GNCN - Chánh Kiến

001-LỜI VÀNG THỨC TỈNH QUẦN MÊ - TL.Thích Thông Lạc

002-NIỀM TIN ĐỨC PHẬT VÀ PHẬT PHÁP CHÂN CHÁNH - Viên Hạnh

Thưa quý độc giả, thương thương và tôn kính!

            Quý độc giả ghé thăm trang web Giọt Nắng Chơn Như, chúng tôi thành thực biết ơn và tỏ bày lòng tôn kính sâu sắc đến quý vị. Giữa thời phồn hoa đô hội, đời sống vật chất sung mãn, vật chất dư thừa, giá trị con người được đo bằng những giá trị của cải và danh vị, chẳng còn mấy ai quan tâm đến giá trị đạo đức làm người. Vậy mà quý vị đã bớt chút thời gian để đọc và suy ngẫm về những bài viết trên trang web này, bảo sao chúng tôi dám không tôn kính.

            Thưa quý vị! Phật giáo và Nho giáo là hai tôn giáo lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, văn hóa, tập tục… của người dân Việt Nam nói riêng cũng như các dân tộc phương Đông nói chung từ mấy ngàn năm nay. Tinh hoa văn hóa Phật giáo, Nho giáo đã góp phần làm nên truyền thống lịch sử vẻ vang của đất nước Việt. Đó là điều chúng ta hết sức trân trọng và vô cùng biết ơn tiền nhân đã giữ gìn và lưu truyền lại.   

            Tuy nhiên, không phải tất cả đều là hoàn hảo. Còn có nhiều, rất nhiều những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan… khiến cho con người khổ sở về tình thần, hao tốn của cải lãng phí một cách vô ích. Đã đến lúc chúng ta phải sáng suốt nhìn nhận lại, những gì thực sự hữu ích thì bảo tồn và phát triển, còn những gì có hại thì cương quyết loại bỏ chứ không chần chờ luyến tiếc.

            Mục đích chính của trang web này đến với quý vị để chúng ta cùng nhau tìm hiểu về cơ bản đạo đức con người. Đó là nền tảng đạo đức nhân bản – nhân quả mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khai mở và hoằng dương từ hơn hai mươi lăm thế kỷ trước. Ngày nay, ở Việt Nam, đất nước của chúng ta cũng tự hào có một con người vĩ đại như đức Phật, đó là đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc, theo pháp Phật, Ngài đã thực tu, thực chứng. Với trí tuệ Tam Minh thấu suốt, với lòng từ bi xót thương chúng sanh vô hạn, Ngài quyết tâm dựng lại Phật giáo chân chính đã bị nhiều thế hệ ngoại đạo xuyên tạc, bóp méo và mưu toan tiêu diệt.

            Đức Trưởng Lão, người Thầy, vị A-la-hán, bậc Thiện Hữu Tri Thức, Người dựng ngay ngắn lại chánh Phật pháp, Thầy đã dạy chúng ta những gì? Qua những lời Thầy giảng, những cuốn kinh sách Thầy biên soạn, chúng ta có thể biết rõ: Những gì của Phật giáo chân chánh phải được trả về Phật giáo, còn những gì bên ngoài đội lốt Phật giáo nhằm bôi xấu và phá hoại thì chúng ta loại bỏ không chấp nhận.

            Để giúp cho những phật tử sơ cơ đỡ hao tốn thời gian đi tìm cầu khắp chùa này thiền viện nọ, mong gặp được một vị Minh Sư dẫn dắt, hay khỏi phải mất công bới tìm trong rừng kinh sách Phật giáo, mong kiếm được những lời dạy chân chánh của đức Phật, chúng tôi xin giới thiệu tóm lược những lời dạy đầy tâm huyết và dạt dào lòng bi mẫn của Thầy. Học nơi Thầy, thấy nơi gương phạm hạnh của Thầy chúng ta nhận rõ đâu là Minh Sư, đâu là Tà Sư; đâu là Chánh pháp, đâu là Tà pháp; vàng cát phân minh, không còn mê mê lẫn lộn mãi như hồi nào nữa.

CHÁNH PHẬT PHÁP ĐƯỢC DỰNG LẠI 
CHÚNG TA CÙNG NHAU TÌM HIỂU 

            Hành tinh sống của chúng ta từ ngàn xưa tới nay chỉ có một đức Phật duy nhất xuất hiện, đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Người đã tự mình tìm ra con đường và chứng nghiệm Bốn Chân Lý của loài người. Bốn chân lý đó là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo sẽ thường hằng cùng thời gian không bao giờ thay đổi. Trước đức Phật không có một vị Phật nào cả, vậy mà trong kinh sách Phật giáo dạy đã có nhiều vị Phật trong quá khứ. Sau đức Phật cũng sẽ không có một vị Phật tương lai nào khác. Chỉ những vị Thánh Tăng A-la-hán xuất hiện có đầy đủ năng lực như Phật ra đời để chỉnh đốn, bảo vệ và duy trì Chánh pháp.

            Giáo pháp của Phật dạy không cao siêu, không huyền bí như kinh sách phát triển tô vẽ. Giáo pháp của Phật rất thân thiện, gần gũi và thực tiễn với tất cả mọi người. Chỉ cần ai có trí tuệ bình thường, (miễn không phải là mất trí hay điên khùng) thì đều có thể hiểu và hành trì được. Ai quyết tâm thực hành thì có kết quả ngay liền trong cuộc sống. Thực hành ít, có hạnh phúc ít; thực hành nhiều được hạnh phúc nhiều; thực hành rốt ráo sẽ được hạnh phúc hoàn toàn, tức là thoát khỏi khổ đau sinh tử. Không phải như kinh sách phát triển dạy phật tử mặc tình phá giới, tu tập chẳng tới đâu rồi tìm lời vỗ về an ủi: “Phải tu vô lượng kiếp.” Điều này trái với lời dạy của Phật: “…Pháp Ta không có thời gian, đến để mà thấy…” 

            Giáo pháp của Phật dạy chỉ có một pháp môn, một con đường duy nhất, đó là Bát Chánh Đạo (Đạo Đế hay là con đường Giới, Định, Tuệ) mới dẫn dắt hành giả chứng đạt cứu cánh. Cứu cánh đó là: “Tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Tâm làm chủ được Sanh, Lão, Bệnh, Tử và chấm dứt Tái sinh Luân hồi. Đó là Tâm Giải Thoát.” Không như kinh sách phát triển dạy có tới 84.000 pháp môn để ai muốn chọn pháp nào tùy ý và muốn tu đi đến đâu tùy thích, như ngày nay các bạn đã và đang thấy Phật giáo khắp từ Nam đến Bắc, từ Đông sang Tây trên hành tinh này.

            Giáo pháp của Phật không dạy chia ra thời thịnh hay thời mạt pháp. Lúc đương thời thì đức Phật là Thầy, là bậc Đạo Sư, khi nhập diệt thì Giáo Pháp và Giới Luật của Ngài là Thầy, là Đạo Sư. Giáo pháp của Phật là chân lý, là thường hằng không bao giờ thay đổi sao lại có thịnh có suy? Chỉ có con người không hành trì theo Giáo Pháp, Giới Luật, thường bẻ vụn, phá nát giới luật thì chính là người mạt pháp chứ không phải pháp mạt pháp. Con người không muốn lìa tham mà còn muốn ôm ấp quyền hành danh vị thì ngay khi đức Phật đang còn tại thế vẫn là người mạt pháp như thường. Điển hình là Đề Bà Đạt Đa và các phật tử a tòng ủng hộ ông ta.    

            Giáo pháp của Phật không dạy cúng bái, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, luyện bùa, bắt ấn v.v… và càng không bao giờ dạy ức chế thân tâm để đạt những ảo tưởng: Phật tánh, Chân Như, Bản Lai Diện Mục, Chân Không Diệu Hữu hay cảnh giới Thiên Đàng, Cực Lạc… Tất cả chỉ là những thứ bánh huyễn do các thầy Tổ tu chẳng được gì, lại thấy mình cao hơn Phật nên mới vẽ ra như vậy, chẳng ích lợi gì mà uổng mất một đời tu.

            Giáo pháp của Phật cũng không dạy chia ra Đại Thừa, Tiểu Thừa, Phật Thừa hay Tối Thượng Thừa. Không có xe lớn hay xe nhỏ mà chỉ có Độc Bộ, Độc Hành theo con đường Bát Chánh Đạo. Trên con đường ấy, mỗi người phải tự đi lấy cho chính mình, đến như đức Phật cũng không thể cõng, vác trên vai để đưa người nào vượt qua được. Chúng ta hãy tự lực cố gắng, không chờ đợi xe lớn hay xe nhỏ, cũng chẳng cần cầu khẩn van xin Bồ-tát hay Phật nào tới rước về một cõi Thiên Đàng Cực Lạc.  

            Giáo pháp của Phật dạy: Không có thế giới siêu hình, không có linh hồn sau khi chết, không có thần, thánh, quỷ, ma… cũng không có Thượng Đế hay một Đấng tối cao nào có quyền năng khen thưởng hay xử phạt con người. Chỉ có Nhân Quả, luật Nhân Quả đang lặng lẽ điều hành vũ trụ một cách tuyệt đối chính xác và công bằng. Hiểu như vậy, chúng ta không cần phải cầu khẩn van xin, không cần phải cầu an, cầu siêu hay làm những trò mê tín nhảm nhí khác. Những trò ấy không có lợi ích gì, chỉ tốn hao công sức và tiền của, lại dẫn con người vào cõi u mê mờ mịt. Chúng ta hãy thản nhiên, không lo lắng sợ hãi khi những chướng ngại, phiền não ập đến trên đường đời. Hãy bình tĩnh, tích cực ly dục ly ác pháp và cố gắng hành thiện trong cuộc sống hàng ngày.

            Kinh sách phát triển không phải do Phật thuyết. Xin dẫn một số như: Kinh Pháp Hoa, Kinh Kim Cang, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Đại Bảo Tích, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà, Bát Nhã Tâm Kinh, Địa Tạng, Dược Sư… và còn rất nhiều nữa. Tất cả những kinh đó là của ngoại đạo xen vào, đó là Ma khoác áo Phật để phá hoại và tiến đến tiêu diệt Phật giáo mà thôi.

            Những lời gốc Phật dạy, (tức Phật Pháp Nguyên Thủy) ngày nay chúng ta chỉ còn trông vào bốn bộ kinh thuộc tạng Kinh A Hàm và năm bộ kinh thuộc tạng Kinh Nikàya là đáng tin cậy. Tuy nhiên, trải qua nhiều thế kỷ truyền thừa nên ít nhiều bị pha trộn, thêm bớt. Chúng ta cần thận trọng suy xét và thưa hỏi Thiện Hữu Tri Thức để khỏi bị nhầm lẫn và hiểu oan cho Phật.

            Thiền của đạo Phật là nền tảng đạo đức của con người. Phật giáo chỉ dạy cho mọi người biết cách tu tập thiền định là thường ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp để cuối cùng tâm không còn tham, sân, si nữa. Tâm không còn tham, sân, si là mục đích của đạo Phật đã đạt được. Bởi vậy, thiền của Phật giáo không giống bất cứ một thứ thiền nào của các tôn giáo khác. Hành giả thiền Phật giáo sống đơn sơ chỉ một bát, ba y, hằng ngày đi xin ăn một bữa, “tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không.

            Chúng ta cùng nhìn lại, hành giả thiền của tôn giáo khác thì sao? Họ sống trong nhà cao cửa lớn như cung vàng điện ngọc, phương tiện tiện nghi thì chẳng thiếu thứ gì. Người đời có vật dụng gì thì họ cũng có thứ đó, thậm chí còn sang trọng hơn nhiều. Chỉ bấy nhiêu thôi, chúng ta đủ nhận biết họ không phải là phật tử, không xứng đáng để chúng ta cung kính tôn trọng. Và một điều chắc chắn là chúng ta sẽ không học tập được ở họ một mảy may phạm hạnh nào dù họ có khéo thuyết giảng đến đâu. Tất cả chỉ là một sự dối trá lường gạt, mọi người hãy thận trọng cảnh giác với giới kinh doanh tôn giáo này.

            Đến đây chắc quý vị phản biện: chùa chiền, thiền viện quý vị đến tu học vẫn được các thầy dạy ăn hiền, ở lành, tránh làm điều ác đấy thôi. Đúng vậy, chúng tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng chúng ta phải hiểu rõ rằng:

            Thứ nhất, lời quý thầy dạy có đi đôi với việc thực hành như lời Phật dạy hay không? Hay chỉ dạy cho có, rồi lời Phật trả Phật, quý thầy vẫn sống theo tâm ái dục của mình? Cứ ngẫm trông đời sống của quý thầy tại các chùa, các thiền viện ngày nay chúng ta sẽ thấy rõ liền.

            Thứ hai, như thế nào là sống thiện, là ăn hiền ở lành, điều này có lẽ chính quý thầy cũng chưa tường tận, vậy mà dám đi dạy người. Nếu không có Thiện Hữu Tri Thức chỉ dạy thì chúng ta không thể hiểu được thiện pháp. Bởi vì, muốn hiểu được thiện pháp thì phải có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, muốn có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thì tâm phải ly dục ly ác pháp.

            Thử hỏi ở các chùa chiền, thiền viện đã thấy có vị thầy nào ly được dục, ly được ác hay chưa? Có lẽ còn khó tìm hơn mò kim đáy bể. Vì vậy, lời dạy sống thiện ở những nơi này chỉ là sống giả thiện, thiện hữu lậu, càng cố gắng lâu ngày thì bản ngã càng to lớn và khổ đau càng chồng chất cao như núi.

            Những điều vừa trình bày ở trên là những điều suy tư sâu sắc và tâm huyết nhất khi chúng tôi được học từ những lời dạy của thầy Viện chủ Tu Viện Chơn Như, đó là một tiếng sét lớn xé toang đám mây mù phủ trùm bầu trời Phật giáo từ mấy ngàn năm nay, kể từ khi đức Phật và người đệ tử trực tiếp cuối cùng của Ngài nhập diệt.

            Ngày nay, Đường Về Xứ Phật lại thênh thang rạng rỡ bởi đã có Mặt Trời Phật Pháp từ Tu Viện Chơn Như chan hòa tỏa nắng. Hạnh phúc thay cho chúng ta có duyên phước lớn được gặp Chánh Phật Pháp làm hành trang đi suốt cuộc đời.

            Chúng con thành kinh biết ơn và ghi khắc mãi trong tâm đến muôn đời sau công đức của Thầy, bậc A-la-hán, vị Minh Sư của chúng con. Chúng con cũng tha thiết cầu thỉnh Thầy trụ thế dài lâu vì hạnh phúc của nhân loại trên hành tinh này và tất cả chúng sanh đang quằn quại trong muôn ngàn đau khổ.

            Cuối cùng, chúng tôi trở lại lời thương ban đầu.

            Kính thưa quý vị! Sao lại là thương thương? Chắc quý vị đã có suy tư nghi vấn. Theo suy nghĩ thiển cận của chúng tôi, thương thương là thể tịnh của đạo đức Phật giáo. Mà chúng ta đang cùng nhau trên con đường tìm hiểu, tu tập theo Phật giáo cho nên chủ theo cái tình ấy, đó là lòng yêu thương tự tâm không ái dục, nó không giống với bất cứ loại tình thương nhiễm trước nào khác của cuộc đời.

            Vì sao vậy? Chúng ta, mỗi người đều biết rõ, dù bạn là vua của các vị vua đi nữa, và chúng tôi là những người thường dân vai trần chân đất, thì cả hai, bạn và chúng tôi đều chung một nỗi khổ như nhau. Không có ai khổ nhiều hay có người khổ ít hơn. Sống bình đẳng trong khổ đau thì còn gì nữa mà chẳng dành tình thương chân thật cho nhau. Đó là tình biết thương mình, thương người, tình thương thương vô tư lự, không tính toan so hơn tính thiệt.

            Tình thương không tư vị, dịu mát mênh mang như khí trời, người ban cho thì hân hoan rộng mở, còn người nhận thì lúc nào cũng nhận thấy tràn đầy. Chẳng phải như pháp Ba la mật nào đã dạy, để người cho không biết mình cho, người nhận cũng không biết là mình nhận. Họa chăng đó phải là những cục đá, gốc cây?   

            Vậy đấy! Thế mà còn biết bao nhiêu người vì mải miết lăn theo, bon chen trong cuộc sống để đến lúc thở hắt ra những hơi thở cuối cùng mới hiểu ra giá trị của luồng khí trời tự nhiên kia.

            Tình thương như khí trời vô tận, ban khắp cùng mà chẳng bận vấn vương, chẳng thể nào níu kéo, chẳng có gì buộc ràng.

            Thưa quý vị, có lẽ chỉ Phật giáo mới có thể có tình thương ấy.

            Có lời một bài ca: “Tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào.” Nghe tưởng dịu dàng và phóng khoáng làm sao, nhưng chúng ta thấy ngay được rằng đó là tình thương yêu tục thế đầy buộc ràng và lưu luyến. Đã là tình thương yêu luôn có cho và nhận. Ở đây chúng ta biết: Tình mẹ như biển mênh mông thì còn lại chắc chắn tình con như nước muôn sông đổ về. Rồi thế là biết bao nhiêu tháng ngày chờ mong thương nhớ, giận hờn, khổ đau, biển mãi không đầy mà sông dần khô kiệt.

            Thế đấy! Thương yêu, thương nhớ, thương mến, thương kính… dù bao nhiêu cái thương đi nữa cũng chỉ là chồng chất những khổ đau trong thầm mong ao ước, lợi dụng, trông chờ, chẳng có gì trên cuộc đời này là hạnh phúc thực cả, chỉ là mộng tưởng hão huyền. Còn nếu bạn cứ khăng khăng nghĩ rằng, trên cuộc đời này bạn đang có tất cả, có danh, có lợi, có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn, phương tiện tiện nghi không thiếu thứ gì, muốn gì được nấy, như thế là bạn đang hạnh phúc lắm. Có thể bạn đã nhầm, đó chỉ đang là sự biến động thay đổi khác của một loại khổ đau mới nếu bạn cứ nắm giữ, say mê ôm chặt lấy nó.

            Tất cả những gì gọi là hạnh phúc ở bên ngoài đưa đến, nó chỉ là tạm bợ, hư huyễn, thay đổi rất thất thường. Chỉ có hạnh phúc sinh khởi từ trong nội tâm thanh tịnh của mỗi người mới thực sự là hạnh phúc bền chặt dài lâu.

            Mấy lời tâm huyết, suy tư, tìm hiểu cùng quý vị ở trên, nếu có điều chi sai sót, kính xin quý vị lượng tình chỉ giáo. Trên con đường trở về Xứ Phật, cầu chúc cho quý vị sớm có ngày trở thành người Tự Do mà cuộc đời đầy ngưỡng mong tôn kính.

            Chúng con xin nguyện: 

             Một lòng thành kính và biết ơn sâu sắc đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
             Một lòng thành kính và biết ơn sâu sắc đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc.

                                                                     Viên Hạnh      

003-ĐẠO PHẬT LÀ NỀN ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN-NHÂN QUẢ - TL.Thích Thông Lạc

Kính thưa các bạn!

            Sự hiểu lầm chánh pháp của Phật đã có hơn hai ngàn năm từ khi đức Phật nhập Niết bàn, khiến cho con đường chánh pháp của đạo Phật gần như bị dìm mất. Do sự tu hành của các Tổ chưa đến nơi đến chốn, cho nên cứ dựa trên chữ nghĩa mà hiểu bằng tưởng tri thì làm sao hiểu đúng nghĩa pháp hành được. Phải không các bạn?

            Phật pháp không khó, không khó hiểu nhưng vì không có ngưới tu hành chứng đạo, nên người ta hiểu sai nghĩa. Hiểu sai nghĩa nên rất khó tu. Vì hiểu sai nghĩa nên người ta nghĩ rằng Phật giáo là tôn giáo có thần thông pháp thuật cao siêu, chứ người ta đâu biết rằng Phật giáo chỉ ở chỗ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; Phật giáo chỉ ở chỗ sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai; Phật giáo chỉ ở chỗ thiện pháp, vô lậu tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Những trạng thái tâm này là tâm buông xả ly dục ly ác pháp, là tâm không phóng dật. 

            Người tu hành chỉ có nhiệt tâm quyết buông xả tất cả các ác pháp thì các bạn đã thành tựu viên mãn ngay liền tức khắc, chứ đâu phải tu tập khó khăn mệt nhọc. Có người bảo rằng: tu tập phải có đạo lực để làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi. Phải nhập được Bốn thiền, phải có Tam Minh, phải có Niết bàn, phải có cõi Cực Lạc, phải có Phật tánh, phải biết ngày giờ chết, sống chết phải ra đi tự tại v.v… 

            Nghĩ như vậy các bạn đã đi lạc đề, đối với Phật giáo các bạn không thể nghĩ như vậy. Nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một tôn giáo thần thông; nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một tôn giáo để làm gạch nối giữa con người và thế giới siêu hình; nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một bản thể thường hằng vĩ đại của vạn hữu; nghĩ như vậy nên vô tình các bạn lý luận đưa ra những triết lý cao siêu tuyệt đỉnh của trí tuệ như trí tuệ Bát Nhã (Tánh Không); nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín v.v…

            Do những sự nghĩ sai lệch ấy biến Phật giáo thành một triết học vi diệu cao siêu để tranh luận hơn thua với các hệ phái khác, tôn giáo khác và cũng chính để lý luận đánh lừa mọi người.  

            Kính thưa các bạn! Phật giáo không phải là tôn giáo; không phải là đảng phái chánh trị; không phải một đế quốc lợi dụng thần quyền cai trị thế giới. Phật giáo chỉ là một nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người; Phật giáo chỉ có nhắc lại những gì của con người đã có sẵn, chứ không sáng tạo ra cái gì mới cả và cũng không bịa đặt ra và thêu dệt những chuyện ảo tưởng, hư cấu, và cũng không sử dụng quyền năng siêu việt của bản thân mình để lừa đảo mọi người khuyến dụ họ theo với tôn giáo mình. Cho nên những điều của đức Phật dạy qua ngôn ngữ thay vì hiểu nghĩa rất bình thường, giản dị và bình dân thì các nhà học giả phát triển lại hiểu một cách cao siêu ảo tưởng, hư cấu thành sai nghĩa. 

            Khi tu tập ly dục ly ác pháp, tâm trở thành bất động trước các ác pháp và các cảm thọ thì tâm thanh tịnh hoàn toàn. Tâm thanh tịnh hoàn toàn thì tự có bảy năng lực Giác Chi xuất hiện. Bảy năng lực Giác Chi xuất hiện tức là Tứ Thần Túc. Khi có Tứ Thần Túc bấy giờ các bạn muốn sử dụng như thế nào tùy theo ý muốn, ý thích. 

            Kính thưa các bạn! Khi tâm thanh tịnh hoàn toàn, các bạn sẽ có đủ những năng lực như vậy, nhưng không vì những năng lực đó để các bạn lừa đảo những người khác. Cho nên người tu sĩ Phật giáo không bao giờ thị hiện thần thông, chỉ thị hiện một đời sống đức hạnh giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà thôi.  

            Những lời Phật dạy, chúng tôi cố gắng giải thích để các bạn hiểu đúng nghĩa của Phật dạy. Trong khi chú giải nghĩa lý này, chúng tôi đứng trên cương vị một người đã từng tu tập những lời Phật dạy và đã làm chủ được bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết mà chú thích chứ không bị ảnh hưởng tưởng giải của các Tổ Bắc Tông, Nam Tông, Thiền Tông v.v... mà cũng không ảnh hưởng khoa học, y học, vật lý học v.v…

            Nếu ai bảo rằng chúng tôi chú thích sai thì hãy tu tập làm chủ được sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi thì mới luận bàn, còn nếu chưa làm chủ được thì xin quý vị hãy im lặng lắng nghe.

            Tóm lại đạo Phật chỉ khơi lại nền đạo đức của loài người bằng chương trình giáo dục đào tạo ba cấp Giới, Định, Tuệ và tám lớp học (Bát Chánh Đạo):

    1- Chánh kiến,
              2- Chánh tư duy,
              3- Chánh ngữ,
              4- Chánh nghiệp,
              5- Chánh mạng,
              6- Chánh tinh tấn,
              7- Chánh niệm,
              8- Chánh định.

Tám lớp học này để đào tạo một người có đủ đức hạnh sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh, tức là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ hay nói cách khác là tâm thanh thản an lạc và vô sự.

            Cho nên mục đích của Phật giáo là đạo đức nhân bản – nhân quả; là tâm bất động, chứ không phải đào tạo thành ông A-la-hán, ông Phật, ông Bồ-tát hoặc bất cứ ông Thánh, ông Thần nào mà chỉ đào tạo con người thực là con người có đạo đức sống trong cảnh thế gian này, chứ không cầu mong tu hành để thành ông gì cả, hoặc cũng không cầu mong chết sẽ đi vào cõi giới nào cả, dù cõi Cực Lạc, Thiên Đàng hay cõi Niết bàn cũng không mong cầu.

            Kính thưa các bạn! Tập sách nhỏ này ra đời nhằm chỉnh đốn những điều hiểu sai lầm về những lời dạy của Phật, để mọi người hiểu cho đúng nghĩa của Phật giáo mà không bị ảnh hưởng sai lệch của Đại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông và Tịnh Độ Tông.

            Sau cùng với tập sách nhỏ này chúng tôi ước mong nó sẽ mang lại sự lợi ích lớn cho quý vị trong cuộc sống hiện tại.

                     TL.Thích Thông Lạc
                     Lời nói đầu: Những Lời Gốc Phật Dạy Tập 4
                           NXB Tôn giáo – Hà Nội, 2006 & 2011

004-MỤC ĐÍCH TU HÀNH CỦA TU VIỆN CHƠN NHƯ - TL.Thích Thông Lạc

Hôm nay có một nhân duyên do hai bức thơ hỏi Thầy về sự tu chứng và chứng đạo lục thông. Vậy trước khi nói chuyện với quý thầy về hai bức thơ này, Thầy cùng với quý thầy niệm hồng danh đức Phật:

  Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”. (3 lần).

Do duyên này Thầy sẽ nói rõ mục đích tu hành của Tu viện Chơn Như để quý thầy hiểu rõ hơn.

Này quý thầy! Bây giờ quý thầy hãy lắng nghe cho kỹ để nhận rõ mục đích tu hành của chúng ta. Và cũng nhân dịp này Thầy khuyên quý thầy cần nên suy ngẫm lại mục đích tu hành ở đây có phù hợp với nguyện vọng thiết tha ao ước và điều mong cầu của quý thầy hay không. Nếu mục đích tu hành ở đây không đúng và không phù hợp với sự mong cầu và nguyện vọng của quý thầy thì quý thầy đừng nên theo tu hành, mà hãy chọn những pháp môn nào đúng nguyện vọng của mình thì thực hiện không phí thời giờ vô ích, không uổng cuộc đời tu hành của mình. Vả lại quý thầy đã bỏ cuộc đời để đi tìm đường giải thoát, đi tìm chân lý cứu cánh cho mình mà lại tu sai nguyện vọng thì làm sao tu hành được.

Nếu có một người hỏi quý thầy: Thưa quý thầy, quý thầy tu hành để làm gì?

Nếu quý thầy không rõ mục đích tu hành thì không thể nào trả lời được câu hỏi này. Và nếu quý thầy có trả lời chăng, cũng chỉ trả lời loanh quanh, mơ hồ, không đúng mục đích tu hành và nguyện vọng của mình.

Thường con người hay chịu ảnh hưởng của các xu hướng khi nghe đồn đại huyền thoại, thần thánh hóa một bậc Minh Sư nào đó rồi tin bừa, tin đại, không chịu suy xét cho kỹ trước sau. Chỉ nông nổi vội vàng chấp nhận rồi nhắm mắt đưa cuộc đời vào tu hành, để đến khi vỡ lẽ không đúng với nguyện vọng thiết tha của mình và không thực hành được những gì mình mơ ước thì lúc bấy giờ mất hết niềm tin, bỏ cuộc tu hành, thối chuyển đạo tâm rồi đâm ra vô vọng như người mất phao.

Hôm nay đã đúng lúc để được nghe Thầy trả lời chung cho tất cả mọi người muốn hướng về đây tu hành với Thầy.

Vậy trước khi nghe Thầy trả lời riêng cho hai người cư sĩ này đã có thơ thưa hỏi, nhưng Thầy cũng sẽ trả lời chung cho tất cả quý thầy, quý Phật tử đang hướng về đạo Phật.

Trước tiên quý thầy được nghe hai bức thơ của hai người cư sĩ đã gửi đến hỏi Thầy.

Đây là bức thơ thứ nhất, Thầy sẽ đọc cho quý thầy cùng nghe:

“Qui Nhơn ngày 23 tháng 11 năm 1992.

Kính gửi thiền sư Thông Lạc,

Được nghe biết về Thầy, con rất mừng. Con rất muốn về mảnh đất Tây Ninh để trực tiếp bái kiến Ngài, nhưng vì những lý do thuộc về tài chính, điều kiện thời gian không khắc phục được nên con đành viết thơ. Song vẫn hy vọng có một ngày nào đó con sẽ được ở cạnh Thầy.

Thưa Thầy, quả rằng Thầy đã đáo đạt chân lý rồi chăng? Thầy cũng đã có luôn cả lục thông nữa. Con muốn được biết rõ sự thật này của Thầy để quyết chắc được rằng có giải thoát, không như Phật Thích Ca giới thiệu.

Mọi lý thuyết đều có thể có được và đạt được, song thực hiện lý thuyết đó lại là một việc khác hẳn. Con đang là một cái thư viện đầy sách và đóng cửa, chả ích lợi chi hết cho chính con và người khác. Con chỉ mong gặp Minh Sư chân thật. Con cứ tin rằng có thật Như Lai là có Minh Sư. Kể cả Phật Thích Ca, con nghĩ Ngài chỉ là nhân vật của huyễn sử được mọi người thần thoại hóa thân, hóa thiên.

Bạch Thầy! Thầy nghĩ biết gì về chúa Jésu? Chúa Jésu có phải là Tánh Không, là Hiện Hữu Nhiệm Màu, là Chơn Như, là Chân Lý Giải Thoát?

Kính mong Thầy bỏ ít thời giờ hồi đáp thơ cho con. Hay nếu Thầy có dịp tiện và là con có nhân duyên với Thầy, con được gặp Minh Sư để đạt đích cuộc đời thì mong Thầy ghé về Qui Nhơn để con được cầu hỏi và hưởng từ phúc của Thầy phát tác bao trùm lấy con.

                                       Kính chào Thầy.

                                          Con: Nhơn”.

Và đây là bức thơ thứ hai, Thầy sẽ đọc để quý thầy nghe bức thơ này:

“Qui Nhơn ngày 01 tháng 01 năm 1993.

Ơi Thầy Thông Lạc ơi, Thầy đã gần 70 tuổi rồi phải không? Con xin phép được xưng con là phải.

 Thầy là thiền sư chân chánh và đã đạt đạo rồi ư?

Có thể có một người như thế thật sao? Có thể có chân lý thật để đạt ư hở Thầy?

Thầy ơi, chân lý của Thầy nhận ra là gì đó? Thầy có thể chia sẻ cùng con chăng?

Liệu Thầy có phải cũng mơ theo một cách riêng của Thầy như con đã từng biết, từng thấy hàng trăm giấc mơ độc đáo đủ dạng, đủ loại?

Thầy ơi, Thầy có lục thông đúng nghĩa thực sự chứ không phải nghĩa bóng theo kiểu phải hiểu như trí tuệ Bát Nhã Ba-la-mật chứ? Hay là chỉ những lời đan dệt của một số đệ tử hâm mộ Thầy?

Con cứ mê mải mệt nhoài trong cả đống các kết luận, mà mỗi kết luận là một chân lý của một giáo phái. Các chân lý đều bất toàn và phi lý ở một góc độ nhất định. Con có những chứng minh cụ thể không thể chối cãi nổi.

Con đã từng tự thuyết phục và an ủi mình chịu du di cho một chân lý khả dĩ dễ ưa nhất, có lợi lạc cho mọi người và cho mình nhất, song lại không thể chịu được.

Chúa Jésu con cũng đã từng kinh nghiệm Ngài. Thú vị, hay lắm, song con lại có những chứng minh khác cụ thể, rõ ràng để phủ nhận Ngài.

Còn kinh Lăng Nghiêm, Viên Giác của đức Thích Ca Mâu Ni, con cũng có kinh nghiệm của khoảng 2/3 các cung bậc trong đó, kể cả ma và từng lớp chứng đạo. Và với sách tâm thần hiện đại con cũng là bệnh nhân chính cống.

Thầy ơi! Thầy Lê Ngọc An ơi!

Hiện giờ có một vị Minh Sư mà con cũng chưa đủ điều kiện để nhận ra Minh Sư hay là Tiên Tri giả, Giáo Sư giả, Ma vương diệu nữa. Đó là Vô Thượng Sư Thanh Hải bên trời Tây kia, thuyết pháp hay tuyệt vời, lại rất hợp với hầu hết các kiến giải của con về đạo. Song còn một ít dị biệt khác khiến con băn khoăn và nghi ngại nên chưa quyết định nên theo để được truyền tâm ấn hay không. Vì tâm ấn theo kiểu Phật truyền cho ngài Ca Diếp hay Huệ Năng truyền cho Châu đệ tử ngày xưa, về bản chất khác 1800. Hay bây giờ là lúc gần tận diệt nên mở rộng cửa và thu hồi đại trà?

Con cũng chưa biết rõ Thầy, song Thầy có vẻ kín nhiệm, chẳng chịu xưng là Phật. Giống kinh Lăng Nghiêm Phật Thích Ca có dạy là đấng A-la-hán, Bồ-tát chỉ khi tịch diệt mới tạo để lộ tung tích. Với lại con được biết Thầy qua một người mà đối với con không phải xoàng về độ pháp trị tinh thần, tâm linh. Song anh ta vẫn còn mơ. Con cũng tin đại Thầy trước.

Con xin hỏi Thầy những điều này.

Ôi thật tội nghiệp cho con! Thầy là ai? Đã đến đâu? Là người thứ thiệt hay cũng thông thường như lắm kẻ mà con đã từng nghe ca tụng, và rồi con cũng đã từng tìm cách tiếp xúc để rồi thất vọng.

Ôi! Phật khi xưa nói rõ ràng: “Ta là Phật đã thành, là đấng không đến không đi, là người giác ngộ hoàn toàn, đã giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, đã luôn được thường, lạc, ngã, tịnh”. Hiện Phật cũng có phải là người đang mơ còn mơ không? Và nếu vậy thì không cần nói Thầy cũng là một đệ tử mơ của Phật, một đệ tử xuất sắc.

Xin Thầy cũng cứu vài dòng cho con, cọng rơm đang bị trôi trong nước lũ.    

Rất mong thơ Thầy. Thôi thì Thầy cứ giải lao là trò chuyện với cô phụ nữ tâm thần này vậy.

                                     Kính chào Thầy.

                                    Con: Nguyên Trí”.

Quý thầy đã nghe xong hai bức thơ của hai cư sĩ. Đến đây quý thầy sẽ được tiếp tục nghe bức thơ trả lời của Thầy.

Nội dung bức thơ trả lời của Thầy, quý thầy phải lắng nghe cho kỹ từng ý, từng lời văn. Nếu không sẽ không hiểu gì hết, chỉ hiểu chung chung thì chẳng ích lợi gì cho quý thầy.

Đây là nội dung bức thơ, quý thầy hãy lắng nghe:

Ngày 04 tháng 02 năm 1993.

Kính gửi hai cư sĩ Nguyên Trí và Nhơn.

Hai cư sĩ đã thành thật kể lại nội tâm bi quan của mình trên đường tìm chân lý vô vọng. Hiện giờ phải nói mọi người đã và đang tìm chân lý trong Phật giáo cũng như trong các tôn giáo khác đều mang một tâm niệm như hai cư sĩ nếu họ không tìm danh lợi trọng đó.

Này hai cư sĩ, khi hai cư sĩ chưa gặp một người có kinh nghiệm sống thật trong đạo Phật hướng dẫn mà vội vàng đánh giá đức Phật thì tôi e rằng quý vị quá nông nổi. Quý vị dựa vào một đống kinh sách khổng lồ của Phật giáo hiện nay mà cho đó là con đường cứu cánh của đạo Phật, rồi ra công tìm kiếm ở trong đó không được, quý vị đâm ra hoang mang dao động, mất hướng rồi sinh tâm nghi ngờ, phỉ báng Phật pháp. Điều này rất là tội lỗi.

Này quý vị, đống kinh sách đó toàn những thứ ô hợp, chỉ gạt được những kẻ mù mắt, những kẻ đầy tham vọng, khát chân lý mà thôi.

Này hai cư sĩ, “đạo Phật thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy”. Thật vậy, ai sống đúng đời sống của đức Phật, người ấy sẽ thấy giải thoát ngay trong hiện tại, chẳng cần phải đi tìm đâu xa, chẳng cần phải nhiều thời giờ nghiên cứu học hỏi.

Xưa Phật không để lại một cuốn kinh nào, chỉ nói những gì Ngài sống, Ngài biết, không có quảng cáo, không có viết lách kinh sách như thời đại chúng ta, không có nghĩa thời đại đức Phật chưa có chữ viết - bằng chứng là có các bộ kinh Vệ Đà – chỉ vì Ngài không hiếu danh.

Này hai cư sĩ. Đạo Phật hôm nay không còn nữa. Đạo Phật ngày nay chỉ là một thứ tôn giáo do các thời đại, do hai giai cấp của con người đẻ ra.

1- Giai cấp trí thức đã biến Phật giáo thành một thứ triết lý cao siêu màu nhiệm tuyệt đỉnh để thỏa mãn nhu cầu ảo tưởng của họ, và họ cũng biến Phật giáo thành một khoa tâm lý học tinh vi.

2- Giai cấp bình dân biến Phật giáo thành thần giáo để phục vụ đời sống của họ.

Gần đây, khắp trên thế giới, con người biến Phật giáo thành một cơ quan từ thiện để phục vụ xã hội gọi là Bồ-tát hạnh. Vì thế hai cư sĩ tìm chân lý trong đống kinh sách ảo tưởng nên bảo sao chẳng thành mộng tưởng được.

Tìm Phật giáo trong đống kinh sách của hai giai cấp này nên bảo sao chẳng vô vọng.

Những điều đã dạy tu hành trong kinh sách từ nhiều thế kỷ nay, cho đến hôm nay vẫn chưa có ai thực hiện được quả A-la-hán. Chỉ chứng được những định tưởng thuộc về tà giáo ngoại đạo, không làm chủ được thân tâm, không làm chủ được tâm tham, sân, si và chấm dứt tái sanh luân hồi. Chỉ thể hiện những điều kỳ đặc, những thần thông gạt người, mê hoặc người để cầu danh cầu lợi. Bởi họ viết ra bằng những tưởng giải do tâm háo danh của họ.

Họ viết ra, chính họ thực hành cũng chẳng được.

Họ viết ra có rất nhiều điều phi lý nhưng khéo lý luận che đậy khiến con người không thể hiểu được.

Họ viết ra tưởng chừng con người là cây đá, thế mà mọi người đều tin đó là của Phật.

Họ viết ra như những nhà giải phẫu, phân tích con người manh mún từng mảnh nhỏ. Để làm gì? Để làm một trò chơi gút bắt tâm, để lý luận cho vui tai chứ không ích lợi gì cho con người cả.

Họ viết ra những điều úp úp, mở mở để khiến cho con người tò mò tưởng chừng như trong đó có những điều kỳ đặc màu nhiệm, để rồi toàn là một thứ lý giải suông.

Đã trải qua bao nhiêu thế kỷ, người ta đã tu theo những kinh sách này đều dở sống, đở chết. Thế mà cho đến hôm nay mọi người vẫn đều tin theo, chạy theo một cách mù quáng, không chịu nhìn lại cha đẻ của những pháp môn này, họ đã làm được những gì chưa? Nếu chỉ nhắm mắt tu đùa, tu đại, đến chừng thực hành không được thì lỡ dở cả đời người, rồi đây bổ ngửa ra cả đám vô vọng, thất vọng, đâm ra mất hết niềm tin cũng giống như hai cư sĩ bây giờ vậy.

Con người thời nay cũng quyết tâm tu hành cầu giải thoát rất đông đảo, nhưng họ đang nuốt không vô, nhả không ra nhằm những triết lý cao siêu màu nhiệm. Còn đi tìm những người có kinh nghiệm thì chẳng biết tìm đâu ra, chỉ toàn gặp những bậc hôn sư lên đồng nhập xác, tự xưng ông này bà kia thì nhiều. Hoặc gặp những thiền sư miệng, đạo sĩ bùa chú thì không thiếu gì trong thời đại này.

Trong thời đại này, quý vị có tìm được vị Minh Sư chân chánh, chắc quý vị cũng chẳng đủ niềm tin vì quý vị đang thần thánh hóa một vị Minh Sư siêu việt có đầy đủ thần thông, tam minh, lục thông. Vì thế mà quý vị chẳng bao giờ gặp được Minh Sư chân thật của quý vị.

Xưa vua Loui đến thăm một vị hiền nhân trong thất viện của đức Phật thời bấy giờ. Nhà vua thấy ông ta đang xay bột giúp vợ làm bánh bán trong cảnh nghèo túng khốn khổ. Nhà vua liền ban cho vàng bạc châu báu nhưng ông khéo từ chối.

Thế mới biết trong cái tầm thường có cái phi thường. Cái phi thường không phải ở thần thông phép tắc, mà cũng không phải ở chỗ màu nhiệm kỳ đặc ngoài sức con người làm được, mà ở chỗ con người làm được thoát ra khỏi sự cám dỗ danh, lợi, sắc, tài, ăn và ngủ của đời người. Và còn làm được của con người là thoát ra được khỏi những thú tính mà con người đã mang trong người.

Này hai cư sĩ, hai cư sĩ đã từng nghe trên báo chí hoặc đài phát thanh đăng tin những đạo sĩ Ấn Độ dìm trong nước, chôn trong đất không chết, đi trên lửa, mặc áo mỏng bên trời Liên Xô dưới 00C không run rẩy. Đó là những trò gian xảo, lừa đảo gạt người, chỉ khổ công tu hành những pháp môn yoga hoặc những pháp môn khác để được người ta thần thánh mình. Và để làm gì? Để tìm danh lợi. Nếu được sự chứng kiến này, chắc quý vị sẽ xem họ là Minh Sư của mình.

Này hai cư sĩ, chúng tôi tu theo đạo Phật không như lời người ta giới thiệu là đạt đạo, chứng đạo có lục thông. Chúng tôi tu theo đạo Phật thì rất thực tế hơn nhiều, không mơ mộng những điều như vậy. Tu tập để làm chủ thân và tâm của mình, để thoát khỏi bốn sự khổ đang ràng buộc chúng tôi: Sanh, già, bệnh và tử.

Này hai cư sĩ, mục đích của đạo Phật là giải quyết bốn sự khổ này của loài người, để thoát ra khỏi sự trói buộc của nó. Chứ không phải đi tìm Lục thông, Tam minh, Phật tánh, Chơn như, Bản thể, mà cũng không phải đi tìm nghĩa lý trong các kinh sách, ngữ lục, công án v.v… tu thế này thế kia để có thần thông phép tắc, để triệt ngộ thông suốt các điều bí mật trong kinh sách.

Chúng tôi tu theo đạo Phật cũng không xây dựng một thế giới Cực Lạc tưởng, một cõi trời tưởng để đến khi chết sanh về đó.

Chúng tôi tu theo đạo Phật với một trí tuệ sẵn có của mình, biết chọn lựa cách sống của đức Phật: sống ly dục. Khi sống ly dục, chúng tôi thường chiến thắng lại tâm mình bằng trí tuệ và kinh nghiệm của tự bản thân, không dựa vào kinh sách nào cả.

Sau khi tạo hoàn cảnh sống ly dục được, chúng tôi tiếp tục sống cuộc sống của đức Phật: sống đoạn dục. Khi sống đoạn dục, chúng tôi từng ức chế vọng tưởng nhưng không diệt và không đè nén nó, biết dẫn dắt nó tưới mát tâm chúng tôi khiến cho đời sống chúng tôi tâm được an vui và giải thoát khỏi mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng.

Chúng tôi không phải là thiền sư và cũng không đạt đạo.

Chúng tôi cũng không thấy chân lý gì để đạt. Chúng tôi chỉ sống như mọi người khác nhưng sống thật giải thoát khỏi tâm ham muốn của mình.

Chúng tôi không có lục thông, không có bùa chú linh thiêng và cũng không có gì kỳ đặc độc đáo cả.

Chúng tôi là một người thường, không phải là A-la-hán, Bồ-tát hay là Phật.

Chúng tôi chỉ là người biết sống, khéo sống. Chúng tôi sống không mơ mộng, không ước ao và không cầu mong một điều gì khác hơn là chúng tôi sống với ý thức sẵn có của mình. Chúng tôi thường biết rõ việc làm của mình, từng ý niệm của mình, từng hành động và lời nói của mình.

Chúng tôi đã tự điều khiển và quản lý được tâm chúng tôi, do đó chúng tôi đã làm chủ được tâm hoàn toàn. Chúng tôi không còn nô lệ bất cứ một vọng tưởng nào của chúng tôi. Bệnh tật, tử vong, đau khổ không làm chúng tôi sợ hãi. 

Chúng tôi lại cũng biết rõ chúng tôi không còn bị danh, lợi, sắc, ăn và ngủ lôi cuốn chúng tôi được nữa. Vả lại, chúng tôi cũng còn biết rất rõ ràng sanh, lão, bệnh, tử không còn trói buộc chúng tôi.

Này hai cư sĩ, điều chúng tôi nói trên đây là sự thật, tin hay không tin là ở quý vị. Riêng chúng tôi chẳng cần ai tin mình hết, tôi giải thoát cho tôi, không thể giải thoát cho quý vị được. Như quý vị giải thoát cho quý vị, không thể giải thoát cho tôi được.

Chúng tôi không có mộng làm Bồ-tát độ chúng sanh. Danh lợi đối với chúng tôi, tôi đã chấm dứt nó từ lâu. Cho nên Bô-tát đối với chúng tôi vẫn còn danh, còn lợi, chúng tôi hiểu rất rõ ràng điều này.

Đến đây chúng tôi xin thành thật bảo quý vị, thực hiện được sự thật này là một công trình vĩ đại, khó hơn việc dời non lấp biển. Một người có đầy đủ ý chí, bền lòng chặt dạ, kiên trì mài sắt thành kim mới thực hiện được. Những người đứng núi này trông núi khác thì chẳng đời nào thực hiện được. Những người đi tìm thần thông phép tắc, tam minh lục thông thì cũng chẳng đời nào thực hiện được. Những người ban ngày thắp đuốc đi tìm chân lý như hai cư sĩ cũng chẳng thực hiện được.

Một lần nữa chúng tôi xin thành thật khuyên hai cư sĩ nên sống một đời sống của người cư sĩ, giữ trọn đức hạnh làm người, ít ham muốn, biết san sẻ, biết nhận những lỗi nhỏ của mình và khắc phục tâm ham muốn của mình. Thế đủ hết rồi, đừng mơ gì nữa.

Chúng tôi thăm, chúc hai cư sĩ thân tâm an lạc và thường vui vẻ.

                                   Tu viện Chơn Như.

                                          Kính thơ. 

Sau khi nghe bức thơ của Thầy trả lời, quý thầy đã rõ mục đích tu hành của Tu viện Chơn Như. Vậy quý thầy hãy xét lại mình, nếu quả chăng mục đích tu tập của quý thầy đúng vào mục đích này thì quý thầy hãy ở lại đây cùng Thầy tu tập dưới sự hướng dẫn tận tâm của Thầy. Bằng thấy mục đích tu hành này không phù hợp với nguyện vọng của mình thì Thầy rất hoan hỷ để quý thầy dời khỏi tu viện để đi tìm đúng mục đích mà quý thầy từng ôm ấp trong lòng. 

Quý thầy đừng nghĩ rằng thời kỳ mạt pháp không thể nào thực hiện được mục đích tu hành tại tu viện này. Điều nghĩ này sai. Tại sao? Tại vì trong mỗi thời kỳ đều có tu chứng.

Tuy rằng người ta đã phân chia ba thời kỳ như trong kinh đã dạy:

1-        Thời kỳ Chánh pháp.

2-        Thời kỳ Tưởng pháp.

3-        Thời kỳ Mạt pháp.

Hòa thượng Thiền Tâm đã nói rõ trong cuốn Phật Học Tinh Yếu:

Sao gọi là Chánh, Tưởng và Mạt pháp?

Sở dĩ nói Chánh pháp vì chánh có nghĩa là chính. Trong thời kỳ này đức Thế Tôn tuy đã nhập diệt nhưng pháp nghi của Ngài chưa sửa đổi. Có giáo lý, có kẻ hành trì, có nhiều người chứng quả. Như trong kinh đã dạy, sau Phật nhập Niết-bàn 500 năm gọi là thời kỳ Chánh pháp, người tu có chứng quả A-la-hán.

Sau thời kỳ Chánh pháp là thời kỳ Tưởng pháp. 

Nói Tưởng pháp vì tưởng có nghĩa tương tợ, tức là mường tượng. Trong thời kỳ này đạo quá chỉ còn mường tượng, pháp nghi lệch lạc, kinh điển giáo lý có nhiều sự sửa đổi, tuy giáo lý có, cũng có nhiều người hành trì nhưng rất ít kẻ chứng đạo. Thời kỳ Tưởng pháp cách Phật 1000 năm.

Sau thời kỳ này là thời kỳ Mạt pháp.

Nói Mạt pháp vì Mạt là Làm – “Làm ý di mạc” nghĩa là mang manh nhỏ nhiệm như chót đầu lông chim nhỏ, như hạt bụi điểm sương. Trong thời kỳ này đạo quá suy vi, tuy có giáo lý kinh sách rất nhiều nhưng ít kẻ hành trì đúng pháp huống chi là chứng đạo.

Theo kinh Nhân Vương nói: “Có giáo lý, có hành trì, không chứng quả gọi là Tưởng pháp. Có giáo lý, không hành trì, không chứng quả gọi là Mạt pháp”.

Thật ra thời Tưởng pháp chẳng phải là không có quả chứng, song bậc chứng quả như sao buổi sáng trên nền trời khó tìm, khó gặp.

Thời Mạt pháp chẳng phải là chẳng có người hành trì, song kẻ hành trì đúng theo giáo lý rất ít, hầu như không có nên gọi là không hành trì.

Để kết luận buổi nói chuyện hôm nay, theo lời dạy của Hòa thượng Thiền Tâm dẫn chứng trong các kinh sách thì chúng ta nhận thấy cũng khá rõ ràng. Nhưng đó là kinh…

Còn theo Thầy nghĩ trong ba thời kỳ này, thời kỳ nào cũng có người tu chứng quả A-la-hán…  Đó là họ tu đúng. Tu đúng như thế nào? 

Thứ nhất là phải thực hiện giới luật nghiêm túc.

Thứ hai là tập luyện thiền định phải đúng cách và phải do những kinh nghiệm của những bậc độc giác Phật.

Còn những ai dựa vào kinh sách mà tu hành trong thời kỳ Mạt pháp thì khó thành tựu. Bằng chứng hiển nhiên chúng ta thấy hiện giờ người ta dựa vào kinh sách tu hành đã nhiều thế kỷ nay không thấy có ai chứng quả A-la-hán, chỉ toàn học giáo lý mà thôi.

Tại sao vậy? Tại vì kinh điển đã bị người sau thêm thắt quá nhiều làm lệch lạc tất cả kinh nghiệm tu hành của đạo Phật. Cho nên xét về quá trình thời gian thì thời nào cũng có bậc độc giác Phật ra đời, đó là giữ gìn giềng mối của đạo Phật. Nếu không có các bậc này thì đạo Phật ngày nay sẽ đi về đâu. Chắc chắn sẽ trở thành một môn học cho người sau mà thôi.

Chúng ta cũng nên xét kỹ, vì mục đích của đạo Phật hiện giờ đã bị lệch lạc cho nên khiến người sau chẳng biết đường lối nào tu hành.

Sau khi quý thầy đã hiểu rõ mục đích tu hành tại đây và trong ba thời kỳ mà kinh sách đã chia cắt ra, nhưng kết luận chúng ta nhận xét kỹ trong mỗi quá trình thời gian của từng thời kỳ, thì thời kỳ nào cũng có bậc độc giác Phật xuất hiện ra đời. Nhưng có điều họ không phát triển kinh nghiệm tu hành sâu rộng trong mọi tầng lớp con người mà chỉ giữ mãi chiều sâu của đạo Phật còn trụ thế mà thôi. Bởi vì họ gặp một thế lực Phật giáo kinh điển chèn ép mạnh mẽ. Đây cũng là duyên của chúng sanh.

Vậy một lần nữa Thầy khuyên quý thầy: sự tu hành là sự lợi ích cho bản thân cá nhân của quý thầy hơn tất cả. Quý thầy cứ tư duy cho chin chắn rồi thực hiện, đừng vội vàng nông nổi mà hãy cẩn thận và cẩn thận hơn.

Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay. Quý thầy cùng với Thầy niệm hồi hướng:

Nguyện đem công đức này,

Hồi hướng cho tất cả

Phật tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. 

Hết

 Phương Minh ghi chép từ đĩa CD do Tu viện Chơn Như phát biếu

 
 

 

005-NHỮNG GÌ TÔI BIẾT VỀ THẦY TÔI – Mật Hạnh

006-ĐẠO ĐỨC - ĐỨC HẠNH - Phước Chân

Vì sao chúng ta phải sống có đạo đức?

Trong đời sống hàng ngày của con người có hai mặt chủ yếu vật chất và tinh thần, tính thiện và ác.

Từ thưở sơ khai khi có loài người còn sống theo thành bày đàn, đạo đức luôn có mặt trong mọi hoạt động tinh thần cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của con người như cơm ăn, áo mặc, công việc biết chia sẻ nhường nhịn, giúp đỡ, thương yêu, thân ái, đoàn kết, trách nhiệm, tôn trọng, kính trên nhường dưới, v.v...

Vậy đạo đức là gì?

Đạo chỉ con đường, đức chỉ phẩm cách tốt đẹp đối sử con người với con người, với xã hội và với thiên nhiên.

Cốt lõi của đạo đức là tính thiện, đó là gốc, là cội nguồn, là nền tảng của nền đạo đức làm người, “Tiên học lễ hậu học văn’’ đó là lời dạy của tổ tiên ta ngày xưa đã rất quí trọng đạo đức trong nền giáo dục đào tạo dạy dỗ con người.

Một con người sống không có đạo đức chỉ là một con thú đội lốt người.

Một gia đình sống không có đạo đức thì gia đình đó mọi người sống rất khổ đau như địa ngục.

Một đất nước mọi người sống không có đạo đức thì đất nước đó không có trật tự, mưa không thuận, gió không hòa, cuộc sống thường xẩy ra trộm cắp, chém giết, tham ô, tà dâm, lừa đảo, nghiện ngập, bạo loạn, chiến tranh v.v... Mọi người sống trong cảnh thường lo âu, sợ hãi và bất an.

Xã hội loài người ngày càng phát triển, đạo đức cũng phát triển đáp ứng cuộc sống.

Thời chế độ phong kiến nước ta, đạo đức chịu ảnh hưởng truyền thừa tư tưởng đạo đức Khổng Mạnh “Tam cang, Ngũ thường”. Đạo vua tôi: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, đạo cha con: “Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” hay “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, đạo vợ chồng, người phụ nữ phải tứ đức tam tòng “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.

Đạo đức này đưa ra chỉ dạy cho con người nhằm phân chia giai cấp, trọng nam khinh nữ bắt buộc, trói buộc con người phải tuân theo trật tự tôn ti trong thời chế độ phong kiến.

Còn xã hội hiện nay, người ta ít quan tâm đến đạo đức, chỉ quan tâm đến khoa học kỹ thuật nhằm phục vụ đời sống vật chất, thời đại văn minh khoa học phát triến tiến bộ, con người sống trong đống vật chất, tiền tài, danh và lợi.

 Sống chạy theo lòng ham muốn cá nhân, mọi người đã quên đi đạo đức làm người, không còn thương yêu nhau, chỉ biết có tiền và vật chất, vì thế đạo đức con người biến dần đi, làm bất cứ việc gì cũng phải có tiền “có tiền mua tiên cũng được”.

Trên internet, ti vi, báo chí ngày nào cũng đăng rất nhiều tin về những con người sống thiếu đạo đức.

Những người có địa vị, có chức, có quyền thì ăn hối lộ đút lót, tham ô lợi dụng, quyền hành ức hiếp, v.v...

Những nhà đại gia nhiều tiền, dùng tiền mua dâm, các cô gái chân dài hoa hậu, người đẹp bán dâm, ăn mặc hở hang, y phục đồ lót, mắt xanh, tóc đỏ nhảy múa và những vụ cướp giật, lừa đảo, đánh chém nhau giữa ban ngày trên đường phố.

 Những chàng trai thể hiện máu iêng hùng, những lái xe uống rượu đã để lại những hậu quả tai nạn giao thông tang tóc.

Còn kẻ nghèo hèn ốm đau đi bệnh viện không có tiền, bác sĩ lạnh nhạt thờ ơ.

Học sinh không có tiền đóng học thì nhà trường cho nghỉ học.

Đến cả nơi cửa chùa, phật tử nào cúng dường nhiều thì thầy tươi cười đón tiếp mời mọc, phật tử nào lễ vật đơn sơ thì thầy cúi nhìn xuống lạnh nhạt, ai phước lắm mới được thầy Mô Phật.

Thật đau lòng và bức xúc, hỡi các bạn đồng tu.

Bởi thế đạo đức bị băng hoại xuống cấp, con người lương tri, lương lăng cũng mất đi, xã hội đặt ra nhiều pháp luật để ngăn cấm, ngăn chặn những con người sống vô đạo đức, nhưng cũng không ngăn cấm hết được, những con người phạm tội ngày càng nhiều, họ không biết sợ pháp luật, họ vẫn chứng nào tật ấy.

Con người chạy theo lòng ham muốn dục lạc ăn uống, vệ sinh tiểu tiện bậy bạ, rác vứt bừa bãi, các nhà máy khu công nghiệp, các lò mổ gia cầm thải ra các chất thải làm mất vệ sinh, môi trường bị ô nhiễm.

Gần đây, ở huyện miền núi Minh Hóa (Quảng Bình) liên tục xẩy ra hiện tượng cá chết hàng loạt ở các sông suối, nguồn nước sinh hoạt cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng khiến người dân rất hoang mang, lo lắng.

Có một thực tế hiện nay, khiến các chuyên gia môi trường lo ngại là nguồn nước sạch trên trái đất đang ngày càng trở nên cạn kiệt.

Đời sống vật chất và tinh thần phải luôn luôn đi song song với nhau để tương ưng đáp ứng cuộc sống. Nền khoa học văn minh phát triển, mà nền đạo đức không phát triển để tương ưng đáp ứng, thì nền khoa học văn minh đó là một thảm họa đang đứng bên bờ vực thẳm.

Bởi vậy, đạo đức rất quan trọng cần thiết cho cuộc sống của con người, cho nên chúng ta cần phải học đạo đức, chúng ta phải học đạo đức như thế nào? Và học đạo đức gì?

Thời đại hiện nay, đạo đức con người đang nguy cơ xuống cấp trầm trọng, trong bối cảnh cấp bách, báo động thì may thay.

Tại Trảng Bàng Tây Ninh miền Nam nước Việt Nam xuất hiện một vĩ nhân siêu việt phi thường. Người thấu hiểu, biết rất rõ tại sao đạo đức con người lại xuống cấp trầm trọng như vậy. Vĩ nhân siêu việt phi thường ấy chính là thầy Thích Thông Lạc Người làm sống lại giới luật của đạo Phật qua phạm hạnh của Người và dựng lại nền đạo đức cho loài người, đó là nền đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật,

Một nền đạo đức rất bình đẳng, tự nhiên của xã hội loài người, tôn trọng sự sống giữa con người với con người không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, màu da, sắc tộc, tôn giáo, quốc gia văn minh hay chậm tiến, nó rất cao thượng tuyệt vời.

Cốt lõi của nền đạo đức chính là không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh.

Vậy đạo đức nhân bản - nhân quả là gì?

Nhân bản là mỗi hành động thân miệng ý của chúng ta tạo ra nên gọi là nhân bản tức là những hành động gốc nơi thân người.

Nhân quả là kết quả của mỗi hành động thân khẩu ý của chúng ta tạo ra phải thọ chịu khổ hay vui.

Đạo đức này nhận ra nó rất dễ dàng, chỉ cần chúng ta tỉnh giác quan sát những hành động than, khẩu, ý của mình thì chúng ta rất dễ dàng nhận ra, đơn giản như:

- Chúng ta đang đi vô tình dẫm phải một con ốc sên làm nó chết trong đau đớn là chúng ta thiếu đạo đức.

- Chỉ câu nói đùa chồng bạn đi với một cô gái rất xinh làm cho vợ chồng bạn cãi nhau là chúng ta thiếu đạo đức.

- Chỉ một cái ngó, một cái liếc hay một cái nhìn chằm chằm làm người khác khó chịu là chúng ta thiếu đạo đức.

- Chúng ta đốt vàng mã, cầu siêu, cầu an, xem bói, v.v... là chúng ta thiếu đạo đức. Chúng ta làm việc quá sức, tính nết nóng nẩy là chúng ta thiếu đạo đức.

- Ý kiến của bạn là nên viết bài học đạo đức, mình lại nói là làm gì phải viết như vậy là mình thiếu đạo đức.

Đạo đức không làm khổ mình, khổ người này với những hành động mang bản chất tình thương thật sự, nó không hề nhằm phục vụ cho một giai cấp, một chế độ, một hệ tư tưởng hay một cá nhân nào mà bất cứ ở chế độ nào xã hội nào cũng đều cần đến nó.

Nó được xây dựng làm nền tảng trên chân lý sống của kiếp người.

Lấy sự thật của con người mà gieo trồng đạo đức trên đó thì đạo đức sẽ đem lại hạnh phúc an vui cho loài người. Bởi thế nó luôn luôn tồn tại và trong sáng, con người qua bao chế độ xã hội, thời gian thăng trầm biến đổi nhưng nó không bao giờ bị thay đổi, lu mờ, nó bất di bất dịch.

 Còn con người sống thiếu nó thì rất khổ đau, nó chỉ có một mực là không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh, nó là một chân lí của loài người mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tìm thấy cách đây hơn 2550 năm về trước.

Nền đạo đức nhân bản nhân quả là một chương trình giáo dục có tám lớp Bát Chánh Đạo và ba cấp Giới - Định - Tuệ.

Trước tiên, chúng ta phải học lớp đạo đức làm người cơ bản như: các lớp tam quy, các lớp ngũ giới, các lới thập thiện, các lớp thọ bát quan trai giới thuần thục sau tiến đến học các lớp bát chánh đạo.

Lớp học tam quy là để chúng ta hiểu biết nhận ra Phật là ai? Pháp là gì? Tăng là như thế nào?, để chúng ta đặt trọn niềm tin tu học đạo đức.

Lớp học ngũ giới chúng ta phải học những đạo đức như: đạo đức hiếu sinh, đạo đức ly tham thuộc đạo đức bản than, đạo đức gia đình, đạo đức thành thật, đạo đức minh mẫn thuộc đạo đức xã hội.

Những đạo đức này được thực hiện trong ba hành động thân khẩu ý của một con người, nó có công năng giúp cho thân tâm mọi người được thanh thản, an lạc và vô sự, cho nên chúng ta cần phải học hiểu để áp dụng vào cuộc sống hàng ngày luôn luôn ý thức rèn luyện, trau dồi thân khẩu ý cố gắng sống với ba đức, nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng để không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh.

Kính thưa các đạo hữa và các bạn đồng tu

Nhờ có học đạo đức chúng ta mới triển khai được tri kiến hiểu biết về nhân quả, để phá vỡ đi màn vô minh đen tối những tư tưởng tà kiến, kiến chấp, ác pháp đã chấp chặt trong con người chúng ta. (Lớp Chánh Kiến)

Nhờ có học đạo đức chúng ta mới hiểu thế giới siêu hình là thế giới tưởng, chúng ta mới có đủ tri kiến để tư duy xóa đi những tư tưởng lạc hậu, mê tín dị đoan đã làm cho con người chúng ta chết chìm trong mê muội, sợ hãi, lo âu, “tiền mất tật mang”. (Lớp Chánh Tư duy)

Nhờ có học đạo đức chúng ta mới hiểu, mới biết ban tặng cho nhau những lời thương yêu chân thật để làm xoa dịu đi những nỗi bất hạnh, đau thương, mất mát trong tâm hồn chúng ta. (Lớp Chánh Ngữ)

Nhờ có học đạo đức chúng ta mới hiểu và nhận ra đạo đức nào thật sự là đạo đức làm người để chúng ta thoát ra khỏi bản năng của loài cầm thú, thật sự làm người sống có đạo đức chỉ biết sống thương yêu và tha thứ. (Lớp Chánh Nghiệp)

Nhờ có học đạo đức chúng ta mới hiểu, mới có đủ lòng tin, mới có ý thức bảo vệ, gìn giữ sự sống muôn loài vật và môi trường xanh tốt tươi. (Lớp Chánh Mạng)

Nhờ có học đạo đức chúng ta mới hiểu biết rõ, đâu là điều thiện, đâu là điều ác, để chúng ta ngăn diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp, từ một con người phàm phu trở thành một người toàn thiện có tâm hồn cao thượng, biết tôn trọng, thương yêu sự sống của muôn loài. (Lớp Chánh Tinh tấn)

Nhờ có học đạo đức chúng ta mới thấu hiểu nỗi khổ đau của kiếp người, mới biết đẩy lui các chướng ngại khổ đau trên thân tâm, mới  biết phòng hộ, bảo vệ, giữ gìn thân tâm chúng ta được thanh thản an lạc và vô sự. (Lớp Chánh Niệm)

Nhờ có học đạo đức chúng ta mới hiểu, mới đủ tự tin, bình tĩnh, sáng suốt, để làm chủ bản thân mình trước những phong ba, giông tố của cuộc đời. (Lớp Chánh Định)

Đúng vậy, đạo đức là thông điệp hòa bình thế giới, là nguồn gốc đem lại sự an vui, yên ổn và hạnh phúc cho mình, cho mọi người, cho sự sống của tất cả muôn loài vạn vật, cho mọi gia đình và toàn xã hội loài người trên hành tinh này.

Thật cảm thương cho những ai vô phước không được biết, thật thương xót cho những ai không có ý thức nhận ra nền đạo đức nhân bản - nhân quả này. Đáng tiếc cho những ai không chịu tu học và trau dồi đạo đức nhân bản - nhân quả, thật là quá dại khờ.

Thấm thía với những nỗi khổ đau của kiếp người, Phước Chân đã giác ngộ đạo Phật và tu học hơn ba năm nay, ngày đêm miệt mài ý thức sửa chữa, trau dồi than, khẩu, ý bằng con đường đạo đức nhân bản nhân quả,

Cho đến hôm nay Phước Chân mới có đủ tự tin, bình tĩnh, sáng suốt để nói lên những tư duy, suy nghĩ, cảm xúc chân thật của con người mình.

Thật lòng Phước Chân hạnh phúc vô cùng từ nơi sâu thẳm tận đáy lòng, Phước Chân thầm biết ơn Đức Phật, Người đã để lại cho loài người một nền đạo đức cao thượng tuyệt vời. Phước Chân không bao giờ quên, vô vàn sâu sắc biết ơn một Người Thầy ẩn bóng đã hướng dẫn, chỉ dạy, dìu dắt hết lòng để dựng lại nền đạo đức cao thượng tuyệt vời ấy cho loài người trên hành tinh này.

Hôm nay, được thừa hưởng, được tu học và được rèn luyện trau dồi trong nền đạo đức nhân bản - nhân quả là nhờ công ơn rất lớn của Người.

 Chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ, phát huy nền đạo đức nhân bản - nhân quả được trường tồn, được sinh trưởng và lan tỏa đến tận ngõ ngách của cuộc sống, ước nguyện đến với mọi người, mọi gia đình và toàn xã hội loài người,

Phước Chân nguyện đời đời kiếp kiếp tu học theo đức hạnh của Người, dù cho ai nói ngả nói nghiêng, dù cho sông có cạn, núi có mòn, Phước Chân quyết không bao giờ thay đổi, nhất định tu học đạo đức để làm chủ thân tâm mình và ghi lòng, tạc dạ, khắc sâu những lời dạy của Người trên con đường nghiên cứu tu học theo Phật giáo.

Nguồn: http://dangkimdung55.violet.vn/present/same/entry_id/7839088

007-SỐNG YÊU THƯƠNG - P.Anh

     

 

Loài vật còn biết sống yêu thương huống hồ con người!

 

Sống thương yêu là một nghệ thuật sống. Chúng đơn giản, giản dị và gần gủi. Khi nhận hiểu ra được cách sống thương yêu thì như trở bàn tay, từ mặt úp thành mặt ngửa, một con người cũ thay đổi thành một con người mới trong tích tắc. Có ai ngờ rằng trong đời sống hằng ngày, con người đã để đánh mất quá nhiều cơ hội để sống thương yêu nhau mà không hay biết, hoặc không để ý đến và rồi bỏ qua, thật là tiếc, hoặc thay vì sống yêu thương nhau thì lại kềm chế tâm hay nén lòng làm cho cuộc sống thêm đau khổ hơn. Tuy vậy mỗi người đều có cách sống thương yêu của mình, họ đối xử với nhau rất tốt, ứng xử rất hay và rất khéo, đáng khâm phục và học hỏi.

Bất kỳ ai, đã là con người, đều có thể sống thương yêu nhau. Đó là đạo đức của con người. Tất cả đạo đức của con người đều lấy tình thương làm nền tảng. Thiếu lòng thương yêu thì đạo đức không thể có được. Mọi tôn giáo ít nhiều gì cũng dựa trên đạo đức để xây dựng giáo lý riêng cho mình và lấy tình thương yêu bác ái làm nền tảng giáo dục tín đồ của mình. Do vậy đã là con người thì chúng ta nên biết sống đạo đức. Có bao nhiêu đạo đức? – Hàng nghìn đạo đức.

Đạo đức được định nghĩa là sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ các loài vật khác; sống biết mang niềm vui và hạnh phúc đến cho mình, cho người và cho các loài vật khác. Đạo đức phải thỏa mãn 3 điều kiện cùng một lúc, vắng một cái thì không thể gọi là đạo đức được.

Lòng thương yêu chân thật là lòng thương yêu đa hướng, trải rộng bình đẳng đến muôn người không phân biệt thân sơ, muôn loài vật, cỏ cây, đất đá thiên nhiên. Lòng yêu thương một hướng là tình thương ích kỷ hẹp hòi cá nhân chỉ biết yêu thương người thân của mình mà không yêu thương người ngoài hoặc chỉ biết yêu thương ý kiến của mình bắt người khác làm theo mà không cần biết ý thích của người khác. Tình thương một hướng là tình thương đem đến đau khổ hoặc cho mình, hoặc cho người khác, hoặc cho các loài vật. Người có đạo đức là người sống với lòng thương yêu chân thật đa hướng.

Tất cả đạo đức đều xuất phát từ lòng yêu thương. Do vậy lòng yêu thương rất quan trọng. Muốn thấy được lòng yêu thương thì lòng yêu thương phải được thể hiện qua hành động.

Vậy sống như thế nào để gọi là biết sống thương yêu?

* Sống với tâm rộng lượng sẵn sàng tha thứ, bỏ qua mọi lỗi lầm, sai phạm của người khác và không bao giờ nhắc đến. Khi nhắc đến lỗi lầm, cái sai, cái xấu của ai thì đã đánh mất lòng thương yêu. Có những gia đình sống rất hay, họ không bao giờ nói cái xấu, cái sai, cái lỗi của bất kỳ ai trong gia đình và ngoài xã hội, dù thấy biết nhưng họ sẵn sàng tha thứ và bỏ qua, xem như không có gì. Có một câu chuyện về gia đình của Jane White, mỗi khi cả nhà quây quần bên bàn ăn thì họ chẳng quan tâm đến việc ai phạm sai lầm gì. Họ lướt qua những lỗi lầm của nhau và vẫn vui vẻ tiếp tục sống. Không một ai mách tội ai, họ không bao giờ để ý xem ai phạm điều gì, để mách tội nhau. Gia đình White có 3 trai và 3 gái.

Lần đó em gái Amy vừa mới lấy bằng lái xe hơi, nhân dịp đi New York chơi, các chị cho em lái xe và không ngờ em lơ đễnh và phản xạ của em còn chậm cho nên bị một xe tải đâm vào làm một người chị gái Jane chết ngay tại chỗ, còn Srah thì bị thương ở đầu, Amy thì bị gãy chân. Khi bố mẹ vào bệnh viện thăm, họ ôm hôm các con và khóc nói những lời nói động viên “các con còn sống là cha mẹ mừng rồi”, nói những câu vui đùa như không có chuyện gì xảy ra. Chẳng một lời trách móc nào. Chính nhờ vậy mà cô con gái tiếp tục sống vui vẻ, có sự nghiệp, cưới chồng và có một gia đình hạnh phúc. Thật là tuyệt vời. Qua câu chuyện tôi đã học được bài học từ gia đình Jane rằng việc đổ lỗi cho ai vì bất cứ chuyện gì là không quan trọng. Đôi khi, nó chẳng có tác dụng gì. Đức này là đức Từ Bi Hỷ Xả.

* Sống biết nhường nhịn. Luôn biết nhường phần của mình cho người khác; nhường niềm vui của mình cho người khác; nhường công lao của mình cho người khác; nhường phần thưởng của mình cho người khác; nhường chỗ đứng xếp hàng cho người khác; nhường lối cho người đi trước; nhường đường cho xe khác đi trước; nhường chỗ ngồi trên xe buýt cho người khác nhất là người lớn tuổi phụ nữ có thai và em bé; nhường chỗ làm cho người khác; nhường cho người khác nói trước hay làm trước, khi ai cho cái gì đẹp, ngon, tốt thì mình nhường phần đó cho người khác, không tranh giành, v.v…

Ví dụ: ai đó cho một cái máy, có nhiều người cũng muốn, khi biết vậy thì mình nhường ngay, không xin. Đó là mình đã có ý tốt biết sống nhường nhịn. Nhưng đôi khi lại không giống như vậy, mình thấy mình cần nên mình vẫn xin như mọi người, hoặc có thể mình không cần nhưng vẫn cứ xin để đem về nhà cho người thân hay người quen. Chỉ cần nhạy bén một chút là có thể sống biết thương yêu. Chỉ cần một sai lầm nhỏ là chúng ta đánh mất lòng thương yêu. Tâm tham của con người rất vi tế, chúng lý luận rất hay, xin đem về cho người khác cũng là tâm tốt, chúng sai bảo chúng ta mà chúng ta không biết. Ở đâu có lòng tham, ở đó sẽ không có lòng yêu thương, ở đâu có lòng yêu thương, ở đó không có tham. Đức này là đức nhường nhịn.

* Dù mình có nghèo đói cũng đừng quên những người nghèo đói khác. Có một câu chuyện về những người đi làm từ thiện đến một vùng nghèo đói tại Mỹ, một lần cô Kathy nhận được điện thoại phải mang gạo đến vùng ngoại ô để giúp một gia đình đông con đã bị đói vài ngày. Cô Kathy chuẩn bị gạo, thức ăn và mang đi ngay. Khi mang gạo và thức ăn đến, nhìn người mẹ và đám con nhỏ trông hốc hác, xanh xao rất tội nghiệp. Thay vì khi nhận được gạo và thức ăn người mẹ nấu ngay cho mình và các con ăn, thì cô Kathy thấy người mẹ sớt một nữa phần gạo và thức ăn vừa nhận được chạy nhanh ra khỏi nhà. Khi trở về hỏi ra thì mới biết người mẹ đem phần gạo và thức ăn đó cho một gia đình khác cũng đang đói. Người làm từ thiện là người có lòng thương yêu, nhưng chúng ta thấy người mẹ này có lòng thương yêu thật tuyệt vời, trong cơn đói khổ sẵn sàng chia sẻ những gì mình có, không ích kỷ hẹp hòi. Thất là lòng thương yêu cao thượng. Đức này là đức chia sẻ.

* Khi đã khá giả thì chớ quên người khác xung quanh, giúp họ khá giả như mình, chứ đừng nghĩ cuộc sống của ai nấy lo. Khi tất cả mọi người xung quanh đều khá giả thì cuộc sống của mình sẽ vững chắc và lâu bền hơn. Có một câu chuyện về đợt thi quả bí ngô cân nặng nhất, một người nông dân trồng bí ngô cân nặng 50 lb đoạt giải nhất. Khi đoạt giải xong, mọi người khác xin hạt giống bí ngô của ông về trồng, ông đều cho và lấy làm vui vẻ. Một người hỏi tại sao ông không giữ lại hạt giống cho mình mà lại cho đi, rủi năm sau ông không đoạt giải nữa thì sao. Ông trả lời do cho đi những hạt giống này mà các ruộng bí bên cạnh đều là giống bí tốt, đến mùa ra hoa, phấn của các hoa bí bên cạnh bay sang ruộng tôi, mới giúp tôi có quả bí ngô to, còn nếu ruộng bí của hàng xóm bên cạnh có giống nhỏ hơn thì chắc bí của tôi cũng sẽ nhỏ như họ. Đây là đức chia sẻ.

* Khi thấy của rơi thì hoặc để yên đó để người đánh rơi quay lại tìm thấy, hoặc lượm lên mang đến cảnh sát, hoặc tự mình đem trả lại cho chủ, không tham lấy một vật gì dù đó là một vali tiền. Khi tự tay mình đem trả thì không nhận phần thưởng nào. Đó là mình sống thật với lòng thương yêu. Đức này là đức ly tham.

* Không tham lam trộm cắp của ai. Trước khi lấy vật gì thì nên xin phép. Đó là mình không muốn người khác giận khi bị mất cái gì. Đức này là đức ly tham.

* Sống không tham gia vào các trò chơi thắng thua, cờ bạc, chứng khoán, cá độ. Bởi vì kẻ thắng thì gây thù oán, kẻ thua thì chịu khổ đau. Do biết vậy chúng ta không nên tham gia vào các loại trò chơi thắng thua để không phải làm khổ mình, khổ người. Đức này là đức ly tham.

* Sống luôn biết sẵn sàng bố thí. Bố thí không chỉ tiền tài vật chất mà còn biết chia sẻ mọi thứ trên thế gian này khi có cơ hội, bố thí thời gian, công sức, lời nói ái ngữ, sự hiểu biết kinh nghiệm,… Ví dụ: Nhà trồng bông, người ngoài đi ngang nhà thấy bông đẹp, thích và hái không xin phép. Mình thấy vậy thì hãy lấy đó làm niềm vui, vì bông mình trồng đem niềm vui đến cho người khác. Nếu được thì nói ngay những lời nói yêu thương “nếu cô thích thì hái thêm về cắm trong nhà cho đẹp”.  Nếu mình nghĩ rằng mình trồng bông chỉ để cho mình ngắm thôi, chỉ để cho mình hái thôi thì mình sống quá ích kỷ hẹp hòi. Còn khi mình luôn sống biết chia sẻ những gì đẹp nhất, ngon nhất, tốt nhất cho người khác, ai thích cái gì mình đang có thì mình luôn sẵn sàng cho đi, đó là mình sống biết đem niềm vui đến cho người. Khi người ta muốn cái gì mà đạt được toại nguyện thì ai cũng vui. Ngay khi khi biết người khác muốn gì mà mình đáp ứng ngay thì mình sẽ đem niềm vui đến cho họ. Đâu phải khi cho tiền người nghèo mình mới vui đâu. Ai biết sống yêu thương thì hằng ngày có hằng trăm nghìn cách để đem niềm vui đến cho mọi người. Đó là sống yêu thương. Khi các bạn sống yêu thương thì mới nhận ra rằng sao chúng đơn giản, dễ dàng, gần gủi đến thế mà mình đã bỏ qua và không biết từ bao lâu nay. Đức này là đức bố thí.

* Giúp người đừng tính thời gian. Đang giúp người thì giúp cho trọn, cho xong rồi nghỉ. Thấy người vẫn làm thì mình cùng làm cho xong, đừng nghĩ rằng đã đến giờ nghỉ phải thôi việc. Đức này là đức bố thí.

* Sống biết cho đi những gì mình thích nhất, ngon nhất, tốt nhất, đẹp nhất, quí nhất, kể cả hạnh phúc của mình cho người khác, không phân biệt thân sơ và kẻ thù. Nếu mình vui khi có những thứ thích nhất, ngon nhất, tốt nhất, đẹp nhất, quí nhất thì người khác cũng vậy, cho nên trước khi cho ai vật gì thì hãy lấy những thứ mình thích nhất, ngon nhất, tốt nhất, đẹp nhất và quí nhất cho người khác. Ví dụ mình thích uống nước trái cây thì hãy mời người nước trái cây thay vì nước lạnh, mình thích ăn trái cây thì hãy mời người trái tươi tốt ngon mà mình thích,… Như người mẹ thương yêu con cái luôn để giành những thứ tốt đẹp, ngon, mới, quí giá nhất cho con mình. Đức này là đức tôn trọng bố thí.

* Mua đồ vật mà rẻ quá thì trả tiền thêm. Ở Việt Nam có nhiều người từ quê ra chợ thị trấn bán vài món rau hay trái cây vườn kiếm thêm tiền mua gạo. Họ bán rẻ hơn chợ và nhìn trông rất tội nghiệp. Có nhiều người mua thấy vậy khi trả tiền thì trả hơn một chút hoặc không cần tiền thối lại. Đó là một hành động sống thương yêu khéo léo thật là hay. Đây là đức bố thí.

* Nếu có dư vật gì không dùng thì hãy cho đi, đừng để giành cất giữ. Biết có còn sống đến ngày mai không mà cất giữ làm gì. Có rất nhiều người đang cần những thứ ta có. Có rất nhiều cơ quan từ thiện sẵn sàng nhận những vật người khác cho để đem cho lại những người cần đến, hoặc có những website freecycle hoặc craiglist giúp cho mọi người tận dụng lại những đồ cũ hoặc dư thừa của người khác. Có thể đối với một người một vật là cũ hay vô dụng, nhưng đối với người khác lại là vật hữu dụng. Đây là đức ly tham bố thí.

* Đừng nghĩ rằng vật gì cũng có thể bán, tiền bạc sẽ làm cho chúng ta đánh mất tình thương. Nếu có dư giả tiền của thì khi dư cái gì hay muốn thay đổi cái gì mới thì nên cho đi cái cũ, đừng nghĩ rằng bán rẻ còn hơn cho không, nhất là anh em trong gia đình thì không nên buôn bán dù đó là chiếc xe hơi hay căn nhà. Đây là đức bố thí.

* Dù cho người giàu hay người nhiều tiền cũng cần giúp đỡ, đừng đánh giá người qua hình tướng hay tài sản mà bỏ qua cơ hội sống thương yêu. Người nhiều tiền cũng lo lắng, buồn phiền, sợ hãi, cũng bệnh, già, chết, cũng chỉ có hai tay… như mọi người khác. Người giàu là người sống biết đủ. Người nhiều tiền chưa chắc là người giàu vì họ vẫn thấy chưa đủ, luôn nghĩ cách tìm ra tiền. Đây là đức bố thí.

* Giúp người đừng sợ đêm khuya, mưa hay giông bão. Ngày xưa vùng nông thôn có vài nhà có điện thoại. Một lần chủ nhà nghe chuông reo và được nhờ nhắn hàng xóm cách vài căn, tuy trời đêm hôm mưa lạnh, người chủ vẫn khoác áo vào đi gọi. Thật là tình nghĩa xóm làng. Đây là đức bố thí.

* Sẵn lòng giúp chỗ ăn chỗ ở cho những thí sinh lên thành phố thi đại học, nếu có khả năng thì cung cấp chỗ ở miễn phí cho sinh viên học đại học 5 năm và nếu có khả năng hơn nữa thì cung cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo. Có khi sinh viên phải lên thành phố thuê nhà để sống và học, nếu vì lý do gì đó không đủ tiền trả tiền trọ thì chúng ta thương yêu họ và cho họ sống nhờ đến khi có tiền rồi trả cũng được hoặc trả bao nhiêu cũng được tùy khả năng. Khi con người không còn bị nô lệ cho đồng tiền thì chúng ta thấy mình đem hạnh phúc và niềm vui đến cho bao nhiêu người. Đức này là đức bố thí.

* Khi đọc báo thấy có nhiều người bất hạnh nghèo đang bệnh tật cần tiền mua thuốc hay làm phẩu thuật, những vùng nghèo cần xây dựng hay thiếu thiết bị cho trường học. Nếu có khả năng chúng ta nên giúp ngay, đừng để cơ hội qua đi, để rồi đánh mất một cơ hội sống thương yêu. Đức này là đức bố thí.

* Có ai nhờ giúp việc gì thì đang bận hay tính làm việc gì cũng dời lại làm sau. Khi có ai nhờ làm việc gì là người đó tin tưởng mình, hy vọng vào sự giúp đỡ của mình, vậy chúng ta hãy sống thương yêu và đừng làm cho người khác thất vọng. Đây là đức bố thí.

* Có khi chúng ta cho ai đó mượn tiền hay mượn đồ vật mà trả chậm thì chúng ta cũng vui vẻ, đừng hối thúc hay hỏi họ. Ai cũng có lúc khó khăn, mình cũng có lúc như vậy thì chớ nên làm khó người. Nếu ai mượn tiền hay mượn vật gì thì nên nhớ rằng nếu chẳng may người đó vì lý do nào đó không trả được thì mình cũng sẵn lòng cho họ luôn. Còn không tính được chuyện này thì thà không cho mượn vì khi gặp chuyện không may xảy ra thì tình cảm sẽ bị mất, kể cả anh em, bạn bè, vợ chồng, cha mẹ và con cái. Có thể mình không nói ra nhưng người mượn cũng cảm thấy khó chịu. Đức này là đức tỉnh giác bố thí.

* Sống biết yêu thương mọi người và các loài vật sống xung quanh mình. Loài vật nào cũng cần sống, loài vật nào cũng phải kiếm ăn hằng ngày. Kiếm ăn rất khổ cực. Mình đây cũng phải khổ cực đi làm hằng ngày kiếm tiền mua thức ăn thì mọi người mọi loài vật đều như vậy. Nếu có dư đồ ăn thì mình chia sẻ cho người khác, cho loài vật khác. Đức này là đức hiếu sinh bố thí.

* Khi sống với đức bố thí người bố thí nên biết cám ơn người nhận bố thí.

* Sống luôn tôn trọng người khác, không phân biệt thân sơ, kẻ thù, người lớn hay nhỏ tuổi hơn mình, nam hay nữ, người thành thị hay nông thôn, người khác màu da, dân tộc, người sang hay hèn, giàu hay nghèo, người có học hay thiếu học,… Có một câu chuyện kể rằng một người con gái nông thôn lên thành thị học, sau khi học thì cưới chồng giàu sang. Khi đám cưới, mẹ cô từ dưới quê nghèo lên dự mặc bộ đồ cũ. Sợ khách chê cười, cô con gái không dám nhìn mặt mẹ và không dám giới thiệu mẹ với khách. Cô con gái đã đánh mất lòng thương yêu ngay cả đến với mẹ mình. Đức này là đức tôn trọng.

* Biết ai cần gì, nếu mình có thì cho mượn hoặc cho ngay. Đức này là đức không ích kỷ hẹp hòi.

* Sống giữ gìn vệ sinh sạch sẽ cho chính mình và cho người khác, tại nơi công cộng, công sở và bất kỳ nơi nào. Chỉ xả rác vào thùng rác. Không khạc nhổ ngoài đường phố, nơi công cộng, bãi cỏ. Tại những nước châu Âu và Mỹ có những em bé sống có đức vệ sinh rất hay, khi không tìm thấy thùng rác công cộng thì các em bỏ vào túi sách hoặc túi quần áo của mình. Đây là đức vệ sinh.

* Làm việc tốt không cần ai biết đến. Tại Việt Nam thường có những vùng bị lũ lụt mỗi năm, đến mùa đó thì có nhà bị mất trắng hết lúa, gạo. Họ rất khổ và không biết làm sao. Lần đó trong thị trấn có một gia đình buôn bán khá giả, biết được tin về chuyện đói khổ của dân mình. Hai vợ chồng bàn nhau ban đêm chèo thuyền đem gạo đến từng nhà, để không ai biết mình giúp. Đây là đức khiêm tốn.

* Người cùng gia đình thì nên biết sống đoàn kết không nói xấu nhau, Sẵn sàng cho tặng nhau bất kỳ vật gì mà mình có, đối với người thân không nên buôn bán; sẵn sàng góp của cải chung để sống tốt hơn. Ví dụ người có đất, kẻ có tiền thì cùng góp với nhau để xây một căn nhà ở, người có đất đừng nghĩ rằng đợi lúc có tiền mới xây nhà, hay người có tiền thì nghĩ để dành thêm tiền mua đất rồi có dư thì xây lên ở riêng. Ai cũng muốn có cuộc sống riêng. Lúc khó khăn biết đoàn kết nhau thì cuộc sống sẽ vui vẻ, tình nghĩa anh em luôn gắn bó. Đây là đức đoàn kết.

* Sống không phân biệt thân sơ. Mình đối xử với người thân như thế nào thì hãy đối xử với người ngoài như vậy. Nếu mình sẵn lòng cho người thân chiếc xe, ngôi nhà hay những gì mình yêu thích nhất thì hãy sẵn lòng cho người ngoài như vậy. Hãy thương yêu người ngoài như người mẹ thương yêu con một của mình. Do thương yêu ai cũng như con một của mình thì người đó sẽ luôn cảm thấy hạnh phúc dù người con ruột không bên cạnh, vì lúc đó người mẹ không cảm thấy cô đơn, mà biết rằng còn có nhiều người con khác bên cạnh.

Người tu hành là người có tâm thương yêu rộng lớn, họ sống không chỉ có thương yêu người thân mà còn cả mọi người và loài vật có sự sống trên hành tinh này. Tình thương yêu của họ không còn ích kỷ hẹp hòi cá nhân nữa mà mở rộng thương yêu bình đẳng không phân biệt thân sơ. Họ hy sinh đời sống cá nhân riêng tư để yêu thương phục vụ cho mọi người trên thế gian này như chúa Giêsu từ bỏ cuộc sống gia đình, đem tình thương của mình trải rộng ra thương yêu tất cả mọi người. Ở nước Ấn Độ thì có đức Phật và thánh Mahatma Gandhi. Có thể những nhân vật này thất bại trong việc hy sinh của mình trước sự tàn ác tham lam của con người, nhưng họ đều để lại cho con người cách sống biết yêu thương nhau.

Tất cả mọi người trên thế gian đều đang khổ, dù đó là người giàu có. Chỉ khi hiểu và sống đạo đức biết thương yêu nhau thì mới giúp mọi người hết khổ. Chính đời sống thiện sẽ chuyển đổi hoàn cảnh sống của mọi người. Dù cho con người có giúp nhau bằng tiền bạc vật chất, thì đó cũng chỉ là tạm thời, không thể chuyển tâm tánh tham lam, sân giận, kiêu mạn, nghi ngờ, và ích kỷ của con người thành thiện được. Chỉ khi con người ý thức, tự giác được lợi ích của đạo đức và tự nguyện biết sống thương yêu nhau, thì mới chuyển đổi được hoàn cảnh nghèo đói, thiên tai bệnh tật của họ thành no ấm, khỏe mạnh an vui và hạnh phúc. Đức này là đức hiếu sinh đa hướng.

* Sống biết thương yêu sự sống của muôn loài vạn vật. Ai cũng tham sống sợ chết. Mình cũng vậy thì mọi người hay muôn loài vạn vật khác cũng vậy. Do vậy chớ giết người, giết vật; chớ cầm cây đánh người, đánh vật; chớ buôn bán người, buôn bán vật; chớ ăn thịt người, ăn thịt các loài vật. Mình sống biết tôn trọng sự sống của muôn loài vạn vật có sự sống khác thì mạng sống mình mới bảo tồn được, người sống được như vậy thì ít bệnh tật, tai nạn, bệnh nhẹ thì mau hết, bệnh nặng thì có người giúp đỡ và hết nhanh, không kéo dài. Do sống không quý trọng sự sống của muôn loài vạn vật khác mà loài người không ai tránh bệnh tật, kẻ liệt giường, tàn tật, bị tai nạn cho đến hàng ngàn bệnh tật khác ngày càng nguy hiểm hơn và khó trị hơn. Nhiều người nghĩ rằng có thuốc rồi không còn sợ gì nữa, nhưng đâu ai tránh được không bệnh, không bệnh này thì có bệnh khác. Thuốc chỉ dùng để trị cái ngọn chứ đâu trị được cái gốc của bệnh tật.

Cái gốc chính là ở chổ quý trọng sự sống của muôn loài vạn vật. Quý trọng sự sống của muôn loài vạn vật cho nên mình ăn chay. Đó là ý nghĩa cao quý và lợi ích của ăn chay. Chính vì ăn chay, không sát sanh mà chúng ta đang trau dồi lòng thương yêu hằng ngày, không muốn thấy sự đau khổ của muôn loài vạn vật trong chén cơm của mình. Do vậy mà chúng ta tập dần thói quen không muốn thấy ai khổ, không muốn làm ai khổ qua từng hành động lời nói và ý nghĩ hằng ngày. Chỉ cần mỗi ngày dành ra 15’, hoặc trước khi đi ngủ kiểm nghiệm lại từng hành động, lời nói và ý nghĩ của mình trong ngày có làm khổ mình, làm khổ người hay làm khổ các loài vật khác hay không. Nếu có thì tác ý chừa bỏ không làm, nói hay suy nghĩ trong tương lai nữa. Chỉ cần như vậy hằng ngày đều đặn sẽ tập một thói quen tốt, và khi đã thuần thục thì tâm luôn thanh thản an lạc và vô sự một cách kỳ lạ tự nhiên. Đó là tâm của kẻ sống thiện, tâm của kẻ sống trên thiên đàng, cực lạc. Không còn tham, sân, kiêu mạn, nghi ngờ nữa mà chỉ có yêu thương. Đức này là đức hiếu sinh.

* Đi đường lượm lên 1 cây đinh, vỏ chuối cũng là sống thương yêu biết lo nghĩ đến người khác. Đây là đức hiếu sinh. 

* Đừng mang chuyện lo lắng, buồn bực từ nơi công sở hay bên ngoài về nhà. Đức này là đức hiếu sinh. 

* Nhận lỗi thay người khác. Gánh tội thay cái sai dùm người. Có một quản đốc tên Gary xưởng dệt rất hay, tuy là một chức vị nhỏ nhưng ông yêu thương công nhân của mình như con. Lần đó một thanh niên trẻ tên Tom vừa được nhận vào làm chưa quen, làm chậm hơn và ảnh hưởng đến năng suất sản xuất của cả dây chuyền. Giám đốc mời ông Gary lên hỏi thì ông Gary chỉ nhận lỗi mình, không hề nhắc đến tên Tom trước mặt giám đốc. Khi ai sống với lòng thương yêu chân thật thì hành động sống của họ thật giản dị và cao thượng tuyệt vời. Đức này là đức hiếu sinh. 

* Sống biết dũng cảm cứu người, cứu vật khi người gặp hoạn nạn như cháy nhà, bị nước cuốn trôi hoặc cứu con ếch đang bị con rắn cắn, cứu vớt các loài thú rơi xuống nước … Đức này là đức hiếu sinh dũng cảm.

* Sống biết lắng nghe. Biết kiên nhẫn lắng nghe người khác tâm sự, giúp cho người khác trút hết mọi phiền não, tức giận, hay lắng nghe sự chia sẻ những gì người khác thích. Đừng cắt ngang câu chuyện, viện cớ bỏ đi hay có chuyện khác phải làm. Đừng sợ mất thời gian quý báu của mình mà hãy nghĩ rằng đây thời gian để yêu thương. Lắng nghe là yêu thương. Đức này là đức hiếu sinh lắng nghe.

* Sống biết thương yêu kẻ thù của mình. Khi có cơ hội giúp người ghét giận mình thì mình giúp ngay. Đó là sống yêu thương. Chỉ có lòng thương yêu mới hàn gắn lại lòng thù hận của người khác. Đức này là đức hiếu sinh tha thứ.

* Sống biết thương yêu những người tội phạm. Ví dụ khi có ai muốn vào nhà lấy vật gì của mình mà mình biết được thì mình hãy bình tĩnh nói rằng nếu bạn đói thì hãy lấy cơm mà ăn, nếu bạn cần tiền thì hãy lấy tiền mà xài. Tiền, cơm,… mất có thể kiếm lại được, chứ lòng thương yêu không thể kiếm lại được đâu. Chỉ khi mình rèn luyện lòng thương yêu hằng ngày bằng phương pháp như lý tác ý (tự kỷ ám thị) thì dần dần lòng thương yêu rộng lớn, khi lòng thương yêu rộng lớn rồi thì sẽ không còn sân giận hay sợ hãi ai kể cả có ai đó giết mình mà mình chỉ biết thương yêu họ chứ không bao giờ giận họ. Khi chưa thuần thục thì hãy tác ý nhắc tâm hằng ngày những gì mình sống chưa biết thương yêu. Ví dụ: nhắc tâm “Hãy sống thương yêu người ăn trộm, kẻ cướp hay kẻ đánh giết mình”, “Hãy sống luôn biết chia sẻ mọi thứ mà người khác thích”,… Đức này là đức hiếu sinh ly tham.

* Sống biết cho đi hạnh phúc của mình. Đây là một việc khó nhưng khó mà làm được thì người đó là phi thường. Chỉ đơn giản một điều là mình hiểu được ý nghĩa của cuộc sống này chính là “đem niềm vui hạnh phúc đến cho mình, cho người khác và muôn loài vạn vật khác.” Người biết sống yêu thương hiểu rằng khi thấy ai hạnh phúc thì mình mừng vui, lấy niềm vui hạnh phúc của người làm niềm vui hạnh phúc cho mình. Đó là phương châm sống của họ.

Ví dụ một người mẹ có đứa con trai một. Khi thấy người vợ mới cưới của con trai làm cho con trai hạnh phúc vui vẻ thì người mẹ cũng mừng vui hạnh phúc. Cũng vậy khi một người có vợ hay chồng có bạn đời khác thì người đó cũng nên vui mừng, vì có người đem hạnh phúc và niềm vui đến cho vợ hay chồng của mình. Mình thấy vợ hay chồng của mình hạnh phúc thì mình vui chứ sao lại buồn. Mục đích sống của mình là thấy người mình thương yêu hạnh phúc như người mẹ thấy con trai mình hạnh phúc thì vui, chứ đâu có ghen với người con dâu. Do “thấy người mình thương yêu hạnh phúc thì mình mừng vui” chứ sao lại ghen với người kia. Đôi khi người ta bị hiểu lầm về tình yêu nam nữ như một tình yêu chiếm hữu, sau khi cưới là của nhau, không còn của ai khác nữa. Chỉ muốn là của riêng mình. Chính vì do hiểu như vậy mà thay vì có thể sống biết thương yêu thì con người biến lòng thương yêu thành sự thù hận suốt đời không quên được. Có người biết cách sống thương yêu này còn tìm gặp người bạn của vợ hay chồng mình nói lời cám ơn đã giúp cho vợ hay chồng mình vui, hay có người vợ mua hoa cho chồng đem tặng cho cô bạn mới. Người làm được như vậy là người biết cho đi hạnh phúc của mình. Đó là cách sống biết yêu thương. Chỉ có người sống có lòng thương yêu thì mới làm được những điều phi thường này, còn chưa hiểu và biết sống thương yêu thì chỉ nuôi lòng thù hận, đánh mất lòng thương yêu suốt đời. Đức này là đức thương yêu hy sinh.

* Sống với tâm bình đẳng, không phân biệt nam nữ, người tu sĩ nam hay tu sĩ nữ, già hay trẻ, sang hay hèn, giàu hay nghèo, có học thức hay thiếu học, có tôn giáo hay không tôn giáo, bình đẳng giữa các tôn giáo với nhau, dân thành thị hay nông thôn, màu da, cùng dân tộc hay khác dân tộc, loài người và thú vật, chủ và tớ,… Người ta kêu gọi sự tự do bình đẳng, nhưng người ta không có lòng yêu thương thì sự tự do bình đẳng đó không bao giờ có.

Ông Mahatma Gandhi cũng là một vị thánh nhân được cả Thế Giới kính mộ cũng đã từng từ bỏ hết quần áo sang giàu, chỉ mặc một chiếc áo vải bình thường, sống chung với những người dân thuộc tầng lớp cùng đinh, cho họ ở chung 1 nhà và xem như là anh em. Bình đẳng ở đây là bình đẳng sự sống, ai có sự sống thì đều được xem như nhau.

Con người vì tự xem mình là thông minh, cho nên đánh mất tình thương, không biết quí trọng sự sống của muôn loài, thường gây chiến tranh và giết hại hàng triệu loài vật hàng ngày. Họ chỉ biết lấy mạnh hiếp yếu, nhưng đâu ngờ trong vũ trụ này vẫn có bàn tay nhân quả công bằng. Bệnh tật, thiên tai động đất, sóng thần, lũ lụt, dịch bệnh, v.v… mỗi lần xảy ra đã và đang cướp đi hàng trăm nghìn sinh mệnh. Đó là những lời cảnh báo cho con người biết nên sống tôn trọng sự sống của nhau. Chiến tranh không thể giải quyết mọi xung đột, hận thù diệt hận thù đời này không thể có, chỉ có lòng thương yêu sự sống mới xóa được hận thù mà thôi. Chỉ có mỗi con người tự giác biết sống thương yêu và quí trọng sự sống của nhau thì hòa bình mới có. Chiến tranh do con người mà ra, hòa bình chỉ có khi con người từ bỏ lòng tham lam và sân hận của mình. Đức này là đức hiếu sinh bình đẳng tôn trọng.

* Sống không mang lòng bực tức sân giận ai. Ai sống với tâm thương yêu rộng lớn sẽ không bao giờ giận. Chỉ vì chưa sống thương yêu cho nên tâm hay giận khi bị trái ý, bị bất toại nguyện, bị lừa gạt, bị chửi mắng oan ức, bị đánh,… Chỉ có lòng thương yêu mới giúp chúng ta không còn giận nữa. Đây là đức ly sân.

* Sống biết nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Đa số mọi người chịu nhẫn nhục nén lòng khi thấy mình yếu kém hơn, nhỏ con hơn. Nhưng nhẫn nhục như vậy là nén lòng, tuy nhẫn nhục nhưng trong lòng vẫn bực tức sân giận. Còn người biết sống thương yêu nhẫn nhục, họ nghĩ rằng khi ai đánh mình, chửi mình, nói xấu, chê bai, chỉ trích mình,… thì mình im lặng, im lặng để không có sự cãi cọ đôi bên, gây thêm thù hận, cãi cọ sẽ làm cho đôi bên tức giận dẫn đến chửi nhau, đánh nhau, sẽ có người bị thương tích, rồi bị mời lên đồn cảnh sát, mất thời gian, bực tức suốt đời, ăn không ngon, ngủ không yên,… Do hiểu rõ tác hại như vậy mà mình sống thương yêu nhẫn nhục. Đó là mình thương yêu giúp cho người kia cũng bớt đi lòng thù hận, bực tức. Đức này là đức nhẫn nhục.

* Sống biết bỏ cái tôi đi, bỏ cái thói quen luôn cho mình đúng, luôn bảo vệ ý kiến của mình. Con người ai cũng bị kẹt vào cái tôi này mà đánh mất lòng thương yêu hằng ngày cả trăm ngàn cơ hội. Càng lớn tuổi thì cái tôi càng lớn, càng học nhiều, đọc nhiều, kinh nghiệm nhiều thì cái tôi càng lớn. Không muốn lắng nghe ai, không biết nhường nhịn ai, luôn thấy lỗi người khác, ai nói trái ý mình thì lên tiếng ngay bảo vệ ý mình cho bằng được. Chính vì vậy mà đánh mất lòng thương yêu. Nếu biết áp dụng đức tùy thuận thì chúng ta sẽ làm cho người khác vui. Đó là biết sống có thương yêu, bởi vì ai cũng muốn đúng, mình tùy thuận, nghe theo, làm theo ý của người đó là mình làm cho người vui. Đức này là đức tùy thuận.

* Sống biết tùy thuận là sống làm theo ý kiến, lời nói, yêu cầu hay hành động của người khác. Ai cũng luôn cho mình đúng, cái của mình bao giờ cũng tốt, cũng ngon, cũng nhất. Cho nên ai nói, hay làm trái ý thì giận hoặc liền ngay đó nói lên ý của mình ngay và bảo vệ ý đó. Ngay chổ này con người đã đánh mất lòng thương yêu. Vì khi bị ai nói trái ý thì ai cũng giận, cũng tự ái cả, mình cũng vậy thì người khác cũng vậy. Do vậy chúng ta hãy bỏ cái tôi xuống mà tùy thuận theo ý của người khác là chúng ta sống biết thương yêu.

Ví dụ: Khi đến nhà người khác ăn thì mở miệng chê là món này mặn, lạt, cay, chua, ngọt quá… Mỗi người do đặc tướng khác nhau cho nên cái lưỡi cũng khác nhau, tại sao mình cứ nghĩ rằng cái gì của mình cũng là đúng nhất. Người ta bỏ hàng giờ ra nấu ăn, trổ hết tài ra, sử dụng mọi thứ ngon nhất để nấu, nêm nếm ngon vừa miệng họ, đặt tình thương của họ vào trong món ăn. Vậy mà mình vì cái tính kiêu ngạo, quen miệng chê bai khi thấy trái ý một chút đã làm cho người khác buồn. Người hay chê bai như vậy lần sau chắc không được mời đến ăn nữa. Người như vậy ít bạn, thường sống cô đơn vì không ai muốn gần.  Đức này là đức tùy thuận.

* Sống không so sánh đối chiếu mình với người khác, hơn kém thua hay bằng người khác. Không so sánh đồ vật của người với đồ của nhà mình hay của mình. Thường khi nghe ai nói điều gì thì thầm trong đầu thường hay đánh giá người này nói sai hay đúng, thiếu hiểu biết hay có hiểu biết. Lịch sự thì không nói ra, còn không lịch sự thì nói ý mình ra để sửa sai người kia. Còn hơn nữa thì ra ngoài hay về nhà nói ra, nghĩa là nói sau lưng. Đó là người có tâm ngã mạn, hay so sánh mình với người khác, người này với người kia rồi đánh giá nhận xét. Ngay khi ý nghĩ khởi ra đánh giá bất kỳ ai thì ta dùng phương phác tác ý đập cái tâm ác này xuống, nếu không thì chúng ta sẽ đánh mất lòng thương yêu.

Ví dụ thấy ai đi chiếc xe mới mua thì so sánh chiếc xe đó với xe mình hay so sánh với chiếc xe khác mà mình biết, rồi khen chê. Bất kỳ vật gì cũng đều không qua được sự đánh giá so sánh trong đầu con người, bởi vì con người đã huân tập thành một thói quen xấu như vậy, cho nên nó tự nhiên khởi lên nhận xét, đánh giá, bình luận và khen chê,… Nếu không sử dụng pháp tác ý đập xuống thì không thể nào bỏ được thói quen xấu này. Và khi không bỏ được thì con người cho đó là tự nhiên ai cũng có như các tâm khác như sân giận, vui buồn, tham lam,…  Phải kiên trì và quyết tâm thì sẽ nhận ra những niệm khởi này dần dần thưa ra và biến mất, tâm tự chủ luôn được kiểm soát. Đức này là đức ly mạn.

* Sống biết đủ. Khi biết đủ thì con người sống sẽ có thời gian nghĩ đến người khác; biết giúp đỡ và cho đi những gì mình có, mình dư; sống không keo kiệt, bủn xỉn; không tham lam tích trữ, để dành hay gom góp mọi thứ về riêng cho mình. Cách sống biết chia sẻ là cách diệt lòng ích kỷ, bủn xỉn hẹp hòi. Đức này là đức thiểu dục tri túc.

* Tác ý giữ tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Mọi pháp xảy ra đều là nhân quả. Tất cả những gì xảy ra đều là thước phim quay lại cho chúng ta thấy những hành động xấu tốt của mình trong quá khứ. Đó là những bài học nhắc nhở chúng ta từ bỏ ác pháp và tiếp tục tăng trưởng thiện pháp. Đức này là đức nhân quả.

* Tác ý giữ tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Mọi pháp xảy ra đều là vô thường, không thường hằng bất biến mà thay đổi, nay như thế này ngày mai sẽ khác, có sanh chắc có tử, có hợp chắc có tan, tan rồi hợp, có thành thì sẽ có bại. Mọi chuyện luân chuyển theo quy luật thành trụ hoại tan. Đức này là đức tất cả các pháp là vô thường.

* Tác ý giữ tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Biết chấp nhận mọi việc xảy ra dù là chuyện gì. Luôn sẵn sàng tha thứ và bỏ qua tất cả. Đức này là đức thương yêu tha thứ.

* Tác ý giữ tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Luôn thấy cái tốt, cái thiện trong mỗi người. Tất cả mọi người đều là người tốt, người thiện, là người đang giúp mình, đang thương yêu mình. Đức này là đức Từ Bi Hỷ Xả

* Tác ý giữ tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Không phán xét, đánh giá đúng sai phải trái về người khác. Mọi việc làm của người khác đều đang đem hạnh phúc đến cho họ, đó là sự lựa chọn tốt nhất, hợp nhất với họ. Họ hạnh phúc thì mình vui mừng cho họ, họ hạnh phúc thì mình cũng hạnh phúc an vui, có gì đâu mà lo. Đó là ý nghĩa của cuộc sống mà. Đâu cần họ phải làm theo ý của mình thì họ mới hạnh phúc. Hãy từ bỏ mọi ý nghĩ phán xét, đánh giá việc làm của người khác, thuận theo ý của mình là đúng, khác ý của mình là sai. Hãy nhìn con đường và sự lựa chọn của người khác là cách tốt nhất, mang hạnh phúc và an vui nhất đến cho người. Có như vậy thì đâu còn lo lắng, suy nghĩ, bận tâm nữa. Đức này là đức bất động tâm.

* Tác ý giữ tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Tâm không nên suy tưởng lung tung, suy đoán không căn cứ, tưởng là không có thật phải tác ý đuổi đi. Đức này là đức thực tế.

* Tác ý giữ tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Quán xét mọi chuyện với lòng thương yêu rộng lớn để không còn sợ hãi chuyện gì hay sợ ai cả. Đức này là đức hiếu sinh.

* Tác ý giữ tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Nhìn thấy lỗi mình không thấy lỗi người. Chính vì quán xét nhân quả cho nên chỉ thấy lỗi mình. Đức này là đức thấy lỗi mình.

* Tác ý giữ tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Mọi chuyện xảy ra đều là điều tốt, là một nhân tố tốt đem lại những điều tốt trong tương lai. Chỉ cần chúng ta biết cách nhìn và sử dụng khía cạnh tốt của chúng thì mọi việc sẽ êm đẹp và thành công. Nếu ai có đọc chuyện kể về ông Walt Disney thì biết rằng trước khi giàu có nổi tiếng ông là một họa sĩ sống trong một chiếc xe tải nhỏ. Hằng ngày ông vẽ hết bức tranh này rồi đến bức khác, nhưng tất cả đều bị xé bỏ sau đó. Cùng sống với ông trong chiếc xe có một chú chuột nhắt. Một lần tình cờ ông nhìn chú chuột chạy qua lại trong xe rồi nảy ra ý tưởng vẻ tranh về chú chuột. Từ đó tranh ông bán đắt giá và ông bắt đầu thành công. Do vậy mọi chuyện xảy ra xung quanh đều là một cơ hội tốt giúp chúng ta điều gì đó. Chỉ cần chúng ta để ý quan sát và nhìn chúng với con mắt thương yêu bình đẳng, con mắt thiện và tốt thì tâm hồn chúng ta sẻ cởi mở, trong sáng và sáng suốt. Đức này là đức chánh niệm tỉnh giác.

* Tác ý giữ tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Sống biết tôn trọng mọi quyết định của mọi người. Chuyện mình mình biết, chuyện của người người lo. Không nên nhiều chuyện. Đức này là đức tôn trọng.

* Tác ý giữ tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Không nên dính mắc và chuyện đúng sai phải trái của người mà hãy nhìn mọi việc với đôi mắt nhân quả. Nhân quả của ai người đó lo. Mình khuyên họ, liệu họ có nghe theo không. Không nghe theo thì mình lại thêm buồn khổ, lo lắng nữa. Rồi nếu họ sai thì họ tự sửa, đó là cách tốt nhất để họ học hỏi bằng kinh nghiệm của chính họ. Đức này là đức nhân quả.

* V.v… V.v…

 Nếu kể ra thì có hằng trăm ngàn cách sống thương yêu mà hằng ngày chúng ta để trôi qua và đánh mất. Sự trình bày ở trên chỉ là một phần nhỏ khái quát chung tạm đủ để sống yêu thương bằng chính khả năng và điều kiện của mỗi người, ai cũng làm được và đã làm được. Mọi người đang sống yêu thương nhau và mang hạnh phúc đến cho nhau. Chính mọi người là tấm gương sáng cho nhau trong cuộc sống.

Tất cả cách sống thương yêu đều hỗ trợ cho nhau, có cái này thì cái kia sẽ có và dễ dàng, mình càng biết cách sống thương yêu nhiều thì mình sẽ thấy dễ dàng hơn trong những trường hợp khác. Lúc đầu khi chỉ biết vài cách sống thương yêu thì chúng ta hãy thường xuyên nhắc tâm những cách sống nào mà mình chưa quen, ít nhất một lần một ngày. Khi đã sống quen rồi thì không cần nhắc tâm nữa. Phương pháp nhắc tâm là một phương pháp không thể thiếu được để trau dồi lòng thương yêu. Thiếu phương pháp nhắc tâm thì lòng thương yêu không thể có được hoặc yếu. Phương pháp nhắc tâm giúp diệt trừ tâm ác đã có và chưa sanh ra. Khi thấy tâm ác vửa khởi ra muốn giận, bực tức thì phải tác ý ngay, nếu không thì miệng sẽ nói ra lời nói chửi mắng người khác không kịp kiểm soát do thói quen huân tập lâu nay.  Ví dụ: “Tâm không được sân giận, sân giận là đánh mất lòng thương yêu, hãy yêu thương mọi người”.

Tất cả tình thương đều do từ ý nghĩ mà ra, nếu nghĩ tốt, nghĩ thiện là biết sống có thương yêu. Nếu nghĩ xấu, nghĩ ác là đánh mất lòng thương yêu. Biết rõ tâm thiện hay ác là do sự huân tập lâu ngày thì mình hãy bắt tay ngay vào huấn luyện tâm mình bằng phương pháp tác ý. Chỉ cần thay đổi cách nhìn, thay đổi cách nghĩ thì từ một con người bình thường sẽ dễ dàng trở thành thánh nhân. Thánh nhân cũng từ con người mà ra. Thánh nhân chỉ là cái danh do con người đặt ra, thật ra khi ai đã sống biết thương yêu thì họ đâu cần cái danh đó, cuộc sống của họ cũng bình thường giản dị như mọi người nhưng họ có thể làm những việc phi thường, luôn thương yêu và tha thứ bỏ qua mọi lỗi lầm của người khác, chỉ nhìn thấy lỗi mình không thấy lỗi người. Chính vậy mà tâm họ luôn bất động thanh thản, an lạc và vô sự.

Hôm nay mỗi chúng ta đã nhận ra được lòng thương yêu ở ngay xung quanh mình, sao chúng đơn giản, gần gủi giản dị quá vậy. Vậy thì còn chờ gì nữa, hãy bắt tay vào và để ý mọi việc, mọi người xung quanh. Chúng ta sẽ thấy mọi người xung quanh đang sống yêu thương nhau, tất cả đều là người tốt, họ đang sống thương yêu chúng ta. Tất cả mọi người đang dạy chúng ta sống tốt, sống thương yêu đó.

Quá trình trau dồi lòng thương yêu đòi hỏi sự kiên trì, biết sử dụng phương pháp tác ý và lòng quyết tâm. Nên chọn một nơi yên lặng ngồi thẳng lưng (trên ghế, hay ngồi kiết già) tự nhiên không gò bó, quan sát cái tâm khởi nghĩ điều gì rồi quán xét phân tích niệm nghĩ đó xem nó hoặc có làm đau khổ mình, hoặc khổ người, hoặc khổ các loài vật không? Nếu có thì quyết từ bỏ bằng câu tác ý nhắc tâm: “Tâm bất động thanh thản, an lạc vô sự”. Người mới tu tập sẽ nhận ra thời gian đầu các niệm khởi lên liên tục, với quyết tâm rèn luyện lòng thương yêu thì dần dần các niệm sẽ vơi đi và hết. Chỉ cần quán xét từng niệm một, không cần để ý đến các niệm khác. Chính do sự thông hiểu và quyết từ bỏ thì các niệm sẽ vơi đi và hết. Lúc đó người tu tập sẽ chứng nghiệm được tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Ít nhất 30’ mỗi ngày là cũng đủ, ngồi 30’ rồi đứng dậy đi lại xả nghỉ thư giãn nhắc tâm luôn thanh thản an lạc và vô sự.

Trạng thái tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự là trạng thái tâm thanh tịnh tự nhiên, không nghĩ ngợi gì cả, tự nhiên yên bặt, chứ không phải cố tình ức chế tâm không niệm. Ức chế tâm không niệm là tu sai, sẽ không có kết quả gì cả. Tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự là do sự xả tâm biết sống ly dục và ác pháp. Những dục gồm có như tham ăn, ngủ, sắc dục, danh và lợi. Ăn ngủ phải đúng giờ, không ăn uống lặt vặt và phi thời; không khởi tâm tham muốn sắc dục của người khác phái; không để tâm chạy theo danh và lợi, sống biết đủ, xem thường mọi khen chê ở đời.

Không nhiều thì ít nếu ai hiểu được cách sống thương yêu thì cũng đã đem hạnh phúc đến cho mình, cho người và các loài vật khác sau khi đọc bài viết này. Thiệt ra chúng rất đơn giản, dễ dàng và gần gủi, nhưng vì con người đã huân tập lâu ngày những thói quen xấu từ suy nghĩ, lời nói cho đến hạnh động. Do vậy cần phải có thời gian huân tập lại những đức hạnh thiện để thành một thói quen tốt. Với quyết tâm và lòng kiên trì thì mọi chuyện sẽ thành công. Người thành công không phải luôn là người chiến thắng, mà là người khi vấp ngã, không bỏ cuộc biết đứng dậy tiếp tục đi tiếp.

Khi quen dần và thông hiểu với các niệm dục và ác, một thời gian sau không cần quán xét nữa, chỉ cần chúng khởi lên thì tác ý ngay: “tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự”. Người chết mà giữ tâm được bất động thanh thản an lạc và vô sự thì đó là một trạng thái toàn thiện. Do vậy đừng quên câu tác ý trên, mỗi khi hữu sự. Pháp tác ý chính là phao giúp vượt biển, không có phương pháp tác ý chúng ta sẽ bị cuốn trôi như hiện nay con người đang bị ác pháp cuốn trôi mà không hay biết, chỉ còn biết nương nhờ vào Thần Thánh Trời Phật phù hộ hay gia hộ, mất đi khả năng tự lực của chính mình.

Tham, sân, si, mạn, nghi là năm bức màn che làm cho con người không thấy được những hành động hay lời nói của mình làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh. Trong đó tâm si là tâm mê mờ, hiện tướng của tâm si là ngồi bị ngủ gật. Khi tâm si xuất hiện thì đứng dậy đi, đừng ngồi nữa, có khi tâm si quá mạnh đang đi té xuống ngủ mà không biết.

Khi tâm tham sân si mạn nghi giảm dần và mụi lược, tâm càng thanh tịnh và sáng suốt, người tu hành sẽ nhận ra được có hàng trăm ngàn hành động đạo đức xung quanh cuộc sống của con người. Mỗi mỗi một hành động nhỏ là một đức hạnh mang đến niềm vui và hạnh phúc cho nhau.

Tóm lại, sống thương yêu không chỉ nằm trong ý nghĩ mà nó phải được thể hiện bằng hành động và bằng lời nói. Khi biết sống có yêu thương thì lời nói sẽ tự nhiên ôn tồn, nhẹ nhàng và dịu dàng

                                                                            Tác giả: P. Anh

 
 

 

008-LÒNG YÊU THƯƠNG – Phước Chân

Lòng yêu thương, nó có sẵn trong tâm hồn của con người từ khi sinh ra khỏi lòng mẹ, nó là một đức tính tốt đẹp của muôn loài.

Lòng yêu thương, là nhân cách sống của con người. Được thể hiện bằng những hành động rất chân thật của mọi người đối xử, cư xử với nhau trong cuộc sống hàng ngày, biết tôn trọng sự sống của mình, của người, và của muôn loài vật.

 

Lòng yêu thương rất quan trọng đối với cuộc sống của con người, nó là vật quý giá vô cùng, dù là đá kim cương, vàng bạc châu báu, hay lắm của  nhiều tiền, không thể đem so sánh đánh đổi được, mà phải bằng cả trái tim, bằng cả tâm hồn chân thật.

Lòng yêu thương luôn tỏa sáng, nó có sức mạnh phi thường, nó xuất phát từ sâu thẳm của trái tim biết yêu thương, biến mình dám trở thành con người dũng cảm, làm lên những kỳ tích tinh thần yêu thương cao thượng, vĩ đại cho đời.

Vi lòng yêu thương người mà anh Nguyễn Bá Ngọc đã quên mình dám băng qua lửa đạn, dũng cảm hy sinh, lấy thân mình che chở cứu em bé nhỏ thoát chết dưới làn bom đạn.

Vì lòng yêu thương bạn, chị Phan Thị Tứ đã xả thân cõng bạn bị tật nguyền mười năm trời đến trường đi học.

Vì lòng yêu thương các em nhỏ không biết chữ, cô giáo Tày đã trèo đèo, lội suối, băng rừng, đến vùng sâu xa dạy các em học chữ.

Vì lòng yêu thương con cái. Cha mẹ đã thắt lưng, buộc bụng, thức khuya, dạy sớm, chăm sóc, nâng niu, nuôi nấng, dạy dỗ các con khôn lớn trưởng thành.

Vì lòng yêu thương quê hương, Tổ quốc, trước hai hàng lê họng súng của quân giặc cướp nước, chị Sáu kiên cường, hiên ngang, bất khuất, ngẩng cao đầu, mỉm cười hồn nhiên, trong sáng, chị đã hy sinh anh dũng, coi cái chết nhẹ tợ lông hồng.

Vì lòng yêu thương Tổ quốc, quê hương, bao anh hùng liệt sĩ vô danh của đất nước, đã dũng cảm hy sinh anh dũng để bảo vệ quê hương, sứ sở, non sông đất nước.

Thân thể, máu xương của họ đã tô thắm cho non sông đất nước, lịch sử còn ghi chép rõ, truyền lại nối tiếp nhau trên những trang sách.

Vâng, vô vàn biết ơn tất cả những người con của đất nước Việt nam, họ đã ban tặng, để lại những tấm lòng yêu thương cao cả tuyệt vời cho con cháu, hôm nay và những thế hệ mai sau

Ngày nay chúng ta sống trong nền độc lập tự do, đất nước không có chiến tranh là nhờ biết bao công lao các anh hùng liệt sĩ.

Vì thế, hôm nay chúng ta phải biết thực hiện và nuôi dưỡng lòng yêu thương bằng cách học tập đạo đức nhân bản - nhân quả của Đạo Phật.

Đạo đức nhân bản - nhân quả của Đạo Phật có pháp hành dạy con người biết thực hiện và nuôi dưỡng lòng yêu thương theo đúng nghĩa nhân bản của yêu thương. Đó là lòng yêu thương con người với con người, lòng yêu thương con người với các loài vật, lòng yêu thương con người với thiên nhiên, v.v... Lòng yêu thương ấy rất bình đẳng, tự nhiên trong sáng của con người, đó là lòng yêu thương sự sống của muôn loài.

Lòng yêu thương được thực hiện qua nhân cách sống của mỗi con người, biết cư xử, biết đối xử với nhau, nó được thể hiện rất nét bằng những hành động việc làm chân thật, bằng những lời nói ôn tồn nhã nhặn, với những ý nghĩ chân thành, biết tôn trọng trước những sự sống của mọi loài.

Ai cũng biết sự sống là rất quý. Mọi người ai cũng biết sống với lòng yêu thương, tôn trọng sự sống, biết kính trên nhường dưới, biết đùm bọc giúp đỡ nhau, biết chia sẻ, biết ban tặng những lời nói ôn tồn nhã nhặn để làm xoa dịu, vơi đi những nỗi khổ đau, mất mát của những con người bất hạnh, những con người đang cần lòng yêu thương, thì cuộc đời này nó có ý nghĩa tươi đẹp biết bao.

- Dắt tay một cụ già qua đường, là chúng ta đang thực hiện hành động lòng yêu thương.

- Mang thức ăn cho một con vật đang đói, là chúng ta đang thực hiện hành động lòng yêu thương.

- Mỗi bước đi tránh không dẫm đạp lên ngọn cây, ngọn cỏ, là chúng ta đang thực hiện hành động lòng yêu thương.

Lòng yêu thương, nó rất rộng sâu và bao la vô lượng. Mọi người nói rất nhiều về lòng yêu thương, nhưng để thực hiện lòng yêu thương thì thật là khó vô cùng.

Trong cuộc sống hiện tại ngày nay, nhìn vào nhân cách sống cư xử của mọi người mới thấy mọi người đối xử với nhau thiếu hành động tôn trọng lòng yêu thương.

Người được học, được rèn luyện, được trau dồi trong nền đạo đức nhân bản nhân quả của Đạo Phật, họ có tri kiến về nhân quả, họ biết sử dụng tri kiến nhân quả để tư duy, quán xét, nên họ thản nhiên trước những hành động thiếu tôn trọng lòng yêu thương ấy đối với họ.

Những lời chửi rủa, mạ nhục, những lời riếc móc, những lời khen, chê… không làm họ phiền lòng, mà ngược lại họ còn khởi lòng yêu thương những con người đang lăng nhục họ.

Thế mới biết lòng yêu thương nó có giá trị, công năng chuyển hóa thân tâm con người từ hạ liệt trở nên con người có tâm hồn cao thượng, chỉ biết sống với một tấm lòng yêu thương, bao dung, và tha thứ.

Trong đời  sống hằng ngày có rất nhiều việc mâu thuẫn, cạnh tranh, và xung đột. Lòng yêu thương của mọi loài nó không còn giá trị bình đẳng, hồn nhiên, trong sáng nữa, nó thay đổi theo bản ngã ích kỷ, bon chen,,hẹp hòi tính toán, nhỏ mọn thô tục, cá nhân của mọi loài.

Phía trước nhà chúng tôi, gia đình có người mẹ già, tuổi đời đã tám mươi chín tuổi, ở cùng với người con trai tuổi cũng đã sáu mươi bẩy tuổi, hai mẹ con thường xuyên cãi nhau, người mẹ luôn mồm chửi rủa con, người con bực tức kêu gào du đẩy, xỉa xói người mẹ, khiến mọi người trong gia đình sống lúc nào cũng ở trong tâm trạng bất an.

Phía bên phải nhà chúng tôi, gia đình rất khá giả, người vợ thì hay đi nói xấu chồng con, sống chắc nép, chi li, tính toán, người chồng thì thường xuyên uống rượu chửi vợ, đuổi đánh vợ, làm mất trật tự an ninh đường phố.

Phía bên trái nhà chúng tôi, vợ chồng sống với nhau thì lạnh nhạt, thờ ơ, chồng có vợ bé, mỗi người một nơi, sống vô trách nhiệm, ai có thân người ấy lo.

Phía sau nhà chúng tôi, có người vợ phải chăm sóc chồng, con bị tàn tật, người chồng tàn tật không biết thương vợ mà lại còn suốt ngày chửi vợ, người vợ không chịu nổi nên chửi lại, riếc móc người chồng, mày tao, con lọ, thằng kia, to tiếng làm ầm ĩ hàng phố.

Ôi! Thật xót xa cõi lòng. Họ sống trong điên đảo vô minh, họ đã tự làm khổ nhau, họ không biết thương bản thân mình, và đánh mất đi cái giá trị quí nhất của chính mình, đó là lòng yêu thương tôn trọng sự sống.

Bản thân gia đình chúng tôi lúc trước cũng rất nhiều mâu thuẫn, xung đột, cũng chỉ vì cái bản ngã ích kỷ, hẹp hòi, nhỏ mọn, bảo thủ của cá nhân mình, mà mình đã tự làm khổ mình, làm khổ mọi người trong gia đình mình mà không biết.

Sau thời gian tu học, rèn luyện, và trau dồi trong nền đạo đức nhân bản - nhân quả, bản thân gia đình chúng tôi đã ý thức nhận ra lòng yêu thương, tôn trọng, bình đẳng sự sống, nó có giá trị sâu sắc đem lại sự bình yên, hạnh phúc trong tâm hồn con người.

Cuộc sống sẽ đổi thay bởi lòng yêu thương chân thật đấy các bạn ạ.

Đau xót phải chứng kiến hàng ngày nhìn mọi người giết hại và ăn thịt chúng sinh, chúng tôi chỉ có biết thầm ước nguyện mọi người được gặp, được thông suốt nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Đạo Phật.

Ở phía trên cách nhà chúng tôi khoảng hai mươi mét, có gia đình anh VT, họ làm nghề giết mổ gia cầm, mỗi ngày họ phải giết mổ tới khoảng năm mươi con gia súc các loại, máu chảy lênh láng, tiếng kêu, tiếng giãy giụa, ai oán, tức tưởi của các con vật, họ không hề có một chút nào động lòng thương xót, họ còn vui đùa, thích thú xem thường sự sống của các loài vật, họ chỉ biết có thật nhiều tiền.

Con người thật là độc ác, còn đâu là lòng yêu thương, tôn trọng, bình đẳng sự sống nữa, nhân nào thì quả lấy.

Họ nào đâu có biết.

Luật nhân quả sẽ xử phạt họ, họ sẽ bị trả quả phải làm kiếp gà, vịt, ngan, ngỗng, giết một mạng trả một trăm mạng, rồi lại bị con người giết hại cắt cổ, nhổ lông.

Họ thật là đáng thương, bởi họ phước kém chưa gặp được nền đạo đức nhân bản - nhân quả.  Chúng ta ước nguyện cho họ gặp được nền đạo đức nhân bản - nhân quả, họ được học, được trau dồi, tin chắc rằng họ sẽ bỏ nghề giết mổ gia cầm, họ sẽ có ý thức nhận ra, và họ sẽ yêu thương tất cả muôn loài chúng sinh.

Đạo Phật có một nền đạo đức nhân bản - nhân quả tuyệt vời, dạy loài người vì lòng yêu thương sự sống, tôn trọng, và bình đẳng.

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, Người nhìn thấy thấu suốt cái nguyên nhân sinh ra và cái diệt vong của loài người.

Vì lòng yêu thương sự sống của muôn loài, Đức Phật tha thiết kêu gọi loài người, hãy yêu thương sự sống của muôn loài, và khuyên loài người không nên giết hại và ăn thịt chúng sinh.

Bởi thế, chúng ta phải biết nuôi dưỡng lòng yêu thương bằng cách: Hàng ngày chúng ta phải trau dồi, rèn luyện, sửa chữa từ các hành động thân, khẩu, ý của mình, tập sống với lòng yêu thương, chỉ biết nhìn lỗi mình, không biết nhìn lỗi người, gạt bỏ đi những tâm niệm ích kỷ, hẹp hòi, nhỏ mọn mỗi khi nó khởi lên trong tâm hồn chúng ta, cho nên chúng ta phải luôn khởi tâm, chỉ biết sống với tâm hồn yêu thương và tha thứ.

Lòng yêu thương chỉ có ba chữ thôi. Nhưng nó có ý nghĩa rất rộng sâu và bao la vô lượng, lòng yêu thương là một đức tính tốt đẹp của muôn loài, nó có sẵn trong tâm hồn con người chúng ta, lòng yêu thương ấy phải được nuôi dưỡng trong nền đạo đức nhân bản - nhân quả thì mới đúng ý nghĩa của lòng yêu thương, nó còn có ý nghĩa hơn rất nhiều khi chúng ta biết ban tặng lòng yêu thương của mình cho người khác không phân biệt thân sơ, để làm cho cuộc sống của mọi người ấm áp, hạnh phúc, gần gũi nhau hơn.

Lòng yêu thương là thông điệp, là cầu nối liền nền hòa bình thế giới, nó đi đến đâu thì mọi ác pháp đều bị rơi rụng tả tơi, nó là nguồn gốc đem lại sự an vui, hạnh phúc cho mọi người, mọi gia đình và toàn xã hội loài người trên hành tinh này.

Thật vô vàn cảm động, và xúc động trước một tấm lòng yêu thương vô bờ bến của một vị Thầy, lời sách tấn, lời yêu thương thật lòng tha thiết kêu gọi các con, đã làm rung chuyển tâm hồn PC, mỗi khi nghĩ về Thầy, PC không sao cầm nổi nước mắt, cứ tự nhiên tuôn trào ra, một cảm xúc sâu thẳm từ trong trái tim, cảm nhận được lòng yêu thương rộng lớn của Người.

Một ông cụ già tám mươi năm tuổi, ngày cụ ăn chỉ có một bữa, đêm cụ nghỉ ngơi chỉ có một giờ đồng hồ, thời gian còn lại cụ hướng dẫn, chỉ dạy, dìu dắt các con tu tập, và cụ miệt mài viết sách để dựng lại nền đạo đức nhân bản nhân quả của Đạo Phật cho loài người.

Cụ sống rất bình thường như bao con người, nhưng lại rất phi thường.

Người có một tấm lòng yêu thương rộng lớn, vô lượng, vô biên, Người chỉ có một mực là đem lòng yêu thương ban tặng và tha thứ cho các con.

“Những buổi chiều tà mưa phủ trắng.

Thầy ngồi tha thứ kẻ vong ân”.

Rồi những buổi hoàng hôn khi tắt nắng, Thầy nhìn ra cổng chùa như đang hướng về một chân trời xa thẳm, nơi ấy có những đứa con mình đang sống, chúng sống ra sao khi nền đạo đức nhân bản - nhân quả mà các con chưa nắm vững thì thật thiệt thòi, tội cho các con sẽ phải trôi lăn trong dòng đời đầy ác pháp khổ đau muôn đời muôn kiếp.

Giáng lên hỡi các con. Những dòng chữ thầm kín chứa đựng đầy lòng yêu thương vô bờ bến ấy, Thầy đã âm thầm khéo léo, bón mớm, gieo trồng vào tâm hồn chúng con, chúng con lớn khôn lên, trưởng thành lên là nhờ vào từ những mầm sữa yêu thương chân thật ấy.

009-AI, NGƯỜI CON CHÂN CHÁNH CỦA NHƯ LAI? - Ronald Trương

Kính thưa quý Phật tử có khuynh hướng với tâm tư chân thành thực hiện chánh pháp Như Lai do đức Trưởng Lão diễn giảng.

Thưa quý vị, những người đệ tử chân chánh của Phật có mấy việc cần Hiểu  Hành như sau:

 

I - LẤY PHẬT THÍCH CA LÀM LINH HỒN

Lý thuyết: Sau khi Phật Thích Ca dời khỏi trần gian, hàng Phật tử chúng ta bị lâm vào tình huống tranh luận, tìm tòi, học hỏi qua lý thuyết, đã dẫn dắt chúng ta vào rừng u mê mê tín dị đoan mà nào hay nào biết! Và cũng từ đó, biến Phật pháp thành môn học buôn kinh, bán chữ và đưa đẩy Phật giáo thành những trung tâm thương mại toàn cầu! Chúng ta vô tình bị rơi vào thế giới tưởng, càng lạc vào tưởng thì chạy theo tìm hiểu cao siêu, mới lạ, mơ mộng, hão huyền! Toàn là ảo tưởng, là cái bóng mà chúng ta cùng say mê đuổi theo không biết mỏi mệt! Tuyệt đối không giúp được cho hành giả trong việc tu hành!

Qua sự diễn giảng của đức Trưởng Lão, cho chúng ta biết rõ ràng rằng lý thuyết của Như Lai không cao siêu huyền bí gì cả. Pháp Như Lai không đòi hỏi hành giả phải băng rừng, vượt suối, trèo núi, lội sông để tìm về chánh giác. Mà pháp Như Lai khuyên dạy ta phải kham nhẫn, ở yên một chỗ, tự hướng vào thân tâm và chiến đấu với những cám dỗ đang dồn dập tấn công ta từng giây, từng phút, từng giờ. Hãy tự chiến thắng với chính bản thân mình! Những dục tính bất thiện pháp, hằng ngày xuất hiện ngay trên thân tâm từng người, một khi mỗi người tự chiến đấu với chính bản thân bằng pháp Như Lý Tác Ý, ly dục, ly ác pháp để tiến đến làm chủ chính bản thân. Đã làm chủ được bản thân thì đương nhiên tiến đến làm chủ sinh, lão, bịnh, tử và giải thoát luân hồi.

Nhờ ơn Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã mạnh mẽ đánh thức chúng ta. Chúng ta may mắn nhìn ra được sự thật thì không vì lý do gì, chúng ta lại tiếp tục tranh biện, hí luận để làm chi! Vô ích và phí thời giờ mà thôi! Chính đức Trưởng Lão đã giảng dạy trong ĐVXP, học ra tiến sĩ Phật giáo, học càng cao, càng ngu mà thôi, không lợi gì cho việc tu hành! Điều nầy quá rõ ràng, chả lạ lùng gì cả, chỉ vì ta bị vô minh che mờ, đời và đạo xuất phát trong thân tâm từng người là hai con đường hoàn toàn trái ngược. Đời càng cao siêu thì đạo càng sút kém. Đạo càng sáng tỏ thì đời là bọt nước bèo trôi. Đây là nguyên lý. Nói một cách khác rõ ràng hơn, mỗi người đều có TƯỞNG và THẬT, nếu TƯỞNG sáng thì THẬT mờ, và TƯỞNG mờ thì THẬT rõ ràng. Vì vậy, mục đích chính của chúng ta là đưa ra những bài nho nhỏ, chung quanh lời diễn dạy của đức Trưởng Lão nhằm đánh thức, nhằm giúp người thiếu may mắn, chậm hiểu, hiểu được lời dạy của đức Trưởng Lão, để rồi chính họ sẽ tìm về tu viện Chơn Như, tìm đọc những gì Trưởng Lão diễn giảng. Chúng ta là những người đứng ra mời gọi Phật tử hướng về đức Trưởng Lão, chứ chúng ta chưa đủ thẩm quyền giảng dạy hay tranh biện hơn thua với ai cả! Dù cho người khác có hỗn xược với đức Trưởng Lão, chúng ta hãy im lặng như thánh. Không cần để ý đến họ mà làm gì. Chúng ta không cần quan tâm đến những tư tưởng của học giả qua bất kỳ cơ quan ngôn luận nào, bởi vì vốn chuyện đó, chúng ta đã ý thức rằng: Chuyện bàn luận về lý thuyết đã là vô duyên rồi kia mà! Lý thuyết mà chúng ta nên bàn đến là TRI KIẾN GIẢI THOÁT chứ không còn bàn đến TRI KIẾN NGOÀI ĐỜI nữa. Nếu chúng ta quyết tâm tu hành theo chánh pháp Như Lai.

 II- LẤY LỜI DIỂN GIẢNG CỦA ĐỨC TRƯỞNG LÃO LÀM PHƯƠNG CHÂM

 Thực hành: Pháp Phật Thích Ca đã được đức Trưởng Lão diễn giảng rõ ràng và đầy đủ. Vấn đề đặt ra là hành giả có chịu thực hành hay không? Hành tới đâu thì có thành quả tới đó rõ ràng. Hành giả đang gặp khó khăn, đang lúng túng, ngờ ngợ, ngớ ngẫn, ngu ngơ, do dự về pháp hành. Chúng ta nên tìm cách động viên, giúp Phật tử tập thực hành từng pháp một. Khi hành giả thực hành được thì đó là sự thành công giúp họ cùng hướng về chánh pháp Như Lai. Chánh pháp Như Lai chỉ có hành chứ không cần lý thuyết nữa. Thậm chí kinh điển cũng không còn cần thiết cho hành giả nữa, bởi vì đức Trưởng Lão diễn giảng quá đầy đủ giúp hành giả thực hành để tiến đến làm chủ bản thân, làm chủ sinh, lão, bệnh, tử và giải thoát luân hồi. Và một khi thực hành nhuần nhuyển thì trí tuệ hiện tiền, từ đó hành giả nhìn ra sự thật rất rõ ràng.

Đối với khoa học gia là áp dụng đúng những điều kiện ắt có và đủ mà nhà bác học đã quy định thì họ sẽ đạt được kết quả mong muốn. Điều kiện ắt có và đủ là nguyên lý mà nhà khoa học phải tuân thủ. Họ chỉ bàn bạc về sự phân công, nhân sự, tài chánh, điạ điểm, phuơng án tạo điều kiện để thực hành cho có hiệu quả và an toàn khi bắt tay thực thi đúng điều kiện ắt có và đủ. Phật pháp cũng vậy, Phật Thích Ca cũng đặt ra điều kiện ắt có và đủ để hành giả dựa vào đó tu hành và đạt đến chứng quả mong muốn. Về pháp hành, trong quá khứ, chúng ta bị quay cuồng trong từ ngữ, thành ngữ cổ xưa. Càng truy tìm kinh điển, chúng ta càng đuổi theo hình bóng chữ nghĩa mù mờ, vu vơ! May mắn thay! Ngày nay, chúng ta đã có Ngài A-la-hán Thích Thông Lạc giảng giải quá rõ ràng rồi. Bây giờ là lúc chúng ta vây quanh bàn đến vấn đề làm sao thực hành đúng pháp Như Lai. Một đàng là chúng ta nên đưa ra những sai lầm trong quá khứ, một đàng chúng ta đúc kết kinh nghiệm của từng hành giả khi họ thực hành pháp Như Lai. Những khiếm khuyết họ gặp phải, những may mắn họ đạt được và thoát qua. Đây mới là vấn đề hiện đại phải làm. Một vấn đề quan trọng nữa là chúng ta hãy gạt bỏ những mặc cảm lỗi thời cho rằng ta chưa đủ khả năng tu hành. Khả năng tới đâu, ta tu hành tới đó, cứ đi rồi sẽ đến đích. Không chịu đi thì chừng nào mới đến đích? Tuyệt đối đừng bao giờ chủ quan là ta phải đi tu, phải nhập dòng thánh. Đâu có gì vội? Ta cứ tập từ từ từng pháp cho quen thuộc. Cho đến khi chính bản thân ta cảm nhận với quyết tâm đủ sức kham nhẫn nhiếp phục các dục thì hãy đi tu, hãy nhập dòng thánh. Nên nhớ, chiếc áo không làm nên thầy tu! Nhìn vào chiếc áo là bị lầm chấp vậy! Ai cấm được một tên trọng tội, một tên lường gạt mặc áo cha, áo thầy chứ?

 III - LẤY VIỆC HƯỚNG DẨN PHẬT TỬ CÙNG QUI VỀ CHÁNH PHÁP NHƯ LAI LÀM CỨU CÁNH.

Tư duy: Khởi đầu là chúng ta nên cảnh tỉnh rằng chính thói quen sai lầm đã hại chúng ta mất rồi. Thói quen sai lầm đã tiêm nhiễm vào thân tâm ta, ta phải quyết tâm trì chí mới tẩy sạch đựợc. Thói quen đó là suy luận theo tri kiến ngoài đời, nghĩa là có thói quen suy luận qua tưởng tri. Mong quý vị nghiên cứu kỷ bài NGŨ UẨN của Trưởng Lão thì rõ ràng hơn. Ví như: Quán - tất cả hành giả đều ngồi yên, lim dim mắt và lập tức quán qua hình thức tưởng. Bởi vì thói quen là tưởng rồi mới hành. Bây giờ chúng ta trở lại tập hành và đừng tưởng, để tự nhiên, sau khi chúng ta hành, những hiện tượng sẽ xuất hiện, ta nhìn thấy rất rõ.

Ví dụ: Khi tập ăn mỗi ngày một bữa. Chúng ta đừng tưởng ra rằng ăn như vậy sẽ yếu, sẽ mệt, sẽ buồn ngủ, rồi lo âu đủ thứ, suy nghĩ lung tung. Mà chúng ta chỉ tin tưởng rằng đức Trưởng Lão dạy không bao giờ sai, niềm tin tưởng đi hàng đầu. Chúng ta quyết tâm li dục cho được từng bữa ăn, cho đến khi chúng ta đạt được ăn chay mỗi ngày một bữa nhuần nhuyễn rồi thì tự nhiên những hiện tượng xuất hiện vô cùng lý thú. Nào là đến giờ ăn mà không thấy đói, không thấy cồn cào, không thấy háo hức mong đợi, không thèm ăn, không thấy bịnh, thỏa mái và khỏe khoắn hơn mình tưởng. Thế là xong rồi. Ta đã làm chủ được bao tử rồi. Còn điều quan trọng mà không thể nào ngờ được, đó là tính dâm dục tự động tan biến, những thèm khát, ao ước cũng tiêu tan, bản chất đạo đức nhân bản từ từ xuất hiện. Một vấn đề rất quan trọng là do tưởng đã hại hành giả mà hành giả không biết. Hành giả tưởng nghĩ rằng giải thoát là sẽ gặp thánh, gặp thần, hoặc giải thoát là tưởng mình thành Phật, thành Tiên. Giải thoát ở đây là ta đang mang nhiều vật rất nặng (cảm dục), bây giờ ta tự bỏ vật đó xuống thì thân tâm ta trở nên nhẹ nhàng. Tức là ta được giải thoát rồi. Từ bỏ được một dục là đạt được một sự giải thoát, bỏ được bao nhiêu dục ác pháp thì giải thoát được nhiều bấy nhiêu. Rất đơn giản. Nhưng mà ta có kham nhẫn từ bỏ hết không? Nếu từ bỏ hết được là giải thoát hoàn toàn. Tham, sân, si, mạn, nghi, mà từ bỏ được hết thì chứng quả rồi.

Rõ nghĩa hơn, đối với Phật pháp chỉ có TÍN và HÀNH. TÍN đây không phải là sự tin theo một cách mù quáng, trừu tượng, mơ hồ, đuổi bắt bóng, mà là sự chứng kiến rõ ràng. Ví như Hòa Thượng Thích Thông Lạc đã chứng quả A-la-hán. Đừng vội tin khi nghe có tin đồn. Chính ta phải gần gũi Ngài, chính mắt ta nhìn thấy Ngài sống đời sống thanh bạch cao quý của bậc thánh tăng, nghe và hiểu rõ những diễn giảng lời Phật dạy, đồng thời, chứng kiến những khi Ngài thể hiện thần thông giáo hoá chúng sanh như:

1) Ngài ngồi thiền 15 ngày không ăn uống,

2) Ngài bị bịnh ho ra máu, đã tự động ngồi thiền dùng định lực trị hết bịnh, sau 15 ngày,

3) Sau khi tuyên bố chứng quả A-la-hán, Ngài liền đứng ra thành lập tu viện Chơn Như và soạn thảo giáo án đào tạo A-la-hán.

4) Ngài đã diễn giảng rõ ràng chánh pháp Như Lai, chưa có ai đã diễn giảng rõ ràng chi li như vậy. Ngay những trường đại học Phật giáo trên toàn thế giới đã diễn giảng sai pháp Phật!

Chúng ta có gặp, có sờ, có nghe, có thấy rồi hãy tin. TÍN là tin có sự thật, HÀNH là thực tập ngay những pháp Ngài giảng dạy, từ đó mới cảm nhận được sự tuyệt vời. Một bài pháp vô giá, đức Trưởng Lão đã dạy mà chúng ta không chịu hành. Chúng ta cứ theo thói quen, chỉ đọc cho vui, có nhiều người mang tâm hồn thơ, thay vào nhiều từ khác để thêm được nhiều bài thơ! Quả là thơ thẩn mất rồi!.

“Buông xuống đi, hãy buông xuống đi,

Chấp giữ làm chi có ích gì?

Thở ra chẳng lại còn chi nữa,

Vạn pháp vô thýờng buông xuống đi.”

Cứ mỗi ngày ta tự Tác Ý tu luyện buông bỏ một ác pháp là tâm ta từ từ tiến đến thanh thản, an lạc và vô sự. Chứ thẫn thờ ngồi nghĩ quẩn, thay chữ thêm thơ có ích gì phải không nào?

Đây là lời mong mỏi của chúng tôi kính trình quý vị, để quý vị cùng tư duy tìm về chánh pháp Như Lai. Thành thật cám ơn

Kinh nghiệm bản thân,

Chúng tôi bất mãn cho những mê tín dị đoan, nhìn thấy bà con thân thuộc ngu si quỳ lạy, van xin, nguyện cầu vu vơ, mê mẩn đưa tiền cho bọn lưu manh lường gạt. Đồng thời, chúng tôi gặp toàn hình ảnh bỉ ổi và vô liêm sỉ được che dấu bằng những hình thức đạo mạo, đạo đức giả của những nhà truyền giáo mà không biết phải làm sao? Và không biết pháp nào để giúp chính bản thân tu luyện! Chúng tôi đành buông thả, phó mặc cho định mệnh, bởi vì làm ra nhiều tiền, chúng tôi lao đầu vào ăn chơi trác táng, sướng chỉ một lát, nhưng buồn phiền lo lắng suốt năm canh. Cảm nhận được đời mình chả ra gì cả! Tình cờ, tôi đọc được Đường Về Xứ Phật và Những Lời Gốc Phật Dạy, tôi âm thầm thực hành từng pháp. Sau 5 năm, tôi từ giã ăn chơi, ăn mỗi ngày một bữa và tập những pháp đơn giản, tôi trở về với chính bản thân và tôi hoàn toàn tự tin đời tôi đáng sống. Trong quá khứ, chúng tôi đã từng say mê vào kinh điển Đại Thừa và sách báo của họ. Tôi say sưa tìm hiểu những tư tưởng vĩ đại, thần tượng, cao siêu, mới lạ.... Nhưng khi được đức Trưởng Lão khai sáng, bây giờ tôi khám phá ra rằng những mớ lý thuyết vĩ đại đó (kinh sách phát triển) toàn là vô duyên! Vô ích cho đời tôi.

“Rằng hay thì thật là hay,

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!”

                                                                                                                Truyện Kiều. Nguyễn Du

Bên cạnh đó, tôi khám phá ra nhiều sự thật phũ phàng chứng tỏ các vị tu sĩ tu theo Đại Thừa là những ngừời trắng trợn lường gạt hàng Phật tử, lường gạt chính bản thân họ cũng chỉ vì họ đam mê danh và lợi.

Ví dụ 1: Nhà sư đói ăn, khát uống, ham ngủ, tiền bọc đầy túi, như vậy đời sống của họ không khác gì người bình thường. Đường tình dục của họ phát triển dữ dội. Nhưng nhờ vị thế, nhờ tiền đầy túi, họ che dấu những màn làm tình đầy bỉ ổi. Chính bản thân tôi đã gặp những thiền sư, những vị linh mục và hồng y, họ lãnh lương rất cao, tuy không lấy vợ nhưng họ nhờ có nhiều tiền nên được gia đình bao che cho họ sống với phụ nữ thật kỳ tình! Một tu sĩ sống với tinh thần đạo đức, nhưng bọc nhiều tiền, ăn uống phủ phê thì còn đạo đức chăng? Điều nầy không bao giờ có, nhưng chỉ nhìn bề ngoài và sự ngu muội của họ mới tin mà thôi! Chúng tôi chỉ đưa ra những bằng chứng nho nhỏ để quý vị nhìn rõ được vấn đề đạo đức giả! Chúng ta cần khai bật cho hàng Phật tử nhìn được chân tướng giả đạo mà tránh xa, im lặng là đồng loã với tội ác!

Ví dụ 2: Thiền định tâm (Thiền ức chế tâm), mới nghe và thử qua thì cảm thấy đúng và hay tuyệt, nhưng, càng ngày càng mê mà không biết! Giống như á phiện, mới thử qua thì rất tuyệt vời, bởi vì á phiện trị hết ưu phiền, đau nhức, mỏi mệt ngay lập tức. Nhưng dùng càng nhiều thì càng ghiền và khiến ta trở thành kẻ gây tội ác mà nào hay, nào biết! Thiền định tâm cũng vậy, khi ta giận, buồn, bực mình, ngồi yên và dằn tâm. Làm như vậy thì có hiệu quả ngay. Nhưng càng dằn, càng nén, càng ép cứng vào thân tâm, khi đụng chuyện thì bung ra dữ dội khiến chết người! Pháp do Phật Thích Ca dạy và đức Trưởng Lão diễn giảng quá tuyệt vời, đó là Thiền buông xả, bỏ đi thì tất cả đều tan biến. Chẳng hạn, ta bực mình khi nghe bạn ta nói xấu về ta, nếu ta Thiền định tâm cho nguôi giận, rồi tình cờ ta gặp người bạn, thì ta đùng đùng nổi giận ngay. Nhưng nếu ta Thiền buông xả, khi gặp lại người bạn, ta vẫn bình thản, an vui nhu thường.

Ví dụ 3: Quan niệm về Phật A-di-đà và Chúa trời (Thượng Đế), chúng ta nên cho đại chúng biết rằng:

a) Giả sử Chúa trời (Thượng Đế) là cao cả, là bác ái bao la và A-di-đà là Phật linh thiêng thì không thể nào bất công với đạo hữu, không thể nào giúp người này mà không giúp người kia. Những ông thần thánh bất công như vậy có đáng cho chúng ta tôn thờ chăng? Bậc cha mẹ đáng tôn quý thì không bao giờ bất công với con cái, sẵn sàng nhịn nhường tất cả và dám hy sinh để bảo vệ các con, chứ cha mẹ đâu có giành ăn với các con?

b) Rõ ràng Chúa trời (Thượng Đế) và Phật A-di-đà là không đáng để cho chúng ta tôn thờ. Toàn là ảo tưởng, mơ hồ, lú lẫn, u mê rồi đó vậy. 

c) Nếu đã tin có Chúa, Phật A-di-đà cứu rổi, thì tại sao khi bị bịnh chúng ta còn đi tìm bác sĩ? Bác sĩ trị hết bịnh cho ta, tại sao ta lại tạ ơn Chúa, Phật? Thật mỉa mai, phi lý hết sức mà vẫn tin, vẫn làm. Điều này minh xác rằng chỉ có con người giúp con người, chỉ có con người chia sẻ với con người, cho nên ĂN QUẢ NHỚ NGƯỜI TRỒNG CÂY. Đây mới là đạo đức nhân bản đích thực của người biết ơn tri ngộ trong cuộc sống.

010-ĐƯỜNG LỐI TU TẬP CỦA TU VIỆN CHƠN NHƯ - TL Thích Thông Lạc

Hôm nay nhân dịp Từ Minh làm lễ phát nguyện nhập thất, với một tâm đại hùng đại lực nguyện thành tựu đạo pháp mới mở cửa thất bước ra, bằng không thì dù cho tan xương nát thịt cũng không ra khỏi thất. Do nhân duyên này Thầy nói chuyện về đường lối tu tập ở đây.

Muốn tu tập với Thầy, quý thầy và quý phật tử phải chấp nhận 5 điều kiện:

 1- Phải tin nơi Thầy sẽ đưa dắt quý thầy đến nơi đến chốn giải thoát hoàn toàn đúng con đường của đạo Phật.

2- Quý thầy phải có một cơ thể khỏe mạnh. Nếu không có một cơ thể khỏe mạnh thì đừng bao giờ theo Thầy tu hành vì có theo Thầy tu hành cũng vô ích, không có kết quả tốt.

3- Quý thầy phải thành thật, không được dối trá, tu được nói tu được, tu không được nói tu không được, tự dối mình, dối Thầy mà chẳng ích lợi gì. Nếu thường bị hôn trầm hoặc phạm tất cả các lỗi nhỏ, không được che dấu, phải phát lồ sám hối trước đại chúng và Thầy để xin phép đối trị.

4- Phải siêng năng tinh tấn, giữ gìn giờ giấc nghiêm túc, không được che dấu sự lười biếng, sự bỏ giờ giấc của mình, mà lỡ có sự sai lầm bỏ giờ giấc hoặc lười biếng thì phải thành tâm phát lồ trước đại chúng những thói hư tật xấu này để sớm khắc phục và ngăn ngừa, may ra mới có tiến tu trên đường giải thoát.

5- Phải có trí tuệ. Ở đây không phải trí tuệ của kẻ xảo trá, không phải trí tuệ tổng hợp do vay mượn trong các kinh sách hoặc kiến giải của người khác, mà trí tuệ ở đây phải là thứ trí tuệ rất thành thật, chân thành, cái gì chưa hiểu, chưa tu tập được là phải thưa hỏi lại. Không hiểu tưởng là đã hiểu, đó là người không có trí tuệ. Tu không được mà không chịu thưa hỏi là người thiếu trí tuệ.

Với 5 điều kiện này, nếu quý vị không chấp nhận thì đừng theo Thầy tu hành, vì có theo Thầy tu hành cũng chẳng ích lợi gì cho quý vị, còn hoài công mất thì giờ vô ích. Quý vị đã không chấp nhận 5 điều này thì quý vị sẽ thường che dấu những lỗi lầm của mình, thì sự che dấu này sẽ khiến cho sự tu tập của quý vị chẳng có kết quả, nghĩa là về giới đức cũng như thiền định, tu hành sẽ không thành tựu được.

Này quý thầy và quý phật tử, ở đây không phải là chỗ ăn và chỗ ngủ cho quý vị đến đây, mà là chỗ thực hiện con đường giải thoát của đạo Phật, con đường đưa quý vị đến cứu cánh làm chủ thân tâm và chấm dứt tái sanh luân hồi.

Ở đây có một thiền Tăng bảo rằng: “Ở đây không có gì thú vị cả”.

Đúng vậy, ở đây không có thú vị gì, ở đây chỉ phải chấp nhận một sự sống rèn luyện thân tâm của mình để làm chủ nó.

Ở đây làm ngược lại tất cả những gì mà thế gian đang sống. Ở đây cuộc sống của quý vị còn chịu khổ gấp trăm ngàn lần ở thế gian.

Ở đây làm ngược lại những gì ham muốn ở thế gian, cho nên không có gì gọi là thú vị cả. Nếu quý vị muốn đi tìm sự thú vị thì ở đây không có chỗ cho quý vị tìm, ở đây toàn là những thứ cay đắng mà quý vị phải nhận lấy, ở đây toàn là những thứ khắc khổ mà quý vị phải chịu trong lúc quý vị tu tập.

Này quý thầy và quý phật tử, quý vị đừng nghĩ rằng ở đây là nơi hướng dẫn cho quý vị tu tập có thần thông phép tắc, biết chuyện quá khứ vị lai.

Ở đây cũng không phải nơi để quý vị tu tập có bùa linh, có thần chú giỏi để trị bệnh trừ tà ếm quỷ.

Ở đây cũng không phải chỗ hướng dẫn cho quý vị xuất hồn nhập xác đi chu du các cảnh tiên hoặc vào địa ngục hoặc cõi thiên đàng.

Ở đây cũng không phải chỗ dạy cho quý vị làm thơ, văn, thi phú hoặc soạn kinh viết sách hay dịch thuật các loại kinh sách.

Ở đây cũng không phải nơi đào tạo cho quý vị thành những nhà hùng biện, những nhà giảng giả, triết giả, luận giả, luật giả, v.v…

Ở đây cũng không dạy cho quý vị lưu xuất những ngôn từ độc đáo của Thiền Đông Độ , của Bát Nhã.

Ở đây cũng không phải nơi giải ngộ những công án Thiền Đông Độ và giảng nghĩa lý kinh Đại Thừa cho quý vị.

Ở đây cũng không phải là trường học để cho quý vị học tập, thi cử cấp bằng này, cấp bằng kia của Phật giáo.

Ở đây cũng không phải nơi giảng đường để cho quý vị đến đây nghe thuyết pháp các loại kinh điển.

Này quý thầy và quý phật tử, ở đây chỉ có dạy, tập luyện cho quý vị tập sống một đời sống phạm hạnh, ăn uống có tiết độ, ngủ nghỉ có giờ giấc, không được ăn uống phi thời, ngủ nghỉ sai giờ giấc.

Ở đây mọi người phải tập sống thường có ý tứ trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín phải đầy đủ đức hạnh.

Khi đi phải nhẹ nhàng, thong thả, không được thô tháo, không được vội vàng hấp tấp, không được chạy nhảy lăng xăng, không được vừa đi vừa chạy.

Khi đứng phải tránh chỗ đông người, tránh chỗ có đàn bà con gái, tránh chỗ đánh lộn, chưởi lộn, tránh chỗ có trộm cướp, tránh chỗ có đấu tranh làm chính trị, tránh chỗ biểu tình.

Khi nằm không phải đụng đâu nằm đó, tránh nằm chỗ đàn bà đang nằm, tránh nằm võng đưa tới đưa lui, tránh nằm chỗ đông người, nằm cho đúng chỗ, đúng cách. Nằm không được nằm ngửa, nằm sấp, phải nằm theo kiểu kiết tường. Nằm phải vén khéo, không được bày ngực, bụng và đùi vế một cách hở hang thô lỗ, phải dùng y áo che đậy kín đáo rồi mới nằm.

Khi ngồi cùng vậy, phải lựa chọn cho đúng chỗ rồi mới ngồi. ngồi không được ngồi lắc qua lắc lại, ngồi không được nhịp tay nhịp chân, ngồi không được kéo chân một cách phách lối, ngồi không được gác chân trên bàn, ngồi phải tề chỉnh ngay ngắn, y áo phải thẳng thốn. 

Nói không được khoe khoang điều này điều kia, không được khoe tu chứng cái này cái kia. Nói không được mang thiền đạo, kinh sách ra thuyết giảng cho người khác không đúng lúc, không đúng thời. Nói không được tranh luận cao thấp hơn thua, thấy ai tranh luận cao thấp hơn thua thì bỏ đi nơi khác.

Trên xe, bên lộ, hè phố, bên giếng nước, giữa đám đông, đám tang, đám cưới, đám giỗ không được nói cười thiếu tư cách đạo đức của người tu hành, và ít nói khi ở giữa các đám đông người, hoặc không nói thì tốt hơn hết. Khi nói không được cười, khi ăn không được nói, phải nghiêm chỉnh, không được nói chuyện tào lao, nói chuyện vô ích.

Không được nói về chiến tranh, về chính trị. Nghe ai nói về chiến tranh, về chính trị thì bỏ đi nơi khác.

Không được đem giáo hội ra nói thế này thế khác, không được bàn quốc sự nước này thua, nước kia thắng. Khi nói không được nói láo, phải nói những lời chân thật, nói những lời chắc chắn, đúng đắn đáng tin cậy, nói những lời hứa với ai phải giữ gìn đúng đắn, phải danh dự, không bao giờ sai lời hứa, không bao giờ trễ hẹn, lúc nào cũng giữ gìn đúng lời hứa, lời hẹn.

Không được nói lưỡi hai chiều, nghe điều gì ở chỗ này không đi nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này, hoặc nói xấu người kia, hoặc nói xấu người này. Không đem chuyện chỗ kia nói xấu chỗ này, gây những sự chia rẽ chẳng hòa hợp.

Không nói lời độc ác, nguyền rủa, thường nói những lời hòa nhã, đẹp tai, dễ thương, thanh tao, nhã nhặn, ôn tồn. Không bao giờ nói lời phách lối, nói lời khinh khi người, nói lời khinh chê người, nói lời phỉ báng người. thường dùng lời khen tặng người, lúc nào nói cũng đúng thời. Lời nói phải đầy đủ ý nghĩa chân chánh, không nói mỉa mai, không nói móc họng, không nói lời chua chát. Thường nói những lời khuyên lơn, an ủi, thường nói những lời hợp thời thuận lý, lời nói có mạch lạc, có hệ thống và có ích lợi cho mọi người.

Không bao giờ nói đùa, nói giỡn, nói giễu cợt, nói sấn xả, nói vu khống người, nói oan ức người, không bao giờ nói lời lừa đảo, xiểm nịnh và a dua.

Nín. Khi không nói chúng ta làm thinh phải đúng cách, không khéo người khác nghĩ rằng mình khinh chê họ. Người tu hành không nói là điều tốt nhất, không nói gì cả, chỉ cười vui vẻ, ai nói gì chỉ gật đầu hoặc bỏ đi chỗ khác. Người tu hành phải tập sự im lặng, phải giữ gìn sự im lặng, ít nói, chẳng nói lời nào là tốt hơn hết.

Nín là vàng, là ngọc. Nói là đất, là cát. Nói là tạo ra khẩu nghiệp khiến không được yên thân tu hành. Nói là động, làm bất an khó yên thân tu hành, gây đau khổ, phiền toái trong lòng mình và người khác. Vậy cuộc đời tu hành của chúng ta phải thấy sự ích lợi của nín lặng, nếu không thấy là tai hại sẽ đến cho quý vị. Ở đây chúng ta sống là chúng ta tu, sống và tu gắn liền với nhau.

Này quý thầy và quý phật tử, ở đây quý vị tu tức là quý vị tập sống, quý vị sống tức là quý vị tu, sự tu tập không lìa sự sống, sự sống không lìa sự tu tập.

Ở đây không có học tập, không có tích lũy kiến thức của người khác. Ở đây không có huân tập một số kiến giải, tưởng giải, kiến chấp, tưởng chấp của người khác dù là của Thầy, chỉ tự tâm của quý vị lưu xuất và sử dụng trong cuộc sống hàng ngày.

Ở đây không giúp cho quý vị có một trí tuệ tổng hợp, vay mượn bằng cách nhai lại bã mía của người khác. Ở đây chỉ giúp đỡ cho quý vị một cách sống thực của đạo Phật, sống giải thoát khỏi triền phược dục lạc thế gian, chân thật như đức Phật còn tại thế lúc thời xưa, sáng đi khất thực, trưa ăn cơm, chiều tọa thiền, tối tọa thiền, khuya đi kinh hành. Đời sống ngày ngày trôi qua đều như vậy, nghĩa là cuộc sống gắn liền với cuộc tu, không bao giờ có sự sai khác. Ngày nào cũng như ngày nào, tu là sống như vậy.

Này quý vị, như Thầy đã dạy ở trên, quý vị thường sống phải có ý tứ, đừng nghe người ta dạy vô phân biệt, vô sai biệt rồi dẹp ý tứ của chúng ta trở thành con người ngu ngơ, phá giới luật của Phật, không sống đúng giới hạnh đạo đức của đạo Phật. Đó là điều làm cho đạo Phật suy đồi. Ở đây quý vị phải giữ mình đầy đủ oai nghi đức hạnh, phải có ý có tứ trong từng mọi hành động thân, khẩu và ý của quý vị để quý vị sống đúng con người phạm hạnh của đạo Phật.

Vì thế thân hành của quý vị không phạm những hành động ác, khẩu hành của quý vị không đem chuyện người này nói chuyện người kia, không đem chuyện người kia nói cho người này biết. Quý vị phải hoàn toàn giữ gìn khẩu nghiệp thanh tịnh, ít nói, lời nói của quý vị ở đây khi phát ngôn phải là lời nói có ích lợi, là vàng, là ngọc. Vì vậy khi nói phải đúng thời, đúng lúc, không được bạ đâu nói đó. Phải tập sống một đời sống đức hạnh của người tu thiền định mà Thầy đã dạy trong bài Định Niệm Hơi Thở.

Này quý thầy và quý Phật tử, ở đây quý vị muốn tu hành thiền định của đạo Phật thì trước tiên quý vị phải sống phòng hộ, bảo vệ các căn và tâm của quý vị. Muốn phòng hộ, bảo vệ các căn và tâm của quý vị thì ở đây có hai cách phải sống:

1- Cách thứ nhất, phải an trú trong giới luật của Phật đã dạy, nghĩa là quý vị phải sống và tu là một không hai như Thầy đã dạy ở trên, sống tức là tu, tu tức là sống.

2- Cách thứ hai, phải sống độc cư, sống cô đơn, nghĩa là sống không tiếp duyên với ngoại cảnh, không nói chuyện với một ai, hoàn toàn phải cắt đứt các duyên bên ngoài.

Ở đây Thầy đang tìm mọi cách và cố tạo cho quý vị môi trường sống: sống đúng phạm hạnh, sống đúng giới luật, đó là giai đoạn hộ trì và bảo vệ tâm thiền định của quý vị thứ nhất.    

Ở đây Thầy cũng đang tìm mọi cách để tạo cho quý thầy sống độc cư, sống cô đơn, sống ít nói chuyện và cắt đứt các duyên bên ngoài, đó là giai đoạn hộ trì và bảo vệ tâm thiền định của quý vị thứ hai.

Hai điều kiện sống này bắt buộc quý vị phải thực hiện cho bằng được.

Nếu quý vị thấy mình không sống được, không tu tập được theo hai điều kiện trên đây thì quý vị xin xuất viện, đừng ở đây mà mang nợ của đàn na thí chủ, đời đời kiếp kiếp quý vị không trả được, rồi đây phải làm thân trâu ngựa mà trả nợ này và còn đọa địa ngục. 

Nếu quý vị thấy mình sống được, tu tập được, chấp nhận hai điều kiện trên, nghĩa là quý vị giữ gìn giới hạnh và phòng hộ tâm mà không sợ gian lao khổ nhọc thì quý vị cố gắng sống đúng lời dạy của Thầy, đừng hành sai, đừng làm sai, những gì không hiểu phải thưa hỏi lại cho kỹ lưỡng.

Nếu quý vị quyết tâm tu hành theo đạo Phật thì đừng sợ những gian lao khổ nhọc trong cuộc sống hang ngày ở đây thì chắc chắn quý vị sẽ ly được dục lạc thế gian, chừng đó chưa tu thiền định mà quý vị đã có thiền định như Phật đã dạy: Giới sinh Định, điều này chắc chắn.

Ở đây Thầy đang cố gắng khéo tạo môi trường sống đúng giới luật để quý vị thực hiện một đời sống phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Nhờ sống đúng giới luật, quý vị sẽ ly được dục lạc thế gian, ly được dục lạc thế gian thì quý vị sẽ có hỷ lạc giải thoát tâm của quý vị. Đó là quý vị chưa ngồi thiền nhập định một ngày, một khắc, một giây mà quý vị đã nhập sơ thiền. Đó là một thứ thiền định đầu tiên trong đạo Phật, và chỉ có đạo Phật mới có mà thôi, nghĩa là không tu thiền định mà có thiền định.

Bây giờ quý vị cứ suy nghĩ kỹ lại lời dạy của Thầy mới thấy kỷ luật ở đây và cách khép quý vị vào khuôn khổ tu tập thiền định là đúng con đường của đạo Phật, không sai chút nào cả. Nếu quý vị đã từng chịu khó nghiên cứu kinh điển Nguyên thủy của đạo Phật thì quý vị sẽ thấy đường lối tu tập ở đây rất đúng đường lối tu tập của đức Phật ngày xưa, không bị lai căng các pháp môn khác.

Bởi vậy quý vị đừng bảo rằng Thầy khó, chỉ vì Thầy khó là vì muốn cho quý vị được giải thoát như Phật, được làm chủ được sanh tử, chấm dứt tái sanh luân hồi, đó là điều Thầy khó để làm lợi ích cho quý vị. Ở đây, trước kia có một Thiện Tâm bảo rằng: “Thầy cứ nói về ăn uống mãi”. Đúng vậy, trong ngũ dục lạc thế gian có Thực, Thụy, mà Thực, Thụy là Ăn và Ngủ.

Ăn và ngủ là một điều quan trọng của đời sống con người, cho nên con người thế gian thường tham ăn, thích ngủ. Vì ăn và ngủ là hai thứ dục lạc tối cần thiết của đời người. Dục lạc ăn ngủ là thứ dục lạc sống của đời người nên khiến cho người ta càng ham thích ăn và ngủ. Vì vậy tu sĩ Phật giáo hiện đời nay tu theo kiểu này, kiểu nọ, chỉ chuyên môn tụng niệm và học tập giáo lý, ngồi thiền lấy lệ cho có chừng nên khó mà diệt được dục lạc ăn và ngủ.

Vậy quý vị nghĩ sao khi đến tu viện này? Trước tiên phải khép mình trong khuôn khổ ly dục ăn và ngủ, điều này đã khiến cho nhiều người trước kia đã từng ở đây phải bỏ đi nơi khác để tìm cái ăn, cái ngủ thỏa thích. Kỷ luật ở đây không thể chấp nhận ăn và ngủ như các chùa khác, bắt buộc quý vị phải thực hành đúng kỷ luật ở đây thì mới bước chân vào tu viện.

Nếu quý vị thấy tu được thì theo tu, nếu thấy không được thì xin Thầy về, Thầy rất hoan hỷ. Đạo Phật không quyến rũ ai và cũng không dụ dỗ mua chuộc ai. Một người quyết tâm tu theo đạo Phật không vì lợi dưỡng hoặc vì buồn khổ gia đình mà vào đây tu tập. Không vì tù tội trốn tránh hoặc thất vọng trên đường danh nẻo lợi, hoặc tiền tài vật chất không thỏa mãn, hoặc vì tình duyên lỡ dở, hoặc thi cử không thành mà vào đây tu tập. Hoặc vì thất nghiệp nghèo khổ không đủ cơm ăn áo mặc mà vào đây tu tập. Hoặc vì sự cúng bái lễ lộc, ăn trên ngồi trước mà vào đây tu tập.  

Này quý thầy và quý Phật tử, ở đây chúng ta tu hành theo đạo Phật là vì muốn vượt thoát ra khỏi bể khổ trầm luân của sanh, lão, bệnh, tử của cuộc đời chứ không phải vì danh, vì lợi mà vào đây. Chỉ vì giải thoát những điều lớn lao và quan trọng cho đời sống của chúng ta, vì thế mà chúng ta mới quyết tâm chịu những gian lao, những thử thách khổ nhọc để chiến thắng lại cái ăn, cái ngủ, cái nói chuyện để chúng ta ly khỏi những dục lạc hèn hạ thế gian.

Tai sao Thầy bảo dục lạc thế gian là hèn hạ? Vì nó có lạc là có khổ, vì nó có lạc là có ác, cho nên Thầy gọi nó là hèn hạ, cần phải lìa nó đi, cái dục lạc này mà người ta muôn đời khó thoát khỏi vòng tay của nó. Vậy ở đây quý vị có liệu sức mình đủ khả năng lìa nó hay không? Nếu đủ sức thì theo Thầy mới nổi, nếu thấy không đủ sức thì đừng theo Thầy tu hành vô ích, mất thì giờ quý báu. Hãy trở về đi, bây giờ chưa có muộn màng, còn có thể chọn các pháp môn khác dễ dàng hơn và sự lợi dưỡng cũng đầy đủ hơn.

Còn ở đây quý vị muốn tu thiền thì thiền ở đây không có cho quý vị tu, quý vị hãy tu tập ăn, ngủ, nói chuyện cho đúng cách, cho đúng phạm hạnh, giới luật thì ở đây đang dạy cho quý vị, đang tập luyện cho quý vị sống đúng giới luật, phạm hạnh của đạo Phật. Nếu quý vị cầu mong tu thiền mà không cầu mong tu giới luật thì ở đây không có dạy. Nếu ở đây quý vị không thực hành được đời sống giới luật phạm hạnh thì quý vị đừng mong tu thiền định. Đức hạnh giới luật mà không tu hành được thì thiền định là mộng ảo, thì con đường giải thoát của quý vị là ảo tưởng, ảo mộng, ngàn đời, muôn đời quý vị chẳng thực hiện được gì cả.

Thầy bảo thực với quý vị, chừng nào quý vị sống đúng giới luật phạm hạnh của Phật thì Thầy mới dạy thiền định. Còn bằng không thực hiện được giới luật thì ngàn đời Thầy vẫn mang theo kinh nghiệm thiền định này xuống tận đáy mồ mà thôi, chẳng truyền cho ai hết.

Tại sao vậy? Tại vì thiền định của đạo Phật phải lấy giới luật, phải lấy đức hạnh làm nền tảng, nếu không đức hạnh, đó là thiền định của ngoại đạo, không phải của đạo Phật. Đó là sự xác quyết của Thầy, không một ai chối cãi được, chống báng được.

Thầy ở đây chẳng cầu danh, chẳng cầu lợi, chẳng cầu Phật tử đông đảo để cúng dường nhiều. Ở đây Thầy cũng chẳng cầu đệ tử có hàng trăm, hàng vạn người mà thực chất những người đệ tử này đức hạnh, thiền định chẳng có ra gì. Ở đây Thầy chẳng cầu mong cất chùa to, miếu rộng, tháp lớn. Ở đây Thầy chỉ cần người đệ tử dạy đâu thực hành đúng đó, không làm sai lời dạy của Thầy. Người như thế mới giữ gìn trọn giới luật của Phật, mới thực hiện được thiền định của Phật, mới thể hiện được trí tuệ giải thoát của Phật.

Ở đây Thầy không cần nhiều đệ tử mà chẳng nghe lời dạy của Thầy, lúc nào cũng ồn náo, tranh luận, tuyên truyền xuyên tạc pháp môn này, pháp môn khác, lúc nào cũng làm động trong chùa, dạy Đông tu Tây, dạy Nam tu Bắc thì thử hỏi những người học trò đó ở đây có lợi ích gì? Chẳng lợi ích cho bản thân họ, chẳng lợi ích cho Thầy và cũng chẳng lợi ích cho Phật pháp. Cho nên muốn ở đây tu hành thì quý vị phải tự giác cao độ, phải rèn mình trong gian khổ, phải thử lửa như vàng thử lửa, phải chiến đấu ngũ dục lạc thế gian mà ngàn đời, muôn đời quý vị đã bị nhiễm.

Ở đây quý vị phải gan dạ, phải trui mình trong lửa đỏ, nghĩa là quý vị phải sống trong hạnh nhẫn nhục tối đa. Nếu chấp nhận vào đạo Phật mà quý vị không thực hiện hạnh nhẫn nhục thì đừng nên theo đạo Phật, vì có theo cũng chẳng ích lợi gì cho quý vị. Thà quý vị sống ngoài đời, ăn ở có đạo đức thì còn hơn tu tập, ở chùa mà còn sân ầm ầm dữ tợn như vậy thì không phải là người đệ tử của Phật.

Người đệ tử của Phật phải thực hành hạnh từ bi, biết thương mình, thương người, biết chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách và không cầu mong thiền định. Thiền định của đạo Phật không thể để cho kẻ thiếu đức hạnh và giới luật mà thực hiện được, bởi con con đường tu chân chánh của đạo Phật thì phải lấy đức hạnh và giới luật làm đầu.

Tại sao ở đây Thầy gọi là con đường tu chân chánh của đạo Phật?

Vì đạo Phật ngày nay có nhiều con đường tu hành, những con đường này không đưa hành giả đến nơi đến chốn giải thoát hoàn toàn, mà đưa hành giả đến phá giới luật, làm mất phạm hạnh của người tu theo đạo Phật. Vì thế quý thầy và quý Phật tử cần phải áng suốt nhận định để không lạc lầm những pháp môn tệ hại này, làm mất uy tín đạo Phật.

Ở đây tu theo con đường chân chánh của đạo Phật, lấy giới luật làm đức, lấy nhẫn nhục làm hạnh. Này quý thầy và quý Phật tử, nếu máu trong thân của quý vị chưa khô, xương trong thân của quý vị chưa nát thì dục lạc thế gian của quý vị chưa lìa được.

Đời sống của đức Phật ngày xưa khi khổ hạnh, vì ăn quá ít nên sờ da bụng đụng xương sống, sờ xương sống đụng da bụng, đó là máu phải khô, xương phải nát. Thầy mười năm trong thất, ngày một bữa cơm rau lang luộc với nước muối, hoàn toàn chẳng có thứ gì khác hơn.

Người thời nay tu hành ăn uống đầy đủ các thứ món ngon vật lạ, cao lương mỹ vị, lại còn thêm bánh trái sữa bơ đầy đủ, thế mà còn muốn ăn ba bốn bữa, lại còn ăn uống lặt vặt phi thời ban đêm, như vậy con đường giới đức của đạo Phật không còn. Quý vị nghĩ sao, than này quý vị còn lo bồi bổ cho đầy đủ dưỡng chất, thừa thãi sự sống thì thử hỏi dục lạc thế gian đối với quý vị, quý vị có hàng phục được nó chăng?

Nếu thân này đầy đủ sung mãn dưỡng chất thì sự đòi hỏi dục lạc rất mạnh mẽ, chúng ta khó chiến thắng nó. Bởi vậy thân quý vị, nếu máu chưa khô, xương chưa nát thì làm sao quý vị thắng được dục lạc thế gian.

