36. PHẬT TÁNH
Hỏi: Kính thưa Thầy! Thiền Tông gọi Phật tánh. Phật tánh có phải là ý thức hay không? Công án thiền có câu chuyện thiền ngữ: “Con chó có Phật tánh không?” Nếu có Phật tánh tại sao lại chui vào cái đãy da bẩn thỉu để làm gì cho khổ? Cầu mong Thầy chỉ dạy cho con được rõ.
Đáp: Câu này có hai câu hỏi nhưng rất liên hệ với nhau (tuy hai mà một).
Câu hỏi một: Trong tất cả kinh sách Đại Thừa đã xác nhận ý thức không niệm thiện niệm ác là “Phật tánh.” Kinh Kim Cang dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Bồ tát độ hết chúng sanh thì thành Phật.” Kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: “Tánh thấy, tánh nghe, tánh biết và chủ, khách,” kinh Pháp Bảo Đàn dạy: “Chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền,” v.v…
Đó là chỉ cho ý thức chẳng khởi niệm, kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông cho trạng thái đó là “Phật tánh.” Cho nên câu công án “Con chó có Phật tánh không?” Đó là công án của thiền sư Triệu Châu.
Một hôm, có một thiền Tăng đến hỏi ngài: “Con chó có Phật tánh không?” Ngài đáp: “có.” Vị thiền Tăng lấy làm lạ hỏi lại: “Có Phật tánh tại sao nó lại chui vào đãy da bẩn thỉu để làm gì cho khổ?”
Phật tánh là một “Tánh giác,” tánh giác là tánh sáng suốt, không có si mê, thế mà không sáng suốt lại chui vào đãy da uế trược, hôi thúi. Nếu theo ý thức phân biệt thì đây là một điều vô lý hết sức.
Còn Thiền Tông, cách thức lập công án có nghĩa là khiến cho người ta bặt đường suy nghĩ; bặt đường suy nghĩ thì ý thức không hoạt động; ý thức không hoạt động thì niệm thiện niệm ác không có; niệm thiện niệm ác không có thì trạng thái đó Thiền Tông và kinh sách Đại Thừa cho đó là Phật tánh.
Mục đích câu công án trên giúp cho người tu thiền định không suy tư phân biệt được để nhận ra gọi là “ngộ” trạng thái này thành Phật “Kiến tánh thành Phật.” Ngược lại trong kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy: “Ý thức thanh tịnh, (chẳng niệm thiện niệm ác) không liên hệ năm căn (vô phân biệt) thì hành giả rơi vào Không vô biên xứ định,” một loại định tưởng vô sắc của ngoại đạo trong bốn loại định tưởng.
Thời Đức Phật còn tại thế, Ngài đã được ngoại đạo dạy và đã thực hiện được các loại định này đến nơi đến chốn nhưng không tìm thấy có sự giải thoát gì trong đó và cũng không tìm thấy “Phật tánh” ở đâu nên Ngài bỏ các pháp môn này, trở lại tìm lộ trình Tứ Thánh Định.
Cho nên Đức Phật đã xác định: “Chỗ không niệm thiện niệm ác không phải là Phật tánh, mà là Không vô biên xứ định tưởng.”
Các nhà Đại Thừa và Thiền Đông Độ đã lầm lạc ở trạng thái này nên dựng nó thành “Phật tánh, Thần thức.” Bồ Đề Đạt Ma gọi là “Tâm,” Lục Tổ Huệ Năng gọi là “Bản lai diện mục.”
Khi tu đến đây, các thiền sư Trung Hoa và các thiền sư Thiền Trúc Lâm Yên Tử (Việt Nam) sau này không chấp nhận, cho “Vô tâm còn cách một lớp rào.” Họ lấy tưởng thức làm Phật tánh, vượt qua trạng thái Không vô biên xứ định tưởng nhập vào Thức vô biên xứ định tưởng, ở trạng thái này họ tưởng thấy các pháp chỉ là “một” chứ không hai (bất nhị) nên trong Thập Mục Ngưu Đồ gọi là “Phản bổn hoàn nguyên” hoặc còn gọi là “Bản thể vạn hữu.”
Bà La Môn giáo cho đó là “Đại ngã.” Kinh sách Nguyên Thủy Phật giáo cho đó là “Thức vô biên xứ tưởng.”
