11. KINH NĀLAKA

11. NĀLAKASUTTAṂ

 

11. KINH NĀLAKA

 

11. KINH NĀLAKA

682. Ānandajāte tidasagaṇe patīte
sakkacca indaṃ sucivasane ca deve,
dussaṃ gahetvā atiriva thomayante
asito isi addasa divāvihāre.
 

682. Vị ẩn sĩ Asita, vào lúc nghỉ trưa, đã nhìn thấy chư Thiên thuộc hội chúng cõi Tam Thập tràn đầy niềm hoan hỷ, vui thích, có y phục sạch sẽ, tôn kính Thiên Chủ Inda, đang cầm lấy vải vóc, và tán dương một cách nhiệt liệt.

679. Ẩn sĩ Asita (A-tư-đà),
Trong lúc giữa ban ngày,
Thấy chúng các chư Thiên
Cõi trời Ba mươi ba,
Họ hoan hỷ vui vẻ,
Với y áo, thanh tịnh,
Họ cung kính In-đa,
Các vị ấy cầm áo
Với nhiệt tình nói lên,
Những lời khen tán thán.

683. Disvāna deve muditamane udagge
cittiṃ karitvā idamavocāsi tattha,
kiṃ devasaṅgho atiriva kalyarūpo
dussaṃ gahetvā bhamayatha kiṃ paṭicca.

683. Sau khi nhìn thấy chư Thiên có tâm ý vui mừng, phấn khởi, vị ấy đã thể hiện sự quan tâm, và tại nơi ấy đã nói điều này: “Tại sao hội chúng chư Thiên có dáng vẻ vô cùng mừng rỡ thế? Liên quan đến việc gì mà quý vị cầm lấy vải vóc quây vòng vòng vậy?

680. Thấy chư Thiên hoan hỷ,
Dõng dạc và phấn chấn,
Với tâm tư cung kính,
Ở đây, vị ấy nói.

Asita:

Vì sao chúng chư Thiên
Lại nhiệt tình hoan hỷ?
Họ cầm áo vui múa,
Là do nhân duyên gì?

684. Yadāpi āsi asurehi saṅgamo
jayo surānaṃ asurā parājitā,
tadāpi netādiso lomahaṃsano
kiṃ abbhutaṃ daṭṭhu marū pamoditā.

684. Mặc dầu vào lúc có cuộc chiến tranh với các A-tu-la, chiến thắng là thuộc về chư Thiên, còn các A-tu-la bị thất trận, vào lúc ấy cũng đã không có việc rởn lông như thế này. Vậy sau khi nhìn thấy điều phi thường gì mà các vị Thiên Thần thích thú?

681. Trong thời gian chiến trận,
Với các A-tu-la,
Dũng sĩ được thắng trận
A-tu-la bại trận,
Thời gian ấy họ không,
Lông tóc dựng ngược dậy,
Họ thấy gì hy hữu,
Chư Thiên hoan hỷ vậy.

685. Selenti gāyanti ca vādayanti ca
bhujāni poṭhenti ca naccayanti ca,
pucchāmi vohaṃ merumuddhavāsine
dhunātha me saṃsayaṃ khippamārisā.

685. Các vị hú vang, ca hát, tấu nhạc, đập vỗ các cánh tay, và nhảy múa. Thưa các ngài, tôi xin hỏi các ngài, những cư dân ở đỉnh núi Meru, xin các ngài hãy mau chóng giũ bỏ điều nghi hoặc của tôi.”

682. Họ la lớn ca hát,
Và họ tấu nhạc trời,
Họ múa tay, vỗ tay,
Họ múa nhảy vũ điệu,
Nay ta hỏi các Ông,
Trú đảnh núi Meru (Tu-di),
Các Ngài hãy mau chóng,
Giải tỏa điều ta nghĩ.

686. So bodhisatto ratanavaro atulyo
manussaloke hitasukhatāya jāto,
sakyāna gāme janapade lumbineyye
tenamha tuṭṭhā atiriva kalyarūpā.

