Hiểu Biết Thêm Chung. Kì 17 (64).

64. PHÁP TU CỦA CHÚNG TÔI

          Hôm nay có nhân duyên do một vị Thượng Tọa ở chùa Phi Lai, Châu Đốc đến viếng thăm Tu Viện Chơn Như với mục đích bài bác giới luật tu hành của chúng ta ở đây. Thầy ấy cho rằng: ngày ăn một bữa và ngủ có bốn tiếng đồng hồ là không đủ sức khỏe để tu hành, rằng đó là tu hành ép xác, khổ hạnh, vô lý. Thầy đã đến xin gặp Thầy Phương Trượng và hỏi:

          - Bạch Thượng Tọa, Tu Viện ở đây tu pháp môn gì?
          - Chúng tôi tu pháp môn “Giới, Định, Tuệ.” Thầy Phương Trượng đáp.
          - Bạch Thượng Tọa, chúng tôi nghe nói Tu Viện ở đây chấp giới luật rất khắt khe, có phải vậy không?
          - Vâng, đúng vậy!
          - Bạch Thượng Tọa, xin phép Thượng Tọa cho tôi được hầu chuyện.
          - Được, xin Thầy cứ hỏi.
          - Thượng Tọa có phải là Viện Chủ của Tu Viện này không?
          - Phải.
          - Xin phép Thượng Tọa, có phải Thượng Tọa là Thầy Thông Lạc không?
          - Phải!
          - Bạch Thượng Tọa, trong khi hầu chuyện, nếu con có sơ sót, lỗi lầm, xin Thượng Tọa thứ cho.
          - Không có chi cả. Thầy cứ tự nhiên mà thưa hỏi.
          - Bạch Thượng Tọa, nếu một người tu thiền định mà còn chấp giới luật thì con e rằng còn kẹt trong giới luật chăng?
          - Kẹt như thế nào? Thầy Phương Trượng hỏi lại.
          - Thưa Thượng Tọa, trong quyển “Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất” có dạy: Còn tụng kinh, còn niệm Phật, còn giữ giới luật là còn bị trói buộc. Mà còn bị trói buộc thì làm sao gọi là tự tại, vô ngại, giải thoát?
          - Tự tại, vô ngại, giải thoát như thế nào?

          - Bạch Thượng Tọa, đói ăn, khát uống, mệt ngủ liền” là tự tại, vô ngại, giải thoát. Như xưa kia, Tuệ Trung Thượng Sĩ ăn thịt cá, uống rượu với các quan trong triều rất tự nhiên, người chị thấy vậy mới hỏi: “Tại sao em tu theo đạo Phật mà còn ăn thịt cá, uống rượu như vậy?” Tuệ Trung trả lời: “Em là em, em không phải là Phật, Phật không phải là em. Giới luật là giới luật, giới luật không phải là em, và em cũng không phải là giới luật.”

          Bạch Thượng Tọa, lời nói ấy rất là giải thoát. Không có hạt bụi nào ở thế gian làm vấy bẩn được Ngài, dù là pháp môn xuất thế gian như của Phật. Giới luật cũng không trói buộc được Ngài. Bạch Thượng Tọa, theo con nghĩ, qua lời dạy này chứng tỏ rằng ai còn kẹt trong giới luật là chưa giải thoát!

          - Thầy nói cũng đúng đấy, nhưng đúng ở góc độ Thiền Đông Độ, không phải Thiền của đạo Phật. Sự tự tại, vô ngại, giải thoát này là của Thiền Đông Độ chứ không phải là sự tự tại, vô ngại, giải thoát của đạo Phật. Cho nên hầu hết các thiền sư Đông Độ không có phạm hạnh, phá giới luật, như Lâm Tế chém rắn, Nam Tuyền sát miêu, Phần Dương làm cỗ thịt cá đãi chư Tăng, Tuệ Trung Thượng Sĩ ăn thịt cá, uống rượu. 