Như vậy Phật tánh chỉ là ý thức không niệm thiện niệm ác. Giả dụ nếu Phật tánh có thật đi nữa mà không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, không chấm dứt được sự luân hồi tái sanh thì chúng ta cũng ném bỏ như Đức Phật đã ném bỏ các pháp ức chế thân tâm và bốn định vô sắc tưởng của ngoại đạo như ném bỏ một chiếc giày rách.
Trong thế kỷ thứ hai mươi, Thiền Tông đã phát triển cao độ, người theo tu có hằng vạn triệu, nhưng nhìn lại ai là người đã tu tập thiền định này mà đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết chấm dứt luân hồi chưa?
Nếu một loại thiền định tu tập mà không làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà chỉ có đạt được trạng thái tĩnh lặng và khinh an cùng một số ngôn ngữ đối đáp lý luận và trực giác biết chuyện quá khứ vị lai của người khác, người tu hành đạt được như vậy để làm gì?
Kính thưa quý phật tử! Quý phật tử hãy trả lời đi! Để làm sáng tỏ pháp môn tu hành của Phật giáo.
Kính thưa quý vị! Điều này quý vị cần suy ngẫm kỹ, thời gian là thước đo của sự xác chứng nghiêm chỉnh về sự chứng đắc của các loại thiền định Đại Thừa này, riêng chúng tôi có nói gì, xin quý vị đừng tin mà hãy tự xét, tự kiểm lại mình trên bước đường tu tập theo kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông.
37. PHƯỚC HỮU LẬU
Hỏi: Kính thưa Thầy, câu chuyện Bách Trượng và ông già chồn, vì không hiểu nhân quả nên ông già chồn phải đọa năm trăm kiếp làm thân chồn. Về câu chuyện này, các nhà học giả xưa và nay ai cũng biết. Ngày nay, các nhà học giả soạn kinh viết sách, họ không viết đúng theo lời Phật dạy, thêu dệt, thêm bớt theo sự nghĩ tưởng của mình qua tưởng giải và còn dám cả gan cắt xén kinh điển làm lệch ý Phật, ý kinh khiến cho đoàn hậu học sau này ham tu dựa vào kinh sách này, tu hành chẳng đến đâu, uổng công sức và phí cả cuộc đời.
Họ đã khéo léo ca ngợi, kêu gọi mọi người và còn bắt buộc phải tu theo năm bộ kinh lớn của Đại Thừa như: Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Thủ Lăng Nghiêm, v.v… Nếu thọ trì tu chứng theo kiểu tưởng pháp này và làm những việc từ thiện xã hội, nhưng không làm chủ được thân tâm thì các nhà dịch giả và soạn giả những bộ kinh này có công đức hay phước báo gì? Cúi xin Thầy chỉ dạy cho con được rõ.
Đáp: Câu chuyện “Bách Trượng dã hồ” là câu chuyện bịa đặt của Thiền Tông để lừa đảo người khác. Câu chuyện “Bách Trượng dã hồ” là câu chuyện chấp nhận định mệnh nhân quả tức là nhân quả không chuyển hoá được, không thay đổi được, chỉ đừng mê muội nhân quả mà thôi, chỗ “chẳng muội nhân quả” tức là định mệnh. Khi quả đến ta chấp nhận tai nạn, bệnh tật, khổ đau, nhưng không sợ hãi trước tai nạn khổ đau đó.
Theo Phật giáo Nguyên Thủy thì ông già chồn nói không đúng: “Bậc đại tu hành chẳng lạc nhân quả.” Chữ “lạc” ở đây có nghĩa là rơi, bị, nghĩa là bậc đại tu hành không bị nhân quả tác dụng, đó là hiểu sai, đã mang thân nhân quả thì phải có tai nạn, bệnh tật, dù người đó tu đã thành Phật, thân nhân quả vẫn là thân nhân quả không thể thay đổi được nên vẫn phải có tai nạn, bệnh tật. Nhưng tu đúng theo pháp của Đức Phật thì tâm không dao động trước tai nạn, bệnh tật và kế đó dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ, làm cho các cảm thọ khổ, lạc, bất khổ bất lạc không tác động được vào thân và tâm và còn khắc phục chuyển hóa khổ thọ, lạc thọ ra khỏi thân tâm. (Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu).
