thế mà chúng ta không có tìm cách để thoát ra nhân quả thì làm sao mà chúng ta gọi là liễu sanh thoát tử?

Nhân quả muốn chúng ta chết là chúng ta chết, muốn sống là chúng ta sống, muốn sanh là chúng ta sanh, chứ chúng ta chưa có quyền làm chủ được nó. Vậy thì bây giờ một người tu theo đạo Phật là phải chấm dứt nhân quả, làm chủ nhân quả. Làm chủ nhân quả như thế nào?

Người ta chửi mình, mình không giận đó là mình làm chủ nhân quả đó, mà người ta chửi mình, mình giận đó là mình không làm chủ nhân quả đó. Mà mình thấy một vật gì mình ham thích, đó là mình chưa làm chủ nhân quả đó, mà mình thấy (không) ham thích đó là mình làm chủ nhân quả đó.

Giả dụ như cái thân của quý vị là đang có những cái thọ khổ, bệnh tật quá đau khổ, nhưng quý vị làm chủ được nhân quả thì quý vị chẳng bao giờ có thấy đau khổ, nhưng quý vị chưa làm chủ nhân quả thì quý vị sẽ thấy sự đau khổ.

Vì vậy mà chúng ta muốn làm chủ nó thì chúng ta phải hiểu nó, phải biết nó, chúng ta là những người đang sống ở trong cái lộ trình của nhân quả đang chi phối chúng ta từng phút từng giây diễn biến sự thay đổi của nhân quả liên tục ở trong thân và thế giới này. Thế mà không hiểu nhân quả, cho nên chúng ta chẳng chịu trau dồi ba cái hành động của chúng ta.

Bắt đầu chúng ta trau dồi gì trước tiên? Chúng ta phải trau dồi thân hành, khẩu hành và ý hành. Vì hiện giờ nó rất là thô lậu, tại sao vậy? Tại vì mở miệng ra là có làm khổ mình khổ người. Hành động của chúng ta ở thân, không hành động thôi, mà đã hành động ra thì có giết hại, có chết chóc chúng sanh. Lỡ đi mà chúng ta đạp có phải là chết hại chúng sanh không?

Cho nên Phật dạy Tứ Vô Lượng Tâm để làm gì? Để chúng ta tu cái tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả chúng ta, để luôn luôn chúng ta có ý tứ ở trên bước đường chúng ta đi, ở trên cái hành động chúng ta làm, ở trên cái ý của chúng ta nghĩ, ở trên cái lời nói chúng ta nói.

(15:26) Sau một thời gian được nghe Thánh pháp, theo Thánh pháp Như Lý Tác Ý…​

Theo cái Thánh pháp để mà chúng ta trau dồi ba cái thân hành, thân hành, khẩu hành và ý hành của chúng ta đó, sau một thời gian chúng ta nghe được cái Thánh pháp, hiểu được cái Thánh pháp đúng như thế nào đó, chúng ta hiểu biết đó là con đường chân thật đưa đến chúng ta giải thoát, cho nên từ đó chúng ta trạch pháp ra, như cái trạch pháp đó mà như cái lý đó mà chúng ta tác ý ra chúng ta thực hiện trong cái đời sống hàng ngày.

Như vậy ở đây Phật dạy chúng ta như thế nào? Theo cái Thánh pháp đó mà tu cái Định Vô Lậu đó, để chúng ta trau dồi cái thân hành, cái khẩu hành và cái ý hành của chúng ta, hằng ngày phải liên tục tu tập để cho nó nương vào cái pháp đó mà nó từng sống theo cái pháp đó mà ở đây Phật gọi là tùy pháp.

Và chúng ta sẽ chứng đắc được cái pháp đó, tức là nó thấm nhuần vào cái pháp đó, cái chánh pháp đó, nó cho làm thân, khẩu, ý chúng ta nó có những cái oai nghi, Phạm hạnh rất đầy đủ, nói ra, nghĩ ra một cái điều gì, nói ra một điều gì, hành động ra một điều gì là đem lại sự an vui cho mình cho người, không làm khổ mình khổ người.

Do đó là chúng ta nhờ được Thánh pháp, vì vậy mà chúng ta tu tập. Do sự siêng năng tu tập như vậy chúng ta mới thấy được cái đời sống của chúng ta, cái tâm hồn của chúng ta được giải thoát hoàn toàn an vui.

…​ do công phu trau dồi, thân hành thô lậu được an tịnh, khẩu hành thô lậu được an tịnh, ý hành thô lậu được an tịnh, an lạc khởi lên và hơn cả an lạc và hoan hỷ trước kia.

Đó là con đường tắt thứ hai đưa đến an lạc của đạo Phật.

Nghĩa là cái sự an lạc này nó hơn là cái an lạc của cái lộ trình thứ nhất mà chúng ta đã tu tập.

Cái lộ trình thứ nhất là Phật dạy chúng ta như thế nào, như cái lý nó tác ý như thế nào? Là chúng ta xa lìa cái lòng ham muốn chúng ta, xa lìa các ác pháp, đó là cái lộ trình thứ nhất.

Còn cái lộ trình thứ hai thì bảo chúng ta như thế nào? Bảo chúng ta phải trau dồi cái miệng, cái thân hành, cái khẩu hành và cái ý hành của chúng ta, đó là cái lộ trình thứ hai.

Chúng ta phải biết cách tu tập từ cái một chớ! Mới đầu chúng ta xa cái lòng ham muốn chúng ta chưa hẳn hết đâu, chúng ta xa ác pháp chưa hẳn hết đâu, cái miệng, cái hành thân của chúng ta nó còn, và cái ý hành chúng ta nó còn lung tung ở trong này, chưa hẳn là nó xa đâu.

Cho nên tiếp tới thì chúng ta, giai đoạn hai của lộ trình thứ hai này, chúng ta phải tu tập là phải trau dồi cái thân hành thô lậu của chúng ta, cái khẩu hành thô lậu của mình, cái ý hành còn thô lậu của mình để cho nó không còn cái thô lậu đó nữa, do đó nó không còn nằm ở trong ác pháp, nó không còn nằm trọn vẹn ở trong cái lòng ham muốn của chúng ta nữa.

Đó thì, nó sẽ có cái sự khởi lên cái sự an lạc, và cái sự an lạc đó nó sẽ hơn là ở cái lộ hành thứ nhất mà chúng ta mới tu tập.

(18:27) Đó thì chúng ta phải thấy: Đây là cái giai đoạn thứ hai của sự tu tập của chúng ta là trau dồi thân, miệng, ý, hành của chúng ta.

Bởi vì khi mà chúng ta có trau dồi thân hành, khẩu hành, ý hành của chúng ta trong thiện pháp, trong Thánh pháp thì nó mới ở trong cái nhân quả thiện. Nếu mà chúng ta không chịu trau dồi nó trong Thánh pháp, trong thiện pháp của chư Phật thì nó hoàn toàn nó sẽ ở trong ác pháp.

Tại sao chúng ta nói có lúc chúng ta cũng thiện, nhưng nhiều khi chúng ta làm thiện mà chúng ta không biết thiện, tức là nó cũng sẽ ở trong ác pháp.

Bởi vì không biết thiện cho nên do đó vô tình mà chúng ta làm vui lòng người, như bây giờ chúng ta không biết cái pháp đó là thiện, nhưng mà chúng ta đến chúng ta an ủi người đó, hay hoặc là chúng ta thấy người đó chúng ta cho họ bát cơm, nhưng mà chúng ta chưa biết cái hành động của chúng ta làm như vậy là thiện, vì vậy nó sẽ ở trong ác pháp.

Khi đó chúng ta làm như vậy rồi, chứ mai mốt cái người đó có vô tình gì đó chúng ta sẽ kể ơn, chúng ta nói: “Trong lúc đói gần chết người ta cho mà bây giờ không biết ơn biết nghĩa gì!” Thì từ cái làm thiện của chúng ta nó trở thành cái ác pháp chớ không phải là thiện pháp. Còn khi mà chúng ta biết chúng ta làm một cái điều thiện rồi thì chắc chắn là chúng ta sẽ không nói lời nói đó đâu.

Đó cho nên ở đây Thầy nói: Khi làm một cái điều gì, chúng ta phải biết cái điều đó thiện hay là ác. Đó là một cái điều tiên quyết của đạo Phật là phải rõ ràng, chớ không thể làm một cái mù mờ mà không hiểu biết. Phải thông suốt được cái điều này chớ không thể nào là không thông suốt.

Muốn làm được những cái điều thiện hằng ngày như vậy đó thì chúng ta phải Như Lý Tác Ý, nhắc nhở mình thường xuyên mình mới nhớ, chớ còn không khéo thì mình không thấm được cái lý đó, vì vậy mình chưa hẳn đã là biết ác biết thiện.

Thí dụ như Thập Thiện dạy như vậy, chúng ta hiểu là mười cái điều đó là mười điều lành và ngược lại là mười điều ác, nhưng hằng ngày chúng ta vẫn làm ác à! Tại vì chúng ta chưa thấm được cái lý Thập Thiện cho nên hở ra là chúng ta có thể làm ác được. Miệng chúng ta thì 4 cái điều kiện thiện như vậy, thế mà mở miệng ra là chúng ta có thể vọng ngữ hoặc là chúng ta có thể nói lời ác, hoặc có thể chúng ta chửi mắng người ta được.

(20:32) Đó là những cái điều mà chúng ta đã học, chúng ta vẫn biết nó là thiện, biết nó là ác, nhưng tới lúc đó rồi thì chúng ta chẳng biết thiện ác gì nữa, cứ mặc tình mà thỏa mãn cái lòng ham muốn của mình, cái lòng sân hận của mình mà thả cửa sổ ra những cái điều kiện ác đó chớ không phải là thiện nữa.

Bởi vậy hằng ngày chúng ta phải như cái lý mà tác cái ý ra, trạch pháp ra những cái câu để nó xứng hợp với 10 cái thiện pháp của bậc Thánh. và xa lìa, đoạn dứt 10 cái pháp ác của bậc Thánh, để rồi chúng ta diệt sạch các pháp ác của thế gian mà các bậc Thánh đã dạy.

Do công phu trau dồi, thân hành thô lậu được an tịnh, khẩu hành thô lậu được an tịnh, ý hành thô lậu được an tịnh, và an lạc khởi lên hơn cả an lạc và hoan hỷ trước kia. Đó là con đường tắt thứ hai đưa đến an lạc của đạo Phật.

Ở đây là trau dồi các thiện pháp. Nghĩa là chúng ta trau dồi bằng cái gì? Bằng pháp hướng, bằng Như Lý Tác Ý, tức là pháp ám thị, hay hoặc là lối dẫn tâm của chúng ta vào thiện pháp, và lối dẫn tâm của chúng ta để đoạn dứt các ác pháp.

Có như vậy thì chúng ta hàng ngày thấm được, chứng được cái đạo lý thiện của đạo Phật, thì từng đó chúng ta mới thấy rằng: Cái thân hành, khẩu hành và ý hành của chúng ta luôn luôn nó hoàn toàn ở trong các thiện pháp, không còn ở trong các ác pháp nữa.

Đó là cách thức trau dồi thứ hai mà người tu sĩ đạo Phật: Thứ nhất là chúng ta cắt ly, xa lìa, không có thân cận cái dục lạc, không có thân cận ác pháp, cái thứ hai thì chúng ta trau dồi thân hành, khẩu hành, ý hành của chúng ta ở trong thiện pháp tức là Thập Thiện.

1.3- CON ĐƯỜNG THỨ BA: BIẾT NHƯ THẬT VỀ CÁC PHÁP

(22:21) Đến cái phần thứ ba thì cái phần này rất là quan trọng, đây là cái phần mà chúng ta được giải thoát hoàn toàn.

3. Phàm người đời không như thật biết đây là thiện…​

Nghĩa là ở ngoài đời người ta không biết đây, cái này là thiện mà cũng không biết đây là ác, cho nên do đó người ta mới lầm lạc, vì vậy mà lầm lạc người ta không có xa lìa các ác pháp được. Còn bây giờ đó, cái người mà được nghe cái Thánh pháp rồi thì người ta phân biệt được đây là ác, đây là thiện.

Cho nên ở trong này Phật dạy:

Phàm người đời, không như thật biết đây là thiện, không như thật biết đây là bất thiện, không như thật biết đây là có tội, đây là không tội, đây cần phải thuận theo, đây cần phải tránh né, đây là họa, đây là hạ liệt, đây là cao thượng, đây là đúng, đây là sai, đây là tai họa, đây là vô tai họa.

Chúng ta không có thấy được cái này, cho nên đút đầu vô cái gặp tai họa rồi cái thì mới bổ ngửa ra đó mà chịu, chớ không có làm sao mà tránh né ở chỗ nào được hết.

Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta: Mình phải có cái sự sáng suốt như vậy để nhận định đây là thiện nè, đây là bất thiện nè, đây là có tội nè, đây là không tội nè, đây là thuận nè, đây là nghịch nè, đó. Đây là phải tránh né nè, không có được nhào vô nè, đây là hạ liệt nè, đây là cao thượng nè, đây là đúng nè, đây là sai nè, đây là tai họa nè, đây là không tai họa.

Mình làm sao mình thấy được cái này thì do đó đã là mình thấy được con đường nhân quả. Mà mình thấy được con đường nhân quả thì tức là mình ly được các ác pháp, mình ly được các ác pháp tức là cái mầm của cái dục của mình nó phải ly.

Ở đời người ta không hiểu cái điều này cho nên người ta hay lầm lạc. Cũng như vừa rồi Thầy có nói là khi chúng ta làm một điều thiện mà chúng ta không biết, cho nên sau khi có những cái sự gì mà làm chúng ta hờn giận, thì ngay cái điều thiện đó chúng ta sẽ đổ vỡ như là đổ xuống sông, chúng ta không cần biết gì nữa hết, chỉ biết thỏa mãn theo cái ý muốn của mình, người ta làm sai là mình cứ đổ xuống hết mà mình không thấy cái điều mình làm tốt. Đó là những cái mà chúng ta không hiểu đó.

Cho nên sau một thời gian nghe được Thánh pháp Như Lý Tác Ý, chứng đắc chánh pháp và tùy pháp, bấy giờ mới biết như thật.

Nghĩa là lúc bấy giờ chúng ta tu tập cái giai đoạn thứ ba này, sau một thời gian tu tập, chúng ta mới chứng được cái lý đạo, chúng ta mới chứng được cái lý giải thoát, do đó bây giờ chúng ta mới thấy được cái hành động của chúng ta hàng ngày làm cái gì: Đây là thiện chúng ta biết đây là thiện, mà đây là không thiện chúng ta biết đây là không thiện. Đây là có tội chúng ta biết đây là có tội, mà đây là không tội chúng ta biết đây là không tội.

Nó sáng suốt từng phút giây như vậy, tức là chúng ta đã có một sức tỉnh thức rất cao. Làm một cái hành động gì, nói ra một cái gì, nghĩ một cái gì chúng ta biết cái đó là thiện hay là không thiện chúng ta biết liền. Như vậy là chúng ta đã chứng được cái lý rất rõ ràng, cho nên chúng ta không bao giờ mà bị các pháp ác lôi chúng ta, không bao giờ bị dục lạc lôi chúng ta.

Đó, đây là chúng ta cần phải hiểu biết cái sự tu tập nó phải trau dồi hàng ngày. Cái giai đoạn ở thứ ba này là cái kết quả của sự trau dồi, chứng được cái lý đạo, người ta gọi là chứng ngộ.

Nhờ chánh pháp và tùy pháp, biết như vậy, thấy như vậy, vô minh mới được diệt trừ, minh được sanh khởi, nhờ thế an lạc khởi lên, hỷ khởi lên. Đó là con đường tắt thứ ba hướng đến an lạc được Đức Phật đã chỉ dạy.

1.4- BA CON ĐƯỜNG LÀ BA GIAI ĐOẠN VƯỢT QUA NHÂN QUẢ

(25:58) Như vậy là trong ba cái lộ tắt này thì đầu tiên tóm lại chúng ta biết cái lộ thứ nhất mà chúng ta tu tập thì chúng ta cần phải xa lìa, cần phải tránh né, không phải là tiếp mặt với cái dục lạc được, tiếp mặt với bất thiện được. Cho nên cái thứ nhất là chúng ta cần phải tránh, vì vậy mà chúng ta cần phải độc cư, sống một cái nơi nào đó một mình để nỗ lực mà thực hiện những pháp sau này.

Cái thứ hai thì chúng ta trau dồi, trau dồi rất nhiều chớ không phải có một pháp đâu. Bây giờ nói trau dồi Thập Thiện nhưng mà chúng ta còn phải trau dồi tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả chúng ta nữa, rồi chúng ta cần phải trau dồi các pháp nữa, rồi chúng ta cần phải còn tu tập những cái pháp quán để chúng ta xa lìa trên cái thân của chúng ta, tránh xa những cái tham muốn, tránh xa những cái tâm Ngũ Triền Cái, Thất Kiết Sử, làm cho tất cả những cái này đều là xa lìa chúng ta hết.

Và xa lìa chúng ta hết thì cái giai đoạn thứ hai này là cái giai đoạn trau dồi, tu tập, dứt bỏ trong cái giai đoạn này. Chớ không phải nói trau dồi không có ba cái hành động thân, khẩu, ý của chúng ta không đâu. Nó còn trau dồi và nó còn phải quán trên thân như thế nào, vô thường vô ngã như thế nào, chớ không phải là trong cái giai đoạn thứ hai này đơn giản như chúng ta trau dồi ba hành động đó thiện pháp là xong đâu, chưa đâu.

(27:30) Cho nên cái giai đoạn thứ hai này nói tuy nó ngắn, nó gọn, nó là cái con đường tắt thứ hai, nhưng mà sự thật không phải đơn giản đâu, chúng ta phải tập luyện, hết sức tập luyện.

Do sự hết sức tập luyện đó, bấy giờ chúng ta mới chứng ngộ được cái lý của đạo, vì vậy mà chúng ta thấy như thật, thấy khổ như thật, thấy những cái nguyên nhân mà tập lại làm cho chúng ta khổ như thật, thấy con đường mà diệt tất cả các khổ là Niết Bàn là thật, thấy được tám nẻo để đưa đến chúng ta giải thoát là thật.

Lúc bấy giờ chúng ta thấy thật chớ không còn cái ngộ sơ sơ, không còn có hiểu một cách cạn cợt nữa mà đây là chúng ta chứng thật tự thâm tâm của chúng ta.

Do một cái thời gian tu tập ở cái lộ trình thứ hai này nó rất nhiều điều mà chúng ta cần phải thực hành, chớ không phải nói rằng chỉ có tạp khí lâu ngày rồi nó hết, không phải đâu, mà chúng ta chỉ phải tu tập từng chút, từng chút nó mới có hết, nó mới có xong được.

Từng đó nó không những riêng ở trong các pháp trau dồi bằng thiện pháp không mà còn phải trau dồi, tu tập tất cả các thiền định nữa, cả bốn loại thiền định nữa, chớ không phải là chỉ có trau dồi thường thường là ở trong thiện pháp, mà còn phải tu tập thiền định.

Thứ nhất là những cái định mà chúng ta tu tập đó là cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định làm cho cái sức tỉnh của chúng ta càng ngày càng cao lên thì cái tri kiến giải thoát của chúng ta nó mới phát hiện ra được. Còn nếu mà sức tỉnh không có thì cái tri kiến giải thoát chúng ta không bao giờ có thể phát hiện ra được, nó không thể xuất ra được.

Vì vậy mà cái tri kiến giải thoát không có thì đương nhiên chúng ta không thể nào mà nhìn thấy được con đường của nhân quả đi. Mà không nhìn thấy được con đường của nhân quả thì chúng ta sẽ lầm lạc, và ngay đó chúng ta có sự đau khổ liền tức khắc.

Còn thấy được con đường nhân quả liền, người ta vừa mắng chửi mình là mình đã thấy được nhân quả, do đó tâm hồn mình bất động ngay tại liền cái đối tượng liền.

Trong một cái hoàn cảnh xảy ra cho chúng ta một cái tai nạn xe hơi hay là giao thông làm chúng ta gãy chân gãy tay, nhưng mà chúng ta thấy nhân quả liền, chúng ta không bao giờ mà than khóc, không bao giờ mà - có nghĩa là nghĩ đến cái thân phận của mình bị tàn tật mà khổ đau, không bao giờ chúng ta có cái sự suy nghĩ đó, chúng ta thấy rõ được nhân quả.

Cũng như trong khi cái cơ thể chúng ta đang bị một cơn đau hoành hành mà chúng ta đã nhìn thấy được nhân quả thì chúng ta không có lo lắng gì cái cơn đau đó hết, chúng ta chẳng ngại nó, khi mà có thể nó chết chúng ta cũng chẳng sợ, do đó chúng ta mới thấu suốt được cái nhân quả, vì vậy mà nhân quả không tác động được cái tinh thần của chúng ta, làm cho cái cơn trả nghiệp nhân quả đó nó giảm xuống đi liền tức khắc.

Chỉ có tinh thần chúng ta vững chắc, ý tứ chúng ta sẵn sàng, đón nhận những cái nhân quả mà chúng ta không hề nao núng, thì lúc bấy giờ cơ thể chúng ta vẫn giữ được cái trạng thái rất an ổn, thanh thản mà không hề bị dao động.

Cho nên trong khi một cái người mà - các thầy mà gặp được cái hoàn cảnh nhân quả mà cái nghiệp quả cái thân của mình quá nặng, bệnh tật, khó khăn trên bước đường tu tập, chẳng hề sợ hãi! Nên lấy ngay cái nhân quả đó mà thực hiện trên con đường nhân quả mà chấm dứt nhân quả, thì Thầy tin rằng quý thầy sẽ vượt lên trên nhân quả mà đạt được cứu cánh giải thoát ngay đó, chớ không phải đi tìm cái pháp nào khác hơn hết, chỉ cần giữ vững tinh thần vững chắc, không hề nao núng trước nhân quả của chúng ta.

(30:53) Chắc chắn trong chúng ta có nhiều người có những cái nghiệp thân rất nặng chớ không phải là thường, từ lúc sinh ra đã có những bẩm sinh đau khổ đó rồi, mà bây giờ chúng ta được Phật pháp tức là chúng ta đủ duyên lấy đó để mà diệt nhân quả, lấy đó để mà diệt những cái quả khổ đời trước chúng ta đã gieo.

Cho nên nhờ đó mà chúng ta được chứng đạo ngay trong những cơn đau khổ của nghiệp quả của chúng ta. Chúng ta biết được nhân quả, chúng ta chẳng hề nao núng trước nó. Chúng ta phải chiến thắng nó bằng mọi cách để chúng ta thực hiện đạo Phật giải thoát nơi tâm ta bằng con đường của nhân quả. Hiểu được như vậy chúng ta chẳng hề nao núng mà chẳng hề sợ hãi.

Đó là ba cái giai đoạn mà chúng ta có thể tu tập. Đó, thì đó là để nhắc lại cái sự trau dồi của chúng ta, thì đầu tiên chúng ta phải tìm cách xa lìa cái lòng ham muốn của mình, trước mọi vật phải xa lìa nó, và không được thân cận các cái ác pháp. Cái thứ hai: Trau dồi thân, miệng, ý của chúng ta. Rồi tới đây, khi mà trau dồi như vậy chúng ta cần phải học, cần phải thông hiểu.

Thông hiểu cái gì? Thông hiểu đây là thiện, đây là không thiện, đây là ác, đây là không ác, đây là tội, đây là không tội, đó là mình phải phân biệt cho rõ ràng hai cái này. Vì phân biệt như vậy do đó chúng ta phải học Thập Thiện, mà không học Thập Thiện thì ít ra chúng ta cũng phải học nhân quả.

Mà cái bộ sách nhân quả bây giờ thì chưa có ai viết, người ta viết nhân quả bằng cách mê tín thì có, nhưng mà viết cái nhân quả mà đúng cái luật nhân quả, hoàn toàn là sự thật, thì chưa có ai viết nổi cái bộ nhân quả. Cho nên ở đây là Thầy thấy rằng mình cũng có một cái trách nhiệm là một vị tu sĩ từng sống ở trên cái lộ trình của nhân quả.

Mà bằng chứng là các con cũng đã thấy rằng Thầy đang sống ở trong thực nhân quả, cho nên hoàn toàn là Thầy trước cái nhân quả Thầy vẫn thấy tâm Thầy bất động. Các con thấy rất rõ mà. Thầy bất động, Thầy không có bao giờ dao động trước cái nhân quả, cho nên vì vậy mà Thầy là một cái gương đứng trước cái lộ trình nhân quả mà tâm vẫn bất động.

Vậy mà các con còn không có nương vào Thầy để mà sống, hở ra chút nào thì các con thấy vẫn là phiền não, vẫn là đau khổ. Đó là không thấy cái lộ của nhân quả, chớ còn thấy cái lộ của nhân quả liền ngay đó thì mình không có còn cái tâm nào mình biết giận hờn ai nữa hết, mình không có còn phiền não trong lòng của mình hết.

Mình thấy nhân quả rồi thì còn cái gì mà mình lại đau khổ? Còn các con không thấy nhân quả, cho nên hở chút nào là các con có sự đau khổ trong lòng của các con liền tức khắc.

(33:21) Người ta nói nặng nói nhẹ mình, người ta mắng chửi mình, hoặc cái này cái kia đều là ở trên cái lộ trình nhân quả chớ ngoài nhân quả làm sao có cái điều này được? Mà đã thấy nhân quả thì cái tâm mình nó làm sao nó giận hờn, nó phiền não được, cho nên mình thấy mình rất an vui.

Sống trong nhân quả, thân do nhân quả sanh ra, thế mà chúng ta lại trốn nhân quả là trốn ở chỗ nào? Vậy mà con người luôn luôn muốn trốn nhân quả thì Thầy thấy đó là cái vô lý. Cũng như bây giờ mình sống ở trong cái nhà này, mà mình gọi là mình trốn cái nhà này là trốn làm sao? Các con hiểu, làm sao trốn cái nhà?

Bởi vì mình ngồi trong nhà mà mình biểu trốn cái nhà làm sao, chớ phải mình ở ngoài trời thì mình trốn cái nhà được, còn cái này, cái nhà nó đậy mình ở trên này rồi, mà nói tui trốn cái nhà, chui dưới đít bàn này trốn được nó không?

Trốn, trốn cái gì! Cái nhà nó ở trên, cái bàn này nó ở dưới nên nó cũng đậy luôn cái bàn nữa, mình chui dưới cái bàn này thì nó cũng đậy mình luôn nữa chớ có gì đâu mà trốn? Cho nên trốn đâu cũng không khỏi hết.

Vì vậy mà mình đương nhiên mình biết được nhân quả thì cứ ngồi giữa cái nhà nhân quả mà làm Phật ở đó thì không phải khỏe sao?

Các con thấy, như ông Phật ổng ngồi trong cái nhà nhân quả, ổng có buồn không? Hề hề ổng ngồi đó, mắt ổng hí ổng cười, các con nhìn cái miệng ổng coi, ổng cười luôn chớ ổng có khóc không? Còn chúng ta mỗi lần cái nhà nó hơi rung rinh cái là cái miệng méo xẹo à, phải không? Thầy nói có không? Có người nào mà cái miệng không méo?

Đó là những cái mà chúng ta không thấy mình đang sống ở trong cái nhà nhân quả, chứ còn Thầy là người đã từng hiểu biết đường đi nước bước của nhân quả, từng sống trong cái nhân quả, bây giờ có cái thân này là thân nhân quả rồi, thì bây giờ mỗi một chút - như cô Minh Cảnh mỗi một chút cái vai nó đau: “Trời ơi, đau!” Đã sống ở trong nhân quả mà còn méo cái miệng, đau cái vai thì Thầy nói làm sao?

Khi mà cái bụng đau: “Ôi trời ơi, cái bụng đau quá!” Trời ơi nhân quả thì nó đau mặc nó chớ phải cái bụng mình đau đâu mà sợ? Thế mà cứ rên!

Thầy nói thật sự, người mà biết nhân quả, chết bỏ nhất định không rên. Mình đã sanh ra trong nhân quả thì nhân quả nó làm cái gì mặc nó, thì nhân quả tự nó làm chớ đâu phải mình làm, sao mình sợ? Mặc nó, nó làm gì nó làm. Chết sống cũng do nhân quả chớ ai vô đây?

Cho nên chúng ta đâu có định đoạt cái số mệnh chúng ta được, chừng nào mà chúng ta làm chủ được nhân quả thì chúng ta định đoạt được cái số. Nhưng mà bây giờ nhân quả nó rớ tới mình một cái là mình méo miệng liền, rớ tới một cái là mình lôi chân mình nhảy ra liền, thử hỏi làm sao mà gọi là mình sống mình làm chủ nhân quả?

Còn đối với Thầy, Thầy làm chủ nhân quả, nó có làm gì Thầy được đâu? Cho nên đối với Thầy thì tâm nó như như bất động, còn các con thì không được nổi.

Cho nên từ đây về sau các con phải thấy cái lộ trình của Đức Phật, và chúng ta đi ở trên cái lộ trình nhân quả, sống trong nhân quả mà vượt ra nhân quả. Cũng như một bầy cá đang sa vào cái lưới, chỉ có một con cá giỏi nhất vọt ra khỏi lưới. Con cá đó giỏi thật! Nó giỏi thật là tại sao? Nó biết là nhân quả, nó không ở trong đó.

(36:05) Thầy thì cũng đang ở trong nhân quả như các con, nhưng mà Thầy đã vọt ra, các con có thấy đâu! Cho nên tại sao các con không theo Thầy mà nhảy ra? Bởi vậy phải cố gắng mà nhảy chớ, co đuôi cho thẳng đuôi vầy, bay ra mới được chớ! Các con co sơ sơ bay sao nổi?

Các con thấy cá mà nó vượt vũ môn tam cấp không? Con nào mà giỏi lung thì co đuôi cao thì bay qua khỏi, không thì xán vô mấy cục đá đó là chết tiêu nó luôn hết chớ đâu còn! Các con thuộc về loại cá dở, cá thi rớt á, rớt ở trên đá nó bể đầu chết hết!

Cho nên ở đây đối với Thầy, về cái thân bệnh cũng như về tất cả mọi cái, các con thấy khi mà Thầy đi thành phố bị dầm mưa đó, về nào là mệt, là ho, mặc mày, chết bỏ nhất định giảng là giảng, không có sợ, không nghỉ! Thầy thấy có chết không, các con thấy chưa? Nay Thầy khỏe nhiều hơn rồi, đâu có chết! Hồi sáng đi đi chứ về về cũng vẫn giảng như thường.

Cho nên bây giờ Thầy có thấy cái…​ Bởi vì sống trong nhân quả, biết nhân quả rồi, thì cái thân này là thân nhân quả, mình sử dụng nó giờ nào cũng được hết chứ có gì mà phải nghỉ! Mình có gì mà o bế nó như vậy? Nó có phải vàng bạc, châu báu của mình đâu mà phải nuôi nấng nó, phải vỗ về như vậy: “Thôi để dưỡng cho khỏe, mai mốt rồi giảng nữa!” Như vậy là mình sợ nó rồi, sợ nhân quả rồi. Phải không các con?

Cho nên Thầy không sợ nhân quả. Mày chết bỏ, bữa nay tao còn giảng được, tao nói được, cứ ráng nói không sợ thằng nào hết! Mà nói còn lớn nữa, không chịu nói nhỏ nữa, phải không? Đâu có chịu thua. Bởi vậy con người biết thắng nhân quả thì không bao giờ sợ nhân quả.

Cho nên quý thầy nói: “Thầy nói nho nhỏ, Thầy nói lớn quá, Thầy giảng không hết cái giáo án này!” Không hết có người thay thế Thầy giảng chớ bộ mình Thầy à? Thầy đâu có giành làm một mình, phải không? Còn có nhiều người thay Thầy làm chớ!

Cho nên Thầy cứ giảng, giảng hết sức mình thôi, nhưng mà nhân quả nó có cái mực, nó thua Thầy, nó sẽ lui. Cho nên bây giờ, hôm qua Thầy nói hơi hơi cái nó ho, nay Thầy nói nãy giờ đâu có ho, cho nên nó thua Thầy. Đó là cái Thầy chiến thắng nó đó.

Còn nếu mà Thầy nhịn nó: “Bữa nay đi mệt quá, thôi chiều nay nghỉ, mai giảng” nó nói Thầy thua nó, cho nên chiều nay nó hành hạ Thầy ho dữ tợn lắm á. Còn bây giờ Thầy nói đã, nó bay ra mất hết rồi, đâu có thua. Cho nên làm người mà biết được nhân quả, không bao giờ sợ.

Vì vậy mà cái lộ trình ở đây Phật dạy cho chúng ta biết ba cái điều kiện mà Thầy đương nói, đương dạy các con đó. Là cái thứ nhất cũng nằm trong nhân quả nè, cái thứ hai mình trau dồi miệng lưỡi để mà chiến thắng được cái hành động của nhân quả.

Bởi vì nhân quả nó hành động chỗ nào các con biết không? Thân hành, khẩu hành, ý hành, nó lấy ba cái chỗ của cái nhân quả thân chúng ta mà nó hành ba cái động tác này, để mà nó đưa nhân thiện nhân ác, để nó đưa chúng ta đi vào cái vòng luân hồi sanh tử mãi mãi. Cho nên mình há sợ nó sao?

Cho nên đầu tiên Đức Phật dạy khéo léo lắm, chúng ta biết cái dục là mỗi con người do cái dục vì vậy mới tạo thành cái nghiệp, mà tạo thành cái nghiệp tức là nhân quả, cho nên đầu tiên ông Phật dạy: Xa lìa, đừng có thân cận cái thứ dục này, dục này là tai hại lắm, nguy hiểm lắm, nó rắn độc, bỏ đi!

Đó là đầu tiên phải không? Ác pháp nó là rắn độc, nó là nguy hiểm, nó làm chúng ta khổ, cho nên đầu tiên ông Phật dạy vậy. Như cái lý đó mình thường nhắc, đặt niệm trước mặt, quán xét, bỏ cái tâm dục mình ra đi, cái lòng ham muốn gì cũng bỏ ra, ham muốn tốt cũng bỏ, ham muốn xấu cũng bỏ, bỏ sạch ra hết.

(39:09) Còn cái này, các con nhớ con nhớ cái, nói: “Tui tốt, tui thương con cái tui, đâu có gì đâu mà xấu?” Chớ nó cũng lôi kéo các con, cũng là ác pháp chớ không phải là thiện pháp đâu. Bỏ ra đi, dẹp ra đi, không có con cái gì, nhân quả chớ không có con cái gì hết! Đó là vay nợ nhau cả chớ gì mà ở đó con cái! Phải không các con? Suy tư như vậy, các con quán bỏ nó ra hết.

Đó là lộ trình thứ nhất cũng chỉ rõ nhân quả. Lộ trình thứ hai do ba hành động nhân quả, chúng ta cũng phải dẹp nó luôn. Từ cái chỗ ba hành động này nó mới có nhân quả chứ nếu không có miệng lưỡi, thân hành, khẩu hành, ý hành chúng ta, làm sao có nhân quả?

Một người ngồi thiền ngậm miệng cứng ngắc làm sao nói đâu được mà có nhân quả chỗ đó được, ý không khởi niệm gì hết làm sao nó có những cái nhân quả được, thân tréo chân ngồi cứng ngắc nó cũng như gộc cây làm sao nó hành chỗ nào được mà nhân quả?

Phải không các con? Thấy rõ ràng nó đâu có nhân quả được, cho nên nó tê liệt, ba cái thằng nhân quả nó tê liệt, nó đứng ở ngoài kia nó ngó vô chớ đâu dám lại gần!

Cho nên Thầy chẳng sợ, Thầy nói lia lịa chớ nó không nhập vô được, bởi vì Thầy nói toàn là pháp xa lìa nó không, cho nên nó hoảng hồn, nó ở trong bụng Thầy nó hoảng hồn chạy mất, cho nên Thầy tự tại, an vui, không có sợ hãi.

Đó các con thấy không? Cho nên các con thấy mấy bữa kia Thầy nói sơ sơ cái nó ở trong nó nhảy ra nó chặn họng Thầy, không cho Thầy nói, mệt rồi phải ráng nói nữa. Còn hôm nay nó đâu dám chặn, Thầy nói nó văng tuốt ra kia hết rồi!

Bởi vì người tu hành đâu có ngán nó cho nên nó sợ, chớ còn không khéo cứ đi nhà thương chích thuốc khỏe đồ cho nó khỏe khỏe, trời cái thứ đó nhân quả nó nằm đầy bụng, nó nằm đầy óc đầy bụng mình, nó hành dữ lắm.

Cho nên đối với Thầy, quý thầy nghe Thầy hơi ho này kia, quý thầy nói để châm cứu, Thầy nói châm cứu chi cho đau? Điên gì mà châm cứu! Cái mình không đỏ mà cứ giác không, giác cho đỏ tùm lum ra đó! Điên gì mà làm cái chuyện đau! Nhân quả nó đã như vậy rồi mà còn làm thêm đau mình nữa. Kệ, nằm ngủ cho đã đi thôi nó hết chớ gì, còn không thì mình ngồi thiền nó cũng hết chớ gì.

Bởi vì ngồi thiền nó đâu có hành động gì, cho nên mình ngồi thiền mình tập trung, mình gom, mình bảo: “Cái ý thức - cái biết phải nằm ôm chặt cái tụ điểm, đừng có nằm ở chỗ cái vai hay cái chỗ nào đau, đừng có nằm cái chỗ đó!” Bắt đầu nó nằm im, nó không thấy đau nữa, không phải khỏe mình sao?

Còn ngồi đó đi giác hay đi chích, nó đau thấy bà luôn, còn lại đem lửa đốt nữa thì thôi chết được! Thọ lại còn thọ thêm nữa, ngu quá, các con thật ngu á! Còn đau đâu phải chuyện thứ thuốc đắng cứ kê miệng uống, trời, ngu gì mà dữ vậy? Ngon ngọt còn không thèm, đắng lại còn uống vô chi?

Cho nên đối với Thầy, nhân quả không sai Thầy được, cho nên cuối cùng Thầy giải thoát được nhân quả hết, khỏi cần hết. Biểu mấy đứa này chắt ba nước cơm, làm chi các con biết không? Nó có mệt mình uống vô miếng nước cơm cũng khỏe chớ! Nhưng mà nói chớ trưa phải uống chớ không uống bậy được.

Đó, đó là những cái điều kiện mà mình chiến thắng nhân quả. Tới đây Thầy muốn nói qua cái hành động thắng nhân quả của Thầy, sống ở trong nhân quả, biết mình đang bị cái nhà nhân quả nó phủ trùm mình rồi, mình không có đường nào mình đi ra khỏi nó hết.

Cũng như bây giờ người ta sanh ra ở trong cái bầu trời này, mà muốn chạy Đông chạy Tây thì nó cũng ở trong cái bầu trời, có ai mà chạy lọt ra ngoài bầu trời được không các con? Phải không? Cho nên nhân quả nó là cái bầu trời rồi, nó đè mình đây nè, nó phủ mình đây nè, bây giờ chạy đâu không được hết.

Vậy thì mình ở trong cái bầu trời này, mình làm chủ cái bầu trời đi, phải không? Cho nên một cái nhà khoa học, ông ta nói: “Nếu cho tui một cái bẩy, tui bẩy bầu trời cho mà xem!” Phải không? Ổng nói ổng bẩy cái quả địa cầu mình tức là ổng bẩy cái bầu trời đó.

(42:22) Vì vậy cho nên ở đây Thầy cũng nói, Thầy cho các con một cái tụ điểm, mà các con biết khéo giữ gìn cái tụ điểm này các con sẽ bẩy được cái nhân quả, bẩy văng cái nhân quả, nghĩa là không có còn nhân quả nào mà bắt buộc các con đi trên cái lộ trình tái sanh luân hồi được nữa.

Nhưng các con không nghe lời Thầy, cho nên không tạo được cái tụ điểm cho chính mình để cho mình tạo được cái điểm tựa, để cho mình bẩy cái vũ trụ. Các con hiểu chưa? Đó là mình bẩy cái bầu trời nhân quả đó. Cho nên cái nhân quả đâu có làm chủ được mình nữa.

Cho nên bây giờ thí dụ như thân của Thầy, Thầy muốn chết hồi nào chết á, là tức là Thầy bẩy vũ trụ được rồi đó, Thầy ra khỏi nhân quả rồi, cho nên Thầy bảo nó chết nó chết, nó sống nó đâu có làm chủ muốn sai Thầy được?

Còn các con bây giờ làm chủ được chưa? Chưa thì phải ráng chớ, ráng bẩy cho nó bay cái vũ trụ này cho rồi chớ để nó làm chi nó đè trên đầu mình? Cho nên nó đè chừng nào mình khổ chừng nấy à.

Đó, bây giờ tới cái giai đoạn thứ ba:

Sau một thời gian nghe được Thánh pháp Như Lý Tác Ý, chứng đắc chánh pháp và tùy pháp, bấy giờ mới biết như thật: Đây là bất thiện, đây là thiện.

Sau một cái thời gian mà tu tập ở trên hai cái giai đoạn thứ nhất, thứ nhì đó, thì các con mới biết đây mới là thật đó, đây là thật khổ đó. Bây giờ nói đời khổ chớ các con chưa biết khổ đâu. Biết chớ không phải không biết, có khổ chớ không phải không khổ, nhưng mà biết như thật không có biết đâu, còn ham lắm, thấy khổ còn chạy theo.

Chạy theo làm sao biết, Thầy nói làm sao các con biết khổ mà sao còn chạy không? Ngồi đây mà các con nhớ con nhớ cái không phải là biết khổ mà còn chạy đó. Có không? Có bao giờ mà các con khỏi hết nhớ con nhớ cái không, phải không? Ngồi đây mà còn nhớ ăn nhớ uống thì có phải là biết khổ mà còn ham không?

Ăn nó bộ sướng lắm sao? Mắc công ngồi ăn chớ bộ không mắc công, nhưng mà tại vì đói mới ráng ăn. Còn mấy con chờ cho đói, cho tới giờ ăn đặng ăn cho ngon miệng, thì cái kiểu đó kêu là biết khổ mà còn tham khổ. Còn Thầy, đói mới ráng mà ăn chớ thiệt bữa trưa cũng không muốn đi ăn nữa chớ đừng nói. Đó là người ta đã biết nó là bất tịnh như thế nào rồi, người ta không thèm khát nó nữa đâu.

Đó, cho nên vì vậy đó mà cái người tu mà người ta biết đây là thật khổ rồi, đây là thật sự là thiện, đây là bất thiện, người ta biết rất rõ. Đây là tội, đây là không tội, đây cần phải thuận theo, đây cần phải là không thuận theo, đây cần phải là tránh né, đây là hạ liệt, đây là cao thượng, đây là đúng, đây là sai, tất cả những cái này bây giờ người ta biết rất rõ. Nghĩa là người ta biết được cái nhân quả.

Cũng như hiện bây giờ Thầy biết rõ nhân quả, cho nên Thầy ngồi ở trong bầu trời nhân quả mà Thầy được giải thoát. Còn các con bây giờ nghe nói nhân quả, hiểu nhân quả chứ chưa thật biết nhân quả, cho nên Thầy nói, hở chút nào thì các con buồn, các con khổ, các con méo miệng, các con đổ nước mắt, các con rầu rĩ ỉ ê đủ thứ hết, đó, đó là các con chưa biết được cái nhân quả.

(45:12) Còn khi nào mà các con biết được nhân quả tức là các con đã thông suốt đây là thiện, đây là bất thiện, đây là tội, đây là không tội, thì đó là các con đã biết được cái lộ trình nhân quả.

Lẽ ra Thầy nói như vậy, các con lắng tai mà nghe, các con thâm sâu, khi mà vừa nghe rồi thì các con đã chứng Thánh quả liền tức khắc. Nghĩa là buông xuống hết, người nào cũng A La Hán hết trơn đây, thì từng đó các con muốn đây mà vô trong mấy thất đó các con khỏi cần đi, chỉ cần tàng hình một cái là tới ngay liền, đâu có cần!

Bởi vì khi mà chúng ta đã buông xả được, cái tâm nó liền tức khắc - chúng ta đã làm chủ được nhân quả rồi, chúng ta chỉ cần ngồi xếp bằng, bảo: “Cái thân bây giờ bay ra cốc ngồi ở trên giường cho tao!” Cái nó bay ra ngoải nó ngồi liền.

Đó là mình đã thanh tịnh thân tâm của mình rồi, chớ đâu phải cần mà tu tập cho cực! Nhưng mà tại vì cái tâm mình chưa chịu buông nó ra, chưa thật thấy đây là thiện, đây là bất thiện, cho nên chưa thật thấy, cho nên cái tâm của các con nghe thì nó có hiểu, nhưng mà cái buông xả xuống cho nó thật buông thì buông chưa có buông toàn triệt xuống.

Cho nên phải chờ một cái thời gian mà các con phải đặt cái niệm đó mà như cái lý mà tác ý, cho đến khi mà biết thật, như thật: Đây là thiện, đây là ác, đây là tội, đây là vô tội. Khi mà các con biết được như vậy rồi thì các con chỉ cần ngồi xếp bằng đây, đừng có thèm đi, đạp kiến nó chết tội, các con biểu nó bay ra ngoải nó bay ra. Và sai cái thân mình, cái thân mình là nhân quả, mà mình làm chủ nhân quả thì mình bảo nhân quả nó phải làm theo, các con hiểu không?

Còn bây giờ các con chưa có làm chủ được nhân quả cho nên bảo gì nó ngồi lì đó à, bây giờ chỉ còn có nước là mình phải chịu khó bước đi nó mới đi chớ còn không bước đi nó không đi. Cái thứ cái thân này nó là lười biếng nhất thiên hạ lận.

Mà nó đau, nó đau nó cũng làm cho các con cũng khó chịu nữa. Còn người ta làm chủ nhân quả, bảo: “Đừng có đau!” - thì cái đầu nó không đau, cái thân nó không đau nữa,. Còn không có làm chủ được nó, bảo sao nó cũng đau hết à.

Đó thì trong cái vấn đề tu tập ở cái giai đoạn thứ ba này là chúng ta đã thấm được cái lý, tức là chứng được cái lý đạo.

Người ta nói ngộ đạo chớ chưa chứng đạo, một thời gian sau chúng ta mới chứng đạo. Vậy thì cái giai đoạn thứ ba này là cái giai đoạn chứng đạo chớ không phải cái giai đoạn ngộ đạo, mà cũng không phải là cái giai đoạn đang tu, mà cái giai đoạn này là giai đoạn chứng đạo.

Nhờ chánh pháp và tùy pháp, biết như thật, thấy như thật, vô minh được diệt trừ, minh được sanh khởi, nhờ thế an lạc khởi lên, hỷ khởi lên. Đó là con đường tắt thứ ba hướng đến an lạc được Đức Phật đã chỉ dạy.

Đó Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta ba cái lộ trình, ba cái giai đoạn tu tập.

Cái giai đoạn thứ nhất là chúng ta phải sống đừng có thân cận với dục lạc, đừng có thân cận với ác pháp, mà giai đoạn thứ hai thì chúng ta trau dồi thân, miệng, ý của chúng ta, những cái hành động thân, miệng, ý của chúng ta.

Khi mà trau dồi như vậy rồi, tu tập như vậy rồi thì chúng ta chứng được cái lý. Giai đoạn thứ ba là chúng ta chứng được cái lý nhân quả, chứng thật được cái lý nhân quả, làm chủ được sự sanh tử luân hồi của chúng ta.

(48:15) Đó là ba con đường tắt mà chúng ta cần phải theo đó mà đi, theo đó mà tu tập. Tóm lại thì rất là ngắn gọn, nó chỉ có ba cái giai đoạn tu tập.

Giai đoạn thứ nhất là chúng ta đừng có gần cái sự ham muốn của chúng ta. Vậy thì muốn đừng gần cái sự ham muốn của chúng ta thì chúng ta nên cắt ly tất cả những vật dụng thế gian.

Đó thì, nói tóm tắt là nếu mà chúng ta gần những cái nơi mà vật dụng thế gian nó tiện nghi đầy đủ thì chúng ta làm sao mà chúng ta ly nó được? Cho nên chúng ta phải tìm cái cách sống của chúng ta, sống làm sao mà đơn giản với một chòi tre vách lá đơn sơ, vài cái muỗng dùa để ăn cơm, uống nước mà thôi.

Không Thầy nói, những cái vật đó chúng ta không có tiếc các con, chớ còn chén kiểu đồ này kia coi chừng nó dính dữ lắm! Lựa mấy cái muỗng dùa người ta đó, mình cạo cho sạch đi rồi mình cũng đựng ăn cơm được, uống nước được chớ có gì đâu. Thứ đó không ai tiếc hết, mình cũng không tiếc, cho nên nó không dính mắc.

Thầy nói thì nó đơn giản vậy, chớ mà các con buông hết rồi các con sẽ thấy nó là giải thoát thật sự đó. Trong nhà của mình có mấy cái muỗng dùa mình treo móc đây, không bao giờ mà sợ ăn trộm lấy, đời không giải thoát sao? Lấy chi ba cái muỗng dùa? Con mà con - cái nhà con, cái thất con ở dưới đó mà con treo chừng một chục cái muỗng dùa, không ai thèm lấy đâu! Thầy không, Thầy nói thật mà! Cho nên bỏ hết.

Còn y áo của mình thứ rách rách cứ treo đi, ăn trộm không lấy nữa, còn thứ mà lành, tốt các con, nguy hiểm lắm, mất công giữ, cho nên không giải thoát đâu.

Vậy cho nên chúng ta phải - đó là Phật nói mình ly dục đó. Mình ly dục là lòng ham muốn của mình, mà bây giờ làm sao giờ? Thì ly đồ vật hết thì nó mới hết ham muốn chớ, còn đồ vật là còn ham muốn à.

Cho nên vì vậy đó, thí dụ như bây giờ Thầy nói Thầy ly, nhưng mà bây giờ máy móc cái này cái kia đầy hết, nói ly chớ Thầy nói láo chớ đâu có ly được! Bây giờ Thầy đi vô rừng núi không có gì hết, Thầy có ba muỗng dùa thì chắc chắn là Thầy ly rồi.

Đó là chắc chắn rồi đó, đó là cái kiểu không có gì hết. Mà còn lại cái cuộc sống của Thầy thì nhờ củ rừng, hay là củ mài củ rạng, hay củ vịt gì trong rừng đào ăn nữa thì, hay là củ nho đồ đó thì còn khỏe biết mấy nữa, phải không? Đâu có lo cái đời sống nữa thì rất là sung sướng. Có năm ba cây mít gì ở trong rừng đó mà trái nó nhiều đó, mình hái mình luộc mình ăn thay cơm cũng đỡ nữa rồi, cũng khỏe.

Thầy nói, nghe nói mấy người đi rừng khi mà không có cơm gạo, không có bắp đó, rồi cái bắt đầu họ đi tìm mấy cây mít ở trong rừng đó. Thấy trái, trời, họ mê lắm, họ hái trái họ luộc ăn, với chuối rừng đó, họ bẻ họ luộc, chuối sống họ luộc họ ăn họ cũng no bụng nữa. Mà thiệt ra ăn no, bởi vì cái trái chuối nó có bột chớ, cho nên nó vẫn sống như thường à.

Đó là cái cách thức sống mà Thầy đã từng góp nhặt của những cái người mà ở rừng ở rú, để khi mình lỡ bước trong rừng đồ đó, mình có sống mình cũng thấy sống dễ thôi, không có khó khăn.

Do cái trí của mình cho nên mình tạo được cái đời sống giải thoát, vì vậy đó mình ly dục ly ác pháp thì mình phải tạo cái hoàn cảnh sống trước đã.

(51:11) Thì ở đây Đức Phật muốn nói, thì mình nói ly dục ly ác pháp, ly làm sao lìa đây? Đừng có thân cận dục, đừng có thân cận làm sao? Thì thân cận dục là cái gì? Có đối tượng dục nó mới có dục chớ không có đối tượng dục làm sao có dục được! Có bàn có ghế mới có ham chớ còn không bàn không ghế thì mình ham muốn cái gì giờ?

Cũng như bây giờ Thầy có đống đất trống là Thầy ham muốn cái gì bây giờ? Ngồi trống bốc vậy mà ham cái gì được đâu? Thành ra nó không có thì tức là không ham, mà có thì phải ham thôi.

Do đó khi mà nó không có rồi bắt đầu mình mới trau dồi cái miệng, cái hành động thân của mình, trau dồi cái miệng, cái ý của mình, mình trau dồi cái nào nó cũng đầy đủ oai nghi chánh hạnh của nó. Thì tức là từ cái không có mình mới trau dồi được, chớ mình có mình trau dồi cũng khó lắm, khó trau dồi lắm.

Đó là những cái chuyện mà cái người có hành pháp, có chuyên tu rồi người ta mới biết được cái này. Còn cái người mà không có hành pháp, họ nói khơi khơi khơi khơi vậy mà họ sống cả đống dục, đồ đạc cả đống mà biểu họ ly dục, họ làm sao họ ly được?

Cho nên đây là cái kinh nghiệm bản thân mà Thầy nói ra, thì các con thấy, lần lượt các con dẹp hết, dẹp hết, thì các con sẽ thấy mình ly hết thì nó hết dục rồi. Bởi vì không còn gì nữa thì còn gì nó dục, nó phải sạch. Và từng đó mình sống vậy đó thì mình thiểu dục tri túc rồi, nó an vui nó hạnh phúc vô cùng, thì từng đó mình thấy chỗ ly mới đem lại cái lạc, hỷ lạc của nó tuyệt vời.

Cho nên từng đó mình thấy đồ đạc người ta đem đến người ta cho mình đó: “Thôi thôi tui không nhận nữa đâu, tui sợ thứ này lắm, nó sanh ra ba cái ngủ nghê không có được, nó cứ lo ăn trộm ăn cắp hay hoặc cái này kia nọ đủ thứ hết, thôi thôi tui xin từ đi!”

Cho nên các con thấy, Phật tử người ta cúng Thầy cái này cái kia Thầy sợ lắm, làm mấy cái này nó - bởi vì nó có những cái đối tượng thì nó sanh ra cái lòng ham muốn của mình à, còn nó không có thì mình không có ham muốn nữa, thôi mình bỏ hết thì tức là mình giải thoát à.

Do vì vậy đó, mình trau dồi về những cái pháp, mình lần lượt mình sẽ thấy cái tâm hồn của mình càng ngày nó càng trống và càng sạch sẽ rồi nó thanh tịnh, chớ không phải là mình ngồi mà mình tu như thế nào mà thanh tịnh được. Từ cái kiếp sống của mình, rồi từ cái sự trau luyện, trau dồi cái thân tâm của mình trong cái sự không có, mình trau dồi nó mãi nó thanh tịnh được, chớ còn nó có nó không thanh tịnh được đâu. Đó.

Cho nên thấy những người tu mà nó có nhiều thì biết người đó không có trau dồi gì được, không có tu tập gì được, nó khó lắm. Cho nên ở đây là cái thực chớ không phải là cái giả. Đó là những cái điều kiện, ba cái điều kiện mà chúng ta cần phải tu tập.

(53:24) Và kế tiếp thì Thầy sẽ giảng nói luôn, trong cái lời mà trả lời cho một vị cư sĩ ở ngoài miền Bắc hỏi Thầy, sẵn cái dịp Thầy cũng sẽ trả lời để cho thấy cái bước đường mà mới tu tập nó phù hợp với những cái lời Phật dạy, ba cái cách thức để tu tập, để mà biết cách mà tu tập cho nó được giải thoát ra khỏi cái bầu trời của nhân quả mà đang phủ trùm chúng ta, đang đậy chúng ta ở trong cái bầu trời đó.

Thầy muốn nói cái lộ trình của nhân quả, cái đường đi của nhân quả là cái bầu trời đang chụp chúng ta đó. Các con tưởng tượng thì biết là mình đang ở trong một cái lồng nhân quả chớ không phải là mình ở ngoài cái lồng nhân quả đâu.

Cho nên hở hở cái gì là nhân quả không á, không khéo mà chúng ta không biết rồi chúng ta cứ tạo nhân tạo quả liên tục lên nữa, nhân lên nữa thì chúng ta thọ lấy khổ và thọ được phước báu thôi, chớ không có gì khác hơn là chúng ta vẫn tiếp tục luân hồi mãi mãi trong cái lồng của nhân quả này, trong cái lộ trình nhân quả này.

Cho nên thấy được nó là cái bầu trời nhân quả đang phủ trùm chúng ta thì chúng ta hãy cố gắng mà vượt qua cái bầu trời này, đừng có để nó chụp cái đầu của mình nữa thì chúng ta mới thoát.

Đó là cái lời của Phật dạy qua ba cái cách thức để mà chúng ta tu tập để vượt thoát cái lộ trình nhân quả.

Người ta nói pháp gì nói, Thầy cứ nói nhân quả à, thì các con hiểu Thầy muốn nói cái gì rồi. Vì đó là cái thực của chúng ta, cái sống của chúng ta từ nhân quả sanh ra cho đến khi mà chúng ta chết đi chúng ta trở về nhân quả, thì nó không có đi đường nào mà chúng thoát ra khỏi bầu trời này, dù đi Đông đi Tây nó cũng nằm ở trong cái bầu trời này chớ không ngoài cái bầu trời nhân quả được.

Cho nên cái pháp của Thầy, Thầy giảng là đúng là cái đường đi của nhân quả mà của Đức Phật đã dựng cái giáo pháp của Ngài ở trên cái lộ trình nhân quả để chúng ta được thấy con đường đi cho nó chơn chánh đó.

2- HÀNH TRANG TIẾN VỀ ĐẤT PHẬT - THƯ GỬI PHẬT TỬ MIỀN BẮC

2.1- ĐẠO PHẬT LÀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT CHO TẤT CẢ MỌI NGƯỜI

(55:11) Gởi các con!

Đây là một bức thư mà Thầy gởi cho những cái người Phật tử ở miền Bắc, người ta có một người chồng, người ta đến đây tu hành, người ta cũng tha thiết muốn vào đây tu. Nhưng mà vì cái hoàn cảnh ở đây Thầy ẩn bóng, thì coi như là Thầy nghỉ ngơi trong một vài năm, để nghỉ ngơi cho nên Thầy muốn được cái sự yên ổn một vài năm để cho mình vào nhập cái định Diệt Thọ Tưởng Định trong một cái thời gian dài để cho các con ở ngoài này các con tự hiểu lấy mà tu tập.

Sau những cái thời gian mà nhập cái định xa vời như vậy đó, một vài năm mà nhập định, thì Thầy sẽ xuất cái định rồi ra, rồi tùy cái duyên, cái hoàn cảnh cái thời điểm đó tốt hay xấu, rồi mới tiếp tục, mới hướng dẫn cho những người nào mà có duyên tu theo đạo Phật.

Còn hiện giờ thì đưa cái giáo án này ra, sau khi cái giáo án này cuối cùng mà hoàn thành được thì Thầy kết luận để cho mọi người thấy rằng ở đây là cái sự hướng dẫn của Thầy là nhằm chấn hưng lại Phật pháp, những cái gì mà người ta đã quên đi Phật pháp.

Cái lỗi mà không phải hiện giờ quý thầy phạm giới, phá giới là do quý thầy, mà tại vì từ xưa đến giờ nó đã đi nhầm vào cái đường sai đó. Chớ không phải là bây giờ quý thầy là người mới phạm giới, mà vì ai cũng hiểu lầm hết, cho nên cái phạm này không phải quý thầy.

Cho nên sau khi mà kết luận cái giáo án này, Thầy có một cái lời nói cho tất cả tăng và ni, tất cả những người tu sĩ của Phật giáo ở trong nước cũng như ở trên thế giới này, ai là người theo Phật giáo đều là đã đi lầm lạc trên ở con đường sai của Phật giáo thì không phải là cái lỗi của chúng ta.

Mà cái lỗi của những người bắt đầu Phật giáo, các vị Thánh Tăng đã tịch đi rồi thì cái người thừa kế đó họ không có tu chứng được, họ từ cái sai ít rồi họ dần dần kế tiếp tới cái sai nhiều, sai nhiều, đến chúng ta thì nó mất lối, cho nên chúng ta phạm giới, phá giới, sống mà vẫn an nhiên ở trong cái sự phạm giới mà chúng ta vẫn thấy không có lỗi đó, là từ quá lâu rồi chớ không phải là quý thầy mới đây mà quý thầy làm. Cho nên quý thầy không có lỗi lầm gì hết tại vì cái con đường của Phật giáo nó như vậy là như vậy.

(57:32) Chớ bây giờ là Thầy chỉ nói lại những cái đúng, cái sai để rồi chúng ta cố gắng mà sửa những cái sai để thực hiện cho những cái đúng, để đem lại cái đời sống cho mọi người được giải thoát, và con người trên thế gian này biết được cái lộ trình nhân quả mà đem lại từng cái phút giây hành động thân, miệng, ý của mình, để đem lại sự an lạc, cái sự yên vui, hạnh phúc cho gia đình, cho xã hội và cho cả đất nước, cho nhân loại ở trên thế gian này.

Thì đó là cái lộ trình của nhân quả để độ tất cả chúng sanh trên thế gian này được hạnh phúc, được giải thoát, an vui. Chớ không phải nhắm vào có một số người giữ gìn giới luật để tu thiền định, để đạt được Tam Minh.

Cái phần này là cái phần - mà cái gốc của Phật pháp là cũng không phải là những cái phần này bỏ mất đi, mà cái phần này là giữ cái giềng mối duy trì cái Phật pháp là những cái người mà đã quyết tâm xả hết cuộc đời của mình để đi vào cái lộ trình thứ hai này để thực hiện, để làm tròn cái trọng trách của mình đối với Phật pháp, để thắp lên cái ngọn đèn của Phật pháp cháy mãi muôn đời, để làm cho cái đạo đức nhân quả luôn luôn thấm nhuần trong tâm hồn của con người trên thế gian, thì cái này là cái rất cần thiết cho cái đời người.

Cho nên vì vậy đó mà những cái bài pháp, mà sau cùng cái giáo án này Thầy sẽ có những cái bài pháp kết luận để làm một cái nguồn an ủi chung cho chư tăng, cho tất cả những người mà đang tu theo đạo Phật ở trên cái thế gian này, không riêng gì ở Việt Nam mà cả ngoại quốc.

Đó thì hôm nay, đây là một cái bức thư mà gởi lại cho những cái gia đình ở ngoài miền Bắc:

Này các con!

Con đường tu hành của đạo Phật là con đường thiện.

Đó thì quý thầy phải hiểu rằng cái con đường mà tu theo đạo Phật đó là một con đường thiện chớ không phải là con đường ác đâu. Vì nó từ ở pháp thiện đó nó mới đứng ở trong cái góc độ nhân quả mà nó ra, vì có ác mới có thiện, còn nếu thiện không, không có ác thì làm sao gọi là thiện?

Con đường mà bất cứ ai trên thế gian này đều tu tập được, và kết quả rất là tốt đẹp.

Không có người nào mà tu không có kết quả, đừng có mà nghĩ rằng hạ căn, trung căn - hay hoặc là thượng căn mới tu được, còn cái thứ trung căn, hạ căn là không tu được đâu. Cái đó là những cái lời sai.

Đã là con người mà ở trên thiện pháp mà sống thì người nào cũng sống được bình đẳng như nhau, cũng được hạnh phúc như nhau, không có một người nào là còn kém khuyết người nào hết, người nào cũng được giải thoát bằng nhau, hạnh phúc y như nhau. Nghĩa là cái luật công bằng của nhân quả là như vậy.

Cho nên ở trong thiện pháp mà cái người nào cũng có thể tu được hết. Một người đui, mù, mẻ, sứt chỉ cần có sự hiểu biết là đừng làm cái điều đó là cái điều ác, mà cứ thực hiện cái điều lành, thì chắc chắn là cái người nào ở trên thế gian này cũng mang lại cái hạnh phúc do cái hành động họ đã làm điều lành.

(01:00:23) Con đường mà bất cứ ai trên thế gian này ai đều tu tập được cả, và kết quả cũng y như nhau, người nào cũng được hạnh phúc, vui vẻ và giải thoát rõ ràng cho cuộc sống hiện tại và mai sau của họ.

Các con thấy, cứ tu con đường nhân quả là con đường tu tập ai cũng được giải thoát hết. Cho nên đừng rằng nghĩ tôi là người hạ liệt, tôi là người hạ căn, còn mấy bác, mấy chú, mấy anh là thượng căn mới tu được, tôi thì phải nhiều đời nhiều kiếp. Không phải đâu! Một hành động thiện bữa nay là ngay bây giờ chúng ta đã hưởng được phước báu của nó rồi, một phước báu rất rõ ràng cụ thể, chớ không phải còn đợi ngày mai hay ngày mốt gì hết.

Đó thì chúng ta phải hiểu biết được cái con đường của đạo Phật đưa đến chúng ta không có thời gian, chỉ đến là chúng ta sẽ thấy kết quả liền.

Muốn được giải thoát khỏi sự đau khổ của thế gian thì phải rõ ràng nhân quả.

Tức là phải thông hiểu được nhân quả.

Có rõ thấu nhân quả thì hành động thân, miệng, ý phải được trau dồi, tu tập theo thiện pháp.

Nghĩa là luôn luôn lúc nào hành động thân, miệng, ý của chúng ta phải được trau dồi trong thiện pháp. Chúng ta biết được thiện pháp thì chúng trau dồi nó, đừng có để cho nó…​

Thí dụ như bây giờ chúng ta biết nè, sát sanh nè, là phải cầm cái dao nè, hoặc cầm cái rựa nè, cầm cái mũi tên nè, cầm cái lưới nè, phải đi bắt cá nè, phải đi chài lưới nè, phải đâm phải giết nè, thì cái hành động mà thân chúng làm như vậy đó, đó là ác thì chúng ta đừng có làm! Thì không có làm thì đâu có làm ác? Thì cái chuyện đó quá dễ rồi chớ đâu có gì!

Đó thì nói đơn cử để chúng ta thấy rằng những cái hành động ác do thân, miệng, ý của mình. Mà bây giờ cái dao không cầm đâm người thì làm sao mà giết người? Bây giờ chúng ta không lén ăn trộm, không hái trái cà, trái bí của ai thì làm sao mà gọi là ăn trộm? Thì chúng ta đừng có làm cái điều đó.

Thì như vậy ai cũng biết cái điều đó là cái điều xấu, cái điều đó là điều ác, vì mình không muốn mất của, tại sao mình ăn trộm của người khác? Nếu mình ăn trộm của người khác, mai mốt người khác lấy của mình mình nghĩ sao? Mình có buồn không? Nếu mình buồn thì đừng có lấy trộm của người ta! Thì do đó, do cái chỗ suy tư như vậy thì cái người đó họ sẽ không làm cái điều ăn trộm.

Thì như vậy là chúng ta thấy như thế nào, tất cả những pháp ác và pháp thiện chúng ta đã rõ rồi, thì chúng ta trau dồi thân, miệng, ý của mình trong những pháp này không được sao?

Cũng như miệng mình hay nói láo nè, thì bây giờ đừng nói láo có được không? Tại vì mình thích nói láo thì mình nói chớ, còn mình không thích nói láo làm sao mà mình nói? Cho nên mình biết bây giờ nói như vậy là nói không thật rồi, nhất định là không nói!

Và không nói, một lần mình lỡ, lần thứ hai thì mình đánh cái miệng mình cho nó sưng lên đi, mai mốt nó thấy cái môi nó xếch lên vầy nó hoảng hồn: “Mày còn nói láo nữa là tao đánh bên đây, nó xếch lên nữa thì mày thành con quỷ cho mày ớn!” Thì như vậy là mình sẽ không nói láo nữa. Mình răn đi, mình trau dồi cái miệng mình đi, từng đó cái miệng mình nó không có nói bậy nói bạ nữa, nó không có nói vọng ngữ nữa.

Còn cái miệng mình nó hay kiếm chuyện này chuyện kia, nói chuyện này chuyện kia, chuyện xấu chuyện tốt, vả nó cho nó ớn đi! Một lần, hai lần, ba lần, mười lần thì nó cũng ớn. Vả cho nó rụng răng, riết nó cũng phải sợ đi!

(01:03:22) Đó thì mình phải tự trị mình, mình phải trau dồi mình, mình phải răn dạy cái miệng của mình, từng đó mình không nói thêu dệt, mình không nói lời nói phiếm, lời nói này kia, cuối cùng thì mình trở thành cái miệng mình rất là tốt, rất là thiện.

Thì những cái điều đó là những cái điều mình trau dồi ở trong thiện pháp, thì ở đây Thầy nhắc nhở cho các con thấy rất rõ.

Muốn được giải thoát khỏi sự đau khổ của thế gian thì hãy thấu rõ nhân quả. Có thấu rõ nhân quả thì hành động thân, miệng, ý phải được trau dồi, tu tập theo thiện pháp. Thiện pháp mà các con đã được học đó là mười điều lành và mười điều dữ.

Các con thấy Thập Thiện chớ gì, mà ngược lại Thập Thiện là thập ác chớ gì? Phật đã vạch cho chúng ta thấy rõ cái đường mà! Tại sao chúng ta không trau dồi thân, miệng, ý của mình, để mở miệng ra thì có là thập ác rồi, mà mở hành động ra thì có những cái điều ác rồi!

Và như vậy, khi mà chúng ta làm một cái điều gì chúng ta ít ra cũng phải ý tứ trên việc đó. Và vì vậy mà Thầy dạy các con tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức hàng ngày trong hành động của các con.

Thế mà không luyện tập được, không trau dồi được thân, miệng, ý của mình thì làm sao mình nằm ở trong cái lồng nhân quả mà mình thoát ra được nhân quả?

Nó đậy mình, nó diệt mình hàng ngày hàng giờ, nó làm cho mình đau khổ từng phút từng giây, nó làm cho mình trở thành những cái nghiệp, trở thành những cái sự say mê, trở thành những cái tạp khí trói trặt mình đời này sang đời khác mà không thấy, mà không bứt ra. Tại sao mình quá ngu si, mình quá mê muội để mình lầm lạc đến cái mức độ như thế này?

Đó, cho nên quý thầy phải thấy rằng Phật dạy quá thực, có pháp gì mà hơn là cái pháp Phật thực tế như vậy, trau dồi chúng ta có một cái đạo đức nhân quả rất là thực tế, biết thương mình, biết thương người, không làm khổ mình, không làm khổ người. Thế mà tại sao mình không thực hiện được những điều này, cứu mình ra khỏi nhân quả?

Thân, khẩu, ý hằng ngày phải ý tứ hết sức để tránh mười điều ác và luôn luôn phát triển mười điều lành.

Nghĩa là mình phải ý tứ hết sức cái thân, miệng, ý của mình. Hằng ngày trong những hành động thân, miệng, ý của mình, mình phải cố gắng dè dặt.

Một người biết tu mà không có cẩn thận, không có dè dặt thân, miệng, ý của mình là làm sao? Tu cái gì? Ngồi thiền hít thở để làm gì đây, hay niệm Phật tụng kinh để làm gì đây, hay nghe thuyết pháp này để làm gì đây? Có phải để cho chúng ta hiểu để hằng ngày chúng ta trau dồi, tu tập cái miệng, cái ý của mình không?

Cái chuyện mà chúng ta làm hằng ngày nó có giá trị, bây giờ các thầy cứ nghe lời Thầy giảng mãi nó có phỏng ích lợi gì? Mà hằng ngày phải để cái thời gian mà chúng ta rèn luyện thân, khẩu, ý của mình trong thiện pháp của Phật, không phải là sự giải thoát cho tâm hồn của chúng ta sao?

Thế mà quý thầy, các con nghĩ sao mà các con không nỗ lực tu tập những cái điều này, để chúng ta ở trong cái lộ trình nhân quả mà chúng ta vượt ra nhân quả, để chúng ta ở trong cái bầu trời nhân quả mà bẩy vũ trụ nhân quả?

(01:06:20) Chúng ta làm được một chuyện vĩ đại, rất là vĩ đại. Sanh tử - chúng ta nghe nói làm chủ sanh tử nghe khó, nhưng bẩy vũ trụ được là bẩy sanh tử được chứ gì?

Mà bẩy sanh tử được, làm chủ được sanh tử thì phải làm chủ được cái miệng, ý của mình, đừng nói bậy nói bạ, đừng có tạo nhân ác, đừng có tạo những cái hành động ác, thì tức là chúng ta đã bẩy được vũ trụ rồi. Chỉ ngay nơi thân, khẩu, ý chúng ta mà làm được việc này thì cần gì mà phải lo, nhân quả luân hồi chúng ta sao được!

Đó, đó là những việc mà gần gũi nhất, mà các gia đình, mỗi gia đình có chồng, có vợ, có con cái đều phải thực hiện mười cái điều lành, tăng trưởng mười điều lành, và hàng ngày diệt trừ mười điều ác nơi thân, khẩu, ý của chúng ta.

Đó là việc tu tập của các con hằng ngày theo đạo Phật, chớ không phải đến chùa cúng bái, tụng kinh, niệm chú, hoặc ngồi thiền, niệm Phật, lần chuỗi, v.v…​

Ở đây không phải là cái chỗ mà quý thầy đi theo đạo Phật mà làm cái chuyện mê tín đó, cúng bái, cầu kinh, cầu siêu, cầu an, cầu Quan Âm phù hộ, điều đó không phải, dẹp sạch xuống đi.

Nhân quả chi phối ở trong đầu của chúng ta nè, hằng ngày đau khổ liên tục ở trong nhân quả nè, mà cầu ông Phật làm sao ông phù hộ được, ông Phật dẹp được cái nhân quả của chúng ta sao mà cầu?

Cho nên đến chùa không phải là cái chuyện đó, mà đến chùa theo cái gương hạnh của những bậc thầy đã từng làm chủ nhân quả, để chúng ta bắt chước mà chúng ta làm theo như các thầy đó.

Chớ không phải đến chùa lạy lạy ba bốn lạy ông Phật bằng xi măng đó, rồi về rồi tụng kinh niệm Phật cầu cho gia đình mình an ổn, mà tối ngày rầy rà chửi lộn nhau, tranh từng miếng ăn miếng uống, thì thử hỏi còn ra gì là một người cư sĩ đệ tử của Phật?

Cho nên ở đây, cái gì làm thì chúng ta phải làm cho đúng, cái gì không phải thì dẹp quách nó đi, đừng có lần chuỗi, đừng có ngồi đó mà thì thầm, chửi mắng ông Phật đó!

Không, Thầy nói thật! Tên người ta mà cứ kêu hoài, không chửi mắng người ta sao? Thầy nói thật, bây giờ tên Thầy nè, mà ai cứ ngồi đó kêu tên Thầy riết Thầy không tức hả? Không phải sao, các con cứ niệm Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, ông Phật ông tức thấy mồ!

Ông nói không được á, tại miệng ông bằng xi măng chớ phải miệng ổng bằng như Thầy coi, ổng la liền: “Tên tao mắc mớ gì mày kêu hoài? Thập Thiện mà không tu mà tu cái gì? Nhân quả nó ràng ràng ở đó, chết sống do nhân quả, chớ tao có làm nhân quả gì cho mày đâu mà mày niệm tao?”

Thật mà, Thầy nói thật các con! Cái này là cái thật, mà tại sao họ ngu quá vậy, họ không biết cái chuyện thật! Nhân quả thì nó chi phối mình hằng giờ hằng phút, nó sanh tử nó liên tục, thân của mình nó thay đổi liên tục, mà ngay đó không chặn đứng nó lại được mà cứ niệm ông Phật! Ông Phật làm sao ông thọc tay ông chặn vô được? Đâu phải ông thọc gậy bánh xe được hả?

(01:09:02) Nói vậy đụng mấy ông mà niệm Phật, mấy ông Tịnh Độ ổng chửi Thầy, nhưng mà nói vậy cho ổng biết để đừng làm chuyện đó, mê hoặc quá, ổng tại không hiểu chớ không phải là…​ Nếu mà ổng biết được như lời Thầy nói thì ổng lo ổng tu Thập Thiện chớ điên gì mà ổng tu niệm Phật làm chi? Chắc gì có cõi Cực Lạc mà ông về đó mà ông niệm!

Nhưng mà sự thật ra Thầy nói, đừng có làm cái chuyện đó, nó không tới đâu hết. Mà chính nhân quả nó chi phối từng phút giây trong cái sự sống của chúng ta nè, nó làm chúng ta đau khổ. Bây giờ nó không đau khổ, một lát nữa đau khổ. Nó vô thường mà. Rồi một lát nó hết đau khổ, một lát nữa tối đau khổ nữa, nó cứ liên tục vậy.

Cũng như bây giờ các con ngồi mà nghe Thầy thuyết giảng, lát cái nhăn mặt, nhéo mày: “Bây giờ nhức đầu quá trời rồi!” Có không? Chưa chắc đã là người nào khỏi đau.

Bởi vậy cho nên khi tu, tu phải cho đúng, làm sao tu mà làm sao mà bây giờ không đau, lát nữa không đau, lát nữa không đau thì mới được. Mà đau thì mặc nó, nó đau thì kệ nó. Thọ nó đau chớ phải mình đau, sao mình sợ? Cái của mình đâu có cái đau! Cho nên cái đau là cái Ngũ Uẩn chớ không phải là cái của mình. Ngũ Uẩn duyên hợp lại, mà do nhân quả nó tạo ra Ngũ Uẩn chớ bộ mình tạo ra đâu mà sợ?

Do đó mình đứng ra ngoài đi, nó làm gì nó làm, kệ nó. Do đó nó ho, nó làm gì kệ nó, mặc tình. Cho nên mình cứ việc mình, nó việc nó, không có chuyện gì. Nhân quả mày làm gì làm, tao là tao chớ tao không phải là nhân quả. Cho nên từ đó mình thắng nhân quả.

Các con thấy chưa, mình phải tu như vậy chớ! Bởi vì mình sinh ra từ trong nhân quả mà mình thoát ra nhân quả là mình đứng ra ngoài nhân quả, thì như vậy là mình không bị tác động nhân quả.

Sự tu tập của đạo Phật thực tế, cụ thể, không phải là một thứ hình thức mê tín, trừu tượng.

Đó, quý thầy mà làm cái chuyện ở trên không phải là mê tín trừu tượng sao? Còn cái cụ thể là tại sao Thập Thiện quý thầy không làm? Là quá cụ thể, thực tế cho cái sự thay đổi, cho sự di chuyển luân hồi từ - vô thường từng phút từng giây trong thân của quý vị, quý vị không làm, từng phút từng giây trong tâm của quý vị mà quý vị không tu, để rồi quý vị tu cái gì?

Đau thì méo miệng, nhăn mặt, mà lúc bấy giờ thì niệm Phật lia lịa, ông Phật ổng có xuống ổng bóp cái đầu hết đau không? Ra mời mấy ông thầy châm cứu kìa, ổng châm cứu còn đau thêm chớ ở đó mà hết!

2.2- TRI TÚC THIỂU DỤC ĐEM LẠI NGUỒN SỐNG AN VUI, HẠNH PHÚC

(01:11:05) Chính đạo Phật dạy người ta tri túc thiểu dục, tức là đem lại cho họ một nguồn vui sống yên vui, hạnh phúc.

Thật sự như vậy. Bởi vì chúng ta tri túc thiểu dục như chúng ta thấy, như hồi nãy cái bài đầu tiên Thầy nhắc phải không? Các con vô đầu là Phật bảo đừng có thân cận dục, đừng có thân cận ác pháp, thấy không?

Đừng có thân cận tức là mình phải lìa các vật đi chớ gì? Không có các vật thì làm sao mà chúng ta có dục? Như hồi nãy Thầy nói, thì như vậy rõ ràng là phải sống thiểu dục tri túc. Đúng là chúng ta thiểu dục tri túc đó, thì như vậy là chúng ta không thân cận dục chớ gì, không thân cận ác pháp chớ gì, như vậy là chúng ta giải thoát chớ gì? Đó quý thầy thấy chưa? Đó.

Chính vì loài người chưa biết tri túc thiểu dục nên thường đau khổ. Tất cả tai họa trong cuộc đời này mang đến cho họ chính là hành động ác của họ chớ không phải ai mang đến cho họ hết.

Đó, thì như vậy chúng ta biết hành động ác của chúng ta là gì? Thân, miệng, ý chúng ta chớ cái gì nữa! Đó. Nếu mà thân, miệng, ý của chúng ta thiện thì làm sao mà có tai họa? Cho nên có cầu khẩn ai, có tụng kinh, có niệm chú làm gì cho mất công? Vì vậy mà chúng ta thảnh thơi, an lạc, không có gì hết.

Cho nên cuộc đời chúng ta biết rằng: Khi mà chúng ta không có sống thân cận dục, không có sống thân cận ác pháp, thì ngay đó thì chúng ta phải thực hiện một cuộc đời tri túc thiểu dục.

Các con nhớ chớ: tri túc thiểu dục. Mà đó là những bậc Thánh mới có thể sống được tri túc thiểu dục. Thầy vào cái nhà nghèo nhất thì Thầy thấy cũng có nồi này nồi kia đủ thứ, nào là chén sành, chén đĩa sành, tuy xấu nhưng cũng cả đống, cho nên vì vậy nó cũng chưa gọi là tri túc thiểu dục. Cho nên tri túc thiểu dục là chúng ta cứ sống vài ba cái muỗng dùa bỏ của thiên hạ là thấy nó đủ rồi, không có còn gì hết.

Thầy có nhớ là nghe một câu chuyện như thế này mà không biết có không, bởi vì mình không ở xứ người ta. Người ta nói ở xứ Na Uy, đâu bên Âu Châu chớ không phải bên nây, mà trên cái hòn đảo Na Uy, cái dân nó kỳ lắm. Một khi mà nó đi lấy chồng đó, nó có chồng, thấy đúng là tụi nó cũng thiểu dục tri túc dữ tợn lắm, thời đại này mà nó sống được như vậy là cũng quý.

(01:13:11) Khi mà về nhà chồng, nó đem có mười hai cái muỗng dùa à. Về đó thì cái lớn thì làm chén, làm tộ đồ đựng canh, mà cái nhỏ vừa vừa thì làm chén ăn cơm, còn cái kẹt thì nó làm dĩa, còn cái nhỏ nữa nó làm muỗng nó múc. Nó khỏi cần mua muỗng, mua nĩa gì hết, cho nên tụi nó quá tiết kiệm. Cho nên đời sống của tụi nó Thầy thấy như vậy là vợ chồng nó chỉ mười hai cái muỗng dùa là đủ sống.

Cho nên nó khỏi cần gì hết. Sống nó không cần lu, cần hũ gì hết. Nó sống ở gần một cái hồ nước, rồi ra đó nó rửa ráy, nó múc cái này kia, nó nấu nướng này kia, rồi bây nhiêu đó nó bày ra nó sống. Cho nên trong nhà nó không ăn trộm, ai lấy cái gì của nó hết!

Có bấy nhiêu đó thôi, bởi vì cái đồ đó - mà cái xứ đó nó dừa dữ lắm, vậy mà nó làm mấy cái này nó bào cho đen, cho tốt rồi bắt đầu nó để nó xài thôi, thành ra không có ai lấy của ai nữa hết, cho nên cái xứ không có tham lam.

Thầy nghe nói như vậy mà không biết có không. Nhưng mà cái kiểu sống đó thật là mấy ông thầy chùa mình chắc chưa bằng đâu, tại vì mình còn nhiều quá. Lẽ ra thì mình sống như Phật ba y một bát thì hơn nó, chớ còn mình sống cái kiểu đó là sống không nổi.

Nhưng Thầy thiết nghĩ rằng, sau này chắc chắn là nếu mà quý thầy mà sống ba y một bát thì chắc chắn là chịu không nổi đâu. Nói thì nghe nó hay vậy chớ thực tế thì nó không được như vậy.

Thầy nghĩ như thế này. Tại sao? Bây giờ một bộ đồ như Thầy nè, phải không? Là y trung nè, y hạ nè, rồi cái y thượng nè, rồi bây giờ Thầy bắt đầu từ Trảng Bàng này Thầy đi thành phố. Sáng sớm Thầy đi, đi riết cho tới thành phố, năm chục cây số, tới dưới rồi mồ hôi mồ hám nó ướt hết cả cái bộ đồ này hết.

Mà bây giờ làm sao? Giặt thì chỉ còn nước chui hang chớ làm sao ở ngoài được, phải không? Mà gặp trời mưa mà ướt nhoi thì làm sao đây? Chỉ có đêm sau là phải bị cảm lạnh, bị chết luôn á, mà coi chừng bị bệnh phổi nữa là khác.

Cho nên nói chớ đời sống của một cái người tu sĩ thiểu dục tri túc, ít ra nó cũng phải có hai cái bộ đồ ngắn như thế này. Phải không các con? Giữ một cái y thượng thôi, đừng có nhiều, nhiều nó cực lắm.

(01:15:07) Vậy thì như thế nào? Khi mà cái bộ đồ chúng ta mặc này đi tới cái chỗ rồi, nó mồ hôi, nó hôi lắm rồi, chúng ta phải giặt hết rồi. Bây giờ có tắm rửa rồi mình có vấn cái y này lên cũng hôi lắm, mà nó cũng rít rắm, nó không có thể ngủ được đêm đó nữa đâu. Cho nên chúng ta phải lột bỏ hết cái này giặt đi.

Rồi bắt đầu đó, chúng ta mới mặc cái bộ đồ mà chúng ta đem theo, một bộ đồ ngắn vậy thôi, phải không. Cái y hạ và y trung này chúng ta mặc vào, thì đêm đó chúng ta ngủ ngon lắm, bởi vì nó không có dính mồ hôi đó, nằm nó mát mẻ.

Chớ còn cái bộ đồ mà dính mồ hôi này, cũng như bây giờ cái y này, tối mà Thầy đắp lên thì chắc chắn là Thầy ngồi thuyết giảng đây mồ hôi không, mà tối Thầy đắp nữa thì chắc chắn là Thầy thở không được rồi. Mồ hôi của Thầy chớ đừng nói mồ hôi của người khác, mồ hôi người khác chắc là Thầy chắc ngộp thở luôn, chớ không phải dễ đâu.

Đây là sự thật mà, cái gì sự thật là mình nói sự thật, cái cuộc sống mình như thế nào mình nói thư thế nấy, đừng có dối, đừng có che đậy nó. Nói: “Tui sống ba y một bát”, mình coi chừng mình nói láo á.

Nhưng mà sự thật ra, trong cái thời Đức Phật thì mình không biết như thế nào, nhưng mà thời của mình, theo Thầy kinh nghiệm, thì chắc chắn là phải hai cái bộ đồ ngắn thì nó tiện nhất. Nó không có cái y lớn này thì cũng được, nhưng mà nó có cái y lớn thì mình đi ra ngoài, còn không có thì mình không đi, mình ở trong hang, trong thất của mình thì thôi, thì mình mặc đồ ngắn được.

Bởi vì Thầy nhớ lại, cái kinh nghiệm bản thân của Thầy, suốt 10 năm trong thất Thầy có hai bộ đồ. Bộ đồ vàng như thế này, bằng vải, mà hai bộ đồ thế này. Tại sao 10 năm mà Thầy có hai bộ đồ mà Thầy mặc được? Là tại vì Thầy thay cái bộ đồ này, tới chiều thì tắm, tắm Thầy giặt cái bộ đồ này thì Thầy phơi đêm ra sáng là nó khô rồi. Rồi Thầy mặc cái bộ đồ kia một ngày nữa, Thầy cứ thay đổi.

Còn rách tới đâu thì mẹ Thầy vá tới đó cho Thầy. Cho nên suốt 10 năm, cái bộ đồ của Thầy đắp vá nó dầy vậy lận. Từ cái miếng vải mà ở trong cái bộ đồ Thầy mặc đó thì nó đã mục hết rồi, nó chỉ còn cái miếng vá thôi, rồi cái miếng vá kế đó, nó bị rách, mẹ Thầy chắp vá lên.

Thay vì bây giờ mà gỡ cái miếng vá này đi thì cái áo nó bị rách lớn quá rồi, cho nên để cái miếng vá này, rồi cái miếng vá này nó rách mà nó rách nhỏ thì mình đắp cái miếng vá lên. Rồi cái miếng vá kế nó mục nữa, mà cứ giặt hoài nó phải mục mà, nó mục thì vá lên, vá lên.

Cho nên cái áo của Thầy nó thành dầy. Mặc nó ấm dữ lắm, nhưng mà nó càng ấm thì nó lại càng nực chớ cũng không gì, nhưng mà thôi kệ nó, mình tu hành. Cô Út thì cực khổ quá, mình không có nên đòi hỏi may thêm nữa, thôi cứ…​

Mẹ Thầy thì già rồi, đâu có làm gì, cô Út thì buôn bán, còn Thầy thì ở trong thất tu. Cho nên mẹ Thầy cứ ngồi lụm cụm, cứ vá áo cho Thầy thôi. Mà cứ hai cái bộ đồ đó vá hoài. Bởi vì giặt ra thì vò cái nó rách, nó rách thiệt, bà vô coi nó thấy có lỗ thì vá. Cứ như vậy Thầy mặc.

Cho nên trong cái thời gian mà Thầy ra thất, cái khu đất ở chỗ sát thất của Thầy thời đó nó chưa có trồng tre trúc gì đâu, nó còn trống lắm, bởi vì hồi đó tranh đồ này kia phá ra. Do đó Thầy mới cuốc, Thầy cuốc cho nó, Thầy cuốc, Thầy dập nó xuống rồi Thầy trỉa đậu.

Trỉa đậu Thầy mặc cũng bộ đồ đó chớ Thầy cũng không có mặc bộ đồ khác, mặc bộ đồ đó. Thầy với chú Út nhỏ nhỏ này nè, hồi đó thì chú theo Thầy chơi chớ còn chú cũng không làm gì, bắt chú bỏ hột đậu, Thầy trồng trỉa thôi.

(01:18:08) Và vì vậy đó thì các con thấy rằng, chú Chân Tịnh chú mới nghe đồn ở bên Trảng Bàng đây có một ông thầy tu ổng cuốc đất, ổng trỉa đậu rồi ổng cuốc đất chớ không bao giờ bắt trâu bò cày. Đồn vậy mới qua thăm thử coi ông thầy đó sao.

Quả đúng, qua thăm Thầy thấy nội cái bộ đồ mà Thầy mặc không, Chân Tịnh đảnh lễ Thầy liền à! Chỉ có ông thầy nào mà mặc cái bộ đồ đến đỗi như vậy đâu! Cho nên Chân Tịnh hồi mà về đây, muốn xin cái bộ đồ đó mà Thầy nói thôi không có được, để bậy để bạ chúng cười chết đi, Thầy nghèo mà còn làm cái chuyện đó nữa.

Cho nên sau đó Thầy đem Thầy đốt mấy cái bộ đồ Thầy hết, Thầy không có để. Không có để cho ai hết, sợ người ta để, người ta để lại cái kỉ niệm của Thầy hồi còn ở trong thất tu. Thiệt ra nếu mà để lại thì cái di vật rất quý chớ không phải thường đâu, nhưng mà Thầy đốt!

Đó, như vậy là Chân Tịnh theo Thầy, mà theo Thầy nhưng mà phá cái ngủ không được. Chân Tịnh phá cái ngủ không được, chớ phải phá cái ngủ được thì cũng khá lắm. Cho đến tới cuối cùng mà độc cư không nổi, buộc lòng Thầy phải đuổi đi thôi chớ Thầy không để được đó thì các con biết.

Đó thì cho đến hôm nay thì Thầy đem cái giáo án này dạy cho các con biết rằng: Cái Thập Thiện là cái quan trọng cho chúng ta cái bước đầu tiên, và tất cả mọi cư sĩ đều tu ở trong nhân quả.

Như nãy giờ Thầy nói, chúng ta đang sống trong cái bầu trời nhân quả, mà chúng ta vượt ra được cái bầu trời nhân quả tức là chúng ta ló được cái đầu lên cái bầu trời rồi. Còn bây giờ cái đầu chúng ta bị bầu trời chụp, cho nên không có ló.

Còn riêng Thầy, các con chưa thấy cái đầu của Thầy ló ở trển á. Ngồi đây chớ cái đầu của Thầy ló ở trển! Cho nên lúc nào bây giờ cái đầu ló ở trên rồi cái nhân quả chụp dưới này phải không? Cho nên ai nói gì Thầy cười, không có buồn. Còn các con bị nó chụp ở trên này, nói cái nó đụng các con, các con méo miệng hết, không có người nào vui hết.

Cho nên làm sao ló cái đầu được lên trển, nghĩa là cái đầu của mình biểu dài dài ra, ló ở trển cái cao ở trên mây xanh thì sướng quá rồi! Cho nên cuộc đời mà nếu mà chúng ta làm chủ được nhân quả là thấy khỏe rồi. Bởi vì Thầy biết là nhân quả chi phối mình lắm, mà làm chủ được nó là sướng lắm, không có còn sợ nữa.

2.3- HÀNH TRANG TIẾN VỀ ĐẤT PHẬT

(01:20:03) Biết rõ như vậy, hằng ngày các con phải lấy Thập Thiện làm hành trang để tiến bước về đất Phật.

Đất Phật ở đâu chúng ta không biết nhưng mà chúng ta vượt qua nhân quả là chúng ta đến với đất Phật đó. Cho nên:

…​ lấy Thập Thiện làm hành trang để tiến bước về đất Phật.

Lấy Chánh Niệm Tỉnh Giác…​

Đây là những cái phương pháp mà Thầy dạy các con đó, từng bước đó. Thập Thiện, nhớ không?

…​ làm hành trang để tiến bước về đất Phật.

Lấy Chánh Niệm Tỉnh Giác làm phương tiện di chuyển.

Cũng như mình lấy Chánh Niệm Tỉnh Giác mà làm cái xe đạp mình đạp đi mà, để cho nó bớt mỏi chân chút, mà nhanh nhanh hơn chút. Tức là nếu mà mình đi bộ, lấy Thập Thiện mà mình làm hành trang mình đi bộ thì nó lâu, cho nên mình đi mau mau hơn chút thì mình lấy Chánh Niệm Tỉnh Giác, cũng như là mình mượn chiếc xe đạp mình chở cho nó nhẹ chút. Cho nên mình làm phương tiện mình di chuyển đi cho nhanh chút.

Lấy Tứ Chánh Cần làm vũ khí để bảo vệ mạng sống của mình.

Nghĩa là mình đi trên con đường vậy chớ nó cũng có những cái nguy hiểm lắm chớ. Cho nên phải lấy Tứ Chánh Cần làm vũ khí để khi gặp có gì đó là mình chặt đầu nó mình đi qua, chớ không thì nó cướp mạng mình đi, gặp cướp đồ nó cũng có thể nó cướp giật mình giữa đường.

Đó cho nên mình phải lấy Tứ Chánh Cần làm vũ khí, các con phải nhớ kỹ lấy Tứ Chánh Cần, cho nên các ác pháp nó đến là mình dẹp liền, đừng có để, vậy cho nên lấy vũ khí mà chặt đầu nó đi. Còn các con để ác pháp nó đến nó xâm chiếm thì như bọn cướp nó cướp các con rồi, cho nên các con phải tiêu.

Cho nên Tứ Chánh Cần Phật dạy đó: Các pháp ác chưa sanh không cho sanh, mà đã sanh thì phải diệt, các pháp thiện chưa sanh thì cho sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng. Phải không? Nó bốn cái điều kiện của Tứ Chánh Cần. Vì vậy mà chúng ta lấy nó làm vũ khí, có phải không?

Lấy Tứ Vô Lượng Tâm…​

Tứ Vô Lượng Tâm làm cái gì đây? Đây các con sẽ nghe để mà biết chớ, không lẽ đi trên đường rồi các con nhịn đói đi được sao? Cho nên lấy Tứ Vô Lượng Tâm mà làm lương thực, làm thực phẩm hằng ngày để mình sống mình đi. Chớ rồi không thể - nhịn đói đi nổi không? Đói quá đi sao được, phải không? Cho nên chúng ta phải:

Lấy Tứ Vô Lượng Tâm làm thực phẩm hàng ngày để nuôi sống mà đi.

Lấy pháp hướng làm kim chỉ nam, không bao giờ lạc lối.

Cái pháp hướng các con cứ nhắc nó thì nó không có lạc, còn các con không nhắc thì vọng tưởng nó vô thì nó lạc mất chứ gì. Các con quên không? Cho nên những cái pháp mà Thầy nêu ra nó có đầy đủ những cái ý nghĩa đề khi mà chúng ta sử dụng nó.

Các con quên nhắc nó là coi chừng các con mất kim la bàn rồi đó. Chỉ Nam Bắc, các con về đi Tây đi Đông mất rồi, phải không? Cho nên mất hướng rồi. Còn có pháp hướng thì các con không bị lạc đâu. Do đó các con sẽ không bao giờ lạc lối.

Lấy cái gì nữa đây?

Lấy tri túc thiểu dục làm phương châm cho cuộc sống của các con.

Bởi vì mình thiểu dục là mình không có gì hết, thì đó là cái phương châm cuộc sống của mình mà có thêm là bỏ ra, có thêm bỏ ra, thì như vậy là mình bỏ ra là mới đúng cái phương châm của mình, mà không bỏ ra là không đúng phương châm.

Mình tu hồi mới đầu mình bỏ ra, sau đó mình nhìn vô cái thất của mình: Trời! Bọc ni lông sao mà đầy hết trơn! Thì có bỏ ra được cái gì đâu. Tới cái lon sữa, tới cái gì, cái gì mà người ta bỏ yaourt trỏng mình ăn rồi đem vô trong nhà mình để mai mốt mình đựng muối tiêu! Cái gì cũng không bỏ hết, thì như vậy là các con đâu có phải là thiểu dục tri túc, cứ nhét vô nhét vô không à.

(01:23:20) Đó. Đi ra ngoài thấy cây đinh cũng lượm vô, thấy con ốc gì của người ta rớt, xe đạp người ta chạy rớt cũng lượm vô để trong nhà. Trời đất ơi, mình có xe đạp đâu mà lượm con ốc đó bỏ trong nhà? Người ta có xe đạp thì người ta lượm vô làm cái gì người ta nhặt, còn mình không có mà cũng lượm con ốc bỏ trong nhà chi?

Đó, tất cả những cái đó đó là cái thiểu dục tri túc của chúng ta mà làm phương châm trong cuộc sống của mình. Rồi lấy cái gì nữa các con? Nó còn nữa chớ!

Lấy phòng hộ sáu căn diệt lòng ham muốn, đó là chấm dứt sinh tử luân hồi.

Cuối cùng thì chúng ta phải phòng hộ sáu căn của mình, để làm gì? Để ngăn chặn nó. Phòng hộ mắt, mình thấy cái đồng hồ mà nó khởi ham muốn: Không được, ham muốn không được! Tức là mình phòng hộ nó, mình không cho ham muốn chớ gì, cho nên nó lìa các vật ra hết, cho nên mình trở thành thiểu dục tri túc. Mà nó lìa ham muốn thì tất cả những cái đó là chấm dứt sanh tử luân hồi của mình.

Ở đây các con có nghe Thầy nói ngồi thiền hít thở không? Không! Phải không, Thầy có dạy thêm cái gì nữa không? Không! Thế mà chúng ta chấm dứt được sanh tử luân hồi rồi. Vậy các con tu cái gì giờ đây? Phải không? Cứ theo cái lộ trình từ người cư sĩ cho đến người tu sĩ mà tu như thế này tức là chúng ta đã phá được cái con đường nhân quả của chúng ta rồi. Các con thấy rõ chưa?

Rồi từng đó các con sẽ đi tới rồi các con sẽ thấy cái hơi thở nó ở chỗ nào Thầy mới dạy tới. Bây giờ dạy hơi thở các con chổng khu cứ hơi thở, Thầy biết hôm rày cứ hơi thở không à. Phải không?

Mới đây thì con giảm giảm lại chớ còn trước kia các con liên miên bất tận, lúc nào hở ra cũng hơi thở chớ không có bỏ hơi thở, còn bây giờ thì đã giảm bớt nhiều. Từ ngày mà có cái giáo án này thì các con thấy giảm xuống, giảm xuống cũng khá nhiều rồi, chúng ta đi lần đến cái con đường của đạo Phật.

Các con hãy cố gắng tiến lên, tự thắp đuốc lên mà đi, ánh sáng và sự giải thoát đang chờ đón các con. Cố lên! Cố lên!

Đây là bức thơ của Thầy mà nhắc các con, nhắc không những là những người cư sĩ ở Hà Nội, những người đệ tử cư sĩ của Thầy đang ở Hà Nội, đang hướng về Thầy, mà đây cũng nhắc các con đang hướng về Thầy, đang hướng đến những ngọn đèn mà Thầy thắp lên cho các con đi.

Vậy thì các con hãy theo những cái gì mà Thầy dạy đây mà các con hãy bước đi, đừng để mất thời gian! Tuổi đời của các con sẽ qua mau, rất là uổng./.

HẾT BĂNG

43 - NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH DIỆT VỌNG TƯỞNG - GIỚI ĐỌA 03

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 43 - NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH DIỆT VỌNG TƯỞNG - GIỚI ĐỌA 03

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- NGUYÊN NHÂN SINH RA VỌNG TƯỞNG

(00:00) Đến phần này, Thầy xin dạy quý thầy về cái phần diệt vọng tưởng. Ở đây cái vấn đề này rất là quan trọng để mà chúng ta hiểu cho được cái vọng tưởng của chúng ta là cái nguyên nhân nào mà nó sanh ra cái dục, và cái nguyên nhân nào mà nó có những cái vọng tưởng hằng ngày mà nổi lên lăng xăng, lo lắng cái này, sợ hãi cái kia mà không bao giờ dứt. Nhiều khi nó loạn tưởng nữa, chớ không phải là nó nghĩ ngợi riêng không đâu.

Ở đây Đức Phật có nêu ra có những cái điều kiện để chúng ta thấy:

Điều thứ nhất là:

1. Con người vì hận thù, vì đánh nhau, vì thù nghịch, vì ác ý là do lòng tật đố, xan tham của chúng ta mà có những hận thù đó.

Đó là cái thứ nhất.

Ở đây muốn nói đến vọng tưởng, muốn nói đến sự mà sinh ra dục thì chúng ta phải thấy được cái hành động của con người hằng ngày là như thế nào: Hận thù, đánh lộn nhau, thù nghịch, ác ý với nhau, mà do cái lòng tật đố, xan tham với nhau mà có những cái hành động này.

Thứ hai là:

2. Có tật đố, xan tham là do cái lòng ưa ghét của chúng ta làm duyên cho nên tập khởi cái tật đố, xan tham đó.

Nếu mà không có cái lòng ưa ghét thì nó không bao giờ có tật đố, xan tham.

Ưa ghét có mặt thì xan tham có mặt; ưa ghét diệt thì xan tham, tật đố diệt.

Chúng ta thấy ở đây cái phần thứ hai thì Phật cũng có nói cho chúng ta rõ: Nếu mà ưa ghét có mặt thì xan tham có mặt, mà ưa ghét diệt thì xan tham diệt.

Như vậy là chúng ta phải biết, ở đây Thầy muốn nói là đạo Phật nó có 4 cái điều kiện như Thầy đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều:

Điều kiện thứ nhất là chúng ta, người đến với đạo Phật phải thông hiểu. Điều kiện thứ hai là chúng ta phải biết trau dồi. Nghĩa là thông hiểu rồi thì phải trau dồi. Trau dồi là mình phải tập luyện, sửa soạn lại những cái gì mà mình còn thô tháo.

Như hồi nãy, khẩu hành, thân hành, ý hành nó thô tháo, nó mới đem đến cho sự bất an cho mình, bây giờ mình phải trau dồi cho nó đừng thô tháo. Thì cái phần thứ hai của đạo Phật dạy chúng ta phải trau dồi thân, miệng, ý của chúng ta từng hành động, cho nên chúng ta trở thành một người có ý tứ hẳn hòi, đàng hoàng trong cuộc sống.

Đó thì bây giờ chúng ta trau dồi rồi, thì bắt đầu chúng ta phải có dứt bỏ. Cái gì mà chúng ta phải dứt bỏ? Bởi vì nếu mà chúng ta biết cái lòng ưa ghét của chúng ta nó có mặt thì xan tham nó sẽ có mặt. Vậy thì ưa ghét: Ưa và ghét. Ưa tức là thích, tức là ham muốn, ghét là giận hờn, ghét bỏ, không ưa, sợ đau, sợ khổ. Cũng như bây giờ nhức nhối thì mình sợ, tức là ghét chớ gì, mà thích ăn, thích ngủ đó là ưa chớ gì! Do đó những cái này chúng ta cần phải dứt.

Dứt như thế nào? Bây giờ nó ham ăn thì nhất định là không cho nó ham ăn, mình phải dứt nó. Bây giờ nó ưa ngủ thì mình phải dứt bỏ, phải làm tập luyện như thế nào để cho nó không ngủ, để cho nó ngủ có giờ có giấc chớ không phải muốn ngủ hồi nào ngủ, muốn ăn hồi nào ăn được, cho nên giờ giấc nghiêm chỉnh trong cái ăn cái ngủ.

(03:14) Đó là tượng trưng cho sự ưa ghét của chúng ta. Mà nếu ưa ghét không có mặt thì xan tham làm sao có mặt? Còn cái ưa ghét này còn, mặc dù là ưa ghét cái này, nhưng mà nó sẽ ưa ghét người khác, người nọ người kia, mà cái tâm khởi sanh ưa ghét người này, người nọ kia, tức là tâm phải còn ưa ăn thích ngủ rồi, không thể nào mà làm gì khác hơn hết.

Ở chỗ này không ưa ăn thích ngủ thì chỗ kia không ưa không ghét người khác. Mà không ưa không ghét người khác thì xan tham sẽ không còn có nữa. Cho nên ưa ghét mà diệt được thì xan tham sẽ diệt được. Chúng ta lấy cái này mà tu tập thì chúng ta biết được cái tâm chúng ta đã diệt ở chỗ kia.

Cái thứ ba:

3. Ưa ghét do dục làm nhân…​

Đó, chữ “ưa ghét” ở chỗ này là do lòng ham muốn mình mới làm nhân. Mình có ham muốn nó mới có ưa ghét, còn mình không ham muốn làm sao có ưa ghét? Tôi muốn ăn, thì tức là nó có muốn ăn nó mới ưa, nó mới thích.

Cho nên vì vậy do cái ham muốn đó mà nó có cái ưa ghét. Chúng ta đi truy tìm ra thì chúng ta biết là:

…​ dục làm nhân, dục làm tập khởi. Dục khiến chúng sanh khởi, dục khiến chúng sanh hiện hữu.

Nghĩa là chúng ta thấy từ cái dục mà khiến cho chúng ta có, chúng ta sanh. Tại sao cái dục mà có chúng ta sanh? Nếu cha mẹ không dục, không dâm dục, làm sao có chúng sanh khởi, phải không?

Có dục mới khiến chúng sanh hiện hữu - có cái lòng dục đó chúng ta mới có hiện hữu ngày nay. Do chúng ta đã biết từ cái dục đó mà sanh ra, vì vậy mà từ đây chúng ta theo đạo Phật thì chúng ta phải diệt trừ cái dục.

Vậy thì cái dục đầu tiên chúng ta thấy gì? Ái dục. Thấy phụ nữ là cứ chạy theo nó thì không phải là sao? Đó là chạy theo dục. Cho nên cái bài hồi nãy đầu tiên là đừng thân cận dục.

Đó thì quý thầy thấy, vì chúng ta biết dục nó mới khiến cho chúng sanh hiện hữu, có dục chúng sanh mới có mặt ở trong thế gian này. Mà cái dục là cái bẩn thỉu nhất, cái dơ bẩn nhất, cái hôi thúi nhất, không phải sạch sẽ gì, vì một người tu chúng ta phải thấy nó là bất tịnh, không thể nào mà chúng ta đến gần nó được.

Còn những người mà không trí, những người mà không phải tu thì họ thấy đó là thơm tho, thấy đó là khoái lạc, thấy đó là thích, cho nên họ chui cái đầu vào trong đó để họ hửi họ hưởng cái đó, cho nên vì vậy họ là những người ngu.

Đối với một người tu phải xem thấy cái đó là những cái người ngu si, phàm tục mới chui cái đầu vào chỗ đó. Còn cái người mà tu hành là Thánh nhân, người ta thấy cái đó người ta ghê gớm, người ta sợ hãi.

Cái đó là con đường sanh tử. Mỗi lần sanh là mỗi lần khổ. Mỗi lần có mặt ở trong - hiện hữu thế gian này là bao nhiêu thứ khổ của cuộc đời chúng ta. Thế mà mọi người ngu si mới là ưa nó.

Dục có mặt thì ưa ghét có mặt; dục không có mặt thì ưa ghét không có mặt.

Ở đây chúng ta thấy: Dục mà có mặt thì ưa ghét nó có mặt, mà dục không có mặt thì ưa ghét không có mặt. Cho nên chúng ta diệt cái đó thì nó sẽ không có mặt.

Mà chúng ta biết rằng: Do cái dục mà khiến cho có chúng sanh khởi ra, mà do cái dục khiến cho chúng sanh hiện hữu. Đó thì, nếu mà dục không còn có nữa thì không có chúng sanh hiện hữu, mà dục không còn có nữa thì không có sanh chúng sanh nữa.

(06:19) 4. Dục do Tầm làm nhân làm duyên, do Tầm làm tập khởi. Tầm khiến cho dục sanh, Tầm khiến cho dục hiện hữu. Tầm có mặt thì dục có mặt…​

Đó thì quý thầy thấy rõ. Bây giờ Tầm là cái gì? Tầm là cái sự suy tư ở trong đầu óc của chúng ta. Tầm là những cái vọng tưởng của chúng ta chớ cái gì? Cho nên khi mà dục, đây chúng ta nói Tầm tức là có cái sự suy tư, có cái sự suy nghĩ, cái sự suy nghĩ đó gọi là Tầm.

Nó chưa đến cái chỗ mà nói tới vọng tưởng, vọng tưởng nó còn thô nữa, nó bởi vì thuộc về tưởng rồi. Tầm nó còn nằm ở trong ý, nó chưa phải là tưởng. Cho nên khi một người nhập Sơ Thiền thì người ta có Tầm có Tứ, tức là có giác có quán, người ta có cái ý tứ ở trong đó chớ chưa phải là vọng tưởng.

Còn vọng tưởng đây nó thuộc về tưởng. Chưa ăn mà ngồi đó tưởng ngon, chưa có hưởng lạc của thế gian chút nào mà ngồi đó tưởng. Cũng như chưa có ly dục, ly bất thiện pháp mà ngồi đó ngồi thiền mà nghe khinh an, hỷ lạc, nói đó là nhập thiền định, đó là tưởng á, tưởng dục chớ không phải tưởng cái chánh của ly dục, ly bất thiện pháp mà sanh ra cái hỷ lạc. Cho nên chẳng biết cái đó mà tưởng ra, chưa ăn cái đó mà tưởng ra nó như vậy.

Cho nên, tất cả những cái người ngồi thiền bây giờ, hễ nghe hỏi tới, nghe có khinh an, nghe hỷ lạc: "Ờ như vậy đúng rồi, đúng á, thiền định á!" Thiền khỉ họ! Cái đó là thứ tưởng dục mà nó sanh ra, nó làm chúng ta ham thích cũng như là cái dục của thế gian vậy thôi chớ không có cái gì khác.

Người tu thiền người ta biết được, người ta thấy cái đó người ta quá sợ. Ở trong một cái tâm thanh thản, không có một cái dục gì hết, không có làm chúng ta ham thích cái gì hết, thì cái đó mới chính là cái sự thanh tịnh của thân tâm của chúng ta, mới là thiền định chính gốc, mới thiền định, mới chánh định, chánh thiền.

Còn thiền định gì mà chạy theo dục lạc, bữa ngồi có thì thích, bữa ngồi không có thì chán, thì như vậy là cái tâm phàm phu tục tử chớ đâu phải là thứ ngồi thiền, cái thứ tu theo Phật để giải thoát?

Cho nên:

Dục do Tầm làm nhân làm duyên, do Tầm làm tập khởi.

Do cái Tầm nó tập khởi ra. Do cái Tầm mà khiến dục sinh ra.

Tầm khiến dục hiện hữu. Tầm có mặt thì dục có mặt.

Ở đây chúng ta thấy rõ ràng: Tầm khi mà nó có mặt thì cái dục nó mới có mặt, còn Tầm không có mặt thì dục không có mặt.

Cho nên khi mà chúng ta nhập Nhị Thiền, Tầm Tứ chúng ta diệt, cho nên nó không còn Tầm thiện, Tầm ác gì cả hết, vì vậy mà lúc bấy giờ cái nhập Nhị Thiền thì vọng tưởng không còn có nữa.

Bây giở đây cái phần thứ năm, ở đây Phật dạy:

5. Tầm lấy các vọng tưởng làm nhân làm duyên.

Đó, Tầm - nếu mà nói đến Tầm thì chúng ta phải biết rằng nó có những cái tưởng ra cái này cái kia, chưa thấy mà tưởng ra: Ngồi đây mà tưởng thành phố Hồ Chí Minh, ngồi đây mà tưởng hình bóng một cô gái ở Hà Nội, thì cái điều đó là cái điều sai hết. Đó là cái vọng tưởng đó.

(09:11) Bởi vì cái Tầm Tứ thì nó phải có mọi cái đối tượng của nó thuộc về ý thức thì cái này là mới Tầm đúng, mới Tứ đúng.

Còn bây giờ nó không có đối tượng, mà cái Tầm đó nó lấy cái vọng tưởng nó làm duyên nó khởi: Bây giờ không có hình dáng đó, nó tưởng ra hình dáng đó, thì cái Tầm đó từ đó nó lấy cái vọng tưởng đó làm nhân làm duyên của nó, lấy các vọng tưởng nó lý luận, nó hý luận, nó khiến cho Tầm nó sanh khởi cái này, cái nọ kia.

Nó tưởng là - ví dụ như bây giờ nó nghĩ ra cái này cái kia, chẳng hạn bây giờ chúng ta muốn nghĩ ra một cái pháp nào đó, thì chúng ta cũng tưởng ra cái pháp đó, rồi nhờ đó mà cái Tầm đó nó mới lý luận ra cái thế này thế khác, nó mới nói như thế này thế khác, nó cho đó là cái đó là đúng, còn các cái khác là sai.

Vì vậy cái người mà gọi là có những cái kiến giải, có những cái tưởng giải như vậy đó, thì nó cũng lấy từ cái chỗ mà - Tầm đó nó lấy cái vọng tưởng đó làm nhân, làm duyên để nó làm cho các pháp của nó, chớ sự thật ra nó không phải là chánh pháp, mà đó là những tà kiến, những cái tưởng kiến của nó, cho nên nó sanh ra những cái loại này, nó làm cho Phật pháp sau này rất là lệch lạc.

Hầu hết là một cái số người tu thiền định hoặc là giữ tâm mình một cái thời gian yên lặng nào đó, không có chạy theo các pháp thế gian, các nghề nghiệp sống ở thế gian, thì họ hay sanh ra những cái tưởng pháp như vậy để làm lệch lạc con đường tu của những người sau này mất hết. Họ đẻ ra biết bao nhiêu là cái thứ kinh sách mà toàn là cái thứ loại tưởng không, vọng tưởng không, chớ không phải là cái thứ chánh pháp.

Cho nên chúng ta bây giờ nhìn lại cái lối đi mà vào đạo Phật thì chúng ta chẳng thấy. Nhân quả thì nói hoàn toàn là mê tín, mà cái đường đi của nhân quả đường rất là rõ ràng, chúng ta đang sống ở trong cái lộ trình của nhân quả chi phối chúng ta hàng giờ, hàng phút, mà chúng ta không vượt ra nhân quả mà cứ nghĩ ở đâu trên trời xanh, thì làm sao mà ra khỏi cái lộ trình này được?

Do các loại vọng tưởng có mặt thì Tầm có mặt; do các loại vọng tưởng lý luận không có mặt thì Tầm cũng không có mặt.

Đó là chúng ta thấy, từ cái chỗ này, cái Tầm này nó lấy các vọng tưởng này nó làm trở thành những cái pháp tưởng, làm chúng ta tưởng đó là cái pháp đúng, nhưng cuối cùng thì chúng ta rờ tới nó thì nó là cái bóng dáng.

Bởi vì tưởng là cái bóng dáng chớ nó không thể nào cái thật được. Cho nên tới cuối cùng thì chúng ta rờ tới nó thì nó là cái bóng dáng. Mà đụng tới cái bóng dáng làm sao mà chúng ta nắm được? Nó là cái bóng mà! Cho nên tới đó thì nó tan biến mất rồi, nó không còn có nữa. Cho nên những cái pháp tưởng thì khó mà chúng ta đạt được cái kết quả tu tập của chúng ta.

2- CÁCH DIỆT VỌNG TƯỞNG HÝ LUẬN

(11:49) 6. Người tu sĩ phải tu tập như thế nào, phải thành tựu con đường nào thích hợp để diệt trừ các loại vọng tưởng hý luận này?

Nghĩa là bây giờ chúng ta mới thấy được các loại vọng tưởng hý luận này, như thế nào để diệt?

Từ hôm đó tới nay Thầy giảng cái giáo án này là mục đích Thầy diệt các cái vọng tưởng hý luận của từ người xưa cho đến bây giờ để làm cho chúng ta lệch lạc con đường. Bây giờ mới dẫn dắt ra cái bài kinh này, mới thấy rằng Đức Phật đã dạy: Bây giờ chúng ta đã lạc vào con đường tưởng pháp rồi, bây giờ chúng ta làm sao đây?

Đây là không phải là thứ vọng tưởng thế gian nữa đâu, mà đây là cái thứ vọng tưởng hý luận, vọng tưởng lý luận thế này thế khác để làm cho lệch lạc Phật pháp. Đó là làm cho mất con đường tu của chúng ta. Vậy thì chúng ta muốn phá vỡ nó phải làm sao?

Người tu sĩ phải tu tập như thế nào, phải thành tựu con đường nào thích hợp để diệt trừ các loại vọng tưởng, hý luận này, lý luận này?

Đó thì như vậy là chúng ta phải thực hiện như thế nào?

Nếu mà Thầy mà không thực hiện, cái sức đúng của Phật pháp bằng cái Giới, Định, Tuệ của Phật, thì đến ngày nay thì thử hỏi Thầy làm sao Thầy dám ăn dám nói cái này được? Làm sao mà dám tiêu diệt ba cái pháp tưởng này được của họ? Họ đầy ắp, họ chất biết bao nhiêu là tủ kinh sách, mà cái thứ loại tưởng này đầy ắp ở trong cái đạo Phật.

Cho nên đến hôm nay mà lật ngược trở lại thì chúng ta mới thấy đó là một cái sai lệch, làm cho từ bao nhiêu thế kỉ nay con người theo đạo Phật mà không chứng được đạo giải thoát, vì không rõ được cái lộ trình nhân quả, không vượt thoát được cái nhân quả, làm cho nhân quả luôn liên tục chi phối đời sống của con người mãi sanh diệt, sanh diệt mãi mà không chấm dứt được.

2.1- CÓ HAI LOẠI HỶ, HAI LOẠI ƯU, HAI LOẠI XẢ

(13:34) Muốn diệt trừ các loại vọng tưởng hý luận, lý luận này thì chúng ta phải lưu ý có hai loại hỷ:

Nghĩa là ở trong này nó có cái lý luận, mà nó lý luận chạy theo cái hỷ lạc của nó, cho nên chúng ta phải phân biệt cho rõ ràng, nó có hai cái loại hỷ:

Một:

Một loại phải thân cận;

Và hai:

…​ một loại phải xa tránh.

Nghĩa là nó có hai cái loại hỷ, cái hỷ nào mà chúng ta phải thân cận, mà cái hỷ nào mà chúng ta phải xa lánh?

Ưa cũng có hai loại: - Ưu chớ không phải ưa.

Ưu cũng có hai loại: Một loại phải thân cận, một loại thứ hai thì phải xa lánh.

Xả cũng có hai loại: Một loại thì thân cận, một loại thì xa lánh.

Vậy thì cái loại thân cận là thân cận như thế nào? Mà cái loại xa lánh là xa lánh như thế nào?

Ở đây để chúng ta diệt được những cái hý luận, cái vọng tưởng này, cái vọng tưởng hý luận, lý luận này thì chúng ta phải biết cái đúng cái sai. Cái đúng thì chúng ta thân cận, mà cái sai thì chúng ta xa lánh.

Cho nên ở đây mình quán xét các pháp - mà dù là các tổ có viết ra - cái nào đúng thì chúng ta thân cận, mà cái nào không đúng thì chúng ta xa lánh, đừng có chấp nhận nó.

2.2- HỶ CẦN XA LÁNH VÀ HỶ CẦN THÂN CẬN

(14:56) Loại hỷ nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm” thì hỷ ấy cần phải xa lánh.

Bây giờ có người tự xưng mình là Phật Tánh nè, mà họ lý luận, họ tranh cãi, hơn thua với thiên hạ, thì cái pháp đó là mình cần phải thân cận hay xa lánh? Một cái người mà còn ham tranh cãi hơn thua với thiên hạ, thì cái đó là thiện hay là ác nè?

Đó cho nên Đức Phật đứng ở trong cái lộ trình nhân quả để chỉ cho chúng ta biết cái đúng cái sai. Cho nên cái này chúng ta có thân cận không?

Mặc dù họ nói họ là Phật nè, họ là bản thể của vũ trụ nè, họ là như thế này như thế khác nè, nhưng mà họ đối xử với chúng ta họ còn hơn thua bằng từng lời nói, họ còn tìm mọi cách nói này kia nọ, nói xấu nói xa bằng cách này kia, thì những cái loại hý luận như vậy đó họ có hay ho gì? Như vậy thì chúng ta có thân cận được không?

Đứng ở trong cái nhân quả thiện và ác thì chúng ta thấy những cái người mà còn tranh hơn tranh thua, còn danh còn lợi, còn ham ăn ham ngủ, thì như vậy là chúng ta có thân cận họ không? Họ có đúng không? Như vậy là chúng ta không thân cận. Đó là chúng ta phải tránh xa.

Loại hỷ nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp tăng trưởng, mà thiện pháp suy giảm” thì hỷ ấy cần phải tránh xa.

Đó Phật dạy rất là rõ ràng. Dù là người ta lý luận cái gì mà mình sống gần mình thấy người ta đang chạy theo những cái dục lạc thế gian, đang có chùa to tháp lớn, đang có tiền bạc nhiều, đang có của cải tài sản, đang có đủ thứ xe cộ, thì tức là mình biết thân cận với những người này không phải là chánh pháp.

Mặc dù họ thuyết pháp rất hay, họ nói thuyết hay, mà đời sống của họ thể hiện qua điều đó, thì chúng ta biết cái loại hỷ này là cái loại hỷ của thế gian rồi, chớ không phải là cái loại hỷ xuất thế gian. Cái loại hỷ xuất thế gian nó không phải vậy, nó ba y một bát cà, nó mới là xuất thế gian!

Cho nên từ đó chúng ta nên xa lánh những cái hạng người này, những cái nơi này không phải là chỗ mà chúng ta tu tập được.

(17:04) Ở đây Phật tiếp phần thứ hai:

Loại hỷ nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng” thì hỷ ấy nên thân cận.

Đó thì bắt đầu mình gần nó mình thấy: Bây giờ gần với ông thầy đó, ổng tri túc thiểu dục nè, ổng sống đúng đời sống Phạm hạnh nè, ổng ăn ngày một bữa, ông không còn tham dục, không còn gì hết, ổng quét sạch, ổng ngồi thiền nhập định, ổng làm chủ được cái sống chết ổng nè!

Thì mình thấy rõ ràng: À cái này là thuộc về cái loại hỷ giải thoát rồi, loại hỷ ly dục ly bất thiện pháp rồi, bây giờ dù như thế nào chúng ta cũng bám chặt ông thầy này. Ổng có đuổi chúng ta cũng không đi nữa, quyết định là ở gần bên ổng à, sống chết với ổng thôi à. Một mai thì chúng ta mới có gần bên những cái người này mới có giải thoát được, quyết định là phải sống gần cái ông này!

Vì ông này ổng làm được như vậy là ổng phải có kinh nghiệm. Còn nếu không có kinh nghiệm làm sao ổng ăn ngày một bữa nổi? Làm sao mà ổng đứng trước một cái đống dục lạc cả bao nhiêu thứ mà không cám dỗ ổng nổi? Thì ông này phải có những cái gì chớ không phải là cái thứ tầm thường đâu, cho nên vì vậy mà bám riết.

Cũng như trong bài kinh Trung Bộ, bài kinh Khu Rừng, Đức Phật dạy chúng ta hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất là tìm cái chỗ ở như Thầy đã giảng rồi, cái chỗ ở nó phải như thế nào để cho tâm của chúng ta đến đó mà nó được an tịnh, nó chưa hết lậu hoặc mà nó đã hết lậu hoặc.

Rồi chúng ta gần một vị thầy, một vị thầy đó dạy chúng ta, hướng dẫn chúng ta thì chúng ta thấy được cái đời sống giải thoát ngay liền là tâm vô lậu của chúng ta được liền, tâm an tịnh được liền, giải thoát tất cả các cái dục của thế gian. Vì vậy mà dù ông thầy đó có đuổi, ở đó không có cơm ăn, nhất định cũng ở đó ăn lá cây với ông ta cũng được, miễn là làm sao chúng ta được giải thoát.

Đó là cái bài kinh Khu Rừng mà Phật đã dạy trong kinh Trung Bộ, chúng ta rất rõ, khuyên chúng ta rất rõ. Cho nên khi mà gặp được một bậc minh sư rồi thì sống chết chúng ta phải sống với cái vị đó chớ không nên bỏ vị đó. Đó là chúng ta tìm lấy con đường giải thoát.

Còn nếu mà chúng ta thấy rằng mình không có đủ duyên tu hành theo đạo Phật thì tốt hơn thì quý thầy đừng có theo mà trở về sống với đời sống cư sĩ, làm ra tiền mà bố thí, lợi ích cho mình, lợi ích cho người, bố thí cho người khác đang có những sự bất hạnh trong cái đời sống của họ. Có phải lợi ích không? Mà mình đâu có ăn bám của ai!

Còn trái lại, nếu mình quyết tâm để đi tìm con đường giải thoát hoàn toàn thì hãy bám với những bậc minh sư đó, bám những bậc Thánh Hiền đó, thì may ra mình mới có thể đi tới được cái nơi giải thoát hoàn toàn.

Đó thì ở đây quý thầy thấy Đức Phật phân cho chúng ta thấy rõ. Bởi vì có thiện với ác mà thôi mà chúng ta biết được, còn nếu mà không biết thiện ác thì làm sao mà chúng ta biết được?

Đó, thì nhìn thấy một cái vị mà phá giới thì tức là không phải là bậc thầy của mình rồi, hãy tránh đi. Ông đó mà ông ăn hai, ba bữa vậy, ổng bây giờ ổng có là giảng sư, ổng có bao nhiêu cái bằng tiến sĩ đi nữa, ổng có thuyết pháp rất hay đi nữa cũng chỉ là cái tưởng giải của ổng mà thôi, cũng chỉ là những cái tưởng hý luận của ổng mà thôi, cho nên cái vọng tưởng đó là những cái thứ vọng tưởng đặc biệt của mấy ông đó.

Cho nên chúng ta chẳng nên gần với mấy ông đó, mấy ông đó chẳng đem cho chúng ta có lợi lạc gì được hết. Đó thì chúng ta phải biết, càng đem cho chúng ta đến thì càng đem chúng ta càng đau khổ, chạy theo danh lợi của thế gian chứ chẳng có gì khác.

(20:12) Ở đây quý vị lưu ý:

Có hỷ câu hữu với Tầm…​

Mình phải lưu ý cái này.

Có những loại hỷ câu hữu với Tầm, câu hữu với Tứ, có hỷ câu hữu với Tầm mà không câu hữu với Tứ.

Nghĩa là mình phân biệt được những cái loại hỷ nó câu hữu với Tầm và cũng câu hữu với Tứ, nhưng có loại hỷ thì nó câu hữu với Tầm mà nó không câu hữu với Tứ, nghĩa là nó sanh toàn là vọng tưởng mà nó không tác ý ra.

Nó cứ miên man, Phật gọi là tùy miên, tùy miên ở trong những cái vọng tưởng. Cái vọng tưởng nó khởi ra rồi mình sống liên tục liên tục ở trong cái suy nghĩ đó hoài hoài, kéo dài hoài, mà nó khởi cho mình những cái thích thú ở trong cái chỗ đó, mình thấy rằng mình tuyệt diệu, thì cái đó là bị say đắm ở trong những cái vọng tưởng mà nó câu hữu với cái Tầm.

Còn nó câu hữu với Tứ thì nó tác ý ra, rồi nó khởi ra, rồi nó tác ý ra, rồi nó khởi điểm này nó đến khởi điểm khác, rồi nó Tầm ở trong đó, nó suy tư ở trong đó, thì cái đó là nó câu hữu với Tầm với Tứ.

Còn nó câu hữu với Tầm không thì nó liên miên, nó say mê ở trong cái ý của nó đã tìm ra. Đó là cái loại hỷ nó câu hữu.

Các loại hỷ không câu hữu với Tầm mà cũng không câu hữu với Tứ thù thắng hơn.

Nghĩa là cái loại hỷ nào mà nó không câu hữu với Tầm, nó không câu hữu với Tứ, thì cái loại hỷ đó nó mới thù thắng hơn. Nghĩa là cái loại hỷ nào? Chỉ có cái loại hỷ mà ly dục, ly ác pháp thì nó mới không câu hữu với Tầm với Tứ, cho nên nó mới là định sanh hỷ lạc.

Đó thì, nó rõ ràng là chúng ta thấy Đức Phật muốn nhấn mạnh là cái chỗ mà cái hỷ lạc hơn hết là bắt đầu chúng ta đi vào cái chỗ định thì cái hỷ lạc đó nó mới hơn hết. Còn cái hỷ lạc ly dục, ly bất thiện pháp nó chỉ khởi sự cho cái tâm thanh tịnh của chúng ta mà thôi.

Đó là hai loại hỷ mà các người tu sĩ cần phải lưu ý.

Đó, phải phân biệt được hai cái loại hỷ: Cái loại hỷ trên nó câu hữu với Tầm với Tứ, có khi nó câu hữu với Tầm mà không câu hữu với Tứ. Còn một cái loại hỷ thì nó không câu hữu với Tầm cũng không câu hữu với Tứ, đó là một cái loại hỷ thù thắng nhất. Thù thắng mà cái người tu sĩ và các bậc thánh nhân nên tìm cái loại hỷ đó, đừng có để cho nó câu hữu với Tầm với Tứ.

2.3- ƯU CẦN XA LÁNH VÀ ƯU CẦN THÂN CẬN

(22:31) Loại ưu nào có thể biết được:

Ở đây đến cái chữ ưu. Ưu là nó do cái tâm mình phiền não, do cái tâm mình lo lắng, nó gọi là ưu. Còn não là thuộc về cái thân khổ đau của chúng ta như nhức chỗ này, nhức chỗ kia, gọi là não.

Còn ưu ở đây nó thuộc về tâm, nó sầu não ở trong, nó sầu bi ở trong lòng của mình, nó lo lắng, nó buồn khổ ở trong lòng gọi là ưu. Còn não thì nó ở ngoài, cái thân nó nhức chỗ này nhức chỗ kia, nó làm chúng ta khó chịu gọi là não.

Phân biệt được hai cái chữ này thì chúng ta mới thấy được cái tâm và cái thân của chúng ta nó có những cái sự khổ, nó không có giống nhau, một bên là ưu, một bên là não.

“Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm” thì ưu ấy cần phải tránh xa.

Chữ ưu có nghĩa còn có cái sự lo nghĩ, lo toan ở trong đó, chữ ưu nó có sự buồn phiền, nó có sự lo toan ở trong đó.

Cho nên khi mà chúng ta thân cận với:

“Khi tôi thân cận với ưu này…​

Với cái sự ưu, sự lo lắng ở trong đầu của mình đó.

…​ thì bất thiện pháp tăng trưởng mà thiện pháp suy giảm” thì ưu ấy cần phải tránh xa.

Khi mình có sự buồn phiền ở trong lòng, có cái sự lo lắng, sợ hãi ở trong lòng, mà lúc bấy giờ bất thiện pháp - tức là ác pháp nó tăng trưởng thì ngay đó mình phải diệt trừ cái ưu đó liền, không có để. Mà cái thiện pháp mà tăng trưởng thì mình nuôi lớn nó lên, để cái ưu đó nó sẽ hết, cái ưu cái sầu lo nó sẽ hết.

(24:04) Cho nên ở đây phải phân biệt được hai cái loại: Cái loại bất thiện pháp tăng trưởng mà thiện pháp suy giảm thì cái ưu đó chúng ta cần phải đoạn diệt, tức là chúng ta biết đó là ác pháp, không phải là thiện pháp nữa, làm cho tâm hồn chúng ta không còn ưu nữa, không còn buồn, không còn lo nữa, không còn sợ hãi nữa.

Loại ưu nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với ưu ấy, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng” thì ưu ấy nên thân cận.

Đó, cũng là cái lo, nhưng mà cái lo mà để nó hết lo, thì lúc bấy giờ cái buồn phiền, cái lo lắng ở trong tâm mà gần với thiện pháp thì cái lo lắng, cái buồn phiền đó lần lần nó sẽ giảm mất đi, và nó không còn ưu nữa.

Còn cái buồn phiền mà gặp cái ác pháp càng ngày càng tăng lên mà thiện pháp thì suy giảm, thì cái đó nó sẽ làm cái ưu, cái sự buồn lòng của chúng ta càng ngày càng nhiều lên nữa, không có bao giờ nó dứt được.

Cho nên ở đây Phật dạy: Khi mà tâm của chúng ta có sự lo lắng, ưu phiền thì chúng ta phải thấy được cái ưu phiền đó nó làm cho thiện pháp mà tăng trưởng thì ưu phiền đó chúng ta hãy cố gắng mà tiếp tục triển khai nó nữa, thì cái ưu phiền nó sẽ hết.

Còn cái ác pháp mà tăng trưởng thì ngay đó chúng ta phải chấm dứt, không được theo cái đó mà cái ưu phiền của chúng ta càng lớn dần, làm chúng ta đau khổ nhiều.

Ở đây quý thầy phải lưu ý:

Có ưu câu hữu với Tầm, câu hữu với Tứ. Có ưu không câu hữu với Tầm, không câu hữu với Tứ.

Đó, thì cái loại ưu mà câu hữu với Tầm, câu hữu với Tứ, mà câu hữu với Tầm không mà không câu hữu với Tứ, thì những cái loại ưu này chúng ta không có xài nó đâu. Nghĩa là nó có Tầm, có Tứ, có suy nghĩ về cái sự ưu này thì chúng ta không xài đâu.

Có các loại ưu không câu hữu với Tầm, không câu hữu với Tứ, thì loại ưu này thù thắng hơn.

Nghĩa là cái ưu, cái lo lắng mà nó không câu hữu với Tầm với Tứ thì cái ưu này là cái hỷ lạc của chúng ta, cho nên nó là thù thắng nhất. Vì cái sự hiểu biết này thì chúng ta biết nó là ở chỗ các pháp nào mà nó có cái chỗ mà cái ưu này nó không câu hữu với Tầm với Tứ không.

Khi chúng ta biết nó thì chúng ta phải thực hiện cái pháp đó hàng ngày để chúng ta tu, để cho cái lòng ưu phiền của chúng ta, cái lòng ưu nó không còn có nữa, thì như vậy là chúng ta phải thực hiện cái pháp đang ở đó. Thì sau cái giới hành Thầy sẽ dạy cái chỗ này thì quý thầy sẽ thấy, khi đó quý thầy sẽ tập tu thì quý thầy sẽ thấy rõ.

2.4- XẢ CẦN XA LÁNH VÀ XẢ CẦN THÂN CẬN

(26:30) Loại xả nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp tăng trưởng mà thiện pháp suy giảm” thì xả ấy cần phải xa lánh.

Tui xả nó ra, tui xả ra cái điều đó, nhưng mà tui thân cận với cái xả này, chẳng hạn bây giờ tui dự định là tui bỏ cái điều này, nhưng mà cái điều mà tui bỏ đó là các ác pháp nó sẽ tăng lên, nó tăng trưởng lên, nó làm cho nhiều cái sự đau khổ.

Cũng như bây giờ tui tính tui bỏ cái nhà này nè, tui cất - cũng như tính bây giờ tui bỏ cái chùa xấu này đi, tui đập nó xuống đi, tui sẽ cất cái chùa tốt hơn, thì do đó khi mà tui nghĩ như vậy đó, thì tức là tui xả cái chùa nhỏ này đi để tui cất cái chùa lớn khác lên.

Thì cái đó là chúng ta thấy được rõ ràng là các ác pháp nó tăng trưởng lên, bắt đầu nó bắt buộc tui phải đi quyên tiền người ta, đi xin người này, xin xỏ người kia để cất cho được cái chùa lớn hơn, thì như vậy, đó là ác pháp tăng trưởng.

Còn bây giờ tôi xả bỏ, bây giờ cái chùa này nó hư rồi, mà cái chùa này nó cũng sang đẹp lắm mà nó hư rồi, bây giờ tui bỏ cái chùa đẹp này đi, tui cất nó lại bằng cái chùa tranh, cho nên tui xả bỏ cái chùa gạch đi, tui cất lại cái chùa tranh, do đó bây giờ tui lại an ổn.

Vì cái số tiền tui hiện giờ tui cất cái chùa tranh nổi, mà tui cất cái chùa gạch, chùa kiên cố thì không nổi. Do đó bây giờ tui chỉ có 5 triệu à, tui cất cái chùa tranh được, mà cái chùa ngói này tui phải có 100 triệu cà, tui mới cất được, do đó tui khỏi cần phải cực khổ tui đi xin. Cho nên tui thấy gần cái thiện pháp, tui thấy tăng trưởng nó làm cho tui được giải thoát.

Vì vậy mà cái chùa kiên cố cả trăm triệu bạc nó không bằng cái chùa tranh vách lá mà tui được thảnh thơi, tui được giải thoát, tui không còn bận tâm lo lắng, tui không còn phải chùi rửa, tui không còn phải quét dọn cái chùa này hằng ngày, tôi trở thành nô lệ nó. Cho nên vì vậy mà tui thấy từng cái đó mà thiện pháp tăng trưởng, cho nên tui đủ có nhiều thì giờ mà tui tu thiền định, cuối cùng tui được giải thoát, cho nên tui không bị cái chùa trói buộc tôi.

(28:24) Đó là tui thấy rõ ràng là tui thân cận được thiện pháp mà tui được giải thoát, còn tui thân cận các ác pháp thì nó tăng trưởng lên. Do cái xả này, mà cái xả này đem đến cho tui hoàn toàn là đau khổ, thì bắt đầu tui không chấp nhận nó, tui không thân cận nó nữa.

Không thân cận tức là tui không có chạy theo mà đi quyên tiền người khác mà để cất cái chùa tốt, cho nên vì vậy mà tui không gần nó nữa. Vì vậy mà bây giờ tui thấy tui có 5 triệu, tui cất cái chùa tranh, tui bỏ cái chùa gạch đổ vỡ này đi, tui dẹp nó qua thành một đống gạch, bây giờ tui cất lại cái chùa tranh tui ở. Tui thấy tui giải thoát hoàn toàn, tui không còn bị lo nữa, cho nên thiện pháp càng ngày càng tăng trưởng nơi tôi, làm cho tôi sung sướng và hạnh phúc.

Đó là đem một cái ví dụ để chúng ta thấy cái xả nào đúng mà cái xả nào sai. Nhiều khi chúng ta xả cái này nhưng mà chúng ta lại tích những cái khác quá cái sức của chúng ta, làm chúng ta đau khổ.

Loại xả nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng” thì loại xả ấy nên thân cận.

Đó là Thầy đã giải thích rồi đó. Thì quý thầy thấy chúng ta có một cái đầu óc có sự suy tư mà đi trên con đường giải thoát là tri túc thiểu dục, biết đủ.

Cho nên bây giờ tôi đang làm trụ trì một cái ngôi chùa lớn mà vì thiên hạ nói: “Ông đang làm trụ trì một cái chùa lớn mà chùa hư, ông không chịu cất!” Tui cất chứ sao lại tui không cất? Nhưng tui cất với cái sự không làm đau khổ chúng sanh.

Tui không quyên tiền ai hết, tui có bây giờ 5 triệu, tui cất 5 triệu, mà tui cất lại cái chùa cho như hồi cũ thì tui không đủ tiền cho nên tui không cất. Vì tui biết đó là những cái dục lạc của thế gian, cám dỗ, cái đẹp, cái tốt xấu, cái này kia.

Nhưng đời tui ở, tui cất cái chùa tranh, đệ tử tui ở thì cái chùa tranh hư, nó cất, nó cũng đủ với cái sức nó cất, chớ đâu có gì mà quá sức nó mà tui sợ mất cái chùa? Tui chỉ sợ mất tui tu không được mà thôi, chớ còn cái chùa không bao giờ mất.

Ở đây các thầy phải lưu ý:

Có xả câu hữu với Tầm, câu hữu với Tứ. Có xả không câu hữu với Tầm, không câu hữu với Tứ.

Đó thì các Thầy thấy rằng, khi mà nó câu hữu với Tầm Tứ thì chúng ta có sự suy tư, tính toán ở trong đó, rồi tính phải xin Phật tử thế này thế khác thì đó là nó đưa chúng ta đến cái sự suy nghĩ, để đưa chúng ta đi đến cái chỗ mà không giải thoát.

Nhưng các loại xả không câu hữu với Tầm, không câu hữu với Tứ thì thù thắng hơn.

Tại sao vậy? Tại vì lúc bấy giờ chúng ta cứ ngồi thiền không, chúng ta đâu để cho cái tâm chúng ta rảnh rang mà câu hữu thứ mà đi cất chùa cất chiền đâu! Cho nên chúng ta rảnh rang, không có đi lại xóm này, làng kia để mà khuyến hóa họ, để xin tiền họ để cất chùa, nói: “Chùa tui giờ rách nát rồi, xin quý Phật tử mỗi người giúp đỡ cho tôi một ít để tui xây dựng được cái chùa cho tốt.”

Tui đi cả ba năm như vậy tui góp tui mới cất được cái chùa, thì hơn là ba năm tui ngồi tui tu, tui nhập định thì tui làm chủ được cái sanh tử thì cái gương hạnh của tui còn hơn là tui cất cái chùa đó gấp mấy lần.

Cho nên ở đây tui nghĩ như vậy tức là cái tâm của tui không câu hữu với Tầm với Tứ, cho nên tui ngồi thiền tui an ổn mà tui tu tập cho đến khi mà tui giải thoát hoàn toàn.

2.5- CẦN TU TẬP CHỨNG ĐẠT HỶ - ƯU - XẢ THÙ THẮNG

(31:20) Người tu sĩ phải tu tập chứng đạt hỷ - ưu - xả này mới thích hợp dần dẫn đến sự diệt trừ các vọng tưởng hý luận.

Nếu mà chúng tôi biết như vậy thì chúng tôi sẽ diệt được vọng tưởng. Thì diệt vọng tưởng là bằng cách là mình không cho chạy theo cái Tầm, Tứ đó, cho nên vì vậy mà mình đâu có cần gì mà phải cất chùa to tháp lớn đâu? Một mái chùa tranh mà ở đó mình nỗ lực tu, ngồi thiền nhập định không phải quý sao?

Cho nên mình diệt hết những cái lý luận điên khùng này, những cái lý luận mà không đúng cách này, nghĩ rằng mình phải làm Bồ Tát hạnh, rồi mình phải làm cái này lợi ích chúng sanh, phải cất cái chùa to để cho người ta đến đây, do cái duyên đó người ta mới đến chùa, còn cái chùa tranh lèo tèo ai mà đến làm gì?

Nhưng không ngờ, chính chùa tranh lại có ông Phật thật, thì chừng đó người ta mới đến hơn là cái chùa kia để mà người ta đến người ta đi chơi, đi dạo, người ta coi cái kiểu cách cất cũng như là những cái gì sang đẹp của thế gian chứ có cái gì ở trong đó, có cái gì giá trị?

Còn bây giờ người ta đến cái chùa tranh mà người ta thấy bậc chân tu ở đó, người ta còn kính mộ, người ta còn nhìn thấy Phật pháp đang hưng thịnh ở trong cái thế gian này.

Còn nhìn cái chùa mà đẹp sang, người ta thấy đó là một cái kiểu cách xây dựng đẹp đẽ chứ người ta đâu có thấy rằng ở trong đó có một ông Phật thật ở trong đó đâu, toàn là thứ xi măng không, không có gì hết!

Đó thì, ở đây qua một cái bài kinh như vậy là chúng ta đã thấy được những cái điều mà chúng ta cần phải biết để mà chúng ta hiểu, để mà chúng ta tu tập, để mà chúng ta biết những cái gì mà thân cận, những cái gì mà không thân cận.

Do Đức Phật dạy từng ly, từng tý như vậy, mà tại sao chúng ta không biết mà cứ khởi tâm chạy lăng xăng đầu này đến đầu kia, vào thất người này vào thất người kia để làm gì? Chúng ta biết được, chúng ta khép mình chặt ở trong thất của mình. Ở trong thất mình nè, có phòng tắm, phòng vệ sinh riêng nè, có cần gì mà phải chạy lăng xăng?

Đó quý thầy thấy không, ở đây Thầy tạo cho quý thầy một cái phương tiện sống đúng cái giới hạnh của Phật để thực hiện con đường nhân quả, làm chủ nhân quả, mà quý thầy không đồng ý mà còn chạy lăng xăng thì còn cái chỗ nào mà tìm hơn nữa?

Đó Thầy nghĩ rằng cái cách thức mà tổ chức ở đây là nhằm để giúp cho quý thầy giải thoát được mà quý thầy không giải thoát, thì đến ngày hôm nay Thầy đã ẩn bóng hoặc là Thầy không còn muốn tiếp duyên nữa, thì quý thầy làm sao mà có thiện hữu tri thức để giúp quý thầy trên cái đoạn đường cuối cùng của quý thầy đi?

3- CHÍN MƯƠI GIỚI ĐỌA - PHẦN 3

[Phần 2 ở Giáo án 41]

(33:39) Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục học giới bổn. Ba cái giới bổn này, thật sự ra thì Thầy cũng không phải dạy mấy con học để làm gì, nhưng mà nói ra để cho mọi người nghe và đồng thời để chỉ cái đúng cái sai của nó, để sau này có cái dịp mình thành lập lại cái giới bổn cho nó đúng cách của cái người mà chấp nhận cái giới làm thầy của mình để cho ly dục ly ác pháp, như cái lời Đức Phật đã nói: Lấy giới mà tu tập để ly dục ly ác pháp để nhập được Sơ Thiền.

Còn cái giới nào mà nó làm cho chúng ta sống mà chạy theo dục lạc, thì chúng ta nên bỏ cái giới đó đi, không có chấp nhận cái giới đó, vì cái giới đó không phải là của Phật.

Vì mục đích của Phật đưa ra giới là nhằm tạo cho chúng ta có cái hàng rào giữ gìn cho cái tâm của mình đừng đắm nhiễm ở trên những cái dục lạc, cái ham muốn của mình, những cái ác pháp mà đang ở trong cái nhân quả như Thầy đã nói hồi nãy.

Nó đang đeo đẳng và nó đang phủ trùm chúng ta, nó đang chờ những cơ hội mà lôi kéo chúng ta ở trong những cái nhân quả. Mà nhân quả thường thường là cái nhân quả ác chớ không phải là nhân quả thiện. Cho nên vì vậy những cái giới luật này hầu giúp cho chúng ta để vượt thoát ra khỏi những cái nanh vuốt của nhân quả, để chúng ta thoát ra khỏi cái tâm ham muốn của chúng ta.

Thế mà giới luật mà không giúp cho chúng ta vượt thoát ra cái lòng ham muốn, vượt thoát ra những cái ác pháp, thì cái giới luật đó chúng ta không chấp nhận, vì nó không phải là cái giới luật của Phật. Vì giới luật của Phật, cái mục đích của nó là giúp cho con người theo đạo Phật là phải ly dục ly ác pháp thì đó là mới đúng là giới luật của Phật.

34) GIỚI THỌ THỈNH QUÁ BA BÁT

(35:13) 34. Giới thọ thỉnh quá ba bát.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ có vợ cư sĩ về bên mẹ, chồng họ kêu trở về, liền sắm thức ăn và y áo nghiêm túc. Lúc ấy có các Tỳ Kheo đến nhà đó khất thực, người đàn bà ấy bèn đem số thức ăn đã sắm đó cúng các Tỳ Kheo ăn hết. Người đàn bà ấy phải sắm lại thức ăn, cho nên chưa về lại nhà chồng. Trong thời gian ấy ông chồng đã cưới vợ khác.

Lại có các Tỳ Kheo khất thực, xin hết lương thực của người khách buôn có tín tâm kia, người ấy phải vào thành sắm lại lương thực đem về. Các người bạn đi rồi, người ấy đi theo không kịp, bị giặc cướp đoạt.

Phật quở trách cả hai trường hợp rồi kiết giới này.

Nghĩa là một cái người người ta sắm cái thực phẩm để mà người ta đãi bà con dòng họ của người ta, thế rồi gặp các thầy đến đó khất thực thì người ta trút cái thực phẩm đó người ta cho quý thầy đi. Đó là cái trường hợp thứ nhất.

Cái trường hợp thứ hai mà khi cái người vợ này họ sắp sửa họ trở về nhà chồng là vì họ mắc lo bận bịu để mà lo mà đem lương thực hay này kia giúp cho, cúng dường cho các thầy, cho nên trở về không kịp thì ông chồng ổng ở nhà ổng cưới vợ khác ổng bỏ đi, thành ra bà này mất chồng đi.

Do cái trường hợp đó, Phật nghe những cái trường hợp mà các thầy đã làm bận rộn cho người ta như vậy để làm cho người ta có lỡ những cái cơ hội, vì vậy Phật mới kiết cái giới này.

Cho nên “thọ thỉnh quá ba bát” - ở trong một cái nhà người ta mà mình đến mà mình xin ăn ba cái bát như vậy thì người ta phải mất khẩu cái phần ăn của người ta quá nhiều. Cho nên Đức Phật muốn chế cái giới này, nghĩa là mình đến xin thì mình chỉ xin người ta cho mình một người thôi thì mình đi chỗ khác, chớ không có được ở đó chờ cái gia đình đó mà ba bốn người, năm bảy người mình đến đó chờ có một nhà đó cho mình ăn.

(37:25) Bây giờ trong nhà người ta làm có năm phần ăn của năm người à, mà bắt đầu bây giờ có năm ông thầy Tỳ Kheo đến đó, người ta sớt cho năm người này thì năm cái người kia người ta ở trong nhà, khách mà đến, người ta lấy gì người ta đãi?

Bất quá người ta cho một người, thì còn bốn cái phần kia người ta có thể phủ trùm qua cho những người cho một người thiếu thì có thể được. Còn cái này, thấy nhà người ta có cái đám như vậy đó mình đến đó mình xin sạch hết rồi lấy gì người ta làm cho người khác ăn?

Cho nên hầu hết là Đức Phật cấm là vì có nhiều người thấy cái nhà đó có cái lòng cúng dường thì bao nhiêu ông cứ xúm lại à, xúm lại cái nhà đó để mà xin thì Đức Phật cấm là cấm như vậy. Làm cho người ta lỡ những cái việc mà may mắn của gia đình người ta cho nên mới cấm cái này. Đúng là Đức Phật cấm cái này là đúng.

Thí dụ như bây giờ từ đây đến ở đằng kia thì nó có năm cái nhà, mà mỗi cái nhà là một cái gia đình. Đây là năm vị Tỳ Kheo, cho nên khi mà đến cái nhà này chưa chắc họ đã cho một cái người này mà đủ ăn trong một cái ngày đó, họ cho một bát cơm thôi, rồi mình đến cái nhà kia, nhà kia họ có hảo tâm họ cho thêm một bát cơm nữa. Mà mình đi trong năm người thì thử hỏi họ làm sao đây?

Cho nên do vì vậy đó, một cái người mà đã xin, cái người đó đã sớt bát thì cái người đó mở cái nắp bát ra vầy cái người đó người ta đổ vô. Còn nếu mình mà không nhận cái sự cúng dường của họ, mình đậy cái nắp bát lại. Người ta xin cúng dường thì mình biết rằng người ta đã cúng dường cho cái người kia rồi thì mình đậy cái nắp bát lại, mình không nhận cái sự cúng dường, chờ cái người mà người ta không cúng dường.

Ý nghĩa của cái giới này là mình tránh cái sự mà quá hao tốn của người khác. Trong khi biết cái nhà người ta quá nghèo thì người ta cho, cúng dường một vị rồi, thì tất cả những vị khác đều đậy bát lại hết, rồi do đó chúng ta đi.

Thì những cái người đó họ có van xin mà mình thấy rằng họ có thừa họ cúng dường mình thì mình mở bát ra mình nhận, chớ không phải là mình luôn luôn lúc nào mình cũng mở cái bát mình ra, mình để như thế này, mình ôm đi như thế này, mình mở bát ra đâu, mình đậy bát lại.

(39:20) Nhưng một cái người mà người ta lại cúng dường mình, thì người ta xá mình rồi người ta đứng người ta xin cho người ta cúng dường mình, do đó mình mới mở bát ra, thì khi mà người ta đem cơm đến mình mới mở bát ra, người ta mới trút cơm vào trong bát của mình, rồi mình đậy bát lại mình đi, chớ không phải là mở bát ra như thế này cũng như là ăn mày mà đưa cái nón vầy, cứ xin hoài đó, thì không có được!

Cái người mà đi xin theo cái hạnh khất thực thì Thầy nghĩ rằng, khi mình đi thì mình ôm cái bát, mình đậy cái bát lại chớ không phải là mình mở bát. Nhưng mà khi mình đi mà mình không có ôm cái bát, thì mình bỏ cái bát ở trong túi bát của mình, ở ngoài mình phủ cái y, thì không ai thấy mình bưng cái bát thì người ta biết mình không có đi xin.

Còn nếu mà mình đi xin, thì cái bát mình mình ôm, thì cái nắp nó vẫn đậy chớ không phải mở. Nhưng mà khi người ta đến người ta xin mình, thì mình mới mở cái bát ra, mình chấp nhận, mình nhận cái sự cúng dường của họ, mình mới mở bát ra.

Còn mình không nhận sự cúng dường thì mình đậy bát lại, thì do đó họ xin mình không nhận thì họ vẫn đi chớ họ không có làm sao họ nắm cái bát mình họ mở ra họ đổ trong đó được.

Do vì vậy đó thì - khi mà trong cái giới này thì có nghĩ rằng mình năm người hay mười người mà mình đến xin cái nhà đó trong một cái đoàn đi, thì khi mà cái người đầu tiên người ta sớt cho - cái nhà đó sớt cho mình rồi, thì cái người đầu tiên được cái thực phẩm đó rồi thì họ đi tới. Nếu mà họ đã đầy bát rồi thì cái người này họ đi về, chớ không phải là họ đi luôn như vậy.

Thì đi luôn như vậy cũng được chớ không phải không được, nhưng mà đi về để cho những cái người khác người ta tiếp tục người ta đi trên cái lộ trình này, từng nhà mà người ta đến người ta sớt bát.

Cái ông này đi đầu nè, bốn người kia đi sau nè, thì cái người đi đầu này ôm bát đi đầu, thì đến cái nhà đầu tiên họ đến họ chắp tay họ xin để cho họ sớt bát, thì cái đoàn này đều đứng lại hết, năm người này đều đứng lại hết chớ không phải đi.

Thì khi mà cái nhà đó họ đã đổ cái bát cơm đó vô trong cái ông thứ nhất rồi, có một cái người đổ bát cơm đó cho người thứ nhất rồi, thì họ đến người thứ hai họ xin, thì thay vì Đức Phật cấm cái giới này là người thứ hai không mở bát cho họ xin, cho họ đổ thêm nữa, vì họ đổ cho một cái người này là họ đã dành cái thực phẩm của gia đình họ cho một người là nhiều quá rồi, vì mọi người quá nghèo, chưa phải là người nào cũng giàu có.

Cho nên khi đó đó, khi mà mình không nhận đi rồi thì cái người này họ về nhà họ, họ không đem cho nữa. Do đó mình mở, lần lượt mình đi theo năm người.

Thì trong khi cái người đầu tiên này họ chưa đầy bát, họ chưa có về đâu, họ còn tiếp tục họ đi. Đi đến một nhà, hai nhà, ba nhà, chừng mà họ đầy bát rồi thì bắt đầu cái người này họ đi về. Họ đi về thì còn đây bốn người, bốn người tiếp tục đi. Đi cho đến cái nhà mà ba nhà nữa, thì cái người này đầy bát rồi, cái người này trở về thì còn ba người.

Và cứ như vậy lần lượt cho đến cái người cuối cùng, họ đi một mình họ cho đến khi họ đầy bát họ mới trở về họ thọ thực. Chớ không phải đi cả đoàn, rồi chờ cho họ bỏ đầy bát hết rồi mới dẫn nhau cả đoàn về, thì cái kiểu đó nó cũng chưa đúng cách.

Theo cái giới luật này mà. Thầy nghĩ rằng đọc qua giới luật thì mình thấy qua cái hạnh khất thực thì nó như thế nào để mà đúng, như thế nào sai, chớ không phải là đợi người ta dạy mình cách này cách kia mình mới thấy đúng sai. Cho nên ở đây Thầy đọc giới luật Thầy thấy quá rõ ràng, là vì đi ở trong ba người hay bốn người thì đều tiện.

(42:23) Giống như ở bên Thái Lan mà Chân Thông đi qua bên đó về nói lại với Thầy, khi buổi đúng giờ đó mình đi khất thực, thì trong chùa có mấy người là đi hết mấy người, giờ đó đi hết.

Thì ở ngoài đường hai bên phố đó, người ta cúng dường cho quý sư thì người ta ra hai bên phố, giờ đó họ ra hai bên phố, người thì xách cơm xách nước này kia họ ra họ ngồi dài hai bên đường hết.

Thì cái ông thầy đi trước, cái người đó sớt rồi, thì cái người đó sớt cho ông thầy đó rồi họ về, cái người cư sĩ đó họ về. Ông thầy đó chưa đầy bát thì ổng đi tới cái người kế nữa, họ sớt vô nữa, rồi ổng đầy bát rồi ổng đem về, thì cái người sau đó họ đi tới nữa, cái người kế cứ sớt, sớt vô. Nó đi chừng tới hết múc đường kia thì cái đoàn khất sĩ của mình nó đầy bát hết nhau về chớ khỏi cần đi đâu nữa hết.

Nghĩa là sáng cái đường đó là cái chỗ cái chùa đó là bao nhiêu Phật tử họ tập trung lại cái đường đó, rồi họ đem cơm họ giở sẵn đó hết, do đó buổi sáng cái mình đi cứ thẳng đường theo đó đó mình đi.

Thí dụ như bây giờ, chùa mình bây giờ có thêm một người, thì ông trụ trì ở chùa đó ông báo cho cái nhóm Phật tử đó biết rằng bây giờ chùa có thêm một người, hai người hay năm người, thì cái đoàn Phật tử đó họ sẽ báo cho một cái số gia đình: “Hay bây giờ ở chùa có thêm được năm người nữa, vậy thì quý vị ai - mấy gia đình nữa hùn với chúng tôi để mà cho năm vị này mỗi bữa sáng người ta bữa ăn!”

Cho nên khi mà báo rồi thì hôm sau đi thì mới có, chớ bữa mà mình tới thì mình chịu nhịn đói thôi. Nghĩa là mình tới thì mình không có đi xin ai được hết à, nghĩa là chưa có ai sẵn sàng cho mình hết.

Cho nên người ta sắm sửa đâu đàng hoàng ra người ta sớt bát, hoặc hai người mới đầy một bát, hoặc là một gia đình đầy một bát, hoặc là hai gia đình mới đầy một bát, tùy theo nhà nghèo nhà giàu, chớ không phải người nào người ta cũng sớt cho mình đầy hết đâu, không phải, hay nhà nào cũng sớt cho ông thầy đầy hết, hay hoặc là một nhà mà sớt cho đầy hết.

Còn Thầy hồi đó Thầy đi khất thực á, Thầy nhắc lại để cho quý thầy các con thấy. Thầy đi trong một cái đoàn, thí dụ như mười vị. Cũng trong cái mùa hạ an cư này nè, Thầy về dưới tịnh xá Ngọc Vân ở dưới Mỹ Luông á, Thầy ở đó thì các sư cũng trở về đó cũng đông lắm, cho nên đi hơn mười người chớ không phải là mười người không.

Đi một đoàn khất sĩ rồi đi - Thầy nói ra chợ, đi ngang cái chợ là họ thấy, người ta mua bánh này kia đó, nghĩa là thí dụ như họ đếm coi mình mấy người là họ mua mấy ổ bánh mì, rồi họ thấy mình mấy người đó họ mua mấy chục gói xôi lận, thí dụ như mười người họ mua một chục gói xôi, còn hễ mười người là họ mua một chục ổ bánh mì. Do đó một cái người mà cúng dường đó họ cúng mỗi ông một ổ hết, chớ không bỏ ông nào hết.

Cái khất sĩ của mình đi ngộ lắm, đi xin là họ cho, cho hết, còn bây giờ một người đi thì họ cúng mình một ổ thôi, họ không cúng nhiều, rồi người khác muốn cúng thì họ bỏ vô họ cúng nữa. Chớ còn mình đi đông thì một người họ cũng phải bỏ tiền ra họ mua cho đủ mười ổ, mặc dù nghèo họ cũng ráng họ bỏ họ mua mười ổ.

(45:09) Thầy không biết là mấy con có đi khất thực không chớ Thầy có đi khất thực, Thầy thấy kiểu này, Thầy nói chắc là cái người nghèo mà cỡ một đoàn chừng một trăm người đi, chắc là ông đó ông hết tiền mua nổi! Mua gì, một trăm người, làm sao mua một trăm ổ bánh mì bỏ người ta, dữ vậy? Thành ra đâu có mua nổi. Đó.

Cho nên Thầy thấy hồi mà Thầy ở Mỹ Luông Thầy đi khất thực với quý sư, thì Thầy đi ở trong cái đoàn Thầy thấy, đi cho người nào cũng đầy bát hết rồi mới lần lượt đi về một đoàn. Rồi Thầy nói cảnh sát đồ nó thổi tu huýt nó dẹp đường, bởi vì mình đi vô chợ mà, nó dẹp đường cho người ta tránh cho mấy sư đi mà, ngon lắm á!

Các con nhớ hồi đó mà mấy sư với Thầy mà đi xin máy bay trực thăng mà đi ra Phú Quốc chơi đó được, các con biết. Xin vô chỗ phi trường mà ở Cần Thơ này nè, xin nó cho mình đi ra ngoài Phú Quốc, nó đi ra ngoải, nó chở mình đi ra ngoải mà. Quý sư vô xin là cho đi hết, sướng lắm!

Thầy đi ra ngoài Hòn Sơn đồ này kia, Thầy lại Thầy xin tàu ghe đồ nó cho đi ra ngoải, không có tốn tiền bạc. Ở ngoải về cũng vậy, không tốn tiền bạc. Xin máy bay quân sự trực thăng nó chở mình đi ra ngoải, chở ra Phú Quốc. Vô xin cái bắt đầu ở trong đó cái mấy cái ông đại tá đồ trong đó, ổng hẹn: “Ngày mai có chuyến trực thăng, Thầy cứ lên đó Thầy đi, mấy sư cũng được hết!” Cho nên mấy sư ngồi trực thăng ngon lắm, mấy ông Việt Cộng bắn rớt chết bà!

Đó thì, bởi vì Thầy đọc giới Thầy thấy cái chỗ này thì nó đúng là như vậy đó, cái người khất sĩ chúng ta phải hết sức thận trọng, là vì hầu hết là người nghèo dữ lắm, chớ đâu phải người giàu? Đi chợ thì họ cho mình bánh trái họ mua đồ vậy chớ còn đi trong xóm đó, người ta sớt mình, người ta cho mình chén cơm thôi à, mình đi hai ba nhà nó mới đầy cái bát mình.

Nhiều khi họ cũng không cho đồ ăn nữa, họ cứ thấy mình đi, họ chạy vô nhà họ xúc chén cơm họ đổ vô cũng như là cho thằng ăn mày vậy à, chớ họ không cho thêm muối gì hết à! Thật sự ra đó thì nó như vậy đó. Hễ đi muốn ăn cơm cứ đi xóm vầy ăn cơm thấy mồ không hết, mà đi chợ thì ăn bánh, ăn bánh thấy mồ cũng không có cơm ăn! Đó.

Cho nên chia ra, thí dụ như năm sư đi trong xóm xin cơm về, mà năm sư đi chợ kiếm đồ ăn về thì có à. Nghĩa là họ bỏ đường, họ bỏ nước tương đồ này kia là có đủ thứ, họ bỏ muối dưa đồ cũng có đủ hết. Chia ra năm thầy đi hướng này, năm thầy đi hướng kia, năm sư đi hướng kia, về cái sớt cơm ra chia rồi bánh mì chia ra ăn, đầy đủ hết.

Cho nên hầu hết là, coi như là Thầy ở tịnh xá Ngọc Vân, Mỹ Luông, thì sống thời gian đó chừng khoảng độ một tháng Thầy thấy tổ chức quý thầy cũng đầy đủ, quý sư ở trỏng đầy đủ lắm. Thì đi trong cái đoàn mà Thiện Năng, Thiện Ấn ấy, rồi chính mấy ổng dẫn đi, đi tùm lum mới biết mấy ông khất sĩ hết chớ còn Thầy có biết gì! Mấy ổng đi tùm lum hết à.

35) GIỚI CHẲNG LÀM PHÉP DƯ THỰC MÀ ĂN

(47:53) 35. Giới chẳng làm phép dư thực mà ăn.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, cùng các Tỳ Kheo nói pháp ăn một bữa. Tỳ Kheo liền tuỳ theo đó mà ăn gốc, lá, bông, trái, cơm, bột, cho đến nghiền sinh tô, chỉ ăn một lần, dần dần cơ thể khô héo.

Đức Phật cho phép một lần ngồi ăn cơm, bánh, khiến cho nó no đủ. Tỳ Kheo bị bệnh không thể ăn một lần được mà phải cho phép ăn mãi.

Nghĩa là cái chế giới ăn một lần này thì ở đây người ta - cái giới này nó nói mình nghe cũng rất là kì. Là Phật chế cái giới này: “…​ ăn ngày một bữa, Tỳ Kheo liền tùy theo đó mà ăn gốc, ăn lá, bông, trái, cơm, bột cho đến nghiền sinh tô, chỉ ăn một lần, dần dần cơ thể khô héo.” Chúng ta thấy ăn một bữa chúng ta có khô héo không?

Ở trong giới này nói, Phật chế giới ăn một bữa đó, rồi mấy vị đó ăn, nghĩa là ăn tận cùng hết, ăn cho no quá no, mà thế mà vẫn khô héo, tức là vẫn ốm o đó. Đó là cái nói mà không có thực. Chúng ta sống một bữa mà chúng ta thấy cũng không ốm o gì mà đây nói ốm o thì Thầy thấy đó là cái giới luật như thế nào rồi.

Đức Phật cho phép một lần ngồi ăn cơm, bánh, khiến cho nó no đủ. Tỳ Kheo bị bệnh không thể ăn một lần mà cho phép được ăn mãi.

Nghĩa là được ăn nhiều lần đó.

Lại cho phép người nuôi bệnh ăn xong rồi được ăn thức ăn của người bệnh ăn còn lại.

Cái người Tỳ Kheo này mà nuôi cái người Tỳ Kheo kia đó, khi mà cái người Tỳ Kheo bệnh ăn không hết thì cái người Tỳ Kheo kia được ăn cái thực phẩm của người Tỳ Kheo ăn lại.

Mà trong kinh Thừa Tự ở trong kinh Trung Bộ nói về thừa tự Phật á, thì thừa tự pháp chớ không phải thừa tự thực phẩm. Thế mà cái ông Tỳ Kheo nuôi bệnh này lại ăn thừa cái đồ ăn của ông bệnh, thiệt là! Ổng truyền ba cái vi trùng còn chết luôn đó chớ ở đó, đừng có tham ăn cái chuyện đó!

(50:06) Lại cho phép người nuôi bệnh ăn xong rồi được ăn thừa lại của người bệnh.

Khi ấy Tỳ Kheo buổi sáng thọ thực, cất rồi vào thôn khất thực, trở về lấy đồ đó cho Tỳ Kheo khác ăn.

Nghĩa là chơi cái kiểu này, mấy ông Tỳ Kheo này bộ là ổng không ly dục hay sao mà, pháp của Phật nó rõ ràng mà, còn mấy ổng lại bây giờ đi khất thực rồi về cất cái đồ đó đi, rồi đi khất thực nữa, đi lại cái xóm khác khất thực nữa - gạt người ta, khất thực ngày hai ba lần vậy đó - rồi mới đem về ổng ăn cái đồ sớt này đi, còn cái đồ mà ổng cất kia ổng đem cho mấy ông kia ăn lại.

…​ cất rồi vào thôn khất thực, trở về lấy đồ khất thực đó…​

Cái khất thực cũ á.

…​ cho Tỳ Kheo khác ăn. Các Tỳ Kheo đều không dám ăn. Phật cho phép nhận để ăn với pháp dư thực.

Phật lại cho chớ! Nghĩa là làm cái tật xấu đó, đi khất thực rồi về cất cái đó đi, rồi bắt đầu đó ổng mới đi khất thực cái khác về ổng ăn. Rồi cái dư này ổng ăn không hết nè, ổng tính chắc bộ là mình tính mình ăn nhiều không ngờ là ăn không hết, mới đem cho mấy ông Tỳ Kheo này. Mấy ông này ăn rồi đâu có dám ăn nữa, cho nên Phật cho chế cái giới ra là cho ăn lại nữa. Trời, nói như vậy là ông Phật Thầy thấy thiệt ổng không có ly dục mà! Chế giới gì mà lạ lùng như vầy nè!

…​ nhận để ăn với pháp dư thực. Hoặc có Tỳ Kheo vào thôn nhận được nhiều thức ăn cùng ăn, mang thức ăn dư đó về làm pháp dư thực mà ăn lại nữa.

Nghĩa là bây giờ Thầy nói như thế này nè, ở thành phố Thầy đi khất thực họ kéo bằng cái - họ kêu là họ chất một đống họ kéo cả xích lô về chùa Thầy. Tức là khất thực kiểu Thầy rồi đó, mấy ông này giống Thầy, chớ không phải không đâu!

Cho nên cái chuyện này là cái chuyện không có đúng cách. Khất thực vừa đủ cái bình bát của mình ăn cái bữa ăn thôi, ăn dư rồi các con biết không? Đem bỏ ngoài đất trống chớ không được bỏ lên cỏ nữa, chớ không được để ngày mai nữa. Đúng là cái giới luật của Phật.

Thế mà bây giờ Phật còn chế ra cái pháp dư thực để mà ăn lại, thì hóa ra mấy ông này ổng chế giới ra để mà ổng thọ ăn ngày ba bốn bữa cho đã mấy ổng chớ gì? Vậy còn gọi là ly dục, ly gì? Cho nên cái giới này, thành ra theo mà đúng thì nên là bỏ cái giới này đi, không có xài.

(52:20) Pháp dư thực là sao?

“Thưa Đại đức! Tôi đã ăn xong, biết đây, xem đây!” Vị kia lên lấy ăn một ít rồi nói: “Tôi ăn rồi, thầy lấy mà ăn đi!”

Đó là pháp dư thực nó như vậy, tức là làm cái pháp đó để cho mình ăn thêm, còn mình không làm cái pháp đó tức là mình ăn phi thời, hiểu chưa?

Còn nếu mà mình nói như thế này nè: “Thưa Đại đức! Tôi đã ăn xong rồi, đây là thừa. Và vị kia, tức là thầy, thầy nên lấy cái này mà ăn đi! Đây là tui làm cái pháp dư thực rồi, thầy cứ ăn, không có tội gì nữa đâu, ăn thêm không có tội đâu. Rồi mai mốt mà tui muốn ăn thêm, thầy cũng làm cái pháp đó đi rồi tui ăn thêm!”

Nghĩa là hai người người ta đồng ý với nhau, người ta làm vậy đặng ăn phi thời! Đó, đó là con thấy cái giới luật như vậy chúng ta chấp nhận được không?

Bây giờ thí dụ như giờ này chúng ta ăn rồi nè, bây giờ đồ ăn còn trong kia, hồi trưa không biết mấy thầy ăn hết không, không biết, bây giờ còn thấy bánh mì đồ còn bỏ lại đó. Thôi bây giờ mình làm pháp dư thực đi, còn ba, bốn ổ mình chia nhau, mình làm pháp dư thực mình ngồi mình xực! Có tội gì đâu! Mình làm pháp đó rồi, đâu có tội!

Nhưng mà các con nghĩ như thế nào khi mà chúng ta là người tu hành ly dục ly ác pháp thì cái ăn cũng là một cái thứ dục lạc rồi, có đúng không? Đâu có đúng pháp! Như vậy là cái giới luật này đâu có đúng các con! Chế cái pháp dư thực này đâu có đúng.

Cho nên cái giới luật này mình gạch bỏ đi, đừng có đem để trong cái kinh sách của Phật. Đây là mấy cái lão tham ăn! Nói thẳng đi! Nói thẳng tay đi! Đây cái thứ mà chạy theo dục, chớ không phải là…​

Cái giới luật mà như vậy là cái giới luật không tốt rồi, cho nên không có đúng pháp của Phật, cho nên chúng ta gạch bỏ tên đi, không xài. Thầy nói gạch là gạch à, chớ không có xài là không xài!

36) GIỚI KHIẾN CHO TỲ KHEO PHẠM DƯ THỰC

(54:00) 36. Giới khiến cho Tỳ Kheo phạm dư thực.

Vì sao Phật chế giới này?

Đức Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, có Tỳ Kheo ham ăn bị các Tỳ Kheo khác quở trách, lòng ôm sân hận. Sau một thời gian, ân cần mời các vị khách ăn, muốn cho vị ấy phạm giới để trở lại gạn hỏi tội lỗi của người. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân đó mà thuyết giới này.

Nếu Tỳ Kheo nghe mời liền thọ thực ăn, mỗi miếng cả hai đều phạm tội Đọa. Nếu cho mà người kia không ăn thì người không cho phạm Ác Tác.

Không phạm là trước không biết người kia đã ăn xong, hay là không có tâm muốn cho người kia phạm.

Ở đây cái giới chế ra như thế này, nghĩa là không có làm cái pháp dư thực. Nghĩa là mình đến đó, cái người đó mời mình ăn, mời vô cái mình ngồi mình xắn no thôi, rồi một lát thì khi mình ăn rồi đó mà mình muốn ăn trở lại. Thấy người ta, mình ăn hết cái đồ ăn người ta mời rồi cái mình xúm mình ăn, mình quên, để từ từ người ta dọn lên coi cái gì ngon mình ăn trước, đằng này quên đi, mình đói quá rồi.

Bởi vì hôm qua mình ăn bữa nay cái đi khất thực, mà về cái ông cư sĩ này ổng mời vô cái mình ngồi vô mình ăn, bởi vì đói, mình lo ăn. Chừng mà ăn xong rồi cái mình no rồi, thì gần xong rồi no rồi, người ta dọn ba cái đồ ngon lên nữa, bây giờ muốn ăn thêm làm sao bây giờ? Mà quên làm cái pháp dư thực, làm sao ăn?

Cho nên do đó bây giờ có một mình mình, làm sao làm pháp dư thực được, phải có một người nữa họ làm pháp dư thực thì mình ráng ăn được, đằng này có một mình làm sao làm?

Thành ra bây giờ muốn ăn đâu có được, mà ăn thêm thì tội, do đó thì cho nên nó mới kẹt. Chớ phải hai ông thì thôi bây giờ ông làm cái pháp dư thực cho tui đi, tui ăn thì nó phải được, còn tui làm cái pháp dư thực cho ông thì ông ăn mới được. Còn bây giờ có mình tui, tui làm sao tui làm cho tui được?

Cho nên vì vậy mà kiết cái giới này không có thể nào làm pháp dư thực được, cho nên không có được ăn, vì vậy mà ăn có một lần thôi, bây giờ có ngon gì cũng không ăn. Phải không? Các con thấy.

Khi mà mình ăn rồi, mình uống nước rồi, thì bắt đầu người ta mới đem chè cháo lên hay trái cây gì lên. Bây giờ uống nước rồi làm sao ăn thứ này được? Mà bây giờ mình thấy chè cháo cũng thèm, mà trái cây cũng muốn, mà bây giờ có mình mình làm sao làm pháp dư thực được ăn?

Thiệt ra chế ba cái giới này nó lộn xộn thiệt, toàn là cái thứ ăn không à! Không có cái gì, hoàn toàn hết. Nãy giờ giới ăn không chớ có cái thứ gì? Các con thấy không?

37) GIỚI TRÁI THỜI MÀ THỌ THỰC

(56:17) 37. Giới trái thời mà thọ thực.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Tôn giả Ca La thường ngồi thiền, tư duy nhàm chán việc đi xin…​

Đi hành khất đó.

…​ bèn chứa thức ăn lại để ăn.

Nhân đó Phật dạy: “Ý của ông tuy muốn thiểu dục tri túc, nhưng chúng sanh sau này làm theo, không lợi cho chánh pháp.” Quở trách xong Phật kiết giới này.

Nghĩa là cái ông này ổng tổ cha ổng ngồi thiền mà ổng tổ cha ổng làm biếng, ổng để dành thực phẩm ở nhà ổng nấu ông ăn à, ổng không thèm đi xin. Tức là ổng bỏ cái hạnh khất thực của ông đi.

Thật sự ra cái sự mình nấu nướng mình ăn, các con mà biết các con nấu nướng các con ăn, nó không phải làm chủ cái ăn đâu. Khi nó ăn cái này nó ớn rồi nó đòi hỏi mình phải làm cái khác. Cho nên cái vấn đề này là cái vấn đề quan trọng của vấn đề dục lạc lắm, về cái ăn. Mà mình thắng được cái ăn là mình thắng được cái dục chớ không phải là không đâu. Cho nên cái vấn đề rất là quan trọng.

Mà chế giới này hầu hết là chế giới tầm bậy tầm bạ không à. Nó chỉ chạy vòng vòng theo cái dục lạc cái ăn đó. Mà vì quý thầy bây giờ bỏ hết rồi, chỉ còn có cái ăn thôi à, cho nên mới chế ra nó chạy vòng vòng chỗ cái ăn, chạy qua chạy lại cũng đi tìm ăn đây thôi chớ không có gì hết.

Rồi bây giờ đây là có cái ông thầy này nói thiền, ổng tư duy ổng ngồi, ổng làm biếng không thèm đi xin ăn, ổng mới để lại đồ ăn, ổng nấu nướng này kia ông ăn, thì ổng còn tổ cha ổng chạy theo cái dục còn hơn ai nữa đó.

Nghĩa là thay vì đi xin người ta cho cơm không, không có muối ăn nuốt không vô, còn bây giờ đó, ổng ở nhà ổng nấu, thế nào ổng cũng phải làm đồ ăn đồ uống cho ngon cái miệng ổng rồi, thành ra ông này ổng chạy theo dục rồi.

Mà chế cái giới này thì Thầy thấy đúng là không có cho cái ông này là ở nhà nấu ăn là đúng. Cái giới này đúng đó, cấm không có cho ở thất ở lều mà nấu ăn, đi xin ăn thôi chớ còn không có ở thất mà cất cái thất ra mình nấu ăn.

Như cô Cảnh cổ ở thất cổ nấu ăn, suốt cả đời cổ cũng vậy thôi à, cũng thành cái người nấu ăn rồi chớ không có tới đâu hết à.

Mà nhiều khi còn để dành sữa bơ đồ để dành để bữa nay uống hết ngày mai không có uống nữa. Lẽ ra bây giờ nó còn có một muỗng à, mà nói bữa nay mình uống hết ngày mai lấy gì uống, thôi để mai đi. Có để dành chớ bộ không à. Đó. Đó là cái sự thật hiển nhiên chớ không thể nào mà chối cãi được hết.

Hay hoặc là bữa nay đó, bữa nay mình không có bệnh, thôi để dành ba cái sữa này khi nào có bệnh mình uống, để bây giờ mình uống rồi tới chừng bệnh lấy đâu uống! Nó cũng còn cái để dành đó. Đó là cái sai. Cho nên bữa nay mạnh khỏe cứ việc ních hết đi cho rồi, ngày mai nó tới đâu thì tính đó.

Còn cái này còn tính chừa để dành ngày mai, tính lo ngày mai, phòng ngừa ngày mai, thì cái chuyện đó không phải người tu sĩ của đạo Phật đâu. Tu sĩ đạo Phật không có phòng ngừa ngày mai, ngày mai tới đâu giải quyết tới đó, hiện tại bây giờ có thì ăn mà không có thì thôi chớ còn nhất định là giải quyết bây giờ.

38) GIỚI ĂN THỨC ĂN CÁCH ĐÊM

(58:56) 38. Giới ăn thức ăn cách đêm.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nhân vì khi Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, có Trưởng lão Ca La khất thực ăn không hết, để dành phơi và qua ngày sau dùng.

Giống như mình đó, ăn cơm không hết phơi để dành làm cốm ăn đó. Có không? Giống như mình đó.

Vì vậy mà Trưởng lão không thường xuyên đi khất thực…​

Bởi vì có cốm rồi đâu có đi khất thực, làm một cục về là thấy no bữa đó rồi!

…​ mà sống một mình ở trong rừng, chuyên tu thiền định. Dù vậy hành động cất chứa bị coi là phi pháp, cho nên Phật nhân đó mà kiết giới này.

Ông tính ông tu thiền, ông khỏi cần đi, vì đi ra ngoài thì nó không có giữ được cái hạnh độc cư, cho nên ổng thôi cất giữ cơm lại để dành phơi khô, rồi mình đi xin bữa nào họ cho mình tí đường về mình ngào, rồi mình bỏ trong một cái bát để dành, hễ đói mình lấy cục mình ăn, mình khỏi có lo đi xin.

Thành ra ổng tính như vậy là khỏe, mình cứ vậy đó mình ngồi thiền, chắc chắn là mau thành Phật. Nhưng cuối cùng vì cái hạnh này là cái hạnh nó còn đòi hỏi ở chỗ cái ăn cho nên nó chưa có ly, vì vậy mà cuối cùng thì ông cũng chả đạt thiền định gì hết, cho nên Phật chế cái giới này.

Chớ phải chi ông đạt thiền định này được, ổng nói: “Nhờ tui ăn ba cơm khô này mà tui đạt thiền định” thì chắc đời nay đều là mình thành cơm khô hết rồi.Tại sao? Ăn cơm khô thành cơm khô chớ không lẽ mà thành thiền định được!

Cho nên chắc chắn là Thầy nghĩ rằng người nào ăn cơm khô mà tu thiền định mà đắc được, chắc là thiền định cơm khô chớ không phải gì!

39) GIỚI KHÔNG THỈNH MÀ THỌ THỨC ĂN

(01:00:28) 39. Giới không thỉnh mà thọ thức ăn.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở vườn Cấp Cô Độc, một Tỳ Kheo thường khất thực, mặc áo phấn tảo, lấy thức ăn của cư sĩ cúng tế cha mẹ, anh em, chị em qua đời để ăn. Cư sĩ chê hiềm. Nhân đó Phật kiết giới.

Khi ấy các Tỳ Kheo sinh nghi, không dám tự lấy tăm xỉa răng và nước uống. Phật dạy: “Không phạm.” Rồi Phật kiết giới lại, thêm câu: “trừ nước và tăm xỉa răng.”

Nghĩa là ở đây thì cái giới không thỉnh mà thọ thức ăn, vì sao Đức Phật bây giờ đó mới cấm cái giới này? Là vì các vị Tỳ Kheo họ đi xin thức ăn, rồi họ về họ cúng tế cha mẹ của họ, anh em cha mẹ của họ, những người mà chết đi đó, thì cư sĩ mới thấy điều đó mới chê, nhân đó mà Phật kiết giới này.

Vì vậy đó thì khi mà họ cúng bái rồi, ở đây theo Thầy thiết nghĩ, trong cái thời Đức Phật thì cái hướng dẫn của đạo Phật nó phải rõ ràng và cụ thể. Là vì cái người chết đi nó không có cái linh hồn, mà thế sao tại sao mà các Tỳ Kheo này không hiểu để mà cúng bái như vậy? Các con hiểu điều đó.

Ở đây là cái người sau mà viết cái giới này là vì họ đã bị ảnh hưởng của cái người sau, cho nên nó có cái linh hồn của cha mẹ của mình, cho nên các vị Tỳ Kheo này mới lấy cái của xin đó mà đem về cúng bái cha mẹ của mình, coi như có linh hồn á. Đó thì cái này nó trật cái nghĩa của đạo Phật mất đi, mà họ tưởng đây là đúng nghĩa. Cho nên nó không phải đúng nghĩa như vậy.

Bởi vì mình đi xin thức ăn của cư sĩ thì mình về mình nuôi sống cái mạng sống của mình, để cho mình ăn mình tu hành. Cái này thì chắc có lẽ là nhớ đến cái ngày giỗ ngày kỵ gì cúng tế của cha mẹ, mới nhân đó mà lấy mà cúng bái cha mẹ của mình, để rồi coi như có những cái linh hồn.

Do vì vậy đó Phật chế cái giới này ra, thì coi như là cái người mà cúng bái như vậy đó là phạm cái giới, và cái giới mà chế ra như vậy là cái trách nhiệm hiểu kinh của Phật, có hiểu đúng không?

Cũng như bây giờ tại sao hằng ngày mà mấy con thấy Thầy ngồi ăn Thầy cúng bái, trước là cúng chư Phật, sau cúng ông bà cha mẹ của mình để làm gì? Có phải là Thầy cúng cho linh hồn của cha mẹ ông bà của mình không? Các con phải hiểu được cái ý nghĩa này.

Cái bài tụng kinh đó thì - bài tụng mà cúng á, thì nó quá rõ ràng chớ gì? Nhưng không phải cúng ông bà cha mẹ của mình đâu, mà đây là cái mục đích của Thầy phá cái tạp khí, phá cái phong tục, cái tập quán.

(01:03:07) Ngày tư ngày tết, ngày giỗ ngày chạp là chúng ta nhớ đến những cái ngày đó mà chúng ta không cúng không bái không gì hết là chúng ta có cái sự buồn khổ trong tâm. Còn bây giờ chúng ta là người tu sĩ, hằng ngày chúng ta ăn chúng ta từng cúng như vậy đó, là bây giờ tới ngày giỗ ngày chạp chúng ta có nhớ không? Chúng ta hằng cúng hằng ngày mà chúng ta còn nhớ cái gì nữa? Cho nên ngày tư ngày tết chúng ta cũng chẳng cúng chẳng gì hết.

Các con ngồi sít lên đây nghe coi.

Mục đích của mình ở đây, mình cúng không có nghĩa là mình cúng cái linh hồn cha mẹ mình đâu. Bởi vì mình là con người đã hiểu nhân quả.

Khi mà cái thân của mình chết đi rồi thì như cái ngọn đuốc mà tắt thì nó sẽ mồi tiếp cái ngọn đuốc khác cháy tiếp tục, nó không bao giờ mà có sự gián đoạn ra 5 ngày, 10 ngày, hay 49 ngày đi tái sanh luân hồi, không phải, không có đâu.

Nghĩa là nhân quả nó không bao giờ nó có cái sự gián đoạn ra một phút giây nào gián đoạn ra được hết. Nó tiếp nối liên tục, nó hoàn toàn ở trong cái sự liên tục của cái sự sanh diệt của nó.

Cho nên ngay trong bản thân của chúng ta hiện giờ đang sống nè, nó có sự sanh diệt liên tục ở trong đó, cho nên khi bỏ cái thân này thì nó tiếp qua một cái thân khác, nó liên tục, như cái ngọn đuốc này tắt thì cái ngọn đuốc này phải cháy, ngọn đuốc này chưa tắt thì ngọn đuốc này chưa cháy, cứ hễ cái ngọn này cháy thì ngọn này tắt. Do đó cái thân này diệt thì cái thân khác có liền, nó không có một kẽ hở.

Do đó không phải là chúng ta ở đây cúng cha mẹ, ông bà nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta hưởng đâu, mà chúng ta nhằm phá cái phong tục. Vì cái phong tục của dân tộc, của tập quán của chúng ta rất nặng, ngày tư ngày tết mà chúng ta không cúng không bái, chúng ta có cái sự buồn khổ trong lòng.

Do như vậy mà hằng ngày chúng ta ngồi lại chúng ta ăn cơm là chúng ta nhớ rằng chúng ta đã cúng bái những người chết đi, chúng ta cúng bái những người đã qua phần đi, làm cho cái tâm hồn chúng ta không còn thấy có cái sự thiếu thốn ở chỗ cái tinh thần của dân tộc của chúng ta.

Vì tinh thần dân tộc của chúng ta là tinh thần - có cái tinh thần của tổ tiên, cho nên chúng ta có nguồn gốc có tổ tiên mới sanh mình ra. Bây giờ mình không làm những cái điều đó đó, thì mình như là mình thiếu cái bổn phận của mình đối với ông bà tổ tiên của mình, với cha mẹ của mình.

Cho nên mình làm cái bổn phận đó, thì mình đứng ở trong góc độ của người tu sĩ của đạo Phật thì mình thấy như là mình làm một cái chuyện mê tín, cái chuyện không đúng, cho nên chúng ta không làm cái điều đó được.

Vì vậy mà hằng ngày - chúng ta muốn phá vỡ cái phong tục đó đi thì hằng ngày ngồi ăn cơm, chúng ta nhớ đến Phật, nhớ đến cha mẹ, ông bà nhiều đời nhiều kiếp của mình, coi như những người đó đang thọ hưởng cái bữa cơm với chúng ta rồi.

Vì vậy mà tới ngày tư ngày tết, ngày giỗ ngày chạp, chúng ta không cúng chúng ta thấy mình đã làm hết bổn phận: “Ngày nào tui cũng mời các vị đó ăn rồi, cho nên tui thấy tui hết bổn phận tui rồi. Cho nên ở đây tui không có tổ chức.”

Còn để không thì chúng ta bị tổ chức nó làm cho chúng ta gián đoạn cho cái tâm hồn giải thoát của chúng ta. Trên cái lộ trình nhân quả không có gián đoạn, mà thế là sự tu tập của chúng ta bị gián đoạn qua những cái phong tục tập quán đó, nó làm cho chúng ta phải ray rứt thế này thế khác trong lòng.

Cho nên ở đây chúng ta có chỗ nói, phải không? Bởi vì chúng ta muốn đạp trên dư luận mà chúng ta đi thì chúng ta phải có cớ, mà không có cớ thì chúng ta sẽ nói không được.

(01:06:08) Chẳng hạn là bây giờ nhà các con có người chết mà các con không mời thầy tụng kinh, ông thầy chùa tụng kinh á, thì người ta sẽ nói các con. Mà các con mời nhiều ông thầy tụng kinh thì thì người ta khen các con. Phải không?

Cho nên ở đây các con rất khó, bởi các con biết rằng tụng kinh nó không cầu khẩn cho cha mẹ của các con được, mà làm như vậy thì nó trái với đạo Phật, mà các con không làm thì bị người ta lên án, cho nên các con phải làm như thế nào để đúng?

Do vì vậy đó mà các con phải làm cho đúng. Làm đúng như thế nào? Các con đơn sơ, các con mời một ông thầy tụng cho nó qua, xuôi qua đi, cho họ đừng có nói. Đừng có tập trung nhiều ông để người ta khen, người ta khen cái đó nó không đúng đâu, nhưng mà đừng có để cho người ta lên án mình bằng cách này bằng cách khác, thì do đó chúng ta cũng tùy thuận.

Sau khi Phật giáo mà chấn hưng lại được thì chúng ta phá dỡ cái mê tín này đi, nói cho rõ, thì người ta sẽ không có đi nữa được, người ta không có lên án mình được.

Còn bây giờ giục không á, mà người ta nói: “Bây giờ tụi bay đi tu rồi chẳng biết ngày giỗ ngày chạp của ông bà cha mẹ bay hết!” Thì các con đâu có chỗ nói được?

Còn cái này: “Bằng chứng cụ thể hằng ngày tôi đã cúng cha mẹ, mỗi bữa ăn tui đều cúng cha mẹ của tui hết rồi, thì bây giờ trong cái ngày tư ngày giỗ, mấy anh mấy chị không cúng thì bây giờ mấy anh chị cứ cúng đi chớ, tui có cấm cản đâu! Còn riêng tui, tui cúng hàng ngày rồi mà, làm sao bắt tui phải cúng nữa?”

Cho nên mình có chỗ nói mà người ta không nói mình được, nhưng mình phải hiểu cái ý của mình làm cái đúng cái sai. Vì vậy cho nên mình có chỗ nói mà làm cho người ta không có lên án mình được, vì vậy mình đạp trên dư luận mình đi, mà mình đi với tính cách mình có cái chỗ trả lời họ rất đúng cách.

Cho nên ở đây Thầy muốn nói với các con: Làm một cái gì mình phải có sự suy nghĩ, để không người ta sẽ lên án mình đủ mọi cách. Vì phong tục tập quán là cái sai của - có cái đúng, cái phong tục tập quán nó có cái đúng, nhưng cũng có cái sai chớ không phải là toàn bộ đúng hết.

Bởi vì từ xưa đến giờ chúng ta là những người sống với những cái sự sợ hãi, cho nên những sự sợ hãi đó nó sanh ra những sự mê tín, những cái sự mà không thể kiềm chế được cái lòng sợ hãi của chúng ta, bắt đầu chúng ta sanh ra cái thiếu trí tuệ, thiếu cái sự minh sát đúng thật, cho nên chúng ta có những sự lầm lạc qua cái tưởng của chúng ta.

Vì vậy mà chúng ta biết sai thì chúng ta cần phải có những cái làm cho nó đi lại cho được cái đúng. Nhưng mà cái đúng lần lượt chúng ta cố gắng chúng ta làm, thì hiện bây giờ chúng ta phải có những cách để chúng ta luận mà họ không có thể nào mà nói được chúng ta, thì cái điều đó là chúng ta phải biết. Chớ không khéo thì chúng ta sẽ bị người ta luận thế này thế khác thì nó không hay.

Như vậy đọc qua cái giới này, chúng ta thấy rõ ràng là ảnh hưởng của Đại Thừa mà chế giới ra chớ không phải giới nguyên thủy. Đó thì chúng ta biết như vậy, cái sai cái đúng, để mà chúng ta chỉ mặt cho rõ những cái giới này và những người chế giới này là không phải thời Đức Phật.

Tại sao Đức Phật lại chế giới như vậy được? Là vì trong thời Đức Phật là Phật đã dạy các vị Tỳ Kheo này phải hiểu Phật pháp rồi, thì các ngài đâu làm những cái chuyện này mà đi xin ăn về cúng cha mẹ mình?

Đó thì phải hiểu những cái điều mà ở trong kinh sách Phật dạy, và hiểu những giới này đúng sai để chúng ta phê phán, sau này chúng ta chỉnh đốn lại Phật giáo. Nghĩa là trong các con phải có những người mà sau này phải thay Thầy mà chỉnh đốn lại những cái giới bổn này. Cho nên ở đây Thầy nói để các con lưu ý trong những cái phần đúng phần sai.

40) GIỚI KHÔNG BỆNH MÀ ĐÒI THỨC ĂN NGON

(01:09:31) 40. Giới không bệnh mà đòi thức ăn ngon.

Vì sao Phật kiết giới này?

Bởi khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Bạt Nan Đà đến một thương chủ xin ăn mỹ diệu. Thương chủ chê hiềm. Phật nhân đó kiết giới này.

Lúc ấy có Tỳ Kheo bệnh, sợ không dám xin, cũng không dám vì người bệnh mà xin, nhận được rồi cũng không dám ăn. Phật dạy: “Không phạm”, và Ngài kiết giới này.

Nếu không bệnh mà xin thức ăn ngon cho chính mình, mỗi miếng ăn phạm một tội Đọa, bốn chúng kia phạm tội Đột Kiết La.

Nghĩa là trong cái giới này, khi cái một người bệnh mà ăn không được thì xin những cái thực phẩm cũng như là sữa hay hoặc gì uống để cho nó được mạnh. Thay vì cơm thường thì ăn với muối này kia, thì cái vị đó ăn không được, cho nên bây giờ xin sữa hay sinh tô, hay lạc cho cái vị bệnh này ăn.

Thì trong khi Phật chế cái giới này ra thì người ta tưởng rằng người nào cũng không được, cho nên Phật lại chế thêm: Người bệnh thì được xin sữa, xin đường hoặc là xin những cái thực phẩm mà có thể người bệnh mà ăn được, còn những cái thực phẩm mà người bệnh ăn không được thì thôi. Còn cái người mà mạnh mà đòi đi xin sữa, xin bơ đồ thì không được. Đó là Phật chế như vậy.

Thì như vậy là Thầy thấy cái giới này thì có thể chấp nhận được, là vì đúng là cái người bệnh nhiều khi chúng ta ăn cơm chúng ta ăn không được, có những khi chúng ta cần phải ăn cháo. Vậy cho nên cái người mà được gần cư sĩ mà xin cho cái người đau ăn được những cái thực phẩm mà để cho người bệnh ăn được để cho mau mạnh thì rất tốt. Thì cái giới này chế như vậy Thầy chấp nhận.

41) GIỚI TỰ TAY MÌNH CHO NGOẠI ĐẠO THỨC ĂN

(01:11:18) 41. Giới tự tay mình cho ngoại đạo thức ăn.

Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa Đức Phật từ nước Câu Tát La du hành đến nước Xá Vệ, trên đường đi được nhiều thức ăn cùng dường. Phật bảo ông A Nan chia bánh cho chúng tăng. Chia rồi còn dư, Phật bảo cho người đi xin.

Trong số người đi xin có người nữ ngoại đạo lõa hình, nhan sắc đoan chính, ông A Nan đưa bánh, bánh dính hai cái lại, ông tưởng là một, đưa cho người nữ đó. Người nữ đó hỏi người gần: “Một người một cái hay là hai cái?” Người gần nói: “Một người một cái.” Người nữ đó nói: “Tôi được hai cái.” Người kia nói: “Vị sư chia bánh chắc cùng cô tư thông.”

Các thầy Tỳ Kheo nghe đều không vui. Trong hội đó có một Phạm chí do đó mà khinh thường Sa Môn, trên đường đi gặp Bà La Môn gọi Cù Đàm Sa Môn là bọn trọc đầu, và thuật lại việc kia. Phật do duyên ấy nên kiết giới.

Cho mà họ nhận, phạm Ba Dật Đề. Cho mà họ không nhận, phạm tội Đột Kiết La. Muốn cho mà không cho trở lại, hối hận, phạm tội Ác Tác. Nếu cho cha mẹ, người có công quả, không phạm tội.

Ở đây thật sự cái của mà đàn na thí chủ người ta cúng dường cho mình thì mình chỉ được quyền mình ăn chó không được cho cha mẹ. Mà trong cái giới này, theo Thầy thiết nghĩ trong giới kinh thì nói như vậy, nghĩa là mình có đi tu thì mình mới ăn được cái của đó, còn cha mẹ mình không có đi tu mà mình đi xin mình đem về mà cho cha mẹ mình ăn là cái tội rất lớn chớ không phải là tội nhẹ đâu.

(01:13:13) Mà ở đây nếu cho cha mẹ, cho người công quả phụ trong chùa mình, mình xin rồi mình đem về mình cho mấy người đó thì không tội, cái này là sai quá sai. Thầy thấy trật, không có đúng. Cái người công quả là cái người đó họ là còn cư sĩ, họ còn nấu cơm, họ còn ăn được, chớ họ đâu phải là người khất sĩ như mình đâu?

Các con thấy ở trong chùa mấy người cư sĩ mà công quả đâu phải là tu sĩ, họ là tịnh nhân, họ có thể ở ngoài nhà kia họ đến đây họ công quả rồi họ về nhà ăn cơm chớ họ đâu có…​ Này là mình đi xin về cũng cho mấy người đó ăn nữa đặng tội lút cái đầu của họ!

Cha mẹ mình ở nhà không tu mình cũng đem nào sữa nào bơ, cái này xin một bát rồi đi xin xóm khác một bát nữa đem về cho cha mẹ mình một bát đặng nuôi cha mẹ mình. Thôi đi tu nuôi cha mẹ, thôi ở nhà mà nuôi cha mẹ đi, còn bày đặt đi tu đặng đi xin xỏ nuôi cha mẹ, làm cái điều bất nhân chớ đừng nói. Vậy mà hiếu gì? Thật sự ra cái này làm tội cha mẹ thêm chớ hiếu!

Bởi vì những cái điều kiện như vậy thử hỏi làm sao mà Thầy chấp nhận những cái giới này?

Cho nên đối với cái vị A Nan đó, sơ sót khi mà chia bánh, mà chia người nữ một cái bánh, cũng như bánh mà người ta ấy đường hai cái vòng vầy rồi bị đường nó dính đó, ổng đưa lại, và đưa cho cái bà nữ mà lại đưa cái bánh dính hai cái vậy ổng mới chết chớ! Mà cái ông đó lại là ông bất nhân, cái ông đó lại là - phụ nữ thấy ổng lại mến luôn nữa chớ, mà ổng lại đưa cái kiểu đó, cho nên người ta mới từ đó mà tuyên bố ra những cái sự sai trái.

Nhưng sự thật ra thì, thiệt ra đây là những cái - không lý mà ông A Nan sống với Phật mà không hiểu mà lại lầm lạc đến cái mức độ đó, Thầy cũng chẳng hiểu. Đây cũng là một cái việc mà người ta khéo bịa ra, chớ còn một cái người tu sĩ không có bao giờ mà làm cái chuyện đó hết.

Thứ nhất là cái người tu sĩ mà đứng ra để chia bánh thì chắc cũng không có. Đi khất thực rồi Thầy nghĩ rằng, bây giờ người ta có đem đến đi nữa thì tự cư sĩ họ chia làm sao họ chia, mình được nhiêu ăn nhiêu à, chớ còn mình chia nhiều khi mình để mình mấy cái.

Thiệt mà, Thầy nói đôi khi mình chia mình - không lẽ bây giờ chia hết rồi, người một cái người một cái hết rồi, còn 5 cái chia ai nữa đây? Mà trong khi mình đây 13 người có còn dư 5 cái, làm sao chia? Thôi để mình tui đây chớ gì! Tại công tui chia, phải để cho tui hết chớ sao!

(01:15:23) Đó là những cái người mà chia thì họ: “Công tui, tui chia, tui phải lời nhiều!” Đó, thì như vậy là…​ Cho nên Thầy thấy thà để cho người cư sĩ họ chia mình hết xong rồi, bây giờ cái phần đó người cư sĩ còn thì ông đem về đi chớ chia sao cho được?

Tui đây 13 người mà ông có 5 cái, làm sao mà ông bây giờ cắt hai ra thì cũng không đủ, cho nên thôi ông chịu khó mang về đi, chứ để đây tụi tui cũng không ăn được đâu. Bởi vì cái lục hòa của chúng tui sống mà, thân hòa đồng trụ mà, lợi hòa đồng quân mà. Có cái lợi thì chia nhau đều nhau chớ dâu có người hơn người ít!

Cho nên cái người mà ăn hơn ở trong một cái - khi mà ngồi chung nhau như thế này mà một người ăn hơn, chúng ta không hổ thẹn sao? Mình ăn hơn người khác. Người ta ăn muối, toàn bộ người ta ngồi ăn muối, mà mình có cái gì ngon hơn mà mình ngồi đó mình nuốt, mình nuốt sao trôi?

Bây giờ Thầy hỏi, bây giờ trong nhà các con nè, có cha mẹ nè, năm ba đứa con ngồi ăn cơm nè, phải không? Mà bây giờ đó, cha mẹ ngồi gắp cá ăn mà con ngồi kêu là chấm, húp nước đồ chấm mà để ăn cơm thì thử hỏi làm sao mình nhìn con mình được?

Thà là cha ăn miếng, con ăn miếng, mẹ ăn miếng thì có còn thì còn mà hết thì hết, cùng ăn với nhau chớ! Lý đâu mà cả một cái gia đình mà lại là cha mẹ ngồi ăn ngon mà mấy đứa con thì ngồi chấm muối mà ăn, thì không thể nào mà được. Hay hoặc là cha mẹ ngồi ăn muối mà mấy đứa con nó ngồi nó gắp cá nó ăn được đâu! Con người mà, đâu có ai mà như vậy được.

Cho nên chúng ta ở trong đại gia đình của chúng ta - cái đó là cái tiểu gia đình chúng ta ngoài đời chớ gì, còn chúng ta là những người tu ở trong một đại gia đình, thì không lẽ nào một người ngồi ăn quá đủ mà người kia thiếu thì chúng ta nghĩ sao? Cũng như người có sữa mà người không sữa uống, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta thấy khổ tâm lắm, thà là không có là không có hết, mà có là có hết.

Cho nên thí dụ như bây giờ các con là bên nữ nè, bên nam là 10 người hay 15 người, bên con là 15 hay là 10 người, ngồi hai bên, mà đều là đủ là chia mà không đủ là dẹp cái món ăn đi. Nếu mà bây giờ thiếu một món là chúng ta cũng bỏ hết, không ăn nữa. Đó là đúng, lợi hòa đồng quân. Mà không có đúng thì thôi, chúng ta không chia. Thiếu là không chia, dẹp hết, chờ chừng nào có đủ, chia, mà không có đủ, xin trả lại cho cư sĩ.

Bởi vì không đủ, chúng tui không thể nào chia được. Lợi hoà đồng quân mà. Sáu cái hòa hợp của chúng tui ở trong Tu viện mà. Sống cùng chia nhau, có cùng ăn với nhau. Thà là không có là không có, ăn muối hết chớ còn chúng tui sống như thế này chúng tui sống không đúng cách, chúng tui không sống được được đâu.

Đó. Cho nên ở đây chúng ta thấy, muốn tổ chức hẳn hòi cái cuộc sống chúng ta phải như vậy mới sống. Trừ ra cái người mà bệnh đau thì chúng ta biết, chúng ta nhường lại những cái thực phẩm để cho cái người đau họ ăn để cho họ mau mạnh thôi, còn cái người mà không đau như chúng ta, hoàn toàn là phải sống y như nhau, người nào như người nấy.

Đó là cái điều kiện sống của chúng ta, không phải là vì giới luật gì hết, mà ở đây phải chế giới luật thì Thầy thấy nó quá là - nó thô tháo quá là thô tháo.

42) GIỚI Ở TRONG THỰC GIA, GƯỢNG YÊN NGỒI

(01:18:17) 42. Giới ở trong thực gia, gượng yên ngồi.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, khi Ca Lưu Đà Di đến khất thực nơi nhà Trai Ưu Bà Di với tâm luyến ái, ăn xong không chịu đi, trở ngại người chồng lúc dục tâm dồn nén. Nhân đó, Phật trách ông Ca Lưu Đà Di và kiết giới.

Theo cái giới này, ăn rồi, khi mà người ta mời trong nhà mình ăn rồi thì mình đi liền, chớ không phải ngồi cà kê nói chuyện này chuyện kia để cho người ta nổi sân, hay hoặc là người ta không có cái chuyện riêng tư của vợ chồng người ta, hoặc là người ta nói chuyện làm ăn thế này thế khác, làm mất thì giờ người ta.

Hầu hết là cũng có một cái số quý thầy đi thọ trai rồi ngồi cà kê với chủ nhà, nói này kia đồ tùm lum, làm duyên làm dáng với nhau, điều đó là điều trật. Cho nên Phật chế giới này rất đúng, khi mà chúng ta đến đó thọ trai hay hoặc chuyện gì thì xong rồi chúng ta đi liền, chớ không được làm quen, làm thân.

Hồi Thầy đến thành phố cũng vậy, có nhiều thầy rủ thầy đi đến thăm cư sĩ, nói chuyện tầm bậy tầm bạ, ngồi nhà người ta làm người ta không coi tivi được, không nghe radio được, người ta cũng thấy ghét mình nữa.

Cho nên đối với Thầy, Thầy đã hiểu biết cái điều đó, cho nên ở chùa, ở chùa chớ không có đến nhà cư sĩ, mời gì cũng không thèm đến hết. Và cũng vì đó mà người ta rất quý trọng mình, còn mình lê la lê la đến mấy nhà cư sĩ, họ coi mình chẳng ra gì hết.

43) GIỚI Ở TRONG THỰC GIA, NGỒI CHỖ KHUẤT NÓI CHUYỆN

(01:19:41) 43. Giới ở trong thực gia, ngồi chỗ khuất nói chuyện.

Vì sao Phật kiết giới này?

Do duyên khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc, Ca Lưu Đà Di bị Phật cấm trong nhà có ăn, có vật báu không được ngồi, phải ngồi ở chỗ duỗi cánh tay đụng cánh cửa, nên ông ngồi sau cánh cửa cùng với Trai Ưu Bà Di. Nhân đó Phật kiết giới này.

Nghĩa là ông ngồi sau cánh cửa, cánh cửa khép vầy, kín, không ai thấy ông hết, ông ngồi đó ông nói chuyện với con gái của người ta. Trai Ưu Bà Di tức là đứa con gái mà đã thường đi đến tịnh xá cúng dường đó, là một cư sĩ nữ, cho nên ông thường hay đến cái nhà của cư sĩ này rồi ăn cơm, rồi ở đó nói chuyện với cái cô này.

Cho nên Đức Phật nghe những cái điều đó, Đức Phật cấm cái giới này: Không có được ngồi chỗ khuất. Cánh cửa mà khép kín vầy, không ai đi vô nhà, không ai thấy, cho nên ông ngồi đó ông nói chuyện tự nhiên với cái cô con gái nhà người ta. Cho nên nghe cái này Phật kiết giới cấm không có cho.

44) GIỚI MỘT MÌNH NGỒI VỚI NGƯỜI NỮ

(01:20:44) 44. Giới một mình ngồi với người nữ.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do đồng như giới trước, chỉ khác là Ca Lưu Đà Di ngồi với Trai Ưu Bà Di chỗ trống, ngoài ra đều đồng như giới trước.

Nghĩa là trước kia cũng ông này, ổng ngồi chỗ kín, ổng kéo cánh cửa đậy ổng lại, ổng ngồi ổng nói chuyện với con gái người ta. Bây giờ ổng rủ con gái người ta ra ngoài đồng trống, ổng ngồi nói chuyện ở ngoải! Thiên hạ nhìn thấy, cười. Do đó cũng học với Phật, Phật cũng chế không có được ngồi ngoài đồng trống mà nói chuyện, ngồi chỗ vắng thì cũng không được.

Ngồi chỗ kín thì cũng cấm, rồi bây giờ ngồi chỗ trống ông Phật ổng cũng cấm, thì cái ông Lưu Đà Di này ổng nói: “Ông Phật sao mà nhiều chuyện quá không biết! Tui cứ ngồi chỗ kín thì ông cũng không cho, mà tui ra giữa đồng tui ngồi tui nói chuyện thì ông cũng cấm, không được. Rốt cuộc rồi cái chỗ nào thì cũng bị cấm!”

Bởi vì nói chung là trong giới luật của Phật là cấm không có được nói chuyện với người nữ, cho nên Đức Phật nói: Đừng có gặp, mà gặp thì đừng có nhìn, mà có lỡ nhìn thì đừng có nói chuyện. Đó là Phật cấm như vậy mà! Thế mà bây giờ còn ngồi chỗ kín rồi ngồi chỗ trống là làm sao? Vậy mà chế ra từng giới từng giới làm gì, có một câu chuyện là Đức Phật đã dạy chúng ta đủ các giới hết rồi, chúng ta thấy rất rõ.

Như trong kinh giới, như ông A Nan hỏi: “Chúng con là những tu sĩ trẻ tuổi, đối với người nữ như thế nào?” Đức Phật nói: “Đừng gặp!” Phải không? Cái giới đừng gặp là chúng ta đâu có sao đâu! Đó là một cái giới rồi, phải không?

Rồi A Nan nói: “Lỡ chúng con gặp rồi làm sao?” Đức Phật nói: “Đừng có nhìn!” Cấm cái giới nữa: Đừng có nhìn, phải không?

Rồi ông A Nan hỏi tiếp: “Lỡ nhìn người ta rồi làm sao?” Đức Phật nói: “Đừng nói chuyện!” Ông Phật ông cấm cái giới thứ ba nữa: Đừng nói chuyện. Rõ ràng rồi chớ gì!

Bây giờ ông A Nan hỏi: “Lỡ nói chuyện rồi làm sao?” Ông Phật mới nói: “Mình phải xem họ như mẹ, như chị, như em ruột của mình đi!”

Đó, thì ông vua Ba Tư Nặc ổng ngồi ở bên mới nói: “Bạch Đức Thế Tôn, chúng con là cư sĩ, làm sao chúng con xem được như vậy? Chúng con có chị, có mẹ, có em rõ ràng. Còn các Ngài xuất gia rồi các Ngài xa lìa anh em, chị em, không còn ai là những người thân của mình nữa, do đó người thân cũng như là người sơ, người quen, lạ thì coi là chị em, cha mẹ mình hết, toàn bộ là được rồi. Tu sĩ là xem người nào cũng như cha mẹ, em út của mình được rồi, còn tụi con là cư sĩ, làm sao được?” - thì Đức Phật nói: “Các ông nên quán bất tịnh!” Là xong phải không?

Thì các con thấy từ năm cái giới một lượt là người ta đủ cách rồi, để mà người ta hàng phục được cái tâm của mình rồi. Còn cái này chế chi mà từ chút, từ chút vầy, lúc thì ở chỗ kín, lúc thì ở chỗ trống cũng chế, lúc nào cũng cấm đoán được, mà cấm đoán không có đúng cái hình thức, đúng cách để chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp.

45. GIỚI CỐ LÀM CHO TỲ KHEO KHÔNG ĐƯỢC THỨC ĂN

(01:23:28) 49. Giới cố làm cho Tỳ Kheo không được thức ăn.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, Bạt Nan Đà cùng với các Tỳ Kheo cãi lộn, phải sám hối, kết hận trong tâm, sau một thời gian, dối gạt Tỳ Kheo này cùng đi khất thực. Tỳ Kheo này nghe lời đi theo đến chỗ không có khất thực, dẫn đi khắp cùng, giáp cùng nước Xá Vệ, rồi trở về Kỳ Hoàn mà không có một hột cơm nào ăn hết.

Cái ông Tỳ Kheo này ổng nghe lời cái ông kia ổng đi, mà ông kia thì ổng - cái ông Bạt Nan Đà này ổng bị phạt bởi vì cãi lộn với ổng ghét, cho nên ổng rủ ông này đi khất thực, ổng dẫn đi cùng hết mà không ai cúng dường gì hết, cho đến quá Ngọ rồi về đến Tịnh xá Kỳ Hoàn mà không có thực phẩm gì hết, ông nọ ổng đói gần chết.

Còn cái ông Bạt Nan Đà thì ổng thốt lên lời nói xấu để đuổi đi, ổng kiếm cớ ổng nói ông này: “Ông đi khất thực kiểu đó làm sao có người ta cho ăn? Vì vậy mà ông đi kiểu này không có được!” Do đó làm cho ông này quá Ngọ không có gì ăn hết. Còn ổng, ổng đút nhét đồ ăn thành ra ổng trở về thất ổng, ổng có ổng ních ổng no, còn ông này thì đói thấy bà. Do như vậy đó, Phật mới kiết cái giới này ra.

Thù oán người ta đừng có cố mà làm cái chuyện mà người ta mất cái bữa ăn như vậy. Để tự người ta đi khất thực người ta phải có ăn, bây giờ dẫn người ta đi vòng vòng vòng vòng, lựa mấy cái nhà không cho mà cứ đi hoài, gặp mấy nhà Thiên Chúa mà cứ đi làm sao nó cho? Thành ra cuối cùng ông này đói gần chết.

Tới chừng về đó ổng kiếm chuyện ổng đuổi ông này đi, ổng nói: “Thầy đi khất thực mà thầy đi như vậy là làm sao? Tui bảo thầy đi như tui vầy mà thầy đi vậy làm sao người ta cho? Bây giờ chịu đói đi, đừng có theo tui nữa!” Thì ổng về thất ổng, ổng lục đồ ăn ra ổng ăn ổng no, còn ông kia có biết đâu để dành đâu mà ăn, cho nên bữa đó đói gần chết.

Đó, thì ghét người ta, thù hận, cãi lộn người ta rồi làm cho người ta đói, đó là cái xấu. Nhưng mà Thầy nghĩ rằng một Tỳ Kheo tu hành ai mà làm cái chuyện đó mà trong này nó đặt điều như vậy, thiệt ra không bao giờ có điều đó đâu. Mà trong cái thời Đức Phật lại là cái thời quá thanh tịnh rồi, đâu có đến đỗi như cái thời của chúng ta mà quá tệ?

Bởi vì chúng ta không có giới luật, không có pháp hành, còn thời Đức Phật nó có pháp hành, không thể nào ông Phật dạy mà thiếu pháp hành, cho nên người ta mà đến với Phật, người nào người ta cũng giải thoát chớ, không có lý nào mà cái chuyện đó được! Ông Phật còn sống chớ phải ông Phật chết đâu mà thiếu pháp hành để cho ông này lại vì cãi lộn nho nhỏ mà thù hận mà làm cái chuyện ác quá vậy? Cho nên những cái giới chế ra nó không có cái lý.

46. GIỚI QUÁ NGỌ THỌ THUỐC

(01:26:05) Vì sao Phật kiết giới này?

Giới quá Ngọ thọ thuốc.

Phật ở tại vườn Ni Câu Luật, khi ấy cư sĩ Ma Ha Nam dòng họ Thích thường thỉnh chúng tăng cung cấp thuốc.

Lục Quần Tỳ Kheo nói: “Cư sĩ đó cung kính Thượng tọa nên cúng thuốc tốt, đối với chúng tôi không có tâm cung kính nên cho thuốc xấu.” Đến nhà đó xin lại gặp khó khăn, không cung ứng kịp thời nên nói cư sĩ kia có ái, v.v…​ lại nói không thật. Do vậy cư sĩ kia không cung cấp thuốc cho chư tăng nữa. Phật nhân đó mà kiết giới này. Sau do các duyên thỉnh khác lại khai cho thường thỉnh.

Đó thì cái giới này kiết ra là tại vì người ta cho thuốc mình, mình đến, thì tùy theo bệnh người ta cho thuốc mình, thì mấy Lục Quần Tỳ Kheo này thấy cho người khác thuốc tốt mà cho mình thuốc xấu, rồi sanh cái tâm không tốt, nói: “Ông cư sĩ này vị tình ái với mấy cô ni kia cho nên cho thuốc tốt, còn tụi tui thì cho thuốc xấu cho nên không hết bệnh.”

Do như vậy đó mà cái ông này ổng không có cho thuốc bên ni cũng không cho thuốc bên tăng nữa, cuối cùng tăng ni không có chỗ nào mà xin thuốc được hết, do vậy Phật mới cái chế giới này ra: Không có được nói xấu, người khác người ta cho mình cái gì thì mình nhận cái nấy, không được nói xấu.

47) GIỚI ĐI XEM QUÂN TRẬN

(01:27:31) 47. Giới đi xem quân trận.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ vua Ba Tư Nặc tự mình cầm lục quân chinh phạt bọn phản loạn. Lục Quần Tỳ Kheo đến xem, nhà vua chê hiềm. Nhân cớ ấy vua gửi lời thăm hỏi Đức Thế Tôn, gửi thêm một gói đường phèn để dâng cúng. Nhân đó Phật quở trách Lục Quần Tỳ Kheo và kiết giới này.

Sau đó vua Ba Tư Nặc có hai người em tên là Lê Sư Đạt và Phú La Na lãnh mệnh đi chinh phạt. Trong quân trận khao khát muốn chiêm ngưỡng Tỳ Kheo, bảo người mời đến. Các Tỳ Kheo cẩn thận, sợ không dám đến. Phật kiết giới lại, thêm câu: “Trừ có nhân duyên hợp thời đến, không phạm.”

Nếu Tỳ Kheo xem quân trận, đến mà thấy thì phạm Ba Dật Đề, đến không thấy thì phạm tội Đột Cát La. Nếu trên đường đang đi, quân đội đến sau, nếu không tránh thì phạm tội Đột Cát La. Nếu có việc cần đến, hoặc người thỉnh đến, hoặc bị thế tục dẫn đến, hay bị trói đem đến, hay nạn ác thú, nạn giặc thì không phạm.

Ở đây thì Đức Phật cấm cái giới này là không có cho cái người tu sĩ đến xem quân lính dàn trận hay là diễu binh, không có cho đến xem. Bởi vì mình là người tu sĩ rồi còn đi coi cái chuyện đó làm gì? Các con thấy chưa?

Cho nên ở đây mình phải sáng suốt và không có nên đi xem cái chuyện đó, không có đúng đâu. Người tu sĩ thì lo tu, ai ở đâu mà đi coi đánh trận, đi coi diễu binh, đi coi xe pháo hay này kia của họ, thì đó là sai. Mình là người tu rồi thì bỏ những cái việc đó. Cho nên ở đây mà tới chế cái giới này là quá tệ rồi, thành ra quá.

Thật sự ra người tu sĩ khỏi cần chế cái này đi, nghĩa là ca hát không còn thì không còn xem quân trận, không còn tập luyện võ, gươm đao, cung tên không còn tập luyện, thì thử hỏi đi xem cái này để làm gì? Đâu có cần thiết nữa.

Đó thì cái giới này chế ra, đối với cái người tu sĩ của chúng ta hiện thời thì cái cuộc diễu binh hay hoặc dàn quân, hay hoặc là những cái lễ lớn này kia mà có quân đội đồ, thì hầu như tu sĩ chúng ta hiện giờ có đi xem, thì cái giới này chế cho chúng ta bây giờ thì đúng.

Chớ còn thời Đức Phật Thầy nghĩ rằng những cái vị mà ly dục ly ác pháp rồi, họ thấy cái chuyện mà đánh đấu nhau là cái chuyện ác rồi, tức là cái chuyện giết người rồi, thì quân đội là cái sự việc giết người rồi chớ không còn thế là…​ Vì vậy mà họ đâu có còn bao giờ mà có con mắt họ đến đó đâu.

Còn cái thời chúng ta bây giờ đó, họ hăng say lắm, họ muốn đi ra trận nữa chớ đừng nói chi, cho nên mặc dù tu thì tu chớ còn họ muốn ra đánh trận lắm, do đó họ đi xem diễu binh hay hoặc này kia, thì bây giờ thì có thể chớ còn hồi Đức Phật mà chế cái giới này thì không đúng.

Cho nên đây là những cái giới mà sau này các tổ chúng ta chế ra, là vì tu sĩ sau này nó có cái phạm cái giới này cho nên mới chế ra. Trong thời Đức Phật Thầy nghĩ rằng không bao giờ có vị tu sĩ mà làm cái điều này đâu. Là tại vì Đức Phật có pháp hành, lý hành, có giới hành, cho nên không bao giờ mà có cái chuyện quá tệ đó.

48) GIỚI ĐẾN TRONG QUÂN QUÁ BA ĐÊM

(01:30:46) 48. Giới đến trong quân quá ba đêm.

Vì sao Phật kiết giới này?

Nguyên do Phật đến ở nơi vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo có nhân duyên đến trong quân trận ngủ. Cư sĩ chê hiềm. Phật vì đó mà kiết giới này.

Duyên gì? Tại mình muốn đi coi, mình muốn đi xem thôi chớ có duyên gì đâu? Đâu có nên đến cái chỗ quân đội của người ta! Thì tất cả những cái này đều nằm ở trong cái vấn đề mà thích coi quân đội.

49) GIỚI XEM THẾ LỰC QUÂN TRẬN

(01:31:13) 49. Giới xem thế lực quân trận.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo nhân Thế Tôn chế giới cho phép có nhân duyên được hai ba đêm ngủ trong quân trại, bèn xem coi quân trận, sức người, sức voi, sức ngựa chiến đấu. Một Tỳ Kheo bị tên bắn gây thương tích trở về. Cư sĩ chê hiềm. Phật nhân đó mà kiết giới.

Thật sự ra mấy ông này còn thích đấu tranh thì làm sao tu hành được? Thầy nói, bao nhiêu cái pháp của Phật nêu ra để chúng ta tu hành, còn thì giờ đâu mà đi xem đi chơi này?

Thầy nói không còn thì giờ nữa, ngày như đêm, đêm như ngày, đi khất thực về rồi ăn lo tu, tu mãi tu, mà mấy ông này rõ ràng còn ham mê là chưa giải thoát chút nào hết mà không lo tu lại còn ham đi chơi thì còn cái nghĩa lý gì?

Đi chơi cho đến đỗi quân đội người ta tập trận người ta bắn tên sao mà trúng ông, ngu quá trời! Giờ kéo về Tịnh xá đặng nuôi dưỡng bệnh ổng! Cái này thiệt là đặt điều chớ Thầy nói không có một vị tu sĩ nào mà đi chơi cái kiểu đến đỗi mà tên lạc mà bị thương vậy đâu! Những cái đó là cái sai.

50) GIỚI UỐNG RƯỢU

(01:32:20) 50. Giới uống rượu.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở tại nước Chi Đà, Tôn giả Sa Già Đà ngủ đêm trong phòng của Phạm chí bện tóc, có con độc long phun lửa, Tôn giả hiện các thần thông biến hóa hàng phục nó. Vua nước Câu Diệm Di thấy vậy, lòng sanh kính phục. Tôn giả lại nói pháp khiến được hoan hỷ.

Vua bèn ân cần ba lần thưa hỏi: “Ngài cần gì?” Tôn giả không nói. Lục Quần Tỳ Kheo nói: “Sáu vật của Tỳ Kheo nhận được dễ. Cái gì khó được, nhà vua giúp cho!” Vua hỏi: “Vật gì khó được?” Được trả lời là hắc tửu.

Ngày sau được thiết cúng bao nhiêu món ăn ngon ngọt cộng với hắc tửu, khi ấy Tôn giả ăn uống no đủ rồi trên đường về bị mửa ói té xuống đất.

Ông thầy có thần thông mà quá say sưa thiệt!

A Nan bạch Phật. Phật dạy: “Như hiện nay không thể hàng phục được con rắn nhỏ, huống nữa là đại độc long! Từ nay về sau, ai gọi ta là thầy cho đến không được dùng đầu cọng cỏ chấm vào rượu rồi thấm vào môi!” Rồi Ngài kiết giới này.

Nghĩa là cấm uống rượu đó. Mà lại thuật ra cái câu chuyện cái ông có thần thông hàng phục được một con độc long như vậy, được vua thết đãi một bữa ăn, rồi rượu mà kêu hắc tửu, rượu ngon nhất đó, chắc có lẽ là lấy gạo nếp than mà nấu, cho nên gọi là hắc tửu, ngon quá ngon, rồi ổng uống say ổng đi, say giữa đường rồi mửa, té. Sao thần thông mà còn nghiện rượu quá vậy? Bộ là thần thông giả mà!

Chuyện đó thiệt là mấy ông này đặt điều chớ một người có thần thông mà tâm thanh tịnh, nhất là đạo Phật, là cái người phải tâm rất tịnh mới được thần thông, mới được thiền định, cỡ cái mức mà Tứ Thiền rồi thì cái tâm rất là tịnh, nó ở trong cái chỗ mà ly dục ly ác pháp tối đa của cái hỷ lạc của Tứ Thiền, nó đâu có phải là cái tầm thường đâu mà còn thích cái chuyện rượu, mà uống say như vậy là còn cái gì đâu? Đó là cái dục lạc của thế gian mà!

Bởi vì nói tới cái tâm trạng đó, Thầy thấy là cái người này chưa có ly dục ở cái mức độ Tứ Thiền rồi, nó cao tuyệt, nó không có một cái gì mà gọi là…​ 7 ngày đêm liên tục, mà bây giờ 49 ngày đêm liên tục nó có cái hỷ lạc của cái Tứ Thiền chớ đâu phải không.

Làm sao có một cái món rượu mà có thể nó kéo 7 ngày đêm? Ổng uống vô khỏi cổ ổng rồi ổng ra ổng mửa cùng đường hết rồi, lạc cái gì? Nó thành ra bất tịnh hết chứ còn cái lạc gì! Vì vậy mà nói ổng mà có thần thông thì thần thông đó là thần thông kiểu nào? Chỉ nói láo thôi chứ, Thầy nói chỉ tưởng thôi chứ đâu có còn cái thứ gì mà nói!

Cho nên ở đây một cái người mà người ta thấy đúng, người ta tu đúng rồi, mà nói gạt người ta không có đủ cái sức mà người ta tin. Chỉ có những người mà chưa có biết thôi đó, thì nói sao họ tin vậy.

Có thần thông rồi uống rượu cũng như mấy ông thầy bùa vậy mà, càng có bùa chú linh linh thì uống rượu riết rồi bùa chú mất hết, sau này cứ vẽ tùm lum ra mà không thấy cái gì linh hết. Mới đầu ở trên núi mới xuống còn vẽ ba cái vòng tròn nó còn chạy, vẽ riết rồi bây giờ không chạy nữa. Ba cái rượu làm sao nó chạy? Chỉ còn có nước ổng chạy ra đường ổng nằm đó thôi!

51) GIỚI TẮM DƯỚI SÔNG ĐÙA GIỠN

(01:35:36) 51. Giới tắm dưới sông đùa giỡn.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, khi ấy Thập Thất Quần Tỳ Kheo ở nơi sông A Kỳ La Bà Đề đùa giỡn trong nước. Vua Ba Tư Nặc cùng với phu nhân ở trên lầu từ xa trông thấy. Phu nhân thấy là tuổi nhỏ xuất gia trong pháp luật chưa bao lâu. Phu nhân sai người đến thăm hỏi Thế Tôn, gửi một gói đường phèn để dâng cúng, bạch đầy đủ vấn đề. Phật quở trách Thập Thất Quần Tỳ Kheo.

Thập thất là 17 vị Tỳ Kheo này kiết giới. Nghĩa là 17 vị Tỳ Kheo này rủ ra ngoài biển tắm á, cái kiểu tắm mà đùa giỡn ở ngoài đó. Thầy thấy có một số quý thầy ra biển tắm đùa giỡn rần rần ở ngoải, họ tạt nước rồi họ làm đủ cách hết. Đó là những cái sự sai lệch.

Một vị tu sĩ không bao giờ mà tắm đùa giỡn, mà không phải là tắm ở giữa sông giữa biển như vậy, mà phải ở nơi kín đáo hẳn hòi đàng hoàng. Cho nên tắm không có đùa giỡn mà còn không được, huống hồ là đùa giỡn, là cái sai.

Cho nên cấm cái giới này rất đúng. Hầu hết là tuổi còn nhỏ nhỏ thấy nước ham lắm, giỡn rầm rầm rầm rầm, ôm ba cây chuối mà lặn lên lặn xuống, Thầy thấy như con nít, không ra gì hết.

52) GIỚI THỌC LÉT NHAU

(01:36:50) 52. Giới thọc lét nhau.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở vườn Cấp Cô Độc, một vị trong Lục Quần thọc lét một vị trong Thập Thất Quần cười hết hơi đến chết. Nhân đó Phật kiết giới này.

Chết người ta rồi mới chế giới! Thiệt ra thì đâu có cái chuyện mà giỡn kỳ cục vậy! Tu hành gì mà giỡn y là như người ngoài đời vậy, làm như con nít thọc lét người ta nhột đến chết. Thiệt là chế những cái giới này Thầy nói thiệt là…​ Đi tu rồi đâu có phải còn mà con nít nữa sao? Đã đi tu rồi đâu có còn cái chuyện mà nhỏ, mà đây hoàn toàn là những người lớn, Tỳ Kheo không chớ đâu phải nhỏ!

Những cái giới chế nhiều cái nó vô lý đến vô lý. Không có lý nào một tu sĩ mà còn đùa giỡn được hết. Cái tâm mà chúng ta chưa có giải thoát được nỗi khắc khoải trong lòng của mình, hết sức ngày đêm nó bất an chớ đâu phải là nó sung sướng. Như bây giờ mấy con thấy, bây giờ mấy con tu chưa tới đâu mấy con bất an trong lòng lắm chớ, nó có cái gì là mấy con rất buồn, không biết đời của mình nó ra sao.

Nhưng mà Thầy đặt thành vấn đề: Khi mà các con không quyết thì thôi, mà đã quyết theo mà đúng con đường thì Thầy nói rằng một trăm người sẽ đạt được một trăm người, không có người nào mà không đạt được.

Các con nên tin là khi mà cái giáo án Thầy viết ra là Thầy đã biết nó như thế nào là con đường của đạo Phật. Tại vì người ta tu mà người ta còn thích dục lạc thôi, còn thích ở đời thôi, chớ còn người ta quyết định người ta quyết bỏ nó là người nào cũng được hết.

Nghĩa là làm sao chúng ta ly sạch, chúng ta đừng có ham muốn nó nữa, chúng ta biết nó chúng ta dứt. Như là cái bài mà Thầy đã nói, tuy rằng nó đơn giản chớ các con thấy ba cái giai đoạn - tuy rằng Thầy đã giảng đơn giản vậy, nhưng mà các con hiểu được cái thâm lý của nó rất là thâm sâu.

Đừng có thân cận dục! Cái lòng ham muốn chúng ta đừng có thân cận nó, đừng ở gần nó, mà chúng ta hãy xa nó đi. Mà không thân cận nó thì các con biết cái gì mà không thân cận không? Thầy vạch rất rõ, một cái bàn cái ghế này không còn có thì chúng ta đâu còn có cái dục được mà còn thân cận nó?

Chớ bây giờ cái thân cận là cái chỗ nào bây giờ? Chỉ có những cái vật dụng xung quanh chúng ta mà chúng ta xa lìa nó thì chúng ta đã mất cái lòng dục của chúng ta chớ gì? Các con phải hiểu được cái lý đó.

Vì vậy mà các con quyết các con xa lìa hết thì lúc bấy giờ làm sao mà các con không giải thoát được? Chỉ các con không muốn lìa nó thì làm sao mà Thầy muốn bây giờ cũng không được hết!

Mà người nào mà lìa được hết rồi, Thầy nói bây giờ nội đây mấy con bao nhiêu đây là mấy con sẽ thành tựu bấy nhiêu hết, không có người nào mà không thành tựu hết!

Bỏ hết cuộc đời chúng ta rồi còn gì nữa mà chúng ta tiếc một cái bàn cái ghế, cái chuyện nhỏ nhặt này mà tiếc, cái nhà cái cửa mà tiếc làm gì? Chỉ còn có cái lớn của chúng ta là làm sao mà chấm dứt cái sự luân hồi, chấm dứt cái nhân quả này mà thôi.

Đó là cái mục đích chính của mình mà, cho nên mình đâu còn tha thiết, đâu còn gì nữa. Vui chúng ta còn không dám vui mà! Làm sao mà chúng ta bây giờ mà muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống, biết được cái trạng thái chúng ta bỏ thân này là chúng ta ở chỗ nào rồi, chúng ta biết rõ như vậy thì cuộc đời chúng ta mới có nở một nụ cười. Chớ còn chưa có được thì chúng ta không dám cười đâu.

Có như vậy chúng ta mới thấy được: Làm sao mà những vị tu sĩ này đùa giỡn được? Làm sao mà xối nước mà tắm hay giỡn dưới sông được khi mà chúng ta chưa làm chủ sanh tử? Khi mà chúng ta chưa làm chủ sanh tử, làm sao mà chúng ta vui mà thọc lét với nhau được?

Ở đây những cái giới luật chế ra nó rất là vô lý, với một cái người quyết tâm tha thiết giải thoát thì không bao giờ họ còn vui với cái chuyện mà trẻ con, với cái chuyện mà khờ khạo như cái người ngu si ở thế gian này.

53) GIỚI KHÔNG CHỊU LỜI CAN GIÁN

(01:40:06) 53. Giới không chịu lời can gián.

Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa Phật ở nước Câu Diệm Di, Xiển Đà muốn phạm giới, các Tỳ Kheo can mà không nghe. Đức Phật vì đó mà kiết giới.

Nghĩa là muốn phạm mọi cái giới. thí dụ như muốn sát sanh, muốn giết con vật nào đó, mà tất cả các Tỳ Kheo can đừng có giết mà ông ta cứ giết, thì đó là Đức Phật mới chế cái giới 54 này.

Thật sự đó là thuộc về cái giới sát sanh rồi. Mình nói: “Anh đừng có giết con vật đó!” - mà người này cố giết thì người này là phạm tội sát sanh rồi, chớ đâu có phải phạm tội Đọa này đâu, mà tới giới 54 này đâu, chỉ ngay cái giới sát sanh là cái giới đầu tiên là cũng đã bị rồi chớ đừng nói chi xa.

54) GIỚI DỌA SỢ NGƯỜI

(01:40:57) 55. Giới dọa sợ người.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại nước Ba La Lê, bấy giờ Tôn giả Na Ca Ba La thường hầu hai bên khi Phật đi kinh hành. Đức Thích Đề Hoàn Nhân hóa làm nhà kinh hành. Thường pháp của chư Phật, nếu khi đi kinh hành, người cúng dường đứng nơi đầu đường đi kinh hành.

…​ “Đầu đêm đã qua. Bạch Thế Tôn, thỉnh Ngài vào phòng!” Thế Tôn nín thinh. Đến giữa đêm, sau đêm cũng như vậy. Tôn giả bèn lại mặc áo bằng lông, đến nơi Phật làm tiếng phi nhân khủng bố Phật. Sáng hôm sau Thế Tôn nhóm tăng quở trách, vì cớ đó mà kiết giới này.

Nghĩa là có một vị Tỳ Kheo muốn làm phi nhân để làm cho Phật sợ chơi. Ông này ổng cũng giỡn tới ông Phật á! Cái kiểu này là kiểu đùa giỡn mọi người không đủ rồi bây giờ tới đùa ông Phật chơi. Tối nay ông Phật ổng đi kinh hành nè, ngang cái chỗ này vắng nè, mình ngồi trong đó cái mình chạy ra sau lưng ông mình hù một cái coi ông sợ không?

Đó, đó là tất cả những cái đó thì các con thấy, đâu có lý! Đối với một Đức Phật rất là nghiêm nghị, Đức Phật đi bao giờ cũng ngó xuống, không bao giờ mà có thể ngó qua ngó lại, thế mà rồi đệ tử của Đức Phật, một vị Tỳ Kheo mà muốn đùa giỡn với Đức Phật như vậy, Thầy thấy nó cũng không có lý.

Có làm cho người ta sợ đó thì có, huynh đệ với nhau giỡn chơi thì có. Cái này là lôi ông Phật ra để cho vị Tỳ Kheo này giỡn với ông Phật thì Thầy thấy nó quá độ rồi, nó vô lý đến độ vô lý rồi.

Thí dụ như huynh đệ với nhau: “Tối nay ông này đi kinh hành, mình ngồi trong bụi này mình chạy ra mình chụp ổng cho ổng sợ chơi” - thì cái đó được, có thể nếu Phật do cái đó mà chế giới được nó còn có lý. Chớ mình giỡn với thầy mình đâu có được, cái đó không có lý đâu.

Cho nên những cái câu chuyện nói ra nhiều cái Thầy thấy vô lý, nhưng mà họ muốn nói làm sao nói, chớ sự thật Thầy không chấp nhận điều đó đâu./.

[Phần 4 ở Giáo án 44]

HẾT BĂNG

 

44 - GIỚI ĐỌA 04 - LỜI PHẬT DẠY ĐƠN GIẢN, DỄ HIỂU VÀ THỰC TẾ

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 44 - GIỚI ĐỌA 04 - LỜI PHẬT DẠY ĐƠN GIẢN, DỄ HIỂU VÀ THỰC TẾ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- CHÍN MƯƠI GIỚI ĐỌA - PHẦN 4

[Phần 3 ở Giáo án 43]

56) GIỚI QUÁ TẮM RỬA

(00:00) 56. Giới quá tắm rửa.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở vườn Ca Lan Đà, vua Bình Sa cho phép các Tỳ Kheo vào trong ao của nhà vua tắm. Lục Quần Tỳ Kheo sau đêm, tướng mặt trời chưa xuất hiện, vào ao tắm. Đến sáng ngày, vua và các thị nữ đến muốn tắm mà không tắm được. Đại thần chê hiềm. Phật vì vậy mà kiết giới này. Sau đó nguyên nhân nóng bức nên Phật khai cho trường hợp đặc biệt.

Ở đây thì trong một cái ao của nhà vua có cái hồ nước để tắm, thì nhà vua cũng nghĩ các thầy thì cũng là những người tu cho nên mới cho vào tắm. Nhưng mà các ông này lựa là cái giờ gần sáng rồi thì nhà vua với thị nữ đồ người ta ra tắm, thì mấy ông tắm trước đi. Mấy ông tắm trước, quậy đục hết trơn hết trọi, sáng ra nhà vua với mấy người cung nữ đồ để tắm thì ra nước đục ngầu hết, làm gì người ta tắm được nữa?

Mấy ông chơi tắm trước cái kiểu đó là quậy chơi nhà vua mà. Đó, giỡn với ông Phật đã rồi bây giờ giỡn với nhà vua nữa đó!

Thì các con thấy cái giới luật này là chế nghĩa là biếm nhẽ làm như là Cống Quỳnh vậy, các con biết Cống Quỳnh không? Cái ông Cống Quỳnh đây Thầy nói cũng cái kiểu đó. Chế giới mà không có nghiêm nghị chút nào hết. Lựa như là trò giỡn chơi vậy đó mà chế!

57) GIỚI Ở ĐẤT TRỐNG ĐỐT LỬA

(01:16) Nếu mà Thầy nói, bây giờ:

57. Giới ở đất trống đốt lửa.

Cấm ở đất trống mà đốt lửa, như vậy thì nghe nó không có gì hết. Mà cái câu chuyện để cho chúng ta biết cái giới này đã do cái câu chuyện nào mà cấm ra, thì có những câu chuyện nó hữu lý mà có những câu chuyện vô lý.

Do vì vậy đó mà muốn đọc ra đây để làm gì? Để cho các con suy ngẫm cái giới bổn có đúng là cái giới của Phật hay không. Cái mục đích của Thầy là ở đây, chớ không phải dạy các con giới này để rồi bắt buộc các con phải 250 giới y chang như vậy, hay 348 giới là phải y như vậy, không có thay đổi.

Không phải, đọc ra đây để biết cái đúng cái sai của người xưa người ta làm, để chúng ta chuẩn bị cho chúng ta một cái tư thế để xây dựng lại Phật giáo chớ không phải là lầm lạc ở cái miệng của họ, ở cái hành động của họ làm mà để lại cho chúng ta theo đó mà chúng ta làm nữa. Bởi vì chính họ không phải là những người giải thoát.

Còn bây giờ mình đã tu được, làm được, làm chủ được sanh tử, làm chủ được nhân quả, chúng ta chẳng sợ ai nữa hết. Chúng ta đi đúng con đường của đạo Phật, chúng ta xây dựng lại đạo Phật, chúng ta đã làm chủ được sống chết của mình thì chúng ta phải làm đúng lại cái gì của đạo Phật.

Còn bây giờ nếu mà Thầy chưa làm được, Thầy chưa làm chủ được mình thì chắc chắn là không dám làm. Họ làm sao bây giờ cũng phải theo đó mà thôi chớ không dám làm. Còn bây giờ mình thực hiện được, mình có pháp hành được, mình biết con đường lối của đạo Phật như thế nào đúng sai, mình làm được, bây giờ mình phải sửa lại.

Phải chi mình làm không được thì mình không dám, còn đằng này mình làm được là mình phải sửa. Sửa lại để cho người sau được hưởng cái phước báu của đạo Phật, chớ không khéo để mất hết, không còn nữa.

Cho nên những cái mà Thầy đọc ra đây để rồi chúng ta lần lượt mà chúng ta sửa lại hết, không có để trong Phật giáo những cái loại mà nó vô lý như thế này được. Nó không đúng cái pháp của Phật, nó không làm cho chúng ta ly dục ly ác pháp được, mà luôn luôn nó có những cái sự đùa giỡn ở trong cái chuyện dục lạc của thế gian.

Rõ ràng là cái tắm mà đùa giỡn cũng là cái dục lạc chớ cái gì các con? Đó thì các con thấy, tất cả mọi cái này đều là những cái dục lạc, không có cái gì mà không dục lạc hết.

Vì sao Phật kiết giới này?

Bấy giờ Phật ở tại thành Khoáng Dã, Lục Quần Tỳ Kheo nói với nhau: “Ở trước Thượng tọa, ta không thể làm theo ý mình được.” Bèn ra ngoài phòng, nơi chỗ trống, tập trung cỏ, củi bên gốc cây đại thọ, nhen lửa để sưởi.

Khi ấy trong bọng cây có một con rắn bị hơi nóng của lửa xông vào, từ trong bọng cây chạy ra. Các Tỳ Kheo hoảng kinh, lấy những cây củi đang cháy quăng lung tung bèn cháy giảng đường. Đức Phật nhân đó mà kiết giới: “Nếu Tỳ Kheo tự sưởi ấm nhóm lửa nơi đất trống, hoặc dạy người nhóm lửa thì phạm tội Ba Dật Đề.”

Bây giờ do cái duyên mà cháy cái giảng đường Đức Phật mới chế cái giới cấm các vị Tỳ Kheo này. Các vị Tỳ Kheo này đốt lửa ở gần bên gốc cây, con rắn nó bị nóng quá nó chạy ra, do đó các vị này mới lấy củi đó mà quăng con rắn chớ không gì, mà ai dè quăng vô trong cái giảng đường.

Mà giảng đường thì cất bằng tranh bằng lá cũng như mình vậy, quăng vô bắt đầu lửa cháy lên cháy tiêu cái giảng đường. Cho nên Phật mới chế ra, cấm không có cho đốt lửa gần những cái gốc cây, những cái chỗ này chỗ kia mà phải đốt lửa ở ngoài trống thì nó mới được.

(04:26) Nhưng mà thật sự ra, ở đây Thầy muốn nói như thế này nè. Các con thấy trong cái vấn đề tu hành của đạo Phật là phải sống độc cư, đâu có tập hợp, mà trời có lạnh đi nữa đâu có tập hợp mà đốt, mà nhóm lửa, mà ngồi lại. Thường thường mà hơ lửa, thi ngồi lại mà đốt lửa thì nói chuyện này chuyện kia chuyện nọ đủ thứ, sanh ra những cái tâm động lắm, nó không phải vậy.

Ở nơi cái chỗ nào của mình ở chỗ đó mình tìm cách, như lạnh thì mình đốt lửa mình hơ tại chỗ mình, chớ đâu tập trung mà ở giảng đường vậy, đốt lửa rồi quăng cháy giảng đường như vậy. Ba bốn người xúm mà thấy rắn sợ chạy quăng củi như vậy thì không cháy giảng đường sao?

Cho nên những cái giới này Thầy thấy là nhìn giới mà cái Tăng đoàn của Phật ngày xưa thiệt là rối loạn, chưa phải đúng là cái tổ chức.

Chẳng hạn là như bây giờ Thầy tổ chức như thế này, Thầy là không phải Phật nè, là một con người bình thường như các con nè, mà bên tăng ra bên tăng, bên ni ra bên ni. Có một thầy mà hay đi lang thang mà đi qua đằng trước, đi tới lui là Thầy đã không chịu rồi đó.

Thầy nói thật sự, Thầy đã nghe tiếng, hồi sáng Thầy đi là vị thầy đó đã đi tới đi lui ở đằng trước rồi. Hơn nữa Thầy thấy hầu như là nam mà có đi tới đi lui ở bên nữ là Thầy đã không bằng lòng rồi. Nam ra nam mà nữ ra nữ. Bởi vì đây là bất đắc dĩ cho một cái tu viện mà cả nam lẫn nữ, chớ thật sự thật ra tổ chức rành rẽ đâu có chuyện đó được.

Còn hơn nữa mà các con thấy, vào đây rồi quý thầy phải sống độc cư hoàn toàn, không được thất này tới thất kia. Mà tới thất này thất kia nói chuyện một hai lần là Thầy đã không chấp nhận rồi, những người đó làm sao theo Thầy được? Thầy đuổi họ quách chớ Thầy đâu có để. Đó thì sự thật như vậy thì các con thấy rằng, đối với Thầy mà còn nghiêm nghị như vậy huống hồ là ông Phật!

Đâu phải là chuyện ông Phật dễ đâu, bởi vì ông Phật ổng biết cái đường đi của ổng như thế nào rồi mà. Còn Thầy, Thầy cũng biết cái đường đi như thế nào rồi, mà Thầy thấy sai như vậy là Thầy không chịu rồi. Đó là sống theo phàm phu tục tử, làm sao mà gọi là Thánh nhân được?

Mà mình đến đây để mình tập làm Thánh nhân, mình làm sống y như Thánh nhân, thế mà mình sống cái kiểu phàm phu vậy, thất này chạy qua thất kia nói chuyện, ở đằng sau này mà còn chòi mòi đi tới đằng trước, để làm gì? Để nhìn người này, để nhìn ngó người kia thế này thế nọ kia, làm sao mà gọi là tu hành được? Những người đó làm sao mà tu?

Thầy nói thật sự, mấy con thấy, trong cuộc đời khi một vị thầy mà người ta tổ chức cho những người mà được trở thành những bậc Thánh nhân là người ta đã thấy những người mà không phải Thánh nhân người ta loại ra chớ đâu phải người ta để đâu!

Đâu phải người ta điên mà để người ta nuôi đó để tốn cơm tốn gạo, tốn công tốn sức người ta đâu. Được là người ta nuôi mà không được là người ta đuổi mình đi chớ người ta đâu có để.

Người ta đâu có vì tiền vì bạc, người ta đâu có vì ân vì oán ở trong đó người ta sợ đâu. Người ta vì làm sao mà Phật pháp cho sống lại để mọi người người ta hưởng được những cái phước báu của Phật pháp, để được cái tâm hồn giải thoát, được sống trong một cái tình thương thân thương ái với nhau trong một cuộc sống chơn thật với nhau để giải thoát, chớ đâu phải là vì những người đó.

Đó cho nên ở đây Thầy thấy nhiều là nhiều chớ nhìn lại thì bao nhiêu người được? Họ sống hoàn toàn là họ sống theo cái tình huống của thế gian, chớ đâu phải là họ muốn thành Thánh thành Phật! Họ thành phàm phu thì họ muốn chớ họ đâu muốn thành Phật!

58) GIỚI GIẤU ĐỒ VẬT CỦA TỲ KHEO

(07:19) 58. Giới giấu đồ vật của Tỳ Kheo.

Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, khi ấy có cư sĩ thỉnh tăng. Thập Thất Quần Tỳ Kheo đem y bát, tọa cụ để một nơi rồi đi kinh hành, chờ đến bữa cơm. Lục Quần Tỳ Kheo rình khi họ đi kinh hành quay lưng lại, lấy y bát của họ giấu. Đến giờ, tìm không được, Lục Quần Tỳ Kheo trêu ghẹo. Nhân đó mà Phật kiết giới này.

Đó thì các con thấy, tất cả Tỳ Kheo Phật y như đồ con nít vậy! Thấy người ta để đồ đó cái rình rình coi người ta đi kinh hành xa rồi bắt đầu mình đem giấu à, giấu hết đồ. Chừng đó tới giờ đi khất thực, ba y bát người ta lấy hết mất đâu, đi lại kiếm không được, bữa đó chỉ còn nước đói. Y như con nít chớ không phải gì đâu!

Mấy cái thằng kia thấy tụi nó đi giỡn chơi. Nó xuống dưới hồ, xuống dưới sông tắm, quần áo nó cởi bỏ lên trên này, nó nhảy xuống sông tắm, mình đi ra đó tụi nó tắm mê đâu có biết mình. Ba bốn thằng hốt quần áo với sách vở nó đem giấu bụi cây hết cái chạy trốn.

Chừng mà tụi nó tắm xong lên: “Trời! Quần áo mất hết rồi!” Thằng nào thằng nấy khóc bù lu bù loa hết. Cái bắt đầu thấy nó khóc quá rồi thấy nó bỏ đi về thấy tội, thôi mới chạy ra nói: “Tao giấu đồ tụi bay.” Chờ nó chửi một hơi đã nước rồi trả đồ nó thôi, rồi thôi đi về. Đó là chơi theo kiểu con nít đó.

Cho nên ở đây thật sự ra Thầy thấy hầu hết là những cái này mà chế ra đều là cái kiểu dáng con nít hết, chớ không phải là cái dáng của người lớn đâu, người lớn không bao giờ chơi vậy hết.

59) GIỚI CHO Y, TỰ LẤY LẠI MẶC, KHÔNG NÓI VỚI CHỦ

(08:59) 59. Giới cho y, tự lấy lại mặc, không nói với chủ.

Vì sao Phật chế giới này?

Khi Phật còn ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo chân thật tịnh thí y cho Tỳ Kheo rồi, sau không hỏi chủ mà lấy lại mặc. Nhân đó Phật mới kiết giới này.

Tịnh thí có hai cách:

1. Chơn thật tịnh thí: “Thưa Đại đức! Một lòng nghĩ: Tôi có y này chưa tác tịnh. Nay vì tịnh, xả cho Đại đức.”

2. Triển chuyển tịnh thí: Đối với vị kia tác pháp xong, vẫn cất để dùng. Tác pháp như trên.

Nghĩa là mình cho người ta y thì mình không có được lấy lại, mà mình cho rồi thì thôi. Còn đằng này cho rồi đòi lại thì Phật cấm cái giới này. Khi mình cho thì không được đòi lại. Mình không cho thì thôi, mà đã cho thì không được đòi lại, mà người đòi lại là bị phạm tội. Đó là giới thứ 59.

60) GIỚI MẶC ÁO MỚI KHÔNG PHẢI PHAI MÀU

(10:06) 60. Giới mặc áo mới không phải phai màu.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo mặc y màu trắng, cư sĩ chê hiềm. Nhân đó Phật kiết giới.

Nếu đem y chưa nhuộm gửi nhà bạch y cũng phạm tội Ác Tác.

Nghĩa là khi mình nhận y là phải nhận y hoại sắc, không được mà…​ Hồi thời Đức Phật là chỉ có cư sĩ mới mặc y trắng thôi, chớ còn tu sĩ không được mặc y trắng. Mà nếu tu sĩ mà mặc y trắng thì Đức Phật cấm, không có được. Vì vậy khi mà tu sĩ mà mặc y trắng thì coi như là diện lắm đó, thì Đức Phật chê.

Vậy thì do vì cái chỗ giới này là hầu như các vị này thật ra cái tâm của họ còn thích đời. Nghĩa là bây giờ như Thầy nè, thì phải ăn mặc như thế này nó mới là tu sĩ. Còn ông này ổng ăn mặc thứ này, mà ổng thích mặc đồ Tây, ổng muốn đội cái nón cối lên, thì như vậy là đâu có đúng cái nghĩa lý gì cái sự tu hành theo Phật? Bởi vì phải xả tất cả những cái y áo thế tục hết, không còn mặc lại.

Còn cái ông này, bởi vì cái người cư sĩ ở bên Ấn Độ họ cũng vấn cái y vầy, nhưng mà nó màu trắng, chớ không phải là cái màu này. Cho nên muốn khác hơn cái người cư sĩ, Đức Phật mới chế cái màu này ra, cái hoại sắc để mặc cho nó khác.

Chứ người Ấn Độ họ mặc cũng y vậy, cái chăn cũng giống như ông Phật, cái y áo ở trong cũng giống như ông Phật, rồi cái y ngoài cũng giống y vậy, may cũng giống y nhau vậy hết chớ không khác nhau chút nào hết à. Người cư sĩ với người tu sĩ cũng giống nhau, nhưng cái người cư sĩ thì màu trắng, còn cái người tu sĩ thì màu vàng, màu hoại sắc. Cho nên nó có khác có ở chỗ màu thôi chứ còn cái y thì nó giống nhau.

Vì vậy mà mấy ông Lục Quần Tỳ Kheo này ổng lại đóng cái màu trắng vô ổng mặc, ổng đi, ổng không có mặc cái màu này mà ổng đi, cái đầu thì cạo trọc mà ổng mặc đồ trắng này vô nó không giống cư sĩ mà cũng không giống ông tu sĩ, cho nên đi ra cư sĩ mới chê ổng: “Mấy ông sao mà làm kỳ quá, tui thấy vậy không có được!”

Ông Phật nhân đó mới chế cái giới này, cấm không được mặc cái màu trắng, phải mặc y nhuộm mới được. Mà bây giờ chưa nhuộm mà gởi ở nhà bạch y - tức là cái người cư sĩ thì cũng phạm tội nữa. Bởi vì họ nghe mình có y trắng, hồi mình muốn may nó thì cái màu vải phải hoại sắc rồi kìa mình mới may, chớ còn để cái y trắng không được.

Đó thì Phật cấm cái giới là không có cho mặc đồ đời mà phải mặc cái đồ tu có nghĩa như vậy đó, thì cái giới đó Thầy nói đúng. Hầu như là có nhiều người tu sĩ chúng ta cũng vậy, nó chưa có cái tu chơn chánh mà cứ chạy theo những cái dục lạc. Do đó thì các con cũng thấy rằng tu rồi mà vẫn mặc đồ đời, vẫn đội tóc giả lên, thì cái chuyện đó là cái chuyện phi pháp rất là phi pháp giới luật của Phật.

61) GIỚI GIẾT HẠI CHÚNG SANH

(13:00) 61. Giới giết hại chúng sanh.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật còn ở tại vườn Cấp Cô Độc, Ca Lưu Đà Di không ưa thấy chim chóc, dùng ná bắn gom thành đống. Cư sĩ chê hiềm, nên Phật kiết giới này: “Nếu Tỳ Kheo đoạn mạng chúng sanh, phạm Ba Dật Đề.”

Khi ấy các Tỳ Kheo ngồi, đứng, tới lui làm chết nhiều con trùng nhỏ. Có người làm pháp sám hối, có vị cẩn thận sợ. Phật dạy: “Không biết, không phạm.” Ngài kiết giới lại, thêm chữ “cố ý”.

Thiệt ra thì ông Phật ổng dạy chúng ta đi còn phải tu Tứ Vô Lượng Tâm, tránh không đạp cọng cỏ héo nữa. Mà ở đây vô ý đạp chết chúng sanh không có tội, trừ ra mà lấy cung, lấy ná mà bắn chim thì có tội, mà tội rất nhẹ, tội phạm Ba Dật Đề.

Thật sự ra mình dùng cái ná hay hoặc là cung tên, hay hoặc súng mình bắn chim bắn chóc, mình bắn mình giết nó như vậy là tội Ba La Di, tức là tội đuổi ra khỏi Tu viện chớ đừng nói chuyện tội mà xin sám hối được đâu.

Đó thì các con thấy, từ ở chỗ mà bốn cái giới tứ khí của nó là đứt đầu đó, mà thế mà đến đây các con thấy cái tội rất nhẹ không? Coi có phải mấy ông này là già hàm lẻo miệng không? Để mấy ổng đặt ra cái giới này, lấy cái giới này ông không có tội nặng đâu. Nghĩa là ông có giết vậy đi nữa ông cũng Ba Dật Đề thôi chứ còn không có phải là cái tội trục xuất ông đâu mà ông sợ.

Đó thì các con thấy, nó bốn cái giới, giới sát sanh nó cũng là một cái giới mà trục xuất chớ đâu phải là giới thường đâu. Thế mà tới cái chỗ này mà ông này ổng bắn chim ổng gom thành đống đó mà ổng còn không có tội gì bao nhiêu đó thì đủ biết.

Mà lại còn chế lại cái giới nữa, như là:

“…​ngồi, đứng, tới lui, làm chết côn trùng nhỏ. Có người làm pháp sám hối, có vị cẩn thận, sợ. Phật dạy: “Không biết, không phạm.”

Không có phạm tội gì hết, mặc tình mà đi mà dậm cho nó chết hết, mình đâu có nhìn xuống dưới chân mà mình biết!

Đó, chế cái giới như vậy thì các con nghĩ coi như thế nào, có đúng không? Một vị tu sĩ mà như vậy thì còn có cái chỗ nào mà gọi là Từ, Bi, Hỷ, Xả không?

62) GIỚI UỐNG, DÙNG NƯỚC CÓ CÔN TRÙNG

(15:12) 62. Giới uống, dùng nước có côn trùng.

Vì sao Phật kiết giới này?

_Khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo lấy nước có tạp trùng uống dùng. Phật nhân đó mà kiết giới này: “Nếu Tỳ Kheo uống, dùng nước có tạp trùng, phạm Ba Dật Đề.”
_
Phạm tội nhẹ không à! Mà có một vị Tỳ Kheo uống nước mà đến gặp Phật - ở trong giới Sa Di lược giải đó, các con có đọc không? Mà uống nước côn trùng mà sống để gặp Phật đó. Phật nói thà là nhịn khát chết mà gặp Phật còn hơn là sống mà thấy Phật thì có ra gì!

Đúng vậy. Thật sự ra cái pháp mà uống nước có côn trùng - có trùng ở trong đó mà cứ uống thì coi như là bị đuổi ra khỏi Tu viện nữa là khác, khỏi Tăng đoàn nữa.

63) GIỚI CỐ XÚC NÃO NGƯỜI

(16:01) 63. Giới cố xúc não người.

Vì sao Phật chế giới này?

Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Thập Thất Quần hỏi Lục Quần Tỳ Kheo: “Nhập Sơ Thiền làm sao? Cho đến nhập Tứ Thiền là sao? Thế nào là nhập không, vô tướng, vô nguyện? Thế nào là đắc Tứ Quả?”. Lục Quần nói: “Như các ông vừa nói là tự xưng được pháp thượng nhân, các ông đã phạm Ba La Di, chẳng phải là Tỳ Kheo.”

Thập Thất Quần Tỳ Kheo bèn thưa với bậc Thượng tọa: “Chúng tôi hỏi như vậy là phạm tội gì?” Thượng tọa nói: “Không phạm”. Tỳ Kheo bạch Phật, Phật kiết giới: “Tỳ Kheo gieo nghi ngờ cho người khác thì phạm Ba Dật Đề.”

Khi ấy chúng tập hợp lại một chỗ, cùng luận nghị pháp luật, có một Tỳ Kheo rút lui. Vị ấy nghĩ: “Như vậy các Tỳ Kheo đã cùng mình gây nghi não.” Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật dạy: “Chẳng phải cố ý thì không phạm.”

Ở đây Thầy thấy, cái chỗ mà hỏi này, như Thập Thất Quần Tỳ Kheo hỏi Lục Quần Tỳ Kheo rằng:

“Nhập Sơ Thiền là sao? Cho đến Tứ Thiền là sao? Thế nào là nhập không, vô tướng, vô nguyện định? Thế nào là đắc Tứ Quả?” Lục Quần nói: “Như các ông vừa nói là tự xưng được pháp thượng nhân, các ông đã phạm Ba La Di rồi”.

Nghĩa là người ta không biết người ta hỏi chớ phải chi mà người ta biết, người ta xưng người ta là chứng quả đó sao mà phạm tội? Đó. Trong cái giới này nó chế ra là kỳ cục như vậy là sai.

Người ta không hiểu, người ta mới hỏi mấy ổng. Trái lại mấy ông này chẳng biết cái Sơ Thiền, Nhị Thiền như thế nào hết, mới nói: “Mấy ông hỏi như vậy là mấy ông đã phạm tội Ba La Di rồi.” Tức là mấy ông tự mình xưng là pháp thượng nhân rồi.

Người ta không hỏi, tức là mấy ổng nói, bây giờ người ta hỏi mình mới nói: “Sơ Thiền phải nhập như vậy, như vậy, phải tu như vậy, vậy, thì đó là Sơ Thiền”. Chớ mấy ổng có xưng là tôi nhập Sơ Thiền đâu? Các con hiểu điều đó không?

Đó, như vậy là người ta không hiểu thì người ta hỏi, mình biết thì mình chỉ, mình không biết thì mình nói: “Cái này nên vào hỏi Phật, Phật sẽ chỉ cho các ông biết thì như vậy là đúng rồi, còn tụi tui thì chưa có nhập nó, tụi tui không biết đâu mà nói.” Thì như vậy là cũng tốt rồi, chớ đâu tự xưng mình là nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền đâu mà.

Tự mình người ta không hỏi, mình đến nói: “Tui là nhập Sơ Thiền nè, tui nhập Nhị Thiền nè, tui nhập Tứ Thiền nè, tui có thần thông phép tắc.” Đó là mình tự xưng mình thượng nhân, thì đó là phạm cái tội kêu là vọng ngữ, đại vọng ngữ rồi, tăng thượng mạn rồi, thì như vậy mới gọi là tự xưng là pháp thượng nhân, như vậy mới là phạm tội Ba La Di.

Còn ở đây đâu có gì đâu mà đặt cái này ra. Bởi vì đem câu chuyện này ra, thiệt ra thì mấy ông này là mấy ông không có hiểu cái gì hết à, viết tầm bậy tầm bạ à, phải không các con? Nghe thì các con biết rằng mấy cái ông viết giới này toàn là gọi là mấy ông tổ chớ thiệt là tổ cho nên viết tầm bậy, kêu là “tổ”.

Đây là chữ nghĩa rõ ràng, Thầy không viết một chữ nào trong này, Thầy đọc hết cho mấy con nghe đó. Họ viết họ in chớ Thầy không viết chỗ nào hết á. Đó, như vậy thì các con thấy. Bởi vậy Thầy nghĩ là, đọc lướt qua Thầy thấy nó nhiều cái sai lắm, cho nên Thầy chả thèm viết mất công nữa, đem ra đọc cho mấy con nghe rồi phê phán mấy ông này cho đã miệng mới được.

64) GIỚI CHE GIẤU TỘI THÔ TỲ KHEO KHÁC

(19:25) 64. Giới che giấu tội thô Tỳ Kheo khác.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, một Tỳ Kheo do quen biết nên che giấu thô tội của Bạt Nan Đà, sau đó bất mãn nhau nên đến Tỳ Kheo khác nói. Các thầy Tỳ Kheo bạch Phật. Phật kiết giới: “Nếu Tỳ Kheo che giấu thô tội của các Tỳ Kheo khác thì phạm tội Ba Dật Đề.”

Trong cái giới này thì các con thấy nè, trước kia thì hai người thân nhau lắm, có phạm tội thì giấu nhau hết, không nói đâu. Bây giờ bữa nào cái chửi lộn nhau mới đem ra nói cô Út, cô Út cổ nẹt, thì như vậy là có tốt không? Đó, mấy người đó là phạm tội Ba Dật Đề đó.

Còn khi mà người ta phạm cái giới gì đó, mình đem ra nói để cho từ đó người ta sửa thì nó tốt, sửa lại cho người bạn mình tốt. Còn cái này hồi thân thì giấu hết không có thèm nói, tới chừng mà hết thân rồi, bắt đầu có sự gì hiềm giận trong bụng rồi bắt đầu nói ra hết, thì cái đó là cái không tốt. Cho nên cái giới này thì chế Thầy thấy được, chế tốt, được.

65) GIỚI KÉM TUỔI CHO THỌ ĐẠI GIỚI

(20:24) 65. Giới kém tuổi cho thọ đại giới.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở thành La Duyệt, Thập Thất Quần Đồng Tử trước vì quen với nhau, lớn nhất là 17 tuổi, nhỏ nhất là 12 tuổi, rồi rủ nhau đến chùa cầu xuất gia. Các thầy Tỳ Kheo độ cho xuất gia, trao đại giới cho họ.

Con nít mà làm sao trao đại giới, Thầy không hiểu sao! 20 tuổi mới trao đại giới chớ, sao lại mới 17 tuổi với 12 tuổi mà trao đại giới, chỉ Sa Di thôi chớ, sao lại cho kỳ vậy? Đây cũng là cái nói sao mà lộn xộn quá.

Các Tỳ Kheo độ cho xuất gia, trao đại giới cho họ. Họ không kham ăn một bữa, nửa đêm đói, khóc la.

Phật nói với Tôn giả A Nan: “Không nên trao đại giới cho người chưa đủ tuổi 20, bởi họ không kham chịu lạnh, nóng, đói, khát và không nhẫn được những lời nói ác. Không thể giữ giới, không kham ăn một bữa.”

Nếu chưa đủ tuổi 20 mà cho thọ đại giới, người ấy không đắc giới, Tỳ Kheo bị quở trách vì si mê mà còn phạm Ba Dật Đề.

Thật sự ra luôn luôn lúc nào thì Đức Phật cũng nói rằng phải 20 tuổi, nhưng mà không có nghĩa là ăn một bữa mà la khóc, như La Hầu La, như Sa Di Quân Đầu, những người này mới 7, 8 tuổi à, mà người ta vẫn sống người ta ăn ngày một bữa, có đâu mà gọi là la khóc?

Thì mấy chú nhỏ này dù có muốn tu thì chú cũng đã biết được cái hành trì của người xuất gia rồi, đâu lý nào mà vô đó rồi nửa đêm khóc. Mấy ông này nhiều cái mà đặt như thế này là vô lý lắm. Bởi vì ít ra mình đi tu thì mình phải hiểu cái sinh hoạt ở trong cái chùa nó như thế nào rồi.

Chẳng hạn là như bây giờ mấy con chưa ăn một bữa, mấy con dám đến đây không? Phải không? Do đó mấy con cũng phải chuẩn bị cho mình ăn một bữa rồi mấy con mới dám chớ. Chứ lý nào chưa có dám mà cũng xin vô đó rồi ở, rồi khóc la là sao? Cái chuyện đó không có rồi. Đó là những cái giới mà đặt ra những cái câu chuyện nó không có hợp.

66) GIỚI KHÊU GỢI VIỆC TRANH CÃI

(22:23) 66. Giới khêu gợi việc tranh cãi.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần đấu tranh như pháp diệt rồi sau phát khởi lên, lại nói như thế này: "Ngài không quán sát đúng, không thành quán sát, không khéo giải thích, không thành giải thích, không khéo chấm dứt, không thành chấm dứt.” Khiến cho tăng chưa có tránh sự lại sanh, có tránh sự lại không chấm dứt được. Tỳ Kheo biết bạch Phật. Phật quở trách rồi kiết giới này.

Nghĩa là trong khi mà hợp các Tỳ Kheo làm pháp Yết Ma để cho những cái vị mà người ta phát lồ sám hối hoặc là xử một cái tội nào đó ở trong chúng, thì trong khi đó xử xong rồi thì các ngài lại đem cái câu chuyện này ra để phanh phui ra nói: Xử như vậy không đúng, không này kia.

Hồi đó sao không nói? Cho nên bây giờ lại nói đổ thừa Phật là xét xử không thấu này kia nọ. Hồi đó sao không cãi, để bây giờ lại cãi? Như vậy Phật cấm cái giới này, là sau khi mà xét rồi thì cứ y như pháp mà chấp nhận cái lỗi của mình, chớ không được tránh né, nói đổ lỗi cho người này người khác.

Cũng như thí dụ như bây giờ Thầy có một cái người sai ở đây, Thầy họp chúng đi, Thầy nói cái lỗi người đó xong rồi, sau đó đó, khi đuổi họ ra đi, cái bắt đầu họ đi lại chỗ khác họ nói Thầy như thế này thế khác đủ thứ, Thầy không sáng suốt này kia, họ không có tội vậy.

Trong khi đó ở đây có mặt mọi người, ai cũng chấp nhận đó là cái tội thật sự rồi, nhưng khi mà cái vị đó được đuổi họ đi rồi, bắt đầu họ ra ngoài họ nói như thế nào? Có không? Cái giới này rất có chớ không phải là không có đâu. Đúng là như vậy.

(24:11) Cho nên hầu hết là những cái người mà bị đuổi ra là họ phải tìm cách họ nói để họ che đậy cái lỗi của họ, chúng ta cũng không nên…​ Theo Thầy nghĩ Đức Phật còn chế cái giới này chớ Thầy khỏi cái chế giới này đi.

Tại sao? Tại vì mình đuổi người ta ra, người ta phải che đậy cái lỗi của người ta chớ gì? Người ta phải nói đỡ gạt chút để người ta sống với mọi người chớ. Không lẽ người ta đến cái chùa đó người ta xin mà người ta nói người ta xấu thì làm sao người ta ở được?

Người ta phải nói người ta tốt, thì tức là người ta phải nói: “Tại thầy đó xét không rõ, tui đâu có phải cái tội đó. Cho nên ổng xét như vậy ổng là cái người không sáng suốt chút nào hết. Và một số chúng ở trong đó cũng đều là bợ đít ổng mà thôi!”

Các con hiểu không? Ông ta ổng nói vậy để mà cho ông thầy ở chùa đó ổng chấp nhận cho ông ở thôi. Thì cái chuyện đó mình cần gì phải chế thêm cái giới này làm gì nữa. Bởi vì ổng đi ra khỏi mình rồi mình chế làm chi cho mắc công, phải không? Ổng có sửa gì đâu nữa mà chế? Các con hiểu. Cho nên chế cái giới này làm gì? Ăn thua gì mình phải chế!

Cho nên những cái chuyện làm như vậy là vô cái lý lắm. Bởi vì khi còn ở trong cái khuôn khổ của mình thì mình khép cho người ta để người ta tu hành cho đạt được cái ly dục ly ác pháp, còn ra khỏi ngoài khuôn khổ thì người ta chê khen mặc người ta, ăn thua gì mình?

Mình đúng là lúc nào mình cũng đúng, mà mình sai thì lúc nào mình cũng sai. Còn nếu mình cứ sợ hãi như vậy, thì thử hỏi ông Phật mà ổng sợ hãi như vậy thì ổng làm Phật làm gì?

Bởi vì ông Phật đã nói ở trong kinh Sa Môn Quả thì Đức Phật cũng đã nói: Một cái người mà khen đúng là mình chấp nhận, nhưng một cái người mà chê đúng thì mình cũng chấp nhận. Mà một người khen sai thì mình không chấp nhận, mà một người mà chê mình sai thì mình cũng không chấp nhận, nhưng mình không tranh cãi.

Nghĩa là không lý luận tranh cãi: Cái đó là sai, cái đó đúng, mình không tranh cãi. Họ chê mặc họ, mình cứ giữ đúng của mình mình đi. Cho nên mình chẳng bận tâm với cái chuyện khen chê của thiên hạ.

Cho nên khi mà họ ra rồi họ muốn nói gì nói, kệ họ. Mình trong sạch là trong sạch, mà mình không trong sạch bây giờ mình có che đậy gì mình cũng không trong sạch đâu. Cho nên mình chẳng sợ ai hết. Đó là cái sự tu tập của mình, vì vậy mà mình thấy được cái chỗ của mình, mình chẳng có ngại gì khen chê ai hết.

Cho nên mình đâu có ngại. Người ta sai mà mình thấy người ta ở tu không được thì mình đuổi người ta đi, thì người ta ra người ta có quyền người ta nói mình gì cũng được hết á! Mình đâu có cần cái chuyện tốt xấu đâu, cho nên mình không ngại cái vấn đề đó.

Còn mình ngại thì mình lạy họ ở lại với mình đi! Sợ họ nói thì mình lạy, mình cầu họ đi! Đó là mình phàm phu tục tử rồi, mình không phải là những cái người Thánh rồi. Cho nên mình ngại khen ngại chê, ngại sợ mất tiếng mất tai này kia, rồi rào rồi đón đồ này kia, thì cái đó là cái ngại của mình.

Còn mình là một cái người chơn chánh hẳn hòi, mình ở trong Chánh Pháp, mình không sợ ai khen chê hết. Nói sao mặc họ, tui vẫn sống hằng ngày. Ngày nào rồi đó cái sự sống của chúng tôi sẽ trả lời các ông chớ các ông khỏi cần nói đi. Ai muốn nói gì đó nói. Cho nên, mình là người tu chơn chánh mình không sợ.

67) GIỚI CÙNG BẠN GIẶC ĐỒNG ĐI MỘT ĐƯỜNG

(27:00) 67. Giới cùng bạn giặc đồng đi một đường.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo từ Xá Vệ đến Tỳ Xá Ly, cùng khách buôn làm bạn, đi bị trạm quan thuế bắt cùng với khách buôn, áp giải về chỗ vua Ba Tư Nặc. Vua không nỡ giết Sa Môn, chỉ quở trách rồi thả ra.

Phật vì vậy mà kiết giới: “Này các thầy Tỳ Kheo! Cùng với giặc làm bạn đồng đi, cho đến một thôn, phạm Ba Dật Đề. Nếu biết mà cùng đi chưa được 10 dặm thì phạm tội Đột Cát La. Nếu giao hẹn mà không đi cũng phạm tội Đột Cát La. Bị nạn không phạm.”

Cái giới này, Đức Phật cấm là mình không đi chung với bọn trộm cướp, hay hoặc là đi buôn lậu. Tại sao vậy? Tại vì mình ngồi lên xe đò đó, mấy cái người bán buôn lậu đó họ dúi ở trong cái bị của mình một gói thuốc, vì vậy mà công an nó xét ra: Cái ông thầy này đi bán thuốc lậu!

Thì do đó, Thầy nói thật sự, cái tội này mấy thằng công an thì nó nghĩ mình ông thầy cho nên nó nói nặng nói nhẹ chút rồi thôi cho quý thầy đi. Nhưng mà mình quên rằng mình vị tình cái cô bán thuốc lậu này là cô hay tìm mấy ông thầy lắm, là vì nói rằng mấy cái người công an mà xét xe đồ đó, về buôn lậu đó, chắc không có xét mấy ông thầy.

Cho nên mình là một cái người tu sĩ hẳn hòi, khi lên xe mà mấy cô này mà đưa mình thuốc này kia nhờ thầy cất dùm, nói: “Không được! Tôi là cái người đầu trọc mà tui cất cái kiểu này thì không có được. Cái đầu tui nó nắm không có nắm được, nhưng mà nó nắm cái áo của tui dễ lắm. Cho nên mấy cô có thương người tu thì mấy cô nhờ cái người khác chớ còn đừng có đưa tui!”

Cho nên trước kia mà Thầy hay đi về Thường Chiếu thăm, ở ngoài Chơn Không đồ đó, Thầy hay đi xe đò lắm, cho nên Thầy biết cái tình trạng này lắm. Do vì vậy mà mấy cô bán thuốc lậu này mua thuốc thì cổ cứ 5, 7 gói cổ làm một cái vầy cổ nhét ở trong cái bị: “Nhờ Thầy cất dùm cho con đi! Do con là Phật tử, con ở chùa này chùa kia…​” Nói nghe coi ngọt lắm.

Nói: “Không được đâu! Thầy là người tu mà công an nó xét cái túi của Thầy, nó thấy có gói thuốc này, nó nói Thầy còn đi buôn lậu thì chắc chết Thầy rồi. Thôi con làm ơn cất giùm Thầy đi!”

Đó là những cái mình thành thật mình nói với người ta: “Để không khéo Thầy bây giờ…​ Thầy thì cái tật Thầy nhát gan lắm, Thầy thấy có cái gì giả ở trong cái túi của Thầy, Thầy thấy công an Thầy xanh mặt Thầy run, nó biết liền, nó lại nó bắt à, rồi nó mất gói thuốc của con đi!”

Mình cứ nói vậy đi, cái nó sợ, nó nói ông thầy này nhát gan, cái nó lấy lại, nó không dám. Chớ mình làm bộ dạn dạn đó: “Bao nhiêu cô cứ đưa đây tui giấu giùm cho” thì trời, nó mừng lắm, nó lấy hết mấy người kia nó dồn lại cho mình!

Lúc bấy giờ đó, thật sự ra công an nó không có xét đâu, Thầy biết nó không có xét mấy ông thầy đâu. Nhưng mà mình làm như vậy là mình có cái sai ở trong cái giới luật của mình rồi, không có tốt.

(30:08) Cho nên ở đây cái giới này là nhằm cái mục đích là đừng có nối giáo cho cái người mà làm cái chuyện trật, chuyện không đúng. Làm cái gì cho đúng pháp luật, làm cái không đúng pháp luật thì không nên làm.

Cho nên hầu như có nhiều thầy đi buôn lậu nữa chớ không phải không đâu. Thầy ở trên cái đường Gò Dầu này mà, mấy ông thầy ở Gò Dầu mà mấy ổng đi buôn lậu mà các con biết, mấy ông làm chiếc xe Honda, mấy ổng nhét ở trỏng quá trời ở trong đó mấy ông cỡi đi. Người ta nói mấy ông thầy mà, người ta đâu có bắt! Chừng mà thấy ổng đi hoài rồi người ta nghi. Nghi chừng người ta đón cái gặp liền, đâu có làm sao mà trật được.

Bởi vì công an nó để ý lắm. Đi một lần, hai lần thì nó thấy ông thầy đi một lần, hai lần là vì có chuyện thôi. Nhưng mà ông có lời ổng ăn được rồi bắt đầu ngày nào ổng cũng đi hết, làm sao người ta không nghi?

Cái chuyện buôn lậu mà, ngày nào không có đi, mình kiếm lời được một triệu, hai triệu thì nó ham quá rồi cái ngày nào cũng xách xe đi. Đi riết rồi công an nó biết mặt thì nó phải xét nó bắt thôi. Cho nên từng đó mới đổ bể ra, mấy thầy chùa mới mang cái tiếng đó, rất là tệ. Cho nên ở đây chúng ta là người tu sĩ, chúng ta phải bỏ hết cái này để mà ly dục ly ác pháp.

Cho nên ở đây cái giới này cấm là chúng ta đi cùng đường mà vẫn bị người ta kết tội mình là đồng lõa với bọn cướp. Mà sự thật ra nếu mà một vị tu sĩ như chúng ta, làm sao đi với bọn cướp được! Kiểu mà chúng ta móc nối với nó mà đi với nhau đó thì thời nay nó mới có vậy, cho nên mới đành chịu chung cái số phận.

Do đó mà Đức Phật chế cái giới này ra là cũng có cái điều kiện gì với cái bọn này. Tại vì cái bọn này nó lợi dụng cũng mấy ông thầy này, như thế nào?

Theo Thầy biết là nhà vua thì rất kính trọng, quý ông thầy. Cho nên do vì vậy đó, nó có thể cướp bóc của người ta, do nó làm những cái tội, vì vậy mà nó nương vào cái bóng của mấy ông thầy này để nó đi qua được cái cửa, cửa ải, cửa thành gì đây, để nó qua cái chỗ này.

Nhưng mà không ngờ lính nó canh gác quá ngặt, nó lượm luôn mấy ông thầy này luôn, nó dẫn vô nhà vua, chừng xét ra đúng là mấy thằng này ăn cướp giết người nè. Do đó là mấy ông thầy coi như là bị đồng lõa với mấy cái thằng ăn cướp này, nó mới kết tội như vậy.

Nhưng mà nhà vua vì thương những người tu hành cho nên mới thả mấy ông này ra. Nhưng mà Đức Phật cũng phải là do cái chỗ này mà chế cái giới để mà tránh, không có được đi với những cái người mà phạm pháp như vậy.

Thì Thầy mới đem cái câu chuyện ra, những cái người mà buôn lậu như vậy là những người phạm pháp luật. Nhà nước cấm buôn lậu, vì buôn lậu nó làm cho kinh tế của đất nước chúng ta bị lũng đoạn đi, nó làm cho dân chúng ta bị nghèo đói đi. Nó có lợi ích cho ngoại quốc chớ nó không phải là lợi ích cho toàn dân chúng ta.

Nó chỉ lợi ích cho một cái số người thất nghiệp mà đi buôn lậu thôi. Họ chỉ kiếm ăn ở trong cái chỗ của họ chớ không nghĩ bao nhiêu người ở trong nước của chúng ta đang thất nghiệp. Cho nên họ không thấy được cái lợi lớn của đất nước, mà họ thấy cái lợi nhỏ của họ mà họ hại biết bao nhiêu người.

Thay vì họ đừng có làm cái nghề đó, họ đi trồng lúa, họ trồng khoai trồng bắp họ sống. Mà bao nhiêu người mà người ta đứng ở trong nhà máy, cả trăm cả ngàn người, người ta sẽ sống được ở trong cái nhà máy sản xuất về thuốc. Còn bây giờ họ bán thuốc như vậy là cái nhà máy sản xuất thuốc đó nó chỉ đóng cửa mà thôi. Bao nhiêu người người ta chết đói. Còn họ, chỉ có mình họ mà thôi.

Đó thì chúng ta phải hiểu được cái gì mà lợi ích cho nhiều người mà cái gì không lợi ích cho nhiều người. Và một ông thầy ngồi trên xe mà chấp nhận để mà nhận đồ buôn lậu như vậy mà ngồi an nhiên được, mà qua mặt cảnh sát được, Thầy thấy sao lương tâm mấy ông đó mà sao không cắn rứt được? Không hiểu được một cái gì của lợi ích cho đất nước của mình hết. Làm những chuyện đó quá là tệ.

Đó, vì vậy mà Phật chế cái này Thầy thấy ra là rất đúng.

68) GIỚI KHÔNG BỎ ÁC KIẾN

(33:31) 68. Giới không bỏ ác kiến.

Vì sao Phật kiết giới này?

Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, Tỳ Kheo A Lê Tra sanh ác kiến, tự nói: “Tôi biết Thế Tôn nói pháp: Phạm dâm dục không phải chướng đạo pháp.” Các thầy Tỳ Kheo can, không bỏ, bạch Phật. Phật quở trách rồi cho phép chúng tăng vì Tỳ Kheo A Lê Tra bạch Tứ Yết Ma, tác pháp ha gián cho bỏ việc ấy, rồi Ngài kiết giới này.

Nghĩa là cái câu chuyện này, Thầy có đọc ở trong kinh thì nó có khác, nó không phải giống như vậy đâu. Mấy ông này viết ra như thế này thì nó rất là sai.

Là vì cái ông Tỳ Kheo này đó, ổng nói Phật dạy là các cái pháp mà do cái tâm ham muốn của mình nó đem đến cái khổ cho con người. Ông nói toàn là những cái pháp Phật nói nó không có đúng, là tất cả những cái dục nó không có đem đến khổ mà nó đem đến cái lạc, chớ không phải ông này nói về cái dâm dục, mà ở đây nó đem ra cái dâm dục nói.

Đó thì các con thấy, ở trong kinh may là có cái bài kinh nó đọc rõ ràng mà. Thế mà mấy ông dám đặt như thế này đây. Thì Thầy nghĩ rằng mấy ông có đủ cách thức để mà sửa lại những cái bài kinh chơn chánh của Phật như vậy.

Cho nên trong cái bài đó, hôm nào Thầy sẽ đọc lại cái bài đó thì các con thấy hết toàn bộ cái câu chuyện, để mà Đức Phật chỉnh lại cho cái vị Tỳ Kheo đó để mà hiểu biết cái sai, cái vô minh của ông ta.

Đức Phật nói các dục là đem đến cho cái sự khổ của chúng ta, trong đó đâu phải là có dâm dục không, là ham muốn cái này cái nọ kia, toàn bộ hết mà. Mà ông này ở đây lại nói là dâm dục không à. Đây nè, ở đây rõ ràng là chữ viết: “Tôi biết Thế Tôn nói pháp: Việc phạm dâm dục chẳng phải là chướng đạo”. Đó, nói như vậy. Nghĩa là dâm dục không có chướng đạo.

Cũng như có một ông thầy nói là được phép có vợ vậy thôi, thì ông ta là muốn phá cái giới như vậy thì ông ta muốn nói như vậy.

