--ooOoo--
Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi - Việt tập 28 trình bày bốn tập Kinh đầu tiên của Khuddakanikāya - Tiểu Bộ, cụ thể là:
- Khuddakapāṭhapāḷi - Tiểu Tụng
- Dhammapadapāḷi - Pháp Cú
- Udānapāḷi - Phật Tự Thuyết
- Itivuttakapāḷi - Phật Thuyết Như Vậy.
Các tựa đề tiếng Việt của bốn tập Kinh này đã được giữ lại giống như các tựa đề ở các bản dịch của Ngài Hòa Thượng Thích Minh Châu.
Sau đây là phần giới thiệu sơ lược của từng tập Kinh một:
Tập Kinh Khuddakapāṭhapāḷi - Tiểu Tụng, tập Kinh thứ nhất thuộc Khuddakanikāya - Tiểu Bộ, được ghi nhận là tập Kinh ngắn nhất trong toàn bộ Tam Tạng Pāḷi. Nội dung của tập Kinh gồm 9 phần, 4 phần đầu trình bày những kiến thức Phật học căn bản gồm có: 3 sự nương nhờ (tam quy), 10 giới của vị Sa-di, 32 phần của cơ thể (32 đề mục tham thiền về thể trược), và một số câu hỏi đáp liên quan đến phần giáo lý. Kế đến là 5 bài Kinh (sutta) thường được dùng để đọc tụng hàng ngày. Chín phần này còn được tìm thấy ở những văn bản khác thuộc Tam Tạng Pāḷi. Ở các nước quốc giáo, tập Kinh này là phần kiến thức căn bản cần phải học thuộc lòng dành cho các giới tử trước khi thọ giới Sa-di. Các tựa đề của 9 phần ấy như sau:
1. Saraṇagamanaṃ - Việc Đi Đến Nương Tựa
2. Dasasikkhāpadaṃ - Mười Điều Học
3. Dvattiṃsākāraṃ - Ba Mươi Hai thể
4. Kumārapañhā - Các Câu Hỏi Dành Cho Thiếu Niên
5. Maṅgalasuttaṃ - Kinh Điềm Lành
6. Ratanasuttaṃ - Kinh Châu Báu
7. Tirokuḍḍasuttaṃ - Kinh Bên Ngoài Vách Tường
8. Nidhikaṇḍasuttaṃ - Kinh Phần Của Cải Để Dành
9. Mettasuttaṃ - Kinh Từ Ái.
Chú Giải của tập Kinh này có tên là Paramatthajotikā, đã được thực hiện tại đảo quốc Tích Lan (Sri Lanka) vào khoảng cuối thế kỷ thứ 5 theo Tây lịch do công sức của Chú Giải Sư Buddhaghosa thuộc phái Mahāvihāra (Đại Tự).
Tập Kinh Dhammapadapāḷi - Pháp Cú là tập Kinh được phổ biến rộng rãi nhất với nhiều bản dịch của nhiều dịch giả qua nhiều ngôn ngữ khác nhau. Tập Kinh gồm có 423 kệ ngôn (gāthā) được sắp xếp thành 26 phẩm (vagga) theo các chủ đề khác nhau với nội dung cô đọng trình bày những giáo lý căn bản cũng như tiêu chuẩn đạo đức chủ yếu của người tu Phật. Các kệ ngôn này đã được ghi lại số thứ tự theo sự phân loại truyền thống tính theo từng phẩm, thêm vào đó còn được liệt kê theo số thứ tự từ 1 đến 423 được đặt trong ngoặc [] ở đầu mỗi câu kệ để tiện việc trích lục tham khảo.
Chú Giải của tập Kinh này có tên là Dhammapadaṭṭhakathā và đã được thực hiện do công sức của Chú Giải Sư Buddhaghosa. Bài kệ mở đầu của tập Chú Giải cho biết tài liệu này đã được lưu truyền ở hòn đảo Tambapaṇṇī (Sri Lanka ngày nay) và đã được sưu tập lại bằng ngôn ngữ của đảo quốc này do sự yêu cầu của vị trưởng lão tên Kumārakassapa. Chú Giải cung cấp nhiều câu chuyện giải thích các sự kiện có liên quan và còn có thêm phần phân tích một số từ ngữ khó ở kệ ngôn.
