KINH TẬP (Tỳ khưu Indacanda dịch)

I. URAGAVAGGO - PHẨM RẮN

 

I. URAGAVAGGO - PHẨM RẮN

 

 

Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka

 

 

Lời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda

 

 

Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu

 

 

1. URAGASUTTAṂ

 

 

1. KINH RẮN

 

 

1. KINH RẮN

 

1. Yo uppatitaṃ vineti kodhaṃ visaṭaṃ sappavisaṃva osadhehi,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

 

1. Vị (tỳ khưu) nào xua đi cơn giận dữ đã trổi dậy, tựa như (kẻ xua đi) nọc rắn độc đã lan tỏa nhờ vào các loại thảo dược, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

 

1. Ai nhiếp phục phẫn nộ
Ðang được dấy khởi lên,
Như dùng chất linh dược,
Ngăn độc rắn lan rộng
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

2. Yo rāgamudacchidā asesaṃ bhisapupphaṃ’va saroruhaṃ vigayha,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

 

2. Vị (tỳ khưu) nào đã cắt đứt hoàn toàn luyến ái, tựa như kẻ đã lội xuống (cắt đứt) đóa hoa sen mọc lên ở hồ nước, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

 

2. Ai cắt đứt tham dục,
Không còn chút dư tàn,
Như kẻ hái hoa sen
Sanh ra từ ao hồ.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

3. Yo taṇhamudacchidā asesaṃ saritaṃ sīghasaraṃ visosayitvā,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
 

3. Vị (tỳ khưu) nào đã cắt đứt hoàn toàn tham ái, sau khi đã làm khô cạn dòng suối nước trôi nhanh,[1] vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

---------------------

[1] Giáo sư K. R. Norman, ở bản dịch The Group of Discourses của mình, đồng ý với sự hiệu đính của Brough như sau: saritaṃ sīghasaraṃ’va sosayitvā = tựa như kẻ đã làm khô cạn dòng suối nước trôi nhanh.

 

3. Ai cắt đứt tham ái,
Không còn chút dư tàn,
Làm cho nước cạn khô,
Dòng nước chảy nhanh mạnh
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

4. Yo mānamudabbadhī asesaṃ naḷasetuṃ’va sudubbalaṃ mahogho,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

 

4. Vị (tỳ khưu) nào đã hủy diệt hoàn toàn ngã mạn, tựa như cơn lũ lớn (hủy diệt) cây cầu làm bằng sậy vô cùng yếu ớt, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

 

4. Ai phá hoại kiêu mạn
Không còn chút dư tàn,
Như nước mạnh tàn phá
Cây cỏ lau yếu hèn,
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

5. Yo nājjhagamā bhavesu sāraṃ vicinaṃ pupphamiva udumbaresu,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
 

5. Vị (tỳ khưu) nào đã không đi đến bản thể ở các hữu,[1] tựa như kẻ (không đạt được bông hoa) trong khi tìm kiếm bông hoa ở những cây sung,[2] vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

----------------------
[1] Bản thể ở các hữu: bản thể thường còn hoặc bản thể tự ngã ở các cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, cõi hữu tưởng, cõi vô tưởng, cõi phi tưởng phi phi tưởng, cõi một uẩn, cõi bốn uẩn, cõi năm uẩn (SnA. i, 19).

[2] Theo Chú Giải, udumbara là loại cây không có bông hoa (Sđd.). Từ điển ghi nghĩa udumbara là cây sung, cây vả, dướng như hai loại cây này kết trái nhưng không trải qua thời kỳ trổ hoa.

 

5. Ai trong các sanh hữu,
Không tìm thấy lõi cây,
Như kẻ đi hái hoa,
Trên cây sung không hoa.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

6. Yassantarato na santi kopā iti bhavābhavataṃ ca vītivatto,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

6. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các sự bực tức không hiện diện ở trong tâm, vị đã vượt qua khỏi hữu và phi hữu như thế, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

6. Với ai trong nội tâm,
Không còn có phẫn hận,
Ðã vượt thoát ra khỏi,
Cả hữu và phi hữu.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

7. Yassa vitakkā vidhūpitā ajjhattaṃ suvikappitā asesā,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

7. Đối với vị (tỳ khưu) nào các ý nghĩ suy tầm được thiêu đốt, khéo được cắt bỏ ở nội tâm, không còn dư sót, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

7. Với ai những tầm tư,
Ðược làm cho tan biến
Nội tâm khéo sửa soạn,
Không còn chút dư tàn.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

8. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ accagamā imaṃ papañcaṃ,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

8. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, đã chế ngự tất cả vọng tưởng này, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

8. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Ðã nhiếp phục toàn diện,
Hý luận chướng ngại này.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

9. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti ñatva loke,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

9. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, sau khi biết được về thế gian rằng: ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

9. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Biết rõ được ở đời,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

10. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītalobho,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

10. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có tham đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

10. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, không có tham,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

11. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītarāgo,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

 

11. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có luyến ái đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

11. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, không tham dục,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

12. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītadoso,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

12. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có sân đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

12. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, ly sân hận,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

13. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītamoho,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

13. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có si đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

13. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, ly si ám,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

14. Yassānusayā na santi keci mūlā akusalā samūhatāse,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

14. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các pháp tiềm ẩn đều không hiện diện, (và) các cội rễ bất thiện đều đã được trừ diệt, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

 

14. Với ai, các tùy miên,
Hoàn toàn không hiện hữu,
Các nguồn gốc bất thiện
Ðược nhổ lên trừ sạch.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

15. Yassa darathajā na santi keci oraṃ āgamanāya paccayāse,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

15. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các pháp sanh ra từ sự bực bội, (là) các duyên đưa về lại bờ này, đều không hiện diện, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

15. Với ai, không có gì,
Do phiền não sanh khởi,
Làm duyên trở lui lại,
Về lại bờ bên này.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

16. Yassa vanathajā na santi keci vinibandhāya bhavāya hetukappā,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

16. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các pháp sanh ra từ sự bám lấy đối tượng, (là) các pháp làm nhân đưa đến sự trói chặt vào hiện hữu, đều không hiện diện, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

16. Với ai, không có gì,
Do rừng ái sanh khởi,
Tạo nhân khiến trói buộc
Con người vào tái sanh.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

17. Yo nīvaraṇe pahāya pañca anīgho tiṇṇakathaṃkatho visallo,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

17. Vị (tỳ khưu) nào sau khi đã dứt bỏ năm pháp che lấp, không có phiền muộn, có sự nghi ngờ đã được vượt qua, có mũi tên đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

 

 

17. Ai đoạn năm triền cái,
Không sầu khổ bực phiền,
Vượt qua được nghi hoặc,
Thoát mũi tên phiền não.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

 

Uragasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Rắn.

 

 

 

2. DHANIYASUTTAṂ

 

 

2. KINH DHANIYA

 

 

2. KINH DHANIYA

 

18. Pakkodano duddhakhīro ’hamasmi (iti dhaniyo gopo)
anutīre mahiyā samānavāso,
channā kuṭi āhito gini
atha ce patthayasi pavassa deva.

 

18. (Người chăn nuôi bò Dhaniya[1] nói)

“Tôi có cơm đã nấu chín, có sữa đã vắt xong,

cư ngụ cùng gia đình bên bờ sông Mahī,

cái chòi đã được lợp kín, lửa đã được nhóm lên.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

--------------------

[1] Người chăn nuôi bò Dhaniya (dhaniyo gopo): Dhaniya là tên một người con trai phú hộ, gopo (gopī: nữ tánh) là người chăn nuôi trâu bò của chính mình, còn người chăn giữ trâu bò của người khác để nhận tiền công gọi là gopālaka (SnA. i, 28). Chú Giải cho biết bầy bò của Dhaniya có số lượng là 30.000 con, (trong số đó) 27.000 con được vắt sữa (Sđd. 26).

 

Dhaniya:
18. Cơm ta, nấu đã chín,
Sữa uống, ta vắt xong,
Mục đồng Dhaniya,
Ðã nói lên như vậy.
Trên bờ sông Mahì,
Ta chung sống đồng cư,
Chòi lá được khéo lợp,
Lửa đốt được cháy đỏ.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

19. Akkodhano vigatakhīlo ’hamasmi (iti bhagavā)
anutīre mahiyekarattivāso,
vivaṭā kuṭi nibbuto gini
atha ce patthayasi pavassa deva.

 

19. (Đức Thế Tôn nói)

“Ta không có giận dữ, sự bướng bỉnh đã xa lìa,

cư ngụ một đêm bên bờ sông Mahī,

cái chòi (bản ngã) đã được mở ra, lửa đã được diệt tắt.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
19. Ta đoạn được phẫn nộ,
Tâm hoang vu không còn,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Trên bờ sông Mahì,
Ta chỉ sống một đêm,
Chòi lá được rộng mở,
Lửa đốt được tịch tịnh.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

20. Andhakamakasā na vijjare (iti dhaniyo gopo)
kacche rūḷhatiṇe caranti gāvo,
vuṭṭhimpi saheyyumāgataṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.

 

20. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“Ruồi và muỗi không tìm thấy,

bầy bò bước đi ở đầm lầy có cỏ đã mọc,

thậm chí cơn mưa đến, chúng cũng có thể chịu đựng.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Dhaniya:
20. Ruồi lằn và muỗi mòng,
Ở đây không tìm thấy,
Mục đồng Dhaniya,
Ðã nói lên như vậy.
Trên cánh đồng cỏ mọc,
Ðàn bò đi ăn cỏ,
Dầu cơn mưa có đến,
Chúng có thể chịu đựng.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

21. Baddhā hi bhisi susaṅkhatā (iti bhagavā)
tiṇṇo pāragato vineyya oghaṃ,
attho bhisiyā na vijjati
atha ce patthayasi pavassa deva.
 

21. (Đức Thế Tôn nói)

“Chiếc bè quả đã được buộc lại, đã khéo được tạo ra.

Ta đã vượt qua, đã đi đến bờ kia, sau khi đã chế ngự dòng lũ;

nhu cầu với chiếc bè không tìm thấy.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
21. Các bè đã được cột,
Khéo tác thành tốt đẹp,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Ai qua được bờ kia,
Nhiếp phục dòng nước mạnh,
Lợi ích của chiếc bè,
Ðâu còn thấy cần thiết.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

22. Gopī mama assavā alolā (iti dhaniyo gopo)
dīgharattaṃ saṃvāsiyā manāpā,
tassā na suṇāmi kiñci pāpaṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.

22. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“Người vợ của tôi nhu thuận, không tham lam,

hợp ý, cùng chung sống thời gian dài,

tôi không được nghe bất cứ điều gì xấu xa của nàng.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Dhaniya:
22. Vợ ta khéo nhu thuận,
Không có tham dục gì,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy.
Ðã lâu ngày chung sống,
Vừa đẹp ý đẹp lòng,
Ta không nghe điều gì,
Thuộc ác hạnh về nàng.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

23. Cittaṃ mama assavaṃ vimuttaṃ (iti bhagavā)
dīgharattaṃ paribhāvitaṃ sudantaṃ,
pāpaṃ pana me na vijjati
atha ce patthayasi pavassa deva.
 

23. (Đức Thế Tôn nói)

“Tâm của Ta nhu thuận, đã được giải thoát,

được phát triển toàn diện, khéo được huấn luyện thời gian dài,

hơn nữa điều xấu xa của Ta không tìm thấy.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
23. Tâm Ta khéo nhu thuận,
Ðược giải thoát, mở rộng,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Lâu ngày tu viên mãn,
Khéo nhiếp phục chế ngự,
Trong Ta các pháp ác,
Không còn được tìm thấy.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

24. Attavetanabhato ’hamasmi (iti dhaniyo gopo)
puttā ca me samāniyā arogā,
tesaṃ na suṇāmi kiñci pāpaṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.
 

24. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“Tôi sinh sống bằng lợi tức của bản thân,

và những người con trai của tôi cùng sống chung, không bệnh tật,

tôi không nghe bất cứ điều gì xấu xa của chúng.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Dhaniya:
24. Với lợi tức thâu hoạch,
Ta tự nuôi sống ta,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy,
Con ta và cả ta,
Sống chung không bệnh hoạn,
Ta không nghe điều gì,
Thuộc ác hạnh về chúng.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

25. Nāhaṃ bhatako ’smi kassaci (iti bhagavā)
nibbiṭṭhena carāmi sabbaloke,
attho bhatiyā na vijjati
atha ce patthayasi pavassa deva.
 

25. (Đức Thế Tôn nói)

“Ta không là người làm thuê cho bất cứ ai,

với sự thành tựu (phẩm vị Toàn Tri) Ta du hành ở khắp thế gian,

nhu cầu về lương bổng không tìm thấy,

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
25. Ta không có làm mướn,
Cho một ai ở đời,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy
Với điều được chứng đắc,
Ta du hành thế giới,
Về tiền công cần thiết,
Không thể có nơi Ta.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

26. Atthi vasā atthi dhenupā (iti dhaniyo gopo)
godharaṇiyo paveṇiyopi atthi,
usabhopi gavampatīdha atthi
atha ce patthayasi pavassa deva.

26. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“(Tôi) có các bò con mới lớn, có các bò cái cho con bú,

có các bò cái mang thai, luôn cả các bò cái vừa trưởng thành,

ở đây cũng có con bò đực, chúa đàn.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

Dhaniya:
26. Ðây có các bò cái,
Ðây có các bò con,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy.
Ðây có những bò mẹ,
Mang thai, nối giống dòng,
Ðây có những bò đực,
Những con chúa đầu đàn.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

27. Natthi vasā natthi dhenupā (iti bhagavā)
godharaṇiyo paveṇiyopi natthi,
usabhopi gavampatīdha natthi
atha ce patthayasi pavassa deva.

27. (Đức Thế Tôn nói)

“(Ta) không có các bò con mới lớn, không có các bò cái cho con bú,

không có các bò cái mang thai, luôn cả các bò cái vừa trưởng thành,

ở đây cũng không có con bò đực, chúa đàn.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
27. Ðây không có bò cái,
Ðây không có bò con,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Ðây không có bò mẹ,
Mang thai, nối giống dòng,
Ðây không có bò đực,
Những con chúa đầu đàn.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

28. Khīḷā nikhātā asampavedhī (iti dhaniyo gopo)
dāmā muñjamayā navā susaṇṭhānā,
na hi sakkhinti dhenupāpi chettuṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.
 

28. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“Các cây cọc đã được chôn xuống, không bị lay động.

Các dây buộc mới, làm bằng cỏ muñja, có phẩm chất tốt,

ngay cả các con bò cái cho con bú cũng không thể giật đứt.  

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Dhaniya:
28. Cây cột được đóng sâu,
Không còn bị dao động,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy.
Các dây bằng cây lau,
Ðược bện lại mới chắc,
Và các con bò con,
Không thể nào giật đứt.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

29. Usabhoriva chetva bandhanāni (iti bhagavā)
nāgo pūtilataṃ va dāḷayitvā,
nāhaṃ puna upessaṃ gabbhaseyyaṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.

29. (Đức Thế Tôn nói)

“Tựa như con bò đực đã cắt đứt các sự trói buộc,

tựa như con voi đã bứt lìa sợi dây rừng thối tha,

Ta sẽ không đi đến việc nằm ở bào thai lần nữa.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
29. Giống như con bò đực,
Giật đứt các trói buộc,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Như voi làm bựt đứt
Các giây leo héo mục,
Ta không còn đi đến,
Chỗ thai tạng tái sanh.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

30. Ninnañca thalañca pūrayanto
mahāmegho pāvassi tāvadeva,
sutvā devassa vassato
imamatthaṃ dhaniyo abhāsatha.

30. Ngay khi ấy, có đám mây lớn đã đổ mưa

làm tràn ngập vùng đất trũng và đất cao.

Sau khi nghe được Trời đang mưa,

Dhaniya đã nói lên ý nghĩa này:

 

30. Rồi mưa lớn đổ xuống,
Làm đầy tràn đất trũng,
Làm tràn ngập đất cao,
Nghe trời gầm, mưa, thét,
Mục đồng Dhaniya,
Nói lên lời như sau:

 

31. Lābho vata no anappako
ye mayaṃ bhagavantaṃ addasāma,
saraṇaṃ taṃ upema cakkhuma
satthā no hohi tuvaṃ mahāmuni.

31. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“Quả thật lợi ích của chúng tôi là không ít,

chúng tôi đã được gặp đức Thế Tôn.

Thưa đấng Hữu Nhãn, chúng con đi đến nương tựa Ngài.

Thưa bậc Đại Hiền Trí, xin Ngài hãy là bậc Đạo Sư của chúng con.

 

Dhaniya:
31. Lợi thay cho chúng ta,
Ðâu phải là lợi nhỏ,
Chúng ta được chiêm ngưỡng,
Bậc Chánh Giác, Thế Tôn.
Ôi! Kính bậc Pháp nhãn,
Con xin quy y Ngài,
Kính bậc Ðại ẩn sĩ,
Hãy là Thầy chúng con.

 

32. Gopī ca ahañca assavā
brahmacariyaṃ sugate carāmase,
jātimaraṇassa pāragā
dukkhassantakarā bhavāmase.

32. Vợ và con là những người nhu thuận, hãy cho chúng con thực hành Phạm hạnh ở nơi đấng Thiện Thệ, hãy cho chúng con trở thành những người đi đến bờ kia của sanh tử, những người thực hiện sự chấm dứt khổ đau.

32. Vợ con và cả con,
Là những người nhu thuận,
Xin sống đời Phạm hạnh,
Dưới chân bậc Thiện Thệ.
Ðược đến bờ bên kia,
Vượt khỏi sanh già chết,
Chúng con sẽ trở thành
Người đoạn tận đau khổ.

 

33. Nandati puttehi puttimā (iti māro pāpimā)
gomiko gohi tatheva nandati,
upadhī hi narassa nandanā
na hi so nandati yo nirūpadhī.

33. (Ma Vương ác độc nói)

“Người có con trai vui vẻ với các con trai,

tương tự y như thế, người chủ bầy bò vui vẻ với bầy bò.

Bởi vì mầm tái sanh là niềm vui vẻ của con người,

bởi vì người nào không có mầm tái sanh, người ấy không vui vẻ.”

 

Màra:
33. Ai có các con trai,
Hoan hỷ với con trai,
Ðây là lời Ác ma,
Ðã nói lên như vậy
Người chủ các con bò,
Hoan hỷ với con bò.
Còn người thì hoan hỷ,
Ðối với sự sanh y,
Ai không có sanh y,
không thể có hoan hỷ.

 

34. Socati puttehi puttimā (iti bhagavā)
gomiko gohi tatheva socati,
upadhī hi narassa socanā
na hi so socati yo nirūpadhī ”ti.
 

34. (Đức Thế Tôn nói)

“Người có con trai sầu muộn với các con trai,

tương tự y như thế, người chủ bầy bò sầu muộn với bầy bò.

Bởi vì mầm tái sanh là nỗi sầu muộn của con người,

bởi vì người nào không có mầm tái sanh, người ấy không sầu muộn.”

 

Thế Tôn:
34. Ai có các con trai,
Sầu muộn với con trai,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác,
Ðã nói lên như vậy.
Người chủ các con bò,
Sầu muộn với con bò;
Sầu muộn của con người,
Chính do sự sanh y,
Ai không có sanh y,
Không thể có sầu muộn.

 

 

Dhaniyasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Dhaniya.

 

 

   

3. KHAGGAVISĀṆASUTTAṂ

 

 

3. KINH SỪNG TÊ GIÁC

 

 

3. KINH CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG

 

35. Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ
aviheṭhayaṃ aññatarampi tesaṃ,
na puttamiccheyya kuto sahāyaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.
 

35. Buông bỏ sự trừng phạt đối với tất cả chúng sanh,

không hãm hại bất cứ ai trong số họ,

không nên mong mỏi đứa con trai, sao lại (mong mỏi) bạn bè?

Nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

35. Ðối với các hữu tình,
Từ bỏ gậy và trượng,
Chớ làm hại một ai
Trong chúng hữu tình ấy.
Con trai không ước muốn,
Còn nói gì bạn bè,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

36. Saṃsaggajātassa bhavanti snehā
snehanvayaṃ dukkhamidaṃ pahoti,
ādīnavaṃ snehajaṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.
 

36. Các sự thương yêu hiện hữu đối với người đã có sự giao tiếp,

theo sau sự thương yêu là khổ đau này được thành lập.

Trong khi xét thấy điều bất lợi sanh lên từ sự thương yêu,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

36. Do thân cận giao thiệp,
Thân ái từ đấy sanh,
Tùy thuận theo thân ái,
Khổ này có thể sanh.
Nhìn thấy những nguy hại,
Do thân ái sanh khởi,
Hãy sống riêng một mình,
Như tê ngưu một sừng.

 

37. Mitte suhajje anukampamāno
hāpeti atthaṃ paṭibaddhacitto,
etaṃ bhayaṃ santhave pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

37. Trong khi thương tưởng đến các bạn bè thân hữu,

(thời) buông rơi mục đích, có tâm bị ràng buộc.

Trong khi xét thấy mối nguy hiểm này ở sự giao du,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

37. Do lòng từ thương mến,
Ðối bạn bè thân hữu,
Mục đích bị bỏ quên,
Tâm tư bị buộc ràng,
Do thấy sợ hãi này,
Trong giao du mật thiết,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

38. Vaṃso visālo va yathā visatto
puttesu dāresu ca yā apekhā,
vaṃsakaḷīro va asajjamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

38. Giống như lùm tre rậm rạp bị vướng víu

sự mong mỏi (yêu thương) các con và những người vợ (là tương tự).

Trong khi không bị vướng víu như là mụt măng tre,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

38. Ai nhớ nghĩ chờ mong,
Ðối với con và vợ,
Người ấy bị buộc ràng,
Như cành tre rậm rạp,
Còn các ngọn tre cao,
Nào có gì buộc ràng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

39. Migo araññamhi yathā abaddho
yenicchakaṃ gacchati gocarāya,
viññū naro seritaṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

39. Giống như con nai ở trong rừng không bị trói buộc

đi đến nơi kiếm ăn tùy theo ý thích,

người hiểu biết trong khi xem xét về sự tự do,  

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

39. Như nai trong núi rừng,
Không gì bị trói buộc,
Tự đi chỗ nó muốn
Ðể tìm kiếm thức ăn.
Như các bậc Hiền trí,
Thấy tự do giải thoát,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

40. Āmantanā hoti sahāyamajjhe
vāse ṭhāne gamane cārikāya,
anabhijjhitaṃ seritaṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

40. Có sự mời gọi giữa bạn bè

về chuyện nghỉ ngơi, về việc đứng gần, về sự ra đi, về cuộc du hành,

trong khi xem xét về sự tự do không được (kẻ khác) ham thích,[1] nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

---------------------------

[1] Sự xuất gia là không được ham thích, không được mong ước bởi tất cả những kẻ tầm thường bị tham chế ngự (SnA. i, 85).

40. Giữa bạn bè thân hữu,
Bị gọi lên gọi xuống,
Tại chỗ ở trú xứ,
Hay trên đường bộ hành.
Thấy tự do giải thoát,
Không có gì tham luyến,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

41. Khiḍḍā ratī hoti sahāyamajjhe
puttesu ca vipulaṃ hoti pemaṃ,
piyavippayogañca jigucchamāno
eko care khaggavisāṇakappo.
 

41. Sự vui đùa thích thú ở giữa đám bạn bè

và lòng thương yêu đối với con cái là bao la,

trong khi chán ghét sự tách lìa khỏi những người yêu dấu,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

 

41. Giữa bạn bè thân hữu,
Ưa thích, vui cười đùa,
Ðối với con, với cháu,
Ái luyến thật lớn thay,
Nhàm chán sự hệ lụy,
Với những người thân ái,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

42. Cātuddiso appaṭigho ca hoti
santussamāno itarītarena,
parissayānaṃ sahitā achambhī
eko care khaggavisāṇakappo.

42. Người không lòng bất bình trải khắp bốn phương,

tự hài lòng với vật dụng dầu tốt hay xấu,

chịu đựng mọi hiểm nghèo không lòng hoảng sợ,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

42. Khắp cả bốn phương trời,
Không sân hận với ai,
Tự mình biết vừa đủ,
Với vật này vật khác,
Vững chịu các hiểm nguy,
Không run sợ dao động,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

43. Dussaṅgahā pabbajitāpi eke
atho gahaṭṭhā gharamāvasantā,
appossukko paraputtesu hutvā
eko care khaggavisāṇakappo.

43. Ngay cả một số các vị đã xuất gia cũng khó đồng thuận,

những kẻ tại gia đang sống dưới mái gia đình cũng vậy,

đã là người ít bị bận tâm về con cái của những kẻ khác,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

43. Có số người xuất gia,
Chung sống thật khó khăn,
Cũng như các gia chủ,
Ở tại các cửa nhà,
Sống vô tư vô lự,
Giữa con cháu người khác,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

44. Oropayitvā gihī vyañjanāni
saṃsīnapatto yathā koviḷāro,
chetvāna vīro gihibandhanāni
eko care khaggavisāṇakappo.
 

44. Hãy cởi bỏ các hình tướng tại gia

như loài cây koviḷāro có lá được rũ bỏ,

là người anh hùng, sau khi cắt đứt mọi sự ràng buộc của gia đình,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

44. Từ bỏ, để một bên,
Mọi biểu dương gia đình,
Như loại cây san hô,
Tước bỏ mọi lá cây,
Bậc anh hùng cắt đứt,
Mọi trói buộc gia đình.
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

45. Sace labhetha nipakaṃ sahāyaṃ
saddhiṃ caraṃ sādhuvihāri dhīraṃ,
abhibhuyya sabbāni parissayāni
careyya tenattamano satīmā.


 

45. Nếu có thể đạt được người bạn chín chắn,

kẻ đồng hành sáng suốt, sống ngay thẳng,

sau khi khắc phục mọi sự hiểm nghèo,

nên du hành với vị ấy, có sự hoan hỷ, có niệm.

 

45. Nếu tìm được bạn lành,
Thận trọng và sáng suốt,
Bạn đồng hành chung sống,
Bạn thiện trú Hiền trí.
Cùng nhau đồng nhiếp phục,
Tất cả mọi hiểm nạn,
Hãy sống với bạn ấy,
Hoan hỷ, giữ chánh niệm.

 

46. No ce labhetha nipakaṃ sahāyaṃ
saddhiṃ caraṃ sādhuvihāri dhīraṃ,
rājā ’va raṭṭhaṃ vijitaṃ pahāya
eko care khaggavisāṇakappo.

46. Nếu không thể đạt được người bạn chín chắn,

kẻ đồng hành sáng suốt, sống ngay thẳng,

tương tự như vị vua từ bỏ lãnh địa đã xâm chiếm được,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

46. Nếu không được bạn lành,
Thận trọng và sáng suốt,
Bạn đồng hành chung sống,
Bạn thiện trú Hiền trí.
Hãy như vua từ bỏ,
Ðất nước bị bại vong,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

47. Addhā pasaṃsāma sahāyasampadaṃ
seṭṭhā samāsevitabbā sahāyā,
ete aladdhā anavajjabhojī
eko care khaggavisāṇakappo.

47. Quả vậy, chúng ta ca ngợi sự thành tựu về bạn bè. Những bạn bè vượt trội (hoặc) tương đương là nên giao thiệp. (Nếu) những người này là không đạt được, (nên) thọ hưởng những gì không bị chê trách, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

47. Thật chúng ta tán thán,
Các bằng hữu chu toàn,
Bậc hơn ta, bằng ta,
Nên sống gần thân cận.
Nếu không gặp bạn này.
Những bậc không lầm lỗi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

48. Disvā suvaṇṇassa pabhassarāni
kammāraputtena suniṭṭhitāni,
saṅghaṭṭamānāni duve bhujasmiṃ
eko care khaggavisāṇakappo.
 

48. Sau khi nhìn thấy những (vòng) vàng sáng chói

khéo được hoàn thành bởi con trai người thợ kim hoàn,

(chúng) đang va chạm vào nhau khi hai vòng ở trên cùng cánh tay,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

48. Thấy đồ trang sức vàng,
Lấp lánh và sáng chói,
Ðược con người thợ vàng,
Khéo làm, khéo tay làm,
Hai chúng chạm vào nhau,
Trên hai tay đeo chúng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

49. Evaṃ dutiyena sahā mamassa
vācābhilāpo abhisajjanā vā,
etaṃ bhayaṃ āyatiṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

49. Tương tự như thế, cùng với người thứ hai, có thể xảy đến cho tôi

sự chuyện vãn bằng lời nói hoặc sự quyến luyến sâu đậm.

Trong khi xem xét thấy mối nguy hiểm này trong tương lai,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

49. Như vậy nếu ta cùng
Với một người thứ hai,
Tranh luận cãi vã nhau,
Sân hận, gây hấn nhau,
Nhìn thấy trong tương lai,
Sợ hãi hiểm nguy này,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

50. Kāmā hi citrā madhurā manoramā
virūparūpena mathenti cittaṃ,
ādīnavaṃ kāmaguṇesu disvā
eko care khaggavisāṇakappo.

50. Bởi vì các dục là đa dạng, ngọt ngào, làm thích ý,

chúng khuấy động tâm bằng nhiều hình thức khác nhau.

Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở các loại dục,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

50. Các dục thật mỹ miều,
Ngọt thơm và đẹp ý,
Dưới hình sắc, phi sắc,
Làm mê loạn tâm tư,
Thấy sự nguy hiểm này,
Trong các dục trưởng dưỡng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

51. Ītī ca gaṇḍo ca upaddavo ca
rogo ca sallañca bhayañca metaṃ,
etaṃ bhayaṃ kāmaguṇesu disvā
eko care khaggavisāṇakappo.

51. Điều này là tai họa, là mụt nhọt, là bất hạnh, là tật bệnh, là mũi tên, và là sự nguy hiểm cho tôi. Sau khi nhìn thấy mối nguy hiểm này ở các loại dục, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

51. Ðây là một mụn nhọt,
Và cũng là tai họa,
Một tật bệnh, mũi tên,
Là sợ hãi cho ta,
Thấy sự nguy hiểm này,
Trong các dục trưởng dưỡng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

52. Sītañca uṇhañca khudaṃ pipāsaṃ
vātātape ḍaṃsasiriṃsape ca,
sabbāni petāni abhisambhavitvā
eko care khaggavisāṇakappo.

52. Lạnh, nóng, đói, khát,

gió và sức nóng, muỗi mòng và rắn rết,

sau khi đã khắc phục tất cả những điều này,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

52. Lạnh lẽo và nóng bức,
Ðói bụng và khát nước,
Gió thổi, ánh mặt trời.
Muỗi lằn và rắn rết.
Tất cả xúc chạm này,
Ðều chịu đựng vượt qua,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

53. Nāgo va yūthāni vivajjayitvā
sañjātakhandho padumī uḷāro,
yathābhirantaṃ vihare araññe
eko care khaggavisāṇakappo.

53. Tựa như con long tượng có thân hình khổng lồ, có đốm hoa sen, cao thượng, đã lìa bỏ các bầy đàn sống trong rừng theo như ý thích, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

53. Như con voi to lớn,
Từ bỏ cả bầy đàn,
Thân thể được sanh ra,
To lớn tợ hoa sen,
Tùy theo sự thích thú,
Sống tại chỗ rừng núi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

54. Aṭṭhānataṃ saṅgaṇikāratassa
yaṃ phassaye sāmayikaṃ vimuttiṃ,
ādiccabandhussa vaco nisamma
eko care khaggavisāṇakappo.

 

54. Người ưa thích sự tụ hội có thể chạm đến sự giải thoát tạm thời[1] là điều không có cơ sở. Sau khi cân nhắc lời nói của đấng quyến thuộc của mặt trời, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

--------------------

[1] sāmayikaṃ vimuttinti lokiyasamāpattiṃ” (ApA. 182): “sự giải thoát tạm thời là sự thể nhập hiệp thế” (các tầng thiền và ngũ thông - ND).

 

54. Ai ưa thích hội chúng,
Sự kiện không xảy ra,
Người ấy có thể chứng,
Cảm thọ thời giải thoát.
Cân nhắc lời giảng dạy,
Ðấng bà con mặt trời,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

55. Diṭṭhīvisūkāni upātivatto
patto niyāmaṃ paṭiladdhamaggo,
uppannañāṇo ’mhi anaññaneyyo
eko care khaggavisāṇakappo.

55. (Nghĩ rằng): ‘Tôi đã vượt lên trên các sự trái khuấy của tà kiến,

đã đạt đến pháp không thối đọa, có đạo lộ đã được tiếp thâu,

có trí đã được sanh khởi, không cần người khác dẫn dắt,’

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

55. Ðược giải thoát vượt khỏi,
Các tri kiến hý luận,
Ðạt được quyết định tánh,
Chứng đắc được con đường.
Nơi ta trí được sanh,
Không cần nhờ người khác,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

56. Nillolupo nikkuho nippipāso
nimmakkho niddhantakasāvamoho,
nirāsayo sabbaloke bhavitvā
eko care khaggavisāṇakappo.

56. Sau khi đã trở nên không còn tham muốn, không giả dối, không khao khát, không gièm pha, có các tật xấu và sự mê muội đã được loại trừ, không còn ước ao (tham vọng) về toàn thể thế giới, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

56. Không tham, không lừa đảo,
Không khát dục, gièm pha,
Mọi si mê ác trược,
Ðược gạn sạch quạt sạch.
Trong tất cả thế giới,
Không tham ái ước vọng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

57. Pāpasahāyaṃ parivajjayetha
anatthadassiṃ visame niviṭṭhaṃ,
sayaṃ na seve pasutaṃ pamattaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.

57. Nên lánh xa hẳn bạn bè ác xấu,

kẻ không nhìn thấy mục đích, bị dấn sâu vào sở hành sai trái.

Không nên chính mình giao thiệp với kẻ cố chấp (tà kiến), bị xao lãng,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

57. Với bạn bè độc ác,
Hãy từ bỏ lánh xa,
Bạn không thấy mục đích,
Quen nếp sống quanh co,
Chớ tự mình thân cận,
Kẻ đam mê phóng dật,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

58. Bahussutaṃ dhammadharaṃ bhajetha
mittaṃ uḷāraṃ paṭibhānavantaṃ,
aññāya atthāni vineyya kaṅkhaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.
 

58. Nên thân cận với vị nghe nhiều (học rộng), nắm giữ Giáo Pháp,

người bạn cao thượng, có biện tài.

Sau khi nhận biết các sự lợi ích, sau khi loại trừ điều nghi hoặc,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

58. Bậc nghe nhiều trì pháp,
Hãy gần gũi người ấy,
Bạn người tâm rộng lớn,
Người thông minh biện tài,
Biết điều không nên làm,
Nhiếp phục được nghi hoặc,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

59. Khiḍḍaṃ ratiṃ kāmasukhañca loke
analaṃkaritvā anapekkhamāno,
vibhūsanaṭṭhānā virato saccavādī
eko care khaggavisāṇakappo.
 

59. Người không chú trọng và không mong mỏi sự vui đùa, sự thích thú, và khoái lạc ngũ dục ở trên đời, đã xa lánh hẳn việc trang sức, có lời nói chân thật, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

59. Mọi du hí vui đùa,
Và dục lạc ở đời,
Không điểm trang bày biện,
Không ước vọng mong cầu,
Từ bỏ mọi hào nhoáng,
Nói lên lời chân thật,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

60. Puttañca dāraṃ pitarañca mātaraṃ
dhanāni dhaññāni ca bandhavāni,
hitvāna kāmāni yathodhikāni
eko care khaggavisāṇakappo.
 

60. Sau khi từ bỏ con và vợ, cha và mẹ, các tài sản và lúa gạo, các quyến thuộc, và các dục theo như mức giới hạn (của chúng), nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

60. Với con và với vợ,
Với cha và với mẹ,
Tài sản cùng lúa gạo,
Những trói buộc bà con,
Hãy từ bỏ buộc ràng,
Các dục vọng như vậy,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

61. Saṅgo eso parittamettha sokhyaṃ
appassādo dukkhamettha bhiyyo,
gaḷo eso iti ñatvā mutīmā
eko care khaggavisāṇakappo.
 

61. Điều này (ngũ dục) là sự dính líu, hạnh phúc ở đây là nhỏ nhoi,

ít  khoái lạc, sự khổ đau ở đây là nhiều hơn.

Người có sự sáng suốt, sau khi biết được điều này là móc câu,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

61. Chúng đều là trói buộc,
Lạc thú thật nhỏ bé,
Vị ngọt thật ít oi,
Khổ đau lại nhiều hơn,
Chúng đều là câu móc,
Bậc trí biết như vậy,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

62. Sandāḷayitvāna saṃyojanāni
jālambhetvā salilambucārī,
aggīva daḍḍhaṃ anivattamano
eko care khaggavisāṇakappo.



 

62. Sau khi đã tự phá tan các mối ràng buộc,

tựa như loài thủy tộc đã phá tan chiếc lưới ở trong nước,

tựa như ngọn lửa không quay lại nơi đã bị đốt cháy,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

62. Hãy chặt đứt, bẻ gãy,
Các kiết sử trói buộc,
Như các loài thủy tộc,
Phá hoại các mạng lưới.
Như lửa đã cháy xong,
Không còn trở lui lại,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

63. Okkhittacakkhu na ca pādalolo
guttindriyo rakkhitamānasāno,
anavassuto apariḍayhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

63. Có mắt nhìn xuống và không buông thả ở bước chân đi,

có các căn được canh phòng, có tâm ý được gìn giữ,

không bị ngập tràn (dục vọng), không bị thiêu đốt (bởi phiền não),

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

63. Với mắt cúi nhìn xuống,
Chân đi không lưu luyến,
Các căn được hộ trì,
Tâm ý khéo chế ngự.
Không đầy ứ, rỉ chảy,
Không cháy đỏ bừng lên,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

64. Ohārayitvā gihīvyañjanāni
sañchannapatto yathāpārichatto,
kāsāyavattho abhinikkhamitvā
eko care khaggavisāṇakappo.

64. Sau khi trút bỏ các hình tướng tại gia,

giống như cây san hô có lá được rũ bỏ,

sau khi đã ra đi, mặc y ca-sa,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

64. Hãy trút bỏ, để lại,
Các biểu tượng gia chủ,
Như loại cây san hô,
Loại bỏ các nhành lá.
Ðã đắp áo cà sa,
Xuất gia bỏ thế tục,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

65. Rasesu gedhaṃ akaraṃ alolo
anaññaposī sapadānacārī,
kule kule appaṭibaddhacitto
eko care khaggavisāṇakappo.

65. Không tạo sự tham đắm ở các vị nếm, không buông thả,

không nuôi dưỡng kẻ khác, đi khất thực theo tuần tự từng nhà,

có tâm không bị ràng buộc ở nhà này nhà nọ,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

65. Không tham đắm các vị,
Không tác động, không tham,
Không nhờ ai nuôi dưỡng,
Chỉ khất thực từng nhà.
Ðối với mọi gia đình,
Tâm không bị trói buộc,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

66. Pahāya pañcāvaraṇāni cetaso
upakkilese vyapanujja sabbe,
anissito chetvā snehadosaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.

 

66. Sau khi dứt bỏ năm pháp che lấp của tâm,

sau khi xua đuổi hẳn tất cả các tùy phiền não,

không bị lệ thuộc (tà kiến), sau khi cắt đứt thương yêu và sân hận,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

66. Từ bỏ năm triền cái
Che đậy trói buộc tâm,
Ðối với mọi kiết sử,
Hãy trừ khử, dứt sạch,
Không y cứ nương tựa,
Chặt đứt ái sân hận,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

67. Vipiṭṭhikatvāna sukhaṃ dukhañca
pubbeva ca somanassadomanassaṃ,
laddhānupekkhaṃ samathaṃ visuddhaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.

67. Sau khi đã bỏ lại sau lưng lạc và khổ,

cùng với hỷ và ưu ngay trước đây,

sau khi đạt được xả, sự vắng lặng (tứ thiền), và sự thanh tịnh (giải thoát),

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

67. Hãy xoay lưng trở lại
Ðối với lạc và khổ,
Cả đối với hỷ ưu,
Ðược cảm thọ từ trước,
Hãy chứng cho được xả,
An chỉ và thanh tịnh;
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

68. Āraddhaviriyo paramatthapattiyā
alīnacitto akusītavutti,
daḷhanikkamo thāmakhalūpapanno
eko care khaggavisāṇakappo.

68. Có sự nỗ lực tinh tấn để đạt đến chân lý tuyệt đối,

có tâm không thụ động, có sự thực hành không biếng nhác,

có sự cố gắng bền bỉ, có được sức mạnh và năng lực,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

68. Tinh cần và tinh tấn,
Ðạt được lý chân đế,
Tâm không còn thụ động,
Không còn có biếng nhác,
Kiên trì trong cố gắng,
Dõng lực được sanh khởi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

69. Paṭisallānaṃ jhānamariñcamāno
dhammesu niccaṃ anudhammacārī,
ādīnavaṃ sammasitā bhavesu
eko care khaggavisāṇakappo.

69. Trong khi không bỏ phế việc ẩn cư tham thiền,

là người thường xuyên thực hành thuận pháp đối với các pháp,[1]

là người nhận chân được sự bất lợi trong các hữu,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

---------------------

[1] Thực hành thuận pháp đối với các pháp (dhammesu anudhammacārī): thực hành pháp minh sát tùy thuận theo sự diễn biến của các pháp như là ngũ uẩn, v.v..., hoặc là hành tuần tự theo chín pháp siêu thế là bốn Đạo, bốn Quả, và Niết Bàn (SnA. i, 123).

 

69. Không từ bỏ độc cư,
Hạnh viễn ly thiền định,
Thường thường sống hành trì,
Tùy pháp trong các pháp.
Chơn chánh nhận thức rõ,
Nguy hiểm trong sanh hữu,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

70. Taṇhakkhayaṃ patthayaṃ appamatto
ānelamūgo sutavā satīmā,
saṅkhātadhammo niyato padhānavā
eko care khaggavisāṇakappo.

70. Trong khi ước nguyện sự đoạn diệt tham ái, không xao lãng,

không ngây ngô khờ khạo, có sự nghe nhiều, có niệm,

đã hiểu rõ Giáo Pháp, được quả quyết, có sự nỗ lực,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

70. Mong cầu đoạn diệt ái,
Sống hạnh không phóng dật,
Không đần độn câm ngọng,
Nghe nhiều, giữ chánh niệm.
Các pháp được giác sát,
Quyết định, chánh tinh cần.
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

71. Sīho va saddesu asantasanto
vāto va jālamhi asajjamāno,
padumaṃca toyena alippamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

71. Tựa như con sư tử không kinh hãi đối với các tiếng động,

tựa như làn gió không bị dính mắc ở tấm lưới,

tựa như đóa sen không bị vấy bẩn bởi nước,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

71. Như sư tử, không động,
An tịnh giữa các tiếng,
Như gió không vướng mắc,
Khi thổi qua màn lưới.
Như hoa sen không dính,
Không bị nước thấm ướt,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

72. Sīho yathā dāṭhabalī pasayha
rājā migānaṃ abhibhuyyacārī,
sevetha pantāni senāsanāni
eko care khaggavisāṇakappo.
 

72. Tựa như con sư tử, có sức mạnh của các răng nanh, vua của các loài thú, có cuộc sống khuất phục và chế ngự (các con thú), nên lai vãng các trú xứ xa vắng, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

72. Giống như con sư tử,
Với quai hà hùng mạnh,
Bậc chúa của loài thú,
Sống chinh phục chế ngự.
Hãy sống các trú xứ,
Nhàn tịnh và xa vắng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

73. Mettaṃ upekkhaṃ karuṇaṃ vimuttiṃ
āsevamāno muditañca kāle,
sabbena lokena avirujjhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

73. Vào thời điểm đang rèn luyện từ, bi, hỷ, xả, và giải thoát, trong khi không bị tất cả thế gian gây trở ngại, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

73. Từ tâm, sống trú xả,
Bi tâm, hạnh giải thoát,
Sống hành trì thực hiện,
Hỷ tâm, cho đúng thời,
Không chống đối va chạm,
Với một ai ở đời.
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

74. Rāgañca dosañca pahāya mohaṃ
sandāḷayitvāna saṃyojanāni,
asantasaṃ jīvitasaṅkhayamhi
eko care khaggavisāṇakappo.
 

74. Sau khi từ bỏ tham ái sân hận và si mê,

sau khi tự phá tan các mối ràng buộc,

người không kinh hãi về chặng cuối cùng của mạng sống,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

74. Ðoạn tận lòng tham ái,
Sân hận và si mê,
Chặt đứt và cắt đoạn,
Các kiết sử lớn nhỏ
Không có gì sợ hãi,
Khi mạng sống gần chung,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

75. Bhajanti sevanti ca kāraṇatthā
nikkāraṇā dullabhā ajja mittā,
attaṭṭhapaññā asuci manussā
eko care khaggavisāṇakappo.

75. Người ta thân cận và phục vụ có động cơ và chủ đích (lợi lộc),

ngày nay những người bạn không có động cơ (lợi lộc) là khó đạt được,

những người (chỉ) biết đến lợi ích của bản thân là người không trong sạch,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

75. Có những bạn vì lợi,
Thân cận và chung sống,
Những bạn không mưu lợi,
Nay khó tìm ở đời.
Người sáng suốt lợi mình,
Không phải người trong sạch,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

 

Khagaggavisāṇasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Sừng Tê Giác.

 

 

4. KASĪBHĀRADVĀJASUTTAṂ

 

 

4. KINH KASĪBHĀRADVĀJA

 

 

4. KINH BHĀRADVĀJA, NGƯỜI CÀY RUỘNG

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā magadhesu viharati dakkhiṇāgirismiṃ ekanāḷāyaṃ brāhmaṇagāme, tena kho pana samayena kasībhāradvājassa brāhmaṇassa pañcamattāni naṅgalasatāni payuttāni honti vappakāle.

 

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự ở xứ sở Magadha, tại vùng Dakkhiṇāgiri, trong ngôi làng của những người Bà-la-môn có tên là Ekanāḷā. Vào lúc bấy giờ, ở thời điểm gieo trồng, các lưỡi cày của Bà-la-môn Kasībhāradvāja[1] với số lượng năm trăm đã được buộc sẵn (vào ách).

--------------

[1] Bà-la-môn Kasībhāradvāja: người Bà-la-môn ấy sống bằng nghề trồng trọt (kasī) và họ của ông ấy là Bhāradvāja, vì thế được gọi tên như vậy (SnA. i, 137).

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Magadha, tại núi Dakkhinàgini, trong một làng Bà-la-môn tên Ekanàlà. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Kasibhàradvàja có khoảng năm trăm lưỡi cày sẵn sàng, vì là thời gieo mạ.

Atha kho bhagavā pubbanhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena kasībhāradvājassa brāhmaṇassa kammanto tenupasaṅkami. Tena kho pana samayena kasībhāradvājassa brāhmaṇassa parivesanā vattati. Atha kho bhagavā yena parivesanā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Addasā kho kasībhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ piṇḍāya ṭhitaṃ. Disvāna bhagavantaṃ etadavoca:

Khi ấy, vào buổi sáng đức Thế Tôn đã quấn y (nội) rồi cầm bình bát và y đi đến nơi làm việc của Bà-la-môn Kasībhāradvāja. Vào lúc bấy giờ, việc phân phát thức ăn của Bà-la-môn Kasībhāradvāja đang được tiến hành. Khi ấy, đức Thế Tôn đã đi đến nơi phân phát thức ăn, sau khi đến đã đứng ở một bên. Bà-la-môn Kasībhāradvāja đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang đứng khất thực, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến chỗ Bà-la-môn Kasibhàradvàja đang làm việc. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kasibhàradvàja đang phân phát đồ ăn. Rồi Thế Tôn đi đến chỗ phân phát đồ ăn, sau khi đến, Ngài đứng một bên, Bà-la-môn Kasibhàradvàja thấy Thế Tôn đang đứng một bên để khất thực, liền nói với Thế Tôn:

Ahaṃ kho samaṇa kasāmi ca vapāmi ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmi. Tvampi samaṇa kasassu ca vapassu ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjassūti.

"Này Sa-môn, tôi cày và tôi gieo hạt. Sau khi cày và sau khi gieo hạt, tôi ăn. Này Sa-môn, ông cũng hãy cày và hãy gieo hạt. Sau khi cày và sau khi gieo hạt, ông hãy ăn."

 

- Này Sa-môn, ta cày và ta gieo, sau khi cày, sau khi gieo, ta ăn. Và Sa-môn, hãy cày và gieo. Sau khi cày và gieo, hãy ăn!

Ahampi kho brāhmaṇa kasāmi ca vapāmi ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmīti.

"Này Bà-la-môn, Ta cũng cày và Ta cũng gieo hạt. Sau khi cày và sau khi gieo hạt, Ta ăn."

 

- Này Bà-la-môn, Ta cũng cày và cũng gieo. Sau khi cày và sau khi gieo, Ta ăn.

Na kho pana mayaṃ passāma gotamassa yugaṃ vā naṅgalaṃ vā phālaṃ vā pācanaṃ vā balivadde vā, atha ca pana bhavaṃ gotamo evamāha: Ahampi kho brāhmaṇa kasāmi ca vapāmi ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmīti.

"Nhưng chúng tôi không nhìn thấy cái ách, hoặc thân cày, hoặc lưỡi cày, hoặc gậy thúc hoặc các con bò đực của ngài Gotama. Và hơn nữa, ngài Gotama đã nói như vầy: ‘Này Bà-la-môn, Ta cũng cày và Ta cũng gieo hạt. Sau khi cày và sau khi gieo hạt, Ta ăn.’"   

 

- Nhưng chúng tôi không thấy cái ách, hay cái cày, hay lưỡi cày, hay gậy thúc trâu bò, hay các con bò đực của Tôn giả Gotama. Vậy mà Tôn giả Gotama nói: "Này Bà-la-môn, Ta có cày và Ta có gieo. Sau khi cày và sau khi gieo, Ta ăn ".

Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:
 

Khi ấy, Bà-la-môn Kasībhāradvāja đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja nói lên với Thế Tôn bài kệ:

 

76. Kassako paṭijānāsi na ca passāma te kasiṃ,
kasiṃ no pucchito brūhi yathā jānemu te kasiṃ.
 

76. "Ông tự nhận là người đi cày, nhưng chúng tôi không nhìn thấy việc cày của ông. Được chúng tôi hỏi, ông hãy nói về việc cày sao cho chúng tôi có thế biết về việc cày của ông."

Bhàradvàja:

76. Người tự nhận Người cày,
Ta không thấy Người cày,
Hãy trả lời chúng tôi,
Ðã hỏi về Người cày,
Chúng tôi muốn rõ biết,
Người cày như thế nào?

77. Saddhā bījaṃ tapo vuṭṭhi paññā me yuganaṅgalaṃ,
hiri īsā mano yottaṃ sati me phālapācanaṃ.


 

77. "Đức tin là hạt giống, khắc khổ là cơn mưa, tuệ của Ta là ách và thân cày, liêm sỉ là cán cày, trí là sự buộc lại, niệm của Ta là lưỡi cày và gậy thúc.

Thế Tôn:

77. Lòng tin là hột giống,
Khổ hạnh là cơn mưa,
Trí tuệ đối với Ta
Là ách và lưỡi cày,
Xấu hổ là cán cày,
Ý là sợi dây buộc,
Và niệm đối với Ta
Là lưỡi cày, gậy thúc.

78. Kāyagutto vacīgutto āhāre udare yato,
saccaṃ karomi niddānaṃ soraccaṃ me pamocanaṃ.

78. Được gìn giữ ở thân, được gìn giữ ở khẩu, được tiết chế vật thực ở bao tử, Ta lấy sự chân thật làm vật bứng gốc (cỏ dại đối với thiện pháp); trạng thái hân hoan là sự giải thoát của Ta.

78. Với thân khéo phòng hộ,
Với lời khéo phòng hộ,
Với món ăn trong bụng,
Biết tiết độ, chế ngự,
Ta tác thành chơn thực,
Ðể cắt dọn cỏ rác,
Sự giải thoát của Ta
Thật hiền lành nhu thuận.

79. Viriyaṃ me dhuradhorayhaṃ yogakkhemādhivāhanaṃ,
gacchati anivattantaṃ yattha gantvā na socati.

79. Tinh tấn là (các con) thú mang gánh nặng, đưa đến nơi an toàn khỏi các (ách) trói buộc. Trong khi không quay trở lại, nó đi đến nơi nào mà người không sầu muộn sau khi đi đến.

79. Với tinh cần tinh tấn,
Ta gánh chịu trách nhiệm,
Ta tự mình đem lại
An ổn khỏi khổ ách.
Như vậy, Ta đi tới,
Không trở ngại thối lui,
Chỗ nào Ta đi tới,
Chỗ ấy không sầu muộn.

80. Evamesā kasīkaṭṭhā sā hoti amatapphalā,
etaṃ kasiṃ kayītvāna sabbadukkhā pamuccatīti.

Việc cày ấy đã được cày như vậy. Nó có kết quả là sự Bất Tử. Sau khi đã cày việc cày ấy, được thoát khỏi tất cả khổ đau."

80. Cày bừa là như vậy,
Ðược quả là bất tử,
Sau cày bừa như vậy,
Mọi khổ được giải thoát.

Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo mahatiyā kaṃsapātiyā pāyāsaṃ vaḍḍhetvā bhagavato upanāmesi: Bhuñjatu bhavaṃ gotamo pāyāsaṃ; kassako bhavaṃ yaṃ hi bhavaṃ gotamo amataphalaṃ kasiṃ kasatīti.

Khi ấy, Bà-la-môn Kasībhāradvāja đã đặt đầy cơm sữa vào cái đĩa lớn bằng vàng rồi dâng đến đức Thế Tôn (nói rằng): “Ngài Gotama hãy ăn món cháo sữa. Ngài là người cày, bởi vì Ngài Gotama cày việc cày có kết quả là sự Bất Tử.”

 

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja lấy một bát bằng đồng lớn, cho đổ đầy với cháo sữa dâng đức Phật và thưa: - Thưa Tôn giả Gotama, hãy dùng cháo sữa, Tôn giả là người đi cày! Tôn giả Gotama đi cày quả bất tử!

81. Gāthābhigītaṃ me abhojaneyyaṃ
sampassataṃ brāhmaṇa nesadhammo,
gāthābhigītaṃ panudanti buddhā
dhamme satī brāhmaṇa vuttiresā.
 

81. "Vật nhận được sau khi ngâm nga kệ ngôn là không được thọ dụng bởi Ta. Này Bà-la-môn, điều ấy không phải là pháp của những bậc có nhận thức đúng đắn. Chư Phật khước từ vật nhận được sau khi ngâm nga kệ ngôn. Này Bà-la-môn, khi Giáo Pháp hiện hữu, điều ấy là cung cách thực hành.

Thế Tôn:

81. Ta không hưởng vật dụng,
Do tụng kệ đem lại,
Ðây không phải là pháp,
Của bậc có chánh kiến
Chư Phật đều bác bỏ,
Tụng hát các bài kệ,
Khi pháp có hiện hữu,
Truyền thống là như vậy.

82. Aññena ca kevalinaṃ mahesiṃ
khīṇāsavaṃ kukkucca vūpasantaṃ,
annena pānena upaṭṭhahassu
khettaṃ hi taṃ puññapekhassa hotīti.
 

82. Ngươi hãy cung ứng đến vị toàn hảo (đức hạnh), bậc đại ẩn sĩ có các lậu hoặc đã được cạn kiệt, có các trạng thái hối hận đã được lắng dịu, với cơm ăn nước uống khác, bởi vì đó chính là thửa ruộng của người mong mỏi phước báu.”

82. Hỡi này Bà-la-môn,
Người cần phải cúng dường,
Ðồ ăn vật uống khác,
Bậc đại sĩ toàn diện,
Ðã đoạn các lậu hoặc,
Ðã lắng dịu dao động,
Ta chính là thửa ruộng,
Cho những ai cầu phước
.

Atha kassa cāhaṃ bho gotama imaṃ pāyāsaṃ dammīti,

 

"Thưa Ngài Gotama, vậy tôi nên cho món cơm sữa này đến ai?"

 

- Vậy, thưa Tôn giả Gotama, con sẽ cho ai cháo sữa này?

Na khvāhaṃ taṃ brāhmaṇa passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇīyā pajāya sadevamanussāya yassa so pāyāso bhutto sammā pariṇāmaṃ gaccheyya aññatra tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā, tena hi tvaṃ brāhmamaṇa taṃ pāyāsaṃ appaharite vā chaḍḍehi, appāṇake vā udake opilāpehīti,

 

“Này Bà-la-môn, ta không thấy người nào trong thế gian tính luôn cõi của chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người mà cơm sữa ấy khi được người ấy ăn vào có thể đem lại sự tiêu hóa tốt đẹp, ngoại trừ đức Như Lai hay đệ tử của đức Như Lai. Này Bà-la-môn, chính vì điều ấy ngươi hãy đổ bỏ cơm sữa ấy ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật.”

 

- Này Bà-la-môn, Ta không thấy ai ở thế giới, với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, hay trên đời này với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, có thể sau khi ăn, tiêu hóa được món cháo sữa này, trừ Như Lai hay đệ tử của Như Lai. Vậy, này Bà-la-môn, Ông hãy đổ cháo sữa này trên chỗ không có cỏ xanh, hay nhận chìm trong nước không có sinh vật.

 

Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo taṃ pāyāsaṃ appāṇake udake opilāpesī. Atha kho so pāyāso udake pakkhitto cicciṭāyati ciṭiciṭāyati sandhūpāyati sampadhūpāyati, seyyathāpi nāma phālo divasasantatto udake pakkhitto cicciṭāyati ciṭiciṭāyati sandhupāyati sampadhūpāyati, evameva so pāyāso udake pakkhitto cicciṭāyati ciṭiciṭāyati sandhūpāyati sampadhūpāyati.
 

Rồi Bà-la-môn Kasībhāradvāja đã đổ cơm sữa ấy xuống nước không có sinh vật. Khi ấy, cơm sữa ấy khi được đổ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói. Cũng giống như lưỡi cày đã được nung đỏ trọn ngày khi được bỏ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói; tương tợ y như thế, cơm sữa ấy khi được đổ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói.

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja đem nhận chìm cháo sữa ấy vào nước không có sinh vật. Cháo sữa ấy khi bị đổ xuống nước, nó sôi lên, sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên. Ví như một lưỡi cày, phơi cả ngày dưới ánh nắng, được đem quăng xuống nước, lưỡi cày ấy sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên. Cũng vậy, cháo sữa ấy, khi bị đổ xuống nước, nó sôi lên, sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên.

Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo saṃviggo lomahaṭṭhajāto
yena bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavantaṃ etadavoca:

Khi ấy, Bà-la-môn Kasībhāradvāja trở nên hoảng hốt, lông dựng đứng lên, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã quỳ xuống đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của đức Thế Tôn rồi đã nói điều này:

 

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja hoảng hốt, rợn tóc gáy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:

Abhikkantaṃ bho gotama abhikkantaṃ bho gotama seyyathāpi bho gotama nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya paṭicchannaṃ vā vivareyya mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca, labheyyāhaṃ bhoto gotamassa santike pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampadanti.
 

“Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, hoặc mở ra vật đã bị che kín, hoặc chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế Pháp đã được Ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Con đây xin đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Con có thể xuất gia trong sự hiện diện của Ngài Gotama không? Con có thể tu lên bậc trên không?”

 

- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Ví như, thưa Tôn giả Gotama, một người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, mở toang ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, pháp được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Con xin qui y Tôn giả Gotama, qui y Pháp, qui y chúng Tỷ-kheo. Mong rằng con được xuất gia với Tôn giả Gotama, được thọ đại giới.

 

Alattha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo bhagavato santike pabbajjaṃ alattha upasampadaṃ, acirūpasampanno kho panāyasmā bhāradvājo eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto na cirasseva yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi. Khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti abbhaññāsi aññataro ca kho panāyasmā bhāradvājo arahataṃ ahosīti.
 

Sau đó, Bà-la-môn Kasībhāradvāja đã đạt được sự xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn, đã đạt được sự tu lên bậc trên. Và khi đã được tu lên bậc trên không bao lâu, đại đức Bhāradvāja một mình đã tách riêng, rồi trong khi sống không bị xao lãng, có nhiệt tâm, có bản tánh cương quyết nên chẳng bao lâu sau, ngay trong kiếp hiện tại, nhờ vào thắng trí của mình, đã chứng ngộ, đã đạt đến, và an trú vào mục đích tối thượng ấy của Phạm hạnh, vì mục đích này mà những người con trai của các gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà. Vị ấy đã biết rõ rằng: “Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể (A-la-hán) này nữa.” Và thêm một vị nữa là đại đức Bhāradvāja đã trở thành vị A-la-hán.

 

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja được xuất gia với Sa-môn Gotama, được thọ đại giới. Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Bhàradvàja sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Không bao lâu, do vì mục đích gì, bậc thiên nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú cứu cánh Phạm hạnh ấy. Vị ấy thắng tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa ". Tôn giả Bhàradvàja trở thành một vị A-la-hán.

 

 

Kasībhāradvājasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Kasībhāradvāja.

 

 
   
 

5. CUNDASUTTAṂ

 

 

5. KINH CUNDA

 

 

5. KINH CUNDA

83. Pucchāmi muniṃ pahūtapaññaṃ (iti cundo kammāraputto)
buddhaṃ dhammassāmiṃ vītataṇhaṃ,
dipaduttamaṃ sārathinaṃ pavaraṃ
kati loke samaṇā tadiṅgha brūhi.

83. (Cunda, con trai người thợ rèn nói):

“Con hỏi bậc Hiền Trí, vị có tuệ bao la,

đức Phật, đấng Pháp chủ, có tham ái đã được xa lìa,

bậc tối thượng của loài người, vị quý cao trong số các xa phu rằng:

Ở thế gian có bao nhiêu hạng Sa-môn? Nào, xin Ngài hãy nói điều ấy.”

 

83. Người thợ rèn Cunda,
Nói lên lời như sau:
Con hỏi bậc Ðại sĩ,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Ðấng Giác ngộ, Pháp chủ,
Ðã đoạn tận khát ái,
Bậc tối thượng hai chân,
Bậc đánh xe tối thắng,
Xin Ngài nói ở đời,
Có bao nhiêu Sa-môn?

84. Caturo samaṇā na pañcamatthī (cundāti bhagavā)
te te āvikaromi sakkhipuṭṭho,
maggajino maggadesako ca
magge jīvati yo ca maggadūsi.
 

84. (Đức Phật nói: “Này Cunda,)

có bốn hạng Sa-môn, không có hạng thứ năm.

Được hỏi trực diện, Ta nói rõ các hạng ấy cho ngươi:

Hạng chiến thắng Đạo Lộ, và hạng thuyết giảng Đạo Lộ,

hạng sống theo Đạo Lộ, và hạng làm ô uế Đạo Lộ.”

 

Thế Tôn:

84. Chỉ có bốn Sa-môn,
Không có hạng thứ năm,
Thế Tôn đáp Cunda,
Này Cunda, là vậy.
Ta tỏ bày cho Ông,
Ðược hỏi điều tự thấy,
Bậc chiến thắng con đường,
Bậc thuyết giảng con đường,
Bậc sống trên con đường,
Kẻ làm ô uế đạo.

85. Kaṃ maggajinaṃ vadanti buddhā (iti cundo kammāraputto)
maggakkhāyī kathaṃ atulyo hoti,
magge jīvati me brūhi puṭṭho
atha me āvikarohi maggadūsiṃ.
 

85. (Cunda, con trai người thợ rèn nói):

“Chư Phật nói gì về hạng chiến thắng Đạo Lộ,

bậc thuyết giảng Đạo Lộ là vô song nghĩa là thế nào?

Được hỏi xin Ngài hãy nói cho con về hạng sống theo Đạo Lộ,

rồi xin Ngài hãy nói cho con rõ về hạng làm ô uế Đạo Lộ.”

Cunda:

85. Người thợ rèn Cunda,
Liền bạch với Thế Tôn:
Chư Phật nói thế nào,
Bậc chiến thắng con đường,
Bậc thiền định con đường,
Sao gọi không ước lường?
Con hỏi xin trả lời,
Vị sống đúng con đường?
Xin trình bày cho con,
Kẻ làm đường ô uế.

86. Yo tiṇṇakathaṃkatho visallo
nibbānābhirato anānugiddho,
lokassa sadevakassa netā
tādiṃ maggajinaṃ vadanti buddhā.
 

86. “Ai đã vượt qua sự nghi ngờ, không còn mũi tên,

thỏa thích Niết Bàn, không còn thèm muốn,

vị hướng đạo của thế gian luôn cả chư Thiên,

chư Phật nói vị như thế ấy là hạng chiến thắng Đạo Lộ.

Thế Tôn:

86. Ai vượt khỏi nghi hoặc,
Vị thoát khỏi mũi tên,
Ưa thích cảnh Niết-bàn,
Không tham đắm vật gì,
Bậc lãnh đạo thế giới,
Chư Thiên và loài Người,
Chư Phật gọi vị ấy,
Bậc chiến thắng con đường.

87. Paramaṃ paramanti yodha ñatvā
akkhāti vibhajati idheva dhammaṃ,
taṃ kaṅkhacchidaṃ muniṃ anejaṃ
dutiyaṃ bhikkhūkamāhu maggadesiṃ.

87. Ở đây, ai biết được tối thượng (Niết Bàn) là tối thượng,

vị nói lên và phân tích Giáo Pháp ở ngay đây,

vị ấy là bậc hiền trí, cắt đứt nỗi hoài nghi, không còn dục vọng,

người ta đã gọi vị tỳ khưu thứ nhì là hạng thuyết giảng Đạo Lộ.

87. Ai ở đời biết được,
Pháp tối thượng, tối thượng,
Nói lên và phân tích,
Pháp ở đây là vậy.
Vị chặt đứt nghi hoặc,
Bậc ẩn sĩ, không dục,
Bậc Tỷ-kheo thứ hai
Ðược gọi thuyết con đường.

88. Yo dhammapade sudesite
magge jīvati saññato satīmā,
anavajjapadāni sevamāno
tatiyaṃ bhikkhunamāhu maggajīviṃ.
 

88. Khi nền tảng Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng, vị nào

sống theo Đạo Lộ, tự chế ngự, có niệm,

đang thân cận các pháp không có tính chất tội lỗi,

người ta đã gọi vị tỳ khưu thứ ba là hạng sống theo Đạo Lộ.

88. Ai sống trên con đường,
Con đường pháp khéo giảng,
Sống chế ngự chánh niệm,
Bước đường không lỗi lầm,
Tỷ-kheo thứ ba này
Ðược gọi sống trên đường.

89. Chadanaṃ katvāna subbatānaṃ
pakkhandi kuladūsako pagabbho,
māyāvī asaññato palāpo
patirūpena caraṃ sa maggadūsī.
 

89. Sau khi đã cải trang ở giữa những vị có sự hành trì tốt đẹp,

kẻ xông xáo, kẻ làm hư hỏng các gia đình, xấc xược,

xảo quyệt, không tự chế ngự, loại vỏ trấu,

sống trá hình, kẻ ấy là hạng làm nhơ Đạo Lộ.

89. Ai sống ưa che đậy,
Dưới hình thức giới cấm,
Xông xáo, nhớp gia đình,
Bạt mạng và man trá,
Không chế ngự nhiếp phục,
Sống lắm mồm lắm miệng.
Người sở hành như vậy
Là kẻ ô uế đạo.

90. Ete ca paṭivijjhi yo gahaṭṭho
sutavā ariyasāvako sapañño,
sabbe te tādisāti ñatvā
iti disvā na hāpeti tassa saddhā,
kathaṃ hi duṭṭhena asampaduṭṭhaṃ
suddhaṃ asuddhena samaṃ kareyyāti.



 

90. Và người tại gia nào đã thấu hiểu những hạng này,

là đệ tử các bậc Thánh, có sự nghe nhiều, có tuệ,

sau khi biết rằng: ‘Tất cả các hạng ấy là như thế ấy,’

sau khi nhìn thấy như thế, không làm suy giảm niềm tin của người ấy,

bởi vì làm thế nào vị không hư hỏng với kẻ xấu xa,

vị trong sạch với kẻ không trong sạch lại có thể xem như nhau?”

90. Vị cư sĩ thâm hiểu
Các hạng người như vậy,
Thánh đệ tử, nghe nhiều,
Có trí tuệ thông hiểu,
Sau khi rõ biết chúng,
Tất cả là như vậy.
Thấy vậy, vững lòng tin,
Không có bị sút giảm
Làm sao lại lẫn lộn,
Kẻ ác với người thiện,
Làm sao xem giống nhau,
Bậc tịnh, kẻ không tịnh.

 

Cundasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Cunda.

 

 

 

6. PARĀBHAVASUTTAṂ

 

 

6. KINH THOÁI HÓA

 

 

6. KINH BẠI VONG

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā savatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami. Upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, lúc đêm đã khuya, một vị Thiên nhân nọ với màu sắc vượt trội đã làm cho toàn bộ Jetavana rực sáng rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đứng ở một bên, vị Thiên nhân ấy đã bạch với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

 

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhơn, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn với những bài kệ:

91. Parābhavantaṃ purisaṃ mayaṃ pucchāma gotamaṃ,
bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma kiṃ parābhavato mukhaṃ.

91. “Chúng tôi đi đến để hỏi đức Thế Tôn, chúng tôi hỏi Gotama về hạng người thoái hóa: ‘Tiền đề của hạng người thoái hóa là gì?’”

Thiên nhân:

91. Về bại vong con người,
Con hỏi Gotama,
Con đến hỏi Thế Tôn,
Cửa vào của bại vong?

92. Suvijāno bhavaṃ hoti suvijāno parābhavo,
dhammakāmo bhavaṃ hoti dhammadessī parābhavo.

92. “Thật dễ nhận biết (thế nào) là người tiến hóa, thật dễ nhận biết (thế nào) là người thoái hóa. Người có sự mong muốn Giáo Pháp là người tiến hóa, người có sự ghét bỏ Giáo Pháp là người thoái hóa.”

Thế Tôn:

92. Thật dễ hiểu thành công,
Thật dễ hiểu bại vong,
Ưa mến pháp, thành công,
Thù ghét pháp bại vong.

93. Iti hetaṃ vijānāma paṭhamo so parābhavo,
dutiyaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

93. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ nhất. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ nhì của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

93. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ nhất về bại vong,
Thứ hai, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

94. Asantassa piyā honti sante na kurute piyaṃ,
asataṃ dhammaṃ roceti taṃ parābhavato mukhaṃ.
 

94. “Người này yêu mến những kẻ không tốt, không tỏ sự yêu mến những bậc tốt lành, thích thú pháp của những kẻ không tốt, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

94. Ai mến kẻ bất thiện,
Không ái luyến bậc thiện,
Thích pháp kẻ bất thiện,
Chính cửa vào bại vong
.

95. Iti hetaṃ vijānāma dutiyo so parābhavo,
tatiyaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

 

95. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ nhì. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ ba của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

95. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ hai về bại vong,
Thứ ba, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

96. Niddāsīlī sabhāsīlī anuṭṭhātā ca yo naro,
alaso kodhapaññāṇo taṃ parābhavato mukhaṃ.

96. "Người có bản tánh ưa ngủ, có bản tánh ưa tụ hội, không năng động, lười biếng, có biểu hiện giận dữ, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

96. Người tánh ưa thích ngủ,
Thích hội chúng, thụ động,
Biếng nhác, thường phẫn nộ,
Chính cửa vào bại vong.

97. Iti hetaṃ vijānāma tatiyo so parābhavo,
catutthaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

97. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ ba. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ tư của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

97. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ ba về bại vong.
Thứ tư, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

98. Yo mātaraṃ vā pitaraṃ vā jiṇṇakaṃ gatayobbanaṃ,
pahū santo na bharati taṃ parābhavato mukhaṃ.

98. “Người trong khi có khả năng mà không phụng dưỡng mẹ hoặc cha già nua, đã qua thời tuổi trẻ, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

98. Ai với mẹ hay cha,
Già yếu, tuổi trẻ hết,
Tuy giàu không giúp đỡ,
Chính cửa vào bại vong
.

99. Iti hetaṃ vijānāma catuttho so parābhavo,
pañcamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

99. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ tư. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ năm của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

99. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ tư về bại vong.
Thứ năm, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

100. Yo brāhmaṇaṃ vā samaṇaṃ vā aññaṃ vāpi vaṇibbakaṃ,
musāvādena vañceti taṃ parābhavato mukhaṃ.

100. “Người lừa gạt vị Bà-la-môn hoặc vị Sa-môn, hoặc luôn cả người nghèo khổ bằng lời dối trá, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

100. Ai nói dối lường gạt,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Hay các khất sĩ khác,
Chính cửa vào bại vong.

101. Iti hetaṃ vijānāma pañcamo so parābhavo,
chaṭṭhamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

101. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ năm. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ sáu của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

101. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ năm về bại vong.
Thứ sáu, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

102. Pahūtavitto puriso sahirañño sabhojano,
eko bhuñjati sādūni taṃ parābhavato mukhaṃ.

102. “Người có nhiều của cải, có vàng, có thức ăn, mà thọ dụng các vật ngon ngọt một mình, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

102. Người giàu có tài sản,
Có vàng bạc thực vật,
Hương vị ngọt một mình,
Chính cửa vào bại vong.

103. Iti hetaṃ vijānāma chaṭaṭṭhamo so parābhavo,
sattamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

103. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ sáu. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ bảy của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

103. Như vậy, chúng con rõ
Thứ sáu về bại vong.
Thứ bảy, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

104. Jātitthaddho dhanatthaddho gottatthaddho ca yo naro,
saññātiṃ atimaññeti taṃ parābhavato mukhaṃ.

104. “Người kiêu hãnh về chủng tộc, kiêu hãnh về tài sản, kiêu hãnh về dòng họ rồi khinh khi thân quyến của mình, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

104. Người tự hào về sanh,
Về tài sản dòng họ,
Khinh miệt các bà con,
Chính cửa vào bại vong
.

105. Iti hetaṃ vijānāma sattamo so parābhavo,
aṭṭhamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.


 

105. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ bảy. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ tám của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

105. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ bảy về bại vong,
Thứ tám, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

106. Itthidhutto surādhutto akkhadhutto ca yo naro,
laddhaṃ laddhaṃ vināseti taṃ parābhavato mukhaṃ.

106. “Người đắm say đàn bà, đắm say rượu chè, đắm say cờ bạc, tiêu phí mọi thứ thu nhập, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

106. Người đắm say nữ nhân,
Ðắm say rượu, cờ bạc,
Hoang phí mọi lợi đắc,
Chính cửa vào bại vong
.

107. Iti hetaṃ vijānāma aṭṭhamo so parābhavo,
navamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

107. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ tám. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ chín của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

107. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ tám về bại vong.
Thứ chín, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

108. Sehi dārehasantuṭṭho vesiyāsu padissati,
dissati paradāresu taṃ parābhavato mukhaṃ.

“Không vui thích với những người vợ của mình, xuất hiện nơi những gái điếm, được thấy ở những người vợ kẻ khác, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

108. Không vừa đủ vợ mình,
Ðược thấy giữa dâm nữ,
Ðược thấy với vợ người,
Chính cửa vào bại vong.

109. Iti hetaṃ vijānāma navamo so parābhavo,
dasamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

109. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ chín. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ mười của hạng người thoái hóa là gì?”

 

Thiên nhân:

109. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ chín về bại vong.
Thứ mười, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

110. Atītayobbano poso āneti timbarutthaniṃ,
tassā issā na supati taṃ parābhavato mukhaṃ.

110. “Người nam đã qua thời tuổi trẻ cưới về cô gái có ngực như trái cây timbaru. Gã không ngủ được do ghen tỵ với nàng, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

 

Thế Tôn:

110. Người tuổi trẻ đã qua,
Cưới cô vợ vú tròn,
Ghen nàng không ngủ được,
Chính cửa vào bại vong.

111. Iti hetaṃ vijānāma dasamo so parābhavo,
ekādasamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

111. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), kẻ thoái hóa ấy là hạng thứ mười. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ mười một của hạng người thoái hóa là gì?”

 

Thiên nhân:

111. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ mười về bại vong.
Thứ mười một, xin nói,
Cửa vào của bại vong?

112. Itthisoṇḍiṃ vikiraṇiṃ purisaṃ vāpi tādisaṃ,
issariyasmiṃ ṭhāpeti taṃ parābhavato mukhaṃ.

112. “Kẻ thiết lập nữ nhân tham đắm, hoang phí, hoặc ngay cả nam nhân có cùng cá tánh vào vị thế uy quyền, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

112. Ðàn bà, hay đàn ông,
Rượu chè, tiêu hoang phí,
Ðược địa vị quyền thế,
Chính cửa vào bại vong.

113. Iti hetaṃ vijānāma ekādasamo so parābhavo,
dvādasamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

113. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), kẻ thoái hóa ấy là hạng thứ mười một. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ mười hai của hạng người thoái hóa là gì?”

 

Thiên nhân:

113. Như vậy, chúng con biết,
Thứ mười một bại vong.
Thứ mười hai, xin nói,
Cửa vào của bại vong?

114. Appabhogo mahātaṇho khattiye jāyate kule,
sodha rajjaṃ patthayati taṃ parābhavato mukhaṃ.
 

114. “Sanh ra ở gia tộc Sát-đế-lỵ, có ít của cải, có tham vọng lớn, kẻ ấy ước muốn quyền cai trị ở nơi này, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.

Thế Tôn:

114. Tài sản ít, ái lớn,
Sanh gia đình hoàng tộc,
Ở đây muốn trị vì,
Chính cửa vào bại vong.

115. Ete parābhave loke paṇḍito samavekkhiya,
ariyo dassanasampanno sa lokaṃ bhajate sivanti.


 

115. Bậc sáng trí, sau khi xem xét kỹ lưỡng các hạng người thoái hóa này ở thế gian, bậc thánh thiện ấy, đầy đủ nhận thức, thân cận với thế giới hạnh phúc (cõi trời).”  

 

115. Bại vong này ở đời,
Bậc trí khéo quán sát,
Ðầy đủ với chánh kiến,
Sống hạnh phúc ở đời.

 

 

Parābhavasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Thoái Hóa.

 

 
   

 

7. VASALASUTTAṂ

 

 

7. KINH NGƯỜI HẠ TIỆN

 

 

7. KINH KẺ BẦN TIỆN

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme, atha kho bhagavā pubbanhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaraṃ ādāya sāvatthiyaṃ piṇḍāya pāvisi. Tena kho pana samayena aggikabhāradvājassa brāhmaṇassa nivesane aggi pajjalito hoti āhuti paggahitā. Atha kho bhagavā sāvatthiyaṃ sapadānaṃ piṇḍāya caramāno yena aggikabhāradvājassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami. Addasā kho aggikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ dūrato’va āgacchantaṃ, disvāna bhagavantaṃ etadavoca:

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã quấn y (nội) rồi cầm bình bát và y đi vào thành Sāvatthi để khất thực. Vào lúc bấy giờ, ở chỗ ngụ của Bà-la-môn Aggikabhāradvāja lửa đã được đốt lên, vật cúng tế đã được đưa lên. Khi ấy, đức Thế Tôn trong khi đi khất thực tuần tự theo từng nhà ở thành Sāvatthi đã đi đến gần chỗ ngụ của Bà-la-môn Aggika-bhāradvāja. Bà-la-môn Aggikabhāradvāja đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đằng xa đang đi đến, sau khi thấy đã nói đức Thế Tôn điều này:

 

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvathi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Lúc bấy giờ, tại trú xứ của Bà-la-môn Aggikabhàradvàja, lửa tế lễ được đốt cháy, đồ cúng dường được dâng cao. Rồi Thế Tôn, trong khi thứ lớp khất thực ở Sàvatthi, đi đến trú xứ của Bà-la-môn Aggibhàradvàja. Bà-la-môn Aggibhàradvàja thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy vậy bèn nói với Thế Tôn:

Tatreva muṇḍaka tatreva samaṇaka tatreva vasalaka tiṭṭhāhīti.

“Này gã trọc đầu, ngay tại chỗ đó. Này gã Sa-môn, ngay tại chỗ đó. Này người hạ tiện, hãy đứng ngay tại chỗ đó.”

 

- Ở đây kẻ trọc đầu, ở đây kẻ Sa-môn ti tiện, ở đây kẻ bần tiện, hãy đứng lại.

Evaṃ vutte bhagavā aggikabhāradvājaṃ brāhmaṇaṃ etadavoca: Jānāsi pana tvaṃ brāhmaṇa vasalaṃ vā vasalakaraṇe vā dhammeti.
 

Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn đã nói với Bà-la-môn Aggika-bhāradvāja điều này: “Này Bà-la-môn, phải chăng ngươi biết về người hạ tiện hoặc các pháp tạo thành người hạ tiện?”

 

Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Bà-la-môn Aggibhàradvàja:

- Này Bà-la-môn, Người có biết người bần tiện hay những pháp tạo ra kẻ bần tiện không?

Na khvāhaṃ bho gotama jānāmi vasalaṃ vā vasalakaraṇe vā dhamme. Sādhu me bhavaṃ gotamo tathā dhammaṃ desetu yathāhaṃ jāneyyaṃ vasalaṃ vā vasalakaraṇe vā dhammeti.

“Thưa Ngài Gotama, tôi quả không biết về người hạ tiện hoặc các pháp tạo thành người hạ tiện. Thật tốt lành thay, xin Ngài Gotama hãy thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi, theo đó tôi có thể biết về người hạ tiện hoặc các pháp tạo thành người hạ tiện.”

 

- Này Tôn giả Gotama, tôi không biết kẻ bần tiện hay những pháp tạo ra kẻ bần tiện. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp như thế nào cho tôi, để tôi được biết về kẻ bần tiện hay các pháp tạo thành kẻ bần tiện.

Tena hi brāhmaṇa suṇāhi sādhukaṃ manasi karohi bhāsissāmīti.

“Này Bà-la-môn, chính vì điều ấy ngươi hãy lắng nghe, ngươi hãy khéo chú ý, Ta sẽ giảng.”

 

- Vậy này Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

Evaṃ bhoti kho aggikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavato paccassosī, bhagavā etadavoca:

“Thưa Ngài, xin vâng,” Bà-la-môn Aggikabhāradvāja đã đáp lại đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã nói điều này:

 

- Thưa vâng, Tôn giả!

Bà-la-môn Aggibhàradvàja vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

116. Kodhano upanāhī ca pāpamakkhī ca yo naro,
vipannadiṭṭhi māyāvī taṃ jaññā vasalo iti.

116. Kẻ nào giận dữ, có sự thù hằn, ác độc và có sự gièm pha, có kiến thức bị hư hỏng, có sự xảo trá, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

116. Người phẫn nộ, hiềm hận,
Ác nhân, gièm pha người,
Ác tà kiến, man trá,
Ðược biết là bần tiện.

117. Ekajaṃ va dvijaṃ vāpi yodha pāṇāni hiṃsati,
yassa pāṇe dayā natthi taṃ jaññā vasalo iti.

117. Ở đây, kẻ nào hãm hại các sanh mạng, đơn sanh hoặc lưỡng sanh, kẻ nào không có lòng trắc ẩn đối với sanh mạng, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

117. Ai ở đây hại vật,
Một sanh, hoặc hai sanh,
Không thương xót hữu tình,
Ðược biết là bần tiện.

118. Yo hanti parirundhati gāmāni nigamāni ca,
niggāhako samaññāto taṃ jaññā vasalo iti.
 

118. Kẻ nào hủy diệt, vây hãm các làng mạc và các thị trấn, được biết tiếng là kẻ áp bức, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

118. Ai làm hại vây hãm,
Các làng, các thị trấn,
Kẻ cướp đoạt có tiếng,
Ðược biết là bần tiện.

119. Gāme vā yadi vā raññe yaṃ paresaṃ mamāyitaṃ,
theyyā adinnaṃ ādiyati taṃ jaññā vasalo iti.
 

119. Nếu ở làng hay ở rừng, kẻ lấy vật thuộc sở hữu của những người khác, vật không được cho theo lối trộm cắp, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

119. Tại làng hay tại rừng,
Vật sở hữu của người,
Lấy trộm của không cho,
Ðược biết là bần tiện.

120. Yo have iṇamādāya cujjamāno palāyati,
na hi te iṇamatthīti taṃ jaññā vasalo iti.

120. Kẻ nào, thật sự sau khi vay nợ, trong khi bị quở trách liền trốn chạy (bảo rằng) ‘Tôi không có nợ nần gì với ngươi,’ có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

120. Ai vay nợ của người,
Bị đòi liền trốn tránh,
Ta đâu mắc nợ ngươi,
Ðược biết là bần tiện.

121. Yo ve kiñcikkhakamyatā panthasmiṃ vajataṃ janaṃ,
hantvā kiñcikkhamādeti taṃ jaññā vasalo iti.

121. Kẻ nào quả thật vì lòng ham muốn đồ lặt vặt, đã giết hại người đang đi trên đường rồi đoạt lấy đồ lặt vặt, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

121. Ai vì ham vật mọn,
Kẻ đang đi trên đường,
Giết hại cướp vật mọn,
Ðược biết là bần tiện.

122. Yo attahetu parahetu dhanahetu ca yo naro,
sakkhīpuṭṭho musā brūti taṃ jaññā vasalo iti.

122. Kẻ nào vì nguyên nhân bản thân, vì nguyên nhân người khác, vì nguyên nhân tài sản, và kẻ nào khi được hỏi trực diện mà nói lời dối trá, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

122. Ai vì mình, vì người,
Hay vì nhân tài sản,
Làm nhân họ nói láo,
Ðược biết là bần tiện.

123. Yo ñātinaṃ sakhānaṃ vā dāresu patidissati,
sahasā sampiyena vā taṃ jaññā vasalo iti.

123. Kẻ nào bị bắt gặp ở nơi những người vợ của thân quyến hoặc của bạn bè, bằng vũ lực hoặc do thương yêu nhau, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

123. Ai được thấy giữa vợ
Của bà con, bạn thân,
Ép buộc hay ưng thuận,
Ðược biết là bần tiện.

124. Yo mātaraṃ vā pitaraṃ vā jiṇṇakaṃ gatayobbanaṃ,
pahū santo na bharati taṃ jaññā vasalo iti.

124. Kẻ nào trong khi có khả năng mà không phụng dưỡng mẹ hoặc cha già nua, đã qua thời tuổi trẻ, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

124. Ai với mẹ hay cha,
Già yếu, tuổi trẻ qua,
Tuy giàu không giúp đỡ,
Ðược biết là bần tiện.

125. Yo mātaraṃ vā pitaraṃ vā bhātaraṃ bhaginiṃ sasuṃ,
hanti roseti vācāya taṃ jaññā vasalo iti.

125. Kẻ nào hành hạ, chọc giận bằng lời nói đến mẹ hoặc cha, hoặc anh em trai, chị em gái, và mẹ vợ, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

125. Ai với mẹ hay cha,
Với anh chị, nhạc mẫu,
Làm hại, dùng lời mắng,
Ðược biết là bần tiện.

126. Yo atthaṃ pucchito santo anatthamanusāsati,
paṭicchannena manteti taṃ jaññā vasalo iti.
 

126. Kẻ nào trong khi được hỏi về điều lợi ích lại chỉ dạy điều không lợi ích, và chỉ bảo theo lối giấu diếm, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

126. Ai được hỏi mục đích,
Lại khuyên lời trái đích,
Khuyên bảo nên che đậy,
Ðược biết là bần tiện.

127. Yo katvā pāpakaṃ kammaṃ mā maṃ jaññāti icchati,
yo paṭicchannakammanto taṃ jaññā vasalo iti.

127. Kẻ nào sau khi làm việc ác lại ước muốn rằng: ‘Chớ ai biết ta (làm),’ kẻ có hành động được giấu diếm, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

127. Ai làm các nghiệp ác,
Muốn không biết mình làm,
Ai làm hạnh che đậy,
Ðược biết là bần tiện.

128. Yo ve parakulaṃ gantvā bhutvāna sucibhojanaṃ,
āgataṃ na paṭipūjeti taṃ jaññā vasalo iti.

128. Kẻ nào quả thật đã đi đến nhà người khác và đã thọ dụng vật thực tinh khiết, (nhưng) không khoản đãi lại khi người ấy đi đến (nhà mình), có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

128. Ai đến nhà người khác,
Ăn món ăn ngon lành,
Lại không đáp lễ lại,
Ðược biết là bần tiện.

 

129. Yo brāhmaṇaṃ vā samaṇaṃ vā aññaṃ vāpi vaṇibbakaṃ,
musāvādena vañceti taṃ jaññā vasalo iti.

129. Kẻ nào lừa gạt vị Bà-la-môn hoặc vị Sa-môn, hoặc luôn cả người nghèo khổ bằng lời dối trá, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

129. Ai nói dối lường gạt,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Hay các người nghèo khác,
Ðược biết là bần tiện.

 

130. Yo brāhmaṇaṃ vā samaṇaṃ vā bhattakāle upaṭṭhite,
roseti vācā na ca deti taṃ jaññā vasalo iti.


 

130. Kẻ nào chọc giận bằng lời nói và không bố thí đến vị Bà-la-môn hoặc vị Sa-môn vào thời điểm của bữa ăn đến gần, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

130. Dùng lời mắng, không cho,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Khi thời ăn uống đến,
Ðược biết là bần tiện.

 

131. Asataṃ yodha pabrūti mohena paḷiguṇṭhito,
kiñcikkhaṃ nijigiṃsāno taṃ jaññā vasalo iti.

131. Ở đây, kẻ nào nói về diều không có thật, bị si mê bao trùm, ham muốn đạt được đồ vật nhỏ nhặt, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

131. Ở đời nói không thật,
Bị si mê che đậy,
Tham cầu chút lợi nhỏ,
Ðược biết là bần tiện.

 

132. Yo cattānaṃ samukkaṃse parañcamavajānati,
nihīno sena mānena taṃ jaññā vasalo iti.

132. Kẻ nào đề cao bản thân và khi dễ người khác, là hạ liệt do sự ngã mạn của mình, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

132. Ai đề cao tự ngã,
Khi miệt giá trị người,
Hạ mình với tự cao,
Ðược biết là bần tiện.

 

133. Rosako kadariyo ca pāpiccho maccharī saṭho,
ahiriko anottāpī taṃ jaññā vasalo iti.

133. Kẻ chọc giận (người khác) và keo kiệt, có ước muốn xấu xa, bỏn xẻn, xảo trá, không hổ thẹn (tội lỗi), không ghê sợ (tội lỗi), có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

133. Ai gây hấn, hà tiện,
Ác dục và xan tham,
Xảo quyệt, không tàm quí,
Ðược biết là bần tiện.

 

134. Yo buddhaṃ paribhāsati atha vā tassa sāvakaṃ,
paribbājaṃ gahaṭṭhaṃ vā taṃ jaññā vasalo iti.

134. Kẻ nào chê bai đức Phật, hay đệ tử của Ngài, vị xuất gia hoặc người tại gia, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

134. Ai phỉ báng đức Phật,
Hay đệ tử của Ngài,
Hàng xuất gia, tại gia,
Ðược biết là bần tiện.

 

135. Yo ve anarahā santo arahaṃ paṭijānati,
coro sabrahmake loke esa kho vasalādhamo,
ete kho vasalā vutthā mayā vo ye pakāsitā.

135. Kẻ nào thật sự chưa trở thành bậc A-la-hán mà tự nhận bậc A-la-hán, là kẻ cướp ở thế gian tính luôn cõi Phạm Thiên, kẻ ấy quả là tệ nhất trong số người hạ tiện. Những kẻ này quả đã được gọi là những người hạ tiện, chúng đã được Ta giảng giải cho ngươi.

135. Ai không phải La-hán,
Tự nhận là La-hán,
Kẻ trộm Phạm thiên giới,
Chính tối hạ bần tiện.
Những hàng bần tiện này,
Ta nói rõ cho Ông.

 

136. Na jaccā vasalo hoti na jaccā hoti brāhmaṇo,
kammanā vasalo hoti kammanā hoti brāhmaṇo.
 

136. Không phải do dòng dõi mà trở thành hạ tiện, không phải do dòng dõi mà trở thành Bà-la-môn, do hành động mà trở thành hạ tiện, do hành động mà trở thành Bà-la-môn.

136. Bần tiện không vì sanh,
Phạm chí không vì sanh,
Do hành, thành bần tiện,
Do hành, thành Phạm chí.

 

137. Tadamināpi jānātha yathā medaṃ nidassanaṃ,
caṇḍālaputto sopāko mātaṅgo iti vissuto.
 

137. Ngươi hãy biết việc ấy với điều này nữa, giống như ví dụ này của Ta: Có gã nấu thịt chó để ăn, con trai của một kẻ thuộc giai cấp nô lệ, được biết tiếng là Mātaṅga.

137. Do đây, nên hiểu biết,
Như Ta trình bày rõ,
Màtanga được danh,
Bần tiện, ăn thịt chó.

 

138. So yasaṃ paramaṃ patto mātaṅgo yaṃ sudullabhaṃ,
āgañchuṃ tassupaṭṭhānaṃ khattiyā brāhmaṇā bahū.

138. Vị Mātaṅga ấy đã đạt đến danh vọng tối cao, là điều khó đạt được. Nhiều Sát- đế- lỵ và Bà-la-môn đã đi đến phục vụ cho người ấy.

138. Danh tối thượng khó đạt,
Màtanga đạt được,
Nhiều Sát-ly, Phạm chí,
Ðến hầu hạ vị ấy.

139. So devayānamāruyha virajaṃ so mahāpathaṃ,
kāmarāgaṃ virājetvā brahmalokūpago ahū.

139. Vị ấy đã leo lên Thiên xa, con đường lớn không bụi bặm, đã lìa khỏi sự luyến ái ở các dục, và đã đi đến thế giới Phạm Thiên.

139. Vị ấy leo thiên xa,
Trên đường lớn không bụi,
Từ bỏ mọi dục tham,
Ðạt được Phạm thiên giới,


Thọ sanh không ngăn chận,
Vị ấy sanh Phạm thiên.

140. Na naṃ jāti nivāresi brahmalokūpapattiyā,
ajjhāyakakule jātā brāhmaṇā mattabandhuno.

140. Dòng dõi sanh ra đã không cản ngăn được vị ấy trong việc sanh ra ở thế giới Phạm Thiên. Đã được sanh ra ở gia tộc các vị thầy trì tụng (Vệ Đà), những người Bà-la-môn là thân quyến của chú thuật.

140. Có những Bà-la-môn,
Sanh gia đình Ðạo sư,
Hay sanh những gia đình
Quyến thuộc với bùa chú,

 

Họ vẫn thường được thấy,
Làm các điều ác nghiệp.

141. Te va pāpesu kammesu abhiṇhamupadissare,
diṭṭheva dhamme gārayhā samparāye ca duggatiṃ,
na ne jāti nivāreti duggaccā garahāya vā.
 

141. Chính họ thường xuyên được nhìn thấy ở các hành động ác xấu. Họ bị chê trách ngay trong thời hiện tại và (đi đến) khổ cảnh trong thời vị lai. Dòng dõi sanh ra không ngăn chặn họ thoát khỏi khổ cảnh hoặc khỏi sự chê trách.

141. Hiện tại bị khinh miệt,
Ðời sau sanh ác thú,
Thọ sanh không ngăn chận,
Sanh ác thú đáng khinh.

 

142. Na jaccā vasalo hoti na jaccā hoti brāhmaṇo,
kammanā vasalo hoti kammanā hoti brāhmaṇo.

142. Không phải do dòng dõi mà trở thành hạ tiện, không phải do dòng dõi mà trở thành Bà-la-môn, do hành động mà trở thành hạ tiện, do hành động mà trở thành Bà-la-môn.

142. Bần tiện không vì sanh,
Phạm chí không vì sanh,
Do hành thành bần tiện,
Do hành thành Phạm chí.

 

Evaṃ vutte aggikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca:

Khi được nói như vậy, Bà-la-môn Aggikabhāradvāja đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Khi được nói vậy, Bà-la-môn Bhàradvàja bạch Thế Tôn:

 

Abhikkantaṃ bho gotama abhikkantaṃ bho gotama. Seyyathāpi bho gotama nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya paṭicchannaṃ vā vivareyya mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito. Esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.

“Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, cũng giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, hoặc mở ra vật đã bị che kín, hoặc chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế Pháp đã được Ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Con đây xin đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin Ngài Gotama hãy ghi nhận con là người cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”

- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, ví như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, mở toang ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Pháp được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Con nay qui y Tôn giả Gotama, qui y Pháp và qui y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời qui ngưỡng.

 

 

Vasalasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Người Hạ Tiện.

 

8. METTASUTTAṂ

 

 

8. KINH TỪ ÁI

 

 

8. KINH TỪ BI

 

143. Karaṇīyamatthakusalena yaṃ taṃ santaṃ padaṃ abhisamecca,
sakko ujū ca sūjū ca suvaco cassa mudu anatimāni.

143. Việc cần làm bởi vị thiện xảo trong việc thực hành, sau khi đã thấu hiểu về vị thế (Niết Bàn) an tịnh ấy là: có khả năng, ngay thẳng, chánh trực, dễ dạy, hòa nhã, và không ngã mạn thái quá.

143. Vị thiện xảo mục đích,
Cần phải làm như sau:
Sau khi hiểu thông suốt,
Con đường an tịnh ấy,
Có khả năng, trực tánh,
Thật sự, khéo chân trực,
Dễ nói và nhu hòa,
Không có gì cao mạn.

144. Santussako ca subharo ca appakicco ca sallahukavutti,
santindriyo ca nipako ca appagabbho kulesu ananugiddho.

144. Là người tự biết đủ, dễ cấp dưỡng, ít bận rộn công việc, và có lối sống nhẹ nhàng, có giác quan an tịnh, và chín chắn, không hỗn xược, không tham đắm theo các gia tộc.

144. Sống cảm thấy vừa đủ,
Nuôi sống thật dễ dàng,
Ít có sự rộn ràng,
Sống đạm bạc giản dị.
Các căn được tịnh lạc,
Khôn ngoan và thật trọng,
Không xông xáo gia đình,
Không tham ái, tham vọng.

145. Na ca khuddaṃ samācare kiñci yena viññū pare upavadeyyuṃ,
sukhino vā khemino hontu sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

145. Và không nên thực hành bất cứ điều gì nhỏ nhặt mà các bậc hiểu biết khác đã khiển trách. Mong rằng tất cả chúng sanh có được sự an lạc, có được sự an toàn. Mong rằng tất cả chúng sanh có bản thân được an lạc.

145. Các sở hành của mình,
Không nhỏ nhen vụn vặt,
Khiến người khác có trí,
Có thể sanh chỉ trích.
Mong mọi loài chúng sanh,
Ðược an lạc, an ổn,
Mong họ chứng đạt được,
Hạnh phúc và an lạc.

146. Ye keci pāṇa bhūtatthi tasā vā thāvarā vā anavasesā,
dīghā vā ye mahantā vā majjhamā rassakāṇukathūlā.

 

146. Bất cứ những chúng sanh nào dầu là: yếu hoặc mạnh (tất cả) không bỏ sót, (có thân hình) dài hoặc to lớn, trung bình hoặc ngắn, nhỏ bé hay mập.

146. Mong tất cả những ai,
Hữu tình có mạng sống,
Kẻ yếu hay kẻ mạnh,
Không bỏ sót một ai,
Kẻ dài hay kẻ lớn,
Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.

147. Diṭṭhā vā ye va addiṭṭhā ye ca dūre vasanti avidūre,
bhūtā vā sambhavesī vā sabbe sattā bhavantu sukhitattā.
 

147. Được nhìn thấy, hoặc không được nhìn thấy, cư ngụ ở nơi xa và không xa, đã được hiện hữu hoặc đang tầm cầu sự thành hình, mong rằng tất cả chúng sanh có bản thân được an lạc.

147. Loài được thấy, không thấy,
Loài sống xa, không xa,
Các loài hiện đang sống,
Các loài sẽ được sanh,
Mong mọi loài chúng sanh
Sống hạnh phúc an lạc.

148. Na paro paraṃ nikubbetha nātimaññetha katthaci naṃ kañci,
byārosanā paṭighasaññā nāññamaññassa dukkhamiccheyya.
 

148. Người này không nên lường gạt kẻ khác, không nên khi dễ bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu. Do sự giận dữ, do ý tưởng bất bình, không nên mong mỏi sự khổ đau cho lẫn nhau.

148. Mong rằng không có ai,
Lường gạt lừa dối ai,
Không có ai khinh mạn,
Tại bất cứ chỗ nào.
Không vì giận hờn nhau,
Không vì tưởng chống đối.
Lại có người mong muốn,
Làm đau khổ cho nhau.
 

149. Mātā yathā niyaṃ puttaṃ āyusā ekaputtamanurakkhe,
evampi sabbabhūtesu mānasaṃ bhāvaye aparimānaṃ.

149. Giống như người mẹ bảo vệ đứa con trai của mình, đứa con trai độc nhất, đến trọn đời, cũng như vậy, đối với tất cả các sanh linh, nên phát triển tâm ý vô hạn lượng.

 

149. Như tấm lòng người mẹ,
Ðối với con của mình,
Trọn đời lo che chở,
Con độc nhất mình sanh.
Cũng vậy, đối tất cả
Các hữu tình chúng sanh,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.

150. Mettañca sabbalokasmiṃ mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ,
uddhaṃ adho ca tiriyañca asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ.

 

150. Và tâm từ ái ở tất cả thế giới, nên phát triển tâm ý vô hạn lượng, bên trên, bên dưới, và chiều ngang, không bị ngăn trở, không thù oán, không đối nghịch.

150. Hãy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.
Phía trên và phía dưới,
Cũng vậy, cả bề ngang,
Không hạn chế, trói buộc,
Không hận, không thù địch.

151. Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno vā sayāno vā yāvatassa vigatamiddho,
etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya brahmametaṃ vihāraṃ idhamāhu.

151. Trong khi đứng, trong khi đi, hoặc khi đã ngồi xuống, hoặc trong khi nằm, cho đến khi nào sự buồn ngủ được xa lìa, nên chuyên chú vào niệm này, ở đây việc này được gọi là sự an trú cao thượng.

 

 

 

151. Khi đứng, hay khi đi,
Khi ngồi, hay khi nằm,
Lâu cho đến khi nào,
Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này,
Nếp sống này như vậy,
Ðược đời đề cập đến,
Là nếp sống tối thượng.

152. Diṭṭhiñca anupagamma sīlavā dassanena sampanno,
kāmesu vineyya gedhaṃ na hi jātu gabbhaseyyaṃ punaretīti.

152. Và sau khi không đeo đuổi tà kiến, là người có giới, được thành tựu về nhận thức, sau khi xua đi sự thèm khát ở các dục, thì chắc chắn không đi đến thai bào lần nữa.

152. Ai từ bỏ tà kiến,
Giữ giới, đủ chánh kiến,
Nhiếp phục được tham ái,
Ðối với các dục vọng,
Không còn phải tái sanh,
Ði đến thai tạng nữa.

 

Mettasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Từ Ái.

 

 

 

9. HEMAVATASUTTAṂ

 

 

9. KINH HEMAVATA

 

 

9. KINH HEMAVATA

153. Ajja paṇṇaraso uposatho (iti sātāgiro yakkho)
divyā ratti upaṭṭhitā,
anomanāmaṃ sāttharaṃ
handa passāma gotamaṃ.

153. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Hôm nay là ngày mười lăm, ngày Uposatha,

đêm rực rỡ đã đến rồi.

Nào, chúng ta hãy diện kiến bậc Đạo Sư Gotama có danh xưng cao tột.

 

Sàtàgira:

153. Nay đúng vào ngày rằm,
Ngày trai giới, bố-tát,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Ðêm đã được an trú,
Ðêm đẹp như cõi trời,
Hãy gặp Gotama,
Bậc Ðạo Sư vô thượng
.

154. Kacci mano supaṇihito (iti hemavato yakkho)
sabbabhūtesu tādino,
kacci iṭṭhe aniṭṭhe ca
saṅkappassa vasīkatā.
 

154.  (Dạ-xoa Hemavata nói)

Phải chăng tâm của bậc như thế ấy là đã được phát nguyện vững chắc hướng đến tất cả chúng sanh? Phải chăng tâm tư của vị này đã đạt đến quyền làm chủ ở đối tượng được ưa thích và không được ưa thích?

 

Hemavata:

154. Có phải ý vị ấy,
Tâm nguyện thật khéo phát?
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải đối sanh loại,
Có tâm tư như vậy?
Có phải các tư duy,
Ðược khéo léo điều phục
Ðối với các pháp khả ái,
Và pháp không khả ái?

155. Mano cassa supaṇihito (iti sātāgiro yakkho)
sabbabhūtesu tādino,
atho iṭṭhe aniṭṭhe ca
saṅkappassa vasīkatā.

155. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Tâm của vị này, của bậc như thế ấy là đã được phát nguyện vững chắc hướng đến tất cả chúng sanh. Và tâm tư của vị này đã đạt đến quyền làm chủ ở đối tượng được ưa thích và không được ưa thích.

 

Sàtàgira:

155. Ý vị ấy là vậy,
Tâm nguyện thật khéo phát,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Ðối với mọi sanh loại,
Có tâm tư như vậy,
Như vậy là tư duy,
Ðược khéo léo điều phục.

156. Kacci adinnaṃ nādiyati (iti hemavato yakkho)
kacci pāṇesu saññato,
kacci ārā pamādamhā
kacci jhānaṃ na riñcati.

156. (Dạ-xoa Hemavata nói)

Phải chăng vị ấy không lấy vật không được cho?

Phải chăng vị ấy tự kiềm chế về các sanh mạng?

Phải chăng vị ấy xa lìa sự xao lãng?

Phải chăng vị ấy không bỏ phế việc tham thiền?

 

Hemavata:

156. Có phải là vị ấy
Không lấy vật không cho?
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải với hữu tình,
Vị ấy khéo chế ngự?
Có phải với phóng dật,
Vị ấy khéo viễn ly?
Có phải đối thiền định,
Vị ấy không từ bỏ?

157. Na so adinnaṃ ādiyati (iti sātāgiro yakkho)
atho pāṇesu saññato,
atho ārā pamādamhā
buddho jhānaṃ na riñcati



 

157. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Ngài không lấy vật không được cho, 

đã tự kiềm chế về các sanh mạng,

đã xa lìa sự xao lãng,

đức Phật không bỏ phế việc tham thiền.

Sàtàgira:

157. Vị ấy không có lấy
Những vật không được cho,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Vị ấy với hữu tình,
Rất khéo léo chế ngự,
Vị ấy với phóng dật,
Thật sự sống viễn ly,
Ðức Phật đối thiền định,
Không từ bỏ, sao lãng.

158. Kacci musā na bhaṇati (iti hemavato yakkho)
kacci na khīṇavyappatho,
kacci vebhūtiyaṃ nāha
kacci samphaṃ na bhāsati.


 

158. (Dạ-xoa Hemavata nói)

Phải chăng vị ấy không nói lời dối trá?

Phải chăng vị ấy không có lời nói thô lỗ?

Phải chăng vị ấy đã không nói lời phá hoại (đâm thọc)?

Phải chăng vị ấy không nói nhảm nhí?

 

Hemavata:

158. Có phải là vị ấy,
Không nói lời nói láo?
Nói vậy là Dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải là vị ấy
Ðoạn tận các trách nhiệm?
Có phải là vị ấy
Không nói lời vu khống?
Có phải là vị ấy
Không nói lời phù phiếm?

159. Musā ca so na bhaṇati (iti sātāgiro yakkho)
atho na khīṇavyappatho,
atho vebhūtiyaṃ nāha
mantā atthaṃ so bhāsati.


 

159. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Và vị ấy không nói lời dối trá,

cũng không có lời nói thô lỗ,

cũng đã không nói lời phá hoại (đâm thọc),

là bậc trí, vị ấy nói điều có lợi ích.

 

 

Sàtàgira:

159. Và thật sự vị ấy,
Không nói lời nói láo,
Nói vậy là Dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Ðoạn tận đường ác ngữ,
Không nói lời vu khống,
Vị ấy nói những lời
Sáng suốt, có nghĩa lý.

160. Kacci na rajjati kāmesu (iti hemavato yakkho)
kacci cittaṃ anāvilaṃ,
kacci mohaṃ atikkanto
kacci dhammesu cakkhumā.


 

160. (Dạ-xoa Hemavata nói)

Phải chăng vị ấy không luyến ái ở các dục?

Phải chăng tâm không bị vẩn đục?

Phải chăng vị ấy vượt qua si mê?

Phải chăng là bậc hữu nhãn về các pháp?

 

 

Hemavata:

160. Có phải đối các dục,
Vị ấy không tham ái?
Ðây là lời Dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải tâm vị ấy
Không có bị dao động?
Có phải tâm vị ấy
Vượt khỏi sự si ám?
Có phải thật vị ấy,
Có mắt đối các pháp?

161. Na so rajjati kāmesu (iti sātāgiro yakkho)
atho cittaṃ anāvilaṃ,
sabbamohaṃ atikkanto
buddho dhammesu cakkhumā.

161. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Vị ấy không luyến ái ở các dục,

và tâm không bị vẩn đục,

Ngài vượt qua mọi si mê,

đức Phật là bậc hữu nhãn về các pháp.

 

Sàtàgira:

161. Vị ấy không tham ái
Ðối với các dục vọng,
Ðây là lời Dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Tâm không có dao động,
Vượt khỏi mọi si ám,
Ðức Phật thật có mắt
Ðối với tất cả pháp.

162. Kacci vijjāya sampanno (iti hemavato yakkho)
kacci saṃsuddhacāraṇo,
kaccissa āsavā khīṇā
kacci natthi punabbhavo.

162. (Dạ-xoa Hemavata nói)

Phải chăng vị ấy đã thành tựu về minh?

Phải chăng vị ấy có sở hành hoàn toàn trong sạch?

Phải chăng các lậu hoặc của vị này đã cạn kiệt?

Phải chăng không có sự tái sanh lại nữa?

 

Hemavata:

162. Có phải là vị ấy
Ðầy đủ về các minh?
Ðây là lời Dạ-xoa
Tên Hemavata,
Có phải là vị ấy
Sở hành thật thanh tịnh?
Có phải là vị ấy
Các lậu hoặc đoạn tận?
Có phải là vị ấy
Không còn có tái sanh?

163. Vijjāya ceva sampanno (iti sātāgiro yakkho)
atho saṃsuddhacāraṇo,
sabbassa āsavā khīṇā
natthi tassa punabbhavo.

163. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Vị ấy hẳn nhiên đã thành tựu về minh, 

còn có sở hành hoàn toàn trong sạch, 

các lậu hoặc của vị này đã cạn kiệt, 

đối với vị ấy không có sự tái sanh lại nữa.

Sàtàgira:

163. Sự thật là vị ấy,
Ðầy đủ với các minh,
Ðây là lời Dạ-xoa,
Tên Sàtàgira
Sở hành thật thanh tịnh,
Mọi lậu hoặc đoạn tận,
Thật sự đối vị ấy,
Không còn có tái sanh.

164. Sampannaṃ munino cittaṃ kammanā vyappathena ca,
vijjācaraṇasampannaṃ dhammato naṃ pasaṃsasi.



 

164. Tâm của bậc hiền trí là được trọn vẹn với hành động và lời nói. Ngươi hãy thật lòng ca ngợi vị ấy, bậc đã thành tựu minh và hạnh.

Hemavata:

163. (a) Có phải vị ẩn sĩ,
Với tâm được viên mãn,
Mọi việc làm vị ấy
Ðược làm khéo hoàn mãn,
Có phải người tán thán,
Một cách đúng Chánh pháp.
Vị đầy đủ trí đức,
Ðầy đủ cả hạnh đức.

165. Sampannaṃ munino cittaṃ kammanā vyappathena ca,
vijjācaraṇasampannaṃ dhammato anumodasi.


 

165. Tâm của bậc hiền trí là được trọn vẹn với hành động và lời nói. Ngươi hãy thật lòng tùy hỷ với bậc đã thành tựu minh và hạnh.

Sàtàgira:

163. (b) Thật sự vị ẩn sĩ,
Với tâm được viên mãn,
Mọi việc làm vị ấy
Ðược làm khéo hoàn mãn.
Thật sự Ông tùy hỉ
Một cách đúng Chánh pháp,
Vị đầy đủ trí đức,
Ðầy đủ cả hạnh đức.

166. Sampannaṃ munino cittaṃ kammanā vyappathena ca,
vijjācaraṇasampannaṃ handa passāma gotamaṃ.

 

166. Tâm của bậc hiền trí là được trọn vẹn với hành động và lời nói. Nào, chúng ta hãy diện kiến vị Gotama, bậc đã thành tựu minh và hạnh.

 

 

 

Cả hai:

164. Thật sự vị ẩn sĩ,
Với tâm được viên mãn,
Mọi việc làm vị ấy
Ðược làm khéo hoàn mãn.
Chúng ta hãy yết kiến
Tôn giả Gotama,
Vị đầy đủ trí đức,
Ðầy đủ cả hạnh đức
.