Ở đây thì ông này cũng muốn phá như vậy, chớ không phải cái lý ở trong cái bài kinh đó, thì cái ông này muốn nói rằng: Đức Phật nói tất cả các cái pháp mà do cái tâm ham muốn của chúng ta nó mới sanh ra chúng ta đau khổ, vậy thì chúng ta phải dứt trừ các cái pháp đó thì chúng ta mới hết đau khổ. Do đó thì nó mới có cái lý chỗ đó mà Đức Phật mới dạy cho ông ta.

Đó thì vì vậy Phật mới chế cái giới này, đó gọi là cái ác kiến, thì ở trong này nó cũng là cái ác kiến, cho nên chế cái giới này để chúng ta đừng có chấp vào cái ác kiến.

Người nào mà bị cái ác kiến, cũng như bây giờ có người nói như thế này: “Trong tôi thì có Phật Tánh, dâm dục cũng có Phật Tánh, cho nên mặc tình dâm dục mà có Phật Tánh thì đâu có làm sao mất Phật Tánh tui được?” Do đó là cái ác kiến. Những cái đó là những cái ác kiến. Cho nên vì vậy mà chế cái giới này, phải bỏ cái ác kiến, không được chấp nhận cái ác kiến.

69) GIỚI LÀM BÈ ĐẢNG VỚI NGƯỜI ÁC KIẾN KHÔNG BỎ

(36:27) 69. Giới làm bè đảng với người ác kiến không bỏ.

Vì sao Phật chế giới này?

Cũng khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ có tăng ha gián ác kiến của A Lê Tra mà kiên trì không bỏ. Phật khiến tăng nêu lên tội không bỏ ác kiến, bạch Tứ Yết Ma trao tội.

Lúc bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo lại cung cấp các nhu yếu, cộng đồng pháp sư ngủ, nghỉ, nói năng. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân giới này mà kiết.

Nghĩa là họ không có chịu bỏ ác kiến, mà còn kết ra một cái bầy mà nhận đó là ác kiến.

Cũng như bây giờ người ta nói: “Tui có Phật Tánh ở trong này nè, bây giờ uống rượu cũng không tội nè, sát sanh cũng không tội nè, giết chúng sanh cũng không tội nè, dâm dục cũng không tội nè, vì Phật không có bao giờ…​ Phật thì thanh tịnh, cho nên mặc tình chúng ta cứ làm, ăn, nhậu gì đủ thứ hết cũng không có tội hết. Do vì vậy đó mà phóng sanh thì rơi xuống địa ngục, mà sát sanh thì được lên thiên đàng.”

Họ lý luận như vậy. Đó là những cái ác kiến, các con hiểu điều đó. Cho nên ở đây các con có nghe những cái câu mà người ta nói không? Phóng sanh mà đọa địa ngục, còn sát sanh thì được lên thiên đàng, phải không? Do những ác kiến đó đó mà Phật mới chế cái giới này ra.

Mà họ là thành một cái bè đảng, ai cũng nói câu đó hết, người cũng chấp nhận câu đó hết, có một số người đông như vậy mà nhằm một cái ác kiến đó, ai cũng chấp cho cái ác kiến đó như vậy đó, thì Đức Phật mới chế ra: Nếu một bè đảng mà nhằm một cái ác kiến như vậy đều là phạm vào cái giới đọa địa ngục là giới 69 này.

70) GIỚI NUÔI SỐNG SA DI BỊ ĐUỔI

(37:58) 70. Giới nuôi sống Sa Di bị đuổi.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Bạt Nan Đà có hai đệ tử Sa Di sanh ác kiến như trên. Phật khiến tăng để Sa Di ấy trước chúng tăng nơi mắt thấy tai nghe, vì đó mà tác pháp ha gián bạch Tứ Yết Ma mà Sa Di cố không bỏ, bèn khiến tăng để Sa Di đứng chỗ như trước, tác pháp Yết Ma diệt tẫn.

Khi ấy Lục Quần biết tăng diệt tẫn mà dụ đem về nuôi, cùng ngủ. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân đó mà kiết giới này.

Nghĩa là có một cái vị Sa Di bị đuổi, thì trong lúc đó là đem cái giới mà của vị Sa Di này bị tội đuổi đi, thì trong khi chú Sa Di này bị đuổi thì bên Lục Quần Tỳ Kheo này mới đem cái chú này về nuôi ở trong cái thất của mình. Do đó nhân cái sự mà nuôi như vậy, cái người bị đuổi rồi mà nuôi như vậy đó thì Đức Phật không có chấp nhận.

Như bây giờ thí dụ như các con nè, có một cái chùa riêng nè, rồi bây giờ như Hải Tâm nè, Từ Nguyện nè, rồi mỗi đứa đều có một cái chùa nè. Rồi trong khi đó đó, ở Hải Tâm con có một cái chú phạm tội, con đuổi đi. Do đó Từ Nguyện mới thấy thương cái chú này, thôi để đem về nuôi. Thì Phật mới chế cái giới này ra: Không có được nuôi cái chú mà phạm tội như vậy.

Cho nên cái chùa này đuổi thì chùa kia cũng phải đuổi à. Còn đầu này, cái chùa này đuổi thì cái chùa kia nhận là thế nào. Thầy thấy quá rõ à, không có chỗ nào mà còn sai hết. Cái đó là một cái làm cho cái Tăng đoàn nó càng sa đọa đó.

Phải cái chùa này mà công nhận đuổi cái chú đó rồi, thì cái chú đó mà có đến cái chùa khác là cũng phải bị đuổi luôn, chớ không có bao giờ chấp nhận, thì cái đó mới là xây dựng cái Phật giáo đó.

Còn cái đứa này ở cái chùa này, đứa kia ở chùa kia, mà cái đệ tử của chú này phạm cái tội đó, cái đứa này đuổi đi thì cái đứa kia đón nhận vô. Thà là mình không có chúng chớ mình đừng có nhận ba cái chú mà phá giới đó. Đó là một cái điều kiện để xây dựng Phật pháp.

Ở đây sẵn cái giới này Thầy nói, sau này các con mà có điều kiện mà các con lãnh chúng, các con sẽ hoàn toàn là phải nghiêm nghị, nghiêm chỉnh cái đó. Hễ ở đây đuổi thì ở đứa kia đến xin không bao giờ được. Cho nó ra đời nó ở ngoài đời đi cho nó biết mùi vị của đời, để rồi nó ở trong đạo mà nó phá hoại đạo thì không được.

Cho nên những cái này đừng có thấy nó nhỏ nhẹ, nó khóc lóc mà thương nó. Không có thương, chúng ta thương là phải thương đúng, chứ đừng có để cái tâm tình cảm của chúng ta nhỏ mọn mà chúng ta thương như vậy, không được.

Đừng nghĩ rằng chúng ta sẽ…​ Nếu mà nó giảng được thì cái vị thầy ngay từ đó đã uốn nắn nó được rồi. Nó đã đến nó học với người này thì người này người ta phải ráng người ta uốn nắn nó để cho nó tu hành nó đến giải thoát chớ, mà nó đã không biết được, nó không nghe được thì thôi đuổi nó, thì đứa kia làm sao mà uốn nắn được? Mai mốt đi ra rồi nó cũng nói này nói kia nữa. Cho nên tốt hơn là đừng nhận.

71) GIỚI NGHỊCH LỜI CAN GIÁN, LẠI NẠP VẤN TỲ KHEO

(40:45) 71. Giới nghịch lời can gián, lại nạp vấn Tỳ Kheo.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại nước Câu Diệm Di, trong vườn Cù Sư La, Xiển Đà Tỳ Kheo phạm học xứ này. Phật nhân đó mà kiết giới.

“Tôi nay không học điều giới này” - tức là lời nói kháng cự lại sự can gián, nói rõ phạm Ba Dật Đề, nói không rõ là phạm Ác Tác.

Nghĩa là khi mà mình bị phạm một cái giới đó, mình tìm cái cách mình lý luận, nói: “Tui chưa có học giới này cho nên tui phạm tui chưa có lỗi. Mấy ông, mấy vị không có phạm, tui chưa có học cho nên tui coi như là tui chưa có phạm.” Thì như vậy là lấy cái lý do mình không học để rồi mình chối cái tội của mình.

Chớ khi mà người ta truyền cái giới rồi là lần lượt mình phải học. Nhưng dù học chưa tới thì người ta nhắc cho mình biết và mình xin sám hối cái đó để rồi lần lượt mình sửa, chớ chưa phải là người ta đuổi mình.

Thế mà nói: “Tui chưa học, tui chưa có tội.” Thì cái điều đó là cái điều tranh cãi, cái điều đó kêu là không có chịu nghe lời dạy, thì ngay đó là chúng ta đã biết cái người học trò này không có thể để ở trong cái Tu viện này được hết. Họ có nhiều cái lý lẽ để họ phá cái tội lỗi của họ.

Cho nên ở đây chúng ta phải thấy cái sự sám hối là cái người đó phải thấy: “Bây giờ mình chưa học, nhưng mà vì mình lỗi cái giới này rồi. Vậy thì nhân cái chỗ này, các thầy mà chỉ dạy cho mình thì mình xin nhận cái lỗi đó để từ đây về sau mình không phạm” thì cái đứa đó nó dễ dạy, dễ bảo và sau này nó trở thành cái người tốt được.

Còn nếu mà nó cứ cãi lý mà như vậy thì thôi thôi, chắc chắn là cho cái đứa bé này nó về cha mẹ đi, hay hoặc là vị thầy đó đi chỗ khác đi, chớ đừng có ở đây mà làm động mình.

72) GIỚI KHINH MẮNG NGƯỜI THUYẾT GIỚI

(42:27) 72. Giới khinh mắng người thuyết giới.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, chúng Tỳ Kheo tập hợp một chỗ tụng Chánh Pháp Tỳ Ni.

Tụng Chánh Pháp Tỳ Ni tức là tụng giới đó.

Lục Quần Tỳ Kheo sợ chúng tụng luật không lợi, tụng rồi họ sẽ cử tội của mình, bèn nói với các Tỳ Kheo rằng: “Trưởng lão, tụng các giới vụn vặt này làm gì? Nếu muốn tụng thì chỉ nên tụng 4 việc và 13 việc, ngoài ra không nên tụng hết, vì tụng khiến cho người ta hoài nghi, ưu não.”

Các Tỳ Kheo biết họ muốn tiêu diệt Chánh Pháp nên liền bạch với Phật. Phật quở trách, nhân đó mà kiết giới này.

Nghĩa là Lục Quần Tỳ Kheo thì khi nghe tụng giới, bảo tụng chừng 4 giới đầu và 13 giới Tăng Tàn thôi, 4 giới Ba La Di với 13 giới Tăng Tàn thôi, còn bao nhiêu đừng có tụng, sợ. Bởi vì các vị này đều là phạm những cái giới sau này nhiều quá rồi, cho nên tụng ra thì sợ người ta sẽ chỉ cái tội cho mình, cho nên bảo các vị Trưởng lão thôi đùng tụng, tụng ít ít thôi.

Nhân cái dịp mà ngăn cản không cho các vị Tỳ Kheo tụng đó thì Đức Phật mới chế cái giới này để cho các vị Tỳ Kheo phải thường xuyên tụng cái giới bổn, người nào mà không tụng thì đương nhiên là bị phạm giới.

73) GIỚI DỐI RẰNG MỚI BIẾT PHÁP

(43:52) 73. Giới dối rằng mới biết pháp.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật vẫn ở tại vườn Cấp Cô Độc, trong Lục Quần có một Tỳ Kheo tự biết mình phạm tội, nên khi thuyết giới sợ Thanh Tịnh Tỳ Kheo cử tội, bèn đến trước Thanh Tịnh Tỳ Kheo nói: “Tôi nay mới biết pháp này chép từ giới kinh, nửa tháng tụng một lần”. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân đó mà kiết giới.

Nghĩa là cái vị Tỳ Kheo đó cũng tìm cách chối từ là không có tội, vì mình chưa có biết cái giới này là từ ở trong giới kinh mới chép ra, chớ chưa có phải là cái giới bổn này có cái giới này. Nghĩa là cái vị Tỳ Kheo đó phạm cái tội nó nhằm vào cái giới đó ở trong cái bổn này, nhưng mà cái giới này do các vị mới chép ra chứ chưa phải là trong cái bổn kinh này có.

Cái lối mà thêm thắt giới đó, thì các thầy Tỳ Kheo trong cái thời đó lúc bấy giờ mà chế ra cái giới mới, thì trái lại ở trong cái kinh giới nó chưa có, cho nên vị Tỳ Kheo này mới phạm vào cái lỗi đó thì bây giờ nói: “Các vị mới có chép cái giới này ra đây, chớ còn cái giới này trước kia cái bộ kinh giới này nó chưa có. Tại vì quý vị lấy ở trong giới kinh mà chép ra.”

Ở đây rõ ràng là nói cho chúng ta biết là các vị Tỳ Kheo thời xưa hay làm cái chuyện này như vậy, cho nên cái bài này nó mới lộ tẩy các vị ra, để cho chúng ta thấy được do cái chỗ chối giới ra, mà không ngờ đó là cái hành động làm của quý vị rồi quý vị viết ra như vậy để chúng ta thấy rằng cái giới này mới lấy kinh mà rút ra mà thôi.

74) GIỚI CHỐNG TRÁI YẾT MA

(45:24) 74. Giới chống trái Yết Ma.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở tại Kỳ Xà Quật, Đạp Bà Ma La Tử được chúng sai làm điển tăng, phân phối ngọa cụ và ẩm thực cho tăng. Vì lo việc cho tăng và cho tháp nên khi đàn việt thiết trai hội bố thí không rảnh đến dự, do vậy y phục hư rách.

Thời gian khác có thí chủ cúng cho tăng một cái y quý giá, tăng bạch Nhị Yết Ma trao y ấy cho Ma La Tử. Lục Quần cũng có mặt ở đây. Sau khi đã trao y rồi, Lục Quần Tỳ Kheo dư luận nói rằng: “Tăng đã tùy chỗ thân hậu mà đem y của chúng tăng cho họ.”

Các thầy Tỳ Kheo bạch Phật. Phật quở trách Lục Quần Tỳ Kheo, rồi nhân đó mà kiết giới này.

Nghĩa là cái giới mà chống trái Yết Ma, khi mà người ta làm Yết Ma trao tăng cho người khác rồi, thì Lục Quần Tỳ Kheo muốn cái y đó rồi kiếm cớ mà nói cái người mà trao y đó vì thân tình chỗ này chỗ khác mà không có cho họ, do đó tìm cách chống trái lại cái pháp Yết Ma của chư tăng vừa rồi. Thì chế cái giới này, người nào mà phạm cái tội đó thì tội Đọa.

75) GIỚI KHÔNG GỞI DỤC

(46:38) 75. Giới không gởi dục.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, chúng Tỳ Kheo tập họp tại chỗ bàn luận pháp Tỳ Ni. Lục Quần Tỳ Kheo vì họ tác Yết Ma liền từ chỗ ngồi đứng dậy, tăng bảo ở lại họ không ở. Bạch Phật, Phật kiết giới: “Nếu Tỳ Kheo nào, chúng tăng đoán sự chưa xong, đứng dậy bỏ đi, phạm Ba Dật Đề.”

Bấy giờ có Tỳ Kheo bận lo việc tăng, việc tháp hay chăm sóc Tỳ Kheo bệnh đều sinh nghi phạm tội. Phật dạy: “Cho phép dữ dục, gởi dục” nên Ngài kiết lại giới này.

Đó là có những cái trường hợp phải kiết lại. Nhưng mà cái giới này thì Thầy thấy cũng tốt chớ không phải, bởi vì theo pháp Yết Ma thì làm cái giới này rất tốt, không có gì mà sai trái.

76) GIỚI GỞI DỤC, SAU ĂN NĂN

(47:27) 76. Giới gởi dục, sau ăn năn.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật còn ở tại vườn Cấp Cô Độc, có người trong Lục Quần Tỳ Kheo phạm, sợ chúng tăng cử tội riêng, sáu người lúc nào cũng đi với nhau, không rời nhau khiến cho các Tỳ Kheo không thể tác Yết Ma được.

Sau đó các Tỳ Kheo thấy Lục Quần may y, liền sai người kêu đến. Lục Quần trả lời: “Chúng tôi bận may y, không thể đến được.” Tăng nói: “Nếu không thể đến thì một, hai vị có thể mang dục đến.” Họ liền sai một Tỳ Kheo nhận dục đến.

Lúc bấy giờ chúng Tỳ Kheo liền cùng một vị Tỳ Kheo này tác pháp Yết Ma. Tỳ Kheo ấy trở về nói với Lục Quần, Lục Quần Tỳ Kheo bèn hối hận nói: “Tác pháp Yết Ma đó chẳng phải là Yết Ma. Yết Ma không thành. Tôi gửi dục việc kia chứ không phải gửi dục việc này.” Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân đó mà kiết giới.

Đó cũng là cái giới mà phá các pháp Yết Ma, không có chấp nhận. Các vị Lục Quần này khéo léo mà để phá các pháp Yết Ma ở trong giới luật của Phật.

77) GIỚI NGHE TRỘM, TRANH CÃI, TRUYỀN NÓI NGƯỜI KHÁC

(48:42) 77. Giới nghe trộm, tranh cãi, truyền nói người khác.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật vẫn còn ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo, các Tỳ Kheo đấu tranh với nhau rồi đem đến người kia nói, khiến cho tăng chưa có sự tranh (thì khởi lên tranh sự), đã có tranh sự thì không chấm dứt được. Tỳ Kheo bạch Phật. Nhân đó mà Phật kiết giới này.

Giới nghe trộm nghĩa là mình lén mình nghe các giới để rồi bắt đầu mình ra mình nói cho người khác biết về cái tội như vậy, vậy, để rồi nó có sự tranh cãi nhau ở trong chúng tăng, không có hòa hợp nhau.

Do đó mà Phật kiết giới này để cho hòa giải, để không có đem cái chuyện trộm nghe rồi ra học người này người kia để làm cho động chúng, để làm cho bất an ở trong cái Tăng đoàn, cấm những người mà nghe trộm nói này nói kia.

78) GIỚI CHẶN ĐÁNH TỲ KHEO

(49:36) 78. Giới chặn đánh Tỳ Kheo.

Vì sao Phật kiết giới này?

Duyên do khi Phật còn ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần phạm điều này. Nhân đó mà Phật kiết giới này.

Đánh bằng đá…​

Tức là lấy đá ném đó.

…​ cây, tay đều mắc tội Đọa, bằng phất trần phạm tội Đột Cát La.

Nghĩa là đánh bằng tay, bằng gậy, bằng gộc thì bị tội Đọa, còn bằng phất trần tức là cây chổi nhẹ nhẹ đó thì Đột Cát La. Nghĩa là nói chung tất cả những tu sĩ không được đánh lộn với nhau, mà hễ đánh lộn với nhau thì coi như là đã mắc tội Đọa, tội Đột Cát La.

79) GIỚI GIẬN, TÁT TAI TỲ KHEO

(50:20) 79. Giới giận, tát tai Tỳ Kheo.

Vì sao Phật kiết giới này?

Duyên do lúc Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo dùng tay dọa Thập Thất Quần Tỳ Kheo. Nhân đó Phật kiết giới này.

Giới này tội nhẹ, nặng đồng như giới trước. Nếu người nào mà muốn đánh, đưa tay ngăn lại, hay đụng nhầm thì không tội.

Nghĩa là cái giới mà dùng tay đánh hay dọa người khác thì đều là bị tội Đọa hết.

80) GIỚI KHÔNG CĂN CỨ HỦY BÁNG PHẠM TỘI HỮU DƯ

(50:47) 80. Giới không căn cứ hủy báng phạm tội Hữu Dư.

Vì sao Phật kiết giới này?

Duyên do đồng trên, Lục Quần vu khống Thập Thất Quần. Nhân đó Phật kiết giới này.

Không căn cứ vu khống, nói rõ, phạm tội Đọa. Nói không rõ, mắc tội Ác Tác. Nếu căn cứ nói đúng sự thật, muốn khiến cho họ hối cải thì không phạm.

Cái giới này đặt ra để cho người ta không có vu khống nhau, nó không có phạm tội, còn người nào mà vu khống thì mới phạm tội Đọa.

81) GIỚI QUÁ BƯỚC VÀO CỬA CUNG VUA

(51:28) 81. Giới quá bước vào cửa cung vua.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại nước Xá Vệ, bà Mạt Lợi phu nhân nghe Phật thuyết pháp ngang nơi tòa ngồi đặng con mắt pháp sạch, trở về trong cung khuyên vua tin ưa. Vua tin ưa rồi bèn cho phép các Tỳ Kheo vào trong cung tự do.

Ca Lưu Đà Di khất thực rồi vào trong cung lúc nhà vua cùng phu nhân ban ngày đang nằm ngủ. Từ xa phu nhân nhìn thấy Ca Lưu đến liền đứng dậy mặc y, vì y vương cái ghế nên rớt xuống đất, lộ hình xấu hổ nên bà ngồi xổm liền. Ca Lưu về chùa nói với các Tỳ Kheo khác. Tỳ Kheo bạch Phật. Nhân đó Đức Phật kiết giới.

Cho nên nhà vua rộng rãi cho các vị Tỳ Kheo vào trong cung vua chơi, thế mà cái ông này ổng muốn đi hồi nào ổng cũng đi, trưa ông cũng đi, chiều ông cũng đi, tối ông cũng đi. Cho nên tất cả những cái này nó làm sai cái luật của cái người tu. Người tu sĩ có thì giờ đâu mà đi chơi như vậy?

Cho nên ở đây thiệt ra là những cái nó quá đáng, cho nên chế những cái giới này nó cũng rất là quá đáng. Không có lý mà tu sĩ mà đi như vậy được hết, thế mà cũng phải có những sự kiện để chế cái giới này ra, thì Thầy thấy nó bộ hết chỗ rồi, sao mà không có giới nào nữa mà đặt kì cục vậy?

2- CÁC LOẠI THÂN, KHẨU, Ý CẦN THÂN CẬN VÀ CẦN TRÁNH XA

2.1- CẦN NHẬN THỨC RÕ RÀNG CÁC LOẠI THÂN, KHẨU, Ý

(52:57) Bây giờ Thầy xin giảng tiếp về cái phần này.

Thành tựu biệt giải thoát luật nghi giới.

Nghĩa là bây giờ đó, trước khi mà mình học về giới hạnh thì mình phải qua gần hết những cái giới bổn rồi, thì chúng ta cũng còn không bao lâu nữa hết giới bổn, thì chúng ta phải hiểu biết được, muốn thành tựu biệt giải thoát luật nghi trong luật nghi giới thì chúng ta phải rõ được những cái điều này, thì sau này chúng ta thực hiện cái giới hành thì nó không có khó khăn.

Như nãy giờ mà Thầy đã giảng, thì để khi mà chúng ta bước chân vào cái giới hành, chúng ta đã chuẩn bị cho mình cái nào đúng, cái nào sai, để khi mà chúng ta trau dồi mình thì chúng ta trau dồi những cái đúng chớ không thể nào trau dồi những cái sai được.

Và 37 phẩm trợ đạo là 37 cái pháp giới hành để chúng ta thực hiện con đường giải thoát đi đến rốt ráo cuối cùng chấm dứt sanh tử luân hồi trong một cuộc sống chúng ta.

Nhưng dù sao nó còn rất nhiều những chi tiết mà chúng ta cần phải hiểu để chúng ta áp dụng vào những cái giới hành này để cho đạt được cái kết quả, mà nếu thiếu cái sự hiểu biết thì quý thầy làm sao mà biết được?

Chẳng hạn là như cứ chạy theo dục lạc, chạy theo phụ nữ hoài thì thử hỏi là quý thầy làm sao mà quý thầy trau dồi cái thân tâm của quý thầy được? Cho nên phải hiểu để mà chúng ta đoạn dứt, chúng ta chấm dứt.

(54:15) Muốn thành tựu biệt giải thoát luật nghi giới, phải nhận thức rõ ràng:

Nghĩa là chúng ta muốn thành tựu những cái giới hạnh, giới hành sau này thì bắt đầu chúng ta phải nhận thức cho rõ ràng: Nó có những gì? Thứ nhất là:

1. Thân hành có hai loại:

Mình phải nhận định rõ ràng bắt đầu mình mới áp dụng cái giới hành vào trong cái sự hành động này thì nó mới có hiệu quả. Còn nếu mình không có rõ thì mình không có thể hiệu quả được trong cái sự tu tập của mình.

1. Thân hành có hai loại: Một là nên thân cận, hai là nên tránh xa.

Đó, thì cái nào thân cận mà cái nào tránh xa? Bởi vậy cho nên khi mà tránh xa…​ (Mất tiếng)

  1. thì chúng ta lấy những pháp đó mà chúng ta trau dồi mình. Bởi vì có những cái pháp mà chúng ta thân cận, nó có những cái pháp mà chúng ta trau dồi thân tâm của chúng ta để chúng ta trở thành được giải thoát. Vì hễ thân cận, nên thân cận thì tức là nó có sự giải thoát, mà nên tránh xa, tức là có ác pháp, nó có dục trong đó.

Rồi về phần 2 thì:

2. Khẩu hành có hai loại: Một là nên thân cận, hai là nên tránh xa.

3. Ý hành…​

Ở đây ý hành thì còn gọi một cái tên là Tầm. Cho nên ở đây hầu hết là nói Tầm thì quý thầy nghe nói cái Tầm là như vọng tưởng, nhưng mà Tầm câu hữu với vọng tưởng, cái tưởng nó khác mà. Mình ngồi đây nó chưa có gì hết thì mình tưởng ra cái này cái kia, nhưng mà từ cái chỗ đó Tầm nó câu hữu với tưởng, với vọng tưởng. Cho nên Tầm chúng ta phải hiểu nó là ý hành, ý hành của chúng ta nó mới có Tầm.

…​ có hai loại: Một là nên thân cận, hai là nên tránh xa.

Đó, ý hành nó cũng có hai loại: Một là thân cận, hai là tránh xa.

2.2- LOẠI THÂN HÀNH CẦN THÂN CẬN VÀ CẦN TRÁNH XA

(56:06) 1. Loại thân hành nào có thể biết được:

Bây giờ bắt đầu đó, mình cần phải tìm hiểu cái loại thân hành nào mà mình biết được:

Khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thì thân hành ấy cần phải tránh xa.

Nghĩa là Đức Phật cũng đứng ở trên cái lộ trình của nhân quả để chỉ cho chúng ta biết được cái mình thân cận với cái thân hành của mình: Khi tôi thân cận với thân hành này mà bất thiện pháp tăng trưởng - các ác pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm thì tôi phải tránh xa liền.

2. Loại thân hành nào có thể biết được: Khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp suy giảm và thiện pháp tăng trưởng, thì thân hành này cần phải được thân cận.

Tại sao vậy? Thí dụ như bây giờ tôi thân cận với một cái thân hành, tôi đi mà tui đạp chết con trùng, con dế, thì cái thân hành đó bắt đầu tui không có thân cận nữa, từ đây tui phải ý tứ, tui đi không đạp con kiến, côn trùng.

Bây giờ cái thân hành nào mà tui không thân cận? Tui cầm một cái dao tui giết một con vật, thì cái thân hành này tui không thân cận nữa, vì nó có sự làm đau khổ.

Bây giờ đó, tui đã có sự hiểu biết như vậy cho nên khi mà cái ác pháp nó hiện ra thì tôi không thân cận, mà cái thiện pháp tăng trưởng thì tôi thân cận.

Bây giờ có một con vật bị gãy chân, bị rớt ở trong vũng nước, đang chết đuối. Cái thân hành của tôi, tôi lấy cái bàn tay hay hoặc là lấy cái cái lá cây tui vớt con kiến lên.

Tui để một con kiến mà đang gãy chân ở trên lòng bàn tay tôi, tôi lấy cái cây nhẹ hoặc là một cái miếng bông gòn tui khơi cái chân nó, sửa nó lại cho nó ngay thẳng trở lại, để rồi một lúc nó được đi thẳng thớm. Thì đó là tui thân cận những cái thân hành thiện đó, tui làm cho bớt cái sự đau khổ của chúng sanh.

Bởi vì con kiến lỡ chân, hay hoặc nó cắn lộn nhau, cái chân nó trẹo qua đi, nó không có thể nào nó sửa lại được nữa. Cho nên vì vậy tui thấy nó bị trẹo chân như vậy, vì vậy mà tui để nó trên lòng bàn tay, tui lấy một cái cây nhẹ hay hoặc là một cái miếng bông gòn nhẹ, tui mới từ từ khều cái chân nó tui sửa lại cho nó đứng thẳng lại, từ đó nó kéo cái chân nó thẳng lại rồi, bắt đầu con kiến nó đi rất là tự nhiên bình thường.

Tức là tui thân cận những cái hành động mà làm cho chúng sanh không còn đau khổ nữa. Đó là tui khởi được cái tâm từ bi của chúng tôi, tâm Từ, tâm Bi của chúng tôi nơi cái sự đau khổ của chúng sanh.

Đó thì những cái hành động mà tui làm như vậy, vớt một con kiến ở trong cái vũng nước lên, xoa dịu, kéo lại thẳng cái chân cho một con kiến, thì những cái hành động đó tui thân cận, vì đó là thiện pháp tăng trưởng làm cho chúng sanh bớt đau khổ, thì những cái hành động đó gọi là tui thân cận.

Còn những hành động mà tui đi tui nhắm con mắt tui đạp chết cả bầy kiến, tui đẩy cái xe qua mà tui không tránh con kiến nào hết, đó là tui không có nên thân cận. Tức là từ đây về sau tui không có đẩy cái xe nặng để mà hại những chúng sanh như vậy.

Hoặc là tui cưỡi cái xe chạy vùn vụt, cán một bầy kiến ngang qua xe tui, biết bao nhiêu con kiến chết đau khổ, do đó tui không làm cái điều đó nữa, vì tui không thân cận.

Và như vậy, các cái thiện pháp càng ngày càng tăng trưởng trong tôi, lòng Từ Bi Hỷ Xả trong tôi bắt đầu phát triển rất là rộng lớn. Từ đó tôi thấy tâm tôi rất an ổn, rất là an ổn trước vạn hữu.

Đó thì cái sự thân cận như vậy gọi là thân hành thân cận.

2.3- LOẠI KHẨU HÀNH CẦN THÂN CẬN VÀ CẦN TRÁNH XA

(59:27) 1. Loại khẩu hành nào có thể biết được: Khi tôi thân cận với khẩu hành này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thì khẩu hành ấy phải tránh xa.

Nghĩa là khi mà tôi nói ra một cái lời nói nào thì cái lời nói đó mà ác pháp tăng trưởng thì tôi không nên nói.

Cũng như bây giờ mình nói một lời nói nào mà người ta tức giận, người ta buồn phiền, thì mình không nên nói lời nói đó. Mình nói người ta, người ta không có lấy trộm của mình, mình nói người ta lấy trộm của mình thì làm cho người ta đau khổ, thì tức là mình không nên nói lời nói đó. Đó là mình không thân cận cái khẩu hành đó. Đó là như vậy.

Còn mình nói một lời nói mà làm cho mình vui, người khác vui, làm cho người khác rất là an ổn, khuyên lơn họ, làm cho họ không có gây lộn nhau nữa, thì đó là những cái lời nói đó thì chúng tôi thân cận.

Và như vậy chúng ta đi trên cái lộ trình nhân quả rất là rõ ràng. Phật dạy chúng ta luôn luôn lúc nào cũng thực hiện trên cái nhân quả để làm chủ nhân quả chớ đâu phải là gì khác hơn hết. Thế mà chúng ta không hiểu được, mà cứ gọi là ngồi thiền tu hành, đêm ngày tụng kinh niệm chú, nó có nhằm nhò gì ở trong cái nhân quả đâu? Nó có thực tế ở trong cái nhân quả mà chúng ta tu hành đâu.

Mà ngay đây chúng ta biết thân cận cái pháp thiện, cái thân hành, khẩu hành, ý hành của chúng ta, thân cận ở cái pháp thiện nào thì đem lại cái sự lợi ích cho mình, cho người xung quanh, thì cái đó là đúng, cái đó là thực tế, cái đó là giải thoát.

Cho nên Đức Phật nói đạo của Phật thì đến không có thời gian, đến ngay liền có sự giải thoát liền, không có đợi thời gian. Đó thì chúng ta đã hiểu cái lời Đức Phật nói như vậy quá rõ ràng.

Vì vậy mà chúng ta đến mà cứ cầu kinh hoài, thì cứ hoài mà thấy gia đình mình cứ lộn xộn hoài à. Đi tu theo Phật mà gia đình thôi chửi lộn nhau mãi à, mà như vậy là theo Phật làm sao? Có đúng không?

Theo Phật gia đình mình nó bất an, mà mình theo Phật rồi thì gia đình mình nó an chớ, vợ chồng phải thương yêu nhau, con cái phải hiếu hạnh chớ? Sao mà đến với đạo Phật mà con cái không hiếu mà vợ chồng thì cứ lộn xộn nhau hoài?

Chồng nói: “Không có cho bà đi chùa nữa! Bà đi chùa mấy ông thầy chùa tui ghét quá đi! Phật gì mà cứ dạy người ta xa vợ xa chồng hoài như thế này đây?” Thì phải khổ người ta không?

Đó thì như vậy, tất cả những cái đó làm cho người ta phỉ báng Phật pháp. Mà chính vì quý thầy đã dạy người ta một cách rất là mê mờ. Đi chùa mà cúng dường này kia trai tăng thì có lợi ích thế này thế khác, cúng xây chùa xây tháp thì có lợi ích, làm cho gia đình người ta càng ngày càng khổ sở, vợ chồng người ta rầy lộn hoài. Như vậy mà cứ đến chùa, rồi tụng kinh này tụng kinh kia để cầu an, cuối cùng chẳng cầu an gì hết.

Trái lại Phật dạy rất là rõ ràng cụ thể. Trên cái nhân quả chúng ta sống đúng nhân quả thì làm sao mà gia đình chúng ta có lộn xộn không an ổn? Chớ đâu phải đem tiền cúng cho nhiều mà nó được an ổn đâu? Hầu hết là có nhiều người cúng nhiều chừng nào, Thầy thấy gia đình họ cũng bất an chớ chưa phải là giải thoát được.

Đó là những cái tu không đúng cách, không đúng cái lời dạy của Phật, cho nên đem đến cái sự hậu quả không tốt, kết quả không lành cho gia đình họ, cả họ và cả gia đình họ, con cái họ nữa.

2. Loại khẩu hành nào có thể biết được: Khi tôi thân cận với khẩu hành này, bất thiện pháp suy vong và thiện pháp tăng trưởng, thì khẩu hành đó tôi phải thân cận.

Đó thì Đức Phật dạy chúng ta từng chút từng li để mà chúng ta trau dồi ở trong thiện pháp, ở trong cái chỗ tu tập của chúng ta. Vì vậy mà thể hiện ngay từ cái chỗ ban đầu là chúng ta đã có sự giải thoát hoàn toàn.

2.4- LOẠI Ý HÀNH CẦN THÂN CẬN VÀ CẦN TRÁNH XA

(01:02:52) 1. Loại ý hành nào, tầm cầu có thể biết được: Khi tôi thân cận, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thì loại ý hành ấy cần phải tránh xa.

Tức là cái tư duy của mình, mình tư duy cái nào mà nó đem đến cái ác pháp nó tăng trưởng, cũng như bây giờ tui chưa ăn trộm mà tui nghĩ bây giờ mình phải làm cách nào để cho mình có nhiều tiền nè, thì bắt đầu mình nghĩ cách để mình ăn trộm lấy của người ta.

Không thì mình nói thôi bây giờ đi chơi hụi đi, hốt hụi nhau đi, hốt hồi cái bắt đầu mình túm cái mình đi luôn, mình ôm được 5, 10 triệu mình nhảy luôn, mình trốn mất, thì cái đó thuộc về loại suy nghĩ như vậy để rồi gọi 5, 10 người, 20 người đến hốt hụi, hốt được hụi rồi trốn đi mất, giựt của người ta bằng cách như vậy.

Đó là cái suy nghĩ như vậy là bất thiện pháp tăng trưởng và cái thiện pháp nó suy vong. Những cái ý nghĩ như vậy đó là chúng ta không nên thân cận những cái ý đó, những ý đó là ý xấu, ý ác.

2. Loại ý hành nào có thể biết được: Khi tôi thân cận loại ý hành này, bất thiện pháp suy vong, thiện pháp tăng trưởng, thì loại ý hành đó nên thân cận.

Thì như vậy khi mình suy nghĩ một cái gì mà làm lợi cho mình, làm lợi cho người thì nên suy nghĩ, đừng có làm cái kiểu mà cướp giật, trộm cắp hay hoặc là hại người thì không nên. Do những cái suy nghĩ đó mình đem lại cho tốt mình tốt người, đem lại cho cả gia đình hòa thuận, an vui, thì cái suy nghĩ đó mình nên thân cận nó.

Thành tựu như vậy gọi là thành tựu biệt giải thoát luật nghi.

Đó. Những cái điều này là những cái điều mình cần phải thông hiểu để rồi sau này mình còn phải trau dồi, trau dồi cái ý hành, trau dồi cái khẩu hành, trau dồi cái thân hành của mình trong các pháp 37 phẩm trợ đạo chớ không phải riêng đâu.

Đây là một cái sự tập luyện. Ở đây chúng ta mới hiểu nó để mà chúng ta biết rằng cái sự thân cận hoặc là không thân cận mà thôi, để mà tránh xa nó mà thôi. Cho nên ở đây có cái tên gọi là:

Thành tựu như vậy gọi là thành tựu biệt giải thoát luật nghi giới.

Học giới mà không hiểu cái này thì coi như là không có hiểu về giới luật. Học giới mà khô khan, mà cứ biết giới một, giới hai, giới ba, giới bốn như thế này như thế khác, thì đó là cách thức giới rất là khô khan, rất là tai hại cho cái sự học giới.

Nó làm cho chúng ta khép mình trong những cái khuôn khổ, khổ hạnh mà không có nghĩa lý gì giải thoát của đạo hết, thì cái sự mà không có nghĩa lý cho sự giải thoát của đạo thì nó không đem đến cho cái đời sống tu hành của chúng ta đúng đắn.

3- LỜI PHẬT DẠY ĐƠN GIẢN, DỄ HIỂU VÀ THỰC TẾ

(01:05:26) Đó, bây giờ ở đây thì chúng ta thấy rằng, trong một cái tu học của chúng ta thì bắt đầu cái bài “Thành tựu biệt giải thoát luật nghi giới” thì ở đây chúng ta đã đi qua rồi. Vậy thì cái phần kế tiếp nữa, Thầy sẽ nhắc thêm cái phần này để chúng ta thấy và hiểu rõ:

Lời dạy của Đức Phật trong kinh tạng A Hàm, kinh tạng Nguyên Thủy đơn giản, dễ hiểu, luôn thực tế cụ thể với cuộc sống loài người như khoa học; không bay bướm, ước lệ như văn chương; không cầu kỳ như triết học; không khô khan như giáo điều; không độc đáo như công án của Thiền Đông Độ; không huyền bí, mật nghĩa như Mật Tông; không cầu xin, mong ước như Tịnh Độ; không chi ly, chia chẻ như tâm lý học, như duy thức học; không giàu tưởng tượng như kinh Pháp Hoa; không hý luận như Bát Nhã; không nhỏ giọt dục lạc thế gian như giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề.

Nghĩa là Thầy xem coi giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề đó là nó nhỏ giọt dục lạc thế gian cho cái người mà giữ gìn Ba La Mộc Xoa Đề.

Đó là những cái mà chúng ta phải thấy rằng cái kinh sách của A Hàm và kinh sách của Nguyên Thủy nó đơn giản, nó dễ hiểu, lời nói nó mộc mạc, nó thực tế, nó không cầu kỳ.

Các thầy có nghe những cái lời giảng của Hòa thượng Nhất Hạnh, thì các thầy thấy Hòa thượng dùng những danh từ, những từ rất là văn chương, rất là hiện đại để mà diễn tả những cái tu hành ở trong đạo Phật.

Nhưng mà Thầy thấy nó không có mộc mạc, nó không có dễ hiểu, đơn giản. Riêng Thầy thấy cái gì mà nó mộc mạc, nó đơn giản làm chúng ta hiểu một cách rất là dễ dàng, nó không có còn khó.

(01:07:29) Như thầy Nhất Hạnh, thầy nói - chúng ta thường thường tu được một cái gì đó thì chúng ta tự mãn mình, cho nên thầy nói rằng: “Chúng ta đừng nên tự mãn mà giam mình trong cái ngôi nhà tự mãn”, thì cái “ngôi nhà lầu tự mãn”, ngài dùng những cái danh từ như vậy thì chúng ta thấy nó hơi có những cái từ nó xa vời, nó làm cho chúng ta có những cái sự suy nghĩ qua một cái tưởng nhiều hơn.

Cho nên ở đây chúng ta phải gần gũi tất cả những cái kinh tạng này, làm chúng ta thấy nó gần với mình lắm, nó thực tế với mình lắm. Lời nói của Phật rất mộc mạc, lặp đi lặp lại lời văn nói chớ không phải là cái lời văn bay bướm làm cho nó hay ho.

Cho nên những cái người học giả họ thường thường họ dịch hay hoặc là họ viết kinh điển của Phật ra, họ bay bướm dữ lắm, họ nói nó xa vời lắm, nó không có gần gũi chúng ta.

Cho nên những cái người học giả gần như là họ cách xa Phật, rất xa Phật. Họ chỉ chuộng văn chương, họ chỉ chuộng cái ngôn từ làm cho nó có cái vẻ hay ở trong những cái lời nói đó thôi, nhưng mà nó không có gần gũi trong cái sự thực hành của chúng ta, nó làm cho chúng ta xa rời cái sự thực hành đó.

Cho nên văn dùng để diễn tả ở trong hai tạng kinh này là văn nói mộc mạc, đơn sơ, nhưng ý nghĩa hàm chứa rất đầy đủ và thâm diệu, với một pháp hành trì…​

Nghĩa là nó có một cái hành trì rất là thâm diệu khi mà chúng ta đã hiểu nó. Nghĩa là cái lời của Phật nói: Như Lý Tác Ý, chúng ta nghe nó rất là đơn giản nhưng mà nó rất là thâm diệu ở trong cái ý nghĩa đó, nó hàm chứa cả một cái gì sâu sắc, rất là sâu sắc nếu một khi mà chúng ta hiểu được cái nghĩa của Như Lý Tác Ý.

Hay hoặc là một cái danh từ trong kinh A Hàm: Phật nói “hướng tâm” hay là “dẫn tâm”, thì chữ “hướng tâm” nghe nó đơn sơ thôi, dẫn tâm thôi, chữ “hướng” có nghĩa là dẫn tâm, nhưng mà chúng ta thấy cái lời nói đó nó mộc mạc là dẫn tâm cũng như dẫn đứa con nít vậy thôi, cũng như dạy bảo đứa con nít mà thôi, thì cái lời nói chúng ta thấy nghe nó đơn sơ và mộc mạc, nó không có cầu kỳ.

Thế rồi chúng ta cứ ngay đó mà chúng ta dẫn dắt một đứa bé, chỉ nó: “Chỗ này là sạch sẽ, con hãy ngồi xuống đây đi, đừng có ngồi chỗ dơ bẩn này”, thì đứa bé nó nghe theo lời, nó ngồi đó thì nó sạch sẽ, nó giải thoát, mà nó không nghe lời, nó chạy chơi nó chui ở dưới đống cát bẩn thỉu thì mình mẩy nó sẽ bị lấm lem, bị bẩn thỉu, bị bất tịnh.

Cho nên ở đây chúng ta dẫn cái tâm cũng như là dẫn đứa bé, cho nên gọi là hướng tâm Như Lý Tác ý: Như cái chân thật mà chúng ta tác cái ý ra. Thật là thâm diệu vô cùng. Nó trở thành một cái lực, cái oai lực, cái minh lực của nó sau này, nó vĩ đại vô cùng mà chúng ta không ngờ những cái điều kiện.

Văn dùng diễn tả ở đây trong hai tạng kinh là văn nói mộc mạc, đơn sơ, nhưng ý nghĩa hàm chứa rất đầy đủ và thâm diệu với một pháp hành trì rất là thực tế.

Đó thì các thầy thấy rất rõ. Không phải lời Thầy nói như vậy là Thầy ca ngợi hai cái tạng kinh này đâu, mà chính các thầy còn sẽ đọc và nghiên cứu lại, coi thử coi phải có không.

(01:10:43) Ngược lại, dùng cái tri kiến, những cái loại thức tưởng giải, những cái loại kiến thức của học giả thế gian thì chắc chắn sẽ cầu kỳ khó hiểu, mà còn đi đến tai hại, không hiểu rõ tường tận, cũng như trường hợp của Tỳ Kheo Arittha.

Tỳ Kheo Arittha này không hiểu cái lời Phật, ông tưởng tượng một cách quá siêu xuất của ông cho nên ông không hiểu lời Phật dạy, cho nên vì vậy mà Phật mới răn ông:

- Này Arittha, có thật ông khởi nên ác kiến, ác tà kiến như sau không: “Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn giảng dạy, khi hiểu rõ những pháp ấy được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp thì thực sự không có chướng ngại gì cả.”

Đức Phật diễn tả lòng dục của mình nó tập hợp làm cho tâm chúng ta chướng ngại, làm cho tâm chúng ta khổ, thì ông ta nói nó tập hợp nó chẳng làm khổ gì hết, ông hiểu như vậy đó. Bây giờ chẳng cần mà giữ nó như thế này, chẳng cần phòng hộ như thế kia, chúng ta chỉ làm sao cho nó tâm đừng dính cảnh, cảnh đừng dính tâm thì nó đâu có còn chướng ngại gì nữa. Ông nghĩ như vậy đó.

Còn Phật nói: Bây giờ nó chướng ngại như vậy, phải phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý mình như vậy, phải giới luật, phải chấp hành, phải sống độc cư như vậy.

Ổng nói chẳng cần gì hết, tôi chỉ giữ cái tâm tôi cho tâm đừng dính cảnh, cảnh đừng dính tâm thì tôi sẽ giải thoát. ông nói vậy đó. Cái ý của ông ta ổng muốn nói như vậy đó chớ không phải là ổng nói khác đâu, nhưng mà ổng nói cái kiểu là hơn Phật đó, ổng là kiểu tổ rồi đó.

Cho nên ở trong cái bản giới luật có một chỗ mà ghi lại cái vị Tỳ Kheo này nói về cái dâm dục, ông lôi cái dâm dục ra ông nói, thì bài kinh này, cái bài kinh mà lôi ra như vậy mà kết trong cái bộ giới bổn như vậy, là cái người mà đem cái câu chuyện này ra mà kết vô đó, Thầy đọc hai cái câu chuyện này Thầy thấy: Quả là cái ông này chẳng hiểu cái bài kinh này gì hết. Đó, chẳng hiểu cái bài kinh này gì hết.

(01:12:50) Cho nên vì vậy mà lôi trong giới bổn mà thuật lại cái câu chuyện này như vậy thì chỉ là đem một cái giới dâm dục ra mà nói để mà kết cái giới dâm dục thôi, thì như vậy là cái ông này hiểu như vậy là sai, không đúng. Cái ông này ổng hiểu một cách…​

Đọc cái bài kinh này Thầy hiểu ngay là người ta đọc, người ta dịch ra, người ta chỉ rằng đó là Đức Phật nói có chướng ngại, những cái tâm ham muốn của chúng ta nó sẽ làm chướng ngại, nó sẽ đem đến ác pháp, nó làm chúng ta đau khổ, thì ông ta nói chẳng có chướng ngại gì hết, thì Thầy đã hiểu rằng cái tâm thâm ý của ông ta như thế nào.

Ông ta sẽ nói là tâm mình giữ không có cho dính vật, vật không cho dính tâm thì mình giải thoát, chớ khỏi cần phòng hộ, khỏi cần cái gì hết. Còn Phật nói lăng nhăng, nào là phòng hộ, nào là cách này, nào là trau dồi cái kia, nào là đừng thân cận cái này, nào là đừng thân cận cái kia, điều đó là lăng nhăng mất công, cho nên Phật nói cái điều đó không đúng.

Vì vậy đó, Đức Phật mới kêu ông mà mắng ông, thì ông nói:

- Thật sự là vậy! Bạch Thế Tôn, như con hiểu, thật sự không có chướng ngại gì cả. Tại Thế Tôn nói như vậy.

Đó thì ông nói thẳng với Đức Phật vậy, bài kinh hẳn hòi rõ ràng, chớ không phải là Thầy đặt điều cái chuyện này đâu. Quý thầy sẽ còn đọc lại trong cái bài kinh đó, bài kinh này nó ở trong cái bộ Trung Bộ chớ không phải xa lắc gì hết.

- Ông thật là vô minh, ngu si! Sao ông lại hiểu pháp ta thuyết giảng như vậy? Ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp.

Nghĩa là chỉ cho những cái pháp môn đó nó làm cho chướng ngại, nó làm không có được giải thoát đó mà ông lại hiểu như vậy. Ông hiểu cái kiểu mà như vậy thì không bao giờ mà ông được giải thoát.

Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại.

Nghĩa là người nào mà cứ chấp nhận cái tâm ham muốn của chúng ta, tâm dục đó, mà chấp nhận những cái ác pháp, thì người mà thọ dụng những cái điều đó thì luôn luôn sẽ bị chướng ngại, sẽ bị khổ đau. Ta nói như vậy đó, mà ông nói là không chướng ngại không khổ đau, thì điều mà ông nói như vậy là ông ngu si, ông không thấy.

Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Ta đã thuyết các dục được ví như khúc xương…​ Ta đã thuyết các dục được ví như miếng thịt…​ được ví như bó đuốc cỏ khô…​ được ví như hố than hừng…​ được ví như cơn mộng…​ được ví như vật cho vay mượn…​ được ví như ăn trái cây rụng…​ được ví như lò thịt…​ được ví như gậy nhọn…​ Ta đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.

Và này kẻ vô minh, ngu si kia, không những ông xuyên tạc ta, vì ông đã tự chấp thủ sai lệch, ông tự phá hoại nơi ông và tạo nên nhiều tổn đức. Này kẻ ngu si kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho ông.

(01:15:55) Đó thì Đức Phật kêu cái vị Tỳ Kheo này đến mắng ông ta như vậy: Ông hiểu như vậy, chưa chắc là ông đã giữ cái tâm ổng không cho vật dính vào tâm mà tâm không dính vật. Ông nói cái chỗ mà ông làm cho nó đừng có dính mắc, ông nói được không? Ổng chẳng biết nói gì, ổng lý luận như vậy đó, thì thử hỏi cái đó có đúng không? Không bao giờ đúng hết.

Cho nên ở đây hầu hết là có một cái số người tu, người ta cứ nghĩ nhớ như vậy, người ta nói: Giữ cái tâm đừng cho dính thì cần gì phải giới luật? Tâm không dính vật, vật không dính tâm thì giới luật để làm gì? Như vậy là một cái sai.

Vì vậy cho nên ở đây Thầy muốn nêu cái bài này ra để mà chúng ta thấy rằng có những người lý luận kiểu này, cho nên chúng ta dạy giới luật họ chẳng bao giờ họ thực hiện giới luật, họ ăn uống phi thời, họ chạy theo những dục lạc thế gian.

Họ nói thì họ nói: Giữ tâm không cho dính cảnh mà cảnh không cho dính tâm, thế rồi họ uống rượu uống bia, thử hỏi cái đó là cái dính hay là cái không dính? Họ ăn ngày ba bốn bữa, cái đó là dính hay là không dính? Sự thật họ đang dính mà họ lý luận như vậy, thì cái giới luật của chúng ta họ bác bỏ đi để họ chạy theo dục lạc.

Thì bài kinh này là cái ý của Thầy muốn nêu ra để chúng ta không khéo bị những cái tà kiến đó, bị những cái chấp kiến đó mà làm chúng ta lệch lạc, phá giới luật của Phật, làm cho thân tâm chúng ta không thanh tịnh, từ đó chúng ta tu hành gì được?

Cho nên gặp những cái kiến giải sai này rồi, những cái tà kiến này rồi thì cuộc đời chúng ta kể như tiêu hết. Cho nên hầu hết là một cái số người mà hiện giờ tu thiền đều là bị cái kiến chấp này hết. Họ bị tiêu, cuộc đời họ kể như là không còn có nữa, họ chỉ phí bỏ cuộc đời họ một cách rất là đau đớn.

Con người sanh ra đâu phải chuyện dễ, thế mà nhét vào trong đầu mình cái tà kiến như vậy, rồi ôm mãi suốt cái đời của mình, tưởng là tâm không dính cảnh, cảnh không dính tâm, nhưng cuối cùng thì nhìn thấy cuộc sống của họ nó dính không biết là bao nhiêu là thứ dính chớ không phải là có một thứ không. Nhìn chung là chúng ta thấy hoàn toàn là như vậy.

Này chư Tỳ Kheo, các ông nghĩ thế nào? Tỳ Kheo Arittha có thể khởi nên tia sáng gì trong pháp và luật này không?

Làm gì có! Ông mà nói như vậy rồi thì làm gì mà ông có giữ gìn được cái giới luật này đâu! Cho nên toàn bộ là ông sẽ bị nhiễm hết.

- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể được!

(01:18:03) Các vị Tỳ Kheo khác mới trả lời Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, làm sao có thể được!” Khi mà người ta nghĩ như vậy thì làm sao mà người ta giữ gìn giới luật được, mà làm sao có tia sáng ở trong cái giới luật này được?

- Này các thầy Tỳ Kheo, ở đây có một số người ngu si học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ không hiểu nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy họ không hiểu nghĩa rõ ràng.

Họ học pháp chỉ vì lợi danh để chỉ trích người khác, chỉ vì lợi danh để khoái khẩu biện luận, do vậy họ không đạt được mục đích giải thoát, và họ chẳng hiểu pháp hướng đến là gì. Những pháp ấy vì hiểu sai lệch nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy? Này các thầy Tỳ Kheo, vì hiểu pháp sai lệch.

Ví như người đi bắt rắn nước, tìm rắn nước, đi khắp chỗ để tìm. Người đó thấy con rắn nước, và người đó vội bắt con rắn ở lưng, ở đuôi. Con rắn quay đầu lại cắn tay người đó, do nhân này người bị chết hay bị đau khổ gần chết. Vì sao vậy? Vì bắt rắn như vậy một cách sai lệch. Người học pháp của ta cũng như vậy, không hiểu pháp và chấp thủ các pháp sai lệch.

Đó Đức Phật ví dụ, cũng như một cái người mà tu theo đạo Phật mà không hiểu pháp Phật, rồi chấp những cái tà kiến như vậy, để rồi cũng ví như một cái người bắt rắn, không nắm cái đầu con rắn mà lại nắm cái lưng con rắn và nắm cái đuôi con rắn, do đó cái đầu nó quay lại nó cắn, thì ông ta bị nọc độc đó mà sắp chết, và đau nhức cũng sắp chết. Do đó, chỗ mà Phật ví dụ Thầy thấy rất đúng.

(01:20:00) Là hiện bây giờ những người đó mà họ chấp lầm những cái tà kiến như vậy rồi thì kể như là họ bị rắn độc rồi, nó cắn chết rồi, họ làm sao họ buông ra được? Chúng ta thấy rất rõ. Bao nhiêu những người mà chúng ta thấy họ đang nỗ lực tu hành chớ đâu phải họ không tu hành, nhưng họ dính mắc đó rồi thì họ tưởng đó là Phật pháp, tưởng là giáo pháp của Phật.

Như cái vị Tỳ Kheo Arittha này, ông ta cũng như vậy, ông đang chấp cái sai lạc, mà ông còn được Đức Phật nhắc nhở và khuyến khích, cho nên sau này ông bỏ cái đó đi, ông trở về chánh pháp, ông phòng hộ sáu căn, ông tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, ông tu Định Vô Lậu, rồi ông tu Định Hơi Thở, rồi ông tu Định Sáng Suốt, rồi ông tu Định Hiện Tại An Lạc Trú, ông nhập Bốn Thiền, ông làm chủ, ông đạt được Tam Minh.

Còn nếu mà ông không nghe, ông cứ nói rằng tâm không dính cảnh, cảnh không dính tâm là giải thoát rồi, thì mặc tình mà bay nhảy, mặc tình mà đua đòi theo thế gian, thì chắc chắn là đời sống ông tiêu luôn chớ không bao giờ có cái ngày giải thoát được.

Đó trước khi mà học giới thì chúng ta được học những cái điều kiện rất là cần thiết, và thỉnh thoảng Thầy sẽ xen vào những cái bài học giới có những cái bài kinh để mà áp dụng vào ở trong cái giới bổn mà chúng ta học để chúng ta thấy cái thực của đạo Phật là như thế nào đúng và như thế nào sai. Chứ nếu mà không có những cái bài kinh này mà cứ đọc kinh giới không thì chúng ta nghe chán lắm.

Và đồng thời ở đây không phải là Thầy dạy về giới, mà đem những cái bài kinh giới này, tìm những cái sai mà đập nó xuống hết, để rồi chúng ta tìm lại những cái gì đúng của đạo Phật, để giúp cho chúng ta có những cái giới luật, tạo dựng cái đời sống của chúng ta ly dục ly ác pháp, để đem lại cái sự giải thoát thân tâm của chúng ta trong một cuộc sống hiện tại có giải thoát hoàn toàn chớ không phải thiếu giải thoát.

Chớ không phải đợi chết đi mới về cái cõi Niết Bàn hay là Thiên Đàng ở đâu đó nữa. Ở đây không có. Hoàn toàn ở tại nơi đây, giờ phút này, ngay bây giờ mà đúng với chánh pháp của Phật là có Niết Bàn ở ngay tâm hồn chúng ta liền. Dù là thân của chúng ta đang bị những cái thọ nghiệp rất là nặng nhưng chúng ta vẫn thấy nó là bình thường, thì tức là chúng ta đã giải thoát, không còn làm chúng ta đau khổ nữa.

4- CHÍN MƯƠI GIỚI ĐỌA - PHẦN 5

82) GIỚI NẮM CẦM CỦA BÁU

(01:22:09) Bây giờ, chúng ta tiếp tục học cái giới 82 trong 90 cái giới Đọa.

82. Giới nắm cầm của báu.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại nước Xá Vệ, có cư sĩ đệ tử ngoại đạo từ nước Câu Tát La, trên đường đi dừng nghỉ nên quên cái đãy đựng một ngàn lượng vàng. Các Tỳ Kheo đi sau lượm được, đợi chủ đến giao lại. Khi giao lại, người chủ nói thiếu, đến kiện với vua Ba Tư Nặc. Vua thẩm xét, biết người ấy dối trá, liền tịch thu tài sản và vàng nhập vào của nhà quan.

Đức Phật nhân đó kiết giới rằng: “Nếu Tỳ Kheo cầm nắm vật báu, tự mình cầm, hay dạy người khác cầm, phạm tội Đọa”.

Nghĩa là của người ta rơi ngoài đường không có được lượm, không được lấy, do đó mà lượm lấy đi người ta sẽ đổ gian mình.

Như vậy may là nhà vua có thông minh mới thẩm xét được cái người mà bỏ cái túi bạc này dối trá, coi như là bắt thường (đền), kiểu là dối trá mà bắt thường các vị tu sĩ này, cho nên nhà vua mới tịch thu cái của báu đó đi, và đồng thời đuổi ông ta đi, còn các vi Tỳ Kheo thì không có tội gì. Nhưng dù sao Đức Phật nghe vậy nền cũng chế cái giới này ra, cấm các vị Tỳ Kheo thấy của người ta rơi không được cầm nắm, mà hãy tránh đi, đi đi, đừng có lấy.

Thì lúc bấy giờ, Tỳ Xá Khư Mẫu đi phó hội, ghé vào Kỳ Hoàn lễ Phật, bỏ đồ trang sức ở ngoài cửa, khi trở về bỏ quên, không ai dám lấy cất. Phật dạy: “Cho phép được cất vật bỏ quên trong tăng già.”

Khi ấy các Tỳ Kheo đi đường ngủ nhờ tại phòng của người thợ vàng, ông chủ bận việc đi không kịp cất vàng, các Tỳ Kheo cần bảo vệ nên cả đêm không dám ngủ. Phật dạy: “Trừ ký túc xứ, để khỏi mất, nên lấy cất.”

Nếu muốn cất dùm, nên phân biệt rõ hình tướng của chúng để khi chủ đến hỏi, nếu họ trả lời đúng mới đưa, bằng không đúng như hình tướng đã biết thì nên bảo là không thấy vật như vậy.

Nếu của chùa tháp để trang hoàng, lấy cất không tội.

(01:24:34) Ở đây thật sự ra theo Thầy thiết nghĩ, người tu sĩ thấy vàng bạc thì thôi tránh đi, của người ta mất kệ người ta, đừng có cất giữ làm cái gì hết, rồi đây nó sanh họa cho mình đó. Cho nên điều kiện là mình người tu sĩ, thôi, tui không nắm giữ tiền bạc là tui cứ đi đi, đừng có cất giữ cho ai hết. Của người ta, nhân quả của người ta, còn thì người ta hưởng, mất thì người ta chịu, chớ còn cái điều đó mà mình nắm lên thì mình rất là nguy hiểm, rất là khó.

Mình không thể nào mà - người ta nói sao mình là người tu sĩ cũng phải chịu hết. Còn nếu mà mình sợ mất của người ta thì nên đem trình cho cảnh sát nó cất nó giữ làm thì làm, chứ còn mình đừng có cất giữ. Do đó mà không chừng là khi mình nắm của người ta đi chưa có tới cảnh sát mà chúng lại nắm đầu mình, nói mình ăn cắp nữa.

Cho nên tốt hơn hết là thấy cái vàng bạc, của báu hay tiền bạc của ai đổ ngoài đường thì thôi mau mau tránh xa, đừng có lại gần đó mà nguy hiểm cho cái đời tu sĩ của chúng ta. Muốn thanh tịnh giới thì không được gần gũi ba cái thứ vàng bạc châu báu này, nó là rắn độc.

Biết đâu cái nhân quả chúng ta đời trước như thế nào, đời nay lụi xụi là chúng ta sẽ trả nhân trả quả đó. Cho nên nhân quả chuyển chớ không phải là không chuyển được. Chuyển là chúng ta đừng có mó tới nó là nó chuyển, mà mó tới nó thì đừng có mong là nó chuyển đâu, nó sẽ đưa chúng ta đến tai họa.

Cho nên theo cái giới này, giới mà nắm cầm của báu, không có được chế đi chế lại gì hết, hoàn toàn là người tu sĩ là không có được rờ mó tới nó. Rờ mó tới nó thì tai họa đến với cái người tu sĩ.

Phải biết như vậy thì chúng ta - bất kỳ của ai bây giờ rớt ngoài đường làm gì làm chúng ta…​ Nếu mà cái người đó, cái nhân quả họ không mất của thì có người cất giữ giùm họ, cái người cư sĩ khác họ cất giữ chứ chúng ta không phải là người cất giữ tiền của họ.

Vì của tiền chúng ta còn không cất giữ, chúng ta xả hết, thì chúng ta còn đi cất giữ tiền cho ai? Chúng ta đâu phải là làm mọi cho ai mà cất giữ tiền cho họ. Họ bỏ quên đó thì có người người khác cất giữ cho họ.

Còn nếu mà cái nhân quả đời trước của họ đã gieo thì giờ họ phải mất của, thì người khác lấy của họ thì họ phải trả cái nhân quả đó, có gì mà chúng ta lại căn cớ mà xen vô đó để bị nhân quả?

Cho nên cái người tu sĩ chúng ta luôn luôn phải sống ở trong cái đôi mắt nhân quả, do cái đôi mắt nhân quả nó làm chúng ta không có một cái khổ nào hết. Còn nếu mà chúng ta không thấy nhân quả thì chúng ta mới lầm lạc ở trong cái chỗ này mà chúng ta thấy.

Còn cái giới này chế ra là tạo cho những cái nhân quả chớ đâu có phải là cái…​ Khi mà cất vàng cho một cái người chủ vàng phải coi vàng nó như thế nào, để rồi khi mà người ta hỏi mình phải trả lời được, còn không mình trao cho người cái khác, lấy của người ta làm sao?

Cho nên nó mắc công mình đủ thứ hết, mà cái tâm mình là tâm thanh tịnh mà ở đó bây giờ cứ để ý ba cái vàng này như thế nào, vàng này có vết thẹo, vàng kia nó có chỗ này chỗ kia, thử hỏi con người tu chúng ta mà tâm trí nó luôn luôn nó cứ lo của cải người ta như vậy thì tu cái gì? Cho nên chế cái giới này là chế tầm bậy, không có đúng.

Thật sự ra, Thầy nói một cái người giải thoát là phải giải thoát chớ không có còn mà biết cái gì thế gian nữa. Đó là cái giới thứ 82.

83) GIỚI TRÁI THỜI VÀO LÀNG

(01:27:21) 83. Giới trái thời vào làng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở nước Xá Vệ, Bạt Nan Đà vào tụ lạc chẳng phải lúc, đánh cờ cùng với các cư sĩ. Cư sĩ bị thua, do tật đố nên nói: “Tu sĩ buổi mai vào thôn để khất thực, phi thời vào thôn để làm gì?” Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật kiết giới này: “Nếu Tỳ Kheo vào tụ lạc phi thời, phạm tội Đọa.”

Ông này ổng đi cờ bạc, trời ơi ông tu sĩ gì mà đi đánh bạc mà viết vô đây? Lẽ ra làm gì mà có cái chuyện này được. Thật ra là bày đặt, chỉ ở ngoài đời người ta mới cờ bạc chớ ông tu sĩ ổng còn ham gì mà ổng đi đánh bạc? Tiền ở đâu mà ổng đánh bạc, ổng có đồng xu nào đâu? Ông này ít ra ông cũng có khối ông mới vô đó ông đặt tiền ông đánh bạc người ta chớ? Nói thật ra cái giới gì mà đặt ra, Thầy thấy nó không có cái lý do nào hết à.

Khi ấy các Tỳ Kheo có việc của tăng, của tháp, hoặc chăm lo bệnh nhân không dám vào. Phật dạy: “Có việc cần, cho phép dặn người khác rồi vào tụ lạc.” Các thầy Tỳ Kheo không biết dặn ai. Phật dạy: “Nên trở lại dặn Tỳ Kheo. Nếu ở riêng một phòng nên dặn Tỳ Kheo ở phòng gần.” Phật kiết giới lại, thêm: “không thưa báo.”

Sự thật ra, thì đây là cái giới không dạy chúng ta vào làng sớm khất thực thôi, mà đem cái câu chuyện mà nói ông tu sĩ này đi vào đó đánh cờ bạc, rồi ăn người ta, thì nói cái rất vô lý. Tiền bạc không có làm sao mà - cái người tu sĩ không cất giữ tiền bạc mà làm sao có tiền bạc đi đánh bạc, để rồi người ta phải nói này kia?

Mình có bất quá mình đi sớm quá thì mình ghé ở chỗ mấy ông ngoại đạo đồ, nói chuyện đồ chơi, lý luận đồ mấy ổng chơi, nói chuyện thiền đồ chơi, hay hoặc là nêu lên một vài công án đồ cho mấy ổng bí chơi vậy thôi, thì cái đó là có lý. Còn đằng này thì đâu có cái chuyện đó. Thì Thầy nói nhiều cái mà đặt ra câu chuyện nó không có lý ở trong cái giới thì nó không có ấy.

Nhưng mà cấm vào làng sớm, bởi vì bây giờ mới 7 giờ mà xách bát đi xin thì làm sao, người ta nấu cơm đâu mà đi xin, chỉ có đi dạo chơi thôi! Ở trong tịnh xá thì lo tu hành chớ đâu mà đi dạo kì vậy? Đó là cái cấm thì đó là đúng, nhưng mà đặt cái câu chuyện ra để mà nói cái giới này đó là sai, không đúng.

84) GIỚI LÀM GIƯỜNG QUÁ LƯỢNG

(01:29:30) 84. Giới làm giường quá lượng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật cũng ở tại nước Xá Vệ, bấy giờ Ca Lưu Đà Di dự biết Phật sẽ đi qua nơi con đường đó, nên bày giường cao tốt để nằm ngồi. Đức Phật thấy, bảo các Tỳ Kheo: “Đây là người ngu si, bày giường cao tốt lớn chỉ vì tự kỷ.” Phật quở trách, nhân đó mà kiết giới này.

Thật sự đây là cũng bày đặt. Cái ông này là một vị tu sĩ, mà ổng đem giường cao ổng ra giữa đường ổng nằm ổng đón ông Phật, ổng ghẹo ông Phật chơi mà. Cái kiểu này ổng đâu có phải là người tu? Ổng muốn chọc ông Phật.

Thì như vậy đặt cái này vô đây làm gì? Người đệ tử đến với Phật đâu có làm cái điều mà trêu ghẹo Phật như vậy, trêu ghẹo thầy mình như vậy sao, để ông Phật ổng chế ra không có nằm giường cao rộng lớn.

Lẽ ra cái mục đích mà nằm giường cao rộng lớn này là cái tâm của thế gian, cho nên Phật mới chế Thập Giới Sa Di đó. Chúng ta thấy rất rõ. Còn ở đây giới Tỳ Kheo mà chế cái kiểu này thiệt ra vô lý. Cái giường người Tỳ Kheo đã phải ly dục ly ác pháp phải nhiều hơn cái chú Sa Di chớ?

Thế mà cái giới Sa Di thì nói nghe nó đơn giản, nó rõ ràng, nó đúng. Mà ở đây đem cái chỗ này ra nói ông này ổng đem giường cao rộng lớn, biết bữa nay là Phật đi ngang đó, mình xách cái giường cho đẹp ra, giường này làm bằng thứ loại cây gỗ đắt giá nè, rồi bóng loáng nè, đem cái đệm mút để lên một chồng vầy nè, rồi mình trèo trên đó mình nằm, ông Phật đi ngang qua đó thế nào về ổng cũng chế cái giới này ra chơi.

Phải ghẹo ông Phật không? Từ lâu tới giờ ông này chắc là trong Phật không có cái giới này chớ gì? Sa Di vô đã có giới rồi, mà bây giờ lại còn đem ghẹo Phật để Phật chế cái giới này nữa, thì như vậy là cái lầm lạc, cái sai.

Bởi vậy mấy ông đặt giới này thiệt ra mấy ổng không có hiểu gì hết à. Ở trước kia đã nói rồi, giới Sa Di đã rồi, mà bây giờ còn đem chọc ghẹo ông Phật nữa đặng ông chế lần nữa chơi. Thiệt là cái chuyện làm cái trò đùa chớ không phải là cái kinh giới, là cái thực để mà chúng ta tu tập.

85) GIỚI DỒN BÔNG LÀM NỆM GIƯỜNG

(01:31:24) 85. Giới dồn bông làm nệm giường.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật còn ở nước Xá Vệ, Lục Quần Tỳ Kheo làm giường nệm độn bằng đâu la. Cư sĩ chê bai là không có lòng từ, đoạn mạng chúng sanh, giống như vua chúa, đại thần. Phật nhân đó mà kiết giới này.

Đâu la miên là lông dê, bạch dương, hoa liễu, hoa bồ lê, hoa chim bặc, bông gòn, thảo nguyên, mộc miên, kiếp bối, hoa a cưu la, hoa ba cưu la, hoa cưu xá la, hoa gian xà, hoa ba ba xà và hoa li ma.

Tất cả những cái bông này chắc có lẽ là nó mềm lắm, nó rất mềm như bông gòn của mình vậy, cho nên mấy ông này lượm lấy những cái hoa này mà bỏ vào, cũng như mình thấy những bông mút nó bay đó, lượm lấy mấy cái sợi bông mút đó mới góp lại mới thành ra mà làm cái gối, làm cái nệm, dồi cho nằm nó êm. Thì đó là những cái loại hoa mà nó có những cái cánh hoa rất là mềm mại, cho nên mấy ông này làm như vậy để mà nằm cho êm.

Thật sự ra một người đi tu rồi còn cái gì nữa mà ở đó làm nệm êm? Thôi ở ngoài đời đi, mua những cái nệm người ta làm sẵn đó mặc sức nằm, chứ vô đi tu rồi mà còn làm cái chuyện đó Thầy thấy - nhiều cái này nó đặt điều những cái này Thầy thấy không bao giờ một người tu sĩ mà chúng ta chấp nhận được hết.

Một người đã quyết tu rồi thì họ không còn bao giờ mà ham nằm ở trên cái nệm êm hết, họ nằm ở chỗ nào cũng được, đơn giản để cho họ lo tu tập. Vì cuộc đời tu tập đâu có rảnh rang, đâu có thời gian đâu mà lo cái chuyện ăn chuyện nằm?

Luật Tăng Kỳ nói: Tỳ Kheo đi đường hay vào nhà cư sĩ mà các loại bông trên đây bị gió thổi bay vướng vào y áo, không phủi đi, để vậy ngồi cũng phạm tội Đột Cát La.

Nghĩa là để những cái bông đó mà dính trên áo cũng là phạm tội nữa. Thiệt ra nó lỡ nó bay vướng chớ ai muốn, từ từ người ta về người ta giặt chớ ai để cái thứ đó? Đâu phải dính ở trên đó thành nệm êm sao? Chế cái giới gì mà lạ lùng vậy Thầy cũng chả biết, mà phạm cái tội nữa!

86) GIỚI LÀM ỐNG ĐỰNG KIM BẰNG XƯƠNG, NANH, SỪNG

(01:33:37) 86. Giới làm ống đựng kim bằng xương, nanh, sừng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở núi Kỳ Xà Quật, có người thợ tin ưa Phật pháp, vì Tỳ Kheo làm ống đựng kim bằng nanh, xương, sừng làm cho gia sự bị nghèo thiếu. Người đời chê bai: “Làm phước mà mắc họa.” Đức Phật nhân đó mà kết giới.

Cái ông thợ này chắc khéo lắm, lấy xương gà, xương heo, xương bò mới tiện làm những cái ống kim để mà cúng dường cho các tu sĩ. Nhưng mà cứ làm mãi, cúng dường vậy tưởng đâu được phước được giàu, ai dè cuối cùng thì ông này nghèo thiếu, cho nên người ta nói làm phước mà sao mắc họa.

Đó thì chúng ta cũng thấy rõ ràng là làm sai, làm không đúng, cho nên nó không có đem đến cái hậu quả tốt, cái kết quả tốt. Cho nên đạo Phật cái gì đúng là sẽ có kết quả, mà cái gì làm sai là chịu lấy à.

Dùng xương, nanh, sừng tự làm, hay là dạy người khác làm, thành thì phạm tội Đọa, không thành thì phạm tội Ác Tác. Nếu vì người mà làm thành hay không thành đều phạm tội Đột Cát La. Bốn chúng đều mắc tội Đột Cát La.

Ai đời một tu sĩ mà mang cái đôi dép bằng da trâu da bò được, ai đời một tu sĩ mà làm cái ống đựng kim bằng sừng bằng xương con vật được, không thấy sự đau khổ trong đó sao? Đó, thì như vậy là chúng ta bây giờ không bắt tội đi nữa chúng ta cũng không dùng cái thứ đó nữa được.

Vậy mà có người chưa có biết, thấy giày da, thấy những cái loại dép da đồ khoái lắm, mang dữ lắm, ham lắm chớ chưa phải là không mang đâu, tưởng nó là sang lắm cho nên đi khoe khoang cái đó, nhưng mà không ngờ đó là cái đau khổ của chúng sanh.

87) GIỚI MAY TỌA CỤ QUÁ LƯỢNG

(01:35:19) 87. Giới may tọa cụ quá lượng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật còn ở tại núi Kỳ Xà Quật, ngày mà Đức Như Lai không đi thọ thỉnh, Ngài đi khắp các phòng xá, thấy ngọa cụ chư tăng bị nhớp, không sạch, Phật cho phép các Tỳ Kheo làm vật ngăn thân, ngăn y, ngăn ngoạ cụ bằng ni sư đàn. Lục Quần Tỳ Kheo bèn làm vừa dài vừa rộng. Nhân đó Phật kiết giới này.

Bấy giờ Ca Lưu Đà Di thân lớn không đủ để ngồi, Phật thấy vậy nên cho phép mỗi bên thêm nửa gang tay.

Làm cái tọa cụ chắc là nhỏ quá, cho nên cái ông này bự quá bự ổng ngồi cái không được, vì vậy cho nên Phật còn chế thêm cho ổng chút nữa. Sự thật ra thì cái người con người có lớn bao nhiêu đi nữa thì cái người nhỏ vẫn có dư rồi, còn cái người lớn thì chế một lần chứ chế đâu mà chế hai ba lần?

Tiết kiệm thì cũng phải tiết kiệm cho có đúng cách của nó chớ làm sao, thí dụ như bây giờ ở trong chúng chúng ta nè, bây giờ ai là người lớn nhất nè, mập nhất nè, thì mình lấy cái lượng đó đó mình tính, bây giờ như vậy là mỗi người đều làm một cỡ như vậy hết, thì có đâu cần gì mà phải chế tới chế lui.

Còn ở trong chúng có ông mập quá, lớn quá, ngồi chật hết cái xe cam nhông, mà bây giờ cho làm cái miếng vải có bằng bàn tay vầy, biểu ổng ngồi thiền thì ổng ngồi đất cát không thì ổng không chịu, cho nên vì vậy mà phải chế trở lại. Thì Thầy thấy cái sự mà chế đi chế lại có nhiều cái là người sau đặt ra chớ còn không phải đâu.

Ông Phật ổng - ở trong giới kinh Thầy thấy Đức Phật viết một lần chứ không nói chế đi chế lại, mà rất đầy đủ ý nghĩa của giới hết, không có như cái giới bổn vầy, chế đi chế lại, chế mãi chế lui, chế gì đủ thứ chế, làm như ông Phật ngu si quá ngu si không có sáng suốt gì hết, chế rồi phải chế lại, chế tới chế lui.

88) GIỚI MAY ÁO CHE GHẺ QUÁ LƯỢNG

(01:37:06) 88. Giới may áo che ghẻ quá lượng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật khi còn ở tại núi Kỳ Xà Quật, các Tỳ Kheo bị sanh nhiều thứ ghẻ, máu mủ nhớp thân, nhớp y, tọa cụ. Phật cho phép làm áo che ghẻ bằng vải thô nhiều lông, khi gỡ ra bị dính lông đau nhức, Phật cho phép dùng vải nhuyễn làm áo che ghẻ.

Nếu đến nhà bạch y mời ngồi, nên nói: “Tôi bị bệnh hoạn.” Nếu chủ nhà nói: “Cứ ngồi!” Thì nên vén quần lên, lấy áo che ghẻ, che rồi mới ngồi.

Lúc bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo bèn làm áo che ghẻ quá dài, quá rộng. Phật nhân đó mà kiết giới.

Làm quá mấy ông này vải sồ đó quá dư, in là mấy ổng là cái tiệm bán vải, nghe nói đâu cái ổng làm dài ra. Đâu có chuyện mà dễ như vậy, làm tu sĩ đi xin người ta miếng vải cũng đâu phải chuyện dễ đâu!

Bây giờ thì chúng ta vải sồ nó dễ may nó dễ dệt bằng máy móc thì thấy nó nhiều như vậy, nhưng rồi một người tu sĩ chúng ta cũng phải là cái người biết tiết kiệm, bởi vì mình có làm ra tiền đâu, đi xin người ta, cho nên mình đâu có làm cái chuyện mà quá thừa như vậy. Một tấc vải chúng ta cũng còn tiết kiệm, huống hồ là cái này may dài chơi như vậy thì chẳng qua là phí của đàn na thí chủ.

Ở đây nhiều cái Thầy nói thiệt ra, cái ý mà cái người đi tu không có cái - khi đến mà học được cái giới hạnh của Đức Phật rồi thì người ta thành thiểu dục tri túc rồi, người ta đâu có phí như vậy. Thế mà hai chữ thiểu dục tri túc này nó áp dụng ở chỗ nào đâu, mà chế lại những cái giới này như vậy? Như vậy là cái thiểu dục tri túc nó có nghĩa gì mà đặt ra cái tên nó để mà chơi? Thành ra nó có những cái sai khác.

89) GIỚI MAY ÁO TẮM MƯA QUÁ LƯỢNG

(01:38:51) 89. Giới may áo tắm mưa quá lượng.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật còn ở tại núi Kỳ Xà Quật, Tỳ Xá Khư Mẫu đem áo tắm đến trong tăng già lam để cúng chư tăng. Tăng phân chia. Phật dạy: “Áo này không nên chia. Tùy Thượng tọa phú cho. Nếu không có đủ thì chờ kỳ sau chia tiếp.”

Lúc đó, được cái y quý giá, tiếp tục chia. Phật dạy: “Không nên làm như vậy. Nên đưa đổi cho Thượng tọa. Nếu Thượng tọa đã nhận được rồi thì nên chuyển đến Hạ tọa. Nếu không đủ chia thì nên lấy y vật có thể chia cho tăng để chia cho đủ.”

Lục Quần may nhiều áo tắm mưa vừa dài, vừa rộng, Đức Phật nhân đó mà kiết giới này.

Cũng lấy mấy cái người này ra mà nói thôi. Cái bà Tỳ Xá Khư Mẫu này là cái người cư sĩ người ta thường trông nom tăng chúng, người ta đem áo đem này kia người ta cúng dường, thì như vậy có mình đủ chia mà không có thì mình giao lại cho cái người cư sĩ đó người ta đem về, chớ làm gì mà mình cất ở trong cái chùa bằng vách lá tầm vông như thế này, mưa nó dột nó ướt cả kho thì làm sao?

Mà quý thầy cứ nghĩ rằng khi mà một cái số tu sĩ 1250 vị Tỳ Kheo như vậy, một vị cư sĩ người ta muốn cúng mà đủ cho cái số này thì ít ra cũng nhiều lần mới đủ chớ đâu phải một lần mà đủ được. Cho nên thí dụ như lần này người ta cúng như vậy thì mình xin người ta: “Khi nào mà đủ cúng thì tui nhận!”

Mà giờ cúng như vậy là bây giờ ở trong cái số 1250 vị này nó mấy người mà rách y áo, còn bao nhiêu người không rách, thì mình phải báo trước cho người ta, người ta đem đến cúng thì nó đủ, mình chia ra, cần gì mà phải còn có gì.

Thì thường thường là cái người cư sĩ họ muốn cúng y áo là họ phải đến trình với một vị thầy, một vị trụ trì: Bây giờ chúng tăng là bao nhiêu người, họ xin cúng mỗi người là một bộ đồ hay hoặc một cái y cái áo nào đó, người ta xin trước. Và mình nhận ra cái số tu sĩ của mình là người nào mà đang rách thì mình chấp nhận cho họ nhận y áo, còn người nào mà không rách thì đâu ai chấp nhận làm gì?

Quý thầy thấy trong cái vấn để đó đâu nó ra đó đàng hoàng, chớ đâu có phải là không biết được cái này, cho đến khi người ta cúng dường như vậy rồi bắt đầu đem cất giữ đi!

Ở trong thời ông Phật ông đâu có bảo giữ của như vậy? Thầy thấy ổng thường là du tăng khất sĩ, ổng đi đến chỗ này chỗ kia, cứ một tháng, hai tháng hay năm ba ngày thì ổng đi tới chỗ này chỗ kia, ổng đâu có ngồi một chỗ đâu mà ổng giữ của đó?

Thành ra nếu cái của mà 1250 vị Tỳ Kheo này, các con biết cái số vải đó mà chất để cho đủ mà phát cho đủ, thì cái đống vải đó đi thì cái lực lượng cũng như Bát Giới, Sa Tăng mà quảy thì mới có nổi, chớ còn thứ mà nhỏ nhỏ ốm ốm như Thầy làm sao quảy nổi cái đống vải đó? Phải nói rằng cái số lượng nó quá lớn chớ đâu phải ít, vì vậy cho nên mà đủ mà phát chia ra.

Còn bây giờ mình coi cái số chúng đó, cũng như bây giờ mình đây là mười mấy người nè, mà người nào rách thì Thầy nhận, thì cao lắm thì cũng hai ba người thôi chớ đâu có lý nào hết cả đám nhau được hết đâu?

Cho nên bây giờ ở đây có mấy người rách à, thôi bây giờ cư sĩ muốn cúng dường thì cúng dường cho ba người, hai người, mấy người này rách, thì người ta về người ta may mấy bộ đồ về đó mình phát, thì mấy người kia người ta còn, người ta đâu có phân bì đâu.

Đó thì các thầy thấy đâu nó ra đó chớ, đâu có lý nào mà ở trong cái Tăng đoàn mà không biết tổ chức như vậy, để cho người ta mang cả gói cả quảy…​ (Mất tiếng)

  1. để lộ cái bộ mặt thật của họ, họ chế giới ra rõ ràng. Bởi vì họ ở làm sao họ phải nói vậy chớ, họ có phải du tăng khất sĩ đâu mà họ biết cái đời sống du tăng khất sĩ như thế nào đâu họ nói. Cho nên họ nói trật lất hết à.

Vì vậy mà những cái họ đặt ra đây Thầy thấy nó quá là trật, không có đúng cách rồi. Cho nên, họ làm sống sao họ nói như cái kiểu của họ, cho nên nó sai, rất là sai. Vì vậy mà toàn bộ cái giới bổn đều phải có cái sự chỉnh đốn trở lại hết, chớ không có thể để như thế này được.

Tiếc vì Thầy chưa có những cái bậc đồng tu chứng quả A La Hán tức là đồng tu mà chứng được thiền định, nghĩa là làm được như Thầy hết, mà cỡ mười người là chúng ta kết tập hết lại kinh sách của Phật hết, mười người thôi chớ Thầy chưa nói là một trăm người.

Mười người mà đạt được, chúng ta đồng lòng hết tất cả mọi cái việc mà chúng ta đã chứng biết được, hiểu biết được, chúng ta thấy được mặt thật của ông Phật thật, vì chúng ta dùng Tam Minh chúng ta thấy được, mà trong 10 người chúng ta đều thấy được, đó là một cái niềm tin sâu.

Và đồng thời chúng ta dùng để quán xét lại kinh sách của Phật ngày xưa như thế nào, cái thời quá khứ nó sẽ trở lại với chúng ta hết, từng đó chúng ta kết tập lại kinh sách hết, và giới luật chúng ta cũng kết tập lại. Còn ba cái thứ này chúng ta đem đốt sạch, không có để nữa.

Hôm nay Thầy nói, cái lời nói Thầy còn mãi mãi muôn đời chớ không phải bao giờ hết. Mà mấy con mà giữ được thì nó còn hoài, mà nếu không giữ được thì mai mốt những cái băng này nó sẽ mất đi thì cái lời nói này nó không còn có nữa, và đồng thời cũng không còn có một người thứ hai dám nói điều này.

Thầy ước ao rằng trong chúng ta có những người tu chứng, làm được những cái điều mà Phật đã làm như trước kia, thì chúng ta sẽ chấn hưng và làm tốt lại Phật pháp sau này được. Mười người à, chớ không cần nhiều đâu.

Quý thầy hãy cố gắng mà tu tập, để cùng Thầy mà làm cái việc lợi ích cho Phật pháp và lợi ích cho chúng sanh, toàn các con người ở trên cái hành tinh này. Những lời mà Thầy nói là một cái ước vọng của Thầy rất lớn, mong các thầy phải tu cho được để làm lợi ích rất lớn cho con người, cho loài người.

90) GIỚI BẰNG Y CỦA PHẬT

(01:43:59) 90. Giới bằng y của Phật.

Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa Phật ở nước Thích Xí Xấu, nơi vườn Ni Câu Lọai, bấy giờ Nan Đà chỉ thấp hơn Phật có 4 ngón tay, Tỳ Kheo từ xa thấy tưởng là Phật, đứng dậy đón, cả hai bên đều thấy xấu hổ. Do đó Phật khiến Nan Đà mặc y màu đen để dễ phân biệt.

Bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo may y bằng hay là quá lượng y của Như Lai, các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân đó mà kiết giới.

Ở trong cái câu chuyện này, giới không có được may cái y, cái lượng y bằng của Phật mà may nó dài hơn hoặc là ngắn hơn chớ không được bằng của Phật.

Vì lấy cái câu chuyện là ông Nan Đà ổng chỉ thấp hơn Phật có 4 cái ngón tay thôi, nhưng mà chắc có lẽ là ổng giống Phật lắm, cho nên là từ xa các vị Tỳ Kheo thấy cái tướng của ổng là tưởng là Đức Phật, cho nên họ đứng dậy họ đón, nhưng mà khi thấy ổng đi tới, thì ra là ông Nan đà chớ không phải là Phật.

Cho nên Phật nghe được cái điều này, sau này mới bảo ông Nan Đà đừng có mặc cái áo, cái y màu vàng mà hãy đắp cái y màu đen, để cho người ta thấy cái hình ông Nan Đà người ta phân biệt được Phật với ông Nan Đà nó có khác nhau ở chỗ cái y màu đen với y màu vàng. Đó thì như vậy.

Nhưng mà sự thật ra sao đặt cái điều này Thầy thấy, ở đời sao không thấy có cái y màu đen mà Thầy thấy in dường như là ở bên Nhật Bổn thì có những cái y mà màu trắng màu đen có lỗ trắng lỗ đen thì có, chớ còn ở Việt Nam thì chúng ta thấy nó cũng không có cái điều đó, mà có y điều màu đỏ mà thôi.

Màu đỏ dường như là vua chúa, vì cái phong kiến vua chúa lấy cái màu sơn son thiếp vàng đó, lấy cái màu đỏ, cho nên từ cái y hoại sắc của tu sĩ thì nó biến thành cái màu đỏ của phong kiến Trung Quốc.

(01:45:53) Cho nên sau này Thầy thấy là hầu như quý thầy có mặc cái y màu đỏ. Lần lượt thì người ta cũng dần dần người ta bỏ, người ta còn mặc cái y màu vàng, nhưng mà cái y màu đỏ vẫn còn, và có viền này kia nọ, kim tuyến đồ chói lóng lánh, làm sang lắm. Những cái y đó là của vua ban đồ đó.

Thì những cái đó là những cái nó không đúng theo cái cách thức ăn mặc của đạo Phật, vì cái ăn mặc của đạo Phật không có làm sang trên cái bộ y áo của mình, mà đơn giản bằng những loại vải thô vải xấu, bằng những cái thứ bó thây ma như y phấn tảo vậy. Đó là những cái hạnh của một người tu.

Người tu mà mặc cái y mà sáng láng chói rực rỡ, như cái y của ông Tam Tạng đó, cái ông mà đi thỉnh kinh đó, mà nói rằng cái y mà hào quang chói nhấp nhánh nhấp nhánh lên là cái vật báu đó. Thì thật sự ra một người tu sĩ thấy cái vật báu là người ta đã tránh xa rồi. Cho nên vì cái ông Tam Tạng mà có cái vật báu cho nên ổng bị nạn là phải, chớ không…​ Bởi vì có vật báu là có tai họa à.

Còn cái người tu sĩ chúng ta mặc cái y này, chớ nó cũng còn tốt đó, chúng ta lượm cái vải thây ma mặc thì chắc không ai dám rớ tới nó đâu. Nghe cái y đó mà về mà đắp là chắc chắn ma nó đến nó ôm mình đó. Cho nên người ta thấy cái y phấn tảo là người ta đã hoảng sợ.

Vì vậy cho nên ở đây theo Thầy thấy, giữa cái câu chuyện này đặt ra như vậy, Thầy nghĩ rằng Đức Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thì ông Nan Đà này cũng có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp sao? Cho nên hai người này phải giống nhau chớ, vì vậy mà ở xa thì người ta nhìn thấy ông Phật với cái ông Nan Đà này giống hệt như nhau cho nên người ta mới đứng dậy chớ?

Đó thì, như vậy chúng ta thấy là từ cái chỗ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp lại có một người có như vậy nữa, thì như vậy là không có cái điều đó./.

HẾT BĂNG

45 - GIỚI HỐI QUÁ - GIỚI CHÚNG HỌC - GIỚI DIỆT TRÁCH

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 45 - GIỚI HỐI QUÁ - GIỚI CHÚNG HỌC - GIỚI DIỆT TRÁCH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- BỐN GIỚI HỐI QUÁ

(00:00) Bây giờ chúng ta tiếp tục là kiết giới Tứ Hối Quá - bốn cái giới Hối Quá này.

Tứ Hối Quá theo tiếng Phạn là Ba La Đề Xá Ni, Tàu dịch là Hướng Bỉ Hối, nghĩa là bốn pháp đến người khác để xin sám hối.

Bốn cái pháp này mình đến với cái người khác để mình phát lồ mình xin sám hối.

Tỳ Kheo nào phạm một trong bốn tội này liền phải đến Tỳ Kheo khác mà phát lồ sám hối, xin được quở trách, xin được mắng chửi, xin được có cái sự rầy dạy, khuyến bảo, không được che giấu.

Nghĩa là cái người mà bị phạm lỗi đó, đến xin cái vị đó rầy mắng mình hoặc là khuyến dạy mình để cho mình không có vi phạm nữa. Đó gọi là bốn cái giới Hối Quá.

1) GIỚI THỌ THỨC ĂN CỦA NI KHÔNG PHẢI BÀ CON

(00:48) 1. Giới thọ thức ăn của ni không phải bà con.

Vì sao Phật kiết giới này?

Duyên khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, gặp lúc mất mùa, khất thực khó được, Liên Hoa Sắc Tỳ Kheo Ni liên tiếp 3 ngày khất thực rồi đem cúng cho Tỳ Kheo đến nỗi đói té xỉu bên đường. Trưởng giả ngồi xe đi qua hỏi biết sự tình bèn hiềm trách Tỳ Kheo không biết nghĩa nhượng, bèn mời ni về nhà, giặt y cúng dường. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật kiết giới:

Nếu Tỳ Kheo vào trong thôn, tự nhận thức ăn của Tỳ Kheo Ni mà ăn, Tỳ Kheo ấy nên đến Tỳ Kheo khác nói: “Thưa Đại đức! Tôi phạm pháp đáng quở trách, làm điều chẳng đáng làm. Nay đối với Đại đức xin phát lời sám hối!” Đây là pháp hối quá.

Ở đây một cái câu chuyện như thế này nè, nói bà Liên Hoa Sắc Tỳ Kheo đi khất thực suốt ba ngày mà ngày nào khất thực cũng có đồ ăn hết, đem về thì mấy ông Tỳ Kheo Tăng đón đường, thì bà phải trút đồ ăn của bà cho ổng đem về ổng ních. Mà ngày nào thì mấy ông này cũng ra đón đường bà này hết, cho nên 3 ngày rồi mà bả không có ăn được hột cơm nào hết, cứ hễ đi xin về mà gặp Tỳ Kheo mà không có thì trút đồ ăn mình trong bát cho.

Bởi vậy cái kỳ cục, Thầy cũng không hiểu tại sao có cái lệnh kỳ vậy Thầy cũng chả biết nữa! Tại sao nó đặt ra như vậy, để cho đến khi 3 ngày bà này bả đi xin như vậy bả không có hột cơm ăn vào bụng, bà ngất xỉu ngoài đường, gặp cái vị cư sĩ trưởng giả này đi ngang qua mới hỏi thăm mới biết sự tình như vậy, thì mới đem bà này về giặt y áo rồi cho ăn cho uống này kia bà mới trở về. Và vì vậy mà khi Đức Phật nghe cái tin này mới đặt ra cái giới đó.

Bây giờ đó lại là cái giới là “Giới thọ thức ăn của ni không phải bà con” - giới đặt ra cũng còn kỳ nữa, Thầy nghĩ cũng lạ.

Ni này nó không bà con của mình thì mình không được cho nhận thức ăn, như là bà Liên Hoa Sắc Tỳ Kheo này, những cái vị Tỳ Kheo khác là xa lạ với bả, cho nên bây giờ các vị Tỳ Kheo mà gặp bả đi khất thực mà xa lạ, thì bả không có trút đồ ăn vô trong cái bát của các vị Tỳ Kheo này. Nhưng mà bả là có một vị Tỳ Kheo mà bà con với bà, chắc chắn vị Tỳ Kheo này chắc là bả cũng trút cái đồ ăn bà cho cái vị Tỳ Kheo đó. Cho nên chế cái giới này chắc còn có cái giới nào nữa đây.

Thầy nghĩ rằng nó có những cái mà có thể nói rằng nó tiếp tục nó đặt điều ra như vậy, chớ còn đâu có lý do nào mà cái chuyện mà phi lý như vậy! Người nào đi khất thực người nấy ăn chớ tại sao mà có cái chuyện ăn cướp của phụ nữ như vậy? Tăng gì mà - cái người tu sĩ gì mà lạ lùng quá vậy?

Đó thì như vậy là chúng ta thấy rõ ràng là có những cái giới nó không có đúng với cái tư cách bình đẳng của một cái người tu hành. Làm quá vua chúa à! Mình chẳng cần đi khất thực, cứ ngồi xung quanh cái chỗ cái tu viện ni đi, chờ họ đi khất thực cái về, họ về gần tới nhà họ cái mình đưa cái bình bát ra cái họ rót, cái rồi họ vô trong thất họ ở đó.

Chơi cái kiểu này là mấy ông tăng lười biếng là mấy ổng chơi kiểu đó à! Cái tu viện ni ở đây, bắt đầu ổng ngồi trước cửa, mấy bả đi khất thực ngoài Trảng Bàng về được bao nhiêu đón lấy hết, cái chùa ni nó đói thấy bà nội luôn! Có không? Cái giới gì chế mà kỳ cục vậy, Thầy chả biết đâu nói!

2) GIỚI THỌ THỨC ĂN DO NI CHỈ BẢO

(04:05) Bây giờ:

2. Giới thọ ni chỉ bảo cho thức ăn.

Khi Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, các Tỳ Kheo cùng với Lục Quần thọ trai trong nhà bạch y. Bấy giờ Lục Quần Ni và Lục Quần Tỳ Kheo đòi cơm canh, kêu nói: “Mang canh đến đây!”

Làm quá vô tiệm vậy! Thiệt ra, trời đất! Thầy nói ông thầy đi xin mà gọi người ta cái kiểu như là vô tiệm mà gọi vậy đó.

“Đem cơm đến cho vị kia!”

Thật sự ra mình vô tiệm mình cũng…​ Người ta đưa cái bản gì đây mà để mình coi cái thực phẩm mình gọi đó, à bản thực đơn, rồi mình coi mình gọi, bảo nó đem mình canh nè, cơm nè, nào đồ chiên đồ xào gì, mình gọi đủ cái thứ đồ ăn của mình rồi bắt đầu ngồi chờ chứ chưa chắc mà gọi kỳ cục vậy. Còn ở đây, vô thọ trai nhà người ta mà gọi làm như là mình vô ăn tiệm vậy đó.

Thì những cái hành động này Thầy thấy sao mà họ chế ra được như vầy, chắc lẽ là mấy ông thầy này vô tiệm ngồi ăn gọi quen rồi bây giờ chế giới cũng vậy thôi, chớ còn mình không có làm cái điều đó mình biết đâu mình gọi, phải không?

Cho nên mấy ông thầy mà chế giới này là từng ăn tiệm cơm rồi, thế nào cũng vô đó mà gọi bồi lung tung rồi, biểu mang cái này mang cái kia ra đó. Cho nên chế cái giới này mà Thầy đọc tới đây Thầy mắc tức cười mấy ông này là chuyên môn ăn tiệm nè, ăn tiệm cơm chay chớ không có gì đâu.

…​ Khiến cho các vị ngồi chặng giữa không nhận được thức ăn.

Kêu, cứ đi kêu đến cho mình, mấy người khách người ta vô ngồi nãy giờ người ta chờ mà không có thức ăn, còn mình gọi lia lịa cho nên bồi bếp nó lật đật nó mang đến cho mình mà bỏ mấy người kia. Như vậy là mình thấy cái Phạm hạnh của người tu là ở chỗ nào? Rõ ràng là lấy cái oai vệ của người tu mà làm ra cái vẻ của mình là như quan, vua chúa vậy, vô tiệm làm ào ào!

Thì cái chuyện cái giới này thiệt ra Thầy nói, chế ra như vậy là chắc chắn mấy ông tăng này hồi đó dữ tợn lắm chớ không phải là thường đâu, sống còn hơn mình bây giờ nữa, cho nên mới có những cái giới đó mà chế ra. Chớ trong thời Đức Phật Thầy nói chắc chắn không có mở tiệc cơm chay đâu, chỉ có đi xin thôi chớ còn không có vô tiệm mà ngồi ăn kiểu đó được.

3) GIỚI Ở NHÀ HỌC GIA THỌ THỨC ĂN

(06:11) 3. Giới ở nhà học gia thọ thức ăn.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật, bấy giờ các Tỳ Kheo thường đến nhà cư sĩ có tin ưa nhận thực phẩm cúng dường, đến nỗi gia đình nọ bị nghèo thiếu. Những người ngoài ở gần thấy vậy cười chê các Tỳ Kheo. Đức Phật nhân đó bảo chúng tăng bạch Nhị Yết Ma tác pháp học gia mà kiết giới này.

Nghĩa là mình cứ đến cái nhà nào mà mình tin ưa họ đó, thấy người ta cúng dường mình mãi đó, mình cứ lo mình đến đó, mình cứ ngày nào cũng đến xin, xin riết người ta nghèo mạt người ta. Người ta đâu phải người ta làm để người ta cho mình? Thì cho nên Phật chế cái giới này là vì ngăn cản không có cho mình đến xin một nhà mãi, mà mình thấy cái người này họ tốt bụng mình cứ xin hoài.

Lẽ ra Thầy nói cũng có chứ không phải không. Lúc mà Thầy đi khất thực Thầy cũng có cái bụng như vậy, hồi Thầy mới khất thực mà, Thầy thấy Thầy đi ngang qua cái chỗ đó họ cho mình, bữa nào cũng lẽo đẽo đi ngang qua đó đặng cho người ta cho, còn đi mấy cái chỗ khác họ không cho.

Cái tâm lý của mình nó kỳ, khi thấy người ta cho mình cứ đi hoài, chừng nào mà họ không cho mình nữa mình không đi. Đó, đó là cái tâm của mình mà. Tự nhiên mình chưa có giải thoát thì cái tâm đó nó có khởi lên mình có thấy rõ. Cho nên Thầy biết Thầy rõ lắm chớ không phải là không biết. Vì vậy là những cái đó mình phải học mà, biết tâm của mình chỗ nào mình học mà.

Hồi mà Thầy ở Giác Ngộ cũng vậy, Thầy thấy thí dụ như cái bữa đó quý thầy nói: “Bữa nay Thầy đi khất thực, Thầy đi lại cái lò bánh mỳ Thầy khất thực cho tụi này một bữa ăn bánh mỳ cho đã coi!” Thầy nói: “Thôi được, được!” Rồi bữa đó cái Thầy đi. Cứ đi luấn quấn mấy cái tiệm bánh mỳ, mấy cái lò bánh mỳ, mà cái lò bánh mỳ nào mà cúng dường mình nhiều là Thầy bữa đó tính chắc chắn là mình đến đó cũng phải có.

Đúng vậy, Thầy đến đó bắt đầu, đi ngang qua đó thì bắt đầu nó ở trong đó nó cho một người chạy ra: “Bạch Thầy! Hôm nay chủ nhà con xin Thầy dừng lại để chủ nhà con cúng dường cho Thầy!”

(08:02) Rồi bắt đầu nó đem ra cỡ khoảng hai, ba chục ổ bánh mỳ vậy, nó bảo Thầy phải đưa cái tay vầy chớ cái bình bát Thầy làm sao nhét hết. Thầy mới lấy cái y của Thầy vầy nè, Thầy đưa lên vầy, Thầy đỡ ra hết đem ra đựng bánh mỳ, chớ còn cái tay mình làm sao đựng hết, thành ra chừng đó cái ôm bánh mỳ đi về.

Đi đường, thiệt ra nếu mà người ta biết được thì người ta cười ông thầy dữ lắm, nhưng mà tại hồi đó tại vì mình cũng tham, mình đem về cho chúng ăn mà, cho nên mình cứ ôm mình đi: “Trời ông thầy gì mà đi khất thực ôm một ôm bánh mỳ!”

Thầy nói, có nhiều cái mà Thầy nghĩ bây giờ mà mình học lại cái giới luật của Phật, mình thấy mình sai quá sai. Và mình sai trong lúc đó ai biết được? Những người xung quanh đó là cư sĩ không ai biết hết, chỉ thấy ông thầy đi xin về ăn thôi, về cả chùa ăn chớ không phải ông ăn một mình ổng nổi, nhưng mà người ta thấy mình làm như vậy tốt chớ người ta chưa hiểu chính cái đó là cái sai, cái tham của mình.

Tham cho một mình mình chưa đủ, mình tham cho người khác. Bổn phận của người nào phải đi khất thực mới đúng, chớ không phải là đi xin cho người khác ăn. Mình làm cái đó tốt chớ không phải tốt đâu, mình làm cho một số tu sĩ khác lười biếng. Phải hiểu.

Cho nên già rồi, Thầy nói đọc trong Thánh Ni, bà già bảy mươi mấy tuổi rồi mà chống cây gậy lê lê đi xin chớ không có một vị nào đi xin đem về cho bà đó ăn. Đó thì các con đủ biết đạo Phật rất là công bằng, già cũng phải…​ Chớ không phải là nói rằng bà già rồi, cái người khác mà đem đến cho bà. Tu như vậy mới thật là tu, mới có những cái hạnh của nó. Đó thì như vậy chúng ta mới thấy rằng đạo Phật nó quý là ở cái chỗ mà nó rất là bình đẳng.

Còn ở đây, những cái hạnh mà Thầy vừa qua Thầy kể mấy con để nghe cười chơi, đúng là cái tâm niệm Thầy lúc đó cũng còn phàm phu lắm, chớ không phải là giải thoát đâu. Còn bây giờ thì Thầy thấy Thầy không ham nữa, bởi vì Thầy biết nó là bất tịnh rồi, mà Thầy cũng biết rằng những cái người khác mà ngồi không để chờ Thầy đi khất thực về ăn là cái sai rồi.

Hồi đó Thầy không biết, Thầy nghĩ mình làm tốt cho người ta, mình làm cho người ta được no là mình có phước thôi, nhưng mà không ngờ thật sự ra Thầy đưa những người đó xuống địa ngục và Thầy là người bị tội phá giới, không có đúng cái hạnh của người tu.

4) GIỚI CHỖ SỢ HÃI THỌ THỨC ĂN

(10:02) Giới thứ tư:

4. Giới chỗ sợ hãi thọ thức ăn.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại vườn Ni Câu Loại, bấy giờ trong thành Di Xá, các phụ nữ đến tăng già lam cúng dường, trên đường đi bị giặc nhiễu hại. Đức Phật bảo các thầy Tỳ Kheo nên nói với phụ nữ đừng ra khỏi thành, trên đường có giặc khủng bố, nếu họ đã ra khỏi thành thì nên nói dừng, đừng đến chùa. Vì cớ ấy nên Phật mới kiết giới này.

Nếu họ đến thọ giáo sắc, khi nghe pháp, Tỳ Kheo tự có thức ăn riêng nay trao cho thì không phạm.

Nghĩa là bây giờ trên con đường đi mà đến chùa thì nó có một cái đoạn đường vắng, trộm cướp nó dữ lắm, ăn cướp nó dữ lắm. Cho nên hầu hết là cư sĩ đến chùa cúng dường thì nó rất là khó khăn, mà nếu đến chùa cúng dường rồi thì nó không có gì ăn thì trong chùa nên cho các vị cư sĩ đó ăn, cái người Tỳ Kheo nào có cái thức ăn riêng.

Ở đây nói sao mà Thầy nghe nó lạ lùng lắm. Tỳ Kheo đi xin ăn rồi thì bỏ hết không có còn cất giữ riêng, mà tại sao còn có cất giữ riêng mà khi mà có những người phụ nữ mà họ đi cúng chùa, trời tối rồi họ không dám về, họ ở lại đó, thì lấy thức ăn của mình riêng ra cho họ ăn, nghĩa là như thế nào Thầy có biết làm sao đâu? Đó là những cái giới luật kỳ cục quá vậy!

Nghĩa là Thầy thấy rằng nó không có đúng cái tính cách của một cái sự giải thoát của giới luật của Phật. Là tại vì chúng ta đi khất thực ăn rồi thì bỏ hết, không còn có cái gì hết. Rồi bây giờ trên cái đường đi mà khó khăn như vậy, thì ít ra thì người phụ nữ họ cũng biết cái đoạn đường đó khó như vậy, thì họ đến chùa sớm rồi họ về sớm chớ làm sao mà kề cà ở đó tối mà không dám về?

Thì như vậy là nói những cái giới như vậy thì Thầy thấy nó có nhiều cái vô lý ở trong đó lắm. Chúng ta sau này chúng ta đọc lại và kiểm nghiệm coi nó đúng sai rồi chúng ta chỉnh đốn lại hết, chớ không có để những cái giới mà nó vô lý.

Bây giờ chúng ta đọc lướt qua chúng ta chưa có thâm hiểu, muốn làm một cái điều gì chúng ta cần phải có một cái sự suy tư đúng đắn để rồi chúng ta để cây bút mà viết ra cái giới là phải nó - từ ngay bây giờ, từ khi mà chúng ta cầm cây bút mà chúng ta viết cho đến về sau, mãi mãi về sau không được thay đổi cái này.

Nghĩa là không được thêm bớt, cái thời gian và cái không gian nó không có bao giờ mà có thể làm mất cái pháp này được, thì chúng ta mới kê cây bút mà viết. Còn nó có sự thay đổi thì không nên viết cái giới đó ra.

Bây giờ thì chúng ta sắp sửa nghỉ để chúng ta ăn cơm.

2- MỘT TRĂM GIỚI CHÚNG HỌC

(12:30) Bây giờ các con sẽ tiếp tục nghe cái giới một trăm giới Chúng Học. Hồi sáng thì đã học hết mấy cái giới là giới Đọa, hết chín chục giới Đọa, và đồng thời thì học bốn cái giới Tứ Hối Quá rồi, bây giờ chúng ta học tới một trăm giới chúng học, tiếp tục trong cái chương trình học hết cái giới bổn, cái nào đúng, cái nào sai, để chúng ta gạn lọc mà chúng ta bỏ.

Sau này có đủ cái duyên, Thầy soạn lại cái bộ giới bổn này, để mỗi cái giới là một cái pháp môn, mỗi cái pháp môn để cho chúng ta sống giữ gìn và thực hiện cái sự tu tập của chúng ta, trau dồi thân tâm của chúng ta để chúng ta ly dục ly ác pháp.

Chớ không phải như cái giới mà các vị Tổ viết giới này, hầu như là viết cái bản hiến chương là phải, hay hoặc là viết cái giáo điều thì phải, hay nói chung là viết cái pháp luật chớ không phải là viết cái bài pháp để chúng ta sống đúng ly dục ly ác pháp, để chúng ta thực hiện sự giải thoát của tâm hồn mình, để làm chủ được sanh tử luân hồi.

Cho nên đọc giới rồi chúng ta mới thấy đây là giới của người phàm phu, của người sau này viết chớ không phải là của thời Đức Phật mà dạy ra.

Bây giờ chúng ta học một trăm giới chúng học:

Bách Chúng Học còn gọi là Chúng Đa Học Pháp, tiếng Phạn gọi là Thức Xoa Ca La Ni, nghĩa là những điều cần thực hiện, hay nói khác là cần phải học.

Trong sáu pháp trước là chỉ trì và chỉ phạm, còn pháp thứ bảy này là chỉ bản chất tác trì và tác phạm. Các vi phạm đối với pháp thứ bảy này là tội Đột Cát La.

(14:19) Đối tượng của các điều khoản trong đây đại bộ phận là bốn oai nghi, cử chỉ cùng với những sự việc ăn uống, thuyết pháp, đi đường, tại nhà cư sĩ, nói tổng quát đây là những điều tác thành tư cách lịch sự tao nhã của một vị Tỳ Kheo.

Ngoài tác phong trong sự giao tiếp với thế tục, trong đây còn có nhắm đến mục đích quan trọng khác đối với đời sống tu tập của Tỳ Kheo, đó là sự hộ trì Chánh Niệm, là nền tảng của sự tu tập các pháp môn.

Phật ở vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo vi phạm, Phật nhân đó mà kiết giới này. Một trăm pháp chúng học này theo luật Tứ Phần có thể được chia làm 10 nhóm như sau cần phải học:

Ở đây Thầy muốn nói về một trăm cái giới chúng học này là nói chung nó là oai nghi tế hạnh của một cái người tu sĩ chớ không có gì khác hơn hết. Mỗi cái giới nó là nói về một cái oai nghi của mình đối xử với người cư sĩ cũng như đối xử với nhau, từ cái ăn, mặc, đi, đứng, nói, nín của chúng ta đều nằm ở trong những cái oai nghi này, trong những cái một trăm giới này.

Cho nên muốn chuẩn bị cho một người tu sĩ có những cái oai nghi cho xứng đáng là một cái vị tu sĩ, thì một trăm giới chúng học này mà chúng ta không học là chúng ta đã thiếu khuyết những cái oai nghi đó.

Nhưng ở đây chúng ta còn phải coi thử coi nó có đúng hay là không, hay là người ta đặt những cái điều đó ra mà nó có đúng không? Cũng chẳng hạn là như bây giờ Thầy nói, như người ta nói bây giờ một vị tu sĩ thì cần phải ba y một bát, thì chúng ta phải thấy cái cuộc sống của chúng ta có thể sống ba y một bát có được hay không?

Nếu được thì nó đúng, mà nếu không được tức là không đúng. Vậy thì không đúng thì chúng ta muốn tu tập để được giải thoát thì chúng ta phải làm sao cho nó đúng với cái hạnh thiểu dục tri túc, mà nếu nó thừa hơn thì nó không phải là thiểu dục tri túc, mà nó không hơn thì đời sống chúng ta ra làm sao?

Tất cả những cái này là cái mà một cái người sau cần phải suy nghĩ, cần phải có trí tuệ mới có thể chỉnh đốn lại giáo pháp, chỉnh đốn lại giới luật, để chúng ta có một cái lộ trình, có một cái đường đi, có một cái sự thực hành để đem đến sự cứu cánh cho bản thân của mình và cho mọi người.

Và cũng là dựng lại Phật pháp để cho người ta thấy có cái sự kết quả thực tế và cụ thể trên con đường đi tìm sự giải thoát. Nó không có phải một sự mơ hồ, một sự tưởng tượng, mà là một sự thực, thực là cuộc sống giải thoát của đạo Phật như vậy.

2.1- VỀ Y PHỤC

(16:54) I. Nói về y phục (Là điều giới 1 và 2)

1. Nên mặc quần niết bàn tăng cho cân bằng.

Nghĩa là cách thức mà mặc cái y hạ đó, tức là cái chăn đó, thì có nhiều người thì mặc kéo một bên cao bên thấp, cho nên ở đây khi mà vận cái chăn thì phải cho nó bằng cái mặt như thế này, ở bên nào, ở sau, ở trước, ở bên hông nây, bên hông nây, nó đều là rất bằng, cũng như người ta mặc cái jupe như vậy, nó đều như vậy, nó không có chệch với nhau.

Đó là cái thứ nhất ăn mặc cái - ở đây thì gọi là cái quần niết bàn, tức là cái y hạ đó.

2. Nên mặc ba y cho cân bằng.

Nghĩa là như Thầy mặc đây là ba y mà nó đều đặn như thế này, gọi là nó cân bằng, nó không có xốc xếch.

Còn ví dụ như bây giờ cái vạt này nó đổ sum xuống, nó tuột như thế này, tức là nó không có đúng cân bằng, nó không có ngay thẳng, cho nên nó làm cho nó như vầy, nó thả như vầy, tức là nó cũng không có cân bằng, cho nên mình phải kéo nó lên, làm cho nó phải đâu ra đó. Còn cái áo của mình, cái ở trong này mình mặc cái y trung mà nó lại chệch qua, nó tréo qua tréo lại, nó không đúng. Nó phải ngay ngắn, ở đâu nó ra đó.

Cho nên cái lối này là dạy khi mà chúng ta ăn mặc ở đâu cho nó nghiêm túc ở đó, chớ đừng có để chệch. Đó là hai cái phần mà mặc y ở đầu.

2.2- TÁC PHONG TẠI NHÀ CƯ SĨ

(18:20) Cái phần thứ hai là:

II. Tác phong tại nhà cư sĩ (Từ giới 3 đến 25)

3. Không được vắt trái áo vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là khi mà vào nhà cư sĩ không có được vắt cái kiểu như Thầy như thế này vắt, mà vào nhà cư sĩ thì chúng ta phải vấn cái y lại cho nó kín cả tay chân của mình lại, không có được để hở ra mà đi vào nhà cư sĩ.

Còn vắt như vầy là tức là nó hở cánh tay. Mà cái tay áo của Thầy đây là tại vì nó có cái áo ở trong nó có cái tay, còn cái kia, cái y trung của họ nó không có cái - nó để lòi cái tay này ra. Cho nên khi mình để cái tay, mình để mà vấn như thế này mình đi vào nhà cư sĩ thì không có được, nó không có tốt.

Cho nên cái giới mà học oai nghi này, khi vào nhà người cư sĩ thì không có được vắt cái y như thế này, mà phải vấn cái y, rồi chúng ta xỏ đây mà chúng ta nắm đây, ở bên tay này nó phủ lại, nó kín tay, nó không có hở tay.

4. Không được vắt trái áo vào ngồi nhà cư sĩ.

Nghĩa là mình không được vắt cái y của mình như thế này mà mình ngồi trong nhà cư sĩ. Hồi nãy không được vắt áo vào nhà cư sĩ, tức là đi vào, rồi bây giờ vắt cái áo, vắt cái y như thế này mà ngồi trong nhà cư sĩ thì không có được nữa.

5. Không được áo quấn cổ vào nhà cư sĩ.

Không được lấy cái y của mình hay cái áo của mình quấn cổ một nùi vầy mà đi vào thì không có được, đó là cũng cấm.

6. Không được áo quấn cổ vào ngồi trong nhà cư sĩ.

Nghĩa là mình đi vào, ở ngoài đường mình đi vô mình vấn sẵn cái y, mình vấn cũng như cái khăn vậy mình đi vô thì không có được, còn bây giờ vô trong đó thì mình cũng quấn cái y như vậy mình ngồi trong nhà cư sĩ thì không được.

7. Không được trùm khăn lên đầu vào nhà cư sĩ.

Có nhiều người lấy cái khăn mà đội lên đầu rồi đi vào nhà cư sĩ thì nó không có được. Cho nên Đức Phật cũng cấm không có cho đội khăn mà đi vào nhà cư sĩ, để cái đầu mà chúng ta nó mát mẻ nó cạo trọc như vậy chúng ta đi vào thì nó tốt nhất nó không có…​ Còn mình đội cái khăn mình che khuất cái đầu của mình lên thì ở đây cái giới này cấm không có được.

8. Không được trùm khăn lên đầu mà ngồi trong nhà cư sĩ.

Mình ngồi trong nhà người ta, mình trùm cái khăn lên trên đầu mình như vậy thì không được.

Đó là những cái giới mà cấm những cái oai nghi chúng ta làm như vậy không đúng cách, mà hầu như là người ta sợ cái đầu trọc xấu cho nên người ta hay trùm khăn người ta đậy lại người ta ngồi trong nhà cư sĩ. Mình tu hành rồi còn xấu ở chỗ nào nữa mà che mà đậy, cứ để cho người ta thấy cái đầu trọc cho nó tốt đi!

9. Không được vừa đi vừa nhảy vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là cái cách thức mà đi đứng của chúng ta phải đằm thắm mới đi vào nhà, chớ mình đi vào nhà người ta mà vừa chạy vừa nhảy mà vô trong nhà người ta thì chắc chắn mấy ông cư sĩ này họ sẽ đuổi mình ra khỏi nhà: “Ông thầy gì mà kỳ cục quá, hồi nãy vừa đi vừa nhảy, kỳ cục!”

(21:04) 10. Không được vừa đi vừa nhảy vào nhà cư sĩ, ngồi ở trong nhà cư sĩ.

11. Không được ngồi xổm trong nhà cư sĩ.

Vô trong nhà cư sĩ rồi dẹp cái ghế một của người ta vầy mà trèo lên trển ngồi, như vậy thì không có thể coi được.

12. Không được chống nạnh vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là đi vào mà chống nạnh vầy mà đi vào như là mình người ngon vậy đó thì không có được, đó thì Đức Phật cũng cấm, những cái oai nghi đó thì không có được. Chúng ta nhớ những cái hành động này là hành động của người tu không có làm được.

13. Không được chống nạnh vào ngồi ở trong nhà cư sĩ.

Ngồi ở trong nhà cư sĩ mà chống nạnh vầy, ngồi vầy đó mà chống nạnh kiểu này ai mà coi được không? Đó thì ở đây cái giới luật này nó cấm như vậy, nó không có cho phép chúng ta những oai nghi như vậy.

14. Không được rung mình đi vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là đi mà lúc lắc qua lại, như rắn mà uốn vậy đó thì không có được, đi cái kiểu mà uốn éo đó thì không có được. Vào nhà cư sĩ mà như vậy thì không có được.

15. Không được rung mình ngồi ở trên ghế.

Ngồi trên ghế mà lắc qua lắc lại, lắc qua lắc lại, ẻo qua ẻo lại, làm duyên làm dáng với người cư sĩ, ở trong nhà người ta mà làm kiểu đó thì không có được. Ngồi đâu thì ngồi ngay ngắn hẳn hòi, nói chuyện gì đó thì nói một chút rồi đi, chớ không được ngồi mà làm kiểu dáng này dáng kia.

16. Không được vung cánh tay vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là đi vào nhà cư sĩ không có được mà đánh đòng xa vầy, đi sai sải vào đó thì không có được.

17. Không được vung cánh tay đi vào nhà rồi ngồi vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là, nói chung là những cái hành động cánh tay mà đi đánh đòng xa một cách tự tại thì không có được. Phải dè dặt, cẩn thận giữ gìn cái hạnh, cái oai nghi của mình. Khi vào nhà cư sĩ thì đi nghe nó cũng như là mình đi kinh hành nhẹ nhàng, chớ không phải đi mà quạt cái tay cũng như là cái đuôi con bò vậy thì không có được, quắt qua quắt lại thì không có được.

18 - Khéo che mình kín đáo vào nhà cư sĩ.

Khi mà mình vào nhà cư sĩ, đừng có lấy cái bao bố mà trùm mình hết, kín mít, hay hoặc lấy cái y mình trùm kín mít hết mình vào nhà, người ta tưởng ma, tưởng quỷ, thì không có được, đừng có làm chuyện đó.

Rồi ngồi ở trong nhà người ta cũng lấy cái y vầy trùm hết đầu cổ, trùm không ai thấy mình hết, thấy một cái bao gì hay hoặc thấy một cái đống gì ngồi đó thì cũng không nên làm cái điều đó nữa. Đó là những cái oai nghi không có tốt.

19- Khéo che mình kín đáo ngồi ở trong nhà cư sĩ.

20. Không được ngó trông hai bên vào nhà cư sĩ.

21. Không được vào ngồi nhà cư sĩ ngó trông hai bên.

Nghĩa là vào nhà, mình nhìn tới vầy là mình nhìn tới, còn cái này là ngó tranh, ngó ảnh, ngó này ngó kia, ngó bàn, ngó ghế, ngó tủ, ngó sách, ngó vở, ngó đủ thứ tùm lum, ngó qua ngó lại.

Vô nhà cư sĩ thấy đồ đạc ham quá ngó lia lịa, không có cái nào mà không ngó thì ở đây cái oai nghi đó không có được, khi mà vào nhà cư sĩ thì không được, chỉ ngó thẳng vầy thôi chớ không…​ Thấy cái gì đẹp cũng không cần ngó hết.

Rồi ngồi trong nhà cư sĩ cũng vậy, không có được ngó bên nây ngó bên kia.

22. Im lặng vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là mình vào nhà cư sĩ mình giữ cái sự im lặng, chớ mình đừng có nói chuyện ồn náo, to tiếng, không có được.

23. Im lặng ngồi trong nhà cư sĩ.

Vào ngồi nhà cư sĩ mình nên giữ cái vẻ mình im lặng, người ta hỏi một lời mình nói một lời, hỏi hai lời mình nói hai lời, chớ không được nói ồn náo ở trong nhà người ta.

24. Không được cười đùa đi vào nhà cư sĩ.

25. Không được cười đùa ngồi trong nhà cư sĩ.

Nghĩa là mình đến nhà cái người cư sĩ mình không được cười giỡn rồi mình đi vô nhà người ta. Mà cũng không được ngồi ở trong nhà người ta mà cười đùa giỡn nữa.

Đó là 25 cái giới giữ những cái oai nghi của chúng ta đi vào nhà cư sĩ.

2.3- TÁC PHONG ĂN UỐNG VÀ HỘ BÁT

(24:43) Bây giờ về cái phần thứ ba thì:

III: Tác phong trong sự ăn uống (Từ giới thứ 26 đến 47)

26. Khi thọ thực nên để ý khỏi đổ rơi cơm canh.

Nghĩa là mình ăn uống mình đừng có để cho cơm canh đồ ăn mình rơi rớt ra ngoài, đó là cái hạnh của người ăn uống.

27. Lấy thức ăn vừa ngang miệng bát.

Đừng có lấy vun lên, có đói gì đói cũng lấy nó vừa bằng thôi, mình lấy vun lên mình ém xuống nữa thì coi nó kỳ lắm. Người ta nói ông thầy này tưởng ăn.

27. Lấy thức ăn vừa ngang miệng bát.

Bằng cái miệng bát thôi, không có được lấy nhiều.

28. Lấy canh ngang miệng bát.

Chớ đừng có múc vun lên để nó tạt đổ ra ngoài.

29. Cơm canh cân bằng mà ăn.

Đừng có lấy thứ này nhiều mà thứ kia nhiều (ít), phải lấy bằng với nhau mà ăn.

30. Lấy theo thứ lớp trong bát mà ăn.

Chớ đừng có moi móc ở dưới bát mình đi tìm cái coi đậu hũ miếng đâu mà ăn, thì coi nó không được. Cho nên chừng nào ăn tới đó là hay, chớ cứ hồi nãy người ta trút đậu hũ ở dưới, bây giờ cơm đầy trên hết, thôi từ từ để mà ăn lần nó đi xuống. Còn cái này bươi móc ở dưới, đổ tùm lum ra hết.

Bởi vì bát cơm nó đã nhỏ mà nó đầy rồi, mà đậu hũ họ về họ cho ở dưới, thành ra giờ ăn cơm lạt ngồi ăn không được, cho nên cứ móc ở dưới lên ăn, như vậy đi kiếm đồ ăn để mà ăn với cơm thì như vậy là không có phải cái hạnh của người tu. Cho nên không có móc mà cứ tuần tự ở trên ăn chừng nào mà tới đó mình sẽ lấy lên mình ăn mà thôi.

Chớ không phải như mình có dĩa, có này kia, mọi thứ đều có phần riêng ra, dễ dàng đó, dè một bát mà ở trên thì nó đổ cơm mà ở dưới nó cho nguyên đồ ăn ở dưới đó, tới chừng mình ăn hết cơm, tới cái đồ ăn mặn chết rồi làm sao ăn được? Đó là những khó khăn của cái bát, dùng cái bát nó khó như vậy đó.

Cho nên do đó mà chúng ta phải khéo sử dụng. Nếu mà nó lưng bát thì chúng ta có thể móc ở dưới lên chúng ta ăn được, mà nó đầy thì thôi chịu, để ăn cơm lạt ở trên cho nó lưng xuống rồi mới móc lên mới ăn được. Còn nếu không mình xới ra coi nó kỳ lắm.

30. Lấy theo thứ lớp trong bát mà ăn.

Ở đây cái giới dạy tức là chúng ta lấy theo thứ lớp mà ăn chớ không được sắp.

31. Không được moi xóc trong bát mà ăn.

32. Nếu Tỳ Kheo không bệnh, không tự vì mình mà xin cơm canh.

Nghĩa là người ta cho gì mình ăn nấy, mà mình không có bệnh thì đừng có mà xin cơm canh mình ăn thì nó không đúng, trừ ra mình bệnh mình mới xin.

(27:07) 33. Không được lấy cơm đậy canh lại, trông mong cho được canh nữa.

Nghĩa là cái ý là như thế này, cái giới 33 này, có nhiều ông ưa canh lắm, thích canh lắm, cho nên lấy cơm mình đậy canh để mình xin canh thêm. Nó là cái kiểu đó đó, là giới 33 cấm mình không được xin thêm, không được che đậy cái thức ăn mà mình vừa bụng để rồi mình xin thêm cái thức ăn đó nữa.

34. Không được xem trong bát của Tỳ Kheo ngồi gần.

Nghĩa là người ta ăn gì ăn, còn mình ăn của mình. Có nhiều khi mình dòm coi ông này ông ăn cái gì, bữa nay ông khất thực cái gì, coi ngon hay dở, coi ấy mình xin ông thêm, cái điều đó ăn cứ dòm trong bát người ta không, không có được.

35. Phải để ý tưởng trong bát mà ăn.

Nghĩa là luôn luôn mình cứ đến cái bữa ăn thì mình nhìn những cái đồ ăn đó mình quán nó bất tịnh, mình quán nó như thuốc để mà trị bệnh đói của mình, chứ đừng có để ý qua cái bát cơm của người khác, rồi mình sanh ra thấy người ta có chè cháo còn mình không có chè cháo, bắt đầu mình chảy nước miếng ra đó, không được.

Về cái bữa đó, cái ông Tỳ Kheo đó ổng đi xin đâu một đống me, chừng đó mình dòm thấy đống me cái bắt đầu chảy nước miếng ra mới chết được!

Đó là những cái điều kiện, ở đây muốn nói là mình ăn mình đừng có nhìn qua bát của người ta để tránh cái chỗ mình thèm khát, thấy người ta có những cái đồ ăn mà ý bụng mình muốn, mình thích rồi bắt đầu mình thèm, thì như vậy là mình không có tu được.

36. Không được nắm cơm lớn miếng mà ăn.

Nghĩa là có ông đói quá, làm một bốc cơm vậy bỏ miệng ngốn ngốn vậy ăn cho mau no. Bởi vì hôm qua tới bữa nay chưa có ăn cho nên đói quá, làm cho nó mau để cho nó không có đói, do đó có cái giới này cấm. Nghĩa là ngày xưa, theo trong cái thời Đức Phật thì chắc chắn là ăn cơm bốc, cho nên nói đừng có nắm cơm lớn mà bỏ vào miệng ăn thì không có được.

37. Không được hả miệng lớn để chờ cơm mà ăn.

Nghĩa là nắm lớn quá thì phải hả miệng lớn, cho nên cũng cấm, không có cho. Bởi vì phải nắm cái nắm cơm vừa thôi, nhỏ thôi, bỏ trong miệng mình ăn.

38. Không được ngậm cơm mà nói chuyện.

Thật sự ra một vị tu sĩ thì làm sao mà đang ăn cơm mà nói chuyện? Không có cho nói chuyện! Thế mà ở đây thì cũng có cái giới cấm là nhiều khi mấy ông này cũng vừa ăn mà vừa nói chuyện chớ không phải không đâu, cho nên mới có đây.

(29:19) 39. Không được nắm cơm ngoài xa ném vào trong miệng.

Có nhiều người chơi ngộ lắm, vò nắm cơm vầy, hả miệng để quăng vô, cũng như mình liệng, mình thảy lục lạc vậy mà, liệng đồng tiền cho lọt lỗ, mấy ổng vừa ăn mà vừa chơi vậy đó mà. Đó là những cái đó chắc có lẽ như vậy, cho nên ở đây mới chế cái giới đó cấm.

Cho nên không có được nắm cơm ở xa vầy mà quăng vô miệng mình, rồi mình hả miệng mình táp cái cục cơm. Đó là mấy cái ông ngỗ nghịch chơi vậy đó. Thật sự ra tu hành, cái đó là những cái oai nghi nó không có, nhưng mà làm cái trò chơi cho thiên hạ thấy: “Tui liệng nắm cơm nào miệng tôi bắt cũng được hết! Cái miệng tui hay lắm, liệng qua bên nây nó cũng nhảy qua bên nây nó bắt.”

40. Ăn cơm không được rơi đổ.

Nghĩa là ăn cơm không có được đổ hột cơm này, hột cơm kia.

41. Không được búng má mà ăn.

Có nhiều người ăn theo khỉ, nhai rồi độn bên đây một cục, rồi nhai bên đây độn bên đây một cục, lấy cái tay khỏ bên đây văng để nhai ăn, giống như khỉ! Thì mấy cái ông mà khỉ thì ổng hay làm diễn chơi cho người ta cười chơi vậy, chớ không phải là ai mà ăn cơm gì kỳ vậy!

Mình đâu phải khỉ, nhưng mà điều kiện là ngồi ăn rồi làm cho người ta cười rộ lên đó, mấy ông mà cái tướng khỉ hay làm vậy. Cho nên vì vậy mới có mà chế cái giới này ra, chắc hồi đó mấy ông này cũng không thua gì đời nay đâu.

42. Không được nhai đồ ăn ra tiếng mà ăn.

43. Không được ăn cơm lua húp lớn tiếng.

Nghĩa là mình húp rột rột rột đó, kêu là húp canh á, cho nên cấm cũng không có được.

44. Không được le lưỡi mà liếm món ăn.

Làm quá rắn mối!

45. Không được rảy tay mà ăn.

46. Không được nhặt cơm rơi mà ăn.

Nghĩa là cơm rớt vậy cũng cấm không cho. Theo Thầy thấy, cơm đổ mình lượm mình ăn cũng được, có gì đâu mà lại cấm không biết? Cái này cấm sao kỳ vậy, bộ sợ mình ăn dơ hay sao?

Nghĩa là chỗ cơm đổ mà dơ bẩn như sàn nước đồ, thì cấm không có cho lượm ăm thì được. Chớ trên mâm cơm mình lỡ mình rớt thì mình lượm lên mình ăn, có gì đâu mà phải bỏ?

47. Không được tay dơ cầm bát đựng thức ăn.

Cái tay ở đây khi mình ăn cơm thì mình phải rửa tay, vì cái người tu sĩ trong cái thời Đức Phật có cái bát mà không có muỗng thì họ ăn cơm bằng bốc, cho nên trước khi ăn cơm là họ rửa tay hết rồi họ mới ăn cơm.

2.4- VỀ HỘ BÁT

(31:47) Về phần thứ tư:

IV. Nói về hộ bát (Giới 48)

48. Không được rửa bát, đổ bát vào nhà cư sĩ.

Nghĩa là khi mình ăn cơm rồi cái bát của mình rửa, thì mình coi cái chỗ nào đổ cho nó đàng hoàng, chớ không phải hắt vô trong nhà người ta. Cái bát mình ăn cơm, mình rửa, mình về nhà người ta mình muốn đổ chỗ nào đổ, không có được. Cho nên có nhiều người không biết cái chỗ đổ, đổ bậy, về cái nền nhà của người ta đổ, nó dơ bẩn.

2.5- VỀ ĐẠI TIỂU TIỆN, KHẠC NHỔ

(32:18) Về cái phần thứ năm là phần:

V. Đại tiểu tiện, khạc nhổ (Giới này có từ 49 đến 51)

49. Không được đại, tiểu tiện, hỉ, nhổ trên rau cỏ tươi, trừ khi có bệnh.

Có bệnh cũng không được, bệnh càng là tránh ở trên rau nữa! Bệnh mà đi tiểu tiện ở trên đó rồi làm sao mà người ta cắt rau người ta ăn được? Do đó thì ở đây cái giới này thì Thầy nói, trừ bệnh mới có nhổ, hay khạc, hay tiểu tiện ở trên rau thì cái điều đó không có được.

Ở đây thì hoàn toàn là những cái người tu sĩ thì không có được: Thứ nhất là không có được đại tiểu tiện ở trên rau; không được nhổ nước miếng hay nhổ đờm nhớt ở trên cỏ tươi và trên rau, người bệnh cũng vậy mà người mạnh cũng vậy, cấm như vậy là đúng.

Còn cái này trừ khi người có bệnh thì khạc nhổ đâu cũng được! Người có bệnh cho họ khạc nhổ bậy họ khạc tùm lum ra nữa, còn bẩn thỉu nữa, cho nên ở đây cấm hết thì mới đúng.

50. Không được đại, tiểu tiện, hỉ, nhổ trong dòng nước, trừ khi có bệnh.

Trừ khi có bệnh mình nhổ trong dòng nước, rồi tới dòng nước mình nhổ ở đây, xuống kia người ta múc người ta nấu cơm thì sao? Nhất là ở sông, thì chúng ta thấy cấm luôn, mấy ông này không có cho bệnh mà nhổ bậy bạ đâu, nhổ trong lon đồ này kia rồi đem chôn hay hoặc là đem đốt đi thì nó mới là sạch sẽ, đó là mới có vệ sinh.

51. Không được đứng tiểu tiện, trừ khi có bệnh.

Không có được! Bởi vì chúng ta mặc cái chăn, làm sao mà đứng được? Nói tầm bậy tầm bạ, ở đây không có được. Bây giờ bệnh cũng không được nữa, bệnh cũng phải ngồi chớ còn không có đứng được. Cho nên cấm hết, người nào cũng phải ngồi hết.

2.6- TÁC PHONG THUYẾT PHÁP

(33:51) Về phần thứ sáu:

VI. Tác phong thuyết pháp (Từ giới 52 cho đến 59, 86, 92 cho đến 96, 100)

52. Không được thuyết pháp cho người vắt trái áo lên vai không cung kính, trừ khi họ có bệnh.

Cũng không được, cái người bệnh, người gì cũng vậy, không có được. Khi mà họ nghe thuyết pháp họ phải - áo mặc phải đàng hoàng chớ không được hở vai hở cổ mà nghe thuyết pháp.

Thầy không chấp nhận ở chỗ này, nói trừ khi họ bệnh thì họ được để vai, để hở cổ họ ngồi nghe thuyết pháp, thì Thầy không chấp nhận điều đó. Nghĩa là người bệnh cũng như người mạnh là phải mặc áo đàng hoàng mới nghe thuyết pháp.

53. Không được vì người vấn áo trên cổ mà thuyết pháp, trừ khi họ bị bệnh.

Nghĩa là cái người mà họ lấy cái áo mà họ vấn trong cổ họ mà bảo mình thuyết pháp cho họ nghe, nhất định…​ Bây giờ các con ngồi đây mà nghe Thầy thuyết pháp nè, có người nào lấy cái áo hay hoặc cái gì vấn cổ mà ngồi nghe thuyết pháp thì Thầy không thuyết pháp đâu. Đó là cái người mà biết thuyết pháp thì người ta không thuyết pháp.

Mà cái người bệnh mà bây giờ họ lạnh quá, rồi bây giờ họ lấy cái áo họ vấn cổ họ thêm, thì họ ngồi nghe thuyết pháp thì Thầy cũng chẳng có chấp nhận nữa.

Bởi vì Pháp Bảo chớ không phải là cái thứ thường. Mình muốn nghe nó thì mình phải nghe như thế nào để đúng cái lòng tôn kính của nó, chớ mình nghe cái kiểu mà mình coi nó thường quá thì không nên nghe.

54. Không được vì người che trên đầu mà thuyết pháp, trừ khi họ có bệnh.

Nghĩa là che trên đầu làm sao? Khi mà ngồi nghe thuyết pháp mà đội nón, đội này kia đồ đó, hay hoặc là đội dù đồ để mà nghe thuyết pháp thì không được.

55. Không được vì người trùm bọc trên đầu mà thuyết pháp, trừ ra họ có bệnh.

Nghĩa là cái người mà lấy khăn lấy nón hay này kia mà trùm cái đầu họ lại, mà họ ngồi họ nghe mình thuyết pháp thì nhất định - có những người ngồi mà nghe thuyết pháp như vậy thì mình không thuyết pháp.

56. Không được vì người chống nạnh mà thuyết pháp.

Có người nghe mình thuyết pháp mà chống nạnh đứng cũng như là ló con mắt mà ngó mình vậy đó, thì nhất định là không thuyết pháp.

57. Không được vì người mang dép da mà thuyết pháp.

Thấy ai mà mang dép da thì mình cũng không có thuyết pháp. Bởi vì người đó nó không đi vào trong cái thiện pháp, nó còn cái ác pháp mà mình nói thì họ chẳng có làm theo đâu.

(36:05) 58. Không được vì người mang guốc gỗ mà thuyết pháp.

Ở đây sao mà guốc gỗ cũng cấm luôn? Nghĩa là nói chung là phải bỏ guốc bỏ dép mới được, còn mang dép mang giày mà ngồi nghe thuyết pháp thì không được.

Chẳng hạn là bây giờ vô rạp hát thì người ta mang giày, mang dép, mang guốc đồ đó, thì ở trên làm tuồng hát đồ này kia. Còn bây giờ người ta mời mình đến một cái pháp tọa để mình thuyết pháp, thì tất cả mọi người là chân trần thì mình thuyết pháp, mà còn người mang guốc mang dép là không thuyết pháp.

Có nghĩa là cái hạnh thuyết pháp đối với những người mà nghe thuyết pháp là phải lột trần cái chân họ ra thì mới có nghe thuyết pháp, mà họ còn mang dép mang giày thì không có được thuyết pháp cho họ nghe.

59. Không được vì người cưỡi ngựa mà thuyết pháp.

Có người ngồi trên ngựa người ta nghe mình thuyết pháp thì nhất định - thí dụ như bây giờ, ở đây là cái đạo tràng của chúng ta, Thầy đang thuyết pháp bên đây, có người cưỡi ngựa ở kia cái họ nghe Thầy nói cái họ dừng ngựa, họ ngồi trên ngựa, họ không thèm xuống, họ ngồi đó họ nghe Thầy thuyết pháp, thì như vậy ngay đó Thầy không thuyết pháp nữa, để cho họ cưỡi ngựa họ đi cho rồi đi, họ làm phách quá.

Phải không? Đó là cái giới nghe thuyết pháp mà có cái kiểu phách lối.

86. Không được vì người ngồi, mình đứng mà thuyết pháp.

Cái người ngồi thì nghe thuyết pháp, còn mình thuyết pháp là lại đứng thì nó không được. Cho nên cái giới 86 này thì không được

Bởi vì ở đây nó có nói mà, các con nói nè, nó từ 52 nè, rồi đến 59 nè, rồi 86 nè, 92 nè, rồi đến 96, 100 nè. Nó không phải mấy cái giới đó nó thuộc khác con, còn cái này nó hợp lại những cái giới này để mà nói về thuyết pháp không đó, còn mấy giới kia nó nằm ở trong những cái kẽ đó là nó nói về những cái giới khác đó.

Nhưng mà tại vì cái người mà chế giới này đó, họ hay xen giới này giới kia, vì vậy mà cái người viết ra, soạn ra thì họ rút lại, bây giờ nói về thuyết pháp, họ rút mấy cái giới này ra là giới thuyết pháp. Cho nên Thầy nói cái tên vậy nó theo cái số thứ tự thì nó không có đúng, nhưng mà nó về một cái loạt thuyết pháp.

Thay vì phải đánh từ số, thí dụ như bây giờ nói số 52 thì 53, 54, 55 phải không, rồi tới 57, 58, 59, chớ nó không phải là tám mươi, tám mấy được. Nhưng vì nó còn cái loạt mà ngồi thuyết pháp này kia đồ đó, thì nó tới 58, còn những cái năm mươi mấy đó thì nó lại là nói về cái giới khác rồi. Con hiểu không? Cho nên nó không phải đánh theo số thứ tự, mà bây giờ người ta đánh theo cái chỗ mà về cái thuyết pháp như thế nào đúng thế nào sai.

Đó, hiểu như vậy đó. Cho nên ở đây nếu mà mình cứ tính theo cái số thứ tự để tính tới 100 giới chúng học thì những cái giới đó, cái loại sau này nó thuộc về cái giới gì chớ không phải cái đó nữa. Ở đây hoàn toàn nói về thuyết pháp.

86. Không được vì người ngồi, mình đứng mà thuyết pháp.

Nghĩa là mình đứng mình nói pháp còn người ta ngồi người ta nghe thì nhất định là mình không làm điều đó.

87. Không được vì người nằm, mình ngồi mà thuyết pháp.

Người ta nằm ngửa ra mà mình ngồi đó mình nói, cũng như bây giờ các con nghe Thầy thuyết pháp đã rồi các con bặt gân xuống nằm đó ngủ hết mà Thầy cứ Thầy nói pháp hoài, thì cái chuyện đó thì thôi Thầy cũng nghỉ đi, đừng có nói! Vì mình thuyết riết người ta nghe cũng như là mình ru ngủ.

(39:12) 88. Không được vì người ngồi chính giữa, mình ngồi một bên mà thuyết pháp.

Thay vì như Thầy ngồi giữa đây Thầy thuyết pháp, còn bây giờ Thầy ngồi ở chỗ con Trang Thầy thuyết pháp còn các con ngồi ở giữa nè, thì cái đó là thôi cũng đừng có nên thuyết pháp. Bởi vì người ta ngồi giữa pháp tọa còn mình ngồi một bên mình thuyết pháp, thì coi như người ta hạ mình quá độ rồi, cho nên pháp mà đem bán như vậy thì không nên.

Bởi vậy những cái oai nghi tế hạnh này chúng ta phải nhớ rằng, có nhiều người họ không có biết pháp, biết cái oai nghi tế hạnh gì hết. Đến cái chỗ đám ma, rồi hai người đó mới bắt đầu đem ra, mới nói pháp với nhau rồi bắt đầu thuyết pháp, một số người đem xúm lại ngồi nghe hai ông này nói pháp.

Nhưng mà hai ông này cãi lý pháp với nhau chứ nói pháp khỉ họ! Cho nên họ xúm nghe pháp thì thật ra điều kiện đó là điều kiện sai. Trong cái đám ma của người ta chớ đâu phải là cái chỗ mình nói pháp.

Rồi có cái dịp nào đó đi đám cưới cũng xúm nhau mà đem thiền ra mà nói, thôi rống họng mà cãi nhau đủ thứ. Chà! Bao nhiêu người đến ngồi nghe thiền, mà trong khi đám cưới người ta chớ đâu phải là cái chỗ thuyết thiền đâu!

Các con thấy nó nhiều cái nó lạ lùng lắm, nó nhiều cái chuyện mà có thể - giữa cái đám tập hợp nào thì Thầy thấy hầu như là có những cái điều kiện mà họ thông những cái gì họ đem ra họ khoe khoang ở tại đó, dường như là họ muốn đem thuyết pháp vậy đó. Đó là những người háo danh.

Cho nên cái pháp nó không phải là cái chỗ như vậy để mà nói, thế mà thường xuyên nó hay xảy ra. Thậm chí như trèo lên xe hơi ngồi thôi đi đi cho im đi, không! Ngồi một hơi rồi hai ông này ngứa mồm với nhau cái đem Phật pháp ra mà bàn thôi, làm rùm ở trên cái xe hơi như là cái xe hơi thuyết pháp, chạy tới đâu nó thuyết pháp tới đó hết!

Đó là những cái sai, cái không đúng. Đâu có phải cái chỗ mình ngồi lên xe hơi mà thuyết pháp? Thế mà cứ thuyết pháp, mặc tình mà nói pháp. Đó là những cái sai, cái oai nghi nó không đúng. Cho nên ở đây nói về thuyết pháp thì phải nói rằng cái trường hợp đó rất nhiều.

Cho nên Thầy thấy hai ông cư sĩ trèo lên xe hơi cái bắt đầu họ nói pháp á. Họ nói là thiền này thiền kia, đủ thứ hết à, không có nói ít đâu. Mình ngồi mình nghe thấy phát mệt mà không biết pháp gì mà ở trên cái xe hơi này mà thuyết.

89. Không được vì người ngồi ở chỗ cao, mình ngồi chỗ thấp mà thuyết pháp.

90. Không được vì người đi ở trước, mình đi ở sau mà thuyết pháp.

91. Không được vì người đi kinh hành chỗ cao, mình đi kinh hành chỗ thấp mà thuyết pháp.

92. Không được vì người ở giữa đường, mình ngồi ở lề đường mà thuyết pháp.

96. Không được vì người cầm gậy không cung kính mà thuyết pháp.

97. Không được vì người cầm gươm mà thuyết pháp.

98. Không được vì người cầm giáo mà thuyết pháp.

Nghĩa là nói cái đó ý như thế nào? Người ta nói: "Ông không thuyết pháp tui chặt cái đầu ông, tui rút cái gươm đây, ông biết!" Do đó chết thì chết chớ không có thuyết pháp tầm bậy đâu, nói: “Tui không bán pháp, tui thà chết chớ tui không nói pháp với mấy người ác như mấy ông đâu!” Thì như vậy mình mới là người mà thuyết pháp.

Còn cái này, thấy ông ta hăm dọa, mình sợ quá, thôi để nói bậy cho nó qua đi không ổng chặt cái đầu mình đó. Cho nên mình sợ quá, thấy người cầm gươm, cầm dao, cầm mác mà bảo mình thuyết pháp thì mình thuyết pháp, đó là cái không đúng. Mình không có phải là cái người sợ hãi như vậy mà đem cái pháp để cứu mình như vậy, không có đúng cách.

Ở đây những cái giới đó tỏ ra mình cũng phải có cái uy lực của một vị pháp sư, của một vị thuyết pháp chớ không phải là lúc nào cũng sợ hãi người ta.

98. Không được vì người cầm giáo mà thuyết pháp.

99. Không được vì người cầm dao mà thuyết pháp.

100. Không được vì người cầm dù che mà thuyết pháp.

2.7- ĐỐI VỚI THÁP VÀ TƯỢNG PHẬT

(42:35) Về phần thứ bảy:

VII. Đối với tháp và tượng Phật (Giới từ 60 đến 85)

60. Không được ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ ra là mình giữ gìn cái tháp đó.

Nghĩa là chỗ tháp thờ Phật thì con người mình không có ngủ ở trong đó, trừ ra mình là người giữ tháp thì mình có thể ngủ, còn hoàn toàn mình là người cư sĩ hoặc là mọi người, không có được ngủ ở trong cái tháp.

Cũng như bây giờ đây là cái chỗ mình thờ Phật, thì cái người tu sĩ cũng như cái người mà sĩ không có được mượn cái chỗ này để tối ngủ, không có được. Ngủ thì có nhà khách, có cái phòng riêng, có cái thất của mình mình ngủ, chớ không thấy: “Bây giờ cái chùa này trống quá, thôi cho tui mượn ngủ đỡ” thì như vậy là nó thiếu cái oai nghi.

Bởi vì cái chỗ thờ Phật là cái chỗ trang nghiêm, mình ngủ thì không có nên. Bởi vì đối với con người của mình nó rất là bất tịnh, mà cái chỗ thờ thì nó phải thanh tịnh.

Cho nên thí dụ như cái chùa hay hoặc là cái tháp thờ Phật, hay hoặc là cái nơi thờ Tổ, tất cả những cái điều đó thì con người không có được nên ngủ ở đó, mà hãy tìm cái chỗ khác ngủ chớ không được ngủ ở đó.

Nhiều khi Thầy thấy những cái dịp lễ này kia đồ đó, mà ở trong các cái tu viện Phật tử đến đông đó, họ không có chỗ ngủ, rồi họ cũng trải giường trải chiếu dưới cái ở chỗ thờ Phật họ ngủ la ngủ liệt ở chỗ thờ Phật, Thầy thấy, như trong giới luật này cấm như vậy là Thầy thấy không có nên ngủ rồi, ngủ như vậy là không đúng cách.

Thì qua những cái giới hạnh như vậy thì chúng ta biết rằng là trong cái chỗ mà ngủ nghỉ trong chùa nơi thờ Phật, trong tháp mà nơi thờ Phật thì không được ngủ. Mà hầu hết là những cái này người ta không có hiểu, cho nên các cư sĩ khi đến chùa để buổi sáng làm lễ hay gì đó rồi ở lại ngủ ở trong chùa, ngủ ở chỗ thờ Phật, chớ đâu làm sao mà có cái chỗ nào ngủ mà rộng như ở chỗ thờ Phật?

63. Không được cầm dép da vào trong tháp.

Nghĩa là những cái chất mà bằng da, bằng cái loại da thú đồ đó, hoặc là mặc cái áo mà có da lông đồ đó cho ấm mà đi vào ở trong những cái tháp, cái nơi thờ Phật thì không có nên. Nhất là mang dép da hoặc là mặc cái áo lạnh mà có những cái da của nó mà nó kết làm cái cổ áo, hay hoặc là cái da nó mặc cho ấm thân chúng ta, thì khi mà vào nơi thờ Phật, tháp thì chúng ta không có nên mặc những cái đồ đó.

64. Không được mang dép da đi nhiễu quanh tháp Phật, cũng như không được mặc áo hồ cầu.

Da con chồn đó mà làm cái áo lạnh mà chúng ta mặc đi vào những cái nơi thờ Phật, vào những cái tháp thì không có được

65. Không được mang giày bố bọc gót vào tháp Phật.

Nghĩa là không có được mang giày hay hoặc là dép mà mình đi vào trong cái chỗ mà thờ Phật, cũng như vào chùa mình phải bỏ dép ở ngoài, chớ không được mang dép đi luôn ở trong này thì không được. Đó là ý của cái giới 65 này.

(45:31) Cái giới 66:

66. Không được cầm giày bố bọc gót vào tháp Phật.

Nghĩa là cái kia mang giày thì vô không được, còn cái này mình xách giày, mình sợ để ngoài chúng lấy đi, mình xách đi vòng vòng ở trong chùa này chơi, mà xách luôn cả đôi giày mình đi luôn, thì biết đâu chừng cái đôi giày nó đạp những cái bất tịnh rồi mình xách làm nó hôi thối ở trong cái chỗ thờ Phật, cho nên cái giới này muốn cấm là mình tránh cái sự bất tịnh.

67. Ngồi ăn dưới tháp Phật không được xả rác làm dơ đất.

Nghĩa làm mình ngồi ở dưới cái tháp Phật mình ăn, thì cũng như bây giờ mình vô đây để mình ăn nè, mình ăn rồi thì mình đừng có bỏ lá bỏ cơm bỏ đồ này kia vung vãi ở đây, mà mình ăn rồi đâu mình phải dọn dẹp cho sạch sẽ, đừng có để chỗ thờ Phật nó dơ bẩn.

68. Không được khiêng thây chết đi ngang qua tháp.

Nghĩa là người ta tránh khiêng cái thây ma chết đi ngang qua tháp là nó sẽ hôi thúi cái nơi mà thờ Phật.

69. Không được ở dưới tháp chôn thây ma.

Nghĩa là sợ chôn thây ma cái hơi thúi nó bốc lên, nơi cái tháp nó bị mùi hôi thúi chỗ thờ Phật, không tốt.

70. Không được ở dưới tháp đốt thây ma.

Đốt cái thây ma mà ở dưới thì nó bay cái mùi khét, nó làm cho cái nơi thờ Phật không có được tốt.

71. Không được ở trên, ở trước tháp đốt thây ma.

Nghĩa là ở bên nây hoặc bên kia, ở phía trên phía dưới không được đốt thây ma, vì đốt cái mùi hôi, cái mùi khét của cái thây ma nó cháy, nó làm cho hôi cái chỗ thờ Phật.

72. Không được bốn phía tháp Phật đốt thây chết, để hơi hôi thối bay vào tháp.

73. Không được mang áo và giường người chết từ dưới tháp đi ngang qua, trừ khi giặt, nhuộm, xông hương.

Nghĩa là những cái áo, giường của người chết nó còn những cái bệnh tật, nó còn những cái mùi hôi thúi, thì không được khiêng những cái giường mà chưa có giặt, chưa có sự sạch sẽ mà khiêng đi ngang qua tháp nơi mà thờ Phật, thì mình làm như vậy là nó thiếu những cái oai nghi, nó không có tốt.

(47:36) 74. Không được dưới tháp Phật đại tiểu tiện.

Nghĩa là ở phía dưới tháp Phật cũng không được đại tiểu tiện, mà trên cũng không được, mà bên hông, bên nây cũng không được, bên kia cũng không được, tất cả mọi bên đều là không được đại tiểu tiện, vì đại tiểu tiện nó sẽ hôi thúi chỗ nơi thờ Phật, nó không tốt.

77. Không được mang ảnh, tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện.

Nghĩa là cái hình ảnh của Phật, cái tượng Phật, cái chỗ mà như là phòng tiêu, phòng tiểu, đừng có mang vô trong đó, mang vô trong đó không có được.

78. Không được ở dưới tháp Phật nhăn cành dương (xỉa răng).

Nghĩa là không có được lấy cái tăm mà xỉa răng của mình đó, nhăn nhăn đó. Tức là mình vào tháp Phật thì đừng có ngậm kẹo, nhai hay hoặc là nhăn cái tăm xỉa răng, hoặc là nhai nhai hột như là hột dưa hay hột bí, vừa ăn mà vừa vô tháp như vậy đó, thì cấm.

Cái điều kiện mà đến tháp Phật thì cái miệng phải sạch sẽ, không có được ngậm cái kẹo hoặc là nhăn cái tăm xỉa răng, hoặc là nhai một cái vật gì trong miệng, cấm bặt cái điều đó.

79. Không được ở trước tháp Phật nhăn cành dương.

80. Không được bốn phía tháp Phật nhăn cành dương.

81. Không được ở dưới tháp Phật hỉ mũi, khạc nhổ.

82. Không được trước tháp Phật hỉ mũi, khạc nhổ.

83. Không được bốn phía tháp Phật hỉ mũi, khạc nhổ.

84. Không được ngồi duỗi chân ở trước tháp Phật.

85. Không được để tháp nhỏ ở phòng thấp xấu, mình ở phòng cao tốt.

2.8- TÁC PHONG ĐI ĐƯỜNG

(49:18) Về phần:

VIII. Tác phong đi đường (Giới 93)

93. Không được nắm tay nhau đi giữa đường.

Nghĩa là đi hai người không được nắm tay nhau mà đi giữa đường song song như vậy, hoặc là đi hai người song song ở trên đường thì không được, nắm tay nhau cũng không được, đi song song nhau cũng không được. Đó là cái giới 93.

2.9- VỀ VIỆC LEO CÂY

(49:40) Về phần thứ chín:

IX. Việc leo cây (Giới 94)

94. Không được ở cây cao quá đầu người, trừ khi có nhân duyên.

Tránh ác thú, hoặc là có những điều kiện gì đó, mình hái trái cây này kia thì nó có thể được, chớ còn leo chơi ở trên đó thì không có được. Có những cái phận sự thì có thể được, hoặc là tránh ác thú như cọp beo thì mình trèo trên cây được, chớ còn không có khi không mà trèo cây chơi giỡn thì không có được.

2.10- VỀ VIỆC CẦM TÍCH TRƯỢNG

(50:08) Về phần thứ 10:

X. Việc cầm tích trượng (Giới 95)

95. Không được túi đan đựng bát xâu đầu gậy vác trên vai mà đi.

Nghĩa là mình làm một cái túi hoặc cái bao vầy, rồi xỏ cái cây vầy, rồi mặc cái y vầy mà quảy đi cũng như là mấy cái ông nông dân mà quảy cái gì đi vậy đó, thì cái vị tu sĩ không có được. Do đó người ta có một cái túi người ta bỏ ở trong cái y người ta choàng kín vầy người ta bỏ trong đó, người ta bỏ đồ người ta đi.

Không có làm một cái cây xỏ một cái túi hay một cái bao gì đó đựng đầy đồ, như Thầy thấy quý thầy ở đây khi đi, Thầy thấy làm hai cái cây đòn gánh cụt cụt vầy, rồi sau này lấy cái bao ni lông đó mới dồn quần áo hay hoặc là mền gối gì đó, một bao kinh sách gì đó rồi cột cái miệng, rồi xỏ vô vầy để lên quảy, làm như một cái ông nông dân mà quảy cái gì đi vậy. Mà là cái ông thầy chùa mà quảy coi kì lắm!

Cho nên đó là không có đúng cái oai nghi tế hạnh. Cho nên chúng ta nên lấy cái này - mà Thầy thấy hầu hết là các thầy đều bị cái này, cho nên vì vậy mà ở đây có quý thầy mà đi, như thầy Từ Minh ở đây, Thầy thấy khi mà đi thầy làm một bao rồi thầy xỏ thầy quảy đi, Thầy thấy làm kì quá. Đó là không giống những cái oai nghi tế hạnh.

Cho nên sau khi mà chúng ta học xong 100 giới chúng học rồi, chúng ta thấy những cái oai nghi này, sau này chúng ta phải cố gắng.

Thí dụ như chúng ta mặc cái y này thì nó không nói gì, là vì cái y này nó rộng rãi cho nên chúng ta vấn nó thì chúng ta thấy chúng ta nắm ở trên tay vầy, thì nó có cái mối đây thì ở bên đây nó phủ kín cái tay của chúng ta lại hết, thì ở trong đó chúng ta để cái túi, cái túi đó đựng cái bát hay hoặc đựng cái gì trong này, hoàn toàn như là chúng ta không có một cái vật gì hết.

Vì thấy đi như ông sư mà thấy nó đi bùm xùm như vầy chớ còn không thấy cái vật gì mà ở ngoài ông ta mang hết à, không có cái vật gì mà ở ngoài mà xách thêm cái sách hay cái này kia nữa, chỉ gọn ghẽ như như ông ta nắm có cái y mà vấn nắm ở trên tay vậy thôi, không có cái vật gì nữa hết.

Còn bây giờ mà thêm cái bao hay cái túi gì mà quảy nữa thì mặc cái y này thì quảy coi không được. Còn hầu hết là các con thấy là như quý thầy mặc cái áo tràng, như mọi lần cái áo tràng mà bữa Thầy đi thành phố Thầy mặc áo tràng đó, mấy ổng mặc cái áo tràng đó mấy ổng quảy một quảy ở trên vai nữa, thì Thầy thấy nó cũng không có đúng cách.

Cho nên do đó mà quý thầy thường thường hay làm cái túi như thế này nhỏ nhỏ vầy, mới bỏ ba y của mình mới nhét trong này, hay hoặc là giấy tờ hay hoặc là những tiền bạc gì trong cái túi đó nhỏ nhỏ vầy, có khi mà thêu hoa sen đồ đó, làm cũng là đẹp đẽ lắm, nhưng mà cái đó là cái sai, nó không đúng.

Cho nên hầu hết là có một số Phật tử cũng mua gởi về cúng dường Thầy những cái túi mà có thêu những cái bông sen, có thêu những cành hoa sen đó, Thầy hoàn toàn Thầy ít có xài những cái đồ đó.

Đi đâu thường thường - các con thấy vừa rồi Thầy đi thành phố hai lần, ba lần rồi, đi đâu Thầy hai bàn tay không, Thầy không mang cái túi gì theo hết à, tới đâu thì mình sử dụng tới đó chớ còn không cần mang túi mang gì hết. Đó là những cái điều kiện mà nó rảnh rang, nó không có bị dính mắc ở trong cái túi đựng cái này cái kia.

3- GIẢI QUYẾT SỰ TRANH CHẤP BẰNG PHÁP DIỆT TRÁCH

(53:18) 8) Kiết giới Thất Diệt Tránh.

Ở đây chúng ta tiếp tục để cho nó - sắp hết những cái giới bổn để mà tiến qua cái giới hành để qua những cái giai đoạn tu tập của chúng ta còn rất nhiều, cho nên Thầy cố gắng, vì còn có mười mấy bữa nữa, ráng cho hết, rồi đồng thời Thầy còn nhắc lại những cái điều rất quan trọng để sau khi kết luận cái giáo án cho nó được đầy đủ và trọn vẹn cái bước đường tu tập của mình, của đạo Phật sau này.

Trong chúng Tỳ Kheo có bốn tránh sự khởi lên:

1. Ngôn trách: Tranh cãi nhau dẫn đến các việc pháp, phi pháp cho đến thuyết, bất thuyết, hai bên đấu tranh nhau như thế nào.

Đó là cái phần thứ nhất là cái ngôn tránh. Chúng ta tránh cái lời nói, đừng có để cho nó cãi nhau thế này thế khác. Vì cãi nhau nó làm cho chúng ta có những sự bất an khó mà tu hành, cho nên chúng ta phải cố gắng tránh những cái điều này.

2. Mích tránh: Xích mích nhau mà tranh chấp về sự phá giới, phá kiến, phá oai nghi, cùng nhau tìm tội như vậy.

Thì chúng ta - cái phần thứ hai này là mích tránh. “Mích” tức là xích mích, giận hờn với nhau rồi tranh chấp với nhau, rồi mới có những cái sự mà xảy ra làm cho thù hận nhau, thì phải tránh cái điều thứ hai này.

Điều thứ ba là:

3. Phạm tránh: Tức là phạm bảy tội, tranh cãi nhau về Ba La Di, Tăng Tàn, Đơn Đọa, Hối Quá, Thâu Lan Giá, Ác Tác, Ác Thuyết.

Tất cả những sự này, hầu như là trong cái thời mà của các tổ chế giới này nó có sự tranh cãi, cho nên các ngài mới thấy nó tranh cãi trong mấy cái giới này: “Anh đặt như vậy không có được, tui không có đồng ý! Anh đặt cái giới này không có đúng, anh đưa cái giới này là Tăng Tàn hay là Ba La Di như thế này tui không đồng ý!” Cho nên họ có cái chuyện trách với nhau ở trong những cái chế giới.

(55:25) Cho nên ở đây mà chế cái này ra là chúng ta ta biết rằng ngày xưa các tổ mà làm giới ra, chế giới ra, họ thường là tranh với nhau, tranh cãi với nhau: “Anh cho là cái pháp này nó Đơn Đọa như vậy, cái pháp kia là Hối Quá như vậy, tui thấy tui không đồng ý. Cái pháp này phải xử vầy, cái pháp kia phải xử vầy, chớ còn làm vậy không được!”

Còn nếu mà Phật đặt ra rồi thì mấy ổng đâu có sửa làm chi cái này? Cho nên đâu có cái pháp này gọi là Phạm trách đâu? Đó thì do cái chỗ sơ suất của họ mà họ phải đặt cái giới này ra để cho cấm cái miệng mấy người, mấy người không có cãi được: “Tui đặt ra như vậy thì mấy người phải nghe chớ không có cãi, đây là cái phạm tránh này, mấy người cãi tức là phạm tránh!”

Đó là mấy ổng cũng khôn khéo để bịt miệng mấy cái ông kia lại để mấy ổng nói rằng: “Anh làm cái giới này, anh cho như vậy không có đúng. Giới Tăng Tàn mà thêm cái này thì tui thấy không được, cái này là thuộc về Ba La Di chớ không phải Tăng Tàn!” Do đó cãi qua cãi lại, cho nên ổng đặt ra cái này để cấm miệng mấy ông kia không có cãi nữa.

4. Sự tránh: Cách xử lí của ngôn tránh, mích tránh và phạm tránh.

Nghĩa là sự tránh này là cách xử lý của những cái cãi cọ này để đừng có cãi cọ nữa.

(56:28) Khi nào có sự tranh cãi nổi lên thì phải dùng bảy pháp này, tức là bảy nguyên nhân định luật đúng như pháp, như luật, như Phật sở giáo mà diệt trừ sự xáo trộn, dập tắt cả hai phía cá nhân và tập thể.

Pháp Thất Diệt Tránh này nên hiểu là sự phán quyết về một vụ án do tăng xử trị các trường hợp phạm luật, bao trùm cả phạm vi cá nhân và phạm vi của tập thể, coi như những nguyên tắc pháp chế của tòa án Phật giáo phải tuân theo để cho phù hợp với công bằng và lẽ phải.

Dù chưa hề có việc thiết lập một pháp đình tôn giáo giữa tăng già, xưa nay mỗi khi có tránh sự cần dập tắt thì chư tăng mới tập hợp để phán xét, chẳng khác gì một tòa án lâm thời vậy.

(57:23) Theo luật tạng, bảy nguyên tắc diệt tránh này được quy định do bởi từng dữ kiện khác nhau, nhưng theo Trung A Hàm thì chúng được Phật quy định một lần do sự thỉnh cầu của Tôn giả A Nan.

Nguyên do là Ni Kiền Tử vừa tạ thế, các đệ tử của ông cả tại gia và xuất gia lập tức bị phân hóa, họ tranh chấp nhau, thậm chí đi đến tình trạng ẩu đả nhau vì bất đồng quan điểm đối với các điều giáo lý mà tôn sư của họ để lại. Tin tức này đồn đến giữa các Tỳ Kheo. A Nan hay được, lo sợ cho chúng Tỳ Kheo sau khi Đức Phật nhập diệt có thể xảy ra tình trạng như vậy, nên nhân đấy mà bạch Phật.

Các nguyên tắc sống chung giữa các Tỳ Kheo và thảng hoặc nếu có trách sự khởi lên phải tùy trường hợp thích đáng mà giải quyết bằng một trong bảy pháp Diệt Tránh. Các bộ luật đều nhắc lại những trường hợp đã dẫn từ các giới trước duyên khởi theo tường thuật chung như sau:

Thật sự thì ra ở trong kinh A Hàm Thầy có đọc ở chỗ này. Khi một cái vị lãnh đạo ngoại đạo Ni Kiền Tử, ông ta là cái vị lãnh đạo, ổng chết đi, do đó cái chúng Ni Kiền Tử đó họ mới tranh nhau thế này thế khác, làm cho nó náo động. Do đó các vị Tỳ Kheo nhất là ông A Nan sợ chúng Tỳ Kheo của mình sau khi Đức Phật chết đi rồi thì không có làm sao mà giải hòa được, cho nên ông A Nan mới trình Phật.

Phật có dạy cho mình là có sáu cái Lục Hòa, cách thức đó mà nương theo mà hòa hợp với nhau sống, rồi Đức Phật dạy cho mình cách thức để mà mình sống như thế nào để cho đúng, thì đó là những cái giới kinh, nó rất là đúng đắn, chớ nó không phải là chế như ở trong cái giới bổn này.

Mà đọc trong bài kinh đó Thầy thấy Đức Phật rõ ràng là người biết ngừa hết cái sự kiện xảy ra, các tu sĩ mới hỏi Phật thì Đức Phật nói: “Ta đã dạy Lục Hòa rồi, có gì đâu mà tranh chấp nữa? Do theo đó mà chúng ta hòa hợp với nhau, sáu cái hòa hợp đó là đúng rồi, đâu còn cái gì mà hỏi!” Nhưng mà ông A Nan ổng nói sợ lo lắng về sau, thì Đức Phật cũng đã xác định như vậy, và đồng thời mới chỉ dạy cho ông cách thức mà cư xử như thế nào.

(59:38) Nhưng mà người sau này thì họ cũng có dựa vào những cái bài kinh đó mà họ không thấy Lục Hòa là cái căn bản của đạo Phật rồi. Muốn hòa hợp thì mình phải sống Lục Hòa rồi, nghĩa là kiến hòa đồng giải.

Kiến hòa đồng giải không có nghĩa lấy một cái ý kiến của mình, mình hiểu gì đó mình dạy cho người ta, mình làm thầy cho người ta, mà mình lấy ý kiến của người ta mà mình làm ý kiến của mình thì nó hòa hết, có cái gì đâu?

Còn mấy ông Ni Kiền Tử này họ lấy ý kiến của ổng làm cha người ta mà đè người ta xuống thì người ta phải tranh chớ, người ta phải cãi ổng: “Ông nói ông đúng chớ ông làm sao ông đúng được?” Còn mình chấp nhận mọi ý kiến của người ta đúng thì làm sao có sự tranh cãi?

Cho nên trong Lục Hòa Đức Phật đã xác định: “Đã đủ cho các ông hòa hợp rồi, các ông còn hỏi gì nữa?” Các con thấy không? Cái Lục Hòa nó đã đủ rồi, thế mà chúng ta không lấy Lục Hòa còn đi sợ hãi, còn đi thấy cái đám này, do lấy cái chỗ này mà gạnh ra, chế làm bảy cái pháp Thất Diệt Tránh này thì Thầy thấy thì nó cũng bằng thừa, đâu có gì. Mà cái này đem ra xử sự nó có gì hay đâu?

Đọc rồi mấy con thấy nè, nào là ngôn tránh nè - mình tránh cái sự nói qua lại, tại cái ý của mình mình mới cãi chớ ý của người ta mình chấp nhận thì làm sao có cãi mà ngôn tránh?

Còn mình làm sao mà mích tránh đâu, mình có gì xích mích người ta đâu, ai làm gì thì mình cứ tùy thuận theo họ thì làm gì xích mích được, sáu cái Lục Hòa nó đủ rồi thì có gì mà xích mích? Rồi cái phạm tránh, làm sao mà phạm tránh được nữa?

Tất cả những cái này đặt ra nó không có bằng cái Lục Hòa của Đức Phật hết. Xem qua chúng ta thấy không bằng ông Phật đặt sáu cái hòa hợp, từ cái thân cho đến cái ý, cái khẩu hòa chúng ta cho đến thân hòa đồng tụ như thế nào, Đức Phật đã dạy chúng ta lợi hòa đồng quân như thế nào, thì còn cái gì mà ai còn tranh hơn? Cái gì mình cũng chia đồng đều nhau ăn, có người nào hơn người nào đâu mà tranh?

Các con thấy Lục Hòa của Phật đã tuyệt diệu để làm cho cái Tăng đoàn chúng ta sống rất hòa hợp rồi. Chớ phải chi như Ni Kiền Tử là ông thầy đó chẳng biết chế cái Lục Hòa nào hết cho nên nó mới cãi cọ nhau là phải. Còn ông Phật ổng đã chế cho chúng ta Lục Hòa rồi, mà bây giờ còn hỏi gì nữa? Đây là muốn gạnh ra một cái câu này để chế ra một cái giới mà nó không đúng.

Ở đây phải đặt Lục Hòa, Thầy thấy rất là tuyệt, bấy nhiêu đó là đủ rồi. Còn cái này không, lấy bảy cái giới Diệt Tránh, cái Thất Diệt Tránh này để mà làm cái chỗ giải quyết những cái bất hòa thì Thầy thấy không tuyệt bằng cái Lục Hòa. Vì Lục Hòa nó ngăn ngừa từ cái lúc đầu rồi, nó đâu còn tranh cãi nhau nữa!

4- BẢY GIỚI DIỆT TRÁCH

1) PHÉP HIỆN TIỀN TỲ NI DỨT SỰ TRANH CÃI

(01:01:55) 1. Phép hiện tiền tỳ ni dứt sự tranh cãi.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Phật ở tại nước Xá Vệ, Ca Lưu Đà Di tắm chung với nhóm sáu Tỳ Kheo, tắm xong lên bờ trước, Ca Lưu Đà Di mặc nhầm y của Lục Quần Tỳ Kheo mà đi. Sau đó Lục Quần Tỳ Kheo lên bờ không nhìn thấy y của mình nhưng thấy y của Ca Lưu Đà Di bỏ sót lại, họ cho rằng Tỳ Kheo ấy đã lấy cắp, do vậy họ tác pháp Yết Ma diệt tẫn đối với Tỳ Kheo cầm nhầm về tội Ba La Di.

Khi Ca Lưu Đà Di nhận biết đã mặc đồ người khác bèn trở lại chỗ tắm. Bấy giờ Lục Quần tác pháp vừa xong, bèn báo cho Tỳ Kheo cầm nhầm mà cho biết. Ca Lưu Đà Di biết rõ mình vô tội nhưng nghi ngờ về hiệu lực của Yết Ma mà sáu Tỳ Kheo vừa thực hiện xong. Ông đến bạch Phật, hỏi Phật. Ngài tuyên bố: “Yết Ma ấy là phi pháp vì đương sự không hiện diện” và nhân đó Phật kiết giới này.

Nguyên tắc diệt sự tranh cãi bằng hiện tiền tỳ ni, ai phát khởi lại thì phạm tội Đọa.

Cái câu chuyện đặt ra nó cũng vô lý là khi mà mấy người này cùng tắm với nhau thì ông kia ổng mặc đồ lộn. ổng đi lại trả thì mấy ông đó bộ trèo lên cái bờ đó rồi tập hợp với nhau là kiết giới liền à, làm pháp Yết Ma liền ở trên bờ, không có chịu về chùa. Coi nói có vô lý không?

Cho nên ông này đến thì mấy ông này kiết giới rồi, thôi bắt ông là thuộc về tội phạm Ba La Di: “Ông ăn cắp đồ tui rồi, tui kiết giới, tui họp Yết Ma tui kiết giới rồi.” Nói cái chuyện không có không à! Thầy nói đặt sao đặt cho có chớ mà đặt không có vầy thì viết ở trong này là làm giới luật làm gì đây? Nói cái chuyện không thành không à cũng nói được!

Đó thì các con thấy đọc ra nó rõ ràng như vậy đó, rồi bắt làm sao mà chúng ta tin cái giới bổn này là giới của chúng ta được hết.

2) PHÉP NHỚ NGHĨ DỨT SỰ TRANH CÃI

(01:03:51) 2. Phép nhớ nghĩ dứt sự tranh cãi.

Các con thấy những điều này hoàn toàn là dựa vào các pháp Yết Ma để kết tội người ta bằng cách là vô lý chớ không phải là có hữu lý. Còn bây giờ cái pháp Lục Hòa các con thấy, bắt đầu mình phải hòa cái gì, hòa cái gì, thân hòa, khẩu hòa, ý hòa đủ cách hết, làm sao mà có cái sự tranh cãi, làm sao có sự hơn thiệt?

Mà đạo Phật là một người có ý tứ, đâu có lý nào lên bờ nhắm mắt xách đồ người ta đi không biết, mặc vào cũng không biết nghe mồ hôi của người ta nữa, cái ông gì mà cái lỗ mũi gì mà không biết gì hết! Bộ cái lỗ mũi bộ nghẹt mũi rồi chớ không có gì, nên không có biết cái mùi cái áo quần của người ta.

Ai mà mặc lộn mà không biết cái áo? Không lẽ cái áo của Thầy, Thầy mặc mà Thầy không biết cái áo của mấy con sao mà mặc vô lộn? Đâu có cái lý kỳ cục vậy được, cho nên ở đây nói chuyện vô lý thiệt.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở tại thành Vương Xá, Đạp Bà Ma La Tử bị Tỳ Kheo Từ Địa vu khống về tội Ba La Di không căn cứ. Các Tỳ Kheo khác thường cật vấn Trưởng lão Ma La Tử. Ông bạch Phật.

Phật dạy kiết giới tác ức niệm tỳ ni, bạch Tứ Yết Ma để sau đó không Tỳ Kheo nào được phép cật vấn nữa, nếu tránh sự như pháp diệt rồi, sau ai phát khởi thì phạm tội Đọa.

Ở đây thì mình chỉ lấy cái pháp Yết Ma để đè nén người ta xuống đặng cho người ta đừng có tranh cãi, mà trong khi người ta tranh cãi mình coi cái đó là đúng hay là sai, cho người ta phải có sự mà nói có đúng không hay là vu khống người khác về tội gì đó. Còn đằng này làm cái pháp Yết Ma rồi cấm miệng người ta không có cho cãi, mà người nào cãi là bị tội, thì quá là độc tài vậy?

Thầy thấy giới luật của Phật mà chế ra kiểu này là độc tài rồi, không có còn cái chỗ nào mà khác nữa. Buộc người ta phải chết là chết chớ không có được mà cãi rằng: “Tôi không có tội đó mà giết tôi thì không được!”

3) PHÉP BẤT SI TỲ NI DỨT SỰ TRANH CÃI

(01:05:40) 3. Phép bất si tỳ ni dứt sự tranh cãi.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật cũng ở thành Vương Xá, Tỳ Kheo Nan Đề si cuồng, tâm loạn phạm nhiều tội lỗi. Sau ổn định tâm thần, đã hết bệnh rồi mà các Tỳ Kheo khác thường đến cật vấn các tội đã phạm trong lúc điên cuồng.

Để chấm dứt sự phiền nhiễu ấy, Phật kiết giới này khiến tăng tác pháp bất si tỳ ni cho Nan Đề, từ đó không Tỳ Kheo nào được phép nhắc nhở các việc phi pháp của Nan Đề trong lúc loạn trí, nếu sau ai phát khởi lại thì bị phạm tội Đọa.

Sự thật ra một cái người điên khùng mà bây giờ người ta hết điên khùng rồi thì người ta đâu có còn tội lỗi gì nữa? Mà những cái người tu sĩ đâu ai mà nhắc cái tội của người điên đâu, có bao giờ làm cái chuyện đó đâu? Thế mà ở đây cũng đặt ra một cái điều để mà chế ra thì Thầy thấy nó cũng là vô lý.

Một người mà tu theo đạo Phật, khi một người bạn của mình đã điên khùng, đã nói bậy nói bạ, nói không đúng, đó là phạm vào cái tội vọng ngữ, hoặc là có thể mà nói rằng ông vì điên khùng, ông không biết mà ông phạm vào cái tội sát sanh, thì những cái tội này là do cái sự điên khùng ông không biết, do đó sau khi ông mạnh rồi thì ai lại nhắc đi nhắc lại những cái điều mà ông đã làm? Cho nên làm cho ông buồn khổ hơn, thì như vậy đâu phải là người tu sĩ?

Cho nên những cái này, không thể nào người tu sĩ đi làm cái chuyện đó được hết. Thầy xét mình mà hiểu người khác chớ, trừ ra những người mà không tu thì mới đem cái chuyện đó mà chế nhạo người ta chơi, cười giỡn trên cái sự đau khổ của người ta, chớ còn cái người tu thì không ai làm cái điều đó hết.

4) PHÉP TỰ NÓI TỘI ĐỂ DỨT SỰ TRANH CÃI.

(01:07:18) 4. Phép tự nói tội để dứt sự tranh cãi.

Vì sao Phật kiết giới này?

Khi Đức Phật ở tại thành Chiêm Bà, vào ngày Bố Tát các Tỳ Kheo đã tập hợp đông đủ, ngồi xoay quanh để nghe Phật thuyết giới, nhưng có một người phạm tội ngồi chung trong chúng nên mãi nửa đêm Phật vẫn im lặng, không thuyết giới.

Sau ba lần thỉnh cầu của A Nan, Ngài nói: “Như Lai không thuyết giới khi giữa tăng có một Tỳ Kheo không thanh tịnh.” Nói xong Phật trở lại im lặng.

Tôn giả Mục Kiền Liên vận dụng Tha Tâm Thông quan sát khắp chúng, khám ra một Tỳ Kheo phạm tội mà che giấu, không phát lồ sám hối. Tôn giả dùng sức mạnh nắm tay lôi Tỳ Kheo ấy ra khỏi rồi trở lại bạch Phật. Nhân đó Phật kiết giới này, nêu nguyên tắc: “Không nên làm như vậy, phải khiến cho họ tự nhận tội mới trao tội cho họ.”

Tự nhận tội: Tự nói đã phạm tội vì để sám hối và tự trách tâm mình, sanh nhàm chán, mong thoát ly.

Ở đây thì các con thấy, câu chuyện này Thầy cũng có đọc ở trong kinh tạng A Hàm, thì câu chuyện này cũng có: Một hôm thì Đức Phật trong cái ngày thuyết giới để cho chư tăng nghe giới và để giữ gìn giới luật trong cái ngày 14, cái ngày mà người ta đọc kinh giới, đọc giới để mà người ta…​ Trong khi đó có một người mà không thanh tịnh giới.

Cho nên khi mà thuyết giới thì mọi người đều im lặng chờ cho Phật nói giới, thì Phật không có nói, rồi im lặng cho đến ba lần ông A Nan thưa thỉnh thì trong khi đó Đức Phật nói: “Có một người không thanh tịnh giới mà không chịu ra phát lồ cho nên Phật không thuyết giới.”

Do vì vậy đó mà ông Mục Kiền Liên mới dùng thần thông, mới quan sát mới thấy có một vị Tỳ Kheo phạm giới mà Phật không thuyết giới, do đó ông mới lôi cái tay cái vị này ra khỏi cái giới đoàn, rồi từ đó Phật mới thuyết pháp.

Thì cái câu chuyện nó như vậy. Nhưng mà sự thật ra thì theo Thầy thấy, một cái người mà đã phạm giới trong cái ngày đó thì họ phải đứng lên họ phát lồ ra họ nói. Mà họ không phát lồ nói, thì ít ra có những huynh đệ chúng ta biết cái người đó phạm thì mình xin đứng lên mình nói ra để chỉ ra cho cái người đó biết cái lỗi cho họ để họ xin sám hối để họ sửa.

(01:09:35) Thì đâu có lý nào mà để ngồi tới nửa đêm hay hoặc là tới gần sáng rồi mới lôi tay ông này ra, rồi chừng đó Đức Phật mới thuyết pháp, thì điều đó là một cái điều làm cho cả chúng mệt nhọc hết chớ đâu có cái gì mà tốt đẹp đâu?

Cho nên ở đây theo Thầy thiết nghĩ là khi mà họp như vậy trong cái ngày 14 mà để đọc giới đó, thì trước khi mà đọc giới thì những người nào mà có tội thì người ta đến người ta xin sám hối hết rồi. Mà bây giờ có một người mà họ có tội họ giấu, thì trong khi họ làm một cái tội gì, trong chúng chúng ta làm sao không biết, chớ đâu phải đợi ông Mục Kiền Liên phải dùng thần thông!

Thầy nói hồi sáng này chửi lộn thì bây giờ phải sám hối, mà hồi sáng chửi lộn bây giờ không có chịu sám hối thì tức là có người phải đến trình: "Bạch Đức Thế Tôn! Bây giờ trong chúng có hai người hồi sáng này đang có chửi lộn với nhau vậy mà không biết ai là người phải, ai là người quấy. Xin Đức Phật phán xét coi cái người nào phải và người nào có tội để cho người ta sám hối cho tiêu tội!”

Thì trong lúc đó kêu hai cái vị đó lên đây, bảo hai vị lên đây, vậy thì hai cái vị phải nói cái sự kiện nó xảy ra như thế nào cho Phật nghe coi, thì cái người này bắt đầu kêu ông A hay B, thầy A trình bày cho nghe coi sự kiện hồi sáng ra sao, rồi bắt đầu kêu cái ông thầy B cũng trình bày cho nghe, rồi kêu một cái người mà đã chứng kiến cái sự xảy ra để trình bày coi hai ông coi phải là nói đúng hay là sai.

Sau khi cái người kia trình bày xong rồi thì Đức Phật xác định rằng cái ông này nói như vậy là ông này lỗi nè, ông này không có lỗi nè, là do lấy cái người thứ ba này mình đã phán xét, thì việc đó mình xác nhận rồi, thì cái người này không có lỗi thì trở về cái vị trí cũ của mình mà ngồi nghe thuyết giới, còn cái người có lỗi thì phát lồ ra sám hối đi, để mà xin để mà ăn năn sám hối để cho ba nghiệp được thanh tịnh, thì như vậy là xong chớ có cái gì mà phải ngồi tới nửa đêm?

Thầy nói thiệt ra, ông Phật ổng điên gì mà ổng ngồi cho mệt mỏi như vậy? Chúng gì ngồi từ canh một mà cũng im lặng, rồi tới chừng mà ông A Nan nhắc ông Phật cũng làm thinh không nói nữa. Tới canh hai, canh ba cho đến gần sáng rồi Đức Phật mới nói có một người phạm giới bất tịnh, chừng đó ông Mục Kiền Liên lôi ra rồi mới bắt đầu thuyết giới.

Trời! Ngồi từ đầu hôm mà cho tới gần sáng, các con nghĩ mình ngồi đó chắc là Thầy ngồi riết cũng buồn ngủ, gục nữa chớ đừng nói! Chơi cái kiểu đó thì ông Phật ổng cũng gục mà Thầy cũng gục luôn chớ đừng có nói, chúng tăng đều là ngủ gục rồi mới được nghe ông Phật thuyết giảng.

Vô đầu hôm mà cho tới khuya, tới nửa đêm rồi tới sáng mà cứ ngồi đó, mà ba lần ông A Nan thỉnh Phật như vậy, thì Thầy thấy thiệt là vô lý, thiệt vô lý hết sức, không có cái chỗ nào mà nói!

Ở đây thật sự ra cái chuyện đó nó xảy ra, thì đọc cái bài kinh đó Thầy thấy nó không phải như vậy, Thầy phải hiểu qua một cái góc độ khác, là vì lúc bấy giờ đó, phải hiểu rằng muốn nói lên cái chỗ thần thông của ông Mục Kiền Liên để biểu diễn cái thần thông ổng biết được cái người phạm lỗi, chớ làm gì cái sự phạm lỗi mà ở trong chúng ta không biết được? Đâu có cái chuyện đó mà xảy ra mà không có - trong chúng đông mà làm sao giấu được.

5) PHÉP TÌM TỘI TƯỚNG ĐỂ DỨT SỰ TRANH CÃI

(01:12:31) Thứ năm:

5. Phép tìm tội tướng để dứt sự tranh cãi.

Vì sao Phật kiết giới này?

Lúc bấy giờ Phật ở tại Thích Xí Xấu, Tỳ Kheo Tượng Lực tánh ưa nghị luận cùng ngoại đạo tranh luận, khi nào đuối lý thì nói quanh, nói dối trá, trước sau nói ngược lại nhau. Các tu sĩ ngoại đạo chỉ trích.

Chúng Tỳ Kheo hay biết bèn hỏi Tượng Lực về sự thật. Tượng Lực chối quanh, nói dối với chư tăng. Các Tỳ Kheo bạch Phật, do đó Phật kiết giới này, bảo chúng Tỳ Kheo bạch Tứ Yết Ma tác pháp tìm tội tướng cho Tượng Lực: Tập tăng rồi cử tội, cử tội rồi tác ức niệm, tác ức niệm rồi trao tội.

Nghĩa là trong khi cái ông này ổng hay lý luận như vậy, cái người tu sĩ mà hay lý luận bằng cách này bằng cách kia, thì cái ông này mình thấy được thì mình cho ở, bởi vì đây thuộc về cái lý luận dối quanh bên nây bên kia thì những người này thuộc về tội vọng ngữ rồi, khép tội Ba La Di rồi đuổi ổng ra rồi, thì có đâu mà lại còn mất công lại phải nào là tác pháp Yết Ma, rồi kiết giới, rồi cử tội ổng, rồi trao tội ổng bằng cách…​

Chúng ta chỉ nhận ra ông này mà luôn luôn hay tranh luận với ngoại đạo hơn thua với ông ta, mặc dù ông có hơn đi nữa cũng đuổi ông nữa. Đạo Phật không có tranh luận với ai hết, thua người ta thì thua chớ không có tranh luận. Còn cái ông mà hay tranh luận thì không phải là cái người tu sĩ của Đạo Phật, đuổi ổng ra cho rồi.

Cho nên ở đây quý thầy mà cái người nào mà hay tranh luận, hay lý luận cao siêu, hay nói giọng hơi tiên tổ, hơi tổ á, thì Thầy tìm mọi cách Thầy cũng cho mấy cái ông đó đi luôn rồi chớ Thầy không có để ở đây đâu.

Bởi vì mấy cái ông này thuộc về loại không có tu mà cái loại lý luận, họ chỉ dụng cái sự hiểu biết, kiến thức kiến giải của họ, họ nói bên nây họ nói bên kia, cái miệng của họ nó méo cũng như cái vành thúng vậy, nó không có ra cái gì hết. Cho nên mấy cái loại đó là mấy loại không phải tu, cho nên cho họ đi ra mấy cái chùa mà tranh luận, họ ở để họ tranh luận.

Cho nên vì vậy mà cái ông Tỳ Kheo Tượng Lực này nó cũng thuộc loại đó đó, cũng cho ổng đi mấy cái chùa khác đi, cho nó về mấy cái chùa mà nó chuyên môn nó tranh cãi nó ở, chớ đừng có cho ở trong những cái nơi mà thanh tịnh tu hành đúng giới hạnh.

6) PHÁP NHIỀU NGƯỜI NÓI ĐỂ DỨT SỰ TRANH CÃI

(01:14:44) Pháp thứ sáu:

6. Pháp nhiều người nói để dứt sự tranh cãi.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở tại nước Xá Vệ, các Tỳ Kheo cùng nhau tranh tụng chúng tăng như pháp diệt tránh. Tỳ Kheo tranh tụng kia không chấp nhận sự diệt tránh của tăng bèn đến bạch Phật.

Phật liền tập tăng quở trách các vị kia rồi bảo các Tỳ Kheo nên diệt trách sự này bằng cách dùng nhiều người giải quyết: Dùng nhiều người biết pháp nói khiến cho tâm họ chấp nhận vấn đề giải quyết, bạch Nhị Yết Ma sai người hành trù. Phật kiết giới này như thế theo chính văn gọi là đa nhân ngữ diệt trách pháp.

Hành trù có ba cách: Một là bỏ phiếu trắng, hai là bỏ phiếu kín, ba là bỏ phiếu rỉ tai.

Hành trù phi pháp có mười trường hợp:

1- Không biết cách rút thẻ, không rõ nội dung;

2- Không đứng về phía người tốt;

3- Muốn cho Tỳ Kheo phi pháp chiếm đa số;

4- Biết Tỳ Kheo phi pháp nhiều, cố ý giúp kẻ xấu;

5- Dụng ý muốn tăng bị vỡ, đồng lõa với kẻ xấu;

6- Biết tăng sẽ bị vỡ;

7- Biết Yết Ma phi pháp mà nắm thẻ;

8- Biết chúng nắm thẻ;

9- Việc không quan trọng mà nắm thẻ;

10- Bất đồng quan điểm mà rút thẻ.

(01:16:19) Tất cả những cái điều kiện trên này đều là cái hình thức bầu, kêu là bình bầu hay là bầu cử, hay hoặc là bỏ thăm, hay hoặc là đưa tay để biểu quyết coi nó nhiều ít. Đó là cách thức như vậy để mà chấp nhận ở trong cái đúng cái sai đó thôi.

Thầy thấy ở đây nói ra cho nó nhiều như vậy, chớ sự thật ra thì chúng ta muốn làm cho rõ thì hỏi những cái ý kiến người khác, ở đây ví dụ như Thầy hỏi: “Bây giờ Thầy nêu ra cái tội này như vậy, là đáng xử như vậy, có được không? Ai đồng ý đưa tay lên, ai không đồng ý thì đừng đưa tay!” Thì chúng ta bình bầu như vậy là cũng được rồi chớ cần gì mà phải làm chi cho nó nhiều công chuyện, nó rắc rối thêm chớ có gì đâu.

Còn khéo khéo mà kín nữa thì người nào cứ viết một cái tờ giấy đi, ai là đồng ý cái người đó có tội thì ghi ở đây trong cái tờ giấy cho Thầy một cái là để chữ “tội” đi, còn cái người nào mà thấy cái tội này nó không phải thì viết chữ “không tội” đi, thì như vậy là cứ đem vô đây, bỏ vô đây đi, mà bây giờ đây là mười người, sau khi mà so thăm lại lấy cái số đông thì cái cái người có tội mà cái số đông chấp nhận là không tội là coi như cái người đó không tội.

Thì như vậy là mình lấy cái chỗ dân chủ để mình kiểm điểm cái tội của người ta, thì như vậy Thầy thấy nó cũng không công bằng đâu. Nhiều khi một cái đám đông vậy chớ vì nó thương ông này cho nên nó bầu như vậy, chớ sự thật ra cái ông này là cái người có tội chớ không phải là không tội.

Cho nên ở đây phải có một cái đầu óc quán xét chớ còn không có một cái theo, dựa cái tập thể. Nhiều khi tập thể chưa chắc đã là đúng. Thầy nói thật sự, chưa chắc mọi người là đã có một cái trí thông minh là đúng hết đâu, chưa chắc đâu. Cho nên cái trí thông minh của một cái người mà người ta nhìn qua người ta quán xét, khi sự kiện xảy ra người ta đều có thể biết đoán chắc là cái đó là cái tội đúng hay tội sai.

Cho nên ở một cái người mà làm cái giới luật, làm cái pháp luật thì người ta phải có cái đôi mắt rất là sâu sắc, chớ nếu không có cái đôi mắt sâu sắc, chúng ta viết pháp luật chỉ là viết sau lưng của họ chớ không phải là viết cái sự kiện mà đã đoán trước họ sẽ phạm cái tội đó.

7) PHÉP NHƯ CỎ CHE ĐẤT ĐỂ DỨT SỰ TRANH CÃI

(01:18:15) 7. Phép như cỏ che đất để dứt sự tranh cãi.

Vì sao Phật kiết giới này?

Đức Phật ở tại nước Xá Vệ, các Tỳ Kheo cãi nhau phạm nhiều giới chẳng phải pháp của Sa Môn, mà cũng chẳng làm, cũng nói ra vào không chừng mực. Sau đó các Tỳ Kheo tự nghĩ mà nói: “Nếu chúng ta trở lại tìm hỏi việc này do ai, do đâu, thì có thể khiến cho trách sự càng thêm sâu nặng, trải nhiều ngày tháng, không diệt trừ đúng như pháp khiến cho tăng không được an lạc.”

Vì cả tập thể tăng đều phạm tội, không còn Tỳ Kheo nào thanh tịnh để tác chủ thọ sám hối, do đó họ bạch Phật sám hối. Phật kiết giới này và dạy rằng nên chấm dứt sự tranh cãi này như dùng cỏ che đất mà sám hối.

Pháp này tập thể không ai xưng tội danh, tội chủng mà sám hối, như lấy cỏ che đất bùn khiến người có thể đi qua lại được, không nhớp chân. Nghĩa là họ cũng hội họp sám hối che các điều ác trên để thiện pháp được sanh rồi sau sám hối tội đã phạm vậy. Nếu trách sự đã dứt rồi sau ai phát khởi lại, mắc tội Đọa.

Ở cái chỗ này theo Thầy thấy là chế ra cái giới này, bây giờ ai có tạo tội phạm thì từ từ mà sám hối đi, còn bây giờ coi như là mỗi người mà có làm những cái điều sai trái này thì tự mình biết lấy rồi mình coi như là đừng có để cho ai biết hết, bây giờ không có phát lồ ra, nhưng mà người nào cũng tự mình sám hối nếu mình nhận thấy cái lỗi của mình.

Thật sự ra Thầy nói, Thầy làm lỗi nhiều khi Thầy không biết đâu, những cái lỗi có nhiều khi mình làm mình không có biết đâu. Bởi vậy cho nên mình làm lỗi mà mình không có biết cho nên vì vậy mà mình lý luận, mình nói rằng: “Tui không có lỗi, cái đó tui chưa có phải lỗi. Cái trường hợp nó xảy ra như vậy chớ chưa phải là tui muốn làm cái lỗi đó đâu, tại nó xảy ra như vậy.”

Do cái sự mà tranh cãi, do cái sự mà mình không thấy lỗi mình thì làm sao người ta buộc lỗi mình mà mình nhận cho được? Mình lấy như cỏ mình rải ở trên đất bùn để cho mình đi đừng dính đất, che đậy lên lại như vậy, thì cái ví dụ đó Thầy thấy, cái xử như vậy nó không có hay chút nào hết.

Mà tốt hơn hết là chúng ta từ bước đầu mà đi vào con đường tu tập của Phật pháp, thì ngay từ bước đầu chúng ta trau dồi thân tâm của chúng ta từng bước một trong những cái sống hòa hợp Lục Hòa như thế nào.

Cũng như bây giờ Thầy đặt ra thành vấn đề nè. Như vào trong Tu viện chúng ta mà cỡ mà có cái tổ chức hẳn hòi, thì các con không bao giờ mà có vào nhà bếp nấu ăn, các con sống độc cư quý thầy nè, các con không được đến nói chuyện nè, đó là các con độc cư nè, các con chuyên môn các con phải sống như thế nào đúng cách nè, ăn ngày một bữa nè, tới giờ các con ôm bát đi khất thực nè, không được nói chuyện ai nè, tới giờ ngủ thì các con ngủ đúng giờ đúng khắc nè, không được ngủ phi thời phi pháp nè, rồi tới cái giờ các con luôn luôn sống trầm lặng một mình nè, không được tiếp duyên với người nào hết, làm sao có sự kiện gì mà xảy ra đâu? Làm có sự kiện gì mà mích lòng nhau đâu, đâu có nói chuyện với nhau đâu?

Đó là cái thứ nhất, ba cái giới mà Thầy đặt ra, cái nòng cốt của cái Tu viện. Rồi ba cái giới kế đó là ba cái đức của chúng ta tập luyện là nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, thì luôn luôn lúc nào chúng ta thấy nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì gần như là sáu cái pháp Lục Hòa của Phật rồi.

Cái danh từ thì nói khác chớ ba cái đức này nó phải đúng là Lục Hòa ở trong cái đạo Phật, rất là Lục Hòa, mà nó đầy đủ trọn vẹn ở trong sáu cái hòa hợp này rồi.

(01:21:54) Do vì vậy đó, làm sao mà chúng ta có cái sự gì mà tranh cãi, có sự gì phiền não! Muốn tu vào đây thì phải khép mình ở trong sáu cái kỉ luật này, sáu cái luật nòng cốt của Tu viện này, thì thử hỏi làm sao có chuyện gì?

Nhưng mà bây giờ cái hoàn cảnh của mình không có làm được, cho nên các con thấy các con còn lộn xộn. Rồi bây giờ các tu sĩ ở ngoài sau, nam thì các con thấy nó có lộn xộn không? Nó lộn xộn là do mấy cái ông mà không có độc cư được, đi lại thất này nói chuyện, đi lại thất kia nói chuyện, chứ còn riêng mấy người mà người ta sống độc cư một trăm phần trăm, người ta không đến thất ai, người ta lo người ta tu hành, các con thấy có ai mích lòng ai không?

Thầy thấy mười người, một trăm người mà sống được như những người độc cư như vậy, bây giờ một ngàn người cái Tu viện của chúng ta cũng im như là thạch bàn, nó không bao giờ có một tiếng động. Sống đúng thì nó không bao giờ mà làm chúng ta khó khăn tu hành, mà sống không đúng thì nó làm cho chúng ta khó khăn tu hành.

Còn vì cái hoàn cảnh các con, bên nữ các con sao? Các con phải nấu cơm mà sống. Bởi vì Thầy chưa có tổ chức cho một cái người nào mà ở ngoài người ta nấu cơm cho mình sống được, cho nên đến đây chúng ta còn phải có những cái sơ sót đó. Nhưng mà vì cái nhân duyên chưa đủ mà chúng ta đành phải phải chịu mà thôi, chớ bây giờ chúng ta biết làm sao?

Đó thì các con thấy không? Chứ nếu mà bên nữ mà Thầy khép được, mà cô Út hoàn toàn có những cái người khác lo lắng cái đời sống để cho các con có cơm ăn áo mặc, ngày chừng một bữa các con bưng bình bát các con đi khất thực, mà các con biết giữ trọn được cái hạnh độc cư không?

Nếu mà các con giữ trọn cái hạnh độc cư thì Thầy nhìn trong cái số của các con, chắc còn lại ở đây cũng không bao nhiêu người đâu, chắc chừng một hai là người hết sức. Thì cũng như bên nam mà nhìn lại thì cũng đâu có người nào, cũng còn một hai người.

Chớ không khéo các con buồn bã rồi các con sống mà tiếp duyên làm chuyện đồ các con còn vui, còn có buồn, có giận, các con còn ấy, chớ cô đơn quá thì các con cũng như là thầy Từ Minh với thầy Chân Tịnh mà độc cư quá rồi chịu không nổi rồi cũng phải là xách gói đi thôi chớ cũng không làm sao mà sống được.

Đó thì các con thấy nó đâu có đơn giản. Nếu mà chúng ta sống độc cư được, giới hạnh chúng ta giữ được thì cái Tu viện chúng ta nó im re, không bao giờ mà có cái sự không hòa hợp. Nhưng cái hoàn cảnh chúng ta chưa tổ chức được. Thầy ước ao một ngày nào đó, chúng ta còn lại chút ít, chúng ta sẽ tổ chức được những cái sự tu hành chúng ta được tốt hơn, để bên giới nữ của các con có những cái điều kiện mà tu tập cho đạt được cái kết quả tốt.

Còn bây giờ các con sống ở trong cái cuộc sống chung như thế này mà các con làm riêng rẽ để cho một mình mình tu cho được, thì chắc chắn các con cũng không có yên mà tu được đâu. Nó phải sống ở trong một cái hòa hợp, chớ không thể nào mà muốn riêng cho mình được một cái gì được cả hết.

Cho nên một cái guồng máy thì cái bánh xe lớn, cái bánh xe nhỏ nó đều kéo nhau hết, chạy thì nó phải chạy hết, mà nó không chạy thì nó sẽ đứng hết. Còn bây giờ vụt không, có cái bánh xe nào nó đứng chựng lại, nó không chịu chạy thì mấy cái bánh xe kia nó sẽ - nó có chạy được thì nó cũng cán, nó cũng cày, những cái răng của bánh xe đó cũng tan nát hết, không còn./.

HẾT BĂNG

46 - KẾT LUẬN VỀ GIỚI BỔN

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 46 - KẾT LUẬN VỀ GIỚI BỔN

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- HỌC GIỚI BỔN ĐỂ ĐÁNH GIÁ ĐÚNG SAI, THẬT GIẢ

(00:00) Hôm nay thì Thầy sẽ kết thúc cái giới bổn, vì chúng ta có học thêm nhiều thì nó cũng chỉ bây nhiêu cái điều thêm thắt của các tổ, chớ…​ (Mất tiếng)

Bởi vì trong những cái bài kinh của Phật, cái giới nó vừa là một cái pháp môn để mà chúng ta tu, mà cũng vừa là những cái hành động để chúng ta trau dồi thân tâm của chúng ta để được đến cái giải thoát, chớ không phải là giới ở trong giới kinh nó là một cái điều luật hay hoặc là một cái giáo điều, mà nó là cái pháp môn.

Bởi vì chúng ta đọc ở trong kinh sách chúng ta thấy rất là đủ giới, mà oai nghi tế hạnh nó rất là đầy đủ chớ không phải thiếu, nhưng mà vì sau này người ta cứ suy tư, nghĩ ra cái này cái kia để chế ra những cái oai nghi tế hạnh, nhưng khi mà chế ra đủ thứ oai nghi tế hạnh mà một cái người không phòng hộ sáu căn thì cái oai nghi tế hạnh nó cũng đâu có bằng là cái người mà người ta phòng hộ sáu căn?

Và cái người mà người ta tu Chánh Niệm Tỉnh Thức Định thì cái oai nghi tế hạnh của người ta rất là ý tứ. Cho nên những cái pháp hành như vậy chúng ta thấy nó rất là oai nghi rồi. Còn bây giờ mình có đặt cái oai nghi một trăm giới chúng học, oai nghi thế này thế khác, mà con mắt ngó láo liên thì chắc chắn là không có thể nào mà gọi là oai nghi tế hạnh được hết.

Đó thì, thấy rõ là cái giới kinh mà ở trong kinh sách, những cái giới của Phật rất là tuyệt. Mà cái giới bổn thì chúng ta thấy nó chi li ra những cái phần này phần kia coi nó rõ ràng, nhưng mà nó không có cái hành, cho nên tuy nói thì chúng ta nghe nó có cái hay, nhưng mà cái hay đó bằng cái lý thuyết suông, nó không có cái pháp hành. Còn ở trong giới kinh thì nó có cái pháp hành rất rõ ràng.

Vì vậy bây giờ chúng ta có giải thích cho nhiều đi nữa, bao nhiêu đi nữa, thì nó cũng không có một cái pháp cụ thể để đưa chúng ta đi đến cái sự giải thoát, vì vậy mà chúng ta nên tóm lược nó tại đây để rồi chúng ta phán xét coi cái đúng hay cái sai, có đúng của Phật chế hay là không đúng của Phật chế mà thôi.

2- KINH THẬP THƯỢNG, PHẦN BỐN PHÁP

2.1- BỐN PHÁP RẤT KHÓ THỂ NHẬP - BỐN PHẦN ĐỊNH

(02:04) Còn về phần hôm nay thì trước khi mà kết thúc cái giới bổn này thì Thầy cũng nhắc nhở quý thầy: Nó có bốn cái pháp rất khó thể nhập, đó là bốn cái loại định, bốn cái định.

Thế nào là bốn pháp rất khó thể nhập?

Đó phải lưu ý về phần này, là cái phần mà chúng ta gọi là tu thiền định mà chúng ta không hiểu nó thì tức là chúng ta sẽ khó mà có thể tu tập được. Phần thứ nhất là:

Xả phần định;

Tức là cái định mà làm cho chúng ta xả được tất cả mọi cái, mọi pháp, thì cái định đó nó làm chúng ta xả hết các pháp, thì cái đó là cái phần mà rất là quan trọng. Cho nên ở đây chúng ta thấy, như ở trong Tứ Thiền thì Phật có dạy chúng ta là xả hỉ, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Đó, thì chúng ta biết rằng trong khi mà nhập Tứ Thiền thì chúng ta phải xả.

Vậy thì cái phần xả định này chúng ta phải có cái pháp hành như thế nào, không khéo nói xả là danh từ suông thì chúng là làm sao chúng ta biết xả? Xả phải làm sao? Đó là khi mà Thầy dạy về cái định Hiện Tại An Lạc Trú, dạy về Bốn Thiền thì Thầy sẽ dạy về cái xả phần định.

Đó là cái phần thứ nhất. Cái phần thứ hai của định là:

Chỉ phần định;

Cái này cũng rất quan trọng. Chỉ là ngưng lại, làm cho nó ngưng, thí dụ như bây giờ chỉ: “Cái ngôn ngữ phải tịnh chỉ” - làm cho cái ngôn ngữ không còn có phát ra cái lời nói nữa thì như vậy gọi là chỉ, mà cái chỉ được như vậy gọi là chỉ phần định.

Cũng như một người nhập Sơ Thiền mà hay nói chuyện thì không thể nào mà gọi là người đó nhập Sơ Thiền được, cho nên chúng ta phải tịnh chỉ cái ngôn ngữ, mà tịnh chỉ ngôn ngữ đó là cái phần thứ hai ở trong định, gọi là chỉ phần định. Đó phải hiểu như vậy.

Cho nên vì vậy mà chúng ta phải có cái pháp hành như thế nào để mà chỉ, còn nếu mà không có pháp hành thì chắc chắn là chúng ta không chỉ được.

(04:11) Thí dụ như bây giờ nếu mà không có cái pháp hành thì bảo rằng mình tịnh chỉ ngôn ngữ thì mình không nói chuyện, nhưng mà nó không có cái pháp hành thì bữa nay không nói chuyện, ráng bữa nay, ngày mai có cái duyên sự gì nó cũng bắt chúng ta nói chuyện à, hay hoặc là chúng ta sống độc cư không nổi thì chúng ta cũng thành nói chuyện à.

Cho nên vì vậy mà phải có cái pháp hành, phải có một cái kỷ luật, khép chặt mình ở trong cái khuôn khổ đó để buộc chúng ta không có cái duyên ra ngoài chúng ta mới tịnh chỉ được cái ngôn ngữ.

Vậy thì chúng ta phải lấy cái pháp hành gì, do hằng ngày chúng ta phải trau dồi tu tập gì mà chúng ta giữ cái ngôn ngữ mình không nói, cái đó là cái quan trọng, gọi là cái phần chỉ phần định. Đó thì như vậy là chúng ta phải biết.

Ví dụ như ở đây Thầy lấy cái kỷ luật là bắt buộc tu sĩ ở đây phải sống độc cư, không được người này qua thất kia nói chuyện, người nào ở thất nấy, sinh hoạt tại nơi cái thất của mình mà không được sinh hoạt ở chỗ khác. Do như vậy, bắt buộc người ta như vậy đó thì người ta mới giữ được một cái phần nhỏ ở trong cái tịnh chỉ ngôn ngữ.

Đó là bắt đầu muốn vào Sơ Thiền là phải có một cái kỷ luật như vậy, mà phải có cái pháp hành để cho người ta hằng ngày người ta hành người ta mới giữ được cái ngôn ngữ, chớ không người ta ngồi người ta không nói chuyện người ta buồn quá cho nên người ta cũng tìm cách này hay tìm cách kia vì vậy mà cuối cùng thì tịnh chỉ ngôn ngữ không được, nó lại phá cái tịnh chỉ ngôn ngữ, tức là phá cái hạnh độc cư.

Đó thì hôm nay Thầy muốn chỉ cho quý thầy thấy cái phần này, là sau cái phần mà dạy về cái giới hành thì Thầy sẽ dạy về cái phần chỉ, cái phần định để chúng ta có những cái pháp hành, có những cái nơi mà chúng ta tu hành để giữ gìn cái khẩu hành của mình, cái ngôn ngữ của mình.

Hằng ngày chúng ta tu tập như thế nào để mà chúng ta tịnh chỉ được cái ngôn ngữ, chớ không chúng ta ngồi không mà cứ bảo là thanh tịnh khẩu, đừng nói chuyện, đừng nói chuyện, nhưng mà cái tâm của chúng ta nó rất buồn, nó rất cô đơn, nó khó chịu, như vậy là đạo Phật đến để có sự giải thoát, mà đến với một cách khổ đau như vậy là không đúng cách.

(06:23) Cho nên chúng ta có cái pháp hành, cho nên chúng ta không nói chuyện mà chúng ta thấy an ổn, thích thú ở trong cái cảnh trầm lặng, cái cảnh cô đơn của mình, thì như vậy là phải có pháp. Còn không có pháp thì coi như là bắt buộc chúng ta không nói chuyện, cho nên chúng ta quá khổ tâm. Đó, phải như vậy.

Cho nên ở đây nói rằng chỉ phần định tức là nói về cái phần hành ở trong cái chỉ đó. Thì ở trong Bốn Thiền chúng ta thấy có nhiều cái phần chỉ chớ không phải chỉ có chỉ ngôn ngữ không, nhưng mà người mới vào tu thì chúng ta phải chỉ ngôn ngữ nè, rồi tới chỉ cái Tầm Tứ nè, rồi chỉ các cái trạng thái tưởng nè, rồi chỉ cái hơi thở, các hành ở trong thân nè, thì như vậy nó mới có thể mà nhập định.

Chớ không phải đơn giản, mà phải biết cái cách thức chỉ như thế nào, dùng cái pháp nào để mà chỉ cho được, thường xuyên chúng ta phải tu tập như thế nào để thực hiện được cái pháp chỉ, chớ không phải nói chỉ rồi quán rồi chỉ - quán, thì chắc chắn một ngàn đời chẳng chỉ được gì mà quán cũng chẳng được gì.

Cái thứ ba:

Thắng phần định;

Thì ở đây chúng ta phải có cái sự thấu suốt như thế nào để mà chúng ta hiểu rõ như thế nào trong từng cái sự tu tập, từng phút giây của chúng ta phải thông suốt cái sự thiền định của chúng ta như thế nào đúng, như thế nào sai.

Một khi chúng ta ngồi đây mà chúng ta ổn định hơi thở nè, mà chúng ta nghe tức lói là sai rồi, chúng ta nghe hơi mệt là sai rồi, năm hơi thở hay mười hơi thở chúng ta phải hít một hơi thở dài vô do đó để chúng ta lấy sức thì cái đó là tu sai rồi.

Bởi vì đạo Phật cái sai chúng ta dễ thấy lắm, còn cái giải thoát, chúng ta ngồi mà chúng ta tu tập cái hơi thở mà chúng ta nghe nó an ổn, mà nghe không có cái rối loạn cơ thể chúng ta gì hết, cái đó đúng. Mà có một cái trạng thái gì mà gọi là hỷ lạc khinh an thì sai, đó là dục tưởng hỷ lạc, thì trật, chúng ta cũng phải phá bỏ.

Cho nên gọi là thắng phần định nghĩa là phải thấy cho rõ các cái phần định, mà trong khi chúng ta từ cái Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, mỗi cái phần nó đều có một cái trạng thái đúng thì nó làm cho chúng ta thấy giải thoát, ngay đó nó có hiện tại.

Cho nên cái Bốn Thiền nó gọi là Hiện Tại An Lạc Trú, nó trong cái hiện tại nó có cái sự an lạc của nó. Mà an lạc không có nghĩa là dục lạc. Chớ không phải như quý thầy nghĩ rằng nó cái có sự khinh an làm cho chúng ta thích thú trong đó gọi là an lạc, cái đó là trật. Cái an lạc của cái Hiện Tại An Lạc đó nó có một cái sự thanh tịnh vô cùng tuyệt diệu, thì do đó gọi là an lạc.

Cho nên thắng phần định là cái phần thứ ba, mà khi đó một cái vị thầy người ta dạy cho mình nhận cho đúng cái trạng thái của định, vì vậy do mình nhận đúng đó mình mới thiện xảo an trú ở trong cái định đó, cho nó kéo dài ra, thì cái thời gian mới có thể kéo dài. Mà nó sai thì chúng ta kéo dài không được, mà nó trật thì nó làm cho cơ thể bị rối loạn, làm cho đau nhức hay hoặc là mệt, hay là khó chịu.

(09:15) Cái phần thứ tư của cái bốn phần định này thì có cái tên gọi là:

Quyết trạch phần định.

Nghĩa là khi mà vào ở trong cái thiền định mà nó đúng cách rồi thì chúng ta phải có sự quyết định phải đi tới chớ không thể nào mà dậm chân tại chỗ nữa, phải hằng ngày phải tiến bộ chớ không có thể nào mà đứng một chỗ. Cho nên cái sự quả quyết như vậy gọi đó là Chánh Tinh Tấn, hay hoặc là tinh cần, hay là nhiệt tâm trong cái sự tu tập.

Cho nên khi mà thấy đúng được cái phần định của chúng ta tu rồi, bây giờ cái Sơ Thiền chúng ta thấy rõ là cái tâm ly dục, ly bất thiện pháp rồi, nó thanh tịnh như thế nào đó, chúng ta đã thấy, nhận đúng cái trạng thái đó rồi, thì bắt đầu chúng ta tiến tới.

Tiến tới để mà chúng ta tu tập cái gì? Tu tập - chúng ta thấy rõ được trạng thái định thì chúng ta tu tập tới cái phần chỉ, mà phần chỉ xong rồi thì chúng ta phần xả. Cho nên chúng ta liên tục tới chớ chúng ta không có dậm chân tại chỗ đó.

Cho nên người xưa trong thời Đức Phật còn, người ta tu tập thiền định - là vì người ta thắng phần định người ta thấy rõ, và quyết trạch phần định người ta nắm vững, cho nên người ta tiến trong cái thời gian rất nhanh, một tuần hay hoặc là nửa tháng là người ta nhập xong bốn định.

Còn mình không có nắm được, lúc thì vầy lúc thì khác, ko thấu hiểu được các phần định, cho nên không biết cái nào đúng cái nào sai, bữa nay nó vầy, ngày mai nó khác, cho nên chúng ta lừng chừng không có quyết đoán được.

Cho nên khi mà tu tập Bốn Thiền - tức là Hiện Tại An Lạc Trú, thì nhờ một cái vị thầy người ta quyết trạch cho mình cái định đó, cái trạng thái đó là đúng, thì lúc bấy giờ mình phải tiến tới, mình phải nỗ lực, mình quyết định là mình phải nằm cho chặt ở trên đó để mà mình thực hiện, ngày ngày mình tiến bộ, trong vòng một tuần hay là nửa tháng mình xong.

Còn nếu mà mình không thấy hai cái phần định sau này thì khó mà có thể tiến tới được, là vì mình không thể chỉ được mà không thể xả được.

Đó là những cái vấn đề rất là quan trọng. Cho nên sau khi dạy Bốn Thiền thì Thầy sẽ chỉ cho các pháp hành, và chỉ cho nhận ra cho đúng các trạng thái của định để mà chúng ta vào đó chúng ta biết được một cách rõ ràng.

Vì cái tên của nó là Hiện Tại An Lạc Trú, cho nên nó đem đến cho chúng ta có cái sự yên ổn ở trong cái sự thanh tịnh đó, chớ không phải chúng ta hiểu qua cái danh từ an lạc là có cái sự khinh an hỷ lạc ở trong đó.

Đó là bốn cái định mà rất khó thể nhập.

Rất khó có nghĩa là rất là khó nhận và khó làm chớ không phải dễ, nhưng mà có một vị thầy người ta có kinh nghiệm người ta dạy mình thì mình dễ dàng, không có khó nữa.

2.2- BỐN PHÁP CẦN ĐƯỢC TU TẬP - TỨ NIỆM XỨ

(11:52) Bây giờ có bốn pháp:

Thế nào là có bốn pháp cần được tu tập?

Ở đây trước tiên mà chúng ta muốn vào được bốn cái định này thì chúng ta có bốn pháp mà chúng ta cần phải tu tập. Bốn cái pháp định hồi nãy đó là bốn cái pháp mà có thể rất là khó nhập, nhưng mà muốn cho nó nhập được thì chúng ta phải tu tập bốn cái pháp cần phải tu tập trước để rồi chúng ta sẽ nhập được cái này rất dễ. Bốn pháp này là gì? Là:

Bốn Niệm Xứ. Bốn Niệm Xứ là: Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Sau này Thầy sẽ dạy về Tứ Niệm Xứ thì Thầy sẽ dạy nó có ba hành, có ba đặc tướng: hành tướng, nhân tướng và đặc tướng của nó ở trên cái thân của chúng ta, ở trên thọ, ở trên tâm chúng ta và ở trên pháp để mà chúng ta thực hiện Tứ Niệm Xứ cho nó rõ ràng. Và mỗi hành thì nó có hành ngoại, hành nội, và hành ngoại và hành nội; và mỗi cái nhân tướng của nó thì có nhân tướng nội, nhân tướng ngoại, và ngoại và nội nhân tướng; và thọ cũng vậy; và tâm cũng vậy.

Cho nên ở đây dạy về Tứ Niệm Xứ, cái bài Tứ Niệm Xứ dạy cho rõ ràng ra từ cái lý pháp cho đến cái hành pháp nó rất là nhiều, cái bài Tứ Niệm Xứ dạy rất là nhiều, không thể nào dạy ít mà quý thầy hiểu được, và đồng thời dạy rất nhiều.

Và hằng ngày chúng ta không có cái thời gian mà chúng ta tu tập ở trong Bốn Niệm Xứ, nhưng mà thực hiện được Bốn Niệm Xứ rồi thì bốn cái thiền này nó rất dễ, không khó với quý thầy đâu.

2.3- BỐN PHÁP CẦN ĐƯỢC THẮNG TRI - TỨ THÁNH ĐẾ

(13:25) Bây giờ nó có bốn cái pháp nữa.

Thế nào là có bốn pháp cần được thắng tri?

Tức là cần phải hiểu cho rõ đó, thấu suốt cho rõ đó, đó là:

Bốn Thánh Đế.

Như quý thầy cũng đã hiểu, Bốn Thánh Đế là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế, thì phần này sau khi giảng về Tứ Diệu Đế thì Thầy sẽ nói cái lý pháp và hành pháp của nó, nó sẽ nằm ở trong các cái 37 phẩm trợ đạo quay ở trên một cái trục của bốn cái đế này. Là vì bốn cái đế này là bốn cái chân lý mà không thể nào các pháp khác rời khỏi bốn chân lý này mà tu tập được.

Cho nên nó là cái bài pháp đầu tiên, cũng là cái bài pháp vỡ lòng trong đạo Phật, lần đầu tiên Đức Phật đã thuyết giảng cái bài này, cho nên cái bài này đặc biệt nó là một cái nòng cốt trụ để cho tất cả các pháp hành chúng ta quay vào cái trục này mà chúng ta tiến tới sự giải thoát.

Do sau này Thầy sẽ giảng dạy cái phần này rõ hơn, còn ở đây chúng ta hiểu đại khái như vậy.

2.4- BỐN PHÁP ĐEM ĐẾN THÙ THẮNG - LY DỤC, LY HỮU, LY KIẾN, LY VÔ MINH

(14:30) Còn cái phần hôm nay để mà chúng ta tu tập, để mà đi vào cái phần đầu tiên là cái phần giới hạnh của chúng ta, thì cái phần này nó có:

Bốn pháp đem đến sự thù thắng.

Bốn cái pháp đó là gì?

Bốn ly:

Nghĩa là bốn cách ly. Từ hồi nào đến giờ quý thầy nghe Thầy nói ly dục ly ác pháp, mà ở đây thì chúng ta chia làm bốn cái phần để mà chúng ta ly. Vì vậy mà chúng ta phải hiểu rõ bốn cái ly này là như thế nào?

Một là:

Ly dục;

Cái lòng ham muốn của mình thì luôn luôn mình phải đoạn dứt ra, vì vậy đó mà muốn ly dục thì mình phải giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, đứng trước các pháp không cho nó dính mắc, gọi là ly dục. Nó khởi ham muốn cái gì là không được cho nó dính vào đó.

Hai là:

Ly hữu;

Hữu là cái gì mà có trước mặt của chúng ta, các đối tượng của chúng ta, cho nên chúng ta ly ra hết, không có được dính vào trong đó, gọi là ly hữu.

Ba là:

Ly kiến;

Tất cả những cái kiến chấp, cái ngã chấp của chúng ta, tất cả những cái tri kiến, cái sự hiểu biết của chúng ta trong đầu chúng ta đều phải ly ra hết, để chúng ta còn sạch hoàn toàn, chỉ còn biết một cái pháp duy nhất là của Phật, nương tựa vào Phật mà tu tập mà thôi. Chớ còn chúng ta còn một cái kiến nào đó thì chắc chắn là chúng ta khó thực hiện cái pháp giải thoát của đạo Phật được.

Cho nên ngày xưa các vị Tỳ kheo nói: “Các con chỉ nương vào Phật, lời của Phật dạy là chúng con làm không sai thôi, chớ còn chúng con không có nương tựa vào ai nữa hết” - nghĩa là ly kiến đó, cái câu nói đó là cái câu ly kiến, chỉ còn lấy Phật làm cái nơi nương tựa vững chắc cho mình, Phật nói như thế nào thì làm như thế nấy, không còn cái chấp kiến ở cái kiến nào nữa hết, cho nên gọi là ly kiến.

(16:24) Bốn là:

Ly vô minh.

Ly vô minh tức là phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu của Phật pháp. Muốn ly vô minh tức là chúng ta phải tìm hiểu những cái gì chơn chánh của đạo Phật để hiểu nó, để làm cái con đường mà tiến tới sự giải thoát, cho nên gọi là ly vô minh. Nếu mà chúng ta không chịu tìm hiểu thì vô minh chúng ta dày đặc, không thể nào chúng ta thông suốt được.

Bởi vì Phật nói các pháp đều vô thường, nếu mà chúng ta không hiểu được các pháp đều vô thường thì tức là chúng ta vô minh. Mà hiểu được các pháp là vô thường, thấy rõ nó là vô thường, thấy rõ nó là khổ, thấy rõ nó là vô ngã, thì do đó chúng ta thấy rõ nó gọi là minh. còn nếu mà thấy không rõ thì không thể nào gọi là minh được mà là vô minh.

Cho nên tất cả các pháp khác, các lý luận khác, 62 lập luận của ngoại đạo đều không phải là cái minh mà là vô minh, cho nên thường bị dính mắc vào những cái kiến đó mà chấp đó là đúng, là sai, là phải, còn tất cả các pháp khác đều sai, cho nên các vị ấy đều là tu không đạt được giải thoát.

Vì vậy hôm nay chúng ta, cái phần mà ly vô minh này là cái phần chúng ta phải học, phải hiểu qua những cái bậc Thánh, những cái pháp Thánh, những cái bậc chân nhân, những cái pháp của chân nhân thì chúng ta mới có phá được cái vô minh. Còn nếu chúng ta không thân cận những bậc Thánh, những pháp Thánh, những bậc chân nhân thì chúng ta không thể nào phá vô minh chúng ta được.

Cho nên ly cái phần thứ tư này rất là quan trọng. Nếu chúng ta muốn ly dục, ly hữu, ly kiến mà chúng ta còn vô minh thì chúng ta không bao giờ ly được. Cho nên ngay từ bắt đầu Phật đã dạy chúng ta có bốn điều kiện quan trọng. Thứ nhất:

Những gì chưa thông hiểu cần phải thông hiểu.

Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai:

Những gì chưa trau dồi cần phải trau dồi.

(18:27) Cái thứ ba:

Những gì chưa dứt bỏ cần phải dứt bỏ.

Cái thứ tư:

Những gì chưa tu tập cần phải tu tập.

Đó là bốn cái điều kiện mà chúng ta phải nhớ mãi trong lòng. Vì vậy mà cái vô minh này là cái điều kiện phải thông hiểu.

Mà thông hiểu gì? Đụng đâu cũng thông hiểu thì không đúng, mà phải tìm những bậc Thánh nhân, phải tìm những pháp Thánh, phải tìm những bậc chân nhân, phải tìm những cái pháp chân nhân mà hiểu thì nó mới phá được vô minh.

Đó là cái điều quan trọng mà quý Thầy cần phải lưu ý. Chớ không phải đụng kinh sách nào quý Thầy cũng đọc, nghe thiền nào cũng nghiền ngẫm, cũng đọc, đó là cái vô minh càng chồng chất thêm vô minh, chưa hẳn đã là giải thoát được.

Cho nên chúng ta phải tìm những cái bậc Thánh Hiền, tìm những cái pháp Thánh, thì mình tìm những bậc Thánh, bậc chân nhân là những người như thế nào? Là những người phải có một cái đời sống giới hạnh nghiêm túc.

Còn đụng những cái người mà ăn phi thời, ngủ phi thời, chạy theo dục lạc thế gian mà nói trên mây xanh thì thử hỏi chúng ta có tin được người đó là Thánh không? Có chọn người đó làm thầy mình không? Có muốn chọn người đó là ở gần mình không? Chắc chắn là mình phải tránh xa những cái vị đó.

Vì những vị này đều là những vị phạm giới, những vị phá giới luật, không có thanh tịnh thân tâm của họ, cho nên chúng ta không có thân cận những vị đó. Dù họ có tự xưng họ là Thánh, nhưng mà thấy hành động sống của họ, thấy cuộc sống của họ rất là phàm phu, chạy theo ngũ dục lạc thế gian thì làm sao mà chúng ta sống như những bậc đó gọi là Thánh được?

2.5- BỐN PHÁP CẦN ĐƯỢC TU TẬP - NIỆM PHẬT, PHÁP, TĂNG, GIỚI

(20:02) Thế nào là bốn pháp cần được tu tập?

Đây là bốn cái pháp mà chúng ta cần phải tu tập. Khi bắt đầu vào xuất gia, vào làm một vị tu sĩ thì chúng ta cần phải tu tập bốn cái pháp:

Bốn tùy niệm xứ.

Bốn cái tùy niệm xứ. Nghĩa là theo bốn cái pháp đó mà mình tùy đó mà mình niệm. Vậy thì:

1. Phật tùy niệm.

2. Pháp tùy niệm.

3. Tăng tùy niệm.

4. Giới tùy niệm.

Đây là bốn pháp cần được tu tập.

Đó thì quý thầy nhớ bốn cái pháp này đầu tiên, chúng ta cần phải tu tập. Phật tùy niệm là tùy theo ông Phật mà mình niệm, rồi tùy theo Pháp mà mình niệm, tùy theo Tăng mà mình niệm, tùy theo giới mà mình niệm.

Bốn cái pháp này gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh.

Nó làm cho thân tâm của chúng ta thanh tịnh, nó không còn ô trược, nó không còn uế trược nữa.

Bốn pháp này còn gọi là Tứ Kỉnh Pháp.

Bốn cái pháp này còn gọi là Tấn Lực.

Tín Lực chớ không phải Tấn Lực. Thầy xin sửa lại:

Bốn pháp này còn gọi là Tín Lực.

Cái lòng tin của chúng ta. Cái lòng tin của chúng ta: Phật, Pháp, Tăng và Giới, nó tạo cho chúng ta có cái niềm tin chân thật. Là tại sao nó tạo chúng ta có niềm tin chân thật được? Là tại vì nó mang lại kết quả giải thoát cho chúng ta trong hiện tại.

Khi chúng ta bước chân vào Phật, Pháp, Tăng. Giới thì chúng ta thấy có sự giải thoát chân thật, không phải còn đợi trong ngày mai, ngày mốt mà ngay bây giờ, hiện tại bây giờ, khi chúng ta chấp nhận bốn cái pháp này là chúng ta thấy có kết quả giải thoát của chúng ta liền, do đó chúng ta mới tin được, còn nếu không kết quả thì chúng ta không bao giờ tin được. Đó gọi là Tín Lực.

Bốn pháp này: Phật, Pháp, Tăng, Giới còn gọi là Tín Căn.

Bốn cái căn để mà chúng ta tin tưởng, bốn cái gốc để làm cho cái lòng tin của chúng ta phát triển, cho nên còn gọi là Tín Căn.

Đó, như vậy ở đây Thầy dạy cho quý thầy thấy Ngũ Căn, Ngũ Lực. Mà Ngũ Căn, Ngũ Lực thì cái Tín Căn và Tín Lực là những cái đầu tiên của Ngũ Căn, Ngũ Lực. Như vậy là mới vào Tứ Bất Hoại Tịnh thì chúng ta đã học được Ngũ Căn, Ngũ Lực, rồi Bốn Pháp Kỉnh, rồi Tứ Bất Hoại Tịnh, thì rõ ràng là chúng ta phải hiểu cho rất rõ ràng.

Rồi sau này Thầy sẽ giải thích cách thức tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh như thế nào để tạo cho chúng ta có Tín Lực, để tạo cho cái Tín Căn của chúng ta càng ngày càng sáng chói ra, để làm cho cái Tín Căn của chúng ta càng ngày càng lớn cái gốc mạnh lên, cái lòng tin của chúng ta càng tin sâu hơn nữa. Đó là chúng ta càng tu thì cái Tín Căn của chúng ta càng mạnh, càng lớn lên, vì nó cụ thể và rõ ràng.

Ở đây bây giờ thì dừng lại đây, để một lát nữa Thầy sẽ dạy về các cái Tứ Bất Hoại Tịnh.

3- KẾT LUẬN VỀ GIỚI BỔN

3.1- GIỚI LUẬT CỦA PHẬT LÀ SƠ THIỆN, TRUNG THIỆN, HẬU THIỆN

(23:45) Vậy thì quý thầy sẽ tiếp tục để học. Thầy kết luận về cái phần quyết nghi của cái giới bổn, và cái phần học về Tứ Bất Hoại Tịnh thì một lúc nữa chúng ta sẽ tiếp tục trở lại.

Về cái phần quyết nghi của cái giới bổn để kết luận cái giới bổn thì ở đây có hỏi và đáp.

Câu hỏi: Thuở ban sơ, Phật lập giáo luật thế nào?

Đáp: Chư Phật ra đời đều tùy cơ duyên mà thiết lập giáo luật, phép không nhất định.

Khi Đức Thế Tôn ứng hiện ra cõi Ta Bà ngũ trược ác thế này, nhiều người ưa làm việc ác, chẳng giữ gìn lời nói và tâm trược nhơ nặng nề, dù không hiện cảnh mà _vẫn nhớ việc từng trải qua, phát khởi nghĩ muốn tạo tác thân nghiệp chẳng lành, thế nên Đức Như Lai lược dạy họ trong thứ lớp để ngừa, đó là khi nó chưa mống tưởng. Lại hàng Tăng Ni cần tu chữ hòa kính làm trọng nên Ngài phải răn trước khi bước vào cửa đạo. _

Nếu ai có thể như thế mà khéo giữ mình thanh tịnh, ba nghiệp trong sạch, hạnh lành từ đó phát sinh và có ngày sẽ đạt được đạo quả giải thoát, thực hiện một đời sống thánh thiện bên cạnh Đức Như Lai.

Thật sự ra trong giới kinh mà đọc lại toàn kinh của A Hàm và kinh Nguyên Thủy thì chúng ta thấy rất là rõ ràng: Đâu có phải đợi các tu sĩ phạm giới rồi mới chế, Ngài đã viết ra, Ngài đã dạy tất cả các tu sĩ trong thời đó là sơ thiện, hậu thiện và trung thiện.

(25:43) Chúng ta đọc lại trong cái kinh thì chúng ta thấy rất rõ: Những cái điều mà Ngài dạy sơ thiện, trung thiện đều toàn là giới, không có gì, đâu phải đợi các thầy phạm giới rồi chế ra, mà trong lúc đó là những cái điều thiện để dạy cho người ta biết, tức là người ta nương vào cái thiện mà người ta giữ được thân tâm thanh tịnh giải thoát, thì cái đó không phải là giới sao?

Cho nên ở đây mà nói rằng Đức Phật sau này mới chế giới thì Thầy thấy quá là hiểu sai Phật cái chỗ này. Đợi cho đến khi mà có phạm giới rồi chế thì quá sai! Phật đã chế trước khi mà dạy cho chúng ta thấy.

Như cái bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế chỉ cho chúng ta thấy đời là khổ, do cái gì mà sanh ra khổ, thì tức là Đức Phật đã chỉ cho cái lòng dục của chúng ta sanh ra khổ, tức là cái lòng dục là ác pháp chớ cái gì? Nó mới đem đến những cái quả khổ cho chúng ta chớ gì? Thì không phải biết rõ cái ác pháp và thiện pháp, thì không phải là những cái điều kiện để mà chúng ta dứt cái ác pháp để mà thực hiện cái sự giải thoát thì đó là cái pháp lành sao?

Cho nên ngay từ đó chúng ta đã thấy cái giới ban đầu mà Đức Phật đã dạy cho năm anh em Kiều Trần Như đó thì chúng ta thấy rất rõ ràng, không còn mà chối cãi gì được nữa. Chớ đâu phải là đợi cho năm anh em Kiều Trần Như phạm giới rồi mới chế, mới nói pháp Tứ Diệu Đế đâu?

Rõ ràng là Đức Phật đã thấy được giới luật và pháp của Phật như thế nào. Sau khi mình thực hiện được sự giải thoát, Ngài mới nói rằng những cái pháp đó là những cái pháp mà rất là kính trọng, rất là tôn trọng, từ đó Ngài mới xiển dương cái giáo pháp đó, cái giới luật đó để mà cứu chúng sanh, Ngài mới đem cái giáo pháp đó ra, chớ đâu phải đợi khi mà các thầy Tỳ Kheo phạm giới rồi mới chế ra? Đó là những cái nó không đúng với cái ý của Đức Phật.

Và đồng thời khi Đức Phật nhập diệt thì Ngài lại di chúc cái giới pháp đó là làm thầy của chúng ta sau này, tức là Ngài phải chỉnh đốn các pháp đó từ khi Ngài chứng đạo, Ngài đã thấy được cái giáo pháp đó nó như thế nào, nó sẽ giúp người ta giải thoát như thế nào, và vì vậy cho nên Ngài mới di chúc nó là làm thầy của chúng ta sau này. Nếu nó chưa phải, nó còn sửa tới sửa lui đó thì làm sao mà làm thầy chúng ta được?

3.2- CÀNG CHẾ GIỚI THÌ NGƯỜI PHẠM GIỚI CÀNG NHIỀU

(28:06) Hỏi: Cũng thuở ban sơ ấy, hàng đệ tử xuất gia của Phật nổi tiếng là tăng vô sự, nghĩa này thế nào? Và ngược lại thế nào?

Thử hỏi trong thời Đức Phật không phải là người tu khổ hạnh sao? Không phải là những người đó là vô sự sao? Nhưng sự thật ra lúc bấy giờ Đức Phật chưa có cái pháp chân chính cho nên chưa phải là tăng vô sự, vì chưa giải thoát được cho nên chưa phải gọi là tăng vô sự.

Cho nên tại sao bây giờ tất cả cái số đệ tử của Đức Phật, mười hai năm hay hoặc mười ba năm chưa chế giới mà tại sao họ được gọi là tăng vô sự? Họ đâu phải là không có giới pháp? Họ có giới pháp tu tập. Cho nên khi mà nghe lời Đức Phật dạy Tứ Diệu Đế thì năm anh em Kiều Trần Như đã ngộ được cái lý của pháp làm cho tâm hồn mình được giải thoát, ngay đó là mình chứng được đạo quả giải thoát của Phật liền.

Đó là khi mà nghe pháp thì chúng ta đã hiểu biết được rõ ràng: Chỉ cần buông cái này là chúng ta sẽ được giải thoát liền cái kia. Cũng như bây giờ chúng ta cần ly cái này thì chúng ta sẽ được cái sự giải thoát của cái kia, chúng ta cần ly cái dục thì chúng ta sẽ được cái giải thoát của cái ly dục liền tức khắc.

Đáp: Tăng là chỉ cho các bậc Thánh Tăng A La Hán, vô sự là các lậu hoặc đã hết, Phạm hạnh đã lập.

Ngay từ khi mà năm anh em Kiều Trần Như nghe Đức Phật thuyết cái bài pháp đầu tiên, chưa phải hết lậu hoặc, còn phải một thời gian tu tập, chớ đâu phải nghe rồi cái lậu hoặc hết liền! Cho nên dẫn nói cái câu nói là không đúng, là vì Thầy thấy cái kết luận của cái sự quyết nghi của giới luật này, giới bổn này, thì những cái nhà làm luật này họ nói không đúng.

Như Lai thành Đẳng Chánh Giác trong mười hai năm đầu…​

Có chỗ thì nói mười ba năm, có chỗ thì nói mười hai năm, thiệt ra thì mấy cái ông mà viết giới luật này họ không có định được cái thời gian như thế nào đúng, như thế nào sai. Bộ này thì nói như thế này, bộ khác thì nói như thế khác, không có hợp với nhau.

(30:12) Nhưng mà kinh sách của Phật chúng ta thấy, cái bộ kinh A Hàm, bốn bộ kinh A Hàm và năm cái bộ kinh Nikaya chúng ta vẫn thấy nó tương đồng với nhau chứ chưa có cái sai khác mà đến đỗi quá độ như thế này.

…​ Ngài chỉ là tăng A La Hán vô sự mà nói lược giáo luật ấy, dù người chưa chứng vô sự, do học giáo luật này mà trong sạch ba nghiệp đạo nên liền chứng ngộ. Mười hai năm sau, pháp hữu lậu sanh khởi trong Tăng đoàn.

Nghĩa là nói như vậy Thầy thấy nó không có đúng cái sự thật, là tại sao vậy? Thậm chí tới mười hai năm mới là các vị sau này mới sanh hữu lậu.

Nghĩa là trong cái thời Đức Phật vẫn có - Đức Phật chưa tu thì Đức Phật vẫn còn lậu hoặc chớ đâu hết, đâu có bao giờ hết, nếu mà Đức Phật hết lậu hoặc thì làm sao có vợ có con? Đó là một cái điều mà chúng ta xác định.

Mà các vị này dù có tu đi nữa, nhưng mà trong khi đó chưa có cái chánh pháp, làm sao mà hết lậu hoặc được? Nếu hết lậu hoặc thì lục sư ngoại đạo trong cái thời đó đã hết lậu hoặc rồi, đâu cần gì phải có Đạo Phật ra đời mới hết lậu hoặc? Cho nên cái luận này cũng không đúng.

Mười hai năm sau, pháp hữu lậu mới sanh khởi…​

Tới mười hai năm sau Đức Phật thành Phật rồi, người trước đó, cách mười hai năm từ Đức Phật thành đạo thì những con người trong thời đó không có lậu hoặc, sau mười hai năm thì tất cả những người khác nó mới sanh ra lậu hoặc nữa, thì như vậy là lậu hoặc từ đâu đến? Con người là phải có lậu hoặc, cho nên nói chỗ này là không đúng.

Vì muốn chúng ta được giải thoát thì chúng ta phải diệt trừ lậu hoặc, cho nên từ Đức Phật thấy bốn cái sự đau khổ sanh, lão, bệnh, tử là khổ, mà sanh lão bệnh tử này là do gì mà có? Không phải là do lậu hoặc sao? Cho nên muốn thoát khỏi những cái khổ này thì phải diệt trừ các pháp lậu hoặc.

Đó thì như vậy là - nói như vậy, tức là luận như vậy là luận sai, không đúng. Mười hai năm mới có các pháp lậu hoặc mới khởi lên, do đó mới có tăng mới phạm giới, còn nếu mà không có lậu hoặc thì không có phạm giới, thì như vậy là sai, đâu đúng được!

…​ nên Đức Thế Tôn mới vì đó mà tùy theo nhân duyên nặng, nhẹ, rộng mà kiết 250 giới cho Tỳ Kheo và 348 giới cho Tỳ Kheo Ni để phân biệt danh, chủng, tánh, tướng, khai, giá, trì, phạm để họ hoàn thành tánh thể căn bản đáng tôn kính của nhân, thiên.

Sự thật ra từ khi mà có giới bổn ra đời thì con người chúng ta, cái người tu sĩ đạo Phật càng ngày càng phạm giới.

Còn trước kia nó chưa có cái giới bổn, Thầy thí dụ mười hai năm từ Đức Phật thành đạo cho đến mười hai năm, Ngài hướng dẫn số đệ tử không có giới bổn mà chỉ có giới kinh, vì vậy mà người ta có pháp hành cho nên người ta hoàn toàn vô lậu, vì vậy mà người ta không phạm. Sau khi có những cái giới bổn này ra thì bắt đầu người ta lại phạm càng phạm, và cho đến bây giờ chúng ta thấy chưa có một ông thầy nào gọi là giới luật thanh tịnh.

Giới bổn thì quá nhiều nhưng mà có làm cho người ta hạn chế, ngăn chặn những cái phạm giới đó không? Không có! Càng chế giới bao nhiêu thì người phạm giới lại càng nhiều, và nhìn lại cái người mà thanh tịnh giới thì hoàn toàn ở trong giới tu sĩ không còn thấy bóng dáng nữa.

3.3- ĐỨC PHẬT KHÔNG ĐỢI TĂNG PHẠM LỖI RỒI MỚI CHẾ GIỚI

(33:48) Hỏi: Vì sao Thế Tôn chẳng chế giới thẳng từ đầu mà lại đợi có người phạm rồi mới chế giới?

Đáp: Đức Thế Tôn mới thành Chánh Giác, hai bộ giới pháp tăng ni đã định, nhưng chỉ vì căn tánh chúng sanh chưa thuần khắp thế nên Ngài mới tùy phạm mà kiết giới.

Kinh Văn Thù Vấn nói: Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng:

- Thế Tôn, đời vị lai sẽ có người phê phán Phật, nói như vầy: “Nếu Đức Như Lai là nhất thiết trí, cớ sao đợi chúng sanh làm tội rồi mới chế giới?”

Phật bảo Văn Thù:

- Như vậy mới đúng là nhất thiết trí. Nếu như ta ngược chế giới trước thì người sẽ chê ta. Vì sao? Vì họ chẳng làm tội, tại sao lại cưỡng chế?

Đó là cái lời Đức Phật mâu thuẫn, ở đây nó nói như vậy là Thầy thấy Đức Phật rất là mâu thuẫn với Đức Phật. Ngay từ vào đầu sơ thiện thì Đức Phật đã dạy như thế nào là không sát sanh nè, không trộm cắp nè, không có dâm dục nè, không có vọng ngữ nè, không uống rượu nè, không phải cái đó là giới sao?

Đọc vào những cái giới kinh chúng ta thấy ngay liền là ngay từ đầu nó đã có cái đó rồi, mà sao lại nói là Đức Phật không chế giới trước? Đó là những cái sai. Cho nên ở đây chúng ta lý luận như vậy, rồi bây giờ các giới bổn này ra đời thì cũng là không sát sanh, cũng không tà dâm, cũng không là dâm dục, cũng không vọng ngữ, cũng vô đó chớ cái gì? Như vậy là trước cũng có đó chớ đâu phải không có?

Cho nên ở đây là cái miệng của người ta méo qua méo lại, cái lưỡi người ta nó mềm nó uốn tới uốn lui cho nên nói muốn nói sao cũng được hết, mà cứ đổ thừa ông Phật không à! Cho nên dường như chúng ta thấy ông Phật dường như là nhiều miệng nhiều lưỡi, nhưng mà sự thật ông Phật không có nhiều miệng nhiều lưỡi, mà tại vì người sau này gán cho ông Phật trở thành nhiều miệng nhiều lưỡi như vậy.

Đó, qua cái sự mà vấn đáp ở đây, hỏi và đáp ở đây, chúng ta thấy rõ ràng là người ta hiểu Phật pháp bằng cái kiểu đó đó.

…​ Đây chẳng phải là nhất thiết trí. Họ sẽ nói rằng: “Vì tôi không có tội lỗi, Như Lai không tâm từ bi, chẳng nhiếp thọ chúng sanh, như người không có con mà nói có con, giờ mấy sẽ sinh. Chỉ có lời nói suông, làm sao tin được? Vì sao? Vì chẳng chân thật, nếu thật thấy con thì sanh lòng tin.”

Như thế Văn Thù, những tội chưa làm, trời người chẳng thấy, làm sao nghịch chế giới được? Cần phải thấy tội rồi mới chế ra.

(36:28) Thì như vậy rõ ràng cái pháp này cần có tội rồi mới chế. Bây giờ có ăn trộm ăn cướp nhà nước mới chế giới ra: Người nào ăn trộm ăn cướp là phạm tội chặt tay chặt chân đi, mình mới chế ra để chặt tay chặt chân cho người ta sợ, thì như vậy là cái người mà chế cái giới luật này chờ cho phạm tội mà chế, thì như là nhà nước mà chế pháp luật. Cho nên giới bổn nó nhằm vào cái chỗ đó mà lý luận.

Còn Đức Phật chế cái giới ra tức là nói về cái pháp thiện để nhờ đó mà chúng ta nương vào cái pháp đó mà chúng ta quét sạch lậu hoặc để giải thoát, thì cái giới phải chế trước chớ, pháp phải đi trước chúng ta mới có pháp mới tu chớ? Còn bây giờ đợi, chúng ta làm sao, chúng ta không pháp gì hết, biết đâu mà tu giải thoát?

Bây giờ đợi cho phạm tội rồi mới chế giới thì như là một cái quốc gia người ta chế cái pháp luật để bắt buộc dân, bây giờ nó ăn trộm cắp thì phải chế cái đó đặng cho chặt tay chặt chân nó, nó sợ nó không dám ăn trộm ăn cắp nữa. Còn chế giới cũng như vậy, thì như vậy chẳng qua là không phải có cái pháp tu rồi.

Cho nên ở đây Thầy thấy giới bổn hoàn toàn là nó ngược lại với giáo pháp của Phật, giới luật của Phật, nó không có đúng cách của Phật. Bởi vì cái giới luật của Phật chế ra là cái pháp thiện để cho người ta nương vào thiện mà người ta phá cái ác, người ta mới diệt được cái lậu hoặc, người ta mới giải thoát được.

Cho nên cái pháp nó phải có trước. Có trước người tu chúng ta mới tu, mới nương vào đó mới trau dồi mới tu tập, mới được giải thoát. Như vậy mới đúng là giáo pháp của Phật.

Giáo pháp của Phật mà đi sau như vậy là chế giới luật bắt buộc người ta bị phạm tội như thế này tội như thế kia, người ta sợ người ta không dám làm, thì như vậy là cái pháp đó có phải pháp tu đâu?

Cái đó không phải là pháp tu, mà cái đó là ức chế người ta. Người ta muốn làm cái đó là mình cho ghép người ta thành cái tội, rồi mình cho người ta, chớ người ta nói rằng: “Tui làm cái đó không tội mà tại ông muốn ghép tui như vậy!” Cho nên chế giới như vậy là không đúng cách của đạo Phật.

Đạo Phật là pháp đưa ra trước để cho cái người tu người ta nắm được cái pháp người ta đi đến cái sự giải thoát, người ta làm chủ được sanh lão bệnh tử, người ta làm chủ được luân hồi, thì cái pháp đó mới chính là của Phật.

Còn cái giới luật mà chế như vầy Thầy thấy nó không phải đâu. Đợi chúng ta làm tội rồi mới chế ra đặng ngăn chặn chúng ta, thì như vậy là cái đó là cái pháp hay là cái gì? Làm chúng ta sợ hãi mà chúng ta không phạm, chớ không phải là do cái chỗ đó để làm chúng ta được giải thoát, đó là cái sai.

Lại trong luật Thiện Kiến, Phật nói: Khi chưa có hữu lậu, Như Lai kiết giới thì chúng sanh sẽ khởi ý phỉ báng rằng: “Đệ tử Phật đều là dòng họ quý hoặc là ngôi vua…​

Tại sao tất cả đệ tử của Phật trước kia, sau này, ngay cả Đức Phật nó có lậu hoặc chớ đâu phải không! Do lậu hoặc đó chúng ta mới có sanh, lão, bệnh, tử. Vì vậy mà chúng ta muốn vượt thoát ra khỏi cái sanh, lão, bệnh, tử thì nó phải có pháp chớ?

(39:04) Chứ đâu phải là nói hồi đó không có lậu hoặc thì toàn là Thánh không sao? Thánh sao mà đi tu, mà khổ hạnh, mà như thế này như thế khác dữ vậy? Toàn là Thánh sao mà có người lại chết, có người lại bệnh, có người lại khổ sở, vậy mà gọi là Thánh sao?

Hình ảnh mà Đức Phật đã nhìn trong bốn cửa thành đi ra không phải là nói lên bốn cái sự khổ của con người sao? Mà gọi họ lúc bấy giờ họ là Thánh vô lậu hết sao? Đó là cái lý luận sai, nó không phải là cái lý luận đúng.

…​ đệ tử Phật đều là dòng họ quý, hoặc là ngôi vua, bỏ cả của cải, cung điện, vợ con, quyến thuộc, chẳng tiếc thân mạng, đều là biết đủ nơi thế gian, không hy cầu chi, vì sao Cù Đàm đem Ba La Mộc Xoa Đề mà buộc? Đây là vì Cù Đàm chưa khéo biết người đời, nếu kiết giới thì người đời cũng chẳng sanh tâm kính trọng.”

Đó là những cái lý luận của những nhà làm luật đó, những cái lý luận của những cái nhà mà làm giới bổn đó. Họ lý luận như vậy đó để họ gán ông Phật như vậy đó. Thầy thấy cái lý luận này là cái lý luận rất sai.

Khi Đức Phật thấy cái cuộc đời khổ vì cái lậu hoặc, trước đó thì Đức Phật đâu có biết lậu hoặc mà thấy khổ? Con người ai cũng khổ. Nhưng mà đâu ngờ đó là do cái lậu hoặc của chúng ta mà nó đưa đi đến những nhân quả trên con đường nhân quả mà tạo chúng ta liên tục trong cái sự tái sanh luân hồi, kiếp này nó chuyển qua kiếp khác mãi mãi mà không dứt. Do đó mà Đức Phật mới bỏ cung vàng điện ngọc chớ đâu phải là…​

Nếu muốn tìm cái sự giải thoát thì phải ly bỏ cái này để đi tìm cái con đường tu tập, để đi tìm cái pháp giải thoát, cho đến khi cuối cùng tự mình mới phát triển ra, hiểu được cái pháp như thế nào để mà giải thoát, từ đó mới đem cái pháp mà dạy lại cho người ta, thì cái pháp đó không phải là giới luật sao?

Ở đây còn bày đặt thêm cái giới bổn để rồi phỉ báng Phật đến cái mức độ như vậy, mà luận như vậy để kết thúc cái lời của Phật như vậy, Thầy thấy quá là phỉ báng Phật.

Ví như y sư chưa khéo trị bệnh, thấy người mới muốn sanh nhọt, tuy có tánh nhọt mà chưa thành tựu lớn, bèn đem ra mổ, máu tuôn lai láng, đau đớn vô cùng. Lấy thuốc thoa vào, ghẻ liền hoàn phục.

Y sư nói: “Ta trị bệnh cho ngươi rồi, hãy trả tiền cho ta!” Người bệnh đáp: “Đây là y sư khùng. Nếu tôi thật bệnh mới trị cho tôi, đằng này tôi vốn không sưng mà lại mổ xẻ làm cho vết thương đau đớn quá chừng!”

Đó các thầy nghe những cái luật sư họ luận như vậy đó. Nghĩa là đặt thành vấn đề nếu mà Đức Phật chế những cái giới này trước, thì như là một cái vị thầy thuốc, cái mụn nhọt người ta mới có hơi nổi lên chưa có mủ máu gì hết, lấy dao mà khoét cái chỗ đó đi, làm cho người ta thành cái mụn ghẻ lớn ra, do đó coi như là làm cho người ta đau khổ hơn chớ không có cái ích lợi gì hết.

(42:08) Đó, thì thấy như vậy thì rõ ràng là họ lý luận như vậy. Sự thật ra cái pháp của Phật đâu phải là cái…​ Cũng như một cái liều thuốc, mà vì chúng sanh hiện đang bệnh, con người đang khổ. Khổ là gì? Sanh, lão, bệnh, tử, bốn cái khổ này hiển nhiên là ai cũng phải thấy rằng Đức Phật trong cái thời Đức Phật còn trai trẻ thanh niên chưa tu đã nhận thấy cái này rồi.

Chớ phải chi trong cái thời Đức Phật không có thấy cái này, thì nói bây giờ Đức Phật chưa có chế cái này ra, bây giờ sau khi Đức Phật tu thành đạo rồi bắt đầu người ta mới có sanh, lão, bệnh, tử, người ta có những cái bệnh này, do đó bây giờ Đức Phật mới chế cái giới ra để trị cái bệnh này.

Còn đằng này là trước Đức Phật, sau Đức Phật, luôn luôn người ta bị bốn cái bệnh này, bốn cái khổ này, cho nên bây giờ Đức Phật mới tìm ra cái pháp, cái phương thuốc để trị bốn cái bệnh này. Thế mà bây giờ đem ra cái phương thuốc để trị bệnh này thì người ta lại nói: Chờ cho có bệnh này rồi mới trị. Hiển nhiên là bây giờ người nào cũng ở trong có cái thân này là cũng mang bốn cái bệnh sẵn sàng hết rồi, mà bây giờ chờ cho có bệnh là chờ làm sao?

Đó thì các thầy thấy cái lý luận của các nhà làm luật nó ngược ngạo, nó nói không có đúng cái cách. Bởi vì con người mà sinh ra thì người nào cũng ở trong bốn cái loại bệnh này hết. Từ xưa đến giờ chớ không phải là Đức Phật mà mới ra đời rồi phải trải qua mười hai năm mới có cái bệnh sanh - lão - bệnh này đâu.

Thế mà những cái phương thuốc của Đức Phật sẵn sàng có rồi, bây giờ họ chế lại, họ nói bây giờ phải mười hai năm sau Đức Phật mới chế ra cái giới luật này để trị cái bệnh, vì có người bệnh mới chế. Nghĩa là cái lý do của họ nói là phạm tội này phạm tội kia.

Phạm tội này phạm tội kia, phạm những cái giới luật đó là cái gì? Không phải là do cái chỗ mà tham, sân, si, mạn, nghi của họ, không phải là do cái lòng dục của họ, ham muốn mà họ phạm cái tội đó không?

Bây giờ chúng ta muốn ăn hai ba bữa tức là chúng ta có cái dục trong đó chớ gì? Mà do dục nó mới sanh ra bao nhiêu thứ khổ, mà do dục nó mới có sự sanh tử luân hồi, chớ còn nếu không dục thì làm sao có cái chuyện mà sanh tử luân hồi được!

Đó thì quý thầy thấy họ lý luận như vậy đó mà để họ soạn những cái bộ kinh giới, họ làm như là kinh giới là hay ho gì lắm.

3.4- GIỚI BỔN ĐẶT RA LỤC QUẦN TỲ KHEO ĐỂ CHẾ GIỚI

(44:16) Hỏi: Vì sao pháp lậu khởi phần nhiều do bọn Lục Quần Tỳ Kheo và Lục Quần Tỳ Kheo Ni? Ấy là họ cố tình hay là vô tâm phạm?

Họ nói tại sao mọi ông thầy khác thì không có, mọi vị Tỳ Kheo khác thì không có…​ (Mất tiếng)

Thầy nói trước cho quý thầy thấy rằng họ sẽ bào chữa cho cái bọn phá giới này là họ là Bồ Tát đó, nghĩa là Bồ Tát nghịch hạnh để làm cho Phật chế giới, chớ còn Phật chẳng biết gì, nhờ mấy cái người này mà chế giới đó.

Tức là ông Phật còn thua mấy cái vị Lục Quần Tỳ Kheo này nữa. Nghĩa là Lục Quần Tỳ Kheo Tăng và Lục Quần Tỳ Kheo Ni nè là những người mà làm những cái sai phạm đó để cho ông Phật thấy mà chế giới ra, chớ ông Phật không biết.

Đọc lại giới kinh chúng ta thấy có cần phải Lục Quần Tỳ Kheo Ni, Lục Quần Tỳ Kheo Tăng đâu, ông Phật vẫn chế ra sơ thiện, trung thiện, hậu thiện rất rõ ràng, đâu có cái nào mà không đủ? Nội bây nhiêu đó mà chúng ta đã thấy được những cái pháp từ cái giới hạnh đến cái giới đức, đến cái giới tuệ, rồi cái giới hành, chúng ta thấy quá rõ ràng, cụ thể ở trong cái từ sơ thiện, hậu thiện và trung thiện của Đức Phật dạy ở trong kinh Nikaya rất là cụ thể, không còn cái gì…​

Mà chúng ta có thể nói đó rằng cái giới luật đó mới chính là thầy của chúng ta. Còn cái giới bổn này là cái đồ thừa, nó không phải là ông thầy của chúng ta đâu. Cho nên ở đây luận để mà làm sai lệch, cái bọn Lục Quần Tỳ Kheo này với Lục Quần Tỳ Kheo Ni này chỉ đặt điều ra mà thôi, lôi ba cái ông này ra để mà chế giới tầm bậy chớ không phải đúng theo đạo Phật.

Bởi vì khi mà Lục Quần Tỳ Kheo này mà vào xuất gia theo Phật thì ngay cả cái giới sơ thiện, trung thiện, hậu thiện họ đã thực hiện thì làm sao họ còn phạm nữa? Đâu phải họ là bọn lục lâm ở đâu mà họ nhào vô đây được!

Muốn tu đâu phải chuyện dễ. Nếu mà ngoại đạo thì phải bốn tháng hay hoặc bốn năm để người ta nghiệm coi có sống được trong cái đời sống của một cái người tu không. Còn đằng này đâu có phải muốn vào đó cái vào được liền sao?

Cũng như quý thầy muốn theo Thầy cũng đâu phải được dễ đâu. Bây giờ quý thầy muốn theo Thầy mà tu, Thầy nói Thầy ẩn bóng chớ đâu phải thực là Thầy ẩn bóng đâu. Thầy nói thật sự ra Thầy đang chọn cái người nào xứng đáng là Thầy dẫn theo Thầy chớ còn cái người nào chưa xứng đáng là Thầy bỏ hết chớ Thầy đâu có nhận.

(46:23) Bởi vì mình tu là mình phải dứt khoát, còn mình tu mà không dứt khoát thì thời ông Phật cũng vậy thôi, muốn đem người ta cứu khổ người ta đâu phải là đụng ai cũng nhận vô, nhận vô đó để mà làm…​ (Mất tiếng)

  1. đã tiếp chúng ở đây rất nhiều chớ không phải ít, o đó Thầy đã tìm hiểu tất cả mọi cái sai, cái phạm, cái đúng như thế nào, cái kiến chấp của họ như thế nào đủ mọi mặt hết, Thầy mới rút tỉa ra từng những cái kinh nghiệm mà Thầy thấy bây giờ phải trở lại con đường đúng của Đạo Phật, không thể nào mà tùy thuận với các pháp khác mà có thể dẫn dắt họ đi vào con đường của đạo Phật được hết.

Tới chừng mà kết luận với cái giáo án này, Thầy sẽ nói lại trong cái quá trình mà Thầy hướng dẫn tu sĩ ở đây, để cho quý thầy biết rằng cái công trình mà của Thầy hết sức, chớ không phải là tùy thuận Đại Thừa nè, tùy thuận Thiền Đông Độ nè, tùy thuận mọi vị Hòa thượng hết, mà không bao giờ nói chạm ai hết, chỉ luồn lách ở trong đó mà để dẫn dắt họ trở về đúng con đường của đạo Phật.

Thế mà không được, họ hoàn toàn họ có những cái kiến chấp của họ, không có ai mà chịu nghe lời Thầy hết. Cho nên do đó làm sao mà không nói thẳng ra được? Vì vậy ở đây Thầy hoàn toàn là Thầy nói thẳng: Những cái này là những cái bịa đặt mà thôi.

Ngay từ vào đầu là ông Phật đã chọn một cái người ngoại đạo đi, thì cũng phải bốn tháng để xem coi ông đó như thế nào. Trong kinh điển của Phật nói rất rõ mà, đâu có phải muốn vô là vô đâu?

Còn một cái người cư sĩ hoàn toàn trong sạch, thanh tịnh đến nghe pháp rồi xin Đức Phật xuất gia là Đức Phật chấp nhận liền, tại vì ông ta không có kiến giải, không có cái kiến chấp, cho nên do đó mà Đức Phật nhận liền.

Còn cái loại ngoại đạo là có cái kiến chấp của họ rồi, họ có đầy ắp ở trong cái đầu họ thứ này thứ kia rồi, cho nên bốn tháng coi họ sống được hay không. Mà nếu sống được thì mới sống trong cái giới pháp của Phật được thì mới chấp nhận, còn sống không được trong giới pháp thì mời họ ra đi liền chớ đừng có mong là cho ở trong đó.

Cho nên cái Lục Quần Tỳ Kheo Tăng với Lục Quần Tỳ Kheo Ni này, là những cái bọn này làm sao mà sống được ở trong cái giáo pháp của Phật được? Cái hành động mà phạm như vậy, trong một ngày thôi cũng không được nữa chớ đừng chi mà nói rằng ở trong đó suốt đó mà để chế giới cả giới bổn như vậy.

(48:24) Đáp: Nhóm Lục Quần Tỳ Kheo Tăng và Ni này đều là đại quyền thị hiện tuyên thông Phật giáo, trong làm rường cột các pháp môn, ngoài làm đại hộ cho Phật giáo.

Nói dóc không? Thầy thấy hầu như là cái này, nói như vậy thì cái thời gian mà từ khi có giới bổn này, có phải đại vọng ngữ không? Quý thầy xem thấy nè: Từ khi giới bổn này ra đời thì thử hỏi có vị thanh tịnh tăng nào không, hay là tất cả toàn bộ là phạm giới hết? Tìm lại một ông tăng mà thanh tịnh giới, chúng ta có thấy không?

Nhưng mà trước kia chưa có giới bổn, mười hai năm mà trở về trước á, chúng ta thấy có những bậc Thánh Tăng thanh tịnh giới. Còn trở về sau này, chúng ta thấy giới bổn ra đời rồi, có không, mà nói rằng rường cột của Phật giáo? Rường cột cái đó kiểu là chôn Phật giáo chớ rường cột gì?

Lục Quần Tỳ Kheo Tăng, Ni đều là đại quyền thị hiện tuyên thông Phật giáo.

Tuyên thông cái khỉ gì? Đem Phật giáo mà chôn xuống đất chứ ở đó tuyên thông!

Trong làm rường cột các pháp môn…​

Rường cột khỉ gì? Phá giới luật vầy mà rường cột với ai? Ai mà nương theo mấy cái bà, mấy ông này được?

…​ ngoài làm đại hộ cho Phật giáo.

Hộ cái gì? Thầy nói thật sự, mấy ông này miệng lưỡi dữ lắm, coi như là các vị này đều là Bồ Tát cho nên là hộ Phật giáo lắm! Hộ riết rồi bây giờ nhìn Phật giáo chúng ta thấy sa đọa, ông nào cũng ở chùa to tháp lớn hết, không bao giờ ở cái nhà tranh vách lá, ông thầy nào cũng cưỡi xe Dream, lái xe hơi chạy ù ù, ông nào cũng ăn uống phi thời, ông nào cũng hút thuốc cán chớ chưa cần phải hút thuốc lá nữa.

Đó là những cái đại bộ phận mà bây giờ chúng ta đã nhìn thấy, không phải trong cái thời chúng ta mà trước đây cũng vậy nữa. Thậm chí còn rất tệ nữa là ông thầy lại còn có vợ có con ở trong chùa, sinh hoạt cũng như một cái gia đình cư sĩ, không ra gì hết.

Đó là cái giới bổn ra đời đó. Lúc nào người ta cũng đọc giới bổn, một tháng hai lần tụng giới bổn, thế mà nhìn ông thầy có ra cái quái ôn gì không? Vậy mà nói là Lục Quần Tỳ Kheo Tăng và Ni này đã làm rường cột, đã hộ pháp như vậy để cho Phật giáo được trường tồn! Đó là trườn ở dưới hầm dưới hố chớ không phải trường ở trên đâu!

Như Lai ở đời là bọn Lục Quần đều làm dậy sóng trong Tăng đoàn, huống gì riêng tôi ngày nay. Họ đâu biết các bậc hiền xưa chính vì hậu lai mở giáo lại trở nên hiền xưa là sai.

Nghĩa là nói như thế này, ý là nói các cái vị Lục Quần Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni này, là vì làm nó quậy sóng ở trong Tăng đoàn để do đó bây giờ chúng ta mới có cái giới bổn này đó. Còn nếu không có quậy sóng như vậy chắc chắn là chưa bao giờ có giới bổn hết, nhờ mấy người này mới có giới bổn.

Mà thử hỏi từ khi mà giới bổn này ra đời có đem lại cái gì ích lợi cho Phật giáo không? Chúng ta thấy hoàn toàn là đem lại cái số tu sĩ phạm giới không, chạy theo dục lạc không, chớ không có một cái gì mà gọi là thanh tịnh, toàn bộ.

(51:32) Thay vì quý vị này là Bồ Tát Hạnh đi, làm những hạnh nghịch đi để cho Phật nương vào đó chế giới, thì bây giờ ít ra quý thầy, tất cả tăng ni của chúng ta phải thanh tịnh giới chớ, sao lại phạm giới hết vậy? Thì có phải là nương theo ba cái hạnh sai lầm này để mà phá giới, phạm giới đủ cách không?

Hỡi ôi! Pháp Phật đã đến hồi vận mạt như thế làm nhiều người biếng nhác, chẳng giữ nổi giáo pháp Như Lai, trở sanh chê báng, tạo nhiều thứ nghiệp.

Nên kinh Bách Dụ nói: “Người đời chẳng biết Như Lai pháp vương vì chúng sanh mà lập nhiều phương tiện, chỗ vắng khuyết bèn sanh lòng hủy báng, bắt chước điều chẳng phải ấy. Do có đó ở trong Phật pháp mất hẳn sự lành, đọa ba đường dữ.”

Kinh Phương Đẳng Đại Vấn nói: “Đề Bà Đạt Đa khai mở bài giúp người khiến a tăng kỳ vô lượng chúng sanh an trụ căn lành. Bao nhiêu cảnh giới Đề Bà Đạt Đa thật chẳng phải là chỗ Thinh Văn, Duyên Giác biết được.

Nhóm Lục Quần Tỳ Kheo cũng là Đại Bồ Tát. Đề Bà Đạt Đa với họ đồng hàng. Nếu ai biết công đức Đề Bà Đạt Đa, tỏ rõ không nghi, thời phải biết người ấy thật là đệ tử Phật, đặng một trong hai phần công Đức Phật, đặng một mắt của Phật, đặng nửa thân của Phật. Đừng nói Đề Bà Đạt Đa là tệ ác phá hại chúng ta, hãy biết đó tức là khéo phương tiện vậy!”

Nghĩa là Đề Bà Đạt Đa toàn phá hoại cái hòa hợp tăng, chia chẻ Tăng đoàn ra, còn các Lục Quần Tỳ Kheo thì tạo đủ điều kiện phạm giới để cho Đức Phật chế giới ra, do đó còn gọi là nào là công đức thế này thế khác.

(53:26) Nhưng thời gian xác minh rằng chúng ta là cái thời sau của các ngài quá lâu, chúng ta xác minh từ cái ngày mà Đề Bà Đạt Đa phá Tăng đoàn, rồi các vị Lục Quần Tỳ Kheo Tăng và Ni này mà đã nhờ đó mà chế ra giới, thì cái thời gian mà từ đó trở về chúng ta đâu có phải một thế kỷ, hai thế kỷ? Rất nhiều thế kỷ. Mà tu sĩ chúng ta ra gì? Có ra gì không?

Từ các bậc Hòa thượng cho đến các vị tu sĩ, Sa Di nhỏ, chúng ta vẫn thấy hoàn toàn là không đúng chánh pháp của Phật. Họ sống bừa bãi, họ sống không có đúng giới hạnh của người tu, hoàn toàn là chạy theo sống trong dục lạc.

Đó là chúng ta thấy cái thời gian để xác định rằng Đề Bà Đạt Đa có phải là Bồ Tát, Đại Bồ Tát không? Có phải là Lục Quần Tỳ Kheo Đại Bồ Tát không? Nếu là Đại Bồ Tát đã thể hiện pháp như vậy thì đời của chúng ta đâu có phải là thiếu giới thanh tịnh?

Cho nên những cái bọn phá này mà còn dùng mồm mép gọi là Đại Bồ Tát thì Thầy thật sự ra Thầy làm sao mà Thầy tin được! Nhìn trong cái thời gian trải dài chúng ta đã xác định được Phật giáo ở cái tầm vóc nào rồi, cho nên những bọn này đâu có nghĩa là bọn Đại Bồ Tát, mà đó là bọn danh bọn lợi.

Ngay trong thời Đức Phật là Đề Bà Đạt Đa đã chạy theo danh lợi chứ chưa phải là Bồ Tát gì cả hết. Thỏa mãn cái tâm danh lợi, cho nên mới tìm cách hại Phật để đoạt cái Giáo đoàn, chớ đâu phải là cái người tốt?

Hạng này là cái hạng rất xấu, mà chính bây giờ chúng ta nhìn thấy Phật giáo chúng ta chia rẽ, mà từ cái chia rẽ này cho đến cái chia rẽ khác cũng vì cái danh cái lợi làm mờ mắt họ do thiếu chánh pháp.

Những cái pháp mà gọi là giới luật của họ, tại sao họ gọi là chánh pháp, sao họ không sống được, họ không tu được để họ giữ thanh tịnh giới đi, mà họ lại phạm như vậy?

3.5- VẤN ĐỀ KẾT HỢP GIỮA ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA

(55:26) Hỏi: Giới pháp và nhân quả đối với Sa Môn Đại, Tiểu Thừa thế nào?

Đáp: Tự vì có ưa giới pháp nên mới ưa Sa Môn, vì giới pháp là nhân quả của Sa Môn, nếu nhân chẳng ra thì quả không do đâu mà lập.

Người đời nay chẳng học giới pháp Sa Môn mà xưng là Sa Môn, thật lầm rất lớn lắm vậy! Hoặc có người nói: “Tôi không vì tôi.” Ôi! Nếu mình chưa thông mà muốn thông người cũng như không biết lội mà nhảy xuống biển cứu người chết chìm, há không đều chìm hết sao? Hoặc nói: “Tự có Đại Thừa, cần gì học Tiểu Thừa?” Ấy vậy mà chưa thấu Đại Thừa nên nói lối đó.

Như nhóm Lục Quần kia vốn Đại Bồ Tát, sao còn bày ra hạnh Tiểu Thừa? Đâu biết hộ mình, hộ người chính là bổn hoài của Bồ Tát! Một việc lành nhỏ chẳng bỏ là hoằng tâm của đại sĩ, huống chi Đại - Tiểu thông thường đều về nghĩa đế đệ nhất, trang nghiêm cái thân muôn đức, nếu bỏ đây còn đâu nữa?

Ở đây, cái người mà viết giới này muốn hòa hợp giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa, muốn hòa hợp cả hai cái pháp này lại.

Nhưng mà họ không xét rằng cái Đại Thừa là như thế nào, mà cái Tiểu Thừa như thế nào? Ai đã gọi là Tiểu Thừa, mà ai đã gọi là Đại Thừa? Cái nào lớn mà cái nào nhỏ đây? Cái nào được giải thoát mà cái nào không giải thoát đây? Từ ngày có Đại Thừa ra đời thì con người có giải thoát hay không?

Chúng ta đặt câu hỏi để chúng ta thấy từ cái ngày mà có kinh phát triển mà gọi là Đại Thừa thì đến bây giờ con người có giải thoát không? Có đúng giới luật không? Có sống đúng cái Phạm hạnh, giới hạnh không?

Đó thì như vậy là chúng ta sẽ hiểu biết được Đại Thừa và Tiểu Thừa nó ở cái mức độ nào mà của người sau chúng ta đã làm ra.

(57:46) Hỏi: Xét về kinh luật, Đại Thừa và Tiểu Thừa có liên quan ra sao?

Đáp: Xét rõ kinh luật, Đại Thừa tuy quở tâm nhỏ Thinh Văn tự độ, chẳng phải trách giới hạnh Thinh Văn nghiêm trì, mà là lớn nhỏ song tu, tánh giá điều hộ mới thuận gốc giải thoát, chẳng trái lời dạy của Đức Từ Tôn.

Nên trên hội Bát Nhã, các Bồ Tát tu Bát Nhã Ba La Mật Đa phải khéo biết tu học các oai nghi giới hạnh Thinh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Nếu thấy người oai nghi chẳng xứng, chúng bèn hãy lánh xa. Nếu có Sa Môn giới hạnh oai nghi thì nên thân cận.

Trong kinh Đại Bảo Tích nói: Bồ Tát nếu nghĩ ngợi như vầy: “Pháp này rất sâu, pháp kia chẳng sâu; pháp này là sạch, pháp kia chẳng sạch; đây là pháp của chư Phật, này là pháp Duyên Giác, này là pháp Thinh Văn; pháp này nên làm, pháp kia chẳng nên làm; đây là pháp sâu, đây là pháp cạn” ấy gọi là mạn tăng thượng!

Lại kinh Bồ Tát Giới nói: Nếu Bồ Tát thấy như vầy, nói lời như vầy, Bồ Tát chẳng nên nghe kinh pháp Thinh Văn, chẳng nên thọ, chẳng nên học. Bồ Tát dùng pháp Thinh Văn làm chi? Ấy gọi là phạm rất nhiều phạm!

Nội Pháp Truyện nói: Nếu lễ Bồ Tát đọc kinh Đại Thừa gọi là lớn, chẳng làm việc này gọi đó là nhỏ. Tiếng gọi Đại Thừa thông qua hai thứ: Một là Trung Quán, hai là Du Già. Trung Quán thì trong tục có chân, không thể rỗng như huyễn. Du Già thì ngoài, trong không có, diệt điều di thức.

Đấy đều là dòng thánh giáo, chỉ thị chi phí, đồng hiệp với Niết Bàn, nào chân nào vị, nói nơi dứt hoặc phiền não, cứu vớt chúng sanh, đâu muốn rộng sinh phân vân thêm chìm kết nữa. Y theo làm thì nên bỉ ngạn, trái bỏ thì chìm cả bốn sinh. Đây kia đều làm, lý không trái cãi. Đã không mắt huệ, ai xét phải quấy? Tùy quen lâu mà tu đi, xin đừng nhọc tâm chia cắt như lời trên nói. Tự hãy nghĩ lấy, chẳng cần luận nhiều khác nữa.

(01:00:34) Ở đây cũng cái lý luận của một luật sư muốn hợp giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa. Bởi vì có một cái số người ở trong góc độ của Đại Thừa thì chê Tiểu Thừa là tiêu nha bại chủng, còn có những người mà ở trên cái góc độ của Tiểu Thừa thì cho rằng đó là Phật giáo phát triển Bà La Môn. Do cái sự mà phân chia như vậy, cho nên cái ông luật sư này ổng viết ra thì ổng có muốn cái ý là kết hợp lại.

Nhưng sự thật ra thì không thể nào mà chúng ta nghĩ rằng…​ Kết hợp lại, nó đúng thì chúng ta kết hợp, mà nó sai làm sao chúng ta kết hợp được? Giáo pháp của Phật còn ràng ràng kia mà làm sao chúng ta kết hợp với những cái chuyện mà nó không đúng?

Giới luật của Phật nó còn ràng ràng kia mà bắt buộc chúng ta phải chấp nhận giới bổn của họ thì làm sao mà chúng ta chấp nhận được? Khi giới luật của Phật là một cái pháp hành, còn cái giới bổn của họ là một cái pháp luật, thì hai cái này nó khác xa với nhau, làm sao mà hợp lại được?

Cho nên ở đây chúng ta hợp, chúng ta không có sự chia cắt ra, nhưng chúng ta phải hợp cho đúng cách. Mà hợp không đúng cách là làm cho nó lệch lạc Phật pháp, làm nó sai lệch, thì từng đó cái giới hạnh và oai nghi của người tu sĩ càng hợp thì nó lại càng lệch.

Vì vậy mà chúng ta nghe những cái nhà học luật người ta kêu gọi chúng ta đoàn kết lại, Tiểu Thừa và Đại Thừa, nhưng mà đoàn kết ở trong cái mục đích nào? Không nêu rõ cái mục đích để chúng ta đoàn kết. Vì vậy mà càng đoàn kết thì chúng ta thấy càng phá giới, càng làm bại hoại Phật pháp ra mà không thấy gì hết.

Mà nói trên danh từ đoàn kết, nhưng sự thật ra trong thực tế có đoàn kết được hay không? Điều đó chúng ta cần phải suy nghĩ nữa. Đó là một cái điều người ta nói, người ta mong muốn, nhưng chính bản thân cái người nói, cái người mà viết ra, chưa chắc họ đã muốn đoàn kết.

3.6- NGƯỜI BIẾT HỔ THẸN MỚI SỐNG ĐƯỢC GIỚI LUẬT

(01:02:35) Hỏi: Hạng nào mới ưa học giới?

Đáp: Hạng có hổ thẹn mới ưa học giới. Nghĩa là tự chẳng làm tội gọi là có hổ, chẳng bảo người khác làm tội gọi là thẹn. Lại nơi các việc dữ tự hổ gọi là hổ, nơi các việc thẹn với người gọi là thẹn.

Thế gian nếu không có hai pháp hổ, thẹn thì đều trái vượt. Đại Thánh Thanh Văn hướng tới đường hiểm sanh tử già chết, nên Đại Kinh nói: Chư Phật, Thế Tôn thường nói lời rằng: “Có hai pháp trắng hay cứu vớt chúng sanh: Một là hổ, hai là thẹn…​

Ở đây Thầy thấy cái pháp mà Đức Phật đã từng nhắc chúng ta là mình phải tu tập cái pháp hổ thẹn, mà ở đây chỉ nói hổ thẹn, người nào cũng có hổ thẹn à! Mới đầu thì người ta chưa có phạm cái lỗi đó, người ta không có hổ thẹn đâu.

Cũng như bây giờ Thầy mới đầu khép vô Thầy ăn ngày một bữa, mà Thầy ăn thì một thời gian mà Thầy chịu không nổi rồi Thầy lén Thầy ăn cắp Thầy ăn phi thời rồi, thì Thầy có hổ thẹn nữa không? Cho nên cái hổ thẹn này không thể tự dưng mà có được đâu. Cho nên cái mà chúng ta đã làm quen rồi thì không có cái hổ thẹn nào mà xen vô được hết.

Cho nên Phật dạy chúng ta phải tu tập tàm và quý. Chữ “tàm” có nghĩa là hổ thẹn, mà chữ “quý” có nghĩa là sợ hãi. Người ta ghép hai cái chữ này lại, người ta gọi tàm quý là hổ thẹn thì Thầy thấy nó không đúng.

Chữ “quý” là vô úy đó, không có sợ hãi đó. Bởi vì khi chúng ta có sợ hãi một cái lỗi nhỏ nào đó thì chúng ta mới có xấu hổ, còn chúng ta không sợ hãi thì chúng ta không có xấu hổ đâu, chúng ta cứ làm hoài.

Chẳng hạn bây giờ Thầy ăn ngày một bữa, mà một lát nữa Thầy thấy cái bánh, Thầy thấy nó thích quá, Thầy lén Thầy ăn đi, nhưng mà Thầy thấy nó không có sợ hãi cái lỗi đó đi, cho nên Thầy cứ làm hoài thì Thầy có hổ thẹn đâu? Chính Thầy sợ hãi đó Thầy mới có sự hổ thẹn. Cho nên vì vậy gọi tàm quý là hai cái này ghép lại, tức là hổ thẹn và sợ hãi.

(01:04:47) Chữ uý ở đây thường thường người ta hiểu qua cái nghĩa khác cho nên người ta viết cái chữ nó thành không có đúng. Chữ chữ uý ở đây chữ u y chớ không phải - chữ sợ hãi đó, chớ không phải chữ quờ u y uy sắc quý đâu. Cho nên ở đây Thầy thấy dùng danh từ như vậy là những người không hiểu, dịch ra những danh từ như vậy là không có hiểu được cái ý của Phật.

Cho nên trong kinh điển của Phật, cái pháp mà chúng ta đầu tiên mà vào tu tập là cái pháp đầu tiên là phải tu tập tàm và quý. Đó như vậy. Cho nên ở đây Thầy khi mà nhắc đến cái điều này, Thầy dạy quý thầy phải tập tàm quý. Luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải tập sợ hãi trước những cái lỗi nhỏ trước tiên, do đó chúng ta mới thấy được cái sự xấu hổ.

Và sự xấu hổ đó, chúng ta thấy người ta không phạm, hằng ngày chúng ở đây người ta một bữa, còn mình thêm một cái ly nước ngọt, mình thêm một cái cục đường thì như vậy là mình phải xấu hổ. Mình ăn trộm người ta, mình ăn hơn người ta tức là mình ăn trộm rồi.

Cho nên mình sống ở trong chúng mình phải lợi hòa đồng quân, nghĩa là người ta ăn làm sao thì mình ăn như vậy, mà mình ăn hơn tức là mình sẽ xấu hổ rồi. Và mình thấy cái chuyện đó mình không xấu hổ tức là mình phạm. Đó là bước đầu vào cái sự học thì chúng ta phải học cái này.

Còn ông này lấy cái chỗ xấu hổ này nói bằng cái danh từ suông chớ không có cái pháp. Muốn tu tập cái pháp tàm quý, hằng ngày chúng ta phải đặt niệm như thế nào trước mặt để mà chúng ta thực hiện tàm quý, chớ đâu phải nói “Tui xấu hổ” rồi “Tui sợ hãi” là nói vầy là nó có xấu hổ, sợ hãi sao?

Ít ra chúng ta phải hằng ngày tu tập cái pháp đó như thế nào để cho thấm vào tâm hồn của chúng ta, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thấy sợ hãi những cái lỗi nhỏ, vì cái vi phạm nào đó làm chúng ta xấu hổ với mọi người. Do đó chúng ta hằng nhắc nhở mình như thế nào, hằng ám thị, hằng hướng tâm như thế nào, cho nên nó mới thực hiện được tàm quý, chớ đâu phải nói tàm quý là có tàm quý.

(01:06:41) Quý thầy muốn nói cái danh từ suông là nói dễ lắm, nhưng mà khi đi thực hiện đến những cái điều đó thì không phải là chuyện dễ. Bởi vậy cái gì cũng phải có pháp hành, mà không có pháp hành thì chỉ là một cái danh từ suông. Ở đây thì muốn nói suông thôi chớ còn không có cái gì hết.

…​ thì đều trái vượt. Đại Thánh Thanh Văn hướng tới đường hiểm sanh già bệnh chết, nên Đại Kinh nói: Chư Phật, Thế Tôn thường nói lời rằng: “Có hai pháp trắng hay cứu vớt chúng sanh: Một là hổ, hai là thẹn. Hổ là trong tự xấu hổ, thẹn là ngoài phát lồ sự e thẹn với người. Lại có hai thứ trí: Chẳng tạo các điều ác, hay tạo rồi sám hối. Lại có hai thứ ngu: Một là làm tội, hai là che đậy.”

Ở đây muốn luận như vậy, sự thật ra thì một cái người mà tu tập theo đạo Phật, mà bước vào theo đạo Phật, mà hướng dẫn đúng từ cái bắt đầu của họ thì sau này họ không có phạm lỗi gì hết.

