11. NĀLAKASUTTAṂ |
11. KINH NĀLAKA |
11. KINH NĀLAKA |
682. Ānandajāte tidasagaṇe patīte | 682. Vị ẩn sĩ Asita, vào lúc nghỉ trưa, đã nhìn thấy chư Thiên thuộc hội chúng cõi Tam Thập tràn đầy niềm hoan hỷ, vui thích, có y phục sạch sẽ, tôn kính Thiên Chủ Inda, đang cầm lấy vải vóc, và tán dương một cách nhiệt liệt. | 679. Ẩn sĩ Asita (A-tư-đà), |
683. Disvāna deve muditamane udagge | 683. Sau khi nhìn thấy chư Thiên có tâm ý vui mừng, phấn khởi, vị ấy đã thể hiện sự quan tâm, và tại nơi ấy đã nói điều này: “Tại sao hội chúng chư Thiên có dáng vẻ vô cùng mừng rỡ thế? Liên quan đến việc gì mà quý vị cầm lấy vải vóc quây vòng vòng vậy? | 680. Thấy chư Thiên hoan hỷ, Asita: Vì sao chúng chư Thiên |
684. Yadāpi āsi asurehi saṅgamo | 684. Mặc dầu vào lúc có cuộc chiến tranh với các A-tu-la, chiến thắng là thuộc về chư Thiên, còn các A-tu-la bị thất trận, vào lúc ấy cũng đã không có việc rởn lông như thế này. Vậy sau khi nhìn thấy điều phi thường gì mà các vị Thiên Thần thích thú? | 681. Trong thời gian chiến trận, |
685. Selenti gāyanti ca vādayanti ca | 685. Các vị hú vang, ca hát, tấu nhạc, đập vỗ các cánh tay, và nhảy múa. Thưa các ngài, tôi xin hỏi các ngài, những cư dân ở đỉnh núi Meru, xin các ngài hãy mau chóng giũ bỏ điều nghi hoặc của tôi.” | 682. Họ la lớn ca hát, |
686. So bodhisatto ratanavaro atulyo | 686. “Đức Bồ Tát ấy là vật báu quý giá, không thể sánh bằng, vì sự lợi ích và hạnh phúc (của chúng sanh) đã sanh ra ở thế giới loài người, tại ngôi làng của những người Sakya, thuộc xứ sở Lumbinī; chúng tôi phấn chấn, có dáng vẻ vô cùng mừng rỡ bởi vì điều ấy. | Chư Thiên: 683. Tại xứ Lumbini (Lâm-tì-ni) |
687. So sabbasattuttamo aggapuggalo | 687. Ngài là bậc tối thượng của tất cả chúng sanh, là con người cao cả, đấng Nhân Ngưu, bậc tối thượng của tất cả loài người. Tựa như con sư tử hùng mạnh, chúa tể của loài thú, đang gầm thét, Ngài sẽ chuyển vận bánh xe ở khu rừng tên Isi.” | 684. Ngài, chúng sanh tối thượng, |
688. Taṃ saddaṃ sutvā turitamavaṃsarī so | 688. Sau khi nghe được lời nói ấy, vị ấy đã vội vã đi xuống, rồi đã đi đến chỗ cư ngụ của (vua) Suddhodana, sau khi ngồi xuống ở tại chỗ ấy, đã nói với các vị dòng Sakya điều này: “Hoàng tử ở đâu? Tôi cũng muốn chiêm ngưỡng.” | 685. Sau khi nghe lời ấy, |
689. Tato kumāraṃ jalitamiva suvaṇṇaṃ | 689. Sau đó, các vị dòng Sakya đã trình cho vị (ẩn sĩ) tên Asita thấy người con trai (của họ), vị hoàng tử sáng chói với sự vinh quang, có màu sắc tuyệt vời, tựa như khối vàng đã được đốt cháy, đã được nung nấu ở ngay cửa miệng của bễ lò rèn bởi người (thợ rèn) vô cùng thiện xảo. | 686. Thấy Thái tử chói sáng |
690. Disvā kumāraṃ sikhimiva pajjalantaṃ | 690. Sau khi nhìn thấy vị hoàng tử tựa như ngọn lửa đang phát sáng, thanh tịnh tựa như chúa của các vì sao (mặt trăng) đang di chuyển ở bầu trời, tựa như mặt trời đang cháy sáng sau khi đã được thoát khỏi đám mây mùa thu, (vị ẩn sĩ) tràn đầy niềm hoan hỷ, đã đạt được pháp hỷ tràn trề. | 687. Sau khi thấy Thái tử |
691. Anekasākhañca sahassamaṇḍalaṃ | 691. Các vị Thiên Thần đã nắm giữ ở không trung chiếc lọng có nhiều thanh nan, có ngàn khoanh tròn, và phe phẩy tới lui những cây phất trần có tay cầm bằng vàng; những người nắm giữ các cây phất trần và chiếc lọng không được nhìn thấy. | 688. Chư Thiên cầm ngôi lọng |