Này quý vị, Phật giáo hiện giờ chỉ có lý thuyết suông mà thôi, chẳng bao giờ tìm cách tu thực tế ly được dục lạc. Thầy nói như vậy, ở đây quý vị còn sẽ thấy và còn chứng kiến thực tế những lời dạy trên đây của Thầy không sai chút nào cả. Bởi tu hành như đạo Phật hiện giờ chỉ là một hình thức, không thể nào nhập định được, còn thích ăn ngon mặc đẹp, còn thích trang điểm cho thân đẹp đẽ, bệ vệ Tăng tướng, bệ vệ trang hoàng trong hàng giáo phẩm như con vua cháu chúa thì thử hỏi phạm hạnh giới luật còn ở đâu?

Tóm lại, trong buổi nói chuyện hôm nay Thầy khuyên quý vị hãy tu hành những giới đức: ăn, ngủ, nói, nín, nhẫn nhục… Nếu quý vị thực hiện được những lời dạy này thì Thầy mới tiếp tục dạy quý vị thiền định, còn bằng không thì thôi.

Ngày xưa đức Phật đuổi 500 vị tỳ kheo làm ồn náo, không giữ gìn hạnh khẩu nghiệp thanh tịnh, thì hôm nay quý vị phải cố gắng giữ gìn thân, khẩu nghiệp thanh tịnh thì mới sống đúng con đường tu của đạo Phật. Phật không cấm tịnh khẩu, nhưng quý vị phải biết cách tác duyên tức hành tịnh khẩu thì sự tu hành của quý vị mới có kết quả, nếu không biết tác duyên thì sự tu hành của quý vị hoài công vô ích.

Trước kia Thầy từng dạy sống cô đơn, sống độc cư, ngày ăn một bữa, tịnh khẩu nhưng không nói là giới luật, chỉ nói là bí quyết của thiền định. Vậy hôm nay quý vị đã rõ, Thầy đã dạy con đường tu học của đạo Phật như thế nào rồi. Đúng hay sai thì hiện giờ quý vị đã thấy rõ ràng.

Xưa không đủ duyên nên Thầy tùy duyên hòa hợp để chấn hưng Phật pháp, để mong thắp lại ngọn đuốc của đạo Phật, nhưng chúng sanh thiếu phước, không có duyên với Phật pháp nên Thầy muốn ra đi. Thầy muốn ra đi từ lúc Thầy mới ra thất chứ không phải tới bây giờ. Nhưng vì thương xót vài người đệ tử còn bám theo Thầy, vì thế Thầy thẳng thắn chỉ rõ mà chẳng sợ mất lòng một ai.

Nếu quý vị muốn tu hành thì phải theo kỷ luật của Thầy, còn không muốn tu hành thì thôi, đừng phá giới luật ở đây mà tạo tội đọa địa ngục. Nếu muốn tu giải thoát thì phải vâng lời dạy của Thầy, phải giữ gìn khẩu nghiệp thanh tịnh. Suốt ngày, suốt tháng, nhiều năm không một lời nói. Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm sống một mình không chơi với ai, không trò chuyện với ai. Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, ngày ăn một bữa, không ăn uống lặt vặt phi thời. Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, luôn giữ gìn giờ giấc nghiêm túc không bao giờ biếng trễ thì mới theo Thầy tu hành. Còn bằng không giữ được như vậy, quý vị hãy xin về để Thầy được yên ổn nhập diệt, đừng ở đây mà không giữ được giới luật thanh tịnh thì uổng ngày tháng của Thầy, mà cũng uổng ngày tháng của quý vị, chẳng ích gì.

Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay. Riêng phần Từ Minh, con đã phát nguyện tâm, phải cố gắng giữ gìn giới đức để tạo mọi điều kiện ly dục thế gian thì mới thành tựu được giới hạnh.

Đến đây các con cũng đã hiểu rõ đường lối tu tập của Thầy ở đây. Trước phải dùng giới luật để sống, sống ly dục. Sau dùng thiền định ức chế tâm mình, nhiếp phục tâm và ý tứ để đoạn ái dục thế gian. Đó là đường lối để thành tựu cứu cánh của đạo Phật

Một lần nữa Thầy xin nhắc lại: Muốn theo tu hành ở đây, trước tiên phải dùng giới luật để sống, sống một đời sống ly dục. Sau đó, chúng ta dùng thiền định để ức chế toàn tâm, nhiếp phục sự suy tầm và ý tứ để đoạn được ái dục thế gian. Quý thầy phải biết, đó là đường lối thực của đạo Phật để thành tựu cứu cánh, để giúp cho quý vị chấm dứt tái sanh luân hồi. Vậy quý vị phải cố gắng thực hiện hết bổn phận của mình, và để làm tròn trọng trách, trách nhiệm mà chúng ta là những người tu sĩ của đạo Phật.

Đến đây quý thầy và quý Phật tử cùng Thầy niệm hồi hướng:

“Nguyện đem công đức này, Hồi hướng cho tất cả…”

011-TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC GIẢNG TRẠCH VÀ CHỈ THẲNG PHÁP MÔN TU TẬP

Đức Phật dạy: 

“1. Này các Tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Minh Giải Thoát (Tam Minh)? Bảy Giác Chi, cần phải trả lời như vậy.

2. Này các Tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho (Năng lực) Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy.

3. Này các Tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện Hành, cần phải trả lời như vậy.

4. Này các Tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Ba Thiện Hành? Các Căn Được Chế Ngự, cần phải trả lời như vậy.

5. Này các Tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Các Căn Được Chế Ngự? Chánh Niệm Tỉnh Giác, cần phải trả lời như vậy.

6. Này các Tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Chánh Niệm Tỉnh Giác? Như Lý Tác Ý, cần phải trả lời như vậy.

7. Này các Tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Như Lý Tác Ý? Lòng Tin, cần phải trả lời như vậy.

8. Này các Tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Lòng Tin? Nghe Diệu Pháp, cần phải trả lời như vậy.

9. Này các Tỳ kheo! Cái gì là thức ăn cho Nghe Diệu Pháp? Thân Cận Với Bậc Chân Nhân (Bậc tu chứng đạo), cần phải trả lời như vậy”.

Trưởng Lão giảng trạch:

Những lời dạy trên đây của đức Phật, chúng ta nhận thấy có TÁM PHÁP tu tập. Người mới bắt đầu vào đạo phải tu tập pháp môn nào trước?

1- THÂN CẬN VỚI BẬC CHÂN NHÂN (Bậc tu chứng đạo).

Thân cận với bậc tu chứng đạo nghĩa là phải sống gần bên Người chứng đạo để được thưa hỏi những điều mình chưa hiểu biết. Khi sống được thân cận với bậc tu chứng đạo thì phải thưa hỏi Chân lý giải thoát. Vậy Chân lý giải thoát là cái gì?

2- NGHE DIỆU PHÁP.

Vậy Nghe Diệu Pháp của đức Phật là nghe pháp gì? Nghe Diệu Pháp của đức Phật là nghe bốn chân lý: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

- Khi hiểu được đời là khổ thì ai cũng muốn đi tu cả.

- Khi hiểu được nguyên nhân sinh ra đau khổ thì ai cũng muốn từ bỏ lòng ham muốn cả.

- Khi hiểu biết và nhận ra tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự là chân lý giải thoát thì ai cũng muốn gìn giữ và bảo vệ nó để sống cho được với trạng thái này.

- Khi nhận ra tám pháp tu tập để bảo vệ và gìn giữ tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự thì ai cũng muốn tu tập để được giải thoát.

Khi nghe và hiểu bốn chân lý này là sự thật của kiếp người thì còn ai mà không tin đạo Phật?

3- LÒNG TIN

Khi chúng ta có lòng tin thì pháp đầu tiên chúng ta tu tập là pháp Như Lý Tác Ý.

4- NHƯ LÝ TÁC Ý

Pháp Như Lý Tác Ý như thế nào? Như Lý có nghĩa là như lý của sự giải thoát. Vậy Như Lý Của Sự Giải Thoát như thế nào?

Như lý của sự giải thoát là Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự. Đó là chân lý thứ ba của pháp môn TỨ DIỆU ĐẾ.

Khi chúng ta thường xuyên tu tập pháp Như Lý Tác Ý thì tâm của chúng ta ở trong trạng thái Chánh Niệm Tỉnh Giác.

5- CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC

Pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác nghĩa là gì?

Chánh Niệm nghĩa là niệm đúng theo lời đức Phật dạy, còn niệm không đúng theo lời đức Phật dạy là Tà Niệm. Vậy niệm đúng theo lời đức Phật dạy là niệm gì?

Niệm Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự (Niệm chân lý thứ ba), đó là Chánh Niệm – Chánh Niệm tức Tứ Niệm Xứ - Tứ Niệm Xứ là chỉ cho trạng thái Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự.

Tỉnh Giác nghĩa là gì? Tỉnh Giác nghĩa là Im Lặng Và Sáng Suốt.

Nghĩa chung của bốn từ Chánh Niệm Tỉnh Giác là “Luôn Luôn Im Lặng Sáng Suốt Trên Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự”.

Khi tâm luôn luôn in lặng sáng suốt trên tâm bất động thanh thản, an lạc, vô sự thì các căn không tiếp xúc với các trần. Các căn không tiếp xúc với các trần nên gọi là chế ngự các căn. 

6- CHẾ NGỰ CÁC CĂN

Pháp Chế Ngự Các Căn nghĩa là gì?

Pháp Độc Cư, Độc Bộ, Độc Hành. Nhờ pháp độc cư, độc bộ, độc hành mới chế ngự các căn và làm cho các căn không còn phóng dật chạy theo các trần. Do đó Thân Hành, Khẩu Hành và Ý Hành đều được thanh tịnh tức là thân hành, khẩu hành và ý hành không còn làm ác nên được gọi là Ba Thiện Hạnh.

7- BA THIỆN HẠNH

Pháp Ba Thiện Hạnh nghĩa là gì?

Pháp Ba Thiện Hạnh là pháp Tứ Chánh Cần, người sống với Ba Thiện Hạnh là người đang ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.

Ba Thiện Hạnh tức là ba hành động Thân, Khẩu, Ý thanh tịnh. Ba hành động Thân, Khẩu, Ý thanh tịnh tức là toàn thân thanh tịnh. Toàn Thân Thanh Tịnh tức là bốn chổ thanh tịnh. Bốn chổ là Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thân, Thọ, Tâm, Pháp là Tứ Niệm Xứ.

8- TỨ NIỆM XỨ

Luôn Luôn Im Lặng Sáng Suốt Trên Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự tức là đang sống trên Tứ Niệm Xứ. Tâm ở trên trạng thái Tú Niệm Xứ này lần lượt xuất hiện đủ Bảy Năng Lực Giác Chi.

Khi tâm tinh tấn siêng năng Luôn Luôn Im Lặng Sáng Suốt Trên Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự thì Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện.

Khi Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện thì Niệm Giác Chi xuất hiện;

Khi Niệm Giác Chi xuất hiện thì Định Giác Chi xuất hiện;

Khi Định Giác Chi xuất hiện thì Khinh An Giác Chi xuất hiện;

Khi Khinh An Giác Chi xuất hiện thì Hỷ Giác Chi xuất hiện;

Khi Hỷ Giác Chi xuất hiện thì Xả Giác Chi xuất hiện;

Khi Xả Giác Chi xuất hiện thì Trạch Pháp Giác Chi xuất hiện.

Khi Bảy Giác Chi xuất hiện đầy đủ thì thân tâm chúng ta có Tứ Thần Túc.

Tứ Thần Túc gồm có:

1- TINH TẤN NHƯ Ý TÚC (Tứ Niệm Xứ)

2- DỤC NHƯ Ý TÚC (Lục Thông)

3- ĐỊNH NHƯ Ý TÚC (Tứ Thánh Định)

4- TUỆ NHƯ Ý TÚC (Trí tuệ Tam Minh)

Tu tập đến đây là chúng ta CHỨNG ĐẠO, không còn tu tập một pháp nào nữa cả. Vì thân tâm của chúng ta có đủ nội lực làm chủ sống chết, chấm dứt tái sinh, tự tại trong sinh tử, không còn bị nhân quả chi phối, điều hành nữa.

012-ĐẠO PHẬT GIẢN DỊ - Nhật Minh lược trích

I- ĐẠO PHẬT LÀ NỀN ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ (1)

          Đạo Phật (2) có mặt trên hành tinh từ hơn hai mươi lăm thế kỷ trước. Đến ngày nay đạo Phật vẫn chỉ có một, nhưng Phật giáo lại có quá nhiều.

Phật giáo (3) thì huyền diệu, vĩ đại và cao siêu nên con người chỉ ngưỡng trông thèm muốn chứ không thể nào với tới.

Đạo Phật do đức Thích Ca Mâu Ni hoằng dương là đạo giản dị, khiêm nhường mà trong mỗi con người ai ai cũng sẵn và đều có thể thực hiện được. Đó là Đạo Đức Con Người, một nền Đạo Đức Nhân BảnNhân Quả rất cần thết như khí trời, nước ưống, cơm ăn, áo mặc hàng ngày.

“Đạo đức giản dị không bắt ai phải phục vụ cho một giai cấp nào, cho một chế độ nào hay cho một hệ thống tư tưởng nào.

Đạo đức giản dị là một thứ đạo đức bình đẳng luôn luôn phục vụ cho sự sống của muôn loài trên hành tinh này; không phân biệt màu da thứ tóc, không phân biệt chủng tộc, Tổ quốc, quê hương hay một đất nước riêng biệt nào cả.

Đạo đức giản dị dạy con người không những biết yêu thương con người và còn biết yêu thương các loài động vật cho đến các loài cỏ cây.

Đạo đức giản dị sẽ mang đến cho muôn loài một sự bình an.

Tại sao lại gọi là đạo đức Nhân Bản? Vì hành động (có đạo đức hay vô đạo đức) do thân, miệng, ý của con người tạo ra, tự con người thực hiện tác thành nên gọi là nhân bản, tức là những hành động từ gốc nơi thân người.

Tại sao lại gọi là Đạo Đức Nhân Bản – Nhân Quả? Vì mỗi hành động (có đạo đức hay vô đạo đức) do thân, miệng, ý của con người khởi ra là Nhân, thì tiếp ngay đó liền có sự thọ vui hay thọ khổ, đó là Quả.

Ví dụ: Khi chúng ta mở miệng mắng chửi người: “Thằng khốn nạn”, nói như vậy là Nhân. Người bị mắng chửi như vậy sẽ tức giận là Quả, khi tức giận như vậy người ta sẽ mắng chửi lại hoặc đánh chúng ta, hành động này là Nhân, chúng ta bị chửi mắng lại hay bị đánh là Quả, đó là thọ chịu sự đau khổ. Nếu chúng ta không nói lời thô ác đó thì Nhân không có nên Quả cũng không. 

Đạo đức nhân bản – nhân quả là nói lên những hành động của con người không làm khổ mình, khổ người. Hành động không làm khổ mình, khổ người là những hành động sống hàng ngày của con người đối xử với nhau, nó rộng rãi bao la và vô lượng vô biên không thể nghĩ lường, không thể nói hết được. 

Muốn chấm dứt những sự đau khổ của con người trên hành tinh này thì không có phương cách nào tốt hơn những hành động đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình khổ người. Những hành động ấy phải là những hành động của chính mình thì mới có thể đem lại hạnh phúc chân thật cho mình, cho người.

          Một người không có đạo đức nhân bản - nhân quả thì họ phải chịu đầy dẫy sự khổ đau, dù họ là vua chúa, quan to, chức lớn, hoặc những nhà tỷ phú giàu nhất trên thế giới hoặc những nhà bác học, bác sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ, thi sĩ, v.v... Tất cả đều phải chịu chung số phận đau khổ, bất an, bất toại nguyện, v.v...

          Một người nghèo cùng, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhưng nếu họ sống có đạo đức nhân bản - nhân quả thì họ cũng vẫn thấy an vui, thanh thản không ai có thể làm họ phiền lòng được, dù trong cảnh nghèo cực.

          Do vậy một người muốn đi tìm chân hạnh phúc thì phải tìm ngay nơi mình để biết sống trong đạo đức nhân bản - nhân quả. Sống biết cách không làm khổ mình khổ người thì ngay đó là chân hạnh phúc của cuộc đời. Bởi vậy đạo đức nhân bản - nhân quả rất quan trọng cho cuộc sống của con người trên hành tinh này”.

II- LỜI THƯƠNG TA NHỦ CÙNG NHAU

Gửi nhân loại yêu thương!

“Do không quan tâm đến đạo đức nhân bản – nhân quả nên chiến tranh thế giới lúc nào cũng có, biết bao nhiêu sinh mạng con người chết một cách oan uổng trong lằn tên bom đạn của chiến tranh.

Do không quan tâm đến đạo đức nhân bản – nhân quả nên thời tiết không giúp loài người, cho nên mưa không thuận, gió không hòa, thường xảy ra hạn hán, lũ lụt, động đất, thiên tai, hỏa hoạn, khiến biết bao nhiêu người sống màn trời chiếu đất, chết một cách đau đớn và oan uổng.

Do không quan tâm đến đạo đức nhân bản – nhân quả mà loài người phải chịu nhiều tai ương hoạn họa, bệnh tật nan y không thuốc thang trị dứt, nhất là các căn bệnh thời đại.

Do không quan tâm đến đạo đức nhân bản – nhân quả mà thời tiết ngày càng khắc nghiệt, nóng lạnh, mưa nắng, gió bão thất thường. Tương lai cuộc sống của loài người như đã đi gần đến mé hố thẳm mà không hề ai hay biết.

Ngay bây giờ nếu mỗi người không thức tỉnh, cứ nghĩ tưởng rằng khoa học sẽ giải quyết mọi mặt cho cuộc sống loài người thì điều này là một tai họa.

Hỡi loài người nên nhớ: Khoa học không có đạo đức là khoa học tiêu diệt loài người, tôn giáo mà không khoa học là tôn giáo mê tín tạo thần quyền lừa đảo con người”.

Loài người hãy ý thức và trách nhiệm với mọi hành động của chính mình."

- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Chú thích của người lược trích:

(1) Đạo đức Nhân bản – Nhân quả tức là nói đạo đức của con người. Con người hành động là (Nhân) và kết quả của hành động là (Quả). Nếu hành động thiện sẽ tạo ra quả Hạnh phúc, nếu hành động bất thiện sẽ tạo ra quả Khổ đau. 

(2) Đạo Phật, tức giáo lý chỉ dạy pháp hành (Con đường) do đức Phật Thích Ca và các vị đại đệ tử của Ngài thuyết giảng để mọi người thực hành (khi Ngài còn sinh thời), cũng hiểu là Phật giáo Nguyên Thủy.

(3) Phật giáo, tức giáo lý của các nhà Phật học (những người tu chưa chứng đạo) giảng thuyết sau khi đức Phật và các đại đệ tử của Ngài nhập diệt, còn gọi là Phật giáo phát triển.

Đạo Phật và Phật giáo thoạt nghe thì tưởng như là một, nhưng thực tế lại khác nhau căn bản (do học giả đời sau hoặc cố ý, hoặc vô tình làm sai lệch): Đạo Hành (Hành Giả - đạo Phật) và Đạo Học (Học Giả hay nhà Phật học – Phật giáo). Đạo Hành thì giản dị mà Đạo Học lại quá cao siêu, chúng ta nên thận trọng để tránh nhầm lẫn. 

013-TÌM HIỂU ĐẠO PHẬT, PHẬT PHÁP, PHẬT GIÁO LÀ GÌ? - Nhật Minh

Đọc câu hỏi của bạn Thích Lục Vấn trên mục Tham vấn – Hỏi đáp, tôi xin có vài lời cùng trao đổi với bạn Lục Vấn và quý độc giả.

Câu hỏi của bạn: “Tôi muốn tìm hiểu cho rõ ràng về Phật Giáo và Phật Pháp, tôi đã tìm đọc những khái niệm này trong Wikipedia, website Đại tạng kinh Việt Nam và một số trang web khác nhưng sự giải thích ở các trang này không làm tôi thỏa mãn. Vậy mong được quý vị giải thích rõ thêm để tôi hiểu kỹ và có niềm tin đúng đắn về Phật giáo và Phật pháp. Tôi xin cảm ơn.”

Thưa bạn Thích Lục Vấn, thưa quý vị độc giả!

Câu hỏi Phật giáo là gì? Chúng ta đã được biết rất nhiều qua sự giải thích của kinh sách, nhưng cũng như bạn nghi vấn, tôi nhận thấy có sự tráo lộn (1) không rõ ràng khiến người phật tử đặt niềm tin không đúng chỗ. Cứ thấy có chữ “Phật” là tin ngay mà không chú ý xem đó là Phật nào? Hay là Tổ giả Phật… Thế cho nên, đã từ bao lâu, người phật tử bị nhầm lẫn dẫn đến rất uổng phí công lao tín, thí, học, tu tập… mà không đạt kết quả gì, thật đúng là “Mồ cha không khóc, khóc đống mối” để người đời mỉa mai.

Để tìm hiểu Phật Pháp, Đạo Phật là gì? Phật Giáo là gì? Chúng ta cùng điểm lại lướt qua một vài sự giải thích của kinh sách, tài liệu đã được phổ biến. 

Theo Wikipedia tiếng Việt đã dẫn: “Phật giáo (zh. 佛教, sa. buddhaśāsana, pi. buddhasāsāna, bo. sangs rgyas bstan pa སངས་རྒྱས་བསྟན་པ་), hay giáo lý của Phật-đà (śāsana), là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới (các tôn giáo lớn khác là Do Thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo, và Ấn Độ giáo). Phật giáo được một nhân vật lịch sử là Tất-đạt-đa Cồ-đàm (zh. 悉達多瞿曇, sa. siddhārtha gautama, pi. siddhattha gotama) sáng lập khoảng thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên, và Phật-đà hay Bụt-đà (sa., pi. buddha), người Việt gọi đơn giản là Phật, có nghĩa là "người tỉnh thức", "người giác ngộ", danh hiệu mà Ngài có được sau khi thành đạo, giác ngộ. Giáo lý mà Ngài dạy và để lại được gọi là Phật pháp (zh. , sa. dharma, pi. dhamma). Ở một số ngôn ngữ, Phật giáo có nghĩa như "nguyên lí của vạn vật"…

Theo từ điển Phật học Thiện Phúc, Việt - Anh (TVHS):

Pht Giáo: Buddhism.

(I) Ý nghĩa ca Đo Pht—The meanings of Buddhism:

1) Có người cho rng đây ch là đi sng ca Đc Pht, tm gương ca Đc Pht và nhng đ t gn gũi nht ca Ngài đt ra, đó là kỳ công quang vinh ca mt người, mt người đng trước công chúng tuyên b con đường gii thoát: To someone it can be only life of the Buddha;… 

2) Vi s người khác, Pht giáo có nghĩa là hc thuyết qun chúng như đã ghi trong văn hc Pht giáo gm Tam Tng kinh đin. Và trong đó miêu t mt triết lý cao quý, sâu sc, phc tp và uyên bác v cuc đi: To others, Buddhism would mean… 

3) Đo Pht, mt triết lý, mt phương cách sng hay là mt tôn giáo. Đu ny không quan trng. Pht giáo là giáo pháp ca Đc Pht thuyết ging, mt nn giáo lý hoàn toàn xây dng trên trí tu ca con người. Đo Pht rt tôn trng lý trí. Nhm mt tin suông là trái vi giáo lý nhà Pht”

Quý vị có thể xem thêm các giải thích về Phật Giáo của tác giả Thích Nguyên Tạng trên trang Đại Tạng Kinh Việt Nam, hoặc nhiều tác giả trên các trang web Phật giáo khác…, có rất nhiều, nhiều lắm những khái niệm về Phật giáo cổ, kim, Đông, Tây, Nam, Bắc đầy đủ cả. Thế cho nên thật khó mà nhận ra đâu là Phật giáo chân chánh nếu không được Bậc Thiện Tri thức hướng dẫn.  

Chúng tôi xin góp đôi lời theo cách hiểu “mộc mạc chân quê” của mình, mong muốn chia sẻ cùng quý vị và bạn Thích Lục Vấn, nhưng không chắc làm bạn thỏa mãn được. Mong bạn hoan hỷ.

1- Đạo Phật là gì? 

a- Đạo là Con Đường, là Giáo Lý dạy đạo đức cho con người thực hành sống làm người, làm Thánh.

b- Phật là Trí Tuệ, là Giác Ngộ, là Giải Thoát (các kinh sách khác gọi là Giác tánh, Tánh biết, Bản minh v.v…).

Một ý nghĩa khác: Phật là một con người bằng xương bằng thịt đã xuất hiện trên hành tinh này (vào khoảng năm 623 TCN). Ngài có tên là Siddhattha Gotama (Sĩ-đạt-ta Cồ Đàm), cha Ngài là Quốc vương Tịnh Phạn (thuộc dòng họ Thích-ca), mẹ là Hoàng hậu Ma Da. Quê hương của Ngài nằm ở phía Đông Bắc Ấn Độ với thủ phủ là thành Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ).

Khác hẳn với những danh khác được gọi là Phật quá khứ như: Tỳ-bà-thi, Thi-khí, Tỳ-xá-bà, Câu-lâu-tôn, Câu-na-hàm, Ca-diếp, A-di-đà; hay Phật tương lai như Di-lặc, nhưng tất cả những vị này không có ai biết cụ thể các ngài sinh ra ở đâu? Vào thời gian nào? Cha mẹ là ai v.v…

Tóm lại, Đạo Phật là Con đường Trí tuệ (Giác ngộ, Giải thoát), được đức Phật Thích-ca tự tu hành chứng ngộ và khai mở.

2- Phật Pháp là gì?

a- Phật ở đây chỉ rõ là đức Phật Thích-ca Mâu-ni.

b- Pháp tức là Giáo Lý do đức Phật Thích-ca giảng dạy. Có thể hiểu rộng hơn là cả giáo lý của các vị đại đệ tử của đức Phật giảng thuyết được Ngài thừa nhận.

Tóm lại, Phật Pháp là những Giáo Lý do đức Phật Thich-ca và các vị đại đệ tử của Ngài giảng dạy về con đường Trí tuệ Giải thoát (thoát khổ).

Ngoài giáo lý này, không còn một Phật Pháp nào khác, mặc dù các vị Phật kể tên rất nhiều (từ quá khứ đến tương lai), nhưng không ai có một lời nào giảng dạy về Con Đường Trí Tuệ cả. Với những bài kinh có danh tác giả là các thầy Tổ đời sau như: Bát Nhã Tâm Kinh, Thanh Tịnh Đạo, Pháp Bảo Đàn v.v… thì nhất định không thể là Phật pháp được, gọi đúng nghĩa chỉ là Tổ Pháp nên tính giáo lý của Phật không có, thậm chí nhiều kinh còn chống lại Phật pháp rất nguy hại nữa.

3- Phật Giáo là gì?  

Từ lâu chúng ta đã bị lầm lẫn rất đáng tiếc. Danh từ Phật giáo đã bị lạm dụng để gán ghép cho quá nhiều tổ chức Tôn giáo dù chỉ xen vào rất ít giáo lý của đức Phật Thích-ca. Dưới danh nghĩa Phật giáo họ thỏa mái đưa những giáo điều, triết lý người đời để tôn vinh, xiển dương những pháp học và hành mà các vị thầy Tổ sáng lập ra, đôi khi rất kỳ đặc, khác lạ với Phật giáo chính thống.

Chúng ta sẽ tìm hiểu Phật Giáo dưới hai phương diện.

a- Tổ Chức:

Phật giáo là một tập thể bao gồm nhiều người có chung một niềm tin vào đức Phật (Thích-ca), tự nguyện học tập và thực hành theo giáo lý của Ngài dạy, đi đúng con đường Giác Ngộ giải thoát cho mình, đem lại sự an vui hạnh phúc cho mọi người và muôn loài.

Tổ chức Phật giáo (buổi sơ khai) thời đức Phật là Giáo đoàn Tăng già do đức Phật thành lập và dạy dỗ. Ngay trong thời kỳ này (khi đức Phật còn tại thế) thì tư tưởng Bà-la-môn đã muốn trỗi dậy để chia rẽ, phá hoại Giáo đoàn mà lịch sử còn ghi lại. 

Sau thời kỳ đức Phật nhập diệt không bao lâu thì Phật giáo Nguyên Sơ bị chia rẽ, tan vỡ hẳn. Thay vào đó là các hệ thống Phật giáo mới ra đời bao gồm Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. Từ đó đến ngày nay, theo ranh giới địa lý quốc gia đã hình thành ra rất nhiều Phật giáo mới như: Phật giáo Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia…

Trong mỗi quốc gia, Phật giáo lại chia ra nhiều tông phái với những giáo lý rất khác nhau, đôi khi trái chống nhau. Ví dụ như: Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Thiên Thai Tông, Pháp Hoa Tông, Thiền Minh sát, Khất sĩ, Thiền Minh Triết… Thật quá nhiều và hỗn tạp nếu không muốn nói rằng “hổ lốn”, cho nên người phật tử không còn biết đâu là Phật giáo chính thống để mà học và hành cho tới đích. Ai cũng cố công tu tập nhưng “lửng lơ con cá vàng” vì không gặp được chánh pháp của đức Phật, rất phí uổng công phu tu hành, dù tới 60 – 70 năm hoặc cả đời tu tập mà chẳng thâu nhận được gì.

Tóm lại, về tổ chức, Phật giáo là một tập thể những người tự nguyện sống và học tập theo giáo lý của đức Phật Thich-ca. Một tập thể mà mỗi người hoàn toàn tự nguyện, không ai bị dụ dỗ ép buộc, không ai bị thẩm định điều tra nguồn gốc trước khi gia nhập, nếu muốn ra khỏi Phật giáo cũng hoàn toàn tự do mà không bị một điều quở trách hay hình phạt nào. Có lẽ vì thế mà Phật giáo trở thành quá dễ dãi (ở một khía cạnh) nhưng lại vô cùng khó khăn (trong một khía cạnh khác).  

b- Giáo Lý:

Giáo lý cơ bản của Phật giáo được đức Phật thuyết giảng là Bốn Chân lý: Khổ, Tập, Diệt, Đạo với Tám Thánh đạo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.

Tám Chánh đạo hay con đường Giới – Định – Tuệ cùng với 37 phẩm Trợ đạo sẽ bảo đảm chắc chắn cho người phật tử tu tập chứng đạt cứu cánh. Trong giáo lý nào có Bát Chánh đạo thì đó là giáo lý của Phật giáo, còn giáo lý nào không có Bát Chánh đạo thì không phải là Phật giáo.

Ngoài Bốn Chân lý của Phật giáo, đức Phật đã xác nhận ba đặc tướng của cuộc đời là Vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Đó là Tam Pháp Ấn: vô thường, vô ngã, khổ.

Khổ được giải thích là xuất phát từ ái dụcvô minh, và một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử. Cơ chế làm cho chúng sinh còn vướng mãi trong vòng sinh tử (khổ đau phiền não) được đạo Phật giải thích bằng thuyết Duyên khởi tức 12 Nhân Duyên. 12 Nhân duyên là dây xích trói buộc chặt con người trong vòng luân hồi bất tận, phá vỡ 12 Nhân duyên là con người được giải thoát hoàn toàn (thoát khổ).

Giáo lý của Phật giáo được ghi lại trong kinh tạng tiêu biểu văn hệ Pali được chia làm năm bộ: 1. Kinh Trường bộ (pi. dīgha-nikāya), 2. Kinh Trung bộ (pi. majjhima-nikāya), 3. Kinh Tương ưng bộ (pi. saṃyutta-nikāya), 4. Kinh Tăng chi bộ (pi. aṅguttara-nikāya) và 5. Kinh Tiểu bộ (pi. khuddaka-nikāya).

Tóm lại, giáo lý của đức Phật dạy vừa đủ để cho người phật tử học tập và tu hành đi đến chứng ngộ giải thoát. Ngoài những giáo lý đã nêu trên, nếu có giáo lý nào khác xen lẫn thì không phải là giáo lý Phật Giáo.

Người phật tử phải sáng suốt để nhận biết, đâu là lời Phật dạy, đâu không phải là lời Phật dạy. Nếu thực hành đúng lời Phật dạy mới có cơ may tinh tấn trên đường tu. Ngược lại, nếu không gặp được Chánh pháp thì dù bất cứ pháp nào, được ca tụng đến tận trời xanh cũng nhất định không bao giờ đạt tới kết quả cứu cánh của đạo Phật được. 

Lời nhắn nhủ sau cùng, chúng tôi xin nhắc lại lời Phật dạy: Chớ có tin! Chớ có tin!!!   

Hãy tin và hành theo những gì không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ muôn loài đang cùng chung sống trên hành tinh. Đó mới đúng thật là lời Phật dạy, đó chính là Phật Giáo, cũng là Phật Pháp và đó là Con đường giải phóng loài người thoát khỏi khổ đau.

- - - - - - - - -

(1) Tráo lộn: Ở đây muốn nói đến sự mập mờ đánh lận con đen giữa Phật pháp với Tổ pháp, giữa Phật Thích-ca với các vị Phật hư tưởng của quá khứ và tương lai.  

014-MỤC LIÊN , THANH ĐỀ - TL Thích Thông Lạc

Nhân có bài "Bóng Mây Bay Thoáng Qua Trên ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT" của Trần Kiêm Đoàn trên Thư viện Hoa Sen (ngày 09/9/12) liên quan đến bài "MỤC LIÊN, THANH ĐỀ", giotnangchonnhu xin giới thiệu bài dạy này của Trưởng lão để quý vị độc giả tiện theo dõi đối vấn trên TVHS.    

          Hỏi : Kính thưa Thầy, câu chuyện Mục Liên, Thanh Đề có phải là sự báo hiếu của đạo Phật hay không? Báo hiếu như vậy có đúng hay không? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.

          Đáp: Kinh Vu Lan Bồn là kinh sách phát triển xây dựng đạo lý của mình trên hình thức cứu độ, kinh khéo léo dùng tập thể cứu độ để đánh lừa người khác, mạo nhận là Phật dạy để không ai truy tìm sự lừa đảo này được.

          Như chúng ta đã biết, Đức Phật đã từng dạy chúng ta: Các con tự thắp đuốc lên mà đi. Giáo pháp của Ngài được xây dựng trên nền tảng “Đạo đức nhân quả” thì không có lý nào Đức Phật lại dạy một điều phi đạo đức, phi nhân quả như vậy sao? Chúng ta phải xem xét lại coi những loại kinh sách phát triển này chứ đừng vội tin.

          Đạo đức nhân quả là một thứ đạo đức được xây dựng trên sự công bằng, công lý và bình đẳng với một trí tuệ vô hạn, thấu suốt được mỗi hành động của con người làm thiện hay làm ác. Vì xây dựng tôn giáo của mình trên một nền đạo đức công lý, công bằng và bình đẳng cho mọi người như vậy, nên trên đầu Ngài chẳng có ai là thầy của mình, chẳng có ai cứu độ cho mình được, chỉ có sức tự lực và trí tuệ của mình mới cứu mình thoát ra cảnh đau khổ của kiếp làm người đang bị luân lưu trong vòng nhân quả luân hồi. Ngài đã tự cứu mình bằng những giáo pháp mà Ngài tự tìm ra được.

          Giáo pháp đó là một thứ giáo pháp rất thực tế và cụ thể mà mỗi pháp môn đều có cách thức tu tập trực tiếp đối trị lại từng tâm niệm ác và sự đau khổ của con người trong cuộc sống để vượt thoát ra khỏi.

          Một giáo pháp không có hình ảnh, lý luận và sự mơ hồ, trừu tượng, không có sự cầu khẩn, van xin, cứu độ; không có sự cúng bái, tụng niệm và chú thuật v.v...

          Một giáo pháp không có thế giới siêu hình, không có linh hồn người chết, không có đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, không có đấng Tạo Hóa, không có thần linh và cũng không có ma, quỷ v.v...

          Một giáo pháp chỉ dạy cho chúng ta những gì cần dứt bỏ thì phải dứt bỏ, những gì cần tu tập thì phải tu tập, những gì cần trau dồi thì phải trau dồi và những gì cần thông hiểu thì phải thông hiểu.

          Người nghiên cứu và có thực hành giáo pháp của Đức Phật thì không thể nào bị người khác lừa đảo bằng những pháp tà giáo ngoại đạo. Chỉ có những người chưa từng nghe đến giáo pháp của Đức Phật thì dễ bị kẻ khác mạo nhận pháp môn tà giáo là của Phật.

          Vì giáo pháp của đạo Phật không có một giáo pháp nào của ngoại đạo tương đồng được. Giáo pháp của Ngài là giáo pháp “xả, ly”, với một pháp hướng tâm “Như lý tác ý” tuyệt vời, với mục đích khiến cho tâm con người bất động trước các pháp và các cảm thọ.

          Giáo pháp của Ngài chỉ có tự lực cứu mình, còn giáo pháp của ngoại đạo thì nhờ đến tha lực cứu mình. Do thế ta nhận ra giáo pháp của Phật một cách rất dễ dàng không có khó khăn, vì một bên là tự lực và một bên là tha lực. Vì thế câu chuyện Mục Kiền Liên và Bà Thanh Đề, ta thấy rõ đó là giáo pháp của ngoại đạo đang lồng trong giáo pháp của đạo Phật, mượn danh Đức Phật để lừa gạt tín đồ Phật giáo theo đạo của mình mà không nghi ngờ. Đó là cái khéo léo của Phật giáo phát triển và Thiền Đông Độ.

          Kinh sách phát triển người ta đọc rất hấp dẫn do sự diễn đạt qua hình thức cấu kết giống như tiểu thuyết và giàu sức tưởng tượng theo kiểu thiền Đông Độ.

          “Mục Liên đi theo Phật tu hành chứng quả giải thoát đắc lục thông. Mẹ là Thanh Đề, trước kia sùng kính Phật pháp, cúng dường trai Tăng tứ sự đầy đủ, sau khi Mục Liên bỏ nhà đi tu, bà tức giận làm bánh nhân thịt chó để thử thách chúng Tăng nên bị tội đọa địa ngục ngạ quỷ.

          Mục Liên chứng đắc thần thông dùng thiên nhãn thấy mẹ mình đang đọa địa ngục ngạ quỷ, đói khát vô tận. Thương mẹ, Ngài dùng thần thông xuống địa ngục thăm và mang theo một bát cơm cho mẹ. Thanh Đề đang đói khát, thấy cơm bà đón nhận và bốc ăn liền, nhưng không thể ăn được, vì cơm đã cháy thành than.

          Mục Liên thấy mẹ thọ lãnh quả khổ đói khát như vậy, muốn ăn mà ăn chẳng được, chẳng biết làm cách nào cứu mẹ được, nên Ngài trở về bạch với Đức Phật và mong nhờ Đức Phật chỉ giáo cứu mẹ mình. Đức Phật bày vẽ: “Trong mùa an cư kiết hạ, chúng Tăng đang tu học, thân, tâm thanh tịnh, ngày rằm tháng bảy là ngày giải hạ, nên cung thỉnh chư Tăng cúng dường trai phạn tứ sự, nhờ ơn công đức tu hành của các ngài hợp lại thành một sức mạnh to lớn, với công đức nầy có thể mới cứu mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục.” Mục Liên vâng lệnh Phật làm y như lời dạy, mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục.”

          Qua sự tích này đã biến ngày rằm tháng bảy trở thành một phong tục trong dân gian, ngày báo hiếu, ngày xá tội vong nhân v.v... Câu chuyện Mục Liên Thanh Đề là một câu chuyện phi đạo đức trong Phật giáo phát triển. Một câu chuyện được dựng lên trong thời đại phong kiến, lúc vua quan chuyên ăn lo hối lộ, mua quan bán chức, làm những điều bất công, không công bằng, công lý.

          Đạo Phật Nguyên Thủy chủ trương tự độ, không cầu tha lực độ mình. Cầu tha lực độ mình là giáo pháp của ngoại đạo, là của Phật giáo phát triển như trên chúng tôi đã nói. Đó là một thứ giáo pháp phi đạo đức, phi nhân quả, không công bằng và công lý.

          Đọc chuyện Mục Liên, Thanh Đề chúng ta thấy đạo Phật tổ chức giống như chế độ phong kiến không khác chút nào. Ăn lo hối lộ với những danh từ rất cao thượng: “Độ chúng sanh.”

          Cha mẹ làm tội ác bị nhà vua bắt giam cầm, tù tội, con thi cử làm quan, không cứu cha mẹ được vì tội quá nặng, nên phải nhờ những vị quan lớn khác bằng cách phải lo lót hối lộ, (Trai tăng cúng dường tứ sự). Nhờ có lo lót như vậy, bà Thanh Đề mới thoát cảnh tù tội A Tỳ Địa Ngục.

          Đối với một tôn giáo lớn như Phật giáo phát triển mà còn có hình thức ăn lo hối lộ như vậy thì trên đời này còn có nghĩa lý gì là đạo đức công bằng và công lý; còn có nghĩa lý gì gọi là đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người; còn có nghĩa lý gì khi mang danh là tôn giáo mà dạy tín đồ làm điều phi đạo đức như vậy.

          Nếu trên thế gian này không có một đạo luật nhân quả thì loài người đừng nói đến hai chữ công bằng và công lý. Vì không bao giờ có công bằng và công lý khi mà không có luật nhân quả. Không có một đấng Vạn Năng hay một đấng Tạo Hóa hoặc một Đức Chúa Trời hoặc một Ngọc Hoàng Thượng Đế nào cầm cán cân công bằng và công lý cho loài người này được, chỉ có luật nhân quả mới giữ vai trò công bằng và công lý này mà thôi.

          Vì nhân quả là do hành động của mọi người tự làm tội hay vô tội đều chính nơi họ, cho nên luật nhân quả chính là con người tạo ra để xử phạt hay ban thưởng chính lại họ, chứ không có một kẻ thứ hai nào khác thưởng phạt. Vì thế nó rất công bằng và công lý, không ai lo lót và hối lộ nó được. Kẻ nào làm ác thì phải thọ lấy quả khổ, kẻ nào làm thiện thì hưởng được phước báo.

          Sau khi tu hành chứng đạo, Đức Phật dẫn tâm đến Lậu Tận Minh, Ngài đã thấy luật nhân quả rất rõ ràng, công bằng và công lý vô cùng, cũng vì luật nhân quả có công bằng công lý như vậy nên con người phải chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, thọ biết bao nhiêu sự đau khổ từ kiếp này đến kiếp khác, đều do chính hành động nhân quả của họ.

          Ở trên đời người ta có tiền, có thế lực, thì người ta có thể mua thoát được tội lỗi, nhưng với luật nhân quả thì không thể mua thoát tội được. Trải qua một thời gian dài từ chế độ bộ lạc mãi nô đến chế độ phong kiến đã chứng minh điều này “Đa kim ngân phá luật lệ.” Và mãi sau này dù cho bất cứ một chế độ nào thì sự công bằng và công lý sẽ chẳng thực thi được trọn vẹn.

          Dưới chế độ phong kiến, con cháu của vua quan có làm tội giết người, cướp của vẫn ung dung phe phẩy tự do mà không ai làm tội làm tình được, pháp luật đối với những hạng người này như bắt cóc bỏ dĩa.

          Cho nên Phật giáo phát triển là một tôn giáo bị “thế tục phong kiến hóa” với sự lý luận vụng về để lộ chơn tướng thế tục:

Khi chư Tăng chấp nhận thọ dụng trai Tăng và tứ sự cúng dường thì hợp lại công đức tu hành của mình thành một công đức vô lượng, công đức đó sáng chói như ngọn đuốc trí tuệ khiến cho tâm bà Thanh Đề giác ngộ nên bà mới thoát khỏi địa ngục.

          Đó là hình thức ăn lo tập thể của chế độ phong kiến mà Phật giáo phát triển đã bị đồng hóa. Đó là cách lý giải không chân thật của các học giả Phật giáo phát triển khéo che đậy lừa đảo những tín đồ mê tín, vô minh, chứ không thể nào che đậy với những người đệ tử của Phật đã được trang bị đạo đức nhân quả. Vì giáo pháp của Đức Phật dạy rõ ràng, cụ thể, người tu sĩ phải lấy đức hạnh (giới luật) làm đầu. Chỉ có đạo đức nhân quả thì mới có công bằng, công lý và từ bi đối với mọi người mọi loài chúng sanh. Và vì thế, không thể nào có sự gian xảo lừa đảo dối trá theo kiểu dạy của kinh sách phát triển như trên.

          Bài kinh Vu Lan Bồn chỉ gạt những người chưa hiểu giáo lý chân chánh và đạo đức nhân quả của đạo Phật. Bài kinh Vu Lan hôm nay đã trở thành một sự lừa đảo có sách vở và đã trở thành một truyền thống báo hiếu vô đạo đức trong lòng tín đồ Phật giáo Việt Nam hơn cả nghìn năm mà không ai phát giác ra được.

        Mùa Vu Lan! Mùa báo hiếu! Những danh từ này đã lặp đi lặp lại trong lòng người phật tử hiếu hạnh Việt Nam, nhưng mấy ai đã biết sự hiếu hạnh này là phi hiếu hạnh, là sự bị lừa đảo. Hằng năm người phật tử đã tốn biết bao nhiêu tiền của trong mùa Vu Lan! Mùa Báo hiếu! Một việc làm chẳng ích lợi gì cho những người thân thương quá cố của mình, chỉ có làm lợi ích cho các nhà sư Phật giáo phát triển mà thôi.

          Nếu mọi người ai cũng đều thông hiểu đạo đức nhân quả của đạo Phật thì những kinh sách phi đạo đức của Phật giáo phát triển không thể lường gạt họ được như: “Vu Lan Bồn kinh, Phẩm Phổ Môn trong bộ Diệu Pháp Liên Hoa kinh, Di Đà kinh, Bát Dương kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Duy Ma Cật kinh vv...”

          Đó là những loại kinh sách phi đạo đức, phi chân thật, phi Phật pháp, nó không triển khai tri kiến giải thoát và tri kiến đạo đức nhân quả, nó khiến cho trí tuệ con người u mê, vô minh, đen tối, liệt tuệ, thường sống với sự hiểu biết mơ hồ, trừu tượng, mê tín của thế giới siêu hình tưởng. Nó dạy người làm những việc thiếu đạo đức và thiếu chân thật, thường cúng tế, cầu cạnh, van xin, gia hộ, hộ trì v.v… với lòng đại từ, đại bi của chư Phật và chúng Thánh Tăng, theo như trong kinh Vu Lan Bồn đã dạy ông Mục Kiền Liên cứu mẹ.

          Giả thuyết, nếu làm được như vậy thì tất cả chúng Tăng và Đức Phật tập trung công đức tu hành giải thoát của mình lại thành một công đức vô lượng vô biên như một ngọn đuốc khổng lồ cháy sáng rực và hướng đến chúng sanh, khiến cho chúng sanh ngộ được đạo lý giải thoát để mọi người ly dục ly ác pháp thoát ra cảnh địa ngục tại tâm, thì đâu cần gì chúng sanh phải tu hành vất vả khổ nhọc, mà cũng vẫn được giải thoát như thường. Cũng giống như chư Tăng hợp công đức tu hành của mình lại thành một trí tuệ lớn, khiến cho tâm bà Thanh Đề ngộ được đạo lý giải thoát, liền thoát ra cảnh địa ngục A Tỳ. Nếu chư Phật và chư Thánh Tăng làm được những điều này thì thế gian lại có thêm một tôn giáo phi đạo đức, thì chúng tôi là những phật tử chân chánh sẽ không chấp nhận điều này.

          Nếu chư Thánh Tăng trong thời Đức Phật đã cứu độ cho bà Thanh Đề thoát cảnh địa ngục như vậy thì với tâm đại từ đại bi của Phật và chư Thánh Tăng không lẽ không làm điều này để độ chúng sanh thoát khổ sao? Có lý đâu vì một cá nhân nhỏ mọn như bà Thanh Đề mà chư Tăng còn độ được thay huống là với tất cả chúng sanh trên hành tinh này đang đau khổ mà Phật và chư Thánh Tăng đều biết rõ, mà làm ngơ sao? Hay phải đợi cúng dường tứ sự? Có cúng dường tứ sự mới cứu độ thì còn gì là Phật, là Thánh Tăng nữa. Phải không các bạn?

          Bởi vậy, kinh điển Phật giáo phát triển diễn đạt giáo lý phi đạo đức một cách cụ thể rõ ràng, thế mà mọi người vì quá vô minh, u tối không thấy nên bị lừa đảo, bị lường gạt một cách đau đớn. Công đức tu hành của Phật vô lượng vô biên mà Ngài còn từ chối không cứu độ ai hết, Ngài chỉ là một hướng đạo viên mà thôi. Ngài đã rõ thấu đạo lý nhân quả tường tận mà không ai hiểu đạo lý nhân quả hơn Ngài.

          Do hiểu đạo lý nhân quả tường tận, dù biết rằng mình có đủ thần lực, có vô lượng vô biên công đức, nhưng Ngài vẫn từ chối không cứu độ ai hết, vì cứu độ là một việc làm phi đạo đức, nên Ngài dạy: Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là một người chỉ đường mà thôi.

          Theo đạo lý nhân quả, ai làm ác thì phải chịu nhận lấy quả khổ, không ai cứu khổ cho kẻ làm ác được, chỉ có các học giả Phật giáo phát triển mới có một đức Bồ Tát Quan Thế Âm dám làm điều phi đạo đức này (phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa) rồi đến chư Thánh Tăng và Đức Phật trong kinh Vu Lan Bồn mới dám cả gan làm điều phi đạo đức, phi giáo lý của Phật để cứu bà Thanh Đề thoát cảnh địa ngục, bằng cách ăn lo tứ sự cúng dường.

          Xưa, thời Đức Phật còn tại thế Ngài còn phải xin ăn để gieo duyên độ chúng sanh, nhờ có gieo duyên nhân quả thiện như vậy Ngài mới đủ duyên để thuyết giáo pháp của mình khiến cho chúng sanh ngộ được chân lý giải thoát rồi mới lần lần tu tập dứt bỏ và xả ly mới thoát cảnh địa ngục trần gian đầy đau khổ của kiếp làm người.

          Các học giả Phật giáo phát triển xây dựng sự cứu độ một cách vô lý, thiếu công bằng và công lý, thế mà mọi người vẫn tin theo, làm theo với sự thiếu suy nghĩ. Đem công đức tu hành giải thoát của mình hợp lại làm một ngọn đèn sáng, khiến cho người đang mê gặp ngọn đèn này trí tuệ bừng sáng, thoát cảnh địa ngục (nếu được như vậy thì đâu cần gì phải tu). Đó là một thứ vọng ngữ của các học giả Phật giáo phát triển để lừa đảo những người tín đồ thiếu trí tuệ và cũng khiến cho những người có trí tuệ hiểu biết nghi ngờ Phật giáo và xem thường đạo Phật, cho rằng Phật giáo là một tôn giáo mê tín, một tôn giáo không có đạo đức.

          Nếu thật sự, những loại kinh sách này là của Phật giáo thì Phật giáo không còn đất đứng trên hành tinh này nữa, một khi thời đại dân trí càng đi lên và khoa học càng tiến bộ thì người ta càng rõ sự gian xảo này. Trên hành tinh này duy chỉ cần phải có một đạo đức nhân quả và đạo đức ấy phải được phát triển đúng mức để quân bình vật chất và tinh thần của con người được cân bằng thì xã hội loài người mới có sự an vui, hạnh phúc.

          Do thế các tôn giáo nào thiếu đạo đức, gây mê tín, tạo thế giới siêu hình trừu tượng, viển vông, dạy những điều phi đạo đức, thường lừa đảo tín đồ thì phải bị khoa học chỉ mặt vạch tên và sẽ bị nhân loại đào thải khỏi cuộc sống  của họ.

          Bởi vậy, câu chuyện Mục Liên, Thanh Đề là câu chuyên phi đạo đức, phi công lý, phi công bằng, phản lại đạo đức nhân quả của Phật giáo. Sự báo hiếu của đạo Phật như trong kinh sách phát triển là không phải của đạo Phật, kinh sách này đã bị dân gian thế tục hóa Phật giáo theo thời đại phong kiến của nó.

          Người tu sĩ đạo Phật muốn báo hiếu cha mẹ thì phải tu hành sống đúng giới hạnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ, sống thiểu dục tri túc, ăn ngủ độc cư đúng cách, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, tâm thường thanh thản, an lạc, ly dục, ly ác pháp và nhập sâu Bốn Thánh Định, thực hiện Tam Minh, làm chủ sự sống chết và luân hồi thì mới báo hiếu trọn vẹn.

         Còn người tín đồ muốn báo hiếu thì phải giữ gìn năm giới nghiêm túc thường khuyên cha mẹ giữ gìn làm điều thiện, đừng làm điều ác. Đó là sự báo hiếu chơn thật của Phật giáo

          Thực hiện được những điều này qua đời sống gương hạnh cao quý khiến cho cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp vì có nhân duyên nhân quả nên quy tựu gặp lại nhau để nhận lấy gương hạnh đạo đức giải thoát và giáo pháp của Phật hướng dẫn cho những người thân thương của mình từ vô lượng kiếp để thoát ra khỏi cảnh đời đầy đau khổ. Đó là báo hiếu cha mẹ, chớ không phải làm lễ trai Tăng cúng dường tứ sự để nhờ công đức của chư Tăng cứu độ cha mẹ là báo hiếu.

          Báo hiếu kiểu đó là báo hiếu không thực tế, thua xa các nhà Nho giáo Đạo Khổng “Quạt nồng, ấp lạnh” không làm cho cha mẹ buồn rầu, thường làm vui lòng cha mẹ.

          Sống chửi cha, mắng mẹ, làm cho cha mẹ buồn khổ, đến khi chết rước chư Tăng cúng dường Tam Bảo để báo hiếu thì thật là buồn cười, bày đặt chuyện báo hiếu như vậy không đạo nghĩa và thực tế, đó là lối lường gạt người “tiền mất tật mang” chẳng làm ích lợi gì cho ai cả.

015-TRỞ LẠI VẤN ĐỀ: “THỰC DƯỠNG OSHAWA” - Từ Đồng

Kính thưa quý vị độc giả!

Ngày 27/2/2012, Thư viện Hoa Sen cho đăng tải bài viết: “ĐÔI ĐIỀU VỀ THỰC DƯỠNG OSHAWA VÀ PHẬT TỬ” (của Trí Lập – một vị đồng pháp Chơn Như). Ngay sau đó một loạt các ý kiến phản hồi tán dương có, phản bác có. Ý nghĩa và sự lợi lạc của thực dưỡng Oshawa như thế nào đã có nhiều sách vở bàn luận kỹ, chúng tôi không nói thêm.

Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, đường về Chánh Pháp Phật tuy không bị ngăn sông cách núi, không gió bão nắng mưa, không chông gai đá núi hiểm hóc… nhưng lại muôn nẻo ngàn trùng gian khó, cái gian khó bởi tự lòng người do vô minh dẫn dắt nên không dễ có đủ niềm tin.

Giotnangchonnhu vừa nhận được lá thư của một vị tu sĩ (Từ Đồng) đã từng trải qua những ngày thực tập theo pháp dưỡng sinh Oshawa trình bày những kinh nghiệm rất thực tiễn và quý báu của mình, chúng tôi xin giới thiệu bức thư để quý vị cùng đọc, hầu mong muốn đường về Chánh Pháp với mọi người thêm rạng rỡ, thênh thang.

Kính chúc quý vị thân tâm thường an lạc. 

Xin trân trọng cảm ơn tu sĩ Từ Đồng.

                                                                              Giotnangchonnhu

 

Dưới đây là toàn văn bức thư:

Kính đến Ban biên tập!

Được một người bạn đồng pháp thông tin cho biết có thêm một trang web mới www.giotnangchonnhu.org. Thành tâm chúc các bạn luôn luôn THỰC HIỆN ĐÚNG CON ĐƯỜNG "DỰNG LẠI CHÁNH PHÁP NHƯ LAI" của NGUYÊN THỦY PHẬT GIÁO.

Kính thưa các bạn!

Khi chúng tôi nói lên những lời này, chúng tôi cũng xin mạn phép một đôi dòng là về trình độ ngữ pháp không trôi chảy lắm, nếu có gì thiếu sót xin các bạn hoan hỷ cho....

Trở lại vấn đề về đề tài "THỰC DƯỠNG OSHAWA" chúng tôi cũng xin thưa:

Vào khoảng năm 1984 (không nhớ rõ là cuối hay đầu năm), chúng tôi đã từng tự nghiên cứu qua những tài liệu và sách nói về thực dưỡng Oshawa (do nhà sách Oshawa tại 360 Điện Biên Phủ Tp.HCM phát hành - Tức gia đình của Ngô Ánh Tuyết bây giờ), và thực hiện theo phương pháp này (có kết quả - XIN NÓI RÕ TRONG THỜI ĐIỂM NÀY CHÚNG TÔI KHÔNG THẤU SUỐT VỀ ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ ...). Và sau đó chúng tôi cũng từng có tên trong hội thực dưỡng cũng như tiếp làm và chế biến một số thức ăn dưỡng sinh (nếu ai từng giao tiếp với hội chắc không thể quên một mạnh thường quân của hội là ông SÁU ĐỨC Ở QUẬN TÂN BÌNH)....

Kính thưa các bạn!

Tại sao hôm nay chúng tôi lại đưa vấn đề này ra sau mà nó có vẻ dài dòng văn tự quá vậy, phải vậy không các bạn???. Thật ra nó cũng có cái nguyên nhân của nó: Nhờ nhân duyên giao tiếp với một số anh chị bạn trong hội GẠO LỨC MUỐI MÈ, nên chúng tôi đã quay trở về với "CHÁNH PHÁP PHẬT"… Cũng chính vào gần cuối năm 1989, chúng tôi đã từng đứng bếp cho Tu viện CL - Phước Hải, với chủ trương "KHÔNG DÙNG BỘT NGỌT, HẠN CHẾ SỬ DỤNG DẦU ĂN. Chúng tôi không có kinh nghiệm hay nghiên cứu gì về thuyết ÂM DƯƠNG, mà mục đích là một đầu bếp phải biết làm như thế nào để đại chúng có một buổi ăn đơn giản đạm bạc và đủ chất dinh dưỡng…

Ngày trở về lại Tu viện Chơn Như tôi còn nhớ rất rõ lời của Thầy Viện chủ đã khuyên một vị thầy phải nói là hầu như không thể bỏ được gạo lức muối mè (vị này đã có một quá trình dùng phương pháp thực dưỡng Oshawa lâu dài ).

Thầy Viện chủ dạy: “Con hãy sống như đại chúng nơi đây có gì dùng nấy… (LỤC HÒA), ở với Thầy con đừng sợ (ý Thầy muốn khuyên vị nầy có rất nhiều phương pháp tu tập trong đạo Phật....)”. Vị thầy này từ đó rời khỏi tu viện, còn riêng đối với chúng tôi từ đó không lưu tâm đến vấn đề THỰC DƯỠNG OSHAWA nữa.

Tất cả phương pháp dưỡng sinh, khí công, thể dục dưỡng sinh, yoga v.v… chỉ là một phương tiện cho những ai chưa hội đủ duyên (nhưng đừng quá đam mê thành ra chính nó sẽ tự hại chính bản thân mình…) mà chúng tôi đã từng trải nghiệm và chứng kiến những năm gần đây nhất, xem như là một phong trào từ trong nước ra đến ngoài nước…

Kính thưa các bạn !

Chúng tôi không đủ lập luận đưa ra dẫn chứng về thuyết ÂM DƯƠNG, vì đã có những tiền nhân đi trước đã để lại bao nhiêu tài liệu và sách vở....

Riêng cá nhân của chúng tôi chỉ ghi nhớ một điều là khi chúng tôi xuất gia, chúng tôi đã buông bỏ các phương pháp nầy. GIỚI LUẬT của đức Phật đã có khuyên người xuất gia chỉ ba y, một bát, không làm tất cả các nghề kể cả nghề làm thầy thuốc (cho dù không nhận tiền).

Thứ hai, trong bất kỳ một phương pháp nào để giúp cho một người đang cần điều trị, thì đối với một người xuất gia cũng không dùng những toa thuốc có thực phẩm ĐỘNG VẬT (ngay cả những thầy thuốc gốc cư sĩ mà họ còn không cho toa có dược liệu động vật... trong khi chúng ta là một tu sĩ Phật giáo…).

Các bạn thử tìm hiểu những tài liệu của một số vị tu sĩ khi hướng dẫn còn kèm theo những dược liệu động vật. (Hay cho đây là một phương tiện kết hợp trị liệu vì động vật đã chết?…)

Kính thưa các bạn!

Hôm nay chúng tôi muốn nói rõ thêm, khi chúng tôi đã được Thầy dạy về "ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ" chúng tôi mới hiểu được rằng tất cả phương pháp (như đã trình bày ở trên) chỉ là chữa về ngọn thôi, mà cái gốc chính là bản thân chúng ta phải mau mau quay trở về sống với chính mình "TRONG ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ", "SỐNG KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI VÀ KHỔ CHÚNG SANH".

Nếu là một cư sĩ tại gia thọ 05 giới thì chúng tôi xin có một lời khuyên hãy thực hiện cho bằng được: GIỚI THỨ NHẤT: "ĐỨC PHẬT KHUYÊN CHÚNG TA KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SANH" tức là thể hiện "ĐỨC HIẾU SINH".

Vài hàng gởi đến Ban biên tập gọi là một chút trau đổi và góp ý về THỰC DƯỠNG OSHAWA.

Một người đã từng áp dụng qua phương pháp “GẠO LỨC MUỐI MÈ".

                                                                     Kính thư

                                                                     Từ Đồng

BBT giotnangchonnhu xin giới thiệu một ý kiến của độc giả có liên quan nhiều đến thực dưỡng Oshawa đã góp ý trên diễn đàn TVHS.

Được gửi bởi ABC (Guest) vào 02/28/2012

Khéo! Khéo lắm! Tác giả Trí Lập thật khéo dẫn người phật tử đi từ một pháp “Thực Dưỡng Oshawa” đến “Chân Thật Pháp Gotama”.

Tôi xin có vài lời họa về “Thực Dưỡng Oshawa” cùng tác giả để quý độc giả rộng đường dư luận.

Thầy TTH dạy rằng: "Nếu một người tu theo đạo Phật mà không thấu triệt âm dương thì không thể đạt đến đỉnh cao của tâm linh…". Rằng: "Thực dưỡng Oshawa không chỉ dừng ở chỗ dưỡng sinh mà còn nhìn sâu hơn đến Giác Ngộ Giải Thoát." Và khẳng định: "đó là mục đích cuối cùng của phương pháp dưỡng sinh Oshawa…"

Tôi nghĩ thầy TTH chắc chắn là người đã nghiên cứu thâm sâu về nguyên lý âm dương ngũ hành của nền văn minh Trung Hoa. Nhưng thầy chưa thấy rằng, dưới nhãn quan Phật giáo thì thuyết âm dương ngũ hành còn khiếm khuyết nhiều lắm. Nếu so với Phật giáo ví như người trên đỉnh núi quán khắp bốn phương thì Âm dương ngũ hành giáo chỉ như người loanh quanh dưới chân núi mà thôi. Sao lại nói vậy? Tôi xin trinh bày để quý vị đồng chia sẻ.

- Đức Phật đã dạy rất rõ ràng: thân người là một tổ hợp bao gồm năm uẩn Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Trong năm uẩn này chỉ có Sắc uẩn là phần vật chất được tạo bởi bốn đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) hợp thành. Còn lại bốn uẩn kia là phần phi vật chất mà chỉ có những ai vượt qua Sanh, Lão, Bệnh, Tử như đức Phật thì mới hiểu biết chân thật được.

Tóm lại: Thân người có 5 uẩn gồm Sắc + Thọ + Tưởng + Hành + Thức, trong đó: Sắc vật chất do Đất, Nước, Lửa, Gió tạo nên. Như vậy toàn bộ một thân người như chúng ta do Đất, Nước, Lửa, Gió và Thọ, Tưởng, Hành, Thức duyên thành.

- Trong khi đó, thuyết âm dương ngũ hành thì rất mơ hồ. Thái Cực sinh Lưỡng Nghi (âm dương), Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái… rồi vạn vật trong vũ trụ được tạo thành. Mà trong Âm dương vốn đã có sẵn 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và trong 5 hành đã ẩn sẵn âm dương. Như vậy, con người (theo thuyết âm dương ngũ hành) và muôn vật khác trong vũ trụ là một tổ hợp bao gồm 5 hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Chúng ta nhận ra ngay rằng con người ở đây được tạo hợp rất thiếu khuyết. Bởi vì, nếu quy về thì ngũ hành chi tương đương với Ba Đại của Phật giáo. (hành Kim. Mộc, Thổ) = Địa Đại; hành Hỏa = Hỏa Đại; hành Thủy = Thủy Đại, còn Phong Đại không có.

So sánh sự hiểu về con người của Phật giáo và Âm dương Ngũ hành giáo: 

Phật dạy thân người = Sắc (Đất, Nước, Lửa, Gió) Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

Thuyết Âm dương Ngũ hành thì thân người = Đất, Nước, Lửa. 

Như thế, rõ ràng người hiếu thấu triệt âm dương ngũ hành vẫn chưa hiểu hết phần sắc thân tứ đại, sao dám nói “đạt đến đỉnh cao của tâm linh…”. Còn thiếu nhiều lắm.

Thực dưỡng chỉ là mượn tạm tứ đại bên ngoài nuôi tứ đại bên trong để 5 uẩn sống mà tu tập thoát khổ. Hiểu như vậy để “thiểu dục tri túc”, để ly dục ly bất thiện pháp thì thực dưỡng mới có ý nghĩa trong Phật giáo.

Cho nên chẳng thể lấy bất cứ một học thuyết nào (như thầy TTH dạy) mà làm sai lệch con đường Phật dạy, chỉ là hý luận cho vui thôi.

Tôi sẽ họa tiếp cùng tác giả Trí Lập phần “Chân Pháp Gotama” sau. 
 

016-THAM KHẢO - TÌM HIỂU CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT - Chuyện Pháp Tối Thượng

Tham khảo kinh Nikàya
 

      Tuy thuộc Kinh Tiểu Bộ, Tạng Nikàya nhưng chúng tôi nghi vấn những Câu Chuyện Tiền Thân Đức Phật không phải do Phật hay các Bậc A la hán giảng thuyết. Cho nên chúng tôi chỉ giới thiệu để quý vị THAM KHẢO và chọn lọc những lời nào đúng thật Chánh Kiến thì chấp nhận, còn lại cần phải buông bỏ chứ không nên chấp chặt sẽ có hại cho con đường tu học.
            Mấy ý kiến chủ quan như vậy, mong quý độc giả lưu tâm và rộng lòng tha thứ.
                                                                                            Giotnangchonnhu.

CHUYỆN PHÁP TI THƯỢNG

(Tin thân Apannaka)

            Có những người nói lên...

            Ðức Thế Tôn, khi Tinh xá K Viên, gn Xá-v, đã thuyết pháp thoi này. Vì ai, pháp thoi này được đề cp? Vì năm trăm người bn ca v triu phú Cp Cô Ðc (Anàthapindika) đều là đệ t ngoi đạo.

            Một ngày kia, v triu phú Cp Cô Ðc đem năm trăm người bn ca mình đều là đệ t ngoi đạo, cho mang theo nhiu vòng hoa, hương thơm, dầu hương cùng dầu thp, mt ong, mt mía, vi và áo choàng, đi đến K Viên đảnh l Thế Tôn, cúng dường Ngài các vt liệu như vòng hoa v.v... và phân phát cho chư Tăng dược phm tr bnh và vi mc. Làm xong vic y, ông ngồi xung mt bên và tránh sáu tt xu trong lúc ngi.

            ng vy, các đệ t ngoi đạo đảnh l Thế Tôn, và ngi xung mt bên gn ông Cp Cô Ðc, nhìn lên gương mặt đức Bn Sư chói sáng như trăng rằm, vn toàn các tướng tt chính và ph, nhìn lên Phm thân ta ánh sáng rng mt tm và nhìn lên hào quang rc r ca đức Pht, nhng hào quang phóng ra như thể tng đôi vòng, từng cp mt.

            Rồi ging con sư tử trẻ rng như sấm động thung lũng Ð, như mây bão tố trong mùa mưa, như sông Hằng thiên gii (di Thiên Hà) ào ào đổ xung, và như đan dệt mt chui châu báu, tuy vy, vi mt Phm âm đầy đủ tám phn tuyt ho, kì diu làm tai thích thú, Ngài thuyết pháp cho họ, mt pháp thoi du ngt và chói sáng vi nhiu v đẹp khác nhau.

            Họ nghe bc Ðo Sư thuyết pháp, tâm được tnh tín, lin đứng dy đảnh l bc Ðo Sư, phá vỡ pháp quy y ngoi đạo, ri quy y Pht. T đấy, h luôn luôn đi đến tinh xá vi ông Cp Cô Ðộc, tay cm hương thơm, vòng hoa v.v... nghe pháp, bố thí, trì gii và th Bát quan trai gii.

            Rồi Thế Tôn t Xá-v li đi đến Vương Xá. Trong thời gian Như Lai đi vắng, h phá v pháp quy y Pht. Ri h li quy y ngoi đạo, tr lui nguyên trng ca h.

             Sau bảy tám tháng, Thế Tôn v li K Viên. Ông Cp Cô Ðc đem năm trăm người bn đồng tu đi đến yết kiến bc Ðo Sư, cúng dường Ngài vi hương thơm v.v... đảnh l ri ngi xung mt bên. Ông Cp Cô Ðc báo cáo cho Thế Tôn biết sau khi Ngài ra đi, họ phá v pháp quy y đã thọ, chp nhn li quy y pháp ngoi đạo, tr lui nguyên trng ca h.

            Mở ming hoa sen ca Ngài, như mở hp châu báu, đầy nhng hương thơm sai biệt, thơm với hương thơm chư Thiên, do uy lực nói li chơn thực, tri vô lượng c kiếp không gián đoạn, Thế Tôn phát ra âm thanh du ngt và hi:

             - Này các nam cư sĩ, có tht chăng các ông đã phá vỡ Tam quy y, và đi theo quy y ngoại đạo?

             Và khi không thể che giu, h thú nhn: - Thật vy, bch Thế Tôn.

            Bậc Ðạo Sư nói: - Này các cư sĩ, không có mt ch nào dưới t đáy địa ngục, trên cho đến chư Thiên, không có một ch nào trong các thế gii vô lượng tri rng b ngang, không có ai bng, ch đừng nói cao hơn đức Pht v nhng công đức như giữ gii v.v...

            Rồi Ngài trình bày cho h nhng công đức ca Ba ngôi báu, như đã được nói đến trong kinh điển: - Này các Tỳ-kheo, gia các chúng sanh không chân, hai chân, hay bn chân, Như Lai được gi là ti thượng. Nếu có nhng tài sn nào đời này hay đời sau... Và tht vy, ti thượng gia nhng tín đồ...

            Rồi Ngài nói tiếp: - Không có một cư sĩ nào, nam hay n đã quy y Ba ngôi báu, những ngôi báu đầy đủ công đức ti thượng như vậy, phi tái sanh trong các địa ngc v.v... nhưng họ được thoát khi sanh vào đọa x, h được sanh vào thế gii chư Thiên và đắc Thin chng ln. Do đó, khi các ông phá vỡ quy y như vậy, và đi đến quy y ngoi đạo, các ông đã làm một vic sai lc.

Và ở đây, để nêu rõ rng không có ai đã quy y Ba ngôi báu với s gii thoát ti thượng, li phi sanh vào đọa xứ, những đoạn kinh này phải được nói lên.

Những ai quy y Pht

Sẽ không đi đọa x,

Từ b thân làm người

Sẽ tràn đầy thiên gii.

Những ai quy y Pháp

Sẽ không đi đọa x,

Từ b thân làm người

Sẽ tràn đầy thiên gii.

Những ai quy y Tăng

Sẽ không đi đọa x,

Từ b thân làm người

Sẽ tràn đầy thiên gii.

Loài Người s hong ht,

Tìm nhiều chỗ quy y,

Hoặc rng rm, núi non,

Hoặc vườn cây, đền tháp,

Quy y ấy không n,

Không quy y tối thượng,

Quy y các chỗ y

Không thoát mọi kh đau.

Ai quy y đức Pht,

Chánh Pháp và chư Tăng,

Ai dùng chánh tri kiến

Thấy được Bn s tht,

Thấy Kh và Kh tp,

Thấy s kh vượt qua,

Thấy đường Thánh tám ngành

Ðưa đến kh não tn.

Thật quy y an n,

Thật quy y ti thượng,

Có quy y như vậy

              Mới thoát khỏi khổ đau.

              Bậc Ðo Sư không chỉ thuyết pháp cho h như vậy, Ngài còn nói tiếp:

            - Này các nam cư sĩ, pháp hành nim Pht, pháp hành nim Pháp, pháp hành nim Tăng đem lại D lưu đạo, D lưu quả, Nht lai đạo, Nht lai qu, Bất lai đạo, Bt lai qu, A-la-hán đạo, A-la-hán qu.

              Và sau khi Ngài thuyết pháp cho h vi nhiu phương thức, Ngài nói:

            - Với s phá v quy y như vậy, các ông đã làm một vic sai lc.

            Và ở đây, sự đem lại các D lưu đạo, D lưu quả v.v... cho nhng ai hành trì niệm Pht v.v... cn phi được nêu rõ vi nhng đoạn kinh như sau:

            - Này các Tỷ-kheo, có mt pháp, nếu được tu tp, và được làm cho viên mãn, đưa đến hoàn toàn ym ly, ly tham, đoạn dit, an tnh, thng trí, Giác ng, Niết-bàn. Thế nào là một Pháp? Chính là niệm Pht v.v... Như vậy, Thế Tôn vi các phương tiện khác nhau, thuyết ging cho các nam cư sĩ:

            - Này các nam cư sĩ, cũng vy, trong thi quá kh, nhng ai chp cht tà lun, chp cht điên đảo lun, nghĩ rng cái gì không phi là ch quy y, li xem là ch quy y chân tht, nhng người y s b qu D-xoa ăn thịt trong cnh sa mc, ch trú ca phi nhân, và b lâm vào đại nn. Còn nhng ai chp cht s tht vô hý lun, chp cht pháp ti thượng, chấp cht pháp không điên đảo, thì trong cnh sa mc y, h đạt được yên n, an toàn.

            Khi nói đến đây, Ngài im lặng. Ri gia ch Cp Cô Ðc t ch ngi đứng dy, đảnh l Thế Tôn, tán thán Ngài vi hai tay đặt trên đầu và thưa như sau:

            - Bạch Thế Tôn, nay tht rõ ràng cho chúng con thy trong thi hin ti, nhng người nam cư sĩ y, sau khi phá v pháp quy y ti thượng, đã rơi vào rừng rm tà lun. Nhưng trong quá khứ, đại nn ca nhng ai chp cht tà lun ti sa mc, ch trú ca phi nhân, và sự yên n an toàn ca nhng người chp cht pháp vô hý lun, đối vi chúng con đang bị che lp, ch rõ ràng đối vi Ngài. Lành thay, nếu Thế Tôn, như thể khiến mt trăng tròn mọc lên, làm sáng t s kin này cho chúng con.

            Rồi Thế Tôn nói:

           - Này gia chủ, chính vì mc đích loại b các nghi nan đời, nh s thc hành trn vn mười hành Ba-la-mt tri vô lượng kiếp mà Ta chng đắc Nht thiết trí. Hãy cn thn lng tai nghe, như thể các ông đang đổ ty ca sư tử vào mt cái ng bng vàng!

            Sau khi khích lệ s chú ý ca người triệu phú, Ngài nói lên câu chuyn đã bị tái sanh che lp, như mặt trăng tròn được gii ta, sau khi phá tan đám mây tuyết.

            Chuyện rằng:

          Thuở xưa, trong nước Kàsi, ti thành Ba-la-ni, có v vua tên là Brahmadatta. Khi y, B-tát được sanh trong gia đình thương gia làm chủ đoàn lữ hành, và tiếp tc ln lên, đi chỗ này ch kia buôn bán vi năm trăm cỗ xe, khi thì đi từ đông qua tây, khi thì đi từ tây qua đông. Tại thành Ba-la-ni, có mt người ch đoàn lữ hành khác còn tr và ngu si, không giỏi tùy cơ ứng biến.

           Lúc bấy gi, sau khi cht đầy năm trăm cỗ xe vi hàng hóa có giá tr ln, B-tát sn sàng lên đường. Người ch đoàn lữ hành tr và ngu kia cũng cht đầy hàng hóa tương tự trên năm trăm cỗ xe khác, sn sàng lên đường. B-tát suy nghĩ: "Nếu người ch đoàn lữ hành ngu si và tr này đi với Ta, vi mt ngàn c xe, cùng đi một ln trên con đường, thì con đường s không th chu ni; tht s khó tìm được ci, nước cho đoàn người, và c cho các con bò. Hoc là nó, hoc là ta phi đi trước".

            Ngài nhắn tin mi người y đến, trình bày s vic và nói: - Hai chúng ta không thể đi cùng một ln được. Vy bn s đi trước hay đi sau?

            Kẻ y suy nghĩ: "Nếu ta đi trước, s có nhiu li ích. Ta s đi con đường chưa bị hư phá, các con bò sẽ ăn cỏ chưa bị động chm; còn các người nhà ta s hái được các ngn lá nu cà-ri chưa bị động chm, nước được trong lng; và sau cùng định giá bán theo s thích, ta s bán các hàng hóa".

            Nghĩ vy, k y nói: - Này bạn, tôi s đi trước.

         Còn Bồ-tát thy đi sau có nhiều li ích vì ngài lý lun như vầy: "Nhng người đi trước s san bng con đường chưa được san bng. Ta s đi con đường đã được h đi qua. Các con bò của ta s ăn cỏ mi mc và ngt; người ca ta s tìm được các lá ngt nu cà-ri mi mc ti ch các lá đã đươïc hái đi. Tại ch không có nước, h phi đào để ly nước, chúng ta s ung nước trong các giếng được người khác đào lên. Việc định giá ging như sát hại mng sng con người, ta đi sau sẽ bán hàng hóa theo giá thông thường đã quy định". Khi thy nhng li ích như vậy, B-tát nói:

            - Này bạn, bn hãy đi trước.

            - Lành thay, này bạn.

            Người ch đoàn lữ hành tr và ngu si nói vy ri cho thng các c xe, ra đi, thứ lp vượt qua các thôn xóm, và bt đầu đến biên gii sa mc. Thu by gi, các sa mc có năm loại: sa mc trm cướp, sa mc thú d, sa mc không có nước, sa mc phi nhân và sa mc không có đồ ăn.

            Trước tiên, con đường nào có trm cướp trú n, ch y được gi là sa mc trm cướp; th hai, con đường nào có sư tử v.v... trú n, được gi là sa mc thú d; th ba, ch nào không có nước để tm hay ung, được gi là sa mc không có nước; th tư, con đường nào có các loài phi nhân (qu thn) trú n, được gi là sa mc phi nhân; th năm, con đường nào không tìm thấy các loài r có th ăn được v.v... được gi là sa mc không có đồ ăn.

            Trong năm loại sa mc này, có hai loại sa mc nguy him là sa mc không có nước và sa mc phi nhân. Do vy, người ch đoàn lữ hành tr và ngu si y cho đặt lên xe nhng ghè rất ln, đổ đầy nước, và bt đầu di chuyn vào bãi sa mc dài sáu mươi dặm này.

            Khi họ đã đi được na đường, con qu D-xoa trú sa mc nghĩ: "Ta s làm cho nhng người này quăng nước ct gi, làm cho h yếu sc, ri ta s ăn thịt tt c bn h". Ri nó hóa hin mt c xe đẹp đẽ vi nhng con bò mng trng tro. Ðược h v vi mười hai phi nhân, tay cm cung, tên, khiên và binh khí, nó trang sc vi vòng hoa sen xanh và hoa súng trng trên đầu, vi tóc ướt và áo ướt, ngi trên c xe y như một v chúa t, nó dn bước trên đường vi các bánh xe dính bùn. Còn đoàn tùy tùng đi trước và đi sau, với tóc ướt, áo ướt, trang sc vi vòng hoa sen xanh và hoa súng, vi nhng bó sen trng, sen đỏ cm tay, nhai nhng cng sen, c sen, nhỏ git nước và bùn.

            Bấy gi, khi gió thi trước mt, nhng người ch đoàn lữ hành, theo l thường ngi trong c xe đi trước vi nhng người hu h bao vây để tránh bi. Khi gió thi đàng sau, họ đi xe phía sau. Nay gió thổi phía trước, do vy, người chủ đoàn lữ hành tr đi xe ở phía trước. Con qu D-xoa thy người y đến gn, lin cho đậu xe mt bên đường, chào đón một cách thân tình và hi đi đâu. Người ch đoàn lữ hành cũng cho đậu xe ca mình mt bên đường và nói vi qu D-xoa:

            - Thưa ông bạn, chúng tôi đi từ Ba-na-li ti. Các ông trang sc vi hoa sen xanh và hoa súng, tay cm hoa sen trng và đỏ, đang nhai những cng sen và c sen, lm bùn va đi vừa chy nhng git nước. Vy phi trên đường các ông đi có mưa, có những h ao ph đầy với hoa sen xanh chăng? v.v..

            Quỷ D-xoa, nghe hi, lin nói ln: - Này bạn, bn nói gì vy? Ðàng kia đã hiện rõ đường ln sm ca rng xanh. T đó trở đi, toàn là rừng không có gì ngoài nước. Luôn luôn tri mưa, ở đó các hồ đều ngp; khp nơi đều có những ao nước đầy hoa sen.

            Sau khi nói như vậy và đoàn xe đã đi ngang qua, nó hỏi: - Những c xe này đi đâu vậy?

            Và họ tr li: - Ði tới ch này, ch kia.

            - Trong mỗi c xe này, có hàng hóa gì vy?

            - Nhiều loi hàng hóa.

            Rồi khi c xe cui cùng đi qua, chở rt nng n, nó hi:

            - Trong cỗ xe này chở gì vậy?

            - Chở nước trong y.

            - Từ ch khi hành cho đến ch này, bn đã mang nước là tt. Nhưng từ ch này tr đi, không cần phi mang nước na. T phía trước mt có nhiều nước. Hãy đập v các ghè nước, để đi cho thoải mái.

            Và nó nói thêm: - Các ông hãy đi. Chúng tôi lên đường ko chm tr ri!

            Rồi nó đi một lát, đến ch khut dng, lin tr v thành D-xoa. Người ch l hành ngu si y, do s ngu si ca mình, nghe theo li qu D-xoa, cho đập v các ghè, không để dành li dù ch mt bm nước, c đổ tt c và ra lnh các xe đi. Càng đi về phía trước, mt git nước cũng không có. Bn h không được nước ung tr thành mệt mi. H vn tiếp tc đi cho đến khi mt tri ln.

            Khi ấy, h tháo dây buc xe ra, xếp thành mt vòng tròn, và buc các con bò vào bánh xe. Nhưng chúng cũng không có nước ung. Còn bn h không có cháo, không có cơm, nên yếu sc, nm xung khp nơi rồi ng. Khi đêm vừa xung, qu D-xoa t thành D-xoa đi đến, dit tt c mng sng bò và người, ăn thịt chúng, ch để li xương rồi b đi. Như vậy, ch vì mt người ch đoàn lữ hành tr và ngu si, tt c đã mắc vào đại nn, xương cốt ca người và vt rải khắp nơi, chỉ năm trăm cỗ xe còn đứng yên vi đầy đủ hàng hóa.

            Phần B-tát, đợi t ngày người ch đoàn lữ hành tr và ngu si ra đi, độ mt tháng rưỡi trôi qua, vi năm trăm cỗ xe t thành ph ra đi, dần dn đi đến biên gii sa mc. V y cho đổ đầy nước vào các ghè nước, cho ly thêm nhiu nước d tr ri đánh trống hi hp đoàn người li và nói như sau:

            - Nếu không hi ta, thì mt bm nước cũng không được dùng. Có nhiếu cây độc trong bãi sa mc, không mt ai trong các chú được ăn lá, hoa, hay quả chưa ăn từ trước, mà không hi ta.

            Sau khi chỉ dy cho h như vậy, B-tát mi bt đầu đi vào bãi sa mạc vi năm trăm cỗ xe. Khi đi đến gia sa mc, qu D-xoa y hin hình ra trên con đường ca B-tát, như cách thức trước. B-tát thy nó lin nhn ra ngay và suy nghĩ: "Nơi này không có nước và được gi là sa mc không có nước. Người này có con mt đỏ, b dng không s hãi, li không có bóng chiếu. Không nghi ng gì na, người ch đoàn lữ hành ngu si và tr tui đi trước b nó xúi gic, đã đổ tt c nước, nên kiệt sc, và băn thịt cùng c đoàn tùy tùng. Nhưng nó không biết ta có tài trí và khéo dùng phương tiện".

            Vì vậy, B-tát nói to vi con qu: - Ông hãy đi đi, chúng tôi là người lái buôn. Chưa thấy được nước khác, chúng tôi không đổ nước đã được d tr. Ch nào thy nước, chúng tôi mi yên lòng đổ nước đi, làm cho nhẹ các c xe.

            Quỷ D-xoa đi một lát, đến ch khut dng, lin v thành D-xoa. Khi D-xoa đã đi, đoàn người hi B-tát:

            - Thưa ông chủ, nhng người này ch cho thy đằng kia là dãy rng xanh. Phía ngoài xa khu rng y, tri luôn luôn mưa. Họ đội trên đầu nhng vòng hoa sen xanh và hoa súng; h cm nhng bó hoa sen đỏ và trng; h hái các c sen và cng sen; áo b ướt, đầu b ướt; h đi với nhng git nước rơi chảy. Vy chúng ta hãy đổ nước đi, khiến cho các c xe được nh, chúng ta đi mau hơn.

            Bồ-tát nghe h nói như vậy, lin cho dng các c xe, hp tt c bn người li và hi:

            - Trong các chú, có ai trước đây nghe nói rằng bãi sa mc này có ao hay h không?

            - Thưa ông chủ, không có ai nghe c. Vì thế nơi này được gi là bãi sa mc không có nước.

            - Nay có một s người nói rng xa hơn dãy rừng xanh đàng kia, trời có mưa. Gió mưa có thể thi xa được bao nhiêu?

            - Thưa ông chủ, khong độ mt dm (do-tun).

            - Gió mưa có thể thi đến chm thân ca mt ai trong các chú không?

            - Thưa ông chủ, không.

            - Cách xa bao nhiêu, đầu mây có th thy được?

            - Khoảng độ mt dm, thưa ông chủ.

            - Có ai trong các chú được thy mt đầu mây không?

            - Thưa ông chủ, không có ai.

            - Xa bao nhiêu, ánh sáng chớp có th thấy được?

            - Thưa ông chủ, khong bn năm dặm.

            - Có ai trong các chú thấy được ánh sáng chp?

            - Thưa ông chủ, không có ai!

            - Tiếng sm xa bao nhiêu có th nghe được?

            - Thưa ông chủ, khong hai ba dm.

            - Có ai trong các chú nghe được tiếng sm?

            - Thưa ông chủ, không có ai.

          - Chúng không phải là người. Chúng là qu D-xoa. D-xoa đến và nghĩ: "Chúng ta xúi đoàn người đổ nước, và khi đoàn người yếu sc, chúng ta s ăn thịt h! Vì người ch đoàn lữ hành ngu si và tr tui đi trước không có thin xo phương tiện, chc chn b chúng xui đổ nước đi và khi mệt nhc, h đã bị qu D-xoa ăn. Còn năm trăm cỗ xe được để li đựng đầy hàng hóa như trước. Hôm nay, chúng ta s thy chúng nó. Ðng đổ đi, ngay cả mt bm nước cũng phi gìn gi. Hãy đi tới, càng mau càng tt.

            Ðốc thúc đoàn người ca mình đi tới, B-tát tiếp tc đi cho đến khi thy được năm trăm cỗ xe đầy hàng hóa, xương cốt ca các con bò và đoàn người bt hnh trước ri rác khp mi nơi. Ngài cho tháo dây buộc các xe, đặt các xe thành vòng tròn, hp li thành tri, cho đoàn người và bò ăn chiều sm, ri sp các con bò nm ngh gia bn h.

            Rồi ngài tuyn mt s người lãnh đạo mnh m, t mình đứng canh gác vi gươm cầm tay, sut ba canh ban đêm cho đến khi rng đông. Sáng sớm ngày kế tiếp, ngài cho làm xong các công vic cn thiết, cho các con bò ăn, quăng bỏ các c xe yếu t, ly các c xe vng mnh, quăng bỏ loi hàng hóa ít có giá trị, chất lên hàng hóa có giá tr, đi đến ch đã định trước, và bán các hàng hóa vi giá tin bng hai ba giá vn. Sau đó, ngài cùng với đoàn tùy tùng trở v thành ph ca mình.

            Câu chuyện chm dt, bc Ðo Sư nói:

            - Này cư sĩ, như vậy trong thi quá khứ, nhng ai chp cht tà lun, phi gp đại nn. Còn nhng ai chp nhn s tht vô lý lun đã thoát khỏi tay các phi nhân, và đến ch mình mun mt cách an toàn.

            Và sau khi kết hp hai câu chuyn vi nhau, vì mc đích giới thiu li dy v s tht vô hý luận này, bc Chánh Giác đọc bài k:

Có những người nói lên

Sự tht vô hý lun,

Nhưng các hạng người khác

Tuyên bố v tà lun.

Kẻ trí biết điều này,

Giữ cht pháp ti thượng.

            Như vậy Thế Tôn dy v pháp chân tht vô hý lun này, ri Ngài nói thêm: - Con đường chân chánh này không nhng đem lại ba thin s thành tu, sáu cõi Tri dc gii, s thành tu Phm Thiên gii, mà cui cùng đem quả A-la-hán. Còn con đường gi là tà lun đem đến tái sanh trong bn đọa x và trong năm gia đình thấp kém.

            Tiếp đó Ngài giảng thêm v Bn S tht vi mười sáu hành tướng. Cui bài ging y, tt c năm trăm nam cư sĩ chng qu D lưu.

            Sau khi thuyết pháp, bc Ðo Sư nêu rõ những bài hc và k hai câu chuyn ri kết hp chúng vi nhau, Ngài nhn din Tin thân như sau:

            Trong thời y, người ch đoàn lữ hành tr và ngu si là Ð-bà-đạt-đa (Devadatta), tùy tùng của k y là tùy tùng ca Ð-bà-đạt-đa, tùy tùng của người ch đoàn lữ hành hin trí là tùy tùng ca đức Pht, còn người ch đoàn lữ hành Hin trí là Ta vy.

017-ĐƯỜNG VỀ ĐẤT PHẬT - Từ Đồng

Kính thưa Quý bạn đồng pháp!

Những lúc gần đây được các bạn đồng pháp tại Việt Nam cho biết về một số sinh hoạt của Tu Viện Chơn Như, nhất là chúng tôi nghe được tin Thầy Viện Chủ sắp tới đây sẽ mở lại lớp học “BÁT CHÁNH ĐẠO”

Là một trong những người con của Thầy đang sống nơi hải ngoại, phải nói không riêng gì chúng tôi mà tất cả các bạn đồng pháp từ các phương trời xa như: Hoa Kỳ, Úc, Canada, Pháp, Đức v.v… rất là vui mừng, một nỗi vui mừng không bút mực nào diễn tả được của những người con xa xứ của Thầy, trước kia đã từng lầm đường lạc lối…

Kính thưa các bạn!

Hồi tưởng lại những năm, tháng đã qua: Từ những lời Thầy giảng dạy, từ những tập sách do Thầy Viện Chủ ngày đêm đem hết tâm huyết của mình đã tu và thực chứng viết ra cũng như kết tập và biên soạn lại một số bài viết trong tạng kinh Nikaya (nhất là của tác giả cố Hòa Thượng Thích Minh Châu) để dẫn chứng cho chúng ta (nóiriêng) và (nói chung) cho mọi người đang sống trên hành tinh nầy nhìn thấy rõ con đường của ĐẠO PHẬT mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khai sáng cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm là một con đường không riêng cho một tôn giáo nào, hay một đoàn thể nào mà chính đây là một con đường đưa mọi người đang sống trên hành tinh nầy trở về với cuộc sống của chính mình.

Đó là một tinh thần ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ” sống “KHÔNG LÀM KHỔ, MÌNH, KHỔ NGƯỜI VÀ KHỔ CHÚNG SANH”. Một bài học dạy chúng ta sống “ĐẠO ĐỨC LÀN NGƯỜI”, thì đạo Phật đâu phải là một tôn giáo riêng cho ai đâu! Phải không các bạn?

Hồi tưởng lại những năm sống nơi xứ người và trong khoảng thời gian hơn 13 năm, chúng tôi cũng có chút ít kinh nghiệm trong thời gian đi đây đi đó đến một số tiểu bang… Ông bà xưa thường dạy “ĐI MỘT NGÀY ĐÀNG, HỌC MỘT SÀNG KHÔN” đây là về chuyện thế gian (những lời dạy rất hữu ích). Nhưng đối với chúng tôi khi đã quay về với con đường Chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca, duyên lành nầy chúng tôi không thể quên ơn được những gì mà Thầy Viện Chủ đã từng dạy dỗ cho chúng tôi, song song vào đó chúng tôi luôn luôn được sự sách tấn của quý thầy, quý cô đồng pháp (trong đó chúng tôi đã nhìn và học theo những gương hạnh tinh tấn sống đúng giới luật nhất là những bạn đồng pháp còn là cư sĩ tại gia).

Kính thưa các bạn!

Hôm nay trong bức thư nầy chúng tôi chọn “ĐƯỜNG VỀ ĐẤT PHẬT” làm đề tựa cho bài viết nầy. Thời gian hằng mấy mươi năm đã có những bậc tôn túc, những học giả viết về “ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT” để giới thiệu một thắng tích lịch sử trong Phật giáo tại đất nước Ấn Độ, đó là Thái tử Tất Đạt Đa (ở phần nầy chúng tôi xin mạn phép không viết thêm – Xin quý vị tham khảo các tài liệu về lịch sử Đức Phật Thích Ca). Rồi nào những chuyến hành hương trong và ngoài nước, những tour du lịch v.v… đều viết và cả hình ảnh trong video đều phát hành, ngay cả trên các trang mạng của Phật giáo (hay của các tôn giáo khác).

Chính bản thân chúng tôi cũng đã từng được một số Phật tử mời đi hành hương (và họ hứa sẽ hỗ trợ tiền vé máy bay), cũng có tour hành hương do một chùa tổ chức họ nói nếu Thầy đi thì họ sẽ giảm phân nửa vé máy bay. Nghe thì cũng ham thích thật, vì được đi đến một nơi mà xưa kia đã từng có một vị Phật ra đời.

Ở đây chúng tôi muốn nói lên một sự việc là: Trong lịch sử nơi xứ Ấn Độ đã có một người bằng xương bằng thịt được sanh ra và lớn lên, được cha mẹ nuôi dưỡng. Một con người thật, thật sự có trong lịch sử Phật giáo cách đây hơn 25 thế kỷ, mà hầu hết ai ai không phân biệt, dù có tôn giáo hay không có tôn giáo đều biết đến “THẤY RÕ NHƯ THẬT” mà trong kinh sách về lời dạy Đức Phật chúng ta thường nghe nhắc đến đó là “LIỄU TRI”.

Riêng bản thân cá nhân chúng tôi, nghe đi thì rất thích nhưng tôi chỉ nói là thôi đợi một nhân duyên khác đi vậy. Vì trong tôi đã có một nơi: Đó là “ĐẤT THÁNH CHƠN NHƯ, nơi mà chúng tôi đã về nương tựa… Tôi tự nghĩ thầm, thà để gần hai ngàn đô la (hoặc có thể hơn thế nữa) để làm một việc gì đó có lợi ích cho chúng sanh trở về trong THIỆN PHÁP, AN VUI, HẠNH PHÚC.

Đây là chúng tôi chỉ nói lên những cảm nhận riêng của cá nhân mình. Nhìn lại biết bao nhiêu kinh sách, bài viết rồi những hình ảnh, những bài thơ, những bài hát đều nói lên và tôn vinh một vị Phật đã giác ngộ, Ngài đã đem chân lý giải thoát ban rãi khắp mọi nơi trên thế giới… Rồi mấy mươi năm gần đây các tự viện được xây dựng ngay gần trung tâm Thắng Tích của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (các bạn hãy lên những trang mạng nói về Thắng Tích Phật giáo tại Ấn Độ thì sẽ rõ).

Chúng tôi xin kể cho các bạn nghe một mẫu chuyện nhỏ: Có một số phật tử mà chúng tôi có duyên gặp họ kể rằng, khi con đến được Đất Phật rồi, trở về con thấy con tinh tấn hơn, an lạc hơn v.v… Chỉ lễ lạy tại Bồ Đề Đạo Tràng, hay tam bộ nhất bái gì đó v.v… mà được như vậy sao??? Bài học “BÁT CHÁNH ĐẠO” trong đó “CHÁNH KIẾN” là bước đầu tiên trong Bát Chánh Đạo, mà sao quý vị không cảm nhận được, không tư duy quán xét thấy được CHÂN LÝ GIẢI THOÁT của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn lưu lại trong tạng kinh NIKAYA.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy cho chúng ta một chân lý giải thoát đó là “ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ” sống không làm khổ mình khổ người, khổ chúng sanh. Vậy mà sau vài năm gặp lại vẫn thấy những phật tử này “THAM, SÂN, SI” không bỏ được, vẫn phiền não, bịnh tật, khổ đau… Như vậy bao nhiêu thế kỷ đã qua sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt, những người con Phật như chúng ta có làm theo lời “DI GIÁO” của Đức Phật không?, tán dương gương hạnh của Đức Phật (như chúng tôi đã nêu trên), VẬY MÀ CÓ TU THEO LỜI DI GIÁO CỦA ĐỨC PHẬT KHÔNG???

Lời Phật dạy “CÁC CON HÃY TỰ THẮP ĐUỐC LÊN MÀ ĐI, TA CHỈ LÀ NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG”… và lời di chúc cuối cùng trước khi Đức Phật nhập diệt “GIỚI LUẬT TA CÒN LÀ PHẬT GIÁO CÒN, GIỚI LUẬT TA MẤT LÀ PHẬT GIÁO MẤT”. Riêng bản thân cá nhân chúng tôi trên bước đường quay trở về Chánh Phật Pháp Nguyên Thủy của Phật giáo, chúng tôi thật xấu hổ khi nhìn lại bản thân của chính mình vẫn còn rất nhiều và rất nhiều sai phạm. Nhìn lại chúng tôi đã đánh mất bài học cơ bản về “ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI” trong 05 giới của người phật tử tại gia chớ đừng nói đến 10 giới đức Thánh Sa Di của một vị xuất gia. Chúng tôi biết rất rõ, nhưng có một điều chúng tôi luôn luôn vững niềm tin một nơi, đó là một vùng đất mà chúng tôi đã nương tựa.

“ĐẤT THÁNH CHƠN NHƯ”, đi đâu xa hỡi các bạn (đây là chúng tôi chỉ tâm sự riêng với các bạn đồng pháp) nơi chúng ta sẽ đến cũng có một vị A LA HÁN ra đời sống một đời sống gương hạnh như Phật, như các bậc Thánh Tăng trong thời kỳ Đức Phật, và chính nơi vùng Đất Thánh nầy Ngài đã làm sống lại chân lý giải thoát của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã bị dìm mất sau hơn 25 thế kỷ nay. Ngài đã thực tu, thực chứng và đem hết kinh nghiệm của mình để hướng dẫn và chỉ dạy cho chúng ta.

Kính thưa các bạn đồng pháp!

“ĐƯỜNG VỀ ĐẤT PHẬT”, thắng tích Lịch sử Văn hoá Phật giáo tại đất nước Ấn Độ vẫn còn đó, còn “ĐƯỜNG VỀ ĐẤT THÁNH CHƠN NHƯ”, nơi các bạn đã từng tìm cầu xin về nương tựa và quy y, sao các bạn lại lãng quên nó đi. Một sự thật mà chúng tôi biết được trong một số bạn đồng pháp trong và ngoài nước đã quay về CHÁNH PHẬT PHÁP NGUYÊN THỦY vậy mà vẫn còn thích đi ta bà: nay thích đi chùa nầy, mai lại thích đi thiền viện nọ (đôi khi còn khen thầy này giảng hay, sư cô kia thuyết pháp giỏi v.v…). Có vị lại cho là phương tiện để mượn chỗ tu học…

Xin tâm sự cùng các bạn, chúng tôi khi đặt chân đến Hoa Kỳ, nghĩ mình là người xuất gia nên thôi phương tiện tìm một tự viện nào đó gọi là công quả để có một nơi tu học. Nhưng qua một thời gian cảm nhận chính mình không thể làm được những việc gọi là “BẰNG LÒNG”. Sống Ba Đức “NHẨN NHỤC, TÙY THUẬN, BẰNG LÒNG”. Nhẫn nhục, Tùy thuận thì có, nhưng nếu chúng ta không khéo “BẰNG LÒNG” nữa thì coi như cuộc đời của chúng ta sẽ đi về đâu? Vì lý do nầy mà cánh đây hai năm chúng tôi đã trình xin Thầy trở về tu tại gia vẫn cạo tóc, vẫn màu áo lam, nhưng không Đắp Y Mang Bát.

Đường về đất Phật không xa lắm

Đi đâu xa tít tận nơi nào

Được gì? Bạn hỡi cho tôi biết

Giải thoát khổ đau có được không?

Hành hương về đất Thánh Chơn Như

Bạn mới cảm nhận trong cuộc sống

Thế nào là lời gốc Phật dạy

Trong Đạo Đức Nhân Bản – Nhân Quả

Một lời góp ý, một lời khuyên

Đất Thánh Chơn Như địa chỉ đến

Đất Việt, người Việt rõ như thật

Tìm cầu đâu nữa mất thời gian….

Chúng tôi không có khiếu về văn, thơ, thi, phú, chỉ viết theo cảm nhận riêng của cá nhân mình nên cũng không khó tránh khỏi phần sơ sót. Kính mong các bạn đồng pháp bỏ lỗi cho.

                                                                                                    Kính thư

                                                                                                      Từ Đồng

018-LỐI VỀ SEN NỞ - Phương Minh

LỐI VỀ SEN NỞ

Đã hơn 2500 năm, lời Phật dạy còn đây, vẫn đầy đủ tính nguyên sơ chân thực bảo đảm cho những người con yêu thương của Ngài đi đến nơi, về đến chốn. Bâng khuâng ngơ ngác trước bao nhiêu nẻo đường lạc lõng sau khi Ngài nhập diệt chẳng bao lâu, người Phật tử như người đi trong đêm không ánh đuốc soi đường, như cuộc hải trình không la bàn dẫn lối.

Phải chăng, sau khi đức Phật Niết bàn thì đạo Phật không có người chỉ đường, không có bậc đạo sư? Không phải vậy, chúng ta bình tâm lại suy tư.    

Người chỉ đường mà đức Phật đã căn dặn lại: “- Này Ananda, nếu trong các ngươi có người nghĩ rằng: "Lời nói của bậc Ðạo Sư không còn nữa. Chúng ta không có Ðạo Sư (giáo chủ)". Này Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy. Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo Sư của các Ngươi”… (Kinh Đại Bát Niết Bàn).

Trải hơn hai mươi lăm thế kỷ, Chánh pháp và Giới luật của Phật đã bị lãng quên, thay vào đó là một hệ thống triết lý đủ loại đưa vào vẫn xưng danh đạo Phật khiến người Phật tử đời sau không biết lối nào về.

May mắn thay cho toàn nhân loại nói chung, dân tộc và Phật tử Việt Nam nói riêng, ngày nay được thỏa thích tắm mát trong dòng sông Giới luật và thấm nhuần nền đạo đức Nhân bản - Nhân quả mà bậc A la hán – Trưởng lão Thích Thông Lạc gây dựng lại.

Lời dạy: “Giới luật còn là đạo Phật còn, giới luật mất là đạo Phật mất” đã chứng minh rõ ràng mấy mươi thế kỷ qua đạo Phật tuy vẫn có danh nhưng thực đạo Phật thì không còn. Ngày nay đạo Phật đã trở lại với loài người.

Hân hoan bước trên lối về sen nở, chúng ta cùng đặt vững niềm tin theo chân bậc Đạo Sư. Con đường dẫn đến đóa sen ngát hương thơm đạo đức mà đức Phật đã dạy xưa kia, ngày nay Trưởng lão Thích Thông Lạc truyền dạy lại thật không hai, không khác.

Bài pháp căn bản Tứ Diệu Đế: Khổ. Tập, Diệt, Đạo mà đức Phật đã dạy, trong đó có Đạo đế. Đạo đế chính là con đường chân chánh nhất để hành giả đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn. Một điều để chúng ta dễ nhận ra, giáo lý nào có Đạo đế là giáo lý Phật dạy dẫn người tu hành giải thoát. Giáo lý nào không có Đạo đế thì không phải là đạo Phật. Ngoài Đạo đế thì không có con đường nào khác nữa có thể dẫn đến sen thơm.

TÓM LƯỢC HÀNH TRÌNH LỐI VỀ SEN NỞ

1- Đạo đế là con đường Tám Chánh gồm: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Tám Chánh của Đạo đế mà đức Phật đã dạy chính là tám lớp học, được phân thành ba cấp từ thấp đến cao là: Giới - Định - Tuệ.

            1.1- Cấp I, Giới Luật gốm 7 lớp phải tu học bảy năm.
            1.2- Cấp II, Thiền Định gồm có Bốn Thiền phải tu học bảy tháng.
            1.3- Cấp III, Trí Tuệ gồm có Tam Minh phải tu học bảy ngày.

            2- Pháp học đầu tiên của người phật tử là Tứ Diệu Đế 
            3- Pháp tu đầu tiên là Tứ Chánh Cần.
            4- Pháp tu cuối cùng là Tứ Niệm Xứ.
            5- Pháp chứng cuối cùng là Tam Minh.

6- Người tu sĩ cũng như người cư sĩ, khi tu học theo Phật giáo phải lấy sự tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức (cũng tức là Thân Hành Niệm hay Tứ Niệm xứ) làm đầu. Đồng thời phải nương theo bốn Định Tu Tập để tu. Các định tu tập gồm có 4:

            6.1- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
            6.2- Định Niệm Hơi Thở.
            6.3- Định Vô Lậu.
            6.4- Định Sáng suốt (còn gọi Định Thư Giãn)

7- Trên con đường Tám Chánh phải luôn nương theo Ba Mươi Bảy phẩm trợ đạo không được lơi lỏng. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo bao gồm: Ngũ căn; Ngũ lực, Tứ Chánh cần; Tứ Bất Hoại tịnh; Tứ Vô Lượng tâm, Tứ Niệm xứ; Bảy Giác chi; Tứ Thần túc.

            7.1- Ngũ căn: Nhãn căn; Nhĩ căn; Tỷ Căn; Thiệt căn; Thân căn.
            7.2- Ngũ lực: Tín lực; Tấn lực; Niệm lực; Định lực; Tuệ lực.
            7.3- Tứ Chánh cần: Ngăn ác; Diệt ác pháp; Sinh thiện; Tăng trưởng thiện pháp.
            7.4- Tứ Bất Hoại tịnh: Niệm Phật; Niệm Pháp; Niệm Tăng; Niệm Giới.
            7.5- Tứ Vô lượng tâm: Từ; Bi; Hỷ; Xả (vô lượng).
            7.6- Tứ Niệm xứ: Niệm Thân; Niệm Thọ; Niệm Tâm; Niệm Pháp.
            7.7- Bảy Năng lực Giác chi: Tinh tấn; Niệm; Định; Khinh an; Hỷ; Xả; Trạch pháp giác chi (bảy Năng Lực trình tự xuất hiện khác với bảy Pháp giác chi).
            7.8- Bốn Thần túc: Định như ý túc; Tinh tấn như ý túc; Tuệ như ý túc; Dục như ý túc. (11 pháp bao gồm: Bảy Năng Lực và Bốn Thần Túc là pháp thành tựu do tu Tứ Niệm Xứ mà có).   

8- Pháp môn Tứ Niệm Xứ (cũng là Chánh Niệm hay Thân Hành Niệm) là pháp môn tu tập cuối cùng để đi đến chứng đạo. Tứ Niệm Xứ tu tập trong ba giai đoạn:

            8.1- Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ.
            8.2- Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ.
            8.3- Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ.

9- Khi hành giả tu tập Giới luật nghiêm mật (hoàn thiện cấp I) mới có thể tu pháp môn Tứ Niệm Xứ, nếu giới luật chưa xong mà tu Tứ Niệm Xứ thì dễ gặp nguy hiểm.

Tu Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ là pháp tu cuối cùng, khi Thân Hành Niệm sung mãn thì bảy Năng lực Giác chi xuất hiện và Bốn Thần túc đầy đủ, chỉ khi ấy hành giả mới có thể nhập vào Bốn Thánh Định một cách dễ dàng. (Bốn Thánh định là định thể nhập ‘thành tựu’ chứ không phải là định tu tập). 

10- Bốn Thánh Định không phải như bốn nấc của một cây thang, mà Bốn thánh định như Bốn tòa nhà nằm thong dong, hành giả có chìa khóa Định Như Ý Túc thì muốn vào nhà nào tùy ý.

10.1- Bốn Thánh Định: Sơ, Nhị, Tam, Tứ Thiền là định Hữu Sắc, nó khác rất xa với bốn định Vô Sắc của ngoại đạo: Không Vô Biên xứ, Thức Vô Biên xứ, Vô Sở Hữu xứ, và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ.

10.2- Người tu đạt Bốn Thánh Định thì đầy đủ Lục Thông và Tam Minh, tức là đã sạch lậu hoặc, làm chủ Sanh, Lão, Bệnh, Tử, chấm dứt tái sanh luân hồi.

10.3- Người tu đạt bốn định Vô Sắc thì chỉ có Ngũ Thông (không có Lậu Tận Thông) nên không có Tam Minh. Tham, sân, si vẫn còn đủ nên không làm chủ được sanh tử và còn phải tái sanh luân hồi (như các thầy Tổ của các Tông phái chỉ đạt đến đây).

11- Khi và chỉ khi nào nhập xong Tứ Thiền thì mới hướng tâm đến Tam Minh, và khi chứng Tam Minh tức hành giả đã tu xong, đã là hoa sen ngát hương thơm, không còn phải tu thêm gì nữa.  

Trên đây là tóm lược hành trình “lối về sen nở” trên cơ sở của tạng kinh Nykàya do HT Minh Châu dịch từ tạng Pali sang Việt ngữ. Lời giảng dạy là của Trưởng lão Thích Thông Lạc, Người đã đi trọn con đường này, Ngài giảng bằng kinh nghiệm thực tu (theo giáo pháp Nguyên Thủy), thực chứng của mình nên có thể không tương ưng với những kinh sách khác.

Phật tử Việt Nam, dân tộc Việt Nam rất tự hào đã có một người tu sĩ tuyệt vời, Ngài đã đạt được tất cả những gì mà trước kia đức Phật đã đạt. Lời dạy của Ngài như thật, làm sáng lại những gì trước kia đức Phật đã dạy chứ Ngài không kiến tưởng giải như các thầy Tổ xưa nay.

019-LÒNG TIN PHẢI CÓ CĂN CỨ - Ronald Trương

"LÒNG TIN PHẢI CÓ CĂN CỨ"

Qua lời dạy của đức Phật Thích Ca và qua lời diễn giảng rõ ràng chân chính và trong sáng của Trưởng Lão Thích Thông Lạc, tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy có sự mâu thuẫn khi đặt lòng tin phải có căn cứ! Bởi vì theo quan niệm thường tình của nhân loại và suốt dòng lịch sử loài người khắp nơi nơi trên quả địa cầu ghi dấu rằng LÒNG TIN VỐN DĨ MÙ QUÁNG!. Nếu lòng tin vốn dĩ là mù quáng thì khi sự thật được phơi bày đâu còn ý nghĩa của lòng tin nữa?

Tình yêu cũng vậy, tình yêu vốn là mù quáng, nếu đem sự thật ra phơi bày thì đâu còn tình yêu nữa? Chính vì lòng tin là mù quáng, cho nên nhân loại đã dể dàng bị lùa vào u mê mê tín dị đoan. Chúa Jesus được nhân loại tôn sùng là chúa cứu thế của loài người! Phật Adidà giả được hàng Phật tử khắp nơi nơi trên hoàn vũ cùng nguyện cầu, khấn vái van xin ân huệ! Điều nầy minh xác rằng nhân loại đang sống trong tưởng thức.

Phải mất hàng mấy trăm năm, nhân loại mới tẩy được thần chó, thần bò, thần sấm, thần sét...! Than ôi!, đến ngày nay, thần táo tào lao, thần địa tàm phào vẫn còn lưu truyền mạnh mẽ trong dân gian văn hoá, văn minh! Còn may mắn thay! Hiện nay các trường học trên toàn Âu Châu, Hoa Kỳ và Canada... đã quyết định huỷ bỏ chương trình học sai lầm hàng mấy trăm năm đó là thuyết THƯỢNG ĐẾ SÁNG TẠO VŨ TRỤ và thay vào đó HIỆN TƯỢNG BIẾN HOÁ VŨ TRỤ, chương trình nầy, càng ngày càng tiến gần đến thuyết 12 nhân duyên của Phật Thích Ca.

Có câu thơ diễn tả nội tâm sống thực của nhân loại đang chìm sâu vào tưởng thức, bởi vì tưởng thức được hoạt động ngay lúc bé sơ sinh vừa lọt lòng mẹ. Ngày nay, tuổi thơ, ý thức chưa thành hình, nhưng cùng mê phim hoạt họa là vì tưởng thức của con trẻ đang phát triển mạnh mẽ!

Hai câu thơ đó là:  "Đời chỉ đẹp khi còn trong mộng tưởng. Tình vẫn say khi chưa vẹn câu thề".

Nếu tư duy cho rõ ngọn ngành thì hành giả mê Phật hay tin Phật một cách mê muội là bị lạc vào Tưởng. Khoa học là trong sáng, là chân lý, bởi vì bất cứ ai, áp dụng đúng điều kiện ẮT CÓ VÀ ĐỦ theo sự tương quan, tương duyên thì thực hiện đúng được phát minh. Phật pháp vốn là chân lý, bất cứ ai tu hành đúng pháp NHƯ LAI đều chứng quả. Vì vậy, chúng ta thỉnh cầu đức Trưởng Lão cho bài PHÁP để làm sáng tỏ vấn đề trên.

Trong kinh Phật có dạy, khởi điểm và quan trọng nhứt trên đường tu hành là phải có niềm tin. Nhưng, nhân loại đã nhập tâm hoá lòng tin mù quáng thành niềm tin chân chánh. Kính xin đức Trưởng Lão dạy cho nhân loại bằng pháp nào tẩy sạch được lòng tin mù quáng để có được niềm tin chân chánh?

Hay xin phép nói rõ ràng hơn, theo bài học NGŨ UẪN, Ngài diển giảng, con người có 5 uẩn SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, mà Tưởng Thức thì phát triển tự nhiên và trường kỳ, càng ngày càng tiến xa. Trong khi đó Sắc Thức thì phải qua thời gian học hành, tôi luyện trên đường đời, bên cạnh đó tính làm biếng (giải đãi) luôn luôn cản trở Sắc Thức phát triển. Như vậy, với pháp nào giúp cho Sắc Thức phát triển để đánh lui sự bành trướng của Tưởng Thức đây?

Nếu như Tưởng Thức cứ phát triển mãi, lòng tham dục càng tăng thêm, mà Sắc Thức thì bò chậm hơn rùa, thì Thức Thức sẽ không bao giờ xuất hiện trong thâm tâm hành giả. Vấn đề cơ bản không có pháp giải quyết được thì sự tu hành tiến đến làm chủ sinh lão bệnh tử và giải thoát luân hồi chỉ là bóng mờ muôn thuở của hành giả! Ngài đã dạy, chỉ cần chuyển mình một tí là lạc vào Tưởng Thức ngay, sai một ly đi một dặm. Một khi đã sai rồi thì sai mãi mãi mà thôi!

Xin bổ túc cho rõ nghĩa là mỗi người đều mang tính THÍCH ĐƯỢC "NỊNH" (tưởng) và GHÉT "TRUNG" (sắc). THÍCH ĐƯỢC "NỊNH" là bẩm tính tự nhiên, ai ai cũng có sẵn. "TRUNG" là phải học và từng trải trên đường đời mới xuất hiện. Đã là bẩm sinh thì cần phải tẩy sạch ngay khi còn trẻ. Nếu đến già rồi, tính ngoan cố đã trưởng thành thói quen thì làm sao tẩy sạch đây? Ví như, hầu hết Phật tử ngày nay đang mê muội niệm Adidà Phật, đã quen từ lâu rồi, đã thấm sâu vào tiềm thức rồi, làm sao tẩy được đây?!

Nhân loại thành kính tri ân đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni

 

Nhân loại thành kính tri ân đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc.

020-KHAO KHÁT MÙA XUÂN - HÀNH HƯƠNG VỀ ĐẤT THÁNH CHƠN NHƯ II - Từ Đồng

Lời BBT/GNCN

HÀNH HƯƠNG VỀ ĐẤT THÁNH CHƠN NHƯ 2” là ý tưởng về một kich bản phim của thầy Thích Chơn Giác, hiện định cư tại Hoa kỳ. Phim dự kiến thực hiện nhân dịp thầy về thăm lại Tu viện vào dịp tết Quý Tỵ 2013… Giọt Nắng Chơn Như xin trân trọng giới thiệu và kính chúc thầy sức khỏe để thực hiện khao khát của mình…

KHAO KHÁT MÙA XUÂN -

HÀNH HƯƠNG VỀ ĐẤT THÁNH CHƠN NHƯ II

“Ánh sáng mặt trời soi rọi đến đâu thì bóng đêm tăm tối sẽ tan biến mất đến đó, nó mang lại một sức sống mãnh liệt trên trái đất nầy. ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ làm người cũng vậy, khi nó đi đến đâu thì sự khổ đau sẽ tan biến mất đi đến đó, nhường lại cho muôn loài vạn vật một sự sống BÌNH AN và HẠNH PHÚC”.

 (Trích đọc trong tập sách “ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI” - Tác giả Trưởng lão Thích Thông Lạc - Viện Chủ Tu Viện Chơn Như - Việt Nam).

Và chúng ta hãy lắng nghe những tâm tư của những người đệ tử Phật. bằng những “GIỌT NẮNG” CHAN HÒA LÒNG NHÂN ÁI, Giọt Nắng Chơn Như đã viết trong bức thư ngỏ trên trang mạng toàn cầu www.giotnangchonnhu.org:

“Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, bậc Thầy vĩ đại, vô cùng tôn kính của chúng ta, Người là MẶT TRỜI tỏa vô vàn tia nắng. Tia nắng dịu dàng soi sáng, sưởi ấm tình người ban trải khắp muôn nơi.

Nhưng, gặp khi những đám mây dày và nơi băng tuyết đậm, Giọt Nắng yêu thương sẽ xé toang, xuyên thủng, làm tan chảy tuyết, băng thành dòng sông thắm mát cho đời…”

Hôm nay mùa Xuân lại trở về với chúng ta trên vùng đất Thánh Chơn Như, một mùa Xuân của năm 2013 – Quý Tỵ. Chúng tôi vẫn còn nhớ rất rõ trong mùa Xuân năm 2004 – Giáp Thân. Lúc đó chúng tôi đã trở về Tu viện thăm Thầy cùng đại chúng và thực hiện tập phim ngắn “HÀNH HƯƠNG VỀ ĐẤT THÁNH CHƠN NHƯ”.

Giờ đây gần 10 năm (ở đây chúng tôi chỉ tính ở cái mốc thời gian từ năm 2004 chớ không tính khoảng thời gian từ năm khai sáng Tu viện Chơn Như (tức Chùa Am) trước kia. Gần 10 năm Thầy chúng tôi vẫn luôn luôn đem hết tâm huyết của mình để viết lên những tập sách về ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ. Song song vào đó Thầy đã hướng dẫn và chỉ dạy phương pháp tu học cho các tu sinh từ hàng xuất gia cho đến cư sĩ tại gia thấu suốt thế nào là nền tảng vững chắc trong ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tự chứng ngộ chân lý giải thoát nầy và Ngài đã tuyên thuyết cách đây hơn 2500 năm.

Thầy Viện Chủ Tu Viện Chơn Như là người đã triển khai và làm sống lại nền ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ như lời dạy của Đức Phật: “ĐẠO PHẬT LÀ NỀN ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ” của mọi người đang sống trên Hành tinh nầy .

Kính Thưa Thầy cùng Đại Chúng!

Mười năm qua, cho dù có sóng gió Chơn Như đến đâu, Tu viện Chơn Như vẫn vững mạnh và tiếp tục phát triển: Phát triển về cơ sở tu học cho tu sinh, từ những khu vực cho tu sinh tu ngắn ngày, đến khu vực chuyên tu v.v… Kinh sách do Thầy Viện chủ viết ra và biên soạn đã được Bộ Văn Hóa, Nhà Xuất bản Tôn giáo cho phép in ấn và phát hành kính biếu khắp mọi nơi trong và ngoài nước.

Hôm nay, lại một lần nữa chúng con từ mọi miền đất nước cũng như nơi hải ngoại xa xôi tập trung về Tu viện Chơn Như để lắng lòng nghe những lời giáo huấn của Thầy, vì chúng con biết năm nay Thầy đã gần 90 tuổi rồi, không biết một lúc nào đó chúng con có còn được những giây phút gần Thầy nữa không…?

Chúng con nguyện sẽ cố gắng sống và tu học theo những gì Thầy đã nhắc nhở và dạy dỗ chúng con trong tình thương yêu “ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ.

Chúng con xin Thầy cũng hoan hỷ và tha thứ cho chúng con khi thực hiện tập phim thứ hai này với chủ đề: “HÀNH HƯƠNG VỀ ĐẤT THÁNH CHƠN NHƯ II”. Nếu có gì sai sót kính xin Thầy từ bi và tha thứ cho chúng con.

(Mục đích là chúng con muốn tạo duyên cho những bạn đồng pháp ở trong nước và nước ngoài không hội đủ nhân duyên về thăm Tu Viện Chơn Như, để biết thêm về sự phát triển tu học theo Chánh Phật Pháp Nguyên Thủy của Tu viện ngày hôm nay và buổi thuyết giảng đầu năm của Thầy).

Kính đọc 

Từ Đồng.

021-TÂM THƯ GỬI CÁC CỤ, CÁC BÁC - TL Thích Thông Lạc

Kính tặng các cụ, các bác thanh gươm thư hùng kiếm Như Lý Tác ý

Kính thưa các cụ, các bác! Trong những ngày gặp gỡ phật tử ở mọi miền đất nước, Thầy lo lắng và thương xót thân tứ đại của các cụ, các bác đã báo động thời gian còn lại không bao lâu nữa. Rồi đây kẻ ở người đi và đi mãi mãi, nhưng đi về đâu các bác, các cụ có biết không?

Sự ra đi không hẹn ngày và không bao giờ trở lại, gặp nhau hiện giờ rồi đây sẽ không còn gặp nhau nữa. Phải không các cụ, các bác? Vĩnh biệt các cụ, các bác!!! Nhưng các cụ, các bác còn nhớ những lời Thầy dạy chăng?

Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là nơi các cụ, các bác về khi bỏ thân tứ đại này. Nơi đó mãi mãi không còn tái sinh luân hồi nữa; nơi đó không còn khổ đau nữa các cụ, các bác ạ! Nơi đó là nơi chư Phật ba đời đều an trú.

Trước kia trong những ngày từ Nam ra Bắc, Thầy gặp các cụ, các bác trong chiếc thân tứ đại rồi ngày mai sẽ gặp các bác các cụ trong trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự. Các cụ, các bác có biết không? Nếu các cụ, các bác giữ gìn được trạng thái ấy, bằng không thì Thầy trò khó gặp nhau nữa các cụ, các bác ạ!

Muốn giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự là một việc làm đâu phải dễ. Nếu không ngay từ bây giờ, lúc thân tứ đại còn khoẻ mạnh, còn sức lực, còn sáng suốt mà không lo tu tập, đợi đến khi thân tứ đại già nua, mỏi mòn, yếu đuối thì tu tập và rèn luyện làm sao kịp nữa. Lúc bấy giờ có muốn giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì giữ gìn làm sao được nữa, quá muộn rồi.

Nghiệp lực quá mạnh khi nó đến thăm viếng các cụ, các bác, lúc bấy giờ các cụ, các bác không còn sức chịu đựng được nữa, tinh thần không còn minh mẫn sáng suốt, nhiều khi nó làm cho các cụ, các bác hôn mê không còn biết gì cả, sống mà như chết. Giờ phút ấy còn gì nữa hỡi các bác các cụ? “Nghiệp tương ưng luân hồi”. Hết một kiếp người rồi mãi mãi... Ôi! Một sự luân hồi đầy khổ đau, nào ai biết phải không các cụ, các bác?

Các cụ, các bác cứ hình dung tưởng tượng từ khi chết đến khi tái sinh nằm trong bụng mẹ là một chuỗi dài khổ đau vô cùng, vô tận của kiếp người. Chết thì trăn trở rã rời cơ thể, đau nhức, mệt nhọc... Sinh thì nằm co trong bụng mẹ, ngâm mình trong chất nhơ bẩn, uế trược, chật chội, cựa quậy khó khăn vô cùng. Đó là một cuộc tái sinh luân hồi khổ đau như vậy. Thế mà mọi người ai biết sự khổ đau này các bác, các cụ ạ!

Muốn chấm dứt tái sinh luân hồi thì ngay từ bây giờ các cụ, các bác phải siêng năng tận lực tu tập, rèn luyện trước “Các chướng ngại pháp thiện hay ác, vui hay buồn đều phải buông xuống, buông xuống cho thật sạch”. Nhưng phải buông xuống như thế nào đây?

Buông xuống bằng phương pháp hướng tâm, bằng phương pháp Như Lý Tác Ý, bằng phương pháp quán Tư duy, bằng phương pháp Nhân quả, bằng phương pháp Định Niệm Hơi Thở; bằng phương pháp Tác ý tâm thanh thản an lạc và vô sự; bằng Tri kiến giải thoát.

Các cụ, các bác tuổi cao thì nên dùng một câu Tác Ý này thì sẽ buông xuống sạch: “Tâm phải thanh thản, an lạc và vô sự, các pháp thế gian là pháp vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta cả. Tất cả đều là pháp khổ đau, phải buông xuống và chấm dứt ngay liền”. Khi tác ý như vậy xong các cụ, các bác nên tác ý tiếp để dẫn thân tâm vào chỗ không đau khổ.

Nếu tâm đang bị khổ đau thì các cụ, các bác nên tác ý câu này: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay vô”. Tác ý xong liền đưa tay ra, vô, đếm đúng năm lần rồi lại tác ý như câu trên.

Nếu thân bị bệnh đau nhức bất cứ chỗ nào, bất cứ bệnh gì thì các cụ, các bác nên tác ý câu này: “Thọ là vô thường, cái bệnh nhức đầu này (bệnh gì nói rõ tên ra) phải ra khỏi thân ta. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô”. Khi tác ý rồi im lặng đưa tay ra vô cho đúng năm lần rồi lại tác ý như trước. Cứ thế mà tiếp tu tập cho đến 10 phút hoặc 20 phút thì cảm thọ đau nhức trong thân sẽ chấm dứt.

Còn khi thân không bệnh đau nhức và tâm không có chướng ngại pháp thì nên tác ý giữ tâm bất động: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tất cả các pháp không phải là Ta, không phải của Ta, phải đi ra khỏi thân tâm Ta. Ở đây chỉ có tâm bất động mà thôi”. Khi tác ý xong ngồi im lặng lắng nghe thân tâm bất động, chỉ khi nào có niệm, có cảm thọ thì mới tác ý trở lại.

Kính thưa các cụ, các bác! Các cụ, các bác hãy nhớ: Hiện giờ khi thân còn mạnh khỏe thì hãy cố gắng siêng năng tu tập đừng bỏ qua một thời gian nào cả, dù một phút, một giây hay một sát na ngắn ngủi, vì thời gian tuổi đời của các cụ, các bác còn lại rất quý.

“Tấc bóng thời gian một tấc vàng

Tấc vàng tìm được không gì khó

Tất bóng thời gian khó hỏi han”.

Hãy giao mọi việc lại cho các con cháu, chúng nó đều trưởng thành, trở thành những người gánh vác mọi việc tốt đẹp. Còn phần các cụ, các bác hãy tự lo cứu mình thoát ra biển khổ sinh tử đang nổi phong ba bão táp; hãy tự thắp đuốc lên mà đi, không ai đi thay con đường đó cho các cụ, các bác, mà hãy tự lo cho mình, vì thời gian còn lại quá ít. Những thời gian còn lại chỉ đủ để các cụ, các bác luyện tập chuẩn bị cho mình có đầy đủ nội lực, sức tỉnh thức cao tột để khi giặc sinh tử đến thăm là sẵn sàng chiến đấu tận cùng.

Khi chuyên cần tập luyện và giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì nó có một nội lực rất mạnh, một sức đề kháng kinh khủng, nó sẽ giúp cho các cụ, các bác đẩy lùi mọi chướng ngại pháp như: bệnh tật, phiền não, tai nạn, sợ hãi, lo rầu, thương ghét, giận hờn v.v... Chính vì thế nó giúp cho các cụ, các bác giữ gìn tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ.

Khi nghiệp đến với các cụ, các bác thì chỉ cần tác ý: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tất cả các pháp đều vô thường hãy đi đi! Không được ở trong thân tâm Ta nữa. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô”. Tác ý như vậy xong cứ đưa tay ra vô với lòng kiên gan, bền chí; với ý chí dũng mãnh, đầy đủ nghị lực thì không có chướng ngại nào mà còn tồn tại trong thân tâm được.

Chỉ cần tác ý ba bốn lần thì chướng ngại pháp sẽ không còn tác động vào thân tâm của các cụ, các bác nữa, nhưng các cụ, các bác phải nhớ kỹ, khi muốn đẩy lùi các chướng ngại pháp thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, vì giới luật là thiện pháp, chúng sẽ chuyển tất cả nghiệp báo khổ đau nhiều đời nhiều kiếp của các cụ, các bác. Trong khi đó để giúp giới luật chuyển biến nhân quả mau lẹ thì dùng pháp Như Lý Tác Ý như trên đã dạy. Nhờ có hai pháp: 

1- Giới Luật.

2- Pháp Như Lý Tác Ý.

Hai pháp này sẽ giúp các cụ, các bác đẩy lùi các chướng ngại pháp và không còn một ác pháp nào tác động vào thân tâm các cụ, các bác được.

Trước khi từ giã cõi đời này chỉ có pháp môn trên thân quán thân để nhiếp phục mọi tham ưu mới có đủ năng lực giúp các cụ, các bác thoát khổ và chấm dứt luân hồi sinh tử.

Trên thân quán thân đó là pháp an trụ để nhiếp phục do sức tỉnh thức cao, còn sức tỉnh thức chưa cao như các cụ, các bác thì nên dùng pháp Như Lý Tác Ý mà đức Phật thương xót để lại cho chúng ta ngày nay, đó là pháp diệt trừ các lậu hoặc đệ nhất.

Thưa các bác, các cụ! Các cụ, các bác hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-kheo, có Như Lý Tác Ý, lậu hoặc chưa sinh thì không sinh, lậu hoặc đã sinh thì đoạn diệt”. Một pháp bảo quý báu vô giá không có vàng bạc châu báu ngọc ngà kim cương đem so sánh được, xin các cụ, các bác nhớ kỹ cho.

Các cụ, các bác hãy nhớ ôm chặt pháp Như Lý Tác Ý như cầm thanh gươm thư hùng kiếm trước giặc sinh tử; như Triệu Tử Long Đương Dương Trường Bản trước quân Tào trùng trùng lớp lớp mà không hề nao núng. Có như vậy mới làm chủ giặc sinh tử; có như vậy mới có ngày ca khúc khải hoàn làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Như trên đã nói, chỉ có pháp môn Như Lý Tác Ý này giúp các cụ, các bác thoát khổ đau và chấm dứt luân hồi. Xưa kia vì thương xót chúng sanh nên Ngài dạy cho chúng ta pháp môn mầu nhiệm này như cây chổi thần để hằng ngày quét sạch tất cả các ác pháp khiến tâm chúng ta không còn lậu hoặc. Đây là pháp ngăn ác diệt ác pháp tuyệt vời; đây là thanh gươm thư hùng kiếm ngăn giặc sanh tử giữ vững thân tâm như tường đồng vách sắt; đây là chiếc phao các cụ, các bác hãy ôm cho thật chặt, dù cho sóng to gió dữ của nghiệp thân như thế nào cũng không được bỏ phao, phải giữ gìn không được rời tay để đến bờ bên kia. Nếu không giữ gìn chặt, buông pháp tức là buông phao, các cụ, các bác sẽ chìm xuống đáy biển sanh tử luân hồi mãi mãi muôn đời muôn kiếp. Từ đây Thầy trò không còn gặp lại nhau nữa. Phải không các cụ, các bác?

Được sinh làm người là khó, được gặp chánh pháp lại còn khó hơn!

Hôm nay các cụ, các bác đã hội đủ nhân duyên, nên mới gặp được cả hai? Các cụ, các bác đừng dễ duôi, phải siêng lo tu tập rèn luyện thân tâm để thoát khỏi vòng tay sinh tử luân hồi.

Các cụ, các bác có biết chăng? Thế giới này là thế giới của nhân quả, vì thế, nhân quả luôn luôn làm chủ, nhân quả luôn luôn sai khiến con người và vạn vật, chúng thường giam cầm và biến mọi người mọi vật thành những nô lệ. Vậy các cụ, các bác làm sao thoát ra khỏi ngục tù và thoát kiếp nô lệ này?

Các cụ, các bác có thấy chăng? Chúng bảo các cụ, các bác giận hờn là các cụ, các bác liền giận hờn; bảo các cụ, các bác tham muốn là các cụ, các bác liền tham muốn; bảo các cụ, các bác lo rầu, phiền não là các cụ, các bác liền lo rầu phiền não; bảo các cụ, các bác đau bệnh là các cụ, các bác liền đau bệnh; bảo các cụ, các bác chết là các cụ, các bác liền chết...

Những điều này còn ai là không biết. Phải không các cụ, các bác?

Người đời vô minh, có mắt như mù, có tai như điếc, tâm hồn điên đảo, cứ mãi khư khư cho rằng thân tâm này là Ta, là của Ta; cha mẹ vợ con anh chị em là của Ta; nhà cửa, của cải, tài sản, danh vọng v.v… là của Ta. Mọi người điên đảo đã hiểu sai lầm, vì thế, muôn đời ngàn kiếp phải chịu khổ đau. Các cụ, các bác có biết không? 

Thân tâm này vô thường, luôn thay đổi liên tục; mới trẻ đó lại già rồi; mới hôm qua mạnh khỏe, nay đã đau ốm bệnh tật; mới hôm qua còn sống, nay đã chết rồi. Vì thân tâm này vô thường, nó là nơi tập trung muôn sự khổ đau; là ổ bệnh tật. Do đó thân tâm này không phải là của các cụ, các bác; không phải của các cụ, các bác thì dính mắc chấp đắm nó làm gì? Nó cũng không phải là của các cụ, các bác thì bảo vệ, nuôi dưỡng, giữ gìn nó làm gì?

Các cụ, các bác nên hiểu: trước giờ phút lâm chung, thân tâm này tan rã, các cụ, các bác đừng sợ hãi, gan dạ, kiên cường, dù cơn đau như ai cắt ruột, như ai banh da, xẻ thịt cũng chẳng hề dao động, phải bình tĩnh sáng suốt trước giờ ra đi; trước lúc chia tay với mọi người để đi vào lòng đất; phải nhớ dùng pháp Như Lý Tác Ý để giữ gìn thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Thầy trao cho các cụ, các bác thanh gươm thư hùng kiếm chém đá như chém bùn. Các cụ, các bác còn nhớ không? 

Hãy nắm chặt trong tay, đừng bao giờ lìa xa nó các cụ, các bác ạ! Lúc cận tử nghiệp kề bên thì các cụ, các bác luôn luôn nhớ câu tác ý: “Tâm phải thanh thản, an lạc và vô sự, không được dao động, không được sợ hãi, phải bình tĩnh. Tất cả các pháp trên thế gian này đều vô  thường không có pháp nào là Ta, là của Ta cả. Hãy buông xuống đi! Buông xuống đi! Buông xuống cho thật sạch”.

Trên giường bệnh hoặc trong cơn hoạn nạn nào các cụ, các bác nên nhớ tác ý câu trên, nó sẽ giúp các cụ, các bác vượt qua biển cả sóng to, gió lớn, bão tố ầm ầm v.v... Trong lúc này chỉ duy nhất còn có một tâm thanh thản, an lạc và vô sự mà thôi. Đó là chiếc phao cuối cùng các cụ, các bác không được bỏ, nếu bỏ nó thì muôn đời ngàn kiếp không bao giờ còn gặp Phật, gặp Thầy nữa, thì sáu nẻo luân hồi khổ đau sẽ đón rước các cụ, các bác.

Thăm và chúc các cụ, các bác đầy đủ gan dạ vững mạnh, lúc nào tâm cũng thanh thản an lạc và vô sự.

                                           Chơn Như ngày 27 tháng 8 năm 2006

                                                   Thầy của các cụ, các bác.

 
 

 

022-BÁC SĨ HÀNG ĐẦU CỦA MỸ TIN VÀO "THẾ GIỚI BÊN KIA" - Ronald Trương

Lời BBB/GNCN
       

              Trưởng Lão Thích Thông Lạc dạy về 5 Uẩn của con người, trong đó Tưởng Uẩn là thủ phạm chính dẫn dắt con người đi đến sự hiểu lầm tai hại. Ngài dạy về sự hoạt động của Tưởng Uẩn như sau: 

            "Tưởng uẩn họat động khi nào lục thức ngưng họat động. Lục thức ngưng họat động là lúc chúng ta đang nằm ngủ chiêm bao. Trong giấc chiêm bao chúng ta cũng nghe, thấy, biết, ngửi, cảm giác rõ ràng. Cái biết trong chiêm bao gọi là Tưởng thức. Như vậy tuởng thức và ý thức là hai thức chỉ giống nhau là cái biết, nhưng cái biết này có thì cái biết kia dừng lại".
             Liên quan đến sự hoạt động của Tưởng Uẩn mà bác sĩ hàng đầu nước Mỹ khẳng định trong cuốn sách "Proof of Heaven" (tạm dịch là "Bằng chứng về thiên đường") để mô tả trải nghiệm bản thân.

              Từ sự kiện này, tác giả Ronald Trương có bài viết sau: 

"Tng bác b gi thuyết v s tn ti ca thế gii ca linh hn, song mi đây mt bác sĩ phu thut não hàng đu ca M thay đi quan đim sau khi ông tri qua cm giác cn k cái chết".

Bác sĩ Eben Alexander tin con người vn có kh năng tư duy sau khi chết. 

"Tiến sĩ Eben Alexander, mt bác sĩ phu thut não tng tt nghip Đi hc Harvard danh tiếng ti M và hành ngh trong 25 năm, rơi vào trng thái hôn mê 7 ngày trong năm 2008 sau khi nhim bnh viêm màng não, Telegraph đưa tin"...

Vi bn tin trên, phát xut t bác sĩ ni tiếng, Tiến sĩ Eben Alexander, không ai dám nghi ng hay có ý kiến. Riêng tôi, may mn hiu được li dy ca Pht Thích Ca Mâu Ni v NGŨ UN, do Đc Trưởng Lão Thích Thông Lc din ging rõ ràng qua ĐƯỜNG V X PHT, tôi xin đưa ra nhn đnh như sau:

Nếu Tiến sĩ Eben Alexander, đưa ra quan đim cho rng có thế gii siêu hình trong tình trng tnh táo, thì s thông minh ca ông đáng cho chúng ta tư duy. Nhưng, li nói ông đưa ra sau khi b bo bnh hôn mê trong sut 7 ngày đêm. Điu ny minh xác rng mt nhân vt dù thông minh đến đâu, nhưng đã b hôn mê thì s thông minh không còn có giá tr na. Bi vì, khi b bnh và hôn mê là lúc con người đã sng hoàn toàn trong tưởng thc. Mt người sng trong tình trng tưởng thc là người đang mơ tưởng o nh có thế gii siêu hình.

Mun biết rõ điu ny, quý v nên đc và hiu rõ li din dy ca Đc Trưởng Lão Thích Thông Lc qua hai đ tài: NGŨ UN và TUYT ĐI KHÔNG CÓ TH GII SIÊU HÌNH. Ngi din ging rt rõ ràng. Xin minh xác là Ngài din ging đúng li Pht Thích Ca Mâu Ni dy. Tuyt đi, Ngài không đưa ra ý riêng ca Ngài. Bi vì Ngài luôn luôn cho hàng Pht t biết rng NHNG GÌ PHT THÍCH CA MÂU NI dạy không tha, không thiếu, không bao gi mâu thun.

Tôi xin phép gi ý cho quý v. S s hãi vu vơ ca tng người được nhen nhúm t tưởng thc. Khi bé sơ sinh la khóc, mi người đu dùng hình nh người dễ s (ông K) đ hù da nó, khiến nó phi nín khóc. Hành đng ny là gieo trong đu đa bé s hãi vu vơ. Đng thi, hình nh van xin, than khóc, cu nguyn, khn vái vu vơ lâu ngày chy tháng, khiến con người đã trưởng thành vn mang mãi hình nh s hãi vu vơ, lo âu trn trc t tưởng thc.

Đơn gin hơn, mt con người được sinh ra, trong gia đình và xã hi dy d rng, ăn đng vt là ngon b, ăn gan b gan, ăn tim b tin..., người đó khi trưởng thành, vi ý thc được nâng cao và nhìn nhn ra rng ĂN THT ĐNG VT LÀ TÀN NHN và thường mang bnh tt t đng vt chuyn sang. Tuy ý thc đã nhn biết rõ ràng, nhưng h không th t b không ăn th đng vt được, là vì thói quen đã nhim sâu vào tim thc ca h t lâu đi ri. Mun t b không ăn tht đng vt na, người đó phi có ngh lc và quyết tâm phi thường mi chiến thng được thói quen sai lm đó. Hoặc là bc anh tài t cai nghin đ thoát khi kh đau.

Ti Trung Quc, trong khu dân cư rng ln, h coi ăn chay là thiên liêng, bi vì h không th nào t b được thói quen ăn đng vt. Vì vy, hàng năn, vào tháng 10, h cùng chn ra 9 ngày đ ĂN CHAY. H cũng coi đó là ngày thiên liêng ca quê hương h. Có rt nhiu Pht t, khi cu nguyn van xin A-di-đà Pht gi điu gì đó. H cũng nguyn ăn chay mt tun, mt tháng, mt năm… Có điu là ti sao h ăn chay được mt tháng tr lên, sao h không ăn chay luôn đ được thnh thơi hơn? Ti vì h sng trong xã hội mà đa s đông đo đu đam mê ăn tht đng vt.

Vi TƯỞNG THC cũng vy, va sinh ra, con người đã sng trong tưởng thc ri và bành trướng thường xuyên, hàng ngày, hàng đêm. Trong khì đó, ý thc (bao gm tri thc, không hc mà biết được lưu gi t kiếp trước và trí thc nh hc mà biết) li phát trin rt chm và ln mnh khi tui trưởng thành. Ta cn trui rèn ý thc mnh m thng được tưởng thc thì ta mi tr thành người nhn din được chính bn thân ta. Mun nhn din rõ ràng tưởng thc, khi ta tư duy và t hi ti sao phi s?

- Đi vi người chết ti sao ta phi s? Người chết đâu còn biết gì, vy ti sao ta phi s? Ti vì ta tin tưởng vu vơ rng người chết s lôi kéo ta theo! C bình tĩnh, nhìn nhng người lo chôn ct, h sng gn xác chết, h có s gì không? Có người chết lôi h đi theo không?

- Ti sao sng mt mình trong đêm ti ta phi s? Ti vì ta b ám nh t lâu rng có ma. Cho nên khi ta lc vào vùng gò m, dù là ban ngày ta cũng phát s run bn bt!

- Thm chí ti sao ta nhìn thy sâu b, con rn t xa ta đã run s là vì s s hãi luôn ám nh ta.

- Nht là nhng người làm ác, có ý đ phm tội, tham lam ích k, luôn luôn mang hình nh s hãi.

Bây gi, ta c tin vào li dy ca Trưởng Lão THÔNG LC, rng không có thế giới siêu hình. Ta hãy mnh dn đến vut ve người chết, ta nhìn thng vào sâu b và rn, ta đến ngay gò m trong đêm ti, ta sng mt mình trong lu nơi hoang vng. Ngay lp tc s s hãi ca ta tan biến. T đó, ta ý thc rõ ràng rng tuyt đi không có thế giới siêu hình và t đó, ta sng trong thanh thn an nhiên. 

Tuy nhiên, đ thành công m mãn, ta nên đc toàn b sách ca Trưỡng Lão và t t, tp tng pháp mt, nht là ta buông cho được tham, sân, si, mn, nghi. Lúc đó, CÓ SIÊU HÌNH HAY KHÔNG? T ta tr li chính xác đó vy. Mun đc sách Trưởng Lão xin vào giotnangchonnhu.org, nguyenthuychonnhu.net hay chonnnhu.net

Đng quên, đc Pht Thích Ca Mâu Ni có dy rng:  ĐNG CÓ TIN, ĐNG CÓ TIN,... đng có tin dù người đó có uy quyn. Vy làm sao ta li tin vào người đã b bo bnh hôn mê 7 ngày đêm sng trong s hãi ch?

023-SAU KHI CHẾT KHÔNG CÓ SỰ SỐNG - TL Thích Thông Lạc

SAU KHI CHẾT KHÔNG CÓ SỰ SỐNG

Lời Phật dạy: Này các tỳ-kheo! Không có sắc nào hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi; lại cũng không có Thọ, Tưởng, Hành, Thức nào hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi. Này các tỳ-kheo! Nếu lại có thức này hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi thì người tu Phạm hạnh chẳng thể phân biệt được thiện ác, chẳng dứt hết gốc khổ. 

Nếu chỉ còn một chút xíu thức như đất trên đầu móng tay Ta không thay đổi, thường hằng thì người tu Phạm hạnh chẳng thể phân biệt được thiện ác, chẳng dứt hết gốc khổ.

Vì thế, này các tỳ-kheo! Vì không còn một chút xíu thức nào nên Đạo Ta (Đạo Đức Nhân Bản - Nhân Quả) ra đời, Phạm hạnh được dựng lại, mới dứt hết mé khổ.

Chú giải: Xin các bạn suy nghĩ kỹ khi đọc lại đoạn kinh này thì sẽ thấy đạo Phật không chấp nhận có một linh hồn tồn tại trong thân tứ đại này sau khi chết. Nếu còn có một linh hồn tồn tại thì đạo Phật không ra đời, vì có ra đời cũng chẳng làm ích lợi gì cho ai.

Mục đích của đạo Phật ra đời là đem lại nền đạo đức nhân bản – nhân quả giúp cho con người sống không làm khổ mình khổ người, để xây dựng cõi thế gian này trở thành cảnh giới Cực Lạc, Thiên Đàng một cách thiết thực và cụ thể. Cho nên, còn có cõi siêu hình chân thật thì con người trong cõi thế gian này không bao giờ hết khổ. Không bao giờ hết khổ thì Phật giáo không ra đời.

Sau khi tu hành chứng đạo có Tam Minh, Ngài quan sát và truy tìm khắp mọi nơi không tìm thấy đâu là thế giới siêu hình, đâu là linh hồn của con người tồn tại. Ngài chỉ tìm thấy thế giới siêu hình tưởng và linh hồn tưởng do tưởng uẩn của con người tạo ra những hình bóng ấy, nên Ngài gọi thế giới đó là thế giới tưởng tri, do điên đảo tưởng mà có. Bởi vậy, từ xa xưa khi con người xuất hiện trên hành tinh này đã mang theo tưởng tri điên đảo:

1- Cho nên tất cả các tôn giáo ra đời đều giẫm lại lối mòn tưởng tri điên đảo của tư tưởng con người sản sanh ra các tôn giáo đều dựng lên thế giới siêu hình: Phật, Trời, Tiên, Thánh, Thần, quỷ, ma và linh hồn người chết, v.v...

2- Tất cả các tôn giáo đều là sản phẩm của tưởng tri điên đảo này của con người, vì vậy mà các tôn giáo đều dựng lên thế giới siêu hình như nhau.

3- Chính tưởng tri điên đảo tưởng này của con người sản sinh ra các tôn giáo nên tất cả tôn giáo đều dựng lên thế giới siêu hình.

Chỉ riêng có đạo Phật nhìn thế giới như thật, thấy biết rất rõ ràng: “Không có linh hồn người chết và cũng không có thế giới siêu hình.” Vì thế, đạo Phật ra đời nhằm mục đích đem lại nền đạo đức cho con người và chính mọi người phải tự xây dựng cho mình một cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Cho nên đoạn kinh trên đây Ngài dạy: “Vì thế, này các tỳ-kheo! Vì không còn một chút xíu thức nào, nên Đạo Ta ra đời, Phạm hạnh được dựng lại mới dứt hết mé khổ.

          Trong tập III Những Lời Phật Dạy có một bài kinh Đức Phật cũng dạy không có thế giới siêu hình: “Này Hiền giả Channa, tôi tận mắt nghe Thế Tôn, tận mắt nhận lãnh từ Thế Tôn giáo giới này cho tôn giả Kaccànaghotta: “Thế giới này dựa trên hai quan điểm, này Kaccàna, hiện hữu và không hiện hữu. Ai thấy như thật với chánh trí tuệ sự tập khởi của thế giới thì không chấp nhận là thế giới không hiện hữu! (Thế giới siêu hình). Nhưng này Kaccàna, ai thấy như thật với chánh trí tuệ sự đoạn diệt của thế giới, thì không chấp nhận là thế giới có hiện hữu. (Thế giới hữu hình). Thế giới này phần lớn, này Kaccàna là chấp thủ các phương tiện và bị trói buộc bởi những thành kiến.

Đoạn kinh trên đây cũng xác định rõ ràng Thế giới hữu hình là thế giới duyên hợp nên không thật có một vật gì là thật, là thường hằng bất di bất dịch, thường mọi vật đều vô thường biến hoại nay còn mai mất từng phút giây. Chỉ do tưởng điên đảo mới thấy cái này là ta, là của ta, là bản ngã của ta.

Còn thế giới vô hình là bóng dáng của thế giới hữu hình do tưởng uẩn tạo ra mà chúng ta không hề hay biết, nên sống trong tưởng tri thường cho nó là một thế giới vĩnh hằng. Vì thế, có nhiều người nghĩ tưởng rằng theo các tôn giáo, phục vụ tôn giáo đến khi chết sẽ được về cõi Trời, cõi Phật hoặc làm một việc gì hy sinh cho tôn giáo thì sẽ được phong Thánh, sẽ được về với Phật, với Trời, v.v...

Thưa các bạn! Các bạn nên suy nghĩ cho chín chắn lại đi! Một con người còn hung ác, tâm còn tham, sân, si dữ tợn, vì tôn giáo mình hy sinh giết người, ăn thịt các loài cầm thú như cọp, như beo, vậy mà khi chết muốn đi về với cõi Trời, cõi Phật, thì về chỗ nào được các bạn? Một vị Thánh còn ôm súng đạn giết người, còn tham sân si ngút trời mà làm Thánh được hay sao các bạn?

          Trong bộ sách Đường Về Xứ Phật có một đoạn kinh Đức Phật bài bác các thầy Bà La Môn tụng kinh cầu siêu cho linh hồn người đã chết. Ngài đưa ra một ví dụ “Tảng đá và giọt dầu.” Tảng đá và giọt dầu mang đầy đủ một ý nghĩa sâu sắc rất lớn đối với kiếp làm người.

          Thứ nhất: Khi con người còn sống thì lầm chấp cho trong thân này còn có linh hồn. Vì vậy thân, tâm này là mình, là của mình, cho nên cố gắng làm mọi việc, dù làm việc ác, nếu có thể giết người cũng vẫn cứ làm, miễn là làm như thế nào tiền bạc cho thật nhiều để phục vụ cho mình đầy đủ hơn, sung sướng hơn, v.v... Còn ai khổ đau hoặc chết cũng mặc kệ.

Nhưng khi thân này chết rồi cũng giống như tảng đá, gốc cây là những vật vô tri, còn có vật gì đâu là hữu tri nữa. Bởi Đức Phật đã xác định: “Khi tứ đại rã tan thì chẳng có một vật gì tồn tại.” Vậy thì làm sao có linh hồn trong thân được mà tụng niệm cầu siêu. Đó chẳng qua là một sự tưởng tượng của loài người mà thôi.

          Thứ hai: Tảng đá ví như nghiệp ác. Khi con người còn sống làm điều ác, tức là làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Khi chết rồi nghiệp ác ấy vẫn còn mà Đức Phật ví dụ nó nặng như tảng đá. Đó là tảng đá nghiệp, nếu đem ném xuống hồ nước rồi mời các thầy đến tụng niệm cầu cho tảng đá nổi lên mặt hồ. Chắc chắn, điều này không thể làm được. Đúng quá phải không các bạn?

          Thứ ba: Giọt dầu ví như nghiệp thiện. Khi con người còn sống làm điều thiện tức là ngăn ác, diệt ác, luôn  luôn sống trong thiện pháp, làm việc thiện. Có nghĩa là sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Đến khi thân này tan rã, thần thức cũng không còn, chỉ còn lại nghiệp thiện. Nghiệp thiện này Đức Phật ví nó như  giọt dầu, nếu đem ném nó xuống hồ nước, không cần phải mời các thầy tụng kinh, niệm Phật, nó cũng vẫn cứ nổi trên mặt nước. Điều này, chắc chắn ai cũng biết được. Hiển nhiên quá phải không các bạn?

          Đức Phật nêu ra tảng đá và giọt dầu, đây là mục đích dẹp bỏ sự mê tín, lạc hậu qua nhiều hình thức cúng tế, cầu siêu, cầu an, mà tự ngàn xưa cho đến ngày nay vẫn còn. Sở dĩ như thế là vì con người không đủ trí tuệ sáng suốt vén màn vô minh ấy để phá vỡ những phong tục tập quán mê tín, lạc hậu lâu đời này, trái lại loài người đã mê lầm duy trì và truyền thừa từ đời ông cha cho đến đời con cháu. Với sự hiểu biết mơ hồ, trừu tượng, ảo giác, con người đã làm cho con người khổ đau lại càng thêm khổ đau hơn.

          Bởi vậy, nhiều người còn lạc hậu bảo rằng: Tụng kinh niệm Phật để cho linh hồn nghe kinh kệ mà tiêu diêu nơi miền Cực Lạc, hoặc linh hồn còn tiếp tục nghe kinh kệ như lúc còn sống để học hỏi, để tiến hóa, dù cho linh hồn đó ở bất cứ cảnh giới nào sau khi chết. 

Qua ý kiến này, chúng ta mới nhận thấy được tai hại của tư tưởng trong các kinh sách phát triển Đại Thừa đã gieo rắc vào lòng người sự mê tín, lạc hậu mà đến  giờ này dù là những người có học thức, như những Giáo sư Tiến sĩ hay Bác sĩ vẫn còn mờ mịt, vẫn tin theo một cách mù quáng chứ đừng nói chi giới bình dân ít học. Cho nên hiện giờ là thời đại khoa học hóa và kỹ nghệ hoá đời sống con người, nhưng mê tín, lạc hậu của con người vẫn còn mãi mãi. Sự truyền thừa mê tín của Bà La Môn cho rằng con người có linh hồn nên mới có sự sống sau khi chết, linh hồn luôn học hỏi để tiến hóa, dù bất cứ ở cảnh giới nào.

Chúng tôi rất đau lòng vì một tu sĩ Phật giáo trong hàng giáo phẩm Thượng tọa của Giáo hội Phật giáo Việt Nam mà tụng kinh trị bệnh ma, trừ tà, yểm quỷ hoặc tụng kinh đi vớt những linh hồn người chết đuối trên sông.

Một tu sĩ Phật giáo mà giống như những thầy phù thủy, làm những điều mê tín, mơ hồ, ảo tưởng, khiến cho những người nhẹ bóng vía tin theo. T.T. này lại còn thu băng, phổ biến khắp nơi với tựa đề rất là hấp dẫn “Chuyện lạ thế kỷ 21.”  

Chính vị Thượng tọa này không biết những hiện tượng đó xảy ra là do thần kinh tưởng uẩn của những người mất bình thường. Cho nên Thượng toạ đã làm một điều phi Phật giáo. Đó là một đường lối đi ngược lại với đường lối Phật giáo, đường lối phi đạo đức nhân quả – nhân bản.

Cho nên nếu mọi người sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả thì sẽ không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh. Một cuộc sống như vậy là một cuộc sống biết ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp; một cuộc sống Thiên Đàng, Cực Lạc các bạn ạ! Còn ngược lại, tu sĩ Phật giáo mà tụng kinh đi cầu hồn ma, vậy thì đó là tu sĩ của “Tà đạo bàng môn.”

Đứng trong hàng ngũ của ngoại đạo cho rằng luật nhân quả là luật của tạo hóa thì người ta sẽ hiểu lầm lạc rằng: Có ông Tạo Hóa làm ra luật nhân quả này để xử phạt. Hay người ta hiểu rằng: Tạo hóa là chỉ cho vạn vật trên hành tinh này? Hiểu như thế nào cũng đều lệch lạc hết các bạn ạ!  

          Theo chúng tôi xác định: Luật nhân quả là do mỗi sự sống trên hành tinh này tạo ra nhân quả, rồi từ nhân quả ấy tự xử phạt lại nó mà gọi là luật, cho nên luật mà không luật. Vì thế, nhân quả xử phạt rất công minh là vậy, chứ không có ông tạo hóa nào, hay vạn vật nào làm ra luật nhân quả này cả. 

Trong kinh sách Đại Thừa lấy luật nhân quả hù dọa người. Nếu ai nói kinh sách Đại Thừa sai thì “đầu bể bảy miếng,” nói thầy Tổ Đại Thừa sai thì tội “đọa địa ngục.” Đó là những lời hù dọa để bịt miệng mọi người, không cho nói lỗi của sư thầy hay kinh sách Đại Thừa. 

Thưa các bạn! Như các bạn đã biết do đâu mà có nhân quả; đó là do từ hành động thân, miệng, ý của người đó tạo ra nhân để nhân sanh quả, từ đó nhân quả mới xử phạt lại người đó mà gọi là luật, chứ không có tạo hóa nào tạo ra luật nhân quả để xử phạt ai hết. Vì, nếu có người tạo ra luật nhân quả thì luật nhân quả không công minh, chính trực. Phải không hỡi các bạn?

Cho nên, nói tới luật nhân quả là tự mọi người đều biết luật nhân quả của mình, không sợ ai hù dọa mình. Khi nói một lỗi của người nào thì người ấy phải có lỗi thật sự, còn nếu không lỗi mà nói có lỗi là lời nói vu khống, lời nói đó sẽ trở lại xử phạt họ.

Ví dụ: Nói kinh sách phát triển Đại Thừa sai là vì kinh sách này dạy giáo lý mê tín, trừu tượng, ảo giác, mơ hồ của Bà La Môn để lừa đảo tín đồ Phật giáo. Nói các Tổ sai là vì các Tổ tìm mọi cách diệt Phật giáo bằng cách soạn viết kinh sách đập phá bốn chân lý của đạo Phật và chế Bồ Tát giới cấm không cho phật tử tu học theo giáo lý của Đức Phật.  

          Do các Tổ có ác ý với Phật giáo nên chúng tôi nói thẳng, chỉ thẳng. Nói đúng một sự thật, thì đó là một việc làm thiện, một việc làm tốt để giúp ích cho biết bao nhiêu người thoát khỏi sự mê tín, lạc hậu, làm hao công sức và tiêu hao tiền của, vật chất một cách nhảm nhí.

Một lời nói thật và thẳng thắn làm ích lợi cho muôn người mà bảo rằng đọa địa ngục thì đó là lời hù dọa vô căn cứ của giáo pháp Đại Thừa, không hiểu luật nhân quả.

          Vì thế, đạo Phật dạy chúng ta sống luôn luôn ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện. Nói cái sai để cho mọi người thấy biết rõ để tránh khỏi tai họa mà bảo rằng có tội là không đúng. Giúp cho mọi người tránh được tai họa thì có phước, chứ sao có tội. Phải không các bạn?

          Cha mẹ làm sai mà con cái bưng bít không dám nói ra để sửa sai là một điều tội lỗi. Đâu phải ông bà, cha mẹ từ xưa đến giờ đều đúng hết? Có sai cần phải đóng cửa dạy nhau, cần phải bỏ cái sai xuống, cần phải dẹp sạch cái sai. Phải không hỡi các bạn?

          Chúng ta là những tu sĩ và cư sĩ Phật giáo thấy những điều sai, không đúng giáo lý của Phật giáo thì chúng ta có quyền chỉnh lại, làm cho Phật giáo ngày càng tốt hơn. Cớ sao các bạn lại bảo rằng chúng tôi phỉ báng thầy Tổ. Thầy Tổ sai không được dám nói họ sai sao? Dung chứa thầy Tổ sai, phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới là làm cho Phật giáo suy đồi, là giết Phật giáo, các bạn có biết không?

Khi chúng tôi chỉnh lại pháp hành của các hệ phái Phật giáo thì có sự đụng chạm, nhưng vì giáo lý của các hệ phái đang dạy tu tập là những kiến giải, tưởng giải theo kiểu sáu mươi hai luận thuyết của lục sư ngoại đạo trong thời Đức Phật còn tại thế.

Còn tất cả các pháp của Phật giáo đều do từ Giới, Định, Tuệ thì các hệ phái Phật giáo này ném bỏ, chỉ còn học suông chơi mà thôi. Và vì vậy, khi chúng tôi nói thẳng thì các vị này đỏ mặt tía tai bảo rằng chúng tôi phỉ báng thầy Tổ.  

Xin thưa cùng các bạn! Chúng tôi không phỉ báng thầy Tổ, phỉ báng thầy Tổ để làm gì? Chúng tôi chưa chỉ thẳng, nói thẳng thầy Tổ nào có tâm ý diệt Phật giáo, thầy Tổ nào có những kiến giải, tưởng giải sai không đúng chánh pháp của đạo Phật, làm suy thoái Phật giáo thì chúng tôi nói thẳng để dựng lại những gì của Phật giáo mà thầy Tổ đã ném bỏ, và ném bỏ những gì không phải của Phật giáo mà thầy Tổ đã vay mượn của ngoại đạo dựng lên.

Nếu các bạn cho rằng: Chúng tôi làm những điều này sẽ đọa địa ngục thì chúng tôi vui lòng chấp nhận đọa địa ngục để cho tín đồ Phật giáo có những pháp môn tu hành ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp và sống có đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Điều mà chúng tôi ước mong nhất là không còn thấy tín đồ Phật giáo tu hành theo những pháp môn mê tín, lạc hậu, trừu tượng, ảo giác của các thầy Tổ dẫn dắt sai nữa, v.v...

          Phật giáo phải được chấn chỉnh lại. Nếu các bạn vì một lý do gì trách móc hay phỉ báng chúng tôi bằng mọi cách, chúng tôi vẫn luôn luôn chấp nhận mà không hề có một lời phiền trách các bạn. Các bạn nói sao về chúng tôi cũng được, nhưng chúng tôi nguyện đem hết sức mình chấn chỉnh lại Phật giáo để đền đáp công ơn Đức Phật trong muôn một. Nhờ tu hành pháp Phật mà chúng tôi mới có được như ngày hôm nay. Nếu chúng sanh còn đủ phước báu thì chúng tôi dẹp sạch những tà giáo ngoại đạo đang làm băng hoại Phật giáo, đang biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín.

Còn nếu chúng sanh không đủ phước thì chúng tôi cũng vui lòng. Nhưng dù thế chăng nữa, chúng tôi cũng thương xót cho chúng sanh bạc phận vô duyên với chánh pháp của Phật.

024-TRẢ LỜI CHO GHPGVN IM LẶNG - Lưu Nhật Hưng

TRẢ LỜI CHO GHPGVN IM LẶNG.

Hòa Thượng Thích Minh Châu là gương sáng tiêu biểu, người khai triển và so sánh kinh tạng Ấn Độ và Hán Tạng, và chỉ ra những điểm khác biệt, CÓ QUÁ NHIỀU ĐIỂM SAI BIỆT, có nhiều bài kinh KHÔNG CÓ được THÊU DỆT thêm.

Người Việt Nam bị ảnh hưởng của Trung Quốc quá lâu rồi, kể cả Đạo Phật, không biết thực giả, không biết về cội nguồn, tin vào nơi lầm lạc, kinh tạng Pali (Ấn Độ) ra vào năm 1981 . . . hãy ghi nhớ mốc thời gian này năm 1981.

Nghĩa là trước đó Phật giáo Việt Nam không hẳn đi theo đúng đường lối tu tập của Đức Bổn Sư Thích Ca. Các bạn hãy nghi ngờ, và nên NGHI NGỜ để tìm hiểu cho kỹ.

Các vị tôn túc, đức hạnh, mới là người biết rõ nhất, các vị ấy học phật pháp nhiều mới là người biết rõ nhất, đúng sai, các vị ấy mới là người đáng lên tiếng hộ trì cho chánh pháp.

30 Năm . . . 30 Năm là khoảng thời gian mà Phật pháp do chính Đức Bổn Sư Thích Ca thuyết giảng bắt đầu xuất hiện tại nước Việt Nam. Vào thời gian này các bạn nghĩ xem có bao nhiêu người học được lời dạy chân chánh từ Đức Bổn Sư, bao nhiêu người phân biệt được đúng sai ???

Về giáo pháp, thì nhiều tôn giáo trên hành tinh này đem lại an vui và lợi ích, đều dạy điều lành, yêu thương nhau, nếu giàu tín ngưỡng hơn nữa thì cũng đầy các tôn giáo cầu cúng, chiêm lễ bái, và đọc chú. Giàu đời sống tinh thần ca hát, nhảy múa, thiền Làng Mai v.v…

Các học giả cũng dạy con người đạo đức, nhiều quyển sách rất quen như Đắc Nhân Tâm, Hạt Giống Tâm Hồn v.v… nếu các bạn muốn trau dồi đạo đức và sống tốt ở đời. Chỉ là ở đời thôi, nghĩa là sống đạo đức kiếm tiền, cưới vợ sinh con, làm từ thiện v.v…

Chỉ riêng pháp cho Đức Bổn Sư Thích Ca dạy mới bao gồm đầy đủ đạo đức nhân quả làm người, làm thánh, làm chấm dứt tận cùng gốc rễ đau khổ. Làm chủ và chấm dứt được 4 sự đau khổ SANH – LÃO – BỆNH – TỬ, ngoài ra không có giáo pháp nào làm được điều này. Cho nên nó quý giá vô cùng làm sao đánh đồng, và làm lẫn lộn được, mong các bạn hãy quý trọng.

Đó là con đường duy nhất Bát Thánh Đạo, GIỚI – ĐỊNH – TUỆ

“Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát Thánh Đạo, thời ở đấy không có đệ nhất Sa Môn, ở đấy không có đệ nhị Sa Môn, cũng không có đệ tam Sa Môn, cũng không có đệ tứ Sa Môn. Này Subhadda trong pháp luật nào có Bát Thánh Đạo thời ở đấy có đệ nhất Sa Môn, cũng có đệ tam Sa Môn, cũng có đệ tứ Sa Môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không Sa Môn. Này Suhadda, nếu những vị Tỳ kheo này sống chân chánh, thời đại này không vắng những vị A La Hán".

Mong các bạn cứ tiếp tục HOÀI NGHI, tại sao GHPG Việt Nam im lặng, người trí luôn biết sửa lỗi mình chứ không phải hơn thua và mạt sát nhau, hãy noi gương các vị tôn túc của chúng ta. Hãy hoài nghi, và suy xét, đừng làm điều vô tình vùi chôn giáo pháp mà Đức Bổn Sư đích thân dạy.

            Phụ lục

1. PHẬT DẠY:

“Thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn không phải chỉ dựa trên lòng tin, các Bà-la-môn ở đây còn dựa trên điều nghe.

Trước hết, này Bharadvaja, Ông đi đến lòng tin, nay Ông nói đến tùy văn. Này Bharadvaja, năm pháp này có hai quả báo ngay trong hiện tại. Thế nào là năm? Tín, tùy hỷ, tùy văn, cân nhắc suy tư các lý do và chấp nhận quan điểm. Này Bharadvaja, năm pháp này có hai quả báo ngay trong hiện tại.

-Tuy vậy, này Bharadvaja, có điều được khéo tin tưởng, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng. Trái lại, có điều không được khéo tin tưởng, có thể là thật, chân, không thay đổi.

Lại nữa này Bharadvaja, có điều được khéo tùy hỷ có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng. Trái lại, có điều không được khéo tùy hỷ, có thể là thật, chân, không thay đổi.

Lại nữa này Bharadvaja, có điều được khéo tùy văn có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng. Trái lại, có điều không được khéo tùy văn, có thể là thật, chân, không thay đổi

Lại nữa này Bharadvaja, có điều được khéo cân nhắc suy tư có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng. Trái lại, có điều không được khéo cân nhắc suy tư, có thể là thật, chân, không thay đổi.

Lại nữa này Bharadvaja, có điều được khéo chấp nhận có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng. Trái lại, có điều không được khéo chấp nhận có thể là thật, chân, không thay đổi.

Hộ trì chân lý, này Bharadvaja không đủ để một người có trí đi đến kết luận một chiều là: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm" (Kinh Canki)

Tư duy: Phật dạy trong kinh Nguyên Thủy, có những điều nghe thấy thích thú, khéo chấp nhận, được dẫn chứng trong văn, kể cả khi được cân nhắc suy tư cũng có thể là trống không, hư vọng. Trái lại có thể là sự thật, chân thật, không thay đổi. Tôi ước nguyện người học pháp chân chính có thể học hỏi suy xét thật kỹ lưỡng và cẩn trọng.

2. PHẬT DẠY:

“Người kia lại xem xét thêm vị ấy về các pháp tham, sân, si do những tham, sân, si pháp này, tâm của vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết vẫn nói. “Tôi biết”, dầu không thấy vẫn nói “Tôi thấy”, hay xui khiến người khác có những hành động tu hành, khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài” (Kinh Canki)

Tư duy: Phật dạy hãy kiểm tra người thầy của mình có hết tham sân si chưa? Có niềm tin vào phật pháp tuy rất quan trọng, nhưng hãy cân nhắc cho bản thân. Đừng để niềm tin đó thành mù quáng, làm theo những điều sai trái và bảo vệ cho cái sai đem đến đau khổ cho mình lâu dài.

3. PHẠM VI GIÁO PHÁP CỦA PHẬT DẠY:

“Lúc bấy giờ có một Tỳ kheo sanh khởi suy nghĩ như sau: “Biết như thế nào, thấy như thế nào, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức?

Biết rõ tâm niệm này Đức Phật liền trả lời với các Tỳ Kheo: “Này các Tỳ Kheo! Pháp đã được giải thích, thuyết giảng; Bốn Niệm Xứ đã được giải thích, thuyết giảng; Bốn Chánh cần đã được giải thích, thuyết giảng; Bốn Như Ý Túc đã được giải thích, thuyết giảng; Năm Căn đã được giải thích thuyết giảng; Năm lực đã được giải thích thuyết giảng; Bảy Bồ Đề Phần đã được giải thích thuyết giảng; Thánh Đạo Tám ngành đã được giải thích thuyết giảng.

Như vậy, này các Tỳ kheo, pháp được Ta giải thích thuyết giảng. Vậy mà ở đây còn có Tỳ Kheo khởi lên suy nghĩ như sau: “Biết thế nào, thấy thế nào, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức?”.

Tư duy: Kinh điển tuy rất dài, nhưng Pháp giải thoát của Phật có giới hạn chứ không vô vàn như ta tưởng, được Phật tóm gọn lại trong bài kinh trên. Tôi trích ra với mong muốn những người tu tập biết những điều cần học, và biết những điều không cần học. Biết pháp nào của Phật dạy và pháp nào không phải của Phật dạy. Mong các bạn đừng nghe lời của ngoại đạo pháp nào cũng lấy để hành.

37 Phẩm Trợ Đạo:

- Ngũ Căn

- Ngũ Lực

- Tứ Bất Hoại Tịnh

- Tứ Vô Lượng Tâm  

- Tứ Chánh Cần

- Tứ Niệm Xứ

- Thất Bồ Đề Phần (Bảy Giác Chi)

- Tứ Thần Túc

4. THUYẾT PHÁP VỚI GIỌNG CA.

"1. - Này các Tỷ-kheo, có năm điều nguy hại với người thuyết pháp với giọng ca kéo dài. Thế nào là năm?

2. Tự mình say đắm trong âm giọng ấy; người khác say đắm trong âm giọng ấy; các người gia chủ phê bình: "Như chúng ta hát, cũng vậy, các Sa-môn Thích tử này ca hát"; vì vị ấy cố gắng rèn luyện cho âm thanh điêu luyện nên định bị gián đoạn; các thế hệ sau bắt chước.

Này các Tỷ-kheo, có năm điều nguy hại với người thuyết pháp với giọng ca kéo dài"

Tư duy: Có những điều không được Phật chấp nhận vẫn được thấy rât nhiều, tụng niệm siêu thoát ê a, các câu chú mantra, niệm phật a di đà, kèn chuông trống như Tây Tạng, các bài hát chú. Liệu chúng ta đặt nghi ngờ, liệu có phải là sản phẩm của Phật không? Sao có quá nhiều điều mâu thuẫn.

5. BÍ QUYẾT GIẢI THOÁT

“Bí quyết thành tựu của đạo phật chỉ có hai điều quan trọng nhất: 1- Giữ tâm không phóng giật. 2-Thích sống nhàn tịch độc cư trầm lặng một mình”.

Có thể đối chiếu và suy luận ra được ai là người có thể chứng đắc . . . ai không thể.

6. CÓ NĂM PHÁP CẦN TU TẬP

1- Tín căn cần tu tập “Tứ Chánh Cần”

2- Tấn căn cần tu tập “Tứ Chánh Cần”

3- Niệm căn cần tu tập “Tứ Niệm Xứ”

4- Định căn cần tu tập “Tứ Thánh Định”

5- Tuệ căn cần tu tập “Tam Minh”

Các pháp môn tu tập được Phật dạy rất rõ ràng, không mơ hồ và trừu tượng, cũng rất cụ thể, không đa dạng mông lung.

7. MÓN ĂN

“1- Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho minh giải thoát? Bảy Giác Chi, cần phải trả lời như vậy.

2- Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy.

3- Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện Hành, cần phải trả lời như vậy.

4- Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Ba Thiện Hành? Các căn được chế ngự, cần phải trả lời như vậy.

5- Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho các căn được chế ngự? Chánh Niệm Tỉnh Giác, cần phải trả lời như vậy.

6- Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Chánh Niệm Tỉnh Giác? Như Lý Tác Ý, cần phải trả lời như vậy.

7-  Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Như Lý Tác Ý? Lòng tin, cần phải trả lời như vậy.

8-  Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho lòng tin? Nghe diệu pháp, cần phải trả lời như vậy.

9- Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho nghe diệu pháp? Thân cận với bậc chân nhân, cần phải trả lời như vậy".

Ba Thiện Hành là ba nơi làm điều lành.

1- Thân Thiện Hành

2- Khẩu Thiện Hành

3- Ý thiện Hành

Bốn niệm xứ được sung mãn cần phải có 3 thiện hành, là sự thuần thiện của thân khẩu ý không còn tạo nghiệp ác nữa. Chúng ta tự xét lại, còn nhiều lỗi lầm làm sao ngồi thiền định chứng đắc được. Phật dạy cốt lõi ở GIỚI LUẬT và ĐỨC HẠNH, các tông phái chưa triển khai được hoàn chỉnh giới luật và đức hạnh của Phật dạy.

Và trước kia có thể chưa có bậc chân nhân nào dạy ta về pháp Như lý tác ý??? Phòng hộ các căn ??? huống hồ gì nói đến giải thoát? Nay Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã giảng dạy rõ ràng.

8. PHẬT DẠY:

“Này Sandha, hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục, chớ có Thiền định của con ngựa chưa thuần thục”. (Tăng Chi Bộ Kinh, tập 4, trang 655). Vì muốn hiểu biết điều này nên vua Ba Tư Nặc hỏi Đức Phật: - Bạch Thế Tôn! Những vị khất sĩ đi ngang qua đây muốn biết vị nào chứng quả A La Hán thì phải làm sao?

Đức Phật trả lời: - Nên ở gần bên họ từ một ngày đến bảy ngày, từ một tháng đến bảy tháng thì sẽ rõ.

9. TÍNH THẲNG THẮN TRONG ĐẠO PHẬT

“Thấy cái dở mà không dám chê là hèn kém, là nhút nhát, là dua nịnh. Thấy cái hay mà không dám khen là ganh tỵ, hẹp hòi, cao ngạo”

Phật dạy tính thẳng thắn, biết khen, biết chê của bậc hiền trí, biết chỉ chỗ đúng sai để người khác không lầm lạc, biết sách tấn động viên để người tiến bộ.

9. NIỀM TIN NƠI BẬC HIỀN TRÍ

"Nếu gặp bậc hiền trí

Chỉ lỗi và khiển trách

Như chỉ chỗ chôn vàng

Hãy kết thân người trí

Kết thân với vị ấy

Chỉ có lợi không hại". Kinh Pháp Cú. (VI- Panditavagga –Phẩm Hiền Trí).

Phật dạy bậc hiền trí nói thẳng nói thật, chỉ lỗi và khiển trách chứ không phải xuề xòa nói vừa lòng mình, cho hợp ý mình, tùy thuận mình. Tôi cho đây là một tiêu chuẩn đánh giá người trí. Người chẳng sợ quyền uy, nói thẳng nói thật chỉ lỗi cho mọi người, tất nhiên cũng bị người ác công kích. Ác vốn chẳng ở chung với thiện được. Nên nghe đồn chớ vội tin, đánh giá cho kỹ.

Cũng như vậy phật dạy về pháp khen chê

"Như đá tảng kiên cố

Không gió nào lay động

Cũng vậy, giữa khen chê

Người trí không dao động".

Người bị khen chê không nên vội vui ngay, buồn ngay, không sân giận, hoan hỷ, mà nên coi chê đúng hay chê sai, khen đúng hay khen sai.

025-NHỮNG ĐIỀU CHÚNG TÔI ĐƯỢC BIẾT VÀ HỌC ĐƯỢC TỪ TU VIỆN CHƠN NHƯ (Chùa Am) - Từ Đồng

Kính thưa các bạn!

Trong thời gian vừa qua, một số bài viết của chúng tôi được đưa lên trên trang web: www.giotnangchonnhu.org, hay hoặc dở thì cũng đã được đưa lên rồi…

Một con người như chúng tôi từ khi cắp sách đến trường cho đến khi bước vào cửa Đạo, đây cũng là lần đầu tiên trong đời ngồi bên vi tính tập tành viết lách (lại để tâm phóng dật nữa rồi…), nghĩ tưởng rằng kể từ đây mình sẽ không nên viết gì nữa cho dù đó là một sự thật mà chính bản thân mình đã từng chứng kiến về những sinh hoạt của một số các tự viện (trong cũng như ngoài nước).

Kính thưa các bạn!

Biết bao nhiêu bài viết của chư Tăng, Ni và Phật tử đã có cái nhìn Chánh Kiến thế nào là một TÔN GIÁO PHẬT GIÁO (chính thống) đúng theo như lời di chúc của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni “GIỚI LUẬT TA CÒN LÀ PHẬT GIÁO CÒN, GIỚI LUẬT MẤT LÀ PHẬT GIÁO TA MẤT”. Nhưng song song vào đó cũng có một số các vị đã đăng tải lên một số bài trên trang web Phật Giáo phản bác về những gì mà Thầy Viện chủ Thích Thông Lạc viết. Khi nói lên điều này chúng tôi cũng xin thưa: Chúng con, chúng tôi chỉ là hàng hậu học, cũng không có một bằng cấp học vị nào trong Phật giáo, nhưng chúng tôi rất có lòng tin. Nhưng lòng tin ở đây chúng tôi không có mù quáng, vì sao?

Đức Phật dạy: “ĐỨC PHẬT ĐÃ XÁC ĐỊNH CÓ 1O ĐIỀU KHÔNG NÊN VỘI TIN: (LÒNG TIN CHÂN CHÁNH). Đây cũng chính là những gì mà Thầy Viện chủ Thích Thông Lạc đã từng nhắc nhở cho chúng đệ tử của mình và ngay trong tập sách “NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY” (Tập I trang 91 & 92 Thầy cũng đã có viết).

Kính thưa các bạn!