Cho nên pháp của Phật tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Mà đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì nghiệp nhân quả làm sao chi phối được, nghiệp nhân quả tuy có nhưng không chi phối được tâm người tu chứng, tức là làm chủ nhân quả, làm chủ nhân quả tức là làm chủ nghiệp, chứ không phải làm chủ cái thân nhân quả duyên hợp như ông già chồn đã nói, còn bảo không mê muội như Thiền Tông mà không làm chủ được các thọ thì không đúng pháp Phật.
Cho nên cuộc sống (sanh y) không còn đối với tâm ham muốn và các ác pháp (tham, sân, si, mạn, nghi đã chấm dứt), “Tâm như đất trời,” khi hành giả tu được như vậy thì những oai nghi tế hạnh đầy đủ, không còn vi phạm giới luật, dù một lỗi nhỏ nhặt nào, đó là tâm giải thoát của đạo Phật.
Ngược lại, Thiền Tông chỉ cần không mê muội nhân quả, nghĩa là thân tâm có bệnh tật, tai nạn, phiền não, sân hận, thương ghét v.v… Mặc nó, chẳng lo, chẳng sợ, chẳng dẹp, chẳng dứt, cứ để mặc tình, tâm luôn tự tại vô ngại, danh, lợi, dâm dục, ăn ngủ cũng mặc miễn đừng mê muội sợ hãi nó là được.
Do lý luận chẳng mê muội nhân quả như vậy nên Thiền Tông mới có sản xuất Tế Điên Hòa Thượng, Phật sống Cựu Kim Sơn, Thượng Sĩ Tuệ Trung. Khi đã chứng đạo thì họ “Thõng tay vào chợ.” Chẳng cần giới luật, chẳng trọng đạo đức và đức hạnh. Do đó tu sĩ Thiền Tông và Đại Thừa đã đưa Phật giáo đi vào triết học hiện sinh, đi đến ngõ cụt của cuộc đời tu hành.
Còn các nhà học giả xưa và nay soạn và viết kinh sách Đại Thừa họ chỉ dạy người tu làm phước thiện “Tứ nhiếp pháp,” tạo phước báo ở đời chứ không dạy như kinh Nguyên Thủy tu tập để làm chủ sanh tử, luân hồi.
Cho nên y báo và phước báo của họ đều gắn liền trong hiện kiếp rõ ràng, nhưng về tội viết sai lời Phật dạy, họ phải chịu quả báo địa ngục, tức là họ phải thọ chịu quả bệnh tật khổ đau trên giường bệnh rất khổ sở, thời gian có thể kéo dài đôi ba năm, bằng chứng trước mắt chúng ta đã chứng kiến các bậc tôn túc đã viên tịch một cách khổ đau.
Trong suốt khoảng đời sống của chúng ta đã chứng kiến y báo và phước báo, cũng như sự đọa địa ngục của các Ngài. Về phước báo, do dịch, viết và soạn kinh sách Đại Thừa: Như cư sĩ Tâm Minh, Hòa Thượng Thiện Hoa, Hòa Thượng Thiện Hòa, Hòa Thượng Trí Tịnh, Hòa Thượng Bửu Huệ, Hòa Thượng Thiền Tâm, Hòa Thượng Minh Châu, Hòa Thượng Thiện Siêu, Hòa Thượng Nhất Hạnh, Hòa Thượng Trí Thủ, Hòa Thượng Thanh Từ, v.v…
Và còn nhiều vị khác nữa đều có y báo và phước báo rõ ràng. Đó là công đức thiện pháp của pháp môn Đại Thừa, cũng như công đức thiện pháp của các tôn giáo khác ngăn chặn được ác pháp của một số người, nhờ đó ta mới thấy được phước hữu lậu của họ, với những pháp môn này họ không thể hưởng được phước vô lậu.
Duy chỉ có pháp môn của Phật giáo Nguyên Thủy thì mới hưởng được phước vô lậu, tức là làm chủ sự sống chết và cũng chính là làm chủ nhân quả của kiếp người. Đối với các pháp môn của Đại Thừa chỉ dạy tu tập chẳng mê muội nhân quả, chứ không làm chủ được nhân quả.