Còn nếu mà không có hướng dẫn đúng cách của họ theo cái giáo pháp của Phật, thì bắt đầu mà vào tu mà không hướng dẫn đúng pháp, không có dạy cho họ những cái pháp hành, thì sau này dù muốn gì đi nữa thì họ vẫn là những người phạm giới hết, không bao giờ mà có thể họ không phạm giới. Dù nhiều dù ít, dù như thế nào, họ cố gắng giữ như thế nào họ cũng vẫn phạm.

Còn trái lại khi mà bắt đầu vào mà nhận một chú Sa Di, một vị thầy mà vào tu với mình, thì mình phải hướng dẫn họ ngay từ cái ban đầu, cái giới hạnh như thế nào, cái pháp hành như thế nào, để tập luyện cái ban đầu như thế nào, thì từng đó họ không có vi phạm nữa, họ không có phạm một cái giới nhỏ nữa, họ sống đúng với những cái điều kiện mà họ đã tu tập.

Nay Ba La Mộc Xoa Đề…​

Tức là cái giới bổn đó.

…​ chẳng phải là người không hổ thẹn và không trí mà hay ưa tu học vậy. Thế nên Đại, Tiểu Thừa đều lập Tam Học là giới, là nói đầu, đồng tu năm phần mà ba học mở trước. Sở dĩ tu học cái dụng ba pháp mà chứng ba cái quả năm phần, hãy biết năm phần pháp thân, ba phần trước là nhân mà hiển đức, phần sau là lấy quả mà bày ra năm.

Ở đây luận theo cái kiểu mà Đại Thừa. Sự thật ra mà nói về Tam Vô Lậu Học thì Giới không phải là ba cái giới bổn đâu, Thầy xác định là cái Giới không phải là ba cái giới bổn.

Bởi vì giới bổn nó đâu làm cho chúng ta hết lậu hoặc? Nó khép chúng ta thèm ăn thèm uống đủ thứ hết, nó khép chúng ta nào là thích cái này, thích cái kia, nó hạn chế, nó gò bó chúng ta, nó làm cho cái tư tưởng, cái tâm của chúng ta tan nát ở trong đó hết. Cho nên cái giới bổn nó không đúng cách.

(01:09:38) Mà Giới của Phật gọi là Tam Vô Lậu Học tức là giới vô lậu, thì khi mà chúng ta bước đầu vào mà chúng ta học cái Giới thì chúng ta có cái giới hành, cho nên từng đó tâm hồn chúng ta giải thoát hoàn toàn cho nên gọi là vô lậu.

Chớ không phải đợi chúng ta tu tới ba cái pháp này Giới - Định - Tuệ xong rồi nó mới hết lậu, không phải. Ngay vô đầu là chúng ta thực hiện ngay cái Giới của Phật liền gọi là giới vô lậu thì chúng ta có vô lậu rồi, cho nên có giải thoát rồi.

Chớ không phải đòi phải quả này kia nọ như ở đây mà nói thì cái đó là cái không đúng, cái luận của cái người không có pháp hành, cái lý luận của cái người học giả, cái người chỉ học hiểu biết rồi tưởng ra mà giải thôi, bằng cái danh từ, mà giải cũng không rõ những cái từ nữa.

Tận trí, chánh lập đều gọi là thân giải thoát, vô sanh trí tỏ rõ giác chiếu gọi là tri kiến.

Bồ Tát gấp việc độ người nên thân thí nhân tấn để tu sáu độ, Thinh Văn do phần tự độ, duy tu ba học nên trí luận dùng độ là pháp chúng sanh, ba học là pháp Niết Bàn. Tất cả pháp môn do học mà tới. Tam Học chẳng tu thì Niết Bàn không nẻo, giới pháp chẳng phụng trì thì Định, Huệ dứt nhân, làm sao vượt qua bốn lưu mà trở lên bờ giác đấy ư?

Ở đây cũng là một cái luận, lấy như Trí Luận Độ hoặc là Bát Nhã mà luận ở trong Tam Vô Lậu Học này. Hầu hết là cái người mà viết giới luật này đều là cái nhà Đại Thừa cho nên ảnh hưởng kinh sách Đại Thừa rất nhiều, cho nên họ luận như vậy thì nó không đúng ba cái pháp Giới - Định - Tuệ của Phật.

Giới - Định - Tuệ của Phật thì chúng ta phải biết cái giới của Phật đầu tiên mà chúng ta vào tu là giới hành, giới hạnh gọi là Giới, mà Định thì nó thuộc về giới đức của một cái người, còn Tuệ nó thuộc về giới huệ của cái người tu. Cho nên Giới - Định - Tuệ tức là ba cái giai đoạn của một người tu tập giới luật của Phật. Nó đầy đủ ba cái này, ba pháp môn này gọi là ba pháp môn vô lậu thì như vậy mới đúng.

Còn cái này luận ở bên này, luận ở bên kia mà nói nó là Niết Bàn thì không đúng. Bởi vì ba cái này nó không phải là Niết Bàn. Ba cái pháp này nó hoàn toàn đưa chúng ta đến cái chỗ tâm bất động giải thoát, giải quyết cho chúng ta cái Phạm hạnh, cái mục đích Phạm hạnh của chúng ta, chớ không phải là Giới - Định - Tuệ là Niết Bàn.

3.7- LỜI DI CHÚC CỦA ĐỨC PHẬT: LẤY GIỚI LUẬT LÀM THẦY

(01:12:31) Hỏi: Vì ý gì mà sắp nhập Niết Bàn, Thế Tôn ân cần lược nói Tỳ Nại Da?

Đáp: Để sau khi Đức Đạo Sư diệt độ cho đến thánh giáo chưa mất trở lên, không khiến ngoại đạo có thể phê bình: “Thế Tôn là người có đủ tất cả trí mà thế gian có việc chẳng mở, chẳng ngăn, để bọn đệ tử sẽ làm thế nào?”

Bởi lẽ đó nên Phật dạy: “Vì ngăn ngừa lời nạn vấn ấy nên Ta xét lại vị lai mà chế giới, lại còn muốn khiến các đệ tử nơi các việc không ngại được an vui mà ở nên không cần phải nói.”

Nghĩa là Đức Phật khi mà nhập Niết Bàn thì di chúc chúng ta lấy giới luật làm thầy, lấy làm cái chỗ nương tựa, mà ở đây nói rằng - ở đây cái người mà luận cái chỗ này, thì Thầy đọc ở trong kinh này Thầy không thấy Đức Phật di chúc cái lời nói này bao giờ hết, thế mà họ làm sao họ đặt ra được cái này mà họ nói như thế này: Nghĩa là Đức Phật sắp sửa Niết Bàn, vì ngăn ngừa cái lời nạn vấn của người khác mới chế giới ra. Thầy chẳng bao giờ nghe cái câu kinh di chúc cuối cùng của Đức Phật mà cái lời này bao giờ hết!

Lại còn muốn khiến cho các đệ tử nơi các việc không ngại được an vui nên mới chế giới này ra.

Thật ra thì Thầy không biết cái lời nói này ở đâu mà mấy ông này lấy cái lời nói này, cái kinh nào đây Thầy không biết, mà đem đút vô chỗ này đây. Ba cái kinh Đại Thừa chớ cũng không có ai vô đây hết à.

Cho nên vì vậy mà Thầy thấy họ đặt điều đủ thứ hết. Nó không có làm đúng cái con đường của Phật mà nó muốn đặt như thế nào là nó nói ông Phật nói như thế nấy. Những cái lời nói này làm chúng ta thấy sao nó xót xa vô cùng lận! Vì ngăn ngừa cái nạn vấn của người ta mới chế giới ra, chớ không phải là vì đệ tử của mình giải thoát mà chế giới.

(01:14:29) Các con thấy không? Sợ người ta cật vấn, sợ người ta này kia cho nên chế giới ra! Bây giờ ông là có trí tuệ, bây giờ ông chết rồi, ông để cái đám đệ tử ông nó lộn xộn như thế này, nó không giới luật, cho nên Đức Phật mới chế ra để cho nó theo đó mà nó giữ giới.

Mà thử hỏi bây giờ chế ra, cái đám đệ tử của ông Phật có giữ giới không? Bây giờ giới bổn nó đầy đó, có không? Như vậy là có phải cái lời di chúc đó đúng không? Đâu có đúng!

Đức Phật nói: “Giới luật Ta còn là Phật pháp còn, giới luật Ta mất là Phật pháp mất. Giới luật còn là Ta còn mà giới luật mất là Ta mất.” Cái lời nói rất đúng! Bây giờ nhìn chúng Tỳ Kheo mà chúng ta giữ gìn giới luật là Phật pháp còn đó, mà giới luật không còn, chúng Tỳ Kheo mà không giữ gìn giới luật thì thử hỏi có đúng không, có phải Phật pháp mất không?

Chúng ta xét thấy lời ông Phật nói từ cách đây 2540 năm tới bây giờ, cái lời nói đó không có mất chút nào, có còn giá trị, còn giá trị rất lớn.

Còn cái lời nói này có không? Có giá trị không? Bây giờ có ai cật vấn mấy ông thầy đâu? Mà thế mà bây giờ chúng ta phá giới mà bít miệng bít mồm không cho ai nói hết, nghĩa là nói đọa địa ngục cho nên chẳng ai dám nói hết, vì vậy mà cuối cùng thì bây giờ nó ra sao?

Đó cho nên: “Vì ngăn ngừa lời nạn vấn nên Ta mới xét lại mà chế giới” thì cái câu nói này có đúng không? Đâu có đúng! Nó đặt điều ra như vậy đó, thì Thầy thấy phỉ báng ông Phật đến cái mức độ mà không thể ngờ được. Với cái người sau này, họ nhiều mồm nhiều mép, họ đặt như thế nào cũng cho ông Phật nói như vậy hết.

Mà trong khi Đức Phật xác định cho chúng ta thấy những cái lời di chúc đó, chắc chắn ai đọc ở trong kinh Nguyên Thủy, ai cũng thấy được cái lời nói của Đức Phật rất là tha thiết, và chỉ cho chúng ta biết là lấy giới luật mà làm hòn đảo, làm cái chỗ nương tựa vững chắc để mà chúng ta tu hành.

Mà chính Thầy, Thầy nương tựa cái giới luật mà Thầy thấy Thầy cũng được giải thoát đó. Cũng như bây giờ nè quý thầy thấy: Một ngày mình ăn một bữa mình có giải thoát không? Cụ thể, rất rõ ràng mà, tại sao mà chúng ta không thấy được cái điều này?

3.8- ĐỜI SAU LƯỢC CHẾ GIỚI LUẬT ĐỂ CHẠY THEO THAM DỤC

(01:16:20) Hỏi: Thế Tôn nói: “Nếu việc thuận, chẳng tịnh, trái với tịnh; có việc thuận, tịnh, trái với chẳng tịnh, nên làm việc chẳng nên làm ấy.” Chưa biết lời ấy có nghĩa gì?

Đáp: Nếu có sự vật trước kia Phật chẳng phải hứa, chẳng phải ngăn, đời nay nếu làm, người đời họ chê bai, ấy là chẳng tịnh, ta chẳng nên làm.

Ví dụ như bên Tây Trúc, các nơi người đời sang hèn đều ăn trái cam, lá trầu, vôi trắng, vật thơm lộn nhau để làm mỹ vị. Các Tỳ Kheo Tăng, Ni vì nhân duyên bệnh, dùng thứ ấy để trừ hôi miệng, thầy thuốc bảo ăn thì không có lỗi. Trái lại nếu vì muốn nhuộm miệng đỏ môi tốt mà ăn thì chẳng hợp, bị người chê cười, không nên dùng.

Lại như ngày xưa Phật không cấm hút thuốc, cấm dùng á phiện vì thời ấy không có thuốc lá, á phiện. Sau này người đời bày ra để hút, người tu cũng bắt chước hút thuốc khiến cho thế gian chê cười, lại mất oai nghi, làm hại sức khỏe, làm tổn phước vì xa xỉ của đàn na thí chủ, do đó ta không nên dùng.

Bây giờ thật sự ra Phật cấm không có cho uống rượu, mà cái thứ uống rượu là say sưa, là này kia, thì tất cả những cái thứ mà nghiện ngập làm cho chúng ta…​ Bởi vì cái ăn kia mà Đức Phật còn dạy chúng ta phải quán xét để mà chúng ta xả cái ăn, coi như là bất tịnh, chúng ta còn không chạy theo ham thích, huống hồ là những cái chất mà nó không có lợi ích cho bản thân của chúng ta thì chắc chắn là…​

Tuy rằng cái giới luật Phật không có chế cấm thuốc phiện, thuốc hút, nhưng mà chúng ta ít ra - một cái người mà khi đứng ở trong cái giới thứ năm này, chúng ta cũng biết được cái điều này là cái điều mà không phải cho một người tu sĩ sử dụng, cho nên chúng ta đâu có để mà cho chúng ta nghiện ngập cái đó!

(01:18:20) Vì vậy chúng ta không có giới đó, nhưng chúng ta vẫn lấy nó là giới thứ năm. Chớ đâu cần phải chế giới thứ sáu, thứ bảy hay hoặc thế này kia ra nữa đâu, đâu có cần phải chế ra. Nhưng mà chúng ta vẫn lấy giới thứ năm mà làm cái chỗ không có say đắm, nghiện ngập, không có trở thành những nghiệp của những cái thứ mà say đắm cho chúng ta, thì nó cũng đủ rồi chớ đâu còn gì nữa?

Lại như xưa kia Phật chỉ dùng muỗng múc ăn thay cho tục lệ ăn bốc. Ở Ấn Độ vốn không nói đến đũa, nhưng đời nay xứ ta quen dùng đũa để ăn nên Phật cũng lược giáo cho.

Nghĩa là thời ông Phật Thầy nghe là bốc ăn chớ ông Phật nào mà có muỗng bao giờ đâu? Thế mà bây giờ ở trong ông này ổng viết là Phật có muỗng ăn, rồi bây giờ nói Việt Nam của mình có đũa ăn, thôi cứ dùng đũa ăn. Thì ông thầy này ổng muốn ăn đũa cho nên ổng nói kiểu đó, để ăn bốc thì nó cũng không được. Cho nên con người ta sao nhiều chuyện lắm! Đó, những cái này chúng ta thấy là cái đặt điều rõ ràng!

Bởi vì cái người tu của đạo Phật là mình phải ly tất cả những cái vật dụng, cho nên thí dụ như bây giờ hai bàn tay của mình rửa sạch, mình bốc mình ăn vẫn tốt thôi đâu có gì đâu? Ăn rồi rửa tay, đâu cần phải rửa cái muỗng?

Mà có cái muỗng thì chúng ta lại mang thêm một cái vật nữa, thì do đó có đôi khi cái muỗng này là muỗng sành nè, muỗng này muỗng cây nè, muỗng này là muỗng inox nè, muỗng này muỗng nhôm nè, chọn cái muỗng inox đồ đẹp hay hoặc là cái muỗng vàng nữa hay muỗng ngà nữa chớ đừng nói! Nó có một cái rồi cứ theo đó mà dính nó. Cho nên Đức Phật muốn chúng ta xả ly để mà chúng ta ly ra để giải thoát, chớ không phải là một cái điều gì khác.

Lại hiểu rằng bây giờ là Phật hồi đó còn ăn muỗng, cho nên bây giờ chúng ta quen dùng đũa, thôi Phật cũng lược chế cho chúng ta cũng dùng đũa được chớ đâu có sao. Thật sự ông Phật ổng chẳng biết đũa như thế nào mà ổng lược chế cái này Thầy cũng chả biết!

Ông này thiệt là ổng đặt điều. Chắc cái ông này cũng là giới sư Việt Nam của mình chớ không ai vô đây, mới có cầm đũa nè, chớ còn nếu mà giới sư Tây phương chắc là phải dao, là phải nĩa rồi, ổng cũng chế luôn có dao nĩa ăn á.

Hoặc như ngày xưa Phật và chư Tăng thọ trai trải chiếu ngồi dưới đất, ngày nay phong tục ngồi bàn ghế mới hợp thời nên Phật cũng lược chế cho để mà mình ngồi ghế mình ăn.

Trời đất! Ông Phật ổng - biết hồi như vậy, hồi đó ổng chỉ tìm gốc cây bụi cỏ nào đó ổng ngồi ổng ăn cho rồi, còn bây giờ mình có bàn ghế, bây giờ mình ngồi rồi mình cũng chế ra cái giới đó, thôi để ngồi ghế rồi cũng được, ông Phật thì ổng cũng cho chớ cũng không có gì. Hợp, cũng hợp, bởi vì hồi trước thì không có bàn ghế, còn bây giờ thì có bàn, ghế, chiếu đồ.

Cái này cũng là nhiều chuyện, thiệt là nhiều chuyện, mấy ông giới sư này họ đặt điều! Bởi vì họ muốn làm sao họ chế ra họ nói vậy rồi cũng đổ thừa ông Phật à! Thế nên, rõ ràng là chữ nghĩa hẳn hòi chớ Thầy không thêm bớt chỗ nào hết à! Nó rõ ràng là chữ, giấy trắng mực đen đàng hoàng á, chớ Thầy không có nói thêm ông ta chút nào hết! Ông dám chế như vậy!

(01:21:16) Bây giờ người ta chế như vậy thì thử hỏi các tổ chúng ta cách đây khoảng sau Đức Phật một trăm năm rồi, mà các đại đệ tử của Đức Phật chết rồi, thì các người đó mà họ chạy theo dục lạc thì họ nghĩ như thế nào khi họ đặt cái giới ra? Đâu có thua gì người bây giờ!

Ngay bây giờ chúng ta thấy mấy ông giới sư này họ còn dám đặt như vậy rồi, thì trước kia mấy ông kia có dám không? Cũng dám như thường chớ! Hồi đó mấy ông làm được thì bây giờ tui cũng làm được, bây giờ tui làm được thì hồi đó mấy ông cũng làm được! Suy cái chỗ này mà chúng ta xét ra mấy ông tổ kia cũng vậy.

Cho nên không có kinh sách nào mà họ không dám thêm trong đó được hết. Ý họ muốn chạy theo dục lạc là họ thêm vô à, họ thêm cái phần này phần kia. Mà họ đâu có nói họ, họ nói Phật! Nãy giờ Thầy đọc các con nghe, nói Phật không à, chớ không có nói họ đâu, mà chính họ viết rõ ràng à!

Nếu một khi mà chúng ta không có nghiên cứu kỹ ở trong cái giới kinh của Phật trong những cái bộ kinh A Hàm, kinh Nguyên Thủy, thì chắc chắn chúng ta mờ mịt cái chỗ này hết, không có biết.

Bởi vì cái người mà người ta nghiên cứu kỹ, người ta biết rõ ràng. Cho nên thậm chí như từng cái bài kinh mà ở trong kinh Nguyên Thủy cũng như kinh A Hàm, một cái bài kinh thôi mà nó có hai cái đoạn, một cái đoạn chính của Phật nói, một cái đoạn của cái người sau thêm vào, mà cái người mà có trí, cái người mà chỉ cần nghiệm xét là đã thấy hai cái lời văn đã khác nhau rồi, là đã biết cái người sau thêm liền.

Còn bây giờ chúng ta là cái người không có nghiệm xét, chúng ta đọc thấy đó là lời Phật nói toàn bộ chớ không phải đâu. Họ thêm ra, gạnh vô một chút là chúng ta đã biết rằng người sau đã thêm vô cái bài kinh đó.

Thí dụ bài kinh đó mười trang, thì họ đem một cái câu chuyện nào gài thêm vô chỗ đó, có lý lắm, nhưng mà sự thật xét ra thì cái lý đó nó không có đúng đâu. Cho nên biết cái người sau đã kèm theo một cái đoạn đó vô đó để mà luận cho nó đi qua một cái góc độ khác để mà họ phá giới đó.

Thì chúng ta biết những cái pháp mà gọi là không có pháp hành thì hầu hết là nhiều người sau đã thêm vô. Còn cái pháp nào mà Phật có kèm theo những cái pháp hành thì chúng ta biết cái đó là của Phật.

Cũng thí dụ như cái pháp nào mà viết ở trong cái bài kinh mà thấy Phật nói Như Lý Tác Ý là phần nhiều là cái pháp đó là của Phật, mà không thấy có cái pháp hành nào mà nói suông suông thì không phải là của Phật đâu, coi chừng những cái bài kinh đó nói của Phật chớ không phải đâu.

Phật luôn luôn bao giờ dạy chúng ta cũng có cái pháp hành theo hết. Cho nên cái bài kinh nào mà chúng ta đọc thấy có pháp hành tức là của Phật, mà không có pháp hành, không phải của Phật.

Bởi vì có pháp hành mới làm chúng ta chứng được cái pháp đó, mới làm cho chúng ta thâm sâu được cái pháp đó. Còn thiếu pháp hành là cái người sau thêm, vì người sau không phải là người tu cho nên không biết hành, vì vậy mà cái lý luận suông thôi, cho nên đặt ra mà nói.

3.9- CHỈ TRÌ TÁC PHẠM VÀ TÁC TRÌ CHỈ PHẠM

(01:23:57) Hỏi: Thế nào là chỉ trì tác phạm và tác trì chỉ phạm?

Cái này Thầy đã có giảng ở đằng trước rồi.

Đáp: Chỉ trì là nói về phương diện các điều ác quyết giữ gìn không có gây tội lỗi. Tác phạm là nói về phương diện các điều ác đáng lẽ phải giữ gìn mà lại không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi.

Tác trì là nói về phương diện các điều thiện có làm được mới gọi là giữ giới. Chỉ phạm là nói về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ không làm là phạm giới.

Ví dụ về tội trộm: Nếu không làm là chỉ trì, nếu làm là tác phạm. Trái lại về hạnh bố thí: Nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ phạm.

Tóm lại người chân tu phải nghiêm trì giới luật, trong khi đó hành giả nên luôn luôn quán sát mỗi hành vi hằng ngày của mình, xem xét một cách sáng suốt thế nào là trì, thế nào là phạm. Nói cách khác, khi đã thọ giới thì phải trì, nếu không trì thì bị phạm.

Họ nói cái danh từ suông không à! Họ đâu có biết trì và phạm như thế nào, tu làm sao mà gọi là trì mà tu như thế nào mà gọi là phạm? Bởi vậy muốn không phạm thì chúng ta phải tu như thế nào, thì chúng ta phải thực hiện cái giới hành như thế nào, hằng ngày chúng ta phải trau dồi, luyện tập như thế nào?

Bảo mình quan sát, nhiều khi mình đâu có biết cái đó là thiện, cái đó là ác? Mình làm rồi mình mới biết đó là cái phạm lỗi của mình, chớ hồi đó mình có biết được đâu mà gọi là quan sát? Quan sát cái gì?

Cho nên hằng ngày chúng ta muốn tập như vậy là chúng ta phải tập cái định nào? Chúng ta phải thường xuyên tập luyện một cái Chánh Niệm Tỉnh Thức của chúng ta, luôn luôn phải ý tứ. Người ta nói ý tứ chứ sự thật ra có người nào có ý tứ đâu? Mà không trau dồi, luyện tập làm sao có ý tứ? Mà chính ý tứ đó mới gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Vì chánh niệm nó mới là ở trong cái giới luật của Phật, mà nó có tỉnh giác thì nó mới ở trong được chánh niệm. Cho nên hằng ngày chúng ta phải trau dồi cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Thức, do đó chúng ta mới thấy được cái tâm giải thoát đúng ở trong cái giới hành của Phật.

Nếu mà nói suông suông như vậy, mấy ông không biết cái Chánh Niệm Tỉnh Thức ở ngay cái chỗ này thì mấy ông nói trì phạm, trì phạm, cái danh từ trì phạm của mấy ông nói bây giờ một ngàn lần, nó cũng trì cũng phạm, nó cũng phạm hoài chớ nó đâu có trì được gì đâu? Đó là nói lý mà không có cái hành thì không thể nào mà có thể nói rằng đi đến cái chỗ giải thoát được.

3.10- TU MÀ KHÔNG THÔNG HIỂU GỌI LÀ TU MÙ

(01:26:49) Ta nên nhớ rằng mục đích giới luật, Đức Phật muốn cho chúng đệ tử đều được thanh tịnh ba nghiệp, giác ngộ trong hiện tại và được giải thoát thành Phật ở tương lai, cho nên luật tôn có cốt nhằm ở mục đích ấy. Phần nhiều các tôn khác thì phải hiểu rồi mới tu, còn luật tôn trái lại chủ trương hãy vừa học vừa tu rồi lần lần sẽ hiểu: Hãy giữ gìn giới luật!

Ở đây nói một cách là ngược ngạo lại đạo Phật. Đức Phật đã nêu cho chúng ta biết: Những gì chưa thông hiểu phải thông hiểu, còn ở đây chúng ta chẳng cần thông hiểu mà chỉ vừa học rồi vừa tu rồi lần lần sẽ hiểu! Cái kiểu đó kêu là tu mù. Như vậy là không đúng cái đường lối của đạo Phật.

Cho nên bây giờ cấm không có cho ai hiểu giới luật hết à! Không có cho mấy người hiểu, chừng nào mà mấy người thọ rồi bắt đầu mấy người vừa học vừa tu thì mới là hiểu sau, còn bây giờ hiểu, nói bậy nói bạ đó, đọa địa ngục hết á! Đó là cái miệng của mấy ông giới luật để mấy ổng phạm giới cho dữ đó, cho nên mấy ông đặt ra như vậy.

Cái gì mà muốn, trước khi người ta muốn học cái đó, muốn tu cái đó, người ta phải hiểu cái đó rồi coi đúng hay sai người ta mới tu, coi người ta giữ nổi hay không giữ nổi.

Còn cái này bắt người ta vô thọ giới rồi bắt người ta học, rồi bắt người ta từ từ tu, tu rồi mới hiểu nó, sau khi hiểu được thì: “Thôi thôi cái giới này thôi chắc chết tui luôn rồi, tui không có tu nổi đâu!” Thì như vậy là lỡ rồi làm sao bây giờ? Thì thôi, bây giờ ở trong chùa thôi cứ việc phạm giới đi chớ có làm sao? Đó là cái kiểu của mấy ổng đó.

(01:28:20) Hãy giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh thì tâm sẽ được thanh tịnh. Tâm đã thanh tịnh thì trí huệ sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày, Phật Tánh sẽ hiển lộ.

Nói láo, thiệt là nói láo! Nếu mà giữ giới như vậy, mình ăn ngày một bữa, Phật Tánh nó hiện ra ngồi đống đống đây hết rồi, phải không? Các thầy thấy cái chuyện đó chúng ta - mấy người ăn ngày ba bữa thì nó không hiện ra, bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa thì phải hiện chớ? Mà Thầy có thấy ông Phật nào hiện đâu? Rõ ràng là chẳng có hiện ông nào hết à!

Vậy mà dám nói là thanh tịnh, giữ giới rồi thanh tịnh. Giữ giới nó tức tối gần chết chớ ở đó! Người ta ăn ngày ba bữa, mình ăn ngày một bữa, không có được ăn thêm cái gì hết, nó tức bụng ở trong này gần chết đây nè, sung sướng gì lắm sao?

Bởi vậy cho nên phải giữ giới như thế nào để mà thấy được cái sự giải thoát đó thì mới là thanh tịnh. Còn đằng này bảo mình cứ cố gắng giữ đi, giữ đi cho nó thanh tịnh. Thanh khỉ họ! Người ta ăn ba bữa mà người ta ngồi đó người ta nhai me, mình chảy nước miếng đây mà mình biểu thanh tịnh! Thanh cái gì? Cái chuyện mấy ông nói là mấy ông nói, chớ cái chuyện mà ông không biết cách tu mấy ông nói, vì vậy mấy ông nói bậy.

Những kẻ học rộng, biết nhiều mà không giữ giới cũng chẳng khác gì ngọn đèn trước gió, có thể sáng lắm nhưng cũng rất dễ bị tắt.

Bởi vì khi mà người ta học hiểu nhiều, người ta mới biết được cái chỗ đó có thể người ta chấp nhận cái giới đó hay không. Còn nếu mà không cho người ta biết, làm sao người ta chấp nhận được? Con người chớ đâu - người ta sống bằng trí mà!

Ít ra trước khi người ta muốn theo tôn giáo nào người ta phải hiểu cái tôn giáo đó, chớ không hiểu rồi nhảy vô tu, tu bậy tu bạ, tu tới chừng nó điên khùng, ma nhập rồi nó chạy điên chạy khùng, lột quần lột áo chạy ra ngoài chợ, nhảy xuống sông tự tử, chừng đó rồi ai nói cái gì? Cho nên tu mà tu ngu như vậy ai mà tu? Cho nên ít ra người ta phải hiểu.

Ở đây nói mình như thế này: “Kẻ học rộng, hiểu nhiều mà không giữ giới…​” Tui hiểu nhiều tui mới thấy cái giới đó nó có lợi ích cho tui tui giữ, mà tui thấy nó không có lợi ích thì tui không giữ, tui không có theo, thì như vậy tui phải hiểu chớ!

Còn ông ông biểu tui không có học, cứ vô đó nhắm con mắt mà giữ, giữ cho thanh tịnh rồi Phật Tánh nó ngồi ở đó cho, nó thanh tịnh cho, cái chuyện đó là ông gạt tui chớ đâu phải ông nói đúng đâu! Cái đó là nói không đúng sự thật, nó không cụ thể, cái đó nói gạt người khác. Nó là cái lối lý luận của các nhà viết luận, mà họ lý luận cái kiểu đó là lý luận gạt người khác.

(01:30:44) Tui hiểu biết rồi tui mới có thực hiện được những cái điều mà tui hiểu biết đó, nó làm cho tui mới thanh tịnh, nó mới làm cho tui giải thoát, nó mới thấy được Phật. Còn cái này ông biểu gồm như vậy là ông đã dạy sai.

Trái lại, kẻ học ít, biết sơ sơ thôi mà giữ giới một cách chân thành thì cũng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp còn lu mờ nhưng không tắt mà càng cháy lâu lại càng sáng tỏ hơn.

Nói láo, hết sức nói láo! Bây giờ tui học sơ sơ, tui biết sơ sơ thôi, bây giờ tui cứ giữ giới luật, nhiều khi tui ăn lén nè, ăn lút nè, hoặc là tui làm cái chuyện dâm dục tầm bậy nè, tới chừng đó công an bắt ra, rõ ràng là mấy ông này hết ráo rồi chớ không ai hết.

Bởi vì học sơ sơ mà, cho nên đâu có biết rõ đâu? Cho nên phạm giới đâu có nghĩ đó là tui phạm, mà cứ bảo là phải giữ cho kỹ, giữ cho kỹ, nhưng mà cái lòng ham muốn của tui chưa có diệt được thì làm sao mà tui giữ kỹ được?

Cho nên mấy ông trói buộc tui sao được? Cho nên cuối cùng tui phạm mà mấy ông lại càng nói đó là như ngọn đèn mà có cái ống khói mà chụp, thì gió nó không có chao động, nó càng sáng tỏ. Không có sáng cái thứ gì được đâu! Mấy ông luận như vậy chớ nó không bao giờ có cái điều đó được.

Ở đời chúng ta thường thấy phần nhiều những người có căn trí lanh lợi, hiểu nhanh biết lẹ, nhưng vì hay ỷ lại vào sức mình, không chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ luật nên cuối cùng chẳng thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp.

Thầy hỏi một cái giới luật mà có cái giới hành thì người ta hành cái pháp hành đó, làm gì người ta phạm giới? Còn mấy ông đặt ra cái pháp luật như thế này, không có cái pháp hành, thì mấy ông gò bó, ép tui, nén tâm tui, cái mức độ này - cái tâm tôi ham muốn thế này mà bắt buộc cứ lấy cái giới này mà cứ đè tui thì làm sao mà tui chịu nổi? Cho nên tui phải phạm thôi chớ!

Cho nên nói, càng học nhiều, càng này kia biết nhiều thì cái kết quả nó chẳng có tốt đẹp gì hết, đó là mấy ông luận như vậy.

Trái lại, những kẻ có căn trí tầm thường hay chậm lụt lại dễ thành công trên đường đời cũng như trên đường đạo vì họ biết thủ phận, chịu khó khép mình vào kỷ luật, không tự mãn, không tự cao.

Những đệ tử của Phật có ai có một địa vị xã hội hạ tiện và căn trí thấp thỏi như Ngài Ưu Ba Ly? Thế mà Ngài Ưu Ba Ly đã trở thành một bậc hiền thánh, một vị quan trọng trong Thập Đại Đệ Tử của Phật chỉ vì Ngài nghiêm trì giới luật đệ nhất.

Chúng ta đây địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém Ngài Ưu Ba Ly, lẽ nào chúng ta không thu hoạch thành quả tốt đẹp như Ngài, nếu chúng ta cũng tập nghiêm trì giới luật như Ngài!

(01:33:24) Ngài Ưu Ba Ly Ngài nghiêm trì giới luật bằng cách nào, ông này không có nói ra! Nếu mà không có những cái pháp hành, cái giới hành của Phật thì ông Ưu Ba Ly này chưa chắc đã gọi là Đệ Nhất Giới Luật.

Ông đã hành đúng cái giới hành cho nên tâm hồn ông giải thoát, ông chứng quả A La Hán. Vì vậy mà ông có nhiều cái hạnh, giữ gìn đúng những cái giới luật là khi ông hành, ông dùng những cái giới hành mà ông thực hiện, từ cái sơ thiện đến trung thiện và hậu thiện là những pháp giới hạnh…​ (Mất tiếng)

Cho nên ông chuyên môn về cái sở trường đó. Vì vậy mà những cái khác ông đều là thuộc về sở đoản. Do như vậy, qua những cái hành động sống, qua cái sự nghiêm chỉnh của cái giới hạnh của ông, cho nên Đức Phật gọi ông là Đệ Nhất Trì Giới. Người khác thì người ta đệ nhất là cái sở trường người ta, thì ông chỉ sở trường của ông trong cái phần này chớ đâu phải là toàn bộ hết.

Cho nên ở đây là cái phần ông từ khi mà bắt đầu tu là ông phải thực hiện những cái giới hành, do những cái giới hành nó đem đến sự cứu cánh giải thoát cho ông, cho nên ông thích thú vào những cái hành động đó, những cái oai nghi tế hạnh của một cái người tu sĩ như vậy, cho nên ông mới gọi là nghiêm trì giới hạnh đệ nhất của đạo Phật, của Đức Phật, là đệ tử của Ngài.

Nhưng mà lấy cái sự cùng đinh, lấy cái sự hạ liệt của xã hội mà ghép vào đây Thầy thấy không đúng. Đâu có phải ông Ưu Ba Ly ổng ngu như vậy! Mặc dù có thể nói rằng người ta cho rằng cái giới của ổng, cái giai cấp xã hội của ổng là nó có thể thậm tệ đi nữa, nhưng mà cái sự thông minh vẫn phải có chứ? Đâu có lý một người mà không thông minh?

Do đó mà so sánh ổng với chúng ta là ổng là người u tối, còn chúng ta là người thông minh hơn ổng mà chúng ta không giữ gìn giới luật được, còn ổng u tối, ổng ngu si, ổng trì độn mà ổng giữ gìn được, cái này luận để mà nói xấu ổng thôi.

Thầy thấy nói ông Bàn Đặc thì Thầy còn tin chớ mà nói cái ông Ưu Ba Ly mà như vậy Thầy không tin bao giờ hết. Phải nói rằng cái vị Tỳ Kheo nào mà có thể u tối - mà cái vị Tỳ Kheo nào mà không thể nói gọi là u tối được - thì ở đây không thể nào nói.

Mà cái ông Ưu Ba Ly đâu phải là cái giai cấp cùng đinh, ổng chỉ là một cái người thợ chớ chưa phải như là ông Ca Chiên Diên. Ông Ca Chiên Diên mới là giai cấp cùng đinh, ông là người hốt phân, còn ở đây đâu có giai cấp mà như vậy đâu? Thế mà chúng ta lại lấy ông Ưu Ba Ly ra mà nói chỗ này, thì chẳng qua là cái ông này chẳng hiểu cái đám đệ tử của Đức Phật như thế nào hết, các bậc Thánh Tăng như thế nào hết, nói không có hiểu rõ.

Bởi vì khi mà nghiên cứu về Phật giáo thì các bậc Thánh Tăng, cái người nào ở trong giai cấp nào chúng ta hiểu biết, và cái độ thông minh họ như thế nào chúng ta biết, thời gian họ đến họ tu với Phật bao lâu, họ làm những gì, chúng ta nghiên cứu về những bậc Thánh Tăng.

Bởi vì chúng ta là những người mà nương vào ba cái Tam Bảo mà chúng ta tu: Phật - Pháp – Tăng. Mà Phật thì chúng ta đã không nói rồi, Pháp thì chúng ta đã biết rồi, mà Tăng thì không phải là tăng trong thời chúng ta mà phải là những bậc Thánh Tăng trong thời Đức Phật.

(01:36:25) Vì vậy cho nên những đệ tử của Đức Phật là những nơi mà chúng ta lấy những cái gương hạnh tu tập đó mà chúng ta làm cái gương hạnh tu tập cho chính mình, vì vậy mà chúng ta không nghiên cứu những cái bậc Thánh Tăng này thì chúng ta còn thiếu khuyết.

Một vị tu sĩ Phật giáo mà nói ra cái điều này, Thầy nghĩ rằng cái ông viết cái giới luật này chẳng hiểu các bậc Thánh Tăng như thế nào. Như vậy là ổng quy theo ai?

Ổng quy theo các vị Thánh Tăng trong thời hiện tại của chúng ta, các bậc Tôn túc, Hòa thượng của chúng ta bây giờ, những ông phạm giới, những ông phá giới, thì thử hỏi làm sao chúng ta theo mấy ông đó được, chúng ta nương vào mấy ông tăng đó được? Mặc dù bây giờ ổng ở trong hàng giáo phẩm nào đi nữa, chúng ta cũng vẫn thấy sự phá giới của ổng thì chúng ta không thể nương ổng được.

Vì vậy cho nên chúng ta phải luôn nương vào cái hàng Thánh Tăng là những đệ tử của Đức Phật ngày xưa, cho nên chúng ta nghiên cứu như ông Xá Lợi Phất nè, ông Mục Kiền Liên nè, ông La Hầu La nè, ông Ưu Ba Ly nè, ông Ca Chiên Diên nè…​ tất cả những cái bậc Thánh Tăng đó chúng ta đều phải nghiên cứu coi qua những cái hạnh của các ông tu như thế nào, để từng đó mà chúng ta rút tỉa những cái hạnh đó mà chúng ta thực hiện cho cái đời tu hành của mình, gọi là mình quy y Tăng. Chớ còn quy y Tăng là nương vào tăng bây giờ là nương làm sao được?

Đó như vậy là chúng ta đã thấy được cái cách thức và chúng ta đã hiểu biết được qua cái quyết nghi của cái giới bổn mà cái nhà soạn ra giới bổn đã là những cái luận sai, cái luận không đúng.

Cho nên ở đây khi mà đã đọc lại cái quyết nghi này rồi Thầy kết luận tất cả giới bổn, một ngày nào đó chúng ta có đủ duyên mà quý thầy ít ra cũng phải mười người tu đạt được giải thoát, tâm bất động giải thoát, mục đích Phạm hạnh chúng ta đã đạt được, sanh tử của chúng ta đã chấm dứt, ngày đó chúng ta sẽ hội họp lập lại cái giới bổn, không có để cái giới bổn này được đối với đạo Phật nữa!

Chúng ta hiện giờ đang tu hành thì chúng ta lấy cái giới kinh mà làm thầy của chúng ta đang tu chớ không phải cái loại giới bổn này. Vì cái giới bổn này không phải là thầy của chúng ta mà do người sau viết lại, dám bịa đặt thế này thế khác, đủ cách đủ loại ở trong này, thêm bớt ở trong này, cho nên chúng ta chẳng bao giờ chấp nhận cái giới bổn này.

(01:38:34) Mà chúng ta chấp nhận cái giới kinh mà chúng ta đang đọc ở trong kinh A Hàm, ở trong kinh Nikaya, kinh Nguyên Thủy, đó là chúng ta chấp nhận những cái giới ở trong đó, chúng ta lấy cái giới ở trong đó để làm cái pháp hành của chúng ta, để làm cái giới hành chúng ta thực hiện cái đời tu hành giải thoát của chúng ta.

Còn toàn bộ những cái giới bổn mà chúng ta đã học rồi, chúng ta để đó, một ngày nào đó chúng ta thực hiện được sự giải thoát tâm bất động hoàn toàn, mục đích Phạm hạnh của chúng ta đạt được, thì chừng đó chúng ta sẽ họp lại năm người, mười người, mà chúng ta đã có sự giải thoát như nhau thì chúng ta họp lại, chúng ta làm lại, xây dựng lại cái giới bổn này cho người sau có một cái đường lối tu tập rất rõ ràng, không có để cho người sau mất lối như thế này được.

Đó là cái nhiệm vụ và trọng trách của quý thầy, khi quý thầy biết được mà theo Thầy tu hành thì quý thầy thấy cái trọng trách của quý thầy không phải nhỏ.

Vì nhìn qua cái tạng giới mà hiện bây giờ nằm ở trong Phật giáo thì chúng ta thấy điều đó là một cái điều sai, rất sai, không thể nào đem cái giới này áp dụng cho cái đời tu hành của người tu sĩ trong cái con người ở trên thế gian này được, vì cái giới này là cái pháp luật, là cái sự gò bó, không có cái giới hành cụ thể và rõ ràng.

Cho nên chúng ta để đó, chúng ta chưa nói tới nó. Một ngày nào đó, khi mà quý thầy đã tu hành xong, chúng ta sẽ họp lại, làm lại một cuộc - coi là một cuộc cách mạng giới bổn này, không có để một cái này còn dính dấp trong đạo Phật nữa.

Thầy xác định và quyết định cái điều này. Nếu mà Phật pháp còn đủ duyên thì quý thầy trong một sớm một chiều quý thầy thực hiện được, chúng ta sẽ làm lại được tất cả những cái này, dựng lại những gì của Phật giáo người ta đã ném xuống, người ta không còn để cho nó một chút gì cái hơi ấm của Phật giáo.

Bây giờ chúng ta hãy cố gắng và cố gắng trên bước đường tu tập chúng ta hơn. Còn chúng ta nói nhiều mà chúng ta không làm được, thì cái nói nhiều đó cũng chẳng ích lợi gì cho cuộc đời của chúng ta./.

HẾT BĂNG

47 - ĂN UỐNG ĐÚNG THIỆN PHÁP - TẬP TỈNH THỨC KHI NGỦ

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 47 - ĂN UỐNG ĐÚNG THIỆN PHÁP - TẬP TỈNH THỨC KHI NGỦ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- KHÁI NIỆM GIỚI HÀNH

(00:00) Chúng ta đã kết luận cái giới bổn qua cái lời mà Thầy đã nói xong, thì sau khi học xong giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề, bây giờ quý thầy tiếp tục học giới hành.

Bắt đầu chúng ta chuyển qua giới hành liền, đây là những cái điều mà rất quan trọng cho cái giai đoạn cuối cùng cho cái giáo án này. Đây là cái giới hành của chúng ta.

Vậy giới hành là gì?

Giới như quý thầy đã được học là pháp thiện, là pháp lành, giới là thiện pháp. Hành là trau dồi, tu tập, rèn luyện. Giới hành là trau dồi, rèn luyện, tu tập thân tâm mình trong thiện pháp.

Đó, Thầy giải thích như vậy để chúng ta biết rằng cái giới luật không có nghĩa là một cái giáo điều khô khan, cằn cỗi đâu, mà đây là một cái pháp thiện để chúng ta trau dồi thân tâm của chúng ta trở thành sống trong cái thiện pháp hoàn toàn, để được giải thoát cho mình mà cho người chớ không phải riêng có mình không đâu.

Đó thì như vậy là quý thầy đã hiểu biết, khi mà qua học cái giới hành thì phải hiểu cái nghĩa của nó.

2- ĂN UỐNG ĐÚNG THIỆN PHÁP THEO BÀI KINH JIVAKA

(01:11) Trước khi trau dồi thân tâm bằng giới hành, các thầy phải trau dồi cách thức ăn uống đúng cách thiện pháp mà trong kinh Jivaka Phật đã dạy.

Bây giờ khi mà chúng ta muốn trau dồi cái giới hành thì đầu tiên là chúng ta phải trau dồi cái cách thức ăn uống của chúng ta như thế nào đúng.

Tại sao mà phải trau dồi nó? Bởi vì ở trong đạo Phật của chúng ta qua cái ăn uống chưa có đúng cách, hầu hết tu sĩ chúng ta chưa đúng cách, ăn uống phi thời nè. Thậm chí như có những nhà sư gọi là ăn uống không phi thời mà lại là uống sữa, uống bơ, uống này kia, chỉ ăn một bữa mà còn ăn thịt ăn cá nữa.

Thì cái đó là chúng ta đem cái bài kinh này ra chúng ta mổ xẻ coi ông Phật dạy như thế nào mà cái giới tu sĩ hiện giờ họ ăn uống như vậy mà họ lại cho đó là đúng Phật pháp? Cho nên trước khi mà cái hành động (học) giới hành thì chúng ta phải hiểu được cái này để chúng ta tu tập cái giới hành về cái ăn uống của chúng ta đã, đó.

Cư sĩ Jivaka hỏi:

- Bạch Thế Tôn, con nghe người ta nói như sau: “Vì Sa môn Gotama mà họ giết hại các sinh vật. Và Sa môn Gotama tuy biết thế mà vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình và được làm cho mình ăn.” Bạch Thế Tôn, những người ấy nói như vậy có đúng lời Thế Tôn không? Họ không xuyên tạc Thế Tôn, họ nói như vậy là sự thật?

Đó là vị cư sĩ đó hỏi Đức Phật như vậy. Thì Đức Phật trả lời:

- Này Jivaka, những ai nói như vậy là nói không đúng lời của Ta, họ xuyên tạc Ta, nói không như thật.

Nghĩa là Đức Phật xác định để cho chúng ta biết rằng họ nói như vậy là không nói đúng cái điều mà Phật nói.

- Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng: nếu thấy, nghe và nghi.

(03:14) Đó, thì Đức Phật xác định cho chúng ta thấy khi mà chúng ta thấy, nghe và nghi thì chúng ta không được thọ dụng.

- Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi.

Đó, thì Đức Phật nói như vậy. Thì chúng ta thấy bây giờ chúng ta thọ dụng thịt mà không thấy, không nghe, không nghi.

Nghĩa là bây giờ có một cái mâm cơm để mà người ta cúng dường cho Phật, mà trong khi Phật không thấy có thịt thì tức là Phật ăn đó.

Nghĩa là bây giờ ở trong cái đĩa đồ ăn này nè mà không thấy có miếng thịt heo hoặc thấy có con cá hay hoặc là thấy cái con vật mà chết ở trong đó thì tức là Đức Phật ăn liền, còn có thấy miếng thịt nè, còn có thấy con cá nằm nè, còn thấy có cái đùi gà nè, còn thấy một cái cục sườn ram nè thì nhất định là không ăn. Tại vì thấy, làm sao ăn? Cho nên không thấy thì ăn mà thấy thì không ăn.

Đó là Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy cái chỗ mà chúng ta thọ cái thịt mà không thấy.

Bây giờ không nghe: Bây giờ trong cái đĩa đồ ăn này, thịt cá gì họ bằm nát ra họ làm thành chả hết đồ, họ chiên thành chả cũng như cái bánh vậy đó, thì lúc bấy giờ đó, nghe người ta nói ở trong này là hồi nãy họ bằm cá thác lác ra bây giờ họ chiên ra họ làm chả đó, Phật đừng có ăn, Phật ăn cái đó là thịt chúng sanh không ở trỏng đó, thì nghe như vậy là Đức Phật cũng không ăn nữa. Đã nghe người ta nói ở trong đó có thịt mà, có chúng sanh chết ở trong đó mà, đâu có ăn. Đó là nghe không ăn.

Bây giờ trong khi Đức Phật không nghe, không thấy, rồi cầm một cái bánh lên hay hoặc là lấy cái tay bốc cái miếng món đồ ăn đó lên bỏ trong miệng, nghe nó tanh cá quá, thì Đức Phật nghi rằng cái này có cá rồi, không được ăn. Do đó Đức Phật không ăn cá bởi vì nghe mùi tanh. Bây giờ nghe mùi bò, đây có thịt bò rồi, nhất định là không ăn! Bây giờ nghe nó có mùi thịt heo, nghe mùi thịt gà, do đó nghe mùi gà, mùi heo Đức Phật không ăn.

Bởi vì nghe - tức là khi mà kê cái mũi mình ngửi lên là mình nghi rằng cái đó là có thịt gà, cái đó là có thịt heo, cái đó là có thịt bò, nhất định là Phật không ăn. Bởi vì nghi, mình nghi là không ăn, cho nên dù trong đó không có đi nữa, người ta làm không có thì mình cũng không ăn.

Bây giờ thí dụ như có một người họ lấy đậu hũ họ làm như thế nào nó giống những mắm bằm lắm, chúng ta ăn nghe cái mùi y như mắm vậy, mà khi kê lên vầy chúng ta nghe cái mùi tanh tanh hôi hôi giống mắm thì nhất định là không ăn. Tại vì chúng ta nghi rằng ở trong đó là có mắm ở trong đó, có cá ở trong đó, có chết ở trong đó, không ăn.

Đó là chúng ta nghe cái mùi tanh rồi chúng ta không ăn, chúng ta biết là có cá, có con vật chết trong đó. Mặc dù là đậu hũ họ ủ cho thúi để làm đó, nhưng mà chúng ta đã nghi rồi chúng ta không ăn.

Cho nên do những cái điều kiện này, tuy rằng nói cái danh từ thì nghe nó dễ lắm: Thấy, nghe và nghi, nó dễ dàng lắm, nhưng mà sự thật ra nó quá là sâu sắc. Khi Đức Phật viết ra cái giới này, cái bài kinh này tức là muốn nói nên cái giới luật rất là nghiêm chỉnh cho sự thọ thực cái thịt chúng sanh. Nếu một người mà biết pháp tu thì người ta nghe những cái lời nói này người ta mới thấy được cái thâm ý của Đức Phật sâu xa vô cùng.

(06:19) - *Ở đây, này Jivaka, Tỳ Kheo ấy dựa vào một làng, hay một thị trấn, vị ấy luôn luôn biến mãn một phương với tâm có lòng từ, và an trú tâm từ ở đó, phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư cũng vậy. Từ tâm của vị ấy biến mãn khắp cùng thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy luôn luôn biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân và an trú với lòng thương yêu chúng sanh rộng lớn vô bờ bến.*

Chúng ta thấy ở đây Đức Phật nói về cái vấn đề mình ăn thấy, nghe, không nghi ở đó rồi, mà bây giờ Đức Phật lại đem một cái bài này, nói:

Này Jivaka, khi một vị Tỳ Kheo mà ở một làng, một thị trấn nào đó, mà khi bây giờ được cái sự cúng dường một cái món ăn đó, thì cái người đó luôn luôn người ta đã tu tập cái lòng từ, bi, hỷ, xả của người ta, người ta thực hiện cái lòng từ biến mãn khắp mười phương rồi, thì cọng cỏ người ta không đạp cho nó héo nữa, thì thử hỏi làm sao người ta bỏ cái miếng thịt trong miệng người ta ăn được? Ý Đức Phật muốn nói như vậy.

Vì vậy cho nên bây giờ cái tâm từ họ biến mãn khắp cùng như vậy rồi, thì cái lòng thương yêu rộng lớn chúng sanh vô bờ bến như vậy, thì một người cư sĩ hay con của người cư sĩ đến Tỳ Kheo ấy mà mời ngày mai này thọ trai, thì Đức Phật hỏi Jivaka:

Vậy thì khi mà vị Tỳ Kheo đó nhận lời mời như vậy, mà khi đến khất thực ăn cái bữa ăn đó, thì cái người đó cái tâm từ nó có không? Họ luôn luôn phải sống ở trong cái tâm từ biến mãn khắp cùng, thì như vậy là trước cái bữa ăn của cái người cư sĩ hay con của người cư sĩ cúng dường thì họ còn mê cái thức ăn đó không? Dù thức ăn đó ngon họ có mê không? Nếu mà thức ăn đó bằng thịt, cá làm cho ngon thật ngon, họ có mê không?

Ở đây, Thầy sẽ đọc lại:

- Một người cư sĩ hay con của người cư sĩ đến Tỳ Kheo ấy mời ngày mai thọ trai và này Jivaka, vị Tỳ Kheo ấy nhận lời. Khi vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai hại, ý thức rõ sự xuất ly.

Đó, thì khi ăn mà người ta thấy rõ, cái tham đắm của chúng ta có không? Như vậy là không tham đắm thì thấy cái vật đó là bằng thịt có ham không? Không có ham đâu. Còn bây giờ chúng ta tham đắm ăn rồi thì thấy miếng thịt chúng ta nói: Đây là miếng đậu hũ, ăn đi! Mình cứ nói nó đậu hũ, mình cứ ăn đi, chớ mình đừng có nói nó thịt, mình nói thịt mình không dám ăn, cho nên mình nói nó đậu hũ đi.

(09:05) Mình nghe cái mùi heo mình nói: “Không phải đâu, cái mùi này mùi đậu hũ á!” Đó mình gạt mình ở trong cái chỗ đó để mình ăn cho nó đã cái miệng của mình, tức là còn tham đắm đó. Cho nên nhiều cái đó là do cái tâm của mình, cho nên từ đó mình không có xuất ly ra khỏi cái này.

- Này Jivaka, ông nghĩ thế nào? Tỳ Kheo kia, trong thời gian thọ thực, ông ấy có nghĩ đến tự làm khổ mình, hay nghĩ đến làm khổ chúng sanh, hay nghĩ đến làm khổ cả hai?

Đó, thì các thầy thấy, khi mà ăn cái miếng ăn, nghĩa là một cái vị Tỳ Kheo đó khi mà họ thọ thực vậy đó, họ có nghĩ rằng họ sẽ làm khổ họ hay hoặc làm khổ chúng sanh không, hay hoặc làm khổ cả hai?

Cho nên ở đây họ nghĩ: Một cái người tu sĩ bây giờ mình ăn một cái miếng thịt này, mình nuôi vào cái thân mạng của mình là cái chánh mạng hay tà mạng? Trong khi họ học Bát Chánh Đạo, không lẽ họ không thông suốt cái điều này? Bởi vì nuôi cái chánh mạng làm sao mà nuôi thịt cá ở trong thân này được?

Cho nên đây là hại mình rồi. Mình ăn cái món ăn này là thịt cá rồi thì mình hại cái thân của mình rồi, cho nên đó là làm khổ mình rồi. Vì vậy mà khi mình nhét trong miệng mình cái món ăn tức là làm khổ chúng sinh rồi. Chúng sanh phải có chết mình mới có ăn chớ?

Cho nên do như vậy mà câu nói này chúng ta thấy hiểu qua cái bài kinh rất rõ ràng.

- Này Jivaka, ông nghĩ thế nào? Tỳ Kheo kia, trong thời gian thọ thực…​

Trong cái thời gian thọ thực đó.

…​ ông ấy có nghĩ đến tự làm khổ mình, hay nghĩ đến làm khổ chúng sanh, hay nghĩ đến làm khổ cả hai?

Cái câu nói này Thầy thấy quá là tuyệt diệu, không có còn chỗ nào mà một người ăn thịt chúng sanh mà nuốt cho trôi hết!

Cái câu này Phật dạy nghĩa là ăn chay trên ăn chay. Nghĩa là tại sao vậy? Tại vì ông Phật ổng không có dạy chúng ta ăn chay, vì ăn chay nó giống như Bà La Môn, giống như kiểu Đại Thừa.

Vì vậy giống kiểu Đại Thừa như thế nào? Thầy nói cho quý thầy thấy rõ: Người ta ăn chay mà người ta làm đùi gà như thế này, lấy đậu hũ, lấy củ sả mà đút vô làm cái đùi gà, ngồi đó mà tưởng cái đùi gà mà ăn mà thật sự ra toàn là ăn đậu xanh với đậu hũ không, không có gì hết, làm đồ chay mà làm như là thịt heo vậy đó. Đó thì cái đó là cái ăn chay của Đại Thừa.

Còn cái ăn chay mà của Phật, ăn chay trên ăn chay, do tâm từ của chúng ta thực hiện ở trên biến mãn đó, vì vậy mà trong cái thực phẩm của chúng ta ăn là chúng ta luôn luôn có cái tâm từ nằm ở trên đó hết.

Cho nên ở đây rõ ràng là ăn không thấy, không nghe, vậy mà có một số nhà sư ăn thịt, ăn cá, ăn chúng sanh, ăn thịt chúng sanh mà vẫn an nhiên nói: Thịt họ mần ở đâu, tui đâu có nghe, tiếng heo la tui đâu có thấy, cho nên ở đây bây giờ người ta đem cúng dường là tui cứ ăn à, chớ tui đâu có nghe con vật kêu đâu? Mà tui đâu có cầm dao tui giết nó đâu, ai giết chớ tui đâu có giết, người ta làm đâu ở nhà chớ đâu phải là tui làm? Cho nên tui cứ ăn. Cho nên thịt không thấy, không nghe, không nghi - bây giờ tui muốn ăn thì bây giờ tui có nghi tui cũng chẳng thèm nghi làm chi nữa, để mà tui ăn cho thích cái khẩu tui.

(12:05) Cho nên do đó mà một cái giới tu sĩ của chúng ta lầm lạc và lầm lạc. Cho đến vì vậy mà cuối cùng họ cầm gươm, cầm súng họ giết lẫn nhau được, họ giết con người được. Ăn thịt chúng sanh được như vậy thì họ có sá gì mà giết con người?

Cho nên chúng ta thấy rõ ràng là Phật giáo Nam Tông cầm súng giết người một cách rất rõ ràng. Mà họ diệt chủng họ chớ chưa phải là diệt ai đâu, chớ phải là diệt nước khác thì chúng ta cũng không nói đâu, mà họ diệt dân tộc họ. Mà đó là quốc giáo ở trong cái nước đó, gọi là Phật giáo là quốc giáo của họ đó, mà họ làm như vậy đó, thì chúng ta thấy có phải là truyền giáo đó đúng cái Phật giáo không?

Cho nên ngay cái bài kinh này đã xác định là những cái người này chưa phải là cái người đúng là Phật giáo. Tà giáo xen vào trong đó, mà họ gọi họ là Phật giáo Nguyên Thủy chớ. Họ nguyên cái gì? Họ đi lạc đường nào đâu chớ đâu phải là Phật giáo ở chỗ đó!

Cho nên càng đụng tới Thầy càng thấy cái sai lệch của Phật giáo bao nhiêu thì Thầy muốn dựng nó lại bấy nhiêu, thì Thầy lại thấy rằng chúng sanh quá mê muội, đi lạc lầm con đường của đạo Phật, từ cái pháp thiện của Phật đi đến cái pháp ác mà không thấy rằng mình sống trong cái ác mà không thấy.

Đó, thì hôm nay các thầy nghe được cái bài kinh này mới thấy được cái lời Phật dạy quá rõ ràng chớ gì?

Cho nên vị cư sĩ này mới thưa:

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Nghĩa là khi như vậy thì làm sao mà có cái tâm ác trong đó được?

- Này Jivaka, Tỳ Kheo kia, trong thời gian thọ dụng các món ăn không có lỗi lầm.

Nghĩa là bây giờ thọ dụng những cái món ăn đó họ có tội không? Họ đã có cái sự không làm khổ mình, không làm khổ người, khổ chúng sanh, mà không làm khổ cả hai, thì khi họ ăn như vậy - bây giờ có một mâm cơm nè, toàn là thịt cá không, thì họ ăn như thế nào các thầy biết không? Họ ăn cơm không à, ăn cơm với muối không à, họ không thèm ăn ba cái đồ ăn đó đâu! Thì như vậy họ có lỗi không? Họ ăn xong rồi họ đi về họ có lỗi không?

Còn mình ngồi thấy ba thịt cá làm đồ ăn coi bộ ngon quá, hủ tíu nè, cháo lòng này kia, lòng nó bỏ trên đó đầy quá: “Trời ơi ngon quá! Thôi ních đi cho nó đã đi!” Thì khi mà ních rồi thì có lỗi lầm không? Lỗi lầm chớ sao không lỗi lầm!

Còn khi một vị Tỳ Kheo mà người ta biến mãn từ bi của người ta rồi thì người ta đâu có ăn được! Còn mình cắn cái đầu gà vầy mà nhai ngốn ngáo được, nhả một đống xương, mà không thấy cái tâm từ của mình ở chỗ nào hết! Thử hỏi mấy ông sư có không?

Cho nên Hòa thượng Huệ Hưng nói Thầy đến mấy chỗ sư bên Nam Tông, trời ơi cái sát khí của họ, ăn thịt chúng sanh, chúng ta thấy xương đống đống, thấy ghê gớm! Đúng vậy! Họ ăn gà, ăn vịt, ăn thịt heo, ăn sườn, họ bỏ sườn heo đống đống vậy chớ đâu có phải ít đâu!

Cho nên Hòa thượng nói với Thầy: Đến bên mấy chỗ mấy ông Tiểu Thừa, mấy ổng Nguyên Thủy, trời ơi, thôi thôi! Vô cái chùa của ổng là mình nghe cá, nghe thịt rồi à, chịu không có nổi! Đó là những cái bằng chứng cụ thể.

Chúng ta là những người ăn chay mà chúng ta đến chùa mấy ông đó là chúng ta không có chịu nổi cái mùi cá, mùi mắm của mấy ông đó đâu. Cái y, cái áo của mấy ổng nghe nó tanh mắm, tanh cá hôi rình à! Tại chúng ta không có chịu ngồi gần một bên chớ ngồi gần một bên chúng ta nghe hết chớ không có trật cái chỗ nào hết. Nhất là cái tâm mà chúng ta tịnh thì chúng ta nghe rất rõ những mùi cái hôi đó.

(15:13) Còn cái tâm của chúng ta chưa có thanh tịnh, bởi vì cái tâm chúng ta nó lộn xộn ở trong này, nó còn nghĩ này, mặc dù chúng ta đã ăn chay nhiều năm nhưng mà cái tâm của chúng ta nó chưa an tịnh, chúng ta chưa có nghe được cái mùi hôi của họ. Họ ăn bò chúng ta nghe bò mà ăn chó chúng ta nghe hôi chó, mà họ ăn gà chúng ta nghe mùi gà, ăn vịt chúng ta nghe mùi vịt, ăn cá chúng ta nghe tanh cá à.

Khi nào cái tâm quý vị mà thanh tịnh rồi, quý vị ngồi gần cái người nào ăn cái gì quý vị biết liền, cái mồ hôi của người đó họ toát ra biết liền à. Ăn tỏi chúng ta cũng biết cái mùi tỏi liền chớ, ăn hành chúng ta cũng biết nữa, ăn rau dấp chúng ta cũng biết nữa.

Cái thứ đó là những cái thứ hôi, cho nên nó ăn rồi cái bắt đầu nó ra mồ hôi nó hôi à. Mà cái người mà thanh tịnh tâm rồi người ta nghe cái mùi đó người ta biết liền. Còn cái người mà không thanh tịnh tâm, thì bởi vì cái tâm của chúng ta nó chưa có an, cho nên nó làm cho chúng ta không có lắng (nghe) được cái mùi đó.

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Đây là cái vị cư sĩ nói:

- Thưa không, bạch Thế Tôn. Cao thượng thay, an trú với lòng từ! Thương xót chúng sanh như vậy thực tế. Thưa Thế Tôn, xin Thế Tôn diện kiến thân chứng cho con hiểu ở điểm này. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn an trú lòng từ vô bờ bến.

Nghĩa là cái vị cư sĩ Jivaka này nói với Đức Phật, nghĩa là chứng nhận cho Người đã là thấy được cái lòng từ của Đức Phật là vô bờ bến, một vị tu sĩ mà thọ thực như vậy là không có cái tâm từ nào mà vô bờ bến (bằng) được hết.

Nghĩa là ăn như vậy, nghĩa là khi mà cái tâm từ như vậy, trước cái món ăn dù có ngon đi nữa cũng không tham đắm đâu, cho nên ăn cơm lạt hay hoặc là không ăn nữa, đó là người ta thọ - những cái đó là người ta ăn như vậy không bao giờ có lỗi lầm. Vì vậy mà những cái lời trước kia mà cái vị cư sĩ này hỏi Phật đó là những cái lời phỉ báng Phật, là những cái lời nói sai cái ý của Phật, không có đúng.

- Này Jivaka, cái gọi là tham, là sân, là si ấy được Như Lai loại trừ, chặt đến tận gốc, làm cho như thân cây tala, khiến cho không thể tái sanh được, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Jivaka, nếu như vậy là ý nghĩ ông muốn nói, thời ta đồng ý với ông.

Nghĩa là Đức Phật nói tâm tham, tâm sân, si mình không còn có nữa thì làm sao mình thích cái món ăn ngon này! Các con hiểu điều đó chớ?

Tại sao Đức Phật (không) nói là mình ăn chay hay hoặc này kia, mà Đức Phật nói: Tại vì cái ý muốn nói Ta là lòng từ của chúng ta đối xử chúng sanh vậy, là tại vì cái tâm tham, sân, si chúng ta hết rồi, Phật hết rồi, cho nên vì vậy bây giờ trước cái món ăn này, dù là có ngon cách gì đi nữa cũng không cám dỗ được Đức Phật, bởi vì tham nó không còn! Các thầy hiểu chỗ đó không?

Cho nên cái bài kinh rất là giá trị. Cho nên bước đầu vào mà chúng ta đọc đến cái bài kinh này, chúng ta không phải là thuộc loại Đại Thừa Bà La Môn mà ăn chay đâu, mà chúng ta phải biết rằng ăn cái món ăn của chúng ta là ăn ở trên cái tâm từ bi của chúng ta, cái từ của chúng ta bao giờ nó cũng phủ trùm tràn đầy với chúng sanh hết.

(18:11) Chúng ta phải hiểu được cái bài kinh như vậy, vì vậy mà chúng ta mới thấy rằng chúng ta thanh tịnh được thân tâm, nuôi được cái chánh mạng của chúng ta chớ! Còn không khéo mà không thấy được như vậy thì chúng ta nuôi tà mạng mất đi rồi. Ăn mà còn chế ra đùi gà, ăn còn chế ra đồ mặn, nào là chế ra y như là đồ mặn thì thôi để đồ mặn ăn đi cho rồi đi, còn bày đặt cái thứ này ra chi?

Cho nên bên những cái nhà Đại Thừa, có nhiều cái bữa mà đi thọ trai Thầy thấy họ làm đồ chay thật, nhưng mà họ bày ra như mắm chay hoặc cái này kia. Thầy vô tiệm cơm chay cũng vậy. Kêu họ, họ đem một cái đĩa thịt y như thịt heo vậy, mà họ làm bằng bột không à, họ cũng nhuộm nào là da heo, nào là mỡ rồi nào nạc, họ làm tùm lum ra. Thật sự ra, thôi, dẹp cái đó đi! Thấy nó như vậy mà còn nuốt được thì nuốt làm sao được? Vậy mà người ta ngồi đó mà người ta nuốt, gọi là ăn chay!

Phật nói thấy không ăn mà, dù là có thấy cái đó là không thật đi nữa nhưng mà thấy là cái miếng thịt con heo, hay hoặc là con gà là nhất định không nuốt được.

Còn các con biết không, người ta lấy mỳ căn đó người ta xé xé ra giống như thịt gà mà xé vậy, người ta trộn ba cái rau răm vô, người ta nói làm gỏi gì đó. Trời đất! Thật sự ra mình ăn chay, đừng có làm cái điều đó, làm như là xé thịt gà mà trộn gỏi vậy đó!

Thiệt là những cái - đời người người ta ham ăn thịt chúng sanh, rồi bây giờ ăn chay rồi không dám ních, bây giờ mới làm ra những cái đó để mà làm cái ảo giác chớ cái gì! Chính chúng ta nuốt vô cổ chúng ta, ngon ở chỗ miệng chúng ta là cái ảo giác của thực phẩm rồi. Nó đâu có thật? Nó là bất tịnh, nó là những cái món ăn bất tịnh cho chúng ta.

Cho nên hằng ngày chúng ta đặt cái thực phẩm trước mặt chúng ta tu là vì chúng ta quán xét bất tịnh cho nên chúng ta không còn thèm khát nữa. Còn quý thầy không chịu đặt cái niệm bất tịnh, cái thực phẩm bất tịnh, quý thầy nay thèm cái này, mai thèm cái kia, mốt muốn ăn cái nọ, mốt bữa kia muốn uống cái nọ, điều đó là do chúng ta thiếu tu tập.

Nếu mà chúng ta tu tập cái Định Vô Lậu mà đặt cái niệm trước mặt, hằng ngày được thực phẩm đến chúng ta, chúng ta không thèm đâu, chúng ta coi như nó là một cái món thuốc để mà chúng ta cứu cái bệnh đói của chúng ta.

Đúng là Phật đã dạy chúng ta tu tập như vậy đó. Nhưng vì chúng ta không biết pháp hành cho nên bây giờ tới cái ngày giờ này mà chúng ta vẫn thèm, mà vẫn ăn, vẫn khát, muốn ăn cái này, muốn ăn cái kia. Hầu hết là quý thầy, các Hòa thượng đều là bây giờ đang sống ở trong cảnh đó.

Cho đến khi mà biết các vị kia nào là bán thân, nào là bệnh thế này thế khác, ung thư đủ thứ cũng đều là nuốt ba cái đồ độc, cái ảo giác ngon ngọt ở cái chỗ cổ họ chớ gì? Làm đồ ăn, bỏ ba cái bột ngọt đầy ở trong đó, nuốt cho ngon cái miệng có một chút, mà cuối cùng để mang cái thân rất là khổ sở. Hầu hết là các bậc Hòa thượng, các bậc Tôn túc của chúng ta chớ ai, ông nào cũng méo miệng nhăn răng hết khi sắp sửa chết.

Thầy nói đây, các thầy cứ để mắt mà nhìn coi có không? Tại sao mà chúng ta tu hành, bây giờ tay chân chúng ta run run như thế này, như giò gà vậy? Có phải là chúng ta nuốt ba cái đồ độc không, bây giờ gân nó mới giựt, chớ nếu chúng ta không có nuốt đồ độc thì làm sao mà giựt gân, giựt tay như vậy!

Bởi vì háu ăn cho cái miệng cho ngon mà tạo cho cái tội của thân chúng ta biết bao nhiêu? Người ta không thấy được. Bởi vậy Thầy nói, Đức Phật nói dục là khổ, ham nó là khổ, mà không thấy, ly nó ra đi! Tại sao không ly? Cho nên vì vậy mà không ly, làm sao mà nhập được Sơ Thiền? Cho nên không nhập được Sơ Thiền, nội cái ăn không của chúng ta cũng làm sao mà có được Sơ Thiền!

(21:22) - Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay đệ tử của Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân.

Đó, người nào mà vì Như Lai nè, vì đệ tử của Như Lai mà giết vật để cúng dường thì đó gọi là phi công đức. Các con thấy cái bài kinh này rất rõ ràng. Phật nói đừng có giết hại chúng sanh mà đem cúng dường được phước đâu, người nào mà làm cái điều đó là phi công đức đó!

Nó có năm cái nguyên nhân, năm cái nguyên nhân nào, thế nào? Năm cái điều kiện mà xảy ra, một cái người đó mà tạo cái điều ác đó. Cái nguyên nhân thứ nhất là:

Khi người ấy nói như sau: “Hãy đi và dắt con thú này đến”, đó là nguyên nhân ác thứ nhất, người ấy chất chứa nhiều phi công đức.

Lúc bấy giờ mình muốn làm thịt một con vật chớ gì, phải bắt con gà, trói chân nó lại, thì cái lúc bấy giờ chúng ta bắt con gà, trói chân nó lại, thì nó có đau không? Đau chớ! Nó đương đi như vậy mà bây giờ chúng ta làm vậy.

Cho nên Phật nói nè: “Hãy đi và dắt con thú này đến chỗ đó”. Bây giờ nếu mà chúng ta mần con bò hay con heo, tức là chúng ta phải cột cổ nó, lôi nó đi chớ gì? Thì đó là cái phi công đức, tức là cái ác, cái nguyên nhân ác thứ nhất, nó là cái phi công đức thứ nhất. Cái thứ hai là:

Con thú ấy đã bị dắt đi, vì bị kéo lôi nơi cổ, nên nó cảm thọ đau khổ, nhức nhối, đó là nguyên nhân ác thứ hai, người ấy chất chứa nhiều phi công đức.

Không có công đức gì hết! Nghĩa là bây giờ chúng ta muốn làm con bò để đãi Phật và đệ tử của Phật chớ gì? Bắt đầu bây giờ phải nắm cái dây cột cổ con bò lôi đi, lôi lại cái chỗ mà chúng ta đập nó cho nó chết rồi chúng ta mới cạo lông nó mới được, do đó mà lôi kéo con vật thì thử hỏi các thầy thấy con vật có đau không?

Đó là Phật nói cái phi công đức thứ nhất. Đó, nó có công đức gì không? Phi là đâu có công đức gì đâu, mà lại nó là cái chất chứa những cái ác, nhiều cái phi công đức chớ không phải là một.

Phần thứ ba:

Khi người ấy nói: “Hãy đi và giết con thú này”, đó là nguyên nhân ác thứ ba, người ấy chất chứa nhiều phi công đức.

Đó là cái thứ ba. Như vậy là bây giờ dẫn con thú đó đi, rồi bây giờ mới đâm vào cổ con thú đó cho chết, cho máu nó ra đi, rồi mới làm thịt nó đi, thì đó là cái phi công đức, cái ác thứ ba, phi nhiều cái công đức, nó không có công đức gì hết.

Thứ tư:

Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ đau khổ, đây là nguyên nhân ác thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức.

Nghĩa là làm cái hành động đó là chất chứa nhiều cái phi công đức. Nghĩa là đem cúng Phật hay là cúng dường cho chư tăng đệ tử của Phật, thì cái người đó đương nhiên là không có công đức gì hết, mà lại chứa nhiều cái ác nữa.

Cái thứ năm:

Khi người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử của Như Lai một cách phi pháp như vậy, đó là nguyên nhân ác thứ năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức.

(24:21) Đó thì các thầy thấy cái chỗ này chưa? Cái bài kinh này rõ ràng là ở trong kinh Trung Bộ, rất là rõ ràng, Phật dạy rất là rõ ràng, không phải là Thầy đặt đâu, để rồi có dịp quý thầy sẽ nghiên cứu lại cái bài kinh này.

Ở đây, toàn bộ những cái kinh điển mà của giáo lý của Đức Phật, Thầy đã thấy được cái pháp hành, và cái pháp mà dạy từ cái ăn chay, từ cái mà chúng ta tu cái Tứ Vô Lượng Tâm từ, bi, hỷ, xả, ngay cả cái chỗ ăn mà Đức Phật đã dạy cái này, Thầy thấy rất tuyệt vời là vì đem lại chúng ta có một cái lòng rất là thương yêu rộng lớn, và cái người nào mà làm sai.

Cho nên hàng Phật tử bây giờ hằng ngày mà họ đem họ cúng dường, họ sớt bát cho quý sư, cho các vị sư ở bên Nguyên Thủy, hằng ngày họ làm thịt làm cá, họ giết hại như vậy, thì đọc ở trong cái bài kinh này, có phước báo không? Không có phước báo gì hết! Như vậy là cái hoài công của họ đến với đạo Phật, hằng ngày phải tốn mồ hôi nước mắt mà như là bỏ cái hạt giống ở trên cái đường đất dầu, làm sao lên được?

Các con thấy không? Các thầy thấy rất rõ. Cái bài kinh này là phi công đức, năm cái điều kiện mà đưa đến thành một cái miếng ăn để cúng dường Phật rồi thì nó không có công đức gì nữa hết, hoàn toàn là tội ác, phải chịu tội ác thôi, không bao giờ mà có thể chạy trốn đi đâu được khỏi cái tội ác này.

- Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử của Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân này.

Bây giờ đó thì các thầy thấy cái bài kinh nói tới đây là nó sẽ chấm dứt đó, nhưng mà cái người mà được nghe cái bài kinh này, họ tán thán và ca ngợi Phật hết sức là hết sức. Và Thầy đọc tới chỗ này, Thầy thấy đúng là cái người tu Tứ Vô Lượng Tâm đúng cách chớ không phải là…​

Vì đạo Phật có Tứ Vô Lượng Tâm từ, bi, hỷ, xả, thế mà thực hiện thiếu cái từ, bi, hỷ, xả đó, và Phật có một cái nẻo là Chánh Mạng - nuôi cái thân mạng của chúng ta chơn chánh, thì không thể nào mà đem những cái thực phẩm ác mà nuôi thân mạng của chúng ta được.

Đó thì chúng ta thấy qua cái bài này, thì đây là cái kết luận của cái bài kinh do vị cư sĩ Jivaka này tán thán:

- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, các Tỳ Kheo thật sự thọ dụng các món ăn không có khuyết phạm. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

Đó là kết luận của cái bài kinh đó. Như vậy thì quý thầy thấy, các thầy thấy rất rõ ràng là khi mà các vị Tỳ Kheo mà thọ cái món ăn đó, không bao giờ có khuyết phạm trong cái tội lỗi nào hết. Nghĩa là người ta để thịt cá dẫy đầy, nhất định là không ăn, không ăn là không ăn.

Mình ăn những cái vật gì mà không có - làm cho cái chánh mạng của chúng ta nó trở thành tà mạng thì nhất định là chúng ta không ăn, còn cái gì chúng ta ăn mà nuôi được cái chánh mạng thì chúng ta ăn.

(27:12) Cho nên thật sự đọc qua bài kinh này, Thầy nghe nói trong cái thời Đức Phật người ta cho thịt, cho này kia, chắc chắn là Đức Phật ổng mang về đó, bây giờ cái ngày đó ông nhịn đói, thà là ổng để…​ Ổng không phải ổng trả cho cái người cư sĩ đó liền đâu, bỏ vào thì ổng cũng vẫn mang về bát, cho đến khi mà ổng đến cái chỗ mà ổng thọ thực, ổng thấy toàn bộ là thịt của chúng sanh thì ổng bỏ ở ngoài đất trống đó, cũng không bao giờ bỏ ở trên cỏ nữa.

Bởi vì lòng từ của Đức Phật không bao giờ làm cho một cái lá cỏ héo mà, cho nên ổng bỏ ở trên mặt đất trắng đó, để rồi ai ăn hay con vật gì ăn mặc tình, chứ Đức Phật không bao giờ hề hấn đến một cái chỗ đó để nuôi cái chánh mạng của mình đâu.

Đó thì qua cái bài kinh này chúng ta thấy được cái điều kiện tiên quyết đầu tiên để chúng ta thấy từ cái ăn uống của chúng ta mà hầu hết là quý thầy đã sai.

Nhất là bên Nguyên Thủy gọi là tu theo gốc của đạo Phật mà cái ăn uống này họ luận cái kiểu của họ, già hàm lẻo mép để lợi dụng cái thịt của chúng sanh, cho nên ông sư nào cũng mập ú bằng cái thịt, xương, máu của chúng sanh hết, cho nên cuối cùng thì ông nào cũng chẳng ra ông nào hết. Nghĩa là tu - thậm chí như mấy ổng cũng nói là thiền định trong cái thời mạt pháp này chẳng ai nhập định được hết. Đó là cái gạt người ta.

Nếu người ta tu đúng chánh pháp của Phật ly dục ly ác pháp, người ta tu Tứ Vô Lượng Tâm, người ta không bao giờ nuôi cái tà mạng, thì thiền định của Phật đâu phải là chuyện khó khăn? Thầy nói đâu có phải là chuyện khó! Tại vì chúng ta tu không đúng cách cho nên nó khó chớ còn tu đúng cách nó không phải khó đâu.

Bây giờ chúng ta tiếp tục. Qua cái bài kinh này, Thầy nhắc lại, đây là cái bài kinh Jivaka, số 55, trang 71, Tạng Kinh Việt Nam, kinh Trung Bộ tập 2. Đó, Thầy nói như vậy là quý thầy sau này cứ ngay cái số đó quý thầy lật ra cái bài kinh đó thì rõ ràng, chớ không có một cái gì khác hơn hết.

3- CẦN THÔNG HIỂU MỚI PHÁ BỎ ĐƯỢC TÀ KIẾN CŨ

(29:04) Phần giới hành chúng ta chia làm bốn giai đoạn tu tập:

Nghĩa là trong khi mà chúng ta tiến tới để mà tu tập giới hành thì chúng ta phải hiểu biết có bốn giai đoạn mà để chúng ta tu tập.

1. Thông hiểu những gì cần phải thông hiểu;

Đó như Phật đã dạy đó, chúng ta phải thông hiểu, thông hiểu rồi mới tu tập, chớ đâu phải là như hồi nãy giới bổn mà mấy ông sư đó nói không có cần hiểu biết, chỉ thọ rồi bắt đầu mình cứ cố gắng mình giữ nó thôi, giữ đừng cho phạm thôi. Sự thật không thông hiểu làm sao mà người ta không phạm? Cho nên cái lối đó, cái lối lý luận của học giả, chớ không phải là cái lối lý luận của Phật pháp được. Cho nên ở đây đúng là chúng ta phải thông hiểu những gì cần phải thông hiểu.

Lúc này chúng ta phải học hiểu cho rõ, biết cho rõ tất cả những gì chúng ta sẽ thực hành, sau này không còn bị mọi tà kiến, kiến chấp đang mang đầy ắp trong đầu của chúng ta.

Nghĩa là bây giờ chúng ta phải hiểu cho rõ ràng, chớ không khéo thì trong những cái đầu óc của chúng ta bây giờ - một con người làm sao chúng ta không có cái hiểu biết, mà cái hiểu biết đó tức là cái tà kiến, cái kiến chấp của chúng ta ở trong đầu óc chúng ta rất nhiều.

Từ ngày mà Thầy đọc lại trong kinh Nguyên Thủy, kinh A Hàm thì tất cả những cái gì mà kinh Đại Thừa nó còn đầy ắp ở trong cái đầu của Thầy, cho nên nhiều khi Thầy phải đứng ở trong cái kiến chấp đó mà Thầy luận bằng cách này bằng cách kia, Thầy bác cả cái kinh Nguyên Thủy nữa chớ không phải không đâu.

Thầy nói cái này còn thấp, cái này còn nói theo cái kiểu mà phàm phu tục tử, nhưng cuối cùng Thầy xét thấy không phải là phàm phu tục tử làm được cái chuyện này đâu, nó là những cái bước đầu mà cho cái người tu phải tập luyện như vậy nó mới đúng cách.

Cho nên từng đó những cái kiến chấp, những cái tri kiến mà học tập của Đại Thừa và Thiền Đông Độ, Thầy mới được quét sạch ra khỏi cái đầu của Thầy, chớ còn không cái thứ đó nó làm cho đầy ắp luôn cái đầu của Thầy.

Nhất là Trung Quán Luận của ngài Long Thọ, nó làm cho Thầy cũng đầy ngập ở trong đó đó, cho nên mở mở ra thì bao giờ Thầy cũng đem Bát Nhã với Trung Quán Luận mà Thầy quét bên nây Thầy quét bên kia, nhiều khi Thầy đập cả kinh Nguyên Thủy nữa, Thầy đập xuống hết. Nhưng mà cuối cùng Thầy thấy điều đó là cái điều già hàm lẻo mép của mấy ông già này chớ không phải là cái chính.

Chính vì Đức Phật dạy chúng ta từ cái phòng hộ sáu căn mà chúng ta đi đến cái Chánh Niệm Tỉnh Thức, làm chúng ta thấy rõ ràng con đường giải thoát, chúng ta bước vô là có giải thoát, còn mấy ông này cái miệng nói chớ còn chẳng có giải thoát gì được hết.

(31:22) Cho nên cuối cùng Thầy mới quét ba những cái tri kiến, ba những cái tà kiến ở trong đầu đó ra mới sạch, chớ còn không Thầy cũng dính đầy ắp ở trỏng hết, cho nên mở mở ra một cái gì - thì hồi đầu mở ra cái gì thì cũng là Phật Tánh, cũng là Bát Nhã, cũng này kia không à, cái gì cũng là huyễn giả hết, chỉ cho mình không có dính mắc nó là được. Mà nói như vậy là cái pháp hành không bao giờ có cái gì hết, cho nên cuối cùng là dính mắc vẫn hoàn dính mắc.

Đó thì ở đây, chúng ta là những người mà đầy ắp những cái tà kiến, những cái kiến chấp ở trong đầu của chúng ta rất nhiều. Những cái tà kiến, kiến chấp này nó rất độc, nó rất độc chớ không phải là nó không độc đâu! Nó dính vô đầu chúng ta mà buông nó ra cũng không phải dễ đâu. Nó phải có một cái trí tuệ sáng suốt, là khi chúng ta phải hành cho được cái gì rồi chúng ta mới tin, mới phá nó được. Còn nếu mà chúng ta không có hành được, chúng ta khó phá lắm.

Nghĩa là bây giờ quý thầy mà tu chưa tới đâu, thì những cái kiến chấp về Thiền Đông Độ hoặc là về Đại Thừa mà quý vị đã được các bậc tổ mớm cho quý thầy đã hiểu được những cái nghĩa lý của nó rồi, thì bắt đầu quý thầy mà chưa có tu được giải thoát thì quý thầy khó mà giải trừ những cái tà kiến, những cái kiến chấp đó lắm. Khó lắm! Khi nào mà quý thầy đã tu mà quý thầy đã giải thoát được rồi, quý thầy làm chủ được rồi, thì chừng đó quý thầy mới thấy đó là sai, chớ còn bây giờ quý thầy vẫn thấy đó là đúng.

Cho nên có nhiều người người ta cứ luận để mà hòa hợp, hòa hợp, đó là những cái người ta không có bỏ được cái kiến chấp đó, những cái tà kiến đó. Người ta muốn hòa hợp giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa là cái kiến chấp của Đại Thừa người ta không bỏ được, người ta thấy đó còn đúng. Là vì những người này là họ tu chưa có tới đâu hết cho nên họ chưa có biết cái giải thoát là ở chỗ nào, cho nên họ thấy đó là còn đúng, cho nên họ bỏ cái kiến chấp, tà chấp của Đại Thừa và của Thiền Đông Độ họ bỏ không được.

Họ cứ cho rằng mấy ông tổ đó còn đúng chớ chưa phải sai đâu. Nhưng mà sự thật cái làm được hay không làm được, bây giờ chúng ta tu tập chúng ta làm được rồi chúng ta mới thấy được cái nói của mấy ông đó là sai, còn khi mà chúng ta chưa làm được thì chúng ta vẫn còn dính đó chớ chưa dám bỏ nó ra đâu.

(33:23) Những tà kiến, kiến chấp này rất độc ác, phần nhiều là do pháp tưởng sanh ra của các loại kinh ngoại đạo, rồi đầu óc ngu si của chúng ta mê mờ không rõ, cứ cho rằng chúng ta hiểu là đúng, nên không chịu bỏ, không chịu sửa sai, do thế tu theo đạo Phật mà lại tu theo tà giáo ngoại đạo, nên cuối cùng luôn luôn phạm giới luật của đạo Phật.

Đức hạnh không bao giờ có.

Đức hạnh người tu sĩ chẳng ra gì, nhìn ra chẳng giống ai, đời thì chẳng ra đời mà đạo thì chẳng ra đạo, chẳng làm chủ được sanh tử mà cứ ngỡ tưởng là có thể làm chủ được sanh tử, mà cứ tưởng rằng mình có thể nhập vào bản thể Chân Như Phật Tánh là sẽ chấm dứt được sanh tử luân hồi.

Cứ nghĩ rằng mình có thể mình nhập vào đó là mình làm chủ được liền, làm chủ được sanh tử luân hồi. Nhưng mà cái nói mà nhập, thì thật sự ra nhập như thế nào thì họ chẳng biết cách thức nào mà nhập hết, rồi bắt đầu họ tưởng ra như vậy, để rồi họ nghĩ ra những cách hão huyền của họ, họ tự gạt họ rồi gạt người khác nữa!

Phật Tánh do tưởng nhận ra, mà tâm tham, sân, si chẳng lìa được, Ngũ Triền Cái che khuất, Thất Kiết Sử trói buộc mà chẳng thấy, lại bảo là đó là tạp khí chưa hết, Bồ Tát còn tạp khí huống là chúng ta!

(35:02) Đó là những cái lý luận của họ đó. Nếu mà họ làm chủ được thì tâm tham, sân, si họ đâu còn? Ngũ Triền Cái đâu còn? Thất Kiết Sử đâu còn trói buộc họ? Thế mà bây giờ họ đã thấy Phật Tánh họ, họ đã nhận ra Phật Tánh họ bằng cái tưởng của họ thôi, cho nên tâm tham, tâm sân, si của họ vẫn còn, triền cái vẫn còn, kiết sử vẫn còn, thế mà họ luôn luôn có tham, có sân, có si, thì họ lại bào chữa họ bằng cách là đó là tạp khí.

Họ bảo đó là cái thói quen của họ lâu đời rồi, bây giờ có thấy Phật Tánh thì cái thói quen nó cũng chưa hết, phải chờ một thời gian nữa. Không biết chờ bao đời mà nó mới hết, Thầy cũng chả hiểu! Nhưng mà bây giờ họ bảo chờ đi, chờ đi, chờ một thời gian nữa rồi cái tạp khí nó sẽ hết, bây giờ mình thấy Phật rồi, thời gian sau tạp khí nó mới hết.

Nhưng mà sự thật đó là cái lý luận của họ để che đậy cái sự không có pháp hành, cho nên họ còn lập luận: “Bồ Tát còn tạp khí, huống hồ là chúng ta!” Họ lấy lý luận là Bồ Tát còn cái sân, si, còn chúng ta còn sân, si thì chúng ta đâu có đáng kể gì, cho nên cứ cố gắng mà giữ gìn cái Phật Tánh đó đi rồi chúng ta sẽ hết. Nhưng mà cuối cùng thì như thế nào? Hằng ngày cứ đắm nhiễm ở trên dục lạc thì thử hỏi tham, sân, si càng nuôi lớn ra, có gì đâu mà gọi là giải thoát?

Thật đáng thương cho những người này, bỏ hết tất cả cuộc đời, không làm lợi ích cho mình, cho người mà chỉ ôm ảo ảnh để rồi đọa ở trong tam đồ khổ, luân hồi mãi mãi mà không biết!

Họ tưởng là đời này họ làm sư, đời sau họ cũng làm tổ nữa, đời kế nữa họ cũng làm tổ nữa, họ tính họ nghĩ rằng họ làm hoài như vậy để họ đi vào trong sanh tử mà độ chúng sanh. Họ chỉ trong cái đời nay có mình họ là độ chúng sanh thôi, còn hoàn toàn là không có ai mà đủ khả năng độ chúng sanh. Họ tham đắm đến cái mức độ mà Thầy không tưởng tượng được!

Cho nên họ nói rằng Bồ Tát luôn luôn là đi vào trong sanh tử vì là cái hoằng hóa, vì cái lợi ích cho chúng sanh lớn cho nên mới thích đi vô đi ra sanh tử, cho nên họ chẳng sợ sanh tử. Sự thật ra họ có làm chủ sanh tử đâu mà họ không có đi vô đi ra sanh tử?

Đời sống xuất gia của tu sĩ hiện giờ chỉ có y áo và chiếc đầu cạo trọc, sinh hoạt tôn giáo, còn tâm của quý vị thì luôn luôn sống ở trong dục lạc thế gian…​

Nghĩa là bây giờ nhìn cái giới tu sĩ của chúng ta hiện giờ, họ có được cái bộ y áo với chiếc đầu trọc mà thôi, còn cái sinh hoạt tôn giáo thì cúng bái, lễ lộc này kia, thuyết giảng đồ vậy thôi, còn cái tâm của họ thì sống ở trong cái dục lạc thế gian y như người thế gian, không khác chút nào hết.

Lời nói này quý thầy cứ xét có đúng không? Cho nên cái giới luật đều là vi phạm hết, lỗi nhỏ cũng phạm, lỗi lớn cũng phạm, không có lỗi nào mà họ chừa hết.

…​ đời sống Phạm hạnh của một tu sĩ chẳng còn có nữa.

Nhìn qua cái đời sống Phạm hạnh của tu sĩ không còn có nữa.

4- NGÀI RATTHAPÀLA CHỌN SỐNG CUỘC ĐỜI PHẠM HẠNH

(37:53) Đây chúng ta nghe Ratthapàla bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình, sống theo dục lạc, thật không dễ gì thực hiện Phạm hạnh…​

Nghĩa là cái đời sống của người thế gian là người ta sống ở trong cái dục lạc, làm sao mình sống ở trong cái thế gian mình sống được cái đời sống Phạm hạnh được? Đó là cái vị cư sĩ này mới trình lại Đức Phật. Thật sự là sống ở trong cái gia đình mình không thể nào mà sống cái đời sống Phạm hạnh như cái người tu được hết.

…​ hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Con muốn, bạch Đức Thế Tôn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, từ bỏ dục lạc thế gian, sống không nhà cửa. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, cho con thọ đại giới.

Đó, bây giờ cái ông cư sĩ này ổng xin Đức Phật, ổng thấy rằng cái đời sống mà ở trong gia đình không có thể nào mà ly được những cái dục lạc của thế gian được hết. Còn bây giờ là quý thầy đang sống ở trong một cái nơi tu hành, là một vị tu sĩ thọ đại giới hẳn hòi đàng hoàng, mà sống ở trong dục lạc còn hơn ở người thế gian, thì đâu có trắng bạch như vỏ ốc được, thì làm sao mà có giải thoát?

Đó là cái vị cư sĩ này đã xác định cho chúng ta thấy rằng: Con đường của đạo Phật phải khác, không thể nào giống con đường thế gian được. Thế mà đạo chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời, thì quý vị làm sao giải thoát được?

Sau khi được cha mẹ cho đi tu và được Phật chấp nhận xuất gia, chẳng bao lâu Tôn giả chứng quả A La Hán. Chứng quả xong Tôn giả xin Phật trở về thăm cha mẹ. Khi về đến nhà, Tôn giả không được sự tiếp đãi mà còn nhận những lời sỉ nhục, Tôn giả chỉ nhận được bát cháo thiu của người đầy tớ. Nhờ thế mà phụ thân Tôn giả mới đến gặp Tôn giả mời Ngài về nhà:

- Này con thân yêu Ratthapàla, có phải con ăn cháo thiu ngày hôm qua không? Con phải về nhà cửa của con đi.

(40:05) Một khi cái người con mà đi tu rồi, khi về gặp cha mẹ, người đó có mừng rỡ không? Họ rất thản nhiên. Qua cái hình ảnh của một cái vị cư sĩ này chúng ta thấy nè, lâu ngày ba năm sau theo Phật, cho nên lúc bấy giờ tu hành cho đến ba năm sau, vị này tu chứng quả A La Hán rồi mới xin Phật, Phật thấy rằng đúng là cho về được, cho về thăm.

Nhưng mà vị này về thăm, thì từ khi mà xin đi tu thì gia đình không có cho, cho nên ông nằm vạ ông đòi thế này thế khác, cuối cùng thì cha mẹ bằng lòng cho đi là vì thương đứa con một của mình mà thôi chớ không muốn cho nó đi tu.

Cho nên khi mà về, thấy ông này ở ngoài cửa thập thò đó, đi ngang qua cái cửa mà để khất thực xin đó, thì ổng ở trong nhà ổng chửi như thế này: “Cũng ba cái thằng đầu trọc này nè mà nó làm cho con tao ba năm rồi mà không có thấy nó về”, ổng chửi như vậy đó. Thì cho nên đó là ông nói ông về nhà ông là ông bị sỉ nhục là chỗ đó đó, bị chửi ba cái thằng đầu trọc đó, do đó vì vậy mà ổng bị sỉ nhục đó.

Vì vậy, sau khi đó thì ông đi qua, thì có một cái đứa đầy tớ trong cái nhà của cha ổng đó, mới đem cái bát cháo thiu mà đem đổ đi, ăn không hết đổ đi, thì ổng mới kêu cái người đầy tớ đó: “Bà chị ơi! Bà đem đổ cái này vô trong bát tui đi!” Thì cái bà này bả thấy là cái vị này, thôi bây giờ trút trong đó đi cái đi về.

Nhưng mà bà này đến gặp cái vị tu sĩ này thì mới nhận ra là ông chủ nhỏ của mình, cho nên bà ta mới đổ bát cháo rồi mới chạy về báo cho ở gia đình hay. Nhưng mà không ngờ chạy về báo thì ông ở đây ổng ăn cái bát cháo thiu rồi, cho nên ông cha mới hay, mới mời, kêu gọi đứa con, mời đứa con về. Nhưng mà đến mời về thì ông nói ông đã ăn xong rồi, cho nên ông cha mới hỏi nè:

- Này con thân yêu, có phải con ăn cháo thiu ngày hôm qua không? Con phải về nhà cửa của con đi.

Thưa gia chủ…​

Ông ta không còn gọi cha mình là cha hay bố nữa, mà ông gọi là “thưa gia chủ”, coi như là cái người bố thí thôi, coi như là cái người cư sĩ thôi.

(42:06) Thưa gia chủ, thôi vừa rồi! Hôm nay tôi đã ăn xong rồi.

Nghĩa là bây giờ có mời gì ông cũng chẳng có thèm mà trở về đó nữa.

- Vậy này con thân yêu, hãy nhận lời ngày mai đến dùng cơm.

Tôn giả im lặng nhận lời. Người cha về đến nhà, lấy vàng bạc châu báu chất thành đống, gọi các người vợ cũ của Tôn giả trang điểm làm cho thật đẹp.

Để mà quyến rũ cho ông ta ở lại, đừng có…​ Thấy của cải, vàng bạc, thấy vợ đẹp thì ông ta chắc chắn là không có đi nữa.

Đúng giờ thọ trai, Tôn giả đến nhà của phụ thân, ngồi xuống nơi chỗ đã soạn sẵn. Rồi người cha của Tôn giả trình bày đống vàng và của báu:

- Này con, đây là tiền của cha mẹ, đây là tiền của của bố, đây là tiền của của ông bà tổ tiên, tất cả tiền bạc này là tiền bạc của con. Cha mẹ chỉ vì có mình con mà thôi, nay con đi tu, tiền bạc này bỏ cho ai? Con hãy về mà thọ hưởng tài vật và làm việc phước đức bố thí cho người khác đi.

Đó ông cha ông dụ như vậy đó, ổng dụ người con như vậy đó. Thì Tôn giả trả lời:

- Thưa gia chủ, nếu gia chủ làm theo lời nói của tôi, gia chủ hãy đem vàng bạc châu báu này cho vào các cỗ xe, chở ra sông Hằng mà đem đổ xuống dưới đi.

Đó, ông bảo ông cha biểu đem đổ hết của cải này đi.

- Vì sao vậy? Này gia chủ, vì do của báu này mà làm sầu, bi, ưu, khổ sẽ đến với gia chủ.

Lúc bấy giờ, những người vợ cũ của Tôn giả người thì ôm chân, kẻ thì nắm tay Tôn giả và nói:

- Thưa phu quân, vì thiên nữ nào mà phu quân sống Phạm hạnh, bảo cho chúng em biết?

- Này các bà chị…​

Ông gọi vợ ổng bằng bà chị!

- Này các bà chị, không phải vì thiên nữ nào mà chúng tôi sống Phạm hạnh.

Thì mấy cái người vợ nghe rồi đó, nghe ổng nói: “Tôi không phải vì thiên nữ nào mà tui sống đời Phạm hạnh này đâu!” Đó ổng trả lời như vậy đó, thì mấy cái người vợ ổng:

- Trời đất ơi, phu quân đối với chúng em gọi chúng em là bà chị, còn cái chỗ nào mà nói nữa!

Tôn giả nói với phụ thân:

- Thưa gia chủ, nếu gia chủ muốn bố thí đồ ăn thì hãy bố thí đi, chớ có làm phiền chúng tôi nữa.

Sau khi thọ thực xong, Tôn giả nói kệ rồi ra đi.

Đó thì các con thấy, cái tình cảm mà của cái gia đình của người ta, không còn cái tình cảm riêng tư nhỏ hẹp nữa, mà cái lòng từ của người ta đối xử với mọi người bình đẳng như nhau, nó mới chân thật là giải thoát.

Còn bây giờ chúng ta lâu lâu ba năm mà về, mừng rỡ gia đình chạy ra nắm chân nắm tay rồi an ủi thế này thế khác, điều đó làm chúng ta càng dính mắc ở trong những cái sợi dây, những cái mạng lưới của tình cảm thương ghét làm chúng ta khó mà giải thoát được.

(45:13) Cho nên khi người mà theo Đức Phật tu hành rồi, thì khi cái người đó mà đạt quả A La Hán rồi Đức Phật mới cho về nhà chớ không cho về nhà bậy, mà cái người nào lén về nhà là bị cám dỗ hết.

Cho nên sự thật ra khi mà đi tu rồi theo một vị thầy, mà thật sự ra đời nay rất khó, Thầy nói rất khó. Theo Thầy rồi mà Thầy không bao giờ Thầy muốn cho họ rời khỏi Thầy, Thầy muốn làm sao họ sống một bên Thầy, độc cư với Thầy, sống cho đến khi mà tu chứng rồi thì chừng đó Thầy mới cho ra. Còn chưa chứng mà Thầy cho ra trong cái khi mà đang cố gắng để tu tập, cái tâm nó còn yếu lắm, mà khi ra cái tình cảm ở ngoài đời nó cám dỗ, và những cái vật chất ngoài đời nó cám dỗ vô cùng lận.

Cho nên khi mà tu hành rồi thì chúng ta biết được từng cái giai đoạn bắt đầu vô và đến khi mà đạt được thì chúng ta mới rời khỏi thầy. Mà nếu không mà rời ngang rời ngửa đi chơi chỗ này chỗ kia rồi thì cái người tu sĩ đó kể là hư rồi, không bao giờ mà còn tu được nữa. Thật sự là nó khó như vậy chớ không phải là cái chuyện đơn giản đâu. Cho nên chúng ta nghĩ rằng chúng ta vào tu rồi mà chúng ta còn đi chơi chỗ này chỗ kia thì cái người đó hết tu rồi.

Muốn vào tu là phải chọn được bậc thầy xong rồi, giới hạnh nghiêm túc rồi, đến đó thấy có pháp hành, có lý pháp, có cái hành pháp hẳn hòi, bắt đầu chúng ta chấp nhận là khép mình ở trong khuôn khổ, theo với thầy tận cùng năm năm, mười năm, chừng nào xong rồi thầy cho phép chúng ta mới rời khỏi thầy.

Còn đằng này chưa gì, trong vòng chừng nửa năm hoặc là một năm à, xin thầy đi chơi một vòng hay hoặc là về thăm cha mẹ, kiểu đó là kiểu chết hết rồi. Thầy thấy rất là khó.

Cho nên ở đây Thầy nhắc lại cho quý thầy đến những cái giới hành này là những điều mà Thầy dặn bảo rất là kỹ lưỡng.

Khi mà không có Thầy thì phải lấy cái giới luật, những cái giới mà Thầy đã giảng làm cái điều kiện mà trói chặt mình, ở trong khu vực nào là quyết chết ở trong khu vực đó, năm năm, mười năm đạt được thì mới rời khỏi khu vực đó, mà không đạt được thì nhất định là không ra khỏi khu vực đó. Tạo thành một cái giới đàn, cái giới tràng cho nó vững chắc như vậy thì may ra chúng ta mới có tu hành tới nơi tới chốn.

Bởi vì mười năm mà Thầy quyết định ở trong thất, thậm chí như trong cái khoảng thời gian - thì các con biết rằng cái thời gian 71 mà Thầy về ẩn bóng mà Thầy tu, 75 thì chiến tranh nó tàn khốc chớ đâu phải, khắp đất nước chúng ta mà, nhất là miền Nam chúng ta, bom đạn như thế này mà quyết định là không rời thất mà.

Thầy ngồi đó mà bom đạn nó ào ào, máy bay trực thăng nó bắn rocket, các thầy nghĩ. Nghĩa là người nào cũng phải chui hầm trốn hết à, mà Thầy thì ngồi thiền sừng sững, chết bỏ nhất định là chết bỏ. Đó như vậy là chúng ta mới thấy được cái gan dạ của cái người tu hành, chớ còn nếu không chúng ta phải rời thất mà bỏ chạy đi chớ còn không làm sao hết.

Cho nên tất cả xóm người ta đều tản cư hết, riêng Thầy ngồi ở trong thất Thầy tu. Cho nên lúc bấy giờ đó, quân đội quốc gia tấn công vô, nó thấy Thầy nó hoảng hồn hết, nói: “Thầy không nằm xuống? Máy bay như vậy, súng đạn vầy mà Thầy ngồi đó à?”

Đó thì nó thấy là ngồi chong ngóc ở trên cái tượng Phật của Thầy, cái tượng Phật ở đằng trước đó, ở trong thất của Thầy, Thầy để tượng Phật lớn như vậy đó. Thầy ngồi dưới đất, cái tượng Phật - Thầy nói chết là chết dưới tượng Phật chớ còn Đức Phật - cái tượng nát thì Thầy nát, còn tượng không nát là không nát.

Mà nó bắn xung quanh, tất cả những cái nhà xung quanh, Thầy nói nhà gần gần vầy, cũng như mấy cái thất vầy, như cái nhà đó, cháy, lửa cháy phừng phừng hết, mà cái nhà Thầy ngồi không cháy!

(48:29) Nên các con biết. Mà trực thăng nó bắn rocket xuống, bởi vì xung quanh hàng rào vầy đó là cách mạng nó đào hầm đào hố nó nằm ở dưới, nó kích dưới đó mà nó bắn quân đội của quốc gia kia mà, thành ra hai bên nó chiến đấu dữ lắm.

Thành ra do đó mà Thầy cứ nằm đó. Cả gia đình, mẹ Thầy, em Thầy cũng chạy trốn hết à, đâu có dám ở đó, chạy ra cái vùng mà không có giặc. Còn khi mà nghe đào hầm rồi thì họ rút đi hết, dân rút đi hết, chỉ còn Thầy nói: “Bây giờ mình đã hô mình nhập thất là quyết định là chết bỏ không đi, bỏ thất là không được!” Cho nên nhất định Thầy ngồi chịu chết, mà không chết đó các con.

Thầy biết chết là chết rồi chớ không phải không đâu, bởi vì bom đạn như vậy mà. Thầy nói nhà cửa người ta cháy sạch, thậm chí như cái mái của Thầy, cái nhà của Thầy có cái mái đó, mà nó bắn như thế nào mà cái mái nó bay luôn ra ngoài đó mà sao nó không cháy nhà, chớ phải cháy nhà Thầy cũng chết luôn với nó.

Thầy nói cái oai lực của cái người tu, thật sự ra cái giới hạnh thiệt là vĩ đại. Cho nên mỗi một người đệ tử mà rời khỏi Thầy, Thầy nói giới hạnh là sẽ cứu các thầy, là chính Thầy biết rằng cái giới hạnh cứu Thầy ở trong những cái trận chiến như vậy đó.

Cho nên tất cả những - thay vì mấy cái người lính mà họ tấn công vô được rồi đó, bắt đầu xe tăng thiết giáp nó vô tấn công được, thì những cái đoàn lính vô: “Trời ơi ông thầy ổng ngồi ổng tu, ngu gì quá trời vậy? Chết mà không sợ?” Thầy nói: “Chết ở đâu mà chết, tui ngồi đây chết gì!” Mà nó không bắt Thầy nó không gì hết, rồi nó đi qua thôi, nó bỏ Thầy ngồi đó luôn.

Thì các con thấy, cái giới luật rất là - Thầy nói cái oai lực của giới luật kinh khủng lắm chớ không phải thường đâu. Thầy chỉ nghĩ rằng mình giới luật là mình không chết, không sợ gì hết, cọp không sợ mà không sợ súng đạn nữa, cuối cùng Thầy đạt được kết quả.

Đó, thì trên cái bước đường tu hành Thầy nhắc các con: Ra khỏi Thầy ăn phải đúng cách, oai nghi tế hạnh phải đúng, đi phải nhìn xuống đất, thì những cái oai nghi tế hạnh đó không ai làm, đừng có nói rằng: “Tui phải sống tùy theo mấy ông thầy này, họ ăn vậy tui phải theo họ ăn”, tức là mình bị phá giới.

Mặc họ, họ giết chúng ta thì giết, nhất định là chúng ta ăn một bữa. Họ thù chúng ta thì thù, kệ họ, nhưng mà sau này họ trở thành đệ tử của mình, chớ còn mình theo họ tức là ma nó dẫn mình rồi.

Mình tùy theo họ, sợ họ có quyền có thế rồi họ hại mình chớ gì? Do đó mình ăn ba bốn bữa hay là theo họ, họ mời mình ăn thêm cái gì đó, uống nước gì đó, mình cũng tùy cho nó vui lòng nhau đó, gọi là tùy thuận đó, kiểu đó là kiểu phá giới của mình. Và vì vậy mình mất giới rồi thì những người khác họ coi rẻ mình lắm, và từng đó họ không phục mình đâu.

Còn mình hẳn hỏi, giữ gìn giới hạnh hẳn hòi đàng hoàng, ăn đúng, không phi thời, giới hạnh của mình đi ra nhìn xuống đất, ai nói gì, mặc, ai nói mình làm bộ làm dáng làm gì, kệ, mình chẳng có cần thiết.

Thôi đến đây thì quý thầy sẽ nghỉ ăn cơm.

5- TU TẬP XUẤT NHẬP THEO CÁC LOẠI HƠI THỞ

(50:58) Giờ Thầy sẽ trả lời, ở đây thì cô An Tịnh có hỏi Thầy trong cái sự tu tập. Qua cái sự thưa hỏi trong cái tập nhật ký thời khóa thì Thầy thấy có những cái điều kiện rất là đáng lưu ý. Ở đây Thầy xin đọc lại một cái đoạn này:

“Bạch Thầy! Còn về Định Niệm Hơi Thở, Thầy dạy con tập xuất nhập theo hơi thở. Con tu tập, đầu tiên con thở bình thường là 30 hơi thở, sau con tác ý: “Hãy thở chậm và nhẹ” từ 10 đến 15 phút thì con lại tác ý thở lại bình thường 20 hơi thở rồi xả ra thư giãn, một lúc sau con đứng dậy đi kinh hành.

Và cứ như thế con tu tập hơi thở rất chậm, nhẹ và có sự an ổn thân tâm. Về xuất nhập với hơi thở con cũng đã thuần thục, như vậy con tu tập có đúng không thưa Thầy?

Bạch Thầy! Còn về Định Niệm Hơi Thở, con cứ tiếp tục ở hơi thở chậm, nhẹ 5 giây mãi đến khi không Tầm không Tứ để tự các hành nó ngưng hay con còn phải làm gì nữa? Xin Thầy dạy cho con để con tiếp tục tu tập!”

Ở đây về cái phần mà cô An Tịnh hỏi, thì tập xuất nhập theo cái hơi thở mà con trình ở đây thì rất đúng. Là vì chúng ta vào thì chúng ta thở hơi thở bình thường, vì cái hơi thở mà từ lâu chúng ta tập thở như hằng ngày chúng ta sống đó là chúng ta vào cái hơi thở bình thường. Rồi bắt đầu từ cái hơi thở bình thường đó chúng ta mới điều khiển, chúng ta mới hướng tâm nhắc: “Hơi thở chậm và nhẹ”, thì bắt đầu nó thở chậm và nhẹ xuống, và chúng ta ở trong cái hơi thở chậm và nhẹ đó khoảng độ 10, 15 phút.

(52:50) Thí dụ như bây giờ con cho rằng tu 15 phút, thì khi bắt đầu mà vào tu đó, khoảng cái thời gian đầu đó con sẽ tu là 30 hơi thở bình thường, hoặc là có thể con tu 5 phút hơi thở bình thường, rồi bắt đầu từ cái hơi thở bình thường đó con mới hướng tâm nhắc nó: “Hơi thở chậm và nhẹ”. Thì trong cái thời gian mà hơi thở chậm và nhẹ cho đến cái mức độ nào đó thì con thấy nó không còn cái sức mà có thể chậm và nhẹ nữa được, thì con ở tại cái dạng chậm nhẹ của hơi thở đó, lúc bấy giờ nó sẽ kéo dài.

Trước kia mình ở hơi thở bình thường là 5 phút, bây giờ có thể là 10 phút hay 15 phút của hơi thở chậm nhẹ này. Đó là cái thời gian mà có thể quy định cho con tu trong thời gian đó.

Và sau cái thời gian mà thở chậm nhẹ như vậy đó thì bắt đầu con sẽ trở ra cái hơi thở bình thường, thì khoảng độ 5 phút rồi mới xả nghỉ. Thì cộng lại, như bây giờ là nếu mà cái hơi thở bình thường, đầu vào 5 phút, rồi xả ra cũng trở về hơi thở bình thường là 5 phút, tức là 10 phút hơi thở bình thường. Kế đó khoảng thời gian ở trong hơi thở chậm và nhẹ, nó khoảng là 10 hay hoặc là 15 phút, thì như vậy tổng cộng là 20 phút hoặc là 25 phút. Phải không, 25 phút.

Nhưng mà cái khoảng thời gian của hơi thở chậm và nhẹ đó thì nó 10 hay hoặc 15 phút, thì quyết định chọn lấy 10 phút hay là 15 phút cái nào cho ra, chớ không thể bữa nay là 10 phút rồi lát nữa là 15, hay hoặc ngày nay là 10 phút, ngày mai là 15 phút, không được, mà phải chọn lấy bây giờ 10 phút là 10 phút, còn cái kia vô 5 phút rồi xả ra 5 phút, rồi xả ra đi kinh hành, còn ở trong hơi thở chậm và nhẹ đó thì 10 phút, thì cứ tu tập 10 phút.

Để rồi trong cái khoảng thời gian 10 phút đó chúng ta nghiệm xét coi, coi cái thời gian 10 phút đó hoàn toàn chúng ta có diệt Tầm Tứ được hay không, còn có vọng tưởng, còn có tác ý hay không. Nếu mà nó không có một niệm vọng tưởng nào hết, hoàn toàn không có ở trong cái 10 phút mà của hơi thở chậm và nhẹ đó, thì lúc bấy giờ chúng ta có thể tăng lên.

(54:58) Và vì bây giờ, thí dụ tăng lên cái thời gian dài, tăng lên đặng cho cái khi mà chúng ta dùng pháp hướng để cho nó tịnh chỉ cái hơi thở chậm và nhẹ nữa, đi tới nữa, chớ không thể ở đó mà nó ngưng các hành hết được đâu, nó chưa đâu, cái chỗ mà nó chậm nhẹ - ở cái chỗ mình mới từ cái hơi thở bình thường mà đi đến chỗ cái hơi thở chậm nhẹ khoảng 10 phút thì nó chưa ngưng đâu.

Vì vậy mà chúng ta không thể hướng tâm nó ngưng được, mà chúng ta còn tiếp tục cho nó - coi thử coi Tầm Tứ nó hết không. Nếu mà Tầm Tứ nó hết thì bắt đầu chúng ta ở trong cái khoảng 10 phút đó chúng ta có thể tăng lên 5 phút nữa, hay hoặc là tăng lên 10 phút nữa.

Nghĩa là bây giờ chúng ta chọn lấy 30 phút: Đầu thì 5 phút, sau xả ra cũng trở về 5 phút hơi thở bình thường, thì đoạn giữa nó phải có khoảng thời gian là 20 phút. Bây giờ mới có 10 phút à. Con hiểu không? Bây giờ chúng ta có lấy cái thời gian là 20 phút, trong 20 phút này chúng ta nằm ở trên cái dạng này để mà chúng ta có thể điều khiển cái hơi thở bằng cái pháp hướng cho nó chậm và nhẹ hay hoặc là nó ngưng, hay hoặc là chúng ta dụng cái này để mà chúng ta tu tập để chúng ta tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ mà chúng ta không còn mộng mị chiêm bao để chúng ta xả 18 loại tưởng. Con hiểu không?

Bây giờ từ cái chỗ hơi thở bình thường là chúng ta lấy cái căn bản của hơi thở bình thường, chúng ta cho rằng 5 phút đầu và 5 phút sau chúng ta thấy rằng mình thở hơi thở bình thường, không có một cái Tầm, Tứ thì nó có nhưng mà Tầm bây giờ nó không có tức là vọng tưởng không có xen vô trong đó được, 5 phút hơi thở bình thường.

Và cái khoảng mà cái hơi thở chậm và nhẹ đó, 10 phút hay hoặc là 20 phút, phải không, các con lưu ý cái phần này. Trong cái khoảng này, cái thời gian này, 10 phút hay là 20 phút này, thì cái khoảng này nó đủ cái thời gian để mà chúng ta hướng tâm.

Nằm trên cái sự yên lặng không Tầm Tứ này, chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc nó tịnh chỉ hoặc là nó chậm và nhẹ nữa, hơi thở chậm và nhẹ nữa, để từng đó chúng ta sai bảo, điều khiển cho cái hơi thở nó đi dần.

Nhưng mà khi đó chúng ta phải nằm ở trên cái hơi thở này và cái sự yên lặng của cái hơi thở này để mà chúng ta dùng cái pháp hướng để cho nó chậm và nhẹ nữa, đặng chúng ta phá toàn bộ 18 cái loại tưởng.

(57:04) Vì vậy mà lúc bấy giờ, như vậy là chúng ta tập khi nằm ngủ thì chúng ta lại tập tỉnh thức ở trong khi ngủ, để cho luôn luôn lúc nào chúng ta không có ngủ, vì vậy mà không có ngủ tức là không mộng mị, mà không mộng mị tức là chúng ta đã xả các trạng thái tưởng.

Cho nên khi mà chúng ta hướng tâm để cho các hành ngưng, hơi thở ngưng mà nhập Tứ Thiền thì đương nhiên chúng ta phải hết mộng, hết chiêm bao. Chớ còn chiêm bao tức là còn trạng thái tưởng thì chúng ta không có thể nào hướng tâm mà ngưng các hành được, ngưng hơi thở được đâu.

Bởi vì cái người nằm ngủ mà còn chiêm bao tức là chưa tỉnh thức, mà nằm ngủ không chiêm bao tức là người đó ngủ mà không ngủ, tức là tỉnh thức. Mà tỉnh thức được rồi thì nó mới là xả được hỷ, mà xả được hỷ thì mới có thể nhập Tam Thiền thôi.

Và nhờ cái xả, cái hết mộng rồi thì đương nhiên cái trường hợp đó là chúng ta tương đương với Tam Thiền, vì vậy mà từ chỗ Tam Thiền đó chúng ta nương vào cái hơi thở này mà chúng ta hướng nó, cho nên đến khi đó, cái hơi thở nó ngưng nghỉ, các hành ở trong thân và hơi thở nó ngưng nghỉ thì chúng ta nhập Tứ Thiền. Con hiểu không?

Nhưng mà chúng ta chỉ có 20 phút thôi, từ 5 hơi thở đầu bình thường, và xả ra thì 5 hơi thở xả ra thì có 10 phút là của hơi thở bình thường, tức là cái hơi thở của Sơ Thiền. Và đồng thời khi mà cái hơi thở bình thường hiện giờ là chậm nhẹ, cái khoảng đó là cái khoảng hơi thở của Nhị Thiền. Con hiểu chưa?

Vì vậy mà cái khoảng hơi thở của Nhị Thiền này, chậm nhẹ trong cái khoảng này, thì chúng ta lại tịnh chỉ các mộng tưởng, tức là không còn cái chiêm bao nữa, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức. Khi chúng ta nằm như thế này mà chúng ta vẫn biết hơi thở ra vô, thân của chúng ta không còn nghe thấy âm thanh gì hết, hoàn toàn nó ngủ mà chúng ta rất tỉnh, thì lúc bấy giờ chúng ta đã biết rằng chúng ta đã ly hỷ hết rồi.

Mà ly hỷ hết thì tức là chúng ta tương đương…​ Mặc dù cái hơi thở chậm nhẹ này không phải là cần phải chậm nhẹ nữa, cũng như bây giờ cái hơi thở con chậm nhẹ khoảng độ 5 giây hay hoặc là 6 giây, phải không, mà cái độ nhẹ nó gần như là con không cảm giác cái hơi thở nữa được, nhưng con vẫn biết hơi thở chớ không phải không biết. Do đó thì có thể con phá được cái mộng, cái chiêm bao, thì lúc bấy giờ cái hỷ con sẽ xả được. Mà con xả được thì lúc bấy giờ ở cái trạng thái khoảng độ 20 phút đó đó, con có thể hướng tâm nó tịnh chỉ các hành, nó tịnh chỉ hơi thở ngưng thì con sẽ nhập được Tứ Thiền.

Nên đâu có cần con phải nhập vào Nhị Thiền hay Tam Thiền làm gì, nhưng mà ở cái dạng đó con vẫn biết rằng con sẽ xả được cái hỷ, hay hoặc là con diệt Tầm Tứ. Con diệt Tầm Tứ là con ở trong hơi thở đó, trong khoảng hơi thở đó con thấy hoàn toàn là không có tác ý nè, không có Tầm, không có vọng tưởng nè, nó chỉ có 10 phút thôi, hay hoặc là 20 phút thôi, đâu có gì nhiều đâu. Cho nên do đó mà con sẽ tiến tới cái chỗ mà có thể làm chủ được cái sống chết rất là dễ dàng.

Nhưng dù sao Thầy cũng nhắc lại là chúng ta phải cố gắng tu tập cái Định Vô Lậu, cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức, tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ nữa. Những cái phần này là phần rất quan trọng để chúng ta xả cho hết cái hỷ đó, 18 cái loại hỷ, thì chúng ta mới vượt qua được Tam Thiền, chúng ta mới nhập Tam Thiền, chúng ta vượt qua nó, chúng ta mới nhập được Tứ Thiền. Còn chiêm bao, còn mộng mị thì không thể nào mà nhập Tứ Thiền được.

Đó thì hôm nay Thầy trả lời cho con, nhớ kỹ chưa? Về tập như vậy, chớ đâu có tăng thêm làm gì! Tăng thêm vọng tưởng tùm lum hết, rồi Tầm Tứ không, rồi tăng thêm nó mắc công, phải không?

6- TRẠNG THÁI HƠI THỞ CỦA BỐN LOẠI THIỀN

Tu sinh: …​(Không nghe rõ)

(01:00:25) Trưởng lão: Rồi, bắt đầu hỏi lại. Nghĩa là trong khi mà con dùng cái pháp hướng thì nó là tác ý ra, thì nó chưa phải là đúng cái chỗ mà diệt Tầm Tứ, cho nên trong khi con thử - trong cái thời gian mà thử để coi mình có thể đi tới cái chỗ, cái dạng nào ở trong bốn cái thiền định này, thử coi mình ở trong hơi thở này mình có phải là nhập được Sơ Thiền hay không.

Bởi vì Sơ Thiền thì diệt Tầm Tứ, mà giờ con cứ nằm đó con tác ý hoài, thì Tầm nó không có mà tác ý hoài thì như vậy là con chỉ ở trong cái dạng của Sơ Thiền chớ đâu phải là Nhị Thiền được.

Cho nên bây giờ con về cái hơi thở bình thường con thở phải không, rồi bắt đầu trong vòng 5 phút con mới hướng tâm con nhắc cái hơi thở chậm và nhẹ, thì đó là cái hướng tâm, tức là con còn tác ý đó, cho nên lúc bấy giờ đó con mới thử mình không tác ý thử coi cái trạng thái yên lặng này nó như thế nào.

Do đó con thấy rõ ràng là cái tâm con nó biết hơi thở ra và biết hơi thở vô, nhưng mà con không khởi nghĩ một cái gì hết, mà không tác ý ra, thì khoảng độ 10 phút hay là 20 phút, con thấy hoàn toàn là không có gì hết, tức là không có pháp hướng chớ gì, như vậy là con đã đạt được cái Nhị Thiền rồi.

Nếu mà con cứ tác ý hoài thì tức là dù cái hơi thở chậm của con đi nữa, nó không có cái hơi thở bình thường, nhưng mà vẫn còn tác ý đó, thì nó có một cái định vô Tầm hữu Tứ, Thầy có dạy rồi mà, có cái định nó không có Tầm nhưng nó còn Tứ tức là dùng cái pháp hướng mà tác ý ra đó, thì nó không Tầm, nhưng nó có Tứ thì nó chưa phải là Nhị Thiền, vì Nhị Thiền Tầm Tứ nó phải diệt.

Cho nên mình muốn thử coi cái tâm của mình nó còn Tầm Tứ không, thì do đó mình mới xả cái pháp hướng đi, thì mình mới xem xét suốt cái thời gian 5 phút, 10 phút, 20 phút đó mình thấy hoàn toàn không có, thì như vậy là mình biết rằng cái giai đoạn của Nhị Thiền mình có thể đạt được rồi.

Chớ mình không cần nhập nó ở trong đó đâu, mình chỉ còn nương cái đối tượng của hơi thở mà, chớ phải chi mình xả hơi thở sao mình nhập Nhị Thiền, phải không, nhưng mà mình thấy rằng không có tác ý, không có Tầm ở trong đó, không có Tứ ở trong đó, thì mình biết rằng mình đã nhập Nhị Thiền.

Mặc dù là còn cái đối tượng của hơi thở tức là còn nhất niệm, nhưng mình vẫn biết được cái tâm của mình. Do vì vậy đó thì mình không có cần nhập Nhị Thiền, nhưng mình biết là ở cái trạng thái mà thanh tịnh, yên lặng, không Tầm Tứ này là cái trạng thái của Nhị Thiền, vì vậy mà lấy cái trạng thái đó để nằm đó để mà hướng tâm, để làm cho cái tâm của mình nó tỉnh để mà nó phá các cái loại tưởng, nó làm cho chúng ta không có chiêm bao nữa, nó hết sạch chiêm bao, cho nên khi ngủ nó như thức, nó không còn ngủ nữa, do vì vậy đó mà chúng ta mới tiến tới, mới nhập Tam Thiền được.

(01:03:07) Cho nên vì vậy mà Tam Thiền thì không có cần mà phải coi còn vọng tưởng hay Tầm Tứ nữa. Vì Tam Thiền hoàn toàn là nó không có Tứ mà không có Tầm, phải không, nhưng mà trong lúc này, trên con đường đi thì chúng ta phải dùng pháp hướng cho nên nó phải có Tứ, nhưng mà chúng ta muốn bỏ nó hồi nào thì nó cũng dễ dàng thôi. Bởi vì mình hướng tâm mình làm chủ mình hướng mà, chớ phải nó tự đâu mà nó tác ý ra đâu. Con hiểu chưa?

Cho nên bây giờ mình biết được thì mình hướng tâm mình nhắc để giúp cho cái tâm của mình nó tỉnh thức, để cho nó ngủ mà nó tỉnh, nó không có bị mê, nó không bị chiêm bao. Do nó hết sạch chiêm bao rồi, ngày này qua ngày khác nó nằm ngủ mà nó không có chiêm bao nữa, thì biết rằng nó đã ly tất cả các hỷ hết rồi. Mà ly các hỷ thì tương đương là chúng ta đã nhập Tam Thiền, hiểu chưa?

Chớ bây giờ cái Nhị Thiền thì con phải coi Tầm và Tứ, phải không? Con mới biết là không Tầm không Tứ thì nó mới nhập Nhị Thiền, mà đến cái trạng thái của Tam Thiền thì con thấy rằng ngày này qua ngày khác con nằm ngủ mà con không thấy chiêm bao thì con biết rằng con đã nhập Tam Thiền.

Phải không? Bây giờ các con bình thường nè, các con cứ nằm ngủ mà con không chiêm bao là các con biết con đã nhập Tam Thiền đó. Mặc dù con không nhập Tam Thiền, nhưng mà cái trạng thái con người các con không chiêm bao là cái trạng thái của Tam Thiền. Các con hiểu chưa?

Rồi bây giờ đó, các con biết là mình đã ở trong cái Tam Thiền rồi, thì bắt đầu các con sẽ tiếp tục để mình tịnh chỉ các hành, cái hơi thở ngưng để cho mình nhập Tứ Thiền. Các con hiểu chưa?

Cho nên bởi vậy con mới tu tập, bây giờ con ở trong 10 phút nè, mà con thấy còn có Tứ hay còn Tầm thì nó chưa xong, cho nên tăng lên thì con chết được á, tăng lên không làm chủ nổi đâu. Cho nên mình ở cái thời gian ngắn này mình tập rồi mình xét coi có được không, được thì mình mới tăng lên cho đúng 20 phút thôi, không được tăng nhiều, tăng 1 giờ 2 giờ làm gì? Chỉ giữ cái chỗ này mà tu cho sạch, như cô Út bảo là tu sao mà cho nó đừng có vọng tưởng, đừng có Tầm Tứ ở trong đó mình mới tăng, chớ vội tăng quá rồi cái bắt đầu Tầm Tứ nó tác động ở trong đó tùm lum ra thì con tu con dậm chân tại chỗ mất đi.

Thay vì cái thời gian bây giờ ở đó, con cho trong cái tập nhật ký thời khóa, con ghi là 10 phút đến 15 phút phải không, nhưng bây giờ Thầy lấy cho con là 10 phút thôi, sau khi 10 phút con xác nghiệm được thì con có thể con tăng lên 20 phút là cao, chớ không được tăng nữa.

Và ở trong 20 phút này đủ sức có thể mà chúng ta phá được cái mộng tưởng, cái chiêm bao, mà phá được mộng tưởng thì chúng ta tiếp tục chúng ta mới phá các hành, hơi thở mới ngưng.

Nó phải đi lần lượt, chớ còn chiêm bao mà con đòi phá các hành thì phá không được đâu. Tam Thiền chưa được mà đòi Tứ Thiền sao được? Nhảy lớp đâu có được, nhảy lớp học không nổi á! Hiểu chưa?

Rồi bây giờ còn hỏi gì nữa không?

7- CÁCH TU TẬP TỈNH THỨC KHI NGỦ

Tu sinh:…​ (Không nghe rõ)

(01:05:45) Trưởng lão: Đây mấy con nghe đây. Bởi vì không có thể nào mà các con cứ nương vào cái hơi thở mà hít vô mà thở ra, mà gọi là ngủ mà nó hết chiêm bao đâu, không phải đâu. Các con lưu ý cái phần này nè.

Cái phần mà ngủ không chiêm bao đó là do các con tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức, hằng ngày các con đi kinh hành hoặc làm công chuyện gì đó, các con luôn luôn giữ cái tâm mình tỉnh thức ở trong các hành động của mình, đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai là các con tu cái Định Sáng Suốt hay là cái định chói sáng đó, cái định đó nó làm cho các con giữ được cái tâm thanh thản, cái tâm vô sự, nó làm cho các con luôn luôn lúc nào cũng tỉnh thức ở trong đó.

Đó là cái thứ nhất là Định Chánh Niệm Tỉnh Thức rồi chớ gì? Cái thứ hai là cái Định Sáng Suốt, nó làm cho các con luôn luôn giữ được cái tâm thanh thản của mình liên tục, tức là phải tỉnh nó mới liên tục được. Đó là hai cái định.

Và cái cuối cùng thì các con lại dùng cái hơi thở trước khi đi ngủ, trước cái giờ đi ngủ. Thí dụ bây giờ 10 giờ các con đi ngủ, thì các con phải dành nó ra 5 phút đầu tiên để mà tập luyện cái tâm của các con.

Bây giờ các con đặt cái niệm hơi thở trước mặt nè, các con nằm xuống vầy, các con đặt cái niệm hơi thở nè, các con nhắc cái tâm, ám thị cái tâm con trước nè: “Bây giờ cái tâm chưa phải là lúc đi ngủ!” Mặc dù đây 10 giờ là đi ngủ, nhưng trước khi đi ngủ phải 5 phút tỉnh thức ở trong giấc ngủ.

Con nằm xuống nè, bắt đầu phải thở 5 phút nè: “Cái tâm phải biết! Hơi thở ra tôi biết tôi thở ra. Hơi thở vô tôi biết tôi thở vô.” Và con nhắc nó như vậy, cho đến khi đúng 5 phút rồi con mới xả ra con không nhắc nữa.

“Bây giờ cái thân và cái tâm ngủ đi, không có được nương theo hơi thở nữa, phải hít thở 5 hơi thở rồi ngủ!” Bắt đầu con hít hơi thở 1, hơi thở 2, hơi thở thứ 3, thứ 4, con thở nhẹ dần dần cái con ngủ. Đó là con tập con làm chủ cái ngủ, và đồng thời con tập con tỉnh thức ở trong giấc ngủ.

Rồi lần lượt con tăng dần lên, tăng dần lên. Con bảo: “Bây giờ cái thân này nè nằm ngủ nghe, mà cái tâm phải biết cái hơi thở ra vô chớ không được ngủ!” Con nhắc vậy con nằm nó cứ nó biết hơi thở ra vô, mà cái thân thì nó ngáy khò khò nó ngủ.

(01:07:46) Như vậy là con đã không…​ Bởi vì cái tâm mà nó tỉnh thức ở trong đó thì nó không có chiêm bao, mà cái thân thì nó ngủ đâu có chiêm bao được, các con hiểu chưa?

Cái thân nó ngủ, tại sao con biết nó ngủ? Tại vì cái thân nó ngủ nó không nghe tiếng động, mà cái tâm thì nó chuyên nhất ở trong hơi thở, cho nên mình nằm đây mình ngủ…​ Ông Phật ổng nằm ổng ngủ suốt đêm, ổng nói ổng ngủ mà ổng không có ngủ, ổng tỉnh ở trong cái hơi thở của ổng, cho nên ổng thức dậy thì ổng ngồi thiền mà không thì ổng đi kinh hành.

Còn mình nằm xuống cái quên mất à, quên mất một hơi cái chiêm bao, chiêm bao cái thấy gì tùm lum đủ thứ hết, chợt giật mình thức dậy thì mới biết nó chiêm bao. Nhưng mà hầu hết là chúng ta phải tập nó mới được.

Thì thứ nhất hồi nãy Thầy nói, tập Chánh Niệm Tỉnh Thức, thứ hai là cái Định Sáng Suốt, thứ ba là tập cho nó ngủ mà tỉnh thức ở cái ngủ, 3 cái điều kiện tập. Chớ không phải bây giờ cứ tập hơi thở không như các con Định Niệm Hơi Thở như vậy rồi nó tỉnh thức, không được đâu. Nó như vậy là nó thiếu, nó không đủ đâu.

Nhớ chưa? Nhớ thì mỗi đêm vậy trước khi ngủ phải dành cho nó 5 phút để cho nó tập ngủ trong tỉnh thức cái đã. Bắt đầu: “Cái thân nằm ngủ đi, mà cái tâm thì phải biết hơi thở nghe, 5 phút, mà sau 5 phút rồi ta cho luôn cả thân và tâm ngủ, cho mày quên luôn!” Cứ như vậy đó, tập riết nó rồi lần lượt rồi tăng dần tăng dần lên.

(01:09:01) Tới khi đó cho: “Bây giờ cái thân thì bắt đầu ngủ đi, ngủ tới 2 giờ thức dậy nha, còn cái tâm thì phải biết hơi thở! Cho tới chừng 2 giờ thì tao biểu dậy thì dậy đi chớ không có ngủ!” Đó mình tự tập luyện để mình sai nó mà.

Vì vậy cho nên bây giờ mình dùng cái pháp hướng, tại sao? Con bây giờ con nằm xuống con dễ ngủ lắm, bởi vì từ hồi 7 giờ cho đến 10 giờ mình đã tu tập, mình đi kinh hành đồ nó cũng đã mỏi mệt rồi, nằm xuống nó dễ ngủ. Do vì vậy đó cho nên khi mà nằm xuống thì mình phải hướng: “Hơi thở ra tôi biết tôi thở ra. Hơi thở vô tôi biết tôi thở vô.” Rồi, mình nhắc nó vậy rồi, chừng thở 2, 3 hơi thở cái mình nhắc nữa. Chớ không nhắc nữa nó ngủ luôn à, nó không biết hơi thở ra vô nữa, nó đi theo hơi thở rồi nó đi luôn, nó không cần biết nữa.

Cho nên phải nhớ nhắc cho đến khi đúng 5 phút rồi bắt đầu mới nhắc: “Thôi bây giờ cái thân và cái tâm ngủ đi! Cho phép mày ngủ đi, chớ bây giờ tao không bắt mày tập trung trong hơi thở nữa.” Do đó bắt đầu cho nó thở chừng 5, 3 hơi thở cái nó ngủ. Mà ngủ rất ngon, nó ngủ không chiêm bao nữa đâu. Đó thì tập như vậy thì các con sẽ làm chủ được cái ngủ. Nhớ chưa?

Bởi vì trong cái Định Vô Lậu nó không phải là cái Định Sáng Suốt, mà nó cũng không phải là cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức với cái Định Sáng Suốt thì nó trợ giúp cho cái Định Vô Lậu để nó phóng ra cái tri kiến mà nó phá cái lậu hoặc, nó làm cho cái tâm chúng ta không còn tham sân si nữa, nó không còn Ngũ Triền Cái, nó không còn Thất Kiết Sử nữa, cho nên cái tâm nó được an ổn trước mọi cái các pháp mà nó không bị lôi cuốn, nó bị làm say đắm. Cho nên do vì vậy mà cái Định Vô Lậu nó không phải là…​ Cái Định Vô Lậu là cái định nó quét sạch cái tâm phiền não, cái tâm đau khổ của chúng ta.

Còn cái Định Sáng Suốt, cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, và cái tập ngủ tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ đó là để chúng ta có cái sức tỉnh thức để mà chúng ta phóng ra những cái tri kiến giải thoát của chúng ta để phá đi cái lậu hoặc, cho nên mấy cái định này nó chỉ trợ giúp cho cái Định Vô Lậu, chớ không phải là cái Định Vô Lậu trợ giúp cho cái này. Con hiểu chưa?

Còn cái Định Vô Lậu thì nó trợ giúp cho cái Định Hiện Tại An Lạc Trú, các con hiểu. Bởi vì cái Định Vô Lậu nó mới quét sạch lậu hoặc, nó làm cho cái tâm chúng ta ly dục ly ác pháp, phải không, cho nên nó mới nhập được Sơ Thiền. Vì vậy mà cái Định Vô Lậu thì nó trợ giúp cho chúng ta nhập cái Định Hiện Tại An Lạc Trú, tức là nhập bốn thiền, từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền.

Mà cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức, cái Định Sáng Suốt với cái tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ thì nó chỉ trợ giúp cho cái Định Vô Lậu. Các con hiểu chưa? Chớ nó không có trợ giúp cho cái Định Hiện Tại An Lạc Trú, mà nó trợ giúp cho cái Định Vô Lậu để quét sạch cái lậu hoặc, làm cho cái tâm ly dục ly ác pháp chúng ta cho đạt được để mà đi vào trong cái Định Hiện Tại An Lạc Trú. Phải không, các con nhớ phải không?

Và khi mà - tại sao chúng ta lại tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ? Là vì chúng ta tập cái tỉnh thức ở trong giấc ngủ để chúng ta biết được lúc bấy giờ chúng ta tu tập cái Định Hiện Tại An Lạc Trú đó, nó ở trong cái Tam Thiền hay là ở cái dạng nào đây, để mà chúng ta đi tới cái mà chúng ta tịnh chỉ các hành để mà chúng ta nhập Tứ Thiền.

(01:12:19) Chúng ta thấy không còn mộng, mà không còn mộng thì chúng ta mới biết rằng mình đã hết chiêm bao, do đó mình mới biết rằng các loại tưởng mình đã vượt qua được rồi. Còn mình còn chiêm bao tức là còn tưởng, còn mộng tưởng là còn chiêm bao, mà còn chiêm bao tức là còn dục tưởng, chưa sạch, cho nên chúng ta chưa biết, do chúng ta biết còn chiêm bao là chúng ta chưa nhập Tam Thiền

Mà bây giờ tỉnh thức suốt đêm vầy, con nằm mà con thấy cái thân nó ngủ mà nó ngáy phò phò, nó không hay biết gì hết, mà cái tâm của con luôn luôn cứ biết hơi thở ra vô, thì như vậy là con biết con hết chiêm bao rồi. Mà con hết chiêm bao rồi, như vậy là con biết là con đã ở trong cái trạng thái của một cái người nhập Tam Thiền.

Vì vậy bây giờ con mới biết mình ở Tam Thiền, thì bây giờ mình đi tới nữa là mình phải nhập Tứ Thiền chớ, không lẽ bây giờ mình chưa biết mình ở Tam Thiền làm sao mình nhập Tứ Thiền được, phải không?

Mình biết mình được ở Tam Thiền rồi, thì bắt đầu mình mới hướng tâm mình nhắc: “Cái hơi thở phải ngưng! Các hành ở trong thân phải ngưng!” Thì lúc bấy giờ nó mới ngưng để chúng ta nhập Tứ Thiền. Còn bây giờ con còn chiêm bao mà con biểu nó ngưng, làm sao nó ngưng? Con còn một cấp bậc quá xa, làm sao nó nhảy tới nó ngưng hơi thở được, phải không?

Cho nên vì vậy mà mình tập cái ngủ mà tỉnh thức để cho mình xác định được cái mức của mình có hết cái tưởng hay không, xả hết cái hỷ, các loại hỷ của tưởng không. Mà nếu mình xả được hỷ rồi thì tức là mình đã nhập Tam Thiền, mà mình nhập Tam Thiền thì mình bước tới nữa là Tứ Thiền.

Các con hiểu chưa? Nó cụ thể và nó rõ ràng chớ đâu phải là mơ hồ đâu! Cái nào nó ra cái nấy.

Còn bây giờ các con biết làm sao mà mình nhập được Tam Thiền? Mình biết làm sao, mà mình đang ở chỗ cái mức nào mà mình nhập Tam Thiền đây? Thì ít ra mình phải nhập Nhị Thiền.

Mà khi trong cái thời gian 10 phút này, con dùng hơi thở chậm nhẹ hơn hơi thở bình thường rồi, thì biết là hơi thở chậm nhẹ này thì nó phải ở trong Nhị Thiền chớ gì? Mà bây giờ có biết hết Tầm Tứ chưa? Mà nó chưa hết Tầm Tứ tức là chưa Nhị Thiền.

Cho nên bây giờ hết Tầm Tứ mà bây giờ con cứ con tác ý hoài, nó không có Tầm mà tác ý hoài thì nó còn Tứ thì nó đâu là Nhị Thiền, cho nên con phải xả cái tác ý ra, phải không? Con xả cái tác ý ra, thì bắt đầu con thấy luôn luôn liên tục với cái tâm của con với cái hơi thở ra vô nằm trên cái tụ điểm yên phăng phắc, không có một Tầm Tứ nào hết, thì biết đó là - mặc dù nó còn hơi thở, nhưng vẫn biết nó là Nhị Thiền, diệt Tầm Tứ rồi.

Vì vậy cho nên bây giờ con mới tập tới tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ, còn nếu mà Nhị Thiền chưa được mà con tập tỉnh thức giấc ngủ thì tập sao nổi, con hiểu chưa? Làm sao mà con tỉnh thức nổi ở trong cái ngủ! Bởi vì Nhị Thiền là Tầm Tứ chưa diệt mà bây giờ con tập Tam Thiền là tập sao được? Làm sao ly được cái giấc mộng con được?

Cho nên phải biết cái trình độ của mình ở mức độ nào mình mới tập nó tới. Cũng như bây giờ con học lớp 1 được rồi con mới lên lớp 2, còn đằng này lớp 1 con chưa xong mà con nhảy lên lớp 2 con tập thì chuyện đó đâu có được! Hiểu chưa?

(01:15:02) Cho nên khi đó, chỉ ở trong vòng 10 phút, 20 phút là chúng ta đã xét chúng ta đã được ở cái định nào, và bây giờ chúng ta tiến tới để tu tập cái định nào.

Cũng như bây giờ muốn nhập Tam Thiền thì phải tu tập trong cái tỉnh thức ở trong giấc ngủ, thân ngủ mà tâm nó vẫn biết, vẫn tỉnh táo thì biết rằng chúng ta sẽ nhập Tam Thiền được.

Còn bây giờ chúng ta ở trong cái dạng của Sơ Thiền, mà chúng ta biết được cái tâm chúng ta có được ở Nhị Thiền hay không, là chúng ta xem coi thử coi nó còn tác ý hay không, phải không? Cho nên Tầm nó không còn, Tứ không còn thì biết là nó ở trong cái Nhị Thiền, thì bây giờ chúng ta đi tới Tam Thiền.

Còn bây giờ ở trong cái dạng của Sơ Thiền mà Tầm Tứ nó còn, hay hoặc là Tứ còn mà Tầm hết, thì đây là nó còn ở trong cái định vô Tầm mà hữu Tứ, thì như vậy là chưa được, chưa phải Nhị Thiền, cho nên còn ở Sơ Thiền. Vì vậy mà cố gắng phải ly dục ly bất thiện pháp nữa, phải tu tập cái Định Vô Lậu để quét sạch cái này ra hết, thì tức là mới trọn vẹn được cái chỗ ly dục ly bất thiện pháp để cho mình có Sơ Thiền.

Mà khi Sơ Thiền được rồi thì cái Nhị Thiền nó mới được, các con hiểu chưa? Chớ bây giờ các con chưa ly này mà các con vội cho nó diệt Tầm Tứ để mà nhào vô Nhị Thiền thì không bao giờ được hết, nó vẫn còn vọng tưởng lai rai, chưa hết đâu. Đó các con hiểu chỗ đó không? Đó chắc chắn là con đường tu tập, cái sự suy xét chắc chắn là phải như vậy.

Thường thường là các con tu cái định mà để phá cái si là cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, tu ở trong các hành động cho nên cái buồn ngủ nó sẽ không đến với các con được. Phần nhiều mà các con thấy rằng khi mình nằm xuống cái mình ngủ, hoặc là mình ngồi ghế đồ một hơi mình giữ tâm thanh thản một hơi cái nó lặng ngủ đó, là cái niệm si nó vẫn còn, nó chưa hết đâu.

Cho nên vì vậy mà thường xuyên, cái người mới tu thì nên thường là chúng ta nên đi kinh hành, đi kinh hành để tập tỉnh thức ở trong cái hành động hằng ngày, hoặc làm công việc gì mọi ngày, chúng ta làm cái gì chúng ta liên tục ở trong cái hành động, vì cái hành động đó nó sẽ phá cái si.

Và không phải là cái niệm si nó phá là…​ Phần nhiều là chúng ta ngồi không, nó hay có cái buồn ngủ, mà chúng ta làm công việc, nó ít có buồn ngủ. Do đó chúng ta nên làm công việc mà tập tỉnh thức ở trong công việc đó, cho nên cái niệm si lần lượt nó sẽ không còn có nữa, cái niệm buồn ngủ nó không còn có nữa.

Đây là mới cái giai đoạn mà phá hôn trầm thùy miên thôi, tức là cái người mới tu là phải phá cái đó, thì cái giờ giấc của cái người tu đó phải nghiêm chỉnh, chớ không thể nào bây giờ mình buồn ngủ cái mình ngủ giờ này, thì mình nói để cho khỏe rồi mình tu, không có được! Tu như vậy sai.

Bây giờ thí dụ như các con mới tu nè, 7 giờ cho đến 9 giờ nè, đúng phải đúng 9 giờ mới đi ngủ, phải không, rồi 2 giờ dậy cho đến 5 giờ sáng đi ngủ. Giờ nào nó phải ra giờ nấy, chớ không có được mà giờ này trước giờ kia sau, hay bữa nay thì ngủ trước bữa mai thì ngủ trễ thì không có được, giờ giấc phải nghiêm chỉnh.

Để làm gì? Để cho cái mặt mà buồn ngủ nó mới lòi ra, cái mặt mà nó ngu si nó mới lòi ra. Và lòi ra thì chúng ta mới tập đi kinh hành, trong khi ban đêm chúng ta cũng phải đi nữa, đi chừng nào mà hết cái giờ đó rồi chúng ta mới vô ngủ.

(01:18:04) Và đồng thời khi mà vô ngủ nó không ngủ đâu, nó nằm đó đó chớ không ngủ đâu. Vì vậy mà chúng ta phải tập để hướng tâm để dạy cho nó ngủ, nó ngủ cho đúng giờ đúng khắc. Một thời gian sau cà nó mới có đúng giờ đúng khắc được, thí dụ như dậy nó dậy, mà ngủ nó ngủ, còn mới đầu nó ngủ trật giờ trật khắc hết, nó không đúng.

Cho nên nếu một người tu đúng, giờ khắc người ta ngủ rất đúng, không có sai nữa. Còn cái người mà tu từ lâu tới giờ mà không có giữ gìn giờ giấc nghiêm chỉnh thì bây giờ cũng còn ngủ lộn xộn nữa, chưa đúng giờ đâu.

Đó cái người mà hiện bây giờ trong Tu viện chúng ta đó mà giờ giấc ngủ đúng hết, đúng nhất, giờ nào ra giờ nấy, đúng hết là chỉ có Mật Hạnh thôi. Chớ còn có nhiều người ngủ trước ngủ sau, thay vì bây giờ còn 10 phút nữa thì nó buồn ngủ rồi, nói: “Thôi, bây giờ gần 10 giờ, thôi đi ngủ trước chút, không sao đâu.” Như vậy cũng sai nữa.

Bởi vì giờ giấc nghiêm chỉnh, đúng 10 giờ là - đúng cái kim chỉ đúng là 10 giờ hẳn hòi, đúng 10 giờ là đi ngủ, mà còn 3 phút chưa đúng là vẫn còn đi kinh hành, chớ còn không nói: “Bây giờ buồn ngủ quá trời rồi, thôi có 3 phút không có sao đâu, vô ngủ!” Cũng không được nữa! Phải cương quyết và nghị lực như vậy đó thì chúng ta mới có thể làm chủ được cái ngủ, cái si mê của chúng ta.

Cho nên Thầy nói bây giờ đó, thí dụ như muốn ngủ hồi nào đúng giờ là ngủ, mà không đúng giờ là không ngủ, thì cái người đó đã luyện tập trong một thời gian rất là thuần thục, ít ra cũng 2, 3 năm mới được vậy chớ không phải là tầm thường đâu. Cho nên các con thấy nó không phải đơn giản đâu, cái sự gì cũng luyện tập nó mới trở thành cái chủ động hết, còn không luyện tập là không thành chủ động.

Thầy biết, ở trong chúng người nào sao Thầy biết hết. Cái người nào mà luyện được cái gì thì họ tập luyện được cái đó thì họ đạt được cái đó họ rất mừng cái đó, nhưng mà cái phần khác họ còn thiếu khuyết chớ chưa phải là thành tựu. Nhưng vì vậy cho nên chúng ta cái phần nào mà còn thiếu khuyết, chúng ta bổ túc thêm cho chúng ta toàn diện được làm chủ hết, thì cái đó là cái tốt của chúng ta.

Cho nên được cái phần nào thì chúng ta tu, còn mấy con mà tu cứ lừng chừng lừng chừng, giờ giấc không nghiêm chỉnh rồi thì sau này nó không nghiêm chỉnh nữa. Khó lắm chớ không phải dễ đâu, coi vậy chớ giờ giấc rất khó.

Thầy nói như thế này nè: Nó khôn lắm, cái tâm chúng ta khôn lắm. Tới cái giờ mà nó thức dậy, cái chuông để ở đầu giường của mình đó, nó nghe reo nó vẫn bóp cái chuông đồng hồ cho nó tắt đi đặng cho nó ngủ thêm chớ chưa chắc đã nó thức dậy đâu, nó chưa chịu đâu. Nó khó lắm chớ không phải dễ. Cho nên chúng ta phải hàng phục nó dữ lắm.

Sau khi giờ giấc nghiêm chỉnh rồi, thì cái sự tập luyện để phá cái buồn ngủ đó thì chúng ta phải tập trên cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, chúng ta tập rất nhiều, siêng năng hằng ngày chúng ta phải tập để cho phá.

Cũng như bây giờ thay vì cái giờ trưa này chúng ta quyết định không ngủ, thì chúng ta phải làm công việc gì chớ mà chúng ta ngồi bậy bạ một hơi nó ngủ, không có thể nằm mà nói rằng mình thức được đâu. Có bữa thì thức có bữa nó ngủ, nó không có chủ động được đâu. Cho nên nhất quyết là chúng ta phải tập là phải tập.

Bây giờ nói trưa không ngủ là hoàn hoàn trưa nào chúng ta cũng phải tìm mọi cách chúng ta đi kinh hành hoặc là làm cái gì đó, rồi chúng ta tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Thức ở trong đó, lần lượt chúng ta phá cái thùy miên hôn trầm mới sạch, và khi sạch rồi thì nó không có tái diễn nữa.

Chớ không phải là cột chân cột cẳng hay treo giò chúng ta để cho nó đừng ngủ, không phải đâu, đừng có làm cái chuyện đó là cái chuyện sai, không có đúng, mà nên nỗ lực tu tập ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Thức thì mới phá được cái hôn trầm.

Và khi phá được hôn trầm rồi thì nó sẽ được tỉnh thức, nhưng cái thời gian mà chúng ta còn ngủ chớ chưa phải hết ngủ, cái tâm chúng ta còn mê, chưa phải hết mê, vì nó còn 18 cái loại tưởng, cho nên chúng ta phải tập, tập cho cái tâm nó tỉnh thức, ở trong khi cái thân nó ngủ mà nó vẫn thức liên tục ở trong cái hơi thở mà nó không có mê mờ nữa, cho nên nó mới là nhập tới cái Tam Thiền mới được.

8- NGỒI NHIỀU SINH RA LƯỜI BIẾNG, HÔN TỊCH

Tu sinh:…​ (Không nghe rõ)

(01:21:33) Trưởng lão: À nó còn cái mờ mờ của con thì không được. Nghĩa là con ngồi ở trên cái ghế này mà con thấy nó mờ mờ, mặc dù nó chưa thật là nó đi vào trong cái hôn trầm hay hoặc là cái thùy miên, nhưng mà nó còn lờ mờ là…​

Tu sinh: …​ (Không nghe rõ)

Trưởng lão: À cái đó thì con nuôi nó đó, cái đó kêu là kiểu nuôi nó. Không có được nuôi cái kiểu đó! Bởi vì, thí dụ như bây giờ vừa nhắc nó tỉnh có chút, rồi bắt đầu nó mơ mơ trở lại, rồi nhắc nó nữa, cái đó không có được, cái đó là nuôi cái lười biếng chớ không phải là gì.

Bắt đầu từ đó phải đứng dậy khỏi ghế liền tức khắc, thấy nó có mơ mơ - mình ngồi mà nó rất tỉnh thì ngồi, mà nó có mơ mơ mà nhắc nó tỉnh chút rồi nó mơ mơ lại thì không có được đâu. Cái này là mình nuôi lớn cái…​ Thay vì ngủ thì nó chưa hẳn ngủ, mà lại nó sanh ra cái lười biếng đó, cái mơ mơ là cái lười biếng. Cho nên lúc bấy giờ cứ đi kinh hành, đi kinh hành cho thật tỉnh. Tỉnh thì tỉnh mà không tỉnh thì thôi, chớ không được lúc tỉnh lúc mê.

Thành ra con tập cái kiểu đó nó trở vào một cái trạng thái gọi là hôn tịch. Hôn tịch tức là nó mê mờ rồi nó tỉnh, rồi nó mê mờ, rồi nó tỉnh, có lúc thì nó tỉnh, lúc thì nó mê. Đó là không được. Tập như vậy nó đi lọt vào ở trong cái vô ký hôn tịch, nó không đúng rồi.

Cho nên phá bỏ cái đó liền, phải đi kinh hành, thứ nhất là chúng ta phải đi kinh hành nè. Đi kinh hành cho đến khi mà ngồi lại, bây giờ 30 phút, ngồi lại mà chúng ta giữ cái tâm thanh thản, liên tục nó tỉnh táo nó không có bị mơ mơ chút nào hết thì nó mới được, còn nó mơ là không được. Nó mơ là lát một hơi nữa là nó lặn xuống cái nó chiêm bao liền, không có được.

Cho nên những cái đó là cái coi chừng mà coi tưởng là mình có thể mình giữ đó nó tỉnh, nhưng mà cuối cùng con tu riết không bao giờ tỉnh đâu, thời gian hoài mà không tỉnh đâu. Thay vì cứ đi kinh hành cho nó thật tỉnh đi, 30 phút con đi kinh hành rồi con vô con sẽ thấy rất tỉnh. Thà là bây giờ vô tới hết 30 phút rồi vô nằm ngủ là cứ ngủ.

Tu sinh:…​ (Không nghe rõ)

Trưởng lão: À, cái đó là con dùng cái định thì nó không buồn ngủ là phải rồi. Con ngồi chơi đó mà nó buồn ngủ là cái giờ đó chưa phải ngủ, mà con ngồi chỉ là xả nghỉ, thì cái đó là phải đi kinh hành thôi. Ngồi mà lơ mơ lơ mơ đó thì không phải là tỉnh đâu.

Thì tức là phải biết cái đó là cái sai, nó không đúng, thì phải bỏ cái đó, đừng có tu cái đó. Tưởng là mình ngồi chơi, mình giữ nó vậy, nó có lơ mơ lơ mơ cũng không sao, không phải đâu.

Từ cái Định Hiện Tại An Lạc Trú con ngồi vô rất tỉnh không có lơ mơ nè, đến cái Định Vô Lậu con ngồi đặt niệm, con quán xét cái lậu hoặc nó cũng không có lờ mờ nè, mà bây giờ xả ra nghỉ, giờ này chưa phải giờ ngủ mà xả ra nghỉ mà không chịu tỉnh thì tức là phải đi kinh hành thôi chớ còn không có nói chuyện mà ngồi đó mờ mờ được. Đó là phải dẹp cái đó, chớ không khéo ngồi đây nó sanh lười biếng đó, mà nó sanh ra lờ mờ lờ mờ nữa, cái tâm không tỉnh.

Cho nên nhiều khi chúng ta lại phí bỏ cái thời gian này quá quý. Thay vì trong cái thời gian kia chúng ta các định thì thấy nó tỉnh, mà đến cái thời gian xả nghỉ lại không tỉnh, cho nên lúc bấy giờ chúng ta lại dùng cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định chúng ta đi kinh hành, chúng ta phải quán sát ở dưới chân của mình, để cho cái thời gian suốt 3 tiếng đồng hồ chúng ta tu tập trong một buổi hay hoặc là trong một đêm mà chúng ta tu thì luôn liên tục cái thời gian đó chúng ta không mất cái sức tỉnh của chúng ta.

Bởi vì cái tỉnh là đầu tiên mà, tỉnh giác là đầu tiên mà. Còn cái định gì thì kệ, chúng ta không biết, nhưng mà còn cái sức tỉnh chúng ta phải đạt được, suốt 3 tiếng phải tỉnh, không được mờ mờ, không được mê mê, không được lơ mơ trong đó, thì như vậy là cái kết quả của chúng ta sẽ vĩ đại sau này.

9- THỜI GIAN TU RÕ RÀNG, LOẠI ĐỊNH NÀO RA LOẠI ĐỊNH NẤY

Tu sinh: …​ (Không nghe rõ)

(01:24:36) Trưởng lão: Bây giờ mấy con nghe, trong cái Định Vô Lậu thì khi đặt cái niệm gì, khi mà khoanh chân ngồi kiết già - cho nên ở đây thì trong cái thời Đức Phật bảo chúng ta khi mà tu một cái thiền định nào đó thì chúng ta phải chuyên nhất một cái nơi nó phải thanh tịnh, tức là chúng ta phải chọn một cái nơi để chúng ta ngồi yên lặng.

Thì bắt đầu mấy con đã có những cái thất yên tịnh rồi, thì bắt đầu mấy con phải ngồi kiết già, rồi mới đặt cái niệm đó ở trước mặt của mình, rồi mới - như con trạch pháp ra những cái câu mà để mình quán xét nó vô lậu để xả danh, xả lợi, xả thương, xả ghét, xả phiền não, đau khổ, tất cả mọi cái đều xả ra hết. Do đó mình suy tư, mình quán xét tất cả các pháp, rồi quán xét để xả cho sạch, để như vậy vốn cái mục đích lậu hoặc nó hết tức là chúng ta ly dục ly ác pháp, các con hiểu không?

Và cái điều kiện mà con trình bày cho Thầy thấy, thì về trạch pháp cũng như về cái điều kiện con tu thì đúng chớ không có sai, nhưng mà có cái điều kiện là cái thời gian tu của pháp định này cho đến cái pháp định khác nó phải cho nó rõ ràng ra.

Thí dụ như con tu cái Định Vô Lậu xong rồi con phải xả nghỉ một thời gian kế đó con mới có thể tu tập cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức. Trừ ra khi nào chúng ta đang bị hôn trầm đang bị buồn ngủ thì chúng ta phải tu tập cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định liên tục, không được rời cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Còn tất cả các định khác như Định Hiện Tại An Lạc Trú về hơi thở, cũng như Định Vô Lậu, hay hoặc là Định Sáng Suốt giữ tâm thanh thản, giữ tâm vô sự, những cái định đó thì chúng ta tu có cái thời gian nhất định nó trong mấy phút hay là bao nhiêu giây đó rồi chúng ta xả nghỉ.

Bởi vì khi chúng ta tập trung mà chúng ta gom tâm tu như vậy nó rất mệt cho nên phải nghỉ nó cách ra. Chớ còn tu cái này vừa rồi thì bắt đầu con tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức Định đi kinh hành, con lại quán xét nữa thì nó lộn xộn lắm. Phải phân biệt cho rõ. Vừa đi mà vừa suy nghĩ thì nó lại trật cái pháp môn rồi.

Thường thường chúng ta hay đi cũng có suy nghĩ lắm chớ đâu phải không, cho nên nói: “Mình suy nghĩ vầy chắc là mình tu cái Định Vô Lậu.” Trong khi đi nó cũng phóng ra những cái tri kiến suy nghĩ lắm, nhưng chúng ta tu như vậy nó không có đúng cách.

Bởi vì cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức nó buộc chúng ta phải tỉnh thức ở trong cái hành động chớ không có ở trong cái quán được. Chỉ có Định Vô Lậu thì mới có dùng cái pháp quán mà thôi, pháp quán và pháp hướng. Còn cái kia nó tỉnh thức ở trong cái hành động rồi nó dùng cái pháp hướng chớ không có dùng pháp quán.

(01:27:15) Cho nên nó có sai một chút là các con phải thấy được cái chỗ mình tu ở thời gian nào, cái định nào nó ra cái định nấy. Bây giờ con ngồi Hiện Tại An Lạc Trú nè, con nhiếp tâm trong hơi thở nè, thì con phải khéo léo ở trong cái hơi thở cho nó một cách rất là rõ ràng và cụ thể ở trong cái hơi thở của mình, biết từng chút của nó.

Cho nên trong kinh điển của Phật thì có dạy - trong cái bài lát nữa các con sẽ nghe, Thầy có phân biệt nó có bốn cái định, mà chúng ta khi tu một cái định nào đó thì chúng ta phải rõ ràng cái định đó, Thầy có giảng cái đó. Để rồi bây giờ giảng lại thì thu vào trong băng nó lại bị lầm đi, để lát nữa rồi các con sẽ nghe.

Bây giờ thì như vậy là con trạch pháp ra những cái câu Định Vô Lậu như vậy là đúng rồi, nhưng cái thời gian mà phân định để tu các cái định thì phải khéo léo hơn một chút, định nào nó ra định nấy, hiểu chưa? Thì như vậy là nó đúng cách rồi.

Và mỗi lần mà con tu như vậy là con thấy cái tâm con càng ngày càng có giải thoát, con càng thấy càng ngày càng xả ra, phải không? Vì vậy mà từ hôm mà Thầy giảng cái giáo án này, hầu hết là các con đã hiểu được cái Định Vô Lậu, các con tu tập siêng năng mà tu cái Định Vô Lậu mà quán xét đúng trạch pháp ra thì các con xả tâm rất nhiều, làm cho các con không còn thấy cái mạng lưới ràng buộc của thế gian, của những người thân của mình, hay hoặc là tiền tài danh lợi của thế gian nó trói buộc các con như hồi trước nữa đâu, nó giảm bớt rất nhiều. Đó là cái sự giải thoát mà các con phải chứng nghiệm tự bản thân của các con./.

HẾT BĂNG

48 - MỘT PHÁP VÀ HAI PHÁP - TÓM LƯỢC TỨ BẤT HOẠI TỊNH

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 48 - MỘT PHÁP VÀ HAI PHÁP - TÓM LƯỢC TỨ BẤT HOẠI TỊNH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- PHẦN MỘT PHÁP VÀ HAI PHÁP - KINH PHÚNG TỤNG

1.1- PHẦN MỘT PHÁP - ĂN UỐNG VÀ HÀNH

(00:00) Hôm trước Thầy có dạy các con thế nào là cái một pháp, nhưng mà hôm nay thì Thầy nhắc lại về cái vấn đề này để cho các con biết thế nào là một pháp. Cái pháp đầu tiên mà chúng ta biết rằng đó là thứ nhất là ăn, thứ hai là hành. Nghe nhắc đến ăn thì ai cũng ngạc nhiên hết, cái pháp gì kỳ cục mà dạy ăn không à, rồi dạy hành không à!

Tất cả - ở đây các con để ý:

A- Tất cả các loài hữu tình do các món ăn mà được an trú.

Cái con vật nào, mình và mọi người, người nào cũng phải ăn uống rồi mới có thể an trú, mới có sống được chớ còn không ăn uống chắc chắn là không thể nào mà sống nổi đâu, phải không? Cho nên ăn là một cái pháp mà rất là quan trọng chớ không phải là không quan trọng đâu.

B - Tất cả các loài hữu tình do các hành mà an trú.

Có con vật nào mà không có hoạt động đâu, cái thân nó cũng rung động, nó cũng hô hấp, tim nó cũng đập hết, không có con vật nào mà không có rung động. Và cái thân của chúng ta nhúc nhích, đi tới đi lui hay là cái này kia đều là động hết.

Cho nên phải nhìn chung là các loài hữu tình thì từ cái ăn, từ cái hành, mà nó là loài động vật. Như vậy thì chúng ta biết là hai cái pháp này nó rất là quan trọng.

Vậy thì bây giờ chúng ta hành như thế nào để mà được giải thoát? Bởi vì chúng ta biết vì hành mà loài hữu tình nó có hành, mà vì ăn cái loài hữu tình nó phải ăn, cho nên ăn như thế nào để mà được giải thoát, mà ăn như thế nào mà không giải thoát?

Đó, bây giờ chúng ta ăn mà chúng ta còn thèm ăn thì có giải thoát không? Đâu có thể giải thoát! Ăn mà không thèm, ăn coi như là một cái thứ thuốc, ăn để sống thôi đó thì cái đó mới giải thoát đó.

Cho nên ở đây có một pháp mà rất là quan trọng, cho nên về cái ăn chúng ta thấy rất quan trọng. Vì vậy hàng ngày chúng ta ăn một bữa mà không thèm ăn, ăn để sống. Cho nên chúng ta thấy cái ăn đối với cái loài hữu tình, con vật cho đến con người hiện bây giờ trên thế gian này người ta quá chú trọng đến cái ăn, cho nên người ta tranh với nhau vì cái ăn. Còn chúng ta là người tu sĩ chúng ta dẹp phắt cái ăn, ăn chỉ để sống chớ không có còn quan trọng nữa.

Đó là cái thứ nhất mà chúng ta phải tu tập, phải hiểu biết và tu tập.

Cái thứ hai về hành, thì chúng ta biết rằng hành nó có 3 chỗ hành: Thân hành, ý hành, khẩu hành. Nhưng mà thân hành như thế nào mà để đem lại sự giải thoát? Đời người ta hành không có giải thoát đâu, người ta đánh lộn, người ta đập nhau lỗ đầu chảy máu thì làm sao mà gọi là giải thoát! Cho nên ở đây chúng ta hành như thế nào mà giải thoát?

Hành tức là chúng ta có 3 chỗ hành, cái thân của chúng ta đừng có làm khổ mình khổ người, cái hành động nó đừng có làm khổ mình khổ người gọi là hành. Cái miệng của chúng ta hành thì đừng có nói lời nói mà làm khổ mình khổ người, đó là hành. Cái ý chúng ta khởi nghĩ thì đừng có khởi nghĩ - cái hành động của ý đừng có khởi nghĩ làm khổ mình khổ người.

Thì như vậy là chúng ta phải biết cái hành nó quan trọng đến mức nào, cái ăn nó chỉ có một mà cái hành nó tới ba chỗ lận.

Đó như vậy là chúng ta đã biết có một pháp mà rất là quan trọng, đó là pháp ăn và pháp hành. Vậy từ đây về sau chúng ta phải cẩn thận trong những cái hành, trong những cái ăn uống. Đó, thì đó là những cái pháp mà Thầy nhắc nhở cho các con thấy.

1.2- PHẦN HAI PHÁP - BA MƯƠI HAI CẶP PHÁP ĐỐI ĐÃI

(03:12) Và đồng thời trong những cái bài trước Thầy có dạy: Có hai pháp. Vậy thì hai pháp như thế nào đây?

1. Danh và Sắc

Những cái pháp này thì theo Thầy thiết nghĩ các con phải hiểu: Danh là cái gì mà Sắc là cái gì? Mà ở trong Thập Nhị Nhân Duyên Phật có dạy đó: Danh Sắc tức là cái bào thai của con người đó, tức là thân và tâm của chúng ta. Sắc là cái thân, mà Danh là cái tâm của chúng ta, cho nên do có Danh Sắc mà có cái sự đau khổ cho chúng ta.

Vì vậy mà chúng ta phải hiểu Danh Sắc nó có phải là cái bản ngã của chúng ta không? Có phải là cái vật thường còn không hay là vô thường? Có phải là cái thứ không khổ không? Cho nên chúng ta phải hiểu hai cái pháp này: Cái Danh và cái Sắc.

Cái thứ hai là:

2. Vô minh và Hữu

Vô minh là như thế nào? Vô minh là mê mờ, không thấy, mà trong Thập Nhị Nhân Duyên chúng ta thấy có cái duyên Vô minh và có cái duyên Hữu: Do Vô minh mới sinh Hành, Hành mới sinh Thức, Thức mới sinh Danh sắc. Chúng ta thấy rõ phải không? Mà có Hữu nó mới có Thủ, có Thủ nó mới có Sanh, có Sanh nó mới có Bệnh, tử, ưu, bi. Do đó ở đây thì Đức Phật ghép hai cái danh từ Vô minh và Hữu.

Vì Vô minh như thế nào? Muốn phá từ Vô minh này thì chúng ta phải tìm hiểu những gì mà chúng ta chưa hiểu, chúng ta phải thông hiểu những gì chúng ta chưa thông hiểu. Và khi mà chúng ta thông hiểu thì chúng ta phá vỡ cái Vô minh liền.

Cũng như bây giờ Phật nói thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã, bây giờ chúng ta tìm hiểu coi nó vô thường chỗ nào? Nó khổ chỗ nào? Nó vô ngã chỗ nào? Phải không? Do chúng ta hiểu như vậy thì chúng ta sẽ không còn Vô minh.

Mà không còn Vô minh thì tức là Minh chớ gì? Và khi mà Vô minh nó hết rồi thì cái Hữu có không? Hễ cái Vô minh mà nó hết rồi, nó Minh rồi thì cái Hữu nó không có nữa đâu, cho nên nhà cửa, của cải, tài sản chúng ta đều bỏ sạch hết. Mà cái Vô minh có thì cái Hữu nó có.

Bởi vì cái Vô minh nó lầm chấp, nó nói cái bàn này là thật nè, cái thân này là thật nè, cái thân này là ngã nè, cái tâm này là ngã nè, cho nên nó chấp cái này, cho nên vật nào cũng có hết, nó có tùm lum ra hết, cho nên nó mới Hữu. Vì vậy mà Phật ghép hai cái danh từ này lại để chỉ cho Vô minh và Hữu. Hễ có Vô minh thì phải có Hữu. Mà không có Vô minh thì không có Hữu. Minh thì chúng ta xả hết, xả hết trắng bạch như vỏ ốc, như một đời sống xuất gia ba y, một bát.

Đó thì các con thấy cái chỗ mà Phật ghép từ cái danh từ như vậy để mà chúng ta phá vỡ nó.

Cái thứ ba là:

3. Hữu kiến và Vô hữu kiến

Ở đây Đức Phật dạy Hữu kiến tức là có cái kiến, tức là có cái sự suy nghĩ, có cái sự hiểu biết. Mà có cái sự hiểu biết tức là chúng ta có cái sở tri chấp - chúng ta chấp cái kiến đó, chấp cái đó.

Như bây giờ từ lâu tới giờ nghe người ta nói bây giờ có Phật Tánh, ở trong thân của chúng ta có cái Phật Tánh, vậy thì ngộ cái Phật Tánh đó đó, mà chúng ta ngộ là chúng ta làm Phật, cho nên người ta nói kiến tánh thành Phật, do đó mình cũng chấp kiến tánh thành Phật, vì vậy người ta chỉ cái tánh đó là như thế nào bây giờ mình nhận ra cái tánh đó đó. Nhận ra cái tánh đó thì thành Phật rồi, nhưng mà cuối cùng thì cái tâm tham, sân, si chúng ta vẫn còn.

(06:34) Vì vậy mà chúng ta: “Ủa sao ông Phật mà - sao bây giờ mình nhận ra rồi mà bây giờ ổng còn tham, sân, si như vậy? Ai chửi ông cũng giận dữ vậy? Như vậy là ông Phật này thiệt hay giả đây?” Cho nên từ đó có cái sự suy nghĩ phá cái Vô minh này đi thì cái kiến chấp đó, cái Hữu kiến đó chúng ta bị bẻ gãy đi.

Còn nếu mà chúng ta không có sự suy nghĩ, chúng ta cứ ngỡ rằng ở trong thân của chúng ta là có Phật tánh nè, cái vật này là thường hằng nè, nó thường, lạc, ngã, tịnh nè, nó ở trong đó nó thanh tịnh, nó thường là an lạc ở trong đó, thì do đó chúng ta sẽ bị cái chấp kiến đó, và nó làm cho chúng ta mê mờ mà không thấy đó là cái chấp ngã, chấp kiến của chúng ta. Từ đó chúng ta chết điêu chết đứng ở trong đó mà tưởng là mình sẽ đạt được cái đó là mình giải thoát, nhưng cuối cùng lại không giải thoát.

Ở đây phải thấy rằng cái Hữu kiến này rất là nguy hiểm.

Vô hữu kiến: Khi mà đã hiểu ra như vậy chúng ta xả bỏ đi thì chúng ta hoàn toàn là không có gì. Bởi vậy đến với đạo Phật chúng ta thấy cái gì cũng bỏ hết cho nên chúng ta đâu có cái gì đâu, thậm chí như nói Niết Bàn, Đức Phật cũng nói đâu có cái gì mà Niết Bàn?

Bây giờ chúng ta chỉ biết rằng cái thân của chúng ta, cái đời nay của chúng ta nè, bây giờ chúng ta làm chủ được như vậy thì chúng ta biết rằng chúng ta chỉ có một kiếp này thôi và kiếp sau chúng ta không có nữa, nghĩa là không tái sanh nữa thôi.

Chúng ta chỉ biết như vậy thôi chớ chúng ta không thấy có Niết Bàn hay hoặc là có Phật Tánh hay hoặc là có cái gì nữa hết. Bởi vì còn có một cái gì đó tức là còn có cái chấp kiến, tức là còn cái Hữu kiến.

Cho nên ở đây cái chỗ hai pháp ở chỗ này đó, Hữu kiến và Vô hữu kiến: Nếu mà có Hữu kiến thì không thể nào mà Vô hữu kiến được, mà Vô hữu kiến thì tức là Hữu kiến không có. Đó phải hiểu. Cho nên phá cái này thì cái kia nó sẽ đạt, mà phá cái kia thì cái nọ nó sẽ có. Một cái người mà có kiến chấp rồi thì làm sao gọi là Vô hữu kiến được? Các con hiểu điều đó.

Đó cho nên ở đây thì chúng ta phải hiểu là hầu hết các con mang đầy ắp ở trong đầu của mình những cái kiến chấp kinh sách này kinh sách kia, cho nên tất cả những cái này là cái khó phá nhất, khó phá lắm. Nếu mà không có những cái sự đập phá của Thầy thì chắc chắn các con còn đầy ắp bao nhiêu cái kiến chấp chớ không phải là không.

Các con nghe từ hồi nào tới giờ Thầy không có dám động chạm ai hết, nhưng bây giờ Thầy thành lập cái giáo án xây dựng lại con đường của đạo Phật, đập phá tất cả những cái đó xuống hết thì bắt đầu mới phá được cái kiến chấp của các con.

Chớ còn nếu mà Thầy không đập thì cái kiến chấp của con chưa đâu, các con còn nói Phật Tánh rõ ràng lắm, còn nói kinh này kinh kia đồ dữ lắm chớ chưa phải đâu, còn nói trí Bát Nhã là vô ngại, rồi tất cả những cái Bát Nhã đó nó sẽ phá đi cái tất cả những cái điên đảo, mộng tưởng, viễn ly điên đảo, mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn, nó phá đi tất cả mọi cái, thành tựu được một cái giải thoát hoàn toàn là cái trí tuệ Bát Nhã.

Nhưng mà các con cứ kiến chấp những cái đó, nhưng mà cái đó nó cao vời vợi, mà sự thật đó là cao vời vời của cái tưởng chớ không phải là cái cao gì hết. Cho nên không được cái phá thì các con sẽ ở trong cái Hữu kiến chớ không bao giờ mà Vô hữu kiến được.

(09:34) Ở đây, cái phần thứ tư này thì Phật dạy tới nó có hai cái pháp, tức là:

4. Vô tàm và Vô quý

Cái người mà không biết xấu hổ và không biết sợ hãi thì cái người đó không có thể nào mà theo con đường của đạo Phật mà tu được.

Cho nên muốn mà tu cho có tàm và quý, tức là có xấu hổ và có sợ hãi thì chúng ta mới răn chừa những cái điều ác mà chúng ta mới ngăn chặn nó được. Còn nếu mà làm một điều ác mà chúng ta không thấy sợ hãi, tội lỗi, mà không thấy nó xấu hổ thì chúng ta cứ mãi làm mà chúng ta không có lo, không có gì hết.

Thì do đó cái Vô tàm, Vô quý này là cái tâm của phàm phu, là cái tâm của con người ác, họ không có biết xấu hổ, họ không có biết sợ hãi những cái tội lỗi của họ do nhân quả đưa đến cho họ gánh vác.

5. Tàm và Quý

Thứ năm: Tàm và Quý, Tàm nghĩa là xấu hổ, Quý là sợ hãi. Nghĩa là cái người mà có xấu hổ, có sợ hãi thì con đường của đạo Phật dễ dàng tu tập. Mà thường thường là người ta nói xấu hổ, nói sợ hãi, nhưng sự thật ra mới đầu chúng ta chưa biết thì chúng ta còn sợ nhưng mà sau đã quen rồi thì chúng ta không sợ.

Cũng như bây giờ, thí dụ như các con ở đâu xa lạ mới đến cái Tu viện này, nghe nói kỷ luật như vậy thì mới đầu các con còn khúm núm, còn giữ gìn dữ lắm, nhưng mà sau một thời gian ở lâu quen rồi thì các con không có thấy sợ nữa, và từ đó các con cũng không có sợ hãi cái kỷ luật ở đây nữa.

Nghe nói vậy chớ còn bây giờ thật sự ra các con muốn nói chuyện với nhau là các con cứ lén nhau nói chuyện, thì như vậy là cái độc cư ở đây đặt ra thành vấn đề là các con không còn sợ hãi, và các con cũng không biết rằng cái đó là cái xấu hổ của mình khi mình tiếp duyên, mình nói chuyện lén lút như vậy là mình không còn xấu hổ, thì như vậy là cái tàm quý các con chưa có.

Cho nên ở đây mình muốn được tàm quý là mình phải có sự tu tập và rèn luyện nó mới có tàm quý, chứ không phải khi không mà người ta có tàm quý. Đó. Đó là phải nói đến cái chỗ mà tu tập để chúng ta giữ gìn những cái giới luật, cái kỷ luật cho được thì chúng ta phải tập Tàm và Quý.

6. Ác ngôn và Ác hữu

Ác ngôn là cái lời nói dữ, cái lời nói ác, cái lời nói mà người ta đau khổ. Còn Ác hữu là cái người bạn ác, cái người mà xúi chúng ta nói cái lời ác, cái người mà xúi chúng ta làm cái hành động ác. Cái người mà xúi chúng ta nói cái lời ác hay hoặc là ý nghĩ ác đó là người ác hữu, người bạn ác.

(12:01) 7. Thiện ngôn và Thiện hữu

Cái lời nói lành, cái lời nói mà làm cho người ta không khổ, mình không khổ thì đó là thiện ngôn. Và Thiện hữu là cái người bạn lành.

Cho nên ở đây chúng ta ở gần cái người bạn lành thì chúng ta sẽ có những cái lời nói tốt, cái lời nói lành, cái lời nói không có hung dữ, còn nếu mà chúng ta ở gần những cái người bạn ác thì chúng ta sẽ có những cái lời ác ngôn, có những lời nói hung dữ, có những lời nói ác, không có những cái lời nói thiện được.

Đó là hai cái pháp nó đối chiếu với nhau để chúng ta chọn lấy một trong những cái pháp này.

8. Nhập tội thiện xảo và Xuất tội thiện xảo

Đó bây giờ: Nhập tội thiện xảo nghĩa là cái người mà muốn làm cái tội họ cũng khéo léo họ làm để mà họ tránh cho người ta chỉ trích họ bằng cách này, bằng cách kia, cho nên khi mà họ làm cái tội gọi là nhập tội thiện xảo.

Khi mà họ - ở trong này Phật dạy Xuất tội thiện xảo - khi mà chúng ta làm một cái điều gì thì làm cái điều đó, thí dụ như bây giờ chúng ta làm một cái điều ác thì chúng ta cũng rất khéo léo làm cái việc ác chớ không phải chúng ta vụng về đâu, còn bây giờ mà chúng ta làm một cái điều mà không có điều ác thì chúng ta cũng phải khéo léo mới làm cái không có cái điều ác - điều thiện mới được.

Thì cái điều ác thì nó cũng phải có sự khéo léo mà làm, thí dụ như bây giờ chúng ta muốn lấy của người ta, ít ra chúng ta cũng phải nghĩ cách này cách kia, chớ không khéo…​ Đâu phải dễ đâu! Cho nên đó là một cái điều ác.

Hay hoặc là chúng ta muốn nói làm sao cho người khác tin rằng - chúng ta nói xấu người đó mà cho người khác tin thì chúng ta cũng phải thiện xảo để nói làm sao cho người ta tin rằng cái người đó xấu như vậy, cho nên nó cũng là cái thiện xảo để làm cái điều ác.

Còn bây giờ trong cái thiện xảo để mà chúng ta làm cái điều thiện, muốn làm một cái điều thiện thì chúng ta cũng phải có một cái thiện xảo để mà làm cái điều thiện, chớ không phải là thiếu cái thiện xảo mà làm cái điều thiện được. Cho nên muốn tâm mình được ly dục, ly bất thiện pháp thì nó phải có cái thiện xảo nó mới có ly, mà không có cái thiện xảo thì không ly.

Cho nên ở đây muốn làm cái tội thì chúng ta cũng có những cái khéo mà làm cái tội, kêu là gian hùng. Còn bây giờ mà muốn không có tội thì tức là chúng ta cũng phải khéo mà sử dụng, trau dồi cái tâm của mình để cho nó không có tội. Đó là những cái thiện pháp và ác pháp mà nó đều là có sự thiện xảo ở trong đó.

9. Giới thiện xảo và Tác ý thiện xảo

Ở đây chúng ta thấy khi mà sử dụng cái giới hành tức là một cái pháp nào đó để tu cho chúng ta được giải thoát ở trong cái pháp thiện thì chúng ta cũng phải khéo léo, chớ không phải là vụng về mà chúng ta tu tập được.

Cũng như bây giờ chúng ta dùng cái pháp hướng, mà cái pháp hướng đó lúc bấy giờ chúng ta hướng như thế nào để cho nó đúng, để mà cho nó được hiệu quả. Hầu hết là chúng ta không khéo léo cho nên chúng ta dùng pháp hướng mà không có hiệu quả.

Cũng như bây giờ thí dụ như cô Huệ Ân bị nhức cái đầu nè, cô khéo léo như thế nào đó, cô nhắc cái nó hết nhức đầu. Còn mình cũng nghe nói vậy, mà tại sao mình cũng đau cái tay, mình nhắc hoài mà nó không hết? Tức là không khéo léo, không thiện xảo đó, tức là không hiệu quả đó. Đó như vậy đó.

Cho nên ở đây Phật nói Tác ý thiện xảo, khi tác ý một cái điều gì ra thì nó phải khéo léo tác ý cho đúng cách. Cũng như tên thằng A mà mình gọi nó thằng B thì thằng A nó đâu có biết, nó đâu là thằng B, cho nên nó làm sao nó nghe được? Đó là mình không thiện xảo, không khéo tác ý.

(15:33) Đó thì, trong cái vấn đề mà tu tập tới đây là những cái điều kiện mà chúng ta sắp sửa vào trong cái pháp hành, vào trong cái giới hành, cho nên chúng ta phải tập những cái thiện xảo cho đúng cách.

Cũng như bây giờ, hồi nãy là cô Diệu Hảo trình bày cho Thầy thấy thì cái thiện xảo của cô Diệu Hảo thiếu thiện xảo, nhưng mà cái trình bày về pháp tu thì rất đúng, không có sai, nhưng mà cái thiện xảo để cho trong cái thời gian hành trì thì nó thiếu thiện xảo. Phải nhận ra cái chỗ đó, chớ còn nếu mà không nhận ra cái chỗ thiện xảo thì tức là chúng ta sẽ tu tập lu bù.

Cũng như cô Minh Cảnh mà trình bày cho Thầy tu cái định, tu ngồi giữ cái tâm thanh thản để cho phá cái tâm hôn trầm của mình đó, thì cái đó là không có thiện xảo rồi, cho nên vì vậy mà nó đưa dần đi đến cái chỗ nó tỉnh tỉnh mê mê mà nó không có…​ Bởi vì cứ ngồi nghỉ, thôi thì bây giờ mình ngồi nghỉ thì mình giữ được mức nào hay mức nấy, không ngờ cứ một lát chợt nó tỉnh rồi lát nó mê xuống, rồi lát nó chợt tỉnh, như vậy là sai.

Bởi vì cái thời gian này là cái thời gian chúng ta phải tỉnh táo hoàn toàn, xả nghỉ, cũng như lúc mà chúng ta đang ở trong cái Định Hiện Tại An Lạc Trú hay là Vô Lậu, nó phải tỉnh như vậy, tỉnh như trong lúc chúng ta quán xét. Mà bây giờ ngồi, không có quán, không có gì hết mà vẫn phải tỉnh như vậy thì như vậy mới đúng.

Mà muốn được vậy thì làm sao bây giờ? Không thể ngồi không vậy được, cho nên phải đi kinh hành, vì vậy mà chúng ta phải nương vào cái hành động Chánh Niệm Tỉnh Thức nó mới có sự tỉnh được như vậy. Sau khi nó tỉnh đến cái mức độ nó rồi thì bắt đầu chúng ta ngồi xả ra, nó tỉnh rất tỉnh, nó khỏi cần phải trong cái hành động, thì biết lúc bấy giờ là chúng ta mới nên ngồi.

Còn bây giờ mà muốn ngồi nghỉ thì điều đó là cái điều chết chớ không phải điều sống, vì vậy mà thiếu thiện xảo.

10. Xứ thiện xảo, Duyên khởi thiện xảo

Xứ thiện xảo là như thế nào? Xứ thiện xảo là cái gì đây?

1- CÁC LOÀI HỮU TÌNH ĐƯỢC AN TRÚ NHỜ ĂN UỐNG VÀ HÀNH

2- HAI PHÁP

  1. Chỉ và quán

  2. Chỉ tướng và tinh cần tướng

  3. Tinh cần và không dao động

  4. Giới thành tựu và kiến thành tựu

  5. Giới suy khuyết và kiến suy khuyết

  6. Dao động đối với các pháp bị dao động và tinh cần của người bị dao động

  7. Không tri túc với các pháp thiện và không thối thất trong sự tinh cần

  8. Minh và giải thoát

  9. Tận trí và Vô sinh trí

Bài kệ Phật khuyên thừa tự pháp, không nên thừa tự ăn, ngủ

Lý do Tôn giả Ratthapàla xuất gia - con đường tu tập đúng đắn

CÂU CHUYỆN

  1. Thế giới là vô thường, đi đến hoại diệt.

  2. Thế giới là vô hộ, vô chủ.

  3. Thế giới là vô sở hữu.

  4. Thế giới là thiếu thốn, là khao khát, nô lệ cho tham ái.

Giải thích từng phần

Thế nào là vô thường, đi đến hoại diệt?

  • Thế nào là vô hộ, vô chủ, như thế nào?

  • Thế giới là vô sở hữu cần phải ra đi, từ bỏ tất cả.

  • Thế nào là thế giới thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái?

Tu tập tứ bất hoại tịnh

Lý pháp: thân niệm phật, thọ niệm phật

  1. Thân niệm Phật.

  2. Thọ niệm phật

Chúng ta thấy nè, bây giờ chúng ta tu Tứ Niệm Xứ nè, thì cái Xứ thiện xảo là cái thân của chúng ta đang tu nè, lấy cái thân mà tu nè, thì vậy giờ thân hành, hay hoặc là cái thân hành nội hay hoặc là thân hành ngoại, hay là đang ở trong cái nhân tướng hành, hay hoặc là cái đặc tướng hành. Cái nhân tướng hành cũng là cái thân, bây giờ ở trên thân quán thân nè mà quán cái hành tướng hay hoặc là quán cái nhân tướng, hay hoặc là quán cái đặc tướng nè.

Nếu mà quán cái đặc tướng nè thì cái xứ - cái thân của chúng ta là cái xứ - mà phải thiện xảo ở trên cái đặc tướng của nó. Mà bây giờ quán về cái hành tướng của nó, thì ở trên cái thân của chúng ta là cái xứ nè, thì phải thiện xảo ở trên cái hành tướng của nó chớ không phải ở trên nhân tướng nó được, hay hoặc là ở trên đặc tướng nó được. Các con hiểu điều đó.

(18:10) Cho nên ở đây chúng ta phải phân tích cho rõ ràng để khi mà chúng ta tu cái định nào thì nó phải ra cái định nấy.

Nếu mà bây giờ ở trên hành tướng mà nơi cái thân của chúng ta, tức là thân chúng ta đương đi, đương hành, cho nên vì vậy mà chúng ta tu ở trên hành tướng đó, cho nên trên thân quán ngoại thân là do cái hành động ngoại tu trên cái hành động.

Còn bây giờ trên thân quán nhân tướng của cái thân, thì cái thân có hành không? Cái nhân tướng tức là nó nằm - cái cục thịt đó nó nằm như vậy, rồi quán nó như thế nào đây? Quán bất tịnh hay quán như thế nào để cho nó ly tham, ly sân, ly si ra, đó là tu về nhân tướng.

Cho nên mỗi một cái Tứ Niệm Xứ, Thầy nói nó rất là nhiều cái chuyện mà chúng ta cần phải tu, tu ở trong cái hành tướng, tu trong nhân tướng, tu ở trong cái đặc tướng của nó. Nó rất khó chớ không phải dễ, nhưng mà chúng ta biết được thì chúng ta mới có thiện xảo ở trong cái chỗ đó mà chúng ta rõ được từng chút chúng ta tu, thấy kết quả rất lớn cho chúng ta.

Như vậy gọi là Xứ thiện xảo, lấy cái thân của chúng ta, mà ngay cái hành tướng, đặc tướng, nhân tướng mà chúng ta tu tập thì cái đó gọi là thiện xảo.

Duyên khởi thiện xảo: Bây giờ chúng ta dùng một cái pháp mà tác ý ra để khởi ra một cái gì đó, để làm cho chúng ta tự chủ được cái điều kiện đó gọi là duyên khởi thiện xảo. Nghĩa là như cái lý tác ý nào đó thì chúng ta khởi ra cái đó để mà thiện xảo, để làm cho chúng ta đạt được cái kết quả đó.

Như bây giờ chúng ta bảo hơi thở phải ngưng, nhưng mà lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta bây giờ trên nhân tướng hay hoặc trên hành tướng nè, nếu là trên nhân tướng hay đặc tướng nè mà chúng ta nằm ở trên cái đặc tướng của nó là bây giờ nó ở trong cái trạng thái gì? Cái trạng thái gì mà chúng ta mới khởi sự thiện xảo cho nó ngưng cái hơi thở thì nó mới ngưng. Mà bây giờ chúng ta không nắm được cái đặc tướng nó, không nắm được cái nhân tướng nó, hay hoặc là không nắm được cái hành tướng nó mà bảo nó ngưng thì nó không ngưng.

Các con phải hiểu được điều đó. Cho nên đến cái lý hành rồi thì cái giới hành, cái pháp hành rồi, nó phải nắm từng chút rất là tỷ mỉ để mà chúng ta tiến bước ở trên con đường tu tập, cho nên chúng ta ra lệnh là nó ngưng liền là tại vì chúng ta nắm biết được cái trạng thái đó là bảo nó sẽ ngưng.

Bây giờ mình không nằm ở trên trạng thái đó trong cái nhân tướng hay cái đặc tướng hay cái hành tướng nó, mình không nằm được ở đó mà mình cứ bảo ngưng ngưng ngưng, làm sao nó ngưng? Các con hiểu điều đó không? Mình phải biết được cái trạng thái chỗ đó, bảo nó ngưng là nó ngưng, mà cái chỗ này mình chưa có nằm được, mình chưa có bám được cái tụ điểm này mà mình bảo ngưng là ngưng làm sao được?

Cho nên các con tu, bảo: “Đừng có nghe! Đừng có nghe!” Cái lỗ tai các con nó đương chạy ngoài chợ mà bảo nó đừng có nghe thì làm sao - nó ở ngoài chợ làm sao, nó đâu ở đây? Cho nên khi đó các con phải biết rằng cái lỗ tai nó đang ở chỗ này nè, cho nên bắt đầu nó ở chỗ cái điểm này nè, thì các con bảo nó đừng có nghe thì nó không nghe.

Còn bây giờ nó đi chợ ngoài kia, nó chưa có về mà bảo nó đừng nghe thì nó cứ nghe ở ngoài kia, ba cái thằng hát Sơn Đông ngoài kia đánh trống, nó mê ngoài đó nó đâu có về, nó cứ nghe trống ở ngoài thôi, thì do đó kêu sao được. Các con hiểu điều đó. Cho nên nó đi chợ ngoài đó rồi thì bây giờ ở đây có réo nó nó cũng đâu có nghe. Đó vì vậy mà nói sao cái lỗ tai tui cứ nghe hoài, không có hết nghe, là tại vì nó đang đi nghe trống Sơn Đông ở ngoải.

(21:07) Đó Thầy nói như vậy để chúng ta biết được cái con đường tu phải thiện xảo, vì vậy mà mới vô cái chỗ này các con thấy hai pháp, mà cứ thiện xảo, thiện xảo không. Mà trong cái thiện xảo của đạo Phật không phải tự nhiên mà vào định được mà cả một cái vấn đề khi nằm tại tụ điểm nào đó, khi nằm ở trên cái trạng thái tâm nào đó là biết cái đó nó thuộc về đặc tướng, nhân tướng, hành tướng của nó như thế nào, chừng đó chúng ta ra lệnh là nó ngưng.

Nó phải đúng của nó chớ còn các con chưa biết đúng không, các con cứ bảo đi, bảo tới già, tới râu mọc vầy nó cũng không ngưng nữa chớ đừng nói. Bảo hết hơi nó cũng không thèm ngưng.

Đó. Nói như vậy thì các con sẽ lần lượt các con phải tu tập tới cái khi mà Thầy dạy bốn cái định, ở trong băng Thầy đã dạy rồi, thì phải nắm cho vững cái đó rồi các con mới biết được.

12. Chơn trực và Tàm quý

Chơn trực tức là thẳng thắn, phải nhìn cho thật thẳng nó ở trong những cái điều kiện tu tập của mình. By giờ cái thiện là thiện mà ác là ác chớ không có được nói cái này vừa thiện vừa ác đâu, không phải đâu, theo kiểu lý luận của Bát Nhã đó, sắc tức thị không mà không tức thị sắc đó, không có kiểu đó được đâu.

Cái kiểu đó là cái kiểu kêu là gạt người ta đó thì không có được, mà cái kiểu này nó thiện là thiện mà ác là ác chớ không phải nói là sát sanh là Bồ Đề đó đâu, không được đâu, hay là phóng sanh là giải thoát mà sát sanh là Bồ Đề thì cái chuyện đó là cái chuyện lý luận của họ chớ còn ở đây không có được.

Ở đây là cái gì thẳng thắn là phải nói thẳng, đây là pháp ác là ác, mà đây là pháp thiện là thiện, chớ không phải nói là sắc tức thị không, không tức thị sắc, thì không có vậy được.

Và Tàm quý nghĩa là thẳng thắn, cái mà ác thì chúng ta phải xấu hổ, mà cái thiện thì chúng ta vui mừng, chúng ta không xấu hổ ở trong cái việc làm của chúng ta, không có sợ hãi những cái lỗi lầm đó.

13. Kham nhẫn và Nhu hòa

Khi mà chúng ta tu tập cái kham nhẫn, nhẫn nhục được mọi mặt thì chúng ta phải tập cái tâm trạng của chúng ta phải nhu hòa đối với mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, thì hai cái pháp này nó phải ghép chung lại.

Nhẫn nhục mà trong lòng cứ hậm hực, hậm hực hoài thì cái nhẫn nhục đó không phải là nhẫn nhục đâu, mà cái nhẫn nhục đó chỉ nén tâm mà chịu đựng. Còn cái nhẫn nhục mà thật sự kham nhẫn thì chúng ta phải có cái mặt nhu hòa, phải có cái lời nói nhu hòa, phải có những cử chỉ nhu hòa, chớ không phải là ở ngoài làm cái vẻ nhẫn nhục mà bên trong tức tối muốn đập người ta thì không thể được.

14. Lời nói nhu thuận và Tiếp đón thân tình

Nghĩa là khi mà kham nhẫn được và nhu hòa được rồi thì cái lời nói phải tỏ ra rất là nhu thuần, chớ không thể nào mà nói cộc cằn, mà nói giật một giật hai, nói như là chấm muối ớt thì không có được, chấm muối trong đầu người ta thì không có được, mà phải nói nhỏ nhẹ, ôn tồn, nhã nhặn.

Mà thấy người ta còn giận hờn, còn đau khổ thì mình lại dùng cái lời nói còn nhỏ nhẹ hơn nữa. Và mình tiếp đón họ rất là thân tình chớ không có những cái đối đãi một cách gay gắt, một cách khó khăn, cách khó chịu.

Cho nên một cái người tu theo đạo Phật phải tập hết sức lực tập chớ không phải là nói đơn giản được.

(24:18) 15. Vô hại và Từ ái

Nghĩa là luôn luôn lúc nào cũng không có làm hại ai hết, nghĩa là không có làm khổ người nào hết, luôn luôn lúc nào bao giờ cũng có thương yêu họ. Từ ái là thương yêu họ, không bao giờ mà bỏ một người nào hết, dù người đó là người thù, người đó là người có thể làm cho chúng ta khổ đau và có thể giết chúng ta nhưng chúng ta vẫn từ ái với họ, cũng không làm hại họ, tức là Vô hại và Từ ái.

16. Thất niệm và Bất chánh tri

Thất niệm là mất cái niệm, tức là không còn cái niệm chân chính nữa, cho nên từ đó cái tri kiến, cái hiểu biết chân chánh của chúng ta nó không còn có nữa, cho nên luôn luôn lúc nào chúng ta đừng có giữ thất niệm.

Chẳng hạn bây giờ chúng ta đặt cái niệm, mà cái niệm đó nó phải quán cho tận cùng rốt ráo rồi thì chúng ta mới mất niệm. Cũng như bây giờ mình đặt cái niệm hơi thở mà một lúc có vọng tưởng vô thì mình có thất niệm không? Cái đó là thất niệm rồi đó. Một lúc có cái hôn trầm xen vô thì lúc bấy giờ nó thất niệm rồi đó.

Bởi vì nó quên mất đi rồi thì đó thất niệm. Thì như vậy là không còn cái chánh tri kiến nữa, cho nên Bất chánh tri rồi, nó không còn sáng suốt nữa, nó mờ mịt rồi. Vì vậy cho nên lúc bấy giờ cái người tu không được thất niệm, luôn luôn phải được ở trong Chánh niệm.

17. Chánh niệm, Tỉnh giác

Vì vậy mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải giữ tâm tỉnh giác để lúc nào cái Chánh niệm chúng ta cũng phải hiện tiền, không được mất cái Chánh niệm.

18. Các căn không được chế ngự và Ăn uống không được tiết độ.

Ở đây, một cái người tu hành mà các căn không chế ngự, mà ăn uống không tiết độ thì không bao giờ mà thực hiện con đường của đạo Phật được. Nghĩa là các căn chúng ta phải chế ngự nó, con mắt thấy vật gì thì phải chế ngự cho nó đừng có nhìn nhiều.

Chẳng hạn bây giờ chế ngự nó là chúng ta đi trên đường này chúng ta nhìn xuống tức là chúng ta chế ngự cái đôi mắt chúng ta, không có cho nó nhìn qua nhìn lại, cho nên nó không thấy vật gì xung quanh, tức là gọi là chế ngự. Còn chúng ta mà nhìn ngó bên nây, bên kia, bên nọ, rồi giảo cái lỗ tai nghe người ta ca hát nữa đó, thì cái đó là không có đúng cách.

Cho nên đó là phải - cái người mà không chế ngự thì về cái ăn uống họ không bao giờ mà tiết độ, còn cái người mà chế ngự được các căn thì cái ăn uống sẽ tiết độ.

Thí dụ như bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa tức là chúng ta có chế ngự cái thân và tâm của chúng ta trong cái ham muốn của chúng ta, do đó chúng ta mới ăn uống ngày một bữa mới được, gọi là có chế ngự.

Còn nếu không chế ngự thì bây giờ chúng ta sẽ ăn lén, mặc dù bây giờ trưa chúng ta ăn, nhưng mà chiều hay tối về chúng ta sẽ ăn lén cái này hay hoặc là uống sữa cái kia, điều đó là chúng ta chưa có tiết độ đúng cách thức ăn uống. Cho nên nếu mà chế ngự được thì do đó chúng ta sẽ ăn một ngày một bữa mà không bao giờ ăn phi thời.

(27:08) Đó thì ở đây Phật dạy rất rõ ràng để chúng ta biết rằng sự chế ngự nó kèm theo cái sự tiết độ ở trong ăn uống của chúng ta.

19. Các căn được chế ngự và Ăn uống được tiết độ

Nghĩa là sáu căn của chúng ta được chế ngự thì ăn uống sẽ tiết độ, nó sẽ không phạm phải những cái giới.

20. Tư duy lực và Tu tập lực

Bây giờ các con đem một cái niệm, trạch pháp ra một cái niệm rồi các con suy tư gọi là tư duy đó, thì cái sự tư duy trong một lần nó chưa có lực đâu, tư duy hai lần, ba lần, năm lần, mười lần, một trăm lần thì nó sẽ trở thành cái lực của tư duy.

Khi mà các con đặt cái quán thân bất tịnh, hay là quán cái thân vô thường thì ngay đó cái luồng tri kiến giải thoát nó phóng ra liền rất mạnh, nó làm cho cái lực của các con thấy tất cả những cái lậu hoặc, quét sạch ra rất là mạnh, do một thời gian tu tập hoặc là 6 tháng, 1 năm thì cái lực nó sẽ thực hiện rất là mạnh.

Do đó nói rằng tư duy lực - cái lực suy tư của chúng ta nó sẽ trở thành một cái lực, nếu mà người nào mà siêng năng thì nó mới có cái lực đó, còn người nào mà không siêng năng thì nó không có cái lực đó đâu. Đó là cái thứ nhất.

Hằng ngày chúng ta tu tập đều là chúng ta tư duy ở trên cái Định Vô Lậu, thì do đó nó sẽ trở thành một cái lực mà tới cái ngày nào đó chúng ta sẽ thấy cái lực rất rõ ràng. Khi có một cái gì mà đến đối tượng nó thì tâm chúng ta giải thoát hoàn toàn, không còn tham, sân, si ở trong cái đối tượng đó nữa, thì mới biết đó là cái lực tư duy của chúng ta.

Mà cái lực tư duy của chúng ta là cái gì? Là cái pháp quán, tức là cái Định Vô Lậu. Bởi vì khi đặt cái niệm trước mặt của chúng ta để quán xét thì đó là chúng ta phải tư duy rồi. Cho nên ở đây thì Phật gọi là Tư duy lực và Tu tập lực, nghĩa là do cái sự tu tập như vậy đó nó mới tạo thành một cái lực, mà cái lực này gọi là Tư duy lực.

Có những cái tên như vậy để chúng ta biết rằng bây giờ chúng ta ngồi chúng ta thấy chưa có gì hết, nhưng một ngày nào đó chúng ta sẽ thấy nó đã thấm nhuần được cái lý của nó chân thật là vô thường, khổ, không, vô ngã thì chúng ta biết là bây giờ mình không giận ai nữa hết, ai chửi gì mình không giận, biết đó là tư duy lực nó đã có rồi, nó đã có ở trong cái pháp quán rồi. Đó.

21. Niệm lực và Định lực

Niệm lực ở đây thì như Thầy đã nói, khi mà chúng ta tạo thành một cái tụ điểm để cho tâm chúng ta nằm yên lặng ở trên đó, từ cái trạng thái yên lặng đó nó đi đến cái trạng thái vắng lặng, vì vậy mà chúng ta vào định nó mới được, gọi là có cái Niệm lực.

Và khi mà có cái Niệm lực rồi thì lúc bấy giờ chúng ta nằm yên ở trên một cái niệm đó thì cái niệm đó nó phi mất đi, nó chỉ còn có cái trạng thái của định, thì cái trạng thái của định gọi là Định lực. Lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần ra lệnh hướng tâm nhắc một cái thì cái sức Định lực đó nó sẽ vi diệu vô cùng, nó làm cho chúng ta muốn nhập định bao lâu thì nó sẽ nhập định bấy lâu.

Cũng như bây giờ Thầy có một cái Niệm lực của Thầy tức là cái tụ điểm, bắt đầu Thầy nằm ở trên cái tụ điểm, Thầy nằm chặt ở trên cái tụ điểm của Thầy, sáu căn Thầy khép chặt nằm đó, Thầy mới ra lệnh rằng: “Bây giờ phải nhập Tứ Thiền 7 ngày đêm, đúng là 3 giờ bữa nay, ngày thứ 7 là xuất định!”

(30:15) Thầy ra lệnh như vậy, bắt đầu từ đó cái hơi thở Thầy nó chuyển động và đến nó ngưng, Thầy nhập vào Tứ thiền 7 ngày đêm, bắt đầu tới 3 giờ chiều ngày thứ 7 đó nó mới xuất định. Thì các con thấy đó gọi là cái Định lực, cái sức định lực mà Thầy đã ra lệnh nó làm theo, nó không cãi lời Thầy. Còn cái chỗ mà thầy nằm yên lặng để cho nó tạo thành một cái lực thì đó là cái Niệm lực, các con hiểu chưa?

Có hiểu như vậy thì cái mà Thầy dạy nó không có đi đến cái chỗ mà các con bị lầm lạc, cho nên các con tu sơ sơ mà không thấy cái Niệm lực là cái quan trọng, mà dường như Thầy đã nói với các con nhiều lần: Nếu mà chúng ta có một cái điểm tựa thì chúng ta sẽ bẩy vũ trụ, và cái Niệm lực của chúng ta có đó, đó là chúng ta sẽ bẩy được cái vũ trụ.

Và Đức Phật đã xác định cái Niệm lực là cái gì? Là Tứ Niệm Xứ. Bốn cái chỗ mà chúng ta tu tập trở thành một cái Niệm lực đó là thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta. Đó mình phải xác định cho được cái chỗ mà Đức Phật đã dạy. Chớ không phải là Niệm lực không có, nó có. Nó có là nó tạo thành một cái tụ điểm từ nơi thân của chúng ta mà chúng ta có được cái Định lực vi diệu để bẩy được cả cái vũ trụ này. Làm chủ được sự sống chết của chúng ta là bẩy được cái vũ trụ đó.

22. Chỉ và Quán

Ở đây Chỉ và Quán Thầy đã giảng rồi.

23. Chỉ tướng và Tinh cần tướng

Chỉ tướng tức là cái trạng thái ngưng, chỉ là nó ngưng mà, cái trạng thái ngưng.

Nếu mà chúng ta không thấy được cái tướng ngưng này - cũng như bây giờ bảo: “Hơi thở ngưng!” Mà chúng ta không có nhận ra cái hơi thở ngưng thì tức là sai. Chúng ta phải thấy được rõ cái trạng thái lúc bấy giờ nó ngưng là như thế nào.

Cũng như bây giờ nói: “Ngôn ngữ tịnh chỉ!” Thì cái ngôn ngữ là cái lời nói chúng ta hoàn toàn là không có nói nữa, cái miệng chúng ta không còn lép nhép nữa, thì như vậy mới gọi là Chỉ tướng của cái ngôn ngữ. Còn bây giờ nói: “Tầm Tứ tịnh chỉ!” Tức là cái Chỉ tướng của Tầm Tứ, tức là bây giờ không có tác ý ra mà không có khởi một cái niệm gì ra, thì đó mới gọi là tịnh chỉ Tầm Tứ, tức là Chỉ tướng của nó.

Và trong lúc mà cái tướng chỉ nó được như vậy đó thì Tinh cần tướng - nghĩa là lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta luôn liên tục nó ở trong cái chỗ trạng thái đó liên tục, cho nên nó rất là siêng năng ở trong đó gọi là Tinh cần tướng - cái tướng siêng năng, tức là nó luôn luôn nó liên tục ở trong đó, cho nên gọi là Tinh cần tướng.

24. Tinh cần và Không dao động

Nghĩa là khi mà có một sự tinh cần ở trong một cái tướng chỉ như vậy thì cái tâm chúng ta - bao giờ chúng ta cũng phải nhận ra là nó không bao giờ có một cái dao động nào trong đó hết, nghĩa là không thấy nó hỷ lạc, khinh an, nó làm cho chúng ta thích thú dao động bằng cách này, bằng cách kia, hay hoặc là có cái thọ làm chúng ta dao động, cái này đau, cái kia nhức, không phải, không có đâu.

Nếu mà có thì nó không phải là cái chỗ tinh cần nữa mà là cái chỗ sai rồi, nó không có tướng tịnh chỉ nữa đâu, đó là cái trật rồi.

(33:18) Cho nên ở đây những cái lời dạy này, các con để ý, lưu ý mà nghe, mà nhận xét qua cái chỗ tu hành. Bởi vì ở đây là cái trạng thái tâm của các con mà chớ đâu phải của Thầy. Thầy chỉ nói ra để các con nhận xét được cái chỗ đó mà các con đi cho nó đúng, chớ còn ai mà đi cho mình được?

Bởi vì chỗ này là chỗ độc bộ, độc hành để đi đến cái chỗ làm chủ sanh tử của mình thì mình phải hiểu và mình phải đi cho nó đúng cách, chớ còn sai một chút thì các con sẽ đi không tới đâu.

25. Giới thành tựu và Kiến thành tựu

Chữ kiến ở đây là tuệ đó, chứ không phải kiến là kiến chấp đâu.

Giới thành tựu là khi mà cái giới luật, tức là những cái điều giới mà Phật dạy cho chúng ta nó đem đến sự giải thoát cho chúng ta, như bây giờ không sát sanh nè, không làm điều ác nè, không nói láo nè, không vọng ngữ nè, không tà dâm nè, không dâm dục nè, tất cả những cái này nó mà thành tựu được thì ngay đó là cái trí tuệ chúng ta phải có sự hiểu biết, chớ không phải là nó không ngơ đâu, nó có cái sự hiểu biết.

Bởi vì giới ở đâu thì trí tuệ ở đó, giới thanh tịnh thì trí tuệ thanh tịnh, mà trí tuệ thanh tịnh thì giới nó thanh tịnh. Trước kia Thầy có dạy cho các con rồi mà, giới thiệu về giới Thầy đã nói cái đó rất nhiều rồi mà.

Cho nên ở đây nhắc lại: Chữ kiến thanh tịnh tức là trí tuệ thanh tịnh chớ không phải…​ Kiến thành tựu - Giới thành tựu thì Kiến thành tựu tức là Trí tuệ thành tựu chớ không phải như hồi nãy chỗ kiến là kiến chấp, kiến giải đâu, không phải. Cái chỗ kiến này tức là cái trí tuệ.

26. Giới suy khuyết và Kiến suy khuyết

Nghĩa là khi mà cái giới chúng ta đã phạm thì cái trí tuệ chúng ta nó không sáng suốt nữa rồi, nó lại thiếu cái trí tuệ rồi. Cho nên ở đây giới mà không đúng thì trí tuệ người đó không có, mà người đó có trí tuệ thì luôn luôn bao giờ cũng sống đúng giới hạnh.

Bây giờ nhìn các thầy của chúng ta, các Hòa thượng của chúng ta, hỏi họ có trí tuệ không? Họ thuyết giảng thì chúng ta thấy ai cũng ngon hết, mà nhìn thấy họ ăn uống phi thời, họ sống cách bừa bãi như vậy, phá giới luật như vậy, thử hỏi họ là con người có trí tuệ không?

Bởi vì trí tuệ là phải nằm ở trong cái giới luật, làm cho họ được giải thoát, làm cho họ ly dục ly ác pháp. Còn đằng này họ đâu có ly dục? Mà họ không ly dục thì tức là cái sự hiểu biết của họ là cái tri thức tầm thường của thế gian, cái sự tri thức đó gọi là vô minh, chạy theo cái sự tham đắm của thế gian, ham ăn, ham ngủ, ham nhà cao cửa tốt, ham đồ đạc cho nhiều, thì đó là những cái người không phải là trí tuệ của giới luật.

Mà giới luật ở đâu thì trí tuệ ở đó, cho nên trí tuệ ở đâu thì sự giải thoát ở đó, và giới luật phải nghiêm chỉnh ở đó. Cho nên chúng ta dễ nhận xét qua cái người tu rất là rõ ràng. Là vì Giới thanh tịnh, Giới thanh tịnh thì Kiến phải thanh tịnh, đó. Mà Giới suy khuyết thì Kiến nó sẽ suy khuyết, tức là Giới suy khuyết thì Trí tuệ suy khuyết, mà Giới thanh tịnh thì Kiến thanh tịnh hay là Trí tuệ thanh tịnh.

Kiến thanh tịnh thì Tinh cần, tri kiến thanh tịnh. Nghĩa là cái giới mà thanh tịnh thì cái trí thanh tịnh, mà cái trí thanh tịnh thì ở đó có cái sự siêng năng tu tập của chúng ta, càng lúc càng siêng năng. Mà nếu mà cái kiến, cái trí tuệ không thanh tịnh thì cái sự tinh tấn nó không bao giờ có tinh tấn nữa, chúng ta chỉ tu xìu xìu, chơi chơi cho qua ngày vậy thôi để hướng dục lạc chớ còn không có cái thanh tịnh nữa.

(36:44) 29. Dao động đối với các pháp bị dao động, và Chánh tinh cần của người bị dao động ấy

Nghĩa là cái người mà tâm bị dao động rồi, bị phạm giới rồi thì luôn luôn lúc nào họ cũng sống ở trong những cái phạm giới, và cái tâm luôn luôn dao động.

Coi vậy chớ các bậc tôn túc Hòa thượng chúng ta luôn luôn lúc nào mấy ổng cũng sợ hồm hộp hết. Nghĩa là thấy một người mà tu tập giới hạnh, ăn ngày một bữa là họ đã lo trong bụng họ lắm rồi. Mặc dù là họ tìm cách họ nói này nói kia, họ ngăn cản, chớ sự thật ra họ rất lo sợ cái người mà giới hạnh đúng, họ rất sợ.

Bởi vì họ là người cũng biết được đọc kinh sách, họ cũng hiểu được kinh sách của Phật dạy như thế nào, không có ăn uống phi thời, mà thấy quý thầy ăn uống đúng pháp không phi thời mà họ phi thời là họ thấy xấu hổ rồi. Mặc dù là họ không nói ra nhưng mà họ thấy họ cũng gượng gạo đối với cái người mà giữ gìn giới hạnh.

Cho nên ở đây, khi mà tâm họ dao động thì cái sự tinh cần của họ cũng luôn luôn bị dao động theo đó hết. Cho nên hiện bây giờ dù họ có làm cái hàng giáo phẩm gì đi nữa, tâm họ vẫn luôn luôn nơm nớp sợ hãi. Nghe ở đâu có những bậc chơn tu là họ quá sợ. Cho nên tuy rằng họ không có làm được một cái gì hại ai nhưng mà họ vẫn lo sợ nơm nớp ở trong lòng của họ.

Vì họ biết rằng cái mà họ đang sống đây nó chưa phải là đúng, cho nên họ phải sợ. Mặc dù họ là những bậc - có thể nói rằng bậc tôn túc rất lớn nhưng mà họ luôn luôn nơm nớp sợ.

Còn chúng ta là những người chúng nhỏ thôi, giới luật chúng ta nghiêm túc, chúng ta chẳng hề sợ ai hết, chẳng sợ người nào hết. Nghĩa là không sợ ông lớn mà cũng không sợ ông nhỏ, vì giới luật là sự hộ trì.

Lát nữa các con nghe băng Thầy thuật lại, khi mà Thầy giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, Thầy chẳng hề sợ bom đạn. Nghĩa là tất cả những cái thất của Thầy, Thầy ngồi, trong khi đó bom đạn nó vây xung quanh vầy, pháo nè, máy bay nè, bắn, bỏ bom, đủ thứ hết, nhà cửa người ta xung quanh cháy, Thầy ngồi đây chong ngóc, Thầy ngồi Thầy tu chong ngóc, Thầy không sợ gì hết.

Đó thì các con thấy giới luật nó hộ trì như vậy. Cho nên mỗi cái người mà đi ra khỏi đây Thầy nhắc nhủ họ là phải giữ gìn giới hạnh nghiêm chỉnh, có giới hạnh mới bảo trì hỗ trợ họ trên bước đường đi mà được an ổn. Đó là những điều mà Thầy đã chứng nghiệm được cái giới luật của Phật, nó nghiêm chỉnh. Người mà giữ giới luật nó sẽ có sự hộ trì rất là lớn.

(39:07) 30. Không tri túc với các pháp thiện và Không thối thất trong sự tinh cần

30 này, Không tri túc với các pháp thiện - nghĩa là mình đừng có hiểu, mình đừng có biết đủ với các pháp thiện, mà các pháp thiện cứ càng ngày mình càng tu nhiều là càng tốt, chớ đừng nói: “Tui làm bố thí vậy thôi, tui giờ giữ vậy là đủ rồi, thôi tui không có giữ thiện nữa, bấy nhiêu đây là đủ thôi.”

Đừng có tự mãn ở trong những cái hành động thiện của chúng ta bây giờ đủ đâu, nó còn phải thiện nữa, thiện cho đến khi nào mà chúng ta giải thoát cà. Ở cái câu này, chúng ta đừng có tri túc ở trong các pháp thiện mà chúng ta hiện làm được, mà chúng ta còn phải làm nhiều các pháp thiện nữa để cho đến khi giải thoát hoàn toàn.

Và cũng đừng có thối thất ở trong cái sự tinh cần đối với các pháp thiện. Nghĩa là chúng ta phải siêng năng thực hành tăng trưởng các pháp thiện, càng ngày càng lớn lên. Mà các pháp thiện đây là gì? Là giới luật của Phật đó. Chúng ta phải thường siêng năng, tinh cần nó để mà tu tập.

31. Minh và Giải thoát

Minh tức là thấu rõ được cái lý chơn của pháp giải thoát của Phật, cho nên vì vậy có Minh là có Giải thoát.

32. Tận trí và Vô sanh trí

Hễ Lậu tận trí mà có thì cái Vô sanh trí nó phải có, đó là cái hiển nhiên, không thể nào mà chối cãi được. Một cái người mà có lậu tận minh thì tức là phải có Vô sanh trí - cái trí mà họ khởi ra những cái này kia đều là hoàn toàn phá vỡ, không còn cái trí dính mắc nữa, gọi là Vô sanh trí.

Đó thì ở đây nó có 32 cái điều kiện của hai pháp mà đối đãi nhau để trên bước đường mà chúng ta sắp sửa tu tập về cái giới hành thì chúng ta phải nắm rõ những cái điều này. Nhớ phải kỹ, phải làm cho thực hiện trong 32 cái pháp đối đãi này thì chúng ta mới thực hiện được cái giới hành sau này.

2- KINH TRUNG BỘ - BÀI KINH THỪA TỰ PHÁP

(41:06) Tỳ Kheo đầu tiên đáng được kính nể và đáng được tán thán hơn. Vì sao vậy? Vì như vậy sẽ đưa đến cho Tỳ Kheo ấy, trong một thời gian lâu ngày, ít dục, biết đủ, khổ hạnh, dễ nuôi dưỡng, tinh cần, tinh tấn.

Nghĩa là như thế nào? Khi mà chúng ta hiểu 32 cái pháp này rồi thì chúng ta giữ gìn những cái điều kiện mà tu tập đúng thì cái người tu sĩ đó được kính nể và được tán thán.

Còn nếu mà chúng ta không biết giữ gìn thì càng ngày chúng ta sẽ càng phạm giới, và càng phạm giới thì lâu ngày cái tâm của chúng ta nó sẽ không còn thiểu dục tri túc nữa, và nó chạy theo dục lạc chớ nó không còn biết đủ nữa. Cho nên nó sẽ đưa lần lần chúng ta đi vào một cái ngả sa đọa ở trong thế gian chớ không có được giải thoát.

“Vì như vậy sẽ đưa đến Tỳ Kheo ấy, trong một thời gian lâu ngày…​” Nghĩa là chúng ta giữ gìn như vậy trong một thời gian rất là lâu, do đó chúng ta mới có ít dục, biết đủ, nghĩa là thiểu dục tri túc, rồi chúng ta sẽ thấy dễ dàng ở trong cái sự khổ hạnh, dễ nuôi dưỡng.

“Tinh cần, tinh tấn” nghĩa là luôn luôn lúc nào chúng ta nó có cái sự siêng năng, hằng ngày càng siêng năng hơn chớ không phải…​ Còn nếu mà chúng ta không giữ gìn được, không hiểu thấu được những cái lý hành, cái giới hành này mà theo 32 cái điều kiện đã nêu ở trên này thì chúng ta khó mà thực hiện được thiểu dục tri túc, khó mà thực hiện được những cái khổ hạnh.

Do vậy, này các thầy Tỳ Kheo, hãy là người thừa tự pháp của Ta, đừng là người thừa tự tài vật của Ta.

Nghĩa là - cái lời nói này là Đức Phật khuyên chúng ta hãy thừa tự các pháp hành của Phật, như Thầy đã giảng ở trên 32 cái điều kiện này, là do chúng ta phải thừa tự các pháp này chứ đừng thừa tự cái ăn, cái ngủ, đừng có thừa tự những cái tài vật, của cải, tài sản mà lần lượt chúng ta sẽ xa đi các cái pháp tu hành của chúng ta.

(43:28) Hãy nghe bài kệ Phật đã dạy chúng Tỳ Kheo trong cái thời Đức Phật khi mà Ngài dạy về thừa tự các pháp, khuyên các vị Tỳ Kheo thừa tự các pháp, không nên thừa tự cái ăn cái ngủ. Ở đây Ngài có một cái bài kệ để nhắc nhở các vị Tỳ Kheo:

Phàm khổ gì hiện hữu,

Tất cả duyên thức ăn,

Do đoạn diệt thức ăn,

Khổ không còn hiện hữu.

Như các thầy thấy, mọi cái nỗi khổ của con người mà đang hiện hữu ở trong cuộc sống của họ thì không phải do thức ăn, do tranh giành thức ăn, do chà đạp lên nhau vì cái miếng sống của thức ăn trong đó của cuộc sống sao?

Cho nên cái nỗi khổ hiện hữu của họ đều phải thấy rằng do cái thức ăn là nhiều nhất. Người ta khổ cũng vì đói, vì khát, vì ăn, vì không có. Người có tiền có bạc thì lại thích ăn ngon, ăn cái này cái kia, nói cho bổ cho dưỡng, cho này kia để sống lâu, để trường thọ. Nhưng sự thật ra có ai mà sống lâu trường thọ trong cái ăn bao giờ không?

Càng ăn nhiều thì lại càng sanh dục, càng sanh dục thì lại sanh chạy tứ tung, phóng tâm, phóng dật làm cho cái cuộc đời điên đảo, đảo điên, luôn luôn lúc nào cũng thấy cái khổ kề bên, không có một cái phút an vui, giải thoát.

(45:00) Đời người vì lầm chấp, cho ăn là phải đầy đủ dưỡng chất, bổ dưỡng thì cơ thể sẽ mạnh khỏe, sống lâu. Sự thật điều này không thể xác định được chắc chắn.

Nếu tất cả những người giàu có như vua chúa, như các trưởng giả, các nhà giàu có nhất ở trên thế gian này, nếu mà nói rằng do ăn đầy đủ dưỡng chất bổ khỏe thì những người này họ sẽ bổ khỏe hơn ai hết, và nếu nói về ăn mà được đầy đủ dưỡng chất thì cơ thể nó sẽ được sống lâu thì những người này sẽ là những người đã được sống lâu.

Nhưng đó cũng là một cái lý luận của loài người để mà chạy theo cái dục lạc, nhất là cái dục lạc về cái ăn, cho nên họ càng nuôi lớn cái dục lạc ăn thì họ càng sanh ra nhiều cái dục lạc khác nữa, và càng nhiều dục lạc khác nữa thì đời của họ quá là khổ đau mà không có ai hay biết.

Chúng ta cứ xét thấy những người giàu có và những hàng vua chúa thì biết rằng họ cũng không sống dai và họ cũng không hạnh phúc khi mà họ ăn được đầy đủ những dưỡng chất gọi là bổ dưỡng.

Đó là một cái cái lý luận của những người vô minh, ngu si, ham ăn chớ không phải là cái người trí tuệ.

Ăn đủ sống ngày một bữa, ai cho ngon ăn ngon, ai cho dở ăn dở, chẳng đòi hỏi gì cả, đó là cái hạnh của một người tu sĩ, cái hạnh buông xả cái ăn, cái hạnh buông xả cái cuộc đời đầy đau khổ chính vì cái ăn như bài kệ đã đọc ở trên. Người tu sĩ Phật giáo chỉ một lòng quyết tâm ra khỏi nhà sanh tử mới là vui mừng, mới thoát khỏi nạn làm người đau khổ của kiếp người.

Bởi vậy, chúng ta nên thừa tự các pháp của Phật, theo các pháp của Phật đã dạy, sống cho đúng các hạnh, trau dồi thân tâm mình cho đúng các pháp mà Phật đã từng nhắc đi nhắc lại chúng ta nhiều lần, nhờ đó chúng ta mới thoát ra khỏi cái cảnh khổ của cuộc đời đầy ô trược, đầy đau khổ.

Bởi vậy, hiện giờ chúng ta đang trau dồi pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh, một pháp môn đầu tiên trong 37 phẩm trợ đạo. Pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh là một pháp môn gây tạo cho chúng ta một niềm tin sâu sắc đối với Phật, Pháp, Tăng và Giới. Nếu chúng ta không thực hiện Tứ Bất Hoại Tịnh thì khó mà chúng ta có niềm tin sâu ở Phật Pháp.

3- BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY TÔN GIẢ RATTHAPÀLA

(48:10) Mà hiện chúng ta trau dồi cái Tứ Bất Hoại Tịnh là chúng ta phải chọn cái thực tế của cái sự tu tập trong cái cuộc đời của chúng ta. Không khéo rồi chúng ta không chọn kỹ thì chúng ta nghĩ rằng mình sẽ tìm lấy một cái sự giải thoát nào ngoài cái vấn đề vô thường, khổ và vô ngã của cuộc đời mình thì nó không đúng cách.

Cho nên ở đây chúng ta nên nghe lại cái câu chuyện của nhà vua và Tôn giả Ratthapàla để chúng ta chọn lấy cho mình con đường tu tập đúng đắn mà đem hết cuộc đời của mình vào con đường này để quyết tâm giải thoát, làm chủ sự sanh tử luân hồi.

Như các vị Thánh Tăng trong thời Đức Phật ngày xưa họ cũng đều là những người biết chọn con đường đúng, không thể nào mà con đường sai được. Và chúng ta hôm nay cũng vậy, chúng ta nghe lại câu chuyện này để chúng ta thấy những người xưa họ chọn như thế nào mà họ đi vào trong con đường của đạo Phật.

Nhà vua Koravya đến gặp Tôn giả Ratthapàla:

- Thưa Tôn giả, Tôn giả đã biết gì, đã thấy gì, hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không nhà cửa?

Nghĩa là bỏ sạch hết mà sống còn ba y một bát như vậy là phải hiểu gì, nghe gì mới bỏ được như vậy, chứ nếu mà không nghe, không hiểu được gì mà bỏ như vậy thì cuộc đời của Tôn giả, cuộc đời quá vất vả quá khổ sở như vậy mà để tìm theo con đường tu hành đó nó đem sự ích lợi gì, mà bây giờ thấy cái thân của Tôn giả hoàn toàn là không có gia đình, không có cha mẹ anh em gì hết, mà không có của cải tài sản gì hết, không có nhà cửa gì hết, còn có một thân một mình trơ trọi như vậy, tại sao mà lại vứt bỏ được như vậy là phải thấy, phải hiểu cái gì?

Đó cho nên nhà vua muốn hỏi Tôn giả Ratthapàla như vậy.

- Thưa đại vương, có bốn sự thuyết giáo Chánh pháp, được Thế Tôn giảng dạy. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy mà tôi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không nhà cửa. Thế nào là bốn?

Bây giờ đó thì ông nói ông được nghe Đức Phật thuyết cho ông bốn cái điều kiện, mà do hiểu biết được bốn cái điều kiện này cho nên ông về ông bỏ nhà bỏ cửa, bỏ cha bỏ mẹ, bỏ tất cả những cái vật, tài sản, vật lớn vật nhỏ gì, bỏ cả nghề nghiệp, bỏ hết, sống không có nhà cửa, còn có ba y một bát, một thân trơ trọi của mình.

Bốn cái điều kiện đó ông được nghe cho nên ông mới dứt bỏ. Vậy thì bốn cái điều kiện đó như thế nào?

1. Thế giới là vô thường, đi đến hoại diệt.

Đó là cái thứ nhất, Đức Phật đã thuyết giảng cho ông biết rằng các pháp ở trong thế gian này, cái thế giới này, nó có nhưng mà nó là vô thường, nó thay đổi từng phút từng giây ở trong đó, và nó đi đến cái chỗ hoại diệt, cái chỗ mất mát, cái chỗ không còn có thường hằng nữa.

(51:16) Đó thì, cái thứ nhất thì Đức Phật chỉ cho chúng ta biết vạn pháp - cả cái thế giới của chúng ta đang có hiện hữu đều là vô thường, nay như vầy, mai nó thay đổi, nó không có vĩnh viễn. Vì vậy hôm nay chúng ta có thân này, ngày mai nó sẽ già, sẽ yếu, rồi sẽ hoại diệt đi, sẽ mất đi. Do đó, cái thứ nhất làm cho tôi phải cảnh giác, tôi phải thấy rằng cái thế giới này nó không có trường tồn được, cho nên tôi mới bỏ tôi đi.

Cái thứ hai:

2. Thế giới là vô hộ, vô chủ.

Nghĩa là tất cả những vạn pháp ở trong thế gian này nó không có bảo vệ được mình mà mình cũng không giữ được nó, cho nên nó vô hộ, vô chủ: Mình không có giữ được và nó cũng không có chủ, vì vậy mà mình cũng không bảo vệ được nó mà nó cũng không bảo vệ được mình. Cho nên cái thế giới, các cái pháp ở trong thế gian này coi như là vô hộ, vô chủ.

3. Thế giới là vô sở hữu.

Cái thế gian này không có cái vật gì mà thuộc về sở hữu của mình được hết. Thậm chí như cái thân và cái tâm của mình, ngay bây giờ mình có cái thân này nó cũng không phải là vật sở hữu của mình được, nó muốn chết hồi nào nó chết, muốn sống hồi nào nó sống, nó muốn đau là nó đau, muốn bệnh là bệnh chớ mình cũng không làm sao mà làm chủ nó được hết, cho nên nó không phải là vật của mình.

Do vì vậy đó, khi mà hiểu biết được như vậy, cho nên tôi mới bỏ tất cả hết, thậm chí như cái thân này tôi cũng bỏ luôn, tôi không còn tiếc, cho nên vì vậy mà tôi sống ba y một bát mà tôi thấy thản nhiên mà không có gì hết, không có tiếc nữa. Đó.

Thứ tư:

4. Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái.

Cái thế gian này, các pháp luôn luôn nó thiếu thốn, nó không có bao giờ mà nó đủ, mà nó luôn luôn nó có sự khao khát, luôn luôn nó nô lệ cho cái tham ái, cho tất cả mọi vật, mọi pháp. Mọi vật, mọi cái đều là nó nô lệ cho cái sự ham muốn của mình chứ nó không có cái gì mà làm cho chúng ta thấy thích thú, an vui được ở trong đó.

Bây giờ đó, Ngài mới giải thích cho nhà vua nghe cái thứ nhất như thế nào mà gọi là vô thường, đi đến hoại diệt.

- Thế nào là vô thường đi đến hoại diệt?

Đó thì bắt đầu Ngài đặt ra câu hỏi để rồi chỉ cho nhà vua thấy cái sự vô thường đi đến hoại diệt:

- Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ như thế nào? Khi ngài còn 20 tuổi đến 25 tuổi, sức khỏe ngài rất mạnh, ngài giỏi về cung tên, kiếm, đao, côn, quyền, có khả năng thiện nghệ trong nghề đánh giặc?

Thì nhà vua nói: “Đúng vậy, lúc ta mà còn trẻ, 20, 25 tuổi thì ta rất là mạnh khỏe, không có thiếu sức khỏe đâu.” Cho nên nhà vua chấp nhận liền: “Đúng vậy.”

(54:10) Rồi Tôn giả lại hỏi tiếp:

- Còn bây giờ đại vương già yếu rồi, sức khỏe kém dần, hiện giờ là 80 tuổi, đã gần mệnh chung rồi.

- Đúng vậy.

Nhà vua cũng xác nhận đúng vậy, bây giờ già yếu rồi, không có còn như hồi trai trẻ nữa.

Như vậy thì quý thầy thấy như thế nào? Có phải là đúng không? Lúc chúng ta còn thanh niên, chúng ta còn trẻ, sức khỏe chúng ta còn nhiều, chúng ta làm chúng ta thấy không có biết mỏi mệt, còn bây giờ làm một chút xíu là chúng ta thấy mỏi mệt, cơ thể nghe nó không có khỏe được.

Thí dụ như Thầy bây giờ đó, cơ thể của mình nó cũng lần lượt nó suy yếu, không phải như ngày còn khỏe, như cách đây 17, 18 năm nó còn khỏe mạnh, còn bây giờ càng ngày càng thấy nó suy yếu dần, nói ra, giảng ra một chút là đã thấy mệt nhọc ở trong cơ thể rất nhiều. Ráng chớ còn không khéo thì chúng ta cũng không thể nào mà giảng nổi toàn bộ cái giáo án này.

Cho nên ở đây thì quý thầy thấy rằng cái sức khỏe nó theo dần với cái thời gian năm tháng, mà nó vô thường, nó không có giữ mãi cái sức khỏe đó nơi thân của chúng ta nữa.

Biết như vậy thì chúng ta biết rằng cái thế gian này là vô thường rồi, và sắp sửa cái cơ thể chúng ta đi đến cái chỗ hoại diệt rồi, chắc chắn Thầy cũng một ngày nào đó cũng trở về với lòng đất, đất thì trả cho đất, nước trả cho nước, lửa trả cho lửa, gió trả cho gió, không còn mang cái thân này của mình nữa.

Biết như vậy thì chúng ta như thế nào? Do hiểu biết như vậy thì chúng ta bỏ hết mà chúng ta không còn tiếc. Còn nếu chúng ta không biết như vậy, thì chúng ta chưa hiểu như vậy, chúng ta tiếc.

Nhưng mà tiếc chúng ta có giữ được không? Chắc chắn là quý thầy xét lại cái thân của quý thầy coi, nhìn lại với những thầy trẻ tuổi, rồi những thầy lớn tuổi, rồi những người già yếu bây giờ là cỡ 50, 60 thì quý thầy thấy có còn sức khỏe như lúc mà còn trẻ như quý thầy trẻ không? Chắc chắn là quý thầy phải có sự suy ngẫm đó.

Và có sự suy ngẫm đó thì chúng ta thấy cái thế giới như thế nào? Có phải là vô thường không? Và đi đến hoại diệt không?

Chúng ta đã thấy biết bao nhiêu người đã đi đến hoại diệt, đã chết, đã mạng chung, đã không còn giữ được cái thân này thường hằng, không còn giữ nó nữa. Và khi chết rồi chúng ta biết họ đi về đâu không? Chắc chắn mờ mịt, chẳng biết ai đi về đâu hết, mất tiêu luôn.

Đó là cái thế giới vô thường, đi đến hoại diệt. Đó thì như vậy có đúng không? Nhà vua xác nhận: “Rất đúng.”

- Thế nào là vô hộ, vô chủ? Như thế nào?

Đây là tới câu hỏi thứ hai để chúng ta suy ngẫm lại cuộc đời chúng ta mà chúng ta buông xuống, mà chúng ta tìm thấy con đường giải thoát cho thoát ra khỏi cái thế giới vô thường, hoại diệt này.

(57:06) Cái thế giới vô hộ, vô chủ này như thế nào?

- Thưa Đại vương, khi Đại vương thọ một chứng bệnh đau thống khổ, lúc bấy giờ thân hữu quen biết, dù là bà con huyết thống của Đại vương có đứng xung quanh đều lấy mắt ngó, hay là họ chịu đau thế cho Đại vương?

Đó, như vậy là chúng ta thấy nói nó vô hộ, vô chủ có đúng không?

Bây giờ mình đâu có bảo hộ được nó, cho nên làm sao? Thí dụ như thân mình đau bệnh nè, có người nào mà đau thế mình được không? Không, chỉ lấy con mắt ngó thôi.

Vô chủ nghĩa là bây giờ nó đau mình cũng không làm sao được hết, mình biểu…​ Nó đâu có chủ. Cho nên vì vậy mà cái thế giới này nó vô hộ, vô chủ thật sự, nó không làm sao mà có thể - người khác mà có thể bảo hộ mình, hay hoặc là làm chủ được nó, bảo nó, nó nghe lời, nó không đau không đớn nữa. Cái này hoàn toàn là đau là chịu đau chớ không thể nào làm sao được.

- Làm sao chịu đau thế được!

Nhà vua trả lời.

- Làm sao chịu đau thế được! Do đó thế giới là vô hộ, vô chủ.

Không chịu đau thế cho người khác tức là cái thế giới của chúng ta là vô hộ, vô chủ. Vì thế, tôi đã hiểu được như vậy, tôi được nghe Phật thuyết như vậy, cho nên tôi bỏ cuộc đời.

Mặc dù là cuộc đời của tui sống con một mà tui vẫn bỏ của cải, tài sản của ông bà của cha mẹ, của tui, bỏ tất cả hết, tui không còn tiếc, là vì tui đã hiểu nó vô hộ, vô chủ. Dù có đống vàng đó nó cũng không chịu đau cho tôi được, dù có vợ có con, có cha có mẹ cũng không đau thế cho tôi được, thậm chí như tôi chết cũng không ai chết thế cho tôi được, cho nên gọi là vô hộ, vô chủ.

Câu thứ ba:

- Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả…​

Đó câu thứ ba.

…​nghĩa là như thế nào?

- Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Đối với năm món dục lạc thế gian này chỉ có một mình Đại vương hưởng thụ đầy đủ, còn những người khác không được hưởng thụ như Đại vương. Khi Đại vương chết đi theo nghiệp thì của cải tài sản của Đại vương người khác sẽ thọ hưởng. Đó là thế gian vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả.

Đó. Bây giờ chúng ta có làm tiền bạc, của cải cho lắm đi nữa, chết rồi chúng ta có mang theo được cái nào không, mà nói gọi là của cải chúng ta được? Cho nên nó vô sở hữu.

Nếu mà sở hữu thì chúng ta phải mang theo, chúng ta phải sử dụng, chúng ta phải xài nó được chớ, đằng này chết rồi chúng ta bỏ sạch, không có lấy được một cái gì đem theo xài hết. Cả thậm chí như vợ con cũng không mang theo được nữa.

Cho nên ngày xưa có những vua chúa họ chết đi, họ bắt vợ họ phải chết theo họ. Nhưng mà chết theo họ để làm gì? Có nghĩa lý gì đâu! Họ tưởng rằng chết theo họ để hầu hạ họ bằng cách này bằng cách khác, để cho vợ họ không có lấy ông này lấy ông khác, chỉ có mình ổng mà thôi. Nhưng khi giết bà vợ chết rồi thì cũng như ổng, cũng là đất phải hoàn đất, nước phải hoàn với nước, lửa phải hoàn với lửa, gió phải hoàn với gió, đâu còn có cái gì nữa gọi là sở hữu của mình đâu?

Thế mà người ta lầm tưởng làm những cái việc đó là mang theo cái sở hữu của mình. Chôn theo vàng bạc, thậm chí như hiện giờ người ta quật những cái mồ của các vị quan, của vua chúa lên, người ta thấy vàng bạc châu báu ở trong đó, chưa có mất một cái chút nào hết. Như vậy là chôn theo mà có xài được không? Đâu có xài được, đâu có tiêu được! Do đó chỉ chẳng qua là tiếc mà chôn theo vô ích, không có gì hết.

(01:00:41) Cho nên ở đây chúng ta thấy rằng vô sở hữu, thế giới này là vô sở hữu. Vì vậy hiểu được như vậy thì chúng ta còn có ham cái thế giới này không, còn có ham tiền bạc không, còn có ham chùa cao tháp lớn không, còn có ham tất cả những cái gì mà sang đẹp ở thế gian này không?

Không, chúng ta thấy nó vô sở hữu quá. Cho nên chúng ta bỏ hết đi, bỏ hết đi mà tìm lấy con đường chấm dứt sanh tử luân hồi. Vợ con, tất cả mọi người không phải sở hữu của chúng ta đâu mà là nhân quả vay trả chớ không có gì khác hơn hết.

Đó, chúng ta đã hiểu được như vậy thì chúng ta phải cố gắng mà nỗ lực lìa xa cái thế gian này, cái thế giới này, nỗ lực cho tận cùng để chúng ta đạt được cái mức giải thoát hoàn toàn.

Đó. Tới bây giờ cái câu thứ tư:

- Thế nào là thế giới thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái?

- Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Bây giờ trong nước Đại vương rất phồn thịnh, nhưng Đại vương vẫn muốn cai trị tất cả các nước lân bang khác, bắt họ phải phục tùng mình. Chính vì vậy thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái. Và tôi sau khi biết, sau khi thấy, sau khi nghe những lời dạy này, tôi đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Thử hỏi quý thầy thấy cái chỗ thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái đúng không? Chúng ta bây giờ chúng ta làm có tiền nhiều nhưng mà chúng ta có thấy đủ không? Làm nữa, làm nữa, chất đống nữa, rồi chúng ta trở thành những nhà độc tài nhất thế giới mà chúng ta vẫn còn thấy thiếu, chưa phải là thấy đủ đâu. Cho nên ở đây rõ ràng là chúng ta nô lệ cho tham ái rồi, không có bao giờ dứt.

Người ta nói cái tâm của thiên hạ là cái túi không đáy, có 1 đồng chúng ta muốn 2 đồng, có 2 đồng chúng ta muốn 10 đồng, có 10 đồng chúng ta muốn 100 đồng, cứ muốn chồng lên, chồng lên chớ không bao giờ muốn…​ Hôm nay chúng ta có được cái nhà tranh thì chúng ta muốn nhà ngói, có nhà ngói thì chúng ta muốn cái nhà tường, muốn nhà tường thì chúng ta muốn nhà lầu, cứ thế mà chúng ta tăng mãi.

Hôm nay chúng ta có cái xe đạp thì chúng ta lại muốn cái xe gắn máy, có xe gắn máy rồi chúng ta lại muốn cái khác hơn nữa, rồi cho đến xe hơi, thậm chí như trực thăng, máy bay gì chúng ta cũng muốn hết.

(01:03:06) Cái lòng của con người ta thiếu thốn, nó không bao giờ mà nó đầy đủ, nó khao khát cho nên nó luôn luôn nô lệ cho tham ái, đúng vậy. Mà cứ chạy theo cái sự thiếu thốn, khao khát đó và nô lệ cho tham ái đó thì thử hỏi cuộc đời của quý vị có khổ không? Khổ vô cùng khổ.

Thế rồi chúng ta nên bỏ đi. Hiểu được như vậy, cái người mà gan dạ, mà hiểu được như vậy, bỏ đi, thì có phải là Tôn giả Ratthapàla không? Ông ta đã hiểu rõ cho nên từng đó ông từ bỏ.

Như hôm trước chúng ta đã nghe đó, khi mà ổng tu hành ổng về thăm nhà, rồi gia đình ổng, cha mẹ ổng mới đem một đống vàng đổ ra giữa nhà, bảo ổng đây là của cải của ổng, ổng không về ổng sống mà ổng hưởng thụ và ổng đem cái của cải này đi làm phước, làm từ thiện đi còn tốt hơn là đi tu, và đồng thời đem những cái bà vợ trang sức cho đẹp, để cuối cùng thì ông chẳng có chấp nhận cái điều gì hết.

Ổng biểu ông già của ổng đó, nên chất ba cái vàng bạc này đem xuống sông Hằng mà đổ đi. Đó, biểu đem đổ đi. Thì quý thầy thấy như thế nào? Đó là ông thấy vàng bạc là cái đau khổ.

Rồi vợ con của ổng thì hoàn toàn ổng thấy như là người xa lạ, làm như không có thân tình gì đối với ổng nữa hết. Từ trước kia thì đó là vợ ổng, nhưng bây giờ ổng xem như là những người xung quanh ổng, không có cái nghĩa lý gì đối với ổng nữa hết.

Cho nên cuối cùng thì ổng nói với cha ổng: Thôi, hãy bố thí cho ổng thực phẩm đi, ổng ăn rồi ổng đi, đừng có làm phiền ổng nữa! Do đó sau khi ổng thọ thực xong rồi, ổng ôm bình bát ổng đi mà không nhận một chút vàng, một chút bạc, một chút cái gì hết, tất cả những tình cảm của gia đình đối với ổng, ổng đều phủi sạch xuống hết, không có gì mà trói buộc ổng được.

Đó như vậy, người ta tu hành như vậy. Cho đến khi mà nhà vua đến gặp ông thì ông lại giải thích do cái chỗ mà ông hiểu bốn cái điều kiện này: Thế giới là vô thường, là hoại diệt; Thế giới là vô sở hữu; Thế giới là vô hộ, vô chủ; Thế giới là khao khát, thiếu thốn, nô lệ cho tham ái, cho nên ông hiểu được, vì vậy mà khi Đức Phật thuyết giảng đến đây thì ông hoàn toàn ông xa lìa cái thế giới này, xa lìa cái cuộc sống của thế gian rồi, ông dẹp qua hết.

Còn chúng ta nghe rồi chúng ta có xa lìa được không, hay là còn thương, còn nhớ, còn tiếc, còn của, còn nhà, còn cửa, còn này kia? Để rồi sẽ xem quý thầy có thấy dứt bỏ được không, có thấy nó là đúng sự thật không?

Ở đây bốn cái điều kiện này chúng ta thấy sự thật đau lòng. Con người sanh ra để rồi chúng ta sống ở trong bốn cái điều kiện này, lầm tưởng nó là thật sự, nhưng không ngờ nó là sự đau khổ vô cùng cho kiếp người.

Mà cái tâm tham vọng của chúng ta, cái tâm tham ái của chúng ta không bao giờ dứt, thiếu thốn và khao khát mãi mãi, biến chúng ta trở thành những con người nô lệ cho vật chất, cho tiền bạc, cho của cải, cho tài sản.

Tôn giả Ratthapàla giảng xong cho nhà vua và đọc kệ rồi Ngài trở về tịnh xá.

Ở đây Thầy không có đọc những cái bài kệ, nhưng mà Ngài có đọc cái bài kệ cho nhà vua nghe, nhưng chúng ta không có cái thì giờ để mà đọc những cái bài kệ.

Những cái bài kệ thấm thía lắm, nhưng mà Thầy thấy rằng hôm nay chúng ta còn thời gian quá ngắn, nếu mà giảng những cái bài kệ này thì nó đòi hỏi cái thời gian quá nhiều. Vì vậy mà chúng ta lướt qua để chúng ta hiểu đại khái, tìm lấy một con đường chân thật để chúng ta đi vào sự tu hành giải thoát mà thôi.

Hiểu để tu, nghe nhiều nhiều khi làm động tâm. Hiểu nhiều trở thành sở tri chướng, làm cho tâm ta khó tu. Hễ chúng ta biết được cái gì thì chúng ta nỗ lực tu cái đó để chúng ta được giải thoát khỏi bốn cái điều kiện của thế giới này.

4- TÓM LƯỢC TỨ BẤT HOẠI TỊNH

4.1- TAM QUY LÀ TÍN CĂN, TỨ BẤT HOẠI TỊNH LÀ TÍN LỰC

(01:06:56) Bây giờ chúng ta tiếp tục học.

Khi học giới bổn xong, quý thầy đã biết ba cái giới đầu tiên là Tam Quy Phật - Pháp - Tăng. Đây là ba cái giới gốc, do ba nơi giới gốc này mà sinh ra năm giới, hay là năm pháp, hay nói cho đúng là sinh ra muôn giới. Vậy chúng ta đã thọ Tam Quy, đã thọ ba giới này, chúng ta phải tu tập như thế nào?

Đạo Phật có vạch cho chúng ta tám nẻo giải thoát.

Nghĩa là trong cái Tứ Diệu Đế đó, thì cái Đạo Đế Đức Phật có dạy cho chúng ta tám cái nẻo để chúng ta tu hành đến giải thoát. Thì tám cái nẻo đó gọi là gì?

Tám nẻo đó gọi là Bát Chánh Đạo:

1. Chánh Kiến

2. Chánh Tư Duy

3. Chánh Ngữ

4. Chánh Nghiệp

5. Chánh Mạng

6. Chánh Tinh Tấn

7. Chánh Niệm

8. Chánh Định.

Vậy bây giờ quý thầy hãy tu nẻo thứ nhất là Chánh Kiến với ba giới đầu tiên, đó là

1. Phật

2. Pháp

3. Tăng.

Đó, mình phải tu ba cái giới này đầu tiên.

Vậy lấy pháp gì tu với ba giới này? Vậy quý thầy lấy giới hành Tứ Bất Hoại Tịnh, còn gọi là Tứ Kỉnh Pháp, còn gọi là Tứ Tín Lực.

Chúng ta lấy cái Tứ Bất Hoại Tịnh mà chúng ta tu hành với ba cái giới này. Bởi vì thuộc về giới hành, thì mình lấy giới, mà mình phải lấy pháp mình hành nó thì nó sẽ đem đến cái sự giải thoát cho thân tâm của mình ngay liền. Đó vì vậy chúng ta gọi là giới hành, vì biết nó giới hành thì chúng ta sẽ tu tập.

Như vậy là chúng ta sẽ thấy trong cái bước đầu mà chúng ta tu tập đó thì chúng ta thấy rõ ràng Tứ Bất Hoại Tịnh còn có một cái tên là Tứ Kỉnh Pháp, còn có cái tên là Tín Lực. Như vậy là Tứ Bất Hoại Tịnh này chúng ta còn thấy nó có những cái tên là Tứ Kỉnh Pháp, Tứ Tín Lực.

Vậy thì Ngũ Căn, Ngũ Lực như thế nào mà ở đây nó còn gọi là Tín Lực? Tín Lực là cái niềm tin đầu tiên. Chúng ta tin gì đây? Tin Phật, Pháp, Tăng. Vậy thì Tín Căn là ở chỗ nào? Phật, Pháp, Tăng là cái nơi mà chúng ta tạo một cái lòng tin của chúng ta, tạo cái căn để mà chúng ta tin nơi đó.

(01:09:34) Cho nên Phật, Pháp, Tăng là Tín Căn, mà Tứ Bất Hoại Tịnh là Tín Lực - cái lòng tin của chúng ta nơi cái căn gốc đó làm cho chúng ta bất hoại, không có hoại diệt cái thân tâm thanh tịnh của chúng ta, cho nên gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh - bốn cái pháp làm cho thân tâm chúng ta không hoại cái sự thanh tịnh.

Hiểu được như vậy thì bắt đầu chúng ta mới có thể tu tập, mới có thể tốt được.

Phật - Pháp - Tăng là Tam Quy, là ba giới đầu tiên trong đạo Phật, là ba cái căn lành, ba cái nơi làm cho chúng ta tin tưởng của tất cả tu sĩ sau này.

Nghĩa là ba cái nơi đó mà cái người nào dựa vào ba cái Tín Căn này mà tu tập thì sẽ làm cho cái vị tu sĩ đầy đủ, trọn vẹn cái niềm tin. Bởi vì mình tin ai hơn tin Phật, tin ai hơn tin Pháp, tin ai hơn là tin Tăng?

Tại sao vậy? Tại vì Phật là một cái người đã thể hiện sự giải thoát, đã ra được khỏi được sanh tử luân hồi, đã chấm dứt được sanh tử luân hồi. Còn Pháp là những lời mà Phật đã dạy làm cho người ta nương vào, tùy theo cái Pháp đó mà người ta sống người ta được giải thoát, người ta ra khỏi sanh tử luân hồi, người ta làm chủ được sống chết.

Còn Tăng là những người mà theo Phật, đã nương vào Phật và nương vào Pháp mà thành tựu những oai nghi tế hạnh, và có những cái kinh nghiệm tu tập, cho nên chúng ta thấy rất rõ ràng, vì vậy mà cái niềm tin của chúng ta đặt nơi đó, cho nên chúng ta không bị hoại diệt cái lòng thanh tịnh của chúng ta.

Nơi đó là cái nơi mà lòng chúng ta tin tưởng, và cái nơi đó là ba cái căn làm chúng ta tin, vì vậy mà gọi là Tín Căn. Mà tất cả tu sĩ đạo Phật đều phải nương theo đây mà tu tập thì mới có đủ cái Tín Căn, mới có đủ cái Tín Lực mà thực hiện con đường của đạo Phật sau này.

Cho nên nói về Ngũ Căn, Ngũ Lực thì chúng ta thấy rằng Ngũ Căn thì Tín Căn là đầu tiên, rồi nói về Ngũ Lực thì Tín Lực là đầu tiên. Mà đầu tiên thì nó ở đâu? Nó ở chỗ Phật, Pháp, Tăng chớ không phải ở chỗ khác được, vì chỗ khác thì nó không thể nào có cái lòng tin mà cũng không có cái lực tin được.

4.2- NIỆM PHẬT BẰNG DANH HIỆU SUÔNG KHÔNG ĐEM LẠI GIẢI THOÁT

(01:12:12) Người cư sĩ sau khi thọ xong Tam Quy cũng như người xuất gia thì vị thầy dạy họ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Bắt đầu mới vô thì dạy người ta niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Khi mà thọ Tam Quy rồi, tức là chúng ta biết Phật, Pháp, Tăng rồi, thì bắt đầu bây giờ hàng ngày chúng ta phải niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Thường là các bậc thầy dạy họ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng bằng miệng, bằng ý, bằng danh hiệu suông.

Cho nên họ dạy như thế nào: “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”, hoặc là “Nam Mô A Di Đà Phật”, đó là họ dạy bằng miệng, bằng ý niệm v.v…​

Hay hoặc là người ta dạy trong một cái câu để niệm cái câu đó, thí dụ như “Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn”, người ta dạy mình niệm cái câu đó gọi là mình niệm Phật, thì như vậy nó không có nghĩa đâu. Nó không có cái nghĩa mà nó cũng không có giải thoát đâu.

Cho nên hầu hết là người ta niệm “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”, nhiều người niệm mà cho đến giờ này tham, sân, si, phiền não họ vẫn còn. Họ niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, họ ăn chay nhưng mà họ vẫn còn ham muốn cái này cái kia, cái nọ chứ chưa phải họ dứt bỏ hết, cho nên họ còn đau khổ, họ còn làm nô lệ cho những vật chất, những tham ái của họ chớ chưa phải hết.

Còn chúng ta niệm Phật như thế nào để mà chúng ta hết tham ái, để mà chúng ta diệt trừ cái thế gian vô thường, hoại diệt này? Đó là chúng ta phải niệm cho đúng cách. Nếu mà chúng ta không niệm đúng cách thì chắc chắn niệm theo cái kiểu mà họ dạy niệm như vậy thì ngàn đời chúng ta cũng chẳng được giải thoát đâu, chẳng được ra khỏi, giải thoát đâu.

Mà đạo Phật nói khi mà chúng ta bắt đầu tu là phải có kết quả ngay liền, không phải còn có thời gian chờ đợi, thế mà chúng ta niệm Phật nay từ 5 năm, 10 năm rồi mà nhìn lại thì chúng ta có giải thoát hoàn toàn không?

Không! Chúng ta lại còn trang trí thêm, làm vẻ đẹp thêm, phạm thêm giới. Ông thầy nào, vị Hòa thượng nào cũng đeo cả xâu chuỗi ở trên ngực, ở trên cổ, làm quá là các cô gái về nhà chồng đeo chuỗi hột, chuỗi hạt, chuỗi ngọc à!

Những cái điều kiện đó chúng ta thấy, xem quý ông thầy quá sang, quá đẹp, trang điểm quá đẹp, nhưng mà cuối cùng tưởng là những xâu chuỗi đó niệm Phật để đưa ổng đến giải thoát, ai ngờ đâu là ổng phá giới, làm cho mình trở thành những cái con người trang điểm đẹp đẽ mà sai đi giới luật của Phật.

Phật cấm không cho chúng ta đeo vòng hoa, đeo chuỗi hạt, thế mà quý thầy bây giờ đeo vòng hoa, chuỗi hạt. Đi đến những cái nơi nào đó đông người, có làm lễ gì thì hầu hết là các bậc lớn đều là có chuỗi hạt đeo cổ, rồi có chuỗi hạt ở trên tay, tay có chuỗi hạt nhỏ, cổ có chuỗi hạt dài, mỗi chuỗi hạt đều là chọn lấy những cái hạt rất bóng, rất đẹp chớ không phải là thứ tầm thường.

Mỗi chuỗi hạt đều là có một cái giá trị của tiền bạc rất lớn, những ông thầy nào sang thì những chuỗi hạt đó đều là có cái số tiền rất là vĩ đại chớ không thường. Thậm chí từ cái chuỗi hạt của họ có thể họ tìm những cái hạt trân châu, những cái hạt ngọc họ có thể làm những cái chuỗi hạt đó.

(01:15:35) Đó là cái trang trí cho một cái vị tu sĩ không đúng cách mà bằng phương pháp niệm Phật, thấy họ thường hay lần chuỗi để niệm từng câu Phật nhưng cuối cùng thì chẳng phải là đúng theo con đường của Phật dạy.

Vì Phật dạy đâu có lấy miệng, lấy ý mà niệm. Mà Phật dạy như thế nào? Phật dạy chúng ta lấy bốn chỗ niệm: Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm. Vì thế người ta lại lấy cái câu niệm Phật…​

Còn niệm Pháp - thí dụ bây giờ đó, đối với cái người tu đúng thì người ta lấy Tứ Niệm Xứ - bốn cái chỗ mà Phật đã dạy để mà niệm, thì người ta lại không lấy bốn cái chỗ đó mà niệm, mà người ta lấy miệng và ý người ta niệm.

Cho nên vì vậy đó, như Phật thì người ta niệm được cái hồng danh của Phật: “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”. Nhưng mà đến Pháp thì họ niệm làm sao? Pháp đâu có cái tên gì dài dòng đâu, cho nên họ nói niệm Pháp. Rồi niệm Tăng thì họ đâu có làm sao họ niệm gì đâu, không lẽ họ niệm “Nam Mô Mục Kiền Liên” hay hoặc là “Nam Mô Xá Lợi Phất” sao? Thành ra họ phải niệm “Nam Mô Tăng”. Vì vậy mà có nhiều chỗ thì dạy: “Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng”.

Cho nên hầu hết bây giờ chúng ta gặp nhau: “Mô Phật”. Đó là chúng ta chào hỏi nhau bằng cái câu đó, để coi như là chúng ta niệm Phật đó. Niệm như vậy có nghĩa gì? Niệm như vậy chẳng qua là đầu môi xã giao nhau chào hỏi chứ đâu có ích lợi gì cho sự giải thoát cho chính mình!

Họ chẳng biết làm sao niệm, thường họ niệm như thế này: “Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng”, rồi họ học giới thì họ “Nam Mô Giới” chớ họ chẳng biết gì khác hơn hết. Bởi vậy họ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới như vậy thì chúng ta thử nghĩ coi, họ niệm như vậy cả năm, cả đời hay hoặc là suốt đời họ thì họ có thấy sự giải thoát chưa? Chưa.

Niệm Phật mà niệm cái miệng như vậy làm sao có giải thoát được, mà niệm Pháp như vậy làm sao có giải thoát được, niệm Tăng như vậy làm sao có giải thoát được. Họ niệm cái danh từ chớ không phải là niệm là cái hành động sống của họ hằng ngày ở trên Phật, Pháp, Tăng, cho nên cái niệm này là cái niệm sai, không đúng.

Thật là buồn cười, họ không biết pháp hành nên niệm Phật kiểu niệm điên, niệm khùng, chẳng bao giờ có được giải thoát.

Họ niệm kiểu đó là họ niệm điên niệm khùng, họ chẳng hiểu pháp hành, cho nên họ niệm tầm bậy tầm bạ, nó không có giải thoát được cho họ mà chỉ là hình tướng của họ niệm Phật mà thôi, chớ không có giải thoát được thân tâm của họ. Họ không ra được bốn cái điều kiện mà đã được nêu lên ở trên: Thế giới là vô thường, là hoại diệt…​ họ không có ra khỏi đâu. Đó.

4.3- NIỆM PHẬT LÀ SỐNG ĐÚNG NHƯ PHẬT

(01:18:30) Trong kinh sách Phật dạy có bốn chỗ niệm, gọi là Tứ Niệm Xứ. Bốn chỗ niệm đó là gì?

1. Thân

2. Thọ

3. Tâm

4. Pháp.

Vậy thân niệm Phật là niệm làm sao?

Nói cái thân mình niệm Phật thì mình niệm làm sao đây? Đó là cái mà người ta đặt câu hỏi để người ta thấy được cái chỗ - lấy cái thân mà niệm Phật thì phải niệm như thế nào cho nó được. Bởi vì Phật dạy thân, thọ, tâm, pháp - lấy bốn cái chỗ này mà để niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng hoặc là niệm Giới, thế rồi chúng ta phải làm sao đây? Niệm như thế nào?

Chúng ta đã thọ Tam Quy tức là nương tựa Phật, Pháp, Tăng rồi. Vậy nương tựa Phật, Pháp, Tăng là nương tựa như thế nào?

Chữ “nương tựa” ở đây không có nghĩa là nhờ vả mà phải hiểu là sống đúng như Phật đã sống.

Đó, mình không có nhờ vả, bởi vì chữ “nhờ vả” đó - mình nương tựa vào người khác, mình nhờ vả người ta, mình làm biếng, mình không làm, người ta có gì người ta cho mình ăn hay hoặc là người ta giúp đỡ mình, mình ở không mình ăn, thì cái đó gọi là nhờ vả.

Còn ở đây chữ “nương tựa” không có nghĩa là nhờ vả, mà nương tựa có nghĩa là mình sống đúng như Phật sống, sống đúng như các Pháp dạy, sống đúng như chư Tăng đã sống, thì đó gọi là nương tựa - chữ “nương tựa”. Mà chữ “nương tựa” ở đây là quy y, mà quy y là trở về nương tựa, mà nương tựa tức là sống đúng với những người đó họ đã sống.

Đó thì như vậy là chúng ta đã thấy, đã hiểu được cái chỗ thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta phải nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng để mà sống.

Vậy thì nương tựa như thế nào để mà sống? Vậy thì thân niệm Phật:

Thân niệm Phật là thân phải sống giống như Phật, sống giống như thân Phật.

Nghĩa là thân của chúng ta niệm Phật thì thân Phật sống như thế nào thân ta phải sống như thế nấy, gọi là thân niệm Phật, chớ không phải cái thân nó niệm Phật là nó đọc cái danh từ suông là “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” đâu! Cho nên cái thân ông Phật sống như thế nào thì cái thân của chúng ta niệm Phật thì cái thân chúng ta phải sống như vậy.

Vậy thân Phật sống như thế nào?

1. Thân Phật thường hay phòng hộ sáu căn.

Phật đi ra Phật có nhìn bên nây nhìn bên kia không? Phật có ngó láo liên không? Phật đi Phật nhìn xuống đất, Phật giữ gìn sáu căn của mình, không ngó qua ngó lại. Cho nên vì vậy mà thân chúng ta niệm Phật thì phải bắt chước, phải sống như vậy, cũng ngó xuống, phòng hộ sáu căn.

Phật đi không ngó qua ngó lại, chỉ nhìn xuống đất quan sát từng bước đi của mình để tránh vô tình làm đau khổ chúng sanh dưới đất.

Đó, rất rõ ràng.

(01:21:07) Vậy thân ta niệm Phật thì thân ta cũng phải phòng hộ sáu căn, mắt nhìn xuống đất, không nhìn qua nhìn lại, luôn luôn ý tứ từng bước đi, tránh không làm đau khổ chúng sanh và giết hại chúng sanh. Hành động giống như vậy gọi là thân niệm Phật.

Đó, cái hành động thân của chúng ta làm giống như thân Phật vậy đó gọi là thân niệm Phật.

2. Thân Phật thường đi ăn xin. Thân ta niệm Phật thì thân ta cũng phải đi ăn xin như Phật.

Nghĩa là Phật đi ăn xin, mình niệm Phật thì mình cũng phải đi ăn xin như Phật, thân mình cũng vậy. Còn đằng này Phật ăn xin mà mình không ăn xin, mình đi làm cái nghề này nghề khác mình sống, không có giống Phật, như vậy mình có niệm Phật không? Niệm Phật phải giống Phật chớ! Thân niệm Phật thì thân phải giống Phật, mà thân niệm Phật lại than không giống Phật!

3. Thân Phật thường hay ngồi thiền. Thân ta niệm Phật thì thân ta cũng thường hay ngồi thiền.

Phải không?

4. Thân Phật thường đi kinh hành. Thân ta niệm Phật thì thân ta cũng thường hay đi kinh hành.

Phật thường hay đi kinh hành.

5. Thân Phật không giết hại chúng sanh. Thân ta niệm Phật thì thân ta cũng không giết hại chúng sanh.

6. Thân Phật không làm khổ mình khổ người. Thân ta niệm Phật thì cũng vậy, không làm khổ mình khổ người.

7. Thân Phật không lấy trộm của ai. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không lấy trộm của ai.

8. Thân Phật không làm điều dâm dục. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không bao giờ làm điều dâm dục.

9. Thân Phật không ăn uống phi thời. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không ăn uống phi thời.

10. Thân Phật ít ngủ, không hôn trầm thùy miên. Thân ta niệm Phật cũng vậy, phải ít ngủ, không hôn trầm thùy miên.

11. Thân Phật không nằm giường cao rộng lớn. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không nằm giường cao rộng lớn.

12. Thân Phật không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt.

13. Thân Phật không cất giữ tiền bạc của báu. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không cất giữ tiền bạc của báu.

14. Thân Phật nằm nghiêng theo kiểu kiết tường. Thân ta niệm Phật cũng phải nằm nghiêng theo kiểu kiết tường.

15. Thân Phật thường hay đặt niệm trước mặt, ngủ mà rất tỉnh thức nên không mộng mị, chiêm bao. Thân ta niệm Phật cũng vậy, thường đặt niệm hơi thở trước mặt, tỉnh thức, không mộng mị, chiêm bao.

Đó là ở đây quý thầy thấy Thầy tóm lược lại để chúng ta thấy cái thân Phật như thế nào thì thân ta niệm Phật thì phải giống thân Phật như thế nấy.

Bây giờ cái phần thứ hai, hồi nãy cái phần thứ nhất là thân niệm Phật, bây giờ phần thứ hai là thọ niệm Phật. Bởi vì chúng ta có bốn cái chỗ niệm mà, mà bây giờ chúng ta mới có thân niệm Phật à, chưa đủ. Bây giờ chúng ta lại thọ niệm Phật. Phần thứ hai:

(01:24:05) Thọ niệm Phật như thế nào? Phật đã làm chủ được ba trạng thái thọ:

1. Thọ lạc

2. Thọ khổ

3. Thọ bất lạc bất khổ.

Đó, bây giờ chúng ta hiểu được ba cái thọ như vậy thì thân Phật đối với ba cái thọ này như thế nào?

Đối với ba thọ:

1. Thọ lạc niệm Phật

Phật không ưa thích cái lạc, cũng không vui mừng, cũng không ca ngợi, cũng không cầu mong, cũng không ước muốn, cũng không tưởng nhớ, do thế thọ lạc niệm Phật không tác dụng và lôi cuốn được, không làm đam mê, không làm say đắm Phật. Vì thế thọ đến, đi như không có mặt, thọ có mà như không có.

Chúng ta thấy rõ ràng. Phật thọ lạc cũng như bây giờ mình ăn miếng ngon, mình thấy cái thọ lạc nó ngon, mình thích, mình ca ngợi cái này ngon quá, mình cầu mong, ước muốn cho còn có ăn nữa, mình tưởng nhớ nó nữa, còn Phật thì ăn ngon, dở gì Phật cũng chẳng cần thiết hết. Cho nên đối với Phật thì cái thọ lạc không có ăn thua nhằm nhò gì, nó không say đắm, nó không làm lôi cuốn Đức Phật được.

Cho nên chúng ta lấy thọ mà niệm Phật thì cái thọ của chúng ta cũng phải giống như vậy, phải không? Như vậy cho nên chúng ta ăn ngon, chúng ta có cảm giác nằm êm ấm, có cái cảm giác khoái lạc này kia, chúng ta chẳng thích gì đó. Đó là thọ lạc mà, mà thọ lạc đối với Phật thì Phật đâu có chấp nhận nó, đâu có ham mê nó, đâu có bị nó lôi cuốn. Ta tu hành theo Phật cũng vậy, đối với thọ lạc ta chẳng ham thích nó nữa.

Còn chúng ta thì nghe thọ lạc cái này cái kia chúng ta thích, ăn ngon, uống nước ngọt, rượu rồi mê, hút thuốc rồi khoái, tất cả những cái này chúng ta chạy theo cái thọ lạc. Còn trái lại thì đối với Phật mà chúng ta là người tu Tứ Bất Hoại Tịnh, theo ba Tam Quy, ba cái giới này này thì Phật hoàn toàn là không bị thọ lạc lôi cuốn, thì tâm ta - thì cái thọ của chúng ta mà niệm Phật thì tức là cái thọ của chúng ta không bị cái lạc lôi cuốn chúng ta được.

(01:26:07) Ta lấy thọ lạc niệm Phật, ta phải giống như Phật, không ưa thích, không vui mừng, không khen ngợi, không cầu mong, không ước muốn, không tưởng nhớ, nhờ thế thọ của ta không tác dụng được ta, không lôi cuốn, không làm cho ta đắm mê.

Muốn được vậy, ta phải tu tập như thế nào?

Ta phải dùng những cái pháp trạch như thế nào để cho cái thọ mà nó niệm Phật nó không có bị khổ đau?

Vậy thì nãy giờ là Thầy đã tóm lược mà chưa có cái pháp hành, biết không? Nãy giờ Thầy tóm lược cho chúng ta từ cái thân niệm Phật cho đến cái thọ niệm Phật, rồi tới những cái khác, mà chúng ta phải thấy rằng khi mà chúng ta chưa có pháp hành mà chỉ là nói suông thôi thì đó là lý pháp chớ chưa phải là hành pháp. Mà bây giờ ở đây chúng ta phải kê ra là chúng ta phải thấy có cái pháp hành liền, chớ nếu mà nói như vậy không thì tức là chúng ta chỉ nói cái lý mà không có cái hành.

Vậy thì bắt đầu chúng ta phải trở lại cái vị trí là thân niệm Phật, rồi từng đó chúng ta mới đi tới là thọ niệm Phật, rồi tâm niệm Phật, rồi pháp niệm Phật như thế nào để cho nó có pháp hành kèm theo.

Chớ nếu mà chúng ta cứ lý pháp mà nói như vậy, nó không có pháp hành thì chúng ta biết cái gì chúng ta tu? Biết cái gì mà chúng ta lấy cái thân mà niệm Phật được đây? Mình nói như vậy chớ chưa chắc đã là…​ Muốn sống được như Phật đâu phải dễ? Đâu có phải chuyện dễ đâu! Cho nên phải có pháp hành, mà pháp hành thì tức là giới hành của chúng ta./.

HẾT BĂNG

49 - PHÁP HÀNH THÂN NIỆM PHẬT

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 49 - PHÁP HÀNH THÂN NIỆM PHẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- THÂN NIỆM PHẬT PHÒNG HỘ SÁU CĂN

1.1- CHỌN NƠI AN TRÚ THANH VẮNG ĐỂ TU HÀNH

(00:00) Bây giờ trở lại vấn đề thứ nhất là thân niệm Phật. Vậy thì thân niệm Phật như thế nào?

Giới hành hộ trì sáu căn.

Như hồi nãy Thầy có nói giới thiệu rồi đó, chúng ta phải hộ trì sáu căn chúng ta trước.

Bắt đầu người tu sĩ muốn thân hành niệm Phật thì phải chọn nơi tâm chuyên nhất cảnh.

Mình muốn tu tập mà, mình muốn hành cái pháp chớ không phải là muốn nghe cái lý suông không. Muốn nghe cái lý suông không thì mình cần gì phải chọn cái cảnh? Cho nên trước tiên mình muốn hành cái pháp này, mình muốn trau dồi được cái thân tâm mình, sống cái thân của mình như Phật, giống như Phật thì mình phải chọn một cái cảnh, một cái nơi tâm chuyên nhất cảnh.

Vậy thì tâm chuyên nhất cảnh như thế nào?

Này, quý thầy, quý thầy phải lựa chọn một chỗ an trú thanh vắng.

Mình tu hành là luôn luôn phải cái tìm chỗ thanh vắng, chớ không thể nào mà thiếu cái chỗ thanh vắng mà chúng ta tu tập được. Chúng ta phải nhớ như vậy thì chúng ta mới có thể thực hiện được.

Một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một bãi tha ma, một hang đá, một sơn lâm giữa trời không mông quạnh, một đống rơm, một chòi lá bên ghềnh suối, đó là nơi lý tưởng để chúng ta thân hành niệm Phật.

Nghĩa là lấy cái thân của chúng ta mà niệm Phật đó. Chúng ta phải chọn cái nơi đó, gọi là chọn cái cảnh mà gọi là “tâm chuyên nhất cảnh”. Cái tâm của mình muốn tu hành được thì tức là cái cảnh nó phải hợp.

Mà cái cảnh nó không hợp, như mình sống ở trong gia đình của mình, vợ con này kia rồi đủ thứ, hay anh em dòng họ của mình, thử hỏi mình tu được cái này không, mình trau dồi được không? Chắc chắn là không được đâu. Cho nên chúng ta phải chọn một cái nơi nó yên tịnh, thanh vắng, rồi từng đó chúng ta mới nỗ lực mà trau dồi cái thân của mình thì mình mới sống đúng như Phật được.

1.2- HIỂU VỀ PHÒNG HỘ SÁU CĂN

(01:56) Vậy thì đầu tiên chúng ta - thân Phật thì thườn phòng hộ sáu căn, vậy thì bây giờ mình cũng muốn phòng hộ sáu căn của mình như Phật để cho mình cũng đi mà mình ngó nhìn xuống, mình cũng như Phật thì mình phải làm sao? Mình phải tập như thế nào? Mình phải hướng tâm mình nhắc như thế nào để cho mình đạt được? Đó là cái hành động tu tập của chúng ta gọi là pháp hành, hay là giới hành.

Vậy phòng hộ sáu căn như thế nào?

1- Loại sắc nào do mắt phân biệt…​

Đây bây giờ đó, đây là giải thích thêm để cho chúng ta thấy.

1- Loại sắc nào do mắt phân biệt, khi ta thân cận mà bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thì loại sắc do mắt phân biệt đó ta nên tránh xa.

Nghĩa là bây giờ, một cái vật gì có hình tướng, có sắc tướng mà khi mà chúng ta thân cận nó, chúng ta ở gần nó, như máy móc, cái này cái nọ cái kia…​ tất cả mọi cái mà trước mặt Thầy đây, từ cái ca, từ cuộn băng, từ cái đồng hồ, tất cả mọi vật trước mặt Thầy đây, đó là sắc đó, mà khi Thầy thân cận thì bất thiện pháp nó tăng trưởng mà các thiện pháp nó suy giảm.

Tại sao vậy? Tại vì bây giờ có những vật này thì có những người họ thèm muốn, họ sẽ tìm cách trộm cắp lấy, thì như vậy là ác pháp hay thiện pháp? Rồi bây giờ Thầy mất các vật này đi, tâm Thầy có buồn không? Như vậy là có buồn, có phiền não. Hoặc là có người họ lỡ họ làm hư đi, thì tức giận đi, thì như vậy là ác pháp nó tăng trưởng. Những vật này mà gần gũi, thân cận Thầy, ác pháp nó tăng trưởng và thiện pháp nó làm cho Thầy suy giảm đi, như vậy là Thầy có thân cận nó không?

Cho nên vì vậy mà khi suy nghĩ như vậy, muốn phòng hộ sáu căn của chúng ta thì lúc bấy giờ con mắt mà thấy mọi vật - chúng ta phải thấy thân cận nó mà thiện pháp tăng trưởng thì chúng ta thân cận, mà thiện pháp không tăng trưởng, ác pháp tăng trưởng thì chúng ta xa lìa nó đi.

(04:02) Chẳng hạn bây giờ quý thầy sau cái mùa an cư kiết hạ này quý thầy về lãnh cái chùa, do đó quý thầy ở làm trụ trì, vậy mà làm công chuyện này công chuyện kia đủ loại hết, do đó các pháp ác nó đến, nào là chuyện phải xử hay phạt, nào là phải lo xây dựng chùa chiền tất cả mọi cái này, rồi phải đi kêu gọi Phật tử đóng góp đủ thứ hết, đủ loại hết.

Như vậy là các thầy sẽ thấy đó là ác pháp hay là thiện pháp? Nó có giải thoát được cho quý thầy không? Hay là quý thầy chịu đau khổ ở trong các pháp đó? Đó như vậy là quý thầy thấy rõ đó là ác pháp, cho nên tăng trưởng thì chúng ta không nên thân cận, vì vậy là nên giao chùa cho họ, họ làm gì đó làm. Tại vì đó là bất thiện pháp rồi, chớ không phải là - ác pháp.

1- Loại sắc nào do mắt phân biệt, khi ta thân cận mà bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng…​

Như vậy bây giờ như thế nào? Bây giờ chúng ta bỏ hết, bỏ hết, chúng ta chỉ còn…​ (Mất tiếng) quý thầy có thấy các thiện pháp tăng trưởng không?

Nó tăng trưởng rất nhiều, nó làm chúng ta thấy nó không còn bận tâm, lo lắng, không còn sợ hãi, không còn sợ trộm cướp, không còn gì hết, như vậy là chúng ta thấy an ổn không? Quá an ổn, cho nên thiện pháp tăng trưởng, làm chúng ta không còn mất mát gì hết, chúng ta thấy an vui, ngủ rất yên mà không sợ cái gì hết.

Còn bây giờ chúng ta - các cái pháp này, các cái sắc này nó làm chúng ta quá lo lắng, cũng như bây giờ quý thầy giữ một cái chùa, mà cái chùa để cho người ta phá hoặc người ta vô người ta rinh Phật, người ta rinh mấy cái chuông đồng hết rồi thì quý thầy thấy có khổ không? Khổ quá, khổ quá! Cho nên mình làm trụ trì mà để mất như vậy, Phật tử họ đến họ nói này nói kia chịu không nổi rồi. Đó không phải là ác pháp sao?

Ở trong chùa lại có cái tượng bằng vàng nữa, cái ông Phật Thích Ca bằng vàng mà cỡ độ chừng 3 ký lô mà để ngồi chong ngóc đó, chắc chắn là không thể nào mà chúng không lấy được hết. Cho nên phải đem ông Phật này giấu ở trong rương hay hoặc đem…​ chớ không dám để trên bàn Phật thờ đâu. Như vậy là phải sợ sệt đủ thứ hết, cho nên do đó những cái pháp đó là những cái pháp gì? Pháp ác.

(06:02) Cho nên vì vậy thôi đem cái ông Phật này ra cái tiệm thợ kim hoàn nào đó: “Làm ơn ông chẻ nó ra, ông nấu nó ra làm đồ nữ trang bán đi, chớ để tui ở trong chùa cực quá đi. Tui giữ ổng cũng mệt tui!” Đó như vậy là chúng ta đã xa lìa các ác pháp, các sắc pháp đó. Nó không có những thiện pháp được, cho nên dù là ông Phật đẹp tốt nhất chúng ta cũng rất sợ hãi.

Cho nên chúng ta nghe ở những nơi chùa mà có những cái ông Phật bằng những cái loại quý giá, bằng những ngọc, bằng những vàng, bạc, châu báu, bằng những cái loại quý thì hầu như cái ông thầy ở đó ông quá lo lắng, hở ra là sợ người ta rinh ông Phật đó mất đi.

Cho nên ở đây - Thầy nói chỉ ở trên cái tượng Phật thôi, mà người ta chỉ gắn cái hột xoàn ở giữa cái trán của ông Phật thôi, mà ông Phật để đó người ta cũng lo nữa. Cái hột xoàn quá lớn rồi, nó chói sáng ra, nó nhiều màu sắc nó chói sáng ra, thì do đó người ta cũng cạy cái đó người ta lấy nó ra.

Vì vậy mà hầu hết là trong những cái chùa mà có những ông Phật bằng những cái vật báu là cái tai họa lớn cho cái ông thầy đó chớ không phải sung sướng gì hết. Còn cái chùa mà bằng tranh, bằng vách, bằng lá, ông thầy ngủ ngon lắm, không có lo gì hết. Mà tượng Phật bằng đất đồ đó thì chắc không ai rinh đâu, cho nên càng sung sướng chúng ta bằng mấy.

Còn trái lại, cái chùa mà nó càng sang càng đẹp, nào là gạch ốp lát đồ này kia thì coi chừng chúng ta cứ tối ngày phải chùi rửa, không có chùi rửa thiên hạ họ nói này nói kia: “Ông thầy ở dơ quá trời! Cái chùa mà gạch ốp lát như vầy, bóng như vầy mà ổng không chùi rửa.” Người ta nói này nói kia mình khổ lắm.

Cho nên cái chùa mà nền đất thì khỏe lắm, không có cực khổ gì nhiều, do đó là cái thiện pháp, nó không phải là ác pháp. Còn tất cả những cái sang đẹp của thế gian nó cũng không phải vĩnh viễn trường tồn, nhưng nó làm cho chúng ta phải khổ sở với nó tức là ác pháp.

2- Loại tiếng nào do tai phân biệt…​

Như vậy là bây giờ đó, chúng ta thấy hồi nãy là sắc, loại sắc nào, bây giờ nó do cái tiếng nào mà nó đem đến cho chúng ta những cái thiện pháp tăng trưởng và ác pháp suy giảm thì cái tiếng đó chúng ta nên…​

Cũng như bây giờ quý thầy nghe cái âm thanh Thầy thuyết giảng mà đem đến cái lòng thiện, đem đến cái sự tu tập của quý thầy, thì cái tiếng đó là cái tiếng tốt.

Còn cái tiếng mà nghe nó rỉ ra rỉ rả làm cho chúng ta nghe nó thương vay khóc mướn, làm cho chúng ta đau sầu khổ muộn, nghe nó thương nhớ cái này thương nhớ cái kia, thì những cái tiếng đó nó có tốt không? Nó không có tốt đâu. Những tiếng chửi lộn, đánh mắng cũng không tốt đâu.

Cho nên vì vậy mà chúng ta nên xa lìa những cái âm thanh đó, mà hãy gần gũi với những cái âm thanh dạy đúng chánh pháp để chúng ta ly tất cả những cái thế giới vô thường, hoại diệt này, ly tất cả cái thế giới vô hộ vô chủ này, ly tất cả cái thế giới tham ái này, khao khát này không bao giờ cùng tận đó, thì chúng ta phải ly nó ra, thì tức là chúng ta phải chọn lấy những cái tiếng nào đúng mà cái tiếng nào sai.

(09:02) Rồi đến cái:

3- Loại hương nào do mũi phân biệt…​

Cái hương nào mà là cái hương giải thoát, còn cái hương nào là cái hương làm cho chúng ta đam mê, chúng ta nghe mùi hoa, mùi này kia mê quá, thơm quá, sự thật nó làm cho chúng ta đam mê.

Cái mùi hương đạo đức, cái mùi hương nhân quả, cái mùi hương đó nó làm cho chúng ta giải thoát. Cái mùi hương đó nó đi ngược gió, nó đi bốn phương được. Còn cái mùi hương mà của loài hoa nó chỉ đi theo cái chiều gió xuống thôi, nó không có thể đi ngược gió trở lên. Còn cái mùi hương của đạo đức nhân quả nó sẽ đi ngược gió, nó làm nên những cái mùi hương rất tốt.

Cho nên chúng ta nên chọn lấy những cái mùi hương tốt, nó sanh ra thiện pháp, nó làm chúng ta không làm những cái hành động ác, do đó chúng ta nên chọn lấy những cái mùi hương tốt đó.

4- Loại vị nào do lưỡi phân biệt…​

Ở đây những cái loại vị mà phân biệt ngon, dở, ngọt bùi của thế gian, loại vị đó là loại vị bất tịnh, ảo giác, chúng ta hãy xa lìa đi. Còn cái loại vị mà ly dục li bất thiện pháp, nó sanh ra những cái hỷ lạc của cái ly dục ly bất thiện pháp thì chúng ta hãy chọn cái đó đi.

Như vậy thì ở trong Bốn Thiền chúng ta thấy, từ cái thiền thứ nhất mà cho đến thiền thứ tư, nó do chúng ta ly những cái vị thế gian, nó làm chúng ta ly ra hết, do đó chúng ta mới thọ hưởng được những cái vị xuất thế gian, những cái vị đó nó làm chúng ta liên tục, mãi mãi có cái sự kéo dài mãi, cái sự hỷ lạc của nó mãi.

Còn cái loại vị mà hiện bây giờ chúng ta đang thọ hưởng của thế gian thì bỏ vô miệng thì thấy ngon, còn nuốt vô cổ rồi thì hết ngon rồi, nó chỉ chớp mắt à, nhai nhai có một chút cái rồi nuốt vô cái sạch, không còn thấy ngọt nữa, thì cái loại vị đó chúng ta nên lìa nó đi, bỏ nó đi.

