121-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (12). TL Thích Thông Lạc

46- “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”

Hỏi: Kính thưa Thầy, “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”“tâm bất động trước các pháp” có phải giống nhau không?

Đáp: Không, “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”“tâm bất động trước các pháp” là hai pháp khác nhau như một trời một vực.

Câu “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền” có nhiều nghĩa như:

1- Tâm chai lì vì chịu đựng quá nhiều sự bất hạnh, nên lì mặt ra như không có chuyện gì xảy ra cả, nghĩa là quá quen thuộc với các ác pháp.

2- Tâm lọt vào chỗ không ngơ (như như) trở thành cây đá chẳng còn phân biệt giống như một cỗ máy. Hòa thượng chùa Phước Hậu tu Tịnh Độ, ức chế tâm lọt vào chỗ như như, nên Hòa thượng có để lại một bài kệ:

             Kinh điển Phật truyền tám vạn tư
             Tu hành không thiếu cũng không dư
             Đến này chừng đã như quên hết
             Chỉ nhớ trên đầu một chữ “Như”

Câu chuyện Hòa thượng lội qua sông sau đây chắc nhiều phật tử nghiên cứu Thiền và Tịnh Độ tông cũng đã biết. Người ta kể lại, khi Hòa thượng lội qua sông và lên bờ thì Hòa thượng quên mặc quần áo, cứ để trần truồng mà đi; người thị giả chạy theo gọi Hòa thượng mặc quần áo thì Hòa thượng mới nhớ.

Tu hành mà trí tuệ quên như vậy thì quý vị nghĩ sao?, có giống như người máy không? Đó chính là “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”. Thiền định như vậy chúng ta tu để làm gì, để trở thành người mất trí ư?!

3- “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”, đó là một cụm từ rất kêu của Thiền tông dùng để nói lý thuyết, chứ không phải sự sống thiền là như vậy. Thiền tông không ngờ, khi tu tập đến chỗ chẳng niệm thiện niệm ác, tưởng là đối cảnh vô tâm, nào ngờ lại trở thành lẫn trí. Trong khi chúng tôi về học và tu thiền ở Chân Không trong khóa tu thứ nhất, ở đấy có một vị Đại diện Phật giáo tại tỉnh Vĩnh Long đồng tu học với chúng tôi. Không biết ông tu thế nào, nhưng sau này chúng tôi được biết ông trở thành người lẫn trí.

Trong cuộc đời tu hành của chúng tôi có biết bao nhiêu bạn tu thiền Đông Độ, nhưng chúng tôi chưa từng thấy người nào “đối cảnh vô tâm”, là vì tất cả quý vị hiện giờ đều hữu tâm.

Hữu tâm như thế nào? Chùa to, Phật lớn, xe cộ đầy đủ, nói chung về vật chất thế gian có vật gì thì quý thầy đều có đầy đủ như: tủ lạnh, máy điều hòa, radio, cassette, tivi, v.v... Như vậy làm sao gọi quý thầy là vô tâm được.

Bất Động Tâm Định là tên gọi một kết quả thiền định xả tâm của đạo Phật, để chỉ cho một quá trình tu tập đức hạnh và giới luật của bậc Thánh tăng, để diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp, chứ không phải là những danh từ suông như Thiền tông dùng “đối cảnh vô tâm”.

Bất Động Tâm Định là chỉ cho một trạng thái vô tham, sân, si của một hành giả tu tập đúng giáo pháp nguyên thủy, mà xưa kia đức Phật đã thành tựu viên mãn và đã từng dạy cho các đệ tử của mình.

Vậy khi chúng ta bị đánh rất đau, thì lúc bấy giờ chúng ta có Vô Tâm được hay không? Trái lại, Bất Động Tâm khi bị đánh chúng ta không vô tâm nên biết đau rất rõ, nhưng chúng ta không giận người đánh, không phiền não cho số phận của mình, mà chúng ta biết nhân quả rất rõ, biết thiện ác không sai, biết tâm mình không dao động trước cái đau. Đó là tâm bất động trước các pháp.