          - Bạch Thượng Tọa, nếu Thượng Tọa bảo rằng: Thiền Đông Độ không phải của Phật giáo, vậy chứ trên Hội Linh Sơn, ai “niêm hoa vi tiếu” và ai mỉm cười?

          - Đó là câu chuyện bịa đặt sau này. Trong kinh Nguyên Thủy, Đức Phật không có người thừa kế. Lời di chúc cuối cùng Đức Phật dạy: “Các con hãy lấy giới luật làm thầy.” Vậy, chỉ có giới luật là người thừa kế Đức Phật mà thôi! (Đức Phật không có phú chúc cho một đệ tử nào dù là Trưởng Lão Xá Lợi Phất hay là thị giả A Nan. Không có chuyện “Niêm Hoa Vi Tiếu”!)

          - Bạch Thượng Tọa, vậy kinh điển Đại Thừa không phải của Phật thuyết hay sao?
          - Vấn đề này tôi xin miễn bàn, ai muốn hiểu sao cũng được. Đây cũng là duyên nghiệp của chúng sanh chưa gặp được chân pháp của Phật.
          Thầy Phương Trượng lái câu chuyện vào chủ đề:
          - Thầy biết “Tam Vô Lậu Học” là gì không?
          - Bạch Thượng Tọa, đó là Giới, Định, Tuệ.

          - Vậy Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu tập làm cho hết lậu hoặc, cho nên gọi là Vô Lậu. Giới là pháp môn trong ba pháp môn của Tam Vô Lậu Học. Giới là một pháp môn để tu tập chứ không phải là một giáo điều. Nó cũng không phải là pháp luật thế gian bắt buộc mọi người phải tuân theo, phải giữ gìn, không được vi phạm. Giới luật của đạo Phật không có trói buộc ai hết, vì nó là pháp môn để tu giải thoát tâm con người ra khỏi tam độc Tham, Sân, Si. Vì thế, giới luật gắn liền với các pháp môn khác như thiền Định và Trí Tuệ.

Ở đây chúng tôi dùng pháp môn giới luật để tu tập tâm mình, làm sao cho tâm được thanh tịnh, giải thoát khỏi lậu hoặc. Nói một cách khác là làm cho tâm khỏi ô nhiễm ngũ dục lạc thế gian. Đó mới là thực tế giải thoát của đạo Phật. Vậy bảo chúng tôi chấp giới, mà chấp giới để làm gì? Để được người ta khen mình giữ gìn giới luật nghiêm túc ư?

Như vậy chúng tôi tu để được khen chứ không phải tu để giải thoát. Lấy giới luật trói buộc mình có ích lợi gì? Hay để khỏi bị tù tội? Hay là để khỏi bị tẩn xuất, lột áo đuổi ra khỏi tăng đoàn? Nếu đi tu mà còn sợ hãi như vậy thì đi tu làm gì? Bây giờ tôi xin hỏi Thầy, Thầy cứ thành thật mà trả lời.

           Thí dụ: Thầy lấy một cục phèn chua để lóng nước trong, khi nước đã trong rồi, Thầy còn dùng cục phèn đó nữa không?

            - Bạch Thượng Tọa: Không. 
            - Như vậy chúng tôi dùng Giới tu tập khiến cho tâm chúng tôi thanh tịnh thì chúng tôi còn dùng giới nữa không?
            - Bạch Thượng Tọa: Không.

          - Như vậy tại sao lúc nãy Thầy bảo rằng chúng tôi chấp giới? Bây giờ tôi hỏi Thầy lại nữa, Thầy cứ thành thật mà trả lời. Lúc bấy giờ nước đã trong, Thầy có dùng đất bụi dơ để làm nước đục trở lại không?

           - Bạch Thượng Tọa: Không.

          - Như vậy chúng tôi tu tập ở đây, ăn ngày một bữa, ngủ 2, 3 tiếng đồng hồ. Trước kia khi chưa tu tập, chúng tôi ăn một ngày 3 bữa và còn ăn uống lặt vặt, bánh, trái cây và nước ngọt nữa. Ngủ thì suốt 7, 8 tiếng đồng hồ mà còn ham ngủ nữa. Nhờ tu giới luật mà chúng tôi đã thoát ngũ dục lạc thế gian.