Chúng tôi luôn luôn ghi nhớ lời dạy của Thầy Viện Chủ Tu Viện Chơn Như, các con hãy tinh tấn tu tập xả tâm cho thật tốt, ai nói gì, có phản bác gì các con hãy im lặng như Thánh. Vì các con nói được mà không làm được, không chứng minh được. Còn Thầy thì: NÓI ĐƯỢC, LÀM ĐƯỢC, CHỨNG MINH ĐƯỢC. Vì vậy chúng tôi cũng xin góp ý và có một lời khuyên chân thật cùng các bạn đồng Pháp ĐÂY CŨNG LÀ NHÂN DUYÊN CHÚNG SANH ĐẾN VỚI CHÁNH PHẬT PHÁP.

Và ngược lại chúng tôi cũng xin thưa rằng, quý bậc tôn túc, quý Thầy, Cô, quý Phật tử viết được, dẫn chứng được, phản bác được thì hãy làm được và chứng minh được…

Hôm nay chúng tôi chỉ xin nói lên những điều chúng tôi được biết và học được từ Tu Viện Chơn Như (còn gọi là Chùa Am) để quý Thầy, Cô, quý Phật tử chân chính đúng nghĩa theo như lời Di giáo của Đức Phật đã để lại, mà suy ngẫm, tìm hiểu về Thầy Viện Chủ Thích Thông Lạc cũng như sinh hoạt tu học của Tu Viện Chơn Như.

- Thứ nhất: Nếu là hàng đệ tử xuất gia thuộc Tăng đoàn hay Ni đoàn của Tu Viện, thì phải sống tại Tu Viện tu tập dưới sự hướng dẫn của thầy Viện Chủ, cho đến khi nào đạt đến kết quả giải thoát, thì mới được Thầy cho phép đi du hóa. Về sự sinh hoạt của Tăng đoàn hay Ni đoàn quý vị có thể tìm hiểu thêm trên trang mạng: www.chonnhu.net.

Nhưng cũng xin nói rõ thêm rằng cũng có một số trường hợp ngoại lệ và được Thầy Viện chủ cho phép, vì thủ tục hành chánh của những vị tu sĩ này phải về sống tại trú xứ của mình (kể cả ngoài nước), hay vấn đề sức khỏe mà chính vị tu sĩ này tự ý xin trở về trú xứ của mình.

Nhưng có một điều khác biệt mà chúng tôi biết chắc rằng rất hiếm thấy và biết được ở một số tu sĩ ở các hệ phái khác. Đó là nếu là đệ tử xuất gia của Tu Viện Chơn Như do duyên sự gì không hội đủ duyên sống tại tu viện được, khi trở về trú xứ của mình cũng phải áp dụng theo thanh quy của tu viện (cho dù là ở riêng một Tịnh Thất) không được tự mình nấu ăn, không được vào các quán cơm chay ngồi ăn v.v… (xin quý vị hãy đọc tập sách “HỎI ĐÁP OAI NGHI CHÁNH HẠNH trên trang web: www.chonnhu.net; www.chonlac.org; www.nguyenthuychonnhu.net) vì chúng tôi không thể kể hết từng chi tiết trong trang giấy này.

Riêng đối với những vị tu sĩ ở khác hệ phái khác xin về Tu viện tu tập một thời gian rồi ra đi thì chúng tôi không dám luận bàn đến quý vị này.

Kính thưa các bạn!

Ở phần này chúng tôi xin tâm sự cùng các bạn đồng pháp, nếu một vị xuất gia nào nguồn gốc từ Tăng đoàn, Ni đoàn của Tu Viện ra ngoài trú xứ của Tu Viện, thân còn đắp Y, mang Bát mà còn vào tiệm quán, chợ búa v.v… hay tự mình nấu nướng theo sở thích, hoặc tự lái xe Honda… thì xin quý vị nên xem xét lại những vị này có xứng đáng để cho mình nương tựa không? (đừng cho đây là một phương tiện…). là một tu sĩ Phật giáo trên bước đuờng du hoá sống đúng Thánh Hạnh, là một Du Tăng khất sĩ chớ không phải trụ thế Tăng, vị tu sĩ nào tự xưng mình là đệ tử của Thầy Viện chủ Thích Thông Lạc mà còn bắt Phật tử xây chùa to, Phật lớn rồi bắt Phật tử phải giao giấy tờ của chùa cho mình quản lý thì quý vị nên lưu ý...

Một người tu sĩ Phật giáo xuất thân từ Tu Viện Chơn Như, nếu đi đến đâu thuyết giảng đến đó, đây là một việc không thể có được vì: NÓI ĐƯỢC MÀ LÀM KHÔNG ĐƯỢC.

- Thứ Hai: Đối với cư sĩ tại gia, vì gia duyên ràng buộc trong cuộc sống gia đình. Thầy Viện Chủ chỉ khuyên sống “ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI” trong tinh thần “ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ”, luôn luôn giữ gìn năm giới, nhất là giới thứ nhất Đức Phật đã khuyên chúng ta “KHÔNG NÊN SÁT SANH” thể hiện “ĐỨC HIẾU SINH”. Tức là ăn chay, vẫn ngày ba buổi, sáng, trưa, chiều. Nhưng Thầy khuyên không nên ăn phi thời (Hay nói rõ hơn là ăn vặt). Chỉ khi nào tu học một ngày đêm Thọ Bát Quan Trai thì mới áp dụng ngày một buổi thọ trai.

Về sự tu học Thầy Viện chủ chỉ khuyên là trong một tháng các con hãy sắp xếp trong gia đình để tập tu một ngày THỌ BÁT QUAN TRAI. Tu tập và sống đúng theo những gì Thầy đã chỉ dạy cũng như thời khóa tu tập của Tu Viện.

Điều mà chúng tôi thấy có khác là khi tu tập Bát Quan Trai giới một ngày đêm của người cư sĩ tại gia ở đây là áp dụng ngày một buổi thọ trai, không có dùng nhẹ sáng hay chiều (cho dù đó là chất nước có dinh dưỡng), không giuờng cao v.v... Còn như tu tập thể từ hai hoặc ba vị trở lên, nếu được dưới sự hướng dẫn của một vị xuất gia, thì chính vị xuất gia ấy cũng sống từ sự sinh hoạt ngủ nghỉ cho đến ăn uống đều thể hiện trên tinh thần LỤC HÒA.

Cái điểm khác biệt mà Tứ chúng xuất thân từ tu viện Chơn Như không thể làm được là trong khóa tu Thầy, Cô không thể ăn chén, đũa sang trọng, nhiều món hơn, không thể nằm giường cao rộng lớn trong khi các tu sinh (Giới tử) về Tu bát Quan Trai lại phải nằm đất hay đơn gỗ…

- Về ĐẠO ĐỨC, Thầy Viện chủ thường nhắc nhở: Là người đệ tử của Phật phải thực hiện Đức KHIÊM CUNG, KHIÊM HẠ và luôn luôn đem LÒNG YÊU THƯƠNG đến với mọi người, mọi loài chúng sanh. Một bài học cơ bản về ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI chưa xong mà đòi ngồi Thiền nhập định…

Kính thưa các bạn!

Trên con đường tu học Phật Giáo theo Chánh Phật Pháp Nguyên Thủy nơi Tu Viện Chơn Như, trọng tâm của Thầy Viện Chủ là XÂY ĐỰNG LẠI NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC “SỐNG KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI VÀ KHỔ TẤT CẢ CHÚNG SANH” trên tinh thần “ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ”.

Nếu chúng ta có niềm tin thì mới thấy có kết quả, mà thực vậy theo chúng tôi được biết ngay ở hàng cư sĩ tại gia sống đúng năm giới tu tập xả tâm tốt. Kết quả đã đem đến sự an lạc, hạnh phúc cho gia đình và bản thân của họ.

“GIỚI LUẬT LÀ ÁNH SÁNG ĐẠO ĐỨC SOI ĐƯỜNG CHO CHÚNG TA ĐI TÌM CHÂN LÝ, NẾU AI MUỐN TÌM CHÂN LÝ MÀ KHÔNG NƯƠNG VÀO NGỌN ĐÈN GIỚI LUẬT THÌ CHẲNG BAO GIỜ THẤY ĐƯỢC CHÂN LÝ”

                                                           (Lời của Tu Viện Chơn Như - Việt Nam).

Rất nhiều và còn rất nhiều vấn đề mà quý vị chưa biết được về sinh hoạt của Tu Viện Chơn Như. Xin đừng nghe mà chính mình phải thấy tận mắt, nghe tận tai rồi hãy nói, hãy viết và tự hỏi lại chính bản thân của mình có làm được và chứng minh được không. Hay THAM, SÂN, SI và DANH, LỢI, TÌNH, BỆNH TẬT KHỔ ĐAU vẫn hoàn đau khổ.

Và chúng tôi cũng xin có một lời góp ý gởi đến một số quý vị đã từng về Tu Viện Chơn Như tu học (ngay cả những vị đã từng cúi đầu đảnh lễ xin về nương tựa với Thầy Viện Chủ), tu không được thì thôi, hay vì một nhân duyên gì đó tâm bất an rồi sanh tâm phỉ báng… Đừng! Xin đừng! Hãy dừng lại đi các bạn ạ!

                                                                                               Nay kính

                                                                                              Từ Đồng

026-THIỀN NGĂN ÁC, DIỆT ÁC CỦA ĐẠO PHẬT NGUYÊN THỦY - Tác giả H.N.H

Kính biết ơn đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Kính gửi các nhà trí thức yêu nước

Thiền của Phật tích cực ngăn ác, diệt ác trên đường đi của ý, “Tuệ quán chính là đây”, năng động trên thiện pháp thì sáu căn tịnh an,

Sáu căn an, tu chánh định dễ dàng, khác với Thiền Đông Độ, Mật, Tịnh của Phật Giáo Đại Thừa Phát Triển.

Kiến giải tưởng triệu chứng của bệnh hý luận, ngụy biện.

Lòng còn một chút dục Chánh định không sanh, chưa sạch dục dạy Thiền tưởng làm khổ chúng sanh, thiền ức chế ý thức đường truyền đến Định tưởng, Xúc lạc hỷ tưởng.

Thiền ngăn ác, diệt ác trên mỗi niệm khởi là Thiền đúng hướng.

Niệm ác bị ức chế thêm khổ mình, khổ người. Mỗi niệm ác bị điểm mặt, xả ly nhân loại thảnh thơi.

Bát Chánh Đạo nền tảng giáo dục ý thức nhân loại.

Chánh Nghiệp un đúc bạn cống hiến, thể hiện niềm tin, công bằng cho xã hội.

Nghề nghiệp của người xuất gia là Khất sĩ thanh tịnh, Chánh ngữ đến với thế gian. Chánh ngữ giúp chúng sanh thanh thản, tịnh an.

Nói có thế giới thần linh là tà ngữ nghiệp. “Thấy vọng không theo vọng” là Thiền buộc, ức chế ý thức.

Vọng tưởng khởi ta sẽ thẩm suy nó, là Chánh tư duy.

Chánh niệm, vì ác niệm bị đọan diệt, xả ly, vì vậy ý thức có thần lực sẽ làm chủ được sanh, già, bệnh, chết….

Chánh mạng chuyển tải yêu thương, rạt rào giải thoát. Thế gian cực lạc, tịnh yên.

Ăn thịt chúng sanh ngâm Thiền: - lạc lối Thiền điên.

Phật Thích Ca bậc đại tuệ, không tà hạnh.

Tụng kinh dịch vụ, bói quẻ, xem sao, mê tín chúng sanh nên gãy hạnh Thánh.

Bậc xuất gia rút lãi ở nhà Bank, do mỗi dịp Vu Lan, tài khoản cá nhân tăng, giới hạnh giảm.

Cầu an, cầu siêu, phù phép ăn tiền, Phật Thích Ca không dám.

Đây vốn sở hành của Bồ tát lợi danh, tu cùng với dục Phật giáo tan tành.

Tu lìa ác pháp lợi mình, lợi người, ích cho đồng bào, nhân loại.

Chánh ngữ Đạo Phật thuyết Tứ Diệu Đế chân lý.

Ai không sanh, già, bệnh, chết, khổ đau?

Sao không dạy chúng sanh chân lý lẽ mầu?

Tà ngữ tha lực vì cố ý nói sai chân lý.

Tu không làm chủ bệnh, làm chủ ý, giảng sư đọa A tỳ, phật tử muộn phiền, ai bi, bốn chúng bềnh bồng biển sanh tử.

Biết ơn đức Thích Thông Lạc triển khai Tứ Niệm Xứ, lấy Giới làm chèo bơi ngược thác dục, vô thường, giác ngộ các pháp vô thường, lòng đầy yêu thương, Thần lực Như ý túc, Tinh Tấn Như ý túc, Định Như ý túc, Tuệ Như ý túc.

Việt Nam con cháu Lạc Hồng đại phúc, từ đây rõ lối Chơn Như, Tứ Niệm Xứ an cư, Tứ Diệu Đế chân lý vi diệu..Thế giới, nhân lọai sẽ hiểu, nhân cách đạo đức đẹp cho cuộc đời.

Phẩm chất đạo đức bị xói mòn, cạn vơi, Ta bà chìm ngập trong biển khổ. Vu Lan Báo Hiếu không có trong cổ sử Phật giáo.

Âm mưu hành lễ Vu Lan nhằm tôn vinh giai cấp giáo sĩ Bà La Môn, nổi bật ý nghĩa mê tín tha lực thần quyền, mừng xuân Di Lặc hồn nhiên tuyên truyền, tráo trở lịch sử, đi ngược lý nhân quả vận hành trong vũ trụ.

Chân lý Tứ Diệu Đế cứu khổ kiếp người, nhân loại, giúp con người trí tuệ kiên cường, nhìn thẳng chân lý Khổ đế đau thương, nhìn thẳng vô minh là hệ quả của đau khổ.

Không có Phật, thánh, thần, Bồ tát cứu độ, con người dừng tham, sân, si thì hết khổ đau, giác ngộ chân lý Tứ Diệu Đế mới biết ơn Phật lớn lao, người nữ là mẹ ta, người nam là cha ta… hiểu như vậy ta sẽ đền ơn Phật. Hiểu như vậy là chí hiếu.

Diệt Đế - Chánh Tinh Tấn - Tứ Niệm Xứ kỳ diệu, bờ vui, giải thoát những ưu phiền, lực tâm đẩy lui ngàn oan khiên, tẩy sạch Vô minh chuyển phàm ra Thánh.

Thánh tâm vào đời, muôn vẻ đẹp lóng lánh, thuyền đạo đủ tư lương sạch cứu khổ chúng sanh, Phật dạy trí tuệ, biết gieo hạt lành, bởi từ trường nhân quả không có kẽ hở.

Tôn giáo hướng thần không rõ điều đó, ảo tưởng thần linh, dối mị con người, mê tín thần quyền nội tuệ dần vơi, tín đồ, phật tử đảo điên Chánh tín.

Tôn giáo chưa bao giờ có Chánh Định.

Chỉ có nhân bản xây dựng hòa bình, Chánh kiến nhân quả biến đất thành vàng tô đẹp hành tinh.

Vô minh tham ác, Thế giới chiến tranh xâm lược.

Vô minh biến Tôn giáo thành vũ khí, sách lược, đạp đổ nhân bản, nhân quả tơi bời, đô hộ, nô dịch văn hóa con người, trái lại đức Thích Ca tuyên ngôn nhân bản - nhân quả.

Vớ vẩn thánh thần ban cho ta tất cả, ngây thơ thánh tử vì đạo, gieo trái oan, “Một đời một đạo đến ngày chung thân”, nên nhớ giai cấp giáo sĩ Ấn Độ xưa ngồi trên cả vua chúa.

Ấn Độ tôn vinh thần India đó! Bỏ ngoài tai lời dạy của Thái Tử Đạt Ta (Siddhartha).

Kiền Trắc phi qua sông Ni Liên Thuyền đẹp sử xưa, nay chỉ là ký ức nhạt nhòa, quên lãng.

Tôn giáo ngự trị, chia chúng sanh từng mảng, thần tượng giáo sĩ lên ngôi, máu đổ, kỳ thị, cực đoan thê thiết phận người…

Tôn giáo giúp gì cho Chánh kiến nhân lọai???

Việt Nam cuối thế kỷ hai mươi cất tiếng nói, “dậy mà đi” xóa bỏ ngu si,

Tôn giáo hướng thần, tha lực… ta quán tri.

Tứ Diệu Đế căng đầy ước mơ cho tuổi trẻ.

Tôn giáo không ngự trị nên lòng em mạnh mẽ, khai nguồn nhân bản yêu thương, từng hạt lành gieo xuống đất quê hương, nẩy nở trong tim những thiên đường, cực lạc.

Nhân như vậy quả như vậy không khác, Chánh kiến đi qua bão táp cuộc đời, dân tộc sáng long lanh cái phận người, đạo Phật Nguyên thủy vĩnh hằng nhân bản - nhân quả.

Nhận thức đúng đắn về Chánh kiến nhân quả, trái tim nhân bản thêm sức sống kiến tạo lẽ thật, chơn thường, dòng chảy Tri Kiến Giải Thoát đẹp rực rỡ quê hương, môi trường sống không vỡ vụn vì Tôn giáo.

Một vị vua nhân bản, những giá trị đạo đức được đảm bảo.

Doanh nhân, nhân bản doanh nghiệp phồn vinh. Quan nhân bản vì biết thương mình.

Thân, khẩu, ý chánh chân cho ta những tháng năm tươi đẹp.

Vì vậy Tứ Chánh Cần giỏi dọn dẹp, những tỵ hiềm, ích kỷ, nhỏ nhen.

Môi trường khí thở trong lành, vẩn đục do em. Trên đầu em không có ai cai quản.

Vì thế Thái Tử bỏ ngôi, tuyên ngôn bình đẳng.

Tôn giáo thì thần tưởng, tập quyền, điên đảo chân lý, nhân quyền, gieo biết bao khổ đau, cuồng tín.

Không bao giờ có mùa sen báu khi mà Chánh ngữ méo mó, tàn lụn, giới tu sĩ thoải mái gạt lường,

Tế Điên càn bậy, loạn cuồng, ăn thịt ngâm Thiền, ngửa nghiêng chân lý.

Khoác ca sa ăn thịt, Đạo Phật hết Nguyên thủy.

Ba y, một bát làm màu, tạng Giới phô khoe chớ có hành đâu! Gõ mõ vang trời, tụng kinh, lần chuỗi.

Cửa Thiền dục lạc, lợi danh đắm đuối, do nhân như vậy nên quả thảm nàn, làm cho Phật pháp suy tàn.

Tôn giáo khắp hành tinh mê tín thần linh, cực đoan, hung hăng, tàn bạo.

Làm sao chối cãi một thế gian sầu não?

Tôn giáo chưa hề xóa sổ tham, sân, si, một hành tinh nhiều quá tham, sân, si và điệp điệp, trùng trùng Tôn giáo.

Mỗi nguyên tử có chứa gien tham, sân, si nên Thái Tử bỏ ngôi cao tầm đạo, nhân ly tham chứng đắc Đạo vàng.

Nhân tham danh dắt sinh chúng sai đàng biến ông Phật thành Thần. Kinh doanh Tôn giáo.

Như lý Tác Ý là pháp môn tuyệt vời Chánh Đạo, “Dục niệm ác chưa sanh không sanh”, dục niệm ác khởi lên được Chánh tư duy làm cho vỡ tan tành.

Thiền ngăn ác, diệt ác làm giàu Chánh tri kiến. Pháp Như Lý Tác Ý tạo lực ý thức, toàn thiện.

Tu Thiền trở thành Vô tâm sai rồi. Tánh Không, chay, mặn đều dùng…. ý thức tiêu đời.

Sắc tức thị không vớ vẩn Tư duy, cố lấy trứng chọi thành chân lý.

Tam tạng kinh điển Đại Thừa luận tưởng vì lòng còn nhiều dục nên sai chân lý.

Không đức hạnh thì tuệ không có chỗ để sanh. Lấy tuệ tưởng hành Bồ tát hạnh thu tóm lợi danh.

Tài khoản Ngân hàng trói buộc, lòng nhiều ái dục. “Cư Trần Lạc Đạo” ư? – Không, vì chưa sạch dục.

Lầm tưởng vô minh là tuệ, rượu thịt be bét nổi chìm, Tế Điên phỉ ố chính mình. Học đòi thói lố bịch ố hoen Tuệ Sĩ.

Sau khi ta nhập diệt hãy lấy Giới luật, Giáo pháp ta làm Thầy” nhớ kỹ!

Tế Điên nhếch nhác, rẻ rúng oai nghi, khinh thường đức hạnh giới nghì.

Phật giáo Đại thừa bay bổng trên mây, khổ đau nơi hạ giới.

Vô số hằng hà Bồ tát bụi, Cư gia dở khóc, dở cười, Phật giáo suy đồi, tu sĩ lỡ đời, lỡ đạo.

Láo dối, khoe khoang trời sen báu, bụng to Di Lặc, chuỗi tràng lê thê, tháng năm lần chuỗi Bồ đề, ải vô minh thuyền trôi biền biệt.

Lầm mưu ngoại đạo chưa hề biết, nối giáo cho giặc chẳng hề hay, thương ôi Tổ, thầy, lớp lớp thiền sư dở sống, dở chết.

Địa ngục sẵn dành, những ai dìm diệt Phật, giường bệnh rên than, trí não lu mờ.

Sai đường Chánh đạo oan uổng đời tu, lần chuỗi A Di không dứt khổ.

Giới luật Thích Ca năng cứu độ, những phận người lạc lối đau thương.

Tứ Chánh Cần ngăn ác, lòng an khương. Giáo Pháp Phật là vua muôn pháp.

Phật Giáo Đại Thừa Phát Triển sắc, tài, danh, lợi, quyền, tiền như bão táp, dục bộc lưu như thác ầm ầm, duyên chúng sanh nhiều kiếp “Vô tâm”, thích dục lạc, không ưa ly dục.

Chiến thắng dục lòng, kìa tấm gương đức Phật!

Dục lợi danh hỷ tưởng… than ôi! Ly dục, ly ác lòng thảnh thơi!

Đạo Phật Thích Ca dạy người ly dục, không bành trướng Tôn giáo.

Giới cứu khổ loài người, ngăn gió bão, bão dục nơi lòng, bão táp thế gian.

Nhân quả tương ưng, tùy ác, thiện lương. Thông Chánh kiến nhân quả thì Tuệ.

Đạo đức nhân bản khác với Tôn giáo là như thế!

Sông Tuệ trong lành thanh thản trôi, gội rửa lòng ai, tâm ai, giác ngộ vô thường, tỏ lời Phật dạy.

Chơn Như, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh nơi NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY… sẽ trở lại thế gian, loài người hữu duyên, cởi bỏ trên vai chiếc áo Tôn giáo ưu phiền, hân hoan chào đón đức Phật người Việt Nam chấn hưng Phật Giáo.

Đó là đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc…

                                                              8-11-2012

                                                                H.N.H

027-TỪ CHUYỆN ĐẤT TRỜI, KHỞI CÁI NHÌN CHÁNH KIẾN - Từ Đồng

TỪ CHUYỆN ĐẤT TRỜI, KHỞI CÁI NHÌN CHÁNH KIẾN

Tin tức NASA, Thế Giới lan truyền

Mười Hai cuối tháng chuyện mặt trời

Có thể ba ngày không tỏa sáng

Thiên tai lũ lụt biết nơi đâu?

Khoa học Thiên Văn báo như vậy

Chính xác: có, không, khó luận bàn

Đôi điều khuyên bạn đừng lo nghĩ

Nhân quả Vô Thường từng phút giây.

Đừng để Vô Minh che phủ bạn

Tất bật Đông, Tây niệm Di Đà

Mong sớm vãng sanh ao Thất Bảo

Cực Lạc Tây Phương cũng tranh nhau.

Thật đáng thương thay! Đáng thương thay!

Chánh Pháp Thích Ca chẳng chịu tầm

Gieo trồng thiện pháp đâu không thấy

Nghe đến thiên tai lại vái van.

Lắm kẻ thời cơ hái ra tiền

Di Đà thường niệm về Cực Lạc.

Lạc Quốc Di Đà đang chờ đón

Sống chi cho khổ cõi trần gian.

Chúng tôi cảm tác những đoạn thơ trên, tuy biết rằng bản thân mình làm thơ không thông hiểu về luật thơ, vần điệu. Nhưng cũng do một nhân duyên khi được một số Phật tử gởi thư điện tử cũng có, điện thoại cũng có (kể cả nơi quê nhà), cho biết về tin tức của Đài Thiên văn NASA cho biết một sự việc về mặt Trời trong khoảng gần cuối tháng 12 năm nay (2012) có thể sẽ tắt trong vòng ba ngày. Ngoài ra còn có thể sẽ xảy ra những thiên tai như bão, lũ lụt, các cơn lốc xoáy v.v…

Tuy sự việc này cũng được nghe báo và nhiều tin tức lan truyền cách đây cũng không lâu. Nhưng mấy ngày gần đây lại được tiếp tục nhắc đến. Nhưng có một điều mà chúng tôi nghe một Phật tử nói lại qua điện thoại nhất là ở nơi quê nhà. Các bà con Phật tử không hiểu, sinh lo lắng, sợ hãi điều gì mà đua nhau cầu niệm Phật Di Đà để được sớm vãng sanh Cực Lạc Quốc (nghe nói nhất là các vị lớn tuổi).

Cảnh giới Niết Bàn mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thường nhắc đến mà đại đa số Tín đồ đạo Phật còn chưa thông suốt, huống hồ chi là một cảnh giới Cực Lạc Tây Phương???.

Kính thưa quý vị! Lời Phật dạy:

“Không làm các pháp ác,

Nên làm các pháp thiện

Ngăn ác diệt ác pháp

Sinh thiện tăng trưởng thiện”.

Đạo Đức Nhân Bản – Nhân Quả trong giáo lý Phật Giáo mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy: “CON NGƯỜI SANH RA TỪ NHÂN QUẢ, SỐNG TRONG NHÂN QUẢ VÀ RA ĐI LẠI TRỞ VỀ VỚI NHÂN QUẢ”.

Quý vị có tin những lời dạy của Đức Phật như trên đã nói không?

Ở đây chúng tôi muốn nhắc lại lời viết, một lời dạy của Thầy Viện chủ Thích Thông Lạc: “NGHIỆP ĐI TÁI SANH, CHỚ KHÔNG CÓ LINH HỒN ĐI TÁI SANH”.

Còn nữa quý vị ạ! hai chữ “VÔ THƯỜNG” hay “NHÂN QUẢ VÔ THƯỜNG” thì chúng tôi tin chắc chắn rằng hầu hết tất cả tín đồ Phật giáo bất cứ hệ phái, tông phái nào cũng đều học và hiểu. Nhưng khi đã nói đến VÔ THƯỜNG thì nó sẽ thay đổi không ngừng: từng giây, từng phút, từng giờ… Như vậy thì những lời của một số các nhà tiên tri hay các đài Thiên văn khí tượng nổi tiếng trên thế giới họ có dám khẳng định chính xác không? Điều này xin thưa cùng quý vị chắc chắn là không rồi.

Kính thưa quý vị!

Vậy mà chưa chi khi nghe đến là đã cuống cuồng lên, đến nỗi một con người đang còn khoẻ mạnh vậy mà cũng ráng niệm Phật Di Đà cầu xin về cõi Cực lạc Tây Phương sao? Có được không? Chắc chắn là không rồi!

Gieo nhân lành gặp quả lành, gieo nhân ác sẽ gặp quả khổ đau bệnh tật, không ai có thể trốn chạy được.

“Không trên Trời, giữa biển

Không lánh vào động núi

Không chổ nào trên đời

Trốn được quả ác nghiệp.” Kinh Pháp Cú (bài kệ số 127 - Phẩm Ác)

“Không trên Trời, giữa biển

Không lánh vào động núi

Không chổ nào trên đời

Trốn khỏi tay Thần chết.” Kinh Pháp Cú (bài kệ số 128 - Phẩm Ác)

Kính thưa quý vị!

Bản thân cá nhân chúng tôi xin có một lời khuyên chân thành gởi đến những quý vị nào có duyên đọc được, xin hãy sớm thức tỉnh đừng để những kẻ lợi dụng Tôn giáo rao giảng những điểu mê tín…. Hãy có cái nhìn Chánh kiến, niềm tin vững mạnh trên tinh thần ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ.

                                                               Nay kính

                                                               Từ Đồng.

028-ĐÔI LỜI MẠN ĐÀM VỀ NGÃ CHẤP - Ronald Trương

ĐÔI LỜI MẠN ĐÀM VỀ NGÃ CHẤP

Thưa quý vị, theo Pht dy, có 4 th: Dc th, Kiến th, Gii cấm th, Ngã chp th.

Vậy NGÃ CHP TH là gì?

Trước hết, khi chúng ta xưng với nhau là anh em hay ch em, có nghĩa là chúng ta cùng đng cp. Chúng ta ch trao đi cho nhau đ cùng sa sai cho nhau, ngõ hu tinh tn trên đường tìm hiu s tht. Ngã chp th là gì? Khi chúng ta đc sách Pht thì điu đu tiên phi ghi nhn trong thâm tâm rng:

a) Pht dy là dy cho hàng thánh tăng, cho nhng hành gi quyết tâm ri b đi và quyết chí tu hành cho đến chng qu. Ch Pht không khai sinh ra đo Pht đ sư sãi tu lè phè hu lượm tin bá tánh thp phương!

b) Chúng ta mun tìm hiu Pht pháp, thì trước tiên cn phi tìm hiu cho rõ 4 Chân lý T DIU Đ, 8 Chánh đo, 12 nhân duyên, 37 phm tr đo. T đó, nếu ta quyết đnh có ý nim đi tu thì hãy tìm hiu thêm Pht pháp. Nếu không thì ta s nhàm chán và vô ích. Nht là kinh Pht dùng Hán ng quá nhiu, lai căng, cho nên hiu theo nghĩa tng ch thì sai ý Pht rt xa. Hơn na pháp Pht là pháp hành mà ly ch nghĩa ra bàn li càng vô tích s. Th mi bt bóng mà thôi! Phí thi gi. Đng thi ta lm ln là Pht dy mâu thun. Phi đng cho đúng v trí và nhìn cho đúng đi tượng thì s thy Pht và Alahán dy chính xác.

c) Nếu ta đng trên cương v mt công dân, mt chuyên gia, k sư, lut sư, bác sĩ... đ rút t Pht pháp nhng bài hc đo đc hu to cơ hi nhm hoà mình vi mọi người trong sinh hot xã hi loài người thì tht là thú v cho cuộc đi. Bi vì Pháp pht không c chp, không kỳ th, không tranh chp.... Pháp ca Pht dù nhìn khía cnh nào cũng phi ly THIN PHÁP LÀM CĂN BN, nếu là ÁC PHÁP tuyt đi không phi là ca Pht pháp.

THIN PHÁP là không làm kh mình, không làm kh người, không làm kh chúng sanh. Thm chí t đy đa cho mình khổ cũng không phi là Pht pháp, hung gì đng đến người khác, lại còn ăn thịt các loài hữu tình! Có nghĩa là pháp Pht ai hc cũng được và ai s dng đu tt. Nếu đng trên cương v ny, ta nên tìm đc VĂN HOÁ TRUYN THNG PHT GIÁO ca Trưởng Lão Thích Thông Lc. Khi đc toàn b sách ny, chúng ta s hiểu chính xác khái niệm v NHÂN BN-NHÂN QU ca Pht pháp.

Đây là sự chứng nghiệm như thật ca ALAHÁN Thích Thông Lc, khi Ngài chng qu. Trên cương v ny, Ngài quyết tâm dựng lại nn đo đc siêu đng ca đức Pht và Ngài viết thành sách là mun tuyên dương đến nhân loi, dùng đó làm bài hc đo đc, ngõ hu mong chúng ta cùng sng vi nhau trong tình thương yêu nng thm như nước vi sa.

Lch s ghi rõ, khi đc Pht truyn giáo, sau khi Ngài tìm ra được chân lý T DIU Đ, Ngài rao ging đ chng minh rng 4 chân lý ny là chân tht hoàn ho, bng cách Ngài chuyên tâm đào to ra hàng ngàn v Alahán đ làm bng. Ngài truyn ging T DIU Đ cho khán thính gi. Ai tiếp nhn được và tình nguyn theo Ngài tu hc tiến đến chng quả thì phải tự mình sống biệt trú 4 tháng. Sau 4 tháng thấy mình đủ nghị lực theo Phật tu hành, ai mun tiếp tc thì Ngài dạy đ tu hành đến chng qu. Nếu ai chỉ đến tham kho thì Ngài mi h v.

Thời đức Phật, chúng ta thy có lưu li nhiu câu hi, đó là lúc Ngài din ging T DIU Đ cho đi chúng. Cho nên nhng nền tảng đo đc ca Pht vào dân gian là do người ta thy được Pht dy đúng, Pht dy hay, ri người ta đem ra áp dng vào sinh hot xã hi.

Ngày nay, với quy mô và hoàn ho hơn, ngài Alahán Thích Thông Lc viết lên dựng lại toàn b nền tng đo đc hc tuyt vi cho nhân loi, đó là nền đạo đức NHÂN BN-NHÂN QU. Khi chng qu, mi v Alahán tr thành tm gương soi cho nhân loi. Các Ngài luôn sng trong thin pháp là nn đo đc tuyt vi nht thế gian.

Trong Phật sự làm vic t thin, thy Thông Lc ging gii rng: Nhng hành gi đã quyết tâm, quyết chi tu hành tiến đến chng qu, thì hành gi không được tham gia vào làm t thin, đây là ác pháp làm cho tâm hành gi không th nào thanh tnh, bi vì nim khi lên trách nhim. Đng thi, hành gi đó đã không bưông b đi đ vào đo vy, tu hành làm gì cho ung công, ung phí đi tu? Vic t thin đã có xã hi và cư sĩ Pht t gánh vác.

Ngã chp th là gì? Pht dy cho hàng thánh tăng rng: Con người có 5 un: sc, th, tưởng, hành, thc. Khi con người chết đi thì không còn un nào na, tt c t cát bi đu tr v cho cát bi. Nếu còn chút xíu thc nào thì đo Pht không cn xut hin thế gian. Do đó đng coi thân ta là ta, là ca ta, là bn ngã ca ta.

Ngã đây là bn ngã ca ta. Chp th là ghì cht ly, chiếm gi ly làm ca riêng không cho ai đng đến. Vì vy, thánh tăng cn biết tt c đu là vô thường, đu biến đi không ngng, không có cái gì là ta, là ca ta, là bn ngã ca ta, dù là thân ta, cho nên ta hãy buông b hết đi. Buông b cho sch và không còn chp ngã na thì chng qu ALAHÁN.

Đi biu cho pháp ny, kinh sách còn ghi là Ngài La Hu La, người con duy nht ca Pht. Khi Pht dy đến VÔ THƯỜNG, Ngài lin t b xin ăn để chuyên cần thiền quán THÂN, TH, TÂM, PHÁP rồi chng qu Alahán. Cũng vi li dy ny, Alahán Thích Thông Lạc đã dy cho hàng Pht t bài pháp sau, nếu ai tu được thì chng qu Alahán lin: 

“Buông xung đi, hãy buông xung đi,

Ch làm chi có ích gì?

Th ra chng li còn chi na,

Vn pháp vô thường buông xung đi”.

Đng trên cương v người đi, khó ai có th chp nhn bài hc ny, bi vì, nn tng cơ bn đ con người sng thì tt c đu là ca riêng, là ta, là ca ta, là bn ngã ca ta.

Nếu không vì ta thì tri tru, đt dit. Nếu không vì ta thì ta đâu có ham sng làm gì? Nếu không vì ta, vì v con ta, vì gia đình ta, vì dòng h ta thì ta đâu có chp nhn hi sinh đi làm n l cho ai? Nếu không vì ta thì ta hc ra làm quan đ làm gì? Nếu không vì gia đình ta thì di gì ta đi làm nô l cho k có tin, có quyn, không nhng thế còn x thân đi giết mướn cho h ch?

             Vì vy, li dy ny Pht ch dy cho người mun tu hành đến chng qu. Còn nhng tăng ni mun ăn ngon, mc đẹp, ng vùi, có tin bc túi thì xin đng quan tâm đến li dy ny. Khó chu lm đy!

029-CHIA SẺ KINH NGHIỆM TU TẬP THEO CHÁNH PHÁP - Thích Nguyên Tánh

ĐÔI ĐIỀU CHIA SẺ

KINH NGHIỆM TU TẬP CHÁNH PHÁP

“Lần đầu tiên xuất gia

Phật tìm hai vị Thầy

Ngoại đạo thời bấy giờ

Đã đắc bốn thiền tưởng

Từ không vô biên xứ

Đến phi phi tưởng xứ

Còn có tên gọi nữa

Là bốn thiền Vô Sắc

Nhờ nỗ lực tu hành

Một thời gian không lâu

Ngài đã chứng đắc được

Như Thầy mình không khác

Nhưng khi nhập thiền định

Thân tâm thật an lạc

Thế mà xả thiền ra

Tham, sân, si vẫn còn

Hoàng tử thấy rõ rằng

Tu không diệt tam độc

Thì làm sao làm chủ,

Vượt Sinh, Già, Bệnh, Chết

Và chấm dứt tái sinh?”

                          (Thích Nguyên Tánh)

Khi đức Phật còn là Thái Tử con vua Tịnh Phạn đang sống một cuộc đời Đế Vương  như vậy. Nhưng một hôm ra bốn cửa thành Ngài nhận thấy được bốn nỗi khổ của loài người là sinh già bệnh chết. Về hoàng cung Ngài không ăn không ngủ, luôn luôn trăn trở lo âu vì rằng đến một ngày nào đó Ngài cũng như những người mà Ngài đã tận mắt trông thấy ngoài cửa thành không khác. Nghĩa là Ngài vẫn phải chịu già bệnh chết như họ mà thôi; một ngày nào đó thần chết sẽ rước Ngài đi và Ngài sẽ bỏ lại sau lưng tất cả cái mà Ngài hôm nay đang thụ hưởng. Mặc dù vua cha không đồng ý nhưng Ngài đã tìm mọi cách thuyết phục. Cuối cùng vì yêu cầu của Ngài quá cao vua Tịnh Phạn không làm sao đáp ứng được nên nhà vua đành nhượng bộ:

1- Vua cha làm thế nào cho con trẻ mãi không già

2- Vua cha làm sao con sống không có bệnh

3- Vua cha làm sao cho con sống mãi không chết

Thế rồi trong đêm khuya thanh vắng hoàng tử đến bên vợ con nhìn lại lần cuối cùng để giả biệt và hy vọng một ngày nào đó khi tu chứng đạo sẻ về độ vợ con và hoàng tộc. (Sau này khi chứng đạo những bài kinh đức Phật đã để lại nguyên gốc trong kinh trung bộ đó là kinh vương tử, kinh giáo giới La-Hầu-La đã minh chứng điều đó). Rồi Ngài cùng Sa-Nặc lên ngựa thực hành một cuộc xả bỏ vĩ đại nhất trần gian mà từ cổ chí kim chưa có ai giám làm như Ngài, để đạt được nguyện vọng thiết tha nhất luôn cánh cánh bên lòng như đã nói ở trên đó là làm chủ được bốn nỗi khổ trên đời mà không ai dù là con vua cháu chúa như Ngài cũng không thoát được và chấm dứt không còn bị luân hồi chi phối trên cõi đời này nữa.

Chỉ giản đơn có bốn chữ vậy thôi vậy mà con đường để đến đích không giản đơn chút nào. Dù là chuyện khó tin, vì rằng: "Trung ngôn nghịch nhĩ", "Nói thật không nghe, nói dối nghe ầm ầm". Bởi vậy xin mời quý vị kiên nhẫn cùng chúng tôi: "Xem Bụt hãy đi đến chùa"; ''Trăm lần nghe không bằng một lần thấy". Chúng tôi xin chia sẻ cùng quý vị những gì mà có thể nói rằng khi quý vị tìm hiểu, thực hành được rồi thì mọi tài sản trên thế gian này không là cái gì nữa! Đúng như lời của vị hoàng tử đã dạy sau khi tu chứng đạt bốn chân lí:

Phàm có tài sản gì,

Ðời này hay đời sau,

Hay ở tại thiên giới,

Có châu báu thù thắng,

Không gì sánh bằng được,

Với Như Lai Thiện Thệ,

Như vậy, nơi Ðức Phật,

Là châu báu thù diệu,

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.”

                              (Tiểu Bộ Kinh - tập I, Kinh Tiểu Tụng VI. Kinh Châu Báu)

Nếu như quý vị tinh ý một chút quý vị sẽ suy nghĩ rằng người theo đạo Phật trên thế gian này rất đông vậy mà sao chưa nói người tại gia mà các sư cụ vẫn bị khổ đau như thường, họ vẫn bị bệnh, vẫn đi viện, vẫn bị ung thư.

Quý vị hãy cùng chúng tôi kiên trì nhẫn nại để theo lời dạy của bậc Giác Ngộ quý vị mới rõ biết đâu đúng đâu sai, đâu tà, đâu chánh rồi từ đó quý vị tự nhận xét, tự đánh giá. Còn bây giờ khi chưa chứng đạt chân lý nếu chúng tôi nói rằng chỉ đạo này là đúng còn tất cả sai lầm là chúng tôi đã mang tội làm khổ mình khổ người rồi. Vì trên thế gian này biết bao nhiêu là đạo nếu nói đạo này đúng thì lại đụng chạm đạo kia. Đừng nói gì các đạo khác mà ngay trong đạo Phật cũng không biết bao nhiêu tông phái. Nào là Nam Tông, Bắc Tông; nào là Thiền Tông Tịnh Độ Tông; Nào là Mật Tông, Pháp Hoa Tông... Trong khi đó kinh Nikaya dạy: "Pháp của ta không có thời gian đến để mà thấy". Nghĩa là ai không học không tu thì thôi mà ai chịu khó học, chịu khó hành là có giải thoát tức thời; Ví dụ có người hay nghiện rượu nay bị bệnh gan có người đệ tử Phật bảo rượu, thịt gây ung thư gan người này bỏ rượu, thịt thế là bệnh gan được phục hồi. Hoặc có người nọ đến vu oan giá họa gây mất đoàn kết người theo đúng kinh sách Nguyên Thủy nhớ lại bài kệ trong kinh:

"Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi "

Ai ôm hiềm hận ấy,

Hận thù không thể nguôi.

"Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi, "

Không ôm hiềm hận ấy,

Hận thù được tự nguôi.

"Với hận diệt hận thù,

Ðời này không có được.

Không hận diệt hận thù,

Là định luật ngàn thu ".

                      (Tiểu Bộ Kinh tập I, Kinh Pháp Cú, Phẩm Song Yếu)

Khi dùng Chánh Tư Duy trong Bát Chánh Đạo tư duy bài kệ trên như vậy là chúng ta đã vơi đi được rất nhiều cơn sân đang bùng cháy. Sau đó ta quán về nhân quả ba đời lại càng đem đến an lạc cho ta hơn nữa. Vậy quán như thế nào? Quán rằng mọi người trên thế gian này kể cả cha mẹ anh em, con cái thân bằng quyến thuộc, kể cả động vật xung quanh ta đều là có duyên nhân quả nhiều đời nhiều kiếp với nhau , đã từng nợ nần nhau; kiếp này tái sanh trở lại trên thế gian này để mà trả, trả, vay, vay; nếu thuận duyên thì giúp đỡ lẫn nhau, nghịch duyên thì chống trái cãi cọ, thậm chí chém giết nhau; vì vậy ta hãy tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng để thanh toán cho xong món nợ này.

Đó có phải là: "Pháp ta không có thời gian, đến để mà thấy” phải không quý vị? Như đã nói ở trên hiện nay trên thế gian quá nhiều tôn giáo chẳng biết đâu chánh đâu tà vậy xin mời quý vị hãy nghe vị tiến sỹ Phật học lừng danh thế giới là người đầu tiên được cấp bằng tiến sỹ về luận án dịch từ kinh điển Pali sang tiếng mẹ đẻ Việt Nam mà ai đọc là hiểu được một cách cụ thể rõ ràng chứ không có tính siêu hình, mơ hồ trừu  tượng như kinh sách của các học giả mà chắc quý vị đã từng đọc, đã từng tham khảo. Đó chính là Hòa Thượng Minh Châu cùng quê với Chủ Tịch Hồ Chí Minh:

"Chúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, từ mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mìnhchứng nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình tìm hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì Ðạo Phật là Ðạo đến để mà thấy chớ không phải Ðạo đến để nhờ người thấy hộ, Ðạo của người có mắt, không phải Ðạo của người nhắm mắt; Ðạo của người thấy, của người biết, không phải là Ðạo của người không thấy, không biết. Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm. Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật, và vì trách nhiệm ấy chúng tôi đã cố gắng phiên dịch Kinh Tạng Pàli ra Việt ngữ. Chúng ta chỉ cần đọc, cần suy tư chính chắn và rồi chính chúng ta tự ý thức đâu là những lời dạy trung thực của đức Bổn sư chúng ta.” (trích Lời Giới Thiệu Trung Bộ Kinh - Bản In lần Thứ Nhất Năm 1973, Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch Việt từ tiếng Pali)

Ở đây tác giả không muốn động đến rừng kinh sách của các học giả nên Ngài chỉ gợi ý cho người đọc rằng Ngài là người đã từng phiên dịch nhiều kinh điển của Phật do các học giả biên soạn ra nên Ngài rõ biết kinh nào là "Thật sự Nguyên Thủy", "Những Lời Phật dạy thực sự là của đức Phật" có nghĩa Ngài muốn nhắc độc giả rằng đó mới là kinh gốc của Phật. Hòa Thượng muốn nhấn mạnh bốn chữ: "Thật Sự Nguyên Thủy", "Thực sự là của Phật" chính là Ngài đã gửi gắm đến người đọc hãy tìm kinh thật mà đọc đừng đọc kinh ngụy tạo tốn công vô ích lại còn cho đó là của Phật thuyết thì có phải phỉ báng Phật?. Chắc quý đọc giả đã rõ lời dạy của Hòa Thượng rồi. Bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa.

Chúng tôi là những hành giả chứ không phải là một học giả hay một giảng sư, một nhà lí luận hay một nhà phê bình kinh sách nào đúng kinh sách nào sai mà chúng tôi muốn nói lên bộ kinh gốc như tác giả đã giới thiệu khi dịch bộ kinh này ngõ hầu hướng đến cho quý vị bất luận là đệ tử Phật hay không phải đệ tử Phật, miễn là ai muốn tìm hiểu đạo Phật chân chánh không còn bị lầm lạc như một thời chúng tôi đã bị lạc vào bát quái trận đồ, vào mê hồn trận suýt nữa bỏ mạng . Sau đó nhờ tu tập theo Chánh Pháp Nguyên Thủy dựa trên 37 Phẩm trợ đạo, sử dụng pháp Như Lý Tác Ý… thì chỉ trong vòng hai mươi ngày cả ổ bệnh trong mình có cả ung thư cổ mà vẫn được đẩy lùi.

Vì lợi ích vô cùng to lớn không thể nghĩ bàn như vậy nên chúng tôi muốn trao đổi những kinh nghiệm của mình, chia vui cùng quý vị mà thôi vì rằng ai ai trên đời này cũng đều không thoát khỏi sanh già bệnh chết mà đức Phật đã khổ công đi tìm kiếm mới chứng được đạo, từ đó chúng ta mới được thừa hưởng tài sản vô giá mà Ngài để lại cho nhân loại; nhưng tiếc thay không ít Tổ Sư để lại kinh mê tín dị đoan của đạo Khổng và đạo Lão làm hao phí bao nhiêu của tiền của nhân loại mà rốt cuộc chỉ được đau khổ mà thôi. Chúng ta cần dựa trên Bát Chánh Đạo để biết đâu là pháp của Phật đâu là pháp biến tướng theo đạo Khổng, đạo Lão Trung Hoa từ đó dẹp bỏ mê tín dị đoan làm tốn kém tiền bạc của nhân dân vô ích và đặc biệt nguy hiểm hơn cả là làm cho thế hệ trẻ mất hết tự lực bản thân, chuyên tìm cầu tha lực ở Bề Trên, tin vào thuyết định mệnh đã được truyền sang Việt Nam trong 1000 năm Bắc thuộc mà không tin vào đạo đức nhân bản, nhân quả để chuyển ác thành thiện; sa vào đường ác giết cha, giết mẹ, cướp của hại người cũng chỉ vì không thực hành năm điều lành của đạo Phật. Đức Phật dạy trong Trường Bộ Kinh tập I, Kinh Sa Môn Quả:“Này các Hiền giả, những Tôn giả này làm những điều ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này.”. Xin quý vị suy ngẫm và thực hành là thoát khỏi hai cửa ngục Bệnh Viện - Nhà Tù mà không hề mất một xu nào hết.

Chúng tôi thực sự tha thiết mong mỏi nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân loại toàn cầu nói chung đặc biệt là những người chưa gặp được chánh pháp sẽ tìm được chánh Pháp. Vì dù rằng chưa chứng được Tứ Thánh Định và Tam Minh nhưng chúng tôi cũng đã giải quyết được ba nỗi khổ đó là đã làm chủ được SINH GIÀ BỆNH (tuổi cao nhưng tâm trí minh mẫn, cơ thể quắc thước, có bệnh thì tác ý đuổi đi), cũng là những người rất hạnh phúc trên thế gian này rồi vì bệnh tật đã chấm dứt, khi có bệnh dùng pháp Phật đẩy lùi chứ không phải đi viện, không dùng thuốc nữa. Đúng như lời Phật dạy:

“Vui thay, chúng ta sống

Không bệnh, giữa ốm đau!

Giữa những người bệnh hoạn

Ta sống, không ốm đau!”

                           (Tiểu Bộ Kinh tập I, Kinh Pháp Cú, Phẩm An Lạc)

Nếu không gặp được Chánh Phật Pháp rồi hành theo thì chúng tôi đã chết cách đây 11 năm rồi. Là đệ tử Phật chúng tôi không nỡ lòng nào ngồi nhìn nỗi đau của đồng loại đang sống trong cảnh ốm đau bệnh tật, vì vậy còn sống được ngày nào trên thế gian này chúng tôi đều áp dụng pháp Tứ Chánh Cần của đức Phật luôn luôn Ngăn Ác Diệt Ác Pháp và Sanh Thiện Tăng Trưởng Thiện Pháp để không để thời gian qua đi một cách vô ích; chúng tôi luôn tìm mọi cách để ai có duyên là sẵn sàng giúp đỡ họ vì rằng họ chưa được gặp Chánh Pháp như chúng tôi nên bệnh viện càng ngày càng chật ních:

"Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp."

                            (Tiểu Bộ Kinh tập I, Kinh Pháp Cú, Phẩm Ác)

Phương pháp nữa là quán xét nhân quả ba đời, tức là mọi quan hệ trên đời này kể cả loài người loài vật cũng như thảo mộc đều quan hệ mật thiết với nhau nếu ai có tâm từ bi thương yêu muôn loài chúng sinh và cây cối vạn vật là người ấy chẳng cần tu gì nữa. Nếu chưa có được lòng thương yêu phủ trùm vạn hữu như vậy thì hãy quán xét về nhân quả mà đã là nhân quả thì có hai duyên thuận và nghịch; trường hợp có nghịch duyên, muốn chuyển duyên nghịch thành thuận thì phải áp dụng ba đức đó là TÙY THUẬN, NHẪN NHỤC, BẰNG LÒNG là mọi việc hoàn toàn tốt đẹp. Rồi chúng ta tìm lời ái ngữ khuyên giải miễn làm sao cho đối tượng vui lòng tức là đã chuyển hóa được nhân ác thành nhân thiện. Đó mới là đạo giải thoát chứ.

Nếu chúng ta phạm giới phá giới, tu mà tâm tham chưa xả, còn lợi dụng đạo Phật để làm nghề kinh doanh lấy tiền bất chánh thì bắt buộc luật nhân quả phải thi hành bản án mà từ Thân, Khẩu và Ý của mình tạo ra mà thôi chứ chẳng có số phận định mạng nào can thiệp vào đây cả. Có thờ một mẹ Quán Âm chứ đến trăm ngàn mẹ thì luật nhân quả cũng không tha thứ. Như vậy Đạo Phật mới được gọi là đạo của loài người, mới được gọi là đạo bình đẳng nếu không thì loài người toàn là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối , uống rượu hết cả mà không có quy luật này xử phạt bằng cách làm cho họ phải chịu bốn nỗi khổ trên thì còn ai tu thiện làm gì cho khổ. Chính nhờ quy luật này mà làm cho người ác mới sáng mắt ra. Nếu không vậy thì thế gian này là thế giới hỗn loạn ai còn sống được nữa?

Nhất là trong khi Liên Hiệp Quốc đang kêu gọi nhân loại hãy ăn chay, sống xanh, cứu địa cầu; ai ăn thuần chay là anh hùng cứu tinh cầu. Chúng ta nên thấy rõ lợi ích thiết thực của việc ăn trường chay, thực hiện điều đó là tấm gương cho bao nhiêu người noi theo. Nói về cách thọ dụng thực phẩm đối với tu sĩ, cư sĩ cũng như vấn đề Phật tử cúng dường thực phẩm đúng chánh pháp, thì đức Phật đã dạy trong Trường Bộ Kinh, bài kinh Jivaka:

“Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân. Khi người ấy nói như sau: "Hãy đi và dắt con thú này đến", đó là nguyên nhân thứ nhứt, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Con thú ấy, khi bị dắt đi, vì bị kéo lôi nơi cổ, nên cảm thọ khổ ưu, đó là nguyên nhân thứ hai, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy nói: "Hãy đi và giết con thú này", đó là nguyên nhân thứ ba, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ khổ ưu, đây là nguyên nhân thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử Như Lai một cách phi pháp, đó là nguyên nhân thứ năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân này.”

Do vậy, dựa trên đạo đức về ăn uống theo tinh thần từ bi biến mãn khắp chúng sanh của nhà Phật, chúng ta chỉ nên thọ dụng thực phẩm khi không thấy thịt chúng sanh trong khẩu phần ăn của mình, không nghe mùi tanh mùi hôi đặc trưng của thịt chúng trong sanh khẩu phần ăn của mình, và bản thân cũng không còn nghi ngờ rằng có thịt chúng sanh trong khẩu phần ăn của mình!

Chính vì lẽ đó nên chúng tôi xin cố gắng viết lên những dòng này để cho ai hữu duyên được đọc ngõ hầu cứu giúp được người nào tìm về chánh pháp của đức Thế Tôn là quý lắm vậy:

“Cho ăn là cho lực,

Cho mặc là cho sắc,

Cho xe là cho lạc,

Cho đèn là cho mắt.

Ai cho chỗ trú xứ,

Vị ấy cho tất cả,

Ai giảng dạy Chánh pháp,

Vị ấy cho bất tử.”

(Tương Ưng Bộ Kinh, tập I: Thiên Có Kệ - chương I, phần 1. Tương Ưng Chư Thiên, Phẩm Thiêu Cháy, bài  kệ “Cho Gì?”).

Kính chúc pháp hữu thân tâm thường thanh thản, an lạc!

                                        Kính ghi! Thích Nguyên Tánh, T.p Hà Tĩnh.

030-PHẬT GIÁO CÒN HAY MẤT? - Phi Mạnh

Lời BBT/GNCN,
          Thưa quý vị độc giả, sự nghiệp hộ trì và xiển dương Chánh Pháp của đức Phật Thích-ca vô cùng khó khăn gian khổ. Hơn hai mươi thế kỷ qua, giáo pháp của đức Thế Tôn bị vùi lấp bởi các thế lực ngoại đạo ra sức xuyên tạc, thêm bớt để lừa đảo tín đồ nhằm mưu cầu thỏa mãn dục lợi. Vì vậy, ngày nay Phật giáo tuy vẫn còn "Danh Phật Giáo", nhưng nội dung căn bản giáo lý Phật thì không còn nữa.
          Do niềm tin quá sâu dày vào rừng kinh điển đã truyền tải mấy ngàn năm, người Phật tử không dễ buông bỏ được. Trái lại, khi giáo lý Chân Chánh được đức Trưởng Lão gây dựng lại đã gặp phải những thế lực ngoại đạo phỉ báng, chống đối kịch liệt.
          Tuy vậy, với sự kiên trì điềm tĩnh và chung sức nhiệt tình của những người con chân chánh của Phật, chúng ta tin rằng nhất định PHẬT GIÁO, NỀN ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI sẽ được tưới tẩm ngày càng nẩy lộc xanh tươi.
          Chúng ta hãy cùng chung tay HỘ TRÌ và XIỂN DƯƠNG CHÁNH PHÁP do Trưởng lão Thích Thông Lạc gây dựng lại... 
         Nay chúng tôi giới thiệu bài viết của tác giả Phi Mạnh (nguồn www.trunghocduytan.com) là xuất phát từ những ước nguyện lớn lao: PHẬT GIÁO CHÂN CHÁNH ĐẾN VỚI MỌI NGƯỜI.
          Rất mong quý độc giả cùng chung tay góp sức HỘ TRÌ, BẢO VỆ CHÁNH PHÁP. 


PHẬT GIÁO CÒN HAY MẤT?

Dựa vào đâu chúng ta có thể xác định Phật giáo còn hay mất?

Trước khi đức Phật nhập diệt, Ngài đã để lại di ngôn cho chúng ta rồi: “Các con hãy lấy Giới Luật của ta làm Thầy, làm chổ nương tựa; Giới luật còn là Phật giáo còn, Giới luật mất thì Phật giáo mất”. Nghĩa là ở đâu có người giữ gìn Giới luật thì ở đó có Phật giáo, ở đâu không có người giữ gìn Giới luật, ở đó không có Phật giáo.

Chỉ cần một lời di chúc này đã đủ để cho chúng ta biết:

1- Phật giáo còn hay mất.

2- Đâu là chánh đạo, đâu là tà đạo. Ở đâu có giới luật, ở đó có chánh đạo; ở đâu có không giữ gìn giới luật, ở đó có tà đạo. Dù là môn phái pháp môn nào Tịnh Độ, Mật Tông, Thiền Tông, Thiền Đông Độ, Tiểu Thừa, Đại Thừa, Nguyên Thủy, v.v… ở đâu giữ gìn giới luật, ở đó Phật Giáo còn.

3- Xác định ở đâu là thời chánh pháp, ở đâu là thời mạt pháp.

4- Đâu là pháp của Phật, đâu là tà pháp. Người không giữ gìn giới luật thì những lời dạy, sách viết đều là do tưởng tri mà ra, tưởng tri có được là do tu tập không giữ gìn giới luật, bị rơi vào tưởng định, phát sinh tưởng tuệ, tưởng mình là thông suốt kinh điển lời Phật, tưởng mình đã chứng đạo nên viết sách dạy người khác, tự xưng là Phật, là Phật tổ, là Tổ sư, là giáo chủ rồi lập ra giáo phái môn phái mới, v.v… dạy những điều mê tín dị đoan, nói những điều tiên tri về Phật quá khứ, tương lai, nói về thế giới siêu hình tưởng có thế giới này thế giới nọ sau khi chết, biến Phật giáo thành chia năm xẻ bảy, v.v…

5- Giúp đã thông và giải quyết những tư tưởng của người thời đại luôn đặt nặng vấn đề phân biệt môn phái: Đại Thừa, Tiểu Thừa, Mật Tông, Tịnh Độ, Thiền Tông, Thiền Đông Độ, Nguyên Thủy,v.v… Ở đâu có giới luật ở đó có Phật giáo, ở đâu không có giới luật thì dù cho tên tuổi gì, nhãn mác gì, quần áo màu gì, đầu có cạo trọc hay không, thuộc môn phái Phật nào cũng không phải là Phật giáo.

Chính sau khi đức Phật chứng đạo, Ngài đã quỳ xuống đảnh lễ Giới Luật, Chính nhờ giới luật mà Ngài đã tu chứng đạo. Bởi vậy Giới Luật là Thầy của chúng ta.

Chúng ta đã bỏ qua và quá xem thường giới luật, xem giới luật giống như những điều cấm kỵ hay pháp luật, nhưng thực chất ra chính giới luật là những đức hạnh đạo đức cao quý tuyệt vời giúp cho con người sống biết thương yêu nhau.

Nếu chỉ có giới luật làm thầy thì:

- Làm gì trong chùa có Thần Thánh, ông Phật này, bà thánh nọ để mọi người vào cúng bái, cầu khẩn biến Phật giáo thành một tôn giáo đa thần.

- Trong chùa không có ông thần thánh nào mà chỉ có những lời dạy đạo đức thì đâu cần đốt nhang, xem săm, bói quẻ, coi ngày lành tháng tốt, cúng sao giải hạn,…

- Đâu cần xây chùa to làm gì, vì xây để cho ai nếu không còn ông thần thánh hay bà chúa nào trong đó. Có cần hội họp, giảng dạy hay thuyết pháp gì thì ngồi ngoài sân cũng được, ngồi ngoài sân càng mát chứ sao.

- Trong chùa chỉ cần xây những ngôi nhà nhỏ như các thất để người đệ tử Phật giáo vào đó sống đời sống độc cư đức hạnh buông xả, ly dục ly ác pháp cho sạch.

- Đâu cần hao tài tốn của của đàn na thí chủ cúng dường xây chùa cao cửa rộng, xây tượng, đúc chuông, hồ ao, danh lam thắng cảnh…

- Ngày nay đâu có rừng kinh sách về Phật giáo, chỉ cần có giữ gìn 10 giới sa di, hành thập thiện, ngũ giới thôi cũng đủ rồi.

- Ngày nay trong chùa đâu có thần thánh hóa tôn thờ các vị Phật, Phật A di Đà, Phật tổ sư, Phật tương lai Di Lạc. Bởi vì dù ai đi chăng nữa cũng phải sống đúng giới luật. Giới luật là tiêu chuẩn xác định thực tế người tu theo đạo Phật, còn có ông Phật nào đó xuất hiện cũng đâu giúp cho con người tu thoát khổ được, làm sao những ông Phật đó giúp cho con người chứng đạo được, chỉ phải mỗi người tự mình đốt đuốc lên mà đi.

- Chúng ta không bị lừa bởi các ông Phật ra đời, vì mấy ổng biết không giúp cho con người chứng đạo được cho nên đệ tử của mấy ổng sáng chế ra có thế giới sau khi chết, nếu tu đời này chưa chứng đạo thì sau khi chết sẽ tiếp tục vào thế giới của những ông Phật đó tu tiếp. Bị lừa kiểu này vậy mà vẫn để bị lừa. Đúng là đủ mọi mánh khóe.

- Đâu cần tụng kinh gõ mõ, ngồi thiền, niệm thần chú, luyện công án, tranh luận hơn thua, v.v… chỉ cần sống độc cư, ngồi chơi tự nhiên như người bình thường xả tâm, buông xả mọi tâm niệm dục và ác pháp là đủ rồi.

- Con người không còn tin vào thế giới siêu hình vì mỗi người đã sống có đạo đức đức hạnh rồi thì họ quan tâm đến thế giới siêu hình có hay không để làm gì, cuộc sống của họ đã hạnh phúc ngay tại thế gian này rồi, đây là thiên đàng rồi thì mơ tưởng đến thế giới vô hình để làm gì. Chỉ những người sống không có giới luật đức hạnh mới tin vào thế giới siêu hình, sống trong sợ hãi, mê muội và đầy mê tín, do vậy mới bị người khác lường gạt cần cầu an, cầu siêu cho người chết. Nếu khi còn sống giữ gìn giới luật đức hạnh thì khi chết cần gì cầu an, cầu siêu.

- v.v…

Tóm lại, chỉ cần một lời di chúc của đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đủ giải quyết mọi thắc mắc của con người thời đại ngày nay về Phật Giáo. Đã là đệ tử theo Phật giáo chúng ta nên chú trọng về việc sống đời sống đức hạnh, vì chỉ có đời sống đức hạnh mới đem lại niềm vui và hạnh phúc cho chính mình, mọi người và muôn loài vạn vật khác.

031-GIỚI THIỆU KINH THIỆN SINH (Trung A Hàm) - Tỳ kheo Thích Nguyên Tánh

Kính thưa quý độc giả kính mến!

Tỷ kheo Thích Nguyên Tánh, tác giả gửi lên mạng bài viết "Đôi Điều Chia Sẻ Kinh Nghiệm Tu Tập Chánh Pháp" ngõ hầu cho những ai chưa tìm về những lời dạy xuất pháp từ kim ngôn của đức Như Lai thuyết giảng nhằm cứu giúp nhân loại thoát ra tám nỗi khổ mà không phân biệt đẳng cấp, tôn giáo, già, trẻ, lớn, bé, người giàu sang tột đỉnh, kẻ nghèo cùng mạt rệp… Không ai không phải chịu tám nỗi khổ trên cõi đời này là:

Sinh ra là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, yêu nhau mà xa nhau là khổ, tham muốn mà cầu không được là khổ, kẻ oán gặp lại nhau là khổ, thân tứ đại thay đổi là khổ mà đức Phật sau khi ra bốn cửa thành chứng kiến được như thật rồi Ngài mới từ bỏ vợ con ngôi báu để tìm đường thoát khổ. Nhờ nỗ lực tu hành mới chứng được đạo Vô Thượng Bồ Đề cũng có nghĩa là Ngài đã làm chủ được bốn nỗi khổ trên đời là sinh, già, bệnh, chết như thật; muốn sống là sống, muốn chết là chết, không còn bệnh tật, đau ốm như người đời, nhờ vậy mà hôm nay chúng ta mới được thừa hưởng gia tài vô giá mà Ngài đã để lại cho nhân loại. (Bài kinh Thánh Cầu và Kinh Đại Bát Niết Bàn đã minh chứng điều đó).

Thế mà tiếc thay bốn chân lý này bị các chư vị Tổ Sư phỉ báng, lồng vào đó là triết lý Bát Nhã Ba La Mật của Tổ Long Thọ ra đời sau đức Phật 600 năm mà không ai là đệ tử Phật mà không học thuộc lòng rồi ngày đêm tụng đọc hết trên chùa cho đến tại nhà, làm tốn hao năng lượng, bệnh tật gia tăng… Nội dung thế nào? Người thực hành có hết được tham, sân, si, ngã mạn, nghi ngờ chưa? Còn bệnh tật, tai nạn, đau ốm nữa không, gia đình đã an ổn chưa, còn bạo lực gia đình không?... Chắc ai thực hành người ấy rõ biết xin miễn nêu ra.

Còn chúng tôi sau khi được gặp minh sư chứng đạo như Phật được Ngài chỉ dạy phương pháp thực hành cả ổ bệnh trong người, đặc biệt là ung thư vòm họng sau hai mươi ngày nhập thất tu học, bệnh được chấm dứt nhờ kinh nghiệm này chúng tôi mới đem lên mạng để sẻ chia cùng độc giả. Chúng tôi chẳng dám nói dối bao giờ, tuy chưa chứng đạo nhưng cũng đã làm chủ ba nỗi khổ lớn là sinh, già, bệnh, như thế cũng đã hạnh phúc lắm rồi mong gì hơn nữa. Dẫu sao chúng tôi đại diện ba ngôi Tam Bảo lẽ nào nói dối mang tội vọng ngôn, tội này nếu không chúng tôi chịu thì ai vào chịu thay cho?

Vả lại việc làm của chúng tôi cả xóm, cả làng và những đệ tử đi theo chánh pháp ai ai cũng biết, nói dối sao được. Như quý vị biết đức Phật chỉ dạy tu là xả bỏ tâm tham danh lợi, tiền bạc của cải, ăn uống ngủ nghỉ thì còn tham nỗi gì phải không quý vị?

Thế rồi chúng tôi thầm cảm ơn tới những người bớt chút thời giờ vàng ngọc viết dòng sẻ chia, cảm ơn việc gửi lên trang mạng thật quý hóa thay. Nhưng cũng có người phỉ báng chỉ trích cho rằng chúng tôi tu chẳng được gì mà thích khoe khoang. Là người học Phật đại diện ba ngôi Phật, Pháp, Tăng, tam bảo chúng tôi rõ hiểu nhân quả Phật dạy nên xả ngay liền chẳng dám trách móc, dầu rằng mới nghe cũng hơi khó chịu nhưng nhờ tác ý là đuổi được ngay. Tôi tác ý rằng: vì những người này trong kiếp quá khứ chúng tôi chê họ nên kiếp hiện tại họ chê chúng tôi có gì lạ đâu mà sanh tâm buồn phiền làm khổ mình người thật là đắc tội với đức Thế Tôn, thân này chẳng thật có huống hồ chê khen có nghĩa lý gì.

Cũng như tác giả Duy Tuệ phỉ báng đức Phật là điều tất nhiên vì kiếp quá khứ tác giả theo đạo Ba La Môn mà không theo Phật, nhân nào quả nấy (khi chứng Tam Minh Phật đã chỉ rõ quy luật nhân quả) cho nên kiếp này bệnh nào tật nấy do nghiệp sâu dày ông đã tạo ra (xin miễn luận bàn nên để thời giờ nhắc tâm bất động, thanh thản, an lạc, luôn luôn vô sự chính là Niết Bàn đức Phật dạy ta có phải hơn không thời gian là vàng không tu sẽ muộn vì đức Phật dạy: "thân người khó được, Chánh Pháp khó gặp, chê khen ích gì.”)

Tuy vậy chúng tôi viết những dòng này là nhằm mục đích để mọi người khỏi phỉ báng những lời vô giá của đức Thế Tôn. Để nhân loại hành tinh mất đường cứu khổ mà mang tội lỗi muôn kiếp muôn đời không được làm người nói gì gặp Phật để tu giải thoát khỏi kiếp luân hồi. Tất cả cũng vì Chánh Pháp mất gốc, tà đạo bành trướng nên con giết cha, mẹ, vợ chồng giết nhau, trộm cắp, tà dâm, nghiện ngập rượu chè không đâu không có. Cũng vì Chánh Pháp đức Phật mất đi mới nên nông nỗi, lẽ nào chúng ta lại dám phỉ báng để cho nhân loại khổ đến bao giờ phải không quý vị?.

Thế mà tác giả Duy Tuệ sanh tâm nghi ngờ dám phỉ báng Phật để không ai dám theo Phật tu hành thật là đắc tội. Tỷ kheo Nguyên Tánh được Phật cứu sống đã 11 năm nếu không hôm nay chẳng còn ngồi đây để viết đôi dòng luận bàn Chánh Pháp. Công ơn đức Phật, đức Thầy Thông Lạc tu chứng như Phật đối với Nguyên Tánh trời cao khó sánh, Nguyên Tánh phát nguyện để trả ơn này còn sống ngày nào, quyết tu ngày ấy, những ai có duyên sẵn sàng giúp đỡ như đức Phật dạy: “Cho ăn là cho lực/ Cho mặc là cho sắc/ Cho xe là cho lạc/ Cho đèn là cho mắt/ Những ai cho trụ xứ/ Người ấy cho tất cả/ Ai giảng dạy Chánh Pháp/ Vị ấy cho bất tử."

Sau đây Nguyên Tánh xin trích lời dạy trong Đại Tạng Kinh ngõ hầu minh oan cho đức Thế Tôn để cho ai đọc và ai thực hành là hạnh phúc ngay không còn sa vào mê tín, dị đoan để làm tốn kém tiền của, công sức rốt cuộc chỉ có tiền mất tật mang chẳng ích lợi gì cho một ai hết:

Nội dung kinh

Tôi nghe như vầy.

Một thời Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt-kỳ cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.

Bấy giờ, vào lúc thích hợp, Ðức Thế Tôn khoác y cầm bát vào thành khất thực. Lúc bấy giờ tại thành La-duyệt-kỳ có con trai của trưởng giả tên là Thiện Sinh, vào buổi sang sớm, ra khỏi thành, đi đến khu vườn công cộng sau khi vừa tắm gội xong, cả mình còn ướt, hướng đến các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới mà lạy khắp cả. Ðức Thế Tôn thấy Thiện Sinh, con trai nhà trưởng giả, sau khi đi đến khu vườn công cộng, vừa tắm xong, cả thân mình còn ướt sủng, bèn đến gần và hỏi:

“Vì sao, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành, đi đến khu vườn công cộng, với cả người còn ướt đẫm, mà ngươi lại lạy các phương như thế?”.”

Thiện Sinh bạch Phật:

Khi cha tôi sắp chết có dặn, “Nếu con muốn lạy, trước hết hãy lạy các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên và Dưới”. Tôi vâng lời cha dạy không dám chống trái, nên sau khi tắm gội xong, chắp tay hướng mặt về phương Đông mà lễ phương Đông trước rồi tiếp lễ khắp các phương Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới”.”

Phật bảo Thiện Sinh:

“Này con trai trưởng giả! Quả có cái tên các phương đó chứ không phải không. Nhưng trong pháp của bậc Hiền thánh của ta chẳng phải lễ sáu phương như thế là cung kính đâu”.”

Thiện Sinh thưa:

“Cúi xin Ðức Thế Tôn thương dạy cho con cách lễ sáu phương theo pháp của Hiền thánh”.”

Phật bảo con trai trưởng giả:

“Hãy lắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ, Ta sẽ nói cho ngươi nghe”.”

Thiện Sinh đáp:

“Thưa vâng. Con rất muốn nghe”.”

Phật bảo Thiện Sinh:

“Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản.

Như thế, này Thiện Sinh nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương; thì đời này tốt đẹp và cả đời sau cũng được quả báo tốt đẹp; đời này có căn cơ và đời sau có căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả bậc nhất, sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện.

Này Thiện Sinh, nên biết, hành bốn kết là: Sát sinh, trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ.

“Thế nào là bốn trường hợp? Ác? Đó là: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Ai làm những việc ác theo bốn trường hợp đó sẽ bị hao tổn. Nói như vậy xong, Phật lại nói bài tụng:

Ai làm theo bốn pháp,

Tham, sân, sợ hãi, si,

Thì danh dự mất dần,

Như trăng về cuối tháng.

Này Thiện Sinh, người nào không làm ác theo bốn trường hợp thì sự ích lợi ngày càng tăng thêm:

Người nào không làm ác,

Do tham, hận, sợ, si,

Thì danh dự càng thêm,

Như trăng hướng về rằm.

Này Thiện Sinh, sáu nghiệp tổn tài là: 1. Đam mê rượu chè; 2. Cờ bạc; 3. Phóng đãng; 4. Đam mê kỹ nhạc; 5. Kết bạn người ác; 6. Biếng lười.

Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả biết rõ bốn kết hành, không làm ác theo bốn trường hợp, lại biết sáu nghiệp tổn tài, ấy là, này Thiện Sinh, tránh được bốn trường hợp là cúng dường sáu phương, thì đời này tốt đẹp, đời sau tốt đẹp; đời này căn cơ và đời sau căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả báo bậc nhất; sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện.

Lại nữa, này Thiện Sinh, nên biết, uống rượu có sáu điều lỗi: 1. Hao tài; 2. Sanh bệnh; 3. Đấu tranh; 4. Tiếng xấu đồn khắp; 5. Bộc phát nóng giận; 6. Tuệ giảm dần.

Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả ấy uống rượu không thôi thì nghiệp gia sản ngày mỗi tiêu tán.

Này Thiện Sinh, cờ bạc có sáu điều tai hại: 1. Tài sản ngày một hao hụt; 2. Thắng thì gây thù oán; 3. Bị kẻ trí chê; 4. Mọi người không kính nể tin cậy; 5. Bị xa lánh; và sáu, sanh tâm trộm cắp.

Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả mê đánh bạc mãi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.

Này Thiện Sinh, phóng đãng có sáu lỗi: 1. Không tự phòng hộ mình; 2. Không phòng hộ được tài sản và hàng hóa; 3. Không phòng hộ được con cháu; 4. Thường hay bị sợ hãi; 5. Bị những điều khốn khổ ràng buộc xác than; 6. Ưa sinh điều dối trá.

Đó là sáu điều lỗi. Nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả phóng đãng mãi không thôi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.

Này Thiện Sinh, say mê kỹ nhạc có sáu lỗi: 1. Tìm đến chỗ ca hát; 2. Tìm đến chỗ múa nhảy; 3. Tìm đến chỗ đàn địch; 4. Tìm đến chỗ tấu linh tay; 5. Tìm đến chỗ có âm thanh vi diệu; 6. Tìm đến chỗ đánh trống.

Đó là sáu tai hại của kỹ nhạc. Nếu trưởng giả hoặc con trai trưởng giả say mê kỷ nhạc mãi không thôi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.

Này Thiện Sinh, giao du với bạn xấu có sáu lỗi: 1. Tìm cách lừa dối; 2. Ưa chỗ thầm kín; 3. Dụ dỗ nhà người khác; 4. Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người khác; 5. Xoay tài lợi về mình; 6. Ưa phanh phui lỗi người.

“Đó là sáu tai hại về bạn xấu. Nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán.

Này Thiện Sinh, lười biếng có sáu lỗi: 1. Khi giàu sang không chịu làm việc; 2. Khi nghèo không chịu siêng năng; 3. Lúc lạnh không chịu siêng năng; 4. Lúc nóng không chịu siêng năng; 5. Lúc sáng trời không chịu siêng năng; 6. Lúc tối trời không chịu siêng năng.

Đó là sáu điều tai hại của sự lười biếng. Nếu trưởng giả hay con trưởng giả lười biếng mãi, thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán.”

Nói như vậy xong, Phật làm bài tụng:

Người mê say rượu chè,

Lại có bè bạn rượu,

Tài sản đã tích lũy,

Liền theo mình tiêu tan;

Uống rượu không tiết độ;

Thường ưa ca, múa, nhảy,

Ngày rong chơi nhà người,

Nhân thế tự đọa lạc.

Theo bạn ác không sửa;

Phỉ báng ra nhà người.

Tà kiến bị người chê;

Làm xấu bị người truất.

Cờ bạc, đắm ngoại sắc;

Chỉ bàn việc hơn thua.

Bạn ác không sửa đổi,

Làm xấu bị người truất.

Bị rượu làm hoang mê;

Nghèo khó không tự liệu;

Tiêu xài chẳng tiếc của;

Phá nhà gây tai ương;

Đánh bạc, xúm uống rượu;

Lén lút vợ con người.

Tập quen nết bỉ ổi;

Như trăng về cuối tháng.

Gây ác phải chịu ác.

Chung làm cùng bạn ác;

Đời này và đời sau,

Rốt không đạt được gì.

Ngày thời ưa ngủ nghỉ,

Đêm thức những mơ tưởng,

Mê tối không bạn lành;

Chẳng gây nổi gia vụ.

Sáng chiều chẳng làm việc;

Lạnh, nóng lại biếng lười.

Làm việc không suy xét;

Trở lại uổng công toi.

Nếu không kể lạnh nóng,

Sáng chiều siêng công việc,

Sự nghiệp chi chẳng thành;

Suốt đời khỏi âu lo”.

Phật bảo Thiện Sinh:

Có bốn hạng kẻ thù mà như người thân, ngươi nên biết. Bốn kẻ ấy là những ai? 1. Hạng úy phục; 2. Hạng mỹ ngôn; 3. Hạng kính thuận; 4. Hạng ác hữu.

Hạng úy phục thì thường hay làm bốn việc: 1. Cho trước đoạt lại sau; 2. Cho ít mong trả nhiều; 3. Vì sợ gượng làm than; 4. Vì lợi gượng làm thân.

Hạng mỹ ngôn thì thường hay làm bốn việc: 1. Lành dữ đều chiều theo; 2. Gặp hoạn nạn thì xa lánh; 3. Ngăn cản những điều hay; 4. Thấy gặp nguy tìm cách đun đẩy.

Hạng kính thuận thì thường làm bốn việc: 1. Việc trước dối trá; 2. Việc sau dối trá; 3. Việc hiện dối trá; 4. Thấy có một chút lỗi nhỏ đã vội trách phạt.

Hạng bạn ác thì thường làm bốn việc: một: bạn lúc uống rượu; hai: bạn lúc đánh bạc; ba: bạn lúc dâm dật; bốn: bạn lúc ca vũ”.”

Ðức Thế Tôn nói như vậy rồi, bèn làm một bài tụng:

Úy phục, gượng làm thân;

Hạng mỹ ngôn cũng thế.

Kính thuận, thân nhưng dối.

Ác hữu là ác thân.

Bạn thế chớ tin cậy,

Người trí nên biết rõ.

Nên gấp rút lìa xa

Như tránh con đường hiểm.

Phật lại bảo Thiện Sinh:

Có bốn hạng người thân đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn? 1. Ngăn làm việc quấy; 2. Thương yêu; 3. Giúp đỡ; 4. Đồng sự. Đó là bốn hạng người thân đáng thân cận.

Này Thiện Sinh, hạng ngăn quấy thì thường làm bốn việc đem lại nhiều lợi ích và hay che chở: 1. Thấy người làm ác thì hay ngăn cản; 2. Chỉ bày điều chánh trực; 3. Có lòng thương tưởng; 4. Chỉ đường sinh Thiên. Đó là bốn trường hợp ngăn cản việc quấy đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.

Hạng thương yêu thì thường làm bốn việc: 1. Mừng khi mình được lợi; 2. Lo khi mình gặp hại; 3. Ngợi khen đức tốt mình; 4. Thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản. Đó là bốn điều thương yêu đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.

Hạng giúp đỡ có bốn việc. Những gì là bốn? Đó là: 1. Che chở mình khỏi buông lung; 2. Che chở mình khỏi hao tài vì buông lung; 3. Che chở mình khỏi sợ hãi; 4. Khuyên bảo mình trong chỗ vắng người.

Hạng đồng sự thì thường làm bốn việc: 1. Không tiếc thân mạng với bạn; 2. Không tiếc của cải với bạn; 3. Cứu giúp bạn khỏi sợ hãi; 4. Khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người”.”

Nói như vậy xong, Ðức Thế Tôn lại nói bài tụng:

Bạn ngăn ngừa điều quấy,

Bạn từ mẫn thương yêu,

Bạn làm lợi ích bạn,

Bạn đồng sự với bạn.

Đó bốn hạng đáng thân,

Người trí đáng thân cận;

Thân hơn người thân khác,

Như mẹ hiền thân con.

Muốn thân người đáng thân;

Hãy thân bạn kiên cố.

Người bạn đủ giới hạnh,

Như lửa sáng soi người.

Phật lại bảo Thiện Sinh:

Ngươi nên biết ý nghĩa sáu phương. Sáu phương là gì? 1. Phương Đông là cha mẹ; 2. Phương Nam là sư trưởng; 3. Phương Tây là thê thiếp; 4. Phương Bắc là bạn bè thân thích; 5. Phương Trên là các bậc Trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn; 6. Phương Dưới là tôi tớ.

Này Thiện Sinh, kẻ làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều. Những gì là năm? 1. Cung phụng không để thiếu thốn; 2. Muốn làm gì thưa cha mẹ biết; 3. Không trái điều cha mẹ làm; 4. Không trái điều cha mẹ dạy; 5. Không cản chánh nghiệp mà cha mẹ làm.

Kẻ làm cha mẹ phải lấy năm điều này chăm sóc con cái: 1. Ngăn con đừng để làm ác; 2. Chỉ bày những điều ngay lành; 3. Thương yêu đến tận xương tủy; 4. Chọn nơi hôn phối tốt đẹp; 5. Tùy thời cung cấp đồ cần dùng.

Này Thiện Sinh, kẻ làm con kính thuận và cung phụng cha mẹ thế thì phương ấy được an ổn không có điều lo sợ.

Đệ tử cung phụng sư trưởng có năm việc: 1. Hầu hạ cung cấp điều cần; 2. Kính lễ cúng dường; 3. Tôn trọng qúy mến; 4. Thầy có dạy bảo điều gì không trái nghịch; 5. Thầy có dạy bảo điều gì nhớ kỹ không quên. Kẻ làm đệ tử cần phải thờ kính sư trưởng với năm điều ấy.

Thầy cũng có năm điều để săn sóc đệ tử: 1. Dạy dỗ có phương pháp; 2. Dạy những điều chưa biết; 3. Giải nghĩa rành rõ những điều trò hỏi; 4. Chỉ cho những bạn lành; 5. Dạy hết những điều mình biết không lẫn tiếc.

Này Thiện Sinh, nếu đệ tử kính thuận, cung kính sư trưởng, thì phương ấy được an ổn không có điều lo sợ.

Này Thiện Sinh, chồng cũng phải có năm điều đối với vợ: 1. Lấy lễ đối đãi nhau; 2. Oai nghiêm không nghiệt; 3. Cho ăn mặc phải thời; 4. Cho trang sức phải thời; 5. Phó thác việc nhà.

Này Thiện Sinh, chồng đối đãi vợ có năm điều, vợ cũng phải lấy năm việc cung kính đối với chồng. Những gì là năm? 1. Dậy trước; 2.  Ngồi sau; 3. Nói lời hòa nhã; 4. Kính nhường tùy thuận; 5. Đón trước ý chồng.

Này Thiện Sinh, ấy là vợ đối với chồng cung kính đối đãi nhau, như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ.

Này Thiện Sinh, người ta phải lấy năm điều thân kính đối với bà con: 1. Chu cấp; 2. Nói lời hiền hòa; 3. Giúp đạt mục đích; 4. Đồng lợi; 5. Không khi dối.

Bà con cũng phải lấy năm điều đối lại: 1. Che chở cho mình khỏi buông lung; 2. Che chở cho mình khỏi hao tài vì buông lung; 3. Che chở khỏi sự sợ hãi; 4. Khuyên răn nhau lúc ở chỗ vắng người; 5. Thường ngợi khen nhau.

Này Thiện Sinh! Người biết thân kính bà con như vậy thì phương ấy được yên ổn không điều chi lo sợ.

Này Thiện Sinh, chủ đối với tớ có năm điều để sai bảo: 1. Tùy khả năng mà sai sử; 2. Phải thời cho ăn uống; 3. Phải thời thưởng công lao; 4. Thuốc thang khi bệnh; 5. Cho có thời giờ nghỉ ngơi.

Tôi tớ phải lấy năm điều phụng sự chủ: 1. Dậy sớm; 2. Làm việc chu đáo; 3. Không gian cắp; 4. Làm việc có lớp lang; 5. Bảo tồn danh giá chủ.

Này Thiện Sinh, nếu chủ đối với tớ được như vậy thì phương ấy được an ổn không điều chi lo sợ.

Kẻ đàn việt cung phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn với năm điều: 1. Thân hành từ; 2. Khẩu hành từ; 3. Ý hành từ; 4. Đúng thời cúng thí; 5. Không đóng cửa khước từ.

Sa-môn, Bà-la-môn cũng khuyên dạy theo sáu điều: 1. Ngăn ngừa chớ để làm ác; 2. Chỉ dạy điều lành; 3. Khuyên dạy với thiện tâm; 4. Cho nghe những điều chưa nghe; 5. Những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ; 6. Chỉ vẽ con đường sanh Thiên.

Này Thiện Sinh, nếu đàn việt kính phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.”

Ðức Thế Tôn nói như vậy xong, lại làm một bài tụng:

Cha mẹ là phương Đông,

Sư trưởng là phương Nam,

Vợ chồng là phương Tây,

Thân tộc là phương Bắc,

Tôi tớ là phương Dưới,

Sa-môn là phương Trên.

Những người con trưởng giả

Kính lễ các phương ấy.

Thuận thảo không lỗi thời,

Khi chết được sanh Thiên.

Huệ thí, nói hòa nhã,

Giúp người đạt mục đích.

Lợi lộc chia đồng đều,

Mình có cho người hưởng.

Bốn việc ấy như xe,

Chở tất cả nặng nề.

Đời không bốn việc ấy,

Sẽ không có hiếu dưỡng.

Bốn việc ấy ở đời,

Được người trí chọn lựa.

Làm thời kết quả lớn,

Tiếng tốt đồn vang xa.

Trang sức chỗ nằm ngồi,

Dọn thức ăn bậc nhất,

Để cấp bậc xứng đáng,

Tiếng tốt đồn vang xa.

Không bỏ người thân cũ;

Chỉ bày việc lợi ích;

Trên dưới thường hòa đồng,

Tất được danh dự tốt.

Trước hãy tập kỹ nghệ,

Sau mới có tài lợi.

Khi có tài lợi rồi,

Hãy khéo lo gìn giữ.

Tiêu dùng đừng xa xí;

Hãy lựa người làm thân.

Hạng lừa dối, xung đột;

Thà chẳng nên đến gần.

Của dồn từ khi ít;

Như ong góp nhụy hoa.

Tài bảo ngày chứa dồn,

Trọn đời không hao tổn.

Một, ăn biết vừa đủ;

Hai, làm việc siêng năng;

Ba, lo dồn chứa trước,

Đề phòng khi thiếu hụt;

Bốn, cày ruộng buôn bán,

Và lựa đất chăn nuôi;

Năm, xây dựng tháp miếu;

Sáu, lập tăng phòng xá.

Tại gia sáu việc ấy,

Siêng lo chớ lỗi thời.

Ai làm được như thế

Thời nhà khỏi sa sút,

Tài sản ngày một thêm,

Như trăm sông về biển.

Bấy giờ Thiện Sinh bạch Phật:

“Lành thay, bạch Thế Tôn! Thật quá chỗ mong ước của con xưa nay, vượt xa những lời dạy của cha con. Như lật ngửa những gì bị úp xuống; như mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy. Những gì được Như Lai thuyết giảng cũng như thế; bằng vô số phương tiện khai ngộ cho kẻ ngu tối; làm rõ pháp thanh bạch. Phật là Đức Như Lai, Bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, do đó có thể chỉ bày, hướng dẫn cho đời. Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi xin Ðức Thế Tôn chấp thuận cho con được làm Ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp. Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con nguyện không giết, không trộm, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu”. Bấy giờ, Thiện Sinh sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Kính thưa quý vị! Những lời mà Nguyên Tánh mạo muội trao đổi cùng quý độc giả có gì không phải xin được lượng thứ. Cuối cùng Nguyên Tánh xin kính chúc quý độc giả và hành giả luôn ôm pháp Phật để tác ý câu: "thân tâm phải Bất Động,Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự" là niết bàn tại thế mà đức Phật đã ban tặng cho nhân loại hành tinh để làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, khỏi cần tìm cầu đến thế giới nào nữa!

           Kính ghi: Tỷ Kheo Thích Nguyên Tánh. Thành phố Hà Tĩnh

032-TÂM THƯ GỬI CÁC CON (Tâm thư cuối cùng) - TL Thích Thông Lạc

Ngày 01 tháng 12 năm 2012

Kính gửi các con!

Hôm nay Thầy có vài lời nhắc nhở đến các con! Trước tiên Thầy xin nhắc lại 3 điều kiện hết sức quan trọng trong cuộc đời tu hành của người tu theo Phật hay đến với Tu Viện Chơn Như.

Điều thứ nhất: Khi đến với đạo Phật thì các con đã hiểu “Đạo Phật là Đạo Giải Thoát”. Vậy giải thoát như thế nào? Đây các con hãy lắng nghe lời Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, ba y một bát. Đời sống trắng bạch như vỏ ốc, tâm hồn phóng khoáng như hư không…”. Cho nên khi đến với Tu Viện Chơn Như thì các con phải sống đúng 3 hạnh: “Ăn, Ngủ, Độc Cư”, 3 đức: “Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng”. Đời sống “Thiểu Dục Tri Túc” (ít muốn biết đủ). Chấp nhận đời sống Giới Hạnh, quyết tâm bằng mọi cách “không để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào”. Đây chính là Giới.

Điều thứ hai: Con đường tu tập giải thoát của đạo Phật không cần phải tu tập nhiều pháp. Đây các con hãy lắng nghe lời Phật dạy:

“Bí quyết thành tựu của Đạo Phật chỉ có hai điều kiện quan trọng nhất:

1- Giữ tâm không phóng dật.

2- Thích sống nhàn tịch, độc cư, trầm lặng một mình”.

Để thực hiện được hai điều kiện này, Thầy đã chỉ dạy cho các con cách thức tu tập các pháp hành: “Phòng Hộ Sáu Căn, Như Lý Tác Ý, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Thân Hành Niệm”, từ Nhiếp Tâm cho đến An Trú Tâm. Đó là những phương tiện tu tập, phải thiện xảo khéo léo áp dụng đúng thời, đúng lúc thì mới giúp các con sống an ổn một mình, không còn chướng ngại. Đây chính là Định.  

Điều thứ ba: Đạo Phật là Đạo Trí Tuệ, là sự hiểu biết của ý thức hay còn gọi là Tri Kiến Giải Thoát. Đức Phật dạy: “Những ai có Giới Hạnh. An trú không phóng dật. Chánh Trí, Chơn Giải Thoát”. Khi một người tu sĩ hay cư sĩ theo đạo Phật mà sống trọn vẹn trọng Giới Luật và An Trú Tâm không phóng dật thì người đó đã thành Chánh Giác. Đây chính là Tuệ.

Và đức Phật đã khẳng định rằng: “Giới Hạnh là Trí Tuệ, Trí Tuệ là Giới Hạnh”.

Cho nên con đường chứng đạo không ngoài “Giới – Định – Tuệ”. Giới giúp tâm buông xả ly dục ly ác pháp. Định giúp tâm an lạc sáng suốt. Trí hiểu biết rộng lớn không bị bất kỳ một pháp nào chi phối hay còn gọi là Tuệ Giải Thoát.

Đường đi quá rõ ràng, Thầy đã vạch sẵn cho các con thấy tu hành không phải khó. Khó là chỗ các con không bền chí, không gan dạ, thiếu nghị lực, không chịu buông bỏ tâm đời thường thế gian. Vì vậy mà trải qua bao năm tháng tu tập, các con cứ dậm chân tại chỗ và phạm phải những nội quy của Tu Viện:

1. “Ly gia cắt ái” lìa bỏ gia đình, không còn luyến ái. Vậy mà các con có giữ được đâu! Cứ tu được năm ba bữa, một vài tháng thì xin về thăm nhà hay xin điện thoại thăm gia đình, đã vậy có người dù đã nộp điện thoại nhưng vẫn còn lén lút sử dụng điện thoại riêng (thiếu đức thành thật).

Khi có người thân, họ hàng, con cháu, bạn bè đến thăm thì mau mau ra gặp. Các con không dám mạnh mẽ dứt khoát từ chối. Phạm giới phá hạnh độc cư!

2. “Cạo bỏ râu tóc”, khi các con thấy râu tóc dài ra là cạo được rồi, đâu cần phải chờ đúng 14, 15 hoặc 28, 29, 30. Đợi cho đúng ngày thì phải xem lịch, không có lịch thì phải hỏi người này, hỏi người kia để biết mà cạo tóc… Thậm chí phá độc cư bằng cách ném thư qua cửa sổ, ra dấu ra hiệu đủ mọi cách làm mất oai nghi chánh hạnh.

Riêng người cư sĩ thì chỉ cần giữ gìn đầu tóc cho gọn gàng, có đâu tóc kẹp kiểu này kiểu kia, cột dài cột ngắn như trẻ con hoặc là xõa tóc làm đẹp. Phạm giới trang điểm làm đẹp!

3. “Ba y, một bát” là một y hạ, y trung, y thượng và một bình bát để xin ăn. Thời xưa đức Phật còn phải lượm vải thây ma để mặc, bậy giờ Thầy cho các con mặc đồng phục mỗi người được 2 bộ (người nữ được 3 bộ) và một áo tràng là đủ để mặc hàng ngày. Thế mà có người chê đồ cũ, đồ mới, có người lại sửa sang kết, đính kèm nút không giống ai, lại để dành hai ba bộ, còn áo tràng thì hai ba cái. Phạm vào giới cất giữ!

Cái bát là để đi xin ăn, người tu sĩ ăn trong bát, uống trong bát. Thế mà các con có người chê khen bát này lớn, bát kia nhỏ, bát này nặng, bát kia nhẹ. Thậm chí có người đi khất thực chỉ mang cái nắp bát, rồi ăn luôn trên cái nắp bát hoặc ăn luôn trong mâm. Người thì lấy thêm chén nhỏ để sớt cơm ra ăn riêng chứ không ăn trong bát. Đức Phật ví cái y như đôi cánh, cái bát như cái mỏ con chim. Vậy là “con chim không cần cái mỏ”. Các con quá xem thường giới hạnh!

4. Trước kia Thầy có dạy các con nuôi dưỡng tâm từ bằng cách là đến giờ thọ thực, khi thấy có chúng sinh trước mắt các con, chúng đang đói khát tìm thức ăn sinh sống thì khi ấy chúng ta mới hy sinh và chia sẻ thực phẩm do mình vừa xin về, để sớt một ít mang cho chúng trước khi mình dùng. Đàng này các con hiểu sai lời Thầy dạy, lấy của đàn na cho dư thừa rồi đi tìm chúng sanh mà bố thí. Có người cất giữ thực phẩm cho đến chiều rồi mang đi nơi khác chờ cho chó, mèo, chim, sóc… đến ăn. Nếu chúng không đến thì coi như thực phẩm ngày hôm ấy bị bỏ phí, thiu mốc. Các con là những người tu hành, tu thì không xong, cũng không làm gì ra tiền, cho nên các con không biết quý trọng công sức cúng dường bằng mồ hôi công sức của những người khác. Họ cúng dường là chỉ mong hưởng được công đức tu hành của các con. Các con có nghĩ đến điều này không? Các con có xứng đáng hay chưa? Thật là thiếu trí tuệ và phí phạm!

5. “Thiểu dục tri túc” – ít muốn biết đủ, các con thì sao? Nhìn hết trong Tu Viện, Thầy thấy rất ít người sống được hạnh này. Người nào cũng muốn dư, không muốn đủ. Thậm chí sử dụng 2, 3 đôi dép, đi dép trong dép ngoài. Vớ thì 2, 3 đôi, bàn chân suốt ngày không lìa đôi vớ. Nón thì kiểu này kiểu nọ. Ở trong thất thì đeo khẩu trang mang kính mát. Khăn lớn, khăn nhỏ phơi đầy sào. Đi đâu gặp cái gì cũng lượm mang về thất từ một cục gạch, đoạn dây, khúc nhựa, cái lọ, keo hũ, bọc giấy, bao bì, v.v… Lại còn sinh niệm chế ra cây phất trần phẩy qua phất lại như mấy ông Tiên. Ngồi thì kê chân, kê mông, lót nệm, lót gối để cho êm ái. Trong và ngoài thất các con ở nào là giàn, là kệ, dây, sào, v.v… tất cả bày biện treo móc, giăng mắc… coi chẳng ra gì, y như một cái quầy hàng xén. Cuộc đời tu hành mỗi ngày người ta buông xả xuống, còn các con mỗi ngày mỗi ôm vô thì làm sao cuộc sống của các con “trắng bạch như vỏ ốc”, tâm hồn các con “phóng khoáng như hư không”. Thật là hổ thẹn!   

6. Khuya dạy thì không đúng giờ (trễ 5 – 10 phút). Mùng, mền không xếp gấp gọn gàng. Thức thì không tỉnh táo, ưa thích ngồi cho an, mắt nhắm lim dim ngồi gục tới gục lui. Lại còn chế pháp đưa tay lên xuống qua lại như người đang múa, không oai nghi chút nào. Đi kinh hành thì lười biếng sợ mỏi chân, sợ lạnh. Thích nuôi dưỡng cái thân. Thật là quá tệ!

7. Tu hành thì phải tự mình tư duy triển khai trí tuệ để vượt lên những chướng ngại. Mỗi lần như vậy trí lực của các con càng mạnh mẽ, vững chãi hơn, nhanh nhẹn sáng suốt hơn. Cớ sao các con lại để tâm trí mình thụ động, liệt tuệ chỉ còn biết vay mượn tạm bợ tri kiến của người khác. Thầy cho người đến nhắc nhở hướng dẫn giúp các con tháo bỏ những vấn đề dính mắc mà xả tâm, để rồi tiếp tục an trú tu tập. Trái lại các con thích hội họp, thích nói chuyện cho vui và hỏi những chuyện đâu đâu không lợi ích, hỏi ngoài tầm hiểu biết của con người (hỏi về cõi chết). Đây cũng là cách thức phá độc cư dù có tu ngàn đời mãi mãi các con cũng không thấy đạo. Thật là vô bổ!  

Tất cả những điều Thầy đã nêu trên, các con hãy tự kiểm điểm lại mình, phải lượng sức mình cho kỹ! Vào Tu Viện Chơn Như mà không chịu xả bỏ dục lạc thế gian thì tu tập có ích lợi gì hỡi các con! Nếu không đủ khả năng, Thầy khuyên các con hãy trở về với gia đình, sống lợi ích cho con cho cháu. Chứ ở Tu Viện mà phạm giới, phá giới thì Thầy không thể giúp gì được cho các con, ngược lại các con phải mang nợ đàn na tín thí trả biết bao giờ cho hết.

Thầy đề nghị Ban quản lý thường xuyên kiểm tra xem xét từng khu vực. Tu sinh nào vi phạm Thanh Qui của Tu Viện lần thứ nhất được nhắc nhở, lần thứ hai còn tái phạm thì chuyển ngay ra khu Tiếp Nhận để quí Sư hướng dẫn thêm. Nếu vẫn vi phạm không sửa, tốt hơn chúng ta mời họ ra về. Đây là chúng ta thương họ chứ không phải thiếu tình người đâu các con ạ!

Sau cùng, Thầy có lời khuyên tất cả các tu sinh đang có mặt tại Tu Viện Chơn Như: “Nếu các con không tu thì thôi, còn quyết tâm tu hành thì phài có ý chí nghị lực vứt bỏ những thứ tầm thường của thế gian, sống đúng trọn vẹn trong giới hạnh, nhất định không vi phạm một lỗi nào. Hãy cố gắng vươn lên làm Thánh các con ạ! Để trở thành những đệ tử ưu tú của Thầy, xứng đáng là những Tu sĩ, Cư sĩ của Phật giáo”.

                                                                                         Kính thư.


                                                                                 Thầy của các con.  

033-CHÁNH PHÁP DỰNG LẠI RỒI, TRÁCH "AI" SAO HỮNG HỜ! Tỳ-kheo Thích Nguyên Tánh

Nhờ gặp được Chánh pháp tôi đã khỏi bệnh ung thư cổ

Kính thưa quý vị Tôn Túc, Hoà Thượng,Thượng Toạ lãnh đạo Trung ương giáo hội, cùng quý Tăng, Ni nam nữ cư sĩ Việt Nam!

Bản thân tôi là thương binh hạng nặng có một người phục vụ, biết bao nhiêu căn bệnh hiểm nghèo đe doạ tính mạng, thế mà nhờ gặp được Chánh Pháp của đức Phật qua bậc Thầy tu chứng, Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thông Lạc, Ngài đã chỉ dạy cho tôi tu tập, chỉ trong vòng 20 ngày tôi đã đẩy lùi được ổ bệnh trên. Đã 11 năm nay tôi không hề đi viên, không hề dùng thuốc. Việc làm của tôi có Phật tử cũng như người thân và dân làng nơi tôi ở chứng kiến, tôi chẳng dám nói sai. Thấy được lợi ích như vậy nên tôi mạo muội viết mấy dòng này gửi lên trang mạng để có ai hữu duyên được đọc, được nghe và thực hành như bản thân tôi là đều được như ý muốn. Tất cả cũng vì sự trường tồn của Chánh Pháp tôi xin ghi lại mấy dòng, có gì không phải xin quý vị lượng thứ!

                                                                                    Tỳ-kheo Thích Nguyên Tánh

        Chánh Phật Pháp vắng mặt trên thế gian nên loài người phải khổ đau bất tận

              - - - (1) - - -

Ở trên thế gian này

Biết bao chuyện đau lòng

Nói làm sao cho hết

Vì Chánh Pháp đức Phật

Đã bị Tổ thủ tiêu

Người ta biến chùa chiền

Thành nơi kinh doanh Phật!

              - - - (2) - - - 

Chuyện một người tình nọ                              Để thỏa mãn thú tính,

Giết người yêu của mình                                Khi người yêu đã chết.

Cắt thi hài nhiều mảnh                                    Trong cả hai trường hợp

Nhằm mục đích phi tang.                                Trường hợp này nặng hơn,

Đây có phải do ma                                          Phạm cả hai giới liền

Hay do vì con người                                        Sát sinh và tà dâm,

Phạm năm điều Phật dạy?                             Là nguyên nhân gây khổ.

Là năm điều giới đức,                                    Có ai dám chối cãi,

Không sát sinh ăn thịt                                      Dám đổ lỗi ma, quỷ

Thực hành đức hiếu sinh.                               Hay mồ mả ông cha

Nếu mà thanh niên này                                   Hay Ngọc Hoàng, Thượng Đế,

Biết vào chùa quy y                                         Hay Tam Tòa Thánh Mẫu

Và thọ trì năm giới,                                          Hay hướng cửa, hướng nhà

Chỉ cần giới thứ nhất                                      Hay giờ tốt, giờ xấu

Họ đã thoát tử hình,                                         Hay tại ngày đầu năm

Thì hạnh phúc biết bao.                                   Người xông đất nặng vía

Và còn kinh hoàng hơn                                   Hay tại hạn Thái Bạch

Có một gã nhân tình                                        Kế Đô và La Hầu

Khi lấy hết bạc vàng                                        Vân vân và vân vân…

Liền lột cả áo quần

              - - - (3) - - -

Chỉ có nghiệp ác, thiện                                    Được hạnh phúc an vui.

Tự mình làm mình chịu                                     Qua bài kệ sau đây:

Kêu van ai bây giờ?                                        Điều mẹ cha, bà con,

Thế mà người vô minh                                     Không có ai làm được,

Cứ đổ cho Thần Thánh                                    Tâm hướng Chánh làm được,

Để có bao nhiêu tiền                                        Làm được tốt đẹp hơn.”

Vào túi thầy chùa hết.                                       Những lời dạy hơn vàng,

Đúng như lời Phật dạy:                                    Thế mà sao thầy chùa

"Kẻ thù hại kẻ thù,                                            Mang danh đệ tử Phật,

Oan gia hại oan gia,                                        Sao không dạy Phật tử,

Không bằng tâm hướng tà,                             Mà đem kinh các Tổ

Gây ác cho tự thân."                                        Dạy “cầu siêu, cầu an?

Còn ai theo Chánh Pháp

- - - (4) - - -

Từ Chân Lý thứ nhất                                       Có thần thông pháp thuật

Đức Phật dạy rõ rằng                                     Hãy cầu cho đá nổi,

"Cầu không được là khổ."                         Và giọt dầu kia chìm

Phật dùng hai ví dụ                                          Xem thử làm được không?

Hòn đá và giọt dầu                                          Ví như kẻ ác kia

Để minh chứng những ai                                Hay nghiện ngập rượu chè,

Không tự lực cứu mình                                   Từ đó mà sinh bệnh. 

Mà chuyên lo cầu khấn                                    Nếu mình không bỏ rượu, 

Nghiệp ác như hòn đá                                     Chỉ nương nhờ thần, thánh

Bỏ xuống nước là chìm,                                  Hỏi xem các vị đó

Nghiệp thiện như giọt dầu                              Có cứu mình được không?

Cho xuống nước nổi lên.                                 Luật nhân quả rõ ràng,          

Nếu có trăm ngàn người                                 Thế mà tin thầy chùa

Dù đã tu chứng đạo                                         Mất tiền còn mang tội.

             
               - - -
(5) - - -

Chánh Pháp Dựng Lại Rồi, Trách "Ai" Sao Hững Hờ!!!

Qua đây ta đủ biết                                            Sao Giáo hội không làm,

Tà đạo thật hiểm nguy                                     Còn chần chờ gì nữa,

Sao Giáo hội Trung ương                               Để cứu nhân thế độ

Không ngăn cản các chùa                               Lỗi này thuộc về ai?

Hành những nghề mê tín?                               Nếu không bộ kinh gốc         

Để người đời nhầm lẩn                                   Của Hòa Thượng Minh Châu,

Chẳng biết đâu Chánh, Tà.                             Phải công bố đình chỉ

Kinh Phật dạy rõ ràng                                      Đừng cho Phật tử đọc.

Còn những lý do gì,                                          Nếu mà cho họ đọc,

Không mau mau loại bỏ?                                Họ biết rõ chánh tà

Như lời đức Phật dạy:                                     Thì Giáo hội Trung ương

"Điều mẹ cha bà con,                                     Chẳng còn mặt mũi nào

Không có thể làm được                                  Mà nắm quyền lãnh đạo.

Tâm hướng chánh làm được                         Các vị tu chưa chứng,

Làm được tốt đẹp hơn."                                  Thì lãnh đạo ai đây?

 

              - - - (6) - - - 

Vì đức Phật dạy rằng                                       Hỏi tại sao lại thế?

Chưa chứng mà dạy người,                           Đức Phật dạy làm chủ

Thì cũng chẳng khác nào                                 Sống chết ở chỗ nào?

Người chưa từng biết bơi                               Sao các vị lặng im

Mà cứu người chết đuối.                                 Khi có bậc tu chứng,

Sao chúng tôi dám nói?                                   Có sách vở giáo án

Vì tại chùa Quán Sứ                                      Nhà Xuất bản Tôn giáo

Là nơi Giáo Hội đóng                                    Cho in ấn đàng hoàng,

Còn kinh doanh tấu sớ                                 Sao các vị làm thinh,

Để giải hạn cầu an                                         Không dám tuyên bố ra

Mà sao chẳng thấy an                                   Cho Phật tử được biết?

Thấy toàn là bệnh tật                                    Tu là kết quả liền,

Kể cả các Hòa Thượng.                               Kể cả bệnh ung thư

Có chức danh vĩ đại                                      Như chúng tôi đã bị

Vẩn phải bị ung thư                                       Mà vẫn đẩy được lùi.

              - - - (7) - - -

Chánh Pháp là Thần Dược                             Làm lợi ích nhiều người

Hơn ngọc vàng báu châu.                                Không tốn kém bạc tiền

Cứu con người thoát khổ                                 Mà bệnh tật tiêu trừ. 

Sao không dám công bố,                                 Xin Giáo Hội Việt Nam

Để cho họ bất an,                                              Hãy thẳng thắn công bố

Gây hoang mang dao động?                           Không những cho Việt Nam

Nếu Đức Thầy Thông Lạc                           Mà trên toàn thế giới

Tu không đúng của Phật                             “Nước Việt Nam anh hùng,

Thì đề nghị Giáo hội:                                     Đã có người tu chứng”

Lấy quyền sinh, quyền sát                           Như đức Phật thuở xưa.    

Cho giải tán ngay đi                                       Là vinh dự lớn lao,

Cứ úp mở làm gì?                                           Cho đất nước Việt Nam

Để mang thêm tội lỗi.                                     “Đã có Phật ra đời”,

Nếu như Thầy tu chứng                               Thì quý hóa biết bao.

Đã làm chủ sống chết                                    Công đức không nghĩ lường.

Như đức Phật ngày xưa

              - - - (8) - - - 

Để cứu dân Việt Nam                                      Nếu không được công bố,

Trong khi bệnh tràn lan                                    Thì sách, Kinh Trung Bộ

Không có thuốc để chữa,                                 Hòa Thượng Minh Châu dịch

Trong khi đó pháp Phật                                    Sao không thủ tiêu đi,

Là thần dược cứu người                                 Lại xuất bản làm gì?

Thì lãnh đạo Trung ương,                                 Để lộ ra những người

Người làm mẹ, làm cha                                   Phỉ báng kinh sách Phật.

Lại không công bố ra                                       Theo kinh sách của Tổ,

Để mọi người được biết.                                Tất không sớm thì muộn,

Để họ theo Chánh Pháp                                  Không giấu được họ đâu.

Lợi ích biết chừng nào                                     Quý vị chớ chần chừ,

Có phải không quý vị?                                     Mang hậu quả không tốt.

              - - - (9) - - -

Vậy chúng ta muốn thoát                                Là có kết quả ngay

Những thảm trạng kể trên.                              Mọi người thoát hai nơi,

Chúng ta hãy cùng nhau                                  Nhà tù và Bệnh viện.

Bảo vệ cho bằng được                                   Sóng thần và bão tố,

Những điều đức Phật dạy                              Động đất và chiến tranh,

Ở trong bốn Chân Lý                                       Mọi tệ nạn hoành hành

Khi đức Phật tu chứng                                    Đều được đẩy lùi hết.

Để cùng nhau luận bàn.                                   Lúc đó nước Việt Nam

Những khi tin tưởng rồi                                   Là Thiên Đàng, Cực Lạc

Áp dụng vào thực hành                                   Không phải tìm đâu xa!.

034-PHẬT A DI ĐÀ VÀ THẾ GIỚI TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC - THẬT HAY GIẢ? Nguyễn Hoàng Giang

Xin giới thiệu với quý bạn đọc những phần trích dẫn của cư sĩ Thích Minh Thông, người từng tham dự nhiều khóa tu tập tại chùa Hoằng Pháp, Tp. Hồ Chí Minh:

Cùng các bạn đồng tu, quý sư thầy, sư cô, các vị thiện tri thức.

Tôi là một cư sĩ tại gia, thọ tam quy ngũ giới với pháp danh Minh Thông.

Qua bao năm miệt mài cùng Phật pháp, với sự cung kính, thờ lạy chư vị Phật; tụng kinh cầu an, cầu siêu, sám hối… nhất là chuyên trì niệm A Di Đà Phật, với những khóa tu học tại chùa Hoằng Pháp – Tp. Hồ Chí Minh. Với sự hướng dẫn của các sư thầy và chỉ giải của kinh sách, ngày đêm đi đứng nằm ngồi tôi đều niệm A Di Đà Phật hầu mong ngày cuối của cuộc đời được chết một cách nhẹ nhàng, thanh thản; nhất là được Phật A Di Đà tiếp dẫn về thế giới Cực Lạc để không còn luân hồi sinh tử.

Thế nhưng vào dịp đầu xuân Canh Dần này – 2010, tôi được một người bạn đồng tu trao cho những cuốn sách kinh nói về thế giới Tây Phương Cực Lạc mà tôi chưa đọc, quý vị biết không? Càng đọc con người của tôi như mất thần hồn, bàng hoàng, sửng sốt, ngơ ngác tưởng rằng mình đang bị rơi từ Thượng Phẩm Thượng Sanh xuống A Tỳ Địa Ngục. Mất hết niềm tin, không biết thưa hỏi cùng ai! Tin vào Phật nào đây, cõi nào đây?

Nên tôi mạo muội viết ra những lời tâm sự này gởi đến các vị để có ai đó hiểu biết rõ ràng, ai đó đã ở cõi Tây Phương trở về chỉ cho chúng tôi rõ đâu là sự thật; cư sĩ chúng tôi đã mất biết bao nhiêu thời gian, tiền của cho việc cúng dường chùa chiền, Sư, Thầy để niệm Phật, cầu siêu, cầu an, dương sao giải hạn, xây dựng…

Tôi muốn tâm sự và tâm sự rất nhiều nhưng thôi, để tôi xin trích lại những đoạn trong các kinh sách mà tôi đã đọc, gởi đến quý vị để nghiên cứu.

PHẦN TRÍCH KINH SÁCH

1/ Sách “Niệm Phật Cảnh” của Đại Sư Thiện Đạo do Thích Minh Thành dịch, NXB Tôn Giáo 2005, trang 21.

“Lại theo pháp Hạ phẩm hạ sanh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: Hoặc có chúng sanh làm việc bất thiện, tạo năm tội nghịch, mười điều ác, đủ mọi việc chẳng lành, người tu như thế, do nghiệp ác phải đọa vào đường ác, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc sắp mạng chung, gặp thiện tri thức dạy xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật cho đến mười lần tội lỗi tiêu trừ, liền được vãng sanh tịnh độ”.

2/ Sách “Khai Thị” của H.T Tịnh Không, PL 2547 (DL 2003), trang 35-36 (thuyết giảng cho Phật tử dự Phật thất trong Niệm Phật Đường thì ngược lại:

“Tây Phương Cực Lạc là nơi câu hội của chư thượng thiện nhân (chỗ của những người thiện lành bậc nhất) cho dù quý vị niệm Phật siêng năng đến đâu, huặc một ngày quý vị niệm đến trăm ngàn lần, nhưng tâm của quý vị không thiện làm sao có thể lên Tây Phương ở cùng chỗ của các bậc Thượng thiện nhân, do đó phát bồ đề tâm quan trọng hơn cả việc nhất hướng chuyên niệm… Nếu quý vị không phát bồ đề tâm, chỉ nương vào nhất hướng chuyên niệm, kết quả không thể vãng sanh, xin quý vị nên thận trọng”

Lời Người Viết:

Kính thưa quý vị, phát bồ đề tâm là gì? Có phải đúng ý nghĩa nhất là từ bỏ tham, sân, si không?

3/ Sách: “Quán Thế Âm Bồ Tát Tín Luận” của tác giả Hải Tín cư sĩ, xuất bản kỳ 2, PL 2508 (1964), trang 266.

Cảnh Giới Tây Phương Giả Hay Thật.

… “Ông Chơn Tín hỏi Đại Sư:

- Phật nói các pháp tu để đến quả Phật đều là phương tiện. Pháp A Di Đà Phật cũng là phương tiện. Vậy Tây Phương Cực Lạc là thế giới giả hay thật?

Đại Sư trả lời:

- Nếu nhận cảnh thế giới này của loài người là thật, thì cảnh Tây phương là thật; bằng nhận cảnh thế giới này của loài người là giả thì cảnh giới Tây phương cực lạc cũng giả. Vì sao? Cảnh thế giới gọi là Giả, bởi nó không trường tồn vĩnh viễn, có thể bị tâm lực chuyển đổi lúc nào cũng được. Như lời Phật nói trong Kinh Kim Cang: Các tướng hữu vi đều như mộng huyễn, như bọt bóng, như sương, như điện chớp. Với lời kinh này, ý Phật muốn cho chúng ta đừng đắm theo các cảnh huặc sắc tướng không bền vững mà phải chịu khổ”…

Lời Người Viết: Theo lời các Sư, Thầy giảng cảnh Ta Bà chúng ta đang ở là giả tạm phải không quý vị?

4/ Sách Cuối Hàng Dương, tác giả: Thích Chơn Quang, trang 18-24:

CÕI MƠ HỒ.

Thầy trích kinh Pottatpàda trong kinh Trường Bộ giảng đối chiếu với kinh Bố Tra Bà Lâu trong “Trường A Hàm” đến đoạn:

“Này Bố Tra! Có những Sa Môn hoặc Bà La Môn chỉ định một cõi thế gian và cho ở đó hoàn toàn vui. Ta (Phật) liền hỏi họ:

- Ngươi nói có một cõi thế gian hoàn toàn vui phải không?

- Phải.

- Ngươi đã thấy cõi đó chưa?

- Không thấy.

- Ngươi có thấy Chư Thiên trong đó chưa?

- Chưa!

- Ngươi đã từng sinh hoạt, tu hành chung với hàng Chư Thiên cõi đó chưa?

- Chưa.

- Có vị trời nào từ cõi đó đến nói với ngươi theo pháp tu đó sẽ sinh về cõi đó cùng họ hưởng vui không?

- Không.

- Ngươi có hiện thân đến cõi đó không?

- Không.

- Này Bố Tra nghĩ sao? Các người Sa Môn và Bà La Môn kia nói có cõi trời hoàn toàn vui là nói thật chăng?

Bố Tra thưa:

- Thưa họ không nói thật.

- Này Bố Tra! Ví như có người nói rằng, “tôi thường thông giao với một người con gái đoan chính” và cứ khen ngợi người con gái đó. Bất chợt có ai hỏi “ngươi có biết mặt người con gái đó không? Hiện nàng đang ở đâu?”, người kia đáp: “tôi không biết”. Họ lại hỏi xóm làng, quốc độ, cha mẹ, tên họ, dung mạo của người con gái đó, vẫn câu trả lời: không biết.

Này Bố Tra nghĩ sao? Thế thì người kia nói tôi thường thông giao với người con gái đó là lời nói chân thật chăng?

Bố Tra thưa:

- Không đúng.

- Này Bố Tra, các Sa Môn và Bà La Môn cũng như thế, họ nói không chân thật gì cả. Lại ví như có người bắc thang giữa chỗ đất trống, gặp người ta hỏi: anh bắc thang làm gì? Y trả lời bắc thang lên nhà. Người ta lại hỏi nhà ở đâu, y liền trả lời: Không biết. Bố Tra nghĩ sao? Người bắc thang đó có phải đã làm một việc hư ngụy không?

- Hư ngụy.

- Này Bố Tra, các Sa Môn và Bà La Môn cũng thường nói những điều hư ngụy như thế”…

Thầy bảo:

- Đức Phật luôn luôn dạy những điều thực tế, không viễn vông xa xôi. Ai làm theo lời dạy của Ngài liền tận mắt thấy được an vui giải thoát, như khi có người nói câu gì xúc phạm đến mình, mình cứ ôm nỗi bực tức thì ngay đó có khổ không?

- Dạ khổ.

- Nếu ngay đó mình buông được nỗi bực tức thì có thấy yên vui không?

- Dạ vui.

- Vậy đó, giáo lý của Phật dạy mình rất xác thực, làm theo là thấy rõ bình an, không hứa hẹn một cõi nước nào, một thời gian nào.

Tăng thưa:

- Bạch Thầy sao lại có Tịnh Độ Tông?

Thầy bảo:

- Tịnh Độ Tông có là dựa vào các kinh A di đà, Quán Vô Lượng Thọ… Mà các kinh nầy xuất hiện sau Phật 600 năm, khoảng đời ngài Long Thọ.

Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ nói nhân duyên Phật giảng kinh này là do khi vua A Xà Thế bắt nhốt cả cha là Bình Sa Vương, mẹ là Vi Đề Hy. Trong ngục bà niệm Phật, được Phật phóng hào quang đến giảng kinh, giới thiệu cảnh giới Tây Phương Tịnh Độ cho bà thụ hưởng. Nhưng trong lịch sử ghi rõ thì bà Vi Đề Hy không bị bắt nhốt, chỉ có vua Bình Sa Vương thôi. Chợt nhớ đến cha mình, ông tìm đến hỏi bà Vi Đề Hy: Cha con có thương con không? Bà đáp: Cha con thương con vô cùng. Khi nhỏ con bị một cái mụt nhọt nơi tay, cha con đã vì con mà mút cả máu mủ cho con lành bệnh. Thế nên duyên khởi của kinh trái với sử liệu, và điều dạy trong kinh khác với căn bản của đạo Phật.

Phật đã lý luận như vậy để phá lầm chấp của Sa Môn và Bà La Môn chủ trương cầu về Thiên Giới. Không lẽ Phật lại chủ trương tương tự để các đệ tử của Ngài đả kích lại sao?

- Tịnh Độ Tông bảo niệm Phật tới đâu thì được Phật rước?

- Dạ đến nhất tâm bất loạn.

- Mấy người niệm Phật tới chỗ đó để được Phật rước?

- Dạ, rất ít.

Còn những người niệm chưa tới thì chết đi về đâu? Phật không rước thì tự sức họ tìm tới cõi Cực Lạc được chăng? Thế nên lời hẹn chết sẽ sinh về Cực Lạc giống như lời hứa ngày mai ăn khỏi trả tiền. Chết rồi sinh hay không sinh ai biết? Ai hỏi tôi về Tịnh Độ tôi chỉ nói tới nhất tâm bất loạn. Còn vãng sanh thì tôi không nói tới. Trong kinh A di đà có nói nhân dân ở cõi Cực Lạc mỗi ngày đem hoa đi cúng dường Thập phương quốc độ chư Phật rồi trở về chỉ trong khoảng bữa ăn. Tại sao không ai ghé qua đây báo cho người thân biết?

- Thưa Thầy: Theo truyền thuyết, hội niệm Phật của ngài Tuệ Viễn có những người được vãng sanh trở về báo mộng cho huynh đệ?

- Thì cũng giống như vua Hiếu Minh Đế nói: giở tháp tổ Đạt Ma thấy còn một chiếc giầy vậy mà. Đạo Phật nói chuyện thức tế, không nói chuyện mộng. Ngay hiện tại mình buông được tham, sân, si thấy đúng lẽ thật là giải thoát. Còn nói niệm Phật để hẹn về một cõi mà mình không hề biết, không tiếp xúc với ai trong cõi đó trở về, giống như người bắc thang giữa chỗ đất trống để đi lên ngôi nhà mà họ không biết ở đâu! Có phải là chuyện mơ hồ không?

Đại Thừa là khai triển của Nguyên Thủy là phải phù hợp với căn bản ban đầu xác thực, hiện tại, không viễn vông xa xôi; chứ không thể đánh mất căn bản được. Niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ rất trái với căn bản ban đầu của đức Phật dạy. Kinh Tịnh Độ lại xuất hiện sau này. Một pháp môn như vậy mà nhận là lối tu chánh của Phật giáo có phải đau lòng không? Bây giờ đa số chùa nào cũng chủ trương niệm Phật, rồi theo lối ỷ lại đó mà lập ra cúng kiếng đủ thứ. Mấy chú biết việc cúng kiếng cầu an, cầu siêu là do đâu mà có không? Là do đạo Phật đến Trung Hoa, một đất nước Nho giáo, lễ nghi rườm rà. Người dân bỏ Nho theo Phật, có ai mất, họ cần một lễ nghi theo tập quán. Nếu chùa không đáp ứng không lẽ họ trở lại mời mấy ông Nho làm lễ? Thôi thì mấy thầy tùy thuận vớ đại bài kinh nào đó tụng gọi là cầu siêu cho họ vui. Đó là đạo Phật tùy tục chớ không phải bản chất của đạo Phật là như vậy, nhưng tùy tục thuyết rồi minh chìm luôn trong đó, cho việc cúng kiếng cầu an, cầu siêu là Phật sự. Không thấy việc quan yếu của đạo Phật là phải thực hành giải thoát.

Tôi rầu nhất là mấy thầy mình, cầu an cho người được tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ, mà chính mình lại nhờ bác sĩ chữa bệnh. Sao không cầu an cho mình trước? Chính bản thân mình không lợi ích gì trong việc cầu xin đó, mà cứ lo cầu xin cho người, có phải là đã làm một chuyện dường như lừa gạt rồi không?.

Kinh Di Đà đâu phải để cầu siêu, cũng như kinh Phổ Môn đâu phải để cầu an… mà mình gán cho đó là cầu an, cầu siêu… Đạo Phật đã tùy tục mà lập ra các nghi lễ đó cho vui lòng người để làm phương tiện giáo hóa họ những điều chánh đáng hơn. Cũng như trong đạo Phật đâu có làm lễ cưới, mà bây giờ cũng có chỗ làm lễ cưới cho Phật tử, là do ảnh hưởng nào?

- Dạ, do ảnh hưởng Thiên Chúa giáo.

- Vậy đó, chỉ vì tạm phù hợp theo nhân tình đòi hỏi nhất thời thôi, chứ mình trong đạo Phật không có các chuyện đó. Chúng ta hôm nay đứng vào chỗ giao lưu của Đại Thừa và Nguyên Thủy, nên phải sáng suốt thấy rõ những điều đúng sai, khuyết điểm của mình phải biết mà sửa đổi”…

5/ Sách Đường Về Xứ Phật, tập 7, Trưởng Lão Thích Thông Lạc, NXB Tôn Giáo, PL: 2551 – DL: 2007.

“Người đại ác nhờ hộ niệm mà được tiêu tội, tiêu nghiệp và được đức Phật A Di Đà đón về Cực Lạc Tây Phương thì ông Phật Di Đà chắc ông là người điên, sao dám rước người ác về nước mình, rồi biến hoa sen thành tù ngục để nhốt họ trong đó… Đất nước Phật Di Đà nghe nói hai chữ Cực Lạc có nghĩa là rất vui, thế mà còn có kẻ bị nhốt trong hoa sen thì có vui gì? Đó là hình thức một cái nhà tù ở cõi ấy… Đã ở Tây Phương cực lạc, nơi đầy đủ, sung sướng, nhưng còn xài tiền giả, tiền âm phủ, mặc quần áo đồ giấy… thì quý vị nghĩ thế nào?...”

6/ Sách Đường Về Xứ Phật, tập 4, Trưởng Lão Thích Thông Lạc, NXB Tôn Giáo, PL: 2550 – DL: 2006, trang 316, 317.

“Tu theo đạo Phật là cả một đời tu, với bao tâm huyết, mới diệt được lòng tham sân si, cho nên nhiều người không ý chí, không gan dạ, nghị lực… bỏ cuộc tu hành. Vì thế, Phật giáo phát triển (Đại Thừa) biết rõ tâm lý những người nầy nên sinh ra pháp môn Tịnh Độ để lôi họ vào mê hồn trận ảo tưởng thế giới siêu hình tưởng tri… Do đó, Phật giáo trở thành Thần giáo mê tín, lạc hậu làm mất chánh pháp của Phật giáo… pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn phi đạo đức. Hãy lắng nghe lời đức Phật A Di Đà dạy:

Thiện nam tín nữ các người,

Chí thánh tưởng Phật niệm mười tiếng ra.

Ta không rước ở nước ta,

Thề không làm Phật chắc đà không sai”.

Trên đây là một lời nguyện trong 48 lời nguyện của đức Phật A Di Đà… Tâm tham sân si còn một bụng mà chỉ niệm có 10 câu Phật được rước về cõi Cực Lạc Tây Phương thì sự việc đó không bao giờ có. Lời nguyền này của Phật Di Đà là lời lường gạt người, là lời nói láo, không thật… Nếu đức Phật A Di Đà mà rước những người ác này về nước của mình thì đất nước này sẽ là một đất nước trộm cắp. Một người còn tham sân si mà tụng kinh Di Đà sẽ được siêu sanh tịnh độ. Thật là lừa đảo vô đạo đức. Làm sao niệm Phật mà hết tham sân si, cho nên pháp môn Tịnh Độ là pháp môn phi đạo đức, lừa đảo người khác. Khi nào những pháp môn mê tín này được quét sạch ra khỏi Phật giáo thì nền đạo đức nhân bản – nhân quả mới được phổ biến rộng khắp nơi”…

7/ Sách Pháp Môn Niệm Phật, Trưởng Lão Thích Thông Lạc, NXB Tôn Giáo, PL: 2553 – DL: 2009.

“Sau khi đọc xong tạng kinh Nikaya do H.T Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali sang tiếng Việt, chúng tôi không thấy có bài kinh nào đức Phật dạy niệm danh hiệu của ngài, nhất là lại còn không thấy đức Phật dạy niệm Lục Tự Di Đà để cầu về cõi Cực Lạc Tây Phương… Kết quả pháp môn niệm Lục Tự Di Đà là cầu vãng sanh Cực Lạc Tây Phương, đó là cầu về một thế giới ảo tưởng, thế giới không thật có… Muốn làm chủ bệnh tật, tai nạn thì chỉ có lấy giới luật và đức hạnh mới chuyển quả khổ của mọi người thành sự sống an vui… Từ các pháp môn niệm Phật của Bắc tông đến niệm Phật của Nam tông đều không phải Phật thuyết mà của người sau sản xuất, xin quý Phật tử lưu ý để tránh tu tập sai pháp của Phật mà phí công sức và uổng một đời tu tập”…

ĐÔI DÒNG TÂM SỰ

Kính thưa quý vị!

Sau khi đọc xong những cuốn kinh sách nói trên, tôi ngỡ ngàng, trăn trở, với các băng giảng thuyết pháp tôi đã nghe đọc bài của thầy Thích Minh Thành trong cuốn “Niệm Phật Cảnh”, thật trái ngược lại lời giảng của H.T Tịnh Không qua sách “Khai Thị”. Không đúng Chánh Pháp, sai lịch sử theo thầy Chơn Quang qua phần Cõi Mơ Hồ trong sách “Cuối Hàng Dương”. Một pháp môn phi đạo đức, phi nhân quả, lường gạt Phật tử theo “Đường Về Xứ Phật” và pháp môn niệm danh hiệu Phật hoặc Lục Tự Di Đà là không có thật theo như sách “Pháp Môn Niệm Phật” của thầy Thích Thông Lạc.

Theo lời đức Thích Ca chỉ dạy: cần thông hiểu những gì phải thông hiểu; chớ vội tin theo truyền thuyết, truyền thống, kinh điển… Kính mong những bậc cao minh có gì hiểu rõ hơn xin chia sẻ cho chúng tôi, để niềm tin Phật pháp được vững chắc, và cũng vì sự tồn vong của đạo Phật, và sự giải thoát cho chúng sinh không còn đau khổ luân hồi. Để Phật giáo không bị một thế lực Ma Vương nào núp bóng đội lốt Bổn Sư Thích Ca để phá Ngài, phỉ báng người mình tôn kính, phá hoại đạo Phật mình đang theo. Để không còn ai đó được gọi là Sư, Thầy, Đại Đức… lợi dụng lòng tin của Phật tử mà lừa đảo lường gạt họ, để sống một đời sống vua chúa, chùa to, Phật lớn như thầy Thông Lạc nói, ngồi mát ăn bát vàng, phá giới, phạm giới, 10 giới Sa Di không giữ nổi mà đòi 250, 348 giới…

Với sự trăn trở về con đường tu hành của mình lâu nay, nên tôi mạo muội viết ra những lời tâm sự này cùng sự trích dẫn một số ít các kinh sách làm bằng cớ; mục đích để quý vị nào biết đâu là Chơn, đâu Giả mà giảng giải chỉ dạy.

Hiện nay tôi và một số bạn đồng tu, sau khi đọc qua các kinh sách nói trên, đều dừng hết tu niệm Phật A Di Đà. Ước mong các vị có trách nhiệm trong Ban Tôn Giáo, Ban Hoằng Pháp Trung Ương; Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, các Sư, Thầy… hãy hòa hợp lại chỉ cho các Phật tử chúng tôi rõ một con đường, một pháp môn đúng Chánh Phật Pháp để tu tập, và còn kinh sách nào viết sai, in sai? Vị thầy nào nói đúng với những gì đức Bổn Sư Thích Ca đã dạy, kính mong quý vị có thẩm quyền nói thẳng, nói thật, chỉ rõ, vạch rõ, đừng sợ sự thật và phải quyết tâm chấn chỉnh lại!

Chúng tôi vô cùng biết ơn quý vị!

Trong tập tâm sự này, có gì quá lời cũng vì sự bức xúc, kính mong quý vị từ bi hoan hỉ, thông cảm, tha thứ cho.

Cảm ơn quý vị đã đọc những lời tâm sự này!

LỜI BÌNH:

Kính thưa các quý vị!

Nghiệp chướng Tham Sân Si đã có sẵn trong mỗi cá nhân và môi trường sống: Sanh, lão, bệnh, tử. Nó đã hấp dẫn con người từ ngàn xưa cho đến tận bao giờ? Con người vẫn tiếp tục sai lầm, tàn phá môi trường, tranh danh đoạt lợi vì bát cơm manh áo, ăn uống và dâm dật!

Có hay không thế giới Tây Phương Cực Lạc? Nước Chúa? Nước Trời? Nào trả lời đi các nhà lãnh đạo đa dạng thể loại tôn giáo, trả lời đi các nhà khoa học phương Tây, phương Đông! Sau khi chết đi đâu, về đâu, thành gì? - Không biết. !!!

Đức Phật dạy: cầu bất đắc khổ. Toàn nhân loại hãy trở về với nguyên lý của Vũ trụ: Đạo đức Nhân Bản – Nhân Quả, sống không làm khổ mình, khổ người và làm khổ chúng sinh. Với nguyên lý này: Khổ, Tập, Diệt, Đạo (Bát Chánh Đạo) sẽ đem lại cho toàn nhân loại một gương mặt hạnh phúc mới, tươi đẹp hơn, hạnh phúc và an lạc ngay giữa cuộc đời, ngay tại thế gian này là Cực Lạc Tây Phương, là nước Chúa, nước Trời.

Đạo Đức Nhân Bản – Nhân Quả, nguyên lý này có sức mạnh tổng hợp hơn cả trăm ngàn lần cầu cúng, giải hạn, đốt vàng mã,…

Tôn giáo và khoa học cần chú ý: đức Phật dạy hãy tự mình ăn thiện, nói thiện và hành Thập Thiện, hãy tự bản thân mỗi cá nhân cất bước, đồng hành với Chánh Pháp Nguyên Thủy của đức Như Lai.

Đạo Đức Nhân Bản – Nhân Quả, nguyên lý này sẽ giải quyết căn bản phiền não và khổ đau: co giật trên giường bệnh, tai nạn giao thông, dịch bệnh tai xanh, tai đỏ, bệnh viện quá tải, biến đổi khí hậu, động đất, sóng thần, tham ô, tham nhũng…

Đức Phật dạy Bát Chánh Đạo sẽ giải quyết triệt để. Tha lực và “linh hồn”, cầu cúng không giải quyết được!

Kính ghi! Nguyễn Hoàng Giang, số 74, đường 8B, phường Vinh Tân, Tp. Vinh, Nghệ An.

Điện thoại: 016.8236.0749

035-GIỌT NẮNG CHƠN NHƯ THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM ĐỨC TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM 

ĐẠI TRƯỞNG LÃO VIỆN CHỦ TU VIỆN CHƠN NHƯ THÍCH THÔNG LẠC ĐÃ XẢ BỎ THÂN NHÂN QUẢ, TƯƠNG ƯNG VÀO TỪ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG - THANH THẢN - AN LẠC - VÔ SỰ LÚC 24 GIỜ ĐÊM 01-01-2013. LỄ AN TÁNG ĐƯỢC CHÚNG ĐỆ TỬ CỬ HÀNH HOÀN TẤT LÚC 16 GIỜ NGÀY 02-01-2013 TẠI TU VIỆN CHƠN NHƯ ẤP GIA LÂM, XÃ GIA LỘC, HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH.

**********

 

Trân trọng kính mời qúy độc giả đọc BỨC TÂM THƯ của Trưởng Lão Thích Thông Lạc viết ngày 01-12- 2012. BỨC TÂM THƯ được viết đúng một tháng trước ngày Trưởng Lão viên tịch 01-01-2013

036-THÔNG BÁO CỦA TU VIỆN CHƠN NHƯ ĐỨC TRƯỞNG LÃO ĐÃ NHẬP DIỆT

THÔNG BÁO CỦA TU VIỆN CHƠN NHƯ

ĐỨC TRƯỞNG LÃO ĐÃ NHẬP DIỆT

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính thưa quý vị bạn đọc và Phật tử xa gần. Tu Viện Chơn Như xin thông báo một tin buồn đối với đa số chúng ta:

Hồi 12h đêm ngày 01/01/2013, tức ngày 20/11 năm Nhâm Thìn, Đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc, viện chủ Tu Viện Chơn Như, vị Thầy kính yêu của chúng tôi đã nhập diệt, an nghỉ vĩnh viễn trong trạng thái giải thoát Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự.

Lễ viếng và tiễn đưa Đức Trưởng Lão về nơi an nghỉ cuối cùng đã diễn ra hồi 14h-16h ngày 02/01/2013. Trưởng Lão được an táng giữa khu vườn cây phía trước Nhà sách của Tu Viện (ngay bên phải cổng vào khu trong), như di chúc của Người. 

Chúng con thành kính tri ân công đức như trời biển của Đức Trưởng Lão. Ngài đã vượt qua bao gian khó, cả cuộc đời xả thân tu hành và giáo hóa độ sinh, dựng lại Chánh pháp Phật giáo cho chúng con ngày nay có con đường tu tập vượt qua 4 nỗi khổ của cuộc đời.

Chúng con nguyện ước theo gương Người, tự tu giải thoát cho bản thân và nhân rộng nền Đạo Đức Nhân Bản - Nhân Quả để làm lợi ích cho nhân loại và muôn loài chúng sinh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc
 
 

 

037-MÙA XUÂN VĨNH CỬU - Từ Đồng

Cảm Tác Sau Lễ An Táng Thầy Viện Chủ

Tiếng chuông điện thoại reo vang, chúng tôi nhìn vào màn hình của điện thoại thấy nổi số mã vùng quốc tế Việt Nam, giờ ngày nếu tính theo múi giờ tại Việt Nam là 01giờ 15 phút sáng (tại Hoa Kỳ là 01:15 PM) của ngày 02 tháng 01 năm 2013. Lại có chuyện gì đây! Chúng tôi tự hỏi… Nhưng rồi cũng tắt máy và bấm lại số đã gọi (vì chúng tôi luôn luôn không muốn phải tốn kém tiền cước viễn liên từ Việt Nam)… Một giọng nói trầm buồn của một Phật tử khác hẳn hơn những ngày thường mà thỉnh thoảng chúng tôi thường liên lạc.Thầy đã nhập Niết Bàn rồi…..” Một giây phút tắt lịm trong tâm chúng tôi, nhưng rồi nó dừng lại ngay, sau một vài câu thăm hỏi tình hình và thời gian ra đi của Thầy và cúp máy, chúng tôi biết là mình sẽ phải làm gì. Gọi điện thoại, chuyển tin nhắn qua mọi phương tiện truyền thông để gởi đến cho các bạn đồng pháp tại hải ngoại (kể cả Việt Nam), những nơi mà chúng tôi có được số điện thoại và địa chỉ mail…

Kính thưa Thầy!

Vị Thầy tôn kính của chúng con, Thầy đã ra đi một cách an nhiên tự tại. Một sự mất mát to lớn đến với chúng con những đứa con vẫn còn đam mê, khờ dại không chịu lắng nghe những lời giáo huấn của Thầy. Bức “Tâm thư gởi các con” ngày 01 tháng 12 năm 2012,vừa đúng một tháng nó như là một lời nhắn nhủ cuối cùng của Thầy đối với chúng con. Một Di chúc không lời của Thầy để lại đó là: Thầy đã nhập diệt, an nghỉ vĩnh viễn trong trạng thái giải thoát Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự. Và không tổ chức phúng điếu, thăm viếng, không nhang đèn, hoa quả, không xây tháp thờ tự v.v… như lời tường thuật của một bài viết “TIN SƠ LƯỢC VỀ LỄ AN TÁNG TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC” của Phật tử Thiện Đức - Nguyễn Mạnh Hùng…

Một di chúc không cần giấy mực, chữ ký, dấu ấn v.v…, nhưng nó đã làm thức tỉnh trong chúng đệ tử nói chung và nói riêng cho một số tín đồ của các hệ phái trong Phật Giáo và kể cả những Tôn giáo khác mà những vị này đã có duyên đọc được và xem được một vài hình ảnh trong Tang Lễ. Chúng tôi xin thuật lại một giây phút được tiếp xúc cũng như qua điện thoại v.v… trong đó có cả Tu sĩ ở khác hệ phái: “Thật là một Tang lễ đơn giản có một không hai từ xưa đến nay đối với một vị tuổi hạ lạp cao, vừa là một vị Viện Chủ của một Tu Viện cũng vừa là một thành viên trong Giáo Hội Phật Giáo của một tỉnh (được tấn phong Hoà Thượng từ lâu) vậy mà thật đơn giản! Thật đơn giản. Một câu nói của một tu sĩ Phật Giáo tâm sự rằng: “Chư Tăng, Ni sau này viên tịch sẽ nghĩ gì và làm được gì…? Có làm được, thực hiện được như cố Hòa Thượng Viện Chủ Thích Thông Lạc không???”.

Kính thưa chư Tăng, Ni cùng quý Phật tử đồng pháp!

Chúng con, chúng tôi không cần phải diễn đạt bằng ý, bằng lời trên trang giấy này, vì trong tất cả chúng ta ai ai cũng đã cảm nhận một sự mất mát to lớn của mình đối với một vị Thầy tôn kính của chúng ta.

Hiện thực trước mắt là chúng ta trong lúc này và mai sau luôn thể hiện LÒNG YÊU THƯƠNG, cùng nhau nguyện ước theo gương hạnh của Thầy, tự tu giải thoát cho bản thân và nhân rộng nền “ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ” để làm lợi ích cho nhân loại và muôn loài chúng sinh (như một đoạn trong bản tin của Tu Viện Chơn Như đã viết về Đức Trưởng Lão Nhập Diệt).

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Hôm nay chúng tôi mượn một đề tựa cho bài viết này: “MÙA XUÂN VĨNH CỬU”, để nói lên tâm tư của chúng tôi trong một ý tưởng cách đây không lâu đó là: KHAO KHÁT MỘT MÙA XUÂN – HÀNH HƯƠNG VỀ ĐẤT THÁNH CHƠN NHƯ. Một đoạn văn mà chúng tôi đã viết: “… Hôm nay, lại một lần nữa chúng con từ mọi miền đất nước cũng như nơi hải ngoại xa xôi tập trung về Tu Viện Chơn Như để lắng lòng nghe những lời giáo huấn của Thầy, vì chúng con biết năm nay Thầy đã gần 90 tuổi rồi, không biết một lúc nào đó chúng con có còn được những giây phút gần Thầy nữa không…?”

Vô Thường không có ai tiên liệu và đoán trước được, nó luôn thay đổi từng giây, từng phút từng giờ v.v… Chỉ có vị Minh Sư Chứng đạo mới thấu suốt đường đi của nhân quả. Vì vậy ngày giờ hôm nay tuy biết Thầy mình đã ra đi nhưng sự khao khát một mùa xuân, một mùa xuân luôn luôn có trong tôi, trong các bạn, đó là “MÙA XUÂN VĨNH CỬU”, nó sẽ là một dấu ấn cho tất cả trong chúng ta trên bước đường tu tập giải thoát và thực hiện cho bằng được đó là: “NHÂN RỘNG NỀN ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ” đến với mọi người trên hành tinh này. Ý tưởng trên chúng tôi vẫn tiếp tục, cho dù không còn Thầy…

Kính thưa Đại Chúng cùng các bạn đồng pháp xa gần!

Xin đừng suy nghĩ nhiều về: Thầy ra đi không biết có vị nào tu chứng kế thừa, hay ai sẽ là người thay Thầy (tức là Viện chủ tương lai) vân vân…và vân vân… Hãy giữ gìn: “TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ”.

Xin gởi đến các bạn đồng pháp bốn câu thơ mà chúng tôi đã từng viết cách đây mấy năm:

Cho dù sóng gió Chơn Như

Chúng con luôn nhớ lời khuyên của Thầy

Vững tay lái! Mạnh tay chèo!

Lướt trên ngọn sóng! Đến bờ bình an.

                                                        Thành phố Virginia Beach, ngày 03 tháng 01 năm 2013

                                                                            Nay kính TỪ ĐỒNG

038-SỰ RA ĐI HOÀN HẢO - Trần Công Tấn

Nuối tiếc!, hụt hẫng!. Nhưng không bất ngờ, không bi lụy. Đó là tình cảm chơn thật khi chúng tôi đón nhận tin Trưởng lão Viện chủ Tu viện Chơn Như xả bỏ thân nhân quả, tương ưng vào trạng thái giải thoát BẤT ĐỘNG - THANH THẢN - AN LẠC - VÔ SỰ…

Từ khi Ngài hướng tâm tịnh chỉ hơi thở cuối cùng (12 giờ đêm 01-01-2013), đến lúc chúng đệ tử hoàn tất lễ an táng (4 giờ chiều 02-01-2013), vỏn vẹn đúng 16 tiếng đồng hồ!...

  Không có tang lễ, không cáo phó phân ưu, không cờ phướn rồng rắn, không trống kèn chuông mõ tụng niệm, không trà tì xá lợi nhục thân... Cũng chẳng có lễ nhập kim quan, bảo tháp… thậm chí đến một đóa hoa tươi, một nén hương tưởng niệm cũng không hề có… Kết thúc lễ an táng đơn giản đến mức không thể đơn giản hơn, bằng hai bài phát biểu ngắn đọc mất vài phút, một của đại diện Tu Viện (sư Thích Bảo Nguyên), và một của đại diện tu sinh (Thích nữ Tâm Như). Cuối cùng là lời cảm ơn vắn gọn (sư Thích Mật Hạnh)…

 

Ngài không “thu thần thị tịch”, nhưng hướng tâm tịnh chỉ hơi thở, xả bỏ thân nhân quả một cách nhẹ nhàng. Không có hương hồn, giác linh, mà chỉ có từ trường giải thoát bất động, thanh thản, an lạc, vô sự trùm khắp…

Không gian thuần tịnh thanh khiết của Tu viện vẫn như nó vốn có, bình lặng như không có gì thay đổi, xáo trộn… Xa xa bên kia rào, giữa rừng bạch đàn xen lẫn những cái thất nhỏ, các tu sinh đang độc cư thiền tịnh, miên mật xả tâm ly dục ly ác pháp… Họ không hề biết thầy mình đã ra đi!... Mãi đến giờ khất thực trưa, họ mới được thông báo chuẩn bị viếng Thầy trước giờ an táng…

 

Các tu sinh của Tu viện kính viếng Thầy

 

Còn nhớ trước đây, Ngài đã từng nói: Người tu xong chỉ muốn trút bỏ thân nhân quả này càng sớm càng tốt. Đơn giản vì còn giữ thân ngày nào, ngày ấy còn phải ăn, phải bài tiết! sung sướng gì!... Lại có người hỏi: Bạch Thầy, làm chủ sanh tử thì sao lại còn chết?. Ngài đã trả lời đại ý là: làm chủ sinh tử không có nghĩa là lột da sống đời, không có nghĩa là không phải chết… Làm chủ sanh tử là làm chủ nhân quả. Nhân quả không sanh thì làm gì có tử!...

Nhưng nếu Ngài ra đi sớm, Phật pháp sẽ tàn lụi theo, buộc Ngài phải nấn ná thêm thời gian, với một mục đích duy nhất: “TẠO DUYÊN GIÁO HÓA CHÚNG SANH”. Ngài đã chấp nhận tiếp tục lăn lộn trong môi trường nhân quả, chấp nhận đối mặt với ác pháp, chấp nhận đứng trên đầu sóng ngọn gió, đương đầu với những dòng lũ hung hãn đang muốn vùi dập Ngài, quét phăng chiếc bè Chánh pháp Nguyên thủy Chơn Như. Chúng ta thấy rõ điều đó qua cái gọi là “Hiện tượng Thích Thông Lạc” trên nhiều trang mạng Phật giáo…Bên trong Tu viện cũng nổi lên những trận cuồng phong mà Ngài gọi là “sóng gió Chơn Như”… Thế nhưng Ngài vẫn kiên trì trụ vững trong môi trường ác pháp. Nhờ thế mà Pháp môn Như lý tác ý, Đạo đức Nhân bản Nhân quả v.v… đã được Ngài dựng lại một cách chính xác từ kinh tạng Nguyên thủy Nikaya. Và cũng từ đó, Ngài đã chỉ ra lộ trình từ giới đức làm Người đến giới đức làm Thánh, vạch ra một đạo lộ thẳng tắp đến THÁNH QUẢ VÔ LẬU …

Giờ đây nghĩ lại, “duyên giáo hóa” đã tạo rồi, hàng chục đầu sách, hằng trăm băng đĩa đã phát hành miến phí. Chánh pháp đã được dựng lại. Ngài có thể thanh thản, an lạc, vô sự ra đi!...

Không phải bằng những dự cảm thông thường của kẻ phàm phu, bậc tu chứng biết rõ mình sẽ phải làm gì cho lợi ích quần sinh trước lúc ra đi. Trung tuần tháng 11 năm 2011, dù tuổi già sức yếu, Ngài cũng đã thực hiện một chuyến du hóa miền Bắc, nhằm sách tấn Phật tử ở những nơi Ngài đi qua, Chuyến du hóa được Phật tử miền Bắc hoan hỷ đón nhận…

Năm 2012, năm cuối cùng Ngài tồn tại trong môi trường nhân quả. Ngài lại tổ chức một chuyến đi Hòn Sơn vào cuối tháng 5 năm 2012, chuyến đi này cũng không ngoài mục đích sách tấn tu sinh của Tu viện. Dưới chân núi, Ngài chỉ tay lên chỗ Ngài đã từng ngồi suốt một thời gian dài, sống bằng rau rừng, nước suối, miên mật hành trì pháp môn của sư phụ viện chủ Tu Viện Chơn Không… Ngài ngồi dưới chân núi, chúng đệ tử hào hứng leo lên đến tận chỗ ngồi của Ngài năm xưa, với nguyện ước học tập gương hạnh tinh tấn của Ngài…

Về lại Tu viện, Ngài lại tiếp tục chỉ đạo cho bộ phận phát hành kinh sách rà soát lại các đầu sách dự kiến tái bản. Đầu tháng 12 năm 2012, Ngài viết BỨC TÂM THƯ sau cùng sách tấn chúng đệ tử. Mở đầu bằng câu quen thuộc: “KÍNH GỬI CÁC CON”, kết thúc bằng câu “KÍNH THƯ – THẦY CỦA CÁC CON”… thể hiện văn phong khiêm hạ của một bậc Thánh…

 

  Đúng 4 giờ chiều ngày 02-01-2013, măt trời cách ngọn bạch đàn chưa đầy một với tay… Các tu sinh được phân công đến nâng chiếc áo quan Ngài lên, từ từ di chuyển từ giữa phòng phát hành sách đến huyệt mộ vừa đào ngay phía trước rừng cây mới trồng, nơi mấy hôm trước, Ngài đã chỉ: “chôn thầy chỗ này!”… Chúng đệ tử đứng hai bên chắp tay trước ngực cung kính thầm tác ý: “TÂM BẤT ĐỘNG THANH THẢN AN LẠC VÔ SỰ TRƯỚC CÁC ÁC PHÁP VÀ CÁC CẢM THỌ” để tương ưng với từ trường giải thoát của Ngài.

 

Huyệt mộ đơn sơ

Nhìn huyệt mộ đơn sơ, tôi chợt nhớ lời Ngài trong băng đĩa nào đó mình đã nghe: Khi thầy chết, thầy chỉ xin các con một manh chiếu, bó thầy rồi chôn xuống đất. Ngay trên nấm mộ của thầy, các con trồng một cây xoài, khi nào nhớ thầy, cứ hái xoài mà ăn… Di ngôn của Ngài còn lưu lại trong băng đĩa, nhưng giờ đây chúng đệ tử vì thương Ngài, xin phép được “cãi lời” Ngài một lần: chiếc áo quan bằng gỗ thay cho manh chiếu …

039-TRANG TƯỞNG NIỆM CỐ TRƯỞNG LÃO VIỆN CHỦ TU VIỆN CHƠN NHƯ THÍCH THÔNG LẠC

TRANG TƯỞNG NIỆM

CỐ TRƯỞNG LÃO VIỆN CHỦ TU VIỆN CHƠN NHƯ

THÍCH THÔNG LẠC

(1928 – 2013)

 

 

Kính mời quý độc giả xem

Video tưởng niệm cuộc đời và đạo nghiệp cố TL Thích Thông Lạc

 

Video “Lời nhắc nhở cuối cùng” của cố Trưởng lão Thích Thông Lạc

 

 

Thông báo của Tu viện Chơn Như – Đức Trưởng lão nhập diệt

Giọt Nắng Chơn Như thành kính tưởng niệm

Sự ra đi hoàn hảo – Trần Công Tấn

Lễ an táng Trưởng Lão Thích Thông Lạc – Thiện Đức Nguyễn Mạnh Hùng

Bức Tâm Thư cuối cùng của Trưởng lão Thích Thông Lạc

Mùa xuân vĩnh cửu. Cảm tác sau lễ an táng Thầy Viện Chủ - Từ Đồng

040-BÀI PHÁT BIỂU CỦA ĐẠI DIỆN TU VIỆN CHƠN NHƯ TRONG LỂ AN TÁNG TL THÍCH THÔNG LẠC

TIỂU SỬ ĐỨC TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

(Bài do Sư Thích Bảo Nguyên đọc tại lễ an táng đức Trưởng lão Thông Lạc) 

 

Đức Trưởng lão Thích Thông Lạc, Viện chủ Tu Viện Chơn Như tên thế tục là Lê Ngọc An, sinh năm 1928. Lên 8 tuổi, Thầy được cha mẹ cho xuất gia tu hành theo đạo Phật. Từ đó Thầy trải qua nhiều đoạn trường tu tập các pháp môn khác nhau trước khi tìm ra con đường Chánh Pháp và tu hành chứng đạo.

Từ pháp môn đầu tiên là Mật Tông do ông thân của Thầy là Hòa thượng Thích Thiện Thành chỉ dạy, đến Tịnh Độ Tông với Hòa thượng Thích Thiện Hòa, rồi Thiền Tông với Hòa thượng Thích Thanh Từ. Thầy xả thân tu hành và với pháp môn Thiền Tông, Thầy đã chứng đạt đầy đủ 18 loại hỷ tưởng, tức là triệt ngộ.

Cũng như đức Phật ngày xưa khi tu tập theo giáo pháp Bà La Môn, sau khi chứng ngộ các định Vô Sắc ấy nhưng không thấy giải thoát, nên Ngài đã từ bỏ chúng và tìm ra đường lối tu tập riêng biệt và cuối cùng Ngài chứng đạt chân lý Tứ Diệu Đế. Thầy Thích Thông Lạc cũng vậy, tự nhận thức rằng những định tưởng này không giúp đoạn diệt tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì làm sao để giải thoát và làm chủ được sự sống chết?

“Càng tu bản ngã leo thang,

Nếu tu sai pháp chơn như khó về.”

Nhờ quán xét tận cùng, Thầy chuyển qua tu tập pháp môn “Như Lý Tác Ý” trong Đại Tạng Kinh Nikaya do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt, theo  sự kiến giải của bản thân. Với nhiệt tâm hành trì đúng pháp và được mẹ Thầy một lòng hộ thất, tháng 9 năm 1980 Thầy đã thực hiện xong con đường tu tập của mình. “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành”, nguyện ước làm chủ sanh, già, bệnh, chết của Thầy đã đạt. Mẹ Thầy qua đời một tháng sau khi Thầy thành tựu đạo quả. Bấy giờ Thầy đã 52 tuổi đời và 44 tuổi đạo.  

Như câu nói: “Đạo không lìa Đời”, trước năm 1970 Thầy cũng đã hết lòng tham gia vào công cuộc toàn quốc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Cho đến năm 1970, bàng hoàng sau cái chết của người cha kính yêu, Thầy mới dốc hết tâm sức vào việc tu hành cho đến chứng đạo như trên đã nói.

Sau khi chứng đạo, Thầy không quản ngại khó khăn vất vả để vừa dạy dỗ tu sinh, vừa xây dựng Chùa Am ban đầu thành Tu Viện Chơn Như của ngày nay, là nơi đầy đủ điều kiện tu hành cho các học trò của Thầy từ khắp nơi về đây tu tập.

Cuối cùng Thầy nhập diệt 12h đêm ngày 01/01/2013, tức ngày 20/11 năm Nhâm Thìn sau khi giao phó trọng trách cho các thế hệ sau tiếp tục sứ mạng dựng lại Chánh Pháp Phật Giáo mà Người đã dày công gây dựng.

Xin chân thành cảm ơn các quý đại biểu, bà con và quý vị Phật tử.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô Bổn Sư Thích Thông Lạc. 
 

041-ĐẠI DIỆN TU SINH TU VIỆN CHƠN NHƯ ĐỌC BÀI TRI ÂN THẦY TRONG LỄ AN TÁNG ĐỨC TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

TÂM HƯỚNG

(Bài do tu sinh Thích Nữ Tâm Như đọc tại lễ an táng đức Trưởng lão Thông Lạc)

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

           Kính lạy Thầy!

           Vị cha lành của chúng con!

           Hôm nay, ngày 02/01/2013 nhằm ngày 21 tháng 11 Nhâm Thìn

           Đứng trước Giác linh của Thầy, chúng con nguyện khắc ghi công ơn trời, biển của Thầy trên 30 năm qua (kể từ ngày Thầy chứng đạo).

 

          Thầy đã vượt bao gian khổ suốt hơn 30 năm vì Phật Pháp để dắt dìu chúng con đi tới con đường giải thoát. Từ sự tu tập căn bản của nền tảng đạo đức nhân bản nhân quả, đến sự làm chủ thân tâm, làm chủ sự sống chết.

 

           Hôm nay, đại đa số tu sinh phật tử chúng con đã và đang từng bước cảm nhận hương vị giải thoát này. Mỗi lần xả được một niệm, mỗi lần thắng được thân bệnh, chúng con đều kính dâng lên Thầy từng nén hương tâm với cả tấm lòng thành kính tri ân và nói lên sự quyết tâm tu tập của chúng con.

 

          Từ đây, dù Thầy đã vắng bóng hẳn rồi. Nhưng chúng con luôn luôn tin tưởng rằng từ trường thanh tịnh của Phật, cũng như của Thầy vẫn luôn phủ trùm và lan tỏa khắp trần gian. Đặc biệt là tại Tu Viện Chơn Như thuộc Ấp Gia Lâm - Xã Gia Lộc - Thị trấn Trảng Bàng - Tỉnh Tây Ninh của nước Việt Nam thân yêu.

 

           Thay mặt cho quý tu sinh và quý phật tử, chúng con nguyện hứa sẽ mãi mãi trung thành với lời dạy bảo tràn đầy lòng yêu thương của Thầy. Chúng con sẽ tiếp tục mãi mãi kính dâng lên Phật, lên Thầy những nén hương tâm nữa bằng sự quyết tâm giữ gìn giới luật và bằng sự tu tập của tu sinh, cũng như quý phật tử gần xa, để duy trì mạng mạch của Phật Pháp, làm vui lòng Thầy, mang lại nền đạo đức không làm khổ mình, không làm khổ người đến cả nhân loại như ước nguyện của Thầy bấy lâu nay.

 

         Ngưỡng mong chư Phật, ngưỡng mong Thầy yêu thương, tha thứ chứng minh cho chúng con.

 

            Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

            Nam Mô Trưởng Lão Thích Thông Lạc

 

Với Tâm Bất Động - Thanh Thản - An Lạc - Vô Sự chúng con cùng hướng về Thầy!

 

Với Tâm Bất Động - Thanh Thản - An Lạc - Vô Sự chúng con cùng hướng về Thầy!

 

Với Tâm Bất Động - Thanh Thản - An Lạc - Vô Sự chúng con cùng hướng về Thầy!
 

042-ĐẤNG VĨ NHÂN VƯỢT NGOÀI VÒNG SINH TỬ ĐÃ VỀ CÕI NIẾT BÀN - Thích Nguyên Tánh

Kính bạch đức Thầy tôn kính của chúng con!

            Nghe tiếng điện thoại réo vào lúc hơn hai giờ sáng, Nguyên Tánh con đã linh cảm được điều chẳng lành! Quả đúng như vậy, một tin còn hơn cả sét đánh bên tai: "Đức Thầy vô vàn kính yêu của chúng con nói riêng và của những người lương thiện trên hành tinh này nói chung đã xả bỏ báo thân về cõi Niết Bàn y như đức Phật ngày xưa vào lúc 24 giờ ngày 01 tháng 1 năm 2013.

Dù con đã được Đức Thầy dạy cho tâm bất động trước các nghịch cảnh của cuộc đời, đã gần 11 năm bằng pháp môn Tác Ý và áp dụng nó trị bệnh ung thư cổ và 34 bệnh khác. Thế mà nay con không sao tác ý nổi. Pháp Tác Ý và Như Lý Tác Ý của Thầy ban cho chúng con là độc nhất vô nhị để đoạn trừ mọi khổ não trên cõi đời này chỉ có đạo Phật mới có được, là thanh thư hùng kiếm để vượt biển đời sinh tử, thế mà nay đã hoàn toàn vô hiệu hoá (đối với con). Hai hàng nước mắt cứ thế nối tiếp nhau rơi lã chã không cách nào ngăn nổi nữa rồi. Ôi! Ánh Thái Dương đã chìm trong đêm tối mịt mù, đôi mắt của nhân loại từ đây đã vĩnh viễn khép lại, biết bao giờ được gặp lại đức Thầy, đấng nhân từ bác ái nhất trần gian này nữa hỡi trời ơi!!!

Thật tình mà nói, cả cha mẹ con là đấng dưỡng dục sinh thành mang nặng đẻ đau, thế mà khi phải giã từ song thân, con vẩn giữ được tâm bất động như lời dạy của Thầy. Thế mà nay con đã hai lần khống sao cầm lòng nổi.

Đó là khi nhận được sách quý nhất trên đời "Đường Về Xứ Phật" của Thầy biên soạn chỉ cho chúng con nẻo chánh đường tà, đâu là của đức Phật, đâu là của các vị Tổ Sư, đâu là con đường mà toàn thể tín đồ Phật giáo trên hành tinh đã nhận Giả làm Chân để triệu triệu người tu mà chẳng một người giải thoát.

Và hôm nay con lại khóc khi nghe tin đức Phật thứ hai của đầu thiên niên kỷ thứ 3, người dựng lại Chánh Pháp của đức Phật lại lần nữa tịnh chỉ hơi thở để tương ưng vào từ trường Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự đúng như bài kệ ngày xưa đức Phật để lại mà sợ người đời không tin nên đức Thầy đã khắc vào bia đá đặt trước Tổ Đường Tu Viện Chân Như:

"Không thở ra thở vào

Tâm trú trong Chánh Định

Tâm an trú tịch tịnh

Với tâm an bất động

Như đèn sáng chợt tắt

Tâm giải thoát Niết Bàn"

Ôi! Thiền của đức Phật có công năng diệu kì, tịnh chỉ hoàn toàn hơi thở để chết theo ý muốn của mình, nghe thật khó tin nhưng lại là điều có thật qua việc nhập định để làm chủ sự chết của Thầy dễ dàng như trở bàn tay.

Bao nhiêu băng giảng, hàng vạn trang giáo án biên soạn của Thầy hôm nay đã được chứng minh cho những ai còn có tâm nghi kỵ, phỉ báng những lời dạy của đức Phật, của Thầy để rồi biến họ thành những con ma vương ra sức diệt chết đạo Phật mà đức Thầy đã dùng máu và nước mắt khổ công tu chứng để dựng lại cứu trần gian thoát ra khỏi bốn nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết mà 26 thế kỷ nay, kể từ khi đức Phật nhập Niết Bàn chỉ có Thầy làm được.

            Thế rồi cũng nhờ pháp Tác Ý của Thầy ban cho chúng con mà dần dần tâm thương nhớ được vơi đi, một phần nhờ bài kệ của đức Phật dạy trong kinh Di Giáo mà cách đây ngót 26 thế kỷ qua Ngài đã để lại:

"Thế Tôn nhập Niết Bàn

Vẫn khởi tâm đại bi

Họp các chúng Tỷ kheo

Di Giáo Giới như vậy

Chớ nghĩ Ta Niết Bàn

Không còn ai dẫn dắt

Kinh điển và Giới Luật

Những lời Ta dạy rõ

Hãy xem đó như Phật

Còn sống mãi thế gian

Ta nay nhập Niết Bàn

Giới và Kinh còn mãi

Thì Phật Pháp thường còn

Ai hành trì Giới Luật

Niết Bàn được chứng nhập

Không hành trì Giới Luật

Giới Luật không nghiêm túc

Xem như mặt Trời lặn

Thế Giới mãi tối tăm"

Phải rồi, tài sản vô giá của nhâm loại đã được đức Thầy suốt ba mươi ba năm trường ròng rã không một phút giây ngơi nghĩ để khổ công dựng lại đã ban tặng cho thế gian hết cả rồi, Thầy chẳng dấu diếm một pháp môn nào nữa. Chỉ có điều vàng bạc châu báu đó, mùa xuân bất tử đó ở nơi mỗi chúng sinh, mọi người có biết cách lấy ra mà dùng nữa hay không mà thôi:

"Ai hành trì Giới Luật

Niết Bàn được chứng nhập

Không hành trì Giới Luật

Giới Luật không nghiêm túc

Xem như mặt Trời lặn

Thế Giới mãi tối tăm"

Thế là chúng con, Tổ Phật học Nguyên Thuỷ Tám Giới Bát Quan Trai Nghệ An, Hà Tĩnh không ai bảo ai gạt nước mắt, kẻ máy bay, người ô tô, tàu hoả băng dải Trường Sơn hàng ngàn cây số để được đến bên vị Cha Lành yêu kính nhất trần gian - Người đầu tiên của nhân loại đầu thế kỷ 21 đã chỉ dạy chúng con con đường để làm chủ bốn nỗi khổ trên đời là sinh, già, bệnh, chết như thật mà chúng con đã có nhiều người thành tựu, đã áp dụng đẩy lùi được cả bệnh ung thư cổ và ung thư vú cũng như hàng loạt bệnh khác mà chẳng mất một xu nhỏ nào.

Điều này đã minh chứng hùng hồn qua bài kệ trong kinh Pháp Cú:

"Vui thay chúng ta sống

Không bệnh giữa ốm đau

Giữa những người bệnh hoạn

Ta sống không ốm đau."

Đó là chuyện có thật mà Thầy đã tận tâm tận lực chỉ dạy chúng con làm được như Phật, như Thầy. Dù cho kẻ ngoại đạo kia vì tham danh, tham lợi, có cố tình tìm đủ mọi cách chống báng, phỉ báng, mạ lỵ Thầy để bảo vệ cho kinh Bát Nhã của chư Tổ thì chân lý vẫn cứ là chân lý, mặt trời vẫn cứ là mặt trời không thể nào khác được, đúng như lời giới thiệu trong kinh Trung Bộ của H.T Minh Châu dạy:

            "Càng dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ Tiểu Thừa để gán vào những lời dạy thực sự nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà LaMôn đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân lý, mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc đo tài của những ngọn đèn lẻ tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh đi vào con đường Triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng rực rỡ của chân lý quét sạch."

Để nói lên công ơn trời cao khó sánh của đức Phật, đức Thầy, chúng con xin ghi lại đôi dòng tâm nguyện của chúng con. Từ mùa thu năm 2004, chúng con đã vượt hàng ngàn cây số về đất Thánh Chơn Như để được đánh lễ bậc Thầy (và cô em gái út là Thích nữ Diệu Quang đã có công giúp đỡ Thầy khổ công tu hành chứng đạo), xin được quy y ba ngôi Tam Bảo và chiêm bái Thánh tích nơi đã sinh ra bậc vĩ nhân có một không hai của nhân loại mà gần đây như có linh cảm báo trước, chúng con có đính chính lại cho được đầy đủ hơn qua kinh nghiệm tu tập trong 11 năm qua để cho ai đủ duyên tìm về con đường thoát khổ được như chúng con - Đệ Tử Của Bậc Chánh Đẳng Giác.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Bổn Sư  Trưỡng Lão Thích Thông Lạc

                                   Tâm nguyện của Tổ Thọ Bát  Phật Học Nguyên Thuỷ Nghệ An Hà Tĩnh

                                                                       Thích Nguyên Tánh

043-CUỘC HỌP TỨ CHÚNG ĐẦU TIÊN SAU KHI ĐỨC TRƯỞNG LÃO NHẬP DIỆT

Kính thưa quý vị phật tử và bạn đọc, ngày 05/01/2013, Tu Viện Chơn Như đã tổ chức cuộc họp Tứ chúng lần đầu tiên kể từ khi Đức Trưởng Lão nhập diệt. Thầy Thích Mật Hạnh, Tu viện trưởng làm chủ trì cuộc họp. Thầy Thích Bảo Nguyên phụ trách dẫn chương trình, giới thiệu nội dung cuộc họp. Cuộc họp gồm 5 nội dung chính như sau:

1- Cư sĩ Lã Ngọc Tỉnh đọc di chúc của Đức Trưởng Lão:

Trong di chúc, Đức Trưởng Lão giao toàn bộ 8 khu vực của Tu Viện gồm: khu Tiếp nhận Nam, khu Chuyên tu Nam, khu Tiếp nhận Nữ, khu Chuyên tu Nữ, khu A, khu nhà bếp, khu cổng 1 và khu nghĩa địa cho thầy Mật Hạnh được toàn quyền quản lý, điều hành sử dụng cho các hoạt động của Tu Viện.

Ngoài ra, trong di chúc Đức Trưởng Lão còn chỉ định cư sĩ Nguyễn Thị Thùy Trang tiếp tục cộng sự cùng thầy Mật Hạnh về Đạo pháp và phụ trách các công việc như đã từng phụng sự Trưởng Lão bấy lâu.

Trong di chúc, Đức Trưởng Lão cũng chu đáo căn dặn việc tang lễ của Người phải tổ chức sao cho đơn giản, trang nghiêm, chu đáo, tiết kiệm, và giao cho thầy Mật Hạnh chủ trì.

Phần cuối trong di chúc, Trưởng Lão không quên căn dặn các học trò của mình hãy vững tin vào Chánh pháp, giữ gìn Giới luật, sống đời Đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh để đạt được đạo quả giải thoát.

2- Thầy Bảo Nguyên tổng kết về Tang lễ Đức Trưởng Lão:

- Đã thực hiện đúng di chúc của Trưởng Lão.

- Ghi nhận công sức của các Tăng, Ni và Phật tử đã tham gia việc tổ chức Tang lễ.

3- Thầy Bảo Nguyên nói về nội bộ Tu Viện:

- Tu Viện vẫn duy trì bộ máy hoạt động như khi Đức Trưởng Lão còn tại thế. Duy chỉ có việc thầy Mật Hạnh lên làm Tu viện trưởng thay Trưởng Lão.

- Tu Viện tiếp tục thực hiện Giới luật và đường lối tu tập như trước đây, theo những gì Trưởng Lão đã chỉ dạy.

- Tứ chúng phải tin tưởng tuyệt đối vào Chánh pháp và những lời căn dặn trong Di chúc mà Trưởng Lão để lại.

- Tứ chúng phải đoàn kết và nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ của mình.

- Tứ chúng phải nghiêm trì Giới luật.

4- Cư sĩ Lã Ngọc Tỉnh lên phát biểu:

- Nhiều dư luận tốt về Tang lễ Đức Trưởng Lão.

- Đức Trưởng Lão đã thực hiện chu toàn mọi việc từ lâu, trước khi Người ra đi trong sự thanh thản, an lạc giải thoát.

- Các Phật tử không bơ vơ vì còn có Giới luật, có Chánh pháp, và có những người kế cận Trưởng Lão xứng đáng.

- Tin tưởng Tu Viện sẽ ngày càng vững mạnh và phát triển, nhưng tương lai này phụ thuộc vào tất cả các Tu sinh.

5- Thầy Mật Hạnh sách tấn Tứ chúng:

- Cảm ơn các Tăng, Ni và Phật tử đã tham gia Tang lễ Đức Trưởng Lão.

- Tu Viện luôn rộng cửa đón nhận và tạo mọi điều kiện cần thiết cho các tu sinh về đây tu tập, nhưng cũng không lôi kéo nếu họ muốn ra đi.

- Khẳng định sự đoàn kết từ trước đến nay trong nội bộ Tu Viện, nhất là sự thống nhất trong Ban điều hành.

- Kêu gọi Tứ chúng phải có tri kiến và cảnh giác nếu có các dư luận muốn nhắm vào phá hoại Tu Viện.

6- Thầy Bảo Nguyên kết thúc cuộc họp, một lần nữa nhấn mạnh về Giới luật.

Giảng đường mới hoàn thành trước ngày Trưởng lão nhập diệt

044-TRI ÂN ĐỨC TRƯỞNG LÃO, NGƯỜI ĐÃ DẠY CÁCH LÀM CHỦ BỐN SỰ ĐAU KHỔ - Tỷ kheo Thích Nguyên Tánh

Kính thưa quý độc giả, hành giả cùng tất cả những ai được sinh ra làm người trên thế gian này, sau đây là cảm xúc tự đáy lòng chúng tôi về bậc Thầy khả kính đã xả bỏ báo thân nhập Niết Bàn về cõi An Lạc Vĩnh Hằng Bất Sinh, Bất Diệt một cách tự tại theo ý muốn. Chúng tôi xin có mấy lời bộc bạch gọi là lòng biết ơn trời biển của Ngài đã tận tình chỉ dạy chúng tôi làm chủ bốn nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi để mọi người cùng tham khảo.

Nghe tiếng điện thoại réo vào lúc hơn hai giờ sáng, Nguyên Tánh con đã linh cảm được điều chẳng lành! Quả đúng như vậy, một tin còn hơn cả sét đánh ngang tai:

"Đức Thầy vô vàn kính yêu của chúng con nói riêng và của những người yêu chuộng hoà bình công lý trên hành tinh này nói chung đã xả bỏ báo thân về cõi Niết Bàn y như đức Phật ngày xưa vào lúc 12 giờ đêm ngày 01 tháng 01 năm 2013.

Ôi! Ánh Thái Dương đã chìm trong đêm tối mịt mù, đôi mắt của nhân loại từ đây đã vĩnh viễn khép lại, biết bao giờ được gặp lại đức Thầy - đấng nhân từ bác ái nhất trần gian này nữa, hỡi trời cao đất dày, hỡi nhân loại trên quả địa cầu, nào ai có thấu nỗi lòng này của chúng tôi chăng? Những giây phút mà chúng con cảm thấy đất trời đang nghiêng ngửa quả đất như ngừng quay, trái tim ngừng nhịp đập để tiển biệt đấng vĩ nhân về với cõi vĩnh hằng, về với mùa xuân ngàn đời bất diệt, về với nơi từ trường thiện hoàn toàn, nơi cõi niết bàn chấm dứt mọi khổ đau nhân thế ,về với các bậc A La Hán tâm vô lậu và đấng Cha lành tối thượng Thích Ca Mâu Ni!!!

Nhờ nhận được Sách quý nhất trên đời "Đường Về Xứ Phật" của Thầy biên soạn chỉ cho chúng con nẻo Chánh đường Tà, đâu là của đức Phật, đâu là của các vị Tổ Sư là con đường mà toàn thể tín đồ Phật giáo trên hành tinh đã nhận Giả làm Chân, nhận Tà làm Chánh để triệu triệu người tu mà chẳng một người giải thoát, chẳng ai biết cách làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi như đức Thầy tu chứng chỉ dạy chúng con. Đúng như lời Phật dạy:

"Kẻ thù hại kẻ thù

Oan gia hại oan gia

Không bằng tâm hướng tà

Gây ác cho tự than." (Kinh Pháp Cú)

Và hôm nay con lại không cầm lòng được nữa rồi, khi nghe tin đức Phật thứ hai của đầu thiên niên kỷ ba, người duy nhất trên Địa Cầu chỉ có một mình dám dũng cảm đương đầu với cả một hệ thống ngoại đạo đã ăn sâu bén rễ vào lòng người gần hai mươi sáu thế kỷ nay để dựng lại Chánh Pháp của đức Phật. Lại lần nữa y như đức Phật thưở xưa tịnh chỉ hơi thở để nhập về cõi Niết Bàn khi đã hết duyên độ chúng, đúng như bài kệ ngày xưa đức Phật để lại. Một bài kệ được ghi lại còn vẹn nguyên trong kinh tạng Nguyên Thuỷ mà ai đọc cũng có thể hiểu được một cách rõ ràng cụ thể không hề mơ hồ trìu tượng chút nào. Sợ người đời không tin nên đức Thầy đã khắc vào bia đá đặt trước Tổ Đường Tu Viện Chân Như để khi đức Thầy ra đi, nhân loại trên hành tinh về đất nước Việt Nam anh hùng đã có người tu chứng như Phật chiêm bái nơi Thánh Địa thiêng liêng này biết rõ rằng thiền định của đức Như Lai có khả năng nhiệm mầu chính là như vậy:

"Không thở ra thở vào

Tâm trú trong Chánh Định

Tâm an trú tịch tịnh

Với tâm an bất động

Như đèn sáng chợt tắt

Tâm giải thoát Niết Bàn"

Lại nữa, đây là lời dạy được đức Thầy tạc trên bia đá khi đức Phật làm chủ sống chết được ghi lại trong kinh Đại Bát Niết Bàn có lời chú giải qua kinh nghiệm của bậc tu chứng, nếu không thật khó mà hiểu nổi để mọi người biết rằng những gì đức Phật đã thực hành được như thế nào thì nay Thầy của chúng tôi thực hành y như vậy, Thầy chẳng nói láo bao giờ.

Sau đây chúng tôi xin ghi lại nguyên vẹn lời dạy khắc trên bia đá ngày 08 tháng 4 Phật lịch năm 2550, âm lịch năm Bính Tuất, dương lịch năm 2006 pháp môn làm chủ sống chết của đức Phật được Thầy chú giải rất cụ thể do Thích Minh Thiện Phật tử Nam Định Hỷ cúng tạc bia, Tu Viện Chân Như soạn lời bia:

LỜI PHẬT DẠY

PHÁP MÔN LÀM CHỦ SỰ SỐNG CHẾT

"Ngài nhập định Sơ Thiền, xuất Sơ Thiền, Ngài nhập định Nhị Thiền, xuất Nhị Thiền, Ngài nhập định Tam Thiền, xuất Tam Thiền, Ngài nhập định Tứ Thiền, xuất Tứ Thiền, Ngài lập tức diệt độ." (trích kinh Đại Bát Niết Bàn)

Chú giải: Đoạn kinh trên đây đức Phật dạy chúng ta phương pháp làm chủ sống, chết. Vì thế người tu theo đạo Phật mới tự tại trong sanh tử luân hồi, muốn chết lúc nào là chết lúc đó, muốn sống lúc nào là sống lúc đó. Giặc nhân quả sinh tử luân hồi không còn làm chủ thân tâm chúng ta được nữa.