Tập Kinh Udānapāḷi - Phật Tự Thuyết thuộc Tiểu Bộ, Tạng Kinh, là tập Kinh thứ ba sau tập Kinh Dhammapadapāḷi - Pháp Cú, và trước tập Kinh Itivuttakapāḷi - Phật Thuyết Như Vậy. Tập này gồm có 80 bài Kinh (sutta) được chia thành 8 phẩm (vagga), mỗi phẩm có đúng 10 bài Kinh. Nội dung của tập Kinh trình bày những lời cảm hứng của đức Phật, đa phần ở thể kệ ngôn (gāthā), được đặt ở cuối bài Kinh theo sau phần văn xuôi giới thiệu. Những lời cảm hứng này đã được đức Phật thốt lên do nỗi vui mừng của Ngài trước những sự việc xảy ra (pītivegasamuṭṭhāpito udāhāro, UdA. 01). Ngoài những tư liệu liên quan đến cuộc sống của đức Phật, còn có nhiều tích chuyện về các vị Thinh Văn đệ tử của Ngài như các vị Sāriputta, Mahāmoggallāna, Mahākassapa, Mahākaccāna, Nanda, Saṅgāmaji, Dabba, v.v... hoặc hàng nam nữ cư sĩ tại gia như là đức vua Pasenadi xứ Kosala, đức vua Udena, bà Visākhā, kỹ nữ Sundarī, v.v... Xét về thể loại (aṅga), tập Kinh Udānapāḷi - Phật Tự Thuyết đã được xếp vào thể loại Udāna là một trong chín thể loại của Giáo Pháp.[1]
Chú Giải Paramatthadīpanī đã được thực hiện bởi Giáo Thọ Sư Ācariya Dhammapāla trong lúc cư ngụ tại tu viện Badaratitthavihāra, và cũng được tuân thủ theo phương thức thực hiện của phái Mahāvihāra (Đại Tự). Thời điểm thực hiện cũng được xác định vào cuối thế kỷ thứ 5 theo Tây Lịch, sau thời kỳ của Chú Giải Sư Buddhaghosa.
Tập Kinh Itivuttakapāḷi - Phật Thuyết Như Vậy là tập thứ tư thuộc Tiểu Bộ, Tạng Kinh, kế tiếp tập Kinh Udānapāḷi - Phật Tự Thuyết. Tập Kinh này gồm có 112 bài kinh được chia thành bốn Nhóm (nipāta) phân loại của Pháp số theo thứ tự từ thấp lên cao, gồm nhóm Một Pháp, Hai Pháp, Ba Pháp, và Bốn Pháp. Ba nhóm đầu được chia thành nhiều Phẩm (vagga), mỗi phẩm có nhiều bài Kinh (sutta): Nhóm Một Pháp có 27 bài Kinh được chia làm 3 Phẩm, Nhóm Hai Pháp có 22 bài Kinh được chia làm 2 Phẩm, Nhóm Ba Pháp có 50 bài Kinh được chia làm 5 Phẩm, riêng Nhóm Bốn có 13 bài Kinh và không được chia thành Phẩm. Mỗi bài Kinh có phần đầu bằng văn xuôi sau đó là câu kệ ngôn (gāthā), hai phần này bổ sung ý nghĩa cho nhau. Ngoài sự trình bày theo sự phân loại của các Nhóm (nipāta), các bài Kinh còn được ghi theo số thứ tự từ 1 đến 112 đặt trong dấu ngoặc [] ở đầu mỗi bài Kinh để tiện việc trích lục tham khảo. Một số bài Kinh đã được tìm thấy ở các nơi khác thuộc Tam Tạng Pāḷi, đặc biệt là ở Aṅguttaranikāya - Bộ Tăng Chi, phần còn lại chỉ thấy có ở riêng tập Kinh này. Xét về thể loại (aṅga), tập Kinh Itivuttakapāḷi - Phật Thuyết Như Vậy có thể được xếp vào thể loại Itivuttaka xét về tên của tựa đề và chữ “iti”[2] được thấy ở câu mở đầu và câu kết luận: “Vuttaṃ h’ etaṃ bhagavatā, vuttamarahatā ’ti me sutaṃ” (Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã nghe như vầy) và “Ayampi attho vutto bhagavatā. Iti me sutan ti” (Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế).
Chú Giải của tập Kinh này có tên là Paramatthadīpanī đã được thực hiện bởi Giáo Thọ Sư Ācariya Dhammapāla trong lúc cư ngụ tại tu viện Badaratitthavihāra; điều này được tìm thấy ở phần cuối của tập sách. Thêm nữa, phần mở đầu (ganthārambhakathā) của tập Chú Giải này cho biết rằng: Các bài Kinh này đã được Khujjutarā, nữ hầu của nàng Sāmāvatī, nghe trực tiếp từ đức Phật tại thành Kosambī, sau đó thuyết lại cho nữ chủ và các người phụ nữ khác ở trong cung nghe (ItA. 29-32). Cũng cần giải thích thêm, nàng Sāmāvatī là phi tần của đức vua Udena, người đã bị chết thiêu cùng với 500 cung nữ khác khi nội cung của đức vua Udena bị đốt cháy; câu chuyện này được ghi lại ở tập Kinh Udānapāḷi - Phật Tự Thuyết (Udenasuttaṃ - Kinh Udena, thuộc phẩm thứ bảy, Cullavagga - Phẩm Nhỏ).