167. Eṇijaṅghaṃ kisaṃ vīraṃ appāhāraṃ alolupaṃ,
muniṃ vanasmiṃ jhāyantaṃ ehi passāma gotamaṃ.

 

167. Ngươi hãy đến, chúng ta hãy diện kiến vị Gotama, bậc hiền trí có bắp chân như của loài nai, gầy ốm, dũng cảm, ít vật thực, không tham đắm, đang tham thiền ở khu rừng.

Hemavata:

165. Bắp chân giống như nai,
Thon vững chắc, bền bỉ,
Giản dị ít nhu cầu,
Không tham đắm vật gì.
Hãy đi đến yết kiến
ẩn sĩ Gotama,
Vị hành trì thiền định,
Trong rừng núi xa vắng.

168. Sīhaṃvekacaraṃ nāgaṃ kāmesu anapekkhinaṃ,
upasaṃkamma pucchāma maccupāsā pamocanaṃ.

 

168. Sau khi đến gần bậc Long Tượng đang sống một mình tựa như loài sư tử, không mong mỏi về các dục, chúng ta hãy hỏi Ngài về sự thoát ra khỏi bẫy sập của tử thần.

 

 

166. Sống cô độc một mình,
Như sư tử, như voi,
Ngài không có tham đắm,
Không cầu mong các dục.
Chúng ta hãy đi đến,
Và hỏi thăm vị ấy
Về con đường giải thoát
Khỏi cạm bẫy Ác ma.

169. Akkhātāraṃ pavattāraṃ sabbadhammāna pāraguṃ,
buddhaṃ verabhayātītaṃ mayaṃ pucchāma gotamaṃ.

 

169. Chúng ta hãy hỏi vị Gotama, bậc tuyên thuyết, bậc tuyên bố, bậc đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp, bậc đã giác ngộ, bậc đã vượt qua thù hận và sợ hãi.

Cả hai:

167. Vị tuyên bố giải thích,
Vị đạt đến mọi pháp,
Bậc giác ngộ vượt khỏi
Hận thù và sợ hãi,
Chúng ta hãy đến học
Sa-môn Gotama.

170. Kismiṃ loko samuppanno (iti hemavato yakkho)
kismiṃ kubbati santhavaṃ,
kissa loko upādāya
kismiṃ loko vihaññati.

170. (Dạ-xoa Hemavata nói)

Khi cái gì (sanh khởi) thế giới được sanh khởi?[1]

liên quan đến cái gì tạo nên sự gắn bó?

chấp thủ vào cái gì mà thế giới (hiện hữu)?

do cái gì mà thế giới bị sầu khổ?

----------------

[1] Thế giới (loka): ở đây là sattaloka (SnA i, 210), nghĩa là nói đến chúng sanh.

 

Hemavata:

168. Do pháp nào có mặt,
Thế giới được sanh khởi,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Hemavata.
Do pháp nào có mặt,
Tác thành sự giao hợp?
Sự chấp thủ ở đời,
Là chấp thủ cái gì?
Do pháp nào có mặt,
Thế giới bị tàn hại?

171. Chassu loko samuppanno (hemavatāti bhagavā)
chassu kubbati santhavaṃ,
channameva upādāya
chassu loko vihaññati.

171. (Đức Thế Tôn nói với Dạ-xoa Hemavata)

Khi sáu (sanh khởi) thế giới được sanh khởi,[1]

liên quan đến sáu tạo nên sự gắn bó,

chấp thủ vào sáu mà thế giới (hiện hữu),

do sáu mà thế giới bị sầu khổ.

---------------

[1] Sáu (chassu): được Chú Giải giải thích là sáu nội ngoại xứ (chasu ajjhattikabāhiresu āyatanesu) (SnA i, 211).

Thế Tôn:

169. Do sáu pháp có mặt,
Thế giới được sanh khởi,
Này Hemavata,
Thế Tôn nói như vậy.
Do sáu pháp có mặt,
Tác thành sự giao hợp,
Sự chấp thủ ở đời,
Là chấp thủ sáu pháp,
Do sáu pháp có mặt,
Thế giới bị tàn hại.

172. Katamaṃ taṃ upādānaṃ yattha loko vihaññati,
niyyānaṃ pucchito brūhi kathaṃ dukkhā pamuccati.

172. Sự chấp thủ ấy là cái gì mà tại nơi ấy thế giới bị sầu khổ? Được hỏi về lối dẫn dắt ra khỏi xin Ngài hãy nói, làm thế nào được thoát khỏi khổ đau?

Hemavata:

170. Do chấp thủ cái gì,
Ðây thế giới bị hại?
Ðược hỏi, hãy nói lên,
Về con đường thoát đời.
Làm thế nào đau khổ,
Ðược giải thoát hoàn toàn?

173. Pañca kāmaguṇā loke mano chaṭṭhā pamoditā,
ettha chandaṃ virājetvā evaṃ dukkhā pamuccati.

173. Năm loại dục được vui thích ở thế gian, với ý là thứ sáu. Sau khi lìa khỏi sự mong muốn ở nơi này, như vậy thì được thoát khỏi khổ đau.

Thế Tôn:

171. Ðây, năm dục trưởng dưỡng,
Ý được gọi thứ sáu,
Bỏ ước muốn ở đây,
Như vậy, thoát đau khổ.

174. Etaṃ lokakassa niyyānaṃ akkhātaṃ vo yathā tathaṃ,
etaṃ vo ahamakkhāmi evaṃ dukkhā pamuccati. 

174. Điều này là lối dẫn dắt ra khỏi thế giới, đã được nói cho các ngươi đúng theo thực thể. Ta nói ra điều này cho các ngươi, như vậy thì được thoát khỏi khổ đau.  

 

172. Ðây, con đường thoát đời.
Như thật nói Ông rõ,
Ðường này Ta nói Ông,
Như vậy, thoát đau khổ.

175. Ko sūdha taratī oghaṃ ko sūdha tarati aṇṇavaṃ,
appatiṭṭhe anālambe ko gambhīre na sīdati.

175. Vậy ở đây ai vượt qua cơn lũ, ở đây ai vượt qua biển cả, ai không chìm xuống nơi sâu thẳm không có chỗ nâng đỡ, không có vật để nắm vào?  

Hemavata:

173. Ðây, ai vượt bộc lưu?
Ðây, ai vượt biển lớn?
Không chân đứng bám víu,
Ai không chìm vực sâu?

176. Sabbadā sīlasampanno paññavā susamāhito,
ajjhattacintī satimā oghaṃ tarati duttaraṃ.
 

176. Vị luôn luôn thành tựu giới, có tuệ, khéo định tĩnh, có tâm tư hướng nội, có niệm, vượt qua cơn lũ khó vượt qua được.  

Thế Tôn:

174. Ai luôn luôn đủ giới,
Có tuệ, khéo thiền định,
Tâm hướng nội, chánh niệm,
Vượt bộc lưu khó vượt.

177. Virato kāmasaññāya sabbasaṃyojanātigo,
nandībhavaparikkhīṇo so gamabhīre na sīdati.
 

177. Vị không còn vui thích ở dục tưởng, đã vượt lên khỏi mọi sự ràng buộc, đã hoàn toàn cạn kiệt sự vui thích và hiện hữu, vị ấy không chìm xuống nơi sâu thẳm.

175. Ai từ bỏ dục tưởng,
Vượt khỏi mọi kiết sử,
Ai, hỷ, hữu đoạn tận,
Không chìm vào vực sâu
.

178. Gambhīrapaññaṃ nipuṇatthadassiṃ
akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ,
taṃ passatha sabbadhi vippamuttaṃ
dibbe pathe kamamānaṃ mahesiṃ.

178. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng bậc Đại Ẩn Sĩ ấy, bậc có tuệ thâm sâu, bậc nhìn thấy ý nghĩa vi tế, không sở hữu gì, không dính mắc ở dục và hữu, đã được giải thoát về mọi phương diện, đang bước đi ở con đường thiên giới.

Hemavata:

176. Vị trí tuệ thâm sâu,
Thấy được đích tế nhị,
Vị không có sở hữu,
Không tham đắm dục hữu.
Hãy yết kiến vị ấy,
Vị luôn luôn giải thoát,
Bậc đại sĩ tiến bước,
Trên con đường Thiên đạo.

179. Anomanāmaṃ nipuṇatthadassiṃ
paññādadaṃ kāmālaye asattaṃ,
taṃ passatha sabbaviduṃ sumedhaṃ
ariye pathe kamamānaṃ mahesiṃ.

179. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng bậc Đại Ẩn Sĩ ấy, bậc có danh xưng cao tột, bậc nhìn thấy ý nghĩa vi tế, bậc ban bố trí tuệ, không dính mắc ở trạng thái tiềm ẩn của các dục, bậc biết tất cả, bậc khôn ngoan, đang bước đi ở con đường thánh thiện.

177. Bậc danh xưng vô thượng,
Bậc thấy đích tế nhị,
Bậc ban bố trí tuệ,
Không tham đắm dục tạng.
Hãy yết kiến vị ấy,
Vị Toàn trí, Thiện tuệ,
Bậc Ðại sĩ tiến bước
Trên con đường Thánh đạo.

180. Sudiṭṭhaṃ vata no ajja suppabhātaṃ suvuṭṭhitaṃ,
yaṃ addasāma sambuddhaṃ oghatiṇṇamanāsavaṃ.

180. Quả thật hôm nay chúng ta đã nhìn thấy rõ ràng, bình minh rạng rỡ đã mọc lên tốt đẹp, nhờ thế chúng ta đã nhìn thấy đấng Toàn Giác, bậc đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ, không còn lậu hoặc.

178. Hôm nay thật chúng con
Ðược thấy điềm tốt lành,
Ðược hào quang chói sáng,
Của bình minh tốt lành.
Vì chúng con được thấy,
Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác,
Bậc đã vượt bộc lưu,
Bậc đã đoạn lậu hoặc.

181. Ime dasasatā yakkhā iddhimanto yasassino,
sabbe taṃ saraṇaṃ yanti tvaṃ no satthā anuttaro.

181. Một ngàn Dạ-xoa này, có thần thông, có danh tiếng, tất cả đi đến nương nhờ Ngài. Ngài là bậc Đạo Sư vô thượng của chúng tôi.

 

 

179. Ngàn vị dạ-xoa này,
Có thần lực danh xưng,
Tất cả xin đi đến
Y tựa quy ngưỡng Ngài,
Ngài là bậc Ðạo Sư,
Vô thượng của chúng con.

182. Te mayaṃ vicarissāma gāmā gāmaṃ nagā nagaṃ,
namassamānā sambuddhaṃ dhammassa ca sudhammatanti.


 

182. Chúng tôi đây sẽ du hành từ làng này đến làng nọ, từ núi này đến núi khác, kính lễ đấng Toàn Giác và tính chất thánh thiện của Giáo Pháp.

180. Chúng con sẽ bộ hành
Làng này qua làng khác,
Thành này qua thành khác,
Ðảnh lễ bậc Chánh giác,
Ðảnh lễ thiện pháp tánh,
Của Chánh pháp vi diệu.

 

Hemavatasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Hemavata.

 

 

 

10. ĀḶAVAKASUTTAṂ

 

 

10. KINH ĀḶAVAKA

 

 

10. KINH ALAVAKA

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā āḷaviyaṃ viharati āḷavakassa yakkhassa bhavane atha kho āḷavako yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự ở Āḷavī, tại nơi trú ngụ của Dạ-xoa Āḷavaka. Khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.”  

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Alavi, tại trú xứ của Dạ-xoa Alavaka. Rồi Dạ-xoa Alavaka đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói với Thế Tôn:

- Này Sa-môn, hãy đi ra.

Sādhāvusoti bhagavā nikkhami.

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi ra.

 

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi ra.

Pavisa samaṇāti.

Sādhāvusoti bhagavā pāvisi.

 

“Này Sa-môn, hãy đi vào.”

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi vào.

 

- Này Sa-môn, hãy đi vào.

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi vào.

Dutiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti.

Đến lần thứ nhì, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.”  

Lần thứ hai, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

- Này Sa-môn, hãy đi ra.

Sādhāvusoti bhagavā nikkhami.

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi ra.

 

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi ra:

Pavisa samaṇāti.

Sādhāvusoti bhagavā pāvisi.

 

“Này Sa-môn, hãy đi vào.”

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi vào.

 

- Này Sa-môn, hãy đi vào.

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi vào.

Tatiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti.

Đến lần thứ ba, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.”

Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

- Này Sa-môn, hãy đi ra.

Sādhāvusoti bhagavā nikkhami.

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi ra.

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi ra.

Pavisa samaṇāti.
Sādhāvusoti bhagavā pāvisi.

“Này Sa-môn, hãy đi vào.”

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi vào.

 

- Này Sa-môn, hãy đi vào.

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi vào.

Catutthampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti.

Đến lần thứ tư, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.”

 

Lần thứ tư, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

- Này Sa-môn, hãy đi ra.

Na khvāhaṃ taṃ āvuso nikkhamissāmi yaṃ te karaṇīyaṃ taṃ karohīti.

“Này đạo hữu, vậy thì Ta sẽ không đi ra. Điều gì mà ngươi cần làm thì ngươi hãy làm điều ấy đi.”

 

- Này Hiền giả, Ta sẽ không đi ra cho Ông. Ông cần gì hãy làm?

 

Pañhaṃ taṃ samaṇa pucchissāmi, sace me na vyākarissasi cittaṃ vā te khipissāmi, hadayaṃ vā te phālessāmi, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipissāmīti.

“Này Sa-môn, ta sẽ hỏi ông câu hỏi, nếu ông không trả lời ta, thì ta sẽ khuấy động tâm của ông, hoặc ta sẽ chẻ đôi trái tim của ông, hoặc ta sẽ nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā.”

 

- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ngài. Nếu Ngài không trả lời cho ta, ta sẽ làm tâm trí Ngài điên loạn, hay ta sẽ bóp nát quả tim của Ngài, hay nắm chân của Ngài, ta sẽ quăng qua bờ sông bên kia sông Hằng.

Na khvāhaṃ taṃ āvuso passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya yo me cittaṃ vā khipeyya hadayaṃ vā phāleyya pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya, api ca tvaṃ āvuso puccha, yadākaṅkhasīti.

“Này đạo hữu, Ta quả không nhìn thấy người nào trong thế gian tính luôn cõi của chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người mà có thể khuấy động tâm của Ta, hoặc có thể chẻ đôi trái tim của Ta, hoặc có thể nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā. Này đạo hữu, tuy vậy ngươi hãy hỏi điều mà ngươi muốn.”

- Này Hiền giả, Ta không thấy một ai trong thế giới với chư Thiên, với Ác ma và với Phạm thiên, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người, lại có thể làm tâm Ta điên loạn, hay bóp nát quả tim của Ta, hay nắm chân quăng Ta qua bên kia bờ sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, Ông cứ hỏi như ý Ông muốn.

 

Atha kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

Khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

 

Rồi Dạ-xoa với bài kệ nói với Thế Tôn:

183. Kiṃ sūdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ
kiṃ sū suciṇṇaṃ sukhamāvahāti,
kiṃ sū have sādutaraṃ rasānaṃ
kathaṃ jīviṃ jīvitamāhu seṭṭhaṃ.

 

183. "Cái gì ở thế gian này là của cải hạng nhất đối với con người?

Cái gì được khéo thực hành đem lại sự an lạc?

Cái gì quả thật là ngọt ngào hơn cả trong số các vị nếm?

Sống cách nào người ta đã gọi là đời sống hạng nhất?"

 

Alavaka:

181. Ở đời, tài sản gì,
Tối thắng cho con người?
Cái gì khéo thực hành
Ðem lại chơn an lạc.
Cái gì trong các vị,
Là vị ngọt tối thượng?
Nếp sống như thế nào,
Gọi nếp sống tối thắng?

184. Saddhīdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ
dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti,
saccaṃ have sādutaraṃ rasānaṃ
paññājīviṃ jīvitamāhu seṭṭhaṃ.

 

184. "Đức tin ở thế gian này là của cải hạng nhất đối với con người.

Giáo Pháp được khéo thực hành đem lại sự an lạc.

Chân thật quả thật là ngọt ngào hơn cả trong số các vị nếm.

Sống với trí tuệ người ta đã gọi là đời sống hạng nhất."

 

Thế Tôn:

182. Ở đời này, lòng tin,
Tối thắng cho con người,
Cái gì khéo thực hành,
Ðem lại chơn an lạc?
Chánh pháp khéo thực hiện,
Ðem lại chơn an lạc,
Sự thật trong các vị,
Là vị ngọt tối thượng,
Nếp sống với trí tuệ,
Là nếp sống tối thắng
.

185. Kathaṃ su tarati oghaṃ kathaṃ su tarati aṇṇavaṃ,
kathaṃ su dukkhaṃ acceti kathaṃ su parisujjhati.

185. "Làm thế nào vượt qua cơn lũ? Làm thế nào vượt qua biển cả? Làm thế nào khắc phục khổ đau? Làm thế nào trở nên thanh tịnh?" 

 

Alavaka:

183. Thế nào vượt bộc lưu?
Thế nào vượt biển lớn?
Thế nào vượt qua khổ?
Thế nào thật thanh tịnh?

186. Saddhāya taratī oghaṃ appamādena aṇṇavaṃ,
viriyena dukkhamacceti paññāya parisujjhati.

186. "Nhờ đức tin vượt qua cơn lũ. Nhờ không xao lãng vượt qua biển cả. Nhờ tinh tấn khắc phục khổ đau. Nhờ trí tuệ trở nên thanh tịnh."

 

Thế Tôn:

184. Với tín, vượt bộc lưu,
Không phóng dật, vượt biển,
Tinh tấn, vượt đau khổ,
Với tuệ, được thanh tịnh.

187. Kathaṃ su labhate paññaṃ kathaṃ su vindate dhanaṃ,
kathaṃ su kittiṃ pappoti kathaṃ mittāni ganthati,
asmā lokā paraṃ lokaṃ kathaṃ pecca na socati.
 

187. "Làm thế nào đạt được trí tuệ? Làm thế nào kiếm được tài sản?

Làm thế nào thành đạt tiếng tăm? Làm thế nào kết giao bạn hữu?

Từ đời này đến đời khác, làm thế nào không sầu muộn sau khi chết?"

 

Alavaka:

185. Thế nào được trí tuệ?
Thế nào được tài sản?
Thế nào đạt danh xưng?
Thế nào cột bạn hữu?
Ðời này qua đời sau,
Thế nào, chết không sầu?

188. Saddhāno arahataṃ dhammaṃ nibbānapattiyā,
sussūsā labhate paññaṃ appamatto vicakkhaṇo.

188. "Trong khi có niềm tin vào Giáo Pháp của các bậc A-la-hán nhằm đạt đến Niết Bàn, nhờ vào sự mong mỏi lắng nghe, người không xao lãng, sâu sắc đạt được trí tuệ.

 

Thế Tôn:

186. Tin tưởng bậc La-hán,
Tin pháp, đạt Niết-bàn,
Khéo nghe, được trí tuệ,
Bậc trí, không phóng dật.

189. Patirūpakārī dhuravā uṭṭhātā vindate dhanaṃ,
saccena kittiṃ pappoti dadaṃ mittāni ganthati.

189. Người có việc làm phù hợp, có trách nhiệm, năng động, kiếm được tài sản. Nhờ vào sự chân thật thành đạt tiếng tăm. Trong khi bố thí kết giao các bạn hữu.

 

187. Làm thích đáng trách nhiệm,
Phấn đấu được tài sản,
Với sự thật được danh,
Bố thí cột bạn bè.

 

190. Yassete caturo dhammā saddhassa gharamesino,
saccaṃ dhammo dhiti cāgo sa ve pecca na socati.
 

190. Người nào, sống tại gia có đức tin, sở hữu bốn pháp này: chân thật, chính trực, kiên trì, xả thí, người ấy chắc chắn không sầu muộn sau khi chết.

 

188. Ai là người gia chủ,
Tin tưởng bốn pháp này,
Sự thật và Chánh pháp,
Kiên trì và bố thí,
Vị ấy sau khi chết,
Nhất định không sầu muộn.

191. Iṅgha aññepi pucchassu puthu samaṇabrāhmaṇe,
yadi saccā damā cāgā khantyā bhīneyā vijjati.

191. Này, ngươi cũng hãy hỏi số đông các Sa-môn và Bà-la-môn về các điều khác, nếu có điều nào đó là tốt hơn sự chân thật, sự tự chế ngự, sự xả thí, và sự kham nhẫn."

 

189. Hãy hỏi các vị khác,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Nếu có pháp nào khác
Ở đời, lại thắng hơn,
Sự thật và nhiếp phục,
Bố thí và kham nhẫn?

192. Kathaṃ nu dāni puccheyyaṃ puthu samaṇabrāhmaṇe,
sohaṃ ajja pajānāmi yo cattho samparāyiko.

 

192. "Vì sao con lại phải hỏi số đông các Sa-môn và Bà-la-môn? Hôm nay con đây biết rõ điều nào là việc lợi ích ở thời vị lai.

 

Alavaka:

190. Sao nay con rộng hỏi,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Nay con được rõ biết,
Hiện, vị lai hạnh phúc.

193. Atthāya vata me buddho vāsāyā’ḷavimāgamī,
sohaṃ ajja pajānāmi yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.


 

193. Quả thật vì lợi ích cho con mà đức Phật đã đi đến cư ngụ ở Āḷavī. Hôm nay con đây biết rõ vật đã được bố thí ở nơi nào là có quả báu lớn lao.

 

 

 

191. Vì hạnh phúc cho con,
Mong rằng bậc Giác Ngộ,
Hãy đi đến an trú,
Tại xứ Alavi.
Nay con đã rõ biết.
Chỗ nào thí, quả lớn.

194. So ahaṃ vivarissāmi gāmā gāmaṃ purāpuraṃ,
namassamāno sambuddhaṃ dhammassa ca sudhammatanti.

194. Con đây sẽ du hành từ làng này đến làng nọ, từ phố này đến phố khác, kính lễ đấng Toàn Giác và tính chất thánh thiện của Giáo Pháp."

192. Con sẽ đi bộ hành,
Làng này qua làng khác,
Thành này qua thành khác,
Ðảnh lễ bậc Giác Ngộ,
Ðảnh lễ thiện pháp tánh
Của Chánh pháp vi diệu
.

Evaṃ vutte āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Abhikkantaṃ bho gotama, abhikkantaṃ bho gotama, seyyathāpi bho gotama nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya paṭicchannaṃ vā vivareyya mūḷhassa vā maggā ācikkheyya andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito, esāhaṃ bhagavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.
 

Khi được nói như vậy, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, thật là tuyệt vời! Bạch Ngài, thật là tuyệt vời! Bạch Ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế Pháp đã được đức Thế Tôn giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch Ngài, con đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”

 

 

 

Āḷavakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Āḷavaka.

 

 

 

11. VIJAYASUTTAṂ

 

 

11. KINH CHIẾN THẮNG

 

 

11. KINH THẮNG TRẬN

 

195. Caraṃ vā yadi vā tiṭṭhaṃ nisinno uda vā sayaṃ,
sammiñjeti pasāreti esā kāyassa iñjanā.

195. Trong lúc đang bước đi, hoặc đang đứng, đã ngồi xuống, hoặc đang nằm, người ta co lại, duỗi ra (các khớp nối); việc ấy là cử động của thân.

 

193. Hoặc là đi hay đứng,
Hoặc là ngồi hay nằm,
Hoặc co tay, duỗi tay,
Như vậy, thân dao động.

196. Aṭṭhinahārusaṃyutto tacamaṃsāvalepano,
chaviyā kāyo paṭicchanno yathābhūtaṃ na dissati.

196. Được nối liền bởi xương và gân, được bôi trét bởi da và thịt, thân được che phủ bởi lớp da, không nhìn thấy đúng theo bản thể thật. 

 

194. Ràng buộc với xương gân,
Trét thoa với da thịt,
Thân được da che đậy,
Như thật không thấy rõ.

197. Antapūrodarapūro yakapeḷassa vatthino,
hadayassa papphāsassa vakkassa pihakassa ca.

197. (Thân xác) được chất đầy bởi ruột, được chất đầy bởi bao tử, bởi túi gan, bởi bàng quang, bởi tim, bởi phổi, bởi thận, và bởi lá lách.

 

195. Trong một bụng chứa đầy,
Cục gan, và bọng đái,
Quả tim và buồng phổi,
Cả thận, và tỳ tạng.

198. Siṅghāṇikāya kheḷassa sedassa medassa ca,
lohitassa lasikāya pittassa ca vasāya ca.

198. Bởi nước mũi, bởi nước miếng, bởi mồ hôi, và bởi mỡ, bởi máu, bởi nước ở khớp xương, bởi mật, và bởi huyết tương.

 

196. Nước mũi, và nước miếng,
Mồ hôi, và nước mỡ,
Máu, và nước khớp xương,
Mật, và bạch huyết cầu.

199. Athassa navahi sotehi asucī savati sabbadā,
akkhimhā akkhigūthako kaṇṇamhā kaṇṇagūthako.

 

199. Rồi chất dơ luôn luôn trào ra từ chín dòng chảy của thân xác này: chất dơ của mắt từ mắt, chất dơ của tai từ tai.

197. Từ chín nguồn nước này,
Bất tịnh luôn luôn chảy,
Từ mắt, đồ bẩn chảy,
Từ tai, đồ bẩn chảy.

200. Siṅghāṇikā ca nāsāto mukhena vamat’ ekadā,
pittaṃ semhañca vamati kāyamhā sedajallikā.

200. Và nước mũi từ mũi, có lúc mật và đàm ói ra từ miệng, mồ hôi và cáu bẩn tiết ra từ thân.

198. Nước mũi từ lỗ mũi,
Từ miệng, có khi chảy,
Chảy mật, và niêm dịch,
Từ thân, mồ hôi bẩn.

201. Athassa susiraṃ sīsaṃ matthaluṅgassa pūritaṃ,
subhato naṃ maññatī bālo avijjāya purakkhato.

201. Rồi cái đầu trống rỗng của thân xác này được chứa đầy bởi não bộ. Bị lèo lái bởi vô minh, kẻ ngu nghĩ rằng nó là đẹp đẽ.

199. Trong đầu thật trống rỗng,
Chứa đầy những óc, não.
Bị vô minh dắt dẫn,
Kẻ ngu nghĩ tịnh sạch.

202. Yadā ca so mato seti uddhumāto vinīlako,
apaviddho susānasmiṃ anapekkhā honti ñātayo.

202. Và khi nào kẻ ấy đã chết, nằm xuống, trương lên, đổi màu xanh tím, bị liệng bỏ ở bãi tha ma, các thân nhân còn không trông ngóng.

 

200. Khi bị chết nằm xuống,
Phồng lên, và xanh bầm,
Quăng bỏ trong nghĩa địa,
Bà con không đoái hoài.

203. Khādanti naṃ supāṇā ca sigālā ca vakā kimī,
kākā gijjhā ca khādanti ye caññe santi pāṇino.

203. Các con chó, dã can, chó sói, và giòi bọ ngấu nghiến, các con quạ và diều hâu rỉa rói, và có các loài sinh vật khác nữa.

 

201. Chó, dã can đến ăn,
Chó sói, các côn trùng,
Quạ, diều hâu đến ăn,
Còn có hữu tình khác.

204. Sutvāna buddhavacanaṃ bhikkhu paññāṇavā idha,
so kho naṃ parijānāti yathābhūtaṃ hi passati.

204. Ở đây, sau khi lắng nghe lời dạy của đức Phật, vị tỳ khưu có tuệ. Thật vậy, vị ấy biết toàn diện về thân xác này, bời vì vị ấy nhìn thấy đúng theo bản thể thật.

 

202. Ðược nghe lời Phật dạy,
Tỷ-kheo có trí tuệ,
Vị ấy liễu tri thân,
Thấy thân đúng như thật.

205. Yathā idaṃ tathā etaṃ yathā etaṃ tathā idaṃ,
ajjhattañca bahiddhā ca kāye chandaṃ virājaye.

205. Cái này như thế nào, cái kia như thế ấy; cái kia như thế nào, cái này như thế ấy. Nên lìa khỏi sự mong muốn ở thân xác, bên trong và bên ngoài.

 

203. Ðây thế nào, kia vậy,
Kia thế nào, đây vậy,
Ðối với thân trong ngoài,
Từ bỏ mọi lòng dục.

206. Chandarāgaviratto so bhikkhu paññāṇavā idha,
ajjhagā amataṃ santiṃ nibbāna padamaccutaṃ.

206. Đã lìa khỏi lòng mong muốn và luyến ái, ở đây vị tỳ khưu ấy, thành tựu tuệ, đã đạt đến Bất Tử, An Tịnh, vị thế Niết Bàn, Bất Hoại.

 

204. Từ bỏ lòng tham dục,
Ðây Tỷ-kheo có tuệ,
Chứng bất tử, tịch tịnh,
Niết-bàn giới thường trú.

207. Dipādako yaṃ asuci duggandho parihīrati,
nānākuṇapaparipūro vissavanto tato tato.
 

207. Thân xác có hai chân này, không sạch sẽ, có mùi hôi, lại được săn sóc; nó tràn đầy chất thối rửa, đang rỉ nước từ nơi kia nơi nọ.  

205. Thân này với hai chân,
Bất tịnh và hôi thúi,
Ðầy xác chết, chảy nước,
Lại được giữ, nâng niu.

208. Etādisena kāyena yo maññe uṇṇametave,
paraṃ vā avajāneyya kimaññatra adassanāti.

 

208. Với thân xác như thế này, kẻ nào nghĩ đến kiêu hãnh, hoặc khi dễ người khác, còn có điều gì khác ngoài việc không nhìn thấy?

206. Với thân thể như vậy,
Ai lại nghĩ đề cao,
Hay khinh miệt kẻ khác,
Trừ kẻ không thấy gì.
 

 

Vijayasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Chiến Thắng.

 

 

12. MUNISUTTAṂ

 

 

12. KINH HIỀN TRÍ

 

 

12. KINH ẨN SĨ

 

209. Santhavāto bhayaṃ jātaṃ niketā jāyate rajo,
aniketamasanthavaṃ etaṃ ve munidassanaṃ.

209. Sợ hãi sanh ra từ sự thân thiết, bụi bặm sanh ra từ nhà ở. Không nhà ở, không thân thiết, quả thật điều ấy là quan điểm của bậc hiền trí.

 

207. Thân mật, sanh sợ hãi,
Trú xứ, sanh bụi bặm,
Không trú xứ, không thân,
Hình ảnh bậc ẩn sĩ.

210. Yo jātamucchijja na ropayeyya
jāyantamassa nānuppavecche,
tamāhu ekaṃ muninaṃ carantaṃ
addakkhi so santipadaṃ mahesi.

 

210. Người nào, sau khi cắt đứt (ô nhiễm) đã được sanh ra, không nên vun trồng (ô nhiễm) đang được sanh ra, không nên tham gia cùng với nó (ô nhiễm). Người ta đã nói bậc hiền trí ấy đang du hành một mình. Bậc đại ẩn sĩ ấy đã nhìn thấy vị thế an tịnh.

 

208. Ai đã chặt sanh hữu,
Không còn gieo giống thêm,
Sanh hữu đã đoạn tận,
Không muốn nó tùy sanh,
Ðược gọi là ẩn sĩ,
Một mình đi im lặng,
Bậc đại sĩ đã thấy,
Con đường tịch tịnh ấy.

211. Saṅkhāya vatthūni pahāya bījaṃ
sinehamassa nānuppavecche,
sa ve muni jātikhayantadassī
takkaṃ pahāya na upeti saṃkhaṃ.

211. Sau khi đã xem xét các nền tảng, sau khi đã dứt bỏ hạt giống yêu thương, không nên tham gia cùng với nó. Quả thật, với việc nhìn thấy sự chấm dứt của việc sanh ra và hoại diệt, bậc hiền trí ấy dứt bỏ các suy tầm (bất thiện) và không còn đi đến sự định đặt (khái niệm).

 

209. Sau khi ước lượng đất,
Tìm hiểu được hột giống,
Không còn muốn tham ái,
Ðược tiếp tục tùy sanh,
Vị ấy chân ẩn sĩ,
Thấy sanh diệt chấm dứt,
Ðoạn tận mọi lý luận,
Không rơi vào tính toán.

212. Aññāya sabbāni nivesanāni
anikāmayaṃ aññatarampi tesaṃ,
sa ve muni vītagedho agiddho
nāyūhatī pāragato hi hoti.

212. Sau khi hiểu biết về tất cả các nơi trú ngụ (các cảnh giới tái sanh),

không còn dục vọng với bất cứ nơi trú ngụ nào trong số chúng.

Quả thật, bậc hiền trí ấy, đã xa lìa sự thèm khát, không bị thèm khát,

không còn tích lũy (nghiệp) bởi vì đã đi đến bờ kia.

210. Ðã rõ mọi trú xứ,
Không ham trú xứ nào,
Vị ấy chân ẩn sĩ,
Không tham, không say đắm.
Không còn phải ra sức,
Ðã đạt bờ bên kia.

213. Sabbābhibhuṃ sabbaviduṃ sumedhaṃ
sabbesu dhammesu anūpalittaṃ,
sabbañjahaṃ taṇhakkhaye vimuttaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.

213. Là vị khuất phục tất cả, biết rõ tất cả, có trí tuệ,

không bị nhiễm ô trong tất cả các pháp,

từ bỏ tất cả, được giải thoát trong sự diệt tận về tham ái,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

211. Bậc chiến thắng toàn diện,
Bậc toàn tri, thiện tuệ,
Ðối với tất cả pháp,
Không còn bị ô nhiễm.
Bậc từ bỏ tất cả,
Ái đoạn diệt, giải thoát.
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

214. Paññābalaṃ sīlavatūpapannaṃ
samāhitaṃ jhānarataṃ satīmaṃ,
saṅgāpamuttaṃ akhilaṃ anāsavaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.

214. Là vị có tuệ lực, đã thành tựu về giới và phận sự,

được định tĩnh, thích thú việc tham thiền, có niệm,

đã thoát khỏi sự quyến luyến, không chướng ngại, không còn lậu hoặc,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

212. Vị có trí tuệ lực,
Giới cấm được đầy đủ,
Ðịnh tĩnh, thích thiền định,
Gìn giữ trì chánh niệm,
Giải thoát các trói buộc,
Không hoang vu, lậu tận,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

215. Ekaṃ carantaṃ muniṃ appamattaṃ
nindāpasaṃsāsu avedhamānaṃ,
sīhaṃva saddesu asantasantaṃ
vātaṃva jālamhi asajjamānaṃ,
padumaṃ va toyena alippamānaṃ
netāramaññesamanaññaneyyaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.

 

215. Vị hiền trí, du hành một mình, không xao lãng,

không rung động ở các lời khen ngợi hay chê bai,

tựa như loài sư tử không kinh sợ ở các tiếng động,

tựa như làn gió không bị dính mắc ở tấm lưới,

tựa như đóa hoa sen không nhiễm bẩn bởi nước,

người dẫn dắt những kẻ khác, không bị dẫn dắt bởi kẻ khác,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

213. Bộ hành, riêng một mình,
ẩn sĩ, không phóng dật,
Trước chê bai, tán thán,
Không có bị dao động.
Như sư tử, không sợ,
Giữa các tiếng vang động.
Như gió không vướng lưới,
Như son không dính nước,
Bậc lãnh đạo mọi người,
Người không ai lãnh đạo.
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

216. Yo gāhaṇe thambhorivābhijāyatī
yasmiṃ pare vācāpariyantaṃ vadanti,
taṃ vītarāgaṃ susamāhitindriyaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.


 

216. Vị nào hành xử tựa như cây cột trụ ở bãi tắm,

khi những kẻ khác nói lời nói quá mức,

vị ấy đã xa lìa luyến ái, có giác quan khéo được định tĩnh,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

214. Vị nào biết xử sự,
Như cột trụ hồ tắm,
Khi người khác nói lời,
Lời khen chê cực đoạn,
Vị không có tham ái,
Với căn khéo định tĩnh,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

217. Yo ve ṭhitatto tasaraṃva ujjuṃ
jigucchati kammehi pāpakehi,
vīmaṃsamāno visamaṃ samañca
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.

217. Thật vậy, vị nào với tánh kiên định, ngay thẳng tựa như con thoi,

nhờm gớm đối với các nghiệp ác,

cân nhắc việc không đúng đắn và việc đúng đắn,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

215. Ai thật tự mình đứng
Thẳng như cây thoi đưa,
Nhàm chán các nghiệp ác,
Quán sát chánh, bất chánh,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

218. Yo saññatatto na karoti pāpaṃ
daharo ca majjhimo ca munī yatatto,
arosaneyyo so na roseti kañci
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.

218. Vị có bản thân đã tự chế ngự không làm việc ác,

còn trẻ hoặc trung niên, vị hiền trí có bản thân đã được chế ngự.

Không nổi giận, vị ấy không làm bất cứ ai nổi giận,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

216. Ai biết tự chế ngự,
Không làm các điều ác,
Trẻ và hạng trung niên,
Bậc ẩn sĩ chế ngự,
Vị không nên chọc giận,
Vì không làm ai giận,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

219. Yadaggato majjhato sesato vā
piṇḍaṃ labhetha paradattūpajīvi,
nālaṃ thutuṃ nopi nipaccavādī
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
 

219. Vị có mạng sống nhờ vào sự bố thí của những người khác nên thọ nhận đồ ăn khất thực dầu là từ phần bên trên, hay từ phần ở giữa, hoặc từ phần còn thừa lại, không đáng để ca ngợi cũng không có lời nói miệt thị, chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

217. Ai sống nhờ người cho,
Nhận lãnh đồ khất thực,
Nhận từ trên, từ giữa,
Hay từ chỗ còn lại,
Không đủ để tán thán,
Không nói lời hạ mình,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

220. Muniṃ carantaṃ virataṃ methunasmā
yo yobbane na upanibajjhate kvaci,
madappamādā virataṃ vippamuttaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
 

220. Bậc hiền trí du hành, lánh xa việc đôi lứa,

vào thời tuổi trẻ, không nên gắn bó với bất cứ nơi đâu,

đã lánh xa sự say sưa và xao lãng, đã được giải thoát,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

218. Sống thụ hạnh ẩn sĩ,
Từ bỏ sự dâm dục,
Ai lúc còn tuổi trẻ,
Không bị trói buộc gì,
Từ bỏ mạn, phóng dật,
Ðược hoàn toàn giải thoát,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

221. Aññāya lokaṃ paramatthadassiṃ
oghaṃ samuddaṃ atitariya tādiṃ,
taṃ chinnaganthaṃ asitaṃ anāsavaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.


 

221. Sau khi đã hiểu biết thế gian, có sự nhìn thấy chân lý tuyệt đối,

sau khi đã vượt qua dòng nước lũ và biển cả, là bậc tự tại,

vị ấy đã cắt đứt sự trói buộc, không còn lệ thuộc, không còn lậu hoặc,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

219. Rõ biết được thế giới,
Thấy được lý chân đế,
Vượt khỏi được bộc lưu,
Vượt biển lớn như vậy.
Vị chặt đứt trói buộc,
Không ỷ lại, vô lậu.
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

222. Asamā cubho dūravihāravuttino
gihī dāraposī amamo ca subbato,
parapāṇarodhāya gihī asaññato
niccaṃ munī rakkhati pāṇino yato.


 

 

222. Và cả hai không tương tự nhau, với chỗ trú ngụ và cách sinh sống khác xa nhau. Kẻ tại gia nuôi vợ, còn vị vô sở hữu có sự hành trì tốt đẹp. Kẻ tại gia không tự chế ngự ở việc chận đứng sanh mạng của kẻ khác, còn vị hiền trí, đã được chế ngự, thường xuyên bảo vệ các sanh mạng.

 

220. Hai nếp sống không giống.
An trú, thật xa nhau,
Gia chủ, có vợ con,
Không ngã sở, khéo nhiếp,
Gia chủ không chế ngự,
Ngăn chận hữu tình khác,
Bậc ẩn sĩ luôn luôn,
Che chở loài hữu tình.

223. Sikhī yathā nīlagīvo vihaṅgamo
haṃsassa nopeti javaṃ kudācanaṃ,
evaṃ gihī nānukaroti bhikkhuno
munino vicittassa vanamhi jhāyatoti.

Rắn, và vị Dhaniya nữa, sừng (tê giác), và vị Kasī như thế ấy,

vị Cunda, và sự thoái hóa nữa, người hạ tiện, sự tu tập tâm từ ái,

(Dạ-xoa) Sātāgira, Āḷavaka, chiến thắng, và vị hiền trí như thế ấy,

mười hai bài kinh này được gọi là ‘Phẩm Rắn.’

221. Giống như loại chim công,
Loại chim có cổ xanh,
Không bao giờ sánh bằng
Chim thiên nga nhanh nhẹn.
Cũng vậy, người gia chủ,
Không sánh bằng Tỷ-kheo,
Bậc ẩn sĩ viễn ly,
Sống thiền định trong rừng.
 

 

Munisuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Hiền Trí.

 

 

 

Uragavaggo paṭhamo.

 

 

Phẩm Rắn là thứ nhất.

 

TASSUDDĀNAṂ
 

Urago dhaniyo ceva visāṇañca tathā kasī,

cundo parābhavo ceva vasalo mettabhāvanā.

Sātāgiro āḷavako vijayo ca tathā muni,

dvādasetāni suttāni uragavaggoti vuccati.

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

Rắn, và vị Dhaniya nữa, sừng (tê giác), và vị Kasī như thế ấy,

vị Cunda, và sự thoái hóa nữa, người hạ tiện, sự tu tập tâm từ ái,

(Dạ-xoa) Sātāgira, Āḷavaka, chiến thắng, và vị hiền trí như thế ấy,

mười hai bài kinh này được gọi là ‘Phẩm Rắn.’

 

 

II. CULLAVAGGO - TIỂU PHẨM

II. CULLAVAGGO - TIỂU PHẨM

 

 

Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka

 

 

Lời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda

 

 

Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu

 

 

1. RATANASUTTAṂ

 

 

1. KINH CHÂU BÁU

 

 

1. KINH CHÂU BÁU

 

224. Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāni va antalikkhe,
sabbeva bhūtā sumanā bhavantu
athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ.

224. Các hạng sanh linh [*] nào đã tụ hội nơi đây,

là các hạng ở địa cầu, hoặc các hạng nào ở hư không,

mong rằng toàn thể tất cả sanh linh đều được hoan hỷ,

rồi xin hãy nghiêm trang lắng nghe lời nói này.  

222. Phàm ở tại đời này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không
Mong rằng mọi sanh linh,
Ðược đẹp ý vui lòng,
Vậy, hãy nên cẩn thận,
Lắng nghe lời dạy này.

[*] Các hạng sanh linh (bhūtāni): nói đến các hàng chư Thiên (amanussesu) không có phân biệt (KhpA. 166).

225. Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe
mettaṃ karotha mānusiyā pajāya,
divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
tasmā hi ne rakkhatha appamattā.
 

225. Chính vì thế, hỡi các sanh linh, mong rằng tất cả hãy lắng tai,

xin các vị hãy thể hiện lòng từ ái đến dòng dõi nhân loại,

là những người ngày và đêm mang lại vật phẩm cúng tế,

chính vì thế, xin các vị hãy hộ trì những người ấy, không xao lãng.

223. Do vậy các sanh linh,
Tất cả hãy chú tâm,
Khởi lên lòng từ mẫn,
Ðối với mọi loài, người.
Ban ngày và ban đêm,
Họ đem vật cúng dường,
Do vậy không phóng dật,
Hãy giúp hộ trì họ.

226. Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ,
na no samaṃ atthi tathāgatena
idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

226. Bất cứ của cải nào ở đời này hoặc đời sau,

hoặc loại châu báu hảo hạng nào ở các cõi Trời,

thật vậy, không có gì sánh bằng đức Như Lai.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở đức Phật;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

224. Phàm có tài sản gì,
Ðời này hay đời sau,
Hay ở tại thiên giới,
Có châu báu thù thắng,
Không gì sánh bằng được,
Với Như Lai, Thiện Thệ
Như vậy, nơi Ðức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

227. Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ
yadajjhagā sakyamunī samāhito,
na tena dhammena samatthi kiñci
idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

227. Sự diệt trừ, sự xa lìa tham ái, sự Bất Tử hảo hạng,

bậc Hiền Trí dòng Sakya, (với tâm) định tĩnh, đã chứng đắc điều ấy,

không có bất cứ cái gì sánh bằng Pháp ấy.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Giáo Pháp;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

225. Ðoạn diệt và ly tham,
Bất tử và thù diệu,
Phật Thích Ca Mâu-Ni,
Chứng pháp ấy trong thiền.
Không gì sánh bằng được,
Với pháp thù diệu ấy.
Như vậy, nơi Chánh pháp,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

228. Yaṃ buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu,
samādhinā tena samo na vijjati
idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.
 

228. Điều mà đức Phật tối thắng đã ca ngợi là trong sạch,

Ngài đã nói điều ấy là định cho quả không bị gián đoạn,

pháp sánh bằng định ấy không được biết đến.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Giáo Pháp;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

226. Phật Thế Tôn thù thắng,
Nói lên lời tán thán,
Pháp thiền định trong sạch,
Liên tục không gián đoạn,
Không gì sánh bằng được,
Pháp thiền vi diệu ấy,
Như vậy, nơi Chánh pháp,
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

229. Ye puggalā aṭṭha sataṃ pasatthā
cattāri etāni yugāni honti,
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā
etesu dinnāni mahapphalāni,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

229. Tám hạng người nào đã được các bậc thiện nhân ca tụng,

các vị này là bốn cặp;[*]

họ là các đệ tử của đấng Thiện Thệ, xứng đáng cúng dường,

các sự bố thí ở các vị này có quả báu lớn lao.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

227. Tám vị bốn đôi này,
Ðược bậc thiện tán thán,
Chúng đệ tử Thiện Thệ,
Xứng đáng được cúng dường.
Bố thí các vị ấy,
Ðược kết quả to lớn.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

[*] Tức là các bậc Thánh nhân, gồm có bốn Đạo và bốn Quả (ND).

230. Ye suppayuttā manasā daḷhena
nikkāmino gotamasāsanamhi,
te pattipattā amataṃ vigayha
laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

230. Các vị nào đã khéo gắn bó với tâm ý vững chãi,

không còn dục vọng, theo lời dạy của đức Gotama,

các vị ấy đã đạt được sự chứng đạt, sau khi đã thể nhập Bất Tử,

các vị đã đạt được không nhọc sức, đang thọ hưởng trạng thái Tịch Diệt.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

228. Các vị lòng ít dục,
Với ý thật kiên trì,
Khéo liên hệ mật thiết,
Lời dạy Gotama!.
Họ đạt được quả vị,
Họ thể nhập bất tử,
Họ chứng đắc dễ dàng,
Hưởng thọ sự tịch tịnh,
Như vậy, nơi tăng chúng,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

231. Yathindakhīlo paṭhaviṃsito siyā
catubbhi vātehi asampakampiyo,
tathūpamaṃ sappurisaṃ vadāmi
yo ariyasaccāni avecca passati,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

 231. Giống như cột trụ đá được nương vào lòng đất,

sẽ không bị lay động bởi các cơn gió từ bốn phương,

với sự so sánh như thế Ta nói về bậc chân nhân,

là vị nào nhìn thấy rõ ràng bốn Chân Lý Cao Thượng.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

229. Như vậy cột trụ đá,
Khéo y tựa lòng đất,
Dầu có gió bốn phương,
Cũng không thể dao động,
Ta nói bậc chơn nhân,
Giống như ví dụ này.
Vị thể nhập với tuệ,
Thấy được những Thánh đế,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

232. Ye ariyasaccāni vibhāvayanti
gambhīrapaññena sudesitāni,
kiñcāpi te honti bhusappamattā
na te bhavaṃ aṭṭhamaṃ ādiyanti,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

232. Các vị nào hiểu rõ về bốn Chân Lý Cao Thượng

đã khéo được thuyết giảng bởi tuệ thâm sâu,

dầu cho các vị ấy thường xuyên bị xao lãng,

các vị ấy cũng không nhận lấy kiếp sống thứ tám.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

230. Những vị khéo giải thích,
Những sự thật Thánh đế,
Những vị khéo thuyết giảng,
Với trí tuệ thâm sâu,
Dầu họ có hết sức,
Phóng dật không tự chế,
Họ cũng không đến nỗi,
Sanh hữu lần thứ tám.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

233. Sahāvassa dassanasampadāya
tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca
sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci,
catūhapāyehi ca vippamutto
cha cābhiṭhānāni abhabbo kātuṃ
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

233. Đối với vị này, nhờ thành tựu về nhận thức,

có ba pháp được từ bỏ:

sự nhận thức sai trái về thân, sự hoài nghi,

giới và phận sự, hoặc thậm chí bất cứ điều gì có liên quan,

và (vị này) được thoát khỏi bốn khổ cảnh,[*]

không thể nào gây nên sáu tội nghiêm trọng.[*] 

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

231. Vị ấy nhờ đầy đủ,
Với chánh kiến sáng suốt,
Do vậy, có ba pháp,
Ðược hoàn toàn từ bỏ.
Thân kiến và nghi hoặc,
Giới cấm thủ cũng không;
Ðối với bốn đọa xứ,
Hoàn toàn được giải thoát;
Vị ấy không thể làm,
Sáu điều ác căn bản.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

[*] Bốn khổ cảnh (apāyā): địa ngục, súc sanh, quỷ đói, và A-tu-la (KhpA. 189).

[*] Sáu tội nghiêm trọng (abhiṭhānāni): gồm có: giết mẹ, giết cha, giết bậc Thánh A-la-hán, làm chảy máu thân Phật, chia rẽ Hội Chúng, tuyên bố vị khác là bậc đạo sư (Sđd.).

234. Kiñcāpi so kammaṃ karoti pāpakaṃ
kāyena vācā uda cetasā vā,
abhabbo so tassa paṭicchādāya
abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.
 

234. Ngay cả khi vị ấy tạo nên bất cứ nghiệp gì ác xấu,

bằng thân, bằng khẩu, hoặc bằng ý,

vị ấy không thể nào che giấu điều ấy,

tính chất không thể của vị chứng đạt Niết Bàn đã được nói đến.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

 

232. Dầu vị ấy có làm
Ðiều ác gì đi nữa,
Với thân hay với lời,
Kể cả với tâm ý,
Vị ấy không có thể
Che đậy việc làm ấy,
Vị ấy được nói rằng,
Không thể thấy ác đạo.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

235. Vanappagumbe yathā phussitagge
gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe,
tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi
nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya,
idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.
 

235. Giống như cây cối ở trong rừng đã được trổ hoa ở ngọn

trong cái nóng ở tháng đầu tiên của mùa hạ,

với sự so sánh như thế, Ngài đã thuyết giảng về Giáo Pháp cao quý,

có khả năng dẫn đến Niết Bàn, tối thắng về lợi ích.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở đức Phật;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

 

233. Ðẹp là những cây rừng
Có bông hoa đầu ngọn,
Trong tháng ba nóng bức,
Những ngày hạ đầu tiên,
Pháp thù thắng thuyết giảng,
Ðược ví dụ như vậy,
Pháp đưa đến Niết-bàn,
Pháp hạnh phúc tối thượng.
Như vậy, nơi Ðức Phật,
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

236. Varo varaññū varado varāharo
anuttaro dhammavaraṃ adesayi,
idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

236. Bậc cao quý, biết pháp cao quý, thí pháp cao quý, đem lại pháp cao quý, đấng Vô Thượng đã thuyết giảng về Giáo Pháp cao quý.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở đức Phật;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

 

234. Cao thượng, biết cao thượng,
Cho, đem lại cao thượng,
Bậc vô thượng thuyết giảng,
Pháp cao thượng thù thắng.
Như vậy, nơi đức Phật,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

237. Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthi sambhavaṃ
virattacittā āyatike bhavasmiṃ,
te khīṇabījā avirūḷhicchandā
nibbanti dhīrā yathāyam padīpo,
idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

237. Nghiệp cũ đã được cạn kiệt, nguồn sanh khởi mới không có,

với tâm không còn luyến ái vào sự hiện hữu ở tương lai,

các vị ấy có mầm giống đã cạn kiệt, mong muốn tăng trưởng không còn,

các bậc sáng trí tịch diệt, giống như ngọn đèn này vậy.

Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;

do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

 

235. Nghiệp cũ đã đoạn tận,
Nghiệp mới không tạo nên,
Với tâm tư từ bỏ,
Trong sanh hữu tương lai.
Các hột giống đoạn tận,
Ước muốn không tăng trưởng,
Bậc trí chứng Niết-bàn,
Ví như ngọn đèn này.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.

238. Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāni va antalikkhe,
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.

 

 238. Các hạng sanh linh nào đã tụ hội nơi đây, là các hạng ở địa cầu hoặc các hạng nào ở hư không, chúng ta hãy lễ bái đức Phật đã ngự đến như thế, được chư Thiên và nhân loại cúng dường, mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

236. Phàm ở tại đời này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Hãy đảnh lễ đức Phật,
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,
Ðảnh lễ và cúng dường.
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.

239. Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāni va antajikkhe,
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.
 

239. Các hạng sanh linh nào đã tụ hội nơi đây, là các hạng ở địa cầu hoặc các hạng nào ở hư không, chúng ta hãy lễ bái Giáo Pháp đã ngự đến như thế, được chư Thiên và nhân loại cúng dường, mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

 

237. Phàm ở tại nơi này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không.
Hãy đảnh lễ Chánh pháp,
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,
Ðảnh lễ và cúng dường.
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.

240. Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāni va antajikkhe,
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.

 

240. Các hạng sanh linh nào đã tụ hội nơi đây, là các hạng ở địa cầu hoặc các hạng nào ở hư không, chúng ta hãy lễ bái Tăng Chúng đã ngự đến như thế, được chư Thiên và nhân loại cúng dường, mong rằng hãy có sự hưng thịnh.

238. Phàm ở tại nơi này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không.
Hãy đảnh lễ chúng Tăng
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,
Ðảnh lễ và cúng dường.
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.

 

Ratatanasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Châu Báu.

 

 

 

2. ĀMAGANDHASUTTAṂ

 

 

2. KINH MÙI TANH HÔI

 

 

2. KINH HÔI THỐI

 

241. Sāmākaciṅguḷaka cīnakāni ca
pattapphalaṃ mūlapphalaṃ gavipphalaṃ,
dhammena laddhaṃ satamasnamānā
na kāmakāmā alikaṃ bhaṇanti.

241. “Các bậc đức hạnh, trong khi ăn các loại hạt kê, hạt cỏ, đậu núi, lá cây, rễ củ, trái cây đã nhận được đúng pháp, các vị không vì ham muốn ngũ dục mà nói điều dối trá.

Bà-la-môn:

239. Các bậc Thiện chơn chánh,
Ăn hạt giống cây thuốc,
Ăn đậu đũa, đậu rừng,
Ăn lá, ăn rễ cây,
Ăn trái các dây leo,
Nhận được thật đúng pháp.
Vị ấy không nói láo,
Vì các dục thúc đẩy.

242. Yadasnamāno sukataṃ suniṭṭhitaṃ
parehi dinnaṃ payataṃ paṇītaṃ,
sālīnamannaṃ paribhuñjamāno
so bhuñjatī kassapa āmagandhaṃ.

242. Còn kẻ nào, trong khi ăn vật thực hảo hạng được khéo làm, được khéo sửa soạn, được bố thí, được dâng hiến bởi những người khác, trong khi thọ dụng cơm nấu bằng gạo sālī, thưa Ngài Kassapa, kẻ ấy thọ thực vật có mùi tanh hôi.

240. Ôi ngài Kassapa,
Ai ăn các món ăn,
Do người khác bố thí,
Khéo làm, khéo chưng dọn,
Trong sạch và thù thắng;
Ăn lúa gạo thơm ngon.
Ai ăn uống như vậy
Là ăn thịt hôi thối.

243. Na āmagandho mama kappatīti
icceva tvaṃ bhāsasi brahmabandhu,
sālīnamannaṃ paribhuñjamāno
sakuntamaṃsehi susaṃkhatehi,
pucchāmi taṃ kassapa etamatthaṃ
kathaṃpakāro tava āmagandho.

243. ‘Vật có mùi tanh hôi không được phép đối với Ta,’
Ngài nói y như thế, thưa đấng quyến thuộc của Phạm Thiên,
trong khi Ngài thọ dụng cơm nấu bằng gạo sālī
với các miếng thịt chim khéo được nấu nướng.
Thưa Ngài Kassapa, tôi hỏi Ngài ý nghĩa này,
đối với Ngài kiểu cách như thế nào là có mùi tanh hôi?”
 

 

241. Này bà con Phạm thiên,
Chính Ngài tuyên bố rằng:
Ta không ăn đồ thối,
Ðể nuôi sống thân Ta.
Nhưng Ngài ăn món ăn
Bằng lúa gạo thơm ngon,
Ăn thịt các loài chim,
Nấu ăn thật khéo léo
Ta hỏi Kassapa:
Ý nghĩa sự kiện này,
Ngài định nghĩa thế nào,
Là ăn đồ hôi thối?

244. Pāṇātipāto vadhachedabandhanaṃ
theyyaṃ musāvādo nikatī vañcanāni,
ajjhenakujjhaṃ paradārasevanā
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

244. Việc giết hại mạng sống, hành hạ, chặt chém, trói giam,

trộm cướp, nói dối, gian lận, các sự lường gạt,

làm ra vẻ học thức, ve vãn vợ người khác,  

việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải thức ăn thịt.

 

Ðức Phật Kassapa:

242. Sát sanh và hành hình,
Ðả thương và bắt trói,
Trộm cắp và nói láo,
Man trá và lừa đảo,
Giả bộ kẻ học thức,
Ði lại với vợ người,
Ðây là đồ ăn thối,
Ăn thịt không phải thối.

245. Ye idha kāmesu asaññatā janā
rasesu giddhā asucīkamissitā,
natthikadiṭṭhi visamā durannayā
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

245. Ở đây, những kẻ nào không tự kiềm chế trong các dục,
thèm khát ở các vị nếm, xen lẫn với sự (nuôi mạng) không trong sạch,
theo tà kiến ‘không có gì hiện hữu,’ sái quấy, khó chỉ bảo,
việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt
 

.

243. Ở đời, các hạng người,
Không chế ngự lòng dục,
Ðam mê các vị ngon,
Liên hệ đến bất tịnh,
Theo chủ nghĩa hư vô,
Bất chánh khó hướng dẫn,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối.

246. Ye lūkhasā dāruṇā piṭṭhimaṃsikā,
mittadduno nikkaruṇātimānino,
adānasīlā na ca denti kassaci
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

246. Những kẻ nào thô lỗ, bạo tàn, nói xấu sau lưng,

hãm hại bạn bè, nhẫn tâm, ngã mạn thái quá,

có bản tánh keo kiệt và không bố thí đến bất cứ ai,

việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

 

244. Ai thô bạo, dã man,
Sau lưng nói gièm pha,
Phản bạn không từ bi,
Lại cống cao ngạo mạn,
Tánh không có bố thí,
Không cho ai vật gì,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối.

247. Kodho mado thambho paccuṭṭhāpanā ca
māyā usūyā bhassasamussayo ca,
mānātimāno ca asabbhi santhavo
esāmagandho na hi maṃsayojanaṃ.

247. Giận dữ, đam mê, bướng bỉnh, và đối địch,

xảo trá, ganh ghét, và nói khoác lác,

ngã mạn, kiêu căng, và thân thiết với những kẻ không tốt,

việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

245. Phẫn nộ và kiêu mạn,
Cứng đầu và chống đối
Man trá và tật đố,
Nói vô ích, huênh hoang,
Kiêu mạn và quá mạn,
Thân mật với kẻ ác,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

248. Ye pāpasīlā iṇaghātasūcakā
vohārakūṭā idha pāṭirūpikā,
narādhamā ye ’dha karonti kibbisaṃ
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

248. Những kẻ nào có hành vi ác độc, quỵt nợ, vu khống,

gian lận trong giao dịch, những kẻ giả mạo trong giáo pháp,

những kẻ đê tiện làm điều sái quấy ở thế gian này,

việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

 

246. Ác giói, nợ không trả,
Làm người điểm chỉ viên,
Làm những nghề dối trá,
Ở đây, kẻ giả vờ,
Ở đây người bần tiện,
Những người làm ác nghiệp,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối.

249. Ye idha pāṇesu asaññatā janā
paresamādāya vihesamuyyutā,
dussīlaluddā pharusā anādarā
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.
 

249. Những kẻ nào ở đời này không tự kiềm chế đối với các sinh mạng,

sau khi đoạt lấy vật sở hữu của những người khác còn ra sức hãm hại,

có bản tánh tồi tệ, tàn bạo, thô lỗ, không có sự tôn trọng,

việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

247. Ở đời đối hữu tình,
Người không biết kiềm chế,
Lấy cướp sở hữu người,
Chú tâm làm hại người,
Ác giới và tàn nhẫn
Ác ngữ, thiếu lễ độ,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

250. Etesu giddhā viruddhātipātino
niccuyyutā pecca tamaṃ vajanti ye,
patanti sattā nirayaṃ avaṃsirā
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

250. Những kẻ nào thèm khát ở những mạng sống này rồi chống đối, giết hại, thường xuyên ra sức (làm ác), sau khi chết đi về nơi tăm tối, là các chúng sanh rơi vào địa ngục, đầu đi xuống trước, việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

248. Hạng tham ô, thù nghịch,
Tìm cách để giết hại,
Luôn luôn hướng về ác,
Sau chết sanh tối tăm,
Chúng sanh ấy rơi vào,
Ðịa ngục đầu xuống trước.
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

251. Na macchamaṃsaṃ nānāsakattaṃ
na naggiyaṃ na muṇḍiyaṃ jaṭājallaṃ,
kharājināni nāggihuttassūpasevanā vā
ye vāpi loke amarā bahū tapā,
mant ’āhutī yaññamutūpavesanā
sodhenti maccaṃ avitiṇṇakaṅkhaṃ.

251. Không phải cá và thịt, không phải việc nhịn ăn, không phải việc lõa thể, không phải cái đầu cạo, tóc bện và cáu đất, các y da dê thô cứng, hoặc không phải việc thờ phượng cúng tế ngọn lửa, hoặc thậm chí vô số sự khổ hạnh cho việc bất tử ở thế gian, các chú thuật, các đồ hiến cúng, sự hy sinh, các việc hành xác rửa tội theo mùa tiết, mà (có thể) làm trong sạch con người còn chưa vượt qua sự nghi hoặc.

249. Không phải do cá thịt,
Cùng các loại nhịn ăn,
Không phải do lõa thể,
Ðầu trọc và bện tóc,
Không do tro trét mình,
Mặc da thú khô cứng,
Không phải do săn sóc,
Nuôi dưỡng lửa tế tự,
Không do nhiều khổ hạnh,
Ðể được chứng bất tử,
Không bùa chú tế tự,
Các tế đàn thời tiết,
Làm con người trong sạch,
Nếu nghi hoặc chưa đoạn.

252. Sotesu gutto viditindriyo care
dhamme ṭhito ajjavamaddave rato,
saṅgātigo sabbadukkhappahīno
na lippatī diṭṭhasutesu dhīro.

252. Vị đã bảo vệ ở các dòng chảy (giác quan), có (sáu) căn đã được nhận biết, nên sống vững vàng ở Giáo Pháp, thích thú ở sự ngay thẳng và mềm mỏng, đã vượt qua sự quyến luyến, đã dứt bỏ tất cả khổ đau, bậc sáng trí không bị lấm lem bởi các điều đã được thấy hoặc đã được nghe.

250. Do sống hộ trì căn,
Với các căn nhiếp phục,
Vững trú trên Chánh pháp,
Thích chân trực, hiền hòa,
Vượt khỏi các tham ái,
Ðoạn tận mọi khổ đâu,
Bậc trí không nhiễm dính,
Ðiều được thấy, được nghe.

253. Iccetamatthaṃ bhagavā punappunaṃ
akkhāsi naṃ vedayi mantapāragū,
citrāhi gāthāhi munī pakāsayī
nirāmagandho asito durannayo.

253. Đức Thế Tôn đã nói lập đi lập lại ý nghĩa này như thế, vị tinh thông chú thuật đã hiểu được điều ấy. Bậc Hiền Trí, không có mùi tanh hôi, không bị lệ thuộc, khó bị lôi kéo, đã giảng giải bằng các kệ ngôn đa dạng.

251. Nhiều lần, Thế Tôn thuyết,
Ý nghĩa lời dạy này,
Bậc bác học kệ chú,
Thâm hiểu ý nghĩa ấy.
Bậc ẩn sĩ nói lên,
Với những kệ tuyệt diệu,
Bậc không ăn đồ thối,
Ðộc lập, khó hướng dẫn.

254. Sutvāna buddhassa subhāsitaṃ padaṃ
nirāmagandhaṃ sabbadukkhappanūdanaṃ,
nīcamano vandi tathāgatassa
tattheva pabbajjamarocayitthāti.
 

254. Sau khi lắng nghe lời nói không có mùi tanh hôi, có sự xua đi tất cả sự khổ đau, đã khéo được nói lên của đức Phật, (vị đạo sĩ khổ hạnh) với tâm ý khiêm nhượng đã đảnh lễ đấng Như Lai, rồi ngay tại nơi ấy đã tuyên bố việc xuất gia.

252. Nghe xong những lời dạy,
Lời Thế Tôn khéo nói,
Chấm dứt ăn đồ thối,
Ðoạn tận mọi khổ đau,
Vị ấy đảnh lễ Phật,
Với tâm ý nhún nhường,
Thỉnh cầu được cho pháp,
Xuất gia tại nơi đây.

 

Āmagandhasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Mùi Tanh Hôi.

 

 

 

3. HIRISUTTAṂ

 

 

3. KINH HỔ THẸN

 

 

3. KINH XẤU HỔ

 

255. Hiriṃ tarantaṃ vijigucchamānaṃ
sakhāhamasmi iti bhāsamānaṃ,
sayhāni kammāni anādiyantaṃ
neso mamanti iti taṃ vijaññā.

255. Kẻ (nào) vượt qua sự hổ thẹn, kinh tởm sự hổ thẹn,

trong khi nói rằng: ‘Tôi là bạn,’

(nhưng) không nhận lấy các việc làm trong khả năng,

nên nhận biết về kẻ ấy rằng: ‘Người này không là (bạn) của tôi.’

253. Ai mở miệng tuyên bố:
Tôi là bạn của anh,
Sở hành vượt xấu hổ,
Lại khinh chán bạn mình,
Không chịu khó gắng làm,
Công việc có thể làm.
Cần biết người như vậy,
Không phải bạn của tôi.

 

256. Ananvayaṃ piyaṃ vācaṃ yo mittesu pakubbati,
akarontaṃ bhāsamānaṃ parijānanti paṇḍitā.

256. Kẻ nào thể hiện lời nói trìu mến ở giữa bạn bè nhưng không làm theo, các bậc sáng suốt biết rõ là kẻ nói mà không làm.

254. Ai đối với bạn hữu,
Chỉ làm với lời nói,
Lời nói đẹp, khả ái,
Nhưng chỉ lời nói suông,
Bậc trí biết người ấy,
Người chỉ nói, không làm.

257. Na so mitto yo sadā appamatto
bhedāsaṅkī randhamevānupassī,
yasmiñca seti urasīva putto
sa ve mitto so parehi abhejjo.

257. Kẻ nào thường xuyên chú ý, nghi ngờ sự chia rẽ, chuyên soi mói khuyết điểm, kẻ ấy không phải là bạn. Và ở người nào (có thể) trông cậy được tựa như đứa con trai nằm dựa vào ngực (cha), người ấy quả thật là bạn, người ấy không bị chia cắt bởi những kẻ khác.

255. Người luôn luôn chú ý,
Nghi ngờ sự thiếu sót,
Tìm kiếm các nhược điểm,
Người ấy không phải bạn,
Với ai có thể nắm,
Như con nằm trên ngực,
Người ấy mới thật bạn,
Không bị ai chia ly.

258. Pāmujjakaraṇaṃ ṭhānaṃ pasaṃsāvahanaṃ sukhaṃ,
phalānisaṃso bhāveti vahanto porisaṃ dhuraṃ.

258. Trong khi gồng gánh phận sự của nam nhân, người mong cầu Quả Vị làm tăng trưởng (sự tinh tấn), nền tảng tạo ra sự hoan hỷ, (làm tăng trưởng) sự an lạc (Niết Bàn), nguồn mang lại sự khen ngợi.

256. Ai mong lợi ích quả,
Tu tập các sự kiện,
Ðem lại sự hân hoan,
Tu tập sự an lạc,
Ðem lại thưởng, tán thán,
Gánh trách nhiệm làm người.

259. Pavivekarasaṃ pītvā rasaṃ upasamassa ca,
niddaro hoti nippāpo dhammapīti rasaṃ pibanti.

259. Sau khi đã uống hương vị của sự ẩn cư và hương vị của sự an tịnh, người uống hương vị hoan hỷ của Giáo Pháp trở nên không còn buồn bực, không còn ác xấu.

257. Uống xong vị viễn ly,
Uống xong vị an tịnh,
Không sợ hãi, không ác,
Hưởng vị ngọt, pháp hỷ.

 

Hirisuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Hổ Thẹn.

 

 

 

4. MAṄGALASUTTAṂ

 

4. KINH ĐIỀM LÀNH

 

4. KINH ĐIỀM LÀNH LỚN (KINH ĐẠI HẠNH PHÚC)

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, lúc đêm đã khuya, một vị Thiên nhân nọ với màu sắc vượt trội đã làm cho toàn bộ Jetavana rực sáng rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đứng ở một bên, vị Thiên nhân ấy đã bạch với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhân, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên nhân ấy với bài kệ bạch Thế Tôn:

260. Bahū devā manussā ca maṅgalāni acintayuṃ,
ākaṅkhamānā sotthānaṃ brūhi maṅgalamuttamaṃ.

260. “Nhiều chư Thiên và nhân loại, trong khi mong mỏi các điều hưng thịnh, đã suy nghĩ về các điềm lành, xin Ngài hãy nói về điềm lành tối thượng.”

Thiên nhân:

258. Nhiều Thiên nhân và Người,
Suy nghĩ đến điềm lành,
Mong ước và đợi chờ,
Một nếp sống an toàn,
Xin Ngài hãy nói lên
Về điềm lành tối thượng
.

261. Asevanā ca bālānaṃ paṇḍitānañca sevanā,
pūjā ca pūjanīyānaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
 

261. “Không thân cận những kẻ ác, thân cận các bậc sáng suốt, và cúng dường các bậc xứng đáng cúng dường, điều này là điềm lành tối thượng.

Thế Tôn:

259. Không thân cận kẻ ngu,
Nhưng gần gũi bậc trí,
Ðảnh lễ người đáng lễ
Là điềm lành tối thượng.

262. Patirūpadesavāso ca pubbe ca katapuññatā,
attasammāpaṇidhi ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

262. Cư ngụ ở địa phương thích hợp, tính cách đã làm việc phước thiện trong quá khứ, và quyết định đúng đắn cho bản thân, điều này là điềm lành tối thượng.

260. Ở trú xứ thích hợp,
Công đức trước đã làm,
Chân chánh hướng tụ tâm,
Là điều lành tối thượng.

263. Bāhusaccañca sippañca vinayo ca susikkhito,
subhāsitā ca yā vācā etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

263. Kiến thức rộng và (giỏi) nghề thủ công, việc rèn luyện khéo được học tập, và lời nói được khéo nói, điều này là điềm lành tối thượng.

261. Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
Khéo huấn luyện học tập,
Nói những lời khéo nói
Là điềm lành tối thượng.

264. Mātāpitū upaṭṭhānaṃ puttadārassa saṅgaho,
anākulā ca kammantā etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

264. Phụng dưỡng mẹ và cha, cấp dưỡng các con và vợ, các nghề nghiệp không có xung đột (thuần là công việc), điều này là điềm lành tối thượng.

262. Hiếu dưỡng mẹ và cha,
Nuôi dưỡng vợ và con,
Làm nghề không rắc rối
Là điềm lành tối thượng.

265. Dānañca dhammacariyā ca ñātakānañca saṅgaho,
anavajjāni kammāni etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

265. Bố thí và thực hành Giáo Pháp, trợ giúp các thân quyến, những việc làm không bị chê trách, điều này là điềm lành tối thượng.

263. Bố thí, hành đúng pháp,
Săn sóc các bà con,
Làm nghiệp không lỗi lầm
Là điềm lành tối thượng.

266. Ārati virati pāpā majjapānā ca saññamo,
appamādo ca dhammesu etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

266. Sự kiêng cữ, xa lánh điều ác, tự chế ngự trong việc uống các chất say, và không xao lãng trong các (thiện) pháp, điều này là điềm lành tối thượng.

264. Chấm dứt, từ bỏ ác,
Chế ngự đam mê rượu,
Trong pháp, không phóng dật
Là điềm lành tối thượng.

267. Gāravo ca nivāto ca santuṭṭhi ca kataññutā,
kālena dhammasavaṇaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

267. Sự cung kính, khiêm nhường, tự biết đủ, và biết ơn, sự lắng nghe Giáo Pháp vào đúng thời điểm, điều này là điềm lành tối thượng.

265. Kính lễ và hạ mình,
Biết đủ và biết ơn,
Ðúng thời, nghe Chánh pháp
Là điềm lành tối thượng.

268. Khantī ca sovacassatā samaṇānañca dassanaṃ,
kālena dhammasākacchā etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

268. Sự nhẫn nại, trạng thái người dễ dạy, và việc yết kiến các bậc Sa-môn, sự bàn luận Giáo Pháp lúc hợp thời, điều này là điềm lành tối thượng.

 

266. Nhẫn nhục, lời hòa nhã,
Yết kiến các Sa-môn,
Ðúng thời, đàm luận pháp,
Là điềm lành tối thượng.

269. Tapo ca brahmacariyañca ariyasaccānadassanaṃ,
nibbānasacchikiriyā ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
 

269. Sự khắc khổ, và thực hành Phạm hạnh, sự nhận thức các Chân Lý Cao Thượng, và việc chứng ngộ Niết Bàn, điều này là điềm lành tối thượng.

267. Khắc khổ và Phạm hạnh,
Thấy được lý Thánh đế,
Giác ngộ quả Niết bàn
Là điềm lành tối thượng.

270. Phuṭṭhassa lokadhammehi cittaṃ yassa na kampati,
asokaṃ virajaṃ khemaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

270. Tâm không dao động khi tiếp xúc với các pháp thế gian, không sầu muộn, có sự xa lìa bợn nhơ, được an ổn, điều này là điềm lành tối thượng.

268. Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
Không uế nhiễm, an ổn
Là điềm lành tối thượng.

271. Etādisāni katvāna sabbatthamaparājitā,
sabbattha sotthiṃ gacchanti taṃ tesaṃ maṅgalamuttaman ”ti.

 271. (Những người) đã thực hành những điều như thế này thì không bị thất bại ở mọi nơi, đi đến mọi nơi một cách hưng thịnh; đối với họ (những) điều ấy là điềm lành tối thượng.”

269. Làm sự việc như vậy,
Không chỗ nào thất bại,
Khắp nơi được an toàn,
Là điềm lành tối thượng
.

 

Maṅgalasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

Dứt Kinh Điềm Lành.

 

 

 

5. SŪCILOMASUTTAṂ

 

 

5. KINH SŪCILOMA

 

5. KINH SŪCILOMA

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā gayāyaṃ viharati ṭaṃkitamañce sūcilomassa yakkhassa bhavane. Tena kho pana samayena kharo ca yakkho sūcilomo ca yakkho bhagavato avidūre atikkamanti.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại làng Gayā, ở tảng đá Ṭaṃkitamañca, nơi trú ngụ của Dạ-xoa Sūciloma. Vào lúc bấy giờ, Dạ-xoa Khara và Dạ-xoa Sūciloma đi ngang qua ở nơi không xa đức Thế Tôn.

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Gayà, ở Tamkitamanca tại trú xứ của Dạ-xoa Sùciloma. Lúc bấy giờ, Dạ-xoa Khara, Dạ-xoa Sùciloma đi qua Thế Tôn không bao xa.

 

Atha kho kharo yakkho sūcilomaṃ yakkhaṃ etadavoca: Eso samaṇoti. Neso samaṇo samaṇako eso. Yāva jānāmi yadi vā so samaṇo yadi vā samaṇakoti.

 

Khi ấy, Dạ-xoa Khara đã nói với Dạ-xoa Sūciloma điều này:

“Người này là Sa-môn.”

“Người này không phải là Sa-môn. Người này là Sa-môn giả. Lát nữa thì ta sẽ biết người ấy là Sa-môn hay Sa-môn giả.”

 

Dạ-xoa Khara nói với Dạ-xoa Sùciloma: Ðây là Sa-môn. Ðây không phải là Sa-môn. Ðây là Sa-môn hay là Sa-môn giả hiệu.

Atha kho sūcilomo yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavato kāyaṃ upanāmesi.
 

Sau đó, Dạ-xoa Sūciloma đã đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến gần đã nghiêng người về phía thân của đức Thế Tôn.

Rồi Dạ-xoa Sùciloma đi đến Thế Tôn, sau khi đến cọ xát thân Thế Tôn.

 

Atha kho bhagavā kāyaṃ apanāmesi.
Atha kho sūcilomo yakkho bhagavantaṃ etadavoca:

Khi ấy, đức Thế Tôn đã nghiêng thân ra xa.

Sau đó, Dạ-xoa Sūciloma đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Thế Tôn tránh né thân của mình, rồi Dạ-xoa Sùciloma nói với Thế Tôn:

Bhāyasi maṃ samaṇāti.

Na khvāhantaṃ āvuso bhāyāmi, api ca te samphasso pāpakoti.
 

“Này Sa-môn, ông sợ ta sao?”  

“Này đạo hữu, Ta quả không sợ ngươi. Tuy nhiên, sự xúc chạm của ngươi là xấu xa.”

 

- Có phải Sa-môn sợ ta?

 

- Này Hiền giả, Ta không sợ Ông, nhưng xúc phạm với Ông là ác.

Pañhaṃ taṃ samaṇa pucchissāmi sace me na vyākarissasi cittaṃ vā te khipissāmi hadayaṃ vā te phālessāmi pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipissāmīti.

 

“Này Sa-môn, ta sẽ hỏi ông câu hỏi. Nếu ông không trả lời ta, thì ta sẽ khuấy động tâm của ông, hoặc ta sẽ chẻ đôi trái tim của ông, hoặc ta sẽ nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā.”

 

- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ngài, nếu Ngài không trả lời cho ta, ta sẽ làm cho tâm Ngài điên loạn, hay bóp nát quả tim của Ngài, hay nắm chân của Ngài, ta sẽ quăng qua bờ bên kia sông Hằng.

 

Na khvāhaṃ taṃ āvuso passāmi, sadevāke loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya yo me cittaṃ vā khipeyya hadayaṃ vā phāleyya pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya, api ca tvaṃ āvuso puccha yadākaṅkhasīti.

“Này đạo hữu, Ta quả không nhìn thấy người nào trong thế gian tính luôn cõi của chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người, có thể khuấy động tâm của Ta, hoặc có thể chẻ đôi trái tim của Ta, hoặc có thể nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā. Này đạo hữu, tuy vậy ngươi hãy hỏi điều mà ngươi muốn.”

 

- Này Hiền giả, Ta không thấy một ai trong thế giới chư Thiên, với chư Thiên, Ác ma và Phạm Thiên, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người, lại có thể làm cho tâm Ta điên loạn hay bóp nát quả tim của Ta, hay nắm chân của Ta, sẽ quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, Ông cứ hỏi Ta như ý Ông muốn.

 

Atha kho sūciloma yakkho bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

 

Khi ấy, Dạ-xoa Sūciloma đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Rồi Dạ-xoa Sùciloma với câu kệ nói với Thế Tôn:

 

272. Rāgo ca doso ca kutonidānā
aratī ratī lomahaṃso kutojā,
kuto samuṭṭhāya mano vitakkā
kumārakā dhaṅkam ivossajanti.
 

272. “Luyến ái và sân hận có căn nguyên từ đâu?

Ghét, thương, sự rởn lông (vì sợ hãi) sanh ra từ đâu?

Phát khởi từ nơi nào, các suy tầm (về dục) khuấy rối tâm,

tựa như những bé trai tung lên con quạ (đã bị cột chân bởi sợi chỉ dài)?”

 

Sùciloma:

270. Từ những nguyên nhân nào,
Tham và sân khởi lên?
Không ưa thích, ưa thích,
Sợ hãi từ đâu sanh?
Từ đâu được sanh khởi,
Các suy tầm của ý,
Như đứa trẻ độc ác,
Thả cho con quạ bay?

273. Rāgo ca doso ca itonidānā
aratī ratī lomahaṃso itojā,
ito samuṭṭhāya mano vitakkā
kumārakā dhaṅkam1ivossajanti.

273. “Luyến ái và sân hận có căn nguyên từ nơi (bản ngã) này.

Ghét, thương, sự rởn lông (vì sợ hãi) sanh ra từ nơi (bản ngã) này.

Phát khởi từ nơi (bản ngã) này, các suy tầm (về dục) khuấy rối tâm,

tựa như những bé trai thả lỏng con quạ (đã bị cột chân bởi sợi chỉ dài).

 

Thế Tôn:

271. Từ những nguyên nhân này,
Tham, sân được khởi lên,
Không ưa thích, ưa thích,
Sợ hãi từ đây sanh,
Từ đây được sanh khởi,
Các suy tầm của ý,
Như đứa trẻ độc ác,
Thả cho con quạ bay.

274. Snehajā attasambhūtā nigrodhasseva khandhajā,
puthu visattā kāmesu māluvā ’va vitatā vane.

274. Chúng sanh ra từ sự thương yêu, được hình thành ở bản ngã, tựa như việc sanh ra từ thân của giống cây nigrodha. Chúng nhiều vô số, bị vướng mắc vào các dục, tựa như loài dây leo lan rộng ở khu rừng.

272. Sự hiện hữu của ngã,
Chính do thân ái sanh,
Như các loại cây bàng,
Do thân cây bàng sanh.
Sự triền phược các dục,
Thật rộng lớn vô cùng,
Như cây Màluvà,
Tỏa rộng lan khắp rừng.

275. Ye naṃ pajānanti yato nidānaṃ
te naṃ vinodenti suṇohi yakkha,
te duttaraṃ oghamimaṃ taranti
atiṇṇapubbaṃ apunabbhavāyāti.

275. Những ai nhận biết điều ấy có căn nguyên từ đâu,

những vị ấy xua đuổi nó, này Dạ-xoa, ngươi hãy lắng nghe,

những vị ấy vượt qua dòng lũ này, (dòng lũ) khó vượt qua được,

chưa được vượt qua trước đây, để không còn hiện hữu lại nữa.”

 

273. Hãy nghe! Này Dạ-xoa,
Những ai được rõ biết
Từ đâu, khiến sanh khởi,
Họ tẩy sạch nhân ấy.
Họ vượt qua dòng nước,
Chảy mạnh khổ vượt này,
Trước chưa được vượt qua,
Không còn có tái sanh.

 

Sūcilomasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
 

 

Dứt Kinh Sūciloma.

 

 

 

6. KAPILASUTTAṂ

(Dhammacariyasuttaṃ )

 

6. KINH KAPILA

 

 

6. KINH HÀNH CHÁNH PHÁP

(Dhammacariyasuttaṃ)

276. Dhammacariyaṃ brahmacariyaṃ etadāhu vasuttamaṃ,
pabbajitopi ce hoti agārasmā anagāriyaṃ.

276. Việc hành Pháp, việc hành Phạm hạnh, các vị (Thánh nhân) đã nói việc này là tài sản tối thượng, nếu là bậc xuất gia, rời nhà sống không nhà.

274. Pháp hạnh và Phạm hạnh,
Ðược gọi là tối thượng hạnh,
Nếu là người xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà.

277. So ce mukharajātiko vihesābhirato mago,
jīvitaṃ tassa pāpiyo rajaṃ vaḍḍheti attano.

277. Nếu kẻ ấy có bản tánh nói nhiều, thích thú việc hãm hại (như là) loài thú, cuộc sống của kẻ ấy là xấu xa, làm gia tăng ô nhiễm cho chính mình.

275. Nếu bản tánh lắm mồm,
Ưa làm hại như thú,
Ðời sống ấy ác độc,
Làm ngã tăng bụi trần.

278. Kalahābhirato bhikkhu mohadhammena āvaṭo,
akkhātampi na jānāti dhammaṃ buddhena desitaṃ.

278. Vị tỳ khưu thích thú việc cãi cọ, bị ngăn che bởi pháp si mê, thậm chí không biết đến Giáo Pháp đã được công bố, đã được thuyết giảng bởi đức Phật.

276. Tỷ-kheo ưa cãi nhau,
Bị vô minh che đậy,
Không biết pháp luật dạy,
Pháp do Phật tuyên thuyết.

279. Vihesaṃ bhāvitattānaṃ avijjāya purakkhato,
saṃkilesaṃ na jānāti maggaṃ nirayagāminaṃ.

279. Trong khi hãm hại vị có bản thân đã được tu tập, (kẻ ấy) bị thúc đẩy bởi vô minh, không biết về phiền não, về con đường đưa đến địa ngục.

277. Bị vô minh lãnh đạo,
Hại bậc tu tập ngã,
Không biết đường ô nhiễm,
Ðưa đến cõi địa ngục.

280. Vinipātaṃ samāpanno gabbhā gabbhaṃ tamā tamaṃ,
sa ve tādisako bhikkhu pecca dukkhaṃ nigacchati.

280. (Kẻ ấy) bị đưa đến đọa xứ, từ thai bào (này) đến thai bào (khác), từ tăm tối (này) đến tăm tối (khác). Thật vậy vị tỳ khưu thuộc loại như thế ấy sau khi chết bị đọa vào khổ đau.

278. Vị Tỷ-kheo như vậy,
Rơi vào chỗ đọa xứ,
Ði đầu thai chỗ này,
Ðến đầu thai chỗ khác,
Ði từ tối tăm này,
Ðến chỗ tối tăm khác.
Vị ấy sau khi chết,
Rơi vào chỗ khổ đau.

281. Gūthakūpo yathā assa sampuṇṇo gaṇavassiko,
yo ca evarūpo assa dubbisodho hi sāṅgaṇo.

281. Giống như hố phân đã sử dụng nhiều năm có thể bị đầy tràn, kẻ nào thuộc loại như vậy, có sự ô uế, quả khó làm cho trong sạch.  

279. Như hố phân đầy tràn,
Sau nhiều năm chất chứa,
Cũng vậy, kẻ uế nhiễm,
Thật khó lòng gột sạch.

282. Yaṃ evarūpaṃ jānātha bhikkhavo gehanissitaṃ,
pāpicchaṃ pāpasaṅkappaṃ pāpa-ācāragocaraṃ.

282. Này các tỳ khưu, các ngươi hãy biết kẻ nào thuộc loại như vậy, thiên về cuộc sống gia đình, có ước muốn xấu xa, có suy tư xấu xa, có hành vi và nơi lai vãng xấu xa.

280. Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy biết người như vậy,
Hệ lụy với gia đình,
Ác dục, ác tư duy,
Ác uy nghi cử chi,
Ác sở hành, hành xứ.
 

283. Sabbe samaggā hutvāna abhinibbijjayātha naṃ,
kāraṇḍavaṃ niddhamatha kasambuṃ cāpakassatha.

283. Tất cả các ngươi hãy hợp nhất lại, hãy xa lánh kẻ ấy, hãy tống đi bụi bặm, và hãy lùa bỏ rác rưởi.

281. Tất cả đều đồng tình,
Tránh xa ngưòi như vậy,
Hãy thổi nó như bụi,
Hãy quăng nó như rác.

284. Tato palāpe vāhetha assamaṇe samaṇamānine,
niddhamitvāna pāpicche pāpa-ācāragocare.

284. Sau đó, các ngươi hãy loại bỏ các cặn bã, những kẻ không phải Sa-môn giả mạo như là Sa-môn, hãy tống đi những kẻ có ước muốn ác xấu, có hành vi và nơi lai vãng xấu xa.

282. Hãy đuổi kẻ nói nhiều,
Kẻ Sa-môn giả hiệu,
Sau khi đuổi ác dục,
Ác uy nghi hành xứ.

285. Suddhā suddhehi saṃvāsaṃ kappayavho patissatā,
tato samaggā nipakā dukkhassantaṃ karissathāti.

285. Là những người trong sạch các ngươi hãy sắp xếp việc cộng trú với những vị trong sạch, có sự tôn trọng lẫn nhau. Từ đó, có sự hợp nhất, chín chắn, các ngươi sẽ thực hiện việc chấm dứt khổ đau.

283. Hãy giữ mình trong sạch,
Chung sống kẻ trong sạch,
Sống thích đáng, chánh niệm,
Rồi hòa hợp, sáng suốt,
Hãy chấm dứt khổ đau
.

 

Kapilasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Kapila.

 

 

 

7. BRĀHMAṆADHAMMIKASUTTAṂ

 

 

7. KINH TRUYỀN THỐNG BÀ-LA-MÔN

 

 

7. KINH PHÁP BÀ-LA-MÔN

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho sambahulā kosalakā brāhmaṇamāhāsāḷā jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayo anuppattā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu, sammodanīyaṃ kathaṃ sārānīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te brāhmaṇamahāsāḷā bhagavantaṃ etadavocuṃ:

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, nhiều vị Bà-la-môn giàu có, cư dân xứ Kosala, già cả, uy tín, lớn tuổi, sống thọ, đã đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời, đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, các vị Bà-la-môn giàu có ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi nhiều Bà-la-môn đại phú ở Kosala già yếu, cao niên, trưởng lão, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn:

 

Sandissanti nu kho bho gotama etarahi brāhmaṇā porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhammeti.

 

- Thưa ngài Gotama, các vị Bà-la-môn hiện nay có sống theo pháp Bà-la-môn của các vị Bà-la-môn thời xưa không?

- Thưa Tôn giả Gotama, hiện nay còn có những Bà-la-môn nào được thấy là theo pháp Bà-la-môn của những Bà-la-môn thời xưa?

Na kho brāhmaṇā sandissanti etarahi brāhmaṇā porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhammeti.
 

- Này các Bà-la-môn, các vị Bà-la-môn hiện nay không sống theo pháp Bà-la-môn của các vị Bà-la-môn thời xưa.

- Này các Bà-la-môn, hiện nay không còn thấy các Bà-la-môn theo pháp Bà-la-môn của các Bà-la-môn thời xưa?

Sādhu no bhavaṃ gotamo porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhammaṃ bhāsatu sace bhoto gotamassa agarūti.
 

- Thưa ngài Gotama, lành thay xin ngài Gotama hãy nói cho chúng tôi về pháp Bà-la-môn của các vị Bà-la-môn thời xưa, nếu đối với ngài Gotama là không trở ngại.

- Lành thay, Tôn giả Gotama hãy nói cho pháp Bà-la-môn của các Bà-la-môn thời xưa. Nếu Tôn giả Gotama không thấy gì phiền phức.

 

Tena hi brāhmaṇā suṇātha sādhukaṃ manasikarotha bhāsissāmīti.

 

- Này các Bà-la-môn, như thế thì các người hãy lắng nghe, các người hãy khéo chú ý, Ta sẽ nói.

- Vậy này các Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ nói.

Evaṃ bhoti kho te brāhmaṇamahāsāḷā bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca:

“Thưa ngài, xin vâng,” các vị Bà-la-môn giàu có ấy đã đáp lại đức Thế Tôn Đức Thế Tôn đã nói điều này:

- Thưa vâng, Tôn giả. Các Bà-la-môn đại phú ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:

 

286. Isayo pubbakā āsuṃ saṃyatattā tapassino,
pañcakāmaguṇe hitvā attadatthamacārisuṃ.

286. Các vị ẩn sĩ thời quá khứ có bản thân đã được chế ngự, có sự khắc khổ, sau khi từ bỏ năm loại dục, các vị đã thực hành điều lợi ích cho bản thân.

 

  

284. Các ẩn sĩ thời xưa,
Chế ngự, sống khắc khổ,
Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
Hành lý tưởng tự ngã.

287. Na pasū brāhmaṇānāsuṃ na hiraññaṃ na dhāniyaṃ,
sajjhāyadhanadhaññāsuṃ brahmaṃ nidhimapālayuṃ.

287. Không gia súc, không vàng, không tài sản đối với các vị Bà-la-môn. Có việc học là tài sản và lúa gạo, các vị đã bảo vệ kho báu cao thượng.

285. Phạm chí, không gia súc,
Không vàng bạc lúa gạo,
Học hỏi là tài sản,
Họ che chở hộ trì,
Kho tàng tối thượng ấy.

288. Yaṃ tesaṃ pakataṃ āsi dvārabhattaṃ upaṭṭhitaṃ,
saddhāpakatamesānaṃ dātave tadamaññisuṃ.

288. Vật nào đã được làm ra dành cho các vị ấy, vật thực được đặt gần ở cánh cửa (của ngôi nhà), vật đã được làm ra bởi niềm tin, (các thí chủ) nghĩ rằng vật ấy sẽ được bố thí đến những vị đang tầm cầu.

286. Ðồ ăn được sửa soạn,
Ðược đặt tại ngưỡng cửa,
Với lòng tin, họ soạn
Ðể cúng bậc Thánh cầu.

289. Nānārattehi vatthehi sayaneh’ āvasathehi ca,
phītā janapadā raṭṭhā te namassiṃsu brāhmaṇe.

289. Với các vải vóc nhuộm nhiều màu, với các giường nằm, và với các chỗ trú ngụ, các xứ sở, các vương quốc thịnh vượng đã tôn vinh các vị Bà-la-môn ấy.

287. Với vải mặc nhiều màu,
Với giường nằm trú xứ,
Từ quốc độ giàu có,
Họ đảnh lễ Phạm chí.

290. Avajjhā brāhmaṇā āsuṃ ajeyyā dhammarakkhitā,
na te koci nivāresi kuladvāresu sabbaso.

290. Các vị Bà-la-môn đã không bị giết hại, không bị áp bức, được pháp luật bảo vệ, hoàn toàn không có bất cứ người nào đã ngăn cản các vị ấy ở các ngưỡng cửa của các gia đình.

288. Không bị ai xâm phạm
Là Phạm chí thời ấy,
Không bị ai chiến hại,
Họ được pháp che chở,
Không ai ngăn chận họ,
Tại ngưỡng cửa gia đình.

291. Aṭṭhacattārisaṃ vassāni komāraṃ brahmacariyaṃ cariṃsu te,
vijjācaraṇapariyeṭṭhiṃ acaruṃ brāhmaṇā pure.

291. Các vị ấy đã thực hành Phạm hạnh từ thời niên thiếu cho đến bốn mươi tám tuổi. Các vị Bà-la-môn trước đây đã tầm cầu kiến thức và đức hạnh.

289. Từ trẻ đến bốn tám,
Các Phạm chí thời xưa,
Họ sống hành Phạm hạnh,
Tầm cầu minh và hạnh.

292. Na brāhmaṇā aññamagamuṃ napi bharīyaṃ kiṇiṃsu te,
sampiyeneva saṃvāsaṃ saṃgantvā samarocayuṃ.

292. Các vị Bà-la-môn đã không đi đến với (giai cấp) khác, các vị ấy cũng đã không mua người vợ. Chi do sự yêu thương lẫn nhau, họ đã đi đến với nhau và cùng vui thích sự chung sống với nhau.

290. Các vị Bà-la-môn,
Không đến giai cấp khác,
Không mua người làm vợ,
Chung sống trong tình thương,
Họ đi đến với nhau,
Trong niềm hoan hỷ chung.

293. Aññatra tamhā samayā utuveramaṇimpati,
antarā methunaṃ dhammaṃ nāssu gacchanti brāhmaṇā.

293. Trừ ra thời điểm ấy, lúc dứt kinh kỳ của người vợ, khoảng giữa (chu kỳ ấy), các vị Bà-la-môn không bao giờ đi đến việc đôi lứa.

291. Ngoại trừ thời gian ấy,
Thời có thể thụ thai,
Là người Bà-la-môn,
Không đi đến giao cấu.

294. Brahmacariyañca sīlañca ajjavaṃ maddavaṃ tapaṃ,
soraccaṃ avihiṃsañca khantiñcāpi avaṇṇayuṃ.

294. Các vị đã ca ngợi Phạm hạnh, giới hạnh, sự ngay thẳng, sự mềm mỏng, sự khắc khổ, sự nhã nhặn, sự không hãm hại, và luôn cả sự kham nhẫn.

292. Họ tán thán Phạm hạnh,
Giới, học thức, nhu hòa,
Khắc khổ và hòa nhã,
Bất hại và nhẫn nhục.

295. Yo nesaṃ paramo āsi brahmā daḷhaparakkamo,
sa vāpi methunaṃ dhammaṃ supinantepi nāgamā.

295. Trong số các vị ấy, vị nào là tối thắng, cao cả, có sự nỗ lực vững chải, chính vị ấy đã không còn đi đến việc đôi lứa, dầu là trong giấc mơ.

293. Vị tối thắng trong họ,
Là Phạm thiên, nỗ lực,
Vị ấy không giao hợp,
Cho đến trong cơn mộng.

296. Tassa vattamanusikkhantā idheke viññujātikā,
brahmacariyañca sīlañca khantiñcāpi avaṇṇayuṃ.

296. Trong khi học tập theo sự thực hành của vị ấy, nhiều vị ở đây, có bản tánh hiểu biết, đã ca ngợi Phạm hạnh, giới hạnh, và luôn cả sự kham nhẫn.

294. Ở đời, bậc có trí,
Học theo hạnh vị ấy,
Họ tán thán Phạm hạnh,
Giới đức và nhẫn nhục.

297. Taṇḍulaṃ sayanaṃ vatthaṃ sappitelañca yāciya,
dhammena samodhānetvā tato yaññamakappayuṃ,
upaṭṭhitasmiṃ yaññasmiṃ nāssu gāvo haniṃsu te.

297. Sau khi yêu cầu gạo, giường nằm, vải vóc, bơ lỏng và dầu ăn, sau khi đã thu thập đúng pháp, từ đó các vị đã chuẩn bị lễ hiến tế. Khi lễ hiến tế được sẵn sàng, các vị ấy đã không bao giờ giết hại các con bò.

295. Họ xin cơm, sàng tọa,
Vải mặc, bơ và dầu,
Thâu nhiếp thật đúng pháp,
Họ tổ chức tế tự,
Trong lễ tế tự ấy,
Họ không giết bò cái.

298. Yathā mātā pitā bhātā aññe vāpi ca ñātakā,
gāvo no paramā mittā yāsu jāyanti osadhā.

298. 298. Giống như mẹ, cha, anh (em) trai, hoặc luôn cả những người bà con khác, những con bò là bạn bè tốt nhất của chúng ta, (bởi vì) từ nơi chúng các thuốc chữa bệnh được sản xuất ra.

296. Như mẹ và như cha,
Như anh, như bà con,
Bò là bạn tối thượng,
Từ chúng, sanh được vị.

299. Annadā baladā cetā vaṇṇadā sukhadā tathā,
etamatthavasaṃ ñatvā nāssu gāvo haniṃsu te.

299. Tương tự như thế, chúng còn cho thức ăn, cho sức mạnh, cho dung sắc, và cho sự an lạc. Sau khi biết được lợi ích này, các vị Bà-la-môn đã không bao giờ giết hại những con bò.

297. Bò cho ăn, cho sức,
Cho dung sắc, cho lạc
Biết được lợi ích này,
Họ không giết hại bò.

300. Sukhumālā mahākāyā vaṇṇavanto yasassino,
brāhmaṇā sehi dhammehi kiccākiccesu ussukā,
yāva loke avattiṃsu sukhamedhitthayampajā.

300. Có vóc dáng thanh tú, có thân hình cao lớn, có dung sắc, có danh tiếng, các vị Bà-la-môn năng nổ ở phận sự và không phải là phận sự đối với các truyền thống của mình. Chừng nào các truyền thống ấy còn vận hành ở thế gian, thì dòng dõi (con người) này còn đạt được sự an lạc.

298. Họ đoan trang thân lớn,
Có dung sắc, danh xưng,
Bản tánh là nhiệt tình,
Trong hành thiện dứt ác,
Họ còn sống ở đời,
Dân chúng hưởng an lạc.

301. Tesaṃ āsi vipallāso disvāna aṇuto aṇuṃ,
rājino va viyākāraṃ nāriyo samalaṅkatā.

301. Trong số các vị Bà-la-môn đã có sự đổi thay. (Trước đây) các vị đã nhìn thấy nhỏ nhoi là nhỏ nhoi, ví như sự huy hoàng của nhà vua, các người phụ nữ đã được trang điểm, ...

299. Giữa họ có đảo lộn,
Họ thấy vật nhỏ nhen.
Thấy huy hoàng nhà vua,
Thấy trang sức phụ nữ.

302. Rathe cājaññasaṃyutte sukate cittasibbane,
nivesane nivese ca vibhatte bhāgaso mite.

302. ... các cỗ xe đã được thắng ngựa thuần chủng, đã khéo được kiến tạo, các tấm thảm may nhiều màu sắc, các chỗ trú ngụ và các ngôi nhà đã được phân chia, đã được đo đạc theo từng phần.

300. Các cỗ xe khéo làm,
Thắng với ngựa thuần thục,
Trang hoàng với tấm thảm,
Nhiều sắc lại nhiều màu.
Các trú xứ phòng ốc,
Khéo chia, khéo ngăn cách.

303. Gomaṇḍalaparibbūḷhaṃ nārīvaragaṇāyutaṃ,
uḷāraṃ mānusaṃ bhogaṃ abhijjhāyiṃsu brāhmaṇā.

303. (Giờ đây) các vị Bà-la-môn đã tham lam của cải sung túc của loài người, được vây quanh bởi những bầy gia súc, được kết hợp với những nhóm phụ nữ sang trọng.

301. Ðàn bà mập vây quanh,
Chúng người đẹp hầu hạ,
Bà-la-môn tham đắm,
Tài sản lớn của người.

304. Te tattha mante ganthetvā okkākaṃ tadupāgamuṃ pahūtadhanadhaññosi,
yajassu bahu te vittaṃ yajassu bahu te dhanaṃ.

304. Các vị ấy, sau khi đã soạn thảo các chú thuật về việc ấy, rồi đã đi đến gặp vua Okkāka (nói rằng): ‘Ngài có nhiều tài sản và lúa gạo. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều của cải cho ngài. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều tài sản cho ngài.’

302. Ðọc các bài kệ tụng,
Họ đến Okkàla,
Ngài được tài sản lớn,
Ngài được lúa gạo nhiều.
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tài sản ngài lớn,
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tiền bạc ngài lớn.

305. Tato ca rājā saññatto brāhmaṇehi rathesabho,
assamedhaṃ purisamedhaṃ sammāpāsaṃ vājapeyyaṃ niraggalaṃ,
ete yāge yajitvāna brāhmaṇānaṃ adā dhanaṃ.

305. Và sau đó, đức vua, vị chúa tể của các xa phu, được các vị Bà-la-môn thuyết phục, đã cúng tế những sự hiến cúng này: lễ tế ngựa, lễ tế người, lễ ném cái nêm, lễ uống rượu thánh, lễ hiệp tế, rồi đã bố thí đến các vị Bà-la-môn tài sản (gồm có):

303. Rồi vua, bậc lãnh tụ,
Vương chủ các xa binh,
Ðược các Bà-la-môn
Nhiếp phục và cảm hóa,
Tổ chức các tế đàn,
Về ngựa và về người,
Quăng con nêm, nước thánh,
Với các cửa then cài.
Lễ tế đàn này xong,
Họ cho các Phạm chí,
Rất nhiều loại tài sản.

306. Gāvo sayanañca vatthañca nāriyo samalaṅkatā,
rathe cājaññasaṃyutte sukate cittasibbane.

306. Đàn bò, giường nằm, vải vóc, và những người phụ nữ đã được trang điểm, các cỗ xe đã được thắng ngựa thuần chủng, đã khéo được kiến tạo, các tấm thảm may nhiều màu sắc.

304. Bò, giường nằm, áo mặc,
Nữ nhân trang sức đẹp,
Các cỗ xe khéo làm,
Thắng với ngựa thuần thục,
Trang hoàng với tấm thảm,
Nhiều sắc lại nhiều màu.

307. Nivesanāni rammāni suvibhattāni bhāgaso,
nānādhaññassa pūretvā brāhmaṇānaṃ adā dhanaṃ.

307. Sau khi chứa đầy các chỗ trú ngụ xinh xắn đã khéo được phân chia thành từng phần với các loại mễ cốc khác nhau, đức vua đã bố thí tài sản đến các vị Bà-la-môn.

305. Các trú xứ đẹp đẽ,
Khéo chia, khéo ngăn cách,
Ðầy các loại lúa gạo,
Họ cho các Phạm chí,
Rất nhiều là tài sản.

308. Te ca tattha dhanaṃ laddhā sannidhiṃ samarocayuṃ,
tesaṃ icchāvatiṇṇānaṃ bhiyyo taṇhā pavaḍḍhatha,
te tattha manne ganthetvā okkākaṃ punupāgamuṃ.

308. Và các vị ấy, sau khi nhận được tài sản tại nơi ấy, đã vui thích việc tích trữ (của cải). Đối với các vị bị tác động bởi ước muốn, tham ái đã tăng trưởng nhiều hơn đến các vị ấy. Các vị ấy, sau khi soạn thảo các chú thuật về việc ấy, đã đi đến gặp vua Okkāka lần nữa (nói rằng):

306. Ở đây, được tài sản,
Phạm chí thích cất chứa,
Lòng dục chúng thỏa mãn,
Khát ái càng tăng trưởng,
Họ lại đọc kệ tụng,
Họ đến Okkàka.

309. Yathā āpo ca paṭhavī hiraññaṃ dhanadhāniyaṃ,
evaṃ gāvo manussānaṃ parikkhāro so hi pāṇinaṃ,
yajassu bahu te vittaṃ yajassu bahu te dhanaṃ.

309. ‘Nước và đất, vàng, tài sản và mễ cốc (quan trọng) đối với con người như thế nào, thì bầy bò là như vậy, bởi vì nó là vật cần thiết cho các sinh mạng. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều của cải cho ngài. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều tài sản cho ngài.’

307. Như nước, đất và vàng,
Tài sản và lúa gạo,
Cũng vậy là các bò,
Ðối với các loài, người.
Chúng là những vật dụng,
Cần thiết cho hữu tình.
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tài sản ngài lớn,
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tiền bạc ngài lớn?

310. Tato ca rājā saññatto brāhmaṇehi rathesabho,
neka satasahassiyo gāvo yaññe aghātayi.

310. Và sau đó, đức vua, vị chúa tể của các xa phu, được các vị Bà-la-môn thuyết phục, đã giết hại hàng trăm ngàn con bò trong lễ cúng tế.

308. Rồi vua, bậc lãnh tụ,
Vương chủ các xa binh,
Ðược các Bà-la-môn,
Nhiếp phục và cảm hóa,
Tổ chức các tế đàn,
Trăm ngàn bò bị giết.

311. Na pādā na visāṇena nāssu hiṃsanti kenaci,
gāvo eḷakasamānā soratā kumbhadūhanā,
tā visāṇe gahetvāna rājā satthena ghātayi.

311. Không bằng gót chân, không bằng cái sừng, các con bò đã không bao giờ hãm hại (ai) bằng bất cứ vật gì. Chúng hiền hòa giống như loài cừu, cho vắt sữa từng chậu. Sau khi nắm lấy chúng ở cái sừng, đức vua đã giết chúng bằng dao.

309. Không phải với bàn chân,
Cũng không phải với sừng.
Con bò hại một ai,
Chúng được khéo nhiếp phục
Như con dê, con cừu,
Chúng cho nhiều ghè sữa,
Tuy vậy, vua ra lệnh,
Nắm sừng bắt lấy chúng,
Giết chúng bằng dao gươm.

312. Tato ca devā pitaro indo asurarakkhasā,
adhammo iti pakkanduṃ yaṃ satthaṃ nipatī gave.

312. Và do đó, chư Thiên, các Phạm Thiên, Thiên Chủ Inda, các A-tu-la, và các quỷ thần đã thét lên: ‘Phi pháp’ về việc cắm xuống con dao ở các con bò.

310. Rồi chư Thiên, Tổ tiên,
Ðế Thích, A-tu-la,
Với các hàng Dạ-xoa,
Ðồng thanh cùng la lớn,
Như vậy là phi pháp,
Khi gươm giết hại bò.

313. Tayo rogā pure āsuṃ icchā anasanaṃ jarā,
pasūnañca samārambhā aṭṭhānavutimāgamuṃ.

313. Trước đây đã có ba căn bệnh: ước muốn, thiếu ăn, già nua. Do việc giết hại các con thú, các căn bệnh đã lên đến chín mươi tám loại.

311. Trước đã có ba bệnh,
Dục, ăn không đủ già,
Do giết hại muôn thú,
Chúng lên đến chín tám.

314. Eso adhammo daṇḍānaṃ okkanto purāṇo ahu,
adūsikāyo haññanti dhammā dhaṃsanti yājakā.

314. Trong số các hình phạt, việc phi pháp này đã là cổ xưa được lưu truyền lại. Các loài vô hại bị giết chết, các vị thực hiện lễ tế hủy hoại truyền thống.

 

312. Trượng phạt phi pháp này,
Từ xưa truyền đến nay,
Vật vô tội bị giết,
Còn người lễ tế đàn,
Thối thất khỏi Chánh pháp,

315. Evameso aṇudhammo porāṇo viññūgarahito,
yattha edisakaṃ passati yājakaṃ garahatī jano.

315. Như vậy, truyền thống thấp kém cổ xưa này bị những bậc có sự hiểu biết quở trách. Nơi nào nhìn thấy việc làm như thế người ta đã quở trách vị thực hiện lễ tế.

313. Vậy tùy pháp cổ này,
Bị bậc trí khiển trách,
Chỗ nào lễ tế đàn,
Như vậy, được xem thấy,
Quần chúng liền chỉ trích,
Các vị lễ tế đàn.

316. Evaṃ dhamme viyāpanne vibhinnā suddavessikā,
puthu vibhinnā khattiyā patiṃ bhariyā ’vamaññatha.

316. Khi truyền thống bị đảo lộn như vậy, các giai cấp Thủ-đà-la và Vệ-xá bị phân chia, các Sát-đế-lỵ bị phân chia riêng rẽ, vợ đã xem thường chồng.

314. Như vậy, pháp bị hoại,
Hạng Thủ-đà, Phệ-xá,
Bị phân ly chia rẽ,
Các hạng Sát-đế-lị
Bị chia năm, chẻ bảy
Còn vợ khinh rẽ chồng.

317. Khattiyā brahmabandhū ca ye caññe gottarakkhitā,
jātivādaṃ niraṃkatvā kāmānaṃ vasamanvagunti.

317. Các Sát-đế-lỵ, các thân quyến của Phạm Thiên (Bà-la-môn), và những người khác được bảo vệ bởi dòng họ (Thủ-đà-la và Vệ-xá), đã bỏ bê việc nói đến dòng dõi và đã đi theo sự thống trị của các dục.”

315. Các Sát-lị hoàng tộc,
Các bà con Phạm thiên,
Cùng với hạng người khác,
Ðược gia tộc che chở,
Họ bỏ quên sanh chủng,
Họ rơi vào các dục.

Evaṃ vutte te brāhmaṇamahāsāḷā bhagavantaṃ etadavocuṃ:

Khi được nói như vậy, các vị Bà-la-môn giàu có ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

Khi nghe nói vậy, các Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn;

 

Abhikkantaṃ bho gotama abhikkantaṃ bho gotama. Seyyathāpi bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito, ete mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca, upāsake no bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate ”ti.

“Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, cũng giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, hoặc mở ra vật đã bị che kín, hoặc chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế Pháp đã được Ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Chúng tôi đây xin đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin Ngài Gotama hãy ghi nhận chúng tôi là những người cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”

- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, trình bày rõ những gì bị che kín chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối đễ những ai có mắt có thể nhìn thấy sắc. Cũng vậy, Pháp được Tôn giả Gotama với nhiều pháp môn trình bày giải thích. Chúng con xin quy y Tôn giả Gotama quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.

 

Brāhmaṇadhammikasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Truyền Thống Bà-la-môn.

 

 

8. DHAMMA (NĀVĀ) SUTTAṂ

 

 

8. KINH GIÁO PHÁP (CHIẾC THUYỀN)

 

 

8. KINH CHIẾC THUYỀN

 

318. Yasmā hi dhammaṃ puriso vijaññā
indaṃ ’va naṃ devatā pūjayeyya,
so pūjito tasmiṃ pasannacitto
bahussuto pātukaroti dhammaṃ.

318. Do bởi vị nào mà một người có thể nhận thức được Giáo Pháp, thì nên tôn vinh vị ấy, tựa như vị Thiên nhân tôn vinh Thiên Chủ Inda. Được tôn vinh, có tâm hoan hỷ ở người (học trò) ấy, vị đa văn ấy (sẽ) bày tỏ về Giáo Pháp.