686. “Đức Bồ Tát ấy là vật báu quý giá, không thể sánh bằng, vì sự lợi ích và hạnh phúc (của chúng sanh) đã sanh ra ở thế giới loài người, tại ngôi làng của những người Sakya, thuộc xứ sở Lumbinī; chúng tôi phấn chấn, có dáng vẻ vô cùng mừng rỡ bởi vì điều ấy.

Chư Thiên:

683. Tại xứ Lumbini (Lâm-tì-ni)
Trong làng các Thích-ca,
Có sanh vị Bồ-tát,
Báu tối thắng, vô tỷ,
Ngài sanh, đem an lạc,
Hạnh phúc cho loài Người,
Do vậy chúng tôi mừng,
Tâm vô cùng hoan hỷ.

687. So sabbasattuttamo aggapuggalo
narāsabho sabbapajānamuttamo,
vattessati cakkaṃ isivahaye vane
nadaṃ va sīho balavā migābhibhū.

687. Ngài là bậc tối thượng của tất cả chúng sanh, là con người cao cả, đấng Nhân Ngưu, bậc tối thượng của tất cả loài người. Tựa như con sư tử hùng mạnh, chúa tể của loài thú, đang gầm thét, Ngài sẽ chuyển vận bánh xe ở khu rừng tên Isi.”

684. Ngài, chúng sanh tối thượng,
Ngài loài Người tối thắng,
Bậc Ngưu vương loài Người,
Thượng thủ mọi sanh loại;
Ngài sẽ chuyển Pháp Luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh nhiếp loài thú.

688. Taṃ saddaṃ sutvā turitamavaṃsarī so
suddhodanassa tadā bhavanaṃ upāgami,
nisajja tattha idamavocāsi sakye
kuhiṃ kumāro ahamapi daṭṭhukāmo.

688. Sau khi nghe được lời nói ấy, vị ấy đã vội vã đi xuống, rồi đã đi đến chỗ cư ngụ của (vua) Suddhodana, sau khi ngồi xuống ở tại chỗ ấy, đã nói với các vị dòng Sakya điều này: “Hoàng tử ở đâu? Tôi cũng muốn chiêm ngưỡng.”

685. Sau khi nghe lời ấy,
Ẩn sĩ Asita,
Liền vội vàng bước xuống,
Và đi đến lâu đài,
Của đức vua Tịnh Phạn.
Ðến nơi Ngài ngồi xuống,
Nói với các Thích-ca:
"Hoàng tử nay ở đâu,
Ta nay muốn thấy Ngài".

689. Tato kumāraṃ jalitamiva suvaṇṇaṃ
ukkāmukhe’va sukusalasampahaṭṭhaṃ,
daddallamānaṃ siriyā anomavaṇṇaṃ
dassesu puttaṃ asitavhayassa sakyā.

689. Sau đó, các vị dòng Sakya đã trình cho vị (ẩn sĩ) tên Asita thấy người con trai (của họ), vị hoàng tử sáng chói với sự vinh quang, có màu sắc tuyệt vời, tựa như khối vàng đã được đốt cháy, đã được nung nấu ở ngay cửa miệng của bễ lò rèn bởi người (thợ rèn) vô cùng thiện xảo.

686. Thấy Thái tử chói sáng
Rực rỡ như vàng chói
Trong lò đúc nấu vàng,
Ðược thợ khéo luyện thành,
Bừng sáng và rực rỡ,
Với dung sắc tuyệt mỹ,
Họ Thích trình Thái tử,
Cho ẩn sĩ Tư-đà.

690. Disvā kumāraṃ sikhimiva pajjalantaṃ
tārāsabhaṃ va nabhasigamaṃ visuddhaṃ,
suriyaṃ tapantaṃ saradarivabbhamuttaṃ
ānandajāto vipulamalattha pītiṃ.


 

690. Sau khi nhìn thấy vị hoàng tử tựa như ngọn lửa đang phát sáng, thanh tịnh tựa như chúa của các vì sao (mặt trăng) đang di chuyển ở bầu trời, tựa như mặt trời đang cháy sáng sau khi đã được thoát khỏi đám mây mùa thu, (vị ẩn sĩ) tràn đầy niềm hoan hỷ, đã đạt được pháp hỷ tràn trề.