*****
Văn bản Pāḷi Roman trình bày ở đây đã được phiên âm lại từ văn bản Pāḷi - Sinhala, ấn bản Buddha Jayanti Tripitaka Series của nước quốc giáo Sri Lanka. Chúng tôi cũng xin thành tâm tán dương công đức của Ven. Mettāvihārī đã hoan hỷ cho phép chúng tôi sử dụng văn bản đã được phiên âm sẵn đang phổ biến trên mạng internet. Điểm đóng góp của chúng tôi trong việc thực hiện văn bản Pāḷi Roman này là dò lại kỹ lưỡng văn bản đã được phiên âm và so sánh kiểm tra những điểm khác biệt về văn tự ở Tam Tạng của các nước Thái Lan, Miến Điện, và Anh Quốc được ghi ở phần cước chú, đồng thời bổ sung thêm một số điểm khác biệt đã phát hiện được trong lúc so sánh các văn bản với nhau.
Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, chúng tôi đã ghi nghĩa Việt của các kệ ngôn bằng văn xuôi nhằm diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của văn bản gốc. Một điểm cần ghi rõ ở đây là đối với một số các câu kệ Pāḷi 3, 4 dòng, có thứ tự gần với câu văn tiếng Việt, trong trường hợp này, câu tiếng Việt đã được ngắt thành từng dòng riêng biệt tương ứng với câu Pāḷi để tiện việc đối chiếu, so sánh, tìm hiểu, học hỏi. Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāḷi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này, đồng thời tạo sự thuận tiện cho công việc hiệu đính trong tương lai. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành ghi nhận sự quan tâm chăm sóc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công tác phiên dịch của chúng tôi về phương diện vật thực bồi dưỡng và thuốc men chữa bệnh của các vị hữu ân sau: Phật tử Phạm Thu Hương (Hongkong), Phật tử Tuệ Vân, Phật tử Tường Vân, Phật tử Tịnh Vân, Phật tử Paññavara Tuệ Ân, Phật tử Nguyễn Thế Anh, Phật tử Nguyễn Hoàng Bách (Hà Nội), gia đình Phật tử Hoàng Thị Lựu (Đà Nẵng), và còn nhiều Phật tử khác nữa đã hỗ trợ và quan tâm đến sức khỏe của chúng tôi trong thời gian qua, tiếc rằng không thể liệt kê ra tất cả vì quá dài. Nói rõ hơn, công việc soạn thảo này được thông suốt, không bị gián đoạn, chính là nhờ có sự hỗ trợ nhiệt tình và quý báu của quý vị. Thành tâm cầu chúc quý vị luôn giữ vững niềm tin và thành tựu được nhiều kết quả trong công việc tu tập giải thoát.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng không quên ghi nhận sự nhiệt tình của Sư Cô Mỹ Thúy và Phật tử Trương Hồng Hạnh đã sắp xếp thời gian để đọc lại bản thảo một cách kỹ lưỡng và đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc giúp cho chúng tôi tránh được một số điểm vụng về trong việc sử dụng từ ngữ tiếng Việt.
Chúng tôi cũng xin thành tâm tùy hỷ và tán dương công đức của các thí chủ đã nhiệt tâm đóng góp tài chánh giúp cho Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi - Việt được tồn tại và phát triển. Mong sao phước báu Pháp thí này luôn dẫn dắt quý vị vào con đường tu tập đúng theo Chánh Pháp, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết Bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa.
Chúng tôi xin thành kính tri ân công đức của Ngài Hòa Thượng Ven. Devahandiye Paññāsekara Nāyaka Mahāthera, tu viện trưởng tu viện Sri Jayawardhanaramaya Colombo 8 - Sri Lanka, và Ngài Hòa Thượng Pháp Nhẫn, trụ trì Chùa Liên Hoa, Irving, Texas - USA, đã cung cấp trú xứ và các vật dụng cần thiết giúp cho chúng tôi có thể tập trung toàn thời gian cho công việc thực hiện tập Kinh này.
Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.