316. Từ vị nào một người,
Rõ biết được Chánh pháp,
Hãy đảnh lễ vị ấy,
Như chư Thiên, Inda,
Vị ấy được đảnh lễ,
Tâm tư sanh hoan hỷ,
Nghe nhiều, học hỏi nhiều,
Thuyết trình chơn diệu pháp.

 

319. Tadaṭṭhikatvāna nisamma dhīro
dhammānudhammaṃ paṭipajjamāno,
viññū vibhāvī nipuṇo ca hoti
yo tādisaṃ bhajate appamatto.
 

319. Người nào thân cận với vị (thầy) như thế ấy, không xao lãng, là người sáng trí, sau khi lấy điều ấy làm mục đích, sau khi lắng tai nghe, trong khi thực hành đúng pháp và thuận pháp, trở thành người hiểu biết, thông suốt, và khôn khéo.

317. Vị sáng suốt chú tâm,
Suy tư và quán sát
Thực hành pháp tuỳ pháp,
Trở thành vị hiểu biết,
Thông minh và thận trọng,
Không phóng dật, vị ấy,
Theo gương vị như vậy.

320. Khuddañca bālaṃ upasevamāno
anāgatatthañca usūyakañca,
idheva dhammaṃ avibhāvayitvā
avitiṇṇakaṅkho maraṇaṃ upeti.
 

320. Trong khi phục vụ vị (thầy) nhỏ mọn và ngu dốt, còn chưa đạt đến mục đích và có tánh ganh tỵ, ngay tại nơi này người (học trò) không thông suốt Giáo Pháp và đi đến cái chết, còn chưa vượt qua sự nghi hoặc.

318. Ai phục vụ kẻ ngu,
Ngu si, tâm bé nhỏ,
Mục đích chưa đạt được,
Lại ganh tị tật đố,
Chính ở đây Chánh pháp,
Không phát triển tu tập,
Chưa vượt thoát nghi hoặc,
Người ấy bị tử vong.

321. Yathā naro āpagaṃ otaritvā
mahodakaṃ salilaṃ sīghasotaṃ,
so vuyhamāno anusotagāmi
kiṃ so pare sakkati tārayetuṃ.
 

321. Giống như người đàn ông sau khi lội xuống dòng sông có nước lớn, tràn lan, có dòng nước chảy xiết, trong khi bị cuốn trôi xuôi theo dòng nước, người ấy có khả năng để giúp những kẻ khác vượt qua không?

319. Như người nhảy xuống sông,
Dòng sông nước ngập tràn,
Nước sông, nhớp đục ngầu,
Dòng nước chảy nhanh mạnh
Người ấy bị lôi cuốn,
Theo dòng nước trôi đi,
Làm sao nó có thể,
Giúp người khác vượt dòng.

322. Tatheva dhammaṃ avibhāvayitvā
bahussutānaṃ anisāmayattha,
sayaṃ ajānaṃ avītiṇṇakaṅkho
kiṃ so pare sakkati nijjhāpetuṃ.

322. Tương tự như thế ấy, người không thông suốt Giáo Pháp, không lắng tai nghe ý nghĩa ở những vị đa văn, trong khi chính mình không biết, còn chưa vượt qua sự nghi hoặc, người ấy có khả năng để giúp cho những kẻ khác lĩnh hội không?

320. Cũng vậy, với người nào,
Pháp không được tu tập,
Không quán sát ý nghĩa,
Của những vị nghe nhiều,
Tự mình không rõ biết,
Nghi hoặc chưa vượt qua,
Làm sao nó có thể,
Giúp người khác thiền định.

323. Yathāpi nāvaṃ daḷhamāruhitvā
piyen’ arittena samaṅgibhūto,
so tāraye tattha bahūpi aññe
tatrūpāyaññū kusalo mutīmā.
 

323. Cũng giống như người, sau khi leo lên chiếc thuyền vững chắc, được cung cấp mái chèo và bánh lái, là người thiện xảo, biết xử trí, hiểu biết cách thức (điều khiển) ở nơi ấy (chiếc thuyền), người ấy có thể giúp cho nhiều người khác nữa vượt qua nơi ấy.

321. Như người được leo lên,
Chiếc thuyền mạnh vững chắc,
Ðược trang bị đầy đủ,
Mái chèo và tay lái;
Người như vậy ở đây,
Giúp nhiều người ngược dòng,
Rõ biết những phương tiện,
Thiện xảo và sáng suốt.

324. Evampi yo vedagū bhāvitatto
bahussuto hoti avedhadhammo,
so kho pare nijjhapaye pajānaṃ
sotāvadhānūpanīsūpapanne.
 

324. Cũng như vậy, vị nào đã đạt được tri kiến, có bản thân đã được tu tập, là vị nghe nhiều, có bản tánh không bị dao động, quả thật vị ấy, trong khi nhận biết, có thể giúp cho những người khác lĩnh hội, những người có sự lắng tai nghe và có được điều kiện căn bản (của sự chứng ngộ).

322. Như vậy, bậc sáng suốt,
Luôn luôn tự tu tập,
Bậc nghe nhiều hiểu nhiều,
Không còn bị dao động,
Vị ấy giúp đỡ được,
Các người khác tu thiền,
Làm khởi lên nguyên nhân,
Tha thiết muốn nghe pháp.

325. Tasmā have sappurisaṃ bhajetha
medhāvinañceva bahussutañca,
aññāya atthaṃ paṭipajjamāno
viññātadhammo so sukhaṃ labhethāti.

325. Vì thế, thật vậy nên thân cận với bậc chân nhân, vị có sự thông minh và có sự nghe nhiều. Sau khi hiểu được ý nghĩa, trong khi thực hành, với Giáo Pháp đã được nhận thức, người ấy có thể đạt được sự an lạc.

323. Do vậy, hãy thân cận,
Bậc chân nhân hiền sĩ,
Bậc sáng suốt, có trí,
Bậc nghe nhiều học nhiều.
Sau khi biết mục đích,
Cố gắng khéo hành trì,
Rõ biết được Chánh pháp,
Vị ấy được an lạc.

 

Dhammasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Giáo Pháp.

 

 

 

9. KIṂSĪLASUTTAṂ

 

9. KINH VỚI GIỚI GÌ

 

9. KINH THẾ NÀO LÀ GIỚI

 

326. Kiṃsīlo kiṃsamācāro kāni kammāni brūhayaṃ,
naro sammā niviṭṭhassa uttamatthañca pāpuṇe.

326. Với giới gì, với sở hành gì, trong lúc làm tăng trưởng các nghiệp gì, một người có thể được tiến vào một cách đúng đắn và có thể đạt được mục đích tối thượng?

324. Thế nào là giới đức?
Thế nào là chánh hạnh?
Cần phải làm tăng trưởng.
Thân khẩu ý nghiệp nào?
Ðể người chánh nhập cuộc,
Ðạt được đích tối thượng?

327. Vuddhāpacāyī anusuyyako siyā
kālaññū cassa garunaṃ dassanāya,
dhammiṃ kathaṃ erayitaṃ khaṇaññū
suṇeyya sakkacca subhāsitāni.

327. Nên có sự tôn kính các bậc trưởng thượng, không nên ganh tỵ,

và nên biết thời điểm để yết kiến các vị thầy,

nên biết thời khắc buổi thuyết giảng Pháp được bắt đầu,

nên nghiêm chỉnh lắng nghe các lời đã được khéo nói.

325. Kính lễ bậc trưởng thượng,
Không ganh tị một ai,
Cần phải biết thời gian,
Ðể yết kiến Ðạo sư,
Biết được đúng thời khắc,
Thuyết pháp bắt đầu giảng,
Hãy cẩn thận lắng nghe,
Lời giảng được khéo nói.

328. Kālena gacche garunaṃ sakāsaṃ
thambhaṃ niraṃkatvā nivātavutti,
atthaṃ dhammaṃ saṃyamaṃ brahmacariyaṃ
anussare ceva samācare ca.

328. Nên đi đến trình diện các vị thầy đúng thời điểm,

nên dẹp bỏ sự bướng bỉnh, có lối cư xử khiêm nhường,

về ý nghĩa (lời giảng), Giáo Pháp, sự tự kiềm chế, và Phạm hạnh,

chẳng những nên ghi nhớ mà còn nên hành trì.

326. Hãy đi đến đúng thời,
Trước mặt vị Ðạo Sư,
Từ bỏ tánh cứng đầu,
Với thái độ khiêm tốn,
Hãy nhớ nghĩ ức niệm,
Hãy chơn chánh hành trì,
Mục đích và Chánh pháp,
Chế ngự và Phạm hạnh.

329. Dhammārāmo dhammarato
dhamme ṭhito dhammavinicchayaññū,
no vācare dhammasandosavādaṃ
nīyetha tacchehi subhāsitehi.

 

329. Có sự vui thích ở Giáo Pháp, ưa thích Giáo Pháp,

đứng vững ở Giáo Pháp, biết xét đoán về Giáo Pháp,

không nên tạo ra lời nói gây hại cho Giáo Pháp,

nên được dẫn dắt bởi những sự thật đã được khéo nói.

 

327. Vui thích trong Chánh Pháp
Hoan hỷ trong Chánh Pháp,
An trú trên Chánh pháp,
Biết phân tích Chánh pháp,
Sở hành không làm gì,
Có lời uế nhiễm pháp,
Chịu hướng dẫn lãnh đạo,
Lời trung thực khéo nói.

330. Hassaṃ jappaṃ paridevaṃ padosaṃ
māyākataṃ kuhakaṃ giddhimānaṃ,
sārambhakakkasakasāva mucchaṃ
hitvā care vītamado ṭhitatto.

330. Nên từ bỏ sự cười giỡn, việc nói vô bổ, sự than vãn, sự nổi sân, việc làm xảo trá, sự giả dối, sự thèm khát, và ngã mạn, sự hung hăng, sự thô lỗ, các uế trược, sự mê mẩn, và nên sống xa lìa sự đam mê, với bản thân đã được ổn định.

328. Bỏ cười đùa, lắm miệng,
Khóc than và sân hận,
Làm những điều man trá,
Lừa đảo, tham, kiêu mạn,
Bồng bột và bạo ngôn,
Cứng rắn và đam mê,
Sống từ bỏ tất cả,
Ly say đắm, kiên trì.

331. Viññātasārāni subhāsitāni
sutañca viññātasamādhisāraṃ,
na tassa paññā ca sutañca vaḍḍhati
yo sāhaso hoti naro pamatto.

331. Các cốt lõi đã được nhận thức là các lời đã được khéo nói. Điều đã được nghe và điều đã được nhận thức là cốt lõi của định. Người nam nào nóng nảy và xao lãng, tuệ và điều đã được nghe của người ấy không tăng trưởng.

329. Thức tri được cốt lõi,
Những lời đươc khéo nói,
Ðươc nghe khéo thức tri,
Cốt lõi của thiền định,
Với con người hấp tấp,
Lại phóng dật buông lung,
Trí tuệ, đều được nghe,
Không có thể tăng trưởng.

332. Dhamme ca ye ariyapavedite ratā
anuttarā te vacasā manasā kammanā ca,
te santisoraccasamādhisaṇṭhitā
sutassa paññāya ca sāramajjhagūti.

332. Những người nào thích thú ở Giáo Pháp đã được tuyên thuyết bởi bậc Thánh nhân, những người ấy là không vượt hơn được về lời nói, về ý, và về hành động, những người ấy đã đứng vững ở sự an tịnh, ở sự hiền hòa, và ở định, họ đã đạt đến cốt lõi của điều đã được nghe và của tuệ.

330. An vui thích Chánh pháp,
Do bậc Thánh tuyên thuyết,
Họ trở thành vô thượng,
Về lời ý và nghiệp,
Họ an tịnh nhu hòa,
An trú trên thiền định,
Chứng đạt được cốt lõi,
Pháp được nghe, trí tuệ.

 

Kiṃsīlasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

Dứt Kinh Với Giới Gì.

 

 

 

10. UṬṬHĀNASUTTAṂ

 

10. KINH ĐỨNG LÊN

 

 

10. KINH ĐỨNG DẬY

 

333. Uṭṭhahatha nisīdatha ko attho supitena vo,
āturānaṃ hi kā niddā sallaviddhāna ruppataṃ.

333. Hãy đứng lên! Hãy ngồi dậy! Lợi ích gì cho các ngươi với việc ngủ? Bởi vì ngủ nghê gì đối với những kẻ bệnh, bị mũi tên xuyên thủng, đang bị khổ sở?

331. Hãy đứng dậy, ngồi dậy,
Với người mộng ích gì?
Kẻ bệnh ngủ làm gì?
Khi mũi tên phiền lụy.
 

334. Uṭṭhahatha nisīdatha daḷhaṃ sikkhatha santiyā,
mā vo pamatte viññāya maccurājā amohayittha vasānuge.

334. Hãy đứng lên! Hãy ngồi dậy! Các ngươi hãy rèn luyện vững chắc về sự an tịnh. Chớ để Ma Vương biết được các ngươi xao lãng rồi gạt gẫm các ngươi trở thành những kẻ chịu sự sai khiến.

332. Hãy đứng dậy, ngồi dậy,
Hãy kiên trì học tập,
Ðạt cho được an tịnh,
Ðừng để cho thần chết,
Biết Ông là phóng dật,
Mê hoặc, chinh phục Ông.

335. Yāya devā manussā ca sitā tiṭṭhanti atthikā,
tarathetaṃ visattikaṃ khaṇo vo mā upaccagā,
khaṇātītā hi socanti nirayamhi samappitā.
 

335. Chư Thiên và nhân loại bị lệ thuộc vào điều nào mà tồn tại và có sự mong cầu, các ngươi hãy vượt qua điều vướng mắc ấy. Chớ để thời khắc trôi qua đối với ngươi, bởi vì những kẻ để thời khắc trôi qua (sẽ) sầu muộn khi bị đọa vào địa ngục.

333. Chư Thiên và loài Người,
Sống y chỉ tầm cầu,
Hãy vượt ái dục này,
Chớ để thời khắc qua,
Khi thời khắc đã qua,
Bị sầu khổ địa ngục.

336. Pamādo rajo pamādo pamādānupatito rajo,
appamattena vijjāya abbahe sallamattanoti.
 

336. Sự xao lãng là bụi bặm, sự xao lãng kế tiếp sự xao lãng là bụi bặm. Nhờ không xao lãng, nhờ vào minh, có thể nhổ lên mũi tên của bản thân.

334. Phóng dật là bụi nhơ,
Bụi do phóng dật khởi,
Với minh, không phóng dật,
Tự mình rút mũi tên.

 

Uṭṭhānasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

Dứt Kinh Đứng Lên.

 

 

 

11. RĀHULASUTTAṂ

 

 

11. KINH RĀHULA

 

 

11. KINH RĀHULA

 

337. Kacci abhiṇhasaṃvāsā nāvajānāsi paṇḍitaṃ,
ukkādhāro manussānaṃ kacci apacito tayā.
 

337. Con có coi thường bậc sáng suốt do việc cộng trú thường xuyên hay không? Bậc nắm giữ ngọn đuốc của loài người có được con tôn kính hay không?

Thế Tôn:

335. Thường chung sống người hiền,
Thầy có khinh miệt không?
Người cầm đuốc loài Người,
Ðược thầy tôn trọng không?

338. Nāhaṃ abhiṇhasaṃvāsā avajānāmi paṇḍitaṃ,
ukkādhāro manussānaṃ niccaṃ apacito mayā.

338. Con không coi thường bậc sáng suốt do việc cộng trú thường xuyên. Bậc nắm giữ ngọn đuốc của loài người luôn luôn được con tôn kính.

Ràhula:

336. Thường chung sống người hiền,
Con không có khinh miệt.
Người cầm đuốc loài Người,
Thường được con tôn trọng.

339. Pañca kāmaguṇe hitvā piyarūpe manorame,
saddhāya gharā nikkhamma dukkhassantakaro bhava.

339. Sau khi từ bỏ năm loại dục có hình thức đáng yêu, làm thích ý, sau khi rời căn nhà ra đi vì niềm tin, con hãy thực hiện việc chấm dứt khổ đau.

Thế Tôn:

337. Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
Khả ái và đẹp ý,
Với lòng tin xuất gia,
Hãy trở thành con người,
Làm chấm dứt khổ đau.

340. Mitte bhajassu kalyāṇe pantañca sayanāsanaṃ,
vivittaṃ appanigghosaṃ mattaññū hohi bhojane.

340. Con hãy thân cận những người bạn tốt lành và chỗ nằm ngồi thanh vắng, cô quạnh, ít tiếng động. Con hãy biết chừng mực về vật thực.

338. Thân cận với bạn lành,
Sống trú xứ xa vắng,
Viễn ly không ồn ào,
Hãy tiết độ ăn uống.

341. Cīvare piṇḍapāte ca paccaye sayanāsane,
etesu taṇhaṃ mā kāsi mā lokaṃ punarāgami.

341. Con chớ tạo ra sự tham ái ở những vật này: ở y phục, ở đồ ăn khất thực, ở thuốc men chữa bệnh, ở chỗ nằm ngồi. Con chớ đi đến thế gian lần nữa.

339. Y áo, đồ khất thực,
Vật dụng và sàng tọa,
Chớ có tham ái chúng,
Chớ trở lui đời này.

342. Saṃvuto pātimokkhasmiṃ indriyesu ca pañcasu,
sati kāyagatātyatthu nibbidā bahulo bhava.

342. Con hãy thu thúc theo giới bổn Pātimokkha và ở năm giác quan. Con hãy có niệm đặt ở thân. Con hãy có nhiều nhàm chán (về thế gian).

340. Chế ngự trong giới bổn,
Phòng hộ trong năm căn,
Hãy tu tập niệm thân,
Sống với nhiều nhàm chán.

343. Nimittaṃ parivajjehi subhaṃ rāgūpasaṃhitaṃ,
asubhāya cittaṃ bhāvehi ekaggaṃ susamāhitaṃ.

343. Con hãy xa lánh hiện tướng xinh đẹp, được gắn liền với luyến ái. Con hãy tu tập tâm về đề mục tử thi, có sự chuyên nhất, khéo định tĩnh.

341. Hãy từ bỏ tịnh tướng,
Hệ lụy với tham ái,
Tu tập tâm bất tịnh,
Nhất tâm, khéo định tĩnh.

344. Animittañca bhāvehi mānānusayamujjaha,
tato mānābhisamayā upasanto carissasīti.

344. Và con hãy tu tập về vô tướng. Con hãy nhổ bỏ sự tiềm ẩn của ngã mạn. Từ đó, nhờ vào sự lĩnh hội về ngã mạn, con sẽ sống được an tịnh.”

342. Hãy tu tập vô tướng,
Bỏ đi, mạn tùy miên,
Do nhiếp phục kiêu mạn,
Ngươi sẽ sống an tịnh
.

Itthaṃ sudaṃ bhagavā āyasmantaṃ rāhulaṃ imāhi gāthāhi abhiṇhaṃ ovadatīti.

Như thế, đức Thế Tôn thường xuyên giáo huấn đại đức Rāhula bằng những lời kệ này.

Như vậy, Thế Tôn thường giáo giới Tôn giả Ràhula với những bài kệ này.

 

 

Rāhulasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Rāhula.

 

 

 

12. NIGRODHAKAPPASUTTAṂ

 

 

12. KINH NIGRODHAKAPPA

 

 

12. KINH VANGĪSA

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā āḷaviyaṃ viharati aggāḷave cetiye. Tena kho pana samayena āyasmato vaṅgīsassa upajjhāyo nigrodhakappo nāma thero aggāḷave cetiye aciraparinibbuto hoti.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Āḷavī, ở bảo tháp Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức Vaṅgīsa, vị trưởng lão tên Nigrodhakappa, vửa viên tịch Niết Bàn không bao lâu tại bảo tháp Aggāḷava.

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế tôn sống ờ Alavi, tại điện Aggàlava. Lúc bấy giờ, giáo sư thọ sư của Tôn giả Vangìsa, tên là Nigrodhakappa tại điện Aggalava, mệnh chung không bao lâu.

 

Atha kho āyasmato vaṅgīsassa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi: Parinibbuto nu kho me upajjhāyo udāhu no parinibbutoti.
 

Sau đó, đại đức Vaṅgīsa trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi lên: “Thầy tế độ của ta là viên tịch Niết Bàn hay là không phải viên tịch Niết Bàn?”

 

Rồi Tôn giả Vangìsa, trong khi thiền định độc cư, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Không biết bậc giáo thọ sư của ta có hoàn toàn nhập Niết-bàn hay không hoàn toàn nhập Niết-bàn?".

Atha kho ayasvā vaṅgīso sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ etadavoca:

Sau đó vào buổi chiều, đại đức Vaṅgīsa, xuất khỏi thiền tịnh, đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, đại đức Vaṅgīsa đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Rồi Tôn giả Vangìsa vào buổi chiều, từ thiền tịnh đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Vangìsa bạch Thế Tôn:

 

Idha mayhaṃ bhante rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi: Parinibbuto nu kho me upajjhāyo udāhu no parinibbutoti.

“Bạch Ngài, ở đây trong lúc con thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi lên: ‘Thầy tế độ của ta là viên tịch Niết Bàn hay là không phải viên tịch Niết Bàn?’”

- Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi Thiền tịnh độc cư, con khởi lên tư tưởng như sau: "Không biết bậc giáo thọ sư của con có hoàn toàn nhập Niết Bàn hay không, hoàn toàn nhập Niết-bàn?"

 

Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:
 

Sau đó, đại đức Vaṅgīsa đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Rồi Tôn giả Vangìsa, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay vái chào Thế Tôn và với bài kệ, nói lên với Thế Tôn:

 

345. Pucchāma satthāraṃ anomapaññaṃ
diṭṭheva dhamme yo vicikicchānaṃ chettā,
aggāḷave kālamakāsi bhikkhu
ñāto yasassī abhinibbutatto.

345. "Chúng con hỏi đấng Đạo Sư, bậc có trí tuệ tột đỉnh,

bậc đã cắt đứt các sự hoài nghi ở thế giới hiện hữu,

về vị tỳ khưu đã từ trần ở Aggāḷava,

được biết tiếng, có danh vọng, có bản thể đã được tịch tịnh.

 

Vangìsa:

343. Con hỏi bậc Ðạo Sư,
Bậc trí tuệ tối thượng,
Ai chặt đứt nghi hoặc,
Ngay trong đời hiện tại?
Tại Aggàlava,
Tỷ-kheo đã mệnh chung,
Có danh vọng danh xưng,
Nhập Niết bàn tịch tịnh.

346. Nigrodhakappo iti tassa nāmaṃ,
tayā kataṃ bhagavā brāhmaṇassa,
so taṃ namassaṃ acari mutyapekkho
āraddhaviriyo daḷhadhammadassī.

346. Bạch đức Thế Tôn, ‘Nigrodhakappa’ là tên đã được Ngài đặt cho vị Bà-la-môn ấy. Bạch đấng có sự nhìn thấy pháp vững chắc, vị ấy, mong mỏi sự giải thoát, trong lúc lễ bái Ngài, đã sống, có sự nỗ lực tinh tấn.

344. Nigrodhakappa,
Chính là tên vị ấy,
Chính Thế Tôn đặt tên,
Cho vị Phạm chí ấy,
Vị ấy đảnh lễ Ngài,
Sống tầm cầu giải thoát,
Tinh cần và tinh tấn,
Kiên cố thấy Chánh Pháp.

347. Taṃ sāvakaṃ sakka mayampi sabbe
aññātumicchāma samantacakkhu,
samavaṭṭhitā no savaṇāya sotā
tvaṃ no satthā tvaṃ anuttarosi.

347. Bạch ngài Sakya, bạch đấng Toàn Nhãn, tất cả chúng con cũng muốn được biết về vị Thinh Văn ấy; những lỗ tai của chúng con đã sẵn sàng cho việc nghe. Ngài là bậc Đạo Sư của chúng con. Ngài là bậc Vô Thượng.

 

345. Bạch Thích Ca, chúng con
Ðệ tử Ngài, tất cả
Chúng con đều muốn biết
Bậc Pháp nhãn biến tri,
An trú tại chúng con,
Sẵn sàng để được nghe,
Ngài Ðạo sư chúng con,
Ngài là bậc Vô thượng.

348. Chindeva no vicikicchaṃ brūhi metaṃ
parinibbutaṃ vedaya bhūripañña,
majjheva no bhāsa samantacakkhu
sakkova devānaṃ sahassanetto.

348. Xin Ngài hãy cắt đứt hẳn sự hoài nghi của chúng con, xin hãy nói cho con điều ấy. Bạch đấng có trí tuệ quảng đại, xin Ngài hãy cho biết về việc viên tịch Niết Bàn (của vị ấy). Bạch đấng Toàn Nhãn, xin Ngài hãy nói ở ngay giữa chúng con, tựa như vị Trời Sakka có ngàn mắt ở giữa chư Thiên.

346. Hãy đoạn nghi chúng con,
Cho con biết vị ấy,
Ðã được tịch tịnh chưa
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Hãy nói giữa chúng con,
Bậc có mặt cùng khắp,
Như Thiên chủ Ðế Thích,
Lãnh đạo ngàn chư Thiên.

349. Ye keci ganthā idha mohamaggā,
aññāṇapakkhā vicikicchaṭṭhānā,
tathāgataṃ patvā na te bhavanti
cakkhuṃ hi etaṃ paramaṃ narānaṃ.

349. Ở đây, bất cứ những mối buộc thắt nào, những con đường của si mê, những phe nhóm của vô trí, những chỗ đứng của hoài nghi, sau khi đạt đến đức Như Lai, chúng đều không tồn tại, bởi vì con mắt ấy là tối thượng giữa những con người.

347. Phàm những cột gút gì,
Ở đây, đường si ám,
Dự phần với vô trí,
Trú xứ cho nghi hoặc;
Gặp được đức Như Lai,
Họ đều không còn nữa.
Mắt này mắt tối thắng,
Giữa cặp mắt loài Người.

350. No ce hi jātu puriso kilese
vāto yathā abbhaghanaṃ vihāne,
tamovassa nivuto sabbaloko
na jotimantopi narā tapeyyuṃ.

350. Bởi vì, nếu chắc chắn không có người tiêu diệt các phiền não, giống như làn gió làm tiêu tan đám mây, thì toàn bộ thế gian, bị bao trùm, sẽ vô cùng tối tăm, ngay cả những người có hào quang (trí tuệ) cũng không thể tỏa sáng.

348. Nếu không có người nào,
Ðoạn trừ các phiền não,
Như gió thổi tiêu tan
Các tầng mây dưới thấp,
Màn đen tức bao trùm,
Tất cả toàn thế giới,
Những bậc có hào quang,
Không có thể chói sáng.

351. Dhīrā ca pajjotakarā bhavanti
taṃ taṃ ahaṃ dhīra tatheva maññe,
vipassinaṃ jhānam upāgamamha
parisāsu no āvikarohi kappaṃ.

351. Và các bậc thông minh là những người tạo ra ánh sáng. Vì thế, bạch đấng Thông Minh, con nghĩ rằng Ngài là vị tương tự như thế ấy. Chúng con đã đi đến với bậc có sự minh sát và hiểu biết, xin Ngài hãy bày tỏ về vị Kappa cho chúng con ở các hội chúng.

 

349. Bậc trí là những vị
Tạo ra những ánh sáng,
Con xem Ngài như vậy.
Ôi! Bậc trí sáng suốt,
Chúng con đều cùng đến,
Bậc tu hành thiền quán,
Giữa hội chúng, chúng con,
Hãy nói về Kappa!

352. Khippaṃ giraṃ eraya vagguvagguṃ
haṃsova paggayha sanikaṃ nikūjaṃ,
bindussarena suvikappitena
sabbeva te ujjugatā suṇoma.
 

352. Hỡi bậc có sự thu hút, xin Ngài hãy mau mau thốt lên giọng nói có sự thu hút. Tựa như chim thiên nga vươn cao (cái cổ), xin Ngài hãy dịu dàng thốt lên bằng âm thanh trọn vẹn khéo được điều khiển; toàn bộ tất cả chúng con đều tập trung lắng nghe.

350. Hãy gấp phát tiếng lên,
Tiếng âm thanh vi diệu,
Như con chim thiên nga,
Giương cổ lên để hót,
Phát âm từng tiếng một,
Với giọng khéo ngân nga,
Tất cả bạn chúng con,
Trực tâm nghe lời Ngài.

353. Pahīnajātimaraṇaṃ asesaṃ
niggayha dhonaṃ vadessāmi dhammaṃ,
na kāmakāro hi puthujjanānaṃ
saṅkheyyakārova tathāgatānaṃ.

353. Sau khi thúc giục bậc có sự sanh tử đã được dứt bỏ không còn dư sót, con sẽ thỉnh bậc đã rũ sạch (phiền não) thuyết Pháp; bởi vì trong số các phàm nhân không có người có thể làm được điều mong muốn, và người hành động đúng theo dự tính chỉ có trong số các đức Như Lai.

351. Vị đoạn tận sanh tử,
Không còn chút dư tàn,
Vị tẩy sạch phiền não,
Con cầu Ngài thuyết pháp,
Kẻ phàm phu không thể
Làm theo điều nó muốn.
Bậc Như Lai làm được,
Ðiều được ước định làm,

354. Sampannaveyyākaraṇaṃ tavedaṃ
samujjupaññassa samuggahītaṃ,
ayamañjalī pacchimo suppaṇāmito
mā mohayī jānamanomapañña.

354. Lời giải thích đầy đủ này của Ngài, bậc có trí tuệ ngay thẳng, đã được tiếp nhận. Sự chắp tay sau cùng này đã được cúi chào tốt đẹp. Hỡi bậc có trí tuệ tột đỉnh, trong khi Ngài biết, xin Ngài chớ làm mê mờ.

352. Câu trả lời của Ngài
Thật đầy đủ trọn vẹn,
Ðược chơn chánh nắm giữ,
Bậc chánh trực trí tuệ.
Ðây chắp tay cuối cùng,
Con khéo vái chào Ngài,
Chớ làm con si ám,
Bậc trí tuệ tối cao.

355. Parovaraṃ ariyadhammaṃ viditvā
mā mohayī jānamanomavīra,
vāriṃ yathā ghammani ghammatatto
vācābhikaṅkhāmi sutaṃ pavassa.

355. Hỡi đấng Anh Hùng tột bực, Ngài đã hiểu biết về Giáo Pháp cao thượng từ thấp đến cao, trong khi Ngài biết, xin Ngài chớ làm mê mờ. Giống như người có bản thân bị nóng bức, trong lúc nóng nực mong mỏi nước, con mong mỏi lời nói (của Ngài); xin Ngài hãy đổ cơn mưa âm thanh.

353. Sau khi đã được biết
Thánh pháp thượng và hạ,
Chớ làm con si ám,
Bậc tinh tấn tối cao,
Như vào giữa mùa hè,
Nóng bức khát khao nước,
Chúng con ngóng trông lời,
Hãy mưa sự hiểu biết.

356. Yadatthikaṃ brahmacariyaṃ acāri
kappāyano kaccissa taṃ amoghaṃ,
nibbāyi so ādu upādiseso
yathā vimutto ahu naṃ suṇoma.

356. Vị Kappāyana đã sống Phạm hạnh với mục đích nào, phải chăng điều ấy không phải là rỗng không? Có phải vị ấy đã Niết Bàn (không còn dư sót), hay là vẫn còn dư sót? Vị ấy đã được giải thoát như thế nào, hãy cho chúng con được nghe điều ấy.”

354. Kappa, sống Phạm hạnh,
Nếp sống có mục đích,
Phải chăng sống như vậy
Là sống không uổng phí?
Vị ấy chứng tịch tịnh,
Hay còn dư tàn lại,
Ðược giải thoát thế nào,
Hãy nói chúng con nghe!

357. Acchecchi taṇhaṃ idha nāmarūpe (iti bhagavā)
kaṇhassa sotaṃ dīgharattānusayitaṃ,
atāri jātimaraṇaṃ asesaṃ
iccabravī bhagavā pañcaseṭṭho.

357. “Vị ấy đã cắt đứt tham ái ở danh và sắc ở nơi đây (lời của đức Thế Tôn), dòng nước của Ma Vương đã được tiềm ẩn bấy lâu. Vị ấy đã vượt qua sự sanh và sự chết.” Đức Thế Tôn, bậc đứng đầu về năm pháp, đã nói như thế.

Thế Tôn:

355. Vị ấy trên danh sắc,
Ðã đoạn tận tham ái,
Thế Tôn ở nơi đây
Ðã trả lời như vậy,
Vượt qua được già chết,
Không còn có dư tàn,
Thế Tôn nói như vậy,
Bậc tối thắng thứ năm.

358. Esa sutvā pasīdāmi vaco te isisattama,
amoghaṃ kira me puṭṭhaṃ na maṃ vañcesi brāhmaṇo.

358. “Bạch bậc Ẩn Sĩ tối thượng, sau khi nghe điều ấy, con tin tưởng vào lời nói của Ngài. Thật vậy, điều đã được con hỏi là không vô ích, vị Bà-la-môn đã không dối gạt con.

Vangìsa:

356. Nghe vậy, con tịnh tín,
Với lời nói của Ngài,
Bậc ẩn sĩ thứ bảy?
Và lời hỏi của con.
Không phải là vô ích!
Và vị Bà-la-môn
Không có lừa dối con.

359. Yathāvādī tathākārī ahu buddhassa sāvako,
acchidā maccuno jālaṃ tataṃ māyāvino daḷhaṃ.

359. Vị có lời nói như thế nào thì có hành động như thế ấy đã là đệ tử của đức Phật. Vị ấy đã cắt đứt tấm lưới chắc chắn của Thần Chết xảo quyệt đã được giăng ra.

357. Nói gì thời làm vậy,
Thật xứng đệ tử Phật,
Chặt đứt lưới rộng chắc
Của thần chết xảo quyệt.

360. Addasa bhagavā ādiṃ upādānassa kappiyo,
accagā vata kappāyano maccudheyyaṃ suduttaranti.

360. Bạch đức Thế Tôn, vị Kappiya đã nhìn thấy sự khởi đầu của chấp thủ. Quả thật, vị Kappāyana đã băng qua lãnh địa của Thần Chết, là nơi rất khó vượt qua.”

358. Ôi! Thế Tôn, Kappa
Thấy căn nguyên chấp thủ,
Thật sự đã vượt qua
Thế lực của Ma vương,
Thế lực thật khó vượt.
 


Nigrodhakappasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
 

 

Dứt Kinh Nigrodhakappa.

 

 

13. SAMMĀPARIBBĀJANĪYASUTTAṂ

 

 

13. KINH DU HÀNH CHÂN CHÁNH

 

 

13. KINH CHÁNH XUẤT GIA

 

361. Pucchāmi muniṃ pahūtapaññaṃ
tiṇṇaṃ pāragataṃ parinibbutaṃ ṭhitattaṃ,
nikkhamma gharā panujja kāme
kathaṃ bhikkhu sammā so loke paribbajeyya.

361. “Con hỏi bậc hiền trí, bậc có tuệ bao la, bậc đã vượt qua, đã đi đến bờ kia, đã hữu dư Niết Bàn, có bản thân ổn định rằng: ‘Sau khi rời nhà ra đi, sau khi đã xua đuổi các dục, vị tỳ khưu ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian như thế nào?’”

Người hỏi:

359. Tôi hỏi bậc ẩn sĩ,
Có trí tuệ rộng lớn,
Ðã vượt qua bờ kia,
Tịch tịnh, tự an trú.
Làm sao một Tỷ-kheo,
Bỏ nhà, bỏ các dục,
Lại có thể chơn chánh
Du hành ở trên đời?

362. Yassa maṅgalā samūhatā (iti bhagavā)
uppāta supinā ca lakkhaṇā ca,
so maṅgaladosavippahīno bhikkhu
sammā so loke paribbajeyya.

362. (Lời của đức Thế Tôn) “Đối với vị nào các điềm lành đã được bứng lên, các (hiện tượng) sao băng, các giấc chiêm bao, và các hiện tướng (cũng như vậy), vị tỳ khưu ấy đã dứt bỏ hẳn các điềm lành và điềm xấu, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

Thế Tôn:

360. Ai nhổ lên điềm lành,
Như vậy, Thế Tôn đáp
Các sao băng mộng mị,
Và các tướng lành dữ,
Vị ấy đoạn trừ được,
Các lỗi lầm điềm lành;
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

363. Rāgaṃ vinayetha mānusesu
dibbesu kāmesu cāpi bhikkhu,
atikkamma bhavaṃ samecca dhammaṃ
sammā so loke paribbajeyya.

363. Vị tỳ khưu nên xua đi sự luyến ái ở các dục thuộc về nhân loại luôn cả thuộc về cõi trời. Sau khi vượt qua hữu, sau khi hiểu rõ Giáo Pháp (Tứ Diệu Đế), vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

361. Tỷ-kheo nhiếp phục tham,
Ðối với các dục vọng,
Tại thiên giới, nhân giới,
Vượt hữu, chứng tri pháp;
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

364. Vipiṭṭhi katvāna pesunāni
kodhaṃ kadariyaṃ jaheyya bhikkhu,
anurodhavirodhavippahīno
sammā so loke paribbajeyya.

364. Sau khi đã bỏ lại sau lưng các việc nói đâm thọc,

vị tỳ khưu nên từ bỏ sự giận dữ và keo kiệt,

đã dứt bỏ hẳn sự tùy thuận và chống đối,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

362. Tỷ kheo bỏ hai lưỡi,
Bỏ phẩn nộ, xan tham,
Với tùy thuộc chống đối,
Ðoạn tận thật hoàn toàn,
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

365. Hitvāna piyañca appiyañca
anupādāya anissito kuhiñci,
saṃyojaniyehi vippamutto
sammā so loke paribbajeyya.

365. Sau khi từ bỏ thương và ghét,

sau khi không còn chấp thủ, không bị lệ thuộc vào bất cứ nơi nào,

được hoàn toàn thoát khỏi các sự trói buộc,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

363. Sau khi đã từ bỏ,
Cả ái và phi ái,
Không chấp thủ một ai,
Không y chỉ chỗ nào,
Giải thoát được hoàn toàn
Các kiết sử trói buộc,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

366. Na so upadhīsu sārameti
ādānesu vineyya chandarāgaṃ,
so anissito anaññaneyyo
sammā so loke paribbajeyya.

366. Không có việc vị ấy đi đến cốt lõi ở các mầm tái sanh,

sau khi xua đi sự mong muốn và luyến ái ở các chấp thủ,

vị ấy không bị lệ thuộc, không bị dẫn dắt bởi kẻ khác,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

364. Ai không tìm lõi cây,
Ðối với các sanh y,
Có thể nhiếp phục tham,
Ðối với các chấp thủ,
Vị ấy không y chỉ,
Không để ai dắt dẫn,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

367. Vacasā manasā ca kammanā ca
aviruddho sammā viditvā dhammaṃ,
nibbānapadābhipatthayāno
sammā so loke paribbajeyya.

367. Không chống đối bằng lời nói, bằng ý nghĩ, và bằng hành động, sau khi hiểu biết Giáo Pháp một cách đúng đắn, trong khi ước nguyện trạng thái Niết Bàn, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

 

365. Với lời và với ý,
Và với cả nghiệp làm,
Không chống đối một ai,
Chơn chánh biết diệu pháp,
Thường cố gắng hướng đến,
Ðường Niết bàn tịch tịnh,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

368. Yo vandati maṃ na uṇṇameyya
akkuṭṭhopi na sandhiyetha bhikkhu,
laddhā parabhojanaṃ na majje,
sammā so loke paribbajeyya.

368. Vị nào không kiêu hãnh (nghĩ rằng) ‘Họ đảnh lễ ta,’

ngay cả khi bị sỉ vả, vị tỳ khưu cũng không kết nối (thù hận),

sau khi thọ lãnh vật thực của người khác, không đắc chí (tự mãn),

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

366. Tỷ-kheo không tự cao,
Khi người đảnh lễ mình,
Dầu có bị nhiếc mắng,
Không khởi tâm tức tối,
Ðược đồ ăn của người,
Không có sự tham đắm,
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

369. Lobhañca bhavañca vippahāya
virato chedanabandhanāto bhikkhu,
so tiṇṇakathaṃkatho visallo
sammā so loke paribbajeyya.

369. Sau khi dứt bỏ hẳn tham và hữu,

vị tỳ khưu lánh xa việc hãm hại và trói buộc (các chúng sanh khác),

vị ấy đã vượt qua sự nghi ngờ, không còn mũi tên,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

367. Tỷ-kheo sau khi đoạn,
Tham dục và sanh hữu,
Từ bỏ, không làm hại,
Không trói buộc một ai,
Vị ấy vượt nghi hoặc,
Ðã rút ra mũi tên,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

370. Sāruppamattano viditvā
na ca bhikkhu hiṃseyya kañci loke,
yathātathiyaṃ viditvā dhammaṃ
sammā so loke paribbajeyya.

370. Sau khi biết được điều thích hợp cho bản thân,

vị tỳ khưu không hãm hại bất cứ ai ở thế gian,

sau khi biết được Giáo Pháp đúng theo bản thể,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

368. Tỷ-kheo sau khi biết,
Ðiều thích đáng cho mình,
Không làm hại một ai,
Có mặt ở trên đời,
Sau khi đã biết pháp
Như thật, như thế nào,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

371. Yassānusayā na santi keci
mūlā akusalā samūhatā se,
so nirāsayo anāsayāno
sammā so loke paribbajeyya.

371. Đối với vị nào, không còn có bất cứ các pháp tiềm ẩn nào,

các gốc rễ bất thiện đã được nhổ lên,

vị ấy không còn ước ao (tham vọng), không có khao khát,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

369. Với ai, các tuỳ miên,
Không còn có tồn tại,
Và cội gốc bất thiện,
Ðược nhổ lên tận trừ,
Vị ấy không tham dục,
Không có hy cầu gì.
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

372. Āsavakhīṇo pahīnamāno
sabbaṃ rāgapathaṃ upātivatto,
danto parinibbuto ṭhitatto
sammā so loke paribbajeyya.

372. Có lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã dứt bỏ ngã mạn,

đã vượt lên trên tất cả lộ trình của luyến ái,

đã được huấn luyện, đã hữu dư Niết Bàn, có bản thân ổn định

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

370. Ai đoạn tận lậu hoặc,
Ðoạn trừ cả kiêu mạn,
Mọi con đường tham dục,
Ðược chế ngự nhiếp phục,
Ðược nhiếp phục tịch tịnh,
Tự ngã được an lập,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

373. Saddho sutavā niyāmadassī
vaggagatesu na vaggasāri dhīro,
lobhaṃ dosaṃ vineyya paṭighaṃ
sammā so loke paribbajeyya.

373. Có đức tin, có sự lắng nghe, có sự nhìn thấy quy luật,

vị sáng trí không xuôi theo bè phái giữa những kẻ đi theo bè phái,

sau khi xua đi tham lam, sân hận, bất bình,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

371. Có lòng tin, nghe pháp,
Thấy được quyết định tánh,
Bậc hiền không phe phái,
Giữa rất nhiều phe phái,
Có thể nhiếp phục được,
Tham, sân và hận thù,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

374. Saṃsuddhajino vivattacchaddo
dhammesu vasī pāragū anejo,
saṅkhāranirodhañāṇakusalo
sammā so loke paribbajeyya.

374. Vị chiến thắng thanh tịnh, có màn che đã được cuốn lên,

có năng lực ở các pháp, đã đi đến bờ kia, không dục vọng,

được thiện xảo ở trí về sự tịch diệt của các hành,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

372. Thanh tịnh và chiến thắng,
Kéo lên màn che kín,
Tự tại trong các pháp,
Ðến bờ kia, bất động,
Ðoạn diệt các sở hành,
Thiện xảo trong chánh trí,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

375. Atītesu anāgatesu cāpi
kappātīto aticca suddhipañño,
sabbāyatanehi vippamutto
sammā so loke paribbajeyya.

375. Vị đã vượt qua suy tưởng (về tham ái và tà kiến) ở các thời quá khứ và còn ở các thời vị lai nữa, sau khi đã vượt qua, có tuệ trong sạch, được hoàn toàn thoát khỏi tất cả các xứ (sáu nội xứ và sáu ngoại xứ), vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

373. Trong những thời quá khứ,
Trong những thời vị lai,
Vượt qua các chủ thuyết,
Trí tuệ thật thanh tịnh,
Với tất cả mọi xứ,
Ðược hoàn toàn giải thoát.
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

376. Aññāya padaṃ samecca dhammaṃ
vivaṭaṃ disvāna pahānamāsavānaṃ,
sabbūpadhinaṃ parikkhayāno
sammā so loke paribbajeyya.

376. Sau khi hiểu biết nền tảng (Tứ Đế), sau khi hiểu rõ Giáo Pháp,

sau khi nhìn thấy sự dứt bỏ của các lậu hoặc một cách rõ rệt,

nhờ vào sự diệt tận của tất cả các mầm tái sanh,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

 

374. Rõ biết được Pháp cú,
Chứng tri được Chánh pháp,
Thấy được sự mở rộng,
Ðoạn tận các lậu hoặc,
Ðối tất cả sanh y,
Ðược trừ diệt hoàn toàn,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời
.

377. Addhā hi bhagavā tatheva etaṃ
yo so evaṃ vihāri danto bhikkhu,
sabbasaṃyojaniye ca vītivatto
sammā so loke paribbajeyyāti.

377. “Bạch đức Thế Tôn, thật vậy, bởi vì điều ấy đúng y như thế,

vị tỳ khưu ấy đã sống như vậy, đã được huấn luyện

và đã vượt qua khỏi tất cả các sự trói buộc,

vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.”

 

Người hỏi:

375. Bạch Thế Tôn, chắc chắn,
Thực sự là như vậy,
Tỷ-kheo được chế ngự,
Ðã an trú như vậy,
Ðã nhiếp phục hoàn toàn,
Tất cả các kiết sử,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

 

Sammāparibbājanīyasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
 

 

Dứt Kinh Du Hành Chân Chánh.

 

 

 

14. DHAMMIKASUTTAṂ

 

 

14. KINH DHAMMIKA

 

 

14. KINH DHAMMIKA

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho dhammiko upāsako pañcahi upāsakasatehi saddhiṃ yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho dhammiko upāsako bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, cư sĩ Dhammika cùng với năm trăm cư sĩ đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, cư sĩ Dhammika đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn ông Anàthapindika. Rồi nam cư sĩ Dhammika đi đến Thế Tôn với năm trăm nam cư sĩ, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Dhammika nói lên những bài kệ với Thế Tôn:

 

378. Pucchāmi taṃ gotama bhūripañña
kathaṃkaro sāvako sādhu hoti,
yo vā agārā anagārameti
agārino vā panupāsakāse.

378. “Bạch ngài Gotama, bạch đấng có trí tuệ quảng đại, con xin hỏi Ngài: Người đệ tử tốt lành là người có hành động như thế nào, người (đệ tử) này hoặc là vị (xuất gia) rời nhà đi đến đời sống không nhà, hoặc là những vị cư sĩ có sở hữu căn nhà?

Dhammika:

376. Kính thưa Gotama,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Con xin kính hỏi Ngài,
Vấn đề đặc biệt này:
Với vị đệ tử Ngài,
Làm thế nào là thiện?
Nếu là vị xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Hay là vị có nhà,
Sống đời nam cư sĩ?

379. Tuvaṃ hi lokassa sadevakassa
gatiṃ pajānāsi parāyanañca,
na catthi tulyo nipuṇatthadassī
tuvaṃ hi buddhaṃ pavaraṃ vadanti.

379. Bởi vì Ngài nhận biết cảnh giới tái sanh và việc đi đến bờ kia của thế gian luôn cả chư Thiên, và người có sự nhìn thấy ý nghĩa vi tế có thể sánh bằng (với Ngài) là không có, bởi vì người ta nói Ngài là đức Phật quý cao.

377. Ngài rõ biết đường đi,
Cùng mục đích tối hậu,
Của Thế Tôn đời này,
Và thế giới chư Thiên.
Không ai so sánh Ngài,
Bậc thấy nghĩa thù diệu,
Chính Ngài được tôn xưng,
Là đức Phật thù thắng.

380. Sabbaṃ tuvaṃ ñāṇamavecca dhammaṃ
pakāsesi satte anukampamāno,
vivattacchaddosi samantacakkhu
virocasi vimalo sabbaloke.
 

380. Sau khi biết mọi loại trí tuệ, trong lúc thương tưởng đến chúng sanh, Ngài (đã) giảng giải Giáo Pháp. Bạch đấng Toàn Nhãn, Ngài có màn che đã được cuốn lên. Không bị vết nhơ, Ngài chiếu sáng tất cả thế gian.

378. Ngài biết tất cả trí,
Ngài trình bày Chánh pháp,
Vì lòng thương, từ mẫn,
Ðối với mọi chúng sanh,
Ngài mở rộng bức màn,
Bậc có mắt mọi nơi
Không cấu uế, thanh tịnh,
Ngài chói toàn thế giới.

381. Āgañchi te santike nāgarājā
erāvaṇo nāma jinoti sutvā,
so pi tayā mantayitvā ajjhagamā
sādhūti sutvāna patītarūpo.
 

381. Vị vua của loài voi tên là Erāvaṇa đã đi đến gặp Ngài. Sau khi nghe rằng: ‘Đấng Chiến Thắng,’ vị ấy cũng đã thảo luận với Ngài, đã lắng nghe và (đã nói) rằng: ‘Lành thay,’ rồi đã ra đi với dáng vẻ hân hoan.

379. Vị vua loài Nàgà
Tên Eràvano,
Ðã đến gần bên Ngài,
Ðược nghe: Ngài chiến thắng.
Vị ấy tìm đến Ngài,
Ðể nghe lời khuyên nhủ,
Sau khi nghe, thích thú
Nói lên lời: Lành thay!.

382. Rājāpi taṃ vessavaṇo kuvero
upeti dhammaṃ paripucchamāno,
tassāpi tvaṃ pucchito brūsi dhīra
so cāpi sutvāna patītarūpo.

382. Vị vua Vessavaṇa Kuvera cũng đã đi đến gặp Ngài hỏi han về Giáo Pháp. Bạch bậc Sáng Trí, ngay cả đối với vị ấy, Ngài đã trả lời khi được hỏi. Và vị ấy nữa, sau khi lắng nghe cũng có dáng vẻ hân hoan.

380. Vua Vessavana,
Kuvera đến Ngài,
Tìm hiểu hỏi han Ngài
Về vấn đề diệu pháp,
Ðược hỏi, ôi bậc trí,
Hãy nói lên cho vua!
Sau khi nghe, vị ấy,
Cũng thích thú, ưa thích.

383. Ye kecime titthiyā vādasīlā
ājīvakā vā yadi vā nigaṇṭhā,
paññāya taṃ nātitaranti sabbe
ṭhito vajantaṃ viya sīghagāmiṃ.
 

383. Những ngoại đạo này, bất cứ những vị nào có bản tánh tranh luận, dầu là các đạo sĩ khổ hạnh hay là các đạo sĩ lõa thể, tất cả không vượt qua được Ngài về tuệ, tựa như kẻ đứng lại không vượt qua được người đi nhanh đang tiến bước.

 

 

381. Các bậc ngoại đạo này
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Các tà mạng ngoại đạo,
Hay các Ni-kiền Tử,
Tất cả không vượt qua,
Hơn thắng trí của Ngài,
Như người đang đứng lại,
Không thắng kẻ đi mau.

384. Ye kecime brāhmaṇā vādasīlā
vuddhā cāpi brāhmaṇā santi keci,
sabbe tayi atthabaddhā bhavanti
ye cāpi caññe vādino maññamānā.
 

384. Những Bà-la-môn này, bất cứ những vị nào có bản tánh tranh luận, và có cả những vị Bà-la-môn trưởng thượng nào đó nữa, luôn cả những kẻ khác đang nghĩ họ là những người tranh luận, tất cả đều bám vào ý nghĩa (của lời giải đáp) ở nơi Ngài.

382. Các Bà-la-môn này,
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Có những bậc Phạm-chí,
Ðã đến tuổi trưởng thượng,
Tất cả đều trói buộc,
Bởi tư tưởng của Ngài,
Kể cả những hạng người,
Tự phụ nói khoe khoang.

385. Ayaṃ hi dhammo nipuṇo sukho ca
yoyaṃ tayā bhagavā suppavutto,
tameva sabbe sussūsamānā
taṃ no vada pucchito buddhaseṭṭha.

385. Bạch đức Thế Tôn, bởi vì Giáo Pháp này là vi tế và (đem lại) an lạc, đã khéo được tuyên thuyết bởi Ngài. Tất cả đang mong muốn lắng nghe chính điều ấy. Bạch đức Phật tối thượng, đã được hỏi, xin Ngài hãy nói cho chúng con điều ấy.

383. Pháp này là tế nhị,
Ðem lại nguồn an lạc,
Ðã được bậc Thế Tôn
Khéo nói, khéo thuyết giảng,
Tất cả mọi hạng người,
Ðều thích thú ưa nghe,
Ðược hỏi, hãy nói lên,
Ôi đức Phật tối thượng.

386. Sabbepime bhikkhavo sannisinnā
upāsakā cāpi tatheva sotuṃ,
suṇantu dhammaṃ vimalenānubuddhaṃ
subhāsitaṃ vāsavasseva devā.

 

386. Tất cả các vị tỳ khưu này cũng đã cùng nhau ngồi xuống để lắng nghe, các cư sĩ cũng tương tự y như thế. Hãy để họ lắng nghe Giáo Pháp đã được giác ngộ bởi bậc Vô Nhiễm, tựa như chư Thiên lắng nghe lời khéo nói của (Thiên Vương) Vāsava.

384. Các vị Tỷ-kheo này,
Ðang ngồi đây tất cả,
Kể cả nam cư sĩ,
Tất cả đều chờ nghe,
Hãy để họ nghe pháp,
Bậc Vô uế Giác ngộ,
Như chư Thiên nghe lời,
Vàsava khéo nói!

387. Suṇātha me bhikkhavo sāvayāmi vo
dhammaṃ dhutaṃ tañca dharātha sabbe,
iriyāpathaṃ pabbajitānulomikaṃ
sevetha naṃ atthadassī mutīmā.

387. “Này các tỳ khưu, các ngươi hãy lắng nghe Ta. Ta nói cho các ngươi nghe về pháp từ khước; và tất cả hãy ghi nhớ điều ấy. Vị có sự nhìn thấy điều lợi ích, có niệm, nên thực hành (bốn) oai nghi phù hợp đối với các bậc xuất gia.

Thế Tôn:

385. Tỷ-kheo, hãy nghe Ta,
Ta khiến các Thầy nghe,
Pháp đoạn trừ điều ác,
Tất cả hãy trọ trì,
Với ai thấy ý nghĩa,
Nghĩ ngợi có suy tư,
Hãy sống theo chánh hạnh,
Thích hợp với xuất gia.

388. Na ve vikāle vicareyya bhikkhu
gāmañca piṇḍāya careyya kāle,
akālacāriṃ hi sajanti saṅgā
tasmā vikāle na caranti buddhā.

 

388. Thật vậy, vị tỳ khưu không nên đi đâu vào lúc không đúng thời,

và nên đi vào làng để khất thực lúc đúng thời.

Bởi vì, sự quyến luyến bám vào kẻ du hành không đúng thời.

Vì thế, chư Phật không đi vào lúc không đúng thời.

 

386. Tỷ-kheo chớ ra ngoài,
Trong thời gian phi thời,
Hãy vào làng khất thực,
Ðúng thời, thì hãy đi,
Ai đi đứng phi thời,
Bị bẫy sập trói buộc.
Do vậy các đức Phật,
Không có đi phi thời.

389. Rūpā ca saddā ca rasā ca gandhā
phassā ca ye sammadayanti satte,
etesu dhammesu vineyya chandaṃ
kālena so pavise pātarāsaṃ.
 

389. Các sắc, các thinh, các vị, các hương,

và các xúc, chúng làm say đắm các chúng sanh.

Sau khi xua đi sự mong muốn ở các pháp ấy,

vị ấy vào lúc đúng thời có thể đi vào (làng để khất thực) cho buổi ăn sáng.

 

387. Các sắc và các tiếng,
Các vị, hương và xúc,
Chính những loại pháp ấy
Làm mê hoặc chúng sanh.
Hãy nhiếp phục, lòng dục,
Ðối với các pháp ấy,
Hãy vào cho đúng thời,
Ðể dùng buổi ăn sáng.

390. Piṇḍañca bhikkhu samayena laddhā
eko paṭikkamma raho nisīde,
ajjhattacintī na mano bahiddhā
nicchāraye saṅgahitattabhāvo.
 

390. Và sau khi đã nhận được vật thực hợp thời, vị tỳ khưu, một mình, sau khi quay trở về nên ngồi xuống ở nơi vắng vẻ, có tâm hướng nội phần, có bản ngã đã được nắm giữ tốt đẹp, không để cho ý buông lung ở ngoại cảnh.

388. Tỷ-kheo được đúng thời,
Các đồ ăn khất thực,
Hãy đi về một mình,
Ngồi tại chỗ an tịnh,
Suy tư hướng nội tâm,
Ý không chạy ra ngoài,
Làm cho thoát ra khỏi,
Mọi chấp thủ tự ngã.

391. Sace pi so sallape sāvakena
aññena vā kenaci bhikkhunā vā,
dhammaṃ paṇītaṃ tamudāhareyya
na pesunaṃ nopi parūpavādaṃ.
 

391. Thậm chí, nếu vị ấy phải chuyện trò với người đệ tử,

hoặc với kẻ khác, hoặc với bất cứ vị tỳ khưu nào,

thì nên đề cập đến Giáo Pháp hảo hạng ấy,

không nói đâm thọc, cũng không nói chỉ trích kẻ khác.

 

389. Nếu vị ấy có nói,
Với một vị đệ tử,
Hay nói với một vị
Một Tỷ-kheo nào khác,
Hãy nói cho vị ấy,
Sự thù diệu Chánh pháp,
Không có nói hai lưỡi,
Không bài xích một ai,

392. Vādaṃ hi eke paṭiseniyanti
na te pasaṃsāma parittapaññe,
tato tato ne pasajanti saṅgā
cittaṃ hi te tattha gamenti dūre.
 

392. Bởi vì một số người phản kháng lại lời nói,

chúng ta không ca ngợi những kẻ có tuệ nhỏ nhoi ấy.

Các sự quyến luyến từ nơi này nơi khác đeo bám những kẻ ấy,

bởi vì những kẻ ấy để cho tâm đi xa khỏi nơi ấy.

 

390. Nhưng có những hạng người,
Dùng khẩu chiến bằng lời,
Những hạng người tuệ nhỏ,
Chúng ta không tán thán,
Triền phược trói buộc họ,
Từ chỗ này chỗ kia,
Ở đây họ dẫn tâm,
Ðưa tâm đi quá xa.

393. Piṇḍaṃ vihāraṃ sayanāsanañca
āpañca saṅghāṭirajūpavāhanaṃ,
sutvāna dhammaṃ sugatena desitaṃ
saṅkhāya seve varapaññasāvako.
 

393. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp được thuyết giảng bởi bậc Thiện Thệ, vị đệ tử có tuệ cao quý suy xét rồi thọ dụng đồ ăn khất thực, trú xá, chỗ nằm ngồi (giường ghế), và nước gột sạch bụi bám ở y hai lớp.

391. Ðồ khất thực, tinh xá,
Cùng sàng tọa trú xứ,
Nước để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng-già-lê,
Sau khi nghe Chánh pháp,
Do Thiện Thệ thuyết giảng,
Bậc đệ tử thắng tuệ,
Quán sát, hãy dùng chúng.

394. Tasmā hi piṇḍe sayanāsane ca
āpe ca saṅghāṭirajūpavāhane,
etesu dhammesu anūpalitto
bhikkhu yathā pokkhare vāribindū.

394. Chính vì thế, về đồ ăn khất thực, về chỗ nằm ngồi (giường ghế), và về nước gột sạch bụi bám ở y hai lớp, vị tỳ khưu không bám víu vào những pháp này, giống như những giọt nước ở lá sen.

392. Do vậy đồ khất thực,
Sàng tọa và trú xứ,
Nước để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng-già-lê,
Ðối với những pháp ấy,
Ðừng để cho dính nhiễm.
Tỷ-kheo như giọt nước,
Không dính trên lá sen.

395. Gahaṭṭhavattaṃ pana vo vadāmi
yathākaro sāvako sādhu hoti,
na hesa labbhā sapariggahena
phassetuṃ so kevalo bhikkhudhammo.
 

395. Giờ đây, Ta nói về phận sự của người tại gia cho các ngươi. Có hành động như thế nào thì trở nên người đệ tử tốt lành. Bởi vì toàn bộ pháp hành ấy của tỳ khưu, người có vật sở hữu thì không thể nào đạt đến.

393. Trách nhiệm của gia chủ,
Ta cũng nói các Ông,
Làm theo đúng như vậy,
Ðệ tử là tốt lành.
Pháp Tỷ-kheo toàn diện,
Khó thành tựu đầy đủ,
Vì là người gia chủ,
Phải làm nhiều việc đời.

396. Pāṇaṃ na hāne na ca ghātayeyya
na cānujaññā hanataṃ paresaṃ,
sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ
ye thāvarā ye ca tasā santi loke.

 

396. Không nên giết hại mạng sống và không nên bảo (kẻ khác) giết hại,

không nên chấp thuận cho những kẻ khác đang giết hại.

Sau khi bỏ xuống gậy gộc đối với tất cả chúng sanh,

những loài không di động và những loài di động hiện hữu ở thế gian.

394. Chớ giết loài hữu tình,
Chớ bảo người giết hại,
Hay chấp nhận kẻ khác,
Giết hại các người khác,
Ðối với mọi sanh loại,
Từ bỏ các hình phạt,
Ðối với kẻ mạnh bạo,
Như đối kẻ run sợ.

397. Tato adinnaṃ parivajjayeyya
kiñci kvaci sāvako bujjhamāso,
na hāraye harataṃ nānujaññā
sabbaṃ adinnaṃ parivajjayeyya.
 

397. Kế đến, người đệ tử sáng suốt nên xa lánh bất cứ vật gì không được cho, ở bất cứ nơi đâu. Không nên bảo (kẻ khác) lấy trộm, không nên chấp nhận những kẻ đang lấy trộm, nên xa lánh mọi vật không được cho.

385. Rồi hãy quyết từ bỏ,
Lấy của không được cho,
Ðệ tử khéo sáng suốt,
Vật gì, vật của ai,
Chớ khiến người khác lấy,
Chớ chấp nhận lấy trộm.
Hãy từ bỏ, chấm dứt,
Mọi của cải không cho.

398. Abrahmacariyaṃ parivajjayeyya
aṅgārakāsuṃ jalitaṃ va viññū,
asambhuṇanto pana brahmacariyaṃ
parassa dāraṃ nātikkameyya.
 

398. Người có sự hiểu biết nên xa lánh việc phi Phạm hạnh, tựa như (xa lánh) đống than hừng đang cháy rực. Hơn nữa, trong khi không đủ khả năng (sống) Phạm hạnh, không nên xâm phạm vợ của người khác.

396. Hãy từ bỏ, tránh xa
Ðời sống phi Phạm hạnh,
Như bậc trí tránh né,
Lửa cháy hố than hừng.
Nếu tự mình bất lực,
Không thể sống Phạm hạnh,
Thời chớ có xâm phạm
Vợ của các người khác.

399. Sabhaggato vā parisaggato vā
ekassa ceko na musā bhaṇeyya,
na bhāṇaye bhaṇataṃ nānujaññā
sabbaṃ abhūtaṃ parivajjayeyya.
 

399. Một người đi đến cuộc hội họp hoặc đi đến hội chúng không nên nói lời dối trá đối với người khác, không nên bảo (kẻ khác) nói (dối), không nên chấp nhận những kẻ đang nói (dối), nên xa lánh mọi điều không phải sự thật.

397. Khi đi đến hội chúng,
Hay đi đến đoàn chúng,
Hay một mình một người,
Chớ nói lời nói láo,
Chớ khiến người nói láo,
Chớ chấp nhận nói láo,
Tất cả điều không thật,
Hãy tránh xa từ bỏ.

400. Majjañca pānaṃ na samācareyya
dhammaṃ imaṃ rocaye yo gahaṭṭho,
na pāyaye pibataṃ nānujaññā
ummādanantaṃ iti naṃ viditvā.
 

400. Người tại gia nào thích thú với Giáo Pháp này không nên thực hành việc uống chất say, không nên bảo (kẻ khác) uống (chất say), không nên chấp nhận những kẻ đang uống (chất say), sau khi biết rằng việc (uống chất say) ấy có sự điên cuồng là kết cuộc.

398. Chớ sống theo nếp sống,
Uống rượu và say rượu,
Với vị là cư sĩ,
Ðã chấp nhận pháp này,
Chớ khiến nguời uống rượu,
Chớ chấp thuận uống rượu
Sau khi biết uống rượu,
Cuối đường là điên cuồng.

401. Madā hi pāpāni karonti bālā
karonti caññepi jane pamatte,
Etaṃ apuññāyatanaṃ vivajjaye
ummādanaṃ mohanaṃ bālakantaṃ.

401. Bởi vì do say sưa, những kẻ ngu làm những việc xấu xa

và còn làm cho những người khác cũng bị xao lãng.

Nên xa lánh hẳn việc này, lãnh vực không có phước báu,

sự điên cuồng, sự đần độn, được ưa thích bởi kẻ ngu.

399. Chỉ kẻ ngu say rượu,
Mới làm các điều ác,
Và khiến các người khác,
Sống buông lung phóng dật,
Hãy từ bỏ, tránh xa
Xứ phi công đức này,
Khiến điên cuồng si mê,
Làm kẻ ngu thỏa thích.

402. Pāṇaṃ na hāne na cadinnamādiye
musā na bhāse na ca majjapo siyā,
abrahmacariyā virameyya methunā
rattiṃ na bhuñjeyya vikālabhojanaṃ.

 

402. Không nên giết hại sinh mạng, và không nên lấy vật không được cho,

không nên nói lời dối trá, và không nên uống chất say,

nên kiêng cử việc đôi lứa, việc phi Phạm hạnh,

không nên ăn vật thực lúc phi thời, vào ban đêm.

 

400. Chớ có giết hữu tình,
Chớ lấy của không cho,
Chớ nói láo không thật,
Chớ uống rượu say mê,
Từ bỏ phi Phạm hạnh,
Không hành trì dâm dục
Không có ăn ban đêm,
Không ăn lúc phi thời.

403. Mālaṃ na dhāre na ca gandhamācare
mañce chamāyaṃ va sayetha santhate,
etaṃ hi aṭṭhaṅgikamāhuposathaṃ
buddhena dukkhantagunā pakāsitaṃ.
 

403. Không nên đeo tràng hoa, và không nên sử dụng chất thơm,

nên nằm ở chiếc giường, hoặc ở mặt đất đã được trải lót.

Bởi vì việc ấy được gọi là là hạnh trai giới gồm có tám chi phần,

đã được giảng giải bởi đức Phật, bậc đã đi đến sự chấm dứt của khổ đau.

 

401. Chớ mang các vòng hoa,
Chớ dùng các nước thơm,
Hãy nằm trên mặt đất,
Trên thảm chiếu trải dài,
Tám hạnh này được gọi
Là hạnh ngày trai giới,
Do đức Phật giảng dạy,
Ðể chấm dứt khổ đau.

404. Tato ca pakkhassupavassuposathaṃ
cātuddasiṃ pañcadasiñca aṭṭhamiṃ,
pāṭihāriyapakkhañca pasannamānaso
aṭṭhaṅgupetaṃ susamattarūpaṃ.
 

404. Và kế đó, sau khi hành trì ngày trai giới hội đủ tám chi phần, có hình thức được hoàn toàn đầy đủ, với tâm tịnh tín, vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày thứ tám của nửa tháng, và (các) ngày phụ trội của nửa tháng,[1] ...

402. Từ nay ngày trai giới,
Chia nửa tháng hai phần,
Ngày mười bốn, mười lăm,
Hay ngày tám mỗi tháng,
Với tâm ý hoan hỷ,
Thực hành thần thông pháp
Gồm có đủ tám phần,
Khéo đầy đủ vẹn toàn.

[1] Vào mỗi nửa tháng, ba ngày trai giới mồng tám, mười bốn, mười lăm, cộng thêm ngày rước và ngày đưa là các ngày bảy, ngày chín, ngày mười ba, và mồng một (ND).

405. Tato ca pāto upavutthuposatho
annena pānena ca bhikkhusaṅghaṃ,
pasannacitto anumodamāno
yathārahaṃ saṃvibhajetha viññū.
 

405. ... và sau đó vào buổi sáng, khi ngày trai giới đã được hành trì xong, người có sự hiểu biết, với tâm tịnh tín, trong khi đang hoan hỷ, nên dâng cúng cơm nước phù hợp với khả năng đến hội chúng tỳ khưu.

403. Do vậy, vào buổi sáng,
Thực hành ngày trai giới,
Bậc có trí sáng suốt,
Với tâm tư tín thành,
Với tâm ý tùy hỷ,
Cúng dường Tỷ-kheo Tăng,
Với món ăn đồ uống,
Hợp với khả năng mình.

406. Dhammena mātāpitaro bhareyya
payojaye dhammikaṃ so vaṇijjaṃ,
etaṃ gihī vattayaṃ appamatto
sayaṃpabhe nāma upeti deveti.

 

406. Người ấy nên phụng dưỡng mẹ cha đúng theo bổn phận, nên áp dụng việc buôn bán một cách đúng pháp. Người tại gia này, trong lúc duy trì cuộc sống (như vậy), không xao lãng, (sẽ) đi đến với chư Thiên có tên là ‘Sayaṃpabhā’ (tự mình có hào quang).

404. Hãy nuôi dưỡng mẹ cha,
Hợp pháp và đúng pháp,
Và cũng đúng với pháp,
Hãy làm nghề buôn bán,
Người gia chủ như vậy,
Sở hành không phóng dật,
Ðược sanh làm Thiên nhân,
Tên là: "Tự chói sáng".

 

Dhammikasuttaṃ niṭṭhitaṃ.


Cullavaggo dutiyo.
 

 

Dứt Kinh Dhammika.

 

Tiểu Phẩm là thứ nhì.

 

 

 

TASSUDDĀNAṂ
 

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

 

Ratanaṃ āmagandhañca hiriṃ maṅgalamuttamaṃ,
sūcilomo kapilaṃ ca puna brāhmaṇadhammikaṃ.
Dhammasuttaṃ kiṃsīlaṃ uṭṭhānaṃ atha rāhulo,
kappo ca paribbājañca dhammiko ca punāparaṃ,
cuddasetāni suttāni cullavaggoti vuccati.

 

Kinh châu báu, và kinh mùi tanh hôi, kinh hổ thẹn, kinh điềm lành tối thượng, kinh Sūciloma, kinh Kapila, và kinh truyền thống Bà-la-môn nữa, kinh Giáo Pháp, kinh với giới gì, kinh đứng lên, và kinh Rāhula, kinh Kappa, kinh du hành (chân chánh), và còn có kinh Dhammika khác nữa; mười bốn bài kinh này gọi là Tiểu Phẩm.

 

 

III. MAHĀVAGGO - ĐẠI PHẨM

01. KINH XUẤT GIA

1. PABBAJJĀSUTTAṂ

 

 

1. KINH XUẤT GIA

 

 

1. KINH XUẤT GIA

 

407. Pabbajjaṃ kittayissāmi yathā pabbaji cakkhumā,
yathā vīmaṃsamāno so pabbajjaṃ samarocayi.

407. Tôi[1] sẽ thuật lại việc xuất gia: Bậc Hữu Nhãn đã xuất gia ra sao, trong khi suy xét thế nào mà Ngài đã tỏ ra thích thú việc xuất gia.


[1] Lời của Ngài Ānanda (SnA. 2, 381).

Ananda:

405. Xuất gia, tôi tán thán,
Như Pháp nhãn xuất gia,
Sau khi Ngài quán sát,
Chấp thuận hạnh xuất gia.

408. Sambādho ’yaṃ gharāvāso rajassāyatanaṃ iti,
abbhokāso va pabbajjā iti disvāna pabbaji.

408. Ngài đã xuất gia sau khi nhìn thấy rằng: ‘Cuộc sống tại gia này có sự chướng ngại, là địa bàn của ô nhiễm; việc xuất gia quả là bầu trời mở rộng.’

406.Trói buộc, sống gia đình,
Tụ hội mọi bụi đời,
Phóng khoáng, đời xuất gia,
Thấy vậy nên xuất gia.

409. Pabbajitvāna kāyena pāpaṃ kammaṃ vivajjayi,
vacīduccaritaṃ hitvā ājīvaṃ parisodhayi.

409. Sau khi xuất gia, Ngài đã lánh xa nghiệp ác do thân. Sau khi từ bỏ uế hạnh về khẩu, Ngài đã làm trong sạch việc nuôi mạng.

407. Sau khi Ngài xuất gia,
Thân ác nghiệp Ngài tránh,
Từ bỏ lời nói ác,
Mạng sống Ngài thanh tịnh.

410. Agamā rājagahaṃ buddho magadhānaṃ giribbajaṃ,
piṇḍāya abhihāresi ākiṇṇavaralakkhaṇo.

410. Đức Phật đã đi đến thành Rājagaha, vùng đất ở giữa các ngọn núi của xứ Magadha. Ngài đã dấn thân vào việc khất thực, với tướng mạo cao quý nổi bật.

408. Phật đi đến Vương Xá,
Ðến chỗ núi bao vây,
Tại nước Ma-kiệt-đà,
Ngài sống hạnh khất sĩ,
Mang theo thật đầy đủ,
Các tướng tốt quang minh.

411. Tamaddasā bimbisāro pāsādasmiṃ patiṭṭhito,
disvā lakkhaṇasampannaṃ imamatthaṃ abhāsatha.

411. Đứng ở tòa lâu đài, đức vua Bimbisāra đã nhìn thấy Ngài. Sau khi nhìn thấy bậc có đầy đủ tướng mạo, đức vua đã nói lên ý nghĩa này:

409. Bình Sa vương thấy Ngài,
Ðứng trên sân lầu thượng,
Thấy đầy đủ tướng tốt,
Bèn nói lên lời này:

412. Imaṃ bhonto nisāmetha abhirūpo brahā suci,
caraṇena ceva sampanno yugamattaṃ ca pekkhati.

412. ‘Này các khanh, hãy nhìn xem người này, vị có vóc dáng đẹp, cao cả, (làn da) trong sáng, và còn thành tựu về cử chỉ nữa; và vị này nhìn chỉ trong tầm của một cán cày.

410. Các Ông hãy chăm sóc
Người đẹp, lớn, thanh tịnh,
Thành tựu với hạnh đức,
Chỉ nhìn vừa một tầm.

413. Okkhittacakkhu satimā nāyaṃ nīcā kulāmiva,
rājadūtā vidhāvantu kuhiṃ bhikkhu gamissati.

413. Với mắt nhìn xuống, có niệm, vị này dường như không thuộc gia tộc hạ liệt. Hãy cho các sứ giả của vua chạy đến (hỏi xem) vị tỳ khưu (ấy) sẽ đi đến nơi nào?'

411. Mắt nhìn xuống, chánh niệm,
Gia đình không hạ tiện,
Hãy cho sứ giả theo,
Tỷ-kheo sẽ đi đâu?

414. Te pesitā rājadūtā piṭṭhito anubandhisuṃ,
kuhiṃ gamissati bhikkhu kattha vāso bhavissati.

414. Được phái đi, các sứ giả ấy của vua đã đi theo sát ở phía sau (nghĩ rằng): ‘Vị tỳ khưu sẽ đi đến nơi nào? Chỗ trú ngụ sẽ là nơi đâu?’

412. Ðược sai, sứ giả ấy
Ði theo sau lưng Ngài,
Tỷ-kheo sẽ đi đâu?
Trú xứ sẽ chỗ nào?

415. Sapadānaṃ caramāno guttadvāro susaṃvuto,
khippaṃ pattaṃ apūresi sampajāno patissato.

415. Trong khi bước đi (khất thực) tuần tự theo từng nhà, vị ấy có các căn đã được canh phòng, khéo thu thúc ở các giác quan, đã nhận đầy bình bát một cách nhanh chóng, có sự nhận biết rõ, có niệm.
 

413. Khất thực, từng nhà một,
Căn hộ trì chế ngự,
Bình bát được mau đầy,
Tỉnh giác và chánh niệm.

416. Piṇḍacāraṃ caritvāna nikkhamma nagarā muni,
paṇḍavaṃ abhihāresi ettha vāso bhavissati.

416. Sau khi đi khất thực, vị hiền trí đã rời khỏi thành phố rồi đã leo lên núi Paṇḍava (nghĩ rằng): ‘Nơi này sẽ là chỗ trú ngụ.’

 

414. Sau khi đi khất thực,
Ẩn sĩ ra khỏi thành,
Leo lên Pandava,
Sẽ trú xứ tại đấy.

417. Disvāna vāsūpagataṃ tato dūtā upāvisuṃ,
ekova dūto āgantvā rājino paṭivedayi.
 

417. Sau khi nhìn thấy vị ấy đi đến gần chỗ trú ngụ, do đó các sứ giả đã dừng lại. Và chỉ một vị sứ giả đã trở về thông báo cho đức vua rằng:

 

415. Thấy vị ấy đến chỗ,
Các sứ giả ngồi chờ,
Còn một vị đi về,
Kể lại chuyện vua hay.

418. Esa bhikkhu māhārāja paṇḍavassa purakkhato,
nisinno vyagghusabhova sīhova girigabbhare.

 

418. ‘Tâu đại vương, vị tỳ khưu ấy ngồi tựa như con hổ hay con bò mộng ở phía trước núi Paṇḍava, tựa như con sư tử ở trong hang núi.’

 

416. Ðại vương, Tỷ-kheo ấy,
Phía đông Pandava,
Ngồi như cọp, bò chúa,
Như sư tử trong hang.

419. Sutvāna dūtavacanaṃ bhaddayānena khattiyo,
taramānarūpo niyyāsi yena paṇḍavapabbato.

419. Sau khi đã nghe lời nói của viên sứ giả, vị Sát-đế-lỵ với dáng vẻ vội vã đã ra đi về phía núi Paṇḍava bằng cỗ xe xinh đẹp.

 

417. Nghe sứ giả, đức vua
Với cỗ xe thù thắng,
Vội vàng ra khỏi thành,
Ði đến Pandava.

420. Sa yānabhūmiṃ yāyitvā yānā oruyha khattiyo,
pattiko upasaṅkamma āsajja taṃ upāvisi.

420. Sau khi đã đi hết vùng đất có thể đi bằng cỗ xe, đức vua ấy đã leo xuống cỗ xe rồi đã đi bộ đến gần, sau khi đến nơi đã ngồi kế cận vị tỳ khưu ấy.

 

418. Ði được, vua đi xe,
Rồi xuống xe đi bộ,
Ðức vua tiến lại gần,
Và vào chỗ Ngài ở.

421. Nisajja rājā sammodi kathaṃ sārāṇīyaṃ tato,
kathaṃ so vītisāretvā imamatthaṃ abhāsatha.
 

421. Sau khi ngồi xuống, đức vua đã nói lời xã giao thân thiện. Kế đó, sau khi trao đổi lời chào hỏi, đức vua ấy đã nói ý nghĩa này:

419. Ngồi xuống, vua nói lên
Lời hỏi thăm chào đón,
Lời lẽ chào đón xong,
Vua nói lên nghĩa này.

422. Yuvā ca daharo cāsi paṭhamuppatito susu,
vaṇṇārohena sampanno jātimā viya khattiyo.
 

422. ‘Ngươi là thanh niên và trẻ trung, vừa mới lớn, còn non trẻ, đươc thành tựu màu da và dáng vóc, có dòng dõi tựa như là Sát đế-lỵ.

 

420. Người thanh niên tuổi trẻ,
Ngây thơ, bước vào đời,
Ðẹp cao được đầy đủ,
Thiện sanh dòng Sát-ly.

423. Sobhayanto aṇikaggaṃ nāgasaṃghapurakkhato,
dadāmi bhoge bhuñjassu jātiṃ vakkhāhi pucchito.
 

423. Dẫn đầu đoàn voi trận, ngươi làm rạng rỡ đội binh tiên phong. Trẫm ban cho các của cải, ngươi hãy hưởng thụ. Đã được hỏi, ngươi hãy nói về dòng dõi.’

 

421. Trang hoàng binh đội ngũ,
Trước mắt cả binh đoàn,
Tài sản ta cho Người,
Hãy hưởng và trả lời
Về vấn đề thọ sanh.

424. Ujuṃ jānapado rājā himavantassa passato,
dhanaviriyena sampanno kosalesu niketino.

424. ‘Tâu đức vua, thẳng ngay hướng này có một chủng tộc (sống) ở sườn núi Hi-mã-lạp, có đầy đủ tài sản và nghị lực, thuộc dân bản địa của xứ sở Kosala.

 

Thế Tôn:

422. Trên sườn núi Tuyết sơn,
Sống dân tộc đoạn trực,
Tài sản nghị lực đủ,
Ở xứ Kosala.

425. Ādiccā nāma gottena sākiyā nāma jātiyā,
tamhā kulā pabbajitomhi rāja na kāme abhipatthayaṃ.


 

425. Với dòng họ có tên là Mặt Trời, với dòng dõi có tên là Sākiya (Thích Ca), tâu đức vua, trong khi không mong mỏi các dục, từ gia tộc ấy tôi đã xuất gia.

 

423. Dòng họ thuộc mặt trời,
Sanh tộc là Thích-ca,
Từ bỏ gia tộc ấy,
Thưa vua, Ta xuất gia,
Ta không có tha thiết,
Ðối với các loại dục.

426. Kāmesvādīnavaṃ disvā nekkhammaṃ daṭṭhu khemato,
padhānāya gamissāmi ettha me rajjatī manoti.

 426. Sau khi nhìn thấy sự tai hại ở các dục, sau khi nhìn thấy sự xuất ly là an toàn, tôi sẽ ra đi nhằm (mục đích) ra sức nỗ lực, trong việc này tâm ý của tôi được vui thích.’

 

424. Thấy nguy hiểm trong dục,
Bỏ chúng, là an ổn,
Ta sẽ đi, tinh tấn,
Ý Ta, được hoan hỷ.

 

Pabbajjāsuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Xuất Gia.

 

 

 

02. KINH NỖ LỰC

2. PADHĀNASUTTAṂ

 

 

2. KINH NỖ LỰC

 

 

2. KINH TINH CẦN

 

427. Taṃ maṃ padhānapahitattaṃ nadiṃ nerañjaraṃ pati,
viparakkamma jhāyantaṃ yogakkhemassa pattiyā.

427. Trong lúc ta đây,[1] với bản tánh cương quyết về việc nỗ lực, đang gắng hết sức tham thiền cạnh dòng sông Nerañjarā nhằm đạt đến sự an toàn đối với các trói buộc (Niết Bàn).

[1] Lời thuật lại của đức Phật về thời kỳ  thực hành khổ hạnh (SnA. ii, 386).

Thế Tôn:

425. Bên sông Ni-liên-thuyền,
Ta tinh cần tinh tấn,
Cố gắng, Ta thiền định,
Ðạt an ổn khổ ách.

428. Namucī karuṇaṃ vācaṃ bhāsamāno upāgamī,
kiso tvamasi dubbaṇṇo santike maraṇaṃ tava.

428. Namuci[1] đã đi đến gần, thốt lên lời nói thương xót rằng: ‘Ông trở nên ốm o, xuống sắc; cái chết là ở cạnh ông rồi.’

[1] Namuci: Ma Vương, sở dĩ được gọi như vậy vì không ai thoát khỏi (na muñcati) quyền cai quản của người này (sđd.).

426. Ác ma đến gần Ta,
Nói lên lời từ mẫn,
Ông ốm không dung sắc,
Ông đã gần chết rồi.

429. Sahassabhāgo maraṇassa ekaṃso tava jīvitaṃ,
jīva bho jīvitaṃ seyyo jīvaṃ puññāni kāhasi.

429. Đối với ông, có đến một ngàn phần chết, chỉ còn một phần sống. Này ông, hãy sống đi, mạng sống là tốt hơn. Trong khi sống, ông sẽ làm các việc phước đức.

427. Cả ngàn phần, Ông chết,
Chỉ một phần còn sống,
Hãy sống, sống tốt hơn,
Sẽ làm các công đức.

430. Carato va te brahmacariyaṃ aggihuttañca juhano,
pahūtaṃ cīyate puññaṃ kimpadhānena kāhasi.

430. Nhiều phước báu (sẽ) được tích lũy cho ông ngay trong khi ông thực hành Phạm hạnh,và dâng cúng vật tế thần lửa, ông sẽ làm gì với việc nỗ lực?

428. Như Ông sống Phạm hạnh,
Hãy đốt lửa tế tự,
Hãy chất chứa công đức,
Ông tinh tấn làm gì?

431. Duggo maggo padhānāya dukkaro durabhisambhavo,
imā gāthā bhaṇaṃ māro aṭṭhā buddhassa santike.

431. Con đường đưa đến sự nỗ lực là khó đi, khó làm, khó hoàn thành,’ trong khi nói những lời kệ này Ma Vương đã đứng gần đức Phật.

429. Khó thay, đường tinh tấn,
Khó làm, khó đạt được.
Ác ma đứng gần Phật,
Nói lên những kệ này.

432. Taṃ tathāvādīnaṃ māraṃ bhagavā etadabravī,
pamattabandhu pāpima yenatthena idhāgato.

432. Khi Ác ma có lời nói như thế, đức Thế Tôn đã nói với Ác Ma ấy điều này: ‘Này kẻ thân quyến của xao lãng, này Ác Ma, ngươi đến đây với mục dích gì?

430. Thế Tôn đã đáp lại
Lời Ác ma như sau:
Bà con ác phóng dật,
Ngươi đến đây làm gì?

433. Aṇumattenapi puññena attho mayhaṃ na vijjati,
yesaṃ ca attho puññānaṃ te māro vattumarahati.
 

 433. Ta không có mục đích về phước báu dầu chỉ là một phần nhỏ nhoi, Ma Vương nên nói với những người nào có mục đích về các việc phước báu.

431. Với công đức nhỏ bé,
Ta đâu có cần đến?
Với ai cần công đức,
Ác ma đáng nói chúng.

434. Atthi saddhā tathā viriyaṃ paññā ca mama vijjati,
evaṃ maṃ pahitattampi kiṃ jīva mama pucchasi.
 

434. Ta có đức tin cũng như tinh tấn, và trí tuệ được tìm thấy ở ta, ta còn là người có bản tánh cương quyết như vậy, sao ngươi còn hỏi ‘hãy sống’ đối với ta?

432. Ðây có tín, tinh tấn,
Và Ta có trí tuệ,
Như vậy, Ta tinh tấn,
Sao Ngươi hỏi Ta sống?

435. Nadīnamapi sotāni ayaṃ vāto visosaye,
kiñca me pahitattassa lohitaṃ nūpasussaye.

435. Gió này có thể làm khô cạn các dòng nước thậm chí của các con sông, nhưng sao máu của người có bản tánh cương quyết như ta không bị làm khô kiệt?

433. Gió này làm khô cạn,
Cho đến các dòng sông,
Làm sao khô cạn máu,
Khi Ta sống tinh tấn?

436. Lohite sussamānamhi pittaṃ semhañca sussati,
maṃsesu khīyamānesu bhiyyo cittaṃ pasīdati,
bhiyyo sati ca paññā ca samādhi mama tiṭṭhati.

436. Trong khi máu bị khô cạn, mật và đàm bị khô cạn, trong khi các phần xác thịt bị hủy hoại, thì tâm (của ta) càng thêm tịnh tín; niệm, tuệ, và định của ta càng thêm vững chải.

434. Dầu máu có khô cạn,
Mật, đàm Ta khô cạn,
Dầu thịt có hủy hoại,
Tâm Ta càng tịnh tín,
Ta lại càng vững trú,
Niệm, tuệ và thiền định.

437. Tassa mevaṃ viharato pattassuttamavedanaṃ,
kāme nāpekkhate cittaṃ passa sattassa suddhataṃ,

437. Trong khi sống như vậy ta đây đã đạt đến cảm thọ (khổ) cùng tột, tâm của ta (vẫn) không mong cầu các dục. Ngươi hãy nhìn xem trạng thái trong sạch của chúng sanh.

435. Do Ta sống như vậy,
Ðạt được thọ tối thượng,
Tâm không cầu các dục,
Nhìn chúng sanh thanh tịnh.

438. Kāmā te paṭhamā senā dutiyā arati vuccati,
tatiyā khuppipāsā te catutthī taṇhā pavuccati.

438. Các dục là đạo binh thứ nhất của ngươi, thứ nhì gọi là sự không hứng thú, thứ ba của ngươi là đói và khát, thứ tư gọi là tham ái.

436. Dục, đội quân thứ nhất.
Thứ hai, gọi bất lạc,
Thứ ba, đói và khát,
Thứ tư, gọi tham ái.

439. Pañcamī thīnamiddhaṃ te chaṭṭhā bhīrū pavuccati,
sattamī vicikicchā te makkho thambho te aṭṭhamī.

439. Thứ năm của ngươi là dã dượi và buồn ngủ, thứ sáu gọi là sợ sệt, thứ bảy của ngươi là hoài nghi, thứ tám của ngươi là gièm pha, bướng bỉnh.

437. Năm, hôn trầm thụy miên,
Thứ sáu, gọi sợ hãi,
Thứ bảy, gọi nghi ngờ,
Tám, dèm pha ngoan cố.

440. Lābho siloko sakkāro micchā laddho ca yo yaso,
yo cattānaṃ samukkaṃse pare ca avajānati.
 

440. Lợi lộc, danh tiếng, tôn vinh, và danh vọng nào đã đạt được sai trái, kẻ nào đề cao bản thân và khi dễ những người khác, ...

438. Lợi, danh và cung kính,
Danh vọng được tà vạy,
Ai tự đề cao mình,
Hủy báng các người khác.

441. Esā namuci te senā kaṇhassābhippahāriṇī,
na taṃ asūro jināti jetvā ca labhate sukhaṃ.

441. ... Này Namuci, chúng là đạo binh của ngươi, là toán xung kích của Kaṇha. Kẻ khiếp nhược không chiến thắng nó, còn (người nào) sau khi chiến thắng thì đạt được sự an lạc.

439. Ôi, này Na-mu-ci,
Ðây là quân đội Ngươi,
Ðây quân đội chiến trận,
Của dòng họ Kanhà,
Kẻ nhát, không thắng Ngươi,
Ai thắng Ngươi, được lạc.

442. Esa muñjaṃ parihare dhiratthu mama jīvitaṃ,
saṅgāme me mataṃ seyyo yañce jīve parājito.

 

442. Ta đây có nên gắn lên cọng cỏ muñja?[1] Thật xấu hổ thay mạng sống của ta! Đối với ta, việc chết ở chiến trường là tốt hơn việc có thể sống còn mà bị thua trận.


[1] Chiến sĩ ở trận tiền gắn cọng cỏ muñja ở đầu, ở cờ hiệu, hoặc ở vũ khí để khẳng định việc không đầu hàng (SnA. ii, 390).

440. Ta mang cỏ munja,
Vững thay, đây đời sống,
Thà Ta chết chiến trận,
Tốt hơn, sống thất bại.

443. Pagāḷhā ettha na dissanti eke samaṇabrāhmaṇā.
tañca maggaṃ na jānanti yena gacchanti subbatā.
 

443. Bị chìm đắm ở đây, một số Sa-môn và Bà-la-môn không được tỏa sáng và họ không biết được đạo lộ mà những vị có sự hành trì tốt đẹp[1] đã đi qua.


[1] Những vị có sự hành trì tốt đẹp (subbatā) là chư Phật Toàn Giác và Độc Giác (Sđd. 391).

441. Bị thấy đắm ở đây,
Số Sa-môn, Phạm chí,
Không biết được con đường,
Bậc giới đức thường đi.

444. Samantā dhajiniṃ disvā yuttaṃ māraṃ savāhiniṃ,
yuddhāya paccuggacchāmi mā maṃ ṭhānā acāvayi.

444. Sau khi nhìn thấy Ma Vương cùng với đạo quân binh có cờ hiệu dàn trận ở xung quanh, ta tiến ra đối đầu ở chiến trường. Chớ để Ma Vương loại ta rời khỏi vị trí.

442. Thấy khắp quân đội dàn,
Ác ma trên lưng voi,
Ta bước vào chiến trận,
Không để ai chiếm đoạt.

445. Yante taṃ nappasahati senaṃ loko sadevako,
tante paññāya gacchāmi āmaṃ pattaṃva asmanā.
 

445. Thế gian luôn cả chư Thiên không chế ngự được đạo binh ấy của ngươi. Ta sẽ phá tan đạo binh ấy của ngươi bằng trí tuệ, tựa như đập vỡ cái bình bát chưa nung bằng viên đá.

 

443. Ðội ngũ quân nhà Ngươi,
Ðời này và chư Thiên,
Không một ai thắng nổi,
Ta đến Ngươi với tuệ,
Như hòn đá dập nát,
Chiếc bát chưa nung chín.

446. Vasiṃ karitvā saṃkappaṃ satiñca suppatiṭṭhitaṃ,
raṭṭhā raṭṭhaṃ vicarissaṃ sāvake vinayaṃ puthu.
 

446. Sau khi chế ngự được tầm (sự suy tư), và niệm đã khéo được thiết lập, trong khi huấn luyện các đệ tử đông đảo, ta sẽ du hành từ xứ sở này đến xứ sở khác.

 

444. Nhiếp phục được tâm tư,
Khéo an trú chánh niệm,
Ta sẽ đi bộ hành,
Nước này qua nước khác,
Ðể huấn luyện rộng rãi,
Cho những người đệ tử.

447. Te appamattā pahitattā mama sāsanakārakā,
akāmassa te gamissanti yattha gantvā na socare.
 

 447. Họ là những người hành theo lời chỉ dạy của ta, không xao lãng, có bản tánh cương quyết. Dầu ngươi không muốn, họ sẽ đi đến nơi mà họ không sầu muộn sau khi đi đến.

 

445. Không phóng dật, tinh cần,
Họ hành lời Ta dạy,
Dầu Ngươi không muốn vậy,
Họ vẫn sẽ đi tới,
Chỗ nào họ đi tới,
Chỗ ấy không sầu muộn.

448. Sattavassāni bhagavantaṃ anubandhiṃ padā padaṃ,
otāraṃ nādhigacchissaṃ sambuddhassa satīmato.
 

447. ‘Suốt bảy năm,[1] ta đã theo sát đức Thế Tôn từng bước chân một. Ta đã không tìm được khuyết điểm nào của đấng Chánh Đẳng Giác, bậc có niệm.


[1] Lời của Ma Vương (SnA. ii, 392).

Ác-ma:

446. Bảy năm, ta bước theo,
Chân theo chân Thế Tôn,
Không tìm được lỗi lầm,
Nơi Thế Tôn chánh niệm.

449. Medavaṇṇaṃva pāsāṇaṃ vāyaso anupariyagā,
apettha mudu vindema api assādanā siyā.

449. Ví như con quạ lượn vòng vòng quanh hòn đá giống như miếng mỡ (nghĩ rằng): ‘Ở đây chúng ta cũng có thể kiếm được vật gì mềm mại, thậm chí là miếng ăn ngọt ngào?’

447. Như quạ bay xung quanh,
Hòn đá như đống mỡ,
Có thể có gì mềm?
Có thể có gì ngọt?

450. Aladdhā tattha assādaṃ vāyasetto apakkami,
kākova selaṃ āsajja nibbijjāpema gotamaṃ.

450. Không đạt được miếng ăn ngọt ngào ở nơi ấy, con quạ đã lìa bỏ nơi ấy. Tựa như con quạ với hòn đá, chúng ta đã đến với Gotama, đã chán nản và đã bỏ đi.’

448. Không tìm được gì ngọt,
Quạ từ đó bay đi,
Như quạ mổ hòn đá,
Ta bỏ Gotama.

451. Tassa sokaparetassa vīṇā kacchā abhassatha,
tato so dummano yakkho tatthevantaradhāyathāti.
 

451. Khi ấy, cây đàn vīṇā đã rơi xuống từ nách của kẻ bị sầu muộn tác động ấy. Sau đó, với tâm trí buồn bã, gã Dạ Xoa ấy đã biến mất ngay tại chỗ ấy.

449. Bị sầu muộn chi phối,
Cây đàn rơi khỏi nách,
Kẻ Dạ-xoa ác ý,
Tại đấy liền biến mất.

 

Padhānasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Nỗ Lực.

 

 

 

03. KINH KHÉO NÓI

3. SUBHĀSITASUTTAṂ

 

 

3. KINH KHÉO NÓI

 

 

3. KINH KHÉO THUYẾT

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane ―pe― Bhagavā etadavoca:

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. ―như trên― Đức Thế Tôn đã nói điều này:

 

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana... Thế Tôn nói như sau:

“Catuhi bhikkhave aṅgehi samannāgatā vācā subhāsitā hoti na dubbhāsitā, anavajjā ca ananuvajjā ca viññūnaṃ. Katamehi catuhi?

“Này các tỳ khưu, hội đủ với bốn yếu tố lời nói là được khéo nói, không bị vụng nói, không có lỗi lầm, và không có sự chê trách của các bậc hiểu biết. Với bốn (yếu tố) nào?

 

- Thành tựu bốn chi phần, này các Tỷ-kheo, lời nói được khéo nói, không phải vụng nói, không có lỗi lầm, không bị người trí quở trách. Thế nào là bốn?

Idha bhikkhave bhikkhu subhāsitaṃ yeva bhāsati no dubbhāsitaṃ dhammaṃ yeva bhāsati no adhammaṃ, piyaṃ yeva bhāsati no appiyaṃ, saccaṃ yeva bhāsati no alikaṃ. Imehi kho bhikkhave catuhi aṅgehi samannāgatā vācā subhāsitā hoti na dubbhāsitā, anavajjā ca ananuvajjā ca viññūnan ”ti.

Này các tỳ khưu, ở đây (trong Giáo Pháp này), vị tỳ khưu chỉ nói lời khéo nói, không bị vụng nói, chỉ nói lời chính đáng, không phải sái quấy, chỉ nói lời khả ái, không phải không khả ái, chỉ nói lời chân thật, không phải giả dối. Này các tỳ khưu, hội đủ với bốn yếu tố này lời nói là được khéo nói, không bị vụng nói, không có lỗi lầm, và không có sự chê trách của các bậc hiểu biết.”

 

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chỉ nói lời khéo nói, không nói lời vụng nói; chỉ nói lời đúng pháp, không nói lời phi pháp; chỉ nói lời khả ái, không nói lời phi khả ái; chỉ nói lời đúng sự thật, không nói lời không đúng sự thật. Thành tựu với bốn chi phần này, này các Tỷ-kheo, lời nói là được khéo nói không phải vụng nói, không có lỗi lầm, không bị người trí quở trách.

Idamavoca bhagavā idaṃ vatvā sugato athāparaṃ etadavoca satthā:
 

Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Thế Tôn thuyết như vậy. Thiện Thệ thuyết như vậy xong bậc Ðạo Sư lại nói thêm như sau:

452. Subhāsitaṃ uttamamāhu santo
dhammaṃ bhaṇe nādhammaṃ taṃ dutiyaṃ,
piyaṃ bhaṇe nāppiyaṃ taṃ tatiyaṃ
saccaṃ bhaṇe nālikaṃ taṃ catutthanti.
 

452. Các bậc đức độ đã nói lời khéo nói là tối thượng.

Nên nói lời chính đáng, không phải sái quấy; điều ấy là thứ nhì,

nên nói lời khả ái, không phải không khả ái; điều ấy là thứ ba,

nên nói lời chân thật, không phải giả dối; điều ấy là thứ tư.

450. Bậc Thiện nhân nói lên,
Lời khéo nói tối thượng,
Thứ hai, nói đúng pháp,
Thứ ba, nói khả ái
Không nói phi khả ái,
Thứ tư, nói chân thật
Không nói không chân thật
.

Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca:

Khi ấy, đại đức Vaṅgīsa đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Rồi Tôn giả Vangìsa từ chỗ ngồi đứng dậy đắp y vào một bên vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

‘Paṭibhāti maṃ bhagavā paṭibhāti maṃ bhagavā ’ti.

 

“Bạch đức Thế Tôn, có điều này sáng tỏ cho con. Bạch đức Thế Tôn, có điều này sáng tỏ cho con.”

 

- Ý nghĩ này đến với con, bạch Thiện Thệ.

‘Paṭibhātu taṃ vaṅgīsā ’ti bhagavā avoca.

Đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này Vaṅgīsa, hãy làm sáng tỏ điều ấy cho ngươi.”

 

- Hãy nói lên ý kiến ấy, này Vangìsa!.

 

Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi:

Khi ấy, đại đức Vaṅgīsa đã trực diện ca ngợi đức Thế Tôn bằng những lời kệ thích hợp rằng:

 

Rồi Tôn giả Vangìsa, trước mặt Thế Tôn, nói lên lời tán thán với những bài kệ thích ứng:

 

453. Tameva bhāsaṃ bhāseyya yāyattātaṃ na tāpaye,
pare ca na vihiṃseyya sā ve vācā subhāsitā.

453. Chỉ nên nói lời nói nào không làm bản thân nóng nảy, và không hãm hại những người khác; chính lời nói ấy là khéo nói.

Vangìsa:

451. Hãy nói lên lời nói,
Không thiêu đốt tự ngã,
Không làm hại người khác,
Lời nói ấy khéo nói.

454. Piyavācameva bhāseyya yā vācā patinanditā,
yaṃ anādāya pāpāni paresaṃ bhāsate piyaṃ.

454. Chỉ nên nói lời nói khả ái, là lời nói làm cho vui thích. Nên nói lời khả ái, là lời nói không mang lại những điều xấu xa cho những người khác.

452. Hãy nói lời khả ái,
Nói lời khiến hoan hỷ,
Không mang theo ác hại,
Khiến người khác ưa thích.

455. Saccaṃ ve amatā vācā esa dhammo sanantano,
sacce atthe ca dhamme ca āhu santo patiṭṭhitā.
 

455. Quả vậy, chân thật là lời nói bất tử. Điều này là quy luật muôn đời, Người ta đã nói rằng các bậc đức độ được thiết lập ở sự chân thật, ở mục đích, và ở sự chính trực.

453. Chân thật, lời bất tử,
Ðây thường pháp là vậy,
Họ nói, bậc Thiện nhân,
An trú trên chân thật,
Trên mục đích, trên pháp.

456. Yaṃ buddho bhāsati vācaṃ khemaṃ nibbānapattiyā,
dukkhassantakiriyāya sā ve vācānamuttamāti.
 

456. Lời nói nào đức Phật nói về sự an toàn đưa đến sự chứng đạt Niết Bàn, đưa đến việc làm chấm dứt khổ đau, lời nói ấy quả là tối thượng trong số các lời nói.

454. Lời gì đức Phật nói,
An ổn, đạt Niết-bàn,
Ðoạn tận các khổ đau,
Ðấy lời nói tối thượng
.

 

Subhāsitasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Khéo Nói.

 

 

 

04. KINH SUNDARIKABHĀRADVĀJA

4. SUNDARIKABHĀRADVĀJASUTTAṂ

 

4. KINH SUNDARIKABHĀRADVĀJA

 

4. KINH SUNDARIKA BHĀRADVĀJA 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu viharati sundarikāya nadiyā tīre. Tena kho pana samayena sundarikabhāradvājo brāhmaṇo sundarikāya nadiyā tīre aggiṃ juhati, aggihuttaṃ paricarati. Atha kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo aggiṃ juhitvā aggihuttaṃ paricaritvā uṭṭhāyāsanā samantā catuddisā anuvilokesi: “Ko nu kho imaṃ havyasesaṃ bhuñjeyyā ”ti.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại xứ sở Kosala, bên bờ sông Sundarikā. Vào lúc bấy giờ, Bà-la-môn Sundarikabhāradvāja[1] cúng tế lửa, chăm sóc việc cúng tế lửa ở bờ sông Sundarikā. Lúc ấy, sau khi đã cúng tế lửa, sau khi đã chăm sóc việc cúng tế lửa, Bà-la-môn Sundarikabhāradvāja đã từ chỗ ngồi đứng dậy nhìn ngắm bốn phương ở xung quanh (rồi nghĩ rằng): “Người nào có thể ăn phần còn lại của phẩm vật cúng tế này?”


[1] Bà-la-môn Sundarikabhāradvāja: vị Bà-la-môn này cư ngụ ở bờ sông Sundarikā và cúng tế lửa, và họ của vị ấy là Bhāradvāja nên được gọi như trên (SnA. ii, 401).

Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở phía dân chúng Kosala, trên bờ sông Sundarikà. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja đốt lửa thiêng trên bờ sông Sundarikà và đang cử hành các tế lễ lửa. Rồi Bà-la-môn Sundarikabhàradavàja, sau khi đốt lửa thiêng, sau khi cử hành các lễ tế lửa, từ chỗ ngồi đứng dậy và ngó xung quanh bốn phương nghĩ rằng: "Ai có thể ăn đồ ăn còn lại của lễ tế tự này?".

Addasā kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ avidūre aññatarasmiṃ rukkhamūle sasīsaṃ pārutaṃ nisinnaṃ disvāna vāmena hatthena havyasesaṃ gahetvā dakkhiṇena hatthena kamaṇḍalaṃ gahetvā yena bhagavā tenupasaṅkami.

 

Rồi Bà-la-môn Sundarikabhāradvāja đã nhìn thấy đức Thế Tôn, có đầu được trùm lại, đang ngồi ở gốc cây nọ không xa lắm, sau khi nhìn thấy đã cầm lấy phần còn lại của phẩm vật cúng tế bằng tay trái, và cầm lấy bình nước bằng tay phải, rồi đã đi về phía đức Thế Tôn.

 

Rồi Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja thấy Thế Tôn ngồi dưới một gốc cây, không bao xa, đầu che trùm lại; thấy vậy, tay trái cầm đồ tế tự còn lại, tay mặt cầm cái bình nước, đi đến Thế Tôn.

Atha kho bhagavā sundarikabhāradvājassa brāhmaṇassa padasaddena sīsaṃ vivari. Atha kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo “muṇḍo ayaṃ bhavaṃ muṇḍako ayaṃ bhavan ”ti tato va puna nivattitukāmo ahosi. Atha kho sundarikabhāradvājassa brāhmaṇassa etadahosi:

 

Khi ấy, do tiếng chân của Bà-la-môn Sundarikabhāradvāja, đức Thế Tôn đã cởi (vải trùm) đầu ra. Khi ấy, Bà-la-môn Sundarikabhāradvāja (nghĩ rằng): “Vị này trọc đầu! Vị này là kẻ đầu trọc!” ngay tại nơi ấy đã có ý định quay trở lại. Khi ấy, Bà-la-môn Sundarikabhāradvāja đã khởi ý điều này:

 

Thế Tôn nghe tiếng chân của Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja liền mở đầu ra. Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja nghĩ rằng: "Ðầu trọc là vị này. Một kẻ đầu trọc là vị này", và muốn đi trở lại. Rồi Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja suy nghĩ:

“Muṇḍāpi hi idhekacce brāhmaṇā bhavanti yannūnāhaṃ upasaṅkamitvā jātiṃ puccheyyan ”ti. Atha kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅgami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca:

 

“Ở đây, một số Bà-la-môn cũng trọc đầu vậy, hay là ta nên đi đến gần và hỏi về dòng dõi?” Rồi Bà-la-môn Sundarikabhāradvāja đã đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

"Ở đây, cũng có một số Bà-la-môn trọc đầu. Vậy ta hãy đi đến vị này và hỏi về thọ sanh". Rồi Bà-la-môn Sundaikabhàradvàja đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói với Thế Tôn:

“Kiṃjacco bhavan ”ti.

 

“Ông thuộc dòng dõi nào?”

- Thọ sanh của Tôn giả là thế nào?

Atha kho bhagavā sundarikabhāradvājaṃ brāhmaṇaṃ gāthāhi ajjhabhāsi:

 

Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với Bà-la-môn Sundarikabhāradvāja bằng những lời kệ này:

Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja những bài kệ:

457. Na brāhmaṇo no’mhi na rājaputto
na vessāyano uda koci no’mhi,
gottaṃ pariññāya puthujjanānaṃ
akiñcano manta carāmi loke.

457. “Ta không là Bà-la-môn, không là con của vua chúa,

Ta không là thương buôn hay bất cứ hạng người nào.

Sau khi biết toàn diện về dòng dõi của những kẻ phàm phu,

Ta không sở hữu gì, là bậc trí, Ta du hành ở thế gian.

Thế Tôn:

455. Ta không phải Phạm chí,
Cũng không phải con vua,
Cũng không phải buôn bán,
Không phải là ai hết,
Do liễu tri giai cấp,
Của các hàng phàm phu,
Ta kẻ trí ở đời,
Bộ hành, không sở hữu.

458. Saṅghāṭivāsī agaho carāmi
nivuttakeso abhinibbutatto,
alippamāno idha mānavehi
akallaṃ maṃ brāhmaṇa pucchasi gottapañhaṃ.

458. Khoác tấm y hai lớp, không nhà, Ta du hành,

có tóc đã được cạo sạch, có bản thân đã được tịch tịnh,

không bị vướng bận ở đời này với loài người,

này Bà-la-môn, ông hỏi Ta câu hỏi về dòng dõi là không hợp lẽ.”

456. Mang áo Tăng-già-lê,
Ta sống, không gia đình,
Với tóc được cạo sạch,
Tự ngã được an tịnh,
Ở đời Ta không nhiễm,
Với các thiếu niên nào,
Không xứng đáng, Ông hỏi,
Hỏi Ta về thọ sanh.

459. Pucchanti ve bho brāhmaṇā brāhmaṇehi
saha brāhmaṇo no bhavanti brāhmaṇo,

459. “Thưa ông, quả thật các Bà-la-môn có hỏi với các Bà-la-môn rằng: ‘Vậy ông có phải là Bà-la-môn?

Bà-la-môn:

457. Thật sự, thưa Tôn giả,
Các vị Bà-la-môn
Thường hỏi Bà-la-môn,
Có phải người Phạm chí?

ce tvaṃ brūsi mañca brūsi abrāhmaṇantaṃ
sāvittiṃ pucchāmi tipadaṃ catuvīsatakkharaṃ.

Nếu ông xưng là Bà-la-môn và bảo Ta không phải là Bà-la-môn, vậy hãy để Ta hỏi ông về Kinh Sāvittī gồm ba câu và hai mươi bốn chữ.” 

Thế Tôn:

Nếu Ông nói lên rằng:
Ông là Bà-la-môn,
Và nếu Ông hỏi Ta
Không phải Bà-la-môn,
Vậy Ta sẽ hỏi Ông
Về Sàvitti này,
Gồm có mười hai câu,
Và hai mươi bốn chữ.

460. Kiṃ nissitā isayo manujā khattiyā brāhmaṇā
devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthū idha loke,

460. “Mục đích gì mà số đông các ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn đã chuẩn bị lễ hiến tế đến chư Thiên  ở nơi này, tại thế gian?

Bà-la-môn:

458. Do y tựa vào gì,
Các ẩn sĩ, loài Người,
Sát-đế-lị Phạm chí,
Ðã tổ chức tế đàn,
Cho các hàng chư Thiên,
Rộng rãi trong đời này?

yadantagū vedagū yaññakāle,
yassāhutiṃ tassijjheti brūmi.

Vào thời điểm của lễ hiến tế, vật cúng tế của người nào (được dâng) đến vị đã đạt được mục đích cuối cùng, đến vị đã đạt được sự thông hiểu, Ta nói rằng vật cúng tế ấy có thể thành tựu kết quả cho người ấy.”

Thế Tôn:

Vị nào đạt cứu cánh,
Vị nào hiểu Vệ-đà,
Trong lễ tế đàn này,
Thọ hưởng đồ cúng dường,
Ta tuyên bố, nói rằng
Lễ ấy được tăng thịnh.

461. Addhā hi tassa hutamijjhe (iti brāhmaṇo)
yaṃ tādisaṃ vedaguṃ addasāmi,
tumhādisānaṃ hi adassanena
añño jano bhuñjati pūraḷāsaṃ.

461. (Vị Bà-la-môn nói): “Đương nhiên vật cúng tế của tôi đây có thể đạt kết quả vì tôi đã nhìn thấy vị đạt được sự thông hiểu như thế ấy. Với việc không gặp được vị tương tự như ông thì người nào khác sẽ thọ hưởng phần bánh cúng tế.”

Bà-la-môn:

459. Chắc chắn tế đàn ấy,
Cúng dường được tăng thịnh.
Vì chúng ta thấy được,
Vị am hiểu Vệ-đà,
Nếu chúng ta không thấy,
Ðược một ngưòi như Ông,
Một người khác thọ hưởng
Ðồ cúng dường tế đàn
.