687. Sau khi thấy Thái tử
Chói sáng như lửa ngọn,
Thanh tịnh như sao Ngưu
Vận hành giữa hư không,
Sáng chiếu như mặt trời
Giữa trời thu, mây tịnh,
Ẩn sĩ tâm hân hoan
Ðược hỷ lạc rộng lớn.

691. Anekasākhañca sahassamaṇḍalaṃ
chattaṃ marū dhārayumantalikkhe,
suvaṇṇadaṇḍā vītipatanti cāmarā
na dissare cāmarachattagāhakā.

691. Các vị Thiên Thần đã nắm giữ ở không trung chiếc lọng có nhiều thanh nan, có ngàn khoanh tròn, và phe phẩy tới lui những cây phất trần có tay cầm bằng vàng; những người nắm giữ các cây phất trần và chiếc lọng không được nhìn thấy.

688. Chư Thiên cầm ngôi lọng
Ðưa lên giữa hư không,
Cây lọng có nhiều cành,
Có hàng ngàn vòng chuyền.
Họ quạt với phất trần,
Có tán vàng, lông thú,
Nhưng không ai thấy được,
Kẻ cầm lọng, phất trần.

692. Disvā jaṭī kaṇhasirivhayo isi
suvaṇṇanekkhaṃ viya paṇḍukambale,
setañca chattaṃ dhariyanta muddhani
udaggacitto sumano paṭiggahe.

692. Sau khi nhìn thấy (vị hoàng tử) tựa như vật trang sức bằng vàng ở tấm chăn len màu đỏ, có chiếc lọng trắng đang được duy trì ở trên đầu, vị ẩn sĩ bện tóc tên Kaṇhasiri, với tâm phấn khởi, thích ý, đã (đưa tay) tiếp nhận.

689. Bậc ẩn sĩ bện tóc,
Tên Kà-ha-xi-ri,
Thấy Thái tử nằm dài
Trên tấm chăn màu vàng,
Như đồng tiền bằng vàng,
Lại trên đầu Thái tử
Có lông trắng đưa lên,
Tâm ẩn sĩ phấn khởi,
Ðẹp ý, lòng hân hoan
Ðưa tay bồng Thái tử.

693. Paṭiggahetvā pana sakyapuṅgavaṃ
jigiṃsako lakkhaṇamattapāragū,
pasannacitto giramabbhudīrayi
anuttarāyaṃ dipadānamuttamo.

693. Hơn nữa, sau khi (đưa tay) tiếp nhận con người quý phái dòng Sakya, trong lúc xem xét, bậc tinh thông về tướng số và chú thuật, với tâm tịnh tín đã thốt lên lời nói rằng: “Vị này là bậc vô thượng, là đấng tối thượng của loài người.”

690. Sau khi ẩm bồng lên
Con trai dòng họ Thích,
Bậc cầu đạo tìm hiểu,
Vượt khổ, nhờ tướng, chú,
Tâm tư được hoan hỷ,
Thốt lên lời như sau:
Vị này bậc Vô thượng,
"Tối thượng loài hai chân".

694. Athattano gamanamanussaranto
akalyarūpo galayati assukāni,
disvāna sakyā isimavocuṃ rudantaṃ
no ce kumāre bhavissati antarāyo.

694. Rồi trong khi suy xét về số phận của bản thân, (vị ẩn sĩ) với dáng vẻ sầu thảm, tuôn rơi những giọt nước mắt. Sau khi nhìn thấy vị ẩn sĩ đang khóc lóc, những người dòng Sakya đã nói rằng: “Sẽ không có tai họa gì cho hoàng tử phải không?

691. Khi vị ấy nghĩ đến,
Số mệnh của tự mình,
Số mệnh không tốt đẹp,
Vị ấy rơi nước mắt,
Thấy vậy, các Thích-ca,
Hỏi ẩn sĩ đang khóc;
"Có sự gì chướng ngại
Sẽ xảy cho Thái tử?".

695. Disvāna sakye isimavoca akalye
nāhaṃ kumāre ahitamanussarāmi,
na cāpi massa bhavissati antarāyo
na orakoyaṃ adhimānasā bhavātha.