Việc làm của các nhà học giả là để thọ hưởng phước báo tột đỉnh danh lợi của cuộc đời, chứ không phải giải thoát. Tuy rằng hưởng phước báo như vậy nhưng đã dạy sai ý Phật, khiến cho Phật pháp suy đồi, không người tu chứng giải thoát và toàn bộ tu sĩ đều thiếu đức hạnh, phạm giới, nên các ngài phải chịu quả báo về tội đọa như trong luật đã dạy.
Trước khi sắp viên tịch phải chịu luật nhân quả hành hạ xác thân đau khổ trên giường bệnh mà chúng ta đã chứng kiến, không có vị Hòa Thượng nào tránh khỏi, Tăng cũng như Ni càng phước báo lớn càng đau khổ nhiều.
Luật nhân quả đã dạy, trong các pháp thiện có các pháp ác, trong các pháp ác có các pháp thiện. Tại sao vậy? Tại vì các pháp môn của Đại Thừa dạy làm thiện mà không có pháp dạy ly dục ly ác pháp nên tâm dục của các ngài chưa ly, ác pháp chưa diệt, các ngài đều phạm giới, bẻ vụn giới, ăn ngủ phi thời, sống phóng dật, chạy theo sáu trần bên ngoài nên chấp nhận học hành cấp bằng, chùa to, tháp lớn (giống như nhà giàu).
Những phước báo mà kinh sách Đại Thừa dạy là phước báo hữu lậu, bằng chứng cụ thể rõ ràng như: Hòa Thượng Thanh Từ, Hòa Thượng Nhất Hạnh đã đạt được những phước báo đó. Còn nói đến phước báo vô lậu thì không thể nghĩ bàn, đó là sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết chỉ có kinh Nguyên Thủy của đạo Phật mới có những pháp hành này mà thôi.
38. PHẬT VÀ A LA HÁN
Hỏi: Kính thưa Thầy! Thầy dạy trên bản thể giải thoát của một vị A-la-hán và Phật hoàn toàn đồng nhau. Cả hai đồng nhau mà sao vị A-la-hán không thành Phật liền, và đến bao giờ vị đó thành Phật?
Đáp: “Phật” là một danh từ chỉ cho người tu hành đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi, gọi là “Chứng đạt chân lý, tâm vô lậu hoàn toàn.”
“A-la-hán” cũng là một danh từ chỉ cho người đã tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết chấm dứt tái sanh luân hồi, cũng gọi là “Chứng đạt chân lý, tâm cũng vô lậu hoàn toàn.”
Nếu chúng ta gọi Phật là A-la-hán có đúng không? Đúng, vì tâm vô lậu và làm chủ sanh tử luân hồi giống nhau, như Đức Phật cũng tự xưng mình là A-la-hán.
Nếu chúng ta gọi A-la-hán là Phật có đúng không? Đúng, vì A-la-hán tu hành giải thoát như Phật, cũng tâm vô lậu, cũng làm chủ sanh tử luân hồi như nhau.
Hai người giải thoát giống nhau, làm chủ giống nhau, người thì gọi là “Phật,” người thì gọi là “A-la-hán,” đó là thâm ý độc ác của các nhà Đại Thừa giáo, quyết tâm dìm các bậc tu hành chơn chánh của đạo Phật xuống hàng chót “Tiểu Thừa.”
Thiền của bậc A-la-hán tu hành thì gọi là “Thiền Phàm Phu,” còn thiền của Bồ tát tu thì gọi là “Đại Thừa Thiền, Phật Thiền, Như Lai Thiền.” Chỉ được có danh từ rất vĩ đại, còn tu tập thì rơi vào tưởng định, một loại bệnh thiền định.
Mưu đồ nham hiểm của ngoại đạo đưa giáo pháp của mình vào đạo Phật và tìm mọi cách tiêu diệt giáo pháp của đạo Phật để thành lập một Phật giáo mới “Đại Thừa Phật giáo.” Ý đồ rất rõ ràng qua kinh sách Đại Thừa, Bồ Tát Giới và nhất là bốn bộ kinh A Hàm. Một bộ kinh mà các Tổ biên soạn để làm bước chuyển tiếp bằng những bài kinh móc nối chuyển qua Đại Thừa một cách có hệ thống, khiến cho hàng tín đồ Phật giáo không cách nào tìm ra sự gian dối và thâm ý ác độc của các giáo sĩ Bà La Môn.