Học kinh sách Phật để làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Vậy muốn làm chủ sanh (cuộc sống) phải học pháp môn gì? Muốn làm chủ sanh (cuộc sống phải học lớp Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp. Muốn làm chủ già phải học pháp môn gì? Muốn làm chủ già phải học lớp Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn. Muốn làm chủ bệnh phải học pháp môn gì? Muốn làm chủ bệnh phải học lớp Chánh Niệm. Muốn làm chủ chết thì phải học pháp môn gì? Muốn làm chủ chết thì phải học lớp Chánh Định. Lớp Chánh Định tức là phải học bốn thiền:

1-Sơ Thiền; 2-Nhị Thiền; 3-Tam Thiền; 4-Tứ Thiền

            Trước khi nhập Niết Bàn đức Phật dùng bốn thiền này nhập tới nhập lui ba lần. Đến thiền thứ tư thì Ngài tịnh chỉ hơi thở để xả bỏ báo thân một cách tự tại vô ngại trong sự chết theo ý muốn của mình. Đó là để khéo nhắc nhở người đời sau, nếu muốn làm chủ sống chết thì phải tu học và nhập cho được bốn thiền này. Như vậy làm chủ sinh, già, bệnh, chết đều có phương pháp, chứ không phải như trong kinh Đại Thừa và Thiền Tông nói được chứ không làm được.

            Bài pháp trên đây là bốn thiền, một phương pháp làm chủ sống chết của Phật giáo, xin quý vị lưu ý, ngoài bốn thiền này trên thế gian không có một loại thiền nào làm chủ được sống chết tự tại như vậy.

Ôi! Đọc bài kinh này quí vị có biết không? Chúng tôi không còn thấy chữ trên máy vi tính nữa rồi, hai dòng lệ tưởng chừng như đã ráo hoảnh trước những nỗi đau tận cùng của nhân thế khi Chánh Pháp bị mất đi, nay đã được Sư Phụ của chúng tôi dựng lại trước bao đợt sóng Chơn Như ào ào xô tới, giờ đây lại cứ thế tuôn trào khi ghi lại những lời vàng ngọc trên bia đá của Thầy để lại cho hậu thế để đừng bao giờ nhầm lẫn như một thời Thầy và đệ tử của Thầy đã nhầm lẫn.

Lời Phật còn đó, lời Thầy mới đây, thế mà Thầy bỏ Thầy đi bởi chúng sinh phúc mỏng nghiệp dày, để cho bậc Thánh nhân tâm bất động như Thầy cũng không sao khỏi bàng hoàng chua xót! Hết thù trong dến giặc ngoài, một bên một mình Thầy thân thể gầy còm ốm nhom, một bên hàng ngàn vạn triệu, một bên đầy đủ chiến hạm, đại bác, B52, lô cốt, hầm ngầm, xe tăng thiết giáp ngũ dục thế gian không thiếu thứ gì, hùng hùng hổ hổ bạt vía kinh hoàng, một bên chỉ có gậy tầm vông "ăn cháo (một) bữa chạy mười chín cây, sức tao vẩn đủ bắt mày hàng tao".

Một bên cậy số đông hòng dùng thịt đè người, một bên "lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo" lấy tâm từ bi đối trị với tâm tham lam sân hận. Nhờ vậy mà những con trùng trong lông sư tử, những Đề Bà Đạt Đa của thế kỷ 21 không thể dùng voi say, không thể dùng đá núi, không thể dùng bất cứ trở lực ác độc đến đâu để hại được duy nhất có một người, và chỉ một mình Thầy mà thôi.

 Đây mới là điều đáng nói, là điều hết sức kỳ bí, lạ lùng, là chuyện lạ có thật. Tại  sao lại như vậy? Để có đáp án tối ưu nhất, chúng ta hãy ngược dòng thời gian quay về quá khứ cách đây gần 26 thế kỷ để hỏi đấng Từ Phụ đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni bằng xương, bằng thịt được sinh ra từ bào thai như mọi người chứ không phải sinh ra bên hông người mẹ, và khi mới sinh mỗi bước đi của Ngài đã có hoa sen báu dưới chân như kinh sách Đại Thừa đã Thần Thánh hoá, để xin cung kính thưa hỏi Ngài xem lý do gì mà có điều kỳ lạ đó? Xin quý vị hãy nghe lời được xuất phát từ kim ngôn của bậc đại trí, đại nhân:

125. "Hại người không ác tâm,

Người thanh tịnh, không uế,

Tội ác đến kẻ ngu,

Như ngược gió tung bụi."

"Bậc A-La Hán xuất hiện trên đời như cách chim bằng tung gió. Bao nhiêu Tà Giáo Ngoại Đạo sẽ rơi rụng như những chiếc lá vàng mùa thu."

Đó chính là đáp số, là chân lý đã được bậc tu chứng chân lý minh chứng một cách sống động, hùng hồn mà không ai dám chối cãi. Nếu bao nhiêu tà giáo ngoại đạo không rơi rụng như lá mùa thu mà đức Phật đã khẳng định thì tu viện nhỏ nhoi kia làm gì còn tồn tại đến nay để càng ngày càng cứu biết bao người ốm đau bệnh hoạn như chúng tôi, họ đã đốt sạch, phá sạch, Thầy cũng sẻ bị đóng đinh trên cây Thánh Giá như đức Chúa Giê Su, cũng bị bắn như đức Thánh Gandi còn gì sống sót để hôm nay đã tám lăm tuổi đầu, lứa tuổi mà chỉ nhờ vào con cái chăm sóc, ẵm bồng, cháo cơm nuôi dưỡng, chống gậy không vào đất. Vả lại, Thầy bị thương tật nặng do quân thù giã man tra tấn cực hình, dùng gót dày đinh đá Thầy dập hai lá phổi cũng vì Chánh Pháp của đức Phật bị các Tổ bóp chết nên mới ra nông nỗi. Nếu không nhờ năng lực tu chứng để tự phục hồi thì Thầy còn sống chăng cũng đã trở thành người tàn phế, phải nằm ở trại an dưỡng của những người có công với cách mạng, còn nói gì làm được những chuyện trời đất rung chuyển, những chuyện trên cả phi thường mà từ cổ chí kim không ai dám nghĩ tới.

Đó là hàng vạn trang giáo án, hàng trăm băng thuyết pháp chỉ dạy đạo đức làm người, làm Thánh cứu độ nhân gian thoát vòng sinh tử, bệnh đau không còn đi viện, không còn dùng thuốc. Đó là sự thật một trăm phần trăm không ai dám phủ nhận .

Thế mà trớ trêu thay, kẻ ngoại đạo kia vì lý do gì mà tìm đủ mọi cách mạ lỵ, chống báng đến cùng. Phải chăng như Thầy tâm sự với đệ tử là vì "Thầy đã đập bể nồi cơm của họ nên họ mới lồng lộn như thế". Họ chống báng Thầy tức là họ đã nối giáo cho giặc để diệt tận gốc nền đạo đức nhân bản nhân quả của đức Phật tu chứng triển khai, nay lại một lần nữa Thầy tu chứng dựng lại để cứu con người thoát vòng sinh tử để cho mọi người biết đoàn kết thương yêu nhau như con một nhà, để cho thế gian này không còn người bóc lột người, không còn con giết cha, vợ chồng giết nhau vì đồng tiền cắc bạc, bát cơm manh áo. Để không còn chiến tranh, bão tố, sóng thần, động đất, lũ quét, các tệ nạn đang diễn ra từng giờ từng phút cướp đi hàng vạn triệu sinh linh mà các nhà khoa học đã chứng minh rằng vì con người sát sinh và ăn thịt chúng sinh là nguyên nhân chính gây hâm nóng địa cầu.

Như vậy những lời dạy của Thầy là lời dạy loài người phải cứu địa cầu bằng năm điều đạo đức đúng như khoa học xác minh. Nếu họ phỉ báng Thầy tức là họ đã tiêu diệt sự sống trên hành tinh này mà bao thế kỷ nay cha ông đã dùng máu nước mắt tạo dựng. Nếu họ chống lại Thầy tức là họ đã giết chết nền văn minh của nhân loại đem con người vào thời đại đồ đá cũ, vào thời Nguyên Thuỷ, bằng chứng con người đã ăn lông ở lổ cả trên sân khấu, cả những nơi công cộng không còn biết hổ thẹn là gì. Họ phỉ báng Thầy tức là họ đã nối giáo cho con cái họ để giết chết ngay bản thân họ vì năm điều đạo đức, năm tiêu chuẩn làm người cho xứng đáng một con người đã bị họ đang tâm giết chết để thế vào đó một thế giới ảo tưởng tiêu tốn hàng ngàn ngàn tỷ bạc của nhân loại, mà rốt cuộc tiền mất tật mang. Họ phỉ báng Thầy tức là họ đã cõng rắn cắn người nhà, tiêu diệt đất nước Việt Nam bốn ngàn năm lịch sử cha ông ta đã dùng máu và nước mắt để bảo vệ quyền làm người thiêng liêng cao cả. Lời Bác Hồ kêu gọi: "Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do" khiến cho các nhà sư cũng phải cởi áo trả chùa lên đường đánh Mỹ cứu nước, cứu dân.

Vậy việc làm của Thầy có gì phản động, bán nước hại dân đâu mà họ phỉ báng đến cùng như vậy? Họ bảo mọi người hãy cảnh giác sư Thông Lạc vì sư Thông Lạc đã đưa bốn chân lý đức Phật cứu khổ mọi người thoát ra bốn nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, để họ bị bệnh đau dùng pháp Phật đẩy lùi không còn đi viện mà trong đó có cả bản thân họ, con cái của họ. Té ra tội lỗi của đức thầy Thông Lạc là như thế ư? Vì đức thầy Thông Lạc đã dám dũng cảm nói lên một sự thực (như nhà bác học Galilei khi công bố quả đất tròn để phải chết oan mạng) "Không Có Thế Giới Siêu Hình" để cứu con người chuyển mê khai ngộ ư? Vì Thầy đã làm đảo lộn hoàn toàn tà đạo các Tổ mà họ đang theo, đang tin vào thế giới siêu hình tưởng của chư Tổ để làm cho con người bị bệnh thần kinh, điên khùng, tẩu hoả nhập ma, ma nhập do lên đồng nhập xác ư? Phải rồi, vì Thầy đã không chiều theo ý họ muốn, không để cho họ hưởng trọn vẹn ngũ dục thế gian, ngồi mát ăn bát vàng. Vì Thầy đã nói lên một sự thực lợi ích cho mọi người, cho chúng sinh nên con người khi hết bệnh tật tai nạn không còn ai vào chùa để cầu siêu, cầu an, giải hạn, cúng vong tiển linh, đốt áo giấy tiền vàng mã, coi ngày giờ tốt xấu, hướng nhà cửa, mộ phần, gửi hũ hài cốt của người thân đã chết vào chùa để được nghe kinh "tưởng" loại kinh lừa dối thì họ còn lấy tiền đâu để mà xe này xe nọ, sống như vua chúa. Đó là nguyên nhân chính yếu làm cho họ lồng lộn lên như gà phải nước nóng, như đỉa phải vôi.

Vì Thầy có lòng từ biến mãn khắp phương xứ nên kẻ ác tâm không thể tương ưng được nên họ dù muốn bao nhiêu cũng không làm sao hại được Thầy, mà chỉ dùng ngòi bút ngồi tận bên kia Mỹ quốc lải nhải, khua môi múa mép dựng lên cái gọi là "Thư Viện Hoa Sen" để từ những hoa sen rởm đó tạo điều kiện cho những kẻ đạo đức giả vô công rồi nghề dùng ba tấc lưỡi chống báng tận cùng đức Thầy về “tội” dựng lại đạo đức nhân bản nhân quả của đức Phật đã bị các Tổ ném bỏ, để cứu nhân độ thế như đã nói ở trên.

Thế mà lạ lùng thay, sức mạnh thần tiên nào con người bé nhỏ kia, cơ thể chưa đầy bốn mươi ký kia vẩn ung dung tự tại trước một thế lực như thác đổ triều dâng ào ào xô tới, tưởng rằng như họ có thể ăn tươi nuốt sống Thầy trong nháy mắt.

Tại sao Thầy đã thành tựu được điều vĩ đại mà đức Phật đã dùng đến bốn chữ KHÓ! KHÓ! KHÓ! KHÓ! để minh hoạ cho người tu hành?

"Khó thay được làm người

Khó thay được sống còn

Khó thay nghe diệu Pháp (Bốn Chân Lý)

Khó thay Phật ra đời." (trích kinh Pháp Cú)

Xin được thưa rằng:

Vì Thầy đã vâng lời Phật dạy, đã buông xuống hết thảy, đã xả ly hết thảy Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà Kiến. Vì Thầy đã cũng như đức Phật thưở xưa, đã hơn nửa cuộc đời thực hành hết sức vất vả đủ các pháp môn của ngoại đạo từ Mật Tông do Ông Thân Thầy truyền dạy, Tịnh Độ Tông của Đại Thừa, Thầy thấy không có kết quả. Thầy theo học Hoà Thượng Thanh Từ tu Thiền Đông Độ và Thầy cũng đã nhập được bốn thiền vô sắc như đức Phật thưở xưa còn ghi lại nguyên vẹn trong bài kinh số 26 thuộc kinh Trung Bộ, đó là kinh Thánh Cầu. Thế nhưng khi đức Phật chứng đạt từ Không Vô Biên Xứ Tưởng cho đến định cao nhất là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, thế mà Ngài cũng vất bỏ, trong lúc hai vị thầy dạy Ngài khẩn khoản mời Ngài ở lại chia cho nửa toà để độ chúng tu. Thế nhưng Ngài đả sáng suốt nhận thức được rằng bốn thiền này không thể làm chủ được bốn nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết vì khi nhập vào được an lạc nhờ xúc tưởng sinh hỷ lạc, chứ không phải nhờ ly dục sinh hỷ lạc nên tham, sân, si, mạn, nghi không thể nào chấm dứt mà thậm chí lại tăng thêm.

Ngài biết rằng tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến là nguyên nhân của tái sanh luân hồi mà không diệt được thì làm sao làm chủ được bốn nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết nên Ngài bỏ, Ngài đi tìm con đường khác. Nhờ kinh nghiệm này nên trong kinh Pháp Cú, Ngài để lại bài kệ vô cùng quý báu để khuyên người đời sau chớ có nhập bốn thiền này mà bị tẩu hoả nhập ma, bệnh thần kinh, điên khùng mà thầy Thông Lạc thường khuyên dạy mọi người trong 10 tập Đường Về Xứ Phật. Bốn câu kệ đó là:

"Tâm không đầy tràn dục

Tâm không hận công phá

Đoạn tuyệt mọi thiện ác

Kẻ tỉnh, không sợ hãi."

Có nghĩa là "tâm không niệm" hay tâm "vô niệm", hay "không niệm thiện niệm ác để Phật tánh chân như hiện tiền", hay "niệm Phật nhất tâm", hay "tịnh tâm vô thức" của thiền tâm năng dưỡng sinh v.v... đều thuộc về "tâm không" cũng có nghĩa là ức chế ý thức để không cho ý thức hoạt động (Như cái chết lâm sàng sống lại rồi thấy ma quỷ, thần thánh, linh hồn người chết) lúc này dành chỗ cho nhóm tế bào "tưởng thức" trong não bộ hoạt động y như người ngủ mơ vậy.

Thế nhưng sau này chư Tổ vẫn không nghe Phật nên vẩn triển khai "tâm không" này mặc dầu phần cuối bài kệ đức Phật đã nhắc nhở: "Kẻ tỉnh, không sợ hãi" chính là nhắc người đời nên tỉnh thức chánh niệm để biết đâu ác đâu thiện để tu nghĩa là dùng "cái biết của ý thức" trong thân ngũ uẩn để tu, không dùng "tưởng uẩn" là cái biết trong giấc mơ như nhà ngoại cảm, đồng cốt, thầy bói nữa, vì cái biết này không làm sao mà tỉnh thức được mà tâm lạc vào hôn trầm, thuỳ miên, trạo cử, ngoan không do nhập vào bốn thiền vô sắc. Đức thầy Thông Lạc sau khi làm đệ tử của Hoà Thượng Thanh Từ, Ngài cũng đã chứng như Thầy mình sau khi Ngài thể hiện nhập định cho Hoà Thượng Thanh Từ trắc nghiệm ấn chứng, Hoà Thượng đề nghị Ngài cùng HT ở lại để cùng HT phát triển môn phái thiền Trúc Lâm Trung Hoa. Thế nhưng Ngài cũng như đức Phật nhận thấy bốn thiền này không có khả năng làm chủ bốn nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi nên Ngài không nhận.

Ngài trong tình trạng hoang mang, dao động, bất an, chết dở, sống dở, dở khóc, dở mếu tiến thoái lưỡng nan thì may mắn cho Thầy và cho cả hành tinh này trong lúc buồn bã, Ngài thấy có cuốn sách kinh Trung Bộ của Hoà Thượng Minh Châu dịch ở trong tủ sách. Cơ duyên đã đến, phước chúng sinh còn đủ, Thầy đã áp dụng thực hành chỉ trong hơn sáu tháng chứng đạo.

Thầy là người chứng minh cho lời đức Phật dạy "Ai tu đúng bốn chân lý chỉ trong vòng bảy ngày, bảy tháng, cao lắm là bảy năm là chứng đạo". Riêng Thầy chưa đầy bảy tháng như trong cuốn “Tạo Duyên Giáo Hoá Chúng Sinh” Thầy đã tâm sự cho đệ tử cũng như những ai muốn tìm về Chánh Pháp.

Vì sao Thầy thành tựu được như vậy? Vì rằng Thầy lấy không tham để thắng tham, Thầy đã lấy không hận để thắng hận, lấy lòng từ bi trải rộng muôn phương hết thảy chúng sinh vạn vật vạn loài. Trong những thời gian theo ngoại đạo, giới luật đức Thầy đã thực hành nghiêm chỉnh cả mười năm Thầy sống độc cư, không quan hệ với ai, khi tu ở Hòn Sơn chín tháng trời, Thầy ăn rau rừng để sống. Đó chính là bí quyết thành công của đức Phật ban tặng cho Thầy.

Để chứng minh điều này đức Phật đã để lại bài kệ dạy những ai muốn tu chứng đạo thực theo là được như ý

"Sầu bi và đau khổ

Sai biệt có ở đời

Duyên thân ái chúng có

Không thân ái chúng không

Bởi vậy ai tha thiết

Muốn không sầu không than

Đừng làm thân làm ái

Với những ai ở đời

Do vậy người an lạc

Người không có sầu muộn

Là những ai ở đời

Không có người thân ái"

 

"Muốn giải thoát vượt khỏi

Những tri kiến hý luận

Phải quyết định độc cư

Chứng đắc được con đường

Nơi đây trí tuệ sinh

Không cần người nào khác

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng."

Đó chính là bí quyết thành công do đức Thầy đã thực hành đúng như lời đức Phật dạy Nhẫn Nhục, Tuỳ Thuận, Bằng Lòng, Ăn, Ngủ và Sống Độc Cư.

Nhờ được Thầy cứu chúng tôi từ cõi chết trở về, chúng tôi như những đứa con ruột thịt của Thầy. Thầy đã thương chúng tôi hơn mẹ thương con. Cha mẹ chúng tôi chỉ cho chúng tôi tấm thân bất tịnh đầy tội ác, đó là công ơn sinh thành dưỡng dục được đức Phật dạy rằng "cha mẹ hiện tiền như Phật tại thế". Nhưng nếu cha mẹ không dạy bảo chúng tôi như đức Phật và đức Thầy chỉ dạy thì muôn kiếp vạn đời chúng tôi chỉ là côn trùng, thú vật không hơn không kém. Cha mẹ cho chúng tôi tấm thân đầy hôi thối, bất tịnh này, nhưng xin thưa rằng khi chúng tôi đau, cha mẹ không thể nào đau thay cho chúng tôi được. Chỉ có pháp Phật là Thần Dược mà đức Thầy đã tu chứng ban tặng cho chúng tôi để chúng tôi biết:

"Hãy tự làm hòn đảo

Tinh cần, gấp sáng suốt

Trừ cấu uế, thanh tịnh

Chớ trở lại sinh, già" (Pháp Cú 238)

"Trong hàng cấu uế ấy

Vô minh nhơ tối thượng

Đoạn nhơ ấy tỷ-kheo

Thành bậc không uế nhiễm" (Pháp Cú 243)

"Xe vua đẹp cũng già

Con người rồi sẽ già

Pháp bậc thiện không già

Như vậy bậc chí thiện

Nói lên cho bậc thiện" (Pháp Cú 151)

"Không làm các điều ác

Thành tựu các việc lành

Tự tâm ý thanh tịnh

Đó là lời Phật dạy"

Kính thưa quý vị! Tuy rằng có hơi vất vả chút để trích dẫn những lời vàng này của đức Phật còn để lại nguyên vẹn trong kinh điển chứ chúng tôi không tự phịa ra để lừa dối mọi người, để minh chứng những gì đức Thầy của chúng tôi đã làm được và chỉ dạy chúng tôi cũng làm được như Thầy, ngõ hầu cho ai ai cũng được hạnh phúc như chúng tôi chứ chẳng hề dám chê bai phỉ báng ai hết cả. Chúng tôi chỉ muốn nói lên một sự thực ích nước lợi nhà mà trong đó có bản thân quý vị, con cháu bây giờ và mãi mãi muôn đời sau nữa, mục đích đừng để Chánh Pháp đức Phật mà Thầy của chúng tôi tu chứng mất đi một lần nữa. Nếu nó mất đi loài người sẻ khổ đau vô cùng vô tận. Do vậy mà chúng tôi đã mạnh dạn nói thẳng, xin quý vị hiếu cho. Vì Thầy của chúng tôi không còn trên thế gian này nữa, chúng tôi là đệ tử được Thầy cứu sống không nói lên sự thực này trong khi phần đông đang phỉ báng lời dạy của Thầy thì ai là người nói thay Thầy để cho mọi người hiểu được bây giờ đây? Có phải không quý vị?

Ôi! Lời Phật, lời Thầy sao mà giản đơn quá vậy.

Nào Thầy có dạy chúng tôi niệm Phật nhất tâm từ một đến bảy ngày để khi chết được Phật Di Đà đón về Tây Phương Cực Lạc!

Nào Thầy có dạy chúng tôi ngồi thiền như cậu bé Ấn Độ sáu tháng không ăn uống, không niệm thiện, niệm ác để “Phật Tánh” chân như hiện tiền bao giờ đâu!

Nào Thầy có dạy chúng tôi tụng kinh, tụng chú, lạy sám hối hồng danh, cầu siêu, cầu an, giải hạn, cúng vong, tiễn linh, xem ngày giờ tốt xấu, hướng nhà cửa mộ phần, đất đai, hương khói lễ bái ngày rằm mồng một cúng bái, giỗ chạp bao giờ!

Thế mà các vị Tổ Trung Hoa một ngàn năm xâm lược nước ta bày vẽ đủ điều để hòng làm ngu muội thế hệ trẻ, để cho kinh tế quốc dân kiệt quệ do con người tin thần thánh số phận đem tiền cúng hết cho thầy chùa, thày bói để chúng dễ bề cướp nước ta một lần nữa. Khi chưa thực hành còn được an lạc, thực hành rồi bệnh tật nạn tai...

Thầy chỉ dạy chúng tôi đúng như Phật dạy trong khi Ngài nhập Niết Bàn "Các con lấy giới luật làm Thầy, tự thắp đuốc mà đi, Ta không thể nào đi thay cho các con được, ai nói gì các con cũng đừng tin, chỉ có Giới Luật và Giáo Pháp (Tứ Niệm xứ) của Như Lai mới dạy con người làm chủ bốn nỗi khổ trên đời là SINH, GIÀ, BỆNH, CHÊT". Thầy dạy hết sức dễ hiểu, ai không bị bệnh tâm thần nghe là hiểu ngay, thực hành là kết quả tức thời không mơ hồ trìu tượng viễn vông chút nào. Trắng Thầy dạy đây là Trắng, Đen Thầy dạy đây là Đen, Ác Thầy dạy đây là Ác, Thiện Thầy dạy đây là Thiện; Chánh Thầy dạy đây là Chánh; Tà Thầy dạy đây là Tà. Thầy không bao giờ dạy như trong kinh chư Tổ. Không thì nói có, có thì nói không.

Phật dạy Bốn chân lý là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, thì Tổ khôn hơn Phật cãi lại cho rằng Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Phật tu chứng suýt nữa bỏ mạng, Tổ bảo chư Phật ba đời cũng nhờ Bát Nhã Tâm Kinh là tinh hoa Phật học của Tổ mới chứng đắc Vô Thượng Đà La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thử hỏi rằng Phật xuất hiện trên đời này trước hay Tổ sinh ra trước? Nếu như không nhầm thì Phật ra đời sáu trăm năm rồi Tổ mới sinh. Thật đúng là "con hơn cha là nhà có phúc", mà đây “con (chỉ các Tổ) cãi lời cha là muôn vạn nhà (chúng sanh) hết phước.”

Vì có phúc quá nên mới hoá ra tội đến nỗi Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc phải khẩn khoản kêu gọi nhân loại hãy Ăn Chay, Sống Xanh, Cứu Địa Cầu ra khỏi thảm hoạ diệt chủng mỗi lúc một gần. Ai ăn thuần chay được mệnh danh là Anh Hùng Cứu Tinh. Lời dạy này đức Phật đã cảnh tỉnh nhân loại cách đây gần 26 thế kỷ, nhưng vì chư Tổ khôn hơn Phật vì năng lực thần thông tưởng vượt xa Phật đến nỗi không còn phát hiện ra đâu là thật, đâu là giả, đâu là thiện, đâu là ác nữa nên Tổ không đem Tam Quy Ngũ Giới truyền dạy đệ tử để họ thực hành là thoát được hai nơi bệnh viện, nhà tù, động đất, sóng thần, tai nạn, tệ nạn... mà họ chỉ dạy cúng vong tiển linh, cầu an, giải hạn, mê tín dị đoan, đưa con người vào trong giấc mộng nên mới ra nông nỗi.

Pháp Thầy dạy thật cụ thể rõ ràng, ai thực hành là kết quả ngay liền. Chỉ vì quý vị muốn xem Bụt mà không đi đến chùa thì biết Bụt như thế nào mà nói, mà đánh giá Ngài như thế này thế kia để mang tội đại vọng ngữ. Cũng vì quý vị không đủ tín lực nằm trong ngũ lực thuộc 37 phẩm trợ đạo nên quý vị sinh nghi kỵ, phỉ báng bậc tu chứng để cho mọi người không dám theo tu học những lời chỉ dạy của Ngài để làm chủ bốn nỗi khổ sống chết và chấm dứt luân hồi mà chúng tôi nhiều người đã làm chủ được ba, nay chỉ còn làm chủ chết như đức Phật và đức Thầy của chúng tôi nữa mà thôi. Thế cũng đã quý lắm rồi, hạnh phúc nhất trần gian này rồi có phải không thưa quý vị? Còn hơn là phải chịu bệnh tật đau đớn đến tận cùng rồi mới chết được. Như vậy thì tu hành theo Phật có ích lợi gì cho ai? Lẽ ra chúng tôi còn phải độc cư tu hành, vì còn viết bài là tâm còn phóng dật, mà tâm còn phóng dật đức Phật dạy như người chết rồi, tuy vậy chúng tôi không thể ích kỉ để nhìn nỗi khổ của đồng loại đang tu sai pháp mà không có một tiếng nói lên sự thật thì quá nhỏ nhen ích kỷ. Bởi vậy mà chúng tôi dù chưa chứng toàn phần nhưng cũng đã thành tựu từng phần như đã nói trên, đúng như lời đức Phật dạy trong kinh Tăng Chi Bộ:

"Này các thầy tỷ-kheo, dù chỉ còn da, gân và xương, dù thịt và máu trong thân bị khô héo, mong rằng sẻ có tinh tấn, nỗ lực, kiên trì để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ sức mạnh của người, nhờ dũng mãnh của người, nhờ tinh tấn của người thì không bao lâu, này các thầy tỷ-kheo, các thiện nam tử xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, đó là vô thượng cứu cánh phạm hạnh, ngay trong hiện tại các thầy sẻ chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các tỳ-kheo, các thầy cần phải học tập.”

Bài kinh trên đây là có thật của đức Phật dạy, quý vị có đủ lòng tin hay không? Quý vị hãy đọc và suy đi nghĩ lại cho thật kỹ xem thử đức Phật có dối lừa đệ tử Ngài thời bấy giờ hay không? Ngài có dạy "đói ăn khát uống mệt ngủ liền" hay không? Ngài có dạy "niệm Phật nhất tâm" để được về cõi Di Đà hay không? Ngài có dạy "đừng niệm thiện niệm ác để cho Phật Tánh Chân Như hiện tiền" hay không? Ngài có dạy "Bất lập văn tự giáo ngoại biệt truyền minh tâm kiến tánh thành Phật" hay không? Ngài có dạy "lục tự pháp môn" hay không? Ngài có dạy lạy "ngũ bách danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát" hay không? Ngài có dạy lạy Đấu Chiến Thắng Phật là con khỉ độc trong chuyện tiểu thuyết Ngô Thừa Ân biên soạn hay không? Xin quý vị tự trả lời xem thử bậc Thầy của nhân loại nói có đúng hay không rồi hãy phỉ báng.

Bây giờ Ngài không còn trên thế gian này nữa để mà hỏi Ngài đâu, muốn nói chuyện được với Ngài cũng thật dễ thôi, hãy tu cho hết tham, sân, si, tà kiến, bao giờ chỉ còn da, gân và xương như đức Phật dạy trên, phải chín tháng trời ăn rau để sống, phải sống một mình nơi rừng sâu núi thẳm như Thầy của chúng tôi mới hy vọng. Còn như đói ăn, khát uống mệt ngủ liền thì xin thưa:

"Người ưa ngủ ăn lớn

Lăn lóc nằm qua lại

Chẳng khác heo no bụng

Kẻ ngu nhập thai mãi" (Kinh Pháp Cú)

Tu là phải như lời dạy trong kinh Pháp Cú

"Người mặc áo đống rác

Gầy ốm lộ mạch gân

Độc cư thiền trong rừng

Ta gọi Ba La Môn."

Chứ không phải béo phì như đức Phật Di Lặc đâu. Chúng ta đã bị Tổ Sư đánh lừa mà không hay biết. Thật là cười ra nước mắt, một vị Phật bị bệnh béo phì do ái kiết sử không xả được nên quấn quýt bên trẻ con mà ai cũng tin là Phật thật, là đấng giáo chủ do to béo hơn Phật Thích Ca nên hạ bệ đức Thích Ca xuống để ngài Di Lặc lên nắm quyền hành. Thảo nào hiện nay bệnh thừa cân, béo phì ở Mỹ một năm cướp đi hai triệu sáu sinh mạng. Thảo nào trước đây người đạt kỷ lục người béo nhất thế giới 383 kg, hiện nay lên đến trên năm tạ, đến nỗi khi nhập viện phải đập tường bệnh viện cho bệnh nhân vào. Tội này thuộc về ai? Nếu không phải Phật Di Lặc. Trong khi đó, thời đức Phật có vị vua Ba Tư Nặc bị bệnh béo phì ăn chuyên nằm không dậy được đến xin bạch Phật phương pháp thực hành, Ngài dạy:

"Hãy luôn tự tỉnh giác

Khi ăn biết tiết độ

Giữ kham khổ, đạm bạc

Sẽ gầy và sống lâu."

Sau khi nhà vua nghe xong liền nói với lính hầu ghi lại và đọc vào trong bữa ăn thay pháp Như Lý Tác Ý để ám thị, nếu không tâm tham ăn không trừ được thì khó mà hết bệnh. Bây giờ quý vị đã đủ lòng tin nơi lời dạy của thầy Thông Lạc dạy rằng Phật Di Đà, Quán Âm, Di Lặc là Phật tưởng chưa? Nếu có thật thì sao Phật gì ăn một bữa mà bị bệnh béo phì như vậy?

Thật khó lắm quý vị ạ, quý vị đừng có nghe chư Tổ lừa quí vị đi vào cõi mộng do giấc mơ biến hiện để tìm về thế giới ảo tưởng như chúng tôi đã một thời bị lạc vào bát quái trận đồ chút nữa mất mạng. Nếu như chúng tôi không gặp được bậc Thầy tu chứng thương tình chỉ dạy chúng tôi thực hành giới luật ăn ngày một bữa thì hôm nay chúng tôi còn đâu trên cõi đời này nữa. Nếu như lúc đó chúng tôi không đủ can đảm và được Thầy trực tiếp chỉ dạy phương pháp ly dục tham ăn để không thực hành đúng ngày một bữa, không ăn uống phi thời dù chỉ trái cây hay chỉ có sữa không đã đủ chết rồi. Cho đến bây giờ chúng tôi thầm cảm ơn nhân quả kiếp nào đã đưa đẩy chúng tôi gặp được bậc Minh Sư vì lòng thương yêu nên kiên quyết với đệ tử như vậy để tôi thực hành đúng giới luật nên mới đẩy lùi được bệnh ung thư cổ và 34 bệnh khác, để được sống khoẻ mạnh như hôm nay. Giá như lúc đó Ngài chiều đệ tử cho ăn ba bữa thì làm sao khỏi bệnh ung thư phải không quý vị?

Thế mà thương hại thay những lời dạy ngọc vàng của Ngài chỉ thẳng, chỉ thật chỗ đúng, chỗ sai để cho mọi người bỏ đi để được hạnh phúc an vui thì mọi người chỉ đáp lại bằng lời nhục mạ phỉ báng đến tận cùng. Thật là đáng thương thay!

Hôm nay Ngài không còn trên cõi đời này nữa nhưng vì lợi ích cho mình, cho người, cho tha nhân, chúng tôi mạo muội trao đổi những sự thật như chân lý này thay lời công bố đất nước Việt Nam anh hùng đã có Phật ra đời mà không ai biết, nên bỏ thật tìm giả, thật là đau lòng!

Tuy vậy vẫn còn chưa muộn, những gì Ngài dạy còn nguyên vẹn, Tu Viện còn đó, đệ tử Ngài còn đó, Thánh địa Chơn Như luôn mở cửa đón chờ những người con như chúng tôi đã lầm đường lạc lối, kẻ trước người sau lần lượt tìm đến con đường duy nhất đúng, không con đường nào khác hơn là Bát Chánh Đạo.

Cuối cùng xin chân thành gửi đến quý độc giả cùng hành giả lời chúc sức khoẻ, lời chào trân trọng nhất. Có gì không vừa lòng xin quý vị trăm tội trăm xá, vạn tội vạn xá, đại xá từ bi cho chúng tôi. Xin cảm ơn nhiều!

Tỷ kheo Thích Nguyên Tánh. Điện thoại: 012.444.123.67

Phụ chú: (Chúng tôi đang tu tập xả tâm chưa vào độc cư rốt ráo nếu ai có bệnh ung thư theo số điện thoại trên chúng tôi sẽ trao đổi kinh nghiệm chữa trị tận gốc theo Bát Chánh Đạo của đức Phật mà Thầy chúng tôi đã giảng).

045-HỒI ỨC HÒN SƠN, NGUYỆN HỌC GƯƠNG HẠNH TINH TẤN CỦA ĐỨC TRƯỞNG LÃO

Lời BBT/GNCN

Sáu tháng trước ngày Đức Trưởng lão nhập diệt, Ngài đã tổ chức một chuyến đi Hòn Sơn nhằm sách tấn tu sinh của Tu viện. Đó là lần cuối cùng Ngài rời khỏi Tu viện…

Đúng như tác giả Trần Công Tấn đã viết trong bài tưởng niệm “Sự ra đi hoàn hảo”:  Không phải bằng những dự cảm thông thường của kẻ phàm phu trước cái chết, bậc tu chứng biết rõ mình sẽ phải làm gì cho lợi ích quần sinh trước lúc ra đi… Năm 2012, năm cuối cùng Ngài tồn tại trong môi trường nhân quả. Ngài đã tổ chức một chuyến đi Hòn Sơn vào cuối tháng 5-2012, chuyến đi này cũng không ngoài mục đích sách tấn tu sinh của Tu viện. Dưới chân núi, Ngài chỉ tay lên chỗ Ngài đã từng ngồi suốt một thời gian dài, sống bằng rau rừng, nước suối, miên mật hành trì pháp môn của sư phụ viện chủ Tu Viện Chơn Không… Ngài ngồi dưới chân núi, chúng đệ tử hào hứng leo lên đến tận chỗ ngồi của Ngài năm xưa, với nguyện ước học tập gương hạnh tinh tấn của Ngài…”

Giờ đây Đức Trưởng lão không còn nữa!. GNCN rất mong quý Phật tử xem qua những hình ảnh này để tự sách tấn mình, quyết tâm học tập gương hạnh tinh tấn để không phụ lòng Đức Bổn sư rất đáng tôn kính của chúng ta…

 

 

 

 

 

046-TẠI SAO TU HOÀI CHƯA GIẢI THOÁT? - Phi Mạnh

TẠI SAO...?

Bước chân vào đạo Phật, ai ai cũng muốn tìm cho mình con đường giải thoát trong kiếp làm người này. Nhưng tại sao tu hoài mà chưa giải thoát? Từ thời đức Phật đến nay mấy ai đã hoàn toàn giải thoát. Có bao nhiêu nguyên nhân? Chúng ta hãy cùng xem có phải do những nguyên nhân chính sau đây hay không?

1. Chưa buông xuống sạch ngoài đời.

2. Còn dính mắc vào pháp tu hành.

3. Dính mắc vào những thứ khác trong chùa hoặc ở nơi tu tập.

4. Dính mắc vào trạng thái tâm không niệm, tâm bất động và các trạng thái hỷ lạc khác.

5. Tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự không phải là tâm không niệm

6. Bị hôn trầm thùy miên.

7. Chưa có ý chí mạnh mẽ tìm cầu sự giải thoát

8. Không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh

Chúng ta hãy đi sâu vào phân tích 8 vấn đề này:

1. Chưa buông xuống sạch ngoài đời.

Người đến với đạo Phật đều hiểu câu nói này, nhưng mấy ai buông xuống được, vì còn vướng bận gia đình, tài sản lớn nhỏ, nghề nghiệp, tình cảm, tiền bạc của cải, sự hiểu biết, tư tưởng, những dục lạc thế gian, những việc làm từ thiện ngoài xã hội… Đó là xả phần thô, xả phần vi tế là xả khi sống đời sống độc cư.

Chỉ cần buông xuống hết là đã gần như giải thoát rồi còn gì. Bạn có tin không. Đến cuối bài này bạn sẽ hiểu.

2. Còn dính mắc vào pháp tu hành.

Tại sao lại nói như vậy? Đạo Phật chỉ rõ cho chúng ta thấy chỉ có buông xuống sạch thì giải thoát. Vậy việc chính là buông xuống sạch, việc phụ là các pháp tu hành. Nhưng khi mọi người đến với đạo Phật thì “coi việc phụ làm việc chính”. Họ thường ôm pháp tu hành, bận rộn từ ngày đến đêm, từ lúc vào chùa đến lúc chết. Ví dụ như: ngồi thiền, gỏ mõ tụng kinh, niệm phật, tham công án, đọc thần chú, ôm pháp Thân Hành Niệm đi kinh hành suốt ngày, tu Định Niệm Hơi Thở gom tâm, nhiếp tâm vào đề mục nào đó, theo dõi hơi thở hay bụng phình xẹp, ngồi gò bó thân tâm khiến thân tâm bị ức chế dẫn đến tẩu hỏa nhập ma rơi vào các loại tưởng ma.

Cuộc sống đã quá khổ, muốn vào đạo tìm sự giải thoát, đã buông xả sạch ngoài đời rồi, ai ngờ vào đạo lại phải ôm những cái khác vào, lại bị dính mắc tiếp vào pháp tu hành, bận rộn cả ngày lẫn đêm, ngày này qua ngày khác đến suốt đời, vậy thì làm sao gọi là giải thoát. Đâu cần phải công phu tu tập để chứng minh mình là người tu hành. Đời sống giới luật đức hạnh cũng đủ chứng minh mình là người tu hành rồi. Tại sao chúng ta không ngồi chơi sống độc cư một mình xả tâm cho sướng?. Do vậy, kính xin các vị tôn túc, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, và các hiền giả phật tử xem xét lại cách tu hành như hiện nay có thật sự đem đến giải thoát không hay là chỉ thêm gánh nặng cho người tu hành?

3. Dính mắc vào những thứ khác trong chùa hoặc ở nơi tu tập

Khi buông xả những phần thô ngoài đời, vào chùa chúng ta thường lại bị dính mắc pháp tu hành và những thứ linh tinh khác làm cho tâm càng chướng ngại thêm đó là: danh lợi trong chùa, tiền bạc, hơn thua, chuyện người khác, chuyện tu hành của người khác, chuyện đúng sai phải trái, chuyện tổ chức quản lý trong chùa, chuyện xây dựng, chuyện sữa chữa tu bổ chùa, làm công quả, chuyện giảng đạo (tu xong rồi tính sao), chuyện của phật tử, chuyện làm từ thiện, chuyện ăn uống, nấu nướng, v.v…

Chỉ cần chúng ta hiểu rõ chùa cũng là một nơi thử thách khác, cũng không khác gì ngoài đời, đó chỉ là một không gian thu nhỏ lại của ngoài đời thôi, cuộc sống sinh hoạt cũng giống ngoài đời chứ không phải thiên đường gì cả, cũng đầy người có tham, sân, si như ta cả. Việc của ta là xả tâm. Tất cả mọi cảnh vật, chuyện xảy ra trong chùa cũng là những thử thách, là những đối tượng để ta tu tập xả tâm cho sạch. Nếu ta xác định vào đó tìm đường giải thoát thì không nên dính mắc vào bất kỳ chuyện gì cả, còn những chuyện khác có ban đời sống lo. Ai làm gì mặc kệ, “chuyện ta ta tu, chuyện họ họ lo”.

Tu theo đạo Phật chỉ cần buông xuống sạch tất cả, sau đó tìm một chỗ thanh tịnh, yên tĩnh để sống:

- Đời sống độc cư: là đời sống một mình trong một cái nhà nhỏ, không nói chuyện với ai để từ đó có thời gian nhìn lại tâm xả tiếp những niệm vi tế. Chỉ cần “ngồi chơi tự nhiên” như người nhàn hạ, không làm gì hết, nghĩa là không cần ngồi thiền, xếp bằng, kiết già gì cả, ngồi sao cho thoải mái là được, nằm cũng được chứ sao, miễn tỉnh táo là được.

- Giữ gìn giới luật đức hạnh đến suốt đời: đó là hạnh ăn một ngày một cữ, không ăn uống phi thời, ngủ ít, ngủ không phi thời, sống 3 đức nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng vui vẻ, sống thiểu dục tri túc 3 y một bát, giữ gìn các giới luật như 10 giới thánh đức Sa Di.

Do vậy, sau khi các bạn xả bỏ phần thô, hãy tìm một nơi yên tĩnh để sống đời sống độc cư, ở đâu cung cấp cho bạn một chổ như vậy thì quá là lý tưởng, vì chỉ có sống như vậy mới giải thoát hoàn toàn. Bài kinh “Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu” đức Phật đã khuyên chúng ta rất rõ ràng. Chính độc cư là bí quyết của xả tâm và thiền định. Thiền viện Trúc Lâm, Làng Mai, thiền viện Đại Đăng hay chùa nào cũng được, miễn sao ở đó cung cấp cho bạn một căn nhà nhỏ để sống đời sống độc cư, một ngày một bữa ăn.

Riêng tôi biết có một tu viện tại Trảng Bàng, gọi là Tu viện Chơn Như, khi đến đó các thầy sẽ cho bạn một căn nhà nhỏ, và đầy đủ mọi thứ cần thiết tối thiểu, kể cả quần áo, bát. Bạn không cần mang theo gì cả. Xả sạch ngoài đời tất cả, chỉ mang cái thân vào thôi. Không cần mang tiền vào, vì vào đó là phải giữ gìn giới luật thứ 10 trong giới Sa Di “không nên cất giữ tiền bạc”. Vào đó các bạn chỉ cần sống với 3 đức nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng, giữ gìn 3 hạnh là ăn, ngủ và độc cư.

Vào đó các thầy sẽ dạy cho chúng ta những cách đi kinh hành để phá hôn trầm thùy miên, buồn ngủ, cách tu “Định niệm hơi thở” cho người mới để biết nhìn rõ quan sát từng tâm niệm. Sau khi thực hành thành thạo rồi thì chúng ta không cần ôm những pháp tu đó nữa, vì “chúng chỉ là vũ khí diệt giặc thôi, có giặc hôn trầm thùy miên buổn ngủ thì đem ra sử dụng, còn không thì thôi, ngồi chơi cho sướng.”

Khi sống một mình thì chúng ta đừng ôm pháp nào tu hết, sống đời sống bình thường như một người bình thường trong một căn nhà nhỏ, như đi “an dưỡng” vậy đó, đến giờ thì ăn, đến giờ thì ngủ, ngoài ra thì chỉ cần ngồi chơi xả tâm. Tâm khởi niệm nào dục hay ác pháp thì đuổi đi, niệm thiện thì làm cho sanh và tăng trưởng, niệm không thiện không ác thì kệ nó. Đuổi bằng phương pháp "Như Lý Tác Ý." Một trong những câu tác ý hữu hiệu nhất là "Tâm bất động, thanh thản an lạc và vô sự". Ngồi chơi tự nhiên như vậy, dần dần tâm sẽ ly dục ly ác pháp và trở nên bất động thanh thản an lạc và vô sự.

4. Dính mắc vào trạng thái tâm không niệm, tâm bất động và các trạng thái thanh tịnh hỷ lạc khác.

Chính ngay khi tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự bắt đầu xuất hiện, người tu hành dễ dàng dính mắc vào các trạng thái không niệm, trạng thái thanh tịnh, thích nó, sợ mất, bám tâm vào nó, quán thân để tâm bất động kéo dài, ngồi thường theo dõi hơi thở để tâm bất động được kéo dài, ngồi nhìn tâm bất động, rồi bị nó dẫn đi sai đường luôn. Do vậy chúng ta phải cẩn thận, dù là trạng thái gì, lâng lâng, không có niệm hay hỷ lạc nào người tu hành đều buông bỏ, không bám vào, không cố giữ lấy nó, vẫn ngồi chơi tự nhiên, vẫn quan sát tâm như trước. Càng xả tâm nhiều thì trạng thái tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự sẽ kéo dài.

5. Trạng thái tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự không phải là tâm không niệm.

“Trước tiên chúng ta cần phải biết niệm là gì? Niệm có 2 loại: (trích từ bức tâm thư Thầy giải đáp cho tu sinh về tâm bất động)

- Niệm là tư duy suy nghĩ.

- Niệm là chỉ biết mọi vật đang xảy ra xung quanh chúng ta.

Vậy biết niệm nào là đúng, niệm nào là sai?

- Niệm đúng là tư duy suy nghĩ những điều thiện.

- Niệm sai là tư duy suy nghĩ những điều ác.

- Niệm là chỉ biết mọi vật xung quanh chúng ta mà không bị lôi cuốn theo mọi vật là đúng.

- Niệm là chỉ biết mọi vật xung quanh chúng ta mà bị lôi cuốn theo mọi vật là sai.

Tâm không niệm thiện, niệm ác là tâm bị ức chế ý thức, khiến ý thức không hoạt động, nên người tu tập lạc vào thiền tưởng như các sư thầy Lạt ma Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia, Việt nam, Lào, Mông Cổ, Miến Điện, Ấn độ,...

Tóm lại, tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự không phải là tâm không niệm.” (trích từ bức tâm thơ ngày 22/10/2010)

6. Bị hôn trầm thùy miên

- Càng buông xả nhiều thì hôn trầm thùy miên sẽ giảm nhiều, vì khi giảm tham, sân, dục và các ác pháp khác thì tâm si cũng giảm theo.

- Càng dụng công tu tập gò bó thân tâm nhiều thì càng bị hôn trầm thùy miên do thân tâm phải làm quá sức mệt mỏi, tâm thì bị lịm và lặng luôn, thân thì bị đuối sức rồi gục.

- Ngồi chơi tự nhiên thì đầu óc tỉnh táo như một người bình thường, nếu có hôn trầm thùy miên thì đi kinh hành, hết hôn trầm thùy miên rồi ngừng lại nghỉ ngơi, chứ không nên xác định đi 30 phút, 1 tiếng, 2 tiếng hay cả ngày. Đi càng nhiều thân càng mệt mỏi, sức khỏe càng cạn kiệt, đuối sức, tu như vậy là ức chế thân rồi. Ngồi ngay thẳng, không nên nhắm mắt, gom tâm, tập trung tâm, nhiếp tâm khiến cho tâm bị ức chế, sau đó lịm và lặng luôn.

- Do ăn ngủ phi thời, ăn ngày 2-3 bữa, đi ngủ và thức dậy không đúng giờ.

- Thích ngồi, làm biếng, không siêng năng đi kinh hành,

7. Chưa có ý chí mạnh mẽ tìm cầu sự giải thoát

- Chưa buông sả sạch, vẫn còn ham vui, ham nhiều chuyện, tham danh lợi, và những thứ linh tinh khác.

- Không tin thầy, không tin lời thầy dạy đưa đến sự giải thoát.

- Không tự tin chính mình sẽ đạt được sự giải thoát trong đời này.

8. Không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh

Điều quan trọng nhất mà chúng ta quên nhắc tới đó là nghiêm chỉnh giữ gìn giới luật. Người tu hành tìm đường giải thoát khi bước chân vào chùa ít nhất phải giữ gìn 10 giới đức Sa Di. Chính giới luật đức hạnh này sẽ là nền tảng căn bản giúp cho người tu hành xả tâm, ly dục, ly ác pháp, sống đời sống thanh tịnh tự nhiên. Không sống giữ gìn nghiêm chỉnh giới luật thì việc tu hành chỉ mất công và thời gian, phí một đời người.

Người sống không giữ gìn giới luật thì không phải là đệ tử của đức Phật Thích Ca mà là đệ tử của Phật khác. Ai tu theo Phật Thích Ca, muốn giải thoát trong cuộc đời này không thể bỏ qua Giới Luật. Chính giới luật là con thuyền đưa chúng ta đến bờ giải thoát. Chúng ta hãy thử xét qua trước 10 giới đức thánh Sa Di dưới đây xem mình đã thông suốt chưa?

Đó gọi là buông xả sạch không còn dính mắc vào bất kỳ cái gì hay pháp tu nào, không bị những chướng ngại khác trong thân tâm và đã thông những tư tưởng tiêu cực bi quan.

 “Thường người ta đến đạo Phật nghĩ rằng phải tu hành mới được giải thoát, phải ôm pháp nào đó tu để được giải thoát, phải tu để có thần thông, phải nhập thiền định để có Tam Minh Lục Thông, phải niệm Phật giữ tâm không niệm để tiếp tục sang một thế giới khác tu tiếp, phải thông suốt các công án, phải ngồi thiền, phải ôm pháp Thân Hành Niệm, tu pháp Định Niệm Hơi Thở, phải theo dõi hơi thở, theo dõi bụng phình xẹp, hay chú tâm vào đề mục nào đó, phải học những cái gì đó cao siêu, những tư tưởng cao siêu thoát tục để ra giảng dạy, chính những tư tưởng như vậy là đã làm mất sự giải thoát rồi trong hiện tại rồi.”

Đức Phật đã nói: “Đạo ta không có thời gian, đến để mà thấy”. Nghĩa là khi bước chân vào đạo Phật tu đúng, buông xả sạch thì giải thoát ngay rồi chứ đâu cần phải dụng công từ sáng đến tối, từ ngày này qua ngày khác, từ ngày đầu tiên vào chùa đến ngày chết, từ kiếp này sang kiếp khác, từ thế giới này đến thế giới khác.

Chúng ta hãy cùng xem lại thử có giải thoát không?

- Ngồi thiền, gom tâm, nhiếp tâm, chú tâm vào đề mục, vào cơ thể, vào hơi thở, gò bó thân làm cho thân tâm bị ức chế đau nhức lưng, chân, nhức đầu,… thì sao gọi là buông xả, sao gọi là giải thoát.

- Tụng kinh gõ mõ, niệm Phật thì mỏi miệng, mỏi tay, mỏi chân, mỏi lưng, đầu phải nhớ kinh, phải học kinh, làm ồn hàng xóm và những nhà xung quanh, v.v…

- Luyện đọc thần chú mỏi miệng, ùm òm ồn ào v.v…

Chắc các bạn đã từng nghe những câu chuyện thời đức Phật. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, liền có nhiều người chứng đạo. Tại sao vậy? Vì pháp Phật rất cụ thể đơn giản. Họ hiểu được chỉ cần buông xả tất cả, sống đời sống đạo đức, không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh là tâm đã giải thoát, khi họ hiểu được rồi, họ quyết chí theo Phật, sống đời sống đức hạnh như Phật thì họ đã giải thoát rồi. Họ đâu có ngồi thiền, tụng kinh, gỏ mõ, đọc thần chú… để được giải thoát. Chỉ cần hiểu phải buông xả sạch là tâm đã giải thoát.

Do vậy, kính thưa các bạn, tu theo đạo Phật dễ dàng và đơn giản vậy thôi, không có cao siêu, trừu tượng, khó hiểu hay khó làm đâu. Ai tu cũng được, người già đến 80, 90 tuổi vẫn tu được. Chỉ cần có “tri kiến nhân quả”, buông xuống hết là giải thoát.

“Buông xuống đi, hãy buông xuống đi

Vạn Pháp vô thường, buông xuống đi.”

Sau khi đọc bài này chúng ta đã thấy rõ con đường giải thoát không khó, nó nằm trong tầm tay của chúng ta, chúng ta hãy buông xuống hết. 

Có câu hỏi làm sao biết được ngồi chơi như vậy là giải thoát?

Bạn đã buông xả hết rồi, bạn thử hỏi bạn có còn tham, sân, si không? Bạn đang sống với tâm không tham, không sân, không si, không mạn, không nghi. Bạn đã chặt bỏ tất cả kiết sử rồi. Tâm bạn lúc này đã dần dần từ từ bất động, thanh thản an lạc và vô sự. Đó là trạng thái của tâm Niết Bàn rồi còn gì, bạn đang sống với tâm Niết Bàn thì có chết sẽ tương ưng với Niết Bàn.

Khi các bạn học Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Chân lý thứ 3 là Diệt, đức Phật đã xác định khi diệt hết tham, sân, si, mạn, nghi, trạng thái tâm không còn tham, sân, si gọi là Niết Bàn, chính là trạng thái tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Đức Phật đâu có nói phải nhập định, phải có tam minh, phải có thần thông mới gọi là Niết Bàn.

Định, Tam Minh là kết quả của đời sống đức hạnh giới luật. Giới luật đức hạnh là đối tượng để cho chúng ta tu tập, còn Định và Tam Minh là kết quả của sự buông xả sạch không còn hạt bụi nào. Chứ Định và Tam Minh không phải là đối tượng để ta tu tập. Mọi người nhầm, thường nhắm vào Định và Tam Minh, Lục Thông mà tu tập, bỏ qua Giới Luật đức hạnh cho nên tu hoài không thấy giải thoát. Tu không biết lúc nào giải thoát, cứ nghĩ phải tu nhiều đời nhiều kiếp, phải qua thế giới của các chư Phật mà tu tiếp. Những tư tưởng đó đã hại chúng ta không tìm thấy sự giải thoát trong hiện tại.

Tu mà không cần giới luật đức hạnh là tu rơi vào tưởng định, phát sinh tưởng tuệ, tưởng mình đã chứng đạo, tuệ đó không có tam minh, chỉ có ngũ thông nên vẫn còn tái sinh luân hồi như các vị Lạt Ma Tây Tạng, bởi vì dục và tham, sân, si vẫn còn, tam độc còn thì tự nhiên phải tương ưng với thế giới tham, sân, si của chúng ta thôi. Còn đối với đức Phật đã diệt hết tham, sân, si thì có muốn luân hồi cũng không được, vì có còn tham, sân, si đâu mà tương ưng với thế giới của chúng ta. Đức Phật chỉ có thể tương ưng với Niết Bàn thôi.

Tóm lại, sự giải thoát ở ngay trước mắt chúng ta, muốn giải thoát hay không là tùy ở mỗi người. Không ai ép hay khuyến dụ ai đi con đường nào. Tự mỗi người chúng ta biết phải chọn con đường nào là sáng suốt cho cuộc đời của mình.

Kính chúc tất cả các bạn buông xả sạch trong đời sống hiện tại, để được sự giải thoát ngay đúng như lời đức Phật dạy: "Pháp ta không có thời gian, đến để mà thấy".

           (Bài này chỉ để tham khảo, khi tu tập cần phải có vị thầy có kinh nghiệm tu tập dẫn dắt và hướng dẫn)

047-LỜI CHỈ DẠY VÔ GIÁ CỦA HT THÍCH MINH CHÂU VỀ CHÁNH TÍN - Tâm Thuận

Đạo Phật Nguyên Thủy, đạo Phật phát triển - Đâu đạo Phật, đâu Bà La Môn?

Kính thưa quý đạo hữu!

Trong Ngũ lực, gồm Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực và Tuệ lực thì Tín lực là hàng đầu, là cửa ngõ để đạt được các lực theo sau. Tín lực không phải là sự tin tưởng vào những giáo điều, giáo pháp một cách mù quáng, ồ ạt và thiếu xét đoán mà dẫn đến việc làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh. Tín lực là lòng tin sâu sắc và mạnh mẽ đối với Chánh Pháp của đức Phật Thích Ca, là lòng tin chân chánh, chớ có vội tin mà hãy đến để mà thấy và tự mình chứng nghiệm, như đức Phật từng dạy: "Nhưng này các Kàlàmà! Khi nào tự mình biết rõ như sau: Các pháp này bất thiện, các pháp này là có tội lỗi, các pháp này bị người có trí chỉ trích, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau. Thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng không nên tin theo”.

Chính vì thế, từng ngày giờ chúng ta hành động, nói năng hay suy nghĩ những điều mà không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ tất cả chúng sanh thì ngay đó đã cảm nhận được sự thanh thản, an lạc, đã có Chánh Tín và cũng chính là đang hành đúng theo nền đạo đức nhân bản - nhân quả do đức Như Lai là người đầu tiên tuyên thuyết.

Nói không làm khổ mình, khổ người không có nghĩa là chúng ta cứ làm ngơ trước những điều sai trái của người khác. Chính trong thời xưa đức Phật Thích Ca đã không ít lần đập mạnh, chỉ thẳng cái sai của 62 luận thuyết tà kiến ngoại đạo (Bài kinh Phạm Võng trong Kinh Trường Bộ). Quả là “Bậc A La Hán ra đời như cánh chim trời, tung bay khắp mọi nơi khiến cho vũ trụ rung chuyển, những tư tưởng mê tín, dị đoan, lạc hậu của loài người bị đảo lộn, không còn đứng vững, rơi rụng như những chiếc lá vàng mùa thu”.

Có vị Thầy mạnh dạn chỉ ra những việc được hành sai trong Phật giáo hơn 2500 năm nay kể từ khi đức Phật và cuối cùng là ngài Ananda nhập diệt để giúp biết bao người tránh lầm đường lạc lối trên con đường tu tập của mình. Nếu chúng ta nghĩ rằng vị ấy làm khổ người, nói xấu người khác, không có ái ngữ thì đó chưa phải là cách hiểu đúng, do mình còn kiến thủ. Đức Phật có dạy trong kinh Pháp Cú, phần VI - Phẩm Hiền Trí:

“Nếu gặp bậc hiền trí

Chỉ lỗi và khiển trách

Như chỉ chỗ chôn vàng

Hãy kết thân người trí

Kết thân với vị ấy

Chỉ có lợi không hại.”

Biết nương theo những lời chỉ dạy của bậc hiền trí, bậc thiện hữu tri thức thì mọi người sẽ không còn chấp thủ vào cái sai của mình, tự mình cởi trói cho bản thân khỏi cái kiến giải, tưởng giải được truyền thừa từ bao đời nay. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy về lòng tin chân chánh:

“Này các Kàlàmà! Chớ vội tin vì nghe truyền thuyết. Chớ vội tin vì nghe truyền thống. Chớ vội tin vì nghe người ta nói đồn. Chớ vội tin vì được kinh Tạng truyền tụng. Chớ vội tin vì nhân lý luận siêu hình. Chớ vội tin vì đúng theo một lập trường. Chớ vội tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện. Chớ vội tin vì phù hợp với định kiến của mình. Chớ vội tin nơi xuất phát có uy quyền. Chớ vội tin vì bậc Sa Môn là đạo sư của mình v.v… Nhưng này các Kàlàmà! Khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này bất thiện, các pháp này là có tội lỗi, các pháp này bị người có trí chỉ trích, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”. Thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng không nên tin theo”.

Trên con đường tìm cầu đạo giải thoát thì cũng có lúc chúng ta đứng giữa ngã ba ngã bảy trong khi lối đi đến tiếp cận chân lý thì chỉ có một: đó chính là Bát Chánh Đạo. Cái ngã ba ngã bảy ấy tượng trưng cho một số lượng lớn kinh sách được cho là của Phật thuyết mà sự thực thời còn tại thế đi hóa độ chúng sanh, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dù có thuyết pháp rất nhiều nhưng Ngài thường chú trọng vào Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo, pháp Như Lý Tác Ý và Thân Hành Niệm…

Sau đây Tâm Thuận xin trích dẫn những lời chỉ dạy vô giá của Hòa Thượng Thích Minh Châu về Chánh tín dành cho tất cả những ai đã, đang và sẽ tìm đến với Phật pháp. Phần trích dẫn này nằm trong sách “Chánh Pháp Và Hạnh Phúc” và “Lời giới thiệu Kinh Trung Bộ bản in năm 1986”:

1) Sách Chánh Pháp và Hạnh Phúc, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo (2001), trang 238-246:

 “Cho dịch và cho in các bản kinh Pàli, chúng tôi không mong muốn gì hơn là để các phật tử, các học giả, các sinh viên được đọc thẳng vào kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, và sự tự mình tìm hiểu những lời dạy thật sự của đức Phật, khỏi phải qua những lập trường của các bộ phái. Nhất là khỏi phải qua những xuyên tạc của những học giả và những phật tử muốn giải thích đạo Phật theo dục vọng và tà kiến của mình.

Muốn chạy theo dục vọng thì giải thích kinh điển một cách dễ hiểu rằng đạo Phật chấp nhận và tha thứ dục vọng. Muốn giết người và muốn bênh vực kẻ giết người, đạo Phật được giải thích như là có thể tha thứ và chấp nhận sự giết người. Muốn chạy theo tà giáo và tà kiến, lại giải thích đạo Phật viên dung vô ngại, chấp nhận mọi tà kiến, mọi tà thuyết. Tà kiến nào, tà thuyết nào cũng là Phật giáo được hết!

Muốn tránh những tai nạn trên, cần nhất là phổ biến những kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để phật tử được đọc thẳng ngay kinh Phật, khỏi qua một ống kính màu nào. Đạo Phật cần những cá nhân phật tử biết suy tư, biết phân tích, biết tự tìm hiểu rồi xác nhận sự hiểu biết của mình, ngang qua sự hành trì, kinh nghiệm cá nhân. Đạo Phật không cần đến những đoàn người theo đạo Phật, theo một cách ồ ạt mù quáng, theo một cách thụ động nhắm mắt, hay tự mình bóp méo xuyên tạc đạo Phật theo tà kiến dục vọng của mình.

Chính kinh Đại Bát Niết Bàn, trang 124-126, tập III có ghi rằng, dù chúng ta có nghe vị Tỳ-kheo nào nói tự thân nghe đức Phật, tự thân nghe các vị Thượng Tọa, Thủ chúng v.v... nói như vậy là pháp, như vậy là luật, đức Phật khuyên cũng không được tán thán, đả kích, chấp thuận hay từ bỏ ngay, mà phải so sánh với kinh, đối chiếu với luật, có phù hợp mới được chấp nhận, không phù hợp thời phải từ bỏ. Đạo Phật đòi hỏi sự nhận xét, tìm hiểu suy tư cá nhân rất nhiều. Nhưng chúng ta chỉ có thể nhận xét, tìm hiểu suy tư. Khi chúng ta được đọc những lời dạy nguyên thủy nhất hay gần nguyên thủy nhất của đức Phật.

Chúng tôi dịch kinh Pàli, không vì mục đích muốn ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục đích của chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những kinh điển có thể được xem là nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dù Ấn Độ, Trung Hoa, hay Việt Nam.

Chúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, tự mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì đạo Phật là đạo đến để mà thấy, chứ không phải đạo đến để nhờ người thấy hộ, đạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải đạo của người nhắm mắt, đạo của người thấy, của người biết (Passato Ajànato), không phải là đạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm.

Thật sự chúng tôi chỉ mong rằng quý vị đọc thật kỹ và suy tư thật chin chắn những đoạn mà chúng tôi phiên dịch rồi quý vị hãy tự hỏi, những đoạn ấy có phải là những đoạn “Tiểu Thừa” dành riêng cho những vị có tiểu tâm, chỉ tư lợi không biết vị tha, chỉ biết tự giác không biết giác tha.

Như chúng tôi đã phân tích trong lời giới thiệu bản dịch tập “Đại Thừa Và Sự Liên Hệ Với Tiểu Thừa.” Chúng ta đừng có mắc bẫy các vị Bà La Môn Ấn Độ giáo tìm cách gán cho chữ “Tiểu Thừa” để loại ra ngoài những lời Phật dạy căn bản, như một số phật tử Đại Thừa đã bị mê hoặc, không dám đọc những lời Phật vì bị gán nhãn hiệu Tiểu Thừa.

Bên phái Nam tông, tuy tôn thờ Tam Tạng Pàli, nhưng một số phật tử cũng rơi vào nạn tương tự, là chỉ học Luật tạng và A Ty Đàm tạng, bỏ rơi Kinh tạng Pàli, vì xem A Ty Đàm tạng mới đề cập đến Đệ Nhất Nghĩa Đế, còn Kinh tạng chỉ bàn đến Tục Đế mà thôi. Đây cũng là một lầm lạc hết sức ngây thơ và nguy hiểm. Vì A Ty Đàm phát xuất từ Kinh tạng, và bỏ gốc để tìm ngọn thì không khác gì kẻ đi tìm lõi cây mà chỉ mang về cành lá.

Thật sự đạo Phật đâu có phân biệt Tiểu Thừa và Đại Thừa, đâu có chia đôi Chân đế, Tục đế. Những sự phân chia này chỉ là hậu tác phẩm, hoặc của giáo sĩ Bà La Môn mang danh phật tử muốn loại bỏ những gì tinh túy nhất của đạo Phật không cho phật tử học và tu, hay của một số đệ tử Phật muốn làm Tổ sư một giáo phái nên đề xướng các chủ thuyết lấn át những lời dạy nguyên thủy của đức Phật.

Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm tìm đọc và tìm hiểu những lời dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật, và vì trách nhiệm ấy mà chúng tôi đang cố gắng phiên dịch Kinh Tạng Pàli ra Việt ngữ. Chúng ta chỉ cần đọc, cần suy tư chín chắn và rồi chính chúng ta tự ý thức đâu là những lời dạy trung thực của đức Bổn Sư chúng ta.

Đây là sự đóng góp của Viện Đại Học Vạn Hạnh vào nền văn hóa Phật giáo bằng cách giới thiệu một cách đầy đủ và trung thực những tài liệu tiếng Việt quý báu nhất về Kinh Tạng Pàli, vừa cho các phật tử tìm hiểu, thực hành và thực chứng, vừa giúp các học giả Phật giáo có những tài liệu tham khảo khá đầy đủ và trung thực.

Viện Đại Học Vạn Hạnh là môi trường đầu tiên nếu không phải là độc nhất, đã cố gắng giới thiệu Kinh Tạng Pàli cho phật tử Việt Nam, học giả Việt Nam, dân chúng Việt Nam.

Viện Đại Học Vạn Hạnh cũng đi tiên phong mở đường cho một cao trào nghiên cứu đi thẳng vào lời dạy nguyên thủy của đức Phật, khỏi bị những lệch lạc của học phái hay của Bà La Môn giáo. Điều quan trọng hơn nữa, Viện Đại Học Vạn Hạnh khuyến khích các học giả và các phật tử tự mình mở mắt tìm hiểu, suy tư đối chiếu, không có nhắm mắt tin theo, không có thụ động chấp nhận, trái lại phải biết thâu hóa, so sánh, để làm sáng tỏ những lời dạy nguyên thủy của đức Phật.”…

2) Lời Giới Thiệu Kinh Trung Bộ (Trong Bản In Năm 1986):

 “Gần chúng ta hơn, Kinh Trung Bộ này đã nằm trong chương trình học của Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam, và Tăng Ni sinh cần có kinh sách để học hỏi nghiên cứu, cho nên cho in lại Kinh Trung Bộ là đáp ứng nhu cầu cấp bách này. Ngoài ra Kinh Trung Bộ đang được nhiều nhà học giả, nhiều phật tử nghiên cứu và tìm hiểu, vì chúng ta có thể nói Kinh Trung Bộ không những là cốt lõi trong Kinh Tạng Pàli mà còn diễn đạt rất súc tích và đầy đủ những định nghĩa căn bản các danh từ đạo Phật và còn diễn đạt rất phong phú và đa dạng những pháp môn tu tập đưa đến Niết bàn.

Chưa học Kinh Trung Bộ là chưa nắm được tinh hoa của Ðạo Phật Nguyên Thủy. Chưa nghiên cứu Kinh Trung Bộ rất có thể rơi vào những lệch lạc định nghĩa các danh từ chuyên môn trong đạo Phật mà đức Phật đã dày công định nghĩa, mỗi khi Ngài thuyết giảng giáo lý của Ngài.

Chúng tôi chỉ có thể nói một cách vắn tắt là Kinh Trung Bộ đặt nặng về phần Chánh Tri Kiến và các phương pháp tu hành, nhất là những tiến trình tu chứng đi từ Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến. Còn Kinh Trường Bộ đặt nặng phần lịch sử, có tánh cách đối ngoại đối với Bà La Môn, du sĩ ngoại đạo, Kỳ Na giáo... Tăng Chi Bộ đặt nặng phần phân tích giáo lý theo pháp số từ số 1 đến số 11. Tương Ưng Bộ đặt nặng phần phân tích giáo lý theo đề tài. Còn đọc Kinh Trung Bộ chúng ta đi sâu vào phần giáo lý và phần hành trì, đặt nặng về những phản ứng tâm lý tế nhị của người tu hành khi đạt đến những quả vị tối cao.

Công trình phiên dịch của tôi, một mặt đáp ứng sở nguyện xuất dương tu học của tôi, một mặt xây dựng những tài liệu nghiên cứu đạo Phật cho các học giả và phật tử Việt Nam. Lẽ dĩ nhiên trong trách nhiệm hiện tại của tôi, sự phiên dịch đòi hỏi nhiều cố gắng, nhiều dụng công kiên trì và liên tục, nhưng chúng tôi đã được tưởng thưởng xứng đáng, khi được tận hưởng những Pháp Lạc do Chánh Pháp đem lại trong khi phiên dịch. Pháp Lạc này ẩn chứa trong từng chữ từng câu, tiềm tàng trong từng câu văn giọng nói, và chính Pháp Lạc đã nuôi dưỡng và khích lệ chúng tôi rất nhiều trong công tác phiên dịch này.

Càng dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ Tiểu Thừa để gán vào những lời dạy thực sự nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân lý, mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc đo tài của những ngọn đèn lẻ tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tễnh đi vào con đường triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng rực rỡ của chân lý quét sạch.

Có người than Kinh Pàli quá dài và có nhiều đoạn trùng điệp. Khi dịch Kinh, bao giờ tôi cũng phải kính trọng nguyên bản, và vì vậy chúng tôi không có thể tự ý lược bỏ những đoạn trùng điệp, dầu rằng nguyên bản Pàli chúng tôi phiên dịch cũng đã lược bỏ khá nhiều. Ðiều chúng ta nên nhớ là phần lớn kinh điển được kiết tập trong các Ðại hội Kiết tập và đều do chư Tăng tụng đọc lại những đoạn các vị ấy đã ghi nhớ, và lẽ dĩ nhiên khi tụng đọc không bao giờ có chuyện lược bỏ. Lại nữa đức Phật trong khi đi truyền giáo, mỗi Kinh đều được giảng trọn vẹn trong mỗi hoàn cảnh đặc biệt và chư Tăng ghi nhớ lại không bao giờ dám lược bỏ các đoạn đã được nghe. Do đó, có nhiều đoạn trùng điệp, khó lòng lược bỏ cho được. Dầu thế nào, các đoạn trùng điệp vẫn có sự tác dụng cho người đọc, vì không gì tốt đẹp hơn là được nhắc đi nhắc lại nhiều lần những giáo lý quan trọng và những pháp tu căn bản.

Chúng tôi nay chỉ chú trọng phiên dịch, và mong dịch cho được chu toàn và đầy đủ, để làm tài liệu nghiên cứu và tu học cho các phật tử và học giả, chưa có một nhận xét, phê bình, so sánh đối chiếu gì. Mỗi bộ kinh được dịch xong là những nguồn tài liệu văn hóa hết sức phong phú và quý giá cho các học giả và các phật tử, và hiện tại sự cố gắng duy nhất của chúng tôi là cung cấp những tài liệu văn hóa ấy. Cho nên, với 5 bộ Kinh Trường Bộ, Kinh Trung Bộ, Kinh Tăng Chi, Kinh Tương Ưng, Kinh Tiểu Bộ, chúng tôi nghĩ là giới thiệu được những tài liệu khá chính xác và đầy đủ để các nhà học giả, Tăng Ni phật tử, sinh viên đi sâu được vào những Giáo lý và Giáo pháp căn bản, thật sự là nguyên thủy của đạo Phật.”

Kính thưa quý phật tử! Khi đọc xong tiếng nói của Hoà Thượng Thích Minh Châu, một trong những vị Hoà Thượng danh tiếng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và thế giới, Ngài đã dám chỉ thẳng, nói cái sai của Phật giáo hiện giờ để cảnh giác mọi người thì quý phật tử hãy tự suy ngẫm rồi chọn cho mình một con đường đúng chánh pháp của Phật, để xây dựng cho mình một đời sống đạo đức nhân bản – nhân quả, không làm khổ mình khổ người.

Cuối cùng, để thay cho lời kết, Tâm Thuận xin trích dẫn lời di chúc của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã ban bố trước khi Ngài diệt độ, và lời di chúc vô giá này sẽ còn sống động mãi cho đến khi con người hết khổ:

“Này Ananda, nếu trong các ngươi có người nghĩ rằng: “Lời nói của bậc Ðạo sư không còn nữa. Chúng ta không có Ðạo sư (giáo chủ)”. Này Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy. Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo Sư của các Ngươi.”

“Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, Này Ananda là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.” (Kinh Trường Bộ, bài Kinh Đại Bát Niết Bàn).

Xin Kính Chúc Quý Đạo Hữu Thân Tâm Thường Thanh Thản, An Lạc!

 

             Cùng chủ đề, mời quý vị xem thêm tại đây: 

 

 

• KINH TRUNG BỘ - Majjhima Nikàya - HT. Thích Minh Châu dịch Việt

• CẢM NGHĨ VỀ “LỜI GIỚI THIỆU” TRUNG BỘ KINH CỦA HT THÍCH MINH CHÂU – Trần Công Tấn 

048-NIỀM TIN CHÁNH PHÁP - Từ Đồng

Thầy vẫn mãi còn đây - chúng con nguyện vững vàng tiếp bước chân Người.

Thầy nằm đó dáng im lìm bất động

Đỉnh Chơn Như có Phật hiện thân về.

                                                  Thơ Chơn Thành (Nguyên Thủy 3)

Lần rời Tu viện cuối cùng của Trưởng lão (9g30 tối 30/5/2012) trong chuyến đi Hòn Sơn

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Chúng tôi xin phép được đưa hai câu thơ trên của một phật tử đang trong những ngày tháng tu tập tại Tu Viện Chơn Như được Thầy Viện Chủ hướng dẫn phương pháp tác ý để điều phục thân (vị này đang mang một căn bệnh ung thư…), cũng chính vị phật tử này đã được chứng kiến và tham dự trong buổi Lễ tang của Thầy Viện chủ.

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Từ sự ra đi của Thầy Viện Chủ, cùng sự tinh tấn tu tập trong suốt những tháng cuối cùng khi còn Thầy, vị phật tử này đã cảm nhận được và càng vững niềm tin hơn đến với Chánh Phật Pháp Nguyên Thủy…

Trong sự cảm nhận đó vị Phật tử này đã viết lên tâm tư của mình qua bài thơ:

Có gì khác giữa thế nhân

Với bậc Thánh ra đi

Người ra đi thanh thản

Không khoa trương ầm ĩ

Không cờ trống lọng phan

Không đèn hương nhang khói

Rất ít giọt nước mắt

Giữa dòng người tiễn đưa

Tất cả đã trôi vào

Sự thanh tịnh bất động

Vĩ đại thay bậc Thánh.

Hôm nay lại một lần nữa chúng con xin hướng về Thầy, vị Thầy Tôn kính của chúng con, mới đó mà đã hơn 20 ngày, đại chúng Tu Viện Chơn Như cũng như tất cả các nhóm, các tổ tu học Nguyên Thủy Chơn Như từ Bắc chí Nam cũng như ngoài nước vẫn luôn luôn khắc cốt ghi tâm những gì Thầy đã dặn dò: “Không tuần thất, không chẩn tế, trai tăng v.v…

Biết bao nhiêu cảm nhận về sự ra đi của Thầy: Nuối tiếc, hụt hẫng, thương nhớ v.v… Liên tục các bài viết trong hàng đệ tử của Thầy cũng như một số khách viếng trong buổi Tang lễ đã nói lên một sự thật mà họ đã chứng kiến: Một đám tang an lạc, một đám tang hoàn hảo v.v…

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Trong những ngày qua chúng tôi có liên lạc qua điện thoại cùng với một số bạn đồng pháp ở các nhóm Tu học Nguyên Thủy Chơn Như. Chúng tôi có hỏi: Các bạn có cảm nhận gì về sự ra đi của Thầy không? Có khi nào các bạn nghĩ rằng tại sao Thầy Viện chủ không để lại nhục thân, hay xá lợi không, hay thị hiện một điều gì đó để chứng minh năng lực của một vị tu chứng. Qua trao đổi, trong đó có một bạn trả lời: “Con cũng có phản biện vấn đề này trước đó, nhưng qua Tang lễ của Thầy, con thấy nó đã là một sự minh chứng của một bậc Thánh thì cần gì phải để lại nhục thân hay xá lợi.”

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Nghe qua tâm sự của các bạn, bản thân chúng tôi cũng nghĩ như vậy là đã đủ chứng minh rồi. Nhưng ở đây chúng tôi muốn xin nói lên về sự cảm nhận riêng của chính bản thân mình (không biết đã có các bạn đồng pháp nào có cùng chung một ý tưởng này không?).

Kính thưa các bạn!

Di chúc trên giấy trắng mực đen, đây chẳng qua chỉ là một thủ tục hành chánh trên pháp lý và theo hiến chương của một Tôn Giáo. Tâm thư trước ngày Thầy Viện Chủ ra đi một tháng, Thầy cũng đã có viết. Nhưng cảm nhận một di chúc không lời của Thầy ngoài sự ra đi (như lời tường thuật và các bài viết) mà chúng tôi cảm nhận được:

Thầy muốn Tu Viện Chơn Như sẽ là một vùng đất Thánh thật sự…”

Tại sao chúng tôi phải nói lên những điều này. Các bạn đồng pháp trong số chúng ta trên toàn thế giới có vị nào đã từng đi viếng thăm Thắng Tích Phật giáo tại Nepal - Ấn Độ chưa, hoặc đã từng lên các trang mạng về Thắng Tích Phật giáo hay các tour du lịch v.v… mà chúng tôi đã từng có viết trong bài viết “Đường Về Đất Phật ”. Biết bao nhiêu đoàn, năm nào là không có, tháng nào cũng không thiếu, không đoàn nước này thì nước khác kể cả Việt Nam.

Chúng tôi xin ghi lại một đoạn viết được giới thiệu: “Vườn Lộc Uyển, nơi thuyết pháp đầu tiên của đức Phật sau khi đắc đạo, lúc nào cũng có đông người tu tập hoặc thiền định dưới cây Bồ Đề thiêng 136 năm, nơi đức Phật chứng ngộ”. (Nguồn Doanh Nhân Sài Gòn Online).

Đã có một số các nước như: Thái Lan, Tây Tạng, Nhật, Trung Quốc, Srilanca, Hàn Quốc và cả Việt Nam, những ngôi chùa được xây dựng lên tại khu thắng tích với các công trình kiến trúc gọi là độc đáo để tạo thêm điểm tham quan, tổ chức các công tác từ thiện… và cũng từ đó biến thành một chổ trọ qua đêm, còn một số chư Tăng Ni trở thành hướng dẫn viên du lịch cho các tour v.v…

Kính thưa Đại Chúng!

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Chư Tăng, Ni cùng phật tử trong chúng ta là những người đã trở về nương tựa bên Thầy, một vị Thầy đã làm sống lại nền “ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ” mà cách đây hơn 2500 năm đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã khai sang chân lý giải thoát này, vậy chúng ta có muốn vùng Đất Thánh Chơn Như này cũng giống như Thắng Tích lịch sử Phật giáo tại Nepal - Ấn Độ không? Theo như cảm nhận của chúng tôi, nếu Thầy chỉ cần để lại nhục thân hay xá lợi v.v… thì Tu Viện Chơn Như sau này cũng chẳng khác gì như Thắng Tích Phật giáo tại Ấn Độ. Rồi thiên hạ các nơi trên thế giới ùn ùn quay về chiêm bái, đảnh lễ, thỉnh xá lợi v.v…

Chưa hết đâu các bạn ạ! Rồi sẽ có những chùa ở các nước lại mọc lên trên vùng đất Trảng Bàng, Am cốc, Nhà hàng, khách sạn, nhà trọ vân vân và vân vân… Vì nơi đây đã xuất hiện một bậc tu chứng như thời kỳ đức Phật cách đây hơn 25 thế kỷ.

Chúng tôi xin được trở lại một vấn đề: Trong thời kỳ của đức Phật cách đây hơn 2500 năm, Pháp Bảo của Ngài được kết tập là do ngài A Nan lập lại “Như Thị ngã văn” (Tôi nghe như vầy). Còn bây giờ ở thế kỷ ngày hôm nay, thánh âm của một vị A La Hán vẫn còn đó, kinh sách vẫn còn đây, thì chúng tôi xin thưa rằng lúc đó băng đĩa, kinh sách không đáp ứng được cho nhu cầu. Đây chúng tôi chưa dám nói đến những kẻ lợi dụng thời cơ trục lợi v.v… Lúc đó đại chúng trong Tu Viện sẽ phải lo tiếp khách, quét dọn v.v… thì có còn giữ “Ba Đức, Ba Hạnh” được nữa không???.

Ngôi mộ đơn sơ sẽ rợp mát bóng xoài theo di ngôn của Trưởng lão

Kính thưa đại chúng Tu Viện Chơn Như!

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Chúng ta sẽ nghĩ gì? Lúc đó Tu Viện Chơn Như có còn là một vùng đất Thánh nữa không? Có còn là một Tu Viện chuyên tu để đào tạo cho các tu sinh trở thành những con người sống có đạo đức, sống có giới luật… để tiếp nối và nhân rộng con đường “Đạo đức Nhân Bản – Nhân Quả” sống không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh mà Thầy đã từng nhắc nhở.

Vì vậy theo cảm nhận riêng chúng tôi, Thầy không nhập định không để lại nhục thân, không lễ trà tỳ (Thiêu) để lại Xá Lợi v.v… Cho nên sự ra đi của Thầy đó chính là: “MỘT DI CHÚC KHÔNG LỜI”.

Thầy muốn nhắc nhở cho chúng ta: Đất Thánh Chơn Như luôn luôn vẫn tiếp tục có những con người bằng xương, bằng thịt tiếp nối con đường Chánh pháp của Phật Giáo Nguyên Thủy. Đất Thánh Chơn Như luôn luôn lúc nào cũng là mùa Xuân “XUÂN VĨNH CỬU”.

Thành phố Virginia Beach, ngày 21 tháng 01 năm 2013

                                                                                                 Nay kính

                                                                                                TỪ ĐỒNG

049-CẦN HIỂU RÕ CHÁNH - TÀ TRONG ĐẠO PHẬT. Tỳ-kheo Thích Nguyên Tánh

Đạo Phật Nguyên Thủy, đạo Phật Phát triển - Đâu đạo Chánh, đâu đạo Tà?

Kính thưa quý độc giả và hành giả!

Nhờ gặp được bậc Thầy tu chứng đạo như đức Phật nên bản thân tôi cũng như rất nhiều đệ tử được đức Trưởng lão Thích Thông Lạc chỉ dạy nên tôi đã lành được bệnh ung thư cổ và 34 bệnh khác. Nay tôi xin trích dẫn bài kinh nói về Chánh Đạo và Tà Đạo của đức Phật dạy dâng hiến đến quý vị, ngõ hầu ai ai cũng tìm được Chánh Pháp của đức Phật như chúng tôi để tu là thoát được hai nơi bệnh viện, nhà tù. Bài kinh của đức Phật sau đây đã minh chứng điều đó. Phần diễn giải có gì không rõ hay sai sót mong quý vị tha thứ. Kính chúc quý vị thân tâm thường bất động, thanh thản, an lạc và vô sự! Không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh là chứng đạo.

Đức Trưởng lão tại Hòn Sơn 30-5-2012

Kính thưa quý vị!

Trong kinh Ba Minh thuộc Kinh Trường Bộ (tạng Nikaya) có đoạn:

“4. Thanh niên Bà-la-môn Vàsettha nói: - Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo. Ðó là con đường do Bà-la-môn Pokkharasàti giảng dạy.

5. Thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja nói: - Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Tàrukkha giảng dạy.”

Thưa quý vị!

Trên đây là cuộc đối thoại của những người theo các hệ phái Bà-la-môn thời bấy giờ đang tranh cãi lẫn nhau, bên nào cũng cho rằng pháp mà mình đang thực hành là Chánh Đạo còn những người không thực hành như pháp họ đang theo thì gán cho Tà Đạo hết. Ngày nay cũng vậy, những ai giữ gìn, tu học theo giáo pháp nguyên thủy của đức Phật thì bị các học giả Phật giáo phát triển chê bai miệt thị là “Tiểu Thừa vị kỷ”, là “bàng môn ngoại đạo”, là “chồi khô mộng lép v.v…” Vì vậy mà tranh biện xảy ra giữa hai dòng Phật giáo theo đạo Phật Nguyên Thủy và đạo Phật phát triển (Nam Tông, Bắc Tông) như hai con dê qua cầu, không bên nào chịu nhường bên nào. Cuối cùng, nhờ lúc đó đức Phật đã xuất hiện rất nổi tiếng ở đất Ấn Độ thời bấy giờ nên họ thống nhất kéo nhau đến để nhờ đức Phật làm trọng tài giải đáp xem bên nào Chánh, bên nào Tà.

Đoạn kinh trên cho chúng ta thấy hai đạo sĩ Bà-la-môn này chỉ là đại diện cho rất nhiều vị Bà-la-môn khác nữa đang theo mỗi người mỗi đường khác nhau mà qua trình bày của hai vị đại diện trực tiếp đến thưa hỏi đức Phật chúng ta mới biết:

"Thưa Tôn giả Gotama, nhiều Bà-la-môn thuyết dạy nhiều con đường sai khác như các vị Bà-la-môn Addhàriyà, các vị Bà-la-môn Tittiriyà, và các vị Bà-la-môn Chandokà, các vị Bà-la-môn Chandavà, các vị Bà-la-môn Bràhmacariyà"...

Cũng như hiện nay, chưa nói gì đến các tôn giáo trên hành tinh mà ngay trong Đại Thừa giáo cũng mỗi người theo mỗi pháp môn, người thì theo Tịnh Độ Tông, kẻ theo Thiền Tông, kẻ theo Mật Tông, Pháp Hoa Tông, Khí Công, Yoga, Tâm Năng Dưỡng Sinh... Và cũng đúng y như hai vị đạo sĩ này nêu ra: "Tất cả con đường này hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo. Tôn giả Gotama, như gần làng hay gần trị trấn có nhiều con đường sai khác, nhưng tất cả con đường này đều dẫn đến làng"

Đó chính là lý luận của Đại Thừa về Tám Vạn Bốn Ngàn pháp môn tu. Tuỳ theo căn cơ ai thích hợp pháp môn nào thì thực hành pháp môn ấy. Nhưng vấn đề là ở chỗ những ai thực hành như vậy có đem lại lợi ích gì không, họ có làm chủ được sinh, già, bệnh, chết như đức Phật dạy không? Trong khi tâm con người ai ai cũng đầy ắp Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Tà Kiến nên hễ ai đụng đến là tức giận, buồn phiền để từ đó mà sinh bệnh. Tu như vậy họ có làm chủ được sinh, già, bệnh, chết hay không? Tâm còn tham, sân, si phiền não nữa hay không? Làm cách nào để đoạn tận tham, sân, si, họ khỏi cần biết.

Trong lúc đó đạo Phật Nguyên Thủy chỉ cho chúng ta hay rằng ai thực hành đúng bốn chân lý của đức Phật giảng dạy đều có khả năng làm chủ được tám nỗi khổ trên đời trong đó có bốn khổ lớn là SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT mà trong bài kinh số 26 kinh Thánh Cầu thuộc kinh Trung Bộ đức Phật đã chỉ rõ cho chúng tỷ-kheo thời bấy giờ. Ngày nay thầy Thông Lạc đã đem vào dạy các đệ tử trong khoá tu đào tạo A-la-hán. Năm 2006, chúng tôi được Thầy chỉ dạy nên mới biết rõ; nếu không có Thầy chỉ dạy cho kinh đó ở trang nào dòng nào thì làm sao chúng tôi biết được.Và khi không biết được thì lấy gì để mà thực hành, để mà đẩy lùi bệnh ra khỏi thân tâm, để khi có bệnh chỉ dùng pháp Phật tác ý đẩy lùi, không cần uống thuốc và đi bệnh viện là điều có thật.

Đó là lời dạy nguyên gốc của đức Phật cách đây gần 26 thế kỷ. Khi đọc và thực hành được như chúng tôi nghĩa là bị bệnh, kể cả bệnh ung thư cũng đẩy lùi được thì lúc đó không có trở lực nào có thể làm tâm quý vị thối chuyển được. Còn bây giờ quý vị hãy nghe lời Phật đang độ cho các vị Bà-la-môn thời bấy giờ để tăng thêm lòng tin mà quay về với Chánh Pháp mà thôi. Trở về với Chánh Pháp tức là không còn tin theo siêu hình của đạo Bà-la-môn nữa mà chỉ tin sâu nhân quả nghiệp báo để chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện, như vậy mới giải thoát. Còn tin theo siêu hình chỉ tốn kém tiền bạc mà lại mang tội phỉ báng Phật pháp, tạo thêm tội lỗi mà trong kinh đức Phật dạy là Tà Kiến, đó là trọng tội, nếu ai vi phạm khi thân hoại mạng chung phải đoạ vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Sau đây xin quý vị hãy khéo tác ý để cho tâm tập trung trong Chánh Niệm nghe đức Phật đã nhấn mạnh đến ba lần trong khi trả lời hai đạo sĩ Bà-la-môn nhằm mục đích cho đối phương hết đường chối cãi. Khi hai vị này đã có lòng tin nơi đức Phật nên mới thỉnh cầu đức Phật giải đáp. Đây chính là nghệ thuật thuyết pháp nhằm mục đích cứu ngoại đạo Bà-la-môn thời đó đang lấy giả làm chân để cho họ biết cách làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết được như đức Phật.

- Này Vàsettha, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến?"

- Thưa Tôn giả, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn đến".

Đoạn kinh trên đức Phật muốn nhấn mạnh ba chữ "Chúng dẫn đến" tức là cộng trú với cõi Phạm Thiên khi thực hành pháp môn họ đang theo. Cũng như pháp môn Tịnh Độ Tông của Đại Thừa hiện nay dạy chỉ cần niệm Phật nhất tâm bất loạn từ một đến bảy ngày, khi chết được Phật Di Đà rước về cõi Tây phương.

Đoạn kinh sau đức Phật dùng danh từ Phạm Thiên để chỉ quan niệm của Tà Đạo Bà-la-môn thời bấy giờ, ai tu hành khi chết được sanh về cõi Phạm Thiên. Đó là quan niệm lệch lạc, sai trái mà khi loài người đang sống trong xã hội thời Nguyên Sơ, họ sống thành bộ lạc, lúc đó khoa học chưa phát triển, con người sống trong vũ trụ thấy mình quá nhỏ bé trước những hiện tượng thiên tai, bão tố, sóng thần, động đất luôn đe doạ con người, họ quá ư sợ hãi, khiếp vía kinh hồn nên họ tưởng tượng ra trong vũ trụ này nhất định có đấng quyền năng nào đó ban ơn hay giáng hoạ cho mình. Chính do tâm lo lắng sợ hãi đó mà họ sinh ra việc thờ tự thần thánh để hy vọng các vị này phù trì bảo hộ giúp đỡ tai qua nạn khỏi.

Từ suy nghĩ như vậy mà những ai làm nghề nông họ thờ ông thần Nông, ai làm nghề chài lưới họ thờ thần Sông, thần Biển. Cũng vậy đối với các nghề khác đều có những vị thần riêng do con người tự đặt ra chẳng ai giống ai. Kẻ thì thờ Thổ Địa, Thành Hoàng, Bản Thổ, Long Mạch. Người thì thờ thần Tài, ông Táo, thần Sao, thần mặt Trăng, mặt Trời, thậm chí họ thờ cả thần Tổ, bà Cô, thánh Cậu, Tam Toà Thánh Mẫu, Địa Mẫu Chân Kinh, Địa Tạng Vương, Quán Âm Bồ Tát v.v… và v.v… với hy vọng là nhờ các vị này phù trì bảo hộ cho tai qua nạn khỏi, ăn lên làm ra chứ không phải thờ vì lòng biết ơn ông bà, cha mẹ đã có công sinh ra họ. Do cách thờ tự như vậy nên họ không bao giờ tự chủ được bản thân mà luôn luôn nô lệ vào các đấng thần linh.

Hễ trong nhà có việc gì không yên do họ phạm năm tiêu chuẩn làm người của đức Phật dạy như sát sinh, ăn thịt chúng sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nghiện ngập chất say, từ đó họ phải bệnh tật tai nạn chính do nghiệp ác họ tạo ra thì họ lại đổ cho số phận, thánh thần bắt tội họ. Khi suy nghĩ lầm lạc như vậy họ bắt đầu sinh ra bói toán, thế là họ lại bị thầy bói, thầy cúng lừa họ, bắt họ phải cầu siêu, giải hạn, gửi hũ hài cốt lên chùa, không ở nhà các vong hồn này quấy phá. Thật là tránh vỏ dưa mắc vỏ dừa làm cho họ không bao giờ hết khổ. Bới vậy kinh Pháp Cú đức Phật dạy:

"Kẻ thù hại kẻ thù

Oan gia hại oan gia

Không bằng tâm hướng Tà

Gây ác cho tự thân

Điều mẹ cha bà con

Không có ai làm được

Tâm hướng Chánh làm được

Làm được tốt đẹp hơn.”

Đúng như lời đức Phật dạy trên đây, nếu ai có tâm hướng Tà thì chỉ gây ác cho bản thân họ mà thôi, chứ chẳng có thần thánh nào đến đây làm khổ cho họ cả. Ví dụ có người do ăn thịt uống rượu bị bệnh gan, nay họ không biết tội của họ do phạm hai giới sát sinh gián tiếp và uống rượu để rồi bỏ đi là bệnh gan phục hồi, thế mà họ nhờ bề trên phù hộ do bị thầy chùa lừa rằng do bị hạn nọ, hạn kia, cần phải giải đi thì họ có lành được bệnh không? Không ngờ rằng việc tin tưởng mù quáng đó lợi bất cập hại, lợi thì chẳng có mà hại thì nhiều, khiến cho tâm họ luôn bất an, luôn nô lệ vào đấng quyền năng.

Họ có ngờ đâu rằng chẳng bao giờ có đấng quyền năng nào cả, mà do tâm họ đặt vào đâu thì ở đó trở thành thiêng liêng do năng lực siêu hình của Tưởng Ấm trong thân ngũ ấm biến hiện ra mà thôi. Ví dụ một người tin vào cha mẹ mình thiêng thì trong giấc ngủ thường thấy cha mẹ về báo mộng, có người tin vào mộ kẻ ăn mày thiêng do lời đồn đại từ người khác rồi họ thường xuyên đến mộ ăn mày thắp hương mỗi khi có công việc họ đều đạt được như ý muốn. Vì vậy mới có câu "hữu cầu tất ứng". Nhưng họ có ngờ đâu việc cầu của họ thành tựu là do phước của họ còn, nếu họ cứ cầu mãi như vậy thì không bao giờ được nữa, vì phước họ đã hết.

Cũng như có vị tin vào Bồ tát Quán Âm cứu khổ cứu nạn nên khi bị chìm tàu giữa biển họ liền niệm danh hiệu Quán Âm, bỗng nhiên tàu nổi lên là do phước thiện họ đang còn cứu họ chứ chẳng có Bồ tát Quán Âm nào cứu họ hết cả. Hỏi rằng biết bao nhiêu người theo Bồ tát Quán Âm trên thế gian này mà Mẹ Quán Âm chẳng có cứu họ để họ phải chịu chết đau khổ vì bệnh tật, tai nạn. Đó chính là lòng tin mù quáng không được đức Phật không chấp nhận. Ngài chỉ chấp nhận những ai tin sâu lý nhân quả nghiệp báo để chuyển ác thành thiện mới là lòng tin chân chánh. Như vậy cũng vừa đủ cho chúng ta thấy không bao giờ có thế giới siêu hình khách quan mà chỉ có nhân quả của con người tạo ra để rồi tái sinh luân hồi làm người hay làm thú ngay sau khi tắt thở.

Để tăng thêm lòng tin cho quý vị không còn tin vào thế giới siêu hình, Thần, Thánh, Ma, Quỷ chúng tôi xin nêu hai trường hợp điển hình mắt thấy tai nghe tại quê hương chúng tôi để chứng minh:

Chúng tôi đã chứng kiến hai trường hợp rất rõ ràng, một là tin thầy bói nên chuyên cầu cúng thờ tự một thời gian thấy “ăn lên làm ra”, thế rồi ở chổ nào có thầy bói, thầy cúng tài giỏi, người bạn của tôi đều đến đó khấn vái cầu cúng. Cho đến khi do lòng tham không diệt nổi nên đã ôm số đề mãi con số 55, cho đến mấy tháng sau số 55 mới xuất hiện, thế là toàn gia tài có được phải bán để chạy vào Lâm Đồng sinh sống qua ngày bằng nghề chăn nuôi.

Một trường hợp khác có sư cô tin vào sự phù hộ của Bồ tát Quán Thế Âm, mặc dầu cô ta đã có cả bộ Đại Tạng Kinh do HT Minh Châu dịch thời còn hiếm, cô đã có công mang từ trong Nam về. Lúc đó chúng tôi đã nhận được bộ sách quý Đường Về Xứ Phật của Trưởng lão Hoà Thượng Thích Thông Lạc, chúng tôi đã tu tập đẩy lùi được cả bệnh ung thư, vì cô trụ trì chùa trong tỉnh thời gian còn theo pháp môn của Đại Thừa cô cũng đã dạy chúng tôi tụng kinh, tụng chú, ngồi thiền. Sau khi gặp được Chánh Pháp quá tuyệt vời, chúng tôi đã đến khuyên cô nên quay lại với Chánh Pháp của đức Phật dạy về bốn chân lý trong đại tạng kinh, nhờ vậy mà Hoà Thượng Thích Thông Lạc đã tu trong hơn sáu tháng chứng đạo. Trước khi để giúp cô cải Tà quy Chánh như đức Phật dạy:

“Ai quy y đức Phật

Chánh Pháp và chư Tăng

Ai dùng Chánh Tri Kiến

Thầy được bốn Thánh Đế

Thấy Khổ và Khổ Tập

Thấy sự Khổ vượt qua

Thấy đường đạo Tám Ngành

Đưa đến Khổ não tận

Quy y ấy an ổn

Quy y ấy tối thượng

Ai quy y như vậy

Mới thoát mọi khổ đau.” (Kinh Pháp Cú)

Thấy được lợi ích lớn lao không thể nghĩ bàn như vậy, chúng tôi đã mời cô xin vào gặp Thầy của chúng tôi xin quy y. Trong lúc chờ đợi, chúng tôi đã trực tiếp xin Thầy cho bộ sách bốn cuốn Văn Hoá Phật Giáo Đường Về Xứ Phật (do nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin ấn hành) để Đại Thừa họ có phản bác lấy đó là cây gậy. Thế nhưng chỉ được mấy hôm cô không cho tổ thọ bát thực hành nữa, cô lấy cớ là mẹ Quán Âm thiêng liêng lắm, Ngài đã báo cho cô những việc đúng như thật, vả lại dân ở đây họ thích giải hạn cầu an, cầu siêu.

Thế rồi quý vị có biết không? Một thời gian sau cô ta bị một gã nghiện rượu trong xóm quen biết ra xin tiền, cô không cho, gã này cạy hòm công đức để lấy tiền, cô điện báo công an, lập tức bị gã thanh niên chém cô liên tục bảy nhát dao vào đầu, đến nhát thứ tám cô bị bổ đôi đầu chết hết sức thảm thương. Đây là chuyện có thật ở chùa Hoa Lâm Ngự Tự huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh. Lẽ ra chúng tôi chẳng muốn nhắc lại quá khứ đau lòng nhưng chúng tôi chỉ muốn nói lên một sự thật mà đức Phật và bậc Thầy tu chứng như Phật đã nói, ngõ hầu cứu giúp những ai còn tin theo kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn là kinh của đạo Bà La Môn để làm bằng chứng.

Vì đạo Phật Nguyên Thuỷ đức Phật không bao giờ chấp nhận có Thần Linh, Thượng Đế phù trì bảo hộ, không chấp nhận số phận, định mạng, tử vi bói toán, mà chấp nhận quy luật nhân bản - nhân quả ngự trị trong vũ trụ này do đức Phật đã hiểu biết rõ như thật và truyền dạy. Vì có quy luật nhân quả thì người tu bỏ ác làm lành mới được giải thoát, hay nói cách khác là chuyển nhân ác thành nhân thiện, còn như tin theo siêu hình, như đã phân tích trên do con người khi chưa có khoa học giải thích họ tưởng ra có thần thánh nên mới tạo ra bao nhiêu tà đạo.

Để giải thích thật rốt ráo Tà Đạo do đâu mà có, chúng tôi xin trích lời dạy qua kinh nghiệm của chúng tôi và của bậc tu chứng như Phật dạy cho chúng tôi biết về sự nguy hại không lường về 18 loại thần thông của ngoại đạo xuất hiện ra khi người tu thiền ức chế tâm và cách đối trị sau đây:

Có 18 loại thần thông tưởng

Sáu loại ban đầu

Sắc tưởng là hình sắc

Thanh tưởng là âm thanh

Hương tưởng là mùi hương

Vị tưởng là mùi vị

Xúc tưởng là cảm giác

Pháp tưởng là tưởng giải

Khi tu tập nếu có những trạng thái này xuất hiện thì ngay lập tức đứng dậy đi kinh hành tỉnh giác và tác ý mạnh để cho ý thức hoạt động trở lại, nếu không sẽ bị tẩu hỏa nhập ma (không được nuôi dưỡng). Khi tu có có sáu cái thức của tưởng: Nhãn tưởng; Nhĩ tưởng; Tỷ tưởng; Thiệt tưởng; Thân tưởng; Thức tưởng. Khi tu tập thường xuất hiện sáu loại thức tưởng này, khi gặp nó liền xả thiền đứng dậy đi kinh hành chánh niệm tỉnh giác.

Khi tu tập theo ngoại đạo đạt đến kiến tánh thì có năm thần thông xuất hiện: Thiên nhãn thông; Thiên nhĩ thông; Tha tâm thông; Thần túc thông; Túc mạng thông (ngoại đạo không có Lậu tận thông). Nếu tu tập gặp những loại thần thông này thì mau mau xả bỏ, không nên khoe khoang, không nên biểu diễn cho người xem, vì những loại thần thông này chẳng có ích lợi gì cho con đường tu tập giải thoát theo đạo Phật Nguyên Thủy.

Như vậy tôn giáo rõ ràng do con người sinh ra, nó nằm hoàn toàn trong thân ngũ uẩn của con người tập trung ở trung ương thần kinh chính là não bộ chứ không có đâu khác, ai không tin cứ ngồi thiền ức chế tâm không cho vọng tưởng là biết ngay liền, có ma hay không có ma đều do tâm si tức là hôn trầm, thuỳ miên xuất hiện mà thôi, chứ đâu có ma ở bên ngoài nhảy vào để làm hại con người. Vì vậy đức Phật dạy ba mươi ba cõi trời là cõi tưởng tri (tức là cái biết do tưởng tri xuất hiện trong giấc mơ) chứ không phải là liễu tri (cái biết bằng ý thức). Vì thế cõi trời không bao giờ có thật, mà cõi trời trong kinh Phật dạy chính là ai hành mười điều lành chính là cõi trời. Cũng có nghĩa là khi đang sống, nhờ họ đã thực hành được mười thiện, ở thân có ba, ở ý có ba, ở khẩu có bốn. Khi đang sống, nhờ từ trường thiện bảo vệ cho họ nên không ốm đau, tai nạn, bệnh tật, tâm hồn luôn thanh thản an vui, đó là cõi trời của người hành mười thiện. 

Còn ai tu về cõi người phải thực hành trọn vẹn năm giới. Ai về cõi Phật thì phải đoạn tận tham, sân, si, mạn, nghi, dứt sạch 17 kiết sử, lúc đó sẽ nhập vào từ trường bất động thanh thản an lạc và vô sự, đó chính là trạng thái Niết Bàn lưu xuất từ nơi tâm con người do tu tập mà có chứ không phải Niết Bàn là cảnh giới bên ngoài như kinh Đại Thừa mô tả.

Qua đây chúng ta đã mở được chìa khoá quan trọng, cõi siêu hình của các tôn giáo trên thế gian quan niệm mà đức Phật đang tìm mọi cách giảng giải giáo hoá hai đạo sĩ Bà-la-môn. Chúng ta hãy cố gắng lắng nghe cho kỹ để khỏi mắc lừa chư Tổ, tin vào thế giới siêu hình sẽ mang hậu quả như sư cô chúng tôi đã nêu ở trên.

“- Thế nào Vàsettha? Có Bà-la-môn nào trong những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà tận mặt đã thấy Phạm thiên?

- Thưa Tôn giả Gotama, không có vị nào.

- Thế nào Vàsettha? Có Bà-la-môn nào cho đến bảy đời tôn sư và đại tôn sư của những vị Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt nhìn thấy Phạm thiên?

- Thưa Tôn giả Gotama, không có vị nào. …

- Này Vàsettha, như vậy ngươi nói không có một Bà-la-môn nào trong những vị tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên... trong những tu sĩ thời cổ, trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy như các vị Atthaka, Vàmaka,… không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu". Như vậy, các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã nói: "Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo".

Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý?

- Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý.”

Đoạn đối thoại trên đây đức Phật đã buộc cho đối phương phải thừa nhận không dám chối cãi, có đúng như vậy không hỡi quý vị? Xin thưa rằng đây là chuyện có thật, chúng tôi chỉ xin nhắc lại đúng nguyên văn đức Phật dạy như thế nào chúng tôi trích dẫn như vậy chứ không hề thêm bớt mà chỉ giải thích để quý vị được rõ hơn mà thôi.

Ở đoạn kinh trên nhấn mạnh: "trong những tu sĩ thời cổ, trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy".

Đoạn kinh này đức Phật đã nhắc lại việc hành đạo của các đạo sĩ Bà-la-môn bây giờ là hoàn toàn theo truyền thống cha ông truyền lại theo kiểu: "Xưa bày nay làm". Y đúc như đạo Khổng và đạo Lão của Trung Hoa truyền sang Việt Nam trong một ngàn năm đô hộ, một loại đạo rất mê tín dị đoan làm ngu muội người dân Việt Nam mỗi năm đã tiêu tốn hàng trăm tỷ bạc chỉ vì tin vào thế giới siêu hình một cách mù quáng, dù biết là sai nhưng do cha ông truyền lại nên không dám bỏ. Vì vô hình nên chưa ai thấy được sự nguy hiểm tức thời nên họ cứ theo cha ông truyền lại. Giả như nếu cha ông truyền cho con cái đi cướp của giết người là điều ác đức, thử hỏi con cháu có nghe ông cha "xưa bày nay làm nữa không?"

Nhưng kỳ thực con cháu có cướp của giết người thì cũng chỉ chết trong một kiếp còn hơn đạo tà nó truyền nối giết hại con người nhiều đời kiếp, bằng chứng có người tin thầy bói đã tẩm xăng đốt một lần cả hai con ruột, nhiều cặp vợ chồng giận nhau đã vứt con đẻ từ tầng 16 xuống đất như vất đồ phế thải, nhiều người mẹ mới 13 tuổi đã mang thai mà tác giả của nó là cụ già bảy mươi lăm. Biết bao chuyện loạn luân anh nằm với chị, em ruột, cha hãm hiếp con đẻ, con trai nằm với mẹ tuổi 65, phanh thây người yêu để phi tang sau khi đã lấy hết tiền bạc, hiếp dâm trên thi thể người yêu khi đã giết người yêu chết để lấy bạc tiền ăn chơi sa đoạ. Tất cả chỉ vì Chánh Pháp của đức Phật đã bị ruồng bỏ, bị dìm mất đi, rồi triển khai tà đạo Trung Hoa bành trướng.

Đáng lưu ý: "…trong những tu sĩ thời cổ, trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy…".

Đoạn kinh này nếu không được đức Phật nêu lên thì chúng ta làm sao biết được Đại Thừa giáo hiện nay là con đẻ của đạo Bà-la-môn có từ thời đức Phật, đó chính là chú Đại Bi, chú Dược Sư, chú Vãng Sinh, Thập Chú... mà Trung ương Giáo hội là người làm cha làm mẹ vẩn không hiểu được để dạy quý phật tử hãy bỏ ngay lập tức, vì trì tụng nó chẳng ích lợi gì, nếu có lợi ích sao con người vẫn bệnh tật, tai nạn? Năng lực của chú Dược Sư mầu nhiệm để đâu mà quý sư thầy cũng như quý phật tử tin tưởng Phật Dược Sư trì tụng đêm ngày, thế mà vẩn phải ốm đau bệnh tật không thể nào tránh khỏi. Đó là sự thực một trăm phần trăm không ai dám chối cãi.

Kinh Phật dạy nguyên gốc còn đó không ai biết mà thực hành, lại nghe chư Tổ Trung Hoa, tin theo tà đạo Bà-la-môn đã có từ thời đức Phật. Hôm nay quý vị mới đủ duyên nghe bài kinh từ kim ngôn của đức Phật thuyết giảng để cứu khổ cho những ai đã lầm đường lạc lối trở về với Bát Chánh Đạo là chấm dứt khổ đau như chúng tôi và bao nhiêu người được đức Trưởng lão Thích Thông Lạc cứu sống.

Quý độc giả cùng theo dõi tiếp:

- Này Vàsettha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không biết, không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo", thật không thể có sự kiện ấy. Này Vàsettha, ví như một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người trước không thấy, người giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy. Như vậy, này Vàsettha lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, người đầu không thấy, giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy, giống như lời nói mù quáng. Lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà như vậy là lời nói đáng chê cười, là lời nói suông, là lời nói không tưởng, là lời nói trống rỗng.

Đoạn kinh trên đức Phật đã thiện xảo dùng lời lẽ hết sức thâm thuý, sâu sắc như dao bén chọc thẳng vào tim của kẻ theo Tà Đạo, chúng ta hãy đọc kỹ lại nhiều lần, nhiều lần nữa để ghi nhớ thật kỹ lời huấn thị quý hoá này của đấng Cha lành.

Mới hay, đạo Phật từ ngày chia đôi thành hai dòng đạo phát triển Bắc Tông và Nam Tông, suốt mấy ngàn năm đã hóa phi Trực đạo, phi Chánh đạo, luôn hướng tới Ma vương mà cứ tưởng mình đang về với Phật. Thật là tội nghiệp, họ bỏ mất đi đạo Phật chân chánh rồi mà không hề biết.  

Ngày nay, pháp Như Lai đã được Trưởng lão Thông Lạc dựng lại, hạnh phúc cho ai, phước lành cho ai, toại nguyện cho những ai đã đủ duyên may gặp được pháp lành. Đến đây, khéo một lần buông xả xuống hết để vững bước theo Chánh Đạo, giải thoát ngay liền, từng bước làm chủ các bệnh khổ ngay liền,… không còn điều gì nghi hoặc nữa.

Hãy nắm tay nhau, chúng ta cùng đi trên con đường Chánh Đạo thênh thang.  

                                                                      Tỷ-kheo Thích Nguyên Tánh

                                                                                    Điện thoại: 012.444.123.67

050-TỪ NHỮNG LỜI DẠY CỦA BẬC A-LA-HÁN - Thanh Thiện

Đạo Phật Nguyên thủy, đạo Phật Phát triển - Đâu đạo Chánh, đâu đạo Tà?
 
 
Hòn sơn - Nơi Đức Trưởng lão đã đến lần cuối 30-5-2012

           1. TÁC Ý HÃY THƯƠNG YÊU VÀ THA THỨ.

Ngài A-la-hán Thích Thông Lạc giảng dạy:

“Hãy dẫn tâm vào đạo, chứ đừng dẫn đạo vào tâm.”

Thầy Thông Lạc dạy tu sinh, thiền nghĩa là hãy dẫn dắt tâm nương theo hơi thở vào tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm không còn khổ đau. Đạo đây là đường hành pháp chơn chánh.

Đức Phật dạy cho Kàlàmà rằng: Khi con nghe thấy điều gì, con chớ vội tin và cũng đừng vội bỏ nghe con. Con hãy Chánh Kiến rõ ràng và Chánh Tư Duy cho rõ ngọn ngành. Điều đó là thiện pháp hay ác pháp. Nếu điều đó là thiện pháp thì con nên đón nhận, bởi vì thiện pháp luôn có lợi cho đời con.

Đệ tử Thanh Thiện giải nghĩa. Xin đừng vội tin, hãy đọc kỹ lời dạy tu hành của thầy Thông Lạc. Thanh Thiện đang học tập tu hành. Thanh Thiện đưa ra với thiện ý, mong độc giả cùng truy vấn qua sách của đức Trưởng Lão cho rõ nghĩa.

Hãy dẫn tâm vào đạo, chứ đừng dẫn đạo vào tâm, nghĩa là gì vậy?

Nếu hiểu nghĩa theo từ ngữ thì đạo là con đường. Có đường xấu, đường tốt. Đạo là tôn giáo. Có tôn giáo hay có tôn giáo dở. Nếu hiểu theo học đường thì sẽ bị trật đường rầy.

Trước khi giải nghĩa rõ ràng câu trên thì ta cần phải biết nguyên lý. Nguyên lý tu theo pháp Phật là tu hành trong thiện pháp. Tức là mọi hành động qua Thân, Khẩu, Ý không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ chúng sanh. Nếu hiểu được như vậy thì ta hiểu câu trên như sau:

Hãy dẫn tâm vào đạo: có nghĩa là luôn luôn dùng câu thiện pháp tác ý nhắc nhở tâm, thì giúp ta khi xử sự sẽ hành xử trong thiện pháp. Ví dụ Tác Ý: Chuyện lớn hoá nhỏ, chuyện nhỏ hoá không. Khi tâm nhớ quen rồi, lúc đụng chuyện khiến ta bực mình nổi nóng. Lúc bấy giờ ta hành xử rất đẹp và lòng ta an vui không còn nóng nảy lỗ mãng nữa.

Chứ đừng dẫn đạo vào tâm: có nghĩa là đừng để tâm khởi niệm làm ác pháp. Ví dụ thấy người kia gai mắt, bực mình, ta khởi niệm muốn tấn công họ. Bây giờ, ta tác ý Chuyện lớn hoá nhỏ, chuyện nhỏ hoá không, thì ta nguôi cơn giận ngay và không muốn sinh sự

Câu trên được giải nghĩa rõ ràng rằng luôn luôn dùng Như lý Tác ý giúp tâm ly dục ly ác pháp, tăng trưởng thiện pháp. Nên nhớ, pháp Phật là pháp tu hành, cho nên lấy thành quả của tu hành mà giải nghĩa thì không bao giờ sai

Chẳng hạn, khi đưa con đến trường, mẹ dặn con rằng: Hãy nhịn, đừng đánh lộn nghe con! Con nghe lời mẹ. Tự nhắc nhở tâm “phải nhường nhịn bạn, không được đánh lộn”. Đến lúc có bé khác đến gây sự, cháu liền tránh đi chỗ khác, hoặc thưa với cô giáo. Rõ ràng, khi nhắc nhở thiện pháp thì hành xử dẹp và bình yên. Nếu bé sinh ác tâm “đập chết nó đi”, thế là bé nhào tới đánh liền. Rõ ràng phải không? Hãy dẫn tâm vào đạo chứ đừng dẫn đạo vào tâm.

Đặc tính của phụ nữ là thường hay ghen. Nên thường xuyên tác lý nhắc tâm “Hãy thương yêu và tha thứ”. Bảo đảm trong nhà an vui hạnh phúc.

Đức Phật dạy rằng: “Thông hiểu những gì cần phải thông hiểu, dứt bỏ những gì cần phải dứt bỏ, tu tập những gì cần phải tu tập, trau dồi những gì cần phải trau dồi”.

Điều nầy minh xác rằng ta không nên quỳ lạy van xin ai cả. Ai bịnh người đó uống thuốc. Người nào tu thì hãy tự đốt đuốc lên là đi.

Trong thâm tâm mỗi người đều có 5 cái màn ngăn che: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, 5 tham dục Danh, Lợi, Sắc, Ăn và Ngủ, 5 uẩn Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức mà ai cũng chấp giữ là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Từ đó tâm bị ô nhiễm và có khuynh hướng khiến tâm niệm khởi ác pháp vì quyền lợi của mình. Cho nên, một người muốn sống trong thân thiện, hoà nhả, thương yêu, thì phải dùng pháp Như Lý Tác Ý luôn nhắc nhở tâm những câu thiện pháp. Lúc bấy giờ tâm sẽ thường nhớ khởi niệm thiện pháp. Như vậy, ta sẽ xử sự hoà hoản, bình an.

Đức Phật đã dạy và nhờ ơn đức Trưởng lão Thích Thông Lạc đã diễn giảng rõ ràng pháp Như Lý Tác Ý, luôn nhắc nhở tâm hành thiện pháp, nhân loại sẽ sống trong tình thương yêu tha thứ như nước với sữa.

2. ĂN THỊT ĐỂ GÁNH BỚT TỘI CHO PHẬT TỬ?!!!

Ngài A-la-hán Thích Thông Lạc giảng dạy:

Chư tăng Nam Tông ăn thịt động vật, quả thật đáng trách!

Qua cuốn sách Đường Về Xứ Phật tập I, Ngài giảng bài kinh Jivaka (Kinh Trung Bộ tập II) Phật dạy: “Này Jivaka, Ta nói, trong ba trường hợp không nên ăn thịt động vật Thấy, Nghe và Nghi”. Thấy rõ ràng có thịt động vật, không nên ăn. Nghe người ta nói trong đồ ăn có thịt, không nên ăn. Nghi khi ngửi có mùi hôi tanh của thịt động vật, không nên ăn.

Ngài khuyên phật tử đùng tiếp tay nuôi ác tăng, làm ảnh hưởng xấu Phật giáo! Phật giáo vốn có một nền đạo đức Nhân bản – Nhân quả tuyệt vời nhứt thế gian. Vì nhân loại ăn thịt động vật là không có lòng thương yêu, sát hại tạo ra từ trường ác khiến loài người bất an.  

Song song, Tiến sĩ James Hansen, Giám đốc Viện nghiên cứu không gian Goddard của NASA Hoa Kỳ cho biết rằng: Nhân loại ăn thịt động vật đang dần đưa quả địa cầu vào hiểm cảnh. Ông gián tiếp khuyên loài người giảm việc ăn thịt động vật.  

Đức Phật dạy cho Kàlàmà rằng: “Khi con nghe thấy điều gì, con chớ vội tin và cũng đừng vội bỏ nghe con. Con hãy chánh kiến rõ ràng và chánh tư duy cho rõ ngọn ngành… Điều đó là thiện pháp hay ác pháp? Nếu điều đó là thiện pháp thì con nên đón nhận, bởi vì thiện pháp luôn có lợi cho đời con”.

Đệ tử Thanh Thiện giải nghĩa. Xin đừng vội tin, hãy đọc kỹ lời dạy tu hành của thầy Thông Lạc. Thanh Thiện đang học tập tu hành. Thanh Thiện đưa ra với thiện ý, mong độc giả cùng truy vấn qua sách của đức Trưởng lão cho rõ nghĩa.

Sở dĩ chư tăng Nam Tông ăn thịt động vật là vì họ lý luận rằng "Không thấy, không nghe, không nghi" là bởi vì trước bữa ăn, chư tăng phải quán đồ ăn bất tịnh. Muốn quán cho rõ thì phải lim dim mắt thì rõ ràng ta tưởng ra không thấy, không nghe, không nghi có thịt động vật thì ta cứ ăn.

Thêm nữa, họ quan niệm rằng: Trong thời gian tu hành, vào thời đó, tín thí cho gì Phật ăn nấy. Họ cho thịt động vật Phật cũng ăn. Phật không ăn thịt động vật sau khi Ngài chứng quả và tìm ra chân lý TỨ DIỆU ĐẾ. Họ nghĩ như vậy “đúng đấy”?!. Nhưng vì họ nghĩ đàng đầu mà không học hiểu đàng đuôi! Với tấm lòng yêu thương đại Từ, đại Bi, Phật thường dạy không được sát sanh. Vậy nên họ lý luận rằng chư tăng Nam Tông chúng tôi đâu có sát sanh? Phật tử phạm tội sát sanh, chư tăng Nam Tông chúng tôi ăn là để gánh bớt tội cho phật tử cúng dường kia mà!!!

3. THẤY LỖI MÌNH, CAN ĐẢM QUAY VỀ CHÁNH PHÁP.

Kính lời cùng quý vị Tôn túc Tăng, Ni.

Biết lỗi, nhận lỗi và can đảm nói lên sự thật là tôn chỉ hàng đầu của TĂNG NI PHẬT GIÁO.

Phật có dạy rằng: Là tăng ni Phật giáo thì phải can đảm nhận lỗi nơi chính bản thân mình, phải can đảm nói lên sự thật, bởi vì Phật giáo là đạo chân lý, là trí tuệ của loài người. Chân lý là đúng sự thật, không bao giờ thay đổi theo thời gian, không gian.

Trưởng lão Thích Thông Lạc là bậc A-la-hán xuất hiện tại Việt nam. Sự xuất hiện của Ngài là niềm hãnh diện vô biên cho hàng phật tử Việt Nam với bạn bè phật tử quốc tế, đó cũng là danh dự tỏa ngát hương thơm ngàn đời cho Tổ quốc Việt Nam. Chính Ngài đã phá tan màn u mê mê tín dị đoan đang phủ trùm khắp địa cầu, vén màn cho nhân loại cùng thấy rõ CHÁNH PHÁP NHƯ LAI, đồng thời Ngài diễn giảng rõ ràng lời Phật dạy, hướng dẫn rành rẽ những pháp tu hành đúng pháp Phật, giúp hành giả đạt mục tiêu làm chủ SINH, LÃO, BỆNH, TỬ và GIẢI THOÁT chấm dứt LUÂN HỒI.

Sự thật là sự thật, nhưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hàng tăng ni Việt Nam không dám công khai đón nhận và nói lên sự thật vị A-la-hán tuyệt vời này. Mặc dù, chính họ đã về trực tiếp tiếp kiến thầy THÔNG LẠC.

Vì sao vậy? Là bởi vì:

1) Nếu họ xác nhận thầy Thông Lạc là Thánh Tăng thì hàng phật tử sẽ rời bỏ họ ra đi.

2) Nếu họ xác nhận thầy Thông Lạc là Thánh Tăng thì nồi cơm họ bị bể.

3) Chính họ âm thầm tu tập theo lời chỉ dạy cũa thầy Thông Lạc, nhưng họ không thể kham nhẫn nổi những giới hành quan trọng:  

a) Ăn mỗi ngày một cữ đơn sơ đạm bạc.

b) Ngủ mỗi ngày 04 tiếng (với người đang tu, tu xong như Thầy thì không còn ngủ nữa).

c) Không nói chuyện, không tụng niệm ê a, không tu hội hát xướng hò vè nhạc đạo.

d) Không đuợc cất giữ tiền bạc, tài sản.

e) Không nằm nệm êm giường lớn, không ở chùa to sang đẹp.  

Hầu hết họ chưa gìn giữ trọn vẹn được 10 giới của bậc Thánh Sa Di. Họ chỉ là những Cư Sĩ Trọc Đầu, mặc áo thầy tu.

4) Chính các đệ tử của họ yêu cầu họ đồng lòng lên án "MA TĂNG THÍCH THÔNG LẠC", nhưng họ sợ, bởi vì họ đã biết đức Trưởng lão Thích Thông Lạc là Bậc A-la-hán. Bởi vì thầy Thông Lạc đã thị hiện thần thông giáo hoá chúng sanh cho họ chứng kiến. Đồng thời, họ đã được thầy Thông Lạc diễn giảng đúng lời Phật dạy. Chỉ có A-la-hán mới đủ trí tuệ để giải thích rành rẽ những khúc mắc trong kinh Phật.

5) Các Viện Đại học Phật giáo trên toàn thế giới đã diễn giảng sai pháp Phật. Tăng ni và trường Đại học Phật giáo đã biến Phật giáo thành thần quyền vu vơ, thành trung tâm buôn kinh bán chữ. Đơn cử Phật dạy TỨ BẤT HOẠI TỊNH, có nghĩa là nìệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, có nghĩa là hành giả hãy chọn lấy hoặc Phật, hoặc Pháp, hoặc Tăng, hoặc Giới ra trước mặt dùng làm đối tượng mà tu hành đúng như vậy thì chứng quả A-la-hán. Nhưng vì tu chưa chứng cho nên họ dạy cho hàng phật tử quỳ lạy, cầu nguyện van xin, cầu phước lộc thọ vu vơ nơi Phật, Pháp, Tăng, Giới. Bởi vì tu chưa chứng cho nên họ dạy sai nhiều, nhiều lắm. Quý vị cứ đọc 10 tập sách ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT thì rõ.

Từ đó, kính mời quý phật tử thân thương hãy về Tu viện Chơn Như tìm học CHÁNH PHÁP NHƯ LAI, hoặc vào mạng chonnhu.net, nguyenthuychonnhu.net, giotnangchonnhu.org

Chỉ có CHÁNH PHÁP NHƯ LAI mới thực sự giúp cho đời quý phật tử sống có ý nghĩa mà thôi.

                                                                                                 THANH THIỆN (Phật tử ở Hoa Kỳ) 

051-CẢM XÚC TỰ ĐÁY LÒNG CON KHI THẦY NHẬP DIỆT - Thích Nữ Mỹ Tâm

 

     
   
     

 

Như thường lệ vào lúc hai giờ sáng

Mỹ Tâm con rửa mặt để vào tu

Bỗng con nghe tiếng điện thoại liên hồi

Linh cảm được điều chẳng lành sắp tới  

Từ trong không trung như sét đánh ngang tai

Thầy kính yêu của chúng con đã nhập Niết Bàn rồi!!!

Lúc mười hai giờ đêm ngày mồng một

Vào một ngày đầu năm 2013 dương lịch

 

Dù Thầy dạy chúng con hãy thường xuyên tác ý

Để nghịch cảnh nào tâm tự tại, an nhiên

Thế mà nay tâm nào nó có chịu nghe

Con cảm thấy tim con ngừng nhịp đập

Lòng thổn thức nức nở, nghẹn ngào

Thầy đã đi rồi! Thầy đi thật rồi sao?

Con đang mơ hay là đang tỉnh?

Tự đáy lòng con ôi nức nở nghẹn ngào!

Phải vĩnh biệt rồi! Bậc Cha Lành kính quý nhất trần gian!

 

Thế rồi con bước ra mở cổng

Đất Thánh Chơn Như vốn tịch tịnh

Giờ lại càng vắng lặng như tờ

Chỉ có tiếng dế mèn thổn thức gọi canh khuya

Mọi vật im lìm như đưa tiễn bậc vĩ nhân

Nhập cảnh an lành nơi Niết Bàn Chư Phật 

Con cảm thấy đất trời đang nghiêng ngả

Đấng nhân từ đã khuất bóng từ đây

Ánh Thái Dương đã vĩnh biệt quả Địa Cầu

Biết lấy ai cứu giúp loài người

Để vượt thoát dòng đời sinh tử

Từng trái tim, người con Thầy, con Phật

Dù là Thánh cũng khó cầm nước mắt

Trước nỗi đau thương, mất mát khôn cùng

Bên linh cữu Thầy, con quỳ xuống chấp tay

Nuốt nước mắt vào trong khỏi nấc lên thành tiếng

Sợ làm mất đi phút thiêng liêng, thanh tịnh

 

Thầy nằm đó như người nằm ngủ

Sao Thầy không thức dậy nữa Thầy ơi!

Ước gì Thầy chưa xả bỏ báo thân

Để Thầy sống bên chúng con mãi mãi

Đôi mắt trần gian từ đây khép lại

Bậc vĩ nhân, bậc Thầy của Trời, Người

Chỉ dạy chúng con, đường thoát khổ cuộc đời

Khổ từ khi sinh ra, khổ già, bệnh đau và chết

 

Đấng Cha Lành tối thượng giã biệt trần gian

Vĩnh viễn ra đi mãi muôn đời

Biết đến bao giờ gặp lại nữa Thầy ơi!

Thầy dạy chúng con các pháp vô thường

Chẳng có pháp nào là ta, là của ta, trường tồn bất biến

Thế mà loài người nhận thân này có thật

Tạo bao nghiệp ác mà không biết, không hay

Nào là sát sinh và ăn nuốt chúng sinh

Trộm cắp, tà dâm, nói dối, nghiện chất say

Để phải trôi lăn biển luân hồi sinh tử

Không biết đến bao giờ mới làm thân người được

Còn nói gì gặp Chánh Pháp của Phật, của Thầy

Để tu hành chấm dứt mọi khổ đau

Thoát được hai nơi nhà tù bệnh viện

Muốn sống là sống, muốn chết là chết

Không phải nằm liệt giường như kẻ không tu

 

Thầy đã trả lại tấm thân tứ đại cõi trần

Hôi hám khổ đau từ nhân quả sinh ra

Vay của môi trường, nay trả lại môi trường

Thầy chẳng mang theo một thứ gì hết cả

Duy chỉ có Tâm luôn luôn bất động

Thầy đã khổ công tu luyện bấy lâu

Đó là Niết Bàn thường hằng bất biến

Là mùa xuân muôn đời bất diệt

Thầy là người hạnh phúc nhất trên đời

Đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi

Như đức Phật và các bậc A-La-Hán thưở xưa không khác

 

Khi chứng đạo rồi Thầy chẳng nỡ nào nhập diệt

Thầy thương chúng sinh mãi chịu trôi lăn

Thầy muốn làm sao Phật Giáo mãi trường tồn

Để cứu thế độ nhân thoát khỏi vòng sinh tử

Nên Thầy quyết chấn hưng Đạo Phật

Mới mong cứu được nhân loại hoàn cầu

Nên Thầy dùng trí tuệ Tam Minh quan sát khắp nơi

Từ khi đức Phật nhập Niết Bàn đến nay

Khắp trên hoàn cầu không một ai tu chứng

 

Chánh Pháp Phật bị các Tổ thủ tiêu, phỉ báng

Để lồng Bát Nhã Tâm Kinh của các Tổ vào

Khiến triệu người tu chẳng một người giải thoát

Họ chẳng làm chủ được sống chết như Thầy, như Phật

Thế thì tu hành có ích lợi cho ai

Để biến mình thành thầy tu đội lốt

Biến chùa chiền thành nơi kinh doanh Phật

Tiêu tốn ngàn triệu tỷ bạc của thí chủ đàn na

Để tiền mất, tật mang mà chẳng ích lợi gì

Biến Chánh thành Tà, giết người không gươm giáo

 

Nay Thầy đã hết duyên độ chúng

Thầy nhập Niết Bàn cùng Chư Phật thưở xưa

Để hưởng mùa xuân an lạc vĩnh hằng

Thầy chẳng mang theo một thứ gì của Trần Gian

Đúng như lời Thầy thường dạy chúng con

Biết buông xuống hết đi là được như Thầy, như Phật

"Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!

Chớ giữ làm chi, có ích gì?

Thở ra chẳng lại còn chi nữa

Vạn pháp vô thường buông xuống đi."

 

Ôi lời dạy quý hơn châu báu, ngọc vàng

Thầy dạy ra sao, Thầy làm y như vậy

Cả tu viện bao nhiêu năm Thầy khổ công tạo dựng

Cứu loài người hết bệnh tật khổ đau

Chẳng có chỗ nào ở trên hoàn cầu

Sánh bằng Chơn Như, Gia Lâm, Gia Lộc

Nơi đã một thời Thầy làm Viện Chủ

Dạy loài người thoát địa ngục trần gian

Cho họ biết cách làm chủ bệnh, chết, sinh, già

Để thoát hai nơi, nhà tù, bệnh viện

Thế mà mấy ai đã đủ duyên tìm đến?

 

Đã biết bao năm, Thầy gian truân, vất vả

Hết đợt sóng này đến đợt sóng kia

Một mình Thầy đứng mũi chịu sào

Đạp từng ngọn sóng Chơn Như đang ào ào xô tới

Một bên một mình Thầy, một bên hàng triệu triệu

Xem chừng lực lượng một vực, một trời

Cũng nhờ lòng quảng đại, từ bi

Đem lòng từ khắp muôn phương cứu độ

Nên lũ ác ma phải chịu đầu hàng, thất bại

Trả lại Chơn Như biển lặng, trời yên

 

Suốt 33 năm ròng Thầy chỉ dạy tận tâm

Chúng sinh thiếu phước nên có mấy ai nghe

Đa phần là họ phỉ báng lại Thầy

Vì Thầy đã thẳng tay đập nồi cơm của họ

Để cứu họ thoát địa ngục trần gian mà họ đâu có biết

Họ có biết đâu họ đã tự giết chết mình

Vì họ là những Đề Bà Đạt Đa của thiên niên kỷ này

Vì màn vô minh sâu dày họ nào hay biết

 

Còn những người theo Thầy tu học

Ỷ lại còn Thầy nên chẳng chịu tu

Thầy dạy một đường họ làm một nẻo

Bởi vậy mà mấy chục năm, chưa có người tu chứng. 

Nhưng lời Phật, lời Thầy còn đó

Suốt ba ba năm ròng Thầy hoằng hoá, độ sinh

Hàng vạn trang giáo biên soạn của Thầy

Và hàng trăm băng giảng Thầy ban tặng loài người

Những pháp môn nào Thầy tu chứng, Thầy đã ban bố hết rồi

Thầy chẳng dấu một pháp nào hết cả

Là vàng, bạc, châu báu, là tài sản vô giá

Thầy đã đem ban cho nhân loại hoàn cầu

Ai biết dùng được hạnh phúc an vui

Ai không biết chịu khổ đau mãi mãi

 

Mỹ Tâm con người đại duyên, đại phước

Đã  năm năm con được Thầy dạy ngũ giới Tam Quy

Mỗi khi có bệnh đau con ôm pháp Phật đẩy lùi

Các bệnh trong người nay đều hết sạch

Con chẳng hề dùng thuốc tây và đi bệnh viện

Ngày chỉ một bữa cơm không ăn uống phi thời

Bệnh tật đẩy lùi, sức khoẻ tăng lên là điều kỳ lạ

Nhờ con biết vâng lời Thầy buông xả

Tham, sân, si hết rồi, bệnh cũng hết luôn

 

Đền ơn Phật, ơn Thầy con cố gắng xả tâm

Trước cứu con, sau cứu người thoát khổ

Để khỏi phụ công ơn của Phật, Thầy chỉ dạy

Là Niết bàn, Cực lạc tại thế gian!

Khỏi phải cần tìm kiếm ở đâu xa

 

Mấy lời mộc mạc cảm xúc tự đáy lòng

Con dâng lên Thầy, nhân ngày Thầy nhập diệt

 

           Con kính dâng lên đức Thầy vô vàn kính yêu của chúng con

               Thích Nữ Mỹ Tâm. Điện thoại di động: 0168.955.2153

 

052-THIỀN ĐỊNH (Lỗi của người tu thiền) - TL Thích Thông Lạc

Lời Phật dạy: “Này Sandha, hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục, chớ có Thiền định của con ngựa chưa thuần thục”.  (Kinh Tăng Chi Bộ).

Đức Trưởng lão tại Hòn Sơn 30-05-2012

Trưởng lão Thông Lạc giảng:

Người tu thiền định cần phải lưu ý lời khuyên dạy trên đây của đức Phật: “Hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục, chớ có Thiền định của con ngựa chưa thuần thục”.

Hầu hết người tu Thiền định thời nay không quan tâm đến vấn đề này, nên muốn tu Thiền định là đi học Thiền, tu Thiền chứ họ đâu biết rằng tu Thiền định như vậy là sai, tu như vậy không bao giờ nhập được Thiền định. Tại sao vậy?

Vì thân tâm họ chưa thuần thục, còn đắm nhiễm dục và ác pháp tức là chưa ly dục ly ác pháp có nghĩa là giới luật chưa nghiêm túc. Bởi vậy đức Phật dạy: “Hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục”.  

Thưa các bạn! Con ngựa thuần thục và con ngựa chưa thuần thục nghĩa như thế nào?

Con ngựa thuần thục là chỉ cho tâm đã ly dục ly ác pháp, tâm đã lìa tham, sân, si, mạn, nghi. Khi tâm đã ly dục ly ác pháp thì lúc bây giờ chúng ta mới tu tập Thiền định. Cho nên đức Phật dạy: “Hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục”. Thân tâm đã thuần thục trong giới luật thì tâm định tỉnh nhu nhuyến dễ sử dụng. Lúc bấy giờ chúng ta mới bắt đầu tu tập Thiền định. Tu như vậy mới đúng như lời Phật dạy. Phải không các bạn?

Cho nên nền tảng Thiền định của đạo Phật là Giới Luật, mà giới luật thì phải nghiêm chỉnh; giới luật có nghiêm chỉnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn.

Do lời dạy trên đây của đức Phật mà chúng ta xét thấy những người tu theo Thiền định của Phật giáo thời nay đều tu sai pháp, vì giới luật chưa nghiêm chỉnh, hạnh ly ăn, ly ngủ, hạnh sống độc cư chưa trọn vẹn mà đòi nhập Thiền định thì làm sao nhập được. Các bạn chỉ tu tập thiền tưởng, chứ chánh định, chánh thiền thì không thể tu tập như vậy được.

Đoạn kinh trên đây cho chúng ta thấy tu sĩ Phật giáo hiện giờ chưa có ai nhập Chánh định được, chỉ nhập vào Tà định của ngoại đạo mà thôi. Giới luật không tu tập, mà lại còn phá giới, phạm giới, tu như vậy cho phù hợp với thời đại thì chỉ có các nhà sư Đại Thừa và kinh sách phát triển dạy chứ kinh sách Nguyên Thủy thì không có dạy như vậy.

Xét qua lời dạy trên thì thấy giáo lý kinh sách phát triển xem nhẹ giới luật, hướng dẫn tu sĩ đi đến con đường sai lệch: cúng bái, cầu siêu cầu an, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, bắt ấn, ngồi thiền ức chế tâm, v.v... Thưa các bạn! Chúng ta là những tu sĩ và cư sĩ Phật giáo sao lại không sáng suốt phân biệt pháp môn nào của Phật, pháp môn nào của ngoại đạo, của các Tổ để tu hành tránh khỏi lầm lạc. Và như vậy vô tình chúng ta lại cố ý tiếp tay diệt sạch Phật giáo theo mưu đồ của Bà La Môn. Phải không hỡi các bạn?

Nhìn thấy các bạn tu theo kinh sách phát triển, chúng tôi dựa theo lời dạy Nguyên Thủy của Phật trên đây mà khẳng định rằng: Các bạn tu tập như vậy là sai, chỉ uổng công, chẳng bao giờ nhập được Chánh định làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Các bạn tin hay không tin là quyền ở các bạn, nhưng điều chúng tôi quyết chắc là các bạn sáng suốt nhận định rõ ràng những gì các bạn tận mắt thấy, tai nghe và những gì chúng tôi nói. Đó là những điều chứng thực để các bạn tin hay không tin.

Thiền định của con ngựa chưa thuần thục nghĩa là gì? Con ngựa chưa thuần thục có nghĩa thân tâm của các bạn còn tham, sân, si, mạn, nghi, còn chưa ly dục ly ác pháp. Khi tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, chưa ly dục ly ác pháp thì đừng có tu Thiền định, vì có tu Thiền định cũng chỉ mất công phí sức chẳng bao giờ nhập được định, bởi vì nền tảng tu Thiền định của đạo Phật là Giới luật. Có nền tảng giới luật thì tu Thiền định mới bảo đảm. Tâm phải thanh tịnh ly dục ly ác pháp thì mới nên tu tập Thiền định. Cho nên các bạn về tu viện Chơn Như mà không dọn mình cho trong sạch thì về đây tu hành cũng chẳng ích lợi gì.

Hạnh ăn, hạnh ngủ, hạnh độc cư chưa tròn mà về đây tu tập là tu tập cái gì? Thưa các bạn! Các bạn còn tham mê ăn, tham mê ngủ, còn thích sống nói chuyện mà các bạn về đây tu tập thì chỉ uổng công và vô ích. Ở đây không có dạy tu ăn, tu ngủ, tu nói chuyện các bạn ạ!.

Các bạn cứ nghĩ rằng cúng dường tiền bạc nhiều là để tu viện Chơn Như phục vụ về ăn uống cho các bạn, đó là các bạn đã nghĩ sai. Dù các bạn có cúng dường bao nhiêu tiền thì tu viện cũng vẫn giữ lập trường giúp các bạn ăn uống đơn giản vừa đủ sống để ly dục ly ác pháp, chứ không phải phục vụ các bạn ăn uống như trong khách sạn nhà hàng.

Khi các bạn về đây tu hành mà còn mang theo thực phẩm để ăn uống, không thực hiện đời sống bình đẳng về ăn uống trong tu viện, thì chúng tôi nói rằng các bạn chỉ tu cho có hình thức chơi chứ kỳ thực chẳng có kết quả lợi ích gì cho các bạn. Tu mà còn tham đắm ăn uống, ngủ nghỉ; tu mà còn thích hội họp nói chuyện khoe khoang sự tu tập của mình với mọi người. Vậy thì nền tảng ly dục ly bất thiện pháp là ở chỗ nào? Xin các bạn chỉ cho. Các bạn chỉ sống trong tưởng, nói thiền định tưởng, chứ kỳ thực các bạn chưa có nếm được mùi vị ly dục ly ác pháp.

Đây, các bạn hãy nghe tiếp lời dạy của đức Phật để mà suy ngẫm con đường tu hành của mình: “Này Sandha, ở đây có hạng người tâm chưa được thuần thục, khi đi đến ngôi rừng hay khi đi đến gốc cây, hay khi đến ngôi nhà trống, trú với tâm bị dục tham ám ảnh, bị dục tham chi phối, không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên. Người ấy tàng trữ dục tham trong tâm (ức chế), rồi Thiền tư, Thiền lự, Thiền liên tục, Thiền quán, trú với tâm bị sân ám ảnh, bị sân chi phối... trú với tâm bị hôn trầm thùy miên ám ảnh, bị hôn trầm thùy miên chi phối... trú với tâm bị trạo hối ám ảnh, bị trạo hối chi phối... trú với tâm bị nghi hoặc ám ảnh... trú với tâm bị nghi hoặc chi phối, không như thật biết ra khỏi nghi hoặc đã khởi lên. Người ấy tàng trữ nghi hoặc vào trong (ức chế), rồi Thiền tư, Thiền lự, Thiền liên tục, Thiền quán. Người ấy Thiền tư y chỉ vào đất, Thiền tư y chỉ vào nước,... vào gió,... vào Không vô biên xứ,... vào Thức vô biên xứ,... vào Vô sở hữu xứ,... vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ,... vào đời này,... vào đời sau. Phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy tư, đều y chỉ vào đấy người ấy thiền tư. Như vậy này Sandha là người tu Thiền tư không thuần thục (không kết quả). 

Đọc đoạn kinh này các bạn tự quan sát sự tu tập của mình là sẽ biết ngay liền sai hay đúng. Thường các bạn trình pháp đều chứng tỏ mình tu rất tốt, nhưng gặp chuyện thì biết ngay liền các bạn chưa xả tâm. Chưa xả tâm mà có Thiền định gì mà thưa hỏi. Phải không hỡi các bạn? Để thấy sự tu hành của chúng ta sai như thế nào, vậy chúng ta hãy quán xét lại đoạn kinh trên cho kỹ.

Chúng ta nên xét câu thứ nhất: “Này Sandha, ở đây có hạng người tâm chưa được thuần thục”. Vậy, tâm chưa thuần thục là thuần thục cái gì? Ở đây đức Phật muốn nói giới luật chưa nghiêm chỉnh, tâm chưa ly dục ly ác pháp.

Chúng ta xét đến câu thứ hai: “Khi đi đến khu rừng hay khi đi đến gốc cây, hay khi đến ngôi nhà trống”. Vậy, khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống là nghĩa gì? Ở đây có nghĩa là chọn lấy một nơi thanh vắng để sống độc cư, một mình trong cảnh cô đơn.

Chúng ta quán xét đến câu thứ ba: Trú với tâm bị dục tham ám ảnh, bị dục tham chi phối. Vậy, dục tham ám ảnh, dục tham chi phối nghĩa là gì? Dục tham là lòng ham muốn; ám ảnh là hiện ra lởn vởn trong trí day dứt không yên; chi phối là tác dụng điều khiển. Nghĩa chung của câu tham dục ám ảnh là lòng tham muốn hiện ra lởn vởn trong trí day dứt không yên, nghĩa câu tham dục chi phối là lòng tham muốn tác dụng điều khiển, sai khiến.

Nghĩa chung của đoạn này là khi ngồi lại một mình nơi thanh vắng thì lòng tham muốn khởi lên day dứt, tác động điều khiển sai khiến chúng ta làm theo ý muốn của tâm, làm cho ta mất tự chủ. Người đời không biết tu hành nên dễ bị tâm tham dục sai khiến, khiến cho cuộc đời vốn khổ đau lại càng khổ đau hơn.

Chúng ta quán xét đến câu thư tư: “Không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên. Người ấy tàng trữ dục tham trong tâm (ức chế)”. Vậy xuất ly và tàng trữ nghĩa là gì?

Xuất ly là lìa ra, bỏ ra; tàng trữ là giữ lại, nén lại. Ý nghĩa của câu này là không biết cách xuất ly dục tham, nên dục tham thường khởi lên chỉ còn có giữ gìn trong tâm nên gọi là nén tâm. Do đó dù có tu thiền định gì đi nữa thì vẫn bị sân, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, trạo hối và các loại tưởng định khởi lên như trong đoạn kinh này dạy: “Rồi Thiền tư, Thiền lự, Thiền liên tục, Thiền quán, trú với tâm bị sân ám ảnh, bị sân chi phối... trú với tâm bị hôn trầm thùy miên ám ảnh, bị hôn trầm thụy miên chi phối... trú với tâm bị trạo hối ám ảnh, bị trạo hối chi phối... trú với tâm bị nghi hoặc ám ảnh... trú với tâm bị nghi hoặc chi phối, không như thật biết ra khỏi nghi hoặc đã khởi lên. Người ấy tàng trữ nghi hoặc vào trong (ức chế), rồi Thiền tư, Thiền lự, Thiền liên tục, Thiền quán. Người ấy Thiền tư  y chỉ vào đất, Thiền tư y chỉ vào nước,... vào gió,... vào Không vô biên xứ,... vào Thức vô biên xứ,... vào Vô sở hữu xứ,... vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ,... vào đời này,... vào đời sau. Phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy tư, đều y chỉ vào đấy người ấy thiền tư. Như vậy này Sandha là người tu Thiền tư không thuần thục (không kết quả).

Theo lời dạy trong kinh này: Khi giới luật không nghiêm chỉnh thì dù có tu tập cách gì cũng không có kết quả.

053-CHIA SẺ TỪ NHỮNG LÁ THƯ

Lời BBT/GNCN

Thời gian gần đây, nhất là sau ngày đức Trưởng lão nhập diệt. BBT/GNCN đã nhận được rất nhiều email chia sẻ từ quý độc giả. Đa số các thư đều bày tỏ sự tri ân, thương tiếc đối với Trưởng lão Viện chủ Tu viện Chơn Như…

Độc giả Nguyễn Đức Thắng ở Đà Nẵng (nguyenducthangthien@gmail.com) đã viết những dòng rất cảm động: “Thời gian gần đây tôi có đọc thông qua Mạng Inernet, biết được có Trưởng Lão Thích Thông Lạc tu chứng quả A-la-hán, tôi thấy quý quá, nhưng ở xa xôi tôi chưa kịp tìm đến để diện kiến, thì mới đây đã nghe Ngài tịch diệt rồi. Thật đáng tiếc! Tìm hiểu về hành trạng của Ngài, thấy đúng là xứng đáng đạt quả vị đó”.

Bên cạnh đó, qua bức Tâm Thư sau cùng của Trưởng lão Viện chủ, cũng có những kẻ thiểu trí đọc chẳng hiểu gì, lại buông lời xúc phạm, vu khống một cách vu vơ, lạc lõng qua email thichquangba@gmail.com (Thích Quảng Ba?). Chúng tôi chẳng biết người này là ai! Nhưng  search qua google, được biết đó là một nhân vật khá nỗi tiếng! Tuy nhiên, “tiếng tốt” hay “tiếng xấu” về người này chúng tôi để độc giả tự tìm hiểu…

Chúng tôi xin chia sẻ đến quý độc giả 2 bức thư. Một của cộng tác viên GNCN phản hồi từ email thichquangba@gmail.com (Thích Quảng Ba?), và một của độc giả Nguyễn Đức Thắng (nguyenducthangthien@gmail.com) từ Đà Nẵng gửi đến….

1.- THƯ PHẢN HỒI CỦA CỘNG TÁC VIÊN GNCN GỬI ĐẾN THÍCH QUẢNG BA  (thichquangba@gmail.com)

 
Kính gửi quý tỳ-kheo tăng, ni! 
 
Quý vị là những người tu sĩ, nếu nghiêm mật tinh cần theo đúng Chánh pháp, hẳn quý vị sẽ thấy rõ sự khó khăn của một người đi trên con đường trở nên bậc giác ngộ. Nếu dễ dàng thì thế giới này không còn quá khổ đau như quý vị vẫn thấy hàng ngày đang diễn lại trên các phương tiện thông tin đại chúng. 
 
Ai đã viết: ng Thầy khó khăn nầy khi viên tịch có lẽ sẽ có 90% đệ tử mừng rơn..." hẳn là người chưa hiểu rõ về Tu Viện Chơn Như. Không rõ vị này đã thực hành tu tập được bao lâu. Là tỳ kheo nhưng chắc chưa giữ trọn 10 giới Sa Di nên mới có những lời viết ganh tỵ như vậy. 
 
Thưa quý vị, không đâu, ở Tu Viện Chơn Như, những người nguyện theo học pháp Chơn Như không có ai mừng rơn như quý vị tưởng đâu. Chỉ có những loại Ma ba tuần ngoại đạo mới hoan hỷ thôi. Nhưng xin nhắc với các vị Ma rằng, mạng mạch Chánh pháp đã được nối rồi, Chánh pháp không bị mất một lần nữa đâu mà quý vị vội mừng. Tuy trong tu sinh vẫn còn có người phạm vào một vài lỗi nhỏ nhặt, nhưng so với các tăng ni Đại Thừa thì họ vẫn hơn nhiều lắm. Cứ coi  hạnh ăn, ngủ của họ sẽ thấy. Tất cả các hệ phái khác của hai hệ thống Phật giáo phát triển Bắc tông và Nam tông đã có ai dám sống như những lời đức Phật dạy (mà Trưởng lão Thông Lạc tóm lược trong lời căn dặn cuối cùng) hay chưa?  
 
Tu Viện Chơn Như sẽ sống mãi với thời gian, Tu Viện Chơn Như không bao giờ vắng bóng bậc A la hán. Người nối tiếp Trưởng lão Thông Lạc đã xuất hiện, không phải là một mà nhiều hơn thế. Những ma vương đội lốt Phật giáo thiếu niềm tin thì không bao giờ gặp được Chánh pháp, mong gì có phạm hạnh mà vội đi dạy người tu. 
 
Để hiểu rõ sự thật, quý vị hãy bớt chút thời gian về Tu Viện sống một ngày đúng với những gì Trưởng lão Thông Lạc dạy, quý vị sẽ cảm được mình là bậc thánh ngay liền. Còn hiện tại chúng tôi mong các quý vị hãy ráng giữ trọn được 10 giới Sa Di thì cũng rất xứng đáng để chúng tôi cung kính tôn trọng rồi. 
 
Người tu hành mà còn thiếu hiểu biết,  những lời kẻ cả như vậy thì đường tu mù mịt mãi. Đặc biệt vị đã viết câu này: "Ông Thầy khó khăn nầy khi viên tịch có lẽ sẽ có 90% đệ tử mừng rơn..." 
 
Mấy lời hồi âm vậy. Kính quý vị hãy khỏe mà ráng tu hành cho tốt, cùng chia sẻ theo đúng chánh pháp mà Tu Viện Chơn Như dựng lại những gì của đức Phật đã bị quăng ngã, dập vùi hơn 25 thế kỷ nay. Mong quý vị sớm là bậc thánh nhân chân thật để thế gian giảm bớt nỗi thương đau bất tận. 
 
Kính chào. 

 

2.- THƯ CỦA ĐỘC GIẢ NGUYỄN ĐỨC THẮNG  (nguyenducthangthien@gmail.com)

 

TRÌNH THƯ PHÁT BIỂU CẢM TƯỞNG VỀ 
Công đức của Trưởng lão Thích Thông Lạc, 
Liên hệ xin thỉnh kinh sách để tu học.  

Kính gửi: BAN TRỊ SỰ TU VIỆN CHƠN NHƯ

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

- Kính thưa Ban trị sự Tu viện Chơn Như

- Tôi tên là: Nguyễn Đức Thắng. - Tuổi: 60

- Địa chỉ và nơi thường trú: Số nhà 135-Phạm Như Xương, Tổ 14, Phường Hòa Khánh Nam, Quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng.

- Tôn giáo: Phật giáo. - Pháp danh: Thiện Hóa.

I/ Kính thưa Quý vị,

Tôi quy y Tam Bảo từ năm 1990 tại Tịnh xá Ngọc Giáng (Hệ phái Khất sĩ). Tôi đã trải qua quá trình tu học tại gia, tìm thầy học đạo, tra tìm kinh sách, tham khảo, nghiên cứu. Có niềm tin Phật một cách tuyệt đối, nhưng cho đến nay vẫn còn bâng khuâng, trăn trở về những kiến giải Phật pháp:

-  Kiến giải Tiểu thừa thì hạn hẹp, chỉ nặng cảnh giới cá nhân (trong phạm vi tự thân mình) mà chẳng trùm khắp muôn loài vạn hữu vũ trụ.

-  Kiến giải Đại thừa thì mênh mông mơ hồ, có vẻ không tưởng; trong Thiền tông thì đủ kiểu, nói trực chỉ chân tâm mà có chỉ rõ ràng chân tâm là cái gì đâu .v.v....

Thời gian gần đây tôi có đọc thông qua mạng Internet, biết được có Trưởng Lão Thích Thông Lạc tu chứng quả A-la-hán tôi thấy quý quá, nhưng ở xa xôi tôi chưa kịp tìm đến để diện kiến, thì mới đây đã nghe Ngài tịch diệt rồi. Thật đáng tiếc!

Tìm hiểu về hành trạng của Ngài, thấy đúng là xứng đáng đạt quả vị đó.

Đời của Thầy xuất gia từ thuở nhỏ, Thầy đã nhiều năm tu thiền theo phái Thiền tông, là đệ tử thượng túc của Thiền sư Thanh Từ, từng nghiên cứu và hiểu rất kỹ kinh sách Đại thừa phát triển, sách của 33 vị Tổ sư Thiền tông và các Tổ sư khác của Trung Hoa. Nhưng để rồi, cứ ôm ấp một mớ bòng bong mà không bằng lòng và yên tâm chi cả, dường như thế, nên sau đó Thầy đã rời đạo tràng chỗ Thiền sư Thanh Từ để về Tây Ninh tìm chọn pháp tu đúng như ý mình. Vì dứt khoát với mục đích giải thoát sanh tử nên Thầy đã hạ thủ công phu quyết liệt – và cuối cùng Thầy đã đạt được kết quả mỹ mãn.

Khi đã đạt đạo, chứng quả A-la-hán rồi, nhưng Ngài không ngồi hưởng an vui hạnh phúc trong cảnh giới Niết bàn mà Ngài liền thi hành hóa duyên, từ bi độ sanh và có nguyện vọng lớn nữa là chấn hưng Phật giáo. Đó là việc làm của bậc Đại giác.

Kính thưa Ban trị sự,

Chúc mừng quý vị đã có nhiều phước báu do nhiều duyên nhân quả tốt lành nên đã găp được Trưởng lão và đã trực tiếp nhận được Trưởng lão chuyển pháp luân đến cho mình. Đó là diễm phúc lớn của quý vị.

Rất tiếc Trưởng lão đã ra đi giống như là sự vội vàng, trong khi giáo pháp của Ngài chưa được Giáo hội Phật giáo Việt Nam thẩm định và công bố. Theo như tôi hiểu, không phải trong đại đa số các bậc Tôn túc Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam không có ai thấy rõ được Chánh pháp của Trưởng lão Thông Lạc, nhưng chưa đến lúc công bố lời xác tín, chưa đến lúc mà thôi!

Xác tín những lý thuyết, mà lý thuyết đó làm đảo lộn nhiều vấn đề trong đạo Phật từ lâu nay người ta đã quen hiểu theo đường mòn lối cũ, lối cố hữu, thì đâu phải là chuyện dễ.

Trước khi Trưởng lão xả bỏ xác thân, chắc rằng Ngài xét thấy mình đã làm xong mọi việc, làm xong sứ mạng, chắc rằng Ngài cũng xác định đã có người xứng đáng kế thừa, nên mới ung dung ra đi như vậy. Đương nhiên người kế thừa ấy đã đạt được quả tu như Ngài; phải bằng Ngài, nếu không thì làm sao kế thừa cho được.

Phần cảm tưởng của tôi đến đây xin tạm dừng.

Cầu nguyện quý vị thân tâm an khang, đạt được nhiều kết quả chánh pháp trên đường tu.

Kính chúc quý vị phát triển Tu viện và các Đạo tràng khắp nơi ngày càng vững mạnh tốt đẹp hơn,  diệu dụng tinh thần khế lý khế cơ, hoạt động phật sự hợp Hiến Pháp và Luật pháp của Nhà nước, xây dựng phương thức phù hợp Quốc độ đương tại trong việc tiếp nối dõng mãnh công cuộc hóa độ và chấn hưng chánh pháp của Phật đà.

II/ Xin thỉnh Kinh sách:

Kính thưa Ban Trị sự, đây là lần ban đầu liên hệ với Tu viện, để đáp ứng nhu cầu mục đích tham khảo nghiên cứu tu tập cho bản thân và người khác, tôi đề nghị cho tôi được thỉnh:

1- Bộ sách Đường về xứ Phật.

2- Xin được biết danh hiệu gọi tắt Pháp tu mà Trưởng lão sáng lập hiện tại Tu viện đang thực hành, gọi điển hình là Pháp môn gì?

3- Xin tìm hiểu một số quy định của tu viện.

4- Xin được biết: Nghi thức, Nghi thức thờ tự (các phần), Nghi lễ (các phần) của pháp môn của Trưởng lão đang hiện hành.

5- Sách hướng dẫn các Pháp hành.

6- Tài liệu Hướng dẫn cụ thể thực hành Tọa Thiền của Pháp môn Trưởng lão dẫn giáo.

Khi nhận được thư này và những đề nghị trên đây nếu có thế nào thì cho tôi biết thông tin để được rõ.

Xin chân thành cung kính và biết ơn rất nhiều .

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

                                                                          Đà Nẵng, ngày 27/01/2013

                                                                                     KÍNH THƯ 

                                                                    Phật tử NGUYỄN ĐỨC THẮNG

                                                                                (Pháp danh: THIỆN HÓA)
 

054-LỜI ƯỚC NGUYỆN KHI THẦY NHẬP NIẾT BÀN-Thích Minh Đạo

Con không tin vào đôi tai mình nữa

Khi nghe được tin Thầy bỏ báo thân để nhập Niết Bàn

            Bao nhiêu năm theo Thầy tu học

            Đến giờ này Thầy từ giã chúng con!

            **

            Thầy ra đi trong nhẹ nhàng thanh thản

            Qua bao thăng trầm dựng lại một con đường

            Sau nhiều năm lo toan vất vả

            Chèo lái con thuyền đạo pháp vượt trùng dương!

            **

            Nay Thầy về miền thanh nhàn an lạc

            Về với Niết Bàn nơi ước nguyện của mình

            Nơi đức Phật ngày xưa nhập Niết Bàn đã đến

            Sau bao ngày lo lắng cho chúng con!

            **

            Từng miếng ăn, dạy tu hành, sức khoẻ

            Mong đàn con của Thầy ngày một lớn khôn

            Nay Thầy về miền thanh bình an lạc

            Còn lại đây là lũ chúng con!

            **

            Lớp đệ tử bao ngày Thầy dìu dắt

            Chúng con làm sao đền đáp được công ơn?

            Trong những ngày Thầy còn tại thế

            Thầy hết lòng thúc giục chúng con!

            **

            Nhưng đàn con ỷ vào Thầy còn đó

            Nên đường tu cứ chểnh mảng thiệt hơn

            Ngày hôm nay khi Thầy không còn nữa!

            Lũ chúng con mới tỉnh ngộ tâm hồn!

            **

            Vắng bóng Thầy không còn nơi nương tựa

            Phải làm sao để nối tiếp con đường?

            Phải làm sao phá vô minh tăm tối?

            Phải làm sao để đền đáp công ơn?

            **

            Chỉ còn biết phải chuyên cần tinh tấn!

            Thúc giục chúng con phải hăng hái tu hành

            Tâm bất động hàng ngày luyện tập

            Hàng ngày rèn đạo đức tình thương!!!

            **

            Thầy ban rải khắp cùng Chánh Pháp

            Vì chúng sinh dựng lại con đường!

            Mấy ngàn năm bị tà sư ngoại đạo

            Dìm mất đi nguồn suối yêu thương!

             **

            Nguồn đạo lý tròn đầy trí tuệ

            Của đức Thích Ca hàng mấy ngàn năm

            Để đến hôm nay vắng Thầy con đi tiếp

            Nguyện cùng Thầy dựng lại một con đường

             **

            Cho sống mãi ánh mặt trời chân lý

            Cho trái đất này tràn ngập tình thương                  

                                                    Thích Minh Đạo

                                              Nguyên Thuỷ A Hà Nội

055-GIỮ TÂM THANH THẢN - Giới thiệu Thủ bút của Trưởng lão Thích Thông Lạc

Lời BBT/GNCN

Chúng tôi may mắn được một đạo hữu chuyển đến một thủ bút của đức Trưởng lão. Điều đáng quý là vị đệ tử này đã cẩn trọng giữ gìn bản viết tay dạy tu của Trưởng lão từ gần 20 năm nay… GNCN xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả bản thủ bút này như một sự tưởng nhớ đến vị thầy thương kính đã nhập diệt của chúng ta…   

Thủ bút của đức Trưởng lão 

 
 
 
 
 
 

 

GIỮ TÂM THANH THẢN

Nếu còn thấy người khác ác xấu thì tâm ta chưa xả. Tâm chưa xả tức là tâm chưa thanh thản, tâm chưa thanh thản mà vội tu Thiền định thì không bao giờ nhập định được. Chỉ khi nào thấy mọi người đều tốt, không có ác ý với ta dù bất cứ việc gì thì tâm ta đã xả, tâm ta đã xả thì nhập định dễ như trở bàn tay.

Xả tâm không phải trong một ngày, một tháng, một năm mà hết được, phải nhiều năm tháng.

Xả tâm không phải trong một lần, hai lần mà hết được, phải nhiều lần, vạn lần.

Thiền định cũng vậy, không phải trong một ngày, hai ngày mà đóng sáu căn được, phải nhiều ngày, nhiều năm tháng.

Vì thế phải bền chí, phải kiên cường, không chùn bước, không thối chuyển tâm.

Người muốn xả tâm được thanh thản, để nhập được Thiền định giải thoát thì phải lập 08 Đức, 12 Hạnh.

08 Đức:

1- Cẩn thận

2- Kỹ lưỡng

3- Dè dặt

4- Kín đáo

5- Im lặng

6- Nhẫn nhục

7- Tùy thuận

8- Bằng lòng

12 Hạnh

1- Không khoe khoang tài giỏi của mình.

2- Không khoa trương hiểu biết ngoài đời cũng như trong đạo.

3- Không làm Thầy dạy đạo khi còn đang tu.

4- Không bàn Kinh, luận Thiền và nghị luận thế gian.

5- Không nói chuyện tào lao nhảm nhí.

6- Không hành động tự kiêu, tự dắc.

7- Tránh giọng nói ngạo nghễ.

8- Tránh nụ cười mỉa mai khi dể.

9- Tránh nụ cười tự tôn, tự đại.

10- Tránh nhìn liếc xéo, liếc ngang.

11- Tránh dáng đi ngoe nguẩy.

12- Tránh trề môi khi dể người khác.  

Nhẫn Xả Tâm và Nén Tâm

1- Nhẫn không thấy mình nhẫn là nhẫn xả tâm.

Nhẫn mà thấy mình nhẫn là nhân nén tâm.

2- Nhẫn không có phiền não là nhẫn xả tâm.

Nhẫn mà còn phiền não là nhẫn nén tâm.

3- Nhẫn mà thấy mọi vấn đề không quan trọng là nhẫn xả tâm.

Nhẫn mà còn thấy mọi vấn đề quan trọng là nhẫn nén tâm.

Lợi Ích Của Xả Tâm và Tai Hại Của Nén Tâm

Nén tâm là tự giết mình, xả tâm là tự cứu mình.

Nén tâm là Địa ngục, xả tâm là Thiên đàng.

Nén tâm là ác pháp, xả tâm là thiện pháp.

Nén tâm là nhân ác, xả tâm là nhân thiện.

Nén tâm là quả khổ, xả tâm là quả vui.

Nén tâm là u tối, xả tâm là sáng suốt.

Nén tâm là không Thiền, xả tâm là có Thiền.

Nén tâm là thiếu trí tuệ, xả tâm là có trí tuệ.

Nén tâm là làm khổ mình, xả tâm là không làm khổ mình.

Nén tâm là ghét đời, xả tâm là yêu đời.

Nén tâm là không thương mình, xả tâm là thương mình.

***

Tu tập tốt – Khéo linh động – Nhớ ám thị - Thường kinh hành.

Chỉ cần tập một phút tỉnh giác hoàn toàn nhiếp tâm thì hơi thở sẽ có chất lượng cao.  

***

Bền chí siêng tu tập,

Một phút tỉnh giấc cao.

Cẩn thận từng hơi thở,

Thiền định vốn không xa.

***

Bền chí tập luyện,

Thuần thục một phút,

Tỉnh giác trong hơi thở,

Là cơ bản Thiền định.

***

Cẩn thận kỹ lưỡng trong mọi công việc cũng như sự tu tập là tất yếu sự thành công của con người.

Cẩn thận kỹ lưỡng từng hơi thở, tránh chủ quan trong lúc tu tập.

***

Song song với sự ức chế tâm phải lập đức, lập hạnh ăn, ngủ, độc cư đúng cách, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, xả tâm rốt ráo.

***

Phải nhìn vào trong,

Tư duy cho rõ

Xả tâm cho sạch

Đừng nghĩ chuyện ngoài

Để tâm thanh thản

Tu tập mới tốt

Đức hạnh mới xong.

***

Đạo của Phật – Đạo diệt ngã – Nếu chấp ngã – Không tu được – Uổng một đời.

Cuộc đời tu hành,

Là trường tranh đấu.

Có bền chí – Có nghị lực – Có chiến thắng – Có giải thoát.

Cuộc đời tu hành,

Là trường tranh đấu.

Thiếu bền chí – Thiếu nghị lực – Có thất bại – Có ê chề. 

***

Người tu theo đạo Phật là phải tôi luyện mình trong lửa đỏ, “Hoa sen nở trong lò lửa”.

Muốn tu tốt: Hơi thở đều – Ám thị kỹ - Gom sáu căn - Tại một điểm - Không thay đổi.

056-Tâm thư "THẾ NÀO LÀ CHỨNG ĐẠO?" - Hãy Vững Bước Tự Mình Đi - TL Thích Thông Lạc.

Ngày 14 tháng 4 năm 2009 

Kính gửi các con,

Tất cả những gì Thầy đã dạy các con tu tập, từ bắt đầu đến chứng đạo đều đã dạy xong. Người cư sĩ phải tu pháp môn nào và người tu sĩ phải tu tập pháp môn nào, đâu đó rõ ràng. Pháp môn nào dạy tu tập phá hôn trầm, thùy miên, vô ký, loạn tưởng, ngoan không; pháp môn nào dạy diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp; pháp môn nào dạy tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự; pháp môn nào dạy chứng nhập Tứ Thánh Định… Thầy đã dạy rất rõ ràng, chỉ còn các con tu tập là giải thoát ngay liền. Trách nhiệm của Thầy đã dạy xong, còn lại những gì là phần của các con, tu tập được hay không là do các con. Hãy tự lực tu tập, không thể Thầy mãi dìu dắt các con như dìu dắt một em bé mới biết đi sao!

Các pháp là nhân quả đều vô thường, không có pháp nào là các con, là của các con, là bản ngã của các con cả. Vậy các con nên nhớ:

             “Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
             Chứ giữ làm chi có ích gì.
             Thở ra chẳng lại còn chi nữa.
             Các pháp vô thường buông xuống đi!”  

Nếu các con biết sắp xếp mọi việc trong gia đình, ngoài xã hội đều được an bài thì con đường tu tập chứng đạo ở tại đó, còn nếu không biết thì các con có tu tập ngàn đời cũng chẳng đi đến đâu cả, rồi tiếp tục tái sanh luân hồi mãi mãi muôn kiếp khổ đau.

Muốn tu giải thoát mà đời không muốn bỏ thì làm sao giải thoát được hỡi các con? Đầu cạo trọc, mình mặc chiếc áo tu sĩ mà tâm đời không bỏ thì cạo đầu mặc áo tu sĩ làm gì? Càng hình thức tu sĩ mà lòng dục không ly, ác pháp không lìa thì càng thêm tội lỗi, có ích gì mà mặc chiếc áo tu sĩ hỡi các con? Hay các con mặc chiếc áo tu sĩ để lừa đảo người, để được người kính trọng cúng dường tiền, thực phẩm v.v…

Thầy ẩn cư, sống để tâm thanh thản, an lạc, vô sự cho đến phút ra đi vào Niết bàn. Còn bây giờ Thầy gặp các con có ích lợi gì, cứ lặp đi lặp lại mãi những gì Thầy đã viết, Thầy không an, các con cũng không an. Phải không các con?

Nếu các con giữ được tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự là các con đang ở bên Thầy, gặp Thầy mãi mãi. Còn các con gặp mỗi chút ác pháp hay thiện pháp là tâm các con bị động, là các con đang ở xa Thầy vô tận.

Biết pháp tu tập giải thoát mà không cứu mình là không gan dạ, để trôi lăn trong lục đạo là hèn nhát. Phải vươn lên và bền chí vượt bao khó khăn cứu mình trong lửa đỏ sinh tử, đời chẳng có gì mà tiếc các con ạ!

            Thân thương chào các con.  
            Hẹn gặp các con trong tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự.

                                                                                      Thầy của các con.  

Ngày 18 tháng 5 năm 2009

Kính gửi các con,

 

Một lần nữa Thầy nói về CHỨNG ĐẠO, các con đừng cho rằng tu hành theo Phật giáo là không chứng đạo. Chứng đạo là một sự thật của Phật giáo. Phật giáo là một tôn giáo vì loài người, cho nên tu hành phải có CHỨNG ĐẠO. Phật giáo là một tôn giáo luôn luôn biết dùng tự lực của mình vượt lên mọi đau khổ của cuộc đời, vì vượt lên mọi khổ đau của cuộc đời nên CHỨNG ĐẠO. Một tôn giáo nhờ vào tha lực của Thần, Thánh, Tiên, Phật, Trời, Bồ Tát cứu khổ, cứu nạn, giải trừ bệnh tật, tai ách khổ đau của mình là một tôn giáo mê tín.   

Mục đích của đạo Phật là làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT. Cho nên người nào làm chủ được SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT là người CHỨNG ĐẠO. Vì thế đạo Phật là đạo TỰ LỰC chứ không phải đạo THA LỰC. Ai tu theo Phật giáo mà cầu cúng lạy lễ van xin TAM BẢO gia hộ là theo ngoại đạo Bà La môn.

Đạo Phật còn gọi là đạo GIẢI THOÁT, vì thế ai sống đúng đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh là CHỨNG ĐẠO. Bởi không làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sinh đó là GIẢI THOÁT, mà giải thoát là CHỨNG ĐẠO. Sự chứng đạo của Phật giáo không có khó khăn, không có mệt nhọc chỉ cần chịu khó học tập đạo đức nhân bản – nhân quả, sống với PHÁP TRÍ ĐẠO ĐỨC và TÙY TRÍ ĐẠO ĐỨC là có sự giải thoát ngay trước mặt. Có sự GIẢI THOÁT ngay trước mặt là CHỨNG ĐẠO.

Muốn làm sáng tỏ sự CHỨNG ĐẠO các con đùng giải thích theo chữ Hán (Trung Hoa), Đạo là con đường, nẻo, lối đi... Giải thích như vậy không đúng nghĩa Phật giáo. Vì ĐẠO ở đây có nghĩa là tâm không còn khổ đau, tâm được yên ổn an vui, tâm bất động không còn một ác pháp nào làm cho tâm động. Những điều trên đây tâm đã đạt được thì mới gọi là GIẢI THOÁT, mà giải thoát là CHỨNG ĐẠO như trên đã nói. Khi nói đến CHỨNG ĐẠO thì đức Phật dùng một cụm từ chỉ cho chúng ta thấy sự CHỨNG ĐẠO: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc làm đã làm xong không còn trở lui trạng thái này nữa”. Cụm từ này chỉ rất rõ sự GIẢI THOÁT:

            1- SANH ĐÃ TẬN có nghĩa là cuộc sống không còn đau khổ.
            2- PHẠM HẠNH ĐÃ THÀNH có nghĩa là đời sống giới luật đức hạnh nghiêm chỉnh.
            3- CÁC VIỆC LÀM ĐÃ LÀM XONG có nghĩa là sự tu tập đã hoàn tất không còn tu tập một pháp môn nào nữa.
            4- KHÔNG CÒN TRỞ LUI LẠI TRẠNG THÁI NÀY NỮA có nghĩa là tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa.

CHỨNG ĐẠO có nghĩa là giải thoát hoàn toàn tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi như trên đã nói. Cho nên trong kinh Tương Ưng có đoạn ông Xá Lợi Phất hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu con được hỏi: Này hiền giả, giải thoát như thế nào mà Thế Tôn tuyên bố đã được chứng đắc. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc làm đã làm xong không còn trở lui lại trạng thái này nữa? Thì con sẽ trả lời, do tự giải thoát, do tự đoạn diệt tất cả các chấp thủ, do tự làm tâm con luôn an lạc trong chánh niệm. Nhờ sống an lạc trong chánh niệm như vậy, các lậu hoặc không còn tiếp tục rỉ chảy và không còn tự chấp tự ngã”.

Ngài Xá Lợi Phất trả lời rất đúng. Sự giải thoát này phải do chính mình, không có một người nào giúp mình được. Do tự chính mình phải ĐOẠN DIỆT CÁC CHẤP THỦ và phải luôn luôn SỐNG AN TÂM TRONG CHÁNH NIỆM, nhờ vậy mọi ác pháp không còn tác động được tâm. Để xác định sự CHỨNG ĐẠO, một lần nữa kinh Tương Ưng dạy: “Tóm lại pháp môn này gọi tắt như sau, những cái gì được vị sa môn gọi là lậu hoặc là Ta không còn nghi ngờ gì nữa, chúng đã được Ta diệt tận không còn phân vân gì nữa ”. (100 Tương Ưng tập 2) Đọc những lời trên đây ai còn phủ nhận đạo Phật không CHỨNG ĐẠO.

Đức Phật xác định rõ cho chúng ta biết thế nào là PHÁP TRÍ? “Này các thầy Tỳ Kheo, vị thánh đệ tử biết già chết như vậy, biết già tập khổ như vậy, biết già diệt như vậy, biết con đường đưa đến già chết diệt như vậy. Đây là PHÁP TRÍ của vị ấy . Vị ấy với pháp này được thấy, được biết, được quả tức thời, được đạt đến, được thể nhập hướng dẫn thái độ của mình đối với quá khứ và trong tương lai”. Người có trí tuệ về các PHÁP của đời sống con người thì phải thông suốt GIÀ, CHẾT. Thông suốt GIÀ, CHẾT thì được gọi là PHÁP TRÍ.

1- GIÀ là cơ thể suy nhược, răng rụng, da nhăn, tóc bạc, lưng khọm, tay chân run rẩy, yếu đuối... Đó là một sự đau khổ của kiếp người.

2- CHẾT là cơ thể bị hủy diệt, tử vong, các uẩn tàn lụn, hoại diệt... Đó là một sự đau khổ mà con người không ai tránh khỏi.

Do thông suốt sự đau khổ ấy nên người có trí phải lo tu tập làm chủ GIÀ CHẾT. Một lần nữa đức Phật dạy: “Này các thầy Tỳ Kheo, vị thánh đệ tử biết già chết như vậy, biết già tập khổ như vậy, biết già diệt như vậy, biết con đường đưa đến già chết diệt như vậy”.

Một khi đã hiểu biết như vậy thì chúng ta cố gắng tu tập để giữ gìn tâm bất động, do giữ gìn tâm bất động thì lậu hoặc hoàn toàn sẽ bị diệt sạch. Cho nên kinh Tương Ưng xác định một lần nữa để chúng ta hiểu rõ sự GIẢI THOÁT bằng PHÁP TRÍ: “Đây là PHÁP TRÍ của vị ấy. Vị ấy với pháp này được thấy, được biết, được quả tức thời, được đạt đến, được thể nhập hướng dẫn thái độ của mình đối với quá khứ và trong tương lai”. (106 Tương Ưng tập 2)

PHÁP TRÍ là trí tuệ hiểu biết về các pháp sinh, già, bệnh, chết là khổ, người có pháp trí hiểu biết cuộc đời này là khổ, không có vật gì trên thế gian này là ta, là của ta nên buông xả sạch, vì thế họ được giải thoát hoàn toàn.

Khi một người có PHÁP TRÍ nên về tương lai có xảy ra điều gì họ chẳng lo lắng buồn phiền và sợ hãi. Do chẳng còn buồn phiền và sợ hãi nên họ được giải thoát. Đó là họ đang sống trong TÙY TRÍ. Bởi người có TÙY TRÍ là người giải thoát về tương lai. Đây chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Những Sa môn hay Bà la môn nào trong tương lai sẽ hiểu rõ già chết, sẽ hiểu rõ già chết tập khởi, sẽ hiểu rõ già chết diệt, sẽ hiểu rõ con đường đưa tới già chết diệt, tất cả những vị ấy sẽ hiểu biết như vậy. Như vậy, như hiện nay Ta vậy. Đây tức là TÙY TRÍ của vị ấy”.

Tóm lại người có PHÁP TRÍ và TÙY TRÍ là người đang sống trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai hoàn toàn thân tâm họ được giải thoát không còn một chút xíu nào lậu hoặc. Người ấy được nhập lưu, nhập vào dòng thánh, được đầy đủ trí hữu học, được đầy đủ minh hữu học. Một lần nữa, để xác định điều này đức Phật đã dạy: “Này các thầy Tỳ Kheo! Vì rằng vị thánh đệ tử được thanh tịnh và thuần tịnh hai loại trí: PHÁP TRÍ và TÙY TRÍ. Vị ấy được gọi là thánh đệ tử đạt tri kiến, đã đi đến diệu pháp này, đã chấp nhận diệu pháp này, đã đầy đủ hữu học trí, đã đầy đủ hữu học minh, đã nhập được pháp lưu, là bậc thánh minh đạt tuệ, đã đứng gõ vào cửa bất tử”. (107 Tương Ưng tập 2)

Trong lời dạy này chỉ định rất rõ người có đầy đủ PHÁP TRÍ và TÙY TRÍ là người hoàn toàn làm chủ sinh, già, bệnh, chết, cho nên lời dạy trong đoạn kinh này rất rõ ràng họ là người đã đứng gõ vào cửa BẤT TỬ.