692. Disvā jaṭī kaṇhasirivhayo isi | 692. Sau khi nhìn thấy (vị hoàng tử) tựa như vật trang sức bằng vàng ở tấm chăn len màu đỏ, có chiếc lọng trắng đang được duy trì ở trên đầu, vị ẩn sĩ bện tóc tên Kaṇhasiri, với tâm phấn khởi, thích ý, đã (đưa tay) tiếp nhận. | 689. Bậc ẩn sĩ bện tóc, |
693. Paṭiggahetvā pana sakyapuṅgavaṃ | 693. Hơn nữa, sau khi (đưa tay) tiếp nhận con người quý phái dòng Sakya, trong lúc xem xét, bậc tinh thông về tướng số và chú thuật, với tâm tịnh tín đã thốt lên lời nói rằng: “Vị này là bậc vô thượng, là đấng tối thượng của loài người.” | 690. Sau khi ẩm bồng lên |
694. Athattano gamanamanussaranto | 694. Rồi trong khi suy xét về số phận của bản thân, (vị ẩn sĩ) với dáng vẻ sầu thảm, tuôn rơi những giọt nước mắt. Sau khi nhìn thấy vị ẩn sĩ đang khóc lóc, những người dòng Sakya đã nói rằng: “Sẽ không có tai họa gì cho hoàng tử phải không?” | 691. Khi vị ấy nghĩ đến, |
695. Disvāna sakye isimavoca akalye | 695. Sau khi nhìn thấy những người dòng Sakya sầu thảm, vị ẩn sĩ đã nói rằng: “Tôi không nghiệm thấy điều gì bất lợi cho hoàng tử, và cũng sẽ không có tai họa gì cho vị này. Vị này không phải là thấp thỏi, các người hãy an tâm. | 692. Thấy họ Thích lo lắng, |
696. Sambodhiyaggaṃ phusissatāyaṃ kumāro | 696. Vị hoàng tử này sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác tối cao. Vị này, có sự nhìn thấy (Niết Bàn) thanh tịnh tối thượng, có lòng thương tưởng đến sự lợi ích cho nhiều người, sẽ chuyển vận bánh xe Pháp. Phạm hạnh (Giáo Pháp) của vị này sẽ được lan rộng. | 693. Thái tử này sẽ chứng |
697. Mamañca āyu na ciramidhāvaseso | 697. Và tuổi thọ của tôi còn lại ở nơi này không bao lâu, việc qua đời sẽ xảy đến cho tôi trước khi ấy. Tôi đây sẽ không được nghe Giáo Pháp của bậc tinh tấn không kẻ sánh bằng; vì thế tôi phiền muộn, đưa đến bất hạnh, sầu khổ.” | 694. Thọ mạng ta ở đời |
698. So sākiyānaṃ vipulaṃ janetvā pītiṃ | 698. Bậc hành Phạm hạnh ấy, sau khi làm sanh khởi sự vui mừng cho những người dòng Sakya, đã rời khỏi nội cung. Trong lúc thương tưởng đến người cháu trai (con chị) của mình, vị ấy đã khuyên nó tiếp thu Giáo Pháp của bậc tinh tấn không kẻ sánh bằng: | 695. Sau khi khiến họ Thích, |
699. Buddhoti ghosaṃ yadaparato suṇāsi | 699. “Khi nào con nghe được từ người khác âm thanh ‘Đức Phật,’ và bậc đã đạt được phẩm vị Toàn Giác khai mở Giáo Pháp tối cao, con hãy đi đến nơi ấy. Trong lúc tìm hiểu về đạo lý, con hãy thực hành Phạm hạnh ở nơi đức Thế Tôn ấy.” | 696. Khi Ông nghe tiếng Phật, |
700. Tenānusiṭṭho hitamanasena tādinā | 700. Được chỉ dạy bởi vị ấy, bởi con người có tâm ý về sự lợi ích như thế ấy, bởi vị có sự nhìn thấy pháp thanh tịnh tối thượng trong ngày vị lai, Nālaka ấy, có sự tích lũy phước báu đã được hội tụ, trong lúc chờ đợi đấng Chiến Thắng, đã sống (với tư cách đạo sĩ khổ hạnh), có giác quan đã được gìn giữ. | 697. Như vậy, được khuyên bảo, |