695. Sau khi nhìn thấy những người dòng Sakya sầu thảm, vị ẩn sĩ đã nói rằng: “Tôi không nghiệm thấy điều gì bất lợi cho hoàng tử, và cũng sẽ không có tai họa gì cho vị này. Vị này không phải là thấp thỏi, các người hãy an tâm.

692. Thấy họ Thích lo lắng,
Vị ẩn sĩ trả lời:
"Ta không thấy bất hạnh
Xảy đến cho Thái tử,
Ðối với Thái tử ấy,
Chướng ngại sẽ không có,
Vị này không hạ liệt,
Chớ có lo lắng gì.

696. Sambodhiyaggaṃ phusissatāyaṃ kumāro
so dhammacakkaṃ paramavisuddhadassī,
vattessatāyaṃ bahujanahitānukampī
vitthārikassa bhavissati brahmacariyaṃ.

696. Vị hoàng tử này sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác tối cao. Vị này, có sự nhìn thấy (Niết Bàn) thanh tịnh tối thượng, có lòng thương tưởng đến sự lợi ích cho nhiều người, sẽ chuyển vận bánh xe Pháp. Phạm hạnh (Giáo Pháp) của vị này sẽ được lan rộng.

693. Thái tử này sẽ chứng
Tối thượng quả Bồ-đề,
Sẽ chuyển bánh xe pháp,
Thấy thanh tịnh tối thắng,
Vì lòng tử thương xót,
Vì hạnh phúc nhiều người,
Và đời sống Phạm hạnh,
Ðược truyền bá rộng rãi.

697. Mamañca āyu na ciramidhāvaseso
athantarā me bhavissati kālakiriyā,
sohaṃ na sossaṃ asamadhurassa dhammaṃ
tenamhi aṭṭo vyasanagato aghāvī.

 

697. Và tuổi thọ của tôi còn lại ở nơi này không bao lâu, việc qua đời sẽ xảy đến cho tôi trước khi ấy. Tôi đây sẽ không được nghe Giáo Pháp của bậc tinh tấn không kẻ sánh bằng; vì thế tôi phiền muộn, đưa đến bất hạnh, sầu khổ.”

694. Thọ mạng ta ở đời
Còn lại không bao nhiêu,
Ðến giữa đời sống Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung.
Ta không được nghe pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ,
Do vậy ta sầu não,
Bất hạnh và khổ đau".

698. So sākiyānaṃ vipulaṃ janetvā pītiṃ
antepuramhā niragamā brahmacārī,
so bhāgineyyaṃ sayamanukampamāno
samādapesi asamadhurassa dhamme.

698. Bậc hành Phạm hạnh ấy, sau khi làm sanh khởi sự vui mừng cho những người dòng Sakya, đã rời khỏi nội cung. Trong lúc thương tưởng đến người cháu trai (con chị) của mình, vị ấy đã khuyên nó tiếp thu Giáo Pháp của bậc tinh tấn không kẻ sánh bằng:

695. Sau khi khiến họ Thích,
Sanh hoan hỷ rộng lớn,
Bậc sống theo Phạm hạnh,
Bước ra khỏi nội thành.
Vị ấy vì lòng từ,
Thương con trai của chị,
Khích lệ nó học pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ.

699. Buddhoti ghosaṃ yadaparato suṇāsi
sambodhipatto vivarati dhammamaggaṃ,
gantvāna tattha samayaṃ paripucchiyāno
carassu tasmiṃ bhagavati brahmacariyaṃ.

699. “Khi nào con nghe được từ người khác âm thanh ‘Đức Phật,’ và bậc đã đạt được phẩm vị Toàn Giác khai mở Giáo Pháp tối cao, con hãy đi đến nơi ấy. Trong lúc tìm hiểu về đạo lý, con hãy thực hành Phạm hạnh ở nơi đức Thế Tôn ấy.”

696. Khi Ông nghe tiếng Phật,
Từ người khác nói lên,
Bậc đã đạt Bồ-đề,
Ðã đi con đường pháp,
Hãy đi đến chỗ ấy,
Hỏi kỹ về đạo pháp,
Và sống đời Phạm hạnh,
Dưới bậc Thế Tôn ấy.