Kính bút,
ngày 05 tháng 08 năm 2013
Tỳ Khưu Indacanda (Trương đình Dũng)
[1] Chín thể loại (aṅga): sutta, geyya, veyyākaraṇa, gāthā, udāna, itivuttaka, jātaka, abbhūtadhamma, vedalla. Xem lời giải thích chi tiết về chín thể loại này ở tập sách Saddhammasaṅgaha - Diệu Pháp Yếu Lược, trang 31.
[2] Concise Pāli - English Dictionary của A. P. Buddhadatta Mahāthera ghi như sau: - Iti. in. thus (used to point out something just mentioned or about to be mentioned, and to show that a sentence is finished). Very often its former i is elided and ti only is remaining. Hòa Thượng Bửu Chơn ghi nghĩa Việt như sau: - Iti. in. như vậy (dùng để ám chỉ vật, người đã nói phía trước và chỉ chỗ chấm dứt câu nói). Thường chữ i trước biến mất, chỉ còn lại ti mà thôi.
--ooOoo--
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
Tôi đi đến nương nhờ Đức Phật,
Tôi đi đến nương nhờ Giáo Pháp,
Tôi đi đến nương nhờ Tăng Chúng.
Tôi đi đến nương nhờ Đức Phật lần thứ nhì,
Tôi đi đến nương nhờ Giáo Pháp lần thứ nhì,
Tôi đi đến nương nhờ Tăng Chúng lần thứ nhì.
Tôi đi đến nương nhờ Đức Phật lần thứ ba,
Tôi đi đến nương nhờ Giáo Pháp lần thứ ba,
Tôi đi đến nương nhờ Tăng Chúng lần thứ ba.
Việc Đi Đến Nương nhờ.[1]
*****
Tôi thọ trì điều học là tránh xa việc giết hại sinh mạng.
Tôi thọ trì điều học là tránh xa việc lấy vật không được cho.
Tôi thọ trì điều học là tránh xa việc phi Phạm hạnh (hành dâm).
Tôi thọ trì điều học là tránh xa việc nói dối.
Tôi thọ trì điều học là tránh xa trường hợp dễ duôi uống chất say là rượu và chất lên men.
Tôi thọ trì điều học là tránh xa việc ăn sái giờ.
Tôi thọ trì điều học là tránh xa việc múa, hát, đờn, và xem trình diễn.
Tôi thọ trì điều học là tránh xa trường hợp đeo vòng hoa, thoa vật thơm, và tô điểm bằng đồ trang sức.
Tôi thọ trì điều học là tránh xa chỗ nằm ngồi cao và rộng lớn.
Tôi thọ trì điều học là tránh xa việc thọ lãnh vàng bạc.
Mười Điều Học.
*****
Ở thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy xương, thận, tim, gan, cơ hoành, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, thực phẩm chưa tiêu, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước mỡ (huyết tương), nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu, não bộ ở đầu.
Ba Mươi Hai Thể.
*****
Một là gì? Tất cả chúng sanh có sự tồn tại nhờ vào vật thực.
Hai là gì? Danh và sắc.
Ba là gì? Ba cảm thọ.
Bốn là gì? Bốn Chân Lý cao thượng.
Năm là gì? Năm thủ uẩn.
Sáu là gì? Sáu xứ thuộc nội phần.
Bảy là gì? Bảy chi phần đưa đến giác ngộ.
Tám là gì? Thánh Đạo tám chi phần.
Chín là gì? Chín trú xứ của chúng sanh.[2]
Mười là gì? Vị hội đủ mười chi phần được gọi là ‘A-la-hán.’[3]
Các Câu Hỏi Dành Cho Thiếu Niên.
*****
Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, lúc đêm đã khuya, một vị Thiên nhân nọ với màu sắc vượt trội đã làm cho toàn bộ Jetavana rực sáng rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đứng ở một bên, vị Thiên nhân ấy đã bạch với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:
1. “Nhiều chư Thiên và nhân loại, trong khi mong mỏi các điều hưng thịnh, đã suy nghĩ về các điềm lành, xin Ngài hãy nói về điềm lành tối thượng.”
2. “Không thân cận những kẻ ác, thân cận các bậc sáng suốt, và cúng dường các bậc xứng đáng cúng dường, điều này là điềm lành tối thượng.
3. Cư ngụ ở địa phương thích hợp, tính cách đã làm việc phước thiện trong quá khứ, và quyết định đúng đắn cho bản thân, điều này là điềm lành tối thượng.
4. Kiến thức rộng và (giỏi) nghề thủ công, khéo học tập rèn luyện, và lời nói được khéo nói, điều này là điềm lành tối thượng.
