II. CULLAVAGGO - TIỂU PHẨM

II. CULLAVAGGO - TIỂU PHẨM

 

 

Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka

 

 

Lời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda

 

 

Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu

 

 

1. RATANASUTTAṂ

 

 

1. KINH CHÂU BÁU

 

 

1. KINH CHÂU BÁU

 

224. Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāni va antalikkhe,
sabbeva bhūtā sumanā bhavantu
athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ.

224. Các hạng sanh linh [*] nào đã tụ hội nơi đây,

là các hạng ở địa cầu, hoặc các hạng nào ở hư không,

mong rằng toàn thể tất cả sanh linh đều được hoan hỷ,

rồi xin hãy nghiêm trang lắng nghe lời nói này.  

222. Phàm ở tại đời này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không
Mong rằng mọi sanh linh,
Ðược đẹp ý vui lòng,
Vậy, hãy nên cẩn thận,
Lắng nghe lời dạy này.

[*] Các hạng sanh linh (bhūtāni): nói đến các hàng chư Thiên (amanussesu) không có phân biệt (KhpA. 166).

225. Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe
mettaṃ karotha mānusiyā pajāya,
divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
tasmā hi ne rakkhatha appamattā.
 

225. Chính vì thế, hỡi các sanh linh, mong rằng tất cả hãy lắng tai,

xin các vị hãy thể hiện lòng từ ái đến dòng dõi nhân loại,

là những người ngày và đêm mang lại vật phẩm cúng tế,

chính vì thế, xin các vị hãy hộ trì những người ấy, không xao lãng.

223. Do vậy các sanh linh,
Tất cả hãy chú tâm,
Khởi lên lòng từ mẫn,
Ðối với mọi loài, người.
Ban ngày và ban đêm,
Họ đem vật cúng dường,
Do vậy không phóng dật,
Hãy giúp hộ trì họ.

226. Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ,
na no samaṃ atthi tathāgatena
idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

226. Bất cứ của cải nào ở đời này hoặc đời sau,

hoặc loại châu báu hảo hạng nào ở các cõi Trời,

thật vậy, không có gì sánh bằng đức Như Lai.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở đức Phật;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

224. Phàm có tài sản gì,
Ðời này hay đời sau,
Hay ở tại thiên giới,
Có châu báu thù thắng,
Không gì sánh bằng được,
Với Như Lai, Thiện Thệ
Như vậy, nơi Ðức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

227. Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ
yadajjhagā sakyamunī samāhito,
na tena dhammena samatthi kiñci
idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

227. Sự diệt trừ, sự xa lìa tham ái, sự Bất Tử hảo hạng,

bậc Hiền Trí dòng Sakya, (với tâm) định tĩnh, đã chứng đắc điều ấy,

không có bất cứ cái gì sánh bằng Pháp ấy.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Giáo Pháp;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

225. Ðoạn diệt và ly tham,
Bất tử và thù diệu,
Phật Thích Ca Mâu-Ni,
Chứng pháp ấy trong thiền.
Không gì sánh bằng được,
Với pháp thù diệu ấy.
Như vậy, nơi Chánh pháp,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

228. Yaṃ buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu,
samādhinā tena samo na vijjati
idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.
 

228. Điều mà đức Phật tối thắng đã ca ngợi là trong sạch,

Ngài đã nói điều ấy là định cho quả không bị gián đoạn,

pháp sánh bằng định ấy không được biết đến.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Giáo Pháp;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

226. Phật Thế Tôn thù thắng,
Nói lên lời tán thán,
Pháp thiền định trong sạch,
Liên tục không gián đoạn,
Không gì sánh bằng được,
Pháp thiền vi diệu ấy,
Như vậy, nơi Chánh pháp,
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

229. Ye puggalā aṭṭha sataṃ pasatthā
cattāri etāni yugāni honti,
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā
etesu dinnāni mahapphalāni,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

229. Tám hạng người nào đã được các bậc thiện nhân ca tụng,

các vị này là bốn cặp;[*]

họ là các đệ tử của đấng Thiện Thệ, xứng đáng cúng dường,

các sự bố thí ở các vị này có quả báu lớn lao.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

227. Tám vị bốn đôi này,
Ðược bậc thiện tán thán,
Chúng đệ tử Thiện Thệ,
Xứng đáng được cúng dường.
Bố thí các vị ấy,
Ðược kết quả to lớn.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

[*] Tức là các bậc Thánh nhân, gồm có bốn Đạo và bốn Quả (ND).

230. Ye suppayuttā manasā daḷhena
nikkāmino gotamasāsanamhi,
te pattipattā amataṃ vigayha
laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

230. Các vị nào đã khéo gắn bó với tâm ý vững chãi,

không còn dục vọng, theo lời dạy của đức Gotama,

các vị ấy đã đạt được sự chứng đạt, sau khi đã thể nhập Bất Tử,

các vị đã đạt được không nhọc sức, đang thọ hưởng trạng thái Tịch Diệt.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

228. Các vị lòng ít dục,
Với ý thật kiên trì,
Khéo liên hệ mật thiết,
Lời dạy Gotama!.
Họ đạt được quả vị,
Họ thể nhập bất tử,
Họ chứng đắc dễ dàng,
Hưởng thọ sự tịch tịnh,
Như vậy, nơi tăng chúng,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

231. Yathindakhīlo paṭhaviṃsito siyā
catubbhi vātehi asampakampiyo,
tathūpamaṃ sappurisaṃ vadāmi
yo ariyasaccāni avecca passati,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

 231. Giống như cột trụ đá được nương vào lòng đất,

sẽ không bị lay động bởi các cơn gió từ bốn phương,

với sự so sánh như thế Ta nói về bậc chân nhân,

là vị nào nhìn thấy rõ ràng bốn Chân Lý Cao Thượng.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

229. Như vậy cột trụ đá,
Khéo y tựa lòng đất,
Dầu có gió bốn phương,
Cũng không thể dao động,
Ta nói bậc chơn nhân,
Giống như ví dụ này.
Vị thể nhập với tuệ,
Thấy được những Thánh đế,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

232. Ye ariyasaccāni vibhāvayanti
gambhīrapaññena sudesitāni,
kiñcāpi te honti bhusappamattā
na te bhavaṃ aṭṭhamaṃ ādiyanti,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

232. Các vị nào hiểu rõ về bốn Chân Lý Cao Thượng

đã khéo được thuyết giảng bởi tuệ thâm sâu,

dầu cho các vị ấy thường xuyên bị xao lãng,

các vị ấy cũng không nhận lấy kiếp sống thứ tám.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

230. Những vị khéo giải thích,
Những sự thật Thánh đế,
Những vị khéo thuyết giảng,
Với trí tuệ thâm sâu,
Dầu họ có hết sức,
Phóng dật không tự chế,
Họ cũng không đến nỗi,
Sanh hữu lần thứ tám.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

233. Sahāvassa dassanasampadāya
tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca
sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci,
catūhapāyehi ca vippamutto
cha cābhiṭhānāni abhabbo kātuṃ
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

233. Đối với vị này, nhờ thành tựu về nhận thức,

có ba pháp được từ bỏ:

sự nhận thức sai trái về thân, sự hoài nghi,

giới và phận sự, hoặc thậm chí bất cứ điều gì có liên quan,

và (vị này) được thoát khỏi bốn khổ cảnh,[*]

không thể nào gây nên sáu tội nghiêm trọng.[*] 

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

231. Vị ấy nhờ đầy đủ,
Với chánh kiến sáng suốt,
Do vậy, có ba pháp,
Ðược hoàn toàn từ bỏ.
Thân kiến và nghi hoặc,
Giới cấm thủ cũng không;
Ðối với bốn đọa xứ,
Hoàn toàn được giải thoát;
Vị ấy không thể làm,
Sáu điều ác căn bản.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

[*] Bốn khổ cảnh (apāyā): địa ngục, súc sanh, quỷ đói, và A-tu-la (KhpA. 189).

[*] Sáu tội nghiêm trọng (abhiṭhānāni): gồm có: giết mẹ, giết cha, giết bậc Thánh A-la-hán, làm chảy máu thân Phật, chia rẽ Hội Chúng, tuyên bố vị khác là bậc đạo sư (Sđd.).

234. Kiñcāpi so kammaṃ karoti pāpakaṃ
kāyena vācā uda cetasā vā,
abhabbo so tassa paṭicchādāya
abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.
 

234. Ngay cả khi vị ấy tạo nên bất cứ nghiệp gì ác xấu,

bằng thân, bằng khẩu, hoặc bằng ý,

vị ấy không thể nào che giấu điều ấy,

tính chất không thể của vị chứng đạt Niết Bàn đã được nói đến.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

 

232. Dầu vị ấy có làm
Ðiều ác gì đi nữa,
Với thân hay với lời,
Kể cả với tâm ý,
Vị ấy không có thể
Che đậy việc làm ấy,
Vị ấy được nói rằng,
Không thể thấy ác đạo.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

235. Vanappagumbe yathā phussitagge
gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe,
tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi
nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya,
idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.
 

235. Giống như cây cối ở trong rừng đã được trổ hoa ở ngọn

trong cái nóng ở tháng đầu tiên của mùa hạ,

với sự so sánh như thế, Ngài đã thuyết giảng về Giáo Pháp cao quý,

có khả năng dẫn đến Niết Bàn, tối thắng về lợi ích.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở đức Phật;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

 

233. Ðẹp là những cây rừng
Có bông hoa đầu ngọn,
Trong tháng ba nóng bức,
Những ngày hạ đầu tiên,
Pháp thù thắng thuyết giảng,
Ðược ví dụ như vậy,
Pháp đưa đến Niết-bàn,
Pháp hạnh phúc tối thượng.
Như vậy, nơi Ðức Phật,
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

236. Varo varaññū varado varāharo
anuttaro dhammavaraṃ adesayi,
idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

236. Bậc cao quý, biết pháp cao quý, thí pháp cao quý, đem lại pháp cao quý, đấng Vô Thượng đã thuyết giảng về Giáo Pháp cao quý.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở đức Phật;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

 

234. Cao thượng, biết cao thượng,
Cho, đem lại cao thượng,
Bậc vô thượng thuyết giảng,
Pháp cao thượng thù thắng.
Như vậy, nơi đức Phật,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

237. Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthi sambhavaṃ
virattacittā āyatike bhavasmiṃ,
te khīṇabījā avirūḷhicchandā
nibbanti dhīrā yathāyam padīpo,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

237. Nghiệp cũ đã được cạn kiệt, nguồn sanh khởi mới không có,

với tâm không còn luyến ái vào sự hiện hữu ở tương lai,

các vị ấy có mầm giống đã cạn kiệt, mong muốn tăng trưởng không còn,

các bậc sáng trí tịch diệt, giống như ngọn đèn này vậy.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

 

235. Nghiệp cũ đã đoạn tận,
Nghiệp mới không tạo nên,
Với tâm tư từ bỏ,
Trong sanh hữu tương lai.
Các hột giống đoạn tận,
Ước muốn không tăng trưởng,
Bậc trí chứng Niết-bàn,
Ví như ngọn đèn này.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

238. Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāni va antalikkhe,
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.

 

 238. Các hạng sanh linh nào đã tụ hội nơi đây, là các hạng ở địa cầu hoặc các hạng nào ở hư không, chúng ta hãy lễ bái đức Phật đã ngự đến như thế, được chư Thiên và nhân loại cúng dường, mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

236. Phàm ở tại đời này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Hãy đảnh lễ đức Phật,
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,
Ðảnh lễ và cúng dường.
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.

239. Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāni va antajikkhe,
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.
 

239. Các hạng sanh linh nào đã tụ hội nơi đây, là các hạng ở địa cầu hoặc các hạng nào ở hư không, chúng ta hãy lễ bái Giáo Pháp đã ngự đến như thế, được chư Thiên và nhân loại cúng dường, mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

 

237. Phàm ở tại nơi này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không.
Hãy đảnh lễ Chánh pháp,
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,
Ðảnh lễ và cúng dường.
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.

240. Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāni va antajikkhe,
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.

 

240. Các hạng sanh linh nào đã tụ hội nơi đây, là các hạng ở địa cầu hoặc các hạng nào ở hư không, chúng ta hãy lễ bái Tăng Chúng đã ngự đến như thế, được chư Thiên và nhân loại cúng dường, mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

238. Phàm ở tại nơi này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không.
Hãy đảnh lễ chúng Tăng
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,
Ðảnh lễ và cúng dường.
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.

 

Ratatanasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Châu Báu.

 

 

 

2. ĀMAGANDHASUTTAṂ

 

 

2. KINH MÙI TANH HÔI

 

 

2. KINH HÔI THỐI

 

241. Sāmākaciṅguḷaka cīnakāni ca
pattapphalaṃ mūlapphalaṃ gavipphalaṃ,
dhammena laddhaṃ satamasnamānā
na kāmakāmā alikaṃ bhaṇanti.

241. “Các bậc đức hạnh, trong khi ăn các loại hạt kê, hạt cỏ, đậu núi, lá cây, rễ củ, trái cây đã nhận được đúng pháp, các vị không vì ham muốn ngũ dục mà nói điều dối trá.

Bà-la-môn:

239. Các bậc Thiện chơn chánh,
Ăn hạt giống cây thuốc,
Ăn đậu đũa, đậu rừng,
Ăn lá, ăn rễ cây,
Ăn trái các dây leo,
Nhận được thật đúng pháp.
Vị ấy không nói láo,
Vì các dục thúc đẩy.

242. Yadasnamāno sukataṃ suniṭṭhitaṃ
parehi dinnaṃ payataṃ paṇītaṃ,
sālīnamannaṃ paribhuñjamāno
so bhuñjatī kassapa āmagandhaṃ.

242. Còn kẻ nào, trong khi ăn vật thực hảo hạng được khéo làm, được khéo sửa soạn, được bố thí, được dâng hiến bởi những người khác, trong khi thọ dụng cơm nấu bằng gạo sālī, thưa Ngài Kassapa, kẻ ấy thọ thực vật có mùi tanh hôi.

240. Ôi ngài Kassapa,
Ai ăn các món ăn,
Do người khác bố thí,
Khéo làm, khéo chưng dọn,
Trong sạch và thù thắng;
Ăn lúa gạo thơm ngon.
Ai ăn uống như vậy
Là ăn thịt hôi thối.

243. Na āmagandho mama kappatīti
icceva tvaṃ bhāsasi brahmabandhu,
sālīnamannaṃ paribhuñjamāno
sakuntamaṃsehi susaṃkhatehi,
pucchāmi taṃ kassapa etamatthaṃ
kathaṃpakāro tava āmagandho.

243. ‘Vật có mùi tanh hôi không được phép đối với Ta,’
Ngài nói y như thế, thưa đấng quyến thuộc của Phạm Thiên,
trong khi Ngài thọ dụng cơm nấu bằng gạo sālī
với các miếng thịt chim khéo được nấu nướng.
Thưa Ngài Kassapa, tôi hỏi Ngài ý nghĩa này,
đối với Ngài kiểu cách như thế nào là có mùi tanh hôi?”
 

 

241. Này bà con Phạm thiên,
Chính Ngài tuyên bố rằng:
Ta không ăn đồ thối,
Ðể nuôi sống thân Ta.
Nhưng Ngài ăn món ăn
Bằng lúa gạo thơm ngon,
Ăn thịt các loài chim,
Nấu ăn thật khéo léo
Ta hỏi Kassapa:
Ý nghĩa sự kiện này,
Ngài định nghĩa thế nào,
Là ăn đồ hôi thối?

244. Pāṇātipāto vadhachedabandhanaṃ
theyyaṃ musāvādo nikatī vañcanāni,
ajjhenakujjhaṃ paradārasevanā
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

244. Việc giết hại mạng sống, hành hạ, chặt chém, trói giam,

trộm cướp, nói dối, gian lận, các sự lường gạt,

làm ra vẻ học thức, ve vãn vợ người khác,  

việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải thức ăn thịt.

 

Ðức Phật Kassapa:

242. Sát sanh và hành hình,
Ðả thương và bắt trói,
Trộm cắp và nói láo,
Man trá và lừa đảo,
Giả bộ kẻ học thức,
Ði lại với vợ người,
Ðây là đồ ăn thối,
Ăn thịt không phải thối.

245. Ye idha kāmesu asaññatā janā
rasesu giddhā asucīkamissitā,
natthikadiṭṭhi visamā durannayā
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

245. Ở đây, những kẻ nào không tự kiềm chế trong các dục,
thèm khát ở các vị nếm, xen lẫn với sự (nuôi mạng) không trong sạch,
theo tà kiến ‘không có gì hiện hữu,’ sái quấy, khó chỉ bảo,
việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt
 

.

243. Ở đời, các hạng người,
Không chế ngự lòng dục,
Ðam mê các vị ngon,
Liên hệ đến bất tịnh,
Theo chủ nghĩa hư vô,
Bất chánh khó hướng dẫn,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối.

246. Ye lūkhasā dāruṇā piṭṭhimaṃsikā,
mittadduno nikkaruṇātimānino,
adānasīlā na ca denti kassaci
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

246. Những kẻ nào thô lỗ, bạo tàn, nói xấu sau lưng,

hãm hại bạn bè, nhẫn tâm, ngã mạn thái quá,

có bản tánh keo kiệt và không bố thí đến bất cứ ai,

việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

 

244. Ai thô bạo, dã man,
Sau lưng nói gièm pha,
Phản bạn không từ bi,
Lại cống cao ngạo mạn,
Tánh không có bố thí,
Không cho ai vật gì,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối.

247. Kodho mado thambho paccuṭṭhāpanā ca
māyā usūyā bhassasamussayo ca,
mānātimāno ca asabbhi santhavo
esāmagandho na hi maṃsayojanaṃ.