701. Sutvāna ghosaṃ jinavaracakkavattane | 701. Sau khi nghe được âm thanh về sự chuyển vận bánh xe cao quý của đấng Chiến Thắng, Nālaka đã đi đến, đã nhìn thấy vị chúa của các bậc ẩn sĩ. Được tịnh tín, Nālaka đã hỏi bậc Hiền Trí quý cao về trí tuệ tối thượng vào lúc lời giáo huấn của vị (ẩn sĩ) tên Asita đã được viên mãn. | 698. Khi nghe tin Pháp luân, |
|
(Dứt) Các Kệ Ngôn Giới Thiệu. |
(Kệ mở đầu đã xong)
|
702. Aññātametaṃ vacanaṃ asitassa yathātathaṃ, | 702. Lời nói ấy của vị Asita đã được nhận biết là đúng như thật. Thưa ngài Gotama, vì thế chúng tôi hỏi ngài, bậc đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp. | 699. Lời A-tư-đà này, |
703. Anagāriyupetassa bhikkhacariyaṃ jigiṃsato, | 703. Tôi là người đã đi đến cuộc sống không nhà, đang tầm cầu việc hành pháp khất thực. Thưa bậc Hiền Trí, được tôi hỏi, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành tối thượng của hiền trí hạnh. | 700. Không nhà, con đi đến |
704. Moneyyaṃ te apaññissaṃ (iti bhagavā) | 704. (Đức Thế Tôn nói) “Ta sẽ giúp cho ngươi hiểu về hiền trí hạnh, là điều khó làm, ;à điều khó thành tựu. Vậy Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi. Ngươi hãy cứng cỏi. Ngươi hãy kiên định. | 701. Thế Tôn đáp như sau: |
705. Samānabhāgaṃ kubbetha gāme akkuṭṭhavanditaṃ, | 705. Nên thực hành sự bình thản khi có sự bị mắng nhiếc hoặc được lễ bái ở trong làng, nên canh phòng sự sai trái ở tâm, nên sống an tịnh, không cao ngạo. | 702. Hãy tu hạnh Sa-môn, |
706. Uccāvacā niccharanti dāye aggisikhūpamā, | 706. Các hiện tượng tốt xấu (nhiều loại) bộc phát, tương tự như ngọn lửa ở khu rừng. Các phụ nữ quyến rủ bậc hiền trí, mong sao các cô ấy chớ quyến rũ ngươi. | 703. Tiếng cao thấp phát ra, |
707. Virato methunā dhammā hitvā kāme parovare. | 707. Sau khi từ bỏ các dục nhiềm loại, đã được xa lìa pháp đôi lứa, không chống đối, không bị đắm say ở các sinh vật di động hay đứng yên. | 704. Hãy từ bỏ dâm dục, |
708. Yathā ahaṃ tathā ete yathā ete tathā ahaṃ, | 708. ‘Ta như thế nào, chúng như thế ấy; chúng như thế nào, ta như thế ấy,’ sau khi lấy bản thân làm ví dụ, không nên giết hại, không nên bảo (kẻ khác) giết hại. | 705. Ta thế nào, họ vậy, |
709. Hitvā icchañca lobhañca yattha satto puthujjano, | 709. Sau khi từ bỏ ước muốn và tham lam mà phàm phu bị dính mắc, bậc hữu nhãn nên thực hành (hiền trí hạnh), nên vượt qua địa ngục này. | 706. Hãy bỏ dục, bỏ tham, |
710. Ūnūdaro mitāhāro appicchassa alolupo, | 710. Nên có bao tử vơi, nên có vật thực giới hạn, nên ít ham muốn, không tham lam. Vị ấy quả thật không có sự khao khát do ước muốn, là vị không cón ước muốn, được tịch tịnh. | 707. Bụng đói, ăn chừng mực, |
711. Sapiṇḍacāraṃ caritvā vanantamabhihāraye, | 711. Sau khi hành hạnh khất thực, bậc hiền trí nên đi đến ven rừng, đứng cạnh gốc cây, rồi tiến đến chỗ ngồi. | 708. Sau khi đi khất thực, |
712. Sa jhānapasuto dhīro vanante ramito siyā, | 712. Đeo đuổi việc tham thiền, bậc sáng trí ấy nên vui thích nơi ven rừng; trong lúc làm hài lòng bản thân, nên tham thiền ở gốc cây. | 709. Bậc Hiền trí hành thiền, |
713. Tato ratyā vivasane gāmantamabhihāraye, | 713. Kế đó, khi tàn đêm, nên đi vào trong làng, không nên thích thú lời mời mọc và tặng phẩm từ ngôi làng. | 710. Khi đêm hết, sáng đến, |