5- Loại xúc chạm nào do thân phân biệt…​

Cái loại xúc chạm thí dụ như xúc chạm gây cái sự cảm xúc khoái lạc thế này thế kia, gây sự êm ấm như nệm mút, như là chăn lông, như cái này kia làm chúng ta thấy êm ấm thân của chúng ta bằng cách này, bằng cách kia, thì từ đó chúng ta phải xa lìa nó đi. Đó là những cái nó cám dỗ, nó quyến rũ chúng ta khao khát mà không bao giờ hết được.

Do đó chúng ta hãy tìm lại những sự xúc chạm bằng cái tâm thanh tịnh của chúng ta, bằng cái thân thanh tịnh của chúng ta đang ở trong những cái sự thiền định, thì cái sự xúc chạm đó là cái xúc chạm làm tâm chúng ta bất động, bất dao động, thì lúc bấy giờ đó là những cái pháp mà chúng ta cần phải đi theo cái đường đó mà các thiện pháp tăng trưởng và ác pháp nó suy giảm.

(11:36) 6- Loại pháp nào do ý phân biệt, khi thân ta thân cận mà bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thì loại pháp ấy nên xa lánh.

Bây giờ có những cái lời dạy, mà cái lời dạy đó nó đem cho chúng ta đến cái ác pháp thì tức là chúng ta không đến. Cũng như bây giờ người ta nói cái câu nói đó là rất hay, nhưng mà chúng ta gần gũi nó, chúng ta thường hay lấy câu đó hay hoặc lấy cái ý đó mà chúng ta tranh cãi thiên hạ cho mình hơn thua thiên hạ, thì cái đó có phải là pháp đúng không? Không phải pháp đúng đâu, pháp đó nó sanh ra ác pháp tăng trưởng mà thiện pháp suy giảm.

Còn cái pháp nào mà chúng ta biết nhẫn, biết nhịn, biết nhường người ta, người ta muốn tranh luận thì thôi mình làm thinh, chẳng hơn tranh luận gì với ai thì những cái pháp đó là những cái pháp để cho mình được giải thoát và người khác cũng không thù hận mình. Vì vậy cho nên khi mà có những cái pháp như vậy thì chúng ta thân cận để cho cái tâm của chúng ta được giải thoát và người khác cũng giải thoát.

Cho nên khi mà đến gần với cái người nào mà họ muốn tranh hơn tranh thua với mình thì mình luôn luôn nhẫn nhịn họ, không có tranh hơn tranh thua họ, thì những cái pháp đó là những cái pháp mà thiện pháp tăng trưởng, vì vậy mà chúng ta biết tu tập như vậy thì đó là những cái pháp đúng.

Còn những cái pháp mà rống họng tranh nhau hơn thua thì những cái pháp đó là những cái không đúng, đó thì như vậy là ác pháp nó tăng trưởng mà thiện pháp nó suy giảm.

1.3- PHÁP HƯỚNG NHƯ LÝ TÁC Ý ĐỂ PHÒNG HỘ SÁU CĂN

(13:02) Giới hạnh hộ trì các căn như thế nào?

Bây giờ đó thì chúng ta đã học qua cái phòng hộ sáu căn rồi, thì bây giờ tới cái giới hành, nó hộ trì các căn của chúng ta như thế nào?

Khi tìm được nơi yên tĩnh, vắng vẻ, ta ngồi kiết già, thẳng lưng, đặt niệm phòng hộ sáu căn trước mắt, ta dùng trạch pháp, chọn lấy một câu rồi dùng câu đó làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Phật đi không ngó qua ngó lại…​

Đây là cái câu pháp hướng đây.

“Phật đi không ngó qua ngó lại, chỉ nhìn xuống đất, quan sát từng bước đi của mình để tránh vô tình làm đau khổ chúng sanh. Thân ta niệm Phật phải thực hiện đi giống như Phật”.

Đó là mình dùng cái pháp hướng này mình nhắc, mỗi lần khi mình bước đi thì mình nhắc trước. Tức là cái câu thứ nhất mà pháp hướng đó, đây là cái pháp hành của chúng ta rồi.

Cho nên trước khi mà chúng ta đi hoặc là chúng ta đặt một cái niệm phòng hộ sáu căn thì chúng ta ngồi thẳng lưng, kiết già, rồi chúng ta nhắc như vậy để sau khi mà chúng ta bước đi là chúng ta nhớ liền, chúng ta không quên.

Cho nên khi mà chúng ta bước đi thì cái thân hành của chúng ta nó nhìn xuống, mắt chúng ta nhìn xuống, nó giữ gìn sáu căn của chúng ta - mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta không ngó qua ngó lại, không nhìn lên nhìn xuống, tập trung ở dưới bước chân chúng ta đi.

Mà hằng ngày chúng ta phải đặt niệm - trong những cái buổi yên tĩnh chúng ta ngồi chúng ta đặt niệm, chúng ta dùng cái pháp hướng chúng ta nhắc tâm mình. Cho đến khi mà thân chúng ta bước đi là chúng ta đã nhớ liền, hoặc là chúng ta không nhớ thì chúng ta lại dùng pháp hướng đó nhắc một lần nữa rồi chúng ta lại bước đi.

Cho nên những cái câu này thì quý thầy phải thuộc lòng, phải nhớ thuộc để thành ra một cái trạch pháp để nhắc chúng ta.

Ở đây Thầy xin nhắc lại câu này:

“Phật đi không ngó qua ngó lại, chỉ nhìn xuống đất, quan sát từng bước đi của mình để tránh vô tình làm đau khổ chúng sanh. Thân ta niệm Phật cũng vậy, phải thực hiện đi giống như Phật”.

(15:05) Đó là mình phải nhớ câu nói đó. Đó là khi ngồi thì mình đặt cái niệm này trước mặt, dùng trạch pháp này mà nhắc mình, đó là cái pháp để phòng hộ sáu căn của chúng ta. Khi bước đi, khi làm những việc gì thì chúng ta cũng nhớ những cái điều đó.

Câu thứ 2:

“*Sáu căn tiếp xúc với sáu trần, dính mắc các pháp, tạo biết bao nhiêu điều khổ cho kiếp người. Thân ta niệm Phật thì phải giống như thân Phật, phòng hộ sáu căn, đi, đứng, nằm, ngồi, ý tứ từng hành động, nhẹ nhàng, thanh thản, không mong cầu, không ước muốn, chỉ biết khoan thai bước đi mà thôi”.*

Đó là câu thứ 2 để mà chúng ta hướng tâm nhắc nó. Thí dụ như bây giờ chúng ta ngồi kiết già, lưng thẳng, chúng ta nhắc câu thứ nhất để cho mỗi ngày chúng ta làm cho thân tâm chúng ta thấm nhuần cái chỗ thân hành, cái chỗ mà hộ trì sáu căn của chúng ta. Tiếp tục câu thứ 2 chúng ta nhắc lại lần nữa.

Và câu thứ 3, đây là câu thứ 3:

“Thong thả mà đi, thanh thản mà đi, mắt nhìn xuống bước đi, tai lắng nghe bước đi, không nhìn ngó đôi bên”.

Đó là chúng ta nhắc nó, chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc nó, nhắc cái thân của chúng ta để cho giống Phật đó, để làm y như Phật đó.

Đó thì quý thầy - đây là pháp hành đó chớ không phải là một cái chuyện…​ Siêng năng tập thì quý thầy sẽ đạt được kết quả đó, mà quý thầy không siêng năng thì quý thầy chịu lấy. Ở đây Thầy trạch pháp sẵn những cái câu này để giúp cho quý thầy tu tập mang được cái kết quả tốt là phòng hộ được sáu căn của mình không dính mắc sáu trần.

Câu thứ tư:

“Các pháp xung quanh ta là vô thường, là khổ, là tai hại, ta hãy nhìn và nghe từng bước đi của ta”.

Nghĩa là bây giờ mình ngó bên nây bên kia, pháp này pháp kia nó đều dính vào trong mắt của chúng ta, nó dính vào lỗ tai chúng ta thì nó làm cho chúng ta khổ. Mà nó toàn là - các pháp đều là vô thường hết, các cái sắc pháp, các cái tướng của nó đều là vô thường hết, tại sao chúng ta lại nhìn nó làm gì?

Cho nên chúng ta hãy nhìn cái bước đi của chúng ta, mà nghe và nhìn bước đi của chúng ta, từng bước đi ủa chúng ta, thì do đó chúng ta có cần để ý chúng nữa không? Mà không cần để ý chúng thì tức là chúng ta đã phòng hộ sáu căn của chúng ta chớ gì?

Đó, đó là câu trạch pháp thứ tư. Các thầy nhớ chưa? Nhớ kỹ như vậy, khi mà chúng ta không có đi thì chúng ta ngồi chúng ta cũng nhắc cái tâm của mình. Hướng tâm là nhắc tâm của mình. Hằng ngày nhắc như vậy tức là chúng ta sẽ thấm nhuần được sự phòng hộ sáu căn.

Mà phòng hộ được sáu căn tức là chúng ta đã thoát ra khỏi biết bao nhiêu pháp, nó luôn luôn nó trói buộc, nó dính mắc ở trong tâm ta. Cho nên muốn phòng hộ được sáu căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình không dính các pháp thì phải hằng ngày siêng năng mà tu tập, tinh tấn mà tu tập chớ không thể biếng trễ mà được.

Muốn giải thoát mà, muốn ra khỏi sanh tử luân hồi mà, muốn thoát ra bốn cái cảnh giới thế giới nó vô thường, nó hoại diệt này mà, nó vô chủ, nó vô hộ này, nó vô sở hữu này, nó tham đắm, nó không bao giờ cùng, mà muốn ra khỏi nó thì những cái pháp đầu tiên này mà chúng ta không tu tập thì chúng ta tu tập pháp nào giờ? Mà không phòng hộ nó thì làm sao chúng ta không dính mắc?

Cho nên phải nhắc đi nhắc lại để thấm nhuần được. Vì vậy mà chúng ta đã phòng hộ được sáu căn, mà sáu căn không dính mắc thì chúng ta sẽ thấy được sự giải thoát của chúng ta tức thời, ngay đây, nó không còn phải đợi một cái thời gian nào nữa hết. Nghĩa là tu tập đúng cách thì quý thầy thấy cái thời gian nó không mất đâu.

(18:38) Câu thứ 5:

“Các pháp luôn luôn có sự lôi cuốn, cám dỗ, thu hút, dễ khiến ta dính mắc khả hỷ, khả lạc, khả ái. Tâm ta phải bất động trước các pháp, mắt ta nhìn xuống, tai nghe tiếng bước chân đi”.

Đó, mình phải trạch cái pháp ra để thấy rằng, các cái pháp xung quanh của mình nó dễ cám dỗ, nó thu hút mình lắm, cho nên vì vậy đó mình phải nhìn xuống cái bước đi của mình, vì nó làm cho chúng ta thấy thích lắm, khả ái, khả lạc, khả hỷ, nó làm chúng ta thích thú, đắm mê lắm.

Cho nên tâm ta phải bất động trước các pháp đó, mắt ta phải nhìn xuống, tai ta phải nghe cái tiếng bước chân chúng ta đi, đừng có nghe cái tiếng ở bên ngoài, đừng có thấy những cái sắc ở bên ngoài. Đó là pháp hướng nhắc cho chúng ta hộ trì, giữ gìn, phòng hộ sáu căn của chúng ta đó.

Đó là những cái câu pháp hướng mà quý thầy cần phải thuộc để hàng ngày đặt niệm trước mặt mà quý thầy nhớ, chớ nếu quý thầy không nhớ thì không có pháp mà quý thầy tu đâu. Đó, nhớ kỹ như vậy thì càng ngày quý thầy mới thấy được thế gian này vô thường, các pháp là vô thường, là khổ.

Câu 6:

“Các pháp thế gian vô thường, khổ, vô ngã, có nhiều tai ương, có nhiều nguy hiểm. Ta phải buông xuống hết, không để sáu căn dính mắc sáu trần”.

Đó là một cái câu để nhắc cho chúng ta, để mà chúng ta xả xuống, không có để cho nó dính mắc với chúng ta. Chúng ta nhìn các pháp thế gian là khổ, là vô ngã, nó có nhiều tai ương, nó nguy hiểm lắm.

Thí dụ như bây giờ các thầy thấy: Mình không có tiền chớ mình có tiền rồi thì nó sẽ xảy ra những cái tai họa cho mình. Mình không có chùa to, mình không có tháp lớn thì nó chưa có tai họa đâu, mà mình có chùa to tháp lớn nó có những cái sự kiện tai họa đến cho mình, nó xảy ra chuyện này chuyện kia, Phật tử thì kiện thưa đầu này đầu kia. Còn cái chùa lá không ai mà tranh giành hết, còn cái chùa tốt người ta tranh giành qua lại, mình làm ông thầy ở giữa, trời, xử không có được, nói gì họ cũng không nghe hết!

Đó thì quý thầy thấy. Đây mình là những người tu sĩ, mình cứ lấy ở trong cái chùa của mình, mình dễ hiểu hơn hết. Còn cái ở ngoài đời thì những bao nhiêu thứ chuyện khác nó nguy hiểm lắm, nó tai họa lắm. Do đó mình lấy những cái câu này để mình nhắc nhở mình, mình xa lìa nó.

7:

“Sáu căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý phải tập trung dưới bước đi, không được phóng dật theo sáu trần sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.”

Đó là cái câu thứ 7. “Sáu căn” tức là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta, “phải tập trung dưới bước đi, không được phóng dật theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp” - nghĩa là không được ngó qua ngó lại ở bên ngoài, tức là không chạy theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nữa.

Đó là nhắc nhở chúng ta đừng có để mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta…​ mà luôn luôn nó phải tập trung dưới bước đi, nó không cho nó phóng dật ra ngoài. Nhắc nhở như vậy thì may ra mới phòng hộ được nó.

1.4- PHÒNG HỘ LÀ ĐIỀU KIỆN ĐẦU TIÊN KHI BƯỚC VÀO ĐẠO PHẬT

(21:33) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học.

Các thầy phải nhớ rằng những cái pháp hướng này phải nhớ cho kỹ, và hằng ngày phải siêng năng mà tu tập. Trong khi buổi tối chúng ta không phải ngồi mà hít thở hơi thở không mà nhiều khi chúng ta phải dành những cái thời gian mà chúng ta dùng cái pháp hướng này nhắc đi nhắc lại cái tâm chúng ta rất nhiều để phòng hộ sáu căn của chúng ta tu tập, chớ không khéo thì quý thầy sẽ không có đạt được cái kết quả tốt của nó đâu.

Đầu tiên bao giờ mà bước vào đạo Phật thì chúng ta cũng phải nhớ rằng là chúng ta phải phòng hộ sáu căn, giữ gìn mắt, tai…​ của mình. Bởi vì vốn cái tâm của mình nó dễ dính mắc với sáu trần, cái thân tâm của mình nó dễ dính mắc lắm, cho nên vì vậy hở chút chút nào nó cũng dính mắc. Ngay bước đầu mà chúng ta không phòng hộ nó thì chúng ta khó mà có thể có thể đạt được cái sự giải thoát được.

Cho nên muốn tu tập thiền định của đạo Phật thì cái sự phòng hộ là cái điều kiện kiên quyết đầu tiên. Cho nên ở đây chúng ta lấy ba cái giới đầu tiên là Phật, Pháp, Tăng là lấy những cái gương hạnh giải thoát mà chúng ta lấy đó chúng ta nương vào để mà chúng ta sống một cuộc sống cho đúng cách.

Mà muốn sống đúng cách như vậy thì cái pháp hướng phòng hộ này là phải siêng năng mà chuyên cần tu tập, mà nếu không siêng năng, chuyên cần tu tập thì chắc chắn quý thầy sẽ khó mà đạt được.

Những lời mà Thầy tâm huyết hôm nay Thầy nói đến cái giai đoạn mà giới hành này là rất quan trọng, vì chúng ta sống trong thiện pháp mà không có cái pháp hành thì không thể nào mà chúng ta sống được.

Nói chúng ta phòng hộ sáu căn mà chúng ta không có pháp hành thì chúng ta chỉ giữ nó có một lúc thôi, chúng ta đi nhìn nó xuống đất có một lúc thôi mà không bao giờ chúng ta có thể giữ gìn nó mãi được đâu.

Còn hằng ngày chúng ta mà chuyên cần, siêng năng dùng pháp hướng nhắc tâm chúng ta mãi như vậy, nó thấm cái lý thì khi đi ra tự nó nó đã nhìn xuống đất, nó không còn nhìn…​ Nó đã thấy được cái thế gian này, cái thế giới này là vô thường, là khổ, là hoại diệt, cho nên nó chẳng còn ham muốn một cái vật gì nữa hết. Do cái sự nhắc này nó làm cho chúng ta giữ gìn thân tâm của chúng ta, mắt, tai, mũi, miệng chúng ta rất là thanh tịnh, nó không còn bị đắm nhiễm nữa.

Đó nhớ như vậy thì quý thầy phải siêng năng, phải siêng năng hết sức mà tu tập, vì rồi đây Thầy cũng không còn nhắc nhở quý thầy nữa, do vì vậy thì chỉ còn quý thầy lấy những cái bài này mà nghe những cái lời của Thầy nhắc nhở ở trong băng.

(24:07) Lời của Thầy nói ở trong băng vẫn còn nhắc nhở, vẫn còn. Nhưng trực tiếp mà như ngày hôm nay, một vị thầy bằng xương bằng thịt mà nhắc nhở quý thầy thì chắc chắn là không còn nữa, chỉ còn cái lời của Thầy ghi ở trong băng này nhắc nhở quý thầy mà thôi. Dù bất kỳ ở đâu lời nói này vẫn còn, nhưng các thầy sẽ không thấy Thầy được.

Do vì vậy cho nên các thầy phải nhớ kỹ, phải nỗ lực, phải siêng năng, những cái lời này là những cái lời tâm huyết, là những cái lời kinh nghiệm trên bản thân tu tập của Thầy mà Thầy nói ra để cho quý thầy biết.

Mà chính Đức Phật dạy chúng ta ở trong kinh điển của Phật cũng là những lời mà Thầy biết rằng những lời tâm huyết của Phật. Phật nói Như Lý Tác Ý - như cái lý giải thoát đó mà chúng ta nhắc nhở, chúng ta tác ý thì chúng ta mới phòng hộ được sáu căn, như cái lý mà tác ý thì chúng ta mới nhập được định, như cái lý mà tác ý chúng ta mới thực hiện các cái oai lực đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực mới được. Còn không có Như Lý Tác Ý làm sao có được những cái đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực được!

Nên cái Như Lý Tác Ý này là cái pháp tuyệt vời, quý thầy phải nhớ kỹ, đừng có để quên mà hằng ngày phải trau dồi thân tâm của mình liên tục, không được gián đoạn, lúc nào chúng ta cũng phải cần mẫn. Vì con đường sanh tử không thể chờ quý thầy đâu, nó đến là nó đến chớ không thể nào nói nó phải hoãn lại cho quý thầy một giây lát được.

Cho nên phải siêng năng, khi chúng ta còn một chút hơi là chúng ta phải nỗ lực thực hiện, chớ đừng có để tới chừng mà giờ co tay giật chân rồi thì tu không có kịp nữa đâu. Nhớ như vậy thì quý thầy mới có thể thực hiện được con đường này.

Trên đây là trạch pháp để phòng hộ sáu căn. Nhờ giới hành phòng hộ sáu căn nên oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ hiện lên rất rõ nét. Và xét về quả tu, từ bắt đầu vào đạo đã được dạy thân niệm Phật là pháp phòng hộ sáu căn đầu tiên này, thì ngay đây, trong hiện tại, vị tu sĩ ấy cảm thấy mình không còn dính mắc sáu trần, nên tâm lúc nào cũng quay hướng vào trong và nhận ra có một trạng thái ly dục ly ác pháp qua sự hành trì này.

Đó quý thầy thấy chưa? Khi mà quý thầy phòng hộ được sáu căn thì ngay đó quý thầy đã thấy được một trạng thái tâm của quý thầy là ly dục ly ác pháp. Phòng hộ thôi, chưa tu gì hết, chưa có một cái gì cả hết, chỉ giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình thôi mà đã ly dục ly ác pháp rồi.

Mà ly dục ly ác pháp rồi, nó có một cái gì mà để chứng minh cho chúng ta biết? Nó có một cái sự giải thoát thật sự, tâm hồn chúng ta thanh tịnh, thanh thản trước mọi pháp làm chúng ta có một cái niềm hân hoan.

Hân hoan đây không có nghĩa là vui theo thế gian, mà hân hoan đây làm cho chúng ta trở thành một người vô sự, vô sự hoàn toàn đối với các pháp thế gian này, vô sự hoàn toàn không còn dính mắc ở trong các pháp thế gian này, cho nên gọi là vô sự, với một tâm hồn vô sự.

(27:13) Quý thầy chỉ mới tu có bấy nhiêu đó thôi mà cũng đủ quý thầy đã được ly dục ly ác pháp rồi, còn đòi hỏi gì nữa! Nếu quý thầy siêng năng tu tập, kết quả này càng ngày càng sâu hơn, ly dục ly ác pháp càng tiến tới, và quý thầy sẽ nhập Sơ Thiền, rồi Nhị Thiền, rồi Tam Thiền, rồi Tứ Thiền, rồi làm chủ sự sống chết của thân này, rồi kết quả của nó quý thầy sẽ chấm dứt được luân hồi tái sanh.

Bởi vậy Phật pháp kết quả hiện tại không có thời gian.

Nghĩa là đạo Phật đã dạy chúng ta khi tu đúng thì chúng ta không có thời gian mà gọi rằng phải 5 ngày, 10 ngày, mà ngay trong hiện tại là có giải thoát.

Tại sao vậy? Tại vì lúc bấy giờ quý thầy chỉ dùng pháp hướng nhắc tâm mình, có gò bó thân tâm mình đâu, có làm cho nó mệt mỏi đâu, có ức chế nó chỗ nào đâu, cho nên nó đâu có gì mà rối loạn cơ thể của quý thầy mà thấy nhức cái vai, đau cái lưng, tức cái ngực, đâu có cái gì!

Ở đây quý thầy chỉ hải nhắc nó phòng hộ sáu căn, khi đi phải nhẹ nhàng, khoan thai, thư thả, không có gì hết, làm sao quý thầy có cái trạng thái gì mà khổ đau trong thân đâu? Làm sao có những cái gì mà dính mắc trong tâm của quý thầy đâu mà làm cho quý thầy phải giận hờn, buồn phiền, đau khổ?

Cho nên ngay khi phòng hộ sáu căn là quý thầy đã thấy được cái sự giải thoát thật sự của nó rồi. Ngay khi ngồi thẳng lưng kiết già cũng đâu phải ngồi cho đến khi mà hai chân quý thầy tê, đau nhức, khổ sở, để rồi quý thầy nói: “Sao tui ngồi thiền đau nhức!”

Đâu có ai bảo quý thầy ngồi dữ vậy? Quý thầy ngồi trong 5 phút, 10 phút, quý thầy đặt cái niệm trước mặt của quý thầy, rồi quý thầy dùng pháp hướng mà nhắc cái tâm phòng hộ sáu căn của mình, chớ đâu có bắt quý thầy ngồi 1 giờ, 2 giờ, 3 giờ để quý thầy chịu đau chịu khổ với cái thân của quý thầy đâu, mà quý thầy nói rằng là khổ là sở?

Đạo Phật dạy cho quý thầy ngồi có sự an lạc của ngồi, đi có sự an lạc của đi. Đó là sự giải thoát. Cho nên vì vậy mà quý thầy dùng pháp hướng để nhắc tâm mình thấm nhuần được đạo lý, được giải thoát của nó.

Cho nên quý thầy tu hành mà nghe bất an trong thân và tâm của quý thầy, đó là quý thầy tu sai pháp của Phật, tu đó là pháp của ngoại đạo, cho nên làm thân của quý thầy nhọc nhằn, khổ sở, mệt mỏi, hôn trầm, thùy miên, vô ký, đó là quý thầy tu sai.

Còn quý thầy tu đúng thì không hôn trầm, thùy miên, mệt nhọc gì cả, lúc nào cũng thấy giải thoát, an vui và tỉnh táo, rất là tỉnh táo. Đây là mới bước đầu vào quý thầy đã tu pháp phòng hộ sáu căn, thì quý thầy đã thấy quá rõ ràng, sự giải thoát cụ thể, không thể nào mà chối cãi được!

Điều này chứng minh hùng hồn, không thể phủ nhận được, do thế mới gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh, là Tín Lực, nghĩa là sức lực của niềm tin mạnh mẽ.

Nghĩa là khi mà chúng ta vào thực hiện sự phòng hộ sáu căn rồi thì chúng ta tin rằng đúng là chúng ta đã giải thoát thật sự rồi, thì từ cái chỗ kết quả đó, cái lòng tin của chúng ta nó mạnh mẽ vì gọi là Tín Lực. Tín Lực là cái lòng tin mạnh mẽ.

Mà có sự giải thoát, có kết quả giải thoát, có sự an lạc, có sự thích thú ở trong cái sự tu tập đó, có sự thanh tịnh ở trong tu tập đó thì chúng ta mới có lòng tin. Mà cái lòng tin đó làm sao mà chúng ta rời với Phật được, rời được Pháp, rời Tăng được, cho nên lòng tin đó gọi là Tín Lực. Đó quý thầy thấy rất rõ.

Cho nên Tứ Bất Hoại Tịnh nó làm cho thân tâm chúng ta thanh tịnh mà trở thành một cái lòng tin rất là mạnh, đó là cái sức lực tin tưởng mạnh mẽ của chúng ta.

2- THÂN NIỆM PHẬT ĐI KHẤT THỰC

(30:54) Cái phần thứ hai:

2. Thân Phật thường đi ăn xin…​

Đó, bây giờ tới cái thân Phật mà đi ăn xin đó, thì chúng ta phải tu như thế nào để mà chúng ta sống đúng như Phật?

…​ thân ta niệm Phật cũng vậy.

Bây giờ mình lấy thân mình niệm Phật mà, cho nên bây giờ thân Phật hay đi xin, đi khất thực, đi xin ăn, thì thân ta niệm Phật cũng vậy.

Không làm tất cả mọi nghề nghiệp, chỉ lấy nghề đi xin làm chánh nghiệp mà nuôi chánh mạng mà thôi.

Đó chúng ta lấy cái nghề đó mà chúng ta quyết tâm tu hành. Nghĩa là chúng ta khéo léo tổ chức như thế nào mà chúng ta hằng ngày có một bữa cơm đi xin ăn mà thôi. Khéo léo, khéo léo!

Chớ còn hiện giờ mà chúng ta không khéo léo mà mang bình bát đi ra xóm xin thì không khéo léo, cái đó là vụng về, nó không phải như đất nước Ấn Độ, cũng không phải như đất nước mà của Phật giáo Nam Tông người ta có sẵn sàng những người Phật tử cúng dường, còn ở đây chúng ta phải khéo léo. Khéo léo để cho tự người ta nấu cơm, người ta cho mình cái gì đó mình ăn cái nấy.

Cũng như ở đây Thầy khéo léo tổ chức cho quý thầy, quý thầy chỉ đến giờ là người ta cho gì đó, mình ra mình nhận cái thực phẩm đó mình ăn một ngày một bữa. Ở bên phái nữ người ta cực khổ người ta nấu nướng cái gì đó, người ta cho mình cái gì đó mình chẳng biết, tới giờ ăn đó mình chỉ nhận ăn. Đó là khéo léo để khất thực.

Còn nếu mà mình chỉ vụng và mình chấp nhận cái đi khất thực bằng cách như thời đức Phật thì đất nước chúng ta chưa cho phép, do đó chúng ta không khéo léo.

Mà không khéo léo thì dân tộc chúng ta sau chiến tranh thì có kẻ nghèo, người giàu. Người giàu thì cho chúng ta không nói gì, nhưng người nghèo mà hiểu Phật pháp họ phải nhịn bụng để cúng dường cho chúng ta bát cơm thì họ lại nghèo khổ nữa, thì chúng ta đâu nỡ tâm làm cái điều đó!

Đó cho nên vì vậy đó mà chúng ta phải thấy và chấp nhận như thế nào để mà chúng ta đi xin ăn mà không làm khổ người khác, không làm nghèo người khác. Do vì vậy mà chúng ta khéo tổ chức.

Chẳng hạn thí dụ như bây giờ muốn đi xin, sống như Phật thì mình phải tổ chức những người cư sĩ họ có tiền bạc, họ vì Phật pháp mà họ hộ trì cho chúng ta tu tập, 1 người hay 5 người, 3 người, bây giờ các vị hợp lại, các vị mở cái câu lạc bộ hoặc là một cái tiệm cơm chay ở tại đâu đó. Rồi số tu sĩ chúng tôi sẽ ở gần đó, mỗi ngày chúng tôi chỉ đến xin một bữa cơm thôi, quý vị cho ăn cái gì thì chúng tôi ăn cái nấy, chúng tôi không đòi hỏi gì hết.

(33:21) Do đó các cư sĩ đó họ sẵn sàng họ giúp đỡ mình. Rồi tới đúng giờ là 11 giờ hay là 10 giờ, mình ôm bát mình đến đó mình xin một bữa cơm, rồi mình trở về cái khu rừng hay cái vị trí tu hành của mình, mình thọ thực rồi mình tu hành.

Có như vậy thôi, tức là đời sống của chúng ta chỉ lấy cái nghề đó thôi, mà nó không làm cho ai đau khổ hết, mà nó không làm cho cái xã hội nghèo đói nữa. Và cái hình ảnh đi khất thực như vậy, tổ chức như vậy là đúng cách, đúng xã hội, đúng cái thời điểm.

Còn nếu mà không tổ chức được như vậy mà ôm bình bát đi lang thang xin thì không được, chúng ta làm như vậy sai. Đó chúng ta phải hiểu được những cái này mà chúng ta mới có cái khéo léo mà tổ chức để chúng ta thực hiện được cái nghề đi xin để nuôi chánh mạng của chúng ta.

Bây giờ đó, thân Phật thường đi xin ăn, vậy thì chúng ta cũng muốn cho mình được đi xin ăn như vậy thì chúng ta cũng phải dùng cái pháp hướng để nhắc nhở. Chứ nhiều khi chúng ta đi xin mà chúng ta còn ngại ngùng, còn này kia nọ, nó chưa thấm nhuần thì chúng ta cũng khó mà có thể đi xin được.

Vậy muốn đi xin thì thường ngày chúng ta phải ngồi chúng ta tu như thế nào để mà chúng ta dạn dĩ để mà chúng ta đi xin một cách rất tự nhiên.

Câu 1:

Hằng ngày ta nên đặt niệm đi xin trước mắt, dùng pháp hướng:

Bây giờ mình đặt cái niệm đi xin trước mắt, mình ngồi kiết già hẳn hòi, mình muốn hành động giống cái hành động của Phật đi xin ăn đó thì mình phải đặt cái niệm đi xin trước mặt của mình, rồi mình dùng cái pháp hướng. Mình hướng như thế nào đây?

“Đi xin là một nghề chân chính. Người tu hành ta phải đi xin như thế nào không làm khổ mình, khổ người”.

Đó, mình đặt cái câu hỏi, cái câu pháp hướng để cho mình hướng tâm cho đúng cách. Bây giờ đó mình muốn đi xin thì mình nói: Đi xin là một nghề chân chính mà từ xưa đến giờ Đức Phật đã chấp nhận cái nghề đó để nuôi cái chánh mạng của mình, không có đòi hỏi cái ngon, cái dở, không có đòi hỏi bằng cái này cái kia.

Thì do cái dục lạc về cái ăn nó tạo cho chúng ta khó mà có thể giải thoát được, cho nên chỉ có đi xin nó mới có thể tạo cho chúng ta xa lìa được cái dục lạc của cái ăn.

Vì vậy mà: “Đi xin như thế nào mà không làm khổ mình, khổ người” Nghĩa là đi xin như thế nào không làm khổ mình, khổ người, để chúng ta đặt cái niệm đó như thế nào? Như vậy là để gì? Để chúng ta có cái sự quán xét, khi mà đặt cái niệm đi xin trước mặt, rồi đem cái pháp hướng này ra đặt ở trước mặt, rồi chúng ta dùng cái pháp quán mà chúng ta suy xét.

(36:01) Bây giờ mình ngồi tu đây mà mình muốn trở thành một cái người đi xin ăn, xin ăn như thế nào mà hợp lý, mà không hợp lý, đi xin như thế nào mà không làm khổ mình, khổ người? Đó như vậy, mình mới đặt ra một cái pháp như vậy.

Bắt đầu mình đặt ra như vậy, mình trạch pháp này ra mình nhắc mình rồi, rồi bắt đầu mình ngồi yên. Mình ngồi yên thì nó bắt đầu nó suy tư: Bây giờ mình phải tổ chức như thế nào đây để cho cái đời sống tu hành của mình nè, đi xin nè, nó có cái phong cách của đi xin nè, mà nó không làm khổ ai hết?

Vậy thì bây giờ mình có mấy người Phật tử thương mình, giúp mình tu hành nè: Bây giờ tui chỉ xin nhờ mấy vị giúp đỡ tui tu hành nè, 5 năm hay là 10 năm, tui sẽ ở trong thất tui tu hành 3 năm nè, quý vị mỗi ngày giúp đỡ cho chúng tôi, cho chúng tôi một bữa ăn thôi. Quý vị nấu sao chúng tôi ăn cũng được vậy, chúng tôi không đòi ngon đòi dở gì hết.

Nghĩa là tới giờ đó chúng tôi sẽ bưng cái bát đến cái nhà của quý vị, thì quý vị vui lòng - giờ đó là quý vị nấu cơm cho cả gia đình rồi thì quý vị nấu thêm cho chúng tôi được một ít, một bữa cơm thôi, rồi hằng ngày chúng tôi đến đây chúng tôi xin quý vị, thì quý vị giúp đỡ cho chúng tôi.

Và mình biết rõ ràng là người cư sĩ này họ không phải là người nghèo, họ không phải là người đói mà họ là người làm ăn có tiền bạc, cho nên họ chỉ nuôi thêm mình họ không đến đỗi mà họ khổ, do đó chúng ta xin họ. Vì vậy mà họ bằng lòng giúp đỡ chúng ta rồi thì bắt đầu từ đó chúng ta đã trở thành một người đi xin ăn đúng cách.

Cho nên đặt cái niệm này ra rồi chúng ta đi tìm cái người nào giúp đỡ cho chúng mình để mình thực hiện cái chánh nghiệp, cái nghề nghiệp chân chánh của người tu sĩ.

Đây là cái câu mà Thầy muốn nhắc nhở quý thầy để sau khi quý thầy rời khỏi Thầy mà không được nương tựa nơi Thầy nữa mà quý thầy muốn tu hành đúng chánh pháp:

Thứ nhất là quý thầy đã phòng hộ sáu căn của mình. Cái thứ hai là quý thầy phải tổ chức như thế nào để cho mình đi xin ăn chớ không phải là về tui trồng ruộng, trồng lúa, trồng khoai, trồng củ, rồi tui làm cái này cái kia rồi tui tự lấy cái đó tui nấu cơm tui ăn, tui cất cái thất ra rồi xung quanh đó tui trồng một đám thanh long đi, tui lấy tiền đó tui mua gạo hay để dành tui ăn suốt năm tui tu, không được đâu. Quý thầy đừng có làm cái điều đó. Cái điều đó là điều sai hết.

Quý thầy phải tính một cái như thế nào để hằng ngày có cái người, tự người ta nấu cho quý thầy ăn thôi, rồi người ta nấu ngon nấu dở mặc người ta, quý thầy chẳng biết, miễn là mình ăn bữa đó mình no bụng thôi.

Chớ còn quý thầy đừng có để tiền để bạc hoặc là thế này thế khác, quý thầy tự sắm lấy đồ ăn đồ uống cho quý thầy đó, thì cái đó là cái chết của quý thầy, càng lúc là các thầy sẽ xa lìa Phật pháp đó, nó không phải là chánh nghiệp nữa đâu.

Hay hoặc là quý thầy về làm một đám ruộng, lấy lúa 5 chục, 10 chục giạ lúa để dành, cứ hàng ngày mình nấu cơm rồi mình ăn với muối cũng được, chỉ có gạo ăn được rồi, thì do đó quý thầy cũng tiêu, không có bao giờ mà quý thầy có thể giải thoát được đâu.

Cho nên quý thầy phải tổ chức là mình đi xin cà, nó mới diệt cái ngã của quý thầy. Chớ quý thầy có một bồ lúa mà quý thầy ngồi ăn, cái ngã của quý thầy nó càng lớn, nó không có giải thoát được đâu.

Đó là những cái mà Thầy đặt ở đây để cho quý thầy thấy rằng: Khi bắt đầu mà chúng ta lấy cái thân niệm Phật mà đi ăn xin thì thân ta cũng phải đi ăn xin như vậy đó, thì cái ăn xin của chúng ta bây giờ nó phải có một cái sự tổ chức hẳn hòi, có cái sự làm cho đúng cách, chớ không phải là đi ăn xin như thời Đức Phật được.

Vì Đức Phật ngày xưa là tại vì ở Ấn Độ cái phong tục nó đã quen rồi, cho nên người ta quen, người ta cho những cái người tu hành ăn xin như vậy. Còn ở đây mình không có được như vậy đâu, cho nên quý thầy phải tự tổ chức.

Tránh đừng có làm cái nghề này nghề kia, hay hoặc là về mình cất cái thất ở trong cái vườn cây chôm chôm hay sầu riêng hay măng cụt gì đó, tới cái mùa đó mình đi hái trái cây đó mình bán, mình để dành một số tiền, rồi do đó mình ở trong cái khu vườn đó mình ăn mình tu.

Hay hoặc là trồng một đám dừa, do đó hằng ngày cứ lôi dừa đem đi bán lấy tiền mua gạo ăn, thì quý thầy làm riết cái này, thành ra quý thầy tu riết chắc có lẽ quý thầy thành dừa hết! Kêu là thành dừa chớ cũng không phải là thành Phật được đâu.

(39:49) Cho nên làm cái gì là nó sẽ thú hướng cái đó, nó sẽ thành cái đó, nó không có kết quả được. Cho nên ở đây đừng có nghĩ một cái việc gì, một cái nghề gì mà quý thầy làm hết.

Cho nên người ta nói rằng mình ăn không ngồi rồi. Không phải đâu! Tôi không phải ăn không ngồi rồi đâu. Hằng ngày tui nỗ lực tui thật sự tui giải thoát, thân tâm tui không có phút nào mà tui ngồi không được. Còn quý vị có thể ngồi không, quý vị mới đi làm nghề này, trồng trỉa đồ, chớ còn tui không có thì giờ mà tui ngồi không được.

Cho nên cái mà chúng ta tu, chúng ta phải biết rằng những cái pháp trạch pháp ra như thế này nó không còn cái thì giờ mà chúng ta đi trồng đi trỉa, đi nhổ cỏ, đi trồng rau trồng cải đâu.

Còn quý thầy nói thôi bây giờ người ta cho cơm mình, bây giờ mình cũng trồng bí trồng bầu hay gì đó đặng mình hái về mình luộc để mình ăn phụ thêm, nó cũng đỡ đi. Do đó quý thầy đừng có làm cái điều đó đâu!

Người ta cho cơm với muối, ăn cơm với muối chớ đừng có nghĩ rằng: “Tui ra tui hái nắm rau lang vô, tui luộc tui ăn với nó thì cũng đỡ hơn, không có rau chắc bệnh.” Nhất định bệnh chết chớ không trồng cái cọng rau nữa, đừng có nói chuyện! Phải hiểu được như vậy. Đi xin ăn mà, mà mình còn chấp hành một cái - không đi xin ăn mà lại còn cái của mình, mình có mình hái ra mình ăn, thì cái chuyện đó không được.

Thí dụ như chẳng hạn trong cái thất của quý vị đó, có một cây cam hay cây bưởi hay hoặc là cây nhãn hay hoặc cái gì mà có trái, thì cái người mà người ta thường cúng dường cho quý vị đó, gạo, đồ ăn, đồ này kia, cơm hàng ngày cho quý vị đó, khi cây đó có trái thì quý vị đừng hái mà ăn, đừng có hái mà đem bán để dành tiền nữa, những cái điều đó là cái sai.

Cho nên vì vậy quý vị kêu cái người cư sĩ mà hằng cúng dường cho quý vị đó: “Ở đây bây giờ chỗ tui ở đó có một cây mận, cây nhãn, hay hoặc là cây xoài gì đó bây giờ có trái, xin nhờ cư sĩ bán cái này đi, coi ai không có thì giúp đỡ họ”, hoặc là: “Cư sĩ hằng ngày đã giúp đỡ cho tui cái bữa ăn như vậy, thì những cái này tui không có ăn phi thời được, tui không có lấy cái trái cây này mà tui ăn phi thời”

Hay hoặc là quý thầy nói: “Tui không ăn phi thời nhưng mà bây giờ xoài của mình chín, thôi để hái 5, 10 trái, trưa mình ăn cơm rồi cái bắt đầu mình để 5,10 trái rồi mình ăn thêm nữa” thì cái đó cũng sai nữa. Tất cả những cái này đều là do cái tâm tham dục của mình ra hết. Cho nên bây giờ cái cây đó là của mình, trong thất của mình, nhưng mà quý thầy đừng có lấy cái trái cây đó mà quý thầy bỏ thêm vào trong cái bữa ăn của mình. Người ta cho mình cái gì đó mình ăn.

Thầy không thấy ông Phật ở trong cái vườn xoài mà lượm xoài để ăn thêm đâu, không có đâu. Thường thường Đức Phật ở trong những cái vườn xoài, người ta tu hành đó, trong khi đi khất thực về rồi ngồi ở dưới bóng xoài ăn: “Bây giờ có trái xoài chín, thôi để mình hái trái xoài đó mình ăn thêm đi!” Không có bao giờ mà nghe nói! Có người ta cho mình ăn cái gì thì ăn chớ không bao giờ hái cái trái cây.

(42:15) Còn mình nhiều khi có cái trái cây rồi bắt đầu - bây giờ mình cũng ăn trưa, mình đâu có ăn phi thời đâu, bây giờ thôi tốt hơn là mình hái mấy cái trái xoài này để mình ăn thêm. Hay hoặc là có vài cây mãng cầu, hôm nay chín rồi, để hái đây, trưa đây mình xin cơm về cái bắt đầu mình để mấy trái này ra mình ăn phụ. Không! Cái này không phải của người ta cho mình, mà chính của mình, nhưng mà mình không có được quyền hưởng cái điều đó, nó làm cho mình chạy theo cái dục lạc, thích ăn cái này cái nọ.

Cho nên mình kêu những cái người cư sĩ mà họ từng cúng dường mình, từng sớt bát cho mình đó, giao họ những cái cây này. Mặc dù là mình ở cái thất của mình có những cây xung quanh đó, nó có trái thì mình giao lại họ, họ bán họ buôn, họ ăn, họ làm gì họ làm, rồi họ có cho mình thì mình ăn, mà không cho thì thôi.

Nghĩa là tới cái bữa ăn đó, họ có cho mình một cái trái mãng cầu hay hoặc là cái trái xoài thì mình ăn cơm rồi mình ăn, còn họ không cho thì thôi. Như vậy là mình giữ đúng cái hạnh đi xin đó. Chớ còn không khéo mình nói đi xin chớ hình thức mình còn giữ những cái vật gì của mình đó mình ăn, thì cái đó nó không đúng.

Các thầy nhớ kỹ, chúng ta tổ chức đi xin là phải đúng đi xin. Người ta cho mình ăn cái gì thì mình ăn cái nấy chớ không có thể mà ăn hơn cái chỗ mình đi xin nữa. Còn nếu mình thấy ở trong nhà mình có rồi mình muốn ăn gì đó mình ăn thì nó không phải đâu, mình chạy theo dục lạc rồi, nó chưa ly đâu.

Đó là các thầy phải nhớ những cái điều mà bắt đầu vào cái thân mà đi xin như thân Phật thì phải làm cho đúng cách.

Ngày xưa Đức Phật thì đi xin từ nhà này đến nhà khác, còn mình bây giờ mình tổ chức có một cái nhà của cư sĩ giúp đỡ cho mình, hằng ngày mình đến mình xin, người ta có thể nuôi mình 1 năm cho đến 3 năm, hay hoặc là đến 10 năm trong cái sự tu tập của mình, rồi sau 5 năm, 10 năm mình tu xong. Mà người ta không giúp đỡ được mình thì mình nên đi chỗ khác, và mình đi tìm những người khác để cho mình xin ăn cho đúng cách.

Câu thứ hai:

“Chỉ có đi xin ăn mới giải thoát được sự ăn uống, ta phải chấp nhận nghề đi xin.”

Đó là câu trạch pháp để chúng ta có cái sự quyết tâm, không có ăn thừa, ăn bớt ở chỗ mà chúng ta ăn.

Như vậy là câu thứ hai: “Chỉ có đi xin mới giải thoát được sự ăn uống” - chỉ có mình đi xin mới được giải thoát. Còn bây giờ mình có trái xoài, trái bưởi, trái mít của mình lấy ra ăn phụ thêm, thì như vậy là có phải - mình nói của mình , mình ăn mà, chớ mình đâu có ăn trộm ăn cắp của ai, nhưng chính chỗ đó mình cũng vẫn chạy theo dục lạc rồi, nó không đúng rồi.

“Ta phải chấp nhận nghề đi xin”, đó tức là mình dùng pháp hướng mình nhắc nó.

Câu 3:

“Đi xin ăn không có quyền đòi hỏi món ngon vật lạ, vì thế chúng ta ly dục ly ác pháp thế gian”.

Đó là câu thứ ba trạch pháp ra để nhắc cho chúng ta biết rằng cái nghề đi xin nó làm chúng ta ly dục ly bất thiện pháp.

Câu 4:

“Đi xin ăn là một pháp môn ly dục ly ác pháp, tất cả ly dục ly ác pháp tốt nhất, ta hãy chấp nhận đời sống đi xin”.

Đó là câu thứ bốn.

(45:05) Hằng ngày chúng ta đặt niệm tu tập như vậy, mặc dù bây giờ chưa làm được, nhưng nó giúp ta lìa xa những sự thọ dụng thực phẩm hằng ngày mà chúng ta đang có.

Nghĩa là hằng ngày bây giờ chúng ta chưa đi xin, nhưng mà chúng ta vẫn thấy - như quý thầy ở đây đương nhiên là quý thầy xem như mình đã đi xin ở nhà bếp, đi xin ở đằng trước của người khác cho mình ăn. Cho nên, mình đã chấp nhận được cái nghề đi xin của mình rồi. Và đồng thời thì mình luôn luôn, mình phải nhớ là cố gắng mình thực hiện cho bằng được cái nghề đi xin này.

Chớ nếu mình không thực hiện cái nghề đi xin này thì chắc chắn là chánh nghiệp của mình không có. Mà chánh nghiệp không có thì chắc chắn là mình không bao giờ mình giữ giới luật của Phật nghiêm chỉnh được, mà mình không có bao giờ mình thực hiện cái sự giải thoát của mình được.

Cái ăn coi vậy chớ khó lắm quý thầy, không đơn giản đâu, một chút là nó sẽ bị nhiễm đó, một chút nó là nó sẽ luận đó, nó làm cho chúng ta dễ say mê ở trong dục lạc lắm. Cho nên chúng ta phải sáng suốt, phải cẩn thận, phải nỗ lực, phải suy tư, phải quán xét để thực hiện một đời sống đúng cách là chúng ta đi xin ăn.

Đó, cho nó được rốt ráo, cho được giải thoát. Bởi vì muốn giải thoát như Phật thì phải làm sao giống như Phật, phải làm sao tính như thế nào, suy tư như thế nào, tư duy như thế nào để đời sống chúng ta thực hiện đúng những cái oai nghi tế hạnh của một Đức Phật.

3- THÂN NIỆM PHẬT TU THIỀN ĐỊNH

3. Thân Phật thường hay ngồi thiền…​

Bây giờ chúng ta thấy ông Phật thì ổng hay ngồi thiền rồi ổng đi kinh hành đồ, chớ ổng đâu có nằm ngủ, buông xuôi đâu!

…​thân ta niệm Phật cũng thường hay ngồi thiền như vậy.

Nghĩa là bây giờ cái thân của mình niệm Phật thì mình cũng phải bắt chước, mình phải sống như Phật, như thân Phật, mình cũng phải ngồi thiền như vậy.

1. Ngồi kiết già, lưng thẳng đứng, đặt niệm trước mặt.

Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai:

2. Tu Định Vô Lậu

Tức là chúng ta phải đặt cái niệm, như đặt niệm thân, như niệm thực phẩm để mà tu cái Định Vô Lậu, quán xét nó vô thường, khổ, không, vô ngã như thế nào, quán từ trên xuống dưới coi nó bất tịnh như thế nào, coi nó hôi thúi như thế nào, coi nó thế nào. Đó là chúng tu Định Vô Lậu.

3. Tu Định Chói Sáng

Giữ gìn cái tâm của mình như thế nào để cho nó sáng suốt, để cho nó thanh thản, để cho nó tự nhiên, đó là tu Định Sáng Suốt.

4. Tu Định Niệm Hơi Thở

Chúng ta tu niệm hơi thở

5. Tu Định Hiện Tại An Lạc Trú

6. Tu Tứ Niệm Xứ.

Đó chúng ta - thường thường Phật đặt niệm trước mặt của mình là do cái chỗ ngồi thẳng lưng kiết già rồi tu định này định kia định nọ, tất cả các loại định, cho đến thậm chí như tu Tứ Niệm Xứ Phật cũng đặt niệm ở trước mặt của mình, cũng ngồi kiết già rồi tu Tứ Niệm Xứ.

Ở đây tất cả những cái định mà quý thầy đã có sự tu tập rồi cho nên Thầy không có nhắc lại, như Định Vô Lậu nè, Định Sáng Suốt nè, Định Hơi Thở nè, Định Hiện Tại An Lạc Trú.

Bây giờ Thầy nhắc thêm cái định thứ sáu này là tu Tứ Niệm Xứ để cho quý thầy đại khái, nhưng sau này Thầy sẽ dạy rõ về Tứ Niệm Xứ phải tu như thế nào. Mà cái định này bây giờ chỉ nói Đức Phật phải ngồi thiền tu Tứ Niệm Xứ, thì Thầy cũng nói sơ để quý thầy biết thôi, sau này dạy về Tứ Niệm Xứ thì tức là dạy rõ hơn để quý thầy biết cách thức tu tập Tứ Niệm Xứ.

(48:35) Ở đây Đức Phật đặt niệm Tứ Niệm Xứ thì Đức Phật quán thân trên thân nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

Nghĩa là không có còn tham muốn, không có còn phiền não ở đời nữa.

Nhờ sống quán thân trên nội thân, được chánh định và chánh an tịnh, do đó tri kiến giải thoát được sanh khởi đối với các thân khác ngoài tự thân. Thọ, tâm, pháp cũng quán như vậy.

Nghĩa là người tu Tứ Niệm Xứ thì trên thân quán thân, luôn lúc nào cũng tập cho nó tỉnh giác và nó ở trong cái chánh niệm để nó khắc phục, nó chế ngự cái lòng tham muốn, cái lòng ưu phiền, cái lòng giận hờn, cái lòng si mê của mình, để cho mình không có còn tham muốn, si mê nữa, mình không còn giận hờn nữa. Nhờ sống quán thân trên nội thân như vậy thì cái chánh định nó mới được, và cái sự an tịnh - chánh an tịnh nó mới có.

Do đó cái tri kiến giải thoát nó được sanh khởi, vì vậy mà lúc nào chúng ta ở trên thân quán thân thì chúng ta thấy rõ là thân bất tịnh, thấy rõ là thân vô thường, thấy rõ là thân khổ, thấy rõ là thân nó không có mà do duyên hợp mà thành. Đó thì, tất cả những cái tri kiến giải thoát mà sanh khởi thì chúng ta thấy rất rõ, rồi thấy trong thân mình, rồi thấy thân người, thấy mọi thân cũng đều như vậy.

Và chúng ta tiếp tục, thọ, tâm, pháp chúng ta cũng quán như vậy. Cũng như trên thọ quán thọ, trên tâm quán tâm, trên pháp quán pháp, rồi chúng ta cũng quán xét cũng như hồi nãy chúng ta trên thân quán thân, rồi cũng nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm nó ở trên đó, mà cũng chế ngự ở trên cái thọ, tâm, pháp của chúng ta, không có cho nó tham ưu.

(50:25) Thân chúng ta đã quán trên thân rồi, bây giờ bắt đầu chúng ta quán thọ, quán tâm, quán pháp cũng như hồi nãy chúng ta ở trên thân quán thân như vậy.

Mỗi loại định đều có trạch pháp dùng để hướng tâm, dùng để tịnh chỉ, dùng để quán xét, dùng để chế ngự, dùng để ly, dùng để từ bỏ, dùng để dứt đoạn, dùng để an trú.

Đó thì, ở đây quý thầy thấy rằng khi mà tu Tứ Niệm Xứ thì chúng ta bắt đầu từ thân rồi tới thọ, tâm, pháp, nhưng luôn lúc nào chúng ta cũng phải dùng trạch pháp hết.

Dùng trạch pháp để chúng ta dùng những cái câu để mà hướng tâm. Hướng tâm chúng ta để làm gì? Dùng để tịnh chỉ, dùng để cho nó ngưng, dùng để nó dứt đoạn.

Rồi dùng cái pháp hướng để làm gì? Để nhắc chúng ta rồi quán xét, tức là chúng ta quán, suy tư để tìm ra những cái chưa hiểu, để thấu rõ những cái mà chưa thông rõ. Đó là chúng ta quán xét.

Dùng để chế ngự - dùng để mà chúng ta chế ngự cái lòng ham muốn của chúng ta, chế ngự cái tham ưu của chúng ta, giữ vững cái tâm, không có cho nó khởi lên những cái sân hận, cái hận thù, cái phiền não, cái đau khổ nữa.

Dùng để ly - dùng để lìa ra tất cả những cái mà nó không cần thiết, những cái làm cho chúng ta đau khổ. Dùng để từ bỏ, để dứt đoạn, dùng để an trú - và chúng ta dùng cái pháp hướng để chúng ta an trú, có khi thì dùng để dứt đoạn, có khi dùng để từ bỏ.

Cho nên tất cả những cái này, khi mà chúng ta ở trên Tứ Niệm Xứ, chúng ta cũng đều là dùng những cái pháp hướng, mà pháp hướng đó nó dùng để chúng ta quán xét, dùng để chúng ta ly, dùng để chúng ta từ bỏ, dùng để chúng ta dứt đoạn, dùng để chúng ta an trú được ở trong những cái tâm thanh thản, cái tâm giải thoát, nên lúc bấy giờ chúng ta an trú được ở trong những cái tâm thanh tịnh.

Đó thì quý thầy thấy một cái pháp mà chúng ta đã hiểu biết mà tu tập thì nó mang đến kết quả rất lớn, chúng ta muốn làm sao thì nó sẽ làm y như vậy, nó có kết quả giải thoát rất cụ thể, rõ ràng.

4- THÂN NIỆM PHẬT ĐI KINH HÀNH

(52:24) 4. Thân Phật thường đi kinh hành, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải thường đi kinh hành như Phật.

Bây giờ ở đây quý thầy nghe nói đi kinh hành, từ lâu thì quý thầy cũng biết đi kinh hành nhưng Thầy xem thấy sự đi kinh hành của quý thầy nó chưa đúng cách, nhưng mà hầu hết là quý thầy không có hỏi.

Cho nên do đó hôm nay vì giảng trạch cái này cho nên Thầy mới giảng ra cái này để cho quý thầy biết: Đi kinh hành như thế nào đúng mà đi kinh hành như thế nào sai, lúc nào đi kinh hành bằng một cái trạng thái gì, mà lúc nào đi kinh hành bằng những cái trạng thái gì. Quý thầy chưa có hiểu lúc nào mà phải đi kinh hành, mà đi kinh hành lúc đó để làm gì.

Bây giờ thứ nhất là thân ta niệm Phật thì Phật cũng thường hay đi kinh hành, nhưng cái tiếng chung gọi là đi kinh hành như vậy, nhưng trong kinh hành đó nó có nhiều cái.

Người ta đi kinh hành để phá hôn trầm, buồn ngủ nó khác, người đi kinh hành sau khi ngồi tu mỏi mệt bằng cách ức chế tâm, bằng cách là chế ngự tâm mình thế này thế khác, nó mỏi mệt, thì cái người đó đi kinh hành để thư giãn nó khác, nó không phải giống như cái người đi kinh hành thường, hoặc là đi kinh hành trong chánh niệm tỉnh thức, hay hoặc là đi kinh hành ở trong cái sự hôn trầm, thùy miên.

Quý thầy không biết, cứ nghe đi kinh hành là cứ đi kinh hành thôi chớ cũng chẳng biết phân biệt cái đi kinh hành nào, tu tập cái nào cho đúng cách. Mà Thầy chưa có nghe một cái người nào hỏi Thầy hết. Do không hỏi nhưng mà đến khi giảng thì Thầy phải giảng trạch cho quý thầy hiểu. Nó khó là khó cái chỗ tu sao cho đúng, đi kinh hành sao cho đúng đây?

4.1- ĐI KINH HÀNH THƯ GIÃN

(53:58) Cho nên ở đây, thứ nhất là chúng ta phải tu tập đi kinh hành thư giãn. Đi kinh hành thư giản là làm cho tâm của chúng ta nó trở về, nó không còn mệt nhọc, nó trở về, nó không còn có cái sự khổ, không còn có cái sự khó khăn, không có sự mệt nhọc, không có sự lười biếng ở trong thân của chúng ta nữa.

Khi đã tu tập mệt nhọc, ta trạch pháp một câu dùng làm pháp hướng để nhắc tâm mình:

“Ta đi kinh hành thư giãn thân tâm. Thân tâm phải thanh thản, nhẹ nhàng, vô sự, không được ức chế tâm, không được ghìm tâm, không được tập trung tâm, mà hãy vô sự, tự nhiên như người nhàn du.”

Đó là chúng ta phải nhắc cái câu đó để mà chúng ta thư giãn cái thân tâm của chúng ta khi chúng ta bước đi, mà tâm của chúng ta không có tập trung mạnh ở dưới bàn chân của chúng ta đâu.

Đó phải nhớ, đi kinh hành có lúc chúng ta phải tập trung dữ lắm. Tập trung để làm gì? Chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của nó chớ! Còn nếu quý thầy lúc nào cũng khơi khơi, khơi khơi đi kinh hành, đi mà thiếu điều muốn té, buồn ngủ muốn té mà cũng đi kinh hành cái kiểu đó thì làm sao mà tu được! Đó, không biết.

Cho nên đi kinh hành thư giãn thì chúng ta phải đặt cái pháp hướng để mà nhắc cái tâm của mình.

Vậy thì Thầy nhắc lại cái câu này, để cho quý thầy thấy rằng khi đi kinh hành mà thư giãn thân tâm chúng ta sau cái thời chúng ta tu cái Định Vô Lậu, chúng ta ngồi chúng ta quán xét phá cái tâm lậu hoặc của mình, rồi bắt đầu chúng ta ngồi chúng ta tu cái Định Hiện Tại An Lạc Trú, chúng ta nương vào hơi thở, sau 30 phút, một giờ chúng ta có cái sự mỏi mệt thì chúng ta bắt đầu chúng ta đi kinh hành để thư giãn cái sự mỏi mệt đó.

Thì như vậy là phải như thế nào? Vậy thì chúng ta phải nhắc cái tâm chớ không khéo nó quen cái thói tập trung của nó trong hơi thở, đi mà cứ hít thở, hít thở, hít thở hoài thì nó còn mỏi mệt hơn là chúng ta không đi nữa. Đó, còn hễ ngồi lại, nó mệt quá rồi bắt đầu quý thầy mới ngồi lim dim, lim dim rồi ngủ gật ở trong đó nữa, thì khi xả nghỉ chúng ta mới thấy rất sợ hãi, nó đâu có tỉnh táo được.

Cho nên lúc bấy giờ chúng ta đi kinh hành để thư giãn, để làm cho tâm chúng ta tỉnh táo, mà nó thanh thản, nó nhẹ nhàng, nó không có bị mệt nhọc.

Do như vậy, lúc nào mà chúng ta biết lúc đó chúng ta đi kinh hành cái đúng cái sai, chớ không khéo là chúng ta đâu có biết được.

Vậy thì chúng ta phải dùng pháp hướng đây:

“Ta đi kinh hành thư giãn thân tâm…​

Nghĩa là bây giờ mình đi kinh hành thư giãn thân tâm đó, mình nhắc đó.

…​thân tâm ta phải thanh thản, nhẹ nhàng, vô sự, không được ghìm tâm, ức chế tâm, không được tập trung tâm, mà hãy vô sự, tự nhiên như người nhàn du.”

Đó chúng ta nhắc như vậy đó. Nhắc như vậy rồi chúng ta bước đi, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thanh thản, nhẹ nhàng, không bị ức chế tâm mình ở sự tập trung của cái bước đi hoặc là của hơi thở.

Đó là cái thứ nhất, quý thầy có hiểu chưa?

4.2- ĐI KINH HÀNH CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC

(56:50) Bây giờ cái phần thứ hai:

2. Đi kinh hành tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác

Hay là tỉnh thức. Bây giờ cái đi kinh hành này tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác đây, nó khác hơn cái kia chớ, nó làm sao mà giống như cái kia được.

Ta trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng:

“Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành.”

Đó, là bây giờ mình đi kinh hành để chánh niệm tỉnh thức là mình phải đi nhắc, cứ mình đi chừng khoảng độ 3 thước, 5 thước gì đó hay 10 thước thì mình nhắc một lần: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành” rồi bắt đầu mình lại đi. Đi rồi mình tập trung ở dưới chân của mình, rất tỉnh táo ở bước chân đi của mình.

Do đó, mình lại nhắc nữa: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành” Thường xuyên mình cứ nhắc vậy để cho mình biết mình đi mà nó không quên, tức là chánh niệm tỉnh giác ở trong cái bước đi kinh hành của mình.

Còn hồi nãy thì như thế nào? Đi thanh thản, nhẹ nhàng chớ không phải Chánh Niệm Tỉnh Giác, làm cho thân tâm của mình nó thư giãn, nó không còn mệt nhọc nữa.

Quý thầy phải hiểu cái chỗ đi kinh hành chớ. Cái gì đi kinh hành cho đúng cách thì chúng ta sẽ thấy con người chúng ta sẽ có giải thoát, có an lạc, có an ổn cho thân tâm nó mới đúng cách, còn nếu mà không đúng cách thì quý vị đã sai.

Cho nên khi đi kinh hành mà tu Chánh Niệm Tỉnh Thức thì quý vị phải nhắc, phải thường xuyên nhắc: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành.” Rồi một chút nữa thì chúng ta lại nhắc nữa: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”. Đó, nhắc hoài. Nhắc cho đến khi mà chúng ta đi hết giờ rồi chúng ta trở vào chúng ta ngồi nghỉ. Đó thì đó là đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Bây giờ đi - câu thứ hai của cái trạch pháp mà đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Thức, hồi nãy câu: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành” đó, bây giờ câu kế nữa:

“Ta đi kinh hành, ta phải tỉnh thức mỗi bước chân ta đi”.

Đó là mình nhắc nó nữa đó. Thay vì bây giờ mình nhắc cái câu thứ nhất nè, mình đi từ đây ra ngoài kia, bắt đầu mình nhắc: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành.” Rồi bây giờ đó, mình nhắc nó câu kế nữa, mình đi một hơi cái mình nhắc câu kế nữa: “Ta đi kinh hành, ta phải tỉnh thức mỗi bước chân ta đi.” Đó, nhắc cho nó đặng nó tỉnh thức ở dưới bước chân, nó không có quên, nó nhớ đó.

Rồi một lát nữa, mình đi tới một đoạn nữa mình nhắc: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành.” Đó, rồi mình đi lúc nữa thì mình lại nhắc: “Ta đi kinh hành, ta phải thức tỉnh mỗi bước chân ta đi”.

Đó, như vậy là chúng ta dùng hai cái câu này mà làm cái pháp hướng để tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức. Đó, thì như vậy là đi kinh hành mà tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức.

4.3- ĐI KINH HÀNH TRAU DỒI LÒNG TỪ

(59:22) 3. Đi kinh hành trau dồi lòng từ

Ở đây là đi kinh hành mà trau dồi lòng từ đây. Đó, thì quý thầy thấy là cái 2, 3, 3 rồi đó, cái thứ 3 này là đi kinh hành trau dồi lòng từ đây.

Ta trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng mà nhắc tâm ta:

Đây là câu pháp hướng để đi kinh hành mà trau dồi lòng từ:

“Dưới chân ta bước đi có nhiều côn trùng nhỏ nhít, ta hãy thương yêu chúng nên phải ý tứ từng bước đi, tránh không làm đau khổ và chết chóc chúng sanh”.

Đó là chúng ta dùng cái câu pháp hướng này, bắt đầu chúng ta đi, chúng ta nhìn ở dưới đường của chúng ta đi, chúng ta tránh không có đạp chúng sanh đó. Đó là cái câu pháp hướng đi kinh hành trau dồi lòng từ.

Chúng ta phải phân biệt được cái pháp nào mà chúng ta - cái đi kinh hành nào ở trong cái vị trí nào chớ! Còn bây giờ chúng ta đi kinh hành ở trong Chánh Niệm Tỉnh Thức mà chúng ta lại tu tập trau dồi lòng từ thì nó cũng tỉnh thức, nhưng mà nó ở trong lòng từ thì nó chưa hẳn là ở Chánh Niệm Tỉnh Thức, đó phải biết rõ như vậy.

Cho nên những cái này đều giúp cho chúng ta được tỉnh thức hết, nhưng cuối cùng thì cái kinh hành thư giản làm cho thân tâm chúng ta bớt mỏi mệt, bớt nhọc nhằn thì nó cũng là giúp cho sức tỉnh thức của chúng ta ở trên cái mức độ cao mà lại thư giãn được thân tâm không mệt mỏi.

4.4- ĐI KINH HÀNH PHÁ HÔN TRẦM

(01:00:45) Số 4:

4. Đi kinh hành phá hôn trầm…​

Đó, ở đây đi kinh hành mà phá hôn trầm đây, chớ không phải là đi kinh hành nào nó cũng phá hôn trầm hết đâu, mà đi kinh hành phá hôn trầm thì nó phải có cái câu như thế nào để mà chúng ta trạch pháp ra mà chúng ta phá hôn trầm.

Đi kinh hành phá hôn trầm, thùy miên.

Cho nên có nhiều người nói tui đi mà sao hôn trầm nó cũng còn hoài, nó chưa hết, là tại vì chúng ta chưa có biết cái đi kinh hành phá hôn trầm thùy miên như thế nào.

Vì vậy mà chúng ta phải trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng mà nhắc tâm chúng ta:

Bây giờ chúng ta dùng pháp hướng nó như thế nào:

“Tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo!”

Đó chúng ta nhắc nó. Bởi vì bây giờ nó lờ mờ, lờ mờ, nó lừ đừ, lừ đừ, nó muốn ngủ rồi, cho nên do đó mà chúng ta phải nhắc nó trước: “Tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo! Không có được lừ đừ nữa!”

Đó là chúng ta nhắc như vậy. Nhưng mà nhắc là nhắc chớ nó chưa có nghe đâu, cho nên lúc bấy giờ chúng ta muốn đi kinh hành chưa phải là chúng ta bước đi một cách tự nhiên được đâu.

Do đó muốn bắt đầu đi kinh hành để cho phá được hôn trầm thì bắt đầu chúng ta chạy lúp xúp, chạy bộ, chạy lúp xúp, hoặc là chạy một chỗ, hoặc là chúng ta chạy đường dài. Chạy một chỗ - chúng ta cứ chạy nhảy lên nhảy xuống, chạy lúp xúp, lúp xúp như vậy đó.

Nghĩa là chạy chừng nào mà chúng ta thấy đổ mồ hôi thôi, thì chúng ta dừng lại, thì lúc bấy giờ mới tỉnh, cái thân của chúng ta mới tỉnh, cái tâm chúng ta mới tỉnh. Chớ bây giờ nó lừ đừ, lừ đừ muốn ngủ, chỉ còn nước mà chúng ta chạy, chạy lúp xúp, lúp xúp như vậy đó thì nó mới có thể hết.

Đó là trước khi muốn đi kinh hành để mà phá hôn trầm thì chúng ta phải vận động cái cơ thể chúng ta và cái tâm của chúng ta cho nó tỉnh thức. Nhưng mà trước khi chạy lúp xúp như vậy thì chúng ta phải nhắc: “Tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo, không được buồn ngủ nữa!” Ra lệnh nó như vậy, rồi bắt đầu chúng ta mới chạy, chạy bộ lúp xúp.

Hai chân kéo lên…​

Nghĩa là chân kéo lên cao đó, chớ đừng có mà sợ nó mỏi chân, cũng như mấy người mà chạy đá banh, họ chạy theo kiểu mà họ tập luyện, chân họ kéo lên cao đó

…​rồi thả xuống rất mạnh, chạy một chỗ hay chạy đường dài.

Nghĩa là chúng ta đứng một chỗ mà chúng ta chạy lên chạy xuống như thế này, để một hơi mồ hôi nó đổ ra rồi thì chúng ta tỉnh lại liền.

Tắm xong, nghĩa là sau khi mà mồ hôi chảy ra rồi, chúng ta đi tắm, đi tắm rồi bắt đầu chúng ta vô chúng ta đi kinh hành thì chúng ta nhắc:

“Thân tâm phải tỉnh thức trong bước đi rõ ràng!”

Đó chúng ta nhắc nó. Bây giờ nó là tỉnh rồi đó, nó không còn buồn ngủ nữa. Nhưng mà coi chừng! Con ma buồn ngủ nó không phải nhường chúng ta đâu, nó cũng có thể chụp cổ chúng ta nữa.

Cho nên chúng ta đi kinh hành - bây giờ nó giảm bớt cái cường độ hôn trầm, thùy miên của chúng ta nhiều rồi, do vì vậy bây giờ chúng ta mới đi kinh hành mà hướng tâm nhắc: “Thân tâm phải tỉnh thức trong bước đi rõ ràng”. Đó.

Nếu còn hơi buồn ngủ thì ra lệnh: “Chân mặt bước! Chân trái bước!”

Mình cứ ra lệnh: “Chân mặt bước” thì mình bước, “Chân trái bước” thì mình bước, mà mình cứ ra lệnh liên tục, mà ra lệnh một cách rất là - dùng cái lực tinh thần của mình nhắc nó, để làm cho mình càng lúc càng tỉnh.

(01:03:54) Đó là cách thức đi kinh hành để mà phá cái buồn ngủ, cái hôn trầm của chúng ta. Đó, quý thầy nhớ chưa? Bởi vậy, nếu mà không có cái kinh hành như vậy thì chúng ta khó mà phá cái hôn trầm, thùy miên của chúng ta lắm, khó lắm!

Cho nên có nhiều người nói: “Tui bị hôn trầm, tui ngồi lại tui hít thở một hơi thở dài cái nó hết.” Nhưng mà hít thở một hơi thở dài, nó hết rồi một lát nữa nó cũng lại lại à, mà mình hít hoài 5, 10 hơi thở mình hoài thì mệt, do đó nó cũng đuối sức mình đi, do vì vậy mà nó lại làm cho rối loạn cơ thể mình thêm mà nó cũng chưa hết buồn ngủ.

Trái lại thì quý thầy biết cách khéo léo đi kinh hành như thế này thì nó sẽ hết buồn ngủ, và vì vậy mà chúng ta vượt qua cái giờ của nó đi, mà vượt qua cái giờ của nó thì nó sẽ tỉnh táo lắm.

Còn quý thầy lấy kinh, lấy sách đồ đọc thì chẳng qua là mượn nó để mà làm cho nó tỉnh táo, nhưng rồi quý thầy không có kinh sách đọc nữa thì quý thầy cũng sẽ bị nó đánh gục nữa, cũng sẽ bị hôn trầm đánh gục nữa. Còn ở đây quý thầy đần cho nó, bắt nó phải chạy, bắt nó phải thế này thế khác, làm riết nó, nó hoảng, nó sợ.

Còn mình ngồi không, mình im im để cái đầu óc mình sử dụng cái trí của mình duyên theo những câu kinh, tiếng sách thì nó cũng tỉnh, nhưng mà nó tỉnh chớ cái cơ thể nó chưa hẳn đã là tỉnh lắm đâu. Vậy cho nên khi đó thì nó cũng vẫn còn có những cái điều kiện chưa có tỉnh táo cả thân và tâm.

Còn cái này, chúng ta dùng pháp hướng, rồi cả đó là dùng pháp hướng để cho tâm tỉnh, rồi cả dùng cái thân động để cho thân tỉnh, cả hai cái này nó đều giúp cho tỉnh hết.

Còn mình ngồi yên, cái tâm của mình nó hoạt động, nó đọc kinh sách thì nó hoạt động, còn cái thân của mình thì đâu hoạt động, cho nên nó vẫn còn cái trạng thái yên lặng của thân. Do đó tuy rằng cái tâm nó tỉnh thì cái thân nó cũng theo đó mà nó tỉnh nhưng mà nó chưa hẳn, nó có cái sự tập luyện nó chưa phá hẳn của cái thân. Còn chúng ta tập luyện như vậy là nó vừa phá hẳn cái thân mà cũng vừa phá hẳn cái tâm làm cho tỉnh, rất tỉnh. Sau đó nó mới sạch cái hôn trầm, thùy miên.

Còn có người dạy chúng ta bị hôn trầm, thùy miên thì treo chân, treo giò lên, ngồi suốt đêm để cho có hôn trầm, thùy miên đến, rồi từng đó nó sẽ hết đi. Sự thật ra không phải, chúng ta đừng có nên hành hạ thân của chúng ta quá khổ, mà chúng ta hãy tập cho nó có những cái vận động như vậy, rồi nó sẽ làm cho chúng ta hết hôn trầm thùy miên và phá đi.

Rồi lần lượt chúng ta còn tu tập những cái sức tỉnh thức ở trong giấc ngủ nữa. Chúng ta nương vào hơi thở để tập cho nó lần lượt thì chúng ta sẽ phá sạch ra hết, hoàn toàn là chúng ta sẽ làm chủ được cái sức tỉnh thức của chúng ta.

5- THÂN NIỆM PHẬT THƯỜNG THƯƠNG XÓT CHÚNG SANH

(01:06:36) Đó thì, bây giờ cái phần thứ 5:

5. Thân Phật không làm hại chúng sanh, thường thương xót chúng sanh…​

Nghĩa là cái thân của Phật là không bao giờ làm cho chúng sanh đau khổ, từ cây cỏ Đức Phật cũng không có đạp cho nó héo úa nữa. Thường thường là cái thân Phật luôn luôn bao giờ cũng làm cho chúng sanh, thương xót chúng sanh chớ không bao giờ làm cho con vật nào đau khổ hết.

…​thì thân ta niệm Phật cũng vậy.

Nghĩa là thân của mình niệm Phật cũng luôn luôn không có làm cho chúng sanh đau khổ, mà cũng luôn luôn phải biết thương xót chúng sanh. Cho nên mình niệm Phật thì tức là mình phải bắt chước y như Phật, Phật làm cái gì thì mình làm cái nấy.

Cho nên ở đây mình trạch pháp cái câu này ra để thường nhắc tâm của mình để cho mình không có làm đau khổ chúng sanh:

“Thân ta niệm Phật phải giống thân Phật, bắt đầu từ đây về sau không làm hại chúng sanh, không ăn thịt chúng sanh, hằng ngày phải thương xót chúng sanh như con mình”.

Đó là cái câu trạch pháp nhắc. Bây giờ chúng ta còn ăn thịt chúng sanh, nhưng mà khi nhắc mãi, nhắc riết rồi chúng ta thấm nhuần rồi, chúng ta thấy hết muốn ăn thịt chúng sanh rồi, vì không thể nào mà…​ Thân mình niệm Phật như thân Phật mà thân Phật thì không ăn thịt chúng sanh, Phật ăn thực phẩm thì Phật biến mãn tâm từ của mình khắp cùng đối với tất cả chúng sanh, thì thân của mình, mình niệm Phật thì mình cũng phải làm y như vậy, chớ tại sao là thân của mình lại ăn thịt chúng sanh, làm đau khổ chúng sanh?

Cho nên do cái câu trạch pháp này làm cho hằng ngày, hằng ngày thấm nhuần thân tâm của chúng ta thấu suốt được cái lý mà không làm đau khổ chúng sanh, cho nên từ đó chúng ta không còn muốn ăn thịt chúng sanh nữa.

Và không còn muốn ăn thịt chúng sanh nữa thì chúng ta thấy mình đã thoát ra được cái nghiệp đau khổ của chúng sanh. Từ đây, cả gia đình của quý vị đều là ăn rau cải, tương dưa mà không cần ăn thịt chúng sanh nữa. Thịt chúng sanh có ngon gì cũng là có cái sự đau khổ, có cái tội ác ở trong đó, nó không phải thiện.

Cho nên từng cái câu trạch pháp này để giúp cho quý vị thân niệm Phật đã trở thành như thân Phật, đã trở thành lòng thương xót chúng sanh.

6- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG LÀM KHỔ CHÚNG SANH

(01:09:00) 6. Thân Phật không làm khổ chúng sanh, thân ta niệm Phật cũng không được làm khổ ai hết.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Thân ta niệm Phật, từ đây về sau ai có chửi mắng, mạ lị, mình không được chửi mắng lại, không được giận hờn, thù oán họ, phải thương yêu họ, hết sức thương yêu họ, vì họ là người đã thọ khổ, vì họ sân hận.”

Đó thì, bắt đầu chúng ta trạch pháp câu này ra để chúng ta tu, thân chúng ta niệm Phật. Thân Phật không có sân hận, không có thù oán ai thì thân mình cũng như vậy, không có sân hận, không có thù oán người khác.

Cho nên mình nhớ, mình nhắc, mình ám thị, mình nhắc mình hoài, do đó mình không có còn sân hận, thù oán ai hết, mình không còn ghét ai hết. Chớ thậm chí người ta chửi mình, người ta mạ lị mình, người ta mắng mỏ mình, người ta sỉ nhục mình, mình hoàn toàn mình không còn có đau khổ nữa. Nghĩa là mình không có giận hờn nữa, mình được giải thoát. Đó là mình đã niệm Phật, thân mình niệm Phật, thân mình đã được giải thoát.

Đó thì, quý thầy thấy mỗi cái mà chúng ta niệm Phật nó đều đem đến cái sự giải thoát thật sự cho thân mình, chớ không phải là thiếu cái sự giải thoát.

Nhớ những cái câu trạch pháp này, quý thầy sẽ hằng đêm, hằng ngày ngồi lại thì quý thầy nhắc cái câu đó để cho chúng ta hằng ngày, hằng đêm thấm nhuần được cái lý này mà đứng trước các pháp, người ta mắng chửi mình, người ta mạ lị mình, người ta sỉ nhục mình, mình không có hờn giận họ nữa.

Bởi vì cái câu này nó thấm nhuần vào tâm hồn của mình, cho nên bây giờ nghe người ta mắng mình, người ta chửi mình, sỉ nhục mình thì mình vẫn thản nhiên, mình không có còn buồn giận ai hết, mà mình biết họ đang khổ, họ sống trong nhân quả.

7- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG TRỘM CẮP

(01:10:50) 7. Thân Phật không bao giờ lấy trộm của ai, thân ta niệm Phật cũng vậy, không bao giờ lấy trộm của ai.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý hằng ngày:

“Người mất của đau khổ, thân ta niệm Phật giống như thân Phật, há mà ta lấy của người không cho để làm cho người đau khổ!”

Đó mình trạch pháp cái câu này ra để nhắc mình, mình không bao giờ lấy của, dù vật lớn, vật nhỏ mình không lấy của ai hết. Vì lấy của người, người mất của người ta khổ sở, người ta mất của người ta tiếc, người ta khổ.

Cho nên thân mình niệm Phật, Phật không bao giờ lấy trộm của ai hết, của không cho nhất định là không lấy. Do vì vậy ta niệm Phật, thân ta niệm Phật, ta cũng như vậy, không lấy của ai hết, hoàn toàn là vật lớn, vật nhỏ, trái cây, cục đường gì cũng không ăn trộm, ăn cắp của ai hết, nghĩa là hoàn toàn.

8- THÂN NIỆM PHẬT TRÁNH XA DÂM DỤC

(01:11:45) 8. Thân Phật đã tuyệt đường dâm dục, thân ta niệm Phật cũng vậy, ta cũng phải tuyệt đường dâm dục. Vì con đường dâm dục là con đường tái sanh luân hồi, là con đường đau khổ, là con đường bất tịnh.

Cho nên chúng ta biết như vậy, Phật thì tuyệt đường dâm dục, cho nên từ khi đi tu cho đến khi về gia đình thì hoàn toàn Đức Phật không bao giờ gần gũi cái người vợ thân yêu của mình nữa, coi như là xa lạ, không có còn cái gần gũi nữa.

Thân Phật đã tuyệt đường dâm dục, nên thân Phật thanh tịnh, trong sáng, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải tuyệt đường dâm dục để cho thân tâm ta được thanh tịnh mới có hy vọng nhập được thiền định, làm chủ được sanh tử, luân hồi.

Ta nên trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng nhắc nhở thân tâm ta sống đúng thanh tịnh, tuyệt trừ dâm dục:

“Thân ta niệm Phật phải tránh xa đường dâm dục, xem dâm dục là hôi thối, dơ bẩn, hãy xa lìa như xa lìa hầm phẩn.”

Đó là cái câu trạch pháp của chúng ta, nhắc nhở chúng ta để chúng ta hằng ngày chúng ta sợ hãi trước cái sự dâm dục. Bây giờ đó Thầy nhắc lại câu này:

“Thân ta niệm Phật phải tránh xa đường dâm dục, xem dâm dục là thứ hôi thối, dơ bẩn, hãy xa lìa như xa lìa hầm phẩn”.

Đó, chúng ta phải tránh xa nó đi chớ đừng có ham thích nó. Nó là con đường sanh tử làm cho con người khổ đau, mọi người đều nơi đó mà sanh ra mà chịu khổ đau từ người này đến người khác, từ tổ tiên ông bà của chúng ta sanh chúng ta ra cho đến bây giờ con cháu của chúng ta cũng đều thọ lấy những cái sự khổ đau này không bao giờ dứt. Cho nên chúng ta phải xa lánh nó như xa lánh cái nơi dơ bẩn nhất, cái nơi hầm hố nhất, cái nơi mà khổ đau nhất.

9- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG ĂN UỐNG PHI THỜI

(01:13:51) 9. Thân Phật không ăn uống phi thời, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải ăn uống không phi thời.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý nhắc nhở thân tâm ta:

“Món ăn là bất tịnh, hôi thối, không có gì ngon dở, chỉ là một ảo giác của dục lạc tầm thường vị giác mà thôi. Ta hãy thấu suốt lý bất tịnh của thực phẩm mà xa lìa, từ bỏ, xem ăn uống là thứ thuốc trị bệnh đói mà thôi”.

Đó là chúng ta trạch pháp cái câu này ra để hằng ngày chúng ta ngồi thiền, chúng ta nhắc nhở, đặt cái câu này trước để rồi chúng ta có thì ăn mà không có thì thôi, không thèm không khát nữa. Có như vậy thì chúng ta mới thấy được sự giải thoát của mình, còn nếu không được vậy thì khó mà có thể giải thoát được.

10- THÂN NIỆM PHẬT THƯỜNG TỈNH THỨC

(01:14:49) 10. Thân Phật thường tỉnh thức không ngủ, không bao giờ có hôn trầm, thùy miên, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải thường tu tập tỉnh thức trong giấc ngủ.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Thân ngủ đi, tâm tỉnh thức trong hơi thở, không được quên!”

Đó chúng ta nhắc nó đó. Bắt đầu chúng ta nằm xuống phải không, chúng ta nhắc, nằm xuống ngủ chúng ta nhắc: “Thân ngủ đi, tâm tỉnh thức trong hơi thở, không được quên nha!” Nhắc nó như vậy để cho mình thở ra, thở vô nó luôn luôn nó biết, mà cái thân thì nó ngủ.

Có như vậy là chúng ta mới thấy rằng tập đúng như Phật, Phật nằm kiết tường, rồi Phật đặt cái hơi thở trước mặt, rồi Phật cũng nhắc nó như vậy, rồi Phật nằm đó suốt đêm, coi như cái thân ngủ mà cái tâm Phật không ngủ, mình cũng bắt chước làm như vậy. Bởi vì thân ông Phật làm sao thì mình niệm Phật thì thân mình cũng phải làm vậy cho nó giống. Cho nên ở đây câu pháp hướng nghe ngắn, gọn mà nó rất đầy đủ cái ý nghĩa.

Thầy nhắc lại: “Thân ngủ đi” - mình ra lệnh nó đi. “Thân ngủ đi” - bảo cái thân nó ngủ đi - “tâm tỉnh thức ở trong hơi thở, không được quên nha!”Mình nhắc nó như vậy thì cái tâm mình nó luôn luôn nó biết hơi thở ra vô.

Khi nằm xuống ta đặt niệm trước mắt, thường hướng tâm như vậy, tu tập từ từ cho đến khi thân ngủ mà tâm tỉnh thức.

Đó là chúng ta tu tập tỉnh thức như vậy đó. Hồi nãy chúng ta tỉnh thức ở trong những cái hành động đi, đứng, nằm, ngồi, bây giờ chúng ta tỉnh thức ở trong khi ngủ nữa.

11- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG NẰM GIƯỜNG CAO, RỘNG LỚN

(01:16:24) 11. Thân Phật không nằm giường cao, rộng lớn, thường ở chòi tranh, vách lá, giường tre, trên tảng đá hoặc trên đất…​

Đó thân của Đức Phật thì không có chấp nhận mà nằm ở trên cái giường cao, rộng lớn, cho nên Phật chế giới ra không có cho mình nằm giường cao, rộng lớn, thì chắc chắn là ông Phật cũng không bao giờ mà chấp nhận nằm giường cao, rộng lớn đâu.

…​thân ta niệm Phật cũng vậy, không nằm giường cao, rộng lớn, gỗ quý, bất kỳ nằm chỗ nào cũng được, miễn là ở chỗ ấy không có sang đẹp để tránh khỏi thân đắm nhiễm.

Trạch pháp câu này ta dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để nhắc nhở tâm ta xa lìa những nơi sang đẹp, êm ái của dục lạc thế gian:

“Thân nằm trên giường cao, rộng lớn, êm ấm là tâm dễ đắm nhiễm, sanh dục lạc ưa mến, ta phải xa lìa, không được bén mảng tới”.

Đó, mình dùng cái câu pháp hướng đó mình nhắc để cho cái tâm mình đừng có ham thích nằm giường cao, rộng lớn, nằm mền, niệm êm, nằm những cái cảm giác làm cho thích thú như kiểu thế gian, nó sanh ra cái tâm không giải thoát, cái tâm không ly dục, ly ác pháp.

12- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG TRANG SỨC, LÀM ĐẸP

(01:17:37) 12. Thân Phật không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt, thân ta niệm Phật cũng vậy, không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý nhắc nhở thân ta:

“Thân là vô thường, thân là bất tịnh hôi thúi, nay còn mai mất, có gì tốt đẹp mà trang sức vòng hoa, chuỗi hạt? Ta hãy từ bỏ, xa lìa nó đi!”

Đó, đây là cái câu pháp hướng để nhắc cho chúng ta xa lìa cái thân mà trang sức của chúng ta. Niệm Phật thì chúng ta phải xa lìa sự làm đẹp, làm tốt, làm cho nó thơm tho, nhưng cái thân là cái thân vô thường, cái thân bất tịnh, nó không có thơm tho gì hết.

13- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG CẤT GIỮ TIỀN BẠC, CỦA BÁU

(01:18:25) 13. Thân Phật không cất giữ tiền bạc, của báu, thân ta niệm Phật cũng vậy, không cất giữ tiền bạc, của báu.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm ta Như Lý Tác Ý:

“Tiền bạc, của báu là rắn độc sẽ giết chết chúng ta, sẽ làm chúng ta đau khổ”.

Đó là cái câu mà chúng ta trạch ra để chúng ta thấy tiền bạc, của báu là những cái thứ độc, là những cái thứ mà có thể làm cho chúng ta đau khổ, cho nên chúng ta xa lìa nó đi. Đừng có nghĩ rằng chúng ta muốn cái này muốn cái kia, đó tức là chúng ta nô lệ cho nó. Còn chúng ta không có thì chúng ta đâu bị nó sai khiến, cho nên chúng ta giải thoát, còn có gì chúng ta khởi muốn là chúng ta bị nó hết.

Đó là những cái câu nhắc cho chúng ta để chúng ta cảnh giác, để chúng ta thấm nhuần, để chúng ta đừng có bị tiền bạc sai mình nữa.

Câu 2:

“Tiền bạc, của báu là vật nguy hiểm, nếu ta cất giữ nó, ta sẽ trở thành nô lệ, đầy tớ trung thành cho nó.”

Nghĩa là tiền bạc, của báu rất là nguy hiểm, nó là ông chủ của mình, nếu mình cất giữ nó, nó sai mình thế này thế khác, biến mình trở thành cái tên nô lệ trung thành cho nó. Cho nên vì vậy đó, coi như vậy chớ nó có quyền lực lắm mà chúng ta không ngờ được, cho nên nó là ông chủ của chúng ta đó.

Bây giờ, chúng ta muốn mình không có trở thành nô lệ, tên nô lệ, tên đầy tớ nó thì chúng ta hãy ném nó đi xuống dưới sông dưới biển hết đi, thì nó không còn sai mình được nữa, nó không còn thành ông chủ của mình được nữa.

Đó, cho nên cái câu trạch pháp này - chúng ta nhớ câu trạch pháp này:

“Tiền bạc, của báu là vật nguy hiểm lắm, là ông chủ. Nếu chúng ta cất giữ nó, chúng ta sẽ trở thành một tên nô lệ, tên đầy tớ trung thành cho nó.”

Vì vậy mà chúng ta nhớ nhắc những cái câu này để rồi chúng ta sẽ không có còn thích thú cất giữ tiền bạc nữa.

14- THÂN NIỆM PHẬT NẰM KIẾT TƯỜNG

(01:20:34) 14. Thân Phật nằm nghiêng theo kiểu kiết tường, thân ta niệm Phật cũng nằm theo kiểu kiết tường như Phật.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở:

“Thân ta hằng ngày cũng nên nằm kiết tường để tâm dễ tỉnh thức, không bị mê muội, dễ đặt niệm hơi thở nhiếp tâm tỉnh thức trong lúc ngủ, không bị chiêm bao”.

Đó thì, chúng ta biết rằng khi mà nằm kiết tường - nằm ngửa, nằm như thế này thế khác thì nó dễ mê muội lắm, mà nằm kiết tường thì nó ít mê muội. Và nằm kiết tường mà lại đặt niệm cái hơi thở của chúng ta ở trước thì chúng ta phá được cái chiêm bao, chúng ta làm chủ được cái giấc ngủ của chúng ta nữa.

Cho nên đặt cái câu trạch pháp này để chúng ta dùng làm cái pháp hướng nhắc nhở chúng ta, thì quý thầy sẽ đọc lại cái câu này:

“Nằm kiết tường, tâm dễ tỉnh thức, không bị mê muội, dễ đặt niệm hơi thở nhiếp tâm tỉnh thức trong lúc ngủ, không bị chiêm bao”.

Đó là cái nhắc nhở chúng ta luôn luôn phải nằm ở trong cái kiểu kiết tường, và luôn luôn đặt cái niệm hơi thở, nhiếp phục cái tâm mình, không có cho nó chiêm bao. Đó thì nhớ cái câu này là nhắc cho chúng ta để chúng ta luôn luôn chúng ta nằm kiết tường, là chúng ta phải đặt niệm hơi thở để làm chủ giấc ngủ, để phá cái chiêm bao chiêm mị của chúng ta.

Đó là thuộc về cái phần thân niệm Phật. Đến đây là cái phần thân niệm Phật đã hết rồi, bây giờ tới cái thọ niệm Phật. Chúng ta nghỉ một chút./.

HẾT BĂNG

50 - PHÁP HÀNH THỌ, TÂM NIỆM PHẬT 01 - CÁCH TỔ CHỨC ĐI KHẤT THỰC

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 50 - PHÁP HÀNH THỌ, TÂM NIỆM PHẬT 01 - CÁCH TỔ CHỨC ĐI KHẤT THỰC

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- PHÁP HÀNH THỌ NIỆM PHẬT

(00:00) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học của chúng ta, tức là bây giờ tới Thọ niệm Phật. Hồi nãy là chúng ta đã học Thân niệm Phật, bây giờ chúng ta lại Thọ niệm Phật. Bởi vì Thân, Thọ, Tâm, Pháp - Thân đã niệm Phật rồi thì bắt đầu bây giờ tới Thọ niệm Phật.

Thọ niệm Phật như thế nào?

Thân Phật đã làm chủ được ba trạng thái của thọ:

1. Thọ lạc

2. Thọ khổ

3. Thọ bất lạc bất khổ

Đối với ba thọ:

1. THỌ LẠC KHÔNG ƯA THÍCH

(00:36) 1. Phật thọ lạc không làm tâm Phật ưa thích, không vui mừng, không ca ngợi, không cầu mong, không ước muốn, không tưởng nhớ.

Thọ ta niệm Phật cũng vậy, giống như Phật: Không ưa thích, không vui mừng, không ca ngợi, không cầu mong, không ước muốn, không tưởng nhớ, nhờ thế thọ ta không tác dụng được, không lôi cuốn được, không làm cho ta đắm đuối mê mờ.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

Ở đây chúng ta thấy rằng Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết rằng cái thân của chúng ta nó có ba cái thọ: thọ lạc, thọ khổ và thọ bất lạc bất khổ, và ở trong ba cái thọ này Đức Phật không có chấp nhận cái thọ nào hết.

Thọ lạc Đức Phật cũng không thích, mà thọ khổ Đức Phật cũng không sợ, mà thọ bất lạc bất khổ Đức Phật cũng không cho nó là Niết Bàn cứu cánh, toàn là cái thứ thế gian phàm tục. Những cái thọ này đối với Đức Phật - xem như là nó không cám dỗ được Đức Phật.

Do đó bây giờ chúng ta lấy cái thọ mà niệm Phật, thì cái thọ của Phật như thế nào thì cái thọ của chúng ta như phải thế nấy. Cho nên chúng ta phải tập nó như vậy. Nhưng muốn nói như vậy mà không có pháp tu, không có pháp hành thì làm sao mà chúng ta đạt như vậy được?

Cho nên chúng ta phải có pháp hành để cho chúng ta càng ngày nhờ cái pháp hành đó, nhờ cái giới hành đó mà chúng ta thấm được cái lý của nó, cho nên chúng ta hoàn toàn là chúng ta mới không có đắm đuối theo thọ lạc, không có sợ hãi theo thọ khổ, không có ham thích theo thọ bất lạc bất khổ.

“Thọ lạc…​”

Bây giờ chúng ta trạch pháp cái câu này ra để mà chúng ta dùng pháp hướng đây:

“Thọ lạc là vô thường, khi có sanh ra khả ái, khả hỷ, khả lạc nhưng chỉ chốc thời, không được lâu dài. Vì thế thọ là nguy hiểm, là tai họa, là khổ đau, ta phải đoạn dứt, không được ham thích, say đắm, không được để chúng lôi cuốn, không được để tâm ta sa ngã theo chúng”.

Đó là cái câu trạch pháp mà chúng ta nhắc nhở. Và chúng ta cũng phải hiểu rõ nó là vô thường. Tại sao nó vô thường? Chúng ta quán xét. Bởi vì chúng ta khi mà trạch pháp câu này ra thì chúng ta phải có một cái sự hiểu biết của nó để chúng ta thấu suốt được.

Nó vô thường như thế nào? Thân của chúng ta bây giờ nó đang có cái sự thích thú, an ổn, hoặc là chúng ta đang ăn cái món ăn đó ngon, đó là nó có cái cảm giác thích. Vậy là bây giờ khi nuốt hết cái món ăn đó rồi thì nó mất đi, nó không còn nữa, như vậy là nó có thường không? Tức là vô thường.

(03:26) Cũng như thân ta bây giờ nó không có bệnh đau nè, nó nghe nó an ổn nè, rồi lát nữa cái nó nhức đầu, vậy thì nó có thường không? Nó là vô thường.

Cho nên khi mà thọ lạc nó sanh ra thì chúng ta thích lắm, cho nên nó gọi là khả ái, khả hỷ, khả lạc, nhưng mà nó chỉ có một chút là nó hết liền. Cũng như có người đi xa về gặp mình vui có một chút, rồi mai mốt đâu có vui nữa, đâu có vui hoài đâu, vui có bữa đó thôi, vui có hồi nãy đó thôi, còn bây giờ thì hết vui rồi.

Đó thì tức là cái vui đó nó không có kéo dài mãi, cho nên nó vô thường, lúc sanh ra rồi lúc mất, nó không có - vô thường. Vì thế chúng ta hiểu biết được cái thọ của thế gian, thọ của thân mình đều hoàn toàn là vô thường. Mà nó nguy hiểm, khi muốn cầu mong được cái thọ đó thì nó phải trải qua nhiều cái sự kiện nó xảy ra.

Thí dụ như trước khi mà có người thân đi xa bây giờ về gặp nhau mừng, thì trước khi đó, khi có duyên gì mà cái người đó đi xa thì chúng ta có buồn tủi không, có thương nhớ không? Thương nhớ, buồn tủi. Rồi bây giờ lâu ngày mới trở về gặp nhau, mới có vui mừng, cho nên bây giờ mà vui mừng thì nhớ trước kia, cái ngày mà chia tay ra đi, không biết còn sống hay chết, luôn luôn lúc nào cũng sầu khổ.

Rõ ràng là cái thọ lạc của nó đem đến cái niềm vui thì phải có cái sự khổ rồi mới có cái sự vui, cũng như có cái sự vui rồi thì nó sẽ đến cái sự khổ. Cho nên chúng ta phải thấy nó là nguy hiểm, là tai họa, là khổ đau.

Do biết nó là nguy hiểm, tai họa, khổ đau đó cho nên chúng ta phải đoạn dứt, không có ham thích theo nó, không có say mê theo nó, không có vui theo cái kiểu mà như vậy được nữa, vì vui đó rồi khổ đó. Cho nên chúng ta không có để cái thọ lạc đó mà làm cho tâm ta sa ngã.

Đó vì vậy cái câu trạch pháp này là chúng ta hiểu rõ như vậy, cho nên chúng ta nhắc như vậy thì chúng ta không còn say đắm nữa. Chớ còn không khéo thì chúng ta dễ say đắm lắm, dễ bị sa ngã nó cám dỗ. Cái thọ lạc này nó cám dỗ chúng ta dữ lắm.

Cái thọ khổ thì chúng ta sợ đó, nhưng mà cái thọ lạc này chúng ta không sợ đâu, mà chúng ta ham lắm. Vì thế gian mà người ta sống được tại vì có cái thọ lạc này mà người ta thích sống đây.

Cũng như một người sắp chết rồi mà vẫn thấy có cái giọt mật mà ngon thì họ vẫn thích, họ muốn chết rồi đó, họ sắp chết rồi mà họ vẫn còn thấy cái ngon của thế gian họ còn thích ăn, họ thích nếm chớ chưa phải họ muốn bỏ đâu.

Cho nên vì vậy mà chúng ta biết rằng cái thọ lạc nó đem đến chúng ta khổ lắm chớ không phải là sung sướng gì đâu. Nó chỉ là chốc thời, nó chỉ là chớp mắt mà nó đem đến cho chúng ta nhiều cái khổ sau này.

2. THỌ KHỔ KHÔNG SỢ HÃI

(06:04) 2. Phật thọ khổ, Phật không sợ hãi…​

Nghĩa là gặp khổ như đau nhức, bệnh tật thì Đức Phật không có sợ hãi. Còn chúng ta mà đau nhức này kia nọ thì chúng ta sợ lắm, sợ chết nè, sợ khổ nè, sợ nhức, đủ thứ lo lắng buồn rầu, ăn không được, ngủ không được nữa. Nghe cái thân đau nhức chỗ nào đó, chúng ta thôi quá khổ. Còn ông Phật thì mặc nó, ổng chẳng hề sợ hãi gì hết, cho nên Phật không có sợ hãi cái thọ khổ.

…​ cũng không chán ghét nó, cũng không lo lắng, không buồn rầu, không ưu não, và luôn luôn Phật bất động trước các thọ khổ.

Nghĩa là trước các thọ khổ. Cho nên Phật nói chịu đau cái sức tận cùng của cái thân chúng ta mà Đức Phật vẫn thản nhiên, không để cho tâm mình dao động, thì nó có một sự mát lạnh ở chỗ tận cùng của sức chịu khổ của cái thân chúng ta.

Đó, thì như vậy là chúng ta đã thấy biết rằng Phật không có sợ hãi cái thọ khổ, Phật không có lo lắng, không có buồn rầu cái thọ khổ.

Như ai có thân này cũng đau cũng nhức, cũng tai nạn này tai nạn khác, nhưng mà đối với Phật thì Phật rất thản nhiên, đối với ta thì chúng ta gặp cái thọ khổ là chúng ta sợ hãi, chúng ta không có dám, chúng ta lo lắng, chúng ta buồn rầu, trái lại Phật không buồn rầu, không lo lắng gì hết. Tại vì nhân quả thì phải có thọ khổ thôi, mà thọ khổ thì mặc nó chớ đâu phải vì mình mà mình sợ nó!

Cho nên khi quý thầy thấy quý thầy có những cái thọ khổ đó, quý thầy có những cái bệnh tật mà quý thầy cứ lo lắng cho bệnh tật mình thế này thế khác, thì tức là quý thầy đã bị cái thọ lôi cuốn quý thầy rồi, làm cho quý thầy bất an rồi, tâm quý thầy dao động.

Còn bằng không mà nếu quý thầy chẳng có sợ hãi, quý thầy đặt cái niệm thọ trước mặt, quý thầy mới câu hữu với sắc thọ, hoặc thức thọ, hoặc hành thọ, hoặc tưởng thọ, quý thầy câu hữu, quý thầy đặt ở trước mặt quý thầy, quý thầy quán xét, quý thầy tư duy, quý thầy đập nó xuống, quý thầy chẳng rung động trước cái thọ khổ của quý thầy thì quý thầy làm chủ được thọ khổ. Cho nên quý thầy vượt thoát ra nó, mà thân nghiệp của quý thầy cũng sẽ hết.

Cho nên hầu hết là một số quý thầy tu hành mà trước cái thọ khổ, trước cái bệnh tật của quý thầy, tức là trước cái nghiệp thân của quý thầy quá đau khổ đó, tức là thọ khổ đó, quý thầy lo lắng thế này thế khác, nghĩ rằng thân mình phải mạnh mới tu được, đau ốm thì tu không được, bây giờ như thế này thế khác. Cứ lo lắng, sợ hãi như vậy thì chẳng tu gì được hết.

Trái lại, đặt cái niệm thọ khổ đó trước mặt của mình, rồi dùng cái trí, cái tri kiến giải thoát quán xét, tư duy, đập nó xuống, phá toang nó ra, nó không còn có nữa, thì như vậy là quý thầy sẽ thấy cái nghiệp thân của quý thầy giải thoát hoàn toàn, nó không còn làm cho quý thầy đau khổ.

Ta lấy thọ niệm Phật cũng vậy, giống như Phật, phải gan dạ, phải kiên trì, phải đầy đủ nghị lực, phải dũng cảm, phải chiến đấu với thọ, không sợ hãi, không chán ghét, không lo lắng, không buồn rầu, không ưu não, luôn luôn giữ tâm bất động trước các thọ khổ.

Ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để giữ tâm bất động trước thọ khổ:

(09:16) Đó, thì khi một cái người mà tu theo đạo Phật thì chúng ta phải thấy cái thọ khổ. Nếu mà chúng ta không có hiểu thấu được cái thọ khổ thì khi gặp cái thân nghiệp của chúng ta - nó mang cái thân từ khi mà sanh ra cho đến khi mà chúng ta chết, có nhiều người mang cái thân có cái nghiệp nó đau từ nhỏ chí lớn, mà nếu mà không có cái chỗ mà tu tập, không có được cái định mà tu tập để quét sạch nó thì chắc chắn là tới khi chết mà quý thầy cũng chưa hết cái nỗi khổ của cái thọ của mình.

Còn biết như vậy thì chúng ta sẽ tu tập đúng cách. Cái phần này là sau khi mà giảng xong cái giáo án này xong thì Thầy sẽ dành riêng cho những cái người mà có cái thân nghiệp nặng một cái bài pháp để giúp cho họ đặt cái niệm thọ mà tu cái Định Vô Lậu để quét sạch cái niệm thọ, phá đi những cái nhân quả đời trước của họ mang cái thân ra đã có cái bệnh, để giúp cho họ thoát ra cho khỏi những cái nghiệp thân đó, bằng những cái pháp có những cái ý nghĩa của Phật pháp để giải thoát họ ra khỏi cái thọ.

Chúng ta phải dùng cái câu này để mà trạch pháp để tu, để mà sống đúng như cái thọ của Phật:

“Thọ khổ…​”

Chúng ta phải thấy nè:

“Thọ khổ không từ đâu đến, không từ đâu đi, toàn là do duyên ác mà có thọ khổ, do quả ác kết trái mà có thọ khổ. Ta cứ giữ tâm bất động, thọ đến thọ đi mặc thọ, chẳng tác dụng ta được, do thế thọ sẽ tịnh chỉ hoàn toàn.”

(11:04) Đó, như vậy thì các thầy sẽ dùng cái câu trạch pháp này mà khi gặp cái thân quý vị đau bệnh thì quý vị đặt cái câu này quý vị nhắc cái tâm của quý vị:

“Thọ khổ không từ đâu đến…​”

Nó không phải ở ngoài nó đến vô thân ta đâu, mà nó cũng không từ đâu nó đi, hoàn toàn là nó do duyên hợp mà thành mà, cho nên:

“…​ toàn là do duyên ác mà có thọ khổ, do quả ác kết trái mà có thọ khổ. Ta cứ giữ tâm bất động, thọ đến thọ đi mặc thọ, chẳng tác dụng được tâm ta, do thế thọ sẽ tịnh chỉ hoàn toàn”.

Đó, chúng ta phải hiểu được như vậy thì chúng ta mới tịnh chỉ được các thọ. Có như vậy thì chúng ta mới làm chủ được cái thọ của chúng ta, chớ còn nếu không thì chúng ta yếu đuối đây rồi chúng ta sẽ bị thọ nó làm chúng ta bò càng bò niểng, sợ hãi.

Đó thì như vậy là cái câu trạch pháp này quý thầy phải nhớ kỹ để thường nhắc nó.

Câu thứ hai:

“Thọ là vô thường, không có ngã, ta chẳng hề sợ hãi và nao núng. Thọ khổ hãy đi đi!”

Đó cái câu thứ hai là chúng ta đuổi nó đi đi: “Bây giờ mày nhức cái đầu, mày đi đi, đừng ở đây!” “Mày là vô thường, lúc mày có, lúc mày không, tại sao hôm qua mày không có nhức đầu mà bữa nay mày nhức đầu? Cho nên mày đi đi! Mày không phải là cái ngã.” Cho nên vì vậy đó, cái câu pháp hướng này để giúp cho chúng ta đánh đuổi cái thọ nhức đầu của chúng ta.

Đó Thầy nhắc lại câu hai:

“Thọ là vô thường, không có ngã, ta chẳng hề sợ hãi và nao núng. Thọ khổ hãy đi đi!”

Đó là chúng ta đuổi nó đi đi.

Câu ba:

“Thọ khổ là vô chủ, không phải của ta, không phải của ai hết, của nhân quả duyên hợp. Vậy thọ hãy đi đi!”

Nó là do duyên hợp của nhân quả mà, do ngũ uẩn là duyên hợp của chúng ta mà, bây giờ nó có thọ nhức cái đầu hay hoặc đau cái bụng đây, nó không phải của chúng ta đâu. Nó bây giờ nó đau, đi cầu không được, nó nhức nhối đây, nó đều cũng là cái nhân quả thôi. Cho nên đi đi chớ đừng có ở đây! Cho nên mình cứ ra lệnh mình đuổi nó đi.

Thọ khổ là vô chủ - nó không có chủ mà. Nó không phải của ta mà không phải của ai hết à. Nó do cái nhân quả mà hợp lại…​ (Mất tiếng)

(13:26) Câu hai:

“Thọ là vô thường, không có ngã, ta không hề sợ hãi và nao núng. Thọ khổ hãy đi đi!”

Câu ba:

“Thọ khổ là vô chủ, không phải của ta, không phải của ai hết, của nhân quả duyên hợp. Vậy thọ hãy đi đi!”

Đó là câu thứ ba, chúng ta cũng đuổi nó, không có cho nó…​

Cho nên thường thường là lúc tuổi chúng ta già, chúng ta yếu, dễ hay có thọ lắm, cho nên lúc nào chúng ta cũng dùng những cái pháp hướng này đuổi nó đi: Nhức đầu, nhức chân, nhức tay, nhức khớp xương hay hoặc cái gì, tất cả chúng ta cũng đuổi nó đi.

Nó là cái tụi vô thường, cái tụi mà nó do cái nhân quả duyên hợp mà nó thành, nó tạo ra, bây giờ chúng ta cảm giác thấy cái thọ khổ chớ không phải là ai mà cảm giác thấy thọ khổ này hết, tại thọ là thọ như vậy. Cho nên chúng ta phải mạnh dạn mà đập đầu nó, đuổi nó đi, không có cho nó…​

Câu bốn:

“Thọ khổ không phải trong ta, không phải ngoài ta, thọ là duyên hợp của nhân quả mà có, không phải của ta, không phải của ai. Vậy thọ khổ hãy đi đi, đừng có ở đây, đừng có làm khổ ta!”

Đó, chúng ta đuổi nó đi đi. Khi nào mà chúng ta bị cái gì mà khổ trong thân của chúng ta, cái cảm thọ của chúng ta, thì chúng ta phải hoàn toàn là xách đầu nó, đập nó xuống, đuổi nó đi, không có được để cho nó bén mảng vào cái thân của chúng ta, vào cái chỗ nào mà đối với chúng ta, để cho tâm chúng ta bất động hoàn toàn, an ổn hoàn toàn.

Đó là cái phần thọ khổ đến đây đã hết, vậy thì ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục học thọ bất lạc bất khổ. Bây giờ chấm dứt.

3. THỌ BẤT LẠC BẤT KHỔ KHÔNG PHẢI CỨU CÁNH NIẾT BÀN

(15:02) Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục học. Cái thọ thứ ba là cái thọ bất lạc bất khổ.

Bất lạc bất thọ khổ đó là một cứu cánh, một Niết Bàn mà người xưa trong cái thời Đức Phật có lục sư ngoại đạo họ cũng cho cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ là Niết Bàn, là cứu cánh. Ngày nay cũng có một số người chấp nhận cái chỗ bất lạc bất thọ khổ này là cái chỗ “chẳng niệm thiện niệm ác”, là cái chỗ “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, là cái chỗ “da mỏng, da dày đều rớt sạch”, bản thể của vũ trụ.

Thật ra thì cái chỗ này không có thọ khổ của các pháp của thế gian, nhưng nó là một trạng thái của một cái ý thức, cái tâm thức của con người, nó không có phải là cái chỗ cứu cánh giải thoát.

Vì cái chỗ này tuy rằng bất lạc bất thọ khổ, nhưng khi mà có một cái điều kiện lạc hoặc khổ thì ngay đó cái tâm của con người ở trong cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ này liền dao động.

Thí dụ như có một cái điều kiện gì xảy đến làm cho họ vui mừng thì ngay đó cái bất lạc bất thọ khổ này liền mất đi để nhường lại cho cái thọ lạc đó. Còn nếu có một cái trạng thái gì đau khổ, nhức nhối hay hoặc là giận hờn thì ngay cái thọ bất lạc bất thọ khổ này nó cũng mất đi, nó nhường lại cho cái thọ khổ đó.

Do đó, cái thọ bất lạc bất thọ khổ này không phải là cái chỗ cứu cánh.

Còn cái chỗ cứu cánh nó không phải ở trong cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ mà ở chỗ trạng thái là cái tâm nó không có dao động, nó bất động. Khi có một cái trạng thái lạc thì cũng không cám dỗ được nó, nó cũng bất động, mà khi có cái trạng thái khổ thì nó cũng bất động, nó không bị duyên theo thọ lạc và thọ khổ.

Còn cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ này thì luôn luôn nó bị duyên theo, hễ cái lạc thì nó chạy theo cái lạc thì nó mất cái bất lạc bất thọ khổ, mà cái thọ khổ đến thì nó cũng bị dao động theo, nó không có giữ được cái bất lạc bất thọ khổ này.

Cho nên đối với Phật thì Phật không có chấp nhận cái chỗ này là cái cứu cánh, là cái Niết Bàn, là cái bản thể của vũ trụ. Mà chính đạo Phật chấp nhận là trước mọi cái hoàn cảnh, mọi cái sự khó khăn, mọi cái lạc, cái thọ khổ mà cái tâm không dao động, thì chính cái chỗ đó mới là Niết Bàn, mới là cứu cánh của con người tu theo đạo Phật.

(18:07) Thân Phật thọ bất lạc bất khổ, Phật cho đó là một trạng thái còn phàm phu, không phải là cứu cánh, Phật không chấp nhận.

Ở đây quý thầy phải hiểu: Ngay chỗ thọ lạc mà chẳng sanh ưa thích, ham mê tức là tâm bất động trước thọ lạc, đó là Phạm hạnh, mục tiêu của Phạm hạnh. Ngay chỗ thọ khổ mà chẳng sanh tâm sợ hãi, dao động, đó là Phạm hạnh, là mục tiêu của Phạm hạnh, là giải thoát của đạo Phật.

Đó thì, như vậy quý thầy thấy rất rõ cái chỗ bất lạc bất thọ khổ này chỉ là một trạng thái bình thường của một người không lạc, không khổ chớ không phải tâm bất động. Tâm vẫn còn dao động, tâm vẫn còn chạy theo lạc hoặc là sợ hãi trước cái thọ khổ.

Ngay cái chỗ thọ bất lạc bất khổ mà sanh ưa thích, thấy cái trạng thái nó bất thọ lạc bất thọ khổ này tưởng là giải thoát, rồi sanh cái tâm ưa thích, cho nó là cứu cánh, là Niết Bàn thì đó là một cái tâm chấp trước. Cái tâm chấp trước như vậy là nó dính mắc vào cái chỗ chấp trước đó, cho cái trạng thái đó là cái cứu cánh của mình, thì đó là bị dính vào cái chỗ chấp trước.

Dao động nên chẳng phải là phạm hạnh cứu cánh, vì cái chỗ này nó dễ bị dao động, vì còn chấp trước nó cho nên có một cái gì thì nó dễ bị dao động. Còn cái kiến chấp nó, cho nó là cứu cánh thì tức là nó sẽ bị dao động ở chỗ đó.

Thọ ta niệm Phật, chỗ bất lạc bất thọ khổ này ta vẫn thản nhiên, không để tâm dao động, cũng không chấp trước thì đó là Phạm hạnh, là mục tiêu của Phạm hạnh, thì đó là tâm bất động giải thoát của mọi con người, và chính chỗ đó là chỗ của đạo Phật chấp nhận cái Phạm hạnh giải thoát của người tu theo đạo Phật. Chớ không phải chỗ bất lạc bất thọ khổ này mà cái chỗ bất động, bất động tâm.

Ta trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng dẫn tâm Như Lý Tác Ý để xả cái trạng thái tâm bất thọ lạc, bất thọ khổ này:

Ta trạch pháp như thế này:

“Thọ bất lạc bất khổ không phải là cứu cánh Niết Bàn, nó là một trạng thái không lạc, không khổ của phàm phu, vì thế chưa phải là cứu cánh, nên ta hãy từ bỏ, buông xuống, không được chấp trước nó, không được trụ ở nó mà phải bỏ đi. Hãy đi đi, đừng có ở trong ta nữa!”

Đừng có ở trong cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ này trong ta nữa!

Đó là cái câu trạch pháp, Thầy xin đọc lại:

“Thọ bất lạc bất khổ không phải là cứu cánh Niết Bàn, ta hãy từ bỏ, buông xuống, không được trụ ở trạng thái này nữa!”

Đó là cái câu mà chúng ta hướng và nhắc tâm chúng ta hằng ngày để chúng ta đừng có chấp cái thọ bất lạc bất khổ này.

2- PHÁP HÀNH TÂM NIỆM PHẬT - PHẦN 1

[Phần 2 ở Giáo án 52]

1. TÂM PHẬT KHÔNG CÓ HAM MUỐN

(21:41) Bây giờ chúng ta tiếp tục Tâm niệm Phật.

1. Tâm Phật không có ham muốn. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không ham muốn các pháp thế gian.

Đối với các pháp thế gian thì Đức Phật đã xả bỏ hết, không còn để một cái pháp nào trong tâm mà Đức Phật chấp nhận, cho nên Ngài bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh mà Ngài ra đi tìm con đường giải thoát, cho nên Ngài không còn ham muốn cái gì cả hết, chỉ còn tìm lấy cái sự giải thoát sanh, lão, bệnh, tử.

Cho nên tâm ta niệm Phật thì ta cũng phải như Phật vậy, không có ham muốn gì hết, bỏ xuống hết giống như Phật.

Muốn giống được như Phật ta nên trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Các pháp thế gian là vô thường, là khổ, ta không nên tham muốn nó mà phải từ bỏ, xa lánh nó, đừng có bén mảng đến những pháp thế gian, nó là khổ!”

Đó là chúng ta dùng cái câu pháp hướng như vậy. Thầy xin nhắc lại để chúng ta nhớ lại cái câu pháp hướng cho rõ:

“Các pháp thế gian là pháp vô thường, là khổ, ta không nên tham muốn, hãy từ bỏ, hãy xa lánh cái lòng tham muốn đó đi!”

2. TÂM PHẬT KHÔNG THAM ĐẮM THẾ GIAN

(23:11) 2. Tâm Phật không tham đắm một vật gì ở trong thế gian. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không tham đắm một vật gì ở trong thế gian.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm Như Lý Tác Ý:

“Các pháp thế gian có sự cám dỗ và sự lôi cuốn, ta không nên tham đắm, vì tham đắm là khổ và làm nguy hiểm cho mình, là tai họa, ta hãy từ khước, từ bỏ và xa lánh nó!”

3. TÂM PHẬT KHÔNG SÂN

(23:53) 3. Tâm Phật không sân. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không sân hận đối với một ai.

Ta nên trạch pháp câu này để thường nhắc nhở tâm ta, như cái lý giải thoát mà tác ý ra:

“Sân hận là pháp khổ đau, làm cho mình khổ mà còn khiến cho người khác khổ. Ta hãy dứt bỏ không được sân hận dù bất cứ với một ai hết!”

Đó thì, quý thầy phải nhớ là lúc nào mình cũng như cái lý này mà tác cái ý ra để nhắc nhở cái tâm của mình không có còn sân hận. Vì sân hận là một cái pháp rất là ác, nó làm cho khổ mình và khổ người, người mà lấy tâm niệm Phật thì không để cho tâm mình sân hận.

Câu 2:

“Sân hận là một pháp rất ác, phải dứt bỏ ngay, không được lưu lại ở trong tâm ta một chút nào!”

Muốn được như vậy thì hằng ngày lúc nào rảnh rang chúng ta cũng phải như cái lý mà tác ý nó, để vạch mặt nó, cho biết nó là một cái pháp rất ác mà chúng ta cố gắng để mà xa lìa nó.

4. TÂM PHẬT KHÔNG CÓ NGHI NGỜ

(25:19) 4. Tâm Phật không có nghi ngờ. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không nghi ngờ ai cả.

Vì nghi ngờ là một tánh xấu ác làm cho tâm ta bất an, làm cho ta nghi kỵ đối với người khác, không có thân tình, làm cho người khác cũng đau khổ.

Muốn được vậy, ta trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng, hằng ngày như cái lý mà tác ý ra để dứt bỏ cái tâm nghi:

Câu pháp hướng đây:

“Nghi là một ác pháp làm khổ mình, khổ người. Từ đây ta phải dứt bỏ, ta phải từ giã, lìa xa tất cả những gì nghi nan, nghi ngờ người khác. Cái lòng nghi hãy đi đi, đừng ở trong ta nữa!”

Khi mà ta trạch pháp cái câu này rồi thì chúng ta cứ nhớ nhắc.

Vì cái tâm nghi kỵ, vì cái tâm nghi ngờ thấy cái người nào mà hơi có cái vẻ sanh nghi thì làm chúng ta phải bận tâm, hết sức bận tâm, là phải nhìn ngó họ, phải xem xét họ, rồi theo dõi họ bằng cách này bằng cách kia, cho nên ta rất bận tâm. Vì vậy nó làm cho chúng ta rất khổ. Rồi cái người khác mà nhận ra được mình mà theo dõi họ như vậy đó thì họ sanh ra ghét và không ưa mình.

Cho nên đối với ta thì phải hiểu rõ cái tâm nghi đã làm cho mình rất khổ là phải cứ theo dõi người khác, phải để ý người khác. Rồi người khác mà hiểu được mình theo dõi họ như vậy thì họ sanh ra ghét, họ sanh ra thù hận, rồi họ đâm ra tìm cách nói xấu mình, hoặc là họ tìm cách này cách khác để hại mình.

Vì thế mà chúng ta muốn cho cái tâm nghi này nó không có ở trong mình nữa thì hằng ngày chúng ta hãy trạch những cái câu mà hồi nãy Thầy đã dạy ở trên đó, thường phải nhắc cho nó.

Cho nên ai làm gì thì chúng ta chẳng để ý, chẳng nghi ngờ ai hết. Ai làm ác thì họ chịu lấy, ai làm thiện thì họ nhờ, chớ chúng ta chẳng nghi họ là trộm cắp, hay nghi họ nói xấu mình, hay nghi họ thế này thế kia. Vì cái nghi nó làm cho chúng ta rất khổ tâm, và cứ phải để ý người khác nó rất mệt.

Cho nên chúng ta biết nó là tạo cho chúng ta khổ thì chúng ta hãy lấy câu đó - lấy cái tâm niệm Phật để mà diệt trừ cái tâm nghi. Vì ông Phật, tâm Phật không bao giờ có nghi ngờ ai hết, và mình lấy tâm mình niệm Phật thì mình cũng xả bỏ, cũng diệt trừ, cũng dứt đoạn cái tâm nghi, đừng có để nó trong lòng của mình. Đó, có như vậy được thì chúng ta mới có được an vui, mới có được hạnh phúc.

5. TÂM PHẬT KHÔNG TỊ HIỀM

(28:44) Bây giờ về cái phần:

5. Tâm Phật không tị hiềm. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không tị hiềm ai hết.

“Tị hiềm là một tánh xấu ác làm khổ mình, khổ người, ta hãy dứt bỏ, xa lánh, từ khước, viễn ly, đừng để nó bén mảng ở trong tâm ta!”

Đó, thì chúng ta cũng phải hiểu cái tâm mà tị hiềm: Tị là mình ganh tị, hiềm là mình hiềm hận. Ganh tị là mình thấy người ta hơn mình thì mình sanh cái lòng ganh tị, mình không muốn họ hơn mình.

Thấy họ giàu hơn mình thì mình sanh cái lòng ganh tị với họ, không có muốn cho họ hơn mình. Thấy họ học giỏi hơn mình, mình cũng sanh cái lòng ganh tị, không có muốn ai học giỏi hơn mình. Thấy họ hơi tu giỏi hơn mình thì mình cũng đâm ra ghét họ, rồi mình tìm cách nói xấu hay hoặc phá họ, không có để cho họ yên ổn tu hành.

Từ đó chúng ta thấy cái lòng tị hiềm nó tạo cho chúng ta nhiều cái tánh xấu, cái tánh ác ở trong đó, nó làm cho mình bất an mà người khác cũng không an. Do cái tánh đó như vậy, nó làm cho mình càng ngày càng lui chớ không có tiến ở trên con đường tu tập.

Do biết thấy được cái lòng tị hiềm là cái lòng quá xấu như vậy thì chúng ta phải cố gắng lấy cái tâm của mình mà niệm Phật, cũng giống như Phật, không có tị hiềm ai nữa hết, bỏ xuống.

Vì ai hơn thì mình mừng, ai tu tốt thì mình mừng, ai làm giàu thì mình mừng, mình mừng mình vui theo, mình hoan hỷ với họ, chớ mình không có ganh ghét họ, mình không có nói xấu họ bằng cách này hoặc bằng cách khác.

Cho nên cái lòng tị hiềm là cái lòng rất là tệ hại, do vì vậy mà chúng ta phải cố gắng mà xa lánh nó, từ giã nó, từ khước nó.

(31:05) Muốn được vậy ta hãy trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng chặt đứt nó:

Chặt đứt cái lòng tị hiềm.

Thường thì hằng ngày chúng ta ngồi thẳng lưng kiết già, đặt cái niệm tị hiềm trước mắt, rồi đặt cái pháp hướng, rồi chúng ta dùng cái pháp quán, chúng ta suy tư: Cái lòng tị hiềm của mình nó đưa mình đi đến những cái nỗi khổ nào, mình ganh ghét họ như thế nào, mình thấy họ hơn mình, mình ganh ghét họ làm sao, rồi nó làm cho mình khổ đau như thế nào, thì mình quán xét cho thấu suốt được cái lòng tị hiềm của mình, từng đó mình thấy nó đem đến bao nhiêu sự khổ đau cho chính mình.

Rồi cũng từng hiểu biết như vậy đó, mình mới dùng cái pháp hướng, một cái câu để mình trạch ra, để mình đuổi nó đi, mình đừng cho nó ở trong tâm của mình nữa, mình xem nó như một cái vật đồ bỏ, mình đừng có để nó ở đó. Cho nên cái câu trạch pháp này quý thầy nhớ mà ghi chép.

Ngày xưa khi mà Đề Bà Đạt Đa thấy Đức Phật có một cái giáo đoàn, được cái uy tín, các nhà vua đều là rất kính nể Đức Phật, thì ông sanh ra cái tâm tị hiềm, do đó ông tìm mọi cách chia cái giáo đoàn của Phật ra, rồi ông đặt ra những cái giới luật cho nó có cái vẻ sống hay hơn Phật, sống khổ hạnh hơn Phật, để làm cho hơn Phật.

Và đồng thời thì ông quyến dụ được nhà vua A Xà Thế, nhờ nhà vua A Xà Thế đó, họ cúng dường và hỗ trợ ông, cho nên ông lợi dụng cái lòng tin của một nhà vua, rồi ông tìm mọi cách để mà hại Phật.

Đó là cái lòng tị hiềm của con người ghê gớm. Ông lăn đá làm cho Phật phải chảy máu, ông dùng voi say để mà giết Phật, ông dùng mọi cách để mà hại Phật. Đó là cái lòng tị hiềm, cái lòng ganh ghét. Cái lòng tị hiềm của con người ghê gớm lắm.

Cho nên ở đây, một cái người mà tu theo đạo Phật thì chúng ta biết rằng Đức Phật ngày xưa không có bao giờ mà có tị hiềm. Đối với lục sư ngoại đạo, dù là người ta tu như thế nào thì Đức Phật cũng không có chỉ trích, chê bai người ta hết, tức là không có lòng tị hiềm người ta.

(33:43) Mà những cái ngoại đạo đôi khi đến hỏi Phật, như một cái vị khổ hạnh tu theo cái hạnh của con bò và một vị tu theo cái hạnh của con chó mà đến hỏi Phật, hỏi ba lần, Phật nói: “Đừng hỏi ta!”

Nghĩa là nếu mà Ta nói ra thì các ngươi sẽ khổ sở và nghĩ rằng Ta là tị hiềm với ngươi, hay hoặc là Ta sẽ nói xấu mấy ngươi, nhưng mà Ta nói là một cái sự thật, cho nên đừng có hỏi. Thôi thôi đừng có hỏi Ta! Cho nên hầu hết là Phật từ chối.

Nhưng các vị đó có ý muốn hỏi Phật, như mình tu những cái hạnh như vậy là sau này mình sẽ thú hướng, sẽ sinh đi về đâu, sẽ được làm cái gì? Thì Đức Phật buộc lòng mà nói ra một cái sự thật, chớ không phải là cái lòng tị hiềm muốn bài bác cái pháp của người ta, muốn nói xấu cái pháp người ta, nhưng tại vì cái pháp đó nó sẽ đưa người ta đi đến cái chỗ không giải thoát.

Cũng như bây giờ đó, quý thầy cũng thấy rằng khi mà Thầy hiểu biết được các pháp mà hiện bây giờ người ta đang gọi là Phật pháp người ta tu đó, người ta cứ ngỡ tưởng nó là sẽ đưa họ đi đến giải thoát, nhưng mà Thầy hiểu rằng nó sẽ không có đi đến giải thoát.

Cho nên từ lâu Thầy cứ nghĩ rằng mình sẽ núp sau lưng Hòa thượng để mình giúp đỡ cho những người tu đúng theo cái đường lối của đạo Phật, để cho họ đạt được cái sự cứu cánh giải thoát. Nhưng không có đủ cái nhân duyên mà mình làm như vậy.

Vì vậy bây giờ mà Thầy nói thẳng ra là những cái pháp mà người ta tu nó không có đưa họ đi đến cái cứu cánh giải thoát, mà nó đưa đi đến cái chỗ sai lệch, nó làm cho họ uổng cái cuộc đời, vì họ đang sống ở trong cái dục lạc của thế gian thì làm sao họ ly được dục, ly ác pháp được!

Cho nên Thầy nói ra không phải có nghĩa là ganh tị với họ trên cái danh lợi, mà nói ra để biết được cái đúng, cái sai của đạo Phật để giúp cho họ sáng suốt mà họ thấy được cái đường đi, cái cách thức tu tập để họ được giải thoát.

Ai tu cũng muốn được giải thoát, nhưng cuối cùng thì uổng phí một cuộc đời, cho đến ngày cuối cùng khi mà bỏ thân này phải chịu đau khổ dằn vặt vô cùng vô tận. Nhìn trước cái sự đau khổ đó, là một vị tu sĩ thì nhìn các vị tu sĩ mà đau khổ như vậy Thầy đâu có nỡ tâm.

(36:15) Cho nên nói ra không có nghĩa là tị hiềm với họ, ganh ghét với họ mà nói bài bác họ, mà nói ra để biết đâu là sự thật, đâu là cái pháp đúng của Phật, đâu là cái pháp không đúng của Phật, để giúp cho người ta tu hành.

Cũng như Đức Phật nói ra cho hai vị khổ hạnh tu theo hạnh của một con bò, một con chó, thì hỏi Đức Phật: “Vậy chớ tu như vậy thì sẽ được như thế nào, thú hướng được như thế nào?” Thì Đức Phật nói bây giờ mình sống giống như - mình ngủ, mình nằm, mình ăn, mình làm giống như một con chó, thì sau khi mình chết đi thì mình cũng thành con chó. Rồi mình sống, mình đi, mình ăn, mình nằm, mình ngủ cũng như con bò thì mình sẽ chết đi thì mình cũng giống như con bò. Đó là một cái sự hiển nhiên.

Đó là những cái hạnh, tưởng là mình làm cái hạnh đó thì mình sẽ sanh được cõi trời, sanh được cõi sung sướng hơn, nhưng mà không ngờ thì nó lại là đi vào trong một cái thú hướng quá là đau khổ.

Cho nên hai cái người này nghe xong thì khóc, khóc lên, thì Đức Phật nói: Tại các ngươi hỏi chớ Ta không có bao giờ Ta muốn nói cái điều này! Ta đâu có muốn nói cái điều này! Tại vì các ngươi hỏi, vì vậy mà Ta thấy như thế nào, hiểu như thế nào thì Ta nói như thế nấy để cho các ngươi biết mà các ngươi sửa lại cho nó đúng.

Cũng như bây giờ mình làm một cái điều thiện thì nó sẽ đến những cái thú hướng nó thiện, mà mình làm một điều ác thì thú hướng mình sẽ đi vào cái cảnh ác, cảnh khổ. Đó là cái hướng của mình. Một cái cây nó nghiêng về cái hướng nào thì cái bóng nó phải ngã về cái hướng nấy chớ làm sao mà ngã cái hướng khác được? Đó là như vậy.

Cho nên ở đây nói cái chỗ này ra thì không phải là cái lòng tị hiềm mà là cái lòng tốt của Phật. Còn như Đề Bà Đạt Đa đó là tị hiềm, tìm mọi cách để mà hại Phật, để mà giết Phật, để cho mình đạt được cái uy tín, mình làm hơn Phật.

Cũng như Thầy thì các thầy biết rằng Thầy chỉ cần ẩn một bên sau lưng của Hòa thượng để giúp cho Hòa thượng chấn hưng thiền Phật giáo và thiền Việt Nam, thiền Trúc Lâm, để giúp cho những người tu hành làm chủ được sanh tử một cách rất là tự tại, để nói lên được cái đường lối và cái sự trùng hưng, chấn hưng Phật giáo của Hòa thượng, của Thiền Tông Việt Nam của Hòa thượng, để làm sáng tỏ con đường Phật giáo Việt Nam do cái công của Hòa thượng.

Còn riêng Thầy thì Thầy cũng chẳng cần cho ai biết Thầy là một cái người gì hết, Thầy chỉ là một đệ tử của Hòa thượng, Thầy chỉ giúp Hòa thượng mà thôi.

(39:16) Đó, quý thầy thấy cái tâm niệm của Thầy, thì như vậy có phải là nói lên cái giáo án này là chỉ cái xấu người ta không, có lòng tị hiềm với người ta không? Tị hiềm người ta để làm gì? Khi mà nói lên để cho người ta biết điều này điều kia thì Thầy đã từ giã danh và lợi để đi vào một cái nơi xa vắng, yên tịnh để ẩn bóng rồi, còn đâu danh mà còn đâu lợi nữa, còn đâu có cái sự cung kính, cúng dường, còn đâu có sự đón tiếp rầm rộ của mọi người?

Đó thì quý thầy hiểu như vậy thì mới biết rằng một cái người mà lấy tâm niệm Phật thì đâu còn là cái tâm tị hiềm mà là cái tâm thương yêu, cái tâm muốn cho mọi người hiểu rõ được Phật pháp mà tu theo Phật pháp để được giải thoát hoàn toàn.

Bây giờ chúng ta trạch thêm một cái câu nữa, một cái pháp hướng nữa để thường xuyên nhắc nhở, vì cái lòng tị hiềm rất là ác. Như Đề Bà Đạt Đa chúng ta cũng thấy rất là ác, tìm mọi cách mà hại Phật, thì chúng ta biết rằng cái tâm tị hiềm của mình nếu có thì chắc chắn rằng mình cũng tìm mọi cách, nếu là mình không có đủ cái sức hại người thì mình cũng tìm cách nói xấu người.

Hầu hết là cái con người phàm phu mà ghét người, tị hiềm người khác thì tìm cách nói xấu người khác, hạ người ta bằng cái cách nói xấu người khác, làm những cái điều rất là tệ ác.

Cho nên ở đây chúng ta phải trạch pháp những cái câu để mà chúng ta nhắc nhở cái tâm của mình để xa lìa cái tâm tị hiềm, để chúng ta lấy tâm niệm Phật thì không bao giờ còn cái tâm tị hiềm ở trong tâm ta nữa. Mà muốn được vậy thì chúng ta phải trạch pháp ra:

“Tị hiềm là một tâm rất ác, nó luôn luôn tìm cách để hại người, tìm cách để nói xấu người, nhưng cũng chính nó đã làm khổ cho ta và cũng đưa ta đến vào những thú hướng để đọa vào ác đạo để sanh làm ác thú hoặc là những kẻ hung dữ, mà không phải ở trong một kiếp này mà nó nhiều kiếp, nhiều đời.

Rõ biết như vậy, ta phải luôn luôn cảnh giác và từ giã, xa lìa, viễn ly cái tâm tị hiềm, không để cho nó ở trong tâm ta nữa!”

Và khi mà trạch cái câu này rồi thì hằng đêm, hằng ngày chúng ta phải nhắc, vì cái tâm tị hiềm rất độc, nó hại người mà nó hại mình sanh vào ở trong cái cõi địa ngục, nó sanh vào ở trong những cái - sanh ra làm những con vật ác độc.

Cho nên do vì vậy đó mà chúng ta phải cảnh giác và phải siêng năng tu tập để cho nó thấm nhuần cái lời này, cái câu này, để cho nó thấm nhuần cái lý này mà tâm ta không bao giờ tị hiềm, không bao giờ tranh hơn thua ai hết, không bao giờ nghĩ làm khổ người khác. Do cái chỗ tu tập đó thì chúng ta mới được giải thoát.

(42:41) (Mất tiếng) …​tị hiềm, còn mình là người tu, là đệ tử của Phật thì mình phải dứt bỏ nó như chiếc giày rách, coi nó như cái đồ bỏ, không còn xài được nữa. Thì như vậy, hằng ngày chúng ta thường nhắc tâm của mình ném bỏ như ném bỏ chiếc giày rách.

Vì vậy một ngày nào đó cái tri kiến giải thoát của chúng ta nương vào cái trạch pháp này mà nó phóng ra cái tri kiến giải thoát, nó thấu suốt được lý tị hiềm đưa đến cho mình khổ, người khác khổ như thế nào, từ đó nó quét sạch cái lậu hoặc ở trong tâm của chúng ta bằng cái Định Vô Lậu.

Ở đây thì chúng ta mới có thân, thọ niệm Phật rồi bây giờ mới có tâm niệm Phật, nhưng mà nó là những cái pháp đầu tiên mà chúng ta tu tập bằng những cái pháp hướng để sau đó chúng ta có những cái pháp quán, do từ cái pháp hướng này mà nó sanh ra những cái pháp quán rất là tuyệt vời.

Nếu chúng ta chuyên tâm tu hành, trí tuệ chúng ta càng ngày càng thông minh chớ không phải là thiếu thông minh, không phải nhai lại cái bã mía của người khác mà nhai đi nhai lại có một số hiểu biết đó, mà chính cái tri kiến giải thoát của chúng ta nhờ những cái pháp hướng này mà nó phát triển ra, nó sẽ có những cái mà người ta không ngờ được.

Cũng như bây giờ hôm nay mà các con đã thấy Thầy nói ra bằng những cái kinh nghiệm bản thân của Thầy, bằng những cái trí tuệ tri kiến giải thoát của Thầy, chớ không có vay mượn ở trong kinh sách của những người khác mà ở trong kinh sách nói ra, mà chính do mình được giải thoát như thế nào mình sẽ nói ra theo cái sự giải thoát của mình như vậy.

Do đó cái chỗ đó gọi là tri kiến giải thoát. Cái chỗ sai, chỗ đúng, mà tu được hay là tu không được, mình nói ra qua cái sự của mình chớ không phải vay mượn của kẻ khác, nói lại bằng cái của kẻ khác.

Cho nên do cái sự hiểu biết của các con bây giờ cũng là cái hiểu biết của người khác chớ không phải là cái hiểu biết của các con. Tại sao trong cái thời gian tu hành suốt 5 năm, 10 năm nay mà các con không có kinh nghiệm nào của mình để nói ra mà cứ nói cái kinh nghiệm của kẻ khác? Thì như vậy mình chẳng có gì hết. Mình tu mình chẳng biết gì hết.

Chớ đâu phải các con không tu, nhưng mà tu tại sao mình không phát triển được cái tri kiến của mình để mình nói những cái pháp hành của mình ra, mà bây giờ cứ nghe người ta nói cái pháp hành của người ta không, còn riêng mình mình không biết cái gì hết.

Tức là mình không phát triển được, mình không khai triển và triển khai được cái trí tuệ của mình, cho nên mình không thấy được cái pháp hành của mình đúng đắn, để đưa cho mình đi đến giải thoát. Bây giờ Thầy dạy cái gì các con cứ theo Thầy mà nói thôi, hoàn toàn các con không có cái gì mới của các con hết.

Mà bây giờ các con biết khai triển nó, đặt cái pháp hướng này khai triển nó, thì từng đó các con có những cái trí tuệ của mình, cái trí tuệ vô sư của mình, nó có những cái thông hiểu của nó, nó có những cái kinh nghiệm riêng của nó, nó nói ra, nó làm người ta thấy: “À như vậy là đúng là của người này chớ không phải là của người khác được.”

Đó thì như vậy các con thấy, ở đây cái mục đích là triển khai cái trí tuệ, cái thông minh của các con ra bằng những cái pháp hướng này, chớ không phải bằng nhai lại cái bã mía của người khác.

6. TÂM PHẬT KHÔNG NGÃ MẠN

(45:40) 6. Tâm Phật không ngã mạn. Tâm ta niệm Phật cũng không bao giờ có ngã mạn, cống cao, kiêu căng, tự đắc, vì cống cao, kiêu căng, tự đắc là tánh xấu và ác.

Muốn xa lìa tánh ngã mạn, kiêu căng, tự đắc, ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để luôn nhắc nhở và diệt trừ tánh này:

“Ngã mạn, cống cao là một trong năm pháp ác của Ngũ Triền Cái, ta phải dứt bỏ tánh này. Vì cuộc sống con người do nhân quả hợp lập thành, nên có người xấu, kẻ tốt, người sang, kẻ hèn, chớ đâu phải ta hơn ai! Ta như mọi người, bình đẳng như mọi người, chỉ có kẻ ngu si mới không thấy nhân quả, cho mình hơn người. Sự thật chẳng ai hơn ai.”

Nghĩa là chúng ta sống ở trong cái nhân quả, do cái nhân quả lành, nhân quả ác mà người ta thấy có sự tốt xấu, có sự hơn kém nhau: Có người thông minh, có người ngu tối, rồi cái người thông minh lại cho minh là tự đắc, tự cao, ngã mạn, nhưng mà sự thật đó là trong cái vòng nhân quả.

Bây giờ cái người này ngu, nhưng mà kiếp này người ta ngu, kiếp sau người ta còn ngu không? Còn mình bây giờ kiếp này mình thông minh nè, mình nào là ông tiến sĩ, nào là bác học nè, mình thông minh nè, mình giỏi nè, mình đọc qua mình thuộc liền nè, nhưng mà kiếp sau mình có được như vậy nữa không?

Bây giờ thì mình cống cao, ngã mạn, mình coi người ta không ra gì hết, nhưng mà không ngờ đó là cái nhân quả.

Cũng như bây giờ mình có được cái nhan sắc đẹp đẽ, thấy một cái người mặt rỗ, rồi mũi tẹt, rồi môi họ thì hô hay miệng họ hô, mình cười, mình nói họ, mình coi họ là thường mình này kia, mình cho rằng mình là ngon, là đẹp, là tốt, còn họ là xấu.

Thì mình đâu biết đó là cái nhân quả của người ta phải trả, còn mình được cái nhân quả nào đó mà mình bây giờ được cái tướng mới tốt một chút thôi, mình hơn họ ở chỗ nào? Có phải là mình có hơn cái gì đâu, mà đó chỉ là nhân quả mà thôi, có gì đâu mà mình phải cống cao, ngã mạn!

Cũng như bây giờ mình thấy sao mình học hay, mình đọc cái mình thuộc, còn người đó đọc hoài không thuộc, đó cũng là nhân quả.

(48:01) Cho nên cái nẻo đi của nhân quả mà chúng ta không hiểu biết, do đó mà chúng ta sanh ra ngã mạn, cống cao.

Còn nếu mà chúng ta hiểu biết cái nhân quả thì chẳng qua là chúng ta thấy mình chỉ bị chi phối ở trong nhân quả chớ mình chẳng có hơn ai hết. Là con người của mình với một con vật hiện giờ là một con kiến đang bò ở trên mặt nền nhà này, chúng ta thấy chúng ta là con người, còn con kiến là con kiến, nó nhỏ mọn, nó không đáng, nó không bằng mình chút nào, thì ngay cả mình thấy con kiến với mình, mình thấy mình hơn con kiến thì đó là ngã mạn, cống cao.

Mà mình đâu biết rằng cái đó là cái nhân quả, vì được những cái phước nào đó mà mình làm người, còn người ta thiếu những cái phước nào đó mà người ta làm con kiến, con trùng. Mình phải thấy cái nhân quả, cho nên mình đối với con kiến mình có hơn nào con kiến ở đâu? Do cái sự nhân quả mà thấu suốt như vậy đó thì chúng ta đâu có nỡ coi thường một con kiến mà giết nó mà không biết thương!

Đó, như vậy là cái đường đi của nhân quả hầu hết là các con chưa có thông suốt, chưa có thấy rõ, cho nên chúng ta chưa có giải thoát được tâm mình.

Cũng như tại sao mà có người lại thương mình, lo lắng cho mình thế này thế khác, họ hy sinh cả đời họ cho mình, nhưng cũng có người làm cho mình mãi mãi khổ đau, nhưng cũng có người thì chửi mắng mình, cũng có người thì làm thế này thế khác. Thế mà mình không thấy nhân quả, cứ theo nhân quả đó mà sanh ra buồn khổ, giận hờn, rồi tạo thêm những nhân quả mới, làm cho cái đời của mình càng lúc càng đi vào cái sự khổ đau.

Còn người ta thấy nhân quả, người ta ngồi, người ta nghe trong cái nghịch của nhân quả thì người ta nghe cũng giải thoát, mà người ta nghe trong cái thuận nhân quả thì người ta cũng không thích thú. Còn mình nghe cái thuận thì thôi mê man lắm, thích lắm, mà nghe cái nghịch của nhân quả thì thôi khóc lóc sướt mướt, không có ai mà chịu nổi.

Đó cho nên ở đây Thầy thường dạy các con cái nhân quả mà không thấy cái nhân quả. Muốn nói đến cái tâm Phật không có ngã mạn tức là nói đến cái sự tâm bình đẳng, không có thấy hơn thua người khác, cho nên nó không có ngã mạn.

Cho nên ông Phật nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” Câu nói đó rất là bình đẳng. Người nào cũng sẽ tu làm Phật được hết, mà tất cả chúng sanh chớ không phải là chỉ có loài người chúng ta không.

Bởi vì luật nhân quả, bữa nay chúng ta mang thân kiến, ngày mai chúng ta mang thân người, bữa nay chúng ta mang thân người, ngày mai chúng ta mang thân chúng sanh, có sai khác chút nào đâu!

Cũng như bây giờ trước mặt đây, các con ngồi đây, trước mặt Thầy là mọi người đều là người. Nhưng mà khi mà bỏ thân này rồi, chắc chắn các con còn làm người được không hay hoặc làm con trùng, con dế, con kiến? Khó lắm!

Bởi vậy Phật nói được thân người là khó, nhưng các con cứ nghĩ rằng mình mất thân này rồi mình cũng sẽ được thân người nữa. Cho nên vì vậy mình hễ hơi hơi, mình thấy mình có một chút gì hơn người hơi hơi cái thì ngã mạn, cống cao. Tu hơi chưa có ra gì, hơi hơi à, chỉ được hơi hơi là đã thấy có cái sự cống cao, ngã mạn rồi.

(51:11) Bây giờ mình nghe Thầy khen mình tu khá, bỗng dưng bữa nào Thầy khen người khác là thấy mình ganh tị rồi, mình chịu không nổi được rồi. Mình muốn luôn luôn lúc nào cũng có mình mình là hơn thôi, còn nếu mà khen ai nữa là mình không chịu, thì do đó cũng là cái tâm ngã mạn, cống cao, chỉ muốn mình, tự mình mà thôi.

Ví dụ như Thầy khen một người nào đó khéo tay, khéo tu, càng ngày càng tiến bộ, thì lúc bấy giờ đó mình hiu hiu rồi, mình thấy hơn mọi người rồi, đó là ngã mạn rồi. Còn bây giờ bắt đầu khen cái người nào khác hôm nay tu hơn rồi, bắt đầu sanh cái tâm, nghe rồi không chịu trong người của mình, khó rồi, không ưa rồi, thấy cái người đó mà hơn mình rồi thì mình không có chấp nhận rồi, thì như vậy tự mình đã là có cái ngã mạn.

Mà mình tu từ nào đến giờ, cái ngã mạn của mình mình có xả chưa? Mình chưa xả. Thì vì vậy cho nên mình phải dùng cái trạch pháp, cái câu để cho mình nhắc đi, nhắc lại. Thầy xin nhắc lại cái câu đó để cho các con nhớ mà ghi lại để mà nhắc, để mà phá cái tâm đó.

Vì chúng ta là vốn con người từ cái nhân quả sanh ra, chết đi thì chúng ta cũng trở về cái nhân quả, thế mà chúng ta không thấy được đường đi của nhân quả mà cứ nuôi ngã mạn của mình, cống cao của mình, luôn luôn lúc nào cũng nuôi nó ở trong lòng. Xả nó đi, bỏ nó đi, đừng có nuôi lớn nó nữa!

Chúng ta chẳng ra gì hết, tất cả mọi người đều là bình đẳng như nhau. Người ta chửi mình, người ta mắng mình là nhân quả chớ không phải gì hết, cho nên chúng ta biết được nhân quả thì chúng ta chẳng có buồn khổ gì cả hết.

Đây là cái câu trạch pháp đây:

“Ngã mạn, cống cao là một trong năm pháp ác của Ngũ Triền Cái, ta phải dứt bỏ tánh này. Vì cuộc sống con người do nhân quả lập thành, nên có người xấu kẻ tốt, người sang kẻ hèn, chớ đâu phải ta hơn ai! Ta như mọi người, bình đẳng như mọi người. Chỉ có kẻ ngu si mới không thấy nhân quả, cho mình hơn người, sự thật chẳng ai hơn ai cả.”

Đó là cái câu như vậy để trạch pháp nhắc cho chúng ta biết, chúng ta phải sống trong nhân quả chứ đừng có tự cao, tự đại, kiêu căng, ngã mạn của mình nữa. Đó là câu thứ sáu: Tâm ta niệm Phật mà phá vỡ tâm ngã mạn.

7. TÂM PHẬT KHÔNG KHOE KHOANG

(53:27) Câu thứ 7:

7. Tâm Phật không khoe khoang. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, phải giống như Phật, không khoe khoang.

Khoe khoang là bản chất của ngã mạn, kiêu căng. Mọi pháp trên thế gian này đều do nhân quả chi phối, diễn biến kẻ hơn, người kém, kẻ hay, người giỏi đều do nhân quả, không có ai hơn ai cả, có cái gì mà phải khoe khoang?

Muốn dứt bỏ tánh khoe khoang, ta trạch pháp câu này để hằng ngày Như Lý Tác Ý:

Đây là cái câu trạch pháp để hằng ngày chúng ta tu tập đây:

“Khoe khoang là tánh xấu ác làm cho người khác tủi thân, buồn khổ. Ta hãy dứt trừ, xa lìa, không bao giờ còn cái tánh khoe khoang nữa!”

Thí dụ như bây giờ đó, mình được cái vật gì, cái quần áo hay hoặc là cái thứ gì tốt đẹp thì mình đem mình khoe người khác: “Tôi được cái này”, thì cái người khác người ta không được, người ta cũng ham muốn như vậy, làm cho người ta buồn tủi cái thân người ta. Người ta nghĩ rằng cái thân mình nghèo, làm sao mình có được cái vật này?

Thí dụ như các con giờ có được cái chiếc nhẫn hột xoàn đi, bây giờ các con đem ra: “Ba tui mới cho tui được chiếc nhẫn hột xoàn nè, coi hột xoàn rất là đẹp!” Thì cái người kia họ nghèo, họ thấy họ buồn tủi, họ thấy họ cũng muốn cái vật đó chớ, nhưng mà làm gì họ có được? Cho nên họ tủi thân họ, họ khổ sở. Cho nên chúng ta đừng có khoe khoang cái vật gì của chúng ta, nhưng mà cái khoe khoang đó có cái tai hại rất là tai hại.

Thầy nhớ trong cái bộ Tây Du, trong cái lúc mà Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh thì được Đức Phật Quan Âm cho cái y có hào quang chiếu sáng. Cho nên trong khi đến cái ngôi chùa của người ta, thầy trò Tam Tạng đến cái chùa đó mà ở, ngủ, thì Tôn Hành Giả thấy mấy cái y của mấy ông thầy này đều là xấu không có bằng y thầy của mình, anh ta mới xách ra khoe:

“Đây cái y của thầy tui nè! Mấy ông coi nè, hào quang chiếu sáng, còn cái y của mấy ông như đồ bỏ vậy, mà mấy ông nói của mấy ông tốt. Tốt bằng khỉ gì của tui! Thầy tui có cái y này còn đẹp hơn của mấy ông nhiều!”

(55:38) Do đó ổng khoe cái y của thầy ổng tốt quá. Thì cái ông thầy mà trụ trì ở trong chùa đó, ổng thấy cái y của ông Tam Tạng: “Trời ơi! Từ thuở giờ mình có cả trăm cái y mà đâu có được như cái y này! Y này tốt quá, cái y này là thứ vô giá rồi!” Cho nên ổng mới nói hỏi xin Tam Tạng để mang về. Ổng vô trong phòng ổng xem cái y này ổng thích quá, ổng mới trải ra cái y.

Không ngờ là có một con quỷ ở đâu gần bên cái hang đó, bên chùa đó, nó lại nhìn thấy cái y này nó cũng động lòng tham nó, cho nên nó vô đó hóa gió cái nó hốt cái y này nó đi. Ông thầy này cũng tham, tính mình lấy cái y này, mình đốt cái phòng của ông Tam Tạng với ba thầy trò của ông Tam Tạng cho tiêu đi mình lấy cái y. Có vật, các con thấy có đồ quý coi nguy hiểm không? Mà tại vì mình khoe đồ quý mình ra cho nên bị chúng thiếu điều giết mình.

Cho nên cái đêm đó thì thay vì con quỷ nó đến nó lấy cái y mất đi, rồi cái ông thầy tưởng là cái y mình còn để ở trong phòng của mình, rồi mới bàn tính với đám đệ tử: “Tối nay mình đốt cho chết thầy trò Tam Tạng để mình lấy cái y cho rồi!”

Nhưng mà khi đốt rồi thì Tôn Hành Giả ổng mới ngồi đó, ổng lên trên cao, ổng ngồi ổng thổi gió cho cháy sạch cái chùa, tại mấy cái thằng này nó tham, thổi cho chết đi cho rồi! Không ngờ thổi cháy cái chùa, nhưng mà cái y thì cũng lấy mất rồi.

Cuối cùng thì mấy ông thầy trò này chạy vô kiếm cái y thì cái y cũng không còn, mà cái chùa thì cháy tiêu, mà con quỷ ở bên đó nó lấy cái y mất. Còn Tôn Hành Giả làm cho chùa người ta tiêu rồi, khoe khoang của làm chùa tiêu rồi, thì cái y mình chúng cũng lấy tiêu rồi, thành ra bây giờ cũng đã mất. Cho nên thầy trò bây giờ cũng mới đi tìm yêu, mới lấy y lại, vất vả và cực khổ, có ngu không?

Chúng ta phải biết rằng cái khoe khoang nó không có hay ho gì hết, mà chúng ta phải nói rằng đây là cái nhân quả, chúng ta có được cũng là do nhân quả mà thôi, mà không có cũng là do nhân quả, có gì mà tủi thân mà phải khóc, mà phải đòi?

Đó, muốn được vậy thì chúng ta phải dùng cái câu trạch pháp này để chúng ta…​ Tâm chúng ta nó còn yếu lắm, hở có gì là mừng vui là khoe à, khoe ra, mình làm cái gì được hay là mình cũng khoe ra, mình tu được giỏi một chút là mình cũng khoe ra.

Thí dụ như mấy con ngồi được năm tiếng, mười tiếng đồng hồ cũng nói ra, nói ra cho người ta thấy mình ngồi được năm bảy tiếng, cho mình hay hơn họ chơi, đó là cũng khoe ra. Cái đó là những cái chúng ta không có nên nói gì hết. Tất cả những cái mà tu tập là phải dè dặt, cẩn thận.

Mà muốn được vậy thì hằng ngày chúng ta phải trạch pháp mà nhắc đi nhắc lại để từng đó chúng ta bỏ đi, từng đó chúng ta mới dẹp sạch hết đi, nó không còn nữa.

8. TÂM PHẬT KHÔNG PHẪN NỘ

(58:09) Đó. Ở đây là cái phần thứ 8:

8. Tâm Phật không phẫn nộ. Tâm ta niệm phật cũng vậy, phải giống như Phật, không có phẫn nộ.

Phẫn nộ là một cơn giận dữ có thể giết người mà chẳng hề sợ ai hết. Phẫn nộ giống như một con thú dữ hung ác, người có tánh hay phẫn nộ, thú hướng phẫn nộ sẽ sanh ra ác thú, ác cầm, những loài độc dữ. Người phẫn nộ không thể sanh cõi trời được, không thể làm người được, chỉ có sanh vào ác thú và địa ngục mà thôi.

Nghĩa là khi mà cái người mà có cái tâm phẫn nộ là cái thú hướng đó họ không thể nào sanh cõi trời được, cõi người được. Hiện giờ chúng ta là con người, mà mỗi lần chúng ta sân, phẫn nộ dữ tợn đó, cái người mà sân dữ tợn là cái người đó chúng ta phải biết rằng cái thú hướng của họ sẽ sanh vào những cái loài vật hung dữ, những cái loài vật dữ chớ không phải là loài hiền được. Do đó thì chúng ta biết rằng cái phẫn nộ là cái rất là tệ ác, là cái hướng không có tốt cho cái đời sống của chúng ta.

Muốn cho ta không có tánh phẫn nộ, ta phải trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

Đây là trạch pháp cái câu đó ra để chúng ta hằng ngày tu tập cho cái tánh phẫn nộ chúng ta không còn nữa. Do đó chúng ta mới có cái thú hướng khác tốt hơn, để không cái hành động mà phẫn nộ đó nó sẽ đưa chúng ta đi vào cái chỗ mà sanh ra loài thú dữ, hoặc là loài độc dữ, hoặc là ở địa ngục khổ đau.

Đây là cái pháp hướng:

“Phẫn nộ là tánh hung ác làm khổ mình, khổ người. Ta hãy dứt bỏ, tránh xa, từ khước, từ đây về sau ta không còn cái tánh phẫn nộ nữa!”

(01:00:10) Đó là mình hướng tâm, mình nhắc nó như vậy để từ đây về sau mình giữ gìn cái tâm của mình không có phẫn nộ nữa.

Và không có phẫn nộ nữa thì tâm ta mới niệm Phật, mới giống như Phật được, nếu mà còn phẫn nộ mà tâm ta niệm Phật thì chắc chắn là không giống Phật. Cho nên muốn tâm mình niệm Phật giống Phật như ở trong Tứ Bất Hoại Tịnh lấy cái Phật giới mà tu tập thì phải làm sao giống như Phật, phải làm sao mà tâm của mình y như tâm Phật.

Mà muốn được vậy thì hằng ngày phải trau dồi, phải rèn luyện, phải tu tập bằng những cái pháp hướng nhắc tâm mình tới lui, bỏ những cái tật xấu, cái pháp ác mà trong tâm mình đã sẵn chứa, đã quen đi nhiều đời, nhiều kiếp.

Do nhân quả đã huân tập trong nhiều đời, nhiều kiếp cho nên bây giờ nó trở thành một cái tánh phẫn nộ rất là dữ tợn. Vì vậy mà muốn bỏ nó cũng không phải trong một ngày, một tháng mà hết, mà phải siêng năng, cần mẫn từ năm này đến năm khác, ngày nào chúng ta cũng dùng cái pháp hướng này đặt trước mặt rồi nhắc tâm mình tới lui để dứt bỏ nó, không còn được để mang ở trong tâm nữa, thì như vậy một ngày nào đó chúng ta sẽ không còn phẫn nộ nữa.

Và không còn phẫn nộ nữa tức là chúng ta hướng về cái hướng thiện, cái hướng tốt, tâm chúng mình sẽ không phẫn nộ nữa là tâm mình sẽ giống như Phật rồi. Mà giống như Phật thì cái thú hướng đó là mình sẽ thành Phật, mình sẽ như là ông Phật, không có khác nữa. Đó là cái hướng mà chúng ta tu tập tốt.

Đến đây thì Thầy sẽ dừng lại. Ngày mai thì chúng ta sẽ tiếp tục học Tứ Bất Hoại Tịnh về cái phần mà tâm chúng ta niệm Phật, Thân, Thọ, Tâm rồi tới Pháp niệm Phật nữa. Khi nào mà hết cái Tâm niệm Phật rồi thì mới tới cái Pháp niệm Phật, chúng ta dùng Pháp niệm Phật.

Bởi vì Phật dạy chúng ta có bốn chỗ niệm Thân, Thọ, Tâm, Pháp bốn cái chỗ này, mà bây giờ chúng ta mới có tu được cái Thân, cái Thọ rồi cái Tâm, nhưng mà cái Tâm chưa hết, nó còn tu nữa, nó còn nhiều cách nữa để tu cho hết cái Tâm niệm Phật rồi mới tới Pháp niệm Phật.

(01:02:19) Khi hết Pháp niệm Phật rồi thì Thầy sẽ dạy tiếp tục các con sẽ tu Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần dường như Thầy đã có dạy rồi, và đồng thời nếu mà đã học rồi thì chúng ta sẽ tu Tứ Niệm Xứ. Mà hễ tu Tứ Niệm Xứ xong rồi thì Thầy sẽ dạy các con tu Tứ Thiền, từ Sơ Thiền đến Bốn Thiền, đến thiền thứ tư, mà hễ tu rồi cái đó thì chúng ta sẽ tiếp tục tu tới Tứ Như Ý Túc, Thầy còn dạy quá nhiều.

Mà mỗi cái bài như bữa nay Thầy giảng cái Tứ Bất Hoại Tịnh, mà chúng ta tu mới có Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật. Rồi chúng ta phải còn có Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Pháp, nhiều quá phải không các con? Rồi Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Tăng nữa. Mà bây giờ Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật, mới có Tâm niệm Phật à, còn Pháp niệm Phật nữa, rồi mới có Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Pháp, Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Tăng.

Như vậy là trong còn có từ đây cho tới hết hạ còn có mấy ngày, chắc chắn là chúng ta sợ không đủ, phải không? Không có đủ. Mà nếu không đủ thì làm sao chúng ta biết tới Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ còn nhiều lắm, Tứ Niệm Xứ rất là nhiều.

Rồi Tứ Thiền phải dạy cặn kẻ cách thức như thế nào để nhập Sơ Thiền, hơi thở ở chỗ nào, rồi xả như thế nào có Tầm diệt Tứ, không Tầm không Tứ như thế nào, rồi cho đến nhập Nhị Thiền, Tam Thiền những cách thức như thế nào. Nó còn quá nhiều, đâu có ít được!

Rồi Tứ Như Ý Túc dạy các con để mà tu tập, để mà thị hiện những cái oai lực, cái thần thông nữa, chớ không lẽ chúng ta tu khơi khơi không đâu, chúng ta còn tập nữa. Như vậy là sợ cái thời gian chúng ta không đủ mà học không có hết các pháp.

Đến đây Thầy ngưng lại để rồi các con còn nghe lại cái băng buổi sáng, và đồng thời thì cũng còn thưa hỏi Thầy một vài điều cần thiết ở trên cái sự tu tập hằng ngày của các con nữa.

3- OAI LỰC VĨ ĐẠI CỦA GIỚI LUẬT, ĐỨC HẠNH

(01:04:29) Bây giờ để Thầy tiếp tục Thầy nói. Trong những năm tháng mà Thầy ở một mình trên Hòn Sơn, Thầy tu tập trên Hòn Sơn, tức là Thầy rèn luyện mình trong sống những cái nơi hoang vu, vắng vẻ.

Mà ở Hòn Sơn, hầu hết là những người mà ở Hòn Sơn thì họ gọi là trên cái đỉnh Hòn Sơn đó là cái Ma Thiên Lãnh, cái đỉnh núi đó gọi là Ma Thiên Lãnh, cái đỉnh hòn đó họ gọi là Ma Thiên Lãnh. Thế mà Thầy đã chấp nhận lên cái nơi mà gọi là Ma Thiên Lãnh để ở trên đó một bóng một hình mà tu hành, trong cái thời gian mà Thầy đã rèn luyện mình cái tâm vô úy, không biết sợ hãi một cái gì.

Nghĩa là có rèn luyện mình, có giữ gìn mình như thế nào, mình mới không sợ. Còn hiện giờ mấy con luôn luôn lúc nào cũng sợ hãi, tại sao vậy? Tại sao Thầy biết sợ hãi, mà tại sao Thầy lại không sợ hãi mà mọi người khác lại sợ hãi?

Có người lên ở trong hai bữa, ba bữa là phải xuống cái Ma Thiên Lãnh, không dám ở trên đó, còn Thầy ở suốt gần cả năm trời mà không có sợ một chút gì hết. Tại sao vậy? Tại vì một con người mà giữ gìn giới luật của Phật nghiêm chỉnh, chẳng hề mà có sợ hãi cái gì cả hết. Tại sao vậy? Tại vì giới luật của Phật nó rất là vi diệu.

Theo Thầy biết, đời sống của một người mà tu theo đạo Phật mà nghiêm chỉnh thì không bao giờ có sợ chết sợ sống gì cả hết. Bởi vì chính nó đã hướng dẫn cho chúng ta ba y một bát, đời sống chúng ta bỏ hết rồi, cuộc sống chúng ta không còn gì nữa rồi, cho nên chúng ta không còn sợ một cái gì nữa hết.

(01:06:16) Cho nên Thầy ở trên Hòn Sơn đã rèn luyện mình sống đúng giới hạnh của Phật, Thầy chẳng bao giờ sợ.

Một con chim biển, nó nhiều con chim biển chớ không phải một con chim biển, mà loại chim biển nó rất lớn, nó lớn cũng bằng con chó và lớn hơn nữa, nó ngồi cao như thế này nè, bự lắm, người ta gọi là chim đại bàng. Thế mà nửa đêm nó bay vào nó đáp ở tại hòn, người nào mà nhát gan là phải sợ hãi. Tiếng hét của nó, tiếng kêu của nó như là tiếng hét của một con vật gì dữ tợn. Thế mà Thầy vẫn thản nhiên khi sống chung với chúng ở trên đỉnh Hòn Sơn như là bạn bè thân thuộc, thì các con biết do cái giới hạnh như thế nào.

Vừa rồi hồi sáng Thầy có nói, trên cái bước đường tu tập của Thầy, do cái giới hạnh của Thầy, trong khi mà Thầy về Trảng Bàng đây mà Thầy nhập thất tu, thì trong cái thời gian mà chiến tranh chưa có kết thúc, tức là từ năm 71 đến 75 thì các con biết chiến tranh nó rất là dữ tợn.

Thế mà giữa một cái khu xóm mà Thầy ở, nửa đêm thì cách mạng về đào hố, đào hầm toàn ở trong xóm đó, kêu là đào hố đào hầm, nằm toàn ở trong xóm đó. Nghĩa là ngoài rào đều đào hầm hết, quân đội của cách mạng nằm đầy hết.

Cho nên người ta nghe đào hầm là họ bắt đầu họ rút họ đi hết, dân ở đó rút đi hết. Thầy thì quyết tâm là nhập thất là không rời khỏi thất, mẹ Thầy với em Thầy cũng phải rút đi, còn riêng Thầy thì ngồi đó mà tu tập.

Vậy mà khi vừa sáng ra thì trận chiến nổi lên, thì hai bên đánh với nhau, súng đạn kinh khủng, nào là máy bay, nào là pháo dồn dập. Xung quanh tất cả cái thất của Thầy ở, nhà cửa họ cháy, lửa lên ngùn ngụt, Thầy thì an nhiên ngồi đó mà giữ tâm tu tập của mình, không hề chút sợ hãi. Thầy nghĩ rằng một người mà giữ gìn giới hạnh của Phật thì chắc chắn là giới luật sẽ hộ trì, không sợ. Các con thấy trong vấn đề vĩ đại thật.

Và cuối cùng thì chiến cuộc nó đi qua, và những đoàn xe tăng của quân đội quốc gia lúc bấy giờ đi đến. Hầu hết là cái số lính mà đi bộ thấy Thầy ngồi trong chong ngóc ở trong thất mà ngồi tu, thì họ bảo rằng Thầy sao mà ngu, mà dại quá vậy? Súng bắn, súng đạn như vậy, máy bay bắn như vậy mà Thầy cứ ngồi đó không sợ!

Rồi nó nói gì nói mặc nó, Thầy ngồi tu thì ngồi tu. Cái tượng Phật ở trước chùa mà hằng ngày mấy con ở trước mà mấy con tu, cái tượng Phật đó Thầy đặt ngồi dưới đất với Thầy, cái tượng nó để ở trên cái tòa sen ngồi dưới đất như vậy, Thầy thì ngồi dưới đất như vậy, Thầy trải cái tấm chiếu Thầy ngồi dưới đất Thầy tu.

(01:09:03) Nghĩa là cái tượng Phật đó với Thầy chỉ một cái gian phòng nhỏ hơn cái khu này có một chút vầy, thế mà Thầy ngồi đó. Rồi những người lính họ đi vào họ thấy, họ la lối, họ nói Thầy không biết chết không biết sống gì hết, súng đạn như vậy! Thầy mặc họ nói gì nói, Thầy cứ ngồi làm thinh tu thôi. Rồi họ bỏ đi luôn luôn. Và cuối cùng thì nhà cửa thiên hạ cháy sạch mà chỗ thất Thầy không cháy!

Đó thì các con thấy. Cái oai lực không phải là ai che chở Thầy hết, mà Thầy biết rằng cái người mà tu giới luật nghiêm chỉnh là sẽ có sự hộ trì đến cái mức độ đó, không ngờ được! Các con biết những cái máy bay trực thăng mà nó bắn rốc két, nó bắn ào ào ào, mà bắn đâu cháy nhà đó hết.

Mà Thầy nói trúc tre hàng rào, nó bắn trúc nó ngã rạp xuống hết, bởi vì dưới đó là hố của cách mạng nó nằm ở dưới đó mà, nó bắn rạp. Rồi nó bỏ bom, rồi pháo nó dập, kinh khủng! Thế mà Thầy vẫn an nhiên, với một thân của mình bằng xương bằng thịt như thế này, đủ sức can đảm mà không hề sợ chết.

Còn các con thì Thầy thấy các con chắc lúc bấy giờ cũng chạy kêu là hổng cẳng, chớ đừng có nói vẫn dám ngồi đó. Còn Thầy thì thản nhiên, chết, mà chết ở trên sự tu hành, vì mình đã phát nguyện là không rời thất, quyết định là không rời thất. Các con thấy cái sự vô úy của Thầy đến cái mức độ xem cái thân mạng này nó nhỏ như lông hồng, như sợi chỉ mành treo chuông.

Nhưng đáng thương mẹ Thầy với em Thầy, nhìn thấy cái khu vực mà bị bắn phá và nhà cửa cháy, họ ở xa họ nhìn, họ khóc lóc, họ đau khổ, còn riêng Thầy rất vững tâm không có gì hết. Nhưng mà cuối cùng thì Thầy không chết.

Cho nên một cái lần sau, lần cuối cùng mà giải phóng thì mẹ Thầy với em Thầy không có nỡ để Thầy ở trong đó nữa, cho nên mới tìm mọi cách để mời Thầy ra khỏi thất, chớ còn cái lần trước Thầy hoàn toàn là Thầy không đi, hoàn toàn không đi.

Thầy thấy rõ ràng là cái oai lực của cái giới hạnh rất là vĩ đại. Cho nên cái cuộc đời tu hành, Thầy nói cái người mà tu như Thầy rồi thì bất kỳ ở đâu cũng no cơm ấm áo hết, không bao giờ đói.

Thậm chí như thế này nè các con thấy. Khi ở trên Hòn Sơn mà mỗi lần leo lên, leo xuống để xin được một số gạo mà sống, xin gạo thì rất dễ, nhưng mà vác lên thì các con biết, vác gạo mà lên núi ăn thì đâu có phải chuyện dễ, nó nhọc nhằn, nó khó lắm.

Cho nên thậm chí như vậy mà Thầy cũng tự sống bằng lá cây, bằng những cây rau mà Thầy trồng ở trên núi, Thầy trồng Thầy sống, Thầy không bao giờ mà thèm xuống xin gạo nữa, ở trên đó mà sống. Còn các con thì vắng gạo chắc chắn là các con không chịu nổi rồi.

4- CÁCH TỔ CHỨC ĐI KHẤT THỰC

(01:11:43) Cho nên ở đây, theo Thầy nghĩ, tùy cái duyên của các con, bất kỳ ở đâu mà các con tổ chức được cái cách thức đi khất thực sống, đừng có lo nấu nướng, đừng có lo gì hết. Người nào mà người ta giúp đỡ cho các con được cái phần ăn uống bằng cách là các con chỉ xin người ta được thì các con sẽ tu hành tốt mà thôi.

Cho nên hiện giờ đó, cái phần của cô Út là cổ chọn cái người như thế nào phù hợp với cổ. Các con thấy cổ đâu có thèm học những cái gì của Thầy đâu, cổ đâu có thèm nghe những cái gì của Thầy đâu, cổ không thèm nghe.

Nhưng mà cổ tu đó, cổ tu cổ tìm cái đường giải thoát của chính cổ đó. Chớ cổ biết được đại khái là Phật pháp là phải cái nhân quả như thế nào cổ hiểu như vậy, rồi cổ nỗ lực cổ tu. Cổ tu làm sao cổ cũng mong cho cổ được giải thoát, cổ mong cho cổ cũng ra khỏi cái con đường sanh tử của cuộc đời này. Cổ đã hiểu được cái đời là khổ rồi chớ không phải là cổ không hiểu đâu.

Nhưng mà cổ không có chịu đi nhẩm lại cái lối của người khác, mà cổ đi lại cái lối của cổ. Cổ nói cái đời này đâu phải là cái đời của ông Phật mà đi xin được, mình phải tự mình làm sao mà mình thắng được cái ăn, cái ngủ của mình, mình tu như thế nào mà mình không có đi xin đi xỏ ai hết, mình phải tự làm lấy sống bằng cách nào. Đó là một sáng kiến của cổ.

Thầy không nghĩ rằng cái điều đó là cổ có thể làm được hay không, nhưng mà Thầy tin rằng cái người mà cương quyết - cũng như Thầy cương quyết trong cái niềm tu hành của Thầy do giới luật mà Thầy nỗ lực thực hiện, Thầy không sợ một cái sự chết chóc nào hết, không sợ cả cái đói khát nữa, cho nên Thầy trèo trên núi Thầy ngồi Thầy cũng chẳng ngán, rồi trước bom đạn Thầy cũng chẳng ngán.

Mà Thầy thấy cô Út bây giờ, cô Út cũng nghĩ cách mà nỗ lực qua cái cách của cổ, thì nếu mà các con người nào mà nương theo cổ được, chắc chắn Thầy tin rằng cái sự hướng dẫn của cổ cũng đưa đến các con giải thoát. Bởi vì cổ tìm cách như thế nào để mà cổ thực hiện ở trong cái đường ly dục ly ác pháp, cổ cũng biết được điều đó rất rõ.

(01:13:47) Bởi vì nói chung là đại khái là cổ nắm được cái yếu lý của đạo Phật chớ không phải cổ không nắm được, nhưng mà cổ muốn cái đường đi- bây giờ cái thời đại của cổ không phải là thời đại của Đức Phật, cho nên cổ phải vạch ra một cái lối làm sao cho nó phù hợp trong cái thời đại của mình mà mình cũng được giải thoát, mình cũng có thiền định, cũng làm chủ được sự sanh tử như Phật. Còn bây giờ mà cứ nhẩm lại cái lối của Đức Phật, mình đi mà mình đi xin như vậy thiệt là quá khó, không phải dễ.

Cho nên cổ nói các con là theo cổ là đứa nào cũng phải làm hết, già cũng phải làm theo già, mà trẻ cũng phải làm theo trẻ. Có không, cổ nói vậy không? Như vậy là cổ có cái riêng của cổ chớ không phải là cái chung đâu.

Nhưng mà cái riêng của cổ, nghĩa là cổ không phải là nói như vậy để mà đời sống của chúng ta vì chạy lo làm để mà phục vụ cho cái sống đâu, mà phục vụ như thế nào cho cái đời sống của chúng ta tu được giải thoát, chúng ta cũng làm chủ sanh tử, cũng không còn đắm mê, cũng không còn đắm đuối ở trong cái danh, cái lợi, cái ăn ngon, cái mặc đẹp nữa mà cũng giải thoát ra được.

Thì Thầy thấy những cái người mà có những cái sáng kiến mà làm nên cái cuộc đời của mình thì những người đó ít lắm, hầu hết là chúng ta phải nhẩm lại cái lối của người khác. Thậm chí như Đức Phật đâu có dạy chúng ta ăn rau ăn cỏ, mà trên cái hoàn cảnh khó khăn của Thầy ở trên Hòn Sơn buộc lòng Thầy cũng phải tạo cách thức ăn rau ăn cỏ mà sống chớ không cần ăn cơm. Các con hiểu điều đó chưa?

(01:15:18) Thì cái hoàn cảnh của cô Út hiện giờ, cổ cũng nghĩ cách làm sao mà chúng ta cũng phải thực hiện được những cái mà Đức Phật thực hiện được giải thoát, mà không phải sống như Đức Phật.

Đó, thì cũng như Thầy ở trên Hòn Sơn mà Thầy tu, sau đó Thầy bỏ cơm bỏ gạo, Thầy ăn bằng lá cây, Thầy ăn bằng những cái rau mà Thầy trồng ở dưới cái mương nước để mà lấy cái đó hằng ngày sống thôi. Đó thế thì những cái đó là những cái môi trường mà chúng ta phải tự tạo lấy cho cuộc sống tu hành. Vì đời chúng ta không còn nữa hết rồi, bỏ hết rồi, không còn gì nữa, thì chúng ta phải tạo lấy một cái lối giải thoát cho chính chúng mình.

Còn bây giờ mà ôm bình bát ra đi xin, làm sao đi xin được! Đất nước chúng ta quá khó, phải không, các con thấy, điều đó khó lắm. Mà Thầy đã từng tổ chức như thế nào các con biết không?

Thầy chỉ xin mấy người cư sĩ thôi, bây giờ quý vị chỉ cần lập cho Thầy một cái tiệm cơm chay thôi, tiệm cơm chay đó là quý vị sẽ mướn cái người mà người ta vô người ta bán ở đó. Hằng ngày người ta bán, thì lấy cái số tiền mà những người ăn cơm chay ở tiệm đó trả công cho những người nấu cơm, còn riêng quý vị, bây giờ có 100 người tu, chỉ giúp đỡ cho mỗi một người tu vậy một buổi, một ngày vậy đó là một bữa cơm thôi, bao nhiêu cơm gạo đó thôi.

Ví dụ như bây giờ 100 người, mỗi một cái ngày ăn như vậy đó là 100 người nó tốn là 5 triệu, mỗi một tháng là 5 triệu thì mỗi ngày nó bao nhiêu như vậy, thì quý vị giao cái số tiền đó một tháng cho cái người đó ở đó người ta lo nấu cơm, để rồi quý vị đến đó, người ta xin cơm ở đó, cho người ta ăn ngày một bữa như vậy đó, là giao người ta 5 triệu rồi người ta chi ra người ta nấu một tháng, rồi tháng sau trả người ta 5 triệu nữa, rồi người ta cứ lo như vậy, tạo cho cái thế là chúng ta ở trong một khu vực rừng núi hay một nơi nào yên ổn đó, tới giờ đó chúng ta ôm bát đến chúng ta xin.

Cũng như bây giờ Thầy tạo cho quý thầy thấy rõ, các con ở trước các con nấu cơm, các con để ở tại cái chỗ cơm đó, sáng đúng giờ là quý thầy ra đó lấy cơm chứ quý thầy không có bận tâm gì lo cơm nước. Các con muốn cho ăn cái gì đó thì ăn, dở cũng ăn mà ngon cũng ăn. Cho nên vì vậy mà gần đây thì các con sẽ thấy, thí dụ như một người đau, một người bệnh cũng như người mạnh, cái gì mình ăn được mình ăn.

Cũng như thầy Chí Thiện về đây thầy bệnh, do đó cho nên đệ tử của thầy thì quá lo cho thầy, thấy cô Út cho ăn toàn là măng không, cho nên vì vậy mới làm cái này cái kia để nhờ các con đem ra. Như vậy là sai rồi, sai cái luật đi khất thực rồi.

Bây giờ mình bệnh mà mình còn đi được, mình còn mạnh khỏe như người khác chớ chưa phải là mình nằm một chỗ, phải không? Cho nên người ta vẫn đi xin cái đó người ta ăn thì mình cũng đi xin cái đó mình ăn. Cái đó mình ăn không được thì mình ăn cơm với muối, ăn cơm với cái khác chớ đâu làm riêng được!

Mình làm riêng rồi mấy thầy kia người ta nói sao? Ông này cũng còn thấy đi được mà, ông đâu có nằm liệt đâu mà bây giờ ông ăn hơn mình như vậy, ông ăn đồ ngon hơn mình như vậy, thì như vậy ông này lợi dưỡng quá rồi! Như vậy là nó mất cái giới luật của Phật đi.

(01:18:18) Cho nên vì vậy mà những cái điều kiện mà học trò của thầy Chí Thiện đã làm, cái đó nó sai cái quy luật của người đi khất thực ở đây rồi. Trừ ra cái người đó bệnh, đi không được, và do đó ăn uống không được, thì các vị Tỳ Kheo ở đây, các thầy ở đây người ta mới đến nhà bếp, người ta mới xin.

Chẳng hạn như Thầy, bây giờ Thầy xin: Bây giờ thầy Chí Thiện thầy ăn không được, cái bữa hôm nay thầy ăn không được, thầy muốn xin được cháo hoặc hoặc được canh, hay hoặc là sữa để cho thầy uống để mà thầy uống thuốc để mà thầy trị bệnh. Thì như vậy là Thầy phải trực tiếp, hay một vị tăng nào ở trong cái khu vực này họ đến, họ trực tiếp ở ngoài các con mà xin, thì như vậy đúng.

Còn cái này, ở ngoài đó mình làm để mình đưa vô nữa, thì cái đó trật. Phục vụ cho ông thầy của mình, còn bao nhiêu ông thầy khác bệnh có ai phục vụ không? Các con thấy bất bình đẳng phải không? Cho nên đó là cái sai.

Vì vậy mà vừa rồi, đệ tử của thầy Chí Thiện có đến xin sám hối Thầy, những cái đó là cái sai. Nhưng mà nếu mà không có giữ gìn, mà cái căng thẳng như vậy thì cái Tu viện của chúng ta nó không có kỷ luật mất rồi. Các con biết những cái sai đó nó có nhiều cái sai lắm, và vì vậy mà cái người tổ chức rất là khó, giữ gìn được cái kỷ luật rất là khó, không phải dễ.

Cho nên mọi người đều có những cái ý muốn riêng, mà mỗi cái ý muốn đó là các con sẽ thấy nó dẫn dắt đến cái chỗ sai lệch của đạo Phật dữ lắm, nó làm chúng ta mất cái hạnh, cái giới hạnh của người tu, cho nên rất khó.

Bây giờ thì Thầy nói như thế này các con thấy nè. Nếu mà các con muốn sống ở đây với cô Út, vì sau này là cô Út cổ phải lo tất cả những cái đời sống, những cái quyền sống ở trong này của các con hết rồi, và cái sức của cô Út như thế nào thì các con phải hợp sức với cô Út mà sống. Chớ còn Thầy đi rồi, chắc chắn là Phật tử họ không đến đây đâu.

Nghĩa là còn Thầy thì họ đến họ cúng dường đồ đó, chớ còn Thầy không còn thì chắc chắn là họ sẽ không đến đâu. Thường thường Thầy biết như vậy mà, họ cúng dường cho Thầy chớ họ không cúng dường cho ai hết à. Có Thầy thì coi như là cái cây bồ đề nó tỏa ra nhành lá nó, cho nên không bao giờ mà các con đói. Mà không có Thầy thì bây giờ đói thì các con cũng phải chịu đói chớ còn các con xin họ không được đâu.

Nhưng mà các con bây giờ có Thầy, các con đói Thầy chỉ nói, Thầy chỉ viết bức thơ, hay Thầy chỉ gọi điện thoại Thầy xin: “Bây giờ mấy con Thầy ở trên này, có một số chúng hai chục hay ba chục người đang thiếu gạo ăn, đang thiếu thực phẩm, xin mấy con về giúp đỡ Thầy số gạo hay đồ ăn!” Thì họ kéo xe hơi về cho Thầy ăn không hết đâu. Nhưng mà đủ ăn thì thôi Thầy không gọi, mà không đủ ăn Thầy gọi cái có liền.

Đó là cái cội bồ đề, luôn luôn bao giờ nó cũng đầy đủ. Các con nghe cái bài kinh mà Thầy đã có nói, cái chỗ đó cơm ăn áo mặc đầy đủ mà có một vị thầy hướng dẫn cho mình tu hành, tâm chưa vô lậu được vô lậu, tâm chưa an tịnh được an tịnh chớ gì? Thì nơi đó có được cơm ăn áo mặc đầy đủ, có được pháp tu hành như vậy, thì bây giờ đuổi cũng không đi, phải không, có nhớ không?

(01:21:14) Rồi bây giờ đó, nếu mà ở chỗ đó có một vị thầy mà dạy cho mình, tâm chưa vô lậu được vô lậu, tâm chưa an tịnh bây giờ được an tịnh, mà chỗ đó cơm ăn áo mặc rất là khó khăn, cực khổ, xin rất là khó, nhưng mà đuổi cũng không đi nữa, cũng bám đó nữa. Mặc dù đây là khó đó nhưng mà cũng bám ở đó. Cái kia thì có thể là dễ dàng đó thì chắc chắn đuổi cũng không đi nữa, bám luôn nữa.

Nhưng mà bây giờ đó thì Thầy đi rồi, phải không? Thầy không có ở đây nữa rồi, thì cơm ăn áo mặc sẽ thiếu rồi, nhưng mà cái pháp Thầy còn để đây, phải không? Các con tu thì được, nhưng mà các con không khéo rồi đói bụng nhăn răng rồi tu cũng không vô nó mới chết!

Tu sinh:…​ (Không nghe rõ)

Trưởng lão: Ờ, thì bởi vậy cho nên cô Út nói vậy các con hiểu không? Là bởi vì khi mà các con học theo Thầy thì bắt đầu phải đi khất thực rồi, phải sống theo đúng gương hạnh của Phật. Còn cô Út thì cổ nghĩ khác, là vì các con phải làm, dù người già, người yếu gì cũng phải làm hết để mà sống, chớ không thể…​ Bây giờ mình đi xin ai? Cổ đã nghĩ rằng Thầy đi rồi thì khó mà xin người khác.

Cho nên cổ không thể nào làm mà nuôi một lần mà rất đông được, cho nên vì vậy mà cổ nói như vậy để cho các con hiểu là bây giờ đó, thứ nhất là mình hiểu được pháp của Thầy, mình tạo được cái chỗ tốt, chỗ nào mà yên ổn, là vì mình phải có sống mới tu được, mà không có sống thì không tu được.

Do đó, được pháp để cho mình tâm chưa vô lậu được vô lậu, tâm chưa được an tịnh bây giờ nó được an tịnh, thì do đó nắm cho vững cái pháp, rồi phải tạo cái môi trường như Thầy nhắc nhở mà, tạo sao mà mình đi sống, mình khất thực mình sống cho được, đừng có để cho mình nấu nướng ăn.

Bởi vì ở đây, trước mặt cô Minh Cảnh nè, cô đã từng ở núi, cô đã từng nấu cơm ăn, nhưng mà thời gian không phải là ngắn đâu, cô ở núi rất lâu chớ không phải ngắn, nhưng mà tới bây giờ cô có giữ cái hạnh đó, tu như vậy, nấu ăn như vậy, cô có giải thoát được không? Hay hoặc là còn đi hái mãng cầu, hái đu đủ bán để gởi tiền mua gạo, phải không? Mình tu như vậy riết rồi…​

Tu sinh:…​ (Không nghe rõ)

Trưởng lão: À, đó thì bởi vậy, Thầy mới nói khi mình nấu thì nó đâu…​ Bởi vậy, khi mà hồi Thầy dạy đó, Thầy dạy cái thân mình niệm Phật, mà thân Phật đi khất thực thì thân mình phải đi khất thực.

Thân mình đã đi khất thực rồi thì ở cái nơi vị trí của mình có cây ổi, cây xoài, cây mít hoặc là cây nhãn có trái, vậy thì lúc bấy giờ như thế nào? Bây giờ mình đi xin ăn rồi, người ta cho mình cái bữa đó có được cơm ăn rồi, bắt đầu về hái mấy trái xoài này để dú (làm chín), trưa nay mình cũng ăn cho nó thêm mấy trái xoài nữa.

Thì Thầy ở đây, Thầy nói cái điều này: Chưa từng thấy ông Phật nói rằng ổng ở trong cái vườn xoài mà ổng đi xin cơm rồi ổng nhìn trên cây xoài, ổng thấy hôm nay có mấy trái xoài chín, thôi mình hái xuống đặng mình thọ thực rồi mình ăn luôn mấy trái xoài này nữa. Thầy chưa từng nghe cái điều đó.

(01:24:12) Cho nên ở đây, một cái người muốn đi khất thực mà đúng cái pháp hạnh của Phật, xin ăn mà sống đó, thì có những cái cây trái mà xung quanh cái chỗ nhà chúng ta ở, mà nó có trái rồi, nó già, nó chín rồi, thì kêu cái người cư sĩ mà họ đã từng cúng dường cho mình hằng ngày có một bữa cơm ăn, xin họ đến hái những trái xoài đó, bố thí hoặc là cho ai, hoặc là họ bán, họ làm gì thì họ làm tự bụng.

Chớ còn mình không có cái quyền hái cái trái đó ăn, mà mình chỉ có quyền là đi xin. Người ta có cho mình, bữa nay thí dụ như người ta cho cơm, người ta cho thêm mình trái xoài, thì về mình ăn cái trái xoài đó. Còn không cho thì đừng có nói: “Trái xoài này ở thất tui, tui trèo lên tui hái, tui để một cái giỏ đó tui dú, lần lượt nó chín cái trưa bữa nào tui cũng ních mười trái, hai chục trái cho đã!” Thì không có được. Đi xin kiểu đó mà còn để thêm số trái xoài.

Hay hoặc hôm nay trước thất tui có trồng thử hai, ba cây đu đủ, bây giờ trái quá trời, thôi để bữa nào tui cũng đem trái đu đủ vô tui ăn. Tui cũng không ăn phi thời, tui ăn đúng Ngọ, nhưng mà mấy trái đu đủ này là tại trước nhà tui, tui hái để tui ăn. Thì như vậy là cũng không được nữa.

Cái này không có phải làm cái chuyện đó đúng. Cái chuyện này có đu đủ thì giao cho mấy cái người cư sĩ họ thường là cúng dường mình trong cái cuộc sống của mình, giao cho họ hái họ làm gì làm. Riêng tui, tui chẳng hề hấn mà hái một cái trái cây nào mà tui ăn thêm. Khi mà người ta cho tui cái gì tui ăn cái nấy. Mình thêm, coi chừng nó lại sai mình sống ở trong cảnh dục nữa đó.

Bằng chứng ở đây Thầy nói như cô Minh Cảnh cô đã từng sống, thì cô biết là khi có trái nó đòi ăn thêm chớ không phải là không ăn thêm, rồi bán, rồi buôn, rồi mua sắm cái này kia, nó đủ thứ nó chạy theo dục lạc.

Cho nên cái hạnh của người tu mà đi khất thực là cái hạnh giải thoát, cái hạnh ly dục, ly bất thiện pháp. Còn mình mà thêm như vậy là mình không có ly, mà mình thêm dục chớ không ly. Thêm ăn thêm uống là thêm dục, cho nên nó khó là khó chỗ đó.

Các con, cho nên vì vậy mà khi nói cái thân niệm Phật là Phật đi khất thực, cái thân Phật đi khất thực thì thân mình cũng đi khất thực, thì cái khó là khó ở chỗ này, phải thông suốt, phải hiểu.

Nếu mà không dạy rành cái chỗ này, sau đó thì các con không có hiểu, rồi tưởng đâu là xung quanh nhà mình có nhãn, có ổi, có đu đủ hay hoặc là có thơm, có này kia đó thì mình cứ hái ních nó thôi. Chuyện đó thì thôi cũng như là không đi xin rồi, thôi trồng thêm lúa gạo đi cho ăn cho nó đủ hết đi, cần đi xin chi cho cực, phải không?

Rồi cho nên các con nhớ là khi nào giữ gìn được cái chánh nghiệp đúng thì không làm một cái gì, không hái một cái trái cây gì hết thì mới vậy.

Còn bây giờ cô Út cổ thấy cái điều đó, cổ hiểu mình làm như vậy đâu có được, không có được. Nghĩa là mình ở đâu cũng có cây trái, mà cái vấn đề này không phải cái chuyện đó được, phải làm sao cho nó phù hợp với trong cái hoàn cảnh của mình để mình tu tập, thì cái này để chờ cái điều kiện mà cô Út tổ chức theo cái kiểu sống của cổ tu hành như thế nào.

Thì các con sẽ thấy rằng những cái pháp mà Thầy dạy về những cái pháp hành này nó phải phù hợp với cái cuộc sống. Mà cái cuộc sống mà Thầy nói đây là mình bắt chước theo cuộc sống của Phật, nhưng mà cái hoàn cảnh, cái thời đại của mình nó không có phù hợp với Đức Phật hồi nào được hết.

Nghĩa là cái thời đại của Đức Phật khác, rồi đất nước của Đức Phật khác, đất nước của mình khác, cho nên hai cái này nó rất khó cho chúng ta trong giai đoạn tu tập.

(01:27:23) Vậy thì tùy ở các con mà các con có thể biết cách như thế nào để nó phù hợp trên cái bước đường mà thực hiện giáo pháp của Phật để đi đến cái chỗ giải thoát. Không khéo rồi đây do đó mà mình lại lầm lạc thế này thế khác, rồi cuối cùng thì nó động tâm mà nó không có tu tập được gì hết.

Chẳng hạn là như bây giờ các con thấy cái lối tổ chức của cô Út nó như thế này mà các con sống cái kiểu như đi xin ăn như quý thầy ở trong này, thì Thầy hỏi như quý thầy, Thầy hỏi như thế này nè: Bây giờ đó mình ngồi đây mình tu hành, mà người ta ở đằng trước người ta phải nửa đêm bốn, năm giờ người ta thức dậy người ta nấu cơm cho mình ăn.

Mà trong khi người ta đâu phải là những người cư sĩ, người ta là những người tu, mọi người ở đằng trước người ta cũng là người tu chớ, người ta cũng muốn giải thoát chớ, tại sao bắt người ta nấu cơm cho mình ăn? Như vậy là mình tu mình có giải thoát cho họ được không? Mà nếu không được thì quý thầy đừng có mỗi bữa đi ra đằng trước mà xin cơm vô đây ăn!

Nếu mình tu cho người ta giải thoát được thì người ta nấu cơm cho mình thì mình tu cho người ta giải thoát. Còn đằng này mình tu giải thoát cho mình chớ không phải là tu giải thoát cho người ta.

Vậy thì mình phải làm sao chớ còn không khéo quý thầy cứ nghĩ rằng mình ngon, mình sướng, mọi cô ở đằng trước họ lo nấu cơm cho mình, nhưng cuối cùng mình tu hành mình giải thoát mình làm Phật, còn họ hoàn toàn là làm chúng sanh thì cái này là như thế nào? Nó không công bằng chút nào hết. Cho nên chúng ta phải nghĩ như thế nào?

Bởi vì cái người cư sĩ người ta không có tu, người ta làm công quả hay hoặc là người ta làm cái chuyện đó để người ta sống, thì bắt đầu có cái lợi lạc nào đó cho họ sống, do vì vậy mà họ mới hằng ngày họ nấu cơm cho mình ăn, mình tu hành, mà họ dùng cái nghề đó.

Vì vậy thí dụ chẳng hạn bây giờ mình bỏ ra 5 triệu mỗi tháng cho năm chục người đi, phải không, năm chục người sống đi. Bây giờ đó thì nếu mà họ nấu cơm cho mình không thì họ lấy cái gì họ sống họ nuôi vợ nuôi con họ, cho nên vì vậy đó mình trả lương cho họ thêm, là thay vì mình đưa 5 triệu thì mình đưa họ 10 triệu để cho họ có 5 triệu họ nuôi vợ, nuôi con họ, thì như vậy là họ sẽ làm việc, như vậy mình đâu có lợi dụng họ.

Còn bây giờ mấy con ở đằng trước, mấy con nấu cơm, có trả tiền lương mấy con không? Mà quý thầy cứ ở đằng sau, cứ bữa trưa nào cũng xách đít của mình ra bưng cơm về ăn hết, mà rốt cuộc rồi quý thầy làm Phật còn mấy con thì làm chúng sanh hoài, mà không có đồng lương nào hết, thì như vậy có công bình trong xã hội này không? Không có công bình!

Cho nên chúng ta phải tổ chức như thế nào để công bình, cho phù hợp với cái lý của cái sự tu hành của mình, phải không? Như vậy mới đúng chớ, các con thấy chưa?

Cuối cùng thì tại sao mà Thầy không còn nương tựa ở một cái chỗ để mà dẫn dắt các con đi tới nơi tới chốn?

(01:30:08) Tại vì từ lâu tới giờ, theo Thầy hiểu là các con thường là cứ nghĩ rằng nương tựa vào Thầy để mà tu tập, cho nên hầu như là không có chịu nỗ lực rốt ráo. Để bây giờ khi mà Thầy tuyên bố ẩn bóng thì các con mới vội vàng, lật đật, rồi từ đó các con mới tự lực để tìm lấy cái cách thức cho mình trong cuộc sống cũng như trong cuộc tu hành của mình, từng đó các con mới chịu động não, mới chịu khai triển ra những cái gì mà các con làm biếng, chưa có triển khai.

Cho nên từ nào tới giờ, bây giờ về đây sống thì nhờ Thầy nè, trong cái sự sống của mình tất cả mọi cái đều là nhờ Thầy hết, phải không? Do vì vậy mà các con thấy mình cứ ở trong thất mình lo mình tu thôi, không có tính. Người nào cũng vậy, ai cũng muốn cái sung sướng mà chỉ biết cho mình tu thôi chớ không nghĩ gì đến cái người khác.

Trong khi người cư sĩ họ làm ở ngoài, họ làm ra đồng bạc rất là vất vả, họ cực khổ lắm. Mà vì mình tu hành, họ nghĩ rằng cái sự tu hành của mình quá khổ sở. Các con cũng biết rằng mình phải thức đêm, thức khuya tu hành chớ đâu phải là mình ngủ thẳng chân thẳng cẳng đâu. Họ cũng vì chỗ đó mà họ cúng dường mình.

Nhưng mà mình, mình biết rằng mình có tu tới nơi tới chốn chưa? Cho nên hằng ngày mình cũng còn lơ đễnh, chưa có phải thật sự. Vì vậy mà khi Thầy ẩn bóng rồi thì các con mới chịu động não mà khai triển ra. Còn các con không thì Thầy vẽ làm sao thì các con cứ làm vậy thôi, nhiều khi còn làm trật, làm theo ý muốn của mình nữa.

Cho nên cuối cùng Thầy nói, hầu hết là mình có một số con mà nó không có chịu làm ăn, nó ỷ vào ông cha giàu của nó, nó cứ ở không nó ăn à, nó không chịu làm, bây giờ ông cha chết rồi bắt đầu buộc lòng tụi nó mới nhảy ra nó làm nó sống. Thì như vậy là không biết chừng mà Thầy ẩn bóng đây trong số các con mới có những người tu giải thoát được, chớ còn nếu mà cứ nương tựa kiểu này hoài cho đến khi tới già, tới chết các con cũng không tới đâu.

Cho nên trong cái thời Đức Phật, người ta nương tựa pháp của Phật, người ta nương vào cái hạnh của Phật mà người ta không có nương tựa vào cái sống của Phật. Tại sao người ta không nương tựa vào cái sống của Phật? Các con thấy rõ phải không? Ông Phật ổng cho cái bình bát, đi xin được thì ăn, không xin được thì đói chịu chớ đâu có nương tựa Phật được. Ông Phật ổng đâu có lo cơm, lo nước!

Còn Thầy thì lo cơm, lo nước thì các con cứ ngồi khoanh chân đó mà lo. Cho nên cô Út nói đúng. Tại vì các con không có chịu nghĩ đến cái chuyện sống của các con để thực hiện cái sống.

Còn thời ông Phật thì chỉ nương vào cái tin vào ổng và tin vào cái pháp mà thực hiện giải thoát, còn về cái ăn, cái sống thì của mọi người. Ai đến với ổng thì bao nhiêu cũng được hết, trăm ngàn người cũng được, ổng không có lo cái đời sống đâu. Ổng cũng sáng sớm ổng mang bình bát ổng đi xin, có thì ổng cũng ăn mà không có thì ổng cũng chịu đói cũng như ai vậy.

Thì tất cả các đệ tử của ổng, 1250 vị Tỳ Kheo này cũng đều là y như vậy, người nào xin được thì xin mà không xin được thì về đói, chớ không nói: “Bây giờ con đói quá, bữa nay Phật xin Phật trút cho con ăn đi” thì không có bao giờ có chuyện đó.

(01:33:14) Phải không? Các con thấy đâu có chuyện đó đâu. Đâu có phải chơi cái kiểu như quý vị Tỳ Kheo mà ngồi ở hàng rào đó mà rình, chờ cho bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo đi xin về cái nhảy ra cái bà kia phải trút vô bát, còn ổng ổng xách về ổng ăn. Mấy ông tăng hồi trước khôn lắm!

Bởi vì không biết trong cái giới bổn mà nói cái vấn đề đó thì Thầy cũng không có nghĩ rằng Phật pháp là như vậy. Nói bên ni họ đi khất thực, bởi vì trong cái mùa hạn hán thì họ đi khất thực để mà sống, thì mấy ông tăng này lười biếng lắm, mấy ổng ngồi núp núp ở trong hàng rào, chờ cho mấy cái bà này rời ra khỏi khu vực cái của bả đi xin, xin về mà coi bộ đầy bát thì mấy ổng bước ra, mấy ổng giả đò cũng ôm bát đi ngay lại.

Thì mấy bà này thấy cái bát của mấy ông tăng là trống rỗng không có gì hết, thôi chịu khó trút. Trút riết rồi mấy ổng lấy hết cơm lấy gạo của mấy bà này hết. Trong khi mấy ổng khỏi cần đi xin xa, chỉ ngồi núp ở trong hàng rào, thấy mấy bả ôm bát về đầy là mấy ổng đi ra lấy ăn hết.

Đó thì do cái chỗ đó đó, Thầy thấy nó bất bình đẳng ở chỗ đó. Thậm chí như bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo, bả đều ba ngày đêm, ba ngày như vậy đều khất thực, mấy ông tăng sớt lấy hết, cho nên bà đói, bà khổ sở, bả không đi nổi nữa. Vì vậy mà một vị trưởng giả mới thấy như vậy, mới đưa bả về rồi cho ăn cho uống, rồi bà khỏe, rồi mới hỏi nguyên do, rồi cái ông này mới đến trình với Phật, Phật mới chế cái giới ra để cho mấy ông tăng đừng có chơi cái kiểu mà ăn trên.

Đó thì có những cái câu chuyện như vậy. Cho nên ở đây Thầy muốn nói lại cho các con thấy rằng, trên cái bước đường tu tập của chúng ta không phải giống như thời Đức Phật.

Đức Phật không có lo kinh tế cho ai hết, còn riêng bây giờ mấy con đói, chắc chắn là Thầy không để cho mấy con đói được. Mà cái đức của Thầy nó có thể rộng rãi là Thầy có thể xin người ta, một lời nói của Thầy xin hàng vạn cái số gạo, cái số thóc mà để chúng ta sống rất dễ dàng.

Nhưng mà thời Đức Phật, các con thấy Đức Phật đâu phải không có uy tín? Đức Phật xin cả vua chúa dễ dàng lắm. Nhưng tại sao ông Phật lại không xin để mà ăn cho nó sung sướng, ông Phật lại để cho mọi người đi xin? Đó, đó là những cái nguyên nhân mà Thầy đọc ở trong kinh sách Thầy thấy rõ ràng vấn đề này.

Cho nên ở đây Thầy ẩn bóng để cho các con phải tự mình suy ngẫm lấy cuộc sống tu hành của mình, giải quyết được cuộc sống đúng hạnh của Phật là giải quyết được phân nửa cái đường đi tu rồi đó. Mà giải quyết không được cuộc sống thì các con lại nhầm trên cuộc sống của thế tục thì các con không có tu giải thoát được.

Như cô Cảnh, cô về ở trên núi Long Hải cô tu. Cô cũng quyết vào núi tu, nhưng mà giải quyết cuộc sống không được, cho nên cô bị kẹt ở trong cái cuộc sống, rồi bắt đầu chạy theo cái dục lạc của ăn, của đời sống con người rồi.

Mặc dù ở trong cái chòi lá ở trên núi có gì hơn, rồi bây giờ cô lại trồng đu đủ, rồi mãng cầu, rồi hằng ngày có người đến mua bán đu đủ, mãng cầu. Tất cả bây giờ trở thành cái chợ buôn bán của cổ ở trên đó rồi! Cô lập cái chợ chồm hỗm ở trển, có không? Như vậy rốt cuộc rồi cô Cảnh lập cái chợ ở trển, mai mốt đây thuế nó vô nó thâu!

(01:36:30) Đó, trên cái bước đường tu tập không khéo rồi chúng ta lại lập quán, lập tiệm hết rồi. Cho nên ở đây làm sao mà chúng ta phải tổ chức như thế nào. Và cái người mà có thể tổ chức cuộc sống mới đó, Thầy mới nói đó là có cô Út chớ còn không ai mà làm cái điều này đâu.

Nhưng mà các con nên nhớ rằng đó là vấn đề mới mẻ, vấn đề khó khăn, không phải là vấn đề dễ, chớ không phải là đơn giản đâu.

Vì vậy mà sau cái mùa hạ an cư này rồi thì các con tự liệu lấy, mọi đứa đều tự liệu lấy. Pháp của Thầy đã trao nó đầy đủ hết rồi. Như vậy là khi sống với cô Út là phải sống với cái sự như thế nào để mà chúng ta tạo được cái cuộc sống của chúng ta, không còn ở trong cuộc sống thế gian mà!

Còn nếu mà mình còn ở trong cuộc sống thế gian thì như cô Minh Cảnh, ngày nào đó tưởng là về núi mà tu hành, nhưng cuối cùng thì không ly được cái đời sống thế gian thì đời sống của chúng ta kéo dài thêm cái thời gian nữa mà không đi đến đâu được hết.

Thì như vậy là các con đã hiểu được cái chỗ tu tập của Phật pháp nó khó, khó nhất là khó về cái đời sống chớ không phải là khó cái gì hết. Cái đời sống mà giải quyết được, sự tu tập rất dễ dàng, không còn khó.

Mà giải quyết đúng cách, chớ còn giải quyết mà không đúng cách, bây giờ chúng ta có tiền có bạc để đó, chúng ta cứ bỏ ra để ăn mà sống mà tu thì cũng không tới đâu được hết. Cái đó nó còn bị sai ở trong cái chỗ tiền bạc nữa thì nó cũng không đúng cách của người tu. Làm sao mà như là thời Đức Phật đi xin ăn đó, đừng có biết ngày mai là chúng ta ăn cái gì, ai cho cái gì ăn cái nấy, đó mới là giải thoát./.

HẾT BĂNG

51 - TRẢ LỜI VỀ BỐN LOẠI ĐỊNH - CHẤN HƯNG PHẬT PHÁP

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 51 - TRẢ LỜI VỀ BỐN LOẠI ĐỊNH - CHẤN HƯNG PHẬT PHÁP

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- CUỘC SỐNG PHẢI PHÙ HỢP VỚI SỰ TU TẬP

(00:00) Thầy sẽ đọc cái bức thơ của cô Cảnh gởi Thầy trình bày cái sự tu tập của cổ để xem coi có đúng hay là không, cái chỗ nào đúng thì Thầy cho đúng mà chỗ nào sai Thầy cho sai để biết mà sửa lại.

Đó, thì trước khi đọc Thầy nhắc lại: Cái cuộc sống của chúng ta với cái sự tu tập nó phải phù hợp, mà nếu nó không phù hợp thì chúng ta cũng khó tu lắm.

Cũng như bây giờ, quý thầy sống thì thấy - hiện giờ các con thấy quý thầy đâu có làm cái gì đâu? Ở đây không có cày ruộng, không có cuốc đất gì toàn bộ, mà đúng giờ thì ra có cơm hết, ai nấu cơm đâu không biết, đúng rõ ràng là như cái thời Đức Phật đi xin rồi.

Nhưng mà các con thấy quý thầy có ngậm cái miệng của mình không? Khoái lắm mà, ăn cũng sung sướng, có người nấu mà, tới giờ là no rồi mà, đâu cần gì phải không? Do đó bây giờ cứ rủ nhau mà nói chuyện, ông này gặp ông kia nói chuyện cho đã, thì như vậy có tu được không?

Bởi vì vậy cho nên khi mà vắng Thầy rồi, lúc bấy giờ mà ngồi một mình mới nhớ: Hồi đó Thầy dạy bảo độc cư, không chịu độc cư, có cơm ăn sẵn quá, có người nấu cơm sẵn quá, bỏ trong miệng sẵn quá, chỉ cần có cái nuốt không mà còn muốn làm biếng không chịu nuốt nữa!

Rõ ràng là quý thầy bây giờ cơm bỏ trong miệng rồi mà không chịu nuốt, có không? Chịu nuốt mà sao lại còn nói chuyện? Nói chuyện đó là không chịu nuốt cơm. Mà không chịu nuốt cơm là chắc chắn là mấy ổng muốn tiêu rồi.

Nghĩa là cái người bệnh mà không ăn cơm được thì cái người đó sắp chết rồi, còn ăn được chút ít thì chắc chắn là còn cứu được. Còn quý thầy hiện giờ Thầy thấy là - hầu hết có một số quý thầy kể như là cơm đút trong miệng họ không chịu nuốt, chắc chắn là họ sắp tiêu rồi.

Tại sao Thầy biết họ sắp tiêu? Nghĩa là họ có tu theo Thầy bây giờ tới móc cái mũi của họ như là con cá tràu móc đi nữa thì nó cũng chưa thành nữa. Tại vì thích nói chuyện là không thành thôi. Đó, đó là cái hẳn nhiên.

Cho nên ở đây các con đừng có tưởng rằng mình đi khất thực rồi mình ăn rồi mình thành Phật được đâu, nhưng mà nó phải phù hợp như thế nào, sống đúng như thế nào đúng pháp, như thế nào thì nó mới có thể giải thoát được. Khó lắm chớ không phải dễ.

2- TRẢ LỜI VỀ SỰ TU TẬP BỐN LOẠI ĐỊNH

(02:11) “Kính bạch Thầy!

Con xin trình bày về bốn loại định mà con đang tu tập. Định nào con tu đúng, định nào con tu chưa đúng, xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con tu cho đúng để không phí bỏ thời gian!

Trước con kính trình về Định Vô Lậu: Đầu vô ngồi kiết già,con quan sát cái sắc thân vô thường này do đất, nước, gió, lửa hợp thành, con phân tích ra đất cũng vô thường, nước cũng vô thường, gió cũng vô thường, lửa cũng vô thường, bốn đại hợp thành sắc thân vô thường, thì thọ cũng từ nơi sắc thân vô thường mà có, thì thọ không thể thường được mà là pháp hoại diệt vô thường.”

Ở đây thì theo Thầy thấy, về cái Định Vô Lậu mà con đã quán cái định như vậy thì phải cố gắng quán hơn nữa.

Vì ở đây là cái sắc thân của chúng ta là bốn đại, đất, nước, gió, lửa, thì con quán tạm như vậy cũng đủ, nhưng mà phải còn quán sâu, quán hơn nữa để mà thấy rõ bốn đại này như thế nào, hòa hợp như thế nào, kết hợp như thế nào, câu hữu lại như thế nào.

Thí dụ như đất, nước, đất nó câu hữu với nước, nước nó câu hữu với hỏa đại, hỏa đại nó câu hữu với phong đại như thế nào mà nó trở thành cái thân của chúng ta. Rồi nó tan hoại như thế nào, nó không câu hữu với nhau thì nó tan hoại như thế nào. Thì do đó chúng ta suy tư, tìm hiểu, thì cái mà suy tư, tìm hiểu đó gọi là tri kiến giải thoát.

Đó, đó là cái phần đó để cho chúng ta thâm sâu hơn về cái sắc thân.

Rồi bây giờ tới cái thọ. Bởi vì ở trong thân của chúng ta, thân Ngũ Uẩn thì nó có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thì bây giờ cái sắc nó câu hữu với cái thọ, nó kết hợp lại, cho nên chúng ta có cái thân này, ai đánh chúng ta nghe đau, thì cái đau đó mà cảm biết cái đau đó là cái thọ.

Vậy thì khi mà không có ai đánh thì cái sắc chúng ta không có cái thọ, mà khi có đánh hay có con kiến, hay có con vật gì cắn mà chúng ta đau thì đó là có cái thọ. Vậy thì cái thọ nó kết với cái sắc thân của chúng ta cho nên gọi là Sắc Thọ.

Mà bây giờ chúng ta biết được cái đau, cái nhức đó, cho nên cái sắc, thọ, thức nó kết hợp ba cái lại, cho nên gọi là Sắc Thọ Thức. Các con hiểu không?

(04:35) Ở đây có một cái dịp mà Thầy dạy để cho các con lấy cái thọ, rồi biết cái thọ nó câu hữu với cái sắc, nó câu hữu với cái thức, nó câu hữu với cái hành, nó câu hữu với cái tưởng, nó làm ra như thế nào cho chúng ta thấy cái tâm của chúng ta nó luôn luôn nó dao động, nó không có được yên ổn, nó không được giải thoát. Do đó chúng ta rất sợ hãi trước cái thọ.

Những cái buổi mà thuyết giảng như vậy đó, để giúp cho các con đứng trước cái đau đớn của cái thân, cho đến khi mà cái thân mạng, cái sinh mạng của các con chịu đựng cái thọ đau khổ đến tận cùng mà các con vẫn giữ cái tâm bất động, làm cho các cái câu hữu của sắc, thọ, tưởng, hành, thức này nó không làm cho các con dao động được, thì cái thọ đó nó sẽ không tác động được, thì tất cả đều trở thành mát lạnh của sự giải thoát tâm hồn của các con.

Đây tiếp tục. Như vậy là con còn phải quán xét hơn nữa, còn phải tu tập hơn nữa nó mới được.

“Từ cái sắc đến cái thọ cho tới cái thức, con đều quan sát như vậy. Quan sát đến đâu thì thức theo dõi đến đó. Con cũng quan sát từ tóc đến mắt, tai, mũi, lưỡi, cổ họng, tim, gan, bao tử, thận, mật, ruột già, ruột non đều quan sát như trên, đều là vô thường, các pháp hoại diệt, cho đến tham, sân, si cũng từ nơi sắc thân vô thường mà có…​”

Ở đây về cái sự quán này, thì con hơi có cái sự lộn xộn. Nghĩa là bây giờ các con phải quán như thế nào để đúng? Bây giờ mình quán từ cái tóc, cái mũi, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình từ trên xuống tới chân, từ chân trở lên trên, tức là mình quán nó bất tịnh hay hoặc là mình quán nó vô thường, mình phân biệt cho nó rõ ràng.

(06:35) Nếu là mình quán nó vô thường, thì tức là mình quán - bây giờ như tóc của mình, mình phải quán từng phần. Tóc bây giờ còn nhỏ thì tóc nó đen, nó vô thường bây giờ nó bạc, đó là nó vô thường, nó thay đổi. Phải không? Hồi nhỏ thì tóc nó dài, nó rậm, bây giờ nó thưa, cái đầu gần sói hết, tóc rụng gần hết. Cho nên đó là nó vô thường.

Mình quán vô thường từng phần. Con nói nó vô thường mà con không có nói ra được cái vô thường của nó, cái thay đổi của nó thì nó không có thấu rõ được cái vô thường.

Nói con mắt của mình là vô thường thì con phải quán nó: Trước là con mắt hồi còn nhỏ thì sáng suốt, nó không có mờ, bây giờ thì con mắt nó mờ. Hồi nhỏ thì nó đen bóng mà bây giờ thì nó trắng bạc, nó vàng đi, nó không còn. Đó do cái sự trắng bạc, vàng đi, đó là cái vô thường của nó. Nếu mà con…​

Tu sinh: (Không nghe rõ)

Trưởng lão: À không phải. Thầy muốn nói đây để cho con quán từng phần: Từ cái tóc như thế nào là vô thường? Từ cái mũi, cái tai, cái lưỡi của mình vô thường như thế nào? Rồi cái cổ, cái họng như thế nào là vô thường? Từ tim, gan, phèo, phổi, mật, ruột già, ruột non, như thế nào là vô thường? Do đó con phải quán, như vậy tức là đặt ra cái niệm rồi con phải suy xét nó, con sẽ tìm thấy vô thường.

Còn nếu mà con quán nó là bất tịnh, thì nó hôi nó thúi như thế nào, thế nào, thì nó lại cái phần khác nữa rồi.

Cho nên ở đâu nó ra cái phần nấy cho nó rõ ràng. Ở đây Thầy chỉ hướng dẫn thêm để cho thấy các pháp mà nó là vô thường thì phải thấy cho rõ cái sự vô thường của nó. Chớ mình dùng cái chữ vô thường mà mình không thấy từ cái tóc nó bạc, từ cái tóc nó đen nhánh mà cho đến nó bạc, thì như vậy là mình chỉ nói vô thường là cái vay mượn mà mình không thấy thật sự vô thường của nó, sự thay đổi của nó.

“…​Chỉ vì vô minh mà cảm nhận lấy sự thương ghét, hơn thua, ham muốn”,

Ở đây con nói luôn cả tham, sân, si. Cho nên ở đây không phải. Về cái phần tham, sân, si thì nó không phải là cái xác thân của con mà nó là các pháp. Muốn được như vậy thì tức là phải quán cái phần tâm của mình tham, sân, si, mạn, nghi, tức là Ngũ Triền Cái.

“…​Chỉ vì vô minh mà cảm nhận lấy sự thương ghét…​”

Ở đây con nói thuộc về cái tâm. Mình quán cái thân thì mình quán cho rõ. Cho nên phân biệt nó rõ cái phần nào cho nó rõ ra phần nấy. Nó quán về tâm là tâm mà quán về thân là thân - quán về sắc thân của mình, rồi quán về tâm tức là quán về thọ, quán về tưởng, quán về hành, quán về thức, cái phần nào con sẽ quán. Con quán như vậy về cái Định Vô Lậu thì cái phần nào nó ra cái phần nấy để chúng ta phá sạch cái lậu hoặc của nó. Nhớ kỹ phải không, cho rõ ràng.

(09:21) “…​nhưng cuối cùng là ảo giác giả tạo. Con đặt niệm trước mặt là thọ vô thường, con gọi sáu căn bám vào niệm thọ vô thường trước mắt, đừng để thất niệm.”

Ở đây thì theo Thầy thấy con gọi sáu cái căn bám chặt vào một cái tụ điểm để cho nó nằm yên ở trên cái tụ điểm đó mà nó không hướng ra sáu trần, nó không dính mắc sáu trần.

Còn bây giờ con quán sáu căn này như là mắt, tai, mũi, miệng hồi nãy đó, là con thấy cái sự thay đổi vô thường của nó. Như mắt hồi nhỏ thì xanh, lớn lên thì vàng, bạc, mờ, không thấy rõ nữa, thì đó là vô thường của nó.

Còn về cái phần mà con nói ở đây là bảo cho nó bám chặt vào cái niệm thọ. Nếu nó bám chặt vào niệm thọ sao được?

Bởi vì luôn luôn, thí dụ như cái ý thức mà nó bám vào cái thọ, thì cái thọ là cái thân của con, cái chỗ nào đau nhức nó mới sanh ra cái thọ nó câu hữu với cái sắc, nó làm cho con khổ sở như cái đầu nhức, thì bây giờ con biểu nó bám vào cái đầu để biết nó nhức thì nó nhức chết còn gì!

Cho nên cái này không có được, mà bảo sáu căn phải bám vào một cái tụ điểm, đừng có bám vào cái chỗ đau nhức của cái sắc thân của con, ngay chỗ đó nó sẽ không còn đau nữa, thì như vậy đó là con sẽ phá đi cái thọ của con, nó không còn làm cho con đau đớn trước cái thọ.

Và cái niệm đó luôn luôn - sáu cái thức của con, sáu cái căn của con nó nằm chặt ở trên chỗ cái niệm, nó làm cho cái tâm con không có duyên qua cái thọ, nó không còn làm cho con khổ nữa.

“Con quan sát từng phần, con ngồi một giờ tu Định Vô Lậu, trong đầu óc không có một niệm gì xen vào, rất sáng suốt.”

Không phải, cái chỗ này con lộn. Khi mà con tu cái Định Vô Lậu thì luôn luôn có một cái tri kiến giải thoát, hoàn toàn nó theo những cái niệm mà của con đã đặt trước mắt nó, nó thấy từ cái niệm này đến cái niệm kia nó vô thường như thế nào của cái thân của con. Thì như vậy trong cái đầu óc của con không thể nào mà không có niệm mà nó phải có một cái sự suy tư đó, nó có cái dòng tư tưởng liên tục, chớ không thể nào mà con như thế này:

“Con quan sát từng phần, con ngồi một giờ tu Định Vô Lậu, trong đầu óc không có một niệm gì xem vô…​”

Không được! Có nghĩa là bây giờ đó, ở đây con nói không có cái niệm khác xen vô, bởi vì khi mà con dùng cái trí tuệ con quan sát thì cái niệm đó là cái động của tâm con rồi, chớ không phải ở trong cái đầu óc của con là cái tĩnh, con hiểu không? Bây giờ cái tĩnh nó trống rỗng, nó không có cái niệm, cho nên vì vậy nó không có xen vô.

Ở đây đọc thì người ta hiểu rằng trong cái đầu của con lúc bấy giờ, con đang quan sát cái thân của con là vô thường, thì tức là cái dòng tư tưởng, cái tri kiến giải thoát của con nó thuộc một cái dòng nó đi theo các pháp vô thường, phải không, cho nên cái niệm khác không thể xen vô được, không có niệm gì xen vô được, thì nó đúng. Nhưng mà đây nó một cái dòng của tư tưởng thì có cái niệm nào khác hơn là cái niệm này? Đó là cái thứ nhất, cái sai thứ nhất của con.

(12:33) Nếu mà cái đầu óc của con bây giờ nó hoàn toàn nó không có niệm thì bây giờ nói nó không có niệm xen vô thì mới được, đó thì nó đúng.

Còn cái:

“…​ rất sáng suốt và tỉnh thức…​”

Nó bây giờ nó đi theo một cái dòng tư tưởng của nó để quán sát cái thân của nó là vô thường, thì nó đi theo cái dòng của nó, không có còn một cái niệm gì mà làm cho nó quên cái đó được. Đó là cái phép quán, cái thiền quán, nó làm cho con phá đi cái thân vô thường mà không dính mắc, chớ không phải…​

Con khéo lầm ở chỗ này. Là vì cái đầu óc nó rỗng rang, nó không có một cái niệm gì xen vô. Mà đây nó đang có cái niệm, cho nên làm sao có cái niệm xen vô được. Phải phân biệt cái chỗ này.

Tu sinh: (Không nghe rõ)

Trưởng lão: Không phải, con phải phân biệt như thế này. Khi mà có một cái niệm, mà cái niệm của mình đưa ra một cái dòng tư tưởng niệm thì không có cái niệm nào xen vô được, phải không? Cho nên nó không niệm.

Còn bây giờ trong cái đầu óc của chúng ta ngồi đây mà giữ cái tâm nó không có một cái niệm nào hết, hoàn toàn nó thanh thản, hoàn toàn nó không có niệm, vì đây là nó ở trong nhất niệm, hay hoặc là ở trong một cái tâm thanh tịnh không có niệm, nó vô niệm. Thì bây giờ cái niệm gì không xen vô? Thì chúng ta biết là chúng ta đang ở trong một cái nhất niệm thanh tịnh của tâm, cho nên không có cái niệm nào xen vô, mà cái niệm nào xen vô đó gọi là cái vọng tưởng.

Còn bây giờ trong tâm của chúng ta đang có một cái niệm, chớ không phải là cái tâm…​ Nó niệm từ cái tóc, tai, mắt, mũi, miệng nó, nó suy tư ra, cho nên lúc bấy giờ không thể nào mà có một cái niệm khác xen vô, nghĩa là không có làm sao - bởi vì đó là cái niệm rồi, mà cái niệm khác không thể được, không có cái niệm nữa.

Còn cái này nó vô niệm, cho nên vì vậy mà cái niệm khác dễ xen vô. Con phân biệt rõ phải không? Cái niệm - bây giờ nó đang có cái niệm thì nó sẽ không có cái niệm thứ hai nữa được.

Cũng như đức Phật ví dụ: Một bậc A La Hán chỉ ra đời - chỉ có một bậc A La Hán, không thể đồng thời có hai bậc A La Hán được. Thì chúng ta nói rằng trong đầu chúng ta có một cái niệm thì không thể có một cái niệm khác được. Trừ ra trong đầu chúng ta không có niệm thì nó mới có xen vô cái niệm khác. Hiểu vậy chưa?

Còn bây giờ nó có niệm thì không thể nào có cái niệm khác được. Vì trong đầu chúng ta luôn luôn lúc nào nó có cái niệm, mà cái niệm đó là chúng ta điều khiển, chủ động cái niệm đó nó khởi ra, chớ không phải để cho nó tự động nó khởi ra.

Vì nó tự động khởi ra đó là cái niệm vọng tưởng, còn bây giờ mình điều khiển cái niệm đó, vì vậy cái niệm đó gọi là thiền quán hay hoặc là Định Niệm Vô Lậu. Chúng ta dùng cái niệm để quan sát, để thấu suốt cái lý lậu hoặc để mà chúng ta dẹp cái lậu hoặc đi, đó là cái niệm. Cho nên khi đã có cái niệm thì không còn cái niệm thứ hai được nữa. Các con hiểu không?

(15:20) Cho nên trong đầu óc của chúng ta, khi nào mà nó không có niệm thì mới gọi là có cái niệm khác xen vô, hay hoặc là không có niệm khác xen vô. Còn bây giờ nó đã có niệm thì không thể nào có cái niệm thứ hai nữa, cho nên không thể nào nói có cái niệm thứ hai mà xen vô được.

“…​thì tự thấy được toàn thân là vô thường:”

Đó là cái niệm quán xét vô thường, cho nên mới thấy nó toàn là vô thường.

“Từ dòng máu lưu thông toàn cơ thể đều là vô thường, nó hằng sanh diệt, hằng diễn biến, hằng thay đổi không ngưng nghỉ, thấy từ cọng tóc, từ lỗ chân lông, từ các tế bào, thớ thịt đều sanh diệt vô thường.”

Nhưng ở đây con dùng một cái số từ để chỉ cho sự vô thường chớ chưa phải chỉ cái hành tướng, cái trạng thái vô thường của các pháp của thân con, cho nên con chỉ suông suông, cũng như một cái người mà thuyết cái lý mà không có cái hình tướng để thấy sự vô thường.

Thầy muốn nói, mình muốn nói lên cái danh từ đó để chỉ thấy sự vô thường cho nó rõ ràng. Thì bây giờ cái dòng máu ở trong thân của chúng ta vô thường: Lúc thì đỏ, lúc thì đen, đó là sự thay đổi vô thường, lúc thì nhiều, lúc thì ít, đó là sự vô thường, cho nên khi mà nó nhiều thì nó lại căng đầu chúng ta lên, khi mà nó ít nó làm chúng ta giảm xuống như thế này thế khác, thì đó gọi là vô thường.

Còn nói về cái sự vô thường của cái tóc của chúng ta thì đen, trắng, đó là cái sự vô thường, những cái hình ảnh mà cái trạng thái nó thay đổi.

Còn con nói cái danh từ không, nó là vô thường thế này thế khác mà không diễn tả được cái trạng thái vô thường, cho nên nó không thấm được cái lý. Con hiểu chưa?

Cho nên, không phải…​ Thầy muốn nói đây, thà là con nói ít, bây giờ con chỉ quan sát cái tóc con vô thường, thì con nhớ hồi nhỏ tóc mình dài và đen mượt, rất là đẹp, còn bây giờ già rồi, bạc trắng rồi, mà thưa, mà rụng, đây là tóc vô thường. Bấy nhiêu đủ để thấy chúng ta nó vô thường, mà nó rõ nét, phải không?

Còn bây giờ mình nói vô thường mà mình không diễn tả được cái sự trạng thái vô thường của nó thì mình không thấm sâu được cái vô thường đó, cho nên mình nói suông, rồi đây rồi nó sẽ không thấy vô thường. Phải không các con?

Dùng cái danh từ nói vô thường thì cũng như Thầy nói bây giờ thân của tôi là vô thường, khổ, không, vô ngã, tui nói danh từ như vậy nhưng mà tôi chưa biết nó vô thường như thế nào.

Nhưng mà tui nói cái thân tui vô thường, tui nhớ lại hồi nhỏ tôi, lúc mà 20, 25 tuổi thì sức tui khỏe, tui có thể làm nó không biết mệt, thuyết giảng nó không mệt. Còn bây giờ tôi đã 60 tuổi, gần 70 tuổi, nói trong một cái thời pháp như thế này, tui thở hết muốn ra hơi, do đó tui thấy cái thân tui nó kém rồi, cho nên tui biết nó là vô thường.

Hồi nhỏ thì mặt tui nó thẳng, nó không có da nhăn, nó không có cái xấu xí, những cái trên mặt của tôi, còn bây giờ thì già, da nhăn rồi răng rụng thế này kia, đó là cái sự vô thường của thân tôi.

(18:34) Con hiểu chỗ đó. Quán vô thường là phải quán như vậy để cho mình thấy sự thật vô thường để cuối cùng mình mới không có chấp cái thân của mình là cái ngã của mình nữa. Mình thấy nó là vật vô thường, nó làm cho mình rất khổ.

Và mỗi lần vô thường vậy nó xảy ra như thế nào? Từ nhỏ, từ cái sức khỏe tui dần dần mất đi, nó trải qua bao nhiêu lần bệnh đau, mỗi lần bệnh đau vậy nó làm cho thân của chúng tui kém cái sức khỏe xuống dần dần, dần dần, cho đến bây giờ nhiều lần đau, mà cho đến bây giờ tui thấy sức khỏe tui gần như là kiệt quệ, làm cái gì nặng tui thở quá nhiều. Đó là sự vô thường của thân tôi.

Đó con thấy không? Mình cũng quán vô thường mà quán đúng cách thì nó thấm được cái lý, mà thấm được cái lý cho nên mình không chấp cái thân mình là ngã nữa, mình không chấp cái thân là của mình nữa.

Đó, ở đây là có những cái phần mà có thể rằng con phải thấu suốt, để không khéo mình dùng một cái danh từ, mình chỉ nó vô thường nói cái này kia để mình nhai đi nhai lại vô thường mà trở thành mình không thấy được cái tướng vô thường của nó. Đó.

“Thấy đúng như thật là vô thường, cho nên cái đau nhức khó chịu biến mất, xả ra có sự an lạc.”

Đó, bây giờ con ngồi thiền thì con thấy đau, xả ra thì an lạc, thì con quán cái thọ vô thường, con đặt cái niệm thọ.

Cho nên dưới đây con nói chung chung là từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, con gộp chung ở chỗ này con nói chung, chớ lẽ ra mà con viết cái bài này con phải nói: Bây giờ con quán cái sắc, thì từ cái sắc đó con phải quán từ tóc, tai, mũi, miệng…​

Cũng như cái bài kệ của cái vị ni mà người ta quán tóc của mình, rồi tới cái mặt, cái mũi của mình, lần lượt người ta quán như vậy đó, để mà thấy được cái tướng vô thường của nó đó. Đó thì Thầy có nêu lên những cái gương hạnh của những người mà tu cái Định Vô Lậu đó, quán vô thường.

“Thấy đúng như thật là vô thường, cho nên cái đau nhức khó chịu biến mất, xả ra có sự an lạc. Thưa Thầy, nhận thấy như vậy có phải là tri kiến giải thoát hay không?”

Chưa đúng đâu. Tri kiến giải thoát nó lột sạch ra tất cả những cái gì mà gọi là vô thường, nó thấu suốt rất là thấu suốt, cho nên từ đó nó nhìn cái thân của nó nó ghê gớm lắm, nó hễ nhìn bất tịnh là nó ghê gớm vô cùng, mà nhìn tất cả những sự thay đổi của cái thân, nó thấy được cái đường đi nước bước của nhân quả chi phối từng phút giây, nó rất rõ ràng.

Vì lúc bấy giờ, cái người mà quán được cái Vô Lậu, thấy được cái thân vô thường thì người ta thấy được cái đường đi của nhân quả, thấy rất rõ ràng. Do vì cái sự quán xét mà thấu suốt như vậy nó làm cho trí tuệ giải thoát của chúng ta…​

Còn ở đây con quán như vậy chỉ là một cái số từ để mà nói lên cái sự vô thường của nó, nhưng mà sự thật không thấy cái hình ảnh vô thường.

Đó Thầy muốn nhắc ở đây là nhắc chung cho các con, lấy cái bài của cô Minh Cảnh để làm chung cái bài học cho các con để tu cái Định Vô Lậu, làm chúng ta diệt sạch cái lậu hoặc của chúng ta.

(21:26) “Con vẫn tiếp tục tu Định Vô Lậu cho đến khi chứng đạt được tâm bất động mới thôi hay sao? Cúi mong Thầy chỉ dạy thêm và tiếp tục?”

Bây giờ con tu cái Định Vô Lậu này, con thấy là nó đã vô lậu thì như thế nào? Tức là ly dục, ly bất thiện pháp. Con thấy tới bữa ăn con không thích ăn đâu, con không thèm cái món ăn nào nữa hết, con thấy là con ly được cái tâm ham muốn ăn rồi.

Con thấy mọi vật xung quanh con, thậm chí những cái lời dạy trong băng của Thầy con cũng không ham thích nữa, con chỉ còn biết tu, biết giải thoát mà thôi, hiểu được cái gì làm cái nấy chớ không muốn nghe nữa. Bởi vì nghe nhiều khi nó còn gợi cho chúng ta những cái lời ham thích ở đó, nó còn chưa có ly được dục đâu.

Cho nên ở đây Thầy nói là một lẽ, lời Thầy dạy thì các con đúng cái pháp, nhưng khi cái người mà tu cái Định Vô Lậu rồi, họ không còn thích nghe gì hết.

Họ chỉ muốn âm thầm sống trong trầm lặng để giải thoát tâm hồn của họ, chớ họ không bao giờ mà có thể còn thích nghe băng, nghe này nghe kia, hoặc là còn thích pháp này pháp kia nữa. Họ biết cái gì tu được, cái gì không tu được là họ nỗ lực cái đó họ tu chớ họ không thích nữa. Hoàn toàn họ buông xuống hết, họ không còn một vật gì, hoàn toàn chỉ còn hai bàn tay trắng mà thôi.

Đó thì như vậy là cái Định Vô Lậu đã sạch, mà cái Định Vô Lậu giúp để chúng ta ly dục, ly ác pháp để chúng ta nhập được Sơ Thiền. Đó, cái Định Vô Lậu tu để chúng ta nhập được Sơ Thiền, và từ cái chỗ Sơ Thiền đó mà chúng ta tiến vào để chúng ta nương vào hơi thở để chúng ta đi tới cái chỗ mà chúng ta nhập Tứ Thiền, làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta. Đó như vậy là mới xong.

Còn bây giờ chúng ta còn thấy dính mắc một chút nào đó, tối mà chúng ta nằm ngủ chúng ta còn thấy chưa tỉnh thức thì tức là vô lậu chúng ta chưa hết.

Tại sao vậy? Tại vì nằm ngủ, cái thân ngủ mà cái tâm chúng ta luôn luôn biết hơi thở tức là tỉnh thức trong hơi thở. Vì vậy cái người tu thiền theo đạo Phật mà tâm ly dục ly ác pháp rồi thì họ rất tỉnh thức. Họ rất tỉnh thức thì họ không ham ngủ. Họ không ham ngủ thì không bao giờ có chiêm bao, mà không bao giờ mệt nhọc. Còn bây giờ chúng ta không ngủ một đêm là chúng ta đã mệt nhọc, đã muốn bệnh rồi, thì như vậy là chúng ta chưa tỉnh thức.

Do tu cái Định Vô Lậu này thì nó chứng minh cho cái sự đạt thành, mà hết tu cái vô lậu thì lúc bấy giờ chúng ta hoàn toàn là phải ly dục ly ác pháp, hoàn toàn là phải không có mộng mị, chiêm bao, phải thức tỉnh suốt trong đêm trong ngày, ngủ mà như không ngủ. Đó như vậy là cái Định Vô Lậu chúng ta đã đạt được.

“Con tu Định Vô Lậu trước để quét sạch cái đau nhức, khó chịu, rồi sau đó con mới tu Định Niệm Hơi Thở có chất lượng.”

(24:04) Đúng vậy, cái Định Vô Lậu nó vừa phá cái thọ, nó quét sạch cái thọ, làm cho cái tâm của con trước cái thọ đau khổ mà nó không dao động. Không có nghĩa là cái Định Vô Lậu nó làm cho con hết đau khổ, nó vẫn đau khổ, nhưng tâm của con không dao động trước cái đau khổ của cái thọ. Con hiểu chưa?

Không phải cái Định Vô Lậu nó làm cho con như một liều thuốc tê mà chấm dứt cái sự đau khổ, nó không phải làm cho con hết đau khổ. Nó có đau khổ nhưng vì tâm của con vô lậu, cho nên trước cái thọ đau khổ đó con không có dao động tâm con, con không sợ hãi, mặc nó đau là nó đau, kệ nó, con chỉ biết giữ cái tâm con nằm chặt ở trên một cái tụ điểm, nằm chặt ở trên một cái đối tượng của sáu cái thức mà thôi. Đó là nó đau là mặc đau.

“Rồi sau đó con mới tu Định Niệm Hơi Thở. Tu Định Niệm Hơi Thở, mới đầu vô con tu hơi thở bình thường khoảng 5 phút, bắt đầu hướng tâm thở hơi thở chậm nhẹ, sáu căn bám nhẹ vào tụ điểm, và từ từ vận dụng hơi thở chậm nhẹ hơn nữa, có hơi thở nhẹ và chậm như không thấy hơi thở mà vẫn vận dụng sáu căn bám chặt tụ điểm.

Tai con còn nghe âm thanh quá rõ, cho nên con gọi nhĩ thức câu hữu với thân thức bám chặt tụ điểm, thì bắt đầu nhĩ thức mới bám vào tụ điểm.

Thưa Thầy hiện giờ con nên phá âm thanh trước rồi mới tịnh chỉ hơi thở sau, hay là hướng tâm tác ý đồng một lượt mà phá âm thanh và tịnh chỉ hơi thở?”

Không phải. Bây giờ con không nên phá hơi thở mà nương hơi thở, nằm ở trên hơi thở chậm và nhẹ rồi bắt đầu mới phá âm thanh trên hơi thở đó, rồi sau đó mới tịnh chỉ hơi thở để mà phá thọ. Nghĩa là phá thọ sau khi phá âm thanh.

Đó thì nương vào cái hơi thở để mà tịnh chỉ hơi thở cho ngưng nghỉ để nhập Tứ Thiền thì đó là phá thọ.

Còn bây giờ nằm ở trên cái hơi thở, thở biết hơi thở ra, hơi thở vô, nhưng luôn luôn lúc nào cũng kêu gọi cái nhĩ thức phải tập trung, phải nằm chặt ở trên tụ điểm, và luôn luôn lúc nào cũng không được nghe âm thanh bên ngoài. Phải nghe cái hơi thở, phải nghe cái tụ điểm, không được nghe ra ngoài. Thì dùng cái pháp hướng mà nhắc như vậy thì cái nhĩ thức nó mới bám chặt trên cái tụ điểm, nó mới không nghe ra ngoài, từ đó con mới phá được âm thanh.

Còn không khéo thì con cứ nghe âm thanh, mà âm thanh thì nó dễ lôi cuốn cái thọ, nó câu hữu với cái thọ, nó làm cho cái thọ tác động cái thân, làm cho cái thân bị thọ. Mà cái thân bị thọ rồi thì cái thân nó tác động cái ý thức. Và cái ý thức nó bị chao động, cái tâm của con nó chao động theo cái thọ, cho nên ngồi đau quá, chịu không nổi, phải xả ra, phải lôi chân xuống, thì cái đó nó sẽ làm cho con mất cái định đi.

Cho nên, muốn được cái định là phải phá âm thanh trước. Âm thanh nó không câu hữu với cái thọ, cái thọ nó không câu hữu với cái thức, cái thức nó không câu hữu với cái tâm, thì cái tâm con nó bất động, nó yên lặng ở trong cái trạng thái định. Nhớ chưa? Từ bắt đầu tu như thế nào, mà tập luyện như thế nào để phá âm thanh trước.

(27:21) “Tu định Chánh Niệm Tỉnh Giác, con tu trong mọi hành động, và lúc nào cũng kèm theo tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả và hướng tâm gọi ý thức hãy sống trong hiện tại, Chánh Niệm Tỉnh Giác, khi ăn uống, nói, nín đại tiểu tiện, luôn luôn phải tỉnh giác”.

Tỉnh giác ở đây thì các con sẽ nghe lại lời dạy trong băng của Thầy thì mới thấu rõ cái Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Chánh Niệm Tỉnh Giác nó có nhiều cách thức tu, mà nó phải lợi dụng ở trong cái hành động đi kinh hành như thế nào, lợi dụng trong cái hành động làm hằng ngày chúng ta mà tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì tất cả mọi hành động hằng ngày chúng ta đều phải tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Nhưng mà tu Chánh Niệm Tỉnh Giác phải tu nhiều, tu nhiều hơn, và lúc nào chúng ta cũng thực hiện tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác để cho cái sức tỉnh, cho đến khi mà chúng ta phải tu cái thức tỉnh của chúng ta ở trên cái hơi thở để chúng ta ngủ mà không ngủ.

Cái đó là cái cuối cùng mà các con phải tu tập để chúng ta phá 18 cái loại tưởng, và đồng thời chúng ta phá cái mộng tưởng, không còn chiêm bao nữa.

“…​luôn luôn tỉnh giác. Dưới đây con xin Thầy chỉ dạy cho con cách thức tu Định Sáng Suốt cho đúng!”

Định Sáng Suốt có nghĩa là khi chúng ta thực hiện cái Định Vô Lậu mà xong, ngồi lại thì cái tâm nó sáng suốt, cho nên chúng ta giữ cái tâm thanh thản, cái tâm yên lặng, cái tâm vô sự, tức là cái pháp môn thư giãn làm cho thân tâm chúng ta trở về trạng thái an ổn nhất không có mệt nhọc, không đau khổ. Chớ không phải ngồi mà tập trung trong cái sáng suốt, trong cái vô sự, trong cái thanh thản thì nó sai.

Cái người mà tu Định Sáng Suốt - định thanh thản này là cái người thư giãn cả thân tâm chúng ta cho nó trở về trạng thái an ổn, nó không bị mệt nhọc, không bị rối loạn. Vì như vậy không phải là Định Sáng Suốt này là cái định mà tập trung làm cho nó mệt thêm, thì không phải là sáng suốt nữa.

“Muốn tu tập buổi khuya, ngồi ghế bình thường mà tỉnh táo không bị buồn ngủ, xin Thầy chỉ dạy cho con biết tu đúng cả 4 loại định, không chênh lệch?”

Bốn loại định đó, thì cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định phải tu nhiều, cái Định Vô Lậu thì phải tu ít hơn cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Định Hơi Thở, định Hiện Tại An Lạc Trú thì tu rất ít, một đêm một ngày vạy tu có một lần hoặc hai lần thôi, còn hoàn toàn tất cả những loại định kia phải tu nhiều.

Và đồng thời trong mỗi loại định, như định Hiện Tại An Lạc Trú nè, định Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, Định Vô Lậu nè, mỗi cái loại định như vậy đó, sau khi tu rồi thì chúng ta nên thư giãn cái thân tâm chúng ta bằng cái Định Sáng Suốt.

Nghĩa là cái Định Sáng Suốt xen kẽ vào để thư giãn nó, thì làm cho thân tâm chúng ta trở về cái sự an ổn và bình thường, phục hồi lại cái mệt nhọc của chúng ta, thì chúng ta tiếp tục tu các định khác rất dễ dàng và sáng suốt hơn.

Cho nên nó có cái tên là Định Sáng Suốt là làm cho chúng ta khỏe khoắn ở trong người trở lại mà tu tập cái khác, coi như là sau một cái thời gian làm việc mệt thì chúng ta được nghỉ ngơi đó. Cái Định Sáng Suốt có nghĩa là cái định để nghỉ ngơi chớ không có gì hết.

(30:28) “Thưa Thầy, từ ngày Thầy dạy giáo án đến giờ, tâm con xả sạch, tâm con an ổn, ngày một bữa không còn thấy đói gì cả, không bao giờ nghĩ đến chuyện ăn uống hay thèm khát gì hết, cứ đến giờ là đi ăn. Thân thanh tịnh, tâm dục tự nó mất tiêu không bao giờ hay.

Con thương mà chẳng ghét ai cả, thích thú sống độc cư, sống trầm lặng, không nghĩ đến làm việc gì hết, nhưng bổn phận phải làm. Không muốn đến chỗ đông người ồn ào, bất đắc dĩ ra nghe băng và ra ăn cơm. Thường hướng tâm ám thị phải sống trong thiện pháp, ít ngủ, ngủ ít khi có chiêm bao. Hằng ngày con sống như vậy, có phải là Sơ Thiền không?”

Không phải đâu. Tất cả những cái này không phải là Sơ Thiền, mà là cái cuộc sống của con, nhiều khi mình cứ nghĩ tưởng là mình sống như vậy là đúng, nhưng sự thật sai. Cái hoàn cảnh hiện giờ, cái trí tuệ của người tu rất sáng suốt, người ta nhận được cái hoàn cảnh của chúng ta, không phải sống như vậy đúng.

Bởi vì các con tưởng là mình sống như vậy là mình giải thoát, nhưng mình nhìn xung quanh mọi người, họ đang khổ sở với mình, mà mình cứ thun thút ở trong thất, mình tưởng vậy là sống đúng.

Phải chi trong cái thời Đức Phật, người ta đi xin ăn, người nào cũng xin ăn, thì ông Phật cũng xin ăn mà các vị Tỳ Kheo khác cũng đi xin ăn, thì mình sống luôn luôn ở trong cái độc cư, ở trong thất mình tu như vậy là đúng…​ (Mất đoạn)

(32:04) Vừa rồi thì Thầy có trả lời cho bên nữ, cô Minh Cảnh có hỏi về cái vấn đề tu tập, nhưng Thầy thấy rằng hầu như đó cũng là cái sai, cái sai đây cũng là cái sai chung cho tất cả chúng chớ không phải riêng cho một người.

Cho nên cái sai này nó…​ Hầu như người ta trạch cái pháp ra, cái câu ra dùng làm pháp hướng, mà cái pháp hướng nó khác và cái pháp quán nó khác, hai cái pháp này nó khác.

Khi chúng ta quán mà chúng ta lại quán chung chung, nó không có đúng cái tính cách của một cái sự quán xét, nó không thành một cái hiện trạng của một cái sự quán, mà nó trở thành một cái danh từ suông. Hầu hết là những người tu hành trong cái thời đại này thì đứng ở trên chữ nghĩa mà nói suông mà thôi.

Thí dụ như chúng ta nói cái thân này là vô thường, khổ, vô ngã, thì người ta nói suông cái danh từ như vậy chớ người ta đâu có thấy được cái trạng thái vô thường, khổ, vô ngã như thế nào? Cho nên muốn thấy được cái trạng thái vô thường, khổ, vô ngã đó thì chúng ta phải có sự quán xét và suy tư, cho nên gọi là quán pháp.

Còn đằng này thì quán chung chung như làm biếng, không có chịu suy tư, sợ động não nó mỏi mệt, cho nên cứ vay mượn đờm dãi của người khác mà nhai đi nhai lại gọi là quán vô thường, khổ, vô ngã, thì Thầy thấy cái chuyện quán nó - bây giờ suốt ngàn năm đi nữa quý vị tu cái Định Vô Lậu nó cũng không hết lậu hoặc đâu.

Do cái chỗ sai đó mà Thầy quá mất cái thì giờ rất nhiều cho cái giáo án này. Vì sự thật ra đó, cái tu hành chúng ta phải hiểu khi nào mà chúng ta phải quán, khi nào chúng ta phải hướng.

Khi nào mà nó đã quán xong rồi, chúng ta thấu triệt rồi thì chúng ta mới dùng pháp hướng để đoạn dứt, chặt đứt nó đi, lìa bỏ nó đi, từ giã nó đi. Thì cái pháp hướng là cái pháp để đoạn dứt, cái pháp hướng là cái pháp ra lệnh để cho tâm chúng ta nó không còn bám dính cái đó nữa.

(34:00) Còn cái pháp quán là cái pháp phải thông suốt, phải thông hiểu. Cho nên Phật nói đầu tiên cái người vào đạo Phật những gì chưa thông hiểu phải thông hiểu. Mà bây giờ mình nghe cái danh từ suông, mình chưa có rõ được cái trạng thái.

Cũng như bây giờ nói hôn trầm, thùy miên, thì ai nói danh từ đó cũng được, nhưng mà không có biết hôn trầm thùy miên nó ra sao. Cái trạng thái hôn trầm, thùy miên đó nó làm cho cơ thể chúng ta mỏi mệt, lười biếng, dã dợt, nó làm cho chúng ta bần thần, không có tỉnh táo, thì cái đó mới gọi là hôn trầm, thùy miên. Còn bây giờ chúng ta nói hôn trầm, thùy miên suông không thì không hiểu gì hết, cái người khác người ta không hiểu gì hết.

Mình muốn nói được cái đó thì mình phải diễn tả ra được, phải suy tư ra được, phải quán xét ra được, phải có cái trạng thái hôn trầm, thùy miên mới biết. Còn nếu mà không có thông rõ như vậy thì chúng ta tu hoài nó cũng vô ích.

Bởi vì tu nó khó, khó là cái chỗ thông hiểu, phải thông hiểu. Cho nên cái vấn đề quan trọng của đạo Phật, thì như quý thầy cũng đã thấy rằng cái vấn đề nó rất rõ là phải thông hiểu, mà không thông hiểu thì không có làm sao mà tu được hết.

Mà cứ vay mượn cái đờm dãi, nước miếng của người ta mà nhai đi nhai lại hoài thì nó không có ích lợi gì, mà mình phải thông hiểu, mình quán tức là làm cho cái tri kiến của mình nó thông suốt. Rồi cái tri kiến của mình tự nó phóng ra những cái sự hiểu biết đó, nó làm cho mình thấu rõ được cái pháp đó nó như thế nào đúng mà như thế nào sai.

Đó là những điều kiện mà Thầy dạy hôm nay. Đâu có phải trong một cái Định Vô Lậu mà quý thầy đã sai thì cái Định Hiện Tại An Lạc Trú về hơi thở thì quý thầy còn sai biết là bao nhiêu sai nữa! Cho nên Thầy nhắc nhở. Rồi cái Định Sáng Suốt Thầy nghe quý thầy cũng chẳng trình bày cho Thầy cái đúng, cái sai trong sự tu hành, mà nhìn vào cái sống của quý thầy thì biết rằng quý thầy tu chẳng tới đâu hết.

Tại sao vậy? Tại vì trong ba tháng này, xét ra cái người nào tu được, tu không Thầy đã biết. Mà người nào tu không được - mà tu như thế nào không được, tu như thế nào là được Thầy đều biết.

Tại sao vậy? Tại nhìn thấy qua cái sự sống trầm lặng của người đó, biết được người đó sẽ tu được. Mà thấy người mà sống phóng dật, tâm chạy theo luận bàn cái này, nói chuyện kia thì những người đó không thể tu được hết.

Nhìn lại thì ở đây chúng ta thấy được mấy người mà sống trầm lặng? Đã là đi tu rồi thì chúng ta phải quyết tâm, phải giữ gìn không cho phóng dật. Rồi đây thì quý thầy sẽ thấy rằng tâm Phật không phóng dật, tâm ta niệm Phật cũng không phóng dật, thì phóng dật là một cái pháp rất ác, rất độc, nó nối tiếp sự sanh tử luân hồi chúng ta mãi mãi là do cái tâm phóng dật.

Mà muốn cho nó đừng phóng dật thì chúng ta phải làm sao? Đó là một cái điều kiện rất khó. Cho nên ở đây chúng ta nhìn lại chúng, nhìn lại một số quý thầy thì chúng ta thấy cái người mà không phóng dật là được mấy người?

Đó, mà sống trầm lặng, sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình người đó mới không phóng dật. Bởi vì cái tướng không phóng dật thì cái tâm lần lượt nó sẽ nguội lạnh và nó sẽ không phóng dật. Mà cái tướng mà không giữ được thì cái tâm không thể nào mà giữ được nó đâu.

Mới đầu chúng ta giữ được cái thân của chúng ta không phóng dật, sau lần lần cái tâm nó theo đó nó không phóng dật. Còn nếu cái thân mà chúng ta không giữ nó được thì nó phóng ra, nó chạy tứ tung binh tàng, thì cái tâm chúng ta - ngồi lại cái tâm chúng ta nó còn nhiều hơn nữa, hết chuyện này tới chuyện khác, nó như một cái chợ ở trong đó lận.

3- THƯ XIN THẦY DẠY VỀ TỨ THIỀN, TAM MINH VÀ CHẤN HƯNG PHẬT PHÁP

(37:32) Đó thì hôm nay thì Thầy nói như vậy, để rồi chúng ta tiếp tục học cái Tứ Bất Hoại Tịnh.

Mới bắt đầu vào học Tứ Bất Hoại Tịnh mà chúng ta đã thấy cái thời gian quá dài, là vì gần hai ngày học rồi mà chưa hết một cái pháp này. Rồi quý thầy còn biết bao nhiêu học cái thứ khác nữa chớ đâu phải ít, đâu có đơn giản. Cho nên ở đây có một số quý thầy cũng xin Thầy để tóm lược lại những cái điều quan trọng để cho quý thầy nắm cho vững những cái điều quan trọng đó để mà tu tập.

Đây Thầy xin đọc một cái bức thơ gởi cho Thầy, có một vị thầy gởi cho Thầy bức thơ:

“Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Thầy!

Hôm nay, chúng con trong đại chúng xin cung kính, thành tâm có lời thỉnh nguyện.

Kính thưa Thầy!

Thời gian còn quá ngắn, giáo án còn dài, sức khỏe của Thầy lại kém, chúng con cầu mong ngưỡng vọng Thầy từ bi hoan hỷ dành thời gian còn lại giảng cho chúng con về phần căn bản then chốt, cốt lõi của Tứ Thiền và Tam Minh để chúng con nắm được phần quan trọng này. Sau khi qua hạ, vì chúng con không còn đầy đủ duyên lành, may mắn để tiếp tục theo Thầy để tu học, để lấy đó làm phương châm trên bước đường tu đạo, để cầu thoát ly sanh tử sau này. Cúi xin Thầy từ bi hoan hỷ chấp nhận hứa khả cho chúng con.

(39:15) Đồng thời Thầy hoan hỷ cho chúng con được nghe những lời thỉnh nguyện của Thầy với Hòa thượng Trúc Lâm mà không được Hòa thượng chấp nhận trợ duyên cộng tác với Thầy để mở cửa xiển dương con đường thiền giải thoát cho con người ở trong hiện tại mà Thầy đã khổ công nhập thất tu hành suốt 10 năm không nói một lời, sống trong cô đơn, trầm lặng, đã khám phá, thực hiện thành công, kết quả chiến thắng giành lại quyền sanh tử sống chết của kiếp con người mà hiện nay trên thế giới này chưa có ai làm được.

Hôm nay chúng con đầy đủ duyên lành từ ngoài Bắc và ở trong Nam tụ hội về đây cũng là phúc duyên lành của chúng con vun bồi từ quá khứ, cho nên hôm nay chúng con được nghe lần đầu cũng như lần cuối những lời quý báu này, lợi ích cho chúng con nói riêng, nói chung cho tất cả người sau. Đó là những lời tha thiết, chân thành của chúng con, cúi mong Thầy từ bi, hoan hỷ chấp nhận cho chúng con.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Sẵn dịp Thầy cho chúng con được nghe dự thảo của Thầy thành lập trung tâm khu an dưỡng ở Phước Hải. Có lý do gì khó khăn hay không mà Thầy lại không tiến hành mà lại bỏ dở? Đó là những gì mà chúng con muốn biết.

Những việc làm của Thầy tốt đạo, đẹp đời, là phương châm của Phật giáo hiện nay cũng là nhân duyên chấn hưng Phật giáo, lợi ích cho chúng sanh, nhân loại.

Với hoài bão và tâm nguyện của Thầy từ khi ra thất luôn luôn tâm nguyện canh cánh nỗi lòng và sự tồn vong của Phật giáo của hiện tại và tương lai, cho đến hôm nay mà hoài bão của Thầy vẫn chưa thực hiện được, mà hôm nay Thầy lại ra đi ẩn bóng để lại cho chúng con một nỗi niềm thương nhớ một bậc thầy khả kính làm gương hạnh cho chúng con trên bước đường tu học.”

4- TỨ THIỀN, TAM MINH PHẢI ĐI TỪ CĂN BẢN

(42:04) Qua hai cái bức thơ thỉnh cầu, thì thứ nhất là về cái phần giảng về cái Bốn Thiền và cái Tam Minh.

Sự thật ra thì cái căn bản nhất của cái Bốn Thiền đó là cái sống, là tu tập cái Định Vô Lậu. Để làm gì? Để cho cái tâm nó nó ly dục, ly ác pháp, đó là cái căn bản nhất, chớ không phải là cái hơi thở để mà chúng ta vào thiền định đâu.

Khi cái tâm chúng ta thanh tịnh được rồi thì cái thời gian mà tu tập cái Định Vô Lậu chúng ta thường dùng cái pháp hướng. Nếu không có pháp hướng thì chúng ta khó mà đoạn dứt những cái tâm ham muốn của chúng ta, những cái - các cái duyên bên ngoài nó dễ lôi cuốn chúng ta.

Chẳng hạn như cái tâm phóng dật, đó là một. Nếu hằng ngày không rèn luyện cái pháp hướng mà diệt cái tâm phóng dật, thì như vậy - thì chúng ta đã thấy được cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh mà nếu chúng ta không tu tập thì chúng ta không thấy được cái tâm phóng dật là cái tâm rất là khó và vi tế, rất là vi tế.

Chúng ta nghĩ rằng mình không có ham muốn như cái người thế gian, tức là không phóng dật. Nhưng ở trong tâm chúng ta thật sự là cái gốc phóng dật vẫn còn, là chúng ta biết rằng có chớ không phải không. Tại vì chúng ta xả chưa hết mà, mà chưa hết thì tức là còn phóng.

Dù là một cái bát đi, một vị sư đó có ba y một bát thôi, dù cái bát mà chưa có bỏ được, còn tiếc nó, nghe một vị khác gõ cái bát sợ bể, thì ngay đó là cái tâm còn phóng dật, chưa phải hết. Nó khó như vậy.

Cho nên khi bắt đầu mà chúng ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh, cái điều kiện tiên quyết đầu tiên là chúng ta tu tập như thế nào để chúng ta có một cái niềm tin đối với Phật. Cho nên Tứ Bất Hoại Tịnh nó giúp cho chúng ta có một cái niềm tin đó.

Đó là những cái cơ bản của thiền định. Chớ không phải thiền định của đạo Phật bằng cách ngay đó mà dạy cho quý thầy bằng cách này bằng cách kia là thiền định đâu, nó không phải đâu.

Nếu mà sự thật ra đây Thầy giảng cái bài về Bốn Thiền rất là rõ ràng, cụ thể. Nhưng mà cái căn bản nó không có ngay từ cái lúc đầu thì Bốn Thiền và những cái danh từ mà diễn tả cách thức nương hơi thở thế này thế khác, thì quý thầy không làm sao quý thầy bước vào được hết.

Biết nó như vậy nhưng mà cái tâm của mình còn phóng dật, chưa ly dục, chưa ly ác pháp thì chắc chắn là không bao giờ mà có thể đi vào được bốn cái định này.

Rồi quý thầy thấy khi mà xin yêu cầu Thầy dạy Tam Minh, nếu muốn dạy Tam Minh không phải đơn giản như chúng ta nhập Tứ Thiền rồi từ đó chúng ta Tam Minh đâu, mà Thầy còn phải dạy Tứ Như Ý Túc.

Bởi vì khi mà nhập Tứ Thiền mà muốn hướng dẫn tâm đến Tam Minh thì nó phải có Đại Thần Lực, mà có Đại Thần Lực thì chúng ta mới có đủ cái sức của nó mà điều khiển, ra lệnh mà điều khiển, chớ nó không còn có cái sự vận dụng của một cái người đang vận dụng cơ bắp nữa, mà chỉ còn có cái ra lệnh mà thôi.

(45:13) Mà như vậy là thần lực chớ không thể nào là cái cái sức lực của chúng ta nữa, mà đây gọi là thần lực, cái lực vô hình, gọi là thần lực. Mà cái thần lực này nó do cái pháp hướng mà ngay từ lúc đầu chúng ta ly dục ly ác pháp được, tu cái Định Vô Lậu chúng ta đã rèn luyện nó hết sức ở trong cái pháp Định Vô Lậu này, chớ không phải là khi mà vào hơi thở rồi chúng ta luyện tập nó thì chẳng nhằm nhò gì, chẳng kết quả gì hết.

Đó là những cái mà rất cơ bản. Nếu mà ngay từ Tứ Thiền mà dạy hướng Tam Minh thì chắc chắn là quý thầy sẽ không bao giờ mà có thể hướng đến Tam Minh, vì con đường này Thầy đã đi qua Thầy biết rất rõ.

Tại sao vậy? Tại vì khi mà chúng ta nhập được Tứ Thiền rồi thì cái đầu tiên của chúng ta mà biết được, làm chủ được đó là cái chúng ta ra lệnh là hơi thở ngưng nghỉ, các hành trong thân chúng ta ngưng. Chúng ta thấy nó có một cái thần lực như vậy đó là chúng ta biết.

Thì bắt đầu bây giờ chúng ta như thế nào? Nếu mà hơi thở ngưng như vậy tức là chúng ta đã nhập định, mà đã nhập định thì như vậy gọi là Định Như Ý Túc, quý thầy thấy chưa?

Nó trong Tứ Như Ý Túc, thì cái Định Như Ý Túc, tức là bây giờ chúng ta thực hiện cái muốn của chúng ta hiện giờ muốn như thế nào? Muốn mình phải nhập định, muốn cho hơi thở ngưng, muốn cho nhập được Tứ Thiền, thì cái muốn đó nó phải thực hiện qua cái thần lực của nó. Nó bảo hơi thở ngưng thì nó ngưng, nó bảo các hành về hơi thở phải ngưng thì các hành ở trong thân của chúng ta về hơi thở ngưng. Đó là cái mà gọi là Định Như Ý Túc.

Và bây giờ nó thường hay bị bung ra và bị âm thanh tác động và bị thọ, chúng ta bảo âm thanh hoàn toàn không được tác động vào tâm của chúng ta, vào cái định này nữa, thì từ đó âm thanh không tác động được nữa, thì như vậy gọi là Định Như Ý Túc, an trú như cái ý của mình ở trong đó gọi là Định Như Ý Túc.

Và khi mà Định Như Ý Túc được như vậy thì chúng ta có cái sự siêng năng, rất là siêng năng, mà siêng năng như ý túc, chúng ta muốn nhập bao lâu cũng được hết, nó không có làm chúng ta lười biếng, cho nên gọi là Tinh Tấn Như Ý Túc.

Đó quý thầy thấy, khi mà đến chỗ này rồi chúng ta phải thực hiện Tứ Như Ý Túc trước đã, rồi sau đó chúng ta mới thực hiện. Mà muốn được vậy thì chúng ta phải lần lượt từ cái chỗ nào? Bắt đầu bây giờ, đây là cái Định Như Ý Túc rồi, thì bắt đầu bây giờ mình muốn kéo dài cái thời gian nhập định này thì nó là Tinh Tấn Như Ý Túc.

Quý thầy phải hiểu. Ở đây Thầy giảng đơn sơ, chớ còn sự thật ra mà để dạy cho nó thì cách thức thì chúng ta phải như thế nào để tập luyện khi mà ở trong cái trạng thái của định đó. Mà bây giờ chúng ta chưa biết nó như thế nào thì Thầy nói cũng chẳng qua là lý thuyết suông mà chơi, chớ nó cũng không có cái nghĩa lý gì.

Nhưng mà vì cái giáo án thì phải nói cho hết, chớ sự thật ra nói để mà nói, chớ cái người mà tu tới đây - khi mà tâm chúng ta chưa có tu cái Định Vô Lậu mà chúng ta thực hiện nó thì chẳng bao giờ mà chúng ta nếm được cái mùi vị của Bốn Thiền.

(48:02) Nó không phải khó, nhưng mà nó khó là từ khi chúng ta bước vào đầu mà giới luật không nghiêm chỉnh, đời sống không độc cư, không trầm lặng thì chắc chắn là chúng ta chẳng nếm được cái mùi vị này.

Mười năm trong thất Thầy chẳng hề có một lời nói, không phải là sống độc cư trầm lặng một mình sao? Ai dám làm điều này không? Chắc chắn khó có người làm được điều này lắm. Nhưng mà Thầy đã làm được điều này, vì vậy mà Thầy thấy rất là rõ ràng và cụ thể.

Đâu phải trong một năm, hai năm mà có thể nó mười năm, hai chục năm nếu mà chưa thành tựu vẫn phải sống độc cư suốt đời chúng ta nữa, chớ chưa nói rằng trong mười năm. Mà đây mười năm là thành tựu thì Thầy mới ra thất, còn cỡ mà nó chưa thành tựu thì chắc chắn còn kéo dài năm năm nữa hay là mười năm nữa không chừng!

Vậy mà nguyện trọn đời là khi nào mà thành đạo á thì mới ra khỏi thất, mà không đạt được cái sự làm chủ sanh tử thì Thầy không ra khỏi thất. Chừng nào mà Thầy ra lệnh rằng cái hơi thở ngưng và các hành ngưng thì chừng đó là Thầy mới ra khỏi thất, chớ bây giờ mà chưa làm chủ được cái này thì không ra khỏi thất.

Nhưng mà khi đã làm chủ được, có thần lực như vậy rồi thì không lý nào mà Thầy không đi đến những cái điều quan trọng trong Tứ Như Ý Túc.

Bây giờ thí dụ như Thầy đang ngồi đây, Thầy bảo nè, không lẽ bây giờ Thầy nhập vào cái định đó, Thầy bảo cái đồng hồ này phải một cái nữa cho Thầy, ngay đó Thầy ra lệnh thì nó có một cái nữa nó nằm một bên đó, hai cái hoàn toàn, hai cái rõ ràng, ai lấy xài cũng được hết, trừ ra Thầy bảo hai cái này trở lại một thì nó trở lại một. Thì như vậy gọi là Dục Như Ý Túc - muốn cái gì được cái nấy. Phải không?

Như bây giờ, Thầy nói tấm gạch tàu này là một miếng vàng, thì nó bắt đầu nó là một cục vàng hẳn hòi đàng hoàng. Bây giờ đem ra chợ, đem tới đâu thợ kim hoàn nào đục ra cũng làm đồ trang sức y như là vàng như vậy. Nhưng mà Thầy bảo cái cục vàng đó phải hồi lại là cục gạch tàu thì nó trở lại cục gạch tàu. Cái lệnh của Thầy ra làm sao thì nó y như vậy gọi là Dục Như Ý Túc. Các thầy thấy chưa?

Rồi bây giờ đó, khi mà Dục Như Ý Túc được rồi thì phải Tuệ Như Ý Túc - cái trí tuệ của Thầy muốn như thế nào thì nó phải theo như thế nấy. Cho nên từng đó, từ cái chỗ mà Tuệ Như Ý Túc Thầy đã phát hiện được rồi thì bắt đầu Thầy mới nói: “Bây giờ phải thực hiện Túc Mạng Minh!” Minh là cái trí tuệ của mình mà, cho nên bảo nó một cái là ngay đó là chúng ta biết được nhiều đời, nhiều kiếp liền tức khắc. Quý thầy thấy rất rõ không?

Cho nên ở đây chúng ta phải thực hiện Tứ Như Ý Túc. Xong bốn cái Như Ý Túc…​ (Mất tiếng) như vậy tức là chúng ta đã biết rằng Tuệ Như Ý Túc. Bởi vì có bốn cái Như Ý Túc thì như thế nào? Dục Như Ý Túc là đầu tiên, rồi Định Như Ý Túc, rồi Tinh Tấn Như Ý Túc, rồi mới Tuệ Như Ý Túc, thì bốn cái này đều là phải được giảng rất là kỹ.

Khi mà chúng ta nhập Tứ Thiền rồi thì cái đầu tiên của chúng ta là như thế nào? Chẳng hạn bây giờ mình bảo hơi thở mình ngưng, nhưng nó ngưng có một chút à, nó không có chịu ngưng lâu đâu, thì như vậy là nó chỉ có thần lực có một chút xíu à. Thời gian này chúng ta phải tu như thế nào để cho nó ngưng một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, rồi đến cái thời gian dài ra, đâu có phải chuyện dễ!

Cái lực của chúng ta mới tu tập - cái thần lực chúng ta tu tập nó mới thì còn nhỏ, nó đâu bằng cái người mà tu 10 năm. Còn nếu mà chúng ta tu 20 năm, cái thần lực của chúng ta còn dữ tợn hơn nữa, bởi vì hằng ngày chúng ta hằng trui rèn luyện mình trên cái pháp hướng thì cái thần lực càng ngày nó càng vĩ đại lên.

(51:27) Chớ không phải là như mấy ông thầy ngồi tu mà tập trung cái tâm tư tưởng ở trên cái đầu của chúng ta để làm cho nó quay cuồng ở trên đó, nó rối loạn thần kinh, nó tiêu luôn chớ không có gì.

Ở đây chúng ta đâu có tập trung gì đâu, chúng ta đâu có đụng tới cái thân của chúng ta mà nhăn mặt, hay hoặc là cắn chặt răng, hay hoặc là gồng mình lên để mà gom tâm mình bằng cách này bằng cách kia, cho nên nó đâu có rối loạn cơ thể chúng ta đâu.

Chúng ta chỉ nhẹ nhàng - khi mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu chúng ta chỉ nhẹ nhàng, thí dụ như bây giờ: “Cái tâm phóng dật là một cái pháp ác, làm cho thân tâm chúng ta luôn luôn tái sanh luân hồi, sanh tử, đau khổ. Vậy thì cái tâm phóng dật này phải lìa đi, không được ở đây nữa!”

Mình thường mình nhắc như vậy thôi, chớ mình đâu có bảo nó làm sao được, mình đâu có lôi nó được. Nhưng mình sống ở trong cái hạnh độc cư thì tức là mình ly nó rồi, tức là mình lìa nó rồi. Nhờ cái thân mình chịu khép mình ở trong cái khuôn khổ độc cư, trầm lặng thì nó đã ly nó, cho nên mình nhờ đó mà mình không phóng dật. Đó là…​

Nhưng mà cái tâm của chúng ta nó vẫn còn phóng dật chớ chưa hết, cho nên chúng ta hằng ngày phải nhắc: “Cái tâm phóng dật phải dứt đi, không có được…​ Vì phóng dật là đau khổ, nối tiếp cho ngọn đuốc sanh tử luân hồi, làm cho đời người tiếp tiếp nối nhau mà khổ ở trên sáu nẻo luân hồi!”

Cho nên mình thường nhắc nó. Cứ nhắc đi nhắc lại, đuổi nó đi hoài, đuổi riết nó thì nó - mình sống đúng hạnh, mình đuổi riết thì nó phải hết trong tâm.

Còn mình sống mình tiếp giao với dục lạc, mình phóng tâm mình chạy theo nào là rượu chè, hút thuốc, nào là xem video, tivi rồi xem hát, ca hát, rồi nhảy nhót, nhảy đầm, dancer gì đủ loại, thì thử hỏi cái cách thức đó làm sao mà chúng ta bảo cái tâm phóng dật đừng có phóng dật không?

Hằng ngày chúng ta muốn ăn cái này, muốn ăn cái kia, muốn ngủ hồi nào ngủ, muốn thức hồi nào thức, thì bảo đừng phóng dật thì nó làm sao nó không phóng dật? Mình đã sống phóng dật mà mình biểu nó đừng phóng dật làm sao?

Còn mình sống mình khép mình ở trong cái khuôn khổ không phóng dật, và đồng thời mình nhắc cái tâm của mình riết nó sẽ hết phóng dật. Quý thầy có nghĩ điều đó không? Nếu quý thầy nghĩ điều đó là cái sống của quý thầy phải đi trước, đó là cái cơ bản để chúng ta thực hiện thiền định.

Cho nên cái giáo án thì lần lượt Thầy sẽ dạy hết, mà dạy hết là một cái điều cũng rất nguy hiểm cho người sau. Tại sao vậy? Tại vì nó có sẵn hết, người ta chỉ lợi dụng nó mà để bán Pháp, bán Phật mà sống, chớ không phải để thực hiện sự giải thoát. Họ hiểu biết rồi, họ biết cách hành trì rồi họ ra họ nói dóc, chớ sự thật ra họ chạy theo dục lạc, họ chạy theo danh lợi, họ lấy cái hiểu biết đó họ nói như họ Thánh vậy đó.

(54:01) Như từ lâu tới giờ quý thầy thấy trong kinh sách không có nói những cái hành trì, những cái pháp hành. Phật có nói những cái danh từ rất là cô đọng lại, chúng ta rất khó hiểu, như Phật nói Như Lý Tác Ý hay hướng tâm. Nhưng bây giờ Thầy triển khai ra những cái pháp này, nó trở thành những cái trạch pháp.

Như Phật dạy là Trạch Pháp Giác Chi nè, rồi Niệm Giác Chi nè, Khinh An Giác Chi nè, Thầy triển khai ra những cái này, nó trở thành cái pháp tu, trở thành cái pháp hành của chúng ta rất rõ. Và từ đó nếu cái người mà quyết tâm tu thì chắc chắn là phải được, còn cái người mà quyết mượn nó để buôn Phật bán pháp thì chắc chắn cái số này rất lớn chớ không phải ít.

Đó, người ta cứ ngỡ rằng mình hiểu như vậy là mình giải thoát, nhưng sự thật ra họ chưa làm chủ, họ chưa làm cái gì được hết, nhưng mà họ mượn cái chỗ mà Thầy nói đây, họ sẽ nói ra tùm lum đủ thứ hết.

Nhưng cuối cùng thì cuộc đời họ cũng chỉ trôi lăn ở trong lục đạo, chỉ gạt được cái người mà chưa có nghe được cái giáo án này, chớ còn những người mà được nghe rồi, được hiểu rồi thì: “Ông cũng nói ở trong cái này thôi chớ ông đâu có nói kinh nghiệm gì khác của ông đâu!”

Nhưng trên bước đường tu tập chúng ta nó có nhiều cái kinh nghiệm của chúng ta lắm, nó không phải ở chỗ Thầy nói. Thầy nói đây là một cái phần rút tỉa từ những ưu khuyết điểm của quý thầy, rồi đến những cái ưu trong cái sự tu tập của Thầy nó so sánh, để rồi mới lấy ra những cái pháp hành cụ thể, để giúp cho quý thầy sau này.

Rồi quý thầy sẽ tu, quý thầy có những cái kinh nghiệm của quý thầy nữa. Nhưng kinh nghiệm đó nó không xa lìa cái cốt lõi của Phật pháp, nó không trật.

Cho nên ở đây thì Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy con đường mà chúng ta còn đang học và còn đang hiểu, con đường cho đúng đạo Phật cái đã. Mà muốn học hiểu đúng đạo Phật thì chúng ta phải đi từng bước, chớ không thể nào mà đùng cái là chúng ta…​

Quý thầy thì muốn hiểu bây giờ phải nhập từ Sơ Thiền phải như thế nào, trạng thái…​ lần lượt quý thầy sẽ được nghe Thầy diễn tả tất cả những cái này. Nhưng tu hành được hay không là do quyền của quý thầy chớ không phải là của Thầy nữa. Thầy chỉ làm hết bổn phận của mình, dựng lại những cái giáo lý của Đức Phật, và qua những kinh nghiệm của Thầy, qua những cái lời của Phật dạy quá quá là cô đọng lại làm cho người ta không có hiểu cái pháp hành.

Và cũng chính vì vậy mà đạo Phật tới ngày nay người ta mới không triển khai nổi những cái này. Chỉ có những người mà hành thì người ta triển khai nổi, còn những người mà không hành, mà lý thuyết thì không khai triển. Mà Thầy hôm nay đã phá vỡ cái này, thiệt là đối với Phật thì Thầy cũng có một cái tội.

Lẽ ra ông Phật ngày xưa thì ổng phải khai triển cái này rất rõ, nhưng ổng chỉ ngầm để mà ổng đến với các đệ tử của mình để chỉ cái pháp hành đó mà thôi, chớ không có nói ở trong kinh sách. Và các ngài mà thuật trở lại, như ông A Nan thuật lại, cái dạy riêng mà cho từng người để mà nhập được cái định thì không có nói cho mọi người để nghe những cái pháp hành đó.

Tại sao vậy? Như Đức Phật thể hiện thần thông đến với ông Mục Kiền Liên, thì chỉ nói: “Ông nhập cái Sơ Thiền nó không được do cái tâm ông như thế này thế khác”, hoặc là ông bị hôn trầm, thùy miên, hay vô ký thì ông Phật đến để giúp cho ông ta phá đi, có năm cái điều kiện phá hôn trầm, thùy miên.

Rồi đến khi mà ông nhập Sơ Thiền không được, hoặc là nhập Nhị Thiền không được, luôn luôn cái tâm ông bị dao động ở trong đó thì Đức Phật đến nhắc ông phải im lặng như Thánh, trụ như Thánh, nói những danh từ như vậy thôi. Nhưng mà ngoài những cái danh từ đó, chắc chắn là Đức Phật có kê tai nói với ông Mục Kiền Liên: “Ông phải như thế này nè, ông nằm ở chỗ đó”

(57:36) Cho nên mình phải xét thấy, khi mà nó có những cái định - tại sao cái khoảng từ Sơ Thiền cho đến Nhị Thiền nó có những cái định khác nữa, chớ đâu thể nào mà nói Sơ Thiền, Nhị Thiền không. Nó có cái định, cái định Sơ Thiền thì nó có Tầm, có Tứ nè, rồi tiếp đó thì cái định nó vô Tầm mà nó hữu Tứ.

Đó chúng ta phải tu tập như thế nào? Vậy thì cái mà có Tứ này là cái Tứ gì đây? Ông Phật không nói, cho nên người ta không biết cái vô Tầm mà có Tứ này là cái gì.

Còn Sơ Thiền thì mới ly dục, ly ác pháp thôi, cho nên nó còn Tầm còn Tứ, nhưng mà ở trong Tầm Tứ thiện. Bây giờ muốn đi đến Nhị Thiền thì diệt Tầm Tứ, mà diệt Tầm Tứ thì không thể ngay một lúc mà chúng ta diệt được. Cho nên vì vậy chúng ta phải rõ được cái chỗ mà muốn vô Tầm mà còn Tứ, nó là một cái định để mà chuyển qua một cái định diệt Tầm Tứ.

Đó thì quý thầy thấy rất rõ. Mà muốn chuyển qua như vậy là gì? Nếu không phải pháp hướng trong đó thì không - ông Phật không kê tai nói nhỏ với ông Mục Kiền Liên thì chắc chắn bây giờ chúng ta biết được không?

Nói định vô Tầm mà hữu Tứ thì chắc chắn ai nói cũng được, nhưng mà chúng ta biết làm sao đây là hữu Tứ đây? Chưa ai biết hết. Hữu Tứ là như thế nào? Nếu không phải là Như Lý Tác Ý ra thì lúc bấy giờ làm sao mà diệt Tầm được!

Bởi vì Tầm Tứ, là trong cái Nhị Thiền nó có Tầm Tứ rồi, phải không? Nhưng mà nó sống ở trong ly dục ly ác pháp thì nó phải có Tầm Tứ thiện rồi. Nhưng bây giờ muốn diệt Tầm, không có phải ngồi ức chế tâm đâu.

Các thầy phải nhớ. Các thầy ngồi mà ức chế tâm là các thầy dùng hơi thở các thầy tập trung, các thầy gom, các thầy gồng mặt, gồng mình lên cho nó căng thần kinh lên, thì cái điều đó là cái điều sai rồi.

Cho nên Phật nói ở đây đó, vô Tầm mà hữu Tứ, cho nên có bảo mình gồng mình không? Quý thầy thấy hiểu rõ cái điều này. Vô Tầm mà hữu Tứ thì cái Tứ nó còn, thì tức là tác ý nó còn chớ gì, mà tác ý còn tức là pháp hướng chớ gì?

Cho nên thí dụ như bây giờ chúng ta muốn cái tâm của mình diệt Tầm Tứ, thì chúng ta phải giữ cái đối tượng của nó là cái niệm. Nhưng mà bây giờ mình chưa có biết cái niệm nào, tức là trong Tứ Niệm Xứ mình chưa có học, thì ngay Tứ Thiền mình dạy mình có biết cái niệm nào nó ở chỗ nào đâu?

Bây giờ nó ở Thọ, hay hoặc là ở Tâm, ở Thân của mình hay ở Pháp? Bởi vì nó có bốn cái chỗ để mà chúng ta thực hiện cái niệm, vậy thì nó ở cái chỗ nào đây mà để thực hiện cái niệm đó đây? Cho nên vì vậy chúng ta phải học Tứ Niệm Xứ để chúng ta biết cái niệm đối tượng của nó để mà chúng ta tác ý.

Vậy thì khi mà chúng ta trạch pháp ra, nó phải có đúng ở trên cái đối tượng cái niệm của nó để mà chúng ta dùng cái đối tượng đó để mà chúng ta tác ý để mà chúng ta diệt Tầm. Cho nên nói vô Tầm mà hữu Tứ, phải không?

Cho nên bây giờ chúng ta tu 5 phút nè, 10 phút hay 30 phút nè, thì cái lúc bấy giờ nó không có Tầm mà nó còn Tứ. Rồi bắt đầu bây giờ muốn diệt Tầm Tứ, thì bây giờ Tầm nó đã hết rồi thì cái Tứ phải diệt như thế nào? Không tác ý nữa. Mà không tác ý nữa thì cái gì mà chúng ta phải xả nó đi để cho nó không tác ý? Thì tức là cái niệm.

(01:00:33) Vậy thì cái niệm nào mà xả được? Bây giờ chúng ta niệm Phật, chúng ta xả được không? Xả gì mà nó cứ nó ngồi nó niệm ở trong đầu nó hoài, thì làm sao xả được? Đó là những cái mà khi chúng ta học Tứ Niệm Xứ thì chúng ta mới thấy rõ cái điều này.

Nhưng mà Thầy thấy cái thời gian mà dạy đến đây thì chúng ta thấy nó còn nhiều cái sự học. Bây giờ Thầy nói, Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy rõ nè: Nếu mà chúng ta không học năm cái căn, tức là Ngũ Căn, Ngũ Căn tức là năm cái gốc, năm cái gốc để cho nó thực hiện được con đường thiền định này, thì chúng ta không biết cái gốc ở đâu mà chúng ta tu, thì làm sao có cái sự này được?

Thì năm cái gốc đó như thế nào? Tín Căn nè, Tấn Căn nè, Niệm Căn nè, Định Căn nè, Tuệ Căn nè. Cái gốc ở đó nó sanh ra cái Tuệ nè, cái gốc nó ở đó nó sanh ra cái Định nè, cái gốc ở đó nó sanh ra cái Niệm nè, cái gốc ở đó nó sanh ra cái sự siêng năng nè, tức là Tấn Căn đó, cái gốc ở đó nó sanh ra cái lòng tin của chúng ta nè. Chúng ta phải biết năm cái căn này.

Mà năm cái căn này thì chúng ta phải tu tập làm sao cho có năm cái lực, gọi là Ngũ Lực. Cho nên có nhiều người, người ta nói Thầy nói Niệm Lực, họ nói chỉ Thầy đặt thôi chớ làm gì mà Phật pháp có cái lực. Đó là những cái người chẳng hiểu Phật pháp. Phật có năm lực chớ đâu phải một lực.

Thí dụ như Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy nè, nào là Tín Lực nè, rồi Tấn Lực nè, rồi Niệm Lực nè, rồi Định Lực nè, rồi Huệ Lực nè. Nó phải đủ năm cái lực của nó, nó mới gọi là Phật pháp. Mà năm cái lực này nó hợp lại, nó gọi là thần lực. Đó thì như vậy là chúng ta mới thấy con đường tu.

Mà bây giờ bắt đầu Thầy dạy Tứ Bất Hoại Tịnh nè, xong rồi Thầy sẽ dạy cho quý thầy thấy được Ngũ Căn như thế nào, rồi Ngũ Lực như thế nào, thì cái thời gian mà dạy Ngũ Căn, Ngũ Lực quý thầy thấy đâu có phải là thời gian ngắn được. Chắc gì trong cái thời gian mà còn 5, 10 ngày nay mà nó hết được, nó còn nhiều quá.

Và đồng thời Tứ Niệm Xứ thì quý thầy - bốn cái chỗ mà để chúng ta đặt cái niệm, lúc nào chúng ta tu cái định gì mà chúng ta đặt cái niệm gì mà ở trên cái xứ sở nào? Cho nó đúng cái xứ đó chớ! Chớ nếu mà trật cái xứ đó thì chúng ta tu bậy rồi.

Bây giờ cái đầu đang nhức mà cứ bây giờ nói cái thân bất tịnh, cái thân vô thường, cái thân như thế này thế khác thì ăn nhằm nhò gì mà khi cái đầu, cái thân của chúng ta đang bệnh? Cũng như có nhiều vị ở đây đang bệnh đau, đang nhức nhối, đang khổ sở mà cứ ngồi quán cái thân như thế này hay ngồi hít thở, thử hỏi chịu nổi không? Đó là mình tu sai.

Mình tu ở trong những cái nào mà nó đang thể hiện. Bây giờ cái tâm chúng ta tỉnh táo nè, chúng ta sẽ tu cái gì nè, bây giờ chúng ta cái tâm nó mờ mịt, nó thiếu tỉnh thức nè, thì chúng ta tu cái gì nè. Chúng ta biết từng cái tâm niệm của chúng ta mà.

Bởi vậy Phật nói tâm có tham thì biết tham, tâm có tỉnh biết tỉnh, tâm có sân biết sân, tâm không sân biết không sân, tâm không tham thì biết không tham…​ mỗi tâm niệm của chúng ta đều biết, và trong khi đó chúng ta sẽ tu cái gì.

Bây giờ tâm có tham thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì, mà tâm không tham thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì. Tâm có tỉnh thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì, mà tâm không tỉnh thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì. Vì vậy nó mới có kết quả. Còn bây giờ tâm mình không tỉnh mà mình cứ ngồi mình hít thở, làm sao mình tỉnh? Mình chỉ có ngủ luôn chớ ở đó tỉnh!