247. Giận dữ, đam mê, bướng bỉnh, và đối địch,

xảo trá, ganh ghét, và nói khoác lác,

ngã mạn, kiêu căng, và thân thiết với những kẻ không tốt,

việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

245. Phẫn nộ và kiêu mạn,
Cứng đầu và chống đối
Man trá và tật đố,
Nói vô ích, huênh hoang,
Kiêu mạn và quá mạn,
Thân mật với kẻ ác,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

248. Ye pāpasīlā iṇaghātasūcakā
vohārakūṭā idha pāṭirūpikā,
narādhamā ye ’dha karonti kibbisaṃ
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

248. Những kẻ nào có hành vi ác độc, quỵt nợ, vu khống,

gian lận trong giao dịch, những kẻ giả mạo trong giáo pháp,

những kẻ đê tiện làm điều sái quấy ở thế gian này,

việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

 

246. Ác giói, nợ không trả,
Làm người điểm chỉ viên,
Làm những nghề dối trá,
Ở đây, kẻ giả vờ,
Ở đây người bần tiện,
Những người làm ác nghiệp,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối.

249. Ye idha pāṇesu asaññatā janā
paresamādāya vihesamuyyutā,
dussīlaluddā pharusā anādarā
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.
 

249. Những kẻ nào ở đời này không tự kiềm chế đối với các sinh mạng,

sau khi đoạt lấy vật sở hữu của những người khác còn ra sức hãm hại,

có bản tánh tồi tệ, tàn bạo, thô lỗ, không có sự tôn trọng,

việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

247. Ở đời đối hữu tình,
Người không biết kiềm chế,
Lấy cướp sở hữu người,
Chú tâm làm hại người,
Ác giới và tàn nhẫn
Ác ngữ, thiếu lễ độ,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

250. Etesu giddhā viruddhātipātino
niccuyyutā pecca tamaṃ vajanti ye,
patanti sattā nirayaṃ avaṃsirā
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

250. Những kẻ nào thèm khát ở những mạng sống này rồi chống đối, giết hại, thường xuyên ra sức (làm ác), sau khi chết đi về nơi tăm tối, là các chúng sanh rơi vào địa ngục, đầu đi xuống trước, việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

248. Hạng tham ô, thù nghịch,
Tìm cách để giết hại,
Luôn luôn hướng về ác,
Sau chết sanh tối tăm,
Chúng sanh ấy rơi vào,
Ðịa ngục đầu xuống trước.
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

251. Na macchamaṃsaṃ nānāsakattaṃ
na naggiyaṃ na muṇḍiyaṃ jaṭājallaṃ,
kharājināni nāggihuttassūpasevanā vā
ye vāpi loke amarā bahū tapā,
mant ’āhutī yaññamutūpavesanā
sodhenti maccaṃ avitiṇṇakaṅkhaṃ.

251. Không phải cá và thịt, không phải việc nhịn ăn, không phải việc lõa thể, không phải cái đầu cạo, tóc bện và cáu đất, các y da dê thô cứng, hoặc không phải việc thờ phượng cúng tế ngọn lửa, hoặc thậm chí vô số sự khổ hạnh cho việc bất tử ở thế gian, các chú thuật, các đồ hiến cúng, sự hy sinh, các việc hành xác rửa tội theo mùa tiết, mà (có thể) làm trong sạch con người còn chưa vượt qua sự nghi hoặc.

249. Không phải do cá thịt,
Cùng các loại nhịn ăn,
Không phải do lõa thể,
Ðầu trọc và bện tóc,
Không do tro trét mình,
Mặc da thú khô cứng,
Không phải do săn sóc,
Nuôi dưỡng lửa tế tự,
Không do nhiều khổ hạnh,
Ðể được chứng bất tử,
Không bùa chú tế tự,
Các tế đàn thời tiết,
Làm con người trong sạch,
Nếu nghi hoặc chưa đoạn.

252. Sotesu gutto viditindriyo care
dhamme ṭhito ajjavamaddave rato,
saṅgātigo sabbadukkhappahīno
na lippatī diṭṭhasutesu dhīro.

252. Vị đã bảo vệ ở các dòng chảy (giác quan), có (sáu) căn đã được nhận biết, nên sống vững vàng ở Giáo Pháp, thích thú ở sự ngay thẳng và mềm mỏng, đã vượt qua sự quyến luyến, đã dứt bỏ tất cả khổ đau, bậc sáng trí không bị lấm lem bởi các điều đã được thấy hoặc đã được nghe.

250. Do sống hộ trì căn,
Với các căn nhiếp phục,
Vững trú trên Chánh pháp,
Thích chân trực, hiền hòa,
Vượt khỏi các tham ái,
Ðoạn tận mọi khổ đâu,
Bậc trí không nhiễm dính,
Ðiều được thấy, được nghe.

253. Iccetamatthaṃ bhagavā punappunaṃ
akkhāsi naṃ vedayi mantapāragū,
citrāhi gāthāhi munī pakāsayī
nirāmagandho asito durannayo.

253. Đức Thế Tôn đã nói lập đi lập lại ý nghĩa này như thế, vị tinh thông chú thuật đã hiểu được điều ấy. Bậc Hiền Trí, không có mùi tanh hôi, không bị lệ thuộc, khó bị lôi kéo, đã giảng giải bằng các kệ ngôn đa dạng.

251. Nhiều lần, Thế Tôn thuyết,
Ý nghĩa lời dạy này,
Bậc bác học kệ chú,
Thâm hiểu ý nghĩa ấy.
Bậc ẩn sĩ nói lên,
Với những kệ tuyệt diệu,
Bậc không ăn đồ thối,
Ðộc lập, khó hướng dẫn.

254. Sutvāna buddhassa subhāsitaṃ padaṃ
nirāmagandhaṃ sabbadukkhappanūdanaṃ,
nīcamano vandi tathāgatassa
tattheva pabbajjamarocayitthāti.
 

254. Sau khi lắng nghe lời nói không có mùi tanh hôi, có sự xua đi tất cả sự khổ đau, đã khéo được nói lên của đức Phật, (vị đạo sĩ khổ hạnh) với tâm ý khiêm nhượng đã đảnh lễ đấng Như Lai, rồi ngay tại nơi ấy đã tuyên bố việc xuất gia.

252. Nghe xong những lời dạy,
Lời Thế Tôn khéo nói,
Chấm dứt ăn đồ thối,
Ðoạn tận mọi khổ đau,
Vị ấy đảnh lễ Phật,
Với tâm ý nhún nhường,
Thỉnh cầu được cho pháp,
Xuất gia tại nơi đây.

 

Āmagandhasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Mùi Tanh Hôi.

 

 

 

3. HIRISUTTAṂ

 

 

3. KINH HỔ THẸN

 

 

3. KINH XẤU HỔ

 

255. Hiriṃ tarantaṃ vijigucchamānaṃ
sakhāhamasmi iti bhāsamānaṃ,
sayhāni kammāni anādiyantaṃ
neso mamanti iti taṃ vijaññā.

255. Kẻ (nào) vượt qua sự hổ thẹn, kinh tởm sự hổ thẹn,

trong khi nói rằng: ‘Tôi là bạn,’

(nhưng) không nhận lấy các việc làm trong khả năng,

nên nhận biết về kẻ ấy rằng: ‘Người này không là (bạn) của tôi.’

253. Ai mở miệng tuyên bố:
Tôi là bạn của anh,
Sở hành vượt xấu hổ,
Lại khinh chán bạn mình,
Không chịu khó gắng làm,
Công việc có thể làm.
Cần biết người như vậy,
Không phải bạn của tôi.

 

256. Ananvayaṃ piyaṃ vācaṃ yo mittesu pakubbati,
akarontaṃ bhāsamānaṃ parijānanti paṇḍitā.

256. Kẻ nào thể hiện lời nói trìu mến ở giữa bạn bè nhưng không làm theo, các bậc sáng suốt biết rõ là kẻ nói mà không làm.

254. Ai đối với bạn hữu,
Chỉ làm với lời nói,
Lời nói đẹp, khả ái,
Nhưng chỉ lời nói suông,
Bậc trí biết người ấy,
Người chỉ nói, không làm.

257. Na so mitto yo sadā appamatto
bhedāsaṅkī randhamevānupassī,
yasmiñca seti urasīva putto
sa ve mitto so parehi abhejjo.

257. Kẻ nào thường xuyên chú ý, nghi ngờ sự chia rẽ, chuyên soi mói khuyết điểm, kẻ ấy không phải là bạn. Và ở người nào (có thể) trông cậy được tựa như đứa con trai nằm dựa vào ngực (cha), người ấy quả thật là bạn, người ấy không bị chia cắt bởi những kẻ khác.

255. Người luôn luôn chú ý,
Nghi ngờ sự thiếu sót,
Tìm kiếm các nhược điểm,
Người ấy không phải bạn,
Với ai có thể nắm,
Như con nằm trên ngực,
Người ấy mới thật bạn,
Không bị ai chia ly.

258. Pāmujjakaraṇaṃ ṭhānaṃ pasaṃsāvahanaṃ sukhaṃ,
phalānisaṃso bhāveti vahanto porisaṃ dhuraṃ.

258. Trong khi gồng gánh phận sự của nam nhân, người mong cầu Quả Vị làm tăng trưởng (sự tinh tấn), nền tảng tạo ra sự hoan hỷ, (làm tăng trưởng) sự an lạc (Niết Bàn), nguồn mang lại sự khen ngợi.

256. Ai mong lợi ích quả,
Tu tập các sự kiện,
Ðem lại sự hân hoan,
Tu tập sự an lạc,
Ðem lại thưởng, tán thán,
Gánh trách nhiệm làm người.

259. Pavivekarasaṃ pītvā rasaṃ upasamassa ca,
niddaro hoti nippāpo dhammapīti rasaṃ pibanti.

259. Sau khi đã uống hương vị của sự ẩn cư và hương vị của sự an tịnh, người uống hương vị hoan hỷ của Giáo Pháp trở nên không còn buồn bực, không còn ác xấu.

257. Uống xong vị viễn ly,
Uống xong vị an tịnh,
Không sợ hãi, không ác,
Hưởng vị ngọt, pháp hỷ.

 

Hirisuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Hổ Thẹn.

 

 

 

4. MAṄGALASUTTAṂ

 

4. KINH ĐIỀM LÀNH

 

4. KINH ĐIỀM LÀNH LỚN (KINH ĐẠI HẠNH PHÚC)

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, lúc đêm đã khuya, một vị Thiên nhân nọ với màu sắc vượt trội đã làm cho toàn bộ Jetavana rực sáng rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đứng ở một bên, vị Thiên nhân ấy đã bạch với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhân, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên nhân ấy với bài kệ bạch Thế Tôn:

260. Bahū devā manussā ca maṅgalāni acintayuṃ,
ākaṅkhamānā sotthānaṃ brūhi maṅgalamuttamaṃ.

260. “Nhiều chư Thiên và nhân loại, trong khi mong mỏi các điều hưng thịnh, đã suy nghĩ về các điềm lành, xin Ngài hãy nói về điềm lành tối thượng.”

Thiên nhân:

258. Nhiều Thiên nhân và Người,
Suy nghĩ đến điềm lành,
Mong ước và đợi chờ,
Một nếp sống an toàn,
Xin Ngài hãy nói lên
Về điềm lành tối thượng
.

261. Asevanā ca bālānaṃ paṇḍitānañca sevanā,
pūjā ca pūjanīyānaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
 

261. “Không thân cận những kẻ ác, thân cận các bậc sáng suốt, và cúng dường các bậc xứng đáng cúng dường, điều này là điềm lành tối thượng.

Thế Tôn:

259. Không thân cận kẻ ngu,
Nhưng gần gũi bậc trí,
Ðảnh lễ người đáng lễ
Là điềm lành tối thượng.

262. Patirūpadesavāso ca pubbe ca katapuññatā,
attasammāpaṇidhi ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

262. Cư ngụ ở địa phương thích hợp, tính cách đã làm việc phước thiện trong quá khứ, và quyết định đúng đắn cho bản thân, điều này là điềm lành tối thượng.

260. Ở trú xứ thích hợp,
Công đức trước đã làm,
Chân chánh hướng tụ tâm,
Là điều lành tối thượng.

263. Bāhusaccañca sippañca vinayo ca susikkhito,
subhāsitā ca yā vācā etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

263. Kiến thức rộng và (giỏi) nghề thủ công, việc rèn luyện khéo được học tập, và lời nói được khéo nói, điều này là điềm lành tối thượng.

261. Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
Khéo huấn luyện học tập,
Nói những lời khéo nói
Là điềm lành tối thượng.

264. Mātāpitū upaṭṭhānaṃ puttadārassa saṅgaho,
anākulā ca kammantā etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

264. Phụng dưỡng mẹ và cha, cấp dưỡng các con và vợ, các nghề nghiệp không có xung đột (thuần là công việc), điều này là điềm lành tối thượng.

262. Hiếu dưỡng mẹ và cha,
Nuôi dưỡng vợ và con,
Làm nghề không rắc rối
Là điềm lành tối thượng.

265. Dānañca dhammacariyā ca ñātakānañca saṅgaho,
anavajjāni kammāni etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

265. Bố thí và thực hành Giáo Pháp, trợ giúp các thân quyến, những việc làm không bị chê trách, điều này là điềm lành tối thượng.

263. Bố thí, hành đúng pháp,
Săn sóc các bà con,
Làm nghiệp không lỗi lầm
Là điềm lành tối thượng.

266. Ārati virati pāpā majjapānā ca saññamo,
appamādo ca dhammesu etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

266. Sự kiêng cữ, xa lánh điều ác, tự chế ngự trong việc uống các chất say, và không xao lãng trong các (thiện) pháp, điều này là điềm lành tối thượng.

264. Chấm dứt, từ bỏ ác,
Chế ngự đam mê rượu,
Trong pháp, không phóng dật
Là điềm lành tối thượng.

267. Gāravo ca nivāto ca santuṭṭhi ca kataññutā,
kālena dhammasavaṇaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

267. Sự cung kính, khiêm nhường, tự biết đủ, và biết ơn, sự lắng nghe Giáo Pháp vào đúng thời điểm, điều này là điềm lành tối thượng.

265. Kính lễ và hạ mình,
Biết đủ và biết ơn,
Ðúng thời, nghe Chánh pháp
Là điềm lành tối thượng.

268. Khantī ca sovacassatā samaṇānañca dassanaṃ,
kālena dhammasākacchā etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

268. Sự nhẫn nại, trạng thái người dễ dạy, và việc yết kiến các bậc Sa-môn, sự bàn luận Giáo Pháp lúc hợp thời, điều này là điềm lành tối thượng.

 

266. Nhẫn nhục, lời hòa nhã,
Yết kiến các Sa-môn,
Ðúng thời, đàm luận pháp,
Là điềm lành tối thượng.

269. Tapo ca brahmacariyañca ariyasaccānadassanaṃ,
nibbānasacchikiriyā ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
 

269. Sự khắc khổ, và thực hành Phạm hạnh, sự nhận thức các Chân Lý Cao Thượng, và việc chứng ngộ Niết Bàn, điều này là điềm lành tối thượng.

267. Khắc khổ và Phạm hạnh,
Thấy được lý Thánh đế,
Giác ngộ quả Niết bàn
Là điềm lành tối thượng.

270. Phuṭṭhassa lokadhammehi cittaṃ yassa na kampati,
asokaṃ virajaṃ khemaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

270. Tâm không dao động khi tiếp xúc với các pháp thế gian, không sầu muộn, có sự xa lìa bợn nhơ, được an ổn, điều này là điềm lành tối thượng.

268. Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
Không uế nhiễm, an ổn
Là điềm lành tối thượng.

271. Etādisāni katvāna sabbatthamaparājitā,
sabbattha sotthiṃ gacchanti taṃ tesaṃ maṅgalamuttaman ”ti.

 271. (Những người) đã thực hành những điều như thế này thì không bị thất bại ở mọi nơi, đi đến mọi nơi một cách hưng thịnh; đối với họ (những) điều ấy là điềm lành tối thượng.”

269. Làm sự việc như vậy,
Không chỗ nào thất bại,
Khắp nơi được an toàn,
Là điềm lành tối thượng
.

 

Maṅgalasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

Dứt Kinh Điềm Lành.

 

 

 

5. SŪCILOMASUTTAṂ

 

 

5. KINH SŪCILOMA

 

5. KINH SŪCILOMA

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā gayāyaṃ viharati ṭaṃkitamañce sūcilomassa yakkhassa bhavane. Tena kho pana samayena kharo ca yakkho sūcilomo ca yakkho bhagavato avidūre atikkamanti.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại làng Gayā, ở tảng đá Ṭaṃkitamañca, nơi trú ngụ của Dạ-xoa Sūciloma. Vào lúc bấy giờ, Dạ-xoa Khara và Dạ-xoa Sūciloma đi ngang qua ở nơi không xa đức Thế Tôn.

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Gayà, ở Tamkitamanca tại trú xứ của Dạ-xoa Sùciloma. Lúc bấy giờ, Dạ-xoa Khara, Dạ-xoa Sùciloma đi qua Thế Tôn không bao xa.

 

Atha kho kharo yakkho sūcilomaṃ yakkhaṃ etadavoca: Eso samaṇoti. Neso samaṇo samaṇako eso. Yāva jānāmi yadi vā so samaṇo yadi vā samaṇakoti.

 

Khi ấy, Dạ-xoa Khara đã nói với Dạ-xoa Sūciloma điều này:

“Người này là Sa-môn.”

“Người này không phải là Sa-môn. Người này là Sa-môn giả. Lát nữa thì ta sẽ biết người ấy là Sa-môn hay Sa-môn giả.”

 

Dạ-xoa Khara nói với Dạ-xoa Sùciloma: Ðây là Sa-môn. Ðây không phải là Sa-môn. Ðây là Sa-môn hay là Sa-môn giả hiệu.

Atha kho sūcilomo yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavato kāyaṃ upanāmesi.
 

Sau đó, Dạ-xoa Sūciloma đã đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến gần đã nghiêng người về phía thân của đức Thế Tôn.

Rồi Dạ-xoa Sùciloma đi đến Thế Tôn, sau khi đến cọ xát thân Thế Tôn.

 

Atha kho bhagavā kāyaṃ apanāmesi.
Atha kho sūcilomo yakkho bhagavantaṃ etadavoca:

Khi ấy, đức Thế Tôn đã nghiêng thân ra xa.

