Hiểu Biết Thêm Chung. Kì 29 (92-94).

92. CỨU ĐỘ CHA MẸ KHI ĐÃ KHUẤT BÓNG

            Hỏi: Kính thưa Thầy! Người tu hành đắc đạo, khi cha mẹ đã qua phần lâu rồi có độ được hay không?

            Đáp: Khi tu xong đắc Tam Minh, dùng Thiên Nhãn Minh quan sát khắp cả thế gian xem xét coi nghiệp lực cha mẹ mình đã sanh về đâu, biết được vị trí cha mẹ sanh ra và đang ở đó, nghiệp lực đó còn duyên hay đã hết duyên với mình. Nếu đã hết duyên thì mình tạo duyên mới tức là gieo duyên để gặp lại cha mẹ. Nếu còn có duyên cũ thì sớm muộn gì nghiệp lực nhân quả sẽ đưa đẩy cha mẹ gặp lại mình dễ dàng nhưng lại sợ mình tu chưa chứng nên không làm sao nhận ra người được.

            Khi gặp nhau, nghiệp lực nhân quả có sức thu hút tạo thành một thiện cảm. Nhờ đó, người tu chứng dùng lời lẽ hay dùng kinh sách để giúp cho người thân của mình hiểu thông đạo đức nhân bản nhân quả làm người, và tạo duyên hoặc khuyến khích độ cha mẹ tu hành thọ Bát Quan Trai, và hằng ngày sống trong hành động ngăn ác diệt ác pháp để người thân của mình không tạo nhân ác, luôn tạo nhân thiện. Đó chính là mình độ những người thân thương của mình có một đời sống với thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Nếu họ có duyên trong một đời nầy thì mình sách tấn họ trở thành những bậc xuất gia để tiến tới tu tập thiền định và Tam Minh chấm dứt sanh tử luân hồi, không còn tái sanh lại cõi thế gian này nữa.

            Với việc làm này của một người tu chứng Tam Minh thì không còn khó khăn, chúng ta nhớ lại khi mẹ Đức Phật sanh Ngài ra chỉ trong vòng bảy ngày mẹ Ngài chết. Lúc bây giờ Đức Phật được người dì nuôi nấng cho đến trưởng thành đi tu và chứng đạo. Sau khi chứng đạo Ngài quan sát thấy nghiệp lực của mẹ sanh lên cõi Trời và mùa hạ năm đó Đức Phật đến cõi Trời để dạy mẹ mình tu hành. Còn vua cha, Đức Phật cũng hướng dẫn cha mình tu tập và sau khi chết được sanh lên cõi Trời. Như vậy, mẹ của Đức Phật chết gần bốn chục năm, Ngài tìm được không mấy khó khăn và độ mẹ mình tu hành, trong kinh sách còn ghi lại rõ ràng.

Nếu chúng ta nỗ lực tu hành, khi chứng được Tam Minh thì không lý nào một người tu sĩ đệ tử của Đức Phật lại làm ngơ trước lòng hiếu hạnh của mình sao? Đạo đức của đạo Phật dạy rất đầy đủ sự hiếu hạnh làm người. Làm người phải nhớ công ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ cha, cha mẹ phải chịu biết bao nhiêu sự khổ cực để nuôi con lớn khôn, công ấy như trời biển, không sao kể hết được.

            Những người không tu theo đạo Phật họ còn có hiếu thay, huống là những người tu theo đạo Phật thì lòng hiếu hạnh của họ phải còn gấp trăm ngàn lần. Những người tu theo đạo Phật là những người biết thương mình thương người, vì đạo Phật tu hành rất khó khăn, nếu ai không thương mình thương người thì không bao giờ tu được. Bởi vì tu theo đạo Phật không tựa nương vào oai lực của ai cả, chỉ bằng sức lực của mình, nhất là đời sống của người tu sĩ đạo Phật phải buông xả vật chất thế gian cho thật sạch thì mới có thể ly dục ly ác pháp được. Mà có ly dục ly ác pháp thì mới gọi là thương mình thương người và chính vì vậy mà họ phải thương cha mẹ họ nhiều nhất. Cho nên khi tu xong, họ liền quan sát tìm cha mẹ được sanh về nơi đâu rồi tìm mọi cách để độ cha mẹ, ngõ hầu đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục cao dày như trời, như biển.

93. BẬC TU CHỨNG KHI NHẬP DIỆT
CÓ DÙNG THA LỰC ĐỘ CHÚNG SINH KHÔNG?

            Hỏi: Kính bạch Thầy, các bậc tu đạt đạo đã nhập diệt có thể thị hiện hoặc dùng tha lực để độ chúng sanh không?