Hiện giờ chúng tôi thảnh thơi, an lạc hoàn toàn, không thấy đói, không thấy khát, không còn bận bịu lo nấu nướng, và cũng không thèm ăn uống lặt vặt như trước kia nữa. Còn ngủ thì chúng tôi chỉ ngủ 2, 3 tiếng đồng hồ mà thôi. Ăn và ngủ như vậy mà chúng tôi vẫn mạnh khỏe, lao động tốt, không thua kém ai. Khi chúng tôi biết rõ đây là sự giải thoát chân thật rồi, nếu bây giờ có ai bảo chúng tôi ăn uống ngủ nghỉ trở lại như lúc chưa tu thì chúng tôi có nên làm hay không?

          - Bạch Thượng Tọa: Không.
          - Như vậy chúng tôi có chấp giới không?
          - Bạch Thượng Tọa: Không.

          - Tự tại, vô ngại, giải thoát mà còn chạy theo ngũ dục lạc, ăn uống ngủ nghỉ như Thầy đã nói lúc nãy: “Đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ.” Như vậy, nếu nửa đêm nghe bụng đói, phải thức dậy lấy nồi nấu cơm và ngồi chờ đến gần sáng để được ăn. Đó là tự tại giải thoát hay sao? Cũng như nói mệt đi ngủ thì có lúc 5 giờ sáng hoặc 3 giờ chiều hay 8 giờ tối, hoặc có lúc 10 giờ đêm hoặc 3 giờ khuya, lúc nào cảm thấy mệt liền đi ngủ. Ngày hôm sau lại ngủ khác giờ giấc, vì lẽ mệt thì đi ngủ cho nên sự ngủ nghỉ không có chừng mực. Một vị thiền sư ăn ngủ không điều độ, hứng hồi nào thì ăn ngủ hồi đó, tức là con người sống không có chừng mực. Sống như vậy mà gọi là tự tại vô ngại giải thoát hay sao?

          Thầy nghĩ gì về nếp sống như vậy? Người thế gian còn không thể sống như vậy được. Câu nói ấy thoáng nghe thì rất hay, nhưng xét cho kỹ thì đó là lời dối gạt thiên hạ. Chúng tôi tu hành ăn uống phải điều độ, ngủ nghỉ phải có giờ giấc nghiêm túc. Không phải muốn ăn lúc nào là ăn, muốn ngủ lúc nào thì ngủ. Phải ăn ngủ đúng theo giờ giấc quy định của chúng tôi, nghĩa là chúng tôi làm chủ được cái ăn, cái ngủ của mình, chứ không phải là “đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ.” Nếu không làm chủ được cái ăn, cái uống, cái ngủ nghỉ của mình thì mong gì làm chủ được cái tâm?

          Trong thiền sử Trung Hoa có kể chuyện một thiền sư đi đến một ngôi chùa xin ở tu hành. Vị trụ trì chấp nhận nhưng ông ta cứ ăn rồi ngủ li bì. Một hôm vị trụ trì mới hỏi: “Sao ông đến đây tu hành mà không thấy tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền gì hết?”  

Ông ta đáp: “Đó là để cho kẻ còn đói, cho nên phải ăn mà thôi!” Đó là sự tự tại, giải thoát của Thiền Đông Độ! Tự tại, giải thoát như thế thì chúng tôi không dám bàn đến, vì đây là hai con đường đi đến hai mục đích khác nhau, chúng tôi tu theo Phật giáo không thể gặp họ ở một điểm cố định được.