Sau đó, Dạ-xoa Sūciloma đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Thế Tôn tránh né thân của mình, rồi Dạ-xoa Sùciloma nói với Thế Tôn:

Bhāyasi maṃ samaṇāti.

Na khvāhantaṃ āvuso bhāyāmi, api ca te samphasso pāpakoti.
 

“Này Sa-môn, ông sợ ta sao?”  

“Này đạo hữu, Ta quả không sợ ngươi. Tuy nhiên, sự xúc chạm của ngươi là xấu xa.”

 

- Có phải Sa-môn sợ ta?

 

- Này Hiền giả, Ta không sợ Ông, nhưng xúc phạm với Ông là ác.

Pañhaṃ taṃ samaṇa pucchissāmi sace me na vyākarissasi cittaṃ vā te khipissāmi hadayaṃ vā te phālessāmi pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipissāmīti.

 

“Này Sa-môn, ta sẽ hỏi ông câu hỏi. Nếu ông không trả lời ta, thì ta sẽ khuấy động tâm của ông, hoặc ta sẽ chẻ đôi trái tim của ông, hoặc ta sẽ nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā.”

 

- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ngài, nếu Ngài không trả lời cho ta, ta sẽ làm cho tâm Ngài điên loạn, hay bóp nát quả tim của Ngài, hay nắm chân của Ngài, ta sẽ quăng qua bờ bên kia sông Hằng.

 

Na khvāhaṃ taṃ āvuso passāmi, sadevāke loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya yo me cittaṃ vā khipeyya hadayaṃ vā phāleyya pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya, api ca tvaṃ āvuso puccha yadākaṅkhasīti.

“Này đạo hữu, Ta quả không nhìn thấy người nào trong thế gian tính luôn cõi của chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người, có thể khuấy động tâm của Ta, hoặc có thể chẻ đôi trái tim của Ta, hoặc có thể nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā. Này đạo hữu, tuy vậy ngươi hãy hỏi điều mà ngươi muốn.”

 

- Này Hiền giả, Ta không thấy một ai trong thế giới chư Thiên, với chư Thiên, Ác ma và Phạm Thiên, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người, lại có thể làm cho tâm Ta điên loạn hay bóp nát quả tim của Ta, hay nắm chân của Ta, sẽ quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, Ông cứ hỏi Ta như ý Ông muốn.

 

Atha kho sūciloma yakkho bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

 

Khi ấy, Dạ-xoa Sūciloma đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Rồi Dạ-xoa Sùciloma với câu kệ nói với Thế Tôn:

 

272. Rāgo ca doso ca kutonidānā
aratī ratī lomahaṃso kutojā,
kuto samuṭṭhāya mano vitakkā
kumārakā dhaṅkam ivossajanti.
 

272. “Luyến ái và sân hận có căn nguyên từ đâu?

Ghét, thương, sự rởn lông (vì sợ hãi) sanh ra từ đâu?

Phát khởi từ nơi nào, các suy tầm (về dục) khuấy rối tâm,

tựa như những bé trai tung lên con quạ (đã bị cột chân bởi sợi chỉ dài)?”

 

Sùciloma:

270. Từ những nguyên nhân nào,
Tham và sân khởi lên?
Không ưa thích, ưa thích,
Sợ hãi từ đâu sanh?
Từ đâu được sanh khởi,
Các suy tầm của ý,
Như đứa trẻ độc ác,
Thả cho con quạ bay?

273. Rāgo ca doso ca itonidānā
aratī ratī lomahaṃso itojā,
ito samuṭṭhāya mano vitakkā
kumārakā dhaṅkam1ivossajanti.

273. “Luyến ái và sân hận có căn nguyên từ nơi (bản ngã) này.

Ghét, thương, sự rởn lông (vì sợ hãi) sanh ra từ nơi (bản ngã) này.

Phát khởi từ nơi (bản ngã) này, các suy tầm (về dục) khuấy rối tâm,

tựa như những bé trai thả lỏng con quạ (đã bị cột chân bởi sợi chỉ dài).

 

Thế Tôn:

271. Từ những nguyên nhân này,
Tham, sân được khởi lên,
Không ưa thích, ưa thích,
Sợ hãi từ đây sanh,
Từ đây được sanh khởi,
Các suy tầm của ý,
Như đứa trẻ độc ác,
Thả cho con quạ bay.

274. Snehajā attasambhūtā nigrodhasseva khandhajā,
puthu visattā kāmesu māluvā ’va vitatā vane.

274. Chúng sanh ra từ sự thương yêu, được hình thành ở bản ngã, tựa như việc sanh ra từ thân của giống cây nigrodha. Chúng nhiều vô số, bị vướng mắc vào các dục, tựa như loài dây leo lan rộng ở khu rừng.

272. Sự hiện hữu của ngã,
Chính do thân ái sanh,
Như các loại cây bàng,
Do thân cây bàng sanh.
Sự triền phược các dục,
Thật rộng lớn vô cùng,
Như cây Màluvà,
Tỏa rộng lan khắp rừng.

275. Ye naṃ pajānanti yato nidānaṃ
te naṃ vinodenti suṇohi yakkha,
te duttaraṃ oghamimaṃ taranti
atiṇṇapubbaṃ apunabbhavāyāti.

275. Những ai nhận biết điều ấy có căn nguyên từ đâu,

những vị ấy xua đuổi nó, này Dạ-xoa, ngươi hãy lắng nghe,

những vị ấy vượt qua dòng lũ này, (dòng lũ) khó vượt qua được,

chưa được vượt qua trước đây, để không còn hiện hữu lại nữa.”

 

273. Hãy nghe! Này Dạ-xoa,
Những ai được rõ biết
Từ đâu, khiến sanh khởi,
Họ tẩy sạch nhân ấy.
Họ vượt qua dòng nước,
Chảy mạnh khổ vượt này,
Trước chưa được vượt qua,
Không còn có tái sanh.

 

Sūcilomasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
 

 

Dứt Kinh Sūciloma.

 

 

 

6. KAPILASUTTAṂ

(Dhammacariyasuttaṃ )

 

6. KINH KAPILA

 

 

6. KINH HÀNH CHÁNH PHÁP

(Dhammacariyasuttaṃ)

276. Dhammacariyaṃ brahmacariyaṃ etadāhu vasuttamaṃ,
pabbajitopi ce hoti agārasmā anagāriyaṃ.

276. Việc hành Pháp, việc hành Phạm hạnh, các vị (Thánh nhân) đã nói việc này là tài sản tối thượng, nếu là bậc xuất gia, rời nhà sống không nhà.

274. Pháp hạnh và Phạm hạnh,
Ðược gọi là tối thượng hạnh,
Nếu là người xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà.

277. So ce mukharajātiko vihesābhirato mago,
jīvitaṃ tassa pāpiyo rajaṃ vaḍḍheti attano.

277. Nếu kẻ ấy có bản tánh nói nhiều, thích thú việc hãm hại (như là) loài thú, cuộc sống của kẻ ấy là xấu xa, làm gia tăng ô nhiễm cho chính mình.

275. Nếu bản tánh lắm mồm,
Ưa làm hại như thú,
Ðời sống ấy ác độc,
Làm ngã tăng bụi trần.

278. Kalahābhirato bhikkhu mohadhammena āvaṭo,
akkhātampi na jānāti dhammaṃ buddhena desitaṃ.

278. Vị tỳ khưu thích thú việc cãi cọ, bị ngăn che bởi pháp si mê, thậm chí không biết đến Giáo Pháp đã được công bố, đã được thuyết giảng bởi đức Phật.

276. Tỷ-kheo ưa cãi nhau,
Bị vô minh che đậy,
Không biết pháp luật dạy,
Pháp do Phật tuyên thuyết.

279. Vihesaṃ bhāvitattānaṃ avijjāya purakkhato,
saṃkilesaṃ na jānāti maggaṃ nirayagāminaṃ.

279. Trong khi hãm hại vị có bản thân đã được tu tập, (kẻ ấy) bị thúc đẩy bởi vô minh, không biết về phiền não, về con đường đưa đến địa ngục.

277. Bị vô minh lãnh đạo,
Hại bậc tu tập ngã,
Không biết đường ô nhiễm,
Ðưa đến cõi địa ngục.

280. Vinipātaṃ samāpanno gabbhā gabbhaṃ tamā tamaṃ,
sa ve tādisako bhikkhu pecca dukkhaṃ nigacchati.

280. (Kẻ ấy) bị đưa đến đọa xứ, từ thai bào (này) đến thai bào (khác), từ tăm tối (này) đến tăm tối (khác). Thật vậy vị tỳ khưu thuộc loại như thế ấy sau khi chết bị đọa vào khổ đau.

278. Vị Tỷ-kheo như vậy,
Rơi vào chỗ đọa xứ,
Ði đầu thai chỗ này,
Ðến đầu thai chỗ khác,
Ði từ tối tăm này,
Ðến chỗ tối tăm khác.
Vị ấy sau khi chết,
Rơi vào chỗ khổ đau.

281. Gūthakūpo yathā assa sampuṇṇo gaṇavassiko,
yo ca evarūpo assa dubbisodho hi sāṅgaṇo.

281. Giống như hố phân đã sử dụng nhiều năm có thể bị đầy tràn, kẻ nào thuộc loại như vậy, có sự ô uế, quả khó làm cho trong sạch.  

279. Như hố phân đầy tràn,
Sau nhiều năm chất chứa,
Cũng vậy, kẻ uế nhiễm,
Thật khó lòng gột sạch.

282. Yaṃ evarūpaṃ jānātha bhikkhavo gehanissitaṃ,
pāpicchaṃ pāpasaṅkappaṃ pāpa-ācāragocaraṃ.

282. Này các tỳ khưu, các ngươi hãy biết kẻ nào thuộc loại như vậy, thiên về cuộc sống gia đình, có ước muốn xấu xa, có suy tư xấu xa, có hành vi và nơi lai vãng xấu xa.

280. Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy biết người như vậy,
Hệ lụy với gia đình,
Ác dục, ác tư duy,
Ác uy nghi cử chi,
Ác sở hành, hành xứ.
 

283. Sabbe samaggā hutvāna abhinibbijjayātha naṃ,
kāraṇḍavaṃ niddhamatha kasambuṃ cāpakassatha.

283. Tất cả các ngươi hãy hợp nhất lại, hãy xa lánh kẻ ấy, hãy tống đi bụi bặm, và hãy lùa bỏ rác rưởi.

281. Tất cả đều đồng tình,
Tránh xa ngưòi như vậy,
Hãy thổi nó như bụi,
Hãy quăng nó như rác.

284. Tato palāpe vāhetha assamaṇe samaṇamānine,
niddhamitvāna pāpicche pāpa-ācāragocare.

284. Sau đó, các ngươi hãy loại bỏ các cặn bã, những kẻ không phải Sa-môn giả mạo như là Sa-môn, hãy tống đi những kẻ có ước muốn ác xấu, có hành vi và nơi lai vãng xấu xa.

282. Hãy đuổi kẻ nói nhiều,
Kẻ Sa-môn giả hiệu,
Sau khi đuổi ác dục,
Ác uy nghi hành xứ.

285. Suddhā suddhehi saṃvāsaṃ kappayavho patissatā,
tato samaggā nipakā dukkhassantaṃ karissathāti.

285. Là những người trong sạch các ngươi hãy sắp xếp việc cộng trú với những vị trong sạch, có sự tôn trọng lẫn nhau. Từ đó, có sự hợp nhất, chín chắn, các ngươi sẽ thực hiện việc chấm dứt khổ đau.

283. Hãy giữ mình trong sạch,
Chung sống kẻ trong sạch,
Sống thích đáng, chánh niệm,
Rồi hòa hợp, sáng suốt,
Hãy chấm dứt khổ đau
.

 

Kapilasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Kapila.

 

 

 

7. BRĀHMAṆADHAMMIKASUTTAṂ

 

 

7. KINH TRUYỀN THỐNG BÀ-LA-MÔN

 

 

7. KINH PHÁP BÀ-LA-MÔN

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho sambahulā kosalakā brāhmaṇamāhāsāḷā jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayo anuppattā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu, sammodanīyaṃ kathaṃ sārānīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te brāhmaṇamahāsāḷā bhagavantaṃ etadavocuṃ:

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, nhiều vị Bà-la-môn giàu có, cư dân xứ Kosala, già cả, uy tín, lớn tuổi, sống thọ, đã đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời, đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, các vị Bà-la-môn giàu có ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi nhiều Bà-la-môn đại phú ở Kosala già yếu, cao niên, trưởng lão, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn:

 

Sandissanti nu kho bho gotama etarahi brāhmaṇā porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhammeti.

 

- Thưa ngài Gotama, các vị Bà-la-môn hiện nay có sống theo pháp Bà-la-môn của các vị Bà-la-môn thời xưa không?

- Thưa Tôn giả Gotama, hiện nay còn có những Bà-la-môn nào được thấy là theo pháp Bà-la-môn của những Bà-la-môn thời xưa?

Na kho brāhmaṇā sandissanti etarahi brāhmaṇā porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhammeti.
 

- Này các Bà-la-môn, các vị Bà-la-môn hiện nay không sống theo pháp Bà-la-môn của các vị Bà-la-môn thời xưa.

- Này các Bà-la-môn, hiện nay không còn thấy các Bà-la-môn theo pháp Bà-la-môn của các Bà-la-môn thời xưa?

Sādhu no bhavaṃ gotamo porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhammaṃ bhāsatu sace bhoto gotamassa agarūti.
 

- Thưa ngài Gotama, lành thay xin ngài Gotama hãy nói cho chúng tôi về pháp Bà-la-môn của các vị Bà-la-môn thời xưa, nếu đối với ngài Gotama là không trở ngại.

- Lành thay, Tôn giả Gotama hãy nói cho pháp Bà-la-môn của các Bà-la-môn thời xưa. Nếu Tôn giả Gotama không thấy gì phiền phức.

 

Tena hi brāhmaṇā suṇātha sādhukaṃ manasikarotha bhāsissāmīti.

 

- Này các Bà-la-môn, như thế thì các người hãy lắng nghe, các người hãy khéo chú ý, Ta sẽ nói.

- Vậy này các Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ nói.

Evaṃ bhoti kho te brāhmaṇamahāsāḷā bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca:

“Thưa ngài, xin vâng,” các vị Bà-la-môn giàu có ấy đã đáp lại đức Thế Tôn Đức Thế Tôn đã nói điều này:

- Thưa vâng, Tôn giả. Các Bà-la-môn đại phú ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:

 

286. Isayo pubbakā āsuṃ saṃyatattā tapassino,
pañcakāmaguṇe hitvā attadatthamacārisuṃ.

286. Các vị ẩn sĩ thời quá khứ có bản thân đã được chế ngự, có sự khắc khổ, sau khi từ bỏ năm loại dục, các vị đã thực hành điều lợi ích cho bản thân.

 

  

284. Các ẩn sĩ thời xưa,
Chế ngự, sống khắc khổ,
Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
Hành lý tưởng tự ngã.

287. Na pasū brāhmaṇānāsuṃ na hiraññaṃ na dhāniyaṃ,
sajjhāyadhanadhaññāsuṃ brahmaṃ nidhimapālayuṃ.

287. Không gia súc, không vàng, không tài sản đối với các vị Bà-la-môn. Có việc học là tài sản và lúa gạo, các vị đã bảo vệ kho báu cao thượng.

285. Phạm chí, không gia súc,
Không vàng bạc lúa gạo,
Học hỏi là tài sản,
Họ che chở hộ trì,
Kho tàng tối thượng ấy.

288. Yaṃ tesaṃ pakataṃ āsi dvārabhattaṃ upaṭṭhitaṃ,
saddhāpakatamesānaṃ dātave tadamaññisuṃ.

288. Vật nào đã được làm ra dành cho các vị ấy, vật thực được đặt gần ở cánh cửa (của ngôi nhà), vật đã được làm ra bởi niềm tin, (các thí chủ) nghĩ rằng vật ấy sẽ được bố thí đến những vị đang tầm cầu.

286. Ðồ ăn được sửa soạn,
Ðược đặt tại ngưỡng cửa,
Với lòng tin, họ soạn
Ðể cúng bậc Thánh cầu.

289. Nānārattehi vatthehi sayaneh’ āvasathehi ca,
phītā janapadā raṭṭhā te namassiṃsu brāhmaṇe.

289. Với các vải vóc nhuộm nhiều màu, với các giường nằm, và với các chỗ trú ngụ, các xứ sở, các vương quốc thịnh vượng đã tôn vinh các vị Bà-la-môn ấy.

287. Với vải mặc nhiều màu,
Với giường nằm trú xứ,
Từ quốc độ giàu có,
Họ đảnh lễ Phạm chí.

290. Avajjhā brāhmaṇā āsuṃ ajeyyā dhammarakkhitā,
na te koci nivāresi kuladvāresu sabbaso.

290. Các vị Bà-la-môn đã không bị giết hại, không bị áp bức, được pháp luật bảo vệ, hoàn toàn không có bất cứ người nào đã ngăn cản các vị ấy ở các ngưỡng cửa của các gia đình.

288. Không bị ai xâm phạm
Là Phạm chí thời ấy,
Không bị ai chiến hại,
Họ được pháp che chở,
Không ai ngăn chận họ,
Tại ngưỡng cửa gia đình.

291. Aṭṭhacattārisaṃ vassāni komāraṃ brahmacariyaṃ cariṃsu te,
vijjācaraṇapariyeṭṭhiṃ acaruṃ brāhmaṇā pure.

291. Các vị ấy đã thực hành Phạm hạnh từ thời niên thiếu cho đến bốn mươi tám tuổi. Các vị Bà-la-môn trước đây đã tầm cầu kiến thức và đức hạnh.