Đó Thầy muốn nói như vậy để chúng ta học rất là kỹ mọi cái pháp hành của Phật để biết từng tâm niệm của chúng ta chúng ta mới thực hiện được, chớ không khéo chúng ta làm sao thực hiện được. Quá khó khăn!

5- TRẢ LỜI VỀ VIỆC CHẤN HƯNG PHẬT PHÁP

5.1- CẦN GIÁO ÁN RA ĐỜI ĐỂ ĐỜI SAU HIỂU ĐÚNG VỀ PHẬT PHÁP

(01:03:49) Cho nên ở đây Thầy xin nhắc lại, trong cái điều kiện mà thầy Thiện Thiền muốn hỏi là để thấy được cái sự việc trải qua một cái thời gian của Thầy muốn chấn hưng lại Phật pháp, muốn nương vào Hoà thượng mà giúp Hoà thượng để xây dựng lại Phật pháp.

Vì Thầy là một cái người tu, không còn có chấp danh chấp lợi, không còn có muốn mình làm bậc thầy ai hết, chỉ muốn núp sau lưng Hoà thượng để mà giúp Hoà thượng xây dựng lại cái ngôi nhà Phật giáo như ở trong băng Thầy đã nói. Ở trong băng của Thầy đã được nói ra rất là rõ ràng.

Và nếu một ngày gần đây Thầy sẽ đọc lại những cái lời đó, mà trước đây 3 năm Thầy đã có giảng cái lời nói đó, tức là trong hai cuộn băng đó.

Cái cuộn thứ nhất là Phật Môn Bảo Huấn. Thầy muốn khuyên quý thầy là trở về với cái sự chơn chánh của đạo Phật, đừng có lợi dụng cái chiếc áo tôn giáo mà làm lệch đi con đường của đạo Phật. Đó là cái cuộn băng thứ nhất.

Cái cuộn băng thứ hai là Thầy muốn so sánh giữa cái Thiền Đông Độ và cái thiền của Bốn Thiền của Phật, để cho Hoà thượng thấy cái đúng cái sai, để cho Hoà thượng hiểu được Thầy, rồi thầy trò hiểu nhau, Thầy sẽ núp sau lưng Hoà thượng mà cố gắng đào tạo, tìm lấy một số người quyết tâm tu hành giải thoát, thì sau khi mà đào tạo được cái số người này rồi thì đương nhiên là đệ tử của Hoà thượng chớ không phải là đệ tử của Thầy, họ chỉ là huynh đệ của Thầy mà thôi.

Để cuối cùng thì người ta nhìn thấy Phật giáo của Việt Nam do Hoà thượng đã chấn hưng lại, có người tu chứng làm chủ sanh tử như vậy như vậy, kết quả như vậy.

Riêng Thầy thì âm thầm rồi Thầy thị tịch, khi mà đã có những người mà Thầy đã hướng dẫn được thì Thầy thị tịch, Thầy ra đi, không để lại một vết tích rằng, một công lao nào của Thầy đối với con người, đối với Phật giáo ở trong thế gian này.

Nhưng cuối cùng thì không được, cho nên buộc lòng Thầy phải nói lên cái giáo án này để cho mọi người sau này hiểu biết được con đường của đạo Phật, nó không phải như người ta đang tu tập hiện bây giờ, như người ta đang hiểu Phật giáo bây giờ.

5.2- LỜI THỈNH NGUYỆN SÁM HỐI VỚI HÒA THƯỢNG THANH TỪ

(01:06:08) Trước tiên, Thầy xin thuật lại là khi mà tu xong, làm chủ được cái sự sanh tử, sự sống chết rồi thì Thầy trở về thăm Hoà thượng ở trên Chơn Không. Thì lúc bấy giờ trong cái bài thỉnh nguyện thì Thầy cũng có nhắc lại một cái phần đó.

Để cho quý thầy hiểu rõ hơn thì Thầy sẽ đọc lại cái bài thỉnh nguyện này, để cho quý thầy thấy rõ. Đây là cái bài này cách đây là 7 năm. Cái năm đó là cái năm 1990, ngày 26 tháng 3 năm 1990, còn ngày âm lịch thì đó là ngày 3 tháng 2 âm lịch, năm Canh Ngọ, Thầy về Thường Chiếu, Thầy thỉnh nguyện cái bài này.

Trong khi cái Tu viện Chơn Lạc mà thầy viện chủ, thầy Hoà thượng Thanh Từ đã giao cho Thầy cái khu đất đó để mà xây dựng cái Tu viện Chơn Lạc đó, thì lúc bấy giờ nó có những cái duyên rất là khó khăn.

Mà chính bây giờ cái trung tâm an dưỡng ra đời cũng muốn xây dựng ở trên cái khu đất đó, để mà thực hiện cái hoài bão đem Phật giáo, đem cái đạo đức của Phật giáo đến với mọi con người, làm cho con người giải thoát từ bàn tay của họ, từ khối óc của họ. Họ làm điều thiện, họ đem lại sự hạnh phúc đó cho họ, họ làm điều ác thì họ phải mang lấy cái sự hậu quả khổ đau của chính họ. Vì biết rõ đường đi nhân quả cho nên Thầy có cái hoài bão đó.

Đây Thầy sẽ đọc lại cái bài thỉnh nguyện mà cách đây 7 năm chớ không phải mới đây đâu. Đây quý Thầy nghe cái bài:

“Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Con Tỳ Kheo Thích Thông Lạc, hôm nay có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ tác bạch sám hối.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Từ ngày con về Chơn Không học thiền với Thầy, con đã ngộ những gì và tu hành như thế nào?

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Trong ba tháng hạ năm ấy, năm 1970, con đã nghe Thầy giảng kinh Kim Cang đến câu: “Bồ Tát độ chúng sanh trong bốn loài, mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật.”Thầy giảng câu này cho chúng con nghe: “Đó là vọng tưởng, độ hết chúng sanh tức là hết vọng tưởng, hết vọng tưởng tức là thành Phật.”

Lại nữa, cũng kinh đó Thầy giảng câu: “Hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, và quá khứ tâm bất khả đắc”. Con ngộ câu này: “Tâm quá khứ và vị lai là vọng tưởng, tâm hiện tại là tác ý.” Ngộ hai câu kinh này, con đặt trọn niềm tin ở Thầy là một thiền sư đắc đạo mới hiểu được như vậy: Quét hết vọng tưởng, dừng tác ý sẽ thành Phật.

(01:09:29) Bấy giờ tâm con đều buông xuống hết. Con không còn tha thiết cái ăn, cái ngủ, cái mặc, dẹp sạch. Cả ngủ nghỉ con cũng không còn ham thích nữa. Con không còn tham học hay tìm hiểu về kinh sách nữa. Con từ khước dịch thuật khi Thầy giao cho con một tập kinh trong bộ Đại Tạng. Con từ giã tất cả những gì của thế gian, quyết lòng thực hiện cho bằng được.

Trong chúng chỉ có mười huynh đệ cùng nhau tu học, con thường tìm cách xa bạn bè, tránh nói chuyện tào lao, nghị luận, tìm nơi vắng vẻ, năng nổ tu hành.

Con tự nghĩ người xưa chỉ ngộ một câu rồi dẹp tất cả, tìm lấy con đường giải thoát cho mình. Như người như ngài Đại Mai ngộ câu “tức tâm tức Phật”, rời Mã Tổ đến núi Đại Mai nỗ lực tu hành. Lục Tổ Huệ Năng ngộ câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, từ giã mẹ già đến chùa Huỳnh Mai nỗ lực thực hiện, quét sạch vọng tưởng trong lao tác, chẳng học tập gì hết. Ngài Dược Sơn ngộ câu “nhướng mày chớp mắt, không nhướng mày chớp mắt”, “ba năm không làm một điều gì hết”, “da mỏng da dày đều rớt sạch”.

Bởi vậy ngộ là để tu chớ không phải để tìm văn trích cú, hiểu biết nhiều, kiến giải sâu. Ngộ là để thực hiện sự làm chủ thân tâm mình ra khỏi nhà sanh tử luân hồi.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Suốt mười năm trong thất con quét sạch vọng tưởng, dừng tác ý. Đầu tiên con được Thầy dạy pháp môn tri vọng, biết vọng liền buông, nhờ pháp môn này con đã dẹp gần hết vọng tưởng, nhưng thật chưa sạch. Năm cuối cùng con dùng pháp hơi thở nhiếp sạch, nhiếp mạnh, hoàn toàn ức chế được tâm mình. Con thành tựu dừng tác ý, kéo dài thời gian này bảy ngày đêm liên tục không biết đói khát.

Tiếp tục suốt hai tháng con không còn nghe, thấy, biết gì bên ngoài và không còn cảm giác đau nhức, nóng lạnh, khó chịu. Duy nhất con không mất tâm thức của con, rất tỉnh táo.

(01:12:19) Rồi một hôm, ngón chân con đụng vào bàn Phật, hơi thở con bắt đầu thở trở lại. Biến cố xảy ra trong con, toàn thân con có sự thay đổi. Con có cảm giác như toàn thân con nhẹ nhàng thanh thản, các công án, các tắc ở trong Bích Nham Lục con đều hiểu rõ. Con thấy các tổ tu như thế nào chứng, tu như thế nào không chứng, con biết sạch. Cũng như hiện giờ Thầy và con là một hay là hai, con cũng đều biết.

Con đã có trí tuệ và có thiền định. Thầy hỏi con, con đều đáp đúng như ý của Thầy, không bao giờ con đáp sai ý Thầy. Thầy lấy kinh Lăng Già ấn chứng cho con. Sau này con có về trình thầy hai lần nữa những trạng thái trong định, Thầy đều cho rằng tất cả những điều mà con nhập định là đúng.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Khi về trình Thầy lần đầu tiên, biết duyên mình chưa đủ với chúng sanh, con khéo léo xin Thầy ra đi. Trước là để niềm tin cho chúng thấy sự nhập định và làm chủ sự sống chết của con để họ theo Thầy tu tập, và con sẽ ghi lại những kinh nghiệm để lại cho Thầy. Nhưng Thầy yêu cầu con ở lại giúp Thầy chấn hưng thiền Lý, Trần. Do sự yêu cầu này, con ở lại đem hết sức mình giúp Thầy giữ gìn con đường Thiền Tông phát triển lâu dài.

Mười năm làm Phật sự đã qua, con gặp nhiều cay đắng cam go và thử thách vô vàn. Con chẳng sờn lòng, miễn Thầy trò hiểu nhau như lời Thầy đã dạy con: “Chẳng sợ ngại gì, chỉ Thầy trò hiểu nhau là hơn hết.” Con tin ở lời này.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Con chẳng tự xưng mình chứng quả A La Hán, nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Khi gặp Thầy đắc pháp ở Thường Chiếu, Thầy có giảng nói về trạng thái của Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền, con đáp lại lời Thầy: “Giống thì có giống, nhưng có chỗ không giống”.

Cũng như Tứ Không, Diệt Tận Định, chẳng có ai trực tiếp dạy con nhập các thiền, các định này, nên làm sao dám xác định nhập các thiền các định? Chỉ dò theo trạng thái lúc nhập, lúc nhiếp tâm nhập định, phỏng chừng theo kiến giải chữ nghĩa trong kinh điển mà nói ra. Đó là kiến thức chớ không phải thiền định.

Và con cũng chẳng bao giờ tự khoe mình có thần thông phép lạ xuất hồn, nói Túc Mạng, thế mà người ta đồn đại. Nhất là từ ngày thầy Thông Huyễn trú tại Chơn Như, sự đồn đại ấy càng ngày càng nhiều.

(01:15:40) Kính bạch Thầy và đại chúng!

Sự hiểu biết của trí tuệ học hỏi làm sao hiểu được kinh điển, nội tâm tu hành của kẻ khác. Thầy Thông Huyễn là một người thông minh, có trí nhớ đặc biệt và có học thức, nhưng kiến giải qua sự hiểu biết của trí thế gian thì bảo sao không xây dựng trên ảo tưởng huyền thoại, và đó cũng là sở trường của thầy Thông Huyễn.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Hôm nay nhân duyên làm Phật sự của con không đủ, nên xin Thầy và đại chúng chứng minh: Kể từ ngày nay con sẽ không chỉ dạy kinh nghiệm này cho ai nữa. Nó là một thứ thiền ngoại đạo như lời Thầy đã dạy.

Đất nước này, thời điểm này, Thầy là người có công chấn hưng lại Thiền Tông Việt Nam. Con là đệ tử của Thầy, trợ giúp Thầy, vô tình đã làm Thầy buồn. Vậy con xin sám hối Thầy và đại chúng. Từ nay về sau con không làm phiền lòng Thầy nữa. Mỗi tháng con sẽ về xin thỉnh nguyện sám hối một lần để có những lỗi lầm nhờ Thầy và đại chúng chỉ dạy cho, để được con làm tròn bổn phận là người đệ tử biết ơn sâu dày.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Ơn nghĩa Thầy khai ngộ, con thấu suốt được lý giải thoát sanh tử, làm sao con quên được! Lời khích lệ năm xưa còn văng vẳng bên tai: “Phật pháp còn mãi ở thế gian là còn người tu chứng.” Những lời này ghi khắc mãi trong tâm con. Ngày nay, con đã làm chủ được thân tâm, bản ngã đã tiêu mòn, danh lợi đã sạch, sanh tử đã tự tại là nhờ ơn đức của Thầy. Ơn đức này sánh dường trời biển, hơn cả công sanh thành dưỡng dục của mẹ cha, biết lấy chi so sánh được?

Một lần nữa con cúi xin Thầy mở lượng từ bi lân mẫn cho con sám hối. Từ đây về sau con sẽ làm Thầy vui lòng để đền đáp ơn sâu dày trong muôn một.

Sau cùng, con xin phép Thầy, khi Thầy ra đi con sẽ cùng Thầy cùng với Thầy ra đi nếu chẳng còn ai theo con tu học nữa. Khi con ra đi, con không lưu lại dấu vết gì. Nếu lưu lại, con tự nghĩ là một việc làm bất nghĩa.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.”

Bài thỉnh nguyện sám hối ngày 30 tháng 2 năm Canh Ngọ - ngày 26 tháng 3 năm 1990 tại Thiền viện Thường Chiếu.

(01:18:38) Đó là cái bài mà Thầy đã thỉnh nguyện để xin sám hối qua vấn đề cái Thiền viện Chơn Lạc đã có một cái sự làm cho rối loạn ở cả cái Tu viện Thường Chiếu.

Hầu hết là tu sĩ lúc bấy giờ xin đăng ký ra ngoài đó, làm náo loạn, cho nên đó là một cái sự rất là đau lòng. Mà quý thầy không thấy một cái sự đang chuyển tiếp để mà Thầy âm thầm giúp cho Hoà thượng, nhưng quý thầy nghe đến cái sự làm chủ sanh tử thì quá ham, cho nên từng đó quý thầy không thấy rằng do chính quý thầy đã tạo những cái điều kiện này, vì vậy mà cái Tu viện Chơn Lạc sẽ bị đổ vỡ. Khi đó nó có cái sự làm cho Thường Chiếu vắng vẻ đi, làm cho Thường Chiếu không còn người nữa đi, thì lúc bấy giờ Hoà Thượng làm sao đây? Nghĩ gì đây?

Quý thầy không thấy điều đó, người nào cũng đăng ký ra Chơn Lạc hết, nhất là những thầy mà cao thủ, những thầy mà hiện bây giờ gọi là cấp lãnh đạo. Trừ ra những thầy mà đang giữ gìn cái giềng mối của Thiền viện Thường Chiếu thì không nói, còn những thầy mà trẻ trẻ, tuổi nhỏ sau này mà bây giờ là nòng cốt của các cái Thiền viện đó, thì các thầy đều xin đi hết, đi theo Thầy ra ngoài đó hết.

Cho nên do đó mà cái duyên nó không đủ, buộc lòng Thầy phải về xin sám hối cái bài thỉnh nguyện này, thì quý thầy thấy rằng cách đây 7 năm.

5.4- THẦY GIÚP HÒA THƯỢNG THANH TỪ LÀM SÁNG TỎ PHẬT PHÁP

(01:20:07) Do đó nó sẽ không đem đến một cái kết quả, thay vì cái lần đầu tiên mà khi Thầy về Thầy trình bày như hồi ở trong cái lời thỉnh nguyện này, thì nếu mà Hoà thượng đã nhận được cái điều kiện mà đầu tiên thì Thầy xin nhập diệt.

Và trước khi nhập diệt thì Thầy cũng sẽ xin Hoà thượng, Thầy sẽ nhập định 7 ngày đêm ở tại Chơn Không để cho tất cả tăng ni đệ tử mà đang theo Hoà thượng tu hành chứng kiến được cái sự nhập định, và vì vậy họ thấy được cái sự tự tại và cái Như Ý Túc, Định Như Ý Túc - nghĩa là muốn như thế nào là đạt được như thế nấy, đó gọi là thực hiện cái định.

Và sau khi mà nhập định 7 ngày đêm, Thầy xuất định ra, và trong khi có mặt chúng đủ mặt ở đó, Thầy sẽ từ giã thầy và đại chúng rồi Thầy sẽ nhập diệt bỏ thân tại đó. Và sau đó thì Thầy xin Hoà thượng là thiêu xác thân của Thầy rồi đem đổ xuống biển, đừng có xây tháp, xây gì hết, coi như hoàn toàn là không còn một cái vật gì mà để lại.

Thầy chỉ còn lưu lại một cái tài liệu cho Hoà thượng theo cái tài liệu đó mà Hoà thượng hướng dẫn người ta, từ cái giới luật của Phật, phải sống như thế nào để đúng giới hạnh, và tu tập những cái thiền định như thế nào để mà làm chủ được, nhập được định mà làm chủ được sống chết như vậy, một cách rất tự tại như vậy.

Đó là cái điều kiện mà Thầy đã muốn giúp Hoà thượng. Ngay từ khi mà mình thành tựu, ở trong 10 năm ở trong thất, khi thành tựu thì Thầy thấy đối với Thầy thì danh lợi không còn nữa, mà Thầy chỉ còn có tình nghĩa thầy trò để mà giúp nhau, để mà xây dựng lại Phật pháp, đem lại Thiền Tông mà thôi. Mà lấy bản thân của Thầy, lấy kinh nghiệm của Thầy để làm cái đó cho mọi người sáng suốt được Phật pháp, làm cho người ta thấy được.

Nhưng rồi Hoà thượng lại không có cái ý đó mà lại muốn Thầy ở lại để cho có một người đệ tử ở một bên thầy mà giúp đỡ. Từng đó, khi mà Thầy về thì Hoà thượng có nhắc: “Trong cái chuyến về này thì Thông Lạc hãy ghé thăm các Chiếu!” Nhưng mà Thầy không có ghé thăm, Thầy đi về luôn.

(01:22:14) Do đó thì khi Hoà thượng hỏi lại Thầy có về thăm không thì trong các Chiếu nói không có, Thầy Thông Lạc không có về. Cho nên Hoà thượng nói bây giờ quý thầy mỗi người ở mỗi cái Chiếu đại diện về thỉnh Thầy mới về, chớ còn không thể nào mà Thầy về đâu.

Do đó thì cho nên có một cái chuyến xe, mà mỗi Chiếu thì đều có một vị đại diện về đây để thỉnh Thầy. Sau khi được thỉnh thì Thầy mới về thăm Thường Chiếu và các Chiếu.

Sau chuyến thăm đó thì cũng có nhiều cái tư tưởng chống đối, rồi cũng có nhiều cái tư tưởng kêu là ganh tị đó, Thầy nói rõ ra là hầu hết cái người mà phàm phu thì họ chưa thấy. Như vậy Thầy đã hiểu biết cái tâm trạng đó, cho nên đến đó hỏi thì Thầy chỉ nói qua loa, không bao giờ mà nói lộ ra một cái gì mà gọi là cái kinh nghiệm tu hành của mình hết.

Tại sao vậy? Tại vì người ta không có tin mình mà người ta có niềm ganh tị. Tại sao được Hoà thượng cho rằng Thầy tu chứng như thế này, thế khác? Do đó từ đó, khi chuyến thăm về rồi thì Thầy đã thấy nảy nở ở trong tâm của huynh đệ của mình có những cái sự chống đối chớ chưa phải là họ quyết tìm con đường giải thoát.

Cho nên trước khi mà Thầy về thăm, khi mà tu xong Thầy về thăm, Thầy cũng đã hiểu được tâm của chúng sanh rồi. Cho nên Thầy chỉ muốn làm cái niềm tin cho họ đối với Hoà thượng hơn là ở Thầy. Còn Thầy mà ở lại giúp Hoà thượng thì chỉ chẳng qua là một sự tranh chấp mà thôi.

Họ đâu có muốn Thầy về mà làm thầy của họ đâu? Đó, cho nên vì vậy đó, họ muốn họ bao giờ cũng phải có một cái sự điều khiển hay hoặc là được Hoà thượng giao cái sự điều khiển đó chớ không phải giao cho Thầy. Cho nên Thầy thấy điều đó là một cái điều khó. Nhưng lần lượt thì Thầy không thể nào mà sống ở trong các Chiếu với Hoà thượng để giúp đỡ huynh đệ, được là do cái tâm đó.

(01:24:08) Vì vậy sau này Hoà thượng giao cho Thầy cái khu đất ở Phước Hải, được cái người Phật tử cúng dường, rồi Hoà thượng đặt cái tên nó là Chơn Lạc để lấy cái tên của nó, do đó mới giao khu đất. Từng giao khu đất thì Thầy ra Thầy cất những cái thất nhỏ nhỏ nhỏ nhỏ như ở đây mình vậy, cũng bằng tầm vông trúc tre vậy.

Thì mỗi thầy đều đăng ký xin một cái thất để ở trong cái khu rừng núi, mà cái vùng biển như vậy là có khí hậu rất tốt, cho nên quý thầy ai cũng thích. Nhất là những thầy mà có cơ thể bị bệnh tật thì thích ở cái vùng đó để cơ thể nó được khỏe hơn. Cho nên họ đều đăng ký đi hết, vì vậy mà Thường Chiếu gần như muốn trống, do vì vậy mà xảy ra cái sự không hay.

Từ đó thì coi như là Hoà thượng không có chú ý đến cái vấn đề của cái Tu viện Chơn Lạc nữa. Và Hoà thượng thường thường là Hoà thượng cứ nhắc: “Bây giờ đó, Hoà thượng Huệ Hưng đang yêu cầu Thông Lạc thì Thông Lạc giúp đỡ Hoà thượng Huệ Hưng đi!” Đẩy Thầy qua một bên góc độ.

Mà Hoà thượng Huệ Hưng là một người chỉ có biết Thầy chớ chưa phải Thầy là đệ tử của Hoà thượng Huệ Hưng, cho nên Thầy làm sao mà Thầy giúp cho Hoà thượng Huệ Hưng! Nhưng Hoà thượng Huệ Hưng là người có một cái sự đối đãi với người tu hành rất là lịch sự, rất là tốt.

Hoà thượng không có thấy cái ngã của mình là Hoà thượng, là một cái vị mà lãnh đạo tăng cả nước, Hoà thượng đứng ở trong mặt giáo hội thì Hoà thượng coi như là trưởng ban tăng sự mà, coi tăng ni trong cả nước lận mà, chớ đâu phải là ít, Hoà thượng muốn cấp giấy cấp tờ gì cho tăng ni đều là quyền của Hoà thượng hết mà.

Thế mà Hoà thượng hạ mình đến mà mời Thầy, rồi thậm chí như đến đây nữa, Hoà thượng có cái ý rằng những cái công phu mà tu hành của Thầy như vậy đó, chỉ có Thầy mới có thể giúp cho Phật giáo sống lại mà thôi. Cho nên qua cái ý đó, và đồng thời Hoà thượng có muốn xây dựng cái Tu viện chuyên tu ở Tòng Lâm, nơi mà của Hoà thượng Thiện Hòa để lại đó, để mời Thầy về đó để giúp.

Nhưng mà Thầy thấy quý thầy ở Tòng Lâm cũng như là quý thầy ở Ấn Quang họ cũng chẳng có tâm tha thiết cái sự đó đâu. Họ chỉ nhắm vào cái phần sống về danh, về lợi hơn là cái chỗ tu hành giải thoát. Cho nên cái ý của Hoà thượng là một lẽ, khi mà Hoà thượng tịch rồi thì kể như cái ý đó nó cũng không đi đến đâu.

Nhưng mà Thầy thì Thầy không phải nhắm vào cái chỗ đó, mà Thầy nhắm vào Hoà thượng để giúp cho Hoà thượng. Vì một ngày đi nữa cũng là thầy của mình, làm sao cho cái con đường thiền của thầy mình sống mãi, đó là mình đền đáp ơn thầy mình. Nếu mình không nhận thầy của mình thì thôi, mà đã nhận thầy của mình thì mình phải làm sao cho xứng đáng là người đệ tử.

Như các các con, các thầy đã nghe cái lời thỉnh nguyện của Thầy, dù như thế nào tình của Thầy với Hoà thượng không bao giờ mà có thể ai ngăn cản được. Ai làm gì thì làm, nhưng mà tâm của Thầy đối với Hoà thượng vẫn là một bậc thầy đáng kính, khả kính của Thầy. Luôn luôn Thầy kính trọng, không bao giờ mà Thầy coi…​

Hoà thượng dạy thiền như thế nào thì Hoà thượng có quyền dạy, nhưng mà Thầy chỉ cần có những cái kinh nghiệm giúp thêm Hoà thượng là giúp, chứ không bao giờ mà Thầy nói Hoà thượng thế này, thế khác.

(01:27:12) Nhưng có nhiều người họ lại lấy những cái lời của Thầy dạy đúng đắn mà họ nói rằng Thầy bài bác Hoà thượng, thì cái điều đó là họ hiểu như thế nào Thầy cũng chả hiểu.

Như quý thầy thấy rằng Thầy đem cái Thiền Đông Độ Thầy so sánh với cái Bốn Thiền của Phật là mục đích Thầy muốn cho Hoà thượng nhận xét được cái nào mà thực hiện được, cái nào không thực hiện được. Có như vậy để giúp Hoà thượng có những cái sáng kiến, từ đó Hoà thượng đi dần dần dần.

Cũng như một cái bức thơ của Thượng toạ Nhất Hạnh gởi cho Hoà thượng, nhắc Hoà thượng như thế này: “Chúng ta hãy trở về với con đường nguyên thủy”, có nhắc Hoà thượng cái điều đó mà. Các con có thấy cái bức tâm thơ của Thượng toạ Nhất Hạnh nhắc Hoà thượng Thanh Từ: “Hoà thượng hãy trở về với con đường nguyên thủy!”

Đúng vậy! Sự thật ra những cái điều mà Thầy nêu lên ở trong cái lời băng đó là muốn cho Hoà thượng trở về với cái Phật giáo chơn chính của nó , để giúp cho một số người đang theo Hoà thượng đạt được cái kết quả. Sự thật nó là sự thật, không thể nào sai được.

Nhưng không kết quả. Lần thứ nhất không kết quả. Lần thứ hai, Tu viện - Thiền viện Chơn Lạc không kết quả.

Lần thứ ba, hai cuộn băng ra đời, nhằm mục đích để mà âm thầm giúp cho Thiền viện Trúc Lâm. Nhưng lần trở về, Thầy đưa cái dự thảo phương án Trung tâm An dưỡng, xin Hoà thượng đứng ở trong đó để giúp đỡ cho con làm công việc này, Hoà thượng nói Hoà thượng chỉ lo dạy thiền tu học thôi, chứ không làm công việc xã hội.

Sự thật ra cái hình thức thì phải nhìn cái Trung tâm An dưỡng từ thiện nó là cái công việc từ thiện xã hội thật sự đó, nhưng mà bên trong nó lại lồng vào một cái đạo đức của đạo Phật rất là lớn, là lợi ích rất lớn cho con người.

Nó không nhắm vào một cái số tu thiền để mà giải thoát sanh tử tầm thường, mà nó nhắm vào tất cả mọi người có mặt ở trên hành tinh này, để đem lại cái đạo đức nhân quả, để mọi người thông suốt nó, thì xã hội này rất là trật tự, an ninh, không bao giờ mà có ai có làm cái tội ác nữa hết. Đó là cái Trung tâm An dưỡng ra đời là nhằm cái mục đích đó.

Nhưng mà lại một lần nữa lại không được Hoà thượng chấp nhận. Như quý thầy cũng đã biết, không được chấp nhận.

Do đó bây giờ đứng ở trong một cái vấn đề làm việc lớn này mà nhân sự của Thầy không có, đệ tử của Thầy cũng chẳng có, thì bây giờ Thầy còn làm cái gì hơn? Rồi cái khu đất đó thì để cho cây cỏ mọc chứ làm gì hơn? Bây giờ còn ai hơn nữa?

Cho nên vì vậy mà gần đây Thầy có ý nghĩ, Thầy sẽ di chúc lại cho những mầm non của Tổ quốc, cho những mầm non sau này cái dự thảo phương án này.

Sẽ có những đứa bé mới sanh, cũng như đã sanh 5-7 tuổi, những người này đều là những người có trí tuệ, có thông minh, đang học hỏi rất giỏi, nghĩa là rất thông minh. Chúng nó đang được cha mẹ cho sang ngoại quốc học vì được học rất giỏi, học giỏi hơn cả trong nước, rất là giỏi, nghĩa là được tuyển chọn, được học cấp học bổng hẳn hòi đàng hoàng.

(01:30:15) Thầy di chúc lại, giao lại cho những cái đứa bé này, sau này nó sẽ thay Thầy, khi nó học xong nó trở về, nó phục vụ cho dân tộc, cho đất nước nó thì nó sẽ làm những công việc này. Đó là những mầm non tương lai của Phật giáo, và cũng là mầm non tương lai của đất nước này, nó sẽ đem lại cái đạo đức cho dân tộc này.

Còn Thầy thì già rồi, và đồng thời thì không có đủ duyên mà hợp tác, cũng như giáo hội, cũng như Hoà thượng thì Thầy đâu có làm được gì nữa hơn?

Cho nên Thầy thấy đúng lúc là ba cái giai đoạn mà mình cố gắng để giúp cho đời tu hành đạt được sự kết quả, làm cho Phật pháp sống lại thì ba cái giai đoạn đó không đạt. Rồi bây giờ về cái phần mà đem cái đạo đức nhân quả để dạy con người thì cũng chẳng thành, thì bây giờ còn làm cái gì? Thì bây giờ còn những giờ phút này ẩn bóng để chờ cho những đệ tử của mình tu tập cho xong mà thôi.

Còn nếu không, mà không có những người đệ tử mà đang theo Thầy tu tập thì chắc chắn là Thầy đã nhập diệt. Chứ mang cái thân này các con thấy, ngày ngày nó mệt mỏi, mỗi một lần ho, mỗi một lần bệnh, một lần nhức đầu, một lần là một cái nghiệp, thọ cái khổ, bỏ nó đi cho rồi, có gì mà tiếc nó đâu!

Ăn thì các thầy thấy rằng ngày một bữa, có gì mà phải ngon, mà phải béo bở đâu nữa mà lại ham? Người ta ở đời người ta còn ăn ngon, ngủ ngon, người ta còn chạy theo cái này cái kia, còn Thầy còn cái gì nữa mà ham? Cho nên đối với Thầy đã hết rồi, thì chỉ còn buông mà thôi.

Nhưng đáng thương cho mấy con đã theo Thầy lỡ dở, cho nên không lẽ mà Thầy bỏ các con. Cho nên Thầy ẩn bóng, ẩn bóng để theo dõi trên cái sự tu tập của các con mà giúp các con, cho đến khi nào các con thành tựu thì lúc bấy giờ Thầy sẽ ra đi vĩnh viễn.

Đó là cái nguyện vọng của Thầy. Chớ bây giờ Thầy đâu có còn mong Thầy núp sau lưng Hoà thượng để giúp cho Hoà thượng nữa, hết rồi. Ba lần, mà ba lần là quá sức rồi.

Các con chưa từng nghĩ, thầy Chơn Tịnh thường thường đưa Thầy về Thường Chiếu phải nửa đêm, mà thầy trò chiều thì phải đi về thành phố ngủ. Muốn ra 8 giờ, 7 giờ thì ở Thường Chiếu người ta sám hối rồi, người ta thỉnh nguyện rồi, thì mình phải ra cho đúng giờ chớ đâu phải. Cho nên cả thầy trò phải 4, 5 giờ phải thức dậy đi, mà từ thành phố đi ra ngoài đó sám hối rồi trở về, chớ không phải ở ngoài đó nữa.

Bởi vì khó khăn lắm chớ không phải dễ, cực khổ lắm chớ không phải dễ. Thế mà mỗi tháng đều là Thầy về sám hối như vậy, chớ không phải không có.

Nhưng cuối cùng thì Hoà thượng cũng nói rằng: “Ở xa xôi quá, Thông Lạc cứ về như vậy thì rất là vất vả. Thôi, từ cái ngày mà hiểu biết được rồi thì thôi, ở tại chỗ, đừng có về nữa, rất cực khổ!” Đó Hoà thượng nói với Thầy như vậy. Cho nên Thầy không có về sám hối nữa để mà làm cho cái tình hòa hảo giữa huynh đệ cũng như giữa thầy.

(01:33:17) Nhưng họ rất áy náy là vì họ đã không biết Thầy là cái hạng như người nào, như thế nào, mà luôn luôn là hạ mình đến cái mức độ hạ không có tưởng tượng được. Thầy Chơn Tịnh mà đi theo Thầy đó, thầy nói thầy không chịu nổi được cái cái lối hạ mình của Thầy. Với huynh đệ cũng vậy, mà với thầy Viện chủ cũng vậy. Thầy tu hành như vậy mà Thầy hạ mình đến vậy.

Thậm chí như thế này nè. Khi đến xin sám hối mà Hoà Thượng ở bên Linh Chiếu, Thầy phải đi qua bên Linh Chiếu, qua bên Linh Chiếu gặp Hoà thượng rồi thì Hoà thượng ngoe nguẩy, Hoà thượng bỏ đi về không nói một lời nào. Thầy vẫn đi theo sau Hoà thượng để chứng tỏ một cái tình người của người đệ tử rất là hạ mình, biết tôn trọng Thầy mình. Chớ không phải như quý thầy đâu, nói hơi nặng lời là quý thầy bỏ đi liền! Còn Thầy không có đâu.

Hoà thượng ngoe nguẩy chống cây gậy, khi mà Thầy qua bên Linh Chiếu mà gặp Hoà thượng rồi thì Hoà thượng ngoe nguẩy không nói một lời nói nào nữa, ngoe nguẩy đi về, hất hủi một cách rất là hất hủi chớ không phải.

Thầy nói nhắc lại đây, các con chưa có từng thấy đâu. Thầy Chơn Tịnh đi sau Thầy: “Thầy chịu đựng nổi chớ con chịu đựng không nổi. Con chịu không có nổi!” Thầy nói: “Đã là thầy của mình là ông cha của mình rồi, tại sao là mình chịu không nổi?” Đó là những cái hành động.

Rồi những khi mà Hoà thượng tìm mọi cách mà tránh né không gặp Thầy, Thầy vẫn bền bỉ ngồi chờ đợi. Có những khi mà mưa dầm tầm tã, có những khi chờ đợi để gặp Hoà thượng xin một lời sám hối rồi trở về, thì có thể nói rằng từ 5 giờ, 6 giờ, có thể 7 giờ mà còn ở Thường Chiếu, mà khi gặp Hoà thượng được rồi thì lúc bấy giờ Thầy với Chơn Tịnh mới về trong đêm tối, không ở lại Thường Chiếu. Bởi vì mình biết ở lại Thường Chiếu chẳng có một cái sự đối xử nào mà tình với mình cả hết.

Thì các con biết lúc bấy giờ nó không phải là một cái đơn giản, nhưng mà Thầy vẫn giữ là cái người đệ tử rất là biết trọng ơn thầy. Nhưng mà Thầy nhìn hết những người đệ tử của Thầy, khó mà tìm được cái người đệ tử mà đối xử với Thầy như Thầy đối với Hoà thượng. Khó lắm, Thầy thấy khó, đời người khó lắm.

Cho nên hôm nay Thầy nhắc lại để cho các con thấy rằng, cái người mà có tình nghĩa thầy trò…​ (Mất tiếng)

…​nó đã diệt mòn đi với cái sự tu tập thiền định của Thầy, cho nên Thầy thấy mình chẳng ra gì hết, mình là một con số không ở trong cái thế gian này, không có gì hết. Bởi vì sự giải thoát là giải thoát, không nghĩa giải thoát là bản ngã. Mình làm chủ được sanh tử không có nghĩa là mình hơn ai hết, đối với Thầy thì Thầy không thấy mình hơn ai hết.

Cho nên đối với Hoà thượng, Thầy vẫn thấy là một bậc thầy khả kính của Thầy, Thầy không thấy hơn Hoà thượng chút nào hết. Thầy chỉ thấy rằng mình là người đệ tử phải làm sao giúp thầy, đền đáp ơn thầy là đủ rồi, còn toàn bộ thầy như là không có.

(01:36:11) Đó thì, hôm nay quý thầy đã được nghe cái lời thỉnh nguyện của Thầy cách đây 7, 8 năm, mà may là còn. Nhưng cái lời mà ghi lại trong băng, trong những cái máy mà đem theo ghi thì các thầy biết là cái phương tiện rất là tệ.

Lúc bấy giờ trong cái bữa mà thu cái lời thỉnh nguyện này, mà bây giờ Thầy ghi lại đây đó, chớ không phải hồi đó mà còn ghi như thế này đâu, Thầy ghi rồi bây giờ Thầy bỏ đâu Thầy cũng chẳng biết, cái bài mà Thầy thỉnh nguyện ở Thường Chiếu.

Thì thầy Chơn Thông đó, bây giờ đã đi xa để mà tu học theo nguyên thuỷ rồi đó, thì thầy đã mang theo một cái máy nhỏ như thế này nè, thầy lén thầy mới xin quý thầy cho chui vào mà quý thầy không cho là không cho, chui vào để kê lại chỗ mà Thầy thỉnh nguyện với Hoà thượng để thu mà không cho là không cho.

Cho nên do vì vậy đó, mà trong khi đó thì cái cái phía sau đó, chú có cái máy nhỏ, chú bảo Thầy bây giờ Thầy thỉnh nguyện thì xin Thầy treo ở chỗ cổ Thầy nè, rồi Thầy nói đây nó thâu vô.

Cho nên bây giờ đó, biết đâu chừng Chơn Thông xin không được rồi làm sao? Nó căng như vậy đó các con biết. Không bao giờ họ để lưu lại cái lời nói của Thầy ở đâu hết, họ không bao giờ cho đâu. Cho nên Chơn Thông đem máy vô thu không có được, do đó quý thầy nói bảo để ở ngoài đó cứ thu ở ngoài.

Làm sao mà (thu), con thấy? Bây giờ Thầy ngồi ở đây với Hoà thượng, Hoà thượng ngồi đầu đây phải không, thì tất cả chúng ngồi dài đây, mà Chơn Thông ngồi đằng kia làm sao thu? Phải không, các con thấy làm sao thu. Mà cái máy nhỏ chớ phải máy lớn sao, thành ra làm sao thu được. Chỉ có ngồi đem sát đây thì may ra để như vầy đó mới thu vô được chớ, mà nó còn không được rõ nữa chớ đừng nói.

Cho nên vì vậy đó chú ở sau chú mới cho Thầy mượn cái máy, chú bảo Thầy thôi bây giờ Thầy đeo cổ đi, không chắc gì Chơn Thông thu được đâu, Thầy nhớ nghe, Thầy bấm vầy chớ Thầy không bấm nó còn không chạy!

Mà lúc bấy giờ đó, trước khi mà xin thỉnh nguyện, trong khi ra giữa chúng mà Thầy quỳ xuống Thầy xin thỉnh nguyện, trước khi mà ra Thầy đã bấm máy trước rồi. Thầy ngồi đó, Thầy tới cái chỗ mà Thầy xin sám hối, tới phiên Thầy thì Thầy đã thò tay Thầy bấm cái nút rồi, nó chạy rè rè ở cổ.

Thầy cũng lâu lắm Thầy mới ra chớ không phải là mau được. Do đó thì Thầy chỉ thu lại, bây giờ là nghe lại cái cuộn băng nó rè rè rè rè đó, nó không rõ là cái chỗ này, nhưng mà nhờ đó mà bây giờ còn ghi lại, chớ không bây giờ Thầy cũng chẳng đâu mà nhớ được mà ghi nữa chớ đừng nói.

Đó, còn hồi đó Thầy viết ra một cái bài để mà Thầy đọc lên cái lời thỉnh nguyện của mình nó có mạch lạc hẳn hòi rõ ràng, chớ không phải nói miệng suông được, mà nó rất gian khổ như vậy. Bây giờ nó còn nè.

Còn một cái bài thỉnh nguyện thứ hai nữa coi như là không có thu được. Đó như vậy đó thì các con biết, nó còn cái bài thỉnh nguyện thứ hai nữa chớ không phải. Đây là cái bài thứ nhất, còn cái bài thứ hai.

Thì các con biết làm Phật sự nó có nhiều cái gian khổ lắm, nó không đơn giản. Nó phải trên thuận dưới hoà, nó phải hoà hợp với nhau, nó không hoà hợp thì không bao giờ làm được chuyện gì hết.

Bây giờ Thầy nói cái giáo án này ra là mục đích làm sáng tỏ lại Phật pháp, làm lại những cái gì mà Phật pháp người ta không hiểu thôi. Không phải trách quý thầy hiện giờ là phạm giới phá giới đâu, mà quý thầy chỉ không hiểu mà thôi, chớ Thầy nghĩ rằng quý thầy hiểu thì chắc không có đến đỗi nào.

5.3- TỔ CHỨC TU TẬP QUA PHƯƠNG ÁN TRUNG TÂM AN DƯỠNG

(01:39:34) Hôm nay nói về cái vấn đề này, thì hôm nào có dịp Thầy sẽ đọc lại dự thảo cái phương án trung tâm an dưỡng.

Cái mục đích mà đưa lên để xin phép nhà nước là phải nói có lý hẳn hòi đàng hoàng, chớ không phải là đơn giản đâu. Cách thức đó như thế nào, và tổ chức như thế nào, và kinh phí như thế nào mà hợp lý thì nhà nước mới chấp nhận. Bởi vì nó là cái phương án trung tâm an dưỡng, thì do đó nó phải hợp lý mình mới trình cho nhà nước.

Rồi cái kinh phí mà để chi cho cái phương án này nó ở đâu mà có? Chớ không phải đơn giản đâu. Người ta sẽ còn hỏi mình tất cả mọi mặt, sau đó người ta mới chấp nhận cấp giấy tờ cho mình. Chớ đâu phải mình lập lên đó rồi nó không có một đồng xu nào trong đó, chỉ cất mấy cái số nhà đó rồi bắt đầu nhận vô, bỏ đói người ta hết sao? Cho nên nó phải có cái một cái nguồn kinh phí nào. Cho nên nó không có đơn giản đâu.

Vì vậy đó mà các thầy thấy, từ cái chỗ mà muốn tổ chức được như vậy đó để cho thực hiện được cái hoài bão của một người tu sĩ mà đi khất thực, thì cái trung tâm an dưỡng thì nó có khu an dưỡng trung tâm, tăng và ni nữa, chớ không phải là tăng không mà có cả ni.

Tại sao vậy? Thầy muốn tổ chức lại cái đời sống của người tu sĩ ba y một bát, đi xin, thì trong cái trung tâm này nó có một cái nơi để nấu cơm, để cung cấp cho mọi người về an dưỡng, thì trong khi đó họ sẽ nấu cơm giúp đỡ cho chúng ta tu hành mỗi ngày một bữa cho đúng giờ thì chúng ta đến cái câu lạc bộ hay hoặc là cái nơi mà người ta nấu cơm đó người ta sẽ sớt bát cho mình, thì mình sẽ thực hiện cái đời sống ba y một bát, đi khất thực rất là đúng mà không có phạm vào một cái lỗi, ngay cả ở đất nước của chúng ta, nó không có lỗi thời chút nào hết.

Chúng ta chẳng biết tiền bạc, chẳng biết gì hết. Ai cúng dường thì cứ cúng vào cái nơi nào đó, chớ còn chỗ chúng ta tu hành thì chúng ta không nhận cúng dường mà chỉ nhận thức ăn mà thôi, nhận một ngày một bữa ăn thôi, không nhận tiền bạc.

Đó, đó là cái Thầy muốn tổ chức như vậy, để cho quý thầy thấy rằng Thầy có những cái việc làm rất là sáng suốt chớ không phải không. Tổ chức ngay để mà chúng ta có một đời sống khất thực.

Mà khất thực không có làm cho người khác nghèo, mà chỉ có những người giàu, Phật tử giàu người ta bỏ vào, người ta cúng dường cho mình, rồi người ta nấu cơm cho mình ăn ngay tại chỗ đó, hàng trăm người có thể sống rất dễ dàng mà không có lo.

Mà không có một cái chùa to tháp lớn gì, chúng ta ở toàn là những cái chòi tranh vách lá bằng tầm vông, trúc tre như thế này. Nghĩa là trong khu vực an dưỡng không phải là cái chùa cho nên chúng ta đâu có cất cái chùa. Y như Phật, chúng ta chỉ có một cái nhà tròn hay hoặc là cái nhà mát để chúng ta được những cái ngày mà tập họp lại, được nghe Thầy thuyết giảng nói về cái sự tu tập, nói những bài pháp cho các thầy nghe tu tập thôi. Đó là cái nhà rộng cũng như cái thiền đường của chúng ta như thế này đủ rồi.

Còn tất cả những chúng thì hoàn toàn là ở những cái chòi tranh vách lá, người cái người cái, không có ở chung nhau.

(01:42:39) Đó là cách thức tổ chức của Thầy, cái khu an dưỡng của chư tăng và chư ni như vậy.

Mà ở đó không thờ ông Phật nào hết, ở đó chỉ chuyên tu thôi chớ không thờ tượng Phật nào hết. Mặc dù chúng ta là một người tu theo Phật giáo, phải có tượng Phật, nhưng ở đây chúng ta đâu có quyền, chúng ta là người an dưỡng, nghỉ ngơi, tu tập chớ không phải là chúng ta ở đây cất cái chùa mà thờ Phật. Nếu chúng ta thờ Phật tức là sai đi cái chỗ chúng ta.

Mà chính thờ Phật không đúng. Theo Thầy thấy, Phật ở trong tâm của mình, mình tưởng nhớ Phật, mình hằng ngày mình sống đúng những cái gì mà Phật đã sống thì đó là Phật ngay trước mặt mình rồi, còn đi đâu mà thờ cái tượng! Cái tượng nó có giống không? Chắc chắn là không giống đâu.

Đó thì như vậy Thầy đã nghĩ cái điều nghĩ này, cho nên cái đời sống của tu sĩ hiện bây giờ nó giống như Đức Phật ngày xưa. Vì Đức Phật ngày xưa đâu có thờ ông Phật, phải không, các con thấy đúng không? Chúng ta cũng không thờ ông Phật, nhưng hằng ngày chúng ta sống đúng giới hạnh, tức là ông Phật ngay tại chỗ giới hạnh đó, chỗ cái hành động sống của chúng ta là ông Phật chớ không phải là chỗ khác.

Do đó chúng ta càng muốn cho ông Phật sống, càng thờ ông Phật tại cái khu đó thì tức là cái hạnh sống của chúng ta phải toả ra những cái mùi hương của giải thoát của đạo Phật ở đó thì chính là ông Phật ở đó rồi. Không còn phải đi tìm một ông Phật xi măng, một ông Phật đồng, hoặc là bằng vàng mà thờ, thì cái đó là cái hình thức của những người còn mê tín, chớ không phải là người tu hạnh giải thoát. Đó là những cái chân chính.

Còn bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục cái giáo án, mà tiếp tục để tu, để học.

6- KẾT QUẢ TU TẬP THỂ HIỆN QUA CUỘC SỐNG ĐỨC HẠNH

(01:44:12) Thầy xin trả lời chung qua những cái ý kiến qua hai bức thơ của của thầy Thiện Thiền.

Trong cái bức thơ đó thì Thầy thấy rằng con đường của đạo Phật chúng ta phải đi từ căn bản, nhất là Thầy yêu cầu cái căn bản, thì trong cái căn bản đó không phải là ngay liền mà dạy Tứ Thiền hay hoặc là Tam Minh được, mà nó phải còn một cái lộ trình của nó, phải rất rõ. Nếu khơi khơi mà tắt ngang như vậy thì những cái giáo án của chúng ta nó không có thành một cái xuyên được.

Như bây giờ chúng ta thuyết giảng - bây giờ bỏ những cái khoản kia đi, bây giờ chúng ta thuyết bắt đầu vô cái Tứ Thiền đi, chúng ta bắt đầu Sơ Thiền đi thì nó không thành một cái vấn đề của một cái giáo án nữa, mà nó thành ra một cái đoạn mà có thể nói rằng một cái đoạn văn hay hoặc là cái pháp nói về thiền đó thôi. Như vậy là chỉ có dạy riêng chớ không thể nào mà nó gộp chung ở trong cái giáo án này được. Đó, không thể nào mà thu chung ở trong cái giáo án này được.

Thí dụ như bây giờ muốn dạy riêng, nó còn mấy ngày nữa thì quý Thầy xin: Bây giờ còn mấy ngày nữa chúng con muốn học riêng, còn bây giờ phần giáo án thì để sau này Thầy có thể Thầy giảng tiếp như thế nào thì sau này, còn bây giờ chúng con muốn học Tứ Thiền, thì như vậy là Thầy sẽ dạy riêng, hoàn toàn Thầy sẽ dẹp cái giáo án này ra, Thầy không dạy nữa, do đó Thầy chỉ dạy cái phần của Tứ Thiền rồi Tam Minh thôi.

Thầy không dạy Tứ Như Ý Túc mà Thầy nói Tam Minh, phải ở trong chỗ cái nào để mà hướng Tam Minh thôi. Thì quý Thầy nắm được, tu được thì được mà không tu được thì cái đó là cái phần của quý thầy, còn Thầy thì nói hết những cái điều kiện mà ở chỗ đó để mà thực hiện, thì Thầy nói cái đó rất rõ, quý thầy làm được thì làm được hay không làm được thì quý thầy chịu lấy. Chớ còn Thầy biết rằng cái lộ trình của nó phải đi từ cái dễ đến cái khó.

Cũng như bây giờ các thầy muốn biết cái bài vở ở trên cái lớp đại học nó như thế nào, nhưng mà cái trình độ chưa biết, chưa có hiểu được cái trạng thái đó, cũng như bây giờ mình mình chưa có ly dục, cái tâm mình còn dục thì mình chưa biết cái ly dục như thế nào mà gọi là có hỷ lạc do ly dục sanh, thì các thầy chưa biết. Chưa biết mà đòi hỏi tới cái cao nữa thì chắc chắn là quý thầy chỉ còn ngồi đó mà ngó chứ còn không biết.

Mà đây là dạy nó cô đọng lại một cái pháp, mà pháp của Phật nó thường dường như là nó có cái móc chuyền với nhau, cái pháp này nó móc với cái pháp kia, nó liên tục với nhau, cho nên 37 phẩm trợ đạo nó phải có cái móc chuyền chớ không phải cái pháp nào nó độc lập riêng được.

Cho nên vì cái đầu tiên mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu được thì ngay đó cái định Bốn Thiền cũng như cái Tam Minh nó dễ dàng. Mà cái Vô Lậu không được thì bây giờ Bốn Thiền với Tam Minh cũng chẳng qua là để đó chúng ta ngó cũng như là một cái tài liệu mà thôi chớ không có gì hết.

Bây giờ Thầy nói, Thầy dạy rất kỹ, ai thấy nói về Tứ Thiền thì người ta cũng thấy rằng đúng rất đúng, rất hay, nhưng mà thực hành thì quý thầy thực hành không vô đâu, Thầy chắc chắn là không vô.

Cho nên ở đây, khi mà chúng ta hiểu được một cái giáo án này rồi, chúng ta biết cái bước đường chúng ta phải tập cái gì trước, tập cái gì sau.

Đó, còn bây giờ quý thầy cứ nghĩ rằng mình phải nắm cho được cái thiền định đó để cho mình tu, không có chắc quý thầy tu được đâu.

(01:47:24) Bởi vì con đường của đạo Phật nó thuộc về toàn diện của nó, toàn bộ của nó là giới luật, là giới luật toàn bộ, từ đầu chí đuôi đều là giới luật. Nó có một cái then chuyền nó móc với nhau, từ cái này nó móc xích với cái kia, nó không thể rời nhau được. Cái đời sống của tu sĩ nó móc đến những cái thiền định, những cái thần thông của nó, nó móc chuyền với nhau hết. Nếu mà đời sống không hợp thì cái móc chuyền này nó bị gãy ngang rồi, nó không có.

Cho nên bây giờ chúng ta muốn bây giờ lấy nội cái thiền của Phật - Bốn Thiền tu thôi, còn hoàn toàn cái kia không cần, giới luật không cần, thì chúng ta chẳng đạt được đến đâu hết.

Thầy biết cái này mà, 10 năm trong thất Thầy biết. Nếu mà không có một cái giới luật, không có sống đúng một cái hạnh độc cư, không có sống đúng cái ly dục ly ác pháp thì không bao giờ mà nếm được cái mùi vị của Tứ Thiền, mà cũng không bao giờ thấy được Tam Minh.

Cho nên quý thầy mất thì giờ lâu là tại vì quý thầy cứ nhắm thiền định mà quý thầy không nhắm đến cái đức hạnh, cái giới luật. Chớ mà nhắm được đúng cái giới luật đức hạnh thì quý thầy sẽ đi mau lắm rồi, và đi mau lắm, thời gian rất ngắn, khoảng độ thời gian rất ngắn.

Cho nên không phải…​ Thầy sẽ cố gắng ở trong cái thời gian này Thầy sẽ dạy cho các thầy Tứ Thiền cho kịp chớ không thể nào mà không có học Tứ Thiền đâu. Và đồng thời có thể nói rằng khi mà dạy Tứ Thiền được thì Thầy cũng cố gắng mà dạy Tứ Như Ý Túc để chuyển qua Tam Minh cho nó có cái đường lối cách thức của nó đi rất dễ dàng.

Bởi vì không có tu Tứ Như Ý Túc thì không có làm sao mà biết cái pháp mà đi tới Tam Minh được. Phải thực hiện nó hằng ngày tu tập như thế nào, để trau dồi cái pháp hướng, pháp tùy nó như thế nào để mà thực hiện được Tứ Như Ý Túc, như hồi nãy Thầy đã nói.

Cho nên cái người mà đi trước rồi người ta biết được cái lộ trình, còn các thầy thì chưa đi trước cho nên các thầy muốn khơi khơi, từ cái lớp Một mình học chừng…​ Nói chung là mình chưa có đạt được lớp Một mà muốn nhảy lên Đại học mình ngồi để nghe coi mấy ông thầy, mấy ông giảng sư trên này dạy làm sao, thì chắc chắn là ngồi đó ngó. Thiệt ra thì chắc chắn là quý thầy cũng chỉ là dùng những cái từ đó nói thiền đạo chơi, nghe chơi chớ còn thiệt ra nó không tới.

Đó quý thầy hiểu cái điều mà Thầy đã biết. Bây giờ đem ra các thầy cũng nói bây giờ nhập Sơ Thiền, cũng nói theo cái lời mà Thầy dạy đó, nói vanh vách vậy, chớ còn làm thì làm không được đâu, chính cái cuộc sống mình chưa sống được thì thiền nó đâu có được như vậy!

Cho nên kết quả nó phải theo cái cuộc sống. Mà mình là người quyết tu theo đạo Phật thì phải lấy cuộc sống mà làm cái điều kiện tiên quyết để đi, chớ còn cái ham muốn như vậy Thầy thấy nó cũng là cái ham muốn sai, nó không đúng./.

HẾT BĂNG

52 - PHÁP HÀNH TÂM NIỆM PHẬT 02

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 52 - PHÁP HÀNH TÂM NIỆM PHẬT 02

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- CÁC PHÁP GÂY LO ÂU, PHIỀN MUỘN - KINH VÍ DỤ CON RẮN

(00:00) Trước khi học tu Tứ Bất Hoại Tịnh, quý thầy nghe cái lời dạy này của Đức Phật để suy nghĩ cuộc sống và mọi pháp sanh diệt trong thế gian này như thế nào.

Đây là một cái bài mà của Đức Phật đã dạy cho chúng ta biết, để trước khi mà chúng ta tu Bất Hoại Tịnh - cái pháp mà làm chúng ta tin Phật, Pháp, Tăng như thế nào để cho nó tròn đầy, thì trước là chúng ta phải hiểu được cái lý của các pháp, của đời sống của con người nó như thế nào mà chúng ta không thể nào thực hiện được cái Tứ Bất Hoại Tịnh.

Đó, thì như vậy bây giờ Thầy sẽ tiếp tục đọc lại cái bài pháp mà người ta đã hỏi Đức Phật:

- Bạch Thế Tôn, có cái gì không thực ở ngoài, có thể gây lo âu phiền muộn cho mình?

Nghĩa là cái người này họ hỏi Đức Phật: Có cái gì ở bên ngoài của mình mà nó làm cho mình lo âu, phiền muộn nhất? Thì Đức Phật trả lời:

- Có thể có, này các thầy Tỳ Kheo, ở đây, chúng ta nghĩ rằng: “Cái này chắc chắn là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi nữa. Cái này chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái này”.

Người ấy mà nghĩ, nghĩa là cái người đó đó, họ nghĩ như thế này nè: “Cái này là của tôi nè!” Cũng như bây giờ, Thầy ví dụ như cha mẹ của mình, mình nói cha mẹ của mình đi, bây giờ rủi mà cha mẹ mình chết thì như thế nào? Bởi vì cha mẹ của mình mà, cho nên khi cha mẹ mình chết thì mình có buồn không?

Cho nên Đức Phật nói: Khi mà mình nhận thấy các pháp đó ở ngoài mình chớ đâu phải trong thân mình, mà chính mình nhận nó là của mình thì tức là mình sẽ có sầu muộn.

Người đó sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh.

Đó, phải sầu khổ như vậy.

Này các thầy Tỳ Kheo, như vậy, có cái không thực ở ngoài, có thể gây lo âu, phiền não cho chúng ta.

Bởi vì cha mẹ mình có phải là thực không? Thế mà mình chấp là cha mẹ mình thực thì do đó tức là mình có cái sự phiền não, khi mà người mất đi thì mình có sự phiền não đau khổ. Cho nên đó là những pháp bên ngoài, tượng trưng, lấy một cái ví dụ như cha mẹ mình, chứ còn bao nhiêu cái nó sẽ làm mình phiền não.

Như bây giờ cái đồng hồ này, như cái cuốn tập này nó mất đi, như cuộn băng này nó mất đi, nó cũng làm cho mình đi kiếm hay hoặc là thế này thế khác. Đó không phải làm cho mình phiền não sao? Đó là tất cả những cái pháp ở bên ngoài chớ không phải pháp ở trong thân của mình đâu, mà nó cũng làm cho mình phiền não.

Theo đạo Phật mà mình hiểu biết như vậy thì mình mới buông xả nó xuống đi, nó là những cái pháp làm đau khổ, làm cho mình muốn chết đi, làm cho mình sầu muộn đi, nó có sung sướng gì đâu? Những cái pháp đó chúng ta phải bỏ nó xuống đi, phải dẹp nó đi, chớ nếu mà chúng ta không dẹp được thì chắc chắc chắn là chúng ta sầu khổ lắm.

- Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể (không) gây lo âu phiền muộn?

Nghĩa là cái người hỏi Đức Phật: Có thể có cái gì không thực có ở ngoài mà có thể gây lo âu phiền muộn cho mình? Nghĩa là bên ngoài nó không có cái thực có mà nó có thể gây lo âu phiền muộn cho mình.

(03:19) - Có thể có! Này các thầy Tỳ Kheo, có người nghĩ như sau: “Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi nữa. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy.” Người đó (không) sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, không đi đến chỗ bất tỉnh.

Nghĩa là có những cái vật ở bên ngoài mà cái người đó mới đầu họ không có biết, họ nhận cái vật ở bên ngoài đó như cha mẹ của mình là của mình đi, hay hoặc là những vật nhà cửa đều là của mình đi.

Bây giờ đó, họ đã hiểu biết rồi, họ đã hiểu biết tất cả những cái đó là không phải cái vật mà của mình đâu, không có phải là những cái vật đó là của mình, cho nên nó sẽ bị hoại diệt, nó sẽ bị mất mát, nó sẽ bị tiêu mòn đi, nó sẽ bị hao mất đi, nó sẽ không còn cái đó là mình giữ được nó đâu.

Do đó như cha mẹ của mình bây giờ chết thì mình có buồn không? Nếu mình biết rằng cái đó là không phải của mình, mình không có giữ được nó, nó không là vật thường hằng, thì như vậy là mình có buồn không? Nếu mình hiểu được như vậy, khi cha mẹ chết mình có buồn không? Không buồn. Bởi vì mình thấy đó không phải là vật của mình, không phải là cha mẹ của mình, mà đó là cái nhân quả.

Bởi vậy Thầy muốn dạy cho các thầy thấy, để đi vào con đường mà tu theo đạo Phật, chúng ta không phải là cái người vong ân bội nghĩa đối với cha mẹ, chúng ta biết cái công ơn sanh thành của người, nhưng vì cái tâm niệm chúng ta đừng dính mắc nó là cái không thật để rồi khi cha mẹ chết mình sầu muộn, mà mình phải cứu lấy mình.

Mình biết như vậy là cái không thật, mình không thể nào mà chết thay thế cho cha mẹ mình được, mình cũng không thể nào gánh vác cho cha mẹ mình được.

Do vì vậy đó mà khi cha mẹ mình chết, mình không có buồn nữa, mình biết rằng cái đó không phải thực của mình mà do nhân quả. Do cái chỗ này thì mình mới thấy được cái cách thức mà tu tập của mình, mới giải thoát được. Đó.

- Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực ở trong có thể gây lo âu phiền muộn chăng?

Đức Phật nói:

- Có thể có…​

Nó ở ngoài đó là tất cả các pháp ở bên ngoài, bây giờ nhắm vào ở bên trong của mình có cái gì đây? Thì cái người này hỏi Đức Phật.

- Có thể có, ở đây, này các thầy Tỳ Kheo, có người có tà kiến, chấp thủ: “Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ có cái này thường còn, thường hằng, thường trú, không hoại diệt…​”

Đó là mình có những cái tà kiến, có những cái chấp kiến của mình, mình cho cái này đúng, cho cái kia sai. Đó, mình cho những cái đó là cái đúng của mình, và chấp nhận cái đó là cái đúng của mình.

Vậy cho nên đó là những cái mà khi cái này nó không thoả mãn cho mình thì mình đâm ra mình buồn, mình đâm ra mình đau khổ, mình đâm ra mình tức tối.

(06:10) Đó, mình đòi hỏi những cái mà nó chưa phải đúng, thì đó là những cái tà kiến của mình chứ chưa phải là cái chánh kiến.

Vì cái chánh kiến thì bắt đầu mình phải thông suốt nó, vì đó là những cái ở trong cái tâm của mình mà, những cái đòi hỏi, cái ham muốn của mình đều là nằm ở trong tâm của mình, do đó những cái đó nó làm cho mình đau khổ, làm cho mình phiền não.

“…​Tôi sẽ…​”

Nghĩ như thế nào?

Người này nghe Như Lai, hay đệ tử của Như Lai thuyết pháp loại trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến này…​

Được một bậc thầy, được Phật và đệ tử của Phật thuyết pháp cho họ nghe đó là những cái tà kiến, cái kiến xứ đó, cái cố chấp đó, cái thiên chấp đó, cái thiên kiến đó, cái tuỳ miên, cái miên man ở trong đó, cái sự đòi hỏi ham muốn của mình cái điều đó, mà khi được Phật và các đệ tử của Ngài chỉ rõ cho mình biết cái đó nó không đúng thì từ đó mình phá vỡ cái tà kiến, cái kiến chấp đó đi thì cái tâm của mình nó sẽ được thoải mái và dễ chịu. Cho nên nó:

…​tịnh chỉ mọi hành động, sự từ bỏ mọi sinh y, sự diệt trừ khát ái đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết Bàn. Người đó có thể nghĩ như sau:…​

Chắc chắn, cái người đó khi mà được nghe như vậy đó, cái người đó mà nếu hiểu được thì họ sẽ thấy rằng mình hoàn toàn được giải thoát, hoàn toàn ly được những cái tà kiến, cái kiến xứ đó.

Còn cái người đó mà không hiểu thì họ lại nghĩ rằng cái lời của Phật và các đệ tử của Ngài nói như vậy là mình đoạn diệt hết những cái tà kiến, những cái kiến xứ, những cái thiên chấp này, thì mình đoạn diệt nó hết rồi, thì tới chừng đó mình ly hết cái lòng ham muốn của mình rồi, mình đoạn diệt rồi, thì bắt đầu nó mất tiêu luôn, mình cũng không còn có nữa, thì đó là đoạn mất hết rồi còn gì?

Người đó có thể nghĩ như sau: “Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại”. Người đó nghĩ như vậy rồi đau khổ, sầu muộn, than vãn, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Này các thầy Tỳ Kheo, có cái không thực có ở trong ta có thể gây cho ta phiền muộn.

Đó, nếu mà chúng ta bị cái kiến chấp rồi chúng ta không thoả mãn được những cái đó, rồi chúng ta nghe cái lời của Đức Phật dạy mình phải đoạn trừ cái đó đi, rồi người đó lại khởi một cái nghĩ: Nếu mà đoạn trừ thì mất hết rồi còn gì? Mình phải chấp có một cái gì chớ, để không nó mất hết!

Cũng như bây giờ nói cha mẹ của mình mà bảo mình bỏ đi, thì Đức Phật dạy như vậy là mình bất hiếu sao? Mình không thương cha mẹ thì còn thương ai? Cha mẹ chết mà không khóc thì như vậy là sao?

Đức Phật muốn nói đây không có nghĩa là bỏ cha mẹ, mà đây là bỏ cái tâm nức nở, cái tâm than khóc, mà trước cái sanh tử luân hồi của mọi người thì chắc chắn ai cũng phải đi vào con đường đó hết, thì như vậy là mình không khổ.

Chớ không có nghĩa là bỏ cha mẹ, không có nghĩa là mình bỏ cho ông chết đói đi, hay hoặc là để cho ông chết đi, đâu có nghĩa như vậy! Đó là những cái tà kiến, cái kiến xứ, mình chấp sai làm cho mình khổ sở, làm cho mình khổ tâm. Còn mình hiểu đúng những cái lời của Phật dạy thì mình không có khổ và mình thấy mình hết phiền muộn.

(09:17) - Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong, không gây lo âu, phiền muộn?

- Có thể có, này các thầy Tỳ Kheo, có người không có tà kiến như sau:

Nghĩa là những cái người mà không có những cái tà kiến, cái kiến chấp, cái thiên chấp của họ, cho nên họ dễ giải thoát lắm, họ mới nhìn thấy:

“Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này mãi mãi.”

Cái người đó có những cái tà kiến như vậy, họ nghĩ như vậy. Nhưng mà khi nghe mà Như Lai và đệ tử của Như Lai nói rồi thì họ không còn dính mắc cái đó nữa, họ buông xuống.

Cũng như quý thầy yêu cầu Thầy giảng, thì Thầy lần lượt Thầy cũng sẽ giảng cho quý thầy nghe hết chớ đâu phải không giảng. Nhưng mà trên cái bước đường mà giảng giáo án nó phải đi tuần tự để chúng ta xây dựng lại một cái đường lối, không riêng gì một người nào hết mà đây là dựng lại những Phật pháp, thì công việc của quý thầy mà hôm nay ngồi nghe được là cái phước báu của quý thầy được nghe cái đường đi của đạo Phật.

Chớ không phải quý thầy muốn ngay liền, quý thầy học một cái pháp thiền nào đó để về mà tu, thì cái cái ham muốn đó là cái ham muốn sai, nó không đúng.

Quý thầy phải hiểu được cái chỗ đó. Cho nên nó đưa đến cái chỗ bất mãn của quý thầy, nó làm cho quý thầy không thoải, không toại nguyện được quý thầy.

Nhưng mà Thầy làm sao - khi Thầy là người dựng lại cái đường đi của đạo Phật cho nó đúng cách để cho người sau, không riêng gì quý thầy hiện diện có mặt ở đây, mà còn biết bao nhiêu người đang mong đợi nó.

Và cái nhiệm vụ của quý thầy là nghe, không phải là để giải thoát liền bây giờ, để nghe rồi còn phải suy tư, còn phải chín chắn, còn phải giải quyết, còn phải lo lắng như thế nào để sắp xếp một đời sống của mình như thế nào để đi được trên con đường này, thì nó là cái vấn đề quan trọng của quý thầy. Quý thầy phải hiểu.

Còn nếu mà quý thầy đòi hỏi ở trên cái quý thầy cấp thời thì tức là quý thầy không thấy được cái vấn đề, cái giai đoạn cuối cùng mà Thầy nói ra cái lời này. Nếu mà Thầy thấy rằng không có đủ duyên độ chúng sanh thì Thầy chẳng làm mất lòng ai hết, thì Thầy giảng chi cái này làm gì?

Quý thầy trong cái mùa hạ này mà có đến về với Thầy, các thầy muốn tu thiền như thế nào Thầy chỉ dạy thiền như thế nấy mà thôi, mà muốn tu hơi thở trật Thầy dạy sửa lại thôi. Rồi các thầy cũng chẳng hiểu Phật pháp ra làm sao hết, thì mặc quý thầy, rồi ba tháng hạ này quý thầy trở về chùa quý thầy hoặc về trụ xứ của quý thầy, hiểu được cái gì thì hiểu.

Bây giờ đến đây Thầy chỉ dạy về tu hơi thở thì dạy hơi thở, tu cái gì đó thì dạy cái nấy. Quý thầy trật, trúng thì Thầy sửa lại cho cái đúng thôi, rồi trong ba tháng này quý thầy tu đến đâu, mặc, Thầy không có trách nhiệm.

Còn đây, Thầy dựng lại cái giáo án này tức là Thầy có một cái trách nhiệm với quý thầy từ cái bước thấp đến bước cao, cho nên Thầy mới đem cái sức của mình ra, trong những ngày quá ngắn ngủi, mà đem hết tàn lực của mình ra để xây dựng, để cho quý thầy thấy rõ được con đường đi của Phật pháp, và để cho quý thầy có đủ cái duyên mà sau này đem cái giáo án này ra để phổ cập lợi ích cho mọi người.

(12:20) Còn riêng Thầy thì kể như từ ngày mà ra cái giáo án này thì Thầy ẩn bóng rồi, thì cái chuyện danh chuyện lợi Thầy còn làm nữa không? Thầy còn đi thuyết giảng nữa không? Thầy còn gặp ai nữa mà Thầy nói, Thầy còn độ ai nữa không? Cuộc đời Thầy sống như chết rồi, không còn gì nữa hết. Thầy đã nói rõ ràng mà, những lời này coi như là những lời di chúc.

Ngày xưa, Đức Phật di chúc cho các đệ tử của ngài lấy giới luật mà làm làm thầy, còn Thầy để lại cái giáo án này là để lại cái lời di chúc của Phật, tức là giới luật của Phật. Đó như vậy là thôi. Bổn phận của Thầy coi như là làm xong cái giáo án này là cái trách nhiệm của Thầy coi như độ chúng sanh là xong rồi, còn ai tu được, không tu được đó là phước báu của họ chớ không phải của Thầy nữa, Thầy hết nhiệm vụ.

Đó thì ở đây chúng ta phải thấy được những cái pháp mà ở bên ngoài nó làm cho tâm chúng ta đau khổ, rồi những cái pháp mà ở trong do nó làm cho chúng ta đau khổ.

Đó thì quý thầy đã nhận qua quý thầy, như những cái ý kiến của quý thầy đưa lên, nó là cái ý kiến làm cho nó không có đúng với cái giáo án của Thầy, làm cho nó gián đoạn cái giáo án mất đi.

Đó tới đây, thay vì Thầy phải dạy nó đi từng bậc, từng bậc của cái pháp của Phật, 37 phẩm trợ đạo. Trước kia Thầy đã dạy các thầy thấy rằng Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả, rồi đến Tứ Chánh Cần, đó thì bắt đầu bây giờ Tứ Bất Hoại Tịnh, rồi đây sẽ học Ngũ Căn, rồi Ngũ Lực, rồi bắt đầu mới học tuần tự tới những cái Trạch Pháp Giác Chi, rồi lần lượt mới tới Tứ Niệm Xứ, đó, rồi mới Tứ Thiền, rồi bắt đầu mới dạy Tứ Như Ý Túc, rồi mới Tam Minh.

Trong cái điều kiện đó thì bắt đầu Thầy xen vào Bát Chánh Đạo, tức là từ cái Chánh Kiến như thế nào, Chánh Tư Duy như thế nào, để lần lượt khai triển tám cái nẻo này ra trong những cái pháp tu này, thì trong khi đó Thầy sẽ xen vào bốn cái chân lý, từ cái Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Như hồi nãy, nãy giờ đây là Thầy xen cái Khổ, Tập rồi nè. Các pháp bên ngoài làm chúng ta khổ tức là Khổ chớ gì? Khổ Tập rồi chớ gì? Đó là cái chân lý.

(14:30) Cha mẹ mình chết làm sao mình không khổ? Mà bây giờ cha mẹ chết mình vẫn thấy nó là nhân quả, cho nên mình vẫn không buồn mà cũng không vui. Lo hết bổn phận của một người con đối với cha mẹ là hiếu hạnh, chớ không phải ngồi khóc than mẹ tui chết hay cha tui chết đó là cái lòng hiếu của mình đâu!

Như vậy, đạo Phật muốn cho chúng ta thoát ra khỏi cái tâm dày vò đau khổ cho chính mình, mà mình phải thấy, hiểu biết cho nó rõ ràng. Như vậy là Thầy đã dạy gì? Đã dạy Khổ Đế, phải không? Đã dạy Khổ Đế.

Rồi cái tư tưởng, cái kiến chấp của mình bằng cái này bằng cái kia mà mình không có thoả mãn được mình, mình sanh ra buồn khổ, thì cái này chính là cái chỗ mà chúng ta biết rằng đó là những cái pháp ở bên trong của mình mà mình cũng sanh ra đau khổ đó.

Cho nên đó là những cái mà Đức Phật đã nêu ra cái Khổ Đế. Cái Khổ Đế ở bên ngoài, chúng ta thấy các pháp bên ngoài làm cho chúng ta khổ. Rồi cái Khổ Đế ở bên trong ta, nó có những cái pháp làm chúng ta đau khổ.

Do cái chỗ này mà Thầy đã giảng Khổ, Tập, Diệt, Đạo, như vậy là bốn cái chân lý mà Phật đã dạy chúng ta. Rồi từng những cái mà chúng ta tu tập tám cái nẻo, thì lần lượt nó đều là diễn tả ở trên bốn cái pháp này hết, không có chỗ nào sai.

Đó, như vậy là quý thầy đã thấy được cái điều mà Thầy đã dạy. Như vậy thì quý thầy sẽ được từ nội tâm của chúng ta, không có các pháp ở trong tâm chúng ta mà làm chúng ta khổ, mà không có các pháp ở bên ngoài làm chúng ta khổ, thì tức là chúng ta ly dục ly ác pháp rồi. Quý thầy thấy rõ.

Mà ly dục ly ác pháp rồi thì chúng ta sẽ sống như Phật rồi, cho nên Tứ Bất Hoại Tịnh chúng ta sẽ thành tựu được rất dễ. Mà nếu mà chưa ly dục ly ác pháp, muốn tâm mình giống như Phật thì chắc chắn là cũng rất khó chớ không phải dễ. Nói là một lẽ mà không đơn giản được. Vì vậy mà hằng ngày chúng ta phải dùng pháp hành như thế nào để thực hiện cho được Tứ Bất Hoại Tịnh.

2- PHÁP HÀNH TÂM NIỆM PHẬT - PHẦN 2

[Phần 1 ở Giáo án 50]

(16:14) Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục học Tứ Bất Hoại Tịnh. Ở đây chúng ta học Khổ Đế rồi đó. Khổ Đế - các pháp bên ngoài làm chúng ta khổ, bây giờ các pháp ở trong làm chúng ta khổ, chúng ta thấy rất rõ.

Do chỗ mà chúng ta thân cận được những cái bậc Thánh Hiền, những cái bậc chân nhân, học các pháp của Thánh Hiền, học các pháp chân nhân, do đó các pháp bên ngoài không làm chúng ta khổ, các pháp bên trong cũng không làm chúng ta khổ, do đó chúng ta đã giống Phật, chúng ta đã y như Phật.

Vậy thì y như Phật thì như thế nào? Chúng ta đã học tới cái tâm thứ 8 rồi, bây giờ chúng ta tiếp tục học cái tâm thứ 9.

9) TÂM PHẬT KHÔNG HIỀM HẬN

(16:55) 9. Tâm Phật không hiềm hận.

Đây, quý thầy sẽ nghe:

Tâm Phật không hiềm hận. Tâm ta niệm Phật thì cũng vậy, cũng giống như Phật, không bao giờ hiềm hận.

Nghĩa là không có bao giờ mà hận thù ai hết.

Hiềm hận tức là hận thù và hiềm nghi. Hận thù và hiềm nghi là pháp ác, pháp làm cho khổ mình, khổ người.

Muốn tâm niệm Phật không còn hiềm hận ai, ta phải trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Hiềm hận là hận thù, nghi kị, là pháp ác, làm đau khổ mình, đau khổ người. Ta hãy từ bỏ, đoạn dứt, không bao giờ có tâm hiềm hận ai hết!”

Nghĩa là hằng ngày mình trạch pháp cái câu này ra, mình nhắc cái tâm của mình đừng có hiềm hận. Mặc dù bây giờ mình đâu có hiềm hận ai, nhưng mình thường từng phải nhắc nó, và mình nhắc nó thì mình sẽ không hiềm hận.

Đó thì Thầy nhắc quý thầy sẽ thấy được cái chỗ đó, mà hằng ngày mình chưa có hiềm hận ai hết nhưng mình phải nhắc cái tâm của mình.

Bởi vì nhiều khi nó tới rồi mình hiềm hận, chừng đó nó đã làm cho chúng ta khổ. Còn bây giờ nó không có, chúng ta nghĩ rằng mình không có đâu, sự thật ra mình còn tâm phàm phu mà, mỗi mỗi cái nó đều có thể xảy ra cho mình mà.

Cho nên mình muốn niệm Phật, tâm mình niệm Phật thì phải giống Phật, mà muốn giống Phật thì mình phải chuẩn bị, phải ngăn ngừa trước những cái pháp để cho tâm chúng ta đủ một cái lực, khi mà gặp cái đối tượng mà làm cho chúng ta hiềm hận thì chúng ta không hiềm hận.

Chớ không khéo chúng ta bây giờ chưa có cái đối tượng hiềm hận thì chúng ta thấy mình không có, rồi mình nói: “Tui đâu có đâu!”

10) TÂM PHẬT KHÔNG GIẢ DỐI

(18:36) 10. Tâm phật không giả dối. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, cũng giống như Phật, không giả dối, không lường gạt, không bịp bợm ai, luôn luôn thành thật, biết sao nói vậy, biết sao làm vậy.

Muốn cho tâm ta niệm Phật không giả dối, ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Giả dối, lường gạt, bịp người là một pháp cực ác, làm khổ mình vì trạo hối, làm khổ người vì bị lường gạt. Vì thế ta phải xa lìa, từ bỏ, luôn luôn ngay thẳng, chân thật!”

Đó là cái câu pháp hướng mà chúng ta hằng phải nhắc đi nhắc lại trong tâm của mình.

Nhiều khi bây giờ mình thấy mình không giả dối, nhưng mà sự thật ra nó có cái trường hợp mình không thể nào cầm giữ được cái tâm không giả dối, mà lúc bấy giờ chúng ta không thường ám thị, không thường nhắc mình thì tới chừng đó mình không thể nào mà cầm giữ nó được, kìm giữ nó được, cho nên chúng ta sẽ trở thành giả dối.

Vậy Thầy nhắc lại:

“Giả dối, lường gạt, bịp người là một pháp cực ác, làm khổ mình vì trạo hối…​”

Nghĩa là mình lường gạt người ta rồi cái lương tâm của mình nó cắn rứt, do đó mình cứ hối hận, mà:

“…​làm khổ người vì lường gạt người. Vì thế ta phải xa lìa, từ bỏ, luôn luôn ngay thẳng, chân thật.”

Cứ nhắc mình như vậy, để đến khi gặp đối tượng thì chúng ta kịp thời đối phó, kịp thời tâm chúng ta không còn giả dối nữa.

11) TÂM PHẬT KHÔNG TẬT ĐỐ

(20:10) 11. Tâm Phật không tật đố. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, giống như Phật, không tật đố ai hết.

Tật đố là lòng ganh tị, nhỏ nhen, ích kỷ, thường hay làm khổ mình.

Nghĩa là cái tâm tật đố nó đem lại cái khổ mình chớ không phải khổ ai hết.

Nếu người có tâm tật đố là người đã tự làm khổ mình, hết sức tàn nhẫn đối với mình.

Nghĩa là mình có cái tâm tật đố, mình ganh ghét người ta, mình không ưa người ta, mình thế này thế khác, thì tức là mình sẽ đem lại cái sự tàn nhẫn đối với mình, mình làm khổ mình, rất là khổ mình.

Cái tật đố là cái pháp đem đến cho cái đối tượng, cái người mà có tâm tật đố đó là cái người phải thọ lãnh cái rất là khổ. Nó không làm khổ ai hết, mà mình ngầm ngầm mình ganh tị với người khác thì tự mình mình đã làm khổ lấy mình.

Cho nên tâm Phật không bao giờ mà tật đố. Đối với Đề Bà Đạt Đa thì Ngài nói như vậy thôi chớ Ngài cũng không ghét gì Đề Bà Đạt Đa, không tật đố Đề Bà Đạt Đa.

Nhưng đối với Đề Bà Đạt Đa thì luôn luôn tật đố với Đức Phật, cho nên tìm mọi cách lợi dụng nhà vua tin yêu mình bằng cách này bằng cách khác để hại Phật. Đó là cái tâm tật đố làm cho Đề Bà Đạt Đa rất là khổ. Còn riêng Đức Phật thì tự tại để vui vẻ mà trả những cái nghiệp đó mà thôi.

Muốn cho tâm niệm Phật giống như Phật, không có tật đố, ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng để nhắc nhở tâm mình, hằng ngày Như Lý Tác Ý:

“Tật đố là lòng ganh tị, ích kỷ, nhỏ mọn, xấu xa, đê tiện, khiến cho tâm ta đau khổ, phiền não. Ta phải dứt trừ, từ bỏ tật đố đối với bất cứ một ai để cứu mình ra khỏi biển khổ của tâm tật đố xấu xa, đê tiện, hèn hạ! Từ đây phải dứt bỏ đi!”

Nghĩa là cuối cùng thì chúng ta nhấn rất mạnh những cái điều này để không, thấy người ta hơn mình chút là mình cũng đã tật đố với người ta rồi, đó là những cái xấu.

Do đó vì vậy mà chúng ta hãy hãy cố gắng mà tu tập cái này, để ai tu tốt hơn mình thì mình mừng, mình hoan hỷ theo cái người tu tốt, chớ mình không có thấy mình ganh ghét.

12)TÂM PHẬT KHÔNG XAN LẪN

(22:17) 12. Tâm Phật không xan lẫn. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, cũng giống như Phật không xan lẫn. Xan lẫn là một tánh tham lam, gian xảo cực ác, đã lường gạt biết bao nhiêu người, đã làm khổ biết bao nhiêu người.

Muốn cho tâm ta không xan lẫn thì ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để đoạn dứt tâm xan lẫn, tệ hại, xấu xa, hèn hạ đó:

“Xan lẫn là tâm tham lam, gian xảo, đê tiện, hèn hạ, làm khổ người, tàn nhẫn, nhất là đệ tử của Phật ta phải nỗ lực dứt bỏ, từ khước, xa lìa, ném bỏ như chiếc giẻ rách!”

Nghĩa là mình ném bỏ nó như một chiếc giẻ rách vậy. Mình phải thấy rằng cái tâm xan lẫn là cái tâm quá tệ, cho nên chúng ta cứ nhắc nhở hằng ngày, mình ném quăng nó như là ném quăng một chiếc giẻ rách vậy.

13) TÂM PHẬT KHÔNG PHẢN BỘI

(23:12) 13. Tâm Phật không phản bội. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không phản bội.

Phản bội là một pháp môn rất ác, phản bội làm hại biết bao nhiêu người đau khổ. Phản bội là tánh hèn nhát, ích kỷ, nhỏ mọn, chỉ nghĩ đến cá nhân mình. Phản bội để mưu cầu sự sống cá nhân, phản bội để mưu cầu lợi danh của mình. Phản bội là những kẻ bán dân bán nước. Phản bội là những người bán tôn giáo, biến tôn giáo thành nghề sống của mình.

Phản bội biến Phật giáo thành thần giáo làm mọi người lạc hậu mê tín. Phản bội Phật giáo là những kẻ phá giới luật của đạo Phật, ngang nhiên giữa ban ngày ăn uống phi thời, ăn thịt chúng sanh, sống theo dục lạc thường tình thế gian, đó là những kẻ phản bội Phật giáo.

Phật giáo chỉ sống ba y một bát, ăn xin, còn những kẻ phè phỡn trên nhung lụa, gấm vóc, hưởng dục lạc thế gian là những kẻ phản bội lại Phật giáo, bán đứng Phật giáo cho ma vương.

Họ lường gạt Phật tử bằng mọi hình thức để móc tiền Phật tử, lợi dưỡng cá nhân của mình. Họ lợi dụng những danh từ “từ thiện” bằng cách này, bằng cách khác. Họ giống như những tay địa chủ giàu có trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Họ ăn trên ngồi trước trên danh và lợi của mọi người mà pháp luật không bắt tội họ được.

Họ là những kẻ phản bội Phật giáo, làm ngược lại đời sống của Đức Phật, làm ngược lại đạo giải thoát của Đức Phật. Họ phản bội lại giáo lý của đạo Phật, họ làm giáo lý của đạo Phật đảo lộn, khiến cho mọi người mờ mịt, mê man, không biết đâu là chánh pháp của Phật, đâu là tà pháp của ngoại đạo.

(25:17) Phật giáo ngày nay mà ra nông nỗi này là do một số đệ tử Phật đã phản bội lại Phật giáo. Nhưng chúng ta không thể kết án họ, vì họ là những người u mê, không biết, chỉ đi theo gót của người xưa, liếm gót của người xưa, nhai lại đờm dãi của người xưa. Họ chỉ nghĩ rằng: Người xưa, xưa bày thì nay làm hoặc là “tổ tổ truyền nhau”.

Họ chỉ lấy những cái lời như vậy để cho họ làm theo những cái gì mà nó phản lại Phật giáo, phản bội lại Phật giáo.

Họ cho rằng xưa bày nay làm mà, tui chẳng biết gì hết, hồi nào các thầy các tổ làm sao bây giờ dạy tui, tui làm vậy, tui không có làm khác các thầy, các tổ được. Phật giáo bây giờ nó vậy là tui làm vậy à, chớ tui không làm sai. Tổ tổ truyền nhau như thế nào thì bây giờ tui cứ theo tổ tổ tui tu tập, tui làm như vậy, tổ có vợ con thì tui cũng có vợ con. Mấy người nói gì nói, tui chẳng có nghe theo. Đó, những cái đó gọi là phản bội lại Phật giáo.

Bởi vì mình phải nhìn cái gương hạnh của Phật và chúng đệ tử của Phật ngày xưa và nhìn lại các tổ của mình thì mình thấy nó có xa quá xa. Do đó chúng ta không nên trách cứ những người này mà chúng ta nghĩ đến những người sai lạc xưa kia để bây giờ chúng ta đang sai lạc, rồi bây giờ chúng ta cố chấp cái kiến chấp đó mà chúng ta không chịu buông ra mà cứ sống mãi như vậy gọi là phản bội lại Phật giáo.

Không phải họ là những người không hiểu Phật pháp, vì giáo pháp của Đức Phật còn để lại rõ ràng, nhưng họ vì ngũ dục lạc thế gian mà làm mờ mắt họ.

Nghĩa là bây giờ, các thầy biết rõ họ biết giới luật của Phật không ăn uống phi thời nè, không cất giữ tiền bạc nè, không xây chùa to tháp lớn nè, mà họ cứ mãi họ làm thì không phải là họ không biết Phật pháp!

Giáo lý giới luật của Phật rất rõ ràng, cụ thể như vậy, hằng ngày chúng ta có những cái tạng kinh như tạng kinh Việt Nam bây giờ đã in ra như vậy thì chúng ta đã thấy rất rõ rồi, từ cái tạng kinh A Hàm, bốn cái bộ kinh A Hàm, và đến cái tạng kinh Nikaya đều là quá rõ ràng, không còn cái chỗ nào là sai nữa hết.

Thế mà họ vẫn ngang nhiên họ sống ở trong cái dục lạc, rồi họ chỉ nói tổ tổ truyền nhau, hay xưa bày nay làm thôi, chớ còn họ chẳng biết cái kinh điển này. Cho nên họ phi đi những cái giáo lý chân thật của Phật đi, họ chẳng còn biết, mà họ ở trên cái dục lạc đó mờ mắt họ cho nên họ chẳng còn biết cái gì hết. Đó như vậy, họ chỉ nghĩ rằng cái đời sống của họ phè phỡn là sung sướng ở trên dục lạc mà thôi.

(27:51) Hôm nay thì chúng ta thấy rất rõ những cái điều này, vì thế đó là những người phản bội lại Phật giáo.

Đâu phải là…​ kinh sách của Phật không có thì chúng ta cũng cho họ rằng không hiểu, còn đằng này kinh sách của Phật có, mà thậm chí Thầy nói những người dạy kinh sách Phật đó cho những người khác, cho những người hậu sinh này nghe những cái giáo lý đó mà họ vẫn sống không có đúng những cái lời Phật dạy đó, thì như vậy là họ như thế nào?

Đâu phải họ không hiểu! Họ hiểu mà họ cố phạm chớ không phải là không hiểu. Họ hiểu mà họ phản bội lại Phật giáo chớ không phải là họ không hiểu.

Dục lạc thế gian làm mờ mắt họ, làm tối đen đầu óc của họ. Họ mượn chiếc áo tu và chiếc đầu của tu sĩ để sống trong lợi dưỡng, danh lợi của thế gian, và còn được mọi người kính phục, lạy lễ nữa, chẳng khác nào như vua chúa. Họ làm những đại vương, tiểu vương, đâu đâu chúng ta cũng gặp, ông nào cũng ở trong cung vàng, điện ngọc

Tức là chùa to, tháp lớn đó.

Họ tu hành chẳng ra gì, giới luật chẳng nghiêm túc gì, mà chùa cất lên thì hằng hằng tỷ bạc. Họ tu hành chẳng ra gì, giới luật không có gì, không có giới nào mà họ không phạm, thế mà khi họ chết nằm xuống, xây tháp vĩ đại, đồ sộ như lăng nhà vua. Tiền của ở đâu mà họ xây dựng đồ sộ như vậy? Cả mồ hôi nước mắt của bao nhiêu tín đồ Phật giáo.

Một ngôi chùa vĩ đại người ta ca ngợi là kim cổ kỳ quan thế giới là một thời đại đau khổ nhất của dân tộc đó. Nhà vua Phật giáo độc tài này bắt dân chúng sưu cao thuế nặng để làm công trình vĩ đại này. Biết bao nhiêu xương máu của người dân nước này đã tô đắp lên những kỳ quan, những bức tường vĩ đại.

Để đi ngược lại thời gian, ta sẽ nghe tiếng ca thán tận trời xanh lúc bấy giờ. Là người dân hiền lành, làm sao kêu gọi thấu trời?

(30:07) Nghĩa là bây giờ chúng ta ai mà có đến thăm cái chùa vàng, chùa bạc, cái đền Angkor mà ở trên đất nước Campuchia chưa? Chúng ta thấy cái công trình vĩ đại mà người ta gọi là kỳ quan thế giới đó, thì lúc bấy giờ dân tộc đó họ sẽ như thế nào?

Sưu cao thuế nặng, họ phải chết, họ phải bỏ thân xác họ để mà xây dựng cái ngôi chùa đó trong một cái thời đại, trong 5 năm, 10 năm, hai chục năm để hoàn thành một cái chùa mà đẹp đẽ. Cái gì mà vĩ đại mà gọi là kỳ quan thế giới thì chúng ta biết rằng cái khổ đau của bao nhiêu người ở trong cái đất nước đó.

Họ đâu có bắt dân Việt Nam mình qua đắp cái cái chùa đó được, họ phải bắt dân họ chớ! Họ phải bắt họ phải nộp vàng, nộp bạc, rồi tiền, rồi thuế, rồi này kia, rồi phải còn đi dân công, phải đập đá, phải đào đá mới xây lên được chớ, bao nhiêu người mới bật lên một cục đá lớn vĩ đại như vậy mới xây được cái đền đó chớ!

Nếu ai có đến thăm mới thấy được những cái công trình mà của những người dân ở lúc đó bấy giờ. Cái nhà vua độc tài đó họ ra lệnh, nếu người nào mà không làm thì họ giết, họ bắt bỏ tù. Ai cũng sợ chết hết, thành ra phải đem xương đem máu mà xây dựng lên một cái ngôi chùa vĩ đại.

Thì đạo Phật như vậy, cái giáo lý của Đức Phật như vậy, làm sao mà nhìn những cái điều kiện đó được!

Còn bây giờ chúng ta nhìn cái chùa mà có hàng tỷ bạc cất lên đẹp đẽ vô cùng, thì chúng ta nhìn biết bao nhiêu là cái mồ hôi nước mắt của người ta mà góp lại để mà xây dựng đó không? Biết bao nhiêu sự đau khổ đó không? Một người mà tu chân chánh người ta không thể nào mà người ta ngồi đó mà người ta ngó được cái sự…​

Vậy mà có người nói: Ông thầy này ổng ngon thiệt chớ, ổng có uy tín ổng mới cất nổi chớ, còn nếu mà cái hạng thường thường làm sao cất cho nổi, chỉ cất tầm vông trúc tre thôi chớ làm gì mà cất được!

Đó là họ sẽ nghĩ, so sánh được mà. Cái người giàu có mới cất được cái nhà tường chớ, còn cái người nghèo thì cất nhà tranh chớ làm sao mà cất được nhà tường! Họ so sánh cái kiểu đó. Nhưng một người tu sĩ Phật giáo của chúng ta thì không thể nào mà so sánh kiểu đó được.

Đó thì chúng ta nhìn thấy cái đồ sộ vĩ đại đó là cái đau khổ. Mà lúc bấy giờ thời điểm đó, chúng ta đi ngược lại cái thời gian thì chúng ta nghe những cái lời mà của những người dân hiền lành đó họ kêu trời. Họ làm sao họ sống được ở trong cái lúc bấy giờ được, cho nên tiếng kêu gọi họ làm sao thấu trời được! Vậy mà cái ngôi chùa đó gọi là thờ Phật thì Thầy chẳng biết làm sao!

Cho nên Phật pháp nó suy đồi, nó suy đồi khi mà thấy những ngôi chùa vĩ đại mọc lên càng nhiều thì nó suy đồi. Nó suy đồi là như thế nào? Là không có những bậc chân tu, là không có những người giới hạnh nghiêm túc. Nó phản ảnh được cái sự tu hành và cái sự không tu hành rất rõ ràng qua cái hình ảnh.

Các ông đem những giáo lý vụn vặt gạt người: Cúng dường, xây chùa tháp, tô đắp tượng vàng là được phước báo vô lượng. Lời nói này đã lường gạt biết bao nhiêu người, vì tâm tham lam, ham muốn được nhiều phước báo của mọi người nên họ đâu tiếc rẻ tiền bạc cúng dường…​

(33:09) Như vậy thì thầy thấy nè, người ta lường gạt họ bằng những cái danh từ rất là bịp bợm: Bây giờ các cư sĩ, mọi người đều đóng góp để xây chùa tháp, đúc tượng vàng hay chuông đồng này kia thì được phước báo vô lượng. Đời nay thì nó không được chớ đời sau sanh lên thì làm vua chúa hoặc là giàu sang, đầy đủ.

Cố gắng đi, bỏ hết đi! Bây giờ mình bỏ cúng dường đi, mình xây được cái chùa thì sau này coi như là cái phước báo đó của quý vị hưởng hết. Quý vị hãy ráng cố gắng đi!

Cái lời nói đó làm cho người ta…​ Cái tâm tham của người ta mà, người ta muốn được phước báo mà, bây giờ mình bỏ một một đồng à, mà ngày mai mình làm vua mình có trăm triệu đồng, không phải sướng sao? Không phải là…​ Nghe cái phước báo là ai không tham!

Mà bây giờ nói chung là mọi người, người nào cũng có tâm tham hết à, mà nghe cái chuyện đó là ai không ham! Cho nên đó là cái lường bịp, cái lời mà lường bịp người ta, để rồi người ta bỏ công bỏ sức ra.

Cũng như bây giờ mấy người không có tiền, mấy người vô đẩy đất đi, đắp nền đi, hoặc là lăn đá đi, phụ đi, cái công đức này nữa sau đó thì mình sẽ sanh lên những cái nhà giàu sang, hay phước báo, hay này kia nọ, đầy đủ, không có thiếu đâu.

Trời ơi, cái ổng nai lưng ổng làm công quả thiếu điều tới chừng ổng bệnh đau không ai mà cho ông thang thuốc hết. Bởi vì ổng đẩy đá quá nặng, một hôm ổng ráng ổng đẩy để ổng làm công quả cho được trời Phật, cho được chùa phù hộ ổng, cho nên cuối cùng ổng đẩy cục đá nặng quá, ẹo xương sống, ổng về ổng nằm cả tháng ở bệnh viện. Trời đất ơi! Đau đó ai chịu?

Có phải là ổng vì tham để mình bỏ cái công ra mình làm để cho được cái phước báo lớn, vì mình cất chùa mà, mình đem cái công lao ra mình làm công quả mà, cho nên nó được cái phước báo, vì vậy mà ông ta cứ nghĩ phước báo, không ngờ cụp xương sống ông ta, quá trời, ông ta nằm liệt giường mấy tháng trời!

Mà rồi về đó thì nhà cửa không có tiền bạc thang thuốc gì, vợ con nghèo, nheo nhóc gần chết. Không thấy ông thầy chùa mà ổng cho đồng bạc nữa. Không thấy ông chùa đó, ông cất cái chùa giàu chớ chưa chắc là cái ông đẩy đá đó mà được hưởng cái gì.

Cho nên Thầy nhớ hồi ở trên Chơn Không, quý thầy cũng…​ Trong khi ở trên đó thì đâu có phải ngồi tu không đâu, nó cũng phải có những lao động chớ! Lao động như thế nào? Đâu có phải lao động mà làm ra cơm gạo ăn, thì bây giờ phải lao động cất những cái thất.

Mà đất trên núi thì các thầy cứ nghĩ rằng nó xuôi xuôi vầy, làm sao mà làm cái nền được? Ôi thôi quý thầy phải xeo đá.

Mà đất đá thì nó có cục đá lớn cục đá nhỏ như thế này, lớn quá thì phải kêu mấy ông thợ đá chẻ ra nhỏ, rồi mấy ông mới xúm nhau mà cây mà nạy, nạy cho nó lăn xuống dưới cái bìa triền thấp đó, rồi ở trên này mới đất đùa xuống, cứ đùa xuống cho làm được cái nền, rồi cái nền mới xây được cái thất hay hoặc là xây thêm được cái chùa hay gì đó, cứ làm ra, làm ra.

Mà đất trên núi các thầy cứ nghĩ, làm cho được bằng diện tích như cái trai đường của mình là công lao không phải chuyện dễ đâu.

Cho nên có ông đẩy ráng đẩy, làm công quả cho dữ tợn để đẩy cho dữ, cho nên có ông cụp xương sống, hết làm, nằm đó thôi. Vì rung rinh là cái xương sống đau quá, chịu không nổi rồi. Bởi vì ráng đẩy quá nặng, thấy đá mà, các thầy cứ nghĩ đá là không có bao giờ nó nhẹ đâu, mà ráng đẩy làm cho được thì cuối cùng được cái này thì mình thọ lấy cái bệnh.

Cho nên ông thầy này chẳng còn ngồi thiền ngồi gì hết, cuối cùng thì hễ sau này khi mà hơi làm gì nặng - nó bớt vậy chớ mà hễ làm nặng cái nó ẹo xương sống lại, cho nên cuối cùng thì ông mang cái tật luôn. Mà sao Thầy không thấy là ông Phật hay là chùa phù hộ ổng chút nào hết không biết, để ông khổ cái đời ổng quá trời vậy Thầy không biết!

(36:38) Có phải là vì cái công quả để được phước báu hay là vì công quả đó để thọ lấy cái quả khổ? Nhưng trước mặt Thầy đã thấy cái quả khổ cho ông ta.

Còn sau này không biết cái quả đó nó có được hay không, hay là như hạt giống mà bỏ trên đường đất mà không đúng cách, cho nên cái hạt giống đó nó sẽ không còn nảy hoa quả để đem lại cái lợi ích cho cái người hưởng?

Cho nên chúng ta phải sáng suốt, phải trí tuệ, làm một cái việc gì nó phải đúng cái giáo lý của Đức Phật, cái lời dạy của Đức Phật, phải ở trong thiện pháp chớ không được để cho người ta lường gạt mình.

Những lời này thì quý Phật tử phải suy nghĩ, quý thầy phải suy ngẫm. Chúng ta là những con người, không nên lường gạt người khác mà phải làm đúng, nếu chúng ta không tu thì thôi, mà đã tu thì quyết tu cho đúng để mà chúng ta xin một hạt cơm của người khác, xứng đáng để mà thọ dụng hạt cơm người khác.

Còn tu không đúng thì cái hạt cơm người khác nó là cái nợ cho chúng ta nhiều đời nhiều kiếp mà phải trả, chớ không phải nói rằng chúng ta ngồi không đây mà chúng ta làm chùa, cất chùa hay hoặc là ngồi thiền sơ sơ đây là nó hết nợ đâu.

Quý vị chưa chấm dứt được sanh tử luân hồi thì cái nợ này nó còn mãi mãi trong đời của quý vị, chớ quý vị đừng nghĩ rằng ăn rồi nuốt rồi qua khỏi cổ là tiêu rồi đâu, nó không có đâu. Cái mồ hôi nước mắt, cái nhân quả của người ta thì nó không bao giờ tiêu tan được đâu, dù là một hột cơm.

Quý vị mà đem cái cái sức mồ hôi của mình mà nuôi mình thì nó không nợ ai. Còn nếu quý vị mà không đem cái mồ hôi nước mắt của mình nuôi mình mà nhờ cái hột cơm của kẻ khác, thì coi chừng mà giải thoát không được thì nó sẽ đời đời kiếp kiếp của quý vị không thể thoát được đâu. Bây giờ chúng ta ngồi không ăn đó, nhưng mà chúng ta không khéo đi đến nơi cuối cùng giải thoát, chấm dứt được luân hồi thì chắc chắn là quý thầy sẽ tiêu.

Nhớ kỹ như vậy mà đừng có tưởng rằng sung sướng đâu. Giới luật của Phật, nhân quả của Phật nó còn ràng ràng để chỉ cho chúng ta biết cái đường nhân quả, biết cái nợ vay của chúng ta nó dứt hay là không dứt.

Đó là Thầy muốn nói vì cái tâm tham lam của Phật tử, của những người khác mà mê muội mới nghe cái lời lường gạt này.

…​lại còn kêu gọi những người khác nữa.

Nghĩa là cái người Phật tử đó đó, họ đã nghe cái lời lường gạt đó, họ tưởng đó là cái phước của họ rồi, họ cũng bỏ tiền ra, rồi họ lại nghe ông thầy biểu: Bây giờ Phật tử có quen với ai, cứ kêu gọi họ đi, người đóng góp nữa, mọi người đóng góp vô nhiều càng tốt để cho chùa mình cất được tốt thì công lao của quý vị, nhất là cái công của cô hay của thầy, của cư sĩ lớn lắm đó, nữa sau đó phước dữ lắm, chư Phật gia hộ cho quý vị lớn lắm!

Cho nên hầu hết là quý thầy thấy, có một người cư sĩ khéo miệng lường gạt người ta thôi mà bao nhiêu người khác đóng góp vô, có không? Thầy nói thật sự, một cái người mà khéo miệng khéo mồm, họ đi rỉ tai người này người kia một hơi thì 5, 7 chục người, 5, 7 chục gia đình họ đóng góp lại, một người một cắc cắc thấy cũng nhiều rồi.

Mà có một cái người khéo léo thôi, mà cái người đó là con chim mồi của quý thầy đó. Chớ đâu phải là người nào họ cũng đem đến họ cúng mình đâu, có người đi quyến rũ họ đó, chớ không phải không đâu. Họ khéo lắm chớ không phải là không có đâu.

(39:53) Mà ông thầy ổng chỉ nuôi dưỡng chừng 5, 7 người mà có cái tài móc nối khéo léo như vậy đó thì cái chùa ổng cất rất dễ. Khéo léo thậm chí như ở Việt Nam đây nè, mà có người Phật tử của họ ở đây mà móc được cái người Phật tử ở ngoại quốc, nói với bà ta bên đó: “Bà có uy tín bên đó, bà nói với Phật tử bên đó đóng góp đi, cất cái chùa cho tốt đi, bà được cái phước báo lớn nhất, còn mấy người kia thì họ nhỏ hơn!”

Do đó cái ông này, cái bà này bả nghe như vậy là mình ra công chớ có gì đâu, mình chỉ ra công mà cái phước mình ngon thôi, mai mốt đây rồi con của mình làm chủ tịch, vì mình làm cái này con mình sẽ lên làm chủ tịch được rồi! Cho nên bà nỗ lực bà đi làm những cái công chuyện này. Nhưng cuối cùng thì đó là cách mánh khoé gạt người ta.

Ông Phật ổng đâu có cho cất chùa, như các thầy thấy, khi một vị Tỳ Kheo mà cái thất bằng cây lá bị người ta rút đi rồi, cái vị này mới nói: “Cây lá thì họ rút chớ còn mình đắp gạch lên, mình làm cái thất mình ở thì chắc chắn là không ai rút nữa rồi.” Nhưng mà đắp lên, xây được cái thất của mình bằng gạch, bằng đất rồi thì Đức Phật sai các vị Tỳ Kheo đập bỏ hết.

Đó, ngay cả những cái câu chuyện ở trong cái thời Đức Phật như vậy là chứng minh rõ ràng Đức Phật đâu có cho chúng ta sống ở trong cái nhà bằng gạch chắc chắn đâu! Chúng ta chỉ sống tạm bợ, bữa nay ở đây, mai đi chỗ khác, có gì mà phải xây cất kiên cố như vậy?

Đó là những cái…​ Vì vậy mà Thầy nghĩ rằng ngày nay mà chúng ta trở lại đất Phật, chúng ta thấy còn những cái khu rừng hoang vu không có gì hết, mà vì vua chúa muốn giữ lại cái di tích lịch sử đó mới xây cất cái chỗ này chỗ kia để làm lại cái di tích của Phật, chớ ngày mà ngày Đức Phật còn ở tại đó, chắc chắn là toàn là thứ chòi tre vách lá, chớ không bao giờ mà có một cái nhà bằng gạch bằng ngói gì hết.

Thậm chí như nhà vua mà đi cất cho những vị tăng Tỳ Kheo đó toàn là chòi lá không, không phải là ý kiến của ông Phật sao? Chớ không lẽ tui vua chúa mà tui cất cho quý vị như vậy sao? Đó, các con hiểu điều đó. Cho nên hầu hết là trong cái thời Đức Phật đều là - Thầy nghĩ rằng chòi tranh vách lá, do đó nó không dính mắc các đệ tử của Phật.

Ở đây chúng ta muốn nói, vấn đề là cái chỗ mà phản bội, mà cái tâm phản bội là cái tâm rất xấu, một người mà phản dân phản nước, tức là phản bội lại dân nước. Trong cái thời chiến tranh chúng ta thấy cũng có người bán dân bán nước chớ đâu phải, vì cái cá nhân, vì cái lợi dưỡng của họ. Còn những người bắt buộc thì chúng ta không nói, vì cái hoàn cảnh của họ bị bắt buộc.

(42:15) Đó là một cái điều kiện mà chúng ta thấy, là một cái người tu, nhiều khi chúng ta phản bội lại Phật giáo.

Những người Phật tử làm mối lái kêu gọi các Phật tử khác cúng dường bằng cách này bằng cách khác. Riêng đời sống của họ càng ngày càng không thấy phước ở đâu…​

Càng ngày thì càng không thấy phước ở đâu.

…​mà thấy những tai hoạ xảy đến cho những người này, mà không thể lường được những tai họa đó.

Thầy có biết được một cái người Phật tử đó, Thầy không nêu cái tên họ ra đây, nhưng mà Thầy biết rằng cái người Phật tử đó họ thường hay kêu gọi Phật tử chỗ này chỗ kia để đóng góp, để mà xây chùa, hoặc làm cái này kia, gọi là Phật sự đó.

Cái người Phật tử này cũng lanh lợi lắm, cũng mồm mép lắm, kêu gọi người này người kia, làm cho người nào mà nghe bà ta nói thì cũng rất là thích thú để mà cúng dường hết, chớ không có người nào mà từ chối cúng dường hết.

Do đó mà cuối cùng thì Thầy đã quan sát được cái gia đình của cái người mà làm công việc ích lợi. Bà ta chẳng có ăn có uống gì ở trong cái đồng xu đồng điếu nào ở trong cái sự mà kêu gọi cúng dường hết, chỉ làm xong rồi kêu gọi được bao nhiêu tiền là giao cho ông thầy hết, chớ không bao giờ mà bà có cất một đồng riêng gì hết.

Nhưng cuối cùng thì Thầy thấy, con bà hết đứa này đau tới đứa kia đau, hết đứa nọ, rồi gia đình xảy ra chuyện này, gia đình xảy ra chuyện khác, cuối cùng thì tới bà, bà cũng là đau muốn chết bà luôn luôn.

Mà bà làm phước, tại sao mà…​ Phước cho chùa, xây cất chùa tốt, tháp đồ này kia đẹp mà sao bà lại thọ lấy cái khổ quá như vậy? Rồi cuối cùng còn lại những đứa con khác thì đứa nó như thế này, đứa như thế khác, nó không có đúng là những cái con người tốt ở trong cái xã hội hết.

Đó là những cái mà Thầy thấy trước mặt của Thầy, thậm chí như Thầy thấy thiệt là ngao ngán. Tại sao người ta làm những chuyện phước mà quý thầy nói là phước báo lớn, thế mà người ta cố gắng người ta làm giúp cho quý thầy, mà cái phước đó sao không đến cho người ta mà đến cái tai hoạ cho người ta? Hay là những cái tai hoạ ở đời nào mà bây giờ họ lại chịu?

Điều này là một cái điều suy luận để mà biện hộ. Họ làm được những cái điều mà hiện lợi ích cho Phật pháp như vậy, gọi là phước, lợi ích rất lớn như vậy, họ chuyển tất cả những nhân quả của họ được, tại sao họ chuyển không nổi?

Tức là những cái việc làm họ chưa phải là lợi ích lớn, chưa phải là đúng cái lợi ích. Cho nên do đó họ phải chịu lấy những cái hậu quả của họ đã làm.

Vì đó là cái hậu quả của sự lường bịp người khác, mà họ là những cái người bị lường bịp của người khác nữa, chính do đó họ đã kêu gọi những người khác lường bịp những người khác bằng những cái lời nói mà của các ông thầy đó đã nói cho họ như vậy. Cho nên cuối cùng thì họ phải chịu lấy những cái hậu quả cho cá nhân họ rất là nhiều.

Còn những người khác thì người ta không kêu gọi ai hết, chỉ đến kêu gọi người ta đóng 5 ngàn, 10 ngàn, 100, 200 ngàn rồi thôi, người ta không cần kêu ai thì người ta ít có tội hơn. Còn bà này bả đóng 100, 200 ngàn rồi để lo mà cất chùa rồi, bả còn kêu thêm những người khác phụ vô cất chùa nữa, kêu từ mười người, hai chục người, trăm người, ngàn người, kêu đóng góp vô.

(45:23) Cũng thí dụ như bây giờ ở trên một cái chuyến xe mà đi trẩy hội ở Chùa Bà, khi về đây thì mọi người người ta đâu có chuẩn bị là người ta cúng dường cho chùa mình đâu. Nhưng có cái bà hay hoặc ông cư sĩ nào đó bắt đầu đến đây, thì cái thoả mãn của ông ta là muốn đến đây được nghe Thầy thuyết pháp, ông ta xin, chớ mấy người kia họ chỉ đi chơi thôi chớ họ đâu có nghĩ điều đó đâu, do đó ông xin Thầy thuyết pháp.

Đây Thầy nói đây là cái sự thật mà, sau đó thì được Thầy chấp nhận, Thầy thuyết pháp qua cái điều kiện ông ta hỏi. Hỏi như thế nào đó, Thầy thuyết pháp ông ta nghe nó nuốt lý quá, hay quá.

Cho nên bây giờ một mình ông thì có 5 ngàn bạc làm sao cúng coi được, cho nên cái bắt đầu ông ra ngoài ổng rỉ: “Bà con mình đến đây, cái chùa người ta vậy vậy đó, bây giờ nhìn chùa người ta bằng tầm vông trúc tre không, mấy chùa kia giàu, thôi mấy bà bỏ khá khá đi, cúng dường coi cho nó được!”

Lợi dụng cái chỗ tầm vông trúc tre Thầy chỉ để cho người ta bỏ tiền nhiều hơn. Phải không? Do đó người bỏ ra 5 ngàn, 10 ngàn, 20 ngàn, mà trên cái xe đò đó khoảng độ chừng sáu chục người hay trăm người đi thì bắt đầu bây giờ thành một cái số tiền quá nhiều, phải không?

Cho nên do đó có nhiều người họ động lòng, họ thấy cái chùa bằng tầm vông trúc tre này, ông thầy nghèo quá, nhìn cái thất ông thầy ổng nghèo quá, thôi bà ta còn bao nhiêu tiền: “Thôi bây giờ mình đi về rồi, chớ mình đâu còn đi chơi nữa, bao nhiêu tui dốc hết tui cúng dường cho ông thầy.”

Bởi vì cúng dường được vậy là được phước, cho nên họ cứ nghĩ rằng như vậy được phước, cho nên họ dốc hết họ đi về. Trời ơi về tới chồng hỏi: “Bà đi bà mang tiền hết đi, giờ còn đồng nào không?” Nói: “Tui cúng dường hết rồi”, trời ơi ông chồng nói: “Trời ơi! Ngày mai không có cơm ăn, bà mang kiểu đó chắc chết cả đám!”

Đó, đó là những cái khổ mà mình không thấy. Mà hồi đó cái ông kia tha thiết nói nghe cũng có lý, thôi mình bỏ hết. Nhưng mà sự thật ra mình không thấy được cái khổ của cái gia đình của mình.

Thầy nói những cái ví dụ đó, vì cái lòng đó, nhưng nếu nơi đó mà chuyên tu đúng cách thì nó cũng được phước báo, mà nơi đó giới hạnh không nghiêm túc mà mình cũng bị người ta gọi mình cúng dường như vậy thì nó chẳng phước báo gì cho mình mà đem đến sự đau khổ cho chính mình.

Phản bội là một pháp rất ác, nhất là những người tu theo đạo Phật mà phản bội lại Phật giáo, phá kinh sách Phật, thêm thắt đủ điều, viết bậy bạ, không đúng giáo pháp của Phật.

Đó như các thầy thấy họ viết giới bổn không? Họ thêm cái này thêm cái kia, như vậy làm sao mà đúng được cái giới bổn!

Sống phá giới luật, viết dịch sai lệch, hoặc thêm, hoặc bớt không đúng giới luật của Phật, để lại cho đời sau không biết đâu là chánh pháp của Phật, đâu là tà pháp của ngoại đạo.

Đó thì quý thầy thấy bây giờ kinh sách mình đọc, mình chẳng biết cái đâu hết à. Nhiều khi lại cấm không có cho chúng ta chỉ, phê bình người tu sĩ sai, đúng về phạm giới nữa, cấm người nào nói đọa địa ngục, làm cho chúng ta thấy biết mà ngao ngán quá không dám nói. Nói ra mình đọa địa ngục á! Cho nên ai cũng không dám nói hết.

(48:15) Vì vậy mà các ông thầy lừng, lừng cho đến khi mấy ổng lái xe chạy, cảnh sát thổi, tui hết quét quét không muốn dừng nữa. Đó là quý thầy thấy không? Đến cái mức độ như vậy đó. Cảnh sát cũng lắc đầu, nó cũng sợ luôn mấy ông thầy.

Làm cho đời sau bỏ đời tu hành mà không đi tới đâu được…​

Nghĩa là người ta vào tu là người ta - ai mới bước chân vào tu người ta cũng quyết đi tìm con đường giải thoát hết. Nhưng mà lần lượt, lần lượt rồi cái đời của người ta nó biến thành một cái đời sống hình thức của đạo, mà cái đời sống lại là đời sống của thế gian. Người mà biết suy ngẫm một chút người ta đau khổ lắm.

Nghĩa là quý thầy hôm nay mặc chiếc áo đạo như Thầy, đầu tròn như thế này, quý thầy xấu hổ lắm. Chúng ta nếu mà biết được, chúng ta thấy đau lòng lắm, mà xấu hổ lắm.

Làm sao cho mình được giải thoát, làm sao cho mình đã đi tu rồi không thể đi tìm cuộc sống một cách hèn hạ ở trong chiếc áo tôn giáo đâu, không thể nào ăn bòn ăn rút của người Phật tử đâu.

Chúng ta có sức khỏe, có nghề nghiệp, có những cái việc làm, chúng ta có tiền chớ đâu phải chúng ta là những người mà không làm ra tiền sao? Thế mà chúng ta ngồi đó mà bòn rút từng đồng từng cắc của Phật tử, nhất là bòn rút của phái nữ.

Mấy ông cư sĩ chớ khó ăn của mấy ổng lắm á, chớ còn mấy bà đó, nói ngọt ngọt hay nói cái gì mê tín là mấy bà mê lắm, bỏ tiền ra hết của. Cho nên hầu hết là đi chùa, hầu hết là Thầy nói thật sự, nhìn chung đi, cư sĩ nam ít lắm mà cư sĩ nữ đầy hết à.

Đó Thầy nói, mấy bà nói: “Mấy ông không đi thôi, để tui đi cho!” Mấy bà giành mấy ông đi hết. Cho nên mấy ông mà đi thì ít có khi cúng dường mấy ông thầy lắm, mà mấy bà đi thì bao nhiêu cũng tuôn ra hết. Đó cho nên vì vậy mà chùa phần nhiều chúng ta thấy là Phật tử nữ, Phật tử nam ít lắm, một hai người, không có nhiều. Đó.

…​đời chẳng ra đời, mà đạo chẳng ra đạo, rất uổng phí cho tất cả những tu sĩ Phật giáo hiện tại trên thế gian này.

Nghĩa là chúng ta nói tất cả tu sĩ trên thế gian này, không riêng gì đất nước Việt Nam, mà tất cả mọi đất nước ở trên cái thế gian này, trên hành tinh này, người mà theo đạo Phật bây giờ họ chẳng có biết đường nào mà đi hết, họ chẳng biết cái lối nào mà giải thoát cho họ, họ sống theo cái kiểu nửa đời nửa đạo, nó không ra gì hết à! Dục lạc thì cũng ham mà ham không trọn, mà đạo muốn tu giải thoát thì giải thoát cũng không đầy.

Cho nên từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc đều là phải thấy hình thức của tu sĩ là phản bội lại Phật giáo. Cái lối sống của họ là họ phản bội lại cái giáo lý của Đức Phật, cái giới luật của Đức Phật. Cho nên chúng ta thấy, chúng ta biết họ là phản bội lại Phật pháp.

Họ sống trái ngược với những người tu sĩ Phật giáo ngày xưa.

Nghĩa là những Thánh Tăng ngày xưa thì chúng ta thấy gương hạnh của các Ngài, bây giờ tu sĩ chúng ta nó trái ngược trở lại chớ không giống chút nào hết. Bây giờ chúng ta tìm lại những cái điều mà chúng ta cần phải tìm hiểu đó, thì chúng ta mới thấy rõ ràng.

(51:05) Nếu không phản bội lại Phật giáo, ta phải mạnh dạn, thẳng tay…​

Nếu bây giờ chúng ta tìm lại những cái đúng cái sai của Phật giáo thì chúng ta phải mạnh dạn và thẳng tay, chỉ thẳng mặt, không có nể nang, không có vị tình một người nào hết. Bởi vì đạo Phật là đạo Phật, mà không phải đạo Phật thì đừng có mạo danh đạo Phật được!

Cho nên chúng ta phải mạnh dạn, chẳng sợ một ai hết, cứ nói thẳng. Người nào mà phá giới, phạm giới, sống không đúng đời sống Phạm hạnh của tu sĩ của đạo Phật thì chúng ta chỉ thẳng để cho họ sửa sai, để cho họ tránh không có làm cái điều tội ác nữa, để giúp cho họ thoát ra khỏi những cái điều mà họ đã mê mờ, đã lầm lạc. Mặc dù họ có tìm mọi cách giết chúng ta, chúng ta vẫn thẳng thắn nói.

Cũng như ngày xưa, ông Galilê, người ta bảo ông chỉ cần ông nói là trái đất vuông là người ta sẽ không giết ông. Thì một nhà khoa học như vậy, người ta vẫn gan dạ trước một cái đám đông như vậy, người ta sắp hành hình ông ta, mà ông nói quả đất tròn thì ông nói tròn chớ sao lại bắt ông nói vuông!

Cũng như bây giờ giới luật của Phật, Phạm hạnh của người tu sĩ như vậy, bảo chúng ta phải nói sai, làm sao tính chúng ta nói được? Chúng ta phải thẳng thắn. Thà là chúng ta chết chớ chúng ta không bao giờ để phản bội lại Phật giáo. Còn chúng ta sợ chết, chúng ta nói thế này thế khác, để mà phạm giới, phá Phạm hạnh của Phật, thì tức là chúng ta là những người phản bội lại Phật giáo.

Cho nên chúng ta không phản lại cái sự thật mà chúng ta lại phải nói đúng sự thật. Dù có chết, sự thật cũng là sự thật.

Một nhà khoa học kia người ta còn không sợ chết mà người ta còn dám nói lời nói đó. Trước một cái giáo hội đông đảo như vậy, người ta đem ra xử cái ông này, người ta bảo ông chỉ cần nói một cái lời nói giữa công chúng đông đảo như thế này: “Cái trái đất này vuông” thì chúng tôi sẽ không bao giờ làm hại ông, mà còn ca ngợi ông nữa, mà ông nói tròn là không được.

Thì ông nói, quả đất tròn là phải nói tròn chớ sao lại nói vuông? Thì tức là thà chết chớ không bao giờ nói sai cái sự thật. Chúng ta là những người tu sĩ Phật giáo cũng vậy, thà chết chớ không bao giờ nói sai, nói phản bội lại Phật giáo được.

Đó thì hôm nay Thầy muốn nhắc nhở quý thầy qua cái chỗ mà chúng ta phải sống với cái tâm Phật không phản bội, và chúng ta cũng phải - là người tu sĩ của đạo Phật phải thực hiện cái tâm không phản bội.

Mà phản bội đây với ai? Phản bội với Phật giáo, phản bội với giáo lý của nhà Phật, phản bội với người khác, mà chúng ta không phản bội với Phật giáo tức là chúng ta sẽ không phản bội lại người nào hết.

Đó thì những cái điều mà chúng ta cần phải tu học, chúng ta phải hiểu.

…​để họ tránh làm điều tội ác, gạt người, bán Phật bán Pháp, chạy theo lối sống phong kiến vua chúa, chùa tháp to lớn.

Đó là chúng ta dựng lại Phật giáo, làm tốt lại Phật giáo, thì mới mong có những bậc chân tu của Phật giáo xuất hiện. Còn hiện giờ Phật giáo mất Phạm hạnh như thế này thì các bậc chân tu thiền đức của Phật giáo làm sao họ còn được? Họ phải ẩn bóng mãi mãi.

(54:13) Cũng như bây giờ, Thầy là một cái người mà tu hành có những kinh nghiệm có thể hướng dẫn người khác. mà bây giờ Phật giáo như thế này thì làm sao không ẩn bóng? Còn độ ai được nữa, nói ra có ai nghe được nữa! Bây giờ một số quý thầy đang nghe Thầy, chắc gì quý thầy đã nghe lời Thầy hết, quý thầy cũng chưa chắc đã là tin cái lời Thầy.

Cho nên tuy rằng nói là nói một lẽ, chớ chưa chắc…​ Dục lạc cám dỗ ghê gớm, làm gì mà quý thầy sống được những lời nói của Thầy đâu! Cho nên quý thầy cũng có những kiến chấp và lý luận. Thầy nói là một lẽ, ai mà sống được. Mà sống không được vậy thì Phật giáo có làm gì mà người tu hành giải thoát được đâu?

Đó là những cái lý luận của quý thầy để bào chữa những cái sai lệch, những cái lợi dưỡng của chính tâm mình mà không thể nào mình thoát ra được.

Câu 1, trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Phản bội là một pháp cực ác, nhất là người đệ tử của Phật phản bội lại giáo lý của Phật thì còn tệ hại hơn là súc sanh. Tội phản bội ấy phải đọa địa ngục vô lượng kiếp. Ta phải dứt trừ, xa lìa tâm phản bội ấy, hành động phản bội ấy, cuộc sống phản bội ấy!”

Nghĩa là mình nhìn thấy được cái sự phản bội của Phật giáo của các tu sĩ hiện giờ, thì bắt đầu mình dùng cái câu pháp hướng này, mình không thể nào, mình phải lìa cái tâm phản bội ấy, cái hành động phản bội ấy, cái cuộc sống phản bội ấy.

Hằng ngày mình sống mà ăn uống phi thời, đó là mình sống phản bội Phật giáo. Hằng ngày cái hành động mình thô tháo bằng cách kêu gọi Phật tử này nọ kia góp đóng tiền bạc, hoặc là sống trong nhung lụa, trong đầy đủ thì đó là hành động phản bội lại Phật giáo. Cái tâm ham muốn của mình, cái tâm không ly các ác pháp thì cái đó là mình phản lại Phật giáo.

Đó là, cái câu này chúng ta trạch ra để mà chúng ta diệt trừ cái tâm của mình, cái tâm phản bội. Thầy xin nhắc lại:

“Phản bội là pháp cực ác nhất, là người đệ tử của Phật, phản bội lại giáo lý của Phật thì còn tệ hơn là loài súc sanh. Tội phản bội ấy phải đọa địa ngục vô lượng kiếp. Ta phải dứt trừ, phải xa lìa tâm phản bội ấy, hành động phản bội ấy, cuộc sống phản bội ấy!”

Đó là câu thứ nhất. Câu thứ hai:

“Một tu sĩ Phật giáo mà sống phá giới luật, sống không đúng Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo là phản bội lại Phật giáo, mọi người biết được, hiểu được sẽ khinh chê, không còn cung kính và cúng dường nữa. Vậy chúng ta là tu sĩ Phật giáo phải sống đúng giới hạnh, không phản bội lại Phật giáo, luôn luôn phải xa lìa tâm phản bội ấy!”

Đó là câu thứ hai.

14) TÂM PHẬT KHÔNG NGOAN CỐ

(57:06) 14. Tâm Phật không ngoan cố.

Bây giờ tâm Phật nó không ngoan cố, có cái gì thì ông không có cố chấp, ông xả ra, còn nếu mà không thì cứ cố chấp hoài trong tâm của mình, đó là đem lại cái sự đau khổ. Ở đây chúng ta lấy cái tâm niệm Phật thì cái tâm của chúng ta cũng không được ngoan cố.

Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không ngoan cố.

Ngoan cố là một tánh cố chấp, biết sai mà không chịu sửa, biết tội mà không chịu chừa, khăng khăng giữ đến cùng, không chịu từ bỏ kiến chấp sai lệch giới hạnh, sống phi Phạm hạnh của mình, khi người khác nhắc nhở đến mình còn đặt câu hỏi này câu hỏi khác.

Khi mà có người mà người ta dạy cho mình, người ta chỉ cho mình đó là cái sự ngoan cố của mình, mình chấp cái chỗ mà mình sống phá giới luật, mình sống không có Phạm hạnh, thì người ta chỉ người ta nhắc nhở mình, thì mình còn đặt câu hỏi này câu hỏi khác: “Ông ta có phải là Phật không, hay là Bồ Tát, A La Hán không mà nói như vậy, mà dám chỉ vạch như vậy - lỗi của tu sĩ hiện giờ?”

Đó, những cái câu này là câu mà Thầy lặp lại. Có những người khi nghe cái lời dạy của Thầy ở trong cái “Phật Môn Bảo Huấn”, cái cuộn băng thứ nhất là Thầy chỉ cho những tu sĩ hiện giờ là sống như vậy không có đúng cái Phạm hạnh, sống chạy theo những cái dục lạc, thì có một vài thầy họ đặt câu hỏi như thế này: Ông ta - tức là chỉ Thầy đó - ông ta có phải Phật không, có phải Bồ Tát, A La Hán không mà dám nói như vậy? Dám chỉ trích những cái lỗi của tu sĩ bây giờ như vậy? Người ta đặt câu hỏi như vậy.

Sự thật thì quý thầy thấy rằng, cái vấn đề mà ngày xưa có một vị Tỳ Kheo mà sai đi, phạm cái lỗi đi, thì cái vị cư sĩ đó họ chỉ trích, họ phê bình, thì cái đó có cần phải là Phật không?

Còn bây giờ quý thầy nhan nhản sai mà nói quý thầy sai thì quý thầy nói: “Có phải Phật không mà nói như vậy?” Quý thầy cái cái sự luận điệu của họ là như vậy. Chỉ có ông Phật nói thì họ mới nghe thôi, còn bây giờ đó, không phải ông Phật nói thì ai nói họ cũng chẳng nghe hết. Ý họ muốn nói như vậy đó.

Ngày xưa trong thời Đức Phật, những cư sĩ có phải là Phật, Bồ Tát, A La Hán đâu, họ luôn luôn thấy tu sĩ, các vị Tỳ Kheo sai lầm, đều chỉ trích những cái sự sai lầm ấy để cho các thầy Tỳ Kheo sửa lại.

Còn bây giờ thì quý thầy rất là ngoan cố, bây giờ mới thấy cái chỗ mà các thầy nói như vậy đó là rất ngoan cố. Mình không thấy được cái lỗi của mình phạm giới, phi Phạm hạnh như vậy, mà bây giờ người ta nói thì mình không sửa, thôi mình làm thinh đi, còn cái này còn ngoan cố để bào chữa mình: “Ông ta có phải là Phật, Bồ Tát không mà dám nói vậy.”

Đó, thì các các thầy thấy cái lời họ nói như vậy đó, thì các thầy nghĩ như thế nào? Họ rất là ngoan cố đó, đã phạm giới, không sửa mà còn hỏi Phật, Bồ Tát, A La Hán.

(01:00:10) Nếu quý vị biết họ là Phật, Bồ Tát, A La Hán thì quý vị còn có được gặp họ chăng? Nếu mà phỏng cái ông đó mà ổng nói ổng là Phật, là Bồ Tát, A La Hán, thì khi mà biết họ là Phật, Bồ Tát, A La Hán mà nói mình rồi thì quý vị có còn gặp được ổng nữa không?

Bởi vậy, ngoan cố là một pháp cực ác, khiến cho người ta cố chấp, không chịu buông xả để đời đời kiếp kiếp đọa ở địa ngục, nợ nần của đàn na thí chủ biết bao giờ mà trả cho hết?

Quý thầy có thấy chăng? Những vị tu sĩ ngoan cố không chịu sửa sai, sống không đúng Phạm hạnh để giờ phút chết, lâm chung để lại một thảm trạng đau lòng cho những người đệ tử cũng như những người tu sĩ sau này.

Đó cũng là một sự cảnh cáo của những người tu phạm giới, phá giới, phi Phạm hạnh, những người tu sĩ ngoan cố, chẳng bao giờ để ý thầy tổ mình họ để lại những gương xấu đau lòng.

Mắt họ đã nhìn thấy thảm trạng này, tai họ đã nghe những cực hình này của những bậc thầy của họ, mà họ không có chịu sửa đổi.

Khi đã thông hiểu được Phật pháp, gần gũi các bậc giới đức đời Phạm hạnh, ta hãy noi gương theo họ, xả tâm ngoan cố, chấp hành giới luật, sống đúng đời sống Phạm hạnh là ta đã thắp sáng lại ngọn đèn của Phật pháp, làm sống lại Phật pháp.

Chùa to tháp lớn chúng ta dẹp qua một bên để thực hiện đời sống trắng bạch như vỏ ốc, giải thoát hoàn toàn những sợi dây ràng buộc, thương ghét và đoạn dứt những dục lạc thế gian để thanh thản tiến bước đến mục tiêu giải thoát sanh tử luân hồi hoàn toàn.

Nghĩa là chúng ta có chùa to tháp lớn, phải dẹp sạch đi, để cho họ đi tham quan đi, đừng có thèm ở trong đó nữa. Bây giờ đi cất cái chòi tranh vách lá nào đó ở trong cái khu rừng hay hoặc là chỗ nào yên tịnh, nơi đó để chúng ta thực hiện thiền định, giữ gìn những giới hạnh, sống đúng Phạm hạnh của Phật để ly dục ly ác pháp, thực hiện Định Vô Lậu , xả hết tâm lậu hoặc, thực hiện Bốn Thiền để làm chủ sống chết.

(01:02:35) Đó là những cái điều mà hiện giờ Thầy thành thật khuyên quý thầy. Ai có chùa to tháp lớn dẹp hết đi, không có còn kêu gọi Phật tử đóng góp để xây dựng nữa. Chùa quá nhiều rồi, xây quá nhiều rồi, tiền bạc đổ xuống đây quá nhiều rồi, bao nhiêu mồ hôi nước mắt của quý vị đổ quá nhiều, thì quý thầy không nên giữ gìn nó nữa, bỏ nó xuống đi, để chúng ta tìm lấy cái sự giải thoát.

Vậy ta trạch pháp câu này để thường nhắc tâm ta hướng đến Như Lý Tác Ý:

“Ngoan cố là một pháp cực ác khiến cho ta khó buông xả, khiến cho ta sống phá giới, sống phi Phạm hạnh, sống theo dục lạc thế gian và không chịu buông bỏ. Ta phải đoạn dứt, ta phải từ bỏ nó!

Ngoan cố hãy đi đi! Đi để cho ta sống đúng đời sống Phạm hạnh, sống không phạm giới, sống ly dục ly ác pháp. Một lần nữa ngoan cố hãy đi đi, đừng có ở đây, không được ở đây, không được bén mảng với chúng ta nữa, đi đi!”

Đó là chúng ta ra lệnh đuổi cái tâm ngoan cố của mình. Hầu như nó ngoan cố, nó dính hoài ở trong tâm của chúng ta, nó không chịu buông ra.

Thí dụ như mình muốn cái gì đó mà mình không có thoả mãn được nó thì mình phải dùng cái pháp hướng này mình tu tập mình đuổi nó đi đi, chớ không khéo nó đòi hỏi không được thì nó sẽ thành ra cái tâm nó làm cho chúng ta khổ đau ở trong đó.

Do vì vậy đó mà chúng ta phải dùng cái pháp hướng này. Thì chúng ta biết đó là những cái pháp mà nó là cái pháp ác, nó làm cho chúng ta rất khổ sở, làm cho tâm chúng ta không được vui vẻ, làm cho tâm chúng ta rất là đau khổ, cho nên chúng ta phải xả nó đi, phải quét sạch nó ra đi, để lần lượt chúng ta đi vào thẳng một con đường giải thoát.

Từ đó chúng ta phải nỗ lực, từng mỗi cái, mỗi cái mà Phật đã dạy chúng ta trong này là những điều mà chúng ta cần phải tu tập, hết sức tu tập mới có được, chớ còn nếu mà chúng ta không tu tập thì chắc chắn là chúng ta sẽ không đạt được.

15) TÂM PHẬT KHÔNG NÔNG NỔI

(01:04:28) 15. Tâm Phật không nông nổi.

Bây giờ từng cái phần nhỏ phần nhỏ để mà chúng ta lấy cái tâm mà niệm Phật, chúng ta phải biết từng cái phần này để mà dùng cái pháp hướng để mà chúng ta thực hiện ở trong cái sự tu tập của mình.

Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không nông nổi.

Nông nổi là nông cạn, hời hợt, thiếu cân nhắc suy nghĩ trước khi hành động, đó là một tánh tình bộp chộp. Bởi vậy Phật dạy chúng ta ý tứ, tư duy, khi muốn làm một điều gì, hầu hết là quý vị quý thầy ở đây phải có suy nghĩ kĩ lưỡng, phải tư duy cân nhắc.

Để rồi khi làm nó sẽ không có bị thất bại, còn nếu quý thầy mà nông nổi, bộp chộp thì quý thầy sẽ gặp những thất bại khi mà làm công việc gì.

Cũng như quý vị tu hành mà quý vị không có suy nghĩ kĩ, khi mà cái pháp hành đó đúng cái thời điểm đó hay là không đúng thời điểm đó, cho nên quý vị nông nổi lắm, nghe nói hay là cứ lo tu chớ còn chưa biết. Chúng ta phải suy nghĩ cái đó nó phải ở trong cái chỗ nào, lúc nào, thời nào, cái điểm nào mà chúng ta tu cái pháp này.

Từ ngày Thầy dạy các thầy tu tập năm loại định:

Có năm loại định.

1- Định Niệm Hơi Thở

2- Chánh Niệm Tỉnh Giác Định

3- Định Sáng Suốt

4 - Định Vô Lậu

5- Hiện Tại An Lạc Trú Định.

Mỗi loại định tu đều có khác nhau, thế mà quý thầy đã nông nổi không chịu suy tư tu tập như thế nào cho đúng, quán như thế nào cho đúng, hướng như thế nào cho đúng. Đến khi Thầy hiểu được là quý thầy đã tu sai.

(01:06:09) Quán vô lậu mà quý thầy cứ kê ra một chữ, nghĩ là…​

Nghĩa là quán vô lậu mà quý thấy cứ kê ra một chữ hay hoặc là một số chữ nghĩa nào đó, để rồi quý thầy cứ nhẩm đi nhẩm lại cái số chữ đó mà nó không thành ra một cái chỗ vô lậu của nó. Đó là quý thầy đã sai, tức là quý thầy có cái sự lười biếng ở trong cái sự quán vô lậu.

Quý thầy quán như vậy bao giờ cho hết lậu hoặc?

Nghĩa là quý thầy đem ra một cái số từ, Thầy ví dụ như vô thường, khổ, không, vô ngã, rồi quý thầy cứ đem cái câu đó, đem cái thân mình đặt ra: “Thân là vô thường, khổ, không, vô ngã.” Rồi cứ quán hoài như vậy, đọc hoài như vậy cũng như là niệm Phật như vậy, thì thử hỏi cái quán này nó có nhằm nhò gì cho cái sự tu tập của quý thầy đâu!

Bởi vậy Thầy mới sợ quý thầy không hiểu, mới nêu lên những cái gương của các Thánh Tăng, của các Ni trong cái thời trước để lấy đó mà chúng ta tự suy tư tìm cái vô thường, cái khổ nó như thế nào để mà tu tập, muốn cho quý thầy tự mình khai triển được cái trí tuệ vô sư, cái tri kiến giải thoát, chớ đâu có muốn cho quý thầy nhẩm đi cái đờm dãi đó hoài, nó làm sao cho nó vô lậu được.

Rồi đến cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức Định, không biết như thế nào, có đúng hay không, cho đến Định Sáng Suốt, chẳng ai thưa hỏi gì cả, chắc chắn là không có tu.

Theo Thầy nghĩ mà, nếu tu thì các thầy cũng phải có cái sai cái đúng chớ, làm sao mà không thấy trình gì hết, đâu lẽ dạy như vậy mà quý thầy tu cái đúng liền đâu? Cho nên quý thầy không có trình bày cho Thầy biết, vì vậy mà Thầy nghĩ rằng cái sự tu của quý thầy chưa hẳn đã là đúng.

Định Hiện Tại An Lạc Trú thì người trình hơi thở như thế này, kẻ trình hơi thở như thế khác. Tu thì có tu, nhưng tu đúng cách thì như thế nào đúng, hầu hết quý thầy không rõ. Cho nên nhìn quý thầy sống thì biết quý thầy tu đúng, tu sai.

Nghĩa là nhìn cuộc sống của quý thầy hiện mà đang ở trong Tu viện này, cái lối sống của quý thầy, thì biết quý thầy đã ở trong năm cái định này có tu đúng, tu sai Thầy biết được hết. Chớ Thầy không có cần theo dõi hơi thở của quý thầy đâu.

Thấy cái lối sống mà biết được cái sự tu tập của quý thầy. Nếu một người mà tu đúng thì họ phải như thế nào? Mà tu sai thì họ phải như thế nào? Đó thì quý thầy biết được cái điều đó.

Nếu một bậc thầy người ta có kinh nghiệm, người ta thấy cái lối sống, người ta biết cái thiền định đó đúng, mà người ta thấy cái lối sống nó không đúng thì tức là cái thiền định nó tu sai.

Thời gian của Thầy ở đây không cho phép nữa, còn ngắn quá mà làm việc nhiều quá. Bởi vậy lấy tâm niệm Phật thì quý thầy không được nông nổi.

(01:09:03) Quý thầy muốn tu một cái định nào phải suy nghĩ cho kĩ, xét xem có đúng chưa rồi mới thực hành. Khi thực hành còn phải xem coi có kết quả hay không, hay có những trạng thái gì xảy ra? Những trạng thái đó đúng hay sai? Phải thưa hỏi lại. Nếu không thực hỏi, lỡ có gì, sửa rất là khó khăn.

Câu này quý thầy phải trạch pháp để dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Tánh nông nổi là một tánh bộp chộp, rất xấu, thường đưa người ta đến thất bại trong mọi việc làm cũng như trong sự tu hành.

Từ đây làm việc gì hay tu tập, ta thường nhắc nhở: Không được hời hợt, nông cạn, suy tính cho kĩ lưỡng rồi mới hành. Tánh nông nổi phải đi đi, không được ở nơi ta nữa! Nông nổi việc gì cũng thất bại, hãy đi đi, đừng ở đây nữa!”

Nghĩa là mình nhắc mình đuổi nó như vậy, cho nên mỗi lần nhớ nó cái thì mình muốn làm việc gì, muốn tu gì mình phải suy nghĩ rất kĩ rồi mình mới làm. Chớ còn mình để tới nó thì mình bộp chộp lắm, mình ngay đó cái mình lo mình tu, mình không có chịu suy nghĩ cái đó đúng hay sai.

Cho nên từng những cái pháp như vậy là từng những cái điều kiện rất là quý báu mà chúng ta cần phải theo dõi, cần phải hiểu để mà học. Đó là những cái cơ bản, căn bản mà chúng ta đi vào thiền định. Nó là những cái pháp mà cần lúc nào chúng ta cũng tạo thành một cái niềm tin bất diệt ở trong lòng của chúng ta đối với Phật.

Bởi vì tâm Phật như vậy mà tâm ta không có đúng như vậy thì tức là chúng ta quy y Phật làm gì? Quy y Phật phải là nương theo Phật, phải sống như Phật, mà bây giờ nó còn khác Phật thì làm gì chúng ta phải nỗ lực làm sao cho như Phật. Như vậy gọi là niệm Phật.

Còn nếu mà mình không theo Phật thì thôi, thì mình muốn niệm cái gì cũng được, còn mình đã theo Phật thì mình phải niệm Phật bằng cách đúng của Phật.

Tại sao theo Phật mà không làm đúng, mà làm đúng như vậy thì có giải thoát không? Mà có giải thoát rồi thì quý thầy thấy như thế nào? Tin không? Tin chớ! Nếu không có kết quả làm sao ai tin, mà đã có kết quả thì phải tin.

Cho nên từng cái tánh nhỏ mọn, như là nông nổi, như là phản bội, chúng ta nghe danh từ nó thì thường, nhưng mà đến rồi chúng ta mới thấy hành động của chúng ta, sự diễn biến của Thầy để cho quý thầy thấy rõ là sự diễn biến đó là những cái hành động phản bội, những hành động nông nổi của chúng ta, cho nên đưa dần chúng ta đến chỗ sai lệch.

Kỳ sau, ngày mai chúng ta sẽ học điều thứ mười: Tâm Phật không phóng dật. Bây giờ chúng ta ngừng lại.

BÀI KỆ KHÔNG PHÓNG DẬT CỦA NGÀI KHITAKA

(01:11:48) Trước khi học tâm Phật không phóng dật, Thầy xin đọc lại một cái bài kệ của một vị Thánh Tăng để giúp cho chúng ta trên đường tu tập tâm không phóng dật.

Ngài Khitaka, sau khi chứng quả A La Hán, thường thường là Ngài dùng kệ khuyến khích các bạn đồng tu của mình. Qua cái bài kệ này, chúng ta nghe để mà chúng ta cố gắng giữ tâm mình không phóng dật như tâm Phật vậy:

Tâm ái như tảng đá,

Đứng vững, không dao động,

Cái tâm mà ham muốn của mình, mình tập luyện nó như là một cái cục đá, luôn luôn nó vững vàng trước các cái pháp làm cho nó bị dao động, thì chúng ta cố gắng giữ nó không dao động.

Và do nó không dao động thì cái tâm chúng ta không phóng dật theo vật, vì vậy mà chúng ta sẽ thoát ra những cái khổ đau do các vật, các hoàn cảnh, các sự kiện nó lôi cuốn, nó làm cho chúng ta khổ sở trong cái cuộc sống của chúng ta hàng ngày.

Hỡi vật khả ái kia,

Tâm ta không tham ái,

Nghĩa là tất cả mọi cái đối tượng của ngũ dục lạc thì nó gợi lên những cái khả ái, khả lạc, khả hỷ, làm cho tâm chúng ta dễ bị say đắm, dễ bị ham mê. Do vì vậy đó mà chúng ta phải giữ gìn cái tâm của mình không có cho tham ái.

(01:13:30) Cho nên Ngài mới nhắc “hỡi vật khả ái kia, tâm ta không tham ái”. Đó, thì như vậy, giữ cái tâm của mình như vậy, nó không có ham muốn thì các vật kia nó không cám dỗ được, và do đó thì tâm mình nó mới vững vàng như cái tảng đá.

Đối vật dễ dao động,

Tâm ta không dao động,

Trước các vật, trước các pháp, tâm nó dễ bị dao động lắm, nhưng người tu hành thì phải đầy đủ cái nghị lực, đầy đủ cái can đảm, không có để cái tâm của chúng ta dao động theo các cái vật nó cám dỗ, nó lôi cuốn mình.

Tâm ai tu tập vậy,

Từ đâu, khổ sẽ đến.

Nếu mà chúng ta giữ gìn tâm được như vậy đó, cái tâm mà không phóng dật theo vật được như vậy thì làm sao có khổ đến với tâm ai?

Đó là cái bài kệ của ngài khuyến khích ta tu hành để cho cái tâm chúng ta không phóng dật. Cho nên trước khi mà học về tâm Phật không phóng dật thì chúng ta phải lấy cái bài kệ này để rèn luyện, để thực tập cho chính tâm mình nó không phóng dật.

Đây Thầy đọc lại bài kệ:

Tâm ai như tảng đá,

Đứng vững, không dao động,

Hỡi vật khả ái kia,

Tâm ta không tham ái,

Đối vật dễ dao động,

Tâm ta không dao động,

Tâm ai tu tập vậy,

Từ đâu, khổ sẽ đến.

(01:15:00) Được những cái bậc như vậy thì mình sống gần gũi họ, bởi vì cái đời sống của họ là cái đời sống nó đúng cái giới hạnh, họ không có chạy theo cái dục lạc, và những cái người đó họ có những cái pháp họ tu, họ tu như thế nào mà họ được như thế đó. Vì vậy mà mình đến những người đó để mình học cái pháp của họ, mình nương vào những cái hành động đó.

Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta đó, muốn cho cái tâm mà không phóng dật thì mình phải thân cận, thân cận là mình phải sống gần gũi những cái bậc đó, rồi mình học những cái pháp của họ, của những bậc Thánh đó, họ đã tu tập nó, họ học những cái pháp, để hiểu những cái pháp làm sao mà họ sống được như vậy.

Như bây giờ Thầy ăn ngày một bữa, Thầy sống như thế nào mà Thầy ăn được một bữa, rồi Thầy sống như thế nào mà Thầy không ngủ, Thầy sống như thế nào mà Thầy nhập được thiền định, Thầy sống như thế nào mà Thầy không có giết hại chúng sanh?

Do đó mà các con được thân cận những cái bậc đó thì các con sẽ học hỏi được những cái pháp, và nương tựa cái gương hạnh của các bậc đó thì các con sẽ thấy mình giải thoát hoàn toàn.

Và vì vậy đó mà Đức Phật bảo mình phải thân cận những bậc Thánh, mình nương tựa vào những cái bậc Thánh, và đồng thời những bậc chân nhân. Những bậc chân nhân không phải là như những bậc Thánh đâu.

Bậc Thánh là những cái người mà họ sống y như những người phàm phu, họ sống gần ở bên những người khác, nhưng mà cái lối sống của họ nó không phải sống ở trong cái xa hoa, cái cuộc sống dục lạc của thế gian. Mà cái đời sống của họ nó là cái đời sống thánh thiện, cái đời sống giải thoát.

Còn những bậc chân nhân thì họ ở trong rừng trong núi, họ ở những cái nơi mà túp lều tranh, hang đá, là những cái bậc chân nhân. Mà nếu mà mình được gặp những cái bậc đó nữa thì nó quý biết là bao nhiêu, vì mình sống cái đời sống mình bỏ hết cái cuộc đời, mình không còn sống ở trong cái xã hội này nữa, coi như là mình tách lìa ra cái xã hội để mình thực hiện con đường tu tập mình đến rốt ráo.

Và từ cái mình rốt ráo rồi thì mình mới trở về mình sống cái đời sống thánh thiện. Mà đời sống thánh thiện để cho mình làm gương cho người khác, để cho mọi người người ta nương vào cái gương hạnh của mình, và cái lời nói của người khác nó ở gần bên mọi người, đó là những cái bậc Thánh.

Cho nên thí dụ như trong cái thời gian mà Thầy đang ở trong thất Thầy tu mà các con được sống ở gần bên những cái bậc đang ngồi ở trong thất mà tu hành, mà những cái giới hạnh, những cái việc làm của họ rất là nghiêm túc đó, đó là những bậc chân nhân.

Còn những cái người mà đang sống - như Thầy hiện giờ đang sống gần bên quý thầy đó, đang sống gần bên các con mà để dạy các con, rồi lấy gương hạnh mình để làm cái gương cho các con soi để mà các con tu tập đó, thì đó là những bậc Thánh. Do đó những cái đời sống của họ nó khác lạ hơn cái đời sống thường tình của thế gian.

Thay vì đời sống thường tình của thế gian thì người ta nằm giường cao rộng lớn, còn cái đời sống của những bậc Thánh thì người ta nằm giường tre, hoặc là người ta nằm trên đất, hoặc người ta nằm ở trên đá. Đó là những cái đời sống của thánh thiện.

Người ta không còn dính mắc cái vật chất, nhưng mà người ta sống ở trong với mọi người, người ta không tách lìa mọi người, người ta không tách lìa cái thế gian mà người ta sống ở trong cái thế gian, người ta đem cái gương hạnh sống đó mà người ta hướng dẫn cho người khác để cho người khác buông xả, để cho người khác không khổ.

(01:18:12) Cũng như bây giờ có một cái người làm ăn nó đổ nợ đổ nần, họ khổ sở hết sức, mà bây giờ không biết cách thức nào mà giải quyết được, thì họ gần gũi cái bậc Thánh, thì họ: “Bạch thầy! Con gặp những cái trường hợp làm ăn như vậy, bây giờ khó khăn vậy, bây giờ làm sao con thoát ra khỏi cảnh khổ?”

Thì gặp cái vị đó, thì cái vị đó sẽ chỉ cách thức cho họ thấy cái đường đi nhân quả của chính bản thân người đó, và người đó thấy được cái đường đi nhân quả thì họ giải quyết ở trong cái nhân quả, cho nên đem lại cái cuộc sống của họ nó không còn nợ nần, không còn khổ đau nữa.

Từ lâu họ lầm chấp rằng mình vì cái vấn đề mà mình làm ăn như thế này, bây giờ lỡ người ta biết được cái điều kiện mình như thế này rồi họ cười, họ chê mình như thế này thế khác, cho nên mình khó sống ở trong xã hội này quá.

Nhưng mà gặp bậc Thánh, nó không sợ cái cười chê đâu, mà cái khổ tâm nhất là cái nợ nần, rồi cái lời, cái vay nợ của người ta thì tiền lời của mình mỗi ngày cứ mỗi chồng lên, rồi càng ngày càng lún sâu, lún sâu riết rồi mình phải chết, nhiều khi rồi mình phải đi ở tù nữa là khác.

Còn ngay bây giờ mình còn một cái phần nào đó, mình giải quyết cho tất cả cái nhân quả này đi, mình trả sạch cái nợ đi, thì từng đó mình bây giờ còn một đồng mình ăn một đồng, một cắc mình ăn một cắc, lúc bấy giờ tâm hồn mình thanh thản, đó là mình giải quyết nhân quả.

Còn nếu mình để cái nhân quả này càng ngày nó càng lún sâu hơn nữa thì chỉ còn có nước mà đi ở tù hoặc là chết, tự tử chớ không thể nào mà sống được hết.

Đó là gặp những cái bậc Thánh người ta chỉ cái đường đi nhân quả rồi mình sáng ra, mình thấy: Mình hồi đó mình cứ sợ người ta cười chê mình, cho nên vì vậy mình cứ vay vốn, vay thêm, vay thêm bỏ vô để mình đi tiến tới cái chỗ mà tìm cái danh giả, cái hư giả mà cuối cùng thì mình càng lún sâu mình càng chết.

Cho nên gặp được cái những bậc chân tu, những cái bậc Thánh hiền thì người ta chỉ cho mình cái nhân quả, để rồi từng đó mình thấy bây giờ bán nhà bán cửa, bán tất cả những cái gì đó, mình trả cho hết cái nợ để không còn cái lời nữa, rồi cuối cùng cái mình giải quyết được cuộc sống.

Bây giờ còn ở trong túp lều nhưng mà mình thanh thản. Cái khả năng, cái tài của mình nó vẫn còn, từ cái chỗ mình trở về với hai bàn tay không để rồi mình vươn lên thì trong một năm, hai năm mình sẽ giàu có trở lại bằng cách là mình không có vay nợ ai nữa hết.

Còn bây giờ hồi nào tới giờ mình không hiểu, cho nên mình cứ ngỡ tưởng là mình cứ vay tiền, vay nợ người ta để bỏ vô để làm, nhưng mà cuối cùng làm rồi chúng ăn hết, mình không có đồng nào hết mà càng ngày mình càng khổ. Đó.

Vừa rồi thì có một người Phật tử đến gặp Thầy, thì cũng ở trong cái trường hợp mà Thầy đang giảng hôm qua cho các con chớ đâu ai, nhưng mà vì trong cái nỗi khổ của họ cho nên họ mong ước gặp Thầy để mà giải quyết cho cái sự khổ của họ.

Chính cái người Phật tử này mới thưa hỏi, Thầy chỉ dạy cho họ cái cách thức, đường đi nhân quả của chính bản thân của họ, họ đã từ cái ngày mà họ gieo cái nhân quả đó, bây giờ khi mà nhận ra được lời nói của Thầy rồi thì họ xin hứa với Thầy là họ về họ bán sạch, họ giải quyết để tâm hồn họ được giải thoát, để họ trả hết tất cả cái nợ, nó không còn cái lời, cái nợ của họ, cái lời nó sẽ sạch đi thì tức là họ dứt được cái sự khổ đau cuộc đời của họ.

(01:21:09) Đó thì các con thấy. Nếu mà gặp người khác thì họ bảo bây giờ phải vô chùa lạy Phật, cầu Quan Âm, tụng kinh Pháp Hoa cho nhiều đi rồi Đức Phật Quan Âm phù hộ. Cuối cùng cứ vay nợ đổ vô đây thì cái người Phật tử này riết riết chắc là có thể nói là đi vào tự tử chết chớ còn không sống nổi. Bởi vì càng ngày cái lời nó càng đổ vô mà mình làm thì người ta ăn chớ còn mình không có ăn, mà riết rồi mình chết.

Đó, còn Thầy dạy thì họ chấm dứt ngay liền, nhân quả đoạn dứt liền, chuyển liền, đời sống họ thanh thản. Rồi bắt đầu cái khả năng, cái tài của họ có, họ sẽ vươn lên làm lại một cuộc đời mới mẻ và thánh thiện hơn, không nợ nần ai nữa hết.

Đó thì các con thấy trong cái vấn đề mà gặp bậc chân nhân và bậc Thánh nó lợi ích rất lớn. Còn cuộc đời mà các con không gặp được bậc chân nhân, bậc Thánh thì cuộc đời tu hành của các con cũng phí mà thôi.

Bởi vì cái gương hạnh không có sống đúng giới hạnh nè, cái gương hạnh không thánh thiện nè, rồi pháp môn họ tu không có đúng nữa rồi, làm sao các con đi tới được?

Cho nên các con thấy nè, như hồi nào tới giờ người ta dạy các con niệm Phật phải không? Các con biết rất rõ, ai cũng biết niệm Phật hết. Thế mà niệm Phật bây giờ các con có giải thoát chưa? Chưa có người nào mà giải thoát hết.

Mà bây giờ ngay Thầy dạy các con nè, lấy thân niệm Phật nè, các con thấy, bao giờ có người ta dạy các con thân niệm Phật đâu? Chưa từng. Mới chỉ nghe lời Thầy dạy niệm Phật, lấy thân mà niệm Phật, lấy tâm mà niệm Phật, lấy thọ mà niệm Phật, lấy các pháp mà niệm Phật, đây là lần đầu tiên ở trong cuộc đời mà theo đạo Phật mấy con mới nghe. Phải không, các con thấy cái điều đó có không?

Nhưng mà các con lấy thân niệm Phật nè, lấy thọ niệm Phật nè, lấy tâm niệm Phật nè, lấy các pháp niệm Phật nè, các con thấy giải thoát ngay liền tức khắc. Có không, các con thấy không?

Đầu tiên các con vô nè, quy y Tam Bảo nè, là nương tựa vào ba ngôi Tam Bảo - Phật, Pháp, Tăng, thì người ta dạy các con niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chớ gì?

Các con nói niệm Phật “Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng”, gặp nhau chào hỏi cũng “Nam Mô Phật”, mà cuối cùng rồi không giải thoát gì hết, đụng nhau có khi mà nảy lửa nhau mà choảng lộn nhau nữa chớ đừng nói, làm ăn thì thôi tranh hơn tranh thua chớ chưa chắc mà nhường ai. Đó thì niệm Phật mà niệm kiểu đó có giải thoát không?

Còn ở đây Thầy dạy các con niệm Phật có giải thoát hoàn toàn. Nếu mà các con nghe lời Thầy dạy đúng, dùng pháp hướng trạch ra những cái pháp để nó áp dụng đúng cách thì các con sẽ thấy thân tâm của các con - thậm chí như cái thọ của các con đau nhức đến cái mức độ cuối cùng, các con vẫn thấy thản nhiên, thấy giải thoát hoàn, toàn không có sự đau khổ nữa.

Ở đây thì cái phóng dật là một cái điều rất khó, không phải dễ, cho nên muốn mà không có tâm phóng dật thì các con phải gần những cái bậc Thánh hiền, những cái bậc chân nhân. Do những cái hành động sống của họ, do những cái pháp của họ tu hành thì các con sẽ được giải thoát.

Cho nên hằng ngày các con phải tu tập và trau dồi những cái pháp của những bậc chân nhân, có như vậy tâm các con mới không phóng dật.

Ngày xưa Đức Phật thấy tất cả chúng sanh đau khổ, lăn lộn ở trong sanh tử luân hồi là vì không xa lìa được dục tâm phóng dật, cho nên Ngài xót thương mà nói cái bài kệ:

(01:24:10) Đức Phật thấy chúng sanh do cái tâm phóng dật của mình mà không có làm sao dứt được, cho nên Ngài mới nói cái bài kệ để cho chúng ta hiểu qua cái bài kệ này để mà chúng ta ngăn ngừa cái tâm phóng dật của mình. Đây cái bài kệ như thế này:

Khó thấy được vô ngã

Không dễ thấy sự thật

Với người có hiểu biết

Xa lìa tâm phóng dật

Vị ấy đã thấy rõ

Đâu còn có vật gì.

Nghĩa là nó đâu còn dính vật gì đâu, mình không phóng dật thì đâu còn dính vật gì đâu.

Đây bây giờ Thầy đọc cái bài kệ qua rồi Thầy giải thích cho thấy:

Khó thấy được vô ngã

Nghĩa là các pháp đều là vô ngã, không có cái ngã thật, nhưng mà mình cứ thấy cái đồng hồ là có cái đồng hồ rồi, làm sao mà nói là vô ngã thật? Nhưng mà đâu ngờ rằng cái đồng hồ này, nó bây giờ nó có đi, đem lửa đốt nó rồi còn không? Nếu mà nó thật thì nó đâu có cháy, phải không? Nó không thật, cho nên nó có rồi nó phải hoại diệt, nó đâu có thường hằng được!

Cho nên bây giờ thấy nó chạy vậy chớ mai mốt cái nó hư, nó đứng đó thì còn có nước quăng đống rác, ai thèm nữa. Các con thấy không? Cái máy này thấy bây giờ nó đang chạy tốt như vầy, mai mốt nó hết chạy rồi sửa không được nữa, đem quăng đống rác chớ còn ai mà thèm nữa, để chi trong nhà cho chật.

Cho nên nó có không, nó có ngã không? Cho nên nó thật sự là vô ngã, cho nên nó thường có sự…​ Bây giờ nó mới, mai mốt rồi lần lượt nó cũ rồi nó hư nó hoại đi.

Cũng như cái thân mình, mình nói nó thường, thường sao được? Thường sao mà hồi nhỏ thì nó mạnh khỏe, bây giờ nó già yếu, bây giờ nó ho hoài nó muốn chết rồi, bây giờ cái sức khỏe nó càng gầy rồi, nó không biết nó đi ngày nào rồi, vậy mà sao nói nó là thường, là ngã được? Thật sự là nó vô ngã thật. Đó.

Cho nên tuy rằng nói là khó thấy được vô ngã. Mình thấy mọi vật đều có thật, mà tại sao nói là vô ngã? Ông Phật ông nói nghe lạ, nhưng mà thật sự là nó vô thường chớ, nó đâu có thường đâu. Khi mà vì vậy, vì các vật nó thật có thật, nhưng mà trong cái bản chất của nó không có trường tồn được, nó không có vĩnh viễn được, cho nên Phật nói vô ngã.

Nhưng mà thấm được cái lý vô ngã đó thì chúng ta phải tu cái Định Vô Lậu, nó thấm được cái lý vô lậu, nó chứng được cái lý vô ngã, cho nên lúc bấy giờ chúng ta đâu còn thương, ghét, giận hờn ai đâu, vì đâu có cái gì mà thường còn? Các pháp đều là vô thường, vô ngã.

Không dễ gì thấy sự thật

Nghĩa là khó mà nhìn được cái sự thật của mọi vật, của thân tâm của mình, của các pháp xung quanh, cái bàn, cái ghế, tất cả mọi cái này đều nói là không có thì không thể nào mà chúng ta có thể thấy được, nhưng mà sự thật nó không có.

Trước kia nó đâu phải là cái bàn như thế này, nó là toàn những hột nhựa, do đó người ta đưa vào máy móc rồi người ta đổ nó ra, nó đổ vào trong cái khuôn, nó thành ra cái bàn nó mới có. Chớ hồi đó nó là những hột nhựa, nó do cái sự kết hợp nhau những cái này đến những cái khác nó mới trở thành một cái bàn, chớ đâu phải khi không mà nó có cái bàn.

Chúng ta có cái tập giấy này, từ những cái cây, cái vỏ, từ những cái cọng lau, cọng sậy, người ta cho vô ở trong cái máy, xay cho nó nhuyễn rồi người ta chế nước trong đó cho nó chảy, nó thành ra một cái chất bột, rồi do đó người ta mới chế vào những cái chất hóa học như thế nào, nó làm cho chất bột đó trắng đi rồi người ta mới đổ lên khuôn, nó mới cán ra thành tấm giấy như thế này, bây giờ nó mới có giấy.

(01:27:33) Thì nó bao nhiêu là cái vấn đề hợp chất nó lại nó mới thành ra cái tờ giấy của chúng ta. Thế mà chúng ta thấy tờ giấy chúng ta nói có. Nó do duyên hợp mà nó có, nhưng mà khi duyên hợp nó hết rồi nó tan thì có cái gì là còn có nữa?

Cho nên nhìn thấy sự thật như vậy, mà thấm nhuần được cái sự thật như vậy thì chúng ta phải có một quá trình tập luyện về cái Định Vô Lậu. Còn nếu mà chúng ta không chịu khó tập luyện thì cái gì nó cũng thật hết, thật hết, cho nên hở ra chút gì thì chúng ta cũng thương, cũng ghét, cũng khóc, cũng giận, cũng hờn, cũng phiền não ở trong lòng đủ mọi cách.

Với người có hiểu biết

Như các con thấy, cái người mà hiểu biết thì người ta thấy vật gì người ta cũng không có để cái tâm người ta dính mắc nó, không phóng theo cái vât đó, cho nên nó không dính mắc. Mà không dính mắc thì người ta thấy thanh thản, người ta thấy không có bận rộn, người ta thấy không có lo lắng nữa.

Vị ấy đã thấy rõ

Thấy rõ cái sự thật: Các pháp của thế gian là nó vô thường, nó vô ngã, luô luôn nó đeo đẳng đến cái sự đau khổ cho kiếp con người.

Cho nên có nhiều người người ta hiểu Phật pháp rồi, người ta buông sạch xuống hết. Còn bây giờ mình hiểu hiểu chớ mình thấy nó còn thật mà, nó đâu có phải là vô ngã, nó đâu phải vô thường, nói nó khổ chớ đâu phải khổ.

Mình uống, mình lấy cái bát vầy múc nước mình uống thì nghe nó cực hơn là mình lấy cái ca vầy chớ gì? Cho nên mình thấy cái ca này xinh đẹp, còn cái bát của mình nó nặng nề mà nó bằng đất, nó đâu có bằng cái này!

Do cái sự so sánh đó mà mình thấy cái bát đất với cái này, hai cái dù có tốt, có xấu đi nữa, nó cũng là vô thường, ngày hôm nay nó còn mới thì nó vậy, ngày mai nó cũ rồi, còn cái gì là tốt đẹp nữa đâu?

Thân chúng ta còn không giữ được thời trai trẻ để cho nó già còm, mặt nhăn, da nó nhăn nheo như thế này, còn gì nữa? Như các con còn trẻ, sao các con không ráng giữ nó trai trẻ hoài đi, trẻ đẹp hoài đi, để cho bây giờ như mấy cô lớn lớn vầy nhăn hết rồi, còn cái gì!

Nếu mà nó thường thì thôi ráng mà giữ cho nó thường, cho nó đẹp hoài đi, cho nó trẻ hoài đi, cho nó khỏe đi. Không có một người nào mà giữ được hết! Như vậy thì chắc chắn là có sự hoại diệt, có sự vô thường thật ở trong đó.

Cho nên do đó thì chúng ta phải chuẩn bị, đừng có phóng tâm mà chạy theo mọi vật mà lầm, mà không thật rõ nó. Cho nên chúng ta dứt đi, bỏ đi, đừng có ham vật gì hết.

Thậm chí như tất cả cái lòng thương yêu của chúng ta đối với con cái, đối với mọi người, chúng ta thấy nó cũng là không thật đâu, phải buông nó xuống hết đi, buông xuống, để rồi chúng ta tìm một cái lối giải thoát cho chính bản thân của mình, ra khỏi cái sự đau khổ của cuộc đời này.

16) TÂM PHẬT KHÔNG PHÓNG DẬT

(01:30:09) Đối với con người, phóng dật là một pháp rất ác.

Đối với chúng ta cái tâm phóng dật nó rất ác.

Nó trói buộc khiến cho người này ở kiếp này sang đến kiếp khác

Nghĩa là nó trói buộc chúng ta ở kiếp này đến kiếp khác, vì cái tâm phóng dật đó mà nó lôi chúng ta trở thành những cái nghiệp, trở thành những nhân quả, cho nên kiếp này đến kiếp khác mà chúng ta không có lìa ra được.

Phật không phóng dật nên Phật ra khỏi sanh tử luân hồi. Ta còn phóng dật, làm sao ta ra khỏi sanh tử luân hồi được?

Nghĩa là còn một cái vật nhỏ, còn một cái điều kiện nhỏ như Thầy nói, cái bọc ni lông mà không bỏ được thì đó cũng gọi là cái tâm phóng dật, còn dính cái vật đó.

Đó là mình cứ nghĩ rằng thôi để dành đó, mai mốt có gì đó mình bỏ. Hay hoặc là mấy cô ngoài này để cái bọc này, bữa nào mình ra mình hái đọt lang hay hoặc là đọt rau, rau gì đó, rau trai, đem vô cho cô Út có cái bọc này đựng dễ, cứ nhét, để dành, để dành đó. Do đó cũng chưa phải là chúng ta bỏ.

Nghĩ rằng nó tiện đó, nhưng mà sự thật ra chúng ta phải dẹp hết đi, đừng có nghĩ. Ở trong này người ta có nghĩ gì thì người ta lo người ta nghĩ, người ta ra người ta hái, đem rổ đem rá gì đó, còn không thì thôi, còn mình thôi dẹp hết đi.

Nghe nói vậy đó là cô Út cổ giận lắm, phải không? Bởi vì kiểu Thầy dạy đó là cái kiểu, nghĩa là buông xuôi. Còn cô Út thì cổ lo cái đời sống mà chơi kiểu đó thì chết rồi, lấy cái gì đâu mà luộc mà ăn đây, đâu có lẽ mà ăn cơm không được! Cho nên ít ra thì cũng phải có đọt lang hay hoặc là có rau gì mà ăn mới được, mà mấy cô làm như vậy là quá đỡ rồi, bây giờ Thầy dạy cái kiểu này thì thôi chết!

Tu sinh: (Không nghe rõ)

Trưởng lão: Ờ rồi lấy gì mà bỏ nhãn, ba con dơi ăn hết rồi!

Ở đây Thầy nói cho các con nghe, nói đây là nói cái người giải thoát, còn mình chưa phải trong cái hoàn cảnh giải thoát nhưng mình tập dần để tới giải thoát chớ! Chớ lý đâu mà các con nghe nói cái rồi bắt đầu các con không ăn được không? Thầy thì bây giờ Thầy bỏ không ăn được chớ các con chắc không được. Thì như vậy là các con chưa làm được thì thôi, khoan khoan, nay cô Út cổ rầy là phải!

Thầy thì dạy một điều mà cô Út thì dạy một ngả, hai người không giống nhau ở chỗ nào? Đúng vậy, cô Út thì thực tế mà Thầy thì nói về con đường giải thoát là như Phật mà, thành ra Thầy đi tới thành Phật, còn cô Út thì bây giờ phải sống rồi mới lần mới đi tới thành Phật chớ còn kiểu như Thầy dạy, kiểu đó chắc là tiêu luôn. Bây giờ chưa làm Phật được mà không chịu ăn, mà không chịu làm nữa thì thôi chắc chết!

Ta còn phóng dật thì làm sao ta thoát khỏi sanh tử luân hồi được?

Biết tâm phóng dật là tâm rất là nguy hiểm và tai hại rất lớn cho đời người, ta nên trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý, hằng ngày tu tập và trau dồi thân tâm ta:

(01:33:08) Đây là cái câu pháp hướng đây.

“Phóng dật là một pháp môn rất ác, nối tiếp sự đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác không bao giờ dứt. Là tu sĩ Phật giáo ta phải thấy rõ, quyết tâm, dũng cảm, gan dạ, kiên trì dứt bỏ tâm phóng dật, từ giã, từ khước, xa lìa tâm phóng dật. Phóng dật là tai họa, là nguy hiểm, hãy đi đi, đừng ở trong ta nữa!”

Đó các con thấy cái câu pháp hướng chưa? Ngay liền mà chỉ cho nó biết được cái sự khổ đau, cái sự dính mắc của nó, để rồi thì chúng ta chỉ mặt nó: “Mày là tai họa, là nguy hiểm, hãy đi đi, đừng có ở trong ta nữa!”

Mấy con phải nhớ cái câu pháp hướng này, khi hàng ngày mà chúng ta trong cái giờ ngồi thiền, trước giờ mà tu cái định Hiện Tại An Lạc Trú hơi thở thì chúng ta cũng đặt cái pháp hướng này nhắc nó, rồi đuổi nó đi, đừng để nó ở gần bên mình nữa, rồi bắt đầu mình mới hít thở mình tu định Hiện Tại An Lạc Trú.

Các con nhớ cái giờ nào có thể, trước khi mình bước đi mình đi kinh hành để mình tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức thì mình cũng đặt cái câu này trước.

Bởi vì mình biết nó là cái tai hại, cái nguy hiểm cho đời mình, vì vậy mà nó dễ phóng dật, nó phóng tâm mình chạy theo thứ này chạy theo thứ khác, cho nên do đó mình phải đuổi nó đi được một lần rồi mình mới tu cái định.

Đó là mình dùng cái pháp hướng để mình đuổi nó để cho mình sống tâm mình như tâm Phật, không phóng dật. Luôn lúc nào mình nhắc nhở nó như vậy là nó thấy vật gì nó cũng không dính theo, nó không dính mắc hết.

Ngược với tâm phóng dật là tâm sống trầm lặng, sống độc cư, sống một mình.

Đó thì, cái tâm phóng dật thì nó làm cho mình ồn ào, mình chạy theo vui vẻ nói chuyện này kia, còn cái tâm ngược lại với cái tâm phóng dật là cái tâm sống trầm lặng, cái tâm sống độc cư, sống một mình.

(01:35:13) Nhìn vào cuộc sống tu hành của quý vị thì biết ai là người phóng dật, mà ai là người không phóng dật. Ai là người trôi lăn ở trong sanh tử luân hồi, ai là người chấm dứt sanh tử luân hồi, ai là người có thần lực, ai là nguời không thiền định, ai là người có thiền định, nhìn lối tu hành của họ thì biết rõ.

Tại sao vậy? Tại vì nhìn vào cái tâm phóng dật của họ, cái người mà phóng dật thì không bao giờ họ có thiền định mà không có thần lực gì hết. Mà cái người không phóng dật mà họ sống trầm lặng, họ sống độc cư, họ sống không nói chuyện, họ sống một mình họ, luôn luôn lúc nào họ cũng giữ cái tâm lặng lẽ của họ thì qua cái lối sống của họ thì biết liền.

Bởi vì nhìn vào cái thất của các con thấy cái này cái kia nhiều thì biết là cái tâm phóng dật chưa hết. Mà nhìn vào cái thất càng ngày càng thấy trống ra, càng ngày càng thấy bớt ra, chỉ còn có bộ đồ mặc không thì kiểu này là sống kiểu hết phóng dật rồi.

Mà hết phóng dật rồi thì cái người này phải có đủ thần lực rồi, và cái người này họ có thiền định rồi, và cái người này họ có những cái lối sống nó không giống như thế gian rồi, nhìn vào đó thì biết rõ ràng.

Còn nhìn vào một cái số chúng là thích nói chuyện này chuyện kia chuyện nọ, qua lại nói này nói kia thì biết rằng những cái người này họ còn tâm phóng dật đó, họ chưa hết.

Ai phóng dật, tu hành chẳng có gì, ai không phóng dật, tu hành có nhiều kết quả tốt, thiền định gì họ cũng đạt được.

Nghĩa là cái người mà tâm phóng dật thì họ tu hành hoài mà chẳng có ra gì hết, còn cái người mà tâm không phóng dật thì họ tu hành càng ngày càng có những cái kết quả càng tốt, đưa đến cái sự kết quả đó làm cho họ thích thú ở trên cái sự tu tập của họ.

Cho nên đây là cái phần tâm chúng ta niệm Phật - lấy tâm mà chúng ta niệm Phật, mà tâm Phật thì không phóng dật do đó chúng ta niệm Phật cũng giữ gìn tâm không phóng dật.

Mà tâm không phóng dật thì cái kết quả càng ngày càng đi đến ở chỗ từ giới luật đến thiền định, đến thần lực, đến đại oai thần, đại oai lực, đều là chúng ta có được đầy đủ những cái thần lực đó trên bước đường tu tập giải thoát, và chấm dứt sự sanh tử luân hồi.

Đó thì đến đây là cái phần tâm niệm Phật đã hết./.

HẾT BĂNG

53 - SƠ LƯỢC PHÁP NIỆM PHẬT - HƯỚNG TÂM PHÁ ÂM THANH

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 53 - SƠ LƯỢC PHÁP NIỆM PHẬT - HƯỚNG TÂM PHÁ ÂM THANH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- SƠ LƯỢC VỀ PHÁP NIỆM PHẬT

(00:00) Và chúng ta sẽ tiếp tục. Hồi nãy là chúng ta Thân, Thọ, Tâm niệm Phật rồi, bây giờ tới Pháp niệm Phật chớ gì? Bây giờ Thầy lược về cái phần Pháp niệm Phật, rồi sau đó chúng ta sẽ có cái pháp hành để mà lấy Pháp niệm Phật. Để trước khi mà chúng ta hiểu rồi thì chúng ta còn phải…​

Pháp niệm Phật là sao? Đây mới là cái khó, mà quý thầy, các con thì cũng không có làm sao mà hiểu được cái Pháp mà niệm Phật. Thân, Thọ thì mình thấy mình hiểu rồi đó, rồi Tâm thì niệm Phật được rồi, Thân thì được rồi, mà giờ Pháp niệm Phật, nghe cái nó lạ lùng.

Cái này mới là chuyện khó chớ, Pháp làm sao, miệng nó ở đâu mà nó niệm được đây? Mà Pháp thì vạn pháp, cái bàn, cái tủ, cái ghế này làm sao nó niệm Phật được? Vậy mà nó niệm được mới giỏi đó!

Đây các con sẽ nghe:

Pháp niệm Phật, vậy Pháp nghĩa là gì?

Trước tiên mình nghe Pháp niệm Phật, thường thường Pháp đầu tiên mình hiểu là những cái lời của Phật dạy thì gọi là pháp, phải không? Rồi sau đó thì các pháp thế gian, rồi các pháp xuất thế gian.

Một lời nói là pháp, một hành động làm là pháp, một cái bàn là pháp, một cái vật này là pháp, một cái nhà là pháp, một cái hành động gì chúng ta làm đều là các pháp hết. Cái pháp nó chỉ chung cho tất cả mọi vật, cho nên tất cả mọi hành động, tất cả mọi lời nói đều là pháp.

Còn ở đây cái Pháp này là cái gì mà nó niệm Phật đây? Chúng ta phải hiểu cái nghĩa của nó, chớ không khéo chúng ta không hiểu rồi chúng ta cũng nghĩ rằng cái lời nói của Phật là pháp, còn hoàn toàn ngoài cái vấn đề đó là không phải pháp thì chúng ta lại hiểu sai.

Vậy Pháp nghĩa là gì?

Pháp không chỉ cho lời dạy của Đức Phật mà Pháp ở đây chỉ phải hiểu là pháp giới.

Pháp giới - phải hiểu nó là pháp giới chớ không phải pháp là lời nói, là cái bài kinh. Thí dụ như nói Tứ Diệu Đế hoặc Tứ Chánh Cần đó là cái pháp, Phật nói cái pháp tu hành. Còn cái pháp này là pháp giới.

Pháp giới là gì?

Một sắc tướng, bây giờ như các con đang ngồi trước mặt Thầy đây mỗi người đều có một cái sắc tướng, mà cái sắc tướng đó là mỗi con người có một cái thân tứ đại, thì mỗi cái thân tứ đại đó gọi là sắc tướng.

Các con nói ra một cái lời nói, cái âm thanh, người thì âm thanh vầy người âm thanh khác, hay hoặc là con chim, con vật gì nó phát ra cái âm thanh, thì âm thanh đó gọi là pháp.

Rồi một cái hoàn cảnh xảy đến, cái hoàn cảnh đó là một pháp. Một cái đối tượng xảy đến, một cái sự việc xảy đến, thì cái đó là một pháp, một pháp v.v…​ đều gọi là pháp.

Đây là pháp giới. Pháp giới nghĩa là cả cái thế gian này, cả vạn hữu, vũ trụ của chúng ta đều là pháp hết. Vậy thì cái pháp niệm Phật là như thế nào?

Vậy Pháp niệm Phật là niệm như thế nào?

(03:02) Bây giờ chúng ta thấy nè, thân Phật là một cái pháp, đối với cái thân Phật cũng là một cái pháp, lời nói của Phật cũng là cái pháp, ý nghĩ của Phật cũng là cái pháp, tất cả mọi hành động gì của Phật đều là pháp hết.

Vậy toàn thân Phật khẩu hành, ý hành, thân hành, tất cả đều là thiện pháp.

Bắt đầu bây giờ mình xét qua ông Phật nè, những cái hành động, những cái gì của ông Phật biến ra hành động hết đều phải là thiện pháp. Nếu mà ác pháp thì làm khổ người ta, đâu gọi ông Phật được.

Cho nên Phật làm, Phật nói, từ cái cử chỉ đi, đứng, nằm, ngồi của Phật đều hoàn toàn là ở trong thiện pháp hết. Cho nên cái pháp của Phật là cái pháp thiện, không thể nào là cái pháp ác được.

Vậy các pháp niệm Phật thì phải là pháp lành.

Cho nên bây giờ mình lấy các pháp khác nè, mình cho nó niệm Phật nè, thì nó phải lành nó mới là niệm Phật chớ, còn nói nó pháp ác thì nó có niệm Phật được không?

Cũng như cái hành động cái miệng ông Phật nè, ổng có chửi ai không? Thì cái pháp mà không có chửi ai, thì ổng khuyên lơn người ta, an ủi người ta cho người ta vui vẻ, thì cái pháp đó là pháp lành. Vậy cho nên khi các pháp mà niệm Phật thì nó cũng làm những cái điều lành chớ không thể làm cái điều ác được.

Đây Thầy đem cái ví dụ. Người trí thì nghe cái ví dụ thì dễ hiểu hơn, còn bây giờ nói thì các con khó hiểu. Cho nên ở đây dạy các pháp niệm Phật thì phải là pháp lành, lấy cái pháp nào, cái bàn, cái ghế, cái này cái kia niệm Phật thì nó lành?

Bây giờ Thầy ví dụ nè, bây giờ cuốn tập này nè, có một người tranh, nói: “Đây là cuốn tập của tôi” Thì cái cuốn tập này là cái pháp, cho nên mình là cái người mà lấy Pháp niệm Phật rồi thì mình có tranh: “Cái tập này của tôi” nữa không? Phải không?

Người ta muốn thì mình cho đi, vì vậy có ai tranh cãi đâu, thì nó phải lành không? Còn mình giật: “Cái này là của tui, chị nhận bậy rồi, cái này là sai, chị muốn giật của tui sao được!” Hai người lại đánh lộn với nhau thì pháp ác rồi!

Còn cái này, khi mà các pháp niệm Phật, đã nói niệm Phật thì nó phải lành, người ta muốn thì cho người ta chớ sao lại muốn giật lại? Các con hiểu điều đó chưa?

Cho nên pháp niệm Phật thì nó thiện quá mà, mà biết như vậy thì ai muốn gì mình cứ cho hết, phải không? Cái bọc ở trong nhà mình mình để dành đựng rau mình cũng cho luôn, thì đâu có ai cãi. Đó là cái tốt nhất.

Bởi vì trên bước đường tu theo Phật rồi, mình hiểu các pháp đều là vô thường hết, cho nên ai muốn thì đều vui lòng, mình cho hết. Thậm chí như cái bát mà ăn cơm của mình, ai có muốn cũng cho luôn, đâu có gì! Ngày mai thì…​ Đâu có gì, lá cây rừng nó có nhiều cái lá dầu lớn vầy nè, phải không?

Các con thấy, Thầy bây giờ có cái bát Thầy mang đi ăn cơm, mang đi khất thực ăn cơm, nhưng mà ngày mai đi ra đường họ nói: “Thấy cái bát của Thầy đẹp quá, con muốn xin làm kỉ niệm!” Được rồi, được rồi cứ lấy đi. Thầy giờ lấy cái gì đi xin cơm đây?

Thầy vô trong rừng Thầy mới bẻ, kéo cái nhánh cây dầu xuống. Các con biết cây dầu không, cái lá bự vậy nè. Thầy mới lấy năm, bảy cái lá vầy, Thầy kết nó lại, Thầy chầm cái bồ đoàn, phải không? Trời nắng Thầy đội lên đầu, mà hễ đi tới chỗ khất thực là Thầy để đó, Thầy xin cơm Thầy bỏ vô đây, thì Thầy đem về Thầy ăn, có gì đâu phải mang cái bát!

Phải không? Cái người tu bao giờ cũng có trí tuệ hết. Mà người ta có xin cái đó nữa, mình cho cái đó nữa, mình về trong rừng mình hái cái lá khác mình làm nữa, làm sao hết lá rừng? Phải không, cái đời sống tu hành không có cái gì của mình hết, ai muốn, cho hết. Cho nên gọi là Pháp niệm Phật.

(06:21) Còn bây giờ các con thấy: “Cái này tốt quá, tui làm sao tui cho anh được!” Thành ra nó chưa niệm Phật, pháp này là chưa tốt, phải không? Ông Phật thì ổng xả hết mà! Cho nên vì vậy đối với Pháp niệm Phật là phải pháp tốt, các con hiểu chớ?

Cho nên bây giờ có cái y này, có người muốn, mà Thầy nói: “Thầy bây giờ có một cái y, làm sao?” Như vậy là cái pháp này chưa niệm Phật được. Phải không? Niệm Phật thì phải cho người ta chớ. Cho nên các con thấy, ai muốn, Thầy cho hết.

Rồi bắt đầu đó thì mình lấy những cái vật mà người ta thấy xấu quá, người ta không muốn nữa thì chắc chắn là người ta không xin. Lấy cái y rách mình đắp lên chắc không ai xin, lấy cái vải thây ma mà người ta bỏ đó, chắc người ta sợ quá người ta đâu có xin!

Những cái này người ta còn xin, người ta thấy cái này người ta muốn để kỉ niệm. Thầy nhớ có nhiều người lấy cái đôi dép Thầy cất để dành để làm kỉ niệm, để mai mốt Thầy có chết đi họ lấy cái đó họ thờ!

Bởi vậy cho nên tất cả những cái pháp mà niệm Phật nó là pháp lành. Bây giờ các con mới hiểu Pháp niệm Phật rồi chớ gì? Chớ hồi nào không khéo các con cứ không hiểu Pháp niệm Phật đâu. Bởi vì niệm Phật như vậy, cái Pháp niệm Phật nó làm cho tâm hồn mình giải thoát dữ lắm, nó không còn cái gì là cái của mình hết.

Ví dụ có một người thân bị chết…​

Bấy giờ đó, tức là đứng trước cái pháp tử biệt sanh ly của một cái người chết đó đó, bây giờ mình thấy có người thân mình, cha hay mẹ mình chết.

Mình đứng trước cái người chết đó, mình thấy mình buồn khổ, tâm mình khởi buồn khổ, thì cái pháp tử biệt sanh ly mà mình buồn khổ thì pháp đó pháp thiện hay ác pháp?

Pháp ác các con, nó khổ là pháp ác chớ sao. Mà bây giờ mình vui cười, nó thiện không? Đâu thiện con, vui cười nó cũng ác. Bởi vì thương nó cũng khổ phải không, mà vui cười thì nó cũng khổ.

Cho nên mình chẳng buồn khổ, mình chẳng buồn chẳng khóc, mà cũng chẳng vui. Chết thì đó là nhân quả, các pháp nó vô thường thì cha mẹ phải chết thôi.

Vậy mà các con thấy không, khi đứng trước một cái mất mát của mình như cha mẹ mình chết đi, không phải là vô tình, mà mình biết đó là nhân quả, đó là cái tứ đại, các pháp đều là có cái sự vô thường như vậy, cho nên tâm mình nó không phải vui.

Vui thì nó cũng là pháp ác, mà buồn khổ thì nó là pháp ác. Cho nên hai cái này - bởi vì trong cái vui nó sẽ có cái buồn, nó đối đãi mà, thì tức là các con vui tức là các con không thương cha mẹ: “Ông bà hồi đó đối xử với tui quá tệ, cho nên giờ ổng chết là tui mừng”, phải không?

Nhưng mà các con cười tức là các con vui, là hồi đó cha mẹ của mình đối với mình như thế nào đó cho nên bây giờ mình vui lắm, thì đó cũng là pháp ác rồi, đâu có đúng, cho nên mình không vui.

Bởi vì trước cái sự luân hồi sanh tử của mỗi người, ai cũng giống như ai, cho nên mình không khổ trước cái chỗ mất mát đó, mà mình cũng không vui trước cái chỗ mất mát đó, đó là cái tâm thanh thản của mình. Các con thấy không? Đó là cái thiện pháp, đúng là cái pháp lành.

(09:16) Chớ còn không khéo mình nói không buồn, mình vui thì nó hai cái pháp đối đãi rồi. Nó đối đãi thì nó có buồn có vui thì nó mới có những cái nhân quả của nó chớ. Còn nếu mà không buồn không vui thì tức là đâu có thiện đâu có ác đâu mà, thành ra mình giải thoát hoàn toàn.

Vì vậy mà trong đạo Phật trước cái mất mát đó người ta không có khóc mà người ta cũng không có cười, mà người ra rất thản nhiên vì người ta đã biết được nhân quả. Cho nên các pháp niệm Phật là phải thản nhiên. Cho nên nó chẳng là bất lạc, bất thọ khổ mà, nó thản nhiên ở trong cái cảnh đó.

…​nếu quý vị buồn tức là pháp ác, nếu quý vị không buồn tức là pháp thiện.

Không buồn mà không vui đó, thì nó là pháp thiện, chớ vui nữa thì không được.

Vậy pháp thiện tức là Pháp niệm Phật.

Cái tâm mà thanh thản trước cái sự mất mát đó, đó là mình đang ở trong cái Pháp niệm Phật, cái pháp đó nó đang niệm Phật, nó mới giữ được cái tâm của mình lúc bấy giờ.

Nếu quý vị bị người ta mắng chửi đó là quý vị gặp pháp ác.

Nghĩa là mình gặp pháp ác.

Nhưng quý vị dùng pháp đó niệm Phật thì pháp đó có tức giận nữa không?

Nếu người ta chửi mình, mình nói bây giờ mình gặp cái pháp ác rồi đây, mình nên lấy cái pháp này cho nó niệm Phật đi, thì trong khi nó niệm Phật thì tâm mình có chửi người ta không?

Các con thấy phải không? Bây giờ mình gặp pháp ác mà, là bắt pháp nó phải niệm Phật. Bởi vì cái pháp đó nó đến với mình, người ta chửi mình chớ phải chửi người khác sao, mình bắt cái pháp của người ta niệm Phật được sao, phải không?

Bây giờ người ta chửi mình chó nè, như vậy là bây giờ mình gặp pháp ác rồi. Tui sẽ lấy cái pháp ác này tui bắt nó niệm Phật, thì do đó cái tâm của mình bắt nó niệm Phật, nó có chửi không? Ông Phật ông đâu có giận, phải không?

Còn các con lại không bắt cái pháp niệm Phật cho nên các con sùng lên: “Mày chết đó nghen, mày chửi tao chó thì mày cũng phải trâu!” Phải không, các con thấy điều đó không? Đó là các con không có lấy pháp mà niệm Phật.

Còn Thầy ở đây lấy pháp niệm Phật, cho nên tâm Thầy không giận. Phải không? Như vậy là Thầy biết tu, tức là Thầy biết lấy pháp niệm Phật. Có đúng không? Phải đúng chớ, lúc bấy giờ chúng ta biết lấy pháp niệm Phật mà. Ông Phật thì đâu có giận.

Vậy thì pháp này nó có ác đi nhưng tâm chúng ta biết lấy nó niệm Phật thì tức là nó phải thiện liền. Vì vậy mà cái bà này hay cái ông kia chửi mình một hơi, nói: “Chửi sao mà như chửi gộc cây vậy, không biết gì hết!”

Tại vì pháp của ông, ông đem lại tui, tui bắt nó niệm Phật hết rồi, cho nên bây giờ nó đâu có giận. Thôi bây giờ ông về chớ ông chửi một hơi nữa tui bắt nó niệm Phật hết, cái tiêu cả ông luôn! Cuối cùng thì không ai làm gì mình được hết mà mình giải thoát. Phải không, các con thấy không?

Đó, đó là mình biết lấy pháp mà niệm Phật. Đó Thầy nói đơn giản vậy phải không? Cho nên các con, nhiều khi các con không biết lấy pháp mà niệm Phật mà trái lại, thí dụ như bữa đó, cô Út rầy rà mắng Thầy luôn, Thầy lấy pháp Thầy niệm Phật, trời ơi, vì vậy mà tâm Thầy ngồi như cục đất, còn Đào thì cái mặt sù sụ. Có không? Thầy nói thật mà.

Tại vì không biết lấy pháp niệm Phật, còn Thầy biết lấy pháp niệm Phật. Cho nên Thầy biết lấy bốn chỗ niệm Phật mà Thầy giải thoát, còn các con chẳng biết niệm Phật cho nên không giải thoát. Có không? Thầy nói thật mà. Ở đây bằng chứng cụ thể mà, cho nên các con thấy rõ ràng phải không.

(12:28) Bởi vậy cái người tu mà người ta có pháp rồi mà pháp của bậc Thánh, bậc chân nhân rồi thì làm sao mà người ta khổ được, người ta như cục đất rồi. Còn các con không có pháp cho nên cái miệng méo xẹo, con mắt đổ nước mắt đó, không có giải thoát được.

Ở đây Thầy dạy cụ thể quá mà, pháp hay quá mà, tại các con không chịu tu thôi chớ chịu tu là giải thoát từng phút, từng giây. Cho nên đạo Phật nói: Đạo Phật không có thời gian, đến sẽ thấy được sự giải thoát của nó. Bây giờ đó thì các con lần lần mới hiểu pháp niệm Phật rồi chớ gì? Hay quá phải không?

Nếu không tức giận đó là pháp niệm Phật, còn tức giận thì pháp đó không niệm Phật.

Phải không, thấy rõ phải không?

Nếu quý vị bị nhức đầu, đau nhức, khó chịu, quý vị gặp pháp thọ này rồi…​

Cái đầu mình đang nhức tức là mình biết cái pháp nhức rồi, cái pháp thọ đây nó nhức rồi. Cũng như mấy con, trời ơi cái vai tui đau quá, tui đau khớp xương nhức quá, như vậy kiếm thuốc đồ uống, như vậy là các con bị pháp đó mà quên không lấy nó niệm Phật mất rồi, chớ còn lấy nó niệm Phật thì đâu có đau.

Phải không, các con nhớ. Ở đây Thầy đi từng bậc từng bậc để các con thấy dùng pháp niệm Phật để cho nó thấy nó giải thoát mà. Bởi vì biết niệm Phật là giải thoát hết.

Nếu quý vị bị nhức đầu, đau đớn, khó chịu, quý vị gặp pháp thọ này lấy đó mà niệm Phật thì pháp đó không còn lo sợ, đau đớn, thống khổ nữa đối với quý vị.

Nếu mà quý vị biết dùng cái pháp đó tức là bắt nó niệm Phật thì nó niệm Phật thì nó sẽ hết đau nhức. Tại sao vậy? Tại vì có một lần Đức Phật nói như thế này nè: Khi mà chúng ta gặp cái thọ đau nhức đến cái sức chịu đựng tận cùng của sinh mạng của chúng ta mà tâm chúng ta bất động thì nó sẽ mát lạnh.

Phải không? Bây giờ mình bắt nó niệm Phật thì nó mát lạnh chớ có gì đâu, bởi vì ông Phật ổng mát lạnh chớ ông đâu có nhức đầu đâu. Đó cho nên chúng ta thấy, do bắt cái pháp đó niệm Phật, bắt cái pháp thọ khổ này niệm Phật thì mình cũng sẽ hết đau khổ.

Bởi vậy các pháp đến với quý vị mà quý vị biết lấy đó niệm Phật thì tâm của quý vị có kết quả giải thoát ngay liền.

Đó, thì quý vị thấy cái chỗ tu tập của Phật pháp nó thực tế và cụ thể. Mà đây là chúng ta mới có - đầu tiên là lấy Thân, Thọ, Tâm của chúng ta niệm Phật, phải không? Lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Phật, Thầy vừa dạy rồi, rồi bắt đầu từ đây về sau chúng ta lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Pháp, phải không? Rồi từ đây về sau chúng ta lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta để niệm Tăng.

Bây giờ để kết luận cái chỗ này, cái chỗ mà lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta mà niệm Phật.

(15:14) Vậy thì còn những cái pháp hành của lấy Pháp mà niệm Phật thì tiếp tục ngày mai, ngày tới Thầy sẽ dạy các con về pháp hành lấy Pháp mà niệm Phật.

Vậy thì còn pháp hành, mà nãy giờ Thầy chỉ giải thích cho các con hiểu chớ các con có pháp hành chưa? Các con mới hiểu mà chưa có pháp hành phải không? Mới có hiểu sơ sơ thôi.

Vậy thì Thầy sẽ dạy cho các con cách thức, cái pháp hành lấy Pháp mà niệm Phật. Còn hồi nãy lấy Tâm mà niệm Phật, lấy Thọ niệm Phật, lấy Thân niệm Phật, nó có pháp hành kèm theo rồi phải không?

Ở đây thì Thầy mới tổng quát cho hiểu. Bởi vì Pháp niệm Phật nó khó hiểu, phải giải thích cho các con hiểu đã. Rồi khi hiểu rồi bắt đầu mới dạy cho các con: Mỗi cái pháp mà nó đến thì mình phải trạch pháp nó như thế nào để mình áp dụng như thế nào.

Cũng như người biết áp dụng rồi thì người ta biết lấy cái pháp liền, người ta áp dụng liền qua một cái trạch pháp, ngay có đối tượng người ta mắng mình thì ngay đó mình trạch cái pháp đó ra, mình nhắc: “Bây giờ phải lấy cái pháp này mà niệm Phật liền, đừng có để cái tâm mình động, phải bất động!”

Do đó cái bắt đầu mình nghe người ta chửi mà cái tâm mình nó bất động, bởi vì bắt cái pháp của họ nó vô niệm Phật rồi. Mình lấy cái pháp của người ta đó mình đem vô cho nó niệm Phật rồi, thì do đó cái tâm mình nó bất động, nó giải thoát, nó ly hết tất cả cái các pháp ác ra rồi, nó không còn ở trong tâm mình.

Vậy thì Thầy sẽ tiếp tục ngày khác Thầy sẽ dạy các con về cái hành pháp, cái giới hành của cái Pháp niệm Phật, để các con học được những pháp này để cho nó trọn ở trong cái vấn đề tu tập của mình là lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Phật. Rồi sau đó thì các con sẽ học đến lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Pháp, lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Tăng.

Đây là mới bước đầu vô mà các con đã thấy nó có những cái đặc biệt và những cái vi diệu của con đường tu tập của nó.

2- TU TỨ BẤT HOẠI TỊNH CHỨNG ĐƯỢC QUẢ DỰ LƯU

(17:02) Bây giờ Thầy sẽ kết cái phần kết này để cho thấy rằng Đức Phật cũng đã xác định cho chúng ta biết rằng cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, như Thầy đã nói, đã dạy cho các con biết, nó còn có những cái tên mà Thầy đã nói ra cho các con biết, còn gọi là cái tên Tứ Kỉnh Pháp, tức là cái pháp mà cung kính nơi Phật - Pháp - Tăng, tức là ba cái ngôi Tam Bảo mà người ta gọi là quy y Tam Bảo đó, thì mình biết cái Tứ Bất Hoại Tịnh này nó còn gọi là Tứ Pháp Kính, bốn cái pháp kính.

Vậy thì bốn cái pháp kính này mà cái người mà biết cách tu hành thì ngay cái đời sống chúng ta đã giải thoát được cái tâm của mình, không còn đau khổ nữa. Không có cần tu nhiều pháp đâu, tu bây nhiêu đây chúng ta cũng đã thấy chấm dứt được sanh tử luân hồi. Ở đây Phật có kết luận:

Tứ Pháp Kính là gì?

Là Thánh đệ tử sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn…​

Nếu muốn, thì người ấy trải qua cái thời gian mà tu tập, nếu mà người đó thật sự tu tập rồi thì thấy được cái kết quả của nó.

…​người đó có thể tự tuyên bố về mình như sau:

Sau một thời gian mà tu tập cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh này, người đó sẽ tuyên bố cho chúng ta biết rằng - ở đây Phật nói cái người đó mà thực hiện thì họ sẽ tuyên bố như thế nào? Họ sẽ tuyên bố cái pháp họ tu hành, nó như thế này:

Đối với ta sẽ không còn ở địa ngục nữa.

Nghĩa là bây giờ mình có lúc nào mình hờn giận đâu các con, phải không? Mình đâu có lúc nào mình buồn khổ nữa đâu các con! Bởi vì Thân Thọ Tâm Pháp của mình hoàn toàn nó niệm Phật hết thì nó giải thoát hoàn toàn, nó đâu còn địa ngục nữa. Cho nên Phật nói: Đối với ta không còn địa ngục nữa.

Sẽ không còn có tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú nữa.

Nghĩa là tất cả - khi cái người mà tu cái pháp này thì coi như là không có địa ngục đối với họ, không có sanh vào cõi bàng sanh, không có cái cõi ngạ quỷ, đọa xứ đau khổ, ác thú nữa, nghĩa là họ không bao giờ sanh trở thành ác thú được. Tâm họ nó quá thiện rồi, nó đâu còn gì nữa đâu mà nó trở thành những cái cõi ác đâu. Đó là cái tuyên bố đầu tiên của họ.

(19:13) Ta đã chứng quả (Dự Lưu)…​

Nghĩa là con đường đi chưa đến tới cái đích nhưng mà dự lưu, thì chúng ta đã dự vào cái phần Thánh, nghĩa là ta đã chứng vào, dự vào cái phần - trở thành những bậc Thánh chớ không phải còn là những phàm phu tục tử nữa.

…​nhất định không đọa ác đạo, sẽ đạt được Chánh Giác.

Nghĩa là ngay từ cái chỗ mà tu cái Tứ Bất Hoại Tịnh này, chúng ta sẽ tuyên bố rằng chúng ta sẽ đạt được Chánh Giác, nghĩa là trở thành những bậc giải thoát hoàn toàn, chấm dứt sanh tử luân hồi, chớ không phải là còn…​ Thấy biết rất rõ ràng.

Thôi bây giờ Thầy nói thật sự, các con cứ nghiệm xét đi. Nếu mà các con nãy giờ nghe Thầy giảng như vậy mà các con sống đúng như vậy, từ Pháp niệm Phật nè, từ Thọ niệm Phật nè, từ Tâm niệm Phật như vậy nè, từ cái Thân niệm Phật như vậy, các con thấy lòng các con có bao giờ mà buồn khổ không? Có cảnh giới nào mà lôi các con được không? Phải không?

Như vậy là còn cái cảnh địa ngục, còn ác thú, còn cái ngạ quỷ ở chỗ nào ở trong những cái vấn đề hiện tại này nữa. Cho nên các con - ngay cả pháp đó là các con đã thành Chánh Giác rồi, thành bậc Chánh Giác rồi. Cho nên ở đây người ta còn khiêm tốn, Phật còn khiêm tốn: “Sẽ thành Chánh Giác.”

Cái tâm mà giải thoát như vậy là cái tâm ly dục ly ác pháp rồi. Mà ly dục, ác pháp rồi thì cái sự sử dụng để cho các con nhập Tứ Thiền để làm chủ sanh tử thì nó bao lâu? Chớp mắt mà thôi, đâu còn lâu nữa.

Nhưng các con thấy cái pháp Thầy dạy, từ lâu chưa từng ai mà dạy các con niệm Phật kiểu này, mà hôm nay có Thầy dạy các con niệm Phật kiểu này, Thầy nói một năm mà các con niệm kiểu này đi rồi các con sẽ thấy các con sẽ thành ông Phật chớ đừng nói!

Phải không? Các con sẽ tu đi. Đừng có tu cái gì khác hết. Mà hồi nào tới giờ các con niệm Phật bao lâu không? Nhất là cô An Tịnh này niệm Phật dữ lắm nè. Phải không? Con niệm Phật dữ lắm, mà bây giờ chưa có hết phiền não trong bụng. Còn người ta dạy niệm Phật thì mau hết liền.

Tu sinh:…​ (Không nghe rõ)

Trưởng lão: Ờ, thì con thấy nè: Lấy Thân niệm Phật.

Tu sinh:…​ (Không nghe rõ)

Trưởng lão: Thôi, bây giờ con sẽ nghe băng lại. Đó thì con sẽ niệm, lấy Thân niệm Phật nè, lấy Tâm niệm Phật nè, lấy Thọ niệm Phật nè, lấy các Pháp niệm Phật như Thầy giảng rồi đó, các con nghe rồi, rồi nó ở đâu nó có trạch pháp ở đó, để mà các con lấy đó mà các con nhắc tâm mình hằng ngày, để tới khi mà gặp đụng nó thì các con biết sử dụng liền, thì ngay lúc bấy giờ địa ngục không có ở dưới tâm các con nữa.

Như vậy là niệm Phật theo cái kiểu Nam Mô A Di Đà Phật tới bây giờ thì chưa giải thoát, mà Thầy dạy như vậy, nếu một năm mà chuyên cần thì chắc các con niệm Phật mau giải thoát lắm á!

Đúng không? Phải ráng đi chớ! Nghe hay thì phải làm chớ! Hay mà không làm thì ai làm cho? Bởi vì Phật nói phải tự thắp đuốc lên mà đi, chứ không thể nào mà người khác thắp đuốc cho mình được. Đó. Như vậy là các con đã hiểu biết được rồi thì phải cố gắng thêm lên cho cái sự tu tập của các con có tiến bộ hơn.

3- TRẢ LỜI GÓP Ý VỀ ĐÀO TẠO NGƯỜI DẠY ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ

(22:01) Và đồng thời hôm nay thì có một người bên nam có gởi cho Thầy một bức thơ nhân dịp vì không có thời gian và Thầy cũng góp ý thêm với các con có những cái ý kiến, bởi vì ở đây qua cái sự giảng dạy của Thầy và qua cái tâm nguyện của Thầy thì mọi thầy cũng có góp những cái ý kiến.

Sau các con sẽ nghe băng, là có người thì góp ý kiến với Thầy là ngày tháng gần hết rồi, xin Thầy dạy cho biết Tứ Thiền và Tam Minh để chúng con nắm cho vững cái đó mà tu hành cho nó nhanh chóng, chớ còn cái thời gian nó không còn lâu nữa mà mỗi pháp thì cái thời gian dài quá, nhất là cái pháp hành thì nó lại còn nhiều nữa. Do như vậy thì Thầy sẽ trả lời ở trong đó.

Còn ở đây là một cái góp ý rất là to lớn ở trong cái bước đường vì lợi ích chúng sanh, vì cái sự giải thoát cho mọi người, vì cái hạnh phúc cho mọi người ở trên thế gian này, thì vị thầy này có góp ý kiến với Thầy như thế này:

“Nam Mô Bổn Sư…​ (Mất tiếng)

Con được nghe Thầy giảng dạy, được biết nguyện vọng to lớn của Thầy cứu độ chúng sanh với ước vọng lập trung tâm an dưỡng, từ thiện xã hội.

Khuya rồi, sau khi đi kinh hành, con dừng lại và nhớ đến những phương trình mà Thầy đã vạch ra. Con tự nghĩ nếu Thầy không làm thì ai làm được cho đất nước, cho xã hội mình? Con tư duy và bỗng có một ý kiến sáng lên trong tâm con, con xin trình bày cho Thầy nghe, nếu có gì sơ sót cúi xin Thầy miễn thứ cho.

Kính bạch Thầy!

Với hoàn cảnh đất nước và xã hội hiện thời không có người đủ gương hạnh để dìu dắt quần chúng làm điều thiện, tránh điều ác, nên việc cần thiết là phải đào tạo một số người có khả năng hiểu biết giáo lý Phật pháp, đạo đức nhân quả, đầy đủ giới hạnh nghiêm túc. Sau khi được Thầy huấn luyện hai, ba năm, Thầy cho về địa phương, ở trong chùa hoặc cất cốc riêng, việc sống và tùy duyên, tùy hoàn cảnh để đi hoằng hóa Phật pháp theo chương trình Thầy dạy.

(24:11) 1. Từ gương hạnh Thầy dạy, quý vị này sẽ làm gương hạnh tại địa phương, hòa đồng với dân chúng.

2. Gương hạnh này sẽ thu hút được lòng tín ngưỡng của nhiều người, họ có thể hướng dẫn thêm nhiều người bước dần về đạo.

3. Còn một việc quan trọng mà con muốn nói đây là quý vị đó sẽ đến các viện dưỡng lão, cô nhi viện, bệnh viện, trại cùi, trường học, nhà thương, câu lạc bộ, cán bộ hưu trí để hòa nhập và phổ biến đường lối đạo đức nhân quả.

Như vậy Thầy sẽ có vô số trung tâm an dưỡng, sẽ có một trung tâm an dưỡng to lớn của xứ Việt Nam và có thể lan truyền đến nhiều nước khác, mà Thầy không tốn kém tiền bạc xây dựng, nuôi dưỡng mà sự thành công sẽ to lớn và dễ dàng hơn.

Nên con kính đề nghị xin Thầy tổ chức Tu viện với chương trình đào tạo hai loại tăng ni: tăng ni thể nhập và tăng ni thể hiện. Các vị tăng ni thể nhập chuyên tu để làm gương hạnh là trụ cốt của đạo Phật. Còn các vị tăng ni thể hiện sẽ phục vụ một thời gian, sau đó có thể trở về Tu viện để tiếp tục tu giải thoát.

Chỉ cần một thời gian, tư tưởng đạo đức nhân quả sẽ lan rộng thấm nhuần lần lần trong dân chúng, người dân chỉ biết làm việc thiện, nước Việt Nam sẽ là cõi cực lạc.

Kính bạch Thầy!

Với ý nghĩ thô thiển của con, với tâm lành con có ý như vậy, nếu có gì sơ sót, kính xin Thầy miễn thứ cho.

Kính bạch Thầy!”

Đó là cái lời gợi ý và góp ý với Thầy. Thầy thấy một cái điều này thì nó rất là hay, nhưng các con biết rằng làm một cái việc gì cũng phải có nhân sự.

Cái nhân sự đó là phải đào tạo, nhưng mà cái giáo trình đạo đức nhân quả thì mặc dù từ lâu Thầy có dạy nhân quả nhưng cái giáo trình nó chưa được biết, và đồng thời thì cái giáo án về Phật pháp từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, thì hiện bây giờ nó chưa có cái giáo án nữa, cho nên người ta chưa biết con đường của đạo Phật thế nào đúng mà thế nào sai.

Đó. Bây giờ cái giáo án mới ra đời nè. Rồi lần lượt cái giáo trình của đạo đức nhân quả thì Thầy mới lần lượt…​ Có một mình Thầy mà làm mọi mặt thì các con hiểu.

Như trong băng Thầy đã nói, trong cái cuộc đời mà tu hành xong rồi, cách đây 17 năm, khi mà tu xong rồi thì Thầy trở về thăm Hòa thượng. Cái đầu tiên trước nhất là Thầy về thăm Hòa thượng, trình lại cho Hòa thượng biết rằng Thầy tu hành như thế đó, kết quả làm chủ được cái sự sống chết như vậy, và đồng thời thì Thầy xin Hòa thượng nhập Niết Bàn.

(27:15) Nếu mà Hòa thượng đồng ý trong lúc đó đó thì Thầy sẽ xin Hòa thượng: 7 ngày đêm Thầy sẽ nhập định ở tại Tu viện Chơn Không, và cái ngày mà xuất định ra, Thầy sẽ xin xả bỏ cái thân này trong một cái sự tu tập của mình để làm niềm tin chung cho tất cả chúng, cho tất cả Phật tử.

Hầu như là những người này đang theo Hòa Thượng tu hành, người ta thấy rằng trên con đường tu tập có một bậc ngồi thiền suốt 7 ngày đêm bất động, đó là làm cái gương cho người ta thấy rất cụ thể. Bởi vì Thầy về tại Tu viện Chơn Không bây giờ thì tức là cái gương hạnh đó làm sao mà ai lại không đến xem, phải không?

Cái thứ hai là cái ngày cuối cùng mà Thầy ra định, xuất định ra đó, thì cái ngày đó là cái ngày mà Thầy xả bỏ thân này, Thầy nhập diệt, bằng cách tự tại hẳn hòi đàng hoàng, muốn đi là hồi nào đi. Như vậy sau khi Thầy ra đi rồi thì Thầy để lại cho Hòa thượng cái tài liệu, cái kinh nghiệm tu hành đó, Hòa thượng sẽ nghiên cứu mà dạy chúng.

Từ đó Thầy hoàn toàn là không có danh lợi, Thầy từ giã, Thầy ra đi rồi, nhưng mà Thầy để lại cái kinh nghiệm đó để cho Hòa thượng độ người ta, dạy người ta tu hành, để người ta cũng kết quả được làm chủ như Thầy.

Đó là cái vai trò thứ nhất, trong cái lời thỉnh nguyện mà sắp sửa các con sẽ nghe, Thầy đã có nhắc lại trong cái lời thỉnh nguyện đó.

Cái phần thứ nhất thì nó không đạt được kết quả, Hòa thượng yêu cầu Thầy ở lại để giúp Hòa thượng chấn hưng Thiền Tông chớ không cho Thầy nhập diệt, cho nên cái điều kiện thứ nhất là không thành rồi.

Đến cái điều kiện thứ hai là sau khi mà Thầy được Hòa thượng giao cho một khu đất ở Phước Hải, Thầy nhận cái khu đất đó, rồi Thầy tổ chức ở khu đất đó. Lúc bấy giờ đó thì coi như là quý thầy ở Thường Chiếu đăng ký ra ở ngoài đó hết, làm cho Thường Chiếu náo động.

Lúc bấy giờ thì coi như là, thấy cái sự náo động ở Thường Chiếu như vậy là nó đã tan vỡ cái vai trò thứ hai rồi. Lẽ ra quý thầy tuần tự, Thầy chọn người nào thì ra đó, đây các thầy đều ào ào xin đăng ký ra đó hết, bỏ Thường Chiếu hết, trống bóc à! Lúc bấy giờ nó rất là náo loạn, làm cho trong Thường Chiếu rất là khó khăn.

Cho nên Thầy cũng gặp cái khó khăn đó, cho nên cái chương trình mà…​ Vì vậy mà có cái lời thỉnh nguyện sám hối đó. Những cái điều kiện khó khăn đó là do quý thầy ham tu chứ không phải gì, muốn theo cái cách thức tu hành của Thầy để làm chủ sanh tử chớ không phải gì, cho nên xin ra đó hết. Đó là cái khó khăn thứ hai.

Đến cái khó khăn thứ ba, là sau khi mà ra thất ở đây 3 năm, nhập thất ở đây, Thầy mới soạn ra hai cái cuộn băng. Cái cuộn thứ nhất là “Phật Môn Bảo Huấn”, các con được nghe rồi chớ?

Cái cuộn thứ hai là “Trở Về Với Đức Phật”, Thầy so sánh giữa hai cái loại thiền: Thiền Đông Độ và Bốn Thiền của Phật để cho Hòa thượng nghiệm xét cái đó, để cuối cùng Thầy chỉ cần Hòa thượng muốn hỏi Thầy: Tại sao mà so sánh hai cái thiền như vậy, giải thích cho Hòa thượng nghe? Thầy chỉ cần giải thích cho Hòa thượng như thế nào để cho thầy trò nắm cho vững cái cách thức kinh nghiệm tu tập này.

(30:15) Đồng thời thì ngay tại Trúc Lâm đó thì Hòa thượng vẫn giảng dạy họ như thường, nhưng mà trong đó Thầy chọn những cái người mà đã quyết tu để mà tìm lấy cái sự giải thoát, đâu phải cái số đó là nhiều được? 5, 6 người là hết sức rồi chớ gì? Do đó Thầy chọn 5, 6 người đó, Thầy xin Hòa Thượng cho họ ở trong cái khu vực riêng biệt.

Và Thầy về Trúc Lâm, Thầy ở một bên với các vị đó mà Thầy dẫn dắt các vị đó, đào tạo họ trong 5 năm hay 3 năm hoàn toàn họ tu xong, thì đó là những cái người nòng cốt của Tu viện Trúc Lâm. Từ đó thì coi như là Thầy xong cái nhiệm vụ giúp Hòa Thượng rồi.

Thầy đã nói ở trong băng mà, Thầy chỉ làm cái viên gạch để cho Hòa thượng xây lại cái tòa nhà của Phật giáo mà. Thì đó là Thầy muốn mình làm cái viên gạch, không có để cho người ta biết tai tiếng mình là người như thế nào hết.

Chớ không phải là Thầy dạy như bây giờ đâu, mà Thầy chỉ âm thầm ở đó để mà Thầy độ cho những người mà làm được, để từng đó người ta thấy con đường Thiền Tông của Hòa thượng có những người tu làm chủ được sanh tử. Rồi những người mà muốn được như vậy thì sống đúng giới hạnh của Phật qua cái sự hướng dẫn của Thầy.

Còn những người nào mà chưa sống được, ăn ngày 3, 4 bữa thì cứ sống, Hòa thượng giảng kinh, thuyết giảng cho họ sống thường thường, để chọn lấy những cái người mà đi sâu vào, và đồng thời thì những cái người đó họ còn làm những việc từ thiện hay hoặc này kia cho xã hội thì còn tốt thôi.

Nhưng mà ba lần không đạt được, ba lần không đạt được. Cho nên cuối cùng thì Thầy phải viết cái giáo án này ra để dựng lại những cái gì của Phật pháp, để làm sáng tỏ.

Chớ nếu những người này mà được hướng dẫn mà tu xong rồi thì lần lượt người ta cũng đã biết rằng cái đường nào đúng, cái đường nào sai rồi, cho nên những cái gì lần lượt rồi họ sẽ bỏ đi, mà âm thầm, nó không có bị chống đối, phải không? Nó âm thầm ở trong đó, đâu có chống đối.

Người ta thấy cái đúng là người ta cứ theo, người ta thấy người giữ gìn giới hạnh, ăn ngày một bữa, sống tu hành mà có kết quả, còn những người ăn 3, 4 bữa không kết quả, tự ngầm nó bỏ ra hết, các con hiểu điều đó, mà không có nghe nói bây giờ chống cái này là người ăn 2 bữa người ăn 3 bữa.

Như bây giờ là con thấy cái giáo án của Thầy Thầy đập sạch xuống hết, thì không phải là người ta điên cái đầu người ta sao? Người ta tự ái người ta chịu nổi không? Đâu có chịu nổi, phải không! Nhưng nếu dựng lại Phật pháp mà không chỉ cái sai của họ thì người ta cứ vẫn nói người ta đúng không à, còn mình vạch ra như vậy người ta mới thấy được cái sai cái đúng.

Do đó bất đắc dĩ mà đến cái giai đoạn cuối cùng này, Thầy nói không phải là Thầy sợ ai mà Thầy trốn, mà Thầy ẩn bóng để làm một cái gương, để may ra đủ cái duyên mà người ta hướng đúng cái đường lối mà Thầy đã vạch ra họ đã nghe, cái việc đúng mà họ đã theo tu như vậy, thì cái con đường mà của Thiện Huệ vạch ra mà trong giáo án Thầy đã dạy thì các con thấy rất rõ hai cái lộ trình.

(33:02) Cái lộ trình thứ nhất là cái lộ trình của một cái người cư sĩ, tức là thể nhập, thì cái người này phải thực hiện cái đạo đức nhân quả chớ gì? Đem cái nhân quả này mà dạy cho từng mọi người trên thế gian này, trên cái hành tinh này, một cái hành động thiện thì người ta chấp nhận người ta làm mà hành động ác người ta không làm, người ta biết đó là ác.

Nhưng bây giờ cái giáo trình nhân quả đã viết ra thì người ta sẽ học cái giáo trình này người ta biết cái hành động đó là hành động ác, hành động đó là hành động thiện, người ta biết, mà hành động ác người ta không làm thì tức là người ta đem lại cái kết quả tốt cho họ, cái đời sống giải thoát cho họ, thì ai lại không ham cái giải thoát, ai lại muốn mang cái khổ đến cho mình? Các con hiểu điều đó.

Cho nên do đó cái người mà thể nhập ở trong con người thì đó là những người cư sĩ chớ không phải là người tu sĩ.

Cho nên cái lộ trình thứ nhất mà Thầy nói đó là cái lộ trình chiếc áo cư sĩ, hoàn toàn họ đem cái đạo đức giải thoát này họ dạy.

Rồi trong các trường học được đem cái đạo đức này dạy cho các em mầm non của Tổ quốc, đều là trang bị cho nó một cái đạo đức nhân quả, vì vậy mà nó lớn lên không bao giờ mà nó có thể giết người được, không có thể nó làm một cái điều ác, không bao giờ nó có thể lấy trộm hay cướp giật của ai được hết, hoàn toàn nó thấy những cái điều đó là những cái điều không đúng, những điều xấu.

Còn bây giờ mình không dạy nó cái đạo đức nhân quả, nó biết cái gì đâu là thiện, biết cái gì đâu là ác? Cho nên từ những người này cho đến những người khác đều là phải học đạo đức nhân quả. Đó là cái bổn phận và trách nhiệm đầu tiên mà Thầy mới có cái ý định xây dựng cái trung tâm an dưỡng từ thiện để đem cái này.

Nhưng mà bây giờ thì Thầy đã di chúc lại, Thầy ủy thác lại cái này cho những cháu còn trẻ tuổi, có đứa thì mới sanh, có đứa thì 5, 6 tuổi, có đứa thì 10 tuổi, mười mấy tuổi, có đứa còn đang đi học.

Tất cả những người này đều là những người thông minh, những đứa con thông minh của Tổ quốc, những đứa con có cái khả năng giỏi và có đủ cái duyên phước, cha mẹ có thể cho đi học ở các trường đại học ở ngoại quốc.

Để làm gì? Để sau này nó đem về, nó trở thành những cái đứa nhân tài của Tổ quốc, thì nó đem cái đạo đức đó mà nó truyền cho đất nước của chúng ta, nó truyền cho tất cả những người dân của chúng ta.

Bởi vì nó là những người - thí dụ như nó lãnh đạo đất nước thì tức là nó phải có những cái quyền hành của nó, nó mới ban hành ra: Bây giờ đem cái đạo đức nhân quả này…​

Mà Thầy đã mớm, đã dạy cho gia đình nó từ lúc bé cho đến bây giờ, nó đã được những cái đạo đức đó, nó đã học được những cái đạo đức nhân quả đó, nó đã thấm nhuần, nó trở thành những đứa con rất là ngoan ở trong gia đình, những đứa học trò rất giỏi ở trong gia đình, cho nên nó toàn là những học trờ giỏi, giỏi cả nước chớ không phải là giỏi ở trong sơ sơ đâu.

Nhưng mà phải nói rằng đó là những cái di chúc của Thầy, để những tuổi trẻ này sau này nó sẽ mang cái đạo đức này, nó trở thành những cái môn học cho tất cả những người dân ở trong đất nước của chúng ta, thì đó là cái hoài bão, cái ước vọng của Thầy.

Nhưng ở đây thì Thiện Huệ thấy rằng chúng ta cần phải tiếp tục ở trên con đường này sớm chừng nào tốt chừng nấy cho nhân loại.

(36:14) Như các con là phần bên nữ, các con cũng có thể là những nhân vật, những người mà có thể đem lại những cái đạo đức nhân quả cho mọi người, chớ không phải không. Nhưng mà các con thấy từ cái ngày mà các con về đây, các con chuyên tâm để mà tu thiền định để giải thoát chớ các con đâu có nghĩ rằng nhân quả.

Cho nên bây giờ mà nói về mở một cái lớp đào tạo 2 năm, 3 năm về đạo đức nhân quả, cái đạo đức nhân quả đó nếu mà muốn mở nó thì phải có cái giáo trình của nó, chớ còn nếu mở nó mà không có giáo trình thì làm sao?

Cũng từ lâu tới giờ, các con thấy Thầy dạy nó có cái giáo án nào mà dạy về tu theo đạo Phật không? Chưa có đâu.

Các con về các con tu hơi thở Thầy dạy hơi thở, các con tu cái gì thì nương theo cái đó mà dạy mà dẫn dắt các con chớ chưa có đặt ra một cái vấn đề gì hết. Mà Thầy chỉ có đặt kỷ luật ra là ăn, ngủ rồi độc cư, rồi bắt đầu đó thì nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thôi, mà người nào không chấp nhận được thì chịu thôi, chớ chưa có cái giáo án nào hết.

Bây giờ mới là viết ra cái giáo án. Viết ra cái giáo án thì vạch ra hai cái lộ trình để cho các con thấy rõ cái nào đúng, cái nào sai, có vậy thôi chớ chưa có dám nói gì hết.

Mà nhiều khi Thầy giảng Thầy thấy những cái sai trên cái bước đường giảng, rồi kinh sách nó để lại những cái sai quá sai, bắt buộc Thầy đập những cái kinh sách đó đi thì nó đụng chạm với quý thầy, với các bậc tôn túc quá nhiều.

Cho nên hầu hết là cái số băng của chúng ta, sau khi chúng ta chia nó làm hai phần. Cái phần mà xây dựng Phật pháp thì chúng ta sẽ được cho người khác nghe, còn cái phần mà đập phá những cái sai của Phật pháp thì chúng ta chưa cho nghe.

Tại sao vậy? Tại vì nghe thì bây giờ họ đang sống như vậy, họ chột bụng chột dạ họ quá đi. Bởi vì họ đang sống cái kiểu đó thì ai lại chịu nổi được cái lời nói mà Thầy đập thiệt, Thầy đập tan nát đi, Thầy bảo họ hôi bò, hôi heo không à. Phải không? Họ tức quá đi.

(38:06) Chớ phải chi nói vừa vừa thôi, đằng này Thầy nói quá nặng đi, cho nên không có thể nào mà chúng ta (cho) nghe cái đập phá.

Nhưng mà sau khi cái xây dựng họ được nghe, họ chấp nhận đúng, chừng mà nghe cái đập phá thì họ không có chột bụng nữa. Còn bây giờ đương không vầy mà nghe nói họ hôi này hôi kia thì họ tức quá, chê họ thúi cái này thúi cái kia thì họ giận quá rồi, họ không thể chịu đựng nổi.

Cho nên ở đây chúng ta phân biệt cái số băng của chúng ta ra thì nó có những cái số băng xây dựng. Như các con nghe Thầy dạy Pháp niệm Phật thì đó là xây dựng lại cái Pháp niệm Phật mà không nói cái niệm Phật của người khác sai, nhưng mà đem lại cái ích lợi của Pháp niệm Phật.

Cũng như Thầy nói tu Tứ Vô Lượng Tâm, tu tập cái tâm từ mà bằng cái sức tỉnh thức của các con, thì các con thấy cái đó nó là thực tế, cho nên nó mang lại cái kết quả của sự tu tập.

Vì vậy các con thấy những cái mà Thầy dạy, cái đó gọi là xây dựng lại, dựng lại những cái Phật pháp mà họ đã quên cái pháp hành đi, họ không hiểu cách thức tu tập, cho nên nó không có đem đến cái sự giải thoát cho họ, vì vậy mà bây giờ họ thấy dạy như vậy hay quá rồi, niệm Phật kiểu này là giải thoát ngon quá rồi, họ thấy xây dựng ngon quá rồi.

Nhưng mà tới chừng mình cho nghe những cuộn băng đập xuống thì rõ ràng là tại họ sống tầm bậy, không đúng giới luật, cho nên họ hôi gà, hôi bò, hôi heo đồ tùm lum thì họ không buồn nữa.

Đúng là ổng dạy hay quá mà, bây giờ ổng nói mình vậy là đúng! Bây giờ hồi nào tới giờ mình đâu có tưởng mình hôi, ai dè ổng nói bây giờ mình mới nhìn lại, thiệt là cái mình mình hôi heo thiệt! Tại vì mình ăn thịt heo phải hôi chớ sao?

Đó, thì bắt đầu mấy ổng mới nhận ra được. Chớ còn bây giờ đùng một cái mình vừa xây dựng mà vừa đập phá thì không được đâu, nó khó lắm.

Cho nên sau những cái cuộn băng, cái lời giảng của Thầy thì tức là Thầy kiểm tra lại hết, Thầy mới soạn lại hết, thì như vậy là sau này. Đó là những cái chương trình, sau những cái ngày mà ra hạ rồi thì các con về thăm nhà, hoặc là người nào mà về tạo chỗ tu hành thì cứ về, còn riêng Thầy thì Thầy cũng đi tìm cái nơi nào mà yên ổn nhất để rồi Thầy mới ngồi lại Thầy soạn tiếp tục cái chương trình giáo án này.

Và đồng thời thì Thầy cũng sẽ nhuận lại cái số băng này cho đàng hoàng rồi Thầy cũng gởi về cho cô Út. Đồng thời Thầy soạn luôn cái giáo án, cái giáo trình của đạo đức nhân quả để giúp.

Bây giờ con chuẩn bị con về. Ừ!

4- HIỂU ĐƯỜNG ĐI CỦA NHÂN QUẢ THỰC TẾ, KHÔNG MƠ HỒ

(40:30) Trưởng lão: Đó là những cái điều mà Thầy bàn với các con. Cho nên trong cái vấn đề sau này mà có đủ cái duyên, khi mà cái giáo trình đạo đức nhân quả ra đời thì có lẽ là có những cái lớp của các thầy sau này như Chơn Huệ hoặc là như Minh Tông bắt đầu sẽ dạy đạo Phật.

Không phải vô ngay dạy thiền đâu, không phải dạy các con tu thiền đâu mà bắt đầu dạy đạo đức nhân quả, tức là cái lộ trình thứ nhất của người cư sĩ để chuẩn bị cho họ. Họ phải học nhân quả.

Bây giờ nói về nhân quả các con có biết nhân quả là như thế nào đâu, chỉ nói nhân quả: Thiện thì nó đem đến cái phước, mà ác thì nó như vậy. Cái nhân quả không có đơn giản đâu. Chẳng hạn là như các con làm một cái hành động thiện đó mà hành động thiện đó nó sẽ đem đến cái quả gì, các con sẽ không hiểu.

Bây giờ người ta nhức cái đầu nè, các con đem cái viên thuốc cảm cho họ uống nè, cái cơn nhức đầu của họ giảm đi, giảm bớt nhức đầu đi, thì cái quả sau này khi mà giúp cái viên thuốc đó nó đem đến cái quả gì cho con. Chớ không phải là con đem cái viên thuốc cho người ta uống nhức đầu, rồi sau này con có lúa gạo, có cơm ăn đâu, không phải cái điều đó, trật.

Hay hoặc là con đem viên thuốc cảm cho người ta uống cho giảm bớt cái nhức đầu đó, nó đem lại cái quả cho con là sau này con lại có nhà cao cửa rộng hay làm quan làm vua, không phải đâu. Cái hành động thiện đó nó sẽ đem cái quả thiện của nó trực tiếp vào cái chỗ đó, chớ không phải cái khác được.

Cho nên đường đi nhân quả mà thông suốt thì chúng ta mới biết được cái hành động. Thí dụ như bây giờ mình đem một bát cơm cho người khác thì ngày mai mình không có thiếu cơm ăn.

Mình đem một cái áo hay hoặc là vải mình cho một người khác, thì ngày mai hay hoặc là một lát nữa mình không có áo thì sẽ có người ban áo cho mình, hay hoặc là cái phước đến, mình làm ra cái áo mặc của mình rất nhiều, không có thiếu.

(42:25) Đó, mình làm cái gì thì có cái nấy. Cũng như bây giờ mình đem cho họ viên thuốc, thì thay vì hôm nay mình bị nhức đầu, nhưng mà mình không có điên gì mà mình đi tắm trong lúc đổ mồ hôi cho nên mình không nhức đầu, mình khỏi uống thuốc, vì người ta uống thuốc cho mình rồi. Các con hiểu không?

Thay vì mọi lần thì như thế này: Mình đang đổ mồ hôi như thế này cái mình chạy ra bồn tắm mình tắm liền, vô cái mình bị cảm liền. Nhưng đằng này, khi mà cho người ta viên thuốc rồi thì bữa nay nó có cái chuyện gì đó, cho nên trong lúc đổ mồ hôi thì mình lại ngồi nói chuyện với người ta mà quên đi cái chuyện tắm của mình đi, do đó nó qua cái cơn mà có thể mình bị cảm nó làm cho mình nhức đầu.

Chớ không phải là cho người ta viên thuốc rồi nó đem đến cái quả khác cho mình được, mà nó đem đến cho cái quả của mình là những cái cơn đau nhức đầu đó. Nó nhân nào thì quả nấy chớ.

Cho nên mình phải hiểu biết như vậy, thành ra cái hành động của mình làm cái gì đó mình biết được cái quả nó. Mình biết được cái quả nó cho nên mình sáng suốt từng cái chỗ đó, vì vậy mà cái đường nhân quả mình không lầm.

Mà mình không lầm thì tức là mình đâu có bị nhân quả chi phối mình được, cho nên mình giải thoát chớ gì? Vì vậy mà hằng ngày mình đem lại cái phước do chính hành động của cái hiểu biết của mình trong cái nhân quả.

Nhưng mà ai là người viết nhân quả để nói được cái hành động nhân đó quả đó mà cho nó đúng thì người đó phải thông chớ còn không thông làm sao viết được.

Cũng như trong kinh nhân quả mà mấy người Trung Hoa họ viết, bảo rằng đem tiền bạc để cho người ta sơn son thiếp Phật hay hoặc là đúc tượng Phật, hay hoặc cất chùa thì sẽ được làm quan, làm này kia, bà con xúm với nhau muốn làm quan mới đem tiền bạc cất chùa.

Cất riết rồi không thấy làm quan làm vua gì hết mà gần như là đem tiền bạc của mình đem riết rồi lo làm ăn một cách gian xảo ở trong đó, thì cuối cùng tưởng là cất chùa to đó là mình sau này được làm quan, không ngờ lại quan bắt mình bỏ tù! Cái nhân đó là cái nhân nó ngược ngạo như vậy. Thành ra cái người viết nhân quả đó nó không đúng.

Mà thậm chí người ta nghe thấy nhân quả là người ta lại nói phải đi xuống địa ngục, cho nên có cái cuốn Hồi Dương Nhân Quả mà cái con thấy đó, các con đọc cuốn Hồi Dương Nhân Quả đi xuống địa ngục ở dưới, thì như vậy là viết nhân quả kiểu đó là viết trong cái mê tín mất rồi.

Một nhà nho bị bắt lộn, bị diêm vương lôi linh hồn lộn rồi đem xuống dưới đi dạo dạo chơi đồ, ít bữa cho về, cái kiểu đó thiệt là nói dóc không à!

Cho nên ở đây Thầy nói để cho các con thấy rằng trong cái sự tu tập của mình, cái nhân quả nó là cái thực. Bởi vì chúng ta sống từ trong nhân quả, sanh ra từ nhân quả mà chết đi ở trong nhân quả, cho nên nó là cái thực không thể nào là cái mơ hồ được.

Vì vậy mà cái người viết ra bộ sách nhân quả…​ Con có đọc cái cuốn nhân quả của thầy Thông Huyễn viết chớ? Nhưng mà nó còn ở trong cái tưởng quá nhiều, phải không? Nghe thì nó cũng hay hay, nhưng mà sự thật ra nó đâu có phải vạch cái đường đi nhân quả như vậy.

Thầy có nói với thầy Thông Huyễn không phải viết cái luận về nhân quả như vậy được mà phải viết sửa lại. Ở đây mình viết trong cái tưởng chứ chưa phải là viết thực của nhân quả.

(45:22) Thực nhân quả: Xắt trái ớt, cho người ta trái ớt thì mai mốt mình cũng ăn lại trái ớt chớ không thể nào ăn trái chanh được, hay hoặc là ăn trái cam được đâu, phải không? Trái ớt cay thì mình cũng phải cay thôi, mà trái cam ngọt thì mình cũng phải ngọt thôi. Nó không thể nào mà khác được, cho nên gọi là nhân quả.

Hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy cái người viết nhân quả không phải là cái người không hiểu mà viết được, muốn viết nhân quả hồi nào là viết được.

Bởi vì nhân quả nó ba cái thời gian lận. Hiện giờ thấy cái người đó ở trong cái quả của họ đang sống như thế nào thì người ta biết quá khứ họ đã làm cái việc ác hay việc lành. Rồi thấy trong hiện tại bây giờ họ đang sống đó, người ta biết tương lai cái người đó họ sẽ ở trong cái cảnh giới nào, người ta biết được, do người ta nhìn cái hiện tại.

Nhưng như vậy nó chưa đủ, mà nó còn phải thông suốt cái đường đi lối về của nhân quả nó mới trọn vẹn được.

Trong kinh nhân quả của Phật dạy thì nó đứng ở trong cái hiện tại mà nó suy ra cái quá khứ, và nó đứng ở trong hiện tại mà nó suy ra cái vị lai.

Còn chúng ta ở đây thì chúng ta không phải như vậy, mà chúng ta bằng cái đôi mắt thực tế của nhân quả, đường đi lối về của nhân quả. Cái vị này làm cái chuyện đó thì phải đem đến cái quả đó, mà vị kia làm cái chuyện đó phải đến cái quả đó. Cái nhân đó thì cái quả đó, dạy cho người ta thấy.

Bây giờ anh làm cái chuyện này thì anh sẽ được cái này, anh làm cái chuyện kia anh sẽ được cái kia, anh làm cái chuyện nọ sẽ được cái nọ, mà anh làm cái quả ác này thì anh sẽ thọ lấy cái ác này, nó không sai chút nào thì người ta mới tin nhân quả. Mình nói trật người ta không tin.

Chẳng hạn bây giờ người ta làm chuyện đó mà nó được cái quả khác thì người ta đâu tin? Người ta làm cái điều ác đó mà nó lại xảy ra cái điều ác khác thì người ta đọc kinh nhân quả người ta thấy đâu tin được! Cho nên nhân quả phải nói cho đúng chớ nói sai là rất khó, không phải dễ.

Cho nên nói đâu nó phải có kết quả đúng y như vậy thì cái nhân quả đó nó mới là cái bài học xác thực. Khó lắm chớ không phải chuyện dễ đâu. Các con đừng tưởng mà viết nhân quả…​ Thầy có thể viết cái giáo án này của đạo Phật thì dễ đó, mà viết nhân quả không phải dễ đâu.

Nó cần phải còn cái trí tuệ suy xét có đúng hay là không mới dám kê cái bút lên mà viết cái điều đó, chớ không phải viết bừa được. Nói làm sao mà cho nó thực tế và cụ thể để người ta tin cái nhân quả chớ còn mình nói bừa thì cái đạo đức nhân quả này ai tin, chỉ gạt người ta thôi, chớ đâu có phải dễ đâu.

Cho nên trên vấn đề làm cái việc viết giáo trình nhân quả không phải là cái chuyện của người tầm thường làm được, mà cũng không phải cái chuyện của cái người mà không có cái khả năng đó mà làm được đâu.

Phải hết sức thận trọng, và viết phải hết sức - mỗi một cái nhân quả mà nói ra, hết sức thận trọng chớ không phải muốn nói bậy nói bạ được đâu. Khó lắm chớ không phải dễ đâu.

Làm cho cái nhân quả sống ở trong cái đời sống của người ta được mà người ta hành được cái nhân quả để đem lại cái sự lợi ích là một cái nhiệm vụ và trọng trách rất lớn. Mình phải nói sao cho thực chớ đừng có nói láo ở trong đó thì không được, chớ không phải thường đâu.

Các con đừng tưởng nghe nói viết nhân quả đâu phải chuyện dễ đâu. Như Thông Huyễn viết kiểu đó là thời gian sau cuốn đó người ta chỉ đọc hồi đó thôi chớ ít hôm, 5 năm hay là 10 năm sau người ta để nó ở trên giàn bếp chớ người ta chưa thèm đọc nữa. Bởi vì nó tưởng thôi, nó đâu có đúng sự thật đâu.

Đến đây bây giờ các con tiếp tục nghe băng.

5- HƯỚNG TÂM PHÁ ÂM THANH

(48:30) Trước khi tiếp tục cái bài học của giáo án lấy Pháp mà niệm Phật - chúng ta đã học lấy Thân niệm Phật, lấy Thọ niệm Phật rồi lấy Tâm niệm Phật, rồi bây giờ lấy Pháp niệm Phật, nhưng trước khi học lấy Pháp niệm Phật thì Thầy trả lời cho thầy Thiện Thuận có hỏi Thầy trong cái vấn đề tu tập.

Và Thầy thấy cái vấn đề này là cũng rất quan trọng cho nên Thầy cũng thu vào cái băng, để coi như là rút tỉa từng những cái kinh nghiệm để chúng ta tu đừng có sai lệch.

Đây là thầy Thiện Thuận hỏi Thầy:

“Bạch Thầy!

Cho con xin hỏi thêm về cách phá âm thanh. Nếu ám thị bằng câu trạch pháp như trên thì con phải ám thị ra lệnh lúc ngồi thiền khi còn ở hơi thở 5 giây hay 10 giây hoặc 20 giây, hay là ám thị cùng một lúc với ra lệnh cho các hành ngưng và hơi thở ngưng? Xin Thầy chỉ thêm!”

Đó là một cái điều rất là quan trọng mà hầu hết là cái số người dùng cái pháp hướng khi mà nó chưa đúng cách, ở trên chỗ đó mà hướng tâm bảo nó ngưng hơi thở hoặc là bảo nó phá âm thanh thế này thế khác mà chưa đúng cái trạng thái.

Khi mà chúng ta ở trong một cái mức định nào đó thì chúng ta mới phá được cái âm thanh, hoặc là phá cái thọ. Còn chưa ở trong cái định mà chúng ta vội hướng tâm ám thị phá âm thanh, thì coi như là một cái người bình thường như vầy mà bảo âm thanh đừng có nghe thì chắc chắn là muôn đời nó vẫn nghe chớ không bao giờ nó hết nghe được.

Cho nên ở đây thầy Thiện Thuận hỏi: “Khi mà ngồi thiền thì còn ở trong hơi thở 5 giây hay hoặc là 10 giây hoặc là 20 giây” - nghĩa là thí dụ như cái hơi thở bình thường là 5 giây, rồi bây giờ thở chậm ở trong 10 giây hay hoặc là đến 20 giây rồi mới ám thị, hay là cùng một lúc mình ám thị - nghĩa là mới vào mình tréo chân lên rồi mình ám thị nó, nhắc nó đừng nghe âm thanh hoặc là các hành phải ngưng đồng thời một lượt.

Như vậy thì ở đây Thầy sẽ trả lời.

“Và khi xả ra bằng những câu nào?”

Lúc xả ra thì phải ám thị như thế nào? Đó là những cái điều rất là quan trọng. Và kế thì thầy Thiện Thuận có báo cáo trạng thái đang tu của mình:

“Bạch Thầy!

Con dùng câu pháp hướng phá âm thanh của Thầy chỉ kết quả qua những lần đau rát chân nay đã không còn đau nữa mà âm thanh vẫn còn nghe, không giảm tí nào. Và hiện giờ ngồi thiền thì chân nó cứ bung ra hoài, vừa kéo chân lên xong con mới ám thị chưa được nửa câu thì chân đã bung ra rồi. Xin Thầy chỉ thêm cho biết!”

(51:34) Đó là những cái điều kiện mà rất là quan trọng khi mà chúng ta biết dùng cái pháp hướng. Nếu mà không biết dùng cái pháp hướng thì chúng ta không có làm sao mà nó có cái hiệu quả của cái pháp hướng được, nó phải đúng cái trạng thái nào.

Muốn dùng pháp hướng phá âm thanh, khi nào xét thấy sáu thức bám chặt và nằm yên trên tụ điểm.

Đó, bây giờ đó là ngay Thầy nói bây giờ muốn phá cái âm thanh bên ngoài cho đừng có nghe đó, thì lúc bấy giờ chúng ta phải nhận xét sáu cái thức.

Trước tiên chúng ta mà kéo chân lên ngồi thì chắc chắn chúng ta phải điều cái thân rồi, điều cái thân cho nó vững vàng rồi, coi ở đâu cho nó vững, ngồi rất là vững vàng, rồi tới điều cái tâm.

Thì điều cái tâm tức là điều sáu cái thức cho nó nằm yên trên một cái điểm. Lúc bấy giờ sáu cái thức nó đã bám chặt, nó nằm yên trên một tụ điểm thì nó có một trạng thái yên lặng trong thân và ngoài thân.

Quý thầy lưu ý cái phần này rất là quan trọng. Nếu mà khi nó chưa có sự yên lặng mà vội hướng, hay mới kéo chân lên mà vội hướng thì nó không có kết quả đâu.

Mà cái hơi thở chúng ta thở mới còn 5 giây thì tức là chúng ta còn ở trong cái dạng của hơi thở bình thường. Bây giờ chúng ta ở trong cái định nào?

Khi bắt đầu mà chúng ta đã ly dục, ly ác pháp được thì chúng ta biết rằng chúng ta có một cái tâm thanh thản, và cái tâm thanh thản đó chính là cái tâm ly dục ly ác pháp. Luôn luôn chúng ta có Tầm Tứ, nhưng Tầm Tứ đó nó đều là thiện pháp chớ không phải ác pháp nữa, luôn luôn…​ Bởi vì chúng ta ly dục ly ác pháp rồi thì nó đâu còn là ác nữa, cho nên hoàn toàn cái Tầm Tứ đó đều là thiện.

Nhưng chúng ta phải tiến tới một cái giai đoạn nữa là thay vì cái hơi thở chúng ta 3 giây hay hoặc 5 giây trong cái bình thường của một cái trạng thái thanh thản của Sơ Thiền đó - mà chúng ta biết rằng chúng ta đã ly dục ly ác pháp rồi, thì biết cái tâm thanh thản đó là cái tâm đang ở trong cái trạng thái của Sơ Thiền.

Nhưng không có nghĩa là chúng ta đang ở trong cái trạng thái Sơ Thiền này mà phá âm thanh được, cho nên ở cái trạng thái như là cái hơi thở 3 giây hay 5 giây này mà chúng ta thở thì chúng ta hướng tâm, bảo âm thanh không nghe, bảo cái nhĩ thức đừng có nghe âm thanh nữa thì chắc chắn là không thể kết quả đâu.

Do đó chúng ta phải thở chậm và nhẹ để chúng ta diệt cái Tầm, còn cái Tứ. Diệt cái Tầm, còn cái Tứ đó là một cái định chớ không phải…​

Bởi vì cái Sơ Thiền Tầm Tứ nó có, nhưng bây giờ chúng ta muốn diệt cái Tầm mà chúng ta còn cái Tứ, như Minh Tông đã nói đó: Diệt cái Tầm còn cái Tứ là luôn luôn lúc nào mình phải có cái pháp hướng mình nhắc cái tâm của mình, chớ không phải là hướng phá âm thanh, mà hướng để cho cái Tứ của mình tác ý ra mà cái Tầm hoàn toàn nó không còn có nữa.

(54:27) Còn bây giờ mình Tầm Tứ đã diệt hết rồi, nếu mà cái không Tầm không Tứ - diệt hết rồi không còn gì nữa, mà cái hơi thở đó nó khoảng 5 giây hay hoặc là 10 giây, hay hoặc là 20 giây, mà đến khi đó thì chúng ta thấy không còn nhận ra cái hơi thở vì hơi thở quá nhẹ. Cái thời gian của hơi thở thì nó khoảng là 10 giây, hay là 20 giây hay hoặc là 5 giây, nhưng hơi thở chúng ta lúc bấy giờ chúng ta không thấy hơi thở, tức là không còn cái niệm hơi thở nữa.

Do đó thì chúng ta biết rằng Tầm Tứ đã diệt, tức là chúng ta đã nhập Nhị Thiền. Nhưng chúng ta đâu có ở trong cái trạng thái của Nhị Thiền, vì vậy mà chúng ta giữ cái hơi thở, chúng ta còn biết hơi thở ra và hơi thở vô, do đó chúng ta nằm ở trên hơi thở ra vô đó.

Chúng ta biết rằng có cái niệm thì không phải là Nhị Thiền, nhưng có cái niệm là để chúng ta nằm ở trên cái lộ trình đó, chúng ta ở cái trạng thái đó để chúng ta phá các cái loại tưởng.

Vì ở cái trạng thái của Nhị Thiền thì bước sang qua cái Tam Thiền là nó có những cái trạng thái tưởng nó xảy ra như hào quang, ánh sáng hoặc là thân bay bổng, hoặc là cái thân cảm giác khinh an hỷ lạc, hoặc là những trạng thái này trạng thái kia nó xảy đến trong cái thân và tâm của chúng ta lúc bấy giờ.

Bởi vì Tầm Tứ diệt đương nhiên chúng ta xem như là một cái người đang ngủ, chúng ta xem như cái thân của chúng ta đang ngủ, vì thế mà cái giấc chiêm bao nó sẽ thực hiện.

Nhưng mà ở đây cái giấc chiêm bao nó không phải là cái người nằm ngủ mà mộng chiêm bao, mà ở đây do chúng ta tu tập mà chúng ta diệt Tầm Tứ, cho nên ý thức của chúng ta nó phải ngưng. Nó ngưng vì vậy mà nó không có Tầm, có Tứ, mà không có Tầm Tứ thì cái tưởng thức nó phải thể hiện.

Cho nên vì vậy mà cái đoạn đường này chúng ta phải bám cái hơi thở, chứ mất hơi thở thì những cái trạng thái của tưởng nó sẽ xuất hiện thì nó giống như là một cái người đang mộng, đang chiêm bao.

Biết rõ như vậy thì chúng ta muốn phá âm thanh thì nó phải ở chỗ nào? Hiện bây giờ chúng ta chưa phải phá được âm thanh mà chúng ta đang phá các loại tưởng.

Chúng ta biết rằng chúng ta phải phá các loại tưởng, vì vậy mà nằm ở trên cái hơi thở mà diệt Tầm Tứ này, không có Tầm Tứ này thì nó có một cái trạng thái yên lặng chớ nó chưa phải là vắng lặng.

Do nằm ở trên cái trạng thái yên lặng này thì sáu cái thức của chúng ta phải bám chặt trên cái tụ điểm, không được cho nó di chuyển chỗ này đến chỗ khác, nó phải nằm yên lặng ở đó. Và nó phải thấy cái hơi thở từ cái chỗ tụ điểm đó xuất phát cái hơi thở ra, và cũng từ cái tụ điểm xuất phát hơi thở vô.

Chớ không phải thấy hơi thở hoài đi vô mũi, rồi cũng từ ở trong mũi này thấy cái hơi thở đi ra, và cái biết chúng ta bám tại nhân trung đây, biết hơi thở đi ra đi vô như vậy, không phải. Cái đó là cái sai của quý thầy.

Cái mà quý thầy phải nhận ra từ cái tụ điểm đó đó, nó phải thấy cái hơi thở nó xuất phát, nếu hít vô thì thấy cái hơi thở từ chỗ cái nhân trung đó nó có hơi thở xuất phát nó đi vô trong cái lỗ mũi của quý thầy, nó đi vô ở trong cơ thể của quý thầy.

(57:22) Và cũng từ khi quý thầy thở ra, nó không phải ở trong phổi của quý thầy thở ra, mà quý thầy phải thấy từ cái tụ điểm đó nó đang có hơi thở thở ra, chớ không phải là từ ở trong mà thở ra. Vì vậy mà sáu cái thức của quý thầy mới bám chặt ở trên cái tụ điểm đó, nó mới nằm yên lặng ở trên đó được.

Và vì vậy mà nó sẽ không xảy ra cho quý thầy một cái trạng thái hỷ lạc, khinh an, hoặc cảm giác nặng của thân ở chỗ này hay chỗ khác, hay hoặc là nhức đầu, hay hoặc là nặng đầu, hay hoặc là nó có nhiều cái mà có thể xảy đến cho quý thầy.

Hễ càng đi xa hơn thì nó có những thần thông đặc biệt của nó hơn, nó càng đi sâu hơn trong cái kéo dài cái thời gian dài ra.

Ở trong cái trạng thái này thì quý thầy luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác hướng tâm ám thị phá các tưởng chớ không phải phá âm thanh. Chừng nào mà quý thầy thấy cái sức tỉnh của mình, ngủ mà không còn chiêm bao nữa thì bây giờ quý thầy phá âm thanh mới là có kết quả.

Là khi nào mà chúng ta muốn qua được, muốn nhập được Tam Thiền thì phải ly hỷ toàn bộ, không còn cái trạng thái xảy ra cho cái tâm ta vui mừng nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta mới ở trên chỗ cái trạng thái yên lặng của cái hơi thở Tam Thiền này mới phá âm thanh và phá thọ.

Cho nên Phật gọi là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, là cái chỗ này là cái chỗ buông hết, buông sạch hết tất cả những âm thanh, sắc tướng, tất cả những cái thọ, cái đau đớn, tất cả mọi cái đều là buông xuống hết.

Nhưng buông xuống thì chúng ta phải nương như thế nào? Phải ở trên cái hơi thở của Tam Thiền chớ không phải ở trên hơi thở của Nhị Thiền.

Và ở trên cái hơi thở của Tam Thiền thì cái đầu tiên là quý thầy nhận ra được mình có ly được các hỉ chưa. Mà ly được các hỉ thì chiêm bao của quý thầy đã hết rồi, cho nên quý thầy nằm ngủ suốt đêm mà thân thì ngủ ngáy, mà tâm thì biết hơi thở ra vô, không có mê.

Còn nếu mà quý thầy còn chút chiêm bao thì hãy cố gắng mà tu tập cái tỉnh thức ở trong giấc ngủ, để cho cái tâm nó tỉnh, nó không mê thì nó mới không chiêm bao. Mà nó không chiêm bao thì các thầy mới ly các cái trạng thái hỉ.

Mà ly các trạng thái hỉ được thì đương nhiên cái hơi thở của quý thầy đang dùng thì tức là nó sẽ ở trong Tam Thiền. Chỉ cần mất hơi thở là quý thầy đã nhập Tam Thiền, mà còn hơi thở tức là còn cái niệm thì đó là còn cái đường đi để chúng ta tiến tới Tứ Thiền, quý thầy hiểu như vậy.

Do như vậy là chúng ta phải giữ cái tâm của mình ở chỗ cái trạng thái của hơi thở và cái trạng thái yên lặng, cái nơi của Tam Thiền đó thì mới hướng tâm phá âm thanh, thì lúc bấy giờ cái pháp hướng của quý thầy nó có hiệu quả, nó làm cho quý thầy không còn nghe âm thanh bên ngoài nữa.

Chớ còn cái hơi thở của quý thầy đang ở Nhị Thiền, mới diệt Tầm Tứ, mà chiêm bao của quý thầy còn mà quý thầy vội phá âm thanh thì phá chưa được đâu. Bởi vì những cái trạng thái tưởng mà quý thầy chưa có ly thì làm sao mà quý thầy đi tới nữa được? Đâu có tiến tới nữa được. Cho nên rất là khó.

(01:00:41) Cho nên xét cuối cùng, do cái chỗ mà quý thầy biết được cái cấp độ yên lặng của nó, cái yên lặng của Nhị Thiền nó không giống như cái yên lặng của cái trạng thái Tam Thiền.

Do phân biệt được cái chỗ này, khi sáu cái thức mà nằm yên ở trên cái trạng thái của Nhị Thiền, mà bám chặt cái tụ điểm của Nhị Thiền, thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ hướng tâm ám thị để mà phá cái gì? Tức là chúng ta phá cái hỉ.

Vì vậy mà tiếp tục ở trên cái bước đường tu tập này, thì trong khi sắp sửa ngủ thì quý thầy phải tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ: Đặt cái niệm hơi thở trước mặt của mình, rồi biết hơi thở ra, biết hơi thở vô, để giữ tâm mình cho đến 5 phút, 10 phút rồi mới bắt đầu cho nó ngủ.

Sau đó chúng ta tăng dần tăng dần cho đến khi chúng ta nằm ngủ hoàn toàn nó tỉnh thức, cái tâm thì tỉnh thức mà cái thân thì nó ngủ, thì lúc bấy giờ chúng ta đã biết chúng ta đã vượt qua được, ly được các cái trạng thái hỉ rồi, cho nên bây giờ ngủ mà nó không có mê, nó vẫn biết được cái hơi thở. Do đó gọi là đặt niệm hơi thở, tỉnh thức ở trong giấc ngủ.

Vì vậy mà chúng ta không có mệt nhọc, không có mất ngủ mà chúng ta rất là tỉnh táo, và cái sức tỉnh rất là cao. Và vì vậy mà khi đến ở cái mức độ yên lặng của Tam Thiền thì cái sức tỉnh nó phải hơn cái sức tỉnh thức ở cái Nhị Thiền.

Quý thầy hiểu cái điều đó. Do đó khi mà muốn phá âm thanh thì quý thầy phải đến cái trạng thái của Tam Thiền, tức là cái sự yên lặng của Tam Thiền rồi mới hướng tâm phá âm thanh để chúng ta phá sạch, xả lạc, xả khổ và xả niệm thanh tịnh đó, thì lúc bấy giờ đó cái tâm của chúng ta nó vắng lặng.

Khi mà xả hết rồi không còn nghe âm thanh, không còn cái thọ mà tác động ở trong thân của chúng ta, không còn một cái cảm giác nào, nó chỉ còn một cái trạng thái của không gian và thời gian lúc bấy giờ, nó rất là vắng lặng.

Quý thầy nhớ kỹ, nó vắng lặng tức là cái trạng thái của định Tứ Thiền. Thầy muốn nói dùng cái danh từ như vậy, nhưng khi mà quý thầy đã nhập đến đó thì quý thầy sẽ biết được cái trạng thái vắng lặng.

Cũng như Minh Tông nó nói rằng con đã nhận ra được cái trạng thái của Tứ Thiền, tức là trong khi đó nó có nhận ra cái trạng thái vắng lặng, lúc bấy giờ không nghe âm thanh nào mà tác động vào.

Nhưng nó không lâu, nó còn bung ra, cho nên giữ để mà an trú, thiện xảo mà an trú, kéo dài cái trạng thái vắng lặng đó thì nó không được, nó không được kéo dài lâu. Cho nên thấy được cái bóng dáng của Tứ Thiền nhưng chưa ở được trong đó.

(01:03:24) Vì vậy mà chúng ta biết được như vậy, chúng ta thấy được bóng dáng vắng lặng đó nhưng vì chúng ta chưa phá, chưa có trọn vẹn mà chúng ta nhập Tam Thiền.

Giấc mộng chúng ta còn, chiêm bao chúng ta còn, hỉ chúng ta chưa ly hết, cho nên do đó chúng ta chỉ thấy được cái bóng dáng của Tứ Thiền chớ chúng ta chưa có nhập được vào nó nữa. Thấy nó được một chút thôi, đó là chúng ta mới thấy cái trạng thái vắng lặng.

Thầy nói khi mà nhập vào Tứ Thiền thì nó vắng lặng, cả không gian vũ trụ này nó không còn có một tiếng động nào hết, và cả cái thọ chúng ta nó không còn có cái ngứa ngáy, hoặc là mỏi mệt, hoặc là nhức chỗ này đau chỗ kia nữa, nó không tác động được chúng ta chỗ nào hết. Như vậy mới gọi là cái trạng thái của Tứ Thiền.

Nhưng muốn biết được cái chỗ mà chúng ta dùng pháp hướng có hiệu quả hay không là phải đúng cái trạng thái yên lặng của cái mức độ nào mà dùng pháp hướng phá âm thanh, mà dùng pháp hướng phá thọ, phá các loại tưởng.

Đó, thì bây giờ một cái người mà chưa có diệt Tầm được mà cũng hướng phá âm thanh thì Thầy thấy, Tầm chưa hết mà làm sao phá âm thanh?

Cho nên bây giờ chúng ta muốn diệt cái Tầm, muốn cho hết cái Tầm, tức là đừng có cho vọng tưởng đó, thì chúng ta phải hướng tâm, bắt buộc cái ý thức của chúng ta nó phải luôn luôn tác ý ra, nó như một cái lý tác ý ra: “Ý thức phải bám chặt hơi thở!” Cứ một lát lâu lâu thì mình lại nhắc nó: “Ý thức nhớ bám chặt hơi thở, không có được quên!”

Do đó chúng ta nhắc nó vậy rồi chúng ta giữ cái trạng thái tâm của chúng ta kéo dài ra chừng một phút hai phút nó không có một cái Tầm gì hết, do đó là chúng ta tiếp tục tác ý ra nữa. Và cứ như vậy thì chúng ta nhập được một cái định, cái định đó gọi là vô Tầm mà hữu Tứ.

Đó, chúng ta đi từ từ. Rồi sau đó thì chúng ta mới xả, khi mà chúng ta xả hết cái pháp hướng ra mà chúng ta thấy cái Tầm nó không có tác động được, nó không có khởi ra được, thì chúng ta đã biết rằng Tầm Tứ mình sẽ diệt được.

Do đó lúc bấy giờ chúng ta chỉ còn hướng một lần là chúng ta nhắc: “Tứ không nên tác động ra nữa!” Chúng ta không dùng pháp hướng đó nữa mà chúng ta chỉ cần nhắc: “Hơi thở phải chậm và nhẹ” hay hoặc là: “Hơi thở phải nhẹ xuống, nhẹ xuống nữa!”

Đừng có…​ Cái ý thức không có được nhận cái hơi thở nữa, cho nên cái hơi thở mất đi, thì lúc bấy giờ nó không còn cái đối tượng của hơi thở, thì cái ý của chúng ta nó mất cái đối tượng mà nó vẫn không Tầm, mà nó không tác ý ra, thì lúc bấy giờ là Tầm Tứ đã diệt. Do đó chúng ta nhập cái định diệt Tầm diệt Tứ, tức là tương đương với Nhị Thiền.

(01:06:03) Thì bây giờ cái trạng thái yên lặng ở đó chúng ta đã biết nó như thế nào rồi, chúng ta vô đó chúng ta biết rồi, nhưng mà chúng ta trở ra hơi thở để biết hơi thở. Chớ còn để mất hơi thở thì tức là mất đối tượng, thì nhất tâm mới là định, còn cái tâm của chúng ta đối với cái niệm thì làm sao mà gọi là định?

Cho nên vì vậy mà chúng ta phải ra cái niệm, nhờ cái niệm hơi thở ra, hơi thở vô chúng ta mới ly các cái trạng thái hỉ mà chúng ta nhập Tam Thiền.

Chớ nếu mà không có hơi thở thì chúng ta cứ nằm ở trong Nhị Thiền, thì nếu mà chúng ta khéo léo mà an trú cho nó nằm đó một ngày hai ngày thì nó cũng Nhị Thiền chớ nó không có phải từ ở đó mà đi Tam Thiền được.

Đó quý Thầy hiểu như vậy cho nên quý thầy lấy cái lộ trình hơi thở. Cho nên trong một cái bài kinh Phật nói: Nếu muốn nhập Sơ Thiền thì chúng ta cũng nương vào cái hơi thở ra hơi thở vô để mà chúng ta khéo tác ý nó thì chúng ta nhập cái Sơ Thiền.

Mà đến cái Nhị Thiền thì chúng ta cũng nương cái hơi thở ra và hơi thở vô, khéo tác ý nó thì chúng ta sẽ nhập Nhị Thiền. Mà đến Tam Thiền cũng vậy, mà đến Tứ Thiền cũng vậy, mà cho đến Diệt Thọ Tưởng Định thì Đức Phật cũng bảo chúng ta phải nương vào cái hơi thở, hơi thở ra hơi thở vô khéo tác ý nó để mà chúng ta nhập được cái Diệt Thọ Tưởng Định.

Đức Phật dạy chúng ta qua cái bài pháp rất là tuyệt vời, lộ trình hơi thở chúng ta rất là hay để mà chúng ta sử dụng nó đi nốt cái quãng đường nhập định này, cụ thể và rõ ràng.

Và cái hơi thở càng chậm và nhẹ thì nó mới đến cái mức độ nó mới ngưng được, chớ bây giờ đương thở nó 3 giây hay là 5 giây như vầy làm sao nó ngưng được? Đó là chúng ta thấy quá cụ thể.

Do vì vậy mà trả lời cho thầy Thiện Thuận thì nhớ là cái trạng thái tâm của chúng ta phải nằm yên trên tụ điểm. Vì vậy mà trải qua cái quá trình tu về thiền định này, Bốn Thiền này thì phải tạo cho nó có một cái tụ điểm.

Cái tụ điểm tức là một cái vây cọc, cũng như là chúng ta đóng một cây cọc rất là cứng, rất chắc, do đó chúng ta mới cột sáu cái thức của chúng ta, sáu con vật - xem như sáu cái thức của chúng ta là sáu con vật, mà sáu con vật cột chặt ở trong cây cọc đó mà nó không có lôi, nhổ được cây cọc, thì sáu con vật nó quay một hơi thì nó sẽ nằm tại đó à.

Còn nếu mà nó lôi cây cọc đó văng qua bên nây văng qua bên kia thì mặc tình con nào nó lôi, chạy mù hết, thì như vậy là chúng ta chẳng có cái chỗ nào mà chúng ta nằm yên được.

Cho nên ở đây chúng ta nói cái tụ điểm, nhưng sự thật đó là một cây cọc để chúng ta cột sáu cái thức của chúng ta nằm ở trên đó. Vì vậy mà người tu là phải có một cái tụ điểm, mà nếu không có cái tụ điểm như một người cột sáu con vật mà không có cây cọc thì không thể nào mà cột được đâu.

Sáu con vật của chúng ta con nào nó cũng lôi theo nó hết. Bây giờ thí dụ như con mắt thì nó lôi theo cái hình ảnh, mà cái lỗ tai thì nó lôi theo âm thanh, tất cả mọi cái nó lôi theo nó chớ nó không có chịu đi chung một hướng đâu.

Cho nên vì vậy mà chúng ta phải cột chặt nó. Đó là cái tụ điểm. Nếu không có tụ điểm thì quý thầy không làm sao mà phá âm thanh, phá tưởng được, và diệt tác ý được, phá không được đâu.

Lúc bấy giờ dùng pháp hướng cũng phải thiện xảo. Nếu không…​

(01:09:05) Nghĩa là khi mà chúng ta nằm đúng ở trên cái vị trí của sự yên lặng của thân, của nội thân trong thân và ngoài thân rồi, chúng ta biết được cái trạng thái đó rồi, thì bây giờ mà chúng ta dùng cái pháp hướng phải thiện xảo, phải khéo léo.

Nếu mà quý vị tác ý thô quá là nó cũng làm mất cái trạng thái yên lặng của quý vị trong lúc đó rồi. Mà quý vị sợ quá, không dám hướng tâm cho nó mạnh thì nó lại cũng không có đủ cái sức để cho đủ cái lực tinh thần của quý vị, thì nó cũng chẳng có phá được.

Cho nên phải thiện xảo, khéo léo, biết cái mức độ nào mà có thể phá được, hướng tâm ra, nhẹ nhàng như thế nào mà không bị sốc sự yên lặng của cái trạng thái lúc bấy giờ chúng ta nằm ở đó. Phải khéo léo lắm. Cho nên Phật nói thiện xảo an trú ở trong định, vì thế mà nó không bung ra.

…​âm thanh không phá được, mà trạng thái yên lặng của thân và tâm lại mất.

Nghĩa là mình hướng tâm, mình nhắc cái câu đó, cái pháp hướng đó mà nó lại quá động, nó làm cho cái âm thanh không phá mà cái trạng thái yên lặng của định nó cũng lại không có được, nó lại mất cái trạng thái yên lặng đó đi.

Và ngay đó cái tụ điểm sáu thức cũng bung ra.

Nghĩa là lúc bấy giờ, khi mình xốc động, mình hướng tâm quá mạnh đi, thì bắt đầu cái tâm nó không còn - sáu cái thức nó không còn nằm ở tại cái tụ điểm, do đó bắt đầu mình thấy như nó chạy bên nây hay chạy bên kia, nó ở chỗ khác.

Bởi vậy phải thiện xảo, khéo léo dùng pháp hướng phá âm thanh mới có kết quả.

Tức là trong cái lúc mà dùng cái pháp hướng đó, trạch cái pháp ra nó cũng phải đúng tên đúng họ của nó nữa. Chớ nếu mà mình dùng sai tên sai họ thì mình có gọi mình hướng đi nữa nó cũng chẳng biết đâu mà nó vâng lời mình.

Cho nên dùng pháp hướng phải đúng cách. Và dùng cái pháp hướng nó phải có cái thực của nó, mình phải suy nghĩ cái kinh nghiệm của mình như thế nào, mình trạch cái pháp đó ra cho nó đúng, để làm một cái câu, để mà nhắc nó trở thành một cái lực, thì như vậy nó mới có cái kết quả.

Lưu ý: Khi tréo chân lên ngồi kiết già, thân ngồi kiết già, lưng thẳng và đợi cho toàn thân yên tĩnh.

Nghĩa là khi mà tréo chân lên rồi không có nghĩa vừa tréo chân lên chừng một chút là mình lo mình hít thở rồi mình điều khiển, mình ám thị thế này kia, không phải.

Cái người tu là phải cẩn thận và ý tứ, hết sức ý tứ. Hầu hết chúng ta không phải là người tu vội vàng hay hoặc là nông nổi, mà cái người tu chúng ta ngồi tréo chân lên hẳn hòi, đàng hoàng, thân ngồi rất vững vàng và nghe cái trạng thái của thân toàn bộ đang bắt đầu yên lặng.

Bắt đầu yên lặng của toàn bộ cái thân, không nghe nó còn cấn hay hoặc là khó chịu chỗ này hay khó chịu chỗ kia, hay hoặc còn cảm giác nực hay hoặc còn cảm giác lạnh, hay hoặc là còn cảm giác tức, lói chỗ này chỗ kia, hoặc là còn cảm giác mỏi tay, mỏi chân ở khớp tay khớp chân thì đừng có vội mà hướng tâm cái gì cả hết, để cho tuần tự, khi mà tréo chân rồi để cho toàn cái thân của chúng ta nó trở về với cái trạng thái yên lặng của nó.

(01:12:15) Thì lúc bấy giờ khi mà cái thân nó đã yên lặng rồi thì chúng ta mới điều khiển cho sáu cái thức của chúng ta nó nằm yên ở trên chỗ cái tụ điểm của nó để cho tâm nó được yên lặng theo.

Đó, thì quý thầy nhớ những cái điều kiện, chúng ta lần lượt chúng ta điều khiển cái phần thân trước, rồi cái phần tâm kế, chứ đừng có vội vàng thân tâm làm một lượt, rồi cứ lo hít thở để cho đừng có vọng tưởng, không phải!

Ở đây, thân phải yên lặng tức là thân phải định, và tâm nó phải định, chớ không phải vội vàng để cho hết vọng tưởng, mà đây cả cái trạng thái thân yên lặng trong cái sự yên lặng của nó. Cho nên lưu ý:

*Khi chéo chân lên ngồi kiết già, thân ngồi kiết già, lưng thẳng và đợi cho toàn thân yên tĩnh, nghĩa là không còn một cảm giác nào khó chịu trong thân thì mới dùng pháp hướng nhắc sáu thức nằm yên và bám chặt vào tụ điểm…​* (Mất tiếng)

Mà nếu nó gom tại đó, thì chúng ta thấy nó nằm chặt ở tại đó rồi thì chúng ta mới nương hơi thở ra và hơi thở vào nhẹ nhàng cho đến khi toàn sáu thức đã nằm yên lặng.

Nghĩa là bây giờ chúng ta thấy từ cái tụ điểm đó nó xuất phát hơi thở ra và xuất phát từ cái hơi thở vô, và chúng ta biết rằng sáu cái thức đó đang nằm yên ở trên cái chỗ hơi thở ra hơi thở vô đó.

…​Thì lúc bấy giờ toàn thể thân tâm ta hiện ra một trạng thái rất là yên lặng và rõ ràng…​

Nghĩa là khi mà nó…​ Chúng ta không còn cái vận dụng của các cơ mà chúng ta hít ra thở vô đâu, để tự nó, chúng ta quan sát thấy nó ra vô, nó ra vô rất là tự nhiên, mà từ cái chỗ tụ điểm đó hơi thở nó ra và cũng chính từ tụ điểm đó hơi thở nó vô.

Và vì vậy đó mà chúng ta biết rằng sáu cái thức nó đang nằm yên lặng ở trên cái chỗ đó, do đó thì chúng ta mới thấy được cái trạng thái:

…​toàn bộ nội tâm và ngoại cảnh.

Tức là hoàn toàn tất cả những cái trạng thái nội tâm và ngoại cảnh của chúng ta đều là đạt ở trên cái tụ điểm đó, nó không còn bị động nữa.

Nghĩa là sáu cái thức của chúng ta chịu nằm yên ở trên đó rồi thì cái ngoại cảnh không có tác động của sáu cái thức của chúng ta được, và cái thân của chúng ta nó cũng đang yên lặng ở trên cái chỗ yên lặng của cái toàn thân, nó không còn có gì nữa.

Thì bấy giờ mới tác ý như thế nào để không bị động sự yên lặng nội tâm của chúng ta…​

Cho nên bây giờ chúng ta tác ý như thế nào để lúc bấy giờ - chúng ta đã biết rằng cái sự yên lặng đó của nội tâm chúng ta và ngoại cảnh nó không còn tác động nữa, vì vậy lúc bấy giờ chúng ta ở trong đó mà chúng ta tác ý xốc động ra thì coi chừng nó sẽ mất cái sự yên lặng đó đi.

(01:15:03) Vì vậy mà chúng ta thoáng nhẹ nhàng mà chúng ta tác ý, có một sự tác ý rất thoáng nhẹ nhàng. Và như vậy nó không mất cái lực của pháp hướng, mà không mất cái lực của pháp hướng thì nó làm cho cái hiệu quả của câu pháp hướng của chúng ta muốn đạt gì thì nó sẽ đạt được.

Và mỗi lần hướng thì dường như là cái tâm của chúng ta, thí dụ như bây giờ hướng phá âm thanh nè, cái tâm của chúng ta cứ mỗi lần mà nhắc thì chúng ta lại nghe cái âm thanh bên ngoài nó không còn nghe nữa. Chớ không phải là nhắc 5, 10 lần mà vẫn còn nghe, mà rõ ràng là chúng ta vừa nhắc mà nó không xốc động cái trạng thái yên lặng đó đó, thì ngay đó cái âm thanh nó vắng xuống liền.

Bây giờ chúng ta đương nghe một cái tiếng máy xịch xịch, thì bắt đầu ta chúng ta nhắc, chúng ta hướng rất nhẹ, đừng có để xốc động cái âm thanh, cái trạng thái của chúng ta đương yên lặng đó, thì lúc bấy giờ vừa thoáng chúng ta nhắc qua cái ý chúng ta thì dường như là tất cả sáu cái thức của chúng ta, nhất là cái nhĩ thức nó lại nằm yên xuống hơn nữa, nó làm như nó lặng sâu xuống nữa, nó không còn nghe ở bên ngoài nữa.

Đó là cái kết quả mà chúng ta đã biết được, nằm yên ở trên cái trạng thái yên lặng đó thì nó lại yên lặng hơn nữa, chúng ta thấy nó đi sâu hơn nữa, nó làm cho lặng sâu hơn nữa. Cái âm thanh đó đang lớn thì chúng ta nghe nó dường như một cái tiếng đâu xa văng vẳng chớ không còn lớn nữa.

Và đồng thời chúng ta để kéo dài cái thời gian văng vẳng đó thì chúng ta lại nhẹ nhàng thoáng qua tác ý nhắc cái tâm của mình một lần nữa, thì lúc bấy giờ cái âm thanh vắng luôn, không nghe nữa. Thì như vậy chính là chúng ta nằm ở trên cái tụ điểm mà chúng ta hướng tâm để cho cái âm thanh nó phá đi.

Hoặc bây giờ chúng ta đang bị cái chân nó đau hay hoặc nhức, nhưng chúng ta đừng để cái tâm chúng ta dao động ở chỗ đau nhức đó, mà chúng ta hãy nằm chặt ở trên cái tụ điểm, rồi chúng ta có cái cảm giác biết nó đang đau nhưng mà nó không phải đau lung đâu.

Bởi vì khi mà cái tâm nằm trên đó thì cái cảm giác đau nó rất là thường. Còn cái tâm chúng ta nhảy xuống mà nằm ngay cái chỗ nó đau đó thì chúng ta thấy chịu không nổi.

Cho nên chúng ta bám cho chặt cái tụ điểm thì chúng ta hướng: “Cái thọ phải đi đi, không có được ở đây, và cái thân thức phải bám cho chặt cái tụ điểm, phải bám cho chặt cái hơi thở, bám cho chặt cái tụ điểm!”

Ngay đó ra lệnh nó vậy, thì bắt đầu chúng ta nghe dường như toàn thân không có nghe cảm giác gì nữa hết, thì lúc bấy giờ cái pháp của chúng ta hiệu quả, rất là hiệu quả, chỉ chúng ta nhắc 1 lần, 2 lần ở trên cái trạng thái yên lặng đó là cái kết quả ngay liền.

Cũng như bây giờ cái đầu Thầy nhức nè, Thầy chỉ cần lặng cái tâm của mình ở trên cái trạng thái yên lặng đó, bắt đầu Thầy nhắc: “Cái đầu không có được nhức nữa! Cái thọ phải đi đi!” Thì ngay đó Thầy hoàn toàn nghe cái đầu không có nhức.

Là tại vì Thầy nằm đúng cái vị trí sáu cái thức của Thầy, thân thức của Thầy nó phải nằm cách lìa cái sự đau khổ của cái thọ của Thầy, cho nên nó không có bám ở trong cái thọ đó, cho nên nó không còn thấy đau nữa.

Đó là như vậy, là cái chỗ mà tu tập phải biết được cái trạng thái tâm của mình, lúc bấy giờ mình phải giữ gìn nó như thế nào. Mặc dù trong cái sự yên lặng đó nó chỉ 5 phút hay là 10 phút rồi nó bung ra, nhưng mà chúng ta dùng pháp hướng chúng ta có thể kéo dài từ 10 phút, 20 phút, nghĩa là khéo thiện xảo an trú ở trong đó.

Phật nói mà, nếu mà chúng ta không khéo thiện xảo an trú thì nó sẽ bị bung ra. Cho nên Phật nói thiện xảo nhập định nè, thiện xảo an trú trong định nè, thiện xảo sống trong cảnh giới định nè, Phật dặn chúng ta như vậy.

Cho nên vì vậy mà cái thiện xảo đó là cái mà chúng ta đừng có làm động. Bởi vì định mà động thì nó làm sao gọi là định? Mà bây giờ chúng ta tác ý ra là nó động mất rồi! Thế mà quý thầy phải hiểu được cái chỗ khéo tác ý đó thì quý thầy sẽ đạt được kết quả.

(01:18:34) Cho nên Thầy dạy thì đúng, nhưng mà khi các thầy áp dụng vào thì lại rất quá thô, cho nên sao thấy thời gian nó không có cái hiệu quả của kết quả.

Phá âm thanh không phải dễ đâu, rất là khó, bởi vì đó là cái ngoại cảnh. Người ta nói có đạt nhân mà khó đạt cảnh - đạt được cái ở trong thân của mình chớ cái cảnh ở ngoài khó đạt.

…​làm cho ngoại cảnh trở nên yên lặng, nếu không thiện xảo thì ngoại cảnh khó yên lặng.

Đừng vội vàng vừa tréo chân lên là hướng tâm liền là không kết quả, mà hướng tâm liên tục cũng không kết quả, hướng tâm thưa quá cũng không kết quả.

Đó thì quý thầy thấy rằng trên cái bước đường tu tập của quý thầy, nếu mà quý thầy cứ hướng tâm hoài thì không kết quả đâu.

Khi mà hướng tâm rồi thì chúng ta lại nằm yên ở trên đó, nhưng mà để lâu quá thì lại mất cái hướng đi, thì do đó nó lại xen vào những cái trạng thái khác, nó làm mất cái trạng thái yên lặng của quý thầy, nó bung ra đi.

Khi mà nó bung ra rồi thì quý thầy lại hướng tâm thì nó mất cái trạng thái yên lặng rồi thì pháp hướng nó đâu có hiệu quả. Cho nên thưa quá thì cũng không được mà ngặt quá thì cũng không kết quả.

Cho nên ở đây cái pháp hướng là phải biết: Đang nằm ở trên cái trạng thái còn yên lặng thì hướng có kết quả, mà khi đã bị một cái gì bung ra rồi thì phải gom nó trở lại, cho nó nằm yên lặng rồi thì hướng nó mới có kết quả.

Và đồng thời khi mà cho nó yên lặng như vậy mà để kéo dài cái sự yên lặng đó thì phải cái thời gian như thế nào, mà phải có pháp hướng liên tục, mà hướng khéo léo thiện xảo như thế nào để không mất cái trạng thái yên lặng đó. Đó là phải khéo hết sức khéo, chớ dụng thì mất định ngay liền.

Đừng vội vàng vừa tréo chân lên là hướng tâm liền là không kết quả, mà hướng tâm liên tục cũng không kết quả…​

Nhắc hoài nhắc hoài cũng không kết quả đâu.

…​mà hướng tâm thưa quá cũng không kết quả.

Thiện xảo như thế nào mà mỗi lần hướng tâm mà rất hiệu nghiệm, âm thanh giảm và không còn nghe nữa, toàn là trong thân và ngoại thân vắng lặng, có nghĩa là không gian và thời gian cô đọng lại, vắng lặng phủ trùm.

Đó thì khi chúng ta hướng mà chúng ta thấy được cái sự vắng vẻ, cái sự vắng lặng nó phủ trùm xuống cả toàn thân của mình, coi như cả vũ trụ đó.

(01:21:05) 1. Chọn pháp hướng cho đúng cách.

2. Hướng đúng ở trạng thái đang yên lặng.

3. Khoảng cách thời gian hướng phải đúng, không thưa mà cũng không ngặt, tùy ở trạng thái yên lặng của thân tâm lúc sáu thức nằm yên tại tụ điểm.

4. Khi xả ra phải biết cách, hướng đúng cách, đúng pháp, đúng thời gian.

Lúc bấy giờ đó, Thầy nhắc nhở số 4 này, khi mà xả thiền ra thì phải biết cách, hướng đúng cách, đúng pháp, đúng thời gian.

Nghĩa là cái trạng thái chúng ta xả ra thì nó phải ở trong cái trạng thái của hơi thở chậm nhẹ đó, nó biết nó ở cái mức độ nào: Tam Thiền hay Nhị Thiền hay Tứ Thiền, thì lúc bấy giờ chúng ta phải hướng pháp đúng cái pháp của nó ở cái chỗ đó, để cho nó lần nó đi ra.

Rồi bây giờ tới cái thời gian của nó, cho đến khi mà nó trở về bình thường nó xả sạch ra, chớ không khéo thì chúng ta xả ra không sạch thì nằm xuống nghỉ hay hoặc là ngồi thì nghe nó còn cái trạng thái lâng lâng, lâng lâng ở trong tâm hồn chúng ta. Điều đó là điều chúng ta sai đó, xả không đúng đó.

5. Phải nhận xét thân tâm xả ra có về trạng thái bình thường chưa.

Nghĩa là nó còn khinh an, nó còn lâng lâng, nó còn ngờ ngờ như gợn sóng đồ dó, thì xả ra chưa sạch đâu. Phải xả trở lại cho thật đúng chớ còn xả như vậy là sau này chúng ta sẽ bị rối loạn cơ thể, nằm xuống mà như - khi mà xả ra rồi mình nằm nghỉ mà thấy cái thân nó như bồng bềnh, như là mình ở trên chiếc ghe chiếc tàu mà sóng nó đưa lên đưa xuống vầy, thấy cái thân nó như nhảy sóng đó, thì cái đó là cái sai rồi đó.

Đó là xả chưa hết ở trong cái trạng thái. Mà chính hồi lúc mà ở trong cái trạng thái yên lặng đó đã bị dồi sóng rồi là cái này đã ở trong cái trạng thái của tưởng rồi, cái đó là trật nữa rồi. Cho nên chúng ta phải phá liền chớ không có được để. Cho nên để mà tới khi xả ra mà còn dồi sóng, dồi sóng thì không được.

6. Xả ra thân tâm có mệt hay không? Nếu mệt nhọc đó là tu sai rồi.

Nếu xả ra mà thấy quá mệt hay hoặc là hơi mệt thì cái đó là trật. Người tu thiền xả ra là rất an ổn, rất tỉnh thức, tỉnh táo, rất khỏe người, không có bị mệt nhọc.

(01:23:18) Cũng như bây giờ Thầy thuyết giảng Thầy nói nhiều thì Thầy mệt, chớ còn Thầy ngồi thiền thì Thầy xả ra Thầy không bao giờ mà có ngứa cổ hay hoặc là nghe nó mệt nhọc gì hết, hoàn toàn nghe cơ thể rất là khỏe.

Đó là những cái mà chúng ta xả ra chúng ta đều lưu ý về cái thân của chúng ta. Nó có những cái sai mà chúng ta cứ mang đó mà chúng ta tu thì chúng ta sẽ đi đến cái chỗ có thể là nó trở thành bệnh tật của cái thân sau này, mà không đạt được thiền định đúng cách đâu.

Đến đây Thầy xin chấm dứt cái bài trả lời cho thầy Thiện Thuận, có những cái gì mà sai cần phải hỏi trong lúc này. Bởi vì cái thời gian nó còn ngắn lắm, phải hỏi Thầy.

Và đồng thời Thầy thấy rằng tiếp tục cái thời gian mà giảng cho hết cái giáo án này thì chúng ta không làm hết kịp, vì vậy mà chúng ta lần lượt để sau này.

Còn bây giờ cái quan trọng là Thầy sẽ soạn cho cái chương trình ngắn gọn, để cho quý thầy khi mà 3 tháng hạ này trở về nắm được cái bản đó, biết bây giờ mình tu cái gì trước, tu cái gì sau. Còn cái giáo án này nó nói linh tinh đủ thứ hết, nghe thì có hay đó, nhưng mà sự thật ra quý thầy chưa biết cái gì mà tu hết đâu.

Nghe nó thì như vậy, nhưng bây giờ Thầy dự định Thầy soạn cho quý thầy cái bản tóm tắt: Bây giờ một người mà mới tu là phải tu cái gì, tập cái gì trước, tập cái gì sau, rồi tu lâu rồi bây giờ tu tới cái định nào, phải tập cái gì, cái gì. Thầy soạn xong rồi Thầy đem cho cô Út photo về Thầy cho mỗi người một bản theo đó mà về mà tu tập.