          Nếu xét cho kỹ, người thế gian đang quay cuồng trong ngũ dục lạc, chạy theo tâm ham muốn của mình thì cũng là tự tại, vô ngại, giải thoát. Họ cũng đang chạy theo tâm ham muốn của ngũ dục lạc nên bảo đói ăn, khát uống, mệt ngủ. Nghĩa là tâm mình ham ngủ là đi ngủ, ham ăn là đi ăn, ham uống là đi uống. Thật ra chúng ta tu hành là để làm chủ cái đói, cái khát, cái mệt, chứ không phải chạy theo sự sai bảo của nó. Chính vì sự giải thoát này mà chúng tôi lấy pháp môn giới luật tu tập cho hết đói, hết khát, hết mệt.

          Vậy ăn ngày một bữa có đói không? Nếu một người chưa tu giới luật thì phải thấy đói, còn một người đã tu giới luật rồi thì họ vẫn không cảm thấy đói. Nếu bảo rằng đói thì chúng tôi không có sống được như thế này. Con người ăn uống và ngủ nghỉ không điều độ, không đúng giờ giấc thì cái đó không phải là giải thoát của đạo Phật. Cho nên, câu nói “đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ” chỉ là lời bào chữa cái tâm chạy theo ngũ dục lạc thế gian, để che đậy cái không làm chủ của mình.

          Đối với một vị thiền sư, khi mệt không cần ngủ, chỉ cần tọa thiền, nhập định trong giây lát là hết mệt. Vậy mệt có cần ngủ không? Nếu mệt đi ngủ theo kiểu thế gian thì đó là ham ăn, ham ngủ của ngũ dục lạc.

          Tóm lại, chúng tôi đã thể nghiệm sự giải thoát của tâm mình bằng pháp môn giới luật, rõ ràng và cụ thể trong cuộc sống của chúng tôi hiện giờ. Cho nên dù bất cứ một luận thuyết nào cũng không bài bác chúng tôi được, vì sự tu hành của chúng tôi thực tế và rất khoa học. Bởi vì “con đường của đạo Phật thiết thực, không có thời gian, đến để mà thấy.” Nếu ai chưa đến với đạo Phật thì không thấy, còn những ai đã đến với đạo Phật chỉ trong một ngày, một đêm cũng vẫn thấy được sự giải thoát ngay liền lập tức. Đó là con đường đúng của đạo Phật.

          Còn tu lạc vào pháp môn khác không phải của đạo Phật thì không được như vậy. Pháp môn thiền định mà Thầy vừa nói, đó là pháp môn chạy theo ngũ dục lạc bằng cách lấy vải thưa che mắt mọi người “đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ.” Nếu bây giờ chúng tôi ăn ngủ trở lại, hoặc giết hại chúng sanh, hoặc tà dâm, vọng ngữ, uống rượu, để bảo rằng không chấp giới như Lâm Tế, Nam Tuyền, Phần Dương, Tuệ Trung Thượng Sĩ mà gọi là vô ngại, tự tại giải thoát thì đó không phải là sự giải thoát của đạo Phật, mà là giải thoát của Thiền Đông Độ, Trung Hoa, Nhật Bổn, Việt Nam. Chúng tôi không có ý kiến gì về vấn đề này.

          Theo chúng tôi nghĩ, tất cả chúng sanh trong cõi thế gian này, đều có duyên với các pháp môn khác nhau. Ai có duyên với pháp môn nào thì tu theo pháp môn nấy, đừng lý luận tranh cãi hơn thua mà sanh ra không tốt cho Phật Pháp. Chúng ta hãy tùy duyên của mỗi chúng sanh mà đến với Phật Pháp. Nếu chúng ta đến với đạo Phật thì chúng ta phải đến với Tam Vô Lậu Học, và phải tu ba pháp môn này. Không thể ngoài pháp môn này mà có cái gì gọi là đạo Phật khác nữa. Chúng tôi đã từng sống bằng ba pháp môn này nên thấy sự lợi ích giải thoát của nó rất thiết thực cho đời sống. Nó không phải là lời nói suông như Thầy đã nói. Trên con đường tu tập của Đức Phật, chúng tôi dùng giới mà ly dục, dùng thiền định mà đoạn dục, dùng trí tuệ mà giải thoát.