Thầy xin ghi lại lời PHẬT dạy để minh chứng rằng sự giải thoát của Phật giáo bằng sự hiểu biết mà đức Phật gọi là PHÁP TRÍ và TÙY TRÍ. Cho nên CHỨNG ĐẠO không phải chứng bằng THIỀN ĐỊNH như mọi người nghĩ mà chứng đạo bằng PHÁP TRÍ và TÙY TRÍ.

                                                                                                      Kính ghi,
                                                                                              Thầy của các con  

 

Ngày 29 tháng 6 năm 2009

Kính gửi: Các con thân thương.

Tất cả những pháp tu tập từ thấp đến cao, từ cơ bản đến chứng đạo của đức Phật, Thầy đã dạy các con đầy đủ không còn thiếu một pháp nào nữa cả. Đến đây trách nhiệm và bổn phận của một người thầy, Thầy đã làm xong.

Còn bây giờ là phần tu tập của các con, các con có tu tập là các con có giải thoát, có chứng đạo, nếu các con không tu hay tu tập cho có hình thức qua ngày thì chắc chắn không bao giờ có giải thoát.

Bổn phận và trách nhiệm của các con là phải tự cứu mình ra biển khổ chứ không ai đi thay con đường đó cho các con hay cứu các con được, mà chính các con! Xưa đức Phật đã dạy: "Các con hãy thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là người hướng đạo mà thôi!", các con có nghe lời dạy này không?         

Các con nên nhớ, trước kia các con còn dựa vào Thầy để thưa hỏi đạo, vì các con còn quá sơ cơ, nhưng đó cũng là một cớ để phá hạnh độc cư, mà phá hạnh độc cư thì muôn kiếp tu hành cũng chẳng đi đến đâu. Các con có biết không?

Biết bao ngày, tháng, năm, có những người luôn giúp Thầy thường đi tới đi lui canh chừng sợ các con phá hạnh độc cư đi nói chuyện, mà đi nói chuyện thì tu hành không biết bao giờ chứng đạo, nhưng khi vắng mặt những người này thì các con dụm hai, dụm ba nói chuyện. Thật là tội nghiệp!, đời có gì vui mà thích nói chuyện, chỉ là các pháp vô thường, mà các pháp vô thường là khổ. Rồi đây sinh tử đến biết có gặp Thầy, gặp pháp, gặp tu viện để mà tu tập nữa không?

Mọi người ai cũng phải lo cứu mình, cho nên hiện nay không còn người đi tới đi lui giúp các con độc cư nữa, vì vậy các con cứ mặc sức nói chuyện, không cần phải nói lén lút. Thầy đã già rồi, nhắc mãi các con không nghe thì nhắc làm gì nữa đây? Khi các con tu tập thì mang lại lợi ích cho các con, chứ các con tu tập mang gì lợi ích cho Thầy, cho những người khác đâu?

Hiện giờ còn lại những ngày trên thế gian này Thầy chỉ sống với tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ, không phải bận rộn tiếp khách, thuyết giảng, vì sách Thầy đã giảng dạy đầy đủ lắm rồi không còn thiếu một bài pháp nào nữa cả.

Mọi người cứ đọc sách rồi tự tu tập theo lời dạy trong sách rất cặn kẽ và dễ hiểu. Tu hành không sai đâu mà các con sợ, nếu có tu sai thì trong sách cũng dạy các con phá cái sai. Vì thế các con cứ vững lòng tu tập, nhưng cần tránh tu tập nhiều khi các con chưa nhiếp được tâm. Nhiếp tâm là tập làm chủ tâm thì các con phải lưu ý ngay từ phút đầu có làm chủ tâm được hay không, nếu không làm chủ tâm được thì đừng có tu dù có tu tập cũng chỉ phí thời gian và công sức vô ích.

Nếu biết ơn Thầy thì ngay nơi hình ảnh Thầy mà đảnh lễ, chớ đừng về Trảng Bàng, Tây Ninh đường sá xa xôi, rất hao tiền bạc xe cộ lên xuống nhọc nhằn rồi đến gặp Thầy, đảnh lễ Thầy. Biết rằng đó là tình thương của các con đối với Thầy, nhưng ráng tu tập là thương Thầy nhiều hơn các con ạ!

Cuối cùng Thầy thăm và chúc các con tu tập ngày một tốt hơn.

                                                                                            Kính ghi,
                                                                                  Thầy của các con.

057-TÂM TÌNH CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ - Mai Anh

Lời BBT/GNCN

Thưa quý vị độc giả,

Thưa phật tử Mai Anh,

Chúng tôi rất xúc động trước những lời trần tình đầy tâm huyết của đạo hữu đối với đức Phật và giáo pháp của Ngài, đặc biệt đối với đức Trưởng lão, một vị A la hán mà mọi người có duyên may gặp được Chánh pháp của đức Phật do Trưởng lão dựng lại đều tha thiết mong cầu có ngày được diện kiến, đảnh lễ bậc Thầy của Trời, Người sau hơn 2500 năm mới xuất hiện. Không biết còn bao nhiêu những người con thân yêu của Phật, của Chánh Pháp đang khát khao mong cầu ngày trở về đảnh lễ bậc Thầy tôn kính của chúng ta mà chưa có dịp.

Đức Phật thật là vĩ đại!

Đức Trưởng lão Thích Thông Lạc thật là vĩ đại!

Vâng, thưa quý vị độc giả, hai vị Thầy vĩ đại của nhân loại được sinh ra từ hai đất nước sông Hằng và sông Hồng, đất nước, dòng sông đã chắt chiu từ những hạt phù sa - đầy tình yêu thương con người và tất cả muôn loài - kết tinh tạo nên hai nhân cách lớn.

Sự vĩ đại của đức Phật bắt đầu từ sự từ bỏ ngai vàng quyền lực, Ngài ra đi sống đời khất thực, khổ hạnh, đơn côi, sáu năm trường quyết tâm tìm con đường giải thoát cho nhân loại. Sự vĩ đại của Ngài là đời sống phạm hạnh không thể có một đời sống nào khác so sánh được. Ngài đã để lại cho nhân loại một nền tảng giáo lý, nền đạo đức nhân bản – nhân quả mang lại hạnh phúc cho tất cả muôn loài.

Chúng ta tôn kính, chiêm bái đức Phật là thể hiện bằng sự thực hành nghiêm mật, tinh cần những lời Ngài dạy. Lời của Phật: “Người thực hành đúng theo Giáo Huấn của Như Lai nhất, là người tôn sùng Như Lai nhất”. Ấy vậy mà, suốt mấy ngàn năm, hàng hàng lớp lớp phật tử đua nhau xây tạc những chùa vàng, tượng ngọc, những tòa tháp 7 tầng, 9 tầng rồi thi nhau thờ phượng, cúng bái cầu xin hẳn có lợi lạc gì đâu! Chùa càng to, tượng càng đẹp, tháp càng cao thì Giáo Pháp và Giới Luật của Ngài dạy càng ngày càng bị che khuất dần rồi mất hẳn.

Sự vĩ đại của đức Trưởng lão Thích Thông Lạc cũng được thị hiện bằng tấm gương sống phạm hạnh đầy lòng từ bi yêu thương con người và muôn loài khó có người nào so sánh được. Ngài đã dựng lại nền tảng giáo lý của đức Phật sau mấy mươi thế kỷ bị quăng ngã xuống, bị dập vùi che kín để nhân loại như đi mò trong đêm dài đen tối bởi vô minh ngăn che, mê tín buộc ràng.

Ngày nay, như sau đêm trường trời đã rạng. Sau cơn mưa giông, trời lại trở nên quang đãng. Thênh thang đường Chánh pháp của Phật, của Thầy, chúng ta ung dung bước với tâm thanh thản, an vui không thể gì ngăn cản.

Chúng ta tôn kính, chiêm bái Thầy tốt nhất là thực hiện những lời Thầy dạy đúng đắn nhất. Tấm gương đời sống phạm hạnh giàn dị, khiêm nhường đầy từ bi yêu thương soi sáng suốt hành trình chúng ta đi. Đâu cần phải tạo thêm những gì hoành tráng, oai phong, mỹ lệ… chỉ là nẻo dẫn mê lầm cho người đến với đạo mai sau.

Hôm nay đọc thư của đạo hữu Mai Anh có lời: “…Khi coi tang lễ của Thầy qua video, tôi càng thương và xót Thầy nhiều hơn, tang lễ của Thầy quá đơn giản đến mức không thể tưởng nổi, nhìn nấm mồ của Thầy thật là đơn sơ.”chúng tôi càng hiểu thêm sự vĩ đại của một con người, một bậc thánh nhân. Sự vĩ đại ấy chính từ những cái “quá đơn giản” và “thật là đơn sơ” của một con người tràn đầy tâm huyết với Phật pháp và nhân loại.

Xin hãy giữ mãi sự mộc mạc, "đơn sơ" này để mai sau các lớp cháu con còn nhớ về Chánh pháp. Lúc trở về quây quần bên nấm mộ đơn sơ như thế, để khắc ghi công ơn một bậc Thầy hết sức giản dị, "đơn sơ" suốt cả cuộc đời nhưng thật là vĩ đại.

Chúng tôi xin giới thiệu tâm tình qua thư của phật tử Mai Anh từ hải ngoại vừa mới gửi về:

TÂM TÌNH CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ

 

Kính gửi: Ban Biên tập web giotnangchonnhu

Tôi tên: Mai Anh

Hiện nay tôi đang sống ở Sydney Australia

Nhân dịp đầu năm mới, xin chúc toàn thể quý vị BBT/GNCN được nhiều sức khỏe và an lạc. Nay tôi viết vài dòng này gửi đến quý vị BBT/GNCN để nói lên sự cảm xúc tận trong đáy lòng tôi về đức Trưởng lão Thích Thông Lạc.

Cách đây ba năm gia đình tôi có quy y theo đạo Phật nhân ngày ba tôi qua đời nên gia đình tôi có mời chư tăng về làm lễ cầu siêu cho ba tôi, thú thật hồi đó tôi không mấy hiểu gi về đạo Phật mà chỉ biết vô chùa làm theo những gì mà quý sư chỉ bảo, rồi cứ hàng tháng lên chùa cúng dường cho quý thầy, quý cô để mong sao quý thầy, quý cô yên tâm tu học rồi mang chánh pháp của đức Phật dạy lại cho chúng tôi. 

Rồi cách đây khoảng bốn tháng, tôi tình cờ vào youtube thì tôi có chút duyên được nghe bài giảng của đức TL Thích Thông Lạc qua tựa đề: “Người Việt phải làm chủ của bốn sự khổ đau SANH, GIÀ, BỆNH, CHẾT”. Tôi hoàn toàn bất ngờ vì bài giảng của TL Thích Thông Lạc quá thực tế và khác hẳn với những bài giảng mà quý Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thuợng hay giảng trên các băng đĩa, như chùa Hoàng Pháp và một số kinh sách của chùa bên này (Chùa Phước Huệ - Australia). Rồi từ đó tôi lần lần tìm ra được trang web của Tu Viện Chơn Như. Tôi đã được đọc một số sách của đức TLThích Thông Lạc, như Đường Về Xứ Phật từ tập I đến tập VII, Linh Hồn Không Có v.v… thật sự tôi đã bị shok vì những pháp môn mà tôi hằng tin tưởng từ bấy lâu nay hoàn toàn không phải là của đức Thích Ca Mâu Ni.

Nhờ những cuốn sách do đức Trưởng lão biên soạn mà tôi học được cách tu tập xả bỏ những ham muốn dục lạc của thế gian, sống có đạo đức nhân bản - nhân quả để không làm khổ mình và khổ người. Tôi rất biết ơn đức Trưởng lão, tuy tôi chưa có cơ hội để được gặp đức Trưởng lão và được đảnh lễ Người nhưng trong tâm tôi lúc nào cũng rất kính trọng và coi đức Trưởng lão là Bổn Sư của tôi, vì thế tôi định là cố gắng thu xếp công việc để đến tháng bảy này tôi về Việt Nam rồi về Tu Viện Chơn Như để thăm Thầy, và xin Thầy truyền tam quy ngũ giới cho tôi. Nhưng tôi không có phước duyên đó. Nay Thầy đã nhập diệt rồi, tôi thật sự đã khóc rất nhiều vì buồn, tôi thương và tiếc Thầy lắm, nhờ đọc những bài viết của quý tu sinh và thầy Mật Hạnh mà tôi biết được cả cuộc đời của Thầy xả thân tu hành thật là gian nan và khổ hạnh. Thân hình Thầy thật là gầy gò, mà Thầy làm việc thì quá nhiều để dựng lại chánh pháp của đức Phật đang bị mai một trong tay lũ tà ma ngoại đạo. Thầy làm việc không vì lợi danh, mà chỉ vì thương tưởng đến chúng sanh nên Thầy cứ phải lăn lộn với tấm thân nhân quả tuy đã già yếu. Khi coi tang lễ của Thầy qua video, tôi càng thương và xót Thầy nhiều hơn, tang lễ của Thầy quá đơn giản đến mức không thể tưởng nổi, nhìn nấm mồ của Thầy thật là đơn sơ. Thật sự mà nói tôi chưa từng thấy quý Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức nào đã sống và làm được như đức Trưởng lão. Tôi thật sự rất kính trọng Ngài, vị Thánh tăng A la hán.

Và sau cùng tôi xin cảm ơn BBT/GNCN đã mở trang web này để cho chúng tôi có cơ hội học hỏi để không bị lầm lạc về giáo pháp Nguyên thủy của đức Phật.  

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô Trưởng lão Thích Thông Lạc.

 

058-CHÚNG CON NHỚ MÃI LỜI THẦY

PHẬT PHÁP TU HÀNH KHÔNG KHÓ
(Tâm thư của Trưởng lão ngày 26 tháng 3 năm 2011)
 

 

Đúng như tựa đề của bài pháp này, nên đức Phật dạy: “Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy”. Có nghĩa là PHẬT PHÁP không có dụng công tu tập như các pháp môn ngoại đạo, chỉ cần hiểu biết tính chất của các pháp thế gian là VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ thì người có trí liền BUÔNG XẢ sạch các pháp. Nhờ BUÔNG XẢ sạch các pháp thế gian nên không có pháp nào làm ĐỘNG TÂM họ được.

Khi tâm BUÔNG XẢ sạch các pháp thế gian thì tâm luông luôn ở trong trạng thái BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ. Một trạng thái giải thoát mà người tu sĩ Phật giáo nào cũng đều tha thiết muốn sống được với nó. Nhưng muốn sống với nó phải bằng cách nào đây?

Để trả lời câu hỏi này thì chúng tôi xin quý vị hãy lắng nghe và suy tư cho chín chắn thì mới biết rõ: Từ lâu mọi người đều hiểu không đúng chánh pháp của PHẬT, nên dụng công tu tập từ ngày này qua ngày khác mà kết quả chẳng có gì: Chính sự hiểu sai PHẬT PHÁP mà quý vị tốn rất nhiều công sức tu tập, nhưng xét lại chẳng có lợi ích gì cho bản thân mà còn xa lìa PHẬT PHÁP, vì thế tu mãi mà không tìm thấy GIẢI THOÁT.

Có những người tu tập nhiều năm gần như suốt cả cuộc đời, thế mà vừa nghe bạn đồng tu gõ cửa và nói rằng: “Con khuyên thầy đứng dậy đi đi!”. Vừa nghe lời khuyên nhủ của bạn đồng tu, thay vì nói lời cám ơn, nhưng ngược lại thầy nói: “Ngồi không được à!”. Nghe nói vậy, vị thầy đi kiểm tra liền bỏ đi.

Sau khi vị thầy đi kiểm tra quay lại thì vị thầy kia ra giữa đường chặn lại và nói: “Thầy có nhìn thấy tôi ngủ gật bao giờ chưa?. Nếu tôi ngủ gật tôi sẽ rời khỏi Tu viện ngay lập tức. Người ta đang ở trong định mà thầy làm vậy là phá người ta, là xâm phạm nhân quyền. Tôi có thể ngồi 5-6 tiếng đồng hồ. Trưởng lão cho phép tu trong bốn oai nghi. Thầy đi kiểm tra theo dõi tôi thế nào tôi biết hết”. Lúc bấy giờ thầy đi kiểm tra nói: “Con thấy thầy mắt nhắm và gật”. Khi nói xong lời này, thấy mình không thể khuyên được vị thầy đó nên thầy đi kiểm tra xá và nói: “con xin sám hối thầy”. Khi đó vị thầy đó mới đi vô thất.

Qua những sự đối đáp này đã làm cho mọi người biết vị thầy đó tu hành không xả được tâm mà ức chế tâm nên mới bộc phát cơn sân dữ dội như vậy. Thật đáng thương thay! Bỏ hết cuộc đời để tu tập mà giờ đây tâm tánh vẫn còn như người thế gian. Do thấy sự tu tập này mà Thầy viết bức tâm thư gửi các con, để các con xét lại sự tu tập của mình, ngõ hầu sự tu tập của các con không còn sai lạc nữa.

Sự GIẢI THOÁT của PHẬT GIÁO rất đơn giản, chỉ cần sống TỰ NHIÊN với tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ. Sống mà không có sự tu tập gò bó thân tâm thì mới thấy sự GIẢI THOÁT chân thật của ĐẠO PHẬT. Còn ngược lại dụng công tu tập làm gò bó thân tâm để tâm BẤT ĐỘNG thì làm sao thấy sự GIẢI THOÁT. Phải không thưa quý vị?

Từ lâu mọi người hiểu sai PHẬT PHÁP nên cố gắng tu tập, vì thế mà không có một vị sư, thầy nào làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT như PHẬT.

Dù sử dụng trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi mà tâm vẫn tự nhiên như người NHÀN DU, VÔ SỰ. Đó là người đã BUÔNG XẢ sạch. Vì thế họ không còn tu tập một pháp môn nào nữa cả...

Bởi vậy người nào hiểu đúng PHẬT PHÁP là phải cảm nhận được tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ. Nhờ có cảm nhận được tâm như vậy nên họ đã trở thành CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG luôn luôn sống MỘT MÌNH.

Ngược lại người nào không cảm nhận được tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ thì nên theo pháp NHƯ LÝ TÁC Ý để hằng ngày ngăn và diệt tất cả ác pháp thì mới mong BUÔNG XẢ tất cả các pháp thế gian, nhưng phải bền chí trong một thời gian dài.

Khi sống được với tâm BẤT ĐỘNG thì ngũ triền cái và thất kiết sử không làm sao tác động được. Vì thế không cần phải tu tập pháp môn ly dục, ly ác pháp mà tâm vẫn tự ly dục, ly ác pháp. Như vậy chỉ cần sống với tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ là tâm đã xả sạch. Hiểu như vậy mới thấy PHẬT PHÁP rất nhiệm mầu.

Đối với BỆNH TẬT và tất cả các ÁC PHÁP, khi gặp tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ, nó đều lìa xa khỏi thân tâm ngay tức khắc. Như vậy BỆNH TẬT và tất cả các ÁC PHÁP không còn tác dụng vào thân tâm được nữa, đó là trạng thái NIẾT BÀN trong cuộc sống, chớ không phải đợi chết mới vào NIẾT BÀN. Vì thế đức PHẬT dạy: “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy!”.

Thứ bảy, 26 Tháng 3, 2011, 00:20

NHỮNG BÀI KỆ BUÔNG XUỐNG ĐI!

Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!

Bất động, thanh thản, chẳng sầu bi

Buông xuống đi, còn lo chi nữa?

Giải thoát đây rồi, buông xuống đi!

Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!

Chớ giữ làm chi có ích gì.

Thở ra chẳng lại còn chi nữa?

Vạn pháp vô thường, buông xuống đi!

Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!

Tâm hồn thanh thản, chẳng sầu bi.

Cuộc đời ngắn ngủi trong chớp mắt,

Còn có vui gì chẳng bỏ đi!

Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!

Trò đời như mộng có còn chi.

Tứ đại trả về cho tứ đại

Thanh thản, an nhàn lúc phân ly!

Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!

Chớ giữ làm chi có ích gì?

Ôm vào đau khổ vô cùng tận

Buông xuống ngay liền vạn khổ đi!

Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!

Chấp giữ thân tâm có ích gì?

Thở ra chẳng lại còn chi nữa,

Thân tâm vô thường buông xuống đi!

Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!

Chớ diệt ý thức có ích gì?

Ý làm chủ, dẫn đầu các pháp

Lợi ích vô cùng, sao bỏ đi!

Tác ý đi, hãy tác ý đi!

Bất động, thanh thản, chẳng sầu bi.

Tác ý đi, còn lo chi nữa?

Giải thoát đây rồi, tác ý đi!

                                                                         Trưởng lão Thích Thông Lạc

059-TẠI SAO TÂM LUÔN LUÔN ĐỘNG? - Phi Mạnh

A. Trong kinh "Tứ Diệu Đế" Đức Phật đã nói rõ "Bản chất của cuộc đời này là khổ đau", “Nguyên nhân khổ chính là dục”. Dục nghĩa là tham muốn. Khi sống còn có tham muốn thì tâm luôn luôn động, không bao giờ bất động. Do có quá nhiều tham muốn, tâm con người không bao giờ ngừng suy nghĩ, tính toán, lo lắng, bất an, sân giận, nghi ngờ, sợ hãi và buồn phiền.

Khi sống không còn tham muốn thì tâm sẽ bất động. Ví dụ:

1. Tâm tham muốn ăn uống món này món nọ, lúc nào cũng nghĩ đến ăn uống, thích ăn nhiều lần, thích ăn vặt, ăn phi thời, đi đâu làm gì cũng nghĩ đến ăn uống, thích đi chợ, thích nấu chế biến món ăn, thích ăn những món ăn bổ dưỡng,...

2. Tâm tham ngủ, ngủ hết giờ này đến giờ khác, ăn xong rồi ngủ, nướng qua nướng lại,... ngủ phi thời, giờ nào ngủ cũng được.

3. Tâm tham muốn có vật này vật nọ, thấy vật nào đẹp cũng thích, thấy người khác có vật gì thì cũng muốn có, thích mua sắm, để dành, tích trữ, trưng bày đầy nhà,…

4. Tâm tham muốn danh vọng, quyền lực, chức vị, bằng cấp, bằng khen, thích thi đua, thích đứng nhất, đứng đầu bảng, thích khoe khoang, muốn cả thế giới biết được những gì mình làm được, muốn có địa vị cao hơn người khác. Ham thích lãnh đạo, chỉ đạo người khác, thích người khác nghe theo ý của mình, muốn người khác nghe lời mình, làm theo ý mình, muốn người khác tôn sùng mình, tự cho mình là đúng, luôn bảo vệ ý của mình, tự cho là giỏi, là tài, là thông minh, trở nên độc tài, độc đoán, độc quyền, thích phán xét, bình luận, châm biếm, thích so sánh mình với người khác, chỉ trích người khác, kiêu căng, tự mãn, cao ngạo, xem thường người khác,....

5. Tâm tham muốn có nhiều tiền, trúng số, may mắn, buôn bán giàu có, có nhiều của cải tài sản, nhà cửa, đất đai, thích đầu tư, tích trữ, muốn giàu có hơn người khác, muốn làm giàu bằng con đường cờ bạc, đánh đề, cá độ, buôn lậu, khai gian trốn thuế, lừa gạt người khác,...

6. Tâm ham thích kiếm tiền, làm đủ mọi nghề, suốt ngày tính toán lãi lỗ, được mất, đặt mục tiêu, lên kế hoạch, lo lắng tổ chức, quản lý, kiểm tra, doanh thu, chi tiêu, đạt chỉ số đề ra,.... 

7. Tâm ham thích quản lý tiền bạc, kiểm tra tiền bạc.

8. Tâm tham muốn học nhiều môn, muốn hơn người khác, muốn giỏi hơn người khác, muốn thông minh, muốn hiểu biết nhiều hơn người khác.

9. Tâm muốn có người yêu, có vợ, có chồng, có con, có cháu, có gia đình, có người thân, có nhiều bạn bè, có nhiều quan hệ rộng; cha mẹ muốn quản lý con cái và phải nghe lời cha mẹ; con cái muốn tự do; vợ muốn quản lý chồng và phải nghe lời, làm theo ý vợ, bênh vực vợ, đứng về phía vợ; ngược lại chồng cũng vậy,...

10. Tâm tham muốn sắc dục, luôn mơ tưởng đến nữ sắc, bị nhục dục chi phối,...

11. Tâm muốn nuôi các loài vật, muốn trồng nhiều loại bông hoa đẹp, thích đẹp ghét xấu,...

12. Tâm muốn làm cái này, cái nọ, không thích ở yên một chổ, thích hoạt động tay chân, thích lái xe đi đây đó,…

13. Tâm ham thích sáng tạo, chế tạo, phát minh, cải tiến, nghiên cứu, viết sách, viết thơ, viết truyện, viết lách, thích chia sẻ những hiểu biết của mình,…

14. Tâm ham thích đi chơi đây đó, đi du lịch, đi dã ngoại, đi ra biển, leo núi, thích chụp hình, thích vẽ tranh, đánh đàn…

15. Tâm thích xem phim ảnh, nghe ca nhạc, thích ca hát, thích tài tử, thích ca sĩ, vào mạng internet, thích nghe tin tức, đọc báo,…

16. Tâm thích uống rượu bia nhậu nhẹt, ăn chơi, thích đời sống hưởng thụ của vua chúa,…

17. Tâm thích người khác phái, thích ghét ai đó, giận ai đó, oán hận ai đó, trách móc ai đó, lo lắng cho ai đó, nhớ thương ai đó hoặc các loài vật nào đó,…

18. Tâm nhiều chuyện, thích để ý chuyện người khác, tò mò chuyện người khác, không biết giữ kín chuyện, thích bàn chuyện thiên hạ, hay phóng đại nghe một nói hai, thích tụ họp đông người bàn chuyện thiên hạ, thích bàn chuyện kinh tế, chính trị, quốc tế, chuyện đông, chuyện tây,...

19. Tâm thích đem chuyện của người này nói cho người khác nghe.

20. Tâm thích nghe chuyện của người khác, thích hỏi về chuyện của người khác, thích nói chuyện về người khác.  

21. Tâm thích xen vào chuyện của người khác, thích dạy đời người khác. Chuyện của mình là tu hành, không chịu lo, chỉ lo chuyện chùa, tu viện, chuyện quản lý, chuyện tài chánh, chuyện cơm nước, chuyện của người quản lý,...

22. Tâm thích phán xét, nhận xét người khác đúng sai, phải trái,...

23. Tâm thích tìm hiểu, moi móc chuyện quá khứ, thích tìm đáp án cho những câu hỏi "có" hay "không", "thật" hay "giả", "đúng" hay "sai", "phải" hay "trái". Dù là chuyện tốt hay xấu, hãy để quá khứ trôi đi. Chỉ cần sống trong hiện tại và chú trọng mục tiêu của mình. Dù ai nói gì, làm gì, chuyện của người khác để người khác lo, họ có lý do chính đáng để làm việc hay nói điều đó, ta không nên đứng trên lập trường của mình mà phán xét ai đúng sai, phải trái, thật giả,... Việc ta nên làm là luôn tư duy thiện, tư duy tốt và tích cực về những điều người khác nói và làm. Biết buông xuống hết thì tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn. 

24. Tâm thích nghi ngờ người khác, không tin tưởng ai,...

25. Tâm thích khoe khoang những hiểu biết của mình,....

26. Tâm thích so sánh mình với người khác, luôn thấy mình hơn mọi người. 

27. Tâm tham muốn có sức khỏe tốt, có thân hình đẹp, cao, nở nang, gương mặt đẹp, tướng tốt, thích trẻ mãi không già, muốn bất tử,...

28. Tâm ham thích sưu tầm những vật đẹp nhất, sang nhất, hiếm có nhất, cổ nhất, lạ nhất có giá trị nhất của những danh nhân thời cổ xưa,...

29. Tâm ham thích những chuyện tâm linh huyền bí, siêu hình, ham thích những trạng thái vắng lặng, tưởng là thiền định rồi bám vào, ham thích những khả năng siêu nhiên, những công năng đặc biệt, thần thông,...

30. Tâm ham thích những thú vui chơi, giải trí, chơi trò chơi,...

31. Tâm ham thích thờ lạy tôn thờ thần thánh,...  

32. Tâm ham thích làm việc từ thiện giúp đỡ người, phóng sanh, bố thí, chăm sóc người tàn tật, trẻ em mồ côi và người lớn tuổi,...  

33. Tâm ham thích những đồ vật có công nghệ cao như kỹ thuật số, công nghệ nano, công nghệ không dây wireless, TV HD 3D, laptop, ipad, iphone, smartphone, tablet, máy đọc sách, những vật điều khiển từ xa, robot,... 

34. Tâm ham thích vào những trang xã hội facebook, twitter chơi, thích nhận gửi thơ điện tử email, viết blog,...

35. Tâm ham thích vào những diễn đàn để tranh luận, bàn luận, giải đáp, dạy đời người khác,... 

36. Vân vân… và vân.vân…

Có tham muốn, có thích thì có ghét, không thỏa mãn những tham muốn của mình thì tâm sẽ sân giận, ganh tỵ; yêu không được thì hận hoặc trả thù; không muốn chia sẻ bố thí thì bủn xỉn, keo kiệt, gian tham, ích kỷ,... Tất cả những đức tính xấu đều bắt nguồn từ lòng tham muốn mà ra.

Từ những tham muốn trên mà con người luôn phải đấu tranh, tranh giành, chà đạp lên nhau, tự vệ, sợ hãi, lo lắng và phiền muộn. Nói đến cái sợ thì con người sợ đủ thứ trên đời: sợ nghèo, sợ đói, sợ già, sợ lúc về già không ai chăm sóc, sợ không có người thân bên cạnh, sợ bệnh, sợ đau đớn, sợ uống thuốc, sợ bác sĩ, sợ chết, sợ thất nghiệp, sợ xa nhau, sợ bị bỏ rơi, sợ chia tay, sợ bị mất người thương yêu, sợ gặp người mình không thích, sợ gặp kẻ thù, sợ bị hại, sợ bị mất của cải tài sản, sợ trộm cắp, sợ bị sát hại, sợ bị hãm hiếp, sợ thua người khác, sợ thất bại, sợ gian nan cực khổ, sợ bị mất công danh lợi lộc, sợ ma, sợ quỷ, sợ thần thánh, sợ cô đơn lẻ loi, sợ bóng tối, sợ sống một mình, sợ sự yên tĩnh, sợ người khác không làm theo ý mình, sợ đi xe, sợ độ cao, sợ tốc độ, sợ ánh sáng, sợ khổ cực, sợ mất ngủ, sợ không ăn được, sợ người khác khinh chê, sợ những lời đàm tiếu, sợ người khác nói xấu, nói cái sai, cái lỗi của mình, sợ các loài vật, ...

Khi sống trong tham muốn, sợ hãi, tâm sẽ mất lòng tin vào chính mình và người khác, luôn nghi ngờ, nghi kỵ nhau, nghĩ xấu về nhau, luôn tìm đủ mọi cách đạt được những gì mình muốn và có lợi cho mình. Sống trong những tâm tư như vậy, con người luôn phải tư duy suy nghĩ tìm đủ mọi cách để đạt được những gì mình muốn, bất chấp mọi thủ đoạn dù là giết người, trộm cắp, lường gạt, nói dối, ly gián, hãm hại nhau,...

B. Ngoài vấn đề chính như trên đã trình bày, còn thêm một nguyên nhân dẫn đến tâm luôn luôn động đó là "dính mắc". Có tham muốn là có dính mắc. Ngoài ra con người dính mắc rất nhiều thứ. Có dính mắc thì tâm sẽ động.

1. Dính mắc vào hoàn cảnh môi trường xung quanh, không vừa ý cái này, không vừa ý cái kia, sống không biết nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Ví dụ như chổ ở có muỗi, kiến, các loài côn trùng, rắn, cuốn chiếu,... nhiều quá. Chổ ở ẩm tối, ít nắng, hoặc nắng nhiều quá,...

2. Dính mắc vào những người sống xung quanh. Ví dụ: họ làm biếng làm việc, kéo dài thời gian, chỉ ngồi chơi cho hết ngày rồi về. Hoặc người này tu như thế này là không đúng, người kia cũng vậy. Hoặc người quản lý này không có đạo đức, đức hạnh mà được làm quản lý,...

3. Dính mắc vào lời nói, việc làm của người khác. Ví dụ: cách quản lý tiền bạc của tu viện, chùa không minh bạch, việc làm của người quản lý không đúng với những gì thầy dạy,...

4. Dính mắc vào những gì nghe hoặc đọc được. Khi nghe ông A nói về ông B như thế này, thế kia là tự nhiên bị dính mắc vào những lời nói đó rồi tìm cách đi tìm hiểu có phải đúng như vậy không? đánh giá, nhận xét, phán đoán mọi việc theo ý của mình đúng sai phải trái,...

5. Dính mắc vào những thành kiến, kiến chấp của mình về người khác. Tính cách của mỗi người luôn thay đổi, không có gì là không thay đổi. Hôm qua họ keo kiệt bủn xỉn, nhưng hôm nay có thể họ đã biết mở rộng tấm lòng ra bố thí, chia sẻ,...

6. Dính mắc vào những lỗi lầm trong quá khứ của ai đó. Có thể lúc xưa người đó hay sân, nhưng hiện tại có thể họ đã thay đổi rồi, chúng ta không nên cố chấp mà phải biết mọi việc là vô thường, không có gì bất biến trên đời này cả. v.v và v.v... 

Chỉ có ai biết sống đời sống như đức Phật Thích Ca, buông xuống sạch tất cả, cắt ái ly gia, ba y một bát, sống khất thực từng ngày, ít muốn biết đủ, thích sống một mình,  luôn ly dục, ly ác pháp, không dính mắc vào bất cứ hoàn cảnh môi tường nào, điều gì, vật gì, người nào, lời nói hay việc làm của bất kỳ ai thì tâm sẽ tự nhiên thanh tịnh và trở nên bất động, thanh thản an lạc và vô sự. Không chịu buông xuống hết thì tự mình làm khổ mình và khổ người, tự mình đánh mất sự giải thoát, tự mình xô mình xuống địa ngục.

Sự bất động, thanh thản an lạc và vô sự của tâm là do từ bỏ những tham muốn, thích và ghét của mình chứ không phải do ngồi thiền, tụng kinh, hay niêm Phật. Đúng như lời Phật dạy trong chân lý thứ 3 của Tứ Diệu Đế - diệt dục thì tâm sẽ ở trạng thái bất động, thanh thản an lạc và vô sự. Trạng thái này gọi là Niết Bàn.

Để giúp cho tâm trở nên bất động thì phương pháp "Như Lý Tác Ý" rất quan trọng. Phương pháp này giúp cho tâm từ từ thuần phục trở về với chánh đạo, xa lìa tà đạo. Thiếu phương pháp Như lý tác ý thì tâm thường bị những ham muốn lôi kéo, không còn làm chủ mình nữa, lúc đó con người luôn sống trong nô lệ của những dục lạc tham muốn thế gian.

Ví dụ: khi tâm tham muốn ăn thêm ngoài giờ ăn chính, thì ta nhắc thầm trong đầu: "tâm phải bất động thanh thản an lạc và vô sự, không được tham ăn"

Tóm lại, muốn tâm không còn động nữa thì chỉ cần sống ly dục, ly ác pháp. Thế giới này là thế giới của tham sân si. Ai sống với tham, sân, si thì chắc chắn sẽ tương ưng với thế giới này, ai sống không tham, không sân, không si thì tương ưng với thế giới không tham sân si, không còn tái sanh luân hồi về thế giới này nữa.

Do vậy, khi chúng ta còn có tham, sân, si thì đừng mơ tưởng đến việc giải thoát khỏi thế giới tham sân si này. Do còn có tham sân si cho nên chúng ta rất dễ bị lừa gạt bởi những lý thuyết có thế giới siêu hình sau khi chết hoặc một thế giới Tây Phương Cực Lạc, thiên đàng, địa ngục. Thiên đàng, địa ngục là tại đây, chính ở thế gian này. Chỉ có chính mình cứu mình mà thôi.

      (Để rõ hơn các bài liên quan, các bạn chỉ cần click vào những dòng chữ màu xanh phía trên)

060-"TƯỞNG" qua bài kinh "PHÁP MÔN CĂN BẢN" - Minh Đạo

Bài viết của phật tử Minh Đạo với chủ đề "Tưởng" trong đạo Phật qua bài kinh "Pháp Môn Căn Bản" (Kinh Trung Bộ). Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng cho những ai đang hành trì trên con đường giải thoát theo đạo Phật. Thế nhưng trải qua biết bao nhiêu thế hệ tu hành, lớp trước rồi lớp sau chỉ đạt đến Thiền định Tưởng, Trí tuệ Tưởng, Thần thông Tưởng v.v... rồi vội vã tung hoành ngang dọc với những bài pháp Tưởng làm hại rất đau lòng cho Phật pháp, khiến Phật pháp ngày càng băng hoại.

Nay, dưới ánh sáng Trí Tuệ Tam Minh của Phật mà đức Trưởng lão Thích Thông Lạc đã soi chiếu lại rõ ràng. Trên nền tảng ấy, chúng tôi mong muốn quý phật tử hãy có nhiều ý kiến đóng góp để mọi người cùng hiểu, tất cả đều hiểu thông suốt về Tưởng thì hy vọng con đường tu tập sẽ thuận lợi hơn nhiều. Xin giới thiệu với quý vị toàn văn bài viết dưới đây.

                                                                                                                     BBT/GNCN

Chúng ta là những Phật tử đang tu học. Trên bước đường tu tập, chúng ta thường được các bạn đồng tu nhắc nhở «Khéo giữ tâm ý, nếu không dễ lạc vào tưởng». Câu nhắc nhở của bạn đồng tu chân thành quá, nhưng làm cho các tu sinh vẫn cảm thấy toát mồ hôi hột. Vậy tưởng là gì? Chúng ta nên hiểu về tưởng như thế nào? Câu hỏi như lời khắc khoải chờ sự giải đáp.

Trước đây tôi được đọc một câu chuyện trong nhà thiền từ cuốn «góp nhặt từ cát bụi» của Nhật Bản. Câu chuyện mang nhiều ý nghĩa làm tôi thích thú nên nhớ mãi. Câu chuyện đó có nội dung như sau:

Tại thời xa xưa của Nhật Bản, những tu sĩ theo đạo Phật được đào tạo tại các trường Phật học. Sau khi ra trường, những vị tu sinh này phải đi vào cuộc sống để học hỏi thêm từ cuộc sống. Trên bước đường hành trình du hóa để trải nghiệm và học hỏi, những vị tu sinh này có thể xin tá túc ngủ lại ở những ngôi chùa mà mình gặp trên đường đi. Những ngôi chùa này phải có nghĩa vụ tiếp nhận, và đặc biệt những tu sinh du hóa có quyền yêu cầu các vị sư trụ trì tại ngôi chùa đó thách đấu giáo lý. Nếu người thua, phải tự mình ra đi du hóa để rèn luyện và học hỏi thêm, và người thắng sẽ được ở lại trụ trì tại chùa để giữ giềng mối Phật pháp.

Ở một ngôi chùa kia, có hai vị sư đang trụ trì, đó là một sư anh và một sư em. Sư anh là người lanh lợi, hoạt bát, còn sư em là người đần độn, một bên mắt bị chột. Sư em ở cùng sư anh để giúp đỡ sư anh trong nhiều công việc lặt vặt tại chùa.

Một hôm có vị sư đi du hóa xin tá túc ở lại chùa, và đặc biệt đề nghị được thách đấu về giáo lý với sư anh. Nhận sự thách đấu, sư anh hàng ngày ôn luyện lại giáo lý với tâm trạng hết sức lo lắng. Phần lo về danh dự và tín nhiệm của mình bị thương tổn, phần lo đến sự khó khăn vất vả cho cả hai anh em nếu phải dời chùa đi du hóa. Vì thế sư anh học ngày, học đêm do ngày thách đấu đã đến gần kề. Quá mệt mỏi và căng thẳng, đến ngày thách đấu sư anh bị ốm, khản tiếng không nói thành lời. Không thể thoái thác được, sư anh bèn cử sư em thay thế mình và yêu cầu được thách đấu trong im lặng. Sư anh nghĩ bằng chiêu thức này, vị sư du hóa phải chấp nhận thua, bởi đây là sự thách đấu giáo lý không thể hiện bằng lời.

Căn dặn xong với sư em, sư anh thấp thỏm ngóng chờ kết quả. Một lát sau vị sư khách đến chào sư anh để ra đi và nói «Sư đệ ngài quả là người tuyệt vời! Tôi đã thua». Sư anh hết sức ngạc nhiên, đề nghị vị sư khách nói lại kết quả của việc thách đấu.

Vị sư khách giải thích «Sư đệ ngài gặp tôi nói rằng ngài bị ốm nên được thi đấu thay ngài và đề nghị tôi được thi đấu trong im lặng. Tôi nhận lời»

Sau khi phân ngôi chủ-khách, vì là người thách đố nên tôi ra câu hỏi trước. Tôi giơ một ngón tay lên ám chỉ chỉ rằng Phật là trên hết. Sư đệ của ngài giơ hai ngón tay muốn nói rằng ngoài Phật ra còn có Pháp. Tôi giơ ba ngón tay muốn nói: ngoài Phật, Pháp ra còn có Tăng kết hợp lại thành ba của báu trên đời này, ba ngôi Tam Bảo. Sư đệ của ngài giơ thẳng nắm tay đấm vào mặt tôi ý ám chỉ: Phật, Pháp, Tăng cũng đều từ sự chứng ngộ mà ra. Câu trả lời hay tuyệt. Nói xong vị sư khách chào tạm biệt và ra đi.

Vị sư khách vừa đi khỏi, người sư em chạy xộc vô phòng và nói: «Nó đâu rồi? Để em đánh cho nó một trận»

Sư anh ôn tồn bảo: «Em thắng rồi kia mà. Chuyện thế nào kể lại anh nghe».

Sư em kể: «Nghe lời anh, em ra gặp và yêu cầu hắn thi đấu trong im lặng. Sau khi phân ngôi chủ-khách xong, hắn ngồi xuống ghế và nhìn em, rồi đột nhiên hắn giơ một ngón tay lên ý muốn bảo em chỉ có một mắt. Em giận lắm, nhưng nghĩ mình là chủ nhà, em đã kìm chế, sau đó em giơ hai ngón tay lên ý muốn khen hắn có hai con mắt. Nhưng hắn lại giơ ra ba ngón tay ý muốn bảo: Tao có hai con mắt, còn mày vẫn chỉ có một mắt. Thấy hắn có thái độ khinh miệt em như vậy, em đã đấm thẳng vào mặt hắn một quả đấm».

Các bạn có thấy câu chuyện thật tuyệt vời không? Nó mang rất nhiều ý nghĩa. Ngày trước tu học theo Đại Thừa, hẳn chúng ta thán phục sự giải thích của vị sư khách về nội dung của cuộc thách đấu sao mà mang ý nghĩa cao siêu đến như vậy? Phật, Pháp, Tăng và sự chứng ngộ.

Ngày nay được tu học theo chánh pháp của Phật, chúng ta mới thấy thương cho người sư đệ và vị sư khách kia do bị tưởng tri của chính họ lừa đảo và dẫn dắt họ vào những hiểu biết sai lạc với hiện thực khách quan đang tồn tại: Đó là sự xuất hiện của một ngón tay, hai ngón tay, ba ngón tay và một quả đấm. Nhưng vì ý thức của hai người không nắm bắt được ý nghĩ của người kia định nói gì, cho nên tưởng tri của hai người đã nhận thức hiện thực khách quan theo hai xu hướng khác nhau.

Người sư đệ thì cho rằng người kia đang ám chỉ đến con mắt cho nên thấy một mắt, hai mắt và sự khinh miệt qua cử chỉ của người kia với mình.

Vị sư khách qua hiện thực khách quan thì tưởng tri ra Phật, Pháp, Tăng và sự Chứng ngộ.

Câu chuyện thật là lý thú và là minh chứng về hoạt động «TƯỞNG» của bộ óc con người, đã nhận thức hiện thực khách quan qua tư duy chủ quan của mình làm sự việc méo mó, sai lệch. Đạo Phật gọi đó là không liễu tri, nghĩa là không hiểu biết như thật. Hiểu biết như thật trong câu chuyện này là gì? Đó chỉ là một ngón tay, hai ngón tay, ba ngón tay giơ lên và một quả đấm. Nhưng vì có hoạt động của tưởng thức tham gia vào, cho nên hai người đã bị tường đánh lừa dẫn dắt mình vào vô minh mà không hay biết, vì họ lầm chấp nên tưởng ra Phật, Pháp, Tăng và sự Chứng ngộ, còn người kia tưởng ra sự khinh miệt đối với mình.

Quay lại với câu hỏi vậy tưởng là gì? Chúng ta nên hiểu về tưởng như thế nào?.

Theo giáo lý Đạo Phật, con người được cấu tạo bởi 2 phần Danh và Sắc. Sắc là phần vật chất hữu hình (Đất, nước, gió, lửa) tạo ra hình dạng con người của chúng ta. Danh là đời sống tinh thần bao gồm: Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

Thức là sự nhận biết của thân tâm.

Hành là sự hoạt động của thân tâm.

Thọ là sự cảm nhận của thân tâm.

Tưởng là một hoạt động tinh thần khá phong phú và phức tạp, con người rất khó nhận biết về nó. Tưởng chỉ hoạt động khi ý thức của con người ngừng làm việc (như trong giấc ngủ) hoặc khi ý thức nắm bắt sự việc không rõ ràng, tưởng sẽ tham gia như câu chuyện dẫn chứng kể trên, hai người không biết ý người kia định nói gì, tưởng của hai người đã tham gia, cho ra hai nhận thức sai biệt khác nhau.

Thọ, Tưởng, Hành, Thức là đời sống tinh thần của con người, vì thế được thể hiện ở tư duy và nhận thức của con người. Mà đời sống tinh thần bao gồm Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bốn hành trạng này không hoạt động độc lập, luôn dung thông trong nhau tạo ra đời sống tinh thần con người luôn phong phú, đa dạng. Trong đời sống tinh thần của con người, Tưởng đã góp một phần quan trọng. Qua các hoạt động đời sống của con người, nhiều ý tưởng xuất hiện, từ những ý tưởng này, có thể làm cho xã hội và các mối quan hệ của con người trong xã hội được phát triển. Nhưng cũng có nhiều ý tưởng, khi được thực hiện, đã đem đến cho con người rất nhiều đau khổ. Từ đó cho chúng ta hiểu về tưởng như sau: Hoạt động của tưởng bao gồm hai phần là tưởng thiện và tưởng ác.

Tưởng thiện: Là những hoạt động của đời sống tinh thần của con người. Những hoạt động này phù hợp với quy luật của tự nhiên góp phần vào việc cải thiện tự nhiên và xã hội.

Tưởng ác: Là những hoạt động tinh thần của con người không phù hợp với quy luật của tự nhiên đem lại đau khổ cho con người.

Hoạt động tinh thần của con người được đạo Phật rất quan tâm, bởi nếu hoạt động đúng (nhận thức đúng) sẽ giúp cho con người phát triển được trí tuệ, đạt được những giải thoát ra khỏi mê lầm.

Đức Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập và là giáo chủ của đạo Phật hiểu rất rõ điều đó. Vì thế trong bài kinh «Pháp môn căn bản tất cả các pháp» bài số 1 của kinh Trung bộ, Ngài đã xác định: Toàn bộ thế giới hữu hình và thế giới vô hình đều là thế giới của Tưởng. Chính là nói về thế giới tinh thần của con người.

Chúng ta sẽ tìm hiểu các thế giới do tưởng tạo ra:

1. Thế giới hữu hình: Là thế giới được tạo ra bởi những sắc tướng do bốn Đại (Đất, nước, gió, lửa) hợp thành và tùy theo các đặc tướng, đặc tính do bốn đại đó kết hợp tạo ra mà con người đã đặt tên (tưởng ra) cho các vật hữu hình đó ví dụ như: Cái nhà, cái cửa, đường đi, cái cây, ngọn cỏ,…

2. Thế giới vô hình: Là thế giới không có hình tướng, thế giới này do tư duy con người tưởng ra, tạo ra ví dụ như các hình thái ý thức của con người, ví dụ như các cõi trời, các cõi địa ngục là các cõi siêu hình do óc tưởng tượng của loài người tạo ra.

Chúng ta nên hiểu câu «Toàn bộ thế giới hữu hình và thế giới vô hình đều là thế giới của tưởng» mang ý nghĩa khi Đức Phật nói về đời sống tinh thần của con người, nói về nhận thức của con người với hiện thực khách quan đang tồn tại ngoài ý thức con người. Để tổng kết nhận thức đời sống tinh thần của loài người với các hiện tượng khách quan đang tồn tại ngoài ý thức con người, Đức Phật đã phân ra làm ba dạng hiểu biết: Dạng không liễu tri, dạng thắng tri và dạng liễu tri:

i. Không liễu tri: Để thông hiểu thế nào là không liễu tri, chúng ta cùng nhau đọc lại văn kinh trong bài kinh «Pháp môn căn bản»:

– Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân, tưởng tri địa đại là địa đại. Vì tưởng tri địa đại là địa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, người ấy nghĩ: "Địa đại là của ta" - dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri địa đại.

Người ấy tưởng tri thủy đại là thủy đại. Vì tưởng tri thủy đại là thủy đại, người ấy nghĩ đến thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) như là thủy đại, người ấy nghĩ: "Thủy đại là của ta" - dục hỷ thủy đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri thủy đại. Người ấy tưởng tri hỏa đại là hỏa đại. Vì tưởng tri hỏa đại là hỏa đại, người ấy nghĩ đến hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là hỏa đại, người ấy nghĩ: "Hỏa đại là của ta"- dục hỷ hỏa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri hỏa đại. Người ấy tưởng tri phong đại là phong đại. Vì tưởng tri phong đại là phong đại, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với phong đại, nghĩ đến (tự ngã) như là phong đại, người ấy nghĩ: "Phong đại là của ta"- dục hỷ phong đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri phong đại. Người ấy tưởng tri Sanh vật là Sanh vật... Người ấy tưởng tri chư Thiên là chư Thiên... Người ấy tưởng tri Sanh chủ là Sanh chủ... Người ấy tưởng tri Phạm Thiên là Phạm Thiên... Người ấy tưởng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên... Người ấy tưởng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên... Người ấy tưởng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên... Người ấy tưởng tri Abhibhù (Thắng Giả) là Abhibhù. Người ấy tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ... Người ấy tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ... Người ấy tưởng tri sở kiến là sở kiến... Người ấy tưởng tri sở văn là sở văn... Người ấy tưởng tri sở tư niệm là sở tư niệm... Người ấy tưởng tri sở tri là sở tri... Người ấy tưởng tri đồng nhất là đồng nhất... Người ấy tưởng tri sai biệt là sai biệt... Người ấy tưởng tri tất cả là tất cả... Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn... Vì tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ đến Niết-bàn, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn. Nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, người ấy nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - dục hỷ Niết-bàn, Vì sao vậy? Ta nói: Người ấy không liễu tri Niết-bàn.

Đoạn văn kinh nêu trên, Đức Phật đã xác định rất rõ toàn bộ thế giới hữu hình và thế giới vô hình là thế giới tưởng, thế giới không có thật, do kẻ phàm phu thiếu duyên không được gặp các bậc Thánh và các Thiện hữu tri thức, không biết tu tập các thiện pháp của Phật để chuyển hóa nhận thức, cho nên lầm chấp có thế giới này, thế giới khác, lầm chấp mọi vật là thực có nên chấp thủ và sinh tâm ham muốn tìm cầu. Với hiểu biết của những người như vậy gọi là người ấy không liễu tri các pháp.

ii. Thắng tri:

Trong văn kinh ghi «Này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo, hữu học tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn, khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: "Địa đại là của ta", - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại... Thủy đại... hỏa đại... phong đại... Sanh vật... chư Thiên Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sở kiến... sở văn... sở tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn; vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, đã không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri Niết-bàn.

Qua đoạn văn kinh nêu trên cho chúng ta được rõ người thắng tri các pháp, là người đang tu học, chưa thành tựu. Nhưng vì có được học hỏi và tu tập pháp của bậc Thánh và các bậc Chân nhân nên có trí tuệ để thông hiểu bản chất các pháp chỉ là do duyên hợp của nhân quả, hễ còn duyên tồn tại thì pháp còn, hết duyên tồn tại thì pháp diệt. Cho nên toàn bộ thế giới vô hình và thế giới hữu hình chỉ là môi trường của nhân quả. Mọi sự, mọi việc do nhân quả quyết định chứ không có thật. VÌ hiểu biết như vậy, nên người ấy không tham đắm, chấp vào bất cứ việc gì ở trên đời. Những người ấy được gọi là thắng tri các pháp và có thể liễu tri các pháp.

iii. Liễu tri:

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa đại là của ta" – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri địa đại... thủy đại... hỏa đại... phong đại... sanh vật... chư Thiên... Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sở kiến... sở văn... sở tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri Niết-bàn".

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa đại là của ta" – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ... thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa đại là của ta" – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ... thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa đại là của ta" – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.

Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, Ngài không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa đại là của ta" – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vì Như Lai đã liễu tri địa đại... thủy đại... hỏa đại... Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vì Như Lai đã liễu tri Niết-bàn.

Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, Như Lai không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Địa đại là của ta" – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: "Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật". Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác"... thủy đại... hỏa đại... Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của Ta" – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: "Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già chết đến với loài sinh vật". Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự trừ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Qua đoạn văn kinh nêu trên, cho chúng ta thấy người liễu tri được các pháp, là người đã tu tập hoàn mãn xong con đường giải thoát ra mọi khổ ách, sau khi đã từ bỏ hoàn toàn các Ái.

Trong quá trình tu tập, do quán xét mọi sự, mọi vật bằng trí tuệ nhân quả, cho nên người tu đã thắng tri các pháp, do thắng tri các pháp đạt đến sự nhuần nhuyễn, tham, sân, si trong nội tâm đã muội lược đi đến tận diệt, vì thế trạng thái bất động tâm xuất hiện và càng ngày càng tăng trưởng. Dục hỷ căn bản của mọi đau khổ được đoạn trừ.

Quay lại với câu nói của người bạn đồng tu nhắc nhở chúng ta «Khéo giữ tâm ý, nếu không dễ lạc vào tưởng». Ở đây, người bạn đồng tu đã nhắc nhở chúng ta phải cảnh giác với tưởng ác, còn tưởng thiện thì không cần phải cảnh giác. Tưởng ác là những pháp làm chúng ta chấp thủ và tham đắm từ đó dẫn đến trạng thái ức chế tâm trong quá trình tu. Người bạn đồng tu đã nhắc chúng ta «Khéo giữ tâm ý» chính là nhắc chúng ta luôn Chánh Niệm Tỉnh Giác để giữ gìn thân tâm trong trạng thái bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là chân lý Diệt đế của đạo Phật. Đó là xả tâm để thoát ra mọi ác pháp.

Xin cảm ơn người bạn đồng tu.

                                                  Hà Nội ngày 16 tháng 02 năm 2013

                                                              Tác giả: Cư sĩ THÍCH MINH ĐẠO

061-THÊM VỀ: "TƯỞNG qua bài kinh PHÁP MÔN CĂN BẢN" - Phương Minh

Đọc bài “chủ đề Tưởng trong đạo Phật qua bài kinh Pháp Môn Căn Bản” của tác giả Minh Đạo, PM có mấy lời chia sẻ cùng quý phật tử và độc giả.

Bài viết, tác giả quan tâm lưu ý mọi người: “Chúng ta là những người phật tử đang tu học. Trên bước đường tu tập, chúng ta thường được các bạn đồng tu nhắc nhở ‘Khéo giữ gìn tâm ý, nếu không dễ lạc vào tưởng’. Câu nhắc nhở của bạn đồng tu chân thành quá, nhưng làm cho các tu sinh vẫn cảm thấy toát mồ hôi hột.”

Và tác giả đặt ra câu hỏi: “Vậy tưởng là gì? Chúng ta nên hiểu về tưởng như thế nào? Câu hỏi như khắc khoải chờ sự giải đáp.”

Thực ra với câu hỏi: “Vậy tưởng là gì?” đã được đức Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng giải rất rõ ràng trong nhiều bài viết của Ngài. Câu hỏi tiếp theo: “Chúng ta nên hiểu về tưởng như thế nào? thì chắc chắn không dễ dàng có một lời đáp chung để mọi người cùng hoan hỷ được. Vì là “tưởng” nên ai muốn hiểu ra sao tùy theo cái sự tưởng của mình nên khó chấp nhận nhau, dễ dàng “cho nhau nắm đấm vào mặt” nhưng lại “cảm thông” ngộ nhận “chúng ta đều là những người từ chứng ngộ mà ra” (như bài dẫn) nhưng ở mức độ hơn thua cao thấp khác nhau thôi. Thật là hết sức ngu si điên đảo.

Trình tự theo bài viết của Minh Đạo, chúng ta cùng nhau phân tách.

A- Câu chuyện thiền trong “Góp nhặt cát đá” dẫn hai anh em vị thiền sư, một lanh lợi hoạt bát, một đần độn ngu si cùng cố thủ một ngôi chùa. Họ học tập vì mục đích chỉ để nếu sau gặp người thách đấu hơn thua thì mình sẽ thắng và được “trụ chùa” giữ “giềng mối” Phật pháp. Nực cười, đáng thương cho Phật giáo phát triển và Thiền Đông Độ, đã bao năm truyền thừa mà ngày nay “giềng mối” Phật pháp của họ là cái gì?

Lần lượt một ngón tay, hai ngón tay, ba ngón tay giơ lên và cuối cùng là nắm đấm thoi vào mặt đối phương đến sây sẩm, choáng váng đầu óc, như thế là họ chợt “ngộ” ra sau cơn mê dài của mình. Những câu chuyện rất phi Phật pháp như loạt bài này và toàn bộ cuốn “Góp nhặt cát đá’ cũng như rất nhiều kinh sách của Phật giáo phát triển, Thiền Đông Độ, chúng ta khó tìm và chọn lọc được những điều có lợi ích cho việc tu hành đúng theo chánh pháp.

Ngày nay, nhìn vào cái kết cục chung sự thành tựu của Phật giáo phát triển và Thiền Đông Độ là chứng đạt thế giới Tây phương Cực Lạc, Phật Tánh, Bản Lai Diện Mục, Trí tuệ Bát Nhã… xuất phát từ những pháp tu “Niệm Phật Di Đà”, “Bồ tát độ hết chúng sanh thì thành Phật”, “Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, “Chăn trâu”, “Giữ ông chủ”, “Biết vọng liền buông”, “Tham thoại đầu, khán công án, khởi nghi tình”… cùng những kiểu thiền tư, thiền lự, thiền la, thiền hét, thiền thoi, thiền đạp… đã dẫn chúng phật tử đi vào ngõ cụt bế tắc không có đường ra.

Chúng ta cần khép lại, đào hố sâu, vùi lấp kỹ những loại kinh sách phi Phật pháp, phi nhân bản nhân quả để chúng không còn ngoi đầu dậy mê hoặc làm hại người phật tử. Những câu chuyện, những kinh sách này chỉ khởi lên trong lòng ta một sự xót thương đau đớn cho bao lớp người tu lạc pháp, chứ đâu có gì “tuyệt vời” mà thích thú bởi cái ngu si của kẻ khác.

B- Trở lại với câu hỏi “Tưởng là gì?”. Chúng ta cùng ôn lại một vài lời dạy của đức Trưởng lão Thông Lạc về Tưởng trong thân ngũ uẩn:

“1- Tưởng m là mt duyên trong thân ngũ m. Thân ngũ m gm có: 1, Sc m; 2, Th m; 3, Tưởng m; 4, Hành m; 5, Thc m. Năm m này hp li thành thân người.

Vì thế thân người chia ra làm hai phn:

1- V phn hu hình thì duy nht ch có Sc m (thân tứ đại).

2- V siêu hình gm có bn m kia: Th m, Hành m, Tưởng m và Thc m.

Nhưng dù thế gii hu hình hay siêu hình đu hot đng do phn Sc m, phn Sc m rt quan trng, nht là b óc ca con người. Thế gii hu hình và thế gii siêu hình cũng do nó ch huy. Vì thế khi sc thân hoi dit thì b óc cũng hoi dit theo. B óc hoi dit thì thế gii siêu hình cũng hoi dit theo…” (ĐVXP tập III – NXB Tôn giáo Hà Nội 2011 - tr.197).

“2 - Sc un còn gi là Sc m hoạt đng gm có sáu thc: Nhãn thc, nhĩ thc, t thc, thit thc, thân thc, ý thc, gi chung là Sc thc. Khi mt người sng bình thường suy nghĩ, nói nín hay hat đng làm bt c mt vic gì, nói bt c mt điu nào hay suy nghĩ bt c mt điu gì thì sc thc hoạt đng tc là nhóm sáu thc trong đó có ý thc hoạt đng. Ý thc còn gi là Tri thc, là Tri kiến.

- Tưởng un hoạt đng khi nào lc thc ngưng hoạt đng. Lc thc ngưng hoạt đng là lúc chúng ta đang nm ng chiêm bao. Trong gic chiêm bao chúng ta cũng nghe, thy, biết, ngi, cm giác rõ ràng. Cái biết trong chiêm bao gi là Tưởng thc. Như vy Tung thc và Ý thc là hai thc ch ging nhau là cái biết, nhưng cái biết này có thì cái biết kia dng li.

- Thc un hoạt đng ch khi nào Sc un và Tưởng un ngưng hoạt đng. Mun Sc un và Tung un ngưng hoạt đng thì phi nhp đnh th tư. Nhp đnh th tư là phi tnh ch hơi th. Khi tnh ch hơi th thì Thc un hoạt đng. Thc un hoạt đng tc là Tam Minh. Tam Minh gm có: Túc mng Minh, Thiên nhãn Minh, Lu tn Minh. Tam Minh còn gi là “Tu”. Tu Tam Minh là mt cp hc th ba, cp hc cao nht ca Pht giáo.

- Th un là s cm th ca ba thc, khi các thc hoạt đng thì Th un có mt.

- Hành un là s hoạt đng ca ba thc, khi ba thc hot đng thì Hành un có mt.”… (ĐVXP tập VII – NXB Tôn giáo Hà Nội 2011 - tr.65).

3- (Tưởng) trong thân ngũ uẩn nó là tưởng uẩn, còn gọi về thức thì nó gọi là tưởng thức; còn gọi về dục thì nó gọi là tưởng dục; còn gọi về vô minh nó được gọi là vô minh tưởng; còn gọi về trí tuệ thì nó gọi là tưởng tuệ; còn gọi về tri kiến (thấy) thì nó gọi là tưởng kiến; còn gọi về tri (biết) thì nó gọi là tưởng tri; còn gọi về năng lực thì nó là tưởng lực” (ĐVXP tập VII – NXB Tôn giáo Hà Nội 2011 - tr.344).

“4- Tưởng un tc là tâm un. Tâm un thuc v loi vô hình, nó không có hình sc như Sc un nhưng chúng ta cũng d nhn ra, nó thường khi nim tưởng, khi nim có tc là tâm có, khi không nim tc là tâm không, tâm không, không có nghĩa là không có tâm. Tưởng un có ba trng thái: 1-  Nim thin; 2-  Nim ác; 3-  Nim không.

Kinh sách phát trin ly nim không làm Pht Tánh (Ưng vô s tr nhi sanh kỳ tâm hoc chng nim thin nim ác, Bn Lai Din Mc hin tin)”… (ĐVXP tập II – NXB Tôn giáo Hà Nội 2006 - tr.114).

Chừng đó là đủ để chúng ta tư duy hiểu rõ ràng về Tưởng là gì. Vấn đề còn lại là “Chúng ta nên hiểu về Tưởng như thế nào?”. Đúng vậy, nên hiểu như thế nào để sử dụng Tưởng được tốt nhất cho quá trình tu tập con đường giải thoát, để hành giả không đến nỗi sợ hãi “toát mồ hôi hột” như Minh Đạo đã dẫn. Có lẽ chúng ta sợ hãi là vì từ xưa tới nay, mọi người tu tập theo bất cứ tông phái Phật giáo nào cũng đều lạc nẻo rơi vào tưởng. Ngay cả những tu sinh được bậc minh sư chứng đạo trực tiếp dạy dỗ chánh pháp cũng vẫn lạc vào tưởng. Chúng ta thầm biết ơn những tu sinh bị lọt vào tưởng phải bỏ cuộc tu hành, họ là những viên “đá quý” lót đường cho các lớp người sau đi có cơ hội vững vàng hơn (như lời đức Trưởng lão Thông Lạc đã dạy).

Thưa quý vị!

Như trên đã dẫn, trong thân ngũ uẩn thì 3 uần có cái biết, hay còn gọi là thức, đó là Sắc thức, Tưởng thức và Thức thức. Trong Sắc thức bao gồm 6 thức, tổng cộng toàn bộ là 8 thức. Hành giả tu tập chủ yếu dùng Ý thức (Sắc uẩn) để tu. Ý thức ở đây bao gồm 6 thức hay còn gọi là Tâm mà trong kinh Pháp Cú đức Phật dạy: “Tâm (Ý) dẫn đầu các pháp. Tâm (Ý) chủ, tâm (ý) tạo tác…”

Chúng ta cũng cần hiểu rõ và phân biệt Ý thức tưởng với Tưởng thức tưởng. Ý thức hoạt động luôn câu hữu, gắn liền với tưởng của Sắc thức. Ý thức tưởng do trí tư duy của Ý thức nhưng vẫn gọi là Tưởng. Bởi vì, ý thức của chúng ta chỉ nắm bắt, nhận biết vạn sự vạn pháp trong thời điểm hiện tại. Khi thời gian trôi qua, nếu muốn “nhớ” lại những sự kiện đã qua, bắt buộc chúng ta phải tư duy hồi tưởng, (hay những gì sắp tới buộc chúng ta phải tưởng tượng), đó là Ý thức tưởng. Do vậy trong tu tập cũng cần dùng tưởng để tu tập như đức Phật đã dạy:

“Này các Tỳ-kheo, có mười sáu Tưởng này được tu tp, được làm cho sung mãn, đưa đến qu ln, li ích ln, th nhp vào bt t, ly bt t làm cu cánh. Thế nào là mười sáu Tưởng?

1- Tưởng bt tnh

2- Tưởng vô thường

3- Tưởng chết

4- Tưởng kh trên vô thường

5- Tưởng vô ngã trên kh

6- Tưởng đon tn

7- Tưởng ly tham

8- Tưởng đon dit

9- Tưởng vô ngã

10- Tưởng nhàm chán trong các món ăn

11- Tưởng không hoan h đi vi tt c thế gii

12- Tưởng xương trng

13- Tưởng trùng ăn

14- Tưởng xanh bm

15- Tưởng nt n

16- Tưởng trương phng

Này các Tỳ-kheo, mười sáu Tưởng này được tu tp, được làm cho sung mãn, đưa đến qu ln, th nhp vào bt t, ly bt t làm cu cánh”. (Tăng Chi Kinh tp 4 trang 380).

“S quán tưởng 16 đ mc trên đây là đ tu tp Đnh Vô Lu. Đnh Vô Lu là mt loi đnh quán tưởng tuyt vi đ đi đến chng thánh qu A La Hán. Vì pháp quán tưởng này dùng đ tâm nhàm chán các pháp thế gian và nh đó mi dit ngã x tâm, ly dc ly bt thin pháp hoàn toàn, ch không như pháp môn ca Đi Tha và Thin Tông dùng Tưởng pháp (thy các pháp như mng, như huyn) đ tránh né và đ c chế tâm cho hết vng tưởng, cui cùng rơi vào đnh Tưởng (chng nim thin nim ác), mà tâm chng ly tham đon ác pháp. Qua 16 đ mc quán tưởng đ tâm nhàm chán, nh có nhàm chán tâm mi xa lìa tham, sân, si, mn, nghi”. (Lời Trưởng lão Thông Lạc).

Khác với Ý thức tưởng (thuộc Sắc ấm) thì Tưởng thức tưởng (thuộc Tưởng ấm). Tưởng thức tưởng chỉ hoạt động khi nào Ý thức ngưng nghỉ hoàn toàn, thể hiện qua giấc chiêm bao, mộng mị khi ta ngủ, hoặc khi đang tu tập bị hôn trầm, thụy miên, vô ký, ngoan không.

Tóm lại, Tưởng nào đáng cho chúng ta cần dùng để tu tập, Tưởng nào khi nó xuất hiện thì chúng ta phải lập tức dừng ngay, xả bỏ chứ không được hoan hỷ, thích thú bám theo.

Ở trên đã dẫn, Tưởng có 3 trạng thái: Niệm thiện, Niệm ác, Niệm không. Hành giả tu tập Chánh niệm tỉnh thức trong Tứ Chánh Cần, khi tu tập có tỉnh thức thì luôn luôn biết niệm của thân hành trong hiện tại (như hơi thở hay bước đi…). Chểnh mảng, lơ đãng một chút, cái biết hiện tại bị mất thì lập tức tưởng (vọng niệm) xen vào. Vọng niệm có niệm (tưởng) thiện, niệm (tưởng) ác. Nếu là niệm ác thì ý thức tác ý ly, đoạn, diệt nó đi. Nếu là niệm thiện thì cứ mặc cho nó tự nhiên phát triển. Các pháp môn tà đạo dạy khi thấy (vọng) xuất hiện thì tác ý diệt bỏ sạch cả niệm thiện và niệm ác (pháp “Biết vọng liền buông”). Khi hết sạch cả niệm thiện, niệm ác thì niệm (tưởng) không nổi lên ngự trị. Kéo dài trạng thái này, hành giả sẽ mất hết Ý thức (Sắc uẩn), nhường vị cho Tưởng thức (Tưởng uẩn) hoạt động thay thế. Loại Tưởng này rất nguy hiểm mà các vị hành giả phải sợ “toát mồ hôi hột”.

Để kết phần này, PM xin dẫn lời đức Trưởng lão Thông Lạc dạy: “Trong pháp tu hành của Phật, chúng ta được phép dùng Tưởng để tu tập. Nhưng chúng ta phải hiểu khi dùng Tưởng có ích lợi về việc ly dục ly ác pháp trên thân tâm của chúng ta, chứ không phải dùng tưởng xuất hồn, tưởng hào quang, ánh sáng, tưởng Nhân điện, tưởng Khinh công, Khí công, Nội công, tưởng Phật Tánh, tưởng Cực Lạc, Thiên Đàng, tưởng thế giới siêu hình, tưởng trí tuệ Bát Nhã Tánh Không, tưởng Chân Không diệu hữu...”. (Những lời gốc Phật dạy - tập II, tr.105 - NXB Tôn giáo, Hà Nội – 2006).

C- Cuối cùng, về bài kinh Pháp Môn Căn Bản (kinh Trung Bộ), PM xin nhắc lại lời dạy của đức Phật: “Ba mươi ba cõi trời là Tưởng tri chứ không phải Liễu tri”. Và lời dạy của Trưởng lão Thông Lạc khẳng định lại chắc chắn: “Thế giới siêu hình, linh hồn người chết là mộng tưởng chứ không thật có”.

Đức Phật dạy, Trưởng lão Thông Lạc dạy như thế. Ai tin rằng đó là chánh pháp thì tin, chẳng tin cũng không sao. Nhưng hãy luôn nhớ rằng có 3 hạng người hiểu biết về thế giới với những trạng huống khác nhau.

Hạng thứ nhất (không Liễu tri): Những người tâm còn đầy dục hỷ, không Liễu tri thế giới. Đó là những người phàm phu ít nghe, những người nghe nhiều và tu theo tà pháp.

Hạng thứ hai (vị Thắng tri): Những người đã gặp được chánh pháp, có niềm tin chánh pháp, tu tập đúng chánh pháp, tuy chưa thành tựu nhưng không dục hỷ nên Thắng tri và có thể đi đến Liễu tri Niết bàn.

          
            
Hạng thứ ba (bậc Liễu tri): Đó là các vị A-la-hán và đức Phật Thích Ca thì không khác nhau, đều là các bậc Lậu hoặc đã đoạn tận, nhận biết rõ các Dục hỷ là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ và Liễu tri vạn pháp, Liễu tri Niết bàn. 

062-Ý KIẾN TỪ DIỄN ĐÀN - Phi Mạnh

Lời BBT/GNCN,

         Thưa quý vị độc giả! Đáp ứng lời yêu cầu của phật tử Hạnh Nguyệt, chúng tôi đăng lại ý kiến của phật tử Phimanh từ trang Diễn đàn lên trang chủ để mọi người được đọc thuận tiện hơn. Mời quý vị cùng đọc toàn văn ý kiến sau đây:

NHỮNG YẾU TỐ TRỢ DUYÊN CHO CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT

Theo tôi nghĩ hai chữ “Giải thoát” trong đạo Phật gắn liền với hai nơi: thân và tâm:

Về thân thì thân phải luôn khỏe mạnh, không bệnh tật, đau nhức, khó chịu, không ngứa ngáy, không bị gò bó, ức chế, giam hãm, không bị tù túng, mất tự do, không bị kiềm kẹp, kiểm soát, không bị kiểm tra, quản thúc… Do vậy, thân được gọi là an lạc.

Về tâm thì luôn thanh thản, không còn bị dục và ác pháp lôi kéo, chi phối, không lo lắng, buồn phiền sợ hãi bất kỳ điều gì, không bị ức chế…

Do vậy, ta chỉ cần nghiệm xét 2 điều kiện trên thì biết tâm có đang thanh thản, an lạc và vô sự hay không. Nhận ra được tâm bất động thanh thản an lạc vô sự thì coi như sự giải thoát nằm trong tay chúng ta.

Vậy để đạt được hai vấn đề chính ở trên thì ngoài việc người tu hành biết cách thức hoặc phương pháp tu tập xả tâm, còn có những yếu tố phụ nào ảnh hưởng đến thân và tâm của người tu sinh. Vấn đề này xin các bạn đóng góp thêm, ở đây tôi xin nói lên quan điểm riêng của mình, sau khi quan sát, trải nghiệm qua những tu viện, thiền viện tu tập giải thoát của Phật giáo.

Đến với đạo Phật, sự tự nguyện tự giác luôn là yếu tố quan trọng, không ai bắt buộc ai vào đạo Phật và trong đạo Phật với đức hạnh Từ Bi cũng không bắt buộc, ép buộc hoặc đuổi ai ra. Trừ trường hợp, có người đến với mục đích phá hoại, gây chia rẽ, ly gián, tạo sự mất đoàn kết thì sẽ mời chính quyền can thiệp.

Cánh cửa Từ Bi của Phật giáo luôn mở rộng cửa cho tất cả mọi người từ trẻ em cho đến người già lớn tuổi. Chỉ cần ai cảm nhận được sự từ bi trong đạo Phật, thì sẽ cảm thấy giải thoát ngay, cảm nhận ít thì giải thoát ít, cảm nhận nhiều thì sẽ giải thoát nhiều.

Do vậy, môi trường sống trong các tu viện, thiền viện hoặc các chùa của Phật giáo là một môi trường từ bi đầy lòng thương yêu và tha thứ.

Cụ thể hơn, đi sâu vào chúng ta sẽ thấy rõ từng chi tiết từ môi trường sống, sự sinh hoạt, học tập, tu tập, cách thức tổ chức, người quản lý, an ninh và cách làm việc trong các nơi đó đều toát ra một không khí yêu thương, tha thứ giàu lòng từ bi của đạo Phật.

Ví dụ:

1. Về môi trường thì luôn tạo một không gian thoáng mát, sạch sẽ, giống như những nơi an dưỡng, có những ngôi nhà nghỉ lục giác, bát giác, những ghế đá ngồi trong những khuôn viên cây cối đầy đủ ánh sáng, thoáng mát, có không gian và cây cảnh luôn được chăm sóc tỉa gọt sạch sẽ, không ruồi muỗi, rắn rít giúp cho người tu sinh cảm thấy thoải mái cả thân và tâm.

2. Về sinh hoạt thì ai làm việc người đó, luôn ý thức giữ gìn im lặng, chỉ nói những gì cần nói, không tụ họp nói chuyện, không bàn chuyện đời, luôn thân ái cung kính và tôn trọng nhau,… Có đầy đủ các phòng thư viện, nơi đọc sách, nơi nghe băng giảng tu tập, cơ xưởng, nơi cất chứa những dụng cụ làm vườn hoặc sửa chữa, nhà bếp,…

3. Về học tập thì có những lớp học cho các tu sinh từ cơ bản đến nâng cao, các phòng đọc sách, nghe băng, máy vi tính, thư viện,…

4. Về tu tập thì phân rõ nhiều khu tu tập tùy theo lớp học, có khu tu tập căn bản cho người mới vào, có khu cho người lớp 1, lớp 2, lớp 3,… Để sống trong các khu lớp cao hơn thì có những tiêu chuẩn đạo đức đức hạnh riêng của nó. Ai không hội đủ những tiêu chuẩn đạo đức đức hạnh đó thì tự giác tự nguyện lùi lại các lớp dưới. Ví dụ: lớp 1 có những đức hạnh: ăn ngày 1 bữa, nhẫn nhục tùy thuận và bằng lòng, ăn ngủ không phi thời; lớp 2 có những tiêu chuẩn của lớp 1 cộng thêm đức hạnh không còn bị hôn trầm thùy miên, buồn ngủ. Tu sinh nào ở lớp 2 tự thấy vẫn còn bị buồn ngủ, còn tham ngủ phi thời thì nên tự giác trở về khu tu tập dành cho lớp 1.

Chính những tiêu chuẩn đức hạnh của từng lớp học, từng khu vực sinh sống sẽ là cách kiểm tra sàng lọc tu sinh lên lớp, xuống lớp hoặc sống tu tập ở đâu. Người tu sinh tự đánh giá mình, tự giác tự nguyện xuống lớp, rời khỏi tu viện, thiền viện, chùa hoặc xin phép ban quản lý cho lên lớp cao hơn, không chạy theo danh lợi, học nhiều học cao như các trường ngoài đời.

5. Về tổ chức thì càng đơn giản càng tốt, càng ít người càng tốt. (Quản mà không quản, không quản mà quản). Tổ chức làm sao để tránh tạo ra những danh lợi phe phái trong tu viện, thiền viện hoặc chùa. Tổ chức làm sao mà người quản lý chính là tu sinh, tu sinh chính là người quản lý. Tổ chức làm sao chỉ có những tiêu chuẩn đạo đức đức hạnh là những tiêu chuẩn điều kiện sàng lọc tu sinh và người quản lý. Có nhiều khu học tập và tu tập rõ ràng, mỗi khu có những tiêu chuẩn đạo đức đức hạnh riêng, lấy đức hạnh làm tiêu chuẩn và mức đo để sàng lọc tu sinh, ai hội đủ những tiêu chuẩn đạo đức đức hạnh đó thì được học và sống trong khu vực đó, ai không hội đủ điều kiện đạo đức đức hạnh thì được chuyển sang lớp khác hoặc khu vực thích hợp.

Với lòng yêu thương từ bi trong đạo Phật dĩ nhiên không bao giờ tu viện, thiền viện hoặc chùa đuổi hay ép buộc ai rời khỏi. Bởi vì ai cũng hiểu rõ khi một người đến tu viện, thiền viện, chùa để nương tựa thì họ đã xả bỏ hết của cải, nơi ở và người thân ngoài đời. Nếu vì lý do nào mà bị đuổi ra khỏi tu viện, thiền viện hoặc chùa thì người đó chỉ còn cách là tự tử. Điều đó thì chắc là trong đạo Phật không cho phép làm như vậy, vì làm như vậy thì trái với đức hạnh yêu thương và tha thứ của đạo Phật.

Trừ trường hợp người đó đến tu viện, thiền viện hoặc chùa với mưu tính phá rối, phá hoại, gây chia rẽ, tạo phe phái ly gián làm mất sự hòa hợp đoàn kết trong tu viện, thiền viện hoặc chùa thì ban quản lý hoặc thầy trụ trì mời ra, nếu vẫn không ra thì mời chính quyền địa phương can thiệp.

Chính tự mỗi người đến với tu viện, thiền viện hoặc chùa cảm thấy không thích hợp với những tiêu chuẩn đức hạnh thì họ sẽ tự giác tự nguyện ra đi, chứ không ai đuổi.

Do vậy, dù cho ai phạm lỗi gì, tu viện, thiền viện, hoặc chùa cũng nên tìm đủ mọi cách giáo huấn lại người đó, chuyển họ đến những khu vực thích hợp để sống và làm việc, vẫn yêu thương đối xử bình đẳng với họ như bao tu sinh khác, như ngày đầu bước vào tu viện, thiền viện hoặc chùa.

Ngoài ra trong vấn đề tổ chức để tránh danh lợi và giúp cho người tu hành diệt bản ngã xả tâm của mình. Đối với những ai chưa tu tập đến giải thoát, được chọn làm người quản lý thì việc quản lý đó chỉ có tính cách tạm thời trong một thời gian nhất định, có thể là chỉ 3 tháng, 6 tháng, hoặc tối đa là 1 năm. Dù có làm tốt đến đâu, đến thời gian mãn hạn phải tự giác tự nguyện xin thôi chức vị, trở về khu mình tu tập, tiếp tục tu tập đến sự giải thoát rốt ráo. Nếu người đó có ý muốn trở lại tham gia vào ban quản lý thì cũng phải 6 tháng hoặc 1 năm sau, nhiệm kỳ thứ hai này phải được sự đồng ý của các tu sinh qua việc thăm dò lá phiếu. Chính cách tổ chức này sẽ giúp cho trong tu viện, thiền viện hoặc các chùa không có sự chuyên quyền, sự độc tài, độc quyền, phe phái hoặc sự bảo thủ. Đồng thời giúp cho người tu sinh không bị dính mắc vào danh lợi, không bị ràng buộc trong công việc quản lý, không bị công việc quản lý ảnh hưởng đến lý tưởng giải thoát ban đầu của tu sinh khi đến với đạo Phật.

6. Về người quản lý, phải là người có đầy đủ đạo đức đức hạnh, đã có kinh nghiệm tu tập hoặc đã trải qua thời gian xả tâm tốt, sống biết yêu thương mọi người, hòa nhã, lễ độ, cung kính và tôn trọng tất cả mọi người, hiểu rõ đạo đức nghề nghiệp là PHỤC VỤ mọi người.

Vai trò của người quản lý kiểm tra là phục vụ cộng đồng, phục vụ các bạn đồng tu, là để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người, chứ không phải làm cho các tu sinh bất an, lo lắng hoặc sợ hãi. Họ sẵn sàng giúp đỡ, biết lắng nghe, biết hỗ trợ, tận tâm phục vụ mọi người với bất kỳ yêu cầu nào. Gương mặt họ luôn vui vẻ, lời nói luôn ôn tồn, hòa nhã, nhã nhặn, nhẹ nhàng khiêm tốn, hành động thì luôn cung kính và tôn trọng tất cả tu sinh, xem mình cũng như mọi tu sinh, hòa đồng với nhau như nước với sữa, không vì cái danh quản lý mà có sự ngăn cách hay quyền lực nào.

Họ không vì cái danh quản lý cho phép mình sử dụng quyền lực để can thiệp vào đời sống sinh hoạt và tu tập của bất kỳ ai, không cấm đoán ai, không ép buộc ai, không ra lệnh cho ai làm gì, không kiểm tra ai, không quản thúc ai, … Trong giới hạn quản lý của mình, họ chỉ dùng lời nói ôn tồn nhẹ nhàng giải thích rõ cho các tu sinh sống và xả tâm rốt ráo,… Dù ai có làm sai điều gì thì cũng vẫn vui vẻ giải thích cho người đó biết lỗi sai của mình và hướng dẫn người đó đi đúng lại con đường giải thoát. Không vì bất kỳ lỗi sai phạm nào mà quở trách, trách móc, nói xấu sau lưng hoặc dùng quyền lực để phạt hay đuổi bất kỳ ai ra khỏi tu viện, thiền viện hoặc chùa, vì làm như vậy chứng tỏ người quản lý đó chưa biết cách tu tập xả tâm, chưa có lòng yêu thương và tha thứ, người quản lý đó không xứng đáng làm người quản lý, vì chính họ đã đánh mất ý nghĩa lòng từ bi của đạo Phật. Những người chưa biết xả tâm, chưa có lòng yêu thương thì không nên tiếp tục làm người quản lý, hoặc không nên nhận trách nhiệm quản lý. Vì khi chưa đủ đức hạnh mà làm người quản lý thì sẽ làm khổ mình, khổ người, làm mất uy tín của tu viện, thiền viện hoặc chùa của mình, và hơn thế nữa làm mất đi ý nghĩa từ bi của đạo Phật. Tóm lại người làm quản lý phải là người có đầy đủ đức hạnh và là người biết diệt ngã xả tâm tốt.

7. Về an ninh, thì tu viện, thiền viện hoặc chùa nên có những giao tiếp tốt với chính quyền địa phương, chân thật khai báo người đến người đi. Không nên cho người ngoài tự do ra vào tu viện, khuôn viên tu viện, thiền viện hoặc chùa có hàng rào bao quanh đủ cao. Nếu có tu sinh nào thấy ai leo vào khu đất của tu viện, thiền viện hoặc chùa thì nên báo ngay cho người quản lý,…

Dù sao đi nữa để đạt được sự giải thoát cho chính thân tâm mình thì quan trọng nhất cũng là tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Nhưng để đạt được sự bất động, thanh thản, an lạc và vô sự thì những yếu tố phụ như môi trường, sự sinh hoạt, học tập, tu tập, việc tổ chức, người quản lý, an ninh và cách làm việc trong tu viện cũng phần nào ảnh hưởng đến quá trình tu tập của các tu sinh, cho nên chớ xem thường chúng. Càng nhiều duyên tốt hỗ trợ thì sự giải thoát trong đạo Phật càng dễ dàng và thấy rõ hơn. Ngược lại, nếu xem thường chúng thì tâm lý của tu sinh sẽ bị ảnh hưỡng, dẫn đến làm khổ mình, khổ người mà không biết.

Như trên có đề cập về yếu tố tổ chức "tổ chức làm sao mà người quản lý chính là tu sinh, tu sinh chính là người quản lý"

Tôi xin làm rõ vấn đề này, lấy ví dụ trong tu viện hiện nay mỗi khu tu tập có người kiểm tra vào ban đêm và sáng sớm, xem có ai bị hôn trầm thùy miên để nhắc. Vấn để kiểm tra có thể làm như sau: ví dụ lần đầu tiên đi kiểm tra là 1 người quản lý, khi người quản lý phát hiện người A bị hôn trầm thùy miên, thì gõ cửa nhắc. Sau đó người quản lý thôi nhiệm vụ của mình, người A tiếp nhận nhiệm vụ kiểm tra, đứng dậy đi kiểm tra. Khi phát hiện người B bị hôn trầm thì gõ cửa nhắc nhở, người A trở về thất của mình tu tập tiếp, còn người B tiếp nhận vai trò của người kiểm tra, tiếp tục đi kiểm tra các thất khác. Đến cuối giờ tu tập, ai là người đi kiểm tra sẽ là người đầu tiên tiếp tục nhiệm vụ của mình đi kiểm tra ở thời tu tập kế tiếp. Cứ như vậy từ ngày này qua ngày khác đâu có cần người kiểm tra cố định.

Do cách tổ chức này sẽ thấy được các tu sinh tự quản thúc nhau, không có ai là người kiểm tra cố định, tránh tạo áp lực cho các tu sinh, giúp cho các tu sinh bị hôn trầm thùy miên vận động đi ra ngoài nhiều hơn, không còn lười biếng ngồi trong thất, sống trong ý thức, tỉnh táo,...

Sự tự quản này sẽ tự động hoàn toàn, không cần bố trí, bổ nhiệm ai làm người quản lý. Không có người quản lý cố định thì các tu sinh không bị áp lực, các tu sinh sẽ không còn bị cảm giác có người luôn để ý, kiểm tra, quản thúc từng hành vi của mình trong tu viện. Điều này làm cho tâm trạng của các tu sinh thoải mái hơn.

Không có người kiểm tra cố định thì ai ai cũng được bình đẳng tu tập như nhau. Bởi vì khi đã trở thành người kiểm tra cố định thì họ đã bị thiệt thòi không có thời gian tu tập như các tu sinh khác.

Phimanh xin nhấn mạnh là không bao giờ có ý muốn lập thêm một nơi mới ngoài tu viện Chơn Như. Chỉ mong rằng tu viện Chơn Như 1 và 2 nhập lại thành 1. Quản lý tốt, tạo đầy đủ điều kiện tốt cho mọi người về tu hành là mãn nguyện rồi. Đó là cái phước lớn của chúng sanh.

Càng lập ra nhiều nơi tu tập, chỉ chứng minh được nội bộ không đoàn kết. Điều này Phimanh không bao giờ muốn. Chúng ta hãy đoàn kết lại để cùng nhau xây dựng tu viện Chơn Như tốt hơn. Bỏ qua những lỗi lầm của nhau. Không nên đi tìm lỗi lầm của nhau. Tin tưởng nhau và cùng nhau bảo vệ chánh pháp của đức Phật do đức Trưởng lão Thích Thông Lạc gầy dựng bao năm qua.

063-TƯ DUY VỀ DIỆT NGÃ XẢ TÂM. Phi Mạnh.

Chỉ là những suy tư tưởng chừng nhỏ nhưng không nhỏ chút nào. Tác giả Sống Yêu Thương vừa gửi đến chúng tôi những lời chia sẻ tâm huyết rút ra từ thực trạng của tu viện từ nhiều thời gian qua. Xin giới thiệu đến quý độc giả cùng chia sẻ.
          Chúng tôi mong muốn Lòng Yêu Thương trong tu viện được thể hiện như những lời dạy của Thầy vẫn mãi còn đây: "Tăng Ni và Cư sĩ hãy sống đoàn kết, thương yêu, hòa hợp như nước với sữa" để giữ gìn Thánh giới uẩn, Thánh hộ trì các căn, Thánh chánh niệm tỉnh giác... để tự thanh tịnh mình, thanh tịnh tu viện.
         Có như thế thì tu viện mới là niềm tin của phật tử từ khắp nơi trong nước cũng như ở hải ngoại luôn hướng tâm về.
         Có như thế thì còn "ngoại đạo phi nhân" nào có thể thực hiện được mưu toan thôn tính chánh pháp để đem tà pháp đến nơi này.
         Xin cám ơn tác giả Sống Yêu Thương đã từ bi san sẻ.
                                                                                                               BBT/GNCN (30/3/2013).

          Thưa quý vị độc giả,
        Sau khi trao đổi riêng với tác giả bài viết "Tư duy về Diệt Ngã Xả Tâm", chúng tôi nhận được ý kiến rất thật, rất chân tình của tác giả. Theo yêu cầu của tác giả, BBT/GNCN xin giới thiệu nguyên văn lời trao đổi này để quý vị hiểu rõ sự khát khao mong muốn của những người con của Phật, của Trưởng Lão Thông Lạc thiết tha với chánh Phật pháp như thế nào.
          Giữ gìn, bảo vệ và phát triển rộng rãi những gì Trưởng lão gây dựng lại là trách nhiệm nặng nề của tất cả chúng ta. Mời quý vị cùng đọc.                                                        
                                                                                                             BBT/GNCN (31/3/2013).

Kính gửi Ban biên tập.

Cám ơn sự chia sẻ thành thật của quý anh chị. Thật tình mà nói, tôi không ngại cô Trang, Mật Hạnh biết bài viết này, và nói thật cô Trang cũng đã biết ai viết bài viết này rồi. Mặc dù những cái tên "Sống Yêu Thương" hay "Phi Mạnh" chỉ là nặc danh, nhưng tôi cũng đã thẳng thắn nói với cô Trang bài viết này là của tôi.

Mục đích của tôi viết ra không phải để nói xấu châm chọc ai, chỉ muốn nói sự thật, nói lên cảm nhận của mình. Nói để góp ý kiến. Nếu ban quản lý tu viện Chơn Như xem xét qua, thấy có thiết thực lợi ích thì áp dụng, còn không thì cũng không sao. Tôi tự biết mình còn chưa đủ tri kiến, tu hành chưa rốt ráo thì không thể không mắc sai lầm.

Tôi nghĩ, cô Trang hoặc Mật Hạnh cũng biết rõ điều này, không chấp vặt vào những điều nghe thấy, vì họ đã có thời gian bên Thầy sống xả tâm tốt cho nên Thầy mới tin tưởng giao cho quản lý tu viện Chơn Như.

Tóm lại, tôi không bao giờ có ý chê bai ai, phê phán ai, không nghi kỵ ai, không nghĩ rằng ai là ngoại đạo đang có âm mưu thôn tính tu viện Chơn Như. Tôi chỉ muốn góp những ý kiến nhỏ nhoi, nhằm giúp xây dựng tu viện tốt hơn, để tu viện Chơn Như luôn xứng đáng là nơi nuôi dưỡng chánh pháp của Phật, xứng đáng là nơi mà đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã bỏ nhiều tâm huyết ra xây dựng, xứng đáng là nơi để tất cả Phật tử gửi thác cuộc đời của mình vào chánh pháp của Phật duy nhất trên mảnh đất Việt Nam này.

Như anh chị đã ngụ ý về người quản lý là cô Trang, tôi xin phép nói thẳng, người quản lý trong tu viện rất nhiều, không chỉ gồm có cô Trang, Mật Hạnh mà còn có những người quản lý từng khu vực nam, nữ, quản lý nhà bếp, người kiểm tra...

Đối với tôi, ai làm quản lý cũng không quan trọng, quan trọng là việc tổ chức cách quản lý sao cho con người không còn bị dính mắc vào danh lợi, người đó phải hiểu rõ đạo đức quản lý, quản lý trên tinh thần diệt ngã xả tâm để đem niềm vui và hạnh phúc cho mình và mọi người. Quản lý như vậy thì không còn sống trong ác pháp, không tự xây bản ngã cao. Quản lý như vậy là bình đẳng, không thiên vị, không độc tài, độc quyền, không có người quản lý mà giống như có người quản lý. Vì ai cũng làm được, chỉ cần hiểu thôi.

Đó là chủ trương của bài viết, đưa ra cách giải quyết vấn đề, đưa ra cách xử lý, chứ không châm chích ai, không nói xấu ai, không phê phán bất kỳ ai.

Xin ban biên tập hãy trích bài viết trên vào phần cuối của bài viết "Tư duy về Diệt Ngã Xả Tâm" để mọi người hiểu hơn về ý của tôi.

                                                                                                          Cám ơn.

                                                                                                         Phi Mạnh

TƯ DUY VỀ DIỆT NGÃ XẢ TÂM.

“NGƯỜI QUẢN LÝ PHẢI LÀ NGƯÒI ĐÃ DIỆT NGÃ XẢ TÂM.”

1- Tại sao phải là người đã diệt ngã xả tâm? - Bởi vì khi chưa diệt ngã xả tâm thì sẽ còn làm khổ mình, khổ người.

2- Thế nào là người đã diệt ngã xả tâm? Người diệt ngã xả tâm sẽ gồm có những đạo đức sau:

- Sống biết nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng với mọi lời nói, yêu cầu, góp ý và việc làm của mọi người.

- Biết lắng nghe mọi người, lấy phương châm PHỤC VỤ mọi người làm vai trò chính của công việc của mình. Họ tự hiểu nhiệm vụ của người quản lý là đại diện cho tu viện lắng nghe những lời đóng góp của tất cả mọi người để PHỤC VỤ giúp mọi người vui và yên tâm tu tập tốt. Họ tự hiểu ý kiến của mọi người luôn là ý tốt, là ý kiến xây dựng tu viện tốt hơn. Cho nên họ luôn vui vẻ tùy thuận, lấy công việc phục vụ mọi người làm đối tượng tu tập diệt ngã xả tâm, luôn đáp ứng mọi yêu cầu của mọi người để mọi người vui vẻ và yên tâm tu tập. Chỉ cần mọi người vui thì họ vui, sống trên cái vui của người khác.

- Dĩ nhiên không phải việc nào cũng tùy thuận theo, những việc có lợi ích cho tu viện và mọi người thì tùy thuận, còn những việc không có lợi ích cho tu viện và mọi người, chạy theo dục và ác pháp thì không nên tùy thuận làm theo. Do vậy người quản lý phải là người có tri kiến giải thoát.

- Họ sẽ không làm mất lòng ai, luôn vui vẻ với mọi người, sống hòa đồng với mọi người, họ không bắt buộc ai làm bất cứ điều gì theo ý của mình. Chỉ mong tạo ra một môi trường tốt và thuận lợi cho mọi người tu tập xả tâm tốt.

- Họ luôn thấy mọi người đều là người tốt, người thiện, người đúng, những gì mọi người góp ý hoặc làm đều muốn tốt cho tu viện và mọi người,…

- Họ hiểu rằng tu viện không phải là nhà tù, nơi giam lỏng, không phải nơi để kiểm soát, kiểm tra, ra lệnh, cấm đoán, cho phép, phạt, đuổi. Tu viện là nơi sống đời sống bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Ai ai cũng có quyền tự do, làm bất cứ việc gì trong khuôn khổ cho phép của mình, miễn sao không vi phạm quy định nội quy của tu viện.

- Họ có lòng yêu thương và vị tha vô bờ bến, biết thông cảm với mọi người, biết hiểu được những cảm nhận của mọi người. Không áp dụng hình thức đuổi người ra khỏi tu viện khi còn có sự lựa chọn khác, trừ khi người đó vi phạm nội quy giới luật tu viện nhiều lần và không chịu sửa.

- Tóm lại, những người có ít nhất những đức tính đạo đức như trên mới xứng đáng làm người quản lý.

3- Thế nào là người chưa diệt ngã xả tâm?

- Người chưa diệt ngã xả tâm là người hiểu việc quản lý là quản lý người, kiểm soát người, kiểm tra người, tự cho phép mình cấm đoán, ra lệnh hoặc cho phép người làm cái này cái kia, luôn nghi ngờ, không tin tưởng người, luôn thấy mọi người là người xấu, người gian trá, không thành thật,… Họ tự cho phép mình quyền hành, đó là họ đang xây dựng bản ngã cho chính mình.

- Họ tự huân tập những ác pháp vào người và vô tình đã xây dựng bản ngã ngày càng cao, không còn coi ai ra gì, hống hách, ăn nói luôn lớn tiếng, không còn nhỏ nhẹ, lịch sự khiêm cung nữa.

- Họ luôn muốn mọi người phục tùng mình, nghe lời mình, lắng nghe mình, làm theo ý mình. Ngược lại, họ không biết lắng nghe người khác, không biết tùy thuận vào người khác. Do gieo những tư tưởng tiêu cực như vậy mà họ tự làm cho tánh tình và gương mặt của họ trở nên luôn khắt khe, khó tính, không thiện cảm, không gần gũi với bất kỳ ai, thiếu thân thiện, người ngoài nhìn vào là cảm nhận ngay, cảm nhận được sự thiếu thiện cảm, khó gần.

- Họ sống thiếu lòng yêu thương và vị tha, xem thường những cảm nhận của mọi người. Luôn dùng hình thức đuổi ra khỏi tu viện làm phương châm của công việc quản lý của họ, dù là một việc nhỏ, không vi phạm đến nội quy giới luật.

- Tóm lại, người chưa có đạo đức đức hạnh, chưa biết diệt ngã xả tâm, nên tự biết bản thân mình kém tài, không nên nhận nhiệm vụ và vai trò của người quản lý. Vì khi đó chỉ làm khổ mình và khổ người mà thôi, tự huân tập thêm bản ngã và ác pháp, xa lìa đời sống xả tâm. Những người như vậy nên tự biết rút lui về tu tập, sống đời sống độc cư, tự nhìn lại bản thân để tiếp tục quán xét xả tâm cho sạch hơn.

064-HIỂU ĐÚNG MỚI KHÔNG TU SAI. (Trích Lục Tâm Thư)

VỀ TĨNH GIÁC, CẢNH GIÁC, TỈNH THỨC, TÁNH BIẾT, PHẬT TÁNH?

Hỏi: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con rõ Tĩnh Giác và Cảnh Giác có điểm giống và khác nhau như thế nào? Hay khác nhau hoàn toàn?

Đáp: Danh từ Tĩnh Giác và Cảnh Giác có nhiều điểm khác nhau như sau:

1- Tĩnh Giác là một pháp môn tu tập của Phật giáo nguyên thủy để giúp con người chủ động thực hiện đức hiếu sinh và các đức hạnh khác, còn Cảnh Giác không phải là một pháp môn tu tập, chỉ là một sự đề phòng.

2- Tĩnh Giác là tâm bình tĩnh trước các ác pháp và các cảm thọ, luôn luôn sáng suốt quan sát từng các đối tượng (sáu trần) tiếp xúc sáu căn (mắt thấy, tai nghe…) để giúp cho người tu hành không dính mắc, nên nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng một cách dễ dàng để tâm được an lạc, thanh thản và vô sự. Còn Cảnh Giác là nỗi lo lắng, luôn luôn Nghi Ngờ người này người kia.

3- Tĩnh Giác là tâm An vui, còn Cảnh Giác là tâm lo sợ Nghi Ngờ.

4- Tĩnh Giác là tâm sáng suốt chủ động biết rõ từng hành động thân, miệng, ý của mình trước khi làm, nghĩ và nói những cái gì, còn Cảnh Giác chỉ là để phòng những đối tượng hại mình, chứ không lưu ý từng hành động thân, miệng, ý.

5- Tĩnh Giác là thiện pháp không làm khổ mình khổ người, còn Cảnh Giác làm khổ mình nên lúc nào cũng dè dặt lo ngại.

6- Tĩnh Giác là pháp xuất thế gian, còn Cảnh Giác là pháp thế gian.

7- Tĩnh Giác là thiện pháp, mà thiện pháp là chuyển ác pháp nên người tu tập Tĩnh Giác ít xảy ra tai nạn, còn người Cảnh Giác chỉ là một đức Cẩn Thận đề phòng bảo vệ cá nhân mình mà thôi, cho nên cảnh giác chỉ là nghi ngờ dò xét chứ không phải tĩnh giác. Cho nên tĩnh giác và cảnh giác hoàn toàn khác xa.

Hỏi: Bởi vậy Tĩnh Giác khác với Cảnh Giác hoàn toàn?

Đáp: Đúng vậy, Tĩnh Giác khác với Cảnh Giác hoàn toàn!   

Hỏi: Nếu dùng sai từ có tại hại gì không? 

Đáp: Nếu dùng sai từ Tĩnh GiácCảnh Giác thì không có hại gì, nhưng chứng tỏ mình không hiểu đạo đức và cũng không biết phương pháp rèn luyện nhân cách để trở thành người có đạo đức. Nếu dùng Tĩnh Giác cho cuộc sống hằng ngày thì không cần dùng Cảnh Giác, còn dùng Cảnh Giác thì phải dùng thêm Tĩnh Giác mới đem lại sự bình an cho mình thật sự, còn chỉ dùng riêng có Cảnh Giác là đem đến cho mình một sự bất an lo lắng. Ở đây trong bài Thầy dùng Cảnh Giác là chỉ cho thông tin và cũng chỉ cho các con còn thiếu tĩnh giác nên phải còn tu tập nhiều Tĩnh Giác hơn nữa mới dám dùng Tĩnh Giác.

MỞ RỘNG:

1- Chánh Niệm Tĩnh Giác là lối hành văn của người Trung Hoa còn lối hành văn của người Việt Nam thì dùng đảo ngược lại Tĩnh Giác Chánh Niệm.

2- Theo pháp hành văn của người Việt Nam thì Tĩnh Giác trước rồi sau mới Chánh Niệm. Cho nên khi đọc Chánh Niệm Tĩnh Giác là biết người ta dùng theo Hán văn, còn khi đọc Tĩnh Giác Chánh Niệm thì người ta biết dùng theo Việt văn. Cụm từ này chỉ có một nghĩa chứ không có hai nghĩa.

3- Trong Tĩnh Giác đã có nghĩa Cẩn Thận, cho nên dùng Tĩnh Giác thì không dùng Cẩn Thận.

4- Dùng từ Cẩn Thận thì không đi đôi với Chánh Niệm được, vì Cẩn Thận có Tà có Chánh, nếu muốn dùng với từ Chánh Niệm thì phải thêm từ “Trong”. Cẩn Thận Trong Chánh Niệm.

5- Từ Cẩn Thận nó mang theo hai tính chất chánh và tà như trên đã nói: Cẩn Thận Trong Chánh Niệm hoặc Cẩn Thận trong Tà Niệm.  

6- Tĩnh Giác có sự thanh tịnh và bình tĩnh nên thường dùng Tĩnh Giác Chánh Niệm chứ không dùng Tĩnh Giác Tà Niệm.

7- Tĩnh Giác là một giới đức trong pháp môn Quán Vô Lậu của Phật giáo nên nó có phương pháp tu tập, vì thế nó có sức gạn lọc tâm tư thanh tịnh không còn các ác pháp và trong khi tu tập nó còn có một sức bình tĩnh kỳ lạ khi đứng trước các ác pháp nó rất định tĩnh nếu tu tập đúng đặc tướng.

8- Đức Cẩn Thận không có phương pháp tu tập, chỉ hằng ngày tập sống Cẩn Thận mà thành thói quen, nên nó không có phương pháp gạn lọc tâm tư trong sạch toàn thiện. Vì vậy, trong các pháp ác nó vẫn có sự cẩn thận, cẩn thận để tăng trưởng ác pháp. 

9- Tĩnh Giác và Tỉnh Thức khác nghĩa, khác hình dạng chỉ có đồng âm. Chữ Tĩnh Giác (chữ Tĩnh có dấu ngã '~'), chữ Tỉnh Thức (chữ Tỉnh có dấu hỏi '?').

Chữ “Giác” có nghĩa là “Giác Ngộ” mà Giác Ngộ có nghĩa là phân biệt biết rõ các pháp nào ác và các pháp nào thiện. Nên chữ “Giác” có nghĩa là “Quán xét” hay “Suy xét

Chữ “Thức” có nghĩa là “Tỉnh Táo” biết rất rõ nhưng không phân biệt pháp nào thiện hay pháp nào ác. Thiện ác hai pháp như nhau, nên chữ “Thức” có nghĩa là “Tập Trung”.

10- Pháp Tĩnh Giác Chánh Niệm trong kinh Phật dạy dùng sức “Bình Tĩnh” quan sát phân biệt các pháp nào thiện để “Tăng trưởng” và ngăn chặn, diệt trừ các pháp nào ác để “Xả tâm”, đó là để giúp tâm bất động trước các pháp ác; là để giúp tâm thanh thản, an lạc và vô sự; đó là để bảo vệ Chân lý nơi bất sinh bất diệt của loài người.

11- Pháp Tĩnh Thức Chánh Niệm trong kinh Phật dạy dùng sức “Tỉnh Táo” tập trung tâm vào một đối tượng duy nhất để thực hiện “Nhiếp Tâm” và “An Trú Tâm” luyện nội lực “Tứ Thần Túc 

12- Vì thế chúng ta phải hiểu: Tĩnh Giác Chánh Niệm là pháp môn dùng để Xả Tâm. Còn Tỉnh Thức Chánh Niệm dùng để Nhiếp Tâm Luyện Tập Nội Lực.

13- Trong Tĩnh Giác không có Tỉnh Thức, vì có Tỉnh Thức thì Tĩnh Giác mất, cũng như trong Tỉnh Thức không có Tỉnh Giác, vì có Tĩnh Giác thì Tỉnh Thức mất. Cho nên hai pháp này không phải là một pháp mà hai pháp môn. Hai pháp môn này là hai giai đoạn tu tập của Phật giáo “Giới, Định”. Vì thế, các con đừng hiểu lầm lạc. Hiểu lầm lạc là không biết đường tu tập.

14- Các con nên nhớ kỹ: Pháp môn Tĩnh Giác Chánh Niệm dùng để tu tập Tứ Chánh Cần xả tâm phần thô; còn pháp môn Tỉnh Thức Chánh Niệm dùng để tu tập Tứ Niệm Xứ luyện nội lực thiền định để xả tâm phần vi tế.

15- Người tu tập mà hôn trầm, thụy miên còn nhiều, nếu muốn phá hôn trầm thụy miên thì không nên ngồi nhiều mà nên đi kinh hành theo pháp môn Tĩnh Giác Chánh Niệm xả tâm, chứ không được tu tập theo pháp môn Tỉnh Thức Chánh Niệm, vì tu tập Tỉnh Thức Chánh Niệm dễ rơi vào trong trạng thái “Không”, ngoan không.

Hôn trầm, thụy miên và vô ký là một trạng thái mất tĩnh giác, một trạng thái si mê, một trạng thái lười biếng, vì thế phải bằng mọi cách nhiếp phục cho được, hoàn toàn trong giờ tu tập không bao giờ còn có bóng dáng của nó thì mới mong tiến tới tu tập tới các pháp môn khác. Nếu hôn trầm thụy miên tu tập chưa xong thì đừng mong tu tập Tứ Niệm Xứ. Muốn tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ thì tâm phải không còn niệm vọng tưởng và hôn trầm thụy miên nữa.

Hỏi: Đức Phật có dạy: “Cái thấy, cái biết, cái nghe không phải của ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta.

Vậy cái Thấy ở đây có phải là cái Biết của Tính Thấy hay không?

Cái Nghe ở đây có phải là cái Biết của Tính Nghe hay không?

Cái Biết ở đây có phải là cái Biết của Ý Thức hay không?  

Nếu phải thì có thể gộp chung là cái biết không phải của ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta? Cái biết ở đây là cái biết của 6 thức. Vậy tại sao không thấy đức Phật nói về cái biết của Mùi, Vị và Xúc? Xin Thầy giải thích rõ hơn cho con về điều này.

Đáp: Ở đây các Tổ không nói cái Mùi, cái Vị và cái Xúc, là vì các Tổ sống trong tưởng nên xây dựng cái Thấy, cái Biết và cái Nghe là Phật Tánh. Còn đức Phật nói cái Thấy, cái Nghe, cái Biết, cái Mùi, cái Vị và cái Xúc là trong nhóm sáu thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

1- Trong kinh nguyên thủy đức Phật nói rất đầy đủ và dễ hiểu. Cái thấy ở đây là cái thấy của mắt gọi là cái thấy của nhãn căn, chứ không phải cái biết của tính thấy nào ở đây cả. Cái thấy biết ở đây là cái thấy biết của mắt gọi là nhãn thức.

2- Cái nghe ở đây là cái nghe của tai gọi là cái nghe của nhĩ căn, chứ không phải cái biết của tính nghe nào ở đây cả. Cái nghe biết ở đây là cái nghe biết của tai gọi là nhĩ thức

3- Cái biết ở đây là cái biết của ý thức, chứ không phải cái biết ở đây là cái Biết của Tính Biết nào cả.

Phật thường dạy: Sáu căn, sáu trần và sáu thức, nhưng các con không lưu  ý nên không nhớ.

Sáu căn, sáu thức, sáu trần gồm có:

1- Nhãn căn là con mắt. Nhãn thức là cái biết của con mắt. Nhãn trần là hình sắc của vạn vật bên ngoài

2- Nhĩ căn là lỗ tai. Nhĩ thức là cái biết của lỗ tai. Nhĩ trần là âm thinh của vạn vật. 

3- Tỷ căn là lỗ mũi. Tỳ thức là cái biết của lỗ mũi. Tỷ trần là hương vị của vạn vật.

4- Thiệt căn là lưỡi. Thiệt thức là cái biết của lưỡi. Thiệt trần là mùi vị của vạn vật.

5- Thân căn là cơ thể. Thân thức là cái cảm giác của cơ thể. Thân trần là tính mềm, cứng, nóng, lạnh của vạn vật.

6- Ý căn là bộ óc (ý thức). Ý thức là sự phân biệt của bộ óc. Ý trần là từng tâm niệm quá khứ, vị lai và hiện tại.

Sáu căn, sáu trần, sáu thức mới đầy đủ 18 giới của Phật giáo để tạo thành những nhân duyên Xúc, Hữu, Thủ, Sinh, Ưu bi sầu khổ già chết. Muốn biết rõ các duyên này, nên đọc kinh Thập Nhị Nhân Duyên. Các Tổ ít nói đến Mùi, Vị và Xúc, thì đó là một sự thiếu sót, chứ trong kinh Phật dạy rất đầy đủ. Nhưng khi chúng ta học thì hay nhắc đến Sắc, Thinh, Hương (mùi) là xong, còn ít ai nói đến Vị (cay, đắng, ngọt, bùi), Xúc (cảm  giác êm, ấm, cứng mềm), Pháp (những niệm trong tâm, vọng niệm).  Nhất là kinh sách Đại Thừa thường nói đến Tánh Biết, Tánh thấy, Tánh Nghe chứ không nói Tánh Mùi, Tánh Vị và Tánh Xúc.

Tóm lại, Tánh Thấy, Tánh Nghe và Tánh Biết trong kinh sách Đại Thừa đều cho đó là Phật Tánh. Những điều hiểu biết này là do các Tổ hiểu biết trong ảo tưởng. Khi đức Phật đã xác định thân tâm này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì Phật tánh không bao giờ có trong thân tâm này. 

                                               Chúc các con tu tập xả tâm rốt ráo để thành công tốt đẹp.

                                                     Thầy của các con: Trưởng lão Thích Thông Lạc

       Nguồn trích lục:  Những Bức Tâm Thư. Tập I - NXB Tôn giáo Hà Nội 2008 - Trang 76-78 và 285-289. 

065-TƯ DUY VỀ "DÍNH MẮC". Phi Mạnh

Dính mắc là tham đắm vào một điều gì đó, vào ai đó mà không tách rời được, không bỏ được, bị lôi kéo, bị thu hút như một lực hút vô hình. Khi dính mắc thì con người thường sống làm khổ mình, khổ người và khổ các loài chúng sinh khác.

Làm sao hiểu được để mà không dính mắc? Khi hiểu được mọi pháp là vô thường, là luôn thay đổi, là không có gì bất biến, hay bất di bất dịch cho nên chúng ta buông bỏ tất cả. Khi buông bỏ tất cả, không chấp vào bất kỳ cái gì thì chúng ta không còn dính mắc, không còn trụ ở bất kỳ điều gì, vật gì, chính bản thân hay ai thì chúng ta không còn chấp trước nữa.

Vậy thường con người dính mắc vào điều gì, vào ai hay cái gì?

1- Dính mắc vào hoàn cảnh môi trường xung quanh, không vừa ý cái này, không vừa ý cái kia, sống không biết nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Ví dụ như chổ ở có muỗi, kiến, các loài côn trùng, rắn, rít, bò cạp, cuốn chiếu,... nhiều quá. Chỗ ở tối ẩm, ít nắng, hoặc nắng nhiều quá,...

2- Dính mắc vào những người sống xung quanh. Ví dụ: họ làm biếng làm việc, kéo dài thời gian, chỉ ngồi chơi cho hết ngày rồi về. Hoặc người này tu như thế này là không đúng, người kia cũng vậy. Hoặc người quản lý này không có đạo đức, đức hạnh mà được làm quản lý,...

3- Dính mắc vào ý kiến, lời nói, việc làm của người khác.Ví dụ: cách quản lý tiền bạc của tu viện, chùa không minh bạch, việc làm của người quản lý không đúng với những gì thầy dạy,...

4- Dính mắc vào những nghi ngờ xấu về người khác.

5- Dính mắc vào những đánh giá, nhận xét, phát xét chủ quan của chính mình.

6- Dính mắc vào những gì nghe, thấy hoặc đọc được. Khi nghe ông A nói về ông B như thế này, thế kia là tự nhiên bị dính mắc vào những lời nói đó rồi tìm cách đi tìm hiểu có phải đúng như vậy không? đánh giá, nhận xét, phán đoán mọi việc theo ý của mình đúng, sai, phải, trái,...

7- Dính mắc vào những định kiến, thành kiến, kiến chấp của mình về người khác. Tính cách của mỗi người luôn thay đổi, không có gì là không thay đổi. Hôm qua họ keo kiệt bủn xỉn, nhưng hôm nay có thể họ đã biết mở rộng tấm lòng ra bố thí, chia sẻ,...

8- Dính mắc vào tư tưởng, quan niệm, quy định của người khác, của tôn giáo, của các đảng phái chính trị, của các tổ chức công đoàn, tập thể,...

9- Dính mắc vào những lỗi lầm, cái xấu, cái sai trong quá khứ của mình hoặc ai đó. Có thể lúc xưa người đó hay sân, nhưng hiện tại có thể họ đã thay đổi rồi, chúng ta không nên cố chấp mà phải biết mọi việc là vô thường, không có gì bất biến trên đời này cả.

10- Dính mắc vào những chuyện quá khứ, tương lai.

11- Dính mắc vào những hiểu biết, kinh nghiệm của mình của người.

12- Dính mắc vào sự chê khen, thành bại, được mất, tốt xấu, vui buồn, đúng sai, phải trái, thật giả, có không, ngon dở, giàu nghèo, nam nữ, thiện ác, chánh tà, đẹp xấu, mắc rẻ, ưu khuyết, quá khứ tương lai, yêu hận, thương ghét, hạnh phúc đau khổ,....

13- Dính mắc vào cách đối xử, cư xử của người khác.

14- Dính mắc vào cái nhìn, sự nhận xét, đánh giá của người.

15- Dính mắc vào hình tướng, cách ăn mặc, điệu bộ, cử chỉ,... của người.

16- Dính mắc vào cái thân, cái ngã, chấp cái thân là của mình, suốt ngày lo cho nó, chăm sóc cho nó, vì nó mà thương giận, sân, oán, hận,...

17- Dính mắc vào của cải tài sản, tiền bạc, chức vị, bằng cấp, vị trí, tình cảm, người thân quen, ăn uống, ngủ nghỉ, mua sắm, ...

18- Dính mắc vào sự hơn thua, vào vị trí đứng đầu, vào vị trí cao nhất, vào danh hiệu, vào sự đoạt giải, vào thắng thua,...

19- Dính mắc vào các vật nuôi, thú cưng, cây trồng,...

20- Dính mắc vào chuyện đời, chuyện xã hội, chuyện quốc tế, chuyện chính trị, chuyện tôn giáo, chuyện kinh tế, chuyện khoa học, chuyện thời đại, tất cả mọi ngành nghề, công tác xã hội, tổ chức, công đoàn, câu lạc bộ,...

21- Dính mắc vào những trò vui chơi giải trí như phim ảnh, nhạc, kịch, game, internet, email, chat, blog,...,

22- Dính mắc vào các cuộc đi chơi đây đó, đi du lịch,..

23- Dính mắc vào những thiếu sót, tiêu cực, bi quan, khiếm khuyết, sự nhút nhát, sự bất toại nguyện,... của mình và người.

24- Dính mắc vào cuộc sống, bệnh tật, già và chết.

25- Dính mắc vào những giả thuyết, lý luận, chân lý, mệnh đề, tư tưởng của khoa học, của tôn giáo, của các học giả,...và của tất cả mọi người.

26- Dính mắc vào những tiến bộ của công nghệ, phát hiện mới, phát minh mới, những thành tựu, khám phá mới của khoa học,....

27- Dính mắc vào những công nghệ cao, máy móc điện tử công nghệ cao như smart phone, smart tv, tablet, laptop, máy tính, robot, biến đổi gene, internet,... và tất cả những máy móc điên tử gia dụng khác.

28- Vào chùa hoặc tu viện thì dính mắc vào chùa, tu viện, từ chuyện tổ chức, chuyện xây dựng, chuyện tài chánh,... cho đến thầy, cô, phật tử, làm phước. Ví dụ xem những gì thầy làm là luôn luôn đúng mọi thời đại, bất di bất dịch, không thể thay đổi được,... bị phật tử lôi kéo, cám dỗ,...

29- Dính mắc vào phước báu hữu lậu.

30- Dính mắc vào nhân quả của người khác.

31- Dính mắc vào các pháp tu như phải ngồi thiền, tụng kinh, niệm thần chú, tu phải có thần thông, thiền định; Tứ Niệm Xứ, Định Niệm Hơi Thở, Thân Hành Niệm; các trạng thái thanh tịnh, bất động, các cảm thọ (thọ khổ, thọ lạc, thọ bất khổ bất lạc),...

32- Dính mắc vào các trạng thái thần thông, các trạng thái của tưởng như thấy mình bay, nghe được Phật giảng kinh, thấy Phật bà Quang Âm, Phật Di Lạc, Phật Thích Ca, thấy hào quang, nghe được tiếng nói rất xa, nhìn thấy được những người rất xa, biết được chuyện quá khứ vị lai, ...

33- Dính mắc vào thời tiết, khí hậu, nóng lạnh, mưa bão, gió, mây,...

34- Dính mắc vào thời gian, ngày tháng năm, ngày thường, ngày cuối tuần, ngày lễ, ngày rằm, mùng 1, 30, 14, ngày sinh nhật, ngày đám giỗ, ngày Phật Đản, Tết, Trung Thu, Vu Lan,...

35- Dính mắc vào những gì mình đã làm, làm được, đạt được, thành công, đã tạo dựng, đã phát minh, đã sáng chế, đã sáng tạo, đã tạo ra, đã lập ra,....

36- Dính mắc vào những vật quý, mới, hiếm, lạ, đẹp, hoặc những vật mình không có cho đến những vật nhỏ bị vứt bỏ dưới đất cũng lượm lên đem về cất,... Cho nên khi thấy những vật đó là muốn có ngay, muốn xin ngay, muốn mượn ngay hoặc muốn mua ngay, tìm mọi cách để có cho bằng được.

37- Dính mắc vào trụ xứ, vào nơi thanh tịnh, vào tu viện. Nghĩ rằng chỉ có tu viện mới là nơi để tu tập đạt sự giải thoát. Người trụ trì thì luôn lo lắng cho chùa, tu viện, lo sợ mất, lo sợ người khác cướp mất quyền, lo sợ người khác hại mình, luôn tìm cách đối phó, tính toán ngăn chặn, thưa kiện,...

38- Dính mắc vào tri kiến giải thoát, vào kiến thức Phật pháp, và các loại kiến thức chuyên môn khác.

39- Dính mắc vào tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.

40- Dính mắc vào cái không dính mắc.

41- Dính mắc vào v.v và v.v...

Chỉ cần ngày ngày quán xét sự dính mắc của mình và buông xuống tất cả, đến một ngày nào đó chúng ta sẽ nhận ra tâm mình không còn dính mắc nữa, lúc đó sẽ hiểu được 2 chữ VÔ SỰ và biết rõ tâm đang bất động thanh thản an lạc và vô sự. Sự giải thoát nhiều hay ít nằm ở chổ dính mắc ít hay nhiều, không dính mắc gì cả thì sự giải thoát là viên mãn. Ngược lại, có dính mắc thì tâm sẽ không bao giờ bất động, thanh thản an lạc và vô sự.

Muốn không dính mắc thì phải nhớ luôn luôn phòng hộ sáu căn, giữ tâm không phóng dật, không để cho 6 căn dính mắc với 6 trần, luôn sống với tri kiến giải thoát, buông xả (tri kiến về nhân quả, lý vô thường, bất tịnh, cái chết, đức hiếu sinh,...) thường xuyên quán vô lậu để xả bỏ mọi tham muốn, dính mắc ở đời.

Tất cả các pháp từ ngoài vào trong đều là vô thường, không có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Ai hiểu rõ được ý nghĩa vô thường của vạn pháp thì mới không dính mắc hay chấp trước. Còn ai vẫn còn chấp trước, dính mắc hay trụ vào bất kỳ điều gì thì chưa hiểu được ý nghĩa vô thường của vạn pháp.

Chỉ khi không dính mắc thì tâm mới tự nhiên bất động. Bất động tự nhiên là kết quả của sự buông xả sạch không còn một hột bụi nào. Đó là sự buông xả thật sự từ nội tâm của một người tu theo đạo Phật, là người đệ tử Phật chân chính.

Không dính mắc vào bất kỳ pháp nào trên thế gian này thì làm gì còn tương ưng với thế giới tham sân si mạn nghi trên trái đất này nữa, nghĩa là đã làm chủ nhân quả, chấm dứt tái sanh luân hồi.

Buông xả sạch, không còn một hột bụi nào, đời sống trắng bạch như vỏ ốc không còn điều gì có thể ràng buộc người đó. Có như vậy thì tâm mới bất động thanh thản an lạc và vô sự.

Tâm bất động thanh thản an lạc vô sự của đạo Phật không phải do tụng kinh, đọc thần chú, niệm Phật, chú tâm vào đề mục nào hay là ngồi thiền. Tâm bất động thanh thản an lạc vô sự là sự tự nhiên của tâm buông xả sạch khi giác ngộ chân lý Tứ diệu đế, nguyện sống cuộc đời đạo đức, đức hạnh, nghĩa là sống toàn thiện, nghĩa là giữ gìn trọn giới luật nghiêm chỉnh.

Người hiểu được vạn pháp là vô thường thì buông xả tất cả không còn chấp trước, dính mắc hay trụ vào pháp nào cả. Tâm người đó luôn bất động thanh thản an lạc và vô sự. Chính trạng thái tâm này gọi là Niết Bàn.

Niết Bàn là trạng thái của tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự, niết bàn không phải là thế giới nào cả. Do vậy Niết Bàn mới gọi là chân lý thứ 3 trong Tứ Diệu Đế. Chân lý nghĩa là khi nói ra ai cũng hiểu và làm được. Còn hiểu Niết Bàn là thế giới thì mỗi người sẽ hiểu một kiểu, hiểu như vậy không thể gọi là chân lý được.

"Vạn cảnh đang lay động
Tùy cảnh tâm an vui
Nhờ cảnh tâm vô trụ
Không buồn cũng không vui."
(Lời TL Thích Thông Lạc).

066-NHỮNG LỜI TÂM HUYẾT CỦA THẦY. (Trích Lục Tâm Thư).

Lời BBT

Người đến với đạo Phật, điều mong muốn nhất là tìm hiểu rõ nỗi khổ đau của con người và làm sao để con người vượt thoát khỏi những khổ đau ấy? Nếu đức Phật dạy: “Đây không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta”, vậy thì trong thế giới này Ai Khổ Đau? Ai Thoát Khổ? Như Thế Nào Là Thoát Khổ?

Câu hỏi đã được đức Phật giảng giải rất rõ ràng, và ngày nay đức A la hán Thích Thông Lạc lại một lần nữa khẳng định mà chúng tôi hiểu như sau: “Không có người khổ và cũng không có người thoát khổ”. Trong thế giới duyên hợp duyên tan vô cùng vô tận, mười hai nhân duyên “sinh” là hiện bày một thế giới khổ đau của con người, mười hai nhân duyên “diệt” là mọi khổ đau của con người chấm dứt.

Chúng tôi xin trình bày tóm tắt 12 nhân duyên “khổ” (dẫn đến trầm luân sinh tử) và 4 nhân duyên “diệt” (dẫn đến thoát khổ) như sau:

1- Duyên khổ (trầm luân): Vô minh duyên Hành (Hành có Tham, có Sân, có Si, có Mạn, có Nghi…) <=> Hành duyên Nghiệp <=> Nghiệp duyên Danh sắc <=> Danh sắc duyên Lục nhập <=> Lục nhập duyên Xúc <=> Xúc duyên Thọ <=> Thọ duyên Ái <=> Ái duyên Hữu <=> Hữu duyên Thủ <=> Thủ duyên Sanh <=> Sanh duyên Khổ (ưu bi, già, bệnh, chết).

2- Duyên diệt (Niết bàn): Vô minh duyên Hành (Hành không có Tham, không Sân, không Si, không Mạn, không Nghi…, Hành theo Bát Chánh Đạo) => Hành duyên Thức (Tri kiến, Trí tuệ) => Thức duyên Giải thoát (tức là hết Khổ đau, là Niết Bàn, Chứng Đạo). 

GNCN xin mời quý phật tử và độc giả cùng tìm hiểu lời đức A la hán Thích Thông Lạc đã dạy:Buông xuống! Buông xuống là Chứng Đạo!”. Vậy Buông Gì?: Chứng Đạo Là Chứng Cái Gì?

                                                                    (Xin cảm ơn đạo hữu Phi Mạnh đã trích lục tâm thư này).

BUÔNG GÌ ĐỂ CHỨNG ĐẠO? CHỨNG ĐẠO LÀ CHỨNG CÁI GÌ?

Thời gian trôi qua quá nhanh, mới đó mà đã hai tháng rồi, giống như một giấc mộng. Nhìn lại sự tu tập của các con, Thầy rất lo lắng, vì tu tập như vậy làm sao chứng đạt chân lí được. Phải không các con?

Muốn chứng đạt chân lý là phải tu tập xả tất cả chướng ngại pháp trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm và pháp, chứ đâu tu tập ức chế ý thức để cầu không niệm. Tu tập Tứ Niệm Xứ mà cứ như tu tập Tứ Chánh Cần, tu như vậy làm sao đi đến chỗ chứng đạo được!

Chỗ này các con hãy lắng nghe và tìm hiểu nghĩa lý thực hành cho rõ ràng từng pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ, rồi từng giai đoạn tu tập của các pháp môn này. Cùng một pháp môn nhưng giai đoạn đầu tu tập khác; giai đoạn sau tu tập khác huống là hai pháp môn khác nhau trong hai lớp khác nhau của Bát Chánh Đạo như: lớp Chánh Tinh Tấn và lớp Chánh Niệm. Lớp Chánh Tinh Tấn là phải tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần, còn lớp Chánh Niệm là phải tu tập Tứ Niệm Xứ.

Vì thế cần phải hiểu rõ nghĩa như sau:

1- Tu tập Tứ Chánh Cần“ngăn” “diệt” các ác pháp để luôn luôn “sinh” thiện "tăng trưởng" thiện pháp. Các con nên lưu ý những danh từ: “NGĂN” “DIỆT; SANH” “TĂNG TRƯỞNG”. Vậy ngăn và diệt; sanh và tăng trưởng là nghĩa như thế nào? Còn tu tập như thế nào? Thầy đã dạy các con rồi. Các con có nhớ không?

              “Ngăn” nghĩa là ngăn ngừa, ngăn chặn, ngăn cản không cho vào.
              “Diệt” nghĩa là làm cho tiêu mất, làm cho chết, làm cho tiêu diệt, làm cho không còn, không tồn tại
              “Sinh” nghĩa là sinh ra, làm ra cho nhiều, sản xuất.
              “Tăng trưởng” nghĩa là làm cho lớn, cho nhiều, cho mạnh.

2- Tu tập Tứ Niệm Xứ là trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu; trên thọ quán thọ...; trên tâm quán tâm...; trên pháp quán pháp để nhiếp phục tham ưu. Các con nên lưu ý những danh từ: “QUÁN, NHIẾP PHỤC, THAM ƯU”. Vậy quán, nhiếp phục, tham ưu nghĩa là gì? Và cách thức tu tập “QUÁN, NHIẾP PHỤC, THAM ƯU”. như thế nào? Thầy đã dạy các con rồi. Các con còn nhớ không?

“Quán” nghĩa là quan sát bằng mắt; bằng sự cảm nhận.

“Nhiếp phục” nghĩa là thu phục làm cho phục tùng; làm cho đầu hàng; làm cho không còn chướng ngại pháp và ác pháp nữa; làm cho không còn phá phách; làm cho không còn đau khổ; làm cho không còn phiền não; làm cho không còn giận hờn tham, sân, si, mạn, nghi nữa.

“Tham ưu” nghĩa là tham muốn và phiền não, nghĩa chung là những chướng ngại pháp.

Có hiểu nghĩa rõ ràng như vậy các con mới tu tập đúng pháp thì sự chứng đạt chân lí mới nhanh chóng và dễ dàng. Các con đang hiểu sai pháp nên tu hành không đúng. Tu Tứ Niệm Xứ mà cứ tu tập Tứ Chánh Cần như trên đã nói, chỉ còn năm tháng nữa mà tu sai làm sao chứng đạo. Hãy mau mau sửa lại sự tu tập cho đúng, kẻo phí thời giờ vô ích.

Tu tập như vậy làm sao chánh pháp của Phật thường còn? Tu mà không chịu khó quan sát xem xét những giới luật mình đang thọ và giữ gìn (Mười Giới Đức Thánh Sa Di), có vi phạm giới nào không? Giới luật là đời sống phạm hạnh của người tu, là pháp ly dục ly ác pháp, thế mà các con không giữ gìn cho trọn vẹn luôn luôn vi phạm giới luật, để trở thành người phá giới, nhất là giới hạnh độc cư.

Giới hạnh độc cư là giới phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi miệng, thân, ý. Các con không giữ gìn nó thì làm sao tâm ly dục ly ác pháp cho được; tu mà không giới luật thì không xả tâm chỉ biết ức chế tâm và còn để tâm dung ruổi chạy theo dục lạc ở đời; theo tình cảm của cuộc sống người này với người kia; theo các ác pháp dùng lời nói li gián, để chia rẽ, để ganh ghét, để thù hận với nhau, thì còn nghĩa lý gì là tu hành nữa. Phải không các con?

Tu mà nói chuyện người này đúng, người kia sai; tu mà còn so bì hơn thua với nhau từng chút, từng ly; tu mà đi rình ngó người này tu như thế này, người kia tu như thế kia, thì làm sao chứng đạo được các con?.

Nhìn thấy sự tu tập của các con mà Thầy rất buồn lòng. Buồn là nghĩ đến nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người làm sao có người dựng lại được, khi các con tu tập như vậy. Tâm Thầy lại còn xót xa hơn, khi nghĩ đến hạnh phúc của loài người trên hành tinh này quá mỏng manh, nhất là loài người không bao giờ có được hạnh phúc ấy. Hiện giờ các con là những người đại diện cho mọi người mà hiểu lầm và tu hành sai pháp như vậy. Rồi đây làm sao có người thay thế Thầy dựng lại Chánh pháp của Phật? Thầy đã già rồi, đừng ỷ lại vào Thầy. Phật sống đến 80 tuổi. Ông A Nan sống 120 tuổi, nhưng có người còn bảo Ông A Nan già lú lẫn...

Ôi! Chúng sanh ít phước, làm sao thọ hưởng được nền đạo đức ấy. Các con là những người đại diện cho muôn người, vạn triệu người trên hành tinh này như trên đã nói mà tu tập như vậy thì còn hy vọng gì nữa các con! Thầy sẽ ra đi vĩnh viễn và mãi mãi các con sẽ mất Thầy.

Còn năm tháng nữa, chứng nào tật nấy làm sao các con bỏ được tâm bỉ thử đây! Làm sao sống được đạo đức làm người sống không làm khổ mình, khổ người. Tu hành mà các con luôn thấy lỗi người không thấy lỗi mình thì đạo đức gì đây!

Nhìn các con tu hành, lòng Thầy đau xót như ai cắt ruột. Các con có biết không? Còn năm tháng nữa, tu như vậy làm sao chứng đạo được các con? Một lần nữa, nếu không có người chứng đạo, Thầy sẽ ra đi! Và đi! Đi mãi!!! Nếu còn duyên Thầy sẽ ẩn bóng viết xong bộ sách “ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI”, rồi vĩnh biệt các con.

Các con ở lại mà sống với cuộc đời đầy ác pháp, đầy nước mắt và đau khổ. Chừng đó các con có nhớ Thầy, thì hãy nhớ "Giới luật và Tứ Niệm Xứ". Giới luật và pháp môn Tứ Niệm Xứ là thầy của các con; là ngọn đuốc soi đường cho các con đi; là chỗ nương tựa vững chắc cho đời tu hành của các con. Các con nhớ kỹ lời dạy này, đừng bao giờ quên hỡi các con?

Thấy pháp hành các con áp dụng còn nhiều chỗ chưa hiểu rõ ràng, do đó khi thực hành vào pháp xả tâm trên Tứ Niệm Xứ thì lại ức chế tâm, tu như vậy không đúng theo lời Thầy dạy. Do không hiểu đúng lời Thầy dạy nên các con tu hành thấy khó khăn và vất vả, thật đáng thương. Biết làm sao bây giờ đây, sự hiểu biết của các con có giới hạn, nên lời nói và sự cố gắng của Thầy để diễn đạt cho các con hiểu, nhưng sự hiểu của các con còn hạn cuộc trong không gian và thời gian của ý thức. Vì thế, các con chỉ hiểu ở mức độ đó, không thể nào hiểu hơn được nữa, nên cũng đành chịu thôi vậy.

Ở đây, chỗ các con đã hiểu sai về Phật pháp, nhất là về sự chứng đạo của Phật giáo. Cho nên hiện giờ quý sư, quý thầy, quý ni và quý cư sĩ đang tu theo Phật giáo đều nghĩ rằng: “chứng đạo là chứng một cái gì cao siêu, huyền bí và vĩ đại ghê gớm lắm”.

Hiểu như vậy là hiểu sai Phật giáo. Phật giáo là nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai, mà mọi người lại hiểu Phật giáo là một tôn giáo thần quyền, là một loại thiền định siêu đẳng, là một thế giới ngoài thế giới của loài người, nên kinh sách phát triển Bắc tông cũng như kinh sách Nam tông đều hướng dẫn tu tập ức chế tâm và còn nghĩ rằng: con người cần phải nhờ vào oai lực chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ và còn phải tu tập nhiều đời nhiều kiếp. Nhất là còn phải tạo nhiều phước báu hữu lậu như: bố thí, cúng dường xây dựng chùa, tháp, đúc chuông, tạc tượng Phật và làm từ thiện v.v...

Nhưng thật sự không phải vậy. Kinh sách Phật giáo Nguyên thủy đức Phật đã khẳng định trong bài chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. Sau buổi thuyếp pháp đó, năm anh em Kiều Trần Như đều chứng pháp nhãn thanh tịnh và chẳng bao lâu đều chứng quả A La Hán. “Nghe xong bài thuyết pháp này và một bài thứ hai có đầu đề “Anttalakkhana sutta”, bàn về thuyết vô ngã (không có cái Ta), năm vị tu sĩ ở vườn Lộc Uyển được giác ngộ và không bao lâu trở thành A La Hán” (Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni do HT Thích Minh Châu biên soạn trang 29).

Đọc đoạn kinh này xong chúng ta biết rằng Phật giáo không phải là pháp môn khó tu tập như thiền Yoga và thiền Tông Trung Hoa. Đối với Phật giáo chỉ cần hiểu đúng và sống đúng là chứng quả A La Hán. Danh từ chứng đạo đã khiến cho mọi người hiểu nó qua trí tưởng tượng nhiều hơn, nên chứng đạo là chứng cái gì cao siêu và phi thường vượt ngoài tầm tay con người. Vì thế, người ta thấy nó quá khó khăn vô cùng. Tư tưởng thấy quá khó khăn cũng là một điều cản trở rất lớn trên bước đường tu tập chứng đạo.

Như đoạn kinh trên đã nói: năm anh em Kiều Trần Như nghe xong pháp và chứng quả A La Hán đâu có khó khăn gì! Vì thế, chúng ta nên xét kỹ lại các pháp đang tu tập, nhất là pháp môn Tứ Niệm Xứ thì sự chứng đạo đâu có khó khăn gì. Phải không các con? Nhưng vì mọi người đã hiểu lầm lạc. Họ đâu biết rằng: “Chứng đạo chỉ là sống với một tâm không bị dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu tác động. Cho nên, chứng đạo không có chứng một cái gì cao siêu, huyền bí và vĩ đại cả, chỉ là một cái tâm bình thường như mọi người, nhưng không có chướng ngại pháp nào làm cho tâm người ấy bị dao động”.

Chứng đạo không có nghĩa là chứng thần thông, phép lực cao cường, hô phong, hoán võ, tàng hình, biến hóa, đằng vân, độn thổ, biết chuyện quá khứ, vị lai của mọi người v.v... mà chứng đạo chỉ là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

Chứng đạo chỉ là sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự, lúc nào cũng như lúc nào không bị kềm chế, không bị bắt buộc phải tu tập như thế này, phải làm như thế kia. Trong sự chứng đạo chỉ có một điều quan trọng nhất, đó là phải sống đúng giới luật như trong bộ sách Văn Hoá Phật Giáo Truyền Thống tập I đã dạy. Chúng ta phải quyết tâm buông xả đời sống nhân quả đang hiện có trong thân tâm của chúng ta.

Mục đích tu hành của chúng ta là làm chủ bốn nỗi đau khổ của kiếp làm người: sanh, già, bệnh và chết, nhưng muốn làm chủ sanh, già, bệnh và chết thì chúng ta phải hiểu cho rõ ràng: Cái gì làm cho chúng ta bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết?.

Muốn biết rõ được điều này chúng ta hãy vào kinh Trung Bộ tập I, tạng kinh Việt Nam, trang 364, đọc Kinh Thánh Cầu mà đức Phật đã dạy: “Này các Tỳ-kheo, có hai sự tầm cầu này: Thánh cầu và phi Thánh cầu. Chư Tỳ-kheo, và thế nào là phi Thánh cầu? Ở đây này các Tỳ-kheo, có người tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh, tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm.

Này các Tỳ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sanh? Này các Tỳ-kheo, vợ con là bị sanh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sanh; dê và cừu là bị sanh; gà và heo là bị sanh; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị sanh; vàng bạc là bị sanh. Này các Tỳ-kheo, những chấp thủ ấy bị sanh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh.

Và này các Tỳ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị già? Này các Tỳ-kheo, vợ con là bị già; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị già; dê và cừu là bị già; gà và heo là bị già; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị già; vàng bạc là bị già. Này các Tỳ-kheo, những chấp thủ ấy bị già, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị già lại tầm cầu cái bị già.

Và này các Tỳ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị bệnh? Này các Tỳ-kheo, vợ con là bị bệnh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị bệnh; dê và cừu là bị bệnh; gà và heo là bị bệnh; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị bệnh; vàng bạc là bị bệnh. Này các Tỳ-kheo, những chấp thủ ấy bị bệnh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị bệnh lại tầm cầu cái bị bệnh.

Và này các Tỳ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị chết? Này các Tỳ-kheo, vợ con là bị chết; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị chết; dê và cừu là bị chết; gà và heo là bị chết; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị chết; vàng bạc là bị chết. Này các Tỳ-kheo, những chấp thủ ấy bị chết, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị chết lại tầm cầu cái bị chết.

Và Này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sầu? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị sầu; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sầu; dê và cừu là bị sầu; gà và heo là bị sầu; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị sầu; vàng bạc là bị sầu. Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị sầu, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sầu lại tầm cầu cái bị sầu.

Và Này các Tỳ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị ô nhiễm? Này các Tỳ-kheo, vợ con là bị ô nhiễm; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị ô nhiễm; dê và cừu là bị ô nhiễm; gà và heo là bị ô nhiễm; voi, bò ngựa đực, ngựa cái là bị ô nhiễm; vàng bạc là bị ô nhiễm. Này các Tỳ-kheo, những chấp thủ ấy bị ô nhiễm, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị ô nhiễm lại tầm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỳ-kheo, như vậy gọi là phi Thánh cầu”.

Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết, đó là sanh y, tức là những vật chất, những người thân. Những vật chất và những người thân xung quanh chúng ta gọi chung là các pháp mà chúng ta lầm tưởng những pháp đó đang phục vụ đời sống của mình và mang lại hạnh phúc, nhưng khi những vật chất đó càng nhiều hơn thì sự khổ đau cũng nhiều hơn. Những vật chất đó càng nhiều thì chính chúng ta là những người nô lệ cho những vật chất đó, đang bị chúng sai bảo và dẫn dắt chúng ta vào cảnh giới ưu bi, sầu khổ, bệnh, chết như trong kinh Thánh Cầu đã dạy ở trên và kinh Thập Nhị Nhân Duyên đã dạy dưới đây: “Có duyên sanh thì ắt phải có duyên ưu bi, sầu khổ và bệnh, chết”, và như vậy hai bài kinh đã dạy không sai khác.

Muốn thoát ra khỏi bốn sự đau khổ này chúng ta hãy đọc tiếp kinh Thánh Cầu để được đức Phật chỉ đường: “Và này các Tỳ-kheo, thế nào là Thánh cầu? Ở đây, này các Tỳ-kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị chết, tìm cầu cái bất tử, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn. Này các Tỳ-kheo, như vậy gọi là Thánh cầu”.

Sau khi đọc đoạn kinh trên đây các con có biết cách thức tu tập xả ly và từ bỏ cái bị sanh, bị già, bị bệnh, bị chết, bị sầu và bị ô nhiễm chưa? Nếu không biết cách thức tu tập xả ly từ bỏ sanh, già, bệnh, chết... thì các con sẽ lầm lạc vào chỗ tu tập ức chế thân tâm, có thể dẫn đến chỗ rối loạn thần kinh như trên Thầy đã dạy.

Các con phải biết, tu hành theo Phật giáo là một sự sống bình thường, chứ lý đâu lại diệt hết ý thức phân biệt vọng niệm thiện pháp của mình. Cho nên có vọng tưởng hay không vọng tưởng đều là ý thức bình thường của mỗi con người, nhưng người tu hành sống đời đạo đức không làm khổ mình khổ người thì không chấp nhận những vọng tưởng có tính bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết. Vì thế khi có các vọng tưởng đó thì dùng đúng pháp của Phật đã dạy để xả ly, để từ bỏ, để đoạn diệt, không nên để nó lưu lại trong tâm dù một phút, một giây, phải đuổi đi một cách quyết liệt, một cách dũng cảm, một cách gan dạ; phải đầy đủ nghị lực chiến đấu với những vọng tưởng và các cảm thọ đó. Tất cả những vọng tưởng đó là ác pháp, là cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết. Cho nên chúng ta đều phải ngăn và diệt cho tận gốc cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết này.

Tu hành chỉ có làm một việc như vậy thôi, chứ có tu tập gì nhiều đâu! Còn những vọng tưởng không sanh, không già, không bệnh, không chết thì để nó tự nhiên, có gì mà phải ngăn diệt nó. Nó là ý thức của chúng ta, nó đâu phải là chướng ngại pháp. 

Vậy mà các con hễ thấy niệm là diệt, là tìm mọi cách ức chế cho đừng có niệm như Pháp Bảo Đàn Kinh dạy: “Chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền”. Như kinh Di Đà dạy: “...Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật...”. Như kinh Kim Cang dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sanh ký tâm”. Đó là phương pháp tu hành của Đại thừa và Thiền tông ức chế ý thức tối đa khiến cho người tu hành rơi vào thiền tưởng, Do rơi vào thiền tưởng mới tưởng con người có Phật tánh; mới tưởng có thế giới Cực Lạc, Thiên Đường; do rơi vào thiền tưởng nên không biết đường đi đến cứu cánh, giải thoát hoàn toàn. Vì thế họ phải tự an ủi cuộc đời tu hành của mình bằng cách phải tu tập nhiều đời, nhiều kiếp.

Các con hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Thế nên, các Tỳ-kheo không nên phóng dật. Ta chính nhờ không buông lung (phóng dật) mà thành Chánh Giác, vô lượng điều lành đều nhờ không buông lung (phóng dật) mà có được. Tất cả vạn vật đều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng của đức Như Lai”. Kinh Du Hành trang 207 Trường A Hàm tập I thuộc tạng kinh Việt Nam. Các con có nghe rõ lời dạy này chưa?

Lời đức Phật dạy quá rõ ràng: tâm không phóng dật tức là tâm không buông lung, hai chữ buông lung xác định nghĩa rất cụ thể: tâm không buông lung là tâm không chạy theo dục lạc và các pháp thế gian, chứ không phải tâm không niệm. Các con nên phân biệt cho rõ: Tâm không buông lung có nghĩa là ý thức không khởi niệm ham muốn cái này cái kia, còn tâm không niệm có nghĩa là ý thức không khởi niệm vọng tưởng. Ý thức không khởi niệm là pháp môn của ngoại đạo, còn Phật giáo ý thức không phóng dật, không buông lung chạy theo pháp trần, nhưng các niệm thiện vẫn còn. Vì thế đức Phật dạy: “Vô lượng điều lành đều nhờ không buông lung mà có được” Cho nên tâm không phóng dật, nhưng các pháp lành từ nơi tâm không phóng dật mà sanh ra.

Đọc câu kinh này chúng ta thấy người tu hành có hết vọng tưởng không? Tại sao tu hành chúng ta lại hiểu là phải diệt hết vọng tưởng? Diệt hết vọng tưởng để trở thành cây, đá thì còn ý nghĩa gì là sự giải thoát?

Tu là để làm chủ những sự đau khổ, để hết đau khổ, chứ đâu phải tu là làm cho chúng ta trở thành người ngu ngu, ngơ ngơ, ngẩn ngẩn như người mất hồn, đi thì gầm gầm không dám ngó nhìn ai, nói nói, cười cười một mình.

Tu là đem lại cho chúng ta một tâm hồn hân hoan vui vẻ, đoan trang, chánh trực, không liếc xéo, liếc ngang, không nói xấu, nói lỗi người khác, không li gián người này với người kia.

Tu là đi đứng khoan thai, nhẹ nhàng, thoải mái, chứ đâu phải đi cúi đầu, khom lưng, bước thấp bước cao.

Tu là tĩnh giác, nhưng tĩnh giác đâu có nghĩa là chỉ có biết cảm nhận bước đi và hơi thở ra, hơi thở vào mà thôi. Tĩnh giác là tỉnh thức luôn luôn sáng suốt nhận xét tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh chúng ta một cách đúng với chánh pháp.

Nếu các con hiểu đúng nghĩa như vậy thì sự tu tập đâu có sai pháp và chứng đạo đâu có khó khăn mệt nhọc gì. Cho nên nói tu tập là nói theo tôn giáo, nhưng nói theo tôn giáo thì người ta lại hiểu tu tập là ngồi thiền, niệm Phật, trì chú, tụng kinh, bắt ấn, cầu siêu, cầu an, lạy lễ hồng danh Phật để sám hối cho tiêu tai, giải tội v.v...

Tu tập nói theo đời sống bình thường của con người là sửa sai những điều làm khổ mình, khổ người; sửa sai những hành động làm ác; sửa sai những điều bị ô nhiễm nghiện ngập; sửa sai những lời nói ác, lời nói dối, lời nói li gián khiến cho mọi người mất đoàn kết bất hòa; sửa sai những ý nghĩ ác, những ý nghĩ làm hại người. Vì sửa sai để trở thành con người tốt, con người có đạo đức. Cho nên tu theo Phật giáo chỉ có sửa sai tâm tính của mình, vì thế đức Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” hoặc “Các pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện” hoặc “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”. Những lời dạy trên đây của đức Phật là những lời dạy để sửa sai những thói hư tật xấu của mình; để mình trở thành người tốt; người có đạo đức; người không còn thói hư tật xấu nữa; người sống luôn luôn không làm khổ mình, khổ người.

Người chứng đạo rồi cũng giống như người bình thường nhưng lại phi thường vì sanh, già, bệnh và chết không sai khiến thân tâm họ được, còn người chưa chứng đạo thì bị sanh, già, bệnh và chết tác động vào thân tâm khiến cho thân tâm bất an thường bệnh tật, phiền não, khổ đau, sợ hãi, lo lắng, thương ghét, giận hờn v.v...

Một lần nữa người chứng đạo và người bình thường chỉ khác nhau là ở chỗ “tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ”. Người sống bình thường chỉ cần biết đâu là con đường thiện và đâu là con đường ác và không sống theo con đường ác, chỉ sống theo con đường thiện. Người biết sống được như vậy là người chứng đạo.

Cho nên chứng đạo đâu có khó khăn gì. Phải không các con? Tu đâu có nghĩa là làm thay đổi thân tâm khác thường; tu là ngăn và diệt những hành động làm khổ mình, khổ người; tu là bảo vệ và giữ gìn trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và cảm thọ, tức là giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự từ ngày này sang ngày khác.

Sau hai tháng tu hành xả tâm vi tế trên Tứ Niệm Xứ, trên gương mặt của quý sư, quý thầy, quý cô và quý cư sĩ nam, nữ sao không hân hoan, sao không thoải mái, dễ chịu, trông có vẻ khắc khổ lắm vậy?

Cho nên các con cần phải xác định cho rõ ràng: Tu chứng là chứng cái gì?

Như trên đã nói, đâu phải tu hết vọng tưởng là chứng đạo như Thiền Tông dạy: “Chẳng niệm thiệm niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền”. Tu hết vọng tưởng để làm gì các con? Nó không có giải thoát bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết được, hết niệm để chạy theo dục tưởng hỷ lạc.

Đâu phải tĩnh giác là chứng đạo? Tĩnh giác chỉ là giai đoạn đầu mới tu tập tỉnh thức để phá tâm si mê, mờ mịt, vì vô minh, vì hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không.

Đâu phải tu có thần thông là chứng đạo? Thần thông chỉ là một trò ảo thuật của tưởng thức để lừa đảo những người nhẹ dạ dễ tin.

Tu đâu phải ngồi thiền nhiều là chứng đạo? Ngồi thiền nhiều nhập định tưởng. Định tưởng là một loại thiền định vô sắc do tưởng uẩn tạo ra. Tu mà nhập vào thiền tưởng để làm gì? Có ích lợi gì cho mình, cho người. Xưa đức Phật nhập vào các định tưởng: Không Vô Biên Xứ Tưởng và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, khi tu xong Ngài ném bỏ như ném bỏ chiếc giày rách. Có đúng như vậy không các con?

Chứng đạo là chứng ở trạng thái tâm định tĩnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng, khi ý thức muốn sai bảo thân tâm làm một việc gì thì thân tâm làm theo đúng như ý.

Chứng đạo là chứng một đạo lực có Bốn Thần Túc để thực hiện Tam Minh, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.

Cho nên, trước khi chưa chứng đạo, những người muốn tu tập chứng đạo phải biết rõ trên đường đi đến chứng đạo. Và còn phải biết rõ sự chứng đạo lợi ích cho mình cho người như thế nào? Nếu chưa hiểu biết rõ sự lợi ích như trên đã nói thì đừng nên tu tập, vì có tu tập cũng chẳng lợi ích gì cho ai cả, còn phí sức, phí tiền của vô ích.

Đường đi đến chứng đạo là con đường Tứ Niệm Xứ. Nếu không trên pháp môn Tứ Niệm Xứ tu tập thì không bao giờ chứng đạo, nhưng trên Tứ Niệm Xứ tu tập thì phải tĩnh giác, nếu thiếu tĩnh giác thì không tu tập được.

Vậy tĩnh giác như thế nào?

Khi tâm ham muốn một điều gì thì biết ngay tâm ham muốn điều đó, đó là tâm tĩnh giác. Khi biết tâm tĩnh giác được như vậy thì ý thức bảo: “Tâm không được ham muốn, ham muốn đó là ác pháp, là pháp khổ đau”. Ý thức lệnh bảo như vậy thì tâm chấm dứt ham muốn.

Khi tâm đang sân giận, ý thức bảo: “Tâm phải chấm dứt ngay sân giận, sân giận là pháp ác, là pháp đau khổ” khi tác ý như vậy là tâm không còn sân giận.

Khi thân già yếu, ý thức bảo: “Thân vô thường, nhưng không được yếu đuối run rẩy phải quắc thước”; khi tác ý như vậy thì thân lần lần không còn yếu đuối và run rẩy, luôn luôn quắc thước.

Khi thân bị bệnh, ý thức bảo: “Thân phải mạnh khỏe, tất cả bệnh tật đều phải lui ra khỏi thân”. Lệnh của ý thức như vậy thì bệnh lần lần lui ra sạch.

Khi thân sắp chết, thở không được thì ý thức bảo: “Thân phải thở lại bình thường, không được chết”. Ý thức lệnh như vậy thì thân mạnh khoẻ và thở lại bình thường.

Khi thân đang mạnh khoẻ bình thường mà muốn chết, muốn bỏ thân này thì ý thức ra lệnh: “Hơi thở phải tịnh chỉ, từ bỏ thân tứ đại này”. Lệnh như vậy thì hơi thở lần lần ngưng hoạt động, tâm nhập vào chỗ bất động Tứ Thiền Thiên và xuất Tứ Thiền Thiên nhập vào trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự của Niết Bàn. Lúc bấy giờ tứ đại tan rả.

Trên đây là năng lực của những người tu chứng đạo, ý thức của họ hoàn toàn chủ động điều khiển sự sống chết của cơ thể họ. Cho nên người tu chứng đạo làm chủ sự sống chết, không có khó khăn, không có mệt nhọc.

Do làm chủ sự sống chết tự tại như vậy, nên mọi người ai cũng quyết tâm tu cho bằng được, nhưng lại tu sai, rơi vào chỗ ức chế tâm. Theo Phật giáo tu chứng đạo không có khó khăn, nhưng vì không hiểu biết rõ ràng pháp tu hành nên trở thành khó khăn như trên đã nói. Tu khó sao đức Phật tu tập chỉ có 49 ngày chứng đạo? Tu khó sao Thầy tu có sáu tháng rưỡi chứng đạo? Tu khó sao năm anh em Kiều Trần Như nghe bài pháp Tứ Diệu Đế và bài pháp vô ngã liền chứng pháp nhãn thanh tịnh và tu tập không bao lâu chứng quả A La Hán.

Phật pháp đâu phải khó tu, chỉ vì chúng ta nhận lầm pháp hành nên tu sai. Cho nên muốn tu tập theo Phật giáo thì những gì cần thông hiểu phải thông hiểu cho rõ ràng (giác ngộ) về các pháp hành và nhận ra cho được trạng thái chân lý, đó là điều cần thiết mà mọi người tu hành nên lưu ý. Vì thế, đức Phật dạy: “Nên thân cận thiện hữu tri thức”. Nhờ có thân cận thiện hữu tri thức chúng ta mới hiểu rõ các pháp hành và chân lý. Khi hiểu rõ các pháp hành là chúng ta biết cách thức sống để hộ trì chân lý. Sống để hộ trì chân lý thì đâu có cái gì để tu. Không có cái gì để tu thì có cái gì khó. Phải không các con?

Nói tu tập là nói theo tôn giáo, chứ Phật giáo nói tu tập là nói sống không làm khổ mình, khổ người. Sống không làm khổ mình khổ người là hộ trì và giữ gìn bảo vệ chân lý. Người nào biết sống hộ trì và giữ gìn bảo vệ chân lý là không hiểu sai Phật pháp. Còn ngược lại tu khác sống khác là không hiểu Phật pháp, nên tu tập gần chết mà không chứng đạo. (Chân lý ở đây được hiểu là "Tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự trước các dục, ác pháp và các cảm thọ."- phần này Phi Mạnh xin thêm để dễ hiểu).

Người hiểu đúng chỉ cần sống biết xả các chướng ngại pháp là chứng đạo. Trong thời đức Phật còn tại thế, khi người ta nghe Phật thuyết pháp xong là chứng pháp nhãn thanh tịnh. Chứng pháp nhãn thanh tịnh rồi từ đó họ biết cách sống, luôn luôn xả những chướng ngại pháp để giữ gìn và bảo vệ chân lý, nhờ đó chẳng bao lâu họ chứng đạo.

Dưới đây Thầy sẽ trích dẫn ra những đoạn kinh Phật thuyết mà người nghe xong liền chứng các quả A La Hán.

Những bài phụ lục được trích dẫn ra đây là nhằm làm sáng tỏ đường lối tu tập của Phật giáo để mọi người hiểu rằng chứng quả A La Hán của đạo Phật không phải là khó khăn, chỉ cần có quyết tâm ly dục ly ác pháp thì chứng đạo dễ dàng.

PHỤ LỤC 1: ĐỨC PHẬT THÍCH CA VỀ THĂM GIA ĐÌNH

“Thân phụ đức Phật, vua Suddhodana (Tịnh Phạn) bây giờ đã già yếu, nghe tin đức Phật đã thành đạo và đang thuyết pháp ở thành Rajagaha (Vương Xá). Vua rất nóng lòng được gặp lại con. Vua liền phái sứ giả Rajagaha (Vương Xá), thỉnh cầu đức Phật trở về thăm cố đô và gia đình. Nhưng các sứ giả của Vua đến Vương Xá, được nghe Phật thuyết pháp, đều xin xuất gia làm Tỳ kheo và chứng quả A La Hán. Vị sứ giả thứ 10 là Kaludàyi, vốn là người bạn thân của đức Phật, lúc Ngài còn là Thái tử. Ông này đến Vương Xá, nghe Phật thuyết pháp cũng xin xuất gia và không bao lâu chứng quả A La Hán như chín vị sứ giả trước. Kaludàyi không quên chuyển tới đức Phật lời phụ vương mời đức Phật về thăm gia đình. Đức Phật nhận lời, lên đường cùng với đông đảo đệ tử”. (Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trang 35 do HT Thích Minh Châu biên soạn)

Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng chỉ cần nghe Phật thuyết giảng xong là các vị quan trong triều vua liền bỏ xuống hết danh, lợi, cha mẹ, gia đình, vợ con, của cải, tài sản, quan chức v.v… để được theo Phật xin xuất gia. Chứng tỏ giáo pháp của Phật rất thực tế về đời sống con người, nói về khổ và nguyên nhân sinh ra khổ của kiếp người, đó là một sự thật không còn ai phủ nhận được, đúng là 100/100, nên khi nghe Phật thuyết pháp xong thì các quan liền buông xuống hết, theo Phật tu hành và chẳng bao lâu đều chứng quả A La Hán.

Trên đây là các quan chứ không phải là tu sĩ Bà La Môn đã có tu. Vậy khi nghe pháp và chứng đạo chỉ có một thời gian rất ngắn. Như vậy pháp Phật tu hành đâu có khó khăn gì. Phải không các con? Chỉ một bài kinh này cũng đủ xác định: Chứng đạo đâu phải khó khăn và thời gian chứng đạo đâu có lâu dài. Có đúng như vậy không các con?

PHỤ LỤC 2: ĐỨC PHẬT VÀ PHỤ VƯƠNG SUDDHODANA

“Đức Phật và các đệ tử của Ngài được vua Tịnh Phạn, quần thần và dân chúng đón tiếp long trọng. Được nghe đức Phật thuyết pháp. Vua chưng ngay Sơ quả (Tu Đà Hoàn). Khi nghe bài thuyết pháp thứ hai, nhà vua chứng quả Thánh thứ hai (Tư Đà Hàm) , còn bà dì Pajapati Gotami thì chứng Sơ quả. Lần thứ ba đức Phật giảng kinh Dhammapala Jataka cho vua cha và vua cha chứng Thánh quả thứ ba (A Na Hàm. Sách kể rằng: sau này trên giường bệnh vua cha được đức Phật về thăm và giảng pháp, Lần nghe pháp cuối cùng này, vua chứng quả A La Hán. Và sau bảy ngày tận hưởng lạc thú giải thoát, vua qua đời vào năm đức Phật tròn 40 tuổi.(Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trang 36 do HT Thích Minh Châu biên soạn)

Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy một người già như vua Tịnh Phạn khi nghe Phật thuyết pháp xong sống biết buông xả ly dục ly ác pháp liền chứng Sơ Quả; khi nghe bài pháp thứ hai liền chứng Nhị Quả; khi nghe bài pháp thứ ba liền chứng Tam Quả và lần nghe pháp cuối cũng đức Vua liền chứng quả A La Hán và nhập Niết Bàn. Như vậy Phật pháp đâu phải khó tu.

Tu khó là do các con chịu ảnh hưởng của Đại thừa và Thiền Tông, cứ lo tu tập ức chế ý thức cho hết vọng tưởng, nên tu khó và tu mãi chẳng đi đến đâu. Thấy người xưa buông xả quá dễ dàng, còn ngày nay Thầy khô cổ giảng dạy sách tấn khích lệ các con buông xả:

              “Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
              Chớ giữ làm chi có ích gì?
              Thở ra chẳng lại còn chi nữa.
              Vạn sự vô thường buông xuống đi!

Các con không dám buông xả nên từ năm này đến năm khác tu cứ giậm chân tại chỗ. Nhất là các con lại hiều sai sự chứng đạo của Phật, nên có gắng ức chế tâm cho hết vọng tưởng như trên đã nói. Thành ra tu tập cho tới bây giờ mà chưa có người nào chứng quả A La Hán. Quả A La Hán, tu tập đâu có khó khăn như các đoạn kinh trên đã dạy. Thầy sẽ chứng minh thêm một phụ bản nữa để các con thấy sự chứng đạo của đạo Phật không có khó khăn.

PHỤ LỤC 3: ĐỨC PHẬT VÀ LAHULA (LA HẦU LA)

“Rahula (Hán dịch La Hầu La)là người con trai độc nhất của đức Phật, khi đức Phật còn là Thái tử. Lần đầu tiên đức Phật trở về thăm cố đô và gia đình, sau ngày thành đạo, Rahula lên 7 tuổi, được mẹ và dì Gotami trực tiếp nuôi dưỡng, săn sóc. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng Rahala được chấp nhận vào tăng đoàn, và được đức Phật giao cho ngài Xá Lợi Phất trực tiếp dạy dỗ. Một trong những bài kinh nổi tiếng, đức Phật đích thân giảng cho La Hầu La sau khi La Hầu La xuất gia, là kinh Ambalatthika Raluhovada sutta, trong đó đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của tánh trung thực, của sự phản tỉnh để trừ diệt mọi ý niệm, lời nói và hành vi bất thiện, bất chánh.. Nhờ luyện tập pháp tu định niệm hơi thở, theo lời chỉ dẫn của đức Phật, và sau khi nghe giảng kinh Cula Rahulovada, Ngài La hầu La chứng quả A La Hán. Ngài qua đời trước Phật và Xá Lợi Phất. Trong “Trưởng Lão Tăng Kệ”. Sau khi Ngài chứng quả A La Hán, Ngài có hai bài kệ như sau:

              “Nhờ ta được đầy đủ
              Hai đức tình tốt đẹp
              Được bạn có trí gọi
              La Hầu La may mắn
              Ta là con đức Phật
              Ta lại được pháp nhãn
              Các lậu hoặc đoạn tận
              Không còn có tái sanh
              Ba minh ta đạt được
              Thấy được giới bất tử”

Đối với La Hầu La qua đoạn kinh trên chúng ta thấy La Hầu La có nghe pháp, có tu tập, rồi có chứng đạo, nhưng chứng đạo cũng không có khó khăn, thời gian cũng không lâu. Như vậy trong thời đức Phật người nào được nghe Phật thuyết pháp rồi quyết tâm từ bỏ ly dục ly ác pháp và cuối cùng người nào cũng chứng quả A La Hán hết chỉ có những người nghe pháp rồi bỏ qua không chấp nhận và không thiết tha xả bỏ tham, sân, si, mạn, nghi thì không bao giờ chứng đạo được.

Muốn tu chứng đạo mà đời không dám bỏ thì tu làm sao chứng được. Trong bộ sách Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống tập II Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình”. Đây là những giới luật đầu tiên cho người mới xuất gia theo Phật giáo. Người mới xuất gia là người phải buông xả sạch đời sống thế gian. Cho nên những người nghe pháp xong liền xin Phật xuất gia thì không bao lâu họ sẽ chứng quả A la Hán, chính là do họ buông xả sạch đời sống thế tục.

Mười vị sứ giả của vua Tịnh Phạn sai đến mời Phật về thăm cố đô, nhưng khi gặp Phật nghe pháp liền xin xuất gia theo Phật tu hành không cần đến danh lợi, tiền của, vật chất, gia đình, vợ con, quan cao chức lớn. Có xả tâm như vậy mới có chứng quả A La Hán một cách dễ dàng và chỉ trong một thời gian ngắn mà thôi.

Để kết luật những lời tâm huyết này Thầy xin nhắc các con, hãy nên lưu ý pháp tu Tứ Niệm Xứ “Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu; trên thọ quán thọ...; trên tâm quán tâm...; trên pháp quán pháp để nhiếp phục tham ưu”.

Bài kinh dạy như vậy nhưng rất nhiều người hiểu sai thành thử chia pháp môn Tứ Niệm Xứ thành ra bốn pháp tu tập. Cho nên có trường thiền chuyên tu QUÁN THÂN; có trường thiền chuyên tu QUÁN THỌ; có trường thiền chuyên tu QUÁN TÂM; có trường thiện chuyên tu QUÁN PHÁP

Đây là một cái sai của các nhà học giả tu hành chưa tới nơi mà dám chia pháp môn Tứ Niệm Xứ, rồi đem dạy người tu tập thật là tội nghiệp.

Pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn xả mọi chướng ngại trên thân tâm, cho nên nó mới được gọi là nhiếp phục tham ưu. Nhưng khi quán thân là đã có quán tâm, quán thọ và quán pháp.

Khi ngồi tu Tứ Niệm Xứ là không tu gì cả, chỉ ngồi chơi như người vô sự. Người vô sự thì tâm họ ở đâu? Đã vô sự thì ý thức quán thân nó, chứ nó ở đâu?

Quán thân không có nghĩa là nó đang tư duy suy nghĩ, quán ở đây có nghĩa là nó tĩnh giác cảm nhận toàn thân tức là nó đang quan sát thân. Cho nên thân nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; tâm nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; thọ nó có chướng ngại gì thì nó liền biết; pháp có chướng ngại gì thì nó liền biết. Nhờ biết đó mà nó dùng pháp "như lý tác ý" đuổi đi các chướng ngại ra khỏi bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Khi các chướng ngại ra khỏi thân, thọ, tâm, pháp thì ý thức lúc biết thân, lúc biết thọ, lúc biết tâm, lúc biết pháp. Khi nó đang quán như vậy thì các con đừng tác ý khởi niệm, nếu khởi niệm là tâm các con đang phóng dật.  

Mục đích tu tập của TỨ NIỆM XỨ là tâm không phóng dật. Chỉ khi nào trên thân, thọ, tâm và pháp có chướng ngại pháp thì mới tác ý xả, còn không chướng ngại thì không tác ý. Các con đừng hiểu lầm xả từng niệm trong tâm, đó là các con tu sai pháp

Các con nên lưu ý cách thức QUÁN TỨ NIỆM XỨ, nếu không lưu ý các con sẽ quán sai thành ra quán ức chế tâm, chứ không phải quán Tứ Niệm Xứ.

Pháp môn này đức Phật tu tập 49 ngày đêm là chứng đạo. Thầy sáu tháng rưỡi chứng đạo. Ông Châu Lợi Bàn Đặc cũng do tu tập pháp môn này mà chứng đạo. Vì thế, trước khi nhập Niết Bàn đức Phật đã di chúc lại cho người đời sau: “Hãy lấy giới luật và giáo pháp của Ta làm thầy, đừng lấy ai làm thầy; làm ngọn đuốc soi đường, làm chỗ nương tựa vững chắc”.

Còn năm tháng nữa chúc các con chứng quả A La Hán để không phục lòng Thầy mong đợi. 

                                                                       Thân thương chào các con.

                  Nguồn trích lục:
                  1. Những Bức Tâm Thư tập I - NXB Tôn giáo Hà Nôi - 2008 - trang 146 - 176.
                  2. Đường Về Xứ Phật tập VII - NXB Tôn giáo Hà Nội - 2007 - trang 345 - 377.

067-KHÔNG CÓ "THẾ GIỚI SIÊU HÌNH" - MỞ VỀ NGOẠI CẢM. Minh Đạo

Trong bài viết "Ngoại cảm có hay không, thực hay bịp?" đăng trên "Tạp chí cây thuốc quý‎" số 181 của tác giả Trọng Linh, có đề cập đến trường hợp nhà ngoại cảm Liên Xô cũ trước đây là bà N.KULAGINA, người phụ nữ này đã lôi cuốn sự chú ý của các nhà khoa học, qua khả năng tác động từ xa lên ngoại vật, xóa được hình trên phim ảnh, làm quay kim la bàn, làm lệch tia Laser, làm tăng tính dẫn điện của môi trường.

Bài báo đề cập đến một hiện tượng có thực, đã từng xảy ra trong đời sống xã hội của loài người, như ở Liên Xô trước đây, ngày nay ở Việt Nam qua vấn đề tìm mộ liệt sỹ, cũng như ở khắp nơi trên thế giới, qua khả năng biểu đạt của các nhà ngoại cảm.

Nhiều nhà khoa học thế giới đã từng quan tâm tìm hiểu nghiên cứu về hiện tượng ngoại cảm của con người nhưng chưa ai có thể l‎ý giải được bản chất của sự việc khiến hiện tượng ngoại cảm dù muốn hay không, cũng mang mầu thần bí.

Nếu không vén được bức màn bí mật, buộc phải tin có một thế giới khác - Thế gới siêu hình của thần tiên, ma quỷ v.v… đang tồn tại ngoài chúng ta, nó sẽ lộng hành gây ra đau khổ cho loài người vì những chuyện mê tín nhảm nhí. Nếu thế giới siêu hình này có thật, liệu tương lai loài người sẽ đi về đâu?

Rất may mắn ở nửa cuối thế kỷ thứ 20, có một người Việt Nam tu hành theo đạo Phật và đắc đạo, đó là Trưởng lão Thích Thông Lạc tại Tu Viện Chơn Như ở Trảng Bàng, Tây Ninh, bằng trí tuệ Tam Minh đạt được qua tu hành mà có, Ngài hiểu thấu bản chất của vấn đề. Ở trong một loạt đầu sách đã được Nhà nước cho phép ấn bản, Ngài chỉ thẳng thế giới siêu hình không có – năng lực của các nhà ngoại cảm là năng lực do tưởng uẩn hoạt động phát sinh ra. Sách của Ngài viết đã đến tay người đọc, vì có duyên được xem các ấn phẩm này, tôi muốn được chia sẻ những hiểu biết còn hạn chế, phần nào giúp các bạn hé mở về ngoại cảm .

* * *

Như chúng ta biết loài người luôn có hai mối quan tâm, đó là xu hướng muốn tìm hiểu khám phá những gì đang tồn tại quanh đời sống con người. Đi theo mối quan tâm này, các nhà khoa học tự nhiên và xã hội, là những người lính xung kích đi đầu trong sự khám phá. Bằng óc quan sát họ phân tích và quy nạp các vận động của tự nhiên và xã hội để khám phá ra bản chất của sự kiện, qua đó góp phần cải tạo tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ cho lợi ích của con người ngày càng tốt đẹp.

Mối quan tâm thứ hai, đó là con người do đâu mà sinh ra, nỗi khổ của con người do đâu mà có? Đi theo xu hướng này, các tôn giáo đều có những giải thích khác nhau, nhưng các cách giải thích đó không thuyết phục được những người có hiểu biết.

Cách đây 2556 năm, đức Thích Ca đã tiếp cận vấn đề một cách trí tuệ hơn. Bằng thiền định, Ngài tập trung sự quan sát của mình để khám phá, phân tích và quy nạp sự vận động bên trong của nội tâm, chính như thế Ngài nhận biết được: Con người do nhân quả mà sinh ra, nỗi khổ của con người do vô minh mà có. Từ nhận thức này Ngài tìm cách diệt trừ vô minh là nguyên nhân gây ra đau khổ của con người.

Ở đây chúng ta nên hiểu vô minh không có nghĩa là ngu dốt không hiểu biết, mà vô minh chính là sự hiểu biết không chuẩn xác về bản chất của sự việc, của con người và của vũ trụ. Do nhận thức sai lầm đã dẫn con người vào chỗ khổ đau và sinh tử luân hồi.

Đức Thích Ca bằng trí tuệ và sự nỗ lực tinh cần trong tu hành, rèn luyện, Ngài sửa chữa những nhận thức sai lầm để loại trừ nguyên nhân gây ra đau khổ. Sự kiên trì theo đuổi mục đích diệt khổ đã giúp đức Thích Ca chiến thắng mọi khổ đau và chấm dứt tái sinh luân hồi. Khi diệt trừ hết vô minh, Ngài chứng đạt một trí tuệ chưa ai có được, đó là trí tuệ Tam Minh, để lại cho nhân loại một nền di sản văn hóa vô cùng rực rỡ là những giáo l‎ý mang phẩm chất tinh hoa của trí tuệ loài người.

Nhìn chung giữa đạo Phật và khoa học có mối tương đồng và cũng có những dị biệt. Tương đồng là đều dùng óc quan sát, phân tích và quy nạp các sự kiện để đi tìm bản chất, cho nên đều hình thành trí tuệ.

Dị biệt là khác nhau về hướng quan sát nghiên cứu sự kiện. Các nhà khoa học hướng ngoại, cho nên trí tuệ đó là hữu hạn, có nhiều hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và xã hội các nhà khoa học vẫn chưa thể lý‎ giải được. Đạo Phật quay vào quan sát nội tâm, thành tựu trí tuệ vô hạn. Chính ENSTEIN nhà bác học lỗi lạc nhất của loài người trong thế kỷ 20 đã tuyên bố: Nếu trong thế kỷ 21 con người cần đến tôn giáo thì đó chính là đạo Phật.

* * *

Trở lại đề tài về các nhà ngoại cảm, như phần đầu chúng ta được biết: Năng lực của các nhà ngoại cảm đều là năng lực của tưởng uẩn sinh ra. Vậy tưởng uẩn là gì?

Theo giáo lý‎ của nhà Phật, con người được hình thành bởi hai thành phần là danh và sắc. Sắc là phần vật chất là con người bằng xương bằng thịt cụ thể của chúng ta. Danh là phần đời sống tinh thần bao gồm (thọ, tưởng, hành, thức) thọ ở đây được hiểu là sự cảm nhận của cơ thể, hành là sự hoạt động của thân và tâm, thức là sự nhận biết của cơ thể, tưởng là một hoạt động tinh thần của não, nó chỉ hoạt động khi‎ ý thức ngừng hoạt động hoặc khi ý thức nắm bắt sự kiện không được cụ thể, lúc đó tưởng sẽ tham gia vào.

Sự tham gia của tưởng mang lại lợi ích nếu việc ấy là thiện, sẽ đem lại tai họa khổ đau nếu việc ấy là bất thiện.

Như chúng ta biết hoạt động của não người gồm có 3 phần hoạt động của ý thức, hoạt động của tưởng thức, hoạt động của tâm thức. Chúng ta tìm hiểu để biết về hoạt động của bộ não chúng ta.

A- Hoạt động của ý thức.

Thế giới tự nhiên xung quanh chúng ta rất là phong phú, đó là thế giới của âm thanh, mầu sắc, mùi, vị, thời tiết, tư tưởng… hàng ngày chúng tác động đến đời sống con người. Những thông tin này qua các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) để tiếp nhận và xử lý chúng. Các giác quan nếu không có ý thức tham gia thì không thể phân biệt được sự việc một cách cụ thể. Vì vậy hoạt động của ý thức là hoạt động tinh thần có tính phân biệt, so sánh để xử lý hoặc chọn lựa đối tượng. Nhờ hoạt động của ý thức mà xã hội của loài người đã không ngừng phát triển trên nhiều lĩnh vực của khoa học tự nhiên và xã hội. Mặc dù hoạt động của ý thức con người vẫn chưa phát huy hết năng lực của nó vậy mà biết bao nhà khoa học, kỹ sư, bác sỹ, các nhà tri thức nhờ hoạt động của ý thức đã trở thành nổi tiếng.

B- Hoạt động của tưởng thức.

Hoạt động của ý thức được phân chia trên nhiều điểm như: Ý thức giúp cho mắt phân biệt được hình dáng kích thước của vật, phân biệt được các mầu sắc, giúp cho tai phân biệt được các cung bậc của âm thanh, giúp cho mũi ngửi được các mùi hương, giúp cho lưỡi phân biệt được các vị, ý thức còn giúp phân biệt được đúng, sai, phải, trái, tốt, xấu, thiện, ác… vì ý thức hoạt động trên nhiều điểm, nên năng lực của nó bị chia sẻ hạn chế bởi không gian thời gian.

Hoạt động của tưởng chỉ có khi ý thức ngừng làm việc (khi ngủ mơ), hoặc khi ý thức nắm bắt sự việc chưa rõ ràng: Ví dụ: ý muốn làm một việc gì đó mà chưa thành thì gọi đó là ý tưởng, khi ta nghi ngờ một việc gì thì đó là hoạt động của tưởng, khi nhớ về việc gì thì gọi đấy là nhớ tưởng và suy tưởng, khi ta ngủ mơ, giấc mơ gọi là mơ tưởng. Hoạt động của tưởng không liên tục thường xuyên như của ý thức, nhưng cũng phong phú đa dạng, chỉ có điều con người khó nhận biết về nó.

Vì hoạt động tại một điểm cho nên ta có thể bắt gặp những người thân trong quá khứ với những người của hiện tại trong cùng một giấc mơ. Điều đó chứng tỏ hoạt động của tưởng không hạn cuộc bởi không gian và thời gian, năng lực không bị phân tán vì thế có thể tạo ra nhiều điều kỳ diệu.

 Những câu truyện kỳ lạ của các nhà ngoại cảm đều là năng lực do tưởng tạo ra, năng lực này xuất hiện qua hai nguyên nhân.