Tóm lại, khi tu tập tâm hết tham, sân, si thì gọi là Bất Động Tâm Trước Các Pháp, nó còn có một cái tên khác nữa là Vô Tướng Tâm Định; Vô Tướng Tâm Định đó là một trạng thái hoàn toàn giải thoát của đạo Phật. Chính nó là Niết Bàn của chư Phật.

47- Khởi niệm thỏa mái

Hỏi: Kính bạch Thầy, hằng ngày con cứ tác ý “khởi niệm thoải mái”, rồi xem niệm nào là niệm tham, sân, si thì con quán xét từ bỏ, nếu niệm nào là thiện, có lợi cho mình, cho người thì con tiếp tục theo niệm ấy. Bạch Hòa Thượng, đó có phải là ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp không? Nếu con có hiểu sai, xin Hòa Thượng giảng cho con rõ.

Đáp: Đúng vậy, con đã hiểu đúng; cách thức tu tập thiền định của đạo Phật là như vậy, nên sự tu tập này đức Phật gọi là Định Tư Cụ, có nghĩa là phương pháp tu tập thiền định.

Con tu như vậy con có thấy kết quả giải thoát đau khổ không? Nếu có kết quả giải thoát tâm con không còn buồn rầu, sợ hãi, giận hờn, phiền toái, đau khổ, v.v... thì con đã tu đúng. Nếu có thật sự như vậy tức là con đã ngăn và diệt được ác pháp; con hãy cố gắng tiếp tục tu tập để tạo cho mình một cảnh sống thiên đàng tại thế gian này. Hãy tự thắp đuốc lên mà đi con ạ! Không ai thay thế đi cho con được, mà phải chính con.

48- Nhân quả

Hỏi: Kính bạch Thầy, từ khi thầy Thông Vân bịnh, về Châu Đốc, sau ba, bốn ngày đầu thầy đã bình phục trí nhớ như cũ, chỉ có sức khỏe hơi kém. Từ khi bình phục, thầy giữ giới ăn một bữa trở lại và dạy chúng con theo đường lối của Hòa Thượng: “Tâm như cục đất”. Thầy còn định cho phật tử thọ Bát Quan Trai theo cách của Hòa Thượng. Lúc nào tâm trí của thầy cũng hướng về Hòa Thượng. Từ khi con theo thầy Thông Vân học đến nay, con thấy thầy hơn hẳn những vị thầy mà con đã biết. Nhất là về giữ gìn giới luật.

Bạch Hòa Thượng, tại sao thầy ấy lại phải trả một cái quả nặng? (Trước đây vài năm, thầy cũng đã một thời gian bịnh như vậy) bịnh này có còn tái phát nữa hay không?, và làm sao để dứt trừ nó được? Con hỏi là vì chúng con quý thương thầy Thông Vân, chứ không phải cầu Hòa Thượng làm thầy bói. Mong Hòa Thượng thương xót mà giải thích cho chúng con hiểu.

Đáp: Bịnh của thầy Thông Vân là bịnh thần kinh bại liệt do nghiệp căn đời trước. Đời trước thầy cũng dạy người tu thiền định nhưng lại là thiền định ức chế tâm, nên có một số người thần kinh yếu kém, do sự tu tập ức chế tâm quá mạnh nên rối loạn thần kinh thành bịnh như thầy ấy hôm nay vậy.

Hiện giờ có một số người đang theo tu thiền Đông Độ, Mật tông và Tịnh Độ tông; họ đã bị bịnh thần kinh bại liệt, nhưng chúng ta không biết là vì các chùa đều bưng bít.

Vấn đề quan trọng là ở chỗ nhân quả. Nếu trong đời sống tu hành, chúng ta dạy người tu thiền mà có một người bị bịnh này thì chúng ta phải một lần trả quả thuộc về bịnh này, nếu có hai người bị bịnh thì phải trả quả hai lần, nếu có 3 người, 4 người, 5 người thì phải trả quả 3, 4, 5 lần bịnh này.

Cho nên Thầy khuyên các con muốn tu hành thiền định thì hãy chọn cho kỹ lưỡng. Pháp nào ức chế tâm dừng vọng tưởng, tập trung quá mạnh thì không nên tu tập, nếu lỡ thần kinh yếu kém bị bịnh thì rất khổ cho mình và cho những người than thương của mình.