289. Từ trẻ đến bốn tám,
Các Phạm chí thời xưa,
Họ sống hành Phạm hạnh,
Tầm cầu minh và hạnh.

292. Na brāhmaṇā aññamagamuṃ napi bharīyaṃ kiṇiṃsu te,
sampiyeneva saṃvāsaṃ saṃgantvā samarocayuṃ.

292. Các vị Bà-la-môn đã không đi đến với (giai cấp) khác, các vị ấy cũng đã không mua người vợ. Chi do sự yêu thương lẫn nhau, họ đã đi đến với nhau và cùng vui thích sự chung sống với nhau.

290. Các vị Bà-la-môn,
Không đến giai cấp khác,
Không mua người làm vợ,
Chung sống trong tình thương,
Họ đi đến với nhau,
Trong niềm hoan hỷ chung.

293. Aññatra tamhā samayā utuveramaṇimpati,
antarā methunaṃ dhammaṃ nāssu gacchanti brāhmaṇā.

293. Trừ ra thời điểm ấy, lúc dứt kinh kỳ của người vợ, khoảng giữa (chu kỳ ấy), các vị Bà-la-môn không bao giờ đi đến việc đôi lứa.

291. Ngoại trừ thời gian ấy,
Thời có thể thụ thai,
Là người Bà-la-môn,
Không đi đến giao cấu.

294. Brahmacariyañca sīlañca ajjavaṃ maddavaṃ tapaṃ,
soraccaṃ avihiṃsañca khantiñcāpi avaṇṇayuṃ.

294. Các vị đã ca ngợi Phạm hạnh, giới hạnh, sự ngay thẳng, sự mềm mỏng, sự khắc khổ, sự nhã nhặn, sự không hãm hại, và luôn cả sự kham nhẫn.

292. Họ tán thán Phạm hạnh,
Giới, học thức, nhu hòa,
Khắc khổ và hòa nhã,
Bất hại và nhẫn nhục.

295. Yo nesaṃ paramo āsi brahmā daḷhaparakkamo,
sa vāpi methunaṃ dhammaṃ supinantepi nāgamā.

295. Trong số các vị ấy, vị nào là tối thắng, cao cả, có sự nỗ lực vững chải, chính vị ấy đã không còn đi đến việc đôi lứa, dầu là trong giấc mơ.

293. Vị tối thắng trong họ,
Là Phạm thiên, nỗ lực,
Vị ấy không giao hợp,
Cho đến trong cơn mộng.

296. Tassa vattamanusikkhantā idheke viññujātikā,
brahmacariyañca sīlañca khantiñcāpi avaṇṇayuṃ.

296. Trong khi học tập theo sự thực hành của vị ấy, nhiều vị ở đây, có bản tánh hiểu biết, đã ca ngợi Phạm hạnh, giới hạnh, và luôn cả sự kham nhẫn.

294. Ở đời, bậc có trí,
Học theo hạnh vị ấy,
Họ tán thán Phạm hạnh,
Giới đức và nhẫn nhục.

297. Taṇḍulaṃ sayanaṃ vatthaṃ sappitelañca yāciya,
dhammena samodhānetvā tato yaññamakappayuṃ,
upaṭṭhitasmiṃ yaññasmiṃ nāssu gāvo haniṃsu te.

297. Sau khi yêu cầu gạo, giường nằm, vải vóc, bơ lỏng và dầu ăn, sau khi đã thu thập đúng pháp, từ đó các vị đã chuẩn bị lễ hiến tế. Khi lễ hiến tế được sẵn sàng, các vị ấy đã không bao giờ giết hại các con bò.

295. Họ xin cơm, sàng tọa,
Vải mặc, bơ và dầu,
Thâu nhiếp thật đúng pháp,
Họ tổ chức tế tự,
Trong lễ tế tự ấy,
Họ không giết bò cái.

298. Yathā mātā pitā bhātā aññe vāpi ca ñātakā,
gāvo no paramā mittā yāsu jāyanti osadhā.

298. 298. Giống như mẹ, cha, anh (em) trai, hoặc luôn cả những người bà con khác, những con bò là bạn bè tốt nhất của chúng ta, (bởi vì) từ nơi chúng các thuốc chữa bệnh được sản xuất ra.

296. Như mẹ và như cha,
Như anh, như bà con,
Bò là bạn tối thượng,
Từ chúng, sanh được vị.

299. Annadā baladā cetā vaṇṇadā sukhadā tathā,
etamatthavasaṃ ñatvā nāssu gāvo haniṃsu te.

299. Tương tự như thế, chúng còn cho thức ăn, cho sức mạnh, cho dung sắc, và cho sự an lạc. Sau khi biết được lợi ích này, các vị Bà-la-môn đã không bao giờ giết hại những con bò.

297. Bò cho ăn, cho sức,
Cho dung sắc, cho lạc
Biết được lợi ích này,
Họ không giết hại bò.

300. Sukhumālā mahākāyā vaṇṇavanto yasassino,
brāhmaṇā sehi dhammehi kiccākiccesu ussukā,
yāva loke avattiṃsu sukhamedhitthayampajā.

300. Có vóc dáng thanh tú, có thân hình cao lớn, có dung sắc, có danh tiếng, các vị Bà-la-môn năng nổ ở phận sự và không phải là phận sự đối với các truyền thống của mình. Chừng nào các truyền thống ấy còn vận hành ở thế gian, thì dòng dõi (con người) này còn đạt được sự an lạc.

298. Họ đoan trang thân lớn,
Có dung sắc, danh xưng,
Bản tánh là nhiệt tình,
Trong hành thiện dứt ác,
Họ còn sống ở đời,
Dân chúng hưởng an lạc.

301. Tesaṃ āsi vipallāso disvāna aṇuto aṇuṃ,
rājino va viyākāraṃ nāriyo samalaṅkatā.

301. Trong số các vị Bà-la-môn đã có sự đổi thay. (Trước đây) các vị đã nhìn thấy nhỏ nhoi là nhỏ nhoi, ví như sự huy hoàng của nhà vua, các người phụ nữ đã được trang điểm, ...

299. Giữa họ có đảo lộn,
Họ thấy vật nhỏ nhen.
Thấy huy hoàng nhà vua,
Thấy trang sức phụ nữ.

302. Rathe cājaññasaṃyutte sukate cittasibbane,
nivesane nivese ca vibhatte bhāgaso mite.

302. ... các cỗ xe đã được thắng ngựa thuần chủng, đã khéo được kiến tạo, các tấm thảm may nhiều màu sắc, các chỗ trú ngụ và các ngôi nhà đã được phân chia, đã được đo đạc theo từng phần.

300. Các cỗ xe khéo làm,
Thắng với ngựa thuần thục,
Trang hoàng với tấm thảm,
Nhiều sắc lại nhiều màu.
Các trú xứ phòng ốc,
Khéo chia, khéo ngăn cách.

303. Gomaṇḍalaparibbūḷhaṃ nārīvaragaṇāyutaṃ,
uḷāraṃ mānusaṃ bhogaṃ abhijjhāyiṃsu brāhmaṇā.

303. (Giờ đây) các vị Bà-la-môn đã tham lam của cải sung túc của loài người, được vây quanh bởi những bầy gia súc, được kết hợp với những nhóm phụ nữ sang trọng.

301. Ðàn bà mập vây quanh,
Chúng người đẹp hầu hạ,
Bà-la-môn tham đắm,
Tài sản lớn của người.

304. Te tattha mante ganthetvā okkākaṃ tadupāgamuṃ pahūtadhanadhaññosi,
yajassu bahu te vittaṃ yajassu bahu te dhanaṃ.

304. Các vị ấy, sau khi đã soạn thảo các chú thuật về việc ấy, rồi đã đi đến gặp vua Okkāka (nói rằng): ‘Ngài có nhiều tài sản và lúa gạo. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều của cải cho ngài. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều tài sản cho ngài.’

302. Ðọc các bài kệ tụng,
Họ đến Okkàla,
Ngài được tài sản lớn,
Ngài được lúa gạo nhiều.
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tài sản ngài lớn,
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tiền bạc ngài lớn.

305. Tato ca rājā saññatto brāhmaṇehi rathesabho,
assamedhaṃ purisamedhaṃ sammāpāsaṃ vājapeyyaṃ niraggalaṃ,
ete yāge yajitvāna brāhmaṇānaṃ adā dhanaṃ.

305. Và sau đó, đức vua, vị chúa tể của các xa phu, được các vị Bà-la-môn thuyết phục, đã cúng tế những sự hiến cúng này: lễ tế ngựa, lễ tế người, lễ ném cái nêm, lễ uống rượu thánh, lễ hiệp tế, rồi đã bố thí đến các vị Bà-la-môn tài sản (gồm có):

303. Rồi vua, bậc lãnh tụ,
Vương chủ các xa binh,
Ðược các Bà-la-môn
Nhiếp phục và cảm hóa,
Tổ chức các tế đàn,
Về ngựa và về người,
Quăng con nêm, nước thánh,
Với các cửa then cài.
Lễ tế đàn này xong,
Họ cho các Phạm chí,
Rất nhiều loại tài sản.

306. Gāvo sayanañca vatthañca nāriyo samalaṅkatā,
rathe cājaññasaṃyutte sukate cittasibbane.

306. Đàn bò, giường nằm, vải vóc, và những người phụ nữ đã được trang điểm, các cỗ xe đã được thắng ngựa thuần chủng, đã khéo được kiến tạo, các tấm thảm may nhiều màu sắc.

304. Bò, giường nằm, áo mặc,
Nữ nhân trang sức đẹp,
Các cỗ xe khéo làm,
Thắng với ngựa thuần thục,
Trang hoàng với tấm thảm,
Nhiều sắc lại nhiều màu.

307. Nivesanāni rammāni suvibhattāni bhāgaso,
nānādhaññassa pūretvā brāhmaṇānaṃ adā dhanaṃ.

307. Sau khi chứa đầy các chỗ trú ngụ xinh xắn đã khéo được phân chia thành từng phần với các loại mễ cốc khác nhau, đức vua đã bố thí tài sản đến các vị Bà-la-môn.

305. Các trú xứ đẹp đẽ,
Khéo chia, khéo ngăn cách,
Ðầy các loại lúa gạo,
Họ cho các Phạm chí,
Rất nhiều là tài sản.

308. Te ca tattha dhanaṃ laddhā sannidhiṃ samarocayuṃ,
tesaṃ icchāvatiṇṇānaṃ bhiyyo taṇhā pavaḍḍhatha,
te tattha manne ganthetvā okkākaṃ punupāgamuṃ.

308. Và các vị ấy, sau khi nhận được tài sản tại nơi ấy, đã vui thích việc tích trữ (của cải). Đối với các vị bị tác động bởi ước muốn, tham ái đã tăng trưởng nhiều hơn đến các vị ấy. Các vị ấy, sau khi soạn thảo các chú thuật về việc ấy, đã đi đến gặp vua Okkāka lần nữa (nói rằng):

306. Ở đây, được tài sản,
Phạm chí thích cất chứa,
Lòng dục chúng thỏa mãn,
Khát ái càng tăng trưởng,
Họ lại đọc kệ tụng,
Họ đến Okkàka.

309. Yathā āpo ca paṭhavī hiraññaṃ dhanadhāniyaṃ,
evaṃ gāvo manussānaṃ parikkhāro so hi pāṇinaṃ,
yajassu bahu te vittaṃ yajassu bahu te dhanaṃ.

309. ‘Nước và đất, vàng, tài sản và mễ cốc (quan trọng) đối với con người như thế nào, thì bầy bò là như vậy, bởi vì nó là vật cần thiết cho các sinh mạng. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều của cải cho ngài. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều tài sản cho ngài.’

307. Như nước, đất và vàng,
Tài sản và lúa gạo,
Cũng vậy là các bò,
Ðối với các loài, người.
Chúng là những vật dụng,
Cần thiết cho hữu tình.
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tài sản ngài lớn,
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tiền bạc ngài lớn?

310. Tato ca rājā saññatto brāhmaṇehi rathesabho,
neka satasahassiyo gāvo yaññe aghātayi.

310. Và sau đó, đức vua, vị chúa tể của các xa phu, được các vị Bà-la-môn thuyết phục, đã giết hại hàng trăm ngàn con bò trong lễ cúng tế.

308. Rồi vua, bậc lãnh tụ,
Vương chủ các xa binh,
Ðược các Bà-la-môn,
Nhiếp phục và cảm hóa,
Tổ chức các tế đàn,
Trăm ngàn bò bị giết.

311. Na pādā na visāṇena nāssu hiṃsanti kenaci,
gāvo eḷakasamānā soratā kumbhadūhanā,
tā visāṇe gahetvāna rājā satthena ghātayi.

311. Không bằng gót chân, không bằng cái sừng, các con bò đã không bao giờ hãm hại (ai) bằng bất cứ vật gì. Chúng hiền hòa giống như loài cừu, cho vắt sữa từng chậu. Sau khi nắm lấy chúng ở cái sừng, đức vua đã giết chúng bằng dao.

309. Không phải với bàn chân,
Cũng không phải với sừng.
Con bò hại một ai,
Chúng được khéo nhiếp phục
Như con dê, con cừu,
Chúng cho nhiều ghè sữa,
Tuy vậy, vua ra lệnh,
Nắm sừng bắt lấy chúng,
Giết chúng bằng dao gươm.

312. Tato ca devā pitaro indo asurarakkhasā,
adhammo iti pakkanduṃ yaṃ satthaṃ nipatī gave.

312. Và do đó, chư Thiên, các Phạm Thiên, Thiên Chủ Inda, các A-tu-la, và các quỷ thần đã thét lên: ‘Phi pháp’ về việc cắm xuống con dao ở các con bò.

310. Rồi chư Thiên, Tổ tiên,
Ðế Thích, A-tu-la,
Với các hàng Dạ-xoa,
Ðồng thanh cùng la lớn,
Như vậy là phi pháp,
Khi gươm giết hại bò.

313. Tayo rogā pure āsuṃ icchā anasanaṃ jarā,
pasūnañca samārambhā aṭṭhānavutimāgamuṃ.

313. Trước đây đã có ba căn bệnh: ước muốn, thiếu ăn, già nua. Do việc giết hại các con thú, các căn bệnh đã lên đến chín mươi tám loại.

311. Trước đã có ba bệnh,
Dục, ăn không đủ già,
Do giết hại muôn thú,
Chúng lên đến chín tám.

314. Eso adhammo daṇḍānaṃ okkanto purāṇo ahu,
adūsikāyo haññanti dhammā dhaṃsanti yājakā.

314. Trong số các hình phạt, việc phi pháp này đã là cổ xưa được lưu truyền lại. Các loài vô hại bị giết chết, các vị thực hiện lễ tế hủy hoại truyền thống.

 

312. Trượng phạt phi pháp này,
Từ xưa truyền đến nay,
Vật vô tội bị giết,
Còn người lễ tế đàn,
Thối thất khỏi Chánh pháp,

315. Evameso aṇudhammo porāṇo viññūgarahito,
yattha edisakaṃ passati yājakaṃ garahatī jano.

315. Như vậy, truyền thống thấp kém cổ xưa này bị những bậc có sự hiểu biết quở trách. Nơi nào nhìn thấy việc làm như thế người ta đã quở trách vị thực hiện lễ tế.

313. Vậy tùy pháp cổ này,
Bị bậc trí khiển trách,
Chỗ nào lễ tế đàn,
Như vậy, được xem thấy,
Quần chúng liền chỉ trích,
Các vị lễ tế đàn.

316. Evaṃ dhamme viyāpanne vibhinnā suddavessikā,
puthu vibhinnā khattiyā patiṃ bhariyā ’vamaññatha.

316. Khi truyền thống bị đảo lộn như vậy, các giai cấp Thủ-đà-la và Vệ-xá bị phân chia, các Sát-đế-lỵ bị phân chia riêng rẽ, vợ đã xem thường chồng.

314. Như vậy, pháp bị hoại,
Hạng Thủ-đà, Phệ-xá,
Bị phân ly chia rẽ,
Các hạng Sát-đế-lị
Bị chia năm, chẻ bảy
Còn vợ khinh rẽ chồng.

317. Khattiyā brahmabandhū ca ye caññe gottarakkhitā,
jātivādaṃ niraṃkatvā kāmānaṃ vasamanvagunti.

317. Các Sát-đế-lỵ, các thân quyến của Phạm Thiên (Bà-la-môn), và những người khác được bảo vệ bởi dòng họ (Thủ-đà-la và Vệ-xá), đã bỏ bê việc nói đến dòng dõi và đã đi theo sự thống trị của các dục.”

315. Các Sát-lị hoàng tộc,
Các bà con Phạm thiên,
Cùng với hạng người khác,
Ðược gia tộc che chở,
Họ bỏ quên sanh chủng,
Họ rơi vào các dục.

Evaṃ vutte te brāhmaṇamahāsāḷā bhagavantaṃ etadavocuṃ:

Khi được nói như vậy, các vị Bà-la-môn giàu có ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

Khi nghe nói vậy, các Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn;

 

Abhikkantaṃ bho gotama abhikkantaṃ bho gotama. Seyyathāpi bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito, ete mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca, upāsake no bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate ”ti.

“Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, cũng giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, hoặc mở ra vật đã bị che kín, hoặc chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế Pháp đã được Ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Chúng tôi đây xin đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin Ngài Gotama hãy ghi nhận chúng tôi là những người cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”

- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, trình bày rõ những gì bị che kín chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối đễ những ai có mắt có thể nhìn thấy sắc. Cũng vậy, Pháp được Tôn giả Gotama với nhiều pháp môn trình bày giải thích. Chúng con xin quy y Tôn giả Gotama quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.

 

Brāhmaṇadhammikasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Truyền Thống Bà-la-môn.

 

 

8. DHAMMA (NĀVĀ) SUTTAṂ

 

 

8. KINH GIÁO PHÁP (CHIẾC THUYỀN)

 

 

8. KINH CHIẾC THUYỀN

 

318. Yasmā hi dhammaṃ puriso vijaññā
indaṃ ’va naṃ devatā pūjayeyya,
so pūjito tasmiṃ pasannacitto
bahussuto pātukaroti dhammaṃ.