Chớ còn theo cái giáo án mà Thầy viết đây thì lần lượt Thầy sẽ dạy các cái giới hành, toàn bộ hết những cái giới hành, nhập từ Bốn Thiền, Tứ Như Ý Túc rồi cho đến Tam Minh, rồi Tứ Niệm Xứ như thế nào, Thầy giảng hết những cái pháp hành của nó như thế nào cho nó hết. Còn bây giờ thì chúng ta đang học tu trên cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh.

Mà Tứ Bất Hoại Tịnh thì như hồi nãy Thầy đã nói chúng ta mới có học Thân niệm Phật, rồi Thọ niệm Phật, rồi Tâm niệm Phật, bây giờ mới có học Pháp niệm Phật. Rồi chúng ta còn phải Thân, Thọ, Tâm, Pháp để niệm Pháp, rồi Thân, Thọ, Tâm, Pháp để niệm Tăng, rồi Thân, Thọ, Tâm, Pháp để niệm Giới, quá nhiều.

Đây là mới có bước đầu vào Tứ Bất Hoại Tịnh mà chúng ta lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mới có niệm Phật mà đã là quá nhiều rồi. Cái pháp hành của chúng ta quá nhiều chớ không ít./.

HẾT BĂNG

54 - PHÁP HÀNH PHÁP NIỆM PHẬT 01 - XÂY DỰNG LẠI ĐƯỜNG LỐI TU TẬP

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 54 - PHÁP HÀNH PHÁP NIỆM PHẬT 01 - XÂY DỰNG LẠI ĐƯỜNG LỐI TU TẬP

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- PHÁP HÀNH PHÁP NIỆM PHẬT - PHẦN 1

(00:00) Bây giờ thì tiếp tục quý thầy sẽ học cái bài pháp, tiếp tục trong cái Tứ Bất Hoại Tịnh này thì chúng ta học tiếp là Pháp niệm Phật.

Như Thầy đã giảng đại khái cho bên phái nữ xong rồi thì sau này các thầy sẽ nghe lại Pháp niệm Phật như thế nào. Còn bây giờ là đến cái giai đoạn chúng ta thực hành, chớ không phải còn là giới thiệu nữa, mà đây là cái thực hành của chúng ta.

Vậy Pháp niệm Phật:

1) PHÁP THAM DỤC NIỆM PHẬT

(00:32) 1. Pháp tham dục

Vậy thì có cái pháp tham dục nó đến với chúng ta thì niệm Phật như thế nào?

Bây giờ có cái lòng ham muốn nào đó, thí dụ như có một người đem cho Thầy một cái vật gì đó, Thầy khởi tâm Thầy ham muốn cái đó, thì đó là cái pháp nó đến với Thầy nó làm cho cái tâm Thầy khả hỷ, khả ái, khả lạc nó đi, thích thú nó đi.

Như vậy thì chúng ta nên đem cái pháp đó bắt buộc nó phải niệm Phật. Vì Phật không bao giờ có tham dục, tham ái một cái vật gì hết, cho nên chúng ta bắt cái pháp đó phải niệm Phật.

Khi một pháp đến khiến cho tâm ta khởi nên tham muốn, ta liền lấy pháp đó niệm Phật. Phật thì không còn tham muốn, lấy pháp niệm Phật thì pháp đó vô tham.

Nghĩa là Phật không tham muốn mà lấy cái pháp đó thì ông Phật có nhận không, có khả hỷ, khả lạc không? Cho nên đó là vô tham. Vì vậy mà chúng ta lấy các pháp bắt nó phải niệm Phật. Và khi niệm Phật vậy thì chúng ta biết rằng nó vô tham, và như vậy thì chúng ta còn tham nữa không? Chắc chắn là chúng ta sẽ không tham.

Muốn được như vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm ta Như Lý Tác Ý:

Đó thì bây giờ chúng ta dùng cái pháp hướng để chúng ta tu tập.

Khi mà gặp cái pháp tham dục nó đến, nó làm chúng ta đam mê, nó làm chúng ta thích thú, làm chúng ta khả ái, khả hỷ, khả lạc nó đi, do đó thì chúng ta phải thường xuyên hằng ngày chúng ta phải dùng cái pháp hướng mà nhắc nhở tâm mình để cho khi có cái pháp đến đó thì đương nhiên là cái pháp đó là niệm Phật rồi, đó cho nên vì vậy mà chúng ta giải thoát được cái pháp tham, cái pháp ham muốn.

“Đây là pháp tham dục. Tham dục là một pháp ác khiến cho mình khổ, người khác khổ. Vậy chúng ta phải đoạn dứt pháp này, xa lìa pháp này trong tâm ta. Và pháp tham dục này phải rời khỏi tâm ta, phải đi đi, đừng ở trong tâm ta nữa!”

Nghĩa là chúng ta phải dùng cái pháp hướng này chúng ta thường xuyên - trước khi ngủ, trong những khi mà ngồi thiền, trước khi đi kinh hành thì chúng ta nhắc tâm mình một lần, để sau khi có cái pháp tham nào đến thì chúng ta đuổi nó đi được liền, mà ngay đó thì nó không còn cám dỗ, lôi cuốn cái tâm ham muốn chúng ta được nữa.

Cho nên vì vậy đó mà chúng ta hãy dùng cái câu pháp này mà chúng ta đuổi nó đi, không có để cho nó ở trong tâm ta nữa.

Đây Thầy nhắc lại:

“Đây là pháp tham dục. Tham dục là một pháp ác khiến cho mình khổ, người khác khổ. Vậy ta phải đoạn dứt pháp này, xa lìa pháp này trong tâm ta. Và pháp tham dục này phải rời khỏi tâm ta, phải đi đi, đừng ở trong tâm ta nữa!”

Đó là mình dùng cái pháp hướng mình đuổi nó đi, mình không có để cho cái tâm tham muốn của mình luôn luôn nó ở trong đó, do đó chúng ta mới ly dục ly ác pháp được.

Vì vậy mà bắt cái pháp tham muốn này nó phải niệm Phật. Do nó niệm Phật thì nó mới không tham muốn, nó không niệm Phật thì nó đụng pháp nào chúng ta cũng khởi tham muốn hết.

Đó là cái pháp thứ nhất, bây giờ là pháp thứ hai.

2) PHÁP THAM ÁI NIỆM PHẬT

(03:37) 2. Pháp tham ái

Tức là tham sắc dục đó.

Khi một pháp nào đến với tâm ta khiến cho tâm ta khởi lên tham ái: Tham ái là con đường sanh tử luân hồi, mà còn sanh tử luân hồi là còn nhiều đau khổ, đó là một pháp ác, ta lấy pháp này bắt buộc nó niệm Phật.

Các pháp đến với Phật đều không thể nào khởi lên tham ái được.

Nghĩa là lấy các pháp mà niệm Phật, thì Phật là một cái người đã diệt cái tham ái rồi, không còn cái tham ái nữa, cho nên bắt nó mà niệm Phật thì chắc chắn là nó không khởi lên được cái tham ái. Do như vậy, khi mà có cái pháp tham ái đến thì chúng ta lấy nó mà bắt nó niệm Phật.

Vậy ta lấy pháp này niệm Phật chắc chắn tâm ta sẽ không khởi lên tâm tham ái. Muốn vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm mình hằng ngày Như Lý Tác Ý:

“Pháp tham ái là một pháp cực ác, nó mang đến cho con người muôn vàn sự đau khổ sau này. Ta phải dứt và viễn ly pháp ác này. Tham ái hãy đi đi, đừng ở trong tâm ta nữa! Từ đây về sau pháp tham ái này phải dứt trừ nơi tâm ta vĩnh viễn!”

Đó là mình đặt cái pháp hướng mình nhắc nhở tâm mình một khi mà có một cái pháp ái.

Muốn nói cái pháp ái đây là một cái hình ảnh của một cô gái, của một phái nữ, nó gợi cho chúng ta sanh ra cái pháp ái trong tâm chúng ta, do đó cái pháp đó là cái pháp ái. Vì vậy khi mà gặp nó như vậy thì chúng ta bắt nó niệm Phật.

Mà bắt nó niệm Phật thì chúng ta biết rằng ông Phật không còn cái ái, vì vậy thì cái tâm ái của chúng ta ngay từ đó sẽ bị diệt đi. Cho nên cái pháp niệm Phật nó làm cho cái tâm của chúng ta trở thành nguội lạnh mà không còn đắm đuối, không còn khởi lên những cái tham ái nữa.

3) PHÁP THAM ƯU NIỆM PHẬT

(05:45) 3. Pháp tham ưu

Khi một pháp đến với tâm ta khởi lên tham ưu khiến ta buồn rầu, đau khổ, ta liền lấy pháp đó niệm Phật. Khi pháp đó niệm Phật thì tham ưu không khởi lên vì Phật không còn tham ưu.

Muốn pháp ấy niệm Phật, không có khởi lên tham ưu, ta nên trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Pháp tham ưu là pháp đem đến cho ta những ham muốn, bất toại nguyện nên ta sanh tâm sầu khổ, ưu bi. Nó là một pháp ác, không phải là pháp thiện.

Lấy pháp ác niệm Phật, biến pháp ác thành pháp thiện, vậy từ đây pháp tham ưu sẽ trở thành pháp không tham ưu. Và ta luôn luôn cảnh giác pháp tham ưu, xa lìa, từ khước, đoạn dứt pháp tham ưu trong tâm ta”.

Đó là cái câu trạch pháp để nhắc cái tâm ta xa lìa cái pháp tham ưu. Tức là lấy Pháp niệm Phật để rồi chúng ta nương vào chỗ ông Phật đó, các pháp đó mà chúng ta được cái tâm giải thoát, không còn tham ưu nữa.

4) PHÁP THAM ĂN NIỆM PHẬT

(07:12) 4. Pháp tham ăn

Có một người Phật tử mang đến cúng dường cho ta một cái bánh rất là ngon và thơm khiến ta nhìn thấy ưa thích, ta liền sanh tâm hoan hỷ vui mừng với chiếc bánh này. Đó là một pháp ác để khiến cho ta tham ăn.

Bất kỳ món ăn khất thực nào đến với Phật, Phật không sanh tâm ưa thích, vì thế ta lấy pháp này mà niệm Phật…​

Khi mình có cái tâm mà khởi lên tham đắm trong ăn uống, trong những cái món thực phẩm ăn uống thì ngay đó ta mới lấy cái pháp tham ăn này mà niệm Phật.

Phật có tham ăn không? Nếu mà nó niệm Phật thì tức là không còn tham ăn nữa, mà không còn ưa thích cái tham ăn nữa. Ăn để sống chớ không phải còn ưa thích nó.

…​thì tâm ta không ưa thích.

Ngay liền mà chúng ta đem cái pháp đó mà chúng ta niệm Phật thì ngay cái gương hạnh của Đức Phật làm chúng ta tỉnh thức, làm chúng ta không còn ưa thích cái ăn ngon đó nữa, cái bánh đó nữa.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Pháp tham ăn là pháp chạy theo dục lạc thế gian khiến ta phải chịu thọ khổ trong biển sanh tử luân hồi.

Đó là một pháp ác, ta phải viễn ly, từ giã, đoạn dứt; thấy tất cả các thực phẩm, ăn uống là thứ thuốc trị bệnh đói, các pháp thực phẩm là pháp bất tịnh, hôi thúi, bẩn thỉu, ghê tởm như đống rác thúi, như đống phẩn hôi, nuốt vô khỏi cổ là không còn khả hỷ, khả lạc, khả ái nữa, chỉ toàn là một thứ ảo giác gạt người ngu si mới ham thích cái ăn, thực phẩm. Từ đây ta phải xa lìa, không chạy theo ưa thích ăn ngon nữa, giống như Phật!”

(09:25) Đó, thì chúng ta dùng cái pháp hướng này chúng ta để nhắc, để trước khi cái thực phẩm nó dễ cám dỗ chúng ta lắm, nó làm chúng ta ưa thích nó, làm chúng ta thích nó.

Do vì vậy đó mà chúng ta nỗ lực mà hằng ngày chúng ta dùng cái pháp hướng này nhắc tâm mình, để đến khi mà chúng ta thấy nó thật sự là bất tịnh, thật sự là nó không còn phải là quý báu, ngon ngọt đối với chúng ta nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta mới xa lìa được cái ăn uống, mà đến giờ ăn thì chúng ta thấy như đó là một cái sự bắt buộc để nuôi cái bệnh đói của chúng ta mà thôi, chứ chúng ta không có thích ăn.

Còn nếu mà chúng ta không có chịu hướng tâm mà nhắc nhở như vậy thì khó mà chúng ta xa lìa được cái ăn uống của chúng ta, thấy nó là nó mắc thèm, thấy nó là nó chảy nước miếng rồi. Do vì vậy đó mà chúng ta phải nỗ lực mà tu tập cái pháp để chúng ta tránh cái tham ăn này.

Muốn được vậy, sau này mà khi chúng ta tu những cái Định Vô Lậu thì chúng ta cũng phải đặt cái niệm thực phẩm ăn uống trước mặt để chúng ta quán xét, suy tư để thấy nó là bất tịnh, thấy nó là ảo giác, cái ngon của nó, cái dục lạc của nó là cái ảo giác gạt chúng ta, làm cho những người ngu, vô minh mới ham thích.

Còn những người trí người ta biết nó người ta không còn thích nữa đâu, người ta không có bị nó gạt nữa đâu, cho nên người ta ăn cơm với muối mà người ta vẫn thấy rằng nó khỏe hơn là ăn những đồ chiên đồ xào hoặc là ăn những cái món ngon. Càng ngon miệng bao nhiêu thì nó gây cái tai hại, cái độc ở trong thân của chúng ta bấy nhiêu.

Cho nên từ đó mà chúng ta xa lìa được cái ăn uống của chúng ta. Cái pháp thực phẩm, về cái pháp tham ăn này nó rất khó chớ không phải dễ.

Nói là một lẽ, nhưng nếu mà chuyên tu, quyết tâm tu, thường xuyên đặt niệm bất tịnh thực phẩm trước mặt thì chúng ta mới xa lìa được nó, thường xuyên hướng tâm để mà tác ý đoạn dứt nó thì chúng ta mới được an ổn trước các pháp của thực phẩm đến với cái tâm của chúng ta mới là được thản nhiên.

Chớ không khéo thấy cái nó thèm liền, thấy cái nó muốn ăn liền, thấy cái nó muốn thích liền chớ không phải không. Lâu ngày không có ăn kẹo ăn bánh bắt đầu thấy kẹo, bánh, chè là đã thấy thích rồi, lâu ngày mà không có ăn cái món ăn mà mình ưa thích. như có người thì ưa sữa đặc mà lâu ngày không có ăn nó thì nay thấy sữa bắt thèm, thì đó là chúng ta còn ở trong cái ảo giác của cái ăn uống chứ chưa phải là ra khỏi.

Mà muốn được vậy thì hằng ngày chúng ta phải tu tập, đặt cái niệm để mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu để quán xét, cái tri kiến giải thoát của chúng ta thấu suốt được cái món ăn là bất tịnh, cái món ăn là bẩn thỉu thì chúng ta mới dứt được cái tâm tham đắm đó, chớ còn không khéo thì chúng ta rất là tham đắm.

Và đây cái pháp tham ăn này bắt nó phải niệm Phật, vì ông Phật không có tham ăn, không có thích cái ăn uống, không có chạy theo những cái dục lạc của ăn uống, không có bị cái ảo giác lường gạt, cho nên bắt cái pháp này mà niệm Phật thì chắc chắn là cái pháp này nó sẽ đối xử với chúng ta rất là tốt trên con đường tu tập. Lấy pháp mà niệm Phật thì nó trở thành cái pháp không còn lường gạt chúng ta được nữa.

5) PHÁP THAM MẶC NIỆM PHẬT

(12:45) 5. Pháp tham mặc

Ở đây là tham ăn rồi bây giờ tới tham mặc.

Có một người Phật tử may cho mình một bộ ba y với vải nhập màu vàng óng ánh, nhìn thấy bộ y là sanh tâm ưa thích ngay. Biết tâm mình đang dao động trước pháp y, ta hiểu ngay đó là một pháp đưa đến đau khổ và mất Phạm hạnh, ta liền lấy pháp đó mà niệm Phật.

Trong đời sống của Đức Phật biết bao nhiêu Phật tử cúng dường pháp y rất là tốt đẹp, nhưng Ngài nhận cho vui lòng Phật tử và cúng dường lại cho các vị Tỳ Kheo khác. Khi lấy pháp này mà niệm Phật, ta không còn sanh tâm ưa thích nữa.

Ưa thích cái y tốt y xấu nữa, miễn là mặc ấm thân và kín thân chứ không còn thấy nó là óng ánh màu vàng rất là tốt đẹp, không còn có ham thích nó nữa.

Muốn được như vậy thì hằng ngày chúng ta phải trạch pháp một câu để dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý.

Thầy nhắc lại về cái pháp y này nó cũng làm cho các thầy mê mệt nó lắm.

Trong cái câu chuyện Tây Du Ký thì có một cái vị đó có cái tủ y rất nhiều, nhưng mà thấy cái y của ông Tam Tạng óng ánh sáng lên, có hào quang lên thì ông ta lại thích thú, cho nên muốn xin ông Tam Tạng đem về cái phòng của mình để chiêm ngưỡng nó.

Nhưng không ngờ - ông cũng có ý định là muốn cướp lấy cái y đó, không ngờ là con quỷ ở bên trong cái hang đá bên hông chùa nó lại thấy cái y, nó lại còn tham hơn nữa, cho nên nó hóa gió nó hốt cái y đi mất. Còn ông ta tưởng là cái y mình còn để trong phòng, đêm nay tính đốt thầy trò Tam Tạng cho chết đi rồi mình lấy cái y.

Các thầy thấy, đó là những cái nó gợi cho chúng ta nhiều cái pháp ác đến như vậy đó. Và cuối cùng thì chùa ông thầy này tiêu mất và cái y cũng chẳng còn.

Đó thì, ở đây chúng ta thấy rõ ràng là cái pháp y, cái pháp tham mặc này nó cũng là một cái điều quan trọng lắm, quan trọng cho cái người tu lắm. Nó sẽ làm cho chúng ta mất cái Phạm hạnh đi.

(15:11) Thí dụ như một cái người mặc bộ đồ rách rưới, chắp vá mà sạch sẽ, với một cái người tu sĩ như vậy thì người ta rất là kính trọng, người ta thấy đó là cái Phạm hạnh, không có xài phí.

Còn một cái người mà mặc y sáng chói rực rỡ, đeo chuỗi, đeo này kia ngồi trên cái pháp tọa thì người ta thấy rằng cái vị thầy đó chưa có Phạm hạnh, người ta không có quý trọng.

Còn một vị thầy ăn mặc rách rưới, lang thang, không có vá víu mà lại bẩn thỉu, không giặt, thì cái hạng này thuộc về cái hạng ăn xin thật sự chớ không phải là một vị thầy. Phải phân biệt được. Có nhiều người nói tui ăn mặc rách rưới, lang thang, không cần giặt dịa gì hết, áo quần hôi rình, nói là Phật thì cái điều đó là không đúng đâu.

Ông Phật thì bao giờ cũng phải sạch sẽ, cũng phải đàng hoàng, ăn mặc thì mặc dù là y vải thô, vá víu nhưng nó vẫn là sạch sẽ, vẫn là hẳn hòi đàng hoàng, oai nghi tế hạnh đàng hoàng.

Còn những vị thầy mà cũng chấp nhận là ăn mặc rách rưới nhưng mà lại bẩn thỉu, xốc xếch, nó không có đúng oai nghi, thì những vị thầy đó chỉ là những người mạo danh đạo Phật, không đúng oai nghi của Phật.

Cho nên nhìn qua Phạm hạnh của người tu, cách thức ăn mặc thì chúng ta cũng nhận xét được bậc chân tu hay là bậc giả tu. Có nhiều người giả làm nghèo, làm ra cái hạnh khổ hạnh, nhưng mà cái khổ hạnh đó lại là không đúng cái hạnh của một người tu sĩ đạo Phật thì chúng ta vẫn nhận ra được.

Và cái người mà lợi dưỡng, sang cả trong cái ăn mặc của một vị tu sĩ thì chúng ta biết đó cũng không phải là cái người tu mà người chạy theo dục lạc qua cái hình thức của tôn giáo mà thôi.

Đó thì, ở đây chúng ta nên trạch pháp cái câu này ra để chúng ta phá cái tâm tham đắm quần áo, y áo của chúng ta:

“Pháp tham mặc là một pháp xấu ác, làm mất Phạm hạnh của người tu, người ngoài nhìn vào chê cười phỉ báng Phật pháp. Và nếu còn sanh ưa thích mặc y áo tốt đẹp đó là ta chưa ly dục ly ác pháp được thì làm sao mà chúng ta dự vào dòng Thánh được?”

Nghĩa là cái người mà còn ưa ăn mặc tốt đẹp, còn ưa ăn mặc sang cả, còn ưa ăn mặc những cái y phục, cái y cho đẹp, thì phải nhìn thấy cái hình ảnh của vị tu sĩ đó là họ chưa có ly dục ly ác pháp. Mà chưa ly dục ly ác pháp thì cái người tu sĩ đó chưa có dự vào dòng Thánh đâu. Mà chưa được dự vào dòng Thánh thì thử hỏi cuộc đời của họ làm sao chấm dứt được sanh tử luân hồi?

Cho nên nhìn cái chỗ ăn mặc thì chúng ta đã biết được cái vị thầy đó, cái người tu đó có dự vào dòng Thánh hay không, tức là qua cái ăn mặc chúng ta đã nhận biết rồi.

(18:15) Chớ đừng nghĩ rằng chúng ta ăn mặc như là Bồ Tát Văn Thù, như là Bồ Tát Phổ Hiền, Đại Thế Chí hay Quan Âm, nào là ăn mặc quá, những cái hình ảnh đó ăn mặc nào trang điểm vòng hoa đủ thứ đủ loại như vậy là Bồ Tát. Thật sự nó không có đúng, hình ảnh đó nó không đúng là cái hình ảnh của một người tu sĩ Phạm hạnh của đạo Phật.

Hình ảnh đó là hình ảnh không giải thoát. Nó không có giải thoát, nó không có ly dục ly ác pháp, mà không ly dục ly ác pháp thì không bao giờ mà gọi là có thiền định gì được hết. Cái hình ảnh mà chúng ta thấy những cái tượng của các bậc Bồ Tát đó thì không có cái sự giải thoát, không có cái sự ly tất cả cái ham muốn.

“Biết vậy ta phải lìa xa pháp tham mặc, từ giã, viễn ly, sống đúng đời sống Phạm hạnh để ly dục ly ác pháp cho trọn vẹn. Pháp y tốt, y xấu phải viễn ly, nơi đây ta không chấp nhận ác pháp này!”

Nghĩa là có người thì muốn tỏ ra mình ăn mặc y xấu, thì cái người này cũng bị chấp vào cái y xấu rồi. Hiện bây giờ chúng ta có cái y chúng ta mặc từ cái tốt, từ cái mới của nó, cho đến nó cũ nó rách thì chúng ta cứ giữ để cho đến khi mà không xài được thì thôi.

Có nhiều người cái y đương tốt như thế này họ đem họ vá bên đây một miếng, bên kia họ làm như là…​ Họ nói là làm cho hoại sắc cái y đi, làm cho nó trở thành xấu đi, thì cái người này cũng bị chấp cái y xấu đó.

Cho nên Thầy thấy có nhiều thầy cái áo nó chưa phải đúng là vá mà họ cũng vá bậy vá bạ để làm cho họ là người kêu là khổ hạnh, là người giữ đúng những cái Phạm hạnh, đó là những cái sai.

Bây giờ có người cúng dường mình, mình bây giờ y áo mình rách hết rồi, mình nhận cái y đó thì lẽ đương nhiên là phải mới rồi. Mới thì mình mặc 1 năm, 2 năm, 5 năm, 3 năm thì nó phải cũ, nó cũ nó rách thì mặc tình đó mà vá mà mặc. Sợ tới chừng đó rồi mình đem mình ném đi, mình bỏ đi, thì cái đó là không đúng cách.

Cho nên ở đây, cái pháp y tốt hay là y xấu chúng ta đều xa lìa cái tâm đó đi mà chúng ta hãy giữ cho đúng cái cách của một cái người tu, là bây giờ nó đã rách hết thì người khác cúng dường cho mình cái y mới thì mình cứ nhận y mới mình mặc.

Chớ không phải nói bây giờ tui mặc cái y, bây giờ nó rách như thế này ai cũng khen tui là cái người Phạm hạnh đàng hoàng, mà bây giờ mặc cái y mới vô như thế này thì mất cái Phạm hạnh. Không! Cái Phạm hạnh là do ở tâm của mình, còn cái y mà mình xài nó không phải là cái Phạm hạnh.

Mà bây giờ cái y mình chưa có ra gì hết, mình thấy nó hơi cũ cũ, mình quăng đi để mình tìm cái y mới để làm cho nó có cái vẻ đẹp, bóng láng nữa thì cái đó là cái sai.

Dó thì ở đây Thầy muốn nói trên cái ăn mặc của một vị tu sĩ để chúng ta thấy cái pháp y mà nó đến nó không lường gạt chúng ta được, mà nó không làm cho chúng ta sai lệch cái Phạm hạnh của người tu.

Vì thế chúng ta phải biết để mà thực hiện ở trên cái chỗ ăn mặc của chúng ta cho đúng cái Phạm hạnh của một cái người tu. Vì vậy lúc cái pháp y mà đến thì bắt buộc nó phải niệm Phật. Nó niệm Phật như thế nào để chúng ta quán xét lại cái hình ảnh của Đức Phật.

(21:36) Ngày xưa Đức Phật dùng cái y phấn tảo, Ngài lượm những cái giẻ rách, giẻ thây ma Ngài kết lại, sau đó người ta cúng Phật cái y thì Ngài trao cái y lại, thấy ông Ca Diếp thích cái y đó cho nên Ngài trao cho ông Ca Diếp cái y đó, Ngài cũng chấp nhận cái y mới Ngài mặc.

Rồi tuần tự tới cái y mà cũ thì Ngài cũng chắp vá lại Ngài mặc, chớ Ngài đâu có ném bỏ bậy bỏ bạ đâu! Hay hoặc là có những y khác người ta cúng rồi Ngài thấy cái y này nục nục, thôi cho ông A Nan đi, ông A Nan ổng nói rằng ổng không có nhận những cái y gì mà của Đức Phật cúng dường mà.

Thì như vậy là chúng ta đã thấy rõ trong cái đời Đức Phật thì cũng nhận cái y mới, rồi bắt đầu từ cái y mới đó nó lần lần nó cũ đi, thì chúng ta cũng vậy.

Chớ đâu phải là chúng ta tạo cho nó để cho nó cũ hoài, chúng ta lúc nào cũng mặc y cũ không, thì cái đó là cái không đúng cách, là tại vì chúng ta muốn chấp nhận cái y xấu mà để cứ mặc y xấu, đó là cái tướng của chúng ta, để mà chúng ta nói rằng đó là cái Phạm hạnh chúng ta, không phải đâu.

Có khi thí dụ như Thầy có cái y đó rách thì bây giờ Thầy làm cái tấm để Thầy trải cái chỗ nằm Thầy, thì bây giờ Thầy có cái y mới này Thầy mặc vô, mắc mớ gì Thầy lại xé nó ra rồi vá nó lại? Thì như vậy là có phải ngu không?

Như vậy là chúng ta chấp cái tướng xấu mà bỏ cái tướng tu của mình, tướng Phạm hạnh của mình. Như vậy là mình cũng lầm rồi, không có đúng cách của cái người tu, mình cũng bị pháp đó nó lôi cuốn mình bằng cách này bằng cách khác.

Cho nên ở đây Thầy nói pháp y tốt, y xấu chúng ta cũng phải xa lìa nó, chớ không khéo thì chúng ta bị chấp nhận cái pháp ác này, nó làm cho chúng ta lệch lạc cái Phạm hạnh.

6) PHÁP THAM TIỀN NIỆM PHẬT

(23:16) 6. Pháp tham tiền

Bây giờ tham tiền.

Khi có người Phật tử đến cúng dường ta tiền bạc, ta liền lấy pháp này bắt nó niệm Phật.

Nghĩa là có một người đem đến để bao thơ cúng dường, không biết bao nhiêu, 100, 200 ngàn, 300 ngàn hay 500 ngàn gì đó, hay 1 triệu bạc đi, thì bắt đầu mình là một người tu sĩ rồi thì mình lấy cái pháp này bắt nó niệm Phật.

Vậy thì mình hỏi cái pháp tham tiền này nó niệm Phật nó có còn tham nữa không? Ông Phật có cất tiền không? Như vậy là không cất tiền. Vậy là mình đệ tử của Phật, mình có cất tiền không?

Cái pháp này nó đến đây nó ghẹo gan mình đây, nó làm cho mình ham nó đây. Vậy thì bây giờ đem cái pháp này mình niệm Phật, thì ông Phật chắc ổng không nhận đâu, mà ổng không nhận thì mình có nhận không? Chắc chắn là mình đem cái pháp này mà niệm Phật, Phật không nhận, mình phải làm đúng theo ông Phật thì mình cũng chẳng nhận cái pháp này.

Cho nên khi mà người Phật tử họ cúng dường rồi thì mình sẽ trả lời với họ như thế nào? Tôi sẽ nhận cái lòng của Phật tử cúng dường. Vì giới luật của Phật cấm chúng tôi không có nhận tiền, chỉ nhận thực phẩm, mà trong mỗi một ngày ăn một bữa thôi chớ không có để dành, xin Phật tử hãy cất lại cái số tiền này mà gởi nuôi cho trẻ mồ côi hay hoặc là những cái người bất hạnh ở trong xã hội, giúp dùm tôi cái điều này.

Đó thì như vậy là mình gửi lại cái số tiền đó cho Phật tử, thì như vậy là cái pháp đó nó đã niệm Phật đó, cái pháp tham tiền đó nó niệm Phật. Cho nên nó niệm Phật thì nó trả lại cái chủ cũ của nó mà nó không bị dính mắc, vậy cho nên mình không bị dính mắc ở trong cái pháp cất tiền.

Từ ngày tu hành theo đạo cho đến khi viên tịch, Ngài không cất giữ một đồng một xu nào trong mình cả…​

Nghĩa là ông Phật khi mà ổng bỏ ổng đi tu rồi cho đến bây giờ thì ổng đi xin ăn chớ ổng không có cất tiền bạc chỗ nào hết.

…​Người chỉ đi xin thực phẩm ăn mà sống. Tiền bạc đến với Người thì Người xem như là rắn độc.

(25:22) Một hôm Đức Phật và ông A Nan đi ngang qua một cái đồng ruộng, ông A Nan nhìn thấy dưới cái lỗ dựa bên bờ ruộng có một cái hũ vàng bèn gọi Phật lại nhìn. Khi Đức Phật nhìn thấy cái hũ vàng thì mới bảo ông A Nan: “Này A Nan, nó là rắn độc, ta hãy đi tránh nó đi!” Rồi thầy trò vội vàng rời xa cái chỗ hũ vàng ấy.

Đó, thì ngay đó là Phật đã thấy cái hũ vàng, cho nó là rắn độc rồi. Và người mà người ta cầm tiền người ta cúng dường mình, tức là người ta đem rắn độc để cho cắn mấy ông thầy này chết chơi đó!

Thế mà mấy ông thầy lại không có sợ rắn, cho nên thấy tiền, thấy bao thơ mà để để đó, mấy ổng vội ôm vô mình hết. Trời ơi rắn độc mà mấy ổng ôm trong mình thì thử hỏi các thầy nghĩ sao? Nó không cắn mấy ổng sao? Cho nên Thầy thấy ông nào cũng bị nọc độc hết trơn, không có ông nào mà tránh khỏi nọc độc rắn này.

Chính ông Phật đã xác định mà, nó sẽ cắn chết mấy ổng hết. Đúng vậy, bây giờ nó cắn mấy ổng tiêu hết rồi. Cho nên cái tiền bạc mà của Phật tử cúng dường đó là Phật tử đã đem rắn độc đến cho chúng ta.

Vì hầu hết là Phật tử, những người mà họ làm ra tiền bạc, đó là những thứ rắn độc cho nên họ luôn luôn bị nô lệ ở trên tiền bạc, họ bị sai sử ở trên tiền bạc hết. Họ muốn ăn tức là cái tiền bạc nó sai họ muốn ăn cái này muốn ăn cái kia, nó sai đủ thứ hết cho nên họ phải chạy rất là khổ. Và họ làm ra đồng tiền bạc cũng rất là khổ chớ không phải dễ.

Còn chúng ta là những người tu rồi, nhìn nó là chúng ta đã biết nó là rắn độc, và chính Đức Phật đã nhắc nhở chúng ta như vậy.

Lấy pháp tham tiền này mà niệm Phật thì pháp này không cám dỗ được ta nữa, và ta tránh xa, xin Phật tử hãy lấy những tiền bạc này làm công việc từ thiện xã hội, có nhiều người bất hạnh ở trong thế gian này.

Do thế ta tránh xa pháp ác, ta không còn nô lệ cho tiền bạc trong cái ăn, cái mặc, và xây chùa to tháp lớn nữa, ta làm chủ được tâm ta. Còn những kẻ khác thì không làm chủ được tâm, cho nên biến họ trở thành tên nô lệ trung thành của tiền bạc, và tiền bạc sai họ làm việc này việc khác.

(27:42) Muốn làm chủ được tiền bạc thì phải mạnh dạn từ khước tiền bạc. Vì thế mà ta nên trạch pháp câu này để nhắc nhở tâm mình luôn luôn tác ý nó ra:

“Pháp tham tiền bạc là rắn độc, là ông chủ độc tài, đầy gian ác. Ta hãy tránh xa, từ bỏ, từ khước, không bao giờ nhận tiền bạc của ai hết. Tiền bạc hãy đi đi, ta không nhận ngươi đâu, ngươi hãy đi đi cho khỏi nơi tâm ta!”

Đó là mình phải dùng cái pháp mình đuổi tiền bạc nó đi. Vì mình bắt nó niệm Phật, Phật thấy nó như rắn thì bắt đầu bây giờ mình cũng thấy nó là như rắn, cho nên đuổi nó đi.

Còn nó không đi, mình tránh đi, đừng có ở đó, cho nên Phật tử mà bỏ đó thôi mình cũng tránh đi. Có nhiều người thì bỏ đó, sợ không biết người khác lại vô lại ôm nó đi cho nên cứ đi mà cứ ngó chừng, như vậy là sợ rắn mà còn tiếc rắn, thì cái đó không phải đâu. Cho nên ở đây mình bỏ đi, ai có ôm thì nó cắn ráng chịu.

Còn cái này Phật tử họ cúng dường rồi họ không dám lấy, họ cúng cho quý thầy rồi thì họ không dám lấy, thôi họ bỏ đó, thì ông thầy ổng cũng không có dám lấy, ổng cũng sợ nó đó, nhưng mà ổng tiếc, sợ mất, cho nên ổng cứ đi lát ổng ngó.

Đi cho đến khi mà ổng gặp cái chú thị giả: “Mày ra ngoài đó mày ôm ba cái đó đi đi, chớ còn để đó nó mất đi.” Thì như vậy là mình cũng đi luồn cửa sau rồi, như vậy là sợ rắn chớ mà mất rắn thì cũng uổng, cho nên thấy con rắn cũng đẹp.

Cho nên đó là những cái sai. Mà chúng ta coi chừng, nó có thể nó thu hút và cám dỗ về cái tiền bạc dữ lắm đó. Mà hầu hết là chúng ta thấy tu sĩ của mình đều bị nó nuốt trỏng hết rồi, nó cắn nọc độc nó thấm hết rồi.

Cho nên bây giờ do mình thấy như vậy thì mình phải phòng ngừa cho mình. Một người mà quyết tu rồi thì chúng ta đừng có rớ tới nó, đừng có động tới nó. Chúng ta không có rớ đến nó, không động tới nó thì nó không sai chúng ta được gì hết.

Nghĩa là chúng ta muốn ăn mà mình không tiền làm sao ăn? Đâu có được. Cho nên từng đó chúng ta cũng không muốn ăn. Bây giờ muốn mặc đẹp mà chúng ta không tiền làm sao mặc đẹp? Cho nên chúng ta lại được giải thoát hết, cuối cùng thì chúng ta khỏe re.

Còn trái lại những người mà có tiền, quý thầy mà có tiền bỏ túi rồi coi chừng nó sai quý thầy tầm bậy. Tiền nhiều là nó sai quý thầy cất chùa, mà tiền khá khá nó sai quý thầy mua sắm một chiếc dream, chạy bậy xe nó đụng mà chết đó! Nó đều rắn độc mà, nó hại quý thầy dữ lắm.

(30:17) Cho nên ở đây, khi mà chúng ta hiểu được như vậy, chúng ta chỉ: Bây giờ mình không có tiền, mình đi ra ngoài kia, mình đi đường, mình ở đây muốn xuống thành phố. Mình ra đứng ngoài đường, thấy cái xe mà đi ngang qua mình đón, xin nó ngừng lại, mình xin cho quá giang đi về thành phố. Nó cho thì mình đi, mà không cho thì xe khác. Cứ vậy mình đứng mình chờ.

Mình là người tu sĩ đâu có vội vàng mà đến thành phố để làm gì gấp? Cho nên từ từ mình đi, thủng thẳng. Xe nào mà nó hảo tâm được, nó cho mình được thì mình lên mình đi, mà nó không cho thì mình đứng mình đợi, rốt cuộc rồi nó cũng phải có xe nó cho mình đi. Nó thấy sao ông thầy này đứng hoài từ hồi sáng cho tới chiều mà chưa đi được, ông thầy này chắc bộ không tiền thiệt, cho nên thôi cho ổng đi cái cho rồi. Đó thì cuối cùng mình cũng đi.

Cho nên trên cuộc đời mà đi khất thực, lúc mà Thầy đi từ chỗ này đến chỗ khác, Thầy đón xe Thầy xin quá giang là vậy. Thậm chí như có cái người mà lái cái xe Honda đi ngang qua, Thầy đón họ: “Cho Thầy quá giang đi đến chỗ nào đó”, thì cái người đó nói: “Con đi chưa tới đó, nhưng mà con có thể đưa Thầy đi một đoạn đường từ đây đến đó được”, thì cái người đó họ cũng nhận mình, họ cũng đưa mình được một đoạn.

Thầy thấy cũng dễ thôi không có gì. Không lẽ ông thầy như thế này mà bóp cổ họ lấy xe sao họ không cho? Chớ còn lơ mơ mấy chú thanh niên mà ra đón vầy họ không dám chở đâu.

Đó là những cái tiền bạc nó rất nguy hiểm. Và vì vậy mà trong giới luật của Phật cũng như giới kinh và giới bổn đều có dạy chúng ta là đừng có cất giữ tiền bạc, vì nó nguy hiểm lắm, và nó đưa đến cái tai hại cho đời sống của cái người tu sĩ, mất đi những cái Phạm hạnh.

Cho nên ở đây, chúng ta lấy cái pháp tham tiền này chúng ta bắt nó niệm Phật. Để làm gì? Để cho nó đừng có tham nữa. Do đó nó nhờ cái pháp niệm Phật như vậy thì nó hết tham, chớ còn nó không niệm Phật nó tham dữ lắm. Hầu hết là quý thầy không có lấy pháp mà niệm Phật cho nên đụng pháp nó dính quý thầy tất cả hết, còn ở đây Thầy khôn hơn cho nên Thầy lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật hết.

Chúng ta thấy từ cái chỗ tu hành của chúng ta mà chúng ta biết tu Tứ Bất Hoại Tịnh là dùng Phật pháp, bốn cái chỗ mà chúng ta tu, lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Cho nên bây giờ tất cả các pháp, cái pháp nào ở trong thế gian này mà xảy ra, bởi vì cái pháp gì thì chúng ta cũng lôi đầu nó niệm Phật được hết. Cho nên chúng ta biết cái pháp nào mà lôi đến niệm Phật thì cái pháp đó đều là giải thoát hết. Do vì vậy mà đến cái chỗ lấy pháp mà niệm Phật, chúng ta thấy nó tuyệt vời, biết lấy cái pháp mà niệm Phật.

Còn nếu mà chúng ta không biết lấy cái pháp niệm Phật thì ngay đó cái tâm phàm phu của chúng ta bị dính mắc liền, không thể nào mà chúng ta giải thoát ra được.

(33:02) Cho nên lấy pháp niệm Phật nó hóa giải được cái tâm của chúng ta. Từ đó khi mà một cái gì nó xảy đến cho chúng ta, như bây giờ có một người khác mắng mình, chửi mình, thì các thầy thấy khi mà người ta mắng mình thì rõ ràng đó là cái pháp ác rồi chớ gì? Đem những cái ngôn ngữ mắng mình đó, mình bắt nó niệm Phật đi.

Như vậy là khi bắt nó niệm Phật như vậy, ông Phật đâu có giận, thì khi mà các pháp đó niệm Phật như vậy thì tâm mình cũng đâu có giận! Nó đã biết niệm Phật rồi, nó đã quy y Phật rồi, cho nên nó biết niệm Phật thì tức là nó phải sống theo đúng ông Phật, cho nên cái pháp đó nó trở thành là pháp thiện, cho nên chúng ta cũng không có giận hờn nữa.

Chớ còn không khéo người ta mắng mình, mình tức mình chửi người ta lại đó, thì do đó cái pháp đó nó trở thành pháp ác luôn mà nó không còn thiện.

Cho nên khi mà có người đến họ chửi mình, họ nói mình chó hay trâu đi, hay họ chửi mình đồ ngu đi, thì bắt đầu lấy cái pháp đồ ngu này mình niệm Phật đi, lấy cái pháp chó này cho nó niệm Phật đi, thì chó nó cũng thành Phật được chớ đâu phải không? Cho nên bắt nó niệm Phật.

Vì cuối cùng cái pháp niệm Phật thì cái tâm mình nó không thành chó, phải không? Cho nên do đó mình không có giận nữa. Nó niệm Phật thì nó thành Phật rồi, nó đâu có thành chó nữa mà nó giận? Cho nên cuối cùng thì mình giải thoát. Đó.

Cho nên ở đây Thầy nói đến cái chỗ hồi nãy, hồi đầu đó, mình học mình lấy cái thân mình niệm Phật, thân Phật sao thì cái thân mình niệm Phật nó phải giống vậy. Đó là hai cái đó, các con thấy nó rõ ràng.

Bây giờ đến cái thọ. Trước cái thọ Đức Phật tâm đâu có dao động, cho nên bắt cái thọ mình niệm Phật, thì cái tâm mình nó cũng không có dao động, cho nên mình cũng được giải thoát.

Cho nên bây giờ mình bắt cái tâm của mình niệm Phật, thì cái tâm của mình với cái tâm Phật nó phải giống như thế nào, cho nên nó cũng thoát, nó cũng không có đau khổ.

Bây giờ mình bắt các pháp nó đang…​, mình sống bao vây ở trong các pháp, cái pháp thiện, pháp ác, đủ pháp hết nó bao vây mình, do đó mà hở cái pháp nào ra mình lôi đầu nó vô niệm Phật, quy y Phật hết, cuối cùng thì pháp nào cũng giải thoát hết.

Bởi vì nó có nhờ ông Phật nó giải thoát. Cho nên mình biết lấy cái chỗ Tam Quy này làm cái gốc, cho nên mình lôi nó vô niệm Phật hết, vì vậy mà cuối cùng thì cái tâm mình giải thoát, phải không? Cho nên mình ly dục ly ác pháp rất là rõ ràng và cụ thể, cho nên mình được hoàn toàn giải thoát. Đó các con thấy chưa?

Cho nên vì vậy mà Thầy dạy không phải lấy miệng niệm Phật mà lấy ý niệm Phật, mà lấy các pháp niệm Phật. Các con hiểu chưa? Nó có niệm không? Bởi vì ông Phật pháp gì đến tâm ổng đâu có động, cho nên pháp nào đến ổng cũng giải thoát hết. Vì vậy đó mà mình bắt nó niệm Phật thì tâm mình nó cũng bất động, nó cũng giải thoát hết.

Cho nên ở đây, từ cái tham y, rồi từ cái tham tiền, cho đến tham ăn, rồi cho đến tham ưu, tham ái, cho đến cái tham dục, tất cả những cái này đều bắt nó niệm Phật trước hết.

Đây là Thầy kê ra một cái số để chúng ta biết các pháp, chớ nó vô lượng pháp lận mà. Nó vô lượng pháp chớ đâu phải ít pháp, nó nhiều pháp lắm, biết nó xảy đến cho mình cái pháp nào đâu, nhưng mà hễ cái pháp nào đến là mình cứ lôi nó niệm Phật.

(36:10) Thiện mình cũng bắt nó niệm Phật mà ác cũng niệm Phật luôn. Hễ cái thằng lành nó niệm Phật dễ hơn mà cái thằng ác thì nó niệm Phật khó hơn, nhưng mà bắt nó phải quy y Phật hết, cho nó niệm hết.

Vô đó mình lấy ông Phật trước cho nó niệm, sau đó mình bắt nó, mình cũng lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Pháp.

Bởi vì Pháp là những cái…​ cũng như bây giờ đó, cái Pháp của Phật thì Tứ Niệm Xứ nè, rồi Tứ Thiền nè, rồi Tứ Chánh Cần nè, rồi Tứ Như Ý Túc nè, tất cả những cái pháp đó đều là mình lôi đầu các pháp vô, niệm hết.

Thân mình cũng niệm, rồi Tâm mình cũng niệm, Thọ mình cũng niệm, do đó mình tùy theo các pháp đó mình cũng giải thoát hết. Đó là bắt đầu Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Pháp.

Rồi Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Tăng. Tới niệm Tăng, Thầy kê ra những cái hạnh của các vị Thánh Tăng ngày xưa, như ông Xá Lợi Phất ổng tu như thế nào, cái hạnh ổng tu làm sao, ông Mục Kiền Liên tu như thế nào.

Do đó bây giờ mình lấy cái thân của mình phải tu, phải giống như các bậc Thánh Tăng đó, rồi cái tâm của mình phải tu như thế nào để giống các bậc Thánh Tăng đó, rồi cái thọ của mình như thế nào để đối với các vị Thánh Tăng đó, rồi các pháp mà niệm Tăng thì phải niệm như thế nào.

Thì do đó hoàn toàn là mình - nội trong Tứ Bất Hoại Tịnh mình tu xong là mình thấy cũng giải thoát rồi, cũng thành tựu rồi chứ đừng có nói tu gì nhiều nữa, nó cũng đầy đủ hết rồi.

Cho nên từ đó chúng ta mới thấy rằng cái lòng tin của chúng ta đối với đạo Phật tuyệt vời, không bao giờ mà chúng ta thối tâm hết, cho nên gọi là Tín Lực. Mà Tín Lực là Tứ Bất Hoại Tịnh, phải không? Mà Tứ Bất Hoại Tịnh là bắt các pháp Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật hết, thì do đó là giải thoát hoàn toàn.

Đó, chúng ta tu chúng ta thấy cái kết quả càng ngày, càng lúc càng rõ ràng, và đem đến cho chúng ta thấy cái sự giải thoát rất là rõ.

Vậy thì Thầy dạy các con một pháp thôi mà các con nỗ lực tu là các con cũng đã đến giải thoát hoàn toàn rồi chớ chưa nói là dạy hết các pháp của Phật đâu. Nội lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật là đã thấy kết quả rồi.

Mà lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp, rồi giải thích cái Pháp, cái Pháp như thế nào mà lấy cái Thân của mình tùy theo cái Pháp, cho nên Phật nói tùy pháp đó. Tùy pháp là sống nương theo cái pháp, cho nên do đó mình lấy cái Thân của mình để niệm Pháp, lấy cái Tâm của mình để niệm Pháp, lấy cái Thọ của mình để niệm Pháp, lấy các Pháp để niệm Pháp.

Đó, thì như vậy chúng ta biết được cái Tứ Bất Hoại Tịnh nó vi diệu và nó rất là siêu ở trong cái sự tu tập. Mà chỉ có Tam Quy, ba cái giới mà chúng ta đã thọ: Phật, Pháp, Tăng, và đồng thời cái giới bổn mà chúng ta đã học, thì chúng ta nêu lên những cái đó để mà chúng ta niệm nó, thì như vậy chúng ta làm sao không giải thoát!

Đó, hôm nay thì quý thầy đã thấy cái đầu tiên mà Thầy dạy quá cụ thể rồi, bây giờ tới Pháp. Nghe nói Pháp niệm Phật thì người ta không biết nó niệm làm sao đây, cái Pháp làm sao niệm? Nhưng bây giờ thì quý thầy đã biết Pháp niệm Phật rồi.

Đó, cho nên Pháp niệm Phật tức là pháp đến với mình, mà cái pháp đã niệm Phật thì cái pháp đó nó không có còn chướng ngại ở trong tâm của mình nữa, nó làm cho cái tâm mình không còn bị dao động. Vì lấy cái pháp đó buộc nó phải niệm Phật, mà cái pháp đến với Phật Phật không có dao động thì đến với mình mình cũng không dao động, cho nên mình giải thoát.

Đó thì hôm nay các thầy đã hiểu được Pháp niệm Phật rồi, đã hiểu Thân niệm Phật, đã hiểu Thọ niệm Phật, đã hiểu Tâm niệm Phật, bây giờ tới hiểu Pháp niệm Phật rồi. Cái pháp thứ 6 là pháp tham tiền niệm Phật, bây giờ cái pháp tham ngủ niệm Phật.

7) PHÁP THAM NGỦ NIỆM PHẬT

(39:38) Bây giờ tới cái pháp tham ngủ, coi vậy chớ nó không phải dễ đâu.

Pháp tham ngủ là một pháp ngu si, mê muội, lười biếng. Khi gặp pháp nơi thân ta…​

Bây giờ cái pháp đó nó đến, nó làm cho mình lười biếng, buồn ngủ, gục tới gục lui, đi đứng thiếu điều muốn té, nó ngủ ở trong bụng mình rồi, đó là cái pháp nó đến đó.

Vậy mình lôi cái đầu nó đi niệm Phật đi cho nó sáng ra chớ còn không khéo…​, rồi đây quý thầy lôi cái Pháp niệm Phật, chớ không phải lôi cái đầu của mình niệm Phật, hay hoặc là mình đến mình lạy Phật lia lịa cho nó hết, không phải đâu. Đây quý thầy nghe chúng ta lôi nó đi niệm Phật đây:

…​ta lấy nó mà niệm Phật. Ngày đêm Phật tỉnh thức…​

Bởi vì mình muốn cái pháp nó niệm Phật thì mình phải xét ông Phật coi, mình xem ông Phật có buồn ngủ không, ổng có bị hôn trầm, ổng có gật tới gật lui không? Chắc chắn là ông Phật không có chơi cái chuyện đó rồi, như vậy thì chúng ta mới lôi nó đi niệm Phật được.

Ngày đêm Phật tỉnh thức, không bao giờ có như kẻ phàm phu, do thế mà bắt pháp này niệm Phật, ta phải đi kinh hành như Phật.

Mình thấy trong cái đời sống của Đức Phật là ông Phật ổng đi kinh hành nhiều chớ đâu phải ổng đi kinh hành ít. Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai:

Phải tập tỉnh thức như Phật.

Mình phải tập như thế nào, mà Phật đã dạy mình tu tỉnh thức thì do đó nó mới tỉnh chớ còn mình không chịu tu tập tỉnh thức thì làm sao cho mình tỉnh được? Do đó mình phải tập như Phật.

Ta phải tập tỉnh thức trong giấc ngủ.

Bởi vì mình thấy ông Phật ổng nằm kiết tường nè, ổng ngủ cái ổng đặt cái niệm trước mặt, ổng nằm đó cái tâm ổng biết cái niệm rõ ràng, và đồng thời cái thân ổng ngủ queo đó à mà cái tâm ổng hoàn toàn tỉnh thức đó. Cho nên cuối cùng hết nửa đêm ổng dậy thì ổng bắt đầu ngồi thiền hoặc đi kinh hành.

Hoàn toàn ông Phật, cái hành động mà mình sống mình thấy ông Phật rõ ràng là ổng không có ngủ gà ngủ gật, không có ham ngủ như mình. Đó là những cái mà mình đã thấy rất rõ ràng rồi, như vậy thì mình phải bắt cái pháp buồn ngủ này nó phải niệm Phật.

Mà bắt cái pháp buồn ngủ này nó niệm Phật thì tức là chúng ta phải tu tỉnh thức nè, chúng ta phải đi kinh hành nhiều như Phật nè, chúng ta phải nằm kiết tường nè, rồi tu tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ nè, như Thầy đã dạy, thì như vậy là mình mới bắt nó niệm Phật được.

Chớ còn nếu mà mình không có tu tập như vậy làm sao mình bắt nó niệm Phật được? Cho nên mình cứ buồn ngủ, cứ lừ đừ, cứ lười biếng thì như vậy là càng lúc càng mê muội, không có bao giờ mà tỉnh thức được.

(42:08) Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm mình Như Lý Tác Ý:

Như Thầy đã dạy cho quý thầy đó, khi mà chúng ta tu tỉnh thức thì chúng ta phải dùng cái pháp hướng tỉnh thức như thế nào.

Đi kinh hành mà tỉnh thức, khi mà chúng ta dùng Tứ Vô Lượng Tâm, dùng tâm từ mà chúng ta tu hành, ở trên cái tỉnh thức bằng cái tâm từ, thì chúng ta đi nhìn để tránh không có đạp loài côn trùng, đó là cũng tu tỉnh thức đó.

Nhưng mà chúng ta đi kinh hành để mà chúng ta thư giãn thì nó lại khác. Nó tỉnh thức ở trong cái thư giãn của nó lại khác. Chớ nếu mà chúng ta tu tỉnh thức ở trong cái hành động mà áp dụng qua cái thư giãn thì nó lại sai.

Cũng như chúng ta tu cái tỉnh thức ở trong cái Tứ Vô Lượng Tâm, tâm từ để nhìn xuống chân mà đi mà tránh không có đạp loài côn trùng giết hại chúng đó, thì nó lại khác hơn là tỉnh thức chánh niệm trong hành động của chúng ta làm hằng ngày.

Cho nên mỗi mỗi nó đều có một cái riêng biệt riêng, mà quý thầy muốn tu tập cho đúng thì phải hỏi lại cho kỹ từng cái hành động đó, để mà mỗi khi chúng ta tu cái nào nó có cái nấy, nó đem đến cái kết quả của cái sự tu tập đó.

Rồi tỉnh thức ở trong giấc ngủ, khi nằm xuống phải đặt cái niệm như thế nào để mà tỉnh thức ở trong giấc ngủ, thì quý thầy phải hỏi cách thức cho rõ rồi quý thầy tập luyện nó mới đạt được, như vậy nó mới phá được cái pháp hôn trầm, cái pháp thùy miên này, cái pháp si mê này.

Đó vì vậy cho nên ở đây chúng ta trạch cái pháp để mà chúng ta nhắc nhở mình, để cho mình phá đi cái pháp tham ngủ:

“Pháp tham ngủ là pháp vô minh, si mê. Người đệ tử của Phật phải quyết tâm xa lìa pháp này vĩnh viễn, từ khước và chiến thắng pháp này, không để ở trong thân tâm ta nữa.

Pháp tham ngủ là một pháp cực ác với người tu sĩ của đạo Phật. Từ đây pháp này hãy đi đi, không được ở trong tâm ta nữa! Pháp tham ngủ phải lìa xa thân tâm ta, phải đi đi, không được ở đây!”

(44:09) Đó chúng ta dùng cái pháp hướng mà nhắc nhở như vậy. Để làm gì? Chưa chắc chúng ta dùng như vậy đã là đủ đâu. Cho nên khi nhắc như vậy để làm cho chúng ta phải tìm mọi cách mà phá nó, bằng cách là chúng ta đi kinh hành nè, bằng cách là chúng ta phải chạy lúp xúp nè, hay chạy một chỗ nè.

Khi mà bị buồn ngủ quá thì bắt đầu chúng ta phải chạy một chỗ, tức là chạy cái chân chúng ta giở lên giở xuống cho nó cao như Thầy đã giảng như vậy, để cho quý thầy phá cho thật sạch. Từ đó quý thầy giữ gìn giờ giấc nghiêm chỉnh giờ nào ra giờ nấy thì cái buồn ngủ này nó sẽ mất đi.

Còn nếu giờ giấc mà nó không nghiêm chỉnh thì muôn đời quý thầy cũng không bao giờ phá được cái hôn trầm buồn ngủ này được đâu. Cho nên giờ nào ra giờ nấy thì nó mới phá sạch, mà giờ này nó lộn qua giờ kia, nó trật qua 5 phút 10 phút thì quý thầy cũng không phá sạch nó đâu.

Đó là cái chỗ mà quý thầy cần phải tu tập cho nó đúng cách. Chớ còn nếu mà không đúng cách thì cái pháp ngu si, cái pháp mê ngủ này khó mà quý thầy thắng lắm.

Cho nên muốn lôi cái pháp này niệm Phật thì chúng ta phải quán xét lại cái thân Phật, quán xét lại coi ông Phật có tỉnh táo hay không. Mà ông Phật luôn luôn tỉnh táo như vậy thì chúng ta phải noi theo cái gương của ông Phật mà chúng ta phải tu tập, phải rèn luyện mình, thì tức là chúng ta bắt cái pháp ham ngủ của chúng ta nó niệm Phật đó. Các thầy hiểu chớ?

Nghĩa là bây giờ mình coi cái gương hạnh của ông Phật, sao ổng không có ham ngủ mà mình bây giờ lại có cái pháp ham ngủ này? Cho nên bắt cái pháp này nó niệm Phật thì bắt buộc nó phải sống, nó làm đúng cách như ông Phật, thì tức là nó đã niệm Phật, cái pháp ham ngủ nó niệm Phật. Mà nó niệm Phật thì tức là nó sẽ không ham ngủ nữa.

Đó thì như vậy là lấy Pháp mà niệm Phật, cho nên ở trong tâm chúng ta có một cái pháp gì thì chúng ta mau mau lấy cái pháp đó mà niệm Phật. Mà niệm Phật thì tức là phải theo gương hạnh của ông Phật, vì vậy mà cuối cùng thì chúng ta mới thắng được các cái pháp đó.

8) PHÁP THAM DANH NIỆM PHẬT

(46:04) 8. Pháp tham danh

Cái pháp này là cái pháp tham danh.

Danh là một pháp khiến cho người ta ham mê, thích thú, hãnh diện. Dù ít dù nhiều con người dễ bị pháp danh lôi cuốn và cám dỗ khiến cho họ lạc mất đường tu hành giải thoát, trở lại đắm chìm trong biển khổ sanh tử luân hồi mà họ không hay biết.

Nghĩa là chúng ta phải thấy rõ ràng là cái pháp danh này rất là độc. Nghĩa là thường thường người ta hay chạy theo cái danh lắm chớ không phải không đâu.

Hầu hết tu sĩ hiện giờ đang sống trong biển danh lợi, họ là những người đáng thương cho cái kiếp sống tu hành của họ, gặp ngay pháp danh họ đều quỵ ngã trên đó.

Nghĩa là bây giờ chúng ta là những người tu sĩ phải không, bắt đầu đi học có cấp bằng cử nhân nè, rồi bắt đầu có cấp bằng tiến sĩ nè, đó là những cái danh làm chúng ta cứ mê mệt ở trên đó, rồi lấy cái cấp bằng đó đi giảng dạy làm cho người ta…​ hễ để tên cái tác phẩm nào đó thì đây là tiến sĩ gì đủ thứ hết, để cái danh đó để cho người ta thấy mình có cái ngon lành hiểu biết như vậy đó.

Tất cả những cái đó là chúng ta đã quỵ ngã ở trên cái danh đó mà không thấy được con đường giải thoát của mình.

Rồi lấy cái chỗ kiến giải, chỗ học thức của mình ở trên cái danh đó đem ra dạy người ta, trong khi đó mình chẳng ra ôn gì hết, giải thoát chẳng ra cái thứ gì hết, mà cuối cùng thì cứ dạy người ta như thế này như thế khác.

Thì thử hỏi cái đó là cái giả danh của họ, nó đưa họ đi đến con đường sanh tử luân hồi mãi mãi mà không bao giờ dứt.

Gặp pháp này ta bắt nó niệm Phật liền.

Nghĩa là khi mà chúng ta mới có học trường cơ bản Phật học thì chúng ta dự định lên trên Vạn Hạnh để mà học, để mà thi cử nhân, thì bắt đầu đó là cái danh rồi đó, chúng ta hãy dẹp nó xuống đi, đập nó xuống đi, bắt nó niệm Phật đi, thì do đó nó mới dứt đi

Chớ còn không khéo nó chạy nữa, nó chạy rồi đây nó đi qua bên Ấn Độ để nó học lấy tiến sĩ nữa. Nó chưa có ở Việt Nam đủ đâu, nó còn đi nữa, nếu mà có đủ duyên thì nó chạy tới bển nữa.

(48:18) Mà nó chạy tới bển nó có phải là chạy tới bên đó để giải thoát đâu, nó chạy tới bển nó mang cấp bằng tiến sĩ để về nó lòe thiên hạ chơi chớ có làm cái thứ gì. Nó cũng đau, nó rên cũng hì hì, rồi nó cũng đủ thứ khổ của nó chớ nó đâu có cái gì mà giải thoát?

Cho nên ở đây thật sự ra đó là cái danh, mà cái danh đó nó làm cho biết bao nhiêu người chết.

Gặp pháp này ta bắt nó niệm Phật. Phật thì danh lợi đã xả hết rồi, nên khi pháp này niệm Phật thì tâm Phật bất động trước nó, do thế tâm ta cũng bất động, không bị pháp danh xỏ mũi.

Nghĩa là khi mà chúng ta biết nó rồi thì cái danh không có thể xỏ mũi chúng ta được, nó không dắt chúng ta được.

Vì thế thấy nó mà ta đã từ khước, ta đã từ giã không có sống gần nó. Ví như có…​

Bây giờ chúng ta thấy như thế này nè, bây giờ chúng ta thấy rất rõ, gần đây thì quý thầy cũng thấy rất rõ. Có một cái số người Phật tử người ta đến gặp Thầy, người ta mời Thầy, người ta nói:

Con xin Thầy là con sẽ xin phép tắc cho Thầy để mà Thầy đi tham quan ở bên Mỹ, bên Pháp, hay hoặc Úc, để cho Thầy đi từ nước này đến nước khác. Và Thầy chịu khó Thầy đi thăm Phật tử Việt Nam của mình ở trên các nước đó rồi Thầy sẽ giảng cho họ về Bốn Thiền hoặc là về Tứ Như Ý Túc, vì hầu như là họ muốn nghe những cái điều này lắm, nhưng mà không có người nào giảng như Thầy hết.

Chúng con hoàn toàn chịu hết, tiền bạc hao tốn gì chúng con chịu hết cho Thầy, miễn Thầy bằng lòng là chúng con lo giấy tờ, tất cả mọi điều kiện thủ tục, chỉ có tới ngày đó là chúng con đến rước Thầy đi thôi.

Cái đó có phải là cái danh không? Cái danh rất lớn đó chớ không phải ít đâu.

Gần đây thì Phật tử miền Bắc, ở Hà Nội thì cũng có cái tâm thành cầu khẩn Thầy về thăm Hà Nội một chuyến, nhưng Thầy cũng từ khước. Người ta đã tha thiết đối với Thầy rất nhiều Thầy vẫn từ khước.

Đó là Thầy thấy đó là những cái danh, nhưng mà cái danh đó không có phải làm cho Thầy giải thoát đâu, Thầy không bao giờ mà chấp nhận, đón nhận cái điều đó đâu.

Đây là Thầy nói đây, trước mặt quý Phật tử ở miền Bắc, quý thầy ở miền Bắc, quý thầy biết rằng quý thầy có cái tâm tha thiết mời Thầy về đó thăm, và cái sự hao tốn tất cả mọi cái quý vị đều đài thọ hết, cả Phật tử miền Bắc đều là đài thọ. Họ chỉ chờ đón Thầy ở trên phi trường hay hoặc là ở trên xe mà bước xuống là họ đã đón rước Thầy hẳn hòi đàng hoàng.

(51:10) Nhưng Thầy vẫn từ khước. Vì đó là tạo cho mình cái danh. Xưa Đức Phật từng dạy cái vị Tỳ Kheo: Quý thầy khi nào mà có danh, có lợi, có sự cung kính thì quý thầy hãy ẩn bóng đi. Đức Phật đã dạy như vậy.

Cho nên Thầy thấy trong cái thời gian gần đây thì có một số Phật tử người Hoa cũng như là Việt kiều Việt Nam mình ở ngoại quốc họ về đây thăm Thầy.

Và sau khi được thăm Thầy, được hỏi qua, được xin Thầy những cái bài pháp, được hỏi qua những cái về thiền định được Thầy trả lời, và đồng thời họ chấp nhận qua những cái thực tế và cụ thể ở trên cái bước đường mà dạy đạo, thiền định rất là rõ ràng, cho nên họ sẵn sàng mời Thầy để đi qua Mỹ, rồi qua Pháp, qua Úc hoặc là qua các nước ở trên cái thế giới này.

Nhưng mà Thầy vẫn từ chối. Thầy nói Thầy chưa có đủ duyên đâu, quý Phật tử có lòng như vậy thì Thầy rất là biết ơn, nhưng đối với Thầy thì bây giờ tuổi già sức yếu rồi, Thầy không có còn muốn đi đâu nữa hết.

Nghĩa là Thầy muốn là ở đây chỉ dẫn dắt một vài người người ta tu hành cho được, đó là một cái điều quý của Thầy thôi. Làm sao cho người ta tu cho có kết quả, được làm chủ sự sanh tử luân hồi, trong cái sức thiền định của mình, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống. Đó là cái điều ước vọng của Thầy.

Chớ còn cái mà đi sang Mỹ để mà diễn thuyết mà giảng Bốn Thiền, Tứ Như Ý Túc đồ, thì chắc chắn là Thầy chưa có đủ duyên, chừng nào có đủ duyên Thầy sẽ hứa, còn bây giờ Thầy không có đủ duyên.

Cũng như gần đây Phật tử miền Bắc mời Thầy về ngoài đó Thầy cũng vậy, Thầy cũng nói chưa có đủ duyên, và bây giờ là lúc Thầy ẩn bóng rồi, Thầy chờ có đủ duyên thì Thầy mới đến Thầy thăm, chớ còn bây giờ thì Thầy chưa có đủ duyên cho nên Thầy không có thăm.

Nhưng mà Thầy nhớ lời Phật dạy thì khi một người tu sĩ có danh, có lợi, có cái sự cung kính, đảnh lễ thì hãy ẩn bóng, cho nên Thầy thấy lúc này là cái lúc nó đã đủ những cái duyên mà có thể người ta cung kính, người ta cúng dường mình, người ta đảnh lễ mình.

Mà nếu mình đi ra mình nói, mình giảng thuyết về các pháp thiền định từ Sơ Thiền đến Bốn Thiền, cách thức từ lâu người ta chưa từng bao giờ nghe mà bây giờ người ta nghe như vậy thì người ta thấy quá thích thú rồi. Và quá thích thú thì danh của mình nó quá lớn.

Và lợi, chắc chắn là một chuyến đi ở các nước ngoại quốc về, khi nghe Thầy nói về thiền, Bốn Thiền, dạy họ về Bốn Thiền, cách thức tu tập như vậy, và nói về Tứ Như Ý Túc - thường thường hầu hết là chưa từng ai dạy về Tứ Như Ý Túc mà Thầy đã dám dạy về Tứ Như Ý Túc, thì quý thầy đã hiểu biết rằng khi mà giảng dạy như vậy rồi thì khi mà Thầy trở về nước chắc chắn là Thầy phải gởi máy bay nó chở tiền về.

(54:15) Bởi vì họ cúng dường Thầy cũng nhiều lắm chớ không phải ít đâu. Thầy thấy đó là lợi, nhưng mà lợi để làm gì đây? Để làm gì, có phải là Thầy về cất chùa không? Hay hoặc là Thầy để Thầy đem về Thầy làm việc từ thiện xã hội? Nếu làm việc từ thiện xã hội thì Thầy cũng nói đó là cái sự an ủi một phần nhỏ chớ không phải là làm một cái việc lớn.

Tại sao vậy? Tại gì cái nhân quả của cái con người đã tạo ác thì họ phải thọ lấy cái quả khổ đó, mà Thầy đem cái chỗ danh lợi này Thầy đem về để xoa dịu cái sự đau khổ của họ trong nhân quả của họ thì lại làm họ khổ thêm chớ chưa chắc đã là hết.

Mà nếu muốn cho họ được hết cái sự đau khổ, muốn cho hết cái sự đau khổ, cái nỗi bất hạnh trong xã hội này thì chỉ có đem cái đạo đức nhân quả dạy họ mà thôi. Rồi tự bàn tay của họ, tự cái đầu óc của họ, họ làm một cái điều thiện thì họ mang đến cái sự hạnh phúc cho họ.

Chớ còn bây giờ mà đem tiền cho họ cũng như là làm cho họ thêm cái nợ chớ đâu có bao giờ họ hết, thì tức là họ sẽ còn khổ nữa, chứ không bao giờ hết. Bởi vì do nhân quả họ mà họ phải gặt hái cái những đau khổ đó.

Mà bây giờ muốn cho họ thoát khỏi cái sự đó thì chỉ có đem cái đạo đức nhân quả dạy cho họ, họ biết đường đi của đạo đức nhân quả, họ không làm cái điều ác nữa thì tự nhiên họ sẽ hết khổ. Chớ không bao giờ ai mà đem tiền bạc đó cho họ hết khổ.

Và khi mà Thầy mang tiền bạc về làm như vậy thì cái danh của Thầy ở trong đất nước này: Một nhà từ thiện, đại từ thiện, phải không? Có gì hơn? Cái danh từ đó lại là còn làm cho Thầy mang một cái danh nữa, nó cũng chẳng có cái hay ho gì hết.

Cho nên Thầy nghĩ rằng cái trung tâm an dưỡng từ thiện ra đời không có nghĩa là biến thành, trở thành một cái nhà từ thiện, đại từ thiện, mà cái trung tâm an dưỡng ra đời cái mục đích của nó là đem vào để cho người ta được nghỉ ngơi ở tại cái trung tâm đó, mà đem cái đạo đức nhân quả mà dạy cho họ, để làm cho tự bàn tay của họ họ giải cứu được cái đời sống của họ, họ được hạnh phúc an vui, làm cho xã hội có trật tự an ninh, không còn tham lam trộm cắp, không còn làm một cái điều ác, thì cái đó là cái mục đích chớ không phải để biến Thầy trở thành một cái người đại từ thiện.

Các thầy hiểu như vậy mới biết. Nếu mà đại từ thiện thì Thầy chỉ cần đi sang ra ngoại quốc như thế này, đem Bốn Thiền mà Thầy giảng thì ai lại không thấy được cái điều đó?

Và nếu mà cái điều kiện thuận tiện nữa, mà muốn làm tiền ra nữa, và cũng muốn danh hơn nữa, cao hơn nữa, Thầy chỉ cần nhập định cho ở ngoại quốc người ta đem máy móc người ta đo Thầy, thấy lúc bấy giờ Thầy chẳng có thở, chẳng có gì hết, cơ thể Thầy không hoạt động, thì họ đã tuyên bố rầm rộ trên thế gian này, thì ở ngoại quốc không những là người Việt mình cúng dường mà cả những người bản xứ ở tại nước đó họ cũng đem đến cúng dường, họ thấy Thầy như là Phật rồi đó.

(57:14) Thì như vậy là bao nhiêu tiền mà Thầy đổ Thầy nuôi dân Việt Nam, có được không? Nhưng mà Thầy thấy điều đó làm cho khổ dân Việt Nam mình thêm, nợ nần của mấy người đó còn hơn nữa, cho nên Thầy chẳng có làm cái điều đó, vì vậy mà Thầy từ giã, từ khước trên cái vấn đề đó.

Thì các thầy biết rằng bây giờ Thầy đã giảng thiền giảng đạo mà quý thầy đã nghe nó thực tế và cụ thể, không còn ai mà giảng hơn cái chỗ này nữa. Không phải là Thầy tự ca ngợi về mình, mà bằng chứng là quý thầy đã trực tiếp nghe lời Thầy giảng về Bốn Thiền, và Thầy chưa giảng về Tứ Như Ý Túc.

Thầy giảng về Tứ Như Ý Túc Thầy sẽ nói cái trạng thái nào mà quý thầy muốn nó như thế nào là đạt được cái ý muốn đó, thì quý thầy mới thấy là thực tế của đạo Phật đâu phải là cái chuyện tầm thường mà nói chuyện thường, mà lý giải ở trong cái chữ nghĩa được, mà đây là cả một cái công trình, cả một cái sự tu tập chớ đâu phải là một cái chuyện thường được.

Cho nên ở đây các thầy thấy đi đến cái chỗ pháp tham danh này, lấy Thầy để cho quý thầy thấy rằng Thầy không bao giờ tham danh. Ba lần núp sau lưng Hòa thượng để xây dựng Phật pháp, để làm cho sáng tỏ Phật pháp lên, ba lần ẩn bóng, không để cho ai biết tên tuổi mình. Thế mà ba lần không được, đành phải chịu.

Hôm nay Thầy còn gì mà Thầy còn ham danh nữa mà Thầy ở đây? Cho nên khi giáo án mà Thầy viết ra rồi thì đừng hòng có người nào tìm gặp Thầy được, Thầy sẽ ra đi vĩnh viễn. Và từng đó còn đủ duyên thì quý Thầy còn gặp Thầy trong một vài năm, hết duyên rồi thì Thầy chỉ nhập diệt trong rừng trong núi, ai biết Thầy là ai!

Cho nên đối với Thầy thì danh, lợi và sự cung kính Thầy trả lại cho tất cả mọi người hết. Thầy chỉ là con người bình thường như bao nhiêu con người khác, không có còn chấp danh chấp lợi nữa, sống an vui với đời sống của một người làm hết bổn phận của mình, trong một cái thời điểm của mình, trong một cái thời đại Phật giáo của mình, làm hết bổn phận của mình, không vì danh vì lợi, chỉ muốn mình trở thành một viên đá, một viên gạch để mà xây dựng lại cái nhà của Phật giáo, để làm cho cái nhà Phật giáo được tốt đẹp và sáng sủa hơn.

(59:17) Hôm nay cái giáo án ra đời cũng là mục đích đó mà thôi. Đó thì Thầy nói để cho quý thầy thấy rõ.

Và cái sự từ giã không đi về thăm Hà Nội cũng vậy. Thầy cũng biết rằng Thầy cũng chưa từng bao giờ đến Hà Nội lần nào, Thầy cũng biết rằng những phong cảnh hữu tình, núi non ở đó rất là đẹp, nơi lý tưởng cho những người tu hành, nhưng Thầy cũng từ giã, không bao giờ về thăm là tại vì Thầy không đón danh đón lợi nữa.

Lời dạy này có một giá trị rất lớn đối với đạo Phật. Nếu toàn cả tu sĩ của đạo Phật ẩn bóng, tránh danh lợi thì đạo Phật ngày nay biết bao nhiêu người làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi, và đạo Phật sáng chói huy hoàng hơn tất cả các tôn giáo khác trên hành tinh này. Người tu sĩ đạo Phật dám từ giã danh lợi, đối với đời sống thiểu dục tri túc thì không có một tu sĩ tôn giáo nào hơn được, giải thoát hơn được.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Pháp tham danh là một pháp cực ác cám dỗ tu sĩ xa lìa Phạm hạnh, xa lìa con đường giải thoát. Pháp này dẫn dắt những tu sĩ háo danh háo lợi đi dần xuống địa ngục, thọ biết bao tai ương, khổ não đời này sang đời khác. Những tu sĩ hiện tại đang phá hủy giáo pháp và giới luật của Đức Phật, họ đang xuống dốc theo đà dục lạc thế gian.

Biết vậy ta hãy ngăn ngừa nó và tận diệt nó để không dính mắc nơi tâm ta, để ta thật sự đi trên con đường giải thoát của đạo Phật. Pháp tham danh hãy đi đi, không được ngự trị nơi tâm ta, hãy đi đi, xa lìa những vị tu hành Phạm hạnh!”

Đó là cái câu trạch pháp để mà cuối cùng ta đuổi nó đi, đừng có để chúng ta dính mắc vào những cái danh của nó.

9) PHÁP THAM LỢI NIỆM PHẬT

(01:01:29) Bây giờ chúng ta học tới cái pháp thứ chín.

9. Pháp tham lợi

Danh rồi lợi, bây giờ nó tham lợi.

Lợi là một pháp cực ác, cám dỗ tất cả mọi người, làm mờ mắt những kẻ trí.

Có lợi nó làm cho cái người trí cũng mờ mắt đi.

Có người vừa gặp lợi, mặc dù là lợi đó rất nhỏ nhưng vẫn bị cuốn hút theo, có người lại bị lợi lớn hơn mới cám dỗ được.

Nghĩa là có người gặp cái lợi lớn hơn thì cám dỗ, mà cái lợi nhỏ thì không cám dỗ họ được, cho nên một ông quan thanh liêm ở cái lợi nhỏ nhưng gặp cái lợi lớn thì ông ta hết thanh liêm.

Cho nên ở đây chúng ta nói, bây giờ người ta cúng dường tiền mình ít thì mình vẫn giữ được cái hạnh của mình tu. Nhưng mà họ cúng dường mình 1 tỷ, 2 tỷ, lúc bấy giờ ông thầy đó cũng chịu hết nổi rồi, cho nên ổng cũng mất cái Phạm hạnh của ổng đi.

Vì vậy mà chúng ta phải giữ trọn, dù ít dù nhiều, một đồng chúng ta cũng không vi phạm, mà cho đến hàng tỷ bạc chúng ta cũng không cất, thì như vậy là chúng ta mới giữ trọn được cái Phạm hạnh của một người tu.

Có người ngồi ở trên đống vàng mà ăn ngủ thì không yên, thế mà họ luôn luôn mãi mãi không chịu rời bỏ đóng vàng đó. Cho đến khi mà họ bị tù tội, họ bị giết đi, họ bị trộm cướp giết đi thì chừng đó hỡi ơi không còn nữa!

Đó là chúng ta đã thấy được cái sự lợi làm cho người ta quá khổ đau.

Người tu sĩ đạo Phật phải cảnh giác, khi thấy pháp lợi đến thì bắt nó niệm Phật liền.

Nghĩa là khi thấy cái pháp lợi mà đến rồi thì bắt nó phải niệm Phật, không có được để cho nó không niệm Phật. Mà nó niệm Phật thì ông Phật ổng không có bao giờ mà ổng ham lợi, cho nên bắt cái pháp niệm Phật thì cái pháp đó hoàn toàn nó không dính mắc vào (như) ông Phật.

(01:03:43) Muốn ngay liền tâm ta không bị lợi cám dỗ thì ta phải trạch pháp câu này dùng để làm pháp hướng nhắc nhở tâm Như Lý Tác Ý:

“Pháp tham lợi nó là rất ác, nó khiến cho người tu mất Phạm hạnh, khiến cho người tu phá giới, nó khiến cho người tu sĩ xa lìa con đường giải thoát, khiến cho người tu phải xa cách Phật.

Vì thế gặp pháp lợi này thì ta hãy mạnh dạn đoạn dứt, xa lìa, từ khước, không chấp nhận, cho nó ở ngoài ta, đừng có để cho nó ở trong ta. Ta luôn luôn lấy hạnh thiểu dục tri túc mà làm đầu. Có pháp lợi đến ta hãy đuổi nó đi:”

Nghĩa là tiền bạc hay hoặc là vàng bạc châu báu thì đừng có đụng đến nó mà hãy đuổi nó đi cho khỏi, không có được để ở trong thất của mình mà phải ném cho nó ra khỏi thất của mình.

Pháp lợi độc ác kia, ngươi hãy đi đi, ta không chấp nhận ngươi! Ngươi phải lìa nơi tu hành của ta, đừng có ở đây nữa, đi đi!”

Đó là những câu cái cuối cùng mình phải nói cho mạnh, và nhờ cái thần lực của mình cho nên cái vàng bạc châu báu, những cái lợi này nó không làm cho chúng ta mờ con mắt được. Chớ không khéo nó dễ làm cho chúng ta mờ con mắt, danh với lợi rất là khó chớ không phải dễ đâu.

Vì vậy cho nên cuối cùng bây giờ Thầy bỏ hết tất cả, đối với Thầy bỏ hết tất cả, đi vào rừng thì ăn lá cây, đến đâu thì xin tới đó, không mang theo một đồng một xu nào cả.

Nghĩa là thời đại tuy rằng khó khất thực nhưng Thầy vẫn mang bình bát đi xin ăn. Có xin được thì ăn mà không xin được thì vào trong rừng hái một nắm lá cây gì đó để mà sống qua ngày, cũng tạm qua một ngày đó là được rồi. Thêm một ngày thì chúng ta phải vất vả thêm một ngày chớ không có gì mà phá cái Phạm hạnh, phá cái sự tu tập của chúng ta được.

Chúng ta không có vì vất vả khổ sở đó mà phải bỏ tiền cất đem theo để rồi đói mà mua ăn thì cái đó là phàm phu tục tử chứ chưa phải là một bậc ẩn bóng, một bậc tu hành.

Cho nên đến đây thì quý thầy phải thấy rằng cái sự tu hành của một người tu phải vĩ đại, phải gan dạ, phải đủ nghị lực để sống một đời sống đúng là hạnh của nó.

10) PHÁP THAM SÂN NIỆM PHẬT

(01:06:07) 10. Pháp tham sân

Pháp tham sân là một pháp rất ác, nó làm cho tâm ta đau khổ, người cũng đau khổ. Pháp tham sân là cái pháp hung dữ. Khi ta gặp pháp này, ta bắt nó phải niệm Phật.

Bởi vậy trong đời Đức Phật, Ngài bị người khác mắng, Ngài cười nói: “Thiên hạ đem bánh cho mình, mình có nhận hay không nhận? Nếu không nhận thì họ sẽ mang về nhà họ.” Do thế mà pháp đến với Phật như là nước đổ lá sen.

Các thầy thấy khi mà có người mắng Phật, Phật mới nói như thế này: Họ mạ nhục, mắng ta, ta nhận thì ta nói lại họ, mà ta không nhận thì họ mắng đã rồi họ cũng mang hết cái này về nhà họ. Cũng như là cái người cho bánh, mà cho bánh mình không nhận thì họ phải đem về, chớ còn họ không nhận họ đem đổ sao? Cho nên cuối cùng thì họ đem về.

Do cái hiểu biết của Phật như vậy thì cái pháp sân đến với Phật có sân không? Không, Phật không có sân đâu. Cho nên vì vậy mà chúng ta bắt cái pháp sân này nó niệm Phật, và niệm Phật như vậy thì cái tâm ta có sân không? Không.

Ông Phật ổng đã hiểu như vậy rồi, thì mình đã biết như vậy rồi, ông Phật không sân thì mình đã lấy lấy thân tâm mình niệm Phật thì mình đã không sân. Vậy thì cái pháp này đã đến với mình, mình làm sao mà lôi nó niệm Phật thì làm sao tâm mình sân được? Cho nên bắt cái pháp sân này nó niệm Phật, do vậy đó mà mình cũng không có sân.

Biết vậy, ta hãy lấy pháp sân mà niệm Phật, chắc chắn tâm ta cũng như thạch bàn, tám gió không lay chuyển.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Pháp sân là một pháp rất ác, làm cho khổ mình khổ người. Người tu sĩ đạo Phật có tâm sân thì mất hết oai nghi tế hạnh từ bi, không còn xứng đáng là người tu sĩ của đạo Phật nữa, không còn sống đúng Phạm hạnh của đạo Phật.

Vậy pháp sân niệm Phật thì không còn sân nữa…​

Nghĩa là lấy cái pháp sân mà niệm Phật thì cái pháp sân đó nó không còn sân nữa.

…​và pháp sân hãy đi đi, đừng ở đây với người tu hành đạo từ bi! Pháp sân hãy đi đi, đi cho khỏi nơi đây, đừng ở đây nữa!”

Nghĩa là luôn luôn mình cứ hướng tâm mình nhắc như vậy. Cho nên đến khi mà gặp nó thì lôi đầu nó mà niệm Phật, và từng đó chúng ta có đủ cái lực để chúng ta thắng lại cái tâm phiền não, tâm sân của mình, cho nên biến mình trở thành như cục đất không còn giận hờn, không còn phiền não nữa.

Hằng ngày ta tu tập như vậy thì đó là pháp sân niệm Phật với tâm ta được an vui giải thoát.

Đó thì quý thầy thấy là chúng ta lấy pháp mà chúng ta bắt nó niệm Phật để cho tâm mình luôn luôn được giải thoát. Do chỗ mà chúng ta biết lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Phật thì chúng ta sẽ giải thoát hoàn toàn, và cũng vì thế mà chúng ta ly dục ly ác pháp, làm cho chúng ta không còn khổ đau nữa.

2- KẾ HOẠCH SAU KHI THẦY KẾT THÚC GIÁO ÁN VÀ ẨN BÓNG

(01:09:16) Kế là:

11. Pháp tham hận.

Đây là hận thù đó.

Thì chúng ta sẽ tiếp tục, kỳ tới Thầy sẽ giảng tiếp tục cho hết cái Pháp niệm Phật, thì nó cũng không còn bao nhiêu.

Và đồng thời Thầy sẽ viết lại cái bảng tóm lược lại bắt đầu tu hành như thế nào cho đến khi nhập được các thiền định như thế nào, gọn, ngắn chừng 5, 10 trang để rồi Thầy sẽ photo gửi cho quý thầy, để khi quý thầy trong hạ này sẽ mang cái bảng đó về mà theo đó mà tu tập.

Còn về cái phần giáo án này, Thầy tiếp tục Thầy sẽ soạn và Thầy sẽ giảng cho đến khi mà hoàn mãn cái giáo án, và đồng thời Thầy sẽ tiếp tục Thầy giảng cái giáo trình đạo đức nhân quả để giúp cho con người ở thế gian này biết cái đường lối mà thực hiện các thiện pháp, dứt trừ các ác pháp để đem lại cái hạnh phúc chung cho con người ở trên cái hành tinh này.

Đó là cái điều mà Thầy làm trong những ngày Thầy ẩn bóng. Sau khi làm xong rồi thì Thầy sẽ tiếp tục Thầy nhập cái Diệt Thọ Tưởng Định, hoặc 1 năm cho đến 3 năm, hay là 5 năm tùy theo khả năng của Thầy, và cái môi trường của Thầy ở tại nơi đâu thì Thầy sẽ thực hiện cái thời gian mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định để rút tỉa những cái kinh nghiệm này, để sau khi mà xuất cái định này ra thì Thầy sẽ giảng tiếp tục cái Diệt Thọ Tưởng Định cuối cùng, để cho người ta biết cách thức, để sau này tất cả những gì mà của Phật dạy từ Bốn Thiền cho đến Diệt Thọ Tưởng Định thì coi như là không còn thiếu cái kinh nghiệm tu tập.

Nghĩa là Thầy để lại tất cả những kinh nghiệm này làm cho Phật pháp, người ta đến với Phật pháp là người ta có những cái kinh nghiệm người ta biết tu tập, nó không mất. Đó là cái bổn phận của Thầy.

Và đồng thời quý thầy tiếp tục trên con đường tu tập thì quý thầy sẽ có những kinh nghiệm của quý thầy, và sau này thì quý thầy sẽ bổ túc thêm những cái kinh nghiệm của mình từ Bốn Thiền cho đến Diệt Thọ Tưởng Định, là Thầy mong rằng các thầy cũng sẽ đi trên con đường như Thầy.

Thầy đến đây Thầy chấm dứt, và quý thầy sẽ được nghe tiếp tục trong cái bài này.

3- ĐÓNG GÓP CHO PHẬT GIÁO BẰNG GIỚI HẠNH VÀ THIỀN ĐỊNH

(01:11:34) Bây giờ bắt đầu buổi chiều nay thì Thầy sẽ tiếp tục Thầy trả lời.

Nhưng mà trước khi tiếp tục trả lời những câu hỏi của mấy con thì Thầy sẽ giảng tiếp về cái phần hồi buổi sáng, là sau khi mà cái trách nhiệm của Thầy soạn cái giáo án con đường lối của đạo Phật xong, và cái giáo trình đạo đức nhân quả cho người đời để biết cái thiện cái ác mà tu tập, thì đương nhiên trong cái thời gian ẩn bóng thì Thầy sẽ tìm cái nơi yên ổn nhất để mà nhập cái Diệt Thọ Tưởng Định.

Có thể trong 1 năm hoặc 2 năm, 3 năm cho đến 5 năm hay 10 năm Thầy mới xuất cái định ra. Và khi mà xuất cái định ra thì ở bên ngoài các con đã tu tập có nhiều người đã có thể nhập Tứ Thiền, cũng có nhiều người đã có Tam Minh, đã có những cái sức làm chủ được sanh tử.

Và đóng góp vào cái tòa nhà của Phật giáo có thêm những cái kinh nghiệm của mấy con tu hành trong đó nữa chớ không riêng gì có một mình Thầy. Và những cái kinh nghiệm đó là những cái viên gạch mà chúng ta xây dựng lại cái tòa nhà của Phật giáo, làm cho nó càng ngày càng được tốt đẹp, hưng thịnh và sáng suốt hơn.

Vì vậy mà mỗi một người tu sĩ đạo Phật mà giữ gìn giới hạnh nghiêm túc để tu tập thì chúng ta có những cái phần đóng góp rất lớn cho cái đại gia đình Phật giáo của chúng ta, làm cho nó càng ngày càng phong phú, càng ngày càng có nhiều cái kinh nghiệm tu hành.

Chớ không phải đóng góp như theo con đường của Thiền Tông cũng như là Đại Thừa đóng góp cái kiến giải, đóng góp những cái tưởng pháp, làm cho con đường tu theo đạo Phật càng lúc nó càng bị phá giới luật, cái Phạm hạnh thì người tu sĩ nó càng lúc nó lại mất đi.

Và con đường thiền định mà gọi là từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền thì chẳng có còn cái kinh nghiệm nào mà biết tu tập nữa hết. Thậm chí như nói đến Tứ Như Ý Túc thì người ta cũng chẳng biết như thế nào gọi là Như Ý Túc.

Do đó thì Thầy thiết nghĩ rằng sự tu hành của các con sau này cũng như quý thầy đều là có sự đóng góp rất lớn cho đại gia đình của Phật giáo, là khi chúng ta là những người biết rõ con đường đi này, biết rõ cái cách thức giữ gìn giới hạnh và tu tập thiền định, thì cái sự đóng góp của các con cũng như là quý thầy sẽ làm giàu cho Phật giáo, cái bước đường tu tập cho cái người sau sẽ dễ dàng hơn.

Và cũng là cái sự đóng góp cho đường đi đạo đức của nhân quả càng lúc càng rõ nét hơn, để cho mọi người người ta chấp nhận cái nhân quả là một cái bằng chứng cụ thể, nhân nào quả nấy mà không có sai.

Đó là những cái điều mà Thầy mong ước ở sau này của các con cũng như của quý thầy.

4- TRẢ LỜI VỀ HƠI THỞ, KINH HÀNH, QUÁN THÂN VÔ THƯỜNG

(01:14:43) Còn về phần hôm nay thì hiện giờ Thầy trả lời qua cái sự tu tập của các con, có cái sai và cái đúng. Cho nên ở đây, trước tiên cái tập này là của Từ Đức gởi Thầy rất lâu, là vì bị công việc cho nên Từ Đức không có ở nhà mà phải đi về dưới quê, rồi nuôi một đứa con bệnh, do đó hôm nay được trở về, vì vậy nhân dịp Thầy cũng trả lời chung cho các con biết cách thức tu tập.

Về phần hơi thở, khi xả thì phải cho thật sạch, nghĩa là phải trở về với trạng thái của hơi thở bình thường.

Đó thì các con lưu ý khi mà chúng ta thở chậm, thở nhẹ như thế nào không biết, nhưng khi mà chúng ta muốn xả ra nghỉ thì chúng ta phải thở trở lại cái hơi thở bình thường, cho trở về cái trạng thái rất là bình thường, rồi chúng ta mới xả ra đi kinh hành hoặc là ngồi nghỉ. Chớ đừng có xả chưa được bình thường mà ngồi nghỉ thì không tốt.

Khi xả ra đi kinh hành là lúc này đi kinh hành thư giãn, không được tập trung vào đâu hết, như một người đi vô sự.

Các thầy, các con nên lưu ý: Về cái đi kinh hành thì nó có nhiều cái điều kiện mà đi kinh hành.

Nếu đi kinh hành tu Chánh Niệm Tỉnh Thức thì nó khác, mà đi kinh hành tu cái Tứ Vô Lượng Tâm thì nó khác, mà đi kinh hành phá cái hôn trầm nó khác, mà đi kinh hành thư giãn thân tâm của chúng ta đang mệt mỏi - qua một cái thời gian công phu tu tập nó có cái sự mệt mỏi mà đi kinh hành để thư giãn thì nó lại có cái khác.

Cho nên đừng nghĩ rằng đi kinh hành cái nào cũng giống cái nào, thì cái đó là chúng ta hiểu chưa có rành. Nếu mà hiểu rành thì chúng ta không thể nào đi kinh hành với cái không hiểu biết mà phải hiểu biết rất rõ.

(01:16:39) Nếu sau thời gian mà chúng ta nhiếp tâm trong hơi thở hoặc là tu cái Định Vô Lậu mà chúng ta xuống đi kinh hành, thì chúng ta đi kinh hành đó gọi là đi kinh hành thư giãn.

Cho nên tâm không có còn tập trung vào cái chỗ nào hết, nghĩa là không có tập trung vào cái bước chân đi mà đi như cái người vô sự, đi như một cái người thanh thản, không có một cái gì ở trong tâm của mình hết.

Khi mà chúng ta đi kinh hành thì chúng ta cũng biết rằng đi kinh hành thư giãn nó khác hơn đi kinh hành mà tu tập các cái loại định khác.

Khi thấy thân tâm thư giãn rất là bình thường, chúng ta ngồi lại tu thì có cái cảm giác lâng lâng, đó là chúng ta xả chưa sạch.

Mà muốn xả cho thật sạch thì từ cái hơi thở bình thường mà chúng ta đi vào những cái hơi thở chậm và nhẹ, rồi từ đó chúng ta cũng trở lại cái hơi thở bình thường, xả cho nó thật bình thường, thì chúng ta nghe tất cả trong thân của chúng ta không có một cái trạng thái gì đặc biệt, lạ lùng hết, mà nó trở về với cái dạng rất bình thường, thì lúc bấy giờ chúng ta mới đi kinh hành.

Đi kinh hành tức là thư giãn lại, hồi nãy chúng ta ngồi gò bó, chân tay chúng ta gò bó lại một chỗ đó, bây giờ chúng ta đi cho nó giãn gân ra, cho nó thư giãn ra hết.

Khi mà thấy nó thư giãn ra, chúng ta ngồi lại mà không nghe một cái cảm giác gì nó lâng lâng, nhẹ nhàng hay hoặc gì đó, thì đó là đúng. Mà nó còn cái sự lâng lâng, nhẹ nhàng gì đó thì biết rằng xả chưa sạch, thì phải xả cho thật sạch.

Đừng để cái trạng thái say say như gợn sóng, nó làm như mình say say vậy đó, hay như là gợn sóng, nó làm cho cái thân của mình nghe nó hồi hộp, nó bồng bềnh bồng bềnh gì đó, thì như vậy là nó chưa được, cho nên chúng ta xả cái đó ra cho hết.

(01:18:27) Đặt niệm để tu Định Vô Lậu, ví dụ đặt cái niệm thân, quán xét cái sự vô thường của cái thân, thì nên suy tư tìm hiểu sự vô thường của cái thân.

Nghĩa là mình đặt cái niệm thân vô thường, từ cái chữ “thân” rồi cái chữ “vô thường” thì nó là hai cái danh từ, nhưng mình suy nghĩ cái thân nó vô thường là nó thay đổi như thế nào, từ cái lúc nào nó như thể nào, để nhận ra được cái sự thay đổi vô thường đó bằng một cái thực, chớ không phải bằng những cái danh từ “vô thường”, hoặc là bằng cái “thân vô thường”, bằng những cái từ như vậy, mà phải nhìn thấy.

Cái hình ảnh mình diễn tả ra mình nhìn thấy, như bây giờ mình quan sát, mình thấy như cái mặt của mình, hồi mà mình còn trẻ nhỏ thì cái mặt của mình nó không có cái nếp nhăn, bây giờ mình lớn tuổi mình già, mình nhìn lại cái mặt mình có cái nếp nhăn.

Rồi cái da của mình thì nó không phải như hồi trẻ nhỏ nó bóng nó láng, còn cái da của người già thì nó dùn nó nhăn, những cái làn nhăn nhỏ nhỏ, nó làm cho cái mặt không có được thẳng ra, thì đó là cái hình ảnh của cái sự vô thường.

Cũng như tóc thì hồi còn nhỏ nó đen, tóc nó mọc rậm, còn bây giờ thì nó bạc, nó rụng, nó thưa, nó cằn cỗi, cái cọng tóc nó khô khan, nó không có như cái cọng tóc của hồi tuổi trẻ. Đó là mình nhìn qua cái sự như vậy để mà quán xét nó như vậy thì mình thấy nó là cái sự vô thường.

Còn nếu mình nói chữ “vô thường”, “cái thân vô thường” mà không xét tóc, tai, mặt, mũi, da này của mình, thân của mình, rồi sức khỏe suy yếu của mình, mình không có nói ra được cái sự suy yếu đó, thì đương nhiên là mình chỉ dùng cái danh từ không, thì như vậy là tu cái Định Vô Lậu thì không bao giờ mà nó đạt được cái vô lậu, mà nó chỉ là một số cái từ để cho mình nói cái vô thường của nó mà thôi.

Con nên quán xét tuổi còn trẻ đến bây giờ tuổi già, sự vô thường nó thay đổi như thế nào?

Tóc, rồi mắt…​ như hồi nhỏ thì mắt nó sáng, nhìn cái gì cũng khỏi đeo kính hết, còn bây giờ mắt nó mờ, tóc nó bạc; mũi thì hồi đó nó khác; da hồi đó nó khác mà bây giờ nó khác; răng hồi đó thì nó trắng mà nó đều, không như bây giờ nó rụng rồi nó thưa, nó đủ cách, nó lên chân, nó làm cái răng xiếu xáo. Đó. Rồi tới cái đi, chân hồi đó đi thì nghe nó vững vàng, còn bây giờ đi nghe nó muốn té.

(01:21:03) Tất cả những cái hành động của tuổi trẻ, rồi cái hành động của tuổi già nó như thế nào, lúc già như thế nào mà lúc trẻ như thế nào. Đó là mình đặt ra cái dàn bài để từ đó mình mới có sự suy tư để mình thấy cái sự vô thường của nó.

Có quán xét và so sánh như vậy con mới thấy rõ thân vô thường. Khi thấy rõ thân vô thường con trạch pháp một câu dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

Khi mình thấy rõ cái thân vô thường rồi thì kế đó mình mới trạch ra một cái câu để dùng làm cái pháp hướng để mình nhắc nó, để cho cái tâm của mình từ đây nhận ra được cái sự vô thường đó mà mình không có chấp nó là cái ngã của mình.

Đây Thầy có nêu thử cái câu pháp hướng để cho con làm cái pháp hướng:

“Quả đúng thật là cái thân vô thường…​

Vì mình quán xét nó rồi đó, bây giờ mình mới đặt ra cái câu.

“Quả đúng thật là cái thân vô thường, nên cái sự vô thường này đã đưa con người đến chỗ khổ đau muôn vàn. Vì thế ta biết rõ thân không phải là của ta, không phải là bản ngã của ta, từ đây về sau ta đừng dại dột lầm chấp ngã là của ta nữa, ai có chửi mắng, mạ nhục thân này, ta không được giận hờn, thù oán họ.”

Đó là mình đã thấy nó là vô thường, nó không phải của mình nữa, nó không phải là cái ngã của mình nữa, thì ai có chửi mắng, ai có mạ nhục thì mình không có giận hờn, không có phiền não nữa.

Tức là mình trạch cái câu đó ra để từng đó nó trở thành vô lậu, cho nên mình không tham, không sân, không si, không lo cho cái thân của mình nữa. Đó là cái câu pháp hướng, Thầy chỉ làm cái mẫu để cho sau này thì các con tự theo đó mà đặt ra.

Và sau khi mình dùng cái pháp quán, mình quán thấy nó vô thường rồi thì mới đặt ra cái câu trạch pháp để theo cái câu đó mà mình hằng ngày mình nhắc để mình phá cái tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình, mình phá năm cái triền cái, hay hoặc là Thất Kiết Sử, hay hoặc là Ngũ Kiết Sử cho nó sạch.

Đó là cái phần Thầy trả lời cho Từ Đức. Con theo đó mà con quán xét cái thân vô thường, rồi cái thực phẩm vô thường, rồi tất cả những cái gì thương yêu, các pháp ở trong thế gian đều là vô thường tất cả hết, để rồi từng đó chúng ta đập vỡ, phá vỡ mà chúng ta sẽ được giải thoát hoàn toàn, tức là chúng ta ly dục, ly ác pháp hoàn toàn.

5- XÂY DỰNG LẠI ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT

(01:23:26) Còn về phần Minh Cảnh, ở đây thì Minh Cảnh có xin Thầy đừng có thu băng vào ở trong cái băng này. Thầy xin trả lời.

Vì cái trọng trách và cũng là cái nhiệm vụ để xây dựng lại cái đường lối tu tập của đạo Phật, thì suốt cái thời gian rất dài mà Thầy đem cái chịu cực khổ rất nhiều hầu để dẫn dắt một cái số người tu tập, như Minh Cảnh cũng có về đây từ lúc đầu, rồi kế đó ra ngoài Long Hải ở, rồi sau này mới về đây tiếp tục trở lại con đường tu tập.

Thì trải qua biết bao nhiêu là tu sĩ về đây tu tập cho đến cái ngày hôm nay, Thầy thấy rằng cuối cùng nhìn chung lại thì Thầy đã chịu cực khổ rất nhiều, nhưng chỉ đào tạo - bây giờ thì coi như là tạm được hai người, nhưng chưa phải là hoàn chỉnh cho lắm, còn phải trải qua một cái thời gian tu tập nữa mới có đạt được cái sự giải thoát hoàn toàn.

Còn bây giờ thì kể như là phải khuyến khích cho những người này họ tiếp tục ở trên con đường tu tập nữa. Nghĩa là họ còn phải trải qua vài ba năm nữa, mà phải chuyên cần và siêng năng.

Và những người này thì chắc chắn là họ sẽ không có xa Thầy được nửa bước. Nghĩa là bây giờ cái giai đoạn của họ là luôn luôn lúc nào cũng phải gần Thầy. Còn riêng các con thì hiện giờ có xa Thầy thì cũng chưa có đến đỗi nào, nhưng họ là những người đang đi gần tới cái chỗ cuối cùng thì không thể nào mà những cái người này họ xa Thầy.

(01:25:24) Nhưng cái số này thì nó chỉ có một hai người chớ không thể hơn được, cho nên do vì vậy mà Thầy đi tìm một cái nơi nào đó mà Thầy ẩn bóng thì chắc chắn là Thầy phải đưa cái những người này, họ phải đến đó để mà gần gũi bên Thầy để giúp đỡ cho họ, cho đến khi họ hoàn toàn giải thoát được sanh tử, làm chủ được luân hồi.

Và đồng thời khi họ tu xong rồi thì họ là cái người mà còn trẻ tuổi, còn sức khỏe thì họ thay Thầy để tiếp nối cái ngọn đuốc, thắp lại cái ngọn đuốc của Phật pháp, còn riêng Thầy thì lúc bấy giờ là lúc ẩn bóng thật sự.

Còn các con thì hiện bây giờ tìm được những cái nơi yên ổn mà tu tập, lúc nào gặp khó khăn thì chắc chắn là cũng có sự thị hiện bằng cái sự giao cảm, bằng cái tư tưởng, hoặc là bằng cái trí tuệ, hoặc là thị hiện ngay khi nơi của các con đang tu tập đó bằng con người bằng xương bằng thịt đến ngay lúc đó mà để trợ giúp.

Đó là tùy duyên chớ không thể hứa trước được, nhưng người nào mà vẫn nỗ lực tu hành thì chắc chắn là sẽ có Thầy thực hiện đến đó để mà trợ giúp.

Nhưng trên cái bước đường tu tập thì Thầy còn cái nhiệm vụ đó là soạn cái giáo án cho hết những cái giới hành. Vì cái giới hành - như các con đã biết, Thầy mới có giảng lấy Thân mà niệm Phật, rồi mới học được cái bài kế đó là lấy Thọ mà niệm Phật, rồi mới lấy Tâm mà niệm Phật, hồi sáng này Thầy mới tiếp tục dạy là lấy Pháp niệm Phật.

Vừa rồi Thầy có giới thiệu với mấy con lấy Pháp niệm Phật như thế nào thì Thầy đã giới thiệu rồi, nhưng mà hồi sáng này thì đi vào cái chi tiết là lấy từng cái pháp mà niệm Phật, rồi có những cái câu trạch pháp ra dùng làm cái pháp hướng để nhắc nhở cái tâm mình, để cho thấm nhuần được cái tâm mình, để các pháp khi mà đến với mình, đến với tâm mình thì mình sẽ không bị các pháp lôi cuốn, hoặc là các pháp ác sẽ làm cho trở thành sự đau khổ nơi tâm hồn của mình.

Do mình bắt các pháp đều là đứng ở trong cái vị trí niệm Phật vì vậy mà tâm mình nó được giải thoát.

(01:27:50) Do học cái bài Tứ Vô Lượng mà hồi sáng Thầy cũng dạy chưa hết, nghĩa là lấy Pháp niệm Phật mà dạy chưa hết. Bởi vì có khách rồi Thầy phải nghỉ trước 30 phút để tiếp khách rồi mới ăn cơm, cho nên nó không có cái thời gian để giảng cho hết.

Mà hôm nay thì như các con đã biết rằng bữa nay là mùng 8 rồi, tới 14 là sẽ ra hạ, mà trong khoảng thời gian này cho tới cái ngày 14 giải hạ đó thì Thầy phải soạn cho các con đại khái là tóm lược lại cái cách thức tu tập từ cái dễ cho đến cái khó, sơ lược, thí dụ như một người mới tu phải tu như thế nào, và cái người tu bước một được rồi đến bước hai như thế nào, và tu các định gì, định gì.

Do đó soạn tóm tắt lại, để rồi nhờ cô Út đem ra photo lại 10 bản, 20 bản mà phát ra cho mỗi người một bản.

Và khi mà phát cho mỗi người một bản rồi thì trong cái khoảng thời gian này, đây ngày nay là mùng 8 mà cho tới 14 thì Thầy tập trung làm cái bản này, chớ đâu còn cái ngày nào mà dạy các con được nữa. Các con thấy chưa? Nó đâu còn cái thời giờ.

Do đó khi mà các con đã giải hạ ra thì các con được cái bản đó, theo cái bản tóm lược đó để các con tu tập. Các con đã được nghe lời giảng dạy của Thầy rồi, Thầy đâu có đi vào những chi tiết làm gì? Thì nhắc cho các con phải tu tập cái gì, cái gì vậy thôi, rồi các con theo đó để mà nắm mà tu.

Vì nếu mà Thầy không có lo soạn cái bản tóm lược này thì các con học mênh mông quá rồi cũng không biết đâu là cái tu trước cái tu sau nữa, nó cũng làm cho các con bị rối loạn nữa.

Cho nên buộc lòng thì Thầy phải dừng lại đây, rồi qua cái hạ thì trong lúc đó Thầy tiếp tục soạn cái giáo án này để giảng cái pháp hành cho nó hết. Bởi vì cái giai đoạn này, về cái pháp hành này rất là quan trọng.

Bởi vì cái hành động để mà tu cho đạt được cái sự giải thoát, mà đây mới chỉ có nói rằng Tứ Bất Hoại Tịnh, rồi các con thấy mình phải còn học Ngũ Căn, Ngũ Lực, rồi Thất Bồ Đề, rồi Tứ Niệm Xứ, rồi Bốn Thiền, rồi Tứ Diệu Đế, rồi Tứ Như Ý Túc, rồi Tam Minh, quá nhiều.

Những cái đó đều là những cái pháp hành hết, gọi là giới hành đó, tất cả những cái 37 phẩm trợ đạo của Phật. Mà bây giờ mình mới - đầu tiên các con học tới cái gì? Mình vô cái lộ trình thứ hai mà Thầy giảng về cư sĩ đó, thì các con đã học Tứ Vô Lượng Tâm, tâm Từ tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả rồi.

Rồi các con học Tứ Chánh Cần, tức là các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, mà các pháp ác đã sanh thì đoạn diệt, các pháp thiện chưa sanh thì phải cho sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng đó, đó là Tứ Chánh Cần.

(01:30:40) Lấy Thập Thiện mà làm chuẩn để diệt thập ác, đó là những cái mà các con học về Thập Thiện.

Thì tất cả những cái đó là đã học rồi, nhưng mà bây giờ mới tới Tứ Bất Hoại Tịnh, rồi bắt đầu nó càng tiếp tục nữa, thì Thầy thấy cái vấn đề pháp hành này còn nhiều lắm.

Mà càng đi thì nó càng thực tế và cụ thể, và nó càng nói lên được cái sự thực hành của đạo Phật rất là sâu sắc mà rất là kĩ cho một cái người tu tập, không thể nào thiếu được những cái pháp này.

Hồi nào tới giờ chúng ta học thì coi như là cái lý pháp thì nhiều mà cái hành pháp thì nó ít, còn bây giờ toàn bộ là hành pháp.

Vì vậy mà qua Tứ Bất Hoại Tịnh mà các con thấy vào thì Thầy chỉ giới thiệu cái lý pháp thôi, rồi sau đó thì cái pháp hành nó liên tục, lúc nào cũng có ám thị, lúc nào cũng có hướng tâm, rồi lúc nào cũng có trạch pháp.

Rồi tới đây phải dạy các con phải thực hiện cái Niệm Giác Chi, tức là muốn cái niệm mình chân chính thì mình phải tư duy như thế nào để thực hiện cái niệm chân chính, để thực hiện cho nó ở trong cái pháp quán như thế nào để rồi mình trạch pháp ra cho nó đúng. Đó là mình tu tập cái Niệm Giác Chi.

Rồi tu tập cái Trạch Pháp Giác Chi, trạch làm sao mà cho đúng cái ý của nó để làm cái pháp hướng. Đó, thì tất cả những cái này các con phải được trui luyện để mà tập, chớ nếu không mà các con đặt đại hay suy nghĩ đại thì nó không có đúng cái cách, cái pháp hướng, thì các con hướng nó không có hiệu quả.

Nó có những cái khó như vậy. Cho nên Thầy chỉ làm cho các con, Thầy chỉ nêu lên những cái pháp hướng cho nó tượng trưng, rồi từng đó các con theo các đặc tướng riêng của mỗi người của mình mà các con sẽ đặt ra cái pháp hướng cho đúng với cái tâm, cái tướng của mình, để rồi mình dùng nó mình tu tập thì cái lợi ích đó nó rất lớn cho chính bản thân cho mình.

Và cái thời gian nó không còn có dài nữa cho nên vì vậy khi mà ẩn bóng thì chắc chắn là Thầy cố gắng Thầy sẽ soạn cho hết, cuối cùng rồi thì Thầy mới được nghỉ ngơi.

(01:32:52) Nhưng mà dù sao đi, hôm rày thì cơ thể Thầy rất là mệt nhọc vì nó đã hao hơi rất nhiều, cho nên có lẽ là qua cái hạ Thầy cũng nghỉ chừng 5, 10 hôm, rồi bắt đầu khỏe trở lại Thầy sẽ làm việc trở lại liên tục ở trong vòng một tháng hay là nửa tháng là nó sẽ xong cái giáo án.

Xong cái giáo án rồi thì Thầy sẽ nhuận lại các cái băng mà từ đầu Thầy đã thuyết giảng, nó có những cái sự sơ suất ở trong đó. Và Thầy sẽ nghe lại hết, rồi Thầy kiểm tra lại hết coi nó chỗ nào thiếu mà chỗ nào đủ, từ đó Thầy sẽ bổ túc thêm cho đầy đủ.

Có những cái chỗ nào mà cần phải thêm thì Thầy thêm, mà có những cái chỗ nào cần bớt Thầy phải bớt ra, để không nó thừa thì cũng không lợi, mà nó thiếu thì nó lại làm cho cái con đường, cái giáo án tu tập của chúng ta thiếu. Cho nên Thầy còn làm việc rất nhiều trong một cái giai đoạn kế nữa.

Đến đây thì cô Minh Cảnh có cái sự muốn Thầy nghỉ xả hơi cho nó khỏe rồi sau đó thì Thầy khỏe rồi Thầy tiếp tục làm, thì cái điều này là Thầy cũng có suy nghĩ.

Và đồng thời thì trong cái vấn đề lo lắng cho Phật pháp thì cái nhiệm vụ của người tu thì chắc chắn là phải lo rồi, nhưng mà cái nhân duyên của chúng sanh có đủ hay không? Chớ còn nếu mà không đủ thì dù mình có lo gì nó cũng không được.

Còn nó đủ thì chắc chắn là mình lo nó cũng không khó đâu, rồi nó sẽ có đủ cái duyên nó đưa đến, có những người mà hỗ trợ và giúp đỡ, cái duyên nó đến. Hễ hợp pháp mà đủ duyên tốt và chúng sanh có đủ nhân duyên thì có người họ giúp đỡ mình liền.

Như từ cái in ấn hoặc là tất cả những cái giáo án của Thầy nó được trở thành văn, trở thành sách đi, trở thành kinh đi, thì nó cũng đều là có những cái tốt.

6- NÊN TẠO NƠI YÊN TĨNH PHÙ HỢP CHO TU HÀNH

(01:34:51) Bây giờ, hôm nay thì cũng như là cái buổi mà Thầy giảng sau bắt đầu vào cái giáo án, giờ đây cũng là cái buổi giảng mà có thể về cái phần chưa phải là kết thúc cái giáo án, nhưng mà hôm nay Thầy cũng có nhắc nhở với mấy con.

Là hiện giờ đó, các con đứa nào mà có thể hợp với cô Út thì ở đây bám với cô Út mà tu tập, chịu khó, thì chắc chắn là…​ tuy vậy chớ cô Út cổ tận tình giúp đỡ mấy con lắm. Dù sao đi nữa cũng phải hướng đến cái sự tổ chức để mà chúng ta tu hành cho đến rốt ráo mà thôi.

Còn đứa nào mà thấy rằng chưa có hợp thì nên tạo cái nơi yên tĩnh cho mình tu hành, chớ khi mà không hợp mình ở thì mình tu cũng khó tu lắm. Nó phải có một cái sự hợp.

Bởi vậy Thầy mới dạy các con nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Suốt cái thời gian mà mình tu tập được cái này thì mình sẽ nhẫn nhục, mình tùy thuận, mình bằng lòng, mình sống để mình tu tập, mình chẳng còn tìm một cái gì hơn, thì cái đó là dễ.

Còn nếu mình thấy bây giờ cái đặc tướng của mình nó không có phù hợp, ép mình để mà sống thì nó gượng ép, nó làm cho mình động tâm thêm, nó không có hợp.

Còn mình thấy hợp thì mình sống với cô Út, để rồi từ đó cô Út sẽ tổ chức, cổ cũng biết tu, cổ cũng hiểu biết được trong cái thời gian tu tập như thế nào mà sẽ đạt được thiền định, tu tập như thế nào mà quét sạch cái lậu hoặc, thì cổ cũng từ cái chỗ hiểu biết đó mà cổ giúp cho mình đi từng cái giai đoạn.

Chứ còn cái tâm của mình nó chưa hết lậu hoặc mà mình cứ vội mình tu cái thiền định thì cổ biết rằng bây giờ mình muốn như vậy để mình khép chân vô trong thất mình ngồi yên tu, chắc chắn cái việc đó mình làm không được đâu, và vì vậy mà cổ không có đồng ý ở trên cái vấn đề đó mà cổ la, cổ rầy mấy con là vì vậy.

(01:36:43) Cho nên ở đây, hôm nay là cái bài giảng cũng như là cuối cùng đó, thì Thầy khuyên các con phải chọn cái vị trí ở cho yên, đứa nào cũng phải ở cho yên hết, cái vị trí nào cho nó yên.

Đừng có nay ở chỗ này, rồi mai đi ở chỗ khác, hoặc là nay chùa này mai chùa khác, thì chắc chắn là nó không tới đâu hết. Bất kì chỗ nào mình chọn cho được, mình yên một chỗ đi.

Chẳng hạn bây giờ mình không có ở đây, mình chọn cái chỗ nào đó, mình cứ ở cái chỗ đó mình nhập thất mình tu đi, thì cái sự mà nó yên ổn nó ở một chỗ mà tu, thì cái điều kiện là khi Thầy xuất hiện nó dễ.

Còn bữa nay các con ở đây mà mai các con ở chỗ kia thì khó mà gặp Thầy lắm, các con hiểu. Bây giờ bất kì ở chỗ nào mà các con ở yên đi, cứ lo chuyên tu ở yên một chỗ đi, thì cái điều đó là cái điều mà Thầy có thể về Thầy thăm thì rất dễ.

Và khi về thăm đó là có những cái kinh nghiệm để mà trợ giúp cho các con suốt quá trình thời gian tu tập đó nó có cái sai cái đúng thì các con dễ, bởi vì cái sai của mình tu, cái thời gian sai đó mình biết rất rõ, mà khi được Thầy nhắc nhở thì các con biết rất rõ.

Mà phải ở yên, chớ còn các con ở mà không yên, cứ lăng xăng mà chạy hoài, nó không có lập được cái hạnh độc cư thì chắc chắn là khó lắm, khó có thể nào…​

Bởi vì cái không độc cư thì bữa nay mình ở cái chỗ này, mai mình lại chỗ khác, rồi mình ở một thời gian 5 tháng, 3 tháng, mình thấy nó không hợp mình đi nữa, cứ đi hoài như vậy thì khó mà có thể Thầy giúp đỡ được. Còn nếu mà các con thấy cái chỗ nào mà sống chết ở lì một chỗ đó thì có thể giúp đỡ được.

Đó, cái đó là Thầy khuyên các con nên chọn lấy cái vị trí ở cho yên một chỗ, cái chỗ nào mình thấy phù hợp, thích hợp mình cứ ở miệt cái chỗ đó đi, rồi đói khát gì cũng thây kệ nó, miễn là yên một chỗ thì dễ dàng. Đó là những cái phần mà Thầy khuyên các con.

Do vì vậy đó, sau cái thời gian mà Thầy ẩn bóng Thầy đi rồi thì ở đây chỉ còn có mình cô Út, thì cổ chỉ chẳng qua là cổ cũng nuôi với một cái số ít người thôi, chớ cổ nuôi nhiều thì chắc chắn là Phật tử họ cũng không có cung cấp, không có cúng dường nhiều.

Cho nên sức cổ thì cổ cũng nuôi không được đông đâu. Do vì vậy đó thì cổ cũng lo, nếu mà nuôi không được đông mà ở đông mà bắt đi ra làm để kiếm cơm ăn thì chẳng tu gì được hết.

(01:39:04) Cổ làm là làm trong cái giai đoạn đầu thôi, để cho mình có lao tác, để cho mình tu tập những cái Định Vô Lậu, chớ còn tới cái giai đoạn tu mà để làm chủ được cái sống chết thì chắc chắn là cái người nào cũng phải là nhập thất 100% rồi, không có còn bước ra khỏi cổng.

Và tới cái giai đoạn đó thì tức là nó phải tổ chức như thế nào để thành tựu được cái chỗ sống cho đúng đắn như vậy, chớ không phải là…​ Thiếu cái sự sắp xếp như vậy thì chúng ta tu cũng không được.

Nhưng bây giờ mà cho các con vào ở trong thất mà ngồi tu thì nó cũng chẳng nhập Tứ Thiền gì được hết. Bởi vì cái tâm vô lậu nó chưa hết mà không lo tu tập ở ngoài để xả mà cứ vô thất ngồi tu không thì nó chỉ nén tâm, rồi cái tâm vô lậu nó không quét sạch đâu.

Cho nên trong những cái chung đụng nhau, cái sống chung nhau mà có lao tác nó có cái sự đụng chạm, mà sự đụng chạm đó để trắc nghiệm được cái tâm của mình coi nó hết lậu hoặc hay không.

Mà thật sự nó hết rồi, thì bắt đầu mà xét được cái người đó mà hết rồi, cho họ vào thất để mà thực hiện cái thiền định thì họ thực hiện rất nhanh, rất mau, không có còn lâu nữa, chỉ có thời gian ngắn mà họ sẽ đạt được những cái kết quả rất tốt cho cái sự tu tập của họ.

Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy để các con chuẩn bị cho mình, vì còn cái thời gian không có lâu nữa.

Có người thì phải về sắp xếp gia đình, con cái hay hoặc này kia cho nó ổn, rồi mới tìm cái vị trí cho yên để mà nỗ lực tu hành theo cái giáo án của Thầy. Hoặc là có người lo sắp xếp gia đình rồi trở lên đây sống với cô Út, chịu ở trên cái sự điều khiển của cô Út, cổ chỉ như thế nào mình làm theo như thế nấy.

Và đồng thời sẽ nỗ lực, và có những cái thời gian chờ đợi để quét cho sạch cái tâm lậu hoặc mình trong một năm hay nửa năm nữa, hay hoặc là hai năm nữa, để rồi đi vào trong con đường thiền định mà kế tiếp mà chúng ta phải thực hiện Bốn Thiền, và phải nói rằng phải thực hiện luôn cả Tam Minh nữa.

7- DÙNG TỨ NHƯ Ý TÚC ĐIỀU KHIỂN THÂN TÂM LÀM VIỆC

(01:41:09) Thầy có nói với Minh Tông mà, chúng ta tu đến đây không có nghĩa là chúng ta làm chủ cái thân tâm của chúng ta đâu, mà chúng ta còn phải thực hiện Tứ Như Ý Túc.

Nghĩa là sau khi mà cái thân định, cái thân của chúng ta đã ngưng hơi thở rồi, thì từ đó Thầy sẽ dạy cho cách thức mà tu tập Tứ Như Ý Túc. Nghĩa là chúng ta muốn như thế nào thì cái thân của chúng ta sẽ làm như thế nấy, không có còn chống lại cái ý của chúng ta được.

Nghĩa là chúng ta muốn làm sao là nó làm như vậy. Cho nên Tứ Như Ý Túc thì các con thấy, cái Dục Như Ý Túc là muốn như thế nào thì làm được như thế nấy.

Rồi Thiền Định Như Ý Túc, Thiền Định Như Ý Túc là cái gì? Là chúng ta muốn nhập định hồi nào là nhập định à. Chúng ta bảo, thí dụ bây giờ như Thầy nè là Thiền Định Như Ý Túc nè, Thầy bảo cái hơi thở ngưng và các hành ở trong thân phải ngưng, thì đó là bắt đầu nó ngưng liền, gọi là Thiền Định Như Ý Túc. Các con thấy.

Mà Tinh Tấn Như Ý Túc là Thầy luôn lúc nào nó cũng có cái sự siêng năng ở trong đó, muốn làm gì làm được nó hết, cho nên cái siêng năng đó vẫn phải có cho nên gọi là Tinh Tấn Như Ý Túc.

Còn cái tuệ, mà Thầy muốn cái tuệ của Thầy như thế nào thì nó cũng phải phát hiện ra như thế nấy, thí dụ như cái Tuệ Như Ý Túc là như thế nào? Bây giờ Thầy soạn tới cái bài này nói về Pháp niệm Phật, bây giờ lấy cái pháp niệm Phật là niệm làm sao đây?

Thầy chỉ đặt câu hỏi vậy, bắt đầu Thầy nói: “Bây giờ cái tuệ phải phát triển ra, lấy các Pháp niệm Phật phải niệm như thế nào? Phải phát triển ra ngay liền!”

Thầy nói như vậy, bắt đầu Thầy giữ cái tâm yên lặng như thế này, bắt đầu cái trí tuệ Thầy nó phán xét ra liền. Do đó Thầy biết bây giờ lấy cái Pháp niệm Phật là cái pháp nào.

Bây giờ người ta chửi mình, lấy cái lời mắng chửi của họ đó, chửi mình đó, mình bắt cái lời này đem lại niệm Phật đi. Thì bắt đầu họ chửi mình mà nó niệm Phật rồi thì nó đâu có còn gì mà nó giận? Cho nên bắt cái pháp đó niệm Phật, thì do đó cái tâm của Thầy nó không còn giận ai nữa hết.

(01:43:05) Đó thì các con thấy, phải hiểu. Cho nên lấy Pháp mà niệm Phật mà, Phật dạy Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật, thì bây giờ mình học tới là Pháp niệm Phật, mà từ lâu tới giờ có ai dạy điều này đâu, Thầy cũng đâu có biết.

Cho nên Thầy nói: “Bây giờ cái tuệ phải phán xét coi lấy cái Pháp niệm Phật này là niệm làm sao?” Thì bắt đầu ở trong đầu của Thầy nó nảy ra: Bây giờ phải lấy nó bắt vô niệm Phật, ông Phật thì người ta chửi ổng không có giận, vậy thì lấy cái pháp này mà niệm Phật thì ổng không giận cũng như là lấy cái pháp này mà niệm ở cái tâm của mình cho nên cái tâm mình nó cũng không có giận.

Các con thấy. Vì vậy mà mình phải trạch pháp nhắc ra là bắt cái pháp này niệm Phật, nó làm cho cái tâm mình không còn dính mắc và tham đắm.

Đó thì mỗi cái như vậy gọi là Như Ý Túc. Tuệ Như Ý Túc - cái tuệ của mình, mình muốn như thế nào thì nó phát triển như thế nấy.

Cũng như các con ngồi đây, các con quán vô lậu nè, các con bảo: “Cái tri kiến giải thoát phóng ra để xem coi cái thân này vô thường như thế nào?” Ngồi hoài mà nó không phóng ra nổi, bây giờ không biết nó làm sao vô thường. Cái tóc nó đã bạc trên đầu rồi mà nó cũng không biết làm sao mà nó bạc nữa! Thì như vậy là các con có thấy nó phóng được không? Như vậy nó không có phóng. Phải không?

Còn cái này Thầy bảo cái nó phóng liền, nó biết là từ chân đến đầu như thế nào thế nào, tức là cái tuệ nó phóng ra được, đó là Tuệ Như Ý Túc.

Cho nên nó bốn cái Như Ý Túc đó. Dục Như Ý Túc này, muốn sao nó làm vậy. Rồi cái Định Như Ý Túc là mình muốn nhập định sao nó nhập vậy. Rồi cái Tinh Tấn Như Ý Túc nè, thì cái sự siêng năng của mình, mình muốn siêng năng làm sao nó siêng năng vậy, nó không có lười biếng nữa. Rồi bây giờ tới Tuệ Như Ý Túc. Cho nên nó đủ là bốn Tứ Như Ý Túc.

Đó thì các con thấy, khi một người mà đủ bốn Như Ý Túc rồi thì người ta làm cái việc gì người ta sử dụng cái việc làm đó. Cho nên Thầy mà soạn, mà viết cái giáo án này thì sử dụng cái Tuệ Như Ý Túc mình rất nhiều. Có nhiều cái đâu có ai mà biết trước được cái này, nhưng mà khi đó mình phải sử dụng cái Tuệ Như Ý Túc của mình.

(01:45:03) Cho nên nghe nói Tứ Như Ý Túc thì hầu như người ta nói cái này khó mà có ai biết được hết, nhưng mà Thầy thấy đâu có khó gì đâu, chỉ cần cái thân mình nó định, cái tâm mình nó định là mình dễ dàng nó phát triển ra được à.

Các con cố gắng, nó không định các con lấy dây cột nó định rồi! Trói cứng nó, nó đừng nhúc nhích thì nó định chớ gì? Còn mình để nó nhúc nhích hoài nó định gì, nó làm sao nó định!

Bây giờ cái tim mình nó đập, ta lấy dây ta trói cái tim cho nó đừng đập, nó không đập, nó không nhúc nhích thì cái thân nó định chớ gì? Bây giờ mình trói không được nhưng mà rồi mình cũng cố gắng mình trói đi.

Đó thì như vậy các con thấy không? Mình muốn cho nó định thì lấy dây cột nó, cột riết nó, nó đứng lại, nó định. Mà nó định được thì mình sai nó làm sao nó cũng được hết, phải không?

Thầy cũng do cái chỗ mà trói nó được rồi bây giờ nó mới định được, bây giờ mới sai nó làm được cái chuyện này, chớ cỡ mà trói nó không được thì đâu có làm được cái chuyện này. Bây giờ muốn nghỉ, nó làm sao đây? Nó Như Lý Tác Ý, nó tác làm sao đây? Đâu có ra được.

Còn bây giờ Thầy bảo cái Tuệ Như Ý Túc: “Như Lý Tác Ý thì làm sao đây, mày phải nói ra cho tao biết chớ, tao làm sao tao biết được?” Phải không, mình dạy nó vậy. Cái bắt đầu ở trong nó nói: “Như Ý Túc là như thế này, thế này, thế này, Thầy phải làm như vậy vậy đó thì đúng”.

Nó biểu Thầy làm như vậy, thành ra Thầy làm cái nó đúng quá rồi, các con làm cái đúng cái pháp tu rồi. Đó là tại vì Thầy sai được cái trí tuệ của mình, bắt buộc nó phải làm việc. Đó.

Bây giờ Thầy trả cái tập này cho con Minh Cảnh. Rồi bắt đầu bây giờ các con nghe băng, rồi nghỉ một chút./.

HẾT BĂNG

55 - XẢ CÁC LOẠI TƯỞNG - PHÁP HÀNH PHÁP NIỆM PHẬT 02

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 55 - XẢ CÁC LOẠI TƯỞNG - PHÁP HÀNH PHÁP NIỆM PHẬT 02

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- ĐỂ PHÁT TRIỂN TUỆ LỰC CẦN PHẢI CÓ ĐỊNH LỰC

(00:00) Khi mà chúng ta muốn có một cái trí tuệ mà ở trong kinh sách Phật thường gọi là cái đại minh lực. Đại oai lực, rồi đại thần lực và cái đại minh lực.

Nhưng nếu mà muốn cho có cái đại minh lực thì chúng ta phải có cái đại thần lực, mà đại thần lực tức là cái sức thiền định, phải thân định ở trên tâm và tâm định ở trên thân thì lúc bấy giờ mới có cái đại minh lực. Đại minh lực tức là tuệ lực chớ không phải gì khác hơn hết.

Vì vậy, thí dụ hồi ở trong cái đoạn băng cũ Thầy có nói là khi mình muốn viết một cái bài để mình quan sát cái bài đó nó có cái pháp hành như thế nào, thì lúc bấy giờ chúng ta phải giữ cái thân và tâm của chúng ta ở trên một cái yên lặng của một cái định, mà trong cái định đó chúng ta có cái quyết định rằng chúng ta sẽ ở trong cái định đó chúng ta tìm cái trí tuệ, cái đại minh lực, thì lúc bấy giờ cái trí tuệ chúng ta nó phát triển ra.

Nó biết rằng cái pháp đó phải sử dụng cái hành như thế nào, áp dụng vào cái đời sống như thế nào để mà chúng ta thực hiện được, tuỳ theo cái pháp đó mà chúng ta sống cho đúng được cái pháp đó để được cái giải thoát, làm chủ được sanh tử luân hồi.

Thì cái vấn đề đó là vấn đề của cái người mà có thiền định, còn cái người mà chưa có thiền định thì chúng ta dù có muốn phóng cái tri kiến giải thoát đó chúng ta phóng cũng không được, mà phóng ra cái đại minh lực đó cũng không được.

Chỉ có những người mà người ta đã có một cái sức thiền định, nghĩa là Tứ Như Ý Túc đó, mà trong cái phần Tứ Như Ý Túc thì Định Như Ý Túc, nghĩa là người ta muốn định như thế nào là người ta định liền.

Còn mình mà muốn ngồi định, mình ngồi thiền mà nhập định thì nó không phải đơn giản đâu, bởi vì nó chưa có Như Ý Túc. Còn cái người mà đã có được Như Ý Túc tức là có cái sức định mà muốn lúc nào cũng được, nghĩa là muốn trong cái thời gian ngắn hay hoặc là dài tuỳ theo cái người đó.

Cho nên thí dụ cái người đó mà người ta đủ cái sức Định Như Ý Túc rồi thì người ta bắt cái thân và cái tâm nó phải định trên nhau, rồi từng đó người ta mới dùng cái tuệ lực, cái đại minh lực, thì cái đại minh lực nó sẽ phát hiện ra, tức là cái tuệ lực nó phát hiện ra.

Mà nó phát hiện ra thì nó nhìn qua cái giáo pháp của Phật, nó thấy rõ được cái pháp hành rất là rõ ràng và cụ thể, từ đó nó sắp xếp lại cái thứ tự phải tu cái nào trước, phải tu những cái nào sau.

Cũng như từ lâu đến giờ người ta chưa có dạy bốn cái chỗ niệm Phật mà hôm nay Thầy dạy cho bốn cái chỗ niệm Phật này, thì tức là Thầy phải trải qua một cái đại thần lực, tức là phải ở trong một cái sức yên lặng của thân và tâm của mình, rồi từng đó cái minh lực của mình nó phát triển ra, nó mới thấy như vậy Phật dạy có bốn cái chỗ: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới, như vậy gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh.

Cái danh từ Tứ Bất Hoại Tịnh từ lâu thì người ta chỉ hiểu qua một cái danh từ chứ người ta chưa hiểu qua cái pháp hành. Hôm nay thì chúng ta đã học tới cái giai đoạn là chúng ta lấy Pháp mà niệm Phật.

Do vì vậy mà Thầy mới nói rằng, khi một cái người mà có thân định trên tâm mà tâm định trên thân thì chúng ta mới thực hiện Tứ Như Ý Túc được. Mà khi thực hiện Tứ Như Ý Túc thì chúng ta phát triển được cái tuệ lực của chúng ta.

Mà phát triển được cái tuệ lực của chúng ta thì những cái pháp hành nào ở trong cái giáo lý của đạo Phật chúng ta đều thông suốt hết, không có cái pháp hành nào mà chúng ta không thông suốt.

Mặc dù ở trong kinh của Phật chỉ đơn giản nói một vài chữ, nhưng chúng ta đã hiểu được cái pháp hành đó nó sẽ ở cái mức độ nào, và phải tu tập và quán xét như thế nào để nó thực hiện qua cái pháp hành.

2- PHÁP HƯỚNG TÂM XẢ CÁC LOẠI TƯỞNG

(03:44) Ở đây thì một lúc nữa Thầy sẽ trở lại cái pháp hành thứ 11 tức là pháp tham hận, còn bây giờ thì Thầy sẽ trả lời cho quý thầy qua cái chỗ thưa hỏi của thầy Thiện Thuận:

“Kính bạch Thầy! Xin Thầy hoan hỷ hướng dẫn dạy cho chúng con vài câu trạch pháp để hướng tâm xả các loại tưởng?”

Ở đây thì Thầy đã từng dạy qua cái bài “Tẩu hoả nhập ma”. Vừa rồi Thầy có phân tích cho quý thầy thấy, nó phải có 16 cái loại tưởng chớ không phải là 6 loại tưởng, nhưng hôm nay trên bước đường mà chúng ta tu tập thường thường là chúng ta gặp 6 cái loại tưởng.

Vì vậy khi mà cái người tu nhập được Nhị Thiền diệt Tầm Tứ rồi, mà tiến bước ở trên con đường này để nhập tới Tam Thiền, cái quãng đường này để mà nhập Tam Thiền thì 6 cái loại tưởng này thường hay xuất hiện. Do 6 cái loại tưởng này xuất hiện làm cho cái người tu khó mà nhập được Tam Thiền, thường là rơi vào trong các cái loại tưởng này.

Vì vậy mà thầy Thiện Thuận xin Thầy cho một cái câu pháp hướng để loại trừ, xả các cái loại tưởng đó. Do Thầy thấy cái câu hỏi thích nghi, hợp thời, giúp cho những người tu thiền sau này, vì vậy mà Thầy ghi lại cho những cái pháp hướng này.

1) XẢ SẮC TƯỞNG

(05:22) 1. Sắc tưởng

Sắc tưởng thì như là hào quang, hình ảnh Phật và các hình ảnh Tổ, cũng như là các cảnh giới núi non, rừng rú hay hoặc là hang động, chúng ta ở đây chúng ta ngồi thiền mà chúng ta thấy hiện ra những cảnh giới đó.

Hoặc là thấy cảnh cõi trời Đâu Suất, hoặc là thấy cảnh Cực Lạc, hoặc là thấy Đức Phật Di Đà, hoặc là thấy hào quang ánh sáng, hoặc thấy hoa sen…​ tất cả những cái sắc tướng đó đó, trong khi chúng ta ngồi đây mà chúng ta thấy được những cái hình ảnh đó thì đó gọi là sắc tưởng.

“Sắc tưởng là hình ảnh của ảo giác thể hiện ra, không phải là Chánh Pháp, phải đi đi, đừng ở trong ta, đừng ngự trị trong khi ta đang luyện tập tu thiền!”

Đó là cái câu pháp hướng thứ nhất để chúng ta đuổi cái sắc tưởng ra khỏi cái nơi mà chúng ta tu tập. Nhưng khi mà chúng ta đuổi nó đi như vậy đó thì chúng ta phải hướng tâm:

“Sáu cái thức phải bám chặt vào tụ điểm, ôm chặt hơi thở, không được tách lìa ra, không được theo sắc tướng đó!”

Đó thì mình phải hướng tâm nhắc nó. Mặc dù là nhắc sắc tưởng phải đuổi đi, mà cũng phải nhắc tâm mình, sáu thức phải bám chặt tụ điểm, ôm chặt chứ không khéo sáu thức của mình nó sẽ duyên theo cái sắc tưởng mà nó cho đó là đúng rồi chừng đó chúng ta sẽ lạc vào tà thiền chớ không có chánh đạo được.

Và cũng vì thế mà hầu hết số người mà tu thiền định gặp những cái nơi này, gặp cái sắc tưởng này họ cho đó là cảnh giới mà họ đã đạt được, rồi họ sẽ rơi vào cái cảnh giới ma chớ không phải là nhập được Tam Thiền.

2) XẢ THINH TƯỞNG

(07:18) Về cái phần thứ hai gọi là:

2. Thinh tưởng là âm thanh do ảo giác sanh ra, không phải là chánh pháp mà là tà pháp. Ta đừng lưu ý đến âm thanh ấy.

Đây là câu ám thị đây:

“Thanh tưởng là một loại âm thanh do tưởng uẩn sanh ra, nó là loại ma khiến ta mất Chánh Định, hãy đi đi! Tâm không được chú ý đến nó, hãy bám chặt tụ điểm và hơi thở!”

Đó là cái câu ám thị để chúng ta nhắc để mà chúng ta bám cho chặt cái hơi thở, để mà lìa xa cái âm thanh đó.

Hầu hết là có một số quý sư như nhà sư Achah Chah đã nghe âm thanh nổ ở trong đầu của mình, và nghe những cái trạng thái thay đổi ở trong thân tâm của mình rút vào và nhả ra, đó là những cái trạng thái thuộc về thinh tưởng, cũng như là những cái trạng thái đó gọi là xúc tưởng.

Mà ngài tưởng đó là cái chỗ nhập định của ngài, cho nên cuối cùng thì thay vì ngài tu theo Bốn Thiền của Phật thì ngài phải nhập Tam Thiền, Tứ Thiền, đằng này ngài tới đó ngài tưởng rằng ngài đã thành tựu được đạo cho nên ngài mới đem ra ngài quán đi, ngài dùng cái quán đi, và ngài dạy người ta ở trên cái cuốn sách mà gọi là “Mặt hồ tĩnh lặng” đó, thì ngài dạy người ta tu thiền để tự nhiên mà vào.

Trong khi Phật dạy chúng ta phải thiện xảo mà nhập định, mà thiện xảo an trú trong định, thiện xảo sống trong định, rồi thiện xảo xuất định chứ không phải để tự nhiên mà vào.

Cho nên qua những cái bài ngài dạy ở trong cái cuốn sách của ngài và cái hồi ký tu hành của ngài thì đương nhiên là ngài chỉ mới có ở trong cái chỗ diệt Tầm Tứ, chưa được đi qua cái lộ trình của Tam Thiền, mà ngài đã cho rằng mình đã nhập được thiền định.

(09:12) Cho nên đó là cái sai của người sau, không thấy được cái lộ trình của Bốn Thiền nó rõ ràng và cụ thể, cho nên cứ tưởng rằng mình đã đạt được.

Vì vậy có một nhà sư ở bên Miến Điện, ngài tu nương vào cái hơi thở, thấy cái bụng mình phình lên xẹp xuống rồi cứ theo đó mà nhắc phình lên xẹp xuống, thế rồi sau thời gian nhiếp tâm ức chế vọng tưởng bằng cách dùng cái hơi thở như vậy rồi ngài sanh ra một cái pháp gọi là “Minh Sát Tuệ”, để rồi từ đó hướng dẫn người sau này cũng chẳng ai biết thiền định của Phật như thế nào đúng, như thế nào sai.

Bởi vì ngay từ lúc đầu mà chúng ta tu hành để ly dục ly ác pháp thì chúng ta đã dùng những cái pháp quán, chúng ta đã suy tư, thấu triệt để dùng những cái tri kiến và đến cái tri kiến giải thoát để phá vỡ Ngũ Triền Cái, Thất Kiết Sử, đập xuống tất cả để cho lậu hoặc không còn nữa, do thế chúng ta mới ly dục, ly ác pháp mà chúng ta mới nhập được Sơ Thiền.

Chớ không phải đợi khi mà có định rồi thì bắt đầu từ cái chỗ mà hết Tầm Tứ rồi thì mới dùng cái pháp quán, điều đó là cái sai của đạo Phật.

Ngay từ lúc đầu chúng ta đã thân cận bậc Thánh, thân cận các pháp Thánh, thân cận các bậc chân nhân, thân cận các pháp chân nhân, do đó chúng ta có một cái tri kiến, chúng ta hiểu biết cái pháp của chân nhân, cái pháp Thánh như thế nào.

Từng đó chúng ta mới đem những cái pháp này ra mà chúng ta quán, trạch về cái Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình, thân Ngũ Uẩn của mình, tất cả các pháp ở trong thế gian này vô thường, khổ, không, vô ngã như thế nào, từ đó chúng ta phát triển thêm cái tri kiến giải thoát của chúng ta, làm chúng ta thấu suốt được cái lý vô thường, vô ngã của nó, cái lý khổ của nó rất là sự thật, không còn sai nữa.

Do đó mà chúng ta mới phá vỡ cái lậu hoặc của tâm của mình, từng đó chúng ta mới thấy rằng cái con đường mà quán xét - không phải đợi chúng ta diệt Tầm Tứ, ức chế tâm mình hết vọng tưởng rồi mới là quán xét, không phải điều đó đâu.

Cho nên một nhà thiền học ở Trung Hoa, ngài Thiên Thai, ngài mới đẻ ra cái pháp môn “Lục Diệu Pháp Môn”, ngài mới nghĩ rằng sổ, tuỳ, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Nghĩa là ngài phải sổ tức để mà ức chế cái tâm của ngài, rồi bắt đầu ngài nương theo hơi thở để mà chỉ Tầm và Tứ, do đó ngài được chỉ, từ cái chỗ chỉ đó ngài mới quán ra, do đó ngài cũng đi sai.

Vì do cái sự ức chế tâm mà quán ra thì chúng ta sẽ trở thành - cái ức chế tâm đó nó trở thành cái pháp tưởng, và cái pháp tưởng quán ra tưởng là mình đã xong.

Không ngờ ngay từ lúc đầu cái vị tu sĩ của đạo Phật, Đức Phật đã bảo đi ra cái đồng mả mà xem cái thây ma sình hôi thối rồi mới trở về đặt cái niệm thây ma đó trước mặt, rồi tưởng ra, quán cái thây ma đó để mà lật bề trái của cái thân của chúng ta, cái thân và cái tâm của chúng ta xem nó là bất tịnh thật sự như vậy.

Như vậy làm cho chúng ta mới xa lìa cái ngã, làm chúng ta mới không còn chấp cái thân này là thật, cho nên chúng ta mới xả bỏ nó đi, làm cho lậu hoặc chúng ta mới quét sạch.

(12:25) Chớ đâu phải Phật dạy chúng ta phải ức chế tâm cho hết vọng tưởng rồi chỉ, rồi bắt đầu mới quán, thì như vậy các ngài mới đẻ ra cái thiền Minh Sát Tuệ này thì đúng, nhưng mà bây giờ đẻ ra như vậy là chúng ta đã thấy lệch lạc cái con đường của Phật pháp rồi.

Và thiền sư của Trung Hoa, ngài Thiên Thai cũng đã đi làm lệch lạc mất cái con đường của đạo Phật rồi, không đúng.

Ngay từ lúc đầu Thầy dạy cho quý thầy tu phải đặt cái niệm để mà quán, tu từ cái tỉnh thức để cho quý vị đặt cái niệm nó mới sáng suốt ra, nó làm cho quý vị phá đi từng cái mảnh nhỏ của lậu hoặc ở trong thân tâm của quý vị, từ đó quý vị mới có ly dục, ly ác pháp, cho nên tâm quý vị mới được thanh thản, mới được vô sự, tiến tới thì quý vị mới tịnh chỉ Tầm Tứ, mới nhập Nhị Thiền.

Đây chưa có gì thì các vị cứ lo tịnh chỉ Tầm Tứ để nhập Nhị Thiền, mà trong khi Sơ Thiền thì ê chề. Nhìn cuộc sống của quý vị thì chạy theo dục lạc, ăn uống một ngày hai ba bữa, ngủ nghỉ thì không đúng giờ giấc.

Còn ham ăn ham ngủ, còn ham chùa to tháp lớn thì thử hỏi quý vị làm sao mà ly dục ly ác pháp được? Mà gọi là ức chế tâm mình để rồi minh sát ra để làm cho sự giải thoát, thì như vậy là đi ngược lại con đường của đạo Phật mất rồi, đâu có đúng cái hành của đạo Phật.

Cho nên nhìn chung Phật giáo trên thế giới bây giờ không có ai chứng đạt được sự giải thoát thật sự, là tại vì sống không đúng cách giới hạnh của Phật, giới đức của Phật, cho nên cái người tu nó đã lệch mất, vì vậy mà con đường giải thoát nó cũng bị chôn vùi.

Do cái sự thinh tưởng này mà người ta tưởng rằng mình đã chứng đạo. Do ngồi thiền nghe âm thanh, nghe trong đầu có tiếng nổ, nghe cả vũ trụ này như tan tành, tất cả những cái sự thay đổi trong thân của chúng ta như vừa rồi thầy Thiện Thuận có nói rằng nó sôi lụp bụp ở trong thân, nó sôi lụp bụp như vậy, tất cả những cái điều này hoàn toàn thuộc về thinh tưởng.

Khi mà chúng ta nghe có những cái tiếng động mà ở trong thân của chúng ta xảy ra điều này thế kia thì chúng ta biết nó là thinh tưởng.

(14:32) Khi ngồi thiền nhiếp tâm không còn vọng tưởng mà lại nghe cái tiếng động ve ve trong tai chúng ta, hoặc nghe tiếng Đức Phật Quan Thế Âm dạy pháp chúng ta phải tu như thế này, phải phản văn tự tánh như thế kia, thì cái này toàn là cái loại ma, không phải thật là Quan Âm hay là tổ hay là ai dạy chúng ta hết, đó toàn là thinh tưởng, do cái thinh tưởng của chúng ta mà phát ra âm thanh đó mà thôi, chúng ta hãy dẹp đi.

Có nhiều người họ lại còn dùng cái pháp tưởng, họ ngồi im lặng rồi họ đặt một cái câu kinh nào đó mà họ không hiểu, họ mới tự hỏi: “Vậy cái câu kinh này nghĩa như thế nào?”

Rồi họ ngồi im lặng đó, bắt đầu từ ở trong cái pháp tưởng xuất hiện ra, do đó họ hiểu được cái lý của cái câu này, hay hoặc là một công án câu đó, rồi do đó họ nói rằng họ đã ngộ và có cái trí tuệ. Đây là cái trí tuệ ma, cái trí tuệ của pháp tưởng, chớ không phải là của cái người mà có trí tuệ thật của đạo Phật.

Đó thì gặp cái trường hợp thinh tưởng thì quý thầy hãy dùng cái pháp hướng này mà đuổi nó đi, tống cổ cho nó ra khỏi, đừng có theo nghe âm thanh đó mà ngồi đó mà hưởng cái âm thanh đó thì nó sai. Đừng có cho âm thanh đó là đúng, đó là cái loại ma mà chúng ta cần phải vượt qua.

Vì vậy mà Phật gọi là ly hỷ mà trú xả. Bây giờ chúng ta trú xả là trú ở đâu? Tức là chúng ta phải trú ở cái hơi thở của chúng ta để mà bám chặt đó, để mà vượt qua tất cả những cái trạng thái xảy ra của sáu cái loại tưởng này.

Nó làm cho mỗi trạng thái đến làm chúng ta có cái tâm vui mừng ở trong đó, có những sự vui mừng đó, cho nên Phật gọi là ly hỷ - ly cái trạng thái mừng đó, tức là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đó. Chớ không phải là ly cái mừng mà ly cái trạng thái tưởng đó, cái trạng thái làm cho chúng ta có cái niềm vui mừng ở trong đó.

Cho nên Đức Phật gọi là ly hỷ mà nhập Tam Thiền. Đó, ly hết tất cả trạng thái này thì chúng ta đã nhập Tam Thiền, còn nếu mà ly chưa hết thì chưa có nhập Tam Thiền. Cho đến khi mà chúng ta ly đến mức cuối cùng mà không còn chiêm bao nữa, thì như vậy đó là chúng ta mới trọn vẹn mà nhập Tam Thiền.

Còn một người tu sĩ mà còn chiêm bao thì đừng có mong rớ tới Tam Thiền, chưa biết cái trạng thái…​ (Mất tiếng)

3) XẢ HƯƠNG TƯỞNG

(16:46) Bây giờ chúng ta tiếp tục tới cái hương tưởng.

3. Hương tưởng là một loại mùi thơm của tưởng uẩn sanh ra, nó không phải là chân pháp, toàn là tà pháp. Người tu sĩ cần phải đề cao cảnh giác và dùng pháp hướng để mà tiêu diệt nó, để mà dứt trừ nó.

Một cái người ngồi thiền, ở xung quanh chúng ta không có cái mùi thơm, không có một cái bông hoa nào hết, bỗng dưng nghe cái mùi thơm phảng phất, rồi chúng ta nói: Như vậy chắc có lẽ là có chư thiên rồi, có Phật xuống chứng rồi, cho nên mình ngồi thiền không có vọng tưởng đây chắc là có trời Phật, có chư thiên xuống chứng minh rồi đó, cho nên cái mùi thơm này là mùi thơm của chư thiên đây.

Do cái chỗ đó là cái chỗ bị ma gạt chúng ta rồi. Cho nên nghe cái mùi thơm mà ở đây không có hoa, không có bông, không có nước hoa, không có gì hết mà lại có mùi thơm này là chúng ta biết đó là hương tưởng.

Cho nên chúng ta cảnh giác, từ đó chúng ta bám chặt cái tụ điểm hơn và nương vào cái hơi thở mạnh hơn để không cho cái tâm của chúng ta duyên qua cái mùi thơm đó.

Vì cái mùi hương đó nó sẽ tác động làm cho tâm chúng ta duyên theo nó, làm cho chúng ta mất định đi, do vì vậy mà nó dẫn chúng ta đi vào một cái định của tưởng, nó không còn là ở trong cái định chơn thật, cái định mà chúng ta đang tu tập.

Đây là cái câu trạch pháp đây:

“Hương tưởng là mùi thơm của ảo tưởng sanh ra khiến tâm ta mất Chánh Định. Hương tưởng hãy đi đi! Tâm không được chú ý theo nó, hãy bám chặt vào tụ điểm và hơi thở, nhất là tỷ thức phải nằm yên lặng…​

Tỷ thức là cái lỗi mũi của chúng ta đó.

…​phải nằm yên lặng, không có được nghe cái mùi hương đó nữa!”

Đó chúng ta phải hướng tâm mà nhắc nó, và đồng thời cũng kêu gọi cái tỷ thức của chúng ta phải nằm cho yên ở trên cái tụ điểm.

Và đồng thời khi mà chúng ta hướng tâm như vậy mà không nghe cái mùi hương nữa thì tức là chúng ta đã chiến thắng được cái loại ma đó rồi. Đó thì như vậy là chúng ta đã thành tựu được, đuổi được cái loại ma này. Còn nếu không thì chúng ta sẽ bị nó dẫn chúng ta đi, nó xỏ mũi chúng ta nó dẫn đi.

4) XẢ VỊ TƯỞNG

(18:58) 4. Vị tưởng là do một vị ngon ngọt xuất hiện nơi vị căn của chúng ta. Đây là một loại ảo giác tà pháp, không phải chánh pháp, ta hãy xa lìa, không nên lưu ý nó.

Có nhiều người nói tui ngồi thiền, bắt đầu sao tui ra nước miếng mà tui nuốt vào nghe nó ngọt, mà nó ngon như là cam lồ vậy, có lẽ là hôm nay tu nó sanh ra cam lồ rồi, nuốt ba cái thứ này vô chắc có lẽ là trường thọ, cho nên ráng mà nuốt nước miếng. Nuốt riết cho nên cái bụng chang bang ra, mà cuối cùng thì nó chẳng phải là cam lồ gì hết mà ba cái vị tưởng nó xuất hiện.

Cho nên cái vị này ngồi riết, ngồi riết rồi nuốt ba cái nước miếng dơ bẩn đó đầy bụng của mình, tưởng là ngon, nhưng mà cuối cùng thì bị cái ma vị tưởng này nó đã gạt lớp.

Cho nên cuối thì cũng có nhiều người về đây nói với Thầy, sau cái thời gian mà con ngồi con tụng kinh Pháp Hoa, sao lại có lúc nước miếng ở trong con, con nuốt sao nghe nó ngọt quá chừng, như vậy là trong kinh Pháp Hoa nói là cam lồ đã xuất hiện rồi.

Người mà tụng kinh Pháp Hoa đến cái mức mà cái nước miếng ngọt, đó là cái người đó sắp sửa được sanh về cái cõi trời hay hoặc là cái cõi Phật nào đó chớ không phải là còn thường nữa. Đó là những cái vị mà người ta đã tụng kinh Pháp Hoa mà người ta đã có những cái kết quả đó.

Còn gặp Thầy, cái loại này là cái loại ma, nó gạt người ta chứ chưa có thật sự là được sanh lên cõi nào hết. Cho nên cuối cùng thì những cái vị này khi mà bỏ thân họ, Thầy thấy dường như là họ cũng quá đau khổ, không có cái sự giải thoát nào, cũng không có sự làm chủ nào cho cái sự tưởng tượng của họ như vậy.

Cho nên ở đây chúng ta phải dùng cái câu pháp hướng này để mà trị cái vị tưởng:

“Vị tưởng là một ảo giác sanh ra ngon ngọt nơi lưỡi khiến cho chúng ta thích thú, ưa mến, khiến cho ta mất thiền định, vì thế vị tưởng hãy đi đi! Tâm ta không được lưu ý đến nó nữa, hãy bám chặt tụ điểm và hơi thở, không được lơ lỏng theo vị tưởng!”

Đó là chúng ta phải ra lệnh và cấm sáu thức của chúng ta phải bám cho chặt, không có được rời, không có được theo cái chỗ đó nữa. Mặc dù bây giờ nước miếng chúng ta đang tiết ra cái mùi ngon ngọt như thế nào, chúng ta cũng chẳng lưu ý đến nó nữa.

Đó là cái phần mà chúng ta diệt cái vị tưởng, cái phần thứ tư.

5) XẢ XÚC TƯỞNG

(21:29) 5. Xúc tưởng…​

Là phần thứ năm.

…​là một cảm giác khinh an, hỷ lạc, khiến ta thích thú, ưa mến và khiến ta mất định. Xúc tưởng là một loại tà pháp gây mê thích, say đắm cho người tọa thiền.

Cho nên cái người mà gặp cái trạng thái hỷ lạc hay khinh an thì họ thường là nhúc nhích thân, họ động hay hoặc là họ ngước ngước lên vầy, hay hoặc là họ cúi cúi xuống vầy. Mỗi lần mà có cái hành động ngước lên hay cúi xuống như vậy đó, họ nghe cái trạng thái nó làm cho thích thú họ.

Tức là một cái người tu thiền mà gọi là ly dục sanh hỷ lạc thì không có nghĩa là có một cái trạng thái nào thích thú nào ở trong đó hết thì mới gọi là ly dục. Còn cái này nó làm cho chúng ta thích thú, làm chúng ta thấy nó sảng khoái, êm ả, làm chúng ta rất là ham thích.

Mỗi lần ngồi thiền mà có những cái trạng thái đó thì chúng ta nói: “Khoái thiệt, ngồi thiền như vầy là thích thiệt!” Vậy thôi đi ra tiệm kia ăn hủ tiếu đi cho nó còn thích hơn, còn sướng hơn là ngồi thiền. Ngồi thiền chi cho đau chân mà đi tìm cái chuyện cực khổ như vậy?

Cho nên ở đây Thầy nói, thật sự ở thế gian người ta cũng có những cái dục lạc như vậy, còn bây giờ đi ngồi thiền cũng đi tìm cái đó thì cái người này thiệt ra chưa có biết cái chỗ mà ly dục, ly ác pháp để mà chúng ta có một cái trạng thái do ly dục sanh cái hỷ lạc.

Cái hỷ lạc của những bậc Thánh, của những bậc chân nhân thì nó đâu phải là cái hỷ lạc của cái phàm phu tục tử như vậy! Ngồi đó mà gục gù gục gù cũng như con cu gáy để thưởng thức những cái an lạc đó thì có thấm nhò gì cái chuyện mà ở đời người ta chạy theo cái dục lạc thế gian đâu?

(23:05) Người ta uống cái ly rượu người ta cũng gật gù, người ta hút cái điếu thuốc người ta cũng gật gù, người ta kéo một cái điếu thuốc phiện người ta cũng gật gù, người ta cũng sảng khoái người ta, mình ngồi thiền cũng gật gù gật gù thì thử hỏi có phải giống như vậy không?

Cho nên có một nhà sư viết ở trong cái bài báo: Làm cái người ngồi thiền cũng như là một cái người mà hút thuốc phiện, nó cũng là sảng khoải như vậy hết, thiền nó cũng thích thú như vậy.

Thiệt ra đó là cái thứ thiền dục lạc, cái thiền tà, chớ đâu phải là cái thiền của Phật. Thiền của Phật thì phải ly tất cả những cái trạng thái làm chúng ta thích thú đó chớ!

Thế mà vị thiền sư đó cũng gọi là thiền, thì thiệt ra cả thế giới đăng cái bài báo đó mà Việt Nam chúng ta cũng trích dịch ra mà đăng ở trong cái báo Giác Ngộ, Thầy đọc Thầy thấy mắc tức cười. Cái chuyện mấy ông thiệt là chưa biết thiền định, cho nên ông nào đạp cứt thì ông nấy cũng đạp theo, thúi cả đám hết mà không thấy thúi.

Đó là cái sai, mà cái sai của người này dẫn dắt tới người kia cũng là cái sai. Tưởng đâu là ngồi thiền cũng như hút á phiện vậy đó, khoái như vậy đó, lâng lâng cũng như đi vào cõi tiên như vậy đó, thì cái đó là cái tầm bậy.

Ở đây là bị cái xúc tưởng hỷ lạc sanh ra những cái trạng thái điên khùng đó, cho nên tưởng đâu là đúng, ai ngờ đâu chỉ ức chế tâm không vọng tưởng rồi bắt đầu từ đó nó sanh ra những cái trạng thái điên khùng đó, chạy theo những cái tâm ham muốn phàm phu tục tử chứ đâu phải là thiền của những bậc Thánh.

Cho nên ở đây chúng ta nên làm cái câu pháp hướng này để mà chúng ta đuổi cái xúc tưởng này ra khỏi cái tâm chúng ta để chúng ta tiến tới con đường nhập Tam Thiền:

“Xúc tưởng là một loại hỷ lạc ma, ta hãy đuổi nó đi ra khỏi tâm ta. Xúc tưởng hãy đi đi, ta không chấp nhận ngươi! Ta phải bám chặt tụ điểm và hơi thở, đoạn dứt chúng tức khắc, không được theo trạng thái này nữa!”

Đó thì chúng ta phải dùng cái pháp hướng đó và nhắc cái tâm chúng ta.

Thỉnh thoảng chúng ta còn nghe cái cảm giác hỷ lạc, cái thân chúng ta còn hơi rung động theo cái kiểu gật gù cũng như người hút á phiện, cũng như cái thằng uống rượu mà nó gật gù gật gù cái kiểu nó thích thú đó, thì chúng ta cũng nên chấm dứt cái đó đi. Còn không thì đứng dậy mà đi kinh hành, chứ đừng có ở đó mà thưởng thức theo cái kiểu thế gian đó.

6) XẢ PHÁP TƯỞNG

(25:26) 6. Pháp tưởng

Đây là cái pháp mà hầu hết là thiên hạ vỗ ngực xưng tên tưởng mình là tiểu ngộ, đại ngộ đây, đó là cái pháp tưởng đây.

Pháp tưởng là một loại tà pháp do tưởng giải tạo ra, người ngu si mê muội cho đó là trí tuệ phát triển nên ngộ lần lần những câu kinh tưởng, những câu công án của thiền Đông Độ, họ cho sự hiểu biết đó là tiểu ngộ, khi nào họ ngộ hết những công án là họ cho đó là triệt ngộ. Không ngờ họ đã bị pháp tưởng lường gạt, biến họ thành ma hý luận trong đạo Phật…​

Bởi vì những cái này đều là họ dùng những công án họ hỏi tới hỏi lui, họ hét họ la như Lâm Tế chẳng hạn, họ bị cái ma hý luận của họ rồi.

Bởi vậy Phật nói đó là cái thứ hý luận, nói cái này nói cái kia làm như là trời là Phật vậy đó, làm cho coi như người ta không hiểu biết cái ý mình muốn gì hết. Chứ sự thật ra cái điều đó là cái điều hý luận ở trong đạo Phật, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta biết.

Cái điều đó là cái điều giả dối gạt người chớ không phải thật là cái chỗ Phật pháp. Cái chỗ Phật pháp phải đơn giản, cụ thể, thực tế để áp dụng vào là có cái sự giải thoát nơi thân tâm của người ta.

Chớ đâu phải hý luận trên trời mây xanh đó, để la, để hét, để đập, để bằng những cái lời ngắn mà nói lên những cái ý gì sâu xa ở trong đó, gọi là Phật, gọi là pháp, gọi là Thánh gì ở trong đó. Đó là những cái lý luận của những kẻ hý luận chơi, chớ không phải là cái chỗ giải thoát.

…​thuyết giảng mơ hồ, đời sống thì phá Phạm hạnh, phạm giới luật.

(27:10) Họ thì họ nói triệt ngộ, họ nói công án này công án kia, họ thầy trò đối đáp nhau coi như là không có cần mà phải dùng cái trí suy nghĩ. Người này nói người kia đáp, kẻ hỏi Đông người đáp Tây, kẻ hỏi Bắc người đáp Nam, nó không ăn nhập vào đích, thế mà họ cười họ nói đó là ngộ đạo. Bảo họ xách cái thùng thì họ xách cái rổ, gọi là vô phân biệt.

Tất cả những cái này, nhìn vào cái đời sống của họ thì họ hý luận cái kiểu làm cái trò cười cho thiên hạ như vậy, thế mà cái Phạm hạnh của họ thì phạm giới luật, ngày thì ăn phi thời, tối thì ngủ ngáy khò khò chẳng có lo gì là giải thoát, sống thì ở trên nhung lụa, sang cả như những nhà giàu có.

Nhìn cái cuộc sống của họ qua cái hý luận của họ thì chúng ta đã biết họ là thuộc cái loại có giải thoát hay là không giải thoát. Ăn, uống, ngủ nghỉ, danh lợi, sắc, họ không có bỏ một cái thứ nào hết trong năm thứ dục lạc của thế gian.

Pháp tưởng là thứ pháp tà ác, độc hại đã lường gạt người mà còn lường gạt chính bản thân của người ngộ pháp tưởng.

Nghĩa là chính cái người ngộ pháp tưởng, tưởng mình là Thánh rồi, tưởng mình là Phật rồi, tưởng mình là thấy Phật Tánh được rồi, tức là kiến tánh thành Phật được rồi, nhưng mà cuối cùng thì thật sự ra họ chẳng có làm chủ được cái sống chết của họ chút nào được hết.

Cho nên đến giờ phút ra đi thì ngài Thường Chiếu ngài cũng đã nói: “Ta chết như người thường chớ không có thể nào mà như người khác được!” Ngài Pháp Loa khi sắp sửa chết ngài rên hừ hừ, ngài Huyền Quang mới hỏi: “Sao Hòa thượng lại rên vậy?” Thì ngài biết nói làm sao cho đỡ mắc cỡ đây? Nói: “Gió thổi qua khe trúc!”

Gió thổi qua khe trúc là tại gió thổi qua cái bụi trúc, hai cây trúc nó nghiến nhau nó kêu chớ còn ổng đâu có đau! Không đau mà rên à? Không có thọ, không tưởng mà rên được sao? Cái điều đó là cái điều che mặt người ta, lấy vải thưa che mắt Thánh, chứ nếu mà không thọ thì ai làm sao rên, còn ông có thọ ông mới rên chớ!

Còn gió thổi qua cái bụi trúc làm sao có thọ ở trong đó, mà hai cây trúc nó cọ nó kêu két két, thì ông cũng nói ông rên cũng giống như là hai cây trúc kêu như vậy, thì đó là ông che mặt người ta chớ, đâu có thực.

Cho nên làm chủ được thì nói làm chủ, mà không làm chủ được thì nói không làm chủ, đừng có gạt người sau để bịt con mắt người ngu, chớ còn người trí thì không thể nào mà gạt được. Đó là những hình ảnh mà các tổ sư gọi là ngộ, mà cuối cùng trong cuộc đời của họ rất là đau khổ.

“Pháp tưởng là một tà pháp…​

Ở đây là câu trạch pháp đây:

“Pháp tưởng là một tà pháp, không phải trí tuệ chơn thật của người tu sĩ chân chánh. Nó là một loại ma hý luận, tranh chấp, hơn thua cao thấp. Phải xa lìa nó, không chấp nhận nó! Pháp tưởng hãy đi đi, ta không tin ngươi là trí tuệ của đạo Phật, ngươi hãy đi đi!”

(30:18) Đó là chúng ta hãy đuổi nó đi, nó không phải là trí tuệ của đạo Phật đâu.

Cho nên cái người mà đã ngộ cái lý thiền, đã thấy Phật Tánh, luôn luôn họ gặp với nhau họ rống cái họng họ lên, họ nổi cái gân cổ họ lên, họ cãi với nhau, họ tranh hơn tranh thua với nhau, không có chịu thua ai hết.

Thậm chí như thấy cái người mà giữ giới luật họ nói là cố chấp, họ còn chê bai người ta nữa. Nhưng mà họ có sống được không? Họ chưa ăn một bữa được, họ thấy người ta ăn một bữa họ nói cái đó là chấp giới.

Rồi có nghe người ta nói cái người đó nhập được định, làm chủ được cái sống chết, nhập Tứ Thiền, tịnh chỉ được hơi thở, thì họ bảo rằng sở đắc, người ta tu hành vô sở đắc, còn cái thứ tu mà sở đắc đó ra cái gì!

Đó là những cái mà người ta khi bỉ, khi một kẻ người ta làm được những cái chuyện mà mình chưa làm được thì mình lại khi bỉ.

Cũng như ngài Hoàng Bá đi với một vị tu sĩ, cái vị tu sĩ đó đi ở trên mặt nước đi qua sông, khi qua sông rồi thì cái vị đó mới quay lại kêu Hoàng Bá: “Anh hãy đi qua bên đây với tôi!” Thì ông này đâu có dám lội xuống, lội xuống uống nước chết sao, cho nên nói: “Tui biết anh mà đi trển tui chặt chân anh rồi!”

Thì cái ông này quay lại, ổng cười mũi mà ổng khen một cách rất là mỉa mai: “Thiệt anh là pháp khí Đại Thừa, chớ Tiểu Thừa thì chắc chắn là tụi tui phải đi ở trên nước được, còn anh là pháp khí Đại Thừa không dám thọt chân xuống, sợ thọt chân xuống uống nước!”

Đó rõ ràng mà! Cái câu chuyện này thật sự chớ đâu phải không. Ổng đâu dám thọt chân xuống, sợ nó lút xuống dưới uống nước chết đi, cho nên mới nói: “Tui biết anh bước vậy tui chặt chân anh hồi nãy rồi.” Ông này mới nói: “Thiệt anh là pháp khí Đại Thừa, chớ còn người thường thì không có dám vậy đâu!”

Đúng vậy! Thật sự ra mình tu chẳng ra gì hết, nói cái họng của mình thật là pháp khí Đại Thừa đó! Khí đó thiệt là khí ở trên mây xanh chớ không phải khí ở dưới đất.

Đó là hôm nay Thầy nói như vậy để chúng ta biết rằng những cái pháp tưởng nó nguy hiểm lắm, mà cái người nào mà lọt ở trong cái vòng này, rống cái họng mà tranh với nhau dữ lắm chớ không phải thường đâu.

Còn chúng ta là những người tu theo Phật phải tránh những cái hý luận này, ai có nói hơn nói thua gì, thôi chắp tay: “Tui thua chớ tui không có hơn đâu, tui ráng mà tui giải thoát cho tâm tui đây còn không được!”

Cho nên có lần Thầy về Thường Chiếu, các thầy bảo Thầy thị hiện thần thông, Thầy nói: “Tui tu hơi thở chưa xong, ở đó thần thông gì? Hơi thở tui nhiếp còn chưa hết, ở đó mà thần thông cái khỉ gì mà thần thông! Bởi vì tui thua mấy ông hết rồi, tui chỉ có nương hơi thở thôi, còn mấy ông thì lý luận quá trời rồi!” Thành ra do đó Thầy chịu thua quý thầy hết, vì vậy mà không có hý luận với ai hết.

Đó là một cái con đường tu tập, do vì vậy mà quý thầy phải sáng suốt để lìa xa 6 cái loại tưởng này. Sau khi mà dạy đến tất cả những cái loại tưởng khác Thầy sẽ nhắc nhở, vì thời gian chúng ta không còn có nhiều, cho nên chúng ta phải ráng cố gắng để học cho nó hết cái giới hành.

Cái giới hành là 37 phẩm trợ đạo. Và còn từ cái một pháp cho đến mười pháp, từ mười pháp cho đến trăm pháp mà Phật đã dạy chúng ta phải tu tập, phải trau dồi, phải dứt bỏ, phải tác chứng những cái pháp đó. Nó quá nhiều pháp.

Cho nên đến đây mà chúng ta lấy thân mà niệm pháp, tức là lấy thân mà sống tùy nương theo pháp để sống đúng, nó không phải đơn giản đâu.

3- PHÁP HÀNH PHÁP NIỆM PHẬT - PHẦN 2

11) PHÁP THAM HẬN NIỆM PHẬT

(33:46) Bắt đầu bây giờ chúng ta lấy Pháp mà niệm Phật đây.

Cái pháp niệm Phật thứ 11 là:

11. Pháp tham hận

Hận là lòng căm giận, oán hờn sâu sắc đối với kẻ đã làm hại mình. Hận là giận hoài không nguôi, ôm ấp trong người, thấy người hại mình sanh ra căm tức và oán ghét, thấy không muốn nói chuyện, không muốn gần họ. Hận là một pháp rất ác khiến cho người ôm hận phải triền miên…​

Phải tùy miên đó, tùy miên là nó liên tục ở trong lòng của mình luôn luôn, nó không có lúc nào có một khoảnh khắc nào chúng ta an vui được, mà tìm mọi cách để mà hại cái người đó cho được, giết người đó cho được, mới rửa hận được, mới thấy được an vui, chớ còn không thì nó tùy miên ở trong đó, nó kéo dài dài cái hận hoài ở trong lòng,

…​đau khổ mãi mãi trong tâm, không nhớ thì thôi mà nhớ đến thì căm tức vô cùng, lăm lăm chờ ngày nào đó mà rửa hận.

Nghĩa là hận nước thù nhà. Hận nước là bây giờ thí dụ đất nước của mình bị ngoại xâm nó cướp đi, nó đè đầu kẹp cổ từng người dân của mình đi, cho nên đó là mình hận nước. Còn thù nhà là giặc nó vô nó bắt gia đình, vợ con mình hay hoặc là cha mẹ mình, nó đem nó bắn nó giết đi, đó là thù nhà. Do thù nhà này tui mới đi đánh giặc, tui mới đuổi giặc ra khỏi nước.

Thì từ chỗ cái duyên đó mà có thể chữ “thù” này là nó nằm ở chỗ cái cá nhân của mình với một người nào đó làm hại mình, cho nên từ đó cái tâm của mình luôn luôn nó ôm ấp cái sự trả thù, cái sự hận thù, cái sự căm tức không bao giờ rời.

(35:33) Cho nên cái pháp này mà nó đến với chúng ta nó làm khổ chúng ta vô cùng lận, nó không có bao giờ rời chúng ta khỏi nửa bước nữa.

Khi pháp hận này đến với tâm ta, ta phải lấy pháp này niệm Phật. Pháp này gặp Phật thì tan vỡ ngay liền, vì tâm Phật không bao giờ có hận thù ai, hiểu biết như vậy, tâm ta không còn hận ai hết và xả sạch.

Đó là chúng ta bắt cái pháp hận trong tâm của mình đó mà bắt nó niệm Phật. Thì chúng ta đã biết là ông Phật không bao giờ hận thù, thậm chí như Đề Bà Đạt Đa đã nhiều lần tìm cách hại Phật, nhưng mà Phật cũng không hận thù ông ta chút nào hết.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này, dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Hận thù là một pháp cực ác, khiến tâm ta luôn luôn bất an và căm ghét. Ta phải từ giã, viễn li, dứt bỏ, không được mang nó ở trong lòng, trong tâm ta. Lòng hận phải đi đi, phải xa lìa nơi tâm ta vĩnh viễn!”

Đó là chúng ta pháp hướng, rồi dùng cái lực của tinh thần để đuổi nó đi, để từ cái chỗ mà chúng ta có những cái hận ở trong lòng của chúng ta thì chúng ta đuổi nó ra khỏi cái lòng của chúng ta, chớ không có để cho nó ở trong lòng của chúng ta.

12) PHÁP THAM THÙ NIỆM PHẬT

(37:02) 12. Pháp tham thù

Đây là pháp thù.

Thù là một lòng căm ghét sâu sắc đối với kẻ đã từng gây hại lớn cho mình, kèm theo ý muốn nung nấu bắt kẻ đó phải chịu sự trừng phạt tương ứng. Bởi vậy pháp thù đến với tâm ta khiến cho ta ăn ngủ không ngon, ngày đêm trằn trọc, thân tâm chẳng an, tâm hồn dàu dàu buồn bã.

Khi gặp pháp này ta bắt nó niệm Phật. Pháp này đến với Phật, tâm Phật bất động không căm ghét, thù oán ai cả.

Vì các pháp đến mà niệm Phật thì pháp nào nó cũng trở thành pháp lành. Cho nên chúng ta biết lấy pháp mà niệm Phật làm cho tâm của chúng ta theo đó mà nương thì tâm chúng ta rất an.

Vì trước khi lấy các pháp mà niệm Phật thì chúng ta đã có lấy tâm niệm Phật rồi, cho nên chúng ta biết cái tâm của chúng ta sẽ an ổn trước các pháp khi nó đã đến với chúng ta.

Vì thế lấy pháp này mà niệm Phật thì tâm ta cũng không căm ghét ai, thù oán ai. Ta sống thanh thản nhẹ nhàng, an vui, lúc nào cũng với lòng từ ban rải khắp cùng mọi loài, mọi chúng sanh, mọi muôn phương, không thù, không hận, không oán, không ghét. Đó mới gọi là người tu sĩ theo đạo từ bi.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Thù là một pháp cực ác khiến cho tâm ta bất an, khổ sở vô cùng, lúc nào cũng tìm cách trả thù, đầu óc tối tăm, không còn sáng suốt phân biệt đâu thiện đâu ác, đâu chân đâu giả, do thế tâm càng khổ sở hơn. Thù là một pháp ác, hãy đi đi! Ra khỏi nơi tâm ta! Đi đi, không được ở nơi đây nữa!”

Đó là cái pháp hướng, trước chúng ta hướng để nhắc cho chúng ta rõ cái lý của nó, sau đó chúng ta đuổi nó, không được cho nó ngự trị ở trong tâm mình, để mãi mãi ôm ấp sự đau khổ cho mình.

13) PHÁP THƯƠNG NIỆM PHẬT - PHẦN 1

(39:10) Đó là hận thù, rồi bây giờ tới cái pháp thương. Cái pháp thương này còn khổ nữa. Pháp hận thù coi vậy chớ không khổ đâu, pháp thương này rải rải chớ nó làm cho chúng ta khổ rất nhiều.

Pháp thương là một pháp cực ác khiến cho người ta thương nhớ, khóc than, có thể đi đến chỗ chết. Như một người mẹ mất con, người mẹ khóc suốt ngày này sang ngày khác, không còn muốn ăn uống gì hết. Người con mất cha mẹ cũng vậy, cũng khóc từ ngày này sang ngày khác.

Pháp thương đến với loài người, không kẻ nào không khổ sở. Pháp thương còn độc hại hơn là pháp sân, pháp hận, pháp thù. Pháp này đến với loài người từ già chí trẻ ai ai cũng bị nó lôi xuống địa ngục sầu khổ. Khi chúng ta cách xa những người thân thì pháp thương khởi dậy làm cho tâm ta bất an ngay trong tâm hồn.

Pháp thương rất độc ác, nó độc hơn tất cả các pháp khác, nó diệt trừ tâm hồn con người nhanh hơn tất cả các pháp khác.

Khi gặp pháp này bắt nó niệm Phật ngay. Vì Đức Phật ngày xưa xa vua cha, vợ con và những người thân của mình, sáu năm trời khổ hạnh trong rừng già, Ngài chẳng hề thương nhớ đến gia đình của mình, Ngài chẳng hề để tâm đến gia đình của mình, Ngài chẳng bao giờ nhớ đến cha già, vợ yếu, con thơ nay đã ra sao.

Cho đến khi chứng đạo quả viên thành, đầu tiên Ngài cũng lo nghĩ đến chúng sanh, không biết có đủ duyên theo pháp của mình mà tu hành không. Rồi Ngài tìm người trao pháp, Ngài nhớ đến hai vị thầy của mình, nhưng hai vị này vừa qua phần.

Rồi Ngài nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh đó là năm anh em Kiều Trần Như ở vườn Nai. Ngài nghĩ xong liền đến đó độ năm người này, sau đó Ngài tiếp độ những người khác mà chẳng hề nói Ngài trở về thăm vua cha và vợ con.

Cho đến khi vua cha được tin Ngài thành Chánh Giác, đang độ người tu hành thì vua cho nhiều đoàn sứ giả đến thỉnh Ngài về. Ngài cũng chẳng về và độ tất cả các đoàn sứ giả tu hành.

Mãi sau cùng, đức vua mới phái một đoàn nữa đến và căn dặn đoàn sứ giả đến rồi phải trở về báo lại cho nhà vua biết. Đoàn sứ giả cuối cùng đến thỉnh Phật, Ngài mới hứa khả trở về thăm, và chờ đủ duyên tu hành của triều đình, lúc bấy giờ Ngài mới trở về.

(42:15) Do thế chúng ta mới thấy được lòng thương nhớ nhỏ mọn, ích kỷ người thân ruột thịt của Đức Phật không còn nữa.

Lòng thương ấy bây giờ bao la rộng lớn, không phải còn thương vợ, thương con, thương cha, thương mẹ, thương anh em ruột thịt, mà thương tất cả, không phân biệt sang hèn, nghèo đói, không phân biệt giai cấp nào hết, bình đẳng mà thương tất cả mọi người.

Đó thì quý thầy thấy rõ, như ông Phật khi mà chứng đạo, thay vì chúng ta chứng đạo xong thì lo nghĩ về thăm nhà của mình như thế nào, cũng như một người học trò mà đậu xong rồi thì mình về mình thăm gia đình của mình chớ gì? Mình thăm nhà, thăm cha, thăm mẹ, thăm vợ con mình chớ gì?

Đằng này không. Ông Phật ổng tu xong rồi, chứng đạo rồi thì tìm người để mà dạy người ta, chớ còn không có nghĩ mà về thăm vợ, thăm con. Ông này chắc bộ ổng không có tình cảm gì hết. Ông này chắc ổng tu riết rồi cái tình cảm ổng tiêu hết rồi.

Nhưng sự thật ra, từ khi bắt đầu đi cho đến khi mà thành đạo thì chúng ta cũng chẳng thấy trong kinh nào mà Đức Phật nhớ lại vợ con hoặc cha mẹ mình hết.

Trong khi khổ hạnh gần chết, thay vì những cái phút mà gần chết thì người ta lại nhớ đến gia đình dữ lắm, nhưng lúc mà Đức Phật ăn khổ hạnh đến cái mức độ mà ngồi không nổi nữa, lúc bấy giờ mệt nhọc đến cái mức độ vậy đó, mà Ngài cũng vẫn không thấy nghe nói Ngài nhớ lại cha mẹ hay hoặc này kia.

Nhớ lại hồi đó nếu mình mà vầy thì mẹ mình, hay hoặc là vợ con, hay hoặc là cha mẹ, hay hoặc là những người phải bồng ẵm, phải lo cơm lo nước này kia, những cái kỷ niệm đó chắc chắn là nó phải trở về với ông ta. Nhưng mà trái lại, ông nằm đó mà ổng không nhớ ai hết.

Có lẽ là lúc bấy giờ ông như gộc cây rồi chớ đâu còn gì nữa. Nhưng mà sự thật đó là cái hình ảnh giải thoát hoàn toàn. Nếu mà còn một chút xíu nào mà dính mắc tình cảm của chúng ta đối với gia đình, đối với những người thân thì chắc chắn là chúng ta khó mà có thể giải thoát được.

Chúng ta phải hiểu những cái ý nghĩa của những cái bài kinh mà nói đến cái đời sống của Đức Phật, tức là nói đến cái đời sống của chúng ta sau này sẽ tu tập, phải dứt trừ tận gốc như vậy.

Cho nên Đức Phật nói: Sanh đã tận thì Phạm hạnh mới xong. Sanh đã tận là tức là những cái gì mà chúng ta từng nương tựa, cha mẹ, anh em, vợ con, của cải, tài sản nó đã tận, tức là đoạn tận hết rồi, thì cái Phạm hạnh của người tu nó mới xong. Đó là những câu nói mà Phật thường nhắc nhở trong kinh.

4- GƯƠNG NGÀI A NA LUẬT BUÔNG XẢ CÁC PHÁP THẾ GIAN

(44:42) Bây giờ quý thầy nghe lại cái ông A Na Luật. Ông này là một cái tay cũng dữ tợn lắm chớ không phải thường. Ổng cũng bỏ cha bỏ mẹ mà cũng không cần thương nhớ nữa hết.

Đây là những cái gương hạnh mà chúng ta nghe qua cái bài kệ của ông chúng ta thấy được cái sự tu tập. Mà ngay từ cái chỗ dứt cái lòng thương yêu này, cái pháp thương yêu này bắt nó niệm Phật, thì chúng ta phải bắt nó niệm như thế nào đúng, nếu không theo những cái gương hạnh này thì chúng ta khó mà dứt được cái lòng thương yêu của chúng ta lắm.

Hãy nghe ông A Na Luật thuật lại cái đời tu của mình:

Bỏ cha mẹ, lìa bà con,

Bỏ anh em, chị em,

Bỏ năm dục lạc trưởng dưỡng,

A Na Luật tu thiền.

Bây giờ đó, ổng theo Phật rồi đó, thì ổng dứt bỏ cha mẹ, bà con, bỏ hết, anh em ruột thịt gì bỏ hết. Mà năm cái thứ dục lạc, ông A Na Luật này ngày xưa ổng cũng dục lạc dữ lắm chớ không phải là cái tay thường đâu, mà bây giờ ổng dẹp hết năm thứ dục lạc này, thì “A Na Luật tu thiền”.

Ông thì ổng thích sống ca nhạc, đờn ca xướng hát, cho nên ổng thường thường liên hệ với các người ca nhạc:

Sống liên hệ với ca nhạc,

Với tiếng đàn, tiếng nhạc,

Trước ta ưa thích nó,

Trong giới hạng của ma.

Nghĩa là từ tiếng nhạc tiếng ca đó bây giờ ổng nghĩ ra nó là cái thế giới của ma, chớ không phải là của những người tu nữa.

Do sống vậy không được,

Cảnh giới đạo thanh tịnh,

(46:19) Vì cuộc sống mà hay ca hát hay này kia, đó là cái thế giới của ma, không thể nào là cảnh giới của đạo thanh tịnh được.

Ta vượt qua tất cả,

Ưa thích lời Phật dạy,

Vượt khỏi mọi bộc lưu,

A Na Luật tu thiền.

Đó thì ở đây ổng phải vượt qua, vượt qua tức là dứt bỏ đó. Dứt bỏ tất cả, chỉ có lấy cái lời của Phật dạy.

Cũng như bây giờ quý thầy đã quy y Tam Bảo rồi, thì ba ngôi Tam Bảo này là Phật, Pháp, Tăng rồi, thì chúng ta phải tuần tự chúng ta phải dứt tất cả hết, phải vượt qua tất cả hết những cái gì mà trói buộc. Từ cái tình cảm thương yêu của anh em, cha mẹ, dòng họ, cho đến tài sản, của cải, sự nghiệp đều là phải vượt qua cho khỏi hết, dứt hết, hoàn toàn là dứt hết, thì như vậy mới gọi là “A Na Luật tu thiền”.

Sắc, thinh, hương, vị, xúc,

Hấp dẫn, rất ưa thích,

Ta vượt qua tất cả,

A Na Luật tu thiền.

Bây giờ chúng ta nghe nói mình tu thiền mà mình cũng vẫn chạy theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp thì thử hỏi mình còn cái gì gọi là tu thiền? Cho nên biết nó hấp dẫn, biết nó lôi cuốn, cũng như giờ ăn, chưa tới giờ ăn mà mình đói bụng rồi, mình thích ăn chè, bây giờ cũng còn thích, thì như vậy là vượt qua chưa? Chưa có vượt qua.

Cho nên ở đây nếu mình là người tu thiền thì mình phải vượt qua ba cái sở thích này đi, ba cái ham thích này đi, mình vượt qua thì mới gọi là “A Na Luật tu thiền”.

Đi khất thực trở về,

Độc cư, vị ẩn sĩ,

Tìm vải từ đống rác,

A Na Luật đạt được,

Không còn các lậu hoặc.

Đó thì các thầy thấy, bây giờ chúng ta chưa có cái vị nào tìm cái giẻ rách ở đống rác mà làm cái y mà đắp đâu. Ông đâu phải cái người nghèo, thế mà khi đi rồi đó, khi mà đi tu rồi thì ông dứt bỏ hết, đi tìm cái vải ở đống rác lên rồi đắp lại, vá, kết lại làm cái áo, cái y của mình mặc mà thôi. Cho nên ở cái bài kệ này:

Đi khất thực trở về,

Độc cư, vị ẩn sĩ,

(48:32) Coi như Ngài sống một mình, không có nói chuyện với ai hết. Ẩn sĩ là một cái người mà ẩn bóng, không có để cho ai thấy, trừ ra tới cái giờ đi xin mà thôi.

Rồi bây giờ Ngài làm sao? Ngài đi tìm những cái vải từ cái đống rác mà người ta quăng, người ta bỏ đó, Ngài về Ngài mới kết lại làm cái y của mình để mặc, chứ không còn…​ Do đó cái lậu hoặc nó mới sạch, còn nếu mà mình còn cái vải tốt, còn cái y như Thầy đây, chưa chắc đã là bỏ đâu.

Cho nên còn thấy mình mặc cái áo này móc khái vầy là không tốt rồi, để tìm cái áo khác cho nó đẹp hơn, thì đó lậu hoặc mình còn đó chớ chưa hết. Còn ở đây thì ổng đã đạt được, cho nên các cái lậu hoặc ổng nó mới sạch đó, nó mới hết.

Đó thì qua cái bài kệ mà chúng ta thấy từng cái hành động nhỏ để nói cái lậu hoặc chúng ta còn hay là hết, tức là nói chúng ta có ly dục, ly ác pháp được hay không.

Ẩn sĩ thâu, lượm lấy,

Giặt, nhuộm, và đắp mặc,

Các vải từ đống rác,

Sáng suốt, A Na Luật,

Không còn các lậu hoặc.

Cũng từ lượm những cái đồ bỏ đó để trở thành những cái vật dụng hằng ngày của mình, cho nên cái lậu hoặc của mình hết, vậy cho nên mình mới thấy rằng mình là một bậc ẩn sĩ, một cái người mới đúng là cái người tu.

Còn chúng ta còn ở trong cái sự tu tập mà cung kính, có cái sự cúng dường, có cái sự này sự kia thì như vậy là cái lậu hoặc chúng ta chưa sạch đâu, chưa hết đâu.

Cho nên qua những cái gương hạnh này, sau khi mà lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Tăng thì Thầy nêu lên các hành động, các cái gương hạnh của các bậc Thánh Tăng trong cái thời Đức Phật, chúng ta theo đó mà chúng ta lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Tăng, chúng ta cũng sẽ sống những cái gương hạnh đó.

Cũng như bây giờ, qua cái bài này là chúng ta xa lìa cái lòng thương, mà bỏ cái lòng thương, rồi bỏ tất cả những cái thương của, thương cải, thương này kia qua hành động của ông A Na Luật này để mà chúng ta dẹp cái lòng thương của chúng ta.

Bởi vì bây giờ mình còn mến một cái vật gì, tức là còn thương cái vật đó chớ không phải…​ Mà cái lòng thương nó rất là vi tế, chớ không phải là mình nhớ cha nhớ mẹ mình là thương đâu.

Mình còn nhớ những cái vật kỉ niệm, hồi đó đó ai tặng mình, một con bồ nào đó tặng mình, bây giờ mình còn cất giữ đó thì coi chừng, cái chuyện đó là mình còn thương chớ chưa phải mình dứt thương đâu.

Rồi tất cả những cái chuyện mà nhỏ nhỏ, chớ mà nó còn ghi lại ở trong đầu của chúng ta những kỉ niệm mà chúng ta không có quăng ném nó đi thì tức là chúng ta chưa hết lậu hoặc đâu.

Mà muốn được như vậy thì chúng ta phải nương theo các gương hạnh của các bậc Thánh Tăng này để mà chúng ta xa lìa cái lòng thương của chúng ta, thương vật, thương người, thương tất cả những cái gì mà ở trong cuộc đời chúng ta đã xảy ra.

(51:02) Đó bây giờ thì ông đi lượm cái đồ bỏ để mà làm lại cuộc sống của mình.

Nhiều dục, không biết đủ,

Ưa giao du, tháo động,

Những pháp này có mặt,

Thuộc tà ác, uế nhiễm.

Nghĩa là nếu mà chúng ta chưa có biết đủ, còn cái này cái kia thì đó còn nhiều dục chứ chưa phải là…​ Còn bây giờ chúng ta đi lượm từng cái vải rách, từng cái vải xấu xa mà làm cái áo chúng ta mặc hằng ngày thì chúng ta chẳng còn gì nữa hết, thì lậu hoặc chúng ta sẽ không còn. Còn bây giờ chúng ta còn cái tốt, còn cái này kia, coi chừng lậu hoặc chúng ta chưa hết đâu.

Cho nên chúng ta phải sống hợp, sống đúng cái đời sống Phạm hạnh thì chúng ta mới quét sạch được cái lậu hoặc. Còn nếu mà chúng ta sống không đúng Phạm hạnh, còn áo quần se sua đẹp xấu thì coi chừng lậu hoặc chúng ta còn tràn đầy trong đó, khó mà đi đến ly dục, ly ác pháp mà giải thoát được.

Cho nên ở đây còn nhiều dục thì chưa biết đủ, thì do vì vậy mà tâm của chúng ta ưa giao du, tháo động.

Ưa giao du là lại người này nói chuyện, người kia nói chuyện, tìm bạn tìm bè, tìm này kia đồ, thích lại chỗ này chỗ kia là những người mà chưa chịu sống độc cư đó, ưa tìm bạn, rồi tìm nơi này nơi kia để ngao du sơn thuỷ đồ đó, thì tất cả những cái này là không bao giờ cái người đó đi đến con đường giải thoát được.

Những pháp này có mặt,

Những cái pháp này mà có mặt thì thực là “tà ác, uế nhiễm”, nó là những cái tà pháp, nó thuộc về những cái tà pháp ác, nó làm cho tâm chúng ta dễ uế nhiễm.

Thí dụ như bữa nay chúng ta nói chuyện với nhau thì ngày mai chúng ta thích cũng nói chuyện nữa, rồi ngày mốt cũng thích nói chuyện nữa, không bao giờ mà cái thích nói chuyện đó dứt được đâu.

Chỉ bữa nay chúng ta dứt được thì ngày mai chúng ta dứt được. Ngày nay chúng ta không giao du thì ngày mai chúng ta không giao du, bữa nay giao du được thì ngày mai tiếp tục giao du nữa. Và cứ như vậy tiếp diễn mãi thì đến khi chết chúng ta cũng hai bàn tay trắng bị các pháp tà này nó đã uế nhiễm tâm của chúng ta.

Chánh niệm và ít dục,

Biết đủ, không não loạn,

Thích viễn ly, hân hoan,

Thường tinh cần tinh tấn.

Đó thì ở đây chúng ta luôn luôn phải ở trong cái niệm chân chánh là cái niệm mình luôn luôn lúc nào mình cũng thấy vừa đủ và thấy an vui cho tâm hồn của mình, không có cái niệm nào mà làm cho mình đau khổ, thương nhớ, hoặc là giận hờn, hay hoặc là ham thích nữa. Luôn luôn mình thấy trước mọi hoàn cảnh, trước cuộc sống của mình, mình thấy nó đủ rồi, không có thấy thiếu cái gì hết.

Mặc dù là nhìn vào thì mình đang không có cơm ăn, nhưng mà mình biết đây cũng đủ rồi. Mình biết đây là cái nhân quả, đủ của mình rồi, thì không có cần phải thấy nó thiếu, nó đói nữa. Do vì vậy đó mà mình rất là an ổn tâm của chúng ta.

Và mình thích sống cái đời sống viễn ly, nghĩa là lìa xa bạn bè, lìa xa những vật dụng, lìa xa tất cả những cái điều trói buộc, lìa xa tất cả những người thân yêu của mình, đó là mình thích cái đời sống viễn ly.

Bởi vì mình không thích cái đời sống viễn ly thì nó sẽ đưa mình đến những cái trói buộc này đến trói buộc khác, nó làm cho chúng ta khó mà giải thoát được, nó làm chúng ta não loạn ở trong đầu óc của chúng ta và làm chúng ta không biết đủ.

(54:14) Cho nên khi mà chúng ta thích viễn ly thì chúng ta phải siêng năng, tinh tấn. Thường chúng ta phải sống cái hạnh viễn ly. Viễn ly tức là xa lìa hết những cái vật chất trên thế gian này, xa lìa tất cả những cái tình cảm, xa lìa tất cả những cái pháp ác, tránh hết, tránh hết, chỉ cần sống cô đơn một mình trong một khu yên tĩnh rừng hoang vắng.

Như ông Mục Kiền Liên chẳng hạn. Mặc dù ông với ông Xá Lợi Phất là đôi bạn rất thân tình, nhưng khi hiểu được Phật pháp thì ông lìa cái người bạn thân của ông, chớ không còn có tối ngày cặp với nhau như đôi uyên ương mà chuyện này hết rồi tới chuyện kia đâu.

Hai ông này thật sự là đôi uyên ương, đi đâu là có cặp nhau đó, nhưng mà đến khi ngộ pháp rồi thì ông này đi vào cái khu rừng hoang vắng ở riêng một mình mà thực hiện thiền định. Cho nên chỉ có ông Phật đến với ông Mục Kiền Liên mà thôi, chớ không bao giờ ông Xá Lợi Phất có cái tâm mà bén mảng đến khu rừng đó bao giờ.

Cho đến khi ông Mục Kiền Liên đã thực hiện có cái đệ nhất thần thông rồi thì ông mới về hầu Phật, để giúp Phật chấn chỉnh Tăng đoàn, để giúp Phật hướng dẫn cái giáo đoàn trên bước đường du tăng khất sĩ.

Những pháp này có mặt,

Thuần thiện Bồ Đề Phần,

Vị ấy không lậu hoặc,

Bậc đại sư nói vậy

Nghĩa là những cái pháp viễn ly mà nó có mặt thì nó là đem chúng ta đi đến cái chỗ giải thoát hoàn toàn. Bồ Đề là giải thoát đó, nó thuần thiện, nó giúp chúng ta. Còn cái pháp viễn ly mà không có đó thì nó là những cái pháp uế nhiễm, nó làm chúng ta đắm nhiễm ở trong cái tà pháp.

Cho nên ở đây cái pháp viễn ly là cái pháp rất cần thiết cho chúng ta. Một cái người nào muốn đi vào cái con đường của đạo Phật mà thiếu sự viễn ly này thì chắc chắn là chúng ta không bao giờ có thể giải thoát được con đường này hết.

Cho nên chúng ta phải viễn ly, viễn ly những sự giàu sang, đẹp đẽ, viễn ly những tình cảm, viễn ly những chùa to tháp lớn, viễn ly Phật tử. Vì những Phật tử họ cũng trói buộc chúng ta dữ lắm chớ đừng nói là Phật tử để chúng ta độ họ. Coi chừng độ họ không độ chớ họ độ mình đó.

Họ độ tiền độ độ bạc, độ riết rồi cái lôi mình sắm xe Cúp, xe Honda chạy tùm lum hết đó. Đó là họ độ ăn, độ uống, độ đủ thứ hết, những cái thứ gì mà trên thế gian này có họ cũng độ cho mình hết. Riết rồi ông thầy cái bụng chang bang như cái trống, chớ cũng chẳng ra gì hết.

Cho nên ở đây Thầy nói thật sự, chúng ta cần phải tránh xa Phật tử. Vì tại sao vậy? Sợ Phật tử nó độ mình chớ mình không có độ Phật tử đâu. Nếu mình độ Phật tử thì hằng ngày nó sẽ ăn ngày một bữa với mình. Còn cái này nó ăn ba bữa, nó độ riết mình cũng ăn ba bữa với nó chớ chưa chắc đã ăn một bữa được.

Cho nên cần phải tránh những người Phật tử. Mình hơi nhức đầu một cái là nó xách bao nhiêu thứ thuốc biểu uống cái này uống cái kia, uống riết phạm thuốc mình cũng chết luôn chớ đừng có nói chuyện mà không chết. Cho nên Phật tử nó độ mình riết chắc chắn là tiêu mình luôn.

(57:09) Nhớ kĩ như vậy là quý thầy coi chừng cảnh giác với người Phật tử lắm. Họ thương mình chớ không phải ghét, mà họ thương cái kiểu dục lạc thế gian chớ không phải họ thương mình để mà giúp cho mình giải thoát đâu.

Còn ngày xưa Đức Phật, các thầy biết rằng người ta chỉ đi xin thôi, người ta cho được cái gì ăn cái nấy chớ không có Phật tử mà cung cấp, mà hộ trì một cách như bây giờ đâu.

Mà cái sự từ chối của Đức Phật cũng rất khéo léo, khi mà cúng dường sai là Đức Phật không có chấp nhận. Còn bây giờ các thầy thấy, họ cúng dường sai chúng ta cũng ngửa tay lấy. Họ để năm trăm, một ngàn hay một triệu bạc xin cúng dường thầy cái mình thò tay lấy liền.

Còn hồi đó ông Phật có sao? Bỏ trong bát ổng một đồng ổng cũng ném ra ngoài nữa: “Thôi, mấy bà đừng có bỏ cái kiểu này, không có được! Xách về đi! Cho tui đồ ăn thì cho chớ đừng có cho tiền như thế này thì không được.” Đó là những cái hạnh của một người tu.

Còn mình bây giờ mình khắc phục mình không có nổi cho nên mình xa xa họ ra đi, chớ không họ làm biếng lắm. Họ đi mua bánh mì họ bỏ vô cho mình thì nó cực, nó nặng, còn bỏ trong túi chừng vài ba tờ giấy năm chục ngàn thì dễ lắm.

Ném vô trong cái bình bát ông thầy năm chục ngàn là thấy ổng mua một đống bánh mì rồi chớ gì, còn mình mà ôm một đống bánh mì bỏ vô thì thấy quá cực, để cho ổng đi mua ổng ăn cho đã cái miệng ổng. Thì rõ ràng là Phật tử nó lôi mình đi theo cái cuộc đời của nó chớ không phải là để cho mình giải thoát.

Tùy theo ta nghĩ gì,

Ngài thuyết rõ tất cả,

Phật không ưa hý luận,

Ngài dạy không hý luận.

Nghĩa là cái pháp mà của Phật dạy thì tùy theo cái nghĩ, tùy theo cái chỗ tu hành của mình mà Phật dạy rất rõ. Ngài không có ưa cái lối mà luận cái này luận cái kia, mà chỉ dạy cho chúng ta tu hành.

Cũng như ở đây Thầy dạy cho quý thầy tu chớ không có nói cái lý luận, cái cao xa, cái lời nói thuyết giảng cho hay, mà nói cái lời nói rất thực.

Cũng như nghe cái lời giảng của Thầy là thực chớ không phải là cái lời nói nó cao siêu, nó có những cái từ làm cho chúng ta thấy nó hay ho bằng cách là như thế này, bằng cách như thế khác. Đó là những cái lời hý luận.

Còn cái lời mà dạy người ta để người ta thực hiện ở trong cái cuộc sống người ta, để người ta được giải thoát, người ta được cứu người ta ra khỏi sự đau khổ, thì Thầy cũng bắt chước ông Phật, cũng làm đúng như vậy, không có dạy cái hý luận mà dạy cái lời chân thật để đi vào cái sự hành cho được giải thoát.

Ngộ pháp ta hoan hỷ,

Trú trong giới pháp Ngài,

Ba minh chứng đạt được,

Lời Phật dạy làm xong.

Nghĩa là ngộ cái pháp mà của Phật dạy rồi thì lòng ta rất là sung sướng. Cũng như Thầy dạy cho các thầy phải hành cái pháp như thế này thế khác.

Thí dụ như bây giờ tu Tứ Vô Lượng Tâm thì tu tâm từ mình như thế nào, rồi tu Chánh Niệm Tỉnh Thức như thế nào, rồi tu Chánh Niệm Tỉnh Thức ở trong những oai nghi như thế nào. Dạy tất cả những cái này mà quý thầy nỗ lực được thì sau này quý thầy sẽ chứng được Tam Minh.

Cho nên trú trong giáo pháp, những cái lời mà Thầy dạy đó mà quý thầy trú vào đó mà quý thầy hằng ngày thực hiện, thì Ba Minh chứng đạt không có…​ không bao giờ mà quý thầy không chứng đạt được Ba Minh.

Suốt năm mươi lăm năm,

Ta không bao giờ nằm,

(01:00:32) Cái ông này tới 50 năm mà không bao giờ ổng nằm, không biết là ổng ngồi hay là ổng làm sao Thầy cũng chả biết.

Trong hai mươi lăm năm,

Đoạn dứt được ngủ nghỉ.

Nghĩa là 25 năm thì ông mới là tu tập dứt cái ngủ nghỉ, nghĩa là ông nằm ông đặt niệm được tỉnh thức như Phật. Đó thì cái ông này ổng có trình bày lại cái chỗ này, 25 năm ông tu tập ông mới dứt được cái ngủ nghỉ. Nghĩa là ông nằm lại, cái thân thì ngủ mà cái tâm nó tỉnh thức ở trong cái niệm chớ không có còn ngủ nữa, mà 25 năm tu tập.

Mà suốt 55 năm ổng không có bao giờ ổng nằm, mà có 25 năm thì ổng mới dứt được cái ngủ nghỉ. Có lẽ là ông này chuyên môn là ngủ ngồi rồi. Ông Phật thì không có dạy ngủ ngồi mà ổng chuyên môn ngủ ngồi.

Không thở vô thở ra,

Chỗ như vậy trú tâm,

Chỗ này là ổng nói chỗ mà không có thở vô thở ra là cái chỗ ổng trú tâm. Như vậy là luôn lúc nào, chắc có lẽ là suốt cái thời gian 50 năm này không có nằm, là ổng đã nhập cái định Tứ Thiền, là chỗ cái hơi thở mà không có thở vô thở ra tức là hơi thở ngưng nghỉ, mà hơi thở ngưng nghỉ tức là nhập Tứ Thiền.

Cho nên ở đây ông nói Tứ Thiền, kiểu ông nói như vậy thì nếu một cái người mà không có biết thì chắc chắn là chưa biết ông này nhập Tứ Thiền. Mà ông suốt tối là bao giờ ổng cũng nhập vô Tứ Thiền, ổng nằm ông trú cái chỗ mà ổng không có thở vô thở ra.

Rõ ràng là cái trạng thái Tứ Thiền là chỗ không thở vô thở ra rồi. Như vậy là luôn luôn lúc nào 55 năm này hoàn toàn là đêm nào ổng cũng nhập vô đó hết. Sáng ra thì ổng đi chơi bình thường như người ta đi khất thực đồ như vậy, mà tối về ai ngủ thì ngủ ổng chẳng ngủ gì hết, ổng nhập vô Tứ Thiền, ổng ngồi chong ngóc đó suốt đêm. Rõ ràng như vậy.

Mà ổng nhắc lại, có 25 năm ổng phá được cái ngủ nghỉ của ổng, tức là ổng không có chiêm bao. Và từ suốt 55 năm nay ổng không bao giờ ổng nằm nữa, là lúc nào cho tới khi mà ổng chết là luôn lúc nào ổng cũng nhập Tứ Thiền.

Qua cái gương hạnh của ông này, khi mà ổng nhập được, ổng phá được cái ngủ nghỉ tức là phá chiêm bao ổng rồi, bắt đầu từ đó ổng đi vào Tứ Thiền, ở cái chỗ mà hơi thở không có thở vô thở ra nữa, thì ổng luôn luôn ổng nhập vào Tứ Thiền.

Và như vậy là suốt 55 năm ông luôn luôn là lúc nào ổng cũng nhập vào Tứ Thiền. Tối là ai ngồi tu gì tu chớ ông nhập vô Tứ Thiền, ổng ngồi chong ngóc đó thôi, cho nên ổng không có nằm.

Không tham dục, tịch tịnh,

Chỗ ấy mắt Niết Bàn.

Nghĩa là bây giờ cái tâm của ổng, ông nhập Tứ Thiền như vậy, rõ ràng là suốt đêm ổng ngồi ông nhập Tứ Thiền như vậy, hoàn toàn chỗ mà hơi thở không có thở vô thở ra. Và ông quán xét cái tâm của ông thì tham dục nó không còn có nữa, nó rất là tịch tịnh.

(01:03:29) Chỗ ấy là mắt Niết Bàn - chỗ đó là cái chỗ Niết Bàn rồi. Cho nên ông thấy rất rõ ràng. Đối với cái định thì ông đã nhập Tứ Thiền mà suốt 55 năm, nghĩa là ông không có nằm mà ông cứ ngồi nhập định Tứ Thiền như vậy.

Và cái chỗ tâm của ông thì ông thấy tham dục nó không còn nữa, cái lòng ham muốn nó đã sạch rồi, nó không còn có nữa, cho nên nó tịch tịnh, thì ông biết đó là cái chỗ Niết Bàn của ông rồi, cái chỗ mà ông trở về rồi, cái chỗ đó là không có bao giờ tái sanh luân hồi nữa được.

Qua cái bài kệ này, chúng ta thấy rất là rõ ràng và cụ thể.

Với tâm không dao động,

Sống cảm thọ cuối cùng,

Như ngọn lửa diệt tắt,

Tâm Ta được giải thoát.

Nghĩa là bây giờ đối với ông thì ông thấy rõ ràng, với cái tâm của ông không có bao giờ mà dao động với một cái đối tượng, cái pháp nào cả hết. Thậm chí như cái cảm thọ cuối cùng mà đến với ông thì cái tâm cũng chẳng dao động nữa, cho nên nó trở thành mát lạnh.

Như ngọn lửa diệt tắt rồi - như cái ngọn lửa đã tắt rồi, không có còn nữa. Cho nên: “Tâm ta được giải thoát” - ông thấy hoàn toàn là ông đã được giải thoát hoàn toàn, không còn có một cái chút gì mà không giải thoát nữa.

Nay chíng những pháp này,

Là những pháp cuối cùng,

Những cảm giác cuối cùng,

Của bậc Đại Mâu Ni,

Sẽ không còn pháp khác,

Bậc Chánh Giác nói vậy”.

Nghĩa là cái chỗ mà ông đã thấy, đã đạt được, đã cảm giác được như vậy đó, thì Đức Phật đã nói đây là cái pháp cuối cùng, không còn cái pháp nào khác hơn cái chỗ pháp này nữa.

Đó là cái chỗ mà của ông A Na Luật, sau những cái bài kệ mà ông đã nói lên cái chỗ tu hành của ổng mà Thầy thấy tuyệt vời.

Nghĩa là ông chẳng có bận tâm gì đối với chúng hết, cho nên vì vậy ban ngày đi khất thực đồ, lượm giẻ rách đống rác mặc chơi vậy thôi, chớ chẳng có cần ham muốn gì nữa hết. Tối thì nhập Tứ Thiền, ngồi cái chỗ mà không hơi thở ra hơi thở vô chơi vậy. Cho nên Thầy nói khỏe quá khỏe.

(01:05:25) Còn Thầy ở đây thì đâu có dám chơi kiểu đó, chơi kiểu đó thì ở ngoài các thất của mấy con nói chuyện rầm rầm làm sao đâu biết đâu, phải không? Đâu có yên ổn được. Rồi có người nào mà tu bậy tu bạ rồi điên khùng rồi làm sao? Cho nên không có dám. Còn ông này ổng đâu có chúng, có ông Phật kia mà, mọi Tỳ Kheo thì có ông này ổng lo chớ mình cứ ở trong Tứ Thiền này cho ngon thôi, không có còn lo.

Thầy mà được có quý thầy nào mà tu khá được mà lo cho chúng được, Thầy cũng nhập cái định như ông này chơi, cứ tối mình nhập Tứ Thiền, vô đó mình nằm đó mình ngủ khỏe thôi, an ổn nhất, sướng thôi.

Mà thân không đau, không bệnh. Bởi vì cái Tứ Thiền nó lạ lùng lắm, nó phục hồi cái cơ thể của mình dữ lắm. Cái thân của mình mà giữ cái sức tỉnh thức của mình để cho nó phục hồi lại, nhưng nó vẫn suy yếu, suy yếu. Còn ở trong đó, cái chỗ mà nó không thiện không ác, chỗ nó không nhân quả rồi, nó giữ cái thân của mình không có hoại diệt một cách rất là đau khổ qua cái nghiệp thọ mà vô thường nó thay đổi.

Nó thay đổi tức là nó cằn cỗi lần lần, nó làm cho chúng ta có những cái trạng thái của bệnh sau này. Còn trái lại mà khi nhập Tứ Thiền thì cái tế bào trong thân của mình nó không có cằn cỗi được.

Bởi vì ban ngày thì nó có sự thay đổi đó, bởi vì mình còn hoạt động là có sự thay đổi. Nhưng ban đêm vào Tứ Thiền nó không hoạt động nữa, cho nên vì vậy mà nó không thay đổi nữa.

Cho nên coi như là một ngày một đêm thì ban ngày nó hoạt động có một chút thôi, mà hoạt động với cái tâm nó không có lo lắng, không có bị phiền não gì hết, thì nó cũng không có rối loạn cơ thể nhiều. Mà ban đêm lại bắt đầu nó nghỉ, nó không hoạt động nữa, thì do cái định Tứ Thiền là nó không có hoạt động.

Cho nên cái cơ thể của ông này, Thầy nói thật sự nó khỏe, không bao giờ mà nói ông A Na Luật mà có bệnh đâu. Đến cái ngày mà ông chết rồi, khỏe re chớ không có khổ đau đâu. Đó là cái hạnh phúc nhất của cái người mà tu thiền định theo đạo Phật.

5- PHÁP HÀNH PHÁP NIỆM PHẬT - PHẦN 3

13)PHÁP THƯƠNG NIỆM PHẬT - PHẦN 2

(01:07:07) Bây giờ chúng ta tiếp tục.

Muốn chuyển biến cái lòng thương nhỏ hẹp này ta hãy trạch pháp dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Pháp thương là một pháp rất khổ cho loài người. Vậy ta phải chuyển biến pháp thương này rộng lớn như tâm từ bi của Tứ Vô Lượng Tâm.

Lòng thương yêu nhỏ hẹp…​

Cái pháp trạch đây.

Lòng thương yêu nhỏ hẹp khiến ta nhiều đau khổ, vậy từ đây ta phải thương yêu tất cả chúng sanh như cha mẹ, anh em, chị em ruột thịt của ta, như chồng vợ, con cái và con cháu.

Ta đối với những người thân cũng như những người không thân bình đẳng như nhau, không được xem người này hơn người kia, không được xem người kia kém người nọ. Phải luôn luôn xót thương chúng sanh như con ta vậy!”

Nghĩa là cái tâm nó phải thương yêu bình đẳng thì chúng ta không còn khổ nữa, mà thương yêu trong cái nhỏ mọn thì chúng ta sẽ có sự đau khổ.

Đó là cái pháp thương mà bắt nó niệm Phật, thì chúng ta phải thực hiện đúng như cái tâm Phật. Và đồng thời chúng ta hiểu biết nó qua những cái bài kệ của ông A Na Luật, ổng nói lên cái sự dứt bỏ của ông, để đoạn dứt cái lòng thương yêu, cho nên chúng ta cũng bắt chước qua những cái điều này.

Vì ban đêm mà chúng ta nằm mà chúng ta ngủ, khi tỉnh thức thì chúng ta - nếu một cái người mà đã đạt được định thì người ta nằm người ta tỉnh thức, người ta đặt niệm trước mặt.

Còn cái người mà người ta có định như ông A Na Luật thì ổng không có chơi kiểu đó nữa. Ổng vô Tứ Thiền ổng nằm trong đó thì chẳng có ai mà vô quấy rầy ổng nữa hết cho nên ổng chẳng thương nhớ ai nữa hết. Cuối cùng thì cái pháp thương nó không có xen vô đó được, cho nên ổng giải thoát hoàn toàn.

Vì vậy mà chúng ta cố gắng nỗ lực nhập cho được Tứ Thiền, làm như kiểu ông này thì cái pháp thương, pháp ghét, pháp hờn, pháp giận gì nó cũng không vô đó được hết, cho nên khỏi cần bắt nó niệm Phật mà chúng ta cũng giải thoát.

14) PHÁP GHÉT NIỆM PHẬT

(01:09:12) Bây giờ tới pháp ghét, thương rồi tới ghét.

14. Pháp ghét là pháp đối đãi với pháp thương. Thương thì cũng khổ mà ghét thì cũng khổ. Do thế, pháp ghét là pháp làm khổ người, làm khổ mình.

Người tu sĩ đạo Phật khi gặp pháp này, bắt nó niệm Phật liền. Pháp thương thì biến nó thành từ bi, mà pháp ghét thì bắt nó niệm Phật, biến nó thành pháp hỷ và pháp xả.

Quý thầy thấy rõ chưa? Nếu mà cái pháp thương thì chúng ta bắt nó trở thành cái tâm từ bi, nó thương rộng lớn ra, nó không có thương hẹp nữa. Còn gặp cái pháp ghét thì bắt nó niệm Phật, thì biến cái pháp ghét nó ra cái pháp hỷ và pháp xả. Bởi vì ghét thì chỉ có nước hỷ với xả nó mới hết, chớ còn ghét mà không hỷ không xả thì nó không hết.

Do đó chúng ta dùng Tứ Vô Lượng Tâm, cái thương thì chúng ta lấy hai cái pháp từ với bi, mà chúng ta chuyển hóa, còn ghét thì chúng ta lấy hai pháp cuối là hỷ và xả mà chuyển hóa nó.

Do thế không còn ghét nữa, mà lại hoan hỷ với người mình ghét, và xả hết tất cả những hành động độc ác của kẻ mà mình ghét. Vì xả hết thì không còn ghét họ nữa, do thế tâm ta được giải thoát, không thương cũng không ghét.

Muốn được vậy ta phải dùng pháp hướng, trạch pháp câu này Như Lý Tác Ý:

“Pháp ghét là một pháp cực ác khiến cho tâm ta đau khổ và người khác đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác.”

Cái ghét nó làm cho cái nhân quả nó di truyền từ cái kiếp này sang kiếp khác, mà cái ghét nó không có dứt hết, nó cứ liên tục đời này đến đời khác. Mà ngay bây giờ mà chúng ta không dứt thì nó sẽ nối tiếp trong cái nhân quả, nó đi mãi mãi.

Bởi vì sau này Thầy dạy về nhân quả Thầy sẽ nói về cái pháp thương và pháp ghét nó sẽ đi trên cái lộ trình mà nó không có chịu dứt.

Nếu mà cứ tiếp tục mãi cái thương thì nó tạo ra cái nhân quả, trong cái nhân quả nó có cái ác và cái thiện, và cái thương, cái ghét nó cứ nối tiếp nhau, và đời này nó tiếp tới cái đời khác chớ nó không bao giờ mà nó dứt ngang. Mà ngay từ bây giờ chúng ta biết dứt được cái thương thì ngay đó nó sẽ dứt, nó không còn nối tiếp nhau nữa, nó không còn nợ nần nhau nữa.

Cũng như cái pháp ghét vậy, nó cũng như vậy. Cho nên nó liên tục ở trong cái nhân quả để mà vay trả trả vay mãi trong cái đời này đến đời khác, kiếp này đến kiếp khác.

Khi mà giảng về cái nhân quả Thầy sẽ giảng lại cái pháp thương, pháp ghét này nhiều. Còn ở đây chúng ta bắt nó niệm Phật, tức là Tứ Bất Hoại Tịnh. Pháp niệm Phật thì chúng ta biến cho nó trở thành tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả, để nó trở thành những cái pháp cứu kính nơi tâm hồn của chúng ta.

Đó, như vậy là chúng ta phải biết cách bắt nó niệm Phật để nó chuyển biến, nó trở thành các pháp tốt, không phải là còn các pháp xấu nữa.

“Pháp ghét phải đi đi! Tâm ta luôn luôn phải đề cao cảnh giác, không được ghét ai hết, dù kẻ đó có giết chết ta, ta cũng không được ghét!”

6- KẾT LUẬN THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP NIỆM PHẬT

(01:12:24) Đến đây là chấm dứt Thân, Thọ, Tâm và Pháp niệm Phật.

Nghĩa là chúng ta đã học được một cái bài đầu là lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật. Cho nên cái bài thứ 14 là cái pháp ghét này để biến cho nó trở thành cái pháp hỷ và pháp xả, thì đó là bắt cái Pháp nó niệm Phật. Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật đến đây là chấm dứt rồi.

Và chấm dứt rồi thì chúng ta phải biết rằng còn biết bao nhiêu pháp để niệm Phật chớ không phải chỉ có 14 cái pháp mà Thầy kê ra. Thầy kê ra 14 cái pháp là tượng trưng cho vạn pháp ở trong thế gian này khi đến với tâm ta dù là pháp thiện dù là pháp ác thì chúng ta cũng vẫn bắt nó niệm Phật, chớ không phải chỉ có 14 pháp này không.

Do vì vậy mà chúng ta phải hiểu chớ không phải là, tượng trưng - nếu mà Thầy kê ra hàng trăm hàng vạn pháp, thì chỉ còn có cái nước mà…​ không bao giờ mà cùng tận này thì chúng ta ngồi nghe nó cũng thành nhảm đi. Cho nên chúng ta tượng trưng cho một số pháp.

Rồi từng đó các pháp mà đến với chúng ta là lôi đầu nó vô niệm Phật liền, không có được để nó ở ngoài, để chuyển biến nó trở thành những cái pháp thiện, những cái pháp làm cho con đường tu hành của chúng ta được giải thoát mà không có bị sự cản trở và cách biệt, làm cho con đường chúng ta tu tập chướng ngại, bất toại nguyện, chúng ta sẽ khó khăn ở trên bước đường tu tập.

Do đến đây, thì quý thầy lấy 14 cái pháp này là tượng trưng mà thôi. Cũng như tất cả những cái Thân, Thọ, Tâm của chúng ta niệm Phật, cũng tượng trưng cho một số để mà lấy đó mà niệm Phật, chớ không phải bấy nhiêu đó là đủ.

Cho nên tùy trường hợp xảy đến là chúng ta phải thấy ngay liền, sáng suốt phải nhận ngay liền, biết đó là Pháp, biết đó là Tâm, biết đó là Thọ, biết đó là Thân thì chúng ta bắt nó ngay liền, niệm Phật liền, để được sự giải thoát cứu cánh nơi thân tâm của chúng ta.

7- NIỆM PHÁP LÀ SỐNG NƯƠNG THEO LỜI PHẬT DẠY

(01:14:29) Bây giờ chúng ta tiếp tục và trau dồi Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta để niệm Pháp.

Bây giờ niệm Phật rồi, mình lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật rồi, thì bây giờ phải lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Pháp, rồi sau này chúng ta mới lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Tăng, rồi sau này chúng ta lại lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Giới.

Bắt đầu bây giờ chúng ta mới qua được một cái giai đoạn thứ nhất. Còn cái giai đoạn thứ hai là lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Pháp.

Vậy Pháp là gì?

Hồi nãy pháp ở đây mà chúng ta lấy các pháp là các cái đối tượng, các cái hoàn cảnh, các cái sự kiện xảy ra, đó là pháp. Còn Pháp ở đây là Tam Quy của chúng ta, là Phật, Pháp, Tăng, vậy thì cái Pháp để mà chúng ta ở đây niệm thì nó là cái pháp gì? Cái pháp gì đây?

Pháp là những lời Phật đã dạy.

Đó là cái lời của Phật dạy cho nên gọi là Pháp, cái giới luật của Phật đã dạy đó gọi là Pháp. Cho nên:

Pháp là những lời Phật đã dạy cho chúng ta tu tập, làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi.

Vậy tất cả Pháp đó là gì? Đó là 37 phẩm trợ đạo, tức là 37 pháp môn tu tập, đưa con người từ phàm phu đến bậc Thánh, chấm dứt đau khổ, sanh tử và luân hồi.

37 Phẩm này, 37 pháp này còn gọi là 37 giới hành. Vì có giới hành ta tu tập mới không phạm giới, nếu không có 37 giới hành này thì người tu sĩ đạo Phật hoàn toàn sẽ không giữ giới luật của Phật được.

(01:16:33) Nghĩa là không có 37 phẩm trợ đạo này mà làm cái giới hành thì cái người tu sĩ của đạo Phật mà kê ra một cái số giới luật như vậy đó, tức là từ 250 giới cho đến 348 giới, thì chắc chắn là không có một tu sĩ nào mà không phạm giới.

Nếu không có 37 pháp hành này, giới hành này thì chắc chắn là người nào cũng phạm giới hết, không có người nào là không phạm giới.

Và giới luật của Phật chỉ là một giáo điều như các tôn giáo khác.

Bởi vì nếu mà không có 37 phẩm trợ đạo này làm cái giới hành thì cái giới luật của Phật nó sẽ trở thành cái giáo điều như các tôn giáo khác.

Bởi vì cái giáo điều của các tôn giáo khác nó không có cái giới hành, cho nên nó đưa ra một cái kỷ luật, nó buộc người ta phải giữ gìn như vậy, để đạt, để sống được như vậy là mới có sự cứu cánh, mới có cái sự cảm hóa được các vị trời, mà có thể đến cái ngày mình chết họ sẽ rước mình về cái cõi trời.

Do những giáo điều đó là khép chặt cái người vào trong cái khuôn khổ đó thì mới được ông trời hoặc là được những đấng vạn năng mới cứu mình ra, đưa mình lên cái cõi hạnh phúc hơn là cõi thế gian này. Đó là những cái giáo điều là như vậy.

Còn ở đây thì Phật không có như vậy, không có phải là ai cứu mình mà chỉ có 37 cái giới hành này nó sẽ làm chúng ta sống đúng cái Phạm hạnh, không phạm một cái giới nào mà Phật đã nêu lên mà chúng ta đã thấy. Đó thì nó có khác hơn người ta.

Mà nếu không có 37 cái giới hành này thì cái giới luật của Phật nó sẽ trở thành cái pháp luật của một quốc gia, nó sẽ biến cái giới luật đó của đạo Phật trở thành một cái bản hiến chương của một nước, chớ không phải còn là cái pháp môn, giới luật để mà chúng ta thực hiện cái đời sống Phạm hạnh giải thoát.

(01:18:33) Cho nên cái giới luật của Phật mà nếu không có 37 cái giới hành này thì nó trở thành khô khan, cằn cỗi, và chúng ta không bao giờ có thể đi vào con đường của đạo Phật mà tu được.

Do thế mà ngày nay Phật giáo đã suy vi tận cùng. Phật giáo chỉ còn là hình thức và danh từ Phật giáo suông, còn nhìn vào thực sự bên trong thì nó nát bét, nó suy đồi tận gốc, người tu sĩ thì không còn biết lối tu hành để đến cứu cánh giải thoát. Thực là đáng đau buồn cho Phật giáo trong thời điểm này.

Rồi đây tiếp tục kế tiếp bao nhiêu thế hệ sai lầm khác, cứ người trước đi sai thì người sau cũng nhẩm theo sai, càng đi thì càng lại xuống dốc, không bao giờ đi lên được.

Nghĩa là chúng ta đã thấy từ khi mà các bậc Thánh Tăng trong thời của Đức Phật, khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt thì các Ngài đã thị tịch mất đi rồi, thì cái giới hạnh nó không còn cái người mà nêu lên được, thì sau này các vị tổ, các vị mà tu học theo đạo Phật thì họ lần lượt họ phá giới, họ sống không có đúng cái giới hạnh của Phật nữa.

Cho nên họ chế ra những cái loại giới mà làm cho lệch lạc, mất cái lối của đạo Phật đi. Rồi họ viết ra những kinh sách làm cho lệch, rồi cứ từ cái thế hệ này cho đến thế hệ kia, cứ thấy kinh sách đó, cho đó rằng của Phật, rồi họ cứ tu tập ở theo đó.

Nhưng cuối cùng thì nhìn vào tu sĩ hiện giờ mà chúng ta thấy trước mặt chúng ta đều là sống ở trong dục lạc của thế gian. Sống ở trong một cái nơi sống của họ toàn là cái đời thì chẳng ra đời mà đạo thì chẳng ra đạo, nó không ra cái gì hết.

(01:20:31) Cho nên nhìn thấy như vậy là chúng ta biết rằng cái giới luật của họ bị phạm, vì họ chưa có biết cái pháp hành để cho họ thực hiện cái giới luật. Do đó họ đi dần cái chỗ sai lệch này đến cái chỗ sai lệch khác. Từ cái chỗ họ đi, thì họ kéo theo một số người đi với họ, cho nên cái sai này đến cái sai khác, mãi mãi mà không cùng tận.

Rồi đây thế hệ này cho đến thế hệ sau, mà nếu còn người theo đạo Phật thì vẫn còn sai như vậy mãi, chớ không bao giờ hết.

Vì thế ngoài 37 phẩm trợ đạo, Đức Phật còn dạy…​

Chúng ta ngoài 37 phẩm trợ đạo này mà Đức Phật còn dạy chúng ta thêm nhiều pháp chớ không phải là có 37 phẩm trợ đạo này không.

Chúng ta thấy từ một pháp cho đến mười pháp, Thầy đã giảng cho quý thầy nghe rồi mà, từ một pháp cho đến mười pháp phải như thế nào? Rồi cần phải tu tập, cần phải trau dồi, cần phải tác chứng, cần phải biến tri, cần phải thắng pháp như thế nào? Mỗi pháp đều là phải làm như thế nào?

Rồi từ mười pháp cho đến trăm pháp Thầy chưa giảng. Thầy mới giảng cho quý thầy từ một đến mười phải không, rồi từ ba cho đến mười, rồi từ hai cho đến mười thì quý thầy mới có học tới đó. Thầy chưa giảng từ bốn cho đến mười, từ bốn pháp cho đến mười Thầy chưa giảng. Rồi từ mười cho đến trăm pháp Thầy cũng chưa giảng. Rất là nhiều pháp.

Ở đây muốn nói rằng lấy thân của chúng ta mà niệm Pháp, tức là tùy nơi cái pháp đó, thì chúng ta phải biết các pháp cho nó rõ ràng rồi chúng ta mới theo cái pháp đó mà cái thân nó sống theo cái pháp đó, đừng có làm trái lại cái pháp mà Phật đã dạy, thì tức là chúng ta sẽ có sự giải thoát thật sự ở trong thân tâm của chúng ta.

(01:22:18) Ngoài 37 phẩm trợ đạo, Đức Phật còn dạy từ một pháp đến mười pháp cần phải tu tập, cần phải trau dồi, từ mười pháp đến trăm pháp cần phải tu tập, cần phải trau dồi, và năm loại thiền định:

Đó thì quý thầy thấy không, nội những cái pháp đó nó như vậy rồi đó mà Đức Phật còn dạy cho chúng ta năm loại thiền định nữa, chớ đâu có phải nói 37 phẩm trợ đạo đó, từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền đó là xong đâu, đâu phải. Còn năm cái loại thiền định nữa.

Vậy thì năm loại thiền định như thế nào? Bởi vì Thầy tổng kê ra đây cho các thầy thấy cái số pháp của Phật dạy chúng ta rất nhiều chớ không phải ít. Cho nên đến chúng ta lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Pháp, phải hiểu các pháp nào mà Phật dạy.

Cho nên đây là các pháp Phật đây:

1. Định Niệm Hơi Thở

2. Định Vô Lậu

3. Định Chói Sáng

4. Định Chánh Niệm Tỉnh Thức

Tức là tỉnh giác đó.

5. Định Hiện Tại An Lạc Trú.

Đó là năm cái loại định. Rồi Đức Phật còn dạy gì nữa?

Dạy ta phòng hộ sáu căn.

Mà Phật còn gọi là Thánh phòng hộ sáu căn đó.

Dạy ta cách thức ăn, ngủ, nghỉ.

Nghĩa là Đức Phật dạy mình ăn uống như thế nào nè, rồi ngủ nghỉ như thế nào nè, đầu hôm ngủ làm sao, khuya thức nửa đêm như thế nào, rồi khuya phải dậy làm sao, Đức Phật dạy rất kỹ, đó là những pháp.

Rồi dạy thân ta hành niệm.

Gọi là Thân Hành Niệm đó, đọc lại cái bài Thân Hành Niệm chúng ta thấy Phật dạy rất kỹ từ ở trong cái hành động của cái thân của chúng ta như thế nào để mà tu.

Đó là những cái pháp mà chúng ta cần phải hiểu. Như vậy là Thầy kê ra ở đây, rồi sau này mà dạy về 37 phẩm trợ đạo này tức là 37 cái pháp hành này, cái giới hành này, thì tức là tới cái chỗ nào đó Thầy sẽ dạy cái chỗ đó rất kỹ ra để cho quý thầy thấy rằng khi chúng ta hành ra thì phải cái thân hành ở chỗ nào, cái đặc tướng của thân hành, rồi cái ý hành, cái khẩu hành, rồi cái khẩu hành nội, cái khẩu hành ngoại, rồi cái thân hành nội, thân hành ngoại của mình. Cho nên dạy ta rất kỹ là Thân Hành Niệm.

Rồi còn dạy ta đặt niệm trước mặt.

(01:24:21) Cách thức đặt niệm như thế nào?

Rồi còn dạy ta dùng tưởng quán bất tịnh.

Dùng cái pháp tưởng để mà quán. Tất cả những cái này Phật dạy rất đầy đủ ở trong kinh, không có chỗ nào thiếu.

Rồi còn dạy ta tịnh chỉ các hành ở trong thân.

Tịnh chỉ các hành ở trong thân để chúng ta thực hiện được Bốn Thiền và cái Diệt Thọ Tưởng Định. Nhập Sơ Thiền thì phải tịnh chỉ cái gì, Nhị Thiền tịnh chỉ cái gì, Tam Thiền tịnh chỉ cái gì, Tứ Thiền tịnh chỉ cái gì, Phật dạy rất kỹ, đó là những cái pháp.

Rồi dạy ta pháp hướng.

Để tu tập theo như cái lý mà tác ý ra, hướng như thế nào để dẫn tâm chúng ta vào đúng cái vị trí của cái pháp đó để mà chúng ta đạt được cái kết quả như cái ý muốn của mình. Đó là dạy chúng ta những cái pháp hướng.

Dạy ta dẫn tâm đến chỗ Tam Minh.

Còn cái pháp hướng dạy chúng ta như thế nào để mà chúng ta tác ý ra cho đúng, rồi dạy chúng ta dẫn tâm đến Tam Minh như thế nào, thì trong khi dạy về Tam Minh Thầy mới dạy về cách thức dẫn tâm, chớ không phải là ở trong định đó rồi chúng ta…​

Cái trạng thái của định đó nó như thế nào? Biết nó như thế nào đâu mà gọi là dẫn tâm? Cho nên do vì vậy mà phải có cái sự hướng dẫn cụ thể để cho chúng ta biết được, lúc bấy giờ chúng ta dẫn tâm đến Tam Minh như thế nào.

Rồi dạy ta dùng hơi thở tịnh chỉ ý hành nhập Diệt Thọ Tưởng Định.

Đức Phật lại còn dạy mình dùng cái hơi thở, thay vì bây giờ nhập Tứ Thiền hơi thở ngưng rồi, vậy mà ông còn bảo mình phải lấy cái hơi thở để rồi mình sẽ tịnh chỉ thọ và tưởng, tức là ý hành, để mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định.

Rồi dạy ta thiện xảo nhập định Vô Tướng.

Dạy cách thức chúng ta phải thiện xảo nhập vào cái Định Vô Tướng nữa. Thì những cái này làm sao là không phải là cái Pháp? Cho nên nêu ra tất cả những cái pháp này để chúng ta biết, sau này mà Thầy dạy cho các thầy biết cách thức mà chúng ta tu tập để mà chúng ta nhập vào các cái định Vô Tướng.

Dùng danh từ thiện xảo.

(01:26:17) Thiện xảo như thế nào? Có ai mà giải thích ra được! Chỉ có những người người ta có hành trì người ta mới biết được cái thiện xảo đó.

Dạy ta bất động trước các pháp, trước sức chịu đựng của toàn thân trong cái thọ.

Nghĩa là cái thọ chúng ta đến đỗi như thế nào đó, mà nó đau khổ đến như thế nào đó, mà cái sức chịu đựng của thân chúng ta đến cái mức cuối cùng của nó, để rồi dạy cho chúng ta phải giữ cái tâm bất động như thế nào, để rồi cái thọ nó không làm cho chúng ta đau khổ mà nó trở thành cái sự mát lạnh ở trong thân tâm của chúng ta.

Đó là Thầy nói là những cái bí quyết, là những cái hành pháp, những cái giới hành mà chúng ta không thể nào mà bỏ qua những cái điều này được, mà cần phải có cái sự hiểu biết rất rõ, biết hành rất cụ thể thì chúng ta mới thấy được cái sự làm chủ của đạo Phật cụ thể và rõ ràng.

Ở trên đây Thầy kể sơ lược các pháp mà Phật đã dạy để cho chúng ta thấu rõ, khi rõ thấu các pháp rồi thì dạy ta phải dùng pháp mà sống, mà trú, mà trau dồi hay là dứt bỏ. Phải làm đúng y như pháp, phải sống đúng y như pháp, phải trau dồi đúng y như pháp, phải tu tập y như pháp.

Đó là tất cả những cái mà các pháp nó đã nêu lên rồi, thì bắt đầu cái pháp nào bảo chúng ta vứt bỏ thì chúng ta vứt bỏ, cái pháp nào bảo chúng ta sống đúng thì chúng ta phải sống đúng, các pháp nào bảo chúng ta trau dồi thì chúng ta trau dồi, mà các pháp nào bảo chúng ta tu tập thì chúng ta tu tập.

Chớ không được pháp này tu lộn xộn qua pháp khác, không được! Pháp nào phải làm theo đúng các pháp đó thì như vậy là chúng ta sẽ có sự giải thoát, chớ không phải chung chung đâu.

Những điều làm đúng như vậy Phật gọi là tùy pháp…​

Tức là những cái điều mà chúng ta làm, sống đúng như các pháp mà Phật đã dạy ra đó, thì Đức Phật gọi tắt nó là tùy pháp.

…​hay là nương pháp.

Nghĩa là mình theo cái pháp đó gọi là tùy, mình sống đúng cái pháp đó gọi là tùy, mình nương mình dựa vào cái pháp đó để cho mình không có làm sai nó gọi là tùy pháp.

Khi hiểu biết như vậy đó là ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh.

Ta tu cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh đầu tiên, lấy các cái pháp đó mà chúng ta bắt nó niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

(01:28:44) Bây giờ đến giai đoạn lấy Thân niệm Pháp.

Lấy cái thân của chúng ta niệm Pháp. Bây giờ chúng ta đã hiểu các pháp rồi, thì bắt đầu chúng ta phải lấy cái thân của mình mà niệm pháp.

Vậy Thân niệm Pháp như thế nào?

Nghĩa là Pháp dạy về thân hành như thế nào thì ta phải tu tập đúng như thế nấy, thì gọi là lấy thân mà niệm Pháp, hay còn gọi là lấy thân mà tùy Pháp, cũng còn có nghĩa là lấy thân mà nương tựa Pháp.

Đó thì chúng ta phải hiểu, khi mà chúng ta lấy cái thân mà chúng ta niệm Pháp thì chúng ta phải hiểu nó là lấy thân tùy với cái Pháp, mà lấy thân sống với cái Pháp, nương tựa vào cái Pháp đó. Đó là chúng ta đã lấy cái thân mình niệm Pháp đó.

Như vậy là chúng ta mới thấy cái chỗ giải thoát, lấy cái thân của chúng ta mà niệm Pháp thì cái thân nó sống đúng y như Pháp, nó không có trật. Mà không có trật thì chúng ta có sự giải thoát hoàn toàn, đến thì ngay có liền.

Ví dụ Phật bảo xả đời sống thế gian vui ít, khổ nhiều, không phóng khoáng như hư không và bị biết bao nhiêu dây thương, ghét trói buộc. Còn đời sống xuất thế gian thì phóng khoáng như hư không, không bị trói buộc, đời sống thiểu dục tri túc, giải thoát Niết Bàn hoàn toàn.

Đức Phật nói bây giờ là Phật dạy phải buông xả, buông xả thì các pháp đó mình buông xả như thế nào? Thì Phật phân biệt cho chúng ta thấy cái đời sống thế gian thì nó trói buộc, nó nhiều sự khổ đau, còn cái đời sống xuất thế gian thì nó phóng khoáng như hư không, nó không còn bị trói buộc. Chỉ có sống tri túc thiểu dục là chúng ta đã thấy được Niết bàn ngay liền.

Đó cái lời nói như vậy, mà bây giờ chúng ta bỏ được gia đình, vợ con, bỏ được của cải, tài sản lớn tài sản nhỏ, bỏ hết, chúng ta đi vào một cái lối gọi là đời sống xuất thế gian, thì như vậy đó gọi là xả.

Cái pháp bảo xả mà chúng ta không chịu xả mà chúng ta cứ sống với vợ, với con, với cha, với mẹ, với anh em, thì ông Phật bảo xả mà mình không xả thì thôi cái chuyện đó rồi rồi, bây giờ có muốn tu Phật thì chẳng qua là cứ lạy Phật cho sói cái đầu đó thôi, rụng hết tóc chớ còn chẳng có rụng cái tâm chút nào đâu.

(01:30:58) Cho nên tóc thì rụng hết, lạy tối ngày thì nó rụng đó, nó bạc đầu đó, nhưng mà cái tâm giải thoát thì nó không có bạc đâu, mà nó không có rụng đâu, nó vẫn còn đó.

Mà nếu Phật bảo, Phật dạy cái pháp là phải xả, thì bây giờ chúng ta xả là chúng ta bỏ nó ra đi, chúng ta đừng có chấp nó nữa, đừng có dính nó nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta trở về một cái đời sống xuất thế. Mà đời sống xuất thế thì phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc, không còn cái gì mà trói buộc chúng ta nữa.

Do đó thì phải biết, không có nghĩa là bây giờ chúng ta nghe nói vậy rồi về nạt nộ vợ con: “Mày là tội báo, nhà này là oan gia nè. Tụi bây là báo tao nè, cho nên tao bị sanh tử luân hồi hoài hoài!” Chửi vợ chửi con cho đã, kiểu đó không phải đâu.

Ông Phật nói mình sắp xếp như thế nào để cho cái cuộc sống của mình, bởi vì cái nhân quả của mình mà mình về đó mình chửi vợ chửi con: “Tại tụi bây mà báo tao trôi lăn trong sanh tử!” Đâu phải vậy.

Nếu mà hồi đó mình không có tâm ham muốn thì làm sao mình cưới vợ, rồi làm sao đẻ con? Mình không có tâm ham muốn làm giàu làm có làm sao bây giờ có nhà có cửa, mà bây giờ nói nó là tội báo, oan gia? Tại mình hết chớ sao lại đổ thừa người ta? Cho nên cái đó cũng là cái sai.

Cho nên ở đây về mình phải suy nghĩ nhân quả nghiệp báo phải trả, phải làm sao mà giải quyết cái đời sống của mình cho ổn thỏa, cho nó yên ổn, rồi vợ con nó cũng được an vui và đồng thời cũng hướng dẫn cho nó hướng về cái đạo pháp để cho nó được thoát ra khỏi cái thân phận làm con người nhiều đau khổ, nhiều trói buộc, mỗi lần một chút chút, cả vợ con đều hướng về đạo Phật giải thoát toàn bộ.

Trong lúc đó mình là bổn phận cái người cha ở trong gia đình thì làm sao cho vợ con, con cái của mình đều là hướng đến Phật pháp. Đừng có để cho nó trôi lăn ở trong những cái dục lạc của thế gian mà nó sanh ra cái đau khổ vô cùng vô tận.

Đó gọi là mình giải quyết cho gia đình của mình, chớ không phải về đó mình điểm mặt vợ, điểm mặt con, mình nói là tội báo oan gia đó thì cái điều đó Phật không có dạy đâu, mà chính chúng ta phải về độ hết cả gia đình của mình đi theo con đường tu hành.

Rồi mình ráng mình nỗ lực để cho mình tu tập, mình làm gương tốt, mình làm cái gương hạnh tốt để mình độ cho vợ, cho con, cho tất cả mọi người và những bà con thân thuộc anh em của mình đều hướng về Phật pháp tu giải thoát.

Muốn được như vậy thì theo Thầy nghĩ rằng chúng ta phải sáng suốt và cẩn thận. Đó là chúng ta tùy theo cái pháp buông xả mà Phật đã dạy cho nên chúng ta còn một cái đời sống xuất gia mà thôi./.

HẾT BĂNG

56 - KIÊN TRÌ SỐNG PHẠM HẠNH - ĐỊNH HIỆN TẠI AN LẠC TRÚ

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 56 - KIÊN TRÌ SỐNG PHẠM HẠNH - ĐỊNH HIỆN TẠI AN LẠC TRÚ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- NGÀI BHADDIYA KIÊN TRÌ SỐNG PHẠM HẠNH

(00:00) Ngài Bhaddiya, Ngài theo Phật tu hành chứng quả A La Hán. Mỗi khi Ngài hưởng lạc giải thoát, lạc Niết Bàn trong lúc ở trong rừng hoặc ở dưới gốc cây, Ngài thốt lên lời nói: “Ôi hạnh phúc làm sao! Ôi hạnh phúc làm sao!”

Nghĩa là luôn luôn khi mà Ngài nghĩ đến trong cái lúc mà Ngài làm vua, Ngài đang cai trị trong một cái nước thì Ngài thấy sao mà nó khổ sở quá. Còn từ ngày mà tu theo Phật rồi, Ngài sống ở trong rừng, ngồi dưới gốc cây mà Ngài thấy sao mà nó ly tất cả những cái dục này, nó đem lại một cái hạnh phúc vô cùng tuyệt vời. Cho nên Ngài thường thốt lên những cái lời nói đó.

Do đó Đức Phật đi kinh hành ngang qua, nghe Ngài thốt ra lời nói thì Đức Phật hỏi Ngài:

- Tại sao Ngài lại thốt lên lời nói như vậy?

Thì Ngài trả lời:

- Thưa Thế Tôn! Nếu con có trị vì quốc độ, làm được, dù được bảo vệ chặt chẽ của hàng ngàn quân lính, con vẫn thấy sợ hãi và hốt hoảng.

Nghĩa là bây giờ con là một vị vua đi, con trị vì ở trong cái nước đó đi, được quân lính, được các tướng sĩ bảo vệ, che chở con, nhưng con vẫn thấy con sợ hãi, hốt hoảng à! Nó không có yên như bây giờ, như thế này đâu.

Nhưng nay con đã bỏ hết tất cả rồi cho nên con ở trong cái trạng thái sợ hãi này không còn nữa, cho nên con thấy tuyệt vời, không có thể nào mà được như vậy.

Dù là con ăn mặc sang cả, ngồi ở trên ngai vàng, sung sướng, đầy đủ, có người hầu kẻ hạ nhưng tâm con luôn luôn lo sợ à! Nó không bao giờ mà hết cái sợ hãi đó, luôn luôn lúc nào nó cũng nơm nớp, lo lắng cái điều này, lo lắng điều kia.

Bây giờ thì các con thấy, các con là những người cư sĩ đi, thì các con thấy bây giờ ngồi đây mà các con phải nghĩ: “Bây giờ làm sao cho có cơm ăn, áo mặc cho vợ con?” Thì tức là cái tâm mình có giải thoát được không?

Còn cái ông này ổng đi tu rồi, bắt đầu ổng ngồi ổng không có lo đói lo no gì hết. Trời, hạnh phúc quá trời vầy! Ly dục thiệt là sung sướng thật chớ! Rõ ràng là: “Ôi hạnh phúc làm sao!” Trời ơi chỉ có cái người tu mới được vầy thôi, chớ còn cái người thế gian làm sao được, hễ hở chút nào cũng phải lo lắng ở trong đầu hết à.

Thế mà mấy ông thầy chùa đi tu rồi, các thầy nghĩ sao không? Đây, bây giờ các thầy mới nghĩ nào cất chùa này chùa kia, cái đầu của quý thầy cũng tùm lum ở trong đó hết.

Còn cái ông này, ổng có nghĩ cất cái chòi không? Ổng không có nghĩ cất cái chòi nữa, ổng ngồi dưới gốc cây chớ ông đâu có nghĩ cất cái chòi. Ổng ở trong rừng nè, ổng ngồi dưới gốc cây ở trong cái rừng nè, rồi ổng ngồi: “Ôi, hạnh phúc thay!” Rồi ổng nói “Ôi, hạnh phúc làm sao!”

Thì rõ ràng, còn mình mắc cái chùa, mình đâu có “Ôi hạnh phúc” được. Bởi vì cái chùa bữa nay thấy nó chỗ này còn xấu phải lo làm, không có tiền thì kêu Phật tử phải đóng góp. Trời ơi, cái kiểu này nó còn hơn ở ngoài thế gian nữa!

Rồi bữa nay có cái đám ma nào đó đến nhờ thầy đi đến cầu siêu giùm, viết sớ viết điệp. Trời ơi, ông lo cái chuyện này hoài, chắc kiểu này là mình độ đám ma riết chắc chắn là không biết ai có độ mình được không?

Cho nên tất cả những cái này, điều kiện từ cái chỗ nhìn cuộc đời thế gian của các con, vợ con, nhà cửa, của cải, tài sản trói buộc.

(03:06) Cái chỗ này là cái ông vua nè, ổng tu hành nè, mà ổng thấy được cái chỗ buông xả cái ngai vàng, của báu ổng rồi, vợ, bao nhiêu cung phi mỹ nữ của ông buông hết rồi, bây giờ ổng thấy hạnh phúc quá chừng rồi.

Còn mình ngu si thiệt, mình không phải vua nè, mà mình cứ ngồi đó, mình cứ đi lo con lo vợ thì chắc chắn là có hạnh phúc không?

Rồi bây giờ mình là ông thầy chùa mà cứ ngồi đó mà lo viết sớ viết điệp để cầu an cầu siêu, làm tuần làm tự cho thiên hạ hoài, chắc chắn là mình làm tôi tớ, làm đầy tớ cho ba cái người cư sĩ.

Họ đến chùa mình nườm nượp, họ bỏ ra họ xây cái chùa này hay làm cái thất kia cho mình đẹp một chút ở, họ sai mình thôi tứ sự. Ông thầy chùa gì mà bị người ta sai còn hơn là cái đầy tớ nữa, ở đó mà làm ông thầy chùa! Có sung sướng gì không? Đó các thầy cứ nghĩ cái bổn phận của mình coi có sung sướng không?

Thế mà bây giờ cứ hở hở ra chút gì, cũng như Thầy bây giờ ngồi đây thuyết pháp, lát nữa có Phật tử họ đến lại phải ra tiếp họ. Họ bỏ ra có năm đồng hay mười đồng, hay trăm hay triệu bạc, họ bắt mình nói thôi gần khan cổ họng mình, về họ có tu thứ gì không? Bán họ mà họ có tu không? Làm những cái chuyện mất công.

Cho nên Thầy mới nói ẩn bóng là khỏe, đâu có ai lại cầu Thầy được, cho nên Thầy giải thoát hoàn toàn. Đem pháp dạy thiên hạ mà thiên hạ không có tu. Thầy nói cho mỏi họng, mấy con cứ nói chuyện không, Thầy còn mệt Thầy nữa. Phải không?

Cho nên phải chi mấy con nỗ lực tu hành, giữ gìn giới luật nghiêm túc, Thầy còn ráng rống cái họng lên mà Thầy gọi là sư tử, gọi là rống tiếng sư tử lên, gầm lên cho mấy con nghe. Đằng này gầm riết thiếu điều Thầy muốn đứt hơi, mà rồi thì ai chẳng ra nấy hết!

Thôi gầm làm chi nữa. Thôi, rốt cuộc thôi để mình làm cái thằng câm cho rồi, cho khỏe hơn. Cho nên ẩn bóng là câm mất rồi. Phải không? Không có còn nói được.

Cho nên cứu mình mà mình thấy cứu thiên hạ cứu không nổi rồi. Sao mà họ nặng như cái gánh đá vậy, gánh không có nổi họ. Cho nên thôi mình đừng có gánh nữa, bỏ xuống đi, để cho họ ra sao đó ra, chìm xuống đáy nước cho họ ráng chịu, thấy ớn. Phải không các con?

Còn xách các con, xách lên, xách hoài xách không nổi. Cho nên tự các con mà muốn lên thì thời may Thầy đứng ở trên Thầy nói: À, thằng này nó muốn trồi lên, thôi mình lôi nó lên. Còn cái thằng này nó muốn chìm mình nhận nó xuống luôn dưới cho rồi cho nó khỏe, chớ mình cứ nói hoài mệt quá. Phải không?

Đời tu hành là vậy đó. Hễ người nào muốn chìm mình nhận xuống luôn, dưới địa ngục luôn cho nó ớn. Còn cái thằng nào muốn trồi lên thì mình thấy: À thằng này muốn sống đây, lôi nó trèo lên, nó đưa cái tay thì mình nắm, kéo. Còn về cái bác hà tiện có hai xu mà bác không có chịu bỏ ra, bác chỉ nói: “Thôi, thà chết thôi!” Thì kệ nó, cho nó chết luôn đi. Tức là cái người hà tiện thì cho chết luôn.

Cho nên ở đây Thầy cũng như vậy. Cho nên Thầy thấy cuối cùng qua cái thời gian mệt mỏi quá rồi, thôi thì mình tìm cái cách mình ẩn bóng đi, chờ coi có cái người nào mà đưa tay lên thì mình nắm mình lôi, mà cái người nào không chịu đưa tay lên…​

Cũng như bây giờ Thầy là cái người ngồi ở trên bờ rồi, phải không? Cái hồ nước này, cái bờ này, bao nhiêu mấy con thì đang hụp lặn dưới đó, mà thằng nào muốn sống thì lôi lên, mà thằng nào muốn chết thì để cho nó chết ở dưới luôn. Chớ bây giờ cứ lôi lên mà nó không có chịu lôi mà nó trì Thầy. Các con thấy Thầy khan cổ nè, là nó trì Thầy xuống đó, phải không?

(06:02) Cho nên Thầy không có dại gì để cho nó trì nữa đâu. Trong mấy ngày nay ráng mà chịu đựng để mà gồng cái lưng lên mà lôi nó lên, coi có lôi được đứa nào không. Mà nếu không được là thôi, thả nó xuống luôn ở dưới cho rồi.

Đó thì, cho nên khi mà Ngài thấy được cái chỗ giải thoát như vậy, do đó Ngài mới rất là hạnh phúc, cho nên Ngài mới có cái bài kệ như thế này.

Thật sự qua những gương hạnh này, chúng ta đều học đến đây, thì chúng ta học Phật, Pháp, Tăng mà, chúng ta phải nương các cái hạnh của các bậc Thánh Tăng nhiều lắm, và những cái hạnh rất là để chúng ta noi gương mà chúng ta tu hành.

Xưa ta ngồi cổ voi,

Nghĩa là cưỡi voi đi đánh giặc đó.

May mặc đồ cẩm bào,

Nghĩa là ăn mặc đồ cẩm bào đó.

Ăn gạo thật thơm ngon,

Với món ăn khéo nấu,

Được bảo vệ chặt chẽ,

Tâm vẫn thấy sợ hãi,

Tâm luôn luôn bất an.

Nghĩa là lúc bấy giờ ổng ví dụ, ổng đi ra thì ngồi ở trên cổ con voi, ai thấy cũng kinh khủng, mặc thì áo cẩm bào, ăn thì gạo thơm thật thơm, với cái món ăn thì khéo nấu, quân lính thì bảo vệ chặt chẽ, nhưng tâm ngồi trên cổ voi chớ sợ lắm, sợ con voi nó hất xuống cái cũng nát xương.

Cho nên ổng cũng quá sợ. Tuy rằng làm oai ngồi chớ cũng run. Tâm luôn luôn bất an, không có an ổn. Rồi bây giờ ông theo đạo Phật.

Nay theo Phật tu hành,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp thủ,

Là con của Đức Phật.

Đó, nay ổng theo Phật ổng tu hành rồi, bây giờ ăn đồ ăn không có được nấu khéo như hồi trước nữa, ai muốn cho gì đó cho, cho nên “vui đồ ăn đặt bát”, người ta đặt trong cái bát mình cái gì mình ăn cái nấy, chớ không có thấy mình buồn nữa.

Thiền tư, không chấp thủ.

Ở đây chữ “thiền tư” chúng ta phải hiểu được là cái Định Vô Lậu đó quý thầy. Bởi vì “tư” đây là tư duy, suy tư, nghĩ tưởng, quán xét, cho nên luôn lúc nào ông không có dính mắc vào cái đối tượng nào hết, cho nên ông xả được cái tâm của mình, trở thành cái tâm vô lậu đó. Cho nên:

Thiền tư, không chấp thủ

Là con của Đức Phật.

Nghĩa là, ở đây Thầy muốn nhắc lại cái bài kệ này quý thầy phải nhớ, cái đầu tiên của chúng ta theo đạo Phật là chúng ta phải xả cái tâm của mình, phải ly dục ly ác pháp đó, là phải toàn triệt sống đúng những cái giới hạnh của Phật, không được vi phạm cái giới hạnh của Phật.

Cho nên luôn luôn chúng ta phải có một sự quán xét. Quán xét để mà chúng ta thấy được cái chỗ giới hạnh của Phật làm chúng ta không có bị khắc khổ, không có bị khó khăn, không có bị khổ sở.

Tại sao vậy? Bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa mà chúng ta không chịu suy tư: Nó giải thoát hay không giải thoát? Coi chừng chúng ta sẽ thấy nó là ăn một bữa rất khổ đó.

Chớ còn chúng ta mà suy tư về thực phẩm bất tịnh, về thực phẩm như thế này thế khác, rồi chúng ta suy tư về cái ăn trong một buổi như vậy: Chiều chúng ta thấy cũng quen rồi, sáng chúng ta thấy cũng quen rồi, không còn mệt nhọc, không còn đói khổ nữa, thật sự là mình có giải thoát rồi, thật sự mình có hạnh phúc rồi, thì như vậy là mình không dính mắc ở trong cái ăn rồi.

Rồi tất cả những các pháp khác nữa, do cái sự suy tư, thiền tư này, nó giúp cho chúng ta xả được toàn bộ cái tâm của chúng ta, tức là vô lậu đó.

(09:28) Đó hôm nay Thầy nói như vậy đủ biết qua cái bài kệ này, bước đầu vào đạo Phật thì chúng ta vui nhận cái đồ ăn mà của cái người khác cho rồi, “đặt bát” rồi. Đó.

Áo lượm rác, kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Nghĩa là bây giờ mà vào theo Đức Phật rồi thì bắt đầu chúng ta nhận cái đồ ăn, cái đồ ăn thiệt là như cái đồ bỏ. Nếu ông vua mà đi ăn cái đồ ăn của họ cho như vậy kể như là cái đồ bỏ rồi, ăn uống không có được đâu. Thế mà ông chấp nhận rồi đó.

Thì bắt đầu bây giờ, thay vì ông là nhà vua thì tức là ông đi là ở triều vua phải may y áo ông là phải sang đẹp, phải đồ chắc, tốt rồi, nhưng đằng này không, ông lại đi lượm ở ngoài đống rác những cái…​

“Kiên trì lượm” nghĩa là bữa nay lượm nó chưa đủ cái y đâu, mà mai mốt đi lượm cái đống rác của thành phố Hồ Chí Minh đó, trời ơi nó nhiều lắm, nào là vải chùi đít con họ nè, nào là vải quần áo rách rưới của vợ con họ mặc nó rách nát rồi, nó quăng ra cái đống rác.

Thầy nói khi mà đến cái đống rác của thành phố Hồ Chí Minh nó đủ thứ vải hết à, nghĩa là vải đen có, vải trắng có, vải vàng có, vải bông, vải màu đủ loại nó đổ, mà nó dơ bẩn kinh khủng lắm, thấy cái đống rác là nó hôi thối không tưởng kể nổi nữa.

Thế mà ông ta phải kiên trì lắm, đi lượm từng chút từng chút để kết lại thành một cái áo để mình mặc. Là một nhà vua đó mà bây giờ đi tu rồi, mà phải chấp nhận đi lượm từng cái vải rách ở đống rác để mà làm cái áo của mình, chớ chưa có cái áo mặc mà tốt lành đâu.

Rồi hằng ngày thì:

Vui với đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước

Mỗi lần đi lượm rác mà kiên trì như vậy đó thì nó có những cái tâm tư nổi lên, nổi lên nhớ lại trong lúc giàu sang của mình trên đầu vua nó đâu có thiếu vải mặc, đâu có thiếu áo như thế này! Tốt hơn thôi mình chỉ cần viết cái bức thơ về cho gia đình hay cho quan quân hay là nó đem y áo của mình đầy đủ, chớ có gì mà phải đi lượm về quá cực.

Nhưng ông kiên trì. Ở đây chúng ta nghe cái bài kệ nói: “Áo lượm rác, kiên trì” - muốn có cái áo mặc, cái y như thế này, kiên trì lượm từng chút từng chút để kết lại.

Đó, thì như vậy là phải có sự suy tư để mà phá cái chấp đó chớ không khéo chúng ta thấy cực khổ quá, không kiên trì, thì chúng ta chỉ cần viết bức thơ gởi về là y áo chúng ta đầy đủ, đâu phải cực khổ như vậy.

Chúng ta cũng vậy, nếu mà điều kiện áo quần chúng ta mà hơi có bộ rách rưới rồi đó, bắt đầu để gởi về Hà Nội hay gởi đâu đó, xin Phật tử cúng dường cho một mớ đi, cho mặc cho đã đi, chớ ở đây đi lượm cái này thôi thôi quá cực! Đó là chúng ta thiếu kiên trì ở chỗ tu tập của chúng ta. Mà thiếu thiền tư, vì vậy mà chúng ta bị chấp trước.

(12:11) Thường khất thực, kiên trì.

Tại sao mà đi khất thực kiên trì? Thầy nói cái sự khất thực để cho quý thầy biết. Thầy có khất thực Thầy biết.

Có khi đi vô xóm, con nít với người lớn họ xua chó cắn mình, nó không có cho mà nó xua chó nó dí mình. Trời ơi, nhiều khi nó không có cho, đi suốt cả buổi vầy không có cho gì hết, nó buồn bực lắm, nó đói mà nó lại buồn bực, thấy nó bất mãn lắm! Nếu thật sự mà không kiên trì thì khó mà thực hành cái pháp.

Còn có bữa thì họ cho nhiều mình vui lắm, nhưng mà vui nó cũng trật! Bởi vì Thầy nói, khi mà ở thành phố mà Thầy đi khất thực, họ đưa đồ về chùa Giác Ngộ, kéo bằng xe lôi, Thầy có nói rồi, phải không các con? Thế mà lúc bấy giờ nó hăng lắm, nó muốn đi khất thực lắm. Nhưng khi mà đi khất thực người ta không cho mà xách về cái bát không, hết muốn đi nữa rồi, từ đó nó thối chí ghê gớm lắm.

Cho nên ở đây ông này nói là Thầy có cái tâm trạng đó, Thầy hiểu được cái tâm trạng của ông ta. Cho nên ông nói:

Thường khất thực, kiên trì.

Khất thực kiên trì là gì? Khi người ta cho nhiều thì mừng đó, tham đi lắm, mà khi người ta không cho rồi lúc bấy giờ mình mới biết là hết muốn đi khất thực rồi. Nhất là mình có cái chùa, có cơm gạo ăn rồi thì không có còn muốn đi khất thực chút nào hết. Thôi ở chùa nấu ăn khỏe hơn, đi sao mà nó cực khổ quá!

Mà nhiều khi họ lại nói nặng nói nhẹ mình nữa. Thậm chí các con thấy như ông Phật ổng đi khất thực về, mang bình bát không về, cái ông nông dân ổng dòm vô bình bát: “Trời ơi, ông không cày ruộng như tui để sống, ông đi về chẳng đói!”

Phải không? Nói cái câu nói đó thiệt là mình thấy hết muốn đi khất thực, rụng rời rồi. Không lẽ mình tay chân như vầy mà đi xin người ta không cho, rồi về người ta còn cười mình nữa.

Nhiều cái cách thức họ chửi mắng mình lắm. Đi khất thực họ nói: “Mấy thằng trọc làm biếng, không về làm ăn, xách bát chừng này cứ ra ra xin xin, ai nấu cơm cho mấy ông? Đi đi, đừng có ở đây!” Trời ơi nó nhục nhã ghê gớm lắm chớ. Thật sự mà, Thầy nói thật sự mà.

Còn một lúc Thầy đi xuống dưới Mỹ Luông Thầy ở, Thầy đi vô xóm khất thực, đi ở ngoài đường vầy. Đi thôi Thầy nói cả năm cây số, mười cây số vậy mà mới có một cái nhà họ đem họ cho mình một bát cơm, còn bao nhiêu nhà đi họ không thèm ngó tới. Có người đi ngang họ lại còn trề môi họ cười nữa, trời! Thấy mấy cái đó nó bất mãn lắm, nó không muốn đi khất thực chút nào hết!

Còn mình đi ra chợ, các con biết không? Đi ra chợ thì họ cho toàn là bánh mì không à. Họ nhét ba cái bánh mì, ăn cái thứ gì được? Rồi có khi họ mua xôi họ nhét ở trỏng, nó không có gạo, cơm, thành ra bữa vầy bữa khác, nó đủ cách hết.

Cho nên đừng có nghĩ rằng khất thực là ngon lành lắm đâu, nó phải có tổ chức như thế nào. Thiệt ra thì người ta thấy một vị mới vào tu mà đi khất thực họ ít có cúng dường lắm. Như Đức Phật kia mà người ta còn không cúng dường, huống hồ là mình tu sĩ mà chưa ai biết mặt.

Cho nên khó có thể mà đi xin lắm chớ không phải dễ đâu. Vì vậy mà Thầy thấy trong cuộc đời tu hành, nếu mà chấp nhận làm cái nghề đi xin để sống tu hành nó mới thực là diệt cái ngã của chúng ta.

Ông Phật mình mới thấy được cái tâm vô ngã của ổng thật sự, chớ còn cái uy danh và cái đức độ của ông Phật mà người ta…​ Cái bác nông dân cày ruộng mà ổng còn nói cái lời nói đó thì đủ thấy rằng nếu mà chúng ta mà có cái ngã một chút xíu thôi, chúng ta cũng thấy ghét cái ông này: “Ông chẳng ra gì hết! Cày ruộng mà cũng làm phách!”

(15:28) Phải không, các con hiểu. Cái lời nói mình ngay đó là cái ngã mình có liền, còn ông Phật thì không đâu.

Đó thì chúng ta thấy cái hạnh khất thực nó phải kiên trì lắm, chớ còn nếu mà không có kiên trì thì chúng ta khó mà có thể hành cái hạnh khất thực.

Và “vui đồ ăn đặt bát” nó không phải là chuyện dễ đâu. Thầy nói thật sự có khi họ cho cơm mà họ không cho muối. Thật sự họ đặt bát, cái đồ ăn đặt bát về ăn cơm mà ăn cơm lạt thì các con nghĩ sao?

Mà mình là một khất sĩ thì không có được cất muối, chớ đâu phải như mấy ông chế giới rồi còn (nói) Phật chế giới, bảo rằng những giới nhỏ bỏ, bây giờ phải thêm cái giới là cất muối để dành ăn. Đó là mấy cái ông sau này chế giới đặt điều ra. Không có được cất muối, cho nên người ta cho gì mình ăn nấy.

Vì vậy mà người ta cho cơm bây giờ không cho muối, rồi bây giờ mình làm sao bây giờ? Đem về thì cũng ăn cơm lạt chớ làm sao bây giờ. Mà thử hỏi quý thầy nghĩ rằng, nó không có muối thì mình ăn làm sao được? Nó rất khó.

Cho nên Thầy nói nếu mà gặp những trường hợp như vậy thì chỉ còn có nước lấy cái muỗng mà cạy cái họng mình ra rồi đổ cơm vô, lấy nước đổ vô, nó chảy ở trỏng rồi thôi, chớ nuốt nhai không có nuốt nổi đâu.

Khó lắm chớ không phải dễ, con người của mình coi vậy chớ nó khó lắm chớ không phải dễ. Chỉ có biết ăn sống là làm cách thức đó mà sống thôi chớ không còn cách nào hết. Còn không thì chế, cứ nuốt đại nuốt đại vô chớ chẳng còn biết ngon.

Bởi vì, thí dụ như chẳng hạn bây giờ bỏ cơm vô trong miệng rồi chế nước vô cái trộn trạo, trộn trạo cái nuốt, cũng như là mình nuốt thuốc vậy đó, y như vậy đó. Một lúc cái bắt đầu cái bụng mình nó no lên rồi thôi, là mình nghỉ ăn. Chớ còn không thì khó mà có thể vui với đồ ăn khất thực lắm. Nó khó lắm chớ không phải dễ.

Cái tâm của mình mà lúc bấy giờ Thầy chưa có phải là giải thoát, Thầy nói thiệt nó bỉ thử ở trong cái lòng, nó tức giận lắm. Không lẽ mình vầy mà không có ăn, đi xin mà cho bữa vầy bữa khác, thiếu điều muốn chết được, đâu có sống được!

Cho nên khi mà Thầy lên Hòn Sơn Thầy ở cũng vậy. Cho nên Thầy bực tức là trèo ở trên núi mà đi xuống núi, nó quá vất vả. Mang chừng năm ký gạo hay mười ký gạo mà lên trên đó, lên trên núi để dành mà nấu ăn, thì trong vòng một tuần lễ hay mười ngày thì nó hết sạch. Mà ăn nhín nhín đó, chớ chưa dám ăn nhiều, mà thế mà nó hết sạch rồi phải trèo xuống núi.

Mà mỗi lần trèo xuống núi mang lên nó nặng nề, nó cực gần chết chớ đâu phải sung sướng gì. Mà khoái ở trên núi chớ mới độc, ­ở dưới thì nó khỏe hơn, mà cái này muốn trèo lên núi chơi, ngồi trên đầu thiên hạ. Tức là mình muốn làm Phật đó. Cho nên do cái chỗ mà muốn làm Phật, cho nên phải cực dữ lắm chớ không phải sung sướng đâu.

Vì vậy mà Thầy nói mình muốn làm Phật thì mình phải ăn lá cây, cho nên do đó bắt đầu Thầy xuống ông chủ hòn Thầy xin lần lần, thì sau đó Thầy không thèm xin nữa, Thầy không thèm xuống nữa. Thầy ở trển Thầy tập Thầy ăn lá cây riết rồi Thầy ăn, Thầy trồng ba cái rau xà lách xoong, Thầy bỏ trồng theo cái mương vậy, Thầy lấy đó Thầy sống.

Riết Thầy sống được bằng rau, rồi bằng lá cây được rồi, Thầy chẳng cần xin ổng nữa, chẳng cần xin nước tương nữa. Mà cuối cùng Thầy cũng chẳng thèm xin thuốc rét thuốc gì nữa hết. Cuối cùng Thầy ở trển Thầy tu cho đã, Thầy không thèm xuống nữa.

(18:18) Ba bốn tháng sau Thầy xuống núi là Thầy đi về luôn chớ Thầy không cần ở trên đó nữa. Thầy biết rằng ăn lá rừng sống được rồi. Cho nên sau cái thời gian tập luyện thì mình thấy cái gì cái cơ thể của mình nó cũng phù hợp, nhưng mình làm nặng không được.

Do cái chỗ mà từng sống ở trên những cái khó khăn như vậy đó, Thầy mới biết được tâm niệm của mình đi khất thực, rồi biết được ăn đồ ăn mà khất thực như thế nào.

Thì cái ông này mà viết ra những cái bài kệ này Thầy đọc, sao nó có cái cảm tưởng giống như Thầy quá độ. Cho nên ổng thường nhắc ổng, từ cái kiên trì đi lượm từng cái áo rách, từng cái miếng vải, lượm để mà kiên trì mà kết lại, rồi từng cái đi khất thực, cũng kiên trì để mà khất thực, Thầy biết nó giống cái bụng mình quá.

Hồi đó thiệt ra mình bỏ dở đó. Cho nên Thầy đi khất thực thời gian sau Thầy bỏ, Thầy đâu có khất thực được. Thầy biết nếu mà Thầy kiên trì như ổng thì chắc chắn là Thầy thành Phật lâu rồi chớ đâu phải mới đây đâu. Nhưng mà Thầy không có kiên trì nổi, cho nên Thầy bỏ cái hạnh khất thực.

Mặc ba y, kiên trì

Ba cái y như thế này mà kiên trì thì quý thầy đâu có phải là chuyện dễ đâu, có bữa nó ở truồng như nhộng vậy.

Chẳng hạn như bây giờ Thầy mặc như thế này tới chiều mà Thầy giảng, mồ hôi mồ hám vậy đâu có mặc được nữa, thì có nước là chui ở trong hang, cái này đem đi giặt đi chớ gì. Còn không Thầy phải quấn lá cây Thầy đi chớ Thầy còn cái gì nữa Thầy mặc! Ba y chớ đâu còn cái gì khác hơn hết.

Đâu phải như mấy ông Đại Thừa còn ôm một đống vầy gọi là ba y của ổng! Còn cái này mình là nguyên thủy gốc của Phật rồi thì còn cái bát với ba cái này thôi, đâu có còn gì nữa. Cái y hạ là cái quần, mà cái y trung là cái áo này, còn cái y thượng là cái y choàng Thầy ở ngoài, đủ rồi.

Mà bây giờ bắt đầu Thầy thuyết giảng như thế này, hay hoặc là Thầy đi đây xuống thành phố mà đi bộ, thử hỏi ba cái đồ này nó có ướt không? Ướt đẫm hết rồi. Mà mặc nữa nó rít cũng như là cái con chuột, làm sao mà mặc cho được, phải không?

Cho nên bắt buộc Thầy phải bỏ cái bộ y này, mà bỏ cái bộ y này mà đi giặt thì chắc chắn là Thầy phải ở truồng rồi. Nghĩa là có nước chui trong hang chờ nó khô rồi mới mặc vô được thôi.

Cho nên nếu mà không kiên trì, chắc chắn chúng ta không sống được ba y đâu, thế nào cũng phải sắm thêm bộ nữa à. Phải không các con? Phải thấy cái điều này chớ!

Thật sự ra Thầy nói nếu mà không kiên trì…​ Ông này ông có cái sống đó rồi, ổng biết rồi, cho nên ổng viết cái bài kệ, Thầy cũng hiểu tâm trạng này lắm rồi.

Cho nên có lần Thầy nói không thế nào được, thế nào sau này Thầy cũng chế giới ra. Không có mặc ba y, mà có một cái y thượng và hai cái bộ đồ ngắn, tức là có hai cái y trung và hai cái y hạ, thì như vậy cái đời sống chúng ta mới được.

Chớ còn nếu mà không, cứ thế này thì chắc chắn là không có nổi rồi. Ông Phật ổng sống làm sao chớ còn sống kiểu mình chắc không thấu rồi. Thầy nghĩ như vậy mà. Đúng là Thầy có trình bày cái này với quý thầy một lần, cho nên Thầy nói Phật chế kiểu này sống không nổi rồi.

(21:05) Nhưng mà Thầy thấy thật sự, qua hai cái bài kệ ông này thiệt là đúng. Chúng ta phải kiên trì lắm, chúng ta phải sống có lúc như con nhộng, có lúc phải lấy lá cây mà quấn xung quanh mình để mà giữ kín thân của mình, thì lúc bấy giờ mới thay cái bộ đồ này đem giặt mới được.

Khó lắm chớ các thầy tưởng! Thiểu dục tri túc là một cái đời sống giải thoát của đạo Phật, không phải là cái người tầm thường mà có thể sống được. Rất khó.

Mặc ba y, kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Tại sao cứ mỗi lần cái vị này đọc lên hai cái câu như vậy thì phải có thiền tư theo đó? Các thầy thấy phải hiểu chớ. Khi chúng ta không quán xét, không có thông suốt được thì chúng ta bị chấp trước liền tức khắc, chúng ta phải bỏ dở những cái hạnh này liền tức khắc, không thể nào mà chúng ta sống được hết.

Cho nên qua cái bài kệ này Thầy thấy rất tuyệt vời. Đối với một người mà quyết tâm tu giải thoát thì không thể nào mà không học cái bài kệ của Ngài. Không có học những cái lòng kiên trì vĩ đại này thì không thể nào mà sống được cái đời sống Phạm hạnh của Đức Phật.

Đi từng nhà, kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

“Đi từng nhà kiên trì”, nghĩa là trên con đường đây, từ đây mình định đi chừng năm nhà, mười nhà là đủ ăn rồi mình về chớ gì? Không, họ không có bỏ đâu. Trời ơi, kiên trì phải đi hoài đi hoài, đi chừng nào mà có được cái bát cơm rồi mới quay về, chớ không khéo mà không kiên trì, cỡ mình đi chút thôi trở về cho rồi đi. Về tịnh xá đây bắt mấy bà Phật tử họ nấu cơm ăn sướng hơn, chớ cái kiểu này đi mỏi chân thấy mẹ!

Đó là nó thiếu kiên trì là mình không thể nào mà đi được từng nhà đâu, chớ không phải đi từng nhà mà dễ đâu. Cho nên nhiều khi mình đi ra một chút cái bị chúng xuỵt chó là cái thấy hết muốn đi rồi, muốn trở về. Không biết tới nữa không biết là họ có gài bẫy hay họ đập mình thấy bà luôn!

Nó nhiều cái suy tư ở trong đầu óc làm cho mình nó thiếu kiên trì. Đi khất thực là nó khó như vậy đó. Cho nên ở đây qua cái bài kệ này, Thầy thấy Ngài tu tập, Ngài có những cái sự kiên trì ở trong cái chỗ tu tập.

Cũng như bây giờ Thầy nói như thế này, đến đây thì Ngài nói:

Ăn một bữa, kiên trì,

Vui đồ ăn khất thực,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

“Ăn một bữa, kiên trì” - nếu quý vị về đây mà không có kỷ luật như ở đây thì quý vị sẽ không ăn uống được đâu. Rồi bắt đầu quý vị rời khỏi nơi đây, chưa chắc quý vị đã ăn một bữa như đây đâu. Tức là quý vị thiếu kiên trì chớ gì?

Về nhà quý vị: “Hồi ở trỏng đó ba tháng tui quất có một bữa, về đây thấy ba bữa tui khoái quá, nhảy lên tui ăn luôn ba bữa cho nó đã”, chắc chắn là quý vị sẽ bị rớt ngay từ khi mà quý vị rời khỏi đây, thì quý vị về cái ăn uống của quý vị sẽ thiếu kiên trì rồi, tức là quý vị sẽ bị cám dỗ ngay liền.

Mới về cái vợ ở nhà hay hoặc con cái mình: “Bữa nay ba về rồi, làm cái gì cho ngon ba ăn đi!” Phải không? Hay hoặc là: “Ổng mới về đó, làm một ly sữa đi cho ông uống cho khỏe. Ở trỏng chắc chắn là ổng ăn chay địa lắm chớ không phải không đâu!” Bắt đầu cám dỗ riết cái ổng rớt, không bao giờ mà có thể không dính được đâu.

(24:07) Cho nên Thầy nói thật sự, cái sự thật ăn một bữa mà đã được giải thoát rồi, về nhất định người ta nhét vô trong miệng mình thêm một chút là không ăn là không ăn. Một ly nước ngọt cũng không thèm uống nữa.

Tao đã ăn một bữa được rồi thì tao đã giải thoát được ba bữa kia rồi, thì tụi bây đừng có mong mà dụ dỗ tao nữa. Tụi bây là cái đám ma vương nè, đừng có bày đặt đồ ăn cho nó ngon để mà cám dỗ tao, tao không có thèm đâu. Đói chết bỏ, nhất định là ăn ngày một bữa là tao đã được giải thoát, tao thấy rõ rồi.

Do đó là cái sự kiên trì của mình dữ lắm mình về nhà mình mới giữ được. Chớ Thầy thấy hầu hết là quý thầy ở đây tu bắt buộc ăn một bữa, nhưng mà đi ra ngoài kia, vô trong kia có cái người Phật tử họ làm cái ly sữa như vầy: “Thầy uống ly sữa này cho khỏe!” Nốc liền, không có bao giờ mà khỏi uống.

Khoái lắm mà! Đi ra một chút là thấy kể như giới luật là phi thời liền tức khắc à, không có…​ Phạm cái này, phạm cái ăn uống rất là rõ ràng.

Cho nên trong những bài mà nói như vậy tức là trong cái sự ăn uống chúng ta kiên trì dữ lắm, đừng có phạm nó. Đến đó người ta nói này kia: “Thầy cứ chấp giới chấp luật hoài. Quý thầy người ta ai cũng vậy hết, còn thầy thì cứ vậy à! Thầy uống đi, có sao tui chịu cho!” Có ai mà chịu cho mình? Mình đọa địa ngục mình biết chớ ai chịu!

Nhưng mà họ nói cho qua đặng cho mình nuốt cho được, nhưng mà nuốt rồi sao? Họ cười chớ bộ họ khen mình lắm: “Ông thầy này ổng cũng khoái uống dữ lắm!” Thầy nói thật sự đó. Còn mình không uống: “Ông thầy này khó chớ coi bộ ổng người tu hành đàng hoàng đó!”

Phải không, các con thấy. Mình đúng đắn thì họ sẽ ca ngợi mình, mà mình theo cái kiểu mà họ cám dỗ mình thì mình sẽ bị họ chê mình, không có trật đâu.

Ăn trong bát, kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Bây giờ quý thầy ở đây, quý thầy người nào cũng có cái bát ăn hết, nhưng mà về nhà ăn cái bát khó quá, húp canh gì mà kê cái bát húp cũng khó cực! Tốt hơn làm cái chén vầy dễ ăn, đũa và đồ gắp dễ. Ăn như trong ở chùa đó khó ăn quá!

Đó, cho nên ở đây ông ta nói đúng đó. Ăn cái bát, mình phải xem thấy thật sự là phải kiên trì mới ăn được cái bát, chớ không phải là cái chuyện mà ăn ở trong cái bát là dễ đâu. Không phải dễ đâu. Gắp cái gì cũng bỏ trong bát rồi từ từ mình mới múc mình ăn, hoặc cái này cái kia, đó là một cái sự kiên trì của mình lắm.

Rồi mình thấy nó thoải mái, dễ chịu hơn là về cầm cái bát cơm, cái chén hay hoặc cái tô vầy, xới cơm vô cái múc ăn nó dễ, nó gọn, nó nhỏ, nó vừa cái miệng mình, ăn nó mau mà nó dễ nữa. Còn cái bát gì mà khó ăn quá, nó làm sao cho mình…​? Nhưng mà mình giữ gìn đúng cái hạnh của mình là ăn trong bát, kiên trì.

Đó, những cái lời dạy này Thầy thấy đều là có thấm thía lắm. Bây giờ các thầy thì ở đây ăn trong bát với Thầy, nhưng mà khi về rồi thì: “Lấy cái chén nhỏ vầy cho tui! Ở trỏng tui quất cái bát còn lớn hơn cái tô của mình ở nhà nữa, cho nên bây giờ thôi bỏ đi, cho tui cái chén nhỏ tui ăn cho nó gọn!”

Thật sự ra có nhiều người nói: Ăn cái bát là tại hồi xưa không có, còn bây giờ mình chén đũa thiếu gì, cứ lấy chén đũa mà ăn chớ làm gì. Sự thật ra nhiều cái vật dụng nó làm cho chúng ta bị chìm đắm ở trong đó.

Cho nên ở đây “thiền tư, không chấp trước”. Nếu mà chúng ta không quán xét rõ được cái điều này thì chúng ta dễ bị những cái vật chất đó lôi cuốn chúng ta trong cái ăn uống đó, trong cái vật chất ăn uống, từ cái bát cho đến cái chén, từ đôi đũa này kia, nó làm cho chúng ta dính mắc hết.

(27:22) Thậm chí như chúng ta là người muốn giải thoát chúng ta phải tập ngay từ ăn bốc nữa, không cần muỗng nữa. Bởi vì có cái bát không chúng ta cũng khỏi đi cái bát khua kêu rổn rẻng rổn rẻng, có cái muỗng ở trong nó khua chớ gì, phải không?

Còn bây giờ cái bát không thì nó không khua, cho nên hoàn toàn là không có bị dính mắc một cái vật gì hết, hai bàn tay chúng ta ăn chúng ta rửa sạch, lúc bấy giờ chúng ta chỉ bốc mà ăn chớ cũng khỏi cần gì.

Đâu phải là người Ấn Độ mới bốc, người Việt Nam cũng bốc được, nhưng mà người Việt Nam bốc để mà giải thoát chớ đâu phải bốc như người Ấn Độ. Còn nhiều người Ấn Độ bốc mà không giải thoát sao? Đâu có phải chuyện như vậy.

Cho nên ở đây chúng ta đừng có nghĩ rằng mình ăn bốc, mà đây là tìm cái đường lối giải thoát cho chúng ta, chúng ta có cái gì chúng ta sử dụng. Một con vật nó có sắm đũa, sắm bát, hay sắm muỗng không? Nó cũng vẫn ăn được như thường, có gì!

Trời sinh sao có gì mình sống mình bỏ hết để cho mình giải thoát hoàn toàn. Còn cái thân này mình còn bỏ, còn chấp cái gì nữa mà ở đây thêm bát, thêm đũa, thêm nĩa cho nó rườm rà, cho nó cực, làm quá kiểu vua chúa!

Cho nên muốn giải thoát là chúng ta phải bỏ xả hết để mà chúng ta trở về với sự giải thoát. Ăn uống chỉ tạm thời để mà nuôi cái con bệnh đói của thân chúng ta thôi, chớ đâu phải là một thứ vĩnh viễn, đâu phải là một cái thứ mà chúng ta chấp nó để mà chúng ta nuôi nó để mà vĩnh viễn!

Đó thì, quý thầy thấy cả một cái vấn đề phải kiên trì mới ăn được trong bát. Rồi bây giờ ông nói thêm cái gì đây:

Không ăn thêm, kiên trì

Nhiều khi chúng ta ăn rồi, nhưng mà thấy có người rội lên cái gì đó, nó ngon quá, thôi ráng ăn thêm.

Cho nên ở trong giới bổn có chế ra, muốn ăn thêm phải nhờ cái người chưa ăn họ ăn dùm cho một miếng, rồi bắt đầu mình ăn thêm được, không có phạm giới. Thiệt là mấy ông này muốn ăn thêm rồi chế tầm bậy ra đó. Đó là đọc lại kinh giới Thầy mắc tức cười. Cái chuyện đó là cái chuyện không có phải.

Cho nên khi mà mình muốn, thấy mình ăn thêm cái điều đó tức là còn cái tâm tham dục. Cho nên mình kiên trì, nhất định là không ăn thêm.

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Sống ở trong rừng, kiên trì,

Vui theo đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Sống trong rừng không phải đơn giản đâu. Cho nên Thầy có một thời gian mà Thầy ở trên Hòn Sơn, Thầy ở trong rừng, ở trong hang mà Thầy vẫn sống, đâu có phải là chuyện người nhát gan mà ở trên đó được. Người mà sợ hãi thì không ở trong rừng được đâu. Khó lắm chứ không phải dễ.

Nhưng mà trong rừng núi mới là chỗ lý tưởng cho sự tu hành của chúng ta, chớ không phải là ở cái đồng bằng như thế này mà lý tưởng cho chúng ta đâu.

Đó thì đến đây chúng ta nghỉ để mà ăn cơm, rồi tiếp tục buổi chiều Thầy sẽ giảng tiếp ở cho cái đoạn này.

(30:04) Bây giờ chúng ta tiếp tục giảng cái buổi sáng. Thầy tiếp tục Thầy giảng cho hết cái bài kệ.

Hồi sáng Thầy đã giảng sống ở trong rừng phải kiên trì, cho nên Thầy có thuật lại trong cái thời gian Thầy ở trên Hòn Sơn mà Thầy sống ở trong rừng một mình để tu tập. Thiệt ra thì nếu mà không kiên trì cũng không có sống nổi ở trong rừng.

Cho nên cái bài kệ đó thì nó đã qua rồi, bây giờ:

Ngồi gốc cây, kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Đây là cái bài kệ của ông A Na Luật, ổng đã từng theo Đức Phật tu tập và ổng đã nói lên cái bài kệ này.