462. Tasmātiha tvaṃ brāhmaṇa atthena
atthiko upasaṅkamma puccha,
antaṃ vidhūmaṃ anīghaṃ nirāsaṃ
appevidha abhivinde sumedhaṃ.

462. “Bởi thế, này Bà-la-môn, ở đây ông là người tầm cầu lợi ích, nên ông hãy đến gần và hãy hỏi. Biết đâu ở nơi đây ông có thể tìm được bậc an tịnh, không còn sân hận, không phiền muộn, không mong cầu, có trí tuệ cao cả.”

Thế Tôn:

460. Vì Ông, này Phạm chí,
Ðến Ta vì cần thiết,
Với mục đích rõ ràng,
Vậy nay Ta hỏi Ông,
Ông có thể tìm được
Một bậc trí ở đây,
An tịnh, không sân hận,
Không khổ, không tầm cầu?

463. Yaññe ratāhaṃ bho gotama
yaññaṃ yaṭṭhukāmo,
nāhaṃ pajānāmi anusāsatu maṃ bhavaṃ
yattha hutaṃ ijjhe brūhi metaṃ.

463. “Thưa ngài Gotama, tôi ưa thích các lễ hiến tế, có sự mong muốn cống hiến lễ hiến tế. Tôi không biết rõ, xin ngài hãy chỉ dạy tôi. Vật cống hiến ở nơi nào có thể đạt kết quả, xin ngài hãy nói cho tôi điều ấy.”

Bà-la-môn:

461. Tôi vui trong tế đàn,
Tôn giả Gotama,
Tôi tha thiết ao ước,
Ðược cúng dường tế đàn,
Nhưng tôi không được biết,
Tôn giả hãy dạy tôi!
Hãy nói lên cho tôi,
Chỗ cúng dường tăng thịnh.

464. Tena hi tvaṃ brāhmaṇa odahassu sotaṃ
dhammaṃ te desissāmi:

464.  “Này Bà-la-môn, như thế thì người hãy lắng tai nghe, Ta sẽ giảng giải Giáo Pháp cho ngươi.

 

Thế Tôn:

Vậy này Bà-la-môn,
Hãy lắng tai mà nghe,
Ta nay sẽ vì Ông,
Tuyên thuyết pháp vi diệu.

465. Mā jātiṃ pucchi caraṇañca puccha
kaṭṭhā have jāyati jātavedo,
nīcā kulīnopi munī dhitīmā
ājāniyo hoti hirīnisedho.

465. “Chớ hỏi về dòng giống, hãy hỏi về tánh hạnh. Thật vậy, ngọn lửa được sanh ra từ khúc củi gỗ. Bậc hiền trí, dầu có gia tộc hạ liệt, cũng vẫn có trí hiểu biết, là vị thuần chủng, có sự ngăn ngừa nhờ vào hổ thẹn (tội lỗi).

462. Chớ hỏi về thọ sanh,
Hãy hỏi về hạnh đức,
Thật vậy, từ củi gỗ,
Một ngọn lửa được sanh,
Từ gia đình thấp kém,
Bậc ẩn sĩ, có trí,
Ðược huấn luyện thuần thục,
Ðược xấu hổ chế ngự.

466. Saccena danto damasā upeto
vedantagū vusitabrahmacariyo,
kālena tamhi havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

466. Được thuần thục với sự chân thật, đã đạt đến sự chế ngự các giác quan, là người đã đi đến tận cùng của hiểu biết, đã sống đời Phạm hạnh, vào đúng thời điểm nên dâng vật cúng hiến đến vị ấy, người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

463. Ðược chân thật huấn luyện,
Ðược nhiếp phục chế ngự,
Bậc đạt đến hiểu biết,
Phạm hạnh được viên thành,
Hãy đúng thời cúng dường,
Ðồ cúng dường vị ấy.
Vậy vị Phạm chí nào
Muốn nguyện cầu công đức,
Hãy tổ chức tế đàn,
Với cúng dường như vậy.

467. Ye kāme hitvā agahā caranti
susaññatattā tasaraṃ va ujjuṃ,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

467. Những vị nào đã từ bỏ các dục, sống không nhà, có bản thân đã khéo tự chế ngự, ngay thẳng tựa như con thoi, vào đúng thời điểm nên dâng vật cúng hiến đến các vị ấy, người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

 

464. Những vị nào, bỏ dục,
Du hành, không gia đình,
Khéo chế ngự nhiếp phục,
Như con thoi trực chỉ.
Ðúng thời đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự,
Vị Phạm chỉ cầu phước,
Hãy bố thí như vậy,
Hãy tổ chức tế đàn,
Với cúng dường như vậy.

468. Ye vītarāgā susamāhitindriyā
cando ’va rāhuggahaṇā pamuttā,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

468. Những vị nào đã xa lìa luyến ái, có các giác quan đã khéo được tập trung, đã được giải thoát tựa như mặt trăng đã thoát khỏi sự nắm giữ của thần Rāhu,[1] vào đúng thời điểm nên dâng vật cúng hiến đến các vị ấy, người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.


[1] Tựa như mặt trăng đã thoát khỏi sự nắm giữ của thần Rāhu: tựa như mặt trăng đã qua khỏi thời gian xảy ra hiện tượng nguyệt thực (ND).

465. Những vị đã ly tham,
Các căn khéo định tĩnh,
Như trăng được giải thoát,
Khỏi nanh vuốt Ràhu,
Hãy đúng thời cúng dường,
Ðồ cúng dường vị ấy,
Vậy vị Phạm hạnh nào,
Muốn nguyện cầu công đức,
Hãy tổ chức tế đàn,
Với cúng dường như vậy.

469. Asajjamānā vicaranti loke
sadā satā hitvā mamāyitāni,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

469. Các vị du hành ở thế gian, không bám víu, luôn luôn có niệm, sau khi đã từ bỏ các vật đã được chấp là của tôi,[1] vào đúng thời điểm nên dâng vật cúng hiến đến các vị ấy, người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.


[1] Các vật đã được chấp là của tôi: được giải thích là tham ái và tà kiến (SnA. ii, 407).

466. Không tham dính vật gì,
Họ du hành ở đời,
Luôn luôn giữ chánh niệm,
Từ bỏ ngã sở kiến,
Hãy đúng thời cúng dường,
Ðồ cúng dường vị ấy.
Vậy vị Phạm chí nào,
Muốn cầu nguyện công đức,
Hãy tổ chức tế đàn,
Với cúng dường như vậy.

470. Ye kāme hitvā abhibhuyyacārī
yo vedi jātimaraṇassa antaṃ,
parinibbuto udakarahadova sīto
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

470. Là vị du hành sau khi đã từ bỏ và chế ngự các dục,

là vị biết sự chấm dứt của sanh và tử,

đã được tịch tịnh tựa như hồ nước mát lạnh,  

đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.

 

 

 

467. Ai từ bỏ các dục,
Tự nhiếp phục, du hành.
Ai biết sự chấm dứt,
Của sanh và sự chết,
Tịch tịnh và mát lạnh.
Mát lạnh như nước hồ.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

471. Samo samehi visamehi dūre
tathāgato hoti anantapañño,
anūpalitto idha vā huraṃ vā
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

471. Đồng đẳng với những vị đồng đẳng, cách xa những kẻ không đồng đẳng, đức Như Lai là vị có tuệ vô biên, không bị nhiễm ô ở đời này hoặc đời sau, đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.

 

 

 

468. Bình đẳng kẻ bình đẳng,
Xa lánh không bình đẳng,
Như Lai chứng đạt được,
Trí tuệ không giới hạn,
Không bị dính, uế nhiễm,
Ðời này hay đời sau.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

472. Yamhi na māyā vasatī na māno
yo vītalobho amamo nirāso,
panuṇṇakodho abhinibbutatto
yo brāhmaṇo sokamalaṃ ahāsi
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

472. Ở vị nào không có sự xảo quyệt trú ngụ, không có ngã mạn,

là vị có tham đã được xa lìa, không sở hữu, không mong cầu,

có sự giận dữ đã được xua đi, có bản thân đã được tịch tịnh,

là vị Bà-la-môn đã từ bỏ vết nhơ của sầu muộn,

đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.

469. Trong ai không man trá,
Không sống với kiêu mạn,
Ai không có tham dục,
Không của ta, không cầu,
Phẫn nộ được đoạn trừ,
Tự ngã thật tịch tịnh,
Vị Bà-la-môn ấy,
Cấu uế, sầu muộn đoạn,
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

473. Nivesanaṃ yo manaso ahāsi
pariggahā yassa na santi keci,
anupādiyāno idha vā huraṃ vā
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

473. Là vị đã từ bỏ chỗ cư trú của ý,

là vị không có bất cứ các vật sở hữu nào,

trong khi không chấp thủ đời này hoặc đời sau,

đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.

470. Ai đoạn diệt hoàn toàn
Mọi trú xứ của ý,
Không còn có nắm giữ,
Sự vật gì ở đời,
Không còn có chấp thủ,
Ðời này hay đời sau.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

474. Samāhito yo udatāri oghaṃ
dhammaṃ caññāsi paramāya diṭṭhiyā,
khīṇāsavo antimadehadhārī
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

474. Là vị đã được định tĩnh, đã vượt lên trên dòng lũ,

đã hiểu được pháp bằng sự nhận thức cùng tột,

có lậu hoặc đã được cạn kiệt, mang thân mạng cuối cùng,

đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.

471. Tâm ai thật định tĩnh,
Vượt khỏi được bộc lưu,
Rõ biết được Chánh pháp,
Với tri kiến tối thượng,
Lậu hoặc được đoạn trừ,
Mang thân này tối hậu.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

475. Bhavāsavā yassa vacī kharā ca
vidhūpitā atthagatā na santi,
sa vedagū sabbadhi vippamutto
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

475. Là vị có các hữu lậu và các lời nói thô lỗ đã được thiêu hủy, đã được tiêu hoại, không còn hiện hữu, vị ấy đã đạt được sự thông hiểu, đã được giải thoát về mọi phương diện,đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.

472. Với ai, các hữu lậu,
Và lời nói thô ác,
Ðược đoạn tận chấm dứt,
Không còn có tồn tại,
Vị ấy đạt hiểu biết,
Giải thoát mọi khía cạnh.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

476. Saṅgātigo yassa na santi saṅgā
so mānasattesu amānasatto,
dukkhaṃ pariññāya sakhettavatthuṃ
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

476. Là vị đã vượt qua các sự dính líu, không còn các sự dính líu, vị ấy không bị dính mắc ở ngã mạn giữa những kẻ bị dính mắc ở ngã mạn, vị đã biết toàn diện về khổ cùng với chốn hoạt động và nền tảng của nó, đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.

473. Giữa những người nhiễm trước,
Vị ấy không nhiễm trước,
Giữa chúng sanh kiêu mạn,
Vị ấy không kiêu mạn,
Liễu tri được đau khổ,
Kể cả ruộng và đất.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

477. Āsaṃ anissāya vivekadassī
paravediyaṃ diṭṭhimupātivatto,
ārammaṇā yassa na santi keci
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

477. Không trông cậy vào sự mong mỏi, là vị đã nhìn thấy sự tách biệt, đã vượt qua kiến thức có thể hiểu biểt được bởi những người khác, là vị không còn có bất cứ duyên cớ (tái sanh) nào nữa, đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.

474. Không dựa vào ước vọng,
Vị ấy thấy viễn ly,
Vượt qua sự hiểu biết,
Cùng tri kiến người khác,
Ðối với mọi sở duyên,
Vị ấy đều không có,
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

478. Parovarā yassa samecca dhammā
vidhūpitā atthagatā na santi,
santo upādānakhaye vimutto
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

478. Là vị đã thấu suốt về các pháp từ nội phần đến ngoại phần đã được thiêu hủy, đã được tiêu hoại, không còn hiện hữu, là vị an tịnh, đã được giải thoát ở sự cạn kiệt của chấp thủ, đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.

475. Vị ấy chứng tri được
Các pháp gần hay xa,
Ðược đoạn trừ, chấm dứt,
Không còn có hiện hữu,
An tịnh, không chấp thủ,
Ðược hoàn toàn giải thoát
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

479. Saṃyojanaṃ jātikhayantadassī
yopānudi rāgapathaṃ asesaṃ,
suddho niddoso vimalo akāco
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

479. Là vị nhìn thấy sự cạn kiệt và chấm dứt của sự trói buộc và của sự sanh, là vị đã xua đuổi trọn vẹn đường đi của luyến ái, là vị trong sạch, hết lỗi lầm, lìa khỏi vết nhơ, không khuyết điểm, đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.

 

476. Thấy được sự đoạn tận,
Sanh diệt các kiết sử,
Trừ được đường tham dục,
Không còn lại dư tàn.
Thanh tịnh, không lỗi lầm,
Không cấu uế, không nhiễm.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

480. Yo attanāttānaṃ nānupassati
samāhito ujjugato ṭhitatto,
sa ve anejo akhilo akaṅkho
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

480. Là vị không nhìn thấy tự ngã (ở năm uẩn) của bản thân, được định tĩnh, đã đi đến sự ngay thẳng, có bản thân vững chãi, vị ấy quả thật không có dục vọng, không bướng bỉnh, không nghi ngờ, đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.

477. Ai không thấy tự ngã,
Với tự ngã của mình,
Ðịnh tâm và chánh trực,
Kiên trì không dao động,
Vị ấy không có dục,
Không cứng cỏi, phân vân.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

481. Mohantarā yassa na santi keci
sabbesu dhammesu ca ñāṇadassī,
sarīrañca antimaṃ dhāreti
patto ca sambodhim anuttaraṃ sivaṃ,
ettāvatā yakkhassa suddhi
tathāgato arahati pūraḷāsaṃ.

481. Là vị không còn có bất cứ những lý do si mê nào nữa,

có sự nhìn thấy bằng trí tuệ về tất cả các pháp,

đang mang thân mạng cuối cùng,

và đã đạt đến quả vị Toàn Giác là sự an toàn tối thượng;

trạng thái trong sạch của con người là đến mức này,  

đức Như Lai xứng đáng phần bánh cúng tế.”

478. Với ai không còn nữa,
Nguyên nhân của si mê,
Biết rõ và thấy rõ,
Ðối với hết thảy pháp,
Và mang nặng thân này,
Thân này thân cuối cùng.
Chứng đạt Chánh Ðẳng Giác,
Vô thượng an ổn xứ,
Ðạt cho đến như vậy,
Bậc Dạ-xoa thanh tịnh.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường tế tự.

482. Hutaṃ ca mayhaṃ hutamatthu saccaṃ
yaṃ tādisaṃ vedagunaṃ alatthaṃ,
brahmā hi sakkhi patigaṇhātu me bhagavā
bhuñjatu me bhagavā pūraḷāsaṃ.

482. “Mong rằng vật hiến cúng của tôi hãy là vật hiến cúng thật sự, là việc tôi đã đạt được người có sự thông hiểu như là ngài, rõ ràng ngài chính là Phạm Thiên, xin đức Thế Tôn hãy thọ nhận cho tôi, xin đức Thế Tôn hãy thọ hưởng phần bánh cúng tế của tôi.”

 

Bà-la-môn:

479. Ðây đồ con cúng dường,
Ðồ cúng dường chân thật,
Con đã tìm thấy được,
Bậc trí đức như vậy,
Phạm thiên hãy chứng giám,
Thế Tôn hãy chấp nhận,
Thế Tôn hãy thọ hưởng,
Ðồ cúng dường của con.

483. Gāthābhigītaṃ me abhojaneyyaṃ
sampassataṃ brahmaṇa nesa dhammo,
gāthābhigītaṃ panudanti buddhā
dhamme satī brāhmaṇa vuttiresā.

483. “Vật nhận được sau khi ngâm nga kệ ngôn là không được thọ dụng bởi Ta. Này Bà-la-môn, điều ấy không phải là pháp của những bậc có nhận thức đúng đắn. Chư Phật khước từ vật nhận được sau khi ngâm nga kệ ngôn. Này Bà-la-môn, khi Giáo Pháp hiện hữu, điều ấy là cung cách thực hành.

Thế Tôn:

480. Ta không có thọ dụng
Ðồ ăn từ kệ tụng,
Hỡi này Bà-la-môn,
Ðây không phải là pháp,
Của những người có trí,
Chư Phật đều từ bỏ,
Ca hát các bài kệ,
Chỗ nào pháp an trú,
Hỡi này Bà-la-môn,
Ðấy chính là truyền thống.

484. Aññena ca kevalinaṃ mahesiṃ
khīṇāsavaṃ kukkuccavūpasantaṃ,
annena pānena upaṭṭhahassu
khettaṃ hi taṃ puññapekhassa hoti.

484. Ngươi hãy dâng cúng với cơm ăn nước uống khác đến vị toàn hảo (đức hạnh), đến bậc đại ẩn sĩ có các lậu hoặc đã được cạn kiệt, có các trạng thái hối hận đã được lắng dịu, bởi vì đó chính là thửa ruộng của người mong mỏi phước báu.”

 

 

481. Ông cần phải cúng dường,
Ðồ ăn, đồ uống khác,
Bậc Ðại sĩ toàn vẹn,
Ðoạn tận các lậu hoặc,
Ðã đoạn tận trao hối,
Không còn bị dao động,
Ngài chính là thửa ruộng,
Cho người cầu công đức.

485. Sādhāhaṃ bhagavā tathā vijaññaṃ
yo dakkhiṇaṃ bhuñjeyya mādisassa,
yaṃ yaññakāle pariyesamāno
pappuyya tava sāsanaṃ.
 

485. “Lành thay, thưa Thế Tôn! như vậy tôi có thể biết được vị nào có thể thọ dụng vật cúng dường của người như tôi, trong khi tôi đang tìm kiếm vị ấy vào thời điểm của lễ hiến tế, sau khi đã có được lời chỉ dạy của ngài.”

 

 

Bà-la-môn:

482. Thế Tôn, con muốn biết,
Người có tin như con,
Ai có thể hưởng thọ,
Ðồ cúng dường của con,
Trong khi lễ tế đàn,
Con phải tìm đến ai?
Lời Ngài dạy thế nào,
Con sẽ đạt cho được
.

486. Sārambhā yassa vigatā cittaṃ yassa anāvilaṃ,
vippamutto ca kāmehi thīnaṃ yassa panūditaṃ.

486. “Tánh nóng nảy của vị nào đã được xa lìa, tâm của vị nào không bị vẩn đục, vị nào đã được thoát ra khỏi các dục, sự dã dượi của vị nào đã được xua đi, ...

Thế Tôn:

483. Với ai, không xông xáo,
Với ai, tâm không động,
Giải thoát khỏi các dục,
Với ai bỏ hôn trầm,

487. Sīmantānaṃ vinetāraṃ jātimaraṇakovidaṃ,
muniṃ moneyyasampannaṃ tādisaṃ yaññamāgataṃ.

487. ... vị rèn luyện về giới hạn và kỹ cương, vị rành rẽ về sanh và tử, khi bậc hiền trí đầy đủ trí tuệ như thế ấy đi đến lễ hiến tế, ...

484. Lãnh đạo kẻ biên giới,
Thiện xảo trong sanh tử,
Ẩn sĩ đầy đủ tuệ,
Ðã đến lễ tế đàn.

488. Bhukuṭiṃ vinayitvāna pañjalikā namassatha,
pūjetha annapānena evaṃ ijjhanti dakkhiṇā.

488. ... nên ngăn lại việc nhíu mày, nên chắp tay cúi chào, nên cúng dường với cơm nước, như vậy các việc cúng dường được thành tựu.”

485. Nhiếp phục kiêu ngạo xong,
Hãy chắp tay đảnh lễ,
Cúng dường đồ ăn uống,
Cúng dường vậy tăng trưởng


489. Buddho bhavaṃ arahati pūraḷāsaṃ
puññakkhettamanuttaraṃ,
āyāgo sabbalokassa
bhoto dinnaṃ mahapphalanti.

489. “Đức Phật, bậc đức độ, xứng đáng phần bánh cúng tế,

Ngài là thửa ruộng phước tối thượng,

bậc đáng được hiến cúng của khắp cả thế gian,

vật đã được bố thí đến Ngài có quả báu lớn lao.”

Bà-la-môn:

486. Ngài là bậc Giác Ngộ,
Xứng đáng được cúng dường,
Ngài là ruộng phước đức,
Vô thượng, không gì hơn,
Vị tiếp nhận cúng dường,
Xứng đáng toàn thế giới.
Bố thí cho Tôn giả,
Kết quả thật to lớn
.

Atha kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca:

 

Khi ấy, Bà-la-môn đã nói với đức Thế Tôn điều này:

Rồi Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja bạch Thế Tôn:

“Abhikkantaṃ bho gotama, abhikkantaṃ bho gotama, seyyathāpi bho gotama nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito. Esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Labheyyāhaṃ bhoto gotamassa santike pabbajjaṃ labheyyaṃ upasampadanti.

“Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Bạch ngài Gotama, cũng giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế Pháp đã được ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Tôi đây xin đi đến nương nhờ ngài Gotama, Giáo Pháp, và Hội Chúng tỳ khưu. Tôi có thể xuất gia trong sự hiện diện của ngài Gotama không? Tôi có thể tu lên bậc trên không?”

 

- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, hay phơi bày ra những gì bị che kín, hay chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mặt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con nay quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Hãy cho con được xuất gia với Tôn giả Gotama. Hãy cho con thọ đại giới.

Alattha kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo —pe— arahataṃ ahosīti.

 

Rồi Bà-la-môn Sundarikabhāradvāja đã đạt được —như trên— đã trở thành vị A-la-hán.

 

Và Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja... trở thành một vị A-la-hán.

 

Sundarikabhāradvājasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Sundarikabhāradvāja.

 

 

 

05. KINH MĀGHA

5. MĀGHASUTTAṂ

 

 

5. KINH MĀGHA

 

5. KINH MĀGHA

Evaṃ me sutaṃ Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate. Atha kho māgho māṇavo yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi, sammodanīyaṃ kathaṃ sārāṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho māgho māṇavo bhagavantaṃ etadavoca:

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, ở núi Gijjhakūṭa. Lúc bấy giờ, thanh niên Bà-la-môn Māgha đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, thanh niên Bà-la-môn Māgha đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, trên núi Gijjhakàta. Rồi thanh niên Màgha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Màgha bạch Thế Tôn:

Ahaṃ hi bho gotama, dāyako dānapatī vadaññū yācayogo dhammena bhoge pariyesāmi, dhammena bhoge pariyesitvā dhammaladdhehi bhogehi dhammādhigatehi ekassāpi dadāmi dvinnampi dadāmi tiṇṇampi dadāmi catunnampi dadāmi pañcannampi dadāmi channampi dadāmi sattannampi dadāmi aṭṭhannampi dadāmi navannampi dadāmi dasannampi dadāmi vīsāyapi dadāmi tiṃsāyapi dadāmi cattārīsāyapi dadāmi paññāsāyapi dadāmi satassapi dadāmi bhiyyopi dadāmi. Kaccāhaṃ gotama evaṃ dadanto evaṃ yajanto bahuṃ puññaṃ pasavāmīti.

“Thưa ngài Gotama, chính tôi là người bố thí, người thí chủ, ân cần, hào phóng, tôi tầm cầu các của cải một cách chân chánh; sau khi tầm cầu các của cải một cách chân chánh, với các của cải đã nhận được một cách chân chánh, đã thành đạt một cách chân chánh, tôi cho đến một người, tôi cho đến hai người, tôi cho đến ba người, tôi cho đến bốn người, tôi cho đến năm người, tôi cho đến sáu người, tôi cho đến bảy người, tôi cho đến tám người, tôi cho đến chín người, tôi cho đến mười người, tôi cho đến hai chục người, tôi cho đến ba chục người, tôi cho đến bốn chục người, tôi cho đến năm chục người, tôi cho đến một trăm người, tôi cho dến nhiều người hơn nữa. Thưa vị Gotama, trong khi cho như vậy, trong khi cống hiến như vậy, phải chăng tôi tạo ra được nhiều phước báu?”

 

- Thưa Tôn giả Gotama, con là người bố thí, là thí chủ, rộng rãi, mong muốn được yêu cầu. Con tầm cầu tài sản đúng pháp, sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp, với những tài sản thâu hoạch đúng pháp, tạo dựng đúng pháp, con cho một nguời, con cho hai người, con cho ba người, con cho bốn người, con cho năm người, con cho sáu người, con cho bảy người, con cho tám người, con cho chín người, con cho mười người, con cho hai mươi người, con cho ba mươi người, con cho bốn mươi người, con cho năm mươi người, con cho một trăm người, con cho nhiều hơn nữa. Thưa Tôn giả Gotama, con cho như vậy, con bố thí như vậy, con có được nhiều phưóc đức không?

Taggha tvaṃ māṇava, evaṃ dadanto evaṃ yajanto bahuṃ puññaṃ pasavasi; yo ca kho māṇava dāyako dānapatī vadaññū yācayogo dhammena bhoge pariyesati dhammena bhoge pariyesitvā dhammaladdhehi bhogehi dhammādhigatehi ekassapi dadāti —pe— satassapi dadāti bhiyyopi dadāti, bahuṃ so puññaṃ pasavatīti.

 “Này thanh niên Bà-la-môn, đúng thế. Trong khi cho như vậy, trong khi cống hiến như vậy, ngươi tạo ra được nhiều phước báu. Và này thanh niên Bà-la-môn, người nào là người bố thí, người thí chủ, rộng rãi, hào phóng, tầm cầu các của cải một cách chân chánh; sau khi tầm cầu các của cải một cách chân chánh, với các của cải đã nhận được một cách chân chánh, đã thành đạt một cách chân chánh, (người ấy) cho đến một người, —như trên—cho đến một trăm người, cho dến nhiều người hơn nữa, người ấy tạo ra được nhiều phước báu.”

 

- Này thanh niên, Con cho như vậy, Con bố thí như vậy Con được nhiều phước đức. Này thanh niên, ai là người bố thí, là người thí chủ rộng rãi, mong muốn được yêu cầu, ai tầm cầu tài sản đúng pháp sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp, với những tài sản thâu hoạch đúng pháp, tạo dựng đúng pháp, ngưòi ấy cho một người... cho một trăm người, cho nhiều hơn nữa, người ấy được nhiều công đức.

Atha kho māgho māṇavo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

 

Khi ấy, thanh niên Bà-la-môn Māgha đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ này:

 

Rồi thanh niên Màgha nói lên lời Thế Tôn những bài kệ:

490. Pucchāmahaṃ gotamaṃ vadaññuṃ (iti māgho māṇavo)
kāsāyavāsiṃ agihaṃ carantaṃ
yo yācayogo dānapatī gahaṭṭho,
puññatthiko yajati puññapekho
dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ
kattha hutaṃ yajamānassa sujjhe.

490. (Lời thanh niên Bà-la-môn Māgha) “Tôi hỏi vị Gotama ân cần, mặc y màu ca-sa, không nhà, đang du hành rằng: Người thí chủ hào phóng, sống tại gia, có sự tầm cầu phước báu, cống hiến có sự mong mỏi phước báu, đang cho cơm nước đến những kẻ khác ở đây, như thế nào để vật cúng tế của người đang cống hiến có thể được trong sạch (có thể thành đạt phước báu)?

Thanh niên Màgha:

487. Thanh niên Màgha thưa:
Tôn giả Gotama,
Con hỏi bậc Hiền hòa,
Mặc cà sa không nhà,
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước.
Ở đây, thí người khác,
Ðồ ăn và đồ uống,
Tại đâu nên bố thí,
Ðể đồ cúng được tịnh.

491. Yo yācayogo dānapatī gahaṭṭho (māghāti bhagavā)
puññatthiko yajati puññapekho,
dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ
ārādhaye dakkhiṇeyye hi tādi.

491. (Lời đức Thế Tôn: “Này Māgha,) người thí chủ hào phóng, sống tại gia, có sự tầm cầu phước báu, cống hiến có sự mong mỏi phước báu, đang cho cơm nước đến những những kẻ khác ở đây, người như thế ấy có thể thành đạt (phước báu) nhờ vào những bậc xứng đáng được cúng dường.”

Thế Tôn:

488. Thế Tôn bèn trả lời:
Này thanh niên Màgha,
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người khác
Ðồ ăn và đồ uống,
Người ấy cần phải thí,
Người xứng đáng cúng dường
.

492. Yo yācayogo dānapatī gahaṭṭho (iti māgho māṇavo)
puññatthiko yajati puññapekho,
dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ
akkhāhi me bhagavā dakkhiṇeyye.

492. (Lời thanh niên Bà-la-môn Māgha) “Người thí chủ hào phóng, sống tại gia, có sự tầm cầu phước báu, cống hiến có sự mong mỏi phước báu, đang cho cơm nước đến những những kẻ khác ở đây, xin đức Thế Tôn hãy giải thích cho tôi về những bậc xứng đáng được cúng dường.”

Màgha:

489. Thanh niên Màgha thưa:
Tôn giả Gotama,
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người khác
Ðồ ăn và đồ uống,
Thế Tôn hãy nói con
Nên cúng dường cho ai?

493. Ye ve asattā vicaranti loke
akiñcanā kevalino yatattā,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

493. “Quả vậy, những vị nào không bị dính mắc, du hành ở thế gian, không sở hữu gì, toàn hảo (đức hạnh), có bản thân đã được chế ngự, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

Thế Tôn:

490. Những ai sống ở đời,
Thật sự không nhiễm trước,
Hoàn toàn không sở hữu,
Tự ngã được nhiếp phục,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

494. Ye sabbasaṃyojanabandhanacchidā
dantā vimuttā anīghā nirāsā,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
 

494. Những vị nào đã cắt đứt tất cả các sự trói buộc, đã được huấn luyện, đã được giải thoát, không phiền muộn, không mong cầu, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

491. Những ai đã chặt đứt,
Mọi kiết sử trói buộc,
Nhiếp phục được giải thoát,
Không dao động, mong cầu.
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

495. Ye sabbasaṃyojanavippamuttā
dantā vimuttā anīghā nirāsā,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

 495. Những vị nào đã được thoát ra khỏi tất cả các sự trói buộc, đã được huấn luyện, đã được giải thoát, không phiền muộn, không mong cầu, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

 

492. Những ai đã giải thoát
Mọi kiết sử trói buộc,
Nhiếp phục được giải thoát,
Không khổ, không mong cầu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

496. Rāgañca dosañca pahāya mohaṃ
khīṇāsavā vusitabrahmacariyā,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

496. (Những vị nào) sau khi từ bỏ tham ái sân hận và si mê, có lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã sống đời Phạm hạnh, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

493. Vị nào đã đoạn tận,
Tham, sân và cả si,
Các lậu hoặc đã đoạn,
Phạm hạnh đã thành tựu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

497. Yesu na māyā vasati na māno
ye vītalobhā amamā nirāsā,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

 497. Ở những vị nào không có sự xảo quyệt trú ngụ, không có ngã mạn, là những vị có tham đã được xa lìa, không ích kỷ, không mong cầu, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

494. Ai sống không man trá,
Và không có kiêu mạn,
Những vị sống không tham,
Không ngã sở, không cầu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

498. Ye ve na taṇhāsu upātipannā
vitareyya oghaṃ amamā caranti,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

 498. Thật vậy, những vị nào không bị sa đọa ở các tham ái, sau khi đã vượt qua dòng lũ, sống không ích kỷ, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

495. Những ai đối với ai,
Không rơi vào hệ lụy,
Vượt khỏi được bộc lưu,
Du hành không ngã sở,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự,
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

499. Yesaṃ taṇhā natthi kuhiñci loke
bhavābhavāya idha vā huraṃ vā,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

499. Những vị nào không có tham ái về bất cứ điều gì ở thế gian, ở hữu hoặc phi hữu, ở đời này hoặc đời sau, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

496. Với ai không tham ái,
Một vật gì ở đời,
Không ái hữu, phi hữu,
Ðời này hay đời sau,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

500. Ye kāme hitvā agihā caranti
susaññatattā tasaraṃva ujjuṃ,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

500. Những vị nào, sau khi từ bỏ các dục, không nhà, đang du hành, có bản thân đã khéo tự chế ngự, ngay thẳng tựa như con thoi, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

497. Những ai từ bỏ dục,
Sống không có gia đình,
Khéo léo biết chế ngự,
Như con thoi, chính trực,
Ðúng thời, đối vị ấy.
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

501. Ye vītarāgā susamāhit’ indriyā
candova rāhuggahaṇā pamuttā,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

501. Những vị nào đã xa lìa luyến ái, có các giác quan đã khéo được định tĩnh, đã được giải thoát tựa như mặt trăng đã thoát khỏi sự nắm giữ của thần Rāhu, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

498. Những ai, ly tham ái,
Các căn khéo định tĩnh,
Như mặt trăng thoát khỏi,
Nanh vuốt của Ràhu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

502. Samitāvino vītarāgā akopā
yesaṃ gatī natthi idha vippahāya,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

502. Những vị đã được yên lặng, đã xa lìa luyến ái, không còn giận dữ, là những vị không có cảnh giới tái sanh sau khi lìa bỏ nơi này, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

499. Những ai được an tịnh,
Ly tham, ly phẩn nộ,
Sau khi bỏ đời này,
Không còn có sanh thú,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

503. Jahitvā jātimaraṇaṃ asesaṃ
kathaṃkathaṃ sabbamupātivattā,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

503. (Những vị nào) sau khi đã từ bỏ hoàn toàn sanh và tử, đã vượt lên trên tất cả hoài nghi, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

500. Ðoạn sanh tử đã xong,
Không còn chút dư tàn,
Nghi ngờ và phân vân,
Tất cả được nhiếp phục,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

504. Ye attadīpā cīvaranti loke
akiñcanā sabbadhi vippamuttā,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

504. Những vị nào du hành ở thế gian, có (đức hạnh là) hòn đảo (nương nhờ) của bản thân, không sở hữu gì, đã được giải thoát về mọi phương diện, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

501. Những ai sống ở đời
Tự mình làm hòn đảo,
Không có vật sở hữu,
Giải thoát được trọn vẹn,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

505. Ye hettha jānanti yathā yathā idaṃ
ayamantimā natthi punabbhavoti,
kālena tesu havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

505. Những vị nào ở đây biết được điều này đúng theo bản thể: ‘Đây là lần cuối cùng, không còn tái sanh lại nữa,’ vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.

502. Những ai ngay đời này,
Như thật rõ biết được,
Ðây đời sống cuối cùng,
Không còn có tái sanh,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

506. Yo vedagū jhānarato satīmā
sambodhipatto saraṇaṃ bahunnaṃ,
kālena tamhi havyaṃ pavecche
yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.

506. Vị nào là bậc đã đạt được sự thông hiểu, ưa thích việc tham thiền, có niệm, đã đạt đến quả vị Toàn Giác, nơi nương nhờ của nhiều người, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.”

503. Ai đạt tuệ tối thượng,
Ưa thiền, giữ chánh niệm,
Ðạt được sự giác ngộ,
Chỗ quy ngưỡng nhiều người.
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự,
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy
.

507. Addhā amoghā mama pucchanā ahū (iti māgho māṇāvo)
akkhāsi me bhagavā dakkhiṇeyye,
tvaṃ hettha jānāsi yathā tathā idaṃ
tathā hi te vidito esa dhammo.

507. (Lời thanh niên Bà-la-môn Māgha) “Thật vậy, câu hỏi của tôi đã không vô ích, đức Thế Tôn giải thích cho tôi về những bậc xứng đáng được cúng dường, bởi vì ở đây ngài biết điều này đúng theo bản thể, ngài biết pháp ấy đúng như thế.

Màgha:

504. Thật sự câu con hỏi,
Không trống không, vô ích,
Thế Tôn nói cho con,
Những ai đáng cúng dường.
Ở đây Ngài đã biết,
Sự thật như thế nào.
Như vậy chính là pháp,
Ngài được biết như vậy.

508. Yo yācayogo dānapatī gahaṭṭho
puññatthiko yajati puññapekho,
dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ
akkhāhi me bhagavā yaññasampadaṃ.

508. Người nào là thí chủ hào phóng, sống tại gia, có sự tầm cầu phước báu, cống hiến có sự mong mỏi phước báu, đang cho cơm nước đến những những kẻ khác ở đây, xin đức Thế Tôn hãy giải thích cho tôi về sự thành tựu của lễ hiến tế.

505. Rồi thanh niên Màgha,
Lại thưa thêm như sau:
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người khác,
Ðồ ăn và đồ uống,
Thế Tôn hãy nói con,
Pháp tế tự hoàn toàn.

509. Yajassu yajamāno māghāti bhagavā
sabbattha ca vippasādehi cittaṃ,
ārammaṇaṃ yajamānassa yaññaṃ
ettha patiṭṭhāya jahāti dosaṃ.

509. Đức Thế Tôn: “Này Māgha, hãy hiến dâng; trong lúc hiến dâng hãy khiến cho tâm được tịnh tín về mọi phương diện. Đối tượng của người đang hiến dâng là lễ hiến tế, do sự đứng vững ở tại nơi này người (ấy) từ bỏ sân hận.

 

 

Thế Tôn:

506. Thế Tôn nói Màgha,
Hãy tế đàn, tế tự,
Phải làm cho trong sạch,
Hoàn toàn mọi tâm tư,
Ðối người lễ tế đàn,
Ðối tượng là đồ cúng,
Hãy an trú ở đây,
Từ bỏ sự sân hận.

510. So vītarāgo pavineyya dosaṃ
mettaṃ cittaṃ bhāvayaṃ appamāṇaṃ,
rattindivaṃ satataṃ appamatto
sabbādisā pharate appamaññaṃ.

510. Người ấy có luyến ái đã được xa lìa, có thể loại trừ sân hận. Trong khi phát triển tâm từ ái vô lượng, đêm và ngày, thường xuyên, không xao lãng, (người ấy) nên lan tỏa (tâm từ ái) không hạn lượng khắp tất cả các phương.”

507. Vị ấy đoạn tận tham,
Nhiếp phục cả sân hận,
Tu tập tâm từ bi,
Vô lượng khắp tất cả,
Với hạnh không phóng dật,
Ngày đêm luôn tu tập,
Cùng khắp mọi phương hướng,
Biến mãn vô lượng tâm.

511. Ko sujjhati muccati bajjhatī ca
kenattanā gacchati brahmalokaṃ,
ajānato me muni brūhi puṭṭho
bhagavā hi me sakkhi brahmajja diṭṭho,
tuvaṃ hi no brahmasamoti saccaṃ
kathaṃ upapajjati brahmalokaṃ jutīmā.

511. “Ai trở nên trong sạch, ai được giải thoát, và ai bị trói buộc?

Tự mình đi đến thế giới Phạm Thiên bằng cách nào?

Thưa bậc hiền trí, được hỏi xin ngài hãy nói cho tôi, là kẻ không biết.

Bởi vì đức Thế Tôn được tôi thấy rõ ràng hôm nay là đấng Phạm Thiên,

bởi vì ngài ngang bằng dấng Phạm Thiên của chúng tôi’ là sự thật.

Thưa bậc sáng chói, làm thế nào để được sanh về thế giới Phạm Thiên?

Màgha:

508. Ai trong sạch, giải thoát,
Ai còn bị trói buộc,
Ai với tự thân mình,
Ði đến Phạm Thiên giới?
Vì không biết, con hỏi.
Hãy nói lên, ẩn sĩ,
Mong Thế Tôn chứng giám,
Cho con ngày hôm nay,
Con được thấy Phạm thiên,
Ngài đối với chúng con,
Thật sự Ngài ngang bằng,
Với Phạm thiên không khác,
Ôi! Bậc chói hào quang,
Làm thế nào được sanh,
Lên cảnh giới Phạm thiên?

512. Yo yajati tividhaṃ puññasampadaṃ (māghāti bhagavā)
ārādhaye dakkhiṇeyyehi tādi,
evaṃ yajitvā sammā yācayogo
upapajjati brahmalokanti brūmīti.

512. (Lời đức Thế Tôn: “Này Māgha,) người nào cống hiến có sự thành tựu phước báu với ba yếu tố (ở vào ba thời điểm), người như thế ấy có thể thành đạt (phước báu) nhờ vào những bậc xứng đáng được cúng dường. Ta nói rằng: ‘Sau khi cống hiến một cách đúng đắn như vậy, người hào phóng được sanh về thế giới Phạm Thiên.’

Thế Tôn:

509. Thế Tôn đáp Màgha:
Ai tổ chức tế đàn,
Ðầy đủ cả ba phần,
Tế đàn ấy tăng thịnh,
Với những người được cúng.
Xứng đáng được cúng dường.
Tế đàn như vậy xong,
Chơn chánh muốn được cầu,
Ta nói vị ấy sanh,
Tại cảnh giới Phạm thiên.

Evaṃ vutte māgho māṇavo bhagavantaṃ etadavoca:

 

Khi được nói như vậy, thanh niên Bà-la-môn đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Khi nói được như vậy, thanh niên Màgha bạch Thế Tôn:

“Abhikkantaṃ bho gotama —pe— ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.

 “Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt vời!—như trên— đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”

 

- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama!.

Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama!... Từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

 

Māghasuttaṃ niṭṭhitaṃ. 
 

 

Dứt Kinh Māgha. 

 

 

 

06. KINH SABHIYA

6. SABHIYASUTTAṂ

 

 

6. KINH SABHIYA

 

 

6. KINH SABHIYA

 

Evaṃ me sutaṃ Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena sabhiyassa paribbājakassa purāṇasālohitāya devatāya pañhā uddiṭṭhā honti: Yo te sabhiya samano vā brāhmaṇo vā ime pañhe puṭṭho vyākaroti, tassa santike brahmacariyaṃ careyyāsīti.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, ở Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, có vị Thiên nhân, trước đây là thân nhân cùng huyết thống của du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã nêu lên những câu hỏi rằng: “Này Sabhiya, vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào (có thể) trả lời khi được ngươi hỏi những câu hỏi này, thỉ ngươi nên thực hành Phạm hạnh ở nơi vị ấy.”

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, du sĩ Sabhiya, một du sĩ ngoại đạo, được một Thiên nhân trước kia là bà con huyết thống, nói lên những câu hỏi sau đây: "Này Sabhiya, vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, khi được hỏi những câu hỏi này, trả lời cho Ông, thời Ông hãy sống Phạm hạnh với người ấy".

Atha kho sabhiyo paribbajāko tassā devatāya santike te pañhe uggahetvā ye te samaṇabrāhmaṇā saṅghino gaṇino gaṇācariyā ñātā yasassino titthakarā sādhusammatā bahujanassa, seyyathīdaṃ: Pūraṇo kassapo makkhali gosālo ajito kesakambalo pakudho kaccāyano sañjayo bellaṭṭhiputto nigaṇṭho nātaputto. Te upasaṅkamitvā te pañhe pucchati, te sabhiyena paribbājakena pañhe puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā kopañca dosañca appaccayañca pātukaronti, api ca sabhiyaññeva paribbājakaṃ paṭipucchanti.

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã học những câu hỏi ấy ở nơi vị Thiên nhân ấy, rồi đã đi đến gặp những Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào là những vị có hội chúng, có đồ chúng, là giáo thọ sư của tập thể, được biết tiếng, có danh vọng, là các giáo chủ, được nhiều người đánh giá cao, như là Pūraṇa Kassapa, Makkhalī Gosāla, Ajita Kesakambala, Pakudha Kaccāyana, Sañjaya Bellaṭṭhiputta, Nigaṇṭha Nātaputta, sau khi đến đã hỏi các vị ấy những câu hỏi. Các vị ấy, khi được du sĩ ngoại đạo Sabhiya hỏi những câu hỏi, thì không thể trả lời. Trong khi không thể trả lời, các vị ấy trở nên giận dữ, sân hận, tỏ vẻ sự bực bội, và thậm chí còn hỏi ngược lại chính du sĩ ngoại đạo Sabhiya nữa.

 

Rồi du sĩ Sabhiya, sau khi học những câu hỏi ấy từ vị Thiên nhân ấy, phàm có những Sa-môn, Bà-la-môn nào có hội chúng, có đồ chúng, bậc đạo sư đồ chúng được biết đến, có danh vọng, các ngoại đạo sư, được quần chúng ái mộ, như Pùrana Kacsapa, Makkhali Gosàla, Ajita Kesa Kambali, Pakudha Kacàyana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nàtaputta, Sabhiya đi đến các vị ấy và hỏi những câu hỏi ấy. Các vị ấy, được du sĩ Sabhiya hỏi những câu hỏi ấy, không có thể giải đáp. Do không có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn. Họ vặn hỏi trở lại du sĩ Sabhiya.

 

Atha kho sabhiyassa paribbājakassa etadahosi: Ye kho te bhonto samaṇabrāhmaṇā saṅghino gaṇino gaṇācariyā ñātā yasassino titthakarā sādhusammatā bahujanassa, seyyathīdaṃ: Pūraṇo kassapo —pe— nigaṇṭho nātaputto, te mayā pañhe puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā kopañca dosañca appaccayañca pātukaronti, api ca mamaññevettha paṭipucchanti, yannunāhaṃ hīnāyāvattitvā kāme paribhuñjeyyanti.

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã khởi ý điều này: “Những Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào là những vị có hội chúng, có đồ chúng, là giáo thọ sư của tập thể, được biết tiếng, có danh vọng, là các giáo chủ, được nhiều người đánh giá cao, như là Pūraṇa Kassapa, —như trên— Nigaṇṭha Nātaputta, các vị ấy khi được ta hỏi những câu hỏi, thì không thể trả lời. Trong khi không thể trả lời, các vị ấy trở nên giận dữ, sân hận, tỏ vẻ sự bực bội, thậm chí ở đây còn hỏi ngược lại chính ta nữa; có lẽ ta nên quay trở lại đời sống thấp kém và thọ hưởng các dục?”

 

Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ như sau: "Các vị Tôn giả, Sa-môn, Bà-la-môn ấy có hội chúng, có đồ chúng, bậc đạo sư, đồ chúng được biết đến, có danh vọng, có ngoại đạo sư, được quần chúng ái mộ, như Pùrana Kassapa... Nigantha Nàtaputta. Các vị ấy được ta hỏi những câu hỏi không có thể giải đáp. Do không có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn họ vặn hỏi trở lại ta. Vậy ta haỹ trở lui đời sống hạ liệt, thọ hưởng các dục".

Atha kho sabhiyassa paribbājakassa etadahosi: Ayampi samaṇo gotamo saṅghī ceva gaṇī ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato bahujanassa, yannūnāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ upasaṅkamitvā ime pañhe puccheyyanti.

 

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã khởi ý điều này: “Sa-môn Gotama này cũng là vị có hội chúng, có đồ chúng, là giáo thọ sư của tập thể, được biết tiếng, có danh vọng, là giáo chủ, được nhiều người đánh giá cao, có lẽ ta nên đi đến gặp Sa-môn Gotama và hỏi những câu hỏi này?”

Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ như sau: "Có Sa-môn Gotama này, có hội chúng, có đồ chúng, bậc lãnh đạo hội chúng, được biết đến, có danh vọng, sáng lập ra giáo phái, được quần chúng ái mộ, vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và hỏi những câu hỏi này.

Atha kho sabhiyassa paribbajākassa etadahosi: Yepi kho te bhonto samaṇabrāhmaṇā jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayo anuppattā therā rattaññū cirapabbajitā saṅghino gaṇino gaṇācariyā ñātā yasassino titthakarā sādhusammatā bahujanassa, seyyathīdaṃ: Pūraṇo kassapo —pe— nigaṇṭho nātaputto. Tepi mayā pañhe puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā kopañca dosañca appaccayañca pātukaronti, api ca maññevettha paṭipucchanti. Kiṃ pana me samaṇo gotamo ime pañhe puṭṭho vyākarissati, samaṇo hi gotamo daharo ceva jātiyā navo ca pabbajjāyāti.

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã khởi ý điều này: “Thậm chí các ngài Sa-môn và Bà-la-môn già cả, lão niên, lớn tuổi, đã sống thọ, đã đạt đến đoạn cuối cuộc đời, là các vị trưởng lão, thâm niên, xuất gia đã lâu, có hội chúng, có đồ chúng, là giáo thọ sư của tập thể, được biết tiếng, có danh vọng, là các giáo chủ, được nhiều người đánh giá cao, như là Pūraṇa Kassapa, —như trên— Nigaṇṭha Nātaputta. Ngay cả các ngài ấy, khi được ta hỏi những câu hỏi, còn không thể trả lời. Trong khi không thể trả lời, các ngài ấy trở nên giận dữ, sân hận, tỏ vẻ sự bực bội, thậm chí ở đây còn hỏi ngược lại chính ta nữa. Vậy thì Sa-môn Gotama, khi được ta hỏi những câu hỏi này, sẽ có trả lời chăng? Bởi vì Sa-môn Gotama còn trẻ về tuổi tác và còn mới mẻ trong việc xuất gia.” 

 

Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya suy nghĩ như sau: "Các vị Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã già, đã lớn tuổi, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đi quá nửa đời người, đã đạt đến mức cuối tuổi thọ, là những bậc trưởng lão, được nhiều người biết đến, xuất gia đã lâu ngày, có hội chúng, có đồ chúng, bậc lãnh đạo hội chúng, được biết đến, có danh vọng, các ngoại đạo sư được quần chúng ái mộ, như Pùrana Kassapa... Nigantha Nàtaputta. Các vị ấy được ta hỏi những câu hỏi, không có thể giải đáp. Do không có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn. Và họ vặn hỏi trở lại ta. Không biết Sa-môn Gotama có thể trả lời những câu hỏi này của ta. Sa-môn Gotama còn trẻ và mới được xuất gia".

Atha kho sabhiyassa paribbājakassa etadahosi: Samaṇo kho daharoti [na uññātabbo] na paribhotabbo daharopi cesa samaṇo gotamo mahiddhiko hoti mahānubhāvo, yannūnāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ upasaṅkamitvā ime pañhe puccheyyanti.
 

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã khởi ý điều này: “Quả [không nên khi dễ,[ không nên xem thường vị Sa-môn còn trẻ; mặc dầu còn trẻ, nhưng Sa-môn Gotama ấy có đại thần lực, có đại oai lực; có lẽ ta nên đi đến gặp Sa-môn Gotama và hỏi những câu hỏi này?”

 

Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya suy nghĩ như sau: "Không nên gạt bỏ, không nên khinh thường một Sa-môn vì vị ấy còn trẻ tuổi; nếu vị Sa-môn còn trẻ, nhưng vị ấy có đại thần, đại uy lực. Vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và hỏi những câu hỏi này".

Atha kho sabhiyo paribbājako yena rājagahaṃ tena cārikaṃ pakkāmi. Anupubbena cārikaṃ caramāno yena rājagahaṃ veḷuvanaṃ kalandakanivāpo, yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi, sammodanīyaṃ kathaṃ sārāṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho sabhiyo paribbājako bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

 

Sau đó, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã ra đi du hành về phía thành Rājagaha, trong khi tuần tự du hành đã đi đến thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc, và đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya bộ hành ra đi đến Ràjagaha, tiếp tục bộ hành, đi đến Vương Xá Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên du sĩ Sabhiya nói lên với Thế Tôn những bài kệ:

513. Kaṅkhī vecikicchī āgamaṃ (iti sabhiyo)
pañhe pucchituṃ abhikaṅkhamāno,
tesantakaro bhavāhi pañhe me puṭṭho
anupubbaṃ anudhammaṃ vyākarohi me.

513. (Sabhiya nói) “Có sự phân vân, có sự hoài nghi, tôi đã đi đến, trong khi mong muốn hỏi những câu hỏi, xin ngài hãy là người giải quyết dứt điểm chúng. Được tôi hỏi những câu hỏi, xin ngài hãy tuần tự trả lời tôi thuận theo pháp.”

Sabhiya:

510. Sabhiya nói rằng:
Tôi đến, có nghi ngờ,
Hy vọng có thể hỏi
Những câu hỏi với Ngài.
Mong Ngài chấm dứt được,
Những câu hỏi cho tôi.
Những câu được tôi hỏi,
Hãy thứ lớp giải đáp.

514. Dūrato āgato si sabhiyā (ti bhagavā)
pañhe pucchituṃ abhikaṅkhamāno,
tesantakaro bhavāmi puṭṭho
anupubbaṃ anudhammaṃ vyākaromi te.

514. (Đức Thế Tôn nói) “Này Sabhiya, ngươi đã từ xa đi đến, trong khi mong muốn hỏi những câu hỏi, Ta là người giải quyết dứt điểm chúng. Được hỏi, Ta (sẽ) tuần tự trả lời ngươi thuận theo pháp.

Thế Tôn:

511. Thế Tôn đáp du sĩ:
Ông từ xa đi đến,
Hy vọng có thể hỏi,
Những câu hỏi với Ta,
Ta sẽ chấm dứt được,
Những câu hỏi cho Ông
Những câu được Ông hỏi,
Ta thứ lớp giải đáp.

515. Puccha maṃ sabhiya pañhaṃ yaṃ kiñci manasicchasi,
tassa tasseva pañhassa ahaṃ antaṃ karomi te ’ti.

515. Này Sabhiya ngươi hãy hỏi Ta bất cứ câu hỏi nào mà ngươi muốn ở trong tâm, Ta (sẽ) giải quyết dứt điểm từng câu hỏi một cho ngươi.”

512. Du sĩ Sabhiya,
Hãy hỏi Ta câu hỏi,
Tuỳ theo ý Ông muốn,
Ông hỏi câu hỏi nào,
Ta sẽ chấm dứt được,
Câu hỏi ấy cho Ông.

Atha kho sabhiyassa paribbājakassa etadahosi: Acchariyaṃ vata bho abbhutaṃ vata bho yaṃ vatāhaṃ aññesu samaṇabrāhmaṇesu okāsakammamattampi nālatthaṃ, taṃ me idaṃ samaṇena gotamena okāsakammaṃ katanti attamano pamodito udaggo pītisomanassajāto bhagavantaṃ pañhaṃ apucchi:

 

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã khởi ý điều này: “Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Quả thật là việc mà ta đã không đạt được mảy may cơ hội ở các Sa-môn và Bà-la-môn khác, cơ hội ấy đã được tạo ra cho ta bởi Sa-môn Gotama.” Được hoan hỷ, vui mừng, phấn khởi, sanh tâm phỉ lạc, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã hỏi đức Thế Tôn câu hỏi rằng:

 

Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Ta không bao giờ có được cơ hội, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn khác. Nay cơ hội này được Sa-môn Gotama tạo ra cho ta, hân hoan, hoan hỷ, phấn chấn, hỷ lạc " Sabhiya hỏi Thế Tôn câu hỏi:

516. Kiṃ pattinamāhu bhikkhunaṃ (iti sabhiyo)
sorataṃ kena kathañca dantamāhu,
buddhoti kathaṃ pavuccati
puṭṭho me bhagavā vyākarohi.

516. (Sabhiya nói) “Đã đạt được điều gì khiến người ta gọi là ‘tỳ khưu’? Do (thành tựu) cái gì (gọi là) ‘khéo an tịnh’? Và như thế nào được gọi là ‘đã được huấn luyện’? Như thế nào được gọi là ‘đức Phật’? Thưa đức Thế Tôn, được tôi hỏi, xin ngài hãy trả lời.”

Sabhiya:

513. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những gì,
Ðược gọi là Tỷ-kheo?
Nhờ gì, gọi nhu hòa?
Thế nào gọi chế ngự?
Và phải như thế nào,
Ðược gọi bậc Giác ngộ?
Ðược con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời
.

517. Pajjena katena attanā (sabhiyāti bhagavā)
parinibbānagato vitiṇṇakaṅkho,
vibhavañca bhavañca vippahāya
vusitavā khīṇapunabbhavo sa bhikkhu.

517. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sabhiya,) vị đã tự mình thực hành theo đường lối, đã đi đến sự tịch diệt hoàn toàn (ô nhiễm), đã vượt qua sự hoài nghi, đã lìa bỏ (hai thái cực) phi hữu và hữu, đã được hoàn mãn, có sự tái sanh đã được cạn kiệt, vị ấy là ‘tỳ khưu.’

Thế Tôn:

514. Thế Tôn bèn đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai chính với con đường,
Do tự mình tạo ra,
Ði đến sự tịch mịch,
Vượt qua các nghi hoặc,
Từ bỏ, đoạn tận hẳn
Cả hữu và phi hữu,
Phạm hạnh đã thành tựu,
Tái sanh đã đoạn tận,
Vị ấy được xứng danh,
Gọi là vị Tỷ-kheo.

518. Sabbattha upekkhako satīmā
na so hiṃsati kañci sabbaloke,
tiṇṇo samaṇo anāvilo
ussadā yassa na santi sorato so.

518. Vị hành xả trong mọi trường hợp, có niệm, vị ấy không hãm hại bất cứ ai ở toàn thể thế gian, vị đã vượt qua, được tịnh lặng, không bị vẩn đục, vị nào không có các (thái độ) kiêu ngạo, vị ấy là ‘khéo an tịnh.’

 

515. Vị trú xả, chánh niệm,
Tại bất cứ chỗ nào,
Vị không làm hại ai,
Cùng khắp cả thế giới,
Vượt bộc lưu, tịnh ý,
Không có bị dao động,
Vị nào không đột khởi,
Vị ấy gọi nhu hòa.

519. Yassindriyāni bhāvitāni
ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke,
nibbijjha imaṃ parañca lokaṃ
kālaṃ kaṅkhati bhāvito sa danto.

519. Vị nào có các giác quan đã được tu tập, ở nội phần và ở ngoại phần, ở toàn thể thế gian, sau khi thấu triệt đời này và đời sau, vị đã được tu tập chờ đợi thời điểm, vị ấy là ‘đã được huấn luyện.’

516. Vị nào có các căn,
Ðược huấn luyện tu tập,
Cả nội và cả ngoại,
Trong tất cả thế giới,
Vị nào thông suốt được
Ðời này và đời sau,
Ðúng thời, nghi điều phục,
Vị ấy gọi chế ngự.

520. Kappāni viceyya kevalāni
saṃsāraṃ ubhayaṃ cutūpapātaṃ,
vigatarajamanaṅgaṇaṃ visuddhaṃ
pattaṃ jātikkhayaṃ tamāhu buddhanti.

520. Vị đã hiểu rõ toàn bộ các kiếp sống, về sự luân hồi ở cả hai trường hợp chết và tái sanh, vị có ô nhiễm đã được xa lìa, không còn vết nhơ, hoàn toàn trong sạch, vị đã đạt đến sự diệt trừ tái sanh, người ta gọi vị ấy là ‘đức Phật.’

517. Ai phân tích các kiếp,
Toàn diện và hoàn toàn,
Luân chuyển cả hai mặt,
Chết đi và sanh lại,
Bụi bặm được dứt sạch,
Không uế nhiễm, thanh tịnh,
Ðạt được sanh đoạn diệt,
Vị ấy gọi Phật-đà
.

Atha kho sabhiyo paribbājako bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā attamano pamodito udaggo pītisomanassajāto bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi:

 

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã thích thú, đã tùy hỷ với lời giảng giải của đức Thế Tôn. Được hoan hỷ, vui mừng, phấn khởi, sanh tâm phỉ lạc, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã hỏi đức Thế Tôn thêm câu hỏi nữa rằng:

 

Rồi du sĩ Sabhiya, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, hoan hỷ, hân hoạn, phấn khởi, phát sanh hỷ tâm, liền hỏi Thế Tôn thêm câu nữa.

521. Kiṃ pattinamāhu brāhmaṇaṃ (iti sabhiyo)
samaṇaṃ kena kathañca nahātakoti,
nāgoti kathaṃ pavuccati
puṭṭho me bhagavā vyākarohi.

521. (Sabhiya nói) “Đã đạt được điều gì khiến người ta gọi là ‘Bà-la-môn’? Do (thành tựu) cái gì (gọi là) ‘Sa-môn’? Và như thế nào được gọi là ‘người gột rửa (tội)’? Như thế nào được gọi là ‘bậc Long Tượng’? Thưa đức Thế Tôn, được tôi hỏi, xin ngài hãy trả lời.”

Sabhiya:

518. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những gì,
Ðược gọi là Bà-la-môn?
Nhờ gì, gọi Sa-môn?
Thế nào là tắm sạch?
Và phải như thế nào?
Ðược gọi là voi chúa?
Ðược con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời
.

522. Bāhitvā sabbapāpāni (sabhiyāti bhagavā)
vimalo sādhu samāhito ṭhitatto,
saṃsāramaticca kevalī so
asito tādi pavuccate brāhmā.

522. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sabhiya,) sau khi loại trừ tất cả các điều ác, là người không còn bợn nhơ, tốt lành, định tỉnh, có bản thân vững chãi, vị ấy đã vượt qua luân hồi, có sự thành tựu, không bị lệ thuộc, tự tại, được gọi là Bà-la-môn.”

Thế Tôn:

519. Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai loại khỏi ra ngoài,
Tất cả các ác pháp,
Không uế, khéo định tĩnh,
Kiên trì, vững an trú,
Vượt qua được luân hồi,
Hoàn toàn về mọi mặt,
Không y chỉ vị ấy,
Ðược gọi Bà-la-môn.

523. Samitāvi pahāya puññapāpaṃ
virajo ñatvā imaṃ parañca lokaṃ,
jātimaraṇaṃ upātivatto
samaṇo tādi pavuccate tathattā.

523. Vị đã được yên lặng, sau khi từ bỏ thiện và ác, lìa khỏi ô nhiễm, sau khi biết được đời này và đời sau, đã vượt lên trên sanh và tử, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘Sa-môn.’

520. Ðược an tịnh, tịch tịnh,
Ðoạn tận cả thiện ác,
Không cấu uế, rõ biết,
Ðời này và đời sau,
Chế ngự và nhiếp phục,
Cả vấn đề sanh tử,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi là Sa-môn.

524. Ninhāya sabbapāpakāni
ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke,
devamanussesu kappiyesu
kappaṃ neti tamāhu nahātakoti.

524. Sau khi đã gột rửa sạch tất cả các điều ác, nội phần và ngoại phần, ở toàn thể thế gian; giữa chư Thiên và nhân loại chịu sự phân hạng, vị không đi đến sự phân hạng, người ta gọi vị ấy là ‘người gột rửa (tội).’

521. Ai gột sạch, tắm sạch
Tất cả các ác pháp,
Kể cả trong lẫn ngoài,
Khắp tất cả thế giới,
Giữa chư Thiên, loài Người,
Bị thời kiếp chi phối,
Không rơi vào thời kiếp,
Ðược gọi đã tắm sạch.

525. Āguṃ na karoti kiñci loke
sabbasaṃyoge visajja bandhanāni,
sabbattha na sajjatī vimutto
nāgo tādi pavuccate tathattāti.

525. Vị không làm bất cứ điều ác xấu nào ở thế gian, sau khi tháo gở tất cả các sự ràng buộc (và) các sự trói buộc, không bám víu vào bất cứ nơi đâu, đã được giải thoát, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc Long Tượng.’”

522. Ai không làm điều ác,
Mọi điều ác ở đời,
Tất cả các kiết sử,
Không dính mắc, trói buộc,
Khắp tất cả mọi nơi,
Không dính, không trói buộc,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi là voi chúa.

Atha kho sabhiyo paribbājako —pe— bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi:

 

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya —như trên— đã hỏi đức Thế Tôn thêm câu hỏi nữa rằng:

Rồi du sĩ Sabhiya lại hỏi thêm câu nữa:

 

526. Kaṃ khettajinaṃ vadanti buddhā (iti sabhiyo)
kusalaṃ kena kathañca paṇḍitoti,
muni nāma kathaṃ pavuccati
puṭṭho me bhagavā vyākarohi.

526. (Sabhiya nói) “Người nào chư Phật nói là ‘bậc chiến thắng đồng ruộng’? Do (thành tựu) cái gì (gọi là) ‘bậc thiện xảo’? Và như thế nào được gọi là ‘bậc sáng suốt? Như thế nào được gọi là ‘bậc hiền trí’? Thưa đức Thế Tôn, được tôi hỏi, xin ngài hãy trả lời.”

Sabhiya:

523. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Thế nào chư Phật gọi
Vị chiến thắng đất ruộng,
Do gì, gọi là thiện?
Thế nào gọi bậc trí,
Và phải như thế nào
Ðược gọi là ẩn sĩ?
Ðược con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời
.

527. Khettāni viceyya kevalāni (sabhiyāti bhagavā)
dibbaṃ mānusakañca brahmakhettaṃ,
sabbakhettamūlabandhanā pamutto
khettajino tādi pavuccate tathattā.

527. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sabhiya,) Vị đã hiểu rõ toàn diện về các đồng ruộng (mười hai xứ) thuộc cõi trời, thuộc loài người, và đồng ruộng thuộc Phạm Thiên, được thoát khỏi sự trói buộc căn bản của tất cả các đồng ruộng, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc chiến thắng đồng ruộng.

Thế Tôn:

524. Thế Tôn bèn đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai quán sát nhiếp phục,
Ruộng đất thật toàn diện
Chư Thiên và loài Người,
Là đất ruộng Phạm thiên,
Giải thoát được trói buộc,
Cội gốc mọi đất ruộng,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi thắng đất ruộng.

528. Kosāni viceyya kevalāni
dibbaṃ mānusakañca brahmakosaṃ,
sabbakosamūlabandhanā pamutto
kusalo tādi pavuccate tathattā.

528. Vị đã hiểu rõ toàn diện về các kho chứa (nghiệp) thuộc cõi trời, thuộc loài người, và kho chứa thuộc Phạm Thiên, được thoát khỏi sự trói buộc căn bản của tất cả các kho chứa, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc thiện xảo.

525. Ai quán sát nhiếp phục,
Kho tàng thật toàn diện,
Chư Thiên và loài Người,
Là đất ruộng Phạm thiên,
Giải thoát được trói buộc,
Cội gốc mọi kho tàng,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi vị thiện xảo.

529. Tadubhayāni viceyya paṇḍarāni
ajjhattaṃ bahiddhā ca suddhipañño,
kaṇhaṃ sukkam upātivatto
paṇḍito tādi pavuccate tathattā.

529. Vị đã hiểu rõ các xứ về cả hai lãnh vực, nội phần và ngoại phần, vị có sự trong sạch và trí tuệ, đã vượt lên trên đen và trắng, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc sáng suốt.’

526. Ai quán sát nhiếp phục,
Cả hai tâm và ý,
Cả nội và cả ngoại,
Về trí tuệ thanh tịnh,
Nhiếp phục chế ngự được,
Các pháp đen và trắng,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi bậc Hiền trí,

530. Asatañca satañca ñatvā dhammaṃ
ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke,
devamanussehi pūjanīyo
saṅgaṃ jālamaticca so munīti.

530. Vị đã biết được bản chất của những kẻ xấu và của những người tốt, nội phần và ngoại phần, ở tất cả thế gian, vị được tôn vinh bởi chư Thiên và nhân loại, vị đã vượt qua sự quyến luyến và mạng lưới, vị ấy là ‘bậc hiền trí.’”

527. Sau khi đã biết được,
Pháp bất thiện, pháp thiện,
Cả nội và cả ngoại,
Trong tất cả thế giới,
Vị ấy được cúng dường,
Chư Thiên và loài Người,
Vượt qua lưới trói buộc,
Vị ấy gọi ẩn sĩ.

Atha kho sabhiyo paribbājako —pe— bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi:

 

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya —như trên— đã hỏi đức Thế Tôn thêm câu hỏi nữa rằng:

Rồi du sĩ Sabhiya... lại hỏi Thế Tôn thêm câu hỏi nữa:

531. Kiṃ pattinamāhu vedaguṃ (iti sabhiyo)
anuviditaṃ kena kathañca viriyavāti,
ājāniyo kinti nāma hoti
puṭṭho me bhagavā vyākarohi.

531. (Sabhiya nói) “Đã đạt được điều gì khiến người ta gọi là ‘bậc đã đạt được sự thông hiểu’? Do (thành tựu) cái gì (gọi là) ‘bậc đã nhận biết được’? Và như thế nào được gọi là ‘bậc có sự tinh tấn’? Như thế nào được có tên là ‘bậc thuần chủng’? Thưa đức Thế Tôn, được tôi hỏi, xin ngài hãy trả lời.”

 

Sabhiya:

528. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những gì
Ðược gọi bậc có trí?
Nhờ gì, gọi tùy trí?
Thế nào xưng tinh tấn?
Thế nào được danh xưng,
Là vị đã thuần thục?
Ðược con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.

532. Vedāni viceyya kevalāni (sabhiyāti bhagavā)
samaṇānaṃ yānidhatthi brāhmaṇānaṃ,
sabbavedanāsu vītarāgo
sabbaṃ vedamaticca vedagū so.

532. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sabhiya,) Vị đã hiểu rõ toàn diện về kiến thức các loại thuộc về các Sa- môn, thuộc về các Bà-la- môn, vị đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các cảm thọ, vị đã vượt qua mọi kiến thức, vị ấy là ‘bậc đã đạt được sự thông hiểu.’

Thế Tôn:

529. Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai quán sát Vệ-đà,
Hoàn toàn và toàn diện,
Ðược Sa-môn, Phạm chí,
Ðạt được rất đầy đủ,
Vị ấy gọi ly tham,
Trong tất cả cảm thọ,
Do vượt qua Vệ-đà,
Ðược gọi bậc Vệ-đà?

533. Anuvicca papañcanāmarūpaṃ
ajjhattaṃ bahiddhā ca rogamūlaṃ,
sabbarogamūlabandhanā pamutto
anuvidito tādi pavuccate tathattā,

533. Vị đã nhận biết được các pháp chướng ngại, danh và sắc nội phần và ngoại phần, nền tảng của các tật bệnh, vị đã được thoát khỏi sự trói buộc căn bản của tất cả các tật bệnh, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc đã nhận biết được.’

530. Do quán sát, quán triệt,
Các hý luận, danh sắc,
Kể cả nội và ngoại,
Về cội gốc bệnh hoạn,
Vị ấy thoát trói buộc,
Cội gốc các bệnh hoạn,
Vị đức tánh như vậy
Ðược gọi vị rõ biết

534. Virato idha sabbapāpakehi
nirayadukkhamaticca viriyavā so,
so viriyavā padhānavā
dhīro tādi pavuccate tathattā.

534. Vị đã lánh xa tất cả các việc ác xấu ở đời này, đã vượt qua sự khổ đau ở địa ngục, có tinh tấn là nơi cư ngụ, vị ấy, có sự nỗ lực, sáng suốt, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc có sự tinh tấn.

531. Vị ở đời từ bỏ
Tất cả các pháp ác,
Với tinh tấn vượt qua,
Mọi khổ đau địa ngục,
Vị ấy có tinh tấn,
Có tinh cần, siêng năng,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi vị có trí.

535. Yassassu lutāni bandhanāni
ajjhattaṃ bahiddhā ca saṅgamūlaṃ,
sabbasaṅgamūlabandhanā pamutto
ājāniyo tādi pavuccate tathattā ’ti.

535. Đối với vị nào, các sự trói buộc có thể đã được cắt lìa, nội phần và ngoại phần, gốc rễ của sự quyến luyến, vị đã được thoát khỏi sự trói buộc căn bản của tất cả các sự quyến luyến, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc thuần chủng.’”

532. Với ai các trói buộc,
Bị bựt đứt, huỷ hoại,
Nguồn gốc các tham ái,
Vị ấy được giải thoát,
Khỏi tất cả gốc tham,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi vị thuần thục.

Atha kho sabhiyo paribbājako —pe— bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi:

 

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya —như trên— đã hỏi đức Thế Tôn thêm câu hỏi nữa rằng:

 

Rồi du sĩ Sabhiya ... lại hỏi Thế Tôn thêm câu hỏi nữa:

 

536. Kiṃ pattinamāhu sottiyaṃ (iti sabhiyo)
ariyaṃ kena kathañca caraṇavāti,
paribbājako kinti nāma hoti
puṭṭho me bhagavā vyākarohi.

536. (Sabhiya nói) “Đã đạt được điều gì khiến người ta gọi là ‘bậc thiện tri thức’? Do (thành tựu) cái gì (gọi là) ‘bậc Thánh’? Và như thế nào được gọi là ‘có tánh hạnh’? Như thế nào được có tên là ‘bậc du sĩ’? Thưa đức Thế Tôn, được tôi hỏi, xin ngài hãy trả lời.”

Sahiya:

533. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những gì,
Ðược gọi vị được nghe?
Nhờ gì, gọi bậc Thánh?
Sở hành như thế nào,
Như thế nào được tên,
Là một người du sĩ?
Ðược con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.

537. Sutvā sabbadhammaṃ abhiññāya loke (sabhiyāti bhagavā)
sāvajjānavajjaṃ yadatthi kiñci,
abhibhuṃ akathaṃkathiṃ vimuttaṃ
anīghaṃ sabbadhimāhu sottiyoti.

537. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sabhiya,) vị đã lắng nghe và biết rõ mọi pháp ở thế gian, bất cứ điều gì có tội hay không có tội, vị đã chế ngự, không còn hoài nghi, đã được giải thoát, không phiền muộn về mọi phương diện, người ta đã gọi là ‘bậc thiện tri thức.’

Thế Tôn:

534. Thế Tôn bèn đáp lại:
Hỡi này Sabhiya!
Do ở đời được nghe,
Thắng tri tất cả pháp,
Pháp có lỗi, không lỗi,
Phàm mọi pháp ở đời,
Là vị đã chiến thắng,
Ðoạn nghi, được giải thoát,
Trọn vẹn không dao động,
Ðược gọi, vị có nghe.

538. Chetvā āsavāni ālayāni
vidvā so na upeti gabbhaseyyaṃ,
saññaṃ tividhaṃ panujja paṅkaṃ
kappaṃ neti tamāhu ariyoti.

538. Vị đã cắt đứt các lậu hoặc, (và) các pháp tiềm ẩn,[1] sau khi đã hiểu biết, vị ấy không đi đến việc trú ở thai bào, sau khi đã xua đi ba loại tưởng, (và) bãi lầy (ngũ dục), vị không đi đến sự phân hạng, người ta gọi vị ấy là ‘bậc Thánh.’


[1] Āsavāni: là bốn lậu gồm có: dục lậu, hữu lậu, tà kiến lậu, và vô minh lậu. Ālayāni: là hai pháp tiềm ẩn: tham ái và tà kiến (SnA. ii, 433).

535. Sau khi đoạn, chặt đứt,
Mọi lậu hoăc chấp trước,
Vị ấy sau khi biết
Không đi đến thai tạng,
Ðoạn trừ và từ bỏ,
Ba loại tưởng bùn nhơ,
Không đi vào thời kiếp,
Ðược gọi là bậc Thánh.

539. Yo idha caraṇesu pattipatto
kusalo sabbadā ājāni dhammaṃ,
sabbattha na sajjati vimutto
paṭighā yassa na santi caraṇavā so.

539. Vị nào đã đạt được mục đích về các tánh hạnh ở trong Giáo Pháp này, vị thiện xảo vào mọi lúc, đã hiểu biết Giáo Pháp, không bám víu vào bất cứ nơi đâu, đã được giải thoát, vị nào không có các sự bất bình, vị ấy là ‘có tánh hạnh.’

536. Vị nào ở nơi đây,
Thành tựu các giới hạnh,
Thiện xảo mọi lãnh vực,
Rõ biết được Chánh Pháp,
Cùng khắp cả mọi nơi,
Không chấp trước, giải thoát,
Không sân hận một ai,
Ðược gọi là có hạnh.

 


 

540. Dukkhavepakkaṃ yadatthi kammaṃ
uddhamadho tiriyañcāpi majjhe,
paribbājayitvā pariññacārī
māyaṃ mānamathopi lobhakodhaṃ,
pariyantamakāsi nāmarūpaṃ
taṃ paribbājakamāhu pattipattanti.

540. Sau khi đã lánh xa bất kỳ nghiệp nào có quả báu khổ đau, ở bên trên và bên dưới, luôn cả bên ngang và khoảng giữa, có sự du hành với trí tuệ, vị đã làm chấm dứt sự xảo quyệt, ngã mạn, luôn cả tham lam và giận dữ, danh và sắc, người ta đã gọi vị ấy là ‘bậc du sĩ” đã đạt được mục đích.”

537. Ai không làm các nghiệp
Ðưa đến quả đau khổ
Phía trên và phía dưới,
Bề ngang và chặng giữa,
Sống với sự liễu tri,
Từ bỏ, không chấp nhận,
Man trá và kiêu mạn,
Tham ái và phẫn nộ,
Làm cho đến cùng tận,
Cả danh và cả sắc,
Vị này đã đạt được,
Tên gọi là du sĩ.

Atha kho sabhiyo paribbājako bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā attamano pamūdito udaggo pītisomanassajāto uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi:

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã thích thú, đã tùy hỷ với lời nói của đức Thế Tôn. Được hoan hỷ, vui mừng, phấn khởi, sanh tâm phỉ lạc, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đã ca ngợi trực tiếp đến đức Thế Tôn bằng những lời kệ thích đáng rằng:

 

Rồi du sĩ Sabhiya hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy; hoan hỷ, hân hoan, phấn chấn, hỷ duyệt sanh khởi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thương y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn, trước mặt Thế Tôn, thốt lên những câu kệ thích đáng:

 

541. Yāni ca tīṇi yāni ca saṭṭhi
samaṇappavādasitāni bhūripañña,
saññakkharasaññanissitāni
osaraṇāni vineyya oghantamagā.

541. “Thưa bậc có tuệ bao la, bậc đã đi đến nơi tận cùng của các dòng lũ, sau khi đã xua tan ba và sáu mươi tà thuyết[1] được dựa vào giáo điều của các Sa-môn (ngoại đạo), được nương tựa vào tưởng và sự suy diễn của tưởng.


[1] Ba và sáu mươi tà thuyết; tức là sáu mươi hai tà kiến đã được đề cập ở Brahmajālasutta (Kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ 1) cộng với sakkāyadiṭṭhi - thân kiến (SnA. ii, 434-435).

 

538. Ôi, bậc tuệ rộng lớn!
Nhiếp phục sự tụ họp,
Các Sa-môn tranh luận,
Có đến sáu (mươi) ba thuyết,
Các ngôn thuyết văn tự,
Y đây các tưởng khởi,
Vị ấy vượt qua được,
Dòng nước mạnh sanh tử.

542. Antagū ’si pāragū dukkhassa
arahāsi sammāsambuddho khīṇāsavaṃ taṃ maññe,
jutimā mutimā pahūtapañño
dukkhassantakara atāresi maṃ.

542. Ngài là bậc đã đi đến tận cùng, bậc đã đi đến bờ kia của khổ đau. Ngài là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, con nghĩ rằng Ngài có lậu hoặc đã được cạn kiệt. Ngài sáng láng, sâu sắc, có trí tuệ dồi dào. Thưa bậc đã làm chấm dứt khổ đau, ngài đã đưa con vượt qua (hoài nghi).  

539. Ngài đi đến tận cùng,
Ðến bờ kia đau khổ,
Bậc La-hán, Chánh Giác,
Con nghĩ Ngài lậu tận,
Ngài chói sáng, thông minh.
Với trí tuệ rộng lớn,
Ngài đoạn tận đau khổ,
Ðưa con qua bờ kia.

543. Yaṃ me kaṃkhitamaññāsi
vicikicchā maṃ tārayī namo te,
muni monapathesu pattipatta
akhila-ādiccabandhu soratosi.

543. Khi ngài đã biết con có điều nghi ngờ, ngài đã đưa con vượt qua sự hoài nghi, xin kính lễ ngài. Thưa bậc hiền trí, vị đã đạt được mục đích ở đạo lộ trí tuệ, bậc không cứng nhắc, vị thân quyến của mặt trời, ngài là khéo an tịnh.

540. Ngài thấy, Ngài biết rõ
Những điều con nghi ngờ,
Ngài giúp con vượt qua,
Con xin đảnh lễ Ngài,
Bậc ẩn sĩ đạt được,
Con đường thật an tịnh,
Ôi, bà con mặt trời!
Không hoang vu, nhu hòa.

544. Yā me kaṅkhā pure āsi taṃ me vyākāsi cakkhumā,
addhā munīsi sambuddho natthi nīvaraṇā tava.

544. Thưa bậc hữu nhãn, nghi ngờ nào của con đã có trước đây, ngài đều giải thích điều ấy cho con. Ngài quả thật là bậc hiền trí đã được hoàn toàn giác ngộ, không có sự che lấp nào đối với ngài.

541. Ðiều xưa con nghi ngờ,
Ðều được Ngài giải đáp,
Ôi, bậc có Pháp nhân!
Ngài thật là ẩn sĩ
Bậc Chánh Ðẳng, Chánh Giác,
Ngài không còn triền cái.

545. Upāyāsā ca te sabbe viddhastā vinalīkatā,
sītibhūto damappatto dhitimā saccanikkamo.
 

545. Và mọi sự sầu muộn của ngài đều đã được tan vỡ, đã được làm cho tiêu hoại. Ngài có trạng thái mát lạnh, đã đạt đến sự thu thúc, có sự kiên quyết, có thế mạnh là sự chân thật.

542. Với Ngài, mọi ưu não,
Ðược phá tan, đoạn diệt,
Ngài tịnh tịch, chế ngự,
Tâm kiên trì, thành thực.

546. Tassa te nāganāgassa mahāvīrassa bhāsato,
sabbe devānumodanti ubho nāradapabbatā.

546. Trong khi ngài đây, bậc long tượng của các loài long tượng, bậc đại anh hùng đang nói, tất cả chư Thiên, luôn cả hai nhóm Nārada và Pabbata, đều tùy hỷ.

543. Ngài là bậc long tượng,
Trong các hàng long tượng,
Ngài là đại anh hùng
Chư Thiên đều hoan hỷ,
Cả hai Nàrada,
Và cả Pabbatà,
Ðều hoan hỷ tín thọ,
Lời thuyết giảng của Ngài.

547. Namo te purisājañña namo te purisuttama,
sadevakasmiṃ lokasmiṃ natthi te paṭipuggalo.

547. Thưa bậc siêu nhân, xin kính lễ ngài. Thưa bậc tối thượng nhân, xin kính lễ ngài. Ở thế gian luôn cả chư Thiên, không có kẻ nào sánh bằng ngài.

544. Chúng con xin đảnh lễ,
Con người thuần thục nhất,
Chúng con xin đảnh lễ,
Con người tối thượng nhất,
Trong cảnh giới Trời, Người,
Không ai sánh được Ngài,

548. Tuvaṃ buddho tuvaṃ satthā tuvaṃ mārābhibhū muni,
tuvaṃ anusaye chetvā tiṇṇo tāres’ imaṃ pajaṃ.

548. Ngài là đức Phật, ngài là bậc đạo sư, ngài là bậc hiền trí, đấng chế ngự Ma Vương. Sau khi cắt đứt các pháp tiềm ẩn và đã vượt qua, ngài đưa dòng dõi này vượt qua.

545. Ngài chính là Ðức Phật,
Ngài chính là Ðạo Sư,
Ngài là bậc ẩn sĩ,
Ðã chiến thắng Ác ma,
Ngài chặt đứt tuỳ miên,
Ðã vượt qua sanh tử,
Ngài giúp chúng sanh này,
Vượt qua bể sanh tử.

549. Upadhī te samatikkantā āsavā te padāḷitā,
sīhosi anupādāno pahīnabhayabheravo.

549. Các mầm tái sanh đã được ngài vượt qua, các lậu hoặc đã được ngài phá tan. Ngài là loài sư tử, không còn chấp thủ, đã dứt bỏ nỗi sợ hãi và khiếp đảm.

546. Ngài vượt khỏi sanh y,
Ngài phá tan lậu hoặc,
Ngài là bậc sư tử,
Không chấp thủ, chấp trước,
Mọi sợ hãi, hoảng hốt,
Ngài đoạn tận, trừ diệt.

550. Puṇḍarīkaṃ yathā vaggu toye na upalippati,
evaṃ puññe ca pāpe ca ubhaye tvaṃ na lippasi,
pāde vīra pasārehi sabhiyo vandati satthuno ’ti.

550. Giống như đóa sen trắng xinh đẹp không bị vấy bẩn ở nước, tương tự như thế, ngài không bị vướng bận ở thiện và ác, cả hai loại. Thưa đấng anh hùng, xin ngài hãy duỗi ra hai bàn chân, Sabhiya xin đảnh lễ hai bản chân của đấng đạo sư.”

547. Như hoa sen tươi đẹp.
Nước không thể dính vào,
Cũng vậy cả thiện ác,
Cả hai không dính Ngài,
Ôi anh hùng vĩ đại,
Xin Ngài duỗi chân ra,
Sabhiya chúng con,
Ðảnh lễ bậc Ðạo Sư.

Atha kho sabhiyo paribbājako bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavantaṃ etadavoca:

 

Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã cúi xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã nói điều này:

 

Rồi du sĩ Sabhiya lấy đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

 

Abhikkantaṃ bho gotama, —pe— dhammañca bhikkhusaṅghañca labheyyāhaṃ bhante, bhagavato santike pabbajjaṃ labheyyaṃ upasampadanti.

“Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt vời! —như trên— Giáo Pháp, và Hội Chúng tỳ khưu. Con có thể xuất gia trong sự hiện diện của ngài Gotama không? Con có thể tu lên bậc trên không?”

- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!... Con xin quy y Thế Tôn, Pháp và chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, mong cho con thọ đại giới.

 

Yo kho sabhiya, aññatitthiyapubbo imasmiṃ dhammavinaye ākaṅkhati pabbajaṃ ākaṅkhati upasampadaṃ so cattāro māse parivasati, catunnaṃ māsānaṃ accayena [parivuṭṭhaparivāsaṃ ] āraddhacittā bhikkhū pabbājenti upasampādenti bhikkhubhāvāya, apica mettha puggalavemattatā viditāti.

“Này Sabhiya, người nào, trước đây theo ngoại đạo, mong mỏi sự xuất gia trong Pháp và Luật này, mong mỏi việc tu lên bậc trên, người ấy (phải) sống thử thách bốn tháng. Sau bốn tháng, có tâm được hài lòng, các vị tỳ khưu (sẽ) cho xuất gia, (sẽ) cho tu lên bậc trên để trở thành tỳ khưu; tuy nhiên ở đây Ta biết được tính chất khác biệt của mỗi cá nhân.”

 

- Này Sabhiya, ai trước kia thuộc ngoại đạo, nay xin xuất gia, xin thọ đại giới trong Pháp Luật này cần phải sống biệt trú trong bốn tháng. Sau bốn tháng, nếu tâm các Tỷ-kheo thỏa thuận, có thể cho vị ấy xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng ở đây, Ta biết sự sai biệt giữa các chúng sanh.

 

Sace bhante, aññatitthiyapubbā imasmiṃ dhammavinaye ākaṅkhantā pabbajjaṃ ākaṅkhantā upasampadaṃ cattāro māse parivasanti, catunnaṃ māsānaṃ accayena [parivuṭṭhaparivāse] āraddhacittā bhikkhū pabbājenti upasampādenti bhikkhubhāvāya, ahaṃ cattāri vassāni parivasissāmi, catunnaṃ vassānaṃ accayena [parivuṭṭhaparivāsaṃ] āraddhacittā bhikkhū pabbājentu upasampādentu bhikkhubhāvāyāti.

 

“Thưa ngài, nếu người trước đây theo ngoại đạo mong mỏi sự xuất gia trong Pháp và Luật này, mong mỏi việc tu lên bậc trên, (phải) sống thử thách bốn tháng. Sau bốn tháng, có tâm được hài lòng, các vị tỳ khưu (sẽ) cho xuất gia, (sẽ) cho tu lên bậc trên để trở thành tỳ khưu, thì con sẽ sống thử thách bốn năm. Sau bốn năm, có tâm được hài lòng, các vị tỳ khưu hãy cho xuất gia, hãy cho tu lên bậc trên để trở thành tỳ khưu.”

- Bạch Thế Tôn, nếu những ai trước kia thuộc ngoại đạo, nay xin xuất gia, xin thọ đại giới trong Pháp Luật này, sống biệt trú bốn tháng. Sau bốn tháng, nếu tâm các Tỷ-kheo thỏa thuận, có thể cho vị ấy xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo, con sẽ sống biệt trú bốn năm. Sau bốn năm, nếu tâm con thỏa thuận hãy cho xuất gia, cho con thọ đại giới để trở thành Tỷ-kheo.

 

Alattha kho sabhiyo paribbājako bhagavato santike pabbajjaṃ alattha upasampadaṃ, —pe— aññataro ca kho panāyasmā sabhiyo arahattaṃ ahosīti.

 

Quả vậy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya đã đạt được sự xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn, đã đạt được sự tu lên bậc trên. —như trên— Và thêm một vị nữa là đại đức Sabhiya đã trở thành vị A-la-hán.

Du sĩ Sabhiya được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới... rồi Tôn giả Sabhiya trở thành một vị A-la-hán.

 

 

Sabhiyasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Sabhiya.

 

 

 

07. KINH SELA

7. SELASUTTAṂ

 

 

7. KINH SELA

 

 

7. KINH SELA

(Xem kinh Sela, Trung Bộ Kinh, Tập II)

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā aṅguttarāpesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ aḍḍhateḷasehi bhikkhusatehi yena āpaṇaṃ nāma aṅguttarāpānaṃ nigamo tadavasari.

Tôi đã nghe như vầy:[1] Một thời, đức Thế Tôn trong khi đi du hành ở xứ sở Aṅguttarāpa cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu, đã ngự đến phố chợ của xứ sở Aṅguttarāpa có tên là Āpaṇa.


[1] Bài kinh này giống như Selasuttaṃ, Majjhimanikāya ii (Kinh Sela, Trung Bộ 2).

 

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn du hành ở Anguttarapa cùng với đại chúng Tỷ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, và đi đến một thị trấn của Anguttarapa tên là Apana.

Assosi kho keṇiyo jaṭilo samaṇo khalu bho gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito aṅguttarāpesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ aḍḍhateḷasehi bhikkhusatehi āpaṇaṃ anuppatto, taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato “itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā ”ti so imaṃ lokaṃ sadevakaṃ samārakaṃ sabrahmakaṃ sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamunassaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti, so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhe kalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāseti, sādhu kho pana tathārūpānaṃ arahataṃ dassanaṃ hotī ”ti.

Đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nghe rằng: “Chắn chắn là ngài Sa-môn Gotama, con trai dòng Sakya, từ dòng dõi Sakya đã xuất gia, trong khi đi du hành ở xứ sở Aṅguttarāpa cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu, đã ngự đến Āpaṇa. Hơn nữa, về ngài Gotama ấy có tiếng đồn tốt đẹp đã được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Với thắng trí của mình, vị ấy chứng ngộ và công bố về thế gian này tính luôn cõi chư Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người. Vị ấy thuyết giảng Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy.”

 

Bện tóc Keniya được nghe: "Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya, du hành ở Anguttarapa cùng với đại chúng Tỷ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, và đã đến Apana. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về Tôn giả Gotama được khởi lên: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện văn nghĩa đầy đủ. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch. Tốt đẹp thay sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!".  

Atha kho keṇiyo jaṭilo yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi, sammodanīyaṃ kathaṃ sārāṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho keṇiyaṃ jaṭilaṃ bhagavā dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi.

Sau đó, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã ngồi xuống ở một bên. Khi đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã ngồi xuống ở một bên, Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đạo sĩ bện tóc Keṇiya bằng bài Pháp thoại.

Rồi bện tóc Keniya đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Thế Tôn với pháp thoại khai thị cho bện tóc Keniya đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ.

Atha kho keṇiyo jaṭilo bhagavatā dhammiyā kathāya sandassito samādapito samuttejito sampahaṃsito bhagavantaṃ etadavoca: Adhivāsetu me bhavaṃ gotamo svātanāya bhattaṃ saddhiṃ bhikkhusaṅghenāti.

Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.”

 

Bện tóc Keniya sau khi được Thế Tôn với pháp thoại khai thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, liền bạch Thế Tôn:  

-- Mong Tôn giả Gotama nhận lời mời của con ngày mai dùng cơm với chúng Tỷ-kheo.  

Evaṃ vutte bhagavā keṇiyaṃ jaṭilaṃ etadavoca: Mahā kho keṇiya, bhikkhusaṅgho aḍḍhateḷasāni bhikkhusatāni, tvañca kho brāhmaṇesu abhippasannoti.

Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn đã nói với đạo sĩ bện tóc Keṇiya điều này: “Này Keṇiya, hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục vị tỳ khưu, và ngươi đã đặt nhiều niềm tin vào các vị Bà-la-môn.”

Ðược nghe nói vậy, Thế Tôn nói với bện tóc Keniya:

-- Này Keniya, chúng Tỷ-kheo rất lớn, đến một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo, và Ông có lòng tín thành với các Bà-la-môn.

Dutiyampi kho keṇiyo jaṭilo bhagavantaṃ etadavoca: Kiñcāpi bho gotama, mahā bhikkhusaṅgho aḍḍhateḷasāni bhikkhusatāni, ahañca brāhmaṇesu abhippasanno, adhivāsetu me bhavaṃ gotamo svātanāya bhattaṃ saddhiṃ bhikkhusaṅghenāti.

Đến lần thứ nhì, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Thưa ngài Gotama, dầu cho hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục vị tỳ khưu và (dầu cho) tôi đã đặt nhiều niềm tin vào các vị Bà-la-môn, xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.”

 

Lần thứ hai, bện tóc Keniya bạch Thế Tôn:

-- Thưa Tôn giả Gotama, dầu chúng Tỷ-kheo rất lớn, đến một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo, và dầu con có lòng tín thành với các Bà-la-môn, mong Tôn giả Gotama nhận lời mời của con, ngày mai dùng cơm với chúng Tỷ-kheo!

Dutiyampi kho bhagavā keṇiyaṃ jaṭilaṃ etadavoca: Mahā kho keṇiya, bhikkhusaṅgho aḍḍhateḷasāni bhikkhusatāni, tvañca kho brāhmaṇesu abhippasannoti.

Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã nói với đạo sĩ bện tóc Keṇiya điều này: “Này Keṇiya, hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục vị tỳ khưu, và ngươi đã đặt nhiều niềm tin vào các vị Bà-la-môn.”

Lần thứ hai, Thế Tôn nói với bện tóc Keniya:

-- Này Keniya, chúng Tỷ-kheo rất lớn, đến một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo, và Ông có lòng tín thành với các Bà-la-môn.

Tatiyampi kho keṇiyo jaṭilo bhagavantaṃ etadavoca: Kiñcāpi bho gotama, mahā bhikkhusaṅgho aḍḍhateḷasāni bhikkhusatāni, ahañca kho brāhmaṇesu abhippasanno, adhivāsetveva me bhavaṃ gotamo svātanāya bhattaṃ saddhiṃ bhikkhusaṅghenāti.

Đến lần thứ ba, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Thưa ngài Gotama, dầu cho hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục vị tỳ khưu và (dầu cho) tôi đã đặt nhiều niềm tin vào các vị Bà-la-môn, xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.”

 

Lần thứ ba, bện tóc Keniya bạch Thế Tôn:

-- Thưa Tôn giả Gotama, dầu chúng Tỷ-kheo rất lớn, đến một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo, và dầu con có lòng tín thành với các vị Bà-la-môn, mong Tôn giả Gotama nhận lời mời của con, ngày mai dùng cơm với chúng Tỷ-kheo!

Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.
 

Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng.

Thế Tôn im lặng nhận lời.

Atha kho keṇiyo jaṭilo bhagavantaṃ adhivāsanaṃ viditvā uṭṭhāyāsanā yena sako assamo tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā mittāmacce ñātisālohite āmantesi:

Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Keṇiya hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy và đi về nơi cư ngụ của mình, sau khi về đến đã bảo các bạn bè thân hữu và thân quyến cùng huyết thống rằng:

 

Bện tóc Keniya, sau khi được biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến tịnh xá của mình, sau khi đến liền bảo các thân hữu, bà con huyết thống:  

Suṇantu me bhavanto mittāmaccā ñātisālohitā samaṇo me gotamo nimantito svātanāya bhattaṃ saddhiṃ bhikkhusaṅghena yena me kāyaveyyāvaṭikaṃ kareyyāthāti.

“Xin quý vị bạn bè thân hữu và thân quyến cùng huyết thống hãy lắng nghe tôi, Sa-môn Gotama đã được tôi thỉnh mời bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu, vì thế mong các vị có thể làm giúp công việc phục dịch.”

-- Quý vị Thân hữu, bà con huyết thống hãy nghe tôi. Sa-môn Gotama đã được tôi mời ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo. Vậy Quý vị hãy tự thân giúp việc cho tôi.  

 

Evaṃ bhoti kho keṇiyassa jaṭilassa mittāmaccā ñātisālohitā keṇiyassa jaṭilassa paṭissutvā appekacce uddhanāni khaṇanti, appekacce kaṭṭhāni phālenti, appekacce bhājanāni dhovanti, appekacce udakamaṇikaṃ patiṭṭhāpenti, appekacce āsanāni paññāpenti. Keṇiyo pana jaṭilo sāmaṃyeva maṇḍalamālaṃ paṭiyādeti.
 

“Thưa ngài, xin vâng,” các bạn bè thân hữu và thân quyến cùng huyết thống của đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nghe theo đạo sĩ bện tóc Keṇiya, một số đào bếp lữa, một số chẻ củi, một số rửa bát đĩa, một số xếp đặt lu nước, một số bố trí các chỗ ngồi, còn đạo sĩ bện tóc Keṇiya tự mình thiết lập lều trại có mái che.

-- Thưa vâng, Tôn giả.

Các thân hữu, bà con huyết thống của bện tóc Keniya vâng đáp bện tóc Keniya. Có người thời đào hố (làm lò nấu); có người bửa củi; có người rửa chén bát; có người sắp đặt ghè nước; có người sửa soạn ghế ngồi; còn bện tóc Keniya tự mình dựng lên một giàn hoa hình tròn (Mandalamala).

 

Tena kho pana samayena selo brāhmaṇo āpaṇe paṭivasati tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū sanighaṇṭukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ padako veyyākaraṇo lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo tīṇi māṇavakasatāni mante vāceti.

Vào lúc bấy giờ, Bà-la-môn Sela cư trú ở Āpaṇa, là vị tinh thông về ba tập Vệ Đà, về các từ vựng và nghi thức, luôn cả về âm từ với sự phân tích, về truyền thống là thứ năm, là nhà ngữ học, nhà văn phạm, tinh thông về thế gian luận và các tướng của bậc đại nhân, đang chỉ dạy các chú thuật cho ba trăm thanh niên Bà-la-môn.

 

Lúc bấy giờ Bà-la-môn Sela trú tại Apana, vị này tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng. Vị này dạy chú thuật (manta) cho ba trăm thanh niên Bà-la-môn.  

Tena kho samayena keṇiye jaṭile selo brāhmaṇo abhippasanno hoti. Atha kho selo brāhmaṇo tīhi māṇavakasatehi parivuto jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno anuvicaramāno yena keṇiyassa jaṭilassa assamo tenupasaṅkami. Addasā kho selo brāhmaṇo keṇiyasmiṃ jaṭile appekacce uddhanāni khaṇante, —pe— appekacce āsanāni paññāpente. Keṇiyaṃ pana jaṭilaṃ sāmaṃyeva maṇḍalamālaṃ paṭiyādentaṃ, disvāna keṇiyaṃ jaṭilaṃ etadavoca:
 

Vào lúc bấy giờ, Bà-la-môn Sela đặt nhiều niềm tin vào đạo sĩ bện tóc Keṇiya. Khi ấy, Bà-la-môn Sela được tháp tùng bởi ba trăm thanh niên Bà-la-môn, trong lúc đi kinh hành, trong lúc đi tản bộ cho việc thư giãn chân cẳng, đã đi đến nơi cư ngụ của đạo sĩ bện tóc Keṇiya. Bà-la-môn Sela đã nhìn thấy ở nơi đạo sĩ bện tóc Keṇiya một số người đang đào bếp lữa, —như trên— một số bố trí các chỗ ngồi, còn đạo sĩ bện tóc Keṇiya đang tự mình thiết lập lều trại có mái che, sau khi nhìn thấy đã nói với đạo sĩ bện tóc Keṇiya điều này:

 

Lúc bấy giờ bện tóc Keniya có lòng tín thành với Bà-la-môn Sela. Rồi Bà-la-môn Sela, với ba trăm thanh niên Bà-la-môn vây quanh, tản bộ du hành đi đến tinh xá của bện tóc Keniya. Bà-la-môn Sela thấy tại tinh xá của bện tóc Keniya, có người thời đào hố (làm lò nấu); có người bửa củi; có người rửa chén bát; có người sắp đặt ghè nước; có người sửa soạn ghế ngồi; còn bện tóc Keniya tự mình dựng lên một giàn hoa hình tròn. Thấy vậy, Bà-la-môn Sela bèn nói với bện tóc Keniya:  

Kinnu bhoto keṇiyassa āvāho vā bhavissati, vihāho vā bhavissati, mahāyañño vā paccupaṭṭhito, rājā vā māgadho seniyo bimbisāro nimantito svātanāya saddhiṃ balakāyenāti.
 

“Không lẽ ông Keṇiya sẽ có đám rước dâu, hay là sẽ có đám đưa dâu, hay là sắp xếp cho buổi đại lễ hiến tế, hay là đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha được mời thỉnh vào ngày mai cùng với đội quân binh?”

-- Có phải bện tóc Keniya sẽ rước dâu hay sẽ đưa dâu, hay một đại tế đàn được chuẩn bị, hay vua Seniya Bimbisara nước Magadha được mời ngày mai với cả binh lực?  

Na me sela, āvāho bhavissati napi vivāho bhavissati, napi rājā māgadho seniyo bimbisāro nimantito svātanāya saddhiṃ balakāyena, api ca kho me mahāyañño paccupaṭṭhito atthi. Samaṇo gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito aṅguttarāpesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ aḍḍhateḷasehi bhikkhusatehi āpaṇaṃ anuppatto, taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ —pe— buddho bhagavā ’ti, so me nimantito svātanāya saddhiṃ bhikkhusaṅghenāti.
 

“Này Sela, không phải tôi sẽ có đám rước dâu, cũng sẽ không có đám đưa dâu, cũng không phải đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha được mời thỉnh vào ngày mai cùng với đội quân binh, nhưng mà tôi có cuộc đại lễ hiến tế đã được sắp xếp. Sa-môn Gotama, con trai dòng Sakya, từ dòng dõi Sakya đã xuất gia, trong khi đi du hành ở xứ sở Aṅguttarāpa cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu, đã ngự đến Āpaṇa. Hơn nữa, về ngài Gotama ấy —như trên— Phật, Thế Tôn.’ Vị ấy đã được tôi thỉnh mời vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.”

-- Thưa Tôn giả Sela, tôi không có rước dâu, cũng không đưa dâu, vua Seniya Bimbisara nước Magadha không có được mời ngày mai với cả binh lực, nhưng tôi chuẩn bị một đại tế đàn. Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya, du hành ở Anguttarapa cùng với đại chúng Tỷ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, và đã đến Apana. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về Tôn giả Gotama được khởi lên: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn." Vị ấy được con mời ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo.  

Buddhoti kho bho keṇiya, vadesi? Buddhoti bho sela, vadāmi. Buddhoti bho keṇiya, vadesi? Buddhoti bho sela vadāmīti.

“Này ông Keṇiya, có phải ông nói: ‘Đức Phật’?” “Ồ ông Sela, tôi nói là: ‘Đức Phật.’” “Này ông Keṇiya, có phải ông nói: ‘Đức Phật’?” “Ồ ông Sela, tôi nói là: ‘Đức Phật.’”

-- Tôn giả Keniya, có phải Ông nói đức Phật?

-- Tôn giả Sela, vâng, tôi nói đức Phật.

-- Tôn giả Keniya, có phải Ông nói đức Phật?

-- Tôn giả Sela, vâng, tôi nói đức Phật.

Atha kho selassa brahmaṇassa etadahosi: Ghosopi kho eso dullabho lokasmiṃ yadidaṃ buddho’ti. Āgatāni kho pana asmākaṃ mantesu dvattiṃsamahāpurisalakkhanāni yehi samannāgatassa mahāpurisassa dveva gatiyo bhavanti anaññā. Sace agāraṃ ajjhāvasati, rājā hoti cakkavattī dhammiko dhammarājā cāturanto vijitāvī janapadatthāvariyappatto sattaratanasamannāgato.

Khi ấy, Bà-la-môn Sela đã khởi ý điều này: “Cái âm này thật khó được nghe ở thế gian, đó là từ: ‘Đức Phật.’ Hơn nữa, ba mươi hai tướng của bậc đại nhân đã được lưu truyền ở các kinh thơ của chúng ta, bậc đại nhân có được các tướng này chỉ có hai con đường, không có con đường khác: Nếu ở tại gia thì trở thành vua Chuyển Luân, bậc công chính, vị vua công minh, bậc chinh phục bốn phương, đạt được sự bền vững của xứ sở, có được bảy báu vật.

 

Rồi Tôn giả Bà-la-môn Sela suy nghĩ: "Chỉ một âm thanh đức Phật này cũng khó tìm được trong đời. Theo Thánh điển của chúng ta được truyền lại về ba mươi hai Ðại nhân tướng, những ai có ba mươi hai tướng ấy sẽ chọn một trong hai con đường, không có con đường nào khác: nếu là tại gia, sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương chinh phục mọi quốc độ, đầy đủ bảy món báu.

Tassimāni sattaratanāni bhavanti, seyyathīdaṃ: cakkaratanaṃ hatthiratanaṃ assaratanaṃ maṇiratanaṃ itthiratanaṃ gahapatiratanaṃ pariṇāyakaratanameva sattamaṃ, parosahassaṃ kho panassa puttā bhavanti sūrā vīraṅgarūpā parasenappamaddanā, so imaṃ paṭhaviṃ sāgarapariyantaṃ adaṇḍena asatthena dhammena abhivijiya ajjhāvasati. Sace kho panāgārasmā anagāriyaṃ pabbajati arahaṃ hoti sammāsambuddho loke vivattacchaddo.

Bảy báu vật này là thuộc về vị ấy, gồm có: bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc ma-ni báu, nữ nhân báu, gia chủ báu, và tướng quân báu là thứ bảy. Hơn nữa, vị này có hơn một ngàn con trai là những dũng sĩ, có vóc dáng anh hùng, có khả năng tiêu diệt quân đội của kẻ thù. Vị ấy chinh phục và ngự trị trái đất được biển bao quanh này một cách công minh, không gậy gộc, không gươm đao. Nhưng nếu rời nhà xuất gia sống không nhà thì trở thành bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Giác, khơi mở sự che lấp ở thế gian.”

 

Bảy món báu này là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, cư sĩ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Và vị này có hơn một ngàn con trai là những vị anh hùng, oai phong lẫm liệt, chiến thắng ngoại quân. Vị này sống thống lãnh quả đất cùng tận cho đến đại dương, và trị vì với Chánh pháp, không dùng gậy, không dùng đao. Nếu vị này xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị này sẽ chứng quả A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, quét sạch mê lầm ở đời." và ông ta nói:

Kahaṃ pana bho keṇiya, etarahi so bhavaṃ gotamo viharati arahaṃ sammāsambuddho’ti.

“Này ông Keṇiya, vậy bây giờ ngài Gotama, bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Giác ấy trú ở đâu?

 

-- Này Tôn giả Keniya, nay Tôn giả Gotama ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ấy trú ở đâu?

Evaṃ vutte keṇiyo jaṭilo dakkhiṇaṃ bāhaṃ paggahetvā selaṃ brāhmaṇaṃ etadavoca: Yenesā bho sela nīlavanarājīti.
 

Khi được nói như vậy, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã vươn cánh tay mặt và đã nói với Bà-la-môn Sela điều này: “Này ông Sela, ở dải rừng xanh biếc kia.”

 

Khi nghe nói vậy, bện tóc Keniya, duỗi cánh tay mặt, nói với Bà-la-môn Sela:

-- Tôn giả Sela, tại ngôi rừng xanh kia.

 

Atha kho selo brāhmaṇo tīhi māṇavakasatehi saddhiṃ yena bhagavā tenupasaṅkakami. Atha kho selo brāhmaṇo te māṇavake āmantesi: Appasaddā bhonto āgacchantu pade padaṃ nikkhipantā, durāsadā hi te bhagavanto sīhāva ekacarā, yadā cāhaṃ bhonto, samaṇena gotamena saddhiṃ manteyyaṃ mā me bhonto, antarantarā kathaṃ opātetha, kathāpariyosānaṃ me bhavanto āgamentūti.

 

Sau đó, Bà-la-môn Sela cùng với ba trăm thanh niên Bà-la-môn đã đi đến gặp đức Thế Tôn. Khi ấy, Bà-la-môn Sela đã bảo các thanh niên Bà-la-môn ấy rằng: “Này quý vị, hãy đi đến ít có tiếng động trong khi đặt bàn chân xuống từng bước một, bởi vì các đức Thế Tôn ấy là khó tiếp cận, tựa như loài sư tử sống một mình. Và này quý vị, khi ta chuyện trò với Sa-môn Gotama, quý vị chớ làm gián đoạn cuộc nói chuyện ở khoảng giữa, quý vị hãy chờ đợi đến khi ta dứt lời.”

 

Rồi Bà-la-môn Sela, với ba trăm thanh niên đi đến Thế Tôn. Bà-la-môn bảo những thanh niên ấy:

-- Quý vị hãy đến một cách im lặng, đặt chân xuống từng bước một, các bậc Thế Tôn ấy như con sư tử sống một mình, rất khó đến gần (hay ưa thích an tịnh -- Durasada). Nếu ta có thảo luận với Sa-môn Gotama, chư Tôn giả chớ ngắt lời ta. Chư Tôn giả hãy chờ ta nói xong.

 

Atha kho selo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi, sammodanīyaṃ kathaṃ sārāṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.

Sau đó, Bà-la-môn Sela đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã ngồi xuống ở một bên.

 

Rồi Bà-la-môn Sela đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.

Ekamantaṃ nisinno kho selo brāhmaṇo bhagavato kāye dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇāni samannesi. Addasā kho selo brāhmaṇo bhagavato kāye dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇāni yebhuyyena ṭhapetvā dve, dvīsu mahāpurisalakkhaṇesu kaṅkhati vicikicchati nādhimuccati na sampasīdati, kosohite ca vatthaguyhe pahūtajivhatāya ca.

Khi đã ngồi xuống ở một bên, Bà-la-môn Sela đã tìm xem ba mươi hai tướng của bậc đại nhân ở thân thể của đức Thế Tôn. Bà-la-môn Sela quả đã nhìn thấy hầu hết ba mươi hai tướng của bậc đại nhân ở thân thể của đức Thế Tôn ngoại trừ hai tướng, nên phân vân, hoài nghi, chưa xác quyết, chưa hài lòng về hai tướng của bậc đại nhân là nam căn được bọc lại và lưỡi lớn. [1]


[1] Nam căn được bọc lại (kosohite vatthaguyhe): kosohite là được che đậy lại bởi lớp vỏ bọc bằng da, vatthaguyhe là dương vật (SnA. ii, 452).

Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Sela tìm xem ba mươi hai Ðại nhân tướng trên thân Thế Tôn, Bà-la-môn Sela thấy phần lớn ba mươi hai Ðại nhân tướng trên thân Thế Tôn, trừ hai tướng. Ðối với hai Ðại nhân tướng ấy, nghi hoặc sanh, do dự sanh, chưa được thỏa mãn, chưa được hài lòng, tức là tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài.

Atha kho bhagavato etadahosi: Passati kho me ayaṃ selo brāhmaṇo dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇāni yebhuyyena ṭhapetvā dve, dvīsu mahāpurisalakkhaṇesu kaṅkhati vicikicchati nādhimuccati na sampasīdati, kosohite ca vatthaguyhe pahūtajivhatāya cāti.

Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Bà-la-môn Sela này nhìn thấy hầu hết ba mươi hai tướng của bậc đại nhân ở thân thể của Ta ngoại trừ hai tướng, nên phân vân, hoài nghi, chưa xác quyết, chưa hài lòng về hai tướng của bậc đại nhân là nam căn được bọc lại và lưỡi lớn.”

Rồi Thế Tôn suy nghĩ: "Bà-la-môn Sela này thấy trên thân Ta phần lớn ba mươi hai Ðại nhân tướng, trừ hai tướng, đối với hai Ðại nhân tướng ấy, nghi hoặc sanh, do dự sanh, chưa được thỏa mãn, chưa được hài lòng, tức là tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài".

 

Atha kho bhagavā tathārūpaṃ iddhābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkhāsi yathā addasa selo brāhmaṇo bhagavato kosohitaṃ vatthaguyhaṃ. Atha kho bhagavā jivhaṃ ninnāmetvā ubhopi kaṇṇasotāni anumasi paṭimasi, ubhopi nāsikasotāni anumasi paṭimasi, kevalampi laḷāṭamaṇḍalaṃ jivhāya chādesi.

Khi ấy, đức Thế Tôn đã thể hiện thần thông khiến cho Bà-la-môn Sela đã nhìn thấy nam căn được bọc lại của đức Thế Tôn. Sau đó, đức Thế Tôn đã nhe lưỡi ra rồi đã liếm xuôi liếm ngược cả hai lỗ tai, đã liếm xuôi liếm ngược cả hai lỗ mũi, rồi đã dùng lưỡi che kín toàn bộ vầng trán.