Đọc bốn bộ kinh A Hàm và năm bộ kinh Nguyên Thủy, so sánh lại ta thấy có nhiều bài kinh mà các Tổ bịa đặt thêm để chuyển tiếp qua Đại Thừa một cách rõ ràng và cụ thể, nếu có dịp thuận tiện Thầy sẽ kê ra những bài kinh đó để cho tất cả tín đồ Phật giáo hiểu rõ thâm ý độc ác của họ hơn.
Hiện giờ mọi người tu theo đạo Phật mà lại tu tập theo giáo pháp của ngoại đạo (Bà La Môn) thì thật là đau lòng, mọi người bị gạt mà không biết, tu hành chẳng đi đến đâu mà không hay, chỉ có ba hoa tranh luận hơn thua cao thấp bằng ba tấc lưỡi, thiền miệng, thiền ngôn ngữ.
Các Bà La Môn giết đạo Phật mà không cần gươm đao, chỉ bằng những danh từ cay độc, hiểm ác sâu sắc “Đại Thừa, Tối Thượng Thừa, Phật Thừa của giáo pháp Bà La Môn, còn Phật giáo chánh gốc thì gọi là Tiểu Thừa,” những danh từ đó cũng đủ đã giết chết đạo Phật.
Thật sự là vậy, đạo Phật đã chết từ lâu. Hiện giờ tu sĩ Phật giáo đều chịu ảnh hưởng rất sâu về giáo lý Bà La Môn Đại Thừa, Tối Thượng Thừa. Kinh sách của họ viết ra đều lý luận theo kiểu Đại Thừa và Tối Thượng Thừa thuộc kinh sách Vệ Đà. Còn Phật giáo Nguyên Thủy thì họ đã bỏ quên mất, mặc dù có nhiều thầy tỳ-kheo đi học đại học Phật giáo Nguyên Thủy ở Ấn Độ về nhưng lối lý luận của họ đều chịu ảnh hưởng sâu sắc giáo pháp của Bà La Môn.
Tại sao vậy? Tại vì giáo pháp Nguyên Thủy của Đức Phật giới luật và đạo đức rất nghiêm chỉnh, đời sống phạm hạnh không thể tu sĩ thời nay sống nổi, chỉ vì tâm tham đắm vật chất danh lợi thế gian nên quý thầy dù học kinh sách Nguyên Thủy nhưng vẫn thích sống đời sống Đại Thừa.
Bởi vậy, Phật là A-la-hán, A-la-hán là Phật. “Phật là chúng sanh đã thành và chúng sanh là Phật sẽ thành.” Câu nói này giữa chúng sanh và Phật còn không khác, chỉ khác nhau chỗ thời gian mà thôi, còn bậc A-la-hán là người tu đã giải thoát hoàn toàn mà gọi là Tiểu Thừa, như vậy quý vị có thấu hiểu lòng dạ của các nhà Đại Thừa như thế nào không? Hai người tu hành đều chứng như nhau, làm chủ sự sống chết như nhau, có khác nhau là chỗ Phật là Đấng Giáo Chủ, người sáng lập ra tôn giáo Phật giáo (đạo Phật).
Tuy biết rằng giáo pháp của đạo Phật tu hành không phải khó, nhưng khó với thời đại vật chất hiện nay, vì quá tiện nghi và quá đầy đủ khiến người ta không bỏ được lòng tham muốn, giáo pháp của Phật rất rõ ràng và cụ thể, tu hành đến đâu có giải thoát đến đó, không có mơ hồ trừu tượng.
Vậy mà đã bị dìm mất hằng bao thế kỷ nay khiến cho tín đồ Phật giáo không còn biết đường tu hành. Chúng tôi hiện giờ khai hoang lại con đường này, mong sao những thế hệ sau này có lộ trình tốt đẹp hơn để có pháp môn tu tập đi đến nơi đến chốn giải thoát hoàn toàn. Và những ước nguyện của chúng tôi được thấy con người trên hành tinh này sống đối xử với nhau bằng đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người. Nếu được vậy thì đó là đạo Phật đã sống lại với con người và sống mãi mãi.