            Đáp: Các bậc tu chứng đã nhập diệt chỉ có thị hiện độ chúng sanh, không dùng tha lực, vì tha lực trái với đạo Phật, trái với luật nhân quả. Đạo Phật xây dựng giáo pháp của mình trên một nền tảng đạo đức nhân bản nhân quả, cho nên không thể nào dùng tha lực độ người được.

            Đạo Phật là một tôn giáo có một nền đạo đức công bằng và công lý không có một tôn giáo nào có một nền đạo đức hơn được. Vì thế cầu siêu, cầu an, tụng kinh, cúng bái, tế lễ, niệm Phật, vẽ bùa, đọc thần chú, v.v... là của ngoại đạo, với việc làm này đạo Phật xem là việc làm phi đạo đức, tà nghiệp.

            Đạo Phật là một tôn giáo dạy người phải tự lực cứu mình bằng những hành động đạo đức nhân quả, có nghĩa là mình muốn được an vui hạnh phúc thì không nên làm những điều ác, những điều làm khổ mình khổ người và khổ muôn loài chúng sanh. Nếu làm những điều ác khổ mình khổ người, dù có cầu Thánh, Thần, chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ thì cũng không bao giờ có một vị nào dám cứu độ cho một việc làm phi đạo đức như vậy. Cho nên đạo Phật không có dùng tha lực cứu độ mà chỉ có thị hiện để dạy người sống có đạo đức, và nhờ sống có đạo đức không làm khổ mình khổ người thì đó là đem lại sự an vui hạnh phúc cho chính bản thân mình và cho mọi người, chứ không thể cầu ai cứu khổ cho mình được cả.

            Tóm lại, đạo Phật không có dạy cầu tha lực, cầu tha lực là không đúng của đạo Phật mà đó là chịu ảnh hưởng của tà giáo ngoại đạo, chịu ảnh hưởng mê tín lạc hậu của dân gian. Bậc A-la-hán hoặc Phật thị hiện để độ chúng sanh là thể hiện những đức hạnh đạo đức không làm khổ mình khổ người, sống đúng một đời sống phạm hạnh ly dục ly ác pháp, không phạm phải một giới luật nhỏ nhặt nào, thường sống thiểu dục tri túc, chứ không có thể hiện thần thông hoặc trị bịnh trừ tà yểm quỷ như các vị giáo chủ của ngoại đạo thường dùng những danh từ “cứu nhân độ thế” những danh từ cứu nhân độ thế là để lừa đảo thiên hạ.

            Cho nên đạo Phật chân chánh và đạo Phật không chân chánh chúng ta rất dễ nhận ra, nhận ra là ở chỗ tha lực và tự lực; nhận ra là ở chỗ mê tín và không mê tín; nhận ra là ở chỗ đạo đức không làm khổ mình khổ người và không đạo đức thường làm khổ mình khổ người; nhận ra là ở chỗ giới luật nghiêm trì và không nghiêm trì giới luật, phạm giới, phá giới; nhận ra là ở chỗ cúng tế và không cúng tế; nhận ra là ở chỗ thiểu dục tri túc và không thiểu dục tri túc; nhận ra là ở chỗ phòng hộ sáu căn và không phòng hộ sáu căn. 

Vì công bằng công lý của đạo đức nhân quả nên các bậc tu chứng chỉ độ người bằng sự thị hiện gương đức hạnh để dạy đạo cho người ấy, họ phải tự mình thắp đuốc lên mà đi chứ không dùng tha lực giúp họ được, dù bất cứ trường hợp nào, cho đến sự báo hiếu đối với cha mẹ cũng không dùng tha lực mà chỉ dùng duyên nhân quả để giúp cho cha mẹ hiểu rõ thiện và ác, và không nên làm các điều ác, luôn sống trong thiện pháp thì cha mẹ được an vui hạnh phúc, đó là độ cha mẹ giải thoát.

94. NHẬP TỨ THIỀN CÓ PHẢI LÀ A-LA-HÁN KHÔNG?

            Hỏi: Kính thưa Thầy, Thầy và quý thầy tu nhập Định Tứ Thiền có phải như một A-la-hán trong thời Đức Phật không? Phật và A-la-hán khác nhau như thế nào?