318. Do bởi vị nào mà một người có thể nhận thức được Giáo Pháp, thì nên tôn vinh vị ấy, tựa như vị Thiên nhân tôn vinh Thiên Chủ Inda. Được tôn vinh, có tâm hoan hỷ ở người (học trò) ấy, vị đa văn ấy (sẽ) bày tỏ về Giáo Pháp.

316. Từ vị nào một người,
Rõ biết được Chánh pháp,
Hãy đảnh lễ vị ấy,
Như chư Thiên, Inda,
Vị ấy được đảnh lễ,
Tâm tư sanh hoan hỷ,
Nghe nhiều, học hỏi nhiều,
Thuyết trình chơn diệu pháp.

 

319. Tadaṭṭhikatvāna nisamma dhīro
dhammānudhammaṃ paṭipajjamāno,
viññū vibhāvī nipuṇo ca hoti
yo tādisaṃ bhajate appamatto.
 

319. Người nào thân cận với vị (thầy) như thế ấy, không xao lãng, là người sáng trí, sau khi lấy điều ấy làm mục đích, sau khi lắng tai nghe, trong khi thực hành đúng pháp và thuận pháp, trở thành người hiểu biết, thông suốt, và khôn khéo.

317. Vị sáng suốt chú tâm,
Suy tư và quán sát
Thực hành pháp tuỳ pháp,
Trở thành vị hiểu biết,
Thông minh và thận trọng,
Không phóng dật, vị ấy,
Theo gương vị như vậy.

320. Khuddañca bālaṃ upasevamāno
anāgatatthañca usūyakañca,
idheva dhammaṃ avibhāvayitvā
avitiṇṇakaṅkho maraṇaṃ upeti.
 

320. Trong khi phục vụ vị (thầy) nhỏ mọn và ngu dốt, còn chưa đạt đến mục đích và có tánh ganh tỵ, ngay tại nơi này người (học trò) không thông suốt Giáo Pháp và đi đến cái chết, còn chưa vượt qua sự nghi hoặc.

318. Ai phục vụ kẻ ngu,
Ngu si, tâm bé nhỏ,
Mục đích chưa đạt được,
Lại ganh tị tật đố,
Chính ở đây Chánh pháp,
Không phát triển tu tập,
Chưa vượt thoát nghi hoặc,
Người ấy bị tử vong.

321. Yathā naro āpagaṃ otaritvā
mahodakaṃ salilaṃ sīghasotaṃ,
so vuyhamāno anusotagāmi
kiṃ so pare sakkati tārayetuṃ.
 

321. Giống như người đàn ông sau khi lội xuống dòng sông có nước lớn, tràn lan, có dòng nước chảy xiết, trong khi bị cuốn trôi xuôi theo dòng nước, người ấy có khả năng để giúp những kẻ khác vượt qua không?

319. Như người nhảy xuống sông,
Dòng sông nước ngập tràn,
Nước sông, nhớp đục ngầu,
Dòng nước chảy nhanh mạnh
Người ấy bị lôi cuốn,
Theo dòng nước trôi đi,
Làm sao nó có thể,
Giúp người khác vượt dòng.

322. Tatheva dhammaṃ avibhāvayitvā
bahussutānaṃ anisāmayattha,
sayaṃ ajānaṃ avītiṇṇakaṅkho
kiṃ so pare sakkati nijjhāpetuṃ.

322. Tương tự như thế ấy, người không thông suốt Giáo Pháp, không lắng tai nghe ý nghĩa ở những vị đa văn, trong khi chính mình không biết, còn chưa vượt qua sự nghi hoặc, người ấy có khả năng để giúp cho những kẻ khác lĩnh hội không?

320. Cũng vậy, với người nào,
Pháp không được tu tập,
Không quán sát ý nghĩa,
Của những vị nghe nhiều,
Tự mình không rõ biết,
Nghi hoặc chưa vượt qua,
Làm sao nó có thể,
Giúp người khác thiền định.

323. Yathāpi nāvaṃ daḷhamāruhitvā
piyen’ arittena samaṅgibhūto,
so tāraye tattha bahūpi aññe
tatrūpāyaññū kusalo mutīmā.
 

323. Cũng giống như người, sau khi leo lên chiếc thuyền vững chắc, được cung cấp mái chèo và bánh lái, là người thiện xảo, biết xử trí, hiểu biết cách thức (điều khiển) ở nơi ấy (chiếc thuyền), người ấy có thể giúp cho nhiều người khác nữa vượt qua nơi ấy.

321. Như người được leo lên,
Chiếc thuyền mạnh vững chắc,
Ðược trang bị đầy đủ,
Mái chèo và tay lái;
Người như vậy ở đây,
Giúp nhiều người ngược dòng,
Rõ biết những phương tiện,
Thiện xảo và sáng suốt.

324. Evampi yo vedagū bhāvitatto
bahussuto hoti avedhadhammo,
so kho pare nijjhapaye pajānaṃ
sotāvadhānūpanīsūpapanne.
 

324. Cũng như vậy, vị nào đã đạt được tri kiến, có bản thân đã được tu tập, là vị nghe nhiều, có bản tánh không bị dao động, quả thật vị ấy, trong khi nhận biết, có thể giúp cho những người khác lĩnh hội, những người có sự lắng tai nghe và có được điều kiện căn bản (của sự chứng ngộ).

322. Như vậy, bậc sáng suốt,
Luôn luôn tự tu tập,
Bậc nghe nhiều hiểu nhiều,
Không còn bị dao động,
Vị ấy giúp đỡ được,
Các người khác tu thiền,
Làm khởi lên nguyên nhân,
Tha thiết muốn nghe pháp.

325. Tasmā have sappurisaṃ bhajetha
medhāvinañceva bahussutañca,
aññāya atthaṃ paṭipajjamāno
viññātadhammo so sukhaṃ labhethāti.

325. Vì thế, thật vậy nên thân cận với bậc chân nhân, vị có sự thông minh và có sự nghe nhiều. Sau khi hiểu được ý nghĩa, trong khi thực hành, với Giáo Pháp đã được nhận thức, người ấy có thể đạt được sự an lạc.

323. Do vậy, hãy thân cận,
Bậc chân nhân hiền sĩ,
Bậc sáng suốt, có trí,
Bậc nghe nhiều học nhiều.
Sau khi biết mục đích,
Cố gắng khéo hành trì,
Rõ biết được Chánh pháp,
Vị ấy được an lạc.

 

Dhammasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Giáo Pháp.

 

 

 

9. KIṂSĪLASUTTAṂ

 

9. KINH VỚI GIỚI GÌ

 

9. KINH THẾ NÀO LÀ GIỚI

 

326. Kiṃsīlo kiṃsamācāro kāni kammāni brūhayaṃ,
naro sammā niviṭṭhassa uttamatthañca pāpuṇe.

326. Với giới gì, với sở hành gì, trong lúc làm tăng trưởng các nghiệp gì, một người có thể được tiến vào một cách đúng đắn và có thể đạt được mục đích tối thượng?

324. Thế nào là giới đức?
Thế nào là chánh hạnh?
Cần phải làm tăng trưởng.
Thân khẩu ý nghiệp nào?
Ðể người chánh nhập cuộc,
Ðạt được đích tối thượng?

327. Vuddhāpacāyī anusuyyako siyā
kālaññū cassa garunaṃ dassanāya,
dhammiṃ kathaṃ erayitaṃ khaṇaññū
suṇeyya sakkacca subhāsitāni.

327. Nên có sự tôn kính các bậc trưởng thượng, không nên ganh tỵ,

và nên biết thời điểm để yết kiến các vị thầy,

nên biết thời khắc buổi thuyết giảng Pháp được bắt đầu,

nên nghiêm chỉnh lắng nghe các lời đã được khéo nói.

325. Kính lễ bậc trưởng thượng,
Không ganh tị một ai,
Cần phải biết thời gian,
Ðể yết kiến Ðạo sư,
Biết được đúng thời khắc,
Thuyết pháp bắt đầu giảng,
Hãy cẩn thận lắng nghe,
Lời giảng được khéo nói.

328. Kālena gacche garunaṃ sakāsaṃ
thambhaṃ niraṃkatvā nivātavutti,
atthaṃ dhammaṃ saṃyamaṃ brahmacariyaṃ
anussare ceva samācare ca.

328. Nên đi đến trình diện các vị thầy đúng thời điểm,

nên dẹp bỏ sự bướng bỉnh, có lối cư xử khiêm nhường,

về ý nghĩa (lời giảng), Giáo Pháp, sự tự kiềm chế, và Phạm hạnh,

chẳng những nên ghi nhớ mà còn nên hành trì.

326. Hãy đi đến đúng thời,
Trước mặt vị Ðạo Sư,
Từ bỏ tánh cứng đầu,
Với thái độ khiêm tốn,
Hãy nhớ nghĩ ức niệm,
Hãy chơn chánh hành trì,
Mục đích và Chánh pháp,
Chế ngự và Phạm hạnh.

329. Dhammārāmo dhammarato
dhamme ṭhito dhammavinicchayaññū,
no vācare dhammasandosavādaṃ
nīyetha tacchehi subhāsitehi.

 

329. Có sự vui thích ở Giáo Pháp, ưa thích Giáo Pháp,

đứng vững ở Giáo Pháp, biết xét đoán về Giáo Pháp,

không nên tạo ra lời nói gây hại cho Giáo Pháp,

nên được dẫn dắt bởi những sự thật đã được khéo nói.

 

327. Vui thích trong Chánh Pháp
Hoan hỷ trong Chánh Pháp,
An trú trên Chánh pháp,
Biết phân tích Chánh pháp,
Sở hành không làm gì,
Có lời uế nhiễm pháp,
Chịu hướng dẫn lãnh đạo,
Lời trung thực khéo nói.

330. Hassaṃ jappaṃ paridevaṃ padosaṃ
māyākataṃ kuhakaṃ giddhimānaṃ,
sārambhakakkasakasāva mucchaṃ
hitvā care vītamado ṭhitatto.

330. Nên từ bỏ sự cười giỡn, việc nói vô bổ, sự than vãn, sự nổi sân, việc làm xảo trá, sự giả dối, sự thèm khát, và ngã mạn, sự hung hăng, sự thô lỗ, các uế trược, sự mê mẩn, và nên sống xa lìa sự đam mê, với bản thân đã được ổn định.

328. Bỏ cười đùa, lắm miệng,
Khóc than và sân hận,
Làm những điều man trá,
Lừa đảo, tham, kiêu mạn,
Bồng bột và bạo ngôn,
Cứng rắn và đam mê,
Sống từ bỏ tất cả,
Ly say đắm, kiên trì.

331. Viññātasārāni subhāsitāni
sutañca viññātasamādhisāraṃ,
na tassa paññā ca sutañca vaḍḍhati
yo sāhaso hoti naro pamatto.

331. Các cốt lõi đã được nhận thức là các lời đã được khéo nói. Điều đã được nghe và điều đã được nhận thức là cốt lõi của định. Người nam nào nóng nảy và xao lãng, tuệ và điều đã được nghe của người ấy không tăng trưởng.

329. Thức tri được cốt lõi,
Những lời đươc khéo nói,
Ðươc nghe khéo thức tri,
Cốt lõi của thiền định,
Với con người hấp tấp,
Lại phóng dật buông lung,
Trí tuệ, đều được nghe,
Không có thể tăng trưởng.

332. Dhamme ca ye ariyapavedite ratā
anuttarā te vacasā manasā kammanā ca,
te santisoraccasamādhisaṇṭhitā
sutassa paññāya ca sāramajjhagūti.

332. Những người nào thích thú ở Giáo Pháp đã được tuyên thuyết bởi bậc Thánh nhân, những người ấy là không vượt hơn được về lời nói, về ý, và về hành động, những người ấy đã đứng vững ở sự an tịnh, ở sự hiền hòa, và ở định, họ đã đạt đến cốt lõi của điều đã được nghe và của tuệ.

330. An vui thích Chánh pháp,
Do bậc Thánh tuyên thuyết,
Họ trở thành vô thượng,
Về lời ý và nghiệp,
Họ an tịnh nhu hòa,
An trú trên thiền định,
Chứng đạt được cốt lõi,
Pháp được nghe, trí tuệ.

 

Kiṃsīlasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

Dứt Kinh Với Giới Gì.

 

 

 

10. UṬṬHĀNASUTTAṂ

 

10. KINH ĐỨNG LÊN

 

 

10. KINH ĐỨNG DẬY

 

333. Uṭṭhahatha nisīdatha ko attho supitena vo,
āturānaṃ hi kā niddā sallaviddhāna ruppataṃ.

333. Hãy đứng lên! Hãy ngồi dậy! Lợi ích gì cho các ngươi với việc ngủ? Bởi vì ngủ nghê gì đối với những kẻ bệnh, bị mũi tên xuyên thủng, đang bị khổ sở?

331. Hãy đứng dậy, ngồi dậy,
Với người mộng ích gì?
Kẻ bệnh ngủ làm gì?
Khi mũi tên phiền lụy.
 

334. Uṭṭhahatha nisīdatha daḷhaṃ sikkhatha santiyā,
mā vo pamatte viññāya maccurājā amohayittha vasānuge.

334. Hãy đứng lên! Hãy ngồi dậy! Các ngươi hãy rèn luyện vững chắc về sự an tịnh. Chớ để Ma Vương biết được các ngươi xao lãng rồi gạt gẫm các ngươi trở thành những kẻ chịu sự sai khiến.

332. Hãy đứng dậy, ngồi dậy,
Hãy kiên trì học tập,
Ðạt cho được an tịnh,
Ðừng để cho thần chết,
Biết Ông là phóng dật,
Mê hoặc, chinh phục Ông.

335. Yāya devā manussā ca sitā tiṭṭhanti atthikā,
tarathetaṃ visattikaṃ khaṇo vo mā upaccagā,
khaṇātītā hi socanti nirayamhi samappitā.
 

335. Chư Thiên và nhân loại bị lệ thuộc vào điều nào mà tồn tại và có sự mong cầu, các ngươi hãy vượt qua điều vướng mắc ấy. Chớ để thời khắc trôi qua đối với ngươi, bởi vì những kẻ để thời khắc trôi qua (sẽ) sầu muộn khi bị đọa vào địa ngục.

333. Chư Thiên và loài Người,
Sống y chỉ tầm cầu,
Hãy vượt ái dục này,
Chớ để thời khắc qua,
Khi thời khắc đã qua,
Bị sầu khổ địa ngục.

336. Pamādo rajo pamādo pamādānupatito rajo,
appamattena vijjāya abbahe sallamattanoti.
 

336. Sự xao lãng là bụi bặm, sự xao lãng kế tiếp sự xao lãng là bụi bặm. Nhờ không xao lãng, nhờ vào minh, có thể nhổ lên mũi tên của bản thân.

334. Phóng dật là bụi nhơ,
Bụi do phóng dật khởi,
Với minh, không phóng dật,
Tự mình rút mũi tên.

 

Uṭṭhānasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

Dứt Kinh Đứng Lên.

 

 

 

11. RĀHULASUTTAṂ

 

 

11. KINH RĀHULA

 

 

11. KINH RĀHULA

 

337. Kacci abhiṇhasaṃvāsā nāvajānāsi paṇḍitaṃ,
ukkādhāro manussānaṃ kacci apacito tayā.
 

337. Con có coi thường bậc sáng suốt do việc cộng trú thường xuyên hay không? Bậc nắm giữ ngọn đuốc của loài người có được con tôn kính hay không?

Thế Tôn:

335. Thường chung sống người hiền,
Thầy có khinh miệt không?
Người cầm đuốc loài Người,
Ðược thầy tôn trọng không?

338. Nāhaṃ abhiṇhasaṃvāsā avajānāmi paṇḍitaṃ,
ukkādhāro manussānaṃ niccaṃ apacito mayā.

338. Con không coi thường bậc sáng suốt do việc cộng trú thường xuyên. Bậc nắm giữ ngọn đuốc của loài người luôn luôn được con tôn kính.

Ràhula:

336. Thường chung sống người hiền,
Con không có khinh miệt.
Người cầm đuốc loài Người,
Thường được con tôn trọng.

339. Pañca kāmaguṇe hitvā piyarūpe manorame,
saddhāya gharā nikkhamma dukkhassantakaro bhava.

339. Sau khi từ bỏ năm loại dục có hình thức đáng yêu, làm thích ý, sau khi rời căn nhà ra đi vì niềm tin, con hãy thực hiện việc chấm dứt khổ đau.

Thế Tôn:

337. Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
Khả ái và đẹp ý,
Với lòng tin xuất gia,
Hãy trở thành con người,
Làm chấm dứt khổ đau.

340. Mitte bhajassu kalyāṇe pantañca sayanāsanaṃ,
vivittaṃ appanigghosaṃ mattaññū hohi bhojane.

340. Con hãy thân cận những người bạn tốt lành và chỗ nằm ngồi thanh vắng, cô quạnh, ít tiếng động. Con hãy biết chừng mực về vật thực.

338. Thân cận với bạn lành,
Sống trú xứ xa vắng,
Viễn ly không ồn ào,
Hãy tiết độ ăn uống.

341. Cīvare piṇḍapāte ca paccaye sayanāsane,
etesu taṇhaṃ mā kāsi mā lokaṃ punarāgami.

341. Con chớ tạo ra sự tham ái ở những vật này: ở y phục, ở đồ ăn khất thực, ở thuốc men chữa bệnh, ở chỗ nằm ngồi. Con chớ đi đến thế gian lần nữa.

339. Y áo, đồ khất thực,
Vật dụng và sàng tọa,
Chớ có tham ái chúng,
Chớ trở lui đời này.

342. Saṃvuto pātimokkhasmiṃ indriyesu ca pañcasu,
sati kāyagatātyatthu nibbidā bahulo bhava.

342. Con hãy thu thúc theo giới bổn Pātimokkha và ở năm giác quan. Con hãy có niệm đặt ở thân. Con hãy có nhiều nhàm chán (về thế gian).