1- Những người gặp phải những biến cố đặc biệt: Bị điện giật, bị chó dại cắn, bị bệnh sốt thập tử nhất sinh mà không chết v.v… qua các sự cố như vậy đã kích hoạt các tế bào não ở phần tưởng uẩn làm việc tạo ra năng lực của các nhà ngoại cảm như nhà tiên tri người Bungari là bà Vanga, bà gặp phải trận bão tuyết lớn đã quăng quật khiến bà chết lịm, khi tỉnh lại hai tai bà điếc đặc từ đó không nghe rõ tiếng, sau biến cố bà phát hiện khả năng mình biết trước được số phận của nhiều người, từ đó trở thành nhà tiên tri. Chị BH ở Việt Nam bị chó dại cắn lên cơn sốt cao co giật nhưng không chết, sau khi qua khỏi bỗng phát hiện có thể nhìn thấy hình ảnh người đã chết và giao lưu được với họ, từ đó thành nhà ngoại cảm đi tìm mộ các liệt sỹ. Có người sau biến cố có khả năng hút được các đồ vật bằng kim loại vào cơ thể, hoặc làm cho bóng đèn điện phát sáng như câu truyện lạ mà VTV3 đã phát trên truyền hình.

2- Trường hợp những người do tu tập khí công, nhân điện, YOGA, thuật thôi miên và các loại thiền ức chế tâm, họ đã làm cho ý thức của họ ngừng làm việc để tưởng uẩn hoạt động, tạo ra những trò lạ mắt, những trò kỳ đặc, để thu hút và lôi cuốn mọi người. Cả hai trường hợp trên đều là năng lực do tưởng uẩn tạo ra.

 

C- Hoạt động của tâm thức.

Phần tế bào não của tâm thức rất ít khi làm việc. Bằng phương pháp ly dục ly ác pháp để loại trừ vô minh tiềm ẩn trong từng hành vi ở nơi con người, đức Phật và sau Ngài là những vị Thánh đệ tử của Ngài do tu tập đúng như giáo lý và phương pháp mà đức Phật đã chỉ dạy, đã làm được một việc mà ít ai làm được đó là: Làm cho ý thức ngừng làm việc (tịnh chỉ ý), làm cho tim phổi ngừng hoạt động mà không chết. Năng lượng trong cơ thể không bị hao phí vào các hoạt động khác, đã dồn năng lượng vào nuôi dưỡng và kích thích tế bào não thuộc phần tâm thức làm việc, các Ngài đã chứng đạt những khả năng còn kỳ diệu hơn tất cả các nhà ngoại cảm hiện có.

Trong bài kinh SAKULU DAYI (kinh Trung Bộ tập 2), đức Phật đã dạy: “Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của ta, y cứ con đường tu hành này, dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng được các thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không, độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước như đi trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với tay chạm và rờ mặt trời mặt trăng, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy…”.

Các ngài còn chứng đạt được những nhận thức siêu việt, đó là trí tuệ tam minh với những năng lực đặc biệt:

- Nhận biết được rõ ràng mọi vật dù ở rất xa, khả năng này gọi là thiên nhãn minh.

- Nhận biết được số phận của mình và của người từ nhiều đời nhiều kiếp, khả năng này gọi là túc mạng minh.

- Nhận biết được bản chất của mọi vấn đề một cách rõ ràng nhất không gì che lấp được, khả năng này gọi là lậu tận minh (nhận biết thế giới rõ thật như nó đang là).

Người nào có được ba khả năng trên là người đã làm chủ được sinh tử luân hồi, giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khổ đau trói buộc.

* * *

Quay trở lại đề tài ban đầu, chúng ta thử đi tìm một cách lý giải các hiện tượng ngoại cảm, qua lăng kính của khoa học. Theo quan điểm của các nhà vật lý thì mọi hiện tượng đang xảy ra trong tự nhiên và đang tồn tại trong tự nhiên đều là những dạng biểu hiện khác nhau của năng lượng. Quan điểm này phù hợp với định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của nhà bác học người Nga là Lô Mô Nô Xốp đã tuyên bố:

“Năng lượng không tự nhiên sinh ra, cũng không tự nhiên mất đi, nó chỉ được biến đổi từ dạng này sang dạng khác.”

Như vậy theo tinh thần trên, năng lượng mới chính là chìa khóa để chúng ta tìm hiểu vấn đề ngoại cảm. Vì con người cũng chỉ là một dạng vật chất của thế giới tự nhiên, nhưng là một dạng vật chất hữu cơ đặc biệt khác với các vật chất khác vừa mang tính vật lý, vừa mang tính hóa học, vừa mang tính sinh học, vừa mang tính xã hội có tổ chức cao, vừa có trí tuệ và tâm hồn. Đúng như KARMAR đã nhận định con người là tổng hòa của các mối quan hệ.

Chính vì tính phong phú đa dạng, mà ở mỗi người có rất nhiều năng lực biểu hiện khác nhau, phù hợp với những khả năng khác nhau của cơ thể, mà bộ não lại là một dạng vật chất có tổ chức đặc biệt và tinh vi nhất. Nó có khả năng thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới bên ngoài tác động tới, đồng thời nó cũng có khả năng truyền các lượng thông tin ra thế giới tự nhiên bằng lời nói, hàng động và tư tưởng. Vì vậy có thể nhận xét: Sự tồn tại của con người chính là sự tồn tại của quá trình thu nạp năng lượng để rồi vận hành năng lượng mang tính biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Từ nhận xét này cho chúng ta sự suy nghĩ: Khi chúng ta từ bỏ cõi đời này chỉ là từ bỏ một hình hài cụ thể do năng lượng đã tạo ra, còn năng lượng đã tạo ra con người sẽ được trả về cho năng lượng ở những dạng khác nhau. Điều này đúng như giáo lý nhà Phật đã dạy nghiệp trả về với nghiệp, còn tứ đại lại trả về cho tứ đại.

Dưới ánh sáng của định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng soi tỏ, chúng ta đi tìm cách lý giải các hiện tượng ngoại cảm. Như ở phần trên đã biết về cơ chế hoạt động của tưởng uẩn chỉ hoạt động tại một điểm (phi không gian, thời gian) nên khả năng giao cảm với quá khứ vị lai. Không bị chia xẻ phân tán, nên năng lực của nó mạnh mẽ tạo ra nhiều điều kỳ lạ. Tất cả chỉ có thể được hiểu rằng từ dạng năng lượng sinh học ở nơi cơ thể con người, đã được cơ thể biến đổi thành một dạng năng lượng mang tính vật lý, hóa học… ở trong tự nhiên cũng có những cá thể sinh học biến đổi được như vậy.

Con dơi mắt nhìn rất kém khi bay trong bóng tối nhưng nó có khả năng phát ra một luồng sóng siêu âm về phía trước, gặp vật cản luồng sóng đó phản hồi trở lại giúp con dơi định được hướng bay và bắt mồi dễ dàng. Ở một vùng biển, có một loại cá có khả năng phóng ra một dòng điện có điện thế cao làm tê liệt con mồi và cũng để tự bảo vệ. Chúng ta còn gặp trong tự nhiên nhiều cá thể sinh học khác, cũng có thể biến đổi năng lượng sinh học để mang tính hóa học, vật lý… giúp chúng thích nghi với sự tồn tại của chúng trong tự nhiên.

Cuối thế kỷ thứ 20 đầu thế kỷ thứ 21 nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, internet đã trở thành hệ thống thông tin có tính toàn cầu, hàng ngày cư dân mạng đã gửi và nhận một số lượng thông tin vô cùng lớn qua hệ thống internet. Gần đây các nhà khoa học đã phát hiện ra những đám mây điện tử tích tụ trong không gian có khả năng lưu giữ được các thông tin mà không bị virus máy tính phá hoại như khi còn lưu giữ tại máy chủ, khi cần có thể lấy lại các thông tin này từ các đám mây trên.

Sự kiện trên cho chúng ta một hướng để lý giải về hiện tượng đi tìm mộ liệt sĩ của các nhà ngoại cảm. Khi gửi một thông tin trên máy tính chúng ta đã tham gia biến đổi một năng lượng từ dạng này qua dạng khác. Khi thông tin đã gửi xong năng lượng đó không mất, mà đã được tích tụ thành đám mây điện tử như trên đã đề cập. Cũng vậy hàng ngày chúng ta đã tiêu tốn năng lượng để biến nó thành nhiều hoạt động ở nơi con người, chúng không mất đi mà biến thành một dạng khác tạm gọi nó là những đám mây từ trường nghiệp. Chúng lưu giữ những hành động đã qua của con người.

Với những người mà năng lực tưởng uẩn làm việc như các nhà ngoại cảm, họ có thể tiếp nhận các thông tin này. Khi xưa đức Thích Ca chứng đạo, Ngài có thể biết được quá khứ của Ngài và nhiều người khác từ nhiều đời nhiều kiếp, các nhà ngoại cảm chỉ biết được số phận của liệt sĩ trong quá trình đi tìm mộ mà thôi. Gần đây có một số người sau một thời gian hoạt động tưởng uẩn làm việc kém đi hiệu quả không còn chính xác như trước. Vì sao có sự khác nhau như vậy?

Bởi đức Phật và các vị thánh đệ tử của Ngài có khả năng điều kiển được não Thức uẩn làm việc, còn các nhà ngoại cảm thì bị phụ thuộc vào não Tưởng uẩn của họ có làm việc, khả năng ngoại cảm mới có. (Sự khai mở não Thức Uẩn làm việc chỉ có thể có được khi hành giả nhập Tứ Thiền. Còn Tưởng Uẩn của các nhà bị tai biến – các tai biến như đã nêu ở trên hoặc tai biến do tu tập không đúng pháp – khiến Ý thức ngưng làm việc thì Tưởng thức hoạt động).

Như vậy định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng góp phần chứng minh cho giáo lý nhà Phật khi tuyên bố: Không có thế giới siêu hình, năng lực của các nhà ngoại cảm chỉ là năng lực do tưởng uẩn phát sinh.

Bức màn bí mật của các hiện tượng ngoại cảm một khi chưa được vén lên nó sẽ làm cho loài người phải điêu đứng khốn khổ vì tin rằng sau khi chết linh hồn con người sẽ về các cõi thiên đường hoặc địa ngục để làm thần tiên hoặc ma quỷ… Niềm tin mê tín ấy đã ám ảnh loài người từ quá khứ, trong hiện tại, đến tương lai. Hiện đang trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ vậy mà năng lực của bộ não con người hoạt động dưới hình thức của tưởng uẩn cũng ít người biết đến. Nhiều người vẫn tin vào thế giới siêu hình là có thật, để phải tốn tiền, tốn của vô ích vào các chuyện mê tín nhảm nhí như: xin xăm, bói quẻ, cầu an, cầu siêu, lên đồng, nhập cốt…

Đến nay có thể khẳng định thế giới siêu hình không có, mọi hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và đang tồn tại trong tự nhiên đều là những dạng biểu hiện khác nhau của năng lượng. Với những hiện tượng kỳ lạ xảy ra ở nơi này, nơi kia trong đời sống của loài người chỉ là những dạng biến đổi khác nhau của năng lượng sinh học. Và tưởng uẩn của bộ não là nơi nhận các thông tin từ thế giới tự nhiên, để rồi phóng xuất những năng lực của tưởng ra thế giới bên ngoài. Hiện tượng ngoại cảm không còn là hiện tượng bí ẩn, hiểu rõ được nó sẽ mang lại lợi ích cho con người, bằng không sẽ gây ra tai họa cho con người.

Khi viết bài này tôi xin trân thành cảm ơn Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã viết một loạt đầu sách giải thích về hoạt động của tưởng uẩn, cảm ơn nhà xuất bản Tôn Giáo đã cho in ấn và phát hành sách đến tay người đọc, cảm ơn các nhà khoa học đã giúp ta những hiểu biết khoa học để ta làm căn cứ tìm hiểu làm sáng tỏ bản chất của các hiện tượng ngoại cảm đã từng xảy ra trong đời sống xã hội của loài người.

                                                                                                        Minh Đạo

069-NHỮNG ĐỨC HẠNH CỦA THẦY. (Phi Mạnh trích lục và giải trình).

1- TRÍCH 1

Khi Thầy bắt tay vào làm việc thì gặp biết bao nhiêu là gian nan; biết bao nhiêu là sóng gió phũ phàng. Các con có biết không? Thầy chỉ biết thương và tha thứ (Đức hiếu sinh và đức tha thứ), không biết giận hờn (Đức ly sân), oán trách, nói xấu một ai hết (Đức ái ngữ), vì tất cả các con đều vô minh, đều đáng thương cả (Đức Hiếu Sinh).

Thầy dạy các con đoàn kết (Đức đoàn kết), các con lại không nghe, mãi tranh chấp hơn thua, những điều này khiến cho Thầy quá mệt mỏi. Đối với Thầy chỉ có con đường vượt qua mọi thử thách, mọi gian lao, chứ không chùn bước (Đức vượt qua). Nhưng đứng trước mọi nghịch cảnh Thầy không tranh chấp, không hơn thua với ai cả (Đức không tranh chấp), dù bất cứ một người nào, dù là những trẻ con (Đức tôn trọng). Thầy chỉ có biết xả bỏ (Đức buông xả), biết thương yêu (Đức hiếu sinh), biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng (Đức nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng) và biết im lặng như Thánh (Đức im lặng như thánh), nên cuộc đời Thấy sống an nhàn, thanh thản và vô sự (Đức giải thoát).

                (Tâm thư gửi phật tử Hà Nội ngày 23/9/2006 –
                Những Bức Tâm Thư tập I – NXB Tôn Giáo Hà Nội – 2008, tr 214).

2- TRÍCH 2

Thầy là một tu sĩ không của cải, không tài sản, không chùa to Phật lớn, đời sống chỉ có ba y một bát. Thầy là một du tăng nay ở chỗ này mai ở chỗ khác. Tu viện Chơn Như thuộc về Giáo Hội, Giáo Hội cho của cải tài sản là của phật tử là của chung, của chung là của Giáo Hội, của Nhà nước, của Ban Tôn Giáo. Lấy của chung thì phải làm lợi ích cho mọi người, đó là niềm vui. Của cải tài sản vật chất là vô thường có vật gì bền chắc đâu, thân này còn giữ không được huống là tu viện, vì thế ai muốn thì Thầy vui lòng giao lại cho, không hề tiếc một điều gì cả. (Đức buông xả).

(Tâm thư ngày 24/4/2009 – Những Lời Tâm Huyết – NXB Tôn Giáo Hà Nội – 2009, tr 49).

3- TRÍCH 3

Thầy xin kể câu chuyện thứ nhất trong thời đức Phật, ngày xưa người ta lôi xác chết của một phụ nữ bị giết chôn sau thất Phật, rồi họ tố cáo đức Phật giết.

Câu chuyện thứ hai, người ta còn đưa một phụ nữ mang thai và bảo rằng đức Phật là một tác giả.

Hai câu chuyện xảy ra động trời như vậy, nếu đặt các con cùng sống trong thời gian ấy thì các con xem Phật ra sao? Có phải bằng con mắt nghi ngờ khinh chê không? Có phải bỏ đức Phật ra đi không? Có đúng như vậy không các con?

Ngược lại những chuyện động trời như vậy mà chúng tỳ-kheo trong thời đức Phật im lặng như Thánh (Đức im lặng như thánh), họ không hề dao động, vì lòng tin của họ quá sâu đậm với đức Phật và họ là những người tâm bất động (Đức giữ gìn tâm bất động). Họ thấy đó là chuyện tầm thường của thế gian, có đáng gì cho họ nghi ngờ Phật, vì họ ngộ pháp Phật và biết Phật là người đầy lòng yêu thương và buông xả tất cả thì làm gì có việc ấy (Đức lòng tin). Có đúng như vậy không các con? Nhưng các con tâm còn mê mờ, ngay cả khi nghe pháp xong liền chứng đạo là các con còn không tin, thì chuyện tày trời này làm sao các con không nghi ngờ.

Chúng ta hãy dẹp câu chuyện thần thông huyền thoại qua một bên để tìm thấy lòng người lúc bây giờ. Chúng tỳ-kheo trong thời đức Phật họ đã thâm nhập những lời dạy của Phật nên họ bất động khi thấy đức Phật bị hàm oan hãm hại. (Đức giữ gìn tâm bất động) Những giáo sĩ Bà La Môn muốn hại Phật, thì họ phải dựng lên những chứng cớ rõ ràng, nếu không dựng lên những chứng cớ rõ ràng thì làm sao hạ uy tín của Phật được. Các con đừng nghe trong kinh dựng lên những thần thông để giải oan cho Phật như tiểu thuyết Trung Hoa thì thật là buồn cười. Có sóng gió như vậy mới thấy tâm Phật bất động, mới thấy Phật là người xứng đáng cho chúng ta cung kính tôn thờ. Phải không các con?

Còn Tu Viện chỉ sóng gió chẳng ra gì mà các con dao động hội họp ngày nào cũng vậy, chứng tỏ lòng tin của các con đối với Thầy còn yếu lắm. Nếu câu chuyện của Phật ngày xưa mà đặt vào Thầy thì các con sẽ bỏ đi hết chớ gì. Có đúng như vậy không?

Câu chuyện sóng gió của Chơn Như có ra gì mà tâm các con còn dao động, như vậy các con tu tập không có xả tâm mà chỉ ức chế tâm, tu như vậy có ích lợi gì cho ai, tu như vậy là tu sai pháp, tu như vậy là tu uổng công các con ạ!.

Danh đối với Phật có nghĩa lý gì, còn Thầy, khi các con bỏ đi Thầy chỉ mỉm cười ung dung bước vào tù, vì tội giết người, vì tội hiếp dâm. Thầy không một lời minh oan các con ạ! (Đức giữ gìn tâm bất động)

"Những buổi chiều tà mưa phủ trắng. Thầy cười tha thứ kẻ vô minh". (Đức hiếu sinh tha thứ).     

               (Tâm thư gửi phật tử Hà Nội ngày 23/9/2006 –
               Những Bức Tâm Thư tập I – NXB Tôn Giáo Hà Nội – 2008, tr 225-227).

4- TRÍCH 4

Kính gởi: Cô Liên Châu và Tuệ Hạnh.

Khi Thầy rời khỏi tu viện là để thành lập các Ban, do các Ban điều hành tu viện, nhờ đó Thầy được rảnh rang biên soạn những bộ sách Đạo Đức Làm Người và bộ sách Giới Luật Đức Hạnh của Phật (Đức hiếu sinh đa hướng).

Khi Thầy rời khỏi tu viện thì chỉ còn hai tháng nữa mới giải hạ, thế mà quý sư thầy lại bỏ thất đi chơi. Thì làm sao Thầy không khuyên họ sống đúng giới luật, đừng làm như vậy phật tử cười chê. (Đức khuyên bảo)

Các con yên tâm, đó là những việc dạy bảo của Thầy, không có việc gì quý Thầy làm qua mắt Thầy được, nhưng khi Thầy còn ở trong tu viện khuyên bảo dạy dỗ các sư, thầy có nghe cũng tốt, không nghe thì thôi, chứ Thầy biết làm sao hơn (Đức từ, bi, hỷ, xả).

Nhưng các con là cư sĩ phật tử gánh vác những cơm ăn áo mặc đời sống của họ, thế mà để họ đã sống không đúng giới luật thì Thầy phải có trách nhiệm nhắc nhở. (Đức trách nhiệm)

Thầy xin lỗi các con. "GIÁO BẤT NGHIÊM SƯ CHI NỌA". Người Thầy dạy dỗ học trò mà không nghiêm túc giới luật thì phải chịu lỗi. (Đức nhìn lỗi mình)

Vậy các con thương Thầy mà bỏ qua. Tuy rằng Thầy ở xa nhưng lúc nào Thầy cũng chăm lo sự tu hành của quý thầy, quý sư nên họ làm gì Thầy đều biết, chứ không có ai báo cho Thầy biết đâu, các con ạ!

Thấy sự phá giới của thầy này được, thì sẽ có thầy khác phá giới nên Thầy viết thư khuyên bảo để ngăn ngừa các thầy khác sẽ không theo vết xe cũ (Đức khuyên bảo).

Thầy mong sao quý sư thầy trở thành những người giới luật nghiêm túc để Phật giáo được trường tồn mãi mãi. Đó là điều ước mong nhất của người Thầy. (Đức hiếu sinh)

Thầy rất biết ơn các con phật tử Thành Phố Hồ Chí Minh đã lo cho đời sống 20 tăng ni sinh học khoá đào tạo bảy tháng lớp tu chứng đạt chân lí tâm bất động, tưởng đâu tăng ni sinh đã rớt hết nhưng không ngờ cũng còn được 2 người tuy chưa hoàn toàn nhưng kết quả tu hành rất cụ thể. (Đức tri ân)

Cuối thư Thầy thăm và chúc các con vui mạnh gặp nhiều may mắn để tiến về đường tu giải thoát (Đức hiếu sinh sách tấn khẩu hành).

                                                                                  Thân thương chào các con.

           (Tâm thư gửi Liên Châu ngày 26/10/2006 –
           Những Bức Tâm Thư tập II – NXB Tôn Giáo Hà Nội – 2008, tr 150-151).

070-Ý KIẾN ĐỘC GIẢ VỀ "CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT".

Kính thưa quý độc giả và phật tử!

Sau khi đưa bài kinh “Chuyện Tiền Thân Đức Phật” lên trang (09/5/2013), chúng tôi nhận được thư phản hồi với tâm trạng rất bức xúc của một phật tử. Những bức xúc đó cùng chung tâm trạng của chúng tôi đối với chánh Phật pháp từ bao lâu nay bị “những con trùng trong lông sư tử” đã và đang cố gắng tìm cách giết chết sư tử. Thương thay cho lũ trùng ngu dại, chúng không thể dìm mất chánh pháp một lần nữa. Chánh pháp đã được đức Trưởng lão dựng lại, được những người con đủ trí giữ gìn và bảo vệ nên chắc chắn Chân Phật Pháp ngày càng được sáng rạng, tà đạo sẽ bị bóc trần rồi vứt bỏ.

Nhân đây chúng tôi có thêm đôi điều trao đổi cùng quý vị để chúng ta cùng nhau hiểu thêm về Chánh đạo – Tà đạo, để cùng nhau vững bước trên con đường thênh thang giải thoát của đạo Phật Nguyên Thủy mà ngày nay đức Trưởng lão đã minh chứng lại rõ ràng. Trước khi trao đổi, chúng tôi xin giới thiệu bức thư của một phật tử để mọi người cùng chia sẻ.     

“Kính gửi BBT trang web giotnangchonnhu.org,

Xin Ban Biên tập xem xét lại đề tài chuyện tiền thân đức Phật, đây là những mẩu chuyện hoang đường mà chính đức Trưởng lão Thích Thông Lạc đã lên án là do người xưa bịa đặt thêm thắt vào làm mất tính chất nguyên thủy của tạng kinh Nikaya.

Các vị thử nghĩ đi: Bồ tát là chính chúng ta, những người đang tu chưa chứng, còn ngu si thì làm sao có thần thông mà đòi đứng trên hư không... hoang đường hết chỗ nói.

Các vị hãy vào Tu Viện Chơn Như hỏi xem rằng: các Bồ tát có phải là người bình thường đang tu học và không có thần thông là đúng hay sai ???

 Và câu hỏi nữa các vị nên hỏi là đức Trưởng lão Thích Thông Lạc đã từng nói những chuyện tiền thân của đức Phật là do người đời sau bịa đặt thêm thắt vào đúng hay không???

Thất vọng một trang web truyền bá tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy mà lại cho đăng những kiến thức sai trái.

Xin quý vị lưu ý trong tạng kinh Nikaya tuy là tạng kinh lâu đời nhất của Phật giáo nhưng đã bị người đời sau thêm thắt thay đổi thứ tự rất nhiều do cố ý (sự phá hoại đạo Phật có chủ ý của các Bà-la-môn) và vô ý (kinh sách ngày xưa truyền miệng mà không ghi ra văn tự nên có sai sót khi người này truyền miệng lại cho người kia.”

                                                                (Tác giả kí tên. Email: quangafc@yahoo.com)

Và chúng tôi cũng đã có thư hồi âm:

“Kính gửi đạo hữu…,

Chúng tôi thành thật cảm ơn đạo hữu đã đọc và quan tâm tới trang giotnangchonnhu.org   Những lời góp ý của đạo hữu rất thẳng thắn, chân thành.

Thưa đạo hữu, chánh Phật pháp Trưởng lão dựng lại thật tuyệt vời. Nhưng loại bỏ được những kiến chấp bởi những "sở kiến, sở tri thâm căn cố đế" bao thế kỷ qua không dễ dàng buông bỏ ngay được đối với rất nhiều người.

Do vậy chúng tôi phải dẫn chứng ra để mọi người đọc thấy rõ, dù là mang nhãn hiệu "Đại Tạng Kinh Việt Nam" được dịch từ nguyên bản kinh Pali vẫn không phải là Phật thuyết tất cả. Nên người đọc phải có Chánh kiến để mà tiếp nhận và tu tập theo. Chí ít để người đọc có thêm Trí Phân Biệt chánh tà. Để quyết rằng: 

             - Những gì đáng tin thì hãy tin.
             - Những gì cần cảnh giác phải cảnh giác.
             - Những gì cần vứt bỏ phải vứt bỏ.
             - ...

Trong bài tuy giới thiệu chuyện Tiền Thân Phật nhưng chúng tôi đã nêu rõ là để THAM KHẢO - TÌM HIỂU chuyện KHÔNG PHẢI PHẬT THUYẾT mặc dù là kinh Nikaya hẳn hoi.

              Một lần nữa xin cảm ơn đạo hữu đã có ý kiến xây dựng.
              Trân trọng kính chào.”

                                                                                                 BBT/GNCN.

Kính thưa quý độc giả và phật tử!

Nhận thấy việc làm rõ Chánh – Tà trong đạo Phật là một việc quan trọng và bức thiết, để người đến với đạo Phật không bị lừa đảo bởi các thầy Tổ xưa và nay hoằng truyền mê hoặc. “Chủ trương ấy là kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự kích thích, dao động, xuyên tạc của những vị bị tham ái chi phối” (Lời kinh Phạm Võng, kinh Trường Bộ).

Để trao đổi, chia sẻ cùng quý vị về “Chuyện Tiền Thân Đức Phật” và nội dung bức thư rất bức xúc của độc giả, chúng tôi xin thêm một số ý sau:

            - Thư độc giả: “Các vị thử nghĩ đi: Bồ tát là chính chúng ta, những người đang tu chưa chứng, còn ngu si thì làm sao có thần thông mà đòi đứng trên hư không... hoang đường hết chỗ nói.”

Không những hoang đường (đối với đời) mà còn rất phi Phật pháp (đối với đạo). Về “thần thông” không phải chỉ những bậc chứng đạo giải thoát mới có thần thông, mà ngay cả những kẻ “còn ngu si” cũng vẫn có thần thông, thực tiễn chúng ta đã nghe, đã thấy. Các vị tu theo Mật Tông (Tây Tạng), Thiền Tông Đông Độ, Tịnh Độ Tông… và các vị tu tập yoga, nhân điện… cũng có thần thông nhưng không phải là những người đã hết ngu si. Lòng tham của họ còn vô độ sao nói hết ngu si được? Thế cho nên lời thư: …“còn ngu si thì làm sao có thần thông mà đòi đứng trên hư không”… đã hàm ý người có thần thông thì hết ngu si!. Không phải vậy!

Người tu theo tà đạo cũng có thần thông, vì khi ức chế được Ý thức ngưng nghỉ để Tưởng thức hoạt động thì năng lực thần thông xuất hiện (tùy khả năng tu luyện) mà thần thông có sự khác nhau bởi năng lực của Tưởng uẩn. Năng lực của Tưởng cũng rất “siêu việt” khiến nhiều người đời mê mẩn coi tưởng như thần thánh. Ai ngờ họ vẫn còn mê si nhiều lắm

Đối với ngoại đạo, dù tu luyện đến tận cùng cũng chỉ có thể đạt được ngũ thông chứ không thể đầy đủ lục thông tam minh như đạo Phật Nguyên Thủy. Đạo Phật phát triển và ngoại đạo có thông (ngũ thần thông) nhưng không có minh (tam minh) vì chưa lậu tận nên vẫn còn ngu si và còn trôi lăn trong luân hồi sinh tử. Đạo Phật Nguyên Thủy có thông (đủ lục thông) và có minh (tam minh) nên đi đến Niết bàn Giải thoát.

Mặc dù có thần thông nhưng người phật tử chân chánh (đạo Phật Nguyên Thủy) không bao giờ thị hiện hai loại thần thông ký thuyếtthần thông biến hóa. Vì hai loại thần thông này thể hiện sự phi đạo đức con người, là lừa đảo nhằm mê mị người để tầm cầu danh lợi. Riêng thần thông giáo hóa thì đạo Phật Nguyên Thủy cố gắng thị hiện hết mình để hoằng truyền chánh pháp hóa độ lợi sinh. Đức Phật xưa và nay đức Trưởng lão, các Ngài đã thị hiện rất nhiều, nhưng những vị bị tham ái chi phối không thể nhận ra được nên họ ra sức phi báng, bài xích chánh pháp kịch liệt.

- Thư độc giả: “Và câu hỏi nữa các vị nên hỏi là đức Trưởng lão Thích Thông Lạc đã từng nói những chuyện tiền thân của đức Phật là do người đời sau bịa đặt thêm thắt vào đúng hay không???”

Điều này chúng tôi nghĩ, những ai đã học tập theo giáo lý Trưởng lão dựng lại thì ít nhiều đều nhận ra cả. Như “Chuyện Tiền Thân Đức Phật” tức là nói về chuyện quá khứ của Ngài. Mà chúng ta thì ai cũng đã nghe và nhớ kỹ bài kinh này: “Quá khứ không truy tìm. Vị lai không ước vọng…”. Vậy Ngài còn mang chuyện quá khứ đầy tưởng tượng ra giảng cho đệ tử nghe sao?

Đức Phật đầy đủ trí tuệ nên Ngài không thể nói hai lời trái chống nhau bao giờ. Đức Phật cũng đã dạy: “Nếu Ta nói điều gì mà người nghe phải hiểu bằng tưởng là có nói láo trong Ta”. Nhưng người sau vì ngu si, vì tham vọng nên không ngại ngùng thêm vào để dối người mong cầu lợi cho minh. Ngày nay kinh Phật vẫn đang tiếp tục bị sửa chữa bởi những kẻ đẩy tham vọng nhưng ngu si nên họ chẳng ngại ngần khi múa bút khua môi, ra sức sửa chữa và “làm mới” những lời Phật dạy. Nổi bật là “Giới Bổn Khất Sĩ Tân Tu, Tứ Diệu Đế (Bốn Sự Thật), Tam Pháp Ấn… đều bị sửa chữa hết sức tùy tiện, thể hiện sự thiếu hiểu biết của một kẻ tham danh lợi đến độ đần độn u mê không thể chấp nhận được.

Bốn Sự thật thì Sự thật thứ nhất: Khổ, ngày nay chỉ còn Khổ một nửa thôi, còn nửa kia rất Vui!!! Tam Pháp Ấn: Vô thường, Vô Ngã, Khổ thì ngày nay bị sửa thành Vô thường, Vô Ngã, Niết Bàn. Như thế đấy, họ hiểu đời là vô thường, vô ngã, niết bàn nên cần gì tu tập nữa đâu, thảo nào suốt đời họ chỉ mải mê tận hưởng Danh và Lợi. Riêng nói về Giới Bổn Khất Sĩ Tân Tu thì Trưởng lão đã giảng giải đầy đủ trong kinh sách của Ngài rồi, quý vị xem lại. Ở đây, ai là người hạ bút sửa kinh Phật vậy? Xin thưa, đó chính là thầy NH, một tỳ-kheo vang bóng trời Tây nhưng rất u mê Phật pháp. Và cũng còn khá nhiều vị tỳ-kheo u mê nữa (xưa và nay) mà chúng tôi đã có dịp dẫn ra giới thiệu trên trang nhà (trong phần Nghiên Cứu Đối Luận).

- Thư độc giả: “Xin quý vị lưu ý trong tạng kinh Nikaya tuy là tạng kinh lâu đời nhất của Phật giáo nhưng đã bị người đời sau thêm thắt thay đổi thứ tự rất nhiều do cố ý…”

Chúng tôi rất đồng cảm chia sẻ ý kiến này với thư độc giả. Chính vì biết tham vọng của người đời sau chắc chắn sẽ thêm bớt, sửa chữa kinh nên đức Phật đã có bài kinh dạy cho các Kàlàmà với 10 điều “Chớ Có Tin”.

Quả vậy, ngày nay khi đọc kinh tạng Nikaya, đức Trưởng lão đã chỉ rõ rất nhiều điều để chúng ta hiểu những kinh nào không phải là Phật thuyết mà do người sau thêm vào hoặc sửa chữa. Xin dẫn vài ví dụ về những sự trái chống nhau ngay trong Tạng kinh Nikaya để quý vị tham khảo:

 

1- Trong Kinh Đi Bát Niêt Bàn (Trường Bộ Kinh) – Tụng phẩm VI có câu: “3. Này Ananda, nếu chúng Tăng mun, sau khi Ta dit đ có th hy b nhng hc gii nh nht chi tiết”.

 

2- Trong Kinh Ước Nguyn (Trung Bộ Kinh) đức Thích Ca dạy: “- Này các t-kheo, hãy sng đy đ gii hnh, đy đ gii bn, sng phòng h vi s phòng h ca gii bn, đy đ uy nghi chánh hnh, thy s nguy him trong các li nh nht, chơn chánh lãnh th và hc tp các hc gii”.

 

Đây là điều vô cùng hệ trọng đối với người phật tử. Có cần giữ giới luật  hay không? Một kinh dạy: “Thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt”, một kinh dạy: “Sau khi Ta diệt độ có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt chi tiết”. Như thế người phật tử nào mà chả muốn bỏ những điều làm khó khăn cho mình khi phạm giới luật, để đời không ai bắt bẻ, để mình thỏa mái tự do phá giới.

Người phật tử không giới luật thì tệ hại hơn người đời. còn nói gì được nữa!

 

3- Chúng tôi trích những lời Trưởng lão Thích Thông Lạc vạch rõ sai lầm của các thầy Tổ xưa đã làm sai lệch, thêm bớt kinh điển khiến phật tử đời sau khó nhận biết đúng sai. Dưới đây là một đoạn trích trong “Những Lời Gốc Phật Dạy” bài Kinh Bát Thành.

 

“Như các bn đã biết pháp ca Pht có rt nhiu, có đến ba mươi by pháp môn tu tp t thp đến cao. Thế mà, gia ch Dasama li hi có mt pháp đc nht nào ch tu tp pháp này s đi đến cu cánh, thì biết tr li làm sao các bn nh? Nhưng ông Ananda đã thay đc Pht tr li câu hi này: “Không phi ch có mt pháp đc nht mà có đến c tám pháp đc nht, pháp nào cũng tu tp đi đến kết qu gii thoát rt ráo”. Cho nên bài kinh này được ly tên là Kinh Bát Thành trong Kinh Trung B, tp II, trang 30.

Nhưng Kinh Bát Thành này đã b người sau thêm vào Bn Đnh Vô Sc. Bn Đnh Vô Sc là bn loi đnh tưởng. Bn loi đnh tưởng thì không th nào tu tp đi đến rt ráo được, vì chính đc Pht đã nhp các loi đnh tưởng này còn phi b mà tr v tu tp Bn Đnh Hu Sc mi  thy được s gii thoát làm ch sanh t, chm dt luân hi.

Bn loi đnh vô sc này được cng chung li vi tám pháp đu tiên là 12 pháp, như vy bài kinh này đúng ra phi có tên là “Thp Nh Thành” ch đâu gi là “Bát Thành” được. Đó là cái sai th nht trong bài kinh này, do các v T Sư kết tp kinh.

Cái sai th hai là đon kết ca bài kinh này: “Bch Tôn Gi Ananda, như người tìm mt kho tàng ct du, trong lúc tìm được 11 kho tàng ct du. Cũng vy bch Tôn Gi, như ngôi nhà người ta có đến 11 ca, khi ngôi nhà b cháy, thì ch do mt ca người ta cũng có th thoát ra mt cách an toàn. Cũng vy, bch Tôn Gi, ch vi mt ca bt t trong 11 ca bt t này, con có th đt được s an toàn cho con”.

Ta kinh đ là “Bát Thành” mà kết lun là “Thp Nht Thành”, còn trong bài kinh này thì nêu ra 12 pháp tu tp. Kinh viết như vy có nht quán không? Các bn nghĩ sao v nhng vic làm ca các bc tôn túc ngày xưa? H có thy khi kết tp kinh sách Pht là mt trách nhim vi đo Pht và con người đi sau không?

Trong mt bài kinh Nguyên Thy mà còn thêm bt, làm sai lch như thế này thì c tng kinh Nguyên Thy hin có hn phi còn sai biết bao nhiêu ln trong y. Như thế kinh sách Đi Tha là kinh phát trin làm sao chúng ta tin được. Phi không hi các bn? Cho nên đc Pht bo: “Đng có tin kinh tng....

... ... ...

“Chúng tôi đưa bài kinh Bát Thành này ra đây có ba điu rt quan trng đ các bn cn phi lưu ý:

Th nht: Không nên tin trn vn vào kinh sách, vì kinh sách được kết tp là do các T, nhưng các T thêm vào và pha trn các pháp môn ca ngoi đo, làm cho kinh sách Pht mt hết giá tr gii thoát chân tht ca nó.

Th hai: Phi biết kh năng và đc tướng ca các bn khi chn tu tp mt pháp môn đc nht nào hay phi tu tp nhiu pháp môn. Nếu chưa nm vng được điu này thì nên tp sng đúng đi sng Phm hnh, gii lut nghiêm trì, ch đng nên tu tp pháp môn nào khác c, vì nếu có tu tp bt c mt pháp nào cũng chc chế tâm mà thôi. Ngày xưa các T không có người tu chng hướng dn nên các Ngài tuy tu tp theo pháp môn ca Pht, nhưng đã biến pháp môn ca Pht thành pháp môn c chế tâm ca ngoi đo. Đó là mt li lm rt ln ca các T, làm cho người đi sau mt đường li tu tp theo đúng Chánh Pht pháp.

Th ba: Pháp môn đc nht ca Pht đây đã khiến cho nhng nhà hc gi điên đu, không th hiu được, nht là li dy này: “V y đon tr năm h phn kiết s, được hoá sanh, nhp Niết Bàn ti cnh gii y, khi phi tr lui li đi này na”. Nếu đon kinh này không được gii thích rõ ràng thì mi người s nghĩ rng đo Pht có thế gii siêu hình. Nếu da vào kiến gii ca nhng nhà hc gi cho rng đo Pht có thế gii siêu hình thì rt oan ung cho Pht giáo, khiến cho Pht giáo t mâu thun li vi nó.  

Pht giáo cho rng không có thế gii siêu hình là vì ch trương t lc vượt thoát kh đau, không nh tha lc: “T thp đuc lên mà đi”. Bi vì nếu có thế gii siêu hình thì phi có tha lc, mà có tha lc thì s có s bt công. Có s bt công thì trong cuc đi này đau kh s không bao gi hết và như vy bn chân lý loài người ca Pht giáo không còn là chân lý na. Và thế gian này s không còn có công bng và công lý, ch còn là mt cuc sng bt công. Tôn giáo ch là mt mánh khoé la đo bng hình thc cu khn, cúng tế, bái ly, v.v... Các đng thiêng liêng o tưởng ca các tôn giáo gia h tai qua, nn khi, bnh tt tiêu tr, ch là nhng trò bp bm, ch thế gian này kh cũng không bao gi hết kh. Và cũng vì vy mà nn đo đc nhân bn – nhân qu ca con người không bao gi có được.

 

Như vậy lời Phật dạy: “Chớ có tin…” người phật tử phải nhớ nằm lòng. Hãy thấm nhuần tri kiến giải thoát, nhận biết rõ điều nào lợi ích cho minh, cho mọi người và không làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh, đó là thiện pháp, là pháp chân chánh thì chúng ta tin. Còn lại những lời dạy không được như thế thì hãy thận trọng tránh xa, từ bỏ.

Mỗi khi có dịp giới thiệu kinh Nguyên Thủy (Nikaya), chúng tôi sẽ cố gắng làm nổi bật những điều đáng nghi ngờ không có lợi ích (do người sau thêm vào hoặc đảo lộn trật tự với mưu ý xấu) thì chắc chăn đó không phải là pháp Phật dạy.

Kính mong sự hợp tác của quý độc giả và phật tử cùng chung sức bảo vệ và phát triển chánh Phật pháp ngày càng được củng cố bền vững.

              Kính chúc quý vị luôn an bình, vô sự.
                                                                                                            BBT/GNCN
    

 

071-TRAO ĐỔI Ý KIẾN VỀ KINH BÁT THÀNH.

Kính thưa quý độc giả và phật tử.

Chúng tôi vừa nhận được thư góp ý trao đổi về bài Kinh Bát Thành của đạo hữu Hung Phuong. Để khách quan và quý vị tiện theo dõi, trước khi trao đổi cùng độc giả và quý phật tử, chúng tôi xin giới thiệu nguyên văn lời trao đổi trong thư:

[Kính gởi: BBT GNCN.

Sau khi đọc bài Ý KIẾN ĐỘC GIẢ VỀ "CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT", chúng tôi có một ý nhỏ trao đổi cùng BBT GNCN sau đây có liên quan đến bài kinh BÁT THÀNH. Theo Kinh Trung Bộ do HT TM Châu dịch, xin trích:

52. KINH BÁT THÀNH (Atthakanàgara Sutta)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Tôn giả Ananda trú ở Vesali (Tỳ-xá-ly), tại Beluvagàmaka (ấp Trúc Lâm).

Lúc bấy giờ gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka đến tại Pataliputta (thành Ba-la-lị-phất) có công việc. Rồi gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka (Bát thành) đi đến Kukkutarama (Kê Viên), đến một Tỷ-kheo, đảnh lễ vị này, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka thưa với Tỷ-kheo ấy:

- Bạch Tôn giả, Tôn giả Ananda nay an trú ở đâu? Chúng con muốn gặp Tôn giả Ananda.

- Này Gia chủ, Tôn giả Ananda nay ở Vesali, tại ấp Beluvagamaka.

Rồi gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka, sau khi làm xong công việc ở Pataliputta, liền đi đến Vesali, ấp Beluvagamaka, đến Tôn giả Ananda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama người ở thành Atthaka thưa với Tôn giả Ananda:"

Như vậy theo bài Kinh trên thì BÁT THÀNH là tên một địa danh chứ không phải chỉ tám Pháp Môn tu độc nhất?! Chúng tôi xin quý Thiện hữu tri thức giúp giải nghi thắc mắc trên để sớm thoát khỏi Tâm Trạo Cử. Chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ giáo tận tình của BBT GNCN, thời gian qua chúng tôi học được rất nhiều từ trang nhà GNCN, xin nhận nơi đây lòng thành kính biết ơn!

Kính chúc toàn thể BBT GNCN luôn luôn thanh thản an vui.]

                                                                Hung Phuong batchanhdaogioidinhtue@gmail.com  

Kính thưa quý vị!

Chúng ta may mắn sinh được làm người, lại may mắn gặp Phật pháp chân chánh do Bậc chân tu giảng dạy. Thật không có gì hơn thế. Bởi chúng ta như đã được gặp Phật ngay trong cuộc đời này. 

Giáo pháp của đức Phật để lại quá nhiều và cô đọng, nếu không có Bậc tu chứng giảng giải thì mặc dù có pháp, con người vẫn cứ mò mẫm như đi trong đêm đen không đuốc soi đường. Bằng chứng là suốt mấy ngàn năm nay, biết bao nhiêu người học và tu tập theo Phật giáo, nhưng Phật đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn những trùng, ma kiến giải muốn diệt Phật giáo đến cùng.

Chúng ta phải làm gì để giữ gìn nền đạo đức nhân bản – nhân quả Phật dạy được trường tồn mãi với thời gian? Đó là khát khao, trăn trở của bao người đang hướng về chánh pháp.

Kính thưa quý vị!

Chúng tôi xin bắt đầu trao đổi về vấn đề đạo hữu Hung Phuong nêu trong thư. Những điều trao đổi của chúng tôi rất có thể còn nhiều thiếu sót và không chắc làm thỏa mãn quý vị. Nhưng chúng tôi mong muốn tất cả chúng ta, mỗi người đều hướng tâm về thiện pháp mang lại lợi lạc cho mọi người thì mọi sự đều trở nên thông suốt dễ dàng.

Kinh Bát Thành là một trong 152 bài kinh thuộc Kinh Trung Bộ, tạng kinh Pàli. Trong đó mỗi bài kinh đều có tựa đề riêng theo tên nhân vật có liên quan (Trưởng giả, gia chủ, du sĩ lõa thể, Bà la môn, Vương tử…), hoặc theo địa danh, hoặc theo tên với địa danh, với pháp và với một số vấn đề khác…

Chỉ xét riêng tập II gồm 50 bài kinh (từ kinh số 51 – 100) chúng tôi nhận thấy tựa đề các bài kinh thuộc các nhóm sau:

              - Tựa đề theo tên người gồm các kinh: 51; 54; 55; 56; 58; 62; 63; 64; 65; 69; 73; 74; 75; 76; 77; 78; 79; 80; 81; 82; 83; 85; 86; 91; 92; 93; 94; 95; 96; 97; 98; 99; 100. (Tổng cộng 33 bài).
             - Tựa đề theo địa danh gồm các kinh: 67; 68; 70; 84. (Có 04 bài).
             - Tựa đề theo tên người (+) địa danh có kinh: 61. (Có 01 bài).
             - Tựa đề theo tên người (+) pháp gồm các kinh: 71; 72. (Có 02 bài)
             - Số bài kinh còn lại tựa đề liên quan đến những vấn đề khác. (Có 09 bài).

Ý kiến của đạo hữu Hung Phuong nêu: Như vậy theo bài Kinh trên thì BÁT THÀNH là tên một địa danh chứ không phải chỉ tám Pháp Môn tu độc nhất?

Vấn đề cần bàn ở đây là chúng ta nên hiểu tựa kinh là “Thành Bát Thành” (theo địa danh) hay “Pháp Bát Thành” (theo pháp).

Nếu muốn nói về “Thành Bát Thành” (địa danh) thì có nghĩa lý gì khi mà Atthaka chỉ là nơi cư trú của gia chủ Dasama. Quý vị cùng đọc lại:

“Rồi gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka (Bát Thành) đi đến Kukkutarama (Kê Viên), đến mt t-kheo, đnh l v này, ri ngi xung mt bên. Sau khi ngi xung mt bên, gia ch Dasama, người thành Atthaka thưa vi t-kheo y: 

- Bch Tôn gi, Tôn gi Ananda nay an trú đâu? Chúng con mun gp Tôn gi Ananda.

- Này Gia ch, Tôn gi Ananda nay Vesali, ti p Beluvagamaka. 

Nếu đặt tựa đề kinh theo địa danh thì có thể dùng địa danh chính nơi bài kinh được tuyên thuyết. Trong trường hợp này thì tựa kinh phài là “Kinh Beluvagamaka” hay “Kinh Vesali”, là nơi ngài Ananda giảng cho gia chủ Dasama nghe. Nay lý giải tựa đề kinh theo địa danh (Atthaka) thì sẽ có rất nhiều tên kinh tương tự. Bởi thành Atthaka có thể có rất nhiều gia chủ khác đã đi đến nơi này, nơi kia thưa hỏi đức Thế Tôn hoặc các vị Thánh Tăng thời bấy giờ.

Trong 50 bài kinh tập II kinh Trung Bộ chúng tôi tìm thấy có 04 bài kinh mang tựa đề theo địa danh:

              Bài kinh số 67: Kinh Catuma. “Một thời Thế Tôn ở tại Catuma trong rừng cây Kha-lưu-lạc (Myrobalan)”.
             Bài kinh số 68: Kinh Nalakapana. “Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Kosala (Câu-tát-la) tại Nalakapana, rừng cây Palasa”.
              Bài kinh số 70: Kinh Kitagiri.  “Rồi Thế Tôn ở tại Kitagiri, một thị trấn xứ Kasi”.
             Bài kinh số 84: Kinh Madhura. “Một thời Tôn giả Mahakaccana (Ðại Ca-chiên-diên) trú ở Madhura, tại rừng Gunda”.

Như vậy cả 4 bài kinh mang tựa theo địa danh đều là những nơi đức Thế Tôn, và Thánh Tăng cư trú, thuyết pháp. Không lẽ “Thành Bát Thành” (Atthaka), nơi cư trú của gia chủ Dasama (người cầu pháp) lại được đặc cách đặt tựa đề cho bài kinh sao? Trường hợp này rất hy hữu (khó chấp nhận).

Thêm nữa, nếu là tựa theo địa danh thì không phù hợp với nội dung bài kinh đã thuyết. Bài kinh do gia chủ Dasama thưa và ngài Ananda giảng những pháp độc nhất đi đến thành tựu cứu cánh. Đó là mục đích duy nhất của tất cả những ai mong cầu thoát khổ đến với đạo Phật. Nếu muốn nói về địa danh thì địa danh này (thành Atthaka) không giúp ích gì cho sự tâm cầu giải thoát cả.

Theo trên, chúng tôi loại trừ tựa “Kinh Bát Thành” theo địa danh (Bát Thành) là không phù hợp với nội dung bài kinh, cũng không tương nhập với tổng thể toàn bộ tạng kinh.

Có thể khả chấp hơn nếu đặt tựa đề kinh là “Kinh Dasama” theo tên người thì phù hợp với nội dung tổng thể tạng kinh. Nhưng điều đó đã không xảy ra.

Chỉ còn lại tựa kinh theo pháp là phù hợp:  

“Ri gia ch Dasama, …đến Tôn gi Ananda, …thưa vi Tôn gi Ananda: Bch Tôn gi Ananda, có pháp đc nht gì do Thế Tôn, bc Tri Gi, …tuyên b, nếu có t-kheo nào không phóng dt, nhit tâm, tinh cn sng hành trì pháp y, thi tâm chưa gii thoát ca v y được gii thoát, hay các lu hoc chưa được đon tr đi đến đon tr, hay pháp an n khi các ách phược chưa được chng đt được chng đt?”

Lần lượt ngài Ananda giảng các pháp độc nhất và cuối cùng bài kinh kết luận:

“…như người tìm một kho tàng cất dấu, trong một lúc tìm được mười một kho tàng cất dấu. Cũng vậy, bạch Tôn giả, con đi tìm một pháp môn bất tử mà được nghe một lần mười một pháp môn bất tử. Bạch Tôn giả, như ngôi nhà người ta có đến mười một cửa, khi ngôi nhà bị cháy, thì chỉ do một cửa người ta cũng có thể thoát ra một cách an toàn. Cũng vậy, bạch Tôn giả, chỉ với một cửa bất tử trong mười một cửa bất tử này, con có thể đạt được sự an toàn cho con”.

Tựa là kinh “8 Thành tựu”, mà kết lại có đến “11 Thành tựu”. Như thế kinh điển đức Phật dạy “Chớ có tin…” là hoàn toàn chính xác. Nếu không gặp Bậc Thiện hữu tri thức chỉ dạy thì muôn đời các thế hệ phật tử mù mịt trong đêm đen không biết lối nào ra. Ai là người đã làm những điều sai trái này? Chúng ta không cần truy nguyên, chỉ cần phân biệt đúng đắn đâu thiện pháp thì hành, đâu ác pháp thì tránh bỏ. Như vậy được là tâm thanh thản an lành chẳng có gì sợ hãi.

Liên quan đến bài Kinh Bát Thành này, chúng tôi đã có dịp ghi chép lời thưa hỏi và trả lời của đức Trưởng lão Thích Thông Lạc tại Tu Viện Chơn Như. Xin giới thiệu để quý vị cùng tham khảo. (Nội dung câu hỏi và trả lời này đã được ghi âm phát hành đĩa video). 

Câu hỏi: “Kính thưa Thy! Đc Pht dy Kinh Bát Thành (kinh Trung B thuc Tng Nikaya) và Thy đã ging rõ trong cun Nhng Li Gc Pht Dy. Sau khi hc hi và suy tư, chúng con có my li thưa hi v bài kinh này như sau:

Kinh Bát Thành gm có tám pháp đc nht là Bn Thánh Đnh (Sơ, Nh, Tam, T thin) và Bn Vô Lượng Tâm (T, Bi, H, X).

Hc pháp ca Pht, ca Thy, chúng con hiu T, Bi, H, X là bn trong ba mươi by (37) pháp tr đo ca con đường Gii – Đnh – Tu. Khi tu tp ba mươi by pháp tr đo tròn đy, đc bit là khi tu tp T Nim X sung mãn thì By Năng Lc Giác Chi xut hin và có đ Bn Thn Túc. Lúc này hành gi mun nhp vào Bn Thánh Đnh đu d như tr bàn tay, như ly đ trong túi. 

Như vy, vi tri kiến phàm phu chúng con nghĩ rng trong ba mươi by pháp này có pháp tu tp và pháp thành tu.

1- Pháp tu tp gm có hai mươi sáu (26) pháp là: Ngũ căn (Nhãn, Nhĩ, T, Thit, Thân); Ngũ lc (Tín, Tn, Nim, Đnh, Tu); T Chánh Cn; T Bt Hoi Tnh; T Vô Lượng Tâm và T Nim X.

2- Pháp thành tu có mười mt (11) pháp còn li là: By Năng Lc Giác Chi và Bn Thn Túc. 

Tương t, chúng con nghĩ rng trong các loi Đnh thì cũng có Đnh tu tp và Đnh thành tu.

i- Đnh tu tp gm có: Đnh Vô Lu, Đnh Chánh Nim Tnh Giác, Đnh Nim Hơi Th và Đnh Thư Giãn (Sáng Sut).

ii- Đnh thành tu là Bn Thánh Đnh tc bn Thin hu sc gm: Sơ, Nh, Tam và T thin. (Bn Thin Vô Sc là đnh ca ngoi đo nên chúng con không coi là thành tu).

Thưa Thy, chúng con là k phàm phu h hc, chúng con nghĩ ch có th là bn pháp đc nht (T, Bi, H, X) ca 26 pháp tu tp trong 37 pháp tr đo, nương theo bn Đnh tu tp đ bước theo con đường Gii – Đnh – Tu mi mong chng đt.

Còn bn pháp đc nht (Bn thin), chúng con thy hành gi biết làm sao mà ôm mt pháp này đ đi ti được. Ví như mt người mun ôm mt pháp đc nht là Tam thin hay T thin thì biết cách nào mà ôm. Hơn na, chưa tu tp đ có Bn Thn Túc thì chng bao gi mơ đến Sơ thin, sao li dám mong ôm pháp Ba vi Bn thin. Chính vy mà sut my ngàn năm nay, biêt bao nhiêu người đã hc, đã tu mà chng có ai biết được tướng trng ca Sơ, Nh, Tam, T thin ra sao. Bn pháp đc nht (Bn thin) đâu phi nói đ mà chơi, đ mi người đm mê trong vô vng?

Nhng điu chúng con suy tư trên đây có sai lch vi giáo pháp không thưa Thy? Vy chúng con cúi mong tha thiêt cu thnh Thy m mt cho chúng con và các thế h mai sau được rõ, đ cho chúng con và tt c mi người hc pháp, hành theo pháp thì không còn mơ h v giáo pháp.

Thành kính biêt ơn Thy!”

Trả lời: “Qua s hiu biết ca mấy con v Ba Mươi By (37) phm tr đo đ tu tp như vy thì quá đúng ri. Hiu biết được như vy thì các con nên đi vào tu tp làm ch s sng chêt bng cách nhp T Thánh Đnh, bi ch khi nào nhp được T Thánh Đnh thì mi có đ sc làm ch s sng chết.

Nhưng mun nhp được T Thánh Đnh thì ch có thân cn thin hu tri thc ch không nên t ý mà tu riêng mt mình mình, hay t đng theo kinh sách mà tu được, vì kinh nghim thc tu nó khác, kiến gii ca kinh sách nó khác.

My con đc kinh sách, mà kinh sách thì người hiu thế này, người li hiu thế khác ch đâu có phi người nào cũng hiu ging nhau được đâu, cho nên đó ch là kiến gii.

Vì vy, ch có người tu chng đo ri thì người ta gii thích mi đúng ý nghĩa đ cho chúng ta thc hin được, ch còn không thì my con s lc qua kiến gii, tưởng gii ca người khác, thì đó là lc đường. Bi vì mt câu nói trong kinh mà người hiu vy, người hiu khác ch không phi ging nhau. Cho nên rt là khó khăn ch không phi d.

Vy thì, theo như li thưa hi trên đây ca my con là rt đúng.

Khi mun tu thì chúng ta phi gn gũi thin hu tri thc là điu cn thiết. Như my con cũng thy rng đc Pht thường khuyên dy chúng ta nên thân cn thin hu tri thc. Không có thin hu tri thc hướng dn thì khó mà tu tp thành công được.

                                                                                     Trưởng lão Thích Thông Lạc”.

Trao đổi về vấn đề kinh Bát Thành mà đạo hữu Hung Phuong nêu ra, chúng tôi có lời đáp như trên. Mong đạo hữu Hung Phuong, quý độc giả và phật tử cùng có ý kiến thêm để làm sáng tỏ.

Theo chúng tôi nghĩ lời dạy của Trưởng lão về Kinh Bát Thành trong cuốn “Những Lời Gốc Phật Dạy” tập I là rất rõ ràng và đầy đủ.

Kính chúc quý vị mãi giữ vững niềm tin chánh pháp.

                                                                                                                      BBT/GNCN

072-SÓNG GIÓ CHƠN NHƯ . TL Thích Thông Lạc

Sóng gió Chơn Như là một giai đoạn chuyển mình tiến lên để chấn chỉnh Phật giáo tốt hơn. Nhờ đó mới có nhiều phương án xây dựng chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo đến với mọi người.

Kính thưa quý phật tử, quý thầy, quý sư đang tu tập tại tu viện Chơn Như hãy giữ gìn tâm bất động trước mọi biến cố để tu viện Chơn Như chuyển mình qua một giai đoạn mới. Hãy lo tu tập quét sạch tâm trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, để tâm lúc nào cũng thanh thản an lạc và vô sự. Còn mỗi việc lớn nhỏ đều có Thầy. Đừng vì một lý do gì mà quý phật tử, quý sư, quý thầy bỏ cuộc tu hành quá uổng. Tu là xả tâm trước các ác pháp. Vậy mà khi gặp các ác pháp đến thì quý vị dao động tâm, muốn bỏ cuộc, như vậy quý vị tu hành như thế nào?

Mục đích tu tập theo Phật giáo là ngăn ác, diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp trong tâm của mỗi người. Ngăn và diệt ác pháp là giúp cho thân tâm quý vị thanh thản, an lạc và vô sự, tức là hết khổ đau.

Người tu tập được như vậy có hai phương pháp mà quý vị cần phải nhớ kỹ:

1- Bất động trước các ác pháp trong cuộc sống hằng ngày.

2- Bất động từng tâm niệm trên thân, thọ, tâm, pháp của mình.

Ở đây Thầy xin giảng nói về: “Bất động trước các ác pháp trong cuộc sống hằng ngày”.

 Như đã nói ở trên, bất động trước các ác pháp trong cuộc sống hằng ngày thì phải dùng tri kiến giải thoát. Muốn có tri kiến giải thoát thì quý sư, quý thầy và quý phật tử phải quán sát, tư duy từ tâm, bi tâm, hỷ tâm, xả tâm, luật nhân quả, thân ngũ uẩn, mười bảy kiết sử, ngũ triền cái, năm dục trưởng dưỡng, mười hai nhân duyên và quán xét thấu rõ thật sự các pháp vô thường, vô ngã, khổ và không có pháp nào còn tồn tại mãi trên thế gian này.

Nếu hằng ngày rèn luyện, tư duy, quán xét các pháp như vậy thì tri kiến giải thoát càng lớn mạnh. Tri kiến giải thoát này lớn mạnh thì không có một ác pháp nào làm dao động tâm quý vị được.

Như vậy, chánh tri kiến giải thoát của quý vị đã trở thành một bức tường thành kiên cố bảo vệ thân tâm của quý vị trong cuộc sống. Biến tâm quý vị bất động im lặng như Thánh.

Do chỗ bất động tâm này mà đức Phật dạy có tám pháp duy nhất, chỉ cần tu một pháp cũng đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Thánh Định.

Do tư duy quán xét tu tâm từ mà ông Phú Lâu Na và em trai ông Cấp Cô Độc đã chứng quả A La Hán .

Vậy quý vị hãy lắng nghe đức Phật trắc nghiệm ông Phú Lâu Na tu tập từ tâm vô lượng và cuối cùng đức Phật phải chấp nhận ông chứng quả A La Hán.

“Một hôm ông Phú Lâu Na xin Phật đến một đất nước khác để hướng dẫn dạy người tu tập.

Đức Phật bảo: “Dân nước đó ác độc lắm, họ sẽ mắng chửi ông”.

Ông Phú Lâu Na đáp: “Dân nước đó mắng chửi con, nhưng họ còn thương con, vì họ chưa đánh con”.

Đức Phật bảo: “Họ đánh con”.

Ông Phú Lâu Na đáp: “Họ đánh con, nhưng họ còn thương con, vì họ chưa dùng dao, mác, vũ khí giết con”.

Đức Phật bảo: “Dân xứ đó sẽ dùng dao, mác, vũ khí giết con”.

Ông Phú Lâu Na đáp: “Dân xứ đó dùng vũ khí giết con, nhưng họ còn thương con, vì họ biết con còn mang thân này có nhiều tai nạn, bệnh tật, già yếu thường khổ đau”.

Đức Phật bảo: “Thôi đủ rồi! Ông cứ đi! Đi đi!”

Chỉ có quán xét tư duy làm cho tâm từ lớn mạnh thì quý vị sẽ được tâm bất động. Mặc dù quý vị đang sống trong các ác pháp bủa vây, nhưng có tri kiến giải thoát thì ở đâu, bất cứ chỗ nào cũng được giải thoát.

Như vậy đạo Phật tu hành đâu phải khó khăn, khó khăn là ở chỗ lòng yêu thương chân thật của quý vị chưa có? Chánh tri kiến giải thoát bắt nguồn từ lòng yêu thương chân thật của mình mà không một ác pháp nào xâm chiếm và làm động tâm quý vị được.

Đó là các bạn tu tâm xả bằng từ tâm vô lượng. Vậy từ đây các bạn hãy noi theo gương ông Phú Lâu Na mà tu tập lòng yêu thương. Chỉ có lòng yêu thương mà được giải thoát hoàn toàn; chỉ có lòng yêu thương mà các bạn chứng quả vô lậu A La Hán. Xin các bạn lưu ý cho trên đường tu tập.

Chỉ có lòng yêu thương mà sóng gió Chơn Như trở thành bất động, bất diệt của đạo Phật trong lòng của mọi người; chỉ có lòng yêu thương mà tất cả ác pháp đều được chuyển đổi thành ly nước mát dịu, đem lại sức sống cho mọi người; chỉ có lòng yêu thương mà chuyển hóa được nhân quả, chấm dứt sanh tử luân hồi; chỉ có lòng yêu thương mà đạo đức nhân bản - nhân quả mới thực hiện được trọn vẹn sống không làm khổ mình, khổ người. Vì thế, đạo Phật được gọi là “Đạo Từ Bi”.

Tu viện Chơn Như ngày nay được chấn chỉnh với lòng yêu thương đối với mọi người thì tu viện mới hưng thịnh. Nếu nơi đây không có lòng yêu thương, chỉ có toàn sự tị hiềm, ganh ghét thì tu viện sẽ đi vào bóng đen âm u trong những đêm dài vô tận.

Trước hoàn cảnh như vậy, người tu sĩ Phật giáo không đầu hàng mà phải vượt qua nhân quả của chúng sanh, chuyển đổi nhân quả ác, tạo phước, gieo duyên lành để trở thành nơi tu hành tốt đẹp hơn. Cho nên, cần phải có nhiều tu viện Chơn Như hơn nữa để quét sạch những đám mây mù đang bao trùm lấy tu viện Chơn Như hiện nay. Phải không quý vị?

                                                                                                          Kính ghi
                                                                                                  Thầy của các con
                                                                                           Ngày 27 tháng 8 năm 2005 

073-BẤT ĐỘNG TÂM ĐỊNH. TL Thích Thông Lạc

Đức Phật nói: Tâm ly dục, ly ác pháp là nhập Sơ thiền, do ly dục sanh hỷ lạc nhưng chúng ta đang còn ở trong 5 chi thiền của nó: Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm tức là chúng ta đang ở trạng thái Sơ Thiền Thiên. Còn nếu như chúng ta xả năm chi thiền này ra thì chúng ta đang ở trong trạng thái bất động, bất động đó là Niết Bàn. Lúc bấy giờ chúng ta có cần tu gì nữa không? Hay chỉ ly dục, ly ác pháp xả năm chi Sơ Thiền là nhập vào Bất động tâm định hay là Vô tướng tâm định là đủ. Mà đã ly dục, ly ác pháp là đạo đức của loài người, đạo đức không làm khổ mình, không làm khổ người. Cho nên lúc nãy Thầy nói đức Phật dạy: “Ta nói: ly dục ly ác pháp tức là Ta nói giới luật”. Người nào sống đúng giới luật tức là ly dục, ly ác pháp, còn người nào sống không đúng giới luật là không ly dục, ly ác pháp. Nhưng muốn sống đúng giới luật mà không ức chế thân tâm thì phải có pháp hành để tu.

 

Pháp hành để tu như thế nào? Tứ Chánh Cần ngăn ác, diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện. Khi ngăn ác diệt ác xong, chúng ta tiếp tục quét sạch những pháp ác vi tế trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta. Thân, thọ, tâm, pháp là thân ngũ uẩn của chúng ta. Thân ngũ uẩn của chúng ta gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trên thân ngũ uẩn gồm đủ bốn chỗ, thân, thọ, tâm và pháp. Nên đức Phật dạy chúng ta tu Tứ Niệm Xứ trên bốn chỗ này để chúng ta quan sát và đẩy lùi chướng ngại pháp trên đó. Nhờ có tu tập như vậy nên toàn bộ thân thọ, tâm, pháp của chúng ta thanh tịnh. Mà tâm đã thanh tịnh là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm đã ly dục, ly ác pháp hoàn toàn.

 

Như vậy rõ ràng trong giai đoạn đầu chúng ta tu pháp gì? Tu Tứ Chánh Cần, giai đoạn kế tu pháp Tứ  Niệm Xứ. Tu pháp môn Tứ Niệm Xứ chúng ta chỉ có quan sát để quét sạch những ác pháp vi tế trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta. Vậy thì, Tứ Chánh Cần chúng ta sống như các cư sĩ, đang chung đụng mọi pháp ác. Gặp pháp nào ác chúng ta đều ngăn và diệt ác pháp ấy, làm cho đời sống của chúng ta tràn đầy đạo đức không làm khổ mình khổ người. Còn bây giờ, với chiếc áo tu sĩ như Thầy thì vào thất, không có ai làm động mình hết, vì vậy mình ngồi đây quét sạch chướng ngại trên thân tâm của mình giống như ông Châu Lợi Bàn Đặc. Khi ông học bài kệ bốn câu không thuộc thì người anh của ông đuổi ông về nhà, ông ngồi khóc, đức Phật đi ngang qua thất ông, ông mới trình bày cho đức Phật biết nguyên do ông khóc. Đức Phật bảo: “Ta sẽ dạy con, chỉ cần quét cái tâm cho sạch”. Quét tâm cho sạch, tức là tu Tứ Niệm Xứ. Sau một thời gian ngắn ông thực hiện trọn vẹn lời dạy pháp môn Tứ Niệm Xứ, và chứng quả A La Hán, đầy đủ Tam Minh.

 

Cho nên trong giai đoạn đầu chúng ta tu Tứ Chánh Cần ngăn ác, diệt ác pháp, cuối cùng chúng ta vào trong tu viện, sống độc cư trầm lặng rồi chúng ta quét sạch những ác pháp vi tế trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, tức là tu Tứ Niệm Xứ. Khi tâm đã hoàn toàn sung mãn Tứ Niệm Xứ, thì có bốn Thần Túc đầy đủ trong thâm tâm Khi có bốn Thấn Túc đầy đủ thì thiền định nhập đâu còn có khó khăn, nên đức Phật bảo rằng: “Tâm định tỉnh nhu nhuyến dễ sử dụng thì nhập định không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức”. Nghĩa là lúc bấy giờ mình chỉ dùng Định Như Ý Túc tức là Định Thần Túc, là muốn nhập định nào thì sẽ nhập định như thế ấy một cách dễ dàng. Khi tâm đã thanh tịnh không còn tham, sân, si thì mình bảo: diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền, tức thì tâm diệt tầm tứ và nhập vào trạng thái Nhị Thiền tức khắc.

 

Vậy ai diệt tầm tứ? Tâm thanh tịnh của chúng ta diệt tầm tứ chứ không pháp nào khác hơn nữa, tức là tâm lực của chúng ta do tu tập Tứ Niệm Xứ sung mãn mà có, chứ không thể nào ngồi lâu mà chúng ta diệt nổi tầm tứ, diệt lỗ tai, diệt con mắt, mũi, miệng, thân và diệt ý thức của chúng ta được… Ở đây chúng ta ngồi nghỉ đừng cho khởi niệm là diệt nó sao? Diệt không thể được đâu? Vì vậy chúng ta chỉ cần tu tập Tứ Niệm Xứ sung mãn thì có Tứ Thần Túc, trong Tứ Thần Túc có Định Như Ý Túc như trên đã nói.

 

 Các phật tử có nghe đức Phật thuật lại: Khi đức Phật nhập định, cách đó 200 mét, trời sét đánh chết hai con bò. Tiếng sét to lớn như thế mà đức Phật trong định không nghe thấy gì cả. Bởi vì nhĩ căn đã ngưng hoạt động, nhĩ căn không hoạt động thì giống như người điếc phải không quý phật tử? Người điếc thì còn nghe được âm thanh gì nữa. Dù tiếng lớn cũng như tiếng nhỏ.

 

Không nghe nhưng chúng ta vẫn tỉnh bơ, vẫn biết như thường chỉ không nghe, không tác ý, không suy nghĩ. Hiện giờ cái biết của chúng ta hiện giờ giống như cái biết trong giấc mộng. Cho nên khi nhập Nhị Thiền thì chúng ta rơi vào thế giới tưởng. Khi bước vào chỗ này, thì đức Phật bảo phải ly tất cả hỷ (Ly hỷ trú xả), ly tất cả các trạng thái hỷ tưởng. Có 18 loại trạng thái hỷ tưởng, phải xả ra hết. Lúc bấy giờ xả cho sạch mới nhập được Tam Thiền có đúng như vậy không? Còn chúng ta nhập Nhị Thiền thấy hỷ lạc tưởng cho rằng định sanh hỷ lạc này là thật, nhưng không ngờ đó là trạng thái của xúc tưởng hỷ lạc. Xúc tưởng hỷ lạc là một trong 18 loại tưởng. Nếu không biết xả thì chúng ta sẽ bị rơi vào trong thế giới ma tưởng, chứ không phải là thiền định gì cả. Hầu hết các sư thầy hiện giờ đang rơi vào loại thiền định này mà họ tưởng rằng mình nhập được Chánh định. Ôi! Thật là vô minh, tội nghiệp thay! Một cuộc đời tu hành xả bỏ hết, nay còn gì đâu nữa.

 

Có những người tu ức chế tâm, thấy sắc tưởng hay thinh tưởng cho là định tướng xuất hiện. Những người này đã rơi vào mê hồn trận của định tưởng mà không biết. Khi rơi vào trong mê hồn trận này thì chẳng bao giờ họ nhập được Tam Thiền, họ chỉ còn loanh quanh trong cái thế giới tưởng này để đạt đến thần thông tưởng (ngũ thông).

 

Chúng ta muốn nhập Tứ Thiền thì sau khi đã dừng tất cả các trạng thái tưởng, được xem như người ngủ không còn chiêm bao, không còn chiêm bao thì lúc bấy giờ chúng ta nhập Tứ Thiền mới được an toàn. Chúng ta tịnh chỉ hơi thở, tức là chúng ta ra lệnh cho hơi thở phải tịnh chỉ, ngưng, nhập Tứ Thiền, chứ không phải chúng ta nín thở. Ngay đó theo sự lệnh truyền của chúng ta, thì dần dần tuần tự hơi thở sẽ dừng lại. Nhưng khi dừng lại thân tâm của chúng ta không hoại diệt vì thân tâm chúng ta thanh tịnh, sống đúng giới luật, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Còn như cơ thể của chúng ta bất tịnh thì ngừng thở là chết ngay liền tức khắc. Bởi vì cơ thể của chúng ta đang tiếp xúc và đang được nuôi dưỡng với những chất ô nhiễm, ô trược… Tâm thì còn dẫy đầy tham, sân, si luôn sống trong đau khổ mà bảo hơi thở dừng thì làm sao nó dừng được? Nếu nó dừng được thì đó chỉ là hơi thở tưởng dừng, chứ không phải hơi thở thật dừng.

 

Các nhà Yoga họ tập luyện, tâm họ chưa ly dục, ly ác pháp hoàn toàn mà họ dừng được hơi thở. Họ dừng được hơi thở là tại sao? Ở đây họ phải dùng tưởng để tu tập như: tưởng thở bằng trán, bằng lỗ chân lông, v.v… họ thở được là nhờ năng lực của tưởng. Người tu theo tưởng định chỉ có Ngũ thông tưởng chứ nó không có Lục thông, Tam Minh, bởi vì không có Lậu Tận Minh nên nghiệp tái sanh vẫn còn, phải tiếp tục tái sanh luân hồi, tức là tâm tham, sân, si còn nguyên. Còn một người tu ly dục ly ác pháp hoàn toàn, tâm thanh tịnh thì sẽ lìa hết các lậu hoặc. Lìa hết các lậu và tiếp tục tu các thiền định và Tam Minh thì mới chấm dứt nghiệp tái sanh luân hồi. Đó là con đường tu tập đúng của đạo Phật là như vậy. Tâm lực giúp chúng ta tự tại nhập Định, tự tại đưa tâm đến Tam Minh. Ngoài sự tu tập này không còn có cách nào khác giúp chúng ta nhập định và thực hiện Tam Minh được. Cho nên chúng ta tu đúng pháp thì có giải thoát, còn tu không đúng thì không có giải thoát.

 

Vì thế căn bản sự tu tập thiền định của đạo Phật là ở chỗ giới luật, nhờ có giới luật tâm mới ly dục ly ác pháp, nhờ có ly dục ly ác pháp mà tâm mới bất động. Tâm bất động là giải thoát hoàn toàn, ra khỏi nhà sinh tử, chấm dứt luân hồi. Còn vấn đề thiền định và Tam Minh là vấn đề phụ.

074-Tâm Thư ngày 23/9/2006: ĐOÀN KẾT - TIN TƯỞNG - BUÔNG XẢ - CHỨNG ĐẠO.

THẦY DẠY ĐOÀN KẾT

(Tâm thư ngày 23 tháng 9 năm 2006

trong sách "Những Bức Tâm Thư tập I")

Kính gủi: Quý phật tử khắp mọi miền đất nước, quý phật tử ở nước ngoài, cùng quý Thầy, quý Cô và quý nam nữ phật tử tại Tu Viện Chơn Như.

Kính thưa quý vị! Thầy xin gửi lời thân thương đến thăm và chúc quý vị dồi dào sức khỏe. Mong rằng quý vị luôn nhớ mãi những lời Thầy dặn bảo: "Chỉ có tâm thanh thản, an lạc và vô sự trước mọi nghịch cảnh, đó là cứu cánh; là giải thoát; là đạo đức thương mình, thương người".

Đạo Phật chỉ có tâm bất động, không phóng dật theo các ác pháp và chấm dứt chạy theo lòng ham muốn của mình. Người hiểu biết và thâm nhập đạo Phật như vậy thì đâu có gì tu tập nhiều; thì đâu có gì tu tập khó khăn, mệt nhọc; thì đâu có pháp gì làm chướng ngại thân tâm họ được. Do đó sự chứng đạo dễ dàng như trở bàn tay. Có phải vậy không thưa quý phật tử?

Vì thế trong thời đức Phật, người ta chỉ nghe Phật thuyết pháp xong liền chứng đạo, điều đó là một sự thật, nhưng nghe nói đến chứng đạo nhanh chóng như vậy thì mọi người cho là vô lý. Chứng đạo sao mà dễ dàng đến như thế? Có phải đây là sự tưởng tượng không?

Nhưng sự thật chứng đạo theo Phật giáo dễ dàng như vậy. Chỉ vì người thời nay hiểu lời Phật dạy một cách sai lệch, xem sự tu tập rất khó khăn như các pháp môn của ngoại đạo, phải tu tập hành hạ thân tâm của mình quá nhiều. Đó là quý vị chịu ảnh hưởng giáo pháp của kinh sách phát triển. 

Pháp Phật thì khác, tu tập không có khó khăn, không có mệt nhọc. Người nào không nghe pháp thì thôi mà đã nghe pháp thì có giải thoát ngay liền như lời đức Phật đã dạy: "Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy". Vậy thấy cái gì?

Ở đây, chúng ta phải hiểu ý nghĩa “đến để mà thấy”. Đến để mà thấy có nghĩa là chúng ta phải có lòng tin trọn vẹn với lời dạy của đức Phật, cho nên khi nghe đức Phật thuyết pháp xong là chúng ta hiểu biết và thâm nhập lời Phật dạy là đúng sự thật 100%. Biết đúng sự thật 100% thì liền buông xả tất cả các ác pháp, như các quan sứ thần đến thỉnh Phật về thăm cố đô, khi nghe Phật thuyết pháp xong họ liền buông xả sạch và xin Phật xuất gia. 

Khi buông xả tất cả ác pháp thì có sự cảm nhận giải thoát ngay liền. Đó là lời nói không dối người. Còn lòng tin không trọn vẹn nên không xả tâm sạch. Không xả tâm sạch thì dù các con có tu tập bao nhiêu công lao, bao nhiêu năm tháng thì cũng khó mà chứng đạo được. Cho nên, chỉ có lòng tin là mạnh nhất; là buông xả dễ dàng.

Tin mà không dám buông xả, đó là chưa có lòng tin. Các con có biết điều này không? Khi nghe pháp xong liền buông xuống sạch, không động tâm trước bất cứ một ác pháp nào, dù là một cơn đau sắp chết cũng không hề sợ hãi, cũng không hề dao động tâm một chút nào cả. Có như vậy thì sự chứng đạo ngay liền tại chỗ đó, chứ các con còn đòi hỏi chứng đạo chỗ nào nữa.

Đạo Phật chỉ biết sống thấy lỗi mình, đừng thấy lỗi người và lúc nào cũng bất động tâm. Bất động tâm là chứng đạo, là giải thoát. Như vậy chứng đạo theo Phật giáo các con có thấy khó khăn không? Bây giờ các con có hiểu chưa? Có thấy bất động tâm là quan trọng không? Có thấy tâm không phóng dật là chứng đạo. Các con có hiểu chưa? Chứng đạo mà ngồi thiền như cóc là chứng đạo theo tà giáo của Bà La Môn.

Bao nhiêu câu hỏi của Thầy trên đây mục đích là để làm sáng tỏ tri kiến hiểu biết của các con về sự thật chứng đạo của Phật giáo dễ dàng như vậy. Thầy đã cố gắng hết mình đưa vào trí hiểu biết của các con, thế mà các con còn ngơ ngơ như người từ cung trăng mới xuống thế gian. Một lần nữa các con có hiểu những lời Thầy dạy chưa? Các con theo Phật giáo là để cầu giải thoát, chứ đâu phải theo Phật để cầu thần thông. Các con hãy buông xuống những thần thông hết đi. Đạo Phật không có dạy người tu thần thông các con ạ! Đạo Phật chỉ dạy cho con người biết các ác pháp để buông xuống, chỉ có buông xuống các ác pháp là giải thoát, là hết khổ đau. Có đúng như vậy không các con?

Khi tu tập xong Thầy có những ước nguyện là dựng lại chánh pháp của Phật giáo; là làm sống lại con đường giải thoát của đạo Phật; là đem lại ích lợi và hạnh phúc cho con người; nhất là đem lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh. Đó là điều Thầy biết chắc và ước mong như vậy, nhưng khuyên dạy mọi người thì ít ai làm theo, nên Thầy rất mệt mỏi.

Thầy quyết tâm không bỏ các con, vì các con quá khổ, nước mắt của các con đã đổ xuống cho cuộc đời này nhiều lắm, không có Thầy các con còn biết nương tựa vào đâu, Thầy là nguồn an ủi của các con; Thầy là ngọn đuốc soi đường cho các con đi trong đêm tối mịt mù. Mất Thầy các con như gà con mất mẹ. Phải không các con?

Khi Thầy bắt tay vào làm việc thì gặp biết bao nhiêu là gian nan; biết bao nhiêu là sóng gió phũ phàng. Các con có biết không? Thầy chỉ biết thương và tha thứ, không biết giận hờn, oán trách, nói xấu một ai hết, vì tất cả các con đều vô minh, đều đáng thương cả.

Thầy dạy các con đoàn kết, các con lại không nghe, mãi tranh chấp hơn thua, những điều này khiến cho Thầy quá mệt mỏi. Đối với Thầy chỉ có con đường vượt qua mọi thử thách, mọi gian lao, chứ không chùng bước. Nhưng đứng trước mọi nghịch cảnh Thầy không tranh chấp, không hơn thua với ai cả, dù bất cứ một người nào, dù là những trẻ con. Thầy chỉ có biết xả bỏ, biết thương yêu, biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng và biết im lặng như Thánh, nên cuộc đời Thấy sống an nhàn, thanh thản và vô sự.

Khi tu chứng đạt được chân lý xong, Thầy nhìn lại duyên chúng sanh đối với Thầy thì thấy không có đủ duyên để độ mọi người chứng quả A La Hán. Nhưng bây giờ phải làm sao?

Thầy tự trả lời: Phải tạo duyên mới chớ sao! Nhưng tạo duyên mới bằng cách nào?

Thầy dùng trí tuệ đã tu chứng quan sát: thì chỉ có Hòa Thượng Thanh Từ là nơi tạo duyên hóa độ cho Thầy mới dễ dàng. Nhờ tạo duyên đó mà bây giờ các con mới có những tập sách NGƯỜI CHIẾN THẮNG, TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT và nhiều sách khác nữa. Có đúng như vậy không các con? 

Muốn tạo duyên mới này để đem lại lợi ích cho mọi người thì đó là những ước nguyện của Thầy.

Ước nguyện thứ nhất của Thầy là mong sao thấy các con đoàn kết và thương yêu nhau, đừng vì một lý do gì mà chia rẽ nhau; đừng vì một lý do gì mà ganh ghét nhau, xa cách nhau. Trên đời này các pháp đều vô thường nay thay đổi như thế nầy, mai thay đổi như thế khác, không lúc nào giống lúc nào, nó có đứng yên một chỗ đâu, nó đâu có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Phải không các con?

Vậy mà sao các con lại không đoàn kết mà cứ chia rẽ nhau, có lợi gì cho riêng các con đâu, còn làm đau lòng thêm các con ạ! Còn làm Thầy đau buồn các con có biết không? Trong khi Thầy ngày đêm làm việc để đem lại sự sống đạo đức không làm khổ mình khổ người cho các con; để đem lại hạnh phúc, an vui cho các con. Các con có biết không? Vậy mà các con còn muốn chia rẽ nhau, vì quyền lợi gì các con? Đau lòng lắm các con ạ!

Thầy ước mong các con đoàn kết, thương yêu và tha thứ những lỗi lầm của nhau, chị ngã em nâng. Còn một con sâu làm rầu nồi canh thì tệ lắm các con ạ! Lịch sử sẽ ghi lại tên tuổi và tiếng xấu muôn đời. Các con có biết không?

Các pháp trên thế gian này đều vô thường, có pháp nào thường đâu, có pháp nào là của các con đâu. Danh mà làm chi hỡi các con? Càng danh, càng lợi càng đau khổ, vậy sao các con không buông xuống để cùng nhau đoàn kết; để cùng nhau yêu thương mà chia sẻ những nỗi khó khăn và nhọc nhằn khi đứng trước và đương đầu một văn hóa hủ tục mê tín dị đoan lạc hậu đã ăn sâu vào lòng người, đã trải qua mấy ngàn năm; đã trở thành một nếp sống phi đạo đức, phi khoa học; đã trở thành một phong tục tập quán đa thần khó bỏ. Nếu không có sự đoàn kết của các con thì làm sao dẹp bỏ những văn hóa hủ tục tệ hại ấy hỡi các con?

Ước nguyện thứ hai của Thầy là mong sao thấy các con sống đời đạo đức nhân bản – nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Nhưng ước nguyện ấy rất khó thành công, vì các con sống nói lỗi về người khác quá nhiều. Lại còn dùng những ngôn ngữ ác pháp nào là Thần Táo; nào là Ma Vương; nào là Quỷ dữ, nào là Ma Đăng Già; nào là Đề Bà Đạt Đa v.v... Nồi da xáo thịt xấu lắm các con ạ! Đó là một điều mà người trí không thể làm. Phải không các con?

Chắc trong cuộc đời đầy đau khổ này, ai cũng muốn an vui, giải thoát, nhưng vì vô minh không hiểu nên họ nói và làm theo bản năng tự nhiên của họ, chứ họ có muốn làm như vậy đâu, sao các con không tha thứ và thương yêu họ. Phải không các con? Điều mà các con không thấy lỗi mình, mà thấy lỗi người thì Thầy thật là đau lòng, vì Thầy đã dạy các con quá nhiều, nhưng sao các con không ghi nhớ, lại quên đi để biến tâm các con hẹp hòi, nhỏ bé, ích kỷ, luôn có những lời không ái ngữ. Tất cả mọi người trên thế gian này đều đáng thương không đáng ghét các con ạ! Họ đang sống trong mê mờ nên họ rất khổ đau, vì thế chúng ta hãy thương yêu họ nhiều và nhiều nữa. Phải không các con?

Ước nguyện thứ ba của Thầy là mong sao thấy các con giữ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ để chứng đạt chân lý. Hy vọng này cũng quá mỏng manh, ước nguyện của Thầy khó thấy được. Rồi đây Phật giáo sẽ đi về đâu, đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người biết còn có dựng lại được nữa hay không? Khi Thầy vào hang ẩn bóng hoặc thị tịch.

Sự tu chứng đạo là điều quan trọng, còn sóng gió Chơn Như chỉ là những chuyện tầm thường thế gian, có đáng gì cho những người tu hành như các con để ý, thế mà các con lại quên đi, không giữ tâm bất động. Chuyện nhỏ mọn như vậy mà tâm các con phóng dật ào ào như mưa tuôn, thác đổ. Vậy các con tu tập cái gì đây?

Chuyện đời như các con đã biết, chỉ có hơn thua, ganh tị, tranh chấp vì danh, vì lợi mà giày xéo lên nhau, luôn làm cho mình khổ người khác khổ, đó là chuyện có đáng gì cho những người tu theo Phật giáo quan tâm để ý không? Chuyện đó các con hãy xem nó là chuyện trẻ con, khi các con đã biết đạo đức của Phật giáo thì hãy buông nó xuống, như lời Thầy đã dạy:   

Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!

Chớ giữ làm chi có ích gì,

Thở ra chẳng lại còn chi nữa.

Vạn pháp vô thường buông xuống đi!

Các con có nghe những lời Thầy dạy trên đây không? Những lời này Thầy đã dạy lâu lắm rồi, tới bây giờ mà các con chưa thâm nhập sao? Ôi! Thật là đau lòng.

Khi nghe đức Phật thuyết pháp xong là năm anh em Kiều Trần Như đã thâm nhập liền, như vậy làm sao không chứng quả A La Hán được. Phải không các con? Còn bây giờ các con hiểu, nhưng không thâm nhập thật đáng thương. Mấy ngày nay tâm các con động như cái chợ. Thầy đã dạy các con tất cả các pháp để tu chứng quả A La Hán không còn sót pháp nào Thầy chưa dạy, chỉ trừ những pháp nhập định và thực hiện Tam Minh, vì các con chưa có ai tu tập tới đó.

Đừng bi quan, mặc cảm, các con dở thì phải cố gắng học tu nhiều hơn nữa thì sẽ giỏi các con ạ! Có những lỗi lầm thì cố gắng sửa lại sẽ trở thành người tốt, người hiền. Thánh Hiền đều từ những người lỗi lầm mà biết sửa đổi, chứ Thánh Hiền đâu phải từ trên trời rơi xuống. Phải không các con? Người tu hành theo Phật giáo đều là những người biết sửa đổi từ xấu chuyển thành tốt; từ ác chuyển thành thiện, chứ Phật đâu có ở cõi trời Đâu Xuất giáng trần. Phật xuất thân từ người thế gian các con ạ! Chúng ta cũng vậy, phải cố gắng hơn nữa, để xứng đáng là những người con của Phật, là những người đệ tử thánh thiện không lỗi lầm.

Các con đoàn kết thật sự, chứ không phải đoàn kết ngoài mặt "bằng mặt chứ không bằng lòng". Nếu các con bằng mặt không bằng lòng thì đó không phải là phật tử chân chánh, không phải đệ tử Phật, không phải đệ tử Thầy. Vì đệ tử Phật, đệ tử Thầy thì không chống trái nhau, sống biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng; sống biết không làm khổ mình khổ người; sống biết thương yêu, biết tha thứ mọi lỗi lầm của nhau; sống biết thông cảm và chia sẻ những nỗi khó khăn, những hoàn cảnh cay đắng ngọt bùi v.v… Đó là mục đích đoàn kết lợi ích như vậy. Các con có hiểu không?

Mỗi lần có sóng gió Chơn Như là mỗi lần Chơn Như vươn mình lên cao hơn nữa để đi đến thành lập Trung Tâm An Dưỡng, mở các lớp đạo đức, các lớp Thọ Tam Quy, các lớp Thọ Ngũ Giới, các lớp Thọ Bát Quan Trai, các lớp Chánh Kiến, các lớp Chánh Tư Duy, các lớp Chánh Ngữ v.v.... 

Các con đã từng học đạo tâm bất động với Thầy, thế mà mỗi lần có sóng gió lại dao động tâm. Vậy các con học đạo bất động tâm như thế nào mà lại dao động? Sóng gió chỉ là một trò đùa của trẻ con có gì mà để tâm động như vậy.

Các con xem sóng gió Chơn Như to tát lắm sao? Các con có giải quyết được những gì không? Điều mà các con giải quyết là giải quyết tâm của các con cho được bất động.

Những bài học đã qua, mỗi lần sóng gió Chơn Như là có những bài học sống động hơn dẫn dắt các con đi đến đích giải thoát của Phật giáo. Các con có thấy không? Tại sao các con không lo phòng hộ sáu căn để cứu mình ra khỏi nhà sinh tử, vui sướng gì mà lại hội họp làm những điều phạm giới phá giới trái với những lời dạy của đức Phật, lời dạy của Thầy. Hay các con đã nghĩ Thầy đi mất rồi, mặc tình hội họp nói chuyện thỏa thích. Cuộc đời tu hành theo Phật giáo trước mặt cũng như sau lưng phải giữ đúng phạm hạnh, dù Thầy có đi đâu vắng cũng vậy, phải giữ gìn như Thầy đang có mặt ở tu viện, chứ sao lại hội họp nói chuyện như vậy. Các con làm được những gì? Khi mọi người trong tu viện chỉ là anh chị em chung trong một nhà, phải đối xử như thế nào, chứ không lẽ ruột bỏ ra, da đem vào sao? Tình huynh đệ có chặt nhau thì chặt bằng sống dao chứ đừng chặt nhau bằng lưỡi dao. Phật giáo dạy chúng ta lấy tình thương mà trả oán thù, thì oán thù sẽ tiêu tan, chứ lấy oán thù trả oán thù thì oán thù chồng lên ngút ngàn thì làm sao gọi là đạo đức không làm khổ mình khổ người. Có đúng như vậy không các con?

Các con có biết không? Phải nỗ lực tu hành cho đúng pháp thì ngay đó các con đã chứng đạo. Chứng đạo có gì khó đâu. Còn tu hành như các con tâm luôn luôn phóng dật, tu hành như vậy làm sao chứng đạo được. 

Các con nói tu hành rất hay, nhưng khi có sóng gió mới thấy sự tu hành của các con quá dở. Sóng gió xảy ra trong tu viện này ai là người bất động. Người bất động là người chứng đạo đấy các con ạ!

Cơ thể hơi đau sơ sơ một chút là đi xin thuốc, xin thang uống, đó là bất động sao?

Chuyện sóng gió của tu viện là một việc rất tầm thường, rất trẻ con có gì quan trọng đâu. Vậy mà các con lại động tâm như vậy sao? Động tâm ào ào cả tu viện, như vậy các con thấy con đường tu tập của mình ra sao? Lùi hay tiến? Chứng đạo hay không chứng đạo đều biết rất rõ ràng. Phải không các con? Có duyên sóng gió mới đo được sự tu tập của các con, không duyên lấy gì đo, làm sao biết?

Thầy xin kể câu chuyện thứ nhất trong thời đức Phật, ngày xưa người ta lôi xác chết của một phụ nữ bị giết chôn sau thất Phật, rồi họ tố cáo đức Phật giết.

Câu chuyện thứ hai, người ta còn đưa một phụ nữ mang thai và bảo rằng đức Phật là một tác giả.

Hai câu chuyện xảy ra động trời như vậy nếu đặt các con cùng sống trong thời gian ấy thì các con xem Phật ra sao? Có phải bằng con mắt nghi ngờ khinh chê không? Có phải bỏ đức Phật ra đi không? Có đúng như vậy không các con?

Ngược lại những chuyện động trời như vậy mà chúng tỳ-kheo trong thời đức Phật im lặng như Thánh, họ không hề dao động, vì lòng tin của họ quá sâu đậm với đức Phật và họ là những người tâm bất động. Họ thấy đó là chuyện tầm thường của thế gian, có đáng gì cho họ nghi ngờ Phật, vì họ ngộ pháp Phật và biết Phật là người đầy lòng yêu thương và buông xả tất cả thì làm gì có việc ấy. Có đúng như vậy không các con? Nhưng các con tâm còn mê mờ, ngay cả khi nghe pháp xong liền chứng đạo là các con còn không tin, thì chuyện tài trời này làm sao các con không nghi ngờ. 

Chúng ta hãy dẹp câu chuyện thần thông huyền thoại qua một bên để tìm thấy lòng người lúc bây giờ. Chúng tỳ-kheo trong thời đức Phật họ đã thâm nhập những lời dạy của Phật nên họ bất động khi thấy đức Phật bị hàm oan hãm hại. Những giáo sĩ Bà La Môn muốn hại Phật, thì họ phải dựng lên những chứng cớ rõ ràng, nếu không dựng lên những chứng cớ rõ ràng thì làm sao hạ uy tín của Phật được. Các con đừng nghe trong kinh dựng lên những thần thông để giải oan cho Phật như tiểu thuyết Trung Hoa thì thật là buồn cười. Có sóng gió như vậy mới thấy tâm Phật bất động, mới thấy Phật là người xứng đáng cho chúng ta cung kính tôn thờ. Phải không các con?

Còn Tu Viện chỉ sóng gió chẳng ra gì mà các con dao động hội họp ngày nào cũng vậy, chứng tỏ lòng tin của các con đối với Thầy còn yếu lắm. Nếu câu chuyện của Phật ngày xưa mà đặt vào Thầy thì các con sẽ bỏ đi hết chớ gì. Có đúng như vậy không?

Câu chuyện sóng gió của Chơn Như có ra gì mà tâm các con còn dao động, như vậy các con tu tập không có xả tâm mà chỉ ức chế tâm, tu như vậy có ích lợi gì cho ai, tu như vậy là tu sai pháp, tu như vậy là tu uổng công các con ạ!.

Danh đối với Phật có nghĩa lý gì, còn Thầy, khi các con bỏ đi Thầy chỉ mỉm cười ung dung bước vào tù, vì tội giết người, vì tội hiếp dâm Thầy không một lời minh oan các con ạ!

"Những buổi chiều tà mưa phủ trắng.

Thầy cười tha thứ kẻ vô minh"

Danh như nước chảy qua cầu, có gì làm động tâm người tu sĩ Phật giáo. Thầy luôn luôn tha thứ và thương yêu những người làm khổ Thầy và ước nguyện đời sau họ sinh ra làm người thiện, gặp nhiều may mắn hơn, họ là những người đáng thương không đáng ghét, vì vô minh mà họ trở thành người làm khổ họ, chứ họ làm khổ Thầy sao được. Thầy là người bất động tâm, là người không còn tham danh, không còn tham lợi; Thầy là người không còn khổ đau trên cuộc đời này nữa. Phải không các con?

Đây là lời khuyên thân thương của Thầy gửi đến các con, những đứa con yêu thương của cuộc đời Thầy, khi gặp nhau trong những ngày đầy cay đắng, gian nan, muốn cứu giúp các con thoát vòng tay khổ đau mà không giúp được, vì các con không nghe lời Thầy, nên Thầy thật là mệt mỏi vô cùng.

Trên cuộc đời hoằng hóa của Thầy gặp các con dù nam hay nữ, dù em ruột, cháu ruột của Thầy, dù bất cứ một ai làm khổ Thầy, Thầy vẫn tha thứ và thương yêu rất bình đẳng như nhau, không thù, không oán, không nói xấu ai cả. Dạy em ruột, cháu ruột của mình cũng như dạy tất cả mọi người Thầy đều dạy như nhau cả, nhưng sự hiểu biết và tiếp thu là do mọi người có cái hiểu, cái nhìn khác nhau. Thầy không dấu một kinh nghiệm nào cả. Thầy đã hiểu Phật giáo không có pháp nào bí mật, không có pháp nào cao siêu cả, chỉ có một pháp duy nhất đó là bất động tâm; là tâm không phóng dật, là tâm thanh thản, an lạc, vô sự; là tâm sống không làm khổ mình khổ người.

Hết mưa rồi lại nắng, các con phải tu tập giới luật cho nghiêm chỉnh hơn, phải biết buông xả; phải biết tập sống không làm khổ mình khổ người; Phải biết thương yêu và tha thứ mỗi lỗi lầm; phải biết không nói xấu ác cho người; phải biết sống như con tê ngưu một sừng; phải biết giữ tâm không phóng dật; phải biết chứng đạo ngay liền trong đời sống hằng ngày của các con.

Kính thưa quý phật tử! Nếu các con sống đúng như những lời dạy trên đây là Thầy đang ở gần một bên với các con, còn ngược lại dù các con có muốn sống ở gần bên Thầy mà vẫn cách xa Thầy muôn ngàn vạn dậm. Thầy ẩn bóng với những người không tu, không sống trong thiện pháp, chứ không ẩn bóng với những người tu đúng, sống đúng pháp Phật.

Hãy cố gắng lên các con ạ! Phật pháp được dựng lại là do từ sự tu chứng của các con, chứ không phải của Thầy nữa. Trách nhiệm của các con lớn lắm. Các con có thấy không? Thầy đã giao gánh nặng thiện pháp cho các con rồi. Vậy từ đây các con phải thương nhau, đừng ganh ghét nhau, đừng tỵ hiềm, ích kỷ nhỏ mọn với nhau mà phải cùng chung lưng đâu cật chị ngã em nâng trên bước đường đạo đức nhân bản – nhân quả để đem lại sự lợi ích, sự an vui hạnh phúc cho đời, để biến cõi thế gian này thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Bức tâm thư này đến với các con tức là Thầy không bao giờ bỏ các con bơ vơ như gà con mất mẹ. Phải không các con?

Mặc dù Thầy không ở gần bên các con nữa, nhưng lúc nào Thầy cũng chăm sóc các con như người mẹ chăm sóc những đứa con thơ dại thân thương của mình. Bỏ sao được khi các con tu hành giống như đứa bé thơ mới biết đi chập chững; bỏ sao được khi bộ sách đạo đức làm người chưa xong; bỏ sao được khi bộ sách giới luật đức hạnh của Tăng, Ni chưa rồi; bỏ sao được khi giáo trình tu học từ căn bản đến chứng quả A La Hán chưa thành v.v...

Sau cùng Thầy gửi lời thăm và chúc các con, tất cả tu sĩ và cư sĩ đều chứng quả A La Hán ngay trong hiện tại. 

                                                                         Thân thương chào các con.

                                                                                               Thích Thông Lạc

 
 

 

075-TRỞ LẠI TỨ CHÁNH CẦN - TỨ NIỆM XỨ. TL Thích Thông Lạc

Làm thế nào để Ly Dục Ly Ác Pháp?
            Đức Phật đã dạy, và Trưởng Lão Thích Thông Lạc cũng giảng dạy rất cặn kẽ, kỹ càng. Nhưng có mấy ai hiểu và hành đúng pháp của các Ngài? Chẳng vậy mà bao người tu hầu hết đều "rụng" vào trạng thái "Tưởng', như lá vàng mùa thu đổ đống.
             Nói Ly Dục Ly Ác Pháp, nhưng sự thực hành đúng lời dạy này rất khó? Nếu không Ly Dục làm sao Ly được Ác? Dục Danh, Dục Lợi, Dục Sắc, Dục Quyền Hành, Dục Chứng Đạo... thôi thúc như bão cuốn triều dâng thì thử hỏi làm sao mà Tâm Bất Động được?
             Biểu hiện của các Dục này là còn ôm giữ tiền bạc nhiều, đất đai muốn mở mang thêm, lo xây nhà đẹp cao sang, mộ lớn, tượng to, lo học bằng cấp này bằng cấp nọ... để giữ vững quyền "Chăm Lo Chánh Pháp". Hỏi có được không? 
           GNCN một lần nữa xin giới thiệu những bài pháp Trưởng Lão dạy về Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ đến cùng độc giả. (Nguồn tài liệu do Tu Viện Chơn Như biên soạn lại sau ngày Trưởng Lão nhập diệt và đang xin phép xuất bản).

TỨ CHÁNH CẦN

Như chúng ta ai cũng biết, khi đức Phật đến cội cây bồ đề tu tập với pháp môn đầu tiên là pháp Sơ Thiền của ngoại đạo. Ngồi dưới cội bồ đề, Ngài nhớ lại lúc còn bé ngồi dưới cây hồng táo tu tập ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền.

Cũng với mục đích tu tập nhập Sơ Thiền như ngoại đạo, nhưng đức Phật không tu tập hành pháp theo lối ly dục, ly ác pháp ức chế thân tâm của họ, mà hành theo pháp do sáng kiến xả tâm  ly dục, ly ác pháp của mình, biến pháp hành này thành những hành động  “Ngăn Ác Diệt Ác Pháp, Sinh Thiện Tăng Trưởng Thiện Pháp”.

Với pháp hành này, suốt  ngày đêm, từ canh một đến canh hai, từ canh ba đến canh tư, canh năm, rồi từ ngày này sang ngày khác, đức Phật nhiệt tâm ngăn và diệt lòng ham muốn và các ác pháp cho đến khi tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự hoàn toàn, thì khi đó đức Phật để tâm tự nhiên kéo dài 7 ngày đêm. Sau khi ở trong trạng thái này suốt 7 ngày đêm như vậy thì biết mình đã chứng đạo.

Lúc mới tu tập, tâm còn chướng ngại pháp rất nhiều như sóng, nên đức Phật ngăn và diệt các ác pháp đó không lúc nào ngơi nghỉ, nhưng khi các ác pháp đó không còn nữa, thì đức Phật cảm nhận tâm mình bất động, thanh thản, an lạc và vô sự luôn luôn đang ở trên bốn chỗ của thân, thọ, tâm và pháp, vì thế Ngài gọi trạng thái tâm đó là pháp môn Tứ Niệm Xứ. Do từ đức Phật tự tu tập theo sáng kiến của mình mà đạo Phật mới có những pháp môn Tứ Chánh Cần và pháp môn Tứ Niệm Xứ.

Bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề, đức Phật tư duy suy nghĩ theo sự kiến giải của mình, nên tự sáng tạo ra pháp môn tu tập ly dục, ly ác pháp đúng pháp. Vì vậy, cuối cùng thân tâm Ngài được giải thoát hoàn toàn, đó là nhờ hai pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ. Đây cũng là các pháp môn căn bản nhất của Phật giáo, mà đầu tiên chúng ta tu tập thường nghe nói đến. Tất cả ngoại đạo không làm sao có được hai pháp môn này. Chỉ có đạo Phật mới có hai pháp môn này là do đức Phật tự tu mà tìm ra.

Trở lại vấn đề tu tập của đức Phật, khi tu tập đến đây, Ngài thấy giai đoạn tu tập Sơ Thiền đầu tiên theo kinh nghiệm bản thân của mình thì không giống ngoại đạo chút nào cả, nên đức Phật liền đặt cho pháp hành này cái tên Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần là bốn điều cần phải siêng năng tu hành hằng ngày không nên biếng trễ. Bốn điều cần nên tu tập này như sau:

           1- Ngăn các ác pháp.
           2- Diệt các ác pháp.
           3- Sinh các thiện pháp.
           4- Tăng trưởng các thiện pháp.

Một cái tên mà xác định được sự tu tập Sơ Thiền của Phật giáo. Vì vậy đức Phật còn gọi pháp môn Tứ Chánh Cần này với một cái tên rất gần thiền định: “Định Tư Cụ”, tức là phương pháp tu tập Sơ Thiền. Còn trong Bát Chánh Đạo, Tứ Chánh Cần là lớp thứ 6, lớp Chánh Tinh Tấn.

Như vậy, muốn tu tập Sơ Thiền thì không phải trên pháp Sơ Thiền mà tu tập, mà phải tu tập trên pháp môn Tứ Chánh Cần rồi đến Tứ Niệm Xứ. Sự tu tập như vậy khác hẳn với ngoại đạo. Vì ngoại đạo không bao giờ có phương pháp tu tập thiền định theo kiểu này.

Đến đây quý vị đã thấy rõ từ Sơ Thiền của ngoại đạo đã trở thành Tứ Chánh Cần của Phật giáo.

Phật giáo đã làm đảo lộn tất cả pháp môn tu hành của ngoại đạo, làm cho chúng điên đầu. Nhất là kinh sách Đại thừa và Thiền tông đang bị dao động mạnh bởi sóng gió Tứ Chánh Cần. Khi tu tập theo giáo pháp của đức Phật, thì quý vị nên nhớ phải tu tập Tứ Chánh Cần. Đó là những pháp đầu tiên đánh vào cơ quan đầu não của giặc sinh tử luân hồi. Cho nên những đòn đánh ngăn ác, diệt ác pháp như sấm sét, như vũ bão thì mới mong ngăn và diệt ác pháp được.

Khi tu tập phải đem hết ý chí dũng mãnh, kiên cường gan dạ đánh đòn nào phải chính xác và đầy đủ sức mạnh thì mới mong ngăn và diệt được ác pháp, chớ tu tập sìu sìu cho lấy có thì không bao giờ quét sạch hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan không.

Quý vị tu tập thì phải thật tu, tu cho đúng pháp, phải đi kinh hành nhiều, tu mà ngồi nhiều thì sinh ra lười biếng. Tu hành như vậy chẳng đi đến đâu cả, chỉ phí công sức và mất thời giờ vô ích.

Trong Tứ Chánh Cần  gồm có bốn pháp tu tập:

             1- Chánh Niệm Tĩnh Giác Định.
             2- Định Vô Lậu.
             3- Định Sáng Suốt.
             4- Định Niệm Hơi Thở.

Những loại định này đều tu tập trên bốn chỗ: Thân, Thọ, Tâm và Pháp (Tứ Niệm Xứ). Vì thế, người mới vào tu đều phải bắt đầu tu tập bốn loại định này. Nếu ai không tu tập bốn loại định này mà tu tập pháp nào khác là tu tập sai pháp Tứ Chánh Cần, là tu theo ngoại đạo. Tứ Chánh Cần của Phật là pháp môn Ngăn Ác, Diệt Ác Pháp tuyệt vời, nếu không có pháp môn này thì mọi người tu tập đều bị ức chế ý thức.

Vậy ác pháp cần phải ngăn và diệt là gì? Ác pháp tức là Tà Niệm, nó có 2 phần:

1- Tà niệm thuộc về tâm: Có nghĩa là tâm ham muốn, lo lắng, sợ hãi, buồn rầu, giận hờn, ghen tức, căm thù, thương nhớ, phiền não, v.v...

2- Tà niệm thuộc về thân: Có nghĩa là thân bị bệnh khổ, đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia, ngứa ngáy, chóng mặt, đau lưng, đi đứng không vững vàng, mỏi mệt, hôn trầm, v.v...

Những tà niệm này thường xảy ra trong thân tâm (thân, thọ, tâm, pháp) của chúng ta, khiến cho cuộc sống của chúng ta bất an. Vì thế, chúng ta phải ngăn và diệt chúng, để luôn sống và tăng trưởng trong Thiện Pháp. “Sinh Thiện, Tăng Trưởng Thiện Pháp” câu này không có nghĩa dạy chúng ta đi làm việc từ thiện, đi làm phước giúp người bất hạnh trong xã hội, mà dạy chúng ta nên sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

Vậy sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì phải sống như thế nào?

Như trong pháp môn Tứ Chánh Cần, Phật dạy: “Sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp”. Thiện pháp ở đây có nghĩa là Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự, chớ không có nghĩa thiện đơn thuần. Hằng ngày giữ gìn và bảo vệ  Tâm Bất Động thì đó là những điều toàn thiện, rất thiện. Thiện đó mới thật sự là thiện, thiện không làm khổ mình, khổ người và khổ tất chúng sinh.

Bởi pháp thiện Tâm Bất Động là thiện cứu cánh, nó là chân lý của Phật giáo. Nếu ai từng sống với nó là người chứng đạo. Cho nên, chứng đạo của đạo Phật là chứng đạo một cách dễ dàng, không có khó khăn mệt nhọc một chút nào cả.

TỨ NIỆM XỨ

Khi tu tập Tứ Chánh Cần thuần thục, thì không còn ác pháp tới lui nữa, đức Phật cảm nhận thân tâm mình tham, sân, si giảm bớt thấy rất rõ ràng. Đồng thời trạng thái tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự rõ ràng hơn, và mỗi ngày đức Phật càng tăng thời gian kéo dài thêm trạng thái đó.

Lúc bấy giờ, đức Phật thấy tâm mình rất lạ lùng, là luôn luôn cảm nhận toàn thân tâm của mình trong hơi thở ra và hơi thở vào, từ canh này sang canh khác, không có một niệm nào xen vào; không một ác pháp nào khởi ra được, nhất là các ác pháp bên ngoài không tác động vào được than tâm. Do trạng thái này, đức Phật không còn phải ngăn, diệt dục và ác pháp như trong pháp môn tu tập Tứ Chánh Cần.

Khi tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần thì niệm dục và niệm ác pháp khởi liên tục, còn bây giờ thì khác xa, tâm không có bất kỳ một niệm ác hay dục khởi lên một cách rất tự nhiên, chớ không phải còn gò bó ra công tu tập như ngày xưa nữa.

Với cách quán xét thân, thọ, tâm, pháp như vậy, từ ngày này sang ngày khác, chỉ duy nhất có một cảm nhận quán xét trên toàn thân. Khi trạng thái này xuất hiện thì sự tu tập Tâm Bất Động của đức Phật rất dễ dàng và thoải mái.

Suốt thời gian còn lại hơn 7 ngày, trong 49 ngày tu tập dưới cội bồ đề, đức Phật thấy rất rõ tâm mình có một cảm nhận trên thân quán than như vậy, không có một tâm niệm nào khác nữa.

Trong suốt 7 ngày đêm mà đức Phật tưởng chừng như trong một khoảng thời gian rất ngắn, chỉ hơn một phút. Ở trạng thái tâm này kéo dài cho đến khi tâm Vô Lậu hoàn toàn. Nhờ tâm Vô Lậu hoàn toàn nên mới có đầy đủ Tứ Thần Túc. Đó là lúc chứng đạo giải thoát. Từ trạng thái tu tập tâm này, đức Phật mới đặt cho nó một cái tên đúng nghĩa quán bốn chỗ của nó: “Tứ Niệm Xứ”.

Khởi đầu đức Phật tu tập Sơ Thiền của ngoại đạo, nhưng do sáng kiến biết sáng tạo ra những pháp tu hành để ly dục, ly ác, làm chủ sinh, già, bệnh, chết, tức là làm chủ thân tâm. Và cuối cùng đức Phật thành tựu tâm Vô Lậu bằng pháp môn Tứ Niệm Xứ, chứ không phải nhập Sơ Thiền theo pháp môn của ngoại đạo.

Bởi vậy, pháp môn Tứ Niệm Xứ chỉ có đạo Phật mới có, còn tất cả các tôn giáo khác đều không có pháp môn này. Tại sao lại gọi là TỨ NIỆM XỨ? Tứ Niệm Xứ có nghĩa là bốn nơi dùng để quán xét, nó gồm có:

              1- Thân là phần cơ thể đầu, mình, hai tay và hai chân.
              2- Thọ là các cảm thọ của thân và tâm.
              3- Tâm là phần sáu thức tiếp xúc sáu trần.
              4-  Pháp  là thân, thọ, tâm và sáu trần đang xung quanh chúng ta.

Trong bốn nơi này, chỉ cần quán xét một nơi là quán xét tất cả bốn nơi. Cho nên mới gọi là Tứ Chánh Cần. Trên Tứ Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập:

1- Tứ Chánh Cần tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn này người mới tu vẫn tu tập được và tu tập như vậy mới có căn bản).

2- Tứ Niệm Xứ tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn này rất khó tu, nếu mất căn bản thì không nhiếp phục được tham ưu trên thân, thọ, tâm và pháp).

3- Thân Hành Niệm tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn này là giai đoạn cuối cùng của Tứ Niệm Xứ, nó chuyên tu tập lệnh để thực hiện Tứ Như Ý Túc).

Tứ Chánh Cần tu tập trên Tứ Niệm Xứ là phương pháp tu tập lớp Chánh Tinh Tấn, lớp thứ sáu trong Bát Chánh Đạo. Còn Tứ Niệm Xứ tu tập trên Tứ Niệm Xứ là phương pháp tu tập lớp thứ bảy, tức là lớp  Chánh Niệm  trong  Bát Chánh Đạo. Lớp thứ bảy là lớp tu chứng đạo của Phật giáo. Ngoài pháp môn Tứ Niệm Xứ thì không có pháp nào tu chứng đạo giải thoát được.

Bởi trên Tứ Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập, cho nên có những bài kinh đức Phật dạy tu tập Tứ Niệm Xứ, nhưng kỳ thực là dạy tu tập Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ. Đây, chúng ta hãy lắng nghe Phật dạy:

“Những tỳ-kheo nào, này các tỳ-kheo, mới xuất gia tu chẳng bao lâu, mới đến trong những pháp luật này. Những tỳ-kheo ấy, này các tỳ-kheo, cần phải được khích lệ (samàdapetabbà), cần phải được hướng dẫn, cần phải được an trú, tu tập Bốn Niệm Xứ (thân, thọ, tâm, pháp). Hãy chuyên chú với tâm thanh tịnh, định tỉnh nhất tâm để có chánh trí như thật đối với các pháp”.

Cho nên, người mới xuất gia vẫn tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ, nhưng phải tu tập ở giai đoạn đầu là Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ. Bởi vậy, nếu một người không có tu tập thì không thể nào hiểu được pháp môn Tứ Niệm Xứ, và cũng không hiểu được Giới Luật.

Thưa các bạn! Các bạn muốn biết rõ pháp môn Tứ Niệm Xư thì hãy lắng nghe đức Phật dạy:

“Một thời, Thế Tôn ở Vesàli tại rừng Ambapàli. Ở đây, Thế Tôn gọi các tỳ-kheo: Này các tỳ-kheo, tỳ-kheo cần phải trú Chánh Niệm Tĩnh Giác. Đây là lời giáo giới của Như Lai cho các Thầy.

Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo Chánh Niệm? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo trú quán thân trên thân, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các tỳ-kheo, là tỳ-kheo ChánhNiệm”.

Đoạn kinh trên đây dạy chúng ta cách thức chánh niệm, tức là học lớp Chánh Niệm. Vậy Chánh Niệm là gì? Theo đoạn kinh này, thì Chánh Niệm là niệm Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự. Niệm thanh thản, an lạc và vô sự hiện tiền trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì tà niệm không bao giờ xen vào được. Nếu tà niệm xen vào được thì tức khắc phải nhiếp phục, không được để chúng tác động vào thân, thọ, tâm và pháp.

Như đã nói ở phần Tứ Chánh Cần, Tà Niệm là các niệm dục và ác pháp trên thân tâm. Nhưng sang giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ, thân tâm chỉ còn các tà niệm vi tế, chứ không còn các tà niệm thô như lúc mới tu tập ngăn ác, diệt ác pháp.

Vậy còn Trên Thân Quán Thân là như thế nào? Trên thân quán thân có nghĩa là dùng mắt nhìn thấy, tai lắng nghe, thân cảm nhận xúc chạm và ý thức quan sát ngay trên thân. Nếu thân có đau nhức chỗ nào liền biết ngay, thân đi biết thân đi, thân ngồi biết thân ngồi, thân nằm biết thân nằm, thân đứng biết thân đứng, v.v...

Tuy nói trên thân quán thân nhưng thật sự là đang quán bốn chỗ: thân, thọ, tâm và  pháp. Vì biết thân là biết thọ, biết thọ là biết tâm, biết tâm là biết pháp, biết pháp là biết thân. Cho nên trên Tứ Niệm Xứ, biết chỗ này thì liền biết chỗ khác. Bốn chỗ này như một khối. Tuy nói bốn nhưng mà một.

Quán thân trên thân, tức là tâm tỉnh thức trên thân, nên thân xảy ra một điều gì dù lớn lao hay nhỏ nhặt tâm đều biết rất rõ. Cho nên nói trên thân quán thân chớ kỳ thực là quán Tâm Bất Động, nếu Tâm Bất Động suốt bảy ngày đêm là tu tập chứng đạo. Còn ngược lại, trong bảy ngày đêm tâm thường bị hôn trầm, thùy miên, vô ký và loạn tưởng thì nên dùng pháp Ngăn Ác, Diệt Ác, để mà diệt các ác pháp này.

Bởi vậy, pháp môn Tứ Niệm Xứ là một pháp môn tu tập để chứng đạo. Pháp môn này rất quan trọng, nếu ai không tu tập nó thì không bao giờ chứng đạo. Cho nên chúng ta cần phải thông suốt đường lối tu tập như thế nào đúng và như thế nào sai.

Một lần nữa chúng tôi xin nhắc các bạn: Phải tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần rồi sau mới tu tập đến pháp môn Tứ Niệm Xứ. Nếu không biết thì đừng nên tu tập, bởi có tu tập cũng chỉ uổng công mà thôi.

Các bạn đừng nghe nói pháp môn Tứ Niệm Xứ mà ham tu cao. Pháp môn này dành cho những bậc Giới Luật nghiêm túc, dành cho những bậc tâm đã Bất Động trước các ác pháp và các cảm thọ, chớ không phải pháp môn này bất cứ ai muốn tu tập là đều tu tập được. Nếu các bạn tu tập mà không biết khả năng trình độ của mình thì đó là tu tập sai pháp, xin quý vị cần lưu tâm.

Bất cứ thân làm điều gì đều biết: Thân ăn biết thân ăn, thân ngủ biết thân ngủ, thân quét sân biết thân quét sân, thân lặt rau biết thân lặt rau, than ngồi yên biết thân ngồi yên và khi thân ngồi yên bất động thì biết hơi thở ra, hơi thở vô trên thân.

Tất cả hành động đều được xem là trên thân quán thân. Dù quán hơi thở ra, hơi thở vô cũng chính là

trên thân quán thân. Trên thân quán thân được như vậy là phải có sức tỉnh thức. Đây, chúng ta hãy nghe đức Phật dạy cách thức tu tập tỉnh thức:

“Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo tĩnh giác? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo tĩnh giác khi đi tới, đi lui; tĩnh giác khi ngó tới, ngó lui; tĩnh giác khi co tay, duỗi tay; tĩnh giác khi mang áo sanghati (tăng già lê), mang bát, mang y; tĩnh giác khi ăn, uống, khi nhai, nếm; tĩnh giác khi đại tiện, tiểu tiện; tĩnh giác khi đi, đứng, khi ngồi, nằm; khi thức, khi nói, khi im lặng đều tĩnh giác. Này các tỳ-kheo, như vậy tỳ-kheo sống tĩnh giác”.

Đoạn kinh trên đây đã xác định sự tĩnh giác trên thân hành của chúng ta. Vậy Thân Hành của chúng ta là gì? Thân hành của mỗi người được chia ra làm hai phần:

             1- Thân hành nội (hơi thở).
             2- Thân hành ngoại (tất cả mọi sự hoạt độngcủa thân).

Thân hành hoạt động gồm có ba nơi:

               1- Thân
               2- Miệng
               3- Ý

Như vậy, muốn tĩnh giác trên thân hành thì các bạn hãy phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình. Khi phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình là các bạn hãy chủ động điều khiển thân hành, khẩu hành và ý hành, khiến cho thân hành, khẩu hành, ý hành của các bạn không có lỗi lầm. Thân hành, Khẩu hành, Ý hành của các bạn không có lỗi lầm tức là Chánh Niệm, còn có lỗi lầm là có Tà Niệm.

Bài kinh này đức Phật dạy chúng ta phải phản tỉnh lại thân hành, khẩu hành và ý hành, nói chung là dạy chú ý tất cả các hành động của thân, đó là tĩnh giác. Nhưng nếu nghe như vậy, rồi các bạn tu tập chỉ lo chú ý tập trung trên thân hành một cách ức chế tâm cho hết niệm khởi, thì đó là một điều tu sai lệch pháp hết sức. Đó là các bạn đã hiểu sai, biến pháp xả tâm của Phật thành pháp ức chế.

Đức Phật rất sợ chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ lầm lạc thì tai hại không lường được về hậu quả. Bởi vì pháp môn Tứ Niệm Xứ là một pháp môn độc nhất để đưa con người có đủ năng lực làm chủ nhân quả, tức là làm chủ mọi sự hoạt động của chúng ta hằng ngày. Tức là như lời đức Phật dạy ở đoạn kinh  trên: “Tỳ-kheo phải sống an trú chánh niệm tĩnh giác”.

Cho nên, chúng ta hãy hiểu cho rõ ràng, để biết cách sống An Trú Chánh Niệm Tĩnh Giác mà không sai lầm trên pháp môn Tứ niệm Xứ. Đây, xin các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy tiếp:

“Vậy này các tỳ-kheo, các thầy phải gội sạch hai pháp cơ bản về các thiện pháp, và thế nào là hai pháp cơ bản về các thiện pháp? Chính là Giới khéo thanh tịnh và Tri kiến chánh trực. Này các tỳ-kheo, khi nào các thầy được Giới khéo thanh tịnh và Tri kiến chánh trực, các thầy hãy y cứ trên giới, an trú trên giới tu tập Bốn Niệm Xứ: thân, thọ, tâm, pháp”. (Kinh Tương Ưng tập 5 và Tăng Chi Bộ kinh tập 1).

Đoạn kinh trên dạy rất rõ ràng: “Giới luật và Tri kiến”. Bởi vậy, muốn khắc phục những tham ưu trên thân, thọ, tâm và pháp thì phải y cứ trên Giới Luật, sống không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì mới mong đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó (khắc phục tham ưu).

Thưa các bạn! Trong kinh Ước Nguyện, đức Phật cũng đã nhắc nhở chúng ta rất nhiều về giới luật. Vì giới luật rất quan trọng trên con đường tu tập giải thoát. Muốn ước nguyện kết quả một điều gì trong sự tu tập thì giới luật phải nghiêm chỉnh.

Ở đây, tu tập Tứ Niệm Xứ đức Phật cũng dạy chúng ta lấy Giới Luật và Tri Kiến làm nền tảng cho sự nhiếp phục những tham ưu trên Tứ Niệm, nghĩa là muốn đẩy lui những sự khổ đau trên thân, thọ, tâm và pháp thì giới luật phải nghiêm chỉnh. Giới luật nghiêm chỉnh thì tri kiến thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh thì giới luật mới nghiêm chỉnh. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật. Đó là nền tảng vững chắc để chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ mà làm chủ bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết của đời người.

Bởi vậy, pháp môn Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn soi sáng, là chỗ nương tựa vững chắc cho chúng ta. Đây, các bạn hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ những lời đức Phật nhắc nhở ông A Nan:

“Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một điều gì khác. Này Ananda, thế nào là tỳ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác?

Ở đây, này Ananda, tỳkheo trú quán than trên thân, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này Ananda, tỳ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác”.

Các bạn có nghe chăng? Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn chánh pháp, là chỗ nương tựa vững chắc cho các bạn. Như vậy, Tứ Niệm Xứ đúng là một pháp môn rất quý báu nên đức Phật lặp đi lặp lại nhiều lần, để chúng ta đừng quên pháp môn này. Ở đoạn kinh trên, đức Phật dạy chúng ta 2 điều:

1) Lấy mình làm ngọn đèn, làm chỗ nương tựa vững chắc, là ý muốn dạy điều gì đây? Xin thưa cùng các bạn! “Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác”. Để thấu rõ và xác định ý nghĩa của câu này, chúng tôi xin lặp lại: “Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình”. Đó là Tri Kiến của chúng ta đấy các bạn ạ!

2) Dùng chánh pháp làm ngọn đèn soi sáng, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác, là ý Phật muốn dạy pháp môn gì đây? Xin thưa cùng các bạn! Đó là Giới đức, Giới hạnh, Giới hành và pháp môn Tứ Niệm Xứ.

Đọc đến những đoạn kinh trên đây, chắc các bạn đã thấu hiểu và phân biệt chánh pháp của Phật là pháp nào, còn tà pháp của ngoại đạo là pháp nào? Nếu không có những lời xác định chánh pháp của Phật, thì đứng trước rừng kinh sách hiện giờ, các bạn dễ rơi vào kiến giải tưởng của ngoại đạo.

Như chúng tôi đã nói ở đoạn trước, nếu một người không có tu tập thì không thể nào hiểu được pháp môn Tứ Niệm Xứ, và cũng không hiểu được Giới Luật. Bởi vì trong khi trên Tứ Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập, thì Giới đức, Giới hạnh và Giới hành cũng là ba  hành động đạo đức hàng ngày để tu tập Giới Luật.

Thực hiện giới luật là phải luôn luôn thực hiện với tri kiến, cho nên kinh dạy: “Giới luật ở đâu là tri kiến ở đó, tri kiến ở đâu là giới luật ở đó, giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nếu người tu sĩ và người cư sĩ không thực hiện giới luật nghiêm chỉnh, còn vi phạm những lỗi nhỏ nhặt, không thấy xấu hổ và sợ hãi thì tu Tứ Niệm Xứ chẳng bao giờ có kết quả rốt ráo, chỉ hoài công vô ích mà thôi, uổng phí một đời tu.

Ngoại đạo không bao giờ có pháp môn Tứ Niệm Xứ, cho nên ngoại đạo không có ai tu chứng đạo giải thoát. Nhờ có pháp môn Tứ Niệm Xứ nên ngoại đạo không thể lừa dối phật tử, lấy pháp môn của mình cho là pháp môn của Phật được.

Tóm lại, khi tu hành theo Phật giáo thì không nên tu tập bất cứ một pháp môn nào khác, mà chỉ nên tu tập Tri Kiến, Giới Luật và Tứ Niệm Xứ. Trước khi nhập diệt, đức Phật đã di chúc: “Sau khi Ta nhập diệt, các vị tỳ-kheo hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp của Ta mà làm Thầy”. Giáo pháp mà Ngài đã di chúc ở đây là pháp môn Tứ Niệm Xứ.

Pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn nhiếp tâm Bất Động cuối cùng của Phật giáo, vì chính người tu tập sống được với tâm Bất Động là đã chứng đạo. Ở đây không còn tu pháp môn nào khác nữa. Cho nên pháp môn Tứ Niệm Xứ được xem là pháp môn tu tập cuối cùng của Phật giáo, gọi là Chánh Niệm. Nơi đây tất cả năng lực làm chủ thân tâm sẽ được xuất hiện trên mảnh đất Bất Động. Bảy Giác Chi cũng xuất hiện đầy đủ trên tâm Bất Động này. Vì thế, quý vị đừng vội vàng tu tập Tứ Niệm Xứ, mà nên xét lại tâm mình đã Bất Động chưa, nếu tâm Bất Động thì mới tu tập Tứ Niệm Xứ, còn chưa thì nên trở lại tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần.

Vì vậy, xin quý vị đừng hiểu rằng 49 ngày đức Phật ngồi dưới cội bồ đề là tu tập Bốn Thiền, tức là từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền của ngoại đạo. Sự thật, trong gần 6 tuần đầu, đức Phật tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp trong pháp môn Tứ Chánh Cần. Kế đó, hơn 7 ngày cuối cùng, đức Phật an trú tự nhiên trên Tứ Niệm Xứ để quét sạch các tà niệm vi tế của thân tâm, cho đến khi Bảy Giác Chi sung mãn thì Tứ Thần Túc và Tam Minh xuất hiện. Một kết quả tâm Vô Lậu hoàn toàn.

Đến đây, chặng đường tu hành làm chủ sinh, già, bệnh chết của đức Phật đã thành công.

076-MONG MỘT NGÀY VỀ - Từ Đồng.

LỜI BBT GNCN
            
             Đọc bài “Mong Một Ngày Về” chúng tôi bỗng liên tưởng đến cảnh tượng:

             Hồ thu trong veo! Nước muốn lặng mà sao Gió chẳng dừng!
             Vì sao có sóng, sóng bắt đầu từ đâu? Sóng bắt đầu từ Gió.
             Gió bắt đầu từ đâu? Gió bắt đầu từ Mặt trời.

Mặt trời mang lại ánh sáng và hạnh phúc cho muôn loài. Mặt trời mang lại mưa thuận gió hòa để người người được sống bình yên.

Nhưng vì sao có sóng. Bởi vì Gió ham ôm ấp Núi, Gió thích quấn quýt Mây, gió muốn Núi chắn, Mây che khuất hết Mặt trời nên mới thành Bão tố. Bởi Gió chỉ muốn Mặt trời là của riêng mình, là nguồn lợi lớn để Gió tha hồ rong ruổi cùng Mây vi vu trên Đất, Nước. Gió chẳng muốn nắng Mặt trời tỏa chiếu cho ai, chẳng muốn Đất cùng muôn loài được chung lợi ích hòa an.

Vì sao Gió ơi? Vì Gió quá được nuông chiều, như ngựa không cương nên Gió thỏa lòng ngang dọc. Gió ôm ấp Núi và quấn quýt cùng Mây, quyết che Mặt trời, phủ kín Mặt đất để khắp nẻo tối tăm

Xin đừng trách Mặt trời. Mặt trời bao dung, rất vô tư, luôn ban trải đều ánh nắng.

Cũng chẳng nên trách Gió. Chỉ mong Gió sớm biết “buông bỏ” Núi và Mây xuống! Lúc bấy giờ Trời yên, Hồ lặng. Nước lại trong veo, cá tôm hoan hỷ, chim chóc líu lo. Đó mới là nơi xứng đáng để những người con yêu quý của Mặt trời “Mong Một Ngày Về”.

               GNCN xin giới thiệu bài viết dướ đây: 


MONG MỘT NGÀY VỀ 

Từ Đồng

               Mong có một ngày tôi trở về
              Tu Viện Chơn Như vẫn như xưa
              Từng bước chân đi lòng thanh thoát
               Bầu trời an lạc cảnh Chơn Như.

Thời gian trôi qua thật nhanh, mới đây mà đã hơn sáu tháng rồi, kể từ ngày Thầy nhập Niết Bàn.

Hồi tưởng lại những tháng năm khi bản thân chúng tôi sống và tu tập tại Tu Viện Chơn Như, lúc đó khu vực 2 chuyên tu chưa được phát triển. Rồi theo thời gian cứ mỗi hằng năm hoặc hai năm chúng tôi lại trở về Tu viện một lần trước kính thăm Thầy cùng đại chúng, sau xin tu tập ngắn ngày (vì thời gian không cho phép…).

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Không biết trong số các bạn có đồng một tâm tư hay một ước nguyện mong đợi như chúng tôi không? Nhưng riêng bản thân chúng tôi kể từ khi được Thầy cho biết tâm nguyện của Thầy sẽ thành lập một Trung Tâm an dưởng từ thiện Chơn Lạc (trong thời điểm này Thầy chỉ nói riêng cho một số đệ tử biết lúc bắt đầu về khu đất thuộc Ấp Long Phù – Xã Phước Hải - Huyện Long Đất - Đồng Nai). Hai chữ Chơn Lạc chúng tôi được biết đến kể từ đó (Tháng 11/ 1989).

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Một Trung Tâm An Dưởng Từ Thiện Chơn Lạc được ra đời, nếu đúng như tâm nguyện của Thầy, cho dù nó được hình thành ở bất cứ nơi đâu, hay một địa điểm nào trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta thì thật là hạnh phúc biết dường nào. Khi viết đến đây chúng tôi xin được mạn phép trích đoạn từ “BỨC TÂM THƯ III” của Đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc - Viện Chủ Tu Viện Chơn Như - Việt Nam.

"BỨC TÂM THƯ III - TÂM NGUYỆN CỦA THẦY:

              Chơn Như ngày 19 tháng 09 năm 2005
              Kính gửi: Quý phật tử ở khắp mọi miền đất nước Việt Nam cùng quý phật tử ở hải ngoại!

Kính thưa quý vị!

Từ lâu Thầy có một tâm nguyện muốn thành lập một khu an dưỡng từ thiện để giúp đỡ mọi người không phân biệt già trẻ, phật tử, hay không phật tử đều được về nghỉ ngơi, an dưỡng, dù chỉ một tuần lễ. Một tuần lễ tuy thời gian quá ngắn ngủi, nhưng ở đó quý vị được hướng dẫn học tập ĐẠO DỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ sống không làm khổ mình, không làm khổ người và khổ cả hai.

Nơi đó còn có một khu điều dưỡng hay nói cách khác cho dễ hiểu hơn, đó là một bệnh xá tư từ thiện do một số y bác sĩ Việt Nam và ngoại quốc giàu lòng thương người đảm nhận để giúp đỡ cho những Tu sĩ Phật giáo, họ đã bỏ hết cuộc đời vào chùa tu hành, chỉ còn ba y, một bát, sống đời độc thân, không nhà cửa, không gia đình.

Bệnh xá còn giúp đỡ cho quý phật tử trong các nhóm từ thiện cũng như những người nghèo đều có thể đến đó điều trị mà ở đó không nhận một chi phí nào cả…" (Xin quý vị tham khảo và đọc bài: “Bức Tâm Thư III & Phương án thành lập hội” trên các trang Web: www.chonlac.orgwww.nguyenthuychonnhu.net).

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Kể từ khi bức tâm thư III và phương án thành lập hội được phổ biến, không riêng gì trong chúng đệ tử của Tu Viện Chơn Như mà ngay cả những bà con đồng bào trong nước cũng như ngoài nước (kể cả một số các Tôn giáo cùng một số giới chức trong chính quyền đều tán dương việc làm này). Một số đồng bào Việt Nam nơi hải ngoại tuy không cùng một Tôn giáo, nhưng khi các vị này nghe và đọc được họ đều rất vui mừng, mong sao được đóng góp một phần nhỏ nào khi Trung tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc ra đời…

Thế mà mãi đến ngày giờ Thầy nhập Niết Bàn vẫn chưa có được một Trung Tâm An Dưỡng nào ra đời, mặc dầu cách đây mấy năm về trước, chúng tôi được biết cũng có một số phật tử tại miền Bắc cũng phát tâm thực hiện một trung tâm an dưỡng từ thiện Chơn Lạc, nhưng duyên nhân quả không được thành tựu theo ý nguyện.

Kính thưa các bạn!

Những khoảng thời gian trước kia có lúc gần bên Thầy, chúng tôi mới cảm nhận được tình thương và lòng yêu thương của Thầy đối với chúng sanh. Thầy dạy: Muốn tìm một nơi để xây dựng một Trung tâm an dưỡng, thì nơi đó khí hậu và thời tiết phải ôn hòa, như nơi Phước Hải này là vùng đất có núi, rừng và biển, khí hậu như vậy thì mới thành lập khu điều dưỡng được, với Thầy thì khí hậu ở vùng cao nguyên thì rất lạnh, đối với sức khỏe của những người có bệnh, tuổi già, thì không phù hợp, Thầy mỉm cười và nói tiếp: Các con sống và tu tập ở xứ lạnh dể sanh lười biếng giải đãi lắm…

Nhưng một điều chính yếu (mà chúng tôi được biết) là tâm tư của Thầy, đó là về vấn đề đào tạo có đủ nhân lực để phụ trách các công tác tại trung tâm như: hướng dẫn tu tập đạo đức, điều dưỡng và chăm sóc sức khỏe đời sống sinh hoạt tại trung tâm (kể cả các khu vực có trách nhiệm thuộc trung tâm).

Một người đệ tử của Thầy, cho dù là một tu sĩ hay một cư sĩ tại gia cũng vậy, phải tốt nghiệp qua một khóa học đào tạo NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC trên tinh thần ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ, có được như vậy mới thể hiện đúng với một tấm lòng yêu thương rộng lớn vị tha bác ái (chớ không vị kỷ).

Từng lời nói, từng cử chỉ hành động cho đến sự chăm sóc trên một tinh thần ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Có như vậy thì mới thể hiện đúng nghĩa của một thiện nguyện viên phục vụ cho Trung tâm an dưỡng từ thiện.

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Cũng trong Bức Tâm Thư III Thầy đã viết: “…Muốn thành lập được một khu an dưỡng như vậy thì phải do quý phật tử khắp mọi miền, mọi nơi. Nhất là những phật tử Việt Nam phải đoàn kết, chung lưng đấu cật thành lập nhiều hội từ thiện từ mọi nơi trong nước và hải ngoại để giúp nhau vượt khó trong mọi hoàn cảnh, để an ủi cho nhau khi bệnh tật và tai nạn khổ đau”.

Nhìn lại khi Thầy còn tại thế, những khóa học về Đạo Đức, về Bát Chánh Đạo, biết bao nhiêu Tăng, Ni và cư sĩ ở các nơi xin về tu học. Rồi những tập sách về giáo án rèn nhân cách dạy về Đạo Đức được ra đời, những buổi thuyết giảng của Thầy khi lên lớp học v.v…

Và cho đến giờ phút cuối Thầy nhập Niết Bàn, trong số chúng ta đã làm được gì để gọi là báo ơn Thầy. Và biết đến bao giờ tất cả mọi người trong số chúng ta thực hiện được trên một tinh thần NHÂN RỘNG NỀN ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ, và một Trung tâm An Dưỡng thực sự ra đời hình thành đúng nghĩa như những gì mà tâm nguyện của Thầy đã viết. Hay là tối ngày cứ mãi gây tạo thêm sóng gió.

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Khi hay tin Thầy nhập Niết Bàn trong số chúng ta ai ai lại không nuối tiếc, bùi ngùi thương nhớ . Vậy mà chỉ trong vòng sáu tháng Sóng gió Chơn Như lại tiếp tục nổi lên. Trong cũng như ngoài, chưa kể có những con người “Thừa nước đục…”.

Khi viết đến đoạn này, bản thân chúng tôi tha thiết xin nói lên: Xin hãy vì con đường Chánh Pháp Nguyên Thủy Phật Giáo, xin hãy ghi nhớ những lời dạy về lòng yêu thương và đoàn kết, mà bao nhiêu tâm huyết của Thầy đã dầy công dựng lại Chánh Phật Pháp Nguyên Thủy Phật Giáo mà Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã khai sáng cách đây hơn 2550 năm.

Kính thưa các bạn!

Trong cuộc sống của chúng tôi khi chưa biết gì về con đường Chánh Pháp, cũng sân, si, hận thù, thương ghét v.v…  Xin chia sẻ một mẩu chuyện nhỏ về chúng tôi: Sau gần năm năm trời rời bỏ gia đình rày đây mai đó, trong khi tại quê nhà người vợ phải tảo tần ngày đêm để phụng dưỡng cha chồng và nuôi dưỡng con thơ chưa đầy 6 tháng tuổi. Ngày trở lại quê nhà sống cùng gia đình (trước đó đã hay tin cha mình bệnh mà chết). Tuy về cùng vợ, bên con nhưng những nỗi bất an, hận thù vẫn còn chất chứa trong lòng, mặc dầu trước khi về với gia đình chúng tôi đã cảm nhận được về bài học Nhân Quả mà Đức Phật đã dạy qua kinh sách giáo lý Phật giáo.Và nguyện trong tâm chuyến này trở về quê nhà phải ăn chay (bắt đầu ăn chay vào gần cuối tháng 01 năm 1981).

Một nhân duyên đến với chúng tôi là có một người bạn ghé thăm, nghe nói chúng tôi lúc này ăn chay quên chuyện thế sự, nên tặng cho một tập lịch loại 12 tờ, khi nhận được tập lịch này chúng tôi chợt nhìn vào phía cuối có một câu đề là Kinh Pháp Cú, đọc câu kinh này xong, tự nhiên trong tâm tôi thấy nhẹ nhàng an ổn ngay trong giây phút ấy.Và kể từ đó khi có chuyện gì xãy ra hay nội tâm bất an chúng tôi đều ghi nhớ lời dạy này:

“Không bao giờ sự thù hận dập tắt được sự hận thù, mà chỉ có Từ Bi mới dập tắt được thù hận. Đó là nguyên tắc đạo lý từ ngàn xưa”. (Kinh Pháp Cú).

Cho mãi đến ngày giờ hôm nay chúng tôi vẫn còn lưu giữ. Thú thật mà nói mặc dầu chúng tôi chưa từng đọc kinh Pháp Cú… Đến đây chúng tôi xin tạm dừng và không kể tiếp.

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Tiếp theo trên bước đường tầm đạo, nhân duyên chúng tôi được nương tựa về Thầy, về tu viện Chơn Như, một lời dạy tâm đắc nhất mà chúng tôi lấy đó làm cẩm nang và phương châm trên bước đường tu học Phật pháp (rất tiếc là chúng tôi đã đánh mất bức thư bút tích do Thầy viết gởi năm 2001 khi chúng tôi còn đang sống tại Tiểu Bang Massachusetts).

Thầy viết: “Con hãy nhìn thế gian bằng đôi mắt nhân quả thiện ác, nếu thấy đúng sai tâm con sẽ bất an”. Thầy dạy tiếp: “Đừng làm Thầy thiên hạ cả vợ lẫn con”. Còn đối với gia đình Thầy nhờ chuyển lời khuyên: “Làm một đồng ăn một đồng, làm một xu ăn một xu. Đừng nhìn lên và hãy ngó xuống. Người phật tử phải biết sống tiết kiệm, nhưng không keo kiệt…”.

Kính thưa các bạn!

Xin các bạn cũng cảm thông cho cái lối viết dài dòng văn tự này, vì chúng tôi nghĩ sao viết vậy. Mong rằng bài viết thô thiển này cũng có bạn hiểu và cảm thông là đủ rồi.

Thời gian qua biết bao nhiêu là sóng gió, đến nỗi có một người bạn trong chúng ta phải dùng những từ “cuộc bút chiến”… Đến đây tôi chợt nhớ đến một bài viết của một tác giả (lâu quá không nhớ rõ tên tác giả) tựa đề là: BÚT MÁU. Câu chuyện kể về một nhân vật tên là Lương Sinh, người ở Mãn Châu… tuy câu chuyện này có vẽ hư cấu và huyễn hoặc, nhưng ngụ ý của câu chuyện nhằm đưa vào luật nhân quả trả vay (theo thuyết của Phật giáo phát triển):

Trích một đoạn của bài viết: “…Ông suy nghĩ rồi nói: - Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua vì mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho thiếu nữ băn khoan sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, kêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đạo nghĩa của tha nhân, hát trên bi cảnh của đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý…” (Trích Bút Máu của nhà văn Vũ Hạnh – GNCN chú thích).

Trong “Bài Học Ngàn Vàng” có viết: “Phàm làm việc gì, trước phải xét kỹ đến hậu quả của nó”.

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Trong số các bạn chúng ta hoặc một số các bạn đã từng đọc và nghe những gì của đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc để lại và cùng cảm nhận đây là một con đường đi đúng nghĩa của Chánh pháp Nguyên Thủy Phật giáo. Thế mà trong chúng ta cứ mãi bắt lỗi nhau từng chữ, từng câu, từng lời nói để rồi đưa đến cái cảnh tranh luận, phản bác nhau.

Trong số các bạn cũng như chúng tôi ai ai cũng đều muốn cùng nhau đoàn kết xây dựng lại con đường CHÁNH PHÁP NHƯ LAI.

              “Với hận diệt hận thù
               Đời này không có được
               Không hận diệt hận thù
               Là định luật ngàn thu”.
                                           Bài kệ số 05 - Phẩm song yếu (Yamakavagga) - Kinh Pháp Cú.

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Lời thật hay mất lòng. Xin đừng để những kẻ ngoại đạo “thừa nước đục thả câu,…” xin các bạn đồng pháp đừng để đánh mất niềm tin. Xin hãy yêu thương và tha thứ cho nhau.

             "Vui thay chúng ta sống
              Không hận giữa hận thù
              Giữa những người thù hận
              Ta sống không hận thù”.
                                           Bài kệ số: 197 Phẩm An Lạc (Sukhavagga) - Kinh Pháp Cú

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Nếu tất cả trong số chúng ta thực hiện và áp dụng vào đời sống hiện tại trên tinh thần đạo đức ngay chính tự bản thân mình, gia đình mình và nhân rộng nền đạo đức nhân bản – nhân quả với một tấm lòng yêu thương ban rãi và đoàn kết đến mọi tầng lớp trong xã hội thì không có việc gì mà không làm nên.

Tâm tư của chúng tôi hằng ước nguyện: Chúng tôi không mong cầu tại Tu Viện Chơn Như sẽ có những người tu chứng Thánh quả A La Hán, mà chúng tôi chỉ ước nguyện mong sao có rất nhiều người từ hàng đệ tử xuất gia cho đến cư sĩ tại gia sống đúng giới luật, với một cuộc sống đạo đức biết thể hiện lòng yêu thương, như vậy là đủ chứng minh cho mọi người đang sống trên hành tinh này biết được con đường mà Đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã triển khai và làm sống lại Chân lý giải thoát mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khai sáng cách đây hơn 25 thế kỷ là đúng, đó mới thật sự là chân giải thoát. Như vậy cho dù Thầy đã ra đi nhưng Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc sẽ có một ngày sớm được hình thành. Đó mới gọi là thể hiện bốn ân lớn nhất (Tứ trọng Ân).

Khi viết đến đây chúng chúng tôi chợt nhớ lại cách đây hai ngày, qua trong cuộc điện đàm với một phật tử tại Việt Nam , để thăm hỏi về vấn đề Lăng Mộ của Thầy và tượng Thầy nhập Niết Bàn đã xong chưa. Vị phật tử này cho biết là tượng đã về đến Tu Viện rồi. Bản thân chúng tôi cũng muốn biết nghệ nhân tạc tượng như thế nào, thì vị phật tử này cho biết là mẫu mã đã được nghệ nhân vẽ nhiều kiểu, nhưng đến giờ phút chót trong nội bộ (những vị phụ trách việc tạc tượng) đồng ý là tạc tượng Thầy gối đầu trên Y Bát, không đắp y vấn (như chúng ta thường thấy những cốt tượng đức Phật nhập Niết Bàn ) mà là mặc một chiếc áo tràng (mà chúng ta vẫn thấy Thầy thường mặc khi tiếp khách, khi lên lớp học hay ra giảng đường v.v…).

Kính thưa các bạn!

Không hiểu sao trong tâm tôi lúc ấy chợt cảm nhận ra một điều, mặc dù chưa được nhìn thấy qua hình ảnh. Chúng tôi mới hỏi vị phật tử này là quý vị phụ trách về vấn đề tạc tượng Thầy nhập Niết Bàn, cuối cùng đi đến quyết định thực hiện mẫu Thầy gối đầu trên y bát, chú có nghe các vị này giải thích gì không? Vị phật tử trả lời là không nghe nói! Chúng tôi nói thôi khỏi bàn luận vấn đề này nữa, chúng tôi nói với vị phật tử: Riêng sự suy tư của chúng tôi, đây cũng là một duyên trong suốt quá trình tạc tượng đã khiến cho các vị phụ trách có lên ý tưởng này. Hình ảnh Thầy gối đầu trên y bát đối với chúng tôi mà nói rất có ý nghĩa và thực tế nói lên cuộc sống tu hành của Thầy chỉ ba y, một bát, hình ảnh Thầy mặc chiếc áo tràng nói lên được truyền thống Văn Hoá Phật Giáo đúng nghĩa của người Việt Nam và cũng hình ảnh này là một biểu tượng nhắc nhở và truyền đạt đến cho các vị tu sĩ Phật giáo chính thống đó là: hành trang của một người Tu sĩ là chỉ ba y và một bát, và cho các thế hệ đời sau. Tất cả hình ảnh này đều rõ như thật (Liễu Tri: Thấy rõ như thật ). Một hình ảnh mà chúng ta, những người đệ tử của Thầy đều đã từng gần gủi lúc Thầy còn tại thế (ở đây chúng tôi chỉ nói lên sự cảm nhận riêng mình).

Thử nhìn lại trên thực tế, nếu trong số chúng ta đứng vào vị trí khách quan mà nhìn lại các hình ảnh cốt tượng đức Phật nhập Niết Bàn ở các tự viện tại Việt Nam cũng như các nơi trên thế giới, mỗi nơi, mỗi chỗ đều có khác nhau (lại còn tùy theo phong tục tập quán và tín ngưỡng dân gian của đất nước đó), có một sử gia nào, một nhà khoa học nào dám khẳng định đây là hình ảnh thực sự của đức Bổn Sư Thích Ca khi còn tại thế không? Mặc dù chúng ta vẫn biết trong thời kỳ đức Phật còn tại thế tại xứ Ấn Độ lúc đó, những nhà Họa sĩ, những nghệ nhân không phải là không có… Nhưng chưa có một hình ảnh, một chân dung nào đích thực là của Ngài (điều này chắc quý bạn đồng pháp trước kia đã từng có nghe Thầy nhắc đến vấn đề này).

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Khi nói lên cảm nhận và suy nghĩ của mình, chúng tôi chắc chắn không ít thì nhiều cũng sẽ có những lời bàn ra nói vào về việc tôn tượng Thầy trên Lăng Mộ… Thôi đi các bạn! Hãy dừng lại đi các bạn. Chúng tôi nhìn lại bản thân mình vẫn còn rất nhiều sai sót, nên xin được đứng vào một vị trí khách quan khẩn thiết lên tiếng xin tất cả các bạn hãy dừng lại đi. Muốn hộ trì Chánh Phật Pháp, thì hãy chính tự bản thân mình tu tập đúng theo những gì mà Thầy dạy.

               “Việc đáng làm, không làm
               Không đáng làm, lại làm
               Người ngạo mạn, phóng dật
               Lậu hoặc ắt tăng trưởng”.
                                             Bài kệ số: 292 - Phẩm Tạp Lục (Pakinnavagga) - Kinh Pháp Cú

                Trong Kinh Pháp Cú – Phẩm Tham Ái (Tanhàvagga). Bài kệ số 337 đức Phật dạy:
                “Đây điều lành Ta dạy
                 Các người tụ họp đây
                 Hãy nhổ tận gốc ái
                 Như nhổ gốc cỏ bi
                Chớ để ma phá hoại
                 Như dòng nước cỏ lau”.

Kính thưa các bạn đồng pháp!

Lại một lần nữa, chúng ta hãy quyết tâm giữ vững niềm tin Chánh Pháp, hãy yêu thương và đoàn kết đem lại một nền ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ, SỐNG KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI VÀ KHỔ CHÚNG SANH đến với mọi người, mọi loài chúng sanh đang sống trên hành tinh này.

Và chúng tôi cũng xin thưa cùng các bạn, chúng ta đừng gây tạo thêm những nhân không lành.

               “Cười gì hân hoan gì
               Khi đời mãi bị thiêu
               Bị tối tăm bao trùm
               Sao không tìm ngọn đèn?”
                                               Bài kệ số: 146 - Phẩm Già (Jaràvagga) - Kinh Pháp Cú

Thân ái gởi đến tất cả quý bạn đồng pháp xa gần một lời chúc: “XẢ TÂM THẬT SẠCH” - “TÂM BẤT ĐỘNG THANH THẢN, AN LẠC VÔ SỰ”.

                                                                                                              Nay kính
                                                                             Thành phố Virginia Beach, ngày 16 tháng 06 năm 2013
                                                                                          Nhân ngày lễ Father’s Day của Hoa Kỳ
                                                                                                              Từ Đồng.

 
 

 

077-MỘT VIỆC LỚN CỦA ĐỜI NGƯỜI - MA CHAY KHÔNG MÊ TÍN. TL Thích Thông Lạc

...Là người Việt Nam chúng ta hãy cùng chung nhau xây dựng một nền văn hóa đạo đức Phật giáo tinh ròng của người Việt Nam, chớ không vay mượn của một Phật giáo nước nào cả, chỉ dựa vào lời dạy nguyên thủy của đức Phật mà biên soạn và giảng dạy giúp cho mọi người hiểu về Phật giáo một cách rõ ràng, phân biệt được Phật giáo nào đúng và Phật giáo nào sai. 

CHÙA AM sẽ đi vào con đường chánh Phật giáo nên không còn có khói hương mê tín, dị đoan, lạc hậu như CHÙA AM ngày xưa. Nhờ có lời dạy trên đây CHÙA AM không còn đi vào nếp cũ hướng dẫn tín đồ theo lối mòn của các sư thầy tổ xưa.

CHÙA AM ngày nay không tụng kinh, không làm ma chay siêu độ theo kiểu mê tín, mà làm ma chay theo tinh thần khoa học mang đầy đủ lòng biết ơn sâu xa của những người còn sống đối với những người thân đã mất, “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Nên việc làm ma chay rất đơn giản, thiết thực cụ thể ít tốn kém. Đám tang chỉ dạy cách thức ma chay theo tinh thần thực tế của Phật giáo Việt Nam không chịu ảnh hưởng của một tôn giáo nước nào cả. Nhất là không theo tinh thần tư tưởng “Văn Công Thọ Mai” của Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử Trung Quốc cúng bái, tế lễ, kèn trống rập rình, rồi lại còn đàn ca xướng hát theo giọng ê, a tụng niệm giọng cao giọng thấp của các tăng, ni và phật tử.

Một đám tang là một sự mất mát có gì vui đâu mà lại đàn ca trống phách. Thật là một việc làm sai hết sức sai sao mọi người không suy tư, nghĩ lại xem, làm như vậy có đúng không? Sao mọi người không nghĩ lại xem làm đám tang mà như làm một buổi lễ đăng quang hay ít cũng là một đám cúng đình. Có đúng như vậy không quý vị? 

Đám tang có vui gì mà trống kèn đàn ca xướng hát rập rình, lại còn mướn thêm giàn nhạc Tây phương kèn trống inh ỏi làng trên xóm dưới đều hay biết. Sao người ta làm ma chay mà không chịu suy nghĩ, cứ bắt chước thấy ai làm sao mình làm vậy. Thời đại chúng ta không cho phép làm một điều thiếu suy nghĩ. Khi làm một điều gì thì cần phải suy  tư cân nhắc kỹ lưỡng rồi mới làm. 

              - Thứ nhất làm sẽ không thất bại.
              - Thứ hai người có trí họ cho chúng ta không phải là kẻ hủ lậu, dốt nát, ngu si, chỉ biết bắt chước làm theo người xưa.
              - Thứ ba có trí sáng suốt phân biệt làm ma chay như thế nào đúng và như thế nào sai. Đúng có lợi ích gì? Và sai có hại gì?

Làm ma chay theo đúng tinh thần Phật giáo thì chúng ta hãy nghiên cứu lại tài liệu cách tẩm liệm làm ma chay của CHÙA AM hướng dẫn, vì cách thức làm ma chay của CHÙA AM là làm theo những lời dạy của đức Phật.   

Làm ma chay theo lời dạy của đức Phật trong tinh thần dân tộc Việt Nam là tránh xa những hủ tục, mê tín, lạc hậu, đó là làm giảm bớt những sự hao tốn nhảm nhí rất nhiều. Còn làm một đám tang theo kinh sách phát triển thì phải chịu hao tốn tiền bạc cúng dường trai tăng, vì chư tăng phát triển  thường hay bày vẽ  theo kiến giải mê tín cúng kiếng, tụng kinh cầu siêu quá nhiều. Tính từ ngày chết cho đến ngày làm tuần mãn tang phải hao tốn hằng triệu bạc cho các thầy ngồi trong mát hưởng bát vàng bằng tiền của mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ làm ra. 

Người phật tử không sáng suốt không dựa vào những lời dạy của đức Phật trong kinh sách nguyên thủy mà cứ nghe theo các thầy phát triển đã làm hao tốn tiền của mà còn bị người ta cho rằng là những hạng người mê tín, lạc hậu, ngu si.

            CÁCH THỨC TẨM LIỆM MA CHAY

              Khi một người thân trong gia đình mất thì những người trong gia đình cần phải lo tẩm liệm, không nên để cho người xa lạ làm công việc này. Vì để cho người xa lạ tẩm liệm người thân của mình, có điều chi không vệ sinh họ sẽ nói thế này thế khác, không tốt và rất tội nghiệp cho người thân của mình. Có lẽ không ai muốn như vậy. Phải không quý vị?

Cho nên trách nhiệm những người trong gia đình khi có người thân mất thì phải tẩm liệm và an táng cho chu đáo, đừng để người bên ngoài làm thay. Trong gia đình có người thân mất thì mọi người phải bình tĩnh, sáng suốt, vì có những việc cần phải làm như sau:

              Việc thứ nhất: Khi có người thân mất, việc đầu tiên phải dùng nước ấm và khăn sạch lau khắp cơ thể cho người thân sạch sẽ rồi thay đổi quần áo mới, bỏ bộ đồ cũ xếp lại để bỏ vào áo quan.

               Việc thứ hai: là phải mua một bao trà khô rải đều dưới đáy áo quan một lớp khoảng độ hai phân.

              Việc thứ ba: Là phải mua một tấm vải ba thước chiều dài và một thước sáu chiều ngang, nếu cư sĩ màu trắng, còn tu sĩ màu vàng. Không có vải khổ rộng thì hai miếng vải ghép lại.

               Việc thứ tư: là phải trải tấm vải ấy ra rồi đặt thân người chết nằm ngay ngắn giữa tấm vải.

              Việc thứ năm: Là phải có bốn người thân trong gia đình, con trai trưởng ở đầu người chết còn tất cả những người khác, một người ở dưới chân, một người ở bên hông mặt và một người ở bên hông trái mỗi người đều nắm mép vải đồng giở lên một lượt rồi đặt thân người chết vào áo quan. Nếu người chết là nam thì mép vải bên trái phủ trước, rồi mép vải bên mặt phủ kế tiếp rồi đến mép vải trên đầu và cuối cùng mép vải dưới chân phủ lên là xong. Nếu là người nữ thì bên mặt phủ trước bên trái phủ sau. Cách tẩm liệm đó theo qui luật nhân quả âm dương. Vì chúng ta đang sống trong qui luật nhân quả âm dương, trên hành tinh này không một người nào thoát ra khỏi, nhưng tại sao Tây, Tàu, Nhật, Mỹ v.v.. là lại không theo qui luật này mà lại tẩm liệm khác theo phong tục của bản xứ?

Xin thưa! Vì không làm đúng theo qui luật nhân quả thì khi sinh cũng gặp nhiều khó khăn, còn khi chết cũng đâu phải dễ dàng. Vì sinh như vậy chết như vậy là đi ngược lại qui luật nhân quả nên thọ biết bao nhiêu sự đau khổ. Quý vị có thấy không?

Thuận theo qui luật nhân quả thì sống cũng như chết đều được bình an yên ổn, còn đi ngược lại nhân quả sống cũng như chết đều thọ khổ vô vàn. Do đó đức Phật dạy con người nên có tri kiến giải thoát là vậy.

Lúc bây giờ muốn tẩm liệm theo những vật dụng gì thì nên để dưới chân người chết. Xong đậy nắp áo quan và đóng đinh lại. Chớ không nên chèn nhét rơm rạ hoặc tất cả những vật dụng gì khác chỉ để thân người chết như người nằm ngủ là tốt nhất. Đừng nghĩ theo kiểu mê tín người chết phải bó chặt tẩm liệm phải cho chặt chịa để thân người chết không động đậy được, nếu thân người chết động đậy là con cháu phải bệnh đau. Đó là một dạng mê tín, chớ con người đau bệnh là do nhân quả ác của người đó làm ra, chớ không ai làm cho họ đau bệnh được. Như quý vị giết hại cá tôm và ăn thịt thì quý vị làm sao tránh thân bệnh đau, vì nuôi thân của quý vị bằng sự chết và đau khổ của cá tôm. Quý vị nên nhớ nhân nào quả nấy không ai làm  quý vị mà chính quý vị đã làm cho quý vị khổ, quý vị có biết không?

Việc thứ sáu: Là phải có mọi người trong gia đình đồng khiêng áo quan đặt ngay giữa nhà, trước áo quan đặt một bàn thờ nhỏ, đặt ảnh người chết và một lư hương để mọi người đến cúng điếu chia buồn, nhưng không cần thắp hương chỉ cần chắp tay trước di ảnh người quá cố tỏ lòng chia buồn với gia đình có người thân mất mà thôi. 

Xin nhắc lại một lần nữa, người đến phúng điếu không cần phải thắp hương mà chỉ cần chắp tay trước ngực đảnh lễ người chết ba lễ là đủ. 

Việc thứ bảy: Là phải đặt áo quan và bàn thờ nhỏ trong nhà xong thì những con cháu tề tựu đảnh lễ và ngay lúc đó người gia trưởng phát vải tang cho mọi người trong gia đình, trẻ em một miếng vải trắng nhỏ cài trên áo, còn những người lớn, dâu, rể, con trai và con gái thì đội khăn trắng phủ kín đầu như nhau.

Vì dâu, rể, con trai và con gái đều là con trong gia đình cả, không nên phân chia con trai con gái và dâu rể khác nhau mà từ xưa đã có những tư tưởng phân chia giai cấp hẹp hòi ích kỷ trong gia đình khiến cho con cái trong nhà giảm lòng yêu thương nhau, mất đoàn kết. Vì họ cứ nghĩ rằng con trai con gái là máu mủ còn dâu rể là người dưng nước lã. Những tư tưởng này đã khiến tình cảm con người cũng bị mất mát rất nhiều. Chúng ta hãy mạnh dạn dẹp sạch những tư tưởng chia cắt tình yêu thương của những người thân trong gia đình. Tuy không biết nhau thì họ còn là người xa lạ trong gia đình, nhưng tình yêu thương của chúng ta đối với họ, họ vẫn là một người Việt Nam yêu thương của chúng ta trong một nước. Cho nên khi họ là một người thân trong gia đình thì dù là con trai, con gái, dâu, rể đều tôn trọng yêu thương nhau như anh em ruột thịt trong một nhà, đừng có tư tưởng phân chia như từ xưa đến này là chúng ta còn kém văn minh tiến bộ trên tình cảm con người. Ngày nay chúng ta phải tiến bộ hơn ngày xưa, tiến bộ mọi mặt trong đó có tình cảm con người.

Sau khi chôn cất xong trở về nhà thì khăn trắng được trả lại nơi bàn thờ, chỉ mọi người còn mang trên người một miếng vải trắng nhỏ nơi ngực nếu áo vải màu đen, còn áo vải màu trắng thì vải tang phải bằng miếng vải màu đen. 

Việc thứ tám: Là người chết không nên để lâu vì để lâu làm mất vệ sinh chung, vì vậy sáng chết chiều chôn, chiều chết sáng chôn, còn có điều kiện để lâu thì chỉ nên một ngày đêm mà thôi. Đó là vì có con em cháu ở xa chưa về kịp.

Việc thứ chín: Không nên rước thầy chùa tụng niệm cầu siêu vì người chết đã theo nghiệp tái sinh luân hồi ngay liền khi chết còn đâu mà cầu siêu. Đó là một việc làm mù quáng mê tín.

Việc thứ mười: Không nên rước nhạc trống kèn làm ầm ĩ, đám ma là nơi mất mát đau buồn, có gì vui đâu mà kèn trống. Và nhất là đây không phải chỗ buôn bán thân người chết để lấy tiền. Vậy nên tránh đàn kèn trống, vì đàn kèn trống làm ầm ĩ báo tin cho mọi người biết để đến cúng điếu tế lễ. Đó là cách thức đem thây người chết ra buôn bán. 

Việc thứ 11: Khi đưa áo quan lên xe tang để đi chôn cất thì không nên rải giấy tiền vàng mã theo đường làm mất vệ sinh chung trong môi trường sống. Và nhất là không nên rước một ông thầy chùa ngồi tụng niệm ê a trên xe tang. Đó là hình thức lạc hậu mê tín thiếu văn hóa không khoa học.

Việc thứ 12: Hạ huyệt, khi xe tang đến nơi thì áo quan chuyển từ trên xe đến huyệt để áo quan ngay ngắn trên huyệt và lúc bấy giờ con cái tập trung lại đảnh lễ lần cuối cùng. Sau khi con cái đảnh lễ xong thì áo quan từ từ hạ huyệt. 

Việc thứ 13: Khi chôn cất xong mọi người đồng trở về nhà và đặt bàn thờ người mất nơi trang nghiêm nhất trong nhà để hàng ngày con cháu tưởng nhớ công ơn của người đã mất.

Việc thứ 14: Không nên mở cửa mả, trong ba ngày chúng ta đến thăm mộ và đắp sửa sang lại cho sạch sẽ hoặc xây mộ để phần mộ được bền lâu và hằng năm về thăm viếng (Tảo mộ).

Việc thứ 15: Hằng ngày đến giờ ăn cả gia đình xúm lại ăn thì nên để một đôi đũa và một  cái bát, mọi người trong nhà đều mời người chết ăn cơm, nhất là người gia trưởng, tưởng chừng như người còn sống, chứ không nên đem cơm cúng trên bàn thờ.

Việc thứ 16: Tuần thất. Những tháng đầu mới mất chúng ta chia ra làm ba tuần thất. Tuần thất thứ nhất là bảy ngày; tuần thất thứ hai là 21 ngày; tuần thất thứ ba là 49 ngày. Trong những ngày tuần thất ấy chúng ta làm  một bữa cơm mời những người nào đã giúp chúng ta trong việc ma chay đến dùng bữa cơm thân mật để chúng ta tỏ lòng biết ơn với những người bạn thân này.

Việc thứ 17: Sau một năm mất chúng ta làm một bữa cơm và con cháu về đầy đủ người gia trưởng nhắc đến công ơn của người đã mất đối với gia đình và đối với quê hương tổ quốc.

Việc thứ 18: Đến năm thứ hai sau khi mất cũng làm một mâm cơm mời con cháu về đủ mặt người gia trưởng tuyên bố mãn tang và thu hồi những miếng vải trắng nhỏ và đem đốt. Từ đây về sau không còn ai mang tang khó nữa”.

Mười tám điều cần phải làm trong việc ma chay khi có người thân mất là chánh tín trong đạo Phật, xin quý phật tử nên lưu ý để tránh những việc làm mù quáng, mê tín, lạc hậu mà từ xưa đến nay người ta đã truyền thừa nhau thành một phong tục hủ lậu vay mượn nền văn hóa của Phật giáo Trung Quốc thiếu tính khoa học, thiết thực cụ thể.

Cho nên tất cả những văn hóa được truyền thừa từ xưa đến nay, không phải những văn hóa nào đều đúng hết. Văn hóa truyền thừa có những cái đúng, nhưng cũng có những cái sai, cái sai thì mạnh dạn mà dẹp bỏ và cái đúng thì nên duy trì nhưng phải chuyển thành một nền văn hóa Việt Nam, chớ không khéo văn hóa Việt Nam mà lại thành một nền văn hóa lai căng của những nước ngoài.

Trong nước chúng ta có bao nhiêu nhà tri thức Việt Nam, ông nào cũng có bằng tiến sĩ thế mà văn hóa Việt Nam trong việc ma chay xuất phát ở đâu xin quý vị hãy trả lời? Hay bảo rằng Việt Nam không có nền văn hóa ma chay thì sai.

Có người sống tức là phải có người chết, có người chết là phải có ma chay. Vậy việc làm ma chay phải có bài bản, nghi thức rõ ràng, chớ không phải vay mượn việc ma chay của nước khác mà áp dụng làm việc ma chay cho nước mình. Mỗi dân tộc đều có nền văn hóa khác nhau, vậy chúng ta hãy triển khai nền văn hóa của dân tộc trong đó có văn hóa ma chay của nước mình. Chúng ta là một dân tộc anh hùng bất khuất mọi thế lực của ngoại bang. Cho nên chúng ta không cần vay mượn văn hóa ma chay của nước nào cả. Và như vậy mới xứng danh là một nước độc lập, văn hóa tư tưởng ngang hàng với các nước trên thế giới.

Điều này chúng ta đã thấy rất rõ từ xưa đến nay việc làm ma chay của dân tộc Việt Nam đều chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc. Không ngờ Việt Nam chỉ bắt chước làm ma chay theo nền văn hóa lạc hậu mê tín của Trung Quốc, nên người Việt Nam phải chịu tiêu hao một số tiền quá lớn nhảm nhí không mang tính chất đạo đức lợi ích thiết thực cho đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam.

Chúng ta là người Việt Nam phải sống trong nền văn hóa đạo đức của Việt Nam. Nền văn hóa đạo đức của Việt Nam không phải từ trên trời rơi xuống mà chính từ những con người Việt Nam biết làm ra. Những người Việt Nam có trình độ kiến thức tiêu biểu, hiểu biết sâu rộng thì nên cùng nhau ngồi lại họp bàn về văn hóa đạo đức của dân tộc Việt Nam từ xưa đã truyền thừa đến nay.

Tinh thần văn hóa đạo đức ấy, chúng ta phải lọc gạn cái nào không chịu ảnh hưởng của nền văn hóa nước ngoài, đó là nền văn hóa đạo đức của Việt Nam. Khi chúng ta loại trừ văn hóa đạo đức của nước ngoài ra khỏi thì chúng ta triển khai nền văn hóa đạo đức của Việt Nam. Tuy rằng nó chưa được đầy đủ thì chúng ta họp nhau góp ý dựng lại những hành động văn hóa đạo đức nào còn thiếu, làm cho nó đầy đủ hơn, chớ không được lấy nền văn hóa đạo đức của nước ngoài cải lương thành nền văn hóa đạo đức của nước mình thì không được.

Muốn lập thành một nền văn hóa đạo đức mà không bị ảnh hưởng của một nền văn hóa nước nào cả thì phải dựa vào năm điều đạo đức của loài người. Năm điều đạo đức này nó không thuộc về một tôn giáo nào cả, nó cũng không thuộc về một nền văn hóa đạo đức truyền thống nào cả, nó là văn hóa đạo đức của loài người từ khi có loài ngưới. Năm điều văn hóa đạo đức này gồm có:

             1- Đức hiếu sinh
             2- Đức ly tham
             3- Đức chung thủy
             4- Đức thành thật
             5- Đức minh mẫn

Đó là nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Khi chúng ta muốn xây dựng một nền văn hóa đạo đức của dân tộc Việt Nam thì nên dựa vào năm đạo đức này, trong năm đạo đức này đạo đức nào mà nền văn hóa đạo đức của Việt Nam chưa có thì chúng ta triển khai thành văn hóa đạo đức của Việt Nam, còn đạo đức nào đã có thì chúng ta làm cho nó sáng tỏ của nền văn hóa đạo đức Việt Nam đã truyền thống.

Muốn cho nền văn hóa đạo đức của Việt Nam là của dân tộc Việt Nam thì chúng ta phải loại trừ những văn hóa lạc hậu, mê tín của các nước ngoài và ngay cả của tổ tiên chúng ta đã truyền thừa từ xưa đến nay nó đã trở thành những phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam thì chúng ta cũng phải quyết tâm mạnh mẽ loại trừ những điều mê tín, chớ không thể bảo thủ “xưa bày nay làm”.

Nhiệm vụ của chúng ta là phải dựng lại nền văn hóa đạo đức Việt Nam đúng nghĩa của nó để con cháu chúng ta sau này thừa hưởng và được sống trong nền văn hóa đạo đức Việt Nam thật sự của nó không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Nhờ đó con cháu của chúng ta mới trở thành những người nhân ái mới xứng đáng là con Tiên cháu Rồng; mới xứng đáng là dân tộc Việt Nam anh hùng; mới xứng  đáng  là con cháu Trưng Vương, Triệu Ẩu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Hồ Chí Minh.

CHÙA AM sẽ làm việc này và nhất định thành công trong việc dựng lại nền văn hóa đạo đức Việt Nam mà không bị ảnh hưởng của một nền văn hóa đạo đức của nước ngoài cũng như không bị ảnh hưởng văn  hóa đạo đức lạc hậu mê tín truyền thống của Tổ Tiên. Là người Việt Nam chúng ta hãy học và sống đúng với nền văn hóa đạo đức của người Việt Nam. Nền đạo đức văn hóa của người Việt Nam được dựng lại bằng năm đức hạnh của loài người. Vì thế, mọi công dân Việt Nam phải học tập và áp dụng vào đời sống, nó sẽ mang lại tình thương yêu con người đối với con người, nó sẽ mang lại sự sống bình an cho nhau, không còn ai làm khổ ai.

Nhất định khi nền văn hóa đạo đức này được phổ cập đến mọi từng lớp nhân dân Việt Nam thì đất nước chúng ta không còn ai hơn thua tranh chấp nhà cửa, ruộng vườn, tiền tài, danh lợi  v.v..,  không còn xung đột và chiến tranh nữa.

078-PHẬT TỬ NGÀY NAY PHẢI LUÔN NHỚ. TL Thích Thông Lạc

Người đi tu mà không học là tu mù, người có học mà không tu như cái tủ đựng kinh sách.” Người tu có học hiểu mà không thưa hỏi kinh nghiệm của thiện hữu tri thức, tự kiến giải, tự tu thì cũng giống như người đi lạc trong rừng sâu chẳng biết đường ra. Cho nên sự tu hành theo Phật giáo không thưa hỏi, không nghiên cứu thông suốt giáo pháp tu tập thì trăm ngàn người đều tu sai, tu không tới nơi tới chốn, tu vô ích.

 Tự kiến giải tu, đó là một điều sai. Tu tập chưa tới đâu, vội đem ra hướng dẫn người khác tu hành thì cũng giống như người mù dắt một bầy mù đi. Tất cả đều có thể sa hầm lọt hố và chết chùm nhau cả đám trong rừng sâu, trong biển cả, trong sa mạc v.v...

Tất cả những người tu theo đạo Phật hiện nay đều đang đi trên lộ trình này, đang lạc vào mê hồn trận của kiến giải, tưởng giải của các Tổ, của kinh sách các Tổ biên soạn viết ra. Do vậy ngôn ngữ danh từ không đủ để diễn tả chính xác những trạng thái kinh nghiệm tu hành.

Một khi muốn hành động tu tập thân tâm một điều gì thì cần phải thưa hỏi rất kỹ với một thiện hữu tri thức, một người tu hành đã chứng đạt chân lý. Đừng vội vàng nghe những lý thuyết suông của người tu hành chưa chứng đạt chân lý. Đó là sự kiến giải, tưởng giải của họ. Và các bạn cũng đừng tự nghĩ cho rằng mình đã hiểu, rồi cứ theo sự suy nghĩ hiểu biết đó mà tu tập thì chẳng bao giờ tu tập có kết quả, chỉ dậm chân tại chỗ hoặc thành bệnh mà thôi.                 

Sự tu tập như vậy chẳng tu tập đến đâu mà còn dẫn đến chỗ tu sai lạc, nhất là sai lệch vào chổ thiền ức chế tâm rất là nguy hiểm có thể bị điên khùng, tẩu hỏa nhập ma, thường tu hành không tiến bộ, tu mãi chẳng đi đến đâu, lại còn thêm bệnh tật khổ đau, uổng phí một đời tu, chẳng lợi gì cho mình cho người mà chỉ hoài công vô ích.

 Trong phần vấn đạo vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho người, khiến cho mình thông suốt đường lối và phương pháp cách thức tu tập, không còn nghi ngờ đường lối và giáo pháp tu hành của Phật giáo là sai lạc nữa, khiến cho tâm mình tin chắc tu tập sẽ thành công đến nơi đến chốn.

Bắt đầu tu tập từng bước một, không vội vàng, không nôn nóng. Mỗi bước tu tập là mỗi bước đi vững vàng, mỗi kết quả cụ thể. Tu tập như vậy càng ngày càng thấy tiến bộ xả tâm rõ rệt, nhờ tu tập có kết quả nên khiến mình thông suốt, đâu là Chánh pháp của Phật và đâu là tà pháp của ngoại đạo. Và cũng biết rất rõ tà giáo ngoại đạo đang xen lẫn trong giáo pháp của đạo Phật. Biết rõ như vậy nên khiến cho mình vững vàng niềm tin ở chính pháp môn mình đang tu tập. Đó thật là pháp môn của đạo Phật chứ không còn sợ sai lạc vào tà pháp của Đại Thừa như trước kia nữa.

Từ lâu ai cũng đang sống trong sự vô minh, đen tối, mờ mịt, chẳng thấy rõ pháp môn nào của đạo Phật và pháp nào của ngoại đạo. Nhiều khi chúng ta nhận lầm pháp môn của ngoại đạo (Đại Thừa) là pháp môn của Phật. Đó là điều chắc chắn mà không còn ai dám khẳng định giáo pháp Đại Thừa là giáo pháp chân chánh của Phật giáo.

Nhờ có vấn đạo ta mới thoát khỏi màn mây đen tối của các pháp tà sư ngoại đạo đang phủ mờ giáo pháp của Phật giáo từ bao thế kỷ nay.

Nhờ có vấn đạo ta mới hiểu rõ, thế giới siêu hình và hữu hình đều là thế giới tưởng (thế giới không có thật).

Nhờ có vấn đạo ta mới rõ thế giới hữu hình và siêu hình là thế giới tưởng của con người nên mạnh tay đập phá cái thế giới siêu hình mê tín đó đã gây biết bao nhiêu sự rắc rối, tạo biết bao nhiêu hao tốn tiền của và đau khổ của loài người. Cũng vì cái thế giới đó khiến cho con người đánh mất nền đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Từ thế giới siêu hình đó, con người đã mất đi sức tự lực, chỉ còn lại một tinh thần yếu đuối chờ tha lực, luôn luôn chỉ biết dựa nương và cầu cạnh vào những hình ảnh trừu tượng, mờ ảo của những vị thần linh, của những vị Bồ Tát tưởng tượng thuộc tưởng tri do sự hoạt động của tưởng uẩn tạo ra. Bởi vậy chúng ta cần phải cảnh giác đừng để những mánh khóe lừa đảo của các nhà học giả giàu tưởng tượng.

Nhờ vấn đạo ta mới thấu rõ các pháp thế gian là do duyên hợp nên ta dễ dàng buông xả thế giới hữu hình vật chất.

Nhờ vấn đạo ta đã biết rõ thế giới chúng ta đang sống cũng chỉ là một thế giới tưởng của con người. Nhưng chúng ta đang bị trí tuệ u tối, vô minh che khuất từ biết bao nhiêu đời kiếp, khiến cho con người lầm chấp cho thế giới chúng ta đang sống là thật có. Do cho thế giới chúng ta đang sống là thật có nên dính mắc các pháp, chạy theo các pháp, tạo biết bao điều ác độc đau khổ cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh. Cũng vì thế mà con người chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác mãi mãi không bao giờ dứt.

Nhờ có vấn đạo, ta mới biết cách tu tập xả ly, đoạn diệt thế giới hữu hình và thế giới siêu hình. Chính nhờ ly dục ly ác pháp của ý thức và của tưởng thức mà thân tâm chúng ta mới được thanh thản, an lạc và vô sự.

Nhờ có vấn đạo ta mới thấu rõ thiền định nào đúng, thiền định nào không phải của Phật giáo để không bị giáo pháp Bà La Môn lừa đảo.

              Nhờ có vấn đạo ta mới thấu rõ đạo Phật có bốn loại định:
              1, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
              2, Định Vô Lậu.
              3, Định Niệm Hơi Thở.
              4, Định Sáng Suốt.

Khởi đầu tu bốn loại định này bằng pháp môn Tứ Chánh Cần. Dùng bốn loại định này ngăn ác diệt ác pháp, khởi thiện tăng trưởng thiện pháp tức là diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.

Nhờ có vấn đạo ta không rơi vào thiền ức chế tâm, và tu tập đúng thiền xả ly tâm nên thân tâm chúng ta thường thanh thản, an lạc và vô sự như đất trời bao la giải thoát.

Nhờ có vấn đạo ta mới thông suốt “Tam Vô Lậu Học.” Đó chính là pháp môn của đạo Phật. Nhờ biết đúng pháp môn của Phật nên không bị tà sư ngoại đạo nào lừa đảo, lường gạt chúng ta được.