Bịnh này khi nào thầy Thông Vân trả hết nghiệp thì không còn tái phát nữa. Muốn dứt trừ bịnh này bằng cách chuyển nghiệp thì thầy Thông Vân phải dạy phật tử tu tập thọ Bát Quan Trai xả tâm, chứ không nên dạy tu tập thọ Bát Quan Trai ức chế tâm, đồng thời thầy Thông Vân phải tu tập có đối tượng để xả tâm ly dục ly ác pháp, chứ không nên tu tập không đối tượng, vì tu tập không đối tượng thầy sẽ bị ức chế tâm và bịnh cũ tái phát.

Tu tập như vậy có nghĩa là thầy sống tiếp duyên với mọi người bình thường, nhưng lúc nào cũng giữ gìn phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý và trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp thường xuyên quán xét và đẩy lui các chướng ngại pháp; tu tập rất bình thường nhưng lại không bị ức chế tâm, kết quả sẽ mang đến cho thầy một tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Nhờ sống chuyển nghiệp - dạy phật tử tu tập Bát Quan Trai - và biết cách phòng hộ và tu Tứ Niệm Xứ xả tâm thì bịnh thầy Thông Vân không bao giờ tái phát.

Pháp môn tu hành của đức Phật là pháp môn xả tâm tham, sân, si, nhưng người tu không thiện xảo cũng sẽ bị ức chế tâm, và như vậy là tu sai pháp.

Giới luật là một đạo đức, nếu chúng ta sống không biết cách xả tâm thì đạo đức kia chỉ là một thứ đạo đức giả, có nghĩa là ức chế tâm chịu đựng dưới hình thức giới luật. Mà đã ức chế tâm dưới mọi hình thức nào thì cũng có thể bị bịnh bại liệt thần kinh.

                                                                         Thầy gửi lời thăm và chúc con vui mạnh, tu tập xả tâm tốt.
                                                                                                                    Kính thư.
                                                                                                            Thầy của các con.

49- Tu tập nhiếp tâm, an trú tâm trong bao lâu?

Hỏi 1: Thầy kính mến! Từ khi tu tập thiền theo phương pháp Thầy hướng dẫn, mỗi lần đi ra đường con cảm thấy rất ngộp thở, cảm giác như là sắp tắt thở, và lúc nào cũng như là cần hơi thở lắm vậy.

Có nhiều lúc con nghĩ là phải gọi xe đưa đi bịnh viện. Khi đi mua sắm với vợ thì con cảm thấy rất mệt, và phải nằm trong xe để bà xã con đi vô trong trước. Không biết là tại sao? Con bắt đầu ngồi thiền từ lúc 15 tuổi, và bây giờ là 40 tuổi, chưa bao giờ con bị trong trạng thái này. Lúc trước con ngồi thiền là ngồi theo phương thức Yoga, có nghĩa là con ngồi với trạng thái thả lỏng, không suy nghĩ gì.

Nhưng khi đọc phương pháp của Thầy, thì con có cảm giác là phương pháp của Thầy có một cái gì đó sáng suốt và làm cho mình tự chủ bản thân mình hơn, cho nên con quyết tâm hành theo phương pháp của Thầy. Nhưng con cứ bị rớt vào tình trạng này hoài. Con không làm việc và đi đâu được hết, cứ bước ra đường là bị ngộp thở, ngồi lái xe không cũng ngộp. Về nhà nằm nghỉ hoặc ngủ một giấc thì hết trạng thái bị ngộp, mà ngủ thì phải uống thuốc ngủ thì mới ngủ được, còn không để lâu không ngủ con sợ bị nguy hiểm.

Có đôi lúc con tự nhủ: “Thôi, chết đi cũng được”. Con biết những cảm giác này là tạm thời; một là do cơ thể; hai là do tâm mình, nhưng lại không biết trị bằng cách nào. Xin thầy chỉ điểm!

Thường thì khi ngủ dậy là con bắt đầu ngồi thiền; đây là thói quen từ xưa đến nay. Thiền giúp con trong công việc nhiều lắm. Thường con ngồi thiền đến khi nào thấy mỏi thì con ngưng; con không biết thời gian là bao lâu. Khi ngồi thiền từ xưa tới nay con hay nhắm mắt ngồi thiền, như vậy có đúng không thưa thầy?