          Mùa Hạ năm đó, Đức Phật cùng 500 vị tỳ-kheo đang an cư kiết hạ thì có một người đến hỏi Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, trong số 500 vị tỳ-kheo đang tu tập dưới sự hướng dẫn của Đức Thế Tôn, có phải tất cả các vị này đều thành tựu đạo giải thoát hết hay không?” Đức Phật trả lời: “Ở đây chúng tôi tu hành đều thành tựu cả. Hiện giờ đã có 90 vị chứng trí tuệ, 90 vị chứng được thiền định, còn lại bao nhiêu đều chứng giới luật.” Như vậy Thầy thấy rõ ràng mọi người đến với đạo Phật đều có sự chứng đắc giải thoát trong cuộc đời đầy đau khổ này. Ở đây chúng tôi cũng vậy, tuy số Tăng Ni rất ít nhưng chúng tôi cũng có sự thành tựu như thời Đức Phật, không có người nào không chứng đắc. Con đường của đạo Phật đã vạch cho chúng tôi thấy rất rõ ràng và cụ thể, không có mơ hồ, hư ảo. Chúng tôi chỉ y cứ theo đó đặt trọn niềm tin của mình và tận lực hành trì với một ý chí sắt đá, một tấm lòng kiên trì, dõng mãnh. Chúng tôi tin chắc rằng sớm muộn gì chúng tôi cũng đạt được mục đích này mà thôi. Vậy hôm nay Thầy còn có ý kiến gì về giới luật của chúng tôi không? Thầy có còn thắc mắc gì về vấn đề tu tập của chúng tôi không?

          - Bạch Thượng Tọa, nếu Thượng Tọa không chê con lớn tuổi, và nếu con còn có thể tu được, xin Thượng Tọa nhận con về đây tu hành.

          - Ngày xưa Hiếp Tôn Giả đã 80 mà còn theo đạo Phật tu hành đắc quả A-la-hán, huống gì Thầy, năm nay mới 74 tuổi, và sức khỏe cũng còn khá lắm. Nhưng có điều là tuổi của Thầy đã lớn, Thầy đã từng sống quen trong các chùa, bây giờ nếu ăn ngủ như chúng tôi là một điều rất khó đối với Thầy. Vả lại, hiện giờ chúng tôi đang nhập thất, nên không có ai hướng dẫn tu hành và kỷ luật Tu Viện không nhận người đến trong khi Tu Viện chưa mở khóa tu. Vậy Thầy hãy chờ đợi khóa sau. Bây giờ Thầy về tu tập giới luật trở lại, ăn và ngủ cho quen dần. Sau khi được nhập Tu Viện thì Thầy sẽ theo kịp chúng tu hành mà không còn gặp khó khăn nữa.

          - Bạch Thượng Tọa, con xin ghi nhớ và cố gắng thực hiện. Chừng nào Tu Viện mở khóa tu, con sẽ trở lại xin Thượng Tọa nhận con.

          Đến đây buổi nói chuyện giữa Hòa Thượng Viện Chủ Tu Viện Chơn Như và Thượng Tọa chùa Phi Lai, Châu Đốc đã chấm dứt.

          Xin quý Thầy và quý phật tử ghi nhớ và suy ngẫm về con đường tu hành của chúng ta. Chúc tất cả quý thầy, quý sư cô cùng các phật tử tu tập tốt và vững niềm tin ở pháp môn tu tập giải thoát của Đức Thế Tôn. Chúng tôi đã kiên trì tu tập pháp môn ấy (Giới. Định, Tuệ) và đạt kết quả mỹ mãn thì quý vị cũng sẽ được kết quả như ý nguyện. Nên nhớ ngoài pháp môn này chẳng có pháp môn nào khác có thể đưa đến an lạc, giải thoát sinh tử luân hồi.

                                                                          Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
                                                                      Nhóm Tu học Nguyên Thủy Hoa Kỳ ghi chép.
                                                                              California, đầu hạ năm 2001