Cho nên vấn đạo là một điều cần thiết cho những người mới tu, cũng như người tu lâu năm. Người mới tu cũng cần phải thưa hỏi kỹ để tu tập đúng cách, đúng pháp, nhờ đó tu hành mới có căn bản. Còn người đã tu lâu năm thì gặp nhiều trạng thái kỳ lạ, nhất là tu thiền tưởng, những trạng thái ấy xuất hiện, có khi đúng, cũng có khi sai. Nếu không thưa hỏi kỹ thì có rất nhiều tai hại và còn nguy hiểm đến tánh mạng là khác nữa. Nên vấn đạo có nhiều điều lợi ích rất lớn cho người mới tu, cũng như người tu lâu năm.

Trong giai đoạn Phật giáo hiện nay, người ta bảo rằng Phật giáo có tám mươi bốn ngàn pháp môn. Nếu không vấn đạo rõ ràng, chúng ta sẽ bị Đại Thừa giáo lừa đảo bằng 84 ngàn pháp môn và bằng câu kinh này: “Pháp pháp đều vô ngại và dung thông.” Theo như Đại Thừa thì pháp nào cũng của đạo Phật, người có duyên với pháp môn nào đều tu cũng tốt, cũng được giải thoát, cũng được giác ngộ tùy theo căn cơ của mỗi người có thấp, có cao nên pháp môn tu hành nào cũng vậy. Đó là lối lý luận sai không đúng của Phật giáo.

Đức Phật dạy: “Ngoài Bát Chánh Đạo thì không có pháp môn nào của đạo Phật cả.”

Thế mà hiện giờ tất cả mọi người ai cũng tin lời nói của Đại Thừa: “Pháp pháp đều vô ngại và dung thông,” nhưng không ngờ đã bị lừa đảo, bỏ hết sự nghiệp, gia đình, vợ dại, con thơ, cha già, mẹ yếu và cả cuộc đời mình, cuối cùng tu chẳng thấy gì là giải thoát, là làm chủ sanh tử luân hồi, đoạn diệt tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình.

Bởi vậy, kẻ nào cho rằng tất cả các pháp môn đều tu cũng tốt, cũng được, cũng thiện, cũng được giải thoát, cũng chấm dứt đau khổ và luân hồi, thì đó là kẻ nông nổi, u mê, không biết tai hại về sau như thế nào? Không trí tuệ, thiếu nhận xét, nhắm mắt tin càn, tin bừa, để rồi phải ân hận về sau.

Nếu các pháp tu đều tốt, đều thiện, đều tu tập có kết quả giải thoát như nhau thì đạo Phật ra đời để làm gì? Có phải bằng dư thừa không quý phật tử?

Chúng ta nên tìm hiểu, tại sao Đức Phật tu các pháp môn của ngoại đạo, nhập đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, nghiệm xét lại thấy thân tâm mình không giải thoát, để rồi tự mình phải tìm ra một giáo pháp, một đường lối, một đạo lộ tu tập đi đến giải thoát cứu kính làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà Lục Sư ngoại đạo và các tôn giáo khác thời bấy giờ không có pháp môn này.

Một giáo pháp chỉ có 49 ngày tu tập nhiệt tâm, quyết chí xả ly, lià tâm ham muốn, từ bỏ ác pháp, Ngài đã thành tựu đạo giải thoát, chứng quả Bồ đề.

Sáu năm trời khổ hạnh, Ngài tu tập mọi loại pháp môn ức chế tâm, nhất là pháp môn hơi thở Ngài nín thở ức chế tâm tối đa, tưởng chừng như Ngài sắp chết. Nín thở Ngài tìm thấy pháp môn này không giải thoát, nên Ngài chuyển qua pháp môn ức chế thân khổ hạnh tối đa, ngày ăn bảy hạt mè hoặc một ít cháo đậu. Vì tiết thực nên cơ thể kiệt quệ, Ngài đi hết nổi. Nhờ bát sữa dê phục hồi cơ thể, Ngài tỉnh táo và tư duy, biết các pháp ức chế thân tâm không thể tu tập đi đến giải thoát được, Ngài từ bỏ và viễn ly các pháp đó.

Qua sự tu tập của đức Phật, chúng ta rút tỉa ra được những kinh nghiệm thực tế, cụ thể và đi đến kết luận: Các pháp Đại Thừa và Thiền Đông Độ cùng tất cả các pháp môn của các tôn giáo trên thế gian này không thể làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi của kiếp người.

Giáo pháp Ngài tìm ra được là một giáo pháp không giống bất cứ một giáo pháp nào của Lục Sư ngoại đạo và các tôn giáo khác trên hành tinh này. Vì thế, đạo Phật ra đời không nhai lại bã mía của các tôn giáo khác. Pháp môn của Ngài đi từ sự tu tập sức tỉnh giác để giữ tâm trong chánh niệm, tức là xả tâm ly dục ly ác pháp, không có một chút ức chế tâm nào cả. Lấy tâm nương hành động của thân nội và ngoại tập tỉnh thức chánh niệm để xả dục, xả ác pháp, tránh không đi vào trạng thái tĩnh lặng ức chế tâm mà đi vào trạng thái đoạn diệt tâm tham, sân, si khiến cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự để đi vào trạng thái thanh tịnh bất động tâm, tức là thiền định của đạo Phật.

Từ đó suy ra ta biết pháp môn của đạo Phật không giống một pháp môn nào của ngoại đạo. Vì thế, kẻ nào cho rằng 84 ngàn pháp môn là của Phật giáo thì kẻ đó quá si mê, u tối bị tà giáo ngoại đạo lừa đảo mà không biết.

Bởi vậy, vấn đạo là một điều quan trọng hết sức trong giai đoạn Phật giáo hiện nay, khi giáo pháp của đạo Phật đã bị pha trộn nhiều thứ pháp ngoại lai. Vấn đạo khiến chúng ta hiểu rõ, phần đông giáo pháp ngoại đạo phi đạo đức, dạy người cầu tha lực, thường mang đến tai họa khổ đau cho người hơn là mang đến hạnh phúc. Vì hướng dẫn con người đi vào cảnh giới siêu hình mang đầy tính chất mê tín dị đoan, thần thánh hoá, lạc hậu, v.v…

Cho nên trong vấn đề tu tập theo đạo Phật, vấn đạo là điều cần thiết để thăm dò các pháp môn, pháp nào đúng, pháp nào sai, pháp nào tu tập có kết quả cụ thể và thực tế.

Qua cuộc vấn đạo trong bộ sách “Đường Về Xứ Phật” quý vị đã được đọc, quý vị đừng vội vàng tin những lời nói trong đây mà hãy suy nghĩ kỹ, nếu sách chỉ vạch chỗ phi đạo đức xét thấy thật sự là phi đạo đức; chỗ lý luận sai mà thật sai; chỗ tu tập giải thoát mà có giải thoát thật sự; chỗ mê tín lạc hậu đúng là chỗ mê tín lạc hậu thật sự; như vậy thì quý vị hãy tin, còn ngược lại thì quý vị đừng nên tin, vì chúng tôi cũng chỉ là một người như quý vị.

Qua một cuộc vấn đạo, chúng tôi trả lời chỉ muốn làm sáng tỏ lại đạo Phật mà thôi. Bởi vì chúng tôi không muốn đạo Phật mất đi trên thế gian này, nhất là đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật. Một đạo đức sống “không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.”

Nếu đạo Phật mất đi thì loài người trên hành tinh này chịu thiệt thòi một điều rất lớn, một tai họa không thể lường được, một bằng chứng hiển nhiên trên hành tinh này không lúc nào mà chiến tranh chấm dứt. Con người giết con người không gớm tay và không thương xót, đó chỉ vì, đạo Phật có mặt nhưng đạo đức của đạo Phật đã mất từ lâu. Ngày nay con người thiếu đạo đức làm người, một đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người. Trong khi khoa học lại tiến triển phát minh những vật chất phục vụ đời sống rất tiện nghi thì con người càng cần có nền đạo đức nhân bản hơn bao giờ hết.

 Vì vật chất tiện nghi này, tâm dục con người tăng trưởng biến dần con người trở thành ác thú hung dữ. Từ đó con người tự sát mà không biết, tự làm khổ mà không hay, tự chuốc họa vào thân mà không ngờ, nếu không có một đạo đức quân bình với khoa học thì quả địa cầu này một ngày nào đó sẽ bị hủy diệt bởi tâm tham đắm của con người.

Người muốn tu theo đạo Phật cho đúng Chánh pháp của đức Phật thì phải chịu khó nghiên cứu cho kỹ các pháp môn, vì kinh sách hiện giờ toàn là của các nhà học giả biên soạn, đụng đâu viết đó theo sở thích của mình, không có kinh nghiệm tu hành, viết mà chẳng thấy trách nhiệm của mình, chỉ biết nêu tên tuổi (cầu danh). Họ đâu hiểu rằng soạn viết ra kinh sách như vậy là để lại một tai hại cho bao nhiêu thế hệ con người sau này như kinh sách Đại Thừa hiện giờ.

 Muốn soạn viết kinh sách có lợi ích cho người đời sau thì phải có thực hành tu tập đến nơi đến chốn, đời sống phải có một đạo hạnh hẳn hoi, phải nhập được các định, làm chủ được sự sống chết, phải có Tam Minh, đoạn dứt các lậu hoặc, chấm dứt luân hồi sinh tử thì soạn viết kinh sách mới có ích lợi thiết thực cho người đời sau, bằng ngược lại là giết người, không những giết một đời người, mà giết nhiều thế hệ con người. Xin quý phật tử lưu ý những loại kinh sách đang được phổ biến hiện hành.

  Còn ngược lại, tu hành chưa đến đâu, đời sống đạo hạnh chưa ra gì, đức hạnh không có, giới luật vi phạm, thiền định chỉ có hình thức ngồi thiền, sống với những bằng cấp và những kiến giải suông, dựa vào sở tri và nhai lại bã mía của người xưa viết soạn kinh sách thì loại kinh sách đó là kinh sách giết người, giết cả bao thế hệ về tương lai. Phần vấn đạo là phần rất quan trọng nên chúng tôi muốn trả lời cho một câu hỏi nào đều phải đứng trên lập trường đạo đức của đạo Phật mà trả lời.

 Những câu trả lời của chúng tôi đều góp ý xây dựng lại nền đạo đức của Phật giáo đã bị tà sư ngoại đạo (Đại Thừa) đã biến đạo đức của Phật giáo thành một thứ đạo đức mê tín (nhân quả ba đời).

  Thiền định của đạo Phật đã biến thành thiền định ức chế tâm để nhập vào các định tưởng, triển khai tưởng tuệ biến thành một loại thiền miệng (khẩu đầu thiền). Còn loại thiền làm chủ sự sanh, già, bệnh, chết như Tứ Niệm Xứ; làm chủ sống chết và chấm dứt luân hồi như Bốn Thánh Định thì được xem là thiền Tiểu Thừa, là thiền phàm phu, là thiền ngoại đạo. Thật là đau lòng phải không quý phật tử?                                      

Cuối cùng, chúng tôi ngưỡng mong những bậc cao minh, giới đức, đạo hạnh, vì con người trên hành tinh này, vì đạo đức xã hội, vì lợi ích thiết thực chung cho con người và vì đạo Phật, hãy vui lòng chỉ dạy cho chúng tôi những điều còn sai sót, và cùng chung với chúng tôi xây dựng lại một nền đạo đức cho con người, để không còn ai tự làm khổ mình, làm khổ người, thường mang đến cho mọi cá nhân con người một nguồn sống thanh thản, an lạc, vô sự và yên vui; một gia đình hòa hợp, hạnh phúc; một xã hội có trật tự an ninh; một đất nước phồn vinh thịnh vượng; một thế giới hòa bình, an lạc. Và thắp sáng lại ngọn đèn Phật giáo đang bị những trận cuồng phong tà giáo thổi tới tấp sắp bị tàn rụi.

Kính thưa các bậc tôn túc! Quý Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng, Ni cùng quý vị nam nữ phật tử bốn phương.

Phật giáo Đại Thừa đã hoằng truyền một thời gian quá dài, hơn hai ngàn năm trăm năm đủ để chúng ta xác định giáo pháp Đại Thừa là một giáo pháp phi đạo đức, phi chân lý; một giáo pháp đầy mê tín dị đoan, ảo tưởng; một giáo pháp lừa đảo mọi người tu hành chẳng có kết quả giải thoát, chỉ tu danh, tu lợi, tu cấp bằng, tu chùa to, Phật lớn, tu trong dục lạc thế gian.

Vậy kính xin quý vị tôn túc Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng, Ni và nam nữ phật tử bốn phương, đại diện Giáo Hội Phật Giáo xem xét quán triệt đình chỉ ngay những kinh sách phát triển Đại Thừa là giáo pháp không phải Phật thuyết. Đồng thời triển khai kinh sách Nguyên Thủy, xây dựng chương trình giáo dục đào tạo tám lớp (Bát Chánh Đạo) để giảng dạy đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người cho tất cả mọi người.

                                                                                                                               Kính ghi
                                                                                                          Trưởng Lão Thích Thông Lạc
                                                                                                                          Ngày 5-11-1998

             (Tiêu đề bài viết do GNCN đặt).

079- DỰNG LẠI CHÁNH PHẬT PHÁP, BAO NỖI KHÓ. TL Thích Thông Lạc

Lời BBT GNCN:

           Phải thời mạt pháp đương quyền, chánh pháp ra đời gặp muôn ngàn nẻo khó. Nhưng có khó khăn nào trước tấm lòng nhiệt huyết và tâm đại từ bi của bậc A-la-hán hướng trọn tình yêu thương cho đồng loại đang ngập chìm trong nước mắt khổ đau.

          Hướng đến sự giúp đỡ của các bậc “Tôn túc – Trưởng tử Như Lai” nhưng không thấy cửa nào rộng mở để triển khai ánh sáng đạo Từ Bi Chân Thật đến bốn chúng đang mò mẫm trong đêm đen dày đặc suốt mấy ngàn năm. Thất vọng!

         Thôi đành phải “Tạo Duyên (mới) Giáo Hóa Chúng Sanh” nhưng cũng bao chông gai vất vả. May mắn thay, những tác phẩm tâm huyết của bậc Thầy của trời, người vẫn có người hiểu thấu. Duyên chúng sanh đã mở, kinh sách của Người đã được Nhà Xuất bản Tôn giáo cấp phép ấn hành. Một hạnh phúc lớn cho nhân loại trên hành tinh. Con đường đạo đức chân thật của loài người đã được gây dựng lại rõ ràng và lan tỏa rộng rãi khắp bốn phương.

          Như ánh nắng ban mai chan hòa rạng rỡ, chánh Phật pháp chiếu soi làm rung chuyển, choáng váng những loài dơi, chuột… tà ma ngoại đạo đang quen kiếm miếng ăn trong đêm đen nhơ uế. Chúng đảo điên lồng lộn chống phá đến điên cuồng. Nhưng chúng đã lầm.

          Chánh Phật pháp đã dựng lại nhất định sẽ mãi mãi trường tồn. Tà pháp nhơ uế bao đời nay, nhất định sẽ có ngày bị thiêu rụi, phải quyết tâm thiêu rụi, bởi chúng là tác nhân đã tàn hại bao nhiêu kiếp người vốn đã khổ lại càng khổ đau hơn trong mê tín lầm than.  

          Chúng con thành kính dâng lên Phật, lên Người - Đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc - tấm lòng biết ơn sâu sắc. Người đã mang lại suối nguồn an lạc vô tận vô biên cho nhân loại và muôn loài hữu tình cùng chung sống trong một mái nhà chung – hành tinh – nhỏ bé, mỏng manh và dễ vỡ này.

           Chúng con đặt trọn niềm tin vững chắc nơi Phật, nơi Người. Mãi sau còn nhớ công ơn này.  

THƯ GỬI HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN SIÊU

Chơn Như ngày 8 tháng 1 năm 2000

Kính gửi: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Trưởng Ban Giáo Dục Tăng Ni.

Kính thưa Hòa Thượng! Từ lâu chúng con có một hoài bão là mong muốn Tăng, Ni và cư sĩ có một nơi để thực hiện tu tập Giới, Định, Tuệ theo con đường Nguyên Thủy của Phật giáo.

Nhưng ước muốn ấy với Hòa Thượng Thanh Từ thì không bao giờ có được, vì Hòa Thượng hướng về Thiền Tông Trung Hoa.

Với Hòa Thượng Minh Châu thì cũng không có được vì Hòa Thượng hướng về sự học.

Với Hòa Thượng Huệ Hưng thì Hòa Thượng xúc tiến công việc nhưng giữa đường lại viên tịch.

Với Hòa Thượng Thiện Châu thì Hòa Thượng cũng vừa viên tịch, chưa kịp làm gì cả.

Bây giờ chỉ còn lại có một mình Hòa Thượng, với quyền hành và uy tín của Hòa Thượng, chúng con tin chắc Hòa Thượng sẽ làm được việc lớn này.

Kính thưa Hòa Thượng! Nếu Tăng Ni tuổi trẻ có học, không có tu cũng giống như người có tài thiếu đức, đó là một tai hại rất lớn cho Phật giáo. Và như vậy Phật giáo có chiều rộng không có chiều sâu, cũng giống như xây nhà nền móng không vững, chắc chắn sự trường tồn của Phật giáo e không còn bao lâu nữa. Nếu Phật giáo có còn thì cũng chỉ còn là một hình thức danh và lợi mà thôi.

Kính thưa Hòa Thượng! Phật pháp là một nền đạo đức nhân bản rất lợi ích thiết thực cho loài người, nếu chúng ta để nó mất đi là một thiệt thòi rất lớn cho con người trên hành tinh này.

Vậy chúng con ngưỡng mong Hòa Thượng từ bi mở rộng lòng lân mẫn thương xót Tăng, Ni và cư sĩ xin phép Giáo hội và Nhà nước để thành lập một tu viện chuyên tu đúng ý nghĩa Giới, Định, Tuệ giáo pháp của đức Phật, bất cứ nơi đâu trên quê hương đất nước này để đào tạo Tăng, Ni tuổi trẻ thực học, thực tu, thực chứng, ngõ hầu thắp sáng lại ngọn đèn chánh pháp của Phật.

Kính thưa Hòa Thượng! Chúng con có soạn thảo một bộ sách Đường Về Xứ Phật 10 tập, một bộ sách Giới Đức Làm Người 2 tập và một bộ sách Giới Đức Làm Thánh 2 tập. Chúng con biết rằng thì giờ của Hòa Thượng rất quý báu nên chúng con chỉ gửi đến Hòa Thượng 2 tập đầu của bộ Đường Về Xứ Phật và hai tập Giới Đức Làm Người. Mong Hòa Thượng đọc để cảm thông với lòng chân thành của chúng con đối với Phật giáo.

Từ lâu chúng con ước muốn có ngày diện kiến với Hòa Thượng, nhưng mãi cho tới nay chưa có đủ duyên, xin Hòa Thượng hoan hỷ tha thứ cho.

Sau cùng chúng con thành tâm có lời thăm và chúc Hòa Thượng mạnh khỏe để dìu dắt Tăng Ni trên đường tu học.

                                                                                                                  Kính thư
                                                                                                        Thích Thông Lạc.

(Nguồn: Đường Về Xứ Phật, tập X)

THƯ GỬI NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

Kính gửi: Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 

Trước hết chúng tôi có lời kính thăm sức khỏe của anh chị em trong Nhà Xuất bản Tôn giáo. Sau khi được tin tác phẩm của chúng tôi được cấp giấy phép xuất bản, chúng tôi rất mừng và thầm biết ơn các anh chị em trong Nhà Xuất bản Tôn giáo đã tận tình giúp đỡ mới có được giấy phép như ngày hôm nay.

Ước vọng của chúng tôi viết thành tác phẩm này để chấn chỉnh lại Phật giáo, những cái sai được loại trừ ra khỏi và lôi ra những cái đúng để làm sáng tỏ lại đạo Phật. Vì đạo Phật là một tôn giáo được truyền thống lâu đời ăn sâu vào tư tưởng của dân tộc Việt Nam, nó tốt là dân tộc tốt, nó xấu là dân tộc sẽ xấu. Nhất là sự chú ý của chúng tôi dựng lại nền đạo đức nhân bản của đạo Phật đã bị chìm xuống từ ngàn xưa khi đức Phật nhập diệt. Để giúp cho con người trên hành tinh này có một nền đạo đức không làm khổ mình, khổ người, để quân bình với những vật chất mà các nhà khoa học đã và đang phát minh phục vụ đời sống của loài người. Vật chất phát triển phục vụ đời sống tiện nghi thì tâm tham đắm của con người sẽ đưa họ đến đời sống vô đạo đức.

Trước tình trạng thanh thiếu niên Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, đạo đức đang xuống dốc. Bổn phận và trách nhiệm của một người tu sĩ như chúng tôi không thể làm ngơ nhìn con cháu của chúng ta như con chim ăn tham mồi đâm đầu vào chỗ chết. Chúng tôi nghĩ rằng những tác phẩm của chúng tôi khó mà xin phép, vì cái sai đã truyền thống lâu đời, nhưng cái đúng thì chưa ai biết cả thì làm sao người ta chấp nhận cho phép được, nhưng chúng tôi tin ở lẽ phải, cái gì đúng là đúng, cái gì sai là sai, không thể lấy cái sai làm cái đúng được, không thể lấy cái đúng làm cái sai được.

Bất chấp trước sự hiểm nguy, chúng tôi biết, biết làm lợi ích cho đời, biết xây dựng nền đạo đức cho con người. Ngày nay tác phẩm xin phép chưa được, ngày mai sẽ được.

Hôm nay anh chị em đã cảm thông đuọc nỗi khắc khoải trong lòng của chúng tôi vì đạo đức của dân tộc nên mới tận tâm tận lực giúp đỡ tác phẩm này có được giấy phép.

Chúng tôi không kinh doanh buôn bán, chúng tôi không kinh doanh buôn Phật bán Pháp, nhưng chỉ biết in phát hành, ấn tống giúp cho mọi người không bị tà sư ngoại đạo lừa đảo và họ tự tạo cho mình một đạo đức không làm khổ mình khổ người.

Đã ba năm nay chúng tôi viết và soạn 10 tập Đường Vế Xứ Phật, 2 tập Giới Đức Làm Người, 2 tập Giới Đức Làm Thánh, 2 tập Những Lời Phật Dạy, 4 tập Giáo Trình Đạo Đức Nhân Quả. Sau khi nhuận lại những bản thảo này xong, chúng tôi sẽ gửi đến Nhà Xuất bản Tôn giáo nhờ các anh chị em giúp đỡ và xin phép.

Xin chân thành cảm ơn, chúc anh chị em dồi dào sức khỏe.

                                                                                                                           Kính thư,
                                                                                                                  Thích Thông Lạc.
           Tái bút:

           Xin Nhà Xuất bản đừng gọi Hòa Thượng Thích Thông Lạc mà hãy gọi tỳ-kheo Thông Lạc. Tên tác phẩm xin đề Thông Lạc, đừng đề Hòa Thượng Thích Thông Lạc.

(Nguồn: ghi chép từ đĩa mp3)

THƯ NGỎ

Chơn Như ngày 24 tháng 8 năm 2003 

Kính gửi: Các bậc Tôn Túc, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng, Ni và quý vị phật tử nam nữ Cư sĩ bốn phương.

Kính thưa quý vị! Bộ sách Văn hóa Phật giáo Đường Về Xứ Phật và bộ sách Văn hóa Phật giáo Giới Đức Làm Người đến nay đã được Nhà nước cho phép in ấn và phát hành. Hai bộ sách trên đây là trong những bộ sách Văn hóa Phật giáo Mười Giới Đức Thánh Sa Di, Giới Đức Thánh Tăng và Thánh Ni, Đạo Đức Nhân Bản - Nhân Quả. Đó là những bộ sách chấn chỉnh lại Phật giáo, vì giáo lý chân chánh của Phật giáo gần như bị chôn vùi dưới lớp giáo lý tập hợp của các tôn giáo khác và những kiến giải của các hệ phái khác nhau trong Phật giáo phát triển Đại Thừa và Phật giáo Nguyên Thủy Nam Tông.

Những bộ sách Văn hóa Phật giáo nguyên gốc mà tác giả ghi lại bằng những kinh nghiệm công sức tu tập của mình theo đường lối giáo lý Nguyên Thủy “GIỚI, ĐỊNH, TUỆ” của đức Phật. Nó mang lại một kết quả rất thực tế và cụ thể cho một đời sống an lạc, thảnh thơi và hạnh phúc của kiếp làm người. “Sống không làm khổ mình khổ người” và “làm chủ sanh, già, bệnh, chết”. Nếu ai muốn đem những bộ sách này ra bình luận đúng sai thì hãy tu tập như tác giả, có nghĩa là phải tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết, nếu chưa làm chủ được bốn sự đau khổ này, mà bình luận bộ sách này thì quý vị tự biết khả năng của mình chưa đủ sức bình luận nó.

Nếu vì một lý do gì về sự sống của quý vị mà bình luận nó thì quý vị quá nông cạn, đã tự dối mình dối người để che đậy những điều không phải của Phật giáo. Đó là quý vị quên đi bổn phận và trách nhiệm của người đệ tử Phật là phải dẹp bỏ những tà kiến ngoại đạo đang ẩn núp trong ngôi nhà chánh pháp.

Trong sách này dạy rằng “không có thế giới siêu hình” nếu quý vị bảo rằng: “có thế giới siêu hình” thì quý vị hãy tu tập có trí tuệ Tam Minh, rồi quan sát vũ trụ tìm xem linh hồn người chết, thần, thánh, quỷ, ma ở đâu, có hay không có? Chừng đó mới bình luận sách này đúng sai. Còn bảo rằng sách này dạy không đúng lời của Phật, thì quý vị hãy lấy tạng kinh Nikaya ra so sánh và phải sống cho đúng đời sống Phạm hạnh của bậc Thánh Tăng, Thánh Ni, thiền định phải nhập cho được bốn Thánh Định, làm chủ đời sống, tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi; làm chủ bệnh tật, không còn đi bệnh viện bác sĩ mà phải tự khắc phục các bệnh khổ, nó không còn tác động đến thân tâm và phải làm chủ sự sống chết. Khi làm chủ được như vậy thì quý vị mới bình luận bộ sách này đúng sai với giáo lý Phật giáo. Còn quý vị chưa thực hiện được thì xin quý vị đừng bàn đến mà hãy lo tu tập để cứu mình. Vì quý vị chưa làm chủ được sự sống chết mà dựa vào những kiến giải của những nhà học giả xưa và nay thì cũng giống như những người mù sờ voi thì quý vị sẽ làm trò cười cho những người hiểu biết.

Tại sao vậy? Vì lời nói của quý vị không minh chứng được với việc tu hành. Lời nói không đi đôi với hành động sống và làm chủ thân tâm, thành ra quý vị chỉ lý luận suông mà thôi.

Kính thưa quý vị! Phật giáo là một tôn giáo có nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người, nền đạo đức ấy sẽ giúp cho con người xây dựng cho mình một cuộc sống Thiên Đàng, Cực Lạc tại thế gian này. Vì thế chúng ta không có quyền dìm mất nó đi một lần nữa, nó mất đi loài người trên hành tinh này chịu một sự thiệt thòi rất lớn và nhất là Phật giáo chỉ còn là một tôn giáo mê tín mà thôi. Xin quý vị lưu ý.

Sau cùng, chúng tôi xin thành tâm kính chúc quý vị thân tâm dồi dào sức khỏe.

                                                                                                                      Kính ghi
                                                                                                           Thích Thông Lạc

(Nguồn: Những Lời Gốc Phật Dạy, tập III)

 

 

080- TRI KIẾN NHƯ THẬT VỀ THẾ GIỚI SIÊU HÌNH. TL Thích Thông Lạc

Thế giới siêu hình có thật hay không?

Về vấn đề giải quyết thế giới siêu hình là một vấn đề nan giải của loài người, vì từ xưa cho đến ngày nay, nhất là khoa học hiện đại đang truy tìm để xác chứng có hay là không có, nhưng các nhà khoa học hiện giờ đều điên đầu với những hiện tượng siêu hình mà không thể lý giải chứng minh bằng khoa học được.

Chúng tôi là những hành giả của đạo Phật, lấy giới luật và giáo pháp của đức Phật làm hành trang và vũ khí để tiến bước vào tâm linh của mình, nói cách khác cho dễ hiểu hơn là chúng tôi dùng giới luật và giáo pháp của đức Phật điều khiển và khai mở thân ngũ uẩn. Khi khai mở thân ngũ uẩn tức là khai mở bộ óc của con người, khai mở bộ óc của con người tức là khám phá thế giới linh hồn của người chết.

Thưa quý vị, thân ngũ uẩn là một bộ máy rất tinh vi mà tất cả các nhà khoa học trên thế giới đều phải chấp nhận. Vì khoa học chưa có thể sáng tạo ra con người thật con người được, nhất là về phần tâm linh.

Khoa học hiện đại đã phát minh ra bộ máy vi tính tuyệt vời làm việc đa năng, nhưng sánh với bộ máy thân ngũ uẩn của con người thì nó còn kém quá xa, vì máy vi tính không có phần tình cảm thương, yêu, ghét, giận hờn, phiền não, khổ đau v.v... Nếu khoa học chịu khó không ngừng tiến triển thì chắc chắn bộ máy vi tính sẽ thay thế não bộ của con người để khám phá bộ não của con người, thì chừng đó thế giới linh hồn của người chết mới lý giải và minh chứng được sự thật thế giới siêu hình là không có.

Ngày xưa, ông Galilé bảo rằng quả đất tròn, thì Giáo Hội La Mã cho rằng ông nói sai, vì Thiên Chúa bảo rằng quả đất vuông, cho nên ông bị kết tội tử hình. Ngày nay khoa học đã xác minh đúng là quả đất tròn thì mọi người ai cũng đều thương tiếc ông. (Nhưng có thuyết cho rằng ông Galilé bảo trái đất đi quanh mặt trời, ngược lại kinh thánh Thiên Chúa cho rằng mặt trời đi quanh trái đất).

Cách đây 2545 năm, có một người Ấn Độ tên là Sĩ Đạt Ta (đức Phật) bảo rằng: “Thế giới siêu hình không có, nó chỉ là một thế giới tưởng (tưởng tri) mà thôi”. Cho đến ngày nay người ta cũng vẫn không tin lời nói này.

Khi đức Phật tu tập xong và cảm nhận bộ máy thân ngũ uẩn thật là vi diệu và tuyệt vời, Ngài đã điều khiển nó bắt gặp các tần số âm thanh, sắc tướng và tất cả những hành động của những sự việc đã qua của những người chết còn lưu lại trong không gian. Bất kỳ thời gian quá khứ nào Ngài cũng bắt gặp lại được dễ dàng, những danh từ trong thời Ngài được gọi, đó là “Túc Mạng Minh”.

Những hình ảnh, âm thanh và những hành động đã qua của con người còn giữ lại trong không gian này bất kỳ nơi đâu, khi điều khiển thân ngũ uẩn, nó đều bắt gặp các tần số hình ảnh và âm thanh một cách dễ dàng, danh từ trong thời đức Phật gọi đó là “Thiên Nhãn Minh”.

Khi đức Phật tu xong, Ngài truy tìm con người từ đâu sanh ra? Với chiếc máy thân ngũ uẩn, Ngài đã điều khiển và tìm thấy được nguyên nhân sanh ra con người đó là “nghiệp lực nhân quả" mà danh từ trong thời Đức Phật gọi là “Lậu Tận Minh”.

Sau khi chứng đạt chân lí xong, Ngài dùng bộ máy thân ngũ uẩn truy tìm linh hồn con người tái sanh nơi đâu? Nhưng Ngài không bắt gặp linh hồn mà lại bắt gặp nghiệp lực nhân quả tái sanh luân hồi. Do đó trong bài kinh Pháp Môn Căn Bản Ngài cả quyết xác định thế giới siêu hình và hữu hình không có thật, chỉ là tưởng tri của con người dựng lên. Do sự dựng lên và chấp chặt mà loài người phải chịu khổ đau từ đời này sang đời khác; do sự dựng lên và chấp chặt con người đã đánh mất đạo đức làm người. Vì con người tin và nghĩ rằng: Trong cuộc sống hiện hữu của họ còn có thế giới vô hình ngự trị gia hộ bảo bọc cho họ (Dù cho tạo tội như núi cả. Diệu pháp Liên Hoa tụng mấy hàng). Vì tư tưởng dựa lưng vào Thần Thánh biến dần họ trở thành những ác thú và còn hơn thế nữa họ là những ác quỷ. Hiện nay có một số người dựa lưng vào thế giới siêu hình khủng bố, giết hại người vô tội thật đáng thương

Vì thế đức Phật nói sáu cõi luân hồi tức là nói sáu đẳng cấp sống của muôn loài vạn vật trên hành tinh này trong đó có con người, vì con người được xem như một loài động vật.

Nói đến cõi Trời tức là nói đến hành động thiện của con người, chứ không phải nói đến thế giới siêu hình, vì thế đức Phật nói: “Ta đến cõi Phạm Thiên như duỗi  cánh tay”. Lời nói này chúng ta phải hiểu đó là một trạng thái, một từ trường thiện hay ác, dục hay vô dục.

Bởi vậy Niết Bàn là một chân lý có thật, vì thế trong Tứ Thánh Đế, Diệt Đế là Niết Bàn, Niết Bàn là một trạng thái tâm diệt dục, chứ không có cõi giới Niết Bàn như các nhà Đại Thừa tưởng, vẽ ra và dựng lên nhiều cõi như: Nhị chủng Niết Bàn, Tứ Chủng Niết Bàn, Ngũ chủng Niết Bàn, v.v…

Nhị Chủng Niết Bàn gồm có:

             1- Hữu dư Niết Bàn
             2- Vô dư Niết Bàn

Tứ Chủng Niết Bàn gồm có:

             1- Bản lai tự tính thanh tịnh Niết Bàn
             2- Hữu dư y Niết Bàn
             3- Vô dư y Niết Bàn
             4- Vô trụ xứ Niết Bàn

Ngũ Chủng Niết Bàn gồm có:

            1- Cõi dục giới là nơi chứng quả mà mến mộ là Niết Bàn phàm phu thứ nhất.
            2- Mến mộ tính vô ái của Sơ Thiền là Niết Bàn phàm phu thứ hai.
            3- Mến mộ tâm vô khổ Nhị Thiền là Niết Bàn phàm phu thứ ba.
            4- Mến mộ sự cực duyệt của Tam Thiền là Niết Bàn phàm phu thứ tư.
            5- Mến mộ sự khổ lạc đều quên của Tứ Thiền là Niết Bàn phàm phu thứ năm.

Bởi mùi vị giải thoát chỉ có một chứ không hai, nó cũng giống như nước biển chỉ duy nhất có một mùi vị mặn mà thôi, nhưng các Tổ sau này bày vẽ và chia chẻ Niết Bàn ra nhiều loại để lừa đảo mọi người rằng mình cũng chứng trong những trạng thái Niết Bàn.

 Làm sao bốn trạng thái Bốn Thiền là bốn Niết Bàn được, trong khi kinh sách Phật đã xác định rõ ràng: “Bốn trạng thái Tứ Thánh Định là bốn trạng thái cõi Trời” như:

              1- Sơ Thiền Thiên
              2- Nhị Thiền Thiên
              3- Tam Thiền Thiên
              4- Tứ Thiền Thiên

Thật sự các nhà học giả phát triển có nhiều ý thâm độc ác để đánh lừa phật tử bằng nhiều cảnh giới Niết Bàn để biến dần trạng thái Niết Bàn thành cõi giới siêu hình Niết Bàn.

Trong kinh Duy Ma Cật, khi Thiên nữ rải hoa tán thán pháp môn bất nhị thì hàng Bồ Tát như: Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Thế Chí, Quan Âm thì hoa không dính còn ngược lại hàng Thanh Văn như: Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, A Na Luật đều bị hoa dính đầy áo, đó là một việc làm của các Tổ soạn viết kinh sách phát triển với thâm ý hạ bệ các vị đại đệ tử của đức Phật, để làm sống lại thế giới siêu hình mà đã bị đức Phật bóp chết từ khi đạo Phật có mặt trên hành tinh này.

Các vị đại đệ tử của Phật là một chứng cứ trạng thái Niết Bàn hiện tại trong cuộc sống hằng ngày và đến khi nhập diệt trạng thái đó vẫn không sai khác.

Vì có một chứng cứ cụ thể như vậy cho nên thế giới siêu hình bị diệt mất, thế giới siêu hình bị diệt mất thì các tôn giáo trên hành tinh này không còn đất đứng, có nghĩa là không còn lừa đảo ai được nữa.

Hiểu biết rất rõ điều này nên các giáo sĩ Bà La Môn thừa nước đục thả câu, tức là thừa lúc Phật giáo không có người tu chứng nên soạn viết kinh sách lồng vào giáo pháp của Phật để biến tu sĩ Phật giáo thành các tu sĩ Bà La Môn mà không ai hay biết, các tu sĩ này cứ ngỡ tưởng mình là tu sĩ Phật giáo. Chúng tôi nói đến đây quý vị cứ suy ngẫm có đúng vậy không? Nếu đúng thì quý vị tin, còn không thì quý vị xem như đây là chúng tôi chưa từng nói những lời này.

Người ta hạ bệ các vị đại đệ tử của đức Phật bằng nhiều cách, trên đây là một cách trong kinh Duy Ma Cật và các kinh khác còn rất nhiều.

Như quý vị đã biết giới luật của Phật là dạy sống trong những hành động đạo đức làm Người, làm Thánh. Ánh sáng đạo đức của Phật giáo như ánh hào quang khiến cho người đời đều tôn kính và quý trọng.  Vì thế đức Phật dạy: “Này các tỳ-kheo, nếu các thầy giữ gìn giới luật nghiêm túc thì hàng cư sĩ phật tử sẽ trải tóc cho các thầy đi trên đó”. Thời nào cũng vậy, con người ai cũng quý trọng và tôn kính đạo đức, chỉ có những tu sĩ phạm giới, phá giới sống bừa bãi, ăn uống ngủ nghỉ phi thời, thường có những hành động vô đạo đức nên mới lý luận phá giới luật của Phật, nhất là dựa vào những lời thêm bớt của các Tổ trong kinh sách, lấy cớ là Phật thuyết để mặc tình theo đó sống phóng dật chạy theo dục, thọ hưởng dục lạc thế gian mà các nhà học giả gọi đó là hợp thời.

Giới luật của Phật khiến cho hàng bạch y (cư sĩ) quá kính trọng. Vì thế, các giáo sĩ Bà La Môn ganh tị, muốn diệt giới luật của Phật, nên khi đức Phật tịch thì họ lồng thêm vào những lời di chúc của đức Phật bằng câu kinh rất phi lý: “Này Ananda từ nay trở đi cho phép các tỳ-kheo tùy nghi bỏ các giới nhỏ nhặt”. Lời dạy này thật là phi lý, giới luật của Phật là những hành động đạo đức giải thoát cho mình cho người, thì có giới luật nhỏ nhặt nào phải bỏ, chỉ có những tu sĩ phóng dật chạy theo dục lạc thế gian, tham ăn tham ngủ mới dựa vào những lời di chúc giả mạo của Bà La Môn mà ngang nhiên sống phạm giới, phá giới luật.

Người tu sĩ cũng như cư sĩ đệ tử của Phật sống mà không giới luật hay nói cách khác là khi thọ giới luật mà luôn lúc nào cũng sống phạm giới, phá giới thì làm đệ tử của Phật làm gì? Thà là đừng quy y Tam Bảo, đừng xuất gia, đã quy y Tam Bảo và xuất gia mà giới luật vi phạm thì thử hỏi quý vị còn tu pháp môn gì của đạo Phật mà gọi là đạo Phật?

 Như đức Phật đã dạy: “Giới luật là trí tuệ, trí tuệ là giới luật”, đó là đức Phật nói đạo đức không làm khổ mình khổ người. Ngài dạy tiếp: Ta nói giới luật là nói tâm ly dục ly ác pháp, Ta nói tâm ly dục ly ác pháp, đó là Ta nói thiền định”. Cho nên, “Ta nói giới luật là nói tâm không phóng dật, Ta nói tâm không phóng dật đó là Ta nói Niết Bàn”. Do đó trước giờ phút lâm chung đức Phật di chúc: “Ta thành Chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Như vậy đức Phật thành đạo không phải là do giới luật hay sao? Vậy mà tu theo đạo Phật mà giới luật không nghiêm túc thì tu theo để làm gì? Có ích lợi gì? Có giải thoát gì đâu?

Giới luật là một pháp môn nếu sống đúng, tu tập đúng là con người có đạo đức, có trí tuệ, có thiền định và có sự giải thoát ngay liền như những lời trên đức Phật đã xác định.

Nhìn lại sự tu tập của quý vị, quý vị có thấy mình tu hành đúng hay không? Đúng sao quý vị không nếm được mùi giải thoát? Mùi vị giải thoát của đạo Phật như thế nào?

Sống không làm khổ mình khổ người là giải thoát; sống ly dục ly ác pháp là giải thoát; sống tâm không phóng dật là giải thoát. Những sự giải thoát trên đây không phải do giới luật mà có hay sao?

Thế mà thời nay người ta tu hành chỉ biết Thiền, Mật, Tịnh mà không biết giới luật thì tu hành như vậy không thể nào đúng đạo Phật được. Người tu hành có giới luật là người có đạo đức, người có đạo đức thì không chấp nhận thế giới siêu hình vì thế giới siêu hình là thế giới phi đạo đức. Nếu tất cả tín đồ của Phật giáo đều sống đúng đạo đức thì có cần gì phải cầu khẩn, phải cúng tế những ông Thần, ông Thánh tưởng tượng đó.

Người đệ tử của Phật sống đúng giới luật thì còn ai lừa đảo họ được, vì giới luật là trí tuệ “Giới luật ở đâu trí tuệ ở đó”, chỉ vì tín đồ Phật giáo sống không đúng giới luật, do sống không đúng giới luật nên ngu si không trí tuệ, mê muội bị ngoại đạo lừa đảo. Đến giờ này họ còn chưa thức tỉnh, chưa biết đâu là nẻo chánh nẻo tà, luôn luôn không thấy thầy Tổ của họ sống không đúng giới luật, sống không trí tuệ, đang sống trong cảnh giới mơ hồ ảo tưởng (bùa chú thần thông, Phật tánh ảo tưởng, Cực Lạc Thiên Đường mơ hồ).

Tập III Đường Về Xứ Phật, Thầy sẽ cố gắng làm sáng tỏ để mọi người hiểu biết rằng thế giới siêu hình không có, tuy rằng Thầy đã nhiều lần giải thích, nhưng có một số người quá cố chấp (kiến chấp theo kiểu tà kiến ngoại đạo) theo ngôn ngữ kinh sách phát triển mà không hiểu ý Phật .

Những gì chúng tôi nói ở đây là một sự cố gắng làm sáng tỏ mọi vấn đề để đem lại sự lợi ích và giúp cho mọi người thoát khổ, sống một đời sống đạo đức không làm khổ mình khổ người. Đạo Phật đến với mọi người là như thế, một sự an vui hạnh phúc thực tế và cụ thể không có mơ hồ, trừu tượng, ảo giác chút nào cả.

Bước thứ nhất chúng ta đã đạt được, thì bước thứ hai đâu có khó khăn gì. Đức Phật đã nói: “Khi tâm định tỉnh, nhu nhuyến dễ sử dụng thì nhập định không có khó khăn, không mệt nhọc, không có phí sức”.

Ở đây tâm định tỉnh và nhu nhuyến như thế nào? Tâm định tỉnh, nhu nhuyến là tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp là tâm sống đúng giới luật nghiêm túc, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả. Nhờ giới luật nghiêm túc không phạm nên nhập định không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, chứ không như các pháp môn khác, tu tập thiền định mãi mà chẳng nhập được thiền định gì cả chỉ rơi vào trạng thái tưởng mà thôi. Cuối cùng thì chẳng có làm chủ sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi được.

Nếu cuộc đời tu hành mà sống không đúng giới luật thì đừng đi tu, dù đi tu cũng chẳng ích lợi gì, chỉ phí uổng một đời mà thôi. Đi tu mà phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới là những người diệt Phật giáo, phá nền đạo đức của Phật giáo, những người có tội lớn với nhân loại. Ngày mai lịch sử sẽ ghi và kết án những người phá hoại nền đạo đức này.

Những gì trong tập sách này, chúng tôi đã nói ra có gì còn sơ sót không vừa ý xin quý vị vui lòng suy ngẫm lại và sẵn lòng bỏ qua cho, chúng tôi rất biết ơn.

                                                                                                          Kính ghi
                                                                                     Trưởng Lão Thích Thông Lạc
                                                                                          Ngày 20 tháng 3 năm 2001.

 
 

 

081-Từ bài "VÔ NGÃ LÀ NIẾT BÀN" của HT Thiện Siêu, suy dẫn lời Phật dạy KHÔNG NÊN NHÌN LỖI NGƯỜI - GNCN

Kính thưa quý vị Hòa thượng, Thượng tọa, Đại dức Cử nhân, Tiến sĩ, Giảng sư Phật giáo.
               Kính thưa quý phật tử và độc giả.


Trong các mối quan hệ giữa con người với con người, đặc biệt mối quan hệ giữa người tu sĩ với các bạn đồng tu và với mọi người, nhằm hướng đến chứng đạt mục đích cứu cánh của đạo Phật, tức tâm bất động trước mọi hoàn cảnh, đức Phật đã dạy:

              "Không nên nhìn lỗi người,
               Người làm hay không làm.
               Nên nhìn tự chính mình.
               Có làm hay không làm."
               "Như bông hoa tươi đẹp,
               Có sắc nhưng không hương.
               Cũng vy, li khéo nói,
               Không làm, không kết qu." (Kinh Pháp Cú – Phẩm Hoa –Kệ 50; 51).

Suốt mấy ngàn năm, lời Phật dạy rõ ràng như thế nhưng đã có mấy ai hiểu được, mấy ai biết tự nhìn nhận ra lỗi của chính mình?

              "Dễ thay thấy lỗi người,
              Lỗi mình thấy mới khó ...  (Kinh Pháp Cú – Phẩm Cấu Uế - Kệ 252).

Tuy vậy, dù để nhận ra được lỗi của mình với bao gian truân, khó khổ, nhưng không phải là không thể nhận ra được. Vấn đề khó là có quyết tâm: muốn hay không? Giữa thế gian đầy nhiễm ô uế trược của thời vật chất dư thừa, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, con người chìm đắm trong dục lạc thụ hưởng. Nhưng vẫn có người nhận ra được lỗi của mình, đó là cố Trưởng Lão Thông Lạc, Người đã nhận ra lỗi của mình là chạy theo một tà giáo phi Phật pháp mất quá nửa cuộc đời.

Thế vẫn chưa muộn. Chúng ta hãy nghe những lời dạy của Ngài:

“Một hôm Thầy bắt chân ngồi sát bàn Phật mà không biết, đến khi xả thiền kéo chân ra đụng vào góc bàn Phật liền đó tan vỡ. Xem như giai đoạn tu tập Thiền Tông Tối Thượng Thừa đến đây là xong. Nhưng khi trở ra đời sống bình thường, không ở trong trạng thái đại định này thì Thầy thấy tâm mình còn tham, sân, si, mạn, nghi và còn mạnh hơn lúc chưa tu, nhưng tâm rất khôn khéo lý luận che đậy bằng những lời lẽ mà các sư đệ thường gặp trong kinh sách Thiền Tông và Đại Thừa như: “Tự tại vô ngại, đói ăn, khát uống, mệt ngủ liền” hoặc “Vô sở đắc” hoặc “Còn thấy tu chứng là chưa chứng” hoặc “Em là em, Phật là Phật, em không phải là Phật, Phật không phải là em…”

Tu xong rồi tâm vẫn còn phiền não, bệnh đau phải đi bác sĩ, uống thuốc, không biết cách nào làm chủ sự sống chết. Tu hành chỉ có thông suốt tất cả những công án và kinh sách Đại Thừa để làm gì?, khi không làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Thầy rất buồn nản, chẳng còn muốn sống, 10 năm tu tập trong thất rất là gian khổ chỉ có một số tưởng giải để lý luận hơn thua, thế là cuộc đời tu hành của Thầy trở thành số không. Nhập vào trạng thái không vọng tưởng thì 18 loại hỷ tưởng xuất hiện, biết chuyện quá khứ vị lai của mình của người rất rõ ràng, nhưng để làm gì đây? Để trở thành thầy bói ư!

Thầy muốn chết đi là xong, muốn vào rừng tự tử cho xong một đời tu hành chẳng ra gì. Tu hành như thế này còn mang nợ của đàn na thí chủ, chẳng ích lợi gì cho ai, chỉ có nói dối lừa người. Ôi! Thật là xót xa vô cùng, phí một đời người chỉ trở thành người nói dối có kinh sách, giới luật thì vi phạm không một giới nào là không vi phạm (phạm giới trong ý). Đúng là chết quách đi cho rồi, nhưng mẹ còn sống mà chết đi là bất hiếu.

Bây giờ Thầy ở trong tình trạng như muốn điên loạn, thầy lấy tập kinh Trung Bộ song ngữ (do Hòa Thượng Minh Châu dịch) ra đọc cho hết thời gian, nhưng khi đọc đến những câu: “Tác ý một tướng khác thì tướng kia bị diệt” hoặc “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô” hoặc “Quán từ bỏ tâm tham…” hoặc “Quán đoạn diệt tâm tham...”.

Đọc đến những đoạn kinh này Thầy như bừng tỉnh. Thầy áp dụng vào đời sống tu hành của mình ngay liền, Thầy không ngồi kiết già nữa vì ngồi kiết già tâm sẽ nhập vào Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thầy rất sợ 18 loại tưởng xuất hiện, nên chỉ ngồi tựa cửa thất nhìn trời mây cây cỏ mà tác ý: “Tâm Như Đất, Ly Tham, Sân, Si Cho Thật Sạch.”

Nhờ tác ý như vậy tâm Thầy lần lượt quay vào định trên thân, suốt ngày đêm Thầy không ngủ luôn luôn biết hơi thở ra, vô và cảm giác toàn thân. Chính lúc này tâm Thầy đang quán trên thân tức là Thầy đang tu tập Tứ Niệm Xứ mà không biết. Tâm định trên thân suốt sáu tháng trời khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống đều biết chỉ có một tâm đó.

Một hôm trên tâm thanh tịnh đó xuất hiện Bốn Thần Túc, Thầy liền biết một cách rõ ràng, nhưng cái biết đó không phải là ý thức mà cái biết đó là thức uẩn nên Thầy dùng thần lực đó nhập bốn định Hữu Sắc và thực hiện Tam Minh. Thầy hoàn toàn làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử. Thầy biết rất rõ chỉ còn một đời sống này nữa mà thôi. Tâm Thầy không còn một chút tham, sân, si, mạn, nghi nào cả.

Sau sáu tháng tu tập với câu tác ý đơn giản, mà thành công vĩ đại không ngờ. Sự thành công này mở màn cho nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo ra đời.”… (Trích sách “Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh”).

Chỉ cần nhận ra lỗi của mình để sửa đổi rồi xoay chuyển, lánh xa tà kiến, chấp nhận chánh kiến thì con đường đến cứu cánh giải thoát nằm trong tầm tay. Như lời Phật day:

              "Không lỗi, lại thấy lỗi,
              Có lỗi, lại thấy không,
              Do chấp nhận tà kiến,
              Chúng sanh đi ác thú." 
              "Có lỗi, biết có lỗi,
              Không lỗi, biết là không,
              Do chấp nhận chánh kiến,
              Chúng sanh đi cõi lành." (Kinh Pháp Cú – Phẩm Địa Ngục – Kệ 318 – 319).  

Ai là người đến được với “cõi lành”? Ai là người mãi mãi “đi ác thú”? Vì sao vậy? Chúng ta cùng lắng lòng suy tư xem vì sao? Dù ai có những “lời khéo nói” nhưng “không làm” thì “không kết quả” bao giờ.

Mời quý vị cùng đọc bài viết dưới đây với “lời khéo nói” của một vị Hòa thượng tôn túc rất đáng kính của chúng ta. Rồi theo đó suy ngẫm thêm trong những “lời khéo nói” này đó là chánh kiến hay tà kiến. Và “cái Trí của tác giả chính là cái Trí thấy được lý Vô ngã” đã đưa tác giả đến Niết Bàn chưa? Hay chỉ là:

               "Như bông hoa tươi đẹp,
               Có sắc nhưng không hương”.

VÔ NGÃ LÀ NIẾT BÀN
Thích Thiện Siêu

Đạo Phật như một vườn hoa, mà người xuất gia là người giữ gìn, chăm sóc, cần phải biết rõ từng bông hoa... Người xuất gia là chủ vườn, chứ không phải là người ngoại cuộc, chỉ cỡi ngựa xem hoa đã vội phê phán bình phẩm đủ cách. Phật tử chúng ta là những người giữ gìn gia tài Phật pháp, phải có thái độ như thế nào đối với những người cỡi ngựa xem hoa đó? Không lẽ chỉ hùa theo sự khen chê của họ?

Mặc dù biết Phật pháp mênh mông, cũng không ngoài một vị giải thoát cho nên dù chỉ học một câu kinh, tu hành một pháp môn cho thấu đáo cũng có thể hưởng được hương vị giải thoát mà không cần uống hết cả biển giáo lý. Nhưng điều cốt yếu là phải thực hành chứ không phải nói suông mà hiểu đạo được.

Đạo là con đường, nhưng đi trên con đường đạo không như đi trên đường cái. Đường cái dễ đi, dễ đến, có khoảng cách rõ rệt, bao nhiêu cây số là bấy nhiêu thời gian tương ứng, có điểm khởi hành, có điểm đến hẳn hoi. Nhưng đường đạo thì không như thế. Khi bắt đầu tu gọi là khởi điểm, mà khởi điểm này cũng ở tại Tâm. Tu hành gọi là đi, cũng chỉ trong một Tâm ấy mà khi đạt đến đích giác ngộ, thì cũng ở một Tâm ấy chứ đâu khác.

Thế mà tại sao đi mãi vẫn không đến? Đó chính là vì cái Ta cứ ngăn chận làm cho trễ nãi, biếng nhác, sa ngã, bước được một bước thì bị lục căn lục trần xen vào kéo lui ba bước. Muốn tinh tấn tu hành nhưng cái ngã nó xen vào và bảo: Để ta ăn cái đã, để ta ngủ cái đã, để ta coi cái đã, để ta nghe cái đã. Cái ngã chấp đó càng bành trướng càng gây tai họa. Ngã chấp của ta càng to càng dễ gây đụng chạm với cái ngã của người khác. Người khác cũng bồi bổ cái ngã của họ nên lại va chạm với ta. Ví như có một ngôi nhà rộng thênh thang mười người ở không khắp, thế mà một khi những người ở trong đó để cái Ta nổi lên thì sẽ va chạm nhau đến nỗi rốt cuộc mỗi người đi mỗi ngả, khi còn một người mà vẫn thấy chật. Đó là vì ngã chấp. Tôi lấy ví dụ để minh họa vấn đề ngã chấp này:

            "Ngày xưa có một linh hồn sau nhiều kiếp tu luyện, đến thiên đàng gõ cửa Thượng Đế, Thượng Đế hỏi:
            - Ai đó?
            - Tôi. Linh hồn đáp.
            Thượng Đế hỏi:
            - Tôi là ai?
            - Tôi là tôi.
           Thượng Đế bảo:
            - Ở đây không đủ chỗ cho ta và ngươi cùng ở. Ngươi hãy đi nơi khác.
            Linh hồn ấy trở lui về trần gian tu luyện thêm một ngàn năm nữa, sau đó lên trời gõ cửa lại.
            Thượng Đế hỏi: - Ai đó?
            Đáp: - Tôi.
            - Tôi là ai?
            - Tôi là Ngài. Linh hồn đáp.
            Khi ấy Thượng Đế liền mở cổng cho vào."

Thí dụ trên cho ta thấy, một ngàn năm trước tôi là tôi - còn ngã chấp, thì không vào thiên đàng được. Một ngàn năm sau, tôi là Ngài, mới vào được, vì hết ngã chấp. Vì ta với mình tuy hai mà một. Niết bàn là cái tuyệt đối không dung ngã. Niết bàn không có hạn lượng, không có nơi chốn, vì Niết bàn vô tướng - vô tướng nên rất khó vào. Muốn vào Niết bàn, ta cũng phải vô tướng như Niết bàn. Cửa Niết bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc nên ta không thể mang theo một hành lý nào mà hy vọng vào Niết bàn được cả. Cái thân đã không mang theo được, mà cái ý niệm về tôi, về ta, cũng không thể mang theo vào được. Cái ta càng to thì càng xa Niết bàn. Nên biết hễ hữu ngã thì luân hồi mà vô ngã là Niết bàn chứ không phải đòi hỏi có cái ta để vào Niết bàn.

           Một hôm có người đến hỏi Thiền sư Duy Khoang:
           - "Đạo ở đâu?"
           Sư đáp: - "Đạo ở trước mắt"
           - "Sao tôi không thấy?", người ấy hỏi.
           Ngài đáp: - "Vì ngươi đang bận nghĩ tới mình ta cho nên không thấy"
           - "Còn Hòa Thượng có thấy không?", người ấy hỏi.
           Ngài đáp: - "Hễ còn bận nghĩ tới ta, ngươi thì đều không thấy"
           - "Khi không còn bận nghĩ tới ta, ngươi nữa thì có thấy không?", người ấy hỏi.
           Ngài đáp: - "Khi không còn có tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi, thì bấy giờ ai hỏi đạo ở tại đâu?"

Giả sử lúc đó người ấy hỏi ngài Niết bàn ở tại đâu thì chắc Ngài cũng đáp tương tự như thế, và câu đáp cuối cùng hẳn là: "Khi không còn có tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi thì bây giờ ai hỏi Niết bàn ở tại đâu? Sao tôi không vào được? Vì đã không còn tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi thì tức lúc ấy tâm thanh tịnh không còn vọng tưởng tham ái, tức là Niết bàn đó rồi, chứ có phải ở đâu xa mà phải tìm kiếm?"

Vậy cho nên cần phải biết: Niết bàn chính là từ bỏ ba độc tham, sân, si do ngã chấp gây nên. Vô ngã là Niết bàn. Giờ phút nào cởi bỏ được ba độc, giờ phút đó là Niết bàn. Cho nên chúng ta thấy Niết bàn vừa là cái chung, vừa là cái riêng. Cái chung là ai cũng tu được, vào được. Cái riêng là chỉ ai tu người ấy đắc. Đức Phật, Ngài không bưng Niết bàn đến cho ta ngồi lên. Ngài chỉ dạy cho ta con đường tu chứng Niết bàn mà thôi. Ngài dạy:

"Ai còn tham luyến (tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi), thời có dao động. Ai không tham luyến, thời không dao động. Ai không dao động, thời được khinh an. Ai được khinh an thời không thiên chấp (nati). Ai không thiên chấp, thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi, thời không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh, thời không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau". (Niết bàn - Tương Ưng Bộ Kinh 4/65, 1982)

Vậy thì nói Phật độ chúng sanh là gì? Ở đây chúng ta cần phân biệt chữ "độ" và chữ "cứu rỗi". Chữ "cứu rỗi" thì chỉ cần đức tin, tin có một đấng tối cao, đấng ấy sẽ rước ta vào cõi phúc lạc của Ngài ở một nơi nào đó, nếu ta đầy đủ lòng tin. Trái lại chữ "độ", nghĩa là vượt qua, có nghĩa là làm cho chúng sanh thấy rõ rằng: chính vì bản ngã mà nổi chìm trong biển phiền não sanh tử. Vậy chỉ cần trừ cái ngã chấp thì phiền não không còn đất đứng. Khi phiền não đã trừ thì kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc cũng dứt mà vượt qua bờ giác. Khi phiền não chấm dứt thì dù bất cứ đang ở đâu, bất cứ giờ phút nào cũng là Niết bàn, không cần phải cất bước đi đến một nơi nào cả để tìm cõi Niết bàn. Bởi thế đức Phật dạy luôn luôn quán vô ngã, bốn đại, năm uẩn tạo nên thân này đều là những thứ do duyên ở ngoài kết hợp lại mà thành chứ cái thân "đồng nhứt" với cái ngã thì không thực có.

Đức Phật được tôn xưng là đấng Pháp vương vì Ngài tự tại với tất cả các pháp, vào tất cả thời, xứ. Dù ở đâu Ngài cũng không bị dính mắc vào sáu trần, không bị chúng lôi kéo. Nên chúng ta phải biết, nếu chúng ta đối với một việc gì trong một thời gian nào đó mà được tự tại, không bị nó lôi kéo, chi phối, thì ta cũng đáng được gọi là vua của pháp đó, nhưng chỉ đối với một việc đó, trong một thời gian đó mà thôi, còn ở giờ khác, đối với việc khác, thì ta lại bị ràng buộc, cho nên ta không được như Phật xưng là Đấng Pháp Vương đối với toàn diện các pháp và tất cả các thời, xứ.

Muốn được như Phật phải quán vô ngã luôn luôn. Quán vô ngã thì tất cả cái gọi là: phải, trái, được, thua ở đời đều là một cái duyên cho ta tu, hoặc trở thành bình thường không có gì bận tâm cả. Quán vô ngã cũng như người võ sĩ luyện thân thể cho rắn chắc. Khi chưa rắn chắc thì dễ bị quật ngã trước một tác động bên ngoài. Người tu vô ngã cũng vậy, khi chưa thuần thục còn nhiều ngã chấp thì dễ đau khổ trước một lời nói độc. Nếu khi ngã chấp tiêu bớt, thì chỉ còn thấy đau khổ sơ sơ và cuối cùng thì không còn ngã chấp thì cũng không còn chút đau khổ nữa. Nên kinh Pháp Cú nói:

"Như ngọn núi kiên cố
Không gió nào lay động
Cũng vậy giữa khen chê
Người trí không dao động." (Pháp Cú câu 81)

              Kết luận: Cái Trí ở đây chính là cái Trí thấy lý vô ngã vậy.
                                                                                                         Hòa thượng Thích Thiện Siêu.

Cố Hòa Thượng Chơn Như – Trưởng Lão Thông Lạc đã dạy: “Nói vô ngã thì dễ nhưng thực hành vô ngã không dễ chút nào. Đạo Phật chấp nhận Vô Ngã Ác Pháp, Hữu Ngã Thiện Pháp”. Quả thực điều này khác lạ, xa vời với "Trí" của các vị được tôn xưng là “tôn túc và đáng kính”, nhưng các vị đã bị lầm lẫn đường tu theo Phật giáo Trung Quốc suốt nhiều ngàn năm vẫn không nhận ra được lỗi của mình.

Ngày xưa, sau khi đức Phật thành đạo, trên đường hoằng pháp, sau một thời pháp, Ngài đã cảm hóa được ba anh em ngài Kassapa, cả ba anh em đều tôn phục và dẫn các đệ tử của mình trở về quy y với đức Phật, có tới cả ngàn người. Phải chăng thời ấy các vị ngoại đạo dễ dàng nhận ra lỗi của mình, bỏ tà theo chánh trở về đạo Phật.

Ngày nay, đã mấy mươi năm Chánh pháp được dựng lại và truyền giảng. Nhưng chưa thấy có một vị "tôn túc" nào dám dũng cảm nhận ra lỗi của mình để trở về với pháp chân thật. Do vậy đạo Phật ngày nay là thịnh phát hay suy tàn dưới con mắt mọi người? Đó là điều rất đáng trăn trở của tất cả chúng ta.

Trưởng Lão Thông Lạc cũng đã dạy: “Phải nhìn vạn pháp bằng cái nhìn nhân quả, không nhìn cuộc đời bằng sự đúng – sai, phải – trái, tốt – xấu…”. Điều đó thật là sâu sắc và hữu ích, nhưng thử hỏi được bao nhiêu người hiểu và thực hành đúng theo lời dạy này. Nếu hiểu và thực hành được như vậy thì Phật giáo ngày nay không còn sa lầy trong mê tín dị đoan, quay cuồng trong huyễn mộng, điên đảo tình người khiến con người sinh ra vốn khổ lại càng thêm khổ.

           Thế mới hay, việc nhận ra lỗi của mình và thấu hiểu cuộc đời là chằng chịt mối duyên nhân quả không phải là chuyện dễ thấy. Càng khó hơn là làm thế nào để có được “cái Trí thấy lý vô ngã”, nên cho dù “lời nói khéo” thế nào cũng chỉ là lời nói suông mà thôi.  
 
 

 

082-"TRÍ TUỆ TRONG ĐẠO PHẬT". HT Thích Minh Châu; TL Thích Thông Lạc.

BÀI 1:

TRÍ TUỆ TRONG ĐẠO PHẬT
HT. Thích Minh Châu

Mục đích của đạo Phật là diệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạc và hạnh phúc. Mục đích của đạo Phật là giải thoát và giác ngộ, và chỉ có trí tuệ (Pannà) mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoát và giác ngộ.

Do vậy vai trò của người có trí và vai trò của trí tuệ chiếm cứ vị trí then chốt trong mọi lời dạy của đức Bổn Sư chúng ta. Và chúng ta có thể nói đạo Phật là đạo của người trí, là đạo của tuệ giác để tìm cho được một định nghĩa thỏa đáng cho đạo Phật.

Trước hết chúng ta nên phân biệt giữa người có trí thức như thông thường được hiểu và người có trí tuệ như đạo Phật thường định nghĩa. Người có trí thức là người có thể có một trí thức uyên bác về một vấn đề gì, có thể phân tích trình bày vấn đề ấy một cách khúc chiết và triệt để, nhưng người ấy là người chỉ biết chớ không có hành, và người ấy đối với vấn đề ấy vẫn có thể bị chi phối, không được tự tại. Ví như một người có thể hiểu biết rất nhiều về vấn đề rượu, hiểu rượu gồm có những chất liệu gì, tác động của rượu đối với cơ thể như thế nào. Người ấy gọi là người có trí thức về rượu nhưng người ấy vẫn uống rượu, vẫn bị say rượu, vẫn bị rượu chi phối. Như vậy người ấy vẫn chưa có trí tuệ về rượu. Trái lại, một người hiểu rõ được rượu là gì, biết rõ được sự nguy hại của rượu, lại có khả năng không bị rượu chi phối, không uống rượu, không nghiện rượu, không say rượu, vượt ra khỏi sự chi phối của rượu. Như vậy người ấy được xem là người có trí tuệ về rượu.

Có người hỏi, nếu có người không có trí thức về rượu, nhưng không uống rượu, người ấy được xem là có trí tuệ không? Lẽ dĩ nhiên là không. Người ấy vẫn hưởng được những lợi ích do không uống rượu đưa đến, như không say rượu, không nghiện rượu do cử chỉ không uống rượu của mình. Nhưng rất có thể, trong một trường hợp đặc biệt nào đó, vì thiếu khả năng đối trị với sự cám dỗ của rượu, vị ấy bắt đầu uống rượu, đi đến say rượu và nghiện rượu. Với sự phân biệt này chúng ta mới hiểu được định nghĩa người có trí như đã được đức Phật định nghĩa rất rộng rãi trong những lời dạy của Ngài. Sự phân biệt này giúp chúng ta nhận định hai hạng người thường có trong những người phật tử.

Một hạng người rất uyên bác trong đạo Phật, hiểu biết về kinh điển rất nhiều, nhưng vẫn xem là người không có trí tuệ. Hạng người này hiện có khá nhiều trong những học giả, thuần túy nghiên cứu đạo Phật, uyên thâm trong ba tạng giáo điển, cả ba tạng nguyên thủy lẫn ba tạng phát triển, nhưng chỉ có nghiên cứu, không có hành trì. Chỉ nói hành thiền giỏi nhưng không hành thiền, trình bày hay về diệu dụng của trí tuệ, nhưng không phát triển trí tuệ, do vậy cũng chưa được gọi là có trí tuệ. Một hạng người khác, có lòng tín thành, hành trì theo những giới cấm trong đạo Phật, nhưng chỉ có lòng tin, chưa chuyển lòng tin thành trí, nên cũng không thể xem là người có trí tuệ được vì người ấy vẫn có khả năng bị tham sân si chi phối và do vậy, chưa được xem là người có trí tuệ.

Tuy vậy, người có trí tuệ được đề cập rất nhiều trong những lời dạy của Ngài, và người có trí ở đây được diễn tả như một thứ lương tri, giúp chúng ta phân biệt chánh tà, thiện ác, tịnh uế, lạc khổ, thắng liệt. Điều quan trọng là trí tuệ ở nơi đây không còn là một đặc tánh hy hữu, có một không hai, mà trở thành như một thứ lương tri luôn luôn có mặt trong chúng ta, tác động như một ngọn đèn soi sáng chúng ta biết phân biệt chọn lựa giữa thiện và ác, giữa chánh với tà, khiến chúng ta có thể nhận biết những gì nên làm, những gì không nên làm, để chúng ta tự hướng dẫn mình tiến đến an lạc và giải thoát. Diệu dụng này được đức Bổn Sư chúng ta khéo léo diển tả đặc tánh, những thái độ, những việc làm của hai hạng người, được gọi là kẻ ngu và người trí. Khi đọc qua những đoạn kinh diển tả người ngu và người trí, chính lương tri chúng ta trở thành sinh động, giúp chúng ta nhận hiểu một cách rõ ràng những gì là tốt đẹp và những gì là không tốt đẹp cho mình và cho người.

Tăng Chi, Chương Ba Pháp, Phẩm Người Ngu, nêu rõ sự sai khác một trời một vực giữa người ngu và người trí: "Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác... Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo, người trí được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện" (Tăng Chi, III-2).

Cũng theo ý nghĩa này, đức Phật nói thêm: "Phàm có sợ hãi nào khởi lên, này các Tỷ-kheo, tất cả sự sợ hãi đó khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những nguy hiểm nào khởi lên, tất cả những nguy hiểm ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những tai họa nào khởi lên, tất cả những tai họa ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí ... Như vậy người ngu có sợ hãi, người trí không sợ hãi, người ngu có nguy hiểm, người trí không có nguy hiểm, người ngu có tai họa, người trí không có tai họa. Này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi đến với người trí, không có nguy hiểm đến với người trí, không có tai họa đến với người trí" (Tăng Chi, III-1). Thật là một sự xác chứng quá rõ rệt về sự sai biệt giữa người ngu và người hiền trí, dưới cái nhìn của một bậc đã giác ngộ.

Một sự sai khác rõ rệt giữa người ngu và kẻ trí là đối với các cảm thọ. Người ngu khi gặp khổ thọ về thân thường sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực đi đến bất tỉnh. Đức Phật ví dụ như người rơi vào vực thẳm, không đứng trên bờ, không đạt chỗ chân đứng an toàn. Còn bậc trí, đối với khổ thọ về thân, thời "không sầu muộn, không than van, không khóc lóc, không đập ngực, không đi đến bất tỉnh". Như vậy đức Phật dạy vị ấy được gọi là: "Bậc Thánh đệ tử nghe nhiều đã đứng trên bờ vực thẳm, đã đạt tới chỗ chân đứng an toàn" (Tương Ưng, IV-4). Bậc Đạo Sư lại nói thêm: "Người ngu si nghe ít, khi cảm xúc khổ thọ, thời sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh."

Như vậy cảm thọ hai loại cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm. Đức Phật ví như người bị bắn trúng hai mũi tên, vừa đau khổ về thân, vừa đau khổ về tâm. Lại nữa, người ngu si ít nghe, khi cảm xúc khổ thọ, cảm thấy sân hận nên sân tùy miên tồn tại và tăng trưởng. Vị ấy tìm sự xuất ly khỏi khổ thọ bằng cách hoan hỷ dục lạc, do không tìm được một xuất ly nào khác. Do hoan hỷ dục lạc ấy, tham tùy miên đối với lạc thọ tồn tại và tùy tăng. Vị ấy không như thật biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ tồn tại và tùy tăng. Như vậy, nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, cảm giác lạc thọ, cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy cảm giác như người bị trói buộc. Ở đây, đức Phật dạy: "Người ngu si nghe ít, bị trói buộc bởi sanh già bệnh chết, sầu bi khổ ưu não. Ta nói rằng người ấy bị trói buộc bởi đau khổ" (Tương Ưng, IV-36-6).

Còn đối với bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, khi cảm xúc khổ thọ, không sầu muộn than van, khóc lóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh. Vị ấy chỉ cảm giác một cảm thọ, tức cảm thọ về thân, không cảm thọ về tâm. Đức Phật ví như người ấy bị bắn bởi một mũi tên, chỉ đau khổ về thân, không đau khổ về tâm. Lại nữa vị Thánh đệ tử nghe nhiều, khi cảm xúc khổ thọ, không cảm thấy sân hận nên sân tùy miên không tồn tại tăng trưởng. Vị ấy tìm được sự xuất ly ra khỏi khổ thọ, ngoài dục lạc. Vị ấy, không hoan hỷ dục lạc, nên tham tùy miên đối với dục lạc không có tồn tại, không có tùy tăng. Vị ấy như thật tuệ tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly của những cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ không tồn tại, không có tùy tăng. Như vậy, vị Thánh đệ tử nghe nhiều ấy cảm giác khổ thọ, cảm giác lạc thọ, cảm giác bất khổ bất lạc thọ, không có như người bị trói buộc. Ở đây, đức Phật dạy: "Vị Thánh đệ tử nghe nhiều, không bị trói buộc bởi sanh già bệnh chết, sầu bi khổ ư não. Ta nói người ấy không bị trói buộc bởi đau khổ" (Tương Ưng, IV-36-6).

Được hỏi sự sai khác giữa người ngu và bậc hiền trí, đối với các thân do vô minh che đậy, do ác phược ràng buộc khởi lên quan điểm có thân này, có danh sắc ở ngoài. Do duyên thân này, có sáu xúc xứ và có cảm thọ lạc khổ. Vậy có sự sai khác gì giữa bậc hiền trí và kẻ ngu? Đức Phật dạy: "Này các Tỷ-kheo, bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, thân này của người ngu được sanh khởi. Vô minh ấy, người ngu không đoạn tận. Tham ái ấy, người ngu không tận trừ. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người ngu sống phạm hạnh không phải vì chơn chánh đoạn tận khổ đau. Do vậy, người ngu khi thân hoại mạng chung, đi đến một thân khác. Do đi đến một thân khác, vị ấy không thoát khỏi sanh già chết, sầu bi, khổ ưu não. Ta nói rằng vị ấy không thoát đau khổ." (Tương Ưng, II-12-19).

"Và này các Tỷ-kheo, bị vô minh che đậy, bị tham ái hệ phược, thân người hiền trí được sanh khởi. Vô minh ấy, người hiền trí đoạn tận. Tham ái ấy, người hiền trí tận trừ. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, người hiền trí sống Phạm hạnh, vì chơn chánh đoạn trừ khổ đau. Do vậy, người Hiền trí, khi thân hoại mạng chung không đi đến một thân khác, vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.Ta nói rằng: Vị ấy thoát khỏi đau khổ." (Tương Ưng, II-12-19).

Một phân biệt tế nhị nữa là người trí ưa thích im lặng như biển lớn, như cái gì đầy tràn, như ao đầy nước, còn kẻ ngu thì ồn ào như khe núi, như cái gì trống rỗng, như ghè với nước.

             "Hãy học các dòng nước
             Nước khe núi chảy ồn,
             Từ khe núi vực sâu,
             Biển lớn đầy, im lặng.
             Cái gì trống kêu to,
             Ngu như ghè với nước,
             Cái gì đầy im lặng.
             Bậc trí như ao đầy" (Tiểu Bộ I, 106)

Có người hỏi, vì sao bậc có trí sống phạm hạnh rừng sâu, ăn một ngày một bữa, lại có dung sắc thù diệu, còn kẻ ngu lại héo mòn, như lau xanh rời cành. Đức Phật trả lời với bài kệ:

              "Thường sống trong rừng núi,
              Bậc Thánh sống Phạm hạnh,
              Một ngày ăn một buổi,
              Sao sắc họ thù diệu?
              Không than việc đã qua,
              Không mong việc sắp tới,
              Sống ngay với hiện tại,
              Do vậy, sắc thù diệu.
              Do mong việc sắp tới,
              Do than việc đã qua,
              Nên kẻ ngu héo mòn,
              Như lau xanh rời cành". (Tương Ưng, I-1-10)

Một số sai biệt nữa giữa người ngu kẻ trí được khéo diễn tả trong một số bài kệ sau đây: Về hạnh không phóng dật:

              "Chúng ngu si thiếu trí,
               Chuyên sống đời phóng dật.
               Người trí, không phóng dật,
               Như giữ tài sản quý". (Pháp cú 26)
               "Người trí dẹp phóng dật,
               Với hạnh không phóng dật,
               Leo lầu cao trí tuệ,
               Không sầu, nhìn khổ sầu,
               Bậc trí đứng núi cao,
               Nhìn kẻ ngu, đất bằng". (Pháp cú 28)

Đối với đời, người ngu kẻ trí có thái độ thật sai khác:

               "Hãy đến nhìn đời này,
               Như xe vua lộng lẫy,
               Người ngu mới tham đắm,
               Kẻ trí nào đắm say". (Pháp cú 171)

Nhiều khi sự sai biệt giữa người trí kẻ ngu, sai biệt chỉ bằng gang tấc, tiến tới thành Ngu, dừng lại thành Trí:

              "Người ngu nghĩ mình ngu,
               Nhờ vậy thành có trí.
               Người ngu tưởng có trí,
               Thật xứng gọi chí ngu". (Pháp cú 63)

Một sự sai biệt khác, khá rõ rệt là thái độ người ngu kẻ trí đối với Chánh pháp:

              "Người ngu, dầu trọn đời,
              Thân cận người có trí,
              Không biết được Chánh pháp,
              Như muỗng với vị canh".
              Người trí, dù một khắc,
              Thân cận người có trí,
              Biết ngay chân diệu pháp,
              Như lưỡi với vị canh". (Pháp cú 64-65)

Ở nơi đây, chúng ta đã thấy vì sao, người ngu hay xuyên tạc lời dạy của đức Phật còn người hiền trí bao giờ cũng giữ một thái độ đúng đắn, trung thành với lời dạy của Ngài:

"Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này hay xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói, không thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai có nói, có thuyết. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai."

"Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai có nói, có thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai không nói, không thuyết. Có hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, không xuyên tạc Như Lai." (Tăng Chi, II-3)

Khi chúng ta hiểu được định nghĩa người có trí ngang qua một số lời dạy của đức Phật, chúng ta nay có khả năng trình bày các định nghĩa căn bản của trí tuệ (pannà, prajnà) trong đạo Phật và khả năng của trí tuệ đưa đến giác ngộ và giải thoát.

Trước hết là một số định nghĩa căn bản của Trí Tuệ: "Như thế nào được gọi là Trí Tuệ? Vì có tuệ tri, vì có tuệ tri, nên được gọi là Trí Tuệ. Có Tuệ tri gì? Có Tuệ tri (Pajànàti): đây là khổ, cóTuệ tri: đây là khổ tập, có Tuệ tri: đây là khổ diệt, có Tuệ tri: đây là con đường đi đến khổ diệt. Vì có tuệ tri, có tuệ tri nên được gọi là Trí Tuệ (Trung Bộ, I-43). Như vậy Trí Tuệ là biết với trí tuệ, biết sự kiện, biết sự kiện tập khởi, biết sự kiện đoạn diệt, biết con đường đưa đến sự kiện đoạn diệt. Mở rộng thêm định nghĩa này là tuệ tri vị ngọt (assàda), tuệ tri sự nguy hiểm (àdinavà) và tuệ tri sự xuất ly (Nissarana) của các pháp, và do vậy nói chung có tất cả bảy lãnh vực cần phải tuệ tri, đối với một pháp, hay đối với bất cứ sự kiện nào, dầu tốt hay xấu cũng vậy. Như lấy dục làm đối tượng, thời phải tuệ tri dục, dục tập khởi, dục đoạn diệt, con đường đưa đến dục đoạn diệt, vị ngọt của dục, sự nguy hiểm của dục và sự xuất ly ra khỏi dục. Biết như vậy mới gọi là tuệ tri.

Một định nghĩa nữa của Trí Tuệ được đề cập đến. "Thế nào là tuệ lực? Ở đây vị Thánh đệ tử có trí tuệ, thành tựu sự trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau". Danh từ Pàli chuyên môn là Ariyàya nibbedhikàya sammà-dukkha-kkhaya-gàminiyà (D. III, 237). Ở đây chữ Nibbedhikàya có hai cách dịch, một là sự thể nhập, đi sâu vào con đường có khả năng đoạn tận khổ đau, tức là có khả năng giải thoát khỏi đau khổ. Cách dịch thứ hai là có khả năng đâm thủng dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, hay tham sân si để cuối cùng đoạn tận khổ đau. Như vậy trí tuệ, ngoài khả năng tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt còn có khả năng đâm thủng được vô minh để cuối cùng được giải thoát.

Một định nghĩa nữa lại càng làm rõ rệt hơn cái công năng diệu dụng của Trí Tuệ (pannà): "Trí tuệ có nghĩa là thắng tri (abhinnàttha), có nghĩa là liễu tri (parinnattha), có nghĩa là đoạn tận (pahànattha)." Như vậy trí tuệ có khả năng thắng tri, tức là biết với thiền định, và thiền định đây là bất động thức tư. Lại có khả năng liễu tri với sự hiểu biết rốt ráo trọn vẹn; và cuối cùng có khả năng đoạn tận được các lậu hoặc, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, đoạn diệt được tham sân si, chấm dứt khổ đau.

Cho được rõ ràng hơn, chúng ta cần phân biệt tưởng tri (sanjànàti) nhờ tưởng (sannà) đưa đến, và ý tri (jànàti) do ý (manas) đưa đến. Tưởng tri, thức tri và ý tri là ba sự hiểu biết thông thường của thế gian đưa đến sự hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, triết học, bác học, v.v... Đạo Phật đóng góp thêm Thắng tri và Tuệ tri, sự hiểu biết ngang qua thiền định, tạo thêm sức mạnh cần thiết để con người làm chủ được bản thân, làm chủ được hoàn cảnh. Tuệ tri đưa đến một hiểu biết toàn diện, hoàn mãn, có khả năng đâm thủng vô minh, đoạn tận tham sân si, đưa đến chấm dứt khổ đau. Nhưng trí tuệ chưa phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện đưa đến giải thoát. Với trí tuệ như vậy, vị ấy sanh nhàm chán, ly tham đoạn diệt, từ bỏ, cuối cùng đưa đến giải thoát, theo tiến trình như sau: "Do nhàm chán nên ly tham; do ly tham nên giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc gì nên làm đã làm. Nay không còn trở lại trạng thái này nữa" (Tương Ưng, IV-35-28)

Như vậy, vai trò của trí tuệ là lựa chọn các đối tượng để quán tri, để tuệ tri, và nhờ tuệ tri mới đưa đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ, và cuối cùng là giải thoát. Các đối tượng rất nhiều, tùy theo pháp môn lựa chọn, tùy theo căn cơ của vị hành giả nhưng nếu đối tượng có khác, pháp môn tu tập có khác, tiến trình giải thoát có thể xem là giống nhau hay gần giống nhau.

Sau đây là một số tiến trình giải thoát, trích thuật từ Kinh Tạng Pàli, nói lên vai trò của trí tuệ đưa đến giải thoát tri kiến.

Trong Kinh Xà Dụ, đối tượng cần phải tuệ quán là năm thủ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bất cứ năm thủ uẩn nào, quá khứ hiện tại vị lai, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả năm thủ uẩn cần phải tuệ quán: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi. Nhờ tuệ quán như vậy, vị đa văn Thánh đệ tử yếm ly sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do yếm ly nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui lại đây với một đời sống khác". (Trung Bộ, I-22)

Trong Đại Kinh Mã Ấp, đối tượng cần phải tuệ quán khổ và các lậu hoặc. Vị hành giả cần phải tuệ tri: "Đây là khổ"; "Đây là khổ tập"; "Đây là khổ diệt"; "Đây là con đường đưa đến khổ diệt"; "Đây là những lậu hoặc"; "Đây là những lậu hoặc tập khởi"; "Đây là những lậu hoặc đoạn diệt"; "Đây là con đường đưa đến lậu hoặc đoạn diệt". Nhờ tuệ tri như vậy, hiểu biết như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã được giải thoát. Như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm. Sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa". (Trung Bộ, 1-39)

Trong Kinh Đoạn Giảm, đối tượng cần phải tuệ quán các sở kiến: "Này Cunda, những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên hệ đến ngã luận, hoặc liên hệ đến thế giới luận, chỗ nào những sở kiến này tiềm ẩn, và chỗ nào những sở kiến này hiện hành, chỉ có cách như thật quán sát chúng với trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này không phẳi là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi", có vậy thời có sự đoạn trừ những sở kiến ấy, có sự xả ly những sở kiến ấy.” (Trung Bộ, I-8).

Trong Kinh Mật Hoàn, đối tượng được lựa chọn các vọng tưởng hý luận (papancasannasankhà): "Này các Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người. Nếu ở đây không có gì đáng tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sự đoạn tận sân tùy miên, sự đoạn tận kiến tùy miên, sự đoạn tận nghi tùy miên, sự đoạn tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu tham tùy miên, sự đoạn tận vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở đây những ác, bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không còn dư tàn." (Trung Bộ, I-18)

Trong Kinh Song Tầm, đức Phật kể lại kinh nghiệm của Ngài khi Ngài chưa giác ngộ, Ngài đã sử dụng bất thiện tầm và thiện tầm như thế nào để hành trì giới định tuệ, cuối cùng đưa đến giải thoát giác ngộ. Ngài chia các loại tầm ra hai loại: Bất thiện tầm là dục tầm, sân tầm, hại tầm; Và thiện tầm là ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Khi dục tầm, sân tầm, hại tầm khởi lên, vị Bồ Tát tuệ tri: "Các bất thiện tầm này khởi lên nơi Ta, và các bất thiện tầm này đưa đến tự hại đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn. Khi Bồ Tát khởi lên suy tư như vậy thời các bất thiện tầm biến mất và vị Bồ Tát tiếp tục từ bỏ, tẩy trừ, chấm dứt các bất thiện tầm khởi lên.”

Khi ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm khởi lên, vị Bồ Tát tuệ tri: "Các thiện tầm này khởi lên nơi Ta và các thiện tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa đến Niết Bàn. Nếu ban đêm Ta suy tư về ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, không phải từ nhân duyên ấy, Ta thấy sợ hãi. Nếu ban ngày Ta suy tư về ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, không phải từ nhân duyên ấy, Ta thấy sợ hãi. Và nếu ta suy tư, quán sát quá lău, thân ta có thể mệt mỏi; khi thân Ta mệt mỏi thì tâm bị dao động, khi tâm dao động, tâm rất khó được tịnh tỉnh. Rồi tự nội thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành định tỉnh". Với tâm định tỉnh như vậy, vị Bồ Tát đoạn trừ năm triền cái, chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, chứng túc mạng trí, thiên nhãn trí, lậu tận trí và cuối cùng được giải thoát giác ngộ." (Trung Bộ, I-19)

Nay chúng tôi đề cập đến lý duyên khởi để giải thích vai trò của trí tuệ, lấy con người làm đối tượng để tuệ quán và từ nơi đây, vừa tìm được công thức đưa đến sự có mặt của con người và sự tập khởi của toàn bộ năm thủ uẩn, vừa tìm được công thức duyên diệt, đưa đến sự chấm dứt sanh tử và toàn bộ năm thủ uẩn này, như đã được diễn tả trong Ái Tận Đại Kinh (Trung Bộ, I-38).

Trước hết, đức Phật đặt vấn đề sự có mặt của con người (Bhùta), sự có mặt này lấy bốn thức ăn làm nhân duyên, làm tập khởi, làm sanh chủng, làm hiện hữu, và một khi bốn món ăn này được đoạn diệt thì cũng chấm dứt sự có mặt của sinh vật này. Sinh vật đã do bốn món ăn làm tập khởi, ái do thọ làm tập khởi, thọ do xúc làm tập khởi, xúc do sáu xứ làm tập khởi, sáu xứ do danh sắc làm tập khởi, danh sắc do thức làm tập khởi, thức do hành làm tập khởi, hành do vô minh làm tập khởi. Như vậy, duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có sáu xứ, duyên sáu xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già chết, sầu bi khổ ưu não. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ năm thủ uẩn.

Như vậy, do duyên sanh nên có già chết, do duyên hữu nên có sanh, do duyên thủ nên có hữu, do duyên ái nên có thủ, do duyên thọ nên có ái, do duyên xúc nên có thọ, do duyên sáu xứ nên có xúc, do duyên danh sắc nên có sáu xứ, do duyên thức nên có danh sắc, do duyên hành nên có thức, do duyên vô minh nên có hành. Như vậy đức Phật xác chứng duyên sanh của toàn bộ khổ uẩn tức là con người với công thức: "Cái này có mặt, cái đây có mặt. Cái này sanh, cái đây sanh" (Ima smim sati idum hoti Imass uppadà, idum uppajjati).

Từ lý duyên sanh, đức Phật đi đến lý duyên diệt. Do vô minh đoạn diệt xả ly một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu bi khổ ưu não diệt. Như vậy là toàn bộ năm thủ uẩn diệt.

Như vậy do sanh diệt nên già chết diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do vô minh diệt nên hành diệt. Như vậy đức Phật xác chứng lý duyên diệt với công thức: "Cái này không có mặt, cái đây không có mặt. Cái này diệt, cái đây diệt" (Imassa asati, idam na hoti. Imassa nirodhà, idam nirajjhati). Vị hành giả, với trí tuệ biết được hai công thức duyên sanh và duyên diệt, nên sau khi giữ giới, sau khi chứng bốn thiền định, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, vị ấy không tham ái đối với sáu trần khả ái, không ghét bỏ đối với sáu trần không khả ái, vị ấy sống an trú niệm trên thân, với một tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng, các bất thiện pháp được trừ diệt một cách hoàn toàn. Như vậy vị ấy từ bỏ thuận ứng nghịch ứng, có cảm thọ nào khởi lên, vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không đắm trước thọ ấy. Vì vị ấy không có tùy hỷ, không có hoan nghênh, không có đắm trước, nếu có dục hỷ (nandi) khởi lên, đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt có dư tàn. Do dục hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết sầu bi khổ ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt toàn bộ năm thủ uẩn này.

Như vậy, với những đối tượng sai khác như năm thủ uẩn, khổ và các lậu hoặc, các sở kiến, các vọng tưởng hý luận, các bất thiện tầm và các thiện tầm, lý duyên khởi, trí tuệ đóng một vai trò then chốt trong trách nhiệm tuệ tri các đối tượng, cuối cùng đoạn tận được các lậu hoặc để chứng quả A-La-Hán.

Để nêu rõ định nghĩa và vai trò của trí tuệ hơn nữa, chúng tôi ghi chép sau đây một vài câu Phật dạy trích dẫn từ Kinh Tạng Pàli để chứng minh sự giải thích trên:

              "Tất cả hành vô thường
               Với Tuệ, quán thấy vậy
               Đau khổ được nhàm chán:
               Chính con đường thanh tịnh".
               "Tất cả hành khổ đau
               Với Tuệ, quán thấy vậy,
               Đau khổ được nhàm chán;
               Chính con đường thanh tịnh".
              "Tất cả pháp vô ngã,
               Với Tuệ quán thấy vậy,
               Đau khổ được nhàm chán
               Chính con đường thanh tịnh". (Pháp Cú 277, 278, 279)
               "Thấy khổ và khổ tập,
               Thấy sự khổ vượt qua,
               Thấy đường Thánh tám ngành,
               Đưa đến khổ não tận". (Pháp Cú 191)
               "Mắt thịt, mắt chư Thiên,
               Vô thượng mắt trí tuệ,
               Cả ba loại mắt ấy
               Được bậc vô thượng nhân
               Đã tuyên bố trình bày...
               Từ đây trí khởi lên,
               Tuệ nhãn là tối thượng
               Ai chứng được mắt ấy
               Giải thoát mọi khổ đau". (Phật thuyết Như Vậy, trang 437-438)

                                                                                                     HT Thích Minh Châu,
                                                                                     Trích: "Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi".
                                                                                         Thiền viện Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1990

LỜI DẪN:

Kính thưa quý phật tử và độc giả,

Luận về vấn đề Trí Tuệ và Tri Kiến trong đạo Phật, cố Hòa Thượng Chơn Như – Trưởng Lão Thích Thông Lạc – đã giảng dạy rất cặn kẽ, rõ ràng.

Tri Kiến và Trí Tuệ trong đạo Phật rất quan trọng đối với người phật tử tầm cầu chánh pháp. Nếu không hiểu cặn kẽ sẽ dễ dẫn đến sự nhầm lẫn tai hại, người phật tử vẫn còn đầy ắp tâm phàm phu, mới gặp vài điều khác lạ đã vội vã ngộ nhận mình có trí tuệ của bậc Thánh nên bản ngã càng lớn hơn lúc chưa tu. Ngã vẫn còn to thì 5 dục thế gian và 6 dục tăng trưởng như dòng thác mạnh cuốn phăng người phật tử vào địa ngục không thể nào thoát được.

Với chủ đề “Trí Tuệ Trong Đạo Phật” mà HT Minh Châu – một học giả uyên bác – đã luận theo sự hiểu biết (tri kiến) của mình trên cơ sở những bài kinh nguyên thủy làm dẫn chứng. Đương nhiên Trí Học Giả thì không thể đem so sánh với Trí Hành Giả được (bởi trí học giả vẫn thuộc trí phàm phu) nên không thể tránh khỏi những hạn chế gây khó khăn cho người tu học. Do vậy chúng tôi xin dẫn lời dạy của cố Trưởng Lão Thông Lạc – (một hành giả viên mãn) – cũng một chủ đề này giúp quý vi tiện theo dõi, suy ngẫm nhằm tiếp thu học pháp và tu tập đạt lợi ích nhiều nhất.

Xin giới thiệu cùng quý vị.

            BÀI 2:

TT C PHÁP LY TU LÀM TI THƯỢNG
Trưởng Lão Thích Thông Lạc

Trước khi muốn hiểu nghĩa câu này thì chúng ta phải hiểu từng danh từ của nó. Vậy Tuệ và Tối Thượng nghĩa là gì? Tuệ là trí tuệ Tam Minh. Trí tuệ Tam Minh là một trí tuệ hiểu biết siêu không gian và thời gian. Tối Thượng là cao thượng nhất. Nghĩa của toàn câu này là tất cả pháp lấy trí tuệ Tam Minh làm pháp cao thượng nhất, không có pháp nào cao hơn được. Qua lời dạy trên đây, người tu hành theo Phật giáo phải đạt cho được trí tuệ Tam Minh để thực hiện Lậu Tận Minh thì chấm dứt luân hồi, do đó chúng ta phải hiểu Tam Minh là pháp tối thượng trong Phật giáo.

Trong Phật giáo ai cũng biết có ba cấp tu học: Giới, Định, Tuệ. Tuệ là cấp tu học vô lậu thứ ba, sau cùng của Phật giáo, cho nên Đức Phật dạy: “Tt c pháp ly tu làm ti thượng”. Đúng vậy, tất cả pháp chỉ có lấy tuệ làm pháp tối thượng giải thoát duy nhất.  

Xin các bạn lưu ý: Đạo Phật là đạo giác ngộ. Vy cái gì giác ng và giác ng cái gì?

Xin trả lời các bạn câu hỏi thứ nhất: Đó là trí tu. Nhưng trí tuệ từ đâu có?

Thưa các bạn, mọi vật sinh ra đều có trí tuệ, nhưng trí tuệ ấy còn hạn hẹp trong mỗi lốt nghiệp của vạn vật ấy. Trí tuệ ấy được nâng cấp lên theo từng thân nghiệp của chúng. Trí tuệ ấy được phát triển từ học hỏi, từ tu tập mà có, nhưng các bạn phải hiểu trí tuệ là gì? 

Trí tuệ là sự hiểu biết. Như trên đã nói: “Mi vt sinh ra đu có trí tu”. Vậy, rong rêu, cây cỏ có trí tuệ hay không? Thưa các bạn! Cây cỏ, rong rêu điều có trí tuệ, nhưng làm sao chúng ta biết có trí tuệ? Cây cỏ cằn cỗi, héo úa, tàn phai khi khô nước, thiếu phân; cây cỏ biết tìm ánh sáng mặt trời để sống. Phải không hỡi các bạn? Còn loài động vật thì chúng ta khỏi nói, vì chúng đều có trí tuệ cả. Nhưng trí tuệ có nhiều cấp bực tuỳ thuộc vào nghiệp của mọi loài, mọi đặc tướng, mọi nhân tướng, mọi hành tướng.  

Trí tu gm có by:

               1. Trí tuệ do ý thức
               2. Trí tuệ do tưởng thức
               3. Trí tuệ do tâm thức
               4. Trí tuệ vô học 
               5. Trí tuệ hữu học
               6. Trí tuệ thiện
               7. Trí tuệ ác

Tu gm có sáu: 

              1. Đức tuệ
              2. Hạnh tuệ
              3. Trực tuệ
              4. Thắng tuệ
              5. Liễu tuệ
              6. Liệt tuệ

Trí tuệ và Tuệ cộng lại là 13 tuệ, như vậy một người không tu hành chỉ có sáu Trí tuệ và một Tuệ còn người tu hành chứng đạo mới có đủ 13 tuệ.

1- Trí tu do ý thc là gì? Trí tuệ do ý thức là tri kiến, tri kiến là sự hiểu biết của ý thức. Ý thức là một trong nhóm sáu thức: Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của sắc uẩn.

2- Trí tu do tưởng thc là gì? Trí tuệ do tưởng thức là tưởng kiến, tưởng kiến là sự hiểu biết của tưởng thức. Tưởng thức là sự hiểu biết của tưởng uẩn (sự hiểu biết trong chiêm bao).

3- Trí tu do tâm thc là gì? Trí tuệ do tâm thức là sự hiểu biết của thức uẩn, sự hiểu biết của thức uẩn tức là trí tuệ Tam Minh. Trí tuệ Tam Minh là trí tuệ phi không gian và thời gian, còn gọi là trí tuệ vô lậu. Trí tuệ vô lậu là trí tuệ của bậc đã chứng quả A La Hán, gọi tắt là trí tuệ A La Hán.

4- Trí tu vô hc là gì? Trí tuệ vô học là ý thức hiểu biết không cần vay mượn những sự hiểu biết của người khác như học tập trong sách vở, kinh tạng, v.v... Nói trí tuệ vô học chứ kỳ thật trí tuệ đó thường bắt chước sự hiểu biết của người khác. Ví dụ: một đứa bé từ lúc sinh ra cho đến lớn khôn bắt đầu đều phải tập trườn, bò, tập đi, tập ăn, tập nói, tập hiểu biết, v.v... Đó là đều vay mượn của người khác cả. Những người tuy không học thức nhưng vẫn là những người có trí tuệ vay mượn, vay mượn ít, còn những người có học thức là những người vay mượn nhiều.

Kinh sách Phật giáo Nguyên Thủy xác định trí tuệ vô học là chỉ cho sự hiểu biết của những người phàm phu ngu si, dốt nát, vô học, luôn sống trong vô minh với ác pháp, thường làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Trí tuệ vô học chính là tri kiến của ý thức. Tri kiến của ý thức bị hạn cuộc trong không gian và thời gian nên sự hiểu biết không thấu suốt vũ trụ và vạn vật như thật nên thường sống trong sự hiểu biết của tưởng. Vì thế, kinh sách của loài người để lại như rừng, như biển, nhưng phần nhiều chỉ là nhai lại những ý tưởng tượng của nhau bằng những ảo ảnh, trừu tượng, mơ hồ, v.v... nên thiếu giá trị chân thật, không thực tế của kiếp sống con người. Còn lại, một vài tư tưởng thực tế có giá trị đạo đức cao đẹp của loài người là do ý thức của họ quan sát thấu triệt được nền đạo đức môi trường sống mà biên soạn ra. 

Những tư tưởng thực tế có giá trị đạo đức cao đẹp ấy khi đưa ra và áp dụng vào cuộc sống của loài người thì bị các giai cấp thống trị bóp méo. Bởi vậy kinh sách thì nhiều, nhưng tìm một cuốn kinh hay, một cuốn sách có giá trị đạo đức chân thật thì không phải dễ tìm. Phải không các bạn?

Theo kinh sách phát triển Đại Thừa và Thiền Đông Độ thì trí tuệ vô học tức là trí tuệ vô sư. Trí tuệ vô sư do tu thiền định ức chế tâm mà có. Nhưng không ngờ trí tuệ vô sư là trí tuệ tưởng, cho nên kinh sách  Đại Thừa và những công án Thiền Tông đều do trí tuệ tưởng sản xuất, vì thế thiếu chân thật và chính xác, thường đưa dắt con người vào thế giới ảo tưởng.  

Trí tuệ vô sư là trí tuệ không có thầy dạy, trí tuệ do tự mình hiểu biết. Những công án của Thiền Tông ra đời là nhằm mục đích trắc nghiệm trí vô sư của đệ tử, nhưng kỳ thực đó là một lối hướng dẫn đệ tử triển khai tưởng tuệ bằng một công thức có bài bản của hệ phái này. Cho nên các hệ phái này Đại Thừa và Thiền Tông chưa có đem lại lợi ích thiết thực cho cuộc sống con người, mà chỉ đem lại một cuộc sống vào trong tinh thần ảo tưởng (Phật Tánh).  

5- Trí tu hu hc là trí tuệ do học tập và tu hành. Trí tuệ hữu học ý thc được huân tu, huân hc có thy dy, có kinh sách, có pháp môn tu hành, có bạn đồng tu, có thiện tri thức hướng dẫn. Trí tuệ hữu học được hướng dẫn đúng theo giáo pháp Nguyên Thủy của Phật giáo thì trí tuệ ấy trở thành một sự hiểu biết sống động, có đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Trí tu hu hc y còn gi là tri kiến gii thoát ca Pht giáo. Trí tuệ ấy do tu tập Định Vô Lậu mà phát triển. Đnh Vô Lu còn được xem là tri kiến gii thoát. Hay nói một cách khác là trí tuệ hữu học.

6- Trí tu thin là sự hiểu biết về thiện pháp, trí tuệ không làm khổ mình khổ người, khổ chúng sanh; trí tuệ thiện là tâm ly dục ly ác pháp, là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, là tâm thanh thản an lạc và vô sự; trí tuệ thiện là chánh tư duy, là Định Vô Lậu; trí tuệ thiện là giới luật, là Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo.

7- Trí tu ác là sự hiểu biết về ác pháp; trí tuệ ác làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh; trí tuệ ác là tâm tham, sân, si, mạn, nghi, v.v... Trí tuệ ác là tâm dao động trước các pháp ác và các cảm thọ; trí tuệ ác là tâm không ly dục ly ác pháp; trí tuệ ác là trí tuệ của những người phàm phu tục tử, hèn nhát, tham sống, sợ chết, tham danh, đắm lợi, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, a dua, v.v...

8- Đc tu là trí tuệ đạo đức, trí tuệ biết thương mình thương người; đức tuệ là tâm từ của Tứ Vô Lượng Tâm.

9- Hnh tu là trí tuệ đức hạnh, trí tuệ biến ra hành động không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh; Hạnh tuệ là tâm bi của Tứ Vô Lượng Tâm.

10- Trc tu là trí tuệ ngay thẳng, dám ăn dám nói những cái sai của người khác. Trong thời phong kiến các quan Gián Nghi Đại Phu là những vị quan can ngăn nhà vua. Những người làm chức vụ này phải thẳng thắn gan dạ dám nói những điều nhà vua làm sai. Những người dám ăn dám nói như vậy là những người có Trực tuệ.

Về tôn giáo, ngày xưa Đức Thích Ca Mâu Ni dám nói thẳng cái sai trong giáo lý của Bà La Môn và dựng lại những cái đúng, cái thiện giúp cho loài người thoát ra khỏi tinh thần tư tưởng mê tín lạc hậu. Ngài cũng còn có công xây dựng nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho loài người, mặc dù chưa được triển khai trọn vẹn và đầy đủ. Ngài để lại cho loài người bốn chân lý bất di bất dịch thực tế và cụ thể mà muôn đời sau không ai thay đổi được dù một chút xíu như hạt bụi. Ngài dám nói thẳng cái sai trong giáo lý của Bà La Môn là vì tâm đại từ bi đối với chúng sanh, đối với loài người. Cũng vì thế mà trên đường hành đạo Ngài phải chịu nhiều gian nan, vất vả. Người ta mắng chửi, vu oan Ngài với phụ nữ, xô đá, cho voi say giết Ngài. Ngày nay, giáo lý Ngài còn lưu lại cho hậu thế là một công ơn rất lớn của Ngài.

Hôm nay, vì lòng thương tưởng tín đồ Phật giáo, nên chúng tôi chẳng ngại hiểm nguy trước một thế lực vĩ đại so với mình như hạt cát giữa sa mạc. Dám nói thẳng sự thật những cái sai của kinh sách phát triển Đại Thừa, Thiền Đông Độ và những cái sai của các hệ phái khác nhau trong Phật giáo hiện thời để giúp cho tín đồ Phật giáo sáng suốt nhận định đâu là Chánh pháp, đâu là Tà pháp, đâu là Chánh tín, đâu là Mê tín, đâu là Chánh kiến, đâu là Tà kiến; đâu là Chánh tư duy, đâu là Tà tư duy. Và như vậy để khai hoang trục lộ Bát Chánh Đạo, giúp cho mọi người tu theo Phật giáo không còn đi sai đường lạc lối nữa. Đức Phật ngày xưa và ngày nay chúng tôi nói thẳng, chỉ thẳng, v.v... Đó là Trực tuệ.

11- Thng tu là trí tuệ chiến thắng mọi ác pháp. Ví dụ: Người ta hay mạ nhục, chửi mắng mình, mà mình nghe, thấy, biết rõ ràng, nhưng tâm không hề có chút giận hờn. Nghe, thấy, biết mà không khởi tâm giận hờn, phiền não, đó là Thắng tuệ. Thng tu tc là tri kiến gii thoát do s tu tp Đnh Vô Lu mà có.

12- Liu tu là trí tuệ thấy, hiểu, biết mọi pháp như thật. Liu tu còn gi là trí tu Tam Minh.

13- Lit tu là trí tuệ yếu đuối không hoạt động, không làm việc, không chịu tư duy, suy nghĩ, trí tuệ mệt mỏi, lười biếng, uể oải, v.v... Liệt tuệ là một trí tuệ không có sức đề kháng, là một trí tuệ nhu nhược hèn nhát, yếu mềm; liệt tuệ là trí tuệ tiêu cực, yếm thế đầu hàng mọi ác pháp. Người có liệt tuệ không bao giờ tu theo Phật giáo được. Vì Phật giáo là một tôn giáo tự lực nên không có ai giúp đỡ mình mà phải chính mình vươn lên.

                                                                            Trưởng Lão Thích Thông Lạc
                                                      Trích “Lời Dạy Cặn Kẽ - Những Lời Gốc Phật Dạy, tập II”
                                                                    Tu Viện Chơn Như, Trảng Bàng, Tây Ninh.

 
 

 

083-Về Bài: "THIỂU DỤC VÀ TRI TÚC" của HT Thích Thiện Hoa. "SỐNG CAO THƯỢNG..." của TL Thích Thông Lạc . GNCN

Hòa thượng Thích Thiện Hoa là một vị thầy có danh tiếng trong làng Phật giáo Đại Thừa phát triển Việt Nam. Để tìm hiểu các vị được coi là chư tôn đức, thiết nghĩ chúng ta cần tìm hiểu xem đời sống giải thoát trong đạo Phật của các vị ra sao? Các vị giảng dạy đã thông suốt hay chưa? Theo lời các ngài giảng, người phật tử hành trì bằng cách nào? Nếu quả thực là bậc tôn đức, chắc chắn những gì các ngài giảng dạy tất phải “Tri Hành Hợp Nhất”. Nếu “Tri Hành” chưa nhất thì những lời giảng dạy của các ngài có được chúng ta hoàn toàn tin tưởng hay không?

Dù sao, “Thiểu Dục Tri Túc” là đức hạnh ly tham tuyệt vời làm cho con người hết khổ và đi đến giải thoát, nên mọi người học để biết là không thừa. Mời quý vị cùng đọc bài giảng sau đây của HT Thích Thiện Hoa:

THIỂU DỤC VÀ TRI TÚC
HT Thích Thiện Hoa (1918-1973).

A. Mở Ðề

Người đời phần nhiều thường đua chen, dong ruổi theo vật chất, không biết bao nhiêu cho vừa. Người thiếu thốn tham muốn đã đành, nhưng người dư giả, tiền bạc lấy thước mà đo, thế mà vẫn còn tham muốn.  Ðã tham muốn, thì không bao giờ thấy mình đầy đủ cả. Ngạn ngữ có câu: "Bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy". Thật đúng như thế, "lòng tham đã không đáy", thì làm sao đầy được?

Ðể đối trị lòng tham, Phật khuyên chúng ta phải "Thiểu Dục và Tri Túc". Trong Khế kinh có nói: "Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng du vi an lạc, bất chi túc chi nhơn, tuy xứ thiên đường diệt bất xưng ý". Nghĩa là: "Người biết đủ, dù nằm trên đất cát vẫn an lạc, trái lại, người không biết đủ, dù ở cung trời cũng không vừa ý".

Vậy muốn được sung sướng an vui, chúng ta cần phải Thiểu Dục và Tri Túc.

B. Chánh Ðề

I. Ðịnh Nghĩa

Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có. Như muốn có cái nhà ở vừa sạch, vừa che kín nắng mưa; cần đi cho mau, muốn có một phương tiện giao thông gì cho tiện lợi, chỉ cốt đỡ mỏi chân, đỡ tốn thì giờ là được, chứ không muốn một chiếc xe hơi lộng lẫy, mấy trăm nghìn, quá sức tài chánh của mình. Biết đủ, gặp hoàn cảnh nào cũng đều an phận tùy duyên. Ðối với việc ăn, mặc và ở, tự thấy mình có đủ dùng rồi, không tham cầu nhiều hơn nữa, mà phải khổ sở về tinh thần.

II. Người Ðời Thường Tham Muốn Những Gì?

Người đời thường bị năm thứ tham muốn sau đây sai khiến:

a) Tham muốn tiền của
b) Tham muốn sắc đẹp
c) Tham muốn danh vọng
d) Tham muốn ăn ngon
đ) Tham muốn ngủ kỹ.

Người tham muốn tiền của, thì tiền kho bạc đống, nhà ngang dãy dọc, đất ruộng cò bay thẳng cánh, cũng chưa cho là vừa, mà vẫn còn mong muốn được làm giàu thêm nữa.

Người tham muốn sắc đẹp, thì suốt đời dong ruổi đi tìm hoa; thấy ai có nhan sắc là mê mết, tìm cách nầy cách khác để gần gũi cho kỳ được. Một khi đã thỏa mãn, thì lại ruồng bỏ người đẹp nầy để chạy theo người đẹp khác; luôn luôn bị vật dục sai khiến, mất hết cả nhân cách.

Người tham muốn danh vọng, thì suốt đời dong ruổi theo chức cả, quyền cao, tiếng danh, hay tốt. Họ còn lòn cúi hết chỗ này đến chỗ khác, để mong được cái địa vị cao sang. Họ lao tâm, khổ chí, tìm mọi cách để nắm giữ cho được cái hư danh.

Người tham muốn ăn ngon, thì suốt đời lân la bên cạnh những cao lương mỹ vị, quanh quẩn bên những tiệc bàn, tìm khoái khẩu trong những rượu ngon, vị lạ. Thế giới của họ thu hẹp lại trong những món ăn và những người bạn rượu.

Người tham muốn ngủ nghỉ, thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường; ăn xong lại nghĩ chuyện đi nằm, nằm là ngủ, ngủ xong lại muốn ngủ nữa, mất cả tự chủ của mình.

Tóm lại, khi đã tham muốn những thứ ấy, thì cuộc đời của những kẻ ham muốn kia, chỉ còn thu hẹp lại trong sự ham muốn của mình, và làm tôi mọi cho vật dục mỗi ngày mỗi thêm chặt chẽ. Xét cho cùng thì những sự tham muốn trên, ngoài sự tham muốn danh vọng là do kiêu căng ngã mạn, còn các thứ tham vọng khác, đều do ngũ dục là động lực chính cả. Ngũ dục là: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, và xúc dục.

Sắc dục là gì? Là nhãn căn đối với sắc trần, sanh tâm tham muốn. Trong thì "chánh báo" là thân phần của nam nhơn hay nữ nhơn: mày tằm mắt phượng, môi đỏ má hồng... Ngoài thì "y báo" là vật dụng của thế gian: ngọc, ngà, châu, báu, vật quý đồ xưa, sắc màu lộng lẫy... Những món ấy, đại đa số người vừa trông thấy liền sanh tâm tham ái.

Thanh dục là gì? Là tai nghe tiếng hay, tâm sanh say đắm; như tiếng ca, giọng hát, khúc lý câu tình, âm điệu du dương, khêu gợi tâm dục của người, sanh tâm đắm nhiễm.

Hương dục là gì? Là lỗ mũi khi đối với hương trần sanh tâm tham muốn; như dầu thơm ngào ngạt, phấn sáp nồng nàn v.v... Những món hương trần ấy, khiến cho người ngửi đến thì sanh tâm ưa thích đắm nhiễm, mơ tưởng vẫn vơ.

Vị dục là gì? Là khi lưỡi đối với mùi vị, sanh tâm tham đắm, như các mùi vị thơm tho, ngọt bùi, chua chát, mặn lạt, mỡ thịt, cá tôm, chả gỏi nem bì, những đồ cao lương mỹ vị...

Vẫn biết nhân loại đối với sự ăn uống phải cần dùng nhiều món để nuôi sống mà làm việc. Thế nên cả nhân loại ăn chẳng công nhận nó là điều cần thiết nhất, nếu ăn uống kém thiếu, thì thân thể phải ốm gầy. Nhưng ta nên xem sự ăn uống như là uống thuốc, để chữa bịnh đói khát mà thôi. Nếu quá tham món cao lương mỹ vị, chỉ biết lo sống để mà ăn, thì con người có cho là cao thượng? Phật nói: "Chúng sanh sở dĩ đi không cách đất, không khỏi cỏ cây, ra vào không rời khỏi không khí, là bởi ăn những món 'do đất sanh ra', nên thân thể rất nặng nề".

Xúc dục là gì? Là thân thể khi giao thiệp với xúc trần, sanh tâm tham muốn. Bố vải thô sơ, mặc vào mình biết nhám; lụa là, gấm nhiểu xuông, vào mình biết trơn láng, gỗ chạm vào mình biết cứng, bông đụng vào mình biết mềm v.v... Những vật gì mềm mại thì sanh tâm ưa thích, những vật gì cứng nhám thì sanh lòng ghét bỏ.

III. Tai Hại Của Lòng Tham Quá Ðộ

Những sự tham muốn quá độ, làm cho lòng người xao xuyến, mất hết cả tự chủ, và chỉ còn là nô lệ cho những thèm muốn của mình mà thôi. Một khi đã bị lòng tham dục điều khiển, thì con người gây không biết bao nhiêu tội lỗi, dám làm những chuyện hung ác mà chẳng gớm tay. Lại chính vì lòng tham muốn không ngăn mé, mà mình không tự nhận biết, nên đến khi muốn mà không được, thì đổ lỗi cho người, nhân đó sinh ra cạnh tranh, xung đột, làm cho nhân loại chịu lắm điều tàn hại. Lòng tham muốn quá độ, làm cho con người tối mắt trước những sự phải, trái, thúc đẩy người đời vào đường tội lỗi. Chẳng hạn một kẻ không có năng lực, đạo đức mà muốn được giàu có lớn và quyền thế to, thì có thể dùng những mưu mô gian xảo, đen tối, dã man để đạt ý muốn của mình. Hoặc giả, cũng vì muốn được như ý bà vợ yêu quí, mà có lắm ông chồng bị bắt buộc làm những việc trái với lương tâm cho đến tan thân mất mạng.

Tóm lại, ngũ dục làm hại cho loài người không thể kể xiết: Vì ngũ dục mà sanh ra lo buồn giận dữ, vì ngũ dục mà sanh ra dối trá, gian tham vì ngũ dục mà sanh ra cạnh tranh xâu xé, nhân loại đưa nhau vào rừng tên mưa đạn.

Trong hiện tại lòng tham muốn quá độ, sự chạy đuổi theo ngũ dục đã làm tổn hại chẳng những cho mình và cho người, mà trong tương lai, chúng lại còn đưa con người vào chốn tam đồ ác đạo, nhất là vào vòng ngạ quỷ, để phải chịu thiếu thốn cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần. Ðó là kết quả thảm khốc của người quá tham, không biết "Thiểu dục" và "Tri túc".

IV. Phương Pháp Ðối Trị Lòng Tham Muốn Quá Ðộ: Thiểu Dục Và Tri Túc

Túi tham đã không đáy, thì càng tham lại thấy càng thiếu, càng khổ. Phật dạy: "Càng tham muốn, càng khổ sở". Chúng ta đừng lầm tưởng rằng: một khi lòng tham muốn được thỏa mãn, là hết tham muốn. Hễ còn củi thì lửa còn cháy. Tham muốn được toại nguyện thì tham muốn lại càng to lên. Tục ngữ thường nói: "Ðược voi đòi tiên" là thế. Người mà lửa tham vọng mong cầu nung nấu trong lòng, bao giờ cũng thấy mình còn thiếu thốn. Không thấy thiếu món nầy, lại thấy thiếu món khác, rồi thèm khát mãi, không lúc nào được toại chí. Mà không toại chí là còn đau khổ.

Ðể đối trị lòng tham vô độ, đạo Phật cũng như đạo Nho đều dạy chúng ta phải "Tri túc" tức biết đủ. Có bao nhiêu ta hưởng bấy nhiêu, tự cho mình không còn thiếu gì nữa, đừng nhìn lên những kẻ giàu có sang trọng hơn mình, thế là "biết đủ". Trong kinh Di Giáo, Phật dạy: "Này các Tỳ kheo! Nếu các ông muốn thoát khỏi sự khổ não, nên suy nghiệm hai chữ 'Tri túc'". Hể biết đủ thì ở cảnh nào cũng yên vui. Người không biết đủ, tuy giàu mà nghèo; người biết đủ tuy nghèo mà giàu. Người không biết đủ thường bị năm thứ ham muốn kéo dắt, làm người biết đủ thương hại.

Một người trong tay thâu tóm tất cả của cải trong thế gian, với người nghèo mà không tham muốn, hai người đều giàu như nhau. Chúng ta hãy chiêm nghiệm những lời dạy đầy ý nghĩa ấy. Làm chủ đời ta, chính là lòng ta. Giàu nghèo sang hèn chỉ là vấn đề phụ thuộc. Nếu ta kiềm chế được dục vọng, tham muốn là ta giàu sang; nếu ta không kiềm chế được dục vọng tham muốn là ta nghèo hèn.

V. Lợi Ích Của Hạnh Thiểu Dục Và Tri Túc

Lòng tham muốn làm cho ta khổ bao nhiêu, thì Thiểu dục và Tri túc lại làm cho ta sung sướng bấy nhiêu. Ðó là lẽ đương nhiên. Nhờ "ít tham dục", nên con ma dục vọng không làm sao xui khiến được mình; nhờ "biết đủ", nên con quỷ tham lam chẳng có quyền hành sai sử mình nữa. Một khi con người không còn làm nô lệ cho vật chất đê hèn nữa, thì lòng người bắt đầu tự do giải thoát. Con người lúc ấy mới xứng danh là con người, mới có đủ nhân cách và không hổ thẹn với địa vị làm anh cả muôn loài. Chỉ khi ấy con người mới có thể tự cho là mình có hạnh phúc được; và dù cho thường ngày vẫn ăn cơm hẩm canh rau, quanh năm cứ quần bố, áo vải, cũng vẫn thấy trong lòng thơ thới, an vui, sung sướng. Từ xưa đến nay, không có một vị giáo chủ nào, hiền triết nào xứng đáng với danh nghĩa ấy mà lại không khinh thường vật chất, mà lại chạy theo danh vọng tiền của, ăn sung, mặc sướng cả.

Hơn nữa, nhờ Thiểu dục và Tri túc mà gia đình, xã hội được an vui, hòa bình, không còn ai giành giật của cải, danh vọng, miếng ngon, vật lạ của ai nữa. Có lợi ích của Thiểu dục và Tri túc thật không sao kể xiết được.

Giải Ðáp Những Thắc Mắc Về Thiểu Dục Và Tri Túc

Có người hỏi:

- Con người muốn tiến bộ, cần phải nỗ lực phấn đấu, cạnh tranh trong tất cả mọi trường hợp. Ðạo Phật lại dạy phải Thiểu dục và Tri túc. Như thế là chủ trương làm cho nhân loại thối hóa chăng?

Ðáp:

- Không! Ðạo Phật dạy "Thiểu dục" và "Tri túc" cốt yếu ngăn ngừa con đường trụy lạc, chận đứng lòng tham lam độc ác không bờ bến của chúng sanh, đang sống trong cõi đời vật dục, chứ không phải chủ trương ngăn chận sự tiến triển của con người trên đường lợi người, lợi vật, ích nước, ích dân. Nhận thấy tai hại lớn lao của bịnh tham lam, nên đức Phật đưa ra phương thuốc rất công hiệu là "muốn ít" và "biết đủ" để điều trị căn bệnh ấy cho tận gốc. Phương thuốc nầy sẽ làm yếu dần tâm tham lam, nên các mối dục vọng, tội ác dần dần tiêu diệt, chỉ còn lại tấm lòng từ bi rộng rãi bao la mà thôi. Một khi con người hết chạy theo dục vọng, hết đuổi bắt những hạnh phúc vật chất tạm bợ, giả trá cũng không đào bớt thêm đau khổ của người khác, để tìm hạnh phúc cho mình nữa, thì lúc ấy, hạnh phúc chân thật liền đến với họ.

Như thế, nghĩa là hạnh "Thiểu dục" và "Tri túc" bắt đầu hãm bớt tốc lực của lòng dục vọng tham lam, kế đó chận đứng nó lại, sau hết buộc nó xoay chiều, đổi hướng, tinh tiến mãi trên con đường lành. Vậy thì hạnh "muốn ít" và "biết đủ" chẳng những không đưa con người vào con đường thối hóa, mà lại giúp cho sự tiến hóa của nhân loại.

Vả lại, ngày nay nhân loại đang chứng kiến một sự mất quân bình nguy hiểm giữa sự tiến hóa mau lẹ của vật chất và sự chậm tiến của tinh thần. Sự mất tinh thần ấy có thể đưa nhân loại đến hố diệt vong. Vậy cần phải quân bình sự tiến hóa vật chất và tinh thần. Muốn thế, chẳng có phương pháp nào khác hơn là tuân theo hạnh "Thiểu dục" và "Tri túc". Con người nếu biết coi thường vật chất một ít, thì mới tiến hóa thêm về tinh thần.

Sỡ dĩ ngày nay trên thế giới, đứng về phương diện vật chất, khoa học, con người có tiến triển rất nhiều, rất nhanh; còn về phương diện tinh thần, đạo đức, con người tiến rất chậm, vì ít có ai quan tâm lưu ý đến nó, mà chỉ chạy theo tham muốn dục vọng. Hể vật chất quá tiến, thì tinh thần phải lùi, vật chất càng cao thì lòng tham càng nặng, càng sâu, càng lớn, không biết lúc nào là cùng. Tai họa chiến tranh ngày nay, gieo rắc khắp nơi trên thế giới, cũng do lòng tham không đáy của con người "bất tri túc" vậy.

Vậy Thiểu dục và Tri túc là hai phương thuốc thần diệu cho căn bệnh trầm trọng của thế giới ngày nay, không ai có thể chối cãi được.

C. Kết Luận:

Kẻ ngoài đời và người trong đạo, muốn được hạnh phúc chân thật, thì nên tu hạnh "Thiểu dục" và "Tri túc". Vì thật sự, những người không quá đòi hỏi về vật chất, thì chẳng hề so sánh với bề trên; do đó, không thấy mình thiếu thốn về vật chất, nên ít khổ. Hơn nữa, họ chỉ so sánh với kẻ dưới, thấy mình khá giả, đầy đủ hơn, nên dễ mãn nguyện.

Muốn tránh khỏi tai nạn trong gia đình và xã hội, mỗi người trên thế gian nầy, đều phải giữ phận thủ thường, đừng vượt quá khả năng của mình. Trên thế giới năm châu hiện nay, muốn có hòa bình để mà hưởng lạc thú hòa bình vĩnh viễn, thì cũng không ngoài cái hạnh "Thiểu dục" và "Tri túc" mà được.

                                                                                          Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
                                                                                          (Trích “Phật Học Phổ Thông”)

Dục là nguyên nhân sinh ra muôn vạn khổ đau cho con người. Theo chúng tôi được biết, dục của con người có rất nhiều, nhưng quan trọng có 11 dục căn bản mà đức Phật đã dạy:

Năm dục lạc thế gian: Dục Danh, Dục Lợi, Dục Sắc, Dục Ăn và Dục Ngủ.

Sáu dục tăng trưởng. Xuất phát từ sáu trần Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp, tiếp xúc sáu căn Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý, khiến cho sáu dục này phát triển, làm người ta đắm chìm trong dục lạc thụ hưởng, làm cho người ta si mê điên đảo trong ba nơi hành động Thân, Khẩu, Ý, tạo ra biết bao là nghiệp ác.

Theo bài giảng của HT Thiện Hoa trên đây mới chỉ thấy nêu có 10 dục căn bản. Phải chăng Ý dục liên quan đến Pháp là điều không quan trọng? Cho nên bao nhiêu thế hệ (Phật giáo phát triển và Thiền Đông Độ) tu hành đều vi phạm luật, phá giới luật từ trong Ý Dục mà không hay. Thành ra tu hành mãi rồi cuối cùng cũng trở về với địa ngục mà thôi.   

Sống “Thiểu Dục Tri Túc” là phẩm hạnh cao thượng của Phật, đức A-la-hán Thích Thông Lạc lược giảng như sau:

SỐNG CAO THƯỢNG MỚI CHỨNG ĐẠT CÁI CAO THƯỢNG.

Phạm hạnh của đức Phật như thế nào?

              “- Ăn không phi thời.
               - Ngủ không phi thời.
               - Sống độc cư, phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, và ý của mình.
               - Đi đứng nhẹ nhàng, lời nói ôn tồn nhã nhặn, tức là những oai nghi chánh hạnh.

Người giữ gìn bốn hạnh này là người sống cao thượng. Người sống cao thượng mới chứng đạt pháp cao thượng. Pháp cao thượng của Phật giáo không có gì cao thượng cả, mà rất cao thượng chỉ vì con người sống trong thế gian không làm được.

1- Điều thứ nhất: Con người thế gian ham ăn, ăn ngày ba bữa còn ăn đêm. Ngược lại, người sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không tham ăn, ăn ngày một bữa.

2- Điều thứ hai: Con người thế gian ham ngủ, lúc nào ngủ cũng được. Ngược lại, người sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không tham ngủ, thường tu tập tỉnh thức, sống trong tâm bất động.

3- Điều thứ ba: Con người thế gian ham tiền bạc nhiều, ham nhà cửa cao sang đẹp đẽ, ham xe cộ này xe cộ khác. Ngược lại, người sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không ham tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, thường buông xả hết, chỉ còn sống ba y, một bát hằng ngày đi xin cơm một bữa để sống tu tập.

4- Điều thứ tư: Con người thế gian ham uy quyền, lúc nào cũng muốn ra oai, la lối, nạt nộ chửi mắng người khác. Vả lại còn muốn ăn trên ngồi trước không ai hơn mình. Ngược lại, người sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không tham uy quyền, mà chỉ muốn làm một người thấp nhất trong xã hội (người ăn mày).

5- Điều thứ năm: Con người thế gian hay giận hờn, phiền não, lo sợ: lo đói, lo sợ trộm cướp, chiến tranh, lo sợ con cái nghèo khổ, v.v... Ngược lại, người sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không giận hờn, ai chửi mắng thì tha thứ thương yêu, không ghét ai, nhất là không lo sợ một thứ gì cả.

6- Điều thứ sáu: Con người thế gian tâm ưa thích dâm dục, nên lớn lên đều lấy vợ gả chồng, nhưng người ta đâu biết rằng đó là con đường khổ của thế gian, nối tiếp từ đời này đến đời khác mãi mãi khổ đau, thế mà sinh ra làm người ai cũng ưa thích, v.v... Ngược lại, người sống theo pháp cao thượng của Phật giáo thì tránh xa dâm dục, thấy dâm dục như thấy rắn độc, một khi đã bị nọc độc rắn dâm dục cắn thì suốt đời phải chịu khổ đau.

Cho nên dâm dục là con đường sinh tử luân hồi, con đường bất tịnh, uế trược, tràn đầy đau khổ, không đi vào con đường này thì thôi, mà hễ đi vào con đường này thì khổ đau ngút ngàn. Hỡi quý vị có trí tuệ hãy tránh xa. Ở xa tưởng nó là hạt kim cương, nhưng khi đến gần thì nó là giọt nước mắt đấy quý vị ạ!

Sáu điều trên đây nếu người nào muốn sống một đời sống cao thượng thì hãy tránh xa sáu điều này, đó là sáu điều hạ liệt. Có tránh xa sáu điều hạ liệt trên thì đời sống mới cao thượng theo đúng đường lối của Phật giáo. Nhờ có sống cao thượng như vậy mới chứng được pháp cao thượng.

Người ta đừng hiểu sai là tu theo đạo Phật phải buông bỏ hết, không còn có một vật gì còn dính trong thân tâm, phải trống không, không ngơ. Đó là hiểu sai, người đi tu theo Phật giáo sống thiểu dục tri túc, chỉ còn ba y một bát mà thôi, đó là những vật dụng cần thiết cho một người tu hành giải thoát. Nhờ sống như vậy nên làm chủ được cái ăn, cái ngủ và cái sống một mình. Cho nên, tất cả ngũ dục lạc thế gian đều buông bỏ xuống sạch, không còn một chút xíu nào dính trong tâm. Chúng ta lắng nghe đức Phật dạy: “Sự xuất gia này của chúng ta sẽ không phải trống không. Có kết quả, có thành tích. Và những vật dụng chúng ta thọ dụng như y phục, đồ ăn khất thực, thuốc trị bệnh, dầu cho những thứ này là khiêm tốn, đối với chúng ta sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn”. (57 Tương Ưng tập 2)

Lời dạy trên đây rất rõ ràng, vì y phục vừa đủ để thay đổi mặc hằng ngày, không thừa dư một y áo nào cả, và đồ ăn khất thực vừa đủ ăn ngày một bữa để sống rất là khiêm tốn, nhưng xét lại người sống được như vậy thì quả là giải thoát, lợi ích rất lớn mà người thế gian không thể sánh được.”

                                                                  (Trích “Mười Hai Cửa Vào Đạo”- TL Thích Thông Lạc)

Người tu hành thì phải có kết quả. Kết quả đó là gì? Đó là làm chủ bốn sự khổ của đời người sinh, lão, bệnh, tử. Đó là an lành giải thoát. Người giảng đạo đức tất đạo đức phải vẹn tròn, viên mãn. Được thế là “Tri Hành Hợp Nhất”. Được thế là bậc giác ngộ giải thoát. Giải thoát rồi tất không còn lang thang trong sáu nẻo luân hồi.

Vâng! Quý vị thử xem. Các vị thầy tổ rất đạo đức của chúng ta có còn phải đọa trong tam đồ khổ nữa hay không? Hãy nhìn xem ngay trong cuộc sống của các ngài lúc còn sống và khi chết ra sao.   

HT THÍCH THIỆN HOA VIÊN TỊCH

Hòa thượng khởi bệnh từ tối đêm 17 tháng 11 năm Nhâm Tý, sau ngày lễ vía Đức Phật A Di Đà, Ngài được đưa vào bệnh viện Đồn Đất điều trị. Bác sĩ cho biết bệnh của Hòa thượng cần phải được giải phẫu. Hòa thượng thường nói với các đệ tử đến thăm viếng: "Nếu kỳ đau này tôi phải chết, tôi rất hài lòng, vì đối với sự hoằng hóa tôi đã làm tròn nhiệm vụ. Đối với Đạo Pháp tôi đã gánh vác được một giai đoạn khó khăn".

Sau khi giải phẫu, bệnh của Hòa thượng càng ngày càng nhẹ, ai cũng tin rằng không bao lâu Hòa thượng sẽ bình phục trở về chùa. Một phóng viên báo Điện tín đến vấn an, hỏi về cảm nghĩ của Hòa thượng trong thời gian ở bệnh viện. Hòa thượng đáp: Tôi không mong ước gì hơn sớm có ngưng bắn, để cho dân tộc Việt Nam được hưởng một mùa Xuân thanh bình.

Một hôm, Hòa thượng Thiện Hòa vào thăm Hòa thượng. Tuy cảm thấy bệnh tình đã nhẹ rồi, mà Hòa thượng vẫn dặn dò mọi việc, cho đến kinh sách hiện còn, đều giao cả cho Hòa thượng Thiện Hòa. Thấy điều lạ, Hòa thượng nói: "Nằm ít hôm nữa bệnh lành rồi về, nói chi chuyện ấy".

Bất thần, ngày 17 tháng 12 âm lịch, Hòa thượng trở bệnh. Đến đêm 19 tháng 12 âm lịch, Hòa thượng thấy mệt, biết mình không qua khỏi nên gọi các môn đệ đến bảo: "Các con niệm Phật cho Thầy vãng sanh, Thầy mệt quá rồi". Từ giờ phút ấy tiếng niệm Phật đều đều vang lên trong gian phòng hồi sinh. Từ đó Hòa thượng lặng lẽ dần dần đến 06 giờ 5 phút, sau một hơi thở dài rồi im lìm theo Phật!

Hòa thượng đã an lành viên tịch vào sáng ngày 20 tháng Chạp năm Nhâm Tý nhằm ngày 23 tháng giêng năm 1973, thọ 55 tuổi và được 26 tuổi hạ.

Hòa thượng xong việc ra đi, nhưng để lại cho hàng Giáo phẩm trong Giáo hội bao nhiêu niềm mến tiếc. Tăng Ni cảm thấy bơ vơ hết chỗ tựa nương, hàng Phật tử mất đi một bậc Thầy hiền kính ái. Ngôi nhà Đạo pháp đã thiếu đi một cây thạch trụ chịu đựng!

                                                                                        Tiểu sử HT Thích Thiện Hoa

                                                                                              (Môn đồ pháp quyến đồng bái soạn).

Hòa thượng đã an lành viên tịch” - (đó là lời của môn đồ pháp quyến viết về người thầy, người thân của mình) – Đúng! An lành viên tịch sau khi đã phải sống trong “địa ngục mổ xẻ” trước đó không bao lâu. Chắc chắn là đau đớn thân tâm nhiều lắm.

Thế cũng còn may hơn nhiều các vị tôn túc khác, suốt đời giảng dạy giáo lý đạo đức giải thoát cho người nhưng quên mình nên không giải thoát, để đến nỗi lúc cuối đời phải sống trong “địa ngục vô thức”, ăn không biết mình ăn, bài tiết không biết mình bài tiết, đằm mình trong nhơ uế bẩn thỉu bao tháng ngày mà không thoát đi được. Thật là khổ sở vô cùng.

Ai hay! Đạo Phật là gì? Giải thoát là gì? Sao cứ nói hoài bao nhiêu thế kỷ mà chẳng chịu quay đầu “phản quang tự kỷ”?

084-MÙA XUÂN TRONG NÉT ĐẸP NGƯỜI TU. TKN Thích Nữ Chân Liễu

Kính thưa quý phật tử và độc giả,

Chúng tôi vừa nhận được bài viết của Ni cô Thích Nữ Chân Liễu với tiêu đề: “Mùa Xuân Trong Nét Đẹp Người Tu”. Lúc này trời đã chuyển mùa thu, nhưng có lẽ “nét đẹp của người tu” thì lúc nào cũng tươi trẻ và đầy sức sống như muôn loài hoa thắm sắc hương xuân.

Trước khi giới thiệu đến quý vị bài viết này, chúng tôi xin trình bày mấy suy tư theo quan điểm của cá nhân mình (dựa theo lời dạy của TL Thích Thông Lạc) để trao đổi về một vài câu trong bài. Mong muốn mọi người, tất cả chúng ta, những người huynh đệ đang cùng nhau trên đường về Xứ Phật luôn có một niềm tin chân chánh vào bậc Đạo Sư, vững bước không sợ bị lầm đường lạc nẻo.

Xin trao đổi cùng tác giả và quý vị:

Trong bài có câu:

(1) Khi những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm đã dứt sạch, thì sẽ chế ngự được tham lam, sân hận, si mê.

Câu này thể hiện một “mệnh đề” ngược, pháp tu ngược, cho nên người tu tập không thể và không bao giờ đi đến mùa xuân nào cả. Theo cách hiểu này, từ xưa tới nay, bao nhiêu lớp người tu đều cố gắng làm sao để tâm hết vọng tưởng, như các pháp môn Thiền Tri Vọng, Thiền Công Án, Niệm Phật Nhất Tâm, Bắt Ấn, Trì Chú, Thiền Minh Sát... Và họ tưởng rằng khi các vọng niệm thưa dần, dứt sạch thì sẽ chế ngự được tâm tham lam, sân hận và si mê. Đó là một sự nhầm lẫn rất lớn. Cho dù có cố gắng dứt sạch tất cả các vọng niệm nhưng tâm tham, sân, si sẽ vẫn còn đầy đủ, thậm chí còn nhiều hơn lúc chưa tu. Bởi vì, đó là pháp tu ức chế tâm.

Ví như cây cỏ độc mọc trong vườn tâm lấy tham, sân, si làm gốc, các vọng tâm, vọng niệm… chỉ là lá cành. Dẫu cố gắng bao nhiêu để cắt tỉa lá cành cho đến trơ trọi thì gốc kia vẫn còn. Người tu hành cần biết nhổ cỏ tận gốc, nếu chỉ làm sạch lá cành thì rồi sau cành lá khác lại mọc ra nhiều hơn.    

Theo pháp mà cố HT Chơn Như – Trưởng Lão Thích Thông Lạc giảng dạy, chúng tôi nhận thức rằng tất cả các vọng niệm, vọng tâm… còn lăng xăng loạn tưởng đều do nguyên nhân từ lòng tham, sân, si mà phát sinh. Khi tu tập đúng pháp, biết chế ngự và buông bỏ dần các pháp tham, sân, si thì các vọng niệm sẽ thưa dần và chấm dứt. Như vậy kết quả sẽ rõ ràng. Đó là pháp tu xả tâm.

Do vậy câu trên có thể sửa lại là: Khi tu tập đúng pháp, biết chế ngự, buông xả, đoạn diệt hết các ác pháp tham, sân, si, mạn, nghi và các kiết sử thì vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm thưa dần và dứt hẳn. Lúc đó tâm hành giả hoàn toàn tỉnh thức, bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là lúc hành giả đã viên mãn cuộc tu hành.

(2) … ngồi thiền, tụng kinh.

Đây là hai pháp hoàn toàn xa lạ không có trong thời khóa tu tập của người tu pháp môn xả tâm.

Cần hiểu rõ thiền là gì? Thiền của đạo Phật không giống như thiền của các tôn giáo khác. Khi tâm hành giả tu tập đạt đến không tham, không sân, không si thì đó là Thiền của đạo Phật. Lúc đã Thiền rồi thì khi đứng, khi đi, khi nằm, khi ngồi, lúc nào cũng là Thiền cả. Vậy đâu cần ngồi Thiền làm chi cho mệt? Dùng chữ ngồi thiền trong tu tập theo Chánh pháp xả tâm là lạm dụng.

Tuy nhiên, trong thời khóa pháp tu xả tâm có ngồi, nhưng rất ít. Không gọi đó là ngồi thiền (nhầm với pháp tu của các tông phái khác), mà là tu tập định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu hay Định Sáng Suốt. Tu tập các loại định này để chế ngự và đoạn diệt tâm tham, sân, si…

Còn việc tụng kinh như các tông phái phát triển Đại Thừa là việc làm thừa thãi, vô bổ, không ích lợi. Tụng gì? Lục tự Di Đà hay Tứ tự Di Đà, hay tụng những câu thần chú mà chính người tụng cũng không biết mình đang đọc gì. Ê a tụng đọc không làm cho tâm tham, sân, si vơi đi được. Như thế tụng kinh là hoàn toàn không cần thiết đối với con đường tu tập Giới – Định – Tuệ.

(3) … thấy được Phật tánh không sanh, không diệt của mình, để ngộ ra “ý xuân vi diệu” này.

Lời này tưởng hay nhưng thật ý không tỏ. Phật tánh, không sanh, không diệt là những lời từ của những thầy tổ mê mờ, mơ huyễn từ xưa khi các ngài tu tập không tới nơi tới chốn rồi tự đặt chữ nghĩa rườm rà làm khó cho người sau khó khăn tư duy học tập. Ngày nay chúng ta nên bỏ.

Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” hoàn toàn có ý nghĩa tích cực. Câu này không giống với các câu của thầy tổ dạy: “Phật tánh” “Bản Lai Diện Mục”… hay “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”…thì rất là mơ hồ và vô lý.

Phật tánh là gì? Sao lại không sanh, không diệt? Đó là một sự mê lầm không nên có. Nếu nói Niết Bàn là trạng thái tâm không tham, không sân, không si của người tu chứng, thì Niết Bàn này Phật dạy vẫn là pháp hữu vi. Mà tất cả pháp hữu vi đều vô thường. Vô thường thì luôn biến diệt không ngừng nghỉ. Sao lại nói không sanh, không diệt. Cái không sanh, không diệt của các tổ là do “không ngơ” mà có.

Mùa Xuân Trong Nét Đẹp Người Tu” nên dù là tu sĩ hay cư sĩ đều cố gắng nhổ thật sạch những cây cỏ độc trong tâm, để những cây xanh hữu ích trong vườn xuân mạnh mẽ vươn lên dưới trời xuân thanh tịnh, an lành.

Trên đây là mấy ý suy tư rất chủ quan lạm bàn cùng tác giả và quý vị. Chúng tôi thành tâm hoan hỷ đón nhận những lời góp ý chia sẻ của tác giả và quý vị để có dịp được học hỏi thêm.

                                                                                                           GNCN

Mời quý vị đọc bài viết:

MÙA XUÂN TRONG NÉT ĐẸP NGƯỜI TU
TKN Thích Nữ Chân Liễu.

Nhân dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã của thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người.

Một sức sống vui tươi vô cùng kỳ diệu khi nhìn cảnh sắc xinh tươi của "Mùa Xuân", tâm tình ai ai cũng cảm thấy phấn khởi và hoan hỷ đón mừng mùa xuân an lạc hạnh phúc, cát tường như ý. Hương xuân làm con người lạc quan yêu đời, cũng là thời gian mà người tu tâm dưỡng tánh có thể chuyển mình tự đứng lên, vượt thoát quá khứ nhiều phiền não, nhìn về tương lai đầy hứa hẹn.

Đệ tử Phật gia ai ai cũng mong ước được vô lượng an lạc, vạn sự cát tường, Phật sự hanh thông, Phật đạo viên thành và đạt được mùa xuân miên viễn, như những lời chúc đầy đạo vị mỗi khi xuân về. Mong ước đạt được những điều chúc tụng đầy ý nghĩa trong dịp xuân về, người con Phật nên hiểu rõ ràng về giáo lý nhân quả và sự thực hành đúng chánh pháp, áp dụng giáo lý đạo Phật trong đời sống hằng ngày.

Điều quan trọng vô cùng sâu sắc của Phật pháp, thể hiện qua giá trị nhân cách sống cao thượng chân chánh của người tu, đó chính là "Xuân trong nét đẹp của người tu", kết quả là sự an lạc cát tường như ý, không mong cầu cũng luôn luôn hiện hữu.

Theo sự tích của Đức Phật, hình ảnh thanh tịnh, từ tốn, bước chân an lạc xuất trần của một vị Sa môn, cùng tấm áo cà sa đơn giản, đầu trần chân đất, cuộc sống ung dung tự tại đã làm Thái Tử Tất Đạt Đa xúc động. Xuất thân từ cung vàng điện ngọc, địa vị cao sang quyền quí tột đỉnh, nhưng cuộc sống của vị Sa môn Cồ Đàm đơn giản thuần khiết, cơ cực khổ hạnh thể hiện qua một con người siêu việt xuất thế. Đức Phật là nét đẹp đạo hạnh đầy đủ "Từ bi và Trí tuệ". Sự kính phục tuyệt đối của nhân loại về chân lý đạt đến cứu cánh giải thoát sanh tử, ngàn đời nay đến đời sau đối với Ngài là vô cùng vô tận.

Sống trong giới pháp của Đức Phật, người tu xuất gia không phải bận rộn miếng cơm manh áo, không lo toan chuyện thị phi thế gian, là đang được hưởng gia tài của cha lành Thế Tôn để lại. Trên bước đường hành đạo, có nhiều chông gai trắc trở, đồng thời cũng có nhiều cám dỗ của vật chất danh lợi trong giai đoạn tự chế ngự bản thân, đó là thử thách, rèn luyện công phu tu tâm dưỡng tánh.

Đối với mùa xuân mỗi năm qua mau, kiếp sống con người thật ngắn ngủi, nếp sống thanh tịnh trầm mặc của các vị tu sĩ là khép lại bớt lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

            Mắt: Không thấy vật chất là vĩnh cửu, là quí giá, cần nắm giữ cho riêng mình.
            Tai: Không nghe nhiều, không chấp vào tiếng khen chê, sanh tâm thương ghét phân biệt.
            Mũi: Không để cho mùi vị, hương lạ làm tâm tán loạn, sanh tâm mê đắm, thích hưởng thụ.
            Lưỡi: Không để cho cảm giác ngon dở, ưa thích sai khiến, tạo nghiệp chẳng lành.
            Thân: Không hơn thua, đẹp xấu phô trương, sanh lòng khinh mạn đua đòi.
            Ý: Không để cho ý sanh vọng tưởng điên đảo, tâm thức tán loạn sẽ rơi vào tội lỗi.

Chứng thực cho sự giải thoát của con người, là được sống thảnh thơi trong an nhàn, tâm an tĩnh, trí sáng suốt, rời xa những bon chen, xô bồ của cuộc sống thường ngày, rời xa vòng danh lợi thế gian, thoát khỏi bể khổ trầm luân. Ấy chính là khi Tâm ta hoàn toàn an tĩnh.

"Nét đẹp của người xuất gia" không phải là hình tướng khác thường bên ngoài, không phải mũ cao, áo thêu áo gấm, đủ màu đủ sắc. Xuân đối với người xuất gia là cái đẹp trong sáng ở nội tâm, khi Tâm thanh tịnh, rời xa được lòng tham lam, sân hận, si mê, nhân cách thuần hậu, nguyện đem lợi lạc cho mình cho người.

Tâm hạnh người xuất gia cao thượng chân thật vô ngã vị tha, ắt sẽ đạt đến Niết bàn vô lượng an lạc, đó là "Xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia", cũng là giá trị hạnh phúc bất tận cho người tu ngay tại thế gian.

Đạo Phật không đòi hỏi mọi người đều phải lên Chùa để tu, cầu Kinh sớm hôm và hàng ngày phải ăn chay khổ hạnh hay buộc phải hoàn toàn cắt đứt tất cả tình thương với người thân, mới gọi là biết tu. Ý nghĩa của chữ TU là tu tâm sửa tánh. Đức Phật dạy: "Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng tâm mình là điều cao quý nhất".

Khi những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm đã dứt sạch, thì sẽ chế ngự được tham lam, sân hận, si mê(1). Kết quả thực tế, cũng là phần thưởng cho những cố gắng, nỗ lực không ngừng của người tu tại gia, trước mắt là những chuỗi ngày hạnh phúc, vui vẻ, đầy an lạc.

Một người yếu đuối sợ khó khăn, tâm tánh ích kỷ, thích mơ mộng danh lợi, đòi hỏi nhiều về thú vui vật chất riêng bản thân, muốn một cuộc sống "tu tại gia" không dễ dàng thực hiện được. Một ví dụ, như làm cha mẹ muốn tu tại gia, vừa trách nhiệm lo miếng cơm manh áo cho gia đình, cho các con, lại còn phải hộ trì Tam Bảo, tu học Phật pháp, niệm Phật, ngồi thiền, tụng kinh(2), tự soi rọi thanh lọc tâm, không phải ai cũng làm được. Nếu thực hành vẹn toàn được công phu "tu tại gia", người tu luôn luôn chịu hy sinh rất nhiều cho riêng bản thân mình, tâm ý cao thượng khó làm khó thực hiện, nhưng đó chính là môi trường tu tâm dưỡng tánh tuyệt vời nhất.

Người muốn tu, ở hoàn cảnh nào cũng tu được, nếu hiểu được cách tu theo lời Phật dạy, nghĩa là áp dụng tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỷ, xả, khoan dung rộng lượng trong đối xử, biết tự kềm chế thú vui vật chất, mạnh dạn hy sinh lợi ích cá nhân, biết xả bỏ ích kỷ nhỏ nhen. Người tu tại gia tự độ và còn có thể độ được cho những người thân trong gia đình và làm tấm gương cho con cháu noi theo. Sống biết đủ, không đòi hỏi nhiều, không bận rộn vào cuộc vui vô nghĩa, người "tu tại gia" sẽ có rất nhiều thời gian cho việc nghiên tầm kinh điển, tu học để khai sáng trí tuệ, trưởng dưỡng từ bi.

"Nét đẹp của người tu tại gia" là cuộc sống chân thật hồn nhiên, một nhân cách trong sạch và một tâm Bồ Tát tại gia vô chấp vô phân biệt, vượt qua được hình tướng xuất gia, nhưng vẫn có thể thành tựu đạo nghiệp. Người "tu tại gia" có thể đem lại cho mình, cho những người thân sống chung quanh sự bình yên tuyệt đối trong tâm hồn, sự thoải mái vô cùng qua cung cách cư xử trong từng cử chỉ, lời nói, việc làm cũng như ý nghĩ. Đó là ý nghĩa vi diệu tuyệt vời "Xuân trong nét đẹp người tu tại gia", ngay từ những điều vô cùng giản dị trong cuộc sống hằng ngày.

Tóm lại, mùa xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia hay tại gia là ở tâm hạnh của Bồ Tát, nhân cách nghiêm tịnh, giới đức khiêm cung.

 Được gần các "Bậc Thiện Nhân" con người sẽ cảm nhận vô lượng an lạc hạnh phúc, như được hưởng gió mát và ánh nắng ấm áp, đầy đạo vị của những cánh hoa xuân tươi đẹp.

             - Trang nghiêm giới hạnh, đó là thân đẹp. 
             - Ăn ở hiền hòa, thủy chung, đó là nết đẹp.
             - Cư xử khiêm hạ, từ tốn, đó là cử chỉ đẹp. 
             - Giúp đỡ người bị nạn hay đói nghèo, đó là tấm lòng đẹp.
             - Hiếu với cha mẹ, kính bậc hiền thánh, đó là tâm hồn đẹp. 
             - Gặp người đau khổ, sợ hãi, nói lời an ủi, đó là ngôn ngữ đẹp.
             - Không khởi tà niệm, tâm luôn chánh trực, đó là ý đẹp. 
             - Biết độ lượng, bao dung, đó là đức hạnh đẹp.
             - Khai mở tâm trí, phá trừ vô minh, đó là trí tuệ đẹp.
             - Đạt được giác ngộ và giải thoát, đó là nét đẹp tối thắng.

Mùa xuân tuyệt đẹp với một tâm thức an bình tự tại, người biết tu hãy quay trở về nội tâm, thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, trưởng dưỡng tâm từ bi, thấy được Phật tánh không sanh, không diệt của mình(3), để ngộ ra "ý xuân vi diệu" này.

Có như vậy, ta mới có thể thanh thản sống đời, không tự ti cũng không tự tôn, với cái nhìn tự tại, vô úy giữa muôn sự có không, đúng sai, hơn thua, được mất, vinh nhục. Ở thế gian tất cả các pháp sanh diệt đều là vô thường.

"Mùa xuân trong nét đẹp người tu" mới thật sự đem lại thân tâm an lạc, phước trí trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện, vạn sự cát tường.

               NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
                                                                                                                TKN Thích Nữ Chân Liễu.

085-TU SĨ PHÁ GIỚI LUẬT, KHÔNG THỂ CHỨNG ĐẠO. GNCN

Kính thưa các bậc tôn túc Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức tăng, ni… bốn phương.
            Kính thưa quý phật tử và độc giả.

               Có những câu hỏi bao nhiêu lâu suy tư, trăn trở:
               - Tại sao từ sau ngày Phật nhập diệt, tu sĩ đạo Phật không có người tu chứng? Câu trả lời khẳng định: Vì tu sĩ thường phạm giới, phá giới luật.
               - Tại sao người tu sĩ lại thường phạm giới, phá giới luật? Vì tu sĩ học mà không hiểu giới luật.
               - Tu sĩ vẫn tụng giới đều, tại sao nói không hiểu giới? Vì tu sĩ không có duyên gặp và tu hành theo Chánh Phật Pháp, chạy theo tà giáo Phi Phật Pháp là phá giới luật.
               - Tại sao tu sĩ không có duyên gặp được Chánh Pháp? Vì tu sĩ không có Lòng Tin Phật.
               - Tại sao nói tu sĩ không có Lòng Tin đức Phật? Vì không có Thiện Tri Thức hướng dẫn.    
               Cho nên, sau mấy ngàn năm, ngày nay pháp Như Lai, như lại mới bắt đầu. 

Kính thưa quý vị,

Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến một vấn đề mà suốt mấy ngàn năm, kể từ ngày đức Phật nhập Niết Bàn, các thế hệ sau, bao lớp người tu nhưng không có được một người chứng đạo. Nếu ngày nay không có đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc – Người đã tu chứng đạt như đức Phật – chỉ dạy thì chuyện này không ai biết đó là đâu.

Đã bao lâu, trong đạo Phật chỉ thấy những vị được tôn xưng: Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, hay Sư Cụ, Sư Ông, Sư Bà, Ni Trưởng hoặc Thiền Sư này nọ… và thêm nữa là các vị Cử nhân, Tiến sĩ, Giảng sư Phật giáo v.v… Than ôi! Những danh từ ngợi ca tán tụng thì cao ngất trời xanh, các vị giảng dạy thuyết pháp thì như mây bay, gió thổi mưa tuôn, nhưng thực sự mục đích cứu cánh của người tu hành thì chỉ là con số zézo. Chưa thấy có vị nào chứng đạt được kết quả gì chân thật cả.

Có thể quý vị không tin và sẽ nêu câu hỏi phản biện: “Căn cứ vào đâu mà dám nói chúng tôi tu hành không kết quả?”

Vâng! Xin thưa quý vị, câu hỏi này đã được đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc trả lời rất rõ ràng từ nhiều năm trước đây trong kinh sách Ngài biên soạn. Nhưng có lẽ vì quá bận rộn với công việc hành Bồ tát đạo để cứu người thoát khổ mà quên mất việc cứu mình, nên quý vị không có thời gian để nhìn nhận.

Nay, chúng tôi có vài ý mọn muốn chia sẻ cùng quý vị. Ước nguyện cho tất cả những người con Phật mau sớm nhận ra đường chánh mà về, để mọi người cùng nhau hợp sức gìn giữ đạo nhà được bền vững trường tồn chính danh theo con đường đức Phật khai sáng thưở ban đầu.   

Với câu hỏi: Căn cứ vào đâu mà dám nói chúng tôi tu hành không kết quả?

Thưa các bậc tôn túc Hòa Thượng, Thượng Tọa… việc tu hành có kết quả hay không, chính quý vị là những người trong cuộc sẽ tự hiểu mình hơn ai hết. Người tu không kết quả thường hay mượn lại những giáo lý kiến tưởng giải mơ hồ của người khác để lừa đảo tín đồ. Đạo Phật chân thực rõ ràng, dễ nhận, không trườn uốn mê muội như mớ giáo lý hư ảo mà quý vị vẫn rao giảng xưa nay. 

Đức Phật dạy cho người tu hành để ai cũng thấy: “Tâm tôi có tham, có sân, có si tôi biết tâm tôi có tham, có sân, có si. Tâm tôi không tham, không sân, không si tôi biết tâm tôi đã hết tham, hết sân, hết si.” Khi xả hết tâm tham, sân, si… thì đó chính là kết quả tu hành của đạo Phật. Chân thực quá, đơn giản quá, mà sao suốt mấy ngàn năm khó tìm được một vị tu tập vẹn tròn!

Quý vị hãy lắng nghe lời tha thiết kêu gọi của bậc hiền nhân:  

“Hỡi các v tà sư! Tại sao các người không nói tht? Để biết bao nhiêu con người phi mt công, mt ca và còn tốn biết bao công lao, kh công tu tp mà chng được gì. T tôn giáo này đến tôn giáo khác, t pháp môn này đến pháp môn khác, đ nuôi mt hy vng hão huyn gii thoát, Thiên Đung, Cc Lc, Niết Bàn v.v…

Danh lợi thế gian có nhiu vic làm nên danh, nên lợi mà rt thin. Ti sao các người không làm vic kia mà li làm vic này đ lường gt người khác chi vy. Biết bao nhiêu thế h con người đã qua, h đã chy theo tu hành và rèn luyn thân tâm, nhưng họ được nhng gì các chân lý o tưởng y?

Trong khi đó họ đã đ biết bao nhiêu m hôi, công lc, tin ca và công sc. Gii thoát đâu không thy ch thy kh và kh, cho đến lúc chết li càng kh hơn, (các Hòa Thượng khi viên tch quá kh s) h ch mua được cái danh và cái li giả. Bi vy, các thế gii siêu hình, tai ương bệnh tt đu là tưởng, Thn, Thánh, Tiên, Pht cũng đu là tưởng, pháp môn tu hành cũng đu là tưởng, vì thế cái kh ca con người cũng hoàn li cái kh.”… (Xin mời quý vị xem bài viết đầy đủ từ link sau: http://giotnangchonnhu.org/index.php?mod=detail&ID_theloai=16&ID_theloaitin=6&ID_tintuc=444)

Quý vị hãy tìm hiểu xem: Vì Sao Quý Vị Tu Không Kết Quả? Nguyên nhân dẫn đến tu tập không kết quả thì rất nhiều, tùy thuộc vào người tu, sự lựa chọn pháp, vị thầy hướng dẫn... Nhưng tựu chung, có thể kết luận rằng vì thiếu lòng tin Phậtcoi thường Giới luật nên quý vị đã hoài công vô ích, uổng phí bao nhiêu cuộc đời tu.  

Đức Phật dạy: “Này các thầy tỳ-kheo, các thầy hãy sống tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa vào một ai khác, lấy chánh pháp làm ngọn đèn, lấy chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa vào một ai khác”(1).

               Cũng ý này Ngài dạy tiếp: “Này các thầy tỳ-kheo, các thầy hãy lấy mình làm hòn đảo, làm chỗ ở vững chắc rồi các thầy hãy lấy giới luật của Ta làm rào tường bao quanh bảo vệ.

               Hãy lấy giới luật của Ta làm khuôn phép khép mình trong khuôn vàng thước ngọc này.
               Hãy lấy giới luật của Ta làm kỷ luật cho chính mình, không hề vi phạm, tái phạm.

           Hãy lấy giới luật của Ta làm thầy chỉ đạo tu tập, đừng nương tựa vào ai, đừng lấy ai làm thầy, làm tổ của mình, mà phải chính mình lấy giới luật của Ta làm thầy, làm tổ cho mình”(2). [(1) và (2): Lời giảng của TL Thích Thông Lạc – băng 25b phút 17 đến 19 trong 61 băng giảng MP3]. 

Chánh Pháp và Giới Luật” không phải là khó nhận, nhưng bị lòng dục che mờ nên chính những bậc tôn túc Hòa Thượng, Thượng Tọa và các vị Giáo Sư, Tiến Sĩ Phật học cũng không hiểu rõ đâu là Chánh Pháp và tầm quan trọng của Giới Luật trên con đường tu tập Giới – Định – Tuệ. Cho nên quý vị tu hành không kết quả là lẽ đương nhiên không thể gì bao biện.

Đức Phật dạy: “Giới luật còn là đạo Ta còn, Giới luật mất là đạo Ta mất”. Quý vị tu theo Phật bao lâu, hẳn quý vị biết rất rõ ràng đạo Phật ngày nay còn hay mất. Thật đau lòng khi thấy mỗi tháng đôi kỳ các thầy thọ giới lớn thường tụng:

              “Giới như biển không bờ, Như báu cầu không chán, Muốn hộ tài sản Thánh, Chúng họp nghe tôi tụng.’
              “Muốn trừ bốn tội khí, Và diệt tội tăng tàn, Ngăn ba mươi xả đọa, Chúng họp nghe tôi tụng.”  
              “Tỳ-Bà-Thi, Thi khí, Tỳ-xá, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm mâu-ni, Ca-diếp, Thích-ca văn;”…
                                                                               (Tựa Thuyết giới, Luật Tứ Phần – HT Thích Trí Thủ dịch).

Tụng như thế, hiểu như thế thì lấy đâu ra lòng tin đức Phật? Mà nếu có tin, quý vị tin vào đức Phật nào? Chả thế mà những lời Phật Thích Ca giảng dạy chân thật, rõ ràng nhưng quý vị không tin, quý vị còn mò mẫm đi tìm niềm tin vào các vị Phật ở tận quá khứ xa xôi. Cho nên các vị không bao giờ có được niềm tin chánh pháp. Các vị chưa hiểu rằng “Không Có Phật Quá Khứ” như lời khẳng định dưới đây:

“Trong quá khứ, trước đức Phật Thích Ca Mâu Ni không có một vị Phật nào cả, nhưng trong kinh sách dù kinh Nguyên Thủy hay kinh sách Đại Thừa vẫn nói đến bảy vị Phật ở quá khứ. Sự thật này ra sao? Nếu không có lời dạy của đức Phật thì chúng ta không bao giờ dám nói rằng không có bảy đức Phật trong quá khứ: 

“Này chư hiền giả, đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đầy đủ 10 hiệu, ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại – (tự giác ngộ để) – có đầy đủ 10 danh hiệu như Phật. Pháp Phật vi diệu, giảng giải rõ ràng, được người trí hành theo. Ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại có giáo pháp vi diệu như Phật. Phật do pháp ấy tự giác ngộ thông đạt vô ngại để tự vui thú. Ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại đối với pháp này mà tự giác ngộ, thông đạt vô ngại để tự vui thú như Phật”. (Trường A Hàm tập 1 trang 240)

               Đúng vậy, theo lời dạy này, kinh sách phát triển và Thiền tông chỉ là do những người sau thêm vào có bảy vị Phật quá khứ, với mục đích làm giảm uy tín đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó là ý đồ của ngoại đạo. Theo lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì trong quá khứ không có vị Phật nào cả. Cho nên, bảy vị Phật chỉ là một huyền thoại của ngoại đạo mà thôi”.

                                                            (Trích Mười Hai Cửa Vào Đạo – TL Thích Thông Lạc).

Kính thưa các bậc tôn túc đáng kính!

Quý vị đã nghe rõ những lời minh xác của bậc chân tu hay chưa? Pháp Chân hay Giả, Chánh hay Tà, chắc phải chờ thời gian để quý vị suy ngẫm và thực hành kiểm chứng? Mấy ngàn năm nay quý vị đua nhau đuổi mồi bắt bóng, cuối cùng không lại hoàn không, nhưng quý vị không nhận ra.

Có một điều chắc chắn, về phạm giới, phá giới luật của các thầy tổ thì không thể nào chối cãi. Có thể vì không hiểu, hay đã hiểu mà cố phạm. Biết bao nhiêu chuyện phá giới rất đau lòng mà các thầy trò cứ thản nhiên, ra sức rao truyền, ca tụng sự phá giới thì cũng lạ.

Đây, những câu chuyện thầy trò dạy nhau phá giới mà tu sĩ bao lâu nay vì vô tình hay cố tình không hiểu, cứ truyền thừa nối nhau bao thế hệ. Chúng tôi xin dẫn mấy câu chuyện các thầy tổ từ xưa đến nay phá giới, người sau không hiểu mới ra công tán tụng. Quý vị cùng đọc và suy ngẫm.  

1- Phú Cư Trần Lạc Đạo

              “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên.        
              Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên.            
              Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch;  
              Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.” (Kệ Kết thúc, Phú “Cư Trần Lạc Đạo” – Trần Nhân Tông)

Dịch:

              Ở đời vui đạo sống tùy duyên,
              Thấy đói thì ăn, mệt ngủ liền.
              Trong nhà có báu thôi tìm kiếm         
              Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.

Đối với người tu sĩ, chỉ một câu “Thấy đói thì ăn, mệt ngủ liền” đã phơi bày hai lần vi phạm giới luật nghiêm trọng. Giới thứ 9 luật Sa di: Phi thời giả, quá nhật ngọ phi Tăng thực chi thời phận dã”. (Phi thời là quá giờ ngọ thì không phải giờ ăn của tăng sĩ).(3) Và giới thứ 37 Ba dật đề (90 giới đọa) đã ghi: “Tỳ-kheo nào ăn phi thời, Ba-dật-đề.”(4). [(3) Sa di luật nghi – HT Thích Trí Quang dịch giải, (4) Luật Tứ Phần, Tỳ-kheo giới bổn – HT Thích Trí Thủ dịch.]

Như vậy, cả Sa di lẫn Tỳ-kheo đều đã tụng đọc và hành giới cấm này, thế mà một vị tổ rất được tôn kính vẫn truyền dạy cho lớp lớp người sau noi theo. Rồi lớp lớp người sau nữa lại đua nhau ca tụng sự phá luật này. Thử hỏi chứng đạo ở đâu? Chứng đạt cái gì khi mà tâm tham ăn, tham ngủ vẫn đầy tràn?

Thấy đói thì đi tìm ăn, thấy mệt thì đi nằm ngủ. Quả thực hết chỗ nói rồi, vậy mà còn nói chảnh: “Đối cảnh vô tâm” thì thực là quá vọng ngôn. Đối cảnh đói thì tu sĩ đi tìm cái gì đó bỏ cho đầy bụng, thế là vô tâm liền. Thảo nào thiền miệng, thiền môi, tung hoành bao nhiêu thế kỷ, đến nay vẫn tiếp tục ngợi ca không dứt. Thật là mỉa mai. Đạo Phật vậy a? Tăng sĩ vậy a? Sao chẳng biết xấu hổ với đạo ngoài?  

2- Một Thời Truyền Luật (Trích) – Tác giả Tuệ Sĩ

 [Nhưng đối với truyền thống Trung Quốc thì điều đó hơi khó hiểu, và cũng khó thực hành. Hàn Dũ, khi đề nghị dẹp bỏ Phật giáo, trong đó có lý do nói đến cộng đồng tăng lữ, là “bọn không cày mà có cơm ăn; không dệt mà có áo bận”. Cộng đồng ấy chỉ là bọn ăn bám, gây hại cho xã hội. Thành ra, châm ngôn sống thiền của ngài Bách Trượng “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” có một giá trị xã hội rất lớn đối với Phật giáo tại Trung Quốc; nhưng tại các nước nam phương như Thái Lan hay Tích Lan, châm ngôn đó không áp dụng cho tăng lữ được, vì nó trái với tinh thần của Luật Phật chế. Nhưng Trung Quốc lại là một xã hội thượng tôn pháp luật, có xu hương thủ cựu…

Với tinh thần đó, thì những gì được xem là Phật chế, được truyền từ Ấn độ sang, không ai được phép sửa đổi. Người ta thấy Tổ Bách Trượng chỉ dám viết Bách trượng thanh quy, đề nghị những quy tắc sinh hoạt cho thiền môn thích hợp với xã hội Trung Quốc, chứ ngài không hề dám sửa một điều gì trong Luật được truyền là do Phật chế, truyền từ Ấn độ sang. Những gì không thực hành được, các ngài tự cho là vì “khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sinh sơ, nhân đa giải đãi…” Vì thế không hành nổi. Nhưng vì phương tiện độ sinh, có thể hạ thấp xuống cho hợp căn cơ thời đại. Như vậy có nghĩa là hành trì từ thấp lên cao, chứ không phái kéo giới luật Phật chế xuống ngang tầm thời đại, cho hợp khẩu vị thời đại.

Thuở trước, có một vị Thiền sư nhận thấy những điều trong giới bổn tỳ kheo không còn thích hợp bèn sửa đổi. Thiền sư hỏi ý kiến học trò của mình, như để thăm dò căn cơ thời đại cho thích hợp. Nhưng gặp phải người học trò thủ cựu, hỏi lại Thầy: “Giới luật Phật chế, sao Thầy dám tự tiện sửa?” Thầy đáp: “Không giữ được, thì nên sửa. Chứ để như vậy mà làm gì?” Người học trò tỏ thái độ: “Thầy giữ không được thì mặc kệ Thầy. Ai giữ được, để người ta giữ. Sao Thầy lại tự tiện sửa?”

Cả hai tinh thần, vừa thượng tôn pháp luật, vừa thủ cựu tuân theo cựu chế của tiền nhân, cả hai khiến cho vấn đề nghiên cứu luật tại Trung Quốc rất phức tạp.

Ngày nay, sự hành trì luật của nước ta cũng chỉ phỏng theo các tông truyền luật của Trung Quốc, nên khó khăn lại càng gấp bội.

… (Đoạn viết tán tụng về HT Thích Trí Thủ)

Người chưa giải thoát, còn đầy dẫy tham sân, may mà không gặp cơ hội để phát tác, tự bản thân đã chưa thể giải thoát, làm sao có thể đặt luật cho người khác hành trì! Hòa thượng thường hay nhắc nhở: ở đời đi dạy học, nếu dạy sai một vài bài toán, thì khổ lắm cũng chỉ trong một đời người thôi. Nhưng hướng dẫn người sai lạc, khiến người ta muôn kiếp đọa lạc, thì tội của mình không phải là nhỏ. Làm thầy độ người, phải cẩn thận. Trong suốt đời chuyên trách giáo dục đào tạo tăng tài, Hòa thượng cũng đã bao che cho nhiều học tăng phạm kỷ luật, theo lẽ phải bị trục xuất. Những vị ấy về sau lại trở nên tinh tấn, giới hạnh thanh khiết. Hòa thượng nói, giới luật để uốn nắn người xấu thành người tốt, chứ không phải chỉ để trừng trị.

Tuổi trẻ tất có những ngông cuồng, nhiều khi vượt quá quy luật. Nhân một hôm không có giờ dạy, tôi về chùa hầu Hòa thượng. Tối hôm đó, lúc tôi đang ngồi hầu chuyện Hòa thượng thì hai ông bà Ngô Trọng Anh cũng đến thăm. Sau một hồi chuyện trò, Bà Ngô bạch:

“Bạch Hòa thượng, con biết có mấy chú trong chùa trốn đi vô quán. Buổi đó trời mưa, con nhìn xuống thấy hai ống quần, biết mấy chú này trùm áo mưa đi quán.”

                Hòa thượng không nói gì. Ông Anh lên tiếng:
                “Bà này thật nhiều chuyện. Người ta đã sợ, nên phải lén che rồi, mà bà còn mách.”

Hòa thượng cũng không nói gì. Nhưng kể nhiều chuyện vui khác. Một lúc sau, lại kể chuyện xưa, thời Hòa thượng còn niên thiếu. Nói là niên thiếu, lúc bấy giờ cũng khoảng 40, hay nhiều hơn, lại thuộc hàng lãnh đạo Phật giáo Trung phần. Nhân một buổi được Hội Phật giáo phân công tác vào Bình Định giải quyết một số vấn đề Phật sự. Cùng đi là ngài Mật Nguyện. Hai vị đến Qui Nhơn, giải quyết xong Phật sự, bèn bàn riêng. Bình Định nổi tiếng là quê hương của hát bội. Các ngài tán thưởng hát bội vì điệu bộ nghệ thuật, lại thêm văn chương thâm thúy. Nhân dịp này, nếu bỏ qua không thưởng thức thì cũng uổng. Nhưng trong cương vị lãnh đạo tinh thần đối với tăng ni và Phật tử ở đây, làm sao có thể đường đột mà đi. Hai vị bèn quấn khăn lên đầu, chỉ cốt không ra vẻ trang trọng để người đời không lưu ý thôi, chứ vẫn khoác y phục nhà chùa thì đi đâu cũng được nhận ra là ông thầy. Nhưng hai vị tin rằng ở Bình Định không mấy ai biết mặt mình.

Khi vào rạp, đang tìm chỗ ngồi, chẳng may gặp phải quan Tuần phủ cũng vừa đi đến. Ông quan này trước ở Kinh thành, lại là hàng văn nho tao nhã, nên cũng rất thân với Hòa thượng Trí Thủ. Bất chợt như người “đào trái tha hương ngộ tri cố”, kẻ trốn nợ đi tha phương mà ở đó lại còn gặp cố tri nhìn ra mặt, thật là không may. Trong khi chưa biết tránh đi đâu, thì ông quan vồn vã bước đến chào hỏi:

“Ủa, chớ hai thầy, vô khi mô? Đi mần chi trong ni? Nhân tiện, mời hai thầy lên ngồi với tui.”

Hóa ra, là khách quý bất đắc dĩ, hai vị theo ông quan Tuần phủ lên ngồi hàng ghế danh dự trong rạp hát. Nghe xong câu chuyên, ông Ngô Trọng Anh phát cười, rất tâm đắc. Ông hiểu ý Hòa thượng muốn nói gì.

Những chuyện tương tự như vậy lớn có, nhỏ có, chuyện tầm thường có, mà chuyện tày trời cũng có, đã xảy ra suốt cuộc đời của trì luật và truyền luật của Hòa thượng, cần phải có những phán đoán và quyết định, để giúp những người lỡ sa ngã còn có thể đứng dậy để tiếp tục cho đến cuối con đường Đạo của mình. Ở đây tôi chỉ có thể kể vài câu chuyện mà tự thân may mắn được nghe, được biết, để tưởng nhớ công hạnh một đời truyền luật. Không truyền luật như vị giáo thọ ngồi trên bục giảng, mà truyền dạy ngay trong thực tế sinh hoạt hằng ngày.”]

(Trích “Một thời Truyền Luật”. Tác giả Tuệ Sĩ). Nguồn: http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-60_4-18830_5-50_6-2_17-113_14-1_15-1/mot-thoi-truyen-luat.html.

Ở bài trích dẫn thứ 2 này, chúng tôi không ý kiến nhiều, vì nó đã quá rõ ràng. Chỉ xin lưu ý quý vị về hai vị thầy tổ có danh trong làng Phật giáo phát triển mà vẫn không hiểu gì về giới luật.

Tổ Bá Trượng dạy: Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực. Đây là một câu châm ngôn phá bỏ Chánh Mạng trong Bát Chánh Đạo, nền tảng của Con Đường Giải Thoát. Tổ không hiểu rằng Phật đã dạy: “Người tu sĩ còn nuôi dưỡng bằng những tà mạng, các loại nghề nghiệp thì không thành Giới Cụ Túc, còn ngược lại chỉ đi xin ăn ngày một bữa thì mới thành Cụ Túc giới”.

HT Thích Trí Thủ tự thuật: … “Nhân một buổi được Hội Phật giáo phân công tác vào Bình Định giải quyết một số vấn đề Phật sự. Cùng đi là ngài Mật Nguyện. Hai vị đến Qui Nhơn, giải quyết xong Phật sự, bèn bàn riêng. Bình Định nổi tiếng là quê hương của hát bội. Các ngài tán thưởng hát bội vì điệu bộ nghệ thuật, lại thêm văn chương thâm thúy. Nhân dịp này, nếu bỏ qua không thưởng thức thì cũng uổng”…

Trời cao ơi! Một chú Sa di còn biết: Thất viết bất ca vũ xướng kỹ bất vãng quan thính. Giải viết: Ca giả khẩu xuất ca khúc; vũ giả thân vi hý vũ; xướng kỹ giả vị cầm sắt tiêu quản chi loại thị dã; bất đắc tự tác, diệc bất đắc tha nhân tác thời cố vãng quan thính…”. Dịch nghĩa là: “Bảy là không được ca, vũ, hòa tấu, biểu diễn, hay đi xem nghe. Giải: Ca là miệng hát các khúc ca, vũ là thân múa các điệu vũ, hòa tấu biểu diễn là cái loại đàn cầm đàn sắt ống tiêu ống quản. Không được chính mình tự làm những việc này, mà khi người khác làm, mình cũng không được cố đi xem và nghe…”

Ấy vậy mà một vị HT có chức vị thuộc hàng lãnh đạo Phật giáo Trung phần, khi thuận dịp vẫn lén lút lẻn đi xem coi ca hát. Như vậy chúng ta nghĩ rằng, ngài “không hiểu giới luật” hay “biết mà cố phạm”? Dù là kiểu gì chăng nữa cũng là vi phạm giới, phá giới Phật không còn lời bao biện.

Và rồi người sau – thầy Tuệ Sĩ – cũng chẳng hiểu vị tiền nhân mình hành giới luật như thế là chánh hay tà, lại một lòng hết lời ca tụng: “thật đáng nhớ công hạnh một đời truyền luật”?!!! Thành ra đạo Phật cứ suy vi mãi không có người chứng đạt, chỉ vì người tu sĩ phá giới mà không biết là mình phá giới.

3- Từ Nụ Đến Hoa(Tác giả: Thiền sư Soko Morinaga. Biên dịch: Thuần Bạch Ngọc Bảo)

Trước tiên quý vị cùng tìm hiểu mối quan hệ của tác giả với các thầy tổ của ông để hiểu sự phá giới luật của thầy tổ, rồi sau trò lại khéo bao biện và hết lời ngợi ca hệ phái Thiền tông Lâm Tế bên Nhật Bản

[“Có lẽ tôi cần phải giới thiệu một chút về tông phái của tôi qua đồ biểu dưới đây để trình bầy được rõ ràng hơn: 

                         Hakuin (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 1685-1768) 
                                                       | 
                         Kosen (Hồng Xuyên Tông Ôn, 1816-1892) 
                                                      
                        
Soen (Hồng Nhạc Tòng Diễn, 1859-1919) 
                                             ____  |  ____  ____  ____ 
                                            |                                         |                       
                                        Sokatsu                         
Josho Ota   
                   (Chuyết Ông Tông Hoạt, 1870-1954)      
                                           
                                        Zuigan 
                   (Thuỵ Nham Tông Hoạt, 1879-1965) 
                                           
                                        Sesso 
                                           
                                       
Soko  

Tôi là “Soko” ở dưới cùng của bảng này, và Sesso là sư huynh của tôi trong hệ phái. Cả hai chúng tôi cùng là đệ tử của đại sư Zuigan, và sư phụ của thầy chúng tôi là đại sư Sokatsu.

Chuyện của nó và tôi 

Có một câu chuyện nữa cũng miêu tả được tương quan tin cậy mật thiết giữa thầy và trò. Ðại sư Soen có một người đệ tử tên là Josho Ota. Người đệ tử này sau đó đã trở thành viện trưởng thiền viện Viên Giác và rồi viện trưởng thiền viện Ðại Ðức, nhưng câu chuyện tôi kể ra sau đây xẩy ra khi ông vẫn còn tu tập dưới trướng của lão sư Soen. 

Một ngày mùa hè, có một đạo hữu đến chùa Viên Giác ngỏ lời mời đại sư Soen rằng, “Ðại sư, thường ngày ngài vẫn dùng những thức ăn do các vị sư ở đây nấu, nhưng hôm nay nóng nực như thế này, con muốn mời ngài đi ăn tối, một cúng dường nho nhỏ để giúp ngài quên cái nóng đi phần nào.” 

Vốn là người rất phóng khoáng, Ðại sư Soen trả lời, “Thế à, ngươi sắp cho ta ăn tiệc hả?” Ngài bèn gọi đệ tử Josho theo hầu cận, và rồi đi đến tiệm ăn. 

Vì lúc đó là mùa hè, nên những liếp cửa bằng tre chắn ngang những phòng riêng lót chiếu tatami được kéo qua một bên, khiến các thực khách từ phòng này có thể nhìn qua các phòng khác được. Lão sư Soen ăn uống rất tận tình và trở nên hoàn toàn cao hứng. Ông gắp mấy miếng cá sống lên nói: “A, mấy cái rau này quý hiếm quá! Sao mấy ông sư không trồng rau này trong vườn của chùa nhỉ?” Và rồi cứ tiếp tục đùa dỡn như vậy cho đến khi y phục trên người bung ra gần hết, gần như trần truồng, ông nhẩy múa um sùm. 

Vị lão sư là người rất nổi tiếng, tên ngài được biết đến kể cả ở nước ngoài nữa. Chẳng mấy chốc các thực khách ở những phòng kế bên bắt đầu xôn xao, “Có phải thầy viện trưởng chùa Viên Giác đang nhẩy múa trần truồng ở đó không nhỉ?” Josho liền đi ra kéo cánh cửa tre ngăn lại. 