               Con hiện giờ như là sống trong cõi địa ngục.
               Con vạn lần cầu xin thầy cứu con!

Đáp: Những trường hợp xảy ra như ngộp thở, tức ngực, nặng đầu là tu lâu một pháp. Phật có 37 pháp tu tập từ thấp đến cao, chớ đâu có tu tập một pháp mà chứng đạo được.

Nhiếp tâm và an trú chỉ là giai đoạn mới tu. Khi nhiếp tâm chừng 30 phút thì thay đổi pháp. Do con tu một pháp hơi thở nên ngộp thở là phải. Muốn hết ngộp thở thì đừng tu tập thiền nữa là hết. Mục đích của đạo Phật là tâm không phiền não, giận hờn, ham muốn, chớ không có thiền định gì cả. Vì thế, đức Phật dạy ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện, chớ đâu có dạy chúng ta ngồi thiền nhập định. Ngồi thiền nhập định là các Tổ Trung Hoa dạy. Do dạy không đúng pháp, nên người sau tu tập thành bệnh.

Con muốn tu tập theo pháp Thầy thì ngồi chơi xem tâm mình có còn ham muốn, giận hờn gì không? Nếu không thì đó là tâm bất động, còn có niệm Tham, Sân, Si là tâm còn động, còn các niệm khác ngoài tham, sân, si là tâm không động.

Hỏi 2: Kính thưa thầy! Thầy dạy tu sinh chúng con tại Tu Viện Chơn Như tu tập giai đoạn 1 là tu tập nhiếp tâm và an trú tâm trên thân hành ngoại (đi Kinh Hành, đi Thân Hành Niệm), hoặc trên thân hành nội (19 đề mục Định Niệm Hơi Thở). Vậy thời gian tu tập bao lâu, và kết quả như thế nào mới xong giai đoạn 1? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.

Đáp: Thời gian tu tập không phải lâu. Người nào dở thì tu tập tối đa là 3 tháng. Còn người giỏi chỉ cần 1 tuần lễ là tu tập xong giai đoạn 1. Nhưng làm sao biết người nào là giỏi; người nào là dở?

Người giỏi là khi nhiếp tâm thì tâm không phóng niệm này niệm kia lăng xăng. Còn khi tu tập nhiếp tâm mà cứ niệm này niệm kia lăng xăng thì người đó là dở.

Hỏi 3: Đối với phật tử tu tập tại gia, hoặc tu sĩ còn tiếp duyên, chưa độc cư chuyên tu miên mật thì tu tập các pháp trú tâm, gom tâm trên thân hành của giai đoạn 1 này trong thời gian bao lâu? Kính xin thầy chỉ dạy.

Đáp: Trong các pháp tu tập nhiếp tâm, an trú tâm của giai đoạn 1, có pháp Định Niệm Hơi Thở thì các con phải hết sức thận trọng. Nó là pháp tu tập trên thân hành nội, nên rất nguy hiểm nếu tu tập không đúng. Nếu các con không ở tại Tu Viện Chơn Như thì tốt nhất không nên tu tập hơi thở, vì không có vị thầy hướng dẫn, kiểm tra sự tu tập của các con.

Đối với các pháp tu tập trên thân hành ngoại như đi Kinh Hành hay đi Thân Hành Niệm, các con cũng chỉ nên tu tập tối đa là 6 tháng, không nên tu tập kéo dài thời gian cả năm. Nhất là tu tập một pháp trong nhiều năm là sai, là dính mắc vào pháp tu. Tu như vậy rất dễ lọt vào tưởng nên rất khó tiến tu sau này.

Các con nên nhớ, chỉ tu tập nhiếp tâm và an trú tâm kéo dài nhiều nhất là 6 tháng, đối với người phật tử tại gia. Thay vì người chuyên tu họ tu tập một ngày 4 thời; mỗi thời tu tập 3 tiếng, thì người tu tập tại gia nên thu xếp mỗi ngày tu tập 1 hoặc 2 thời; mỗi thời tu tập từ 30 phút đến 1 tiếng, không nên tu nhiều.