700. Tenānusiṭṭho hitamanasena tādinā
anāgate paramavisuddha dassinā,
so nālako upacitapuññasañcayo
jinaṃ patikkhaṃ parivasi rakkhitindriyo.

700. Được chỉ dạy bởi vị ấy, bởi con người có tâm ý về sự lợi ích như thế ấy, bởi vị có sự nhìn thấy pháp thanh tịnh tối thượng trong ngày vị lai, Nālaka ấy, có sự tích lũy phước báu đã được hội tụ, trong lúc chờ đợi đấng Chiến Thắng, đã sống (với tư cách đạo sĩ khổ hạnh), có giác quan đã được gìn giữ.

697. Như vậy, được khuyên bảo,
Bởi vị nghĩ hạnh phúc,
Vị thấy ở tương lai,
Ðường tối thắng thanh tịnh.
Do vậy Nà-la-ka,
Với phước đức chất chứa,
Sống với căn hộ trì,
Chờ đợi bậc chiến thắng.

701. Sutvāna ghosaṃ jinavaracakkavattane
gantvāna disvā isinisabhaṃ pasanno,
moneyyaseṭṭhaṃ munipavaraṃ apucchi
samāgate asitavhayassa sāsaneti.
 

701. Sau khi nghe được âm thanh về sự chuyển vận bánh xe cao quý của đấng Chiến Thắng, Nālaka đã đi đến, đã nhìn thấy vị chúa của các bậc ẩn sĩ. Được tịnh tín, Nālaka đã hỏi bậc Hiền Trí quý cao về trí tuệ tối thượng vào lúc lời giáo huấn của vị (ẩn sĩ) tên Asita đã được viên mãn.

698. Khi nghe tin Pháp luân,
Ðược bậc chiến thắng chuyển,
Ðến thấy được hoan hỷ,
Bậc ẩn sĩ Ngưu vương,
Hỏi Mâu ni tối thắng,
Pháp Mâu ni tối thượng,
Như A-tư-đà khuyên
Trong buổi gặp gỡ trước.


Vatthugāthā.
 

 

(Dứt) Các Kệ Ngôn Giới Thiệu.

 

(Kệ mở đầu đã xong)

 

702. Aññātametaṃ vacanaṃ asitassa yathātathaṃ,
taṃ taṃ gotama pucchāma sabbadhammāna pāraguṃ.

702. Lời nói ấy của vị Asita đã được nhận biết là đúng như thật. Thưa ngài Gotama, vì thế chúng tôi hỏi ngài, bậc đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp.

699. Lời A-tư-đà này,
Con biết là như thật,
Con hỏi Gotama,
Ðường giải thoát mọi pháp.

703. Anagāriyupetassa bhikkhacariyaṃ jigiṃsato,
muni pabrūhi me puṭṭho moneyyaṃ uttamaṃ padaṃ.

703. Tôi là người đã đi đến cuộc sống không nhà, đang tầm cầu việc hành pháp khất thực. Thưa bậc Hiền Trí, được tôi hỏi, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành tối thượng của hiền trí hạnh.

700. Không nhà, con đi đến
Tìm hạnh người khất sĩ,
Con hỏi bậc ẩn sĩ
Hãy nói lên cho con,
Con đường đạo tối thượng,
Ðưa đến đạo Mâu-ni,

704. Moneyyaṃ te apaññissaṃ (iti bhagavā)
dukkaraṃ durabhisambhavaṃ,
handa te naṃ pavakkhāmi santhambhassu daḷho bhava.

704. (Đức Thế Tôn nói) “Ta sẽ giúp cho ngươi hiểu về hiền trí hạnh, là điều khó làm, ;à điều khó thành tựu. Vậy Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi. Ngươi hãy cứng cỏi. Ngươi hãy kiên định.

701. Thế Tôn đáp như sau:
Khó hành, khó thực hiện,
Là đạo hạnh Mâu ni,
Ta sẽ cho Ông biết,
Hãy đến lắng tai nghe,
Ta sẽ nói cho Ông,
Hãy vững trí, an thần,
Hãy kiên trì bền chí.