 

Thế Tôn liền dùng thần thông khiến Bà-la-môn Sela thấy được tướng mã âm tàng của Thế Tôn, và Thế Tôn le lưỡi, rờ đến, liếm đến hai lỗ tai; rờ đến, liếm đến hai lỗ mũi, và dùng lưỡi le khắp cả vùng trán.

 

Atha kho selassa brahmaṇassa etahosi: Samannāgato kho samaṇo gotamo dvattiṃsa mahāpurisalakkhaṇehi paripuṇṇehi no aparipuṇṇehi no ca kho naṃ jānāmi buddho vā no vā, sutaṃ kho pana metaṃ brāhmaṇānaṃ vuddhānaṃ mahallakānaṃ ācariyapācariyānaṃ bhāsamānānaṃ, ye te bhavanti arahanto sammāsambuddhā te sake vaṇṇe bhaññamāne attānaṃ pātukarontīti, yannūnāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthaveyyanti. Atha kho sele brāhmaṇo bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi:

Khi ấy, Bà-la-môn Sela đã khởi ý điều này: “Sa-môn Gotama quả đã có đầy đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân, không phải không đầy đủ, nhưng ta không biết vị ấy có phải là đức Phật hay không phải. Vả lại, điều này đã được ta nghe từ các vị Bà-la-môn lão niên, lớn tuổi nói rằng: ‘Các vị nào là bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Giác, các vị ấy phô bày bản thân trong khi ân đức của mình đang được nói lên. Hay là ta nên trực diện ca ngợi Sa-môn Gotama bằng những lời kệ thích đáng? Khi ấy, Bà-la-môn Sela đã trực diện ca ngợi đức Thế Tôn bằng những lời kệ thích đáng rằng:

 

Rồi Bà-la-môn Sela suy nghĩ: "Sa-môn Gotama thành tựu ba mươi hai Ðại nhân tướng một cách đầy đủ, không phải không đầy đủ, nhưng ta chưa biết vị ấy là Phật hay không phải Phật. Tuy vậy, ta có nghe các vị Bà-la-môn niên cao, lạp lớn, các bậc Tôn sư, Ðại Tôn sư, nói như sau: "Các Thế Tôn ấy, những bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, khi những lời tán thán của những bậc ấy được nói đến, các bậc ấy tự hiện hình ra". Vậy ta hãy trước mặt Thế Tôn tán thán những bài kệ xứng đáng". Rồi Bà-la-môn Sela, tán thán trước mặt Sa-môn Gotama những bài kệ xứng đáng như sau:

551. Paripuṇṇakāyo suruci sujāto cārudassano,
suvaṇṇavaṇṇosi bhagavā susukkadāṭhosi viriyavā.

551. “‘Bạch Thế Tôn, ngài có thân hình vẹn toàn, có ánh sáng rực rỡ, đã được thiện sanh, có vẻ đáng mến, có màu da như vàng, có răng trắng tinh, có sự tinh tấn.[1]


[1] Các câu kệ 551-570 được thấy ở Selattheragāthā - Kệ ngôn của trưởng lão Sela, xem TTPV tập 31, các câu kệ 818-837, các trang 204-207 (ND).

 

Thân trọn đủ chói sáng,
Khéo sanh và đẹp đẽ,
Thế Tôn sắc vàng chói,
Răng trơn, láng, tinh cần.

 

552. Narassa hi sujātassa ye bhavanti viyañjanā,
sabbe te tava kāyasmiṃ mahāpurisalakkhaṇā.

552. Bởi vì những đặc điểm nào hiện hữu ở người đã được thiện sanh, tất cả các đặc điểm ấy, những tướng trạng của bậc đại nhân, đều có ở thân thể của Ngài.

Ðối với người khéo sanh,
Những tướng tốt trang trọng,
Ðều có trên thân Ngài,
Tất cả Ðại nhân tướng.

553. Pasannanetto sumukho brahā uju patāpavā,
majjhe samaṇasaṅghassa ādicco ’va virocasi.

553. Ngài có cặp mắt trong sáng, khuôn mặt đầy đặn, cao to, đứng ngay thẳng, oai vệ; ở giữa hội chúng Sa-môn, Ngài chói sáng tựa như mặt trời.

Mắt sáng, mặt tròn đầy,
Cân đối, thẳng, hoàn mỹ,
Giữa chúng Sa-môn Tăng,
Ngài chói như mặt trời.

554. Kalyāṇadassano bhikkhu kañcanasannibhattaco,
kiṃ te samaṇabhāvena evaṃ uttamavaṇṇino.

554. Là vị tỳ khưu có vóc dáng đẹp đẽ, có làn da giống như vàng, có màu da tối thượng như vậy, Ngài cần gì với bản thể Sa-môn?

 

Ðẹp mắt vị Tỷ-kheo,
Da sáng như vàng chói,
Với hạnh Sa-môn, Ngài
Cần gì sắc tối thượng.


 

555. Rājā arahasi bhavituṃ cakkavatti rathesabho,
cāturanto vijitāvī jambusaṇḍassa issaro.

555. Ngài xứng đáng để trở thành vị vua, đấng Chuyển Luân, người xa phu xuất sắc, bậc có sự chiến thắng khắp bốn phương, chúa tể của Jambusaṇḍa.

Ngài xứng bậc Ðại vương,
Chuyển Luân, bậc Ðiều Ngự,
Chiến thắng khắp thiên hạ,
Bậc tối thượng Diêm-phù.

556. Khattiyā bhojarājāno anuyuttā bhavanti te,
rājābhirājā manujindo rajjaṃ kārehi gotama.

556. Các vị Sát-đế-lỵ, các tộc trưởng và các vị vua đều phục tùng ngài; ngài là vị vua đứng đầu các vị vua, là chúa của loài người. Thưa ngài Gotama, xin ngài hãy cai trị vương quốc.”

Vương tộc, hào phú vương,
Là chư hầu của Ngài,
Là vua giữa các vua,
Là Giáo chủ loài Người.
Hãy trị vì quốc độ,
Tôn giả Gotama!

557. Rājāhamasmi sela (iti bhagavā) dhammarājā anuttaro,
dhammena cakkaṃ vattemi cakkaṃ appativattiyaṃ.

557. (Đức Thế Tôn nói) “Này Sela, Ta là đức vua, đấng Pháp vương vô thượng. Ta chuyển vận bánh xe theo Giáo Pháp, là bánh xe không thể bị chuyển vận ngược lại.”

Thế Tôn liền trả lời:

Sela, Ta là vua,
Bậc Pháp vương vô thượng,
Ta chuyển bánh xe pháp,
Bánh xe chưa từng chuyển.

558. Sambuddho paṭijānāsi (iti selo brāhmaṇo) dhammarājā anuttaro,
dhammena cakkaṃ vattemi iti bhāsasi gotama.
 

558. (Bà-la-môn Sela nói) “Ngài tự nhận là bậc Toàn Giác, đấng Pháp vương vô thượng. Thưa ngài Gotama, Ngài nói rằng: ‘Ngài chuyển vận bánh xe theo Giáo Pháp.’

(Sela):

Ngài tự nhận Giác giả
Sela lại hỏi thêm,
"Bậc Pháp vương vô thượng,
Ta chuyển bánh xe Pháp",
Ngài trả lời như vậy.

559. Ko nu senāpati bhoto sāvako satthudanvayo,
ko te imaṃ anuvatteti dhammacakkaṃ pavattitaṃ.

559. Vậy vị nào là tướng quân của ngài, là đệ tử tiếp nối bậc đạo sư? Vị nào tiếp tục vận chuyển cho Ngài bánh xe Pháp đã được chuyển vận này?

Tôn giả Gotama,
Ai sẽ là tướng quân ?
Là Tôn giả đệ tử ?
Vị đệ tử tín thành ?
Xứng đáng bậc Ðạo sư ?
Sau Ngài, ai sẽ chuyển,
Pháp luân Ngài đã chuyển ?

560. Mayā pavattitaṃ cakkaṃ (selāti bhagavā) dhammacakkaṃ anuttaraṃ,
Sāriputto anuvatteti anujāto tathāgataṃ.

560. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sela,) bánh xe đã được Ta chuyển vận là bánh xe Pháp vô thượng. Sāriputta kế thừa đức Như Lai tiếp tục chuyển vận.

 

(Thế Tôn):

Này Sela,
Ta chuyển bánh xe Pháp,
Bánh xe Pháp vô thượng.
Chính Sariputta,
Chuyển bánh xe Chánh Pháp,
Thừa tự Như Lai vị.

561. Abhiññeyyaṃ abhiññātaṃ bhāvetabbañca bhāvitaṃ,
pahātabbaṃ pahīnaṃ me tasmā buddhosmi brāhmaṇa.
 

561. Điều cần biết rõ đã được biết rõ, việc cần tu tập đã được tu tập, cái cần dứt bỏ đã được dứt bỏ bởi  Ta; này Bà-la-môn, vì thế Ta là đức Phật.

 

Cần biết, Ta đã biết,
Cần tu, Ta đã tu,
Cần bỏ, Ta đã bỏ.
Do vậy Ta là Phật,
Ôi, Tôn giả Phạm chí!

562. Vinayassu mayi kaṅkhaṃ adhimuccassu brāhmaṇa,
dullabhaṃ dassanaṃ hoti sambuddhānaṃ abhiṇhaso.

 

562. Này Bà-la-môn, ngươi hãy dẹp bỏ sự hoài nghi về Ta, ngươi hãy xác quyết; việc gặp gỡ các bậc Toàn Giác thường xuyên là điều khó đạt được.

 

 

Còn gì nghi ở Ta,
Hãy gác bỏ một bên,
Hãy giải thoát khỏi chúng,
Ôi, Tôn giả Phạm chí!

563. Yesaṃ vo dullabho loke pātubhāvo abhiṇhaso,
so’haṃ brāhmaṇa sambuddho sallakatto anuttaro.
 

563. Quả vậy, việc tái xuất hiện ở thế gian của những vị này là điều khó đạt được. Này Bà-la-môn, Ta đây là bậc Toàn Giác, phẫu thuật gia vô thượng.

 

Thấy được bậc Chánh Giác,
Thật thiên nan vạn nan,
Bậc Chánh Giác ra đời,
Thật thiên nan vạn nan!

Ta là bậc Chánh Giác,
Bậc Y vương vô thượng,
Ôi, Tôn giả Phạm chí!

564. Brahmabhūto atitulo mārasenappamaddano,
sabbāmitte vasīkatvā modāmi akutobhayo.

564. Ta có tư cách Phạm Thiên, bậc không thể so sánh, người có sự tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương, sau khi chế ngự tất cả đối thủ, Ta hân hoan, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.”

 

 

Là Phạm thiên khó sánh,
Nhiếp phục các ma quân.
Hàng phục mọi đối nghịch,
Ta sống tâm hoan hỷ,
Không sợ hãi một ai,
Không từ đâu run sợ.

565. Imaṃ bhonto nisāmetha yathā bhāsati cakkhumā,
sallakatto mahāvīro sīho va nadatī vane.

565. “Này quý vị, quý vị hãy lắng nghe lời mà bậc Hữu Nhãn, nhà phẫu thuật, đấng Đại Hùng phát biểu, tựa như con sư tử rống ở khu rừng.

(Sela):

Chư Tôn giả, hãy nghe!
Như bậc có mắt giảng,
Bậc Y vương, Anh hùng,
Sư tử rống rừng sâu.

566. Brahmabhūtaṃ atitulaṃ mārasenappamaddanaṃ,
ko disvā nappasīdeyya api kaṇhābhijātiko.

566. Người nào, cho dầu là kẻ có dòng dõi thấp kém, sau khi nhìn thấy bậc có tư cách Phạm Thiên, bậc không thể so sánh, người có sự tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương, mà không tịnh tín?

Thấy Phạm thiên vô tỷ,
Nhiếp phục các ma quân,
Ai lại không tín thành,
Cho đến kẻ hạ tiện.

567. Yo maṃ icchati anvetu yo vā nicchati gacchatu,
idhāhaṃ pabbajissāmi varapaññassa santike.

567. Ai là người muốn theo ta, hoặc ai không muốn thì hãy đi đi. Tại đây, ta sẽ xuất gia trong sự chứng minh của bậc có trí tuệ cao quý.”

 

Ai muốn, hãy theo Ta,
Không muốn, hãy ra đi,
Ở đây, Ta xuất gia,
Bậc Trí Tuệ tối thượng!

568. Etañce ruccati bhoto sammāsambuddhasāsanaṃ,
mayampi pabbajissāma varapaññassa santike.

568. “Nếu Giáo Pháp này của đấng Chánh Đẳng Giác được thích thú đối với ngài, chúng tôi cũng sẽ xuất gia trong sự chứng minh của bậc có trí tuệ cao quý.”

(Các Bà-la-môn):

Nếu Tôn giả tín thành,
Giáo pháp bậc Chánh Giác,
Chúng con cũng xuất gia,
Bậc Trí Tuệ tối thượng!

569. Brāhmaṇā tisatā ime yācanti pañjalikatā,
brahmacariyaṃ carissāma bhagavā tava santike.

569. Ba trăm vị Bà-la-môn này đã chắp tay thỉnh cầu: “Bạch đức Thế Tôn, chúng con sẽ sống Phạm hạnh trong sự hiện diện của Ngài.”

 

(Sela):

Ba trăm Phạm chí ấy,
Chắp tay xin được phép:
Chúng con sống Phạm hạnh,
Do Thế Tôn lãnh đạo!

570. Svākkhātaṃ brahmacariyaṃ (selāti bhagavā) sandiṭṭhikamakālikaṃ,
yattha amoghā pabbajjā appamattassa sikkhatoti.

570. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sela,) Phạm hạnh đã khéo được thuyết giảng, hoàn toàn hiển nhiên, không bị chi phối bởi thời gian, việc xuất gia trong Giáo Pháp ấy không phải là vô ích đối với người đang (ra sức) học tập, không bị xao lãng.”

Thế Tôn đáp:

Nầy Sela,
Phạm hạnh được khéo giảng,
Thiết thực ngay hiện tại,
Vượt khỏi thời gian tính.
Ở đây sự xuất gia,
Không uổng công hoang phí,
Với ai không phóng dật,
Tinh tấn chuyên tu học.

Alattha kho selo brāhmaṇo sapariso bhagavato santike pabbajjaṃ alattha upasampadaṃ.

Quả vậy, Bà-la-môn Sela  cùng với đồ chúng đã đạt được sự xuất gia, đã đạt được sự tu lên bậc trên trong sự hiện diện của đức Thế Tôn.

Bà-la-môn Sela cùng với hội chúng được xuất gia dưới sự lãnh đạo Thế Tôn, được thọ đại giới.

 

Atha kho keṇiyo jaṭilo tassā rattiyā accayena sake assame paṇītaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ paṭiyādāpetvā bhagavato kālaṃ ārocāpesi: Kālo bho gotama niṭṭhitaṃ bhattanti.
 

Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn hảo hạng loại cứng loại mềm tại nơi cư ngụ của mình rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn: “Bạch ngài Gotama, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.”

 

Rồi Bà-la-môn Keniya, sau đêm ấy, tại tinh xá của mình, sau khi cho sửa soạn các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm xong, liền báo thời giờ lên Thế Tôn: "Tôn giả Gotama, đã đến giờ! Cơm đã sửa soạn xong".

Atha kho bhagavā pubbanhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena keṇiyassa jaṭilassa assamo tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi, saddhiṃ bhikkhusaṅghena. Atha kho keṇiyo jaṭilo buddhapamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.

 

Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã quấn y (nội) rồi cầm bình bát và y đi đến nơi cư ngụ của đạo sĩ bện tóc Keṇiya, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã tự tay làm hài lòng và toại ý hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn hảo hạng loại cứng loại mềm.

 

Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến tinh xá của bện tóc Keniya, sau khi đến, liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn cùng với chúng Tỷ-kheo. Rồi bện tóc Keniya sau khi tự tay mời chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu và làm cho thỏa mãn với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm.

Atha kho keṇiyo jaṭilo bhagavantaṃ bhuttāviṃ onītapattapāṇiṃ aññataraṃ nīcaṃ āsanaṃ gahetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho keṇiyaṃ jaṭilaṃ bhagavā imāhi gāthāhi anumodi:

Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong có bàn tay đã rời khỏi bình bát, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã cầm lấy một chiếc ghế thấp rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã ngồi xuống ở một bên, đức Thế Tôn đã nói lời tùy hỷ đến đạo sĩ bện tóc Keṇiya bằng những lời kệ này:

 

Rồi bện tóc Keniya, sau khi Thế Tôn ăn xong, tay đã rời khỏi bát, liền lấy một ghế ngồi thấp khác và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với bện tóc Keniya lời tùy hỷ công đức với những bài kệ sau đây:

 

571. Aggihuttamukhā yaññā sāvitti chandaso mukhaṃ,
rājā mukhaṃ manussānaṃ nadīnaṃ sāgaro mukhaṃ.

571. “Các lễ hiến tế có sự cúng tế ngọn lửa là đứng đầu, kinh cổ Sāvittī là đứng đầu về niêm luật, đức vua là đứng đầu loài người, biển cả đứng đầu các con sông.

Tế đàn là tối thượng,
Trong các lễ tế lửa,
Savitti là tối thượng,
Giữa bài thơ Veda.

Vua là bậc tối thượng,
Giữa thế giới loài Người,
Ðại dương là tối thượng,
Giữa các loại sông ngòi.

572. Nakkhattānaṃ mukhaṃ cando ādicco tapataṃ mukhaṃ,
puññaṃ ākaṅkhamānānaṃ saṅgho ce yajataṃ mukhanti.

572. Mặt trăng đứng đầu các vì sao, mặt trời đứng đầu các vật tỏa sáng. Đối với những người mong mỏi phước báu đang cúng dường thì Tăng Chúng là đứng đầu.”[1]


[1] Hai câu kệ 571 và 572 được thấy ở Tạng Luật (xem TTPV tập 5, trang 97)

Mặt trăng là tối thượng,
Giữa các vì sao sáng,
Chúng Tăng thật tối thượng,
Với những ai bố thí,
Tâm mong ước nguyện cầu,
Gặt hái nhiều công đức.

Atha kho bhagavā keṇiyaṃ jaṭilaṃ imāhi gāthāhi anumoditvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.

Sau đó, khi đã nói lời tùy hỷ đến đạo sĩ bện tóc Keṇiya bằng những lời kệ này, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

Thế Tôn sau khi dùng bài kệ này nói những lời tùy hỷ công đức với bện tóc Keniya, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

 

Atha kho āyasmā selo sapariso eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto na cirasseva yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi. Khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti abbhaññāsi. Aññataro ca kho panāyasmā selo sapariso arahataṃ ahosi.

Sau đó, đại đức Sela  cùng với đồ chúng , một mình đã tách riêng, rồi trong khi sống không bị xao lãng, có sự nỗ lực, có sự quyết tâm nên chẳng bao lâu sau, ngay trong kiếp hiện tại này, nhờ vào thắng trí của mình đã chứng ngộ, đạt đến, và an trú vào mục đích tối thượng của Phạm hạnh, vì mục đích này mà những người con trai của các gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà. Vị ấy đã biết rằng: “Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể (A-la-hán) này nữa.” Và thêm một vị nữa là đại đức Sela  cùng với đồ chúng đã trở thành vị A-la-hán.

Rồi Tôn giả Sela với đồ chúng sống một mình an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, cần mẫn. Và không bao lâu, Tôn giả chứng được mục đích tối cao mà các Thiện nam tử đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Ðó là vô thượng Phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự chứng đạt và an trú. Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa. Vị này biết như vậy và Tôn giả Sela với hội chúng trở thành các vị A-la-hán.  

Atha kho āyasmā selo sapariso yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ gāthāhi ajjhabhāsi.
 

 Sau đó, đại đức Sela cùng với đồ chúng đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đắp y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn bằng những lời kệ rằng:

 

Rồi Tôn giả Sela với đồ chúng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đắp y vào một bên vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn và đọc lên Thế Tôn bài kệ sau đây:

573. Yaṃ taṃ saraṇamāgamma ito aṭṭhami cakkhuma,
sattarattena bhagavā dantamha tava sāsane.

573. “Bạch đấng Hữu Nhãn, việc chúng con đi đến nương tựa vào Ngài đến nay là ngày thứ tám. Bạch đức Thế Tôn, chúng con đã được huấn luyện trong Giáo Pháp của Ngài bảy đêm.

Kính bạch bậc Pháp Nhãn,
Cách đây trước tám ngày,
Chúng con đã đến Ngài,
Xin phát nguyện quy y.

Thế Tôn trong bảy đêm,
Ðã nhiếp phục chúng con,
Ðã chế ngự chúng con,
Trong giáo lý của Ngài.

574. Tuvaṃ buddho tuvaṃ satthā tuvaṃ mārābhibhū muni,
tuvaṃ anusaye chetvā tiṇṇo tāres’ imaṃ pajaṃ.

574. Ngài là đức Phật, Ngài là bậc Đạo Sư, Ngài là bậc hiền trí, đấng chế ngự Ma Vương. Sau khi cắt đứt các pháp tiềm ẩn và đã vượt qua, Ngài đưa dòng dõi này vượt qua.

Ngài là bậc Giác Giả,
Ngài là bậc Ðạo Sư,
Ngài là bậc Mâu-ni,
Ðã chiến thắng quần ma.

Sau khi Ngài đoạn trừ,
Vượt qua biển sanh tử,
Ngài giúp quần sanh này,
Cùng vượt qua bể khổ.

575. Upadhī te samatikkantā āsavā te padālitā,
sīhosi anupādāno pahīṇabhayabheravo.

575. Các mầm tái sanh đã được Ngài hoàn toàn vượt qua, các lậu hoặc đã được Ngài phá tan, tựa như con sư tử, không còn chấp thủ, có sự sợ hãi và khiếp đảm đã được dứt bỏ.

Sanh y Ngài vượt qua,
Lậu hoặc Ngài nghiền nát,
Ngài là Sư tử chúa,
Không chấp, không sợ hãi.

576. Bhikkhavo tisatā ime tiṭṭhanti pañjalīkatā,
pāde vīra pasārehi nāgā vandantu satthunoti.

576. Ba trăm vị tỳ khưu này đứng yên, chắp tay. Bạch đấng Anh Hùng, xin Ngài hãy duỗi ra các bàn chân. Các bậc long tượng hãy đảnh lễ (bàn chân của) bậc Đạo Sư.”

Ba trăm Tỷ-kheo này,
Ðồng chắp tay đứng thẳng,
Ôi anh hùng chiến thắng,
Hãy duỗi chân bước tới.
Hãy để các Ðại nhân
Ðảnh lễ bậc Ðạo Sư.

 

Selasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Sela.

 

 

 

08. KINH MŨI TÊN

8. SALLASUTTAṂ

 

8. KINH MŨI TÊN

 

8. KINH MŨI TÊN

577. Animittamanaññātaṃ maccānaṃ idha jīvitaṃ,
kasirañca parittañca tañca dukkhena saññutaṃ.

577. Mạng sống của loài người ở đây là không có sự báo hiệu, không được biết chắc, khó khăn, ngắn ngủi, và nó bị gắn liền với khổ đau.

574. Sinh mạng của loài Người,
Ở đời không ai biết,
Không tướng, nhiều phiền toái,
Nhỏ nhoi, liên hệ khổ.

578. Na hi so upakkamo atthi yena jātā na mīyare,
jarampi patvā maraṇaṃ evaṃdhammā hi pāṇino.

578. Thật sự không có phương thức nào khiến cho những kẻ đã được sanh ra (sẽ) không chết; sau khi đạt đến tuổi già (hay chưa đạt đến) cũng sẽ có cái chết, bởi vì các sinh mạng có quy luật là như vậy.

575. Không có sự gắng nào,
Khiến sống thoát khỏi chết,
Sau khi già là chết,
Pháp hữu tình là vậy.

579. Phalānamiva pakkānaṃ pāto patanato bhayaṃ,
evaṃ jātānamaccānaṃ niccaṃ maraṇato bhayaṃ.

579. Tựa như nỗi sợ hãi về sự rơi rụng vào buổi sáng của những trái cây đã chín, nỗi sợ hãi thường xuyên về sự chết của những con người đã được sanh ra là như vậy.

576. Như các trái chín muồi,
Có sợ bị rơi sớm,
Cũng vậy, người được sanh,
Thường có sợ bị chết.

580. Yathāpi kumbhakārassa katā mattikabhājanā,
sabbe bhedanapariyantā evaṃ maccāna jīvitaṃ.

580. Cũng giống như bát đĩa bằng đất sét đã được làm ra bởi người thợ gốm, tất cả có sự bể vỡ là chặng cuối, mạng sống của loài người là như vậy.

577. Như người thợ làm ghè
Làm chén bát đất sét,
Cuối cùng, bể tất cả,
Mạng sống người là vậy.

581. Daharā ca mahantā ca ye bālā ye ca paṇḍitā,
sabbe maccuvasaṃ yanti sabbe maccuparāyanā.

581. Những ai ngu si và những ai sáng suốt, các trẻ con và những người lớn, tất cả đều sa vào quyền lực của thần chết, tất cả đều có sự chết là nơi cuối cùng.

578. Trẻ tuổi và lớn tuổi,
Người ngu và kẻ trí,
Tất cả đi đến chết,
Cuối cùng rồi cũng chết.

582. Tesaṃ maccuparetānaṃ gacchataṃ paralokato,
na pitā tāyate puttaṃ ñātī vā pana ñātake.

582. Khi những người ấy đã bị chế ngự bởi thần chết và đang đi đến thế giới khác, người cha không thể bảo vệ con trai, hoặc ngay cả thân nhân không thể bảo vệ các quyến thuộc.

579. Những ai chết chi phối,
Ði qua đến đời sau,
Cha không cứu được con,
Hay bà con cứu nhau.

583. Pekkhataṃ yeva ñātīnaṃ passa lālapataṃ puthu,
ekameko ca maccānaṃ govajjho viya nīyati.

583. Ngươi hãy nhìn xem,[1] trong số các thân quyến thật sự đang xem xét, đang than khóc thê thảm, từng người một trong số loài người bị đưa đi, ví như loài bò là để giết thịt.


[1] Theo Chú Giải, đức Phật có nam cư sĩ là người hộ độ. Người này có đứa con trai vừa mới mất, và vì sầu muộn nên không dùng vật thực đã bảy ngày. Thương tình, đức Phật đã ngự đến nhà nam cư sĩ ấy để giáo hóa (SnA. ii, 457).

580. Hãy xem, các bà con
Ðứng nhìn và than khóc,
Từng người, đi đến chết,
Như bò mang đi giết,

584. Evamabbhāhato loko maccunā ca jarāya ca,
tasmā dhīrā na socanti viditvā lokapariyāyaṃ.

584. Thế gian bị hành hạ như vậy bởi cái chết và sự già; vì thế sau khi biết được bản thể của thế gian các bậc sáng trí không sầu muộn.

581. Như vậy, thế giới này
Bị già chết chi phối,
Do vậy, bậc nhiều trí,
Biết đời, nên không sầu

585. Yassa maggaṃ na jānāsi āgatassa gatassa vā,
ubho ante asampassaṃ niratthaṃ paridevasi.
 

585. Ngươi không biết lộ trình đi đến (sanh) hoặc ra đi (chết) của kẻ ấy, trong khi không nhìn thấy cả hai chặng, ngươi than vãn một cách vô ích.

582. Ai không biết con đường,
Ðường đến và đuờng đi,
Do không thấy hai ngã,
Than khóc, không lợi ích.

586. Paridevayamāno ce kañci atthaṃ udabbahe,
sammūḷho hiṃsamattānaṃ kayirā cenaṃ vicakkhaṇo.

586. Nếu trong lúc than vãn, trong lúc hành hạ bản thân, kẻ bị mê muội có thể tạo nên lợi ích nào đó, thì người khôn khéo cũng nên làm điều ấy.
 

583. Nếu thật sự than khóc,
Ðem lại lợi ích gì,
Kẻ ngu tự hại mình,
Người có mắt sẽ làm.

587. Na hi runtena sokena santiṃ pappoti cetaso,
bhīyassuppajjate dukkhaṃ sarīraṃ upahaññati.

587. Hiển nhiên với việc khóc lóc, với sự sầu muộn, thì không đạt được sự an tịnh của tâm, khổ đau sanh lên cho người này còn nhiều hơn; cơ thể của người này bị tổn hại.

584. Không với sầu, nước mắt,
Khiến nội tâm an tịnh,
Khổ càng tăng trưởng thêm,
Thân càng bị gia hại.

588. Kiso vivaṇṇo bhavati hiṃsamattānamattanā,
na tena petā pālenti niratthā paridevanā.

588. Trong khi tự mình hãm hại mình, (người này) trở nên gầy ốm, xuống sắc, những người đã quá vãng không được trợ giúp do việc ấy; sự than vãn là không có lợi ích.

585. Ốm yếu, sắc da tái,
Tự mình hại chính mình,
Kẻ chết không được hộ,
Than khóc thật vô ích.

589. Sokamappajahaṃ jantu bhiyyo dukkhaṃ nigacchati,
anutthunanto kālakataṃ sokassa vasamanvagū.

589. Trong khi không dứt bỏ sầu muộn, con người đọa vào khổ đau nhiều hơn nữa; trong khi khóc lóc kẻ đã quá vãng, con người chịu sự tác động của sầu muộn.

586. Chúng sanh không bỏ sầu,
Càng gặp nhiều đau khổ,
Càng rên khóc kẻ chết,
Càng bị sau chi phối.

590. Aññepi passa gamine yathākammūpage nare,
maccuno vasamāgamma phandantevidha pāṇino.

590. Hãy nhìn xem những kẻ khác cũng có sự ra đi, những con người đi theo nghiệp lực, các sinh mạng ở nơi này quả nhiên run rẩy sau khi rơi vào quyền lực của thần chết.

587. Hãy xem các người khác
Ði theo hạnh nghiệp mình,
Rơi vào giới thần chết,
Hữu tình đầy hoảng sợ.

591. Yena yena hi maññanti tato taṃ hoti aññathā,
etādiso vinābhāvo passa lokassa pariyāyaṃ.

591. Dầu họ suy nghĩ thế này thế khác, kết quả từ đó trở nên khác hẳn. Việc chia cách là như thế ấy; ngươi hãy nhìn xem bản thể của thế gian.

588. Loài Người còn mong ước,
Thế này hay thế khác,
Nhưng sự việc xảy ra,
Hoàn toàn thật sai khác,
Như vậy tánh không có,
Xem định tánh của đời.

592. Api ce vassasataṃ jīve bhīyo vā pana mānavo,
ñātisaṅghā vinā hoti jānāti idha jīvitaṃ.

592. Thậm chí nếu người trai trẻ có thể sống một trăm năm, hoặc hơn thế nữa, rồi cũng (sẽ) tách rời khỏi tập thể thân quyến, cũng (sẽ) từ bỏ mạng sống ở nơi này.

589. Nếu loài Người sống được,
Sống hơn một trăm năm,
Rồi không có bà con,
Ở đây, bỏ mạng sống.

593. Tasmā arahato sutvā vineyya paridevitaṃ,
petaṃ kālakataṃ disvā na so labbhā mayā iti.

593. Bởi thế, sau khi lắng nghe (lời giảng dạy của) bậc A-la-hán, nên chừa bỏ việc than vãn. Sau khi nhìn thấy người quá vãng đã lìa đời, (nên biết rằng) ‘Người ấy không thể nào (trở lại) với ta.’

590. Do vậy, sau khi nghe
Bậc La-hán thuyết giảng,
Hãy nhiếp phục than van,
Khi thấy kẻ bị chết,
Hãy suy nghĩ như sau,
Ta không còn vị ấy.

594. Yathā saraṇamādittaṃ vārinā parinibbuto,
evampi dhīro sappañño paṇḍito kusalo naro,
khippamuppatitaṃ sokaṃ vāto tūlaṃva dhaṃsaye.
 

594. Giống như người có thể dùng nước dập tắt chỗ ở bị đốt cháy, cũng tương tự như thế, người can đảm, có trí tuệ, sáng suốt, thiện xảo có thể mau chóng xua tan sự sầu muộn đã được sanh khởi, tựa như làn gió thổi bay sợi bông gòn.

591. Như nhà lửa bị cháy,
Nhờ nước, lửa dập tắt,
Cũng vậy, bậc Hiền trí,
Có tuệ trí, thiện xảo,
mau chóng nhiếp phục sầu,
Như bông gió thổi bay.

595. Paridevaṃ pajappañca domanassañca attano,
attano sukhamesāno abbahe sallamattano.

595. Người tầm cầu sự an lạc cho bản thân nên nhổ lên mũi tên của mình, sự than vãn, sự khởi tham muốn, và nỗi ưu phiền của bản thân.

592. Ai tự tìm hạnh phúc,
Hãy tự mình rút tên,
Mũi tên là than khóc,
Tham cầu tư ưu sầu.

596. Abbūḷhasallo asito santiṃ pappuyya cetaso,
sabbasokaṃ atikkanto asoko hoti nibbutoti.

596. Người có mũi tên đã được nhổ lên, không còn lệ thuộc, sau khi đã đạt được sự an tịnh của tâm, trong khi vượt qua mọi sầu muộn, trở thành không còn sầu muộn, được tịch tịnh.

593. Ai đã rút mũi tên,
Không nương tựa nhờ cậy,
Tâm vị ấy đạt được,
Sự an lành an tịnh,
Vượt khỏi mọi ưu sầu,
Tâm không sầu, tịch tịnh.

 

Sallasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Mũi Tên.

 

 

 

09. KINHVĀSEṬṬHA

9. VĀSEṬṬHASUTTAṂ

 

 

9. KINHVĀSEṬṬHA

 

 

7. KINH VÀSETTHA

(Kinh này giống với kinh Vàsettha, số 98 của Trung Bộ Kinh, Tập II)

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Icchānaṅgala, ở khu rừng Icchānaṅgala.

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Icchanankala (Y-xa-năng -gia-la), tại khu rừng Icchanankala.

Tena kho pana samayena sambahulā abhiññātā brāhmaṇamahāsāḷā icchānaṅgale paṭivasanti, seyyathīdaṃ: Caṅkī brāhmaṇo tārukkho brāhmaṇo pokkharasāti brāhmaṇo jānussoni brahmaṇo todeyyo brāhmaṇo aññe ca abhiññātā abhiññātā brāhmaṇamahāsāḷā. Athakho vāseṭṭhabhāradvājānaṃ māṇavānaṃ jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamānānaṃ anuvicaramānānaṃ ayamantarākathā udapādi: kathaṃ bho brāhmaṇo hotīti.

 

Vào lúc bấy giờ, nhiều Bà-la-môn nổi tiếng và giàu có cư ngụ tại Icchānaṅgala, như là: Bà-la-môn Caṅkī, Bà-la-môn Tārukkha, Bà-la-môn Pokkharasāti, Bà-la-môn Jānussoni, Bà-la-môn Todeyya, và nhiều Bà-la-môn vô cùng nổi tiếng và giàu có khác nữa. Khi ấy, trong lúc hai thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja đang đi kinh hành, đang đi tản bộ cho thư giãn chân cẳng, có câu chuyện trao đổi này đã khởi lên giữa hai vị ấy: “Này bạn, như thế nào là vị Bà-la-môn?”

Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có trú tại Icchanankala như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tarukkha, Bà-la-môn Pokkharasati, Bà-la-môn Janussoni, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có khác. Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên: "Thế nào là một vị Bà-la-môn?"

Bhāradvājo māṇavo evamāha: Yato kho bho ubhato sujāto hoti mātito ca pitito ca saṃsuddhagahaṇiko yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto anupakkuṭṭho jātivādena ettāvatā kho brāhmaṇo hotīti.

Thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja đã nói như vầy: “Này bạn, khi nào thật sự là người được thiện sanh ở cả hai bên, phía mẹ và phía cha, có sự thụ thai được hoàn toàn trong sạch cho đến tổ tiên nội ngoại đời thứ bảy, không bị khinh bỉ, không bị chỉ trích về phương diện nòi giống; đến chừng ấy là Bà-la-môn.”

 

Thanh niên Bharadvaja nói như sau:

-- Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, như vậy là làm một vị Bà-la-môn.

Vāseṭṭho māṇavo eva māha: Yato kho bho sīlavā ca hoti vattasampanno ca ettāvatā kho brāhmaṇo hotīti.

Thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha đã nói như vầy: “Này bạn, khi nào thật sự là người có giới và đầy đủ tánh hạnh; đến chừng ấy là Bà-la-môn.”

Thanh niên Vasettha nói như sau:

-- Nếu ai có giới hạnh và thành tựu các cấm giới, như vậy là một vị Bà-la-môn.

Neva kho asakkhi bhāradvājo māṇavo vāseṭṭhaṃ māṇavaṃ saññapetuṃ, na pana asakkhi vāseṭṭho māṇavo bhāradvājaṃ māṇavañca saññapetuṃ.

Thanh niên Bhāradvāja đã không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha, và thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha cũng đã không thể thuyết phục thanh niên Bhāradvāja.

 

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vasettha, và thanh niên Bà-la-môn Vasettha không thể thuyết phục thanh niên Bharadvaja.

Atha kho vāseṭṭho māṇavo bhāradvājaṃ māṇavaṃ āmantesi: Ayaṃ kho6 bhāradvāja samaṇo gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe, taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato: Itipi —pe— buddho bhagavāti. Āyāma bho bhāradvāja, yena samaṇo gotamo tenupasaṅkamissāma, upasaṅkamitvā samaṇaṃ gotamaṃ etamatthaṃ pucchissāma, yathā no samaṇo gotamo vyākarissati tathā naṃ dhāressāmāti.

Khi ấy, thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha đã bảo thanh niên Bhāradvāja rằng: “Này Bhāradvāja, chắn chắn là vị Sa-môn Gotama này, con trai dòng Sakya, từ dòng dõi Sakya đã xuất gia, ngự tại Icchānaṅgala, ở khu rừng Icchānaṅgala. Hơn nữa, về ngài Gotama ấy có tiếng đồn tốt đẹp đã được lan rộng ra như vầy: ‘—như trên— Phật, Thế Tôn.’ Này bạn Bhāradvāja, hãy đến. Chúng ta sẽ đi đến gặp Sa-môn Gotama, sau khi đến chúng ta sẽ hỏi Sa-môn Gotama về ý nghĩa này. Sa-môn Gotama sẽ trả lời chúng ta thế nào thì chúng ta sẽ ghi nhận điều ấy như thế ấy.”
 

Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja:

-- Này Bharadvaja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchanankala, tại khu rừng Icchanankala. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn... Phật, Thế Tôn". Này Tôn giả Bharadvaja, chúng ta hãy đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy hỏi Tôn giả Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.

Evaṃ bhoti kho bhāradvājo māṇavo vāseṭṭhassa māṇavassa paccassosi.

“Này bạn, như vậy đi.” Thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja đã đáp lại thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha.
 

-- Thưa vâng.

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja vâng đáp thanh niên Vasettha.

Atha kho vāseṭṭhabhāradvājā māṇavā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu sammodanīyaṃ kathaṃ sārāṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinno kho vāseṭṭho māṇavo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:
 

Sau đó, hai thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha đã nói với đức Thế Tôn bằng những lời kệ này:

Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vasettha dùng những bài kệ bạch Thế Tôn:

597. Anuññātapaṭiññātā tevijjā mayamasma bho,
ahaṃ pokkharasātissa tārukkhassāyaṃ māṇavo.

597. “Thưa ngài, chúng tôi tinh thông ba tập Vệ Đà, đã được truyền thụ và đã được công nhận. Tôi là (học trò) của Pokkharasāti, và thanh niên này là (học trò) của Tārukkha.

Chúng con cả hai người,
Ðược tôn xưng, tự nhận,
Là những bậc thông thái
Cả ba tập Vệ-đà.

Con là đệ tử Ngài,
Pokkharasati,
Còn vị thanh niên này,
Ðệ tử Tarukkha.

598. Tevijjānaṃ yadakkhātaṃ tatra kevalino ’sma se,
padakā’sma veyyākaraṇā jappe ācariyasādisā.

598. Điều nào đã được thuyết giảng bởi các vị tinh thông ba tập Vệ Đà, chúng tôi đã được hoàn hảo về lãnh vực ấy. Chúng tôi là nhà ngữ học, nhà văn phạm, tương đương với các vị thầy về sự hiểu biết.

Ba Vệ-đà nói gì,
Chúng con đều thông đạt,
Văn cú và văn phạm,
Chúng con đều thấu hiểu,
Thuyết giảng và giải thích,
Thật giống bậc Ðạo sư.

599. Tesaṃ no jātivādasmiṃ vivādo atthi gotama,
jātiyā brāhmaṇo hoti bhāradvājo iti bhāsati,
ahañca kammanā brūmi evaṃ jānāhi cakkhuma.

599. Thưa ngài Gotama, giữa chúng tôi đây có sự tranh cãi về đề tài nòi giống: ‘Bà-la-môn là do nòi giống,’ Bhāradvāja nói như thế; còn tôi nói là do hành động. Thưa bậc Hữu Nhãn, xin ngài nhận biết như vậy.

Tôn giả Gotama,
Giữa hai người chúng con
Có sự tranh luận này,
Về huyết thống thọ sanh.

Bharadvaja nói:
"Chính do sự thọ sanh".
Con nói: "Do hành động,
Mới thành Bà-la-môn".

Mong bậc có Pháp nhãn,
Hiểu cho là như vậy.

600. Te na sakkoma saññapetuṃ aññamaññaṃ mayaṃ ubho,
bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma sambuddhaṃ iti vissutaṃ.

600. Cả hai chúng tôi đây không thể thuyết phục lẫn nhau, và đã đi đến để hỏi đức Thế Tôn, vị được biết tiếng là ‘bậc Toàn Giác.’

Cả hai người chúng con,
Không thể thuyết phục nhau.
Chúng con đến hỏi Ngài,
Bậc Chánh Giác tôn xưng.

601. Candaṃ yathā khayātītaṃ pecca pañjalikā janā,
vandamānā namassanti evaṃ lokasmi gotamaṃ.

601. Giống như những người tiến đến, tay chắp lại, nghiêng mình đảnh lễ mặt trăng đã qua thời kỳ khuyết (đang tròn dần), tương tự như vậy chúng tôi nghiêng mình đảnh lễ đức Gotama ở thế gian.

Như trăng được tròn đầy,
Quần chúng đến chấp tay,
Ðảnh lễ và chiêm ngưỡng.
Cũng vậy, ở trong đời,
Quần chúng đến đảnh lễ,
Gotama Tôn giả.

602. Cakkhuṃ loke samuppannaṃ mayaṃ pucchāma gotamaṃ,
jātiyā brāhmaṇo hoti udāhu bhavati kammanā,
ajānataṃ no pabrūhi yathā jānemu brāhmaṇaṃ.

602. Chúng tôi hỏi đức Gotama, bậc đã thành tựu con mắt ở thế gian rằng: ‘Do nòi giống là Bà-la-môn, hay trở thành (Bà-la-môn) là do hành động? Xin ngài hãy nói lên cho chúng tôi, những người không biết, nhờ vậy chúng tôi có thể biết được về vị Bà-la-môn.”

Chúng con đến hỏi Ngài,
Bậc Pháp nhãn thế gian,
Bà-la-môn do sanh,
Hay chính do hành động?
Chúng con không được biết,
Hãy nói chúng con biết.

603. Tesaṃ vohaṃ vyakkhissaṃ (vāseṭṭhāti bhagavā) anupubbaṃ yathātathaṃ,
jātivibhāgaṃ pāṇānaṃ aññamaññā hi jātiyo.
 

603. (Đức Thế Tôn nói “Này Vāseṭṭha,) Ta sẽ giải thích cho các ngươi đây sự phân loại về nòi giống của các loài sinh vật một cách tuần tự, đúng theo bản thể; chính các sự khác biệt là các nòi giống.

Ðức Thế Tôn bèn nói:

Này Ông Vasettha,
Ta trả lời cho Ông,
Thuận thứ và như thật,
Sự phân loại do sanh,
Của các loại hữu tình,
Chính do sự sanh đẻ,
Do sanh, có dị loại.

604. Tiṇarukkhepi jānātha na cāpi paṭijānare,
liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo.

604. Các ngươi hãy nhận biết về cỏ và cây cối. Dầu chúng không cho biết (về nòi giống), đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.

Hãy xem cỏ và cây,
Dầu chúng không nhận thức,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.

605. Tato kīṭe paṭaṅge ca yāva kuntakipillike,
liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo.

605. Kế đến, (hãy nhận biết) về các loại côn trùng, và các loại châu chấu, cho đến các loại kiến, mối, đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.

Hãy xem loại côn trùng,
Bướm đêm, các loại kiến,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.

606. Catuppade pi jānātha khuddake ca mahallake,
liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo.

606. Các ngươi cũng hãy nhận biết về các loài bốn chân, nhỏ bé và to lớn, đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.

 

Hãy xem loại bốn chân,
Loại nhỏ và loại lớn,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.

607. Pādudare’pi jānātha urage dīghapiṭṭhike,
liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo.
 

607. Các ngươi cũng hãy nhận biết về các loài rắn, về các loài bò sát có lưng dài, đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.

Hãy xem loài bò sát,
Loại rắn, loại lưng dài,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.

608. Tato macche’pi jānātha odake vārigocare,
liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo,

608. Kế đến, các ngươi cũng hãy nhận biết về các loài cá, về các loài thủy tộc, sống ở trong nước, đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.

Hãy xem các loại cá,
Loại sinh sống trong nước,
Chúng có tướng thọ sanh,
Da sanh, có dị loại.

609. Tato pakkhīpi jānātha pattayāne vihaṅgame,
liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo.

609. Kế đến, các ngươi cũng hãy nhận biết về các loài chim, về các loài có sự di chuyển bằng cặp cánh, đi lại ở không trung, đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.

Hãy xem các loại chim,
Loại có cánh trên trời,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.

610. Yathā etāsu jātīsu liṅgaṃ jātimayaṃ puthu,
evaṃ natthi manussesu liṅgaṃ jātimayaṃ puthu.

610. Giống như ở các nòi giống này, đặc điểm tạo nên nòi giống là đa dạng, còn đặc điểm tạo nên nòi giống ở loài người thì không đa dạng như vậy.

Tùy theo sự thọ sanh,
Chúng có tướng tùy sanh.
Trong thế giới loài Người,
Tướng sanh không có nhiều.

611. Na kesehi na sīsena na kaṇṇehi na akkhīhi
na mukhena na nāsāya na oṭṭhehi bhamūhi vā.

611. Không phải bởi mái tóc, không phải bởi đầu, không phải bởi các tai, không phải bởi các con mắt, không phải bởi miệng, không phải bởi mũi, không phải bởi đôi môi, hoặc bởi cặp lông mày.

Không ở đầu mái tóc,
Không ở tai, ở mắt,
Không ở miệng, ở mũi,
Không ở môi, ở mày,

612. Na gīvāya na aṃsehi na udarena na piṭṭhiyā,
na yoniyā na urasā na sambādhe na methune.

612. Không phải do cổ, không phải do hai vai, không phải do bụng, không phải do lưng, không phải do tử cung, không phải do bộ ngực, không phải ở vật kín (nữ căn), không phải ở tinh hoàn.

Không ở cổ, ở nách,
Không ở bụng, ở lưng,
Không ở ngực, ở vú,
Không âm hộ, hành dâm.

613. Na hatthehi na pādehi nāṅgulīhi nakhehi vā,
na jaṅghāhi na ūrūhi na vaṇṇena sarena vā,
liṅgaṃ jātimayaṃ neva yathā aññāsu jātīsu.

613. Không phải bởi hai tay, không phải bởi hai chân, không phải bởi các ngón hoặc bởi các móng (tay chân), không phải bởi các bắp đùi, không phải bởi các bắp vế, không phải bởi màu da, hoặc bởi giọng nói, đặc điểm không tạo nên nòi giống (ở loài người) như là ở các nòi giống khác.

Không ở tay, ở chân,
Không ở ngón, ở móng,
Không ở cổ chân, vế,
Không ở sắc, ở tiếng.

Không tướng, do tùy sanh,
Tùy sanh, loại sai khác.

614. Paccattaṃ ca sarīresu manussesvetaṃ na vijjati,
vohārañca manussesu samaññāya pavuccati.

614. Tính chất khác biệt này ở các (phần) thân thể không tìm thấy ở loài người. Và cách gọi thông dụng ở loài người được nói lên là do sự định đặt.

 

Trên tự thân con người,
Không có gì đặc biệt.
Chỉ tùy theo danh xưng,
Loài Người được kêu gọi.

615. Yo hi koci manussesu gorakkhaṃ upajīvati,
evaṃ vāseṭṭha jānāhi kassako so na brāhmaṇo.

615. Bởi vì kẻ nào ở loài người nuôi sống bằng việc chăn giữ bò, kẻ ấy là nông dân không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.

Ðối người tự sinh sống.
Chăn bò, lo ruộng đất,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là nông phu,
Không phải Bà-la-môn.

616. Yo hi koci manussesu puthu sippena jīvati,
evaṃ vāseṭṭha jānāhi sippiko so na brāhmaṇo.

615. Bởi vì kẻ nào ở loài người sinh sống bằng nghề nghiệp khác nhau, kẻ ấy là thợ thuyền không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.

Ai sống theo nghề nghiệp,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là công thợ,
Không phải Bà-la-môn.

617. Yo hi koci manussesu vohāraṃ upajīvati,
evaṃ vāseṭṭha jānāhi vāṇijo so na brāhmaṇo.

616. Bởi vì kẻ nào ở loài người nuôi sống bằng việc mua bán, kẻ ấy là thương gia không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.

 

Ai sống nghề buôn bán,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là thương nhân,
Không phải Bà-la-môn.

618. Yo hi koci manussesu parapessena jīvati,
evaṃ vāseṭṭha jānāhi pessiko so na brāhmaṇo.
 

618. Bởi vì kẻ nào ở loài người sinh sống bằng việc hầu hạ người khác, kẻ ấy là tôi tớ không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.

Ai sống hầu hạ người,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là nô bộc,
Không phải Bà-la-môn.

619. Yo hi koci manussesu adinnaṃ upajīvati,
evaṃ vāseṭṭha jānāhi coro eso na brāhmaṇo.

619. Bởi vì kẻ nào ở loài người nuôi sống bằng vật không được cho, kẻ ấy là trộm cướp không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.

Ai sống lấy của người,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là kẻ trộm,
Không phải Bà-la-môn.

620. Yo hi koci manussesu issatthaṃ upajīvati,
evaṃ vāseṭṭha jānāhi yodhājīvo na brāhmaṇo.

620. Bởi vì kẻ nào ở loài người nuôi sống bằng thuật bằng thuật bắn cung, kẻ ấy là chiến sĩ không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.

Ai sống nghề cung tên,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là nhà binh,
Không phải Bà-la-môn.

621. Yo hi koci manussesu porohiccena jīvati,
evaṃ vāseṭṭha jānāhi yājako so na brāhmaṇo.

621. Bởi vì kẻ nào ở loài người sinh sống bằng việc tế lễ, kẻ ấy là người cống hiến không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.

Ai sống nghề tế tự,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là tế quan,
Không phải Bà-la-môn.

622. Yo hi koci manussesu gāmaṃ raṭṭhañca bhuñjati,
evaṃ vāseṭṭha jānāhi rājā eso na brāhmaṇo.
 

622. Bởi vì kẻ nào ở loài người hưởng thụ làng mạc và xứ sở, kẻ ấy là nhà vua không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.

Ai sống giữa loài Người,
Thọ hưởng làng, quốc độ,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là vua chúa,
Không phải Bà-la-môn.

623. Na cāhaṃ brāhmaṇaṃ brūmi yonijaṃ mattisambhavaṃ,
bhovādi nāma so hoti sace hoti sakiñcano,
akiñcanaṃ anādānaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.



 

623. Và Ta không gọi là Bà-la-môn với kẻ đã được sanh ra từ tử cung (của nữ Bà-la-môn), có sự xuất thân theo người mẹ, kẻ ấy được gọi là ‘người có sự xưng hô với từ Ông’ nếu kẻ ấy có sở hữu gì đó. Còn vị không sở hữu gì, không nắm giữ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Và Ta không có gọi,
Kẻ ấy Bà-la-môn.
Chỉ vì do thọ sanh,
Dầu vị ấy cao sang,
Dầu vị ấy giàu có,
Nhưng còn ham thế lợi.

Không tham lam thế lợi,
Không chấp thủ sở hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

624. Sabbasaṃyojanaṃ chetvā yo ve na paritassati,
saṅgātigaṃ visaṃyuttaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

624. Thật vậy, người nào đã cắt đứt tất cả ràng buộc, không run sợ, đã vượt qua các sự dính líu, không còn bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Vị đoạn tận kiết sử,
Không ai không sợ hãi,
Siêu việt mọi chấp trước,
Thoát ly các hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

625. Chetvā naddhiṃ varattañca sandānaṃ sahanukkamaṃ,
ukkhittapalighaṃ buddhaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

625. Người đã cắt đứt dây buộc (sân hận), dây trói (tham ái), dây thừng (62 tà kiến), cùng với vật phụ tùng (các pháp tiềm ẩn), đã nâng lên thanh chắn (vô minh), đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Cắt dây thừng, dây ách,
Dây cương, cùng dây trói,
Quăng đi cây chắn ngang,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Bậc sáng suốt, giác ngộ,
Chánh danh Bà-la-môn.

626. Akkosaṃ vadhabandhañca aduṭṭho yo titikkhati,
khantībalaṃ balānīkaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

626. Người nào chịu đựng lời khiển trách, sự trừng phạt và giam cầm, mà không sân hận, người có kham nhẫn là sức mạnh, có sức mạnh là quân đội, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ai không lỗi, chịu đựng,
Nhiếc mắng cùng đánh trói,
Trang bị với nhẫn lực,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

627. Akkodhanaṃ vatavantaṃ sīlavantaṃ anussadaṃ,
dantaṃ antimasārīraṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

627. Người không nóng giận, có sự hành trì, có giới, không nhiễm dục vọng, đã được rèn luyện, có thân xác cuối cùng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Không phẫn nộ, giữ luật,
Có giới hạnh không kiêu,
Nhiếp phục, thân tối hậu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

628. Vāri pokkharapatteva āraggeriva sāsapo,
yo na lippati kāmesu tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

628. Ví như nước ở lá sen, ví như hột cải ở đầu mũi kim, người nào không nhiễm bẩn trong các dục, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Như nước trên lá sen,
Hột cải trên đỉnh nhọn,
Không tham luyến dục vọng,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

629. Yo dukkhassa pajānāti idh’ eva khayamattano,
pannabhāraṃ visaṃyuttaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

629. Người nào nhận biết sự diệt trừ khổ đau của bản thân ngay tại chỗ này, đã đặt xuống gánh nặng, không bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ai biết ngay đời này
Khổ vì ngã đoạn tận,
Gánh nặng được đặt xuống,
Xa lìa các hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

630. Gambhīrapaññaṃ medhāviṃ maggāmaggassa kovidaṃ,
uttamatthaṃ anuppattaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

630. Người có tuệ thâm sâu, thông minh, rành rẽ về Đạo Lộ và không phải Đạo Lộ, đã đạt đến mục đích tối thượng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Tuệ thâm sâu, có trí
Thiện xảo đạo phi đạo,
Ðích tối thượng đạt được,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

631. Asaṃsaṭṭhaṃ gahaṭṭhehi anāgārehi cūbhayaṃ,
anokasāriṃ appicchaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

631. Người không gần gũi với cả hai hạng: những người tại gia và những bậc xuất gia, sống không trú xứ, ít ham muốn, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ai không còn liên hệ,
Cả tại gia, xuất gia,
Không nhà trú, thiểu dục,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

632. Nidhāya daṇḍaṃ bhūtesu tasesu thāvaresu ca,
yo na hanti na ghāteti tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

632. Sau khi bỏ xuống gậy gộc đối với các chúng sanh di chuyển và đứng yên, người nào không giết hại, không bảo giết hại, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Bỏ gậy đối chúng sanh,
Kẻ yếu cùng kẻ mạnh,
Không giết, không hại ai,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

633. Aviruddhaṃ viruddhesu attadaṇḍesu nibbutaṃ,
ādānesu anādānaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
 

633. Người không thù nghịch giữa những kẻ thù nghịch, tịnh lặng giữa những kẻ có gậy gộc, không cố chấp giữa những kẻ cố chấp, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Giữa kẻ thù, không thù,
Giữa hung bạo, an tịnh,
Giữa chấp thủ, không chấp,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

634. Yassa rāgo ca doso ca māno makkho ca pātito,
sāsaporiva āraggā tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

634. Người nào có sự luyến ái, sân hận, ngã mạn, và gièm pha đã được rơi rụng, ví như hột cải rơi khỏi đầu mũi kim, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Dối, tham, sân, mạn, phú,
Ai bỏ rơi được chúng,
Như hột cải rơi khỏi.
Ðầu nhọn của mũi kim,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

635. Akakkasaṃ viññapaniṃ giraṃ saccaṃ udīraye,
yāya nābhisaje kañci tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
 

635. Người thốt lên lời nói chân thật, không thô lỗ, ý nghĩa rõ ràng, không làm mất lòng bất cứ ai với lời nói ấy, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ai dạy thật nhỏ nhẹ,
Nói lên lời chơn thực,
Không xúc chạm một ai,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

636. Yo ’dha dīghaṃ va rassaṃ vā aṇuṃ thūlaṃ subhāsubhaṃ,
loke adinnaṃ nādiyati brūmi brāhmaṇaṃ.

636. Ở thế gian này, người nào không lấy đi vật không được cho, dầu là dài hay ngắn, nhỏ hay lớn, đẹp hay xấu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Dài ngắn hay lớn nhỏ,
Thanh tịnh hay bất tịnh,
Ở đời vật dài ngắn,
Lớn, nhỏ, tịnh, bất tịnh,
Không lấy vật không cho,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

637. Āsā yassa na vijjanti asmiṃ loke paramhi ca,
nirāsayaṃ visaṃyuttaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

637. Những mong cầu của người nào về đời này và đời sau không còn tìm thấy, người không mong cầu, không bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Với ai không tham cầu,
Ðời này và đời sau,
Từ bỏ mọi tham cầu,
Ðoạn rời mọi hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

638. Yassālayā na vijjanti aññāya akathaṃkathī,
amatogadhaṃ anuppattaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

638. Những tham muốn của người nào không còn tìm thấy, là vị đã biết rõ, không còn nghi ngờ, đã đạt đến sự thể nhập Bất Tử, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ai không có chấp tàng,
Với trí đoạn nghi hoặc,
Ðạt nhập đáy bất tử.
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

639. Yodha puññaṃ ca pāpaṃ ca ubho saṅgaṃ upaccagā,
asokaṃ virajaṃ suddhaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

639. Ở thế gian này, người nào đã vượt qua sự quyến luyến và cả hai pháp thiện và ác, không sầu muộn, không ô nhiễm, trong sạch, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ở đời ai vượt khỏi,
Mọi buộc ràng thiện ác,
Không sầu, không bụi uế,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

640. Candaṃ va vimalaṃ suddhaṃ vippasannamanāvilaṃ,
nandibhava parikkhīṇaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

640. Ví như mặt trăng không bị lấm nhơ, trong sạch, người có tâm thanh tịnh, không bị vẩn đục, đã hoàn toàn cạn kiệt sự vui thích và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ai không uế, thanh tịnh,
Không gợn, sáng như trăng,
Hỷ, hữu được đoạn trừ,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

641. Yo imaṃ palipathaṃ duggaṃ saṃsāraṃ mohamaccagā,
tiṇṇo pāragato jhāyī anejo akathaṃkathī,
anupādāya nibbuto tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

641. Người nào đã vượt qua con đường hiểm trở này, khó đi, (vòng quay) luân hồi, và sự si mê, đã băng qua, đã đi đến bờ kia, có thiền, không dục vọng, không nghi ngờ, không chấp thủ, đã tịnh lặng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ai vượt qua hiểm lộ,
Ác lộ, luân hồi, si,
Vượt khỏi, đến bờ kia,
Thiền tư, không dao động,
Ðoạn trừ mọi nghi hoặc,
An tịnh, không chấp trước,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

642. Yodha kāme pahatvāna anāgāro paribbaje,
kāmabhavaparikkhīṇaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
 

642. Người nào ở đây có thể dứt bỏ các dục, sống hạnh du sĩ, không nhà, đã hoàn toàn cạn kiệt các dục và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ở đời, bỏ dục vọng,
Không nhà, sống xuất gia,
Ðoạn trừ dục và hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

643. Yodha taṇhaṃ pahatvāna anāgāro paribbaje,
tanhābhavaparikkhīṇaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

643. Người nào ở đây có thể dứt bỏ tham ái, sống hạnh du sĩ, không nhà, đã hoàn toàn cạn kiệt tham ái và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

 

Ở đời, bỏ tham ác,
Không nhà, sống xuất gia,
Ðoạn trừ ác và hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

644. Hitvā mānusakaṃ yogaṃ dibbaṃ yogaṃ upaccagā,
sabbayogavisaṃyuttaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
 

644. Người đã từ bỏ sự gắn bó thuộc cõi người, đã vượt lên sự gắn bó thuộc cõi trời, không bị ràng buộc với mọi sự gắn bó, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ai từ bỏ nhân ách,
Vượt qua cả thiên ách,
Ðoạn trừ mọi ách nạn,
Thoát ly mọi hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

645. Hitvā ratiñca aratiñca sītibhūtaṃ nirūpadhiṃ,
sabbalokābhibhuṃ vīraṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

645. Người đã từ bỏ sự thích thú và không thích thú, có trạng thái mát mẻ, không còn mầm tái sanh, vị đã chế ngự tất cả thế gian, bậc anh hùng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Từ bỏ lạc, bất lạc,
Thanh lương, không y trú,
Chiến thắng mọi thế giới,
Bậc anh hùng dũng mãnh,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

646. Cutiṃ yo vedi sattānaṃ upapattiñca sabbaso,
asattaṃ sugataṃ buddhaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

646. Người nào đã hiểu biết sự chết và sự tái sanh của chúng sinh về mọi phương diện, không bám víu, đã đi đến nơi an lạc, đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ai biết thật hoàn toàn,
Sự sanh diệt chúng sanh,
Không tham trước, Thiện Thệ,
Giác ngộ, đạt chánh giác,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

647. Yassa gatiṃ na jānanti devā gandhabbamānusā,
khīṇāsavaṃ arahantaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

647. Cảnh giới tái sanh của người nào mà chư Thiên, Càn-thát-bà, và loài người không biết được, người có lậu hoặc đã được cạn kiệt, là bậc A-la-hán, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Không biết chỗ sở thủ,
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà,
Lậu hoặc được đoạn trừ,
Bậc Ứng Cúng, La-Hán,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

648. Yassa pure ca pacchā ca majjhe ca natthi kiñcanaṃ,
akiñcanaṃ anādānaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

648. Đối với người nào, ở phía trước (quá khứ), phía sau (vị lai), và ở phần giữa (hiện tại) không có sở hữu gì, người không sở hữu gì, không nắm giữ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ai không có chấp trước,
Ðời trước, sau, đời này,
Không chấp, không sở hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

649. Usabhaṃ pavaraṃ vīraṃ mahesiṃ vijitāvinaṃ,
anejaṃ nahātakaṃ buddhaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

649. Đấng nhân ngưu, bậc cao quý, bậc anh hùng, bậc đại ẩn sĩ, bậc chiến thắng, bậc không còn dục vọng, người đã rửa sạch (mọi nhiễm ô), đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ngưu vương, bậc Tối thắng,
Anh hùng, bậc Ðại sĩ,
Bậc Chinh phục, Bất động,
Tắm sạch, bậc Giác Ngộ,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

650. Pubbe nivāsaṃ yo vedi saggāpāyañca passati,
atho jātikkhayaṃ patto tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

650. Người nào biết về kiếp sống trước, nhìn thấy cõi Trời và đọa xứ, rồi đạt đến sự diệt trừ tái sanh, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.

Ai biết được đời trước,
Thấy được thiện, ác thú,
Ðạt được sanh diệt đoạn,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.

651. Samaññā hesā lokasmiṃ nāmagottaṃ pakappitaṃ,
sammuccā samudāgataṃ tattha tattha pakappitaṃ.

651. Việc ấy chỉ là sự định đặt ở thế gian, tên và họ là đã được sắp xếp, đã được khởi lên do sự thỏa thuận chung, đã được xếp dặt ở từng trường hợp.

Ðiều thế giới cho gọi,
Là "tên" và "gia tộc",
Chỉ tục danh, thông danh,
Danh từ khởi nhiều chỗ.

652. Dīgharattamanusayitaṃ diṭṭhigatamajānataṃ,
ajānantā te pabruvanti jātiyā hoti brāhmano.

 

652. Tà kiến của những kẻ không biết đã được tiềm ẩn một cách lâu dài. Trong khi không biết, chúng tuyên bố rằng: ‘Bà-la-môn là do nòi giống.’

 

 

Ðã lâu đời chấp trước,
Tà kiến của kẻ ngu,
Kẻ ngu tự tuyên bố,
Bà-la-môn do sanh.

653. Na jaccā brāhmaṇo hoti na jaccā hoti abrāhmaṇo,
kammanā brāhmaṇo hoti kammanā hoti abrāhmaṇo.
 

653. Không phải do nòi giống là Bà-la-môn, không phải do nòi giống là phi Bà-la-môn, do hành động là Bà-la-môn, do hành động là phi Bà-la-môn.

Không phải do sanh đẻ,
Ðược gọi Bà-la-môn,
Không phải do sanh đẻ,
Gọi phi Bà-la-môn.

Chính do sự hành động
Ðược gọi Bà-la-môn,
Chính do sự hành động
Gọi phi Bà-la-môn.

654. Kassako kammanā hoti sippiko hoti kammanā,
vāṇijo kammanā hoti pessiko hoti kammanā.

654. Nông dân là do hành động, thợ thuyền là do hành động, thương gia là do hành động, tôi tớ là do hành động.

Hành động làm nông phu,
Hành động làm công thợ,
Hành động làm lái buôn,
Hành động làm nô bộc.

655. Coropi kammanā hoti yodhājīvopi kammanā,
yājako kammanā hoti rājāpi hoti kammanā.

655. Trộm cướp cũng là do hành động, chiến sĩ cũng là do hành động, người cống hiến là do hành động, nhà vua cũng là do hành động.

 

Hành động làm ăn trộm,
Hành động làm nhà binh.
Hành động làm tế quan,
Hành động làm vua chúa.

656. Evametaṃ yathābhūtaṃ kammaṃ passanti paṇḍitā,
paṭicca samuppādadasā kammavipākakovidā.

 

656. Việc này là như vậy, các bậc sáng suốt, có sự nhìn thấy pháp tùy thuận sanh khởi, rành rẽ về quả thành tựu của nghiệp, nhìn thấy hành động đúng theo bản thể.

Kẻ trí thấy hành động,
Như thật là như vậy.
Thấy rõ lý duyên khởi,
Biết rõ nghiệp dị thục.

657. Kammānā vattati loko kammanā vattati pajā,
kammanibandhanā sattā rathassāṇīva yāyato.

657. Thế gian xoay vần do hành động, loài người xoay vần do hành động, chúng sinh có sự gắn chặt vào hành động, tựa như cái chốt ở trục của chiếc xe đang di chuyển.

Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi.
Nghiệp trói buộc chúng sanh,
Như trục xe quay bánh.

658. Tapena brahmacariyena saṃyamena damena ca,
etena brāhmaṇo hoti etaṃ brāhmaṇamuttamaṃ.

658. Do khắc khổ, do sự thực hành Phạm hạnh, do sự kiềm chế bản thân, và do sự rèn luyện, do điều ấy trở thành Bà-la-môn; tư cách Bà-la-môn này là tối thượng.

Do khổ hạnh, Phạm hạnh,
Tiết chế và chế ngự,
Tác thành Bà-la-môn.
Bà-la-môn như vậy,
Mới thật là tối thượng,

659. Tīhi vijjāhi sampanno santo khīṇāpunabbhavo,
evaṃ vāseṭṭha jānāhi brahmā sakko vijānatanti.

659. Đối với những người hiểu biết, người đã được thành tựu ba Minh, an tịnh, có sự tái sanh đã được cạn kiệt, là đấng Phạm Thiên, là Thiên Chủ Sakka, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.”

Ba Vệ-đà thành tựu,
An tịnh, tái sanh đoạn,
Vesettha nên biết,
Kẻ ấy được Phạm thiên,
Ðược Thiên chủ Sakka,
Biết đến thật tường tận.

Evaṃ vutte vāseṭṭhabhāradvājā māṇavā bhagavantaṃ etadavocuṃ:

Khi được nói như vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja bạch Thế Tôn:

Abhikkantaṃ bho gotama —pe— ete mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca, upāsake no bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gateti.

“Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! —như trên—Chúng tôi đây xin đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin Ngài Gotama hãy ghi nhận chúng tôi là những nam cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”

-- Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Thưa Tôn giả Gotama, nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.

 

Vāseṭṭhasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Vāseṭṭha.

 

 

 

10. KINH KOKĀLIKA

10. KOKĀLIKASUTTAṂ

 

 

10. KINH KOKĀLIKA

 

10. KINH KOKĀLIYA

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍakassa ārāme.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika.

Như vầy tôi nghe:

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn của ông Anàthapindika.

Atha kho kokāliko bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

 

Khi ấy, tỳ khưu Kokālika đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, tỳ khưu Kokālika đã nói với đức Thế Tôn điều này:

Rồi Tỷ-kheo Kokàliya đi đến Thế Tôn sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Kokàliya bạch Thế Tôn:

 

Pāpicchā bhante sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatāti.
 

“Bạch Ngài, Sāriputta và Moggallāna có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy.”

 

- Bạch Thế Tôn, SàiputtaMoggallàna là ác dục, bị ác dục chinh phục.

Evaṃ vutte bhagavā kokakālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca:

Được nói như vậy, đức Thế Tôn đã nói với tỳ khưu Kokālika điều này:

 

Mā hevaṃ kokālika mā hevaṃ kokālika, pasādehi kokālika sāriputtamoggallānesu cittaṃ, pesalā sāriputtamoggallānāti.

 

“Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, hãy tín tâm với Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna là hiền thiện.”

- Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, tâm hãy tinh tấn đối với SàriputtaMoggallàna. Hiền thiện SàriputtaMoggallàna.

Dutiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

Đến lần thứ nhì, tỳ khưu Kokālika đã nói với đức Thế Tôn điều này:

Lần thứ hai, Tỷ-kheo Kokàliya bạch Thế Tôn:

Kiñcāpi me bhante bhagavā saddhāyiko paccayiko, atha kho pāpicchāva sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatāti.

“Bạch Ngài, mặc dầu đối với con đức Thế Tôn là đáng tin tưởng và đáng tin cậy, nhưng Sāriputta và Moggallāna quả thật có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy.”

 

- Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có lòng tin và tin tưởng, đối với con, SàriputtaMoggalàna là ác dục, bị ác dục chinh phục.

Dutiyampi kho bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca: Mā hevaṃ kokālika mā hevaṃ kokālika pasādehi kokālika sāriputtamoggallānesu cittaṃ, pesalā sāriputtamoggallānāti.

Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã nói với tỳ khưu Kokālika điều này: “Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, hãy tín tâm với Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna là hiền thiện.”

 

- Này Kokàaliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, tâm hãy tinh tấn đối với SàriputtaMoggallàna. Hiền thiện SàriputtaMoggallàna

 

Tatiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

Đến lần thứ ba, tỳ khưu Kokālika đã nói với đức Thế Tôn điều này:

Lần thứ ba, Tỷ-kheo Kokàliya bạch Thế Tôn ...

 

Kiñcāpi me bhante bhagavā saddhāyiko paccayiko, atha kho pāpicchāva sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatāti.
 

“Bạch Ngài, mặc dầu đối với con đức Thế Tôn là đáng tin tưởng và đáng tin cậy, nhưng Sāriputta và Moggallāna quả thật có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy.”

 

 

Tatiyampi kho bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca: Mā hevaṃ kokālika mā hevaṃ kokālika pasādehi kokālika sāriputtamoggallānesu cittaṃ, pesalā sāriputtamoggallānāti.

 

Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã nói với tỳ khưu Kokālika điều này: “Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, hãy tín tâm với Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna là hiền thiện.”

 

 

 

... Hiền thiện là SàriputtaMoggallàna..

Atha kho kokāliko bhikkhu uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi. Acirapakkantassa ca kokālikassa bhikkhuno sāsapamattīhi piḷakāhi sabbo kāyo phuṭho ahosi. Sāsapamattiyo hutvā muggamattiyo ahesuṃ. Muggamattiyo hutvā kaḷāyamattiyo ahesuṃ. Kaḷāyamattiyo hutvā kolaṭṭhimattiyo ahesuṃ. Kolaṭṭhimattiyo hutvā kolamattiyo ahesuṃ. Kolamattiyo hutvā āmalakamattiyo ahesuṃ. Āmalakamattiyo hutvā beluva salāṭukamattiyo ahesuṃ. Beluvasalāṭukamattiyo hutvā billamattiyo ahesuṃ. Billamattiyo hutvā pabhijjiṃsu, pubbañca lohitañca pagghariṃsu.
 

Khi ấy, tỳ khưu Kokālika đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Và trong khi tỳ khưu Kokālika ra đi không bao lâu, toàn thân của vị ấy đã bị lan tràn bởi những mụt nhọt kích cỡ hạt cải. Sau khi trở thành kích cỡ hạt cải, chúng trở thành kích cỡ hạt đậu xanh. Sau khi trở thành kích cỡ hạt đậu xanh, chúng trở thành kích cỡ hạt đậu lớn. Sau khi trở thành kích cỡ hạt đậu lớn, chúng trở thành kích cỡ hột táo. Sau khi trở thành kích cỡ hột táo, chúng trở thành kích cỡ trái táo. Sau khi trở thành kích cỡ trái táo, chúng trở thành kích cỡ trái āmalaka. Sau khi trở thành kích cỡ trái āmalaka, chúng trở thành kích cỡ trái beluva. Sau khi trở thành kích cỡ trái beluva, chúng trở thành kích cỡ trái billa. Sau khi trở thành kích cỡ trái billa, chúng vỡ tung, tiết ra mủ và máu.

Rồi Tỷ-kheo Kokàliya từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi. Tỷ-kheo Kokàliya ra đi không lâu, toàn thân của Tỷ-kheo Kokàliya nổi lên những mụt to bằng hạt cải; sau khi lớn lên bằng hột đậu; chúng lớn lên bằng hột đậu lớn; sau khi lớn bằng hột đậu lớn, chúng lớn lên bằng hòn đá; sau khi lớn lên bằng hòn đá, chúng lớn lên bằng trái táo; sau khi lớn lên bằng trái táo, chúng lớn lên bằng trái àmala; sau khi lớn lên bằng trái àmala, chúng lớn lên bằng trái vilva; sau khi lớn lên bằng trái vilva, chúng lớn lên bằng trái billi, chúng bị phá vỡ, mủ và máu chảy ra.

Atha kho kokāliko bhikkhu teneva ābādhena kālamakāsi, kālakato ca kho kokāliko bhikkhu padumanirayaṃ upapajji sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā.

 

Khi ấy, tỳ khưu Kokālika đã qua đời bởi chính bệnh ấy. Và khi bị qua đời, tỳ khưu Kokālika đã sanh vào địa ngục Paduma sau khi khởi tâm thù hằn với Sāriputta và Moggallāna.

 

Rồi Tỷ-kheo Kokàliya do bệnh này bị mệnh chung. Bị mệnh chung, Tỷ-kheo Kokàliya sanh trong địa ngục Sen hồng, với tâm hận thù đối với SàriputtaMoggallàna.

Atha kho brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sahampati bhagavantaṃ etadavoca:

Sau đó, vị Phạm Thiên Sahampati, lúc đêm đã khuya, với màu sắc vượt trội đã làm cho toàn bộ Jetavana rực sáng, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đứng ở một bên, Phạm Thiên Sahampati đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Rồi Phạm thiên Sahampati sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Ðứng một bên, Phạm thiên Sahampati bạch Thế Tôn:

Kokāliko bhante bhikkhu kālakato. Kālakato ca bhante kokāliko bhikkhu padumanirayaṃ upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvāti.

“Bạch Ngài, tỳ khưu Kokālika đã qua đời. Và bạch Ngài, khi bị qua đời, tỳ khưu Kokālika đã sanh vào địa ngục Paduma sau khi khởi tâm thù hằn với Sāriputta và Moggallāna.”  

 

- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya phải sanh vào địa ngục Sen hồng, với tâm hận thù đối với Sàriputta và Moggallàna.

Idamavoca brahmā sahampati, idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.
 

Phạm Thiên Sahampati đã nói điều này, sau khi đã nói điều này, đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi biết mất ở ngay tại chỗ ấy.

Phạm thiên Sahampati nói như vậy, sau khi nói xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ ấy.

Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi:

Sau đó, vào cuối đêm ấy đức Thế tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng:

Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã qua, liền bảo các Tỷ-kheo:

Idaṃ bhikkhave rattiṃ brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā —pe—

“Này các tỳ khưu, đêm nay vị Phạm Thiên Sahampati, lúc đêm đã khuya, —như trên—”

- Này các Tỷ-kheo, hồi hôm Phạm thiên Sahampati, khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Ta, sau khi đến đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati bạch với Ta: "Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya đã mệnh chung và Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya sau khi mệnh chung đã sanh địa ngục Sen hồng với tâm hận thù đối với Sàriputta Moggallàna".

Idamavoca brahmā sahampati, idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.

Phạm Thiên Sahampati đã nói điều này, sau khi đã nói điều này, đã đảnh lễ Ta, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi biết mất ở ngay tại chỗ ấy.

Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Sau khi nói xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.

Evaṃ vutte aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

Được nói như vậy, một vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều này:

Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:

Kīvadīghaṃ nu kho bhante padume niraye āyuppamāṇanti?

 

“Bạch Ngài, ước lượng tuổi thọ ở địa ngục Paduma dài đến chừng nào?”

- Bạch Thế Tôn, bao nhiêu là tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng?

Dīghaṃ kho bhikkhu padume niraye āyuppamāṇaṃ, taṃ na sukaraṃ saṅkhātuṃ ettakāni vassāni iti vā ettakāni vassasatāni iti vā ettakāni vassasahassāni iti vā ettakāni vassasatasahassāni iti vāti.
 

“Này tỳ khưu, ước lượng tuổi thọ ở địa ngục Paduma quả là dài, việc ấy không phải là việc dễ làm để tính toán là ‘chừng này năm,’ hay ‘chừng này trăm năm,’ hay ‘chừng này ngàn năm,’ hay ‘chừng này trăm ngàn năm.’”

- Thật dài, này Tỷ-kheo, là tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng, không dễ gì tính được bao nhiêu năm, bao nhiêu trăm năm, bao nhiêu ngàn năm, hay bao nhiêu trăm ngàn năm.

 

Sakkā pana bhante upamaṃ kātunti.
 

“Bạch Ngài, có thể làm một ví dụ không?”

- Bạch Thế Tôn, có thể tính được chăng bằng ví dụ?

 

Sakkā bhikkhūti bhagavā avoca: Seyyathāpi bhikkhu vīsati khāriko kosalako tilavāho tato puriso vassasatassa vassasahassassa accayena ekamekaṃ tilaṃ uddhareyya khippataraṃ kho so bhikkhu vīsati khāriko kosalako tilavāho iminā upakkamena parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyya, nattheva eko abbudo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati abbudā nirayā evameko nirabbudo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati nirabbudā nirayā evameko ababo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati ababā nirayā evameko ahaho nirayo.

“Này tỳ khưu, có thể.” Đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này tỳ khưu, cũng giống như một cỗ xe chở hạt mè ở xứ Kosala có dung tích hai mươi khārika, rồi từ cỗ xe đó vào cuối thời hạn của một trăm năm, của một ngàn năm, người ta lấy bớt ra một hạt mè, này tỳ khưu, theo cách thức này một cỗ xe chở hạt mè ở xứ Kosala có dung tích hai mươi khārika ấy đi đến sự hoàn toàn cạn kiệt, hoàn toàn hết sạch là còn nhanh hơn (số lượng tuổi thọ ở địa ngục Paduma). Không phải chỉ có một địa ngục Abbuda. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Abbuda là một địa ngục Nirabbuda. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Nirabbuda là một địa ngục Ababa. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Ababa là một địa ngục Ahaha.

Thế Tôn đáp:

- Có thể được, này Tỷ-kheo. Này Tỷ-kheo, ví như có hột đậu mè nặng hai mươi khàrika, theo đo lường nước Kosala. Ví dụ sau một trăm năm, một người lấy ra một lần một hột mè. Này Tỷ-kheo, còn mau hơn là bao hột mè, nặng hai mươi ngàn khàrika ấy, theo đo lường của nước Kosala, đi đến tiêu hao, đi đến hao mòn do phương tiện ấy, so sánh với tuổi thọ ở địa ngục Abbuda. Này Tỷ-kheo hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Abbuda; bằng một tuổi thọ ở địa ngục Nirabbuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Nirabbuda, bằng một tuổi thọ ở địa ngục Ababa. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Ahaha bằng một tuổi thọ ở địa ngục Atata.

Seyyathāpi bhikkhu vīsati ahahā nirayā evameko aṭaṭo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati aṭaṭā nirayā evameko kumudo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati kumudā nirayā evameko sogandhiko nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati sogandhikā nirayā evameko uppalako nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati uppalakā nirayā evameko puṇḍarīko nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati puṇḍarīkā nirayā evameko padumo nirayo. Padumaṃ kho pana bhikkhu nirayaṃ kokāliko bhikkhu upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvāti.
 

Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Ahaha là một địa ngục Aṭata. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Aṭata là một địa ngục Kumuda. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Kumuda là một địa ngục Sogandhika. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Sogandhika là một địa ngục Uppalaka. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Uppalaka là một địa ngục Puṇḍarīka. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Puṇḍarīka là một địa ngục Paduma. Này tỳ khưu, tỳ khưu Kokālika đã sanh vào địa ngục Paduma sau khi khởi tâm thù hằn với Sāriputta và Moggallāna.”

Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Atata bằng một tuổi thọ ở địa ngục Kumuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Kumuda bằng một tuổi thọ ở địa ngục Sogandhika. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Sogandhika bằng một tuổi thọ ở địa ngục Uppala (Hoa sen xanh). Này các Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Uppala bằng một tuổi thọ ở địa ngục Pundarika (Hoa sen). Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Pundarika bằng một tuổi thọ ở địa ngục Pudumà. Này Tỷ Kheo Kokàliya sanh tại địa ngục Pudumà với tâm hận thù SàripputtaMoggallàna.

 

Idamavoca bhagavā, idaṃ vatvā sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Thế Tôn nói như vậy. Sau khi nói như vậy, bậc Thiện Thệ lại nói thêm:

 

660. Purisassa hi jātassa kuṭhārī jāyate mukhe,
yāya chindati attānaṃ bālo dubbhāsitaṃ bhaṇaṃ.

660. “Bởi vì đối với người đã được sanh ra, có lưỡi rìu được sanh ra cho người ấy, kẻ ngu tự cắt đứt bản thân với nó, trong khi nói lời nói xấu xa.

657. Phàm con người đã sanh,
Sanh với búa trong miệng,
Kẻ ngu khi nói bậy,
Tự chặt đứt lấy mình.

661. Yo nindiyaṃ pasaṃsati taṃ vā nindati yo pasaṃsiyo,
vicināti mukhena so kaliṃ kalinā tena sukhaṃ na vindati.

661. Kẻ nào khen ngợi người đáng bị chê bai, hoặc chê bai người đáng được khen ngợi, kẻ ấy tích lũy lầm lỗi bởi cái miệng, do lầm lỗi ấy không tìm thấy sự an lạc.

658. Ai khen kẻ đáng chê,
Ai chê người đáng khen,
Tự chất chứa bất hạnh,
Do lỗ miệng của mình,
Chính do bất hạnh ấy,
Nên không được an lạc.

662. Appamatto ayaṃ kali yo akkhesu dhanaparājayo,
sabbassāpi sahāpi attanā ayameva mahantataro kali,
yo sugatesu manaṃ padosaye.
 

662. Lầm lỗi này, việc thất thoát tài sản thậm chí toàn bộ (của cải) cùng với bản thân ở các con súc sắc, là có tầm cỡ nhỏ nhoi. Kẻ nào khởi tâm ý xấu xa dối với các bậc đã đi đến trạng thái tốt lành, chính lầm lỗi này là lớn lao hơn.

659. Nhỏ thay bất hạnh này,
Trong canh bạc rủi may,
Do quăng con xúc xắc,
Tài sản bị hoại vong,
Lớn hơn bất hạnh này,
Tự mình gây cho mình,
Với người có ác ý,
Ðối chư Phật, Thiện Thệ.

663. Sataṃ sahassānaṃ nirabbudānaṃ
chattiṃsati pañca ca abbudāni,
yamariyagarahī nirayaṃ upeti
vācaṃ manañca paṇidhāya pāpakaṃ.
 

663. Sau khi buông xuống lời nói và ý nghĩ ác xấu, kẻ quở trách các bậc Thánh nhân đi đến địa ngục là ba triệu sáu trăm ngàn (địa ngục) Nirabbuda và năm (địa ngục) Abbuda.

660. Trải thời gian trăm ngàn
Ở Nirabbuda,
Ba mươi sáu và năm
Ở tại Abbuda,
Với lời và ác ý,
Ai phỉ báng bậc Thánh,
Người ấy sẽ rơi vào
Các cõi dữ địa ngục.

664. Abhūtavādī nirayaṃ upeti
yo vāpi katvā na karomīti cāha,
ubhopi te pecca samā bhavanti
nihīnakammā manujā parattha.
 

664. Người có lời nói không thật đi địa ngục, hoặc luôn cả người nào sau khi làm đã nói rằng: ‘Tôi không làm;’ cả hai người ấy, có hành động thấp kém, sau khi chết (đọa) vào cảnh giới khác là giống như nhau.

661. Kẻ nói không chân thật,
Ði đến cõi địa ngục,
Ai tự mình có làm,
Lại nói: "Tôi không làm",
Cả hai sau khi chết,
Ðều được xem đồng đẳng,
Hành động họ hạ liệt,
Ðời sau, đồng làm người.

665. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati
suddhassa posassa anaṅgaṇassa,
tameva bālaṃ pacceti pāpaṃ
sukhumo rajo paṭivātaṃva khitto.
 

665. Kẻ nào bôi nhọ người không bị ô nhiễm,

người trong sạch, không vết nhơ,

điều xấu xa quay về chính kẻ ngu ấy,

ví như bụi bặm li ti được tung ra ngược chiều gió.

662. Ai khởi lên ác tâm,
Ðối người không ác ý,
Ðối người sống thanh tịnh,
Không có gì uế nhiễm,
Ác ấy trở lui lại,
Ðến với kẻ ngu ấy,
Như bụi bặm nhỏ nhiệm
Quăng ngược chiều gió thổi.

666. Yo lobhaguṇe anuyutto
so vacasā paribhāsati aññe,
assaddho kadariyo avadaññū
maccharī pesuniyasmiṃ anuyutto.

666. Kẻ nào đeo bám các bản chất của tham, kẻ ấy chê bai những người khác bàng lời nói, là kẻ không có niềm tin, keo kiệt, là kẻ không biết đến lời giảng huấn, bỏn xẻn, là kẻ đeo đuổi việc nói đâm thọc.

663. Ai hệ lụy đắm trước,
Các chủng loại tham dục,
Người ấy với lời nói,
Chỉ trích các người khác,
Không lòng tin, xan lẫn,
Không rộng rãi với người,
Xan tham và keo kiết,
Quen thói nói xấu người.

667. Mukhadugga vibhūta anariya
bhūnahu pāpaka dukkatakārī,
purisanta kali avajāta
mā bahu bhāṇidha nerayikosi.
 

667. Này kẻ ăn nói thô lỗ, thiếu chân thật, không thánh thiện, kẻ đồi trụy, ác độc, kẻ làm hành động xấu xa, kẻ khốn cùng, xúi quẩy, kẻ hạ căn, ngươi chớ nói nhiều ở nơi đây; ngươi là hạng người ở địa ngục.

664. Này Ông, miệng ác độc,
Không chân thật, không thánh,
Kẻ giết hại sanh linh,
Kẻ ác, kẻ làm ác,
Người hạ liệt, bất hạnh,
Thuộc về loại hạ sanh,
Ở đời, chớ nói nhiều
Ông là dân địa ngục.

668. Rajamākirasi ahitāya
sante garahasi kibbisakārī,
bahūni ca duccaritāni caritvā
gañchisi kho papataṃ cirarattaṃ.

668. Ngươi gieo rắc bụi bặm (phiền não) vào sự bất hạnh (của chinh ngươi), ngươi quở trách những bậc đức độ, ngươi là kẻ làm điều sái quấy. Và sau khi thực hành nhiều uế hạnh, ngươi đương nhiên sẽ đi đến đọa xứ trong thời gian lâu dài.

665. Ông rắc rải bụi trần,
Khiến mọi người bất hạnh,
Ông nói xấu bậc hiền,
Làm ác điều tội ác,
Sau khi Ông đã làm
Rất nhiều điều ác hạnh,
Ông đi đến vực thẳm,
Trong thời gian dài dài

669. Na hi nassati kassaci kammaṃ
iti ha taṃ labhate va suvāmī,
dukkhaṃ mando paraloke
attani passati kibbisakārī.

669. Bởi vì nghiệp của bất cứ một ai đều không bị tiêu hoại, chủ nhân (của việc đã làm) đương nhiên gánh chịu nghiệp ấy. Kẻ ngu muội, kẻ làm điều sái quấy, nhìn thấy khổ đau ở bản thân mình vào đời sau.

666. Hành động bất cứ ai,
Không đi đến tiêu diệt,
Rồi nó cũng đến Ông,
Bắt gặp được nghiệp chủ,
Kẻ ngu làm điều ác,
Ðời sau thấy mình khổ.

670. Ayosaṃkusamāhataṭṭhānaṃ
tiṇhadhāraṃ ayasūlamupeti,
atha tatta-ayoguḷasannibhaṃ
bhojanamatthi tathā patirūpaṃ.
 

670. Kẻ ấy đi đến cọc sắt có cạnh sắc bén, nơi chốn (có hình phạt) bị đâm xuyên bằng giáo sắt, rồi có vật thực giống như hòn sắt bị nung cháy đỏ, tương xứng (với nghiệp đã làm) như thế ấy.

667. Nó đi đến tại chỗ
Bị đánh bằng roi sắt,
Tại chỗ có cọc sắt,
Với cạnh lưỡi bén nhọn
Ở đấy nó có được
Các món ăn thích đáng,
Giống như những hòn sắt,
Ðược nung nấu cháy đỏ,

671. Na hi vaggu vadanti vadantā
nābhijavanti na tāṇamupenti,
aṅgāre santhate senti
agginisamaṃ jalitaṃ pavisanti.
 

671. Trong khi nói, đương nhiên họ (những cai ngục) không nói ngọt ngào, họ không vồn vã (tiếp đón). Chúng (những kẻ đọa địa ngục) đi đến nơi không phải là chốn nương thân. Chúng nằm ở nơi đã được lót trải than hừng, chúng đi vào đám lửa đã được bốc cháy.

668. Tại đấy không ai nói
Lời nhẹ nhàng an ủi,
Không có ai vội vã,
Ðến che chở hộ trì,
Họ bước vào hầm lửa,
Ðang cháy đỏ hừng hực.

672. Jālena ca onahiyānā
tattha hananti ayomayakūṭehi,
andhaṃva timisamāyanti
taṃ vitataṃ hi yathā mahikāyo.
 

672. Và sau khi chụp xuống bằng tấm lưới (sắt), tại nơi ấy họ (những cai ngục) đánh đập (chúng) với những chiếc búa làm bằng sắt. Chúng (những kẻ đọa địa ngục) đi đến bóng tối vô cùng mờ mịt, bóng tối ấy trải rộng khắp giống như sương mù.

 

669. Với lưới, kẻ giữ ngục,
Trùm kín bao phủ họ,
Tại đấy với gậy sắt,
Họ hành hạ đánh đập,
Họ đi qua vực đen,
Tối tăm không thấy đường,
Như đi qua đám mù,
Ðang dầy đặc tràn rộng.

673. Atha lohamayaṃ pana kumbhiṃ
agginisamaṃ jalitaṃ pavisanti,
paccanti hi tāsu cirarattaṃ
agginisamāsu samuppilavāso.

673. Rồi chúng còn đi vào cái lu làm bằng đồng có đám lửa đã được bốc cháy. Thật vậy, chúng bị nung nấu trong những cái lu ấy một thời gian dài, trồi lên hụp xuống trong những đám lửa.

670. Họ đi đến bước vào
Các chum ghè bằng sát,
Họ bước vào hầm lửa,
Ðang cháy đỏ hừng hực,
Tại đấy, họ bị nấu,
Trong thời gian lâu dài,
Họ nổi lên chìm xuống,
Trong những hầm lửa ấy.

674. Atha pubbalohitamisse
tattha kiṃ paccati kibbisakārī,
yaṃ yaṃ disataṃ adhiseti
tattha kilissati samphusamāno.
 

674. Rồi trong đám máu mủ bị trộn lẫn, kẻ làm điều sái quấy bị nung nấu ở tại nơi ấy. Bất kỳ phương hướng nào gã nương tựa vào, tại nơi ấy gã đều bị lem luốc trong khi xúc chạm (với mủ và máu).

671. Rồi kẻ làm điều ác,
Bị nung nấu tại đấy,
Giữa đống mủ và máu,
Xen kẽ và lẫn lộn,
Tùy theo phương hướng nào,
Nó theo chiều hướng nằm,
Ở đấy, bị rửa nát,
Khi bị xúc chạm vào.

675. Puḷavāvasathe salilasmiṃ
tattha kiṃ paccati kibbisakāri,
gantuṃ na hi tīramapatthi
sabbasamā hi samantakapallā.

675. Ở trong nước, chỗ trú ngụ của các loài giòi bọ, kẻ làm điều sái quấy bị nung nấu ở tại nơi ấy. Cũng chẳng có bến bờ để đi ra, bởi vì xung quanh cái chảo nấu tất cả đều bằng phẳng.

672. Trong nước, chỗ trú ẩn
Của các loài côn trùng,
Kẻ làm các điều ác,
Bị nung nấu tại đấy,
Cho đến những bờ bến
Không có cho nó đi,
Vì chum ghè mọi phía,
Ðều tròn đầy như nhau.

676. Asipattavanaṃ pana tiṇhaṃ
taṃ pavisanti samacchidagattā,
jivhaṃ baḷisena gahetvā
ārajayārajayā vihananti.

676. Hơn nữa, chúng (những kẻ đọa địa ngục) còn đi vào khu rừng Asipatta (Gươm Lá) sắc bén, (và) có thân thể bị băm nát. Họ (những cai ngục) nắm lấy cái lưỡi với các móc câu, kéo tới kéo lui, rồi đánh đập (chúng).

673. Trong rừng đầy lá gươm,
Sắc bén và mũi nhọn,
Họ đi vào rừng ấy,
Chân tay bị chém đứt
Sử dụng các câu móc,
Chúng móc lưỡi dài ra
Rồi những kẻ ngục tối
Hành hạ đánh giết họ,

677. Atha vetaraṇiṃ pana duggaṃ
tiṇhadhāra khuradhāramupenti,
tattha mandā papatanti
pāpakarā pāpāni karitvā.

677. Rồi chúng còn đi đến (dòng sông) Vetaraṇī, có cạnh sắc bén, có lưỡi dao cạo, khó lội qua. Kẻ ngu muội, kẻ làm điều ác đọa vào nơi ấy sau khi đã làm các điều ác.

674. Họ đi vào cảnh giới,
Gọi Vêtarani,
Khó vượt qua, tràn đầy,
Lưỡi dao, búa sắc bén,
Tại chỗ ấy, kẻ ngu,
Bị rơi, bị rớt vào,
Những kẻ làm điều ác,
Sau khi tạo nghiệp ác.

678. Khādanti hi tattha rudante
sāmā sabalā kākolagaṇā ca,
soṇā sigālā paṭigijjhā
kulalā vāyasā ca vitudanti.

678. Bởi vì trong khi chúng đang khóc lóc ở tại nơi ấy, những con chó màu đen, có đốm, và những bầy quạ đen gặm nhấm chúng, những con chó rừng thèm khát, những con diều hâu và những con chim quạ rỉa rói chúng.

675. Tại đấy, các chim thú,
Ăn thịt kẻ rên la,
Những bầy, đàn quạ đen,
Ðen thui và lốm đốm,
Các loài chó, dã can,
Cùng với các chim kên,
Các diều hâu, chim quạ,
Xé xác những kẻ ấy.

679. Kicchā vatāyaṃ idha vutti
yaṃ jano passati kibbisakārī,
tasmā idha jīvitasese
kiccakaro siyā naro na pamajje.
 

679. Lối hành xử này ở nơi đây quả là khó khăn, hạng người làm điều sái quấy nhìn thấy điều này. Vì thế, trong quãng đời còn lại ở thế gian này, nên là người thực hành phận sự, không nên xao lãng.

 

676. Thật rất là đau khổ
Nếp sống này, tại đấy,
Nếp sống kẻ làm ác,
Loài Người thấy được vậy,
Do vậy, ở đời này,
Với mạng sống còn lại,
Là người làm công việc,
Không biếng nhác thụ động.

680. Te gaṇitā vidūhi tilavāhā
ye padume niraye upanītā,
nahutāni hi koṭiyo pañca bhavanti
dvādasa koṭisatāni punaññā.

680. Những cỗ xe chở hạt mè so sánh với (thời gian ở) địa ngục Paduma đã được các bậc hiểu biết tính đếm là năm mươi nghìn koṭi (5 x 10.000 x 10 triệu = 500 tỷ) thêm vào một ngàn hai trăm koṭi (12 x 100 x 10 triệu = 12 tỷ) nữa.

677. Những hột mè mang lại,
Ðịa ngục Paduma,
Ðược kẻ trí đếm kỹ,
Số đến Nahuta,
Lên đến số năm tỷ,
Tức năm ngàn vạn triệu,
Còn nữa lên đến số,
Một trăm hai mươi ức.

681. Yāva dukkhā nirayā idha vuttā
tatthāpi tāva ciraṃ vasitabbaṃ,
tasmā sucipesalasādhuguṇesu
vācaṃ manaṃ satataṃ parirakkheti.

681. Các địa ngục khổ đau đến chừng nào, thậm chí còn phải sống lâu ở nơi ấy đến chừng ấy, đã được nói đến ở đây; vì thế, nên thận trọng giữ gìn lời nói và ý nghĩ đối với những bậc có đức hạnh trong sạch, hiền thiện, và tốt lành.”

 

678. Khổ cho đến như vậy,
Ðịa ngục được nói đến,
Tại đấy cần phải sống,
Lâu cho đến như vậy.
Như vậy, giữa những người,
Trong sạch, thiện tốt lành,
Hãy luôn luôn hộ trì,
Lời nói và ý nghĩa.

 

Kokālikasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Kokālika.

 

 

 

11. KINH NĀLAKA

11. NĀLAKASUTTAṂ

 

11. KINH NĀLAKA

 

11. KINH NĀLAKA

682. Ānandajāte tidasagaṇe patīte
sakkacca indaṃ sucivasane ca deve,
dussaṃ gahetvā atiriva thomayante
asito isi addasa divāvihāre.
 

682. Vị ẩn sĩ Asita, vào lúc nghỉ trưa, đã nhìn thấy chư Thiên thuộc hội chúng cõi Tam Thập tràn đầy niềm hoan hỷ, vui thích, có y phục sạch sẽ, tôn kính Thiên Chủ Inda, đang cầm lấy vải vóc, và tán dương một cách nhiệt liệt.

679. Ẩn sĩ Asita (A-tư-đà),
Trong lúc giữa ban ngày,
Thấy chúng các chư Thiên
Cõi trời Ba mươi ba,
Họ hoan hỷ vui vẻ,
Với y áo, thanh tịnh,
Họ cung kính In-đa,
Các vị ấy cầm áo
Với nhiệt tình nói lên,
Những lời khen tán thán.

683. Disvāna deve muditamane udagge
cittiṃ karitvā idamavocāsi tattha,
kiṃ devasaṅgho atiriva kalyarūpo
dussaṃ gahetvā bhamayatha kiṃ paṭicca.

683. Sau khi nhìn thấy chư Thiên có tâm ý vui mừng, phấn khởi, vị ấy đã thể hiện sự quan tâm, và tại nơi ấy đã nói điều này: “Tại sao hội chúng chư Thiên có dáng vẻ vô cùng mừng rỡ thế? Liên quan đến việc gì mà quý vị cầm lấy vải vóc quây vòng vòng vậy?

680. Thấy chư Thiên hoan hỷ,
Dõng dạc và phấn chấn,
Với tâm tư cung kính,
Ở đây, vị ấy nói.

Asita:

Vì sao chúng chư Thiên
Lại nhiệt tình hoan hỷ?
Họ cầm áo vui múa,
Là do nhân duyên gì?

684. Yadāpi āsi asurehi saṅgamo
jayo surānaṃ asurā parājitā,
tadāpi netādiso lomahaṃsano
kiṃ abbhutaṃ daṭṭhu marū pamoditā.

684. Mặc dầu vào lúc có cuộc chiến tranh với các A-tu-la, chiến thắng là thuộc về chư Thiên, còn các A-tu-la bị thất trận, vào lúc ấy cũng đã không có việc rởn lông như thế này. Vậy sau khi nhìn thấy điều phi thường gì mà các vị Thiên Thần thích thú?

681. Trong thời gian chiến trận,
Với các A-tu-la,
Dũng sĩ được thắng trận
A-tu-la bại trận,
Thời gian ấy họ không,
Lông tóc dựng ngược dậy,
Họ thấy gì hy hữu,
Chư Thiên hoan hỷ vậy.

685. Selenti gāyanti ca vādayanti ca
bhujāni poṭhenti ca naccayanti ca,
pucchāmi vohaṃ merumuddhavāsine
dhunātha me saṃsayaṃ khippamārisā.

685. Các vị hú vang, ca hát, tấu nhạc, đập vỗ các cánh tay, và nhảy múa. Thưa các ngài, tôi xin hỏi các ngài, những cư dân ở đỉnh núi Meru, xin các ngài hãy mau chóng giũ bỏ điều nghi hoặc của tôi.”

682. Họ la lớn ca hát,
Và họ tấu nhạc trời,
Họ múa tay, vỗ tay,
Họ múa nhảy vũ điệu,
Nay ta hỏi các Ông,
Trú đảnh núi Meru (Tu-di),
Các Ngài hãy mau chóng,
Giải tỏa điều ta nghĩ.

686. So bodhisatto ratanavaro atulyo
manussaloke hitasukhatāya jāto,
sakyāna gāme janapade lumbineyye
tenamha tuṭṭhā atiriva kalyarūpā.

686. “Đức Bồ Tát ấy là vật báu quý giá, không thể sánh bằng, vì sự lợi ích và hạnh phúc (của chúng sanh) đã sanh ra ở thế giới loài người, tại ngôi làng của những người Sakya, thuộc xứ sở Lumbinī; chúng tôi phấn chấn, có dáng vẻ vô cùng mừng rỡ bởi vì điều ấy.

Chư Thiên:

683. Tại xứ Lumbini (Lâm-tì-ni)
Trong làng các Thích-ca,
Có sanh vị Bồ-tát,
Báu tối thắng, vô tỷ,
Ngài sanh, đem an lạc,
Hạnh phúc cho loài Người,
Do vậy chúng tôi mừng,
Tâm vô cùng hoan hỷ.

687. So sabbasattuttamo aggapuggalo
narāsabho sabbapajānamuttamo,
vattessati cakkaṃ isivahaye vane
nadaṃ va sīho balavā migābhibhū.

687. Ngài là bậc tối thượng của tất cả chúng sanh, là con người cao cả, đấng Nhân Ngưu, bậc tối thượng của tất cả loài người. Tựa như con sư tử hùng mạnh, chúa tể của loài thú, đang gầm thét, Ngài sẽ chuyển vận bánh xe ở khu rừng tên Isi.”

684. Ngài, chúng sanh tối thượng,
Ngài loài Người tối thắng,
Bậc Ngưu vương loài Người,
Thượng thủ mọi sanh loại;
Ngài sẽ chuyển Pháp Luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh nhiếp loài thú.

688. Taṃ saddaṃ sutvā turitamavaṃsarī so
suddhodanassa tadā bhavanaṃ upāgami,
nisajja tattha idamavocāsi sakye
kuhiṃ kumāro ahamapi daṭṭhukāmo.

688. Sau khi nghe được lời nói ấy, vị ấy đã vội vã đi xuống, rồi đã đi đến chỗ cư ngụ của (vua) Suddhodana, sau khi ngồi xuống ở tại chỗ ấy, đã nói với các vị dòng Sakya điều này: “Hoàng tử ở đâu? Tôi cũng muốn chiêm ngưỡng.”

685. Sau khi nghe lời ấy,
Ẩn sĩ Asita,
Liền vội vàng bước xuống,
Và đi đến lâu đài,
Của đức vua Tịnh Phạn.
Ðến nơi Ngài ngồi xuống,
Nói với các Thích-ca:
"Hoàng tử nay ở đâu,
Ta nay muốn thấy Ngài".

689. Tato kumāraṃ jalitamiva suvaṇṇaṃ
ukkāmukhe’va sukusalasampahaṭṭhaṃ,
daddallamānaṃ siriyā anomavaṇṇaṃ
dassesu puttaṃ asitavhayassa sakyā.

689. Sau đó, các vị dòng Sakya đã trình cho vị (ẩn sĩ) tên Asita thấy người con trai (của họ), vị hoàng tử sáng chói với sự vinh quang, có màu sắc tuyệt vời, tựa như khối vàng đã được đốt cháy, đã được nung nấu ở ngay cửa miệng của bễ lò rèn bởi người (thợ rèn) vô cùng thiện xảo.

686. Thấy Thái tử chói sáng
Rực rỡ như vàng chói
Trong lò đúc nấu vàng,
Ðược thợ khéo luyện thành,
Bừng sáng và rực rỡ,
Với dung sắc tuyệt mỹ,
Họ Thích trình Thái tử,
Cho ẩn sĩ Tư-đà.

690. Disvā kumāraṃ sikhimiva pajjalantaṃ
tārāsabhaṃ va nabhasigamaṃ visuddhaṃ,
suriyaṃ tapantaṃ saradarivabbhamuttaṃ
ānandajāto vipulamalattha pītiṃ.


 

690. Sau khi nhìn thấy vị hoàng tử tựa như ngọn lửa đang phát sáng, thanh tịnh tựa như chúa của các vì sao (mặt trăng) đang di chuyển ở bầu trời, tựa như mặt trời đang cháy sáng sau khi đã được thoát khỏi đám mây mùa thu, (vị ẩn sĩ) tràn đầy niềm hoan hỷ, đã đạt được pháp hỷ tràn trề.

687. Sau khi thấy Thái tử
Chói sáng như lửa ngọn,
Thanh tịnh như sao Ngưu
Vận hành giữa hư không,
Sáng chiếu như mặt trời
Giữa trời thu, mây tịnh,
Ẩn sĩ tâm hân hoan
Ðược hỷ lạc rộng lớn.

691. Anekasākhañca sahassamaṇḍalaṃ
chattaṃ marū dhārayumantalikkhe,
suvaṇṇadaṇḍā vītipatanti cāmarā
na dissare cāmarachattagāhakā.

691. Các vị Thiên Thần đã nắm giữ ở không trung chiếc lọng có nhiều thanh nan, có ngàn khoanh tròn, và phe phẩy tới lui những cây phất trần có tay cầm bằng vàng; những người nắm giữ các cây phất trần và chiếc lọng không được nhìn thấy.

688. Chư Thiên cầm ngôi lọng
Ðưa lên giữa hư không,
Cây lọng có nhiều cành,
Có hàng ngàn vòng chuyền.
Họ quạt với phất trần,
Có tán vàng, lông thú,
Nhưng không ai thấy được,
Kẻ cầm lọng, phất trần.

692. Disvā jaṭī kaṇhasirivhayo isi
suvaṇṇanekkhaṃ viya paṇḍukambale,
setañca chattaṃ dhariyanta muddhani
udaggacitto sumano paṭiggahe.

692. Sau khi nhìn thấy (vị hoàng tử) tựa như vật trang sức bằng vàng ở tấm chăn len màu đỏ, có chiếc lọng trắng đang được duy trì ở trên đầu, vị ẩn sĩ bện tóc tên Kaṇhasiri, với tâm phấn khởi, thích ý, đã (đưa tay) tiếp nhận.

689. Bậc ẩn sĩ bện tóc,
Tên Kà-ha-xi-ri,
Thấy Thái tử nằm dài
Trên tấm chăn màu vàng,
Như đồng tiền bằng vàng,
Lại trên đầu Thái tử
Có lông trắng đưa lên,
Tâm ẩn sĩ phấn khởi,
Ðẹp ý, lòng hân hoan
Ðưa tay bồng Thái tử.

693. Paṭiggahetvā pana sakyapuṅgavaṃ
jigiṃsako lakkhaṇamattapāragū,
pasannacitto giramabbhudīrayi
anuttarāyaṃ dipadānamuttamo.

693. Hơn nữa, sau khi (đưa tay) tiếp nhận con người quý phái dòng Sakya, trong lúc xem xét, bậc tinh thông về tướng số và chú thuật, với tâm tịnh tín đã thốt lên lời nói rằng: “Vị này là bậc vô thượng, là đấng tối thượng của loài người.”

690. Sau khi ẩm bồng lên
Con trai dòng họ Thích,
Bậc cầu đạo tìm hiểu,
Vượt khổ, nhờ tướng, chú,
Tâm tư được hoan hỷ,
Thốt lên lời như sau:
Vị này bậc Vô thượng,
"Tối thượng loài hai chân".

694. Athattano gamanamanussaranto
akalyarūpo galayati assukāni,
disvāna sakyā isimavocuṃ rudantaṃ
no ce kumāre bhavissati antarāyo.

694. Rồi trong khi suy xét về số phận của bản thân, (vị ẩn sĩ) với dáng vẻ sầu thảm, tuôn rơi những giọt nước mắt. Sau khi nhìn thấy vị ẩn sĩ đang khóc lóc, những người dòng Sakya đã nói rằng: “Sẽ không có tai họa gì cho hoàng tử phải không?

691. Khi vị ấy nghĩ đến,
Số mệnh của tự mình,
Số mệnh không tốt đẹp,
Vị ấy rơi nước mắt,
Thấy vậy, các Thích-ca,
Hỏi ẩn sĩ đang khóc;
"Có sự gì chướng ngại
Sẽ xảy cho Thái tử?".

695. Disvāna sakye isimavoca akalye
nāhaṃ kumāre ahitamanussarāmi,
na cāpi massa bhavissati antarāyo
na orakoyaṃ adhimānasā bhavātha.

695. Sau khi nhìn thấy những người dòng Sakya sầu thảm, vị ẩn sĩ đã nói rằng: “Tôi không nghiệm thấy điều gì bất lợi cho hoàng tử, và cũng sẽ không có tai họa gì cho vị này. Vị này không phải là thấp thỏi, các người hãy an tâm.

692. Thấy họ Thích lo lắng,
Vị ẩn sĩ trả lời:
"Ta không thấy bất hạnh
Xảy đến cho Thái tử,
Ðối với Thái tử ấy,
Chướng ngại sẽ không có,
Vị này không hạ liệt,
Chớ có lo lắng gì.

696. Sambodhiyaggaṃ phusissatāyaṃ kumāro
so dhammacakkaṃ paramavisuddhadassī,
vattessatāyaṃ bahujanahitānukampī
vitthārikassa bhavissati brahmacariyaṃ.

696. Vị hoàng tử này sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác tối cao. Vị này, có sự nhìn thấy (Niết Bàn) thanh tịnh tối thượng, có lòng thương tưởng đến sự lợi ích cho nhiều người, sẽ chuyển vận bánh xe Pháp. Phạm hạnh (Giáo Pháp) của vị này sẽ được lan rộng.

693. Thái tử này sẽ chứng
Tối thượng quả Bồ-đề,
Sẽ chuyển bánh xe pháp,
Thấy thanh tịnh tối thắng,
Vì lòng tử thương xót,
Vì hạnh phúc nhiều người,
Và đời sống Phạm hạnh,
Ðược truyền bá rộng rãi.

697. Mamañca āyu na ciramidhāvaseso
athantarā me bhavissati kālakiriyā,
sohaṃ na sossaṃ asamadhurassa dhammaṃ
tenamhi aṭṭo vyasanagato aghāvī.

 

697. Và tuổi thọ của tôi còn lại ở nơi này không bao lâu, việc qua đời sẽ xảy đến cho tôi trước khi ấy. Tôi đây sẽ không được nghe Giáo Pháp của bậc tinh tấn không kẻ sánh bằng; vì thế tôi phiền muộn, đưa đến bất hạnh, sầu khổ.”