5. Phụng dưỡng mẹ và cha, cấp dưỡng các con và vợ, các nghề nghiệp không có xung đột (thuần là công việc), điều này là điềm lành tối thượng.
6. Bố thí và thực hành Giáo Pháp, trợ giúp các thân quyến, những việc làm không bị chê trách, điều này là điềm lành tối thượng.
7. Sự kiêng cữ, xa lánh điều ác, tự chế ngự trong việc uống các chất say, và không xao lãng trong các (thiện) pháp, điều này là điềm lành tối thượng.
8. Sự cung kính, khiêm nhường, tự biết đủ, và biết ơn, sự lắng nghe Giáo Pháp vào đúng thời điểm, điều này là điềm lành tối thượng.
9. Sự nhẫn nại, trạng thái người dễ dạy, và việc yết kiến các bậc Sa-môn, sự bàn luận Giáo Pháp lúc hợp thời, điều này là điềm lành tối thượng.
10. Sự khắc khổ, và thực hành Phạm hạnh, sự nhận thức các Chân Lý Cao Thượng, và việc chứng ngộ Niết Bàn, điều này là điềm lành tối thượng.
11. Tâm không dao động khi tiếp xúc với các pháp thế gian, không sầu muộn, có sự xa lìa bợn nhơ, được an ổn, điều này là điềm lành tối thượng.
12. (Những người) đã thực hành những điều như thế này thì không bị thất bại ở mọi nơi, đi đến mọi nơi một cách hưng thịnh; đối với họ (những) điều ấy là điềm lành tối thượng.”
Kinh Điềm Lành.
*****
1. Các hạng sanh linh[4] nào đã tụ hội nơi đây,
là các hạng ở địa cầu, hoặc các hạng nào ở hư không,
mong rằng toàn thể tất cả sanh linh đều được hoan hỷ,
rồi xin hãy nghiêm trang lắng nghe lời nói này.
2. Chính vì thế, hỡi các sanh linh, mong rằng tất cả hãy lắng tai,
xin các vị hãy thể hiện tâm từ đến dòng dõi nhân loại,
là những người ngày và đêm mang lại vật phẩm cúng tế,
chính vì thế xin các vị hãy hộ trì những người ấy, không xao lãng.
3. Bất cứ của cải nào ở đời này hoặc đời sau,
hoặc loại châu báu hảo hạng nào ở các cõi Trời,
thật vậy, không có gì sánh bằng đức Như Lai.
Châu báu hảo hạng này cũng có ở đức Phật;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
4. Sự diệt trừ, sự xa lìa tham ái, sự Bất Tử hảo hạng,
bậc Hiền Trí dòng Sakya, (với tâm) định tĩnh, đã chứng đắc điều ấy,
không có bất cứ cái gì sánh bằng Pháp ấy.
Châu báu hảo hạng này cũng có ở Giáo Pháp;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
5. Điều mà đức Phật tối thắng đã ca ngợi là trong sạch,
Ngài đã nói điều ấy là định cho quả không bị gián đoạn,
pháp sánh bằng định ấy không được biết đến.
Châu báu hảo hạng này cũng có ở Giáo Pháp;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
6. Tám hạng người nào đã được các bậc thiện nhân ca tụng,
các vị này là bốn cặp;[5]
họ là các đệ tử của đấng Thiện Thệ, xứng đáng cúng dường,
các sự bố thí ở các vị này có quả báu lớn lao.
Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
7. Các vị nào đã khéo gắn bó với tâm ý vững chãi,
không còn dục vọng, theo lời dạy của đức Gotama,
các vị ấy đã đạt được sự chứng đạt, sau khi đã thể nhập Bất Tử,
các vị đã đạt được không nhọc sức, đang thọ hưởng trạng thái Tịch Diệt.
Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
8. Giống như cột trụ đá được nương vào lòng đất,
sẽ không bị lay động bởi các cơn gió từ bốn phương,
với sự so sánh như thế Ta nói về bậc chân nhân,
là vị nào nhìn thấy rõ ràng bốn Chân Lý Cao Thượng.
Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
9. Các vị nào hiểu rõ về bốn Chân Lý Cao Thượng
đã khéo được thuyết giảng bởi tuệ thâm sâu,
dầu cho các vị ấy thường xuyên bị xao lãng,
các vị ấy cũng không nhận lấy kiếp sống thứ tám.
Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
10. Đối với vị này, nhờ thành tựu về nhận thức,
có ba pháp được từ bỏ:
sự nhận thức sai trái về thân, sự hoài nghi,
giới và phận sự, hoặc thậm chí bất cứ điều gì có liên quan,
và (vị này) được thoát khỏi bốn khổ cảnh,[6]
không thể nào gây nên sáu tội nghiêm trọng.[7]
Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
11. Ngay cả khi vị ấy tạo nên bất cứ nghiệp gì ác xấu,
bằng thân, bằng khẩu, hoặc bằng ý,
vị ấy không thể nào che giấu điều ấy,
tính chất không thể của vị chứng đạt Niết Bàn đã được nói đến.
Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
12. Giống như cây cối ở trong rừng đã được trổ hoa ở ngọn
trong cái nóng ở tháng đầu tiên của mùa hạ,
với sự so sánh như thế, Ngài đã thuyết giảng về Giáo Pháp cao quý,
có khả năng dẫn đến Niết Bàn, tối thắng về lợi ích.
Châu báu hảo hạng này cũng có ở đức Phật;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
13. Bậc cao quý, biết pháp cao quý, thí pháp cao quý, đem lại pháp cao quý,
đấng Vô Thượng đã thuyết giảng về Giáo Pháp cao quý.
Châu báu hảo hạng này cũng có ở đức Phật;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
14. Nghiệp cũ đã được cạn kiệt, nguồn sanh khởi mới không có,
với tâm không còn luyến ái vào sự hiện hữu ở tương lai,
các vị ấy có mầm giống đã cạn kiệt, mong muốn tăng trưởng không còn,
các bậc sáng trí tịch diệt, giống như ngọn đèn này vậy.
Châu báu hảo hạng này cũng có ở Tăng Chúng;
do sự chân thật này mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
15. Các hạng sanh linh nào đã tụ hội nơi đây, là các hạng ở địa cầu hoặc các hạng nào ở hư không, chúng ta hãy lễ bái đức Phật đã ngự đến như thế, được chư Thiên và nhân loại cúng dường, mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
Các hạng sanh linh nào đã tụ hội nơi đây, là các hạng ở địa cầu hoặc các hạng nào ở hư không, chúng ta hãy lễ bái Giáo Pháp đã ngự đến như thế, được chư Thiên và nhân loại cúng dường, mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
Các hạng sanh linh nào đã tụ hội nơi đây, là các hạng ở địa cầu hoặc các hạng nào ở hư không, chúng ta hãy lễ bái Tăng Chúng đã ngự đến như thế, được chư Thiên và nhân loại cúng dường, mong rằng hãy có sự hưng thịnh.
Kinh Châu Báu.
*****
1. “(Các ngạ quỷ) đứng bên ngoài các vách tường và ở các ngã tư ngã ba đường, chúng trở về căn nhà của mình rồi đứng ở các trụ cửa ra vào.
2. Khi nhiều thức ăn nước uống vật thực cứng mềm được bày ra, bởi vì duyên nghiệp của các chúng sanh nên không ai nhớ đến họ.
3. Những người nào có lòng thương tưởng, (những người ấy thường) ban phát thức ăn nước uống tinh khiết, hảo hạng, phù hợp, đúng thời đến các quyến thuộc như vầy:
4. ‘Vật thí này hãy thuộc về các quyến thuộc, mong rằng các quyến thuộc được an vui.’ Và các ngạ quỷ quyến thuộc ấy đã đi đến tụ hội ở chỗ ấy.
5. Họ tùy hỷ một cách trân trọng về các thức ăn nước uống dồi dào rằng: ‘Mong rằng các quyến thuộc của chúng tôi được sống lâu. Nhờ vào các thân quyến mà chúng tôi được thọ hưởng. Việc cúng dường đến chúng tôi đã được thực hiện, các thí chủ không phải là không có quả báo.’
6. Bởi vì nơi ấy không có trồng trọt, việc chăn nuôi bò ở nơi này không được biết đến, việc thương mại ví như việc buôn bán bằng vàng là không có; các ngạ quỷ ở nơi ấy, những người đã chết, duy trì sự sống với vật đã được bố thí từ nơi đây.
7. Giống như nước mưa rơi xuống ở nơi cao chảy xuống chỗ thấp, tương tự y như thế, vật được bố thí từ nơi đây đem lại lợi ích cho các ngạ quỷ.
8. Giống như các dòng sông được tràn ngập thì làm đầy biển cả, tương tự y như thế, vật được bố thí từ nơi đây đem lại lợi ích cho các ngạ quỷ.
9. ‘Họ đã cho ta, họ đã làm cho ta, họ là các quyến thuộc, thân hữu, bạn bè của ta,’ trong khi nhớ lại việc đã làm trước đây, nên ban phát sự cúng dường đến các ngạ quỷ.