705. Samānabhāgaṃ kubbetha gāme akkuṭṭhavanditaṃ,
manopadosaṃ rakkheyya santo anunnato care.
 

705. Nên thực hành sự bình thản khi có sự bị mắng nhiếc hoặc được lễ bái ở trong làng, nên canh phòng sự sai trái ở tâm, nên sống an tịnh, không cao ngạo.

702. Hãy tu hạnh Sa-môn,
Không để bị dao động,
Giữa khen chê trong làng,
Hãy chế ngự tâm sân,
Sống hạnh thật an tịnh,
Không cống cao kiêu mạn.

706. Uccāvacā niccharanti dāye aggisikhūpamā,
nāriyo muniṃ palobhenti tā su taṃ mā palobhayuṃ.

706. Các hiện tượng tốt xấu (nhiều loại) bộc phát, tương tự như ngọn lửa ở khu rừng. Các phụ nữ quyến rủ bậc hiền trí, mong sao các cô ấy chớ quyến rũ ngươi.

703. Tiếng cao thấp phát ra,
Như ngọn lửa trong vườn,
Nữ nhân hay cám dỗ,
Chớ cám dỗ ẩn sĩ.

707. Virato methunā dhammā hitvā kāme parovare.
aviruddho asāratto pāṇesu tasathāvare.
 

707. Sau khi từ bỏ các dục nhiềm loại, đã được xa lìa pháp đôi lứa, không chống đối, không bị đắm say ở các sinh vật di động hay đứng yên.

704. Hãy từ bỏ dâm dục,
Xả mọi dục cao thấp.
Ðối hữu tình yếu mạnh,
Không đối nghịch, tham đắm.

708. Yathā ahaṃ tathā ete yathā ete tathā ahaṃ,
attānaṃ upamaṃ katvā na haneyya na ghātaye.

708. ‘Ta như thế nào, chúng như thế ấy; chúng như thế nào, ta như thế ấy,’ sau khi lấy bản thân làm ví dụ, không nên giết hại, không nên bảo (kẻ khác) giết hại.

705. Ta thế nào, họ vậy,
Họ thế nào, Ta vậy,
Lấy ngã làm ví dụ,
Chớ giết, chớ bảo giết.

709. Hitvā icchañca lobhañca yattha satto puthujjano,
cakkhumā paṭipajjeyya tareyya narakaṃ imaṃ.
 

709. Sau khi từ bỏ ước muốn và tham lam mà phàm phu bị dính mắc, bậc hữu nhãn nên thực hành (hiền trí hạnh), nên vượt qua địa ngục này.

706. Hãy bỏ dục, bỏ tham,
Ðây phàm phu bị nắm,
Bậc có mắt hành đạo,
Vượt địa ngục, loài Người.

710. Ūnūdaro mitāhāro appicchassa alolupo,
sa ve icchāya nicchāto aniccho hoti nibbuto.

710. Nên có bao tử vơi, nên có vật thực giới hạn, nên ít ham muốn, không tham lam. Vị ấy quả thật không có sự khao khát do ước muốn, là vị không cón ước muốn, được tịch tịnh.

707. Bụng đói, ăn chừng mực,
Ít dục, không tham lam.
Vị ấy không ham dục,
Không dục, thật tịch tịnh.

711. Sapiṇḍacāraṃ caritvā vanantamabhihāraye,
upaṭṭhito rukkhamūlasmiṃ āsanūpagato muni.

711. Sau khi hành hạnh khất thực, bậc hiền trí nên đi đến ven rừng, đứng cạnh gốc cây, rồi tiến đến chỗ ngồi.

708. Sau khi đi khất thực,
Ẩn sĩ vào rừng sâu,
Ði đến dưới gốc cây,
Sửa soạn ngồi an tịnh.

712. Sa jhānapasuto dhīro vanante ramito siyā,
jhāyetha rukkhamūlasmiṃ attānamabhitosayaṃ.

712. Đeo đuổi việc tham thiền, bậc sáng trí ấy nên vui thích nơi ven rừng; trong lúc làm hài lòng bản thân, nên tham thiền ở gốc cây.