694. Thọ mạng ta ở đời
Còn lại không bao nhiêu,
Ðến giữa đời sống Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung.
Ta không được nghe pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ,
Do vậy ta sầu não,
Bất hạnh và khổ đau".

698. So sākiyānaṃ vipulaṃ janetvā pītiṃ
antepuramhā niragamā brahmacārī,
so bhāgineyyaṃ sayamanukampamāno
samādapesi asamadhurassa dhamme.

698. Bậc hành Phạm hạnh ấy, sau khi làm sanh khởi sự vui mừng cho những người dòng Sakya, đã rời khỏi nội cung. Trong lúc thương tưởng đến người cháu trai (con chị) của mình, vị ấy đã khuyên nó tiếp thu Giáo Pháp của bậc tinh tấn không kẻ sánh bằng:

695. Sau khi khiến họ Thích,
Sanh hoan hỷ rộng lớn,
Bậc sống theo Phạm hạnh,
Bước ra khỏi nội thành.
Vị ấy vì lòng từ,
Thương con trai của chị,
Khích lệ nó học pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ.

699. Buddhoti ghosaṃ yadaparato suṇāsi
sambodhipatto vivarati dhammamaggaṃ,
gantvāna tattha samayaṃ paripucchiyāno
carassu tasmiṃ bhagavati brahmacariyaṃ.

699. “Khi nào con nghe được từ người khác âm thanh ‘Đức Phật,’ và bậc đã đạt được phẩm vị Toàn Giác khai mở Giáo Pháp tối cao, con hãy đi đến nơi ấy. Trong lúc tìm hiểu về đạo lý, con hãy thực hành Phạm hạnh ở nơi đức Thế Tôn ấy.”

696. Khi Ông nghe tiếng Phật,
Từ người khác nói lên,
Bậc đã đạt Bồ-đề,
Ðã đi con đường pháp,
Hãy đi đến chỗ ấy,
Hỏi kỹ về đạo pháp,
Và sống đời Phạm hạnh,
Dưới bậc Thế Tôn ấy.

700. Tenānusiṭṭho hitamanasena tādinā
anāgate paramavisuddha dassinā,
so nālako upacitapuññasañcayo
jinaṃ patikkhaṃ parivasi rakkhitindriyo.

700. Được chỉ dạy bởi vị ấy, bởi con người có tâm ý về sự lợi ích như thế ấy, bởi vị có sự nhìn thấy pháp thanh tịnh tối thượng trong ngày vị lai, Nālaka ấy, có sự tích lũy phước báu đã được hội tụ, trong lúc chờ đợi đấng Chiến Thắng, đã sống (với tư cách đạo sĩ khổ hạnh), có giác quan đã được gìn giữ.

697. Như vậy, được khuyên bảo,
Bởi vị nghĩ hạnh phúc,
Vị thấy ở tương lai,
Ðường tối thắng thanh tịnh.
Do vậy Nà-la-ka,
Với phước đức chất chứa,
Sống với căn hộ trì,
Chờ đợi bậc chiến thắng.

701. Sutvāna ghosaṃ jinavaracakkavattane
gantvāna disvā isinisabhaṃ pasanno,
moneyyaseṭṭhaṃ munipavaraṃ apucchi
samāgate asitavhayassa sāsaneti.
 

701. Sau khi nghe được âm thanh về sự chuyển vận bánh xe cao quý của đấng Chiến Thắng, Nālaka đã đi đến, đã nhìn thấy vị chúa của các bậc ẩn sĩ. Được tịnh tín, Nālaka đã hỏi bậc Hiền Trí quý cao về trí tuệ tối thượng vào lúc lời giáo huấn của vị (ẩn sĩ) tên Asita đã được viên mãn.

698. Khi nghe tin Pháp luân,
Ðược bậc chiến thắng chuyển,
Ðến thấy được hoan hỷ,
Bậc ẩn sĩ Ngưu vương,
Hỏi Mâu ni tối thắng,
Pháp Mâu ni tối thượng,
Như A-tư-đà khuyên
Trong buổi gặp gỡ trước.


Vatthugāthā.
 

 

(Dứt) Các Kệ Ngôn Giới Thiệu.

 

(Kệ mở đầu đã xong)

 

702. Aññātametaṃ vacanaṃ asitassa yathātathaṃ,
taṃ taṃ gotama pucchāma sabbadhammāna pāraguṃ.

702. Lời nói ấy của vị Asita đã được nhận biết là đúng như thật. Thưa ngài Gotama, vì thế chúng tôi hỏi ngài, bậc đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp.

699. Lời A-tư-đà này,
Con biết là như thật,
Con hỏi Gotama,
Ðường giải thoát mọi pháp.

703. Anagāriyupetassa bhikkhacariyaṃ jigiṃsato,
muni pabrūhi me puṭṭho moneyyaṃ uttamaṃ padaṃ.

703. Tôi là người đã đi đến cuộc sống không nhà, đang tầm cầu việc hành pháp khất thực. Thưa bậc Hiền Trí, được tôi hỏi, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành tối thượng của hiền trí hạnh.

700. Không nhà, con đi đến
Tìm hạnh người khất sĩ,
Con hỏi bậc ẩn sĩ
Hãy nói lên cho con,
Con đường đạo tối thượng,
Ðưa đến đạo Mâu-ni,

704. Moneyyaṃ te apaññissaṃ (iti bhagavā)
dukkaraṃ durabhisambhavaṃ,
handa te naṃ pavakkhāmi santhambhassu daḷho bhava.

704. (Đức Thế Tôn nói) “Ta sẽ giúp cho ngươi hiểu về hiền trí hạnh, là điều khó làm, ;à điều khó thành tựu. Vậy Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi. Ngươi hãy cứng cỏi. Ngươi hãy kiên định.

701. Thế Tôn đáp như sau:
Khó hành, khó thực hiện,
Là đạo hạnh Mâu ni,
Ta sẽ cho Ông biết,
Hãy đến lắng tai nghe,
Ta sẽ nói cho Ông,
Hãy vững trí, an thần,
Hãy kiên trì bền chí.

705. Samānabhāgaṃ kubbetha gāme akkuṭṭhavanditaṃ,
manopadosaṃ rakkheyya santo anunnato care.
 

705. Nên thực hành sự bình thản khi có sự bị mắng nhiếc hoặc được lễ bái ở trong làng, nên canh phòng sự sai trái ở tâm, nên sống an tịnh, không cao ngạo.

702. Hãy tu hạnh Sa-môn,
Không để bị dao động,
Giữa khen chê trong làng,
Hãy chế ngự tâm sân,
Sống hạnh thật an tịnh,
Không cống cao kiêu mạn.

706. Uccāvacā niccharanti dāye aggisikhūpamā,
nāriyo muniṃ palobhenti tā su taṃ mā palobhayuṃ.

706. Các hiện tượng tốt xấu (nhiều loại) bộc phát, tương tự như ngọn lửa ở khu rừng. Các phụ nữ quyến rủ bậc hiền trí, mong sao các cô ấy chớ quyến rũ ngươi.

703. Tiếng cao thấp phát ra,
Như ngọn lửa trong vườn,
Nữ nhân hay cám dỗ,
Chớ cám dỗ ẩn sĩ.

707. Virato methunā dhammā hitvā kāme parovare.
aviruddho asāratto pāṇesu tasathāvare.
 

707. Sau khi từ bỏ các dục nhiềm loại, đã được xa lìa pháp đôi lứa, không chống đối, không bị đắm say ở các sinh vật di động hay đứng yên.

704. Hãy từ bỏ dâm dục,
Xả mọi dục cao thấp.
Ðối hữu tình yếu mạnh,
Không đối nghịch, tham đắm.

708. Yathā ahaṃ tathā ete yathā ete tathā ahaṃ,
attānaṃ upamaṃ katvā na haneyya na ghātaye.

708. ‘Ta như thế nào, chúng như thế ấy; chúng như thế nào, ta như thế ấy,’ sau khi lấy bản thân làm ví dụ, không nên giết hại, không nên bảo (kẻ khác) giết hại.

705. Ta thế nào, họ vậy,
Họ thế nào, Ta vậy,
Lấy ngã làm ví dụ,
Chớ giết, chớ bảo giết.

709. Hitvā icchañca lobhañca yattha satto puthujjano,
cakkhumā paṭipajjeyya tareyya narakaṃ imaṃ.
 

709. Sau khi từ bỏ ước muốn và tham lam mà phàm phu bị dính mắc, bậc hữu nhãn nên thực hành (hiền trí hạnh), nên vượt qua địa ngục này.

706. Hãy bỏ dục, bỏ tham,
Ðây phàm phu bị nắm,
Bậc có mắt hành đạo,
Vượt địa ngục, loài Người.

710. Ūnūdaro mitāhāro appicchassa alolupo,
sa ve icchāya nicchāto aniccho hoti nibbuto.

710. Nên có bao tử vơi, nên có vật thực giới hạn, nên ít ham muốn, không tham lam. Vị ấy quả thật không có sự khao khát do ước muốn, là vị không cón ước muốn, được tịch tịnh.

707. Bụng đói, ăn chừng mực,
Ít dục, không tham lam.
Vị ấy không ham dục,
Không dục, thật tịch tịnh.

711. Sapiṇḍacāraṃ caritvā vanantamabhihāraye,
upaṭṭhito rukkhamūlasmiṃ āsanūpagato muni.

711. Sau khi hành hạnh khất thực, bậc hiền trí nên đi đến ven rừng, đứng cạnh gốc cây, rồi tiến đến chỗ ngồi.

708. Sau khi đi khất thực,
Ẩn sĩ vào rừng sâu,
Ði đến dưới gốc cây,
Sửa soạn ngồi an tịnh.

712. Sa jhānapasuto dhīro vanante ramito siyā,
jhāyetha rukkhamūlasmiṃ attānamabhitosayaṃ.

712. Đeo đuổi việc tham thiền, bậc sáng trí ấy nên vui thích nơi ven rừng; trong lúc làm hài lòng bản thân, nên tham thiền ở gốc cây.

709. Bậc Hiền trí hành thiền,
Hoan hỷ trong rừng sâu,
Hành thiền dưới gốc cây,
Thỏa mãn sở thích mình.

713. Tato ratyā vivasane gāmantamabhihāraye,
avhānaṃ nābhinandeyya abhihārañca gāmato.

713. Kế đó, khi tàn đêm, nên đi vào trong làng, không nên thích thú lời mời mọc và tặng phẩm từ ngôi làng.

710. Khi đêm hết, sáng đến,
Cần phải đi đến làng,
Chớ hân hoan khất thực,
Ðồ mang từ làng đi.

714. Na munī gāmamāgamma kulesu sahasā care,
ghāsesanaṃ chinnakatho na vācaṃ payutaṃ bhaṇe.

714. Sau khi đi đến làng, bậc hiền trí không nên đi lại vội vàng ở các gia đình, việc chuyện vãn được cắt đứt, không nên nói lời nói gợi ý tầm cầu về vật thực. 

711. Ẩn sĩ không đi gấp,
Ðến làng, giữa gia đình,
Tìm ăn, cắt nói chuyện,
Không nói chuyện liên hệ.

715. Alatthaṃ yadidaṃ sādhu nālatthaṃ kusalaṃ iti,
ubhayeneva so tādi rukkhaṃ va upanivattati.
 

715. ‘Ta đã nhận được, việc này là tốt đẹp. Ta đã không nhận được, lành thay!” (nghĩ thế) với cả hai trường hợp, vị ấy đều tự tại, tựa như người đến gần cội cây rồi bỏ đi (dầu có hái được trái cây hay không cũng bình thản). 

712. Nếu được, thật là tốt,
Không được, cũng là tốt,
Nghĩ vậy, cả hai mặt,
Vị ấy trở về cây.

716. Sa pattapāṇī vicaranto amūgo mūgasammato,
appaṃ dānaṃ na hīḷeyya dātāraṃ nāvajāniya.
 

716. Vị ấy với bình bát ở bàn tay, trong khi đi đó đây, không là người câm, được xem như người câm, không nên khinh chê vật thí ít ỏi, không nên xem thường thí chủ.

713. Ði với bát cầm tay,
Không câm, dáng như câm,
Chớ khinh, đồ cho ít,
Không chê người đem cho.

717. Uccāvacā hi paṭipadā samaṇena pakāsitā,
na pāraṃ diguṇaṃ yanti na idaṃ ekaguṇaṃ mutaṃ.
 

717. Bởi vì đường lối thực hành cao và thấp đã được vị Sa-môn giảng giải. Họ không đi đến bờ kia hai lần; điều này được cảm giác không chỉ một lần.

714. Bậc Sa-môn thuyết giảng,
Con đường cao và thấp,
Nhưng đến bờ bên kia,
Không có hai con đường,
Tuy vậy chớ nghĩ rằng,
Ðường này chỉ là một.

718. Yassa ca visatā natthi chinnasotassa bhikkhuno,
kiccākiccappahīnassa parilāho na vijjati.

718. Đối với vị tỳ khưu nào không có tham ái, đã cắt đứt dòng chảy, đã dứt bỏ việc cần làm và không cần làm, sự bực bội (của vị ấy) không hiện hữu.

715. Với ai, không có tham,
Tỷ-kheo cắt dòng nước,
Ðoạn tận hành thiện ác,
Vị ấy không sầu não.

719. Moneyyaṃ te upaññissaṃ (iti bhagavā)
khuradhārūpamo bhave,
jivhāya tāluṃ āhacca udare saññato siyā.

719. (Đức Thế Tôn nói) Ta sẽ giúp cho ngươi hiểu về hiền trí hạnh. Nên giống như là lưỡi dao cạo. Nên áp chặt cái lưỡi vào nóc họng, nên tự chế ngự ở bao tử.

716. Thế Tôn lại nói thêm:
Ta dạy cho các Ông
Thức tri hạnh ẩn sĩ,
Hãy tu như lưỡi dao,
Với lưỡi ấn nóc họng,
Hãy hạn chế bao tử.

720. Alīnacitto ca siyā na cāpi bahu cintaye,
nirāmagandho asito brahmacariyaparāyano.
 

720. Và nên có tâm không bị trì trệ, và cũng không nên suy nghĩ nhiều, không còn mùi hôi thối (phiền não), không lệ thuộc, có Phạm hạnh là mục đích.

717. Tâm chớ có thụ động,
Nhưng chớ nghĩ quá nhiều.
Không hôi hám, độc lập,
Sống cứu cánh Phạm hạnh

721. Ekāsanassa sikkhetha samaṇūpāsanassa ca,
ekattaṃ monamakkhātaṃ eko ve abhiramissati.
 

721. Nên học tập về hạnh độc cư và về sự rèn luyện của bậc Sa-môn. Trạng thái đơn độc được gọi là hiền trí. Hiển nhiên, một mình sẽ thỏa thích.

718. Hãy tập ngồi một mình,
Sống đúng hạnh Sa-môn.
Sống một mình được gọi
Là hạnh bậc ẩn sĩ,
Nếu tự mình tìm được
Thoải mái trong cô độc.

722. Atha bhāsihi dasadisā.
Sutvā dhīrānaṃ nigghosaṃ jhāyīnaṃ kāmacāgīnaṃ,
tato hiriñca saddhañca bhiyyo kubbetha māmako.

722. Rồi ngươi sẽ chiếu sáng mười phương.

Sau khi nghe được danh tiếng của các bậc sáng trí, có thiền, có sự xả bỏ các dục, từ đó đệ tử của Ta nên làm tăng trưởng sự hổ thẹn tội lỗi và niềm tin.

719. Hãy chói sáng mười phương,
Sau khi nghe tiếng nói,
Của các bậc hiền sĩ,
Hãy hành thiền, bỏ dục,
Mong đệ tử của Ta,
Tăng trưởng tâm và tín.

723. Taṃ nadīhi vijānātha sobbhesu padaresu ca,
saṇantā yanti kussobbhā tuṇhī yāti mahodadhi.

723. Nên nhận biết điều ấy từ các con sông ở các hố nước và các khe nước, các dòng nước nhỏ di chuyển gây tiếng động, đại dương im lặng di chuyển.

720. Hãy học các dòng nước,
Từ khe núi vực sâu.
Nước khe núi chảy ồn,
Biển lớn động im lặng.

724. Yadūnakaṃ taṃ saṇati yaṃ pūraṃ santameva taṃ,
aḍḍhakumbhūpamo bālo rahado pūrova paṇḍito.

724. Cái gì thiếu kém cái ấy làm thành tiếng vang, cái gì đầy ắp cái ấy thật yên tịnh. Kẻ ngu tương tự cái chum đầy một nửa, bậc sáng suốt tựa như hồ nước đầy tràn.

721. Cái gì trống kêu to,
Cái gì đầy yên lặng,
Ngu như ghè vơi nước,
Bậc trí như ao đầy.

725. Yaṃ samaṇo bahu bhāsati upetaṃ atthasaṃhitaṃ,
jānaṃ so dhammaṃ deseti jānaṃ so bahu bhāsati.

725. Điều mà Sa-môn nói nhiều là điều được liên quan, chứa đựng sự lợi ích. Có chủ tâm vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp, có chủ tâm vị ấy nói nhiều.

722. Khi Sa-môn nói nhiều,
Nói liên hệ đến đích,
Tự biết nên thuyết pháp,
Tự biết nên nói nhiều.

726. Yo ca jānaṃ samaṃ yutto jānaṃ na bahu bhāsati,
sa muni monamarahati sa muni monamajjhagāti.
 

726. Và vị nào có chủ tâm gắn bó sự an tịnh, có chủ tâm không nói nhiều, vị hiền trí ấy xứng đáng bản thể hiền trí, vị hiền trí ấy đã chứng đạt bản thể hiền trí."

723. Ai biết, biết tự chế,
Ai biết, không nói nhiều,
Vị ấy là ẩn sĩ,
Xứng đáng hạnh ẩn sĩ,
Vị ấy là ẩn sĩ,
Ðạt được hạnh ẩn sĩ.

 

Nālakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

Dứt Kinh Nālaka.

 

 

 

12. KINH QUÁN XÉT HAI KHÍA CẠNH

12. DVAYATĀNUPASSANĀSUTTAṂ

 

12. KINH QUÁN XÉT HAI KHÍA CẠNH

 

12. KINH HAI PHÁP TÚY QUÁN

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātu pāsāde. Tena kho pana samayena bhagavā tadahuposathe pannarase puṇṇāya puṇṇamāya rattiyā bhikkhusaṅgha-parivuto abbhokāse nisinno hoti. Atha kho bhagavā tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtaṃ bhikkhusaṅghaṃ anuviloketvā bhikkhū āmantesi:

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, tu viện Pubba, ở tòa nhà dài của Mẹ của Migāra Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày Uposatha, vào ngày mười lăm, trong đêm trăng tròn vằng vặc, đức Thế Tôn ngồi ở ngoài trời, được vây quanh bởi hội chúng tỳ khưu. Khi ấy, sau khi xem xét thấy hội chúng tỳ khưu có trạng thái im lặng hoàn toàn, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng:

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Ðông Viên, tại lâu đài mẹ của Migàra. Lúc bấy giờ, trong ngày trai giới Uposatha, vào ngày rằm, trăng tròn, trong đêm rằm, Thế Tôn ngồi giữa trời với chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi Thế Tôn nhìn xung quanh chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, nói với các Tỷ-kheo:

Ye te bhikkhave, kusalā dhammā ariyā niyyānikā sambodhagāmino, tesaṃ vo bhikkhave, kusalānaṃ dhammānaṃ ariyānaṃ niyyānikānaṃ sambodhagāminaṃ kā upanisā savaṇāyāti. Iti ce bhikkhave, pucchitāro assu te evamassu vacanīyā: Yāvadeva dvayatānaṃ dhammānaṃ yathābhūtaṃ ñāṇāyāti.

“Này các tỳ khưu, các pháp thiện nào là cao thượng, dẫn dắt ra khỏi, đưa đến giác ngộ, này các tỳ khưu, lý do gì khiến các ngươi lắng nghe các pháp thiện, cao thượng, dẫn dắt ra khỏi, đưa đến giác ngộ ấy? Này các tỳ khưu, nếu có những người hỏi như thế, những người ấy nên được nói như vầy: ‘Chỉ để đưa đến sự nhận biết đúng theo bản thể đối với các pháp có hai khía cạnh.’

- Này các Tỷ-kheo, phàm có những thiện pháp nào thuộc bậc Thánh có khả năng hướng thượng, đưa đến giác ngộ; này các Tỷ-kheo, đối với các thiện pháp thuộc bậc Thánh có khả năng hướng thượng đưa đến giác ngộ ấy do lý do gì các Thầy nghe những pháp ấy? Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thể được hỏi như vậy, các Thầy có thể trả lời cho những người câu hỏi ấy như sau: "Vì muốn có như thật trí đối với hai pháp".

Kiñca dvayataṃ vadetha:

 

‘Và các vị nói cái gì là hai khía cạnh?’

Và nếu các Thầy nói: "Thế nào là hai?".

Idaṃ dukkhaṃ ayaṃ dukkhasamudayo ’ti ayamekānupassanā. Ayaṃ dukkhanirodho ayaṃ dukkhanirodhagāminīpaṭipadā ’ti ayaṃ dutiyānupassanā.

 

‘Đây là Khổ, đây là Nguyên Nhân của Khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Đây là sự Diệt Khổ, đây là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

- "Ðây là khổ, đây là khổ tập", đây là tuỳ quán thứ nhất. "Ðây là khổ diệt, đây là con đường đưa đến khổ diệt", đây là tùy quán thứ hai.

Evaṃ sammā dvayatānupassino kho bhikkhave, bhikkhuno appamattassa ātāpino pahitattassa viharato dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ phalaṃ pāṭikaṅkhaṃ diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitāti.

 

Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn như vậy, không bị xao lãng, có nhiệt tâm, có bản tánh cương quyết, một quả báu nào đó trong hai quả báu là điều chờ đợi: trí giải thoát ở đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.”

Này các Tỷ-kheo, như vậy do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Ðược chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn. 

Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvā sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

 

Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm: 

727. Ye dukkhaṃ nappajānanti atho dukkhassa sambhavaṃ,
yattha ca sabbaso dukkhaṃ asesaṃ uparujjhati,
tañca maggaṃ na jānanti dukkhūpasamagāminaṃ.
 

727. “Những người nào không nhận biết khổ, rồi nguồn sanh khởi của khổ, và nơi nào khổ được tiêu hoại toàn bộ không dư sót, và không biết về đạo lộ ấy, (đạo lộ) đưa đến sự yên lặng của khổ.

724. Ai không tuệ tri khổ,
Và hiện hữu của khổ,
Và chỗ khổ hoàn toàn
Ðược đoạn tận không dư,
Vị ấy không biết đường,
Ðưa đến khổ an tịnh.

728. Cetovimuttihīnā te atho paññāvimuttiyā,
abhabbā te antakiriyāya te ve jātijarūpagā.
 

728. Những người ấy là thấp kém về sự giải thoát của tâm, rồi sự giải thoát của tuệ, những người ấy không thể thực hiện việc chấm dứt, quả thật họ đi đến sanh và già.

725. Không có tâm giải thoát,
Không có tuệ giải thoát,
Vị ấy không có thể
Ðoạn tận sanh và già.

729. Ye ca dukkhaṃ pajānanti atho dukkhassa sambhavaṃ,
yattha ca sabbaso dukkhaṃ asesaṃ uparujjhati,
tañca maggaṃ pajānanti dukkhūpasamagāminaṃ.
 

729. Và những người nào nhận biết khổ, rồi nguồn sanh khởi của khổ, và nơi nào khổ được tiêu hoại toàn bộ không dư sót, và nhận biết đạo lộ ấy, (đạo lộ) đưa đến sự yên lặng của khổ.

726. Những ai tuệ tri khổ
Và hiện hữu của khổ
Và chỗ khổ hoàn toàn
Ðược đoạn tận không dư,
Vị ấy biết con đường,
Ðưa đến khổ an tịnh.

730. Cetovimuttisampannā atho paññāvimuttiyā,
bhabbā te antakiriyāya na te jātijarūpagāti.

730. Những người ấy thành tựu sự giải thoát của tâm, rồi sự giải thoát của tuệ, những người ấy có thể thực hiện việc chấm dứt, quả thật họ không đi đến sanh và già.”

727. Ðầy đủ tâm giải thoát,
Với trí tuệ giải thoát,
Những vị ấy có thể
Với trí tuệ giải thoát,
Ðoạn tận sanh và già.

Siyā aññenapi pariyāyena sammā dvayatānupassanāti, iti ce bhikkhave, pucchitāro assu siyātissu vacanīyā, kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ upadhipaccayāti, ayamekānupassanā. Upādhīnaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.

‘Có thể có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn bằng một phương thức khác,’ này các tỳ khưu, nếu có những người hỏi như thế, những người ấy nên được nói như vầy: ‘Có thể.’ Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do mầm tái sanh là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của các mầm tái sanh, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có chân chánh tuỳ quán hai pháp, theo một pháp môn khác không?" Các Thầy cần phải trả lời: "Có thể có". Có thể có như thế nào? "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên sanh y", đây là tuỳ quán pháp thứ nhất. "Do sự đoạn diệt, ly tham, các sanh y không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

- Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tuỳ quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Ðược chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn. Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm: 

731. Upadhinidānā pabhavanti dukkhā
ye keci lokasmiṃ anekarūpā,
yo ve avidvā upadhiṃ karoti,
punappunaṃ dukkhamupeti mando,
tasmā pajānaṃ upadhiṃ na kayirā
dukkhassa jātippabhavānupassīti.



 

731. “Bất cứ các khổ nào, với nhiều hình thức, phát khởi ở thế gian đều có mầm tái sanh là căn nguyên. Thật vậy, kẻ ngu nào, không biết, tạo ra mầm tái sanh, (sẽ) đi đến khổ lần này lần khác. Vì thế, người có sự quán xét về sự sanh ra và phát khởi của khổ, trong khi nhận biết, không nên tạo ra mầm tái sanh.”

728. Chính do duyên sanh y,
Các khổ được sanh khởi,
Tất cả các khổ đau,
Sai biệt ở trên đời,
Ai chính do vô minh
Tạo lên sự sanh y,
Kẻ ngu ấy gặp khổ
Nối tiếp nhau sanh trưởng,
Do vậy vị hiểu biết,
Không tạo lên sanh y,
Tuỳ quán được hiện hữu
Của sanh và của khổ.

Siyā aññenapi pariyāyena sammā dvayatānupassanāti iti ce bhikkhave, pucchitāro assu siyātissu vacanīyā, kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ avijjāpaccayāti, ayamekānupassanā. Avijjāya tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.

‘Có thể có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn bằng một phương thức khác,’ này các tỳ khưu, nếu có những người hỏi như thế, những người ấy nên được nói như vầy: ‘Có thể.’ Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do vô minh là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của vô minh, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có chân chánh tùy quán hai pháp theo một pháp môn khác không?" Các Thầy cần phải trả lời: "Có thể có". Có thể có như thế nào? "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên vô minh", đây là tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham, vô minh không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Ðược chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn. Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo sư lại nói thêm:

732. Jātimaraṇasaṃsāraṃ ye vajanti punappunaṃ,
itthabhāvaññathābhāvaṃ avijjāyeva sā gati.

732. “Những người nào đi đến sanh, tử, luân hồi lần này lần khác, đến sự hiện hữu này và sự hiện hữu khác, tiến trình ấy là do chính vô minh.

729. Những ai tiếp tục rơi,
Dòng luân chuyển sanh tử,
Ðến hữu này hữu khác,
Sanh thú do vô minh.

733. Avijjā hayaṃ mahāmoho yenidaṃ saṃsitaṃ ciraṃ,
vijjāgatā ca ye sattā nāgacchanti punabbhavanti.
 

733. Bởi vì vô minh này là sự mê muội lớn lao, do nó việc bị luân hồi này là lâu dài. Và những chúng sanh nào đạt được minh, họ không đi đến sự hiện hữu lại nữa.”

730. Vô minh này, đại si,
Ðưa đến luân chuyển dài,
Chúng sanh, minh đạt được,
Không còn phải tái sanh.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ saṅkhārapaccayāti, ayamekānupassanā. Saṅkhārānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.

‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do các hành là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của các hành, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên các hành", đây là tuỳ quán pháp thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham, các hành không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo sư lại nói thêm:

734. Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ saṅkhārapaccayā,
saṅkharānaṃ nirodhena natthi dukkhassa sambhavoti.

734. “Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do các hành là duyên. Do sự diệt tận của các hành, không có sự hình thành của khổ.

731. Phàm khổ gì hiện hữu,
Tất cả duyên các hành,
Do đoạn diệt các hành,
Khổ không có hiện hữu.

735. Etamādīnavaṃ ñatvā dukkhaṃ saṅkhārapaccayā,
sabbasaṅkhārasamathā saññāya uparodhanā,
evaṃ dukkhakkhayo hoti etaṃ ñatvā yathātathaṃ.

735. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do các hành là duyên. Do sự yên lặng của tất cả các hành, do sự ngưng lại của tưởng, như vậy có sự cạn kiệt của khổ, sau khi biết điều này đúng theo thực thể ...

732. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên các hành,
Tịnh chỉ tất cả hành,
Do phá hoại các tưởng,
Như vậy, khổ được diệt,
Biết như thực là vậy.

736. Sammaddasā vedaguno sammadaññāya paṇḍitā,
abhibhuyya mārasaṃyogaṃ nāgacchanti punabbhavanti.

736. ... các bậc đạt được sự thông hiểu đã nhìn thấy đúng đắn; với sự nhận biết đúng đắn, các bậc sáng suốt, sau khi chế ngự sự ràng buộc của Ma Vương, không đi đến sự hiện hữu lại nữa.”

733. Bậc Hiền trí chánh kiến,
Hiểu biết, với chánh trí,
Nhiếp phục Ma kiết sử,
Không đi đến tái sanh.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ viññāṇapaccayāti, ayamekānupassanā. Viññāṇassa tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.

 

 ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do thức là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của thức, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thức", đây là tùy quán pháp thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thức không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, bậc Ðạo sư lại nói thêm:

737. Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ viññāṇapaccayā,
viññāṇassa nirodhena natthi dukkhassa sambhavo.
 

737. “Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do thức là duyên. Do sự diệt tận của thức, không có sự hình thành của khổ.

734. Phàm khổ gì hiện hữu,
Tất cả do duyên thức,
Với thức được đoạn diệt,
Khổ không có hiện hữu.

738. Etamādīnavaṃ ñatvā dukkhaṃ viññāṇapaccayā,
viññāṇupasamā bhikkhu nicchāto parinibbuto’ti.

738. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do thức là duyên, do sự yên tịnh của thức, vị tỳ khưu không còn sự khao khát, được hoàn toàn tịch tịnh.”

735. Do biết nguy hiểm hày,
Khổ do duyên các thức,
Tỷ-kheo tịnh chỉ thức,
Không dục ái, tịch tịnh
.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ phassapaccayāti, ayamekānupassanā. Phassassa tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.

 

‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do xúc là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của xúc, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:.... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên xúc", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham xúc không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

739. Tesaṃ phassaparetānaṃ bhavasotānusārinaṃ,
kummaggapaṭipannānaṃ ārā saṃyojanakkhayo.
 

739. “Đối với những người bị quấy nhiễu bởi (sáu) xúc, có sự xuôi theo dòng chảy của hiện hữu, đang thực hành đường lối xấu xa, sự cạn kiệt các mối ràng buộc là xa xôi.

736. Những ai, xúc chi phối,
Chạy theo dòng sanh hữu,
Những người hành tà đạo,
Xa vời diệt kiết sử.

740. Ye ca phassaṃ pariññāya aññāya upasame ratā,
te ce phassābhisamayā nicchātā parinibbutā’ti.

740. Và những người nào, sau khi biết toàn diện về xúc, được thích thú ở sự an tịnh nhờ vào trí hiểu biết, những người ấy, thật vậy, do sự lãnh hội về xúc, không còn sự khao khát, được hoàn toàn tịch tịnh.”

737. Những ai liễu tri xúc,
Nhờ trí, thích an tịnh,
Do họ thắng tri xúc,
Không dục ái, tịch tịnh.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ vedanāpaccayāti, ayamekānupassanā. Vedanānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.
 

‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do thọ là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của thọ, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thọ", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thọ không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

741. Sukhaṃ vā yadi vā dukkhaṃ adukkhamasukhaṃ saha,
ajjhattañca bahiddhā ca yaṃ kiñci atthi veditaṃ.
 

741. “Bất cứ điều gì có sự được cảm thọ, dầu là lạc hay là khổ, (hay là) với không khổ không lạc, ở nội phần và ở ngoại phần, ...

738. Với lạc thọ, khổ thọ,
Hay bất khổ, bất lạc;
Nội thọ và ngoại thọ,
Phàm có cảm thọ gì.

742. Etaṃ dukkhanti ñatvāna mosadhammaṃ palokitaṃ,
phussa phussa vayaṃ passaṃ evaṃ tattha vijānāti,
vedanānaṃ khayā bhikkhu nicchāto parinibbuto’ti.

 

742. ... Sau khi biết được ‘điều ấy là khổ, có tính chất giả trá, bị đổ vỡ, trong khi nhìn thấy sự hoại diệt sau mỗi lượt xúc chạm và nhận thức như vậy tại nơi ấy, do sự cạn kiệt của các thọ, vị tỳ khưu không còn sự khao khát, được hoàn toàn tịch tịnh.”

739. Biết được đây là khổ,
Giả dối bị hủy hoại.
Thấy các xúc hoại diệt,
Như vậy, đây ly tham,
Tỷ-kheo diệt các thọ,
Không dục ái, tịch tịnh.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ taṇhāpaccayāti, ayamekānupassanā. Taṇhāya tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.

‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do ái là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của ái, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên ái", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham ái, không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:
 

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chán tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

743. Taṇhā dutiyo puriso dīghamaddhāna saṃsaraṃ,
itthābhāvaññathābhāvaṃ saṃsāraṃ nātivattati.

743. “Có tham ái là bạn lữ, trong khi luân chuyển một thời gian dài đến sự hiện hữu này và sự hiện hữu khác, con người không vượt qua được luân hồi.

740. Người có ái bạn đường,
Bị luân chuyển dài dài,
Ðến hữu này, hữu khác,
Luân chuyển không dừng nghỉ.

744. Etamādīnavaṃ ñatvā taṇhā dukkhassa sambhavaṃ,
vītataṇho anādāno sato bhikkhu paribbaje’ti.
 

744. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) tham ái là nguồn sanh khởi của khổ, vị tỳ khưu có tham ái đã được xa lìa, không có nắm giữ, có niệm, nên ra đi du phương.”

741. Do biết nguy hiểm nầy,
Chính ái tác thành khổ,
Ly ái, không chấp thủ,
Chánh niệm, Tỷ-kheo hành.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ upādānapaccayāti, ayamekānupassanā. Upādānānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.

‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do thủ là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của thủ, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:.... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thủ", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thủ không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:
 

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

745. Upādānapaccayā bhavo bhūto dukkhaṃ nigacchati,
jātassa maraṇaṃ hoti eso dukkhassa sambhavo.

745. “Do thủ là duyên, có hữu. Ngưỡi đã được hiện hữu phải chịu khổ. Có cái chết dành cho người đã được sanh ra; điều ấy là nguồn sanh khởi của khổ.

742. Do duyên thủ, có hữu,
Do hữu, đi đến khổ,
Từ sanh nên có chết,
Ðây hiện hữu của khổ.

746. Tasmā upādānakkhayā sammadaññāya paṇḍitā,
jātikkhayaṃ abhiññāya nāgacchanti punabbhavanti,

746. Vì thế, do sự cạn kiệt của thủ, các bậc sáng suốt, với sự nhận biết đúng đắn, sau khi biết rõ sự cạn kiệt của sanh, không đi đến sự hiện hữu lại nữa.”

743. Do vậy, bậc Hiền trí,
Diệt thủ, nhờ chánh trí,
Nhờ thắng trí sanh diệt,
Không đi đến tái sanh
.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ ārambhapaccayāti, ayamekānupassanā. Ārambhānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.

‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do sự khởi động (gắn liền với nghiệp) là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của sự khởi động, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên khởi xướng", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt ly tham khởi xướng không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

747. Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ ārambhapaccayā,
ārambhānaṃ nirodhena natthi dukkhassa sambhavo.

747. “Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do sự khởi động là duyên. Do sự diệt tận của sự khởi động, không có sự hình thành của khổ.

744. Phàm khổ gì hiện hữu,
Tất cả duyên khởi xướng,
Do đoạn diệt khởi xướng,
Khổ không có hiện hữu.

748. Etamādīnavaṃ ñatvā dukkhaṃ ārambhapaccayā,
sabbārambhaṃ paṭinissajja anārambhavimuttino.

748. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do sự khởi động là duyên, sau khi từ bỏ mọi sự khởi động, đối với vị đã giải thoát khỏi sự khởi động, ...

745. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên khởi xướng,
Từ bỏ mọi khởi xướng,
Không khởi xướng, giải thoát.

749. Ucchinnabhavataṇhassa santacittassa bhikkhuno,
vitiṇṇo jātisaṃsāro natthi tassa punabbhavoti.
 

749. ... đối với vị tỳ khưu có hữu ái đã được trừ tuyệt, có tâm an tịnh, việc luân hồi tái sanh đã được triệt tiêu, đối với vị ấy không có sự hiện hữu lại nữa.”


 

746. Do đoạn tận hữu ái,
Tâm Tỷ-kheo tịch tịnh,
Vượt khỏi sanh luân chuyển
Vị ấy không tái sanh.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ āhārapaccayāti, ayamekānupassanā. Āhārānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.

‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do dưỡng chất là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của các dưỡng chất, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thức ăn", đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thức ăn không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

750. Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ āhārapaccayā,
āhārānaṃ nirodhena natthi dukkhassa sambhavo.

750. “Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do dưỡng chất là duyên. Do sự diệt tận của các dưỡng chất, không có sự hình thành của khổ.

747. Phàm khổ gì hiện hữu,
Tất cả duyên thức ăn,
Do đoạn diệt thức ăn,
Khổ không có hiện hữu.

751. Etamādīnavaṃ ñatvā dukkhaṃ āhārapaccayā,
sabbāhāraṃ pariññāya sabbāhāramanissito,

751. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do dưỡng chất là duyên, sau khi biết toàn diện về mọi dưỡng chất thì không bị lệ thuộc vào mọi dưỡng chất.

748. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên thức ăn,
Liễu tri mọi thức ăn,
Không y mọi thức ăn.

752. Ārogyaṃ sammadaññāya āsavānaṃ parikkhayā,
saṅkhāya sevī dhammaṭṭho saṅkhaṃ nopeti vedagūti.

752. Với sự nhận biết đúng đắn về vô bệnh (Niết Bàn), do sự hoàn toàn cạn kiệt của các lậu hoặc, vị có sự hành trì, sau khi phán xét, đứng vững ở Giáo Pháp; các bậc đạt được sự thông hiểu không đi đến sự phán xét.”

749. Nhờ chánh trí không bệnh,
Ðoạn diệt các lậu hoặc,
Thọ dụng các thức ăn,
Giác sát, trú Chánh pháp,
Vị đạt được trí tuệ,
Không rơi vào ước lượng.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ iñjitapaccayāti, ayamekānupassanā. Iñjitānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.

‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do sự loạn động là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của các sự loạn động, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên dao động", đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham dao động không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

753. Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ iñjitapaccayā,
iñjitānaṃ nirodhena natthi dukkhassa sambhavo.

753. “Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do sự loạn động là duyên. Do sự diệt tận của các sự loạn động, không có sự hình thành của khổ.

750. Phàm khổ gì hiện hữu,
Tất cả duyên dao động,
Do đoạn diệt dao động,
Khổ không có hiện hữu.

754. Etamādīnavaṃ ñatvā dukkhaṃ iñjitapaccayā,
tasmā hi ejaṃ vossajja saṅkhāre uparundhiya,
anejo anupādāno sato bhikkhu paribbajeti.

754. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do sự loạn động là duyên, chính vì thế, sau khi buông bỏ dục vọng, sau khi chận đứng các hành, vị tỳ khưu không còn dục vọng, không có nắm giữ, có niệm, nên ra đi du phương.”

751. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên dao động,
Do vậy, bỏ dao động,
Chận dừng lại các hành,
Không có gì chướng ngại
Không chấp thủ, chánh niệm,
Vị Tỷ-kheo bộ hành,
Khắp tất cả chân trời.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Nissitassa calitaṃ hotīti, ayamekānupassanā. Anissato na calatīti, ayaṃ dutiyānupassanā.

‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Người bị lệ thuộc có sự bị dao động,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Người không bị lệ thuộc không dao động,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:... "Ai có nương tựa, thì bị dao động", đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. "Ai không có nương tựa, không bị dao động", đây là pháp tùy quán thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

755. Anissito na calati nissito ca upādiyaṃ,
itthabhāvaññathābhāvaṃ saṃsāraṃ nātivattati.
 

755. “Người không bị lệ thuộc không dao động, và người bị lệ thuộc, trong khi chấp thủ sự hiện hữu này và sự hiện hữu khác, không vượt qua được luân hồi.

752. Không nương tựa, không động,
Nương tựa có chấp thủ,
Chấp hữu này, hữu khác,
Không chinh phục luân chuyển.

756. Etamādīnavaṃ ñatvā nissayesu mahabbhayaṃ,
anissito anupādāno sato bhikkhu paribbajeti.

756. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) nỗi sợ hãi lớn lao ở các sự lệ thuộc, vị tỳ khưu không bị lệ thuộc, không có nắm giữ, có niệm, nên ra đi du phương.”

753. Sau khi rõ biết được,
Nguy hiểm tai hại nầy,
Trong các sự nương tựa,
Có sợ hãi lớn lao,
Không nương tựa y chỉ,
Không chấp thủ, chánh niệm,
Vị Tỷ-kheo bộ hành,
Khắp tất cả chân trời.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Rūpehi bhikkhave āruppā santatarāti, ayamekānupassanā. Āruppehi nirodho santataroti, ayaṃ dutiyānupassanā.

‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Này các tỳ khưu, các trạng thái vô sắc an tịnh hơn các trạng thái sắc,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Sự diệt tận an tịnh hơn các trạng thái vô sắc,’ đây là sự quán xét thứ nhì.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có như thế nào?" Này các Tỷ-kheo "Các pháp vô sắc an tịnh hơn các sắc pháp", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Sự đoạn diệt an tinh hơn các pháp vô sắc", đây là pháp tùy quán thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

757. Ye ca rūpūpagā sattā ye ca āruppavāsino,
nirodhaṃ appajānantā āgantāro punabbhavaṃ.

757. “Và những chúng sanh nào đã đi đến sắc giới, và những người nào trú ở vô sắc giới, trong khi không biết toàn diện về tịch diệt (Niết Bàn), là những người đi đến sự hiện hữu lại nữa.

754. Chúng sanh thuộc sắc giới,
Chúng sanh trú vô sắc,
Không tuệ tri đoạn diệt,
Chúng đi đến tái sanh.

758. Ye ca rūpe pariññāya arūpesu susaṇṭhitā,
nirodhe ye vimuccanti te janā maccuhāyinoti.

758. Và những người nào sau khi biết toàn diện về sắc giới, đã khéo đứng vững ở vô sắc giới, những người nào được giải thoát ở tịch diệt (Niết Bàn), những người ấy có sự từ bỏ Tử Thần.”

755. Những ai liễu tri sắc,
Khéo an trú vô sắc,
Giải thoát trong đoạn diệt,
Họ từ bỏ sự chết.

Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā? Yaṃ bhikkhave sadevakassa lokassa samārakassa sabrahmakassa sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya idaṃ saccanti upanijjhāyitaṃ tadamariyānaṃ etaṃ musāti yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayamekānupassanā. Yaṃ bhikkhave sadevakassa lokassa samārakassa sabrahmakassa sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya etaṃ musāti upanijjhāyitaṃ tadamariyānaṃ etaṃ musāti yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayaṃ dutiyānupassanā.
 

‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Này các tỳ khưu, điều nào mà đối với thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người,được suy tưởng rằng: ‘Điều này là sự thật,’ điều ấy đấy đối với các bậc Thánh được nhìn thấy rõ bằng tuệ chân chánh đúng theo bản thể rằng: ‘Diều này là giả trá,’ đây là sự quán xét thứ nhất. Này các tỳ khưu, điều nào mà đối với thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người,được suy tưởng rằng: ‘Điều này là giả trá,’ điều ấy đấy đối với các bậc Thánh được nhìn thấy rõ bằng tuệ chân chánh đúng theo bản thể rằng: ‘Diều này là sự thật,’ đây là sự quán xét thứ hai.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có như thế nào?" Này các Tỷ-kheo, "Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: "Ðây là sự thật", cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này là hư vọng", đây là pháp tùy quán thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, "Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: "Ðây là hư vọng", cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này là chân thật", đây là pháp tùy quán thứ hai.

Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ etadavoca satthā:

(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

759. Anattani attamāniṃ passa lokaṃ sadevakaṃ,
niviṭṭhaṃ nāmarūpasmiṃ idaṃ saccanti maññati.

759. “Hãy nhìn xem thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, có sự hoan hỷ ở vô ngã (và) bị chìm đắm ở danh và sắc. Họ nghĩ rằng: ‘Điều này là sự thật.

756. Hãy xem thế giới nầy,
Với thế giới chư Thiên,
Hoan hỷ với phi ngã,
An trú trên danh sắc,
Nghĩ rằng danh sắc này
Là chân thật không ngụy.


760. Yena yena hi maññanti tato taṃ hoti aññathā,
taṃ hi tassa musā hoti mosadhammaṃ hi ittaraṃ.
 

760. Dẫu cho họ nghĩ thế nào, cái ấy trở thành cái khác so với chính nó. Chính cái ấy trở nên giả trá đối với nó, bởi vì nó có tính chất giả trá và ngắn ngủi.

757. Dầu họ nghĩ thế nào,
Khi danh sắc đổi khác,
Danh sắc là hư vọng,
Giả dối sống tạm bợ,

761. Amosadhammaṃ nibbānaṃ tadariyā saccato viduṃ,
te ve saccābhisamayā nicchātā parinibbutāti.

761. Niết Bàn là pháp không giả trá, các bậc Thánh đã biết điều ấy là sự thật. Những vị ấy, thật vậy, do sự lãnh hội về sự thật, không còn sự khao khát, được hoàn toàn tịch tịnh.”

758. Niết-bàn không hư ngụy,
Bậc Thánh chân thật biết,
Họ thắng tri chân thật,
Không ái dục, tịch tịnh.

Siyā aññenapi pariyāyena sammā dvayatānupassanāti iti ce bhikkhave, pucchitāro assu siyātissu vacanīyā, kathañca siyā? Yaṃ bhikkhave sadevakassa lokassa samārakassa sabrahmakassa sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya idaṃ sukhanti upanijjhāyitaṃ tadamariyānaṃ etaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayamekānupassanā. Yaṃ bhikkhave sadevakassa lokassa samārakassa sabrahmakassa sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya idaṃ dukkhanti upanijjhāyitaṃ tadamariyānaṃ etaṃ sukhanti yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayaṃ dutiyānupassanā.

‘Có thể có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn bằng một phương thức khác,’ này các tỳ khưu, nếu có những người hỏi như thế, những người ấy nên được nói như vầy: ‘Có thể.’ Và có thể như thế nào? ‘Này các tỳ khưu, điều nào mà đối với thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người, được suy tưởng rằng: ‘Điều này là lạc,’ điều ấy đấy đối với các bậc Thánh được nhìn thấy rõ bằng tuệ chân chánh đúng theo bản thể rằng: ‘Diều này là khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhất. Này các tỳ khưu, điều nào mà đối với thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người,được suy tưởng rằng: ‘Điều này là khổ,’ điều ấy đấy đối với các bậc Thánh được nhìn thấy rõ bằng tuệ chân chánh đúng theo bản thể rằng: ‘Diều này là lạc,’ đây là sự quán xét thứ hai.

 

Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có như thế nào?" Này các Tỷ-kheo, "Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: "Ðây là an lạc", cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này là khổ", đây là pháp tùy quán thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, "Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: "Ðây là khổ", cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này là lạc", đây là pháp tùy quán thứ hai.

Evaṃ sammā dvayatānupassino kho bhikkhave, bhikkhuno appamattassa ātāpino pahitattassa viharato dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ phalaṃ pāṭikaṅkhaṃ diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitāti. Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvā sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn như vậy, không bị xao lãng, có nhiệt tâm, có bản tánh cương quyết, một quả báu nào đó trong hai quả báu là điều chờ đợi: trí giải thoát ở đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai. Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

 

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

762. Rūpā saddā rasā gandhā phassā dhammā ca kevalā,
iṭṭhā kantā manāpā ca yāvatatthīti vuccati.

762. “Các sắc, các thinh, các vị, các hương, các xúc, và các pháp, tất cả là đáng mong, đáng yêu, và đáng mến khi nào chúng còn (có trạng thái) được gọi là ‘hiện hữu.’

759. Sắc, tiếng, hương, vị, xúc,
Tất cả những pháp này,
Khả lạc, hỷ, khả ý,
Khi nào chúng hiện hữu.

763. Sadevakassa lokassa ete vo sukhasammatā,
yattha cete nirujjhanti taṃ tesaṃ dukkhasammataṃ.

763. Đối với thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, các pháp này được công nhận là lạc, và nơi nào các pháp này được diệt tận, điều ấy đối với chúng được công nhận là khổ.

760. Thế giới với chư Thiên
Xem chúng là khả lạc,
Khi chúng bị hoại diệt,
Mới thấy chúng là khổ.
 

764. Sukhanti diṭṭhamariyehi sakkāyassuparodhanaṃ,
paccanīkamidaṃ hoti sabbalokena passataṃ.

764. Sự hoại diệt của bản thân này được các bậc Thánh xem là ‘lạc,’ điều (nhận thức) này của các bậc đang nhìn thấy là đối nghịch với tất cả thế gian.

761. Bậc Thánh thấy là lạc,
Khi có thân đoạn diệt,
Ðây hoàn toàn trái ngược,
Ðiều mọi giới được thấy.

765. Yaṃ pare sukhato āhu tadariyā āhu dukkhato,
yaṃ pare dukkhato āhu tadariyā sukhato viduṃ.1
 

765. Điều nào những kẻ khác đã nói là lạc, điều ấy các bậc Thánh đã nói là khổ. Điều nào những kẻ khác đã nói là khổ, điều ấy các bậc Thánh đã biết là lạc.

762. Ðiều người khác gọi lạc,
Bậc Thánh gọi là khổ,
Ðiều người khác gọi khổ,
Bậc Thánh biết là lạc,
 

766. Passa dhammaṃ durājānaṃ sampamūḷhettha aviddasu,
nivutānaṃ tamo hoti andhakāro apassataṃ.

766. Hãy nhìn xem Pháp khó nhận biết (Niết Bàn), ở đây những kẻ ngu muội không nhìn thấy. Sự tối tăm là dành cho những kẻ bị che đậy, bóng đêm là dành cho những kẻ không nhìn thấy.

Hãy xem pháp khó biết,
Kẻ không thấy mê mờ.

763. Kẻ bị che, tối tăm,
Kẻ không thấy, tối mù,


 

767. Satañca vivaṭaṃ hoti āloko passatāmiva,
santike na vijānanti magā dhammass’ akovidā.
 

767. Sự mở ra (Niết Bàn) là dành cho những người tốt lành, ví như ánh sáng là dành cho những người đang nhìn thấy. Những kẻ ngu không thông thạo Giáo Pháp không nhận thức được (dầu) ở gần bên.

Bậc thiện, được rộng mở,
Bậc thấy, được ánh sáng,
Kẻ ngu dầu có gần,
Cũng không biết con đường,
Cũng không có thiện xảo,
Ðối Chánh pháp Phật dạy.

768. Bhavarāgaparetehi bhavasotānusāribhi,
māradheyyānupannehi nāyaṃ dhammo susambudho.

768. Pháp này không dễ dàng giác ngộ bởi những kẻ bị quấy nhiễu bởi hữu ái, bởi những kẻ xuôi theo dòng chảy của hữu, bởi những kẻ đã đi vào tầm khống chế của Ma Vương.

764. Bị hữu tham chiến bại,
Bị trôi theo dòng hữu,
Rơi vào Ma chi phối,
Pháp này khó chánh giác.

769. Ko nu aññatramariyehi padaṃ sambuddhumarahati,
yaṃ padaṃ sammadaññāya parinibbanti anāsavāti.

769. Vậy người nào xứng đáng để giác ngộ vị thế (Niết Bàn) ngoại trừ các bậc Thánh? Với sự nhận biết đúng đắn về vị thế ấy, các ngài chứng đạt Niết Bàn, không còn lậu hoặc.”

765. Ai ngoài các bậc Thánh,
Xứng đáng đạo chánh giác.
Do chánh trí đạo ấy
Chứng vô lậu Niết-bàn.

Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti. Imasmiṃ kho pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne saṭṭhimattānaṃ bhikkhūnaṃ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsūti.
 

Đức Thế Tôn đã nói điều này. Được hoan hỷ, các vị tỳ khưu ấy thỏa thích lời dạy của đức Thế Tôn. Hơn nữa, trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu mươi tỳ khưu ấy đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc, do không còn chấp thủ.

Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỉ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi pháp này được giảng, tâm của hơn sáu mươi Tỷ-kheo giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

 

Dvayatānupassanā suttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Quán Xét Hai Khía Cạnh.

 

 

 

TASSUDDĀNAṂ

 

TÓM LƯỢC KINH NÀY

 

 

Saccaṃ upadhi avijjā ca saṅkhāraviññāṇapañcamaṃ,

phassavedaniyā taṇhā upādānarambhā āhārā,

iñjitaṃ calitaṃ rūpaṃ saccaṃ dukkhena soḷasāti.

 

Sự thật, mầm tái sanh, vô minh, các hành, và thức là thứ năm,

xúc, thọ, ái, thủ, sự khởi động, các dưỡng chất,

sự loạn động, sự bị dao động, sắc, sự thật, với khổ là mười sáu.

 

 

 

Mahāvaggo tatiyo.

 

Đại Phẩm là thứ ba.

 

 

 

TASSA VAGGASSUDDĀNAṂ

 

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

 

Pabbajjā ca padhānañca subhāsitañca pūraḷāsaṃ

māghasuttañca sabhiyo ca selo sallaṃ ca vuccati,

vāseṭṭho cāpi kokāli nālako dvayatānupassanā

dvādasetāni suttāni mahāvaggoti vuccatīti.

 

Việc xuất gia, sự nỗ lực, việc khéo nói, và phần bánh cúng tế,

và Kinh về vị Māgha, vị Sabhiya, vị Sela, và mũi tên được nói đến,

và vị Vāseṭṭha nữa, vị Kokāli, vị Nālaka, việc quán xét hai khía cạnh,

mười hai bài Kinh này gọi là Đại Phẩm.

 

 

   

 

IV. AṬṬHAKAVAGGO - PHẨM NHÓM TÁM

Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka

 

 

Lời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda

 

 

Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu

 

 

1. KĀMASUTTAṂ

 

 

1. KINH GIẢNG VỀ DỤC

 

 

1. KINH VỀ DỤC

 

770. Kāmaṃ kāmayamānassa tassa ce taṃ samijjhati,
addhā pītimano hoti laddhā macco yadicchati.

770. Đối với người ham muốn về dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, đương nhiên (người ấy) có ý vui mừng sau khi đã đạt được điều con người ước muốn.

766. Ai ao ước được dục,
Nếu dục được thành tựu,
Chắc tâm ý hoan hỷ,
Ðược điều con người muốn.

771. Tassa ce kāmayānassa chandajātassa jantuno,
te kāmā parihāyanti sallaviddhova ruppati.
 

771. Nếu đối với người ấy, --(tức là) đối với người đang ham muốn, đối với con người có sự mong muốn đã sanh khởi,-- các dục ấy bị suy giảm, thì (người ấy) bị khổ sở như là bị đâm xuyên bởi mũi tên.

767. Nếu người có dục ấy,
Ước muốn được sanh khởi,
Các dục ấy bị diệt,
Bị khổ như tên đâm.

772. Yo kāme parivajjeti sappasseva padā siro,
so ’maṃ visattikaṃ loke sato samativattati.

772. Người nào xa lánh các dục tựa như các bàn chân (xa lánh) đầu của con rắn, người ấy, có niệm, vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.

768. Ai tránh né các dục
Như chân tránh đầu rắn,
Chánh niệm vượt thoát được,
Ái triền này ở đời.

773. Khettaṃ vatthuṃ hiraññaṃ vā gavāssaṃ dāsaporisaṃ,
thiyo bandhū puthukāme yo naro anugijjhati.
 

773. Người nam nào thèm muốn ruộng, đất, hoặc vàng, gia súc, ngựa, tôi tớ, người hầu, người nữ, thân quyến, vô số các dục, ...

769. Người nào tham đắm dục,
Ruộng đất, vàng, bò, ngựa,
Người nô tỳ, phục vụ,
Nữ nhân và bà con.

774. Abalā naṃ balīyanti maddante naṃ parissayā,
tato naṃ dukkhamanveti nāvaṃ bhinnamivodakaṃ.

774. ... các (ô nhiễm) yếu ớt thống trị người ấy, các hiểm họa chà đạp người ấy; do việc ấy khổ đau đi theo người ấy tựa như nước (tràn vào) chiếc thuyền đã bị vỡ.

770. Như người không sức lực,
Bị các dục chinh phục,
Tai họa dẫm đạp nó,
Khổ đau bước theo nó,
Như nước ùa tràn vào,
Chiếc thuyền bị vỡ nát.

775. Tasmā jantu sadā sato kāmāni parivajjaye,
te pahāya tare oghaṃ nāvaṃ sitvāva pāragūti.
 

775. Do đó, người luôn luôn có niệm có thể xa lánh các dục, sau khi dứt bỏ chúng thì có thể vượt dòng nước lũ, tựa như sau khi tát cạn chiếc thuyền, là người đi đến bờ kia.

771. Do vậy người thường niệm,
Từ bỏ các loài dục,
Bỏ dục, vượt bộc lưu,
Tát thuyền đến bờ kia.

 

Kāmasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Giảng về Dục.

 

 
   

 

2. GUHAṬṬHAKASUTTAṂ

 

 

2. KINH NHÓM TÁM VỀ HANG

 

 

2. KINH HANG ĐỘNG TÁM KỆ

 

776. Satto guhāyaṃ bahunābhichanno
tiṭṭhaṃ naro mohanasmiṃ pagāḷho,
dūre vivekā hi tathāvidho so
kāmā hi loke na hi suppahāyā.

776. Bị dính mắc ở hang (thân xác), bị che đậy bởi nhiều (ô nhiễm), trong khi tồn tại, con người bị đắm chìm trong sự say mê (ngũ dục). Người thuộc hạng như thế ấy quả thật cách xa sự viễn ly, bởi vì các dục ở thế gian thật không dễ gì dứt bỏ.

772. Chúng sanh vào trong hang,
Chấp chặt bị bao trùm,
Người có thái độ vậy,
Chìm sâu trong si mê.
Hạnh viễn ly với nó,
Như vậy thật xa vời,
Các dục ở trong đời,
Không dễ gì đoạn tận.

777. Icchānidānā bhavasātabaddhā
te duppamuñcā na hi aññamokkhā,
pacchā pure vāpi apekkhamānā
ime va kāme purime va jappaṃ.

777. Có ước muốn là căn nguyên, bị trói buộc vào lạc thú ở hiện hữu, đang trông mong về sau này hoặc luôn cả trước đây, đang tham muốn các dục này hoặc các dục trước đây, những kẻ ấy là khó giải thoát, đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát.

773. Dục cầu làm nhân duyên,
Bị lạc hữu trói buộc,
Họ rất khó giải thoát,
Không thể có người khác,
Ðến giải thoát cho mình,
Họ cầu việc đã qua,
Họ mong việc chưa lại;
Họ tham đắm các dục,
Những dục này hiện tại,
Và những dục quá khứ.

778. Kāmesu giddhā pasutā pamūḷhā
avadāniyā te visame niviṭṭhā,
dukkhūpanītā paridevayanti
kiṃ su bhavissāma ito cutāse.

778. Bị thèm khát ở các dục, bị đeo níu, bị mê đắm, là những người thấp kém, họ đã đi theo lối sai trái. Bị dẫn đến khổ đau, họ than vãn: ‘Vậy chúng ta sẽ trở thành cái gì sau khi đã chết từ nơi đây?’

774. Ai tham đắm các dục,
Bị trí buộc si mê,
Họ xan tham keo kiết.
An trú trên bất chánh,
Khi rơi vào đau khổ,
Họ sầu muộn than khóc,
Ở đây sau khi chết,
Tương lai sẽ thế nào?

779. Tasmā hi sikkhetha idheva jantu
yaṃ kiñci jaññā visamanti loke,
na tassa hetu visamaṃ careyya
appaṃ hidaṃ jīvitaṃ āhu dhīrā.

779. Chính vì điều ấy, con người ở ngay tại đây (trong Giáo Pháp này) nên học tập, nên biết bất cứ điều gì là ‘sai trái’ ở thế gian, không nên làm điều sai trái do nhân của điều ấy, bởi vì các bậc sáng trí đã nói mạng sống này là ít ỏi.

775. Do vậy ở tại đây,
Con người cần học tập,
Những gì mình biết được,
Là bất chánh ở đời.
Do nhân duyên như vậy,
Mà sống không bất chánh,
Vì rằng bậc Thánh nói:
Ngắn thay, sanh mạng này.

780. Passāmi loke pariphandamānaṃ
pajaṃ imaṃ taṇhāgataṃ bhavesu,
hīnā narā maccumukhe lapanti
avītataṇhā se bhavābhavesu.

780. Ta nhìn thấy con người này, bị nhiễm tham ái trong các cõi, đang chao đảo ở thế gian. Những người thấp hèn, chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu, rên rỉ ở cửa miệng Tử Thần.

776. Ta thấy ở trên đời,
Loài Người run, sợ hãi,
Ði đến khát ái này,
Trong những loại sanh hữu.
Phàm những người thấp kém,
Than van trước miệng chết,
Chưa viễn ly khát ái,
Ðối với hữu, phi hữu.

781. Mamāyite passatha phandamāne
maccheva appodake khīṇasote,
etampi disvā amamo careyya
bhavesu āsattimakubbamāno.
 

781. Hãy nhìn xem những kẻ đang chao động về vật đã được chấp là của tôi tựa như những con cá ở chỗ ít nước, ở dòng chảy bị cạn kiệt. Và sau khi nhìn thấy điều ấy, nên sống không chấp là của tôi, không tạo nên sự vướng bận ở các hữu.

777. Hãy nhìn những người ấy,
Run sợ trong tự ngã,
Như cá chỗ ít nước,
Trong dòng sông khô cạn,
Thấy được sự kiện này,
Hãy sống không của ta,
Không làm sự việc gì,
Khiến tham đắm các hữu.

782. Ubhosu antesu vineyya chandaṃ
phassaṃ pariññāya anānugiddho,
yadattagarahī tadakubbamāno
na lippati diṭṭhasutesu dhīro.

782. Nên dẹp bỏ sự mong muốn ở cả hai thái cực, sau khi biết toàn diện về xúc thì không còn thèm muốn, bản thân chê trách điều nào thì không làm điều ấy, người sáng trí không nhơ bẩn ở những điều đã được thấy đã được nghe.

778. Hãy nhiếp phục ước muốn,
Ðối với hai cực đoan,
Nhờ liễu tri các xúc,
Không còn có tham đắm,
Cái gì tự ngã trách,
Cái ấy không có làm,
Bậc trí không bị nhớp,
Bởi những gì thấy nghe.

783. Saññaṃ pariññā vitareyya oghaṃ
pariggahesu muni nopalitto,
abbūḷhasallo caraṃ appamatto
nāsiṃsatī lokamimaṃ parañcāti.

783. Sau khi biết toàn diện về tưởng, có thể băng qua dòng lũ, bậc hiền trí không bị vấy bẩn ở các sự bám giữ, có mũi tên đã được lấy ra, không bị xao lãng trong khi sinh hoạt, không mong ước đời này và đời khác.

779. Do liễu tri các tưởng,
Vượt qua khỏi bộc lưu,
Bậc Mâu-ni không nhiễm,
Ðối với mọi chấp thủ,
Với mũi tên rút ra,
Sở hành không phóng dật,
Không cầu mong đời này,
Không mong ước đời sau.

 

Guhaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Nhóm Tám về Hang.

 

 

   

 

3. DUṬṬHAṬṬHAKASUTTAṂ

 

 

3. KINH NHÓM TÁM VỀ XẤU XA

 

 

3. KINH SÂN HẬN TÁM KỆ

 

784. Vadanti ve duṭṭhamanāpi eke
athopi ve saccamanā vadanti,
vādañca jātaṃ muni no upeti
tasmā muni natthi khilo kuhiñci.
 

784. Thật vậy, một số người nói (bôi nhọ) với tâm ý xấu xa. Quả vậy, một số người có tâm ý chân thật cũng nói (bôi nhọ). Bậc hiền trí không tiếp cận lời nói (bôi nhọ) đã khởi lên, bởi vậy bậc hiền trí không có rác rưởi ở bất cứ đâu.

780. Thật có một số người
Nói lên với ác ý,
Và thật cũng có người,
Nói lên ý chân thật.
Dầu có lời nói gì,
ẩn sĩ không liên hệ,
Do vậy bậc Mâu-ni,
Không chỗ nào hoang vu.

785. Sakaṃ hi diṭṭhiṃ kathamaccayeyya
chandānunīto ruciyā niviṭṭho,
sayaṃ samattāni pakubbamāno
yathā hi jāneyya tathā vadeyya.

785. Bị dẫn dắt bởi lòng mong muốn, đã đi theo sự ưa thích, trong khi tự mình làm cho (các quan điểm trở nên) đầy đủ, làm thế nào có thể vượt qua quan điểm của chính mình? Bởi vì người biết như thế nào thì sẽ nói như thế ấy.

781. Người ước muốn dắt dẫn,
Thiên trú điều sở thích,
Làm sao từ bỏ được,
Ðiều tà kiến của mình,
Khi tự mình tác thành,
Quan điểm riêng của mình,
Như điều nọ được biết,
Hãy để nó nói vậy.

786. Yo attano sīlavatāni jantu
anānupuṭṭho ca paresa pāvā,
anariyadhammaṃ kusalā tamāhu
yo ātumānaṃ sayameva pāvā.

786. Người nào, dầu không được hỏi đến, mà nói với những người khác về giới và phận sự của bản thân, người nào tự chính mình nói về bản thân, các bậc thiện xảo đã nói kẻ ấy là không có Thánh pháp.

782. Người không có ai hỏi,
Lại nói cho người khác,
Biết đến những giới cấm,
Của tự cá nhân mình.
Bậc thiện xảo nói rằng,
Như vậy không Thánh pháp,
Nếu ai tự nói lên
Lời tán thán tự ngã.

787. Santo ca bhikkhu abhinibbutatto
iti ’hanti sīlesu akatthamāno,
tamariyadhammaṃ kusalā vadanti
yassussadā natthi kuhiñci loke.
 

787. Và vị tỳ khưu an tịnh, có trạng thái đã được hoàn toàn diệt tắt, không khoe khoang về các giới rằng: ‘Tôi là thế này,’ đối với vị nào không có sự kiêu ngạo ở bất cứ đâu ở thế gian, các bậc thiện xảo nói vị ấy là có Thánh pháp.

783. Vị Tỷ-kheo an tịnh,
Sống hết sức tịch tịnh,
Khi tán thán giới đức,
Không nói "Tôi là vậy".
Bậc thiện xảo nói rằng
Như vậy là Thánh pháp
Với vị ấy đề cao,
Ở đời, không khởi lên.

788. Pakappitā saṅkhatā yassa dhammā
purakkhatā santi avīvadātā,
yadattanī passati ānisaṃsaṃ
taṃ nissito kuppapaṭiccasantiṃ,

788. Các pháp (quan điểm) của người nào được xếp đặt, được tạo tác, được chú trọng, là không trong sạch, (người ấy) nhìn thấy điều nào là việc lợi ích cho bản thân, rồi đã nương vào điều ấy, vào sự an tịnh bị thay đổi, thuận theo điều kiện.

784. Với những ai các pháp,
Ðược sửa soạn tác thành,
Ðược đặt ra phía trước,
Không phải không tranh luận,
Khi đã thấy lợi ích,
Trên tự thân của mình,
Y đấy, duyên dao động,
Ðạt được sự tịch tịnh.

789. Diṭṭhi nivesā na hi svātivattā
dhammesu niccheyya samuggahītaṃ,
tasmā naro tesu nivesanesu
nirassati ādisaticca dhammaṃ.

789. Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua sau khi đã suy xét điều đã được ôm giữ trong số các pháp (tà kiến). Vì thế, trong số các sự chấp chặt ấy, loài người rời bỏ và nắm giữ tà kiến (này đến tà kiến khác).

785. Ðối với các thiên kiến,
Không dễ gì vượt qua,
Thẩm sát các pháp xong,
Mới tác thành chấp trước.
Do vậy là con người,
Ðối với trú xứ ấy,
Có khi quyết từ bỏ,
Có khi chấp nhận Pháp.

790. Dhonassa hi natthi kuhiñci loke
pakappitā diṭṭhi bhavābhavesu,
māyañca mānañca pahāya dhono
sa kena gaccheyya anūpayo so.

790. Quả thật, đối với vị đã rũ sạch thì không có quan điểm được xếp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian. Vị đã rũ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn, thì bởi điều gì mà vị ấy có thể đi (tái sanh) khi vị ấy không có sự vướng bận?

786. Vị tẩy sạch loại bỏ,
Không tìm được ở đời,
Các kiến được sửa soạn,
Ðối với hữu, phi hữu.
Bỏ man trá, kiêu mạn,
Vị tẩy sạch loại bỏ,
Vị ấy đi với gì,
Vị ấy không chấp thủ.

791. Upayo hi dhammesu upeti vādaṃ
anūpayaṃ kena kathaṃ vadeyya,
attaṃ nirattaṃ na hi tassa atthi
adhosi so diṭṭhimidheva sabbanti.
 

791. Quả thật, người vướng bận tiếp cận sự tranh luận về các pháp. Với điều gì, bằng cách nào có thể nói về người không vướng bận? Bởi vì điều được nắm lấy và được rời bỏ là không có đối với vị ấy; vị ấy đã rũ bỏ mọi tà kiến ở ngay tại nơi đây.

787. Với ai có chấp thủ,
Bị chỉ trích trong Pháp,
Với ai không chấp thủ,
Lấy gì có thể nói?
Chính đối với vị ấy,
Ngã, phi ngã đều không,
Vị ấy đã tẩy sạch,
Mọi tà kiến ở đời.

 

Duṭṭhaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Nhóm Tám về Xấu Xa.

 

 

   

 

4. SUDDHAṬṬHAKASUTTAṂ

 

4. KINH NHÓM TÁM VỀ TRONG SẠCH

 

4. KINH THANH TỊNH TÁM KỆ

792. Passāmi suddhaṃ paramaṃ arogaṃ
diṭṭhena saṃsuddhi narassa hoti,
etābhijānaṃ paramanti ñatvā
suddhānupassīti pacceti ñāṇaṃ.

792. ‘Tôi nhìn thấy đối tượng trong sạch, tối thắng, không bệnh. Do việc nhìn thấy, con người có được sự thank khiết,’ trong khi biết rõ như thế, người đã biết (việc ấy) là ‘tối thắng,’ có sự quan sát đối tượng trong sạch, tin tưởng rằng (điều ấy) là trí tuệ.

788. Ta thấy vị thanh tịnh,
Vị tối thượng, không bệnh,
Sự thanh tịnh con người,
Với tri kiến, đạt được.
Nắm giữ quan điểm này.
Xem đấy là tối thượng,
Vị này sẽ xem trí,
Là tùy quán thanh tịnh.

793. Diṭṭhena ce suddhi narassa hoti
ñāṇena vā so pajahāti dukkhaṃ,
aññena so sujjhati sopadhīko
diṭṭhi hi naṃ pāva tathā vadānaṃ.

793. Nếu do nhìn thấy mà con người có được sự trong sạch, hoặc do nhận biết mà người ấy dứt bỏ khổ đau, thì người ấy--người còn mầm mống tái sanh--được trong sạch do (đạo lộ) khác (so với Thánh Đạo), chính tà kiến (thế ấy) đã mớm lời cho người ấy trong khi nói như thế.

789. Nếu thanh tịnh con người,
Do tri kiến đạt được,
Hay với trí vị ấy,
Từ bỏ sự đau khổ
Vị ấy có sanh y,
Ngoài Thánh đạo được tịnh,
Vị ấy nói như vậy,
Do tri kiến cá nhân.

794. Na brāhmaṇo aññato suddhimāha
diṭṭhe sute sīlavate mute vā,
puññe ca pāpe ca anūpalitto
attañjaho nayidha pakubbamāno.

794. Vị Bà-la-môn đã nói rằng sự trong sạch là không do (đạo lộ) khác, không liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, là người không bị vấy bẩn bởi phước và tội, buông bỏ điều đã được chấp giữ, không tạo ra (nghiệp gì) ở nơi đây.

790. Bà-la-môn không nói,
Ngoài Thánh đạo được tịnh,
Với điều được thấy nghe,
Giới đức, được thọ tưởng;
Với công đức, ác đức,
Vị ấy không nhiễm trước,
Từ bỏ mọi chấp ngã,
Không làm gì ở đời.

795. Purimaṃ pahāya aparaṃ sitāse
ejānugā te na taranti saṅgaṃ,
te uggahāyanti nirassajanti
kapīva sākhaṃ pamukhaṃ gahāya.

795. Buông bỏ cái trước rồi nương vào cái khác, đeo đuổi dục vọng, những người ấy không vượt qua sự quyến luyến. Họ nắm bắt rồi rời bỏ, tựa như con khỉ với việc nắm lấy cành cây trước mặt.

791. Từ bỏ tri kiến cũ,
Y chỉ tri kiến mới,
Ði đến sự tham đắm,
Không vượt qua ái dục;
Họ nắm giữ chấp trước,
Họ từ bỏ xa lánh,
Như khỉ thả cành này,
Rồi lại nắm cành khác,

796. Sayaṃ samādāya vatāni jantu
uccāvacaṃ gacchati saññasatto,
vidvā ca vedehi samecca dhammaṃ
na uccāvacaṃ gacchati bhūripañño.

796. Sau khi tự mình thọ trì các phận sự, con người đi đến chỗ cao chỗ thấp, bị dính mắc vào tưởng; còn người có sự hiểu biết, nhờ các sự hiểu biết sau khi thông hiểu pháp không đi đến chỗ cao chỗ thấp, là người có tuệ bao la.

792. Người tự mình chấp nhận,
Các chủng loại giới cấm,
Ði chỗ cao chỗ thấp,
Sống bị tưởng chi phối;
Người có trí rộng lớn,
Nhờ trí tuệ, quán pháp,
Có trí, không đi đến
Các pháp cao và thấp.

797. Sa sabbadhammesu visenibhūto
yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā,
tameva dassiṃ vivaṭaṃ carantaṃ
kenīdha lokasmiṃ vikappayeyya.

797. Vị ấy, người diệt đạo binh ở tất cả các pháp, về bất cứ điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác. Vị ấy, người có nhãn quan như thế, đang hành xử rõ ràng, với cái gì ở thế gian này có thể chi phối được vị ấy?

793. Vị ấy đạt thù thắng,
Trong tất cả các pháp,
Phàm có điều thấy, nghe,
Hay cảm thọ, tưởng đến;
Với vị tri kiến vậy,
Sống đời sống rộng mở,
Không bị ai ở đời,
Có thể chi phối được.

798. Na kappayanti na purekkharonti
accantasuddhīti na te vadanti,
adānaganthaṃ gathitaṃ visajja
āsaṃ na kubbanti kuhiñci loke.

798. Các vị ấy không sắp đặt, không chú trọng, không nói về ‘sự trong sạch tột cùng.’ Sau khi tháo gỡ sự trói buộc vào chấp thủ đã bị buộc trói, các vị không tạo lập sự mong mỏi ở bất cứ đâu ở thế gian.

794. Họ không tác thành gì,
Họ không đề cao gì,
Họ không có nói lên,
Ðây tối thắng thanh tịnh,
Không dính líu tham đắm,
Mọi chấp trước triền phược,
Họ không tạo tham vọng,
Bất cứ đâu ở đời.

799. Sīmātigo brāhmaṇo tassa natthi
ñatvā va disvā va samuggahītaṃ,
na rāgarāgī na virāgaratto
tassīdha natthi paramuggahītanti.
 

799. Vị Bà-la-môn, có sự vượt quá ranh giới, đối với vị ấy không có điều gì được ôm giữ sau khi đã biết và sau khi đã thấy, không có sự luyến ái với ái dục, không bị luyến ái ở pháp ly ái dục; đối với vị ấy, điều tối thắng được ôm giữ là không có ở nơi đây.

795. Với vị Bà-la-môn
Ðã vượt khỏi biên giới,
Sau khi biết và thấy,
Không có kiến chấp trước.
Tham ái không chi phối,
Cũng không tham, ly tham,
Vị ấy ở đời này,
Không chấp thủ gì khác.

 

Suddhaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Nhóm Tám về Trong Sạch.

 

 

   

 

5. PARAMAṬṬHAKASUTTAṂ

 

 

5. KINH NHÓM TÁM VỀ TỐI THẮNG

 

5. KINH TỐI THẮNG TÁM KỆ

800. Paramanti diṭṭhīsu paribbasāno
yaduttariṃ kurute jantu loke,
hīnāti aññe tato sabbamāha
tasmā vivādāni avītivatto.

800. Trong khi sống trong các tà kiến, (nghĩ rằng) ‘(Điều này) là tối thắng,’ con người làm nổi trội điều ấy ở thế gian, rồi đã nói tất cả những điều khác là ‘thấp hèn’ so với điều ấy, vì thế không vượt lên trên các sự tranh cãi.

796. Ai thiên trú trong kiến,
Xem kiến ấy tối thắng,
Ở đời đặt kiến ấy,
Vào địa vị tối thượng.
Người ấy nói tất cả,
Người khác là hạ liệt,
Do vậy không vượt khỏi,
Sự tranh luận ở đời.

801. Yadattanī passati ānisaṃsaṃ
diṭṭhe sute sīlavate mute vā,
tadeva so tattha samuggahāya
nihīnato passati sabbamaññaṃ.

801. Người nhìn thấy cái gì đó ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe, ở giới và phận sự, hoặc ở điều đã được cảm giác là sự lợi ích cho bản thân, sau khi ôm giữ chính cái (tà kiến) ấy về điều ấy, người ấy nhìn thấy mọi cái khác đều là hèn kém.

797. Khi nó thấy lợi ích,
Ðến với tự ngã nó,
Ðối với vật thấy nghe,
Giới đức hay thọ tưởng;
Vị ấy ở tại đấy,
Liền chấp trước nắm giữ,
Nó thấy mọi người khác,
Là hạ liệt thấp kém.

802. Taṃ vāpi ganthaṃ kusalā vadanti
yaṃ nissito passati hīnamaññaṃ,
tasmā hi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā
sīlabbataṃ bhikkhu na nissayeyya.

802. Hơn nữa, các bậc thiện xảo gọi điều ấy là sự trói buộc, người bị nương tựa vào điều ấy nhìn thấy cái khác là thấp hèn. Chính vì thế, vị tỳ khưu không nên nương tựa vào điều đã được thấy, điều đã được nghe, điều đã được cảm giác, hoặc vào giới và phận sự.

798. Người y chỉ kiến ấy,
Thấy người khác hạ liệt,
Bậc thiện nói như vậy,
Ðấy là sự trói buộc;
Do vậy đối thấy nghe,
Thọ, tưởng hay giới cấm,
Bậc Tỷ-kheo không có
Y chỉ, nương tựa vào.

803. Diṭṭhimpi lokasmiṃ na kappayeyya
ñāṇena vā sīlavatena vāpi,
samoti attānamanūpaneyya
hīno na maññetha visesi vāpi.
 

803. Cũng không nên hình thành quan điểm (nào nữa) ở thế gian dựa vào trí (chứng đắc) hoặc dựa vào giới và phận sự. Không nên tự nhủ bản thân là ‘ngang bằng,’ không nên nghĩ mình là thấp hèn hoặc là có sự đặc biệt.

799. Chớ có tác thành ra
Tri kiến ở trên đời,
Từ ở nơi chánh trí,
Hay từ nơi giới đức,
Không bận tâm so sánh,
Tự ngã bằng người khác,
Không có suy nghĩ đến,
Ðây "liệt " hay đây "thắng".

804. Attaṃ pahāya anupādiyāno
ñāṇepi so nissayaṃ no karoti,
sa ve viyattesu na vaggasārī
diṭṭhimpi so na pacceti kiñci.

804. Sau khi dứt bỏ điều đã được chấp giữ, không còn chấp thủ, vị ấy không tạo lập sự nương tựa dầu là ở trí. Quả vậy, giữa những người đã bị phân ly, vị ấy không theo phe nhóm, vị ấy không quay trở lại bất cứ tà kiến nào nữa.

800. Ðoạn tận, từ bỏ ngã,
Không chấp thủ sự gì,
Không tác thành, dựng nên,
Nương tựa ở nơi trí,
Chân thật giữa tranh chấp
Không theo phe phái nào,
Vị ấy không đi theo
Một loại tri kiến nào.

805. Yassūbhayante paṇidhīdha natthi
bhavābhavāya idha vā huraṃ vā,
nivesanā tassa na santi keci
dhammesu niccheyya samuggahītaṃ.

805. Đối với vị nào, ở đây, không có ước vọng về cả hai thái cực, về hữu và phi hữu, về đời này hay đời sau, đối với vị ấy, không có bất cứ các sự chấp chặt nào sau khi đã suy xét điều đã được ôm giữ trong số các pháp (tà kiến).

801. Với ai, hay cực đoan,
Không có hướng nguyện gì,
Với hữu và phi hữu,
Hay đời này đời sau,
Vị ấy không an trú,
Tại một trú xứ nào,
Từ bỏ mọi chấp thủ,
Ðối với tất cả pháp.

806. Tassīdha diṭṭhe va sute mute vā
pakappitā natthi aṇūpi saññā,
taṃ brāhmaṇaṃ diṭṭhimanādiyānaṃ
kenīdha lokasmiṃ vikappayeyya.

806. Sự nhận thức được xếp đặt liên quan đến điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác ở nơi đây, dầu là nhỏ nhoi, cũng không có đối với vị ấy; vị Bà-la-môn ấy không chấp thủ tà kiến, ở thế gian này đây với cái gì có thể chi phối được vị ấy?

802. Ðối vị ấy ở đây,
Những gì được thấy nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến,
Chút suy tưởng cũng không;
Vị Bà-la-môn ấy
Không chấp thủ tri kiến,
Không ai ở đời này
Có thể chi phối được.

807. Na kappyanti na purekkharonti
dhammāpi tesaṃ na paṭicchitāse,
na brāhmaṇo sīlavatena neyyo
pāraṃgato na pacceti tādīti.
 

807. (Các bậc A-la-hán) không sắp đặt, không chú trọng, luôn cả các pháp (tà kiến), đối với các vị ấy, đều không được chấp nhận. Vị Bà-la- môn không bị dẫn dắt đi bởi giới và phận sự, là bậc tự tại, đã đi đến bờ kia, không quay trở lại.

803. Họ không tác thành gì,
Họ không đề cao gì,
Các pháp không được họ,
Chấp trước nắm giữ gì
Không một Phạm chí nào,
Bị giới cấm dắt dẫn,
Ði đến bờ bên kia,
Vị ấy không trở lui.

 

Paramaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ. 

 

 

Kinh Nhóm Tám về Tối Thắng. 

 
   

 

6. JARĀSUTTAṂ

 

 

6. KINH VỀ SỰ GIÀ

 

 

6. KINH GIÀ

 

808. Appaṃ vata jīvitaṃ idaṃ
oraṃ vassasatāpi mīyati,
yo cepi aticca jīvati
atha kho so jarasāpi mīyati.

 

808. Quả thật, mạng sống này là ít ỏi, thậm chí kém hơn trăm tuổi cũng chết rồi. Nếu người nào vượt qua (hạn tuổi ấy) vẫn còn sống, người ấy rồi cũng chết vì già.

804. Sinh mạng này ngắn thay,
Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già.

809. Socanti janā mamāyite
na hi santā niccā pariggahā,
vinābhāvaṃ santamevidaṃ
iti disvā nāgāramāvase.
 

809. Loài người sầu muộn về vật đã được chấp là của ta, bởi vì các sự bám giữ được trường tồn là không có. Sự chia lìa này thật sự đang hiện diện, sau khi nhìn thấy như thế thì không nên sống đời tại gia.

805. Loài Người sầu vì ngã,
Mọi chấp thủ vô thường,
Trống không là đời này,
Thấy vậy sống không nhà.

810. Maraṇenapi taṃ pahīyati
yaṃ puriso mamidanti maññati,
etaṃ disvāna paṇḍito
na mamattāya nametha māmako.
 

810. Cái nào mà người suy nghĩ rằng: ‘Cái này là của tôi,’ cái ấy bị dứt bỏ cũng bởi sự chết. Sau khi nhìn thấy điều này, vị sáng suốt, là người thành tín, không nên thiên về trạng thái chấp là của tôi.

806. Vì loài Người nghĩ rằng
Cái này là của tôi,
Cái ấy bị sự chết,
Làm hoại diệt hư tàn.
Biết vậy, bậc Hiền trí,
Không gọi, không hướng đến,
Cái này ngã của ta,
Cái này là của ta.

811. Supinena yathāpi saṅgataṃ
paṭibuddho puriso na passati,
evampi piyāyitaṃ janaṃ
petaṃ kālakataṃ na passati.
 

811. Cũng giống như sự việc đã được gặp gỡ qua giấc chiêm bao, khi thức giấc, người không còn nhìn thấy, tương tự như thế, với người được yêu mến đã từ trần, đã quá vãng, thì không nhìn thấy nữa.

807. Như những gì hiện lên,
Trong giấc ngủ mộng mị,
Con người khi tỉnh dậy,
Không còn thấy được gì.
Cũng vậy ở đời này,
Người được ưa, ái luyến,
Rồi sẽ chết mất đi,
Không ai còn thấy được.

812. Diṭṭhāpi sutāpi te janā
yesaṃ nāmamidaṃ pavuccati,
nāmamevāvasissati
akkheyyaṃ petassa jantuno.

812. Những người ấy dầu đã được thấy, dầu đã được nghe, đề cập đến họ, tên gọi này được nói ra. Chỉ mỗi tên gọi sẽ còn ở lại, sẽ được nhắc đến đối với người đã từ trần.

808. Các loại hạng người ấy
Ðược thấy và được nghe,
Nên họ được gọi tên,
Tên này hay tên khác.
Với người đã chết đi,
Chỉ được gọi tên không,
Vì chỉ có tên suông,
Sẽ được còn tồn tại.

813. Sokaparidevamaccharaṃ
na jahanti giddhā mamāyite,
tasmā munayo pariggahaṃ
hitvā acariṃsu khemadassino.
 

813. Những người bị thèm khát ở vật đã được chấp là của ta không buông bỏ sầu muộn, than vãn, và bỏn xẻn. Do đó, các bậc hiền trí, với việc nhìn thấy sự an toàn, sau khi từ bỏ sự bám giữ, đã du hành.

809. Tham đắm cái của ta,
Họ không có từ bỏ,
Sầu khổ và than van,
Cùng xan tham keo kiết.
Do vậy bậc ẩn sĩ,
Sau khi bỏ chấp thủ,
Ðã sống một đời sống,
Thấy được sự an ổn.

814. Patilīnacarassa bhikkhuno
bhajamānassa vivittamāsanaṃ,
sāmaggiyamāhu tassa taṃ
yo attānaṃ bhavane na dassaye.

814. Ðối với vị tỳ khưu có hạnh sống tách ly, đang thân cận chỗ ngồi vắng vẻ, các vị đã nói rằng điều này là hợp nhất đối với vị ấy, vị ấy sẽ không thị hiện bản thân ở cảnh giới (tái sanh nào nữa).

810. Ðối với vị Tỷ-kheo
Sống thanh vắng một mình,
Sống tu tập tâm ý,
Hướng đến hạnh viễn ly,
Nếp sống vậy được nói,
Hòa hợp với vị ấy,
Và không nêu tự ngã,
Trong hiện hữu của mình.

815. Sabbattha munī anissito
na piyaṃ kubbati nopi appiyaṃ,
tasmiṃ paradevamaccharaṃ
paṇṇe vāri yathā na lippati.
 

815. Bậc hiền trí, không bị lệ thuộc vào tất cả các nơi, không tạo ra vật yêu mến cũng không tạo ra vật không yêu mến, than vãn và bỏn xẻn không gây bẩn ở vị ấy, giống như nước không gây bẩn ở lá sen.

811. Vị ẩn sĩ không tựa,
Không y chỉ một ai,
Không làm thành thương yêu,
Không tác thành ghét bỏ.
Do vậy trong sầu than,
Trong xan tham keo kiết,
Như nước trên lá cây,
Không dính ướt làm nhơ.

816. Udabindu yathāpi pokkhare
padume vāri yathā na lippati,
evaṃ muni no palippati
yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā.

816. Cũng giống như giọt nước ở lá sen, giống như nước không gây bẩn ở hoa sen, tương tự như thế bậc hiền trí không vấy bẩn ở những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác.

812. Giống như một giọt nước,
Không dính ướt hoa sen,
Như nước trên bông sen,
Khôn dính ướt làm nhơ.
Ðối với vật thấy nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến,
Cũng vậy bậc ẩn sĩ
Không dính ướt tham đắm.

817. Dhono na hi tena maññati
yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā,
nāññena visuddhimicchati
na hi so rajjati no virajjatī ”ti.
 

817. Thật vậy, vị đã rũ sạch không suy nghĩ theo lối ấy, tức là về những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, (cũng) không ước muốn sự thanh tịnh theo cách nào khác, bởi vì vị ấy không luyến ái, (cũng) không lìa luyến ái.

813. Do vậy bậc tẩy sạch,
Không có suy tư đến,
Ðiều được thấy được nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến.
Vị ấy muốn thanh tịnh,
Không có dựa gì khác,
Vị ấy không tham đắm,
Cũng không có ly tham.

 

Jarāsuttaṃ niṭṭhitaṃ. 

 

 

Dứt Kinh về Sự Già. 

 
   

 

7. TISSAMETTEYYASUTTAṂ

 

 

7. KINH VỀ TISSAMETTEYYA

 

7. KINH TISSAMETTEYYA

818. Methunamanuyuttassa (iccāyasmā tisso metteyyo)
vighātaṃ brūhi mārisa,
sutvāna tava sāsanaṃ
viveke sikkhissāma se.

818. “Thưa Ngài, xin Ngài hãy nói về sự tàn hại dành cho kẻ đeo bám việc đôi lứa. Sau khi lắng nghe lời dạy của Ngài, chúng con sẽ học tập về hạnh viễn ly,” (Đại đức Tissa Metteyya đã nói thế ấy).

814. Tissa Metteyya,
Tôn giả nói như sau:
Thế Tôn hãy nói lên,
Sự tai hại của người,
Ðắm say về dâm dục,
Sau khi nghe, chúng con
Sẽ học tập lời Ngài,
Lời dạy về viễn ly.

819. Methunamanuyuttassa (metteyyāti bhagavā)
mussate vāpi sāsanaṃ,
micchā ca paṭipajjati
etaṃ tasmiṃ anāriyaṃ.
 

819. (Đức Thế Tôn đã nói như vầy: “Này Metteyya,) đối với kẻ đeo bám việc đôi lứa, lời giảng dạy thậm chí còn bị quên lãng và là kẻ thực hành sai trái; điều này ở kẻ ấy là không thánh thiện.

815. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi này Metteyya,
Ai đắm say dâm dục,
Quên mất lời giảng dạy,
Rơi vào đường tà vạy,
Nếp sống ấy không thánh.

820. Eko pubbe caritvāna
methunaṃ yo nisevati,
yānaṃ bhantaṃ va taṃ loke
hīnamāhu puthujjanaṃ.

820. Sau khi sống một mình trước đây, kẻ nào (giờ) gần gũi việc đôi lứa, kẻ ấy ở thế gian, tựa như chiếc xe bị chao đảo, người ta đã gọi là kẻ phàm phu thấp hèn.

816. Ai trước sống một mình,
Nay rơi vào dâm dục,
Như xe bị nghiêng ngã,
Người ấy ở trong đời,
Ðược gọi là phàm phu,
Ðược gọi là hạ liệt.

821. Yaso kittiñca yā pubbe
hāyate vāpi tassa sā,
etampi disvā sikkhetha
methunaṃ vippahātave.

821. Danh vọng và tiếng tăm nào (đã có) trước đây, điều ấy của kẻ ấy (giờ) hiển nhiên cũng bị giảm thiểu. Sau khi nhìn thấy điều này, nên học tập nhằm dứt bỏ hẳn việc đôi lứa.

817. Tiếng tốt có từ trước,
Người ấy bị tổn giảm,
Thấy vậy hãy học tập,
Từ bỏ sự dâm dục.

822. Saṃkappehi pareto so
kapaṇo viya jhāyati,
sutvā paresaṃ nigghosaṃ
maṅku hoti tathāvidho.
 

822. Kẻ ấy, bị chi phối bởi các suy tư, trầm tư như là kẻ khốn khổ. Sau khi lắng nghe lời quở trách của những người khác, kẻ thuộc hạng như thế trở nên tủi hổ.

818. Chi phối bởi suy tư,
Trầm ngâm như kẻ nghèo,
Nghe tiếng trách người khác,
Như kẻ bị thất vọng.

823. Atha satthāni kurute
paravādehi codito,
esa khavassa mahāgedho
mosavajjaṃ pagāhati.
 

823. Rồi (kẻ ấy) tạo ra các vũ khí (các uế nghiệp), bị khiển trách bởi các lời nói của những người khác. Điều ấy, đối với kẻ này, quả là sự vướng mắc lớn lao; (kẻ ấy) lún sâu vào sự giả dối.

819. Bị người khác buộc tội,
Nó làm các đao kiếm,
Trở thành người tham lớn,
Chấp thủ điều vọng ngôn.

824. Paṇḍitoti samaññāto
ekacariyaṃ adhiṭṭhito,
athāpi methune yutto
mando va parikissati.

824. Đã được công nhận là ‘bậc sáng suốt,’ đã phát nguyện hạnh sống một mình, rồi cũng gắn bó vào việc đôi lứa, tựa như gã ngu khờ (kẻ ấy) bị sầu muộn.

820. Ðược danh là Hiền trí,
An trú sống một mình,
Nếu rơi vào dâm dục,
Sầu não như kẻ ngu.

825. Etamādīnavaṃ ñatvā
muni pubbāpare idha,
ekacariyaṃ daḷhaṃ kayirā
na nisevetha methunaṃ.
 

825. Sau khi biết được điều bất lợi này, ở đây bậc hiền trí trước đó và sau này, nên thực hành vững chải hạnh sống một mình, không nên gần gũi việc đôi lứa.

821. Thấy nguy hại như vậy,
Bậc ẩn sĩ trước sau,
Kiên trì sống cô độc,
Không thực hành dâm dục.

826. Vivekaṃ yeva sikkhetha
etadariyānamuttamaṃ,
na tena seṭṭho maññetha
sa ve nibbānasantike.

826. Nên học tập mỗi hạnh viễn ly, điều này đối với các bậc Thánh là tối thượng, với điều ấy không nên nghĩ (bản thân) là hạng nhất; vị ấy quả nhiên ở gần Niết Bàn.

822. Hãy học tập viễn ly,
Ðây hạnh thánh tối thượng,
Không nghĩ mình tối thắng,
Dầu gần được Niết-bàn.

827. Rittassa munino carato
kāmesu anapekkhino,
oghatiṇṇassa pihayanti
kāmesu gathitā pajāti.
 

827. Đối với bậc hiền trí đang sống, trống vắng (mọi ô nhiễm), không có sự trông mong các dục, đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ, người đời, bị buộc trói ở các dục, mong cầu (được như vị ấy)."

823. Sở hành bậc ẩn sĩ,
Trống không, không mong dục,
Bậc vượt khỏi bộc lưu,
Ðược các người ở đời,
Bị tham dục trói buộc,
Ganh tị và thèm muốn.

 

Tissameteyyasuttaṃ niṭṭhitaṃ. 

 

 

Dứt Kinh về Tissametteyya. 

 
   

 

8. PASŪRASUTTAṂ

 

 

8. KINH VỀ PASŪRA

 

8. KINH PASŪRA

828. Idheva suddhi iti vādiyanti
nāññesu dhammesu visuddhimāhu,
yaṃ nissitā tattha subhaṃ vadānā
paccekasaccesu puthū niviṭṭhā.

828. Họ (những kẻ theo tà kiến) nói rằng: ‘Chính ở đây là trong sạch.’ Họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác. Điều mà họ nương tựa, họ nói điều ấy là tốt đẹp. Phần đông đã đi theo những chân lý riêng biệt.

824. Ở đây chính thanh tịnh,
Họ thuyết giảng như vậy,
Họ nói trong pháp khác,
Không có sự thanh tịnh,
Họ nói chỗ y chỉ,
Ở đây là thanh tịnh,
Họ rộng rãi an trú,
Trong sự thật của mình.

829. Te vādakāmā parisaṃ vigayha
bālaṃ dahantī mithu aññamaññaṃ,
vadanti te aññasitā kathojjaṃ
pasaṃsakāmā kusalā vadānā.
 

829. Mong muốn tranh luận, những kẻ ấy sau khi chen vào hội chúng, từng đôi, chúng đánh giá lẫn nhau là ngu dốt. Dựa dẫm vào người khác, chúng nói lời bàn cãi, mong muốn lời ca ngợi, chúng nói (học thuyết) là tốt lành.

825. Những ai muốn tranh luận,
Sau khi vào hội chúng,
Họ công kích lẫn nhau,
Họ gọi nhau là ngu,
Họ đi đến người khác,
Và khởi lên tranh luận,
Họ muốn được tán thán,
Họ gọi chúng thiện xảo.

830. Yutto kathāyaṃ parisāya majjhe
pasaṃsamicchaṃ vinighāti hoti,
apāhatasmiṃ pana maṅku hoti
nindāya so kuppati randhamesī.

830. Kẻ gắn bó với sự phát biểu ở giữa hội chúng, trong khi ước muốn lời ca ngợi, thì trở nên lo lắng. Hơn nữa, khi bị bác bỏ thì trở nên xấu hổ, vì sự chê bai kẻ ấy bị bực tức, có sự tìm kiếm điểm thiếu sót.

826. Ham mê thích tranh luận,
Ở giữa các hội chúng,
Ước muốn được tán thán,
Họ sợ hãi thất bại,
Khi bị đánh thất bại,
Họ trở thành rủn chí,
Bị chê, họ nổi giận,
Kẻ tìm lỗi người khác.

831. Yamassa vādaṃ parihīnamāhu
apāsadaṃ pañhavīmaṃsakā se,
paridevati socati hīnavādo
upaccagā manti anutthunāti.

831. Họ đã nói rằng cuộc tranh luận của người này là hèn mọn, những vị xem xét câu hỏi đã bác bỏ. Người có cuộc tranh luận thấp hèn than vãn, sầu muộn, kể lể rằng: ‘Kẻ ấy đã vượt hẳn tôi.’

827. Khi các nhà thẩm sát,
Phê bình các câu hỏi,
Tuyên bố cuộc tranh luận,
Ði đến chỗ thất bại,
Kẻ nói lời hạ liệt,
Than khóc và sầu não,
Họ rên rỉ than van,
Nó đã đánh bại ta.

832. Ete vivādā samaṇesu jātā
etesu ugaghāti nighāti hoti,
evampi disvā virame kathojjaṃ
na haññadatthatthi pasaṃsalābhā.

832. Những sự tranh cãi này đã sanh khởi giữa các vị Sa-môn. Ở những việc này có sự hưng phấn và chán nản. Sau khi nhìn thấy luôn cả điều này, nên xa lánh sự bàn cãi, bởi vì không có lợi ích nào khác ngoài việc đạt được lời ca ngợi.

828. Giữa các vị Sa-môn,
Các tranh luận khởi lên,
Trong các tranh luận này,
Có chiến thắng chiến bại.
Do thấy rõ như vậy,
Không vui thích tranh luận
Dầu có được tán thán,
Cũng không lợi ích gì.

833. Pasaṃsito vā pana tattha hoti
akkhāya vādaṃ parisāya majjhe,
so taṃ hasatī unnamaticca tena
pappuyya tamatthaṃ yathāmano ahū.

833. Hoặc hơn nữa, kẻ được ca ngợi ở nơi ấy, sau khi đã nói lên lời tranh luận ở giữa hội chúng, kẻ ấy cười về điều ấy, hãnh diện vì điều ấy, sau khi đã đạt được mục đích ấy theo như ý định đã có.

829. Hay trong tranh luận này,
Nó được lời tán thán,
Sau khi đã nói lên,
Chính giữa các hội chúng.
Do vậy nó vui cười,
Nó tự hào kiêu hãnh,
Ðạt được mục đích ấy,
Như tâm ý nói lên.

834. Yā unnatī sāssa vighātabhūmi
mānātimānaṃ vadate paneso,
etampi disvā na vivādayetha
na hi tena suddhiṃ kusalā vadanti.
 

834. Cái nào là sự kiêu hãnh, cái ấy đối với kẻ ấy là vùng đất tiêu diệt. Hơn nữa, kẻ ấy nói một cách ngã mạn và ngã mạn thái quá. Sau khi nhìn thấy luôn cả điều này, không nên tranh cãi, các bậc thiện xảo nói sự trong sạch hiển nhiên là không do việc ấy.

830. Cái làm nó cống cao,
Cũng là đất hại nó,
Tuy vậy nó vẫn nói,
Lời cống cao kiêu mạn,
Khi thấy được như vậy,
Hãy đừng có tranh luận,
Bậc thiện xảo nói rằng,
Thanh tịnh không do vậy.

835. Sūro yathā rājakhādāya puṭṭho
abhigajjameti paṭisūramicchaṃ,
yeneva so tena palehi sūra
pubbeva natthi yadidaṃ yudhāya.

835. Giống như vị dũng sĩ, được chu cấp với thức ăn của nhà vua, đi đến, la hét, ước muốn có dũng sĩ đối địch. Này dũng sĩ, ngươi hãy đi đến nơi kẻ (dũng sĩ đối địch) ấy, quả thật trước đây đã không còn (ô nhiễm) gì để mà chiến đấu.

831. Cũng như bậc anh hùng,
Nuôi dưỡng đồ ăn vua,
La hét muốn tìm cầu,
Một địch thủ anh hùng,
Ôi anh hùng hãy tránh,
Chỗ nào có vị ấy,
Từ trước đã không có,
Sự đấu tranh như vậy.

836. Ye diṭṭhimuggayha vivādayanti
idameva saccanti ca vādayanti,
te tvaṃ vadassu na hi tedha atthi
vādamhi jāte paṭisenikattā.

836. Những kẻ nào sau khi học hỏi tà kiến, rồi tranh cãi và nói rằng: ‘Chỉ mỗi điều này là sự thật.’ Ngươi hãy nói với những kẻ ấy rằng: ‘Khi cuộc nói chuyện sanh khởi, người đối kháng với ngươi ở đây thật sự không có.’

832. Những ai chấp tri kiến,
Tranh luận về kiến ấy,
Tuyên bố thuyết giảng rằng:
Chỉ đây là sự thật,
Ông hãy nói với họ,
Ở đây không tranh luận,
Ông hãy nói thêm rằng
Ở đây không địch thủ.

837. Visenikatvā pana ye caranti
diṭṭhīhi diṭṭhiṃ avirujjhamānā,
tesu tvaṃ kiṃ labhetho pasūra
yesīdha natthi paramuggahītaṃ.
 

837. Hơn nữa, sau khi tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), những vị nào sống không chống đối quan điểm (này) bằng các quan điểm (khác), này Pasūra, ngươi có thể đạt được gì ở những vị ấy, là những vị ở đây không có điều gì được ôm giữ là tối thắng.

833. Cuộc chiến đấu đã tàn,
Những ai sống như vậy,
Không có sự va chạm,
Giữa kiến này kiến khác,
Hỡi này Pasùra!
Ông được gì nơi họ,
Với người không chấp thủ,
Một sự gì tối thượng?

838. Atha tvaṃ pavitakkamāgamā
manasā diṭṭhigatāni cintayanto,
dhonena yugaṃ samāgamā
na hi tvaṃ sakkhasi sampayātaveti.

Giờ ngươi đã đi đến sự suy xét trong khi dùng ý suy nghĩ về các tà kiến. Ngươi đã gặp gỡ sánh đôi với vị đã rũ sạch, ngươi quả không có khả năng để đi cùng.

834. Vậy Ông hãy đi đến,
Suy tư ngẫm nghĩ kỹ,
Với tâm ý suy tư,
Trên những loại tri kiến,
Hãy hoà đồng chung hợp,
Với bậc đã tẩy sạch,
Ông không có thể không
Cùng vị ấy tiến bước.

 

Pasūrasuttaṃ niṭṭhitaṃ. 
 

 

Dứt Kinh về Pasūra. 

 

 

9. MĀGANDIYASUTTAṂ

 

 

9. KINH VỀ MĀGANDIYA

 

 

(IX). KINH MĀGANDIYĀ

 

839. Disvāna taṇhaṃ aratiṃ ragañca
nāhosi chando api methunasmiṃ,
kimevidaṃ muttakarīsapuṇṇaṃ
pādāpi naṃ samphusituṃ na icche.

839. Sau khi nhìn thấy tham ái, bất mãn, và luyến ái,
ngay cả sự mong muốn về việc đôi lứa đã không có.
Vật được chứa đầy nước tiểu và phân này là cái gì đây?
Ta không muốn chạm đến nó dầu là bàn chân.

Thế Tôn:

835. Sau khi thấy khát ái,
Bất lạc và tham đắm,
Không thể có ưa muốn,
Ðối với sự dâm dục.
Sao, với bao đầy tràn,
Nước tiểu, phân uế này,
Ta không có ước muốn,
Với chân động chạm nó.

840. Etādisaṃ ce ratanaṃ na icchasi
nāriṃ narindehi bahūhi patthitaṃ,
diṭṭhiggataṃ sīlavatānujīvitaṃ
bhavūpapattiñca vadesi kīdisaṃ.

840. Nếu Ngài không ước muốn báu vật như thế này, một người nữ được mong ước bởi nhiều vị vua chúa, vậy Ngài nói về quan điểm, về giới, về phận sự, về cuộc sống, và về sự sanh lên của hiện hữu thuộc loại như thế nào?

Màgandiya:

836. Nếu Ngài không ước muốn:
Ngọc báu như thế này,
Nữ nhân được mong cầu,
Bởi rất nhiều đế vương,
Hãy nói như thế nào,
Là tri kiến của Ngài,
Giới cấm và sinh mạng,
Cùng sự hữu phát sanh
.

841. Idaṃ vadāmīti na tassa hoti (māgandiyāti bhagavā)
dhammesu niccheyya samuggahītaṃ,
passañca diṭṭhīsu anuggahāya
ajjhattasantiṃ pacinaṃ adassaṃ.
 

841. (Đức Thế Tôn nói: “Này Māgandiya,) sau khi đã suy xét trong số các pháp (tà kiến), đối với Ta đây không có điều gì đã được nắm bắt (nói rằng): ‘Ta nói điều này.’ Và trong khi nhìn thấy mà không bám níu vào các tà kiến, trong khi tìm tòi, Ta đã nhìn thấy sự an tịnh ở nội phần.”

Thế Tôn:

837. Thế Tôn liền trả lời,
Cho Màgandiya,
Với Ta không có nói,
Ta nói như thế này,
Sau khi quán sát kỹ
Sự chấp thủ trong pháp,
Trong tất cả tri kiến,
Ta không có chấp trước,
Ta thấy sự cất chứa,
Tịch tịnh trong nội tâm
.

842. Vinacchayā yāni pakappitāni (iti māgandiyo)
te ve muni brūsi anuggahāya,
ajjhantasantīti yametamatthaṃ.
kathaṃ nu dhīrehi paveditaṃ taṃ.

842. (Māgandiya nói rằng:) “Các phán đoán nào đã được xếp đặt, này bậc hiền trí, ngài nói về chính chúng mà không bám níu. Điều nào có ý nghĩa là ‘sự an tịnh ở nội phần,’ điều ấy đã được tuyên bố thế nào bởi các bậc sáng trí?”

Màgandiya:

838. Màgandiya nói:
Các lý thuyết quyết định,
Ngài nói vị ẩn sĩ,
Không nắm giữ thuyết nào.
Còn về ý nghĩa này,
Của hai chữ nội tịnh,
Thế nào là bậc Hiền trí,
Hiểu biết hai chữ ấy?

843. Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (māgandiyāti bhagavā)
sīlabbatenāpi na suddhimāha,
adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā
asīlatā abbatā nopi tena,
ete ca nissajja anuggahāya
santo anissāya bhavaṃ na jappe.

843. (Đức Thế Tôn nói: “Này Māgandiya,) người ta đã nói rằng sự trong sạch không phải do kiến, không phải do nghe, không phải do trí, không phải do giới và phận sự, cũng không phải do (không có) điều ấy là do không kiến, do không nghe, do không trí, do không giới, do không phận sự. Và sau khi không nương tựa, không bám níu vào các điều này, được an tịnh, không phụ thuộc, không còn tham muốn hữu.”

Thế Tôn:

839. Thế Tôn nói như sau:
Này Màgandiya,
Không phải từ tri kiến,
Từ truyền thống, từ trí,
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến.
Người ta nói như vậy,
Nhưng cũng không phải là
Không kiến, không truyền thống,
Không trí, không giới cấm,
Từ bỏ tất cả chúng,
Không chấp thủ sự gì,
Bậc thiện không y chỉ,
Không ước muốn sanh hữu.

844. No ce kira diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (iti māgandiyo)
sīlabbatenāpi visuddhimāha,
adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā1
asīlatā abbatā nopi tena,
maññāmahaṃ momuhameva dhammaṃ
diṭṭhiyā eke paccenti suddhiṃ.
 

844. (Māgandiya nói rằng:) “Nếu nói rằng sự trong sạch không phải do kiến, không phải do nghe, không phải do trí, không phải do giới và phận sự, cũng không phải do (không có) điều ấy, là do không kiến, do không nghe, do không trí, do không giới, do không phận sự, tôi nghĩ rằng giáo lý (ấy) thật mù mờ; một số người tin rằng trong sạch là do kiến.”

Màgandiya:

840. Màgandiya nói:
Nếu không từ tri kiến,
Từ truyền thống, từ trí,
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đưa đến.
Người ta nói như vậy,
Cũng không phải không kiến,
Không truyền thống, không trí,
Không giới luật giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến
Con nghĩ rằng pháp vậy,
Là pháp kẻ ngu si,
Vì rằng thật có người,
Nhờ kiến đến thanh tịnh.

845. Diṭṭhiñca nissāya anupucchamāno (māgandiyāti bhagavā)
samuggahitesu pamohamāga,
ito ca nāddakkhi aṇumpi saññaṃ
tasmā tuvaṃ momuhato dahāsi.

845. (Đức Thế Tôn nói: “Này Māgandiya,) sau khi nương tựa vào kiến, trong khi tìm hiểu, ngươi đã đi đến sự mê muội ở những điều đã được nắm bắt. Và từ đây ngươi đã không tiếp thâu sự nhận thức dầu là nhỏ nhoi; do đó ngươi ghi nhận (điều ấy) là mù mờ.”

Thế Tôn:

841. Thế Tôn nói như sau:
Này Màgandiya,
Nếu y vẫn tri kiến,
Ông còn tiếp tục hỏi,
Chính do những chấp thủ,
Ði đến sự ngu si,
Từ đó, Ông không thấy,
Một chút gì về tưởng,
Do vậy, Ông chớ thấy,
Tất cả là ngu si.

846. Samo vihesi uda vā nihīno
yo maññati so vivadetha tena,
tīsu vidhāsu avikampamāno
samo visesīti na tassa hoti.

846. Bằng nhau, đặc biệt, hoặc thấp hèn,
kẻ nào nghĩ vậy, kẻ ấy sẽ tranh cãi vì điều ấy.
Người không dao động ở ba trạng thái kiêu mạn ấy,
đối với người ấy không có (ý nghĩ): ‘bằng nhau’ hay ‘đặc biệt.’

842. Bằng ta thắng hơn ta,
Hay thấp kém hơn ta,
Ai suy nghĩ như vậy,
Do vậy đấu tranh khởi,
Ai không bị dao động
Bởi ba vấn đề ấy,
Như vậy, đối vị ấy,
Không bằng, không thù thắng.

847. Saccanti so brāhmaṇo kiṃ vadeyya
musāti vā so vivadetha kena,
yasmiṃ samaṃ visamaṃ vāpi natthi
sa kena vādaṃ paṭisaṃyujeyya.