714. Na munī gāmamāgamma kulesu sahasā care, | 714. Sau khi đi đến làng, bậc hiền trí không nên đi lại vội vàng ở các gia đình, việc chuyện vãn được cắt đứt, không nên nói lời nói gợi ý tầm cầu về vật thực. | 711. Ẩn sĩ không đi gấp, |
715. Alatthaṃ yadidaṃ sādhu nālatthaṃ kusalaṃ iti, | 715. ‘Ta đã nhận được, việc này là tốt đẹp. Ta đã không nhận được, lành thay!” (nghĩ thế) với cả hai trường hợp, vị ấy đều tự tại, tựa như người đến gần cội cây rồi bỏ đi (dầu có hái được trái cây hay không cũng bình thản). | 712. Nếu được, thật là tốt, |
716. Sa pattapāṇī vicaranto amūgo mūgasammato, | 716. Vị ấy với bình bát ở bàn tay, trong khi đi đó đây, không là người câm, được xem như người câm, không nên khinh chê vật thí ít ỏi, không nên xem thường thí chủ. | 713. Ði với bát cầm tay, |
717. Uccāvacā hi paṭipadā samaṇena pakāsitā, | 717. Bởi vì đường lối thực hành cao và thấp đã được vị Sa-môn giảng giải. Họ không đi đến bờ kia hai lần; điều này được cảm giác không chỉ một lần. | 714. Bậc Sa-môn thuyết giảng, |
718. Yassa ca visatā natthi chinnasotassa bhikkhuno, | 718. Đối với vị tỳ khưu nào không có tham ái, đã cắt đứt dòng chảy, đã dứt bỏ việc cần làm và không cần làm, sự bực bội (của vị ấy) không hiện hữu. | 715. Với ai, không có tham, |
719. Moneyyaṃ te upaññissaṃ (iti bhagavā) | 719. (Đức Thế Tôn nói) Ta sẽ giúp cho ngươi hiểu về hiền trí hạnh. Nên giống như là lưỡi dao cạo. Nên áp chặt cái lưỡi vào nóc họng, nên tự chế ngự ở bao tử. | 716. Thế Tôn lại nói thêm: |
720. Alīnacitto ca siyā na cāpi bahu cintaye, | 720. Và nên có tâm không bị trì trệ, và cũng không nên suy nghĩ nhiều, không còn mùi hôi thối (phiền não), không lệ thuộc, có Phạm hạnh là mục đích. | 717. Tâm chớ có thụ động, |
721. Ekāsanassa sikkhetha samaṇūpāsanassa ca, | 721. Nên học tập về hạnh độc cư và về sự rèn luyện của bậc Sa-môn. Trạng thái đơn độc được gọi là hiền trí. Hiển nhiên, một mình sẽ thỏa thích. | 718. Hãy tập ngồi một mình, |
722. Atha bhāsihi dasadisā. | 722. Rồi ngươi sẽ chiếu sáng mười phương. Sau khi nghe được danh tiếng của các bậc sáng trí, có thiền, có sự xả bỏ các dục, từ đó đệ tử của Ta nên làm tăng trưởng sự hổ thẹn tội lỗi và niềm tin. | 719. Hãy chói sáng mười phương, |
723. Taṃ nadīhi vijānātha sobbhesu padaresu ca, | 723. Nên nhận biết điều ấy từ các con sông ở các hố nước và các khe nước, các dòng nước nhỏ di chuyển gây tiếng động, đại dương im lặng di chuyển. | 720. Hãy học các dòng nước, |
724. Yadūnakaṃ taṃ saṇati yaṃ pūraṃ santameva taṃ, | 724. Cái gì thiếu kém cái ấy làm thành tiếng vang, cái gì đầy ắp cái ấy thật yên tịnh. Kẻ ngu tương tự cái chum đầy một nửa, bậc sáng suốt tựa như hồ nước đầy tràn. | 721. Cái gì trống kêu to, |
725. Yaṃ samaṇo bahu bhāsati upetaṃ atthasaṃhitaṃ, | 725. Điều mà Sa-môn nói nhiều là điều được liên quan, chứa đựng sự lợi ích. Có chủ tâm vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp, có chủ tâm vị ấy nói nhiều. | 722. Khi Sa-môn nói nhiều, |
726. Yo ca jānaṃ samaṃ yutto jānaṃ na bahu bhāsati, | 726. Và vị nào có chủ tâm gắn bó sự an tịnh, có chủ tâm không nói nhiều, vị hiền trí ấy xứng đáng bản thể hiền trí, vị hiền trí ấy đã chứng đạt bản thể hiền trí." | 723. Ai biết, biết tự chế, |
Nālakasuttaṃ niṭṭhitaṃ. | Dứt Kinh Nālaka.
|