10. Sự khóc lóc, và sầu muộn, hay sự than vãn khác là không nên, bởi vì điều ấy không đem lại lợi ích cho hàng ngạ quỷ, (cho dầu) các thân quyến duy trì (hành động) như vậy.
11. Quả vậy, việc cúng dường đã được dâng cúng này, được khéo thiết lập ở Tăng Chúng, lập tức thành tựu lợi ích lâu dài đến ngạ quỷ ấy.
12. Việc ấy là bổn phận đối với thân quyến, và điều này đã được chỉ bảo. Việc cúng dường cao quý đến các ngạ quỷ đã được làm. Và sức lực đã được trao đến các vị tỳ khưu. Phước báu được tạo ra bởi quý vị không phải là ít.
Kinh Bên Ngoài Vách Tường.
*****
1. Con người chôn cất của cải để dành[8] ở nơi sâu thẳm, gần mé nước (nghĩ rằng): ‘Khi nhu cầu, công việc cần làm sanh khởi, nó sẽ đem lại lợi ích cho ta.
2. Trong việc thoát khỏi lời kết tội từ đức vua, khỏi việc bị hành hạ bởi giặc cướp, hay khỏi nợ nần, khi có nạn đói kém, hoặc trong những lúc rủi ro; vì mục đích này, ở thế gian vật gọi là của cải để dành được đem chôn cất.
3. Trong khi đã được chôn cất cẩn thận ở nơi sâu thẳm, gần mé nước đến như vậy, toàn bộ (của cải để dành ấy) không hẳn luôn luôn thành tựu lợi ích cho người ấy.
4. Của cải chôn cất di chuyển khỏi vị trí, hoặc sự nhận biết của người này bị rối loạn, hoặc các loài rồng dời đi, hoặc các Dạ-xoa mang vật ấy đi.
5. Hoặc những kẻ thừa tự không được yêu thích đào lên một cách lén lút, khi nào có sự chấm dứt phước báu thì toàn bộ của cải chôn cất bị tiêu hoại.
6. Của cải để dành được chôn cất cẩn thận cho người nữ hoặc người nam do việc bố thí, do giữ giới, do tự chế ngự, và do việc rèn luyện của người ấy ...
7. ... ở nơi bảo tháp, hoặc ở Tăng Chúng, hoặc ở cá nhân, hoặc ở những người khách, ở người mẹ, hoặc luôn cả ở người cha, rồi ở người anh trưởng.
8. Của cải để dành ấy là được chôn cất cẩn thận, không bị chiếm đoạt, là vật đồng hành. Trong số các vật phải ra đi do sự từ bỏ (vào lúc từ trần), người ra đi mang theo của cải để dành này.
9. Của cải để dành (này) không san sẻ đến những người khác, không thể mang đi bởi những kẻ trộm cướp. Người sáng trí nên thực hành các việc phước báu, việc này là của cải để dành, là vật đồng hành.
10. Việc (phước báu) ấy ban cho chư Thiên và nhân loại mọi điều ước muốn. Bất cứ điều nào mà họ ước nguyện, tất cả đều được thành tựu nhờ vào việc (phước báu) này.
11. Trạng thái có làn da xinh đẹp, trạng thái có giọng nói thanh tao, trạng thái có tướng mạo thanh tú và có dáng vóc xinh xắn, địa vị thủ lãnh và đám tùy tùng, tất cả đều được thành tựu nhờ vào việc (phước báu) này.
12. Quyền cai quản địa phận, vương quyền cả nước, hạnh phúc của địa vị Chuyển Luân yêu quý, luôn cả quyền cai quản chư Thiên ở các cõi Trời, tất cả đều được thành tựu nhờ vào việc (phước báu) này.
13. Sự thành đạt thuộc về cõi người, sự vui sướng ở thế giới chư Thiên, và sự chứng đạt Niết Bàn, tất cả đều được thành tựu nhờ vào việc (phước báu) này.
14. Nhờ vào sự thành tựu về bạn hữu và của việc thực hành đúng phương pháp mà có được năng lực của Minh và Giải Thoát, tất cả đều được thành tựu nhờ vào việc (phước báu) này.
15. Các tuệ phân tích, các pháp giải thoát,[9] và sự toàn hảo của bậc Thinh Văn, quả vị Độc Giác, và lãnh địa của đức Phật (Toàn Giác), tất cả đều được thành tựu nhờ vào việc (phước báu) này.
16. Việc ấy có lợi ích lớn lao như vậy, tức là sự thành tựu về phước báu. Vì thế, các bậc sáng trí, các bậc sáng suốt ngợi khen trạng thái của người có phước báu đã được tạo lập.