847. Vị Bà-la-môn ấy có thể nói gì (cho rằng): ‘Đây là sự thật’?
Hoặc vị ấy có thể tranh cãi với ai rằng: ‘Đây là sai trái’?
Ở vị nào (ý niệm so sánh) bằng nhau hay không bằng nhau là không có,
vị ấy có thể vướng víu vào sự tranh luận với ai đây?
 

843. Sao Bà-la-môn ấy
Lại nói: "Ðây sự thật ",
Ðây chính là nói láo,
Ðể gây nên tranh luận,
Với ai không hề có,
Bằng nhau, không bằng nhau.
Do đâu nó có thể,
Mắc vào tranh luận được.

848. Okam pahāya aniketasārī
gāme akubbaṃ muni santhavāni,
kāmehi ritto apurekkharāno
kathaṃ na viggayha janena kayirā.

848. Sau khi từ bỏ chỗ ngụ, không có sự vương vấn nhà ở,
vị hiền trí không nên tạo ra các sự thân thiết ở trong làng,
trống vắng đối với các dục, không ước vọng,
không nên tạo ra cuộc nói chuyện cãi vã với người (khác).

844. Ðoạn tận mọi nhà cửa,
Sống là kẻ không nhà,
Ẩn sĩ không thân thiết,
Với một ai ở làng,
Trống không các dục vọng,
Không xem trọng sự gì,
Không nói chuyện tranh luận,
Với một ai ở đời.

849. Yehi vivitto vicareyya loke
na tāni uggayha vadeyya nāgo,
elambujaṃ kaṇṭakaṃ vārijaṃ yathā
jalena paṅkena canūpalittaṃ,
evaṃ munī santivādo agiddho
kāme ca loke ca anūpalitto.

849. Sống ở thế gian, (bản thân) đã được viễn ly với những điều nào, bậc long tượng sẽ không tiếp thu và sẽ không nói về những điều ấy. Giống như cây sen có gai (ở cuống), được sanh ra ở trong nước, không bị vấy bẩn bởi nước và bùn, tương tự như vậy, bậc hiền trí nói về sự an tịnh, không bị thèm khát, không bị vấy bẩn ở dục và ở thế gian.

845. Vị ấy sống viễn ly,
Mọi sự việc ở đời,
Bậc Long tượng không chấp,
Và không nói đến họ.
Như hoa sen có gai,
Sanh ra ở trong nước,
Không bị nước và bùn,
Mắc dính và thấm ướt.
Như vậy bậc ẩn sĩ,
Nói an tịnh, không tham,
Không bị dục và đời,
Mắc dính và thấm ướt.

850. Na vedagū diṭṭhiyā na mutiyā
sa mānameti na hi tammayo so,
na kammunā nopi sutena neyyo
anūpanīto sa nivesanesu.

850. Bậc hiểu biết sâu sắc không do tà kiến, không do cảm giác mà vị ấy đi đến ngã mạn, bởi vì vị ấy không có điều ấy là bản tính. Không do hành động, cũng không do điều đã được nghe mà vị ấy có thể bị dẫn đi, vị ấy không bị dẫn dắt vào trong các sự chấp chặt.

846. Bậc trí, không do kiến,
Cũng không do thọ tưởng,
Ði đến sự kiêu mạn,
Không có tham dự vào,
Không để cho hành động,
Cho truyền thống dắt dẫn,
Không để bị chi phối,
Trong trú xứ của ý.

851. Saññā virattassa na santi ganthā
paññā vimuttassa na santi mohā,
saññañca diṭṭhiñca ye aggahesuṃ
te ghaṭṭayantā vicaranti loketi.

851. Đối với vị đã xa lìa tưởng, các trói buộc không hiện hữu,
đối với vị đã được giải thoát do tuệ, các si mê không hiện hữu.
Và những người nào đã nắm giữ tưởng và tà kiến,
những người ấy sống, gây
va chạm, ở thế gian.

847. Người không ưa thích tưởng,
Không có bị trói buộc,
Vị được tuệ giải thoát,
Không có sự si mê,
Và những ai chấp thủ,
Tư tưởng và tri kiến,
Người ấy sống xung đột,
Với mọi người ở đời.

 

Māgandiyasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Māgandiya.

 

 

 

 

 

 

 

10. PURĀBHEDASUTTAṂ

 

 

10. KINH TRƯỚC KHI HOẠI RÃ

 

(X) KINH TRƯỚC KHI BỊ HỦY HOẠI

852. Kathaṃdassī kathaṃsīlo upasantoti vuccati,
taṃ me gotama pabrūhi pucchito uttamaṃ naraṃ.

852. “Có sự hiểu biết thế nào, có giới thế nào, được gọi là an tịnh? Thưa ngài Gotama, được hỏi về con người tối thượng, xin ngài hãy nói về vị ấy.”
 

Người hỏi:

848. Người sống đời an tịnh,
Kiến và giới thế nào?
Con hỏi Gotama,
Là bậc người tối thượng.

853. Vītataṇho purā bhedā (iti bhagavā) pubbamantamanissito,
vemajjhenupasaṅkheyyo tassa natthi purekkhataṃ.

853. (Đức Thế Tôn nói): “Vị có tham ái đã được xa lìa trước khi hoại rã (xác thân) không nương tựa vào thời gian trước (quá khứ), ở vào khoảng giữa (hiện tại) không thể phân hạng; việc mong ước là không có đối với vị ấy.”

Thế Tôn:

849. Thế Tôn đáp như sau:
Ly ái trước thân hoại,
Không y chỉ ban đầu,
Không y chỉ cuối cùng,
Không kể đến vật giữa,
Không có ưa thích nào.

854. Akkodhano asantāsī avikatthi akukkuco,
mantabhāṇī anuddhato sa ve vācāyato muni.
 

854. Không có sự giận dữ, không xao động, không khoe khoang, không hối tiếc, có lời nói khôn khéo, không cao ngạo, vị ấy quả thật là bậc hiền trí đã thu thúc về khẩu.

850. Không phẫn nộ, không sợ,
Không khoa đại, không hối,
Nói hòa nhã, không động,
Bậc ẩn sĩ thận ngôn.

855. Nirāsatti anāgate atītaṃ nānusocati,
vivekadassī phassesu diṭṭhīsu ca na nīyati.
 

855. Vị không có sự dính mắc ở tương lai, không sầu muộn về quá khứ, có cái nhìn tách biệt ở các xúc, và không bị dẫn đi bởi các tà kiến.

Không ước vọng tương lai,
Không sầu muộn quá khứ,
Thấy viễn ly giữa xúc,
Không để kiến dắt dẫn.

856. Patilīno akuhako apihālu amaccharī,
appagabbho ajeguccho pesuneyye ca no yuto.

856. Vị đã xa rời (các bất thiện pháp), không xảo trá, không mong cầu, không bỏn xẻn, không xấc xược, không gây nhờm gớm, và không can dự vào việc nói đâm thọc.

852. Sống riêng, không man trá,
Không thích, không xan tham,
Không xông xáo nhàm chán,
Không đi đến hai lưỡi.


857. Sātiyesu anassāvi atimāne ca no yuto,
saṇho ca paṭibhānavā na saddho na virajjati.

857. Vị không có sự buông xuôi theo các khoái lạc, không can dự vào việc ngã mạn thái quá, tế nhị, và có biện tài, không cả tin, không thờ ơ lãnh đạm.

853. Không mê vật khả ái,
Cũng không có quá mạn,
Nhu hòa, nhưng ứng biện,
Không vọng tín, không tham.

858. Lābhakamyā na sikkhati alābhe na ca kuppati,
aviruddho ca taṇhāya rasesu nānugijjhati.

858. Vị học tập không vì ham muốn lợi lộc và không bực tức khi không được lợi lộc, không chống đối và không thèm muốn các vị nếm do tham ái.

854. Không tu tập vì lợi,
Không được lợi, không sân,
Không bị ái kích thích,
Không đam mê các vị.

859. Upekkhako sadā sato na loke maññate samaṃ,
na visesī na nīceyyo tassa no santi ussadā.

859. Vị hành xả, luôn luôn có niệm, ở thế gian không nghĩ (bản thân) là ngang bằng, không (nghĩ) là có sự đặc biệt, không (nghĩ) là thấp hèn. Đối với vị ấy, không có các (thái độ) kiêu ngạo.

855. Thường trú xả, chánh niệm,
Ở đời, không nghĩ mình,
Bằng hơn hay thua người,
Vị ấy, không bồng bột.

860. Yassa nissayatā natthi ñatvā dhammaṃ anissito,
bhavāya vibhavāya vā taṇhā yassa na vijjati.

860. Đối với vị nào không có sự nương tựa—sau khi hiểu được Giáo Pháp (vị ấy) không còn nương tựa—đối với vị ấy tham ái ở hữu và phi hữu không tìm thấy.

856. Không y chỉ một ai,
Biết pháp, không y chỉ,
Vị ấy không có ái,
Ðối với hữu, phi hữu.

861. Taṃ brūmi upasantoti kāmesu anapekkhinaṃ,
ganthā tassa na vijjanti atāri so visattikaṃ.
 

861. Ta nói rằng vị ấy là “bậc an tịnh” không trông mong về các dục, đối với vị ấy các sự trói buộc không tìm thấy; vị ấy đã vượt qua sự vướng mắc.

857. Ta gọi vị an tịnh,
Không mong cầu các dục,
Vị ấy không triền phược,
Vượt khỏi các tham trước.

862. Na tassa puttā pasavo khettaṃ vatthuṃ ca vijjati,
attā vāpi nirattā vā na tasmiṃ upalabbhati.
 

862. Đối với vị ấy, những người con, các thú nuôi, ruộng vườn và đất đai đều không tìm thấy. Ngã (thường kiến) và luôn cả phi ngã (đoạn kiến) cũng không tồn tại ở vị ấy.

858. Vị ấy không con cái,
Thú vật, ruộng, đất đai,
Không có gì nắm lấy,
Là ta, là không ta.

863. Yena naṃ vajju puthujjanā atho samaṇabrāhmaṇā,
taṃ tassa apurekkhatā tasmā vādesu n’ ejati.

863. Vì việc nào mà các phàm phu, rồi các Sa-môn, và các Bà-la-môn có thể kết tội vị ấy, việc ấy là không được mong ước bởi vị ấy; vì thế vị ấy không run sợ ở những lời (buộc tội).

859. Phàm phu có buộc tội,
Hoặc Sa-môn, Phạm chí,
Vị ấy không quan tâm,
Trong lời nói không động,

864. Vītagedho amaccharī na ussesu vadate muni,
na samesu na omesu kappaṃ neti akappiyo.

864. Có sự thèm khát đã được xa lìa, không bỏn xẻn, bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ưu việt, không trong số những người ngang bằng, không trong số những người thấp kém, là vị không bị sắp đặt, không đi đến sự sắp đặt (bởi tham ái và tà kiến).

860. Không tham, không xan lẫn,
Ẩn sĩ không nói cao,
Không nói bằng, nói thấp,
Không đi đến thời kiếp,
Vì vị ấy vượt khỏi,
Sự chi phối thời kiếp.

865. Yassa loke sakaṃ natthi asatā ca na socati,
dhammesu ca na gacchati sa ve santoti vuccatīti.
 

865. Đối với vị nào, vật sở hữu ở thế gian là không có, vị không sầu muộn do tình trạng không có, và không đi đến (sự lầm lẫn) trong mọi pháp; thật vậy vị ấy được gọi là ‘bậc an tịnh.’”

861. Ai không có vật gì,
Không có, không sầu muộn,
Không đi đến các pháp,
Vị ấy gọi an tịnh.

 

Purābhedasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Trước Khi Hoại Rã.

 

 

 

   

 

11. KALAHAVIVĀDASUTTAṂ

 

 

11. KINH CÃI CỌ VÀ TRANH CÃI

 

(XI) KINH TRANH LUẬN

866. Kuto pahūtā kalahā vivādā
paridevasokā sahamaccharā ca,
mānātimānā sahapesunā ca
kuto pahūtā te tadiṅgha brūhi.

866. “Từ đâu khởi sanh các sự cãi cọ, các sự tranh cãi,
các sự than vãn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn,
các sự ngã mạn, và ngã mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm thọc?
Từ đâu chúng khởi sanh? Nào, xin Ngài hãy nói về điều ấy.”

Người hỏi:

862. Từ đâu được khởi lên,
Các tranh luận, đấu tranh,
Than van và sầu muộn,
Cùng với tánh xan tham,
Mạn và tăng thượng mạn,
Kể cả với hai lưỡi,
Từ đâu chúng sanh nhiều,
Mong Ngài hãy nói lên.

867. Piyā pahūtā kalahā vivādā
paridevasokā sahamaccharā ca,
mānātimānā sahapesunā1 ca
macchiriyayuttā kalahā vivādā
vivādajātesu ca pesunāni.

867. “Từ vật được yêu thương, khởi sanh các sự cãi cọ, các sự tranh cãi,
các sự than vãn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn,
các sự ngã mạn, và ngã mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm thọc.
Các sự cãi cọ, các sự tranh cãi là có liên quan đến sự bỏn xẻn.
Và ở các cuộc tranh cãi đã được sanh ra, có các việc nói đâm thọc.”

Thế Tôn:

863. Từ ái sanh khởi nhiều,
Các tranh luận, đấu tranh
Than van và sầu muộn,
Cùng với tánh xan tham,
Mạn và tăng thượng mạn,
Kể cả với hai lưỡi,
Các tranh luận, đấu tranh,
Ðều liên hệ xan tham,
Những lời nói hai lưỡi,
Khởi lên từ tranh luận.

868. Piyāsu lokasmiṃ kutonidānā
ye cāpi lobhā vicaranti loke,
āsā ca niṭṭhā ca kutonidānā
ye samparāyāya narassa honti.
 

868. “Vậy các vật được yêu thương ở thế gian có căn nguyên từ đâu, và cũng do tham chúng (loài người) sống ở thế gian? Mong mỏi và sự thành tựu (của mong mỏi),―(nhân) đưa đến đời sống kế tiếp của con người,―có căn nguyên từ đâu?”

Người hỏi:

864. Do những nhân duyên nào,
Khả ái sanh ở đời?
Hay những tham lam nào,
Ðược lưu hành ở đời?
Ước vọng và thành đạt,
Là do nhơn duyên nào?
Khiến loài Người được sanh,
Trong thời gian tương lai?

869. Chandanidānāni piyāni loke
ye cāpi lobhā vicaranti loke,
āsā ca niṭṭhā ca itonidānā
ye samparāyāya narassa honti.

869. “Các vật được yêu thương ở thế gian có mong muốn là căn nguyên, và cũng do tham chúng (loài người) sống ở thế gian. Mong mỏi và sự thành tựu (của mong mỏi),―(nhân) đưa đến đời sống kế tiếp của con người,―có căn nguyên từ đây (sự mong muốn).”

Thế Tôn:

865. Do ước muốn là nhân,
Khả ái sanh ở đời,
Hay với những tham lam,
Ðược lưu hành ở đời,
Ước vọng và thành đạt,
Do ước muốn làm nhân,
Khiến loài Người được sanh,
Trong thời gian tương lai.

870. Chando nu lokasmiṃ kutonidāno
vinicchayā vāpi kuto pahūtā,
kodho mosavajjañca kathaṃkathā ca
ye vāpi dhammā samaṇena vuttā.

870. “Vậy mong muốn ở thế gian có căn nguyên từ đâu?
Hoặc luôn cả các phán đoán được khởi sanh từ đâu?
Sự giận dữ, lời nói giả dối, và sự nghi ngờ,
hoặc luôn cả các pháp nào đã được bậc Sa-môn nói đến?”

Người hỏi:

866. Ước muốn sanh ở đời
Là do nhân duyên nào?
Hay cả những quyết định,
Do nhân nào được sanh?
Phẫn nộ và vọng ngữ,
Cùng với cả nghi hoặc,
Hoặc là những pháp nào,
Ðược Sa-môn nói đến?

871. Sātaṃ asātanti yamāhu loke
tamupanissāya pahoti chando,
rūpesu disvā vibhavaṃ bhavañca
vinicchayaṃ kurute jantu loke.

871. “‘Khoái lạc, không khoái lạc’ là điều người ở thế gian đã nói;
nương tựa vào điều ấy, mong muốn khởi sanh.
Sau khi nhìn thấy sự biến mất và sự hình thành ở các sắc,
con người ở thế gian tiến hành sự phán đoán.

Thế Tôn:

867. Khả ý, bất khả ý,
Ðược gọi vậy ở đời,
Do y chỉ nơi chúng,
Ước muốn được sanh khởi.
Sau khi thấy trong sắc,
Cả hữu và phi hữu,
Chúng sanh mới làm được,
Những quyết định ở đời.

872. Kodho mosavajjañca kathaṃkathā ca
etepi dhammā dvayameva sante,
kathaṃkathī ñāṇapathāya sikkhe
ñatvā pavuttā samaṇena dhammā.

872. Sự giận dữ, lời nói giả dối, và sự nghi ngờ,
các pháp này (sanh lên) trong khi cặp đôi có mặt.
Kẻ có sự nghi ngờ nên học tập theo lộ trình của trí.
Các pháp đã được bậc Sa-môn nói lên sau khi Ngài đã biết.”
 

868. Phẫn nộ và vọng ngữ,
Cùng với cả nghi hoặc,
Những pháp này lưu hành,
Khi pháp đôi có mặt,
Kẻ nghi hãy học tập,
Trên con đường chánh trí,
Sau khi biết các pháp,
Do Sa-môn thuyết giảng.

873. Sātaṃ asātañca kutonidānā
kismiṃ asante na bhavanti hete,
vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthaṃ
etaṃ me pabrūhi yatonidānaṃ.

873. “Khoái lạc và không khoái lạc có căn nguyên từ đâu?
Khi cái gì không có mặt, thì hai pháp này không có mặt?
Về sự biến mất và sự hình thành, điều nào là ý nghĩa,
xin ngài hãy nói cho tôi điều ấy có căn nguyên từ đâu?

Người hỏi:

869. Khả ý, bất khả ý,
Là do nhân duyên nào,
Do cái gì không có,
Họ không có hiện hữu.
Còn về ý nghĩa này,
Về phi hữu và hữu,
Hãy nói cho chúng con,
Nguyên nhân gì chúng sanh?

874. Phassanidānaṃ sātaṃ asātaṃ
phasse asante na bhavanti hete,
vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthaṃ
etaṃ te pabrūmi itonidānaṃ.

874. “Khoái lạc và không khoái lạc có xúc là căn nguyên.
Khi xúc không có mặt, hai pháp này không có mặt.
Về sự biến mất và sự hình thành, điều nào là ý nghĩa,
Ta nói cho ngươi điều ấy có căn nguyên từ đây.”

Thế Tôn:

870. Do nhân duyên cảm xúc,
Khả ý, bất khả ý,
Nếu không có cảm xúc,
Họ cũng không hiện hữu,
Còn về ý nghĩa này,
Về phi hữu và hữu,
Ta nói cho Ông rõ,
Nguyên nhân này, chúng sanh.

875. Phasso nu lokasmiṃ kutonidāno
pariggahā cāpi kuto pahūtā,
kismiṃ asante na mamattamatthi
kismiṃ vibhūte na phusanti phassā.

875. “Vậy xúc ở thế gian có căn nguyên từ đâu?
Và các sự bám giữ được khởi sanh từ đâu?
Khi cái gì không có mặt, thì không có trạng thái chấp là của tôi?
Khi cái gì bị biến mất, thì các xúc không xúc chạm?”

Người hỏi:

871. Còn cảm xúc ở đời,
Do nhân gì sanh khởi,
Hay các loại chấp thủ,
Do từ đâu sanh nhiều,
Do cái gì không có,
Ngã sở hữu không có,
Cái gì không hiện hữu,
Khiến không có cảm xúc?

876. Nāmañca rūpañca paṭicca phassā
icchānidānāni pariggahāni,
icchāya ’santyā na mamattamatthi
rūpe vibhūte na phusanti phassā.

876. “Các xúc tùy thuộc vào danh và sắc.
Và các sự bám giữ có ước muốn là căn nguyên.
Khi ước muốn không có mặt thì không có trạng thái chấp là của tôi.
Khi sắc bị biến mất, thì các xúc không xúc chạm.”

Thế Tôn:

872. Do duyên danh và sắc,
Nên có các cảm xúc,
Do nhân các ước muốn,
Nên có những chấp thủ,
Nếu ước muốn không có,
Ngã sở hữu cũng không,
Do sắc không hiện hữu,
Khiến không có cảm xúc.

877. Kathaṃ sametassa vibhoti rūpaṃ
sukhaṃ dukhaṃ vāpi kathaṃ vibhoti,
etaṃ me brūhi yathā vibhoti
taṃ jānissāma iti me mano ahū.

877. “Đối với vị đã thành đạt thế nào thì sắc biến mất?
Hạnh phúc hoặc luôn cả khổ đau biến mất thế nào?
Xin ngài hãy nói cho tôi việc ấy biến mất ra sao,
‘chúng tôi nên biết điều ấy,’ ý nghĩ của tôi đã là thế ấy.”

Người hỏi:

873. Sở hành như thế nào,
Sắc pháp không hiện hữu,
An lạc và khổ đau,
Thế nào không có mặt,
Hãy nói lên cho con,
Không có như thế nào,
Chúng con muốn được biết,
Tâm ý con nói vậy.

878. Na saññasaññī na visaññasaññī
nopi asaññī na vibhūtasaññī,
evaṃ sametassa vibhoti rūpaṃ
saññānidānā hi papañcasaṅkhā.

878. “Không phải là có tưởng ở tưởng, không phải là có tưởng ở tưởng sai lệch, cũng không phải là không có tưởng, không phải là có tưởng bị biến mất; đối với vị đã thành đạt như vậy thì sắc biến mất, bởi vì cái gọi là vọng tưởng có tưởng là căn nguyên.”

Thế Tôn:

874. Không có tưởng các tưởng,
Không có tưởng vô tưởng,
Phi tưởng cũng không có,
Vô hữu tưởng cũng không.
Do sở hành như vậy,
Sắc pháp không hiện hữu,
Do nhân duyên các tưởng,
Hý luận được hình thành
.

879. Yaṃ taṃ apucchimha akittayi no
aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi,
ettāvataggaṃ nu vadanti heke
yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se
udāhu aññampi vadanti etto.

879. “Điều mà chúng tôi đã hỏi ngài, ngài đã trả lời chúng tôi. Chúng tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin Ngài hãy nói về điều ấy. Có phải một số bậc sáng suốt ở nơi đây nói rằng sự trong sạch của chúng sanh đến chừng này là cao nhất, hay là họ còn nói về điều khác so với điều này?”

Người hỏi:

875. Ngài đã nói chúng con,
Những điều chúng con hỏi,
Có điều nữa hỏi Ngài,
Mong Ngài trả lời cho,
Bậc Hiền trí nói rằng,
Như thế này tối thượng,
Nghĩa là ở đời này,
Sự thanh tịnh Dạ-xoa
Hay là chúng muốn nói,
Có điều gì khác nữa?

880. Ettāvataggampi vadanti heke
yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se,
tesaṃ paneke samayaṃ vadanti
anupādisese kusalā vadānā.

880. “Một số bậc sáng suốt ở nơi đây nói rằng sự trong sạch của chúng sanh chỉ đến chừng này là cao nhất. Trái lại, một số trong số đó nói về sự tịch diệt (đoạn kiến), tuyên bố là thiện xảo về trạng thái không còn dư sót.”
 

Thế Tôn:

876. Bậc Hiền trí nói rằng,
Như thế là tối thượng,
Nghĩa là ở đời này,
Sự thanh tịnh Dạ-xoa,
Như có người nói rằng,
Chính là sự hoại diệt,
Lại một số thiện nhân,
Nói rằng: "Không dư y".

881. Ete ca ñatvā upanissitāti
ñatvā munī nissaye so vimaṃsī,
ñatvā vimutto na vivādameti
bhavābhavāya na sameti dhīroti.

881. Và sau khi nhận biết những người này là ‘những kẻ nương tựa,’
sau khi nhận biết, bậc hiền trí ấy có sự cân nhắc về các sự nương tựa,
sau khi nhận biết, bậc đã được giải thoát không đi đến tranh cãi,
bậc sáng trí không đi đến tái sanh ở hữu và phi hữu.”
 

877. Biết được những pháp ấy,
Ðều nương tựa y chỉ,
Biết vậy bậc ẩn sĩ,
Suy tư trên y chỉ,
Biết được, nên giải thoát,
Không đi đến tranh luận,
Bậc Hiền không tìm đến,
Cả hữu và phi hữu.

 

Kalahavivādasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Cãi Cọ và Tranh Cãi.

 

 

 

   

 

12. CŪḶAVIYŪHASUTTAṂ

 

12. KINH SỰ DÀN TRẬN NHỎ

 

(XII) NHỮNG VẤN ĐỀ NHỎ BÉ

882. Sakaṃ sakaṃ diṭṭhiparibbasānā
viggayha nānā kusalā vadanti,
yo evaṃ jānāti sa vedi dhammaṃ
idaṃ paṭikkosamakevalī so.

882. “Trong khi sống theo quan điểm của chính mình, nhiều vị khác nhau (tự xưng là) thiện xảo, giữ khư khư (quan điểm của mình), nói rằng: ‘Người nào biết như vầy, người ấy hiểu biết pháp. Kẻ khinh miệt điều này, kẻ ấy là không toàn hảo.’

Người hỏi:

878. Mỗi người tự thiên chấp,
Về tri kiến của mình,
Do chấp thủ sai biệt,
Bậc thiện xảo nói lên,
Ai biết như thế này,
Vị ấy biết được pháp,
Ai chỉ trích điểm này,
Vị ấy không hoàn toàn.

883. Evampi viggayha vivādiyanti
bālo paro akkusaloti cāhu,
sacco nu vādo katamo imesaṃ
sabbeva hime kusalāvadānā.

883. Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi, và đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, không thiện xảo.’ Vậy thì lời nói nào trong số này là sự thật, bởi vì tất cả những người này đều tuyên bố (họ) là thiện xảo?”

879. Do chấp thủ như vậy,
Họ tranh luận với nhau,
Họ nói kẻ khác ngu.
Không có khéo thiện xảo.
Trong những lời nói này,
Lời nói ai chân thật,
Hay tất cả vị này,
Là những bậc khéo nói?

884. Parassa ce dhammamanānujānaṃ
bālo mago hoti nihīnapañño,
sabbeva bālā sunihīnapaññā
sabbevime diṭṭhiparibbasānā.
 

884. “Nếu không thừa nhận pháp của người khác,
(kẻ ấy) là ngu si, là loài thú, có tuệ thấp kém,
tất cả quả là những kẻ ngu si, có tuệ vô cùng thấp kém,
tất cả những người này quả đang sống theo quan điểm (của mình).

Thế Tôn:

880. Nếu không có chấp thuận,
Pháp của các người khác,
Nói kẻ khác là ngu,
Tuệ như vậy thấp kém.
Tất cả là ngu si,
Có tuệ thật thấp kém.
Tất cả tri kiến này.
Ðều chỉ là thiên chấp.

885. Sandiṭṭhiyā ceva na cevadātā
sa suddhapaññā kusalā mutīmā,
na tesaṃ koci parihīnapañño
diṭṭhi hi tesampi tathā samattā.

885. Và nếu do quan điểm của mình, những kẻ không trong sạch
trở nên có tuệ thanh tịnh, thiện xảo, có sự nhận thức,
không ai trong số họ là có tuệ hoàn toàn thấp kém,
bởi vì quan điểm của họ cũng đã đạt đến bản thể thật.

 

881. Nếu các cuộc tranh luận,
Ðược tri kiến gạn lọc,
Trí tuệ được thanh tịnh,
Thiện xảo trí sáng suốt,
Họ không có một ai,
Là trí tuệ hạ liệt,
Và tri kiến của họ,
Ðược hoàn toàn viên mãn.

886. Na cāham etaṃ tathīyanti brūmi
yamāhu bālā mithu aññamaññaṃ,
sakaṃ sakaṃ diṭṭhimakaṃsu saccaṃ
tasmā hi bāloti paraṃ dahanti.

886. Nhưng Ta không nói rằng: ‘Điều ấy là bản thể thật,’
là điều mà các kẻ ngu đã nói đối chọi lẫn nhau.
Họ đã tạo lập quan điểm của chính mình là chân lý,
chính vì điều ấy, họ đã xem người khác là ‘kẻ ngu si.’”

882. Ta không có nói rằng:
"Ðây chính là sự thật".
Các người ngu với nhau,
Cùng nhau nói như vậy,
Với tri kiến tự mình,
Họ nói là chân thật,
Do vậy các người khác,
Ðược họ xem là ngu.

887. Yamāhu saccaṃ tathiyanti eke
tamāhu aññe tucchaṃ musāti,
evampi viggayha vivādiyanti
tasmā na ekaṃ samaṇā vadanti.

887. “Điều mà một số kẻ đã nói: ‘Là sự thật, là bản thể thật,’
những kẻ khác đã nói điều ấy ‘Là rỗng không, là sai trái.’
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, họ tranh cãi.
Vì sao các vị Sa-môn nói không đồng nhất?”

Người hỏi:

883. Một số người nói rằng:
"Ðây mới là sự thật"
Họ nói các người khác,
Là trống không, giả dối,
Do chấp thủ như vậy,
Họ tranh luận đấu tranh,
Vì sao bậc Sa-môn,
Không cùng nói một lời?

888. Ekaṃ hi saccaṃ na dutiyamatthi
yasmiṃ pajā no vivade pajānaṃ,
nānā te saccāni sayaṃ thunanti
tasmā na ekaṃ samaṇā vadanti.
 

888. “Bởi vì Sự Thật chỉ có một, không có cái thứ nhì,
trong khi nhận biết về Sự Thật ấy, chúng sanh sẽ không tranh cãi.
Chúng tự mình nói về các sự thật khác nhau;
vì thế, các vị Sa-môn nói không đồng nhất.”

Thế Tôn:

884. Sự thật chỉ có một,
Không sự thật thứ hai,
Người hiểu biết tranh luận,
Với người có hiểu biết,
Nhưng chân thật họ khen,
Chỉ sự thật của họ,
Do vậy bậc Sa-môn,
Không cùng nói một lời.

889. Kasmā nu saccāni vadanti nānā
pavādiyā se kusalā vadānā,
saccāni sutāni bahūni nānā
udāhu te takkamanussaranti.

889. “Nhưng vì sao họ—những nhà biện luận tuyên bố (mình) là thiện xảo—lại nói về các sự thật khác nhau? Phải chăng các sự thật đã được nghe là có nhiều và khác nhau? Hay là các vị ấy theo đuổi sự suy tư (của riêng mình)?”

Người hỏi:

885. Vì sao họ nói lên,
Những chân thật sai khác,
Vì sao bậc thiện xảo,
Lại nói lời tranh luận,
Nếu các sự thật ấy,
Là nhiều và sai biệt,
Hay họ chỉ nhớ đến,
Những suy luận của họ.

890. Na heva saccāni bahūni nānā
aññatra saññāya niccāni loke,
takkañca diṭṭhīsu pakappayitvā
saccaṃ musāti dvayadhammamāhu.
 

890. “Đương nhiên là không có nhiều sự thật khác nhau và thường còn ở thế gian, ngoại trừ (các sự thật) do tưởng (tạo ra). Và sau khi xếp dặt sự suy tư về các quan điểm (do chúng tạo ra), chúng đã nói về hai pháp là: ‘Đúng và sai.’

Thế Tôn:

886. Thật sự các sự thật,
Không có nhiều sai biệt,
Từ các luồng tư tưởng,
Về thường còn ở đời,
Do họ suy nghĩ đến,
Tư tưởng các tri kiến,
Họ nói có hai pháp,
Sự thật và giả dối.

891. Diṭṭhe sute sīlavate mute vā
ete ca nissāya vimānadassī,
vinicchaye ṭhatvā pahassamāno
bālo paro akkusaloti cāha.
 

891. Liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, sau khi nương tựa vào các điều này, rồi có sự coi khinh (người khác), sau khi đứng vững ở các phán đoán, trong lúc hớn hở, (kẻ ấy) đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, là không thiện xảo.’

887. Các pháp được thấy nghe,
Ðược giữ giới, thọ tưởng,
Họ y cứ pháp này,
Họ suy tư, nhìn thấy,
An trú các quyết định,
Họ chê cười người khác,
Họ nói các người khác,
Là ngu si bất thiện.

892. Yeneva bāloti paraṃ dahāti
tenātumānaṃ kusaloti cāha,
sayamattanā so kusalāvadāno
aññaṃ vimāneti tatheva pāvā.

892. Bởi chính lý do nào mà kẻ ấy xem người khác là ‘ngu si,’
thì bởi lý do ấy kẻ ấy đã nói về bản thân là ‘thiện xảo.’
Kẻ ấy, trong khi tự mình tuyên bố chính mình là thiện xảo,
rồi khinh chê người khác, và đã phát biểu y như thế.


 

888. Vì rằng đối người khác,
Nó xem là ngu si,
Tự mình gọi chính mình,
Là thiện xảo tốt đẹp,
Do chính mình khen mình,
Vị ấy gọi thiện xảo,
Khinh thường các người khác,
Lời người ấy là vậy.

893. Atisāradiṭṭhiyā so samatto
mānena matto paripuṇṇamānī,
sayameva sāmaṃ manasābhisitto
diṭṭhīhi sā tassa tathā samattā.

893. Với quan điểm vượt quá giới hạn, kẻ ấy được thỏa mãn,
bị say đắm vì ngã mạn, có sự tự cao là toàn thiện,
rồi bằng tâm ý, tự mình đăng quang cho chính mình;
quan điểm ấy của kẻ ấy đã được tiếp nhận như thế.

889. Vị ấy quá say mê,
Với tri kiến của mình,
Nên trở thành kiêu mạn,
Viên mãn tự ý mình,
Tự mình với tâm ý,
Làm lễ quán đảnh mình,
Do vậy, bị say mê,
Trong tri kiến của mình.

894. Parassa ce hi vacasā nihīno
tumo sahā hoti nihīnapañño,
atha ce sayaṃ vedagū hoti dhīro
na koci bālo samaṇesu atthi.

894. Bởi vì, nếu do lời nói của kẻ khác mà trở thành thấp kém,
thì bản thân, do điều ấy, (cũng) trở thành có tuệ thấp kém.
Còn nếu do (lời nói) của mình mà trở thành người thông hiểu, sáng trí,
thì không có bất cứ người nào là kẻ ngu trong số các vị Sa-môn.

890. Nếu người khác nói rằng:
Nó là hạng hạ liệt.
Như vậy đối tự mình,
Kẻ kia cũng liệt tuệ,
Nếu tự nó sáng suốt,
Bậc Hiền trí hiểu biết,
Không có ai ngu si,
Giữa các bậc Sa-môn.

895. Aññaṃ ito yābhivadanti dhammaṃ
aparaddhā suddhimakevali te,
evampi tithyā puthuso vadanti
sandiṭṭhirāgena hi tebhirattā.
 

895. Những kẻ nào thuyết về pháp nào khác so với điều này,
những kẻ ấy bị thất bại về (đạo lộ) trong sạch, họ không toàn hảo.
Các kẻ ngoại đạo cũng nói như vậy theo kiểu cách riêng,
bởi vì họ bị nhiễm nặng do sự luyến ái với quan điểm của mình.

891. Những ai tuyên bố pháp,
Sai khác với pháp này,
Ði ngược lại thanh tịnh,
Không là người hoàn toàn,
Như vậy các ngoại đạo,
Tuyên bố thật rộng rãi,
Do lòng tham tri kiến,
Họ quá sức đam mê.

896. Idheva suddhiṃ itivādiyanti
nāññesu dhammesu visuddhimāhu,
evampi titthyā puthuso niviṭṭhā
sakāyane tattha daḷhaṃ vadānā.

896. ‘Chỉ nơi đây có sự trong sạch,’ họ nói như thế ấy.
Họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác.
Các kẻ ngoại đạo cũng đã gầy dựng như vậy theo kiểu cách riêng
về đường lối của họ, trong khi nói một cách khẳng khái về điều ấy.

892. Những ai tuyên bố rằng,
Chính đây là thanh tịnh,
Họ nói không thanh tịnh,
Trong các pháp sai khác.
Như vậy các ngoại đạo,
An trú thật rộng rãi,
Họ kiên trì tuyên bố,
Con đường riêng của mình.

897. Sakāyane cāpi daḷhaṃ vadāno
kamettha bāloti paraṃ daheyya,
sayameva so medhagaṃ āvaheyya
paraṃ vadaṃ bālamasuddhidhammaṃ.

897. Và trong khi nói một cách khẳng khái về đường lối của họ,
người nào khác ở đây mà kẻ ấy có thể xem là ‘ngu si’?
Kẻ ấy tự chính mình đem lại sự gây gỗ,
trong khi nói kẻ khác là ngu si, là có pháp không trong sạch.

893. Ai kiên trì tuyên bố,
Con đường riêng của mình,
Sao ở đây có thể,
Nói người khác là ngu?
Vị ấy tự chê mình,
Ðem lại tiếng liệt tuệ,
Người khác nói nói ngu,
Không được pháp thanh tịnh.

898. Vinicchaye ṭhatvā sayaṃ pamāya
uddhaṃ so lokasmiṃ vivādameti,
hitvāna sabbāni vinicchayāni
na medhagaṃ kurute jantu loketi.

898. Sau khi đứng vững ở sự phán đoán, sau khi ước lượng bản thân,
kẻ ấy đi đến sự tranh cãi ở thế gian nhiều hơn.
Sau khi từ bỏ tất cả các sự phán đoán,
con người không tạo ra sự gây gỗ ở thế gian.”

894. An trú trên quyết định,
Tự mình lượng sức người
Vị ấy ở trên đời,
Chỉ tăng thêm tranh luận,
Ai từ bỏ tất cả,
Mọi quyết định, chủ trương,
Không bị người ở đời,
Chê là kẻ liệt tuệ
.

 

Cūḷaviyūhasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Sự Dàn Trận Nhỏ.

 

 
   

 

13. MAHĀVIYŪHASUTTAṂ

 

 

13. KINH SỰ DÀN TRẬN LỚN

 

 

(XIII) NHỮNG VẤN ĐỀ TO LỚN

899. Ye kecime diṭṭhi paribbasānā
idameva saccanti vivādayanti,
sabbeva te nindamanvānayanti
atho pasaṃsampi labhanti tattha.

899. “Bất cứ những người nào, trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân), tranh cãi rằng: ‘Chỉ điều này là chân lý,’ có phải tất cả những người ấy đều mang lại sự chê trách, hay họ cũng đạt được sự khen ngợi về việc ấy?”

Người hỏi:

895. Với những ai thiên vị,
Ðối với những tri kiến này,
Chỉ đây là sự thật,
Họ cãi cọ tranh luận,
Tất cả những người ấy,
Ðem lại sự chỉ trích,
Hay chính tại ở đây,
Họ được lời tán thán?

900. Appaṃ hi etaṃ na alaṃ samāya
duve vivādassa phalāni brūmi,
evampi disvā na vivādayetha
khemābhipassaṃ avivādabhūmiṃ.

900. “Bởi vì việc (ca ngợi) này là nhỏ nhoi, không đủ để đưa đến sự yên lặng. Ta nói đến hai kết quả của sự tranh cãi.[1] Và sau khi nhìn thấy như vậy, thì không nên tạo ra sự tranh cãi, trong khi nhận thấy vùng đất không tranh cãi là an toàn (Niết Bàn).


[1] khen chê, thắng thua, v.v... (SnA. ii, 557).

Thế Tôn:

896. Ðây chỉ là nhỏ bé,
Không đủ đem an tịnh,
Ta nói về hai quả
Của các loại đấu tranh.
Sau khi thấy như vậy,
Chớ có nên tranh luận,
Nên thấy rằng an ổn,
Không phải đất tranh luận.

901. Yā kācimā sammutiyo puthujjā
sabbā ’va etā na upeti vidvā,
anūpayo so upayaṃ kimeyya
diṭṭhe sute khantimakubbamāno.

901. Bất cứ những thỏa thuận chung nào được sanh lên từ số đông, bậc đã hiểu biết không tiếp cận tất cả những điều ấy. Trong khi không thể hiện sự chấp nhận ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe, vị ấy, không có sự vướng bận, tại sao lại đi đến với sự vướng bận?

 

 

 

897. Phàm những thế tục này,
Ðược sanh giữa phàm phu,
Bậc trí không dựa vào,
Tất cả thế tục này,
Ðã không có quan tâm,
Sao nay tìm quan tâm,
Sao có thể kham nhẫn,
Với vật được thấy nghe.

902. Sīluttamā saññamenāhu suddhiṃ
vataṃ samādāya upaṭṭhitā se,
idh' eva sikkhema athassa suddhiṃ
bhavūpanītā kusalā vadānā.

902. Những kẻ chủ trương giới là tối thượng đã nói sự trong sạch là do sự tự chế ngự. Sau khi thọ trì phận sự, họ duy trì (nghĩ rằng): ‘Chúng ta hãy học tập ở lãnh vực này thôi, rồi sẽ có sự trong sạch;’ họ bị dẫn đến hữu trong khi tuyên bố (mình) là thiện xảo.

 

898. Bậc xem giới tối thượng,
Nói tịnh nhờ chế ngự,
Chấp thủ giới cấm xong,
Họ an trú như vậy.
Ở đây họ tu tập,
Do đây được thanh tịnh,
Họ chỉ khéo nói năng,
Họ bị hữu dắt dẫn.

903. Sace cuto sīlavatato hoti
sa vedhatī kammaṃ virādhayitvā,
sa jappatī patthayatīdha suddhiṃ
satthā va hīno pavasaṃ gharamhā.

903. Nếu bị hư hỏng về giới và phận sự,
kẻ ấy run rẩy sau khi thất bại về hành động,
kẻ ấy tham muốn, ước nguyện sự trong sạch ở nơi này,
ví như người bị bỏ lại bởi đoàn xe trong khi sống xa nhà.
 

899. Nếu có ai vi phạm,
Giới hạnh và giới cấm,
Người ấy sẽ run sợ,
Vì sở hành khiếm khuyết.
Ở đây người ấy than,
Cố gắng được thanh tịnh,
Như lữ hành lạc đoàn,
Như kẻ bỏ gia đình.

904. Sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ
kammañca sāvajjanavajjametaṃ,
suddhiṃ asuddhinti apatthayāno
virato care santimanuggahāya.

904. Hoặc là sau khi đã dứt bỏ tất cả giới và phận sự,
cùng hành động có tội hoặc không có tội ấy,
trong khi không ước nguyện về ‘sự trong sạch hay không trong sạch,’
đã lìa bỏ, vị ấy sống, không nắm bắt sự an tịnh (do tà kiến).
 

900. Ðối với giới cấm thủ,
Sau khi đoạn tất cả,
Cùng với các sở hành,
Có tội,không có tội,
Không còn có cố gắng,
Thanh tịnh, không thanh tịnh,
Hãy sống hạnh viễn ly,
Không chấp thủ an tịnh.

905. Tamūpanissāya jigucchitaṃ vā
athavāpi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā,
uddhaṃsarā suddhimanutthunanti
avītataṇhā se bhavābhavesu.


 

905. Sau khi nương tựa vào điều đã bị chán ghét ấy (khổ hạnh),

hoặc vào điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác,

những kẻ chủ trương luân hồi hướng thượng[1] nói về sự trong sạch,

chúng chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu.


[1] uddhaṃsarā: những vị này có quan điểm không hành động (SnA. ii, 558). Mahāniddesa cho biết có bốn hạng thuyết về uddhaṃsarā và giải thích rằng những vị này chủ trương sự trong sạch đạt được thông qua tái sanh luân hồi (Nidd. i, 315; TTPV tập 35, trang 431).

 

901. Người y chỉ khổ hạnh,
Người y chỉ nhàm chán,
Kẻ dựa vào nghe thấy,
Hay dựa vào thọ tưởng,
Họ là hạng nói lớn,
Tán thán sự thanh tịnh,
Chưa đoạn được tham ái,
Ðối với hữu, phi hữu.

906. Patthayamānassa hi jappitāni
pavedhitaṃ vāpi pakappitesu,
cutūpapāto idha yassa natthi
sa kena vedheyya kuhiṃva jappe.

906. Bởi vì đối với những người đang ước nguyện, các sự tham muốn
hoặc sự run sợ về các điều đã được (họ) xếp dặt.
Ở đây, đối với vị nào tử và sanh là không có,
vị ấy có thế run rẩy vì cái gì, có thể tham muốn về cái gì?
 

902. Với ai có nỗ lực,
Cầu mong và ham muốn,
Họ mới phải run sợ,
Với những kiến của mình,
Với những ai ở đời,
Không có sanh và chết,
Do gì, khiến họ sợ,
Họ tham vọng cái gì?

907. Yamāhu dhammaṃ paramanti eke
tameva hīnanti panāhu aññe,
sacco nu vādo katamo imesaṃ
sabbeva h’ ime kusalā vadānā.


907. Pháp nào mà một số vị đã nói là ‘tối cao,’
trái lại, những vị khác đã nói về chính pháp ấy là ‘thấp kém;’
vậy trong số những vị này, lời nói nào là sự thật,
bởi vì tất cả các vị này đều tuyên bố (mình) là thiện xảo?

Người hỏi:

903. Có những người tuyên bố,
Pháp này là tối thượng,
Nhưng người khác lại nói,
Pháp ấy là hạ liệt.
Ai nói lời chân thật,
Giữa hai hạng người này,
Hay tất cả hạng này,
Ðều là hạng khéo nói?

908. Sakaṃ hi dhammaṃ paripuṇṇamāhu
aññassa dhammaṃ pana hīnamāhu,
evampi viggayha vivādayanti
sakaṃ sakaṃ sammutimāhu saccaṃ.

908. Bởi vì họ đã tuyên bố pháp của chính mình là hoàn hảo,
hơn nữa, họ đã tuyên bố pháp của người khác là thấp kém.
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi,
và đã tuyên bố quan điểm riêng của từng cá nhân là sự thật.
 

904. Với pháp tự của mình,
Nói pháp này viên mãn
Chỉ trích pháp người khác,
Là thấp kém hạ liệt,
Do chấp thủ như vậy,
Họ luận tranh đấu tranh,
Mọi thế tục tự mình,
Họ nói là chân thật.

909. Parassa ce vambhayitena hīno
na koci dhammesu visesi assa,
puthū hi aññassa vadanti dhammaṃ
nihīnato samhi daḷhaṃ vadānā.

909. Nếu là thấp kém do việc bị khinh miệt của người khác,
thì không có pháp nào là đặc biệt trong số các pháp,
bởi vì số đông tuyên bố pháp của người khác
là thấp hèn, trong khi nói một cách chắc chắn về (pháp) của mình.

Thế Tôn:

905. Nếu có bị người khác,
Khinh rẻ là hạ liệt,
Như vậy giữa các pháp,
Không gì thù thắng sao?
Kẻ phàm phu nói rằng
Pháp người khác hạ liệt,
Cương quyết tự đề cao,
Pháp mình không hạ liệt.

910. Sadhammapūjā ca panā tatheva
yathā pasaṃsanti sakāyanāni,
sabbeva vādā tathiyā bhaveyyuṃ
sudhī hi tesaṃ paccattameva.

910. Họ ngợi khen đường lối của chính mình như thế nào,
thì việc cúng dường đến học thuyết của họ sẽ là y như vậy.
Tất cả các học thuyết có thể là đúng đắn,
bởi vì sự trong sạch của họ chỉ liên quan đến cá nhân.

906. Như mọi người tôn thờ,
Chánh pháp của tự mình,
Giống như họ tán thán,
Mọi sở hành bản thân,
Tất cả những lời nói
Trở thành lời chân thật,
Sự thanh tịnh đối họ,
Tự mỗi người tác thành.

911. Na brāhmaṇassa paraneyyamatthi
dhammesu niccheyya samuggahītaṃ,
tasmā vivādāni upātivatto
na hi seṭṭhato passati dhammamaññaṃ.

911. Sau khi suy xét về điều đã được ôm giữ trong số các pháp (tà kiến), đối với vị Bà-la-môn, không có việc bị dẫn dắt bởi người khác. Do điều ấy, vị Bà-la-môn vượt lên trên các sự tranh cãi, bởi vì vị Bà-la-môn nhìn thấy học thuyết khác là không tối thắng.

907. Với người Bà-la-môn,
Không người khác lãnh đạo,
Sau khi đã nghiên cứu,
Chấp thủ trong các pháp,
Do vậy nên vị ấy
Vượt khỏi các tranh luận,
Không thấy pháp người khác,
Có thể thù thắng hơn.

912. Jānāmi passāmi tatheva etaṃ
diṭṭhiyā eke paccenti suddhiṃ,
addakkhi ce kimhi tumassa tena
atisitvā aññena vadanti suddhiṃ.

 

912. (Nói rằng): ‘Tôi biết, tôi thấy điều ấy chắc chắn là như thế,’
một số tin rằng sự trong sạch là do việc thấy.
Nếu đã nhìn thấy, điều gì có được cho bản thân với việc (thấy) ấy?
Sau khi sai sót, chúng nói về sự trong sạch theo cách khác.


 

908. Họ nói: "Tôi thấy, biết,
Cái này là như vậy".
Họ đi đến quan điểm,
Thanh tịnh nhờ tri kiến,
Vị ấy đã thấy vậy,
Cần gì kiến người khác,
Vượt qua được quan điểm,
Thanh tịnh nhờ pháp khác.

913. Passaṃ naro dakkhiti nāmarūpaṃ
disvāna vā ñassati tāni meva,
kāmaṃ bahuṃ passatu appakaṃ vā
na hi tena suddhiṃ kusalā vadanti.

913. Một người, trong khi nhìn, sẽ nhìn thấy danh và sắc,
hoặc sau khi nhìn thấy thì sẽ biết được mỗi chúng mà thôi.
Hãy để người ấy nhìn nhiều hay ít theo ý thích,
các bậc thiện xảo hẳn nhiên không nói sự trong sạch là do điều ấy.

909. Người có mắt thấy được,
Cả danh và cả sắc,
Sau khi thấy được họ,
Sẽ biết họ là vậy,
Hãy để họ được thấy,
Các dục nhiều hay ít,
Bậc thiện xảo không nói,
Thanh tịnh là nhờ dục.

914. Nivissavādī na hi subbināyo
pakappitaṃ diṭṭhi purekkharāno,
yaṃ nissito tattha subhaṃ vadāno,
suddhiṃ vado tattha tathaddasā so.

914. Trong khi sùng bái quan điểm đã được xếp dặt,
kẻ đã chấp chặt vào học thuyết quả thật không dễ hướng dẫn.
Nương tựa vào cái gì thì nói điều tốt đẹp về cái ấy,
với lời tuyên bố về sự trong sạch, kẻ ấy đã nhìn thấy sự thật ở nơi ấy.

910. Người đã gọi cuồng tín,
Không đưa đến thanh tịnh,
Vì đã có thiên vị,
Với tri kiến tác thành,
Y chỉ nơi cái gì,
Nơi đấy là tinh sạch,
Người tuyên bố thanh tịnh,
Thấy ở đấy như vậy.

915. Na brāhmaṇo kappamupeti saṅkhaṃ
na diṭṭhisārī napi ñāṇabandhu,
ñatvā ca so sammatiyo puthujjā
upekkhati uggaṇhanti maññe.

915. Sau khi cân nhắc, vị Bà-la-môn không tiếp cận sự sắp đặt (của tham ái và tà kiến), không có sự hùa theo quan điểm, cũng không có sự thân thiết với các (thắng) trí. Và sau khi biết các sự đồng thuận được sanh lên từ số đông, vị ấy thản nhiên (nói rằng): ‘Hãy để những kẻ khác tiếp thu.’
 

911. Phạm chí không rơi vào,
Thời gian và ước lượng,
Không theo các tri kiến,
Không bà con với trí,
Biết được các thế tục,
Do phàm phu chấp thủ,
Các người khác học hỏi,
Vị ấy sống hỷ xả.

916. Visajja ganthāni munīdha loke
vivādajātesu na vaggasāri,
santo asantesu upekkhako so
anuggaho uggaṇhantimaññe.

916. Sau khi tháo gở các sự trói buộc ở thế gian này, bậc hiền trí

không hùa theo phe nhóm ở các cuộc tranh cãi đã được sanh lên.

Vị ấy thản nhiên, an tịnh giữa những người không an tịnh,

không tiếp thu, (nói rằng): ‘Hãy để những kẻ khác tiếp thu.’

 

912. Không chấp thủ triền phược,
ẩn sĩ sống ở đời,
Giữa tranh luận khởi lên,
Không theo phe phái nào,
Sống an tịnh, hỷ xả,
Giữa những người không tịnh,
Các người khác học hỏi,
Vị ấy sống không học.

917. Pubbāsave hitvā nave akubbaṃ
na chandagū nopi nivissavādī,
sa vippamutto diṭṭhigatehi dhīro
na lippati loke anattagarahī.

917. Sau khi từ bỏ các lậu hoặc trước đây, không tạo ra những lậu hoặc mới, không là người đi theo sự (tác động của) mong muốn, cũng không phải là kẻ đã chấp chặt vào học thuyết, vị ấy đã được giải thoát khỏi các tà kiến, là bậc sáng trí, không bị nhơ bẩn ở thế gian, không có sự chê trách bản thân.

913. Từ bỏ lậu hoặc cũ,
Không tạo lậu hoặc mới,
Không đi đến ước muốn,
Không cuồng tín chấp thủ,
Vị Hiền trí như vậy,
Thoát khỏi các tà kiến,
Không tham dính ở đời,
Không bị ngã chỉ trích.

918. Sa sabbadhammesu visenibhūto
yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā,
sa pannabhāro muni vippayutto
na kappiyo nūparato na patthiyoti.

 918. Vị ấy là người diệt đạo binh ở tất cả các pháp (tà kiến),

về bất cứ điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác.

Bậc hiền trí ấy có gánh nặng đã đặt xuống, đã được tách riêng,

không chịu sự phân hạng, không phải kiêng chừa, không có ước nguyện.”

 

914. Không có sự thù hằn
Ðối với tất cả pháp,
Phàm có thấy nghe gì,
Cùng với tưởng và thọ,
ẩn sĩ không hệ lụy,
Ðã đặt gánh nặng xuống
Không liên hệ thời gian,
Không chấm dứt, không cầu,
Thế Tôn nói như vậy
.

 

Mahāviyūhasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Sự Dàn Trận Lớn.

 

 

 

 

 

 

 

14. TUVAṬAKASUTTAṂ

 

 

14. KINH MỘT CÁCH NHANH CHÓNG

 

(XIV) KINH TUVATAKA (CON ĐƯỜNG MAU CHÓNG)

 

919. Pucchāmi taṃ ādiccabandhuṃ
vivekaṃ santipadañca mahesiṃ,
kathaṃ disvā nibbāti bhikkhu
anupādiyāno lokasmiṃ kiñci.

919. “Tôi hỏi ngài, đấng quyến thuộc của mặt trời,
bậc đại ẩn sĩ, về sự viễn ly và vị thế an tịnh.
Sau khi nhìn thấy như thế nào, vị tỳ khưu được tịch diệt,
không còn chấp thủ bất cứ cái gì ở trên đời?”

Người hỏi:

915. Con hỏi bậc Ðại tiên,
Bậc bà con mặt trời,
Con đường đến viễn ly,
Con đường đến an tịnh,
Tỷ-kheo sau khi thấy,
Làm thế nào mát lạnh,
Không có sự chấp thủ,
Một vật gì ở đời?

920. Mūlaṃ papañcasaṅkhāya (iti bhagavā)
mantā asmīti sabbamuparundhe,
yā kāci taṇhā ajjhattaṃ
tāsaṃ vinayā sadā sato sikkhe.

920. (Đức Thế Tôn nói)
“Nên chận đứng tất cả gốc rễ của cái được gọi là vọng tưởng: ‘Tôi là’ nhờ vào trí tuệ. Bất cứ những tham ái nào ở nội phần, sau khi dẹp bỏ chúng, nên học tập, luôn luôn có niệm.

Thế Tôn:

916. Thế Tôn đáp như sau:
Hãy chặt đứt hoàn toàn,
Gốc rễ các hý luận,
Mọi tư tưởng "tôi là ",
Tất cả phải chấm dứt,
Phàm có nội ái nào,
Sau khi nhiếp phục chúng,
Thường chánh niệm học tập.

921. Yaṃ kiñci dhammamabhijaññā
ajjhattaṃ athavāpi bahiddhā,
na tena mānaṃ kubbetha
na hi sā nibbuti sataṃ vuttā.
 

921. Bất cứ pháp (đức tính tốt) nào có thể biết rõ
ở nội phần (nơi bản thân) hay là ở ngoại phần (nơi người khác),
không vì điều ấy mà tạo ra sự ngã mạn,
bởi vì điều ấy không được các bậc thiện nhân gọi là sự tịch diệt.
 

917. Phàm có loại pháp gì,
Ðược thắng tri hoàn toàn,
Hoặc thuộc về nội pháp,
Hay thuộc về ngoại pháp,
Chớ có làm kiên trì,
Bất cứ một pháp nào,
Trạng thái ấy không gọi,
Sự mát lạnh của tịnh.

922. Seyyo na tena maññeyya
nīceyyo atha vāpi sarikkho,
phuṭṭho anekarūpehi
nātumānaṃ vikappayaṃ tiṭṭhe.

922. Không nên vì việc (ngã mạn) ấy mà nghĩ rằng (bản thân) là tốt hơn,
kém thua, hoặc thậm chí là tương đương.
Bị tác động bởi nhiều hình thức,
trong khi sắp đặt về bản thân, không nên dừng lại ở điều ấy.

918. Chớ có nghĩ như sau:
Cái kia là tốt hơn,
Ðây là hạ liệt hơn,
Hay đây là ngang bằng,
Do phải bị xúc chạm,
Với các sắc sai biệt,
Hãy chớ để tự mình,
An trú trên vọng tưởng.

923. Ajjhattameva upasame
na aññato bhikkhu santimeseyya,
ajjhattaṃ upasantassa
natthi attā kuto nirattā vā.

923. Nên an tịnh ngay ở nội tâm,
vị tỳ khưu không nên tìm kiếm sự an tịnh từ nơi khác.
Đối với vị đã được an tịnh ở nội tâm,
điều được nắm bắt là không có, từ đâu có điều được buông lơi?

919. Hãy giữ được an tịnh,
Về phía tự nội tâm,
Tỷ-kheo không cầu tìm,
An tịnh từ chỗ khác,
Với người được an tịnh,
Từ phía tự nội tâm,
Ðã không có tự ngã,
Từ đâu có vô ngã.

924. Majjhe yathā samuddassa hoti
ūmi no jāyatī ṭhito hoti,
evaṃ ṭhito anejassa
ussadaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci.

924. Giống như ở giữa biển cả,
là đứng yên, sóng biển không sanh ra,
tương tự như vậy, nên trầm tĩnh, không dục vọng
vị tỳ khưu không nên tạo ra (thái độ) kiêu ngạo ở bất cứ đâu.”

920. Như chính giữa trung ương,
Của biển cả đại dương,
Sóng biển không có sanh,
Biển hoàn toàn đứng lặng,
Cũng vậy, này Tỷ-kheo
Hãy đứng lặng không động,
Không tạo nên bồng bột,
Ðối sự gì ở đời
.

925. Akittayi vivaṭacakkhu
sakkhidhammaṃ parissayavinayaṃ,
paṭipadaṃ vadehi bhaddante
pātimokkhaṃ athavāpi samādhiṃ.

925. “Bậc có mắt được mở ra đã nói về
pháp thực chứng, có sự xua đi các hiểm họa.
Thưa ngài đại đức, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành,
về giới giải thoát, và luôn cả định nữa.”

Người hỏi:

921. Vị có mắt rộng mở
Ðã tuyên bố rõ ràng,
Pháp có thể chế ngự,
Mọi nguy hiểm khó khăn,
Bậc Hiền thiện mong Ngài,
Tuyên bố rõ con đường,
Hay về biệt giải thoát,
Hoặc về pháp thiền định?

926. Cakkhūhi neva lolassa
gāmakathāya āvareyya sotaṃ,
rase ca nānugijjheyya
na ca mamāyetha kiñci lokasmiṃ.

926. “Không nên buông thả với đôi mắt,
nên che đậy lỗ tai đối với chuyện làng xóm,
và không nên thèm muốn ở các vị nếm,
và không nên chấp là của ta về bất cứ cái gì ở thế gian.


 

Thế Tôn:

922. Chớ có những con mắt,
Ðầy dẫy những tham đắm!
Hãy chận đứng lỗ tai,
Nghe câu chuyện của làng.
Lại chớ nên đắm say,
Các mùi vị ngon lành,
Chớ xem là của ta,
Mọi sự vật ở đời!

927. Phassena yadā phuṭṭhassa
paridevaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñca,
bhavaṃ ca nābhijappeyya
bheravesu ca na sampavedheyya.

927. Khi nào bị xúc chạm bởi xúc (bất hạnh),
vị tỳ khưu không nên thể hiện sự than vãn về bất cứ điều gì,
và không nên tham đắm sự hiện hữu,
và không bị lay động ở các sự khiếp đảm.

 

923. Trong khi được cảm giác,
Với các loại cảm xúc,
Tỷ-kheo không than van,
Bất cứ một điều gì.
Vị ấy không cầu mong,
Dầu lại sanh hữu nào,
Và không có run sợ,
Rơi vào các kinh hoàng.

928. Annānamatho pānānaṃ
khādanīyānaṃ athopi vatthānaṃ,
laddhā na sannidhiṃ kayirā
na ca parittase tāni alabhamāno.
 

928. Đối với các thức ăn, rồi đối với các thức uống,
đối với các vật thực cứng, rồi đối với các loại vải vóc,
sau khi nhận được, không nên tạo ra sự cất giữ,
và không nên băn khoăn trong khi không nhận được chúng.

 

924. Các đồ ăn thâu được,
Cùng với các đồ uống,
Các món ăn nhai được,
Các đồ vải mặc được,
Chớ có cất chứa chúng,
Những đồ vật nhận được,
Chớ có quá lo âu,
Nếu không thâu được chúng.

929. Jhāyī na pādalol’ assa
virame kukkuccā nappamajjeyya,
atha āsanesu sayanesu
appasaddesu bhikkhu vihareyya.

929. Nên là vị có thiền, không nên buông thả bàn chân (đi đó đây),
nên xa lánh trạng thái hối hận, không nên xao lãng,
và ở những chỗ ngồi, ở những chỗ nằm,
ở những nơi có ít tiếng động, vị tỳ khưu nên cư trú.

925. Hãy tu tập thiền định
Chớ làm kẻ lang thang,
Chớ ưa thích trạo cử,
Ðừng rơi vào phóng dật,
Ðối với các chỗ ngồi,
Cùng với các chỗ nằm,
Tỷ-kheo hãy an trú,
Những chỗ không tiếng động.

930. Niddaṃ na bahulīkareyya
jāgariyaṃ bhajeyya ātāpī,
tandiṃ māyaṃ hassaṃ khiḍḍaṃ
methunaṃ vippajahe savibhūsaṃ.
 

930. Không nên thực hiện nhiều việc ngủ nghỉ. Nên thân cận sự tỉnh thức, có sự tinh cần. Nên dứt bỏ hẳn sự uể oải, xảo quyệt, cười cợt, đùa giỡn, việc đôi lứa, cùng với việc trang điểm.

926. Ngủ nghỉ có chừng mực,
Chớ có ngủ quá nhiều,
Hãy luôn luôn tỉnh thức,
Nỗ lực và nhiệt tâm,
Hãy từ bỏ biếng nhác,
Man trá, cười, chơi đùa,
Hãy từ bỏ dâm dục,
Bỏ ưa thích trang điểm.

931. Āthabbaṇaṃ supinaṃ lakkhaṇaṃ
no vidahe athopi nakkhattaṃ,
virutañca gabbhakaraṇaṃ
tikicchaṃ māmako na seveyya.
 

931. Không nên thực hành việc bùa chú, giải mộng, bói tướng, và luôn cả chiêm tinh. Người đệ tử thành tín không nên chuyên chú về việc giải đoán tiếng thú kêu, việc thụ thai, và việc chữa bệnh.

927. Chớ có dùng bùa chú,
A-thar-va Vệ-đà,
Chớ tổ chức đoán mộng,
Coi tướng và xem sao,
Mong rằng đệ tử Ta,
Không đoán tiếng thú kêu,
Không chữa bệnh không sanh,
Không hành nghề lang băm.

932. Nindāya nappavedheyya
na unnameyya pasaṃsito bhikkhu,
lobhaṃ saha macchariyena
kodhaṃ pesuniyañca panudeyya.

932. Không nên run sợ vì sự chê bai, vị tỳ khưu khi được ca ngợi không nên kiêu hãnh, nên xua đi sự tham lam cùng với sự bỏn xẻn, sự giận dữ và việc nói đâm thọc.

928. Tỷ-kheo không run sợ,
Khi bị người chỉ trích,
Cũng không có cống cao,
Khi được khen tán thán,
Hãy từ bỏ tham ái,
Cùng với tánh xan tham,
Kể luôn cả phẫn nộ,
Cùng với nói hai lưỡi.

933. Kayavikkaye na tiṭṭheyya
upavādaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci,
gāme ca nābhisajjeyya
lābhakamyā janaṃ na lapayeyya.

933. Không nên duy trì việc mua bán,
vị tỳ khưu không nên tạo sự chê trách ở bất cứ nơi nào,
và không nên ràng buộc vào làng xóm,
không nên tỉ tê với người thế vì mong muốn lợi lộc.

929. Tỷ-kheo không an trú,
Trong nghề nghiệp bán buôn,
Lại không có chỉ trích,
Bất cứ tại chỗ nào,
Khi ở tại thôn làng,
Không tức giận một ai,
Chớ có vì lợi dưỡng,
Nói chuyện với quần chúng.

934. Na ca katthiko siyā bhikkhu
na ca vācaṃ payutaṃ bhāseyya,
pāgabbhiyaṃ na sikkheyya
kathaṃ viggāhikaṃ na kathayeyya.

934. Và vị tỳ khưu không nên là kẻ nói khoe khoang,
và không nên nói lời nói ướm (liên quan bốn món vật dụng),
không nên học tập lối cư xử xấc xược,
không nên nói ra ngôn từ đưa đến sự cãi vã.

930. Tỷ-kheo không nên nói,
Khoa trương quá mức độ,
Và cũng không nói lời
Có dụng ý lợi dưỡng.
Chớ có học tập theo,
Lối sỗ sàng trâng tráo,
Chớ có thốt ra lời
Khiêu khích xung đột ai!

935. Mosavajje na niyyetha
sampajāno saṭhāni na kayirā,
atha jīvitena paññāya
sīlabbatena nāññamatimaññe.

935. Không nên bị xui khiến trong việc nói lời dối trá, không nên cố tình thực hiện các điều xảo trá, và không nên khinh khi người khác về sự sinh sống, về sự nhận thức, về giới và phận sự.

931. Chớ có bị dắt dẫn,
Rơi vào lời nói láo,
Không cố ý làm nên,
Ðiều man trá giả dối,
Chớ có khinh người khác,
Về vấn đề sinh mạng,
Về vấn đề trí tuệ,
Và vấn đề giới hạnh.

936. Sutvā rusito bahuṃ vācaṃ
samaṇānaṃ puthuvacanānaṃ,
pharusena ne na paṭivajjā
na hi santo paṭiseniṃ karonti.

936. Bị xúc phạm sau khi nghe nhiều lời nói
của các vị Sa-môn, của những kẻ phàm phu,
không nên đáp trả lại những kẻ ấy một cách thô lỗ,
bởi vì các bậc thiện nhân không thể hiện sự phản kháng.

932. Sau khi phẫn uất nghe
Nhiều ngôn từ lời lẽ
Của các vị Sa-môn,
Hay những kẻ phàm phu,
Chớ có phản ứng họ,
Với những lời thô ác,
Bậc hiền lành an tịnh,
Không phản pháo một ai.

937. Etañca dhammamaññāya
vicinaṃ bhikkhu sadā sato sikkhe,
santīti nibbutiṃ ñatvā
sāsane gotamassa nappamajjeyya.
 

937. Và sau khi hiểu thông Giáo Pháp này,
trong khi chọn lựa, vị tỳ khưu nên học tập, luôn luôn có niệm,
sau khi biết được sự diệt tắt là ‘an tịnh,’
không nên xao lãng về lời giáo huấn của đức Gotama.

933. Sau khi rõ biết được
Pháp này là như vậy,
Tỷ-kheo hãy học tập,
Sáng suốt và chánh niệm,
Rõ biết sự mát lạnh,
Ðược gọi bậc "an tịnh ",
Chớ có sống phóng dật,
Trong lời dạy Cù-đàm.

938. Abhibhū hi so anabhibhūto
sakkhidhammaṃ anītihamadassī,
tasmā hi tassa bhagavato sāsane
appamatto sadā namassamanusikkhe ”ti.

938. Bởi vì, vị ấy là đấng Chiến Thắng, bậc không bị chế ngự, vị đã nhìn thấy pháp thực chứng, không do nghe nói lại theo truyền thống. Chính vì thế, luôn luôn không xao lãng, trong lúc kính lễ, nên học tập theo lời giáo huấn của đức Thế Tôn ấy.”

934. Bậc đã được chiến thắng,
Không ai chiến thắng nổi
Tự mình thấy được pháp,
Không nghe theo tin đồn,
Do vậy hãy học tập
Luôn luôn không phóng dật,
Với tâm tư cung kính,
Lời dạy đức Thế Tôn,
Thế Tôn nói như vậy.

 

Tuvaṭakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Một Cách Nhanh Chóng.

 

 

 

 

 

15. ATTADAṆḌASUTTAṂ

 

 

15. KINH UẾ HẠNH CỦA BẢN THÂN

 

 

(XV) KINH CHẤP TRƯỢNG

 

939. Attadaṇḍā bhayaṃ jātaṃ janaṃ passatha medhagaṃ,
saṃvegaṃ kittayissāmi yathā saṃvijitaṃ mayā.

939. Sự sợ hãi sanh lên do uế hạnh của bản thân.[1] Các người hãy nhìn xem loài người đang gây gỗ. Ta sẽ thuật lại trạng thái chấn động đúng theo sự việc đã bị chấn động bởi Ta.


[1] attadaṇḍā được dịch là “uế hạnh của bản thân” căn cứ vào lời giải thích của Chú Giải: “attadaṇḍā bhayaṃ jātaṃ attano duccaritakāraṇā jātaṃ” (SnA. ii, 566). Tựa đề của bài Kinh đã được ghi nghĩa theo ý nghĩa ấy.

Thế Tôn:

935. Từ người cầm các trượng,
Sợ hãi được sanh ra,
Hãy xem các loài người,
Trong khi đấu tranh nhau,
Ta sẽ nói sợ hãi,
Như Ta đã được biết.

940. Phandamānaṃ pajaṃ disvā macche appodake yathā,
aññamaññehi vyāruddhe disvā maṃ bhayamāvisi.

940. Sau khi nhìn thấy nhân loại đang run rẩy tựa như những con cá ở chỗ ít nước, sau khi nhìn thấy chúng chống đối lẫn nhau, sự sợ hãi đã xâm nhập Ta.

936. Thấy loài, người vùng vẫy,
Như cá trong nước cạn,
Thấy họ chống đối nhau,
Ta rơi vào sợ hãi.

941. Samantamasāro loko disā sabbā sameritā,
icchā bhavanamattano nāddasāsiṃ anositaṃ.

941. Toàn bộ thế gian là không có cốt lõi, tất cả các phương đều bị chuyển động. Trong khi ước muốn chỗ trú ngụ cho bản thân, Ta đã không nhìn thấy (một nơi nào là) không bị chiếm cứ.

937. Ðời toàn không lõi cây,
Mọi phương đều dao động
Muốn cho mình ngôi nhà,
Ta không thấy nhà ở.

942. Osāne tveva vyāruddhe disvā me aratī ahu,
athettha sallaṃ addakkhiṃ duddasaṃ hadayanissitaṃ.

942. Nhưng ngay sau khi nhìn thấy chúng chống đối vào giai đoạn cuối, sự chán ngán đã khởi lên ở Ta. Và ở đây, Ta đã nhìn thấy mũi tên khó thể nhìn thấy đã được cắm sâu vào trái tim (tâm thức).
 

938. Cuối cùng là xung đột,
Thấy vậy Ta chán ngắt,
Ðây Ta thấy mũi tên,
Khó thấy, gắn vào tim.

943. Yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvati,
tameva sallaṃ abbuyha na dhāvati na sīdati.

943. Kẻ đã bị mũi tên đâm vào chạy khắp tất cả các phương (luân hồi khắp các cõi), sau khi đã nhổ chính mũi tên ấy lên thì không chạy, (và) không chìm xuống.

939. Ai bị mũi tên đâm,
Chạy khắp mọi phương hướng,
Ai rút mũi tên ra,
Không chạy, liền ngồi xuống.

944. Tattha sikkhānugīyanti
yāni loke gathitāni na tesu pasuto siyā,
nibbijjha sabbaso kāme
sikkhe nibbānamattano.
 

944. Ở nơi ấy, các môn học tập được truyền tụng.
Những gì bị trói buộc vào thế gian, không nên quan tâm đến chúng.
Sau khi thấu triệt các dục về mọi phương diện,
nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.
 

940. Ở đây sự học tập,
Ðã được nói rõ lên,
Phàm triền phược ở đời,
Chớ liên hệ với chúng,
Ðâm thủng dục hoàn toàn,
Tự học tập Niết-bàn.

945. Sacco siyā appagabbho amāyo rittapesuno,
akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare muni.

945. Nên chân thật, không hỗn xược, không xảo quyệt, việc nói đâm thọc được buông bỏ, không giận dữ, bậc hiền trí có thể vượt qua sự xấu xa của tham, (và) sự keo kiệt.

941. Chân thật không xông xáo,
Không man trá, hai lưỡi,
Không phẫn nộ, ẩn sĩ,
Vượt tham ác, xan tham.

946. Niddaṃ tandiṃ sahe thīnaṃ pamādena na saṃvase,
atimāne na tiṭṭheyya nibbānamanaso naro.

946. Người có tâm ý hướng Niết Bàn nên khắc phục trạng thái ngủ gà ngủ gật, sự uể oải, sự dã dượi, không nên cộng trú với sự xao lãng, không nên trụ lại ở sự ngã mạn thái quá.

942. Người nghĩ đến Niết-bàn,
Bỏ ngủ, nhác, thụy miên,
Không sống với phóng dật,
Không an trú, quá mạn.

947. Mosavajje na niyyetha rūpe snehaṃ na kubbaye,
mānañca parijāneyya sāhasā virato care.

947. Không nên bị lôi kéo vào việc nói lời dối trá, không nên tạo ra sự thương yêu ở sắc, và nên hiểu toàn diện về ngã mạn, nên sống tránh xa sự hung bạo.

943. Không rơi vào nói láo,
Không tham ái các sắc,
Cần liễu tri quá mạn,
Sống từ bỏ bạo ác.

948. Purāṇaṃ nābhinandeyya nave khantiṃ na kubbaye,
hīyamāne na soceyya ākāsaṃ na sito siyā.

948. Không nên thích thú cái cũ (ngũ uẩn quá khư), không nên tạo ra sự ưa chuộng cái mới (ngũ uẩn vị lai), trong khi (cái gì) đang bị tiêu hoại, không nên sầu muộn, không nên nương tựa hư không (tham ái).

944. Không hoan hỷ việc cũ,
Không nhẫn chịu sự mới,
Trong tổn giảm không sầu,
Không liên hệ tham ái,

949. Gedhaṃ brūmi mahoghoti ājavaṃ brūmi jappanaṃ,
ārammaṇaṃ pakappanaṃ kāmapaṅko duraccayo.

949. Ta gọi thèm khát là ‘dòng lũ lớn,’ ta gọi tham muốn là dòng nước mạnh, sự bám vào (đối tượng) là rung động, dục là bãi lầy khó vượt qua được.
 

945. Ái, Ta gọi bộc lưu,
Mong cầu gọi bọt nước,
Sở duyên gọi biến kể,
Bùn dục khó vượt qua.

950. Saccā avokkamma muni thale tiṭṭhati brāhmaṇo,
sabbaṃ so paṭinissajja sa ve santoti vuccati.

950. Không chệch khỏi sự thật (gọi là) bậc hiền trí, đứng ở đất liền (gọi là) vị Bà-la-môn. Vị ấy sau khi xả bỏ tất cả, vị ấy quả thật được gọi là ‘bậc an tịnh.’

946. ẩn sĩ không rời chân,
Phạm chí trú đất liền,
Vị từ bỏ tất cả,
Thật được gọi an tịnh.

951. Sa ve vidvā sa vedagū ñatvā dhammaṃ anissito,
sammā so loke iriyāno na pihetīdha kassaci.

951. Quả thật, vị ấy là bậc đã hiểu biết, vị ấy là bậc đã đạt được sự thông hiểu, sau khi biết pháp, vị ấy không nương tựa (vào tham ái và tà kiến). Vị ấy, trong khi cư xử chân chánh ở thế gian, không mong cầu đối với bất cứ người nào ở nơi này.
 

947. Biết vậy, gọi người biết,
Biết rồi không y pháp,
Chơn chánh sống ở đời,
Không tham ái một ai.

952. Yodha kāme accatari saṅgaṃ loke duraccayaṃ,
na so socati nājjheti chinnasoto abandhano.

952. Ở đây, vị nào vượt qua các dục, sự quyến luyến ở thế gian khó vượt qua được, vị ấy không sầu muộn, không ưu tư, có dòng chảy đã được cắt đứt, không còn sự trói buộc.

948. Ai ở đây vượt dục,
Ái khó vượt ở đời,
Không sầu, không tham muốn,
Cắt dòng không trói buộc.

953. Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ,
majjhe ce no gahessasi upasanto carissasi.

953. Điều gì trước đây (quá khứ), ngươi chớ nắm lấy điều ấy. Chớ có bất cứ điều gì sanh khởi đến ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi không nắm lấy ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống, được an tịnh.

949. Trước Ông làm khô cạn
Sau Ông không vật gì,
Ở giữa không nắm giữ,
Ông sẽ sống an tịnh.

954. Sabbaso nāmarūpasmiṃ yassa natthi mamāyitaṃ,
asatā ca na socati sa ve loke na jiyyati.

954. Đối với vị nào không có vật đã được chấp là của ta liên quan đến danh và sắc về mọi phương diện, và (là vị) không sầu muộn do tình trạng không có, vị ấy quả thật không bị thua thiệt ở thế gian.

950. Toàn diện đối danh sắc,
Không gì nghĩ "của ta"
Không có gì không sầu,
Không có già ở đời.

955. Yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ,
mamattaṃ so asaṃvindaṃ natthi meti na socati.
 

955. Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì, trong lúc không tìm kiếm trạng thái sở hữu chủ (nghĩ rằng): ‘Không có gì là của tôi,’ vị ấy không sầu muộn.

951. Không nghĩ "đây của tôi ",
Không nghĩ "đây của người ",
Người không có tự ngã,
Không sầu vì không ngã.

956. Aniṭṭhurī ananugiddho anejo sabbadhī samo,
tamānisaṃsaṃ pabrūmi pucchito avikampinaṃ.

956. Không ganh tỵ, không tham đắm, không dục vọng, bình đẳng ở mọi nơi, điều ấy là sự lợi ích mà Ta (sẽ) nói, khi được hỏi về vị không dao động.

952. Không tàn bạo, không tham,
Không dục, thường đồng đẳng,
Ðược hỏi Ta nói lên,
Lợi ích bậc bất động.

957. Anejassa vijānato natthi kāci nisaṅkhiti,
virato so viyārambhā khemaṃ passati sabbadhi.

957. Đối với vị không dục vọng, đang nhận thức, không có bất cứ sự tạo tác nào. Đã tránh xa khỏi sự tạo tác, vị ấy nhìn thấy an toàn ở mọi nơi.
 

953. Bậc ly dục rõ biết,
Vị ấy không sở hành,
Thoát ly, không tinh cần,
Thấy an ổn khắp nơi.

958. Na samesu na omesu na ussesu vadate muni,
santo so vītamacchero nādeti na nirassatī ”ti.

958. Bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ngang bằng, không trong số những người thấp kém, không trong số những người ưu việt. Được an tịnh, đã xa lìa sự bỏn xẻn, vị ấy không nắm giữ, không buông bỏ.”

954. Bậc ẩn sĩ, không nói,
Bằng nhau, thua, hơn nhau,
An tịnh, ly xan tham,
Không nhận, không bác bỏ.
Thế Tôn giảng như vậy.

 

Attadaṇḍasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Uế Hạnh của Bản Thân.

 

 

 

 

 

 

 

16. SĀRIPUTTASUTTAṂ

 

 

16. KINH SĀRIPUTTA

 

 

(XVI) KINH SĀRĪPUTTA (XÁ-LỢI-PHẤT)

959. Na me diṭṭho ito pubbe
(iccāyasmā sāriputto)
nasuto uda kassaci,
evaṃ vagguvado satthā
tusitā gaṇimāgato.
 

959. Từ đây trở về trước, con chưa từng được thấy,
(Đại đức Sāriputta đã nói thế ấy),
hoặc chưa từng được nghe của bất cứ người nào,
tương tự như bậc Đạo Sư, vị có giọng nói êm dịu,
bậc có đồ chúng, đã đi đến từ cõi trời Tusitā.

Sàriputta:

955. Trước con chưa từng thấy,
Chưa ai từng được nghe,
Tiếng nói thật ngọt ngào,
Như tiếng bậc Ðạo Sư,
Từ cõi Ðâu-suất đến,
Xá-lợi-phất nói vậy.

960. Sadevakassa lokassa yathā dissati cakkhumā,
sabbaṃ tamaṃ vinodetvā ekova ratimajjhagā.

960. Đối với thế gian có cả chư Thiên, bậc Hữu Nhãn được nhìn thấy là như thế. Sau khi xua đi tất cả tăm tối, Ngài, chỉ một mình, đã đạt đến sự khoái cảm (của việc xuất gia, của sự viễn ly, của sự an tịnh, của sự giác ngộ).

956. Bậc có mắt xuất hiện,
Ðời này và thiên giới,
Quét sạch mọi u ám,
Ðộc cư, chứng an lạc.

961. Taṃ buddhaṃ asitaṃ tādiṃ akuhaṃ gaṇimāgataṃ,
bahunnamidha baddhānaṃ atthi pañhena āgamaṃ.

961. Với ý định (hỏi) câu hỏi cho số đông đã được gắn bó ở đây, con đã đi đến gặp đức Phật, bậc không nương tựa, đấng tự tại, vị không dối trá, bậc có đồ chúng, đã đi đến ấy.

957. Bậc Giác ngộ, độc lập,
Như thật, không man trá,
Ngài đến ở đời này,
Lãnh đạo các đồ chúng,
Từ nhiều người trói buộc,
Con đến với câu hỏi.

962. Bhikkhuno vijigucchato bhajato rittamāsanaṃ,
rukkhamūlaṃ susānaṃ vā pabbatānaṃ guhāsu vā.

962. Đối với vị tỳ khưu nhờm gớm (sanh, già, bệnh, chết, v.v...) đang thân cận chỗ ngồi trống vắng, gốc cây, mộ địa, hoặc ở các hang động của những ngọn núi.

958. Vị Tỷ kheo nhàm chán,
Sống an tọa, trống không,
Tại gốc cây, nghĩa địa,
Hay núi rừng hang sâu.

963. Uccāvacesu sayanesu kīvanto tattha bheravā,
yehi bhikkhu na vedheyya nigghose sayanāsane.

963. Ở những chỗ trú ngụ cao thấp, có bao nhiêu sự khiếp đảm ở nơi ấy mà vị tỳ khưu không nên run sợ ở chỗ nằm ngồi không tiếng động?

959. Tại chỗ cao thấp ấy,
Có bao nhiêu sợ hãi,
Khiến Tỷ kheo không run,
Tại trú xứ vắng lặng?

964. Katī parissayā loke gacchato agataṃ disaṃ,
ye bhikkhu abhisambhave pantamhi sayanāsane.

964. Đối với vị đang đi đến khu vực chưa từng đi đến, có bao nhiêu hiểm họa ở thế gian mà vị tỳ khưu cần khắc phục ở các chỗ nằm ngồi xa vắng?

960. Bao nguy hiểm ở đời,
Tỷ Kheo cần chinh phục,
Trong hướng đi bất tử,
Tại trú xứ xa vắng?

965. Kyāssa vyappathayo assu kyāssassu idha gocarā,
kāni sīlabbatānassu pahitattassa bhikkhuno.

965. Cách thức nói năng của vị ấy nên là như thế nào? Hành xứ ở nơi này của vị ấy nên là như thế nào? Giới và phận sự của vị tỳ khưu có bản tánh cương quyết nên là như thế nào?
 

961. Ngôn ngữ và hành xứ
Của vị ấy là gì?
Có bao nhiêu giới cấm,
Tỷ Kheo cần tinh tấn?

966. Kaṃ so sikkhaṃ samādāya ekodi nipako sato,
kammāro rajatasseva niddhame malamattano.

966. Sau khi thọ trì sự học tập gì, vị có sự chuyên nhất (của tâm), chín chắn, có niệm ấy, có thể loại bỏ bụi bặm (ô nhiễm) của bản thân, ví như người thợ kim hoàn có thể loại bỏ cáu bẩn của bạc?”

962. Chấp nhận học tập gì,
Vị Tỷ Kheo nhất tâm,
Thông minh, giữ chánh niệm,
Tẩy sạch các cấu uế,
Trên tự ngã của mình,
Như thợ lọc vàng bạc?

967. Vijigucchamānassa yadidaṃ phāsu
(Sāriputtāti bhagavā)
rittāsanaṃ sayanaṃ sevato ce,
sambodhikāmassa yathānudhammaṃ
taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ.

967. (Đức Phật nói: “Này Sāriputta,) Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi theo như Ta nhận biết, tức là sự thoải mái (an trú) dành cho vị nhờm gớm (sanh, già, bệnh, chết, v.v...) nếu vị ấy đang thân cận chỗ ngồi nằm trống vắng, có mong muốn quả vị giác ngộ thuận theo Giáo Pháp.

Thế Tôn:

963. Này Sàriputta,
Thế Tôn bèn trả lời:
Với người biết nhàm chán,
Có gì là khoan khoái!
Khi sử dụng sàng tọa,
Tại chỗ tịnh trống không,
Với ai muốn giác ngộ,
Sống đúng với tùy pháp,
Ta sẽ nói người ấy,
Như Ta đã quán tri.

968. Pañcannaṃ dhīro bhayānaṃ na bhāye
bhikkhu sato sappariyantacāriṃ,
ḍaṃsādhipātānaṃ siriṃsapānaṃ
manussaphassānaṃ catuppadānaṃ.

968. Vị tỳ khưu, sáng trí, có niệm, sống trong khuôn khổ, không nên sợ hãi đối với năm điều sợ hãi: đối với loài ruồi và muỗi mòng, đối với loài rắn, đối với các sự va chạm với con người, đối với loài bốn chân.

964. Vị Tỷ kheo có trí,
Chánh niệm sống biên địa,
Không có sợ năm điều,
Ðáng sợ hãi ở đời.
Các loại ruồi, mối bay
Cùng các loài bò sát,
Xúc chạm của loài người,
Cùng các loại bốn chân.

969. Paradhammikānampi na santaseyya
disvāpi tesaṃ bahubheravāni,
athāparāni abhisambhaveyya
parissayāni kusalānuesī.

969. Cũng không nên sợ sệt đối với những kẻ theo các giáo phái khác, ngay cả sau khi nhìn thấy nhiều điều khiếp đảm của họ. Và vị tầm cầu điều tốt đẹp còn phải khắc phục những hiểm họa khác nữa.

965. Vị ấy không nên sợ,
Tri kiến của người khác,
Khi đã được thấy biết,
Nhiều sợ hãi của chúng,
Bậc tìm đến chí thiện,
Thấy được các nguy hiểm
Cần phải lo khắc phục
Tất cả nguy hiểm khác.

970. Ātaṅkaphassena khudāya phuṭṭho
sītaṃ athuṇhaṃ adhivāsayeyya,
so tehi phuṭṭho bahudhā anoko
viriyaṃ parakkamma daḷhaṃ kareyya.

970. Bị tác động bởi sự xúc chạm của bệnh tật, của cơn đói, nên chịu đựng sự lạnh, sự nóng. Bị tác động bởi những việc ấy dưới nhiều hình thức, vị không trú xứ ấy nên nỗ lực tinh tấn và nên thể hiện sự vững chãi.

966. Khi thọ lãnh bệnh hoạn,
Khi cảm xúc đói khổ,
Với lạnh và cực nóng,
Cần phải nhiếp phục chúng,
Bị chúng cảm xúc nhiều,
Kẻ không bỏ nhà cửa
Cần tinh tấn cần mẫn,
Lòng hết sức kiên trì.

971. Theyyaṃ na kareyya na musā bhaṇeyya
mettāya phasse tasathāvarāni,
yadā vilattaṃ manaso vijaññā
kaṇhassa pakkhoti vinodayeyya.

971. Không nên thực hiện việc trộm cắp, không nên nói lời dối trá,
nên tiếp xúc bằng từ tâm với các loài yếu hay mạnh,
khi nào nhận biết được trạng thái bị khuấy động của tâm,
nên xua đi (nghĩ rằng): ‘Nó là phần đen tối.’

967. Chớ ăn trộm, ăn cắp,
Chớ nói lời nói láo,
Hãy cảm xúc từ tâm,
Ðối kẻ yếu, kẻ mạnh,
Khi rõ biết tâm tư,
Trong tình trạng dao động,
Hãy gột sạch, tẩy sạch,
Phần hắc ám đen tối.

972. Kodhātimānassa vasaṃ na gacche
mūlampi tesaṃ palikhañña tiṭṭhe,
athappiyaṃ vā pana appiyaṃ vā
addhā bhavanto abhisambhaveyya.
 

972. Không nên rơi vào quyền lực của sự giận dữ và ngã mạn thái quá, nên đứng vững sau khi đào lên gốc rễ của chúng. Và trong khi khắc phục vật được yêu mến hoặc không được yêu mến, nên chế ngự chúng một cách chắc chắn.

968. Chớ để bị chi phối,
Bởi phẫn nộ, quá mạn,
Hãy đào chúng tận gốc,
Và an trú như vậy,
Ðối những gì khả ái,
Hay đối không khả ái,
Hãy hoàn toàn nhiếp phục,
Chớ để bị chi phối.

973. Paññaṃ purakkhatvā kalyāṇapīti
vikkhambheyya tāni parissayāni,
aratiṃ sahetha sayanamhi pante
caturo sahetha paridevadhamme.

973. Sau khi chú trọng về trí tuệ, với sự hoan hỷ về thiện pháp,
nên loại trừ các hiểm họa ấy,
nên khống chế sự không thích thú ở chỗ trú ngụ xa vắng,
nên khống chế bốn pháp tạo nên sự than vãn.
 

969. Thiên trọng về trí tuệ,
Hoan hỷ trong chí thiện,
Hãy chận đứng loại bỏ,
Nguy hiểm ách nạn ấy,
Hãy khắc phục bất lạc,
Ðối trú xứ vắng lặng,
Hãy khắc phục bốn pháp,
Khiến sầu muộn khóc than.

974. Kiṃsu asissāmi kuvaṃ vā asissaṃ
dukkhaṃ vata settha kuvajja sessaṃ,
ete vitakke paridevaneyye
vinayetha sekho aniketasārī.

974. ‘Vậy ta sẽ ăn gì? Hoặc ta sẽ ăn ở đâu?
Quả thật ta đã ngủ khổ sở. Hôm nay, ta sẽ ngủ ở đâu?’
Vị hữu học, không có sự vương vấn nhà ở,
nên loại bỏ những suy tầm có tính chất than vãn này.

970. Ta sẽ ăn những gì,
Và được ăn tại đâu.
Thật khó khăn ta ngủ,
Nay ta ngủ tại đâu?
Với những tư tưởng ấy,
Vị ấy có thể than,
Bậc hữu học, không nhà,
Hãy nhiếp phục trừ chúng.

975. Annañca laddhā vasanañca kāle
mattaṃ so jaññā idha tosanatthaṃ,
sotesu gutto yatacāri gāme
rusitopi vācaṃ pharusaṃ na vajjā.

975. Sau khi nhận lãnh vật thực và y phục đúng thời hạn,
vị ấy nên biết chừng mực ở đây với mục đích vừa lòng.
Vị đã được bảo vệ ở các dòng chảy (giác quan), sống thu thúc ở trong làng,
dầu cho bị xúc phạm, không nên nói lời nói thô lỗ.

971. Với đồ ăn, vải mặc,
Ðúng thời, thâu hoạch được,
Cần ước lượng vừa đủ,
Với mục đích thỏa mãn,
Chế ngự đối với chúng,
Sống nhiếp phục trong lòng,
Dầu phẫn uất, không nói,
Những lời độc thô ác.

976. Okkhittacakkhu na ca pādalolo
jhānānuyutto bahujāgarassa,
upekhamārabbha samāhitatto
takkā sayaṃ kukkuccañcupachinde.

 

976. Có mắt nhìn xuống và không buông thả bàn chân (đi đó đây),
nên gắn bó với việc tham thiền, nên có nhiều tỉnh thức,
sau khi nỗ lực về hành xả, có bản thân định tĩnh,
nên cắt đứt nền tảng của sự suy tư và trạng thái hối hận.

972. Với mắt cúi nhìn xuống,
Chân không đi lang thang,
Chú tâm vào thiền định,
Với rất nhiều tỉnh giác,
Cố gắng tu tập xả,
Tự ngã khéo định tĩnh,
Hãy cắt đứt trừ khử,
Các nghi ngờ hối tiếc.

977. Cudito vacīhi satimābhinande
sabrahmacārīsu khilaṃ pabhinde,
vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelaṃ
janavādadhammāya na cetayeyya.

977. Bị quở trách bởi những lời nói, vị (tỳ khưu) có niệm nên hoan hỷ.
Nên phá vỡ sự cay nghiệt đối với các vị đồng phạm hạnh.
Nên thốt lên lời nói tốt lành, không vượt quá giới hạn.
Không nên suy nghĩ về chuyện phiếm luận của những người (khác).
 

973. Bị buộc, tội bằng lời,
Chánh niệm, tâm hoan hỉ,
Phá hoại sự cứng rắn,
Giữa các đồng Phạm hạnh,
Nói lên những lời nói,
Hiền thiện và đúng thời,
Không để tâm suy tư,
Các chủ thuyết người khác.

978. Athāparaṃ pañca rajāni loke
yesaṃ satīmā vinayāya sikkhe,
rūpesu saddesu atho rasesu
gandhesu phassesu sahetha rāgaṃ.

978. Và hơn thế nữa, có năm loại bụi bặm ở thế gian, đối với chúng vị có niệm nên học tập để loại bỏ. Nên khống chế sự luyến ái ở các sắc, ở các thinh, rồi ở các vị, ở các hương, ở các xúc.
 

974. Lại nữa, năm loại vua,
Hiện có ở trên đời,
Hãy học nhiếp phục chúng.
Luôn luôn giữ chánh niệm.
Ðối với sắc và tiếng,
Ðối với vị và hương,
Cùng đối các cảm xúc,
Hãy chế ngự tham ái.

979. Etesu dhammesu vineyya chandaṃ
bhikkhu satīmā suvimuttacitto,
kālena so sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno
ekodibhūto vihane tamaṃ so ”ti.

979. Vị tỳ khưu có niệm, có tâm khéo được giải thoát, Nên loại bỏ sự mong muốn ở các pháp ấy. Vị ấy, đúng thời điểm, trong khi suy xét toàn diện một cách đúng đắn về Giáo Pháp, có trạng thái chuyên nhất (của tâm), vị ấy có thể diệt trừ sự tăm tối.”
 

975. Hãy chế ngự ước muốn,
Ðối với những pháp ấy,
Vị Tỷ kheo chánh niệm,
Tâm tư khéo giải thoát,
Rồi đúng thời vị ấy,
Chơn chánh suy tư pháp,
Với chuyên tâm nhất trí,
Hãy đoạn tận hắc ám.
Thế Tôn nói như vậy.

 

Sāriputtasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Aṭṭhakavaggo catuttho.

 

 

Dứt Kinh Sāriputta.

Phẩm Nhóm Tám là thứ tư.

 

 

 

TASSUDDĀNAṂ

 

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

 

Kāmaguhaṭṭha duṭṭhāva suddhaṭṭha paramā jarā,
metteyyo ca pasūro ca māgandi purābhedanaṃ.
Kalahaṃ dveva vyuhāni punarevatuvaṭṭakaṃ,
attadaṇḍaṃ therasuttaṃ therapañhena soḷasa,
tāni etāni suttāni sabbānaṭṭhakavaggikā ”ti.
 

Nhóm Tám về Dục, về Hang, về Xấu Xa, về Trong Sạch, về Tối Thắng, (bài Kinh về) Sự Già, vị Tissametteyya, vị Pasūra, và (Bà-la-môn) Māgandiya, (bài Kinh) Trước Khi Hoại Rã, sư Cãi Cọ, hai (bài Kinh) Sự Dàn Trận, rồi (bài Kinh) Một Cách Nhanh Chóng nữa, (bài Kinh) Uế Hạnh của Bản Thân, bài Kinh vị trưởng lão (Sāriputta) với câu hỏi của vị trưởng lão là mười sáu; tất cả những bài Kinh này đây là thuộc về Phẩm Nhóm Tám.

 

 

   

 

V. PĀRĀYANAVAGGO - PHẨM ĐI ĐẾN BỜ KIA

Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka

 

 

Lời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda

 

 

Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu

 

  

 VATTHUGĀTHĀ

 

 

KỆ NGÔN GIỚI THIỆU

 

 

I. BÀI KỆ MỞ ĐẦU

 

980. Kosalānaṃ purā rammā āgamā dakkhiṇāpathaṃ,
ākiñcaññaṃ patthayāno brāhmaṇo mantapāragū.

980. Có vị Bà-la-môn tinh thông chú thuật, trong khi ước nguyện về trạng thái vô sở hữu, từ thành phố đáng yêu của xứ Kosala đã đi đến khu vực phía Nam.

976. Từ thành phố đẹp đẽ,
Của các Kô-xa-la,
Có vị Bà-la-môn,
Thông đạt các chú thuật,
Hướng tầm vô sở hữu,
Hướng phía Nam bước tới.

981. So assakassa visaye aḷakassa samāsane,
vasī godhāvarīkule uñchena ca phalena ca.

981. Vị ấy đã trú ngụ ở địa phận Assaka, kế bên vùng Aḷakassa, bên bờ sông Godhāvarī (sống) bằng vật lượm lặt và trái cây.

977. Trong nước Át-xa-ka,
Gần xứ A-la-ka,
Vị ấy sống trên bờ,
Sông Gô-đa-và-rà,
Nuôi sống bằng trái cây,
Bằng đồ ăn lượm vặt.

982. Tasse va upanissāya gāmo ca vipulo ahū,
tato jātena āyena mahāyaññamakappayi.

982. Và đã có một ngôi làng rộng lớn kề cận với bờ sông ấy. Với thu nhập phát sanh từ nơi ấy, vị Bà-la-môn đã sắp đặt một cuộc tế lễ vĩ đại.

978. Gần chỗ vị ấy ở,
Có làng đất rộng rãi,
Với tài sản thâu thập,
Tổ chức tế đàn lớn.

983. Mahāyaññaṃ yajitvāna puna pāvisi assamaṃ,
tasmiṃ patipaviṭṭhamhi añño āgañchi brāhmaṇo.

983. Sau khi đã cống hiến cuộc tế lễ vĩ đại, vị Bà-la-môn đã đi vào lại nơi ẩn cư. Khi vị ấy đã đi vào trong, một người Bà-la-môn khác đã đi đến.

979. Ðại tế đàn lễ xong,
Vị ấy trở về am,
Trong khi bước vào am,
Một Phạm-chí khác đến.

984. Ugghaṭṭapādo tasito paṅkadanto rajassiro,
so ca naṃ upasaṅkamma satāni pañca yācati.

984. Và người ấy, với bàn chân bị sưng vù, run lập cập, có răng đóng bợn, với đầu lấm bụi, đã đi đến gần vị Bà-la-môn và cầu xin năm trăm (tiền).

980. Chân sưng húp, run rẩy
Ðầy bùn, đầu lấm bụi,
Người ấy bước đến gần,
Và xin năm trăm tiền.

985. Tamenaṃ bāvarī disvā āsanena nimantayī,
sukhañca kusalaṃ pucchi idaṃ vacanamabravi.

985. Sau khi nhìn thấy kẻ ấy đấy, (Bà-la-môn) Bāvarī đã mời chỗ ngồi, đã hỏi về sự an lạc và tốt lành, rồi đã nói lời này:

981. Sau khi thấy vị ấy,
Ba-va-ri mời ngồi,
Hỏi thăm, thiện, an lạc
Rồi nói lời như sau:

986. Yaṃ kho mamaṃ deyyadhammaṃ sabbaṃ vissajjitaṃ mayā,
anujānāhi me brahme natthi pañca satāni me.

986. “Quả thật, cái gì thuộc về tôi mà là vật có thể bố thí, thì tôi đã ban phát tất cả rồi. Này ông Bà-la-môn, xin hãy hiểu cho tôi, tôi không có năm trăm.”

Bàvarim:

982. Những gì tôi cho được,
Tôi đã cho tất cả,
Phạm chí hãy tin tôi,
Tôi không có năm trăm.

987. Sace me yācamānassa bhavaṃ nānupadassati,
sattame divase tuyhaṃ muddhā phalatu sattadhā.

987. “Nếu trong khi được tôi cầu xin, mà ngài không ban cho, thì vào ngày thứ bảy, cái đầu của ngài hãy bể tan thành bảy mảnh.”  

Phạm-chí:

983. Nếu điều ta xin Ông,
Tôn giả không đáp ứng,
Sau bảy ngày, đầu Ông
Sẽ bị vỡ, bảy mảnh!

988. Abhisaṅkharitvā kuhako bheravaṃ so akittayi,
tassa taṃ vacanaṃ sutvā bāvarī dukkhito ahū.

988. Sau khi làm thủ thuật, kẻ dối trá ấy đã thốt lời hăm dọa. Sau khi nghe được lời nói ấy của kẻ ấy, Bāvarī đã trở nên sầu khổ.  

984. Sau khi làm chú thuật,
Kẻ man trá tuyên bố,
Những lời nói đáng sợ,
Nghe những lời nói ấy,
Phạm-chí Ba-va-ri
Cảm thấy lòng đau khổ.

989. Ussussati anāhāro sokasallasamappito,
athopi evaṃ cittassa jhāne na ramatī mano.

989. (Vị ấy) trở nên héo mòn, không thức ăn, đã bị đâm trúng bởi mũi tên sầu muộn, Rồi cũng thế, đối với người có tâm như vậy, ý không vui thích trong việc tham thiền.

985. Gầy ốm, không uống ăn,
Bị tên sầu muộn đâm,
Với tâm tư như vậy,
Ý khó vui trong thiền,

990. Utrastaṃ dukkhitaṃ disvā devatā atthakāminī,
bāvariṃ upasaṅkamma idaṃ vacanamabravī.
 

990. Sau khi nhìn thấy Bāvarī bị run sợ, bị sầu khổ, vị Thiên nhân có lòng mong mỏi điều tốt đẹp, đã đi đến gặp Bāvarī và đã nói lời này:

986. Thấy lo sợ buồn khổ,
Một Thiên nhân đi đến,
Muốn bạn được hạnh phúc,
Nói với Ba-va-ri.

991. Na so muddhaṃ pajānāti kuhako so dhanatthiko,
muddhani muddhapāte vā ñāṇaṃ tassa na vijjati.

991. “Gã ấy không nhận biết về cái đầu. Gã dối trá ấy là kẻ tầm cầu tài sản. Sự hiểu biết của gã ấy về cái đầu hay về việc làm vỡ cái đầu không hiện hữu.”

Thiên nhân:

987. Kẻ man trá muốn tiền,
Không rõ biết về đầu,
Về đầu, đánh bể đầu,
Trí ấy nó không có
.

992. Bhotī carahi jānāti taṃ me akkhāhi pucchitā,
muddhaṃ muddhādhipātañca taṃ suṇoma vaco tava.

992. “Thưa tiên nữ, nếu nàng biết, khi được tôi hỏi, xin nàng hãy nói với tôi về điều ấy, về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu. Chúng tôi xin lắng nghe lời nói của nàng về điều ấy.”

Bàvarim:

988. Này bạn,nếu bạn biết,
Hãy nói câu hỏi tôi,
Về đầu, đánh bể đầu,
Chúng tôi nghe lời người.

993. Ahaṃ petaṃ na jānāmi ñāṇaṃ ettha na vijjati,
muddhaṃ muddhādhipāte vā jinānaṃ hettha dassanaṃ.

993. “Ngay cả tôi cũng không biết về điều này; sự hiểu biết của tôi về lĩnh vực này không hiện hữu. Kiến thức ở lĩnh vực này, cái đầu và việc làm vỡ cái đầu, chỉ riêng thuộc về các đấng Chiến Thắng.”

Thiên nhân:

989. Tôi không biết việc này,
Trí này, tôi không có,
Về đầu, đánh bể đầu,
Bậc chiến thắng thấy được.

994. Atha kho carahi jānāti asmiṃ puthuvi maṇḍale,
muddhaṃ muddhādhipātañca taṃ me akkhāhi devate.

994. “Vậy thì hiện nay, ở trái đất hình cầu này, người nào biết về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu? Thưa tiên nữ, xin nàng hãy nói điều ấy cho tôi.”

Bàvarim:

990. Vậy ai có thể biết,
Trên quả đất tròn này,
Về đầu, đánh bể đầu,
Thiên nhân, nói tôi biết.

995. Purā kapilavatthumhā nikkhanto lokanāyako,
apacco okkākarājassa sakyaputto pabhaṅkaro.

995. “Bậc Lãnh Đạo Thế Gian, hậu duệ của đức vua Okkāka, con trai dòng Sakya, đấng Mặt Trời, trước đây đã ra đi từ thành Kapilavatthu.

Thiên nhân:

991. Từ thành Ka-pi-la,
Bậc lãnh đạo thế giới,
Xuất hiện ra ở đời,
Là con cháu, hậu duệ,
Của vua Ok-ka-ka
Thích tử, chiếu hào quang.

996. So hi brāhmaṇa sambuddho sabbadhammānapāragū,
sabbābhiññābalappatto sabbadhammesu cakkhumā,
sabbakammakkhayaṃ patto vimutto upadhikkhayā.


 

996. Này Bà-la-môn, vị ấy chính là đấng Toàn Giác, bậc đã đi đến bờ kia đối với tất cả các pháp, đã đạt được năng lực của tất cả các thắng trí, bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp, đã đạt đến sự cạn kiệt đối với tất cả các nghiệp, đã được giải thoát bởi sự cạn kiệt các mầm tái sanh.

992. Vị ấy Chánh Ðẳng Giác,
Hỡi này Bà-la-môn,
Ðã đi đến bờ kia,
Ðối với tất cả pháp,
Ðạt được cả sức mạnh,
Của tất cả thắng trí,
Bậc có mặt thấy được
Trong tất cả các pháp.
Ðạt được sự diệt tận,
Của tất cả các pháp,
Ðược giải thoát, diệt tận,
Ðối với các sanh y.

997. Buddho so bhagavā loke dhammaṃ deseti cakkhumā,
taṃ tvaṃ gantvāna pucchassu so te taṃ vyākarissati.

 

997. Vị ấy là đức Phật, đấng Thế Tôn ở thế gian, bậc Hữu Nhãn thuyết giảng Giáo Pháp. Ông hãy đi đến và hỏi vị ấy. Vị ấy sẽ giải thích điều ấy cho ông.”

993. Bậc Giác ngộ, Thế Tôn,
Bậc có mắt thuyết pháp,
Hãy đến hỏi vị ấy,
Vị ấy sẽ trả lời.

998. Sambuddhoti vaco sutvā udaggo bāvarī ahū,
sokassa tanuko āsi pītiñca vipulaṃ labhi.

 

998. Sau khi nghe được câu nói “Đấng Toàn Giác,” Bāvarī đã trở nên phấn khởi. Nỗi sầu muộn của vị này đã trở thành nhỏ nhoi, và ông ta đã đạt được niềm vui bao la.

994. Nghe tiếng Chánh Ðẳng Giác,
Ba-va-ri phấn khởi,
Sầu muộn được giảm bớt,
Ðược hoan hỷ rộng lớn.

999. So bāvarī attamano udaggo
taṃ devataṃ pucchati vedajāto:
Katamamhi gāme nigamamhi vā pana
katamamhi vā janapade lokanātho
yattha gantvā namassemu sambuddhaṃ dipaduttamaṃ.
 

999. Vị Bāvarī ấy, có ý hài lòng, phấn khởi, sanh nỗi hân hoan, hỏi người tiên nữ ấy rằng: “Đấng Bảo Hộ Thế Gian ở ngôi làng hoặc ở phố thị nào, hay ở xứ sở nào? Chúng tôi sẽ đi đến nơi ấy và lễ bái đấng Toàn Giác, bậc tối thượng của loài người.”

995. Vị Ba-va-ri ấy,
Hoan hỷ và phấn khởi,
Cảm thấy lòng cảm động,
Hỏi vị thiên nhân ấy.

Bàvarim:

995b. Ở tại thôn làng nào,
Ở tại thị trấn nào,
Ở tại quốc độ nào,
Lãnh đạo thế giới trú?
Tại đấy, tôi sẽ đi,
Ðảnh lễ bậc Giác ngộ,
Bậc Vô thượng loài Người.

1000. Sāvatthiyaṃ kosalamandire jino
pahūtapañño varabhūrimedhaso,
so sakyaputto vidhuro anāsavo
muddhādhipātassa vidū narāsabho.

1000. “Đấng Chiến Thắng ở Sāvatthi, cung điện của xứ Kosala, có tuệ rộng lớn, có sự sáng suốt quảng đại cao quý. Người con trai dòng Sakya ấy không kẻ sánh bằng, không còn lậu hoặc, là bậc Nhân Ngưu, vị hiểu biết về việc làm vỡ cái đầu.”

Thiên nhân:

996. Ở tại Xa-vat-thi,
Trong thành Kô-xa-la,
Bậc chiến thắng an trú,
Với trí tuệ rộng lớn,
Với hiểu biết thù thắng,
Rộng rãi và cùng khắp.
Vị ấy là Thích tử,
Không gánh nặng vô lậu,
Bậc Ngưu vương loài Người,
Biết rõ về đỉnh đầu,
Biết rõ đánh vỡ đầu.

1001. Tato āmantayī sisse brāhmaṇe mantapārage,
etha māṇavā akkhissaṃ suṇātha vacanaṃ mama.

1001. Sau đó, vị Bà-la-môn đã bảo những người học trò tinh thông về chú thuật rằng: “Này các cậu thanh niên hãy đi đến, ta sẽ nói. Các ngươi hãy lắng nghe lời nói của ta.

997. Rồi vị Bà-la-môn,
Cho gọi các đệ tử,
Là những vị thông đạt,
Về bùa chú kệ tụng.

Bàvarim:

997b. Hãy đến, các thanh niên,
Ta sẽ nói, hãy nghe,
Những lời ta nói lên.

1002. Yasseso dullabho loke pātubhāvo abhiṇhaso,
svājja lokamhi uppanno sambuddho iti vissuto,
khippaṃ gantvāna sāvatthiṃ passavho dipaduttamaṃ.

1002. Sự xuất hiện thường xuyên ấy của vị nào là điều khó đạt được ở thế gian, vị ấy hôm nay đã hiện khởi ở thế gian, được biết tiếng là “Đấng Toàn Giác.” Chúng ta hãy nhanh chóng đi đến Sāvatthi và diện kiến bậc tối thượng của loài người.”

998. Vị ấy rất khó gặp,
Rất hiếm hiện ở đời,
Nay sanh ra ở đời,
Ðược danh bậc Chánh giác,
Hãy đi gấp Xá-vệ,
Thấy được bậc Vô thượng
.

1003. Kathaṃ carahi jānemu disvā buddhoti brāhmaṇa,
ajānataṃ no pabrūhi yathā jānemu taṃ mayaṃ.

1003. “Thưa Bà-la-môn, vậy làm thế nào chúng con có thể biết là ‘Đức Phật’ sau khi nhìn thấy? Xin thầy hãy nói ra cho những người không biết chúng con để chúng con có thể nhận biết vị ấy.”

Các đệ tử:

999. Kính thưa Bà-la-môn,
Thế nào chúng con biết,
Sau khi thấy vị ấy,
Biết vị ấy là Phật,
Chúng con chưa được biết
Hãy nói chúng con biết!

1004. Āgatāni hi mantesu mahāpurisalakkhaṇā,
dvattiṃsāni ca vyākhyātā samantā anupubbaso.