709. Bậc Hiền trí hành thiền,
Hoan hỷ trong rừng sâu,
Hành thiền dưới gốc cây,
Thỏa mãn sở thích mình.

713. Tato ratyā vivasane gāmantamabhihāraye,
avhānaṃ nābhinandeyya abhihārañca gāmato.

713. Kế đó, khi tàn đêm, nên đi vào trong làng, không nên thích thú lời mời mọc và tặng phẩm từ ngôi làng.

710. Khi đêm hết, sáng đến,
Cần phải đi đến làng,
Chớ hân hoan khất thực,
Ðồ mang từ làng đi.

714. Na munī gāmamāgamma kulesu sahasā care,
ghāsesanaṃ chinnakatho na vācaṃ payutaṃ bhaṇe.

714. Sau khi đi đến làng, bậc hiền trí không nên đi lại vội vàng ở các gia đình, việc chuyện vãn được cắt đứt, không nên nói lời nói gợi ý tầm cầu về vật thực. 

711. Ẩn sĩ không đi gấp,
Ðến làng, giữa gia đình,
Tìm ăn, cắt nói chuyện,
Không nói chuyện liên hệ.

715. Alatthaṃ yadidaṃ sādhu nālatthaṃ kusalaṃ iti,
ubhayeneva so tādi rukkhaṃ va upanivattati.
 

715. ‘Ta đã nhận được, việc này là tốt đẹp. Ta đã không nhận được, lành thay!” (nghĩ thế) với cả hai trường hợp, vị ấy đều tự tại, tựa như người đến gần cội cây rồi bỏ đi (dầu có hái được trái cây hay không cũng bình thản). 

712. Nếu được, thật là tốt,
Không được, cũng là tốt,
Nghĩ vậy, cả hai mặt,
Vị ấy trở về cây.

716. Sa pattapāṇī vicaranto amūgo mūgasammato,
appaṃ dānaṃ na hīḷeyya dātāraṃ nāvajāniya.
 

716. Vị ấy với bình bát ở bàn tay, trong khi đi đó đây, không là người câm, được xem như người câm, không nên khinh chê vật thí ít ỏi, không nên xem thường thí chủ.

713. Ði với bát cầm tay,
Không câm, dáng như câm,
Chớ khinh, đồ cho ít,
Không chê người đem cho.

717. Uccāvacā hi paṭipadā samaṇena pakāsitā,
na pāraṃ diguṇaṃ yanti na idaṃ ekaguṇaṃ mutaṃ.
 

717. Bởi vì đường lối thực hành cao và thấp đã được vị Sa-môn giảng giải. Họ không đi đến bờ kia hai lần; điều này được cảm giác không chỉ một lần.

714. Bậc Sa-môn thuyết giảng,
Con đường cao và thấp,
Nhưng đến bờ bên kia,
Không có hai con đường,
Tuy vậy chớ nghĩ rằng,
Ðường này chỉ là một.

718. Yassa ca visatā natthi chinnasotassa bhikkhuno,
kiccākiccappahīnassa parilāho na vijjati.

718. Đối với vị tỳ khưu nào không có tham ái, đã cắt đứt dòng chảy, đã dứt bỏ việc cần làm và không cần làm, sự bực bội (của vị ấy) không hiện hữu.

715. Với ai, không có tham,
Tỷ-kheo cắt dòng nước,
Ðoạn tận hành thiện ác,
Vị ấy không sầu não.

719. Moneyyaṃ te upaññissaṃ (iti bhagavā)
khuradhārūpamo bhave,
jivhāya tāluṃ āhacca udare saññato siyā.

719. (Đức Thế Tôn nói) Ta sẽ giúp cho ngươi hiểu về hiền trí hạnh. Nên giống như là lưỡi dao cạo. Nên áp chặt cái lưỡi vào nóc họng, nên tự chế ngự ở bao tử.

716. Thế Tôn lại nói thêm:
Ta dạy cho các Ông
Thức tri hạnh ẩn sĩ,
Hãy tu như lưỡi dao,
Với lưỡi ấn nóc họng,
Hãy hạn chế bao tử.