340. Chế ngự trong giới bổn,
Phòng hộ trong năm căn,
Hãy tu tập niệm thân,
Sống với nhiều nhàm chán.

343. Nimittaṃ parivajjehi subhaṃ rāgūpasaṃhitaṃ,
asubhāya cittaṃ bhāvehi ekaggaṃ susamāhitaṃ.

343. Con hãy xa lánh hiện tướng xinh đẹp, được gắn liền với luyến ái. Con hãy tu tập tâm về đề mục tử thi, có sự chuyên nhất, khéo định tĩnh.

341. Hãy từ bỏ tịnh tướng,
Hệ lụy với tham ái,
Tu tập tâm bất tịnh,
Nhất tâm, khéo định tĩnh.

344. Animittañca bhāvehi mānānusayamujjaha,
tato mānābhisamayā upasanto carissasīti.

344. Và con hãy tu tập về vô tướng. Con hãy nhổ bỏ sự tiềm ẩn của ngã mạn. Từ đó, nhờ vào sự lĩnh hội về ngã mạn, con sẽ sống được an tịnh.”

342. Hãy tu tập vô tướng,
Bỏ đi, mạn tùy miên,
Do nhiếp phục kiêu mạn,
Ngươi sẽ sống an tịnh
.

Itthaṃ sudaṃ bhagavā āyasmantaṃ rāhulaṃ imāhi gāthāhi abhiṇhaṃ ovadatīti.

Như thế, đức Thế Tôn thường xuyên giáo huấn đại đức Rāhula bằng những lời kệ này.

Như vậy, Thế Tôn thường giáo giới Tôn giả Ràhula với những bài kệ này.

 

 

Rāhulasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Rāhula.

 

 

 

12. NIGRODHAKAPPASUTTAṂ

 

 

12. KINH NIGRODHAKAPPA

 

 

12. KINH VANGĪSA

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā āḷaviyaṃ viharati aggāḷave cetiye. Tena kho pana samayena āyasmato vaṅgīsassa upajjhāyo nigrodhakappo nāma thero aggāḷave cetiye aciraparinibbuto hoti.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Āḷavī, ở bảo tháp Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức Vaṅgīsa, vị trưởng lão tên Nigrodhakappa, vửa viên tịch Niết Bàn không bao lâu tại bảo tháp Aggāḷava.

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế tôn sống ờ Alavi, tại điện Aggàlava. Lúc bấy giờ, giáo sư thọ sư của Tôn giả Vangìsa, tên là Nigrodhakappa tại điện Aggalava, mệnh chung không bao lâu.

 

Atha kho āyasmato vaṅgīsassa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi: Parinibbuto nu kho me upajjhāyo udāhu no parinibbutoti.
 

Sau đó, đại đức Vaṅgīsa trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi lên: “Thầy tế độ của ta là viên tịch Niết Bàn hay là không phải viên tịch Niết Bàn?”

 

Rồi Tôn giả Vangìsa, trong khi thiền định độc cư, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Không biết bậc giáo thọ sư của ta có hoàn toàn nhập Niết-bàn hay không hoàn toàn nhập Niết-bàn?".

Atha kho ayasvā vaṅgīso sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ etadavoca:

Sau đó vào buổi chiều, đại đức Vaṅgīsa, xuất khỏi thiền tịnh, đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, đại đức Vaṅgīsa đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Rồi Tôn giả Vangìsa vào buổi chiều, từ thiền tịnh đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Vangìsa bạch Thế Tôn:

 

Idha mayhaṃ bhante rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi: Parinibbuto nu kho me upajjhāyo udāhu no parinibbutoti.

“Bạch Ngài, ở đây trong lúc con thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi lên: ‘Thầy tế độ của ta là viên tịch Niết Bàn hay là không phải viên tịch Niết Bàn?’”

- Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi Thiền tịnh độc cư, con khởi lên tư tưởng như sau: "Không biết bậc giáo thọ sư của con có hoàn toàn nhập Niết Bàn hay không, hoàn toàn nhập Niết-bàn?"

 

Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:
 

Sau đó, đại đức Vaṅgīsa đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Rồi Tôn giả Vangìsa, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay vái chào Thế Tôn và với bài kệ, nói lên với Thế Tôn:

 

345. Pucchāma satthāraṃ anomapaññaṃ
diṭṭheva dhamme yo vicikicchānaṃ chettā,
aggāḷave kālamakāsi bhikkhu
ñāto yasassī abhinibbutatto.

345. "Chúng con hỏi đấng Đạo Sư, bậc có trí tuệ tột đỉnh,

bậc đã cắt đứt các sự hoài nghi ở thế giới hiện hữu,

về vị tỳ khưu đã từ trần ở Aggāḷava,

được biết tiếng, có danh vọng, có bản thể đã được tịch tịnh.

 

Vangìsa:

343. Con hỏi bậc Ðạo Sư,
Bậc trí tuệ tối thượng,
Ai chặt đứt nghi hoặc,
Ngay trong đời hiện tại?
Tại Aggàlava,
Tỷ-kheo đã mệnh chung,
Có danh vọng danh xưng,
Nhập Niết bàn tịch tịnh.

346. Nigrodhakappo iti tassa nāmaṃ,
tayā kataṃ bhagavā brāhmaṇassa,
so taṃ namassaṃ acari mutyapekkho
āraddhaviriyo daḷhadhammadassī.

346. Bạch đức Thế Tôn, ‘Nigrodhakappa’ là tên đã được Ngài đặt cho vị Bà-la-môn ấy. Bạch đấng có sự nhìn thấy pháp vững chắc, vị ấy, mong mỏi sự giải thoát, trong lúc lễ bái Ngài, đã sống, có sự nỗ lực tinh tấn.

344. Nigrodhakappa,
Chính là tên vị ấy,
Chính Thế Tôn đặt tên,
Cho vị Phạm chí ấy,
Vị ấy đảnh lễ Ngài,
Sống tầm cầu giải thoát,
Tinh cần và tinh tấn,
Kiên cố thấy Chánh Pháp.

347. Taṃ sāvakaṃ sakka mayampi sabbe
aññātumicchāma samantacakkhu,
samavaṭṭhitā no savaṇāya sotā
tvaṃ no satthā tvaṃ anuttarosi.

347. Bạch ngài Sakya, bạch đấng Toàn Nhãn, tất cả chúng con cũng muốn được biết về vị Thinh Văn ấy; những lỗ tai của chúng con đã sẵn sàng cho việc nghe. Ngài là bậc Đạo Sư của chúng con. Ngài là bậc Vô Thượng.

 

345. Bạch Thích Ca, chúng con
Ðệ tử Ngài, tất cả
Chúng con đều muốn biết
Bậc Pháp nhãn biến tri,
An trú tại chúng con,
Sẵn sàng để được nghe,
Ngài Ðạo sư chúng con,
Ngài là bậc Vô thượng.

348. Chindeva no vicikicchaṃ brūhi metaṃ
parinibbutaṃ vedaya bhūripañña,
majjheva no bhāsa samantacakkhu
sakkova devānaṃ sahassanetto.

348. Xin Ngài hãy cắt đứt hẳn sự hoài nghi của chúng con, xin hãy nói cho con điều ấy. Bạch đấng có trí tuệ quảng đại, xin Ngài hãy cho biết về việc viên tịch Niết Bàn (của vị ấy). Bạch đấng Toàn Nhãn, xin Ngài hãy nói ở ngay giữa chúng con, tựa như vị Trời Sakka có ngàn mắt ở giữa chư Thiên.

346. Hãy đoạn nghi chúng con,
Cho con biết vị ấy,
Ðã được tịch tịnh chưa
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Hãy nói giữa chúng con,
Bậc có mặt cùng khắp,
Như Thiên chủ Ðế Thích,
Lãnh đạo ngàn chư Thiên.

349. Ye keci ganthā idha mohamaggā,
aññāṇapakkhā vicikicchaṭṭhānā,
tathāgataṃ patvā na te bhavanti
cakkhuṃ hi etaṃ paramaṃ narānaṃ.

349. Ở đây, bất cứ những mối buộc thắt nào, những con đường của si mê, những phe nhóm của vô trí, những chỗ đứng của hoài nghi, sau khi đạt đến đức Như Lai, chúng đều không tồn tại, bởi vì con mắt ấy là tối thượng giữa những con người.

347. Phàm những cột gút gì,
Ở đây, đường si ám,
Dự phần với vô trí,
Trú xứ cho nghi hoặc;
Gặp được đức Như Lai,
Họ đều không còn nữa.
Mắt này mắt tối thắng,
Giữa cặp mắt loài Người.

350. No ce hi jātu puriso kilese
vāto yathā abbhaghanaṃ vihāne,
tamovassa nivuto sabbaloko
na jotimantopi narā tapeyyuṃ.

350. Bởi vì, nếu chắc chắn không có người tiêu diệt các phiền não, giống như làn gió làm tiêu tan đám mây, thì toàn bộ thế gian, bị bao trùm, sẽ vô cùng tối tăm, ngay cả những người có hào quang (trí tuệ) cũng không thể tỏa sáng.

348. Nếu không có người nào,
Ðoạn trừ các phiền não,
Như gió thổi tiêu tan
Các tầng mây dưới thấp,
Màn đen tức bao trùm,
Tất cả toàn thế giới,
Những bậc có hào quang,
Không có thể chói sáng.

351. Dhīrā ca pajjotakarā bhavanti
taṃ taṃ ahaṃ dhīra tatheva maññe,
vipassinaṃ jhānam upāgamamha
parisāsu no āvikarohi kappaṃ.

351. Và các bậc thông minh là những người tạo ra ánh sáng. Vì thế, bạch đấng Thông Minh, con nghĩ rằng Ngài là vị tương tự như thế ấy. Chúng con đã đi đến với bậc có sự minh sát và hiểu biết, xin Ngài hãy bày tỏ về vị Kappa cho chúng con ở các hội chúng.

 

349. Bậc trí là những vị
Tạo ra những ánh sáng,
Con xem Ngài như vậy.
Ôi! Bậc trí sáng suốt,
Chúng con đều cùng đến,
Bậc tu hành thiền quán,
Giữa hội chúng, chúng con,
Hãy nói về Kappa!

352. Khippaṃ giraṃ eraya vagguvagguṃ
haṃsova paggayha sanikaṃ nikūjaṃ,
bindussarena suvikappitena
sabbeva te ujjugatā suṇoma.
 

352. Hỡi bậc có sự thu hút, xin Ngài hãy mau mau thốt lên giọng nói có sự thu hút. Tựa như chim thiên nga vươn cao (cái cổ), xin Ngài hãy dịu dàng thốt lên bằng âm thanh trọn vẹn khéo được điều khiển; toàn bộ tất cả chúng con đều tập trung lắng nghe.

350. Hãy gấp phát tiếng lên,
Tiếng âm thanh vi diệu,
Như con chim thiên nga,
Giương cổ lên để hót,
Phát âm từng tiếng một,
Với giọng khéo ngân nga,
Tất cả bạn chúng con,
Trực tâm nghe lời Ngài.

353. Pahīnajātimaraṇaṃ asesaṃ
niggayha dhonaṃ vadessāmi dhammaṃ,
na kāmakāro hi puthujjanānaṃ
saṅkheyyakārova tathāgatānaṃ.

353. Sau khi thúc giục bậc có sự sanh tử đã được dứt bỏ không còn dư sót, con sẽ thỉnh bậc đã rũ sạch (phiền não) thuyết Pháp; bởi vì trong số các phàm nhân không có người có thể làm được điều mong muốn, và người hành động đúng theo dự tính chỉ có trong số các đức Như Lai.

351. Vị đoạn tận sanh tử,
Không còn chút dư tàn,
Vị tẩy sạch phiền não,
Con cầu Ngài thuyết pháp,
Kẻ phàm phu không thể
Làm theo điều nó muốn.
Bậc Như Lai làm được,
Ðiều được ước định làm,

354. Sampannaveyyākaraṇaṃ tavedaṃ
samujjupaññassa samuggahītaṃ,
ayamañjalī pacchimo suppaṇāmito
mā mohayī jānamanomapañña.

354. Lời giải thích đầy đủ này của Ngài, bậc có trí tuệ ngay thẳng, đã được tiếp nhận. Sự chắp tay sau cùng này đã được cúi chào tốt đẹp. Hỡi bậc có trí tuệ tột đỉnh, trong khi Ngài biết, xin Ngài chớ làm mê mờ.

352. Câu trả lời của Ngài
Thật đầy đủ trọn vẹn,
Ðược chơn chánh nắm giữ,
Bậc chánh trực trí tuệ.
Ðây chắp tay cuối cùng,
Con khéo vái chào Ngài,
Chớ làm con si ám,
Bậc trí tuệ tối cao.

355. Parovaraṃ ariyadhammaṃ viditvā
mā mohayī jānamanomavīra,
vāriṃ yathā ghammani ghammatatto
vācābhikaṅkhāmi sutaṃ pavassa.

355. Hỡi đấng Anh Hùng tột bực, Ngài đã hiểu biết về Giáo Pháp cao thượng từ thấp đến cao, trong khi Ngài biết, xin Ngài chớ làm mê mờ. Giống như người có bản thân bị nóng bức, trong lúc nóng nực mong mỏi nước, con mong mỏi lời nói (của Ngài); xin Ngài hãy đổ cơn mưa âm thanh.

353. Sau khi đã được biết
Thánh pháp thượng và hạ,
Chớ làm con si ám,
Bậc tinh tấn tối cao,
Như vào giữa mùa hè,
Nóng bức khát khao nước,
Chúng con ngóng trông lời,
Hãy mưa sự hiểu biết.

356. Yadatthikaṃ brahmacariyaṃ acāri
kappāyano kaccissa taṃ amoghaṃ,
nibbāyi so ādu upādiseso
yathā vimutto ahu naṃ suṇoma.

356. Vị Kappāyana đã sống Phạm hạnh với mục đích nào, phải chăng điều ấy không phải là rỗng không? Có phải vị ấy đã Niết Bàn (không còn dư sót), hay là vẫn còn dư sót? Vị ấy đã được giải thoát như thế nào, hãy cho chúng con được nghe điều ấy.”

354. Kappa, sống Phạm hạnh,
Nếp sống có mục đích,
Phải chăng sống như vậy
Là sống không uổng phí?
Vị ấy chứng tịch tịnh,
Hay còn dư tàn lại,
Ðược giải thoát thế nào,
Hãy nói chúng con nghe!

357. Acchecchi taṇhaṃ idha nāmarūpe (iti bhagavā)
kaṇhassa sotaṃ dīgharattānusayitaṃ,
atāri jātimaraṇaṃ asesaṃ
iccabravī bhagavā pañcaseṭṭho.

357. “Vị ấy đã cắt đứt tham ái ở danh và sắc ở nơi đây (lời của đức Thế Tôn), dòng nước của Ma Vương đã được tiềm ẩn bấy lâu. Vị ấy đã vượt qua sự sanh và sự chết.” Đức Thế Tôn, bậc đứng đầu về năm pháp, đã nói như thế.

Thế Tôn:

355. Vị ấy trên danh sắc,
Ðã đoạn tận tham ái,
Thế Tôn ở nơi đây
Ðã trả lời như vậy,
Vượt qua được già chết,
Không còn có dư tàn,
Thế Tôn nói như vậy,
Bậc tối thắng thứ năm.

358. Esa sutvā pasīdāmi vaco te isisattama,
amoghaṃ kira me puṭṭhaṃ na maṃ vañcesi brāhmaṇo.

358. “Bạch bậc Ẩn Sĩ tối thượng, sau khi nghe điều ấy, con tin tưởng vào lời nói của Ngài. Thật vậy, điều đã được con hỏi là không vô ích, vị Bà-la-môn đã không dối gạt con.

Vangìsa:

356. Nghe vậy, con tịnh tín,
Với lời nói của Ngài,
Bậc ẩn sĩ thứ bảy?
Và lời hỏi của con.
Không phải là vô ích!
Và vị Bà-la-môn
Không có lừa dối con.

359. Yathāvādī tathākārī ahu buddhassa sāvako,
acchidā maccuno jālaṃ tataṃ māyāvino daḷhaṃ.

359. Vị có lời nói như thế nào thì có hành động như thế ấy đã là đệ tử của đức Phật. Vị ấy đã cắt đứt tấm lưới chắc chắn của Thần Chết xảo quyệt đã được giăng ra.

357. Nói gì thời làm vậy,
Thật xứng đệ tử Phật,
Chặt đứt lưới rộng chắc
Của thần chết xảo quyệt.

360. Addasa bhagavā ādiṃ upādānassa kappiyo,
accagā vata kappāyano maccudheyyaṃ suduttaranti.

360. Bạch đức Thế Tôn, vị Kappiya đã nhìn thấy sự khởi đầu của chấp thủ. Quả thật, vị Kappāyana đã băng qua lãnh địa của Thần Chết, là nơi rất khó vượt qua.”

358. Ôi! Thế Tôn, Kappa
Thấy căn nguyên chấp thủ,
Thật sự đã vượt qua
Thế lực của Ma vương,
Thế lực thật khó vượt.
 


Nigrodhakappasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
 

 

Dứt Kinh Nigrodhakappa.

 

 

13. SAMMĀPARIBBĀJANĪYASUTTAṂ

 

 

13. KINH DU HÀNH CHÂN CHÁNH

 

 

13. KINH CHÁNH XUẤT GIA

 

361. Pucchāmi muniṃ pahūtapaññaṃ
tiṇṇaṃ pāragataṃ parinibbutaṃ ṭhitattaṃ,
nikkhamma gharā panujja kāme
kathaṃ bhikkhu sammā so loke paribbajeyya.

361. “Con hỏi bậc hiền trí, bậc có tuệ bao la, bậc đã vượt qua, đã đi đến bờ kia, đã hữu dư Niết Bàn, có bản thân ổn định rằng: ‘Sau khi rời nhà ra đi, sau khi đã xua đuổi các dục, vị tỳ khưu ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian như thế nào?’”

Người hỏi:

359. Tôi hỏi bậc ẩn sĩ,
Có trí tuệ rộng lớn,
Ðã vượt qua bờ kia,
Tịch tịnh, tự an trú.
Làm sao một Tỷ-kheo,
Bỏ nhà, bỏ các dục,
Lại có thể chơn chánh
Du hành ở trên đời?