            Đáp: Người nhập xong Tứ Thiền, chứng Tam Minh là bậc A-la-hán như trong thời Đức Phật còn tại thế. Phật và A-la-hán không khác nhau chỗ tu hành và giải thoát. A-la-hán chỉ khác Phật là chỗ Đức Phật là Giáo chủ, người sáng lập ra Phật giáo. Bởi vì Đức Phật cũng tu từ Giới, Định, Tuệ mà được giải thoát, các bậc A-la-hán cũng tu từ pháp môn này mà thành tựu, cho nên sự viên mãn giải thoát phải giống như nhau. Khi tu hành giải thoát rồi thì người nào cũng như người nấy.

            Chúng ta trở lại thời quá khứ của Đức Phật, trong khi Ngài từ bỏ các pháp môn của ngoại đạo để tu Tứ Thánh Định và Tam Minh, nhờ giáo pháp này mà Đức Phật đã chứng đạo giải thoát, các đệ tử của Người cũng nhờ giáo pháp này mà chứng quả A-la-hán.

            Tứ Thánh Định và Tam Minh tức là Giới, Định, Tuệ. Vì trong bốn thiền có giới và định, Sơ Thiền thuộc về Giới ly dục ly ác pháp do ly dục sanh hỷ lạc, Nhị Thiền diệt tầm tứ do định sanh hỷ lạc, Tam Thiền ly hỷ tưởng và Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở. Bốn loại thiền này thuộc về Định, còn Tam Minh thuộc về Tuệ.

            Xin quý vị đọc lai bài kinh Saccaka sẽ thấy Đức Phật tu tập Sơ Thiền cho đến Tam Minh và thành tựu viên mãn đạo giải thoát: “Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: “Nay thật không dễ gì chứng đạt lạc thọ ấy, với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế này, Ta hãy ăn thô thực, ăn cơm chua.” Rồi này Aggivessana, Ta ăn thô thực, ăn cơm chua trở lại. Này Aggivessana, lúc bây giờ năm tỳ-kheo hầu hạ Ta suy nghĩ: “Khi nào Sa Môn Gotama chứng pháp, vị ấy sẽ nói cho chúng ta biết.” Này Agivessana khi thấy Ta ăn thô thực, ăn cơm chua, các vị ấy chán ghét Ta, bỏ Ta và nói: “Sa Môn Gotama nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ tinh tấn, trở lui đời sống sung túc.”

            “Này Agivessana, khi Ta ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền Thứ Nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ. Này Agivessana như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Diệt tầm và tứ chứng và trú Thiền Thứ Hai, một trạng thái hỷ do định sanh không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Agivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền Thứ Ba. Này Agivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền Thứ Tư, không khổ không lạc xả niệm thanh tịnh. Này Agivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.”

            Đến đây Đức Phật đã nhập xong bốn Thiền, tức là Đức Phật đã thực hiện được Giới và Định. Sau khi Đức Phật thực hiện xong Giới và Định thì Ngài tiếp tục thực hiện Tam Minh: “Với tâm định tỉnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm hướng tâm đến Túc Mạng Minh, Ta nhớ đến các đời sống quá khứ. Ta dẫn tâm hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh, Ta với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta dẫn tâm đến Lậu tận trí, Ta biết như thật: “Đây là khổ,” biết như thật: “Đây là nguyên nhân của khổ...”

            Sau khi tu chứng xong, tâm Đức Phật sẽ an trú trong định nào? Chúng ta hãy nghe Đức Phật trả lời: “Này Agivessana, sau khi chấm dứt buổi thuyết giảng như vậy, Ta an trú nội tâm, làm cho tịnh chỉ, làm cho nhất tâm, làm cho định tỉnh trên định tướng thứ nhất ấy, và như vậy Ta sống an trú, trường cửu, vĩnh viễn.”

            Sau khi chứng đạo giải thoát, Phật và các bậc A-la-hán đều giải thoát an trú giống như nhau cả, không có sự giải thoát trong Phật giáo có cao, có thấp. Không có sự tu hành giải thoát lừng chừng mà phải giải thoát tận gốc (Vô Lậu) và sự giải thoát lừng chừng là chưa giải thoát.

            Ví dụ: Một người giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh mà không nhập định thì giới luật đó chỉ là ức chế tâm chứ chưa phải giải thoát, cũng như một người nhập Tứ Thánh Định mà không thực hiện Tam Minh thì cũng chưa được gọi là giải thoát, đó là ức chế tâm.

Bởi đạo Phật có một lớp vô lậu giải thoát mà thôi, không thể có hai ba lớp vô lậu, vì thế ai tu vô lậu là giải thoát, ai tu không vô lậu là không giải thoát. Người tu vô lậu là bậc A-la-hán nên Phật cũng là A-la-hán mà thôi, vì thế Phật và A-la-hán không khác nhau.