720. Alīnacitto ca siyā na cāpi bahu cintaye,
nirāmagandho asito brahmacariyaparāyano.
 

720. Và nên có tâm không bị trì trệ, và cũng không nên suy nghĩ nhiều, không còn mùi hôi thối (phiền não), không lệ thuộc, có Phạm hạnh là mục đích.

717. Tâm chớ có thụ động,
Nhưng chớ nghĩ quá nhiều.
Không hôi hám, độc lập,
Sống cứu cánh Phạm hạnh

721. Ekāsanassa sikkhetha samaṇūpāsanassa ca,
ekattaṃ monamakkhātaṃ eko ve abhiramissati.
 

721. Nên học tập về hạnh độc cư và về sự rèn luyện của bậc Sa-môn. Trạng thái đơn độc được gọi là hiền trí. Hiển nhiên, một mình sẽ thỏa thích.

718. Hãy tập ngồi một mình,
Sống đúng hạnh Sa-môn.
Sống một mình được gọi
Là hạnh bậc ẩn sĩ,
Nếu tự mình tìm được
Thoải mái trong cô độc.

722. Atha bhāsihi dasadisā.
Sutvā dhīrānaṃ nigghosaṃ jhāyīnaṃ kāmacāgīnaṃ,
tato hiriñca saddhañca bhiyyo kubbetha māmako.

722. Rồi ngươi sẽ chiếu sáng mười phương.

Sau khi nghe được danh tiếng của các bậc sáng trí, có thiền, có sự xả bỏ các dục, từ đó đệ tử của Ta nên làm tăng trưởng sự hổ thẹn tội lỗi và niềm tin.

719. Hãy chói sáng mười phương,
Sau khi nghe tiếng nói,
Của các bậc hiền sĩ,
Hãy hành thiền, bỏ dục,
Mong đệ tử của Ta,
Tăng trưởng tâm và tín.

723. Taṃ nadīhi vijānātha sobbhesu padaresu ca,
saṇantā yanti kussobbhā tuṇhī yāti mahodadhi.

723. Nên nhận biết điều ấy từ các con sông ở các hố nước và các khe nước, các dòng nước nhỏ di chuyển gây tiếng động, đại dương im lặng di chuyển.

720. Hãy học các dòng nước,
Từ khe núi vực sâu.
Nước khe núi chảy ồn,
Biển lớn động im lặng.

724. Yadūnakaṃ taṃ saṇati yaṃ pūraṃ santameva taṃ,
aḍḍhakumbhūpamo bālo rahado pūrova paṇḍito.

724. Cái gì thiếu kém cái ấy làm thành tiếng vang, cái gì đầy ắp cái ấy thật yên tịnh. Kẻ ngu tương tự cái chum đầy một nửa, bậc sáng suốt tựa như hồ nước đầy tràn.

721. Cái gì trống kêu to,
Cái gì đầy yên lặng,
Ngu như ghè vơi nước,
Bậc trí như ao đầy.

725. Yaṃ samaṇo bahu bhāsati upetaṃ atthasaṃhitaṃ,
jānaṃ so dhammaṃ deseti jānaṃ so bahu bhāsati.

725. Điều mà Sa-môn nói nhiều là điều được liên quan, chứa đựng sự lợi ích. Có chủ tâm vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp, có chủ tâm vị ấy nói nhiều.

722. Khi Sa-môn nói nhiều,
Nói liên hệ đến đích,
Tự biết nên thuyết pháp,
Tự biết nên nói nhiều.

726. Yo ca jānaṃ samaṃ yutto jānaṃ na bahu bhāsati,
sa muni monamarahati sa muni monamajjhagāti.
 

726. Và vị nào có chủ tâm gắn bó sự an tịnh, có chủ tâm không nói nhiều, vị hiền trí ấy xứng đáng bản thể hiền trí, vị hiền trí ấy đã chứng đạt bản thể hiền trí."

723. Ai biết, biết tự chế,
Ai biết, không nói nhiều,
Vị ấy là ẩn sĩ,
Xứng đáng hạnh ẩn sĩ,
Vị ấy là ẩn sĩ,
Ðạt được hạnh ẩn sĩ.

 

Nālakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

Dứt Kinh Nālaka.