1004. “Các tướng trạng của bậc đại nhân quả đã được lưu truyền ở các chú thuật, và ba mươi hai điều đã được thuật lại đầy đủ theo thứ tự.

Bàvarim:

1000. Trong những kệ bùa chú,
Ðược truyền lại đến nay,
Có nói đến tướng tốt,
Của một bậc Ðại nhân,
Có nói ba mươi hai,
Trọn đủ, được liên tục.

1005. Yassete honti gattesu mahāpurisalakkhaṇā,
duveva tassa gatiyo tatiyā hi na vijjati.
 

1005. Vị nào có những tướng trạng của bậc đại nhân này ở các phần thân thể, đối với vị ấy chỉ có hai lối đi, bởi vì lối đi thứ ba không có.

 

1001. Ai có trên tay chân,
Ðủ tướng đại nhân ấy,
Chỉ có hai sanh thú,
Không có cái thứ ba.

1006. Sace agāraṃ ajjhāvasati vijeyya paṭhaviṃ imaṃ,
adaṇḍena asatthena dhammenamanusāsati.

1006. Nếu sống tại gia, vị ấy sẽ chinh phục trái đất này và cai quản đúng pháp, không nhờ vào gậy gộc, không nhờ vào gươm đao.

 

1002. Nếu trú tại gia đình,
Chinh phục quả đất này,
Không dùng trượng, dùng kiếm,
Giáo hóa đúng Chánh pháp.

1007. Sace ca so pabbajati agārā anagāriyaṃ,
vivattacchaddo sambuddho arahā bhavati anuttaro.


 

 1007. Và nếu vị ấy xuất gia, rời nhà sống không nhà, thì (sẽ) trở thành đấng Toàn Giác, bậc A-la-hán, đấng Vô Thượng, có màn che (vô minh) đã được xua tan.

1003. Nếu vị ấy xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Rộng mở màn vô minh,
Vị ấy, được trở thành,
Bậc Chánh đẳng Chánh giác,
Bậc Ứng cúng, Vô thượng.

1008. Jātiṃ gottañca lakkhaṇaṃ mante sisse punāpare,
muddhaṃ muddhādhipātañca manasāyeva pucchatha.

 

1008. Các ngươi hãy hỏi, chỉ bằng ý mà thôi, về việc sanh ra và về dòng họ, về tướng trạng, về các chú thuật, về các học trò, về những điều khác nữa (liên quan đến ta), về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu.

1004. Với tâm ý, hãy hỏi,
Sanh, tánh tướng của ta,
Kệ chú, đệ tử ta,
Về đầu, đánh bể đầu.

1009. Anāvaraṇadassāvī yadi buddho bhavissati,
manasā pucchite pañhe vācāya vissajessati.

 

1009. Nếu là đức Phật, bậc có sự nhìn thấy không bị chướng ngại, thì khi câu hỏi được hỏi bằng ý, (vị ấy) sẽ đáp lại bằng lời nói.”

1005. Nếu vị ấy là Phật,
Thấy rõ, không che kín,
Với lời, vị ấy đáp,
Các câu hỏi bởi ý.

1010. Bāvarissa vaco sutvā sissā soḷasa brāhmaṇā,
ajito tissametteyyo puṇṇako atha mettagū.

 

 1010. Sau khi lắng nghe lời nói của Bāvarī, mười sáu vị Bà-la-môn học trò là: Ajita, Tissametteyya, Puṇṇaka, rồi Mettagū, ...

1006. Nghe lời Ba-va-ri,
Mười sáu người đệ tử,
Tất cả là Phạm chí,
Tên là A-ji-ta,
Tis-xa-mêt-tê-ya,
Pun-na-ka, Mết-gu,

1011. Dhotako upasīvo ca nando ca atha hemako,
todeyya-kappā dubhayo jatukaṇṇī ca paṇḍito,

 

1011. Dhotaka, và Upasīva, Nanda, rồi Hemaka, hai vị Todeyya, và Kappa, và vị sáng suốt Jatukaṇṇī, ...

Cùng với Ðo-ta-ka,
Và U-pa-xi-va,
Nan-da, Hê-ma-ka,
Tô-đê-ya, Kap-pa,
Với Ja-tu-kan-ni,
Là bậc danh Hiền trí.

1012. Bhadrāvudho udayo ca posālo cāpi brāhmaṇo,
mogharājā ca medhāvī piṅgiyo ca mahā isi.

 

 1012. Bhadrāvudha, và Udaya, luôn cả Bà-la-môn Posāla, và vị thông minh Mogharājā, và vị đại ẩn sĩ Piṅgiya.

1008. Và Bha-drà-vu-đa,
Cùng với U-da-ya,
Phạm Chí Po-xà-la,
Và Mo-gha-rà-jà,
Là bậc có trí tuệ,
Cùng với Pin-gi-ya,
Là vị đại ẩn sĩ,
Tất cả những vị ấy.

1013. Paccekagaṇino sabbe sabbalokassa vissutā,
jhāyī jhānaratā dhīrā pubbavāsanavāsitā.

 

 1013. Tất cả là những vị có đồ chúng riêng, được nổi tiếng khắp cả thế gian, có thiền chứng, thích thú với thiền, sáng trí, đã được huân tập thành thói quen trong quá khứ.

1009. Mỗi người có đồ chúng,
Có danh xưng ở đời,
Tu thiền, ưa thiền định,
Bậc có trí sáng suốt,
Mang theo những dấu tích,
Ðời sống trước của mình.

1014. Bāvariṃ abhivādetvā katvā ca naṃ padakkhiṇaṃ,
jaṭājinadharā sabbe pakkāmuṃ uttarāmukhā.

1014. Sau khi đã đảnh lễ Bāvarī, và thực hiện việc nhiễu quanh vị ấy, tất cả có tóc bện, mặc y da dê, đã ra đi hướng về phía bắc.

1010. Ðảnh lễ Ba-va-ri,
Thân phía hữu hướng Ngài,
Tất cả đều bện tóc,
Mặc áo vải da thú,
Mặt hướng về phía Bắc,
Tất cả chúng ra đi.

1015. Mūlakassa patiṭṭhānaṃ purimaṃ māhissatiṃ tadā,
ujjeniñcāpi gonaddhaṃ vedisaṃ vanasavhayaṃ.

1015. (Họ đã đi) đến Patiṭṭhāna của xứ sở Mūlaka trước tiên, rồi đến Māhissatī, luôn cả Ujjenī, Gonaddhā, Vedisā, và (thành phố) có tên Vana. 

1011. Trước hết, họ đi ngang,
Ðến Pa-tít-thà-na,
Của xứ A-la-ka,
Rồi Ma-hi-xa-ti,
Tiếp đến Uj-jê-ni,
Và đến Gô-nad-đăng,
Tiếp đến Vê-đi-xăng,
Va-na-xa-ha-yăng,

1016. Kosambiṃ cāpi sāketaṃ sāvatthiñca puruttamaṃ,
setavyaṃ kapilaṃ vatthuṃ kusinārañca mandiraṃ.

1016. Rồi đến Kosambī, luôn cả sāketa, và thành phố hạng nhất Sāvatthi, Setavya,  vùng đất Kapila, và cung điện Kusinārā.

1012. Ði đến Kô-xăm-bi,
Ði đến Xa-kê-ta,
Rồi đến Xa-vat-thi,
Là thành phố tối thượng,
Kế đến Xê-ta-vyam,
Ka-pi-la-vat-thu,
Rồi đến tòa lâu đài,
Tên Ku-xi-na-ra,

1017. Pāvañca bhoganagaraṃ vesāliṃ māgadhaṃ puraṃ,
pāsāṇakaṃ cetiyañca ramaṇīyaṃ manoramaṃ.

1017. Pāvā, và thành phố Bhogā, Vesālī, thành phố xứ Magadha, và điện thờ Pāsāṇakaṃ đáng yêu, thich ý.

Rồi đi đến Pa-va,
Và thành phố Bhô-ga,
Tiếp đến Vê-xá-ly,
Thành phố Ma-ga-đa,
Rồi Pa-xe-na-ka,
Ngôi điện đẹp, khả ái.

1018. Tasito vudakaṃ sītaṃ mahālābhaṃva vāṇijo,
chāyaṃ ghammābhitattova turitā pabbatamāruhuṃ.

1018. Tựa như người bị khát nước được nước mát, tựa như thương buôn được lợi lớn, tựa như người bị thiêu đốt bởi sức nóng được bóng râm, họ đã vui mừng trèo lên ngọn núi.

1014. Như người khát, nước mát,
Như người buôn, lợi lớn,
Như nóng bức, bóng mát,
Họ gấp leo ngọn núi.

1019. Bhagavā tamhi samaye bhikkhusaṅghapurakkhato,
bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseti sīhova nadatī vane.

1019. Và vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, được hội chúng tỳ khưu tôn vinh,  thuyết giảng Giáo Pháp cho các vị tỳ khưu, tựa như con sư tử gầm thét ở khu rừng.

1015. Thế Tôn, trong lúc ấy,
Dẫn đầu chúng Tỷ-kheo,
Ngài đang thuyết Chánh pháp,
Cho các vị Tỷ-kheo,
Giống như con sư tử,
Rống tiếng rống trong rừng.

1020. Ajito addasa sambuddhaṃ sataraṃsiva bhānumaṃ,
candaṃ yathā paṇṇarase paripūriṃ upāgataṃ.

1020. Ajita đã nhìn thấy đấng Toàn Giác tựa như mặt trời có trăm ánh hào quang, giống như mặt trăng đã tiến gần đến sự tròn đầy vào ngày mười lăm.

1016. A-ja-ta thấy Phật,
Như mặt trời vàng chói,
Như mặt trăng ngày rằm,
Ðược tròn đầy viên mãn.

1021. Athassa gatte disvāna paripūrañca vyañjanaṃ,
ekamantaṃ ṭhito haṭṭho manopañhe apucchatha.
 

1021. Rồi sau khi nhìn thấy các phần thân thể của vị này và dấu hiệu được đầy đủ, Ajita, đứng ở một bên, mừng rỡ, đã hỏi bằng ý các câu hỏi rằng:

1017. Và thấy tay chân Ngài,
Ðầy đủ các tướng tốt,
Hoan hỷ đứng một bên,
Hỏi câu hỏi tâm ý.

1022. Ādissa jammanaṃ brūhi gottaṃ brūhi salakkhaṇaṃ,
mantesu pāramiṃ brūhi kati vāceti brāhmaṇo.

 

1022. “Xin Ngài hãy xác định và nói về việc sanh ra (của vị Bāvarī). Xin Ngài hãy nói về dòng họ cùng với tướng trạng. Xin Ngài hãy nói về sự toàn hảo ở các chú thuật. Vị Bà-la-môn (Bāvarī) dạy bảo được bao nhiêu?”

Ajita:

1018. Hãy nói về thọ sanh,
Nói dòng họ, các tướng,
Về tối thượng kệ chú,
Phạm chí đọc bao nhiêu?

1023. Vīsaṃvassasataṃ āyu so ca gottena bāvari,
tīṇassa lakkhaṇā gatte tiṇṇaṃ vedāna pāragū.

 

1023. “Tuổi thọ là một trăm hai mươi. Và theo dòng họ vị ấy là Bāvarī. Ở thân thể vị này có ba tướng trạng. Là vị tinh thông về ba bộ Vệ Đà.

Thế Tôn:

1019. Tuổi thọ trăm hai mươi,
Dòng họ Bà-va-ri,
Trên tay chân, ba tướng,
Thông đạt ba Vệ-đà.

1024. Lakkhaṇe itihāseva sanighaṇḍusakeṭubhe,
pañca satāni vāceti sadhamme pāramiṃ gato.

 

1024. Là người đã đạt đến sự toàn hảo về pháp (Bà-la-môn) của mình, về tướng trạng và về lịch sử, về từ vựng và về nghi lễ, (Bāvarī) dạy bảo năm trăm (học trò).”

 

1020. Về tướng và truyền thuyết,
Về tự vựng, lễ nghi,
Tụng đọc được năm trăm,
Ðạt tối thượng diệu pháp.

1025. Lakkhaṇānaṃ pavicayaṃ bāvarissa naruttama,
taṇhacchida pakāsehi mā no kaṃkhāyitaṃ ahū.

 1025. “Thưa bậc Tối Thượng Nhân, thưa bậc đã cắt đứt tham ái, xin Ngài hãy giải thích chi tiết về các tướng trạng của Bāvarī, xin chớ để chúng tôi bị hoài nghi.”

Ajita:

1021. Bậc Vô thượng, đoạn ái,
Hãy nói lên tường tận
Các tướng Ba-va-ri,
Ðể chúng con không nghi.

1026. Mukhaṃ jivhāya chādeti uṇṇ’ assa bhamukantare,
kosohitaṃ vatthaguyhaṃ evaṃ jānāhi māṇava.

1026. “(Người ấy) che khuất khuôn mặt bằng cái lưỡi, có sợi lông ở khoảng giữa chân mày của người này, vật được che giấu sau lớp vải (vật kín) được bọc lại; này người thanh niên, hãy biết như thế.”

Thế Tôn:

1022. Lưỡi che kín mặt mày,
Giữa hàng mi, lông trắng,
Có da bọc âm tàng,
Hãy biết vậy, thanh niên.

1027. Pucchaṃ hi kiñci asuṇanto sutvā pañhe viyākate,
vicinteti jano sabbo vedajāto katañajali.

1027. Trong khi không nghe bất kỳ câu hỏi nào, mà đã nghe các câu hỏi được trả lời, tất cả mọi người sanh nỗi hân hoan, tay chắp lại, suy nghĩ rằng:

1023. Không nghe câu hỏi gì,
Chỉ nghe câu trả lời,
Quần chúng rất ngạc nhiên,
Chắp tay tự suy nghĩ.

1028. Ko nu devo va brahmā vā indo vāpi sujampati,
manasā pucchite pañhe tamenaṃ paṭibhāsati.

 1028. “Vậy thì vị Trời nào, hay đấng Đại Phạm, hoặc (Thiên vương) Inda chồng của Sujā, đã hỏi bằng ý những câu hỏi ấy? (Đức Phật) đáp lại điều này cho ai?”

Dân chúng:

1024. Thiên, Phạm thiên, Ðế thích,
Hay Xu-jam-pa-ti
Ai, với ý hỏi Ngài,
Xin nói cho được biết?

1029. Muddhaṃ muddhādhipātañca bāvarī paripucchati,
taṃ vyākarohi bhagavā kaṅkhaṃ vinaya no ise.
 

1029. “Vị Bāvarī hỏi về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu. Thưa đức Thế Tôn, xin Ngài hãy trả lời điều ấy. Thưa bậc ẩn sĩ, xin Ngài hãy xua đi nỗi nghi ngờ của chúng tôi.”

Ajita:

1025. Ba-va-ri tìm hỏi,
Về đầu, đánh bể đầu,
Thế Tôn hãy trả lời,
Ðoạn nghi hoặc chúng con?
Ôi, thưa bậc Tiên nhân!

1030. Avijjā muddhāti jānāhi vijjā muddhādhipātinī,
saddhāsatisamādhīhi chandaviriyena saṃyutā.

1030. “Người hãy biết vô minh là ‘cái đầu,’ minh với việc đập vỡ cái đầu, được liên kết với tín, niệm, định, ... với ước muốn và tinh tấn.”

Thế Tôn:

1026. Vô minh là đỉnh đầu,
Hãy hiểu biết như vậy,
Minh là đánh bể đầu,
Liên hệ dục tinh tấn,
Với lòng tin, chánh niệm,
Liên hệ với thiền định.

1031. Tato vedena mahatā santhambhitvāna māṇavo,
ekaṃsaṃ ajinaṃ katvā pādesu sirasā pati.

1031. Do đó, với nỗi hân hoan lớn lao, sau khi trấn tĩnh lại người thanh niên Bà-la-môn đã khoác tấm da dê một bên vai, quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân (đức Phật và nói rằng):

1027. Với cảm thọ lớn mạnh,
Thanh niên tự chế ngự,
Ðắp áo da một bên,
Với đầu, đảnh lễ chân.

1032. Bāvarī brāhmaṇo bhoto sahasissehi mārisa,
udaggacitto sumano pāde vandati cakkhuma.

 1032. “Thưa Ngài, Bà-la-môn Bāvarī, có tâm phấn khởi, có ý tốt lành, cùng với các học trò đảnh lễ hai bàn chân của Ngài, thưa bậc Hữu Nhãn.”

Ajita:

1028. Phạm chí Ba-va-ri,
Cùng đệ tử, thưa Ngài,
Tâm phấn khởi, đẹp ý,
Lễ chân, bậc có mắt.

1033. Sukhito bāvarī hotu sahasissehi brāhmaṇo,
tvañcāpi sukhino hohi ciraṃ jīvāhi māṇava.

1033. “Mong sao Bà-la-môn Bāvarī cùng với các học trò được an lạc. Và luôn cả ngươi nữa hãy được an lạc. Này người thanh niên, chúc người sống thọ.

Thế Tôn:

1029. Phạm chí Ba-va-ri,
Hãy sống được an lạc,
Cùng với các đệ tử!
Mong Ông sống an lạc,
Thọ mạng được lâu dài,
Hỡi này kẻ thanh niên.

1034. Bāvarissa va tuyhaṃ vā sabbesaṃ sabbasaṃsayaṃ,
katāvakāsā pucchavho yaṃ kiñci manasicchatha.

1034. Từ cơ hội đã được tạo ra, ngươi hãy hỏi mọi điều hoài nghi của tất cả, của Bāvarī, hoặc của ngươi, bất cứ điều gì ngươi mong muốn ở trong tâm.”

1030. Ba-va-ri và Ông,
Có mọi nghi ngờ gì,
Cơ hội đến, hãy hỏi,
Tùy theo ý Ông muốn.

1035. Sambuddhena katokāso nisīditvāna pañjalī,
ajito paṭhamaṃ pañhaṃ tattha pucchi tathāgataṃ.

 1035. Với cơ hội đã được tạo ra bởi đấng Toàn Giác, Ajita đã ngồi xuống, chắp tay lại, tại nơi ấy đã hỏi đức Như Lai câu hỏi thứ nhất.

1031. Ðược bậc Chánh Ðẳng Giác,
Cho cơ hội tốt đẹp,
A-ji-ta liền ngồi,
Chắp tay hỏi Như Lai,
Hỏi câu hỏi thứ nhất,
Chính ngay tại chỗ ấy,
Kệ mở đầu đã xong.

 

Vatthugāthā niṭṭhitā.

 

 

Dứt Kệ Ngôn Giới Thiệu.

 

 
   

 

1. AJITASUTTAṂ

 

 

1. KINH AJITA

 

 

II. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN A-JI-TA

 

1036. Kenassu nivuto loko (iccāyasmā ajito) kenassu nappakāsati,
kissābhilepanaṃ brūsi kiṃsu tassa mahabbhayaṃ.
 

1036. (Tôn giả Ajita hỏi:) “Thế gian bị phủ kín bởi cái gì? Không chói sáng bởi điều gì? Ngài hãy nói cái gì là sự vấy nhiễm? Sự nguy hiểm lớn lao của nó là gì?”

Ajita:

1032. Tôn giả A-ji-ta:
Do gì, đời bị che,
Do gì, không chói sáng,
Hãy nói lên cái gì,
Làm uế nhiễm cuộc đời,
Cái gì sợ hãi lớn?

1037. Avijjāya nivuto loko (ajitāti bhagavā)
vevicchā pamādā nappakāsati,
jappābhilepanaṃ brūmi dukkhamassa mahabbhayaṃ.
 

1037. (Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,) thế gian bị phủ kín bởi vô minh, không chói sáng bởi keo kiệt, bởi xao lãng. Ta nói tham muốn là sự uế nhiễm, khổ là sự nguy hiểm lớn lao của nó (thế gian).”

Thế Tôn:

1033. Thế Tôn liền đáp lại:
Ðời bị vô minh che,
Do xan tham, phóng dật,
Ðời không được chói sáng,
Ta nói do mong cầu,
Nên đời bị uế nhiễm,
Chính là sự đau khổ,
Nên có sợ hãi lớn.

1038. Savanti sabbadhī sotā (iccāyasmā ajito)
sotānaṃ kiṃ nivāraṇaṃ,
sotānaṃ saṃvaraṃ brūhi kena sotā pithīyare.
 

1038. (Tôn giả Ajita hỏi:) “Các dòng chảy trôi đi khắp mọi nơi. Cái gì là sự ngăn cản các dòng chảy? Ngài hãy nói về sự chế ngự các dòng chảy. Các dòng chảy được chặn đứng bởi cái gì?”

Ajita:

1034. Tôn giả A-ji-ta:
Mọi nơi dòng nước chảy,
Cái gì ngăn dòng nước?
Hãy nói lên cái gì?
Chế ngự được dòng nước?
Cái gì đóng dòng nước?

1039. Yāni sotāni lokasmiṃ (ajitāti bhagavā)
sati tesaṃ nivāraṇaṃ,
sotānaṃ saṃvaraṃ brūmi paññāyete pithīyare.

1039. (Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,) những dòng chảy nào hiện diện ở thế gian, niệm là sự ngăn cản chúng. Ta nói về sự chế ngự các dòng chảy. Chúng được chặn đứng bởi tuệ.”

Thế Tôn:

1035. Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này A-ji-ta,
Các dòng nước ở đời,
Chánh niệm ngăn chận lại,
Chánh niệm được Ta gọi,
Chế ngự các dòng nước,
Và chính do trí tuệ,
Ðóng lại các dòng nước.

1040. Paññā ceva satī ceva (iccāyasmā ajito)
nāmarūpañca mārisa,
etaṃ me puṭṭho pabrūhi katthetaṃ uparujjhati.

1040. (Tôn giả Ajita hỏi:) “Thưa ngài, tuệ và luôn cả niệm, danh và sắc; được tôi hỏi điều này, xin ngài hãy nói lên, ở đâu điều này được diệt tận?”

Ajita:

1036. Tôn giả A-ji-ta:
Trí tuệ và chánh niệm,
Cùng với danh và sắc,
Kính thưa bậc Tôn giả,
Hãy nói điều con hỏi,
Từ đâu chúng bị diệt?

1041. Yametaṃ pañhaṃ apucchi ajita taṃ vadāmi te,
yattha nāmañca rūpañca asesaṃ uparujjhati,
viññāṇassa nirodhena etthetaṃ uparujjhati.

1041. “Này Ajita, câu hỏi nào ông đã hỏi, Ta (sẽ) trả lời câu hỏi ấy cho ông: Nơi nào danh và sắc được diệt tận không dư sót. Do sự diệt tận của thức, ở đây, điều này (danh và sắc) được diệt tận.”

 

 

Thế Tôn:

1037. Câu hỏi gì Ông hỏi,
Hỡi này A-ji-ta,
Ta sẽ đáp cho Ông,
Chỗ nào danh và sắc,
Ðược đoạn diệt hoàn toàn,
Không còn lại dư tàn,
Chính do đoạn diệt thức,
Danh sắc được đoạn diệt.

1042. Ye ca saṅkhātadhammā se ye ca sekhā puthū idha,
tesaṃ me nipako iriyaṃ puṭṭho pabrūhi mārisa.

1042. “Những vị nào đã hiểu rõ Giáo Pháp (các bậc A-la- hán) và những vị nào là các bậc Hữu Học đông đảo ở nơi này, tôi hỏi bậc chín chắn về oai nghi của những vị ấy, thưa ngài, xin ngài hãy nói lên.”

Ajita:

1038. Những ai biết tư sát,
Các pháp thuộc hữu vi,
Cùng với bậc hữu học,
Và phàm phu ở đời,
Ðược hỏi, Ngài hãy nói,
Về nếp sống của họ?
Bậc thận trọng sáng suốt,
Hãy nói lên, thưa Ngài!

1043. Kāmesu nābhigijjheyya manasā nāvilo siyā,
kusalo sabbadhammānaṃ sato bhikkhu paribbaje ”ti.
 

1043. “Vị tỳ khưu không nên khát khao ở các dục, không nên bị vẩn đục ở tâm, thiện xảo đối với tất cả các pháp, có niệm, nên ra đi du phương.”

Thế Tôn:

1039. Chớ tham đắm các dục,
Giữ tâm tư an tịnh,
Thiện xảo trong các pháp,
Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
Sống đời sống xuất gia.

 

Ajitasuttaṃ paṭhamaṃ.

 

 

Kinh Ajita là thứ nhất.

 

 
   

2. TISSAMETTEYYASUTTAṂ

 

 

2. KINH TISSAMETTEYYA

 

 

III. CÁC CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN TISSAMETTEYYA

 

1044. Kodha saṃtusito loke (iccāyasmā tissa metatayyo)
kassa no santi iñjitā,
ko ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippati,
kaṃ brūsi mahāpurisoti ko idha sibbanim accagā?

1044. (Tôn giả Tissametteyya hỏi:) “Ở đây, người nào được hài lòng ở thế gian? Đối với người nào các sự dao động không hiện hữu? Người nào, sau khi biết rõ cả hai đầu, nhờ vào trí tuệ không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa? Ngài nói ai là ‘bậc đại nhân’? Ở đây, người nào vượt qua thợ may (tham ái)?”

Tissa:

1040. Tissa Met-tey-ya:
Ai thỏa mãn ở đời,
Với ai không dao động,
Ai thắng tri hai biên,
Ở giữa, không dính líu,
Ai Ngài gọi đại nhân,
Ở đời, ai vượt khỏi,
Thêu dệt các ái nhiễm?

1045. Kāmesu brahmacariyavā (metteyyāti bhagavā)
vītataṇho sadā sato,
saṅkhāya nibbuto bhikkhu
tassa no santi iñjitā.

1045. (Đức Thế Tôn nói: “Này Metteyya,) vị có Phạm hạnh về các dục, đã xa lìa tham ái, luôn luôn có niệm, sau khi đã suy xét, vị tỳ khưu được tịch tịnh. Đối với vị ấy các sự dao động không hiện hữu.

Thế Tôn:

1041. Thế Tôn liền đáp rằng:
Hỡi này Met-tê-ya!
Giữa dục, sống Phạm hạnh,
Không ái, luôn chánh niệm,
Tỷ-kheo lặng tính toán,
An tịnh, không dao động.

1046. So ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippati,
taṃ brūmi mahāpurisoti sodha sibbanimaccagāti.
 

1046. Vị ấy, sau khi biết rõ cả hai đầu, nhờ vào trí tuệ không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa. Ta nói vị ấy là ‘bậc đại nhân.’ Ở đây, vị ấy vượt qua thợ may (tham ái).”

1042. Ai thắng tri hai biên,
Chặng giữa, nhờ suy tư,
Không dính líu bị nhiễm,
Ta gọi là đại nhân,
Vị ấy, ở đời này,
Vượt khỏi sự thêu dệt,
Các ái nhiễm tham muốn.

 

Tissametteyyasuttaṃ dutiyaṃ.

 

 

Kinh Tissametteyya là thứ nhì.

 

 

   

 

3. PUṆṆAKASUTTAṂ

 

 

3. KINH PUṆṆAKA

 

 

IV. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN PUNNAKA

 

1047. Anejaṃ mūladassāviṃ (iccāyasmā puṇṇako)
atthi pañhena āgamaṃ
kiṃ nissitā isayo manujā khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ,
yaññamakappayiṃsu puthū idha loke pucchāmi taṃ bhagavā brūhi me taṃ.
 

1047. (Tôn giả Puṇṇaka nói:) “Với ý định hỏi câu hỏi, tôi đã đi đến với bậc không dục vọng, bậc có sự nhìn thấy gốc rễ (của các pháp): ‘Nương tựa vào điều gì, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn đã chuẩn bị lễ hiến tế đến chư Thiên, đông đảo tại nơi này, ở thế gian. Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1043. Tôn giả Pun-na-ka:
Với ai không dao động,
Thấy rõ được cội gốc,
Con đến với câu hỏi,
Liên hệ đến mục đích,
Bậc ẩn sĩ, loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Do họ y chỉ gì,
Tế đàn cho chư Thiên.
Ðã tổ chức rộng lớn?
Con hỏi bậc Thế Tôn,
Hãy trả lời cho con.

1048. Ye kecime isayo manujā (puṇṇakāti bhagavā)
khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ
yaññamakappayiṃsu puthū idha loke,
āsiṃsamānā puṇṇaka itthabhāvaṃ
jaraṃ sitā yaññamakappayiṃsu.
 

1048. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn đã chuẩn bị lễ hiến tế đến chư Thiên, đông đảo tại nơi này, ở thế gian, này Puṇṇaka, trong khi mong ước bản thể này, bị phụ thuộc vào tuổi già, họ đã chuẩn bị lễ hiến tế.”

Thế Tôn:

1044. Thế Tôn bèn đáp rằng:
Hỡi này Pun-na-ka!
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Khi họ thành già yếu,
Họ tổ chức tế đàn,
Vì rằng họ hy vọng,
Ðược sanh ở đời này,
Hỡi này Pun-na-ka!

1049. Ye kecime isayo manujā (iccāyasmā puṇṇako)
khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ
yaññamakappayiṃsu puthū idha loke,
kaccissu te bhagavā yaññapathe appamattā
ātāru jātiñca jarañca mārisa
pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.

1049. (Tôn giả Puṇṇaka nói:) “Bất cứ những ai, các bậc ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn đã chuẩn bị lễ hiến tế đến chư Thiên, đông đảo tại nơi này, ở thế gian, thưa đức Thế Tôn, những người ấy, không xao lãng ở đường lối tế lễ, thưa ngài, có phải họ đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1045. Tôn giả Pun-na-ka:
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Thế Tôn nghĩ thế nào,
Họ không có phóng dật
Trên con đường tế đàn,
Họ vượt qua già chết,
Ðược hay không, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Con mong Ngài trả lời?

1050. Āsiṃsanti thomayanti
abhijappanti juhanti (puṇṇakāti bhagavā)
kāmābhijappanti paṭicca lābhaṃ,
te yājayogā bhavarāgarattā
nātariṃsu jātijaranti brūmi.

1050. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) những kẻ mong ước, tán dương, cầu khấn, cúng tế, cầu khấn các dục bởi vì lợi lộc, Ta nói rằng: ‘Những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, bị luyến ái với sự ái luyến vào hiện hữu, đã không vượt qua sanh và già.’”

Thế Tôn:

1046. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Họ hy vọng, tán thán,
Họ cầu nguyện, cúng lễ,
Họ cầu nguyện các dục,
Do duyên vì lợi dưỡng,
Chuyên tâm lo tế đàn,
Ưa thích, tham sanh hữu,
Họ không vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.

1051. Te ve nātariṃsu yājayogā (iccāyasmā puṇṇako)
yaññehi jātiñca jarañca mārisa,
atha ko carahi devamanussaloke
atāri jātiñca jarañca mārisa
pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.


 

1051. (Tôn giả Puṇṇaka nói:) “Thưa ngài, quả thật những kẻ ấy do sự gắn bó vào tế lễ đã không vượt qua sanh và già nhờ vào những lễ hiến tế, thưa ngài. Thưa ngài, vậy giờ đây người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1047. Tôn giả Pun-na-ka:
Nếu chúng chuyên tế đàn,
Nhưng không thể vượt qua,
Già chết với tế đàn,
Thời ai sống ở đời,
Trong thế giới Nhơn, Thiên,
Ðã vượt qua già chết,
Ai được vậy, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Ngài trả lời cho con?

1052. Saṅkhāya lokasmiṃ parovarāni (puṇṇakāti bhagavā)
yassiñjitaṃ natthi kuhiñci loke,
santo vidhūmo anīgho nirāso
atāri so jātijaranti brūmīti.

1052. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) sau khi đã suy xét nơi này và nơi khác ở thế gian, đối với vị nào sự dao động là không có bất cứ đâu ở thế gian, có sự an tịnh, không còn sân hận, không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng: ‘Vị ấy đã vượt qua sanh và già.’”

Thế Tôn:

1048. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Ai tính toán cao thấp,
Ước lượng vậy ở đời,
Ai không bị dao động,
Bất cứ đâu ở đời,
An tịnh, không phun khói,
Không phiền não, không cầu,
Vị ấy vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.

 

Puṇṇakasuttaṃ tatiyaṃ.

 

 

Kinh Puṇṇaka là thứ ba.

 

 

   

 

4. METTAGŪSUTTAṂ

 

4. KINH METTAGŪ

 

V. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN METTAGU

 

1053. Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā mettagū)
maññāmi taṃ vedaguṃ bhāvitattaṃ,
kuto nu dukkhā samudāgatā ime
ye keci lokasmiṃ anekarūpā.
 

1053. (Tôn giả Mettagū nói:) “Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này. Tôi nghĩ rằng ngài là người hiểu biết sâu sắc, có bản thân đã được tu tập. Từ đâu mà các khổ này đã được khởi lên, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều hình thức?”

Mettagu:

1049. Tôn giả Mêt-ta-gu:
Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Thế Tôn trả lời,
Vấn đề con đã hỏi,
Con nghĩ Ngài hiền trí,
Tự ngã đã tu tập,
Từ đâu, ở trong đời,
Ðau khổ này khởi lên,
Với nhiều loại như vậy?

1054. Dukkhassa ve maṃ pabhavaṃ apucchasi (mettagūti bhagavā)
taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ,
upadhinidānā pabhavanti dukkhā
ye keci lokasmiṃ anekarūpā.

1054. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) quả thật ngươi (đã) hỏi ta về sự phát khởi của khổ. Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi theo như điều Ta nhận biết. Các khổ phát khởi đều có căn nguyên là mầm tái sanh, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều hình thức.

Thế Tôn:

1050. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Ông hỏi ta vấn đề,
Sanh khởi của khổ đau,
Ta sẽ nói cho Ông,
Như Ta đã được biết,
Chính do duyên sanh y,
Nên khổ được khởi lên,
Với nhiều loại như vậy,
Khác biệt ở trong đời.

1055. Yo ve avidvā upadhiṃ karoti
punappunaṃ dukkhamupeti mando,
tasmā hi jānaṃ upadhiṃ na kayirā
dukkhassa jātippabhavānupassī.

1055. Thật vậy, kẻ nào, (do) không biết, tạo ra mầm tái sanh, là kẻ ngu (sẽ) đi đến khổ lần này lần khác. Chính vì thế, người có sự quán xét về sự sanh ra và sự phát khởi của khổ, trong khi biết, không nên tạo ra mầm tái sanh.”

1051. Những ai vì vô minh,
Tác thành các sanh y,
Kẻ ngu tạo đau khổ,
Tiếp tục được sanh khởi,
Do vậy kẻ hiểu biết,
Không nên tạo sanh y,
Vì thấy sự sanh khởi,
Của sanh và đau khổ.

1056. Yantaṃ apucchimha akittayī no (iccāyasmā mettagū)
aññaṃ taṃ pucchāmi tadiṅgha brūhi:
Kathannu dhīrā vitaranti oghaṃ
jātijaraṃ sokapariddavañca,
taṃ me munī sādhu viyākarohi
tathā hi te vidito esa dhammo.
 

1056. (Tôn giả Mettagū nói:) “Điều nào chúng tôi đã hỏi ngài, ngài đã giải bày cho chúng tôi. Tôi hỏi ngài điều khác, vậy xin ngài hãy trả lời điều ấy: Làm thế nào các bậc sáng trí vượt qua dòng lũ, sanh và già, sầu muộn và than vãn? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy khéo léo giảng rõ điều ấy cho tôi, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”

Mettagu:

1052. Ðiều chúng con đã hỏi,
Ngài đã đáp chúng rồi,
Nay xin hỏi câu khác,
Mong Ngài giải đáp cho,
Thế nào bậc Hiền trí,
Vượt khỏi dòng nước mạnh,
Vượt khỏi sanh và già,
Cùng sầu muộn than khóc,
Mong rằng bậc ẩn sĩ,
Hãy khéo trả lời con,
Ðúng như Ngài đã biết,
Pháp nhĩ là như vậy?

1057. Kittayissāmi te dhammaṃ (mettagūti bhagavā)
diṭṭhe dhamme anītihaṃ,
yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.


 

1057. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) Ta sẽ giải bày cho ngươi Giáo Pháp tự mình chứng ngộ, không phải do nghe nói lại. Sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

Thế Tôn:

1053. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Ta sẽ nói cho Ông,
Pháp thiết thực hiện tại,
Không do trao truyền lại,
Sau khi biết pháp ấy,
Vị ấy sống chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.

1058. Tañcāhaṃ abhinandāmi mahesi dhammamuttamaṃ,
yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.

 

1058. “Thưa bậc đại ẩn sĩ, tôi thích thú Giáo Pháp tối thượng ấy. Sau khi hiểu pháp ấy, có niệm, trong khi sống, tôi có thể vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

Mettagu:

1054. Thưa bậc Ðại ẩn sĩ,
Con hết sức hoan hỷ,
Chánh pháp vô thượng ấy,
Sau khi biết pháp ấy,
Sống gìn giữ chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời
.

1059. Yaṃ kiñci sampajānāsi (mettagūti bhagavā)
uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe,
etesu nandiñca nivesanañca
panujja viññāṇaṃ bhave na tiṭṭhe.

 

1059. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, bên trên, bên dưới, luôn cả chiều ngang và khoảng giữa, ngươi hãy xua đi sự vui thích, sự chấp chặt, và sự nhận thức ở các điều này; không nên trụ lại ở hữu.

Thế Tôn:

1055. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Phàm Ông rõ biết gì,
Trên dưới, ngang ở giữa,
Hãy từ bỏ hoan hỷ,
Hãy từ bỏ trú xứ,
Chớ để cho ý thức,
An trú trên sanh hữu.

1060. Evaṃvihārī sato appamatto
bhikkhu caraṃ hitvā mamāyitāni,
jātiṃ jaraṃ sokapariddavañca
idheva vidvā pajaheyya dukkhaṃ.

1060. An trú như vậy, có niệm, không xao lãng, vị tỳ khưu, trong khi sống, sau khi từ bỏ các vật đã được chấp là của tôi, là vị hiểu biết, ngay tại nơi này, có thể dứt bỏ khổ đau, sanh, già, sầu muộn và than vãn.”

1056. An trú vậy, chánh niệm,
Tỷ-kheo không phóng dật,
Sau khi bỏ sở hành,
Ðưa đến ngã, sở hữu.
Ðối với sanh và già,
Sầu muộn và than khóc,
Ở đây, biết được vậy,
Hãy từ bỏ đau khổ.

1061. Etābhinandāmi vaco mahesino, (iccāyasmā mettagū)
sukittitaṃ gotamanūpadhīkaṃ,
addhā hi bhagavā pahāsi dukkhaṃ
tathā hi te vidito esa dhammo.
 

1061. (Tôn giả Mettagū nói:) “Thưa ngài Gotama, tôi thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được giải bày, không liên quan đến mầm tái sanh, bởi vì đức Thế Tôn đương nhiên đã dứt bỏ khổ, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.

Mettagu:

1057. Con cảm thấy hoan hỉ,
Lời nói bậc Ðại sĩ;
Ðoạn tận được sanh y,
Ðược Ngài khéo tuyên thuyết.
Chắc chắn đức Thế Tôn,
Ðã đoạn tận đau khổ,
Vì pháp này được Ngài,
Rõ biết là như vậy.

1062. Te cāpi nūna pajaheyyu dukkhaṃ
ye tvaṃ muni aṭṭhitaṃ ovadeyya,
taṃ taṃ namassāmi samecca nāga
appeva maṃ bhagavā aṭṭhitaṃ ovadeyya.
 

1062. Và thưa bậc hiền trí, những người nào được ngài giáo huấn không ngừng nghỉ, những người ấy chắc chắn có thể dứt bỏ khổ đau. Vì thế, thưa bậc long tượng, sau khi gặp ngài, con xin kính lễ ngài. Mong sao đức Thế Tôn sẽ giáo huấn con không ngừng nghỉ.”

1058. Những vị ấy hãy đoạn,
Hãy từ bỏ đau khổ,
Những người ấy được Ngài
Thường thường dạy, giáo hóa.
Con xin đảnh lễ Ngài,
Hãy đến, bậc Long tượng,
Mong Thế Tôn thường hằng,
Giáo hóa dạy dỗ con.

1063. Yaṃ brāhmaṇaṃ vedaguṃ ābhijaññā (mettagūti bhagavā)
akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ,
addhā hi so oghamimaṃ atāri
tiṇṇo ca pāraṃ akhilo akaṅkho.

1063. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) vị Bà-la-môn nào mà ngươi có thể biết rõ là người hiểu biết sâu sắc, không sở hữu gì, không dính mắc ở dục và hữu, vị ấy đương nhiên đã băng qua dòng lũ này, và đã được vượt đến bờ kia, không còn cọc nhọn (ô nhiễm), không còn hoài nghi.”

Thế Tôn:

1059. Vị Bà-la-môn nào,
Ðược thắng tri, có trí,
Không có sở hữu gì,
Không ái luyến dục hữu,
Chắc chắn vị như vậy,
Vượt qua bộc lưu này,
Ðã đến được bờ kia,
Không cứng cỏi không nghỉ.

1064. Vidvā ca so vedagū naro idha
bhavābhave saṅgamimaṃ visajja,
so vītataṇho anīgho nirāso
atāri so jātijaranti brūmīti.
 

1064. Và sau khi đã hiểu, vị ấy trở thành người hiểu biết sâu sắc ở nơi đây. Sau khi tháo gỡ sự quyến luyến này ở hữu và phi hữu, vị ấy có tham ái đã được xa lìa, không còn phiền muộn, không có mong cầu, Ta nói rằng: ‘Vị ấy đã vượt qua sanh và già.’”

1060. Người ấy sau khi biết,
Thông suốt được Thánh điển,
Không dính ái triền này,
Về hữu và phi hữu,
Vị ấy ly tham ái,
Không phiền lụy không cầu,
Ta nói rằng vị ấy,
Ðã vượt khỏi sanh già.

 

Mettagūsuttaṃ catutthaṃ.

 

 

Kinh Mettagū là thứ tư.

 

 

   

 

5. DHOTAKASUTTAṂ

 

 

5. KINH DHOTAKA

 

VI. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN DHOTAKA

1065. Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā dhotako)
vācābhikaṅkhāmi mahesi tuyhaṃ,
tava sutvāna nigghosaṃ
sikkhe nibbānamattano.

1065. (Tôn giả Dhotaka nói:) “Thưa đức Thế Tôn, con hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời con về điều này. Thưa bậc đại ẩn sĩ, con mong mỏi lời nói của ngài. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố của ngài, con có thể học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”

Dhotaka:

1061. Tôn giả Dhô-ta-ka:
Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời cho,
Con chờ đợi lời Ngài,
Kính thưa bậc Ðại sĩ,
Nghe lời Ngài tuyên bố,
Chúng con sẽ tự mình,
Học tập giới Niết-bàn.

1066. Tena h’ ātappaṃ karohi (dhotakāti bhagavā)
idheva nipako sato,
ito sutvāna nigghosaṃ
sikkhe nibbānamattano.

1066. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) chính vì điều ấy ngươi hãy thực hiện sự năng nỗ, ngay tại nơi này hãy là người có sự chín chắn, có niệm. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố từ nơi đây, nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”

Thế Tôn:

1062. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Dhô-ta-ka,
Ở đây Ông nhiệt tâm,
Sáng suốt và chánh niệm,
Từ đây, nghe tuyên bố,
Tự học tập Niết-bàn
.

1067. Passāmahaṃ devamanussa loke (iccāyasmā dhotako)
akiñcanaṃ brāhmaṇaṃ iriyamānaṃ,
taṃ taṃ namassāmi samantacakkhu
pamuñca maṃ sakka kathaṃkathāhi.
 

1067. (Tôn giả Dhotaka nói:) “Con nhìn thấy ở thế giới của chư Thiên và loài người vị Bà-la-môn không sở hữu gì đang hành sử (bốn oai nghi). Vì thế, thưa bậc Toàn Nhãn, con xin kính lễ ngài. Thưa vị dòng Sakya, xin ngài hãy giải thoát cho con khỏi các mối nghi ngờ.”

Dhotaka:

1063. Con thấy ở thế giới,
Chư Thiên và loài Người,
Sở hành của Phạm chí,
Không một gì sở hữu.
Con đảnh lễ chính Ngài,
Bậc có mắt cùng khắp,
Kính thưa bậc Thích tử,
Hãy giải thoát cho con,
Tất cả mọi nghi ngờ.

1068. Nāhaṃ gamissāmi pamocanāya (dhotakāti bhagavā)
kathaṃkathiṃ dhotaka kañci loke,
dhammañca seṭṭhaṃ ājānamāno
evaṃ tuvaṃ oghamimaṃ taresi.

1068. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ không đi đến để giải thoát cho bất cứ người nào có nỗi nghi ngờ ở thế gian. Nhưng trong khi biết rõ Giáo Pháp tối thượng, như thế ngươi có thể vượt qua dòng lũ này.”

Thế Tôn:

1064. Hỡi này Dhô-ta-ka,
Ta sẽ không đi đến,
Giải thoát cho một ai,
Có nghi ngờ ở đời,
Khi pháp được Ông biết,
Là tối thượng tối thắng,
Như vậy Ông vượt khỏi,
Dòng nước chảy mạnh này
.

1069. Anusāsa brahme karaṇāyamāno (iccāyasmā dhotakā)
vivekadhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ,
yathāhaṃ ākāsova avyāpajjamāno
idheva santo asito careyyaṃ.

1069. (Tôn giả Dhotaka nói:) “Thưa đấng Đại Phạm Thiên, xin ngài hãy từ mẫn chỉ dạy pháp viễn ly để con có thể nhận thức được pháp ấy, theo đó, ví như bầu trời không bị xâm phạm, trong khi tồn tại ở chính nơi này con có thể sống, không bị lệ thuộc.”

Dhotaka:

1065. Hãy giáo hóa, từ mẫn,
Ôi bậc đại Phạm thiên,
Ðể con được rõ biết,
Pháp viễn ly vô thượng,
Như vậy con sẽ sống,
Như trời không áp bức,
Sở hành ở đời này,
An tịnh và độc lập
.

1070. Kittayissāmi te santiṃ (dhotakāti bhagavā)
diṭṭhe dhamema anītihaṃ,
yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.

1070. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ giải bày cho ngươi về sự an tịnh, tự mình chứng ngộ, không phải do nghe nói lại. Sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

Thế Tôn:

1066. Thế Tôn liền nói rằng:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Ta sẽ giảng cho Ông,
Pháp tịch tịnh hiện tại;
Không do xưa truyền lại,
Sau khi biết pháp này,
Hãy sống, giữa chánh niệm
Vượt tham ái ở đời
.

1071. Taṃ vāhaṃ abhinandāmi (iccāyasmā dhotako)
mahesi santimuttamaṃ,
yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.

1071. (Tôn giả Dhotaka nói:) “Thưa bậc đại ẩn sĩ, con thích thú sự an tịnh tối thượng ấy. Sau khi hiểu pháp ấy, có niệm, trong khi sống, con có thể vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

Dhotaka:

1067. Con cảm thấy hoan hỷ,
Pháp bậc Ðại sĩ giảng,
Pháp tịch tịnh vô thượng;
Sau khi biết pháp này,
Con sẽ sống chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.

1072. Yaṃ kiñci sampajānāsi (dhotakāti bhagavā)
uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe,
etaṃ viditvā saṅgoti loke
bhavābhavāya mākāsi taṇhanti.
 

1072. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, ở bên trên, bên dưới, luôn cả chiều ngang và khoảng giữa, sau khi hiểu điều này là ‘sự quyến luyến’ ở thế gian, ngươi chớ tạo ra tham ái ở hữu và phi hữu.”

Thế Tôn:

1068. Thế Tôn lời đáp lại:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Phàm Ông rõ biết gì,
Cao, thấp, ngang, chặng giữa,
Sau khi được rõ biết,
Tham ái này ở đời,
Chớ tạo nên khát ái
Với hữu và phi hữu.

 

Dhotakasuttaṃ pañcamaṃ. 

 

 

Kinh Dhotaka là thứ năm. 

 
   

 

6. UPASĪVASUTTAṂ

 

 

6. KINH UPASĪVA

 

 

VII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN UPASIVA

 

1073. Eko ahaṃ sakka mahantamoghaṃ (iccāyasmā upasīvo)
anissito no visahāmi tārituṃ,
ārammaṇaṃ brūhi samantacakkhu
yaṃ nissito oghamimaṃ tareyyaṃ.

1073. (Tôn giả Upasīva nói:) “Thưa vị dòng Sakya, con, đơn độc, không nương tựa (nơi nào), không có khả năng vượt qua dòng lũ lớn. Thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói về đối tượng; được nương tựa nơi ấy, con có thể vượt qua dòng lũ này.”

Upasiva:

1069. Tôn giả U-pa-si-va:
Kính thưa bậc Thích tử,
Một mình, không y chỉ,
Con không thể vượt khỏi,
Dòng nước lớn mạnh này,
Kính thưa bậc Biến nhãn,
Hãy nói cho sở duyên,
Y chỉ sở duyên này,
Có thể vượt qua khỏi,
Dòng nước chảy mạnh này
.

1074. Ākiñcaññaṃ pekkhamāno satīmā (upasīvāti bhagavā)
natthīti nissāya tarassu oghaṃ,
kāme pahāya virato kathāhi
taṇhakkhayaṃ nattamahābhipassa.

1074. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) vị không trông mong vô sở hữu xứ, có niệm, sau khi nương tựa vào (ý niệm) ‘không có gì,’ có thể vượt qua dòng lũ. Sau khi dứt bỏ các dục, đã xa lánh hẳn các điều nghi ngờ, ngươi hãy quán sát sự cạn kiệt của tham ái đêm và ngày.”

Thế Tôn:

1070. Ðây lời dạy Thế Tôn:
Này U-pa-si-va,
Biết gìn giữ chánh niệm,
Không mong đợi vật gì,
Ông sẽ vượt bộc lưu,
Nương tựa: "không có gì ",
Ngày đêm ngươi nhận thấy,
Ðoạn dục, ly nghi ngờ,
Ái diệt là Niết-bàn
.

1075. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (iccāyasmā upasīvo)
ākiñcaññaṃ nissito hitva yaññaṃ,
saññāvimokkhe parame vimutto
tiṭṭhe nu so tattha anānuyāyī.

1075. (Tôn giả Upasīva nói:): “Vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc thấp thỏi) khác, không nương tựa vào vô sở hữu xứ, đã được giải thoát ở sự giải thoát tối thượng đối với tưởng, phải chăng vị ấy nên trụ lại ở nơi ấy, không đi theo nữa?”

Upasiva:

1071. U-pa-si-va nói:
Ai là người ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tưởng giải thoát tối thượng,
Tại đấy vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới
.

1076. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (upasīvāti bhagavā)
ākiñcaññaṃ nissito hitvā maññaṃ,
saññāvimokkhe parame vimutto
tiṭṭheyya so tattha anānuyāyī.
 

1076. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc thấp thỏi) khác, không nương tựa vào vô sở hữu xứ, đã được giải thoát ở sự giải thoát tối thượng đối với tưởng, vị ấy nên trụ lại ở nơi ấy, không đi theo nữa.”

Thế Tôn:

1072. Thế Tôn nói như sau:
Này U-pa-si-va,
Ai hoàn toàn ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tương giải thoát tối thượng,
Tại đấy, vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới.

1077. Tiṭṭhe ce so tattha anānuyāyī (iccāyasmā upasīvo)
yugampi vassānaṃ samantacakkhu,
tattheva so sīti siyā vimutto
cavetha viññāṇaṃ tathāvidhassa.

1077. (Tôn giả Upasīva nói:) “Thưa bậc Toàn Nhãn, nếu vị ấy trụ lại ở nơi ấy, không đi theo nữa, thậm chí một số năm, có phải ngay tại chỗ ấy vị ấy có thể có sự mát mẻ, được giải thoát, và thức (tái sanh) của vị thuộc hạng như thế ấy có thể diệt tắt?”

Upasiva:

1073. Nếu vị ấy tại đấy,
An trú không đi tiếp,
Trong một số nhiều năm,
Ôi bậc có biến nhãn!
Nếu vị ấy tại đấy,
Ðược mát lạnh giải thoát,
Với vị được như vậy,
Còn có thức hay không?

1078. Acci yathā vātavegena khittā (upasīvāti bhagavā)
atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ,
evaṃ munī nāmakāyā vimutto
atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ.
 

1078. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) giống như ngọn lửa đã bị dập tắt bởi lực đẩy của ngọn gió thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng; tương tự như vậy, vị hiền trí đã được giải thoát khỏi danh thân (tập hợp các yếu tố thuộc về tâm) thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng.

Thế Tôn:

1074. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi U-pa-si-va!
Cũng giống như ngọn lửa,
Bị sức gió mạnh thổi,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng,
Cũng vậy, vị ẩn sĩ,
Ðược giải thoát danh thân,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng.

1079. Atthaṃgato so uda vā so natthi (iccāyasmā upasīvo)
udāhu ve sassatiyā arogo,
taṃ me munī sādhu viyākarohi
tathā hi te vidito esa dhammo.

1079. (Tôn giả Upasīva nói:) “Có phải vị ấy đi đến sự chấm dứt hay vị ấy không có (hiện hữu), hay là vị ấy thật sự ở vào trạng thái trường tồn, vô bệnh? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy khéo léo giảng rõ điều ấy cho con, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”

Upasiva:

1075. Vị đi đến tận cùng,
Có phải không hiện hữu,
Hai vị ấy thường hằng,
Ðạt được sự không bệnh,
Lành thay, bậc ẩn sĩ,
Hãy trả lời cho con,
Có vậy, con hiểu được,
Pháp như thật Ngài giảng.

1080. Atthaṃgatassa na pamāṇamatthi (upasīvāti bhagavā)
yena naṃ vajjuṃ taṃ tassa natthi,
sabbesu dhammesu samūhatesu
samūhatā vādapathāpi sabbeti.
 

1080. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) đối với vị đã đi đến sự chấm dứt, thì không có sự ước lượng (phỏng đoán). Với điều nào người ta có thể nói về vị ấy, thì điều ấy không còn có đối với vị ấy. Khi tất cả các pháp đã được bứng lên, các nền tảng cho việc nói đến cũng được bứng lên.”

Thế Tôn:

1076. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi U-pa-si-va,
Người đi đến tận cùng,
Không thể còn ước lượng,
Với gì, nói đến nó,
Không còn có cái ấy,
Khi tất cả các pháp,
Ðã được nhổ hẳn lên,
Mọi con đường nói phô,
Ðược nhổ lên sạch hết.
 

 

Upasīvasuttaṃ chaṭṭhaṃ. 

 

 

Kinh Upasīva là thứ sáu. 

 
   

 

7. NANDASUTTAṂ

 

 

7. KINH NANDA

 

VIII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN NANDA

1081. Santi loke munayo (iccāyasmā nando)
janā vadanti tayidaṃ kathaṃsu,
ñāṇūpapannaṃ no muniṃ vadanti
udāhu ce jīvitenūpapannaṃ.

1081. (Tôn giả Nanda nói:) “Dân chúng nói rẳng: ‘Có các vị ẩn sĩ ở thế gian,’ theo ngài điều này (có ý nghĩa) thế nào? Họ nói người đã thành tựu về trí là vị ẩn sĩ, hay là người đã thành tựu về lối sống?”

Nanda:

1077. Tôn giả Nan-da nói:
Quần chúng có nói rằng:
Có ẩn sĩ ở đời,
Ngài nghĩ như thế nào?
Chúng gọi là ẩn sĩ
Vị có đầy đủ trí?
Hay vị đầy đủ mạng?

1082. Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (nandāti bhagavā)
munīdha nanda kusalā vadanti,
visenikatvā anīghā nirāsā
caranti ye te munayoti brūmi.

1082. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) không phải do quan điểm, không phải do học thức, không phải do trí, mà các bậc thiện đức ở nơi đây gọi là vị ẩn sĩ. Những người nào đã tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), sống không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng những người ấy là ‘các vị ẩn sĩ.’”

Thế Tôn:

1078. Các bậc thiện nói rằng:
Ở đời này Nan-da,
Không phải vì tri kiến,
Vì truyền thống, vì trí
Ðược gọi là ẩn sĩ,
Ta chỉ gọi ẩn sĩ,
Những ai diệt quân lực,
Không phiền não, không cầu.

1083. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando)
diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ,
sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ
anekarūpena vadanti suddhiṃ
kaccissu te bhagavā tattha yathā carantā
atāru jātiñca jarañca mārisa
pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
 

1083. (Tôn giả Nanda nói:) “Bất cứ những Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do quan điểm và do học thức, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, thưa đức Thế Tôn, có phải những vị ấy, trong lúc sống như thế ở nơi ấy, họ đã vượt qua sanh và già, thưa ngài? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”

Nanda:

1079. Tôn giả Nan-đa thưa:
Có Sa-môn, Phạm chí,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Bạch Thế Tôn, như vậy,
Là sở hành của chúng,
Vậy Ngài nghĩ thế nào,
Chúng có thể vượt qua,
Sanh và già thưa Ngài,
Con kính hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời con.

1084. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā)
diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ,
sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ
anekarūpena vadanti suddhiṃ
kiñcāpi te tattha yathā caranti
nātariṃsu jātijaranti brūmi.

1084. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do quan điểm và do học thức, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, mặc dầu những vị ấy, trong lúc sống như thế ở nơi ấy, Ta nói rằng: ‘Họ đã không vượt qua sanh và già.’”

Thế Tôn:

1080. Thế Tôn nói: Nan-đa!
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Dầu chúng ở tại đây,
Với sở hành như vậy,
Ta nói chúng không vượt,
Khỏi sanh và khỏi già.

1085. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando)
diṭṭhena sutenāpi1 vadanti suddhiṃ,
sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ
anekarūpena vadanti suddhiṃ.
 

1085. (Tôn giả Nanda nói:) “Bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do quan điểm và do học thức, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức.

Nan-da:

1081. Tôn giả Nan-đa thưa:
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.

1086. Te ce muni brūsi anoghatiṇṇo
atha ko carahi devamanussaloke,
atāri jātiñca jarañca mārisa
pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
 

1086. Thưa bậc hiền trí, nếu ngài nói rằng những vị ấy là không vượt qua dòng lũ, vậy giờ đây người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già, thưa ngài? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
 

Thưa ẩn sĩ, Ngài nói:
Chúng không vượt bộc lưu,
Vậy ai có thể được,
Giữa thế giới Trời, Người,
Có thể vượt qua được,
Sanh và già, thưa Ngài,
Con xin hỏi Thế Tôn
Mong Ngài trả lời con.

1087. Nāhaṃ sabbe samaṇabrāhmaṇā se (nandā ’ti bhagavā)
jātijarāya nivutāti brūmi:
Ye sūdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā
sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ
anekarūpampi pahāya sabbaṃ,
taṇhaṃ pariññāya anāsavā se
te ve narā oghatiṇṇāti brūmi.

1087. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) Ta không nói rằng tất cả các vị Sa-môn và Bà-la-môn đều bị bao trùm bởi sanh và già. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã hiểu toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, Ta nói rằng ‘những con người ấy thật sự đã vượt qua dòng lũ.’”
 

Thế Tôn:

1082. Thế Tôn nói: Nan-đa
Ta không nói tất cả,
Sa-môn, Bà-la-môn
Bị sanh già che lấp.
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua được bộc lưu.

1088. Etābhinandāmi vaco mahesino (iccāyasmā nando)
sukittitaṃ gotamanūpadhīkaṃ
ye sūdha4 diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā
sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ
anekarūpampi pahāya sabbaṃ,
taṇhaṃ pariññāya anāsavā se
ahampi te oghatiṇṇāti brūmīti.
 

1088. (Tôn giả Nanda nói:) “Thưa ngài Gotama, tôi thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được giải bày, không liên quan đến mầm tái sanh. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã hiểu toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, tôi cũng nói rằng ‘những con người ấy thật sự đã vượt qua dòng lũ.’”
 

Nanda:

1083. Con cảm thấy hoan hỷ,
Lời Ðại sĩ Cù-đàm,
Ðược Ngài khéo thuyết giảng,
Về chấm dứt sanh y,
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe, được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua khỏi bộc lưu

 

Nandasuttaṃ sattamaṃ. 

 

 

Kinh Nanda là thứ bảy. 

 
   

 

8. HEMAKASUTTAṂ

 

 

8. KINH HEMAKA

 

IX. CÁC CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN HEMAKA

1089. Ye me pubbe viyākaṃsu (iccāyasmā hemako)
huraṃ gotamasāsanaṃ,
iccāsi iti bhavissati
sabbaṃ taṃ itihītihaṃ
sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanaṃ
nāhaṃ tattha abhiramiṃ.

1089. (Tôn giả Hemaka nói:) “Những người nào trước đây đã giảng giải cho tôi khác với lời dạy của Gotama (nói rằng): ‘Đã là như vầy, sẽ là như vầy,’ mọi điều ấy đều do nghe nói lại theo truyền thống, mọi điều ấy đều là sự tăng trưởng suy tầm (về dục), tôi không thích thú ở nơi ấy.

Hemaka:

1084. Tôn giả He-ma-ka:
Những ai trong thời trước,
Ðã trả lời cho con,
Về lời dạy Cù-đàm,
Trước đã như thế nào,
Sau sẽ là như vậy,
Tất cả đều truyền thống,
Tất cả tăng suy tư.

1090. Tvañca me dhammamakkhāhi taṇhā nigghātanaṃ muni,
yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.

1090. Và thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy nói cho tôi về pháp diệt trừ tham ái; sau khi hiểu pháp ấy, tôi có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

1085. Ðây, con không hoan hỷ,
Ngài nói Pháp cho con,
Ôi mong bậc ẩn sĩ,
Nói Pháp đoạn khát ái,
Biết xong, sống chánh niệm,
Vượt ái trước ở đời.

1091. Idha diṭṭhasutamuta viññātesu piyarūpesu hemaka,
chandarāgavinodanaṃ nibbāṇapadamaccutaṃ.

1091. “Này Hemaka, ở đây, về các hình thức đáng yêu đã được thấy-đã được nghe-đã được cảm giác-đã được nhận thức là sự xua đi mong muốn và luyến ái (ở chúng), là vị thế Niết Bàn, Bất Hoại.

Thế Tôn:

1086. He-ma-ka ở đây,
Ðối các Pháp khả ái,
Ðược nghe và được thấy,
Ðược cảm tưởng, nhận thức,
Tẩy sạch ước muốn tham,
Là Niết-bàn, bất tử.

1092. Etadaññāya ye satā diṭṭhadhammābhinibbutā,
upasantā ca te sadā tiṇṇā loke visattikanti.
 

1092. Sau khi nhận biết điều này, những vị nào có niệm, đã nhận thức được Giáo Pháp, đã được diệt tắt, và luôn luôn an tịnh, những vị ấy đã vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

1087. Biết vậy, giữ chánh niệm,
Hiện tại, đạt mát lạnh,
Vị ấy thường an tịnh,
Vượt chấp trước ở đời.
 

 

Hemakasuttaṃ aṭṭhamaṃ. 
 

 

Kinh Hemaka là thứ tám. 

 

 

 9. TODEYYASUTTAṂ

 

 

9. KINH TODEYYA

 

 

X. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN TODEYYA

 

1093. Yasmiṃ kāmā na vasanti (iccāyasmā todeyyo)
taṇhā yassa na vijjati,
kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokho tassa kīdiso.

1093. (Tôn giả Todeyya nói:) “Ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các sự nghi ngờ, sự giải thoát của người ấy là như thế nào?”  

Todeyya:

1088. Tôn giả Tô-đê-ya:
Ai sống không dục vọng,
Ai sống không có ái,
Ai vượt khỏi nghi hoặc,
Giải thoát của vị ấy,
Giải thoát như thế nào?

1094. Yasmiṃ kāmā na vasanti (todeyyāti bhagavā)
taṇhā yassa na vijjati,
kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokho tassa nāparo.
 

1094. (Đức Thế Tôn nói: “Này Todeyya,) ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các sự nghi ngờ, đối với người ấy không có sự giải thoát khác nữa.”

Thế Tôn:

1089. Ðây lời nói Thế Tôn:
Hỡi nãy Tô-đê-ya,
Ai sống không dục vọng,
Ai sống không có ái,
Ai vượt khỏi nghi hoặc
Giải thoát của vị ấy
Không có gì là khác
.

1095. Nirāsaso so uda āsasāno
paññāṇavā so uda paññakappī,
muniṃ ahaṃ sakka yathā vijaññaṃ
taṃ me viyācikkha samantacakkhu.

1095. “Vị ấy có sự không mong ước, hay có sự mong ước? Vị ấy có tuệ hay có sự sắp đặt về tuệ? Thưa vị dòng Sakya, để cho tôi có thể nhận biết về vị hiền trí, thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói rõ điều ấy cho tôi.”

Todeyya:

1090. Vị sống không ước vọng
Hay sống có ước vọng,
Vị ấy có trí tuệ,
Hay tác thành trí tuệ,
Ôi kính bậc Biến nhãn,
Hãy trả lời con rõ,
Ðể con có thể biết,
Thế nào là ẩn sĩ,
Ôi kính bậc Thích tử.

1096. Nirāsaso1 so na so āsasāno
paññāṇavā so na ca paññakappī,
evampi todeyya muniṃ vijāna
akiñcanaṃ kāmabhave asattanti.
 

1096. “Vị ấy có sự không mong ước, vị ấy không có sự mong ước. Vị ấy có tuệ và không có sự sắp đặt về tuệ. Này Todeyya, ngươi hãy nhận biết về vị hiền trí là như vậy, là vị không sở hữu gì, không bị dính mắc ở dục và hữu.”

Thế Tôn:

1091. Vị sống không ước vọng,
Không có ước vọng nào,
Vị ấy có trí tuệ,
Không tác thành trí tuệ,
Như vậy, Tô-đê-ya,
Hãy biết bậc ẩn sĩ,
Không có sở hữu gì,
Không tham dính dục hữu.

 

Todeyyasuttaṃ navamaṃ.

 

 

Kinh Todeyya là thứ chín.

 

 
   

 

10. KAPPASUTTAṂ

 

 

10. KINH KAPPA

 

 

XI. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN KAPPA

 

1097. Majjhe sarasmiṃ tiṭṭhataṃ (iccāyasmā kappo)
oghe jāte mahabbhaye,
jarāmaccuparetānaṃ dīpaṃ pabrūhi mārisa,
tvañca me dīpamakkhāhi yathāyidaṃ nāparā siyā.

1097. (Tôn giả Kappa nói:) “Đối với những người đang đứng giữa hồ nước, ở dòng lũ có sự nguy hiểm lớn đã được sanh ra, thưa ngài, xin ngài hãy nói về hòn đảo dành cho những người đang bị chế ngự bởi sanh và chết. Và xin ngài hãy giải thích cho tôi về hòn đảo để điều này không thể xảy ra lần khác nữa.” 

Kappa:

1092. Tôn giả Káp-pa nói:
Những ai đứng giữa nước,
Trong dòng nước mạnh chảy,
Giữa sợ hãi lớn lao,
Thưa Ngài hãy nói lên,
Hòn đảo cho những kẻ,
Bị già chết chinh phục,
Ngài nói con hòn đảo,
Ðể không có khổ khác,
Giống như đau khổ này.

1098. Majjhe sarasmiṃ tiṭṭhataṃ (kappāti bhagavā)
oghe jāte mahabbhaye,
jarāmaccuparetānaṃ dīpaṃ pabrūmi kappa te.

1098. (Đức Thế Tôn nói: “Này Kappa,) đối với những người đang đứng giữa hồ nước, ở dòng lũ có sự nguy hiểm lớn đã được sanh ra, này Kappa, Ta sẽ nói cho ngươi về hòn đảo dành cho những người đang bị chế ngự bởi sanh và chết.

Thế Tôn:

1093. Thế Tôn nói Kap-pa,
Những ai đứng giữa nước,
Trong dòng nước mạnh chảy,
Giữa sợ hãi lớn lao,
Ta nói Ông hòn đảo,
Cho những ai đang bị,
Già và chết chinh phục.

1099. Akiñcanaṃ anādānaṃ etaṃ dīpaṃ anāparaṃ,
nibbānamiti taṃ brūmi jarāmaccuparikkhayaṃ.

1099. Hòn đảo này là không sở hữu gì, không nắm giữ, không có cái nào khác, Ta gọi cái ấy là ‘Niết Bàn,’ sự diệt tận sanh và chết.

1094. Hòn đảo vô song này,
Không sở hữu, chấp trước,
Ta nói Ông Niết-bàn,
Già chết được đoạn diệt,

1100. Etadaññāya ye satā diṭṭhadhammābhinibbutā,
na te māravasānugā na te mārassa paddhagūti.
 

1100. Sau khi nhận biết điều này, những người nào có niệm, đã nhận thức được Giáo Pháp, đã được diệt tắt, những người ấy không đi theo quyền lực của Ma Vương, những người ấy không là nô bộc của Ma Vương.”

 

1095. Biết vậy, giữ chánh niệm,
Hiện tại đạt mát lạnh,
Không rơi vào ma lực,
Không tùy tùng theo ma.

 

Kappasuttaṃ dasamaṃ.

 

 

Kinh Kappa là thứ mười.

 

 
   

 

11. JATUKAṆṆISUTTAṂ

 

 

11. KINH JATUKAṆṆI

 

 

XII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN JATUKANNI

 

1101. Sutvān’ ahaṃ vīraṃ akāmakāmiṃ (iccāyasmā jatukaṇṇi )
oghātigaṃ puṭṭhumakāmamāgamaṃ,
santipadaṃ brūhi sahājanetta
yathātacchaṃ bhagavā brūhi metaṃ.

1101. (Tôn giả Jatukaṇṇi nói:) “Sau khi nghe về bậc anh hùng, vị không có lòng ham muốn các dục, tôi đã đi đến để hỏi bậc đã vượt qua dòng lũ, không có lòng ham muốn. Thưa bậc có nhãn quan (Toàn Giác) đã được đồng sanh, xin ngài hãy nói về vị thế an tịnh. Thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy nói cho tôi về điều này đúng theo sự thật.

Jatukanni:

1096. Ja-tu-kan-ni nói:
Ðược nghe bậc anh hùng,
Không tham đắm dục vọng,
Nên con đã đến đây,
Ðể hỏi bậc vô dục,
Ðã thoát khỏi bộc lưu,
Bậc sanh với con mắt,
Hãy nói đường an tịnh,
Thế Tôn hãy như thật,
Nói cho con được biết.

1102. Bhagavā hi kāme abhibhuyya iriyati
ādiccova paṭhaviṃ teji tejasā,
parittapaññassa me bhūripañña,
ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ
jātijarāya idha vippahānaṃ.
 

1102. Bởi vì sau khi đã chế ngự các dục, đức Thế Tôn hành sử (các oai nghi) ví như mặt trời có sức nóng (chế ngự) trái đất bằng sức nóng. Thưa bậc có tuệ bao la, đối với tôi là người có tuệ nhỏ nhoi, xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để tôi có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”

1097. Chinh phục dục vọng xong,
Thế Tôn sống ở đời,
Như mặt trời chiếu sáng,
Cõi đất với hào quang,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Hãy nói pháp cho con,
Kẻ trí tuệ bé nhỏ,
Do rõ biết pháp này,
Ở đây, con đoạn được,
Kể cả sanh và già.

1103. Kāmesu vinaya gedhaṃ (jatukaṇṇīti bhagavā)
nekkhammaṃ daṭṭhu khemato,
uggahītaṃ nirattaṃ vā mā te vijjittha kiñcanaṃ.
 

1103. (Đức Thế Tôn nói: “Này Jatukaṇṇi,) ngươi hãy xua đi sự thèm khát ở các dục để nhìn thấy sự xuất ly là an toàn. Đối với ngươi, chớ có bất cứ điều gì được nắm bắt hay bị rời bỏ.
 

Thế Tôn:

1098. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi Ja-tu-kan-ni!
Hãy nhiếp phục lòng tham,
Ðối với các dục vọng;
Hãy nhìn hạnh xuất ly,
Ðưa đến sự an ổn;
Chớ chấp chờ, từ bỏ,
Sự vật gì ở đời.

1104. Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ,
majjhe ce no gahessasi upasanto carissasi.
 

1104. Điều (ô nhiễm) nào trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm cho nó khô héo. Chớ có bất cứ (ô nhiễm) gì ở nơi ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi sẽ không nắm lấy (điều gì) ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống an tịnh.
 

1099. Những gì có trước Ông,
Hãy làm nó khô cạn,
Ðừng có sự vật gì,
Ở phía đàng sau Ông,
Ở giữa, Ông không chấp,
Ông sẽ sống an tịnh.

1105. Sabbaso nāmarūpasmiṃ vītagedhassa brāhmaṇa,
āsavāssa na vijjanti yehi maccuvasaṃ vajeti.
 

1105. Này ông Bà-la-môn, đối với vị đã xa lìa sự thèm khát ở danh và sắc về mọi phương diện, đối với vị ấy các lậu hoặc không hiện hữu, bởi vì chúng con người rơi vào sự thống trị của Tử thần.”
 

1100. Hỡi này Bà-la-môn!
Ðối với danh và sắc,
Hoàn toàn không tham đắm,
Không có các lậu hoặc,
Chính do lậu hoặc này,
Bị thần chết chi phối.

 

Jatukaṇṇisuttaṃ ekādasamaṃ.

 

 

Kinh Jatukaṇṇi là thứ mười một.

 

 

   

 

12. BHADRĀVUDHASUTTAṂ

 

 

12. KINH BHADRĀVUDHA

 

 

XIII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN BHADRĀVUDHA

 

1106. Okaṃ jahaṃ taṇhacchidaṃ anejaṃ (iccāyasmā bhadrāvudho)
nandiṃ jahaṃ oghatiṇṇaṃ vimuttaṃ,
kappaṃ jahaṃ abhiyāce sumedhaṃ
sutvāna nāgassa apanamissanti ito.

1106. (Tôn giả Bhadrāvudha nói:) “Tôi khẩn cầu bậc khôn ngoan, bậc từ bỏ chỗ trú ngụ, bậc cắt đứt tham ái, bậc không còn dục vọng, bậc từ bỏ thú vui, bậc đã vượt qua dòng lũ, bậc đã được giải thoát, bậc từ bỏ sự sắp đặt (do tham ái và tà kiến). Sau khi lắng nghe (lời nói) của bậc Long Tượng, từ đây họ sẽ ra đi.

Bhadràvudha:

1101. Bha-đra-vu-đa nói:
Con có lời yêu cầu,
Bậc Thiện Tuệ nói lên,
Bậc bỏ nhà, đoạn ái,
Bất động, bỏ hỷ ái,
Giải thoát, vượt bộc lưu,
Thời gian, không chi phối,
Nghe xong, bậc Long tượng,
Từ đây, họ ra đi.

1107. Nānā janā janapadehi saṅgatā
tava vīra vākyaṃ abhikaṅkhamānā,
tesaṃ tuvaṃ sādhu viyākarohi
tathā hi te vidito esa dhammo.

1107. Thưa bậc anh hùng, vô số người từ các xứ sở đã tụ hội lại, mong muốn lời nói của ngài. Xin ngài hãy khéo léo giải thích cho họ, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”

1102. Quần chúng sai biệt ấy,
Từ quốc độ tụ họp,
Họ ao ước khát vọng,
Ðược nghe lời của Ngài,
Ôi anh hùng chiến thắng,
Ngài hãy khéo trả lời,
Pháp Ngài dạy thế này,
Như vậy họ hiểu biết.

1108. Ādānataṇhaṃ vinayetha sabbaṃ (bhadrāvudhāti bhagavā)
uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe,
yaṃ yaṃ hi lokasmiṃ upādiyanti
teneva māro anveti jantuṃ.

1108. (Đức Thế Tôn nói: “Này Bhadrāvudha,) nên xua đi sự nắm giữ và tham ái, ở bên trên, bên dưới, luôn cả chiều ngang và khoảng giữa. Bởi vì, mỗi một điều gì họ chấp thủ ở thế gian, do chính điều ấy Ma Vương theo đuổi loài người.

Thế Tôn:

1103. Thế Tôn nói như sau:
Này Bha-đra-vu-đa!
Hãy nhiếp phục tất cả,
Mọi tham ái chấp thủ,
Trên, dưới cả bề ngang,
Và kể luôn chặng giữa,
Những ai có chấp thủ,
Sự gì ở trong đời,
Chính do sự việc ấy,
Ác ma theo người ấy.

1109. Tasmā pajānaṃ na upādiyetha
bhikkhu sato kiñcanaṃ sabbaloke,
ādānasatte iti pekkhamāno
pajaṃ imaṃ maccudheyye visattanti.

 

1109. Vì thế, trong khi nhận biết rằng: ‘Họ bị dính mắc ở sự nắm giữ,’ trong khi xem xét nhân loại này bị vướng mắc ở lãnh địa của Thần Chết, vị tỳ khưu, có niệm, không nên chấp thủ bất cứ điều gì ở khắp thế gian.”

1104. Do vậy, bậc hiểu biết,
Không có chấp thủ gì,
Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
Trong tất cả thế giới,
Phàm có sở hữu gì,
Vị ấy không mong ước,
Nhìn xem quần chúng này,
Là chúng sanh chấp thủ,
Trong lãnh vực của Ma,
Bị tham dính chấp trước.

 

Bhadrāvudhasuttaṃ dvādasamaṃ.

 

 

Kinh Bhadrāvudha là thứ mười hai.

 

 

   

 

13. UDAYASUTTAṂ

 

13. KINH UDAYA

 

XIV. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN UDAYA

 

1110. Jhāyiṃ virajamāsīnaṃ (iccāyasmā udayo)
katakiccaṃ anāsavaṃ
pāraguṃ sabbadhammānaṃ atthi pañhena āgamaṃ,
aññāvimokkhaṃ pabrūhi avijjāya pabhedanaṃ.

1110. (Tôn giả Udaya nói:) “Với ý định (hỏi) câu hỏi, tôi đã đi đến bậc có thiền chứng, không còn ô nhiễm, đã làm xong phận sự, không còn lậu hoặc, đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp, xin ngài hãy nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh.

Udaya:

1105. Tôn giả U-da-ya:
Con đến với câu hỏi,
Về tất cả mọi pháp,
Ðể hỏi bậc tu thiền,
Bậc an tọa không bụi;
Trách nhiệm đã làm xong,
Bậc không có lậu hoặc,
Ðã đạt bờ bên kia,
Hãy nói trí giải thoát
Ðể phá hoại vô minh.

1111. Pahānaṃ kāmacchandānaṃ (udayāti bhagavā)
domanassānaṃ cūbhayaṃ,
thīnassa ca panūdanaṃ kukkuccānaṃ nivāraṇaṃ.

1111. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) sự dứt bỏ đối với lòng mong muốn ngũ dục và nỗi ưu phiền, cả hai loại, sự xua đi dã dượi, và sự chế ngự các trạng thái hối hận.

Thế Tôn:

1106. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi này U-đa-ya,
Ðoạn ước muốn, dục vọng,
Và cả hai loại ưu,
Và trừ bỏ hôn trầm,
Ngăn chận mọi hối hận.

1112. Upekhāsatisaṃsuddhaṃ dhammatakkapurejavaṃ,
aññāvimokkhaṃ pabrūmi avijjāya pabhedanaṃ.
 

1112. Ta nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh có xả và niệm đã được thanh tịnh, có sự suy tầm đúng pháp đi trước.”

1107. Ta nói trí giải thoát,
Ðể phá hoại vô minh,
Thanh tịnh nhờ xả niệm,
Suy tư pháp đi trước.

1113. Kiṃsu saṃyojano loko (iccāyasmā udayo)
kiṃsu tassa vicāraṇā,
kissassa vippahānena nibbānamiti vuccati.
 

1113. (Tôn giả Udaya nói:) “Thế gian có cái gì là sự ràng buộc? Cái gì là phương tiện xét đoán của nó? Do lìa bỏ cái gì được gọi là ‘Niết Bàn’?”

Udaya:

1108. Ðời cái gì trói buộc,
Cái gì, đời vận hành?
Do đoạn được cái gì,
Ðược gọi là Niết-bàn?

1114. Nandisaṃyojano loko (udayāti bhagavā)
vitakkassa vicāraṇā,
taṇhāya vippahānena nibbānamiti vuccati.

1114. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) thế gian có vui thích là sự ràng buộc? Suy tầm là phương tiện xét đoán của nó. Do lìa bỏ tham ái được gọi là ‘Niết Bàn.’”

Thế Tôn:

1109. Ðời bị hỷ trói buộc,
Suy tầm là sở hành,
Do đoạn được khát ái,
Ðược gọi là Niết-bàn.

1115. Kathaṃ satassa carato (iccāyasmā udayaṃ)
viññāṇaṃ uparujjhati,
bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma taṃ suṇoma vaco tava.

1115. (Tôn giả Udaya nói:) “Đối với vị đang thực hành niệm, thức (của vị ấy) được hoại diệt như thế nào? Chúng tôi đã đi đến để hỏi đức Thế Tôn, hãy cho chúng tôi nghe lời nói của ngài.”

Udaya:

1110. Người sở hành chánh niệm,
Thức được diệt thế nào?
Con đến hỏi Thế Tôn,
Nghe lời Thế Tôn nói.

1116. Ajjhattañca bahiddhā ca vedanaṃ nābhinandito,
evaṃ satassa carato viññāṇaṃ uparujjhatīti.
 

1116. “Đối với vị không thích thú cảm thọ ở nội phần và ngoại phần, đối với vị đang thực hành niệm như vậy, thức (của vị ấy) được hoại diệt.”

Thế Tôn:

1111. Ai không có hoan hỷ,
Với nội và ngoại thọ,
Sở hành chánh niệm vậy,
Thức đạt được hoại diệt.

 

Udayasuttaṃ terasamaṃ.

 

 

Kinh Udaya là thứ mười ba.

 

 

   

 

14. POSĀLASUTTAṂ

 

 

14. KINH POSĀLA

 

XV. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN POSĀLA

1117. Yo atītaṃ ādiyati (iccāyasmā posālo)
anejo chinnasaṃsayo,
pāraguṃ sabbadhammānaṃ atthi pañhena āgamaṃ.

1117. (Tôn giả Posāla nói:) “Với ý định (hỏi) câu hỏi, tôi đã đi đến bậc đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp, vị chỉ ra thời quá khứ, không còn dục vọng, đã cắt đứt sự nghi ngờ.

Posàla:

1112. Tôn giả Po-sa-la:
Vị nói về quá khứ,
Bất động nghi hoặc đoạn,
Ðã đến bờ bên kia,
Con đến với câu hỏi
Hỏi về hết thảy pháp.

1118. Vibhūtarūpasaññissa sabbakāyappahāyino,
ajjhattañca bahiddhā ca natthi kiñcīti passato,
ñāṇaṃ sakkānupucchāmi kathaṃ neyyo tathāvidho.

1118. Đối với vị có sắc tưởng đã không còn, có sự dứt bỏ toàn bộ về thân, đang nhìn thấy nội phần và ngoại phần là ‘không có gì,’ thưa vị dòng Sakya, tôi hỏi thêm về trí (của vị ấy). Vị thuộc hạng như thế ấy nên được hướng dẫn như thế nào?”
 

1113. Với ai, sắc tưởng diệt,
Ðoạn tận hết thảy thân,
Nhìn thấy nội và ngoại,
Thật sự không có gì,
Con hỏi bậc Thích-ca,
Thế nào người như vậy,
Có thể bị dắt dẫn?

1119. Viññāṇaṭṭhitiyo sabbā (posālāti bhagavā)
abhijānaṃ tathāgato,
tiṭṭhantamenaṃ jānāti vimuttaṃ tapparāyaṇaṃ.
 

1119. (Đức Thế Tôn nói: “Này Posāla,) trong khi biết rõ tất cả các chỗ trú của thức, đức Như Lai biết vị ấy đang trú (ở đâu), được tự do, có nơi ấy là mục tiêu chính yếu.

Thế Tôn:

1114. Thế Tôn bèn đáp rằng:
Hỡi này Pô-sa-la,
Như Lai được thắng trí,
Tất cả nhờ thức trú,
Rõ biết vị an trú,
Giải thoát, đạt cứu cánh.

1120. Ākiñcaññāsambhavaṃ ñatvā nandi saṃyojanaṃ iti,
evametaṃ abhiññāya tato tattha vipassati,
etaṃ ñāṇaṃ tathaṃ tassa brāhmaṇassa vusīmato ”ti.
 

1120. Sau khi biết được nguồn sanh khởi của Vô sở hữu xứ, (biết được) ‘vui thích là sự ràng buộc,’ sau khi biết rõ điều ấy như vậy, từ đó nhìn thấy rõ nơi ấy; đây là trí như thật của vị Bà-la-môn đã sống hoàn hảo ấy.”
 

1115. Biết được sự tác thành,
Thuộc về vô sở hữu,
Biết hỷ là kiết sử,
Do thắng tri như vậy,
Tại đấy, thấy như vậy,
Ðây là trí như thật,
Của vị Bà-la-môn,
Ðã thành tựu Phạm hạnh.

 

Posālasuttaṃ cuddasamaṃ. 

 

 

Kinh Posāla là thứ mười bốn. 

 
   

 

15. MOGHARĀJASUTTAṂ

 

 

15. KINH MOGHARĀJA

 

 

XVI. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN MOGHARĀJA

 

1121. Dvāhaṃ sakka apucchissaṃ (iccāyasmā mogharājā)
na me vyākāsi cakkhumā,
yāva tatiyañca devīsi vyākarotīti me sutaṃ.

1121. (Tôn giả Mogharājā nói:) “Thưa vị dòng Sakya, tôi đã hỏi hai lần. Bậc Hữu Nhãn đã không giải thích điều ấy cho tôi. Và tôi đã được nghe rằng: ‘(Được hỏi) đến lần thứ ba, bậc Thiên Nhân Ẩn Sĩ (sẽ) giải thích.’

Mogharàja:

1116. Mo-gha-rà-ja nói:
Ðã hai lần con hỏi,
Bậc có mắt, họ Thích,
Ngài chưa trả lời con,
Nhưng con được nghe rằng,
Cho đến lần thứ ba,
Vị Thiên nhân ẩn sĩ,
Sẽ trả lời cho con.

1122. Ayaṃ loko paro loko brahmaloko sadevako,
diṭṭhiṃ te nābhijānāti gotamassa yasassino.

1122. Thế giới này, thế giới khác, thế giới Phạm Thiên luôn cả chư Thiên không biết rõ quan điểm của ngài, của vị Gotama có danh tiếng.

1117. Ðời này và đời sau,
Phạm thiên giới, thiên giới,
Con không rõ quan điểm,
Gotama lừng danh.

1123. Etaṃ abhikkantadassāviṃ atthi pañhena āgamaṃ,
kathaṃ lokaṃ avekkhantaṃ maccurājā na passati.

1123. Với ý định (hỏi) câu hỏi, tôi đã đi đến bậc có nhãn quan vượt trội này. Người đang xem xét thế gian như thế nào thì Tử Thần không nhìn thấy (người ấy)?”

1118. Vị thầy được thù diệu,
Con đến với câu hỏi,
Cần nhìn đời thế nào,
Ðể thần chết không thấy.

1124. Suññato lokaṃ avekkhassu mogharāja sadā sato,
attānudiṭṭhiṃ ūhacca evaṃ maccutaro siyā,
evaṃ lokaṃ avekkhantaṃ maccurājā na passatīti.
 

1124. “Này Mogharāja, ngươi hãy xem xét thế giới là trống không, luôn luôn có niệm. Sau khi nhổ lên tà kiến về bản ngã, như vậy có thể vượt qua sự chết. Người đang xem xét thế gian như vậy, Thần Chết không nhìn thấy (người ấy).”

Thế Tôn:

1119. Này Mô-gha-ra-ja,
Hãy nhìn đời trống không,
Luôn luôn giữ chánh niệm,
Nhô lên ngã tùy kiến,
Như vậy vượt tử vong,
Hãy nhìn đời như vậy,
Thần chết không thấy được.

 

Mogharājasuttaṃ paṇṇarasamaṃ. 

 

 

Kinh Mogharāja là thứ mười lăm. 

 
   

 

16. PIṄGIYASUTTAṂ

 

 

16. KINH PIṄGIYA

 

XVII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN PINGIYA

1125. Jiṇṇohamasmi abalo vītavaṇṇo (iccāyasmā piṅgiyo)
nettā na suddhā savanaṃ na phāsu,
māhaṃ nassaṃ momuho antarāva
ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ
jātijarāya idha vippahānaṃ.
 

1125. (Tôn giả Piṅgiya nói:) “Tôi đã già, yếu sức, không còn vẻ đẹp, cặp mắt không còn trong sáng, việc nghe không thoải mái, mong rằng tôi chớ mệnh chung ngay trong lúc mê muội. Xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để tôi có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”

Pingiya:

1120. Tôn giả Pin-gi-ya:
Con đã già, yếu đuối,
Không còn có dung sắc,
Mắt không thấy rõ ràng,
Tai không nghe thông suốt,
Ðể con khỏi mệnh chung,
Với tâm tư si ám,
Mong Ngài nói Chánh pháp,
Nhờ rõ biết pháp ấy,
Chính tại ở đời này,
Con đoạn tận sanh già.

1126. Disvāna rūpesu vihaññamāne (piṅgiyāti bhagavā)
rūppanti rūpesu janā pamattā,
tasmā tuvaṃ piṅgiya appamatto
jahassu rūpaṃ apunabbhavāya.
 

1126. (Đức Thế Tôn nói: “Này Piṅgiya,) sau khi nhìn thấy những người bị sầu khổ ở các sắc, các hạng người xao lãng bị khổ sở ở các sắc, này Piṅgiya, vì thế, (là người) không xao lãng, ngươi hãy từ bỏ sắc để không còn hiện hữu lại nữa.”

Thế Tôn:

1121. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Pin-gi-ya,
Thấy được sự tác hại,
Trong các loại sắc pháp,
Chúng sanh sống phóng dật,
Bị phiền lụy trong sắc,
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật,
Hãy từ bỏ sắc pháp
Chớ đi đến tái sanh.

1127. Disā catasso vidisā catasso
uddhaṃ adho dasadisā imāyo
na tuyhaṃ adiṭṭhaṃ asutaṃ ’mutaṃ vā,
atho aviññāṇaṃ kiñci na matthi loke
ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ
jāti jarāya idha vippahānaṃ.

1127. “Bốn hướng chính, bốn hướng phụ, bên trên, bên dưới, đây là mười phương. Đối với ngài, không có điều gì ở thế gian là không được thấy, không được nghe, không được cảm giác, và không được nhận thức (bởi ngài). Xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để tôi có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”

Pingiya:

1122. Bốn phương chính, bốn phụ,
Cộng thêm trên và dưới,
Như vậy có mười phương,
Và trong thế giới này,
Không có sự việc gì,
Mà Ngài không được thấy,
Không nghe, không nghĩ đến,
Và không được thức tri,
Hãy nói đến Chánh pháp,
Nhờ rõ biết pháp này,
Con ngay tại đời này,
Ðoạn tận được sanh già.

1128. Taṇhādhipanne manuje pekkhamāno (piṅgiyāti bhagavā)
santā pajā te jarasā parete,
tasmā tuvaṃ piṅgiya appamatto
jahassu taṇhaṃ apunabbhavāyāti.
 

1128. (Đức Thế Tôn nói: “Này Piṅgiya,) trong khi nhìn xem những người theo đuổi tham ái bị chế ngự bởi sự già, những con người ấy bị mệt mỏi, này Piṅgiya, vì thế, (là người) không xao lãng, ngươi hãy từ bỏ tham ái để không còn hiện hữu lại nữa.”

Thế Tôn:

1123. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi này Pin-gi-ya!
Thấy chúng sanh loài Người,
Rơi vào trong khát ái,
Bị già nua đốt cháy,
Bị già nua chinh phục
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật
Hãy từ bỏ khát ái,
Không còn bị tái sanh.

 

Piṅgiyasuttaṃ soḷasamaṃ. 

 

 

Kinh Piṅgiya là thứ mười sáu. 

 
  

 

XVIII. KẾT LUẬN

 

Idamavoca bhagavā magadhesu viharanto pāsāṇake cetiye paricārikasoḷasānaṃ brāhmaṇānaṃ ajjhiṭṭho puṭṭho puṭṭho pañhe vyākāsi, ekamekassa cepi pañhassa atthamaññāya dhammamaññāya dhammānudhammaṃ paṭipajjeyya gaccheyyeva jarāmaraṇassa pāraṃ pāraṅgamanīyā ime dhammāti. Tasmā imassa dhammapariyāyassa pārāyananteva adhivacanaṃ:

Đức Thế Tôn đã nói điều này trong lúc cư ngụ ở xứ sở Magadha tại bảo điện Pāsāṇaka. Được yêu cầu bởi mười sáu vị Bà-la-môn tùy tùng (của Bà-la-môn Bāvarī), Ngài đã giải thích các câu hỏi mỗi khi được hỏi. Nếu sau khi hiểu thông ý nghĩa của từng câu hỏi một, sau khi hiểu thông Giáo Pháp, thì có thể thực hành đúng pháp và thuận pháp, và còn có thể đi đến bờ kia của sự già và sự chết. Các pháp này là sẽ đi đến bờ kia, vì thế, tên gọi của bài giảng pháp này là ‘Đi Đến Bờ Kia.’

Thế Tôn nói như vậy. Trong khi ở tại Magadha, tại điện Phà-xa-na-ka, Thế Tôn được mười sáu Bà-la-môn đệ tử của Bàvani tìm đến, được hỏi nhiều câu hỏi và Ngài đã trả lời. Nêu từng câu hỏi một, sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp và tùy pháp, thì có thể đi đến bờ bên kia của già chết. Những pháp này có thể đưa người qua bờ bên kia, cho nên pháp môn này cũng được gọi là Pàràyanam: "Con đường đưa đến bờ bên kia".

1129. Ajito tissa metteyyo puṇṇako atha mettagū,
dhotako upasīvo ca nando ca atha hemako.

1129. Ajita, Tissametteyya, Puṇṇaka, rồi Mettagū, Dhotaka, và Upasīva, Nanda, rồi Hemaka.

1124. Phạm chí Ajita,
Tissa-Met-tayya,
Phạm chí Pun-na-ka,
Cùng với Met-ta-gù,
Thanh niên Dhotaka,
Và Upasiva,
Nan-đa, He-ma-ka,
Cả hai vị thanh niên.

1130. Todeyyakappā dubhayo jatukaṇṇī ca paṇḍito,
bhadrāvudho udayo ca posālo cāpi brāhmaṇo,
mogharājā ca medhāvī piṅgiyo ca mahā isi.

1130. Hai vị Todeyya, và Kappa, và vị sáng suốt Jatukaṇṇī, Bhadrāvudha, và Udaya, luôn cả Bà-la-môn Posāla, vị thông minh Mogharājā, và vị đại ẩn sĩ Piṅgiya.

1125. To-dey-ya, Kap-pà;
Và Ja-tu-kha-ni,
Với Bhad-rà-vu-dha
Phạm chí U-da-ya
Phạm chí Po-sà-la,
Với Mo-gha-rà-ja
Là bậc đại Hiền trí,
Cùng với bậc đại sĩ,
Tên là Pin-gi-ya.

1131. Ete buddhaṃ upāgacchuṃ sampannacaraṇaṃ isiṃ,
pucchantā nipuṇe pañhe buddhaseṭṭhaṃ upāgamuṃ.
 

1131. Những vị này đã đi đến gặp đức Phật, bậc ẩn sĩ có đức hạnh đầy đủ. Trong khi hỏi các câu hỏi vi tế, họ đã đến gần đức Phật tối thượng.
 

1126. Những vị này đi đến,
Ðức Phật, bậc Tiên nhân,
Bậc hạnh đức đầy đủ,
Những vị này đi đến,
Bậc giác ngộ tối thượng,
Hỏi câu hỏi tế nhị.

1132. Tesaṃ buddho vyākāsi pañhe puṭṭho yathātathaṃ,
pañhānaṃ veyyākaraṇena tosesi brāhmaṇe muni.

1132. Được hỏi những câu hỏi, đức Phật đã giải thích cho các vị ấy đúng theo bản thể (câu hỏi). Với việc giải thích các câu hỏi, bậc Hiền Trí đã làm hài lòng các vị Bà-la-môn.

1127. Ðức Phật đã như thật,
Trả lời các vị ấy,
Tùy theo các câu hỏi,
Và bậc đại ẩn sĩ
Trả lời những câu hỏi,
Khiến các Bà-la-môn,
Ðược hoan hỷ vui thích.

1133. Te tositā cakkhumatā buddhenādiccabandhunā,
brahmacariyamacariṃsu varapaññassa santike.

1133. Được hài lòng với đức Phật, bậc Hữu Nhãn, thân quyến của mặt trời, các vị ấy đã thực hành Phạm hạnh ở sự hiện diện của bậc có tuệ cao quý.

1128. Họ được vui, hoan hỷ,
Nhờ Phật, bậc có mắt,
Nhờ bà con mặt trời,
Họ hành trì Phạm hạnh,
Dưới chỉ đạo hướng dẫn,
Bậc trí tuệ tuyệt diệu.

1134. Ekamekassa pañhassa yathā buddhena desitaṃ,
tathā yo paṭipajjeyya gacche pāraṃ apārato.

1134. Theo như điều đã được thuyết giảng bởi đức Phật đối với từng câu hỏi một, người nào thực hành theo như thế có thể từ bờ bên này đi đến bờ kia.

1129. Theo từng câu hỏi một,
Tùy đức Phật thuyết giảng,
Ai như vậy hành trì,
Ði được từ bờ này,
Ðến được bờ bên kia.

1135. Apārā pāraṃ gaccheyya bhāvento maggamuttamaṃ,
maggo so pāraṃ gamanāya tasmā parāyanaṃ iti.
 

1135. Người tu tập đạo lộ tối thượng có thể từ bờ bên này đi đến bờ kia. Đạo lộ ấy đưa đến việc đi đến bờ kia, vì thế gọi là ‘Đi Đến Bờ Kia.’”

 

1130. Ði được từ bờ này,
Ðến được bờ bên kia,
Tu tập đạo vô thượng,
Và chính con đường ấy,
Ðưa đến bờ bên kia,
Do vậy được tên gọi,
Con đường đến bờ kia.

 

17. PARĀYANĀNUGĪTIGĀTHĀ

 

 

17. ĐI ĐẾN BỜ KIA - CÁC KỆ NGÔN TƯỜNG THUẬT

 

 

 

 

Rồi Tôn giả Pingiya đi về Godhàvari và nói lại với Bà-la-môn Bàvari những điều đã xảy ra.

1136. Pārāyanamanugāyissaṃ (iccāyasmā piṅgiyo)
yathāddakkhi tathā akkhāsi,
vimalo bhūrimedhaso,
nikkāmo nibbano nāgo
kissa hetu musā bhaṇe.

1136. (Tôn giả Piṅgiya nói:) “Tôi sẽ tường thuật lại Kinh Đi Đến Bờ Kia. Bậc vô nhiễm, có tuệ bao la, không còn dục vọng, đã ra khỏi rừng (tham ái), bậc long tượng đã thấy như thế nào, ngài đã nói ra như thế ấy. Nguyên nhân gì khiến ngài lại nói lời sai trái?

Pingiya:

1131. Tôn giả Pin-gi-ya:
Con sẽ đọc tụng lên
Con đường đến bờ kia,
Ngài được thấy thế nào,
Ngài nói lên thế ấy,
Bậc vô cấu, quảng trí,
Bậc lãnh đạo không dục,
Bậc Niết-bàn an tịnh,
Làm sao do nhân gì,
Ngài nói điều không thật.

1137. Pahīnamalamohassa mānamakkhappahāyino,
handāhaṃ kittayissāmi giraṃ vaṇṇūpasaṃhitaṃ.

1137. Giờ tôi sẽ thuật lại lời nói đức độ của bậc đã dứt bỏ vết nhơ và si mê, của bậc có sự dứt bỏ ngã mạn và sự thâm hiểm.

1132. Bậc đã đoạn trừ hết,
Uế nhiễm và si mê,
Bậc đã diệt trừ sạch,
Kiêu mạn và gièm pha,
Con sẽ nói tán thán,
Âm thanh vi diệu ấy.

1138. Tamonudo buddho samantacakkhu
lokantagū sabbabhavātivatto,
anāsavo sabbadukkhappahīno
saccavhayo brahme upāsito me.

1138. Thưa vị Bà-la-môn, đức Phật, bậc xua tan bóng tối, đấng Toàn Nhãn, đã đi đến tận cùng thế giới, vượt trội mọi hiện hữu, không còn lậu hoặc, đã dứt bỏ tất cả khổ, có tên gọi là Sự Thật, đã được hầu cận bởi tôi.

1133. Bậc quét sạch u ám,
Phật-đà, bậc Biến nhãn,
Ðã đến, tận cùng đời,
Ðã vượt qua sanh hữu,
Bậc không có lậu hoặc,
Ðoạn tận mọi đau khổ,
Vị được gọi sự thật,
Hỡi vị Bà-la-môn,
Con được hầu vị ấy.

1139. Dvijo yathā kubbanakaṃ pahāya
bahupphalaṃ kānanaṃ āvaseyya,
evaṃpahaṃ appadasse pahāya
mahodadhiṃ haṃsarivajjhapatto.

1139. Giống như con chim, sau khi lìa bỏ khu rừng cây nhỏ, có thể sống ở khu rừng có nhiều trái cây, cũng tương tự như thế, sau khi lìa bỏ người có tầm nhìn nhỏ nhoi, tôi ví như con chim thiên nga đã đạt đến biển lớn.

1134. Như chim bỏ rừng hoang,
Ðến ở rừng nhiều trái,
Cũng vậy con từ bỏ,
Những bậc thấy nhỏ nhen,
Con đạt đến biển lớn,
Chẳng khác con thiên nga.

1140. Ye me pubbe vyākaṃsu
huraṃ gotamasāsanā
iccāsi iti bhavissati,
sabbantaṃ itihītihaṃ
sabbantaṃ takkavaḍḍhanaṃ.
 

1140. Những người nào trước đây đã giải thích cho tôi khác với lời dạy của Gotama (nói rằng): ‘Đã là như vầy, sẽ là như vầy,’ mọi điều ấy đều do nghe nói lại theo truyền thống, mọi điều ấy đều là sự tăng trưởng suy tầm (về dục).
 

1135. Những ai trong đời khác,
Ðã nói cho con nghe,
Lời dạy bậc Cù-đàm
Như vậy đã xảy ra,
Như vậy sẽ xảy đến,
Tất cả là tin đồn,
Chỉ làm tăng nghi ngờ.

1141. Eko tamanudāsīno jutimā so pabhaṃkaro,
gotamo bhūripaññāṇo gotamo bhūrimedhaso.

1141. Vị xua tan bóng tối, một mình, đang ngồi, sáng chói, bậc tạo ra ánh sáng ấy là vị Gotama có tuệ bao la, là vị Gotama có sự sáng suốt bao la.

1136. Chỉ một vị an trú,
Quét sạch các hắc ám,
Sanh trưởng gia đình quý,
Vị ấy chiếu hào quang,
Cù-đàm, bậc quảng tuệ,
Cù-đàm, bậc quảng trí.

1142. Yo me dhammamadesesi sandiṭṭhikamakālikaṃ,
taṇhakkhayamanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.

1142. Vị ấy đã thuyết giảng cho tôi Giáo Pháp có thể thấy được bởi tự thân, không bị chi phối bởi thời gian, có sự đoạn diệt tham ái, không có rủi ro, điều tương đương với pháp (Niết Bàn) ấy là không có ở bất cứ đâu.”

1137. Ai thuyết pháp cho con,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.

1143. Kinnu tamhā vippavasasi muhuttamapi piṅgiya,
gotamā bhūripaññāṇā gotamā bhūrimedhasā.

1143. “Này Piṅgiya, sao ngươi không thể sống, dầu chỉ trong chốc lát, xa lìai khỏi vị Gotama có tuệ bao la, khỏi vị Gotama có sự sáng suốt bao la?

Bàvari:

1138. Hỡi này Pin-gi-ya,
Sao Ông lại không thể,
Sống xa lánh vị ấy,
Chỉ trong một chốc lát,
Bậc Cù-đàm quảng tuệ,
Bậc Cù-đàm quảng trí,

1144. Yo te dhammamadesesi sandhiṭṭhikamakālikaṃ,
taṇhakkhayamanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.
 

1144. Là vị đã thuyết giảng cho ngươi Giáo Pháp có thể thấy được bởi tự thân, không bị chi phối bởi thời gian, có sự đoạn diệt tham ái, không có rủi ro; điều tương đương với pháp (Niết Bàn) ấy là không có ở bất cứ đâu.”

1139. Vị thuyết pháp cho người,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.

1145. Nāhaṃ tamhā vippavasāmi muhuttampi brāhmaṇa,
gotamā bhūripaññāṇā gotamā bhūrimedhasā.

1145. Thưa vị Bà-la-môn, tôi không thể sống, dầu chỉ trong chốc lát, xa lìa khỏi vị Gotama có tuệ bao la, khỏi vị Gotama có sự sáng suốt bao la.

Pingiya:

1140. Hỡi này Bà-la-môn,
Con không có thể được,
Sống xa lánh vị ấy
Chỉ trong một chốc lát,
Gotama quảng tuệ,
Gotama quảng trí.

1146. Yo me dhammamadesesi sandhiṭṭhikamakālikaṃ,
taṇhakkhayanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.

1146. Là vị đã thuyết giảng cho tôi Giáo Pháp có thể thấy được bởi tự thân, không bị chi phối bởi thời gian, có sự đoạn diệt tham ái, không có rủi ro; điều tương đương với pháp (Niết Bàn) ấy là không có ở bất cứ đâu.

1141. Vị thuyết pháp cho con,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.

1147. Passāmi naṃ manasā cakkhunā ca
rattiṃ divaṃ brāhmaṇa appamatto,
namassamāno vivasemi rattiṃ
teneva maññāmi avippavāsaṃ.

1147. Thưa vị Bà-la-môn, tôi nhìn thấy Ngài ấy bằng tâm và bằng mắt, ban đêm và ban ngày không bị xao lãng. Trong khi kính lễ (đến Ngài), tôi sống qua đêm; chính bằng cách ấy, tôi nghĩ là sống không xa lìa.

1142. Chính con thấy vị ấy,
Với ý, với con mắt,
Ngày đêm không phóng dật,
Kính thưa Bà-la-môn,
Con trải qua suốt đêm
Ðảnh lễ, kính vị ấy,
Do vậy con nghĩ rằng,
Con không xa vị ấy.

1148. Saddhā ca pīti ca mano satī ca
nāpenti me gotamasāsanamhā,
yaṃ yaṃ disaṃ vajati bhūripañño
sa tena teneva natohamasmi.

1148. Tín, hỷ, tâm ý, và niệm của tôi không lìa xa lời giảng dạy của đức Gotama. Mỗi phương hướng nào bậc có tuệ bao la di chuyển đến, tôi đây đều kính lễ theo chính phương hướng ấy.
 

1143. Với tín và với hỷ,
Với ý luôn chánh niệm,
Không làm con xa rời,
Lời dạy Gotama!
Chính tại phương hướng nào,
Bậc quảng tuệ đi đến,
Chính ở phương hướng ấy,
Con được dắt dẫn đến.

1149. Jiṇṇassa me dubbalathāmakassa
teneva kāyo na paleti tattha,
saṅkappasattāya vajāmi niccaṃ
mano hi me brāhmaṇa tena sutto.

1149. Đối với tôi, là người đã già nua, có thể lực và sức mạnh kém cỏi, chính vì thế, thân xác của tôi không theo đến được nơi ấy. Thưa vị Bà-la-môn, tôi thường đi đến bằng cách hướng tâm, bởi vì tâm ý của tôi đã được gắn bó với vị ấy.

1144. Với con tuổi đã già,
Yếu đuối, không sức mạnh,
Do vậy thân thể này,
Không đến được chỗ ấy,
Với tâm tư quyết chí,
Con thường hằng đi đến.
Vì rằng thưa Phạm chí,
Ý con cột vị ấy.

1150. Paṅke sayāno pariphandamāno dīpā dīpaṃ upaplaviṃ,
athaddasāsiṃ sambuddhaṃ oghatiṇṇamanāsavaṃ.
 

1150. Trong khi đang nằm giãy giụa trong đám bùn (ngũ dục), tôi đã bơi từ hòn đảo này đến hòn đảo khác. Và tôi đã nhìn thấy bậc Toàn Giác, vị đã vượt qua dòng lũ, không còn lậu hoặc."
 

1145. Nằm dài trong vũng bùn,
Vùng vẫy, vật qua lại,
Con đã bơi qua lại,
Ðảo này đến đảo khác,
Con đã thấy đức Phật,
Vượt bộc lưu, vô lậu.

 

CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI DỊCH: Vào thời điểm này, đức Phật đang ngự tại thành Sāvatthi. Biết được sự chín muồi về khả năng của Piṅgiya và Bārarī, Ngài đã phóng ra hào quang có màu sắc vàng chói. Piṅgiya ngay trong lúc đang ngồi tán dương ân đức của Phật cho Bāvarī đã nhìn thấy hào quang ấy, trong lúc xem xét ‘cái gì đây?’ và sau khi đã nhìn thấy đức Thế Tôn như đang đứng trước mặt, Piṅgiya đã bảo vị Bà-la-môn Bārarī rằng: ‘Đức Phật đã ngự đến.’ Bà-la-môn Bārarī đã từ chỗ ngồi chắp tay lên và đứng dậy. Đức Thế Tôn sau khi phóng ra hào quang đã hiện thân cho vị Bà-la-môn thấy. Sau khi thấy thời điểm phù hợp cho cả hai vị, trong lúc chỉ dạy riêng cho Piṅgiya, Ngài đã nói lên kệ ngôn này (SnA. ii,606).

Ðến đây, khi chúng đang nói, đức Phật hiện ra và nói:

1151. Yathā ahū vakkali muttasaddho
bhadrāvudho āḷavi gotamo ca,
evameva tvampi pamuñcassu saddhaṃ
gamissasi tvaṃ piṅgiya maccudheyyassa pāraṃ.

1151. “Giống như Vakkali có niềm tin đã được khẳng định, Bhadrāvudha và Āḷavi Gotamo (cũng thế), tương tự y như vậy, ngươi cũng hãy khẳng định niềm tin. Này Piṅgiya, ngươi sẽ đi đến bờ bên kia đối với lãnh địa của Thần Chết.”

Thế Tôn:

1146. Cũng như Vak-ka-li
Nhờ tin, được giải thoát,
Với Bhad-rà-vu-dha,
A-la-vi, Cù-đàm,
Cũng vậy, Ông đã được,
Giải thoát nhờ lòng tin.
Hỡi này Pin-gi-ya,
Ông sẽ đi đến được,
Ðến được bờ bên kia,
Của thế giới thần chết.

1152. Esa bhiyyo pasīdāmi sutvāna munino vaco,
vivattacchaddo sambuddho akhilo paṭibhānavā.

1152. “Sau khi lắng nghe lời nói của bậc hiền trí, tôi đây càng thêm tịnh tín. Ngài là bậc Chánh Đẳng Giác, có màn che đã được cuốn lên, không cọc nhọn (ô nhiễm), có tài biện giải.

Pingiya:

1147. Ðược nghe lời ẩn sĩ,
Con tăng trưởng tịnh tín,
Bậc Chánh đẳng Chánh giác,
Ðã vén lên tấm màn,
Không cứng cỏi, biện tài.

1153. Adhideve abhiññāya sabbaṃ vedi parovaraṃ,
pañhānantakaro satthā kaṅkhinaṃ paṭijānataṃ.

1153. Sau khi biết rõ chư Thiên bậc cao, Ngài đã hiểu tất cả từ thấp đến cao. Bậc Đạo Sư, vị làm chấm dứt các câu hỏi của những người có sự nghi hoặc, của những người bộc lộ cho biết.

1148. Thắng tri các chư Thiên,
Biết tất cả cao thấp,
Bậc Ðạo Sư chấm dứt,
Tất cả các câu hỏi,
Với những ai tự nhận,
Còn có chỗ nghi ngờ.

1154. Asaṃhīraṃ asaṅkuppaṃ yassa natthi upamā kvaci,
addhā gamissāmi na mettha kaṅkhā evaṃ padhārehi adhimuttacittanti.
 

1154. Đương nhiên, tôi sẽ đi đến trạng thái (Niết Bàn) không bị tiêu hoại, không bị lay chuyển, điều tương đương với pháp (Niết Bàn) ấy là không có ở bất cứ đâu. Sự nghi hoặc của tôi về nơi này (Niết Bàn) là không có. Như vậy xin Ngài hãy ghi nhận tôi là người có tâm đã được khẳng định.”

1149. Không run rẩy, dao động,
Không ai có thể sánh,
Chắc chắn con sẽ đi,
Tại đây, con không nghi,
Như vậy, thọ trì Ta
Như tâm người tín giải.

 

Pārāyanavaggo niṭṭhito. 

 

 

Dứt Phẩm Đi Đến Bờ Kia. 

 

 

Phẩm "Con đường đi đến bờ bên kia " đã xong. 

 

 

SUTTANIPĀTO SAMATTO. 

 

 

KINH TẬP ĐƯỢC ĐẦY ĐỦ