“Ngồi dưới gốc cây kiên trì” - Một cái người mà sống ở dưới gốc cây, một cái tàn cây như thế này, nó không nhà không cửa mà sống như vậy đó, mà luôn ngày này qua ngày khác, nó phải có cái sự kiên trì ở cái sự tu tập đó.

Và “vui với đồ ăn khất thực” - đây không phải là cái bài kệ của ông A Na Luật mà là cái bài kệ của Ngài Bhaddiya. Ngài là một vị hoàng tử và làm vua trong một nước, sau khi theo Phật tu, Ngài xả bỏ hết, rồi Ngài chỉ sống với những cái đồ ăn mà đi xin, thì Ngài cũng phải kiên trì ở trong những cái đồ ăn đi xin đó.

Rồi Ngài cũng phải kiên trì ở trong cái hằng ngày mà đi khất thực, rồi Ngài cũng phải kiên trì sống ở trong những cái gốc cây, rồi kiên trì sống ở trong cái khu rừng. Mỗi mỗi Ngài đều có cái sự sống kiên trì như vậy.

Tại sao mà Ngài lại phải sống kiên trì? Vì Ngài sống một cái đời sống của một vị vua rất là đầy đủ và sung sướng, làm cho Ngài nếu mà không kiên trì thì Ngài sẽ bỏ cuộc.

Và bây giờ là những món ăn mà đi xin nó không phải là những món ăn mà được các người hầu hạ mà nấu nướng cho nó thích khẩu, cho nó vừa miệng, mà người ta cho cái gì thì ăn cái nấy. Ở trước kia, những bài kệ trước của Ngài Thầy đã có nhắc lại cái vấn đề này.

Cho nên luôn luôn lúc nào thì Ngài cũng phải sống ở trong cái sự thiền quán, tức là thiền tư, Ngài suy tư Ngài quán xét. Vì vậy cho nên Ngài chấp trì được cái hạnh sống đó để mà Ngài thực hiện được cái sự giải thoát. Cho nên:

Ngồi gốc cây, kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Nếu mình muốn trở thành một Đức Phật giải thoát, “là con của Đức Phật” thì luôn luôn mình phải sống có cái sự kiên trì, chịu đựng ở trong cái sự tu tập của mình.

Vì vậy muốn được kiên trì mà sống được như vậy thì phải có một cái sự suy tư thấu đáo, nó làm cho chúng ta không còn chấp trước những cái mà chúng ta chạy theo những cái ảo giác sung sướng, hạnh phúc giả tạo của thế gian.

(33:09) Đó là sống dưới gốc cây, còn bây giờ tới cái bài kệ bốn câu này thì Ngài lại sống ở ngoài trời:

Sống ngoài trời, kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Thì bây giờ chúng ta nghĩ coi mình sống ở ngoài trời, khi mà có thể nắng, gió, không có bóng cây, không có một cái gì mà che nắng thì chắc chắn là chúng ta thấy rất khó mà kiên trì sống được như vậy. Cho nên nếu không khéo thì chúng ta lại bỏ cuộc trong cái bước đường tu tập.

Vui thì với cái đồ ăn mà người ta cho chớ không có chê dở chê ngon hay là chê thiu chê thúi gì hết, miễn ăn để mà sống mà thôi.

Do vì vậy đó thì Ngài phải luôn luôn sống ở trong cái thiền tư, tức là Ngài quán xét từng cái hành động sống của mình. Sống ngoài trời mà tâm nó không còn thấy buồn bã, nó không còn thấy mình trơ trọi hay thế này thế khác, hay hoặc là mình cô đơn như thế này thế khác, hay hoặc mình thiếu hụt như thế này thế khác, mà luôn luôn thấy biết đủ.

Cho nên Ngài vui sống với cái cuộc sống tu hành, cho nên Ngài mới xứng đáng là con của Đức Phật.

Bây giờ đó, trên bước đường tu hành có lúc thì sống dưới gốc cây, có lúc thì sống ở trong rừng, có lúc thì sống ngoài trời, nhưng cũng có lúc sống ở nghĩa địa:

Trú nghĩa địa, kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Bây giờ Ngài sống ở nghĩa địa, thì các con thấy mình sống chắc một bữa ở trong cái đồng mả thì chúng ta đã thấy hết muốn ở rồi. Thế mà ngày này qua ngày khác, nếu còn đang trụ ở đồng mả thì Ngài sẽ ở đó mãi.

Rồi có những thây ma, có những cái đám ma người ta mới chôn, vì vậy đó nếu mà chúng ta không có gan dạ thì chắc chắn khó mà có thể ở trong cái đồng mả đó được.

Ban đêm thì thanh vắng, nhìn đâu đâu những cái thây ma, những cái gò mả, những cái mả dày đặc ở trong cái khu đất đó làm chúng ta thấy nó lạnh lùng, làm chúng ta thấy nó buồn bã vô cùng.

Thế mà Ngài kiên trì Ngài vẫn sống được. Và Ngài sống được là Ngài nhờ gì? Tức là Ngài nhờ thiền quán, tức là tu cái Định Vô Lậu, Ngài quán xét cho nên Ngài không chấp trước một cái gì hết, vì vậy mà Ngài mới xứng đáng là con của Đức Phật.

Tùy xứ trú, kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Tùy cái xứ, cái trụ xứ đó nó khó, nó dễ, nó được đầy đủ hay là thiếu hụt, cái trụ xứ nào Ngài cũng tùy được hết. Ngài ở đâu Ngài cũng thấy được an vui hết chớ Ngài không thấy ở chỗ này sao động quá, ở chỗ này sao ồn quá, ở chỗ này không có núi rừng, ở chỗ này sao mà thiên hạ ca hát hay đàn địch tối ngày, Ngài không có than phiền cái đó.

Tùy cái trụ xứ đó mà Ngài kiên trì để mà mình ở, mình nỗ lực thực hiện cái thiền tư, tức là cái thiền quán để cho mình quán xét mà không còn chấp trước một cái đối tượng nào hết, từ đó thì Ngài mới giải thoát được hoàn toàn, mới xứng đáng là con của Phật.

(36:14) Cho nên cái câu kệ này thì chứng minh rằng nhiều khi cái tâm của chúng ta còn rất chướng, nó không có tùy xứ, đến cái xứ này thì mong cái xứ khác, đến cái xứ khác thì mong cái xứ khác, rồi trong tâm cứ nghĩ lo đi tìm cái nơi nào mà yên tịnh mà thanh vắng nhất mới tu hành được, còn cái cảnh động như thế này thì tu hành không được.

Còn Ngài ở trú xứ nào thì Ngài cũng kiên trì để mà thực hiện cái thiền tư để mà quán xét, để mà không chấp trước, không bị dính mắc cái cảnh đó để làm cho mình khó khăn tu hành.

Sống (gần người, kiên trì,)

Nghĩa là Ngài dùng cái bài kệ này, Ngài sống gần với người này người kia, thường gần sống những người kiên trì - mình sống với những người này người kia thì mình phải có tu tập kiên trì, họ khen mình cũng được mà chê mình cũng được, bằng cách này bằng cách khác đủ loại thì mình vẫn kiên trì.

Cái lời nói, cái hoàn cảnh, cái sự kiện mà xảy ra mình vẫn kiên trì được, luôn luôn mình:

Vui với đồ ăn khất thực,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

“Sống gần người, kiên trì” nghĩa là gần bất cứ người nào thì mình cũng vẫn giữ được cái sự kiên trì của mình. Mình vui với những cái đồ ăn mà người ta đặt bát, mình thiền tư, mình không chấp trước, do đó luôn luôn lúc nào cái thiền quán thì Ngài cứ đặt trước mặt của mình, nỗ lực tu để tâm mình không bị dính mắc cái lời khen, tiếng chê hoặc là thế này thế khác.

Đó là cái sự tu tập của Ngài. Chúng ta lấy đó mà có thể bắt chước Ngài để mà dùng cái thiền quán, thiền tư hoặc là Định Vô Lậu để mà chúng ta đừng có dính mắc.

Ham muốn ít, kiên trì,

Nghĩa là mình tập luyện cái sự ít muốn của mình cho nó kiên trì, chớ còn cái muốn của mình thì cái muốn của mình nó muốn nhiều lắm, thấy cái chút gì mình cũng thấy mình thiếu hết à, mình không có thấy mình đủ.

Cho nên mình tập cái ham muốn ít đi, kiên trì, bây giờ nó có cái gì thì mình bỏ lần, bỏ lần để cho mình ít muốn đi, thì nó mới là được. Cho nên muốn làm cho mình tập được cái tánh mà ít muốn thì mình phải kiên trì tập luyện, xả lần xả lần xuống để cho cái tâm tánh nó ít muốn lại. Chớ không nó muốn nhiều lắm, cái gì nó cũng muốn hết.

Luôn luôn mình:

Vui với đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Tức là luôn luôn mình nhớ để cho mình thực hiện cái thiền Định Vô Lậu, mình quán xét để cho mình đừng có chấp trước những cái…​ Sao lại mình thiếu cái này, mình thiếu cái kia? Do đó là vì mình (không) ít muốn cho nên mình thấy mình thiếu. Còn mình muốn ít rồi thì mình không thấy mình thiếu gì nữa hết.

Mà muốn được vậy thì mình phải quán xét, suy tư, đời không còn có gì nữa hết, cho nên do đó mình không chấp trước một cái gì.

(39:01) Bây giờ tới một cái giai đoạn nữa là

Sống biết đủ, kiên trì,

Nghĩa là mình biết bây giờ có cái gì là mình biết đủ cái nấy à, mình không có muốn thêm nữa. Mà cái đó cũng là sự kiên trì của mình, chớ không, thiếu kiên trì thì chắc chắn mình chưa sống biết đủ đâu.

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Nghĩa là luôn luôn lúc nào mình cũng phải có cái sự quán xét, suy tư để cho mình phá cái chấp dính mắc của mình, từ đó mình mới sống cái biết đủ mới được, còn không khéo thì mình không biết đủ.

Rồi đến một bài kệ nữa thì Ngài lại dạy:

Hạnh viễn ly, kiên trì,

Vui đồ ăn đặt bát,

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Bây giờ đó, mình phải tập sống cái hạnh viễn ly, ly các pháp, ly cái này ly cái nọ, ly tất cả mọi cái hết, chớ không có để cho nó dính mắc ở trong cái tâm của mình.

Mọi vật đều bỏ xuống hết, do vì vậy đó mà mình thực hiện cái hạnh viễn ly mới được. Còn nếu mình mà không thực hiện cái hạnh viễn ly thì mình khó mà có thể giải thoát. Hay nó còn nhiều vật dụng, còn cái này kia thì tức là mình khó mà giải thoát được.

Mình chỉ sống làm sao cho nó đủ vỏn vẹn ở trong cái đời sống của mình, rày đây mai đó, không nhà không cửa, sống cái người mà không gia đình, không nhà cửa, không tài sản, của cải thì mới thấy cái tâm hồn thảnh thơi.

Các con sẽ nghe lại cái cuộn băng mà Thầy đã nhắc, có một vị thường xuyên - vị đó ở trong một khu rừng, hoặc là ở nơi đâu đó ngồi dưới gốc cây, vị nói: “Sao mà hạnh phúc quá như thế này!” Cứ lâu lâu Ngài lại thốt lên một cái lời nói: “Sao mà cái người tu hành hạnh phúc đến mức độ này!”

Thì cũng là cái ông này, ổng là một vị vua, ổng sống rất là đủ ngũ dục lạc. Nhưng mà ổng thấy là khi làm vua ổng còn sợ hãi lo lắng mọi thứ, mà trái lại khi theo Phật xuất gia rồi bây giờ mới thấy thật sự là khi mà viễn ly, xa xôi những cái vật dụng của thế gian, những vật chất rồi, thì ông mới thấy đây là một cái sự giải thoát chân thật, đây không còn khổ đau nữa.

Cho nên thỉnh thoảng ông thốt lên lời nói. Và Đức Phật đi kinh hành ngang qua, nghe ông thốt ra như vậy Đức Phật mới hỏi. Thì ông là cái người giữ cái hạnh viễn ly, rất là kiên trì trong cái hạnh viễn ly, cho nên mới đem lại cái sự hạnh phúc đó cho chính bản thân ông.

Và đây cũng là một cái bài kệ nhắc nhở chúng ta: Để sống cái đời viễn ly, chúng ta buông xuống, buông xuống hết, để mà viễn ly, để không còn một cái gì nữa. Chứ nếu mà còn một chút thì chắc chắn là chúng ta khó mà giải thoát được.

Bài kệ kế là nhắc nhở cho chúng ta thêm là:

Không giao du, kiên trì,

Nghĩa là chúng ta kiên trì, không có giao du với ai hết, không có chơi với người nào hết.

Vui với đồ ăn đặt bát,

Nghĩa là người ta cho mình cái gì mình ăn cái nấy, mình vui vẻ với cái đồ đó.

Thiền tư, không chấp trước,

Là con của Đức Phật.

Cho nên sống mà nếu mình không giao du với ai thì nó là một cái sự kiên trì, chớ không khéo thì cũng nay nói chuyện người này, mai nói chuyện người kia, nó sanh ra nhiều thứ phiền não và đau khổ vô cùng.

Mà ở đây Thầy thường nhắc nhở các con nên sống độc cư, không nên nói chuyện với ai hết. Mình sống cái chỗ nào, mình mong sống một mình mình trầm lặng trong cái sự cô đơn để thực hiện cái nội tâm của mình đi sâu vào thiền định.

Đó là những cái hạnh, những cái điều kiện mà cần tu thì qua những cái bài kệ này đều là nhắc nhở chúng ta hết. Cho nên khi mà các con hiểu được, ráng mà nêu những cái hạnh này mà lập thành một cái cuộc sống của mình, sống không giao du với ai hết.

Đó là một cái bài kệ để dạy chúng ta muốn sống không giao du thì phải suy tư, phải quán xét rất là thấu đáo để không còn dính mắc nữa.

(42:53) Đến bài kệ nữa:

Sống siêng năng, kiên trì.

Cái sự siêng năng mà kiên trì đó là mình phải siêng năng chớ không thể nào thiếu sự siêng năng mà được.

Thí dụ như bây giờ mình không giao du với ai, mình kiên trì nhưng mình thiếu siêng năng, thì ít hôm cái mình có cái sự không giao du trong vòng nửa tháng, một tháng à, còn sau đó thì bắt đầu giao du tùm lum ra hết, thì như vậy là mình chỉ có siêng năng trong có mấy ngày.

Cho nên cái sự siêng năng này nó phải luôn luôn. Cũng như mình sống cái hạnh viễn ly thì nó phải siêng năng viễn ly mãi mãi từ năm này đến năm khác, cho đến cả suốt cuộc đời của mình.

Chớ có thể nó có khi mình sống viễn ly, có một cái mình không giao du mà mình siêng năng chỉ có một tháng, hai tháng hay một ngày, hai ngày: “Tui siêng năng dữ lắm, tui siêng năng có một ngày tui tịnh khẩu, tui không nói chuyện, tui độc cư, tui không giao du ai hết”, có một ngày, còn ngày hôm sau thì mình nói chuyện tùm lum ra hết, thì cái đó là thiếu siêng năng.

Siêng năng mà như vậy thì mình phải siêng năng mãi, hoài cho đến suốt cuộc đời của mình thì mình mới thấy được cái sự giải thoát.

Đo thì cái bài kệ dạy, tuy rằng bốn câu kệ nhưng nó đầy đủ cái ý nghĩa. Nếu mà chúng ta thiếu siêng năng trong một cái hạnh nào đó thì cái sự thiếu siêng năng đó nó sẽ làm cái hạnh đó nó bị mất đi, nó không còn ở với chúng ta nữa.

Đến bài kệ này nữa, thì Ngài dạy:

Từ bỏ bát quý giá

Bằng vàng, bằng nhựa quý,

Ta lấy bát bằng đất,

Đây quán đảnh thứ hai.

Nghĩa là Ngài luôn…​ Cả cái vật dụng hằng ngày của Ngài đó là cái bát, mà thường thường là cái bát bằng vàng, bằng loại nhựa quý mới làm cái bát để đựng đồ ăn.

Bởi vì mình bỏ hết rồi thì bây giờ còn cái y, mà trong cái y của Ngài, Ngài đi lượm, thay vì Ngài là nhà vua mà đi tu, thì y áo của Ngài chắc chắn là phải những đồ tốt rồi, nhưng không, Ngài bỏ hết, Ngài không có nhận một cái gì mà của thần dân hoặc là của Ngài để mà sắm cho Ngài một bộ y áo để đi tu cho đẹp đẽ. Không, Ngài đi ra ngoài cái đống rác Ngài lượm.

(45:00) Mà Ngài rất kiên trì Ngài lượm từng cái miếng vải rồi về Ngài cấu kết lại thành một cái y Ngài đắp ở trên người của Ngài. Ngài phải lượm Ngài giặt sạch sẽ rồi Ngài mới kết lại để thành cái y. Chớ Ngài không có ỷ rằng mình vua chúa rồi mua hàng, mua vải tốt để mà làm cái y cho mình rồi đi tu, không phải.

Ngài cũng không ở đây, cho nên Ngài cũng nói, Ngài từ bỏ cái bát quý giá bằng vàng, bằng nhựa quý, Ngài bỏ hết, Ngài chỉ nhận có cái bát bằng đất Ngài dùng mà thôi. Và Ngài không có bị dính mắc ở trong cái bát đất đó nữa, cho nên cuối cùng thì đó là cái quán đảnh thứ hai của đời tu sĩ của Ngài.

Đó thì các con thấy một vị tu sĩ đâu còn gì tài sản, chỉ còn có cái bát ăn cơm không, thế mà người ta còn không chấp nhận đó là cái bát vàng, cái bát nhựa quý, cái bát ngọc, cái bát bằng ngà, cái loại quý.

Thế mà hôm nay chúng ta thấy những người tu sĩ mà ôm bình bát đi xin, hầu như họ cũng lo cái bát họ dữ lắm. Họ không còn gì hết mà họ cũng nghĩ đến cái bát của họ.

Đối với chúng ta thì như Thầy vừa nói, nếu cái bát đó nó có bể đi thì chúng ta lấy lá cây rừng chúng ta chằm lại cái bồ đoàn thì chúng ta cũng dùng nó làm cái bát để đi xin ăn cũng được rồi. Đâu cần gì cái bát nhựa, bát đất, cái bát vàng quý báu mà nó làm cho chúng ta bị dính mắc.

Đó là cái người tu sĩ của đạo Phật chúng ta xả hết, cuộc đời thân chúng ta còn không giữ được huống hồ là cái bát, giữ làm gì? Cho nên chúng ta cũng buông xuống, buông xuống hết.

Vòng thành cao bảo vệ,

Vọng lâu, cửa kiên cố,

Với lính tay cầm gươm,

Ta đã sống sợ hãi.

Nghĩa là tuy rằng trước, khi mà chưa đi tu thì Ngài ở trong một cái vòng thành cao, có sự bảo vệ, có vọng lâu tức là có cái lầu cao để nhìn, bốn cửa rất là kiên cố, lính thì cầm gươm, súng hầu hạ, canh gác đầy đủ, thế mà ta ở trên một cái lầu đó ta cũng vẫn thấy sợ hãi.

Ổng nói ổng thấy ổng cũng luôn luôn nơm nớp sợ hãi trong lòng à, không có bao giờ…​ Mặc dù có lính tráng, có người hầu kẻ hạ như vậy mà vẫn sợ. Mà ở trong cái vòng thành rất là bảo vệ mà vẫn sợ.

Còn trái lại bây giờ sống một thân một mình ở đồng mả, ở rừng sâu, ở bụi cây, ở gốc cây, thế mà giải thoát, không có khổ sở nữa, không có sợ hãi nữa.

Nay theo Phật tu hành,

Bỏ run sợ kinh hãi,

Thiền tư, vào rừng sâu,

Là con của Đức Phật.

Nay theo Phật tu hành rồi thì cái run sợ đó, kinh hãi đó không còn nữa. Nhờ cái thiền tư mà ở trong rừng sâu vẫn thấy an vui, vẫn thấy yên ổn mà không có khổ đau.

Đó thì ở đây các con thấy rằng, bỏ cái giàu sang của vua chúa, bỏ cái sự hầu hạ, bảo vệ mà trong lúc đó tâm hồn luôn luôn sợ. Trái lại chúng ta bỏ sạch hết thì tâm hồn chúng ta không còn sợ hãi gì nữa hết.

Khi mà chúng ta còn có một cái gì mà sợ hãi đó thì tức là chúng ta chưa bỏ, còn dính một cái gì đó, chúng ta sợ. Còn nếu mà chúng ta không còn sợ nữa, thì đâu còn gì mà sợ?

(48:18) Cho nên thậm chí như Thầy nói, như cái thân ngũ uẩn của chúng mình là giai không, thường chúng ta tụng kinh Bát Nhã đó: “Hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, thì chúng ta biết rằng cái thân ngũ uẩn của mình nó không có gì, nó là không. Thế mà chúng ta còn dính mắc một cái gì đối với thân ngũ uẩn này thì chúng ta phải còn sợ hãi, còn lo lắng, còn sợ hãi.

Còn trái lại, một cái người mà không có thấy cái thân ngũ uẩn mình là một cái đáng cho chúng ta chấp nó nữa, thì chúng ta xả nó hết rồi, thì chúng ta còn cái gì nữa mà sợ, mà phải lo lắng, phải kinh hãi, phải sợ hãi!

Cho nên mọi vật đến là nhân quả, là cái gì đến thì mình cứ giải quyết nhân quả mà thôi, có gì mà phải sợ nó? Ở đây có gì mà sợ danh sợ lợi, có gì mà phải ngại đón mà sợ hãi?

Chúng ta là những người tu sĩ của đạo Phật, chúng ta biết nhân quả rõ ràng, thông suốt đường đi nhân quả rõ ràng. Nhân thì phải có quả, mà quả thì phải trả chớ làm sao mà trốn tránh ở đâu? Cho nên vui mà đón, vui mà trả, chớ không có trốn tránh đi đâu, không có sợ hãi, cho nên tâm lúc nào cũng an vui, cũng thanh thản.

Vì vậy mà chúng ta là người tu sĩ đạo Phật, thậm chí cái thân của chúng ta còn xả rồi thì vật gì ở trong thân của chúng ta, vật gì ngoài thân của chúng ta còn nữa mà chúng ta tiếc? Chúng ta đâu có còn tiếc gì nữa.

Cho nên Ngài nói bài kệ cuối cùng:

An trú trong giới uẩn,

Chánh niệm, tu tuệ quán,

Thứ lớp ta đạt được,

Mọi kiết sử ta đoạn dứt.

Đó thì các quý con thấy chưa? “An trú trong giới uẩn” - các cái giới của Phật dạy, cái giới của thân chúng ta nó không…​ Cái giới uẩn, cái thân ngũ uẩn của chúng ta nó là vô thường, khổ, vô ngã, chúng ta còn chỗ nào mà dính mắc nó được? Cho nên chúng ta đâu còn sợ hãi nó.

Do đó chánh niệm luôn luôn ở trong cái tuệ quán của chúng ta, suy tư của chúng ta. Chúng ta không thấy cái thân này là cái ngã, không thấy những vật xung quanh chúng ta từ cái y, từ cái ăn, từ cái mặc, từ cái bát của chúng ta là cái vật để mà cần dùng hằng ngày chúng ta là quý, là thường hằng nữa.

Nó bể chúng ta cũng chẳng buồn, nó rách chúng ta cũng chẳng lo. Mặc nó, nó như thế nào thì chúng ta tùy tiện chắp vá lại mà mặc chớ chúng ta cũng chẳng vì đó mà chạy đầu này, chạy đầu kia để xin xỏ, để cho mình có y mới, áo mới, hay cho có bát mới.

Hay hoặc là cái thân này đau đớn mà chúng ta lại sợ hãi bằng cách này bằng cách khác. Mặc nó! Nhân thì có quả, quả thì có nhân, có gì mà chúng ta phải lo lắng nó? Nó hết quả hết nhân thì nó hết bệnh hết đau, còn nhân còn quả thì nó đau nó bệnh, thì mặc nó, mắc mớ gì, can dự gì cái người tu hành mà mình cứ lo nó?

Nay nhức chân, mai nhức lưng, bữa kia thì nhức đầu, bữa nọ thì đau bụng, mặc tình nó! Nó là ngũ uẩn, nó làm cái gì thì nó làm mặc nó, nó có liên hệ gì đến mình đâu? Mình giải thoát là giải thoát, mình đứng ngoài cái vòng rào của ngũ uẩn chớ đâu phải trong cái vòng rào ngũ uẩn mà sợ!

(51:27) Còn các con chưa có thấy hiểu biết được như vậy, cho nên lúc nào các con cũng bị ngũ uẩn bao vây làm cho các con thấy đau khổ, nhức chỗ này, nhức chỗ kia, rồi nghĩ rằng mình chết rồi, không tu được. Có cái thân này là khó, được cái thân này là không phải dễ, mà bây giờ không khéo nuôi dưỡng, không ăn uống cho đầy đủ đây rồi nó chết.

Mặc nó, nó có chết được nó chết, nó sống được nó sống, ăn thua gì với mình? Nó có nhân có quả tức là nó có cái thời gian sống và chết, nó phải có nhất định cái nhân quả của nó.

Muốn bây giờ cho đừng đau cũng khó mà muốn được vì nhân quả đã sẵn rồi. Muốn cho nó đừng chết mà bây giờ cái nhân quả nó chết thì chúng ta cũng muốn đâu được?

Nó chết mặc nó, nó sống mặc nó, miễn hiện giờ mà chúng ta còn thở được là chúng ta phải sống giải thoát, tâm chúng ta bất động trước các sự việc của nó, như vậy thì nó đâu có làm sao chi phối được tâm hồn của mình, nó làm sao dao động được mình!

Cho nên Ngài nói:

An trú trong giới uẩn,

Chánh niệm, tu tuệ quán,

Thứ lớp ta đạt được,

Mọi kiết sử đoạn dứt.

Các kiết sử tức là các sợi dây mà trói buộc chúng ta đều đứt hết rồi. Thương, ghét, giận, hờn, tất cả mọi cái, lát nữa thì các con nghe Thầy lấy Pháp mà tu hành, pháp thương, pháp ghét, pháp thù, pháp hận đều bắt nó niệm Phật hết, cho nên nó niệm riết thì mình không có giận hờn, không có thương ghét ai nữa hết.

Mà không có giận hờn, thương ghét thì cái tâm hồn của mình nó giải thoát. Vì vậy mà cái bài kệ này để nói lên cái chỗ mà chúng ta lấy các pháp mà niệm Phật để tâm của chúng ta dứt ra khỏi sự đau khổ của thế gian.

Muốn được vậy thì phải siêng năng mà tu tập cái thiền tư, cái thiền Định Vô Lậu, để hằng ngày chúng ta thấu suốt được cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã của các pháp làm chúng ta được giải thoát.

Đó là một số bài kệ của một vị, một nhà vua mà đã đi tu theo Phật, mà bỏ hết tất cả những cái sự nghiệp vua chúa của mình, đó là ngài Bhaddiya. Ngài thậc sự quyết tâm theo Phật để mà thực hiện con đường tu tập.

Ở đây có một cái bài kệ, đây là những cái bài kệ của một vị vua mà đã theo Phật tên là Bhaddiya. Ngài lấy thân mà niệm Pháp, lấy cái thân của Ngài mà niệm các Pháp, cho nên Ngài mới thực hiện và Ngài nói lên những cái bài kệ này. Pháp dạy như thế nào là thân Ngài sống như thế nấy và Ngài kiên trì ở trong cái thân mà niệm các Pháp.

(54:05) Cho nên pháp của Phật dạy là viễn ly thì Ngài viễn ly. Pháp của Phật dạy Ngài từ bỏ của quý báu thì ngài từ bỏ. Pháp của Phật dạy Ngài siêng năng thì Ngài siêng năng. Pháp của Phật dạy Ngài ít giao du, không giao du thì Ngài không giao du.

Dạy Ngài viễn ly thì Ngài viễn ly. Dạy Ngài biết sống đủ thì Ngài biết đủ. Dạy Ngài ít muốn thì Ngài ít muốn. Dạy Ngài tùy cái xứ nào thì cũng kiên trì ở trong cái xứ đó. Dạy Ngài ở nghĩa địa thì Ngài cũng tùy cái pháp ở nghĩa địa. Dạy Ngài sống ngoài trời thì Ngài vui mà sống ngoài trời. Dạy Ngài ngồi gốc cây thì Ngài vui mà sống ở dưới gốc cây. Dạy Ngài sống trong rừng thì Ngài sống trong rừng. Dạy Ngài không ăn thêm thì Ngài không ăn thêm. Dạy Ngài ăn trong bát thì Ngài ăn luôn ở trong bát.

Cũng như bây giờ đó Thầy nhắc lại, ở đây thì các con còn ăn ở trong cái chén, chưa có ăn bát. Nhưng mà tập ăn bát được rồi, rồi các con luôn luôn lúc nào cũng giữ gìn ăn ở trong một cái bát.

Coi vậy chớ cái đời sống của chúng ta rất khó. Khi mà ăn cái bát rồi về thấy cái đũa, chén, những cái muỗng, nĩa mà chúng ta thường dùng trong cái thói quen, bây giờ về ngay đó là chúng ta đớp lấy cái chén mà chúng ta ăn thì thấy nó thoải mái vô cùng lận.

Còn ăn ở trong cái bát rất là khó khăn, rất là khó. Nhưng cái bát nó nói lên được cái buông xả chúng ta, chỉ còn có một cái vật dụng đựng mà thôi chớ không còn có chi li những cái này cái khác nữa.

Cho nên thậm chí như Đức Phật ngày xưa ăn bốc mà không có muỗng. Không phải có nghĩa là người Ấn Độ là ăn bốc đâu, cũng có những cái người Ấn Độ họ cũng có muỗng, có nĩa, có này kia họ ăn. Nhưng chúng ta thấy rằng phần nhiều là cái người tu sĩ người ta bỏ hết, người ta ăn bốc là dùng hai bàn tay người ta có người ta sống.

Đó là Ngài lấy cái thân của Ngài mà Ngài sống đúng như Pháp đã dạy.

2- BÀI KỆ NHẮC NGÀI ISIDINNA DỨT KHOÁT ĐỜI SỐNG THẾ GIAN

(56:03) Dưới đây là bài kệ của một vị thiên nhân thấy một cư sĩ, cái vị cư sĩ đó được nghe Phật pháp mà bỏ gia đình bỏ không được, bỏ của cải tài sản bỏ không được, cho nên cái vị thiên nhân này mới đọc lên cái bài kệ mà nhắc cái vị này.

Dưới đây là bài kệ một thiên nhân nhắc nhở Ngài Isidinna. Khi Ngài đã được nghe bậc đạo sư thuyết giảng rồi thì Ngài ngộ được cái lý là các dục là vô thường, Ngài ngộ được nhưng mà Ngài không có dứt khoát được cái đời sống thế gian, tức là Ngài không bỏ vợ bỏ con, bỏ của cải tài sản được.

Cho đến khi một vị thiên nhân đến mới đọc cái bài kệ. Thầy xin đọc lại cái bài kệ để chúng ta thấy rằng suốt cuộc đời chúng ta, các con thì có người đã xuất gia rồi nhưng mà cái tâm của chúng ta vẫn còn ở trong thế gian chớ chưa phải bỏ ra được.

Ở đây cái vị thiên nhân đó dùng cái bài kệ để nhắc nhở cái vị cư sĩ này đã ngộ được cái lý các dục là vô thường nhưng bỏ không được. Đây cái vị thiên nhân nói:

Ta thấy người cư sĩ,

Trì pháp với lời nói,

Các dục là vô thường,

Chúng ưa thích luyến ái,

Châu báu và vàng bạc,

Chúng đón chờ vợ con.

Nghĩa là sáu cái câu kệ này thì cái vị thiên đó mới nói như thế này: Ta thấy ông là cư sĩ đó, ông có hiểu cái lời, ông có trì cái pháp và cái lời nói của Phật thật, ông có biết là các dục là vô thường thật, nhưng ta thấy ông vẫn còn luyến ái với gia đình, với vợ con, châu báu và vàng bạc thì ông cũng chẳng có bỏ được.

Thường là ông vui vẻ đón chờ vợ con chớ còn chưa có biết nó là vô thường. Cho nên ông nói các dục là vô thường nhưng mà thấy cuộc sống của ông luôn luôn nó ở trong các dục mà chưa thoát ra.

Thật sự chúng không biết,

Pháp như thật là gì?

Dầu chúng có tuyên bố:

“Các dục là vô thường!”

Chúng không có sức mạnh,

Để cắt đứt tham ái,

Do vậy, chúng luyến tiếc,

Vợ con và tài sản.

Đó thì cái bài kệ, tám cái câu kệ sau để nhắc cho thêm rõ. “Chúng” ở đây chỉ cho các vị cư sĩ, hầu hết được nghe Phật thuyết giảng biết các pháp, hiểu được các pháp, ngộ được các pháp: Dục là vô thường, các pháp là vô thường, thân là vô thường, thọ là vô thường.

Cũng như bây giờ nói vô thường thì quý vị ai cũng nói được hết, nhưng mà chúng sanh, các vị cư sĩ, các vị không có đủ cái sức mạnh để dứt các cái tham ái đó đi, dứt bỏ những cái đối tượng tham ái đó đi, để mà đạt cho được cái chỗ dứt khoát đó đi.

Do vậy các vị còn luôn luôn luyến tiếc vợ con và tài sản, không có bỏ ra được. Mà không có bỏ ra được như vậy thì con đường tu hành này chẳng bao giờ tới đâu được hết. Ý là cái vị thiên đó nhắc nhở cái vị cư sĩ này như vậy.

Nghe xong kệ Ngài thấy xúc động.

Nghĩa là Ngài ngộ được cái lời của Phật dạy rồi nhưng mà Ngài không có dứt khoát được mà đi, cho đến bây giờ, khi mà nghe cái bài kệ rồi thì ngài xúc động…​ (Mất tiếng)

3- TU ĐỊNH HIỆN TẠI AN LẠC TRÚ ĐÚNG HAY SAI

3.1- TỤ ĐIỂM TRONG ĐỊNH HIỆN TẠI AN LẠC TRÚ LÀ PHÁP TƯỞNG

(59:44) Trả lời cho cô Minh Cảnh trước, bởi vì cô Minh Cảnh thì ngắn, hỏi Thầy có bao nhiêu đây thôi cho nên trả lời trước. Cô Minh Cảnh hỏi Thầy:

“Hiện tại con tu cái định Hiện Tại An Lạc Trú, ngồi một giờ con ám thị nhĩ thức cho bám chặt để mà phá âm thanh. Và con vận dụng như vậy thì âm thanh có giảm, nhưng mà cô Út nói con sai mà con không biết sai chỗ nào?”

Bởi vì cô Út không có xét qua cái chỗ mà tu cái định Hiện Tại An Lạc Trú của con. Trong lúc con tu ở trong một ngày mà con ngồi một giờ, hay hoặc là một ngày con ngồi hai giờ tu, thì trong cái định Hiện Tại An Lạc Trú con ngồi cái thời gian ít như vậy là đúng đó, nó không sai đâu.

Và con bám chặt trên cái tụ điểm, sáu cái thức mà bám chặt ở trên tụ điểm, và cột chặt nó ở trong cái hơi thở. Từ tụ điểm đó mà chúng ta thấy xuất phát cái hơi thở ra và hơi thở vô.

Thầy muốn nhắc lại cho mấy con thấy là cái vấn đề cái tụ điểm là rất quan trọng, mà Thầy thường nói đó là cái điểm tựa để mà chúng ta bẩy vũ trụ.

Tức là chúng ta có thần lực và cái đại thần lực mà có được là cái…​ như ở trong Tứ Như Ý Túc đó, Định Như Ý Túc, chúng ta muốn nhập định lúc nào, chúng ta nhập sao, chúng ta chỉ ra lệnh là chúng ta nhập được đó, mà muốn được vậy tức là chúng ta phải có cái tụ điểm.

Mà cái tụ điểm tức là một cây cọc để mà chúng ta đóng thật chặt để chúng ta cột sáu con vật. Sáu con vật đó là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta, cột chặt vào đó. Do đó sáu con vật này nó bị cột chặt đó, nó chạy loanh quanh một hơi cái nó nằm xuống đó, nó mệt cái nó nằm xuống đó, nó không có đi.

Mà bây giờ chúng ta đã cột chặt, nó chạy lâu ngày rồi bây giờ nó mệt rồi, lúc nào nó cũng nằm đó, nó không có đi đâu xa nữa, cho nên nó không có phá làng phá xóm người ta nữa. Do đó cho nên chúng ta rất dễ rồi, chỉ cần bảo nó bám chặt xuống, nằm yên xuống ở trên cái tụ điểm.

Từ đó chúng ta phải thấy rằng cái tụ điểm là cái quan trọng. Cái tụ điểm là như thế nào? Chúng ta phải có một cái pháp tưởng nơi đó.

(01:01:42) Bởi vì đạo Phật biết dùng tưởng, nhưng mà rất sợ tưởng, xả bỏ tưởng, chớ không phải là…​ Cái tưởng mà tự nó đến là chúng ta phải xả bỏ.

Như bây giờ chúng ta ngồi thiền nè, nhiếp tâm nè, với mục đích chúng ta tịnh chỉ cái gì, để vào một cái định gì. Mà bây giờ nó ngồi đây nó thấy an ổn, nó thấy thích thú thì cái này là tưởng đến, nó lại khác rồi.

Còn bây giờ mình dùng tưởng là như thế nào? Mình đặt cái tưởng của mình là mình đặt cái thây ma sình hôi thúi, nó sình trương, cho nên trước mắt mình thì đâu có cái thây ma đâu, mà bây giờ mình lại thấy cái bộ xương của con người nằm đó rồi hôi, rồi thúi, rồi này kia đủ thứ thì đó là mình dùng pháp tưởng chớ gì, cái đề mục tưởng chớ gì!

Cho nên chúng ta biết dùng cái tưởng thì chúng ta cũng có thể sử dụng được. Cũng như bây giờ ở tại cái nhân trung của chúng ta nè, cái chỗ này nè, cái nhân trung thì nó có cái đầu nhân trung, và giữa nhân trung, và cái cuối đuôi của nhân trung.

Thầy phân biệt cho các con biết chớ, tại sao chúng ta không đặt nó ở trước mũi, mà chúng ta không đặt nó ở tại tam tinh, mà không đặt nó ở tại cổ họng, mà không đặt nó ở tại rốn, mà chúng ta lại lấy chỗ cái nhân trung của chúng ta làm cái tụ điểm.

Cái đầu của nhân trung là cái lỗ mũi chúng ta cận ở dưới cái đầu của cái nhân trung, thì cái điểm nó sẽ nằm ở tại chỗ đó gọi là cái tụ điểm. Vì ở chỗ đó cái mũi nó xuất phát hít vô và thở ra, cái hơi thở nó ra vô tại chỗ đó. Cho nên từng đó chúng ta đặt cái tụ điểm đó thì chúng ta có một cái tưởng.

Có một cái tưởng chúng ta đặt đó, chúng ta thấy từ ở cái tụ điểm đó nó thở ra, cái hơi thở đó xuất phát ra, chớ không phải ở trong cái lỗ mũi chúng ta hay từ ở dưới phổi chúng ta mà thở nó theo cái lỗ mũi nó đi ra, không phải vậy.

Sự thật là nó từ ở trong phổi chúng ta nó đi ra chớ không phải ở từ chỗ cái tụ điểm này mà nó thở ra, nhưng chúng ta dùng cái tưởng, chúng ta thấy như từ ở đây cái hơi thở nó đi ra, nó xuất ra, nó thở ra. Đó là cái thứ nhất.

Rồi bắt đầu, thường thường chúng ta hít vô chúng ta thấy như ở cái không gian này nó có cái số không khí nó chạy vô cái lỗ mũi chúng ta, nó đi vô ở trong phổi chúng ta. Do đó cái tâm chúng ta cứ chạy vô chạy ra theo cái không gian của nó.

Cái khoảng không gian của nó, có cái khoảng, như ở dưới này chúng ta thấy hơi thở nó chạy vô lỗ mũi, hít vô chúng ta có cảm tưởng như cái hơi thở nó chạy vô trong lỗ mũi của mình, rồi mình thở ra mình thấy như ở trong đó nó chạy ra. Thậm chí như có người dẫn cái hơi thở đi đến dưới cái bụng mình nghe nó phình lên xẹp xuống dưới, đó là những cái sai.

Mà đây là chúng ta chỉ biết cái tụ điểm của chúng ta, từ cái chỗ này nè nó thở ra, từ cái chỗ này nó hít vô, thấy hơi thở nó xuất phát từ cái tụ điểm này nó hít vô. Cho nên cái tâm mà chúng ta mà nằm ở đó đó, sáu cái thức nằm đó nó bám chặt cái hơi thở. Cái hơi thở ra và hơi thở vô nó cũng đều ở một điểm đó.

Đó là cái mà chúng ta tu về cái định Hiện Tại An Lạc Trú. Nương vào cái hơi thở như vậy để làm gì? Để chúng ta bắt buộc cái nhĩ thức hay hoặc là cái nhãn thức, hay hoặc mọi cái thức của chúng ta đều là nằm chặt trên đó mà phá âm thanh, phá luôn cả cái thọ.

Cái thọ là cái xúc thức của chúng ta chớ gì, cái thân thức, nó làm cho chúng ta cảm giác đau nhức hay hoặc khó chịu đó. Do đó chúng ta cũng bắt nó nằm trên đó, do đó nó không có cảm giác đau đớn nhức mỏi gì hết.

Đó thì cái đó là một cái phần mà chúng ta tu tập để mà chúng ta đi dần đến cái chỗ tịnh chỉ các hành ở trong thân mà chúng ta làm chủ được cái thân của chúng ta.

3.2- TRƯỚC TIÊN CẦN TU ĐỊNH VÔ LẬU ĐỂ TÙY THUẬN MỌI CẢNH

(01:04:58) Còn cái phần tâm thì cô Út nói ở đây có nghĩa là cổ dò xét qua cái tâm của con nó còn dính mắc cái này cái kia, cổ nói con sai không có nghĩa là sai cái chỗ ngồi tu này, mà phải sai là cái chỗ tu cái Định Vô Lậu.

Con không có chịu nỗ lực tu cái Định Vô Lậu như thế nào. Mà cái Định Vô Lậu thì các con biết rằng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng nó mới là vô lậu, mà mình cứ chống đối với hoàn cảnh hoài, mình làm nghịch lại.

Bởi vậy tùy thuận, hồi nãy có cái bài kệ nói mình tùy thuận ở trong mọi cảnh, như cái vị tu sĩ hồi nãy ở trong cái bài kệ đó. Tùy thuận trong hoàn cảnh làm cho tâm của mình giải thoát, tức là nó không có lậu hoặc, phải không?

Người ta nói sao mình cũng nghe đúng vậy thôi, mình cũng làm đúng y như vậy hết, thì tức là tùy thuận.

Trong cái hoàn cảnh của mình chưa phải là ba y một bát vân du từ chỗ này đến chỗ khác như những người khác, mà sống còn đang nỗ lực tu hành trên cái bước đường. Như bây giờ mình chưa nhập Tứ Thiền mà mình ở trong một cái khu rừng đó, mà khu rừng đó nào là có cọp, beo, voi, gấu hay này kia, nó đến nó làm động đủ thứ hết.

Nó nhảy, nó múa, nó hát, nó ca, nó làm cái gì kệ nó, mặc nó, mình chỉ nương theo nó, đừng có làm động nó thôi, nó muốn sao mình cứ làm vừa ý nó hết thì chắc chắn là tùy sống trong cái hoàn cảnh đó thì chắc chắn là mình sẽ được yên ổn mà nhập định.

Đó như vậy, chớ đâu phải nghĩa là cô Út nói con ngồi tu cái định Hiện Tại An Lạc Trú này sai đâu, đâu có ai nói vậy. Nhưng mà người ta nói sai thì mình phải hiểu rõ cái sai của mình tức là cái Định Vô Lậu. Nó còn có nhiều cái loại định mà thấy mình còn bị chướng tâm, mình còn chưa có giải thoát được.

Khi nghe người ta nói một lời nào đó, người ta nói ra chớ người ta dò xét mình coi có chướng tâm không. Mà người ta thấy chướng là biết rằng mình tu sai rồi cho nên nó còn chướng như thế. Con hiểu chưa?

Cho nên khi mà người ta nói tức là người ta trắc nghiệm người ta thử để xem coi mình có bị động không. Mà mình bị động tức là tâm chưa vô lậu, mà tâm vô lậu thì nó không bị động.

(01:06:46) Đó, biết được như vậy thì phải biết cái chỗ sai mà tập luyện, mà tu cái Định Vô Lậu cho nó nhiều, sống tùy cái hoàn cảnh, tùy cái trường hợp. Bởi vì chỉ có cái tâm nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì chúng ta mới thấy được cái cứu cánh giải thoát của cái Định Vô Lậu.

Còn nếu mình sống không có được theo như cái ý muốn của mình, mình muốn mà, thì mình muốn tức là nó còn muốn rồi. Mình muốn cái cảnh tịnh, mình muốn cảnh này muốn cảnh kia, tức là còn bị muốn hết.

Mình phải sống ở trong cái cảnh mà không được muốn, mà không được muốn thì tức là hết muốn chớ gì, mà hết muốn tức là ly dục chớ gì, mà ly dục thì tức là ly dục ly bất thiện pháp, tức là mình đã đạt được cái Định Vô Lậu rồi chớ gì, thì tức là nhập được Sơ Thiền.

Còn bây giờ con phá âm thanh mà cái Sơ Thiền con chưa nhập thì coi chừng phá âm thanh mà rốt cuộc rồi thinh tưởng nó nhào vô nó cả đống trong đó rồi mới chết đó, làm sao mà đi qua khỏi cái nẻo của Tam Thiền này nổi!

Đó, các con hiểu chỗ sai chưa? Đó phải hiểu. Cho nên bây giờ mình tính mình phá âm thanh bên ngoài, nhưng rốt cuộc rồi cái thinh tưởng bây giờ ở trong.

Bởi vì cái tâm chưa ly dục ly ác pháp thì tức là còn cái tâm dục, nó chưa hết, nó còn cái tâm chướng ngại nè, tâm bất toại nguyện của mình nó chưa được nè, do đó cho nên nó hiện ra những cái thinh tưởng. Lúc bấy giờ làm sao mà dẹp nổi cái thinh tưởng?

Tự ở đâu trong đầu con, trong lỗ tai con ở trong, con nghe vô trong nó lại nghe càng rõ nữa. Nó xưng là ông này ông kia, nó xưng nào là chúa trời, nào là Cao Đài tiên ông, nào là cậu, nào là cô, nào là bà cửu thiên huyền nữ, nào là bà Đen, nào là chúa tiên, chúa xứ, chúa ngải gì, nó đem từ mấy bà chúa ở ngoài miền Trung vô nó nhét trong đầu con đủ thứ ở trỏng, nó nói ở trỏng thì con nghĩ sao? Nó cứ xưng bà chúa không à chớ nó đâu có xưng nhỏ đâu!

Phải không, các con thấy trong cái vấn đề tu mà nếu phá âm thanh bên ngoài rồi, tự nhiên âm thanh bên ngoài không tác động được cái ý thức, cái nhĩ thức của con rồi, thì ngay từ đó những cái âm thanh mà của tưởng đó nó sẽ…​

Con hễ nghe - con ở ngoài miền Trung, ở ngoài đó thì tức là bà chúa, nhiều chúa nhất rồi, nó sẽ hiện ở trong đầu con đủ thứ bà chúa nói chuyện ở trỏng chớ đâu phải ít! Coi chừng, Thầy nói có chớ không phải không đâu.

Đó thì coi như vậy là chưa có vội vàng đâu mà hãy…​ Cô Út nói sai là chuẩn bị cho cái Sơ Thiền của mình cho nó hoàn chỉnh được, là cái chỗ trước các đối tượng mà tâm bất động, tức là ly dục rồi, ly ác pháp rồi thì nó mới có đi vào những con đường Tứ Thiền mới bảo đảm, chớ còn không khéo nó bị lạc vào cái nẻo ma mất. Coi vậy chớ nó không đơn giản mà nó khó khăn.

Tu sinh:…​ (Không nghe rõ)

Trưởng lão: Bởi vậy, nghe người ta nói sai là mình cứ nghĩ khác à!

4- TU TẬP ĐỂ CÒN LÀM GƯƠNG CHO NGƯỜI KHÁC

(01:09:25) Còn về phần cô An Tịnh thì con ghi trên cái vấn đề con tu rất đúng, và cứ tiếp tục tu, cố gắng mà tập luyện từng chút từng chút như vậy thì rất tốt chớ không có gì hết, Thầy thấy không có cái sai chỗ nào hết, nhưng mà tuần tự bước đi từng bước. Nhất là tu cái Định Vô Lậu, tạo những cái hoàn cảnh thuận tiện nhất trong cái cuộc sống của mình.

Đối với cái hoàn cảnh hiện tại khi mà Thầy không có trụ ở đây nữa thì các con cứ giữ gìn rất là đúng, nghiêm chỉnh.

Cô Út cổ sẽ - người nào mà còn ở lại thì cổ sẽ sắp xếp cho mọi cái hoàn cảnh để thực hiện từ cái định ban đầu, cái Định Vô Lậu. Rồi trong khi đó không có nghĩa là mình tu nội cái Định Vô Lậu không đâu, nhưng mà cổ sắp xếp cho mình tu những cái Định Vô Lậu.

Rồi kế đó cái Định Vô Lậu mà cổ thấy đạt được rồi thì cổ sắp xếp cho mình bắt đầu tu cái định Hiện Tại An Lạc Trú để nhập Bốn Thiền, để diệt cái hơi thở, để diệt 18 cái loại tưởng. Chớ không phải 16 đâu, 18 cái loại tưởng. Bởi vì ba lần 6 nó 18 cái, 18 cái loại tưởng.

Do khi mà mình ly dục ly ác pháp rồi bắt đầu mình tu Định Vô Lậu mà đạt được cái tâm vô lậu rồi, thì bắt đầu cổ sắp xếp cho cái hoàn cảnh của mình thuận tiện nhất để cho mình thực hiện bốn cái định này.

Cho nên nhập Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, thì cái khoảng thời gian các con sẽ được cái thời gian ngắn nhất và yên tịnh nhất, độc cư 100% nhất, để mà thực hiện bốn định này thì cái thời gian ngắn nhất của các con là trong ba tháng hoặc là sáu tháng là cùng, nghĩa là các con sẽ nhập được cái định, làm chủ được thân tâm.

Cũng từ trong ba tháng, sáu tháng đó các con có thể thực hiện Tứ Như Ý Túc: Muốn định hồi nào định, muốn hiện thần thông lúc nào hiện thần thông, muốn ngồi bay lên trời bay chơi cũng được, muốn đây ra miền Bắc hô cái đây ở ngoải nó ngồi ở ngoài Hà Nội liền, thì muốn hồi nào nó được như vậy à, khỏi cần tốn xe lửa xe đò xe gì hết.

Nghĩa là ngồi ở đây bắt đầu xếp bằng bảo: “Cái thân này phải đi ra miền Bắc ngồi ở nhà ở ngoải!” Ngay đây mình ra lệnh thì nó ngồi ở ngoải rồi, như chớp mắt. Trong lúc đó mà các con được cái sức thiền định rồi thì Tứ Như Ý Túc, các con muốn cái thân của mình như thế nào nó làm theo như thế nấy, nó không phải khó khăn nữa.

Và như vậy thì mới thấy cái sự làm chủ sanh tử của mình, bảo nó chết nó mới chết, bảo nó sống nó mới sống chớ còn nếu mà không được như vậy thì tu hành làm gì? Phải không các con, nghĩa là mình tu hành mà không làm chủ được sanh tử.

Mà đã làm chủ được sanh tử thì cái chuyện mà đây với Hà Nội đâu có phải là xa, mình hô một cái là nó đã ngồi ở ngoải rồi. Đối với mình cái không gian đâu có còn dài như là con phải ngồi xe điện, xe lửa ba, bốn ngày, một tuần lễ mới tới ngoải đâu, đâu có còn đâu! Con ra lệnh là ngay đó nó đã ngồi ở Hà Nội rồi.

(01:12:15) Cho nên tu như vậy mình mới tu chớ! Tu như vậy người ta mới giật mình chớ. Còn tu mà bây giờ mình ngồi đây mà mình bảo nó bay lên hư không nó không bay nổi, thì nó nặng quá, bởi vì nó ăn nhiều quá nó nặng nó bay đâu có nổi!

Cho nên mình tu làm sao mà mình ngồi bảy tám ngày không ăn tức là nhẹ rồi đó. Mà mình tu làm sao mà mình nhập cái định mà cả tháng, hai tháng mình không ăn, tức là mình biết cái thân của mình nhẹ rồi đó, thì lúc bấy giờ con ngồi xếp bằng, con bảo nó bay lên hư không nó bay được đó.

Nó ngồi trên hư không mà nó ngồi không có ghế, không có đẻn gì hết, mà nó ngồi nó không té xuống thì biết đúng là mình đã nhẹ rồi. Bởi vì bảy ngày không ăn thì tức là nó nhẹ rồi, mà một, hai tháng không ăn là nó nhẹ rồi, cho nên nó bay trên nó ngồi được.

Còn bây giờ mấy con coi, đâu có được! Bữa nay không có ăn, trưa bữa nay ăn mà ngày mai không ăn thì đã thấy mệt rồi, phải không? Cho nên nó còn nặng lắm.

Còn khi nào mà các con nhập định mà bảy ngày không ăn thì thấy nó nhẹ được chút rồi đó, mà một tháng không ăn thì thấy nhẹ hơn chút nữa, mà ba bốn tháng không ăn kể như vậy thì các con biểu cái thân nó bay lên, bay thật đó.

Thầy nói mà, khi mà các con nhập định ba bốn tháng mà không ăn rồi thì các con bảo sao nó nghe hết. Phải không? Bởi vì nó nhẹ rồi, vì vậy nó nhẹ quá cho nên vì vậy mà ngồi đây con bảo nó đi ra Hà Nội cái nó bay vù ra ngoải, nghe cái chớp mắt còn hơn là phản lực.

Như vậy mình mới tu chứ, tu như vậy mới thích chớ! Tu gì mà ngồi đây cũng như cục đá vậy, thích làm sao được? Cái tâm gì mà hễ ai đụng tới cái méo cái miệng, khóc ròng! Phải không, như vậy tu làm gì, tu có giải thoát chỗ nào đâu? Cái tâm gì như cục đá mà đụng tới nghe thốn chân thốn cẳng họ hết.

Cho nên chúng ta tu làm sao mà cho nó nhẹ nhàng, cho nó thanh thản thì như vậy mới tu chứ, vậy thì mình mới bỏ hết đời mình đi tu chứ! Tu để rồi không ra gì hết tu làm gì?

Cho nên những cái điều mà con ghi chép đây Thầy thấy tuần tự mà tu tập thì đúng cách chớ không có sao đâu. Rồi cái sự sắp xếp của cô Út, sắp xếp để cho nó hợp, trong cái giai đoạn nào, tu cái gì gì cổ sắp xếp.

Cho nên bây giờ là những cái lúc mà cổ sắp xếp cho các con ly dục ly ác pháp, mà các con ly không có nổi mà cứ đòi hỏi ở cái định Hiện Tại An Lạc Trú để nhập Bốn Thiền, để phá âm thanh, để phá thọ. Trời đất ơi, chưa ly dục mà phá cái đó phá sao nổi?

Cái khối tâm của các con nó nặng hơn cái cục đá xanh ở trên núi, cho nên phải xả cái thứ đó ra đi. Mà xả thứ đó ra thì bây giờ cái tâm của con nó còn như cái bông gòn rồi, thì lúc bấy giờ cái thân của con ăn có một bữa, mai mốt nó không có thèm ăn nữa thì nó mới được chớ, nó mới nhẹ được, thân và tâm nó đều nhẹ hết thì nó phải dễ. Các con hiểu.

Thầy nói như vậy là các con nhớ mà nỗ lực tu tập. Thầy tin rằng mỗi đứa đều tu tập, ngày nào đó mấy con bay lên hư không mà ngồi ở trển chơi. Buổi chiều nào mát mát ở đây các con ngồi ở trển mà chơi cho sướng, ngồi chi dưới đất, nó đâu có mát!

Bởi vì mình tu không phải là mình thị hiện cho người ta coi chơi, nhưng mà khi nào rảnh rang thì mình cũng: “Hồi đó tui tu như vậy, tui cũng thực hiện cho biết cái thần lực của tui như thế nào chớ! Không lẽ mà tui tu rồi tui không thực hiện thần lực?” Bữa nào mình rủ năm, bảy chị em mình bay lên trời mình ngồi thiền, nhập định chơi ở trển một bữa coi, có gì đâu!

(01:15:19) Thì các con làm thử một bữa, thì năm, bảy người mà được rồi bao nhiêu người dưới đất này họ chưa được, họ ráng họ tu, họ tu dữ lắm chớ. Họ đâu có nghĩ cái cuộc đời của họ có ai mà làm được cái điều này đâu, người ta còn hăng hái người ta tu nữa.

Còn nếu các con mà làm chuyện đó không được, họ nói tu cái gì mà tới hai ba chục năm, rồi hai năm, ba năm rồi, trời ơi ngồi đống nào đống nấy y như con cóc, không có ra gì hết, ai mà thèm tu nữa, phải không?

Cho nên mình tu làm sao mà người ta thấy người ta ham tu thì đó là mình làm gương, mình thắp lại cái ngọn đuốc của Phật pháp. Còn mình tu mà không có ra ôn gì hết, thôi người ta cũng thấy chán quá. Tu gì mà hai ba chục năm rồi, nói thì nói cái miệng mà sự thật ra tu chẳng có ra ôn gì hết, thì như vậy làm cái gì?

Còn mình tu làm sao mà hai, ba năm xúm nhau mà ngồi trên hư không, ngồi thiền ở trển: Trời ơi, mấy đứa này sao mà nó ngồi trên mây xanh mà nó ngồi được chớ, không có rớt nữa chớ! Ngồi y là như máy bay bay vậy!

Đó thì tu vậy mới tu chớ các con, mới ham chớ! Thầy nói mấy con tu mà được ngồi vậy thì Phật pháp mình thắp sáng ngọn đuốc hết, không có khó đâu.

Thầy nói không có khó đâu, các con xả hết tâm đi, đừng có ham thích gì thế gian này nữa đâu. Mai mốt chết rồi trôi lăn ở trong lục đạo rồi cũng sanh tử luân hồi kiếp này đến kiếp khác, cũng khổ nhăn răng méo miệng nhau cả đám, có người nào chết mình cũng khóc thấy bà cố mình hết, phải không? Thầy nói có bộ không à?

Thí dụ như bây giờ mẹ Thầy chết Thầy cũng khóc thấy bà chớ bộ Thầy không khóc sao, bộ không thương à? Mà khóc cũng khổ gần chết chớ bộ sướng sao, ngu gì mà cứ khóc!

Chẳng hạn là như Thầy nói, ngày mười hai này Thầy từ giã Thầy đi thì coi bộ mấy con quẹt nước mắt tùm lum hết. Trời ơi, đi chớ bộ chết sao mà khóc! Có không? Cho nên thật sự ra mấy con yếu quá là sợi bún thiu, nghe đụng tới cái nó muốn rớt ra hết, nó không còn dẻo chút nào, mà ăn hết ngon.

5- LINH ĐỘNG TRONG THỜI GIAN TU

(01:17:00) Trưởng lão: Thôi bây giờ thì còn hỏi Thầy gì nữa không? Hỏi thêm thì hỏi đi.

Tu sinh:…​ (Không nghe rõ)

Trưởng lão: Được, tốt thôi, nó có thể tăng lên con, 40 phút cũng không sao hết. Mà nó có thụt xuống, thí dụ thay vì bây giờ con định là 30, 20 phút mà nó có xuống 15 phút cũng được. Tại vì nó tới đó nó lui ra thì mình cứ lui, không có cần.

Bởi vì ngày xưa ông Phật có đồng hồ đâu mà dòm, cho nên ổng chỉ bây giờ nó tu tới đó thì ổng thấy hết, nó hết thì nó ra, thì ổng đi kinh hành chơi, phải không? Mà nó kéo dài thêm được một giờ hai giờ thì ổng cứ mặc tình ổng ngồi. Ngồi mà giải thoát, an ổn thì cứ ngồi, ngồi mà nghe nó bung ra thì cứ đi kinh hành cho nó ớn, nó phải ngồi thôi.

Cho nên đừng có lo cái chuyện đó. Không phải hồi đó mà Thầy mới dạy con là ổn định hơi thở, phải mấy phút, phải đúng chớ gì, đó là ổn định hơi thở, giờ cái giai đoạn nó khác rồi, con sao còn chấp cái chuyện cũ nữa.

Bây giờ hồi nào tới giờ xách cái xe đạp quèn mà nó đi két két um xùm, cả làng xóm người ta nói: “Cái bà sao mà xách xe đạp đi làm cho người ta động xóm hết!” Mà bây giờ mình bỏ cái xe đó rồi mình xách được cái xe gắn máy mình đi nghe im re mà không chịu, lại còn xách cái xe đạp đó đi nữa sao?

Phải không, điên gì mà xách cái đồng hồ đó ngồi mà xem cho nó mệt? Phải không, xả bỏ đi!

6- TÂM THANH THẢN MỚI DỄ TU ĐỊNH HIỆN TẠI AN LẠC TRÚ

(01:18:17) Trưởng lão: Con hỏi Thầy gì?

Tu sinh:…​ (Không nghe rõ)

Trưởng lão: Trong cái vấn đề mà…​ Con ngồi xuống đi, đừng quỳ!

Trong vấn đề tu tập của con thì tu tập như vậy Thầy thấy hiện giờ tu như vậy là cũng tốt chớ không phải không, nhưng mà sau đó thì phải sắp xếp cái thời khóa lại cho nó hẳn hòi đàng hoàng, tùy theo cái sức của mình mà tu.

Còn hiện bây giờ thì đừng có để cái tâm nó buồn bã mà phải cái tâm thanh thản. Thấy cái tâm mình nó có lo lắng, buồn bã một cái gì đó thì phải dùng cái Định Vô Lậu đó, mình phải quét sạch nó ra đi.

Dùng cái định, đặt cái niệm buồn bã đó, coi buồn bã đó là cái niệm. Buồn bã đó là buồn bã cái gì, lo lắng cái gì? Lo lắng đời tu hành của mình, hay lo lắng con cháu, hay lo lắng nghề nghiệp, hay lo lắng chùa xưa, hay lo lắng đồ chúng đang tu hành mà không có người, hay lo lắng huynh đệ của mình không có nơi nương tựa, hay là lo lắng cho cái đời của mình già rồi mà không có thầy, tất cả những cái đó đều đặt trước mặt của mình.

Cái niệm của nó niệm nào, xem mặt của nó như thế nào, quán xét nó như thế nào, thì mình sẽ đập nó xuống đi, sẽ dẹp nó xuống đi. Rồi dùng cái pháp hướng đập cho nó ra khỏi cái tâm của mình, để giúp cho cái tâm của mình nó trở về thanh thản, bất động, để nỗ lực trên con đường tu tập.

Chớ đừng để cho nó buồn. Nó buồn, nó làm cho mình không có ngủ nghỉ được, rồi nó lại buồn làm cho tâm của mình ngồi ức chế nó mà không giải quyết được cái gì. Nó không có đem đến chỗ lợi cho con đâu.

Cho nên bây giờ có cái trạng thái buồn, giận hờn, thương ghét, tất cả những cái này đều là đặt ở trước mặt, dùng cái Định Vô Lậu mà quét sạch, dùng cái quán xét, tư duy để mà đập nó ra hết, không có để trong tâm của chúng ta.

Cho nên chúng ta sống một đời sống thanh thản, tâm bất động thì mới là đúng cái nghĩa của ly dục ly ác pháp của Phật. Rồi từng đó mới tập cái hơi thở để lần lượt tịnh chỉ các hành để mà nhập vào các định thì nó đúng cách.

Cho nên đừng có nghĩ rằng…​ Thầy nghĩ rằng trong hiện giờ các con tuy tuổi lớn nhưng mà có gặp Thầy, có gặp Chánh Pháp, thì nếu mà tu kỹ lưỡng từng cái bước đầu tu như thế nào, cũng như trong cái tập nhật kí của cô An Tịnh viết đây, thì từ khi mà vào đây tu tập thì thường là tu cái Định Niệm Hơi Thở nhiều nhất.

Kế đó sau cái giáo án này thì hầu như là có cái sự thay đổi rất lớn là phải tu đúng vào cái Định Vô Lậu, làm cho cái tâm của mình nó phải ly dục ly ác pháp ra, nó làm cho cái tâm không có buồn khổ, không có giận hờn, trước cái hoàn cảnh nào nó cũng đem đến cho mình có một cái tâm an vui.

Do cái chỗ tu tập như vậy thì cái định Hiện Tại An Lạc Trú tu nó ít lại nhưng mà cái kết quả thấy nó cao hơn.

(01:21:05) Còn hồi trước tu dữ tợn, cứ liên tục lo cái hơi thở, mà tu riết rồi cứ năm, mười hơi thở, cứ đi năm, mười hơi thở, cứ đi, mà mãi thấy hoài mà vọng tưởng nó vẫn còn, mà hôn trầm nó cũng chưa sạch.

Còn bây giờ thì nó có nhiều cái thay đổi, hôn trầm thì nó cũng còn chớ không phải hết, nhưng nó không làm chủ được mình nữa.

Còn về cái phần Hiện Tại An Lạc Trú trong hơi thở thì tu ít nhưng mà chất lượng nó có cao hơn. Nhiếp tâm vô thì hoàn toàn chủ động, không có để một cái niệm mà nó xen vô trong cái hơi thở của mình. Đó, tu ít nhưng mà chất lượng cao.

Và đồng thời thì cái tâm của mình càng ngày trước cái ăn, cái mặc, cái đời sống của mình, nghe coi nó xả xuống rất nhiều, nó thanh thản cuộc sống.

Thì thấy như vậy đó là mình đi dần đến cái con đường giải thoát chớ gì? Nó rõ ràng. Và cứ tiếp tục như vậy là có ngày sẽ đi đến cuối cùng chớ không phải là không đi đến cuối cùng.

Cho nên tu đúng thì chúng ta sẽ thấy con đường chúng ta càng ngày, mỗi ngày chúng ta đều có một cái sự tiến bộ ở trên cái chỗ đó. Nhất là cái Định Vô Lậu mà các con tu đúng rồi ngày hôm nay, ngày mai các con thấy cái tâm của mình thay đổi rồi.

Thay đổi là vì trước cái vật gì nó cũng không có dính mắc, nó cũng không buồn khổ hết. Nó tiết kiệm nước mắt lắm, nó không bao giờ khóc đâu. Bởi vì nó hết cái lậu hoặc rồi, nó không có biết khóc nữa. Mà nó biết cười, nó biết vui chớ nó không biết khổ nữa, nó hết khổ rồi.

Còn trong lúc chúng ta còn cái lậu hoặc thì luôn luôn chúng ta có cái sự khổ đau, có cái sự làm cho tâm chúng ta có lúc vui, lúc buồn, lúc thế này lúc thế khác.

Chúng ta chưa thấy những nghịch cảnh là cái pháp mà giúp cho chúng ta giải thoát được. Mà cái thuận cảnh nó làm cho lớn cái ngã của chúng ta ra. Tưởng là an chớ sự thật chưa an.

Cho nên trong tất cả những cái môi trường, cái hoàn cảnh mà các pháp nghịch đều là những cái pháp tốt cho cái người tu tập giải thoát của đạo Phật, làm cho chúng ta ly được cái tâm dục, tâm ham muốn của chúng ta, và các ác pháp dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn. Chúng ta càng gặp nó nhiều thì tâm chúng ta mau tiến bộ chừng nấy. Mà lâu lâu mới gặp một lần thì tu chậm.

Cho nên muốn cho gặp được nhiều thì cũng khó lắm chớ không phải dễ. Hầu hết là các con mà chuyên tu không, không ai tới thất ai thì chắc chắn là khó gặp cái pháp đó lắm. Còn cái pháp mà người này đi đến thất người kia, người kia đến thất người nọ, thôi chuyên môn mà nói chuyện.

Mà cái người biết tu thì nó giải thoát mau lắm, mà người không biết tu thì nó lôi xuống địa ngục cũng mau lắm. Bởi vì nói chuyện với nhau nó xúm nhau nó lôi đi xuống dưới hết. Cho nên nó cũng là nguy hiểm, nhưng mà cũng được giải thoát. Các con hiểu chưa?

Như vậy là cố gắng để tu cái Định Vô Lậu cho nhiều đi, các con nhớ phải không? Đây là cái giáo trình của Thầy rõ ràng mà. Phật dạy phải tu Định Vô Lậu chớ. Còn định Hiện Tại An Lạc Trú chỉ chẳng qua là chúng ta muốn làm chủ cái thân với muốn bay lên trên hư không mà chơi thôi, cái chuyện đó chuyện về sau.

Cho nên mình đợi mình tu cái này cho xong đi, cái tâm nó bất động rồi thì mặc tình mình muốn ngồi ở trên hư không thì lúc đó mình ra lệnh cái thân mình nó bay lên trển nó ngồi chơi thì cái chuyện đó nó không còn khó nữa.

Còn bây giờ cái tâm của mình nó còn như một cái đống rác ở đây, nó hôi thúi gần chết mà không lo dẹp mà cứ muốn bay trên hư không mà mang cái đống rác trên đó thì bà con ở dưới mình dưới này nó nghe thúi hết trơn!

Phải không? Bởi vì mình đem nó lên trên cao thì mới thúi nhiều ở dưới. Còn mình sạch cái bụng, mình sạch thúi rồi bắt đầu mình bay trển thì nó bay mùi thơm xuống cho người ta nhờ. Chớ còn mình đem cái bụng thúi của mình, mình ngồi trên đầu người ta thì nó khổ người ta chớ sao. Các con hiểu điều đó!

Mà bây giờ cái bụng của mình mang ba cái giận hờn, phiền não, ganh tị, tị hiềm đủ thứ này mà trèo ở trên trời mà ngồi ở trển, thì rải xuống ba cái thứ này đau khổ người ta còn vô cùng vô tận nữa, các con hiểu chưa?

Quét sạch cái này đi rồi cái Định Hơi Thở nó giúp cho các con ngồi trên đó mà ban rải cái hương thơm giải thoát của đạo đức nhân quả, có phải tốt lành không? Chắc chắn là các con sẽ làm được điều đó.

7- NẮM RÕ NHỮNG CÁCH ĐI KINH HÀNH KHÁC NHAU

Tu sinh:…​ (Không nghe rõ)

(01:24:56) Trưởng lão: Bây giờ Thầy xin trả lời. Khi mà tu rồi, thứ nhất là thấy cái cơ thể - Thầy có giảng rồi đó các con - thấy cơ thể mình mệt nhọc thì mình thư giãn, mình đi kinh hành thư giãn. Thư giãn làm cho nó trở về với cái trạng thái an ổn mà cái thân và tâm nó khỏe khoắn trở lại.

Còn nếu mình mà đi kinh hành mình cứ ghìm ghìm cái tâm mình, cứ cột ở dưới chân mình hoài để cho nó tập trung nó biết, hay hoặc là như đi kinh hành để phá hôn trầm thì cái đó lại càng làm cho chúng ta mệt nữa.

Cho nên ở đây đi kinh hành thư giãn nó khác, mà đi kinh hành tu Chánh Niệm Tỉnh Thức khác, mà đi kinh hành tu cái tâm từ của chúng ta, ban rải lòng thương yêu chúng ta với chúng sanh khác, mà đi kinh hành phá hôn trầm thùy miên nó khác. Nó có những cái loại đi kinh hành, nhưng mà phải hiểu cho rõ những cái loại đi kinh hành đó.

Thì trong khi đó chúng ta tu tập, bây giờ chúng ta ngồi thiền nãy giờ nó mệt mỏi quá rồi, bây giờ xả ra nó mệt, bây giờ mình đi kinh hành mình thư giãn, như một người đi vô sự mà nhàn du, họ đi du ngoạn chơi vậy chớ họ không có cái gì bận rộn, thì cái đó, lúc đó là đi kinh hành thư giãn.

Cho nên phải nắm rõ những cái pháp mà kinh hành thư giãn, thì lúc bấy giờ hễ cơ thể mệt nhọc thì con nên sử dụng đi kinh hành thư giãn. Mà cơ thể nó khỏe khoắn, nó không có gì hết thì con đi kinh hành tu Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Mà con thấy thân tâm con nó khỏe mà con muốn tu tập thêm cái đi kinh hành để mà trau dồi cái tâm từ của mình, cho nên mình đi mình tập trung mình nhìn xuống dưới chân để mình gieo cái lòng thương yêu của mình đối với chúng sanh, mình không đạp, không làm hại chúng sanh thì cái đó là khác nữa.

Cho nên mỗi cái nó đều có giúp chúng ta có sức tỉnh thức hết, nhưng mà cái sức tỉnh thức đó nó nằm ở trong cái pháp môn để tu, mà pháp nào nó ra pháp nấy, nó không sai. Đó phải hiểu.

Lời Thầy dạy mà các con tu đúng thì kết quả đem đến các con thấy, bữa nay ngày mai thì thấy nó thành tiên rồi, ngày mốt thì thành Phật mất rồi, nó không còn thời gian lâu.

Tức là tu Tứ Vô Lượng Tâm, (tâm) từ.

8- ĐẶT NIỆM TRONG YÊN LẶNG MỚI CÓ TRI KIẾN GIẢI THOÁT

(01:26:47) Về cái phần Định Vô Lậu, dường như là các con cũng lợi dụng mình đi kinh hành tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức hoặc là đi kinh hành thư giãn bắt cái đầu óc mình suy nghiệm. Bây giờ nó có cái gì buồn phiền thì mình đặt cái niệm vừa đi mình vừa suy ngẫm.

Thật ra thì trong cái động mà suy ngẫm thì suy ngẫm cũng tuyệt vời lắm chớ không phải không đâu. Vừa đi kinh hành mà cũng là vừa suy ngẫm một cái chuyện để phá vỡ thì cũng rất tốt, nhưng nó không có đúng cái cách của cái sự tu tập theo đạo Phật.

Tại sao vậy? Tại vì đạo Phật dạy chúng ta là phải ngồi kiết già lưng thẳng rồi đặt cái niệm. Từ cái niệm yên lặng, cái thân mà nó yên lặng rồi, cái thân yên lặng để…​ bây giờ thí dụ như con suy ngẫm, con vừa đi con suy ngẫm, thì cái thân con lúc nào nó cũng bị động, nó động đi.

Cho nên cái tri kiến của con thì có, cái tri kiến thuở giờ mà con hiểu biết cái này kia, con quán xét nó cũng làm cho con ly cái tâm thương ghét của con, nó làm cho con giảm bớt cái lậu hoặc, nhưng con không khai triển nổi cái tri kiến giải thoát, nó có cái tri kiến.

Bởi vì cuộc đời con nó có nhiều cái bài học ở trong cuộc đời, nó làm cho con muốn an thì con phải có một sự hiểu biết. Cái sự hiểu biết đó mới giúp cho con để con tự cứu con, làm cho an.

Cho nên bây giờ con vừa đi thì cái tri kiến của con nó sẽ phóng ra, nó cũng suy nghĩ cái điều đó. Rồi một số mà mình đã học, hiểu được Phật pháp, thì cái đó là cái tri kiến của mình, nó mới hiện ra làm cho con phá đi cái tâm lậu hoặc của mình.

Nhưng nó không phải đúng cách của Phật. Đạo Phật muốn làm sao mà chúng ta phóng ra những cái tri kiến giải thoát, cái điều đó là điều quan trọng.

Nhưng mà muốn phóng ra được cái tri kiến giải thoát thì buộc lòng cái người đó thân phải ngồi kiết già lưng thẳng, mà trong cái cảnh tịch mịch, yên lặng, không có một tiếng động, vắng vẻ. Bởi vì Phật mới dạy “thân chuyên nhất cảnh”, cái thân của mình phải chuyên nhất vào một cái cảnh yên lặng.

Rồi từ cái cảnh yên lặng đó mình mới đặt cái niệm đó để cho cái pháp quán nó bắt đầu, cái tri kiến giải thoát mình phóng ra, nó quán xét một cái đối tượng, một cái pháp mà nó làm cho cái tâm mình đang bị lậu hoặc đó, nó phóng ra, bắt đầu nó quét sạch tất cả những lậu hoặc đó ra bằng cái tri kiến giải thoát mà không phải bằng cái sự vay mượn.

(01:28:54) Còn bằng cái vay mượn của những cái tri kiến thì vay mượn của những cái hiểu biết từ lâu - cuộc đời con đã từng trải thì nó có cái sự hiểu biết của cuộc đời để cho nó giải quyết cho mình những cái tâm của mình không còn buồn phiền nữa, nhưng nó không thật là cái tri kiến giải thoát của con.

Mà chính con phải đào sâu và triển khai nó bằng một ngày một đêm ít ra con cũng phải bỏ một thời tu cái Định Vô Lậu. Chọn một cái giờ nào đó, con phải khoanh chân ngồi kiết già, tỉnh táo đặt niệm.

Mới đầu thì nó không phóng nổi đâu, nhưng mà hằng ngày mình cứ cố gắng mình tu tập rồi mình đặt niệm, có một ngày nào đó nó phóng. Nó phóng được ra rồi nó sẽ có những cái trí tuệ rất là siêu việt để nó cứu con, và đồng thời nó quét sạch các lậu hoặc, nó ly dục ly ác pháp trong tâm con, con mới chứng đạt được cái Sơ Thiền là nhờ cái tri kiến giải thoát đó.

Con nhớ như vậy, thì mỗi một ngày một đêm ít ra con phải chọn 30 phút hay là 20 phút ngồi thiền tu cái Định Vô Lậu, chớ không được đi kinh hành mà tu cái Định Vô Lậu. Nhớ chưa? Nhớ rồi thì như vậy là đủ rồi phải không?

HẾT BĂNG

57 - DỰ THẢO TRUNG TÂM AN DƯỠNG - DẶN DÒ SAU 3 THÁNG HẠ

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 57 - DỰ THẢO TRUNG TÂM AN DƯỠNG - DẶN DÒ SAU 3 THÁNG HẠ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- ĐỊNH VÔ LẬU LÀ QUAN TRỌNG NHẤT CHO NGƯỜI MỚI TU

(00:00) Bây giờ Thầy xin nhắc lại. Trên cái vấn đề tu tập để nối tiếp cái bài học vừa rồi, thì cái Định Vô Lậu là cái định rất là quan trọng cho cái bước đường cái người mới tu, chớ không phải cái định Hiện Tại An Lạc Trú, Bốn Thiền đâu.

Mà khi cái tâm mà chúng ta đã tu nó vô lậu thì nó mới thanh tịnh, nó mới ly dục ly ác pháp được. Mà khi nó ly dục ly ác pháp được thì chúng ta mới tiến tới tu cái định Hiện Tại An Lạc Trú nó dễ dàng lắm, nó không còn khó nữa.

Cho nên hầu như chúng ta đọc lại những cái gương hạnh của các bậc Thánh Tăng và Thánh Ni thì chúng ta thấy rất rõ. Họ tu chỉ cái lậu hoặc họ hết, cái tâm họ ly dục, ly ác pháp được thì Tam Minh họ thành tựu rất là dễ dàng, không còn khó nữa.

Cho nên ở đây quý thầy nhớ, khi mà rời khỏi Thầy thì nỗ lực tu cái Định Vô Lậu. Tu cho nó đúng, hằng ngày phải siêng năng đặt cái niệm đó để quét sạch những cái tâm tham ái, những cái tâm ham muốn của mình, những cái tâm phiền não giận hờn của mình.

Quý thầy không thấy chứ từ cái vật nhỏ, vật lớn mà Thầy nhìn qua cái sự kiện Thầy thấy, một cái người mà quyết tâm tu, người ta độc cư người ta sống trầm lặng thì người ta giữ trọn được, thì từ đó cái quen sống trầm lặng đó thì nó đi dần đi đến cái chỗ ly dục ly ác pháp.

Bởi vì cái tâm dục của chúng ta nó muôn hình muôn vạn lận chớ nó không phải là ít. Do vì vậy mà chúng ta chỉ có cái cuộc sống độc cư, cái cuộc sống trầm lặng thì nó tuần tự nó sẽ quét ra hết. Chớ còn…​

Rồi lần lượt chúng ta cũng phải tập, chúng ta siêng tập những cái Định Vô Lậu, tập những cái Định Sáng Suốt, tập những cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, đó là những cái mà chúng ta cần thiết.

Do vì vậy mà chúng ta tập rồi chúng ta sống cho đúng những cái giới hạnh, lần lượt nó sẽ thuần thục và nó quen đi. Mà nó thuần thục, nó quen đi thì quý thầy sẽ thấy rằng chúng ta ly dục ly ác pháp được.

Mà ly dục ly ác pháp được rồi thì cái cuộc sống của chúng ta thấy nó thanh thản làm sao, nó khác lạ hơn là cái cuộc sống mà còn ở trong dục lạc. Từ đó chúng ta mới thấy được cái chỗ mà Phật gọi là ly dục ly ác pháp sanh hỷ lạc. Còn bây giờ chúng ta chưa ly được thì chúng ta chưa thấy cái trạng thái hỷ lạc của ly đâu.

Cho nên ráng cố gắng, khi xa Thầy thì đem cái định này tu nhiều. Chứ từ lâu tới giờ là hầu hết người ta đã hiểu sai, người ta cứ cố gắng người ta ức chế tâm mà người ta không chịu ly.

Bởi vậy cho nên lấy giới luật mà tu đầu là bắt buộc cái thân và tâm của chúng ta sống ở trong khuôn khổ của giới luật để cho nó quen, nó thuần lần. Và đồng thời chúng ta có những cái định mà chúng ta tu để cho chúng ta sống trọn được ở trong cái giới luật của Phật.

Còn nếu mà không có những cái định như cái Định Vô Lậu, cái Định Chánh Niệm Tỉnh Thức, cái Định Sáng Suốt thì chúng ta không sống được ở trong giới luật được.

Thì quý thầy nhớ rằng chúng ta hãy đem những cái định đó mà chúng ta nỗ lực thực hiện để chúng ta sống trọn vẹn ở trong giới luật. Và giới luật là một vị thần hộ mệnh cho chúng ta.

(03:03) Cho nên ở đây thì Thầy nhắc lại để cho chúng ta cố gắng chúng ta thực hiện con đường tu tập cho nó rốt ráo.

Còn cái định Hiện Tại An Lạc Trú thì quý vị chỉ cần ổn định cho được cái hơi thở là tốt nhất rồi. Rồi tới chừng đó thì khi mà tu được vô lậu rồi, thì cái tâm của quý vị ly dục ly ác pháp rồi, thì quý vị chỉ cần hướng tâm nhắc nó tịnh chỉ.

Phật đã dạy bây giờ mình muốn nhập Sơ Thiền thì mình cần phải tịnh chỉ cái gì, rồi mình nhập Nhị Thiền tịnh chỉ cái gì, mình nhập Tam Thiền tịnh chỉ cái gì, mình nhập Tứ Thiền tịnh chỉ cái gì, thì mình dùng cái pháp hướng mình cứ ngay cái chỗ đó mình gọi nó, tịnh chỉ cái đó.

Thì trong khi cái tâm mà tịnh rồi thì chúng ta ra lệnh thì nó sẽ tịnh chỉ. Chớ đâu phải ngồi đó ức chế tâm hay hoặc là rèn luyện hơi thở cho nó chậm, cho nhẹ đến mức nào đâu, đâu cần!

Đó là những cái kinh nghiệm mà trải qua một cái thời gian tu tập của Thầy và Thầy biết rất rõ.

Bởi vì chúng ta biết cái định nào nó sẽ tịnh chỉ cái gì, trong kinh Phật cũng đã dạy cái điều đó rồi. Mà bây giờ chúng ta có cái pháp hướng Như Lý Tác Ý để nó tác ý ra cái chỗ đó để nó ngưng thì chúng ta mới tịnh chỉ nó, thì lúc bấy giờ chúng ta mới làm cho nó ngưng được.

Đó là những cái bí quyết, những cái thành công ở trên con đường tu tập theo đạo Phật. Nhưng đầu tiên là chúng ta phải tu tập để cho cái tâm chúng ta thanh tịnh, đừng có theo dục, đừng có theo ác pháp. Cái chuyện nho nhỏ thôi mà nó cũng xảy ra những cái ác pháp làm cho tâm chúng ta phiền não.

Thầy nói đơn giản như trong chúng chúng ta đây, sau cái thời gian có những cái cuộn băng Thầy giảng, ôi thôi cái này nó còn bận tâm nữa, đâu phải chúng ta ngồi nghe hát? Phải không, các thầy cứ nhớ rằng chúng ta nghe đây để mà nắm được cái yếu điểm nào mà chúng ta tu tập cho mình.

Đi tu rồi tới cái bát người ta còn xả, còn mình bây giờ mua băng, mua máy, mua này kia, năm, sáu chục cuộn băng này để cứ rỉ rả rỉ rả mà nghe Thầy ca thì thôi thôi, chắc cái kiểu đó cũng như chúng ta đi mua cái băng hát của mấy cô đào ở ngoài kia để nghe còn sướng hơn!

Mà còn nghe hay hơn nữa, nó còn ngọt ngào hơn nữa, cái giọng còn cao, gặp cái giọng của ông thầy bệnh đau này cứ ho khẹt khẹt hoài, có hay ho thứ gì đâu, phải không? Các thầy thấy rõ ràng mà. Vậy mà cứ mua để mà cứ nghe thì Thầy ôi thôi chết rồi!

Cho nên ở đây chúng ta nghe là mục đích chúng ta nắm cho được cái yếu điểm nào đó để mà chúng ta thực hiện con đường tu, còn bao nhiêu chúng ta xả hết.

Đi tu rồi mà mang giống một cái kè như vầy là hai, ba chục cái cuộn băng, thử hỏi…​ Quảy một gói vô trong rừng đặng mà ngồi nghe thì thôi, nghe mà khỉ nó kêu còn hay hơn là nghe Thầy hát! Phải không, các thầy biết.

Cho nên dẹp hết đi, dẹp hết đi, đừng có nghe, đừng có nghe nữa, mà hãy giữ gìn, thứ nhất là như thế nào: Ăn nè, ngủ nè, độc cư nè, phải không, phải đúng không? Rồi tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng nè.

Mà hở hở ra bây giờ quý thầy thấy, trong thời gian này quý thầy có nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng được không? Chút chút mở mấy cuộn băng không mà Thầy thấy cũng không nhẫn nhục gì được hết. Cho nên tu rồi nhìn lại mới thấy thiệt là thế gian là thế gian, cái tâm thế gian hồi nào nó cũng còn hồi nấy!

Cho nên nghe lời Thầy mà xả đi, bỏ đi để cho nó giải thoát, để cho cái tâm mình nó an ổn.

2- DỰ THẢO PHƯƠNG ÁN THÀNH LẬP TRUNG TÂM AN DƯỠNG TỪ THIỆN CHƠN LẠC

(05:58) Bây giờ đó, có một thầy xin Thầy nghe cái dự thảo phương án thành lập trung tâm an dưỡng từ thiện, Thầy cũng sẽ đọc lại cho nghe để biết rằng cái ước vọng của Thầy làm cái đó là để làm cái gì đây, có ích lợi gì.

Có thầy xin được nghe phương án thành lập Trung tâm an dưỡng từ thiện Chơn Lạc, Thầy xin đọc lại cái phương án ấy cho quý thầy nghe. Đó là một ước vọng của Thầy đem đạo đức nhân quả của đạo Phật vào đời, mưu cầu lại hạnh phúc cho loài người trên hành tinh này.

Nhưng ước vọng này chưa thành, chắc chắn chúng sanh chưa có hữu duyên, sau này mới có cơ duyên thành hình dưới nhiều hình thức khác nhau chớ không phải như ở phương án này nữa. Miễn làm sao đạo đức nhân quả được vào đời thì hạnh phúc cho con người biết là bao!

Ở đây chỉ là một phương án nhỏ để đem đạo đức của đạo Phật dạy con người trong thời đại hiện tại này mà thôi.

Nghĩa là cái phương án này mà nó đem vào đời, nó cũng tùy theo cái hoàn cảnh để mà đem cái đạo đức đó chớ không phải là cái gì khác hơn hết.

Cho nên khi mà Thầy đọc thì quý thầy thấy đây là tùy cái hoàn cảnh mà thành lập cái dự thảo phương án này, cái mục đích chính của nó là đem cái đạo đức nhân quả vào đời để dạy người ta biết làm lành, tránh những cái điều dữ để tạo cái phước báu cho họ mà chính bàn tay và khối óc của họ chớ không phải ai khác hơn hết.

Thầy xin đọc lại dự thảo phương án thành lập trung tâm an dưỡng:

*

Phương án thành lập Trung tâm an dưỡng từ thiện Chơn Lạc.

Thay mặt ban sáng lập: Thượng tọa Thích Thông Lạc

MỤC LỤC

1. Nhận định tình hình

2. Mục đích

3. Tổ chức điều hành

4. Phương thức hoạt động

5. Nguồn vốn

6. Điều kiện an dưỡng

7. Kế hoạch chi phí ăn ở trong thời gian an dưỡng

8. Các giai đoạn thực hiện

9. Kết luận

Đó là cái mục lục, nó có 9 cái phần của nó.

(08:11) Bây giờ phần một của nó đó là:

1. Nhận định tình hình

Đây thì Thầy sẽ đọc cái phần một:

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, đất nước thân yêu của chúng ta đã gánh chịu biết bao nhiêu mất mát đau thương mà hậu quả cho đến giờ sau gần 20 năm hòa bình, những vết thương của chiến tranh còn chưa hàn gắn hết được.

Bao nhiêu người con của Tổ quốc đã hy sinh tính mạng, bao nhiêu người đã không còn lành lặn, bao nhiêu người mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, v.v…​ những hy sinh vô giá đó làm sao đền đáp được!

Những người tu sĩ Phật tử cũng là những người con nước Việt, khi đất nước bị ngoại xâm đã phải gác sự tu hành của mình để cùng toàn dân tham gia kháng chiến. Nay được sống, được yên ổn tu hành trong hòa bình, đó là niềm hạnh phúc lớn lao.

Chúng tôi suy nghĩ phải làm gì để đóng góp trí tuệ, công sức của mình trong chương trình xóa đói giảm nghèo của chính phủ. Vì vậy việc thành lập Trung tâm an dưỡng từ thiện dành riêng cho cha mẹ liệt sĩ, thương binh, người có công với Tổ quốc, trẻ em mồ côi và các tu sĩ là việc làm thiết thực, hợp với đạo và đời.

Đó là nhận định cái tình hình để mình giới thiệu cái phương án này.

2. Mục đích

Trung tâm an dưỡng nhằm mục đích tạo mọi điều kiện giúp đỡ cho cha mẹ liệt sĩ, các cán bộ hưu trí, thương binh và các tu sĩ có nơi an dưỡng thanh tịnh, hưởng được không khí tốt lành thoáng mát, thường xuyên được chăm sóc sức khỏe, hằng ngày được hướng dẫn tập dưỡng sinh, tọa thiền để tăng cường khí lực, có nơi vui chơi giải trí hòa nhịp với cảnh trí thiên nhiên đẹp, môi trường trong lành.

Bên cạnh đó Trung tâm an dưỡng sẽ thu nhận trẻ em mồ côi, khuyết tật để nuôi dạy nghề, tạo điều kiện cho các cháu trở thành những công dân có ích cho xã hội.

Trung tâm giúp mọi thành viên trong khu an dưỡng sống trong tinh thần cùng nhau vui sống, cùng nhau nói lời hòa hợp, cùng nhau góp ý kiến xây dựng, cùng nhau trao đổi những điều hay biết, cùng nhau giữ gìn pháp luật, giới luật, đức hạnh, cùng nhau đồng hưởng những niềm vui.

(10:47) 3. Tổ chức và điều hành

Trung tâm thành lập với tên Trung tâm an dưỡng từ thiện Chơn Lạc.

Trung tâm nằm trên một khu đất với diện tích hơn 4 hecta thuộc xã Phước Hải, huyện Long Đất, tỉnh Bà Vịa - Vũng Tàu. Phía trước là biển Đông, bên phải là khu di tích lịch sử Minh Đạm, bên trái là ruộng lúa, sau lưng là núi.

Trước đây là chủ sở hữu của tịnh thất Chơn Lạc đã và đang canh tác trồng cây, gây rừng, tạo nên cảnh quan thơ mộng, thiên nhiên đẹp, không khí trong lành, mát mẻ nhờ gió biển và rừng cây. Nơi đây rất phù hợp cho việc an dưỡng, chữa bệnh và tịnh tâm, hơn nữa lại gần khu du lịch, gần đường giao thông.

Toàn Trung tâm được chia làm 12 khu vực:

- Khu A1, A2 dành cho cha mẹ liệt sĩ, dành cho cán bộ thương binh.

- Khu B1, B2 dành cho những người nghèo.

- Khu C1, C2 dành cho tăng và ni tịnh tâm.

- Khu vực khám bệnh và điều trị bằng Đông -Tây y.

- Khu vực tập dưỡng sinh cho tất cả thành viên trung tâm.

- Khu làm việc của ban điều hành trung tâm.

- Khu nhà ở của nhân viên phục vụ.

- Khu nhà ăn tập thể.

- Khu vui chơi giải trí.

- Khu nhà khách.

- Bãi đậu xe và nhà kho.

(12:24) Chức năng của các khu vực như sau:

- Khu A1: Dành cho sinh hoạt của các cha mẹ liệt sĩ, các gia đình thương binh, cán bộ. Khu này được xây dựng thành từng gia đình nhỏ gọn, đẹp, xung quanh có vườn hoa.

- Khu A2: dành cho cán bộ thương binh độc thân. Khu này tổ chức theo lối sống tập thể, nam nữ biệt lập.

- Khu B1: dành cho những người nghèo. Khu này xây dựng thành các tiểu gia đình, xung quanh có vườn cảnh.

- Khu B2: dành cho những người nghèo độc thân. Khu này tổ chức theo lối sống tập thể, được chia thành hai khu nam và nữ để sinh hoạt.

- Khu vực dành cho các vị tăng. Trong khu có nơi sinh hoạt chung và nơi dành riêng để tịnh tâm của tăng và ni.

- Khu khám bệnh điều trị bằng Đông - Tây y cho các thành viên toàn trung tâm. Ngoài việc chữa bệnh còn kiểm tra vệ sinh ăn uống, dành riêng một khu đất để trồng các loại cây thuốc.

- Khu tập thể dưỡng sinh. Được lót bằng đá granit phẳng, chia làm hai. Một có mái che rộng để tránh mưa, một không mái để tập y võ sinh, dưỡng sinh và thể dục.

- Khu vực làm việc cho ban điều hành toàn trung tâm gồm có: Văn phòng trưởng ban trung tâm, văn phòng phó ban trung tâm, phòng tổ chức hành chính, phòng họp, ban điều hành.

- Khu nhà ở cho nhân viên trung tâm được xây cất để phục vụ gồm: Nhà ở trưởng ban, nhân viên y tế, nhân viên phục vụ bếp, nhân viên phục vụ khách.

- Khu nhà ở được chia như sau: Một khu ăn chay dành cho chư tăng, chư ni, cư sĩ đến khất thực. Một khu nhà ăn dành cho cha mẹ liệt sĩ, cán bộ hưu trí và thương binh. Một nhà ăn dành cho nhân viên toàn trung tâm.

- Khu vui chơi giải trí được xây dựng dựa theo hình thể thiên nhiên, cải tạo thành hồ cảnh, non bộ, các thắng tích lịch sử thu nhỏ, các khu vườn sinh học cho các thành viên trung tâm thực hiện, như khu hoa kiểng, phong lan, bonsai, non bộ, khu vực trồng các loại cây quý hiếm như nhân sâm, linh chi, v.v.. Một khu vườn ươm cây để trồng tạo cảnh đẹp toàn trung tâm.

- Khu nhà khách xây dựng gần trung tâm dùng để tiếp khách từ trung ương và các tỉnh thành, các vị tu sĩ Trung ương giáo hội, v.v.. về an dưỡng trong thời gian ngắn ngày. Khu này có phòng riêng cho tập thể và gia đình.

- Ngoài ra trung tâm còn có một bãi đậu xe du lịch 4 đến 15 chỗ ngồi, bãi đậu xe tải và xe khách cùng một nhà kho chứa nguyên liệu, chất đốt, dụng cụ và lương thực thực phẩm.

(15:29) - Tình nguyện điều hành toàn trung tâm là những Phật tử thuần thành, có nhiều uy tín và kinh nghiệm tổ chức từ thiện xã hội, được chính quyền chấp nhận.

- Thành phần ban điều hành gồm có một trưởng ban, một phó ban điều hành, một kế toán trưởng, một thủ quỹ, một thư ký.

- Giúp việc cho ban điều hành gồm có các phòng ban sau: Phòng tổ chức và hành chính quản trị, phòng y tế, phòng khoa học kỹ thuật, ban an sinh.

4. Phương thức hoạt động

Trung tâm an dưỡng từ thiện Chơn Lạc là một chỗ tổ chức có tư cách pháp nhân được Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và huyện Long Đất, xã Phước Hải ra quyết định thành lập và cấp giấy phép hoạt động. Được hạch toán độc lập, có con dấu riêng, được mở tài khoản ở các ngân hàng, được phép nhận các nguồn bảo trợ trong tinh thần từ thiện xã hội.

5. Nguồn vốn

Nguồn vốn của trung tâm do các Phật tử cùng các nhà hảo tâm đóng góp.

6. Điều kiện an dưỡng

Các cán bộ hưu trí, thương binh, cha mẹ liệt sĩ và những người nghèo được Ủy ban nhân dân Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, huyện Long Đất, xã Phước Hải giới thiệu, những vị tu sĩ được Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Giáo hội cấp tỉnh thành giới thiệu.

Thời gian an dưỡng: Trung tâm tổ chức an dưỡng theo hai dạng: Dạng ngắn ngày từ một tuần đến một tháng, từ một tháng đến ba tháng, từ ba tháng đến sáu tháng; dạng dài ngày từ sáu tháng đến một năm, từ một năm đến hai năm. Trường hợp đặc biệt sẽ được ban điều hành trung tâm xét và chấp thuận cho phép được an dưỡng lâu hơn.

7. Các giai đoạn thực hiện

Giai đoạn một: Quy hoạch và phân khu chức năng các khu theo dây chuyền tổ chức và quản lý của trung tâm, xây dựng hệ thống cấp thoát nước, điện, xây dựng các nhà cho ban điều hành và nhân viên trung tâm, xây dựng các đường vận chuyển trong trung tâm, xây dựng khu nhà bếp, nhà ăn, nhà vệ sinh.

Giai đoạn hai: Xây dựng các khu an dưỡng, xây dựng khu vui chơi giải trí.

Giai đoạn ba: Xây dựng khu nhà khách, xây dựng khu vui chơi giải trí, trồng hoa cảnh toàn trung tâm.

8. Kết luận

Chúng tôi là những người Phật tử được sống an ổn trong đất nước thanh bình và tạm đầy đủ, muốn thể hiện tinh thần đền ơn đáp nghĩa đối với những cha mẹ liệt sĩ, những người có công với Tổ quốc.

(18:08) Đó là phần cái dự thảo phương án của Thầy như vậy. Đó là cái mục đích để khi mà được thành hình thì cái điều kiện tiên quyết mà Thầy làm, tức là sau những người mà đến ở đó an dưỡng thì được Thầy hướng dẫn cho họ trong những cái buổi thuyết giảng nói về đạo đức nhân quả.

Thầy không nói về thiền mà cũng không nói về Phật giáo như thế nào hết, nhưng mà nói về những cái ác, cái thiện để cho mọi người người ta biết, người ta thực hiện, người ta đem lại cái đời sống an lành và hạnh phúc cho mọi gia đình.

Sau một cái thời gian như từ nửa tháng cho đến một tháng ở trung tâm, khi họ về thì chắc chắn là cái gia đình đó được nghe những cái bài giảng về đạo đức nhân quả thì họ sẽ mang lại cái hạnh phúc cho toàn gia đình của họ, và đối xử với xóm làng của họ rất là có những cái trật tự, cái an ninh, làm cho mọi người đều vui với nhau.

Đó là cái ước vọng của Thầy là đem cái điều đó để đem lại cái hạnh phúc cho con người. Nhưng vì bây giờ tuổi già sức yếu rồi, không thể thực hiện được, cho nên cái này Thầy chỉ ủy thác lại sau này cho các thầy còn tuổi trẻ hãy cố gắng mà đem (dạy) cái đạo đức nhân quả.

Từ những cái tôn giáo nào nó cũng có cái đạo đức, nhưng cái đạo đức của đạo Phật thì người ta làm như người ta không thấy cái đạo đức của đạo Phật. Vì vậy mà hầu hết có một số các thầy tu sĩ của Phật giáo cũng như các tổ, người ta luôn luôn đem cái đạo đức của Nho giáo mà dạy ở trong các chùa.

Thầy có đọc cái bộ sách của các tổ viết đó là Thiền Lâm Bảo Huấn, cái lời dạy đạo đức ở trong đó hầu hết là đạo nho chớ không phải là đạo Phật.

Vì vậy mà Thầy thấy các vị Tổ này đều là những người tu sĩ của đạo Phật mà sao lại không thấy cái đạo đức của đạo Phật dạy con người, mà lại lấy cái đạo đức của một cái tôn giáo khác viết thành một cái bộ sách như vậy để mà dạy những người tu sĩ của chúng ta phải hành theo cái đạo nho, hành cái đạo đức theo đạo nho? Cho nên Thầy lấy làm rất là ngạc nhiên.

(20:29) Không phải đạo Phật không có đạo đức, có đạo đức chớ, nhưng tại sao chúng ta không chịu khai triển nó ra?

Vì hẳn hòi chúng ta đã thấy cái lộ trình thứ nhất mà Đức Phật đã dạy cho cái người cư sĩ rất là tỉ mỉ, rất là rõ ràng, và đạo Phật đã đứng ở trên cái nhân quả để mà xây dựng cái giáo pháp của mình.

Do vì vậy thì chúng ta biết rõ ràng là cái đạo đức của đạo Phật là cái đạo đức nhân quả, cái đạo đức giải thoát thật sự, vì mình có làm điều thiện thì mang đến cái phước báu cho mình rất rõ, tại sao không triển khai?

Nếu mà từ xưa đến giờ mà quý Hòa thượng, quý thầy mà hiểu được như thế này, triển khai ra thì bây giờ chúng ta có một cái đạo đức rất là tốt đẹp vô cùng, và bây giờ dân tộc của chúng ta cũng thấm nhuần cái đạo đức đó rất là sâu.

Cho nên người ta chỉ thấm nhuần với những cái hành động nho nhỏ của cái đạo đức nhân quả này.

Thầy xin nhắc lại, một đứa con nó bắt một con kiến hay con dế, rồi nó nắm nó quay để cho con dế chóng mặt đi, rồi thả xuống cho hai con dế cắn đi, hay hoặc là nó chơi một hơi nó ngắt chân ngắt cẳng con dế đi, thì người mẹ nói: “Con đừng có chơi như vậy, con chơi như vậy tội đọa địa ngục chết!”

Thì người ta chỉ biết cái nhân quả có bấy nhiêu đó thôi à, người ta hù dọa đứa nhỏ cho nó sợ, cho nó đừng có làm đau khổ con vật thôi. Chớ người ta không có triển khai ra được cái đạo đức nhân quả: Như thế nào là đem đến một cái quả khổ, như thế nào là đem đến cái sự an vui.

Mà người ta chỉ biết là: “Con đừng có làm vậy đọa địa ngục, chơi như vậy là ác lắm!” Người ta chỉ biết nói như vậy thôi, chứ người ta chưa có biết giảng ra cái đạo đức của đạo Phật như thế nào.

Cho nên Thầy thấy rằng cái nhiệm vụ của người tu sĩ Phật giáo hiện giờ là chúng ta phải triển khai cái đạo đức nhân quả, để dạy cho con người là cái trách nhiệm rất lớn cho chúng ta, làm cho con người có đạo đức đó, và làm cho cái xã hội được trật tự an ninh vì người ta đã hiểu được nhân quả.

3- LỜI DẶN DÒ SAU BA THÁNG AN CƯ KIẾT HẠ

3.1- TẬP HỢP VỚI NHAU ĐỂ CÙNG SỐNG PHẠM HẠNH

(22:32) Bây giờ thì chúng ta đã được nghe qua cái dự thảo phương án và được nghe qua sơ sơ về cái ích lợi khi mà cái đạo đức của đạo Phật, tức là đạo đức nhân quả được đem ra giảng dạy cho mọi người thì đem lại ích lợi. Nhưng hôm nay là cái ngày - chúng ta cũng sẽ thấy rằng:

Ngày 12 tháng 7 năm Đinh Sửu nhằm ngày 14 tháng 8 năm 1997 dương lịch.

Sau ba tháng an cư kiết hạ, thầy trò chúng ta gặp nhau thường trao đổi những kinh nghiệm tu hành, và ngày ngày được nghe Thầy thuyết giảng, dựng lại các pháp môn của Đức Phật đã dạy cách đây 2540 năm.

Hơn 20 thế kỷ, từ người xưa đến người nay đã nối tiếp nhau thắp ngọn đuốc của Phật pháp để cho nó sáng mãi mãi và trường tồn với con người trong thời gian. Nhưng ánh sáng Phật giáo này là một Phật giáo kiểu mới, không phải là Phật giáo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Giáo lý thật sự là giáo lý của Đức Thích Ca Mâu Ni, nhưng người sau họ đã biến giáo lý này thành những môn học, không còn là những môn tu, cho nên họ lấy đó để cầu danh, cầu lợi, để đạt được cấp bằng của những giáo lý này, thay vì giáo lý của Phật để dạy người tu tập giải thoát khỏi cảnh trầm luân đau khổ của thế gian.

(24:18) Thế mà con người không hiểu rõ lại chồng thêm một lớp danh lợi của Phật giáo lên trên cái lớp danh lợi của thế gian nữa. Phật giáo cũ…​

Nghĩa là Phật giáo nguyên thủy.

…​thì bỏ xuống hết.

Nghĩa là mọi cái thứ gì cũng đều buông xuống hết.

Còn Phật giáo mới thì đã không buông xuống mà lại còn chồng thêm, lấy thêm cái giáo điều, cái giáo lý của Phật làm cái danh, cái lợi của mình.

Do vậy, sau những buổi thuyết giảng Thầy đã quá thẳng tay đập mạnh, làm cho các thầy ngồi nghe quá sợ hãi và khiếp đảm trước một lực lượng tu sĩ Phật giáo hiện giờ quá đông đảo và có thế lực.

Còn riêng Thầy, với một tu sĩ tầm thường, thân hình thì ốm yếu, nhỏ nhoi chẳng có gì đáng kể, thế mà dám rống lên tiếng rống sư tử để dựng lại Phật giáo với một số đồ chúng nhỏ nhoi ít ỏi.

Không thế lực thì làm sao dựng lại nổi? Hay đây là một hy vọng hão huyền, một giấc mơ tốt lành, và giấc mơ ấy chẳng bao giờ thực hiện được? Tiếng rống sư tử này không khéo sẽ thành tiếng chó sủa ma trong đêm vắng!

Kính thưa quý thầy và quý Phật tử!

Tuổi đời của Thầy đã hơn một đời người rồi, chẳng còn bao lâu nữa thân tứ đại này sẽ trả lại cho đất, nước, gió, lửa, chỉ vì thương các thầy tu hành chưa đến nơi đến chốn nên còn nấn ná một đôi ngày.

Hôm nay trước giờ phút chia tay với các thầy cũng như các cư sĩ đã từng sống tu tập bên Thầy, nếu quý vị nào còn quyết theo con đường tu tập của đạo Phật thì tốt hơn hết, sau khi ở đây về thăm nhà, chùa, rồi lo giải quyết mọi việc, xả dứt hết những nhân quả của thế gian, những người thân thương và của cải tài sản, chọn lấy một nơi thích nghi rồi tập hợp nhau lại một địa điểm, sống đúng Phạm hạnh, sách tấn nhau để tu tập.

Còn quý thầy ở lẻ tẻ, Thầy tin rằng khó mà quý thầy tự giác nổi trong cuộc sống Phạm hạnh. Chỉ có sống với nhau rồi sách tấn cho nhau, nhờ giới hạnh nghiêm trì nó sẽ giúp quý thầy ly dục ly ác pháp. Nhờ sống bên nhau mới có sự sách tấn tu hành.

(27:18) Còn nếu sống một mình, không có ai khích lệ, rồi quý thầy sẽ dễ dãi với mình, thiếu tinh tấn, rồi phạm phải những giới hạnh thì quý thầy sẽ không sống đúng ly dục ly ác pháp nữa, đời sống giới luật, đời sống của đạo sẽ không còn nghiêm túc khi quý thầy ở riêng một mình.

Nếu mà sống không được nghiêm túc thì sự tu hành của quý thầy ngàn đời khó mà ly dục ly ác pháp được. Mục đích của đạo Phật là phải có một cuộc sống ly dục ly ác pháp thì mục đích đó mới đạt được. Đời sống không đúng thì mục đích của đạo Phật không thành tựu được.

Điều này đã chứng minh cho quý thầy thấy rõ: Lớp lớp tu sĩ Phật giáo hằng bao thế kỷ nay tu hành chẳng đến đâu là vì sống không đúng giới hạnh, đời sống không ly dục ly ác pháp được nên cuộc sống tu hành của họ rất là phí uổng.

Họ bỏ cha mẹ, vợ con, tài sản, của cải để vào chùa tu hành mong tìm sự giải thoát sanh tử luân hồi, nào ngờ lại đi lượm mót những thứ dục lạc thế gian của người khác đang bỏ ra. Đời sống tu sĩ hiện giờ đi ngược lại đời sống của Đức Phật và các Thánh Tăng ngày xưa.

Kính thưa quý thầy và quý Phật tử!

Nhìn thấy gương hạnh xấu xa, sống không đúng đời sống tu hành của đạo Phật thì quý vị nên tránh xa, phải từ bỏ. Do thế quý vị hãy tìm cách sống chung nhau một nơi nào thích nghi để lập hạnh sống đúng đời sống của Phật và chư hiền Thánh Tăng.

Chỉ có sống gần gũi bên nhau để thực hiện những lời dạy của Thầy, của Phật thì mới mong quý thầy tu hành đến nơi đến chốn. Còn sống riêng rẽ, ai lo cất thất nấy ở, chắc chắn khó mà sống đúng Phạm hạnh được. Nếu quý thầy sống riêng rẽ, quý thầy sẽ bị ma dục lạc cám dỗ và đưa quý thầy xuống địa ngục, chẳng biết ngày nào ra khỏi.

Nếu những địa điểm ở đây đông, không tiện thì quý thầy chia ra làm nhiều địa điểm, ít nhất cũng phải từ 2 đến 3 người.

Nghĩa là đông 10 người, 20 người thì không tốt, nhưng quý thầy có thể ở 2 người, 3 người thì có thể sẽ yên ổn được, đừng có nên tập trung đông người.

Lấy trung bình 3 người cho đến 5 người tu hành chung nhau là tốt nhất và dễ tu nhất. Đông quá không ai điều khiển thì cũng khó tu, mà sống một người thì không tự giác nổi.

(30:33) Cho nên quý thầy phải sáng suốt chọn bạn đồng tu, phải hợp nhau mới tu được, không hợp thì khó tu hành lắm, không đơn giản.

Chúng ta thấy một mình mình thì ở, cất một cái thất ở riêng thì mình thấy nó an lắm, nhưng mà rồi cái ngủ, cái ăn nó dễ cám dỗ chúng ta lắm.

Nếu mà chúng ta thắng được thì một mình chúng ta tu rất tốt. Sợ chúng ta thắng không được, rồi cái độc cư nó buồn, nó khổ, nó cô đơn, nó tuôn tràn ra. Mà chúng ta sống một mình nó dễ lắm, bởi vì cái hoàn cảnh và cái đối tượng nó dễ đến với chúng ta lắm.

Ở trong thất mình yên như vậy, mắc mớ gì ở ngoài gõ cửa chúng ta, kêu chúng ta thế này thế khác, rồi hô cái này hô cái kia đủ thứ làm động tâm chúng ta, rồi chúng ta bắt buộc phải ra nói chuyện hay hoặc là tiếp đón, do đó làm chúng ta mất cái hạnh độc cư. Và mất cái hạnh độc cư nó làm tâm chúng ta bị phân tán ra, nó khó mà thống nhất lại được.

Do cái chỗ đó rất khó. Vì vậy mà một mình nếu mà chúng ta sống được, ăn, ngủ và độc cư mà chúng ta chiến thắng được thì chúng ta sẽ tu hành tốt lắm. Mà nếu một mình mà chúng ta sống không được thì ít ra cũng phải tìm hai người mà sống chung nhau.

Nhưng đã có hai người thì quý thầy khó rồi đó, nó không đơn giản. Hai người là có hai tư tưởng, mà hai tư tưởng nếu mà nhắm được vào một cái mục đích tu hành như ba vị tôn giả: Ngài A Na Luật Tôn giả, Ngài Kim Tôn giả và Ngài A Nan Đà Tôn giả, ba người này sống suốt ba năm với nhau trong một cái nhà mà không hề có một tiếng nói, đó là một cái điều khó.

Còn chúng ta có sống được không? Mà ba người này họ sống, họ tùy ở cái tâm của người khác, họ sống cho cái người khác, không sống cho mình, cho nên họ sống yên lặng.

Còn đối với chúng ta bây giờ chưa có gì đâu, ai cũng có cái tâm riêng hết, thấy cái người đó mà sống coi bộ tu hơn mình là đã thấy ghét rồi, hơi có cái gì mà hay hơn mình đã là không ưa rồi. Cái tâm bỉ thử của chúng ta nó còn nhiều lắm.

Cho nên khi hai người, mới đầu thì nó còn hợp nhưng mà thời gian sau nó không hợp đâu. Nó không hợp đâu rồi nó sanh ra những cái chuyện lặt vặt, nó làm cho phiền toái mà tâm nó bất an. Cho nên rất là khó.

Thầy nói hai người thôi, chớ còn nói ba, bốn người thì còn nhiều nữa. Ba, bốn người nữa rồi nó kết hợp, nó không ưa cái người đó thì nó kết hợp người này người kia, rồi nó nói nó đặt thêm những cái này, nó không hiểu nó đặt thêm những cái kia, nó làm cho cái sự tu hành của chúng ta nó đi dần dần đến cái chỗ thành một cái đám ma quái chớ còn không phải là cái người tu nữa. Cho nên nó khó là khó như vậy.

(33:17) Mà chúng ta kết hợp được, chọn được những người bạn đồng tu có một cái tâm hòa hợp, không có cái bản ngã thì nó dễ lắm. Chớ còn có cái bản ngã một chút xíu ở trong đó là thấy cái sự đồng tu với nhau là rất khó. Cái thời gian một tháng, hai tháng nó chưa nói gì đâu, ở lâu rồi mới biết cái điều đó, khó lắm.

Cho nên chúng ta chọn được, mà quyết tâm tu là ta sống một mình là tốt nhất. Nhưng mà sống một mình thì phải giữ gìn, phải cảnh giác, phải có nghị lực chiến thắng được cái ăn, cái ngủ và cái độc cư của mình. Đó là những cái bí quyết mà thành công ở trong con đường tu của đạo Phật đó.

Mà nếu chúng ta không nắm được cái này thì ít hôm chúng ta phá hạnh chúng ta hết. Và phá từ cái hạnh ăn cho đến hạnh ngủ rồi cho đến hạnh độc cư thì kể như cuộc đời chúng ta chỉ tu hình thức chơi chứ không tới đâu nữa hết.

Thầy xin nhắc lại quý thầy bởi vì các thầy sẽ sắp sửa rời khỏi Thầy rồi. Hôm nay còn Thầy, Thầy nhắc tới nhắc lui thế mà quý thầy còn không nghe thay, huống hồ là không có Thầy thì nó quá tự do rồi. Mà nó quá tự do rồi thì ba cái hạnh ăn, ngủ, độc cư này làm sao mà quý thầy giữ gìn nổi!

Có Thầy đây thì quý thầy nhìn coi bao nhiêu người mà giữ được độc cư, còn bao nhiêu người mà sống lộn xộn, nay chạy thất này mai chạy thất kia? Các thầy cứ xét coi có không.

Rồi từ cái chỗ đó quý thầy thấy nó có sự xung chướng với nhau, có sự bất toại nguyện nhau trong lòng, nó rõ ràng. Rồi tranh chấp nhau, rồi phiền não nhau, ông này phiền não ông kia, có không? Các thầy cứ xét lại quý thầy, quý thầy thấy rất rõ.

Cho nên những lời Thầy nói là vàng là ngọc đó, là những cái gương rất là sáng, biết trước những cái sự kiện đó.

Đến đây Thầy đã cho nghe cái thanh qui Thầy, những cái giới nòng cốt của nó là gì, các thầy thấy rõ chớ gì? Đã hiểu, đã nghe rõ cái giới nòng cốt là gì: Là ăn, là ngủ, là độc cư, rồi nhẫn nhục, rồi tùy thuận, rồi bằng lòng, mà bây giờ quý thầy có thấy mình bằng lòng được ai không, hay hoặc là mình xung chướng với mọi người rồi mình phiền não!

Mà Thầy nghĩ rằng ba cái thứ vật chất nó có ra gì đâu mà để cái tâm của mình nó quá đau khổ. Cho nên quý thầy thấy chưa. Đó là những cái phạm phải cái kỷ luật mà làm cho tâm quý thầy nó rất là đau khổ, nó không ly dục ly ác pháp.

Cho đến bây giờ quý thầy nghe Thầy nhắc lại rồi suy ngẫm lại tâm của mình có khổ không? Tại không nghe lời Thầy mà khổ, còn những người độc cư người ta như thạch bàn, người ta không thấy chuyện gì xảy ra trong tâm hồn người ta hết, người ta rất là an ổn. Đó quý thầy thấy chưa?

Cho nên ở đây những cái sự mà Thầy nói ra để cảnh giác, lấy những cái thanh qui mà Thầy đã thu lại ở trong băng, mở ra nghe cái lời của Thầy là những cái lời nhắc, những cái điều kiện cần thiết cho bước đường tu hành của quý vị.

(36:10) Lấy trung bình là 3 người đến 5 người tu hành chung nhau là tốt nhất và dễ tu nhất. Đông quá không ai điều khiển thì cũng khó tu, mà sống một người thì không tự giác nổi. Cho nên quý thầy phải sáng suốt chọn bạn đồng tu, phải hợp với nhau mới tu được, không hợp thì khó tu lắm.

Chúng ta đừng có tưởng tượng rằng nó dễ đâu, mà 2 người là đã cũng thấy khó rồi đó, chớ không phải dễ đâu. Thầy nói cho đến 3 người đến 5 người là còn khó hơn đó, chớ đừng nói 10 người, 20 người, rất khó lắm.

Từ 2 người trở lên phải có thanh quy…​

Nghĩa là 2 người sống là phải đặt cái thanh quy, bắt buộc thanh quy đó chúng ta phải áp dụng.

…​và hằng tháng chúng ta họp lại ngồi đọc thanh quy.

Để coi chúng ta có sai phạm chỗ nào ở trong thanh quy không, thì như vậy có thể là mới giữ được cái hòa hợp cho 2 người tu hành. Tức là 5 người, 10 người thì cũng phải có thanh quy rồi, 2 người còn có huống hồ là 10 người.

Nếu không có thanh quy thì ai cũng cho mình là người hiểu, người biết đúng, còn tất cả là sai, là không đúng.

Đó, nó sẽ bất hòa là ngay ở chỗ đó đó.

Dù bất cứ ở đâu, theo Thầy nghĩ, các thầy nên lấy thanh quy của Tu viện mà áp dụng cho địa điểm của mình thì chắc chắn quý thầy sẽ ly dục ly ác pháp trọn vẹn, và ngày ngày tu hành càng tiến bộ tốt hơn.

Điều cấm kỵ nhất tu hành theo đạo Phật là cất am thất riêng rẽ tu hành một mình.

Nghĩa là mình cất riêng rẽ ra rồi tự làm lấy sống đó, tự nấu nướng đó, cái điều đó là điều nguy hiểm nhất. Rồi đây cuộc sống của mình nó trở thành ra là làm để sống, cứ hết cái giờ ngồi thiền ra thì tính phải lo nấu ăn cái này cái kia nọ.

Bữa nay có ba cái đậu nè, nấu chè đồ ăn đi, bữa nay có Phật tử đến cho sữa, đường nè, mình pha thêm sữa, đường này đặng mà ăn đi, hay hoặc là làm bánh bèo, bánh da lợn gì đây cho nó thơm ngon. Rồi ngồi đó cứ phục vụ cho cái ăn ở trong thất đó.

Thì cái người mà cất thất riêng, ở riêng mà nấu ăn nấu nướng riêng, Thầy thấy ra như là một cái gia đình của họ thôi. Rồi họ trồng cây trồng trái, cuối cùng thì khách khứa, bạn hàng đến mua cây mua trái cây đồ đó thì như coi như là họ ngồi đó họ mở cái chợ buôn bán ở đó rồi.

Cái thất của họ tu bây giờ nó trở thành cái chợ buôn bán trái cây. Bởi vì trồng số đu đủ rồi họ tới họ lui họ mua đó, thành ra nó trở thành cái tiệm bán trái cây mất rồi, cái gian hàng bán trái cây. Cho nên cuối cùng thì tu không có được đâu.

Điều tu hành tốt nhất là có bậc minh sư hướng dẫn.

Nghĩa là mình tu hành bất kỳ ở đâu mà có một vị thầy đã tu tập xong, mình nương vào cái vị thầy đó mình tu hành, đó là tốt nhất.

Điều tu hành tạm được là phải có bạn đồng tu, đồng pháp, đồng mục đích tu.

(39:02) Nghĩa là những người bạn đó đều đồng nhau, chớ ông ta cũng đồng tu với mình mà ông ta tu pháp khác, mình tu Giới - Định - Tuệ còn ông này ổng lại tu Thiền Đông Độ, một ông thì ăn ba bữa còn mình ăn một bữa, hai ông này ngồi ăn khác xa nhau, hai con mắt ngó liếc háy háy huýt huýt nhau đó coi chừng, thì cái chuyện đó nó khó quá đi.

Cho nên tu thì phải đồng tu một pháp, đồng với cái mục đích tu với nhau thì nó dễ. Còn cái ông thì chuyên môn niệm Phật rầm rộ, còn cái ông thì ngồi thiền gục tới gục lui, hai cái ông này nó cũng không hợp nhau: “Ông sao mà niệm Phật làm tui ngồi thiền không được!” Do đó cuối cũng thì cãi lẫy với nhau không.

Cho nên tất cả những cái này đều là những cái có thể là nó không có đồng pháp cho nên nó khó tu lắm. Vì vậy mà chọn bạn phải chọn cái người mà có thể đồng pháp, đồng mục đích mới tu được.

Điều tu hành xấu nhất là sống chung với ác hữu tri thức.

Nghĩa là mình chọn sai những cái người bạn xấu thì mình tu không bao giờ tới đâu hết, đó là những ác hữu tri thức. Họ sẽ nay kiếm chuyện này, mai kiếm chuyện khác, rồi ganh rồi tị rồi đủ cách hết. Mình tránh xa cái loại này ra thì mình tu hành mới yên, chớ còn mình ở gần thì không có được.

Về phần đời sống ăn, uống, ngủ nghỉ, các thầy phải tập dần cho đến khi khắc phục được nó trọn vẹn, sống đời sống xuất thế thì mới xa gia đình, sống không nhà cửa mới được.

Nghĩa là bây giờ các thầy mà về đây, thí dụ như có nhiều vị cư sĩ về đây, thì từ lâu tới giờ mình đâu có xa nhà, bây giờ mình xa nhà, rồi bắt đầu tuy rằng sống như vậy chớ mình cũng nhớ nhà nhớ cửa, cũng lo cũng lắng cái này kia, thì bắt đầu mình biết cái tâm của mình nó chưa có được thuần hóa được ở trong cái đời sống xuất gia.

Vì vậy mình về mình sống, mình tập luyện dần dần từ cái ăn cái ngủ của mình cho đến cái độc cư sống riêng rẽ, để cho mình khắc phục được cái tình cảm của mình cho nó dứt lần đi.

Chớ còn bây giờ ngồi đây mà cứ nhớ nhà nhớ cửa, nhớ cha nhớ mẹ, nhớ con nhớ cái, nhớ công ăn việc làm thì đi tu nó uổng lắm, nó không có ích lợi gì đâu.

Đừng dễ duôi với ăn uống, ngủ nghỉ mà hãy cảnh giác, đừng sống theo phàm tình.

Mình đừng có dễ dãi với mình mà mình phải khắc phục nó từ cái ăn, cái ngủ của mình. Thấy nó không đúng giờ là mình không có cho nó ngủ mà phải cho nó ngủ có giờ có giấc đàng hoàng.

Cái ăn cũng vậy, đừng có ăn uống lặt vặt. Nó muốn thì không cho, giờ ăn là ăn, mà giờ không ăn thì không ăn. Đừng có thấy cái ngon mà thích ăn nhiều, cũng đừng có thấy cái dở mà ăn ít, mà phải sống cho nó đúng cái mực chớ đừng có lúc vầy lúc khác. Dở thì mình cũng ăn no mà ngon thì cũng ăn no chứ không ăn ráng.

Các thầy trở về sống hòa mình với mọi người, hãy nhớ câu: “Không làm khổ mình, khổ người.”

Thầy nhắc quý thầy bây giờ ở đây với thầy mà quý thầy trái lại còn không nghe lời Thầy mà sống độc cư, cho nên nhiều khi tự đã làm khổ mình mà khổ bạn của mình rồi. Phải chi quý thầy nghe Thầy mà sống độc cư thì không làm khổ ai hết.

Bây giờ quý thầy đã về với cuộc sống chung đụng với mọi người, sẽ có sự tiếp duyên với nhau, cố gắng nhớ câu: Không làm khổ mình cũng không làm khổ người.

Phải biết và sáng suốt nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trước mọi hoàn cảnh, trước mọi ý muốn của người khác. Phải biết nhẫn nhục trước những sự khó nhẫn nhục.

Đó là những lời nhắc nhở của Thầy khi quý thầy sắp sửa rời khỏi Thầy.

Không còn Thầy ở bên che chở nữa thì quý thầy phải sáng suốt mà nhận định cứu lấy mình, để cho lúc nào tâm của mình không có đau khổ, thoát ra khỏi sự đau khổ của cái thế gian thường tình, mọi người, mọi cảnh, mọi đối tượng luôn luôn đem lại sự an vui cho mình, cho người khác thì quý thầy mới xứng đáng là đệ tử của Phật.

3.2- QUÀ KỈ NIỆM CỦA THẦY LÀ MỘT CHIẾC BÁT ĐẤT ĐỂ THỌ THỰC

(42:52) Thầy cho mọi người một cái bát đất đem về mà tập thọ thực ở trong bát đó. Mỗi lần ăn cơm thấy bát là thấy Thầy.

Thấy bát là nhớ đến ngày một bữa nuôi thân. Thấy bát là nhớ đến tri túc, thiểu dục. Thấy bát là nhớ đến đời sống xuất gia. Thấy bát là nhớ, là cảnh giác đời sống thế gian vô thường, khổ não, vui ít buồn nhiều.

Thấy bát là nhớ lại lời dặn bảo của Thầy, nhìn chiếc bát là thấy gương hạnh sống của Thầy. Thấy bát là nhớ lời Thầy dạy bảo: “Được thân người là khó, được Phật pháp còn khó hơn”. Thấy bát là nhớ lời Thầy khuyên răn: “Các pháp thế gian là pháp vô thường. Vô thường thường khổ, chỉ có tịch diệt, diệt rồi là vui”.

Thấy bát là nhớ lời Phật dạy: “Hãy tự thắp đuốc lên mà đi!” Thấy bát lại nhớ lời Phật dạy: “Lấy giới luật ta làm thầy, đừng lấy ai làm thầy!”

Thấy bát lại nhớ đến những ngày sống dưới mái chùa xưa tre lá, bao kỉ niệm không quên.

Đó là các thầy thấy được cái bát thì các thầy lại nhớ đến những cái ngôi chùa, cái Tu viện Chơn Như này, cái chùa Chơn Như này mà ba tháng hạ rồi các thầy đã sống với nó. Từng bao nhiêu kỉ niệm tới lui, làm sao cho quý thầy quên được! Thấy cái bát là đã nhớ cái nơi mình sống trong ba tháng mà thôi.

3.3- GIỚI LUẬT LÀ BẬC THẦY VĨ ĐẠI CỦA ĐỜI SỐNG TU HÀNH

(44:33) Sau khi rời khỏi nơi đây, giới luật là vị thần hộ mệnh và che chở bảo hộ cho quý vị. Bằng ngược lại, quý vị phá giới tức là quý vị phá Phật pháp, quý vị sẽ chịu lấy tội lỗi đó là đời đời kiếp kiếp quý vị thọ lấy tai ương và đọa địa ngục.

Giới luật giúp cho quý vị thoát khỏi sanh tử luân hồi, giới luật là mẹ đẻ ra chư Phật. Quý vị nhớ kĩ: Rời khỏi nơi đây, giới luật là vị thầy thân cận bên quý thầy. Giới luật chẳng bao giờ xa quý thầy, chỉ có quý thầy xa giới luật mà thôi.

Thiền của đạo Phật được xây dựng trên nền tảng giới luật, ly dục ly ác pháp. Giới luật mất là quý thầy trở thành phàm phu, giới luật còn sống với quý vị, quý vị là thánh nhân. Thánh nhân chạy theo dục lạc là phàm phu, phàm phu sống đúng giới luật là thánh nhân. Này quý thầy! Thánh, phàm chỉ có giới luật và không có giới luật mà thôi.

Ở đây Thầy khuyên quý thầy: Khi rời khỏi nơi đây, quý thầy hãy giữ gìn giới luật, nhất là giới ăn ngày một bữa, ngủ ít, sống độc cư thầm lặng, biết nhẫn nhục, biết tùy thuận, biết bằng lòng thì quý vị tu thiền định sẽ không rơi vào thiền tà ngoại đạo.

(46:10) Vì tuổi già sức yếu, Thầy cũng chẳng còn sống bao lâu nữa. Các pháp thế gian là pháp vô thường, vì vô thường nên không lưu giữ nó làm gì, Thầy phải xả bỏ nó để về với cõi vĩnh hằng, không còn tái sanh lại nữa. Kéo dài thêm thân và tuổi thọ là kéo dài thêm sự đau khổ, và cũng là kéo dài thêm nhân quả, đã đến lúc cần đi ta phải đi, giữ lại làm gì!

Thầy ra đi Thầy biết chỗ Thầy đi. Các thầy hiện giờ có ra đi, các thầy chưa biết chỗ quý thầy đi thì quý thầy phải ráng tu hành. Còn Thầy quý vị dựa vào Thầy tu hành, mất Thầy quý vị hãy dựa vào giới luật mà tu hành.

Giới luật là chỗ nương tựa vững chắc, không bao giờ ra đi, còn nương tựa vào Thầy có ngày Thầy sẽ mất. Thầy mất, quý thầy mất chỗ nương tựa, quý vị bị hổng chân. Không có Thầy, quý vị theo giới luật mà tu tập, quý vị sẽ đi đến nơi đến chốn. Nghĩ thế, Thầy sẽ ẩn bóng rồi sẽ ra đi vĩnh viễn khi thấy các thầy đã giữ gìn giới luật nghiêm túc, tu hành đến nơi đến chốn.

Một lần nữa, Thầy xin nhắc lại quý thầy: Giới luật là một bậc thầy vĩ đại trong đời sống tu hành của quý vị. Quý vị nhớ ghi khắc mãi đừng quên.

Bây giờ thầy trò chúng ta chia tay nhau ở đây là vừa rồi. Chúng ta đừng bịn rịn, đừng buồn rầu, có duyên thì hợp, hết duyên thì xa. Các thầy hãy vui lên, hãy nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, duyên tan hợp đừng buồn các thầy ạ.

Thầy sẽ gặp các thầy mãi mãi và chờ đợi các thầy nơi đó. Các thầy hãy ráng tu hành, ngày đó không còn xa, nó sẽ đến với các thầy nay mai. Phải ráng xả tâm thế gian, xả lòng thương ghét, giận hờn, phiền toái, và phải xả hết cả của cải, tài sản, vật chất thì các thầy sẽ được gần bên Thầy mãi mãi, và thầy trò chúng ta sẽ không xa nhau nữa.

Các thầy hãy tìm một chỗ nào yên tịnh, yên ổn để tu hành, giữ gìn giới luật nghiêm túc, thỉnh thoảng Thầy có dịp về sẽ thăm lại các thầy. Các thầy tin tưởng một ngày nào đó Thầy sẽ về thăm lại các thầy, dù các thầy ở bất cứ nơi đâu Thầy cũng về thăm được.

Cuối cùng Thầy chúc các thầy vui khỏe trên đường tu tập và hằng ngày tiến bộ rõ ràng, thu ngắn đoạn đường tu tập để sớm làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi.

Chào tạm biệt các thầy!

4- SỰ TU TẬP ĐỊNH VÔ LẬU QUÁN VÔ THƯỜNG CỦA CÔ HUỆ ÂN

(49:23) Giờ chúng ta tiếp tục cái buổi học. Thầy có đọc cái tập nhật ký thời khóa tu tập của Huệ Ân, con trình bày cái vấn đề tu Định Vô Lậu thì Thầy thấy cái trình bày của con rất đúng.

Về cái pháp quán như vậy, quán xét từ cái thay đổi của cái thân vô thường của mình, Thầy thấy quán như vậy là rất hay. Và hằng ngày con thường đặt cái niệm và cứ quán xét như vậy thì cái lý vô thường của cái thân nó sẽ thấm nhuần, và từng đó thì cái tâm con nó sẽ xả đi tất cả các cái lậu hoặc cho nên nó đạt được cái chỗ ly dục ly ác pháp, để rồi cái tâm nó thanh thản, nó sẽ nhập được cái Sơ Thiền.

Và từ đó về sau thì thường hướng tâm như vậy, quán như vậy, rồi dùng cái pháp hướng, pháp hướng nó có hiệu quả thì sau đó tới Bốn Thiền thì con sẽ dùng cái pháp hướng để biểu nó tịnh chỉ. Như hiện giờ mà con đã thấy có cái hiệu quả của cái pháp hướng, như cái nhức đầu, con bảo nó đừng nhức đầu là thấy nó không có nhức nữa.

Thì lúc bây giờ con chỉ cần…​ Con không biết là Tầm Tứ như thế nào nhưng mà con bảo, tâm mình muốn nhập Nhị Thiền thì con bảo: “Tầm Tứ phải diệt đi, ngưng đi, đừng có hoạt động nữa” thì lúc bấy giờ con sẽ thấy tuần tự cái hơi thở nó chậm nhẹ như thế nào đó, nó sẽ rơi vào một cái trạng thái của định, thì lúc bấy giờ đó là con đã nhập Nhị Thiền.

Còn nếu mà con bảo: “Các cái trạng thái tưởng phải ly ra hết để mà tịnh chỉ, ly cái hỷ, bắt đầu nhập Tam Thiền” thì bắt đầu con thấy nó vào Tam Thiền, tự nhiên cái tâm nó sẽ vào.

Và đồng thời con ra lệnh: “Các hành ngưng, hơi thở ngưng” thì lúc bấy giờ nó ngưng, đó là con nhập Tứ Thiền. Và đồng thời con nói: “Cái thân này hoàn toàn bỏ đi” thì tức là nó sẽ hoại diệt cái thân, đó tức là con làm chủ được cái chết.

Đó là những cái điều kiện mà con tu cái Định Vô Lậu con cứ đặt cái niệm con quán như con đã viết ở trong cái cuốn tập nhật ký thời khóa đó, con nỗ lực tu như vậy thì cái thời gian nó không lâu đâu con sẽ làm chủ được cái sống chết của con.

Và cái vô lậu nó có cái hiệu quả là nó sẽ không còn cái lậu hoặc nữa thì cái nhân sanh tử luân hồi nó cũng hết đó. Tu cái Định Vô Lậu nó như vậy, cái nhân sanh tử nó hết thì con sẽ chết đi mà không có tái sanh luân hồi nữa.

Tu nó đơn giản lắm, nó không có nhiều đâu. Mà con đặt đúng cái niệm như vậy rồi con quán xét như vậy, lần lượt con sẽ thấy rất rõ và rất rõ, và đến cuối cùng thì chứng được cái lý vô thường, và con sẽ hết lậu hoặc. Đó là cái phần về con.

5- TÙY NHÂN DUYÊN MÀ THỰC HIỆN CON ĐƯỜNG TU HÀNH

(52:09) Và đây là tiếp tục cái phần của cô Phượng:

Kính bạch Thầy!

Con có duyên lành và phước báu nhiều đời nên con mới được gặp Thầy và cô Út cưu mang dạy con pháp tu của Thầy, nhưng vì nghiệp của con nặng quá nên con bị bệnh tim mạch nặng, con phải tạm về nhà.

Do trong cái vấn đề đó thì con nhớ kĩ về cái Định Vô Lậu, cô Phượng, con nhớ kĩ là con phải đặt cái niệm thân của con, con mới quán xét, tức là suy tư, có cái sự tư duy ở trong cái sự vô thường của cái thân con hiện giờ. Rồi tất cả những cái thọ, cái bệnh đau của con, con cũng quán xét như thế nào để con thấu rõ được cái vô thường đó.

Thì càng ngày…​ cứ mỗi ngày con tu một lần, hai lần, hay ba lần, hay bốn lần đó, mỗi ngày nó năm, ba lần, bốn lần đó thì nhiều ngày nó sẽ thấm nhuần và nó chứng được cái lý vô thường, cái lý khổ, không, vô ngã của nó rất là rõ ràng và cụ thể.

Và từng đó con cũng sẽ thấy thanh thản trước khi mà cái thân này nó sẽ hủy hoại, tức là nó hoại diệt, nó không còn nữa, mà con vẫn thấy không còn bận tâm, lo lắng nữa.

Trước nhất là con sẽ thấy cái tâm nó bất động ở trong các cái đối tượng, người ta nói nặng nói nhẹ hoặc làm cho con có cái cái thân của con phiền não, hay hoặc cái sự đau nhức ở trong thân con, mà con thấy cái tâm nó thản nhiên, nó không còn bận tâm nữa, thì tức là mình biết là cái tâm vô lậu. Nó cụ thể và nó rõ ràng, thấy cái tâm của mình nó bất động là mình biết nó bất động hẳn hòi đàng hoàng.

Còn về cái phần mà con tìm cái nơi yên tịnh để tu thì ở đây nó tùy theo cái nhân duyên. Nó có nhân duyên thì mình mới tu được mà nó không nhân duyên thì nó không tu được.

Sự thật ra thì Thầy đã ẩn bóng rồi thì Thầy đã giao lại cái phần này cho cô Út tất cả, cho nên Thầy tùy theo cô Út. Các con thấy rằng cái sự điều hành của cô Út quá vất vả, Thầy cũng không có cái ý gì ở trong vấn đề này được.

(54:15) Do vì vậy đó thì con thấy rằng trong cái vấn đề tìm một cái nơi yên tịnh thì tu nó mới tốt, chớ không thể nào sống trong một cái gia đình nhỏ, rất nhỏ mà 8, 9 người ở mà tu hành rất là khó. Đó là cái duyên con không có đủ.

Vì vậy nên tìm cái nơi nào cho nó yên tịnh rồi thường đặt cái niệm tu cái Định Vô Lậu thì may ra mới quét sạch trong những cái thân bệnh tật của con. Đó là những cái pháp mà con đặt để mà con tu, để mà con giải quyết các lậu hoặc mà con đã thọ lấy cái nghiệp thân con quá nặng trong hiện giờ.

Nếu mà có được cái nơi yên tịnh tốt mà nỗ lực tu hành thì trong 5 tháng hay hoặc là 6 tháng mà chứng được cái lý vô thường của cái thân rồi, thì đương nhiên là con thấy cái tâm hồn của con thanh thản vô cùng, không còn sợ hãi trước cái thọ, trước cái bệnh tật của con, nó lên máu hoặc là nó như thế nào con cũng chẳng ngại, tất cả những cái điều đó làm cho tâm con rất an ổn.

Cho nên ở đây theo Thầy thiết nghĩ thì đó là cái duyên mà thôi. Tùy theo cái nhân duyên mà mình thực hiện trên con đường tu hành, mà thiếu duyên thì chắc chắn là rất khó chớ không phải dễ. Mình muốn tu mà không có duyên thì chắc cũng không tu được.

Cũng như bây giờ các con muốn gần Thầy, nhưng cái giờ phút mà Thầy đã ẩn bóng thay vì Thầy sẽ nhập diệt chớ Thầy cũng không muốn sống thêm một ngày nào cho nó quá cực khổ. Do vì vậy, nhưng vì có một vài người tu hành, đệ tử của Thầy chưa tới nơi, họ chưa đủ khả năng mà có thể thay thế Thầy mà lãnh đạo, để thắp lại cái ngọn đuốc của Phật pháp.

Cái giáo án của Thầy tuy ra đời, biết nói lên cái đúng cái sai của đạo Phật để cho người ta tỉnh táo, biết được cái đường lối nào tu được mà đường lối nào tu không được, nhưng không có cái kinh nghiệm của một con người thực thì khi nhắm đến cái đường hướng này, nhiều khi chúng ta rất là mờ mịt, cũng khó lắm chớ không phải dễ.

Cho nên dù sao đi nữa Thầy ẩn bóng có nghĩa là Thầy luôn luôn chăm sóc cho những người đệ tử của Thầy. Họ đang còn một vài bước nữa mà họ sẽ hoàn tất được con đường tu hành của họ, do vì vậy mà tiếp đến khi mà họ đã làm xong thì Thầy mới ra đi vĩnh viễn.

Chớ còn bây giờ mà bỏ như vậy thì Phật pháp nó cũng mai một. Công lao của Thầy dựng lại mà rốt cuộc rồi không có người có kinh nghiệm để cho mấy con thừa kế thì quá là uổng.

Do vì vậy mà Thầy còn nấn ná lại đây trong một vài năm để giúp cho các con tu hành thêm được một cái bước khá sâu hơn, và có thể dạy người, đưa người khác đi đến cái chỗ an ổn nhất và làm chủ cái sống chết được thì đó là Thầy mới hết bổn phận.

(57:12) Mặc dù Thầy biết rằng cơ thể của mình mỗi ngày là một suy yếu, vì nó là cái thân vô thường, nó là tứ đại thì không thể nào mà giữ nó được. Nếu mà giữ được thì Thầy sống cũng như chết.

Nghĩa là Thầy muốn giữ nó bây giờ sống bao lâu đi nữa, thì ít ra Thầy cũng phải có cái thời gian phải ngồi thiền nhập định, phải có thời gian dài. Chẳng hạn bây giờ Thầy tiếp các con trong một tuần lễ thì ít ra Thầy cũng phải nhập định ở trong một tuần.

Còn đằng này ngày nào mà Thầy cũng nói, cũng thuyết giảng rồi cũng tiếp xúc với các con thế này thì cái thân của Thầy càng ngày nó lại hoại diệt mau hơn, nhanh hơn. Thầy phải hao tốn cái lực lượng nhiều hơn, cho nên cái thân của Thầy nó mòn, nó tàn tạ mau hơn.

Còn Thầy ngồi làm thinh từ ngày này sang ngày khác thì nó không có mòn. Cũng như một cái vật, một cái máy mà nó không có chạy, nó nằm yên thì cái máy đó nó không mòn. Còn cái máy gì mà nó chạy thôi suốt ngày suốt đêm, nó chạy hoài thì thử hỏi nó phải mau mòn chớ?

Các con thấy như ban ngày, sáng thì Thầy phải thuyết giảng cho quý thầy, chiều thì trả lời cho các con rồi cho các con nghe thu băng, rồi tối thì Thầy phải soạn giáo án, không lúc nào ngơi nghỉ. Cái máy của Thầy chạy nhiều quá thì nó phải mau hư đi, còn khi mà ngồi thiền nhập định thì như cái máy nó không có chạy, nó nằm yên.

Cho nên một cái người mà có thể nói rằng họ ngủ suốt 20 năm thì họ không có già, 20 năm đó họ không có thay đổi. Cũng như một người nhập định suốt 20 năm thì cái cơ thể họ không có thay đổi, nó chỉ còn ở mức trong bắt đầu họ mới nhập định mà thôi.

Đó thì các con thấy rằng trong cái sự kéo dài cái tuổi thọ của người đó bằng cái cách thức thiền định thì nó phải phục hồi như vậy. Ít ra Thầy làm việc trong cái thời gian một ngày thì ít ra Thầy cũng phải nhập cái định tương ưng với nó là cũng phải một ngày thì nó phục hồi lại cái sức khỏe Thầy được.

Đằng này làm việc thì nó lại gấp 5, 10 lần, mà cái lúc ngồi lại yên tịnh để mà giữ cái thân của mình thì nó có 1, 2 giờ hay hoặc là 30 phút là cùng, thì như vậy cái thân nó dễ mòn mỏi lắm. Và đồng thời thì Thầy thấy cái sức khỏe của mình cũng kém nhiều lắm, nếu mà không cố gắng thì giờ này chắc Thầy không nói chuyện với mấy con được nhiều.

Do bữa hôm nay thì Thầy sẽ trả lời cho mấy con, các con còn cái chỗ nào nữa mà hỏi, đây cũng là lúc mà trả lời những cái lời cuối cùng đối với các con.

6- TU SINH MINH CẢNH TÁC BẠCH NGÀY GIẢI HẠ

(59:58) Trưởng lão: Minh Cảnh thì hỏi Thầy đây. Toàn bộ đây hả con?

Tu sinh Minh Cảnh: …​.(Mất tiếng) không lo tu hành cho nên Thầy ẩn bóng.

Thầy đã tự tại nhập được các định cao, có thể 100 năm thân Thầy không hư hoại và không ai hại được thân Thầy, có thể ở trong định 5 năm, 10 năm chờ Phật pháp đủ duyên, xuất định ra hoằng hóa độ sanh, dựng lại ngôi nhà Chánh Pháp. Thầy ẩn bóng nhưng Thầy không bỏ chúng con, trong lúc đang tu tập có gì khó khăn Thầy sẽ thị hiện đến giúp đỡ.

Chúng con được nghe lời Thầy dạy như vậy, chúng con hết sức yên tâm bám theo cô Út tu hành, giữ gìn giới luật nghiêm túc là có Thầy.

Mà năm nay cả tăng lẫn ni, cận sự nam cùng cận sự nữ, cả bốn chúng tu hành rất thanh tịnh, xứng đáng một mùa hạ an cư kiết hạ cuối cùng rồi Thầy ẩn bóng, khó gặp lại một mùa hạ thái bình được nữa. Mùa hạ năm nay Thầy chuẩn bị cho chúng con một lộ trình tu tập từ thấp lên cao đầy đủ qua kinh nghiệm tu tập 10 năm trong thất của Thầy.

17 năm nghiên cứu kinh điển Đại Thừa và Nguyên Thủy, hoằng hóa độ sanh gặp nhiều khó khăn cay đắng nhưng Thầy không sờn lòng, Thầy nhắm mục đích đào tạo người tu chứng để phụ giúp Hoà thượng Viện chủ. Nay có được vài vị có thể tu đạt được như Thầy, chúng con có phần an ủi.

(01:01:38) Đến lúc Thầy ẩn bóng Thầy mới đem hết kinh nghiệm 10 năm tu hành trong thất và chỗ chứng đạt của Thầy, Thầy khai thị và chỉ dạy cho chúng con hiểu biết hết để chúng con lấy đó mà tu tập. Chúng con chỉ cần tu tập đúng lời Thầy dạy là có kết quả giải thoát ngay, làm chủ sanh tử, chấm dứt tái sanh luân hồi, đầy đủ trí tuệ vô lậu.

Giờ đây con xin trình Thầy qua sự tu và học trong mùa hạ năm nay.

Kính bạch Thầy!

Những gì mà chúng con chưa được hiểu biết mà mùa hạ năm nay Thầy đều khai thị cho chúng con được hiểu biết.

Đó là trước kia con chưa hiểu biết về Nhất Thể Tam Bảo, nay được Thầy khai thị chỉ dạy con hiểu được Nhất Thể Tam Bảo. Con chưa được hiểu biết Lý Thể Tam Quy Y, trau dồi Thập Thiện, trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm: Tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả hằng ngày được trau dồi đức hạnh.

Trước kia con chưa hiểu Thân niệm Phật, Thọ niệm Phật, Pháp niệm Phật, nhờ Thầy khai mà nay chúng con hiểu biết được Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật, đây là lần đầu tiên được Thầy dạy cho chúng con tu tập hằng ngày: Bất cứ pháp nào đến, bắt nó niệm Phật thì nó sẽ y như Phật.

(01:03:10) Thầy dạy chúng con phòng hộ sáu căn, sống độc cư, ly dục ly ác pháp và các pháp hướng cho đến giới hạnh, giới đức, giới tuệ, cách thức nhập định, xuất định nay Thầy đều khai thị cho chúng con hiểu biết thông suốt để tu tập trong những hằng ngày.

Hằng ngày trong thời gian vắng bóng Thầy, Thầy để lại cho chúng con một kho tàng vô giá để áp dụng hằng ngày, suốt ngày đêm lúc nào cũng có pháp cho chúng con tu tập trong mọi hành động. Có bốn loại định kể từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền cho đến Diệt Tận Định, Thầy dạy cho chúng con kỹ lưỡng.

Tứ Thiền diệu dụng vô cùng, người nhập được Tứ Thiền thì có đủ Tam Minh Lục Thông. Diệt Tận Định nó có công năng bảo tồn thân như đồng, như sắt, không có gì làm hư hoại được nó, ở trong trạng thái vắng lặng mà sáng suốt khắp cả vũ trụ.

Tất cả những gì con chưa hiểu biết đều được Thầy chỉ dạy cho chúng con hiểu biết, để chuẩn bị cho chúng con trên bước đường tu tập gặp phải khó khăn những trạng thái của định, để vượt qua mọi trạng thái của tưởng.

Chúng con có đủ duyên lành gặp được bậc minh sư có sự lợi ích lớn lao cho đời tu hành của chúng con. Gần gũi bậc minh sư, trí tuệ được phát sanh, tăng trưởng đức hạnh, đầy đủ Phạm hạnh của một người tu sĩ.

Thầy khéo tạo cho chúng con một môi trường thuận tiện cho người tu thiền định. Nơi khu vườn thanh vắng, dưới tàn cây bóng mát, cách xa xa có một cái thất xinh xinh nhỏ bé bằng cây tầm vông, tre trúc, tuy đơn sơ, thanh nhã nhưng đủ tiện nghi. Nhà vệ sinh, nhà tắm, điện nước, đầy đủ phương tiện cho một thiền sinh, do sự kiến trúc mỹ thuật từ bàn tay của Thầy, đích thân Thầy làm cho chúng con. Con đường đi kinh hành có hai hàng cây thon thon cao vút, trông như cảnh núi rừng tĩnh lặng, Thầy khéo sáng tạo.

Cô Út là người có tài trí, thông minh. Cô quán xuyến mọi công việc trong Tu viện, cô phải lo cho chúng con từ đời sống, khi bệnh đau lo thuốc thang, ăn uống cô khéo gói ghém để cho chúng con có đủ sống qua ngày, không dư thừa phung phí nhưng không thiếu thốn, đủ chất lượng.

Ở đây Thầy không có Phật tử đông đảo, chỉ có một số ít Phật tử nhiệt tâm vì Phật pháp trường tồn mà phát tâm cúng dường Thầy, phụ giúp cho Thầy để cho đời sống người chuyên tu, Thầy đào tạo người tu chứng, xây dựng Phật pháp.

Chúng con khi ăn cơm cúng dường xong cũng tưởng nhớ đến công ơn của cô Út đã chan rải lòng từ, ban bố cho chúng con một bữa cơm ăn để no lòng tiến tu, cùng các cô phụ với cô Út làm thành một bữa cơm, và cũng rất biết ơn các Phật tử vì Phật pháp trường tồn mà phát tâm ủng hộ cho chúng con để nuôi thân tu hành.

(01:06:46) Đến đây chúng con thành tâm chúc Thầy sau khi ẩn bóng mọi việc được thành công như ý mà Thầy đã ước nguyện, ước vọng, nhất là đạo đức nhân quả được ra đời để cải tạo xã hội, con người bằng đạo đức nhân quả, đời sống bỏ ác, làm lành, thánh thiện an vui.

Dưới đây xin tri ân cô Út đã hy sinh cho chúng con mọi khó khăn cực nhọc, và biết ơn các Phật tử đã vì Phật pháp trường tồn mà phát tâm cúng dường Thầy ủng hộ cho chúng con tu hành.

Chúng con nguyện cố gắng kiên trì tu tập, vượt qua được cơn sóng gió ba đào, tiến tới con đường giải thoát để cùng nhau thắp lên ngọn đuốc Chánh Pháp mới xứng đáng đền đáp công ơn sâu dày của Thầy và cô Út trong muôn một.

Đến nay là ngày chúng con cùng với Thầy chia tay tạm biệt, chúng con chẳng biết nói gì hơn nữa, chúng con cúi đầu xin đảnh lễ Thầy tam bái!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

7- HIỂU RÕ VÀ NỖ LỰC TU HÀNH CHẮC CHẮN SẼ GIẢI THOÁT

(01:08:05) Trưởng lão: Về cái phần mà cô Minh Cảnh trình bày qua cái lời trong buổi giải hạ của cái mùa hạ năm nay, sau khi nghe cái giáo án, cái lời dạy của Thầy thì cô Minh Cảnh ghi lại tất cả những cái sự hiểu biết, Thầy thấy cô đã hiểu rõ được cái đường lối tu hành, các pháp đang tu hành nắm rất vững.

Cố gắng mà thực hiện trong cái sự tu tập đó thì Thầy tin rằng cái kết quả nó sẽ đem đến cái sự giải thoát thật sự. Người nào mà đã hiểu rõ và đồng thời giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, thực hiện các cái pháp mà Thầy dạy thì chắc chắn phải đi đến cái cuối cùng là: Thứ nhất là cái tâm bất động, thứ hai là làm chủ được cái sống chết, thứ ba là chấm dứt sanh tử luân hồi, ba cái điều kiện đó là phải có.

Bởi vì con đường của đạo Phật thì nó rõ ràng chớ không phải nó còn mơ hồ hay hoặc là còn một cái lý giải suông, mà là cái thực hành nó kèm theo nó rất rõ, và thực hành đâu thì nó có kết quả tới đó, và kết quả tới đâu thì chúng ta cũng biết rõ là có kết quả. Đó là những cái điều kiện thực tế như vậy.

Và đồng thời cái vấn đề hôm nay thì sẽ là cái buổi cuối cùng để mà Thầy trò gặp nhau sau những ngày tu tập, thì đương nhiên là nó không phải ở trong ba tháng hạ này, mà chúng ta đã sống từ hai, ba năm nay lận. Có người thì có thể sống với Thầy và cô Út cũng rất lâu rồi chớ không phải mới, có người thì cũng được hai, ba năm rồi.

Mấy con cứ ngồi xuống đi con!

Cho nên cái thời gian mà sống dài như vậy thì nó có những cái sự vui, sự buồn, nó có lẫn lộn đủ thứ.

Nhất là trong những phút mà mấy con trở về cái nơi quê quán của mình, nhớ lại những cái lời la hét mấy con để mà đập cái ngã của các con xuống, thì cái con lại nhớ cái ơn của cô Út rất lớn. Còn cái lời ngọt dịu các con không nhớ nhiều đâu.

(01:10:16) Nhớ cái lúc cô Út la dữ tợn mà xách cái xô nước dơ nhất cái quăng trong mặt các con, thì cái đó là cái làm cho các con nhớ nhất. Đó là đập cái ngã các con xuống đó. Hay hoặc là có những cái gì mà các con sẽ ghi lại trong cái ký ức của các con nhất đó là cái điều mà để làm cho các con buông xuống đó, thì cái đó các con sẽ nhớ cô nhiều nhất.

Và hôm nay cái mà các con nhớ nhất, đối với Thầy nhớ nhất là trong những cái lúc mà các con buồn so khi bị cô Út mắng rầy thì lúc bấy giờ…​ Các con nhớ mà, những cái năm đầu tiên mà các con về đây, lúc mà bị đập dữ tợn, thì lúc bấy giờ có những cái buổi thuyết giảng lại là cái lúc mà Thầy an ủi nhất cho các con.

Các con có nhớ kỹ không? Là ở cái điện Phật ở đằng trước luôn luôn là Thầy giảng cho các con liên tục gặp, thì trong những cái khi mà các con bị đập tan nát của cái ngã, cái phiền não, cái tham sân si các con xuống, thì lúc bấy giờ các con rất là buồn khổ, mà trong khi đó thì lúc bấy giờ, khi mà vắng bóng Thầy rồi các con sẽ nhớ cái gì nhất?

Nhớ trong lúc Thầy như là một người mẹ, mà đứa con đang đau khổ thì bà mẹ là cái người mà xoa dịu cái vết thương đau cho đứa con.

Và cũng ngay bây giờ Thầy nói thật sự ra, các con nếu mà sống bình thường, các con không có sự kiện gì xảy ra mà cô Út đập thì các con không có thấy đâu, nhưng khi mà có đập rồi các con mới thấy thấm thía. Khi mà xa vắng nhau, khi mà không còn sống gần bên nhau nữa mới thấy những cái đó là cái điều lợi ích nhất cho con đường tu tập.

Chẳng hạn là như Thầy đem một cái ví dụ, như ở đây Trang nè, hoặc là Đào nè, có những cái kỷ niệm giữa Thầy với mấy con đó. Cô Út mắng luôn cả Thầy, mắng luôn cả các con, mà Thầy vẫn thản nhiên còn các con thì mặt cứ bìu xịu ra đó. Có không, nước mắt đứa nào cũng rưng rưng hết!

(01:12:12) Thật sự ra các con nói nghĩ thấy thương Thầy, không phải. Thầy thì Thầy thấy nhân quả, còn các con thì lại thấy Thầy và thấy các con chớ chưa có phải là thấy nhân quả, cho nên các con bìu xịu ra, coi bộ như cái cọng bún thiu. Còn Thầy thì như là cái cọng tàu hủ ky, cái loại thứ thiệt nó dai lắm, nó không có bứt được, phải không, của Thầy nó chắc lắm.

Còn các con thì thấy cái mặt sao mà coi nó xụ xuống vầy, nó ngó xuống chớ nó không có dám ngó lên, mà cái miệng thì méo xẹo chớ nó không cười, ôi trời buồn khổ nhất! Nhưng mà sao các con không nhìn cái mặt của Thầy, lúc bấy giờ luôn luôn vui vẻ.

Đó là nó có những cộng nghiệp, mà trong cái cộng nghiệp lại là cộng nghiệp với ai? Cộng nghiệp với Thầy của mình. Mà cộng nghiệp với Thầy của mình mà Thầy mình lại giải thoát còn mình sao bị xị như vầy nè? Trời ơi như cái bị đứt quai!

Đó thì Thầy nói thật sự, trong cái cuộc đời mình tu hành là mình thấy những cái này là cái chỗ phước rất lớn để cho mình nỗ lực mình tu. Thầy thấy được chỗ này Thầy mới: À như vậy rõ ràng mình mới là giải thoát chớ!

Chớ mình nói giải thoát mà không có cái này thì đệ tử mình đâu có thấy mình giải thoát? Cái chỗ này nó mới thấy mình giải thoát. Nó thấy mình giải thoát như vậy thì nó mới bắt chước mình, nó bắt chước mình thì nó được giải thoát. Đó, nó vậy.

Bây giờ vắng Thầy mới nhớ: À, ngày xưa Thầy làm cái gương hạnh, đúng là Thầy giải thoát mà mình không chịu giải thoát cho nên mình khổ, thôi bây giờ mình cố gắng mình làm theo Thầy. Càng vắng Thầy bao nhiêu thì các con phải càng nỗ lực bấy nhiêu, phải không?

Cho nên do đó, từ cái chỗ tu mà Thầy dạy các con là đặt cái niệm tu cái Định Vô Lậu thì các con cũng nhớ kỹ, nỗ lực mà tu cái đó để cứu cánh cái tâm của các con ra khỏi cái lậu hoặc, nó làm cho các con được giải thoát. Cái đó là cái quan trọng nhất đó.

Rồi từ cái tâm mà nó yên lặng rồi, nó thanh tịnh rồi, thì cái pháp hướng mà Thầy dạy các con thường tu tập, thường nhắc nhở nó trở thành một cái nội lực, cái nội lực rất mạnh của cái tâm của các con, mà chư Phật, Đức Phật Thích Ca ngày xưa gọi là đại thần lực.

Cái thần lực thì khi mà tu vào cái Bốn Thiền đương nhiên là các con sẽ hết cái lậu hoặc, cái Định Vô Lậu thì các con đã ly dục ly ác pháp rồi, thì nó là Sơ Thiền rồi, cho nên cái Sơ Thiền thì các con đâu cần phải tu tập nữa.

Do cái thời gian mà tu Định Niệm Hơi Thở thì các con đã là giữ được cái hơi thở, nó ổn định được cái hơi thở bình thường rồi thì nó nằm tương đương với cái Sơ Thiền rồi, thì đâu cần gì phải hơi thở đâu.

Và bây giờ các con đâu có cần gì mà các con lại ức chế tâm mình bằng cái vọng tưởng nữa, mà các con chỉ dùng cái pháp hướng nương cái hơi thở, các con bảo, ra lệnh hơi thở chậm và nhẹ, diệt Tầm Tứ nhập Nhị Thiền.

Thì lúc bấy giờ các con sẽ…​ Ngay đó cái hơi thở, con ra cái lệnh mà tâm con nó tịnh, nó ly dục rồi, con ra cái lệnh thì cái hơi thở nó sẽ theo đó mà nó nhẹ xuống và nó chậm, cho đến khi đúng cái mức của nó là nó diệt Tầm Tứ, thì ngay chỗ đó là các con sẽ nhập Nhị Thiền liền.

(01:15:11) Và đồng thời bây giờ các con tiếp tới thì các con nhập Tam Thiền, thì các con bởi vì tâm ly dục ly ác pháp rồi thì nó đâu có còn những cái tưởng đâu, nó đâu còn những cái dục tưởng, cho nên các con bảo: “Ly hỷ, ly tất cả các trạng thái hỷ ra, và đồng thời nhập Tam Thiền!”

Thì bắt đầu cái hơi thở các con nó sẽ nhẹ, chậm xuống, cho đến khi nó vào đúng cái mực cái trạng thái của sức tỉnh đến cái mức tỉnh rất cao, nó làm cho các con ngủ mà như là tỉnh, lúc bấy giờ đó thì nó nhập Tam Thiền.

Nó loại ra tất cả những cái trạng thái tưởng thì lúc bấy giờ chúng ta nằm ngủ mà không có mộng đó, tức là ngủ mà tỉnh, không có chiêm bao đó, không mê đó, thì nó mới là loại hết cái trạng thái của tưởng, nó ly các cái trạng thái hỷ tưởng.

Do lúc bấy giờ các con lại hướng tâm, lại nhắc nó: “Cái hơi thở và các hành về hơi thở phải ngưng hoạt động” thì ngay đó các cái hơi thở và các hành nó sẽ ngưng đi.

Nó ngưng với không phải là cái tưởng. Bởi vì cái tưởng là nó do còn cái dục, nó chưa ly dục ly ác pháp thì nó còn cái tưởng, mà khi ly các dục hết, các ác pháp hết rồi thì cái tưởng nó không còn hoạt động được nữa. Do đó chúng ta chỉ ra lệnh thì tức là các hành nó sẽ theo cái sự ra lệnh của chúng ta.

Tức là như Thầy nói đó là cái đại thần lực, cái lực của cái tâm thanh tịnh của chúng ta. Từ đó chúng ta ra lệnh thì nó ngưng, chúng ta nhập Tứ Thiền.

Mà nhập Tứ Thiền thì cái thân chúng ta không còn hoạt động nữa, cho nên thân nó định, thì thân định trên tâm mà tâm định trên thân, thì bây giờ chúng ta mới hướng tâm đến Tam Minh nó mới có Túc Mạng Minh.

Chớ còn nếu mà thân nó còn rung động, nó còn hoạt động ở trong này thì nó chưa định, thì tức là thân chưa định trên tâm, thì không thể nào mà chúng ta hướng tâm đến Tam Minh được.

Đó thì quý thầy, các con thấy rất rõ là cái con đường rất cụ thể như vậy. Cho nên hiểu rõ thì các con hãy lo mà tu cái Định Vô Lậu, xả cho được, là khi nào mà các con thấy như Thầy đã thường nhắc, tâm các con như cục đất, người ta đá qua đá lại, nó lăn qua lại mà nó không có phiền não, không gì hết, nó vui vẻ như thường.

Bởi vì nó nhìn được bằng cái đôi mắt nhân quả rồi. Người ta đang đá mình mà mình đang chịu những cái đá của người ta thì tức là mình trả, mình thấy mình trả. Còn cái mà hiện người ta đang đá mình tức là người ta đang nhân. Phải không, người ta đang nhân mà. Người ta nhân thì mai mốt người ta sẽ trả chớ sao? Còn bây giờ mình đang trả mà tại sao mình lại buồn? Không lẽ thiếu nợ người ta trả mà buồn sao?

Cho nên các con không có suy nghĩ kịp cái điều đó cho nên cái mặt nó bị xị. Nó thấy như là mình tạo cái điều kiện này điều kiện nọ, mình tạo ra cái nhân này nhân kia, cho nên mình mới gánh phải cái quả này.

Sự thật ra nó có nhân thì nó phải có quả rồi, mà nếu không nhân thì làm sao có quả được, ít ra nó có cái gì nó mới xảy ra cái quả. Cho nên chúng ta chấp nhận trả quả chớ chúng ta không có sợ trả, vì vậy mà chúng ta luôn vui.

Luôn vui thì cũng như Phật ví dụ: Người ta đem bánh tới cho mình mà mình không nhận thì người ta đem về chớ có gì! Trái lại mình cứ nhận thành ra mình cứ rầu rĩ hoài thì tức là mình đã nhận bánh người ta rồi.

(01:18:02) Cho nên những cái mà Thầy nhắc đi nhắc lại cho các con sáng suốt, đừng có lấy những cái chuyện xảy ra mà mình lại đâm ra phiền não.

Và trong những cái giờ phút cuối cùng, không còn có Thầy nhắc nhở, không còn có một cái bàn tay của người mẹ mà nâng đỡ mình nữa, thì tức là mình không còn nương tựa chỗ nào hết thì mình nương tựa ai đây? Mình sẽ nương tựa với ông thầy giới của mình, vì giới luật nó sẽ giúp chúng ta nương tựa vào nó, nó là thiện pháp.

Mà nó là ác pháp thì ngay đó cái tâm mình phiền não lại còn phiền não hơn. Còn nó thiện pháp thì ngay đó cái phiền não của mình thì mình biết rằng đây là cái ác pháp, không phải là thiện pháp, cho nên mình dứt cái tâm phiền não mình, thì dứt cái tâm phiền não mình tức là mình sống về cái giới luật rồi, nó là thiện pháp.

Các con thấy, một người tu hành mà biết rõ như vậy thì cái sự giải thoát ngay tâm họ, họ đã là tu cái Định Vô Lậu rồi. Và bây giờ hằng ngày mình không có cái chuyện gì hết thì mình phải đặt cái niệm đó để mình quét sạch cái tâm của mình, mình tu cái vô lậu.

Hằng ngày, ngày nào mình cũng nỗ lực mình tu vô lậu thì 5 tháng, 3 tháng, 6 tháng cái lậu hoặc nó sẽ quét sạch ra được hết rồi, thì chừng đó cái tâm mình nó như thạch bàn, nó vững vàng lắm rồi. Mà nó vững vàng rồi thì mình thử coi sao. Bây giờ cái thọ đau dưới cái chân, mình ra lệnh nó đừng đau thì nó không đau.

Đó như Huệ Ân có trình bày, Huệ Ân đã thực hiện được, Thầy thấy cái hiệu quả của cái pháp hướng nó có hiệu quả rồi. Bây giờ cái lậu hoặc nó chưa sạch đâu nhưng mà nó có những cái kết quả là có xả được cái lậu hoặc.

Con lớn tuổi rồi, bây giờ thân thể yếu đuối rồi, đi rất chậm chạp, có thể dễ té, có thể dễ bệnh, thì Huệ Ân cố gắng mà luyện tập cái Định Vô Lậu nhiều hơn, còn cái hơi thở để đó đi.

Chờ cái ngày nào mà nó xong cái tâm này rồi thì bắt đầu chỉ sử dụng hướng tâm là sẽ nhập vào các định chớ khỏi cần phải luyện tập hơi thở nhiều. Luyện tập hơi thở nhiều khi mình thở quá dài quá ngắn, nó rối loạn cơ thể của mình, nó cũng không lợi ích gì, nó làm cho mình tức lói thêm.

Đó là những cái điều kiện mà Thầy khuyên nhủ các con nên tu tập. Cũng như ngày hôm nay là có thể còn gặp gỡ Thầy, nhưng mà mai mốt thì nó đã hết khóa hạ rồi, Thầy đâu còn dạy, chắc chắn là không gặp gỡ Thầy nữa, và đồng thời thì cũng không còn thưa hỏi Thầy gì nữa. Khi nào mà Thầy tuyên bố rằng Thầy sẽ ra đi và vĩnh viễn không còn gặp Thầy thì chừng đó các con sẽ không còn gặp Thầy.

Và đồng thời hôm nay, sau cái ngày giải hạ này thì các con ai có muốn về thăm gia đình hay hoặc này kia, còn muốn trở lại đây thì trở lại, còn không thì về phải lo thu xếp, phải sắp xếp lại những cái chỗ ăn chỗ ở để mà nỗ lực tu hành tiếp tục ở trên con đường này cho xong.

Chớ không lẽ đi tu rồi nửa đường bỏ dở sao? Phải thực hiện cho đến cuối cùng, để cho đến cái chỗ rốt ráo, làm chủ được sanh tử, chấm dứt luân hồi, đó thì nó mới xong. Chớ còn nếu mà các con tu như thế này rồi bỏ dở uổng lắm.

Nó mới đi, coi như là các con đã chịu đựng trong khoảng 2, 3 năm nay. Mà 2, 3 năm nay coi vậy chớ cái sự tu tập các con, nếu mà xét ra đối với cái người khác thì các con đã giảm bớt rất nhiều rồi.

(01:21:13) Thế mà các con lại bỏ dở, nói rằng mình còn. Chưa phải, chừng nào mà nó rốt ráo cà, nó mới thật sạch, còn bây giờ tuy nó còn, nhưng mà đối với người khác thì các con chỉ còn 3, 4 à, còn người ta tới 10, 20 lận.

Thì các con thấy bây giờ các con dễ nhẫn, dễ tùy thuận, dễ bằng lòng hơn là những người khác chưa biết tu. Rồi các con thấy trên cái sức tu tập thiền định các con hôm nay như nhiếp trong hơi thở các con dễ, ức chế tâm của mình rất dễ.

Rồi cũng như đứa nào mà có tưởng nhiều thì có thể nói rằng chúng ta trị bệnh theo cái pháp dùng tưởng thì chúng ta thấy hoạt tay hoạt chân cũng dễ đó. Có không, các con thấy có không?

Còn cái người nào mà cái tưởng không có đó, họ ngồi cứng ngắc hay là chấp tay lên nằm đó để cứng ngắc cũng như cái tượng thôi chớ không có nhúc nhích. Còn người nào mà cái tưởng nó hơi mạnh chút xíu thì bắt đầu nó nhúc nhích dữ lắm.

Thầy nói thật sự đây là tưởng mà. Nhưng mà chúng ta dùng cái tưởng để trị bệnh, cũng như chúng ta tu cái Định Vô Lậu chúng ta cũng dùng cái tưởng mà quán bất tịnh để mà chúng ta thực hiện để lột cái bề trái của cái thân chúng ta.

Chúng ta nghĩ nó là thơm tho, chúng ta mới lật cái bề trái ra thì chúng ta mới thấy nó là bất tịnh, nó mới là vô thường thật sự, nó có sự thay đổi, diễn biến, nó mới đem đến cái khổ chúng ta, do chúng ta tưởng ra chúng ta mới thấy được. Mà trước khi tưởng thì nó phải có một cái gì tưởng chớ, nó khi không nó đâu có cái tưởng được.

Đó thì hôm nay trên cái pháp mà các con để tập luyện, khi nào mà cái bệnh của các con mà đúng là cái duyên nhân quả nó hết thì các con dùng cái đó thì nó hết. Mà cái duyên các con chưa có hết bệnh, tức là cái nhân quả chưa hết, nó còn kéo dài cái bệnh, thì các con có trị nó cũng không hết đâu.

Thật sự mà, đây Thầy đứng ở trên nhân quả Thầy nói mà, chớ không phải là ngoài cái nhân quả mà nói được. Nếu mà các con có cái thân hôm nay đau thì ít ra các con cũng có tạo cái nhân quả nào, cái thân nghiệp các con mang lên đây nó mới có cái đau này chớ, bộ khi không nó đau sao?

Tại sao người khác không đau như mình mà mình lại đau? Tại sao tuổi người ta không đau đó mà mình cứ mang cái đó? Thì đó là cái nhân quả của mình mà mình gánh ở trong cái đời trước mình qua, mình tạo cái thân có cái quả này thì tức là cái thân của mình nó đã mang cái bệnh đó rồi. Các con hiểu như vậy.

Do hôm nay chúng ta nhờ cái duyên mà chúng ta tu hành, vì vậy mà chúng ta gặp được những cái pháp tưởng này để mà chúng ta dụng nó để mà coi như nó là phục hồi lại những cái rối loạn của cơ thể chúng ta trong cái nhân quả của chúng ta, nó trở về với cái dạng bình thường để cho nó không còn đau đớn nữa.

Không khéo mình đem bác sĩ đồ mổ ra đó thì thôi nó lôi xương, lôi thịt mình ra thấy còn ghê gớm hơn nữa. Lỡ lỡ mà nó để cái kéo ở trỏng nó vá lại cái chết mình luôn. Phải không, các con hiểu! Hay hoặc nó để cái gạc, cái băng gì trong đó, nó quên lấy đi cũng chết mình nữa.

(01:24:02) Còn cái này nó khỏi mà, nếu mà không hết thì nó cũng đâu có sao, nó đâu có cắt banh xương xẻ thịt mình ra đâu mà sợ! Chỉ có tự nó, nó làm sao nó làm kệ nó rồi nó hết thôi.

Còn nó không hết thì cũng ăn thua gì, buổi sáng thì mình cũng ngồi mình múa chơi một hơi cũng khỏe, cũng như tập thể thao, có gì mà buồn, phải không các con? Thay vì mình phải chạy bộ để cho nó khỏe, còn bây giờ mình ngồi chơi ở trong cái thiền đường này, mình múa một chút cũng đâu có sao, coi cũng đẹp!

Có người khác người ta đứng ngoài người ta xem: “Ờ cái tưởng này nó múa cũng dữ chứ! Đứa thì làm giống rồng, đứa thì nó làm giống phượng, còn đứa thì nó làm như chim chích chòe!” Đâu có gì, coi cũng ngộ, đâu có gì đâu. Cho nên các con cứ tập đi, đâu có gì đâu.

Còn con đường tu thì các con biết rằng nó từ cái chỗ mà mục đích chính của nó là ly dục ly ác pháp chớ đâu phải ở chỗ múa may, phải không?

Mà cũng đâu phải ở chỗ mà ngồi như cóc, nó đâu phải vậy! Muốn nhập định rồi mới ngồi, mới cóc tía, cóc gì cũng được, còn bây giờ chưa có nhập định được làm sao ngồi cóc tía được! Chúng ta có ngồi thì cũng cóc con thôi chớ đâu có cóc lớn được. Thành ra cái chuyện đó là cái chuyện sai.

Cho nên hôm nay, tất cả những cái điều kiện mà hôm nay chúng ta nói để mà thấy, để rồi cười chơi vậy chớ sự thật ra thì cái gì rồi nó cũng là đến cái nấy, nhưng mà chúng ta chọn lấy con đường tu là phải chọn lấy con đường tu cho rốt ráo.

Thầy tin là các con quyết tu rốt ráo thì các con sẽ tới à. Dù là 80 tuổi, bây giờ như Huệ Ân con sắp sửa 80 tuổi rồi đó, con đi hết muốn nổi, nhưng mà con quyết tu là con sẽ tới cái ngày cuối cùng, con sẽ thấy sự làm chủ, kết quả con rất rõ ràng đó.

Cho nên thật sự ra theo bên con thì có mấy cháu nó vẫn thấy, một ngày nào đó, Thầy tin rằng, người mẹ của nó sẽ ra đi làm cái gương cho tui nó sáng, cho nó biết là có cái thân này khổ chớ không phải không, nhưng mà cái khổ do cái sự công phu của mẹ nó có đủ duyên mà về đây tu cho đến ngày cuối cùng, thì cái giờ ra đi của mẹ nó không có đến đỗi mà khổ như người khác đâu, vẫn tự tại, vẫn khỏe khoắn như thường.

Người ta làm việc thiện không mà người ta chết còn an ổn, còn huống hồ mình tu hành, mình xả bỏ hết, mình có làm ông thầy chùa lớn, ông thầy chùa nhỏ nào đâu mình sợ!

Cái thứ ông thầy chùa lớn, ông thầy chùa nhỏ đó mới sợ, ăn của người ta ăn nhiều mới sợ, nhất là Thầy đây, nhận lạy của người ta nhiều mới ngán chớ còn mấy con thứ thầy chùa nhỏ, không có bao giờ sợ gì hết.

Phải không các con? Thầy nói thật mà. Mấy ông thầy chùa nhỏ họ tu họ không có sợ gì hết à, còn mấy ông thầy chùa lớn thì sợ lắm. Bởi vì ai cũng cúng ông thầy lớn chớ ít có ai cúng ông thầy nhỏ.

Có bao giờ họ xách lại họ cúng cho cô Huệ Ân không? Cái gì vải sồ họ cũng xách cúng Thầy à, mà Thầy có một cái thân vầy, Thầy làm sao Thầy mặc hết! Hôm qua cái cô nào đó không biết mang cho Thầy một đống vải, trời, cái thân của Thầy có vầy mà chắc có lẽ là đắp lên chôn luôn chớ còn nói gì thứ đó!

Các con thấy vậy đâu có phải, Thầy đã nhận tức là Thầy quá tham rồi đó, nhưng mà không nhận thì họ không chịu đem về, thì bây giờ Thầy làm sao bây giờ? Thật sự ra đó cũng là cái khó chớ không phải là cái dễ.

Cho nên cái mà Thầy ẩn bóng đều là Thầy cũng trốn danh trốn lợi thật sự đó, Thầy cũng sợ đó. Mình không nhận người ta buồn, mà nhận thì mình chất ở đâu bây giờ đây? Rồi bắt đầu các con biết cô Út kiếm cái chuyện, nào may y may áo cho hết chớ không lẽ may cho ai bây giờ đây?

(01:27:09) Mà nếu các con không tu xong, ba cái y nó quấn các con nó lôi xuống địa ngục ráo hết. Còn nếu mấy con tu xong thì ba cái y đó nó mặc đi thì các con mới bay lên trời được, nó làm như đôi cánh nó bay. Đó các con hiểu, chớ không phải là thường đâu.

Cái thứ đó là thứ mồ hôi nước mắt của người ta, cho nên họ cúng Thầy, Thầy biết làm sao bây giờ? Không nhận thì họ bỏ đó họ đi về, có ai bao giờ đem về đâu, bỏ đó. Mà bỏ đó thì mình thấy, trời! Của mồ hôi nước mắt, không lẽ mình bỏ đó cho nó hư sao? Thôi cũng đem nhét vô đó.

Bây giờ biết ai mà cho bây giờ? Mấy ông thầy tu ông nào cũng nhiều hết, bây giờ cho mấy ổng, mấy ổng còn tham nữa, còn tội nữa. Mấy ông tu chẳng ra gì, giới luật chẳng ra gì. Còn mấy con về đây ăn ngày một bữa còn quý hơn mấy ổng nữa, thôi đem cho mấy đứa này còn bảnh hơn!

Phải không, các con thấy nó rõ mà. Còn đem cho mấy ông thầy kia, cho được chớ sao không được, nhưng mà điều kiện mấy ổng có ăn ngày một bữa không? Ăn ba bữa, mà còn chạy xe Dream đồ nữa trời!

Còn mấy con có cái thứ gì đâu, bây giờ hai tay không hết, không có gì hết. Cho mấy người tay không này còn quý hơn là cho mấy ông đã có. Cho nên đâu có đem cúng dường cho mấy người kia được.

Vì vậy ít ra mình cũng phải biết chọn cái nào mà có phước cho người khác chớ. Cho nên đem cho mấy con, mấy con tu không xong nữa thì chết mấy con, nó quấn mấy con nó lôi xuống địa ngục! Thầy nói thật.

Cho nên vì vậy mà sau khi tu hành các con ráng đi, đừng có nản chí! Trên cái đường tu bao giờ chúng ta cũng sẽ tới à. Cái kết quả khi mà Thầy vạch ra cái giáo án này rồi các con sẽ thấy con đường tu mình sẽ tới chớ không phải là không tới đâu. Tới rất rõ và cách thức tu cụ thể rõ ràng lắm, nếu hằng ngày các con nỗ lực siêng năng.

Mặc dù nó có những cái công việc để chúng ta rất là cực khổ và gian nan, nhưng mà bước đi chúng ta đừng có chùn bước mà chúng ta cứ tiến, tiến mãi, đừng có lui.

Nghe gì hơi khó khó coi bộ mấy con muốn thụt lui, muốn kêu là chạy ngược, cái mặt thì ngó đây mà cái chân thì bước lui không à, không có dám. Sợ ngó trở lại chạy sợ người ta ở sau dí mình, thành ra đâu có dám quay mặt trở lại, thành ra cứ ngó tới mà chạy lui, cái kiểu đó thì nguy hiểm lắm. Cho nên đừng, đừng, đừng có vậy! Cho nên ngó mặt tới thì đi tới chớ đừng có đi lui, cái đó là cái hay nhất.

Cho nên ráng như thế nào để mà chúng ta thực hiện được cái chỗ tu hành. Thứ nhất là thầy nhắc lại đây cho các con biết rằng, một cái người mà cất thất riêng tư tu hành trong cái thời Đức Phật, Phật không có chấp nhận cái điều đó đâu.

Mặc dù là bấy giờ trong cái Tăng đoàn là 1250 vị Tỳ Kheo, có một vị tính xin Đức Phật cái đề tài thiền để mà vào cái khu rừng vắng nào ở tu, thì vào đó ở tu chớ Đức Phật luôn luôn bao giờ cũng kèm sát cái vị đó chớ không bao giờ bỏ.

Còn quý con mà nói bây giờ, hôm nay tui học cái giáo án của Thầy rồi, bây giờ tui về cái núi đó như vậy đó, hay hoặc là chỗ nào đó tui cất cái thất rồi tui cũng nỗ lực tu, sự thật cái tự giác các con không nổi đâu.

Cái thứ nhất các con biết cái gì không? Ăn các con chưa thắng nổi đâu. Bởi gì ở ngoài đời nó dễ cám dỗ lắm, và cái tâm của các con lúc bấy giờ, cái ăn, thực phẩm coi vậy chớ nó không đơn giản đâu, nó lôi cuốn dữ lắm.

Cho nên mình thấy ăn có chút nào hoặc uống ly nước ngọt đâu có nhằm nhò gì mà sợ, nhưng mà từ một ly đó sau này nó sẽ một chục ly nó chưa bỏ đâu. Thật sự đó, cho nên vì vậy nó rất khó lắm.

Rồi cái ngủ nó cũng vậy. Bữa nay mệt quá thôi ngủ cho khỏe, mai tu. Không ngờ bữa nay ngủ, ngày mai nó lại lôi nữa, ngủ nữa, rồi mốt ngủ nữa, rồi bữa kia nó lại kéo ngủ dài ra nữa. Nó làm biếng ghê gớm lắm, nó từ từ nó lôi ra, chớ không phải dễ đâu.

(01:30:22) Cho nên một mình ai mà thấy, mình ngủ một chút ai mà thấy! Ông Phật ổng cũng ngồi đó ổng ngó xuống chớ ông đâu có ngó lên thấy mình, thành ra bật lên ngủ.

Thành ra mình cứ tưởng rằng cái tượng nó không thấy, ai dè nó thấy chớ đâu phải nó không thấy. Ông Phật cứ ngồi ngó xuống chớ ông đâu có thấy, mình lén lén mình nằm ngoài kia ổng dòm không thấy, hay hoặc là mình ra sau lưng mình ngủ đâu có thấy, ai biểu mình nằm trước mặt ổng thấy!

Thì do đó mình cứ nghĩ tưởng như vậy, nhưng mà sự thật ra cái tâm mình nó thấy mình hết trơn à. Đó, cho nên từ đó mình cũng vẫn bị cái thiếu tự giác của mình.

Rồi đến độc cư các con biết nó còn khó hơn nữa, nó khó lắm. Nhưng mà ba cái hạnh ăn, ngủ và độc cư mà mấy con giữ trọn được thì lúc bấy giờ mấy con mới là cất thất riêng mấy con ở được.

Còn nếu ăn ngủ mà không giữ trọn thì các con sẽ từ cái chỗ mà các con tự nấu nướng ăn là nguy hiểm vô cùng lận, từ đó nó sai các con, từ cái ăn phải thay đổi món ăn này món ăn kia, điều đó là các con đi nhầm, lạc con đường ly dục ly bất thiện pháp rồi. Nó không ly được, từ cái ăn không ly là không thể.

Cho nên tìm người bạn đồng tu với mình là hai người trở lên rất là khó chớ không phải dễ. Hai người là có hai tư tưởng rồi. Mà hai tư tưởng ở mới đầu một ngày hai ngày thì thấy nó hợp, nhưng mà đôi ba ngày mới lòi ra cái tưởng của người nào, cái tâm của người nào nó khác nhau hết.

Rồi hai người này cứ ở chung nhau mà cái tâm nó hục hặc hoài ở trong, tuy không nói ra chớ thiệt là thấy bất mãn vô cùng lận. Do đó làm sao tu? Cái khó là cái khó chỗ đó đó. Còn hễ đông nữa thì làm sao, các con nghĩ rằng từ ba, bốn người trở lên thì càng đông nữa là càng khó.

Mình đâu có thầy, cho nên cái chỗ những cái đức hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng đó là vốn cái mục đích để mà chúng ta sống chung nhau từ hai người, ba người trở lên mà chúng ta sống được là chúng ta tùy thuận ở cái tâm của người khác, cái ý của người khác, người ta muốn gì mình làm theo ý muốn. Mà chắc chắn gì bây giờ cái ý của các con mà con làm theo ý muốn của người khác được? Đâu có bao giờ các con làm theo ý muốn người khác được!

Cho nên làm gì mà các con hai người bạn đồng bằng với nhau, đồng tu với nhau mà lại tùy thuận với nhau như vậy được đâu, không có đâu, không bao giờ có. Cho nên một người thì dễ tu nhưng không tự giác, mà hai người lại có hai tư tưởng lại càng khó tu.

Cho nên cách tốt nhất là tu là phải có một cái kỷ luật, một cái thanh quy, dù 2 người hay 3 người hay 10 người vẫn phải có cái thanh quy, dựa vào cái thanh quy đó, cái kỷ luật đó để khép chặt mình ở trong cái kỷ luật đó, ai phạm thì đem cái thanh quy đó ra mà xử phạt.

Thí dụ như bây giờ con một cái thất, Thầy một cái thất nè, mà con lại nói chuyện với Thầy, lại thất Thầy nói chuyện, thì cái thanh quy cấm là độc cư không nói chuyện, mà cái người lại thất người khác nói chuyện là đem ra, mổ ra liền.

Tức là hôm nay là chị sai đó, chị đến thất tui nói chuyện đó là phá độc cư rồi, làm cho tui cũng mất độc cư mà chị cũng mất độc cư. Tốt hơn là chị nên ở thất chị chớ đừng có lại đây nói chuyện, nói chuyện như vậy là mình phạm giới.

(01:33:04) Ngày hôm nay là ngày rằm hay là ngày 14 đây, thì mình phải sám hối, từ đây về sau chừa cái lỗi này nữa, đừng có để làm mất cái…​ Chỉ có thanh quy thôi, còn không có thanh quy làm sao nói người ta được!

Hay là mình cũng buồn buồn rồi mình cũng thích nói chuyện rồi lúc bấy giờ kệ nó, giới giới kệ nó, mình cứ nói chuyện cho đã, hai người cũng đồng nói chuyện thì thôi rồi, cái chuyện đó thì không bao giờ mà có thể thực hiện được con đường tu tập đâu, khó lắm.

Cho nên ở đây Thầy nói thật sự ra, khi mà có một vị thầy như Thầy thì nó có thể đặt thành một cái vấn đề là cho các con độc cư, không nói chuyện, thì lúc bấy giờ theo kỷ luật đó và sợ Thầy thì lần lượt các con giữ được, rồi nó quen đi, rồi từng đó các con sống ở trong cái nội tâm độc cư, sống trở lại cái sự tu tập của mình.

Còn nếu không, không có kỷ luật như vậy thì nó động, rồi rốt cuộc các con sống 5, 10 người vầy rồi tu, cuối cùng cũng chẳng ra gì hết.

Cho nên trong cái thời gian mà nó chưa phải tu những cái định cho nên các con còn sống chung đụng với nhau, rồi tập độc cư một ngày hay nửa ngày, hay hoặc là một giờ, hai giờ độc cư như cô Út cho đó, đó là để tập cái Định Vô Lậu chớ không phải là tập cái định nhập định như bốn cái thiền định đâu.

Nhưng mà tập cái này để dành sẵn sau khi này chúng ta mới sống độc cư hoàn toàn. Còn bây giờ chúng ta sống chung đụng là chúng ta tập cái Định Vô Lậu để quét sạch cái lậu hoặc, không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa.

Các con thấy như bây giờ các con đang sống đó là tu cái Định Vô Lậu đó. Cho nên cái người nào mà tu được cái Định Vô Lậu thì luôn luôn cái mặt họ vui vẻ lắm, còn cái người nào mà tu cái Định Vô Lậu không được thì cái mặt đụng có chuyện thì nó buồn buồn ràu ràu, một hai ngày nó mới hết, đó, nhìn thấy thì rất rõ lắm.

Cho nên trong cái hoàn cảnh của các con là nỗ lực thực hiện cái Định Vô Lậu là nhiều nhất. Cho nên ở đây cô Út là nhắm vào cái Định Vô Lậu mà dạy các con hơn, mà dạy cách thức theo cô Út thì nhìn vào những cái cuộc sống của mình rồi truy ra những cái cuộc sống đó để mình xả cái tâm của mình, để cho mình trước những cái đối tượng mà cái tâm mình nó thản nhiên mà nó không có hờn, không có giận, không buồn, không gì hết hoàn toàn, thì đó là mình vô lậu.

Rồi từ mình vô lậu rồi nó mới bước qua một cái giai đoạn là tu cái định Hiện Tại An Lạc Trú, mới cho vào những cái thất riêng tư, rồi sống độc cư 100%. Cho nên bây giờ nói độc cư này kia là cô Út cổ không chịu, là tại vì cái tâm mình nó chưa vô lậu. Các con hiểu điều đó.

Nếu cỡ mà hoàn toàn các con vô lậu, người ta nói gì nói các con an vui này kia nọ, thì bây giờ nói thật sự không có khép các con vô trong cái thất độc cư đi nữa, thì chừng đó các con cũng ra lệnh độc cư trong những giờ, giây các con cũng nhập được định liền tức khắc nữa. Thầy nói thật sự, nó không phải cần vô thất độc cư.

Còn bây giờ mà khép như các con thấy, như Thầy khép cho quý thầy độc cư họ cũng chẳng làm gì được hết, họ độc cư họ không nói chuyện mà họ chẳng làm. Bởi vì cái tâm vô lậu họ chưa hết, cho nên họ cũng chẳng làm gì được.

Cho nên dù muốn dù không thì nó phải đi từ cái bước đầu của nó. Các con nhớ rằng cái Định Vô Lậu rất là quan trọng cho cái bước đường tu tập làm chủ sanh tử của mình, nó rất là quan trọng lắm. Vì vậy mà các con hãy cố gắng hơn./.

HẾT BĂNG

58 - TRẢ LỜI THƯA HỎI - TẠM DỪNG GIÁO ÁN

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 58 - TRẢ LỜI THƯA HỎI - TẠM DỪNG GIÁO ÁN

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- TU SINH HẢI TÂM TÁC BẠCH VÀ THƯA HỎI

1.1- ĐỨC HẠNH CỦA CÔ ÚT CŨNG NHỜ RÈN LUYỆN MÀ CÓ

(00:00) Đây là cái lời của Hải Tâm hỏi Thầy:

“Kính bạch Thầy và cô Út!

Thưa Thầy và cô Út, nay là buổi học hạ gần mãn, con xin trình sự tu tập và nói lên tâm tư, nguyện vọng của mình, xin Thầy và cô Út chỉ dạy cho con được rõ!

Gần ba năm nay, từ khi con vào đây tu học được sự giảng dạy của Thầy qua pháp bảo của Đức Phật, qua thân hành giáo của Thầy và cô Út chỉ dẫn chúng con từng chút, chỗ nào đúng, chỗ nào sai cô vạch ra rất rõ ràng, chi tiết để chúng con ly dục ly ác pháp và buông xả dần dần, bản ngã chúng con cũng tiêu mòn dần dần thấy rõ.

Cô tạo những cảnh nghịch để giúp đỡ chúng con trên bước đường tu, đập phá những cái ngã chấp, kiến chấp của chúng con, rèn dạy chúng con những đức tính nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng, can đảm, bền chí và nghị lực, siêng năng, tinh tấn vô cùng, không một giây phút nào nghỉ ngơi.

Dù trong cơn đau bệnh, tay chân rã rời, bước đi không nổi, cô vẫn lê bước chân ra ngoài làm việc phục vụ mọi người, chấn hưng Phật pháp, cô rất an vui không hề than thở cùng ai.

Cô buông xả tất cả, không hề giận ghét ai, thương yêu lo lắng từ con vật nhỏ. Cô rất ý tứ hành vi thân, khẩu, ý của mình, làm chủ được thân tâm. Trước cơn đau nhức mà vẫn thản nhiên, cô xem cái chết nhẹ như lông hồng, như sợi chỉ mành treo chuông.

Mọi sự việc xảy ra cô rất nhạy bén giải quyết trí tuệ. Cô chỉ ăn những món đơn giản, tầm thường, không béo bổ, ly dục. Cô luôn làm vui lòng người.

Qua gương hạnh đáng kính của cô Út, theo con nhận xét, sự tu tập rèn luyện thân tâm không phải tầm thường.

Thưa Thầy, con xin hỏi: Một người tu đạt kết quả như vậy, họ có sẵn một cái tài hay một năng khiếu, một trí thông minh nên con đường tu mau đạt kết quả, có phải vậy không thưa Thầy?”

Ở đây thì Hải Tâm hỏi Thầy. Sự thật nó cũng phải là cái một quá trình rèn luyện rất lâu chớ không phải là trong một ngày, hai ngày mà cô Út rèn luyện mình được cái tâm như vậy, mà cái thời gian ở đây nhiều cái đối tượng, nhiều cái hoàn cảnh xảy ra, rồi lấy những cái đối tượng hoàn cảnh đó mà rèn luyện mình.

Do đó mà hôm nay cô Út cũng muốn rèn luyện các con là vì cái lòng thương yêu của các con, muốn cho các con được như mình, được giải thoát như vậy, cho nên cố gắng, hở hở cái gì là cô Út cố gắng tạo cái điều kiện nấy để cho các con lấy đó mà rèn luyện thân tâm của mình cho được giải thoát.

1.2- TỈNH THỨC GIÚP PHÓNG RA TRI KIẾN GIẢI THOÁT

(03:09) “Thưa Thầy! Khi tu Định Vô Lậu, tri kiến giải thoát phóng ra đó là trí tuệ. Tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, làm việc liên tục từ sáng đến chiều: “Làm việc tôi biết làm việc”, suy tư trong việc làm như vậy nó có trí tuệ gì bằng tri kiến giải thoát hay không?

Ở đây thì Hải Tâm hỏi thầy: Tu cái Định Vô Lậu, cái tri kiến giải thoát là khi mà mình ngồi yên lặng thì bắt đầu đó, mới đầu thì mình dùng cái tri kiến. Tri kiến tức là cái sự hiểu biết của mình trong những cái lời Thầy dạy, trong những kinh sách của Phật.

Thí dụ như nói cái thân này vô thường, thì Phật nói cái thân vô thường, rồi nói cái thân này là khổ. Khi nó vô thường thì nó thay đổi, nó không có duy trì, nó không thường hằng, do đó nó có cái sự thay đổi, mà sự thay đổi đó nó làm khổ.

Rồi khi mà nó hoại diệt, nó mất đi rồi thì nó “không” - nó không có nữa. Và cái gì nó không có như vậy thì cho nên cái bản thể của nó cũng không có, cho nên cái ngã nó cũng không. Do đó Phật dạy như vậy. Rồi do vì vậy mà chúng ta chỉ hiểu như vậy chứ chúng ta chưa có hiểu nhiều nữa.

Cho nên khi mà nói nó vô thường thì chúng ta có cái suy tư hơn là cái hiểu của kinh sách đó. Bắt đầu chúng ta mới thấy, quán xét, như tóc ở trên thân của chúng ta, rồi như da chúng ta, rồi như cái sự suy yếu của thân chúng ta trong lúc trẻ như thế nào, rồi trong khi bây giờ như thế nào, rồi chúng ta suy nghĩ qua cái già chúng ta sẽ như thế nào thì chúng ta thấy cái sự vô thường thay đổi đó, thì chúng ta mới rõ được cái vô thường thay đổi đó.

Mà cái hiểu rõ do chúng ta suy nghĩ ra mà thấy thì đó là cái tri kiến giải thoát, từ nó phóng ra cái sự suy tư đó, nó làm chúng ta thấy rõ một cái vấn đề. Một cái vấn đề mà chúng ta muốn tìm hiểu mà chúng ta bây giờ đã rõ thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát.

Còn cái mà chúng ta hiểu theo cái chữ nghĩa, theo cái hiểu của người khác dạy mình thì cái đó không phải là cái sự tìm hiểu của mình, thì cái đó gọi là tri kiến. Đó hiểu như vậy thì biết.

Còn về tu Chánh Niệm Tỉnh Thức nó làm cho chúng ta hoàn toàn tỉnh thức ở trong một cái hành động, nó có ý tứ từng cái việc làm mà nó không có khởi ra một cái niệm kêu là vô thức.

Cái niệm mà trong khi chúng ta đang làm cái chuyện mà chúng ta không biết rồi chúng ta lại nghĩ cái chuyện khác, đang nghĩ một chuyện khác thì cái việc làm này chúng ta không có biết, mất đi rồi, thì cái đó gọi là thiếu cái chánh niệm, gọi là thất niệm. Thất niệm tức là thất cái tỉnh thức ở đó.

Cho nên ở đây giúp chúng ta làm việc có ý tứ. Vì vậy mà khi cái ý tứ này, khi mà chúng ta đặt một cái niệm thì nó mới có ý tứ.

Nó ý tứ nó mới nhìn được cái sợi tóc, nó mới nhìn được cái lằn nhăn của nó, nó mới nhìn được cái mũi của nó, mới nhìn được cái gò má hóp của nó, nó mới nhìn được con mắt sâu của nó, rồi nó mới nhìn được cái tròng mắt nó ngày xưa thì nó đen, bây giờ nó vàng, nó bạc, nó thấy lờ mờ, nó không rõ, đó nó nhìn được cái sự vô thường của nó.

Đó là cái sức ý tứ, ý tứ là cái sức tỉnh thức. Tỉnh thức nó mới giúp chúng ta ý tứ, rồi ý tứ chúng ta mới quan sát được, chúng ta mới phóng ra được cái tri kiến giải thoát, con hiểu không, nó mới có. Chớ còn cái ý tứ nó không phải là trí tuệ đâu.

(06:25) Cái ý tứ của chúng ta nó giúp chúng ta tỉnh thức thì nó giúp cho chúng ta có ý tứ. Bây giờ cầm một cuốn vở này mà có ý tứ thì chúng ta cầm nó, nó không có sẩy tay, làm rách hay hoặc làm rớt, đó gọi là ý tứ.

Chớ không phải là trong cái ý tứ đó là trí tuệ, mà nhờ cái ý tứ đó thì bắt đầu chúng ta mới quán sát, thì có cái ý tứ đó nó mới xem lại cái sợi tóc của nó, rồi mới xem lại cái lông mày của nó, rồi mới xem lại con mắt của nó, rồi mới xem lại cái gò má hóp của nó, nó mới xem lại cái làn da của nó, nó mới nhìn lại móng tay, móng chân, nó mới nhìn lại những cái đường gân ở trong thân của nó. Nó quan sát lại rất kỹ những cái phần chi tiết nhỏ, cái đó gọi là trí tuệ.

Nhưng mà cái trí tuệ này nó do cái sự phát triển, do cái sự ý tứ của mình nó triển khai ra những cái này, để cho mình tìm hiểu được cái sự vô thường đó thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát. Còn bây giờ mình hiểu qua một cái gì mà người ta hiểu sẵn thì cái đó gọi là vay mượn, cái đó gọi là tri kiến.

Đó là cái phần như vậy để cho con thấy rằng cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác nó chỉ giúp cho chúng ta có ý tứ, có tỉnh thức ở trong những cái ý tứ rồi mới áp dụng qua cái Định Vô Lậu thì nó mới phóng ra được cái tri kiến giải thoát.

Còn nếu mà không có ý tứ này thì nó chỉ có cái tri kiến mà thôi. Bởi vì nó không có ý tứ, cho nên nó chỉ nhớ lại, nó nhớ lại là nói “vô thường, khổ, không, vô ngã” thì nói: “Cái thân này là vô thường, khổ, không, vô ngã.”

Cho nên có người nghe đặt cái niệm thân vô cái thì bắt đầu đặt niệm thân, thì: “quán nó vô thường, khổ, không, vô ngã”, nói một hơi vậy rồi cái xả ra đi, nói: “Tui tu cái Định Vô lậu rồi.”

Đó thiệt là, cái định này nó kêu là tu một ngàn năm nó cũng vô lậu theo kiểu mà nhai cái bã mía của người ta mà người ta nuốt hết cái nước ngọt rồi mình nhai lại, nó lạt nhách mà cứ nhai hoài đó thì nó cũng không nhằm nhò gì đâu. Đó là cái sai đó.

1.3- TU TẬP NHỮNG PHẦN NÒNG CỐT TRONG GIÁO ÁN

(08:16) “Về định Hiện Tại An Lạc Trú con tu ít lại, con không ngồi hơn nửa tiếng, con tập có sức tỉnh, làm chủ thân tâm cho được trong nửa tiếng này thôi. Con tu ba thời: Buổi khuya, chiều, tối, thời gian còn lại con tu ba định kia.

Giáo án ra đời, Thầy hao hơi tổn sức rất nhiều, con cũng nguyện đem hết sức mình siêng năng tu tập những gì cần trau dồi, những gì cần dứt bỏ, và tuần tự con tu tập từ đạo đức nhân quả, Thập Thiện thân, khẩu, ý, ly dục ly ác pháp, tri túc thiểu dục, Tứ Vô Lượng Tâm…​”

Đó là cái phần mà các con đã hiểu qua cái giáo án mà Thầy đã dạy, đó là những cái phần nòng cốt của sự tu tập của các con đó.

Ráng mà cố gắng nhớ đến thiểu dục tri túc, có gì mình biết đủ rồi, mà bây giờ nó không có gì, mà nó còn cái gì thì mình cũng biết đủ, không đòi hỏi nữa, thì gọi là tri túc thiểu dục.

Rồi Tứ Vô Lượng Tâm các con thường hành nó, do đó mỗi mỗi các con đều giữ gìn thân khẩu ý của mình ly dục ly ác pháp thì các con sẽ thấy một cái tâm hồn, một cái thân an ổn nhất, các con sẽ giải thoát hoàn toàn.

1.4- MỖI LẦN PHẠM GIỚI LÀ MỖI LẦN TỰ NHẮC NHỞ MÌNH

(09:30) “…​nhất là luôn khép mình trong giới luật. Con đã học, đã biết nhưng sao con vẫn còn phạm, lương tâm cắn rứt, khổ sở vô cùng. Ngày nào giữ đúng, con thấy tâm con được thanh thản, an vui.”

Đừng nghĩ rằng, đừng có thấy mình phạm mà mình sợ, đừng có thấy phạm lỗi mà mình cắn rứt, mà mỗi lần phạm là mỗi lần nhắc nhở cho mình sửa lại mình, thì cái điều đó là một cái điều rất hay cho cái sự tu tập. Vì mình còn là phàm phu thì những cái sự sai sót đó nó dễ lắm, nó dễ lầm lạc lắm.

Cho nên ở đây phần nhiều là chúng ta đang tu ở trong các đối tượng để mà chúng ta thực hiện cái tâm giải thoát, thì cái sự lỗi lầm đó là một cái pháp để chúng ta sửa lại mình, để cho mình trau dồi lại mình, mình trở thành những cái người mà không còn có cái sự lỗi lầm đó nữa.

Một ngày nào đó cho đến khi mà chúng ta không còn phạm phải những cái giới luật nữa thì lúc bấy giờ đó là chúng ta đã đắc giới hoàn toàn, tức là chúng ta đã ly dục, ly ác pháp hoàn toàn rồi. Còn bây giờ thì đương nhiên là nó còn những cái chỗ phạm thì tức là mình chưa ly hết.

Thí dụ như bây giờ nó một trăm phần, mà bây giờ mình mới ly tám chục phần à, mà còn hai chục phần thì tức là còn phải lỗi đó chớ. Cho nên vì vậy mình cũng vẫn biết, nếu mà Ngài mà…​ (Mất tiếng)

…​phạm lỗi này thì các con sẽ thấy nó gấp trăm ngàn lần lận. Cho nên mới đầu các con thấy một bữa, bữa sau thì có Thầy đến Thầy thuyết giảng các con, mà thuyết giảng các con là có nghĩa gì?

An ủi các con để cho coi như các con bị té xuống đó, Thầy nắm tay các con, Thầy nâng đỡ các con đứng dậy, và an ủi các con để các con gặp Thầy nói rồi bắt đầu: Hồi hôm qua hay là hồi nãy nó đã bị buồn rầu, khổ sở mà gặp Thầy thuyết giảng rồi, bắt đầu con thấy các con buông xuống nhẹ nhõm, không còn buồn rầu nữa.

(11:34) Sau này thì Thầy không có cần nắm tay nắm chân các con mà lôi dậy nữa, để các con tự đứng dậy cho nên đứa nào cũng đứng dậy mà cái mặt nhăn nhó hết! Hồi đó có Thầy nắm tay đỡ dậy rồi Thầy phủi cát phủi đất cho thì nó sạch sẽ, còn bây giờ các con đứng dậy Thầy thấy ráng đứng chứ còn coi như là đất cát cùng mình hết.

Đó, đó là sự thật mà. Nhưng mà bây giờ còn ráng đứng, chớ hồi đó nếu mà Thầy không có lại mà Thầy nắm tay Thầy lôi dậy mà Thầy phủi cát, đất cho đó, thì chắc chắn là nằm luôn đó chớ chưa có đứng dậy nổi. Phải không, các con nhớ! Hạnh Minh hồi cũng bị đòn chớ bộ không à!

“Nhất là luôn khép mình trong giới luật. Con đã học đã biết nhưng sao con vẫn còn phạm.”

Biết chớ chưa phải.. Bởi vậy Thầy nói ngộ chớ chưa phải chứng mà, chừng nào mà chứng cái lý của giới rồi thì đâu phạm nữa. Nhưng mà chứng như vậy, hết phạm rồi thì mình còn tu cái chỗ nào nữa?

Con bây giờ đang hiểu mình còn là người đang tu mà, cho nên cái phạm đó là cái để chúng ta tu. Tu để mà đắc giới, mà đắc giới tức là giải thoát chớ gì?

Do cái chỗ này mình mới thấy được cái chỗ tu. Còn nếu mà mình thấy hết phạm rồi, bây giờ là Thánh rồi còn gì nữa phạm? Vì vậy thôi đi về trời ở chớ đâu có ở thế gian làm chi với ai đây nữa! Đó.

Cho nên ở đây lúc nào mà con thấy con hết phạm rồi thì lúc bấy giờ người ta sẽ làm cái bàn, Thầy sẽ nói với mấy cô này đem đá vô đây Thầy xây cái bàn cho, con Hải Tâm lên trên đây ngồi, bây giờ hết phạm rồi, phải lên ngồi đây chớ! Chớ đâu có ngồi chung với chúng được.

Bây giờ còn phạm thì mình ngồi chung đặng mình tu, còn hết phạm rồi thì phải ngồi riêng ra. Là Phật rồi, A La Hán rồi mà còn phạm sao? Đó, thì như vậy là mới thấy chỗ giới luật cái chỗ đó đó.

Cho nên mỗi lần phạm là mỗi lần mình đã tu đó chớ, nỗ lực để cho mình không phạm nữa, cho nên đâu có lương tâm gì cắn rứt! Đây là nó cắn rứt để cho mình thực hiện cho được.

1.5- PHÁP HƯỚNG XẢ TÂM CHÁN NẢN

(13:24) “Sự tu hành cũng có nhiều khó khăn, tâm còn yếu, con không vượt qua được, đôi lúc con cũng chán nản. Thưa Thầy, những lúc này con phải như thế nào, trạch pháp ra sao để sách tấn con trên bước đường tu tập?”

Trong lúc mà chán nản…​ Chưa chi mà vội chán nản thì dở quá vậy? Lúc mà còn Thầy thì lôi dậy đứng dậy tu nữa, mà bây giờ không có Thầy, chán nản quá chắc nằm luôn à! Thì cái chuyện đó, đừng! Bây giờ mình phải có nghị lực chớ!

Đó, cho nên bây giờ con biết pháp hướng rồi chớ gì: “Nằm đây cho mày chết luôn chớ ở đó!” Phải không, mình ra lệnh nó: “Đứng dậy, chớ không ta cho nằm là chết luôn!” Thì bắt đầu nó sợ quá, nó đứng dậy nó đi vô, nó không có nằm nữa.

Đó thì con sẽ dùng cái pháp hướng mà nhắc nó: “Tại sao mà đến giờ phút này mà như vậy, mà còn cái tâm như vậy? Quá tệ vậy? Phải là thanh thản, phải là giải thoát hoàn toàn chớ! Cái chuyện đó quá tầm thường, đứng ở trong cái chỗ nhân quả thì đã nhìn thấy nó quá rõ mà, tại sao lại còn cái tâm như vậy?”

Đó cho nên con dùng những cái pháp hướng trách mình, tự hỏi mình, xem mình tu hành mà tại sao còn yếu đuối như vậy. Đó, từ đó con sẽ mạnh dạn hơn và tiến bộ hơn thì cái tâm chán nản đó nó sẽ hết.

1.6- PHẢI NỖ LỰC TẬN CÙNG NHƯ HOA SEN NỞ TRONG LÒ LỬA

(14:40) “Thầy giảng nhiều, càng học con càng thấy con khuyết điểm rất nhiều, nhưng con sẽ cố gắng học pháp hành những câu Như Lý Tác Ý để thấm nhuần trong tâm.”

Nghĩa là ở đây con thấy con càng yếu, đứng trước các cái đối tượng mà quá cái sức tưởng tượng của mình, mà mình thấy mình rất nhỏ bé, mình dễ ngã quỵ trước những cái pháp đó.

Mình biết cái tâm mình yếu như vậy thì hằng đêm mình ngồi thiền mình đặt cái niệm trước mặt của mình, mình tu cái Định Vô Lậu. Cái lậu hoặc nó sạch rồi thì lúc bấy giờ con người của mình nó như một cục đá vậy. Nghĩa là ai làm gì nó cũng không…​ Gió thổi bao nhiêu, “bát phong bất động” mà, tám gió thổi chẳng động ở chỗ này hết.

Cho nên lúc bấy giờ chỉ có cái Định Vô Lậu mà con đặt niệm rồi con trạch pháp, đặt niệm quán, quán rồi mới dùng cái trạch pháp mà đập nó xuống, do đó con vững vàng vô cùng.

Cho nên đến khi mà đụng chuyện, đến khi mà gặp gió thổi thì cái tâm của con nó trơ trơ như cục đá, nó thổi như là thổi gò mối, không ăn thua gì nữa hết. Cho nên càng thổi bao nhiêu nó lại càng mát mẻ nữa. Bởi vì Đức Phật nói cái sức chịu đựng của con người mà đến cái mức cuối cùng thì nó lại mát mẻ.

Cho nên vì vậy mà lúc bấy giờ con sẽ dùng cái Định Vô Lậu thì nó sẽ càng…​ lúc nào mà cô Út chửi mắng dữ lại nghe nó mát lung! Cũng như quạt máy mà quạt, nghe nó mát lạnh chớ đâu có nực.

Còn khi nào mà nó nực thì tức là nó sai rồi, nó không đúng, nó mát thì nó mới đúng. Tu như vậy là mình mới tu chớ, tu mà người ta nói gì chửi mắng gì mình, mình mát lạnh rồi thì đó là mình tu đúng pháp rồi đó.

“Thầy giảng, con không có tài cũng chưa có đức độ bao nhiêu, nếu được Thầy và cô Út cho ở lại tu học thì con cũng cố gắng nghe và thực hành theo sự chỉ dẫn của cô, dù cực khổ, đói khát con cũng không than.”

(16:38) Sự thật ra thì Thầy nói, sự thật ra ai đuổi? Người ta thử thách chớ ai mà đuổi, miễn là mình có bền chí hay là không thôi chớ! Đó là cái vấn đề mới rèn luyện mình ở trong những cái…​

Người ta nói hoa sen phải mọc ở trong lò lửa, chớ đâu phải mọc ở trong nước, trong bùn lầy được sao? Cho nên do cái chỗ đó mới thấy nó nở ở trong những cái…​ cái bông nó mới đẹp chớ, như vậy là hoa nở trong lò lửa.

Bây giờ nghe người ta nói: “Đi đi, đừng có ở” thì bắt đầu quảy gói đi thì cái chuyện đó là quá dễ rồi, cái chuyện đó ai làm không được?

Cho nên cái chuyện đó là cái chuyện cần phải có một cái sự bền chí, bền lòng, có một cái sự năng nổ và cái sự biết sửa lỗi của mình, biết khắc phục, biết tu tập, thì cái sự ở lại nỗ lực tu tập đều là điều tốt nhất, không có bao giờ mà có thể mà…​

3 năm trời mà các con đã từng sống ở đây rồi, thì các con biết từng cái sự giải thoát của các con. Ở trong tâm nó bao nhiêu cái sự giải thoát, nó vô lượng pháp thì nó vô lượng sự giải thoát ở trong tâm, không phải trong một ngày, hai ngày mà chúng ta giải thoát hết được, nhất là cái tâm vô lậu.

Các con nghe 25 năm hay là 55 năm của các vị, ông A Na Luật 55 năm! Nó đâu phải là một cái chuyện tầm thường trong một ngày, một giờ mà chúng ta thành tựu được.

(18:03) Vì vậy mà 3 năm trời nay mà các con theo cô Út, các con thấy xả bao nhiêu không? Nhìn lại đứa nào mà Thầy thấy trong…​ Con nè, Từ Nguyện nè, Tú nè, Huệ Ân nè, các con thấy về đây, phải nói rằng 3 năm nay thì các con thấy, đến giờ phút này các con thấy cái sự giải thoát như thế nào không?

Nếu mà cứ đem lại, từ cái ngày bắt đầu mà các con đến đây cho đến bây giờ, các con thấy cái thời gian mà tu tập nó sẽ đem lại cho các con cái lợi ích rất lớn chớ không phải là ít.

Như vậy thì các con phải nỗ lực hơn nữa để cho nó…​ Sắp sửa mà bước tới cái chỗ giải thoát nó lại càng khó khăn hơn nữa, nó đánh mình bung ra lận chớ không phải ít đâu. Nhưng mà mình nỗ lực thực hiện cho tận cùng nó thì chừng đó mình mới mát lạnh.

Cho nên Đức Phật nói cái sức chịu đựng sinh mạng của mình tận cùng, đến cái mức tận cùng thì nó mới mát lạnh, chớ còn nó mới nửa chừng nó chưa mát lạnh đâu. Cho nên ở đây phải nỗ lực cho tận cùng nó mới mát lạnh. Đó là các con phải thực hiện cho đúng những cái điều kiện mà như vậy.

Bây giờ các con thấy, nếu mà các con tìm một cái nơi nào mà có thể nó yên ổn, nó có thể thực hiện được con đường thiền định từ cái Định Vô Lậu cho đến cái Định Hiện Tại An Lạc Trú, thì các con tìm cái chỗ đó mà các con ở tu.

Còn nếu mà không thấy cái chỗ nào mà hơn cái chỗ này được thì các con nên bám chặt cái chân cô Út đi, cổ đá bao nhiêu các con cũng ôm cho chặt. Các con ôm chặt bao nhiêu thì sự giải thoát nó càng nhiều bấy nhiêu, mà ôm lỏng lỏng thì tức là nó không giải thoát đâu.

Cho nên ở đây cô Út nghe Thầy nói vậy chắc chắn là cô ghét Thầy! Biểu mấy đứa đi ôm chặt chân cổ, ôm chặt cổ riết cổ chết hết á, cổ tu không có được. Nhưng mà bởi vì Thầy thương các con Thầy mới nói thiệt ra đó, đừng có để cho cô Út nghe băng này chớ, để cho cô nghe rồi bất tử!

Chứ bây giờ ôm chân ai giờ? Thầy đi mất rồi còn đâu mà ôm chân, phải không? Chỉ có ôm chân cô Út. Cổ nói để cổ đi trước đi, chứ cô sợ ôm chân cổ rồi cổ không làm sao cổ cứu mấy con được. Nhưng mà bây giờ biết ai? Thôi bây giờ các con thì phải ôm chân cô Út thôi chớ gì!

Như vậy thì đứa nào ráng ôm được thì ôm, mà ôm không được thì tìm cái chỗ nào mà cho yên ổn mà tu tập thì cũng tốt thôi, chứ Thầy cũng không có nhất quyết cái điều đó được. Do cái tâm tư của các con chớ gì? Các con tìm thấy được cái chỗ nào yên ổn nhất mà có thể đi đến cái giải thoát.

Các con nghe Thầy có giảng cái bài khu rừng mà, phải không? Tìm cái khu rừng mà cái chỗ ở đó bây giờ mình thấy được cái sự giải thoát rồi, tâm mình hồi đó nó chưa vô lậu mà bây giờ nó được vô lậu rồi, tâm mình nó bất an mà nó được an rồi, thì ngay đó mà dù bây giờ có đói có khát đi nữa nhất định cũng không rời khu rừng đó nữa. Phải không?

Mà đến gặp cái vị nào mình ở chung với cái vị thầy đó, mà bây giờ ở đó dù cơm ăn áo mặc đầy đủ mà tâm vô lậu chưa có vô lậu được, mà tâm bất an nó chưa an được, thôi bây giờ có đầy đủ cũng đi nữa chứ đừng có ở. Ở trong kinh Phật đã dạy rồi mà!

(21:08) Mà ở với vị thầy đó dù chỗ đó có đói khát gì đi nữa, lúc bấy giờ mà mình thấy tâm mình chưa an mà nó được an, phải không, mà tâm mình chưa vô lậu bây giờ nó được vô lậu thì bây giờ có đuổi cũng không đi nữa, nhất định không đi.

Chết bỏ, nhất định ở đây, cô chết tui chết, sống với nhau à, chớ bây giờ cô dạy sao tui nghe vậy tui không dám cãi cô đâu, nhưng mà tui không bỏ cô. Có cái điều kiện như vậy thôi.

Đó là mình tìm được một cái vị mà có thể giúp mình vượt ra khỏi cái sanh tử luân hồi rồi, thì bây giờ cái vị đó làm khó dễ gì mình cũng không đi hết.

Cái người mà người ta ngon ngọt, dịu ngọt với mình để cho mình tu hành, thì cái chỗ mà mình thấy dù mình có đầy đủ, ngọt ngào cho mình tu hành đi nữa, chắc chắn mình có ở tu mình cũng không có lợi ích mà không có vô lậu được thì bây giờ có ngọt ngào đi nữa mình cũng không ở.

Tại sao vậy? Tại vì mình thấy rõ ràng là chỗ đó không có lợi, mà người ta lợi dụng mình để cho mình ở chung đó để mà người ta làm cái tập thể đó mà người ta lường gạt người khác, người ta lấy tiền người ta sống. Đó là người ta mới dụ mình chớ, người ta mới ngọt ngào mình chớ!

Còn cái người mà ở đây người ta không có vì cái chỗ đó cho nên người ta cứ xua đuổi mình không à, nhưng mà mình thấy rõ ràng tâm mình vô lậu nè, tâm mình nó như thế này thế khác nè, nó chưa an nó được an thì mình hãy bám cho chặt, đừng có buông người đó ra. Vì sớm muộn rồi người đó sẽ giúp mình đó, họ làm vậy chớ họ tìm cách họ giúp mình. Thật sự ra họ giúp mình đến mình tu giải thoát mà thôi.

Đó thì rõ ràng là các con xét thấy, bây giờ các con thấy, nhiều khi các con thấy cô Út chỉ các con từng chút ở trong cái cuộc đời của các con để các con tìm ra cái lối giải thoát vô lậu của mình chớ gì? Những lúc đó thì các con thấy: “À mình thấy cô Út dạy có nhiều cái có kinh nghiệm cuộc đời thiệt chớ không phải không!” Không có ở trong kinh điển.

Còn Thầy thì Thầy đứng ở trong kinh Phật Thầy giảng cho các con thấy các pháp tu hành như vậy, như vậy, nhưng mà đây là cái chuẩn bị để rồi chúng ta phải đương đầu với cuộc sống thật sự ngoài đời. Còn cô Út cổ dạy đương đầu thật sự với cuộc sống chớ không phải là dạy kinh sách.

Còn Thầy ở đây dạy chuẩn bị. Bây giờ các con tu Định Vô Lậu nè, các con quán thân vô thường nè, cái này cái nọ kia, xem nó như vậy, đến khi con thấu rõ được cái sự vô thường rồi thì con chuẩn bị nó chớ chưa có gặp đâu.

Mà khi gặp rồi đó thì lúc bấy giờ cái trí tuệ con nó phóng ra cái thân vô thường, thì người ta chửi mình làm gì mình giận? Nó đỡ các con một chút. Còn cái kia các con phải tư duy, phải sâu sắc à, cho nên đến khi gặp người ta chửi, mình thản nhiên. Mình phải tu nó nhiều cái hơn, nó chưa có sức chuẩn bị, còn ở đây có sức chuẩn bị trước.

Cho nên trong cái sự tu tập về cái Định Vô Lậu đó là cái sự chuẩn bị cho chúng ta vô lậu, cho nên nó thấm được cái lý vô lậu, do đó gọi là chứng ngộ. Chứng ngộ cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã, do như vậy cái lậu hoặc nó mới sạch.

Còn cái tu Tứ Bất Hoại Tịnh là các pháp đang ở trong cái đối tượng nó có thể xảy ra chúng ta tham, sân, si, phiền não, nó làm cho chúng ta có những cái sự khổ tâm. Do vì vậy mà chúng ta tu cái Tứ Bất Hoại Tịnh để cho chúng ta bắt cái thân nó niệm Phật.

Mà cái thân chúng ta niệm Phật thì nó không có lỗi lầm. Phật đâu có lỗi lầm? Rồi bắt cái tâm mình niệm Phật thì nó không có lỗi lầm, do đó nó cũng làm cho cái lậu hoặc của chúng ta nó sẽ sạch hết.

1.7- TU TẬP ĐỊNH VÔ LẬU HAY TỨ BẤT HOẠI TỊNH

(24:20) “Thưa Thầy!

Khi con được nghe qua giáo án, con đã tu sửa lại, không như trước nữa. Tức là con lao động gần như suốt cả buổi sáng để tu Chánh Niệm Tỉnh Giác cho có sức tỉnh. Trong khi chung đụng, xem xét tâm con có lỗi gì thì trưa hoặc tối con tu Định Vô Lậu…​”

Thay vì cái chỗ mà con tu cái Định Vô Lậu này, xem xét cái chỗ này thì con đặt cái niệm nó ra rồi con quán xét lại coi mình có cái lỗi gì không thì nó cũng được.

Hoặc là lúc bấy giờ mình thấy nó rất rõ rồi, mình không cần quán xét. Cái đó là cái lỗi của mình rồi, cái thân mà niệm Phật thì nó không được lỗi, thì do đó con đã học là Tứ Bất Hoại Tịnh con áp dụng ngay liền, con khỏi cần tu cái Định Vô Lậu, nó mắc công con phải quán xét.

Bởi vì con đã rõ rồi, cần gì phải quán xét. Chừng nào cái đó nó không có rõ, con mới đặt cái niệm vô lậu, con mới quán xét để cho mình hiểu rõ.

Còn bây giờ cái lỗi của mình mà mình chưa có hiểu nó là đúng hay là sai, mình có lỗi hay không lỗi, thì mình đặt ra để mình tìm coi cái lỗi nó phải là đúng của mình hay không. Do vì vậy đó thì nó phải là cái Định Vô Lậu.

Còn bây giờ mình đã rõ rồi, thì bắt đầu mình đem nó bắt buộc mày niệm Phật, mày đã làm bậy thì tức là mày phải niệm Phật cho mày không có được làm bậy nữa. Đó các con hiểu.

Cho nên tu cái Định Vô Lậu thì khi nó không còn rõ, nó chưa nói rõ, cho nên buộc lòng mình phải quán xét cho nó rõ. Còn cái Tứ Bất Hoại Tịnh là tất cả các pháp đều lôi đầu nó vô, bắt buộc nó niệm Phật.

Bởi vì nó bốn cái chỗ niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, cho nên vì vậy đó mà mỗi hở hở ra cái gì thì mình lôi cái thân của mình ra niệm Phật nè, lôi tâm ra niệm Phật nè, lôi cái thọ ra niệm Phật nè, lôi các pháp ra niệm Phật. Mà niệm như vậy thì chúng ta sẽ được giải thoát hoàn toàn, nó không còn có cái tâm phiền não đau khổ nữa, đó.

Cho nên tu như vậy thì nó kết quả rất lớn. Còn khi nào không rõ thì con nên đặt cái niệm vô lậu.

Và đồng thời con muốn thấm nhuần cái vô ngã, cái khổ, không, vô ngã của con, cái vô thường của con thì con cũng đặt cái niệm đó hằng ngày con tu để cho nó thấm nhuần cái vô ngã, cho nên nó diệt trừ cái bản ngã của mình, nó diệt trừ cái tâm ngã mạn của mình.

Do đó con phải thấy nó vô thường, khổ, không, vô ngã nó rất là rõ ràng khi hằng ngày con đặt cái niệm đó và con quán xét cho nó rất cụ thể.

“…​xem tánh con còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa hay không.”

Tức là Ngũ Triền Cái đó.

“Nếu khuya con tu Định Hiện Tại An Lạc Trú 30 phút, trong 30 phút này con thường hướng tâm:”

Thường hướng tâm nhắc nhở thì cái điều đó là cái điều tốt nhất, không có sao hết.

““Sáu căn phải tập trung tại tụ điểm, nghe hơi thở và nhìn hơi thở! Hơi thở phải chậm và nhẹ!” Con thấy hơi thở con càng lúc càng chậm và nhẹ dần nhờ con tu ít lại, nên hôn trầm cũng bớt nhiều.

Thưa Thầy khi tâm con còn tham, sân, si, mạn, nghi, con tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì tâm con được giải thoát rồi, con khỏi tu Định Vô Lậu được không?”

Con tu, tức là tham, sân, si, mạn, nghi con mới phá được cái triền cái à, mới có Ngũ Triền Cái à, còn Thất Kiết Sử nè, rồi còn cái lậu hoặc nó còn, chưa hết, cho nên cái Định Vô Lậu nó còn nữa, còn phải tu nữa.

Chớ không phải nói là tu Tứ Bất Hoại Tịnh là tham, sân, si của mình hết rồi thì mình khỏi tu Định Vô Lậu. Cần phải tu thêm, tu để chứng được cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã của nó.

1.8- KHÔNG TU ĐỊNH SÁNG SUỐT KHI ĐANG BUỒN NGỦ

(27:49) “Thưa Thầy, những lúc nào con tu Định Sáng Suốt? Khi con ngồi trên xe buồn ngủ, hoặc đang may vá mà buồn ngủ, con tu Định Sáng Suốt được không?”

Không! Định Sáng Suốt là lúc bấy giờ phải là cái tâm thanh thản, cái tâm rất tỉnh cà mới tu Định Sáng Suốt. Còn khi mà buồn ngủ hoặc là khi ngồi ở trên xe mà đang bị buồn ngủ, như bây giờ con ngồi ở trên xe mà con buồn ngủ thì đó là một cái điều rất khó, rất khó.

Muốn tu cho nó được vậy thì lúc bấy giờ khi ngồi trên xe, tức là ngồi yên lặng như vậy thì con mới đặt cái niệm tu cái Định Vô Lậu, con mới dùng cái trí tuệ quán xét, quán xét làm cho nó động tâm cho nên nó hết buồn ngủ. Chớ còn không khéo con nằm, con ngồi một hơi nó lặng lặng, nó không có nghĩ gì hết, cái nó thiu thỉu nó ngủ.

Cho nên khi mà ngồi trên xe thì nên đặt tu cái Định Vô Lậu chớ không được tu cái định gì khác hơn mà phá cái buồn ngủ được. Còn khi mà bình thường ở nhà hay ở chùa mà nó buồn ngủ thì con nên tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức đi kinh hành để mà phá buồn ngủ.

Thí dụ như buồn ngủ nhiều thì con đứng tại chỗ con chạy, coi như là mình chạy bộ mà chạy tại chỗ đó, chạy lúp xúp đó mà chạy bộ, chạy chừng nào đổ mồ hôi ra rồi đi tắm, rồi vô thì cái buồn ngủ nó mới yên được.

Rồi bắt đầu không có được ngồi mà tu cái định hơi thở nữa mà phải đi kinh hành. Nó đã hết buồn ngủ rồi, nhưng vẫn đi kinh hành tập tỉnh thức ở dưới bàn chân của mình, thì nhờ vậy nó mới phá được cái buồn ngủ. Cái buồn ngủ nó không đơn giản đâu.

Cho nên ở đây không thể nào mà tu Định Sáng Suốt trong khi buồn ngủ mà tu được đâu, khó lắm.

1.9- LỜI TRI ÂN CỦA TU SINH HẢI TÂM

(29:24) “Trong suốt ba tháng nay, tâm chúng con chao động rất nhiều, hết chuyện này đến chuyện kia. Nên chi làm việc, học lý thuyết, chúng con tu tập ít, chưa thực hành nhiều, nhưng con thấy có kết quả, tâm con bớt giận hờn, không còn quá thèm khát như xưa, tình cảm cũng bớt đi.

Con hi vọng rằng nếu con tu đúng giới luật, Phạm hạnh đầy đủ thì lợi ích phải giải thoát cho con và cho nhiều người, và đền ơn Thầy, cô Út đã nhiều năm tháng quá cực khổ vì chúng con.

Công sức Thầy giảng dạy rất là mệt nhọc và chu đáo, một công trình chưa từng có, nhắc đi nhắc lại những lỗi lầm ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.

Đã huân tập nhiều đời trong chúng con tưởng chừng như không bao giờ tu sửa được như tâm ham muốn, giận hờn, thương ghét, si mê, tật đố, nghi ngờ, nhưng hôm nay con hầu hết đã hiểu được cái lý, chỉ còn tu tập bằng cách thực hành nhờ pháp quán, pháp hướng, trạch pháp.

Những gì cần dứt bỏ chúng con phải mạnh dạn, can đảm dứt bỏ ngay liền. Những gì cần trau dồi chúng con cũng liên tục nhắc nhở không quên, để chúng con quét sạch lậu hoặc, ly dục ly ác pháp để nhập Sơ Thiền.

Nhưng từ đây về sau, sự tu tập của chúng con có kết quả như thế nào, đúng hay là sai, chướng ngại chỗ nào, chúng con không biết thưa hỏi cùng ai, không còn người để sách tấn và khích lệ chúng con trên bước đường tu tập gian truân, vất vả này nữa. Đúng là một điều bất hạnh cho chúng con!

Con không lấy làm nản chí mà chỉ biết nhân quả duyên nghiệp chúng con được Thầy độ đến đây quá đầy đủ. Chúng con theo đó nắm lấy giới luật nghiêm trì, giới hạnh nghiêm túc để thực hiện cho đúng được giải thoát hoàn toàn, làm chủ được sanh tử luân hồi, vì còn bao nhiêu người đang mong đợi ở chúng con, và sự ra đi của Thầy cũng được an tâm vì không đứa nào chểnh mảng trong sự tu tập này nữa, mà quyết chí năng nổ hằng ngày, hằng đêm để thực hiện cho bằng được con đường giải thoát của đạo Phật.

Chúng con phải thu ngắn thời gian, sớm đạt kết quả để cô Út bớt lo lắng, bận rộn cho chúng con từng ngày, từng đêm, khắc khoải lo âu từng người trong tuổi già sức yếu, trong cơn đau ốm liên tục, trong sự lo lắng buồn rầu suốt những năm tháng chỉ công dã tràng xe cát biển Đông, trong sự chán nản nhìn chúng con tu tập.

Nhưng hôm nay giáo án ra đời, chúng con được thông hiểu hơn và quyết chí tu hành để không làm phụ lòng Thầy và cô Út, để đền đáp ơn chư Phật, ơn đàn na thí chủ.”

1.10- VIỄN LY CHÍNH LÀ LY DỤC LY ÁC PHÁP

(32:43) “Thưa Thầy!

Câu “vì vô minh nên ta sống viễn ly” - có phải người sống viễn ly như vậy tu toàn pháp quán tưởng Định Vô Lậu, không có cảnh để buông xả, ly dục ly ác pháp?”

Không phải. Đây Thầy nói chữ: “Thưa Thầy, câu “vì vô minh nên ta sống viễn ly”” - ở đây thì các con thấy cái vô minh là một phần của nó làm chúng ta mờ mịt, không có rõ, nhưng còn một cái rõ, một cái viễn ly ở đây là viễn ly cái tâm ham muốn nữa, rồi viễn ly cái lòng vô minh nữa.

Viễn ly cái vô minh là chúng ta phải nỗ lực, chúng ta phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu. Còn viễn ly cái lòng ham muốn của chúng ta là dứt bỏ những gì mà chúng ta cần dứt bỏ.

Rồi viễn ly những cái gì mà đã là thói quen chúng ta đó, thì nó trở thành những cái thói quen thì chúng ta phải trau dồi cho cái tâm đức của chúng ta nó trở thành những cái đó nó thuần thục thêm. Cho nên đó là cái lý để mà nói chúng ta viễn ly.

“Có phải người sống viễn ly như vậy tu toàn pháp quán?”

Không phải. Không phải toàn là pháp quán mà nó nhiều pháp nó mới có thể viễn ly. Nhưng mà đầu tiên, thì cái gì viễn ly đầu tiên trước? Tức là chúng ta phải viễn ly về cái ăn, cái ngủ, cái độc cư.

Chúng ta phải viễn ly nó, thì viễn ly, thí dụ như bây giờ mình ăn ngày ba bữa thì mình viễn ly ra, mình bớt, ăn còn có một bữa. Rồi mình ăn một bữa mà mình còn thèm, mình ăn nhiều, do đó mình viễn ly cái thèm, cái ăn ít lại. Do cái sự viễn ly đó lần lượt cái sự viễn ly nó đi từng bậc từng bậc cho nó đến.

Rồi bây giờ cái tâm mình còn ham muốn sửa sang đẹp đẽ hay hoặc là còn trang điểm, hay còn thích vật này vật kia, thì mình viễn ly cái lòng ham muốn đó, mình phải viễn ly. Mà cái tập viễn ly đó nó nhiều cái thứ viễn ly lắm, nó xa lìa vật chất cái này cho đến cái nọ, nó đủ mọi mặt cái sự viễn ly.

(34:38) “Có phải sống viễn ly như vậy là tu pháp quán?”

Quán cũng là một điều tập cho chúng ta viễn ly. Mọi cái chúng ta đều là có cái sự tu tập để mà viễn ly hết. Tu cái Định Vô Lậu cũng là vốn để chúng ta viễn ly cái tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình. Tất cả mọi cái pháp môn đều là giúp chúng ta viễn ly ra đó, xa lìa ra đó.

“Khi ra đi giữa chợ họ còn thèm ăn, ai chửi mắng họ còn tức giận, và tham, sân, nghi, mạn họ còn hay không, một phần cũng là do thói quen.”

Cho nên ở đây cái thói quen thì chúng ta cũng phải tập viễn ly cái thói quen, nhưng mà chúng ta phải tập dứt bỏ. Chúng ta phải tập xa lìa, chúng ta phải trau dồi, rồi phải có những cái tu tập, rồi có cái thì chúng ta phải thông hiểu.

Thông hiểu thì nó mới phá dần cái vô minh, còn mình không thông hiểu thì vô minh nó càng nhiều. Cho nên có những cái thông hiểu để cho nó không có vô minh.

“…​một phần cũng do thói quen. Còn người sống chung đụng có cảnh để họ buông xả, ly dục ly ác pháp, kiềm chế tâm mình liên tục, như không nói chuyện, không ăn phi thời, không nổi sân, không kiêu căng hống hách, không nghi ngờ ai. Có nhiều cảnh người ta giải quyết không nổi khiến người ta đau khổ, nên họ thích sống viễn ly để xa lìa cảnh đó.”

Ở đây người ta nghĩ viễn ly là mình sống tách biệt ra cũng như sống độc cư, như Thầy cho quý thầy sống độc cư vậy. Không phải. Viễn ly là trong khi mình sống chung như thế này này, mình viễn ly cái tâm của mình, chớ không phải là viễn ly xa lìa người ta, hay hoặc là xa lìa cảnh động.

(36:16) Như bây giờ đó, mình sống mình tu tập viễn ly là tất cả các pháp đều là giúp cho chúng ta viễn ly, mà viễn ly đây là viễn ly cái mục đích của tâm chúng ta.

Nhưng bây giờ chúng ta còn yếu thì chúng ta tập cái viễn ly của chúng ta là sống ở trong cái cảnh yên tĩnh một chút, để không ở trong cảnh động thì cái tâm của chúng ta nó khó mà có thể giữ gìn nó được, cho nên chúng ta cũng viễn ly cảnh trước rồi chúng ta…​

Cũng như Đức Phật muốn dạy chúng ta tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức hoặc là tu các pháp thì Đức Phật dạy chúng ta phòng hộ sáu căn trước. Các con thấy không, phải dạy cái đó trước chớ.

Nếu mà không phòng hộ sáu căn thì các con đi ra đường các con ngó qua ngó lại, về nhà thấy đủ thứ hết, trong đầu dính đủ thứ hết, bây giờ xả ra biết chừng nào xả cho hết?

Cho nên muốn viễn ly nó thì đầu tiên là chúng ta phải ngó xuống đất, không có được ngó qua ngó lại, phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Đừng có nghe chuyện gì bên ngoài xung quanh mình mà hãy nghe và hãy thấy ở dưới bước chân mình đi mà thôi, gọi là phòng hộ sáu căn.

Do đó khi mình đi khất thực hay hoặc mình đi đâu mình về tới nhà, trong đầu của mình con mắt cũng không thấy gì, cái lỗ tai cũng không nghe gì hết, cho nên khỏi có xả gì hết gọi là phòng hộ sáu căn.

Đó cũng là pháp viễn ly. Viễn ly làm cho nó đừng dính vô gọi là viễn ly, chớ không phải là mình sống xa cái cảnh mà viễn ly.

Cũng như bây giờ thay vì cái cảnh mà ở trong cảnh động ngay bây giờ chúng ta tu khó quá, cho nên chúng ta tập sống mỗi người một cái thất, không có ở chung nhau thì đó cũng là cách thức tập viễn ly cái hoàn cảnh.

Rồi lần lượt chúng ta lại sống chung đụng nhau công việc này công việc kia, nhưng mà chúng ta viễn ly cái tâm của mình, viễn ly cái tâm tham, viễn ly cái tâm sân, viễn ly cái tâm nghi, mạn, viễn ly cái tâm tị hiềm, ganh ghét để cho tâm mình không có tị hiềm, ganh ghét. Đó là những cái tập viễn ly.

Do cái chỗ này thì chúng ta tuần tự, chúng ta càng ngày càng tới, cho nên chúng ta không bị dính mắc nữa. Đó là chúng ta đã viễn ly.

“Sau thời gian tu tập, họ ra đi đụng cảnh đó họ còn đau khổ nữa hay không?”

Khi mà họ đã viễn ly xong và họ đã tu đến cái Định Vô Lậu, chứng được cái lý vô lậu rồi, hay hoặc là họ đã chứng được cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã rồi thì họ không còn dính mắc nữa, thì cái sự viễn ly là cái sự sống của họ rồi. Cho nên đối với các cảnh mà đến với họ nó không có dính họ nữa, cho nên đó là viễn ly, cho nên họ đâu còn đau khổ nữa.

Cũng như bây giờ chúng ta mới đầu chúng ta tập viễn ly cái tham, hay hoặc là viễn ly cái tâm sân của mình thì bắt đầu mình phải phòng hộ sáu căn, mình giữ gìn, mình đừng có cho tiếp duyên, mình đừng nói chuyện, sợ nó xảy ra chuyện này chuyện kia cái tâm mình nó dễ sân.

Sau cái thời gian mà tu tập, mình dùng cái Định Vô Lậu đó mình quét sạch cái tâm tham đi, cái tâm sân của mình đi, cái tâm sân bây giờ nó không còn sân nữa rồi, do đó bắt đầu bây giờ đó mình đụng, mình đến mình tiếp xúc với mọi người, người ta chửi mắng mình, mình thấy cái tâm mình nó không sân, tức là mình đã viễn ly cái sân được rồi.

(39:07) Còn hồi đó thì mình chưa dám, cho nên vì vậy đó mình không dám nói chuyện, mình rất cẩn thận, nói ra sợ người ta chửi mình cái chết được, thế nào mình cũng không có thoát khỏi cái sân. Cho nên bây giờ mình cố mình phòng hộ, mình giữ gìn cho mình đừng có bị dính trong cái pháp sân.

Do đó sau cái thời gian mà giữ gìn như vậy để cho mình tu cái Định Vô Lậu. Khi mà cái Định Vô Lậu nó quét sạch cái tâm sân nó ra rồi thì lúc bấy giờ, mình biết cái tâm sân của mình nó đứng trước các đối tượng người ta có mắng chửi hay hoặc làm gì mình không có sân nữa, thì lúc bây giờ đó mình đâu có còn đau khổ nữa, vì vậy mình biết rằng mình đã viễn ly cái tâm sân rồi.

Con thấy cái chữ viễn ly nó rộng lắm chớ nó không phải…​ Người mới tu thì nó vẫn có cái sự viễn ly nó để mà phòng hộ, để giữ gìn. Sau khi tu chứng rồi, hoàn toàn nó ngộ được cái lý, nó chứng được cái lý nó rồi thì cái tâm sân nó hết rồi.

Cái tâm sân nó hết thì tức là lúc bấy giờ chúng ta mới đối cảnh chúng ta thấy không có sân nữa, tức là chúng ta đã viễn ly, tức là xa lìa cái tâm sân hoàn toàn, cho nên cái sân nó không có ở trong tâm ta nữa gọi là viễn ly.

Còn nếu mà nó còn thì tức là chúng ta chưa có viễn ly nó, mà chưa có viễn ly nó thì tức là chúng ta cần tu cái Định Vô Lậu nữa, để cho nó chứng được cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã đó, cho nên cái tâm của chúng ta nó quét sạch cái Ngũ Triền Cái đi, cho nên cái tâm sân nó không còn nữa.

“Hay là tâm họ đã như như bất động?”

Không thể. Nói “tâm như như bất động” là nó phải trải qua, chứng ngộ được một cái lý của Phật pháp rồi, thì nói “như như bất động” là một cái tên.

Nhưng mà sự thật ra chúng ta đã viễn ly cái tâm đó, viễn ly cái tâm tham thì lúc bấy giờ chúng ta không còn tham ái tức là không còn buồn rầu, khổ não hay suy tư cái này, hay tham muốn cái kia, tức là viễn ly cái đó rồi. Bây giờ hết cái sân thì tức là viễn ly (cái sân), hết cái si thì tức là viễn ly cái si, hết cái ngã mạn tức là viễn ly cái ngã mạn.

Mà tất cả những cái viễn ly hết, gồm lại thì người ta gọi là tâm như như bất động, hay là trước các pháp tâm bất động giải thoát, hay hoặc gọi là mục đích của Phạm hạnh, cái mục đích tâm bất động giải thoát là Phạm hạnh.

Đó thì những cái tên đó đều gọi cho cái chỗ tâm bất động của chúng ta mà thôi, nhưng mà đây là gồm chung, nó gồm chung hết chớ không phải là một, nó gồm chung hết.

(41:23) “Thưa Thầy! Hai cảnh trên, nơi nào người ta tu mau đạt kết quả sớm?”

Sự thật ra tu mau hay sớm là do cái chỗ mà mình tu đúng và vừa với cái sức của mình tu thì nó rất mau viễn ly.

Và khi mà ngộ được thì hoàn toàn nó, toàn bộ tham, sân, si, mạn, nghi đều là quét sạch hết, thì lúc bấy giờ gọi là như như bất động, hay gọi là Phạm hạnh, hay hoặc gọi là tâm giải thoát bất động, thì tất cả những cái này sớm hay mau đều là do cái người đó có nỗ lực, siêng năng, hằng ngày có tập cái Định Vô Lậu hay không.

Vì siêng năng hằng ngày mà chúng ta tu tập cái Định Vô Lậu thì mỗi ngày nó thêm một chút thì nó thấm nhuần được cái lý vô lậu của nó, nó làm cho cái nhận xét, cái hiểu biết của chúng ta càng ngày càng thấm nhuần cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã của Phật đã dạy.

Nó làm cho chúng ta biết rõ ràng các pháp trong thế gian này đều là vô thường, không có một cái thứ gì mà thường, vì vậy mà chúng ta không còn bị lầm chấp cái kiến chấp nó nữa, cho nên chúng ta hết cái vô minh, làm luôn luôn lúc nào trước mắt chúng ta cũng có cái minh, và thấy rõ các pháp đều là vô thường, lúc bấy giờ ai chửi chúng ta cũng thấy nó là vô thường cho nên chúng ta không còn phiền não, giận hờn, vì vậy đó là chúng ta đã ly.

Do cái chỗ mà siêng tu thì chúng ta mau có kết quả. Còn chúng ta thấy nó phải tu cái định Hiện Tại An Lạc Trú hơi thở nhiều để nhập định mà không tu cái này, mà tu sơ sơ, tu ít thì nó có cái thời gian rất dài nó mới có thể viễn ly được.

Mà chữ viễn ly ở đây Đức Phật gồm lại để cho chúng ta thấy rằng cái ly dục ly ác pháp đó là chính cái chỗ viễn ly.

1.11- NÊN NỖ LỰC TU ĐỊNH VÔ LẬU

(43:13) “Qua cái ý nghĩ thô sơ của con cũng còn sai trái, kính xin Thầy chỉ dẫn cho con lần cuối cùng để con an tâm nắm vững bước đi trên đường tu tập!”

Đó là những điều mà thầy đã dạy ở đây cho Hải Tâm con nhận xét thấy, nỗ lực tu về cái Định Vô Lậu càng nhiều thì tâm con sẽ được giải thoát và như như bất động.

Bởi vì trên cái sự tu cái Định Vô Lậu nó có bốn cái chỗ mà các con nêu ra để tu: Lấy cái thân để mà chúng ta quán xét, lấy cái thọ để mà chúng ta quán xét…​

Mà cái thọ thì luôn luôn lúc nào nó cũng có cái đau khổ ở trong thân tâm của chúng ta, do đó chúng ta lấy nó mà đặt thành một cái niệm để quán xét thấy thọ từ đâu đến, nó vô thường, nó khổ như thế nào, nó vô ngã như thế nào.

Đó thì chúng ta quán xét để thông suốt. Mà khi thông suốt rồi thì Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử nó sẽ bị quét sạch, nó không có còn ở trong tâm ta nữa.

Cho nên siêng năng càng tu cái này bao nhiêu thì cái tâm chúng ta được giải thoát bấy nhiêu, và nó chấm dứt luân hồi là ở cái nhân này chớ không phải ở cái quả của thân chúng ta đang có.

Đó là thông suốt được như vậy thì hằng ngày chúng ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh, và hằng ngày thì chúng ta nỗ lực đặt cái niệm trước (mặt) để tu cái Định Vô Lậu thì kết quả đem đến cho mấy con Thầy thấy rất là rõ nét và cụ thể cho sự giải thoát của mình.

2- THƯ TÁC BẠCH CỦA TU SINH DIỆU HOA

(44:36) Ở đây có cô Diệu Hoa thưa hỏi Thầy:

“Con kính bạch Thầy!

Lời Thầy đã dạy là khóa hạ an cư này là khoá cuối cùng của Tu viện, đồng thời cũng là ngày chia tay thầy trò để Thầy ra đi ẩn bóng. Con cúi xin Thầy hoan hỷ cho con được thổ lộ tâm tư kể từ khi được gặp Thầy xin cầu pháp.

Buổi đầu ấy vào năm Giáp Tuất 1995, trong lúc đó có bốn chị em chúng con kể cả cô An Tịnh và chú Chánh Trực. Khi đó trong viện chưa có nữ vào tu, chúng con có ra hỏi cô Út thì cô Út nói Thầy không nhận nữ. Thầy dạy chúng con về tu tại gia, pháp môn lập đức, lập hạnh, in kinh ấn tống để hồi hướng cho cha mẹ vào ngày giỗ, phóng sinh, giúp đỡ những người tàn tật, yếu đau, không lễ bái, cúng dường rườm rà, mê tín, u mê v.v.. Sau khi ra về chúng con đã y lời Thầy dạy và đã thực hành.

Tiếp đến tháng 8 năm Ất Hợi con lại được tái khóa vào Thầy. Lúc này con tự đi một mình vào Thầy cầu pháp tu hơi thở, Thầy đã dạy cho tu một phút bằng 20 hơi thở. Con về thực hiện, dần dần con cảm thấy có kết quả. Hằng tháng con vào Thầy xin ở lại Tu viện mỗi lần từ 2 đến 7 ngày tập thở cho có kết quả và tập theo nếp sống hằng ngày ở Tu viện. Trong những ngày ở đó, con đã theo được từ giờ giấc tu và ăn ngủ.

(46:38) Và vào kỳ giáp Tết năm Bính Tý con cũng được Thầy và cô Út cho con ở lại để dự cái Tết mùa xuân vĩnh cửu của nhà Phật. Qua tết đó con phải về Hà Nội để làm bổn phận 5 năm một lần với cha mẹ đã quá cố, và bổn phận làm người em út đối với các chị đã làm.

Với năm đó con bị đau bệnh triền miên, đôi lúc con cơ thể có hiện tượng khác lạ, cảm như khó qua được, do đó con mới viết thư vào bạch Thầy. Thầy gửi cho con 3 lá thư trả lời thưa hỏi của con.

Nay con còn lưu lại 3 lá thư đó để truyền lại cho các cháu mai sau. Con y lời trong thư Thầy dạy và thực hiện ám thị khi đau bệnh và ăn uống, thuốc thang, nghỉ ngơi cho mau lành rồi tu tập trở lại.

Bạch Thầy! Con thấy kết quả và hằng ngày con thầm mong chóng bình phục lại sức khỏe, với tâm con nguyện theo Phật, theo Thầy.

Con kính bạch Thầy!

Kể từ ngày đầu con muốn vào Thầy, con có niềm tin thật tâm của con đến Thầy với lý do con đã đi cầu pháp nơi này nơi khác với chị với em mà chưa có nơi nào dạy về tu mà được cặn kẽ như Thầy. Thầy đã đối xử và dạy chúng con thật là hơn người cha đẻ.

(48:21) Con thầm biết ơn Thầy, con xin phép Thầy cho con được phép bộc lộ:

Con đi cầu đạo nhiều nơi

Phúc duyên con may gặp được Thầy dạy tu

Đạo gốc của Phật là tu giải thoát

Bao tháng năm Thầy học tỏ tường

Bản thân kinh nghiệm rõ ràng

Nguyên thủy kinh điển gốc nguồn mở ra

Thầy đã suy nghiệm kinh qua

Sống như Đức Phật sống để tu

Giới - Định - Tuệ, Tam Vô Lậu Học

Đức Phật truyền một mực Thầy theo

Y ba món, Thầy chuyên tra cứu

Quyết một lòng tu tập không lầm

Độc cư hạnh quá rõ ràng

Từ Giới đến Định Thầy hiểu rõ sâu

Uyên thâm lời Phật nhiệm màu

Đạt định phát tuệ, Thầy hiển ngộ cho đích thực

Rồi Thầy vô Chánh Định, nhập nhiều ngày xuất định

Trọn vẹn đạt rồi Thầy ghi pháp môn

Nay truyền từng pháp, dạy con dần dần

Từng pháp một, con vâng lời dạy

Nguyện hết lòng theo gót Thầy đi

Một là lãnh pháp tu trì

Tại gia giữ giới con ghi tại lòng

Đức hạnh tu được viên dung

Đủ duyên xin nhập Tu viện

Cúi xin Thầy từ bi tế độ

Dạy bảo con đến ngộ hoàn toàn

Ngộ được ân Phật một niềm

Cùng với một dạ kính ơn đến Thầy.

Con kính Thầy!

Con Diệu Hoa

3- MUỐN THỰC HÀNH ĐÚNG PHẢI HIỂU ĐÚNG

(50:13) Ở đây thì con có cái bức thư gởi đến Thầy thì đây cũng là cái duyên mà nỗ lực tu tập. Thầy thấy những cái bức thư mà con gởi đến thăm Thầy có nói đến cái sự bệnh đau của con, thì Thầy cũng tùy theo Phật pháp mà dạy cho con thực hiện để cho con được an cái tâm, trợ giúp cho lúc mà con trị bệnh.

Thì may ra con thực hiện đúng lời Thầy dạy thì đúng là con có cái kết quả đó là do chính con, chớ không phải Thầy ban bố cái phước báu đó cho con được, mà chính con đã thực hiện đúng cái lời dạy.

Mà lời dạy đó của Phật chớ không phải là của Thầy, Thầy chỉ hiểu cái kinh nghiệm đó để dạy lại cho con mà thôi, mà con thực hiện đúng thì con có kết quả.

Cũng như hôm nay mà các con đã tu tập thấy được kết quả đó, là do cái hành trì của các con làm đúng lời dạy của Thầy. Chứ nếu mà các con tu sai thì Thầy dù có nói cách gì đi chắc cũng là không có đạt được.

Cho nên các con nỗ lực, những cái gì mà Thầy đã dạy ở trong cái giáo án hôm nay, các con tập từ cái nào mà…​ Bây giờ, những cái lúc mà còn gặp Thầy thì các con hỏi cặn kẽ hết đi. Chớ còn nếu mà khi Thầy về Đà Lạt, lên Trúc Lâm hay hoặc là ở một nơi nào đó thì lúc bấy giờ các con không có còn gặp Thầy nữa đâu.

Vì vậy mà cái thưa hỏi của các con là cái cần thiết lắm các con mới có hỏi Thầy. Mà những cái mà các con phải nói rằng còn sơ sót, chưa biết là mình tu cái đó như thế nào nữa, nghĩa là biết nó như vậy, Thầy có dạy nó kết quả như vậy, nhưng khi mà thực hành nó lộn xộn lắm, nó không biết.

Như hồi nãy thì Hải Tâm hỏi Thầy: Tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì chúng ta có cần tu cái Định Vô Lậu hay không?

Đó thì các con thấy, đó là những cái thực hành rồi mới thấy được cái khó của nó ở chỗ đó, khi dường như là tu Bất Hoại Tịnh thì nó cũng gần giống như cái Định Vô Lậu chớ gì? Nhưng nó khác xa các con, chớ không phải gần đâu.

(52:09) Cái này nó phá cái đối tượng của nó trước cái hiện tại, còn cái kia nó phá tất cả những cái lậu hoặc của chúng ta từ ở trong cái quá khứ, vị lai và hiện tại.

Cho nên cái Định Vô Lậu nó phá cả ba cái thời gian chớ không phải trong một cái thời gian. Nó làm chúng ta cái tâm như như bất động ở trong ba cái thời gian của nó trong hiện tại và quá khứ, vị lai.

Còn cái niệm Phật, cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh nó giúp cho chúng ta đối với cái hiện tại là lôi đầu nó cứ ra niệm Phật, cho nên trong hiện tại là hoàn toàn là nó không bị dính mắc vào.

Cũng như các con muốn cất cái nhà của mình mà không có ai xâm chiếm vào được thì các con phải xây một cái hàng rào cho kín đáo, cũng như là làm một cái tường thành vĩ đại thì không ai mà vô chiếm trong cái nhà của các con được, thì cái Tứ Bất Hoại Tịnh là cái pháp đầu tiên,

Trước khi muốn cất cái nhà thì các con phải làm cái hàng rào bảo vệ cái nhà đó, cho nên cái hàng rào chắc bao nhiêu thì trộm cướp nó không vô lấy được đồ ở trong nhà của các con.

Cho nên cái Tứ Bất Hoại Tịnh nó như cái rào, mà cái Định Vô Lậu là như cái nhà của các con. Cho nên hiểu như vậy thì hai cái pháp này nó không có giống nhau và nó có cái sự hỗ trợ cho nhau nhiều.

Cái hàng rào nó bảo vệ cho cái nhà cho nên cái nhà nó còn nguyên vẹn, nó không bị trộm cướp, nó không bị hư hao là nhờ cái hàng rào. Mà hàng rào càng chắc bao nhiêu, cái hiện tại càng chắc bao nhiêu thì cái quá khứ nó đâu còn có, cho nên cái vị lai nó cũng đâu còn.

Cho nên hai cái thời kia nó bị phá vỡ trong cái pháp đầu tiên rồi, cho nên cái lậu hoặc các con chỉ còn quét những cái quá khứ từ nào thôi chứ còn cái hiện tại nó đã đập ngay từ ngoài cửa rồi, cho nên cái đó là cái an ổn nhất.

Bây giờ thì các con tiếp tục nghe những cái lời mà hồi sáng Thầy đã từ giã các thầy. Cũng như là bây giờ, như hồi nãy cô Cảnh có một cái lời coi như là thầy trò còn gặp nhau trong những cái phút ngắn ngủi này mà thôi. Do vì vậy thì các con sẽ nghe lại những cái lời từ giã của Thầy để các con thấy cái gì mà Thầy nhắc nhở các con ở trong cái lời dạy đó.

Bây giờ thì Thầy có những cái phận sự khác, Thầy phải lo làm công việc khác thì các con ở đây mà nghe băng, rồi lại ghi chép những cái điều mà Thầy nhắc nhở các con. Đến đây Thầy xin dừng lại.

4- TRẢ LỜI 15 CÂU HỎI CỦA TU SINH CHƠN THÀNH

(54:27) Bây giờ để Thầy trả lời 15 câu hỏi của thầy Chơn Thành, thầy hỏi trong cái vấn đề mà qua cái kinh nghiệm tu tập Thầy thấy đây cũng là cái phần lợi ích để rút tỉa những cái kinh nghiệm này để giúp cho các con tu tập.

Vậy thì các con nên lắng tai nghe để rút tỉa những cái điều mà mình chưa biết để mình biết tu tập, mà mình đã biết thì mình lại rõ thêm hơn.

1) CÁCH TU TẬP VÀ THỜI ĐIỂM TU HIỆN TẠI AN LẠC TRÚ ĐỊNH

(55:05) Câu 1: Thời điểm tu tập An Lạc Trú Định tốt nhất…​

Hỏi cái lúc, cái thời điểm nào mà tu tập cái Hiện Tại An Lạc Trú mà tốt nhất, đó là cái câu hỏi. Thì đây là cái câu hỏi đây:

Cách tu tập Hiện Tại An Lạc Trú, và thời điểm nào tu tập tốt nhất?

Thầy trả lời câu hỏi đó:

Thời điểm tu tập Hiện Tại An Lạc Trú tốt nhất là lúc tâm định tỉnh, không bị mê mờ, sau khi ngủ một giấc, thức dậy đi kinh hành hoặc là tập luyện một vài đòn võ thuật, hoặc là tập luyện thể dục để cho thân và tâm tỉnh táo rồi mới tu tập.

Thời gian tu tập thì từ lúc 1 giờ khuya cho đến 2 giờ khuya, 3 giờ là cái thời điểm tu tập tốt nhất Hiện Tại An Lạc Trú Định.

Cách thức tu tập của định này thì nương theo hơi thở ra hơi thở vào, dùng pháp hướng tịnh chỉ khẩu hành, thân hành và ngôn ngữ hành để nhập các định đó.

2) CÁCH TU TẬP VÀ THỜI ĐIỂM TU ĐỊNH SÁNG SUỐT

(56:34) Câu 2: Xin Thầy cách tu tập Định Sáng Suốt và thời điểm cần tu tập nó?

Thầy trả lời:

Dùng pháp hướng giữ tâm thanh thản, bất kỳ ngồi tư thế nào cũng tốt.

Thời điểm tu định này tâm phải tỉnh táo, không được mê mờ, buồn ngủ. Trạng thái tâm này là người tỉnh thức trong Sơ Thiền.

Nghĩa là các con phải nhớ rằng, cái trạng thái thanh thản tâm là cái người đó phải ly dục ly ác pháp cho nên nó mới được thanh thản. Còn chưa ly dục ly ác pháp thì khó mà thanh thản.

Nhưng chúng ta cũng có thể tập thanh thản, vô sự trong 1 phút đến 5 phút, rồi lần lượt chúng ta dùng pháp hướng mà dẫn cái tâm chúng ta thanh thản.

Cộng thêm thì chúng ta lần lượt để tu tập cái Định Vô Lậu để cho nó ly dục ly ác pháp cho sạch thì chừng đó cái tâm thanh thản nó kéo dài từ ngày này sang ngày khác.

3) THỜI KHÓA TU TẬP THEO ĐẶC TƯỚNG CỦA MỘT VÕ SĨ

(57:41) Câu 3: Xin Thầy cho con thời khóa tu tập và theo đặc tính riêng của mình.

Thầy trả lời. Đây là trả lời theo cái đặc tướng riêng của Chơn Thành là một võ sĩ, nên Thầy tùy đó mà Thầy chỉ cách thức qua cái đặc tướng riêng đó mà dạy.

Đặc tướng của một võ sĩ, con phải theo giờ giấc luyện võ mà phân thời khóa tu tập thiền định.

Dựa vào cái thời gian tu tập võ nó làm cho mình sức tỉnh thì mình tu tập, rất tốt cho con đường thiền định, nó không có sao hết.

4) PHÁP HƯỚNG TÂM VƯỢT QUA NGUY HIỂM

(58:30) Câu 4: Xin Thầy cho con một pháp để khi gặp nguy hiểm cần Thầy cứu giúp.

Thầy trả lời:

Khi thân tâm con đã giữ thanh tịnh 10 giới không có vi phạm, khi gặp nguy hiểm con chỉ cần hướng tâm nhắc lên: “Thân tâm ta thanh tịnh, không phạm 10 giới, vậy thần hộ giới phải bảo vệ ta vượt qua nguy hiểm này!”

Đó là chúng ta gặp những cái nguy hiểm thì chúng ta nhờ cái giới luật thanh tịnh của thân tâm thì thần hộ giới luật sẽ bảo vệ chúng ta vượt qua những cái nguy hiểm.

Cho nên các con yên tâm, khi chúng ta giữ giới nghiêm tịnh là không có cái sự nguy hiểm nào mà có thể làm chúng ta khổ, làm hại chúng ta được.

5) PHÁP HƯỚNG XẢ NGHIỆP THÂN BỆNH TẬT

(59:22) Bây giờ đến:

Câu 5: Xin Thầy cho con một pháp để xả thân nghiệp tật bệnh.

Thầy trả lời:

Nếu gặp thân bệnh tật, con nên dùng pháp hướng: “Ta tu hành ba nghiệp thanh tịnh, tại sao nghiệp thân còn bệnh tật? Ấy là ma nghiệp. Ta biết rõ mặt ngươi là ác ma, hãy đi đi, không thể động đến thân nghiệp thanh tịnh của ta được!”

Đó là cái điều kiện dùng cái pháp hướng mà người giữ gìn giới luật thanh tịnh thì dễ đuổi cái ma nghiệp thọ nó làm cho chúng ta bệnh tật. Chỉ cần dùng cái pháp hướng là đủ có thể đuổi ma nghiệp ra khỏi cái thân thanh tịnh của chúng ta.

6) CÁC TRẠNG THÁI TỐT, XẤU KHI VÀO TỨ THIỀN

(01:00:13) Câu 6: Xin Thầy cho con biết về khi tu mà vào được Tứ Thiền, các trạng thái xảy ra tốt, xấu và cách xử lý.

Thầy trả lời câu 6:

Trạng thái Tứ Thiền hơi thở ngưng, các hành và hơi thở ngưng, âm thanh không còn nghe, các cảm thọ không còn biết, chỉ còn một tâm tỉnh thức rất cao.

Đối với trạng thái Tứ Thiền, còn âm thanh, còn cảm giác, bất cứ cảm giác nào đều là xấu hết.

Nghĩa là trong khi muốn nhập vào Tứ Thiền mà còn có một cảm giác, còn có một âm thanh, còn có cái động dụng gì ở trong thân của chúng ta hay hoặc ngoài thân của chúng ta thì đều là không phải Tứ Thiền, đều là xấu.

Cho nên phải nằm trên cái lộ trình, con đường đi vào Tứ Thiền, tiếp tục mà hướng tâm xả nó nữa cho sạch những cái trạng thái đó để hoàn toàn có một trạng thái thanh tịnh, yên lặng, vắng lặng duy nhất của Tứ Thiền mà thôi.

7) PHÁP HƯỚNG LẬP NGUYỆN ĐI KHẤT THỰC

(01:01:23) Câu 7: Xin Thầy một pháp về đi khất thực.

Thầy trả lời:

Đi khất thực phải lập nguyện: “Hôm nay con nguyện lập hạnh đi xin ăn như Phật, vậy xin chư phật gia hộ cho con viên mãn hạnh này!”

Đó là cái câu pháp hướng, trước khi bước ra ôm bát mà đi khất thực thì chúng ta khởi cái pháp hướng để nhắc cái hạnh đi xin của chúng ta được cái sự gia hộ của chư Phật đều là hành cái chánh nghiệp đi xin ăn, bây giờ các Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua những cái khó khăn lúc đi xin ăn.

8) PHÁP HƯỚNG PHÒNG HỘ ĐẠO TRÀNG

(01:02:09) Câu 8: Xin Thầy cho con một pháp về phòng thủ đạo tràng để khi ở nơi sơn lâm cô quạnh không có tà ma ngoại đạo xâm phạm vào nơi tu hành.

Để trả lời câu 8:

Thân tâm con giữ gìn 10 giới thanh tịnh, muốn phòng thủ đạo tràng nơi con ở tu hành thì mỗi ngày con đi một vòng quanh đạo tràng, vừa đi vừa hướng tâm nhắc: “Thân tâm ta thanh tịnh, giới luật nghiêm túc chẳng hề vi phạm, vậy thần hộ giới phải phòng hộ đạo tràng, không cho tà ma ngoại đạo xâm phạm vào!”

Đó là hằng ngày khi chúng ta đến một cái nơi nào đó mà có vẻ là có tà ma ngoại đạo, có cái vẻ hung ác, khí độc thì chúng ta đi vòng vòng cái đạo tràng của chúng ta, rồi chúng ta dùng cái pháp hướng nhờ thần hộ giới phòng hộ cái đạo tràng cho chúng ta, làm cho tà ma ngoại đạo nó không xâm phạm được vào.

9) PHÁP HƯỚNG TU TỈNH GIÁC TRONG GIẤC NGỦ

(01:03:28) Câu 9: Xin Thầy một pháp về tu tỉnh giác trong giấc ngủ.

Thầy trả lời:

Trước khi ngủ con đặt niệm hơi thở ra và vô, dùng pháp hướng nhắc: “Tâm phải tỉnh thức trong hơi thở ra và vô, thân thì nằm yên ngủ, không được thức!” Đó là chúng ta muốn tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ thì phải dùng cái pháp hướng đó.

10) KHAI GIỚI CẤT GIỮ TIỀN BẠC

(01:03:59) Câu 10:

Khi muốn cất giữ tiền đi tàu hoặc xe, con nên khai giới…​

Ở câu hỏi thứ 10 thì Chơn Thành hỏi Thầy là:

Con xin Thầy một pháp được cất giữ tiền bạc tạm thời trong khi đi tàu xe, mở ra và đóng vào.

Do đó Thầy dựa vào câu hỏi mà trả lời:

Khi muốn cất giữ tiền bạc để đi tàu hoặc xe, con nên khai giới không cất giữ tiền bạc: “Hôm nay con xin khai giới không cất giữ tiền bạc để đi xe cộ trên đường! Sau khi đến nơi đến chốn, con xin đóng giới không cất giữ tiền bạc lại.”

Rồi bắt đầu đến nơi đến chốn rồi, khi ở trên tàu xe thì cất giữ tiền bạc để mua vé xe, trả tiền xe, nhưng mà đến nơi đến chốn rồi còn lại bao nhiêu thì giao cho người khác, một cư sĩ, mà không được cất giữ tiền bạc vì sẽ phạm giới.

11) KHAI GIỚI ĐỂ LÀM THẦY THUỐC CỨU NGƯỜI

(01:05:17) Câu 11: Con xin Thầy một pháp chữa bệnh cấp cứu cho người bị lâm nạn nguy cấp trên đường đi gặp nạn, cách mở và đóng vào.

Câu thứ 11:

Khi gặp người bị bệnh…​

Thầy trả lời đó.

Khi gặp người bị bệnh cần phải cứu cấp, con mau khai giới liền: “Con xin khai giới dùng phương cứu người! Khi bệnh nhân được an ổn con đóng giới liền lại, không làm thầy thuốc nữa!”

12) 10 ĐIỀU LỄ NGHĨA

(01:06:05) Câu 12: Con xin Thầy chỉ dạy 10 điều lễ nghĩa trong đó có 4 điều theo thanh quy.

(Trả lời) câu 12:

Mười điều lễ:

1. Tôn kính lễ.

2. Sám hối lễ.

3. Tôn trọng lễ.

4. Hối lỗi lễ.

5. Đứng nơi thấp nói chuyện với thầy, với những bậc Trưởng lão.

6. Ngồi chỗ thấp nói chuyện với thầy, với những bậc Trưởng lão.

7. Trước khi nói chuyện với thầy và các bậc Trưởng lão phải chắp tay xá rồi mới nói chuyện.

8. Khi đi không được đi trước thầy và các bậc Trưởng lão.

9. Khi đi không được đi ngang thầy và các bậc Trưởng lão, phải đi sau.

10. Khi nói chuyện với thầy và các bậc Trưởng lão xong phải xá một xá rồi mới lui ra.

Đó là 10 điều lễ mà con đã hỏi.

13) CHỈ NÊN ĐỌC KINH SÁCH DO PHẬT THUYẾT

(01:07:20) Đây là cái câu hỏi thứ 13:

Câu 13: Con xin Thầy chỉ dạy nên và không nên đọc những kinh sách gì?

Để trả lời câu hỏi này, Thầy dạy:

Không nên đọc kinh sách Đại Thừa và Đông Đđộ vì đó là những loại kinh sách do tưởng pháp viết ra, nên đọc kinh sách Nguyên Thủy và kinh sách A Hàm do Phật thuyết.

14) PHẬT DI ĐÀ VÀ PHẬT DI LẶC KHÔNG CÓ THẬT

(01:07:52) Câu 14: Con xin Thầy chỉ dạy Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật quá khứ A Di Đà và Phật Di Lặc vị lai. Vậy Phật Thích Ca thì ai cũng biết, còn phật Di Đà và Di Lặc thì thế nào? Có hay không có? Và bao giờ thì Phật vị lai sẽ xuất hiện?

Thầy xin trả lời cái câu 14 này:

Phật Di Đà và Phật Di Lặc là do tưởng tượng của người sau mà đặt ra, không có thật. Phật vị lai không bao giờ xuất hiện, chỉ có con người thế gian tu đúng theo đường lối của đạo Phật thì thành Phật chớ không có Phật xuất hiện nữa.

15) CÁCH XẢ THIỀN

(01:08:46) Câu 15: Con xin Thầy cách xả thiền vì con chưa thấy Thầy dạy xả thiền mà mới chỉ dạy tu thiền.

Đây Thầy trả lời câu số 15:

Tu chưa được thiền mà đòi xả thiền thì thiền đâu mà xả? Hay là xả thiền tưởng? Hoặc ngồi cho tê chân cẳng rồi xoa bóp chân cẳng gọi là xả thiền thì điều này quá quê mùa, quá là không đúng cách.

Thầy đã dạy xả thiền mà các con thì không có lưu ý hay là đã quên rồi? Thầy xin nhắc lại:

Khi hơi thở ngưng nghỉ nhập Tứ Thiền, muốn xả Tứ Thiền trở về tâm bình thường thì dùng pháp hướng phục hồi chức năng hoạt động của nó cho đến khi nó thở lại bình thường thì đó không phải là xả thiền sao?

Còn xoa bóp chân cẳng của con là đâu phải xả thiền, mà xả tê, xả nhức, xả thọ. Từ lâu các con xoa bóp chân tay, xoa mặt xoa mày, bóp nắn chân tay gọi là xả thiền.

Thiền gì mà tê chân tê cẳng giống như mấy người đấm bóp cho thiên hạ đau lưng, nhức mỏi đều gọi là xả thiền thì thật là vô minh! Trong kinh sách của Phật không có dạy xoa bóp là xả thiền, mà thời nay lầm tưởng bậy bạ gọi là xả thiền.

5- BỐN PHÁP CÓ NHIỀU TÁC DỤNG - KINH THẬP THƯỢNG

(01:10:44) Trước khi tiếp tục tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh Thân niệm Pháp, Thầy xin giảng tiếp những cái pháp rất là cần thiết, quý thầy nhớ kỹ để mà tạo dựng cách thức tu tập cách sống cho đúng cách.

Đây là những cái bài pháp cần thiết mà trước kia Thầy đã giảng cho quý thầy từ một pháp cho đến ba pháp, và đồng thời Thầy cũng có giảng cho đến bốn pháp nhưng chưa hết. Hôm nay Thầy lại giảng tiếp lại để cho quý thầy thông suốt và biết cách mà tu tập.

Này các thầy, có bốn pháp có nhiều tác dụng, có bốn pháp cần được tu tập, có bốn pháp cần phải biến tri, có bốn pháp cần phải đoạn trừ, có bốn pháp chịu phần tai hại, có bốn pháp đưa đến thù thắng, có bốn pháp rất khó thể nhập, có bốn pháp cần được sanh khởi, có bốn pháp cần được thắng tri, và có bốn pháp cần được tác chứng.

1) Thế nào là bốn pháp có nhiều tác dụng?

Đó là bốn bánh xe:

1. Ở giữa đất nước

2. Thân cận Thánh nhân

3. Chánh nguyện tự thân

4. Tạo phước trong quá khứ.

(01:12:41) Bây giờ Thầy giải thích để cho quý thầy hiểu rõ ở chỗ này. Bây giờ chúng ta phải hiểu bốn cái pháp có nhiều tác dụng, mà ở đây bốn pháp đó Phật gọi là bốn bánh xe.

Vậy thì cái bánh xe thứ nhất để mà chúng ta tu tập cho đạt được kết quả đó, đó là cái bánh xe gì? Đức Phật dạy cái thứ nhất, một người tu sĩ điều thứ nhất thì không nên ở nơi biên cương, ở cái nơi mà có giặc giã cướp bóc, cái nơi mà đói khổ, khó khăn, thường hay xảy ra chiến tranh.

Cho nên Đức Phật bảo một vị tu theo đạo Phật mà muốn đạt được kết quả tu hành tốt thì cần phải ở giữa đất nước, cái nơi mà không có chiến tranh, đừng có ở nơi biên cương, nơi cửa ải, nơi mà giặc hay xâm chiếm, hay đánh đập với nhau, hay chiến tranh, bắt đầu khởi sự có chiến tranh là cái nơi đó có giặc đến thì không nên ở đó, vì ở đó chúng ta bất an mà tu tập không được.

Cho nên Phật dạy ở giữa đất nước, tức là đất nước nào chúng ta ở giữa thì khi có giặc nó đến ở biên cương thì ở đây chúng ta cũng yên ổn chớ không có bất an.

Đó là cái pháp thứ nhất mà nó có nhiều tác dụng cho con đường tu tập của chúng ta. Nếu chúng ta ở yên được, không có giặc giã, trộm cướp thì chúng ta sẽ tu tập tốt. Còn tâm nó động, nó lo lắng giặc giã, nó lo lắng trộm cướp, ở nơi những biên cương nó có những cái tai hại như vậy.

Cái bánh xe thứ hai đó là:

2. Thân cận Thánh nhân

Bây giờ chúng ta chọn được cái địa điểm, chúng ta ở tốt, chỗ đó yên ổn, không giặc giã, không trộm cướp, ở nơi đó nó có cơm, đi khất thực sống dễ dàng, Phật tử người ta cúng dường mình cũng dễ dàng, tứ sự nó không có khó khăn, đó là cái nơi mà chúng ta chọn.

Còn bây giờ chọn xong rồi thì chúng ta phải thân cận với một bậc Thánh nhân, là một người đã tu xong, đã thực hiện cái pháp giải thoát, thoát ra khỏi sự đau khổ của bốn cái khổ đó là sanh, lão, bệnh, tử. Mình chọn cái bậc Thánh nhân đó mình thân cận, mình gần gũi họ.

(01:15:11) Chớ mình chọn một cái nơi yên ổn tốt rồi mà không có thân cận một bậc Thánh nhân thì cũng khó mà tiến bước trên con đường tu tập. Vì những bậc này là những người đã đi trước, họ sẽ giúp đỡ mình trên cái kinh nghiệm của họ mà dẫn chúng ta đi đến nơi đến chốn.

Nhưng có điều là chúng ta thân cận được thiện hữu tri thức thì chúng ta cần phải nghe lời dạy của thiện hữu tri thức, họ bảo như thế nào thì mình làm theo như thế nấy, và đồng thời mình noi cái gương của họ để mình bắt chước những cái sống của họ để mà chúng ta ly dục ly ác pháp mới đạt được cái kết quả.

Còn nếu mà mình sống gần một người Thánh nhân mà mình không có noi theo cái gương của họ mình tu tập, mình không có dựa vào cái lời dạy của họ mình tu tập, mình tu theo ý của mình, thì mình dựa vào cũng là mất công mà thôi.

3. Chánh nguyện tự thân.

Cái bánh xe thứ 3 là Đức Phật dạy tự thân mình phát nguyện mà tu, tìm lấy con đường giải thoát. Cái nguyện của mình chân chánh, quyết ra khỏi cái cuộc đời đau khổ này thì tự thân mình nó phải có một cái nguyện chân chánh như vậy.

Chớ còn mình quá khổ, mình chạy vô để mình tu thì cái điều đó mình tránh khổ ở đời để chạy vô chùa tu thì nó không phải là tự cái nguyện của mình để tìm lấy con đường giải thoát, mà đây là cái sự khổ chỗ này chạy tránh chỗ kia mà thôi, chớ không phải là giải thoát.

Cho nên người tu theo đạo Phật phải ý thức được cái vấn đề tu tập là phải tự nguyện, chánh nguyện cái thân của mình, tự thân của mình, mình nguyện là mình đi tìm con đường giải thoát, làm sao thoát ra khỏi cái thân đau khổ này, cái thân nhân quả này, để ra khỏi cái sự sanh tử luân hồi của nó.

Hằng ngày nó vô thường, nó thay đổi, nó làm chúng ta nhiều thứ khổ đau, cho nên chúng ta thấy được cái sự khổ đau đó, hiểu được cái sự khổ đau đó thì chúng ta chánh nguyện - cái nguyện chân chánh của chúng ta là quyết ra khỏi cái bản thân này, cái thân của chúng ta.

4. Tạo phước trong quá khứ

Luôn luôn chúng ta, hiện bây giờ hiện tại là chúng ta tạo những cái phước thì nó trở thành quá khứ. Chúng ta làm sao mà tạo những các cái thiện pháp để cho cái phước của chúng ta nó có mãi mãi trên cái bước đường tu tập.

Nếu chúng ta tạo ra ác pháp thì chúng ta không có tạo phước được, thì do đó nó có nhiều cái sự xảy ra làm chúng ta bất an trên cái bước đường tu tập.

Cho nên luôn luôn chúng ta cần phải có sự tạo phước thêm cho trong cái bước đường tu tập ở trong cái thời gian quá khứ để chúng ta được đầy đủ mà tu tập trên con đường của đạo Phật.

6- TẠM DỪNG GIÁO ÁN - BÀI KỆ HỒI HƯỚNG

(01:17:59) Hôm nay Thầy xin dừng lại. Sau những ngày cố gắng thuyết giảng giáo án, Thầy quá mệt mỏi.

Mỏi mệt vì người đời không biết tu, mỏi mệt vì người đời có nhiều tà kiến, không nhận ra Chánh Pháp của Phật, mỏi mệt vì chúng sanh không đủ phước duyên với Phật pháp, mỏi mệt vì có kẻ cuồng si tà kiến chống đối lại Chánh Pháp của Phật, tì thế Thầy không muốn giảng dạy nữa.

Người đời sao mà ít phước, không có đủ duyên theo pháp của Đức Phật, để rồi Chánh Pháp bị lu mờ và chôn vùi mất, khiến cho đời người càng lúc càng khổ đau.

Nhưng dựng lại Phật pháp, ai là người đã tin nó, đã theo nó mà thực hiện tu tập? Bao nhiêu tà kiến đã đầy ắp trong đầu óc họ, làm gì họ thấy được Chánh Pháp mà tu?

(01:19:07) Thôi đến đây Thầy dừng lại. Ba tháng hạ đã trôi qua quá nhanh, chúng ta chưa hoàn thành được giáo án. Vậy sau ba tháng hạ, Thầy sẽ tiếp tục giảng xong giáo án để không phụ lòng mong mỏi của quý thầy, bây giờ quý thầy cùng Thầy niệm bài hồi hướng:

Hôm nay chúng con

Được nghe giáo án

Của Đức Như Lai

Pháp lý rõ ràng

Pháp hành cụ thể.

Chúng con sinh ra

Được thân làm người

Được nghe Chánh Pháp

Hạnh phúc biết bao

Phước đức nhiều đời

Từ vô lượng kiếp.

Nhìn lại tất cả

Vô lượng chúng sanh

Đều chưa được nghe

Chánh Pháp Như Lai

Lòng của chúng con

Xót thương biết bao.

Nguyện cho pháp này

Phổ biến khắp cùng

Mỗi mỗi chúng sanh

Đều được nghe pháp

Lợi ích vô lượng

Người người an vui

Được thoát khổ vui

Sanh tử luân hồi

Kiếp này đoạn dứt.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Bây giờ quý thầy hãy đứng lên, chúng ta lạy chào nhau tạm biệt. Nếu còn đủ duyên, năm sau chúng ta sẽ gặp nhau trong những buổi học như thế này nữa.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật./.

HẾT BĂNG

59 - NHỮNG PHÁP CẦN HỌC- 42 BÀI KỆ TÊ NGƯU MỘT SỪNG 01

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 59 - NHỮNG PHÁP CẦN HỌC - 42 BÀI KỆ TÊ NGƯU MỘT SỪNG 01

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- NHỮNG PHÁP CẦN HỌC

(00:00) Sau 3 tháng hạ, Thầy hết sức cố gắng để hoàn thành Giáo án tu tập của đạo Phật, nhưng sức người có hạn, thời gian quá ngắn mà giáo án của Phật thì quá dài, vì thế Thầy mới giảng được 2 phần, còn lại phần thứ 3 thì mới bắt đầu vào giới hành bài Tứ Bất Hoại Tịnh ở bốn chỗ niệm Phật: Thân, Thọ, Tâm và Pháp.

Để tiếp tục chương trình giáo án này cho hoàn thành, ở giai đoạn cuối cùng này rất là quan trọng trong bước đường hành trì tiến đến mục tiêu cứu kính giải thoát của đạo Phật đó là giới hành, bây giờ chúng ta tiến tới hành trì lấy Thân niệm Pháp.

Vậy Thân niệm Pháp là gì?

Thân là thân của chúng ta, Pháp là những lời Phật dạy, là phương pháp để trau dồi tu tập khiến cho thân tâm của chúng ta được an tịnh, thanh thoát.

Thầy xin kê ra những bài pháp mà Đức Phật đã dạy trong 49 năm thuyết pháp độ chúng sanh:

1. Năm giới

2. Mười giới

3. Mười Điều Lành

4. Tứ Vô Lượng Tâm

5. Tứ Chánh Cần

6. Tứ Bất Hoại Tịnh

7. Tứ Niệm Xứ

8. Tứ Thiền

9. Tứ Diệu Đế

10. Tứ Như Ý Túc

11. Thất Giác Chi

12. Tam Minh

Đây là những pháp cần phải tu tập, trau dồi.

(02:49) Còn đây là những pháp mà chúng ta cần phải hiểu biết và cũng có lúc cần phải dứt bỏ:

1. Năm uẩn

2. Năm triền cái

3. Năm hạ phần kiết sử

4. Năm thượng phần kiết sử

5. Năm căn

6. Năm lực

7. Sáu nội xứ

8. Sáu ngoại xứ

9. Sáu thức

10. Sáu xúc

11. Sáu thọ

12. Sáu tưởng

13. Sáu ái

14. Sáu hòa kính pháp

15. Bảy định cụ

16. Bảy tùy miên

17. Bảy kiết sử

18. Mười hộ trì nhân pháp

19. Mười bất thiện nghiệp đạo

20. Mười thánh cư

21. Mười pháp vô học

22. Chín thứ đệ diệt

Đây là những cái pháp cần phải thông hiểu, dứt bỏ và còn phải tu tập, rèn luyện thân tâm hằng ngày.

Pháp của Đức Phật dạy rất nhiều, không phải có ba mươi bảy phẩm trợ đạo như người ta đã kê ra và ghi chép lại trong những bài kinh của Phật, điều đó nó có sự thiếu sót rất nhiều, chớ không phải đầy đủ.

Nhưng dù sao chúng ta cũng lần lượt sẽ học hết những cái lời của Phật dạy, để biết pháp nào thông hiểu, pháp nào dứt bỏ, pháp nào trau dồi và pháp nào tu tập. Rồi đây lần lượt Thầy sẽ giảng hết các pháp mà Đức Phật đã dạy trong kinh Nguyên Thủy. Hiện giờ Thầy đã kê ra một số tượng trưng để lấy đó làm đối tượng cho thân ta tu tập.