Kinh Phần Của Cải Để Dành.
*****
1. Việc cần làm bởi vị thiện xảo trong việc thực hành
sau khi đã thấu hiểu về vị thế an tịnh ấy là:
có khả năng, ngay thẳng, chánh trực,
dễ dạy, hòa nhã, và không ngã mạn thái quá.
2. Là người tự biết đủ, và dễ cấp dưỡng,
ít bận rộn công việc, và có lối sống nhẹ nhàng,
có giác quan an tịnh, và chín chắn,
không hỗn xược, không tham đắm theo các gia tộc.
3. Và không nên thực hành bất cứ điều gì nhỏ nhặt
mà các bậc hiểu biết khác đã khiển trách.
Mong rằng tất cả chúng sanh có được sự an lạc, có được sự an toàn.
Mong rằng tất cả chúng sanh có bản thân được an lạc.
4. Bất cứ những chúng sanh nào dầu là:
yếu hoặc mạnh (tất cả) không bỏ sót,
(có thân hình) dài hoặc to lớn,
trung bình hoặc ngắn, nhỏ bé hay mập.
5. Được nhìn thấy, hoặc không được nhìn thấy,
cư ngụ ở nơi xa và không xa,
đã được hiện hữu hoặc đang tầm cầu sự thành hình,
mong rằng tất cả chúng sanh có bản thân được an lạc.
6. Người này không nên lường gạt kẻ khác,
không nên khi dễ bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu.
Do sự giận dữ, do ý tưởng bất bình,
không nên mong mỏi sự khổ đau cho lẫn nhau.
7. Giống như người mẹ đối với đứa con trai của mình
nên bảo vệ đứa con trai độc nhất đến trọn đời,
cũng như vậy, đối với tất cả các sanh linh,
nên phát triển tâm ý vô hạn lượng.
8. Và tâm từ ái ở tất cả thế giới,
nên phát triển tâm ý vô hạn lượng,
bên trên, bên dưới, và chiều ngang,
không bị ngăn trở, không thù oán, không đối nghịch.
9. Trong khi đứng, trong khi đi, hoặc khi đã ngồi xuống,
hoặc trong khi nằm, cho đến khi nào sự buồn ngủ được xa lìa,
nên chuyên chú vào niệm này,
ở đây việc này được gọi là sự an trú cao thượng.
10. Và sau khi không đeo đuổi tà kiến,
là người có giới, được thành tựu về nhận thức,
sau khi xua đi sự thèm khát ở các dục,
thì chắc chắn không đi đến thai bào lần nữa.
Kinh Từ Ái.
--ooOoo--
[1] Cụm từ “đi đến nương tựa” đã được dịch là “quy y” ( Quy y Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng).
[2] Chín trú xứ của chúng sanh (sattāvāsā): Xem phần Chín Pháp của bài Kinh Saṅgītisuttaṃ (Kinh Thập Thượng, Trường Bộ 3).
[3] Vị hội đủ mười chi phần được gọi là ‘A-la-hán’: tức là mười pháp của bậc Vô Học, gồm có: vô học chánh kiến, vô học chánh tư duy, vô học chánh ngữ, vô học chánh nghiệp, vô học chánh mạng, vô học chánh cần, vô học chánh niệm, vô học chánh định, vô học chánh trí, vô học chánh giải thoát (Xem phần Mười Pháp, cũng ở bài Kinh đã trích dẫn ở trên).
[4] Các hạng sanh linh (bhūtāni): nói đến các hàng chư Thiên (amanussesu) không có phân biệt (KhpA. 166).
[5] Tức là các bậc Thánh nhân, gồm có bốn Đạo và bốn Quả (ND).
[6] Bốn khổ cảnh (apāyā): địa ngục, súc sanh, quỷ đói, và A-tu-la (KhpA. 189).
[7] Sáu tội nghiêm trọng (abhiṭhānāni): gồm có: giết mẹ, giết cha, giết bậc Thánh A-la-hán, làm chảy máu thân Phật, chia rẽ Hội Chúng, tuyên bố vị khác là bậc đạo sư (Sđd.).
[8] nidhi: nghĩa chính là ‘của cải chôn cất,’ tuy nhiên một vài chỗ đã được ghi theo nghĩa ‘của cải để dành’ để tiện cho việc hành văn (ND).
[9] Các pháp giải thoát (aṭṭha vimokkhā): xem lời giải thích về ‘tám giải thoát’ ở Saṅgītisuttaṃ (Kinh Phúng Tụng, Trường Bộ 3).