Các con nếu muốn tu tập làm chủ được các nỗi khổ đau trên thân tâm thì phải tu tập có căn bản giai đoạn 1 của người cư sĩ. Còn nếu các con tu tập cho lấy có, tu thử hay tu chơi thì chỉ uổng phí công sức và thời gian mà thôi.

50- Về việc trao y bát và truyền tâm ấn?

Hỏi 1: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được biết về việc trao Y Bát như thế nào?

Đáp: Đọc hết trong tạng kinh Nikaya, không thấy chỗ nào đức Phật trao Y Bát và chỉ định người thừa kế Phật làm Tổ thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư, v.v... Lúc sắp Niết Bàn, Phật dạy các đệ tử: “Này các tỳ kheo, hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp của ta làm Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành; đừng lấy ai làm Thầy, làm chỗ nương tựa, mà phải tự mình thắp lên ngọn đuốc mà đi”.

Việc Truyền Trao Y Bát trong kinh sách Đại Thừa là do các Tổ dựng lên câu chuyện Niêm Hoa trên núi Linh Thứu, Tổ Ca Diếp mỉm cười. Câu chuyện này trong kinh Pháp Hoa để tạo nguyên nhân sản xuất ra cuốn sử 33 vị Tổ sư thiền Ấn Độ và Trung Hoa, lấy Y Bát (vật hữu hình) làm Ấn Chứng, tạo niềm tin cho tín đồ với mục đích Truyền Tâm Ấn (vật vô hình).

Hỏi 2: Đức Phật khi còn tại thế, có trao y bát cho các đệ tử và truyền tâm ấn không?

Đáp: Không! Y bát là những vật dụng tầm thường trong đời sống hằng ngày, đâu có gì quan trọng trong việc tu hành, nhất là giới luật đức hạnh nhân bản - nhân quả lại không cho phép tu sinh dính mắc vào những vật dụng thuộc về pháp hữu vi. Vả lại, Phật giáo có cái nhìn như thật, nên các pháp hữu vi đều vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta cả. Cho nên, việc trao y bát và truyền tâm ấn là một việc bịa đặt của người sau. Chúng ta là những người tu theo bốn chân lý của Phật giáo, thì không nên tin vào những điều ảo tưởng, mơ hồ không thật, trừu tượng ấy.

Hỏi 3: Y bát còn có ý nghĩa gì cao siêu mà con chưa hiểu, xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho con?

Đáp: Y là những vật dụng dùng để mặc cho kín thân, và bát là vật dụng dùng để ăn uống hằng ngày do phật tử cúng dường. Khi y rách hay bát bể thì phật tử cúng dường thay cái khác. Cho nên những vật dụng tầm thường như vậy không có gì là cao siêu và thần thông cả.

Các tăng sinh nên hiểu: “Đạo Phật là đạo như thật đạo của con người, cho nên nó không có gì là cao siêu huyền bí cả. Nó chỉ cho con người biết đâu là đạo đức của con người, để làm con người sống thật là con người; và đâu không phải là đạo đức con người, để mọi người biết đó là con thú vật mang hình người”.

Nhờ biết sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh, nên con người sống được bình an, yên vui và hạnh phúc hơn các loài động vật khác. Ngược lại, con thú vật sống trong khổ đau và thường tranh đấu làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh...

Đạo Phật là đạo như thật, nên những gì cao siêu, thần thông hoặc nói về thế giới siêu hình thì không phải là của Phật giáo, mà của các tôn giáo khác. Bởi những tôn giáo xây dựng trên thế giới siêu hình là không phải tôn giáo của con người; nó là tôn giáo của thần tiên, của thế giới ảo tưởng.

Những người đầu óc giàu tưởng tượng như các nhà Đại Thừa và Thiền Tông, mới biến chiếc y thượng của Tổ phủ trùm một khu đất rộng lớn cò bay thẳng cánh, và cái bát dùng thọ thực hằng ngày thu hết cả dòng họ Thích của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vào mà không chật. Đó là một ảo tưởng tuyệt vời của các Tổ ngày xưa huyền thoại dựng nên.