362. Yassa maṅgalā samūhatā (iti bhagavā)
uppāta supinā ca lakkhaṇā ca,
so maṅgaladosavippahīno bhikkhu
sammā so loke paribbajeyya.

362. (Lời của đức Thế Tôn) “Đối với vị nào các điềm lành đã được bứng lên, các (hiện tượng) sao băng, các giấc chiêm bao, và các hiện tướng (cũng như vậy), vị tỳ khưu ấy đã dứt bỏ hẳn các điềm lành và điềm xấu, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

Thế Tôn:

360. Ai nhổ lên điềm lành,
Như vậy, Thế Tôn đáp
Các sao băng mộng mị,
Và các tướng lành dữ,
Vị ấy đoạn trừ được,
Các lỗi lầm điềm lành;
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

363. Rāgaṃ vinayetha mānusesu
dibbesu kāmesu cāpi bhikkhu,
atikkamma bhavaṃ samecca dhammaṃ
sammā so loke paribbajeyya.

363. Vị tỳ khưu nên xua đi sự luyến ái ở các dục thuộc về nhân loại luôn cả thuộc về cõi trời. Sau khi vượt qua hữu, sau khi hiểu rõ Giáo Pháp (Tứ Diệu Đế), vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

361. Tỷ-kheo nhiếp phục tham,
Ðối với các dục vọng,
Tại thiên giới, nhân giới,
Vượt hữu, chứng tri pháp;
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

364. Vipiṭṭhi katvāna pesunāni
kodhaṃ kadariyaṃ jaheyya bhikkhu,
anurodhavirodhavippahīno
sammā so loke paribbajeyya.

364. Sau khi đã bỏ lại sau lưng các việc nói đâm thọc,

vị tỳ khưu nên từ bỏ sự giận dữ và keo kiệt,

đã dứt bỏ hẳn sự tùy thuận và chống đối,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

362. Tỷ kheo bỏ hai lưỡi,
Bỏ phẩn nộ, xan tham,
Với tùy thuộc chống đối,
Ðoạn tận thật hoàn toàn,
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

365. Hitvāna piyañca appiyañca
anupādāya anissito kuhiñci,
saṃyojaniyehi vippamutto
sammā so loke paribbajeyya.

365. Sau khi từ bỏ thương và ghét,

sau khi không còn chấp thủ, không bị lệ thuộc vào bất cứ nơi nào,

được hoàn toàn thoát khỏi các sự trói buộc,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

363. Sau khi đã từ bỏ,
Cả ái và phi ái,
Không chấp thủ một ai,
Không y chỉ chỗ nào,
Giải thoát được hoàn toàn
Các kiết sử trói buộc,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

366. Na so upadhīsu sārameti
ādānesu vineyya chandarāgaṃ,
so anissito anaññaneyyo
sammā so loke paribbajeyya.

366. Không có việc vị ấy đi đến cốt lõi ở các mầm tái sanh,

sau khi xua đi sự mong muốn và luyến ái ở các chấp thủ,

vị ấy không bị lệ thuộc, không bị dẫn dắt bởi kẻ khác,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

364. Ai không tìm lõi cây,
Ðối với các sanh y,
Có thể nhiếp phục tham,
Ðối với các chấp thủ,
Vị ấy không y chỉ,
Không để ai dắt dẫn,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

367. Vacasā manasā ca kammanā ca
aviruddho sammā viditvā dhammaṃ,
nibbānapadābhipatthayāno
sammā so loke paribbajeyya.

367. Không chống đối bằng lời nói, bằng ý nghĩ, và bằng hành động, sau khi hiểu biết Giáo Pháp một cách đúng đắn, trong khi ước nguyện trạng thái Niết Bàn, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

 

365. Với lời và với ý,
Và với cả nghiệp làm,
Không chống đối một ai,
Chơn chánh biết diệu pháp,
Thường cố gắng hướng đến,
Ðường Niết bàn tịch tịnh,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

368. Yo vandati maṃ na uṇṇameyya
akkuṭṭhopi na sandhiyetha bhikkhu,
laddhā parabhojanaṃ na majje,
sammā so loke paribbajeyya.

368. Vị nào không kiêu hãnh (nghĩ rằng) ‘Họ đảnh lễ ta,’

ngay cả khi bị sỉ vả, vị tỳ khưu cũng không kết nối (thù hận),

sau khi thọ lãnh vật thực của người khác, không đắc chí (tự mãn),

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

366. Tỷ-kheo không tự cao,
Khi người đảnh lễ mình,
Dầu có bị nhiếc mắng,
Không khởi tâm tức tối,
Ðược đồ ăn của người,
Không có sự tham đắm,
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

369. Lobhañca bhavañca vippahāya
virato chedanabandhanāto bhikkhu,
so tiṇṇakathaṃkatho visallo
sammā so loke paribbajeyya.

369. Sau khi dứt bỏ hẳn tham và hữu,

vị tỳ khưu lánh xa việc hãm hại và trói buộc (các chúng sanh khác),

vị ấy đã vượt qua sự nghi ngờ, không còn mũi tên,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

367. Tỷ-kheo sau khi đoạn,
Tham dục và sanh hữu,
Từ bỏ, không làm hại,
Không trói buộc một ai,
Vị ấy vượt nghi hoặc,
Ðã rút ra mũi tên,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

370. Sāruppamattano viditvā
na ca bhikkhu hiṃseyya kañci loke,
yathātathiyaṃ viditvā dhammaṃ
sammā so loke paribbajeyya.

370. Sau khi biết được điều thích hợp cho bản thân,

vị tỳ khưu không hãm hại bất cứ ai ở thế gian,

sau khi biết được Giáo Pháp đúng theo bản thể,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

368. Tỷ-kheo sau khi biết,
Ðiều thích đáng cho mình,
Không làm hại một ai,
Có mặt ở trên đời,
Sau khi đã biết pháp
Như thật, như thế nào,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

371. Yassānusayā na santi keci
mūlā akusalā samūhatā se,
so nirāsayo anāsayāno
sammā so loke paribbajeyya.

371. Đối với vị nào, không còn có bất cứ các pháp tiềm ẩn nào,

các gốc rễ bất thiện đã được nhổ lên,

vị ấy không còn ước ao (tham vọng), không có khao khát,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

369. Với ai, các tuỳ miên,
Không còn có tồn tại,
Và cội gốc bất thiện,
Ðược nhổ lên tận trừ,
Vị ấy không tham dục,
Không có hy cầu gì.
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

372. Āsavakhīṇo pahīnamāno
sabbaṃ rāgapathaṃ upātivatto,
danto parinibbuto ṭhitatto
sammā so loke paribbajeyya.

372. Có lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã dứt bỏ ngã mạn,

đã vượt lên trên tất cả lộ trình của luyến ái,

đã được huấn luyện, đã hữu dư Niết Bàn, có bản thân ổn định

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

370. Ai đoạn tận lậu hoặc,
Ðoạn trừ cả kiêu mạn,
Mọi con đường tham dục,
Ðược chế ngự nhiếp phục,
Ðược nhiếp phục tịch tịnh,
Tự ngã được an lập,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

373. Saddho sutavā niyāmadassī
vaggagatesu na vaggasāri dhīro,
lobhaṃ dosaṃ vineyya paṭighaṃ
sammā so loke paribbajeyya.

373. Có đức tin, có sự lắng nghe, có sự nhìn thấy quy luật,

vị sáng trí không xuôi theo bè phái giữa những kẻ đi theo bè phái,

sau khi xua đi tham lam, sân hận, bất bình,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

371. Có lòng tin, nghe pháp,
Thấy được quyết định tánh,
Bậc hiền không phe phái,
Giữa rất nhiều phe phái,
Có thể nhiếp phục được,
Tham, sân và hận thù,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

374. Saṃsuddhajino vivattacchaddo
dhammesu vasī pāragū anejo,
saṅkhāranirodhañāṇakusalo
sammā so loke paribbajeyya.

374. Vị chiến thắng thanh tịnh, có màn che đã được cuốn lên,

có năng lực ở các pháp, đã đi đến bờ kia, không dục vọng,

được thiện xảo ở trí về sự tịch diệt của các hành,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

372. Thanh tịnh và chiến thắng,
Kéo lên màn che kín,
Tự tại trong các pháp,
Ðến bờ kia, bất động,
Ðoạn diệt các sở hành,
Thiện xảo trong chánh trí,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

375. Atītesu anāgatesu cāpi
kappātīto aticca suddhipañño,
sabbāyatanehi vippamutto
sammā so loke paribbajeyya.

375. Vị đã vượt qua suy tưởng (về tham ái và tà kiến) ở các thời quá khứ và còn ở các thời vị lai nữa, sau khi đã vượt qua, có tuệ trong sạch, được hoàn toàn thoát khỏi tất cả các xứ (sáu nội xứ và sáu ngoại xứ), vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

373. Trong những thời quá khứ,
Trong những thời vị lai,
Vượt qua các chủ thuyết,
Trí tuệ thật thanh tịnh,
Với tất cả mọi xứ,
Ðược hoàn toàn giải thoát.
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

376. Aññāya padaṃ samecca dhammaṃ
vivaṭaṃ disvāna pahānamāsavānaṃ,
sabbūpadhinaṃ parikkhayāno
sammā so loke paribbajeyya.

376. Sau khi hiểu biết nền tảng (Tứ Đế), sau khi hiểu rõ Giáo Pháp,

sau khi nhìn thấy sự dứt bỏ của các lậu hoặc một cách rõ rệt,

nhờ vào sự diệt tận của tất cả các mầm tái sanh,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

 

374. Rõ biết được Pháp cú,
Chứng tri được Chánh pháp,
Thấy được sự mở rộng,
Ðoạn tận các lậu hoặc,
Ðối tất cả sanh y,
Ðược trừ diệt hoàn toàn,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời
.

377. Addhā hi bhagavā tatheva etaṃ
yo so evaṃ vihāri danto bhikkhu,
sabbasaṃyojaniye ca vītivatto
sammā so loke paribbajeyyāti.

377. “Bạch đức Thế Tôn, thật vậy, bởi vì điều ấy đúng y như thế,

vị tỳ khưu ấy đã sống như vậy, đã được huấn luyện

và đã vượt qua khỏi tất cả các sự trói buộc,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.”

 

Người hỏi:

375. Bạch Thế Tôn, chắc chắn,
Thực sự là như vậy,
Tỷ-kheo được chế ngự,
Ðã an trú như vậy,
Ðã nhiếp phục hoàn toàn,
Tất cả các kiết sử,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

 

Sammāparibbājanīyasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
 

 

Dứt Kinh Du Hành Chân Chánh.

 

 

 

14. DHAMMIKASUTTAṂ

 

 

14. KINH DHAMMIKA

 

 

14. KINH DHAMMIKA

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho dhammiko upāsako pañcahi upāsakasatehi saddhiṃ yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho dhammiko upāsako bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, cư sĩ Dhammika cùng với năm trăm cư sĩ đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, cư sĩ Dhammika đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn ông Anàthapindika. Rồi nam cư sĩ Dhammika đi đến Thế Tôn với năm trăm nam cư sĩ, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Dhammika nói lên những bài kệ với Thế Tôn:

 

378. Pucchāmi taṃ gotama bhūripañña
kathaṃkaro sāvako sādhu hoti,
yo vā agārā anagārameti
agārino vā panupāsakāse.

378. “Bạch ngài Gotama, bạch đấng có trí tuệ quảng đại, con xin hỏi Ngài: Người đệ tử tốt lành là người có hành động như thế nào, người (đệ tử) này hoặc là vị (xuất gia) rời nhà đi đến đời sống không nhà, hoặc là những vị cư sĩ có sở hữu căn nhà?

Dhammika:

376. Kính thưa Gotama,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Con xin kính hỏi Ngài,
Vấn đề đặc biệt này:
Với vị đệ tử Ngài,
Làm thế nào là thiện?
Nếu là vị xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Hay là vị có nhà,
Sống đời nam cư sĩ?

379. Tuvaṃ hi lokassa sadevakassa
gatiṃ pajānāsi parāyanañca,
na catthi tulyo nipuṇatthadassī
tuvaṃ hi buddhaṃ pavaraṃ vadanti.

379. Bởi vì Ngài nhận biết cảnh giới tái sanh và việc đi đến bờ kia của thế gian luôn cả chư Thiên, và người có sự nhìn thấy ý nghĩa vi tế có thể sánh bằng (với Ngài) là không có, bởi vì người ta nói Ngài là đức Phật quý cao.

377. Ngài rõ biết đường đi,
Cùng mục đích tối hậu,
Của Thế Tôn đời này,
Và thế giới chư Thiên.
Không ai so sánh Ngài,
Bậc thấy nghĩa thù diệu,
Chính Ngài được tôn xưng,
Là đức Phật thù thắng.

380. Sabbaṃ tuvaṃ ñāṇamavecca dhammaṃ
pakāsesi satte anukampamāno,
vivattacchaddosi samantacakkhu
virocasi vimalo sabbaloke.
 

380. Sau khi biết mọi loại trí tuệ, trong lúc thương tưởng đến chúng sanh, Ngài (đã) giảng giải Giáo Pháp. Bạch đấng Toàn Nhãn, Ngài có màn che đã được cuốn lên. Không bị vết nhơ, Ngài chiếu sáng tất cả thế gian.

378. Ngài biết tất cả trí,
Ngài trình bày Chánh pháp,
Vì lòng thương, từ mẫn,
Ðối với mọi chúng sanh,
Ngài mở rộng bức màn,
Bậc có mắt mọi nơi
Không cấu uế, thanh tịnh,
Ngài chói toàn thế giới.

381. Āgañchi te santike nāgarājā
erāvaṇo nāma jinoti sutvā,
so pi tayā mantayitvā ajjhagamā
sādhūti sutvāna patītarūpo.
 

381. Vị vua của loài voi tên là Erāvaṇa đã đi đến gặp Ngài. Sau khi nghe rằng: ‘Đấng Chiến Thắng,’ vị ấy cũng đã thảo luận với Ngài, đã lắng nghe và (đã nói) rằng: ‘Lành thay,’ rồi đã ra đi với dáng vẻ hân hoan.

379. Vị vua loài Nàgà
Tên Eràvano,
Ðã đến gần bên Ngài,
Ðược nghe: Ngài chiến thắng.
Vị ấy tìm đến Ngài,
Ðể nghe lời khuyên nhủ,
Sau khi nghe, thích thú
Nói lên lời: Lành thay!.

382. Rājāpi taṃ vessavaṇo kuvero
upeti dhammaṃ paripucchamāno,
tassāpi tvaṃ pucchito brūsi dhīra
so cāpi sutvāna patītarūpo.

382. Vị vua Vessavaṇa Kuvera cũng đã đi đến gặp Ngài hỏi han về Giáo Pháp. Bạch bậc Sáng Trí, ngay cả đối với vị ấy, Ngài đã trả lời khi được hỏi. Và vị ấy nữa, sau khi lắng nghe cũng có dáng vẻ hân hoan.

380. Vua Vessavana,
Kuvera đến Ngài,
Tìm hiểu hỏi han Ngài
Về vấn đề diệu pháp,
Ðược hỏi, ôi bậc trí,
Hãy nói lên cho vua!
Sau khi nghe, vị ấy,
Cũng thích thú, ưa thích.

383. Ye kecime titthiyā vādasīlā
ājīvakā vā yadi vā nigaṇṭhā,
paññāya taṃ nātitaranti sabbe
ṭhito vajantaṃ viya sīghagāmiṃ.
 

383. Những ngoại đạo này, bất cứ những vị nào có bản tánh tranh luận, dầu là các đạo sĩ khổ hạnh hay là các đạo sĩ lõa thể, tất cả không vượt qua được Ngài về tuệ, tựa như kẻ đứng lại không vượt qua được người đi nhanh đang tiến bước.

 

 

381. Các bậc ngoại đạo này
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Các tà mạng ngoại đạo,
Hay các Ni-kiền Tử,
Tất cả không vượt qua,
Hơn thắng trí của Ngài,
Như người đang đứng lại,
Không thắng kẻ đi mau.

384. Ye kecime brāhmaṇā vādasīlā
vuddhā cāpi brāhmaṇā santi keci,
sabbe tayi atthabaddhā bhavanti
ye cāpi caññe vādino maññamānā.
 

384. Những Bà-la-môn này, bất cứ những vị nào có bản tánh tranh luận, và có cả những vị Bà-la-môn trưởng thượng nào đó nữa, luôn cả những kẻ khác đang nghĩ họ là những người tranh luận, tất cả đều bám vào ý nghĩa (của lời giải đáp) ở nơi Ngài.

382. Các Bà-la-môn này,
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Có những bậc Phạm-chí,
Ðã đến tuổi trưởng thượng,
Tất cả đều trói buộc,
Bởi tư tưởng của Ngài,
Kể cả những hạng người,
Tự phụ nói khoe khoang.

385. Ayaṃ hi dhammo nipuṇo sukho ca
yoyaṃ tayā bhagavā suppavutto,
tameva sabbe sussūsamānā
taṃ no vada pucchito buddhaseṭṭha.

385. Bạch đức Thế Tôn, bởi vì Giáo Pháp này là vi tế và (đem lại) an lạc, đã khéo được tuyên thuyết bởi Ngài. Tất cả đang mong muốn lắng nghe chính điều ấy. Bạch đức Phật tối thượng, đã được hỏi, xin Ngài hãy nói cho chúng con điều ấy.

383. Pháp này là tế nhị,
Ðem lại nguồn an lạc,
Ðã được bậc Thế Tôn
Khéo nói, khéo thuyết giảng,
Tất cả mọi hạng người,
Ðều thích thú ưa nghe,
Ðược hỏi, hãy nói lên,
Ôi đức Phật tối thượng.

386. Sabbepime bhikkhavo sannisinnā
upāsakā cāpi tatheva sotuṃ,
suṇantu dhammaṃ vimalenānubuddhaṃ
subhāsitaṃ vāsavasseva devā.