2- BỐN MƯƠI HAI BÀI KỆ TÊ NGƯU MỘT SỪNG - PHẦN 1

ĐỘC CƯ LÀ BÍ QUYẾT CỦA ĐẠO GIẢI THOÁT

(05:29) Nhưng trước khi học Thân niệm Pháp thì quý thầy cần phải nhớ: Quý thầy có học bao nhiêu pháp của Phật mà không sống đúng ba hạnh, ba đức thì dù cho quý thầy có tu đến đâu cũng chẳng có ích lợi gì cho chính bản thân của quý thầy và cho những người khác.

Nhất là về hạnh độc cư, trong giáo án những phần trước Thầy đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần về cái hạnh độc cư, nhưng quý thầy tật nào vẫn tật nấy, vui thích và thích nói chuyện với nhau.

Do thế mà Thầy thấy rằng con đường của đạo Phật đối với sự độc cư rất là khó khăn khi một người chưa quyết tâm tu giải thoát. Vì thế tiến tới tu tập giới hành thì quý thầy phải sống độc cư đúng 100%. Hạnh độc cư rất là quan trọng cho con đường tu tập theo đạo Phật.

Đức Phật đã hiểu rõ: Hạnh độc cư, bí quyết thành công con đường giải thoát của đạo, nên Ngài có để lại cho chúng ta 42 bài kệ để nhắc nhở người sau tu hành phải thực hành hạnh độc cư cho rốt ráo thì mới mong đạt được mục đích Phạm hạnh cao quý của đạo mà Ngài đã khổ công tu tập để đem lại sự lợi ích cho chúng sanh sau này chấm dứt được sự sanh tử luân hồi.

Hiện nay cô Út đã sắp xếp cho các con mỗi người một vị trí an ổn, yên tĩnh để sống độc cư cho được trọn vẹn, thực hiện nội tâm lắng lặng, càng lúc càng đi sâu vào thiền định mới được. Nếu không có giữ độc cư thì làm sao mà tu tập đi sâu vào thiền định?

Vậy các con phải lắng tai nghe 42 bài kệ nhắc nhở của Đức Phật, sống hạnh độc cư giống như con tê giác một sừng. 42 bài kệ này trong Kinh Tập, trang 7, tựa đề: “Bài kinh con tê ngưu một sừng”. Bây giờ Thầy đọc kệ và giảng giải cho các con rõ.

BÀI KỆ 1 - KHÔNG LÀM HẠI, KHÔNG THƯƠNG NHỚ CHÚNG SINH NÀO

(08:22) Bài thứ nhất:

Đối với chúng hữu tình

Từ bỏ gậy và trượng,

Chớ làm hại chúng sanh

Trong chúng hữu tình ấy

Đừng thương nhớ vật gì

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đây cái câu thứ nhất: Đối với cái loài chúng sanh, cái loài hữu tình có sự cái sống chết, có cái sự đói khát, có cái tâm sân hận, dữ tợn, giết hại lẫn nhau để tìm cái sống, thì tất cả những cái loại hữu tình này đối với chúng nó thì chúng ta không có nên dùng gậy, dùng dao, dùng mác, dùng những cái đồ vật để làm hại chúng.

Mặc dù chúng hung dữ như rắn độc, như bò cạp, như rết, như những loài vật dữ tợn trong rừng cọp, beo, chúng ta cũng không nên làm hại chúng.

Đối với tất cả những loài hữu tình ấy chúng ta không nên nuôi dưỡng chúng, vì tại sao? Vì gây cho chúng ta có những cái tình thương làm cho chúng ta mất độc cư.

Khi chúng ta nuôi một con mèo, một con chó, một con vật gì đó, một con gà, hoặc là một con chim hoặc là một con cá, tất cả những cái loài vật mà chúng ta nuôi nó đều gây cho chúng ta một cái cảm tình, từ đó chúng ta không còn sống độc cư nữa. Vì độc cư chúng ta thấy mình sống một mình, nhưng có nuôi một con chim làm chúng ta cũng vui theo con chim đó mà mất độc cư.

(10:17) Vì vậy trong cái bài kệ này Phật dạy:

Trong chúng hữu tình ấy

Đừng thương nhớ vật gì

Nghĩa là chúng ta không có nên thương nhớ con vật gì cả, cũng đừng nuôi dưỡng chúng. Vì nuôi dưỡng nó gây cái tình cảm của chúng ta đối với chúng mà chúng ta khó mà thực hiện con đường độc cư, hạnh độc cư được.

Vì vậy mà Phật khuyên chúng ta hãy sống riêng một mình, đừng có con vật này con vật khác mà nuôi trong thất của mình, đừng có cho con mèo, con chó, con vật gì mà nó quấn quýt theo mình rồi nó làm cho mình mất cái hạnh độc cư.

Phật bảo chúng ta hãy giống như một con tê ngưu một sừng. Con tê ngưu đây là một con trâu nước, nó có một cái sừng ở trên cái mũi của nó, khi nó lớn lên nó có một cái sừng rồi thì nó đi sống riêng rẽ một mình nó, nó không có sống chung trong bầy của nó nữa.

Nghĩa là ai, con vật gì mà đến xâm chiếm nó thì nó tự vùng vẫy mà chiến đấu chớ không cần đến cái đoàn của nó.

Cho nên nó thường sống một mình, thường vui một mình, thường ở một mình chẳng hề biết sợ ai, chẳng hề biết lo toan, chẳng hề biết nghĩ ngợi một cái điều gì, chẳng hề biết buồn vui một cái gì nữa. Vì vậy mà Phật ví một người tu sĩ như chúng ta phải sống như con tê ngưu một sừng. Đó là bài thứ nhất.

Tóm lại bài này Đức Phật nói chúng ta đừng giết hại chúng sanh, nhưng cũng đừng thương xót chúng sanh. Vì thương xót làm chúng ta mất độc cư, và giết hại thì làm ác, chúng ta có những hậu quả khó khăn trên bước đường tu tập khi chúng ta sống một mình.

Vì vậy bài kệ thứ nhất này, đối với loài hữu tình, đối với tất cả chúng sanh chúng ta chỉ nên xa lìa chúng mà không nên ở gần chúng, hoặc thương hoặc ghét, điều đó cũng làm chúng ta khổ đau. Cho nên chúng ta phải cố gắng giữ trọn hạnh độc cư, xa lìa tất cả mọi chúng sanh.

BÀI KỆ 2 - CON TRAI CÒN KHÔNG NHỚ, NÓI GÌ NHỚ BẠN BÈ

(12:35) Bài kệ thứ 2:

Con trai còn không nhớ,

Nói gì nhớ bạn bè,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Ở đây Đức Phật dạy chúng ta, con của chúng ta…​ Tức là Đức Phật ví như mình có một đứa con trai một mà mình còn không nhớ, huống hồ là mình nhớ đến những bạn bè thân hữu, hoặc bà con, hoặc người này người kia, hoặc là cha mẹ mình nữa.

Cho nên Đức Phật dạy khi mà tâm khởi nghĩ nhớ thương thì đó là mình chưa có sống độc cư được. Muốn cho sống độc cư được thì chúng ta đừng có nghĩ nhớ đến cái người mà chúng ta thương nhất đó là đứa con trai độc nhất của mình, cũng như chúng ta chưa có con, chưa có cái thì cái người mà thương nhất của chúng ta đó là cha mẹ mình.

Vì vậy mà những người thương nhất mà chúng ta còn không nhớ, huống hồ là chúng ta nhớ bà con thân thuộc, hoặc là nhớ người này người kia, hoặc là bạn bè của chúng ta! Chắc chắn là chúng ta không bao giờ nhớ.

Mà không bao giờ nhớ tức là sống độc cư, còn nhớ còn thương, còn tưởng, còn nghĩ đến con cái, vợ con thì đó là chúng ta chưa sống độc cư.

Cho nên ở đây Đức Phật đem bốn câu kệ này mà ngồi lại một mình, mà nhớ người này nhớ người kia thì tức là chưa sống độc cư.

Cho nên Phật dạy chúng ta hãy sống riêng một mình, nên sống không có nhớ nghĩ đến người này người khác, thương nhớ người này người kia thì như vậy mới là sống một mình. Còn sống một mình mà nhớ người này người nọ người kia thì đó là chưa sống một mình.

Vì vậy Phật khuyên chúng ta:

Hãy sống riêng một mình.

Như Tê ngưu một sừng!

Đấy, đầu tiên thì Đức Phật dạy chúng ta xa lánh những cái loài vật, loài hữu tình để cho chúng ta được độc cư, được sống riêng một mình. Kế đến chúng ta xa cái tâm tư nhớ thương của chúng ta đối với những người thân, người thân nhất chúng ta cũng phải xa lìa để chúng ta giữ trọn được hạnh độc cư.

Nếu chúng ta khép mình trong cái cuộc sống một mình nhưng tâm hồn chúng ta thả hồn đi chu du, nhớ tưởng cái này nhớ tưởng cái khác thì đó là không có sống hạnh độc cư, như vậy không sống riêng một mình được thì làm sao sống giống như con tê ngưu một sừng được?

Cho nên ở đây các con phải nhớ kỹ là chúng ta khi có một tâm tư khởi lên nhớ, nghĩ, thương những người thân của mình thì hãy mau mau dùng pháp hướng quét sạnh ra để cho chúng ta thực hiện được hạnh độc cư, chớ không phải ngồi nhớ nghĩ tưởng.

Mà chỉ riêng một mình ngồi nên nhớ, nghĩ, tưởng thương thì tức là mình cũng mất hạnh độc cư rồi, tuy rằng mình đã sống một mình.

Đó là bài kệ thứ 2.

BÀI KỆ 3 - THẤY NHỮNG NGUY HẠI DO THÂN CẬN GIAO THIỆP

(15:51) Đến bài kệ thứ 3:

Do thân cận giao thiệp

Thân ái từ ấy sanh,

Tùy thuận theo thân ái,

Khổ này mới nảy sanh.

Nhìn thấy những nguy hại,

Do thân ái sanh khởi

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đến đây Đức Phật nhắc chúng ta cái bài kệ thứ 3.

Do có thân cận mà giao thiệp người này người kia, bạn bè nói chuyện này chuyện kia như quý thầy mà nói chuyện, hay hoặc là các con mà nói chuyện qua lại thế này thế kia thì cái thân ái nó từ đó mới sanh khởi, tức là cái lòng thương lòng ghét bắt đầu từ đó nó sanh khởi. Và nó sanh khởi như vậy thì chúng ta không có sống độc cư được.

(16:54) Cũng từ đó, cái lòng thương lòng ghét của chúng ta phát khởi lên. Do vì cái sự thân cận, giao thiệp mà đưa đi đến cái chỗ lòng thương lòng ghét, rồi tâm hờn tâm giận, thù oán do đó mà nó sanh khởi, nó làm cho chúng ta giữ cái hạnh độc cư không có được.

Từ cái chỗ do sự thân cận giao thiệp đó mà tạo chúng ta biết bao nhiêu sự khổ. Rồi chúng ta tu hành cũng không đạt được những kết quả vì giữ không được đúng cái hạnh độc cư, cho nên khiến cho chúng ta càng tu lại càng sa đọa mà không bao giờ đạt được kết quả giải thoát của thiền định.

Tùy thân theo thân ái,

Tùy theo cái thân của chúng ta mà thân cận với mọi người đó, thì cái thân ái của chúng ta nó phát khởi, nó làm chúng ta thương người này, ghét người kia hay giận người nọ như câu trên: “Do thân cận giao thiệp”, từ đó mà cái lòng thương lòng ghét của chúng ta phát sanh.

Vì vậy mà cái hạnh độc cư nó làm cho chúng ta cắt đứt được cái sự thân cận giao thiệp. Chúng ta thường thường là muốn hay giao du với bạn bè thân thuộc, người này người nọ người kia, giao thiệp rộng. Người tu hành mà giao thiệp rộng, đó là một cái tai hại rất lớn cho cái sự tu tập của chúng ta.

Vì thế mà Đức Phật dạy chúng ta độc cư, sống một mình, sống riêng rẽ, không có giao thiệp với người nào, không có làm quen với người nào thì chúng ta mới dễ dàng tu hành.

Vì có làm quen, có thân cận, có giao thiệp rộng rãi thì cái tình thân ái của chúng ta nó mới phát khởi cái lòng thương ghét, cái lòng giận hờn, nó mới do cái chỗ thân cận giao thiệp đó mà nó phát khởi ra.

Vì thế cuộc đời chúng ta càng tu mà cái tiến bộ thì không có tiến bộ mà càng lui dần, lui dần, đi về cái phía, cái cuộc đời của người thế gian chớ không phải là đi về cái phía của người xuất thế gian, ra khỏi cái nhà thế gian để đi tìm con đường giải thoát.

(19:05) Do đó mà cái câu kệ thứ tư Phật nói:

Khổ này mới nảy sanh.

Từ cái chỗ thân cận giao thiệp đó thì cái tình thương ghét, giận hờn nó mới nổi lên khổ. Giận hờn, thương ghét thì nó cũng khổ, thương cũng khổ, cho nên khổ này mới do chỗ này mà nảy sanh ra.

Người mà có trí người ta thấy cái đó, người ta biết được cái đó là nguy hiểm, cho nên câu kệ thứ 5 thì Phật nói, Phật dạy:

Nhìn thấy những nguy hại,

Những cái điều mà thân cận giao thiệp này nó đem đến những cái sự nguy hại, làm cho con đường tu tập của chúng ta không tiến bộ và càng ngày càng thối chuyển.

Do thân ái sanh khởi

Vì cái sự thân ái mà nó khởi lên những cái thương ghét làm cho chúng ta có những cái nguy hại trên bước đường tu tập, làm chúng ta khó khăn trên bước đường tu tập.

Nhưng vì cái bản chất của con người là sợ cô đơn, sợ một mình, thích vui, vui thế gian, vui theo kiểu mà nói chuyện này chuyện kia, cho nên các con nhìn thấy trong cái sự tu tập vừa qua trong 3 tháng hạ, các con từ xa xôi đến đây, đường cả ngàn vạn dặm chớ không phải ít, từ miền Bắc vào miền Nam lận mà, thế mà các con tránh không khỏi được cái sự nói chuyện, cái sự giao thiệp với nhau.

Đến đây thì ngay từ cái lúc đầu Thầy đã nhắc nhở độc cư, cái giới hạnh, cái giới nòng cốt của Tu viện là phải độc cư. Thế mà các con giữ được có mấy bữa đầu à, sau đó thì hoàn toàn cho đến cuối hạ thì càng lại bung ra nói chuyện này chuyện nọ chuyện kia, đủ thứ hiềm khích, giận hờn, phiền não, đủ loại hết.

Các con thấy chưa? Cái bài kệ của Phật đã xác định cho rõ ràng để biết được cái sự tu đúng tu sai của chúng ta qua cái hạnh sống mà xác định được.

Vì vậy mà các con đã thấy rõ là chúng ta đã có một nỗi khổ, nỗi khổ đó làm cản trở con đường tu tập của chúng ta, tức là sự thân cận giao thiệp rộng rãi, bạn bè nhiều, giao thiệp rộng, người này người kia, Phật tử đông là càng tu tập càng khó.

(21:28) Cho nên lời khuyên cuối cùng của Phật thì các thầy cũng như các con phải thấy rõ:

Hãy sống riêng một mình

Như tê giác một sừng!

Nghĩa là thấy nó nguy hại, thấy sự nguy hiểm như vậy thì chúng ta cố gắng mà tập sống riêng một mình, đừng có làm thân, làm tình làm tứ, đừng có giao thiệp nói chuyện này chuyện kia chuyện nọ. Đến đây Thầy rất là cấm cản quý thầy điều này rất nhiều.

Bây giờ quý thầy đã thấy ông Phật đã hiểu biết sự nguy hiểm, sự nguy hại cho con đường tu tập, cho nên để ra, đặt ra 42 cái bài kệ khuyên chúng ta cố gắng sống độc cư. Có sống độc cư được thì chúng ta mới thành tựu được đạo giải thoát, không phải dễ.

Đạo giải thoát không thể dành riêng cho những người ham giao thiệp, thân cận người này người kia, vui sướng ở trong thế gian được. Đạo giải thoát của đạo Phật dành riêng cho những bậc sống một mình, độc bộ độc hành trên con đường này thì mới mong có ngày giải thoát, mới mong có ngày ra khỏi con đường sanh tử chấm dứt luân hồi.

Còn nếu mà chúng ta ham vui thế gian thì tốt hơn chúng ta đừng có xuất gia, chúng ta đừng có đi theo con đường của đạo Phật, mà hãy đi vào con đường của các tôn giáo khác vì nó có sự vui, sung sướng. Còn ở con đường của đạo Phật phải sống một mình, phải sống cô đơn, phải sống độc cư, phải vui sướng ở trong thầm lặng, ở trong độc cư, phải vui sướng ở trong cái hạnh thầm lặng một mình.

Đó thì quý thầy thấy cái bài kệ thứ 3 mà Đức Phật xác định là do sự thân cận, giao thiệp rộng rãi mà cản trở con đường tu, mà đem đến sự đau khổ cho chúng ta muôn ngàn thứ đau khổ do sự thân cận giao thiệp này.

Câu kệ thứ 2 thì Đức Phật nói rằng chúng ta sống độc cư như con tê giác, sống riêng một mình mà còn ngồi nhớ nghĩ thương yêu gia đình, bạn bè thân thuộc thế này thế khác, cha mẹ, thì cũng không phải sống độc cư.

Rồi thì câu kệ thứ nhất thì Đức Phật dạy chúng ta đối với tất cả các loài hữu tình, tất cả các con vật thì không nên thương và cũng không nên ghét, mà cũng không nên làm hại chúng, mà cũng không nên ôm ấp thương yêu chúng.

Vì sống gần chúng nó cũng làm cho chúng ta không còn độc cư vì phải bận tâm, chia chẻ tâm ra để lo lắng cho chúng bằng cách này bằng cách khác, hoặc là làm cho chúng ta tức giận, sân hận vì chúng mà phải dùng những cái gậy gộc, hoặc là giết hại chúng, hoặc là thế này thế khác.

Cho nên câu kệ thứ nhất thì đối với chúng sanh, đối với loài vật thì chúng ta không nên gần gũi, không nên thương mà cũng không nên ghét, cũng không nên hại chúng, để chúng ta sống trọn được hạnh độc cư. Nếu chúng ta sống độc cư mà trong thất chúng ta có nuôi một con vật thì chúng ta chưa hẳn là độc cư, dù là con vật gì chúng ta cũng chưa hẳn độc cư.

BÀI KỆ 4 - THẤY SỢ HÃI TRONG SỰ GIAO DU MẬT THIẾT

(24:35) Bây giờ đến bài kệ thứ tư. Thầy xin đọc hết bài kệ thứ tư:

Do lòng từ thương mến,

Đối với bạn bè thân hữu,

Chuyện tu hành bỏ quên,

Tâm tư bị ràng buộc,

Do thấy sợ hãi này,

Trong giao du mật thiết,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Bây giờ Thầy giải thích cái bài kệ này để cho quý thầy và các con hiểu cho rõ ràng. Bài thứ tư này Phật muốn nói:

Do lòng từ thương mến,

Do cái lòng mà chúng ta thương mến cái người này, thương mến cái người kia, thương mến người nọ, đối với bạn bè thân hữu của mình, do cái lòng thương mến đó mà nó tạo cho chúng ta trên cái bước đường độc cư không có dễ dàng, tạo cho chúng ta trên bước đường tu tập để hợp nhất tâm, để nhằm vào cái mục đích trở thành một cái lực lượng của nội tâm, để dứt bỏ tham, sân, si, mạn, nghi, tất cả những Ngũ Triền Cái hoặc là Thất Kiết Sử đang trói buộc chúng ta, mà chúng ta bị những cái lòng thương lòng ghét đối với bạn bè thân hữu nó làm tâm chúng ta bị chi phối, chia chẻ ra.

Do như vậy đó thì chúng ta dù có sống ở trong cái thất một mình nhưng tâm hồn chúng ta vẫn chia chẻ cho mọi người đó thì coi đương nhiên chúng ta không phải sống một mình. Do đó những cái thời giờ mà để chúng ta ngồi thanh thản giữ tâm trong sáng thì trái lại chúng ta lại quên đi, lại bỏ quên đi cái chuyện tu tập đó đi.

Hoặc là chúng ta tu tập tâm từ, ban rải với chúng sanh trên bước đường đi kinh hành, hoặc là trong những cái hành động làm của chúng ta hằng ngày nơi thân của chúng ta tránh khỏi sự va chạm làm cho chúng sanh đau khổ, do tâm từ của chúng ta phải tỉnh thức ở trong những cái tỉnh thức trong hành động của chúng ta hằng ngày, thì chúng ta vì cái lòng từ thương mến bạn bè thân hữu chúng ta lại quên đi cái sự tu tập của chúng ta.

(26:55) Bởi vì đạo Phật tu nhiều lắm, nhiều cái thứ định để mà tu chớ không phải có một cái thứ định mà tới giờ rồi ngồi thiền tập luyện đơn thuần như người ta nghĩ, mà ở đây Phật phải tu nhiều cách, nhiều thức để chúng ta từ cái tỉnh thức nè, từ cái giữ tâm thanh thản nè, từ cái Định Hiện Tại An Lạc Trú nè, từ cái Định Niệm Hơi Thở nè, từ cái Định Vô Lậu nè, từ cái hạnh thiểu dục tri túc nè, từ cái phòng hộ sáu căn nè, tất cả mọi mọi chúng ta đều tu tập liên tục, không có dám kẽ hở nào hết.

Bước ra một bước đi, hoặc là nói một lời nói, một hành động đều là chúng ta phải tỉnh thức, phải cẩn thận, phải cảnh giác rất lớn đối với cái hành động thân, khẩu, ý của chúng ta. Do như vậy mà chúng ta đâu còn cái thời gian nào mà ngồi đó mà nhớ, mà thương bạn bè thân hữu, hoặc là thế này thế khác?

Cho nên nếu mà chúng ta còn có cái lòng nghĩ nhớ cái này cái kia, lo lắng chuyện đói, chuyện này kia nọ thì tức là chuyện tu hành chúng ta bỏ quên. Cho nên câu ba của bài kệ tư này thì Đức Phật đã nói:

Chuyện tu hành bỏ quên,

Nghĩa là chúng ta còn một cái tâm nào mà thương yêu, cái lòng thương yêu thương mến đối với bạn bè thân hữu, nhớ lại người này người nọ người kia, thì cái chuyện tu hành chúng ta đã bỏ quên rồi.

Và cũng vì cái lòng thương yêu đối với bạn bè thân hữu, đối với cha mẹ, anh em, đối với vợ con tất cả mọi cái, thì lúc bấy giờ tâm tư ta bị ràng buộc. Cho nên câu kệ thứ tư thì Phật nói:

Tâm tư bị ràng buộc,

Bị trói buộc, bị siết chặt. Cho nên trong cái kiết sử thì cái ái kiết sử nó ràng buộc, nó trói buộc cái tâm của quý vị, cái tâm của các vị rất là khó mà bứt ra được. Nếu người mà không thấy nó, không sợ hãi nó thì con đường tu tập giữ cái hạnh độc cư không bao giờ được.

Cho nên thấy nó sợ hãi, thấy được cái sự ràng buộc, cái sự trói buộc, cái sự tu tập không có tiến bộ thì quý thầy và cái con phải sợ hãi trong cái vấn đề giao du mật thiết.

Giao du mật thiết với bạn bè, với người này người kia người nọ, rồi làm quen, rồi giao thiệp rộng rãi đó thì phải sợ hãi cái hành động đó, cái hành động đó sẽ đưa đi đến chúng ta tu tập rất khó.

(29:22) Cho nên chúng ta không giao du, không có giao thiệp với người này người kia, không có giao thiệp rộng rãi với ai. Chúng ta cắt đứt, muốn đi tu con đường giải thoát này chúng ta đoạn dứt, không có tình cảm với một cái người nào nữa hết, có như vậy thì chúng ta mới thấy được cái sự tu tập của chúng ta ngày mới có tiến bộ được.

Còn nếu không làm sao mà chúng ta có thể giải thoát được? Hằng ngày cứ lo giao du bạn bè, lý luận cái này luận cái kia, bàn cái chuyện nọ, chuyện khác, nói chuyện đủ thứ, thì thử hỏi làm sao tu hành đi đến nơi đến chốn được?

Cho nên người tu hành phải sợ hãi những cái việc mà giao du mật thiết thì mới có thể sống một mình được. Cho nên Phật khuyên:

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó, thì cái bài kệ này nó có một cái ý nghĩa rất là sâu sắc để mà chúng ta giữ gìn cho trọn vẹn cái hạnh độc cư mà không bị sự ràng buộc của bạn bè thân hữu, của sự giao thiệp rộng rãi.

Cho nên bài kệ 3 và bài kệ 4 này để chỉ cho chúng ta biết rằng sự rộng rãi giao thiệp đó, cái sự giao du mật thiết với nhau đó thì là cái tai hại cho con đường tu tập theo đạo Phật.

Cho nên thấy những sự giao du mật thiết, những cái sự giao thiệp rộng rãi thì chúng ta sợ lắm, người tu mà biết thì chúng ta sợ hãi lắm. Đó là một con đường đưa đi đến cái chỗ sa đọa, cái chỗ khổ đau, cái chỗ ràng buộc, cái chỗ trói buộc, nó không bao giờ được giải thoát đâu.

Cho nên ở đây cái bài kệ 4 chúng ta phải thấy được một cái sự sâu sắc mà Đức Phật đã dạy chúng ta. Cái mục đích mà chúng ta đã đạt được - chúng ta không có giữ gìn được cái hạnh độc cư này thì khó mà chúng ta có thể đạt được cái mục đích cao siêu của đạo Phật được.

Bây giờ Thầy đọc lại bài kệ thứ tư để cho quý thầy, các con hãy suy ngẫm mà cố gắng giữ gìn hạnh độc cư:

Do lòng từ thương mến,

Đối với bạn bè thân hữu,

Chuyện tu hành bỏ quên,

Tâm tư bị ràng buộc,

Do thấy sợ hãi này,

Trong giao du mật thiết,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

BÀI KỆ 5 - BỊ RÀNG BUỘC VÌ NHỚ MONG NHƯ CÀNH TRE RẬM RẠP

(31:42) Bây giờ đến bài kệ thứ 5:

Ai nhớ nghĩ chờ mong,

Đối với con và vợ,

Người ấy bị buộc ràng,

Như cành tre rậm rạp.

Còn các ngọn tre cao,

Nào có gì buộc ràng,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Bài kệ thứ 5 thì Phật nhắc nhở:

Ai nhớ nghĩ chờ mong,

Đối với con và vợ,

Người ấy bị buộc ràng,

Đó, ba cái câu kệ đầu - nếu mà chúng ta vào đây mà chúng ta ngồi tu hành hoặc là một nơi nào đó để quyết tâm đi theo con đường giải thoát của đạo Phật mà còn nhớ, còn mong đến con, đến vợ thì đương nhiên cái người tu sĩ ấy đã bị buộc ràng, đã sống không có độc cư được rồi.

Phật ví dụ:

Như cành tre rậm rạp,

Như những cái cành tre ở dưới gốc tre nó rậm rạp, nó bị bao nhiêu sự trói buộc, nó không có thảnh thơi, nó không có giải thoát được, nó bị trói buộc bởi những cái cành tre khác, bởi những cái cây tre khác.

Còn các ngọn tre cao,

Những cái ngọn tre mà nó vọt lên, cao vút lên trên thì nó không có bị cái sự ràng buộc ở dưới những cái gốc tre.

Đó, thì như vậy là Đức Phật ví dụ: Mình muốn vượt thoát ra khỏi cái tình đời, cái con đường của thế gian, nó đang bị những kiết sử ràng buộc rất là chặt chẽ, cho nên chúng ta muốn vượt thoát ra, cũng như những cái ngọn tre nó vọt lên cho cao hơn tất cả những ngọn tre khác thì nó không còn bị ràng buộc, nó không còn bị buộc ràng nữa. Đó, thì như vậy là nó vượt lên trên cao hết thì tức là nó sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng.

Thì quý thầy thấy rõ: Khi mà chúng ta làm mọi người đang sống ở trong cái thế gian này mà chúng ta sống độc cư được là như ngọn tre mà cao vút lên, vượt ra khỏi cái bụi tre, cái gốc tre, cho nên chúng ta không còn bị buộc ràng bởi những cái gai, những cái cành tre nhỏ, những cái nhánh nhện của cái loại tre nó bao bọc cái gốc tre, chúng ta vọt lên trên, chúng ta cao vút lên hết, thì cái người mà sống được độc cư là cái người vọt lên, cái người cao vút lên.

Còn cái người sống mà không được độc cư, sống không riêng một mình, người đó đang bị trói buộc, bị ràng buộc, không có vượt thoát được.

(34:29) Đó thì ở cái bài kệ thứ 5 này Đức Phật ví dụ cho chúng ta thấy rằng một con người muốn sống độc cư là con người vượt lên trên chớ không phải là con người trốn đời, con người tránh cái sự đời, mà cái người đó vượt lên, vượt lên những cái sự trói buộc, những cái sự vui thích của thế gian, cái sự vui giả tạo của thế gian, vui đó rồi khổ đó. Cho nên khi mà nhớ mong con với vợ thì tức là bị ràng buộc, mà bị ràng buộc thì tức là bị nó trói buộc rồi.

Chúng ta phải nhìn con và vợ là một cái nhân quả để mà chúng ta vay nợ ở tiền kiếp mà bây giờ chúng ta phải trả, mà chúng ta đã vượt lên trên cho khỏi lên thì tức là chúng ta đã thoát ra khỏi sự ràng buộc đó. Còn nếu mà chúng ta không có vượt thoát ra thì chúng ta sẽ bị vợ và con trói buộc rất chặt, không thể nào mà thoát ra.

Mặc dù thân chúng ta thoát nhưng tâm hồn chúng ta vẫn bị chúng trói buộc thì như vậy chúng ta cũng chưa hẳn đã độc cư. Hiện giờ thân chúng ta ngồi trong thất không nói chuyện với ai nhưng tâm hồn chúng ta nghĩ nhớ, chờ mong, thương con nhớ vợ, thì cái điều đó là cái thân không bị trói buộc nhưng cái tâm vẫn bị những cái ái kiết sử đó trói buộc chúng ta rất chặt. Vì vậy mà chúng ta sống chưa riêng một mình đâu, chúng ta chưa vượt ra khỏi đâu.

Mà muốn vượt ra khỏi thì chúng ta phải hiểu biết nó là một cái sự nguy hại, nguy hiểm cho con đường tu hành của chúng ta, nên cắt đứt, nên bỏ, không còn có cái sự trói buộc gì được chúng ta nữa.

Vì vậy mà chúng ta phải sống một mình như con tê ngưu một sừng, sống riêng rẽ, không sống chung ở trong bầy tê ngưu nữa, sống một mình tự tại, tự do, vượt thoát, đó là độc cư.

BÀI KỆ 6 - BẬC HIỀN TRÍ TỰ DO NHƯ NAI TRONG RỪNG NÚI

(36:22) Bây giờ tới cái bài kệ thứ 6:

Như nai trong rừng núi,

Không gì bị trói buộc,

Muốn đi đâu nó đi

Để tìm kiếm thức ăn.

Như các bậc hiền trí,

Muốn tự do giải thoát,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Bây giờ Thầy sẽ giải thích cái bài kệ này. Đây cái bài kệ này thì Phật ví như một con nai ở trong cái rừng núi, nó sống có một mình nó cho nên nó không có bị ai trói buộc, nó muốn đi đâu thì nó đi, nó để đi kiếm thức ăn thì nó cũng tự tại ở trong cái sự đi kiếm thức ăn, nó muốn đi Đông, đi Tây, đi Nam, đi Bắc…​

Phật ví một cái người mà sống độc cư thì giống như một con nai, nhưng chúng ta phải sống một mình, chớ không phải là con nai mà đi tìm bạn tìm bè, mà đây là con nai đi tìm cái sự giải thoát cho nên nó sống riêng một mình, đi ăn cũng một mình, đi đâu cũng một mình, không có cái gì mà bị trói buộc, bị ràng rịt nó hết, cho nên nó sống chuyên một mình nó.

Đức Phật ví con nai mà sống được như vậy thì các bậc, các nhà hiền trí, các người tu hành mà theo đạo Phật thì cũng vậy, muốn tu cho được sự giải thoát, làm chủ sanh tử, chấm dứt sự luân hồi thì cũng phải sống một mình, cũng sống riêng một mình, cũng không còn bị dính dấp một cái tình cảm thương ghét giận hờn ai nữa hết, không còn bị những cái đối tượng làm cho mình phải lo, phải thương, phải ghét phải giận, phải hờn.

(38:08) Cho nên vì vậy đó mà Đức Phật muốn khuyên mình phải sống độc cư, sống riêng một mình mới có được yên ổn mà tu tập con đường theo đạo giải thoát. Nếu mà mình không có sống riêng một mình được thì khó mà tu tập theo con đường của đạo Phật được.

Vì chính cái mục đích của nó là tâm bất động, mà hiện giờ tâm mình còn đang động mà mình sống chung trong mọi người, người nói vầy kẻ nói khác, người nói thuận kẻ nói nghịch, làm cho tâm của mình luôn luôn bất an, làm sao mà mình được yên ổn mà mình nhiếp tâm, hằng khắc phục cái tâm mình để cho mình xa lìa những tham muốn, những cái vui của thế gian, những cái dục lạc của thế gian, những cái cám dỗ của thế gian, rồi những cái giận hờn, phiền não, đau khổ của thế gian làm cho chúng ta rối ren ở trong cái đầu óc, làm cho cái đời sống chúng ta rất là bất toại nguyện.

Như vậy thì chúng ta muốn đạt được cái sức bất động tâm, đạt được cái sức làm chủ sanh lão bệnh tử thì chúng ta phải sống độc cư, sống riêng một mình: Hãy sống riêng một mình như con tê ngưu trong rừng.

Đó thì Đức Phật nói muốn khuyên chúng ta làm sao mà chúng ta muốn đạt được cái con đường giải thoát của đạo Phật thì phải sống riêng một mình, phải sống độc cư, phải sống mà không còn bị trói buộc, dính mắc một cái gì của tình cảm, của sự thương ghét, của sự giận hờn, phiền não của thế gian nữa thì chúng ta mới có thể thực hiện được con đường này, qua cái bài kệ thứ 6.

Cũng như một con nai ở trong rừng có một mình, nó không bị một cái gì trói buộc, đi ăn chỗ nào thì tự do mà đi ăn, không có đi cả bầy, cả bầy, để rồi người này nhìn thấy, kẻ kia nhìn thấy rồi bẫy, rồi rọ, rồi săn, rồi bắn, rồi làm cho cái đời sống con nai bất an.

Cho nên con nai này nó khôn ngoan, nó sống một mình nó, cho nên nó được an ổn nhất, được giải thoát nhất.

Và người tu sĩ chúng ta hiện giờ, chúng ta cũng chấp nhận cái hạnh độc cư là cái tuyệt vời nhất để mà chúng ta thực hiện con đường giải thoát.

Đó là cái bài kệ thứ 6, Phật ví người tu sĩ của chúng ta cũng như là một con nai mà sống riêng một mình trong rừng tự do tự tại, không còn bị trói buộc, bị dính mắc nữa.

BÀI KỆ 7 - BẠN BÈ THÂN HỮU LÀM MẤT TỰ DO

(40:32) Bài kệ thứ 7 Đức Phật muốn nhắc lại, đây Thầy sẽ đọc lại cái bài kệ này cho các thầy và các con nghe để mà hiểu qua cái cách thức sống độc cư.

Giữa bạn bè thân hữu,

Thường gọi lên gọi xuống,

Hoặc ở chỗ trụ xứ,

Hoặc trên đường lộ hành.

Muốn tự do giải thoát,

Không còn gì tham luyến,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Nghĩa là Đức Phật nói khi mà chúng ta còn giao thiệp, còn kết bạn kết bè thì họ gọi lên gọi xuống, nói chuyện tới chuyện lui, chuyện này chuyện nọ chuyện kia cho nên làm cho chúng ta bất an, làm chúng ta không có được tự tại, không có được tự do để sự tu tập của chúng ta được yên tĩnh, cho nên bạn bè rất là tai hại, thân hữu rất là tai hại.

Vì vậy mà trên cái bước đường mà chúng ta đi, cái chỗ mà chúng ta ở, rồi trên bước đường chúng ta đi - thường thường thì người ta hay tìm cái người đồng hành, rồi cái người đồng xứ để mà ở với có chỗ nương tựa với nhau, ở đây người tu hành chúng ta không có chọn cái nơi đồng xứ để đồng ở có bạn có bè với nhau. Rồi đi ở trên đường thì cũng đi độc bộ độc hành chứ không có rủ ren người này người nọ cùng đi với mình để cho vui.

Thì cái điều mà Đức Phật khuyên, một cái người mà đi tu theo đạo Phật thì không có nên trụ xứ một chỗ hai ba người, năm ba người, mà chỉ có một mình mà thôi.

Cũng như đi trên đường thì hầu hết là người ta sợ đi một mình, sợ trộm cướp hay hoặc này kia nọ, nhưng cái người tu thì người ta không có sợ. Và đi có nhiều người nó lại là còn làm động tâm chúng ta hơn, đi rồi nói chuyện này chuyện nọ chuyện kia, nó không được yên tịnh.

Đó là nói về trên đường đời cũng như là trên cuộc sống, chỗ ở của chúng ta đều phải từ giã, không có sống với hai người, không có sống ba người, bốn người, năm người, mười người mà hãy sống cho một mình mà thôi.

Bởi vì cái cuộc đời tu hành của chúng ta, chúng ta không còn tham luyến một cái gì hết. Mà không còn tham luyến thì chúng ta còn sợ hãi cái gì đâu mà chúng ta lại phải kết đôi, kết bạn kết bè? Cho nên chúng ta hãy sống riêng một mình như tê ngưu một sừng.

Đó thì như vậy là chúng ta thấy Đức Phật khuyên chúng ta phải cố gắng mà tránh xa bạn bè, vì họ thường gọi tới gọi lui, họ làm cái này làm cái kia, họ nói chuyện này chuyện kia đủ thứ đủ loại làm cho tâm chúng ta bất an, cho nên con đường tu chúng ta khó đạt được.

Cho nên quý thầy và các con cũng phải nghe, phải hiểu, phải ráng mà nỗ lực thực hiện cái hạnh độc cư, sống riêng một mình, làm riêng một mình, đi riêng một mình, không có nói chuyện với ai thì may ra chúng ta mới đạt được con đường tu hành giải thoát. Đó là bài kệ số 7.

BÀI KỆ 8 - NHÀM CHÁN HỆ LỤY VỚI NHỮNG NGƯỜI THÂN

(43:34) Bài kệ số 8 thì Đức Phật cũng khuyên chúng ta thêm để chúng ta thấy rằng con đường tu của đạo Phật là phải sống riêng một mình, không được sống chung nhiều người. Ở đây chúng ta nghe Đức Phật khuyên bài kệ thứ 8:

Giữa bạn bè thân hữu

Ưa thích, vui cười đùa,

Đối với con, với cháu,

Ái luyến thật lớn thay!

Phải nhàm chán hệ lụy,

Với những người thân ái,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Ở đây Đức Phật khuyên chúng ta, với bạn bè thân hữu thì cái người mà ưa vui, ưa thích cười đùa nói chuyện, bông đùa nói chuyện phiếm, nói chuyện giỡn, nói chuyện chơi, hoặc đánh cờ hoặc là làm đủ trò để mà vui chơi, rượu chè bài bạc với bạn bè, làm cho vui thích, đó là cách thức vui theo cái mùi thế gian mà đem đến cho cái sự đau khổ.

Cũng như đối với con, với cháu thì mình luyến ái, mình thương yêu, mình không có bỏ chúng được, thì những cái điều này nó làm cho chúng ta sống độc cư không có được, làm chúng ta tu theo con đường của Đạo Phật không được.

Cho nên cái người mà ham thích bè bạn, giao thiệp rộng rãi với người này người kia thì những người đó không có tu theo đạo Phật được, không có độc cư được.

Những cái người mà còn thương con nhớ cháu, còn ưa con ưa cháu, còn ái luyến với con cháu thì những người đó cũng không có sống độc cư được, cũng không có thực hiện được con đường tu theo đạo Phật giải thoát được.

Vì đó là những cái một sợi dây kiết sử trói buộc rất chặt và làm cho họ không có thể nào thoát ra được thì làm sao mà họ thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật!

(45:24) Muốn thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật, muốn sống được cái hạnh độc cư để sống một mình để thực hiện con đường thiền định của đạo Phật thì phải nhàm chán những cái sự hệ lụy đó, những cái sự trói buộc đó. Với những người thân ái đó chúng ta phải nhàm chán, phải từ bỏ, xa lìa những cái người đó để chúng ta sống độc cư, sống riêng một mình mới được.

Còn nếu mà chúng ta không nhàm chán, không thấy cái sự hệ lụy, không thấy cái sự trói buộc, không thấy những cái đau khổ, cái bất toại nguyện trong tâm của chúng ta mà do những cái người bạn bè, những người thân, con cháu của chúng ta, những người ruột thịt nó sẽ làm chúng ta khó khăn mà tu hành, khó khăn mà độc cư được.

Cho nên chúng ta phải nhàm chán, phải dứt bỏ, phải xa lìa họ đi thì chúng ta mới sống được độc cư, mới sống được riêng một mình, thì chúng ta mới giống như là con tê ngưu một sừng trong rừng.

Bài kệ thứ 8 Đức Phật khuyên chúng ta phải dứt bỏ bạn bè, con cái, những người thân thuộc hệ lụy, phải nhàm chán, phải xa lìa, phải từ giã, phải từ bỏ, vì đó là những người thân, họ có những cái sợi dây vô hình trói buộc chúng ta rất chặt, khó mà chúng ta tiến tới con đường tu hành của đạo Phật để được giải thoát sanh tử luân hồi hoàn toàn.

Những cái điều thân thương, những cái điều thương ghét, những cái điều giận hờn phiền não, những cái điều bạn bè thân thuộc, con cái, dòng họ quyến thuộc, anh em, cha mẹ ruột thịt đó là những cái sợi dây vô hình, những cái sợi dây đó nó trói buộc chúng ta, nó làm cho chúng ta không có đi được con đường của đạo Phật đâu.

Muốn đi vào con đường đạo Phật phải bứt cho mạnh, thoát ra cho mau, đừng có ở trong cái vòng đó mà chúng ta sống không có được độc cư đâu. Chúng ta phải gan dạ, phải quyết tâm, phải có một cái sự dứt bỏ rất mạnh thì chúng ta mới sống được hạnh độc cư.

Còn nếu mà chúng ta không có quyết tâm mà cứ sống lềnh lềnh lềnh lềnh, mà thích nói chuyện, nói vui đùa cái này cái kia nọ, không những làm động mình mà còn làm động người khác, mà mình tu không được mà người khác tu cũng tu không được nữa.

Cho nên ở đây phải quyết tâm dứt bỏ, không được có thể tu hành mà sống cái kiểu không có độc cư, không có riêng một mình thì như vậy là khó mà đi đến con đường giải thoát cuối cùng của đạo Phật, chỉ tu cho qua ngày qua tháng mà thôi chớ không bao giờ đạt được kết quả, đạt được cái mục đích cao siêu của đạo Phật đâu.

BÀI KỆ 9 - KHÔNG SÂN HẬN, BIẾT VỪA ĐỦ, VỮNG TÂM TRƯỚC HIỂM NGUY

(47:59) Bài thứ 9:

Khắp cả bốn phương trời,

Không sân hận với ai,

Tự mình biết vừa đủ,

Chẳng ham muốn vật gì,

Vững tâm chịu hiểm nguy,

Không run sợ dao động,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Bài kệ thứ 9 này Đức Phật ví như bốn cái phương trời tức là Đông, Tây, Nam, Bắc bốn cái phương khắp cùng đó, đối với mọi người trong bốn cái phương trời này rộng mênh mông như vậy đó, bất kì người nào, mình cũng không sân không hận gì với một người nào hết. Đó là hai câu kệ đầu.

Đối với ai, họ làm gì làm, họ chửi mắng mình, họ mạ nhục mình, họ làm gì làm mình không sân hận, không phiền não với ai hết. Nghĩa là khắp cùng, mọi người ở trong bốn phương trời này, Đông, Tây, Nam, Bắc đối với mình, hoàn toàn là mình không có biết hờn giận với một người nào hết.

Dù là người thân, người không thân, người xa lạ, người gần gũi, người quen thuộc, con cháu của mình, nói gì nói, nói nặng nói nhẹ gì, nói gì nói, mình trơ trơ như cục đất thì đó là chính mình sống độc cư. Còn nếu mà mình không trơ trơ như cục đất, đụng đâu phiền não đó thì chưa hẳn là độc cư.

Đó, cái độc cư của đạo Phật nó sâu sắc đến cái mức độ không thể lường được. Đụng chuyện gì mình cũng động tâm, đụng chuyện gì mình cũng chịu không được, đụng chuyện gì mình cũng không tùy thuận, bằng lòng, không nhẫn nhục được thì đó là mình không sống độc cư. Còn mình sống độc cư ai nói gì nói, mình trơ trơ như cục đá, đó là độc cư.

Tự mình biết vừa đủ,

Chẳng ham muốn vật gì,

Hai câu kế này thì chúng ta thấy rất rõ. Mình biết vừa đủ tức là thiểu dục tri túc. Thiểu dục tri túc tức là mình có cái gì mình biết đủ cái đó thôi, mình không ham, không muốn, không đòi hỏi thêm gì hết.

(50:02) Nghĩa là bây giờ, hiện giờ có cái gì thì mình đủ xài nó thôi, không đòi hỏi thêm gì, không cần cái gì hết. Đời, mọi vật đều vô thường, có rồi mất đó, mất đó làm cho mình phiền não thêm chớ làm gì?

Nên chẳng thích cái gì hết, cố gắng chỉ độc bộ độc hành, chỉ biết vừa đủ, ít muốn để cho mình thực hiện được con đường độc cư, đi trên con đường giải thoát cuối cùng ra khỏi nhà sanh tử luân hồi đầy đau khổ, mà chúng ta không làm cách nào để mà thoát ra khỏi cái vòng sanh tử này, cái vòng luân hồi này, chỉ có con đường duy nhất của đạo Phật mới dẫn dắt chúng ta thoát ra khỏi cái con đường này. Cái con đường này mới dắt chúng ta ra khỏi cuộc đời này.

Nếu mà chúng ta không biết được vậy thì khó mà chúng ta biết đủ, ít muốn. Nếu chúng ta quyết tâm ra khỏi cái cuộc đời đau khổ này, ra khỏi sự luân hồi sanh tử này, chấm dứt, không còn tái sanh luân hồi ở kiếp đời này nữa thì chúng ta phải nỗ lực, phải sống độc cư.

Nếu mà không biết đủ, ít muốn thì đó là chưa biết sống độc cư. Chúng ta có một cái bộ đồ mà chúng ta còn muốn thêm một bộ đồ nữa là chưa sống độc cư.

Vì sống độc cư là thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, không có còn muốn thêm, ai cho ăn cái gì thì ăn cái nấy, không có nghĩ rằng ăn cái đó là bổ, là mập, là béo, hay hoặc là đầy đủ dưỡng chất, hay hoặc là ăn thiếu dưỡng chất, không cần.

Ăn để no, để sống, để nỗ lực thực hiện con đường giải thoát, trong ngày nay, ngày mai ra khỏi cuộc đời này là chúng ta đã mừng rồi. Còn sống thêm một ngày nào ở trong cuộc đời này là còn đau khổ.

Vì cuộc đời là một cái lộ trình của nhân quả chi phối con người từng phút giây, tạo cho con người vô thường từng chút, từng diệt từng sanh tử từng chút, từng sát na, làm sao mà chúng ta vui sướng được mà chúng ta an ổn ở trong cảnh đời như vậy? Cho nên chúng ta phải nỗ lực, phải quyết tâm, phải ra cho khỏi bằng cái hạnh độc cư.

Hạnh độc cư không những sống một mình mà hạnh độc cư còn nằm ở trong cái rộng lớn là đối với cái tâm chúng ta không sân, không hận, không phiền não mới độc cư, còn sân còn hận thì làm sao mà gọi là độc cư? Mà tâm chúng ta chưa biết đủ, còn ham muốn thì làm sao gọi là độc cư? Cho nên tâm biết đủ, không ham muốn thì mới là độc cư.

Bởi vậy chúng ta phải vững tâm. Trong khi mà thiểu dục tri túc như vậy nó thiếu kém mọi điều nhưng chúng ta vẫn biết đủ, vì vậy là phải có một sự vững tâm chịu được những sự nguy hiểm.

Thí dụ như bây giờ bộ quần áo mà chúng ta mặc ở trong thân chỉ có một bộ như thế này mà bị mưa ướt, thì lúc bấy giờ chúng ta phải giặt giẹ nó thì tức là chúng ta phải trần truồng, thì chúng ta phải lấy lá cây hoặc gì đó mà chúng ta che khuất cái thân trần truồng của chúng ta để cho nó kín đáo một chút để rồi giặt cái bộ đồ. Như thế là chúng ta đã biết đủ, ít muốn rồi đó, đó là chúng ta đã sống độc cư.

(53:08) Cho nên nếu mà không vững tâm chịu những cái nguy hiểm thì làm sao mà chúng ta sống độc cư được? Cho nên chúng ta không run sợ, dao động trước mọi cảnh. Trước mọi cảnh người ta chửi mắng mình như tát nước nhưng không run sợ, không dao động, không hận, không thù, không sân, đó là độc cư.

Vững tâm chịu hiểm nguy

Trước những cái hiểm nguy như gặp cọp, beo, rắn độc…​ tất cả những cái đó, chúng ta không run sợ mà vững tâm chịu trên những cái sự hiểm nguy đó.

Như trước cái cơn bệnh ngặt nghèo sắp sửa bỏ thân này chết, chúng ta vẫn vững tâm, không dao động. Chúng ta biết thọ là vô thường, chúng ta không sợ hãi cho nên chúng ta vững tâm. Và khi vững tâm như vậy đó, trước cái nguy hiểm như vậy mà chúng ta không dao động tâm đó là chúng ta đã sống độc cư.

Còn chúng ta run sợ, chúng ta lo lắng, chúng ta chạy thuốc chạy thang bằng cách này bằng cách khác để cho cái bệnh nó hết hay hoặc thế này thế khác thì đó là chúng ta không sống độc cư, chúng ta bị dao động. Tâm dao động là không sống độc cư.

Cho nên lúc bấy giờ chúng ta phải thấy được cái hạnh sống riêng một mình đó là một cái điều rất là cao quý của đạo Phật.

Chớ không phải sống ở trong thất một mình mình, cô đơn một mình mình đó là độc cư đâu. Nó cũng là một cái góc cạnh độc cư nhưng chưa phải thâm sâu của độc cư. Trước một con rắn độc, một con cọp dữ mà chúng ta không dao động, không hề sợ hãi trước cái chết của một con vật sắp sửa giết mình thì đó mình mới là độc cư.

Cho nên cái hạnh độc cư rất là tuyệt vời, rất là cao quý, mà cái người hiểu được độc cư thì khó, ít ai hiểu. Cho nên độc cư có nghĩa là độc mộc một mình trước những sự nguy hiểm, trước những sự bệnh tật đau khổ có thể dày vò nhức nhối, có thể cái đau tận cùng của sức chịu đựng của thân nhưng tâm chúng ta không dao động thì người đó mới gọi là độc cư.

Cái nghĩa độc cư rất là sâu sắc, trước mọi cảnh, mọi cái làm cho bất toại nguyện tâm mà tâm vẫn vững chí, không hề dao động trước cái đối tượng đó thì đó là độc cư.

Bởi vậy, sống độc cư phải sống cho đúng cách, phải hiểu cho đúng cách, phải thấu rõ cho đúng cách thì nó mới có đầy đủ cái nghĩa của độc cư.

Ai nói gì mặc, ai làm gì mặc, không giao thiệp với ai, không kết bè kết bạn với ai thì đó mới là sống độc cư.

Cho nên cái nghĩa độc cư rất là rộng rãi. Vì vậy ở đây cái bài thứ 9 này Phật khuyên chúng ta trước mọi sự hiểm nguy tâm không có dao động thì đó là chúng ta đã sống riêng một mình, đã sống độc cư giống như con tê ngưu một sừng.

BÀI KỆ 10 - SỐNG VÔ TƯ LỰ GIỮA GIA ĐÌNH

(55:47) Đây, đến đây là bài kệ thứ 10. Thầy đọc bài kệ thứ 10 để quý thầy và các con nghe mà suy ngẫm cái hạnh độc cư.

Người xuất gia tu hành,

Chung sống thật khó khăn,

Cũng như các gia chủ,

Cùng sống trong gia đình,

Phải sống vô tư lự

Giữa con cháu như người dưng.

Đó bây giờ thì các thầy và các con thấy rằng cái người xuất gia của chúng ta mà chung sống với một cái người nào khác đều là khó khăn hết, không có dễ dàng đâu.

Họ thì sống như thế này - họ ở ngoài đời mà, họ sống như thế này thế khác, họ muốn cái này, họ muốn cái kia muốn cái nọ, còn mình thì thiểu dục tri túc, làm sao mình sống chung với họ được? Mình thì ăn ngày một bữa còn họ ăn hai, ba bữa thì làm sao sống chung được?

Cho nên cái cuộc sống của họ cuộc sống khác, còn người xuất gia là cuộc sống khác. Cho nên chúng ta phải thấy những cái cuộc sống của chúng ta là cuộc sống độc cư. Còn của họ là cuộc sống không có độc cư, cuộc sống tập hợp, cuộc sống vui, cuộc sống buồn, cuộc sống khổ, cuộc sống giận hờn, phiền não, cuộc sống động, cuộc sống đau khổ, cuộc sống sanh tử luân hồi. Còn cái cuộc sống của chúng ta là cuộc sống thầm lặng, cuộc sống an ổn, cuộc sống thanh thản, cuộc sống yên vui, đó là độc cư.

Đây Đức Phật ví dụ: Chúng ta là những người xuất gia tu hành thì cũng giống như các cái ông chủ nhà họ sống chung nhau cùng trong một cái gia đình, cũng như chúng ta là người tu hành sống chung nhau trong một cái tập thể như thế này, nhưng phải sống vô tư lự.

Nghĩa là sống vô tư lự, sống không giao thiệp, không có chơi với người nào hết, vô tư với mọi người, không thương, không ghét người nào, không giận không hờn người nào, ai nói gì cũng được hết, mình chẳng chấp nhận cái đúng cái sai của ai hết, hoàn toàn mình chỉ lo cho mình giải thoát mà thôi. Đó là cách thức tu hành của một người tu sĩ của Đạo Phật.

Nếu mà chúng ta giữ được sống chung nhau như ở trong cái đại gia đình của chúng ta, như cái Tu viện này, mười người, mười mấy người mà chúng ta sống chung nhau, ai làm gì làm, chúng ta cứ lo chúng ta tu tập.

Và chúng ta làm những công việc thì chúng ta cứ làm mà không có nói chuyện với ai, có điều gì mà không rõ thì mình hỏi rồi thôi, không có nói chuyện vu vơ, sống vô tư lự không biết giận, không biết hờn, không biết ghét, không biết ghen ai hết, nhiệm vụ của người nào nấy làm của người nấy.

(58:25) Cho nên chúng ta cùng sống nhau trong một cái gia đình, làm thì chúng ta trợ giúp nhau làm, sống chia sẻ những công việc với nhau làm nhưng không có để động tâm, sống vô tư, không có thương người này ghét người kia, không có nịnh người này bợ người kia, nói xấu người nọ.

Chúng ta có cái tâm tánh như vậy thì tức là chúng ta không sống độc cư. Còn trái lại chúng ta không nịnh không bợ không theo người này, không nói người kia thì đó là chúng ta đang sống độc cư đó. Chuyện gì không biết thì hỏi, mà chuyện gì biết thì cứ làm và cứ làm một mình, đó là sống độc cư.

Giữa bao nhiêu người mà mình sống được như vậy, cũng như người gia chủ họ phải sống chung trong gia đình, họ phải sống vô tư lự giữa con cháu giống như người dưng. Họ không bị con cháu, không bị sự chia cắt cái tâm tư của họ thương đứa này ghét đứa kia thì như vậy đó là họ sống độc cư.

Chúng ta cũng vậy, sống chung nhau thấy việc cùng làm, giúp nhau cùng sống, nhưng chúng ta không có bàn bạc riêng tư, không có nói xấu người này hay hoặc là nịnh bợ người kia bằng cách này bằng cách khác, chúng ta an nhiên tự tại để nỗ lực thực hiện cái độc cư của chúng ta, cái sống riêng một mình.

Cái bài kệ thứ 10 thì Đức Phật ví dụ người xuất gia chúng ta sống chung nhau trong một cái cảnh nhiều người rất là khó, nhưng chúng ta phải sống vô tư lự, không nịnh không bợ, không chạy theo người này, không nói xấu người kia thì như vậy mới chính là chúng ta sống độc cư, mới sống riêng một mình đó, tuy rằng đông người nhưng mà vẫn sống riêng một mình, như con tê ngưu một sừng vậy.

Đó là cái kệ thứ 10.

BÀI KỆ 11 - CẮT ĐỨT MỌI TRÓI BUỘC NHƯ CÂY SAN HÔ BỎ LÁ

(01:00:10) Bài kệ thứ 11, Thầy xin đọc lại cái bài kệ này để quý thầy và các con nghe để mà suy ngẫm:

Từ bỏ để một bên,

Mọi biểu tượng của gia đình,

Như loại cây san hô,

Tước bỏ mọi lá cây,

Bậc tu hành cắt đứt,

Mọi trói buộc gia đình,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Bốn cái câu kệ đầu thì Đức Phật dạy: Một người mà đã quyết tâm tu hành rồi thì phải từ bỏ, từ bỏ mọi thứ, để nó qua một bên đi, dẹp nó qua một bên đi, đừng có mang theo ở trong lòng của mình thì mình tu không có được. Mình mang theo tức là mình không có độc cư, mình nên bỏ nó qua một bên.

Mọi biểu tượng gia đình tức là mọi sự thương ghét hoặc là của cải, tài sản trong gia đình, anh em ruột thịt, cha mẹ, vợ con, những cái biểu tượng đó đều là mình bỏ nó qua một bên đi, mình dẹp nó qua một bên đi.

Chỉ còn có một cái lộ trình duy nhất là độc bộ, độc hành, đó là con đường giải thoát của đạo Phật mà thôi, lấy đó làm cái phương châm, làm cái đối tượng để cho mình bước đi mà thôi. Chớ còn đối với gia đình, đối với tất cả mọi sự vật của thế gian, dẹp nó qua một bên, bỏ qua một bên, không có để cho tâm trí chúng ta bận tâm những cái điều đó.

Ai sống, ai chết đều là do nhân quả chớ không phải có mặt mình mà làm cho họ hết những cái nhân quả đó đâu. Mình không cứu ai được đâu, chính mình cứu mình còn chưa được huống hồ mình không bỏ thì những cái sự việc đó nó xảy đến mình cũng đâu có làm gì được?

Cho nên mình biết suy nghĩ như vậy, mình biết, hiểu như vậy thì cái bài kệ này Đức Phật bảo mình phải bỏ qua những cái biểu tượng, những cái đối tượng của gia đình, phải dẹp nó qua.

Giống như cái cây san hô, nó bỏ tất cả mọi cái lá của nó, nó không có để cho cái lá dính, nó chỉ còn cái cọng san hô mà thôi, thì cái người tu hành chúng ta nó cũng vậy, nghĩa là cũng cắt đứt mọi cái trói buộc của gia đình, không để mọi trói buộc của gia đình. Vì mọi trói buộc của gia đình tức là chúng ta không có sống độc cư được.

Cho nên thân chúng ta lìa xa, chúng ta vào chùa ở, hoặc là vào trong núi trong non, ở hang ở hốc, nhưng mà tình cái tình cảm gia đình chúng ta còn, nó không có bứt nó được, không có cởi mở nó được, nó trói buộc chúng ta thì coi đương nhiên chúng ta chưa phải sống độc cư đâu, chúng ta cũng chưa phải là những người tu hành cắt đứt đâu.

Cho nên chúng ta phải ráng nỗ lực, phải thực hiện, tuy là nói lời nói nhưng mà ở đây là cái pháp dứt bỏ, cần phải nỗ lực dứt, dứt cho thật sạch.

Nếu chúng ta không dứt thì ai dứt cho mình được? Mình thương cha thương mẹ thì mình phải dứt cái tình thương đó để cho mình nỗ lực mình tu, mà mình không dứt thì ai dứt cho mình được để cho mình tu? Mình phải hiểu như vậy thì:

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó thì cái bài kệ chúng ta thấy rất rõ. Thầy xin đọc lại để cho quý thầy và các con nghe để cho hiểu:

Từ bỏ để một bên,

Mọi biểu tượng gia đình,

Như loại cây san hô,

Tước bỏ mọi lá cây,

Bậc tu hành cắt đứt,

Mọi trói buộc gia đình,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó là bài kệ thứ 11.

BÀI KỆ 12 - VUI SỐNG VỚI BẠN LÀNH, VỚI BẬC HIỀN TRÍ

(01:03:29) Bài kệ thứ 12 Thầy sẽ đọc, quý thầy và các con hãy nghe mà suy ngẫm:

Nếu tìm được bạn lành,

Thận trọng và sáng suốt,

Bạn đồng hành chung sống,

Cùng sống bạn hiền trí,

Cùng nhau đồng tu tập,

Chẳng ai nói với ai,

Hãy sống với bạn ấy,

Chánh niệm lòng vui mừng!

Nghĩa là trên con đường đời mà chúng ta tu tập thì cần phải có thiện hữu tri thức, cần phải có bạn lành để giúp đỡ chúng ta trên bước đường tu tập.

Như vậy chúng ta vẫn sống độc cư, vì cái người bạn lành đó họ không nói chuyện với chúng ta bằng một cách phi thời, bằng một cách phiến diện, họ không nói chúng ta những cái chuyện tào lao, những cái chuyện phiếm, họ nói với chúng ta bằng những cái hành động tu của họ, bằng những cái lời nói dạy chúng ta cách thức thực hiện con đường tu tập giải thoát, thì đó là cái người bạn lành.

Cho nên khi chọn cái người bạn lành để sống chung nhau mà tu học thì thận trọng và còn phải sáng suốt. Mà biết được cái người bạn lành rồi thì chúng ta chung sống nhau, nhưng hầu hết là chúng ta không nói chuyện với nhau. Đó là những người bạn lành.

Còn những người bạn mà không lành, những người bạn xấu, gặp nhau thì chuyện này chuyện kia, kể chuyện Đông chuyện Tây, kể chuyện tình chuyện tứ, kể chuyện năm xưa, chuyện hồi nhỏ, tất cả những chuyện này chuyện kia, nói rồi thêm, rồi bớt, rồi nói này kia, rồi ca ngợi mình thế này thế khác, đó là những người bạn xấu chớ không phải những người bạn lành.

Còn những người bạn lành là những người người ta làm thinh, tối ngày người ta thực hiện trong cái đời sống giải thoát, người ta không nói chuyện với ai hết thì mình sống chung với những người đó mình mới có ảnh hưởng, mình mới có theo những cái gương đó mình mới nỗ lực mình thực hiện tu tập con đường giải thoát của chính mình.

(01:05:39) Còn nếu mà có những người bạn mà nó không tốt thì ngay đó mình biết liền à. Người bạn không tốt là người bạn nhiều chuyện, người bạn thích nói chuyện, hay thích tập hợp, rủ ren cái này cái kia, đó là những người bạn xấu.

Còn những người bạn tốt, mình vào trong cái Tu viện mình thấy, người bạn tốt họ không có nói chuyện đâu, họ không có làm quen, làm thân với mình đâu, đó là những người bạn tốt đó. Mình hỏi một câu gì đó, họ trả lời một cái câu đó là cái giá trị rất tuyệt.

Còn cái người bạn mà tập trung nhau lại thất này, lại thất kia mà nói chuyện chùm nhum chùm nhum là những người bạn xấu đó. Những người đó họ có học thức cao cách gì đi nữa họ cũng vẫn là những người xấu. Họ chỉ lý luận bằng cái miệng lưỡi của họ chớ đời sống của họ chẳng ra gì hết. Họ là những con trùng trong lông sư tử, họ giết Phật pháp đó, họ là những người mà giết Phật pháp chết đó.

Cho nên nhìn vào cái đời sống tu sĩ, đừng có nghĩ rằng họ thõng tay vào chợ, họ nói bô lô ba la, họ nói cái chuyện này chuyện kia, họ ăn uống phi thời, họ đi đứng phi thời, họ làm những chuyện phi thời, họ không đúng tính cách của một tu sĩ, đó là những người bạn xấu, những người đó không phải thiện hữu tri thức.

Dù họ có cấp bằng tiến sĩ hay hoặc cấp bằng gì đi nữa họ vẫn là những người bạn xấu của chúng ta. Họ không phải là con người đi tìm cái đạo giải thoát, mà họ là con người đi tìm cái danh, cái lợi của cuộc đời để cho họ thực hiện được những cái danh cái lợi của họ bằng cách khoe khoang mình bằng cách này bằng cách khác.

Cho nên những người bạn đó là những người bạn chúng ta không nên gần, vì gần những người bạn đó chúng ta không sống được độc cư.

Chúng ta đến những người bạn mà chúng ta sống độc cư, đó là những người bạn tốt. Những người bạn có thể mang đến cho chúng ta càng nhiều sống độc cư hơn, giúp cho chúng ta đạt được những kết quả tu hành giải thoát hơn.

Người ta không nói chuyện gì với mình, người ta giúp mình bằng cách này bằng cách khác để cho mình được sống độc cư trọn vẹn, để cho mình thực hiện được con đường giải thoát. Đó là những người bạn tốt.

Những người đó không bao giờ nhiều chuyện, những người đó không bao giờ nói những điều tào lao, nói chuyện không có đúng cách. Đến họ, một lời, hai lời là nhiều lắm, họ không bao giờ nói với mình nhiều lời.

Cho nên trên bước đường tu tập quý thầy phải nhớ kỹ: Khi thực hiện con đường tu tập thì cần phải tìm những người bạn lành, mà những người bạn lành đó rất ít, rất khó, họ là những người độc cư.

Ở trong Tu viện của chúng ta, chúng ta cũng thấy rằng ai là những người mà độc cư tốt nhất, chắc quý thầy cũng biết chớ, có những gương hạnh độc cư rất tốt, đó là những người bạn lành của quý thầy. Họ là những cái gương để cho quý thầy soi để mà quý thầy đi cho đúng con đường của đạo giải thoát.

Ở đây Thầy không muốn nhắc tên những người đó nhưng các vị chắc có lẽ ai cũng biết cái người nào tốt, người nào xấu.

BÀI KỆ 13 - TỪ BỎ BẠN KHÔNG LÀNH NHƯ VUA BỎ NƯỚC BẠI

(01:08:18) Bây giờ đến cái bài kệ thứ 13:

Nếu không được bạn lành,

Thận trọng và sáng suốt,

Cũng đừng sống với họ,

Họ chẳng phải hiền trí,

Hãy như vua từ bỏ

Đất nước bị bại vong,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Nghĩa là khi mình tìm không có cái người bạn mà tốt như vậy, người bạn mà đang sống độc cư như vậy, người bạn mà làm gương hạnh tu hành tốt cho mình như vậy, thì mình phải sáng suốt và thận trọng, không có đụng người nào cũng kết bè kết bạn. Các con có hiểu chưa, quý thầy có hiểu chưa?

Trong Tu viện chúng ta có mấy người, người nào tốt, người nào xấu các con biết chớ? Người nào sống độc cư, người nào không sống độc cư các con biết chớ? Người nào nói chuyện nhiều, người nào nói chuyện ít các con biết chớ?

Cho nên các con hãy lấy những cái gương hạnh của những người tu tốt đó mà làm gương hạnh tốt cho mình sống độc cư, sống một mình, không nói chuyện bậy bạ, lấy những cái gương hạnh đó mà thực hiện con đường tu tập giải thoát thì cái thời gian sẽ thu ngắn lại cho các con, cho các thầy, mới có mong đạt được kết quả sau này.

Chớ còn không khéo thì suốt cuộc đời tu hành chỉ uổng mà thôi, không làm sao giải thoát được. Vì không sống độc cư được thì làm sao tu hành được cái gì mà giải thoát?

Cho nên mục đích của độc cư nó sâu rộng vô cùng vô tận để mà chúng ta đạt được con đường giải thoát của đạo Phật.

Chớ không phải chúng ta sống một mình rồi tối ngày làm thinh, mặt mày chầm dầm, ai đụng tới thì giận thì hờn, ngồi trong thất thì nhớ người này, nghĩ người kia gọi là độc cư, thì cái đó là không phải độc cư mà độc mộc, chớ không phải độc cư. Cái đó là độc mộc, cô đơn, làm cho mình càng khắc khổ mình, làm cho mình như cây khô sắp hết nhựa thì đó không phải là độc cư.

Độc cư thì càng ngày càng nhựa sống, sự giải thoát càng tràn đầy cho tâm hồn của chúng ta, đem lại cho chúng ta một nguồn an vui vĩnh cửu, không bao giờ có một sự gián đoạn, một hạnh phúc cho những người nào sống độc cư đúng cách thì sẽ được an vui và yên ổn tâm hồn và thân tâm của họ.

(01:10:32) Cho nên cái người bạn tốt mà tìm được thì chúng ta sống chung, mà không tìm được thì chúng ta đừng có nên sống chung với những người bạn xấu.

Những người đó họ đem đến chúng ta khó khăn tu hành, họ nhiều chuyện, họ chuyện này đến chuyện kia, họ nói lảm nhảm, họ nói chuyện chẳng ra đâu, họ nói chuyện này chuyện kia, họ nói đủ loại. Những người đó là những người chúng ta phải xa để chúng ta tự sống một mình, riêng sống một mình.

Cho nên ở đây Đức Phật ví như một nhà vua mà đã bị chiến bại, đã bị thất trận, thì bây giờ chúng ta hãy bỏ lại, trả lại những cái đất của người khác, đừng có tham vọng lấy cái đất của người khác.

Chúng ta cứ lui dần lui dần mà tránh đi, những cái người mà không tốt thì chúng ta tránh họ đi. Cũng như nhà vua mà thấy quân đội của mình yếu, sức của mình đang yếu, không đủ đương đầu với quân đội mạnh thì chúng ta nên rút lui, bỏ đi, bỏ từ xa đi thì may ra chúng ta còn bảo vệ được một chút ít biên cương đất nước của chúng ta.

Đó thì như vậy Đức Phật dạy chúng ta tìm người bạn lành, người bạn tốt, người bạn mà biết sống độc cư, mà tìm không được thì chúng ta hãy sống một mình, đừng có sống với những cái người không tốt đó thì cuộc đời tu hành chúng ta cũng uổng phí.

Cho nên Phật khuyên:

Hãy sống riêng một mình,

Như con tê ngưu một sừng!

Trước cái hoàn cảnh mà tìm không được bạn thì chúng ta phải sống một mình mà thôi, nỗ lực thực hiện những lời của Phật dạy, giới luật của Phật đã chỉ dạy thì chúng ta sống một mình để thực hiện con đường tu tập.

Còn chừng nào có bạn lành bạn tốt thì chúng ta mới kết bạn để mà noi gương bạn mà tu hành, cái gì không hiểu thì hỏi bạn. Còn bây giờ chúng ta không có người bạn tốt thì chúng ta nên xa lánh, xa lánh tất cả mọi người vì nhìn chung chúng ta chưa thấy ai là một người bạn tốt của chúng ta.

Đó cho nên ở đây quý thầy thấy cái bài kệ thứ 13 thì Đức Phật dạy chúng ta khi chọn không được người bạn tốt thì chúng ta sống một mình, sống riêng một mình, nỗ lực tu hành một mình, theo những điều, những lời của Phật đã dạy.

BÀI KỆ 14 - THÂN CẬN BẬC HƠN TA HOẶC BẰNG TA

(01:12:46) Bây giờ Thầy đọc cái bài kệ thứ 14, để cho quý thầy và các con nghe mà suy ngẫm cái bài kệ mà Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta trong một cái khía cạnh để mà sống độc cư, sống trầm lặng, sống một mình:

Thật chúng ta tán thán,

Những bằng hữu chu toàn,

Bậc hơn ta, bằng ta,

Nên sống gần thân cận,

Nếu không gặp bạn này,

Thì ta phải cố gắng,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó thì cái lời khuyên của Phật trong cái bài kệ thứ 14: Khi chúng ta gặp một người thiện hữu tri thức, một người bạn lành, một người hơn ta trên bước đường tu tập theo đạo Phật, và bằng ta trên bước đường tu tập theo đạo Phật.

Nghĩa là người đó đang sống độc cư, đang sống trong thầm lặng, đang sống trong thiểu dục tri túc, đang ở trong Chánh Niệm Tỉnh Giác, đang tu tập Định Vô Lậu, đang tập Bốn Thiền để thực thi con đường giải thoát sanh tử làm chủ luân hồi, người bạn đó là người bạn tốt.

Người bạn mà chúng ta thấy hằng sống trong thầm lặng, hằng sống trong độc cư, không thích nói chuyện, không thích nói chuyện phiếm, nói chuyện tào lao, không thích nói chuyện đông tây kim cổ, đó là những người bạn đáng làm gương cho ta tu hành.

Cho nên câu đầu Phật nói:

Thật chúng ta tán thán,

Những bằng hữu chu toàn,

Những người mà lo tu tập, những người mà lo rèn luyện, trau dồi thân tâm của mình như vậy đó là những người bạn rất là chu toàn, làm gương cho ta tu hành.

Bậc hơn ta đó là những người tu trước ta, và bằng ta - và đang tu như ta. Cho nên chúng ta nên gần sống với những người đó để làm bạn thân cận, bắt chước những cái hạnh tu tập của những người này, may ra chúng ta mới đạt được con đường tu hành giải thoát.

Nếu không gặp được những người bạn này, Đức Phật khuyên chúng ta phải cố gắng sống một mình, dù trước hoàn cảnh nguy hiểm, dù trước hoàn cảnh khó khăn nào chúng ta cũng nên sống một mình, đừng có vui chơi theo những người bạn xấu, những người phá hạnh độc cư, những người làm ồn náo, những người thích vui chuyện thế gian, những người thích nói chuyện tầm phào, chuyện phiếm, chuyện không ra đâu, đó là những người đang ở trong cái tâm dục lạc thế gian.

Chúng ta nên tránh xa những người bạn này, vì con đường của đạo Phật rất kỵ với những người bạn xấu này. Những người sống không độc cư, không trầm lặng, những người còn ham thích vui thế gian mà lại ham thích tu hành thì những người này là những người tham vọng, đời chẳng muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm, những người này là những người không xứng đáng cho chúng ta gần gũi, không xứng đáng là những người bạn tốt của chúng ta. Chúng ta hãy lìa xa những người đó mà hãy cố gắng sống một mình.

(01:15:53) Cho nên vì vậy mà Tu viện cố gắng đào tạo cho các thầy và các con mỗi người một cái am thất riêng để chúng ta sống một mình trong một cái đại gia đình tu tập, để chọn lấy những bậc sống một mình mà tu hành.

Còn những người mà sống thích nói chuyện, sống giao du, sống tiếp duyên bằng cách này bằng cách khác thì những người đó là những người không xứng đáng cho chúng ta chơi, làm bạn, cho chúng ta gần gũi.

Như vậy trong Tu viện chúng ta các con đã thấy ai là những người xứng đáng là bạn của mình không?

Nếu những người đó không thích nói chuyện, không nói chuyện tào lao, không đem chuyện này chuyện kia, không đến thất người này người kia thì người đó là người xứng đáng để chúng ta bắt chước mà tu tập.

Còn những người mà thích nói chuyện thì chúng ta thôi thôi, chúng ta nên xa những người đó đi, những người đó là những người nhiều chuyện, những người ở ngoài thế gian. Phải không các con?

Cũng như ở đây, bây giờ quý thầy, các con thấy còn ba thầy, người nào cũng lo sống độc cư tu tập, người nào cũng lo sống riêng rẽ một mình, người ta sống trầm lặng, người ta rất nỗ lực tu hành, còn bao nhiêu cái thứ nói chuyện thì đã bị Thầy quét sạch ra khỏi Tu viện, không để cho một mống nào mà còn ở trong Tu viện này nữa. Các con thấy rõ chớ?

Bên nam Thầy đã quét đi sạch là vì Thầy không muốn để cho những người phá hạnh độc cư, họ đã làm ồn náo Tu viện chúng ta biết bao nhiêu năm nay rồi, bây giờ chúng ta quét họ ra khỏi là chúng ta rất mừng, chỉ để lại một vài người mà đã quyết tâm thực hiện con đường của đạo Phật để đi đến cái sự giải thoát sanh tử hoàn toàn. Nhìn lại một số rất đông nhưng hiện giờ còn được bao nhiêu người?

Nếu trong các con bên nữ mà các con lấy gương của những người còn lại mà làm gương hạnh tu hành cho mình thì điều đó là điều quý nhất, và cũng là niềm vui nhất cho cô Út vì cô rất buồn vì thấy các con hay thích nói chuyện to chuyện nhỏ, nói chuyện tào lao, không đúng cách.

Đó là những điều mà ở đây Đức Phật đã khuyên nhủ trong cái bài kệ thứ 14, là chúng ta tán thán những người, ca ngợi những người mà sống trong hạnh trầm lặng, trong độc cư, trong một mình lo chuyên cần tu tập thì đó là những người bạn xứng đáng, còn những người bạn không xứng đáng thì chúng ta nên xa lìa.

BÀI KỆ 15 - ĐỒ TRANG SỨC QUÝ LÀ NGUY HIỂM TỰ HẠI THÂN

(01:18:15) Bài kệ thứ 15, Đức Phật khuyên chúng ta…​ Bài kệ này Thầy xin đọc để quý thầy và các con suy ngẫm mà thấy cái hạnh độc cư:

Thấy đồ trang sức vàng,

Lấp lánh và sáng chói,

Được người thợ kim hoàn,

Khéo làm, khéo tay làm,

Đối với những vật này,

Nguy hiểm tự hại thân,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Nghĩa là Đức Phật nói rằng, khi mà chúng ta sống một mình thì những cái đồ trang sức, vòng vàng hay hoặc là kim cương, hay hoặc là những đá quý, ngọc, thì những cái vật này là cái vật nguy hiểm nhất cho những người mà sống độc cư một mình. Vì có những cái của cải tốt này nó sẽ làm chúng ta rất tai hại, có thể người ta giết mình người ta lấy cái của này.

Cho nên đối với những cái vật này thì chúng ta thấy nó là một cái điều tai hại, nguy hiểm nhất, cho nên chúng ta từ giã nó đi, đừng có cất giữ, đừng có để ở trong người của chúng ta mà nguy hiểm đến thân mạng của chúng ta, làm chúng ta không sống được hạnh độc cư.

Người có của này ở trong người họ mà họ sống một mình thì các con thấy cái tâm họ có lo không? Mà có lo thì có độc cư được không? Không độc cư.

Cho nên không tiền, không bạc, không của cải, chỉ còn ba y một bát như Đức Phật ngày xưa thì các con thấy sống ở chỗ nào lại là có lo?

Ai có lấy chi cái bát bằng đất, bằng sành, bao nhiêu tiền? Cái bộ đồ tu sĩ rách nát, cũng như Đức Phật mà cái y phấn tảo như vậy, lượm bằng vải thây ma thì có lấy cái y đó bán ai mà mua! Cho nên Đức Phật sống quá an ổn, quá giải thoát, luôn luôn tâm lúc nào cũng thấy yên ổn, thanh tịnh.

Còn chúng ta có đồ tốt, cái này cái nọ cái kia, coi chừng mà chúng ta mất độc cư đó. Chúng ta còn lo ra đó, chúng ta không có gom tâm lại được đó, vì những vật đó nó sẽ làm cho tâm chúng ta bị phân tán, sợ hãi, ngủ đâu có an, phải không các con?

Có vật quý, có vàng bạc, có châu báu, có cái này kia thì ngủ khó an lắm, rất là sợ hãi, người khác sẽ đến giết mình và cướp đoạt của mình, rồi có thể làm nguy hại cho đến tính mạng của mình. Con đường tu của mình thì mất độc cư vì tâm mắc lo ra, làm sao mà độc cư được.

Đó là bài kệ thứ 15. Bài kệ thứ 14 thì chúng ta khó mà tìm cái người bạn tốt, người bạn mà chuyên tu, người bạn mà độc cư, người bạn sống trầm lặng. Còn bài kệ thứ 15 thì khuyên chúng ta đừng có vật báu ở trong người, những đồ trang sức đó nó sẽ nguy hiểm đến tính mạng và làm chúng ta sống độc cư không có được.

Cho nên những cái chuyện nho nhỏ mà chúng ta không thấy thì chúng ta ngỡ rằng mình sống đó là mình sống một mình mình, mình sống độc cư, nhưng mà không ngờ là những cái vật dụng nhỏ đó nó đeo theo mình thì nó làm mình không có độc cư được đâu. Cái tâm còn lo ra mà sao gọi là độc cư, phải không các con? Các con thấy rõ.

Trong cái vấn đề tu tập coi vậy chớ nó không có đơn giản, nó rất khó đó. Làm sao mà chúng ta sống cho đúng, bởi vì qua 42 cái bài kệ này thì Đức Phật chia ra từng cái phần nhỏ để nói lên những cái hạnh độc cư, một cái chuyện nhỏ thôi nó cũng làm chúng ta mất độc cư, cũng làm chúng ta không an ổn ở trong sống riêng một mình.

BÀI KỆ 16 - SỢ HÃI SỰ NGUY HIỂM CỦA TRANH CÃI, GÂY HẤN

(01:21:46) Bây giờ bài thứ 16:

Như vậy nếu ta sống,

Với một người thứ hai,

Tranh luận cãi vã nhau,

Sân hận, gây hấn nhau,

Nhìn thấy trong tương lai,

Sợ hãi nguy hiểm này,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó thì ở đây Đức Phật nhắn nhủ thêm là chúng ta sống hai người mà nếu hai người là người bạn tốt, người bạn lành thì rất quý. Mà cái người bạn mà không tốt, không lành thì sớm muộn gì cũng có những sự tranh luận, cãi vã nhau. Phải không, các con thấy cái đó có đúng không? Rồi có sân, có hận, rồi gây hấn nhau.

Nhìn thấy trong cái hiện tại nó đã như vậy thì cái người bạn mà họ sống không độc cư được thì sớm muộn rồi thế nào cái sự tranh cãi, cái sự cãi vã nhau cũng phải có, rồi cái sự sân hận, gây hấn nhau thì cũng không thể nào mà tránh khỏi. Do đó nhìn ở trong cái tương lai chúng ta biết là sẽ xảy ra những cái…​

Vì những người bạn đó là những người bạn không độc cư rồi, mà những người bạn không độc cư thì tương lai nó sẽ là không tốt cho bước đường tu tập của chúng ta.

Mà khi biết rằng nó không tốt cho con đường tu tập của chúng ta thì chúng ta có sợ hãi những cuộc sống mà hai người không, ba người, năm người không? Không, chúng ta phải tránh xa đi.

Cho nên “Sợ hãi nguy hiểm này” - những cái sự xảy ra gây hấn, tranh luận, cãi vã nhau đó nó sẽ xảy ra ở trong tương lai. Bây giờ thì thấy nó thuận đó, nó chưa, nhưng mai mốt cái người mà nói chuyện qua lại sớm muộn rồi nó cũng có sự tranh cãi tương lai.

Phải thấy được cái hậu quả đó là cái hậu quả của cái người sống không độc cư thì làm sao cũng phải có cái hậu quả đó. Mà cái hậu quả đó thì làm cho chúng ta có yên không? Đâu có yên, cho nên rất là nguy hiểm cho con đường tu tập.

Vì vậy mà Phật khuyên chúng ta:

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đừng có sống với những cái người như vậy. Những người không phải thiện hữu tri thức thì nó sẽ có sự tranh luận, cãi vã nhau, có sự sân hận, gây hấn nhau ở tương lai, không sớm thì muộn cũng sẽ có. Có rồi làm cho chúng ta bất an, và có làm chúng ta không độc cư được.

Đó là cái bài thứ 16, Đức Phật khuyên chúng ta đừng có sống với những người mà chúng ta thấy nó không có đúng cái hạnh độc cư, hạnh trầm lặng.

BÀI KỆ 17 - CÁC DỤC LÀM MÊ LOẠN TÂM TƯ

(01:24:05) Bây giờ đến bài kệ thứ 17:

Các dục thật mỹ miều,

Ngọt thơm và đẹp ý,

Mọi hình sắc, phi sắc,

Làm mê loạn tâm tư,

Thấy sự nguy hiểm này,

Trong các dục trưởng dưỡng,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó, thì quý thầy thấy cái bài kệ thứ 17 Đức Phật khuyên chúng ta nên sống riêng một mình, là vì chúng ta sống với những cái vật dụng, cái này cái nọ cái kia, các cái dục, các cái đối tượng dục như sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, như sắc, danh, lợi, thực, thùy, những cái đó là những cái cám dỗ, những cái gợi cho chúng ta cái lòng ham muốn.

Đó là những cái pháp dục của thế gian. Nó rất là mỹ miều, nó làm cho chúng ta thấy rất là thích thú. Nó ngon, nó thơm và nó làm cho hình sắc nó rất đẹp, làm cho đẹp ý chúng ta.

Mọi cái hình sắc và cái không hình sắc đều là có thể nó gợi lên cho chúng ta những cái dục, nó làm cho chúng ta ham thích, nó làm cho chúng ta ham muốn, vì vậy nó làm cho chúng ta mê loạn tâm tư, chúng ta không được tỉnh táo, luôn luôn tâm bị dao động theo các pháp dục đó, theo các pháp trần đó.

Do vì vậy đó, nó làm cho chúng ta không sống độc cư được. Nó rất là nguy hiểm, nó làm chúng ta không có sống trầm lặng được. Nó lôi cuốn chúng ta chạy đầu này, chạy đầu kia, chạy đầu nọ, rồi chúng ta lý luận thế này, lý luận thế khác, đó để làm chúng ta chạy theo cái tâm ham muốn của chúng ta, cái tâm dục của chúng ta.

Như vậy là cái cuộc đời tu hành của chúng ta bị các dục, các dục này đó là cái ngũ dục lạc, cái lục trần - sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, rồi cái ngũ dục - ăn, ngủ, thực, thùy, danh sắc, lợi nó cũng đều là làm cho chúng ta bất an, làm chúng ta sống thầm lặng, sống độc cư không được.

Cho nên khi mà chúng ta biết nó như vậy đó thì chúng ta hãy tránh xa nó đi, hãy tìm cách mà xa lánh nó đi, đừng có ở gần cái thứ đó. Ở gần cái thứ đó thì chúng ta sống một mình không có được đâu, sống riêng tư một mình không được đâu.

Cho nên do đó chúng ta phải nỗ lực sống độc cư, không có chung đụng với những cái dục đó, không có gần gũi những cái dục đó, làm chúng ta được giải thoát, tu tập được tốt đẹp, càng ngày càng tiến bộ. Còn nếu mà gần những cái dục đó thì càng ngày càng sa đọa và càng thối chuyển trên bước đường tu tập.

(01:26:58) Đó thì, hôm nay các con thấy rõ ràng, tất cả những cái dục như có sáu cái trần - sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đó là sáu cái trần, nó cám dỗ, nó làm cho chúng ta khó mà giữ hạnh độc cư.

Năm cái dục lạc của thế gian đó là sắc, danh, lợi, thực, thùy, năm cái dục này cũng rất là mạnh bạo, nó lôi cuốn, nó làm cho chúng ta mê loạn tâm tư, làm chúng ta mất bình tĩnh, mất tỉnh giác, mất chánh niệm, làm chúng ta say đắm, trưởng dưỡng, làm chúng ta chạy theo các dục, trưởng dưỡng các dục lớn lên, cho nên chúng ta mất cái hạnh độc cư.

Vì vậy mà chúng ta quyết định là phải sống một mình để tránh xa những cái dục này, các pháp dục này nó làm cho tâm chúng ta mê loạn, điên khùng, không còn sáng suốt nữa, không còn tỉnh thức ở trong cái chánh niệm nữa.

Đó thì như vậy chúng ta quyết tâm khép chặt mình ở trong cái hạnh độc cư, cái sống một mình để chúng ta diệt trừ các dục. Còn không khéo thì chúng ta sẽ bị các dục lôi cuốn và con đường tu của chúng ta mất đi.

Cho nên cái người mà muốn hàng phục được các dục, ly dục ly ác pháp đó, như trong kinh Phật đã dạy mới nhập Sơ Thiền, mà muốn ly được các dục này chỉ có hạnh độc cư thì mới có thể ly được. Thì cái bài này Đức Phật muốn chỉ rõ rằng chúng ta muốn xa lìa các dục, muốn ly các dục thì phải sống riêng một mình như tê ngưu một sừng.

Đó, Thầy đọc lại cái bài kệ này, quá thấm thía. Bởi vì khi mà vào đầu tu theo đạo Phật thì các con với các thầy cũng phải thấy rằng Phật dạy ly dục, ly bất thiện pháp đó, nhập Sơ Thiền, mà cái bài kệ này để nhắn nhở chúng ta phải sống độc cư, nhờ có sống độc cư thì mới có ly dục ly ác pháp được.

Đây, Thầy đọc lại cho nghe:

Các dục thật mỹ miều,

Ngọt thơm và đẹp ý,

Mọi hình sắc, phi sắc,

Làm mê loạn tâm tư,

Thấy sự nguy hiểm này,

Trong các dục trưởng dưỡng,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó, rõ ràng phải không? Các con muốn ly dục thì các con phải sống một mình, phải sống độc cư đó. Đó, thì như vậy là cái bài kệ Đức Phật muốn chúng ta ly các dục thì chúng ta phải sống độc cư./.

HẾT BĂNG

60 - 42 BÀI KỆ TÊ NGƯU MỘT SỪNG 02

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 60 - 42 BÀI KỆ TÊ NGƯU MỘT SỪNG 02

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

BỐN MƯƠI HAI BÀI KỆ TÊ NGƯU MỘT SỪNG - PHẦN 2

BÀI KỆ 18 - CÁC DỤC LÀ MỤN NHỌT, TAI HỌA, MŨI TÊN, TẬT BỆNH, SỢ HÃI

(00:00) Bây giờ Thầy đọc lại bài kệ thứ 18 để quý thầy và các con nghe rồi suy ngẫm cho kỹ. Bài kệ thứ 18:

Đây là một mụn nhọt,

Và cũng là tai họa,

Mũi tên, là tật bệnh,

Là sợ hãi cho ta,

Thấy sự nguy hiểm này,

Do các dục trưởng dưỡng,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Cái bài kệ này Đức Phật xem các pháp dục của thế gian mà được trưởng dưỡng thì nó như cái mũi tên mà đâm vào tim của chúng ta, nó là những cái sự sợ hãi cho ta, nó là những cái sự nguy hiểm và những cái sự tai họa cho ta chớ không phải…​

Chúng ta xem dục, các cái lòng ham muốn của chúng ta như là cái mụt nhọt, như là cái tai họa, như là cái bệnh tật, như là cái mũi tên đâm vào tim của chúng ta. Cho nên cái sự nguy hiểm, cái sự sợ hãi này, đối với các dục trưởng dưỡng này chúng ta phải sợ hãi.

Vì nếu mà chúng ta không sống độc cư, không sống một mình được thì các dục này nó sẽ bị nuôi lớn. Đó cho nên cái bài kệ thứ 17 thì Đức Phật xác định rằng muốn ly dục, ly ác pháp thì chúng ta hãy sống riêng một mình.

Và Đức Phật lại sợ chúng ta chưa thấy cái sự nguy hiểm của các dục cho nên cái bài kệ thứ 18 thì Phật cho chúng ta biết thêm các dục nó như là cái mụt nhọt. Cái mụt nhọt có nghĩa là nó đau, nó nhức, nó khổ sở lắm.

Nó là cái tai họa - các dục nó là cái tai họa, nó sẽ đem đến cho chúng ta những cái khổ, cái lòng ham muốn của chúng ta nó sẽ đem đến chúng ta cái khổ. Nó giống như cái mũi tên nó đâm suốt vào con tim của chúng ta, nó làm chúng ta đau đớn lắm.

Là bệnh tật - nó là tật bệnh, nghĩa là luôn luôn nó đem đến cái sự đau khổ. Nó là cái sự sợ hãi - các dục đó nó làm chúng ta sợ hãi cái này, sợ hãi cái khác. Nó là cái sự nguy hiểm nhất cuộc đời của chúng ta.

Đó, cho nên nó là cái nguyên nhân đau khổ như ở trong Tứ Diệu Đế đó, cái Tập Đế là cái nguyên nhân đau khổ là cái dục, là cái lòng ham muốn của chúng ta.

Như vậy thì muốn khắc phục được cái lòng ham muốn này, muốn ức chế được cái lòng ham muốn này chỉ duy nhất chúng ta phải sống riêng một mình. Mà nếu không sống riêng một mình thì không bao giờ mà chúng ta hàng phục được cái tâm dục này, cái lòng ham muốn này. Cho nên cố gắng mà sống riêng được một mình thì chúng ta mới ly được dục, mới ly được ác pháp.

Đó là những cái bài kệ để xác định cho chúng ta muốn nhập được cái Sơ Thiền là ly dục ly ác pháp mới nhập Sơ Thiền. Mà muốn sống được ly dục ly ác pháp phải sống độc cư, phải sống riêng rẽ, phải sống một mình thì mới có ly dục được.

Đó, hai cái bài kệ này nó có một cái giá trị rất lớn cho chúng ta tu tập thiền định của đạo Phật. Nếu chúng ta sống không đúng thì chúng ta không bao giờ thực hiện được con đường thiền định này. Mà chúng ta sống đúng thì tức là chúng ta sẽ thực hiện được con đường thiền định.

(03:05) Đó, mà sống độc cư không có nghĩa là chúng ta giam mình ở trong một cái thất gọi là nhập thất rồi nỗ lực tu cái này cái kia đâu. Chúng ta sống ở trong đó, độc cư một mình mà chúng ta sống biết cách sống chớ không phải là không biết cách sống.

Sống biết cách cho nên cái tâm chúng ta nó cởi mở, nó vui, nó thích thú, nó âm thầm, nó lặng lẽ mà nó có một cái niềm hân hoan của cái sự ly dục, ly bất thiện pháp.

Cho nên Phật nói ly dục, ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỷ lạc. Do cái ly dục đó, do cái sống độc cư đó mà ly được cái dục rồi thì nó đem đến cho chúng ta một cái sự an lạc, cái sự hạnh phúc vô cùng, cái sự thích thú mà liên tục, không có phút nào ngừng nghỉ được cái sự an lạc đó, cái sự hỷ lạc đó.

Đó thì cái bài kệ thứ 18 này Đức Phật nhắc các dục nó như là cái mụt nhọt, cái mụt đau đớn, nó là cái tai họa, nó là cái mũi tên độc, nó là cái bệnh tật, nó là cái niềm sợ hãi của chúng ta, và nó cũng là cái sự nguy hiểm nhất cho cái đời sống của con người, của tất cả con người ở trên cái thế gian này.

Nhưng người ta không biết, người ta chạy theo nó để người ta nuôi cái dục, trưởng dưỡng càng ngày càng lớn thì cái sự đau khổ của họ càng nhiều. Cho nên chúng ta quyết định là ly nó. Quyết định ly nó thì phải ly bằng cách nào? Tức là chúng ta phải sống độc cư, phải sống riêng một mình. Mà sống riêng một mình thì mới có ly được nó.

Đó hai bài kệ Đức Phật xác định cho chúng ta thấy rằng muốn sống độc cư đó là cái cách thức mà chúng ta sống để mà chúng ta ly dục ly ác pháp đó.

Đó thì từ hai cái bài kệ này chúng ta thấy rất rõ là cái lối tu tập của chúng ta mà Thầy thường nhắc cho quý thầy cũng như các con nghe: Bí quyết thành công của thiền định là phải sống độc cư. Phải không? Thầy đã nhắc từ lâu mà, đâu phải mới đây.

Cho nên không sống độc cư làm sao ly dục ly ác pháp được mà gọi là thiền định? Cho nên mọi người người ta chổng khu người ta ngồi thiền, nhập định, hít thở, nào sổ tức, tùy tức, nào là tịnh chỉ, nào là thiền Minh Sát Tuệ, nào là thiền công án, nào là thiền Tổ Sư Thiền, nào là biết vọng liền buông, nào là chẳng niệm thiện niệm ác, nào là ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm…​ người ta nói đủ loại thiền.

Người ta nói ly cái này, ly cái kia, ly cái nọ nhưng cuối cùng thì người ta không thấy được cái mấu chốt, cái bí quyết của cái sự thành công của thiền định.

Mà cái bí quyết của sự thành công của thiền định đâu có gì khó hơn là chúng ta sống độc cư, sống một mình, sống có pháp tu hành, có cách thức tu tập, có cách thức rèn luyện, có giới luật để phòng hộ sáu căn, có cách thức để mà tạo tu tập. Cho nên độc cư mà chúng ta thấy chúng ta sống một mình mà chúng ta sống rất là an ổn, rất là giải thoát, rất là yên vui.

Chớ đâu phải sống không có pháp? Chúng ta sống có cách thức, có đủ cách để mà chúng ta tu hành giải thoát mà!

Đó, thì như vậy là quý thầy đã thấy rõ được cái con đường tu tập của đạo Phật, đâu có gì mà Đức Phật giấu diếm chúng ta đâu?

Chính những cái bí quyết đó mà Đức Phật đã nói lên những cái bài kệ khuyên lơn chúng ta bằng cách này bằng cách khác để chúng ta thực hiện được cái hạnh độc cư mà chúng ta ly, lìa xa tất cả mọi cái dục của thế gian, mọi cái cám dỗ của thế gian, mọi cái ràng buộc của chúng ta làm cho chúng ta không có thực hiện được con đường giải thoát, tu tập được con đường giải thoát.

Cho nên cái hạnh độc cư là cái bí quyết mà thành công trong cái con đường của đạo Phật. Nhưng phải hiểu hai chữ độc cư, đừng có hiểu nó bằng một cách cạn cợt mà hiểu nó một cách rộng rãi và sâu xa, qua 42 cái bài kệ này rất là cụ thể và rõ ràng để chúng ta biết được cái hạnh độc cư cao quý và tuyệt vời của con đường tu theo đạo Phật.

(06:55) Bây giờ Thầy giảng tiếp. Thầy sẽ đọc cái bài kệ thứ 18:

Đây là một mụn nhọt,

Và cũng là tai họa,

Mũi tên, là tật bệnh,

Là sợ hãi cho ta,

Thấy sự nguy hiểm này,

Do các dục trưởng dưỡng,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Ở đây Đức Phật xem các cái dục, xem các cái lòng ham muốn của mình nó như là cái mụt nhọt đang mưng mủ, đang đau nhức, đang làm khổ sở mình, và xem nó là những cái tai họa, các cái dục mà trưởng dưỡng, nuôi nó lớn mà chạy theo nó đó.

Như bây giờ mà chúng ta thấy sống ở trong thất của mình có một mình mình, sống riêng một mình nó buồn bã này kia, đó là cái dục, nó muốn cho chúng ta bỏ để mà phá độc cư, để bỏ ra đi đó, hay hoặc là đi đây đi đó để mà cho vui đó, nó tìm bằng cách này bằng cách khác, đó là cái dục nó trưởng dưỡng.

Thí dụ như nó sanh ra những cái bệnh tật hay cái này cái nọ kia là cái mục đích của nó làm cho mất độc cư, mà tâm chúng ta bị dao động theo những cái trạng thái của cái thân nghiệp, nó bệnh sơ sài, nó bệnh thường thôi mà chúng ta quá là quan trọng, coi quá quan trọng, tâm chúng ta bị dao động, xem như là chúng ta không có tu hành được, làm cho chúng ta trở ngại như vậy để mà phá hạnh độc cư.

Mà khi chúng ta không thấy những cái dục mà nó đã tạo ra những cái cách sợ hãi, cách dao động tâm để làm chúng ta không có còn cô đơn nữa, làm chúng ta vui theo thế gian, trưởng dưỡng theo cái lòng vui của thế gian, thì lúc bấy giờ đó chúng ta không thấy nó là cái tai họa, nó không phải là một cái mũi tên độc đâm xuyên vào cái quả tim của chúng ta, xuyên vào thân của chúng ta.

Cho nên phải xem cái lòng ham muốn của chúng ta nó là cái tật bệnh muôn đời của con người. Vì thế mà chúng ta phải sợ hãi, sợ hãi nó, sợ hãi cái lòng ham muốn của nó. Nó đi qua góc độ này nó đi qua góc độ khác để nó phá cái hạnh độc cư của chúng ta, cái hạnh mà có thể chúng ta ly dục ly ác pháp được.

(09:17) Nếu mà chúng ta không giữ trọn được cái hạnh độc cư thì khó mà có thể chúng ta đạt được cái kết quả mà chúng ta sẽ thực hiện được cái sự giải thoát bằng cái hạnh độc cư.

Cho nên nếu mà chúng ta thấy nó là sự nguy hiểm, thấy các cái lòng ham muốn của chúng ta nó nuôi lớn, trưởng dưỡng, nuôi lớn nó lên, thì đó là nó nguy hiểm, rất là nguy hiểm, thì chúng ta thấy được nguy hiểm thì chúng ta ngăn chặn liền, quyết tâm ôm chặt, sống hạnh độc cư, hoàn toàn là sống một mình để chúng ta thực hiện cho được cái sự giải thoát.

Mà sự giải thoát này là cái gì? Là cái ly dục ly ác pháp, lìa ra, xa nó lìa ra. Mà lìa ra được thì tức là phải sống một mình, sống trầm lặng. Còn nếu mà chúng ta lìa xa nó không được thì chúng ta khó mà sống, khó mà đạt được cái đạo giải thoát của đạo Phật. Bởi vì sống không được độc cư thì không thể nào mà tu hành cái gì được cả hết.

Cho nên qua cái bài kệ 18 này thì Đức Phật nhắc nhở chúng ta phải xem như các cái dục, các cái lòng ham muốn của chúng ta nó như là cái mụt nhọt, nó đau nhức, nó khổ sở, nó là cái tai họa mang đến cho chúng ta nhiều cái sự đau khổ, nó là mũi tên đâm suốt qua thân ta, nó là tật bệnh, nó đem đến cho chúng ta nhiều cái đau khổ, cho nên xem nó là cái tật bệnh.

Nghĩa là khi mà thân tâm chúng ta nhức mỏi, đau chỗ này, đau chỗ kia thì nó cũng làm cho chúng ta dao động và trưởng dưỡng cái dục của nó. Nó chạy đầu này chạy đầu kia đi xem bác sĩ hay hoặc là đi thầy này thầy kia đều là phá hạnh độc cư của chúng ta tất cả hết.

Cho nên Đức Phật nói trước cái thọ chúng ta đừng có dao động tâm, mà hãy xem như chúng ta đã chết đi rồi, chúng ta quyết tâm, quyết tử chúng ta ôm chặt thì chắc chắn những cái nghiệp của chúng ta nó không phải là đến lúc này mà nó chết đâu, chưa phải lúc mà nó chết thì nó sẽ thua chúng ta và nó sẽ bại trận, vì vậy mà chúng ta sẽ giữ gìn trọn vẹn cái hạnh độc cư.

Cho nên cái người tu hành người ta rất sợ hãi các cái đối tượng dục, trong đó có cái thọ nó câu hữu với các cái khác mà nó làm chúng ta mất cái hạnh sống riêng một mình, mất cái hạnh độc cư.

Cho nên ở đây quý thầy và các con phải thông suốt được cái lý của những cái cuộc sống của chúng ta hằng ngày trên cái bước đường tu tập để chúng ta giữ cho trọn vẹn cái độc cư thì chúng ta mới có thể mang đến những cái kết quả của cái sự tu tập. Còn nếu mà không có thực hiện được như vậy đó thì khó mà chúng ta thành tựu được cái hạnh độc cư.

(12:17) Cho nên cái bài kệ 18 này Đức Phật bảo chúng ta phải xem nó rất là nguy hiểm, phải xem nó là tai họa, phải xem nó là bệnh tật, phải xem nó là mũi tên độc, luôn lúc nào tâm chúng ta phải sợ hãi nó, xem nó như là cái mụt nhọt đau, hành, làm cho chúng ta đau nhức từng phút từng giây, thì chúng ta mới có sống được cái hạnh độc cư. Còn nếu không thì khó mà chúng ta sống được cái hạnh độc cư.

Thì nhớ Thầy đọc lại cái bài kệ này để cho quý thầy suy ngẫm lời của Phật dạy, xem các dục trưởng dưỡng của chúng ta, cái lòng ham muốn của chúng ta rất là nguy hiểm.

Nó làm cho chúng ta sống không có trọn vẹn được cái hạnh độc cư, nó làm chúng ta sống không có trọn vẹn được cái tâm hợp nhất, nó làm cho cái tâm chúng ta bị phân tán, chia ra, khó mà thực hiện con đường Bốn Thiền Định của Phật.

Đây Thầy đọc lại cho quý thầy nghe một lần nữa:

Đây là một mụn nhọt,

Và cũng là tai họa,

Mũi tên, là tật bệnh,

Là sợ hãi cho ta,

Thấy sự nguy hiểm này,

Do các dục trưởng dưỡng,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Nghĩa là chúng ta hãy sống một mình, đừng có sợ hãi đối với các dục, đối với bệnh tật, đối với tai họa, đối với cái mụt nhọt đang mưng mủ, đang nhức nhối, đang khổ sở, chúng ta đừng có dao động mà hãy sống một mình, đừng có nương tựa vào ai hết, đừng có nương tựa vào một cái sự kiện nào hết để cho chúng ta được sống độc cư, thực hiện được sự giải thoát, chấm dứt được sự tái sanh luân hồi.

Đó là bài kệ thứ 18.

BÀI KỆ 19 - VƯỢT QUA NÓNG, LẠNH, ĐÓI, KHÁT, MUỖI LẰN, RẮN RẾT

(14:02) Đây, bây giờ Thầy sẽ đọc tiếp bài kệ thứ 19:

Lạnh lẽo và nóng bức,

Đói bụng và khát nước,

Gió thổi, nóng mặt trời,

Muỗi lằn và rắn rết,

Tất cả xúc chạm này,

Chịu đựng hãy vượt qua,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó, bây giờ Đức Phật nói về thời tiết, rồi nói về cái sự không có cơm ăn, không có nước uống, rồi nói về cái sự gió thổi ầm ầm, nói về cái nóng bức của mặt trời, rồi muỗi lằn, rồi rắn rết, tất cả những cái loài súc vật dữ, độc, tất cả những cái sự xúc chạm này nó làm cho tâm chúng ta sợ hãi, làm cho tâm chúng ta dao động, khó mà sống một mình được.

Đây Đức Phật đầu tiên nói cho chúng ta thấy rõ ràng: Sự lạnh lẽo và sự nóng bức cũng làm cho chúng ta không thể nào mà sống độc cư được, chúng ta phải chạy đi tìm cái này, tìm cái nọ cái kia để rồi bị dao động tâm.

Rồi đói bụng, rồi khát nước nó cũng đều làm cho chúng ta có cái sự dao động mà không sống được hạnh độc cư. Ở cái chỗ gió thổi dữ tợn ầm ầm, mặt trời thì nóng gay gắt, chịu không nổi thì đó là những cái mà khiến cho ta không thể nào sống một mình được, sống độc cư được.

Muỗi lằn và rắn rít cũng là những cái loài làm cho chúng ta sợ hãi mà chúng ta không dám sống một mình mà phải đi tìm sống với người này hoặc người kia để đừng có sợ hãi.

Thì tất cả những cái này nó cũng đều làm cho chúng ta mất cái sự độc cư.

Bởi vì những cái sự xúc chạm như xúc chạm lạnh lẽo nè, nóng bức nè, đói bụng nè, khát nước nè, gió thổi ầm ầm nè, mặt trời nóng nè, muỗi lằn, rắn rít, trước mặt chúng ta thấy những cái loài vật hung dữ này chúng ta quá sợ hãi, cho nên không thể nào mà sống một mình.

(16:15) Ở đây Đức Phật nói :

Tất cả xúc chạm này,

Chịu đựng hãy vượt qua,

Chúng ta phải cố gắng mà chịu đựng để vượt qua những cái khó khăn này để sống một mình cho được.

Như con tê ngưu một sừng!

Đó thì ở cái bài kệ này Đức Phật đem lại cho chúng ta thấy những cái thời tiết rồi cái sự đói khát, rồi những cái sự rắn rít độc đem đến cho chúng ta có những cái bệnh tật, những cái này cái kia, làm cho chúng ta có những cái sự sợ hãi mà không thể nào sống độc cư được.

Muốn được vậy thì chúng ta phải gan dạ, phải đủ nghị lực, phải chiến đấu lại trước cái nghịch cảnh đó, trước cái thời tiết lạnh lẽo và nóng bức. Cho nên chúng ta phải chiến đấu, chiến đấu tận cùng để chúng ta vượt qua, vượt qua cho được, nhất định là chúng ta phải sống cho được độc cư.

Vì tất cả những này đều là những cái môi trường, cái đối tượng tạo cho cái tâm sợ hãi của chúng ta để mà nuôi lớn cái tâm dục của chúng ta.

Cái tâm, cái lòng ham muốn của chúng ta muốn gì? Muốn đừng có lạnh lẽo nè, muốn đừng có nóng bức nè, muốn đừng có đói bụng nè, muốn đừng có khát nước nè, muốn đừng có gió thổi ầm ầm dữ tợn nè, muốn cái chỗ nào mà nó không có sợ nè, muốn cho mặt trời không có nóng bức, nực nội nè, muốn cho ở chỗ đó không có rắn rít, không có những cái loài thú vật độc nè.

Chúng ta muốn tất cả những cái đó để chúng ta được yên ổn tu hành chớ gì? Nhưng sự thật ra khi mà cái muốn này để mà tránh né nó thì chúng ta khó mà có thể độc cư được, khó có thể sống một mình được.

Vì cái tâm dao động, cái tâm sợ hãi này là cái tâm không thể nào sống riêng một mình được. Nó phải tìm có bạn có bè, có người này người kia, vì chính những cái đối tượng này, cái hoàn cảnh này, cái thời tiết này nó làm cho chúng ta sợ hãi, làm chúng ta phải đi tìm có những người sống để nương tựa với nhau, bên nhau.

Cho nên cái người mà sống một mình là cái người phải đầy đủ nghị lực, gan dạ. Hầu hết là con người cái tâm hồn đều là sợ hãi, cho nên họ phải tập trung nhau để thành những cái bộ lạc, thành những xóm, cái ấp, cái làng để sống nương tựa vào nhau, có người này người kia họ không có sợ.

(18:41) Do chỗ đó đó mà con người không còn có cái sự tự do nữa, không còn có cái sự sống riêng một mình nữa được. Vì thế mà nó mới sống tập thể với nhau, sống chung nhau thì nó có sự trộm cắp, tham lam, đánh lộn, chửi lộn, mắng lộn, nó tạo ra muôn vàn cái thứ đau khổ.

Còn một người mà sống một mình ở trong rừng, trong núi trong non, không có ai hết thì làm sao có mắng lộn, có chửi lộn, mà có lấy của ai đâu?

Còn sống gần bên nhau, nương tựa với nhau để (đỡ) sợ hãi những cái sự thời tiết hay hoặc là thú dữ, hay hoặc là đói khát, hoặc là ruồi lằn, hoặc là những cái bệnh tật này bệnh tật kia xảy ra, một mình thì sợ chết cho nên vì vậy mà phải sống gần nhiều người, có người này người kia để khi tối lửa tắt đèn thì có nhau, nhưng trái lại, nó lại đưa chúng ta đi đến những cái khổ đau, cái khổ đau vô cùng là có nhiều người xảy ra nhiều thứ chuyện: trộm cắp giựt, mắng chửi, đánh lộn đánh lạo đủ thứ.

Do có cái xã hội, có cái tập thể rồi có cái xã hội, có một nước non thì phải có một cái luật, cho nên người ta mới có thể giữ gìn trật tự an ninh được. Còn nếu mà không có pháp luật, không có cái giữ gìn an ninh trật tự thì người này giết người kia, người kia giết người nọ vì cướp của, giật của với nhau, thì ai mà cư xử cho được?

Cho nên đất nước phải có vua chúa, phải có chính phủ, phải có công an, cảnh sát để mà giữ gìn trật tự an ninh. Vì đối với cái tập thể này để không khéo nó sẽ chà đạp lên nhau và làm cho nhiều cái đau khổ.

Trái lại, một người tu chúng ta sống riêng rẻ một mình, sống độc cư, cho nên chúng ta thoát ra khỏi được cái cảnh gần gũi với mọi người. Mà gần gũi với mọi người thì chúng ta biết rõ mà, đâu có một cái gì mà an ổn được? Người thì ý vầy kẻ thì ý khác, nó mọi mặt đưa đến chúng ta rất là khổ sở.

Nhưng mà vì chúng ta là một người không có nghị lực, không có gan dạ­­­­­, không có bền chí, cho nên chúng ta trước những cái thời tiết lạnh lẽo, nóng bức, trước những thú vật hung dữ, trước những cái đói bụng, đói khát rồi chúng ta không có thể nào mà làm chủ được mình.

Do vì vậy đó mà chúng ta phải sống tìm lại, nương tựa với nhau, sống có tập thể với nhau để không có sợ hãi trước những cái thời tiết, trước những cái thú dữ, trước những cái bệnh tật, tai họa đem đến cho chúng ta thình lình khi mà sống một mình.

(21:19) Đó thì cái bài kệ thứ 19 thì Đức Phật nêu lên để chúng ta thấy được cái thời tiết nè, rồi cái sự đói khát nè, rồi cái sự gió bão nè, rồi cái nóng bức của mặt trời nè, rồi cái muỗi lằn nè, rắn độc nè, rít nè, tất cả những cái loài thú dữ nè.

Đó là những cái điều mà Đức Phật nêu lên để thấy rằng nếu mà chúng ta không có gan dạ, không có cái bền chí, không có cái nghị lực thì chắc chắn là chúng ta sẽ không sống độc cư được. Mà không sống độc cư được thì chúng ta khó mà ly dục ly ác pháp. Mà khó ly dục ly ác pháp thì không bao giờ mà có thể giải thoát được sanh tử luân hồi.

Đó cho nên ở đây phải thấy là cái dục nó tùy theo những cái hoàn cảnh, những cái thời tiết, những cái đối tượng mà nó khởi lên những cái lòng trưởng dưỡng, cái lòng dục của chúng ta. Trước những cái sợ hãi, lo lắng cũng do cái lòng ham muốn của chúng ta muốn gì? Muốn sống, sợ chết.

Do cái sự muốn sống sợ chết này nó trước những cái tai họa, cái khó chịu, cái sợ những vật mà độc, hung dữ thì làm chúng ta sợ hãi, từ đó chúng ta không dám sống một mình, do vì vậy mà chúng ta chạy theo cái sự sợ hãi đó mà chúng ta sống với tập thể. Mà sống trong tập thể thì chúng ta làm sao mà giải thoát được cái tâm ly dục ly ác pháp này?

Đó là cái bài kệ thứ 19.

Cho nên một cái người nào mà tu theo đạo Phật thì phải có nghị lực, phải có gan dạ, chịu đựng thì nó sẽ vượt qua tất cả những cái khó khăn này. Và khi vượt qua những cái khó khăn này thì chúng ta sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầy đọc lại cái bài kệ thứ 19 để các thầy và các con chiêm nghiệm lại lời của Phật dạy ở trong cái bài kệ này:

Lạnh lẽo và nóng bức,

Đói bụng và khát nước,

Gió thổi, nóng mặt trời,

Muỗi lằn và rắn rết,

Tất cả xúc chạm này,

Chịu đựng hãy vượt qua,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

BÀI KỆ 20 - NHƯ CON VOI TO LỚN TỪ BỎ CẢ BẦY ĐÀN

(23:38) Bây giờ Thầy sẽ giảng tiếp cái bài kệ thứ 20 để thấy Đức Phật khuyên chúng ta giữ gìn cái hạnh độc cư như thế nào. Thầy xin đọc cái bài kệ thứ 20:

Như con voi to lớn,

Từ bỏ cả bầy đàn,

Thân thể được sanh ra,

To lớn tợ hoa sen,

Tùy theo sự thích thú

Sống tại chỗ rừng núi.

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đây, bây giờ Đức Phật khuyên chúng ta:

Như một con voi to lớn,

Nghĩa là chúng ta như một con voi to lớn, chúng ta chẳng có sợ gì. Một người tu theo đạo Phật mà không xem mình to lớn thì không bao giờ mà có thực hiện được con đường này, mà phải xem mình là cái người vĩ đại, cái người to lớn, thì vượt qua tất cả những cái khó khăn, những cái sự ràng buộc để thực hiện được cái hạnh độc cư, cái sự sống một mình. Cho nên Đức Phật ví mình như là một con voi to lớn.

Từ bỏ cả bầy đàn,

Nghĩa là chúng ta lìa khỏi cái xã hội loài người, lìa khỏi mọi người, lìa khỏi những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta không sợ hãi, chúng ta đầy đủ những nghị lực chiến đấu lại, sống một mình mình để chúng ta thực hiện được độc cư.

Đó cho nên:

Như con voi to lớn,

Từ bỏ cả bầy đàn,

Thân thể được sanh ra,

To lớn tợ hoa sen,

Đó, thân thể chúng ta mà được sanh ra như vậy thì chúng ta phải thực hiện cái sự to lớn của nó, mà trong sạch của nó như một cái hoa sen, chẳng có sợ một cái gì cả hết.

Ở đây Phật ví:

Thân thể được sanh ra,

To lớn như hoa sen

Nghĩa là thân thể của chúng ta được sanh ra làm người thì chúng ta phải biết nó, phải tạo nó, cho nó thoát ly ra được, sống độc cư được để cho nó thoát ly, nó ly dục ly ác pháp, nó thoát ly ra cái bầy đàn, cái tập thể của nó, để cho nó to lớn và nó thanh tịnh, trong sạch như hoa sen.

Còn nếu mà nó sống ở trong cái tập thể, cái xã hội, thì cái xã hội là cái xã hội ô nhiễm, cái xã hội dục lạc, cái xã hội độc ác, cái xã hội ác pháp thì không thể nào là như cái hoa sen được.

Cho nên từ ở trong những cái bùn nhơ, cũng như chúng ta đang sống ở trong một cái xã hội đầy bao nhiêu sự dẫy đầy bất công, bao nhiêu sự đau khổ, bao nhiêu ác pháp ở trong đó, thế mà chúng ta vượt ra sống độc cư một mình thì đó là “tợ như hoa sen”.

(26:16) Thân thể chúng ta sanh ra trong một cái tập thể nhưng chúng ta vượt ra cái tập thể ô nhiễm, cái tập thể uế trượt, cái tập thể ác độc, cái tập thể ác pháp, thì lúc bấy giờ chúng ta như là một cái hoa sen vượt lên trên mặt nước, vượt lên trên bùn hôi thúi của nó.

Đó. Vì khi mà vượt ra được như vậy đó thì chúng ta mới sống cái hạnh độc cư. Mà sống cái hạnh độc cư thì chúng ta nỗ lực thực hiện con đường tu tập các pháp môn Phật đã dạy tu tập, thì đó là:

Tùy theo sự thích thú

Bấy giờ mình muốn, trên cái muốn của mình là muốn giải thoát, cho nên mình tùy theo cái sự tu tập của mình nó tạo cho mình có những cái an lạc, vui thú của cái sự độc cư.

Còn nếu mà chúng ta tìm không thấy được cái sự an lạc, vui thú trong hạnh độc cư thì khó mà chúng ta ly dục ly ác pháp, chúng ta trở về cái dục lạc của thế gian.

Sống tại chỗ rừng núi.

Nghĩa là chúng ta sống ở chỗ nào yên ổn, độc cư một mình, không có sống ở trong cái thành phố hay hoặc thành thị hay cái làng, cái xã, cái ấp, có nhiều người như vậy là không có đúng cái hạnh độc cư, không có sống đúng cái hạnh độc cư.

Mà muốn sống đúng cái hạnh độc cư thì như một con voi sống ở tại một cái chỗ rừng núi xa vắng nào đó, rồi tùy theo các pháp mà nỗ lực tu hành thì nó đem lại cái sự trầm lặng, cái sự an vui, cái sự ly hỷ, ly các cái trạng thái dục, ly các ác pháp được rồi thì nó có cái hỷ lạc do cái sự ly dục này mà nó sanh ra, làm chúng ta thấy thích thú, an lạc trong cái độc cư của chúng ta.

Cho nên ở đây Phật khuyên chúng ta thì:

Hãy sống riêng một mình,

Như Tê ngưu một sừng!

Đây Thầy xin nhắc lại cái bài kệ 20:

Như con voi to lớn,

Từ bỏ cả bầy đàn,

Đó, thì cũng như chúng ta từ bỏ cái xã hội của chúng ta, xã hội loài người ô nhiễm, uế trược, hung dữ, hung ác.

Thân thể được sanh ra,

To lớn tợ hoa sen,

Thân thể của chúng ta được sanh ra ở trong cái nhân quả đầy những cái ác trược, đầy những cái hôi thúi, đầy những cái bẩn thỉu mà chúng ta vượt ra cho được thì như là một cái hoa sen to lớn, rất là thanh tịnh.

Rồi tùy ở nơi trong rừng yên lặng, nơi cái chỗ mà độc cư một mình đó, tùy theo những cái sở thích của chúng ta mà chúng ta thực hiện con đường tu tập.

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó thì quý thầy đã thấy, các con đã thấy được cái lời Đức Phật dạy ở trong cái bài kệ 20 này: Chúng ta vượt ra khỏi bầy đàn, tức là chúng ta vượt ra khỏi xã hội, của sự trói buộc của gia đình, của xã hội, của mọi người để chúng ta thực hiện cái sự sống độc cư, cái sự sống riêng một mình để chúng ta thực hiện con đường giải thoát của đạo Phật ly dục ly ác pháp.

Đó là cái bài kệ 20.

BÀI KỆ 21 - AI ƯA THÍCH HỘI CHÚNG THÌ KHÓ TU HÀNH

(29:13) Cái bài kệ 21, Thầy xin đọc cái bài kệ 21:

Ai ưa thích hội chúng,

Người ấy khó tu hành,

Làm sao chứng Niết Bàn,

Giải trừ các cảm thọ,

Cân nhắc lời giảng dạy,

Từ bỏ nơi đông đảo.

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó, bài 21 này Đức Phật xác định rất rõ ràng để cho thấy cái người mà tu theo đạo Phật phải thực hiện cho bằng được cái hạnh độc cư. Nếu mà cái người ưa thích vui ở trong những các hội chúng, sống ở trong cái tập thể của xã hội có nhiều người thì người ấy khó mà tu hành theo con đường của Phật. Đức Phật đã xác định như vậy mà!

Đây Thầy đọc hai câu kệ đầu:

Ai ưa thích hội chúng,

Tức là hội họp, thích coi hát, thích chơi, thích bạn bè, thích này kia, thích nói chuyện này chuyện kia với người này người nọ kia.

Người ấy khó tu hành,

Người ấy không tu hành được. Nói khó có nghĩa là tu không có được.

Cho nên cái người mà thích sống một mình, thích trầm lặng thì cái người tu được. Mà cái người thích vui, thích hội chúng, thích hội họp, thích đi chơi chỗ này chỗ kia, ngồi tu vài bữa thích đi chỗ này chỗ kia cho nó thoải mái, cái người đó tu không được. Phải nói rằng cái người đó không có duyên tu theo đạo Phật.

Cho nên khi mà chúng ta biết được cái tâm trạng chúng ta mà thích thú vui chơi như vậy thì chúng ta đừng có theo đạo Phật mà tu, vì chúng ta có tu cũng chẳng tới đâu hết, mất thì giờ vô ích, bỏ cuộc đời chúng ta cũng chẳng ra gì hết.

Cho nên người mà thích vui là cái người thích hội họp, thích nói chuyện, thích đi chỗ này chỗ kia thì những người đó là cái người không thể theo con đường của đạo Phật được.

Cho nên Đức Phật xác định:

Làm sao chứng Niết Bàn,

Giải trừ các cảm thọ,

Nghĩa là làm sao mà chúng ta chứng được cái chỗ giải thoát đâu, làm sao mà chúng ta giải trừ các cảm thọ chúng ta được?

(31:19) Các cảm thọ: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ, thì tất cả những cái cảm thọ này nó làm chúng ta đau khổ, ham thích, tất cả những cái này đem đến cho chúng ta bao nhiêu là sự đau khổ.

Mà nếu chúng ta thích hội họp như vậy thì chúng ta không thể nào mà giải trừ được các cái cảm thọ này, các cái đau khổ này. Cho nên chúng ta không thể nào mà đi vào con đường giải thoát của đạo Phật.

Cân nhắc lời giảng dạy.

Từ bỏ nơi đông đảo.

Nghĩa là qua những cái bài kệ của Phật, chúng ta phải cân nhắc cho kỹ lưỡng những cái lời giảng dạy này, những cái lời giảng dạy của Phật, những cái bài kệ của Phật nhắc đi nhắc lại, cân nhắc cho kỹ.

Nếu mà chúng ta đã quyết tâm theo con đường của đạo Phật để tu hành giải thoát thì chúng ta phải từ bỏ những cái nơi đông đảo, từ bỏ hội họp, từ bỏ nói chuyện, từ bỏ tất cả mọi cái vui của thế gian thì chúng ta mới có thể thực hiện được con đường tu hành giải thoát của đạo Phật.

Nghĩa là chúng ta có sống độc cư thì chúng ta mới có ly dục ly ác pháp được, mà không có sống độc cư được thì không có bao giờ ly dục ly ác pháp được. Mà không ly dục ly ác pháp được thì không bao giờ mà chúng ta đạt được cái mục đích của đạo Phật được.

Đó thì cái bài kệ thứ 21 Phật khuyên chúng ta:

Ai ưa thích hội chúng,

Người ấy khó tu hành,

Làm sao chứng Niết Bàn,

Giải trừ các cảm thọ,

Cân nhắc lời giảng dạy,

Từ bỏ nơi đông đảo.

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Quý thầy và các con nghe chỗ này mà cố gắng, cố gắng thực hiện, đừng có lơ lỏng, đừng có dễ duôi với mình mà uổng một cuộc đời, uổng thân làm người.

Được thân là khó, được Phật pháp còn khó hơn. Biết được như vậy chúng ta hãy khắc phục mình, hãy đem đầy đủ nghị lực chiến đấu để sống độc cư, đừng có sống vui theo thế gian, vì có sống độc cư chúng ta mới thực hiện được sự giải thoát thân tâm mình.

Đây là lời Thầy nhắc lại lần nữa.

BÀI KỆ 22 - ĐỘC CƯ ĐỂ VƯỢT RA KHỎI MỌI TRI KIẾN HÝ LUẬN

(33:24) Bài kệ thứ 22:

Muốn giải thoát vượt khỏi,

Các tri kiến hý luận,

Phải quyết định độc cư,

Chứng đắc được con đường,

Nơi đây trí được sanh

Không cần nhờ người khác

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Cái bài kệ thứ 22 này các thầy và các con thấy Đức Phật khuyên chúng ta:

Muốn giải thoát vượt khỏi,

Các tri kiến hý luận,

Nghĩa là chúng ta muốn được giải thoát thì chúng ta phải ra khỏi các cái tri kiến hý luận, nghĩa là cái chuyện nói luận cái này bàn cái kia, vui chơi thỏa thích. Thì hầu hết là con người khoái nói chuyện cho nó vui vẻ bằng thế này hoặc bằng thế khác, cho nên Đức Phật gọi đó là những cái tri kiến hý luận.

Nói chuyện đông chuyện tây, nói chuyện chính trị, nói chuyện làm ăn, nói chuyện thời tiết, nói chuyện thiên văn, địa lý, nói chuyện khoa học, nói cái này cái kia…​ đều là những cái hý luận, nó không có lợi ích thiết thực cho chúng ta.

Những cái hý luận này nó chỉ đem cho chúng ta thêm vào những cái tâm, trưởng dưỡng những cái dục, cái lòng ham muốn chúng ta hơn lên, nó không có lợi ích cho chúng ta thiết thực. Vì thế mà chúng ta phải khắc phục mình, phải nỗ lực thật sự để mà tiêu diệt các cái tri kiến hý luận này.

Nghĩa là từ đây chúng ta sống độc cư thì chúng ta đâu còn hý luận với ai? Đó cho nên chúng ta phải quyết định độc cư. Ở đây câu kệ thứ ba trong cái bài kệ 22 này thì Đức Phật:

Phải quyết định độc cư,

Nghĩa là chỉ có độc cư thì mới có giải trừ được cái tri kiến hý luận, mới vượt khỏi được cái tri kiến hý luận. Còn nếu không thì cái bản chất, tánh nào tật nấy của chúng ta nó quen đi, gặp ai thì chúng ta cũng nói chuyện này chuyện kia chuyện nọ để vui chơi thì đó là những cái hý luận.

Bàn thiền, luận đạo, nói kinh cũng đều là những cái hý luận chớ không phải là cái không hý luận. Vì chúng ta có sống độc cư thì chúng ta mới không có hý luận, mà không sống độc cư thì dù bây giờ chúng ta có nói kinh nói sách gì đúng đắn đi cho mấy đi nữa cũng là thuộc về loại hý luận.

Bởi vì sống độc cư thì đâu còn ai mà chúng ta nói chuyện? Mà không còn ai nói chuyện thì chúng ta mới thực hiện được con đường giải thoát.

Còn nếu mà không có sống độc cư được thì chúng ta phải có người này có người kia, có bầu có bạn, rồi có nói chuyện này chuyện kia, do đó những cái nói chuyện đó Đức Phật đều gọi là hý luận, cho nên không có thể nào mà chứng đắc được con đường giải thoát đâu.

Phải quyết định độc cư,

Chứng đắc được con đường,

Nghĩa là chúng ta nhất định là phải độc cư thì chúng ta mới có thể đạt được con đường giải thoát của đạo Phật. Từ cái chỗ mà chúng ta sống độc cư đó đó, cái tri kiến giải thoát chúng ta nó mới được phát sanh, cái trí tuệ chúng ta nó mới được phát sanh.

(36:38) Nếu mà chúng ta không sống độc cư thì cái tri kiến hý luận nó tràn đầy, nó tích tập những sự hiểu biết của chúng ta bằng cái vay mượn của kẻ khác, bằng cái đờm dãi của người khác.

Còn chúng ta sống độc cư thì do đó chúng ta mới có cái tâm thanh tịnh, yên lặng, nó mới có tâm định tỉnh, từ cái định tỉnh đó cái trí tuệ chúng ta nó mới được phát sanh, nó mới triển khai, nó mới phát sanh ra.

Từ đó chúng ta mới thấy được cái tri kiến giải thoát nó đưa đi đến chúng ta sống trong một cuộc đời không còn ham muốn một cái gì nữa hết, buông xả hết, không còn một vật gì để ràng buộc, trói buộc chúng ta được hết.

Cho nên khi mà chúng ta sống độc cư thì chúng ta chẳng cần một người nào khác nữa hết, không có cần cái người nào mà dạy chúng ta tu hành hết, chỉ cần sống độc cư là từ đó mà chúng ta có thể thấy được cái tri kiến của chúng ta phát sanh thì chúng ta thấy được con đường tu hành giải thoát của chúng ta.

Chúng ta sống độc cư trong một năm, hai năm cho đến mười năm không có tiếp duyên với ai cả thì từ đó chúng ta mới thấy được cái trí tuệ phát sanh của chúng ta vô cùng vô lượng, nó nhắm vào cái tâm hồn của chúng ta để đưa chúng ta đi đến cái chỗ giải thoát hoàn toàn, chứng đắc trên con đường của đạo, dù thiền định nào nó cũng đều thông suốt.

Cho nên Phật khuyên:

Hãy sống riêng một mình,

Như Tê ngưu một sừng!

Đây Thầy đọc lại cái bài kệ 22 để cho quý thầy thấy cái lời của Phật dạy rất là thấm thía:

Muốn giải thoát vượt khỏi,

Các tri kiến hý luận,

Phải quyết định độc cư,

Ba câu kệ này thì Đức Phật đã quyết định cho chúng ta: Muốn thoát ra khỏi những cái tri kiến vay mượn, cái tri kiến hý luận, cái lời nói vui theo dục lạc của thế gian thì phải quyết định là phải độc cư.

Mà khi độc cư được thì mới chứng đắc được con đường giải thoát. Đây:

Chứng đắc được con đường,

Nơi đây trí được sanh

Đức Phật xác định chỉ có độc cư thì mới chứng đắc được con đường giải thoát, nơi chỗ đó thì trí tuệ mới được sanh.

Không cần nhờ người khác

Nghĩa là không cần ai khai ngộ chúng ta hết, chúng ta chỉ sống đúng độc cư là tự nó nó đã có những cái trí tuệ phát sanh, cho nên đâu cần người nào mà khai ngộ mình, mình cũng được giải thoát như thường. Cho nên:

Hãy sống riêng một mình,

Như Tê ngưu một sừng!

BÀI KỆ 23 - KHÔNG THAM LAM, LỪA ĐẢO, KHÁT VỌNG, DÈM PHA

(39:03) Bây giờ Thầy xin đọc tiếp cái bài kệ thứ 23:

Không tham không lừa đảo,

Không khát vọng, dèm pha,

Mọi si mê ác trược,

Được gạn sạch quét sạch,

Trong tất cả các pháp,

Không tham ái ước mong.

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Nghĩa là chúng ta sống riêng một mình, sống độc cư, sống thầm lặng một mình thì chúng ta mới không có tâm tham, mới không có sự lừa đảo, mới không có khát vọng, mới không có dèm pha:

Mọi si mê ác trược,

Thì mọi si mê nó mới phá sạch, nó không còn những cái ác trược nữa. Và nhờ sống độc cư đó mà nó:

Được gạn sạch và quét sạch,

Trong tất cả các pháp,

Không tham ái ước mong.

Nghĩa là tất cả những cái pháp thế gian nó được gạn lọc và quét sạch là nhờ sống độc cư. Nếu chúng ta không sống độc cư thì khó mà có thể gạn lọc được những cái tâm tham ái nè, cái tâm lừa đảo nè, cái tâm khát vọng nè, cái tâm dèm pha nè, cái tâm ác trược nè, cái tâm si mê nè.

Đó, cho nên tất cả những cái tâm này mà nó được quét sạch đều là phải do nhờ cái sống độc cư, sống một mình. Mà nếu không sống một mình thì chắc chắn là không bao giờ mà quét sạch những cái tâm này ra được. Mà không quét sạch những cái tâm này ra được thì khó mà có thể tìm lấy con đường giải thoát của đạo Phật được.

Quý thầy hiểu chưa? Cho nên cái bài kệ thứ 23 này Đức Phật xác định chỉ có sống độc cư thì mới quét sạch được cái tâm thế gian, cái tâm khát vọng, cái tâm dèm pha, các tâm lừa đảo, cái tâm tham muốn, cái tâm si mê, cái tâm ác trược. Nếu mà không sống độc cư thì không thể nào quét sạch.

Thầy xin đọc cái bài kệ thứ 23 để cho quý thầy hiểu cho rõ ràng:

Không tham không lừa đảo,

Không khát vọng, dèm pha,

Mọi si mê ác trược,

Được gạn sạch, quét sạch,

Trong tất cả các pháp,

Không tham ái ước mong.

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Chỉ có sống riêng một mình thì mới quét sạch được những cái này. Muốn được quét sạch cái này thì chúng ta hãy sống riêng một mình, cố gắng sống một mình thì nó sẽ quét sạch.

Đó là bài kệ thứ 23.

BÀI KỆ 24 - TỪ BỎ, LÁNH XA BẠN BÈ ĐỘC ÁC, KẺ ĐAM MÊ PHÓNG DẬT

(41:32) Bài kệ thứ 24:

Với bạn bè độc ác,

Hãy từ bỏ lánh xa,

Kẻ không thấy mục đích,

Quen nếp sống thế gian,

Chớ tự mình thân cận,

Kẻ đam mê phóng dật,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Nghĩa là Đức Phật khuyên chúng ta: Với những người bạn bè độc ác thì chúng ta phải lánh xa họ, không có được sống với họ. Bởi vì họ là những kẻ không có thấy cái mục đích giải thoát cho nên họ còn đam mê, phóng dật ở trong cái tâm dục lạc của thế gian.

Qua cái nếp sống thế gian thì mình đã hiểu biết họ như thế nào. Bây giờ hầu hết là mọi người người ta đang chạy theo cái dục lạc của thế gian, thì đó là những người bạn bè mà gọi là…​ họ đã chạy theo dục lạc thế gian thì họ là những người bạn bè xấu chớ làm sao mà những bạn bè tốt được. Họ là những bạn bè độc ác.

Họ thương mình đó mà mai mốt có cái gì thì họ trở thành những cái người bạn xấu, họ sẽ hại mình một cách rất dễ dàng, chưa chắc đã là một cái sự thương thật.

Cho nên toàn bộ con người hiện giờ, với một cái mắt người tu sĩ là chúng ta thấy rằng mọi người đang chạy theo những dục lạc của thế gian. Mà đang chạy theo dục lạc thế gian thì phải có ác pháp, không thể nào mà thiếu ác pháp được.

Cho nên chúng ta là những người tu hành phải sống một mình, phải tránh xa mọi người. Vì mọi người không thể nào đem lại cái sự giải thoát cho chúng ta được, mà chính chúng ta phải sống một mình, từ đó chúng ta mới không bị những người bạn bè, những con người độc ác này làm động tâm chúng ta, làm cho tâm chúng ta dao động liên tục, vì vậy mà chúng ta không có ra khỏi cái cuộc đời đầy luân hồi, đầy đau khổ này.

Cho nên ở đây, cái bài kệ thứ 24 này Đức Phật khuyên chúng ta phải lánh xa hết mọi người. Vì mọi người đều là những kẻ đang đam mê phóng dật, đang chạy theo những cái ham muốn của thế gian.

Cho nên muốn tu hành theo đạo Phật thì chúng ta thấy đời nó phải ra đời mà đạo ra đạo. Một cái người tu mà còn chạy theo đam mê phóng dật của thế gian thì cái người đó chúng ta coi như là ác tri thức, chớ không phải thiện hữu tri thức mà ác tri thức. Chúng ta phải tránh xa, chúng ta đừng có gần gũi những người đó, vì những người đó là những người không thể nào sống một mình được.

Cho nên chúng ta chỉ biết còn có con đường của đạo Phật là sống một mình để thực hiện sự ly dục ly ác pháp. Để được giải thoát, để chấm dứt được sự sanh tử luân hồi thì chỉ có con đường duy nhất là pháp môn độc cư mới cứu chúng ta ra khỏi con đường đầy đau khổ của cuộc đời, của kiếp người.

BÀI KỆ 25 - GẦN GŨI BẬC NGHE NHIỀU, TRÌ PHÁP

(44:22) Bài kệ thứ 25, để cho quý thầy và các con suy ngẫm cái lời của Phật dạy qua cái bài kệ này:

Bậc nghe nhiều trì pháp,

Hãy gần gũi người ấy,

Người ấy tâm rộng lớn,

Thông minh và biện tài,

Biết điều không nên làm,

Thường nhiếp phục nghi hoặc.

Noi theo hạnh người này,

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đây cái bài kệ này là chúng ta hãy noi theo cái gương của những người, mà chúng ta thấy những người thiện hữu tri thức họ đều là những cái bậc nghe nhiều, nghe pháp mà Phật đã dạy, và thường hằng ngày họ trì những cái pháp họ đã được nghe.

Chúng ta chọn ở trong các huynh đệ của chúng ta, và ai là cái người nghe nhiều và trì pháp thì chúng ta noi theo cái gương của người đó mà chúng ta sống độc cư. Sống độc cư để chi, để làm gì? Để chúng ta trì các pháp mà chúng ta đã được nghe nhiều.

Và chúng ta gần gũi nghĩa là chúng ta tìm cái người đó, họ sống họ cũng độc cư, họ không nói chuyện với mình nhưng cái gương hạnh của họ đó, nó làm cho chúng ta bắt chước, làm chúng ta noi theo.

Cho nên con đường tu của chúng ta dễ tiến bộ là nhờ chúng ta có thiện hữu tri thức. Không phải nghĩa là thiện hữu tri thức là những cái người mà nói pháp, nói chuyện này chuyện kia chúng ta nhiều, mà chính cái hành động sống của họ đã làm cho chúng ta sống theo cái hạnh độc cư của họ.

Và họ làm cái gì thì chúng ta bắt chước làm theo cái nấy, vì họ là những cái người mà tâm họ rộng lớn lắm, họ thông minh và họ đầy đủ biện tài.

Những cái biện tài họ không để mà nói chuyện với chúng ta. Chúng ta biết họ, họ không nói thôi, mà họ nói ra cái gì họ cũng thông suốt, không có cái gì mà có thể làm chướng ngại họ được, họ trả lời tất cả những cái gì mà câu hỏi rất là khó khăn. Cho nên họ có những cái biện tài.

Và trí óc thông minh - những cái điều mà họ chưa có học mà người ta hỏi họ đều biết, thì đó là cái trí óc thông minh của họ, cho nên biết điều không nên làm. Và những cái người đó họ biết cái điều họ không nên làm, và chúng ta mà sống gần như vậy là chúng ta bắt chước chúng ta biết.

Có những cái điều ác chúng ta đâu có nên làm, nhưng có những điều thiện thì chúng ta nên làm. Và những cái người mà nghe nhiều và trì pháp thì họ sẽ làm những cái điều mà họ biết đó là điều thiện, mà những cái điều ác thì chắc chắn là họ sẽ không làm. Cho nên họ không làm những cái điều mà không nên làm.

(47:15) Họ thường “nhiếp phục tâm nghi hoặc” - nghi người này nghi người kia. Không có để cho cái tâm mình nghi ai xấu hết, mọi người ai làm sao kệ họ, chẳng có nghi ngờ họ gì hết.

Những cái người đó là những cái người bạn tốt, những người thiện hữu tri thức của mình. Họ sống họ không nói chuyện với mình nhưng mà hành động sống họ là cái gương hạnh để cho mình tu tập mình sống một mình. Cho nên họ thường nhiếp phục không có nghi ngờ người nào hết, họ không có nghi ngờ cái người đó xấu, người đó như thế này thế nọ thế khác.

Noi theo hạnh người này,

Hãy sống riêng một mình

Thì mình lấy cái gương hạnh của cái người thiện hữu tri thức, họ đang sống, đang tu hay hoặc họ đã tu xong, họ sống họ không nói chuyện với ai hết, do đó mình bắt đầu mình sống cũng theo cái gương hạnh của họ, và đồng thời những cái điều mà họ không nên làm thì mình cũng bắt chước mình không nên làm.

Cho nên ở đây Đức Phật dạy cái bài kệ thứ 25 này là chúng ta nên chọn cái người bạn tốt, cái người sống độc cư, cái người mà không nói chuyện, mà luôn luôn lúc nào có những hành động mà chúng ta để ý để mà chúng ta theo dõi những cái hành động, cái gương hạnh đó mà chúng ta tu tập, để chúng ta sống độc cư cho đúng cách.

Còn nếu mà chúng ta chọn không được cái người bạn tốt như vậy thì chúng ta sẽ bị ảnh hưởng những người bạn xấu. Họ nói chuyện này chuyện kia làm cho chúng ta động tâm, làm chúng ta riết rồi chúng ta cũng duyên theo, cũng chạy theo những dục lạc, cái lòng ham muốn của chúng ta ở thế gian.

Cuối cùng thì chúng ta tu suốt cuộc đời chúng ta mà rất uổng, nó không có những gương hạnh tốt để chúng ta thực hiện theo con đường gương hạnh tốt đó để mà được giải thoát. Quý thầy và các con thấy rõ chưa?

Cho nên có được những cái bậc thiện hữu tri thức như vậy, có những cái gương hạnh mà tu tốt như vậy đó, họ là những người biết nghe nhiều pháp, biết trì các pháp mà họ đã được nghe, thì đó là những cái người mà chúng ta gần gũi để lấy họ làm cái gương tốt để cho mình thực hiện theo cái gương tốt đó mà mình cũng được giải thoát như họ. Còn nếu không có thì chúng ta cũng phải đành sống riêng một mình.

Không phải có nghĩa là chúng ta có người bạn hữu thiện tri thức, hằng ngày chúng ta phải tiếp duyên nói chuyện này chuyện kia. Không, không phải vậy đâu, đừng hiểu như vậy. Mà chính người bạn, người thiện hữu tri thức họ đang sống độc cư đó, họ đang sống trong trầm lặng đó, họ đang sống ở trong một mình họ đó, đó là những cái gương mà để chúng ta noi theo đó mà chúng ta vượt qua những cái khó khăn.

Chớ không phải sống độc cư mà dễ dàng, nó có nhiều cái khó khăn lắm, mà nhờ cái gương đó mà chúng ta noi theo chúng ta mới sống được.

Đó phải hiểu, hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy được cái con đường tu tập của chúng ta. Những người đó trước những cái cơn bệnh cơn đau họ không có làm cho tâm họ dao động, họ không có chạy đi bác sĩ hay hoặc là chạy thầy chạy thang thuốc gì hết đâu. Họ tự cứu chữa họ bằng pháp hướng hay hoặc là có những cái duyên.

Thí dụ như chẳng hạn là Thầy thấy họ bệnh ho hoặc là cảm hay gì đó, Thầy đem thuốc Thầy cho họ thì họ uống, rồi họ dùng pháp hướng họ quét sạch ra những cái thân nghiệp của họ để rồi họ thực hiện họ giữ đúng cái hạnh độc cư.

Họ không phải vì một chút đau bệnh nhức tay nhức chân hay hoặc là nhức đầu nhức cổ gì đó mà họ chạy đi tùm lum bác sĩ này bác sĩ kia, thì tức là họ bị động mất rồi.

(50:29) Nhìn cái gương của họ, họ đâu phải là con người bằng đá, bằng cây, bằng gạch, bằng ngói, bằng sắt, bằng đồng, họ cũng là con người bằng xương bằng thịt, mình đau họ cũng đau, mình nhức họ cũng nhức, mà tại sao họ chẳng có dao động tâm, họ chẳng hề sợ những cái thọ đó?

Còn mình hễ hơi hơi là mình đã chạy tùm lum tà la hết rồi, mình phá mất cái độc cư của mình, làm sao mà mình tu cho tới nơi tới chốn được? Hễ hơi có sổ mũi, nhức đầu chút ít gì đó, nóng lạnh sơ sơ đã là chạy tùm lum tà la hết rồi, thì muôn đời chúng ta làm sao mà tu tập được giải thoát? Uổng cái đời chúng ta tu tập!

Muốn giải thoát, chúng ta xem thường những cái loại thân nghiệp này. Nó không phải là những cái điều mà có thể làm trở ngại con đường tu tập của chúng ta, phá cái hạnh độc cư. Chúng ta chẳng hề sợ cái thọ, vì cái thọ chúng ta đã hiểu biết nó là vô thường, nó không thường hằng thì tại sao mà chúng ta lại sợ nó?

Cho nên chúng ta không bao giờ sợ nó thì chúng ta chẳng có ngại gì cả hết. Chúng ta quyết định là chúng ta sẽ không có sợ các thọ.

Cho nên tất cả những cái này trong những cái bài kệ trước Đức Phật cũng đã nhắc nhở chúng ta nhiều rồi. Trước cái thời tiết, trước cái bệnh tật, trước những cái đau khổ của thân, chúng ta đừng có dao động, đừng có phá hạnh độc cư, mà hãy cố gắng độc cư.

Và vì vậy có được một người thiện hữu tri thức, một người bạn tốt họ đang sống độc cư, họ đang sống trầm lặng, họ chẳng hề run sợ trước những cái thọ của họ thì chúng ta hãy noi gương họ mà chúng ta bắt chước.

Ở đây Đức Phật, cái bài kệ thứ 25 này Đức Phật nhắc là chúng ta có được những người bạn đó chúng ta noi theo gương. Cho nên cuối cùng thì Đức Phật:

Hãy sống riêng một mình

Thấy cái gương hạnh của người đó như vậy thì chúng ta nỗ lực chúng ta thực hiện cái gương hạnh sống một mình.

Như Tê ngưu một sừng!

Đó thì như vậy là quý thầy đã thấy rõ được cái con đường tu tập của đạo Phật là cái bí quyết, là cái mục đích để mà chúng ta đạt được con đường giải thoát chính là cái độc cư, cái sống trầm lặng, cái sống riêng một mình.

Sống riêng một mình nhưng luôn luôn lúc nào chúng ta cũng noi gương những người bạn tốt, những người Thánh nhân, những bậc chân nhân, những bậc mà người ta thực hiện được những cái gương hạnh độc cư, người ta ly được dục ly ác pháp, thì những bậc đó là những bậc mà để chúng ta thực hiện cái hạnh độc cư, cũng ly dục ly ác pháp như các vị đó.

BÀI KỆ 26 - KHÔNG DU HÍ, VUI ĐÙA, LÀM ĐẸP, ƯỚC MONG

(53:06) Bây giờ Thầy đọc kế cái bài kệ thứ 26, Phật khuyên chúng ta:

Mọi du hí vui đùa

Và dục lạc thế gian,

Không trang điểm làm đẹp

Không ước vọng mong cầu,

Từ bỏ mọi hào nhoáng

Nói lên lời chân thật

Đó thì sáu cái câu kệ này Đức Phật nói mọi cái du hí vui đùa - du hí là đi chỗ này chỗ kia cho nó vui, cho nó thích, đi xem cảnh xem hoa, đi xem sông xem núi, đi xem những nơi danh lam thắng cảnh, những cái nơi di tích lịch sử hoặc là cái chỗ này chỗ kia, những cái nơi mà hội họp, những cái nơi chợ búa, những cái nơi đô thị nó có những cái sự vui đùa, mà mọi cái du hí vui đùa như vậy đó, đó là những cái mà đưa đến chúng ta động tâm, đưa đến chúng ta không có độc cư được.

Và những cái dục lạc thế gian - những cái làm cho chúng ta thích thú cái này cái nọ cái kia, ham muốn cái này cái nọ cái kia, đó là những cái dục lạc thế gian, khiến cho chúng ta thích trang điểm làm đẹp. Cho nên người tu sĩ thì chúng ta không có trang điểm làm đẹp.

Không ước vọng mong cầu,

Nghĩa là không có mong cầu cái này, không có mong cầu cái kia. Tu là tu, sống là sống cho đúng hạnh, không có cầu mong cái này cái kia.

Thí dụ bây giờ bữa nay cái y áo của mình rách, mình mong cầu phải chi có Phật tử cúng dường cho mình bộ y áo mới, thì như vậy đó là chúng ta còn mong cầu. Chúng ta chẳng mong cầu gì hết.

Chẳng hạn bây giờ chúng ta đang đau bệnh, chúng ta nói phải chi mà Phật tử cúng dường mình thuốc ho, thuốc cảm, thuốc này kia, khi mình có đau bệnh mình uống thì nó sẽ không bệnh không đau, thì cái đó là còn cái mong cầu, mong cầu nhỏ nhưng mà cũng còn cái mong cầu.

Cho nên chúng ta chẳng mong cầu gì hết. Chúng ta hiện bây giờ có thuốc thì chúng ta uống thuốc, mà không thuốc thì chúng ta dùng pháp hướng quét sạch cái thọ chúng ta, đuổi nó ra khỏi cái thân nghiệp của chúng ta làm chúng ta giảm đi những cái cơn đau.

Chúng ta đừng sợ hãi, chúng ta tin tưởng ở Phật pháp, như một cái lý tác ý mà để chúng ta cứu lấy mình, nhờ đó mà tâm của chúng ta nó không có dao động.

Như vậy là các thầy và các con cũng nên nhớ rằng chỉ chúng ta tin tưởng ở Phật pháp, chúng ta dùng cái pháp hướng để đối trị với cái thọ của chúng ta.

Vì chúng ta biết cái thọ là vô thường mà nó xảy ra cho thân của chúng ta bệnh này bệnh kia bệnh nọ, đó là cái nghiệp thân của chúng ta.

Chúng ta đừng có để cái tâm chúng ta dao động, mà chúng ta hãy dùng pháp hướng, như Phật đã dạy như cái lý mà tác ý nó ra để đuổi cái thọ chúng ta ra khỏi cái thân nghiệp của chúng ta, làm cho tâm chúng ta không có còn động, không còn sợ mà chúng ta giữ trọn được cái hạnh độc cư.

(56:10) Nhờ giữ trọn được cái hạnh độc cư đó - bởi vì cái thọ nó câu hữu với các pháp khác, nó làm chúng ta phải phá đi cái hạnh độc cư, mà phá hạnh độc cư thì chúng ta không bao giờ chúng ta ly dục, ly ác pháp được, mà không ly dục ly ác pháp làm sao chúng ta được giải thoát?

Cho nên chúng ta phải thấy được cái độc cư là cái quý báu nhất, cái cuộc sống riêng một mình là cái pháp môn rất là quý báu để chúng ta thực hiện con đường ly dục ly ác pháp, làm cho tâm của chúng ta được giải thoát hoàn toàn và chấm dứt được sanh tử luân hồi.

Nếu mà chúng ta cứ bị cái thọ mà câu hữu với các cái điều khác, câu hữu với cái sắc thân của chúng ta, rồi câu hữu với cái tưởng của chúng ta làm chúng ta dao động tâm, rồi chúng ta phá đi cái hạnh độc cư. Và phá đi hạnh độc cư thì ngàn đời, muôn đời chúng ta tu cũng vô ích mà thôi.

Vì chúng ta biết rằng mỗi con người có thân đều là phải có cái nghiệp, mà có nghiệp thì tức là phải có cái thọ khổ của nó, thì nó phải bệnh này bệnh nọ bệnh kia. Mặc nó! Người tu hành mà còn sợ bệnh đau là cái gì? Chết chúng ta còn chả sợ, bỏ hết cuộc đời rồi mà còn sợ cái thọ, sợ cái bệnh là cái gì? Cho nên chúng ta phải mạnh dạn, đừng có sợ hãi.

Cho nên ở đây thì, cái bài kệ thứ 26 này, Đức Phật khuyên chúng ta đó, những cái vui đùa của cái du hí mà đi chỗ này chỗ kia, mà đi vui đùa với thế gian thì chúng ta bỏ, và tất cả các cái dục lạc của thế gian chúng ta cũng bỏ.

Mọi cái sự trang điểm làm cho đẹp - vì cái thân chúng ta bất tịnh mà, mỗi mỗi nó đều hôi thúi mà, nó có gì đâu, nó bất tịnh, nó dơ bẩn vô cùng, thế mà chúng ta làm cái lớp trang điểm ở ngoài đẹp đẽ làm gì nữa?

Thân chúng ta xấu xí, đâu có bằng những người mà sanh hóa thân, sanh ra từ cái chỗ nhơ bẩn cho nên cái thân của chúng ta nó quá bất tịnh rồi. Nó hôi thúi, nó bẩn thỉu, ba ngày không tắm đã là không chịu nổi rồi, đi ra thì người ta đã bịt mũi bịt miệng lại, người ta không dám hít cái mùi hôi của chúng ta.

Đó thì các con cũng như quý thầy đã thấy được cái sự bất tịnh của cái thân rồi thì còn ham gì trang điểm, áo quần lụa là cho đẹp, cần gì phải trang điểm nào là lược giắt trâm cài, đeo vòng đeo vàng cho nó đẹp? Có gì mà đẹp nữa! Một cái đống thịt hôi thúi, một cái đống xương trắng ghê gớm, một cái đống gân cốt đờm nhớt, rất là bẩn thỉu, có cái gì mà đẹp đẽ đâu?

Cho nên trong khi đó mà chúng ta đã thấy được cái điều này thì chúng ta hãy mau mau mà xa lìa nó đi, đừng có để cho chúng ta chấp cái ngã rồi chúng ta sẽ ước mong cái này cái nọ, cầu mong cái này cái nọ cái kia.

(59:06) Chúng ta nhìn cái hào nhoáng ở bên ngoài của mọi con người, chúng ta tưởng là sang là đẹp, sự thật đó là những cái đau khổ, những cái mà đem đi đến cuộc đời luôn luôn mãi tiếp diễn trong sự luân hồi sanh tử.

Từ cái nhà cửa, từ cái áo quần, từ cái trang điểm hào nhoáng bên ngoài, nó chứng tỏ là những cái người đó là những cái người vô minh, chạy theo những con đường dục lạc của thế gian, tạo muôn vàn thứ đau khổ và tiếp diễn trong cái sự luân hồi sanh tử, mãi mãi muôn đời không bao giờ hết.

Nhìn cái nhà lầu, cái biệt thự, cái villa hào nhoáng, nhìn cái xe hào nhoáng của họ lướt qua thì biết rằng họ là những con người đang đắm đuối ở trong vũng bùn nhơ hôi thúi của thế tục, chớ đâu phải là những kẻ thoát.

Chúng ta sống trầm lặng, sống một mình, sống cô đơn, nỗ lực thực hiện những lời Phật đã dạy, những pháp Phật đã dạy thì chúng ta mới thấy được sự giải thoát chân thật, làm chúng ta ra khỏi những cái sự cám dỗ của những dục lạc thế gian.

Cho nên ở cái bài kệ thứ 26 Phật dạy chúng ta hãy từ bỏ mọi hào nhoáng, những cái trang điểm, những cái hoa mỹ, những cái đẹp đẽ mà làm chúng ta thích thú đó là chúng ta phải từ bỏ. Muốn mà được như vậy thì chúng ta hãy cố gắng, hãy xa lìa, hãy lánh bỏ mà sống riêng một mình.

Thầy xin đọc lại toàn bộ bài kệ để cho quý thầy và các con suy ngẫm mà nỗ lực thực hiện tu hành cho đạt được cái kết quả. Làm thân con người quá khổ!

Mọi du hí vui đùa

Và dục lạc thế gian,

Không trang điểm làm đẹp

Không ước vọng mong cầu,

Từ bỏ mọi hào nhoáng

Nói lên lời chân thật

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó, những cái lời mà Thầy dạy nãy giờ là những cái lời nói chân thật của Phật pháp, lời nói chân thật của một người đã giải thoát, họ không còn ham thích một cái gì hết.

Cho nên qua cái bài kệ này chúng ta phải suy ngẫm để nói lên lời chân thật, để chúng ta biết đâu là đúng, đâu là sai, đâu là khổ, đâu là giải thoát, thì chúng ta mới lập được cái hạnh độc cư trọn vẹn mà không bị dao động tâm, không phá vỡ cái hạnh độc cư.

BÀI KỆ 27 - TỪ BỎ RÀNG BUỘC CỦA CÁC ĐỐI TƯỢNG DỤC

(01:01:33) Bây giờ Thầy đọc đến bài kệ thứ 27:

Với con và với vợ,

Với cha và với mẹ,

Tài sản cùng lúa gạo,

Bà con là trói buộc,

Hãy từ bỏ buộc ràng,

Đó là dục như vậy.

Đây, Đức Phật chỉ cái dục, đối tượng của những cái dục làm chúng ta không xa lìa được những cái lòng ham muốn của chúng ta.

Đối với vợ với con là cái dục, đối với cha với mẹ là cái dục, tài sản cùng lúa gạo tức là cùng những thực phẩm, cái sống đó, đều là cái dục, bà con, thân bằng quyến thuộc đều là cái dục, nó trói buộc chúng ta.

Cho nên Phật khuyên hãy từ bỏ những cái sự ràng buộc này. Đó là những cái mà làm chúng ta không có dứt trừ, không có ly được cái lòng ham muốn, ly được dục, ly các ác pháp được.

Đó là những cái đối tượng mà làm cho cái tâm dục trưởng dưỡng, càng ngày nó càng lớn lên, ham muốn cái này ham muốn cái kia. Đây là những cái đối tượng, cái đối tượng này nó làm cho cái tâm dục của chúng ta trưởng dưỡng, càng lúc càng lớn càng mạnh càng nhiều, và chúng ta càng khổ đau, và càng trôi lăn ở trong sáu nẻo luân hồi của kiếp người từ kiếp này sang kiếp khác.

Đó, cho nên Phật khuyên hãy từ bỏ nó đi mà:

…​ sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó, các thầy thấy chưa? Cái bài kệ thứ 27 Phật chỉ cho chúng ta những cái đối tượng mà nó trưởng dưỡng những cái dục, cái lòng ham muốn của chúng ta lớn lên, lớn dần lên theo những cái đối tượng đó.

Từ những cái đối tượng đó mà đoạn dứt được thì cái dục nó mới có ly. Mà ly được thì cái hạnh sống độc cư đó là một cái bí quyết để mà chúng ta lìa xa nó.

Còn nếu mà chúng ta sống riêng một mình không được thì làm sao mà chúng ta xa lìa con, vợ, cha, mẹ, tài sản của cải, bà con ruột thịt, bạn bè? Cho nên chỉ có cái hạnh độc cư nó mới có xa lìa được, nó mới có ly được.

(01:03:42) Cho nên phải thấy được cái bí quyết thành công của sự tu tập theo đạo Phật đó là hạnh độc cư. Mà Thầy thường nhắc đi nhắc lại với quý thầy rất nhiều, với các con rất nhiều nhưng có mấy ai mà đã sống được độc cư?

Mười năm trong thất Thầy đã sống độc cư, Thầy mới biết được cái bí quyết thành công của nó. Còn bây giờ đem ra nói với quý thầy, quý thầy có tin đâu, các con có tin đâu, cho nên cứ lăng xăng chạy qua chạy lại, nói chuyện này chuyện kia đủ thứ làm cho tâm động, làm sao mà ly, lìa xa được những cái này!

Thì dù bây giờ có nói nhập Nhị Thiền, Tam Thiền cũng chỉ là lời nói suông chớ chả có Tam Thiền, Nhị Thiền gì được. Sơ Thiền ly dục ly ác pháp còn chưa được thì làm gì mà nói Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền?

Cũng như vừa rồi thì các con đã thấy rằng có nhiều người đã tự xưng mình - ở trong cái mùa hạ năm nay có nhiều người tự xét mình, nghĩ rằng mình nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền. Rồi có người bảo Thầy, hỏi Thầy coi phải có vậy không. Thiệt ra thì Thầy làm thinh chớ Thầy không bao giờ Thầy xác định rằng có hay không.

Một người mà chưa có ly dục ly ác pháp thì làm sao gọi là Sơ Thiền, Nhị Thiền? Họ có ba y một bát chưa, họ có ly chưa? Họ còn có (ly) những người thân chưa? Họ còn có những người này người kia, người thân này người thân kia.

Họ chưa có ly được cái nơi sống mà họ gọi là đầy đủ, họ có sống trong rừng, họ ăn lá cây được chưa? Họ có sống ở trong những cái hang cái hốc mà khổ sở, mà toàn ăn rễ cây rừng mà sống, lượm trái cây rừng mà sống, mà không sợ hãi trước những cái sự rắn độc, rít độc hay hoặc là những cái loài có thể giết hại họ chết trong cấp thời, hoặc là những bệnh đau xảy ra đem đến cho họ có thể chết ngay tức khắc?

Thế mà họ chưa có ly được những cái này thì thử hỏi làm sao mà gọi là Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền? Làm sao mà Thầy dám xác nhận là rằng họ là nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền được?

Vì nhìn qua đời sống đã xét thấy được cái chỗ mà họ sống chưa được độc cư, sống được một hai ngày, năm ba ngày thì lại có chuyện, nói chuyện này chuyện kia.

Nếu một người quyết sống độc cư mà để thực hiện con đường ly dục ly ác pháp ít ra họ phải sống một mình phải đôi ba năm, năm năm, mười năm độc cư như vậy, mà biết họ có ly dục ly ác pháp được chưa. Nếu họ sống được một năm, hai năm, ba năm chắc chắn là họ sẽ hoàn tất được con đường đi ly dục ly ác pháp.

(01:06:20) Còn đằng này họ chưa sống được một ngày ly dục ly ác pháp nữa, ngồi đó ở trong thất mà tâm tư nghĩ lăng xăng đủ thứ chuyện ở ngoài thì làm sao mà gọi là ly dục? Hễ thân mà hơi có bệnh đau là nhảy lăng xăng như cá mà bị vào lưới vậy, thì thử hỏi làm sao mà gọi là ly dục ly ác pháp.

Người ly dục ly ác pháp trước những cảnh nào người ta cũng thản nhiên, bình thản. Thân đau như buốt, nhức nhối vô cùng người ta vẫn thản nhiên, người ta không có hề động chạm đến phá cái hạnh độc cư, họ không bao giờ nhảy khỏi cái hàng rào của độc cư. Do vì vậy người ta mới ly dục ly ác pháp.

Còn cái này chạy tùm lum tà la, hễ động một chút là nhảy tới nhảy lui lăng xăng, nhất là bệnh đau mà Thầy đã xét thấy qua các thầy, ai nấy cũng đều là động tâm ở trước các cảm thọ.

Họ không hề dạn dĩ, gan lỳ chịu đựng những cái cơn đau của họ, họ sợ chết. Tu hành mà còn sợ chết thì thử hỏi tu hành cái gì? Tu hành thì không sợ chết nữa thì mới tu hành được. Cho nên vì vậy mà các cảm thọ, nhất là thọ khổ không làm cho họ dao động tâm họ thì họ mới sống độc cư trọn vẹn.

Đây là Thầy nói về cái thọ, còn về biết bao nhiêu thứ chuyện mà họ không thể buông xả được. Đó, như quý thầy thấy nè, ít hôm thì có vợ có con, rồi ít hôm thì có cha có mẹ, ít hôm thì bạn bè đến thăm viếng tùm lum tà la, rồi ít hôm thì có Phật tử này, Phật tử nọ kia đến thăm thầy mình này kia nọ, thì các thầy nghĩ như thế nào, các con nghĩ như thế nào? Có độc cư được không? Độc cư gì như vậy mà độc cư được, vậy mà làm sao gọi là ly dục ly ác pháp được?

Đó là những cái khó của đạo Phật, mà phải thực hiện sống cho đúng thì cái khó đó nó trở thành cái dễ.

Bây giờ Thầy đọc lại cái bài kệ thứ 27 để cho các thầy và các con suy ngẫm qua cái hạnh độc cư ở cái bài kệ này:

Với con và với vợ,

Với cha và với mẹ,

Tài sản cùng lúa gạo,

Bà con là trói buộc,

Hãy từ bỏ buộc ràng,

Đó là dục như vậy.

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Các con suy ngẫm đi, thử coi có phải đó là những sự buộc ràng không? Xa lìa đi để cứu lấy mình, chỉ có mình cứu lấy mình mà thôi các con, không ai cứu mình được trên con đường tu hành giải thoát này.

BÀI KỆ 28 - TRONG THẾ GIAN LẠC THÚ LÀ TRÓI BUỘC NHƯ CÂU MÓC

(01:09:00) Bài kệ thứ 28, Thầy xin đọc cái bài kệ này:

Tất cả là trói buộc,

Ở trong thế gian này,

Lạc thú thật nhỏ bé,

Vị ngọt thật ít ỏi,

Khổ đau lại nhiều hơn,

Chúng đều là câu móc,

Người tu biết như vậy.

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đây, Đức Phật thấy những cái điều trói buộc của thế gian, những cái lạc thú của thế gian nó nhỏ bé, nó ít ỏi, ngọt ngào nó ít ỏi lắm nhưng nó đau khổ nhiều lắm, đừng có ham nó!

Thấy cái vị ngọt của nó tuy ít ỏi nhưng mà chúng ta cứ tham đắm hoài. Những lạc thú thì quá nhỏ bé, có gì thú vui của thế gian đâu? Toàn là thứ đau khổ. Cho nên tất cả những cái sự này là những cái sự trói buộc ở trong thế gian này, nó ràng buộc rất là chặt chẽ.

Những cái lạc thú, những cái vị ngọt này nó là những cái miếng mồi của những cái lưỡi câu móc, nó câu chúng ta, nó làm chúng ta tưởng đó là hạnh phúc, vì vậy mà chúng ta phải chết điêu chết đứng với nó. Khi một người mà đã bị mắc cái lưỡi câu này rồi khó mà gỡ ra.

Chúng ta là những con người, những con vật, những con cá đã mắc câu: Mắc câu của lạc thú ở đời, mắc câu vợ, con, cha, mẹ, tài sản của cải, bà con ruột thịt, chúng ta đã mắc cái lưỡi câu này rồi.

Rồi những cái thú vui nhỏ nhỏ như ăn thì thấy ngon, như nằm thấy êm, ấm, rồi thích những cái dục lạc này, những dục lạc kia, tất cả những cái này là chúng ta đã bị những câu móc của nó hết rồi, chúng ta bị móc ở trong họng của chúng ta rồi. Cho nên hiện giờ chúng muốn kéo lôi chúng ta chỗ nào cũng được hết.

Cho nên đến khi mà cái câu móc cuối cùng là bệnh tật của thân chúng ta, chúng ta cũng bị những cái câu móc đó rồi.

Chúng đều là câu móc,

Ở đây Đức Phật xác định chúng đều là những câu móc, nó móc chúng ta rồi. Cho nên khi mà mới nhức đầu hay nóng lạnh sơ sơ, nó đã móc chúng ta nhảy tứ tung hết, phá độc cư rồi.

Chúng ta thấy rõ chớ? Thấy rõ như vậy thì chúng ta biết rằng chúng ta có sợ nó nữa không? Chúng ta sẽ bứt cái lưỡi câu móc này ra, không để cho nó móc trong họng của chúng ta nữa, từ đó chúng ta mới có được sự giải thoát.

Người tu biết như vậy.

Biết rõ như vậy, biết rõ từng cái như vậy. Từ cái thọ lạc nè, từ cái thọ khổ nè, thọ bất lạc bất khổ nè, từ cái bà con ruột thịt, con cái, vợ chồng, anh em, cha mẹ, bầu bạn đều là những câu móc, móc trong họng của chúng ta, làm chúng ta sống độc cư không có được, làm chúng ta sống trong cái hạnh tu hành không có xong.

Cho nên cuối cùng chúng ta bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi mà không thấy, cứ mải mê tưởng rằng chúng ta tu như vậy là được. Tu như vậy chưa được, vì sống chưa đúng làm sao tu được thiền định?

Thiền định phải chứng minh trên cái nền tảng hạnh sống của một người tu. Người tu đúng hạnh thì tức là thiền định mới đúng, mà người sống không đúng hạnh thì tu hành đều là sai hết, không có tu đúng, đều là tà thiền, tà đạo, đều là những cái pháp tà.

Mà người sống đúng hạnh độc cư, sống đúng giới luật của Phật là người tu sẽ đúng chánh pháp. Mà người tu sống không đúng giới luật của Phật, sống không đúng cái hạnh độc cư sống riêng một mình thì cái người đó dù có tu như thế nào cũng đều là tà pháp ngoại đạo mà thôi, không chính xác đâu.

BÀI KỆ 29 - CHẶT ĐỨT, BẺ GÃY CÁC KIẾT SỬ NHƯ PHÁ MẠNG LƯỚI

(01:12:48) Đến đây Thầy sẽ đọc cái bài kệ thứ 29 để cho quý thầy nghe và các con suy ngẫm cái bài kệ mà Phật khuyên chúng ta như thế nào:

Hãy chặt đứt, bẻ gãy,

Các kiết sử trói buộc,

Như các loài thủy tộc,

Phá hoại các mạng lưới,

Như lửa đã cháy xong,

Không còn trở lui lại.

Người tu cần phải biết

Chỉ sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Bây giờ Thầy sẽ giải thích để các con hiểu cho rõ. Cái câu đầu của cái bài kệ thứ 29 Phật dạy:

Hãy chặt đứt, bẻ gãy,

Đức Phật bảo chúng ta phải chặt đứt, bẻ gãy. Bẻ gãy, chặt đứt cái gì?

Các kiết sử trói buộc,

Như vậy là chúng ta biết rằng phải chặt đứt các cái sợi dây trói buộc đó. Những cái sợi dây đó là những cái sợi dây gì? Ở đây thì nó có bảy cái kiết sử, tức là Thất Kiết Sử đó. Thầy giải thích cho quý thầy rõ bảy cái sợi dây này nó có những cái tên gì.

Cái kiết sử đầu tiên gọi là ái kiết sử. Cái kiết sử thứ hai gọi là sân kiết sử. Cái kiết sử thứ ba gọi là kiến kiết sử. Cái kiết sử thứ tư gọi là nghi kiết sử. Cái kiết sử thứ năm gọi là mạn kiết sử. Cái kiết sử thứ sáu gọi là hữu tham kiết sử. Cái kiết sử thứ bảy là vô minh kiết sử.

Đây là nó có bảy cái kiết sử. Vậy thì Phật khuyên chúng ta phải chặt đứt bảy kiết sử này, giống như cái loài thủy tộc nó phá hoại các mạng lưới, như vậy mới có thể sống độc cư được. Nếu mà còn kiết sử thì chúng ta khó sống độc cư lắm.

Ái kiết sử có nghĩa là cái sợi dây thương yêu nó trói buộc chúng ta. Đối với vợ con, anh em, cha mẹ, dòng họ, những bạn bè thân thuộc…​ nó làm chúng ta thương mến, và sự thương mến đó nó trói buộc chúng ta rất chặt.

(01:15:07) Sân kiết sử có nghĩa là sân, hận, phiền não, giận hờn, tức tối…​ những cái mà thù hận thì nó gọi là sân kiết sử. Cái này nó cũng trói buộc chúng ta rất chặt.

Kiến kiết sử là những cái sự hiểu biết của chúng ta đó, những cái tri kiến mà chúng ta hiểu biết, nó chấp chặt những cái tri kiến đó. Cũng như bây giờ người ta nói trong mọi chúng sanh đều có Phật Tánh, thì ai cũng hiểu như vậy rồi cũng chấp cái đó gọi là kiến kiết sử.

Bởi vì con đường của đạo Phật mà còn cái kiến chấp nào đó thì cái đó nó đâu có được, cho nên trong kinh nói: Nếu mà chúng ta chứng quả A La Hán mà chúng ta còn thấy chứng quả A La Hán thì chúng ta chưa chứng quả A La Hán.

Cho nên có nhiều thầy nói là tui tu tui nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, thì những người đó chưa có chứng gì hết, chưa có biết.

Đạo Phật mà chúng ta mở miệng ra một cái, cho mình được cái đó tức là cái kiến kiết sử. Cái hiểu biết cái đó nó thành ra cái tri kiến, cái tri kiến đó nó gọi là kiến kiết sử.

Cho nên người tu hành mà còn bị dính mắc một cái kiến nào đó thì cái đó nó trói buộc chúng ta, do vì vậy mà chúng ta hay tranh luận hơn thua với họ để cho mình, cái lý luận của mình, cái kiến của mình, cái ý kiến của mình, cái mình hiểu biết nó đúng còn của người khác sai, cho nên mình phải tranh luận với họ, mình bài bác họ thế này thế kia, đó là kiến kiết sử.

Nghi kiết sử là nghi ngờ cái này kia, nghi cái này không phải là pháp chánh, cái này là tà pháp, nghi ngờ cái này cái kia, nghi ngờ người này nghi ngờ người kia, đủ cái thứ nghi đó, thì cái nghi ngờ đó là nghi kiết sử. Nó làm cho chúng ta, buộc chặt chúng ta lắm, khó mà chúng ta vượt thoát ra. Đó là nghi kiết sử.

Mạn kiết sử là ngã mạn. Khi mình hiểu biết một vài điều nào đó ở trong kinh, luật, luận, hoặc là có sự học hỏi, có cấp bằng cử nhân, tiến sĩ, rồi mình chấp vào những cái cấp bằng đó mà cái ngã mạn của mình nó theo đó mà nó lớn lên, cái kiêu ngạo, cái tâm tự kiêu tự đại của mình nó lớn lên ở trong cái chỗ đó.

Mà chính cái kiêu mạn này nó cũng là trói chặt chúng ta dữ lắm. Có một chút gì danh là nó đã ngã mạn rồi, thấy mình tu hơn người ta là nó đã ngã mạn rồi, cho nên nó trói chặt mình lại.

Vì vậy mà cái người tu chúng ta phải bứt chặt, bẻ gãy nó đi. Ở đây Phật (dạy) bẻ gãy đi. Mà chỉ có cái người sống độc cư thì mới bẻ gãy nó được, chớ cái người mà không sống độc cư thì không có bẻ gãy nó được.

Hữu tham kiết sử nghĩa là có cái lòng ham muốn cái này cái kia, ham muốn cái này cái kia cái nọ đó, thì cái đó nó trói buộc chúng ta. Thấy cái gì chúng ta cũng thích, thấy cái gì chúng ta cũng ham, đó là cái muốn của chúng ta đó. Đó là hữu tham kiết sử.

Vô minh kiết sử là cái không hiểu của chúng ta. Hiểu mà không đúng thì đó là cái không hiểu. Một người mà học tiến sĩ, họ học rất giỏi, họ hiểu biết rất giỏi, nhưng mà họ hiểu ở trong cái dính mắc của dục lạc thế gian, họ chạy theo những cái dục lạc thế gian.

(01:18:10) Thí dụ như một cái ông bác sĩ, ổng nói bây giờ phải ăn như vậy mới đủ chất, còn ăn ngày một bữa là thiếu chất, đó là cái vô minh của ông ta. Ổng đâu biết rằng chúng ta ăn ngày một bữa là đủ sống, nó không thừa, còn ông ăn dư đi nữa tới chừng đó ông cũng chết chớ ông có sống đâu?

Phải chi ăn mà nó đầy đủ dưỡng chất này kia nọ mà kéo dài người ta một trăm, hai trăm tuổi, ba trăm, một ngàn tuổi thì như vậy đúng là ông bác sĩ nói đúng. Còn bây giờ ổng ăn có đầy đủ đi nữa thì bảy tám chục tuổi, một trăm tuổi ổng cũng chết queo à!

Có ông bác sĩ nào mà ổng lý luận như vậy, mà có cái ông vua nào ăn đầy đủ chất bổ dưỡng mà ổng sống lâu đâu. Càng ăn bổ dưỡng chừng nào thấy càng mau chết chừng nấy! Cho nên cái lý luận đó là cái lý luận sai, cái lý luận của kẻ vô minh, nó không thấy.

Còn chúng ta ăn ngày một bữa vừa đủ sống, không sanh dục. Mà không sanh dục tức là tâm hồn chúng ta ly các pháp ác rồi, nó không còn khổ đau. Và không còn khổ đau thì chúng ta thanh thản, cho nên tuổi thọ chúng ta sống kéo dài ra được.

Còn họ ăn nhiều họ sanh dục, từ cái sanh dục này đến sanh dục kia, họ làm cho tâm hồn họ đau khổ, tuổi thọ họ càng ngày càng kém chớ chưa phải là kéo dài cái tuổi thọ họ đâu.

Cho nên từ cái chỗ hiểu sai lệch, cái chỗ mà hiểu không đúng như vậy đó gọi là vô minh. Chớ không phải họ không hiểu, mà họ hiểu không đúng, không đúng cái đường lối giải thoát, không đúng cái tâm trạng giải thoát, mà hiểu một cách dính mắc rồi chạy theo cái ăn uống, tức là chạy theo cái dục lạc. Ăn cho nhiều để cho nó bổ, ăn cho nhiều tức là chạy theo dục, rồi ăn nhiều nó sanh dục.

Đó là những cái hiểu lầm lạc mà gọi là vô minh kiết sử. Cái này nó cũng trói buộc lắm.

Cho nên có một lúc người ta nói ăn cơm gạo lứt muối mè là trị bệnh này bệnh kia, người ta cũng chấp vào cái chỗ đó, người ta cho như vậy đó là đúng, đó là cái vô minh.

Có người nói nhịn đói là sẽ trị bệnh, có nhiều người thì nghĩ rằng tiết thực trị bệnh, nghĩ cái này nghĩ cái kia, có nhiều người cho uống nước tiểu, nước đái là hết bệnh.

Ôi thôi nó đủ thứ vô minh! Ở cái đời sao mà nó đủ những cái vô minh vô cùng, nó không hiểu được cái gì hết. Cho nên càng thấy cái cuộc đời nó càng đủ loại, nó chế biến ra đủ loại để mà nó vô minh đủ cách ở trong đó, nó không có thấy cái lối giải thoát.

Cuộc đời này, cái thân này là thân bất tịnh, hôi thúi, bẩn thỉu. Cái thân này là cái thân không có thể trường thọ, thân nhân quả, cái thân vô thường, nó sống bữa nay ngày mai nó chết. Nó liên tục có sự thay đổi ở trong thân của nó, nó cằn cỗi, càng ngày càng tiêu, càng hoại diệt. Nó đâu có trường tồn?

Thế mà người ta cứ chấp chặt nó, nuôi dưỡng nó bằng cách này bằng cách khác để cho nó bồi bổ, để nó bồi dưỡng, hở ra chút thì thiếu chất, thiếu này kia, sanh cái tâm lo lắng, dao động tất cả mọi cái. Chút hơi nhức cái đầu, hơi đau cái chân một chút đã là băn khoăn, đã là lo lắng rồi.

Mà cái tâm dao động như vậy, cái tâm đó là cái tâm bệnh tật, cái tâm không sáng suốt, cái tâm vô minh, cho nên do vì vậy đó mà luôn lúc nào cũng trong cái đau khổ chớ không bao giờ được giải thoát.

(01:21:16) Đó, cho nên ở đây Phật dạy chúng ta phải bẻ gãy và bứt bảy cái sợi dây kiết sử này thì như vậy chúng ta mới có được sự giải thoát.

Phật ví như các loài thủy tộc, tức là loài cá ở dưới biển, sông đó, bị người ta bao cái lưới rồi người ta bắt lên để người ta làm thịt, thì các loài thủy tộc này phải phá tất cả cái mạng lưới đó để mà đi ra.

Thì chúng ta đang bị những cái kiết sử, bảy kiết sử này trói buộc chúng ta, cũng như đang bị ở trong một cái lưới, cho nên chúng ta phải chặt đứt và bẻ gãy nó đi. Nếu mà chúng ta không có chịu dứt bỏ nó, không có chịu chặt đứt nó thì chúng ta khó mà có thể thoát ra khỏi cái con đường sanh tử luân hồi này.

Cho nên chúng ta phải chặt đứt nó, phải chặt cho thật đứt đoạn, phải làm cho mạng lưới phải rách nát để mà loài thủy tộc thoát ra khỏi những cái đau khổ, cũng như là chúng ta bẻ gãy tất cả các kiết sử vậy.

Đức Phật trong cái bài kệ này còn ví dụ thêm cho chúng ta thấy:

Như lửa đã cháy xong,

Nó cháy qua rồi nó không còn cháy lui trở lại được, bởi vì đâu có chà bổi nữa, cho nên nó đốt sạch. Chúng ta đoạn dứt các kiết sử cũng như là lửa cháy, lửa cháy cho sạch, không còn có một cái sự gì trói buộc chúng ta được.

Thì như vậy người tu hành mà hiểu biết, mà rõ được như vậy thì chúng ta phải làm gì mà chúng ta cắt được nó? Chỉ có sống độc cư mới cắt được bảy kiết sử này mà thôi.

Cho nên cái hạnh độc cư rất là tuyệt vời. Nếu chúng ta biết cách sống riêng một mình thì các kiết sử này chúng ta đều bứt hết, bẻ gãy hết. Nếu mà chúng ta không sống được độc cư thì khó mà bẻ gãy thất kiết sử này, bảy cái kiết sử này không có thể nào bứt ra được hết, thì muôn đời chúng ta đều bị ở trong cái mạng lưới của bảy kiết sử này trói buộc đời này sang đời khác, không bao giờ mà thoát ra được.

Cho nên cái bài kệ thứ 29 Phật khuyên chúng ta phải sống độc cư thì mới bẻ gãy, mới chặt đứt tất cả các kiết sử. Vậy thì Thầy đọc lại để cho quý thầy suy ngẫm lại cái bài kệ Đức Phật dạy có đúng hay không:

Hãy chặt đứt, bẻ gãy,

Các kiết sử trói buộc,

Như các loài thủy tộc,

Phá hoại các mạng lưới,

Như lửa đã cháy xong,

Không còn trở lui lại.

Người tu cần phải biết

Chỉ sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó là cái bài kệ mà chúng ta dùng cái hạnh độc cư mà bẻ gãy và chặt đứt tất cả những cái sợi dây ràng buộc của kiết sử, như vậy chúng ta mới trọn vẹn được con đường tu tập theo đạo Phật.

BÀI KỆ 30 - NGƯỜI TU CẦN PHẢI BIẾT HỘ TRÌ CÁC CĂN

(01:24:00) Bây giờ Thầy tiếp tục bài thứ 30:

Với mắt cúi nhìn xuống,

Chân đi không lưu luyến,

Các căn được hộ trì,

Tâm ý khéo chế ngự,

Không đầy ứ, rỉ chảy,

Không cháy đỏ bừng lên.

Người tu cần phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đây, cái bài kệ này Đức Phật muốn chúng ta sống một mình, sống riêng một mình, mà sống trong cái sự phòng hộ của sáu căn. Mà sống một mình, sống độc cư, khi đi ra đường thì như thế nào?

Nếu một người sống độc cư thì khi đi ra đường, dù đi nơi đâu - chớ không phải là giam mình ở trong nhà mà gọi là độc cư, cũng có đi ra đường, cũng có đi chỗ này chỗ kia, nhưng cái đi của chúng ta như thế nào để đúng là hạnh độc cư?

Với mắt cúi nhìn xuống,

Con mắt nhìn xuống vầy chớ không có ngó qua ngó lại. Đó là phòng hộ nhãn căn, phòng hộ mắt để cho mắt không có dính mọi vật, tức là giữ gìn mắt như vậy gọi là sống độc cư.

Chân đi không lưu luyến,

Cái chân chúng ta bước đi, ở trên bước đường mà chúng ta đi ra khỏi cái thất của chúng ta rồi, cái vị trí của chúng ta rồi, nhưng chúng ta đừng có để cái sự lưu luyến của chúng ta chỗ này chỗ kia chỗ nọ. Đó cho nên đó là độc cư đó.

Cho nên vì vậy mà hôm nay chúng ta học cái bài này, chúng ta biết được cái độc cư không có nghĩa là chúng ta khép chặt mình ở trong một cái khuôn viên nào đó, mà chúng ta đi tới đi lui nhưng phải có sự phòng hộ, mắt mình nhìn xuống, chân đi không lưu luyến thì đó là độc cư đó.

Cho nên chúng ta thấy rằng chúng ta đi ra mà chúng ta giữ gìn trọn vẹn được như vậy thì gọi là độc cư. Còn nếu mà chúng ta giữ gìn không được trọn vẹn như vậy thì không nên đi ra.

Các căn được hộ trì,

Thì mắt tai mũi miệng thân ý của mình đều được giữ gìn không có cho nó dính mắc vào các trần, các pháp trần sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đừng có cho nó dính mắc vào. Vì vậy mà chúng ta luôn luôn phải hộ trì các căn. Mà khi hộ trì các căn như vậy thì tức là chúng ta đã sống độc cư đó.

Tâm ý khéo chế ngự,

Cái tâm với cái ý của chúng ta luôn luôn lúc nào cũng chế ngự, không có cho nó khởi lên sự ham muốn cái này cái nọ cái kia, đó là chúng ta khéo mà chế ngự được tâm mình như vậy, đó là mình sống độc cư đó.

Không đầy ứ, rỉ chảy,

Không cháy đỏ bừng lên.

Nghĩa là nó không có chảy ra, nó không có đổ ra, nó không có khởi ra, nó không nghĩ ra cái ham muốn, cái này cái kia, thì đó là những cái lậu hoặc nó không có rỉ ra được. Mà không có rỉ chảy ra được thì tâm chúng ta rất là thanh thản.

(01:27:17) Cho nên nó không có khởi ra, vì tâm ý mình khéo chế ngự cho nên nó không có khởi nghĩ ra, cho nên nó không có bị chất chứa, nó không có bị ức chế. Mình chế ngự nó, mình không làm cho nó dính mắc trong những cái đối tượng của hiện tại đối với nó.

Và tâm của chúng ta khéo tu Định Vô Lậu, xả trừ những cái lậu hoặc, cho nên vì vậy mà nó không có đầy ứ mà rỉ chảy ra.

Vì vậy mà tâm ý chúng ta nó không có phiền não, không có đau khổ, nó không có sân hận, cho nên “không cháy đỏ bừng lên” - tức là không có sân hận, không có giận dữ nữa, nó thanh thản, nó nhẹ nhàng, nó an ổn.

Đó là những cái điều kiện như vậy là những cái điều kiện sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình.

Người tu cần phải biết

Người tu sĩ chúng ta cần phải hiểu biết như vậy, đó là cái lối sống một mình đó, giống như con tê ngưu một sừng.

Bởi vì khi mà chúng ta đi ra, hay hoặc đi tới đi lui ở trong thất của chúng ta cũng vậy, chúng ta nhìn xuống, giữ gìn mắt của mình, cúi nhìn xuống, chân đi thì không lưu luyến một cái chỗ nào cả hết, các căn thì luôn luôn lúc nào cũng hộ trì, tâm ý thì khéo chế ngự, không để cho lậu hoặc rỉ chảy ra, không sân hận bừng cháy lên, thì đó là chúng ta đã sống hạnh độc cư, đã sống đúng người độc cư.

Mà nếu chúng ta không có giữ gìn cái chỗ tu hành được như vậy thì tức là chúng ta không phải là người sống độc cư.

Cho nên sống độc cư thế nào? Các thầy thấy: Khi đi chúng ta nhìn xuống chân, rồi tu tập định Chánh Niệm Tỉnh Thức trong cái hành động của mình. Cho nên Chánh Niệm Tỉnh Thức thì trong chánh niệm mình có lưu luyến gì không? Đâu có lưu luyến gì.

Luôn luôn lúc nào cũng phòng hộ sáu căn, không có được để cho nó duyên theo các trần làm cho nó bị dính mắc, cho nên các căn chúng ta thanh tịnh. Tâm ý thì khéo chế ngự, làm cho nó không có rỉ chảy ra những cái lậu hoặc, không có sân hận, không có giận dữ, không có làm những cái điều ác.

Cái hành động đó là những cái hành động sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình giống như con tê ngưu một sừng.

Đây Thầy đọc lại cái bài kệ 30 này để cho quý thầy và các con suy ngẫm, cố gắng giữ gìn.

Trên bước đường tu tập mà Thầy đã dạy các con có những cái định: Định Chánh Niệm Tỉnh Thức, tu cái tâm thanh thản - Định Sáng Suốt đó, Định Vô Lậu, thì ở chỗ này đó là chúng ta phòng hộ sáu căn đều là do cái sự tu tập tỉnh thức của chúng ta.

Với mắt cúi nhìn xuống,

Chân đi không lưu luyến,

Các căn được hộ trì,

Tâm ý khéo chế ngự,

Không đầy ứ, rỉ chảy,

Không cháy bừng đỏ lên.

Người tu cần phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó là bài kệ thứ 30./.

HẾT BĂNG

61 - 42 BÀI KỆ TÊ NGƯU MỘT SỪNG 03

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 61 - 42 BÀI KỆ TÊ NGƯU MỘT SỪNG 03

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

BỐN MƯƠI HAI BÀI KỆ TÊ NGƯU MỘT SỪNG - PHẦN 3

BÀI KỆ 31 - TRÚT BỎ CÁC BIỂU TƯỢNG THẾ GIAN NHƯ SAN HÔ BỎ LÁ

(00:00) Bây giờ Thầy tiếp tục cái bài kệ thứ 31…​ (Mất tiếng)

Hôm qua Thầy đã đọc bài kệ thứ 31, bây giờ Thầy xin đọc lại để quý thầy và các con lắng nghe cho kỹ. Đây Thầy đọc:

Hãy trút bỏ, để lại,

Các biểu tượng thế gian,

Như loại cây san hô,

Loại bỏ các nhành lá,

Rồi đắp áo cà sa,

Ra khỏi nhà thế tục.

Người tu sĩ cần biết

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Bây giờ Thầy sẽ giải thích cho các thầy và các con nghe. Ở đây cái bài kệ, hai câu đầu thì Đức Phật khuyên cái người tu, khuyên chúng ta tu hành thì:

Hãy trút bỏ, để lại,

Các biểu tượng thế gian,

Nghĩa là chúng ta trút bỏ lại hết tất cả những cái cuộc sống, những cái biểu tượng, những cái hình ảnh, những cái sắc tướng, những cái tham đắm, những cái gì mà của thế gian chúng ta bỏ sạch ra hết, chúng ta bỏ sạch ra.

Mà như hai cái câu kệ kế đó thì Đức Phật ví như cái loại cây san hô nó trút bỏ cái nhành lá của nó hết, nó còn có trơ trụi, còn có những cái cọng nó mà thôi, cái cây nó mà thôi chớ còn nó không còn có gì nữa hết, thì chúng ta là những người mà quyết tâm đi tìm con đường giải thoát thì chúng ta hãy trút bỏ những cái biểu tượng của thế gian, những cái cuộc sống của thế gian.

Vì cái cuộc sống của thế gian là cái cuộc sống dính mắc, là cái cuộc sống đau khổ, là cái cuộc sống đưa đến cho chúng ta nhiều cái, tạo thành những cái nhân quả thiện ác để rồi tiếp tục ở trên con đường tái sanh luân hồi mãi mãi mà không bao giờ dứt.

Cho nên cái người muốn tu theo đạo Phật thì phải trút bỏ hết, để lại hết, không có mang theo, không có lấy theo một cái gì của thế gian nữa hết, bỏ xuống hết, bỏ xuống hết.

Mặc dù là chúng ta đắp áo cà sa đi tu rồi, ra khỏi nhà thế tục, nhưng chúng ta mà không hiểu biết, không có trút bỏ ra hết thì vẫn còn mang theo trong chiếc áo cà sa của chúng ta.

Bằng chứng như bây giờ đó thì các thầy và cũng như các con cũng thấy, có nhiều người tu hành theo đạo Phật, cũng đắp áo cà sa, cũng trong hàng giáo phẩm là Đại đức, Thượng tọa, rồi Hòa thượng nhưng họ chưa có trút bỏ hết đâu.

Họ còn sống ở trong những cái biểu tượng của thế gian, những cái hình ảnh của thế gian, những cái tham đắm của thế gian. Vào trong chùa họ mình thấy tất cả những cái gì mà thế gian sống là họ có đủ những cái đó hết. Và cũng vì vậy mà họ không thể nào mà sống độc cư được.

Cho nên cuối cùng thì chúng ta thấy trong chiếc áo cà sa chúng ta chưa có cái trong sạch, nó còn cái ô nhiễm. Ngoài thì che chiếc áo cà sa nhưng bên trong nó còn rất nhiều cái sự ô nhiễm của nó.

Cho nên người tu hành theo đạo Phật khi mà chúng ta chấp nhận con đường tu thì chúng ta phải xả bỏ hết, trút hết xuống, không có đem theo một cái gì cả hết, chỉ còn có duy nhất là hướng đến cái sự giải thoát, chấm dứt cái sự tái sanh luân hồi, không còn khổ đau nữa, và chấm dứt trong một cái đời này.

(03:18) Chớ đừng có đắp chiếc áo cà sa ra, khỏi nhà thế tục, sống trong một ngôi chùa, một cái tu viện, một cái thiền viện mà cái tâm tư của thế gian, mà cái cuộc sống của thế gian, vật chất đầy đủ, máy móc đầy đủ, phương tiện đầy đủ thì thử hỏi những người đó làm sao mà giải thoát được?

Đời sống không xa lìa cái ăn cái ngủ thì làm sao mà giải thoát được? Ăn uống phi thời, còn ăn uống lặt vặt nữa là khác. Ngủ nghỉ phi thời không giờ giấc nhất định làm sao mà không mê muội, không vô minh?

Cho nên ở đây Đức Phật khuyên bài kệ thứ 31: Nếu chúng ta là người quyết sống một mình thì hãy xả bỏ hết những của cải tài sản, những cái hình ảnh, những cái sắc tướng của thế gian dẹp sạch xuống thì gọi là sống một mình, sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng.

Nếu chúng ta không xả hết, không bỏ hết, dù là chúng ta đắp chiếc áo cà sa, ra khỏi nhà thế tục nhưng cuộc sống chúng ta không buông xả thì đương nhiên coi như chúng ta chưa phải là người sống độc cư.

Độc cư không có nghĩa là không nói chuyện với mọi người, không có nghĩa là giao thiệp, tiếp duyên với mọi người mà còn phải buông xả hết mọi vật xung quanh mới gọi là độc cư. Còn mang theo cái vật này vật kia, chung quanh chúng ta còn nhiều thứ thì chưa hẳn đã là độc cư. Cho nên độc cư phải mang đầy đủ ý nghĩa là xả bỏ hết thì mới đầy đủ ý nghĩa của độc cư.

Chúng ta chỉ còn có đi tìm con đường giải thoát, cho nên cởi bỏ hết những gì của thế gian thì mới có thể giải thoát được. Chưa cởi bỏ là làm sao mà giải thoát được?

Vì thế Thầy cũng quyết tâm cởi bỏ hết để chúng ta tìm con đường giải thoát hoàn toàn. Còn vướng mắc một cái gì thì không ra khỏi nhà thế tục, không có trút bỏ được hết thì làm sao mà giải thoát? Như còn đồ chúng, như còn chùa, còn tu viện, còn cái này còn cái kia thì làm sao mà giải thoát được!

Cho nên phải dứt bỏ, dứt bỏ cả danh, cả lợi, tất cả mọi cái để mà chúng ta không còn gì nữa cả. Có như vậy chúng ta mới giải thoát được, mới độc cư trọn vẹn được, mới cứu mình ra khỏi nhà sanh tử, làm chủ luân hồi, mới chấm dứt được.

Cho nên bài kệ này đầy đủ ý nghĩa, dù đắp chiếc áo cà sa mà không chịu trút bỏ thì cũng khó mà giải thoát được. Hình ảnh như tu sĩ Phật giáo hiện giờ khắp cùng trên thế gian này, tu rất nhiều nhưng trút bỏ để sống độc cư thì chắc chắn chưa ai đã trút bỏ hết sạch, vì thế mà chẳng tìm lấy con đường giải thoát của đạo Phật được.

Thầy xin đọc lại bài kệ để chúng ta suy ngẫm, suy ngẫm để nghiệm coi con đường tu của mình có độc cư, có sống riêng một mình chưa, có xả bỏ hết chưa. Đây các thầy và các con hãy nghe lại kỹ:

Hãy trút bỏ, để lại,

Các biểu tượng thế gian,

Như loại cây san hô,

Loại bỏ các nhành lá,

Rồi đắp áo cà sa,

Ra khỏi nhà thế tục.

Người tu sĩ phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

BÀI KỆ 32 - SỐNG HẠNH KHẤT THỰC ĐỂ TÂM KHÔNG BỊ TRÓI BUỘC

(06:50) Bây giờ đến bài kệ thứ 32, Thầy xin đọc để các thầy và các con suy ngẫm những lời Phật dạy để chúng ta sống cho đúng những cái hạnh của một người tu, để tu tập mới có được sự giải thoát hoàn toàn, chấm dứt được sự sanh tử và luân hồi.

Đây, bài kệ Thầy xin đọc:

Không tham đắm vật chất,

Không tham, không tạo tác,

Không nhờ ai nuôi dưỡng,

Chỉ khất thực từng nhà,

Đối với mọi gia đình,

Tâm không bị trói buộc.

Người tu sĩ phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Ở trên thì Đức Phật bảo chúng ta trút bỏ hết tất cả các biểu tượng của thế gian, còn ở dưới này, bài kệ thứ 32 thì Phật dạy chúng ta không có tham đắm những cái vật chất, tất cả những cái gì vật chất xung quanh chúng ta, vật gì chúng ta cũng đừng có tham đắm nó hết.

Đến cái bát của chúng ta ăn cơm hằng ngày cũng không có tham đắm, có thì dùng mà không có thì thôi chớ không có sợ hãi mất cái bát của mình, ai lấy thì tiếc, đừng có chấp cái đó.

Không tham, không tạo tác,

Không có tham lam, không có ham muốn nữa mà cũng không có tạo tác ra cái này cái kia nữa.

Không nhờ ai nuôi dưỡng,

Vì mình nhờ người khác nuôi dưỡng mình tu hành thì nó còn có những cái khó lắm, cái khó đối xử lắm. Cho nên chúng ta chỉ khất thực từng nhà, do sự đi xin từng nhà đó thì chúng ta không có…​ đối với mọi gia đình thì họ không có ràng buộc. Mình xin rồi thôi, rồi mai mình xin người khác, ai có cho thì mình sống, không cho thì thôi.

Chớ còn nhờ người khác nuôi nó có cái ơn ở trong đó, nó làm chúng ta rất khó xử lắm. Nhiều khi họ sơ suất thì làm cho mình buồn, hoặc là họ quá nồng nhiệt giúp đỡ mình thì mình thấy cái ơn nó ái ngại ở trong lòng của mình, nó khó chịu, nó làm cho tâm mình nó bị trói buộc.

(09:03) Cho nên mình đi khất thực từng nhà, mình đi xin mọi gia đình, từ cái người nghèo đến người giàu mình không bị ai ràng buộc, không bị Phật tử ràng buộc, mình không bị trói buộc, do đó mình rất là sống thoải mái trên cái bước đường tu tập của mình.

Cho nên tâm không có bị trói buộc bởi những cái tình cảm của những người lo cho mình thế này thế khác, mình không có bị những cái tình cảm trói buộc đó.

Người tu sĩ phải biết

Mình phải rõ biết được, mình đi tu rồi mình phải rõ biết được mọi từng chút từng chút, mình phải cố gắng riêng mình, nếu mà còn để một cái sự gì mà trói buộc, một tình cảm gì trói buộc chúng ta thì chúng ta phải thấy rằng con đường tu của chúng ta sống hạnh độc cư rất là khó.

Bởi vậy trong cái thời đại của chúng ta không phải giống như trong cái thời đại của Đức Phật, chúng ta đi xin từng nhà hiện giờ rất là khó khăn, không phải dễ.

Muốn được sống mà yên ổn tu hành thì chúng ta phải biết, phải hiểu rõ được cái hoàn cảnh, cái thời điểm của mình, phải sống làm sao để cho tâm nó không bị trói buộc, nó không bị ràng buộc thì như vậy chúng ta mới sống độc cư được. Còn có sự ràng buộc, có sự trói buộc thì khó mà sống độc cư.

Bài kệ này thì Đức Phật nói, bảo chúng ta cái điều chính của nó là đừng có tạo tác, đừng tham, mà không tạo tác, không nhờ ai nuôi dưỡng, chỉ đi ăn xin mà thôi, sống như vậy mới có thể sống độc cư trọn vẹn.

Còn không sống được vậy thì khó mà độc cư trọn vẹn, rất khó độc cư trọn vẹn. Mà không độc cư trọn vẹn thì chúng ta khó mà đi đến con đường giải thoát, khó mà tìm lấy cái con đường đi đến cứu cánh cho chính mình ra khỏi nhà sanh tử luân hồi.

Thầy xin đọc lại bài kệ này để cho quý thầy và các con suy ngẫm, mà suy ngẫm để sống cho đúng cái hạnh độc cư, để sống cho đúng cuộc sống riêng một mình:

Không tham đắm vật chất,

Không tham, không tạo tác,

Không nhờ ai nuôi dưỡng,

Chỉ khất thực từng nhà,

Đối với mọi gia đình,

Tâm không bị trói buộc.

Người tu sĩ phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

BÀI KỆ 33 - TỪ BỎ, DỨT SẠCH CÁC TRIỀN CÁI VÀ KIẾT SỬ

(11:30) Bây giờ Thầy đọc đến bài kệ thứ 33:

Từ bỏ năm triền cái,

Che đậy trói buộc tâm,

Đối với mọi kiết sử,

Hãy trừ khử, dứt sạch,

Không y cứ nương tựa,

Chặt đứt ái sân hận.

Người tu sĩ cần biết

Hãy riêng sống một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Nghĩa là bài kệ này Đức Phật khuyên chúng ta chỉ có sống một mình thì chúng ta mới từ bỏ được năm cái triền cái. Năm triền cái là tham, sân, si, mạn, nghi, luôn luôn nó che mờ, nó làm chúng ta không thấy, nó trói buộc chúng ta rất chặt.

Và thất kiết sử - bảy cái kiết sử mà bài kệ trước Phật đã nhắc nhở: Hãy trừ khử, dứt sạch các cái kiết sử, các cái dây này, không có y cứ nó mà nương tựa vào nó.

Nghĩa là ái kiết sử thương ghét, đừng có y cứ vào cái chỗ thương ghét đó. Người ta thương mình thì điều đó cũng là tai hại, cũng nguy hiểm cho sự tu tập của mình, làm cho mình khó mà có thể vượt qua, có thể sống độc cư trọn vẹn được. Làm sao mà vượt qua được những cái ái kiết sử đó.

Chặt đứt ái sân hận,

Cái kiết sử sân hận này nó cũng là cái nguy hiểm hết sức, nó làm chúng ta khó mà có thể độc cư được. Mà chỉ có độc cư thì chúng ta mới dứt sạch được ái kiết sử, ái sân hận, ái tham, ái si, ái vô minh, tất cả những cái này nó nhờ độc cư mà có thể mới dứt được.

Cũng như cái ngũ triền cái - tham, sân, si, mạn, nghi che đậy, phủ mờ làm chúng ta không có thấy, mà người độc cư thì mới dứt sạch, mới từ bỏ được năm cái triền cái này, còn không có độc cư thì khó mà từ bỏ năm cái triền cái và thất kiết sử được, bảy cái kiết sử.

(13:34) Cho nên người tu sĩ phải thấy rõ được cái điều này rất là quan trọng, là phải sống độc cư, phải sống riêng, sống một mình thì mới dứt được năm triền cái, mới ly được năm triền cái, mới đoạn dứt bảy kiết sử.

Đó là cái bài kệ thứ 33, muốn dứt trừ năm triền cái và thất kiết sử thì phải sống độc cư, phải sống riêng một mình thì mới chặt đứt được tất cả những cái này, thì chúng ta không còn nương tựa nó được.

Còn nếu mà chúng ta không sống một mình thì chúng ta sống có người này người kia người nọ đồ thì tức là chúng ta nương tựa thất kiết sử và năm cái triền cái này, vì vậy con đường tu hành của chúng ta chẳng đi tới đâu hết, cuối cùng thì đời chẳng ra đời mà đạo chẳng ra đạo.

Như chúng ta dù có đắp chiếc áo cà sa mà không sống độc cư thì muôn đời ngàn đời chúng ta cũng khó mà có thể giải thoát được, thì trong chiếc áo cà sa đó dẫy đầy những năm cái triền cái và thất kiết sử trói buộc cái vị mà đắp áo cà sa đó.

Bằng chứng như các thầy cũng như các con đã thấy tu sĩ chúng ta hiện giờ khắp cùng trên thế giới này về đạo Phật rất đông nhưng họ vẫn sống không đúng hạnh độc cư, họ không sống riêng một mình, cho nên họ bị năm triền cái và thất kiết sử trói buộc rất chặt chẽ, không thể nào mà họ thoát ra khỏi.

Cho nên họ luôn luôn - có thể nói rằng cuộc đời của họ liên tục, tiếp diễn ở trong sự luân hồi tái sanh, trong sáu nẻo ba đường, không bao giờ thoát ra khỏi.

Họ tu từ kiếp này đến kiếp khác cũng không bao giờ tìm lấy con đường giải thoát được vì cái lối sống của họ, vì họ sống không đúng hạnh, họ sống không độc cư, họ sống không riêng sống một mình, họ không giống như con tê ngưu một sừng cho nên họ luôn luôn bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, có khi đọa địa ngục nữa là khác.

Như vậy cái bài kệ này nhắc nhở chúng ta, mỗi một cái bài kệ đều có một ý nghĩa của nó để đưa chúng ta đi vào cái sự sống đúng cái hạnh sống độc cư, sống riêng một mình để thực hiện con đường giải thoát của đạo Phật.

BÀI KỆ 34 - XOAY LƯNG VỚI DỤC LẠC ĐỂ XẢ TÂM THANH TỊNH

(15:48) Bài kệ thứ 34:

Hãy xoay lưng trở lại,

Đối với lạc và khổ,

Cả đối với hỷ ưu,

Được cảm thọ từ trước,

Hãy chứng cho được xả,

Tâm an chỉ thanh tịnh.

Người tu cần phải biết

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đức Phật dạy chúng ta xoay lưng trở lại với cuộc đời, chớ không phải chạy theo cuộc đời mà xoay lưng trở lại, nghĩa là sống ngược trở lại.

Người ta chạy theo vật chất thì chúng ta ngược lại là xả bỏ hết vật chất. Người ta thương yêu giận hờn thì chúng ta xoay lưng trở lại không còn thương yêu giận hờn, chúng ta xả hết, xả hết.

Đối với những cái lạc của thế gian, cái cám dỗ của thế gian làm cho thích thú thì chúng ta xoay lưng nó trở lại, không có tìm cái lạc cho mình. Và đứng trước những cái khổ, cái thọ khổ của nó chúng ta cũng chẳng hề sợ hãi.

Trước cái sự thọ khổ của con đường đi tìm đường giải thoát gặp những cái khó khăn, khổ sở, chúng ta chẳng sờn lòng, tiến bước đi về phía khổ sở. Mặc dù bữa đói bữa no là cái khổ, bữa lạnh bửa lẽo, áo y không đủ mà chúng ta vẫn vui vẻ, sống xoay lưng lại, ngược lại với cuộc sống đầy đủ của vật chất thế gian.

Dù là từ trước đến giờ chúng ta có những cái thói quen, đã cảm thọ những cái lạc, cái khổ và cái hỷ ưu, những cái vật chất của thế gian đã cám dỗ chúng ta, đã thành những thói quen từ trước, nhưng bây giờ khi mà chúng ta đã quyết tìm con đường giải thoát thì nhất định chúng ta phải xoay lưng trở lại, chúng ta phải xả bỏ nó.

Cho nên chúng ta phải chứng được cái sự xả đi, xả ly nó ra. Nghĩa là chúng ta phải làm sao bỏ cho được. Mà muốn bỏ được thì chúng ta phải sống độc cư, sống riêng một mình.

Chỉ có sống độc cư, sống riêng một mình thì chúng ta mới xả được nó, còn nếu mà không có sống riêng một mình, không có sống độc cư thì làm sao mà chúng ta xả được nó?

Cho nên câu kệ nói, dạy chúng ta:

Hãy chứng cho được xả,

Tâm an chỉ thanh tịnh.

Nếu mà chúng ta sống độc cư được thì chúng ta mới xả được, và chúng ta xả được thì tâm chúng ta mới có an chỉ, mới có thanh tịnh được. Còn nếu mà xả không được nó, không xoay lưng được lại với nó thì chúng ta không bao giờ mà có sự thanh tịnh, có sự an chỉ được.

(18:13) Cho nên hiện giờ như các thầy cũng như các con đã thấy, mọi người tu người ta không xoay lưng lại với cuộc đời, vì thế mà tâm người ta không có an chỉ đâu, tâm của họ không có thanh tịnh đâu.

Do cái chỗ này chúng ta phải biết rằng cái mấu chốt của cái sự tu tập của chúng ta là cái cuộc sống phải sống riêng một mình, phải sống độc cư thì chúng ta mới từ giã, mới xả được cái thọ của hỷ ưu, cái thọ của lạc, cái thọ của khổ, mới xoay lưng lại với cuộc đời mới được.

Cuộc đời thì người ta thích hội họp vui vẻ, lý luận cái này, nói chuyện kia làm cho vui vẻ với nhau. Còn chúng ta xoay lưng trở lại, chúng ta sống thui thủi một mình, sống trầm lặng một mình, sống cô đơn một mình, đó là cái lối sống của bậc tu sĩ.

Muốn được vậy thì các thầy phải nỗ lực, phải cố gắng, phải sống cho đúng cách, sống cho riêng một mình, sống độc cư. Không phải ở chỗ độc cư là cái chỗ mà chúng ta câm, không nói, nhưng chúng ta biết lúc nào mà đúng thời chúng ta nói, mà không đúng thời thì chúng ta không nói.

Cho nên sống độc cư có nghĩa là sống riêng một mình nhưng cái đúng thời, chúng ta nói những cái gì đúng thời, hợp lẽ hợp lý chớ không có nói tầm bậy tầm bạ, mà không có hội họp.

Cho nên những gì mà người ta cần hỏi mình thì mình cần trả lời, hoặc những gì cần thiết cho con đường tu tập của mình thì mình hỏi, chớ đâu phải là mình câm!

Mình nói chuyện nhưng không phải nói chuyện tào lao, nói chuyện tầm bậy, không kết họp, không đi tới chỗ này chơi, không đi tới chỗ kia chơi. Mình xoay lưng ngược trở lại với cuộc đời là mình sống như vậy, nó mới đúng cái chỗ mà mình tu tập.

Đó thì cái bài kệ 34 là cái bài kệ dạy chúng ta xoay lưng lại với cuộc đời, xoay lưng lại với thọ khổ thọ lạc, xoay lưng lại với hỷ ưu mà cố gắng để mà xả cho được, xả cho hết. Mà xả được thì tâm mới an chỉ, mới thanh tịnh thì mới sống độc cư trọn vẹn, con đường tu tập giải thoát, chấm dứt sự sanh tử luân hồi mới được dễ dàng.

BÀI KỆ 35 - SIÊNG NĂNG, KIÊN TRÌ, DŨNG MÃNH ĐẠT ĐƯỢC LÝ CHÂN ĐẾ

(20:23) Bây giờ Thầy đọc đến bài kệ thứ 35:

Tinh cần và tinh tấn,

Đạt được lý chân đế,

Tâm không còn thụ động,

Không còn có biếng nhác,

Kiên trì trong cố gắng,

Dũng lực được sanh khởi.

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Bây giờ Thầy sẽ giảng cái bài kệ thứ 35 này.

Chữ “tinh cần” và “tinh tấn”: Tinh cần nghĩa là siêng năng, cẩn thận, cần kiệm, mỗi mỗi chúng ta trong cái pháp tu chúng ta rất là ân cần mỗi cái pháp, siêng năng ở trong mỗi cái pháp. Còn tinh tấn đây có nghĩa là siêng năng.

Nghĩa là tinh cần, luôn luôn chúng ta phải cần mẫn trong những cái pháp mà Thầy đã giảng xong, những cái pháp hành thì quý thầy phải cố gắng để mà tu tập, để mà thực hiện, để mà hằng ngày siêng năng làm những cái việc như trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm, hay hoặc là mình sẽ dứt bỏ như tu Tứ Chánh Cần, rồi dùng cái pháp hướng, rồi dùng tu tập cái Định Vô Lậu, rồi tu tập cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức, rồi tu tập siêng năng đi kinh hành để tu tập cái tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả mình, rồi tu tập cái Định Niệm Hơi Thở nữa, rồi nỗ lực mà tu tập cái định Diệt Tầm Còn Tứ, tất cả những cái vấn đề đó đều là cần phải tu tập, nhất là cái Định Vô Lậu thì cần phải tu tập hơn nhiều nhất nữa.

Tại sao phải tinh cần, nghĩa là cần mẫn, siêng năng tu tập cái Định Vô Lậu? Tại vì cái Định Vô Lậu nó làm cho chúng ta có những cái tri kiến sáng suốt và hiểu biết. Do cái chỗ mà siêng năng tu tập tinh cần trong cái Định Vô Lậu thì càng ngày chúng ta càng phát triển ra được cái trí tuệ.

Cái trí tuệ đó nó sẽ thấu suốt được cái lý chân đế. Cái lý chân đế - cái lý thật của đạo Phật, cái lý thật của đạo giải thoát. Nó làm cho quý thầy thấu suốt được cái lý, chứng được cái lý chân đế.

(23:01) Trong cái chân đế thì chúng ta thấy nó có bốn đế: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế. Hằng ngày mà chúng ta nỗ lực tu tập để mà phá năm cái triền cái và thất kiết sử thì chúng ta mới rõ thấu được cái lý của chân đế.

Khổ - chúng ta sẽ thấu rõ được cái lý khổ chân thật của đời người. Khi con người sinh ra là mang cái khổ từ ngày sinh cho đến cái ngày chết, rồi tiếp tục cái đời khác, kiếp khác thì mãi mãi ở trong cái sự đau khổ của cái nhân quả luân hồi mà không bao giờ chấm dứt. Đó là khổ.

Tập là cái nguyên nhân để mà kết hợp lại, cái nguyên nhân để mà tập hợp lại tất cả những sự đau khổ của kiếp con người. Chúng ta sẽ thấu rõ được cái nguyên nhân đó, đó là một cái chân đế, một cái lý của chân đế. Chúng ta thấu suốt được cái khổ của kiếp người tức là chúng ta thấu suốt được một cái lý chân đế của kiếp người đầy đau khổ.

Rồi Tập Đế thì chúng ta lại thấu suốt cái lý của Tập Đế. Cái lý của Tập Đế là cái nguyên nhân tập hợp lại bao nhiêu cái sự khổ của kiếp con người.

Rồi tiếp tục chúng ta sẽ đạt được cái lý của Diệt Đế, tức là cái Niết Bàn, cái cảnh giới, cái trạng thái an ổn, cái trạng thái bất động tâm giải thoát, cái trạng thái thanh thản, nó không có làm cho chúng ta đau khổ nữa.

Đó là cái Niết Bàn, tức là cái lý chân đế của cái Niết Bàn. Nó không có mơ hồ, nó không có trừu tượng, nó không có siêu hình mà nó sự thật trong cái trạng thái tâm hồn của chúng ta. Đó là cái lý chân đế giải thoát, cái lý chân đế Diệt Đế.

Đến cái lý chân đế Đạo Đế thì chúng ta sẽ rõ nó có tám cái nẻo để mà chúng ta thực hiện, để mà diệt cái tập khởi cái Tập Đế, diệt cái nguyên nhân tụ tập, câu hữu lại để làm cho chúng ta khổ suốt cả đời của chúng ta. Đó là cái lý Đạo Đế, cái lý chân đế của Đạo Đế làm chúng ta thấu suốt được.

Cho nên chúng ta tu tập càng siêng năng thì tất cả những cái lý chân đế chúng ta đều thông suốt, đều đạt được cái lý chân đế, tức là chúng ta chứng được cái lý chân đế. Mà chứng được cái lý chân đế tức là tâm chúng ta bất động, không còn dao động nữa, cho nên nó không còn bị động.

Ở đây cái câu kệ thứ ba của bài 35:

Tâm không còn thụ động,

Nếu mà đạt được cái lý chân đế rồi thì cái tâm của chúng ta không còn bị động nữa, không còn thụ động nữa, tức là không còn bị các pháp thế gian lôi cuốn chúng ta, tâm chúng ta bất động như như.

Và khi mà chúng ta đã thấu được cái lý chân đế rồi thì không còn biếng nhác nữa, tức là chúng ta tinh tấn, siêng năng chớ chúng ta không còn có biếng nhác nữa, và cũng từ đó chúng ta nỗ lực hằng ngày siêng năng.

(26:08) Vì vậy cho nên ở đây quý thầy mà thấu suốt được rồi thì quý thầy cố gắng mà tu tập để chúng ta thấu được cái lý của chân đế. Cái lý của chân đế tức là bốn cái đế mà chúng ta cần phải thấu suốt.

Chỉ có tu tập, chỉ có nỗ lực thực hiện con đường Định Vô lậu thì chúng ta thấu suốt mau đạt được cái lý chơn đế rốt ráo, nhanh chóng, không có thời gian kéo dài. Còn nếu mà chúng ta ít có tu cái Định Vô Lậu thì chúng ta khó mà thấu suốt được cái lý chân đế.

Cho nên chúng ta không còn biếng nhác, không còn lười biếng nữa mà rất là siêng năng, rất là tinh tấn trong cái sự tu tập. Cho nên trong mọi cái sự khó khăn thì chúng ta đều có cái sự kiên trì trong cái sự cố gắng.

Tuy là bước đường tu tập hằng ngày chúng ta hướng tâm Như Lý Tác Ý để thấu được cái lý chân đế, nhưng nó còn có những cái khó khăn. Hoàn cảnh khó khăn, cuộc sống khó khăn, rồi nghiệp thân khó khăn, nó cứ đau bệnh này bệnh kia nó làm cho chúng ta cũng khó khăn.

Cho nên những cái khó khăn đó nó cũng làm cho chúng ta phải có một cái nghị lực, phải có kiên trì trong cái sự cố gắng tu tập. Chớ nếu mà không có sự kiên trì, không có sự cố gắng tu tập thì chúng ta chẳng đạt được cái lý chân đế đâu.

Bởi vậy trong cái bước đường mà tu tập theo đạo Phật thì quý thầy phải sáng suốt, phải siêng năng, phải tinh cần, phải nỗ lực, không có được biếng trễ. Vì có cố gắng, có kiên trì, có nỗ lực, có tinh cần thì cái lý chân đế mới đạt được.

Và cũng từ cái sự kiên trì cố gắng đó nó không còn có lười biếng thì cái dũng lực ở trong ta nó được sanh khởi.

Mà muốn đạt được cái sự tu tập từ tinh cần, siêng năng để đạt được cái lý chân đế, tâm không còn thụ động, tâm không còn biếng nhác, có cái sự kiên trì, có sự cố gắng, có đầy đủ nghị lực, dũng lực phát khởi trong ta thì người ấy phải sống riêng một mình.

Người ấy phải sống độc cư, nếu mà không sống độc cư, không sống riêng một mình thì không thể nào có tinh cần, tinh tấn, có đạt được lý chân đế, có tâm không còn bị thụ động, tâm không còn lười biếng.

Phát khởi những cái sự kiên trì, cố gắng, dũng lực, những cái này sẽ được phát khởi thì chỉ có duy nhất là phải sống độc cư. Còn nếu không sống độc cư thì không bao giờ có được những cái này.

Nghĩa là cái người mà không chịu sống độc cư thì không bao giờ có sự tinh cần, có sự tinh tấn, không bao giờ mà có đạt được cái lý chân đế, không bao giờ có cái tâm bất động được, không bao giờ hết lười biếng được, không bao giờ có nghị lực, có kiên trì, có cố gắng, có dũng lực được để mà đạt được cái sự tu tập này.

Cho nên phải chỉ duy nhất là chúng ta phải sống riêng một mình để thực hiện những gì mà Thầy đã dạy, Phật pháp đã dạy, kinh sách Phật đã dạy, lời Phật đã dạy. Đừng quên những điều này.

Cho nên ở đây Phật nói:

Hãy sống riêng một mình.

Như Tê ngưu một sừng!

Đó thì cái bài kệ nào Đức Phật cũng nhắn nhủ chúng ta muốn đạt được những cái gì ở trên cái bài kệ đã nói, cái mục đích của bài kệ đã nói thì chỉ có duy nhất là phải sống riêng một mình.

Có sống riêng một mình thì chúng ta mới có đạt được cái kết quả vô cùng vĩ đại đó, còn nếu không có được thì chắc chắn chúng ta khó mà có thể kết quả được.

BÀI KỆ 36 - LUÔN ĐỘC CƯ, THIỀN ĐỊNH, TÙY PHÁP, NHẬN THỨC SÁNG SUỐT

(29:52) Đến đây Thầy sẽ đọc tiếp bài kệ thứ 36:

Không từ bỏ độc cư,

Không viễn ly thiền định,

Thường thường sống hành trì

Tùy pháp trong các pháp,

Chơn chánh nhận thức rõ,

Nguy hiểm trong sanh hữu.

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó, ở đây bài kệ thứ 36 Đức Phật vô cái câu kệ đầu, Đức Phật khuyên không được từ bỏ độc cư, nghĩa là không được sống (không) một mình, và không có tách lìa các thiền định.

Như Thầy đã dạy các thầy thấy, như Thánh chánh niệm phòng hộ sáu căn nè, thiền Chánh Niệm Tỉnh Giác Định nè, Định Vô Lậu nè, Định Sáng Suốt nè, Định Niệm Hơi Thở nè, Định Hiện Tại An Lạc Trú nè, tất cả những cái loại định này thì quý thầy cần phải siêng năng mà tu tập, đừng có lười biếng mà bỏ qua, đêm ngày nỗ lực tu tập.

Cho nên ở cái câu kệ thứ hai Phật nói:

Không viễn ly thiền định,

Câu thứ ba thì Phật dạy:

Thường thường sống hành trì,

Nghĩa là luôn luôn phải hành trì thiền định, luôn luôn phải hành trì cái hạnh độc cư.

Đó thì nhớ những cái lời mà Phật đã dạy ở trong cái bài kệ 36 này, thì thứ nhất là không có được bỏ cái hạnh độc cư, làm sao phải khép chặt mình trong cái hạnh độc cư để mà tu tập, đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai thì đừng có xa lìa, đừng có nghĩ tu bữa nay mình nghỉ, ngày mai rồi hãy tu thiền nữa, hãy ngồi thiền. Không, ngày nào cũng phải giữ gìn giờ giấc nghiêm chỉnh chứ đừng có viễn ly thiền định. Phải luôn luôn hành trì, phải luôn luôn tu tập, đừng có giờ giấc nào mà bỏ nó. Lúc nào mà có thể tu tập được là có thể cứ hành trì các cái loại thiền mà Thầy đã dạy.

Nhất là muốn giữ gìn được hạnh độc cư thì tức là chúng ta phòng hộ sáu căn của chúng ta rất là cẩn mật. Vì tâm của chúng ta còn quá yếu mà chúng ta đi tới đi lui, nói chuyện này chuyện kia thì tâm dễ bị động, dễ bị dính mắc. Và dễ bị động, dễ bị dính mắc thì không có thể thực hiện con đường tu tập theo đạo Phật được.

(32:20) Cho nên bài kệ thứ 36 Phật khuyên:

Không từ bỏ độc cư,

Không viễn ly thiền định,

Thường thường sống hành trì,

Tùy pháp trong các pháp,

Tùy theo cái cơ thể, tùy theo sức lực của mình mà tu tập, rồi nương vào các cái pháp, theo các cái pháp trong các pháp mà tu tập, cái pháp nào thì tu theo cái pháp nấy cho đúng.

Thí dụ như tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì phải tu Thân niệm Phật như thế nào, Tâm niệm Phật thế nào, Thọ niệm Phật thế nào, Pháp niệm Phật thế nào. Rồi Thân niệm Pháp như thế nào, rồi Tâm niệm Pháp như thế nào, rồi Thọ niệm Pháp như thế nào, rồi các Pháp niệm Pháp như thế nào.

Rồi đến Thân niệm Tăng như thế nào, Tâm niệm Tăng thế nào, Thọ niệm Tăng thế nào, các Pháp niệm Tăng như thế nào. Rồi đến Thân niệm Giới như thế nào, Thọ niệm Giới như thế nào, Tâm niệm Giới như thế nào, các Pháp niệm Giới như thế nào.

Đó thì chúng ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì chúng ta phải thông suốt, phải rõ, và hằng ngày chúng ta nỗ lực thực hiện những cái điều mà Thầy đã dạy ở trong Tứ Bất Hoại Tịnh.

Rồi đến Tứ Vô Lượng Tâm phải thực hiện như thế nào, từ bi hỷ xả như thế nào, phải thực hiện hằng ngày tu tập. Nhiều quá, rất nhiều điều chúng ta tu tập!

Đó, chúng ta biết áp dụng trong cái thiền định nào, trong cái pháp môn nào, tu tập cái gì cho đúng pháp của nó, tức là:

Tùy pháp trong các pháp,

Phải sáng suốt, phải nhận rõ, chơn chánh nhận thức rõ, nghĩa là phải nhận rõ cái pháp nào, cái pháp thế gian và cái pháp tu tập, cái pháp nào nguy hiểm, cái pháp nào không nguy hiểm, cái pháp nào giải thoát, cái pháp nào không giải thoát, chúng ta phải nhận thức cho rõ ràng, cái chơn chánh nhận thức rõ ràng, đừng có để lạc lầm.

Nhiều khi chúng ta tu những cái pháp mà Phật đã dạy, bỗng dưng nghe các nhà Đại Thừa nói pháp này pháp nọ kia nó cao, hay, nó Tối Thượng Thừa thế này thế khác, tâm chúng ta tham đắm do những cái danh từ rỗng toét làm cho chúng ta thích thú, do đó chúng ta bỏ cái pháp mà Phật dạy, chúng ta chạy theo những cái pháp cao siêu hơn của các pháp Đại Thừa, của Thiền Đông Độ chẳng hạn.

Thì trong lúc đó chúng ta chạy đi như vậy thì chúng ta chưa đủ cái trí tuệ để phán xét đâu là đúng đâu là sai, vì vậy mà chúng ta phải mất đi rất nhiều thời gian, để rồi sau cái thời gian đó chúng ta không thấy kết quả được, quay trở về với con đường của đạo Phật, con đường chơn chánh của đạo Phật thì cái thời gian đó quá dài.

(35:12) Và tuổi chúng ta cũng già, sức chúng ta yếu kém dần, cho nên đến cái giai đoạn này chúng ta sống đúng cái giới hạnh của Phật rất là khó. Vì ăn ngày một bữa, sống ít ngủ, thường siêng năng đi kinh hành, tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức hằng ngày không có lúc nào mà để rảnh rang, để cho chúng ta có cái thời gian mà rảnh rỗi được, vì vậy mà cái sức yếu tuổi già rồi thì khó mà có thể thực hiện được cái con đường của đạo Phật.

Bởi vậy quý thầy thấy rất rõ là cái người già khó mà theo đạo Phật tu lắm. Bởi vì ăn ngày một bữa mà già thì đâu có thể ăn một bữa mà sống nổi, cho nên khó mà theo.

Nguy hiểm trong sanh hữu.

Mà phải thấy rằng tất cả những cái vật dụng, những cái gì mà xung quanh chúng ta gọi là có, để mà nói rằng phục vụ đời sống cho mình, thì coi chừng những cái đó nó sẽ là nguy hiểm lắm đó, nó làm chúng ta khó lắm, khó tu tập lắm.

Cho nên chúng ta phải thấy chữ “sanh hữu” - hữu là có, sanh là sanh khởi ra những cái có, có cái này, có cái kia, có cái nọ, đó là những cái sự nguy hiểm lắm.

Cho nên đầu óc của chúng ta không sanh khởi cái gì có nữa hết thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ khỏe rất khỏe. Và chúng ta cũng không chấp nhận cái gì có thêm, vì càng có thêm thì càng có sự trói buộc làm chúng ta khó mà bước ra, nó trở thành những cái kiết sử, nó hữu ái kiết sử, nó trói buộc chúng ta rất chặt.

Cho nên chúng ta bứt xuống, bỏ xuống được bao nhiêu thì chúng ta bỏ. Bởi vì chúng ta phải thấy nó là một cái sự nguy hiểm rất lớn cho cái đời sống tu hành của chúng ta.

Bỏ xuống hết, bỏ xuống hết, chỉ còn ba y một bát đi xin ăn mà thôi, như vậy mới thật sự giải thoát hoàn toàn, tu tập thiền định mới có thể đi sâu vào được. Còn không khéo thì khó mà có thể thực hiện được đi sâu vào thiền định.

Cho nên ở đây thì Đức Phật khuyên chúng ta:

Hãy sống riêng một mình,

Như Tê ngưu một sừng!

Cuối cùng bài kệ thứ 36 thì Phật cũng khuyên chúng ta như vậy.

Đầu tiên thì Đức Phật khuyên đừng có bỏ độc cư, đừng có viễn ly thiền định, thường sống hành trì, tùy pháp mà theo trong các pháp mà tu tập, nhận thức cho rõ đường lối, cách thức tu tập của mình có mờ mịt hay không, có không rõ chưa, có chơn chánh hay không, có Chánh Niệm Tỉnh Thức chưa, có đủ sức mà để vượt qua những cái khó khăn chưa, phải nương theo pháp như thế nào cho đúng các pháp.

Đó là tất cả những cái mà chúng ta cần phải xét. Nhưng muốn xét được vậy thì phải sống riêng một mình. Sống riêng một mình chúng ta mới có thời giờ để mà xét, mới rõ được các pháp, rõ được sự tu tập chúng ta có tùy pháp trong các pháp được hay chưa, hay hoặc là chưa tùy pháp được, hay hoặc là trong các pháp chưa thông?

(38:04) Cho nên tất cả những cái này chỉ có người sống riêng một mình mới suy ngẫm được cái đường lối, cách thức tu tập của chúng ta trong đạo Phật. Còn nếu không sống riêng một mình thì khó mà có sự suy ngẫm.

Vì không có sự suy ngẫm thì con đường tu tập của chúng ta nó không có rõ ràng lắm. Mà không có rõ ràng thì tức là chúng ta tu tập lơ mơ, tu tập không có kết quả, tu tập cho có hình thức, tu tập cho có thời gian, để rồi thời gian trôi qua một cách vô ích.

Đó, thì như vậy chỉ chúng ta sống riêng một mình thì chúng ta mới có thời gian mà chiêm nghiệm, quán xét lại những cái sự tu tập của chúng ta có đúng hay sai, có rõ hay không rõ.

Đó tất cả những cái này thì chúng ta quán xét qua bài kệ thứ 36, Phật khuyên chúng ta phải thông suốt, phải hiểu rõ, phải chơn chánh nhận thức cho rõ, tránh những sự nguy hiểm của sanh hữu.

Nếu mà không tránh những cái sự nguy hiểm của sanh hữu, của vật chất, của tất cả những cái sự trói buộc xung quanh mình thì mình sẽ không có đi trên con đường tu tập này được, và sẽ bị trôi lăn ở trong sáu nẻo luân hồi. Vì sanh hữu là những cái kiết sử , hữu ái kiết sử, nó sẽ trói buộc chúng ta vô cùng, nó khó mà bứt ra được lắm.

Bởi vậy chỉ có cái hạnh độc cư, chỉ có cái hạnh sống riêng một mình thì quý vị mới có thể cắt ly được nó, xa lìa được nó. Còn sống mà câu hữu, kết hợp, tập hợp thì khó mà xa lìa được những cái sanh hữu. Nó sẽ sanh khởi cái này cái kia, nó làm cho chúng ta rất là khổ đau, khó mà tu tập trên bước đường theo đạo Phật.

Cho nên bài kệ này thì quý thầy và các con hãy suy ngẫm để mà nỗ lực thực hiện cho đúng, nhất là chơn chánh nhận thức. Câu kệ nói “Chơn chánh nhận thức”, nghĩa là mỗi tu tập của chúng ta chúng ta phải nhận thức cho rõ ràng, xét nó có đúng hay sai. Cái sai thì chúng ta bỏ, mà cái đúng thì chúng ta tiếp tục tu tập.

Như các thầy, các con biết rằng có nhiều người cái sai mà họ không có nhận xét cái sai, mà nói sai họ cũng không nghe, cho nên họ cứ ngỡ tưởng nó là đúng, rồi họ tu tập họ cứ ngồi họ cứ lúc lắc, hoặc là họ ngồi cho nhiều cái thời gian ra, dài ra.

Dạy hoài mà quý thầy và các con cũng không nghe những cái lời dạy, cho nên cuối cùng thì các con và quý thầy đều mất thời gian quá lớn, một số thời gian quá to, phí uổng hết cái đời tu tập của nó.

Hãy cố gắng mà nghe, đây là bài kệ Phật khuyên những cái lời này, mà nếu quý thầy không có chịu tập để nghe những cái lời dạy của Phật và những cái lời khuyên của Thầy thì chắc chắn trên con đường này quý thầy và các con tu vô ích. Tốt hơn là chúng ta trở về gia đình mà sống cho ra người đạo đức cũng là quý lắm rồi.

Còn nếu mà quyết tu hành thì các thầy phải giữ gìn độc cư, phải giữ gìn, phải quán xét để cái thời gian mà độc cư một mình mình đó, nếu mình ngồi không mình nghĩ tầm bậy tầm bạ thì nó có ích gì đâu? Cho nên mình đem những cái cách thức tu tập, cái mình đã tu rồi, mình tu qua rồi, mình quan sát coi có đúng hay không.

Hay hồi nãy mình vừa tu, bây giờ mình quan sát lại mình tu như vậy là có chính xác chưa, có đúng chưa, có diệt Tầm giữ Tứ được chưa, có diệt Tầm Tứ được chưa, hay hoặc là vô lậu hết chưa, bản ngã của mình còn hay hết, tất cả những vật chất xung quanh của mình, cái mà gọi là của mình, mình có còn chấp nó không hay là mình xả ra hết rồi?

Đó là những cái mình cần phải xét, xét cho rõ, để không rõ thì mình lại bị sai. Mà lại sai thì tức là con đường tu tập của mình nó không bao giờ tới đích được, nó không có bao giờ mà giải thoát được, uổng công tu tập của mình.

BÀI KỆ 37 - KHÔNG PHÓNG DẬT, KHÔNG ĐẦN ĐỘN, GIỮ CHÁNH NIỆM

(41:52) Thầy xin đọc bài kệ thứ 37:

Mong cầu đoạn diệt ái,

Sống hạnh không phóng dật,

Không đần độn câm ngọng,

Nghe nhiều, giữ chánh niệm,

Các pháp thường quán sát,

Siêng năng mới quyết định.

Người tu sĩ cần biết

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó thì ở đây cái câu kệ thứ nhất, Đức Phật khuyên chúng ta:

Mong cầu đoạn diệt ái,

Cái đầu tiên mà của chúng ta, bởi vì trong Tứ Diệu Đế thì đã nói ái là cái chỗ tập hợp tất cả những cái khổ đến cho đời người của chúng ta, thì hằng ngày chúng ta quyết tâm tu hành là làm sao mà chúng ta đoạn diệt được cái ái, được cái lòng ham muốn của mình.

Đạt được cái đó tức là chúng ta sẽ có một sự cái giải thoát, tâm bất động được. Và chính chỗ đó là cái trạng thái Diệt Đế đó, tức là diệt ái đó, thì đó là Niết Bàn. Đó là cái trạng thái giải thoát của con người, của kiếp con người, nó không còn tái sanh luân hồi nữa hết.

Cho nên người tu hành thì cái mục đích của chúng ta là nhắm vào cái nguyên nhân sanh ra muôn thứ đau khổ của chúng sanh mà đoạn diệt nó được, mong cầu cái sự đoạn diệt cho được. Mà muốn đoạn diệt được cái ái thì cái câu kệ thứ hai của bài kệ 37 thì:

Sống hạnh không phóng dật,

Đó thì quý thầy với các con thấy, “sống hạnh không phóng dật” tức là cái tâm không có chạy theo vật chất thế gian, không có phóng ra ngoài, mà hãy quay nó trở vào trong mà suy nghiệm lại những cái cách thức tu tập của mình. Hãy quay nó trở vào trong, đừng có phóng ra, đừng có chạy theo các đối tượng, các dục lạc thế gian sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, đừng có chạy theo bên ngoài.

Mà không chạy theo bên ngoài như vậy, tâm mà không chạy theo bên ngoài thì quý thầy thấy như thế nào? Mình phải sống độc cư chớ!

(44:09) Tâm mà không chạy theo ra ngoài thì mình phải sống độc cư. Muốn tâm không phóng dật, không chạy ra ngoài thì duy nhất chỉ có cái hạnh độc cư mới giữ gìn nó trọn vẹn, nó mới không phóng dật được.

Bởi vì chúng ta sống độc cư không có nghĩa là chúng ta sống ngồi không, mà chúng ta hằng giờ, hằng phút chúng ta đều có pháp để mà thực hiện, cho nên tâm của chúng ta đâu có rảnh rang mà ngồi đó nghĩ nhớ cái này nhớ cái kia mà chạy phóng theo!

Cho nên có nhiều người lại hiểu lầm rằng khi mà chúng ta sống độc cư, không có đi đây đi đó, ngồi ở trong thất thì tâm chúng ta nghĩ ngợi cái này cái kia cái nọ, phóng ra. Đó là tại vì quý thầy không có siêng năng, không có tu tập, không có tinh cần cái sự tu tập như cái bài kệ thứ 35 Phật đã nhắc:

Tinh cần và tinh tấn,

Đạt được lý chân đế,

Tâm không còn thụ động,

Không còn có biếng nhác,

Kiên trì trong cố gắng,

Đó là những cái mà chúng ta sống ở trong thất độc cư thì chúng ta có pháp mà tu, có các pháp cho nên thời gian chúng ta đâu có rảnh rang, cho nên tâm ý chúng ta đâu còn chạy phóng ra được, nó luôn luôn ở trong các pháp để thực hiện tu tập.

Còn bây giờ quý thầy không có pháp tu thì quý thầy vào trong thất thì tâm quý thầy nó lang thang, nó phóng ra. Còn có pháp tu thì tâm đâu có lang thang phóng ra, cho nên người ta luôn người ta thích sống độc cư là vì người ta có pháp tu hành.

Cho nên có những bậc chân tu người ta ở trong núi, trong rừng, ở trong hang trong hốc một mình từ năm này đến năm khác mà người ta không thấy cô đơn là vì người ta có pháp môn người ta rèn luyện, người ta tu tập, chớ nếu sống mà không có pháp môn mà rèn luyện tu tập thì chắc cũng không ai sống độc cư nổi.

(46:02) Do tuần tự rèn luyện tu tập đó mà càng ngày chúng ta mới thấy được cái tâm bất động, vì vậy mà cái tâm hoàn toàn đứng trước các vật mà nó không bị dính mắc, nó không phóng theo các vật được. Do cái chỗ tu tập của chúng ta rèn luyện cho đến một ngày viên mãn, cái tâm nó bất động.

Còn bây giờ cái tâm chúng ta còn đang động mà chúng ta không chịu sống độc cư thì do đó cái tâm của chúng ta sẽ phóng dật, đi ra ngoài thì nó phóng theo đối tượng các vật của nó.

Còn ở trong thất thì chúng ta chỉ có duy nhất có pháp môn để mà tu tập cho nên tâm nó cũng không rảnh rang mà nó phóng theo các cái dục lạc của thế gian.

Đó, cho nên:

Không đần độn, câm ngọng,

Nghĩa là sống độc cư không phải là sống cái kiểu đần độn, cái kiểu là không nói, cái kiểu là ngọng nghịu, mà sống độc cư có nghĩa là sống rất là sáng suốt, thông minh.

Bởi vì tu cái Định Vô Lậu mà, cần phải quán xét, cần phải suy tư, cần phải khai triển những cái gì mà mình chưa hiểu thì mình phải khai triển, hiểu cho được thấu đáo được những cái lý.

Chẳng hạn là như bây giờ mình muốn hiểu một cái thân vô thường của mình, rồi mình muốn hiểu coi mình có cái ngã hay không, mình muốn hiểu thử coi tại sao mà có cái nguyên nhân của cái ái sanh ra, nó do đâu mà có cái ái này?

Mình đi tìm lại thì mình thấy cái lòng ham muốn của mình do đâu mà có ra những cái này. Và vì vậy mà chúng ta phân dần để chúng ta biết được cái gốc của nó mà chúng ta diệt, diệt cái tâm ham muốn của chúng ta, đoạn diệt nó mới được.

Còn nếu mà chúng ta không chịu suy tư, chúng ta nghe nói ái là cái nguyên nhân đau khổ thì chúng ta nói cái ái, thôi bây giờ là lòng ham muốn của chúng ta, thôi chúng ta diệt lòng ham muốn. Nhưng mà chúng ta chưa biết cái nguyên nhân nào mà sanh ra cái lòng ham muốn thì làm sao chúng ta diệt nó? Cho nên chúng ta phải biết.

Do cái sự độc cư mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu, chúng ta quán xét làm cho cái trí tuệ càng ngày càng thấu suốt, càng thấu được cái lý chân để, càng rõ được cái lý của chân đế.

Và càng rõ được thì cái sự mà chứng được cái lý chân đế nó không khó khăn, mà chứng được cái lý chân đế thì tâm hồn bất động, tâm ta bất động, không có dao động trước các đối tượng, các pháp, cho nên chúng ta hoàn toàn giải thoát.

Chớ không phải người độc cư là cái người đần độn, câm ngọng, không biết nói năng, không biết gì. Chúng ta biết nói nhưng mà chúng ta không nói. Không nói là tại vì chúng ta thấy nói nó chẳng ích lợi gì. Nói nó sanh ra nhiều chuyện, nói nó sanh ra động tâm, nói nó sanh ra những ác pháp, nó làm cho chúng ta khổ sở, làm chúng ta khó khăn. Cho nên chúng ta không phải là kẻ câm ngọng.

Cho nên cô Út thường nói: “Độc cư chớ không phải độc câm.” Nghĩa là nhiều người hiểu rằng chúng ta không có nói đó là độc cư. Không phải. Chúng ta nói nhưng mà không nói bậy nói bạ, cái gì đúng chúng ta nói mà cái gì không đúng chúng ta không nói, đó là chúng ta độc cư.

Nghe nhiều, giữ chánh niệm,

Nghe những cái lời giảng dạy của Thầy, biết được luôn luôn lúc nào giữ tâm ở trong một cái chân chánh của cái niệm chớ không có cái tà niệm.

(49:14) Đó, thì khi mà nghe nhiều thì luôn luôn hiểu biết được cái pháp chân chánh, cho nên chúng ta thường giữ cái tâm ở trong cái niệm chân chánh không có để cái tà niệm, vì cái tà niệm nó làm chúng ta phiền não, đau khổ.

Cho nên vì vậy mà muốn cho được chánh niệm thì “các pháp” - các pháp ở đây không phải là cái pháp tu mà là các pháp của thế gian: Pháp ham, pháp muốn, pháp gợi tình gợi cảnh, pháp hỷ, pháp lạc, pháp vui, pháp sung sướng, pháp tham, pháp sân, pháp si, pháp mạn, nghi, tất cả những các pháp đó thì chúng ta quán xét nó, coi nó có phải đúng hay là sai, nó đưa chúng ta đi đến chỗ đau khổ hay là chỗ không đau khổ.

Các pháp của thế gian thường xảy đến làm cho con người đau khổ, làm con người mê thích, làm con người say đắm, làm cho con người mắc vào những cái lưới buộc chặt mà không thoát ra. Cho nên chúng ta quán xét các pháp thế gian để rồi chúng ta xả bỏ, dứt bỏ nó mà không còn tham đắm.

Do cái sự hằng siêng năng mà quán xét như vậy đó thì chúng ta mới có quyết định được cái sự tu hành của mình, có quyết định được cái sự giải thoát cho chính mình.

Bởi vậy, chỉ có sự siêng năng mà quán xét các pháp, chỉ có sự siêng năng mà giữ gìn được chánh niệm, do đó thì chúng ta mới quyết định được cái đời sống của chúng ta.

Do cái sự siêng năng mà quán xét, do sự siêng năng mà tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, do cái sự siêng năng tu tập đó, do cái sự siêng năng mà đoạn diệt các ái của chúng ta, do chúng ta sống không có vừa phóng tâm, phóng dật ra ngoài như vậy thì chúng ta mới quyết định được, do cái sự siêng năng mà tu tập các pháp như vậy thì chúng ta mới quyết định được cái đời sống của chúng ta, quyết định được cái sự sanh tử luân hồi của chúng ta. Còn nếu không thì chúng ta khó mà có thể quyết định được cái sanh tử luân hồi của chính mình.

Bởi vậy, trên cái bước đường mà tu tập chúng ta cần phải quan sát kỹ, nếu không không kỹ thì chúng ta khó mà có thể đạt được cái Niết Bàn cứu cánh cho chúng ta.

Bởi vậy, bây giờ Thầy sẽ đọc lại cái bài kệ thứ 37 để cho quý thầy và các con nghe lại một lần nữa mà suy ngẫm:

Mong cầu đoạn diệt ái,

Sống hạnh không phóng dật,

Không đần độn câm ngọng,

Nghe nhiều, giữ chánh niệm,

Các pháp thường quan sát,

Siêng năng mới quyết định.

Người tu sĩ cần biết

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

(52:19) Ở chỗ cái bài kệ này có một cái câu mà đáng để lưu ý, vì các thầy các con đều có cái hiểu sai của cái pháp độc cư. Ở đây, cái câu thứ ba của cái bài kệ thứ 37 này:

Không đần độn câm ngọng,

Quý thầy và các con hiểu, ở chỗ này Phật nói sống hạnh độc cư không có nghĩa là đần độn, ra ngơ ngơ ngẩn ngẩn, làm như người mà không có biết gì hết, không phải, làm như người câm không có nói, không phải vậy. Cho nên cái câu này:

Không đần độn câm ngọng,

Nghĩa là chúng ta rất là thông minh, nghĩa là sáng suốt, người ta nói một cái gì đó mình hiểu biết, cái đó mình đáng nói thì mình nói mà không đáng thì mình làm thinh.

Chớ không phải mình đi ra mình cũng giữ cái vẻ câm ngọng của mình, cái vẻ mà không nói của mình, rồi ngơ ngơ ngẩn ngẩn, không phải vậy, đần độn như vậy, không phải.

Cái người độc cư là cái người có tu tập cái Định Vô Lậu, có phát triển được cái trí tuệ tri kiến giải thoát, cái trí tuệ của họ, do vì vậy mà khi ra họ luôn luôn họ sống được cái chánh niệm ở trong tâm của họ.

Nhờ cái sự quan sát phát triển được, triển khai được cái trí tuệ tri kiến giải thoát của họ cho nên họ hoàn toàn họ không có đần độn. Nghe cái câu nói của người khác đó đáng trả lời thì họ trả lời, mà không đáng thì họ làm thinh, họ cười vui vẻ.

Họ tùy thuận, họ chấp nhận, họ bằng lòng, họ nhẫn nhục, chớ họ đâu có phải là cái người ngu, họ sáng suốt. Cho nên đúng lúc nào họ cần phải hỏi là họ hỏi còn không hỏi thì họ làm thinh.

Ai nói gì thì họ cũng vui vẻ chớ không phải họ gầm gầm cái mặt xuống, hoặc là sống một mình, không có chơi với ai, không phải đâu. Cũng hòa hợp với mọi người, nhưng cái đáng nói thì nói mà không đáng nói thì không.

Đó là cách sống độc cư mà bài kệ thứ 37 Phật dùng cái câu kệ: “Không đần độn câm ngọng” để chỉ chúng ta sống độc cư không phải là cái người đần độn, cái người câm ngọng.

Cho nên ở đây, cais câu kệ thứ bảy ở trong cái bài kệ thứ 37 này Đức Phật: “Người tu sĩ cần phải biết.”

Người tu sĩ cần biết

Chúng ta biết cái gì? Biết cái hạnh độc cư của chúng ta là cái mấu chốt để giải quyết con đường sanh tử luân hồi, và biết cái hạnh độc cư không phải là người đần độn, không phải là người câm ngọng không biết nói. Phải hiểu như vậy thì mới sống cái hạnh độc cư mới trọn vẹn.

BÀI KỆ 38 - AN ỔN NHƯ SƯ TỬ, NHƯ GIÓ, NHƯ HOA SEN

(55:06) Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục đọc cái bài kệ thứ 38:

Như sư tử, không động,

An tịnh giữa các tiếng,

Như gió không vướng mắc,

Khi thổi qua màn lưới,

Như hoa sen không dính,

Không bị nước thấm ướt.

Muốn vậy thì hãy sống

Chỉ sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Bây giờ đó thì Đức Phật ví một cái người mà sống độc cư như con sư tử, không có động. Nghĩa là nó luôn luôn lúc nào, dù là các cái tiếng gầm tiếng thét của loài vật khác, nó chẳng có dao động sợ một tiếng nào hết. Nó an tịnh giữa các tiếng - tiếng gì nó cũng không có ngán hết, nó không sợ hết.

Cho nên Phật ví dụ như chúng ta là người sống độc cư, không có bị cái tiếng khen, tiếng chê, tiếng chửi, tiếng mắng, tiếng này tiếng kia mà làm cho tâm chúng ta dao động.

Chúng ta luôn luôn giữ gìn cái tâm an tịnh giữa các cái tiếng gầm tiếng thét của các cái loài vật khác, như cọp, báo, hay hoặc là tiếng hét hay hoặc tiếng la của các loài vật khác, thì con sư tử nó chẳng bao giờ mà nó sợ tiếng động nào hết, tiếng la tiếng hét nào hết.

Thì chúng ta cũng vậy, một người sống độc cư thì chẳng có hề để tâm dao động trước các cái âm thanh, trước các cái lời nói, trước tiếng này tiếng kia, trước tiếng mắng tiếng chửi, nó không có dao động cái tâm của chúng ta chút nào thì như vậy là người mới sống độc cư.

Người sống độc cư mà hễ mỗi chút đều là dao động tâm thì đâu còn là sống độc cư? Cho nên sống độc cư là sống không dao động. Mặc dù là chúng ta sống chung với mọi người nè, ai nói nặng nói nhẹ, nói gì nói mà tâm chúng ta không dao động tức là độc cư.

Hễ mỗi chút mỗi phiền não, mỗi chút mỗi giận mỗi chút mỗi hờn thì cái người đó có sống độc cư không?

Bởi vậy phải rõ, phải biết rõ:

Người tu sĩ cần biết

Biết cái gì? Biết cái độc cư của chúng ta như thế nào. Nghĩa là tâm chúng ta không dao động trước tiếng khen tiếng chê, tiếng mắng tiếng chửi, tiếng mạ nhục như thế nào tâm chẳng dao động, thì người đó là sống độc cư.

Còn người mà không có, lúc nào tâm cũng bị động thì dù người đó có ở trong thất riêng một mình đi nữa thì người đó cũng vẫn không phải độc cư, hình thức thì độc cư nhưng tâm chưa được độc cư.

Đó thì sống chung đụng với mọi người mà tâm không dao động trước các tiếng khen tiếng chê, không mừng không vui, không theo những cái âm thanh, tiếng động gì hết thì cái người đó là cái người sống độc cư. Còn cái người mà luôn luôn bị dao động là cái người không sống độc cư.

Đức Phật ví dụ người sống độc cư:

Như gió không vướng mắc,

Khi thổi qua màn lưới,

Nghĩa là như gió nó thổi qua màn lưới thì cái cơn gió nó đi luôn chớ nó không có dính mắc ở trong cái màn lưới.

(58:12) Đó thì cái người sống mà độc cư, thật sự mà thực hành được cái hạnh độc cư thì tiếng khen, tiếng chê, tiếng mắng tiếng chửi, chuyện này chuyện nọ chuyện kia, lòng thương lòng ghét, nó không có vướng mắc tất cả những cái gì đó, thì lúc bấy giờ cái người đó họ sống giữa chợ đi nữa vẫn gọi là người sống độc cư.

Các thầy và các con hiểu chỗ cái mục đích của độc cư qua cái bài kệ thứ 38 này chưa, có rõ chưa? Quá rõ ràng, đâu còn gì nữa!

Nghĩa là tâm không có dao động trước anh em ruột thịt, bà con có chết có sống mặc tình, cha mẹ có chết có sống mặc tình, không có dao động, thì như vậy là sống độc cư.

Còn dao động, còn lo còn nghĩ, còn thương còn nhớ thì như vậy là gió thổi qua màn lưới nó dính hết rồi, nó đâu còn, cho nên nó không có phải độc cư. Độc cư là không bị dính mắc gì hết gọi là độc cư.

Phật ví dụ thêm một lần nữa để chúng ta thấy cái hạnh độc cư:

Như hoa sen không dính,

Không bị nước thấm ướt,

Nó như cái bông sen, nó ở dưới nước nó lên mà nó không dính chút nước nào hết. Đó thì mình sống ở trong mọi người, mình sống ở trong thất một mình mình, hình thức thì độc cư một mình, hoặc mình sống chung với mọi người nhưng tâm mình nó không bị dính một cái lời nói nào, lời khen lời chê, lời mắng lời chửi, lời châm biếm, lời nói móc, nói gì mình vẫn thản nhiên, không bị dính mắc, mình vẫn thanh thản tâm hồn, không bị dao động chút gì hết thì giống như hoa sen không dính mắc.

Đầu thì Đức Phật ví như mình con sư tử, giữa các cái tiếng của các loài khác không có làm cho mất cái sự an tịnh của con sư tử, không có làm cho nó bị động.

Qua hai câu kệ kế đó thì Phật ví như gió thổi, nó không dính mắc, thổi qua cái màn lưới nó không bị dính ở trong đó chút nào gió hết. Hai câu kệ thứ sáu của bài kệ thứ 38, thì hai câu đó Phật ví dụ như hoa sen dưới nước, sống ở trong nước mà không bị nước thấm.

Đó thì cái ví dụ thứ nhất là như con sư tử không động, an tịnh giữa các tiếng, đó là chúng ta sống độc cư ở trong thất, ai nói gì nói chúng ta không động. Cái thứ hai, chúng ta bước ra ngoài như gió thổi trong màn lưới, nó không dính mắc gì hết cũng là độc cư đó.

Đến cái thứ ba, từ ở cái sự sống của chúng ta, trong những cái cuộc đời ô trược, sống chung quanh bao nhiêu người ô nhiễm, họ chạy theo dục lạc thế gian, họ lôi cuốn chúng ta mọi cái, nhưng chúng ta vươn lên, do đó chúng ta không bị những cái ô nhiễm, những cái bất tịnh, những cái lôi cuốn đó làm chúng ta sa ngã, thì như vậy chúng ta không bị nước thấm ướt đó.

(01:01:04) Đó là từ cái chỗ hoa sen sống ở trong cái cảnh sống chung đụng của mọi người, người ta nói nặng nói nhẹ, nói này nói kia gì đủ loại hết, hoặc là đem cái thực phẩm, cái ăn cái uống, cái y cái áo, cái này cái kia lòe bịp hay hoặc làm chúng ta ham thích, làm chúng ta thích thú, làm chúng ta say mê, mà chúng ta không say mê, không dính mắc một chút nào hết, thì Đức Phật ví như cái hoa sen ở trong cái vũng bùn nước đọng hôi thúi mà vươn lên, mà không có bị dính một chút thấm nước nào hết.

Đó là cái bài kệ này Phật ví dụ, sáu cái câu kệ mà ví dụ ba cái trường hợp, để chúng ta thấy ba cái trường hợp sống độc cư.

Trường hợp thứ nhất là sống một mình ở trong cái nơi hoang vắng, yên tĩnh. Trường hợp thứ hai là khi đi khất thực, đi tới đi lui, đó là trường hợp như gió thổi. Trường hợp thứ ba là sống ngay cái lòng của thế gian mà vẫn độc cư. Đó là ba cái trường hợp sống độc cư.

Muốn vậy thì hãy sống

Chỉ sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó thì như vậy là chúng ta thấy ba cái trường hợp sống mà luôn luôn chúng ta phải giữ gìn cái hạnh độc cư. Mà nếu giữ gìn cái hạnh độc cư thì nó có dính mắc không? Nó có dao động trước các tiếng động khác không? Nó có dính mắc những cái sự lôi cuốn của các pháp thế gian không? Nó có bị thấm nhiễm, ô nhiễm những cái pháp thế gian lôi cuốn mình không?

Đó là ba cái giai đoạn để chứng minh cho cái hạnh độc cư của chúng ta tu tập trong cái hạnh độc cư.

Đó thì người muốn được vậy thì phải sống chỉ riêng sống một mình, Đức Phật khuyên chúng ta muốn mà nó không có dính mắc ba cái trường hợp này thì chúng ta phải cố gắng.

Đầu tiên thì chúng ta phải tập sống riêng một mình, nỗ lực tu tập để chứng được cái lý và tâm không phóng dật, chứng được cái lý Tứ Đế, cái lý Diệu Đế, cái lý Thánh Đế. Kế đó thì chúng ta quyết tâm đoạn dứt các cái tham, lòng ham muốn, cái ái của chúng ta, luôn luôn giữ tâm không phóng dật.

Do cái sự tu tập đó thì chúng ta phải sống riêng một mình. Mà sống riêng một mình thì ba cái trường hợp độc cư này chúng ta hoàn toàn là đạt được kết quả.

Chỉ muốn được vậy thì hãy sống riêng một mình. Sống để tu tập những cái gì? Diệt cái tâm, cái nguyên nhân mà tập hợp để mà sanh ra đau khổ, để mà chứng được cái lý chân đế của đạo, làm cho chúng ta được giải thoát hoàn toàn.

Đó, thì như vậy là cái bài kệ thứ 38 này Đức Phật cũng khuyên chúng ta hãy sống riêng một mình, khi nào mà chúng ta trải qua ba trường hợp, trường hợp thứ nhất, trường hợp thứ hai, trường hợp thứ ba mà chúng ta giữ gìn trọn vẹn được như vậy thì đó là chúng ta đã sống riêng một mình, đã độc cư được rồi.

Còn không được như vậy thì chúng ta hãy tiếp tục mà sống độc cư trong cái giai đoạn thứ nhất để cho tâm bất động trước cái đã, rồi sau đó mới sống độc cư ở trong cái sự vướng mắc các pháp, rồi sau đó mới ở trong các bùn nhơ, các chỗ bất tịnh mà để giữ gìn mình mà không có bị ướt thấm những cái bất tịnh đó, như vậy thì chúng ta mới hoàn thành được cái sống độc cư, cái hạnh độc cư.

Cho nên ở đây phải xem mình như là một con tê ngưu một sừng, sống trong những cái hoàn cảnh mà đạt được những cái độc cư như vậy mới gọi là con tê ngưu một sừng.

BÀI KỆ 39 - CHINH PHỤC, CHẾ NGỰ, HÙNG MẠNH NHƯ SƯ TỬ

(01:04:46) Bài kệ thứ 39, Đức Phật nhắc trở lại:

Giống như con sư tử,

Với quai hàm hùng mạnh,

Bậc chúa của loài thú,

Sống chinh phục chế ngự.

Thường sống trong các xứ,

Nhàn tịnh và xa vắng.

Người tu sĩ cần biết

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Ở đây Đức Phật đem lại cái sự độc cư đầu tiên giống như một con sư tử. Chúng ta muốn sống như con sư tử thì chúng ta phải có những cái sự hùng mạnh. Ở đây Phật ví dụ:

Với quai hàm hùng mạnh,

Nghĩa là cái con sư tử nó có cái hàm của nó rất là mạnh, cho nên nó chẳng sợ một con vật nào hết.

Chúng ta muốn sống cho được như gió thổi mà không dính mắc các cái màn lưới, như hoa sen mà không ướt thấm những cái nước bùn nhơ thì chúng ta phải có một cái sức tu tập, cái sức tu tập đó thì như là con sư tử có quai hàm hùng mạnh, thì lúc bấy giờ chúng ta sống giữa cái loài người cũng như con sư tử sống giữa cái loài thú.

Thì chúng ta phải tu tập để mà chinh phục, chế ngự được tâm của mình, chinh phục, chế ngự được thọ của mình, chinh phục, chế ngự được tưởng của mình, và chinh phục chế ngự được các pháp.

Thân, thọ, tâm, pháp mà chúng ta sống chúng ta chinh phục và chế ngự được chúng thì chúng ta như là con sư tử, như là bậc chúa của loài người, như con sư tử là bậc chúa của loài thú.

Còn ta sống mà chinh phục được bốn cái trụ xứ này - thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta mà chinh phục được nó thì chúng ta là bậc chúa của loài người, chúng ta vượt qua sanh, lão, bệnh, tử, thì chúng ta sẽ ở trong các cái nơi nào, chỗ nào thì chúng ta vẫn là độc cư, vẫn là an tịnh, và coi như là vắng vẻ, coi như là xa vắng, coi như là yên ổn, không còn chút nào mà tâm chúng ta động, không còn thấy cái chỗ nào là chỗ động hết.

Đó là những cái độc cư của chúng ta. Nhưng mà trước khi độc cư mà được như vậy thì chúng ta phải là con người sống chinh phục và chế ngự.

Chinh phục ai? Chinh phục thân mình, chinh phục tâm mình, chinh phục thọ mình, chinh phục các pháp. Chúng ta sống chế ngự gì? Chế ngự thân mình, chế ngự tâm mình, chế ngự thọ mình, chế ngự các pháp.

(01:07:40) Nếu chúng ta sống mà chúng ta chinh phục được, chúng ta chế ngự được thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta thì chúng ta ở trong cái xứ sở nào, chúng ta ở đâu thì chúng ta cũng đều là nhàn tịnh và xa vắng, tức là chúng ta cũng đều là độc cư hoàn toàn, cũng đều là độc cư.

Cho nên người tu sĩ cần phải biết: Muốn được như vậy thì đầu tiên chúng ta phải sống riêng một mình. Sống riêng một mình, sống độc cư để chúng ta thực hiện các pháp. Các pháp đó là gì? Chinh phục được thân, thọ, tâm, pháp, chế ngự được thân, thọ, tâm, pháp.

Thì trong khi chúng ta có những pháp tu tập như phòng hộ sáu căn, Chánh Niệm Tỉnh Thức, thiểu dục tri túc, Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, Định Niệm Hơi Thở, Định Hiện Tại An Lạc Trú, tất cả những cái này chúng ta đều hằng ngày thực hiện nỗ lực tu tập thì chúng ta sẽ sống độc cư, sống nhàn tịnh mà không có một cái vật gì, không có một đối tượng gì mà có thể làm cho tâm chúng ta dao động được hết.

Chúng ta hoàn toàn là sống yên ổn, sống xa vắng tất cả. Tuy rằng sống bên mọi người nhưng mà vẫn xa vắng với mọi người.

Vì họ với ta không thể nào hợp nhau được, là tại vì họ chạy theo dục lạc còn ta đâu có chạy theo dục lạc? Ta đang sống trong cảnh an vui và yên ổn của sự độc cư của chúng ta.

Đó, bài kệ 39 Đức Phật ví dụ giống như con sư tử, nhưng mà với cái quai hàm hùng mạnh của nó. Muốn có được cái quai hàm hùng mạnh thì trải qua một thời gian chúng ta phải sống chinh phục và chế ngự thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta.

Thì bây giờ chúng ta là bậc chúa của loài người thì con sư tử có cái quai hàm hùng mạnh của nó, cứng chắc như vậy để chiến thắng với mọi loài vật khác thì nó mới là bậc chúa của loài thú. Còn chúng ta sống mà chinh phục và chế ngự được thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta thì chúng ta mới là bậc chúa của loài người.

Chúng ta sống ở đâu, ở nơi nào chúng ta cũng đều được nhàn tịnh và giải thoát, đều là cũng có cái sự yên ổn, vắng vẻ, yên tịnh cho chúng ta, an tịnh cho chúng ta, không còn ai mà làm cho chúng ta dao động được hết.

Cho nên muốn được vậy thì hiện giờ chúng ta cần phải sống một mình để thực hiện những cái sự tu tập, để làm cho chúng ta có một cái quai hàm hùng mạnh như một con sư tử.

Khi nào chúng ta chinh phục được, chế ngự được thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta thì lúc bấy giờ đương nhiên coi như chúng ta là một con sư tử có cái quai hàm hùng mạnh.

Còn nếu mà chúng ta chưa chinh phục nó thì chúng ta chưa có cái quai hàm hùng mạnh, thì chúng ta hãy sống riêng một mình, và giống như con tê ngưu một sừng mà chúng ta phải nỗ lực thực hiện những pháp mà Phật đã dạy, thì chúng ta chinh phục được, để chúng ta ức chế được, chế ngự được thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta.

Cái bài kệ thứ 39 là cái bài kệ mà khuyên nhủ chúng ta nên sống độc cư để thực hiện tu tập, để có một cái sức lực mà chinh phục và chiến đấu lại thân tâm của chúng ta, làm chủ được các pháp thế gian.

BÀI KỆ 40 - HÀNH TRÌ ĐÚNG PHÁP, ĐÚNG THỜI TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

(01:10:49) Bài kệ 40:

Từ tâm, sống trú xả,

Bi tâm, hạnh giải thoát,

Sống hành trì đúng pháp,

Hỷ tâm, phải đúng thời,

Không chống đối va chạm,

Với một ai ở đời,

Ấy là tâm xả sạch,

Các pháp trong thế gian.

Chỉ có người tu sĩ

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó, bây giờ Đức Phật khuyên chúng ta muốn tu tập cái tâm từ, bi, hỷ, xả, tức là Tứ Vô Lượng thì hãy sống riêng một mình, phải sống độc cư thì chúng ta mới tu tập được Tứ Vô Lượng Tâm.

Đầu tiên thì Đức Phật dạy chúng ta:

Từ tâm, sống trú xả,

Nghĩa là chúng ta trau dồi cái tâm từ chúng ta, tức là chúng ta xả tất cả cái tâm tham, sân, si, phiền não của chúng ta. Chúng ta phải trú ở trong cái xả thì chúng ta mới có thể tu tâm từ.

Như Thầy đã dạy, hằng ngày chúng ta câu hữu với cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức để rồi tỉnh giác, để rồi chúng ta làm, đi, đứng, nằm, ngồi, hoàn toàn những cái hành động của chúng ta đều là tu tập ở trong cái tâm từ, để tránh cái sự vô tình mà chúng ta giẫm đạp hoặc là giết hại chúng sanh.

Thì ở đây Phật dạy:

Từ tâm, sống trú xả,

Muốn tu cái tâm từ thì phải trú cái cảnh giới xả. Thứ nhất là cảnh giới độc cư là cảnh giới xả, cảnh giới phòng hộ sáu căn. Đó là sống trú xả đó. Muốn tu cái tâm từ thì phải sống trong cái cảnh đó. Mà nếu chúng ta không sống ở trong cảnh độc cư thì chúng ta không thể nào mà tu tâm từ được, và “tâm bi, hạnh giải thoát” cũng không tu được.

Cho nên muốn tu tâm từ, tâm bi và các hạnh giải thoát thì phải sống hành trì đúng pháp, theo các pháp thì chúng ta phải sống đúng.

Bây giờ tu từ tâm mà sống trú xả, thì trú xả đó trú thứ nhất là gì? Trú trong độc cư, không tiếp duyên ra ngoài thì chúng ta mới có tu tập ở cái giai đoạn đầu.

(01:13:07) Đến cái giai đoạn thứ hai thì chúng ta trú ở trong cái xả, thí dụ như bây giờ mình sống chung với mọi người thì mình lấy cái tâm xả của mình mình sống chung, thì mình sống chung ở trong cái tâm xả.

Nó có xả thì nó mới sống chung với người ta được, mà không xả thì làm sao mình sống chung được, cho nên tâm từ mình làm sao có? Mình dễ giận, dễ hờn thì làm sao mà gọi là tâm từ?

Muốn cho được cái tâm từ mà để xả cho được thì chúng ta đầu tiên phải sống độc cư, sau đó thì chúng ta phải trú ở trong tâm xả, tức là tâm nhẫn, rồi tâm tùy thuận - tâm nhẫn, tâm tùy thuận, thì lúc bấy giờ chúng ta mới có tu tâm từ được.

Tâm bi cũng vậy, và các hạnh giải thoát cũng vậy, cũng phải trú ở trong tâm xả.

Sống hành trì đúng pháp,

Theo các cái pháp mà Phật đã dạy thì chúng ta sống cho đúng cách.

Hỷ tâm, phải đúng thời,

Nghĩa là lúc nào mà vui mừng thì phải đúng thời, chớ không phải lúc nào cũng vui được, lúc nào mà ban rải cái lòng hỷ của mình với mọi người, với loài chúng sanh. Để làm gì? Để chúng ta xả.

Thí dụ như có một người chửi mình mà mình không có vui được, tức là mình có xả được không? Cho nên lúc bấy giờ đúng cái thời mà là mình cần phải xả nó thì làm cho mình vui, đừng có làm cho mình khổ.

Không chống đối va chạm,

Nghĩa là luôn lúc nào mình muốn cái tâm hỷ của mình mà đúng thời thì mình giữ gìn, đừng có chống đối, đừng có va chạm với một ai, với một cái gì khác hết. Vì có sự chống đối, vì có sự va chạm thì cái tâm hỷ rất là khó hỷ.

Mà muốn được vậy thì chúng ta phải tỉnh giác, phải tu tập cái sức tỉnh giác, biết đúng thời là mình nói, hay hoặc làm cái gì cho đúng thời. Không khéo thì nó sẽ không đúng thời, nó sẽ có sự chống đối, có sự va chạm thì cái tâm hỷ không thể thành tựu được.

Mà tâm hỷ không thể thành tựu được thì tâm bi, tâm từ làm sao có được? Cho nên ở đây chúng ta phải thấy được nó câu hữu, nó kết hợp từ, bi, hỷ, xả, nó bốn cái.

Không chống trái va chạm,

Với một ai ở đời,

Ấy là tâm xả sạch,

Nghĩa là luôn luôn lúc nào mình cũng giữ trọn, mình không chống lại với ai, mình không va chạm với ai, thì trong mọi cái hoàn cảnh xảy đến mà mình không hề có một cái sự chống đối, va chạm gì với ai hết thì ấy là tâm xả của mình. Còn có sự chống đối, còn có sự phiền não, còn có sự giận hờn, còn có sự đau khổ trong tâm của mình thì chưa phải xả.

Cho nên luôn luôn lúc nào chúng ta cũng cần phải giữ gìn tâm của mình, thứ nhất là sống trong cái hạnh độc cư để tu tâm từ, tâm bi và các hạnh giải thoát, hằng ngày thì chúng ta phải tu tập theo đúng pháp Phật dạy, và đến tâm hỷ thì phải đúng thời, đúng cái thời để mà rèn luyện cái tâm hỷ.

(01:16:19) Như trong cái bài Tứ Vô Lượng Tâm Thầy đã dạy các thầy tu tập tâm từ, bi, hỷ, tất cả những cái này Thầy đã dạy, các thầy phải nỗ lực tu tập, đó là sống hành trì đúng pháp theo những cái lời Thầy dạy.

Thì như trong cái bài kệ 40 này Đức Phật nói sống hành trì đúng pháp, nếu mà chúng ta tu đúng pháp thì tâm từ, tâm bi và tâm hỷ chúng ta sẽ đúng thời, cho nên chúng ta không còn có chống đối và va chạm với ai hết. Bởi vì từ, bi, hỷ chúng ta đã có thì chúng ta đâu còn chống đối ai hết?

Mà không còn chống đối và va chạm ai hết - “với một ai ở đời” thì đó là chúng ta xả hết rồi, chúng ta xả sạch, chúng ta xả sạch hết, các pháp ở trong thế gian này chúng ta đã xả.

Muốn tu tập được Tứ Vô Lượng Tâm như vậy mà xả sạch hết các pháp trong thế gian thì người tu sĩ cần phải có sự sống riêng một mình để trau dồi, để luyện tập, để dứt bỏ tất cả mọi cái. Hằng ngày chúng ta tu tập như vậy trong một năm, hai năm, ba năm, sau đó thì chúng ta mới thấy là chúng ta đã dứt bỏ các pháp thế gian.

Và khi mà dứt bỏ được các pháp thế gian thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy cái sự mà sống riêng một mình, đó là một cái điều bí quyết để mà chúng ta thực hiện được con đường tu tập giải thoát.

Cho nên ở đây Phật ví dụ:

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Nghĩa là chúng ta muốn sống một mình như một con tê giác thì tức là chúng ta phải sống độc cư để mà tu tập cho nó chín mùi tất cả những cái lý pháp cũng như những cái tâm phóng dật đã khép chặt, không cho nó phóng dật.

Và chúng ta đã thực hiện được những cái tâm từ, bi, hỷ, xả của chúng ta, cho nên không còn va chạm, không còn chống đối ai, ai nói hơn nói thua gì mặc họ, mình cũng chẳng cần phải hơn thua gì với ai nữa hết. Đó là chúng ta đã xả sạch, xả sạch các pháp trong thế gian, chúng ta đã hoàn tất được con đường độc cư để mà thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm.

Bài kệ thứ 40 này tức là Đức Phật muốn nhắc nhủ chúng ta, muốn thực hiện từ, bi, hỷ, xả này thì chúng ta phải sống riêng một mình, phải sống độc cư thì chúng ta mới thực hiện được tâm từ, bi, hỷ, xả.

BÀI KỆ 41 - ĐOẠN DỨT THAM, SÂN, SI VÀ CÁC KIẾT SỬ, KHÔNG SỢ HÃI

(01:18:34) Bây giờ Thầy tiếp tục đọc bài kệ 41:

Đoạn tận lòng tham ái,

Và sân hận, si mê,

Cắt đoạn và chặt đứt,

Các kiết sử lớn nhỏ,

Không có gì sợ hãi,

Khi mạng sống lâm chung.

Chỉ giữ gìn cho trọn

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Ở đây Đức Phật khuyên chúng ta là, cái câu kệ thứ nhất: Đoạn tận cái lòng tham muốn của chúng ta, đó là cái cách thức thứ nhất.

Bây giờ chúng ta muốn đoạn tận được cái lòng ham muốn của chúng ta thì chúng ta phải sống riêng một mình, phải sống độc cư một mình ở trong một cái khu vực yên tĩnh nào đó để chúng ta thực hiện cái tâm, cái Định Vô Lậu mà chúng ta quét sạch cái lòng ham muốn của chúng ta.

Và sân hận, si mê,

Nhờ cái Định Vô Lậu đó nó làm cho chúng ta không còn si mê nữa, và cũng đoạn tận cái lòng sân hận của chúng ta. Mà không si mê thì sân hận đâu có, mà không si mê thì tham ái cũng đâu có?

Cho nên nhờ chúng ta sống độc cư, tu cái Định Vô Lậu làm cho chúng ta càng ngày càng sáng suốt, cái tri kiến giải thoát càng ngày càng minh mẫn ra, nó càng rõ ra, cho nên cái lòng tham ái chúng ta bị đoạn tận và cái lòng sân hận cũng bị đoạn mất.

Cắt đoạn và chặt đứt,

Các kiết sử lớn nhỏ,

Ở đây Đức Phật nói khi mà chúng ta đã sống độc cư, đã tu tập, đã đoạn tận cái tham ái, đoạn tận cái si mê thì chúng ta nỗ lực tiếp tục là cắt đoạn, cắt đứt đi các kiết sử lớn nhỏ, tức là bảy cái kiết sử lớn nhỏ chúng ta đều chặt đứt sạch. Nghĩa là đoạn dứt Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử thì chúng ta cần phải có cái thời gian sống độc cư để mà chúng ta đoạn dứt nó.

Nghĩa là trước cái mạng sống của chúng ta, có thể nó lâm chung nhưng chúng ta đừng có sợ hãi, đừng có lo lắng, đừng có sợ. Bây giờ chúng ta còn một tấc hơi thì chúng ta phải đoạn dứt lòng cái tham ái, đoạn dứt cái tâm sân hận, si mê của chúng ta, cắt đứt bảy cái kiết sử lớn nhỏ, thì do đó chúng ta chẳng có sợ gì trước giờ phút lâm chung.

Thân của chúng ta là thân của nghiệp, nay thì mảnh mai thì đau không dừng, nhưng chúng ta chẳng hề sợ hãi cái phút lâm chung của chúng ta. Chúng ta thấy rằng cái cần thiết là chúng ta phải đoạn dứt bảy kiết sử và ngũ triền cái, phải quét sạch nó, cái tâm tham ái của chúng ta do đó mà đoạn diệt.

Muốn được vậy thì chúng ta phải sống độc cư, sống một mình, riêng sống một mình để chúng ta tu tập cái Định Vô Lậu mà diệt cái ngũ triền cái, chặt đứt, đoạn dứt cái thất kiết sử, làm chúng ta không còn bị dính mắc, trói buộc được nữa, hoàn toàn thênh thang giải thoát trong con đường tu hành giải thoát của đạo Phật.

Đó thì cái bài kệ thứ 41 này Đức Phật khuyên chúng ta cũng nên sống một mình như tê ngưu một sừng để thực hiện cái Định Vô Lậu, để quét sạch năm cái triền cái và đoạn dứt cái thất kiết sử.

BÀI KỆ 42 - KHI ĐANG TU PHẢI TỰ CỨU MÌNH, KHÔNG PHẢI CỨU NGƯỜI

(01:21:56) Bây giờ Thầy đọc bài kệ 42:

Có những bạn vì lợi,

Thân cận và chung sống,

Những bạn không mưu lợi,

Nay khó tìm ở đời,

Người sáng suốt cứu mình,

Không phải cứu mọi người,

Trong lúc còn đang tu.

Người tu sĩ cần biết

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng!

Đó thì ở đây cái bài 42 là bài kệ cuối cùng của 42 bài kệ, Đức Phật khuyên chúng ta đừng có vì người khác, mà mình đang tu mình hãy lo mình tu, mình sống độc cư mình tu đi, đừng có vì người này người kia, mình nói mình lo, mình khuyên họ tu hành này kia để làm hạnh Bồ Tát, để độ người ta, trong khi mình tu chưa có xong.

Và đồng thời mình phải biết rằng trong cái số người bạn của mình nó có nhiều cái loại bạn lắm. Có những bạn vì lợi mà thân cận và chung sống, có những bạn không có mưu lợi, nhưng mà cái đời mình khó mà kiếm tìm những cái người bạn mà không có mưu cái lợi ở thế gian này.

Còn những cái người bạn mà ở đời họ mưu cầu cái lợi lộc, cái thế gian này nhiều lắm, họ chạy theo vật chất nhiều lắm, cho nên đừng có thân cận với những cái người bạn đó, chung sống với những người bạn đó.

Còn những người bạn mà không mưu lợi, họ sống mà nỗ lực tu hành, thì cái đời của mình khó tìm những cái người bạn đó lắm, không có bao giờ mà tìm được những cái người bạn.

Hở ra một chút, những người bạn mà gọi là đồng tu đồng hành đều là những người bạn mà mưu lợi không à. Còn những người bạn mà không mưu lợi khó mà tìm lắm.

Ai cũng muốn chùa to tháp lớn, ai cũng muốn có Phật tử nhiều, có tiền bạc nhiều, thì những người bạn đó không phải là những người bạn mà chúng ta thân cận, sống chung đâu, chúng ta hãy lìa họ đi.

Họ đang sống như vua chúa, họ đang sống như quan, như chúa, họ đang sống có người hầu kẻ hạ thì những người bạn đó không phải là người tu hành đâu, là những người chạy theo, phóng tâm theo dục lạc thế gian.

(01:24:08) Cho nên ở đời chúng ta đừng có nghĩ rằng phải thương những người bạn đó, phải đem những cái pháp mà khuyên dạy họ. Họ chẳng nghe đâu! Dục lạc thế gian đã che mờ mắt họ rồi, không thể nào mà chúng ta cứu họ được đâu. Chúng ta hãy cố gắng cứu mình đi, cứu mình đi! Cho nên:

Người sáng suốt cứu mình,

Không phải cứu mọi người,

Câu này Đức Phật khuyên chúng ta. Chúng ta hãy sống độc cư, sống một mình mình đi, đừng có sống chung với những người bạn đó, khó mà tìm những cái người bạn tốt lắm. Đừng có nghĩ rằng chúng ta khuyên họ, họ nỗ lực họ tu họ trở thành những người bạn tốt. Không đâu!

Bây giờ chúng ta chưa có tu xong đâu, cho nên chúng ta phải tránh xa hết mọi người, không có tin người nào là người bạn tốt hết. Coi chừng, hình thức của họ thì khéo léo rồi chúng ta lầm tưởng, nhưng mà rồi cuối cùng cái cuộc đời chúng ta cũng chẳng cứu được mình đâu.

Cho nên chúng ta phải ráng mà sáng suốt, mà cứu mình cho ra khỏi, vì trong lúc mình còn đang tu. Mà lúc mình còn đang tu thì cần thiết là mình phải độc cư, không có được hai người, không có được ba người, sống một mình mình thôi. Sống một mình mình thôi không có hai ba người, để chúng ta thực hiện.

Cho nên bài kệ 42 này, Đức Phật sợ chúng ta khi mình được pháp, biết pháp, đúng pháp mình tu tập, mình thương người khác, bạn mình họ không biết, mình đem những cái lời khuyên họ thế này thế khác.

Thôi, chúng ta khoan đã! Tu chừng nào xong rồi, có đủ kinh nghiệm hãy hướng dẫn họ, hãy khuyên họ, họ nghe cũng được mà không nghe cũng được, không có sao hết, vì chúng ta tu rồi.

Còn bây giờ chúng ta tu chưa xong mà chúng ta cứ lo cho họ thì cái độc cư chúng ta có độc cư được không? Không bao giờ chúng ta độc cư được. Mà không bao giờ độc cư được thì thử hỏi chúng ta làm sao giải thoát được?

Đó thì hôm nay để kết thúc 42 cái bài kệ này, Đức Phật đã nhắn nhủ chúng ta nên sống độc cư. Cuối cùng cái bài kệ 42 thì Đức Phật cũng đã thấy được cái tâm thương của chúng ta đối với mọi người, cho nên chúng ta có thể khuyên lơn người bạn này bạn kia, rồi chúng ta nghĩ rằng mình khuyên rồi, hay hoặc là kết hợp với họ để cùng sống với nhau để cho có bạn. Nhưng mà sự thật họ lại là những người phá chúng ta không còn độc cư đâu.

(01:26:20) Cho nên chúng ta tìm cái cách nào đó mà chúng ta ở cho yên để mà chúng ta thực hiện độc cư, thực hiện cho được cái sự độc cư, để chúng ta tu tập được giải thoát. Chừng nào giải thoát được rồi thì mình muốn làm gì cũng được hết, còn mình chưa giải thoát thì thôi xin phải độc cư đi, đừng có nên bỏ hạnh độc cư.

Vì chính hạnh độc cư là bí quyết thành công trên con đường tu tập giải thoát, tâm bất động giải thoát là nhờ có hạnh độc cư. 42 cái bài kệ này không có đủ xác chứng rằng đạo Phật nhắm vào để hướng dẫn chúng ta tu hành giải thoát hay sao?

Cho nên quý thầy phải hiểu, 42 bài kệ này nghe đi nghe lại cho kỹ để mà chúng ta thực hiện cái hạnh độc cư cho trọn vẹn, đừng có để cái hạnh độc cư chúng ta lướp ướp nửa chừng, chẳng ra độc cư gì hết, thì uổng cuộc đời tu hành của chúng ta.

Quyết định một đời phải giữ hạnh độc cư trọn vẹn, phải sống một mình như con tê ngưu một sừng mà Đức Phật đã dạy thì mới mong chúng ta có thể kết quả được cái con đường tu tập của chúng ta. Còn nếu mà chúng ta phá hạnh độc cư thì chúng ta khó mà có thể thực hiện được.

Đừng để tình cảm chúng ta dính mắc người thân của chúng ta thì hạnh độc cư chúng ta cũng tiêu luôn. Đừng để tình cảm của chúng ta dính mắc bạn bè thân hữu thì chúng ta cũng tiêu luôn, trên con đường khó mà chúng ta đạt được kết quả.

Đừng để những vật chất lôi cuốn chúng ta để rồi chúng ta cũng mất cả hạnh độc cư. Đừng để mọi thứ mà làm cho tâm chúng ta mất độc cư thì chúng ta cũng không có thể đi đến con đường giải thoát cuối cùng được, và sự chấm dứt luân hồi khó mà đạt được.

Mong quý thầy và các con hãy cố gắng suy ngẫm 42 bài kệ này, rút tỉa ra từng bài kệ để mà thực hiện cuộc đời độc cư trọn vẹn mà Thầy từng nhắc nhở. Cách đây bảy, tám năm Thầy đã nhắc tới nhắc lui rất nhiều là bí quyết thành công của sự thiền định là độc cư, các thầy nhớ kỹ và các con nhớ kỹ chớ?

Đến đây Thầy…​(Mất tiếng) ./.

HẾT BĂNG

GIÁO ÁN TU TẬP - PHÁP ÂM