 

386. Tất cả các vị tỳ khưu này cũng đã cùng nhau ngồi xuống để lắng nghe, các cư sĩ cũng tương tự y như thế. Hãy để họ lắng nghe Giáo Pháp đã được giác ngộ bởi bậc Vô Nhiễm, tựa như chư Thiên lắng nghe lời khéo nói của (Thiên Vương) Vāsava.

384. Các vị Tỷ-kheo này,
Ðang ngồi đây tất cả,
Kể cả nam cư sĩ,
Tất cả đều chờ nghe,
Hãy để họ nghe pháp,
Bậc Vô uế Giác ngộ,
Như chư Thiên nghe lời,
Vàsava khéo nói!

387. Suṇātha me bhikkhavo sāvayāmi vo
dhammaṃ dhutaṃ tañca dharātha sabbe,
iriyāpathaṃ pabbajitānulomikaṃ
sevetha naṃ atthadassī mutīmā.

387. “Này các tỳ khưu, các ngươi hãy lắng nghe Ta. Ta nói cho các ngươi nghe về pháp từ khước; và tất cả hãy ghi nhớ điều ấy. Vị có sự nhìn thấy điều lợi ích, có niệm, nên thực hành (bốn) oai nghi phù hợp đối với các bậc xuất gia.

Thế Tôn:

385. Tỷ-kheo, hãy nghe Ta,
Ta khiến các Thầy nghe,
Pháp đoạn trừ điều ác,
Tất cả hãy trọ trì,
Với ai thấy ý nghĩa,
Nghĩ ngợi có suy tư,
Hãy sống theo chánh hạnh,
Thích hợp với xuất gia.

388. Na ve vikāle vicareyya bhikkhu
gāmañca piṇḍāya careyya kāle,
akālacāriṃ hi sajanti saṅgā
tasmā vikāle na caranti buddhā.

 

388. Thật vậy, vị tỳ khưu không nên đi đâu vào lúc không đúng thời,

và nên đi vào làng để khất thực lúc đúng thời.

Bởi vì, sự quyến luyến bám vào kẻ du hành không đúng thời.

Vì thế, chư Phật không đi vào lúc không đúng thời.

 

386. Tỷ-kheo chớ ra ngoài,
Trong thời gian phi thời,
Hãy vào làng khất thực,
Ðúng thời, thì hãy đi,
Ai đi đứng phi thời,
Bị bẫy sập trói buộc.
Do vậy các đức Phật,
Không có đi phi thời.

389. Rūpā ca saddā ca rasā ca gandhā
phassā ca ye sammadayanti satte,
etesu dhammesu vineyya chandaṃ
kālena so pavise pātarāsaṃ.
 

389. Các sắc, các thinh, các vị, các hương,

và các xúc, chúng làm say đắm các chúng sanh.

Sau khi xua đi sự mong muốn ở các pháp ấy,

vị ấy vào lúc đúng thời có thể đi vào (làng để khất thực) cho buổi ăn sáng.

 

387. Các sắc và các tiếng,
Các vị, hương và xúc,
Chính những loại pháp ấy
Làm mê hoặc chúng sanh.
Hãy nhiếp phục, lòng dục,
Ðối với các pháp ấy,
Hãy vào cho đúng thời,
Ðể dùng buổi ăn sáng.

390. Piṇḍañca bhikkhu samayena laddhā
eko paṭikkamma raho nisīde,
ajjhattacintī na mano bahiddhā
nicchāraye saṅgahitattabhāvo.
 

390. Và sau khi đã nhận được vật thực hợp thời, vị tỳ khưu, một mình, sau khi quay trở về nên ngồi xuống ở nơi vắng vẻ, có tâm hướng nội phần, có bản ngã đã được nắm giữ tốt đẹp, không để cho ý buông lung ở ngoại cảnh.

388. Tỷ-kheo được đúng thời,
Các đồ ăn khất thực,
Hãy đi về một mình,
Ngồi tại chỗ an tịnh,
Suy tư hướng nội tâm,
Ý không chạy ra ngoài,
Làm cho thoát ra khỏi,
Mọi chấp thủ tự ngã.

391. Sace pi so sallape sāvakena
aññena vā kenaci bhikkhunā vā,
dhammaṃ paṇītaṃ tamudāhareyya
na pesunaṃ nopi parūpavādaṃ.
 

391. Thậm chí, nếu vị ấy phải chuyện trò với người đệ tử,

hoặc với kẻ khác, hoặc với bất cứ vị tỳ khưu nào,

thì nên đề cập đến Giáo Pháp hảo hạng ấy,

không nói đâm thọc, cũng không nói chỉ trích kẻ khác.

 

389. Nếu vị ấy có nói,
Với một vị đệ tử,
Hay nói với một vị
Một Tỷ-kheo nào khác,
Hãy nói cho vị ấy,
Sự thù diệu Chánh pháp,
Không có nói hai lưỡi,
Không bài xích một ai,

392. Vādaṃ hi eke paṭiseniyanti
na te pasaṃsāma parittapaññe,
tato tato ne pasajanti saṅgā
cittaṃ hi te tattha gamenti dūre.
 

392. Bởi vì một số người phản kháng lại lời nói,

chúng ta không ca ngợi những kẻ có tuệ nhỏ nhoi ấy.

Các sự quyến luyến từ nơi này nơi khác đeo bám những kẻ ấy,

bởi vì những kẻ ấy để cho tâm đi xa khỏi nơi ấy.

 

390. Nhưng có những hạng người,
Dùng khẩu chiến bằng lời,
Những hạng người tuệ nhỏ,
Chúng ta không tán thán,
Triền phược trói buộc họ,
Từ chỗ này chỗ kia,
Ở đây họ dẫn tâm,
Ðưa tâm đi quá xa.

393. Piṇḍaṃ vihāraṃ sayanāsanañca
āpañca saṅghāṭirajūpavāhanaṃ,
sutvāna dhammaṃ sugatena desitaṃ
saṅkhāya seve varapaññasāvako.
 

393. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp được thuyết giảng bởi bậc Thiện Thệ, vị đệ tử có tuệ cao quý suy xét rồi thọ dụng đồ ăn khất thực, trú xá, chỗ nằm ngồi (giường ghế), và nước gột sạch bụi bám ở y hai lớp.

391. Ðồ khất thực, tinh xá,
Cùng sàng tọa trú xứ,
Nước để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng-già-lê,
Sau khi nghe Chánh pháp,
Do Thiện Thệ thuyết giảng,
Bậc đệ tử thắng tuệ,
Quán sát, hãy dùng chúng.

394. Tasmā hi piṇḍe sayanāsane ca
āpe ca saṅghāṭirajūpavāhane,
etesu dhammesu anūpalitto
bhikkhu yathā pokkhare vāribindū.

394. Chính vì thế, về đồ ăn khất thực, về chỗ nằm ngồi (giường ghế), và về nước gột sạch bụi bám ở y hai lớp, vị tỳ khưu không bám víu vào những pháp này, giống như những giọt nước ở lá sen.

392. Do vậy đồ khất thực,
Sàng tọa và trú xứ,
Nước để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng-già-lê,
Ðối với những pháp ấy,
Ðừng để cho dính nhiễm.
Tỷ-kheo như giọt nước,
Không dính trên lá sen.

395. Gahaṭṭhavattaṃ pana vo vadāmi
yathākaro sāvako sādhu hoti,
na hesa labbhā sapariggahena
phassetuṃ so kevalo bhikkhudhammo.
 

395. Giờ đây, Ta nói về phận sự của người tại gia cho các ngươi. Có hành động như thế nào thì trở nên người đệ tử tốt lành. Bởi vì toàn bộ pháp hành ấy của tỳ khưu, người có vật sở hữu thì không thể nào đạt đến.

393. Trách nhiệm của gia chủ,
Ta cũng nói các Ông,
Làm theo đúng như vậy,
Ðệ tử là tốt lành.
Pháp Tỷ-kheo toàn diện,
Khó thành tựu đầy đủ,
Vì là người gia chủ,
Phải làm nhiều việc đời.

396. Pāṇaṃ na hāne na ca ghātayeyya
na cānujaññā hanataṃ paresaṃ,
sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ
ye thāvarā ye ca tasā santi loke.

 

396. Không nên giết hại mạng sống và không nên bảo (kẻ khác) giết hại,

không nên chấp thuận cho những kẻ khác đang giết hại.

Sau khi bỏ xuống gậy gộc đối với tất cả chúng sanh,

những loài không di động và những loài di động hiện hữu ở thế gian.

394. Chớ giết loài hữu tình,
Chớ bảo người giết hại,
Hay chấp nhận kẻ khác,
Giết hại các người khác,
Ðối với mọi sanh loại,
Từ bỏ các hình phạt,
Ðối với kẻ mạnh bạo,
Như đối kẻ run sợ.

397. Tato adinnaṃ parivajjayeyya
kiñci kvaci sāvako bujjhamāso,
na hāraye harataṃ nānujaññā
sabbaṃ adinnaṃ parivajjayeyya.
 

397. Kế đến, người đệ tử sáng suốt nên xa lánh bất cứ vật gì không được cho, ở bất cứ nơi đâu. Không nên bảo (kẻ khác) lấy trộm, không nên chấp nhận những kẻ đang lấy trộm, nên xa lánh mọi vật không được cho.

385. Rồi hãy quyết từ bỏ,
Lấy của không được cho,
Ðệ tử khéo sáng suốt,
Vật gì, vật của ai,
Chớ khiến người khác lấy,
Chớ chấp nhận lấy trộm.
Hãy từ bỏ, chấm dứt,
Mọi của cải không cho.

398. Abrahmacariyaṃ parivajjayeyya
aṅgārakāsuṃ jalitaṃ va viññū,
asambhuṇanto pana brahmacariyaṃ
parassa dāraṃ nātikkameyya.
 

398. Người có sự hiểu biết nên xa lánh việc phi Phạm hạnh, tựa như (xa lánh) đống than hừng đang cháy rực. Hơn nữa, trong khi không đủ khả năng (sống) Phạm hạnh, không nên xâm phạm vợ của người khác.

396. Hãy từ bỏ, tránh xa
Ðời sống phi Phạm hạnh,
Như bậc trí tránh né,
Lửa cháy hố than hừng.
Nếu tự mình bất lực,
Không thể sống Phạm hạnh,
Thời chớ có xâm phạm
Vợ của các người khác.

399. Sabhaggato vā parisaggato vā
ekassa ceko na musā bhaṇeyya,
na bhāṇaye bhaṇataṃ nānujaññā
sabbaṃ abhūtaṃ parivajjayeyya.
 

399. Một người đi đến cuộc hội họp hoặc đi đến hội chúng không nên nói lời dối trá đối với người khác, không nên bảo (kẻ khác) nói (dối), không nên chấp nhận những kẻ đang nói (dối), nên xa lánh mọi điều không phải sự thật.

397. Khi đi đến hội chúng,
Hay đi đến đoàn chúng,
Hay một mình một người,
Chớ nói lời nói láo,
Chớ khiến người nói láo,
Chớ chấp nhận nói láo,
Tất cả điều không thật,
Hãy tránh xa từ bỏ.

400. Majjañca pānaṃ na samācareyya
dhammaṃ imaṃ rocaye yo gahaṭṭho,
na pāyaye pibataṃ nānujaññā
ummādanantaṃ iti naṃ viditvā.
 

400. Người tại gia nào thích thú với Giáo Pháp này không nên thực hành việc uống chất say, không nên bảo (kẻ khác) uống (chất say), không nên chấp nhận những kẻ đang uống (chất say), sau khi biết rằng việc (uống chất say) ấy có sự điên cuồng là kết cuộc.

398. Chớ sống theo nếp sống,
Uống rượu và say rượu,
Với vị là cư sĩ,
Ðã chấp nhận pháp này,
Chớ khiến nguời uống rượu,
Chớ chấp thuận uống rượu
Sau khi biết uống rượu,
Cuối đường là điên cuồng.

401. Madā hi pāpāni karonti bālā
karonti caññepi jane pamatte,
Etaṃ apuññāyatanaṃ vivajjaye
ummādanaṃ mohanaṃ bālakantaṃ.

401. Bởi vì do say sưa, những kẻ ngu làm những việc xấu xa

và còn làm cho những người khác cũng bị xao lãng.

Nên xa lánh hẳn việc này, lãnh vực không có phước báu,

sự điên cuồng, sự đần độn, được ưa thích bởi kẻ ngu.

399. Chỉ kẻ ngu say rượu,
Mới làm các điều ác,
Và khiến các người khác,
Sống buông lung phóng dật,
Hãy từ bỏ, tránh xa
Xứ phi công đức này,
Khiến điên cuồng si mê,
Làm kẻ ngu thỏa thích.

402. Pāṇaṃ na hāne na cadinnamādiye
musā na bhāse na ca majjapo siyā,
abrahmacariyā virameyya methunā
rattiṃ na bhuñjeyya vikālabhojanaṃ.

 

402. Không nên giết hại sinh mạng, và không nên lấy vật không được cho,

không nên nói lời dối trá, và không nên uống chất say,

nên kiêng cử việc đôi lứa, việc phi Phạm hạnh,

không nên ăn vật thực lúc phi thời, vào ban đêm.

 

400. Chớ có giết hữu tình,
Chớ lấy của không cho,
Chớ nói láo không thật,
Chớ uống rượu say mê,
Từ bỏ phi Phạm hạnh,
Không hành trì dâm dục
Không có ăn ban đêm,
Không ăn lúc phi thời.

403. Mālaṃ na dhāre na ca gandhamācare
mañce chamāyaṃ va sayetha santhate,
etaṃ hi aṭṭhaṅgikamāhuposathaṃ
buddhena dukkhantagunā pakāsitaṃ.
 

403. Không nên đeo tràng hoa, và không nên sử dụng chất thơm,

nên nằm ở chiếc giường, hoặc ở mặt đất đã được trải lót.

Bởi vì việc ấy được gọi là là hạnh trai giới gồm có tám chi phần,

đã được giảng giải bởi đức Phật, bậc đã đi đến sự chấm dứt của khổ đau.

 

401. Chớ mang các vòng hoa,
Chớ dùng các nước thơm,
Hãy nằm trên mặt đất,
Trên thảm chiếu trải dài,
Tám hạnh này được gọi
Là hạnh ngày trai giới,
Do đức Phật giảng dạy,
Ðể chấm dứt khổ đau.

404. Tato ca pakkhassupavassuposathaṃ
cātuddasiṃ pañcadasiñca aṭṭhamiṃ,
pāṭihāriyapakkhañca pasannamānaso
aṭṭhaṅgupetaṃ susamattarūpaṃ.
 

404. Và kế đó, sau khi hành trì ngày trai giới hội đủ tám chi phần, có hình thức được hoàn toàn đầy đủ, với tâm tịnh tín, vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày thứ tám của nửa tháng, và (các) ngày phụ trội của nửa tháng,[1] ...

402. Từ nay ngày trai giới,
Chia nửa tháng hai phần,
Ngày mười bốn, mười lăm,
Hay ngày tám mỗi tháng,
Với tâm ý hoan hỷ,
Thực hành thần thông pháp
Gồm có đủ tám phần,
Khéo đầy đủ vẹn toàn.

[1] Vào mỗi nửa tháng, ba ngày trai giới mồng tám, mười bốn, mười lăm, cộng thêm ngày rước và ngày đưa là các ngày bảy, ngày chín, ngày mười ba, và mồng một (ND).

405. Tato ca pāto upavutthuposatho
annena pānena ca bhikkhusaṅghaṃ,
pasannacitto anumodamāno
yathārahaṃ saṃvibhajetha viññū.
 

405. ... và sau đó vào buổi sáng, khi ngày trai giới đã được hành trì xong, người có sự hiểu biết, với tâm tịnh tín, trong khi đang hoan hỷ, nên dâng cúng cơm nước phù hợp với khả năng đến hội chúng tỳ khưu.

403. Do vậy, vào buổi sáng,
Thực hành ngày trai giới,
Bậc có trí sáng suốt,
Với tâm tư tín thành,
Với tâm ý tùy hỷ,
Cúng dường Tỷ-kheo Tăng,
Với món ăn đồ uống,
Hợp với khả năng mình.

406. Dhammena mātāpitaro bhareyya
payojaye dhammikaṃ so vaṇijjaṃ,
etaṃ gihī vattayaṃ appamatto
sayaṃpabhe nāma upeti deveti.

 

406. Người ấy nên phụng dưỡng mẹ cha đúng theo bổn phận, nên áp dụng việc buôn bán một cách đúng pháp. Người tại gia này, trong lúc duy trì cuộc sống (như vậy), không xao lãng, (sẽ) đi đến với chư Thiên có tên là ‘Sayaṃpabhā’ (tự mình có hào quang).

404. Hãy nuôi dưỡng mẹ cha,
Hợp pháp và đúng pháp,
Và cũng đúng với pháp,
Hãy làm nghề buôn bán,
Người gia chủ như vậy,
Sở hành không phóng dật,
Ðược sanh làm Thiên nhân,
Tên là: "Tự chói sáng".

 

Dhammikasuttaṃ niṭṭhitaṃ.


Cullavaggo dutiyo.
 

 

Dứt Kinh Dhammika.

 

Tiểu Phẩm là thứ nhì.

 

 

 

TASSUDDĀNAṂ
 

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

 

Ratanaṃ āmagandhañca hiriṃ maṅgalamuttamaṃ,
sūcilomo kapilaṃ ca puna brāhmaṇadhammikaṃ.
Dhammasuttaṃ kiṃsīlaṃ uṭṭhānaṃ atha rāhulo,
kappo ca paribbājañca dhammiko ca punāparaṃ,
cuddasetāni suttāni cullavaggoti vuccati.

 

Kinh châu báu, và kinh mùi tanh hôi, kinh hổ thẹn, kinh điềm lành tối thượng, kinh Sūciloma, kinh Kapila, và kinh truyền thống Bà-la-môn nữa, kinh Giáo Pháp, kinh với giới gì, kinh đứng lên, và kinh Rāhula, kinh Kappa, kinh du hành (chân chánh), và còn có kinh Dhammika khác nữa; mười bốn bài kinh này gọi là Tiểu Phẩm.