Bất ngờ, đại sư nắm lấy cổ áo Josho, mắng ngay: “Ê! Bộ mi chê bai hành vi của ta hả? Mi đóng cánh cửa đó có phải vì mi nghĩ là ta đã làm sai không hả?” Josho, trong một lúc lung lay niềm tin nơi thầy, tự nhiên đã thấy mình bị đấm đá tơi bời. 

Các vị thiền tăng thường qua một quá trình tu tập dựa trên cơ sở hành động nhiều hơn lời nói. Nhưng mặc dù vậy, trong tình trạng ma men như thế này, và không thấy có cơ gì chấm dứt sau năm sáu cú đấm đá, Josho, từ đó tới giờ vẫn im lặng và ngoan ngoãn chịu đòn, bây giờ không muốn chịu đựng thêm nữa. Nắm chặt lấy tay thầy, ông nói: “Dù có là đại sư hay không đại sư, thầy cũng không được tiếp tục như thế này.” 

Soen đại sư dằng tay ra và trở về chỗ ngồi. Làm như không có gì đã xẩy ra, ông tiếp tục uống rượu cho đến khi trở về chùa Viên Giác, vẫn trong tình trạng cao hứng tột độ. 

Mặc dù câu chuyện đã chấm dứt ở đó, người đạo hữu đã mời họ đi ăn tối đó cảm thấy rất ái ngại. Biết rằng quan hệ giữa thầy trò nơi thiền viện rất là nghiêm khắc, ông lo lắng không biết lão sư có đuổi Josho đi sau khi họ trở về chùa không. Cảm thấy không thể nào yên tâm được với tình trạng này, ông vội vàng đi đến chùa Enkakuji để làm người trung gian hòa giải. 

“Xin cám ơn thầy đã hoan hỉ nhận bữa cơm cúng dường nhỏ nhoi của con và đã cho con được hân hạnh dùng bữa với thầy,” ông nói với lão sư: “Nhưng con cũng muốn nói thêm rằng, mặc dù Josho đã không được lễ độ với thầy trong bữa ăn, nhưng con tin chắc rằng thầy ấy không có ý xấu gì đâu. Cúi xin thầy, vì nể tình con, mà bỏ qua mọi sự và tha thứ cho thầy ấy.” 

“Cái đó là việc của tôi với nó,” lão sư trả lời cộc lốc. 

               Xin đừng hiểu câu nói đó rằng đây là vấn đề giữa thầy và đệ tử, và người ngoài không nên xen vào. Thực sự ra ý của ông là thầy trò ông có thể đấm đá lẫn nhau, nhưng giữa hai người họ không bao giờ có một khoảng cách nào dù nhỏ như sợi tóc. Ðối với một người tu thiền, được nghe thầy mình nói như vậy quả là một điều đáng mừng, nhưng đối với một vị thầy, có được một người đệ tử xứng đáng để nói điều ấy ra cũng thật là một điều hạnh phúc lớn lao.(?!!!) Tôi đã nghe kể lại rằng, sau đó, người đạo hữu đang tính xen vào trong quan hệ thầy trò kia đã đỏ mặt ngượng ngùng và rút lui ngay khi nghe câu trả lời cộc lốc đó.”]…

                                                                   (Trích từ: FROM NOVICE TO MASTER)

Ở dẫn chứng thứ ba này, sự phá giới luật của các thầy tổ quá mức thô thiển và trơ trẽn. Thế mà người học trò của họ cũng chẳng biết “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại”, lại còn ngờ nghệch tự hào đem cái xấu xa phạm luật của thầy mình phơi bày trước mắt bàn dân thiên hạ. Thật là tủi hổ cho Đạo biết bao, lẽ ra không nên có cái tác phẩm “From Novice To Master” này thì hơn.

Lời kết:

Giới luật là chuẩn mực để nhận biết đạo đức của con người. Giới luật là yếu tố vô cùng quan trọng để quyết định kết quả tu tập của người tu sĩ đạo Phật. Thế nhưng suốt mấy ngàn năm nay, giới luật đã bị các thầy tổ thay nhau bẻ vụn, phá nát. Phần vì thiếu hiểu biết, phần thì do dục tham và tâm lười biếng của các thầy chỉ muốn ăn ngon mặc đẹp, đời sống tiện nghi phủ phê sung sướng hơn đời nên tìm mọi cách bẻ cong giới luật nhằm dán kín miệng người không ai ý kiến được.

Quý vị tôn túc không hiểu rằng, chỉ cần vi phạm những lỗi nhỏ nhặt vi tế nhất thì cuộc đời tu hành cũng trở nên vô ích. Nói gì khi các vị thi nhau phạm giới, việc quý vị làm (như đại sư Soen) thì người thế gian cũng không ai dám làm như vậy (ngoại trừ người điên). Thật đau lòng. 

Trên đây chỉ là một vài dẫn chứng (chuyện xưa) của các thầy do không hiểu biết nên tự giới thiệu những lỗi phạm của mình và của thầy tổ mình. Tưởng hay, ai ngờ chỉ là trò để người trí cười chê. Nhìn nhận kỹ giới tu sĩ ngày nay (hiện tại) thì sự vi phạm giới luật cũng vô cùng đa dạng, phong phú hơn, mà trên các phương tiện truyền thông giới thiệu. Nếu ghi chép hết, giấy mực đâu cho đủ!

Hỡi các bậc tôn túc Hòa thượng, Thượng tọa…, các vị hãy mau sớm nhìn nhận lại để chấn chỉnh con đường thánh thiện của đức Phật khai sáng. Đó là con đường thực sự mang lại hạnh phúc bình yên cho con người và muôn loài trên hành tinh này. Sao các vị nỡ tâm ngảnh mặt làm ngơ?

Hãy bắt đầu lại ngay, kẻo muộn mình và còn tai họa cho nhiều thế hệ tương lai.

Quý vị tuy tôn túc nhưng vẫn không biết hành giới luật khởi đầu từ đâu. Vậy mà quý vị cứ rao giảng bừa bãi, dẫn bao lớp người tu tin vào một niềm tin mù quáng. Quý vị đã gieo tội nhiều hơn là tạo phước. (Để hiểu, quý vị hãy nghe 61 băng giảng của Trưởng Lão Thích Thông Lạc sẽ rõ).

Người đến với đạo Phật phải bắt đầu bằng Thọ Giới Tam Quy Y quý vị ạ, rồi sau mới đến các giới khác. Khi hiểu và thọ đúng Giới Tam Quy Y thì mới có niềm tin Phật chân chánh, và từ đó mới có Chánh Pháp. Một khi chưa đúng pháp thì tu sĩ sẽ phá giới luật. Tu sĩ phá giới luật thì ngàn năm không thể chứng đạo. Đó là một thực tiễn đã chứng minh qua suốt thời gian dài của đạo Phật.

086-TU SĨ PHÁ GIỚI LUẬT, ĐƯỜNG TU VỀ ĐÂU? - TL Thích Thông Lạc

Hỏi: Kính thưa Thầy, tại sao tu sĩ Phật giáo hiện giờ không giữ gìn giới luật, sống phi giới luật, sống bẻ vụn giới luật. Như vậy con đường tu của họ sẽ đi về đâu? Và có ích lợi gì cho kiếp sống tu hành của họ?

Người tu sĩ giữ gìn giới luật nghiêm túc, sống đúng Phạm hạnh, thiểu dục tri túc, phòng hộ các căn đầy đủ, con đường tu của họ sẽ đi về đâu?

Và có ích lợi gì cho kiếp sống của họ? Con cúi mong Thầy chỉ dạy để cho chúng con được rõ.

Đáp: Như Thầy đã dạy giới luật là một pháp môn tu hành của đạo Phật, chứ không phải là pháp luật của một quốc gia. Cho nên các bộ giới luật do các Tổ biên soạn thành một bộ pháp luật của Phật giáo hơn là một pháp môn tu tập để tâm được vô lậu. 

Pháp môn Giới luật cùng với pháp môn Thiền định và pháp môn Trí tuệ, gọi chung có tên là “Tam Vô Lậu Học”. Tam Vô Lậu Học là ba pháp môn tu tập không còn lậu hoặc, tức là ba cấp tu tập trong tám lớp học sẽ chấm dứt đau khổ của kiếp người hay nói cách khác là làm chủ sanh, già, bệnh, chết của đạo Phật.

Ba pháp môn vô lậu này, kỳ thật chỉ là ba cấp học đạo đức duy nhất của Phật giáo, nên nó được chia ra làm ba giai đoạn tu tập: Giới, Định, Tuệ. Ba cấp học này chỉ có giới luật là cấp học quan trọng nhất và tu tập khó nhất trên đường tìm cầu đạo giải thoát theo đạo Phật.

Bởi thế, người nào tu hành mà không giữ gìn giới luật, không tu giới luật, không sống đúng giới luật, thì có tu suốt đời cũng tu chẳng tới đâu, chỉ còn tu danh, tu lợi, tu tưởng, tu chùa to Phật lớn mà thôi (chẳng bao giờ có giải thoát thật sự).

Nếu không tu giới luật mà tu định, thì Thiền định đó là tà thiền, định tưởng. Nếu không tu giới luật mà tu trí tuệ thì trí tuệ đó là tà tuệ, kiến giải, tưởng giải, là trí tuệ tích lũy nhai lại bã mía của người xưa, thêm râu, thêm ria, vẽ rắn thêm chân. Từ xưa đến giờ các Tổ chỉ lặp đi, lặp lại lối mòn của nhau, chỉ dùng từ hiện đại cho lạ tai mà thôi, chứ lối mòn vẫn là lối mòn, không thể nào lối mòn là đường cái được.

Như trên Thầy đã dạy giới luật là pháp môn quan trọng nhất trong Tam Vô Lậu Học. Cho nên vì lợi ích chúng sanh, vì muốn thoát ra sự đau khổ của kiếp người đức Phật đã dạy: “Vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đệ tử, những việc ấy Ta đã làm xong, vì lòng thương tưởng Ta đã dạy các ngươi”.

Đây là một bài kinh mà Đức Phật đã khéo nhắc nhở cho các vị tỳ-kheo tu tập giới luật, vì giới luật rất quan trọng trên đường cầu đạo giải thoát. Bài kinh “Ước Nguyện” Trung Bộ tập 1 trang 79 Phật dạy:

- “Này các thầy tỳ-kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và học tập các học giới”.

Đoạn kinh này là lời dạy khuyên nhắc nhở của đức Phật thấm thía vô cùng, một lời khuyên từ cõi lòng vì thương tưởng chúng sanh đang sống trong cảnh khổ mà chẳng biết đường nào ra. Trên thế gian này chỉ còn có con đường duy nhất để tu tập, thoát ra sự đau khổ của kiếp người “Giới, Định, Tuệ”. Không thể còn có con đường thứ hai nào khác được nữa.

Biết rất rõ điều này, trên bước đường tầm sư học đạo, Ngài đã sáu năm gian khổ, nhưng vẫn không tìm ra con đường giải thoát. Bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề trầm tư và nhập Tứ Thánh Định, chứng Tam Minh. Ngài đã tự tìm ra chân pháp, chân pháp ấy là thầy của Ngài, đã dẫn đường Ngài đi đến đích, thoát khỏi sanh già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Chân pháp ấy là gì? Chân pháp ấy là “Giới, Định, Tuệ”. Ngài luôn luôn nhắc nhở chúng ta với lòng yêu thương tha thiết đối với chúng ta như con một: “Hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và học tập các giới học”.

Thế mà người tu sĩ Phật giáo hiện giờ lại xem thường giới luật, oai nghi chánh hạnh không có, xem thường trong các lỗi nhỏ nhặt, phạm giới không biết xấu hổ, chẳng bao giờ lấy giới phòng hộ sáu căn, sống ăn uống phi thời, nam nữ trai gái kề cận chẳng biết đó là tai họa khổ đau, chẳng biết đó là con đường sanh tử luân hồi.

Bài kinh Ước Nguyện, đức Phật đã xây dựng nó trên nền tảng đạo đức nhân bản - nhân quả. Ngài không dạy chúng ta cầu nguyện mà dạy chúng ta ước nguyện. Muốn ước nguyện được thành tựu sở nguyện thì phải sống đúng giới luật, giới luật là thiện pháp, do nhân thiện pháp thì chuyển được ác pháp. Vì thế do nhân thiện pháp thì quả của thiện pháp là ước nguyện của chúng ta viên mãn.

Ví dụ: Một người có bệnh tật, tai nạn xảy đến hoặc tai nạn bệnh tật chưa xảy đến nhưng ước nguyện bệnh tật tai nạn sẽ chấm dứt và bệnh tật tai nạn sẽ không xảy ra, thì người ấy phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và học tập các học giới, thì ước nguyện sẽ thành tựu. Nếu ai giữ gìn giới luật đúng như vậy thì tai nạn, bệnh tật sẽ qua và không xảy đến. Như vậy Ngài đã dạy chúng ta tu tập giải thoát trên nền đạo đức nhân bản - nhân quả, lấy hành động thiện làm gốc, diệt trừ mọi hành động ác và lòng ham muốn.

Trong bài kinh Ước Nguyện, đức Phật dạy:

             “ - Mong rằng ta được mọi người thương mến, yêu quý, cung kính, và tôn trọng”. 
             “- Mong rằng ta được các vật dụng đầy đủ không thiếu hụt”.
             “- Mong rằng những người bố thí cúng dường các vật dụng sẽ được quả báo và lợi ích lớn”.
             “- Mong rằng những bà con huyết thống với ta, khi bệnh tật tai nạn chết, mệnh chung với tâm hoan hỷ, an lạc, được quả báo và lợi ích lớn”.

Trên đây là những ví dụ ước nguyện trong bài kinh, muốn được toại nguyện cho mình cho người thì chỉ tu tập và giữ gìn giới luật nghiêm túc. Kinh Phật đã dạy như vậy, thế mà kinh sách phát triển lại dạy cúng tế, cầu khẩn, tụng kinh, niệm chú, niệm Phật, cầu an, cầu siêu để được tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ (do chư Phật, Bồ Tát từ bi gia hộ).

Kinh sách phát triển lối dạy tu tập đều cầu tha lực, (Tam bảo gia hộ) cho đến những ước nguyện cho mình, cho người đều dựa vào tha lực. Còn ngược lại kinh sách Nguyên Thủy dạy tự lực. Muốn lợi mình lợi người thì người ấy phải tự mình tận lực sống đúng giới hạnh, nói cách khác là phải sống đúng thiện pháp không được sống trong ác pháp.

Nói chung đức Phật dạy, con người muốn có cuộc sống an vui, hạnh phúc thì phải sống có đầy đủ đạo đức không làm khổ mình, khổ người, thì được mọi toại nguyện.

Đọc qua bài kinh Pháp Môn Căn Bản ta thấy rõ Phật giáo không đi nhẫm lại lối mòn của các tôn giáo khác, tự mình vạch ra một lối đi độc đáo, tự lực, cụ thể không mơ hồ, chính xác để giải quyết kiếp sống con người, thoát ra mọi cảnh khổ, tạo thế gian có cuộc sống con người thành một cõi Thiên Đàng, Cực Lạc.

Để chiến thắng sự ưa thích dục lạc thế gian, sự không ưa thích, sự bất toại nguyện, và sự khiếp đảm, sợ hãi, Phật dạy: “- Này các tỳ-kheo, nếu tỳ-kheo có ước nguyện: Mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc, chứ không phải lạc và bất lạc nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục lạc và bất lạc được khởi lên. Mong rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên nơi tỳ-kheo, tỳ-kheo ấy “phải thành tựa viên mãn giới luật, kiên trì nội tâm tịch tĩnh không gián đoạn thiền định (tỉnh thức) thành tựu quán hạnh (vô lậu) thích sống tại các trụ xứ không tịch (độc cư).”  

Lời dạy trên đây rất cụ thể cho người tu, muốn nhiếp phục tâm ham muốn và sợ hãi thì chỉ có giới luật và bốn pháp định, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở (không gián đoạn thiền định) nội tâm tịch tĩnh (Định Sáng Suốt) thành tựu quán hạnh (Định Vô Lậu) thích sống tại các trụ xứ không tịch (độc cư).

Trong bài kinh Ước Nguyện đức Phật dạy nhập Bốn Thánh Định rất rõ ràng và dễ dàng không có khó khăn. Vì muốn nhập Bốn Thánh Định này không khó khăn, không có ức chế tâm như các nhà học giả kiến giải dạy ra. Chỉ cần sống đúng giới hạnh và tu tập các pháp Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ để xả tâm cho thật sạch (không còn tham sân, si, mạn, nghi) nữa, thì chỉ ra lệnh nhập thiền định nào thì nhập ngay thiền định ấy.

 “- Này các thầy tỳ-kheo, nếu tỳ-kheo có ước nguyện: Mong rằng, tỳ-kheo ý muốn, không khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta chứng được bốn thiền thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú, tỳ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì nội tâm tịch tĩnh (Sáng Suốt Định) không gián đoạn thiền định (Thân Hành Niệm Nội Ngoại) thành tựu quán hạnh (Định Vô Lậu) thích sống tại các trụ xứ không tịch (độc cư)”.

Nếu người nào muốn tu tập thiền định của đạo Phật nhập Bốn Thánh Định, làm chủ sanh, già, bệnh, chết, không có khó khăn chỉ cần thành tựu viên mãn giới luật, tức là sống đúng giới luật. Xét ra từ khi đức Phật nhập diệt đến giờ, không có ai nhập được Bốn Thánh Định, chỉ vì không thành tựu viên mãn giới luật.

Nếu đã có người nào viên mãn được giới luật sống đầy đủ chánh hạnh thì Phật pháp đâu bị ngoại đạo biến thể như ngày nay và như thế này. Phật giáo ngày nay đã trở thành một tôn giáo hỗn tạp mang đủ thứ pháp môn của ngoại đạo (84 ngàn pháp môn) mà còn tự xưng những danh từ ngã mạn cống cao khác.

Như trên Phật đã dạy trong bài kinh Ước Nguyện. Từ đức hạnh làm người, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Để đem lại sự giải thoát, an lạc, hạnh phúc cho nhau trên hành tinh này thì “Hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và tu học các học giới thì được toại nguyện, mãn nguyện làm người có đạo đức đầy đủ”.

Nếu muốn thành tựu những đức hạnh của bậc Thánh nhân và thực hiện thiền định làm chủ sự sống chết của bậc chân nhân mà người đời thường hay ưa thích tu thiền định, nhưng không biết thiền định nào đúng sai cứ nghe thiền định là cứ tu, nhắm mắt tu đùa, tu không suy nghĩ đúng sai phải trái, đã mất công sức tu hành lại còn mất tiền mất của, bỏ đời sống thế gian, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ thân bằng quyến thuộc v.v... Chỉ vì muốn thoát khỏi mọi sự đau khổ của cuộc đời, để trở thành bậc Thánh nhân, nhưng lại tu sai đường, Thánh nhân đâu không thấy, giải thoát đâu không thấy, ngẫm lại cuộc đời mình mà đau lòng, bị các nhà tôn giáo lừa đảo mà không dám nói ra, ngậm miệng tự an ủi mình, phải tu nhiều kiếp, kiếp này chưa xong thì kiếp khác tu nữa, Phật Thích Ca ngày xưa còn tu vô lượng kiếp mới thành Phật, câu này là câu an ủi nhất của những người bị lừa đảo, tu lạc tà pháp, họ muốn hy vọng hão huyền để mà hy vọng, để mà sống.

Nhưng trong bài kinh Ước Nguyện Phật dạy tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta chứng được bốn thiền, thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú.

Như vậy thiền định tu tập đâu có khó khăn gì, thế mà người tu thiền thời nay lại tu quá khó khăn, tu mãi từ hai ba chục năm, nhưng không thành tựu. Các Tổ như Ngài Đại An 12 năm, Diệu Cao Phong 30 năm mà chỉ có triệt ngộ những công án mà thôi, còn làm chủ sanh tử thì chẳng biết gì, tâm sân hận thì vẫn còn cao ngút. Giải thoát đâu không thấy, làm chủ sanh, già, bệnh, chết đâu không thấy, chỉ thấy được mồm mép bén nhạy đối đáp như gió thổi (cơ phong). Còn một số người nữa lại tu vào các loại thiền khác, xuất hồn, Khí công, Yoga, Mật Tông luyện bùa, niệm chú, bắt ấn v.v... Biến thành các tu sĩ này, thay vì tu giải thoát họ lại tu để làm thầy trị bệnh, trừ tà, ếm quỷ hoặc tập luyện dưỡng sinh, tức là thiền định biến thái thành phương pháp ngừa bệnh.

Thiền định thời nay biến dần thành phương pháp ngừa bệnh (dưỡng sinh) chứ đâu còn là thiền định làm chủ sự sống chết như thời đức Phật.

Nhìn sự tu hành của Phật giáo hiện giờ, ta rất buồn cười thiền định của Phật thì dẹp qua không tu, mà lại tu thiền của ngoại đạo, chỉ vì thiền của ngoại đạo không có giới luật nghiêm túc, đời sống theo dục lạc dễ dàng, ăn uống ngủ nghỉ phi thời.

Do đó tu mãi không kết quả, chạy sang tu các pháp môn khác như Tịnh Độ “vừa tu Thiền vừa niệm Phật” như các Tổ Vĩnh Minh, Vân Thê, Từ Vân v.v...

Có người chuyển sang Tịnh Độ hẳn chuyên ròng niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc như Tổ Tông Bổn, Khánh Anh, Thiện Hoa, Thiện Hòa v.v...

Có người chuyển sang vừa tu Tịnh Độ cầu vãng sanh vừa tu Mật Tông; có người lại chuyển sang qua hẳn Mật Tông, chuyên ròng niệm chú, bắt ấn.

Có người tu Tịnh Độ lâu ngày chẳng thấy kết quả gì chuyển qua tu Thiền Tông, lại cũng có người tu Mật Tông lâu ngày chẳng thấy linh ứng chuyển qua tu Thiền Tông. Họ chuyển qua pháp môn này, chuyển lại pháp môn kia tu mãi từ đời này sang đời khác mà chẳng ra gì, vẫn chết trong đau khổ và còn đau khổ hơn người thế gian.

Hiện giờ người ta tu theo Phật giáo Đại Thừa, cứ chạy theo ba pháp môn Thiền, Tịnh, Mật và chuyển qua chuyển lại tu tập, cứ thế tu tập cho đến bây giờ chẳng ai tu đến đâu, cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong vòng lẩn quẩn, loanh quanh.

Có người tu các loại tà thiền Yoga, xuất hồn lại rơi vào trạng thái Định tưởng; có người tu Thiền Đông Độ  rơi vào Pháp tưởng nên gọi là triệt ngộ.

Tịnh Độ Tông thì rơi vào sắc, thanh tưởng thấy cảnh giới Tây phương, Phật Di Đà và Thánh chúng, thấy hoa sen thấy tên họ được đăng ký trên hoa sen và thấy ánh sáng hào quang, nghe Phật Di Đà thuyết pháp v.v.... Đó toàn là sắc thanh tưởng.

Mật Tông thì rơi vào Tha tâm tưởng, nên biết chuyện quá khứ vị lai khiến cho mọi người quá nể phục và thường làm trò ảo thuật (thần thông) lừa đảo người.

Tất cả những sự việc đã xảy ra khiến cho người tu tưởng mình đã chứng đạo, nên trong kinh Pháp Môn Căn Bản Phật dạy: “Tất cả những kết quả đó là tưởng tri chứ không phải thực chứng giải thoát (liễu tri)”.

Bởi vậy, một người tu tìm cầu sự giải thoát mà không sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống không phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, không đầy đủ oai nghi chánh hạnh, không thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, không chân chánh lãnh thọ và tu học các học giới, thì dù tu ngàn đời Thiền, Tịnh, Mật cũng chẳng đi đến đâu, chỉ uổng phí một đời tu hành mà thôi, rồi cũng chạy theo danh, lợi, buôn Phật, bán Pháp mà sống, sống trong cách thức lừa đảo tín đồ để ngồi mát ăn bát vàng.

Thần thông của ngoại đạo do dùng tưởng tu tập như: Yoga, Mật Tông, Khí công, Nội công v.v… Do dùng tưởng tu tập nên có thần thông mà tâm dục chưa diệt, ác pháp chưa trừ, nên dễ sa ngã trong nữ sắc, danh, lợi thế gian v.v... Do sa ngã nữ sắc, danh lợi thế gian nên thần thông mất dần.

Vì vậy có nhiều vị giáo chủ mới xuống núi, thanh sắc đầy đủ, uy nghi chánh hạnh nghiêm trang khiến cho mọi người ai cũng kính nể, lại có thần thông kêu mây, hú gió, sai binh, khiển tướng, sái đậu thành binh, tàng hình, biến hóa, đi trên nước lửa như đi trên đất bằng, ngồi trên hư không như thuyền nổi trên nước, đi xuyên qua vách đá, chôn dưới đất mà vẫn sống, đi trong hư không như  chim bay v.v…

Những hành động trên đã khiến cho mọi người kính trọng đem dâng cúng của cải, tài sản và ngay cả sắc đẹp không có vật gì mà họ tiếc.

Thử hỏi, thần thông như vậy để làm gì, có ích lợi gì cho loài người đâu? Chỉ là một trò ảo thuật cho người ta xem chơi mà thôi, để cám dỗ những người nhẹ dạ, ham mê thần thông, chứ không thể lường gạt những người đệ tử Phật được.

Chỉ có một hành động lừa đảo gạt người, một vị đạo sư chỉ dùng một tờ báo nấu sôi một nồi nước đã làm cho mọi người kính nể. Nấu sôi một nồi nước chỉ có một tờ báo, hành động đó ích lợi gì cho con người ở thế gian. Vậy mà mọi người vô minh đều kính phục. Các vị giáo chủ loại này tâm dục chưa trừ, ác pháp chưa diệt, nên khi thấy của cải, tài sản, sắc đẹp thì ham thích nên lần lần sa ngã và thần thông tưởng tiêu mất.

Cho nên thỉnh thoảng báo chí Công an phát giác ra đăng tin, vị giáo chủ này, vị giáo chủ kia, ông đạo này ông đạo kia làm chuyện lừa đảo tín đồ nhẹ dạ.

Ngược lại thần thông của đạo Phật, không do tu tưởng mà có, chỉ dùng pháp hướng như lý đạo tác ý, để ly dục, ly ác pháp, diệt ngã xả tâm, đoạn dứt tâm tham, sân, si, mạn, nghi cùng diệt sạch thất kiết sử. Do tu tập đoạn dứt những điều này mà tâm được thanh tịnh. Nhưng, phải biết rõ, muốn dùng pháp hướng tâm như lý tác ý có hiệu quả, thì phải sống đúng giới luật, lấy giới luật phòng hộ sáu căn, sống đời sống thiểu dục tri túc, oai nghi tế hạnh hẳn hòi, đi đứng trang nghiêm, đức hạnh trọn vẹn, không hề sai sót một lỗi nhỏ.

Thần thông của đạo Phật là thần thông vô dục, vô ác pháp. Người tu sĩ đạo Phật phải biết rõ, vô dục vô ác pháp chỉ do nhờ có giới luật mới diệt trừ được dục và ác pháp, nên trong kinh Ước Nguyện Phật dạy: “Nếu tỳ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta chứng được các loại thần thông, một thân ta hiện ra nhiều thân, nhiều thân ta hiện ra một thân, ta hiện hình tất cả các loài vật, biến hình đi ngang qua vách qua thành, qua núi đá như đi ngang qua hư không; ta độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; ta đi trên nước không chìm như trên đất liền, ta ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay ta chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy ta có thể, thân ta có thần thông bay cho đến Phạm Thiên.

Muốn được vậy tỳ-kheo hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và tu học các học giới.”

Qua bài kinh Ước Nguyện đối với đạo Phật, ta muốn những gì để đạt được kết quả theo ý muốn của mình, thì đều phải thực hiện tu tập và sống đúng giới luật đó là một nền tảng vững chắc của đạo Phật, một nền tảng đạo đức thật sự của loài người. Nếu ai bỏ nền tảng đạo đức vững chắc này, dù tu tập có tu đúng thiền định của đạo Phật thì cũng trở thành tà thiền, tà định.

Tại sao vậy?

Tại vì, khi đã lìa khỏi pháp môn căn bản của đạo Phật, tức là giới luật, một pháp môn đầu tiên trong ba pháp môn vô lậu “Giới, Định, Tuệ” thì người đó dù có tu theo đạo Phật, nhưng vẫn là tu tà đạo.

Bởi vậy, nhìn tu sĩ Phật giáo hiện giờ, biết Phật giáo suy hay thịnh, mất hay còn. Không phải ở số đông tu sĩ Phật giáo, không phải ở chỗ Phật giáo được chấp nhận là quốc giáo; không phải Giáo hội Phật giáo được tổ chức như một quốc gia có tổ chức hẳn hoi, có các trường học từ sơ, trung, cao đẳng để tu sĩ học tập có cấp bằng cử nhân, tiến sĩ, v.v... Cũng không phải ở chỗ xây cất chùa to, tháp lớn, kiến trúc kiên cố vĩ đại mà ở chỗ tu sĩ phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt. Nói tóm lại vị tỳ-kheo phải giữ gìn giới luật nghiêm túc thì Phật giáo mới còn và hưng thịnh, còn chúng tỳ-kheo phá giới thì Phật giáo mất và không hưng thịnh.

Lời di chúc năm xưa của đức Phật còn vang mãi trong tai chúng ta “giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất.”

Hỡi quý vị Tăng, Ni và Cư sĩ ! Quý vị có muốn Phật giáo trường tồn với loài người trên hành tinh này chăng? Hay để cho Phật giáo mai một suy tàn chìm mất trong lớp bụi mù dày đặc của tà pháp ngoại đạo đang phủ trùm che khắp.

Nếu muốn Phật giáo được trường tồn và hưng thịnh mãi mãi đem lại hạnh phúc an vui cho loài người và mọi người trên hành tinh này không còn làm khổ mình, khổ người nữa, thì người cư sĩ đệ tử Phật tại gia hãy giữ gìn giới luật của người cư sĩ mà đức Phật đã dạy, phải nghiêm túc khi thọ Tam quy, Ngũ giới và Thập thiện, phải lấy nó phòng hộ cuộc sống của mình, giữ gìn đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, không làm khổ mình khổ người thì Phật giáo sẽ còn với quý vị, với loài người trên hành tinh này.

Còn tỳ-kheo Tăng và tỳ-kheo Ni đệ tử xuất gia của đức Phật, nếu muốn Phật giáo được trường tồn, làm ngọn đuốc sáng soi đường đạo đức cho mọi người trên quả địa cầu này và để có hướng đi tìm chân lý giải thoát, thoát khỏi kiếp sống khổ đau của loài người và cũng chính ngay bản thân của quý vị. Quý vị có muốn làm chủ bốn sự khổ đau sanh, lão, bệnh, tử đang tấn công quý vị hằng giây, hằng phút không? Nếu quý vị lơ đễnh thì ôi hô! Uổng một kiếp người.

Nếu muốn làm chủ bốn sự khổ đau này thì quý vị đã thọ cụ túc giới phải nghiêm chỉnh sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, không được bẻ vụn giới luật như các Tổ đã làm mà quý vị đang chịu ảnh hưởng rất nặng, sống phá giới.

          Quý vị hãy bỏ xuống những gì của các Tổ mà phải trở lại sống đúng như Phật, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và tu học các học giới.

087-TRAO ĐỔI VỀ LUẬN "CON ĐƯỜNG THIỀN ĐỊNH MÀ THẾ TÔN ĐÃ ĐI QUA" CỦA HT THÍCH CHƠN THIỆN - GNCN

Kính thưa quý phật tử và độc giả,

Thầy Thích Chơn Thiện hiện là Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đồng Trị Sự, Trưởng Ban Giáo dục Tăng, Ni Trung ương GHPG Việt Nam. Trước đây 20 năm, thầy Chơn Thiện đã viết một “Thiên Khái Luận” với tiêu đề “CON ĐƯỜNG THIỀN ĐỊNH MÀ THẾ TÔN ĐÃ ĐI QUA” vẫn đang được lưu truyền cho tăng ni ngày nay. Nhận thấy bài luận của thầy Chơn Thiện không phù hợp với kinh Phật dạy, không đúng với lộ trình tu tập đi đến giải thoát của đức Phật, không mang lại lợi ích cho người học và tu tập. Trái lại, bài luận khiến phật tử nghi ngờ con đường chánh đạo mà đức Thế Tôn đã khai sáng, sẽ chạy theo những tà thuyết ngoại đạo phi phật pháp.   

Vì vậy chúng tôi có mấy ý kiến trao đổi đến thầy Chơn Thiện cùng quý phật tử và độc giả. Mong muốn người phật tử thì phải chọn đúng con đường đi của Phật, không nên “trôi lăn” theo những tà thuyết ngoại đạo thì rất phí uổng cuộc đời tu hành. Để quý vị tiện theo dõi, chúng tôi xin giới thiệu nguyên văn bài viết này. Quý vị cùng đọc:

CON ĐƯỜNG THIỀN ĐỊNH MÀ THÊ TÔN ĐÃ ĐI QUA

Trước khi giác ngộ, Thế Tôn nhận thấy con đường xuất ly là an tịnh, nhưng lại không cảm thấy phấn khởi. Khi Thế Tôn suy nghĩ đến cùng về sự nguy hiểm của các dục thì sự hứng khởi của tâm xuất ly khởi sinh, và tâm của Thế Tôn thấy "Đây là an tịnh". Sau đó Thế Tôn an trú Sơ thiền. Trong khi trú Sơ thiền thì các tưởng đi đôi với dục vẫn có mặt, bấy giờ các tưởng này trở thành bệnh hoạn, nó cũng gây ra đau khổ.

Thế Tôn liền ngưng tầm và tứ, và chứng Nhị thiền; nhưng Thế Tôn lại không thấy hứng khởi và giải thoát. Sau đó, Thế Tôn suy nghĩ đến cùng về sự nguy hiểm của tầm và tứ thì Thế Tôn liền thấy hứng khởi, giải thoát, biết "Đây là an tịnh". Nhưng khi trú Nhị thiền thì các tưởng cùng đi với tầm, tứ vẫn có mặt, bấy giờ chính các tưởng này là bệnh.

Thế Tôn liền rời khỏi hỷ và chứng đắc Tam thiền. Thoạt đầu Thế Tôn không cảm thấy hứng khởi và giải thoát của Tam thiền, Ngài liền suy tư đến cùng sự nguy hiểm của hỷ thì Thế Tôn liền cảm thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát, biết rằng "Đây là an tịnh". Sau một thời gian trú Tam thiền, các tưởng đi đôi với hỷ vẫn xuất hiện, bấy giờ chính các tưởng này là bệnh.

Thế Tôn liền từ bỏ hỷ, từ bỏ lạc và chứng đắc Thiền thứ tư. Buổi đầu trú ở Thiền này, Thế Tôn không cảm thấy hứng khởi, an trú, giải thoát. Sau đó, Thế Tôn tư duy đến sung mãn về sự nguy hiểm của lạc thì Ngài cảm thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát của xả niệm trú (Tứ thiền), biết rằng "Đây là an tịnh". Trong khi an trú Tứ thiền, xả lạc, xả khổ, thì các tưởng đi đôi với xả lạc vẫn hiện hành, bấy giờ đối với Ngài, các tưởng này là bệnh.

Rồi Thế Tôn đi ra khỏi các sắc tưởng, chấm dứt hoàn toàn các sắc tưởng, không tác ý đến các tưởng sai biệt. Bấy giờ Thế Tôn chứng đắc "Không vô biên xứ định". Lúc đầu chứng đắc Thiền cảnh này, Thế Tôn không cảm thấy hứng khởi và không có giải thoát đối với Thiền này. Thế Tôn liền suy nghĩ đến nguy hiểm của các sắc, thấy nguy hiểm này đến cùng độ thì Thế Tôn liền cảm thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với Không vô biên xứ, biết rằng "Đây là an tịnh". Sau một thời gian an trú trong Không vô biên xứ định, các tưởng cùng đi với các sắc vẫn còn hiện hữu. Thế Tôn thấy đây là chứng bệnh, như là khổ đau phát khởi ở người đang sung sướng.

Thế Tôn lại từ bỏ hoàn toàn Không vô biên xứ định, và chứng đắc "Thức vô biên xứ định" (Thức là vô biên). Ban đầu của sự chứng đắc này, Thế Tôn không cảm thấy hứng khởi, không cảm thấy an tịnh và giải thoát đối với Thức vô biên xứ, Ngài bèn tư duy đến sự nguy hiểm của Không vô biện xứ định, thấy sung mãn sự nguy hiểm này, Ngài liền thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với Thức vô biên xứ định, các tưởng có mặt của Không vô biên xứ vẫn hiện hành, đây là chứng bệnh đối với Ngài, như là nỗi khổ đau khởi lên giữa lúc đang sung sướng.

Thế Tôn lại từ bỏ hoàn toàn Thức vô biên xứ định và đạt được "Vô sở hữu xứ định" (biết rằng không có gì cả). Buổi đầu của sự chứng đắc Thiền này, Ngài không cảm thấy phấn khởi, an tịnh và giải thoát, Ngài bèn tư duy đến sự nguy hiểm của Thức vô biên xứ định cho đến khi thấy sung mãn sự nguy hiểm của cảnh giới Thiền đó, Ngài mới cảm thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với Vô sở hữu xứ. Sau một thời gian an trú trong Thiền Vô sở hữu xứ này, các tưởng có mặt của Thức vô biên xứ vẫn hiện hành như là hiện hành của khổ đau đối với người đang sung sướng. Với Ngài, đây là một chứng bệnh cần được loại bỏ.

Thế Tôn lại ra đi, ra đi nữa. Ngài từ bỏ hoàn toàn, chấm dứt hoàn toàn tưởng Vô sở hữu, và chứng đắc "Phi tưởng phi phi tưởng xứ định". Dù biết rằng "Đây là an tịnh" nhưng lúc đầu Ngài vẫn không thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với Thiền này. Ngài chuyển qua tư duy về nguy hiểm của Vô sở hữu cho đến khi thấy sung mãn sự nguy hiểm này thì sự cảm nhận hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với "Phi tưởng phi phi tưởng" định đến với Ngài. Sau một thời gian trú Phi tưởng phi phi tưởng, các tưởng có mặt của Vô sở hữu lại khởi lên như là khổ đau khởi lên với người đang sung sướng. Đối với Ngài, đây là một chứng bệnh cần được đoạn trừ.

Rồi Thế Tôn lại ra đi nữa, từ bỏ hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng định và chứng đắc "Diệt thọ tưởng định". Dù có biết rằng "Đây là an tịnh", trong buổi đầu chứng đắc Thiền này, Thế Tôn vẫn không có hứng khởi, an trú và giải thoát đối với Thiền ấy. Ngài bèn suy nghĩ đến nguy hiểm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, cho đến khi thấy rõ sự sung mãn của sự nguy hiểm ấy, Ngài thưởng thức được lợi ích của Diệt thọ tưởng định với tâm hứng khởi, an trú và giải thoát. Thế Tôn thấy "Đây là an tịnh, thật an tịnh". Sau một thời gian an trú ở Diệt thọ tưởng định, với trí tuệ Thế Tôn thấy rằng, tất cả các lậu hoặc đều đi đến tận diệt.

Sau khi thuận thứ và nghịch thứ chứng đắc, an trú và xuất khởi nhuần nhuyễn chín cảnh giới Thiền trên, Thế Tôn mới tuyên bố Ngài đã chứng đắc "Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác".

Trên đây là lộ trình tu chứng chín cảnh giới định của Thế Tôn. Đấy là lộ trình liên tục ra đi, liên tục từ bỏ những gì chứng đắc, liên tục giác tỉnh, biết rằng các Thiền định (từ sơ khởi đến Phi tưởng phi phi tưởng định) là các pháp do nhân duyên sinh, là hữu vi, là vô thường, là khổ đau, liên tục khởi lên ưu tâm tìm vào giải thoát chân thực. Ưu tâm ở đây lại là cần thiết để không bị dính mắc, đắm trước vào các Thiền cảnh, là sức mạnh của từ bỏ hết thảy các pháp bị tác thành. Ưu tâm ở đây chính là sự có mặt của tuệ giác, của khả năng thấy sự vật như thật.

Chúng ta có thể rút ra từ kinh nghiệm của Thế Tôn một bài học vô vàn quý giá rằng: "nếu hành giả luôn luôn giữ chánh niệm tỉnh giác trên ý nghĩa như thật của các pháp hữu vi: vô ngã, vô thường, và khổ đau thì hành giả sẽ vượt nhanh qua được các cảnh giới Thiền định, dễ dàng xuất khởi khỏi các Thiền cảnh để hướng về 'Diệt thọ tưởng định', nơi mà các lậu hoặc sẽ hoàn toàn được đoạn trừ, các cảm thọ lạc, khổ và các tưởng đi đến các cảm thọ lạc, khổ sẽ hoàn toàn được tịnh chỉ".

Chúng ta cũng có thể rút ra một bài học kỳ diệu khác rằng: tinh hoa của việc tu tập Thiền nằm ở chỗ an trú trong chánh niệm về khổ, vô thường, vô ngã của các pháp để xả ly tham ái và chấp thủ. Sự giải thoát khổ đau có mặt ngay trong sự xả ly đó. Sự từ bỏ đến ngay sau khi sự thấy rõ nguy hiểm của những gì đang ràng buộc chúng ta, đang trói buộc tâm thức chúng ta; sự chứng đắc một cảnh giới Thiền định cao hơn lại đến ngay sau sự từ bỏ cảnh giới đang là; sự an trú cảnh giới chứng đắc là kết quả của sự thấy sâu sắc cái nguy hiểm của cảnh giới vừa đi ra. Cứ thế, lộ trình tu tập giải thoát là sự trải qua của những quá trình thấy rõ khía cạnh vô thường, nguy hiểm và khổ đau của các pháp, và sự từ bỏ những gì được làm ra, được tác thành. Hành giả không mỏi mệt, đi những bước đi đầy giác tỉnh, hứng khởi, an tịnh và giải thoát. Con đường phải đi này là con đường Thiền định chính thống của Phật giáo. Khác đi là đường đi của ngoại đạo.

Từ bỏ, hay buông xả trong Thiền định của Phật giáo đồng nghĩa với sự an trú trong chánh niệm tỉnh giác và đồng nghĩa với an tịnh, giải thoát của Thiền định. Nói khác đi, buông xả là buông xả tham ái và chấp trước mọi pháp được tác thành, được làm ra.

Nếu có ai chủ trương giữ tâm Không (hay Không tâm) khi tu tập Thiền định của đạo Phật, thì phải hiểu tâm Không chính là chánh niệm tỉnh giác rời xa mọi tham ái, chấp trước ở đời. Hành giả hành Thiền định Phật giáo thì không có mơ màng chờ đợi gì ở cách thở hay thế ngồi, hoặc bất cứ một kỹ thuật tu tập nào, ngoại trừ việc hàng phục chính vọng tâm của mình. Chúng ta phải trở về con đường Thiền định của Thế Tôn. Chân lý và con đường về chân lý chỉ được sáng ở dưới cội Bồ-đề, mà không phải là những nơi nào khác. Tại đó, chân lý sẽ rực sáng một lần và sẽ rực sáng mãi mãi. Đấy là nơi quy hướng của chúng ta trong việc học hỏi Pháp, hiểu Pháp và hành Pháp. Đấy cũng là nơi quy hướng của những ai tự nhận mình là Phật tử, dù đang ở phương hướng nào trên trái đất. Tại đấy, rực sáng hào quang của Duyên khởi và Tứ niệm xứ, và hào quang đó vẫn còn tỏa sáng ở mốc điểm phân ranh giữa sanh tử và giải thoát, giữa con đường chánh và con đường tà.

Hướng về Duyên khởi và Tứ niệm xứ là thắp sáng giáo lý của Thế Tôn giữa cuộc đời này. Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy sau đây của Thế Tôn về nhơn duyên của diệu pháp không được tồn tại lâu dài, hay được tồn tại lâu dài:

"Này Bà-la-môn, do bốn niệm xứ không được tu tập, không được làm cho sung mãn sau khi Như lai nhập diệt, nên diệu pháp không tồn tại lâu dài. Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, này Bà-la-môn, sau khi Như lai nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu dài". (Tương Ưng V, tr. 183)

Cho đến đây, chúng ta có một kết luận rõ ràng là vấn đề chủ yếu của một giáo hội Tăng-già hưng thịnh và Phật giáo hưng thịnh hay tồn tại, chính là vấn đề học hỏi Phật pháp và tu tập Giới, Định, Tuệ của các Phật tử xuất gia cũng như tại gia. Các vấn đề khác chỉ là thứ yếu. Thời đại của một xã hội Phật giáo hưng thịnh như dưới thời vua A-dục (Asoka) phải là thời đại mà quần chúng Phật tử học hỏi nhiều về giáo lý và thực hành giáo lý, đặc biệt là Thiền định (Tứ niệm xứ).

Cho đến khi nào mà các Thiền viện được phát triển mạnh hơn các lãnh vực gọi là "tín ngưỡng" khác của Phật giáo, thì cho đến khi ấy, chúng ta mới có niềm tin lạc quan rằng Phật giáo hưng thịnh, hay đang đi vào hưng thịnh.

Phải chăng cần chuyển công phu thực hành Tứ niệm xứ thành buổi công phu sáng hay chiều của hàng xuất gia, và thành công phu thay thời công phu Tịnh độ của hàng Phật tử tại gia để diệu pháp được tồn tại lâu dài hơn ở đời?

Đó là câu hỏi mà người Phật tử cần trầm tư sau khi thông hiểu giáo lý Tứ niệm xứ ...”

                                                                                                     Thích Chơn Thiện
                                                                                 ("Phật Học Khái Luận", Sài Gòn, 1993)

Bài viết của thầy Chơn Thiện có thể tạm chia thành hai phần.

Phần thứ nhất thầy dựa theo các bài kinh trong Kinh Tăng Chi (chương 9 pháp: Chín Thứ Đệ Trú 1; 2; Con Bò Cái…) nhằm xiển dương các loại thiền định từ thấp lên cao như sau: 1- Định Sơ Thiền; 2- Định Nhị Thiền; 3- Định Tam Thiền; 4- Định Tứ Thiền; 5- Định Không Vô Biên Xứ; 6- Định Thức Vô Biên Xứ; 7- Định Vô Sở Hữu Xứ; 8- Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ; Và cao nhất là: 9- Định Diệt Thọ Tưởng.

Phần thứ hai, thầy sơ qua vài nét “hướng về Duyên Khởi và Tứ Niệm Xứ là thắp sáng giáo lý của Thế Tôn giữa cuộc đời này” nhằm sách tấn phật tử công phu thiền định.  

Trao đổi về Phần thứ nhất ở trên, chúng tôi khẳng định thầy Chơn Thiện chưa hiểu biết một chút nào về con đường thiền định của Phật đã di qua. Cho nên Thầy đã bị kinh sách làm mê hoặc.

Trong kinh Phật dạy: “Chớ có tin vì kinh tạng truyền tụng”, nhưng Thầy tin hiểu một cách thiếu tư duy chín chắn đã vội vàng chấp nhận rồi luận giảng. Thầy đâu biết rằng bốn loại thiền Tưởng Định (Bốn định Vô Sắc: Không Vô Biên, Thức Vô Biên, Vô Sở Hữu và Phi Phi Tưởng Xứ) là thiền của ngoại đạo có trước khi đức Phật đi tu. Sau khi tu đạt các loại định này, nhận thấy không có ích lợi giải thoát nào cả, mà tâm tham, sân, si vẫn đầy đủ (thậm chí nhiều hơn) lúc chưa tu nên Ngài quăng bỏ nó như một món đồ cũ vô dụng.

Đây, chúng tôi xin dẫn chứng theo “Lịch Sử Đức Phật Thích Ca”. Khởi đầu con đường thiền định của Ngài ra sao:   

“…Với một tâm hồn thanh thoát, Ngài ra đi giữa đêm khuya, để lại sau lưng tất cả đền đài cung điện, người cha yêu quý, vợ đẹp, con thơ, và cả một tương lai rực rỡ huy hoàng. Ngài trốn ra khỏi thành và giục ngựa thẳng xông trong đêm tối. Cùng đi với Ngài chỉ có Xa-Nặc, người đánh xe trung thành. Không tiền của, không cửa nhà, nay đây mai đó, Ngài bắt đầu lần bước trên đường đi tìm Chân Lý và Tịch Tịnh. Thế là Ngài từ bỏ thế gian. Đây không phải là sự từ bỏ của một cụ già đã trải qua hầu hết cuộc đời của mình hay của người bần cùng nghèo đói không còn gì để bỏ lại phía sau. Đây là sự khước từ của một hoàng tử giữa thời niên thiếu, trong cảnh ấm no, sung túc và thịnh vượng. Một sự thoát ly chưa từng có trong lịch sử, lúc ấy thái tử Sĩ Đạt Ta được hai mươi chín tuổi.

Tìm chân lý   

Như người lang thang bất định, Ngài đi tìm cái tốt đẹp, trạng thái tuyệt đối vắng lặng. Ngài đến vị đạo sĩ rất lỗi lạc Alàràma Kàlàma và nói: “Này hỡi đạo hữu, xin đạo hữu cho tôi thọ giáo và sống đời phạm hạnh thiêng liêng dưới sự hướng dẫn của đạo hữu”. Và, không bao lâu sau đạo sĩ Cồ Đàm (Gotama) đã học hết giáo lý của thầy, nhưng không chứng ngộ được chân lý cao thượng mong mỏi. Rồi Ngài đến gặp Kàlàma và nói: “Này đạo hữu Kàlàma, giáo lý mà chính đạo hữu đã nhận thức bằng trí tuệ và trực giác sâu rộng đến mức nào?”. Alàrama liền giải thích rằng đó là cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ Thiên, cảnh giới có quan niệm về hư không, một từng thiền khá cao.

Và ý tưởng sau đây phát sanh đến Ngài: “Không phải chỉ có một mình Kàlàma mới có hạnh tinh tấn, tâm niệm, tâm định và trí tuệ. Ta cũng có những đặc tính ấy. Hay là ta hãy cố gắng chứng ngộ giáo lý mà Kàlàma nói rằng chính ông ta chứng ngộ và ẩn náu trong sự thành đạt ấy”. Sau đó không bao lâu, chính đạo sĩ Cồ Đàm cũng chứng ngộ và thành đạt trạng thái ấy do trí tuệ và trực giác. Nhưng chân lý này không giúp Ngài thấu đạt chân lý tối thượng.

Chưa được toại nguyện, Ngài từ giã Alàràma Kàlàma ra đi. Ngài đến thọ giáo với một đạo sĩ danh tiếng khác tên là Uddaka Ràmaputta. Không bao lâu, vị đệ tử thông minh xuất chúng Cồ Đàm đã thấu triệt giáo lý của thầy và đắc đệ bát thiền Vô sắc, cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng ấy là bậc thiền cao nhất trong tam giới. Vào thời bấy giờ không có ai đắc được thiền nào cao hơn nữa. Vị đạo sư cao thượng lấy làm hoan hỉ được biết sự thành công rực rỡ của người đệ tử hoàng phái đặc sắc của mình. Nhưng không như vị đạo sư trước, đạo sĩ Uddaka Ràmaputta mời Ngài nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm dạy dỗ hàng môn đệ. Tuy nhiên đạo sĩ Cồ Đàm cảm thấy đó cũng chưa phải là mục tiêu cứu cánh. Ngài đã hoàn toàn chế ngự tâm mình, hoàn toàn làm chủ cái tâm, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn còn mãi ở xa. Ngài đang tìm con đường Niết Bàn tức là hoàn toàn giải thoát ra khỏi vòng phiền não trầm luân và tận diệt mọi hình thức ái dục. Không thỏa mãn với phương pháp tu tập của Ràmaputta, Ngài lại ra đi…

                                                      (Đức Phật và Phật Pháp. Đại đức Nãrada)

Sau khi từ bỏ hai vị thầy (ngoại đạo) đầu tiên với sự chứng đạt thiền định cao nhất lúc bấy giờ (Phi tưởng phi phi tưởng), Ngài bắt đầu cuộc sống tu hành cực kỳ gian khổ để tự mình tìm ra con đường giải thoát. Qua một thời gian dài khổ hạnh, đức Phật đã tìm ra được con đường riêng của mình và xiển dương Chánh Pháp. Từ đó mới có đạo Phật mà ngày nay chúng ta đang thấy.

Con đường đó là gì? Là con đường Giới – Định – Tuệ mà chặng cuối cùng là hoàn thiện Bốn Thánh Định (chứ không phải Tưởng Định), hướng tâm đến Ba Minh, diệt tận các lậu hoặc, giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi sanh tử. Quý vị hãy theo dõi các trích đoạn kinh sau:  

…Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. 

            Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. 

            Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. 

            Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. 

            Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh…

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh…

Nhờ biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát", Ta đã biết: "Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa." Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần. Như vậy này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.”

                                         (Đại kinh Saccaka - Mahàsacaka Sutta – Kinh Trung Bộ, Tạng Nikaya)

“…75. Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy, hân hoan sanh; do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh. Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. 

77. Lại nữa, này Ðại vương, Tỷ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. …

79. Lại nữa, này Ðại vương, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "Xả niệm lạc trú", chứng và an trú thiền thứ ba. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân, không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. …

81. Lại nữa, này Ðại vương, Tỷ-kheo, xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần…     

91. Vi tâm đnh tĩnh, thun tnh, không cu nhim, không phin não, nhu nhuyến, d s dng, vng chc, bình thn như vy, T-kheo dn tâm, hướng tâm… v y biết được như sau:

             Tâm có tham, biết là tâm có tham. Tâm không có tham, biết là tâm không có tham.
             Tâm có sân, biết là tâm có sân. Tâm không có sân, biết là tâm không có sân. 
             Tâm có si, biết là tâm có si. Tâm không có si, biết là tâm không có si. 
             Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú. Tâm tán lon, biết là tâm tán lon. 
             Ði hành tâm, biết là đi hành tâm. Không phi đi hành tâm, biết không phi là đi hành tâm. 
             Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng, Tâm vô thượng, biết là tâm vô thượng. 
             Tâm thin đnh, biết là tâm thin đnh. Tâm không thin đnh, biết là tâm không thin đnh. 
             Tâm gii thoát, biết là tâm gii thoát. Tâm không gii thoát, biết là tâm không gii thoát. 

93. .. 98. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng minh… thiên nhãn minh… lậu tận minh.

                          (Kinh Sa Môn Quả, Sàmannaphala Sutta – Kinh Trường Bộ, Tạng Nikaya).

Như vậy là đã rõ ràng, “Con Đường Thiền Định Của Đức Phật” không cần gì đến bốn loại thiền Vô Sắc (Tưởng Định) của ngoại đạo. Thế mà sao bao nhiêu lớp người sau tu hành, các thầy tổ cứ bám chặt lấy một thứ chướng ngại đã bị đức Phật quăng bỏ như một thứ nhơ bẩn, lại xếp đặt lên vị trí cao hơn cả bốn thiền Hữu Sắc (Thánh Định) của Phật, rồi đua nhau luận giảng. Tưởng rằng truyền bá làm hưng thịnh đạo Phật, nào ngờ vô tình làm suy tàn đạo Phật mà không hay.  

Riêng loại định Diệt Thọ Tưởng được xếp là loại định cao nhất thì chúng ta thử tìm hiểu xem nó nhất ở cái gì? HT Chơn Như (Trảng Bàng) – Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã giảng, khi nhập vào định Diệt Thọ Tưởng, tức là Thọ và Tưởng đã bị diệt, tức là không còn thọ tưởng. Lúc bấy giờ hành giả trở thành cục đá, như vậy thì còn giúp ích gì cho đời? Thế mà vẫn được người ta ca tụng là tầng thiền cao nhất. Cao thì có cao nhưng vô dụng nên nó chỉ nhập để mà chơi thôi.

 Trao đổi về Phần thứ hai, thầy sơ qua vài nét “hướng về Duyên Khởi và Tứ Niệm Xứ là thắp sáng giáo lý của Thế Tôn giữa cuộc đời này”… chúng tôi nhận thấy hành pháp Tứ Niệm Xứ là pháp hành quyết định đi đến chứng đạo hay không. Về phần này Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã giảng rất kỹ càng trong cuốn kinh: “Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Môn Nào”. Thầy Chơn Thiện và quý vị có thể tìm đọc thêm.

Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu ngắn gọn các pháp tu tập chứng đạt và an trú Bốn Thánh Định mà Trưởng Lão Thông Lạc dạy, để quý vị rõ thêm về lời dạy của một vị hành giả viên mãn so với những lời luận của các vị học giả ra sao.     

“BN THÁNH ĐNH

Quý v mun tu tp thin đnh ca đo Pht thì nên theo bn tóm lược này mà tu tp tng giai đon mt đ có kết qu như ý mình. (T Thánh Đnh).

             I – SƠ THIN
            1- Tnh ch ngôn ng.
            2- Sng đúng gii hnh.
            3- Ly gii bn Patimôkha phòng h sáu căn.
            4- Tu tp Chánh Nim Tnh Giác Đnh.
            5- Tu tp Đnh Vô Lu, dit ngã x tâm, quét sch ngũ trin cái, đon dt tht kiết s  tc là ly dc ly ác pháp.
            6- Thiu dc tri túc.

            II – NH THIN
            1- Tu tp Đnh Nim Hơi Th.
            2- Đnh Dit Tm Gi T.
            3- Đnh Dit Tm Dit T.
            4- Hướng tâm tnh ch tm t.
            5- Tnh ch tm t.

             III – TAM THIN
             1- Tu tp Đnh Nim Hơi Th khéo tác ý.
             2- Nương hơi th hướng tâm, x ly sáu loi h tưởng đu tiên: sc, thinh, hương, v, xúc, pháp tưởng (ly h trú x).
            3- Tnh thc trong gic ng x mng tưởng.
            4- Dùng pháp hướng x ly 18 loi h tưởng.

            IV – T THIN
            1- Nương Đnh Nim Hơi Th khéo tác ý.
            2- Hướng tâm tnh ch âm thanh.
            3- Hướng tâm tnh ch các th.
            4- Hướng tâm tnh ch hơi th.
            5- Hướng tâm tnh ch các hành và hơi th.
            6- Tnh ch các hành và hơi th.
            7- Nương Đnh Nim Hơi Th khéo tác ý.

Trên đây là phn lý thuyết ca bn thin, còn phn thc hành đ nhp T Thin Thánh Đnh thì phi tu hc có căn bn, t thp đến cao. Đo Pht là đo đc nhân bn - nhân qu ca loài người, nó là chân lý ca con người, vì thế con người không có hai ba chân lý mà duy nht ch có mt mà thôi. Do nó là chân lý nên nó phi có chương trình tu hc như chương trình giáo dc kiến thc ngoài đi…”

Vài ý trao đổi về bài luận “CON ĐƯỜNG THIỀN ĐỊNH MÀ THẾ TÔN ĐÃ ĐI QUA” của thầy Chơn Thiện chúng tôi đã trình bày như trên.

Kính chúc thầy Chơn Thiện cùng quý phật tử và độc giả luôn sống trong “Hiện Tại An Lạc Trú” để giữ gìn và bảo vệ đạo Phật ngày càng phát triển, hưng thịnh. 

088-SO SÁNH THIỀN ĐÔNG ĐỘ, THIỀN ĐẠI THỪA VỚI THIỀN ĐẠO PHẬT. TL Thích Thông Lạc

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Con đường tu theo đạo Phật hiện giờ có muôn vạn nẻo, chọn sai pháp môn tu hành thì uổng phí một đời không có kết quả. Theo sử 33 vị Tổ sư Thiền Ấn Độ và Trung Hoa thì con đường thiền này do từ đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy. Qua câu chuyện niêm hoa trên núi Linh Thứu, ngài Ca Diếp mỉm cười thì chắc quý vị ai cũng biết rõ. Chúng tôi chẳng cần thuật lại làm gì cho mất thì giờ. Ngài Ca Diếp, Tổ thứ nhất bên Ấn Độ truyền xuống đến Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma.

Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Hoa và làm Tổ thứ Nhất tại đất nước này. Người Trung Hoa đắc thiền này đầu tiên là Thần Quang, sau này gọi là Nhị Tổ Huệ Khả. Bồ Đề Đạt Ma truyền đạo thiền này cho Huệ Khả qua câu chuyện an tâm. Chúng tôi xin nhắc lại câu chuyện để quý vị thưởng thức.

Thần Quang đến tìm Bồ Đề Đạt Ma để mong cầu pháp tu hành. Lúc bấy giờ Bồ Đề Đạt Ma đang ngồi nhìn vách đá nên Thần Quang đứng đợi chẳng dám động. Mãi đến hôm sau tuyết phủ lấp gối, Bồ Đề Đạt Ma mới quay ra hỏi:

              "Ngươi đến cầu gì mà phải khổ sở vất vả quá vậy?
              Thần Quang đáp:
              - Con đến cầu pháp.
              - Ta có pháp gì để ngươi cầu?
              - Bạch Hòa Thượng tâm con bất an.
              -  Ngươi lấy tâm ta an cho.
              Thần Quang đứng nhìn quanh quất chẳng tìm thấy tâm đâu, liền bạch:
              - Bạch Hòa Thượng, tâm ở đâu, làm sao con lấy được.
              - Ta đã an tâm ngươi rồi đó".

Thần Quang bèn quỳ xuống đảnh lễ Tổ nhận pháp an tâm. Ngay câu nói mà liền hiểu gọi là đốn ngộ. Như vậy Thần Quang đã ngộ pháp an tâm tức là ngộ Phật tánh còn gọi là Kiến tánh. Qua câu chuyện này quý vị có hiểu pháp an tâm không?

Để chúng tôi so sánh chỗ pháp an tâm và kinh Nguyên Thủy thì quý vị thấy rõ ràng. Theo kinh Tứ Niệm Xứ Phật đã dạy: “Vô thường, khổ, không, vô ngã.” Chỗ pháp an tâm của Bồ Đề Đạt Ma tương ưng chỗ Phật dạy tâm vốn không. Khi Thần Quang nhìn lại để tìm kiếm tâm thì tâm không thấy đâu, nhưng khi khởi niệm thì liền có tâm, không niệm thì không tâm.

Vậy khi không niệm tâm quý vị có an không? Vì không niệm thì còn chỗ nào gọi là phiền não Bồ Đề; thì còn chổ nào gọi là tham, sân, si, ái; thì còn chổ nào gọi là sanh tử. Cho nên Bồ Đề Đạt Ma gọi là an tâm. Vậy pháp môn an tâm của Bồ Đề Đạt Ma có giống pháp môn chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, bản lai diện mục hiện tiền của Lục Tổ Huệ Năng không?

Kính thưa quý vị phật tử, khi tâm chẳng nghĩ thiện nghĩ ác thì tâm ở trong trạng thái không niệm. Tâm ở trong trạng thái không niệm là tâm không. Tâm không là tâm không phiền não. Không phiền não là tâm an ổn. Tâm an ổn là an tâm. Như vậy bây giờ quý vị đã hiểu rõ hai pháp giống nhau không khác nhau phải không?

Chúng tôi xin kể lại câu chuyện Bản Lai diện mục để quý vị thưởng thức. Khi Huệ Minh đuổi theo Huệ Năng để giành y bát lại. Lục Tổ Huệ Năng biết chạy không thoát khỏi nên bỏ y bát bên vệ đường đứng đợi. Khi Huệ Minh đuổi kịp, Huệ Năng bình tĩnh bảo:

             - "Người đến đây cầu pháp hay cầu y bát? Nếu cầu y bát, thì y bát ở đây ngươi cứ lấy đi!
             Huệ Minh cúi đầu đảnh lễ tác bạch:
             - Con đến cầu pháp chẳng cầu y.
             - Chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, cái gì là Bản Lai diện mục của Thượng tọa Huệ Minh?
             Huệ Minh đảnh lễ Tổ nhận pháp Bản Lai diện mục rồi trở về."

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Bây giờ chúng ta đem hai pháp này so sánh với kinh phát triển, vì lúc nãy chúng ta đã đem so sánh với kinh Nguyên Thủy rồi. Kinh Kim Cang Bát Nhã có câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” do câu kinh này mà Lục Tổ Huệ Năng đã Kiến tánh. Nghĩa của câu kinh này dạy: đừng nên trụ tâm chỗ nào cả thì tâm kia hiện tiền.

Xin thưa với quý vị, tâm của chúng ta thường trụ ở ba chỗ: niệm thiện, niệm ác và không niệm. Kinh này dạy chúng ta ở chỗ không trụ. Không trụ tức là không niệm, không niệm tức là tâm vốn không, tâm vốn không tức là an tâm, an tâm tức là chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, chẳng nghĩ thiện nghĩ ác tức là Bản Lai diện mục, Bản Lai diện mục tức là Phật tánh. Chỗ vô trụ này còn nhiều tên khác nhau mà chúng ta từng gặp trong các kinh sách phát triển và kinh sách Thiền Đông Độ. Bấy giờ quý vị đã hiểu kinh và lời của Tổ đều khế hợp nhau, nên người đời sau gọi là Thiền Giáo đồng hành.

Thiền Đông Độ chia làm 3 giai đoạn, giai đoạn đầu thiền, giai đoại giữa thiền, giai đoạn cuối thiền. Ba giai đoạn gồm có:

              1. Từ pháp môn An Tâm đến pháp môn Bản Lai Diện Mục là giai đoạn đầu của Thiền Đông Độ.
              2. Từ số đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng đến Lâm Tế là giai đoạn giữa thiền.
              3. Từ số đệ tử của Lâm Tế đến Hư Vân Hòa Thượng và La Hỏa Thiền sư là giai đoạn cuối thiền.

Giai đoạn đầu thiền, sự khai ngộ cho đệ tử dễ hiểu, dễ ngộ, cho nên lúc bấy giờ người theo tu rất đông, nhất là thời kỳ Lục Tổ Huệ Năng, người nghe qua liền ngộ, chẳng cần phải moi đầu nặn óc tìm kiếm. Chúng ta phải nói Thiền Đông Độ cực thịnh nhất ở giai đoạn này như hoa thiền đến thời kỳ rộ nở.

Khi nhận ra pháp này, Thiền Đông Độ gọi là ngộ, ngộ xong rồi phải bảo nhậm còn gọi là tiệm tu, giữ tâm hay chúng sanh độ Phật. Vì vậy mà có từ ngữ “đốn ngộ rồi tiệm tu.” Tiệm tu có nghĩa là tu lần lần. Mục đích của thiền này là nhắm vào Phật tánh. Vì có ngộ được Phật tánh mới thành Phật nên gọi là Kiến tánh thành Phật. Ngộ Phật tánh tức là nhận ra pháp môn tu hành, nhận ra pháp môn tu hành tức là nhận ra pháp môn chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, chỗ chẳng nghĩ thiện nghĩ ác là chỗ chẳng có pháp môn, nên thiền này còn gọi là chẳng có pháp môn nào, chỗ chẳng có pháp môn nào biết lấy cái gì tu hành.

Do đó kinh Kim Cang dạy cách tu “Bồ Tát độ chúng sanh mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật.” Bát Nhã Tâm kinh dạy: “Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không.” Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Phản văn, văn tự tánh.” Kinh Viên Giác dạy: “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác.” Các Tổ sư thiền dạy: “Chăn trâu”, “Gọi ông chủ”, “Biết vọng liền buông”, “Tham thoại đầu, tham công án, khởi nghi tình v.v....

Thầy chúng tôi giải thích cách tu của kinh Kim Cang dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Thiền sư Huệ Hải cũng dạy như vậy. Thiền sư Dược Sơn dạy: “ngàn Thánh cũng chẳng làm”, nghĩa là: cái biết không cho mất, nhờ cái biết trong cái không niệm thiện niệm ác lâu ngày thuần thục nên gọi là da mỏng da dày đều rớt sạch. Giữ tâm chẳng niệm thiện niệm ác còn gọi là chăn trâu. Vọng tưởng hết gọi là hết chăn trâu. Hết chăn trâu là thành tựu cũng như kinh Kim Cang dạy độ hết chúng sanh là thành Phật.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử, việc làm này không phải dễ cho nên Tổ sư Hoàng Bá đã dạy:

               “Thoát khỏi trần lao việc chẳng thường” hoặc:
               “Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
               Hoa Mai đâu dễ ngửi mùi hương.”

Cho nên chăn trâu và độ chúng sanh mãi không hết, thiền sư mới nghĩ ra cách biết vọng liền buông. Thầy chúng tôi triển khai diệu pháp này để hồi phục Thiền Đông Độ và chấn hưng Thiền Tông Việt Nam. Trong thời gian chúng tôi theo học tại Thiền viện Chân Không, Thầy chúng tôi dùng phép an tâm khai ngộ chúng tôi và dạy chúng tôi cách tu biết vọng liền buông.

Kính thưa quý vị, kinh phát triển và Thiền Đông độ dạy cách tu quá đơn giản, nhưng kinh phát triển và Thiền Đông Độ không ngờ khi tâm hết vọng tưởng thì tâm không bao giờ chịu đứng yên một chỗ chẳng niệm thiện niệm ác mà lại lặng xuống rơi vào trạng thái mất tiêu, nên trong Thập mục ngưu đồ tranh thứ tám người trâu đều mất, giống như ở trạng thái hôn trầm, thùy miên vô ký, ngoan không đều có trạng thái mất tiêu người trâu đều mất.

Ở chỗ trạng thái hôn trầm thuỳ miên thì các thiền sư đều biết mặt nó, do đó các ngài lại một phen khổ sở không biết làm cách nào phá được nó. Qua những trang tự thuật của các ngài tu hành, chúng tôi biết các ngài không có cách phá. Cho đến vô ký, ngoan không thì trong phần tự thuật các ngài không có kể đến. Qua kinh nghiệm bản thân của chúng tôi thì các pháp tu từ các pháp độ chúng sinh, chăn trâu, gọi ông chủ và biết vọng liền buông đều không đủ lực dừng niệm thiện niệm ác thì làm sao phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, nên các ngài phải lấy dùi đóng vào chân, trèo lên cây ngồi thiền, lấy gốc cây tròn làm gối kê đầu. Những việc làm này chỉ là một trò đùa với hôn trầm, thùy miên, không thể hàng phục được nó.

Kính thưa quý vị, chúng tôi xin lưu ý quý vị ở chỗ này: khi chăn trâu, độ chúng sanh, biết vọng liền buông, các pháp này chỉ dừng được niệm thiện niệm ác thô, còn niệm thiện niệm ác vi tế thì không thể diệt được nó. Nên chúng tôi bảo rằng các pháp môn này không đủ lực. Vì thế quý vị tu hành suốt một thời gian dài 24 năm nay mà chưa hết niệm vi tế. Khi gặp nghịch cảnh quý vị nén được tâm nhưng không nén được loạn tưởng. Do nó mà chúng tôi bảo rằng quý vị không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký và loạn tưởng, thì các thiền sư dùng pháp tác ý thường gọi ông chủ. Ông chủ là pháp môn tác ý, pháp môn tác ý có nhiều pháp như: gọi ông chủ, sổ tức, niệm Phật, đề khởi thoại đầu, để tham thoại đầu, đề khởi nghi tình, để tham công án v.v...

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Muốn chiến thắng được loạn tưởng, hôn trầm, thùy miên thì chỉ có giới luật của Phật mới hàng phục được nó. Do vậy đức Phật mới dạy: “Giới sanh định.” Không thể giữ tâm ức chế tâm mà có được định. Người ta đi tìm định ngoài giới luật thì không bao giờ có định chân chính, chỉ có những định tưởng mà thôi. Định tiếng động 500 cỗ xe bò đi qua không nghe của ngoại đạo, định của ông Nhan Hồi tọa vong câu thân, định của thiền sư Dược Sơn như trồng hoa trên đá, định của Tổ Hám Sơn rung chuông gọi dậy, định của một vị thiền sư nhập 1000 năm dùng đồng loa đánh xuất định, định Không vô biên xứ tưởng, định Thức vô biên xứ tưởng, định Vô sở hữu xứ tưởng, định Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều không giải quyết được sanh, lão, bệnh, tử và cũng không chấm dứt tái sanh luân hồi, nên đức Phật đã ném bỏ như ném chiếc giày rách, chỉ có người sau không dám bỏ nên đem xếp loại trong các kinh điển của Phật.

Trên đây là những lời chúng tôi đã nói thẳng. Quý vị đừng vội tin chúng tôi mà cứ về suy ngẫm kỹ. Sau này khi có thì giờ chúng tôi sẽ đem so sánh Bốn Thiền của Phật với thiền của kinh phát triển và Thiền Đông Độ.

Nếu quý vị muốn tu theo Phật mà quý vị sợ tu giới luật thì quý vị tu cái gì? Chúng tôi xin nêu lên một ví dụ để quý vị rõ. Bây giờ quý vị hãy nhìn cây bồ đề trước cửa chùa cành lá sum suê, tươi tốt vì hằng ngày chư Tăng bón phân tưới nước rất kỹ, lúc nào cũng không cho cỏ mọc ở gốc cây. Bắt đầu quý vị hái lá bỏ, khi hái sạch lá quý vị tưởng không còn lá nữa, nào ngờ trong một thời gian ngắn lá bắt đầu đâm ra rất mạnh, như vậy biết bao giờ quý vị hái cho hết lá. Lá vì tự nơi gốc cây mà ra.

Chúng tôi tu giới luật đâu cần dừng vọng, giữ tâm, chỉ giữ gìn giới luật đừng cho sai phạm dù một lỗi nhỏ nhặt nào. Giữ gìn giới luật đừng cho sai phạm tức là chúng tôi đã xa lìa dục lạc thế gian, cũng giống như cây kia không bón phân tưới nước nữa thì cây phải cằn cỗi trơ cành trụi lá.

Còn quý vị cố dừng tâm giữ tâm không cho niệm thiện niệm ác khởi mà cứ luôn chạy theo dục lạc thế gian thì cũng giống như cây kia cứ bón phân tưới nước được đầy đủ thì làm sao quý vị hết vọng tưởng, hết hôn trầm được. Cho nên người ta thường bảo ham ăn ham ngủ nghĩa là ăn nhiều phải ngủ nhiều.

Qua kinh nghiệm bản thân của chúng tôi ăn ngày một bữa, ăn vừa đủ no, không ăn ráng, ăn thêm thì hôn trầm không dừng nó cũng tự dừng, còn ăn ráng ăn thêm thì hôn trầm tấn công không thể tránh khỏi. Ở đây chỉ ăn một bữa không ăn uống lặt vặt. Vậy mà có người sợ mất sức khỏe, ăn ngày một bữa mà ăn hơi nhiều hơn một chút còn bị hôn trầm, thùy miên thăm viếng, huống là quý vị ăn ngày hai ba bữa còn ăn uống thêm lặt vặt thì thử hỏi làm sao quý vị phá hôn trầm, thùy miên, vô ký được! Nên đức Phật đã dạy: “Ăn ít, ăn vừa đủ, không nên ăn ráng.”

Kính thưa quý vị, nếu quý vị tu hành mà không dừng được vọng tưởng, cũng không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký thì lâu ngày quý vị rơi vào các định vong thân như định của ngài Nhan Hồi, định trong Thập mục ngưu đồ, tranh số tám người trâu đều quên. Kinh phát triển không có cách thức xuất nhập định, nên chỉ dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Ở trạng thái này kinh phát triển gọi là thường định, đại định, định không xuất không nhập. Thiền Đông Độ cũng vậy, không có định xuất nhập. Còn Thập Mục Ngưu Đồ thì có nhập vào định vong thân người trâu đều quên. Theo kinh nghiệm bản thân của chúng tôi, nhìn cách thức buông vọng, dừng vọng thì biết cách thức nhập định của họ.

Bây giờ chúng tôi so sánh hai thứ thiền định của Phật và Tổ để quý vị suy ngẫm.

Theo thiền của đạo Phật, muốn hàng phục vọng tâm của mình nhập Sơ Thiền thì chúng tôi cần giữ gìn giới luật nghiêm túc. Sống lập ba hạnh ăn, ngủ và độc cư. Do ba hạnh này chúng tôi nghiêm trì được giới luật, bảo vệ được sáu căn tức là bảo vệ được tâm của chúng tôi. Bảo vệ được tâm tức là không cho tâm tiếp duyên bên ngoài tức là tâm không phóng dật.

Tâm không phóng dật tức là tâm ly dục ly ác pháp, nhờ đó tâm chúng tôi thanh tịnh, tâm thanh tịnh là tâm tỉnh thức, do sự tỉnh thức nên không còn bị loạn tưởng hôn trầm nhiều. Chúng tôi rất tỉnh giác, thường thấy biết cái tâm ham muốn và tham dục của mình còn nhiều hay ít, nhờ thấy được nó chúng tôi ly được dục và các ác pháp không làm tâm chúng tôi dao động; nhờ ly được dục chúng tôi thấy cuộc sống thoải mái, không bị ràng buộc bởi dục lạc thế gian. Tâm thường lặng lẽ, rỗng rang nhưng rất sáng suốt, mọi vật không qua được ý tứ của chúng tôi, như vậy là chúng tôi đã tỉnh giác trên mỗi niệm, tỉnh giác trên mỗi niệm là chúng tôi đã làm chủ được tâm mình, làm chủ được tâm mình tức là tâm bất động hay nói cách khác là chúng tôi nhập Bất Động Tâm Định.

Từ đó chúng tôi thấy mình làm chủ được tâm trong cuộc sống hằng ngày. Chúng tôi không làm khổ mình và cũng không làm khổ người. Điều này chúng tôi hiểu rõ lời Phật dạy ly dục sanh hỷ lạc là đúng, do ly dục và ác pháp mà tâm mình có giải thoát, do ly dục và ác pháp mà tâm mình trở thành thiền định, chứ không phải ngồi ức chế tâm cho hết vọng tưởng mà có thiền định. Chúng tôi nhập Sơ Thiền không có tốn công phu chút nào, chỉ cần sống đúng giới luật là đủ.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Chúng tôi xin lưu ý quý vị chỗ này nữa, một người muốn nhập Sơ Thiền không phải là một việc dễ làm. Phải biết xả bỏ tâm ác, phải biết từ bỏ tính xấu, phải không bép xép nhiều chuyện, phải biết thương yêu mọi người, phải biết tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, phải biết nhẫn nhục, phải biết tùy thuận, phải biết bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, phải biết xa lánh sắc dục, phải biết ăn ngày một bữa, phải biết ngủ ít, phải biết sống độc cư, phải biết tu tập đức hạnh giải thoát. Thực hiện đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người tức là đạo đức làm người.

Tóm lại quý vị phải xa lìa tâm danh lợi và ly tất cả dục lạc thế gian, có được như vậy thì mới nhập được Sơ Thiền. Kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ dạy phải dụng công tu tập hết sức mới độ hết chúng sanh, mới giữ được tâm chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Khi độ hết chúng sanh và chẳng nghĩ thiện nghĩ ác thì mới tương ưng bằng chúng tôi tu giới luật nhập Sơ Thiền nhưng Thiền Đông Độ và kinh sách phát triển thuộc về loại thiền ức chế tâm vì không ly dục ly ác pháp mà cứ bắt ép tâm tập trung diệt vọng tưởng, nên tâm tham, sân, si vẫn còn nguyên vẹn. Vì thế nên không thể có giải thoát được.

Cùng một kết quả thiền định gần giống như nhau, nhưng lại khác nhau, một bên tu hành giữ gìn giới luật gọi là thiền xả tâm. Vì thế Phật thường dạy: “Giới sanh định.” Do giữ gìn giới luật nên tâm tham, sân, si, mạn, nghi bị diệt sạch, nên được giải thoát hoàn toàn. Còn một bên không giữ giới luật, chỉ nhiếp tâm ức chế cho hết vọng tưởng gọi là thiền định, vì thế tâm tham, sân, si, mạn, nghi vẫn còn nguyên vẹn nên không được giải thoát.

 Đem so sánh hai thiền gần như tương đương với nhau, nhưng kết quả khác nhau, nên tên gọi cũng khác nhau. Kinh Nguyên Thủy gọi là ly dục ly ác pháp do ly dục sanh hỷ lạc nhập Sơ Thiền, kinh sách phát triển gọi là Kiến tánh thành Phật, Thiền Đông độ gọi là Bản Lai diện mục v.v...

 Kinh Nguyên Thủy được giải thoát do ly dục, ly bất thiện pháp. Ly dục ly bất thiện pháp là lìa tâm ham muốn và các ác pháp, do ly dục mà giải thoát được cái ăn, cái ngủ và các lòng ham muốn, nên cuộc sống không còn bon chen khổ sở, không còn phiền não sân hận tham lam si mê ganh tỵ v.v... Còn kinh sách phát triển và Thiền Tông dạy dừng hết vọng tưởng thì tâm được tự tại vô ngại, đói ăn, khát uống mệt ngủ, thậm chí ăn ngày bốn, năm bữa cũng chẳng sao, vui chơi ca hát đàn địch thỏa thích, sát sanh hại mạng cũng không tội. Những kết quả này của hai bên xin quý vị suy xét, chúng tôi chẳng có ý kiến gì về nó cả.

Kính thưa quý vị, ở đây tu tập giới luật mới có diệt được tầm nhưng chưa diệt được tứ, chúng tôi nói diệt tầm tức là nói không vọng khởi, chứ không phải diệt tầm tứ theo kiểu Nhị Thiền nên chúng tôi tiếp tục nương Định Niệm Hơi Thở để diệt tứ bằng pháp hướng tâm nhập Nhị Thiền. Đến đây chúng tôi xin lưu ý nhắc quý vị khi nào quý vị hết vọng tưởng mới tu pháp hướng tâm diệt tứ.

Ở đây chúng tôi giải thích thêm cho rõ để quý vị biết diệt tứ bằng cách nương vào hơi thở dùng pháp hướng diệt tầm tứ, chứ không phải tùy tức suông như Lục Diệu Pháp Môn. Còn nếu vọng tưởng chưa hết mà vội tu pháp hướng tâm diệt tứ thì quý vị tu hành hoài công vô ích, (vọng tưởng chưa hết có nghĩa là tâm ly dục ly ác pháp chưa sạch) mà còn làm điểm tựa cho hôn trầm, thùy miên, vô ký tấn công chứ chẳng ích lợi gì cho con đường tu hành của quý vị và về sau còn tai hại rất lớn cho quý vị vì bệnh thần kinh.

Khi chúng tôi tu giới luật ly dục diệt tầm tương ưng với tranh thứ 7 trong Thập mục ngưu đồ của Thiền Tông trâu quên còn người. Chỗ này tương ưng với kinh sách phát triển, “Độ hết chúng sanh thành Phật.” Khi chúng tôi diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền, chỗ này tương ưng với bức tranh thứ 8 trong Thập mục ngưu đồ người trâu đều quên. Chúng tôi biết rất rõ ràng diệt tầm là tâm không, diệt tứ là thân không. Xin lưu ý quý vị khi chúng tôi diệt tầm tứ thì chúng tôi không mất. Trời sét đánh không nghe, bởi chúng tôi đang ở trong một trạng thái hỷ lạc do sức định của Nhị Thiền sinh ra.

Trong thập mục ngưu đồ tranh 8 người trâu đều quên không có hỷ lạc, vì bị mất tiêu, mất tiêu nhưng tiếng động lớn còn nghe đó là trạng thái vong thân, còn gọi là tưởng vô sắc định, một trạng thái không tưởng giống như người trong mộng, do đó người nhập định tưởng còn mộng mị chiêm bao, đó là môi trường của chúng (tưởng thức) như  thiền sư Hoàng Bá, Hám Sơn, Trí Khải Đại sư, như Hư Vân Hòa thượng v.v... Phải nói rằng hầu hết các thiền sư Đông Độ đều còn nằm chiêm bao tức là còn tưởng dục.

Xưa đức Thế Tôn đã nhập được các định tưởng và nhập đến định cao nhất của tưởng là Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Khi nhập xong đức Phật xem xét lại thấy không có lợi ích thiết thực giải quyết những cái khổ của loài người, nên đức Phật ném bỏ, mặc dù thầy dạy đức Phật tu pháp môn này rất tha thiết yêu cầu đức Phật ở lại chia nửa tòa, nhưng đức Phật từ khước ra đi tìm chân lý. Chỗ này Thiền Đông Độ và Nhị Thiền của Phật không thể tương ưng nhau được, cũng như kinh sách phát triển không thể tương ưng với Sơ Thiền được.

Vì Sơ Thiền nhờ tu giới luật ly dục ly ác pháp nên tâm được an ổn thanh tịnh thường trống không lặng lẽ nhưng rất tỉnh giác sáng suốt và ý tứ làm chủ cuộc sống, tâm không bị chướng ngại, phiền não, đau khổ, ganh tỵ hơn thua v.v... Còn kinh sách phát triển khi độ hết chúng sanh thì tâm như như bất động. Giống như một vị thiền sư nào đó cứ ôm ấp chữ “Như” trên đầu nên qua sông quên mặc quần áo. Trong cuốn Góp Nhặt Cát Đá có thuật lại một vị thiền sinh khi sư phụ sai lấy cái thùng thì mang cái rổ, thiền sư cả cười cho là đệ tử của mình đắc đạo vô phân biệt.

Kính thưa quý vị, chỗ vô phân biệt này không phải là chỗ vô tâm vì cái biết vẫn còn nhưng không có phân biệt (chỗ này nói được chứ không làm được). Ở đây kinh sách phát triển và Thiền Đông độ chấp nhận chỗ này là tu xong, còn Thập mục ngưu đồ cho tu đến chỗ này chưa xong còn tiến tu đến tranh 8, tranh 9 và tranh 10.

Kính thưa quý vị, đến đây quý vị tự suy ngẫm sự chứng đạt này, chúng tôi không có ý kiến gì.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử! Người trâu đều quên mà trong Thập mục ngưu đồ chưa xác định tu ở mức độ nào tương ưng với kinh sách phát triển và Thiền Tông, ngược lại Thiền Tông và kinh sách phát triển cũng không xác định tu ở mức độ nào tương ưng mới đúng là tranh số 8. Mọi trạng thái lặng từ hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan không đều có trạng thái người trâu đều quên. Chỗ này khi quý vị về suy ngẫm lại khi nào bí quá quý vị hỏi các vị thiền sư Đông độ.

                                                                                                                      (còn nữa)

CHUYỂN ĐỔI NHÂN QUẢ 
            
              Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng Ni và Cư sĩ phật tử.

Kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ cho rằng độ hết chúng sanh hoặc chẳng nghĩ thiện nghĩ ác thì thành Phật. Vậy thành Phật rồi còn phải tu nữa hay không? Khi độ hết chúng sanh rồi có làm chủ được thân tâm hay không? Và có chấm dứt tái sanh luân hồi chưa? Cách thức làm chủ bằng cách nào?

Đây, những câu hỏi này chúng tôi xin nhường lời lại cho Tổ Bách Trượng trả lời quý vị. Tổ Bách Trượng dạy: “Chẳng muội nhân quả.” Ở đây quý vị phải hiểu câu nói này, đau là phải chịu đau, chết là phải chịu chết, chứ không thể nào làm chủ được nó. Chỉ chẳng mê muội trước nó là đủ, vì mê muội trước nó là sợ hãi, là buồn khổ, rên la, kêu khóc v.v... Ý của Tổ nói đứng trước các pháp ác tâm không hề dao động là đủ (chẳng mê muội).

Chúng tôi xin lập lại câu nói này để cho quý vị dễ hiểu hơn. Nghĩa là quý vị chẳng sợ hãi trước cơn đau bệnh, trước cái chết, trước cái tai nạn khổ sở là đủ, nghĩa là đừng sợ hãi các ác pháp. Vì quý vị thấy nó là huyễn giả, không thật, là không. Mọi sự vật, mọi hoàn cảnh xảy ra đều là huyễn giả không thật có. Do hiểu biết như vậy quý vị sẽ không sợ hãi. Vì thế Nhị Tổ Pháp Loa bệnh đau rên hừ hừ mà không làm chủ được cái đau, nên khi Tổ Huyền Quang hỏi, Ông trả lời theo kiểu Tổ Bá Trượng: “Gió thổi qua khe trúc.”

Tổ Bách Trượng mượn thuyết định mệnh để chứng minh Thiền Tông không làm chủ nhân quả. Câu chuyện Bách Trượng giả hồ, chúng tôi xin lưu ý quý vị, Tổ Bách Trượng mượn thuyết định mệnh chứ không phải là thuyết nhân quả. Còn đạo Phật thì chuyển nhân quả và làm chủ nhân quả nên nó không là số mệnh, định mệnh được.

Ví dụ: cùng hai đứa bé nhức răng ôm mặt khóc, một đứa con nhà giàu, một đứa con nhà nghèo. Đứa bé con nhà giàu được cha mẹ đưa đến nha sĩ chữa trị hoặc nhổ chiếc răng hư, đứa này không còn đau nhức chạy chơi vui cười. Còn đứa bé con nhà nghèo không có tiền đi nha sĩ nên phải chịu đau nhức, khóc mãi suốt ngày này sang ngày khác.

Kính thưa quý vị, người giàu có là do phước báo hữu lậu, biết bố thí, cúng dường đúng chánh pháp nên chuyển nghiệp nhân quả được, huống là chúng ta tu pháp môn giải thoát vô lậu thì phước báo vô lậu không thể nghĩ lường như muốn chết hồi nào thì chết, muốn sống hồi nào thì sống, không có luật định mệnh hay luật nhân quả nào cấm cản được sự làm chủ sống chết của chúng ta được nữa.

Kính thưa quý vị, xin quý vị lưu ý chỗ này, lúc nãy Tổ Bách Trượng dùng thuyết định mệnh. Còn qua câu chuyện chúng tôi vừa kể về hai đứa bé là thuyết nhân quả, mà thuyết nhân quả thì làm chủ được vì nó di chuyển và thay đổi được. Còn thuyết định mệnh thì không thay đổi được vì nó cố định. Cho nên dù có làm Phật thì cũng không làm chủ được cái nhân quả.

Như vậy thì quý vị đã phân biệt được luật nhân quả và luật định mệnh phải không? Hai thuyết này khác nhau chứ không giống nhau, nhưng nó chỉ giống nhau ở hành động nhân quả thiện ác mà thôi, còn có sự cố định đó là thuyết định mệnh, và có sự thay đổi đó là thuyết nhân quả.

Ví dụ: Đức Phật, ông Xá Lợi Phất, ông La Hầu La tự tại nhập Niết Bàn v.v... Bởi vậy người tu theo đạo Phật đến Tứ Thiền xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì không còn nghiệp đau, nghiệp chết tác dụng được vì thọ đã bị triệt tiêu trong định Tứ Thiền, như vậy mới gọi là làm chủ sanh tử. Làm chủ sanh tử là làm chủ nghiệp, làm chủ nghiệp là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh là xả thọ, xả thọ tức là đoạn ái, đoạn ái tức là chấm dứt sự đau khổ, còn chấm dứt sự tái sanh luân hồi thì phải thực hiện lậu tận trí. Như trong kinh Thập Nhị Nhân Duyên Phật dạy: “Vì có thọ mới có ái”, cho nên khi thọ diệt thì ái phải đoạn tận. Ở đây quý vị đã hiểu rõ.

Kính thưa quý vị, đến đây quý vị biết Tứ Thiền là một pháp môn rất quan trọng của đạo Phật trong sự làm chủ sống chết. Phật dạy 37 phẩm trợ đạo đều giúp cho pháp môn này để cho quý vị thành tựu giải thoát cá nhân của quý vị ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ, và còn ra khỏi thân đau khổ này. Chúng tôi xin quý vị lưu ý chỗ này thêm, thọ là then chốt của nghiệp ái. Chúng ta tự hỏi nghiệp để làm gì? Nghiệp để cho ai? Xin trả lời nghiệp để cho thọ. Ái để làm gì? Ái để cho ai? Xin trả lời ái để cho thọ. Vậy chúng ta tu hành dùng Tứ Thiền xả thọ thì nghiệp và ái còn tác dụng vào đâu cho nên gọi là diệt nghiệp đoạn ái. Diệt nghiệp là làm chủ thân tâm; đoạn ái là chấm dứt tái sanh luân hồi.

Con đường của đạo Phật dạy chúng ta tu hành quá rõ ràng không giống như Thiền Đông độ và kinh sách phát triển. Vả lại chúng ta đã biết: muốn nhập Tứ Thiền thì phải tịnh chỉ hơi thở. Hơi thở là mạng sống của con người, khi nhập định Tứ Thiền tịnh chỉ được hơi thở tức là làm chủ được mạng sống của mình, một loại thiền định làm chủ sự sống chết rất rõ ràng và cụ thể mà trong thế gian này chúng ta không ngờ lại có một pháp môn mầu nhiệm như vậy.

              TÂM VÔ TÂM

Kính thưa quý vị, chúng tôi xin chép ra đây một đoạn trong Thiền Luận của Đại Đức Suzuki: “Thấy tâm không thật thì tâm dứt, quên trâu tranh 7 vong ngưu tồn nhân, thấy người không thật thì người quên nốt tranh 8: nhân ngưu câu vong. Biết cái tâm không tâm, ấy là hiểu suốt Đạo Phật.” (Thiền luận tập thượng trang 616).

Nghe qua những lời dạy này quý vị có biết cách tu hay không? Hay chỉ cần thấy tâm không thật, người không thật là vọng tưởng hết là chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Nói được, không thể làm được. Phải không quý vị? Tri hành không hợp nhất. “Người và trâu đều quên thì từ lòng đất dũng mãnh vọt lên mặt trời tuệ, tượng trưng bằng cái vòng tròn viên giác, tranh 8, đó là tâm vô tâm.” (Thiền luận tập thượng trang 616).

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử, đến tranh 8 Thập mục ngưu đồ xác định người trâu đều quên mất, mới cho đó là tâm vô tâm. Còn kinh phát triển và Thiền Đông Độ trâu mất mà thằng chăn trâu còn, gọi là vô phân biệt, qua sông quên mặc quần áo, sai lấy cái thùng mang cái rổ, chỗ này không phải là vô tâm. Ở chỗ thập mục ngưu đồ tranh 8 mới là chỗ tâm vô tâm. Chỗ này mới gọi là năng sở không còn. Thầy chúng tôi dạy năng sở không còn là vô tâm hay là tranh số 8. Thập mục ngưu đồ cho chỗ vô tâm là chưa viên mãn nên bảo vô tâm còn cách một lớp rào, vì thế phải tiếp tục tu hành tiến tới tranh 9, tranh 10.

Kính thưa quý vị, cái vòng tròn tượng trưng cho trí tuệ từ trong lòng đất người trâu đều quên sanh ra. Thập mục ngưu đồ Thiền Tông không xác định được người trâu đều quên ở mức độ nào mà trí tuệ phát sáng. Hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không cũng có trạng thái người trâu đều quên, rồi cũng từ trong đó có trí tuệ phát sáng, cũng ngộ những công án, cũng thông suốt các lý luận của Thiền Tông và các kinh sách phát triển.

Những trí tuệ phát sáng này chúng tôi gọi là tưởng tuệ. Tưởng tuệ là do từ trong định tưởng phát ra, tùy theo ở mức độ nhập định tưởng lâu mau, sâu cạn và do đó có sự hiểu biết thấp cao. Tưởng tuệ là trí tưởng tượng suy nghĩ nghĩa lý trong các kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ chứ không có kinh nghiệm tu hành giải thoát như kinh Nguyên Thủy.

Câu: “chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, độ hết chúng sanh thành Phật, thấy tâm không thật thì tâm dứt, thấy người không thật thì người quên.” Những câu nói này là tưởng tuệ, không tu hành gì được, bằng chứng kinh sách thì nhiều mà người tu chẳng ra gì, nghe thì hữu lý mà thực hành thì không vô. Bởi vậy có hàng trăm hàng ngàn người theo tu với Mã Tổ mà người ngộ đạo, ngộ được tâm ngồi đạo tràng tu hành chỉ có 84 người nhưng đến khi thành tựu chỉ còn có 2, 3 người. Tức là những người nhập được định trong đó có thiền sư Dược Sơn.

Phải nói Thiền Đông Độ có nhiều đạo tràng chỉ có đạo tràng của Mã Tổ là số người tu đông nhất, nhập định được thì cũng không được mấy người, nhưng lại là định tưởng, định không làm chủ được sự sống chết. Loại thiền định này nhập để mà chơi cũng như Đức Phật nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ để mà biết phi tưởng phi phi tưởng xứ mà thôi thì còn có nghĩa lý gì cho cuộc đời tu hành.

Kính thưa quý vị, giai đoạn đầu thiền người ngộ thì đông mà tu thành tựu thì quá ít, không giống như câu nói kiến tánh thành Phật. Biết bao nhiêu người đã thấy chỗ không nghĩ thiện nghĩ ác mà có làm Phật được đâu? Mà có thành Phật chỗ nào? Do pháp môn tu không kết quả, các thiền sư phải thay đổi cách khai ngộ và cách tu, bắt đầu họ dùng các công án rắc rối hơn, hoặc đánh, hoặc la, hoặc hét để hạn chế người ngộ. Đó là giai đoạn giữa thiền. Bắt đầu từ các đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng đến Lâm Tế thì cách tu tập họ cũng còn giữ cách tu cũ, nhưng có thêm nhiều thứ thiền như:

                1- Lục diệu môn gồm có sáu pháp tu tập: sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh.
                2- Thiền hơi thở gồm có bốn pháp tu tập: phong, khí, suyển, tức.
                3- Pháp môn Tịnh Độ gồm có: Lục tự Di Đà.

 Thiền lục diệu pháp môn do Trí Khải đại sư sản sanh. Thiền hơi thở phong, khí, suyển, tức do một vị thiền sư (Cảnh Phong?), mà chúng tôi không nhớ tên rõ. Pháp môn Tịnh Độ do thiền sư Huệ Viễn lập Liên Trì Thư Xã và sớ giải kinh Tịnh Độ, thiền sư Diên Thọ Vĩnh Minh tán thán pháp môn này.

Khi con đường Thiền Đông Độ tu không có kết quả người ta mới sinh ra nhiều pháp môn như vậy. Nhưng mỗi pháp môn được sinh ra chỉ có sống một thời với người cha đẻ của nó rồi cũng chết yểu, vì thiếu kinh nghiệm chỉ do trí tưởng tượng tạo ra nên tu không có kết quả. Pháp môn Tịnh độ còn sống đến ngày nay là nhờ một nhóm thiền sư khéo léo làm chỗ nương tựa mê tín trong dân gian như: cầu an, cầu siêu, cúng sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu v.v... Họ sớ giải kinh sách Tịnh Độ: Nếu những người nào niệm Phật được nhất tâm, khi chết được sanh về Cực Lạc không còn tu tập. Còn những người nào niệm Phật chưa đạt được nhất tâm, nhưng sau khi chết cũng được sanh về Cực Lạc rồi ở cõi Cực Lạc lại tiếp tu tập cho đến khi được nhất tâm.”

Do sự tu tập tiện lợi và dễ dàng như vậy, nên già trẻ lớn bé đều đua nhau niệm Phật, dù niệm Phật ít hay nhiều đều cũng được sanh về nước Cực lạc. Người ta đặt ra 48 lời nguyện của đức Phật Di Đà để mọi người dựa vào đó mà nuôi hy vọng như trong sám Từ Vân có câu:

“Thiện nam tín nữ các người
Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra
Ta không rước ở nước Ta
Thệ không làm Phật chắc là không sai”

Nhưng đây chỉ là một thứ hy vọng ảo tưởng mà thôi, chứ sự thật không bao giờ có cõi Cực Lạc.

Tu thiền chẳng có kết quả, thường sống trong ảo giác Phật tánh nên không còn cách nào hơn, phải tưởng giải pháp môn Tịnh Độ để nuôi hy vọng sống thêm những ngày còn lại mà không bị mất mặt với quý phật tử.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử,

Bây giờ chúng tôi đem so sánh kinh sách Nguyên Thủy, kinh sách phát triển, Thiền Đông Độ với Thập Mục Ngưu Đồ. Chúng tôi xin nhắc lại kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ chấp nhận khi hết vọng tưởng là thành Phật, “độ hết chúng sanh thành Phật, chẳng nghĩ thiện nghĩ ác bản lai diện mục hiện tiền hay kiến tánh thành Phật.” Chỗ này kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ chỉ tương ưng với Thập mục ngưu đồ ở tranh số 7 “Ngưu vong tồn nhân.”

Thầy chúng tôi dạy trâu mất người chăn phải còn. Chỗ này Thầy chúng tôi cũng chỉ tương ưng với tranh 7 với kinh sách phát triển, với Thiền Đông Độ, nhưng không thể tương ưng với Thập mục ngưu đồ tranh 8 được. Kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ tu đến chỗ này được xem là thành Phật. Phật là Đại giác, giác là trí tuệ. Ngược lại Thập Mục Ngưu Đồ cho chỗ tu này chưa xong nên phải tiếp tục tu tới tranh 8 “Nhân ngưu câu vong”, người trâu đều mất, người trâu đều quên.

Kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ không có, nhưng kinh Nguyên Thủy thì tương ưng với Thập Mục Ngưu Đồ ở tranh 8, nhưng lại khác, khi người trâu đều quên thì Thập Mục Ngưu Đồ mất tiêu rồi phát ra trí tuệ, còn kinh Nguyên Thủy thì ở trong trạng thái hỷ lạc do định Nhị Thiền sanh như chúng tôi đã nói ở trên. Ở Thập Mục Ngưu Đồ, khi trí tuệ hiện ra thì hành giả thấy mình và vạn hữu là một. Nên thiền sư Thiền Lão dạy:

                "Thúy trúc huỳnh hoa phi ngoại vật,
                Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân."
                Dịch:
                "Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh ngoại
                Trăng trong mây bạc hiện toàn chân"

Thấy mọi vật là mình, mình là mọi vật là tranh số 9 phản bổn hoàn nguyên trong Thập mục ngưu đồ. Tu đến chỗ này sau một năm nhập thất, Thầy chúng tôi tuyên bố trước Tăng Ni và phật tử: Thầy đã về đến nhà tranh số 9 phản bổn hoàn nguyên. Sau khi ra thất Thầy chúng tôi cho xây cất Thiền viện Trúc Lâm, phát huy Thiền Tông Việt Nam để Tăng, Ni và phật tử có chỗ tu hành chân chính, đó là Thầy chúng tôi đang ở tranh 10, thõng tay vào chợ.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Thầy chúng tôi vừa dẫn dắt Tăng, Ni và phật tử và còn phải tự tu cho mình. Thế là cho đến hôm nay Thầy chúng tôi đã đi suốt quãng đường Thập Mục Ngưu Đồ Thiền Tông.

Kính thưa quý vị, như vậy xét qua cách thức tu hành để đi đến kết quả thì kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ giống nhau. Còn Thập Mục Ngưu Đồ thì không giống kinh sách phát triển và Thiền Đông độ. Riêng kinh Nguyên Thủy độc lập không giống kinh sách phát triển, Thiền Tông và Thập Mục Ngưu Đồ.

Cho nên pháp môn của Đức Phật hiện giờ trong các chùa hành trì là pháp môn phát triển, pháp môn tổng hợp. Vì thế, chúng ta đừng hiểu nó là phương tiện di chuyển mà phải hiểu mỗi pháp môn là một con đường đi. Mỗi con đường đi nó sẽ dẫn chúng ta đến một nơi riêng của nó.

Kính thưa quý vị, đến đây quý vị cần suy ngẫm kỹ chứ quý vị đừng hiểu trăm sông đều về biển cả. Đem pháp môn tu hành của Đức Phật ví dụ như vậy là sai. Vì mọi pháp môn tu hành không phải là những môn học được xếp loại thấp cao để nối tiếp nhau theo lớp lang. Mọi pháp môn có thấp cao tự riêng nó. Cho nên chúng ta tu đúng thì đúng ngay từ lúc ban đầu mà đã tu sai thì cũng tu sai ngay từ lúc ban đầu. Nếu đường đi về thành phố Hồ Chí Minh thì phải về thành phố, nếu đường đi về Tây Ninh thì phải về Tây Ninh. Không thể đi Tây Ninh mà về thành phố được, ngược lại cũng vậy.

Kính thưa quý vị, tranh Thập Mục Ngưu Đồ Thiền Tông do các thiền sư sau này tưởng giải sinh ra qua kinh nghiệm tu hành của mình nên đã đi khá xa hơn kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ. Nhưng các thiền sư vẫn chấp nhận cho đó là kết quả của Thiền Tông. Vậy chúng tôi xin quý vị cứ suy ngẫm, riêng chúng tôi chẳng có ý kiến gì hết. Nhất là hiện giờ người theo tu Thiền Đông Độ và kinh sách phát triển rất đông và thời gian cũng rất dài nhưng chẳng thấy ai làm chủ sự sống, chết, già, bệnh cụ thể. Hình thức ngồi thiền 2, 3 tiếng đồng hồ thì có mà chẳng có định gì cả, giỏi nhất của Thiền Đông Độ là hý luận trên công án.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử, bây giờ đến giai đoạn cuối thiền, cách khai ngộ vẫn giữ nguyên như cũ, nhưng đánh, la và hét thì các thiền sư giảm bớt. Cách tu thì hoàn toàn thay đổi hẳn. Họ không còn tu chăn trâu, gọi ông chủ hay biết vọng liền buông nữa, mà tham thoại đầu, tham công án khởi nghi tình. Các ngài cố ôm chặt khối nghi dùng sức mạnh của khối nghi mà tập trung tư tưởng hầu để ức chế vọng tưởng cho bằng được. Những điều ức chế tâm quá mạnh này khiến cho các thiền sư càng nén tâm nhiều. Và sự nén tâm nhiều này khiến cho các ngài nổi lên những cơn sân quá dữ dội. Những hành động và lời nói rất thô lỗ và hung ác, khi các ngài đối xử với các đệ tử cũng như đối với các phật tử. Thiền sư Lâm Tế, Mục Châu, Đạo Ngô, La Quả thiền sư v.v... Nhất là La Quả thiền sư dùng ngôn ngữ thô bạo kém văn hóa (Nhai lại đờm dãi).

Mặc dầu các thiền sư cố dùng khối nghi mong đè bẹp được vọng tưởng để đạt được định, nhưng sự thành tựu này cũng chẳng được gì vì chính họ đã đi xa dần giới luật và Đức Hạnh giải thoát của đạo Phật, nên càng ngày họ tu hành không có kết quả.

              Trong cuối thế kỷ thứ 20 này, Thiền Tông đã chết tại đất nước Trung Quốc. Thầy chúng tôi đã đi qua đó tham quan để tìm xem có vị thiền sư nào hay không. Chuyến đi đó Thầy chúng tôi không gặp.
                                                                                                                                                                   (còn nữa). 

THIỀN SƯ CÓ VỢ

Thiền Đông Độ không tu giới luật, nên thiền sư Bạch Vân Nhật Bổn đã hướng dẫn tu thiền và khai ngộ cho người Tây phương rất đông. Họ đã được thiền sư khai ngộ và đã tu hành chứng ngộ được đạo thiền, vậy mà họ kết hôn nhau làm thành vợ chồng (trong tập 3 trụ thiền của Philip Catro, do ông Đỗ Đình Đồng dịch). Thiền sư Suzuki vẫn có những tác phẩm thiền (Thiền Luận) danh tiếng trong thế kỷ 20 này, vậy mà ngài có một người vợ Mỹ, thì thử hỏi tu thiền như vậy làm sao thoát khổ chấm dứt tái sanh luân hồi được.

Nhưng có người bào chữa cho thiền sư, vì thiền sư có người vợ Mỹ để cùng nhau hợp tác mà viết ra những tác phẩm thiền bằng ngoại ngữ. Lời bào chữa này theo chúng tôi nghĩ không đúng. Vì đối với thiền sư Suzuki vẫn có những người bạn trai rất tâm đầu ý hợp. Qua việc làm của Ông, muốn phổ biến thiền sang Tây phương thì hầu hết những người bạn trai này cũng sẵn sàng giúp ông. Như vậy đó là một lý luận che đậy những sự phạm giới của Ông trong đạo Phật.

Thiền sư mà còn dâm dục thì làm sao mà tin họ giải thoát. Bởi vậy nguyên nhân đau khổ là do ái dục, cớ sao người ta lại nuôi ái dục mà gọi là chứng ngộ thiền giải thoát. Còn ái dục thì làm sao hết khổ. Ái dục còn làm sao chấm dứt sanh, lão, bệnh, tử được.

Hiện giờ Thầy chúng tôi phục hồi giai đoạn đầu Thiền Đông Độ. Hòa Thượng Duy Luật phục hồi giai đoạn cuối Thiền Đông Độ. Hòa Thượng Duy Luật luôn luôn kích bác Thầy chúng tôi, đệ tử của họ đem cuốn Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ 20 mổ xẻ chống bác Thầy chúng tôi. Tôi nghĩ cũng buồn cười, một con rắn độc lấy cái đuôi chửi cái đầu.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử, những người đang tu Thiền Đông Độ hiện giờ trong cảnh chờ đợi chén rơi, bát đổ, mèo kêu, chó sủa, hoa rơi, lá rụng để chứng ngộ đạo thiền. Chúng tôi không biết nghĩ như thế nào mà các thiền sinh đang ở trong cảnh phải chờ đợi như thế này. Quý vị cứ suy ngẫm.

Kính thưa quý vị, như chúng tôi đã nói ở trên Thiền sư Bách Trượng đã xác định Thiền Đông độ không làm chủ sanh tử được, chỉ dùng những danh từ hoa mỹ và những câu chuyện huyền thoại về việc làm chủ sanh tử để lừa dối, bịp người sau. Thiền sư Thường Chiếu cũng xác định rõ ràng để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa.

Một hôm thiền sư Thần Nghi hỏi thiền sư Thường Chiếu:

              - Bạch Hòa Thượng, khi Hòa Thượng trăm tuổi (chết) như thế nào?
              Thiền sư Thường Chiếu bảo:
              - Ta chết như người thường.
              Thiền sư Thần Nghi ngạc nhiên hỏi:
              - Như vậy Bồ Đề Đạt Ma là sao?
              Thiền sư Thường Chiếu đáp:
              - Đó là bọn đại bịp, một con chó sủa một bầy chó sủa theo.

Kính thưa quý vị, Bồ Đề Đạt Ma là Tổ thứ nhất, người đại diện cho Thiền Đông Độ và tượng trưng cho thiền phái này, là linh hồn của Thiền Đông Độ, cho nên hai thầy trò Thần Nghi ở đây không phải nói về cá nhân Bồ Đề Đạt Ma mà nói thẳng về Thiền Đông Độ. Như chúng ta đã biết thiền sư Bách Trượng là một vị đại thiền sư danh tiếng nhất Trung Quốc, ngài có bộ Thanh Quy Bách Trượng thì đủ biết ngài là một người có sự điều khiển chỉ huy một thiền đường lớn không phải nhỏ của Trung Quốc mà ngài còn xác định con đường Thiền Tông như vậy thì chuyện cha con ông Bàng Long Uẫn chỉ là một câu chuyện huyền thoại.

Ở Việt Nam, thiền sư Thường Chiếu là một danh tăng có nhiều uy tín trong đường Thiền Đông Độ, thế mà ngài đã thành thật xác định với chúng ta như vậy. Thiền Trúc Lâm Yên Tử truyền đến Tổ Huyền Quang là mất, mặc dù sau này có nhiều người muốn phục hồi lại nó nhưng không thành tựu chỉ vì họ chết cứng trong giáo điều Thiền Trúc Lâm.

Tổ Pháp Loa trước khi tịch đau rên hừ hừ, Tổ Huyền Quang hỏi:

              - Sao Hòa Thượng lại rên?
              Pháp Loa trả lời:
             - Gió thổi qua khe trúc và tống cho Huyền Quang một đạp.

Ở đây quý vị tự suy ngẫm, gió thổi qua khe trúc có thọ hay không? Do có thọ Pháp Loa mới rên, nếu không thọ làm gì có rên. Tổ Huyền Quang đã chứng kiến cái chết của Tổ Pháp Loa, cũng như chúng ta đã chứng kiến cái chết của Hòa Thượng Th.H, Hòa Thượng Th.H, Hòa Thượng H.H, Hòa Thượng B.H, Hòa Thượng Th.T và còn biết bao nhiêu vị tôn túc khác nữa. Từ đó Tổ Huyền Quang mới đem Mật Tông vào con đường thiền này làm thơ vịnh hoa bướm khiến cho nhà vua và ông Mạc Đĩnh Chi phải nghi ngờ mới dùng nàng Thị Bích thử Tổ.

            SO SÁNH CHÁNH ĐỊNH VÀ TÀ ĐỊNH

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử, để so sánh hai thứ định: Định của đạo Phật và định tưởng của ngoại đạo.

              1. Định trời sét không giật mình, định của Đức Phật (Nhị Thiền).                  
              2. Định tiếng động 500 cỗ xe bò đi ngang qua, định của Ngoại đạo (định tưởng).

Ở đây không phải chúng ta so sánh hai tiếng động lớn nhỏ mà so sánh ở trạng thái giật mình và ở mục đích giải thoát của định trời sét không giật mình, dù quý vị có đánh bể đồng loa thì cũng không xuất định.

Trời sét không giật mình tức là định đã diệt sáu thức cho nên cảm thọ không còn có, vì thế gọi là xả thọ. Xả thọ tức là diệt ái như chúng tôi đã nói ở trên, diệt ái tức là phải có định mà định ở đây thì phải bắt đầu từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền. Tứ Thiền là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh tức là xả thọ, hay làm chủ thọ nên không còn giật mình. Định Tứ Thiền là định xả thọ, còn định phá âm thanh là định Nhị Thiền, khi diệt tầm tứ thì sáu thức dừng nghỉ không hoạt động nên tai không còn nghe âm thanh dù âm thanh có to như tiếng sét cũng không nghe vì đã diệt Tầm Tứ.

Thiền định tưởng, dù định cao nhất của nó như định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định cũng còn giật mình, trừ Diệt Thọ Tưởng Định thì âm thanh sắc tướng đều bị diệt cả. Cho nên các thiền sư nhập định, tiếng đồng loa, tiếng chuông lắc vẫn đánh thức họ trong lúc nhập định. Thiền sư Hám Sơn lắc chuông tỉnh lại, thiền sư nhập 1000 năm dùng đồng loa đánh xuất định đều là những định chưa diệt tầm tứ, chưa xả thọ, nên chưa làm chủ thân, tâm, chưa chấm dứt tái sanh luân hồi. Phần nhiều các thiền sư nhập vào định này đều còn tưởng dục.

Chúng tôi xin lưu ý quý vị một lần nữa, còn tưởng dục tức là còn mộng mị chiêm bao. Tất cả thiền sư Đông Độ còn chiêm bao mộng mị.

 Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử, thiền định nào để lại nhục thân được?

- Thiền định nào cũng để lại nhục thân được, nhưng các loại định tưởng thì phải nhập những định cao hơn Không Vô Biên Xứ và Thức Vô Biên Xứ.

Để lại nhục thân không phải mục đích của đạo Phật, nên Đức Phật và các đệ tử của Ngài không có để lại, vì để lại nhục thân còn có mục đích cầu danh trong đó và đó cũng là một lối lừa đảo người đời sau.

Kính thưa quý vị, những điều chúng tôi đã phân giải ra đây là những điều chúng tôi đã trực tiếp trải nghiệm trong cuộc đời tu hành của chúng tôi. Chúng tôi đã thấu suốt rất rõ ràng từ đời sống tu sĩ, cư sĩ và đến các pháp môn, như thế nào đúng, như thế nào sai. Chúng tôi nói ra đây để Thầy chúng tôi và cũng như quý vị Tăng, Ni, phật tử hiểu rõ Phật pháp để trở về đúng với con đường tu hành của đạo Phật.

Chúng tôi không có ý xấu xa bài bác mọi con đường, mọi pháp môn tu hành của quý vị, của Thầy chúng tôi. Chúng tôi nói ra những điều này là vì chúng tôi đã hiểu rất rõ ràng mọi pháp môn, mọi con đường tu hành từ Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông, Thiền Đông Độ đến kinh sách phát triển và Nam Tông, Thiền Minh Sát v.v...

Chúng tôi không nỡ tâm cứ ngồi nhìn quý vị tu hành ngày tháng qua mau, sanh tử gần kề; chúng tôi cũng không thể chịu được nữa. Phải nói! Nói ra dù có tan xương nát thịt; nói ra dù chúng tôi có như thế nào, chúng tôi cũng đành cam chịu. Nói để Thầy chúng tôi chấn hưng lại Thiền Tông Việt Nam, làm sáng tỏ Thiền Tông Việt Nam mà không theo lối mòn của thiền phá giới và sống một đời sống phi phạm hạnh.

Nếu Thiền Tông Việt Nam sẽ phục hưng với nền đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả các loài chúng sanh thì ích lợi thiết thực cho loài người nói chung, cho dân tộc Việt Nam nói riêng, và thiền đức này sẽ sống mãi muôn đời trên thế gian này.

Kính thưa quý vị, khi chúng tôi nói ra điều này thì quý vị khó mà được gặp chúng tôi nữa.

 Tại sao? Chúng tôi nói ra vì Phật pháp, vì sự tồn vong của Phật pháp chứ không phải nói ra vì danh, vì lợi, vì tranh hơn thua cao thấp với quý vị, với Thầy chúng tôi. Chúng tôi đã xả bỏ hết danh lợi của cuộc đời, cho nên chúng tôi chẳng quản quý vị biết đến chúng tôi.

Biết đến chúng tôi để làm gì? Chúng tôi sẽ ẩn bóng để Thầy và huynh đệ chúng tôi hướng dẫn quý vị trên đường tu hành của đạo Phật.

Tu Viện Chơn Như chúng tôi sẽ trao lại cho cô Út Diệu Quang, khi cô nhập xong Tứ Thiền, cô sẽ đứng ra hướng dẫn các cháu con của những người cư sĩ quyết tâm theo cô tu hành. Tu viện này sẽ trở thành Tu Viện nữ cư sĩ thì lúc bấy giờ chúng tôi sẽ không còn ở lại đây nữa, nếu cô vững vàng trên sự hướng dẫn. Còn cô chưa đủ khả năng thì chúng tôi chưa ra đi xa vội mà chờ có người tu chứng được chân lý.

Kính thưa quý vị, tại sao chúng tôi phải ẩn bóng bỏ các vị mà đi? Xin thưa cùng quý vị có hai điều kiện:

Thứ nhất: khi chúng tôi còn ở lại, quý vị sẽ hiểu lầm chúng tôi là những người đem kinh nghiệm tu hành của mình đã đạt được ra tranh chấp hơn thua với quý vị và Thầy chúng tôi.

 Thứ hai: chúng tôi không muốn manh mún chia chẻ Phật pháp thành nhiều đoàn thể, phe nhóm và nhiều tông phái khác nhau để làm tan nát ngôi nhà Phật giáo. Từ xưa đến nay Phật giáo bị tâm danh lợi của loài người đã chia rẽ Phật giáo tan nát. Phật giáo đã mang trên mình hơn 20 vết thương bộ phái từ khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Bây giờ chúng ta không thể làm thêm một vết thương nữa. Xin quý vị thông cảm và hiểu cho.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Chúng tôi chỉ muốn những kinh nghiệm tu hành của chúng tôi được trao lại cho một vị thầy có đức độ, có uy tín, có giới luật với quý vị để vị thầy ấy xây dựng lại ngôi nhà chánh pháp của đạo Phật.

Theo chúng tôi tự nghĩ: Những kinh nghiệm tu hành của chúng tôi chỉ là những viên gạch nhỏ bé để chúng ta là những người con Phật phải xây dựng lại ngôi nhà Phật giáo mà từ lâu vô tình chúng ta đã bị ảnh hưởng mọi chiều hướng của các giáo phái ngoại đạo và bị ảnh hưởng những phong tục tập quán của dân tộc các nước trên thế gian này, đã khiến cho tòa nhà đạo đức Phật giáo sụp đổ tan tành, chỉ còn lại những giáo pháp lai căng trừu tượng, ảo giác, siêu hình mang cái tên Phật giáo, thật là đau xót vô cùng.

Đây là một nỗi đau đớn, đứt từng khúc ruột, nhức nhối tận tâm can chung của những người con Phật. 

              Bây giờ chúng ta phải làm gì? Hay cứ lấy mắt nhìn Phật giáo với những nỗi xót xa chết dần mòn trong tâm chúng ta!

TỨ THIỀN VẪN CÒN TRIỀN PHƯỢC

1- Sơ Thiền tuy ly dục ly ác pháp, tâm luôn bất động trước các pháp và các cảm thọ nhưng vẫn còn năm chi thiền Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm nên còn tướng, nhất là tầm tứ, vì vậy trong kinh Tăng Chi còn gọi là triền phược, triền phược ở đây là gốc lậu hoặc còn chưa diệt. Sơ thiền chỉ ly chứ chưa có diệt nên kinh gọi còn triền phược là rất đúng. Trạng thái Sơ thiền là một trạng thái của Trời Sơ Thiền (Sơ Thiền Thiên), còn cõi Trời tức là còn triền phược.

2- Đến Nhị Thiền mới diệt tầm tứ, diệt tầm tứ chỉ mới ngưng được ý thức nói riêng, nói chung là mới ngưng sáu thức, vì thế tưởng thức còn nên kinh nói nhập Nhị Thiền còn triền phược là đúng. Bởi vì thân nghiệp còn và trạng thái Nhị Thiền là trạng thái của Trời Nhị Thiền (Nhị Thiền Thiên), còn cõi trời tức là còn triền phược.

3- Đến Tam Thiền thì mới ly hỷ tưởng chứ chưa có diệt tưởng và lạc tưởng cũng còn chưa ly nên kinh gọi còn triền phược là đúng. Trạng thái Tam Thiền là trạng thái của Trời Tam Thiền (Tam Thiền Thiên), còn cõi trời tức là còn triền phược.

4- Đến Tứ Thiền xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, xả lạc tưởng, khổ tưởng và thanh tịnh tưởng. Ở đây chỉ xả tưởng chứ chưa diệt tưởng vì thế nên kinh gọi còn triền phược là đúng. Vì trạng thái Tứ Thiền là trạng thái của Trời Tứ Thiền (Tứ Thiền Thiên), còn cõi trời tức là còn triền phược.

Khi nhập xong Tứ Thiền chúng ta mới làm chủ được sanh, già, bệnh, chết chứ chưa chấm dứt được tái sanh luân hồi vì nguyên nhân tái sanh luân hồi còn nên Tứ Thiền vẫn còn triền phược.

Tại Tứ Thiền có hai ngả:…

…Ngả đi về Tam Minh, khi Lậu Tận Minh đạt được thì lậu hoặc đã được diệt sạch, ngả này chứng và trú vào Niết bàn tức là nhập vào Vô Tướng Tâm Định (1). Ngả tu tập này không biến thân ngũ uẩn thành đá và sống đúng ý nghĩa làm lợi ích cho chúng sanh dù còn một tấc hơi.

Tóm lại, trên đường tu hành để đến nơi đến chốn giải thoát thì phải chọn một Minh Sư đã đi trọn vẹn con đường này thì mới đủ kinh nghiệm hướng dẫn.

                                                                           Hết

.                                                                                                                                       .

 

Loạt bài "SO SÁNH THIỀN.ĐÔNG ĐỘ, THIỀN ĐẠI THỪA VỚI THIỀN ĐẠO PHẬT" được trích từ sách Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh và Đường Về Xứ Phật tập X.

(1) Vô Tướng Tâm Định, còn gọi là Bất Động Tâm Định, một loại thiền định không có ba tướng lậu hoặc: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Vô Tướng Tâm Định là một trạng thái tâm ly dục ly ác pháp nhưng không có năm chi tướng của Sơ Thiền: Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Vô Tướng Tâm Định tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

089-34 NĂM DỰNG LẠI CHÁNH PHÁP - CÓ NĂM THỨ BÁU KHÓ GẶP. TL Thích Thông Lạc

Lời BBT GNCN:  

Trong sách “Mười Hai Cửa Vào Đạo” (do NXB Tôn giáo - Hà Nội in xong và nộp lưu chiểu quý III năm 2009), ở bài “Có Năm Thứ Báu Khó Được” (trang 159 – 166) chúng tôi chú ý đến Ba trích đoạn sau đây:

1- “…Ba mươi bốn năm(1) chúng tôi dựng lại chánh pháp của Phật, đã giảng nói hết lời thế mà quý vị có hiểu được những gì đâu. Quý vị đã tu sai hết, giảng nói một đàng mà quý vị hiểu một nẻo,…

2- …ba mươi bốn năm(2) hướng dẫn người tu tập, đến giờ này chỉ có năm ba người làm chủ thân tâm được ba phần, còn phần sau cùng rốt ráo thì chưa thấy ai làm chủ tự tại sống chết. Bởi vậy Phật pháp tu hành đâu phải dễ dàng, cho nên đức Phật nói khó là phải…

3- …Ba mươi bốn năm(3) chúng tôi dựng lại chánh pháp của Phật, mong có người tu chứng để làm sống lại Phật giáo, nhưng khó vô cùng… khiến chúng tôi nhiều khi muốn vào Niết bàn cho xong, nhưng bỏ đi… thì làm sao chúng sanh biết đường tu tập. Phải kiên gan bền chí chờ người đủ nhân duyên phước báu, nhất là các cháu tuổi còn trẻ, chúng mới có đủ duyên tu tập chứng quả…”

(1), (2), (3): Trong bài này, Ba (3) lần Trưởng Lão nhấn mạnh “Ba Mươi Bốn (34) năm chúng tôi dựng lại chánh pháp…”. Không rõ Trưởng Lão viết bài này khi nào, và tính theo năm ấn bản 2009 mà 34 năm thì Trưởng Lão lấy mốc thời gian nào?

Nếu lấy 2009 – 34 = 1975, tức là Trưởng Lão “Dựng Lại Chánh Pháp” từ năm 1975 theo như sách ấn bản điện tử đã chú thích. Vậy năm 1975 Trưởng Lão bắt đầu hướng dẫn người tu tập có thực như thế không? Trong khi những kinh sách khác khẳng định năm 1980 Trưởng Lão mới tu xong.

Nếu tính thời gian từ lúc tu xong, Trưởng Lão mở lớp dạy người tu ngay thì thời điểm 34 năm sẽ kéo dài tới năm 2014 (1980 + 34 = 2014). Và trong thực tế Trưởng Lão đã “kiên gan bền chí chờ người đủ nhân duyên phước báu, nhất là các cháu tuổi còn trẻ, chúng mới có đủ duyên tu tập chứng quả… rồi Ngài mới nhập diệt vào năm 2013. (Nếu tính từ 1980 là 01 thì đến năm 2013 vừa đủ 34).

Đây là một sự khéo báo trước của Trưởng Lão, rành rành trước mắt mọi người cả mấy năm nhưng có ai biết. Như vậy điều khẳng định chắc chắn là đến nay đã có người tu chứng đạo tiếp nối Ngài giữ vững mạng mạch Phật Pháp. Nhưng người đó là ai? Trở lại quá khứ, đức Phật cũng không giao trách nhiệm cho bất cứ ai (kể cả ngài Ca diếp như trong câu chuyện Niêm Hoa Vi Tiếu bịa đặt). Ngày nay Trưởng Lão cũng vậy, Ngài không chỉ định ai thay thế Ngài mà chỉ nhấn mạnh: “Giới Luật là Thầy, Giới Luật bảo vệ mỗi người tự làm hòn đảo cho chính mình…”.  

Vậy chúng ta hãy đi cùng ông thầy Giới Luật. Ông thầy Giới Luật tròn đầy hoàn toàn xứng đáng là vị Thầy chân chánh của chúng ta. “Ở đâu có Giới Luật, ở đó có Trí Tuệ” “Giới Luật thanh tịnh làm Trí Tuệ thanh tịnh”. Trí Tuệ thanh tịnh tức là Trí Tuệ Ba Minh. Trí Tuệ Ba Minh tức là Minh, tức là ngọn đèn sáng dẫn dắt chúng sanh vượt qua đêm dài tăm tối vô minh.

Chúng tôi mong muốn không phải là Một mà là Nhiều ông Thầy Giới Luật, những người đệ tử ưu tú của Trưởng Lão sẽ làm sáng chói pháp Phật, sáng chói pháp Chơn Như. Mong quý phật tử và độc giả cùng chia sẻ thêm về vấn đề này. Mời quý vị cùng đọc bài pháp dưới đây:  

CÓ NĂM THỨ BÁU KHÓ ĐƯỢC
TL Thích Thông Lạc

1- GẶP PHẬT RA ĐỜI LÀ KHÓ

Được sinh ra đồng thời với đức Phật thật là một việc khó, cũng như sinh ra đồng thời với một người tu chứng làm chủ sinh, già, bệnh, chết là một việc khó. Cách đây hơn 2500 năm đức Phật ra đời, mãi cho đến nay giáo pháp của Người đã bị phủ dày một lớp, giáo lý của ngoại đạo đã làm mất dấu chánh pháp của Phật. Vì thế hiện giờ không còn ai biết đâu là chánh pháp của Phật để tu hành giải thoát.

Sinh ra đồng thời với một người tu chứng là một việc khó, thế mà mọi người không biết tích cực siêng năng tu hành thì thật là quá uổng. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Đức Như Lai chí chơn xuất hiện ở thế gian, thật là khó gặp”. Đúng vậy, lời dạy này rất đúng, hiện giờ chúng ta có mơ ước gặp Phật thì cũng chẳng bao giờ gặp được. Đó là việc khó thứ nhất, phải không quý vị?

2- NGƯỜI DIỄN GIẢNG ĐÚNG PHÁP NHƯ LAI THẬT LÀ KHÓ GẶP

Chúng ta là những người tu theo Phật giáo, mà được một người giảng dạy đúng chánh pháp của Phật thì đâu phải dễ dàng. Tất cả giảng sư hiện giờ đang thuyết giảng là thuyết giảng kinh sách phát triển theo kiến giải của các sư thầy, chứ không giảng đúng nghĩa lý tu hành làm chủ sinh già, bệnh, chết. Vì họ có tu hành làm chủ sinh, già, bệnh, chết đâu?

Chỉ có học chữ nghĩa kiến giải không đúng nghĩa lý chân thật của Phật dạy. Vì thế sự giảng dạy của các sư thầy không ai tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Cho nên hiện giờ không có một vị giảng sư nào dạy đúng nghĩa những lời dạy của đức Phật trong kinh điển. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Hạng người diễn giảng chánh pháp của Như Lai thật là khó gặp”.

Đúng vậy, hiện giờ gặp một người giảng dạy đúng chánh pháp của Phật thì khó vô cùng, vì người giảng đúng nghĩa lý những lời của Phật dạy phải là người tu chứng làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Còn những người tu chưa chứng giảng thuyết là nói sai Phật pháp. Đó là một việc khó thứ hai mà đức Phật đã dạy.

3- HIỂU ĐƯỢC CHÁNH PHÁP CỦA NHƯ LAI LÀ KHÓ

Khi một người tu chứng đạo làm chủ thân tâm giảng nói chánh pháp của Phật đâu phải ai nghe cũng hiểu hết, trăm vạn người chỉ mới được một hai người hiểu và tu tập đến nơi đến chốn, còn tất cả mọi người chỉ hiểu một cách cạn cợt nên không tích cực tu tập, chỉ tu chơi, tu cho có hình thức. Cho nên được nghe và hiểu chánh pháp của Phật là khó. Vậy chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Hạng người đã hiểu được chánh pháp của Như Lai thật là khó gặp”.

Đúng vậy, người hiểu được chánh pháp của Phật thật là ít. Trăm vạn người nghe chánh pháp của Phật mà tu chứng thì chỉ có một hai người là nhiều rồi, đôi khi còn không có người nào nữa. Đó là cái khó thứ ba mà đức Phật đã dạy. Theo kinh nghiệm dạy người tu tập xả tâm, ly dục ly ác pháp để làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì mọi người không hiểu, nên tu tập ức chế tâm, khiến ý thức tê liệt không làm chủ sinh, già, bệnh, chết mà lại rơi vào không tưởng, một trạng thái thiền bệnh mà hầu hết các sư thầy đều bị kẹt trong trạng thái này cho là mình đã tu chứng.Tu chứng đạo sao quý sư, thầy không làm chủ sinh, già, bệnh, chết, nên quý sư, thầy chết trong bệnh tật khổ đau tận cùng của kiếp làm người, thật đáng thương.

Bởi vậy, hiểu được chánh pháp của Phật thật là khó, nhưng quý vị rất ỷ lại vào sự hiểu biết của mình. Quý vị đều là những người tu hành chưa chứng, vì vậy sự hiểu biết còn rất nông cạn. Quý vị nên lắng nghe lại lời Phật dạy lần nữa: “Hạng người đã hiểu được chánh pháp của Như Lai thật là khó gặp”. Quý vị đừng xem thường Phật pháp dễ hiểu. Ba mươi bốn năm(1) chúng tôi dựng lại chánh pháp của Phật, đã giảng nói hết lời thế mà quý vị có hiểu được những gì đâu.

Quý vị đã tu sai hết, giảng nói một đàng mà quý vị hiểu một nẻo, nên khi kiểm tra lại quý vị đã tu sai cả. Bởi vậy, hiểu được Chánh pháp của Phật không phải dễ đâu quý vị ạ! Đó là lời dạy thứ ba của đức Phật. Phật pháp khó hiểu nên quý vị hãy lưu ý, đừng ỷ mình và cho mình là hạng người có trí tuệ, quý vị đã lầm.

4- THỰC HÀNH PHÁP NHƯ LAI LÀ KHÓ

Phật pháp hiểu đúng thì mới tu tập đúng, còn hiểu sai thì làm sao tu tập đúng được. Hiểu đúng mà thực hành còn khó thay, huống chi là hiểu sai. Phải không quý vị? Cho nên pháp thực hành là khó chớ không phải dễ, nếu dễ thì mọi người đã tu chứng từ lâu. Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Hạng người thực hành thành tựu được chánh pháp của Như Lai thật là khó gặp”.

Đúng vậy, lời dạy của đức Phật nghiệm lại ba mươi bốn năm(2) hướng dẫn người tu tập, đến giờ này chỉ có năm ba người làm chủ thân tâm được ba phần, còn phần sau cùng rốt ráo thì chưa thấy ai làm chủ tự tại sống chết. Bởi vậy Phật pháp tu hành đâu phải dễ dàng, cho nên đức Phật nói khó là phải.

Bỏ hết cuộc đời tu hành mà không làm chủ sinh, già, bệnh, chết là quá dở. Vậy quý vị hãy xét lại mình về bốn điều khó mà đức Phật đã dạy, mình có duyên gặp và hiểu biết đầy đủ giáo pháp này chưa? Nếu chưa hiểu thì hãy tìm bậc tu hành chứng đạo. Tìm những bậc thiện hữu tri thức chứng đạo để thưa hỏi cho rõ ràng, chớ đừng tự một mình nghiên cứu thì chúng tôi e rằng quý vị sẽ đi tìm tà pháp giống như kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ.

Một lần nữa, muốn tu hành làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết thì quý vị hãy thưa hỏi với những người đã tu chứng, rồi nghiên cứu cho kỹ chớ đừng cho mình là người có trí tuệ, trí tuệ của quý vị chỉ là trí tuệ của người phàm phu. Đem trí tuệ phàm phu mà hiểu Phật pháp thì tôi e rằng quý vị chỉ là những người mù rờ voi.

Nếu có duyên và hiểu biết đầy đủ chánh Phật pháp, thì quý vị tu hành chứng đắc sẽ không còn xa nữa. Đó là một điều khó thứ tư quý vị cần lưu ý để thưa hỏi, thì con đường tu tập của quý vị không còn sai lầm nữa.

5- CỨU ĐỘ CHÚNG SANH LÀ MỘT ĐIỀU KHÓ

Chúng sanh thiếu phước, nên khi một người tu chứng đạo xong, đem những kinh nghiệm tu chứng của mình ra dạy để mọi người cùng được giải thoát, nhưng khi đem ra dạy thì gặp biết bao nhiêu là gian nan khổ ải. Bởi vậy tu viện Chơn Như phải trải qua biết bao sóng gió, nếu không phải là người ly dục ly ác pháp thì sẽ nhập vào Niết Bàn từ lâu. Thầy thấy rõ nhân quả của chúng sanh rất mỏng, nên lại càng cố gắng để dựng lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho bằng được, đó là để giúp cho chúng sanh sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.

Chỉ cần dựng lại nền đạo đức của Phật giáo là giúp cho chúng sanh sống thiện, làm mọi việc thiện. Nhờ đó mới đủ phước báu tu tập, kế tiếp mới làm chủ được sinh, già, bệnh, chết. Muốn độ thoát chúng sanh thật là cam go, muôn vàn sự thử thách. Cho nên đức Phật dạy: “Hạng người có tài xoay sở vào nguy khốn để cứu độ chúng sanh  thật là khó gặp”. (Trường A Hàm tập 1 trang 113)

Đúng vậy, độ chúng sanh rất khó, nên một người không đủ khả năng khó xoay trở vào nguy ra khốn để cứu độ chúng sanh.

Ba mươi bốn năm(3) chúng tôi dựng lại chánh pháp của Phật, mong có người tu chứng để làm sống lại Phật giáo, nhưng khó vô cùng. Trí tuệ của mỗi người sao mà hiểu Phật pháp một cách sai lầm quá lớn, dạy tu tập một đàng mà mọi người hiểu một nẻo, khiến chúng tôi nhiều khi muốn vào Niết bàn cho xong, nhưng bỏ đi thì rất tội nghiệp. Bỏ đi thì làm sao chúng sanh biết đường tu tập. Phải kiên gan bền chí chờ người đủ nhân duyên phước báu, nhất là các cháu tuổi còn trẻ, chúng mới có đủ duyên tu tập chứng quả. Chớ những người lớn tuổi bị nhiễm ô giáo pháp ngoại đạo sâu nặng nên hiểu sai chánh pháp của Phật, vì thế họ tu tập sai lời chỉ dạy nên biết chừng nào chứng đạo.

090-BÀI THỈNH NGUYỆN SÁM HỐI. TL Thích Thông Lạc

BBT GNCN giới thiệu:

Về HT Thích Thanh Từ đã dẫn:

“Năm 1986, Hòa thượng (Thích Thanh Từ) dời Chân Không về Thường Chiếu. Khí hậu nơi đây khắc nghiệt khiến việc tu thiền gặp nhiều khó khăn. Hè năm sau, Hòa thượng lên chùa Quan Âm ở Đà Lạt tịnh dưỡng. Một đêm, ngài mộng thấy mình ôm cổ chim Phụng Hoàng bay cao. Tỉnh giấc, nghiệm lại điềm mộng, ngài suy nghĩ “Thường Chiếu, tuy là nơi giảng dạy Tăng Ni Phật tử đến tu học đông đảo, nhưng vẫn còn nhiều giới hạn cho việc tu thiền…” (Lời ghi trong “Quá trình thành lập” Thiền Viện Trúc Lâm - Nguồn: http://thuongchieu.net/index.php/component/content/article?id=454).

Một vị tu sĩ đã hết cả cuộc đời tu tập và giảng dạy bao nhiêu lớp người tu, mà khi đêm nằm ngủ vẫn còn mộng mị chiêm bao?!!! Đó là Thánh hay Phàm? Người có chút hiểu biết về Phật pháp thì nhận ra ngay rằng vị tu sĩ ấy vẫn còn phàm phu hơn cả phàm phu. “Dục Phụng Hoàng” tức dục thế gian cao ngất, còn có tâm thánh ở đâu? Vậy mà sao HT chẳng tự biết mình?

Và cố HT Chơn Như – Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã dạy:

“Khi một người tu chứng đạo làm chủ thân tâm giảng nói chánh pháp của Phật đâu phải ai nghe cũng hiểu hết, trăm vạn người chỉ mới được một hai người hiểu và tu tập đến nơi đến chốn, còn tất cả mọi người chỉ hiểu một cách cạn cợt nên không tích cực tu tập, chỉ tu chơi, tu cho có hình thức…”

             “Chúng sanh thiếu phước, nên khi một người tu chứng đạo xong, đem những kinh nghiệm tu chứng của mình ra dạy để mọi người cùng được giải thoát, nhưng khi đem ra dạy thì gặp biết bao nhiêu là gian nan khổ ải…”  Trích từ: http://giotnangchonnhu.org/index.php?mod=detail&ID_theloai=16&ID_theloaitin=2&ID_tintuc=456

Trưởng Lão Thích Thông Lạc, bậc chân tu có trái tim từ bi yêu thương sâu rộng như đất trời, dạt dào mênh mang như biển cả. Nhưng đối với Ngài, thế vẫn còn chưa đủ. Khiêm tốn hạ mình trước một vị Thầy (phàm phu) và các huynh đệ đồng môn thì mấy mươi thế kỷ nay chưa có được một người như thế.

GNCN xin giới thiệu “Bài Thỉnh Nguyện Sám Hối” của Trưởng Lão Thích Thông Lạc với Thầy của Ngài và các huynh đệ đồng môn.

BÀI THỈNH NGUYỆN SÁM HỐI
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Phương Minh ghi chép từ Mp3.

               Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
               Kính bạch Thầy và đại chúng,
               Con tỳ-kheo Thích Thông Lạc, hôm nay có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ tác bạch sám hối(1).

              Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
              Kính bạch Thầy và đại chúng,
              Từ ngày con về Chơn Không học thiền với Thầy, con đã ngộ những gì và tu hành như thế nào.

Kính bạch Thầy và đại chúng,

Trong ba tháng hạ năm ấy (năm 1970) con đã nghe Thầy giảng kinh Kim Cang đến câu: “Bồ tát độ chúng sanh trong bốn loài mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật”. Thầy giảng câu này cho chúng con, đó là vọng tưởng, độ hết chúng sanh tức là hết vọng tưởng, hết vọng tưởng tức là thành Phật.

Lại nữa, cũng kinh đó Thầy giảng câu: “Hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc và quá khứ tâm bất khả đắc”. Con ngộ câu này: tâm quá khứ và vị lai là vọng tưởng, tâm hiện tại là tác ý. Ngộ hai câu kinh này con đặt trọn niềm tin ở Thầy là một thiền sư đắc đạo mới hiểu được như vậy.

Quét hết vọng tưởng, dùng tác ý để thành Phật, lúc bấy giờ tâm con đều buông xuống hết. Con không còn tha thiết cái ăn, cái ngủ, cái mặc dẹp sạch, cả ngủ nghỉ con cũng không còn ham thích nữa. Con không còn tham học hay tìm hiểu về kinh sách nào. Con từ khước dịch thuật khi Thầy giao cho con một tập kinh trong bộ Đại Tạng, con từ giã tất cả những gì của thế gian, quyết lòng thực hiện cho bằng được.

Trong chúng chỉ có mười huynh đệ cùng nhau tu học, con thường tìm cách xa bạn bè, tránh nói chuyện tào lao, nghị luận, tìm nơi vắng vẻ, năng nổ tu hành.

Con tự nghĩ người xưa chỉ ngộ một câu rồi dẹp tất cả, tìm lấy con đường giải thoát cho mình như ngài Đại Mai ngộ câu “Tứ tâm, tức Phật”, dời Mã Tổ đến núi Đại Mai nỗ lực tu hành. Lục Tổ Huệ Năng ngộ câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” từ giã mẹ già đến chùa Quỳnh Mai nỗ lực thực hiện, quét sạch vọng tưởng trong lao tác, chẳng học tập gì hết. Ngài Dược Sơn ngộ câu: “Nhướng mày, chớp mắt, không nhướng mày, chớp mắt, ba năm không làm một điều gì hết, da mỏng da dày đều hết sạch”. Bởi vậy ngộ là để tu chứ không phải tìm văn trích cú, hiểu biết nhiều, kiến giải sâu. Ngộ là để thực hiện sự làm chủ thân tâm mình ra khỏi nhà sanh tử luân hồi. 

Kính bạch Thầy và đại chúng,

Suốt mười năm trong thất con quét sạch vọng tưởng, dùng tác ý. Đầu tiên con được Thầy dạy pháp môn Tri Vọng (Biết vọng liền buông), nhờ pháp môn này con đã dẹp gần hết vọng tưởng nhưng thật chưa sạch. Năm cuối cùng con dùng pháp hơi thở nhiếp sạch, nhiếp mạnh, hoàn toàn ức chế được tâm mình. Con thành tựu dùng tác ý kéo dài thời gian này bảy ngày đêm liên tục không biết đói khát.

Tiếp tục suốt hai tháng con không còn nghe, thấy, biết gì bên ngoài và không còn cảm giác đau nhức, nóng lạnh khó chịu. Duy nhất con không mất tâm thức, tâm thức của con rất tỉnh táo.

Rồi một hôm ngón chân con đụng vào bàn Phật, hơi thở con bắt đầu thở trở lại. Biến cố xảy ra trong con, toàn thân con có sự thay đổi. Con có cảm giác như toàn thân con nhẹ nhàng thanh thản, các công án, các tắc ở trong Bích Nham Lục con đều hiểu rõ. Con thấy các Tổ tu như thế nào chứng, tu như thế nào không chứng, con biết sạch, cũng như hiện giờ Thầy và con là một hay là hai con cũng đều biết. Con đã có trí tuệ và có thiền định. Thầy nói con, con đều đáp đúng như ý của Thầy, không bao giờ con đáp sai ý. Thầy lấy kinh Lăng Già ấn chứng cho con. Sau này con có về trinh Thầy hai lần nữa những trạng thái trong định, Thầy đều cho rằng tất cả những điều mà con nhập định là đúng.

Kính bạch Thầy và đại chúng,

Khi về trình Thầy lần đầu tiên, biết duyên mình chưa đủ với chúng sanh, con khéo léo xin Thầy ra đi. Trước là để niềm tin cho chúng thấy sự nhập định và làm chủ sự sống chết của con để họ theo Thầy tu tập và con sẽ ghi lại những kinh nghiệm để lại cho Thầy, nhưng Thầy yêu cầu con ở lại giúp Thầy chấn hưng thiền Lý, Trần. Do sự yêu cầu này con ở lại đem hết sức mình giúp Thầy giữ gìn con đường Thiền Tông phát triển lâu dài.

Mười năm làm Phật sự đã qua, con gặp nhiều cay đắng cam go và thử thách vô vàn, con chẳng sờn lòng, nghĩ Thầy trò hiểu nhau như lời Thầy đã dạy con: “Chẳng sợ ngại gì, chỉ Thầy trò hiểu nhau là hơn hết”, con tin ở lời này.

Kính bạch Thầy và đại chúng,

Con chẳng tự xưng mình chứng quả A-la-hán, nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Khi gặp thầy Đắc Pháp ở Thường Chiếu, Thầy có giảng nói về trạng thái của sơ thiền cho đến tứ thiền, con đáp lại lời Thầy: “giống thì có giống nhưng có chỗ không giống”. Cũng như Tứ Không, Diệt Tận Định, chẳng có ai trực tiếp dạy con nhập các thiền, các định này nên làm sao dám xác định nhập các thiền các định, chỉ dò theo trạng thái lúc nhập, lúc nhiếp tâm nhập định, không chừng theo kiến giải chữ nghĩa trong kinh điển mà nói ra. Đó là kiến thức chứ không phải thiền định.

Và con cũng chẳng bao giờ tự khoe mình có thần thông phép lạ xuất hồn nói túc mạng. Thế mà người ta đồn đại, nhất là từ ngày thầy Thông Huyễn (Chân Quang) trú tại Chơn Như, sự đồn đại ấy càng ngày càng nhiều.

Kính bạch Thầy và đại chúng,

Sự hiểu biết của tri tuệ học hỏi làm sao hiểu được kinh điển, nội tâm tu hành của kẻ khác. Thầy Thông Huyễn là một người thông minh, có trí nhớ đặc biệt và có học thức nhưng kiến giải qua sự hiểu biết của trí thế gian thì bảo sao không xây dựng trên ảo tưởng huyền thoại, và đó cũng là sở trường của thầy Thông Huyễn.

Kính bạch Thầy và đại chúng,

Hôm nay nhân duyên làm Phật sự của con không đủ nên xin Thầy và đại chúng chứng minh, kể từ ngày nay con sẽ không chỉ dạy kinh nghiệm này cho ai nữa, nó là một thứ thiền ngoại đạo như lời Thầy đã dạy. Đất nước này, thời buổi này, Thầy là người có công chấn hưng lại Thiền Tông Việt Nam. Con là đệ tử của Thầy, trợ giúp Thầy, vô tình đã làm Thầy buồn. Vậy con xin sám hối Thầy và đại chúng. Từ nay về sau con không làm phiền lòng Thầy nữa. Mỗi tháng con sẽ về xin thỉnh nguyện sám hối một lần để có những lỗi lầm nhờ Thầy và đại chúng chỉ dạy cho, để được con làm tròn bổn phận là người đệ tử biết ơn sâu dày.

Kính bạch Thầy và đại chúng,

Ơn nghĩa Thầy khai ngộ con thấu suốt được lý giải thoát sanh tử, làm sao con quên được. Lời khích lệ năm xưa còn văng vẳng bên tai” “Phật pháp còn mãi thế gian là còn người tu chứng”, những lời này ghi khắc mãi trong tâm con. Ngày nay con đã làm chủ được thân tâm, bản ngã đã tiêu mòn, danh lợi đã sạch, sanh tử đã tự tại là nhờ ơn đức của Thầy. Ơn đức này sánh dường trời bể, hơn cả công sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, biết lấy chi so sánh được. Một lần nữa con cúi xin Thầy mở lượng từ bi lân mẫn cho con sám hối. Từ đây về sau con sẽ làm Thầy vui lòng để đền đáp ơn sâu dày trong muôn một.

Sau cùng con xin phép Thầy, khi Thầy ra đi con sẽ cùng Thầy, cùng với Thầy ra đi nếu chẳng còn ai theo con tu học nữa. Khi con ra đi, con không lưu lại dấu vết gì, nếu lưu lại con tự nghĩ là một việc làm bất nghĩa.

              Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.  
             (Bài thỉnh nguyện sám hối này ngày 30 tháng 2 năm Canh Ngọ, tức ngày 26 tháng 3 năm 1990 tại thiền viện Thường Chiếu).

           Chú thích:

           (1) Quý phật tử và độc giả theo dõi toàn bộ “Bài Thỉnh Nguyện Sám Hối” và những lời tâm huyết của Trưởng Lão đối với Thầy của mình - tức HT Thanh Từ - cùng các huynh đệ đồng môn tại thiền viện Thường Chiếu, từ phút 28 băng 51a đến phút 17 băng 51b trong 61 cuộn băng Mp3 dạy về “Đường Lối Tu Tập Của Đạo Phật”).
 
 

 

091-DẪN TÂM VÀO ĐẠO,... PHÁP HƯỚNG TÂM. TL Thích Thông Lạc

DẪN TÂM VÀO ĐẠO, ĐỪNG DẪN ĐẠO VÀO TÂM
(Ghi chép từ bài 13, Mp3.  Giáo án tu tập giới hành.)

Đừng dẫn đạo vào tâm như thế nào?

Dẫn đạo vào tâm là nghe nhiều, đọc nhiều kinh sách mà không có thực hành, hoặc có thực hành cũng chỉ là thực hành bằng hình thức lấy lệ. Càng học nhiều, càng nghe nhiều, bản ngã càng to lớn thì tâm tham danh thích lợi càng nhiều nên làm đứt mất đường lối tu tập giải thoát của họ, cho nên suốt đời họ chẳng có sự giải thoát mà chỉ có sự đam mê. Bởi vậy Thầy dạy: “Đừng dẫn đạo vào tâm” là vậy.

Cô Diệu Quang dạy không chịu giải thích cho các con mà phải tự các con tìm cách diệt ngã xả tâm ham muốn của mình. Và cũng từ đó họ tự triển khai trí tuệ thông minh vô sư của tư tuệ. Phần nhiều đời nay người ta “Dẫn đạo vào tâm” chứ ít ai biết cách “Dẫn tâm vào đạo”.

Trong kinh Nguyên thủy Phật dạy “Như lý tác ý”, đó là “dẫn tâm vào đạo”. Trong kinh Tiểu Thừa Phật dạy “Pháp hướng tâm” tức là “Pháp dẫn tâm”. Xưa đức Phật còn tại thế không có cho ghi chép kinh sách chỉ vì sợ các đệ tử của mình “Dẫn đạo vào tâm” nên đức Phật chỉ nói để cho tu tập mà không cho ghi chép lại. Đến sau này kết tập mới có kinh sách. Nhưng cũng từ khi có kinh sách thì người ta tu khó chứng đạo.  Chỉ vì họ đã dẫn đạo vào tâm quá nhiều rồi phát triển những kiến giải, tưởng giải, viết rất nhiều kinh sách làm lệch lạc con đường tu của đạo Phật.

Đạo Phật bây giờ là đạo Phật triết lý, đạo Phật mê tín, đạo Phật khoa học, đạo Phật siêu việt, không có một tôn giáo nào hơn được đạo Phật. Theo Thầy thiết nghĩ đạo Phật không có triết lý, không có mê tín, không có khoa học, không có siêu việt.

Đạo Phật chỉ thuần là đạo của con người như bao nhiêu con người khác trong thế gian này. Nhưng người đó phải biết sống một đời sống an vui, sống không làm khổ mình khổ người, sống thanh thản trước mọi diễn biến của nhân quả và luôn luôn lúc nào cũng làm chủ được nhân quả. Khi nghe đến đây, các con hãy cố gắng tu tập khắc phục tâm mình cho được, chừng nào khắc phục được Thầy sẽ giảng tiếp những giai đoạn sau này.

PHÁP HƯỚNG TÂM
Những Lời Gốc Phật Dạy, Tập I

“Này các thầy tỳ-kheo! Do không như lý tác ý các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng”.

“Này các thầy tỳ-kheo! Do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh được đoạn trừ”. 

Chú giải:

Người phàm phu tục tử và những người tu hành theo pháp môn của Đại Thừa, do không biết pháp Như Lý Tác Ý nên hằng ngày sống trong các lậu hoặc mà không biết lậu hoặc, vì thế lậu hoặc chưa sinh lại sinh khởi, lậu hoặc đã sinh lại tăng trưởng, do đó cuộc sống khổ đau lại càng khổ đau hơn. Cho nên đoạn kinh này dạy: “Này các thầy tỳ-kheo! Do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng”.

Đời người sinh ra không gặp chánh pháp của Phật, nên phải chịu nhiều sự khổ đau của kiếp làm người trong qui luật nhân quả. Ngược lại, được sinh làm người, được gặp chánh pháp của Phật, thì người ấy là người có diễm phúc nhất trần gian, vì gặp được chánh pháp nên được nghe lời dạy này: “Này các thầy tỳ-kheo! Do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh được đoạn trừ”.

Nói đến lậu hoặc là nói đến sự đau khổ của con người; nhưng muốn cho kiếp làm người không còn khổ đau để được sống yên vui, thanh thản, an lạc và vô sự  thì nên y theo lời Đức Phật nhắc nhở các vị tỳ-kheo phải luôn luôn tu tập pháp hướng tâm “Như lý tác ý”. Nếu không dùng pháp hướng tâm như lý tác ý thì sự đau khổ sẽ đến với quý vị và sẽ làm cho quý vị khổ đau hơn nhiều. Nếu quý vị biết dùng pháp “như lý tác ý” hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm thì sự khổ đau sẽ không đến với quý vị và sẽ chấm dứt vĩnh viễn.

Qua đoạn kinh ngắn gọn như trên Đức Phật đã xác định pháp “Như Lý Tác Ý” rất là nhiệm mầu, nó giúp cho chúng ta thoát mọi sự khổ đau trong kiếp sống làm người, làm chủ được nhân quả và cả sự tái sanh luân hồi. Như thế pháp “Như Lý Tác Y” có một công năng rất lớn trên đường tu tập theo Đạo Phật để đạt được kết quả như ý muốn “làm chủ sanh già, bệnh, chết”.

Lúc còn đang nhập thất, chúng tôi ngộ được pháp “Như Lý Tác Ý” nên suốt trong sáu tháng tinh cần tu tập pháp này với câu trạch pháp: “Tâm như cục đất phải ly dục ly ác pháp nhập sơ thiền”. Chỉ có câu gắn gọn như vậy mà chúng tôi đã nhập được Sơ Thiền một cách dễ dàng không có khó khăn. Chín năm trời nhập thất, tu không đúng pháp rất là vất vả gian nan, nhưng đến khi dùng pháp “Như Lý Tác Ý” chỉ có thời gian ngắn mà chúng tôi làm chủ được thân tâm, kết quả giải thoát hoàn toàn.

092-ĐỌC SÁCH GIÙM BẠN - Quoi Phu.

Lời BBT GNCN,
                Kính thưa quý Phật tử và độc giả!

Chúng tôi vừa nhận được bài viết của tác giả Quoi Phu gửi đến với chủ đề đọc sách giùm bạn. Qua những trích đoạn và bình luận của tác giả về hai tác phẩm “Bồ tát tại gia, Bồ tát xuất gia” (Thích Nhất Hạnh, NXB Lá Bối 1991) và “Chánh pháp và Hạnh phúc” (HT Thích Minh Châu, NXB Tôn giáo 2001). Nhận thấy từ một số trích đoạn và lời bình của Quoi Phu có giá trị giúp quý Phật tử và độc giả có thêm tư liệu để tư duy về “Chánh Đạo, Tà Đạo” hầu chọn lựa cho mình con đường tu học không bị lầm lạc bởi kinh sách phát triển Đại Thừa và Thiền Tông.

Trước khi tìm hiểu những lời bình của Quoi Phu, chúng tôi xin giới thiệu đến quý vị trích đoạn những lời dạy của Trưởng Lão Thích Thông Lạc có liên quan với nội dung này:

...“Đc Pht đã xác đnh: “Không x tâm tham thì nhân luân hi không dt”. Nh li dy này chúng ta biết rõ nguyên nhân luân hi là tâm tham. Cho nên, người nào tâm còn tham là còn luân hi; người nào dt tâm tham là dt luân hi. Do li dy xác đnh này mà trên đường tu tp chúng ta biết rõ mình còn luân hi hay đã hết luân hi. Tâm tham còn là còn luân hi, tâm tham hết là hết luân hi.

Như vy đo Pht không có dy điu gì là mơ h tru tượng mê tín, mà là mt s luân hi rt c th rõ ràng. Vì tâm tôi hết tham thì s tương ưng nơi đâu tâm không có tham, còn tâm tôi có tham thì tôi phi tương ưng vi tâm tham ca mi người trên thế gian này, vì mi người trên thế gian này tâm đu có tham. Luân hi là như vy, là mt điu thc tế như vy, không th có ai chi b được thuyết luân hi này là không có. Anh còn tham thì anh tránh đâu khi ch luân hi; anh hết tham thì luân hi chng làm gì anh được. Ví như: tâm tham ca anh là mt tng đá, dù anh không mun nó chìm xung đáy h, nhưng khi ném nó xung h thì nó vn chìm xung tn đáy. Còn tâm anh không tham ví như git du, dù anh mun nó chìm xung đáy h, nhưng khi ném nó xung h nó vn ni.

Qua ý nghĩa này chúng ta mi hiu rõ nghĩa li Pht dy: “Ta ch còn có mt kiếp này na mà thôi”. Như vy mt người đã tu chng đo thì không còn luân hi tr li thế gian này na, dù người y có mun cũng không được, vì h đã tr thành git du ri, trong thế gian này còn ch nào đâu mà tương ưng h tái sanh luân hi? Cho nên thuyết B Tát tu thành chánh qu còn tr li đ chúng sanh là hc thuyết ca Bà La Môn. Khi tu tp hết tham ri, bây gi vì đ chúng sanh nên phi tu tp tham tr li đ luân hi. Cũng như hc thuyết Pht tánh. Đã là Pht tánh là tánh giác, mà li còn mê mui chui vào cái đãy da hôi thi (thân t đi), li còn tham chùa to Pht ln, tham xe hơi nhà lu, v.v… Pht tánh là tánh giác thì làm sao có điu vô lý này được. Phi không các bn? Đúng là cái lý thuyết Pht tánh là la đo mi người. T ra lòng đi bi, B Tát thương xót chúng sanh như con mt. Tht ra mình tu chưa xong mà mun làm c xe ln đ chúng sanh. Tht là mt người mù dn đường cho mt đám người mù.

Luân hi không phi là linh hn đi luân hi, như mi người tưởng, mà là nghip tham đi luân hi. Cho nên người tu hành là c tâm tu tp to thành nghip không tham nơi tâm mình. Tâm không còn nghip tham thì chm dt luân hi. Do nhng li dy này, chúng ta biết mình tu tp đến đâu. Có làm ch sanh t và chm dt luân hi được chưa? Tu tp có gii thoát hay chưa gii thoát đu biết rt rõ ràng. Vì tu tp đến đâu có kết qu đến đó. Cho nên đc Pht nói: “Pháp Ta không có thi gian, đến đ mà thy...”

Tu theo Pht giáo chúng ta không s lm đường lc li, vì gii lut là mt nn tng vng chc. Ai không sng đúng gii lut thì biết người đó tu không đúng pháp. Dù h có nói nhp Sơ Thin, Nh Thin, Tam Thin, T Thin mà gii lut không nghiêm chnh thì biết h chưa ly dc ly bt thin pháp. Chưa ly dc, ly bt thin pháp thì Sơ Thin còn chưa nhp được, hung là Tam thin, T Thin và làm ch sanh, t, chm dt luân hi, ch là vng ng mà thôi. Nh nhng li dy này, chúng ta xét v Thin Tông và Đi Tha mi biết rõ giáo pháp ca h là giáo pháp la đo"...

 

ĐỌC SÁCH GIÙM BẠN
Quoi Phu

               I. BỒ TÁT TẠI GIA, BỒ TÁT XUẤT GIA?
                                                                                                   (Thích Nhất Hạnh – NXB Lá Bối 1991)

Kinh Trường Bộ tập I (kinh Đại bát Niết bàn) trang 618: “Này các tỳ kheo, có thể là vị tỳ kheo hay vị đa văn hay một vị quản chúng nói: “Nầy hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Đức Phật, tự thân lãnh thọ, như vậy là pháp, như vậy là luật, như vậy là lời dạy của đạo sư. Nầy các tỳ kheo, các ngươi chớ vội tán thán, chớ vội huỷ báng…mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu nghe được cần phải được học hỏi kỹ lưỡng rồi đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với luật. Khi đem so sánh với kinh, đối chiếu với luật, nếu chúng không phù hợp với kinh, không tương ứng với luật thời các ngươi có thể kết luận: chắc chắn những lời dạy này không phải là lời dạy của đức Phật và vị tỳ kheo ấy đã thọ giáo sai lầm” (Lời dạy cuối cùng của Đức Phật trong kinh Đại-bát Niết-bàn- Trường bộ kinh Nikaya)

- Trang 4 có đoạn: Muốn xứng đáng là Phật tử, ta phải là một vị Bồ tát, không thể là một vị Thanh văn. Thanh văn là con ghẻ, Bồ tát mới là con chính thống của Bụt”.

Lời bình: Thanh văn, Duyên giác là Tiểu Thừa mà đại diện là thập đại đệ tử của đức Phật. Bồ tát là Đại Thừa. Sư Ông chê thập đại đệ tử không xứng đáng là Phật tử. Nếu đem so với Kinh Nikaya thì câu nầy không phù hợp với kinh vì trong Kinh, thập đại đệ tử được Đức Phật tuyển chọn để phụ giúp Ngài truyền bá giáo lý, giáo pháp. Sư Ông đánh giá “Thanh văn là con ghẻ, Bồ tát là con chính thống của Bụt” cũng không phù hợp với Kinh.

- Trang 5 có đoạn: Người Đại Thừa gọi các bậc Thanh văn, Duyên giác là Nhị thừa có nghỉa là hai cỗ xe đầu. Bồ tát thừa hay đệ Tam thừa là cỗ xe thứ ba lớn hơn, chở được nhiều người hơn. Trong thời các kinh Đại Thừa vừa xuất hiện, các đại đệ tử của Bụt như thầy Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề v.v. đều bị xem là những người Tiểu Thừa.

Trong tiến trình công phá tư tưởng Thanh văn, kinh Duy-ma-cật đã đi một bước rất xa. Kinh đích danh chỉ trích những phương pháp hành trì và tu chứng của các đại đệ tử của Bụt. Con đường hành trì của Thanh văn là pháp nhỏ. Con đường hành trì của Đại Thừa là pháp lớn”.

Lời bình: Câu trên có những điểm không phù hợp với kinh là “thuật ngữ Tiểu Thừa và Đại Thừa không có trong Kinh Nikaya” nên cũng không có cỗ xe lớn, cỗ xe nhỏ, lại càng sai trật khi gọi thập đại đệ tử là Tiểu Thừa.

- Trang 9 có đoạn: Tất cả những kinh Đại Thừa đợt I như kinh Bát-nhã, kinh Đại Bảo tích, kinh Hoa Nghiêm, kinh Duy-ma-cật… đều là những quả đại pháo bắn vào hàng ngũ những người Thanh-văn, đả phá đường lối tu học của họ đồng thời quảng bá tư tưởng của đạo Bụt Đại Thừa. Trong số đó, kinh Duy-ma-cật là kinh công phá trực tiếp và mạnh mẽ nhất. Kinh đã không ngần ngại đích danh chỉ trích từng vị trong thập đại đệ tử của Bụt về tư tưởng và phương cách tu trì của họ”.

Lời bình: Cụm từ “những quả đại pháo bắn vào hàng ngũ những người Thanh-văn, đả phá đường lối tu học của họ. Công phá, chỉ trích từng vị trong thập đại đệ tử” tức là công phá chỉ trích Đức Phật!

- Trang 18 có đoạn: Kinh nầy có tính cách rất thực tế, xây dựng mẫu người lý tưởng của Bồ-tát tại gia cũng như Bồ-tát xuất gia. Kinh rất hay nhưng lâu nay được rất ít người để ý… Quy y Bụt là phải thực tâm muốn thành Bụt, I want to take refuge on you, but I also want to become like you. Con muốn thành Bụt có đủ 32 tướng trang nghiêm. Quy y như vậy mới xứng đáng…”.

- Trang 19 có đoạn: “Nếu chỉ nói: Con về nương tựa nơi Bụt và suốt vô lương kiếp con chỉ có thể và chỉ muốn nắm áo Bụt thôi thì không bao giờ con có được như Ngài. Con chỉ có thể là Thanh văn, con chỉ có thể tối đa là đắc quả A-la-hán. Thái độ ấy, hành trì ấy, theo giáo lý Đại Thừa chưa phải là quy y Bụt”.

Lời bình: Kinh phỉ báng Thập đại đệ tử của đức Phật mà Sư Ông khen rất hay. Sư Ông cần 32 tướng tốt để làm gì? Theo phần sau của sách Bồ-tát tại gia, bồ-tát xuất gia, người tu Phật có thể vào dâm phòng, tửu quán nên phải đẹp trai đẹp gái, phải thế không? Người tu Phật mà chê bai quả vị A-la-hán thì không phải là người tu Phật. Sư Ông chê bai quả vị A-la-hán nên cũng không phải là người tu Phật.  

- Trang 50 có đoạn: Giá (preventive, prohibitive) tức là ngăn ngừa, không cho mình rơi vào chỗ lầm lỗi gây đau khổ cho người và cho mình. Theo tinh thần Đại Thừa thì giới Tiểu Thừa chỉ có khả năng GIÁ thôi. Đại Thừa đi xa hơn và nói rằng một người nữ có thể dùng nhan sắc của mình dẫn dụ những chàng trai hiếu sắc để đưa họ từ từ vào con đường tu học nghỉa là dùng phương tiện quyền xảo và như là không phạm giới”.

Lời bình: Các ni làm theo chỉ dạy của Sư Ông thì phải dự trữ mặt hàng có chữ O.K. mới quyền xảo không mang bầu! Còn nếu không thì có ngày phải vào bệnh viện phụ sản khám thai!

- Trang 69-70 có đoạn:Thầy Xá Lợi Phất nói: “Tôi thấy chỗ này là đồi núi, chỗ kia là hầm hố chông gai, sỏi đá bùn lầy làm sao mà thanh tịnh được?” Vị Phạm vương nói rằng: “Do tâm của mình mà mình thấy như vậy. Nếu tâm của mình thanh tịnh thì tự nhiên mình thấy cõi này thanh tịnh”. Lúc đó Bụt muốn chứng minh lời nói của vị Phạm vương là thật, Ngài liền đưa chân ra, dí ngón chân cái xuống mặt đất, thì tự nhiên tất cả Tam thiên Đại thiên thế giới đều biến chuyển thành ra một cõi vô cùng trang nghiêm thanh tịnh, giống như cõi Vô lượng Công đức Bảo trang nghiêm của Bụt. Những bùn lầy nước đọng, những kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạn trược đều biến mất hết và thầy Xá-lợi-phất thấy mình đang ở trong Tam thiên Đại thiên thế giới thanh tịnh. Đó mới thật là cõi tịnh độ của Phật Thích Ca. Nhưng với tâm nhị thừa, tâm của người chỉ mong trốn tránh đau khổ để đi tìm Niết bàn cho riêng mình thì không thể thấy được những trang nghiêm, những thanh tịnh đó của cõi Bụt. Tại sao chư Bụt thành công trong việc dựng lên những cõi tịnh độ đẹp như cõi cực lạc của Bụt A-di-đà? Nào là ao sen bảy báu, nào là cành vàng lá ngọc, trong khi đó thì cõi cực lạc của thầy mình lại là thế giới ta bà xấu xa như vậy? Đó là tại mình chứ không phải tại thầy mình…"

Lời bình: Đạo Phật là đạo trí tuệ lấy chánh kiến chánh tư duy làm kim chỉ nam. Sư Ông quảng bá “đạo Bụt mê tín” làm mê muội Phật tử là gây nghiệp ác. Sư Ông muốn biết bậc trí tuệ đệ nhất Xá-lợi-phất đã có công chuyển mê khai ngộ trong tăng đoàn như thế nào thì tôi sẽ trích trong kinh Nikaya cho Sư Ông đọc. Sư Ông học cao hiểu rộng sao còn mê tín thế! Bịa ra cái tâm nhị thừa để nhục mạ thập đại đệ tử là gây nghiệp ác. Bịa ra vàng ngọc châu báu ở cõi cực lạc là gây nghiệp ác. Sư Ông rành luật nhân quả sao còn gây nghiệp ác?

- Trang 83 có đoạn: Với các vị Bồ-tát thì dâm phòng, tửu tứ cũng là đạo tràng, cũng là chỗ để mình hành đạo. Khi mình có một tâm niệm Bồ-tát thì đi vào những chỗ ấy là để mình có dịp hóa độ cho người…”

Lời bình: Dâm phòng thì có dâm nữ, đôi khi có cả dâm nam. Sư Ông định hoá độ cho dâm nữ hay cho cả hai? Dâm nam mà gặp dâm nữ thì Sư Ông định hoá độ cách nào đây? Vào dâm phòng mà bị Sida thì trời cứu. Sư Ông liệu có hoá độ nổi không? Sư Ông có đến đó hoá độ cho dâm nữ nào chưa?

- Trang 90 có đoạn: “…ông Duy-ma-cật đến và nói về phương cách thực tập thiền Đại Thừa. Rồi ông kết luận rằng Xá-lợi-phất ngồi thiền như vậy là chưa đúng…. Ngồi ngay nơi giữa thị tứ mà thân tâm không động thì mới là ngồi thiền cao”.

Lời bình: Chỉ trích Xá-lợi-phất ngồi thiền chưa đúng tức là gián tiếp chê phương pháp thiền giới-định-tuệ của đức Phật. Duy-ma-cật bảo đến chỗ thị tứ ngồi thiền. Sư Ông cũng đồng tình với Duy-ma-cật nên thích nơi thị tứ nhưng chắc Sư Ông không ra giữa chợ ngồi thiền. Ở nơi thị tứ đông vui, bá tánh rộn rịp lui tới cúng dường. Chùa nơi thị tứ giàu tiền tỷ tha hồ xài!

- Trang 91 có đoạn: “Thiền Đại Thừa thì không có trong, không có ngoài, không cần phải nói chuyện đoạn trừ phiền não để đi vào Niết-bàn.

- Trang 92 có đoạn: …ông Duy-ma-cật đến và nói Mục-kiền-liên thuyết pháp như vậy là chưa hay. Theo ông bản chất của pháp là chân lý tuyệt đối, là thực tại tuyệt đối, ta không thể dùng khái niệm và ngôn từ để diễn tả được”.

- Trang 103 có đoạn: “Thật ra thầy Tu-bồ-đề là một vị uyên thâm về Bát-nhã, về KHÔNG. Nhưng cái KHÔNG này chưa phải là Bát-nhã mà chỉ là cái KHÔNG trong Tiểu Thừa thôi. Ý kinh muốn nói vào thời gian này thầy Tu-bồ-đề chưa phải là thầy Tu-bồ-đề của Đại Thừa, thầy đang còn là Tiểu Thừa, đang ưa thích pháp nhỏ".

- Trang 104 có đoạn: “Nầy thầy Phú-lâu-na! Thầy phải cẩn thận, thầy đã biết tâm địa của những thầy nầy ra sao không mà thầy vội vàng nói PHÁP? Có thể những người nầy đang chờ PHÁP VÔ THƯỢNG của Đại Thừa mà thầy lại đem những PHÁP nhỏ của Tiểu Thừa ra dạy cho họ thì tội nghiệp cho họ lắm…”

Lời bình: Ba đoạn văn trên dựa theo hý luận của Bát-nhã tâm kinh, nếu bạn quán chiếu được “bạn không có thân, không có tâm” thì bạn lập tức qua hết thảy khổ ách. Hý luận là kiểu “lý thuyết không đem thực hành được” nên Thiền của Đại Thừa (nếu có) cũng không đem thực hành được. Sư Ông có thực hành thiền Đại Thừa “bất lập văn tự, ngoại giáo biệt truyền” chưa? Sư Ông dùng văn tự để viết sách bán thì chắc chắn là chưa rồi. Không làm thì đừng xúi người khác làm khiến họ “thọ giáo sai lầm” là gây nghiệp ác.

Thuật ngữ “pháp nhỏ” (ám chỉ Tiểu Thừa Hĩnayãna) đã bị Đại hội liên hữu Phật giáo lần I ở Colombo (Srilanka) 1950 đề nghị xóa bỏ vì có tính nhục mạ và còn bị Hội nghị Phật giáo thế giới tại Tathmandu (Nepal) 1956 đề nghị không được dùng vì có tính xúc phạm những người bảo lưu giáo lý giáo pháp của Đức Phật Thích-ca. Sư Ông có biết không mà vẫn đem thuật ngữ nầy ra nhục mạ thập đại đệ tử Phật. Người tài cao học rộng như Sư Ông thì thừa biết, tại sao vẫn làm? 

- Trang 157,158 có đoạn: Chúng ta đã nghe nói giải thoát theo Tiểu Thừa là trốn chạy sanh tử và lo cho thân mình. Nhưng giải thoát của Bồ-tát thì như thế nào? Thế nào là bị ràng buộc, thế nào gọi là được giải thoát? Tham đắm nơi thiền vị là Bồ-tát đang bị ràng buộc. Nếu bị tham đắm trong sự yên tỉnh của thiền tập, lấy thiền tập làm chỗ trú ẩn, vì sợ cuộc đời bên ngoài thì đó là mình bị ràng buộc, không có giải thoát, chưa đích thực là một vị Bồ-tát. Câu nầy như là một lời tố cáo những vị A-la-hán hay những người đang đi trên con đường trở thành A-la-hán. Họ đi tìm sự an tịnh của riêng mình”.

Lời bình: Sư Ông tố cáo những vị A-la-hán. Trong kinh Nikaya, Đức Phật tự nhận Ngài là bậc A-la-hán. Vậy là Sư Ông tố cáo đức Phật là “lo cho riêng mình”. Sư Ông có phải là người tu Phật không vậy?  

- Trang 161 có đoạn: “…thầy Xá-lợi-phất được đưa ra đại diện cho Tiểu Thừa… Khi đem một vị đại diện cho Thanh văn Thừa ra để so sánh với một vị đại diện của Bồ-tát Thừa với mục đích chứng minh rằng Thanh văn Thừa yếu kém hơn Bồ-tát Thừa thì người đọc không tránh được cảm giác thầy Xá-lợi-phất bị đem ra để nhục mạ”. Trang 187 có đoạn: Khi thấy vị Bồ-tát ngồi trong quán rượu, vui đùa với các kỷ nữ, mình biết rằng vị Bồ-tát đó vẫn ở trong chánh đạo… Một người uống rượu rất nhiều và ăn chơi trụy lạc, người đó có thể lợi dụng câu trên và nói rằng tôi là một vị Bồ-tát”.

- Trang 190 có đoạn: "Những bậc A-la-hán giác ngộ đi vào trong Niết-bàn tịch diệt là không ích lợi gì cho ai cả. Dưới con mắt của Đại Thừa, những chúng sinh đang trôi lăn trong biển sinh tử, những người phàm phu đang đau khổ trầm luân là những người có tương lai, vì nếu họ phát tâm bồ-đề, họ đi vào con đường tu tập của giáo pháp Đại Thừa thì hạt giống bồ-đề của họ sẽ có ngày nở hoa, kết trái và họ sẽ thành bậc giác ngộ hoàn toàn. Đây là một hình thức diễn tả cùng cực về một sự kiện quan trọng: Nếu trốn tránh, nếu theo pháp Tiểu Thừa, mình sẽ đánh mất những gì quý báu nhất trong con người của mình”.

Lời bình: Nếu Sư Ông uống rượu mà có kỹ nữ mời mọc, vuốt ve ôm ấp thì liệu sư Ông có từ chối được ly rượu nào không hay là “có chi mô mà ngại, trời say trời cũng đỏ gay, đất say đất cũng lăn quay ai cười”. Sư Ông say mà “vẫn ở trong chánh đạo” thì chỉ có một mình Sư Ông làm được! Giáo lý tinh yếu của Đức Phật là “tứ diệu đế” trong đó có Bát Chánh đạo. Từ chánh kiến đến chánh định, không có chánh đạo nào cho phép vui đùa với kỹ nữ, cho phép uống rượu. Ngay trong ngũ giới đã là không cho phép uống rượu rồi. Nhục mạ Xá-lợi-phất và các đại đệ tử khác thì chỉ là “hàm huyết phún nhân tiên ô tự khẩu” [ngậm máu phun người trước dơ miệng mình].

Thanh văn là ai? Bồ-tát là ai? Chỉ là những phạm trù do Đại Thừa đặt ra chớ không có hạng người Thanh văn, Duyên giác trên đời này. Đặt ra để “chê người khen mình” thì đâu xứng đáng là bậc chân tu, chỉ là những kẻ giả tu.

Theo kẻ giả tu là thọ giáo sai lầm!

              II. CHÁNH PHÁP VÀ HẠNH PHÚC
                                                                                     (HT Thích Minh Châu NXB Tôn giáo 2001) 

- Chúng tôi dịch kinh Pàli, không vì mục đích muốn ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục đích của chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những kinh điển có thể được xem là Nguyên thủy hay gần Nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của Đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dù Ấn Độ, Trung Hoa, hay Việt Nam.

- Chúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho đọc giả rõ, đoạn nào là Nguyên thủy, đoạn nào không phải Nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, tự mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch.

- Càng dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ Tiểu Thừa để gán vào những lời dạy thực sự Nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân lý, mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc đo tài của những ngọn đèn lẻ tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh đi vào con đường Triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng rực rỡ của chân lý quét sạch

- Bên phái Nam tông, tuy tôn thờ Tam Tạng Pàli, nhưng một số phật tử cũng rơi vào nạn tương tự, là chỉ học luật tạng và A Ty Đàm tạng, bỏ rơi Kinh tạng Pàli, vì xem A Ty Đàm tạng mới đề cập đến Đệ Nhất Nghĩa Đế, còn kinh tạng chỉ bàn đến Tục Đế mà thôi. Đây cũng là một lầm lạc hết sức ngây thơ và nguy hiểm. Vì A Ty Đàm phát xuất từ kinh tạng, và bỏ để tìm ngọn thì không khác gì kẻ đi tìm lõi cây, mà chỉ mang về cành lá.

Lời bình. Ý nghĩa của những câu chữ in nghiêng:

- Giới thiệu những kinh điển để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của Đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dù Ấn Độ, Trung Hoa, hay Việt Nam. Hiện nay, rất nhiều kinh sách truyền bá tư tưởng Bà-la-môn, mê tín tà kiến, mà bảo là lời dạy chân chính của đức Phật. Đó là sách của các tổ sư các tông phái Ấn Độ, Trung Hoa viết những điều trái với lời Phật dạy như kinh Duy-ma-cật nhục mạ thập đại đệ tử của đức Phật mà gọi là lời Phật dạy. 

- Không có trách nhiệm nêu lên cho đọc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Kinh sách Nguyên thủy ghi chép những lời dạy chân chính của đức Phật nhưng có đoạn không chân chính vì nội dung mê tín, tà kiến. Ta rất dễ dàng nhận ra, chẳng hạn như đoạn ca ngợi tướng tốt của đức Phật hoàn toàn trái với lời dạy của đức Phật: “thân nầy không phải là ta, không phải của ta”, chẳng hạn như đoạn ca ngợi kinh thành tráng lệ trong kinh Đại Thiện Kiến Vương hoàn toàn trái với việc đức Phật từ bỏ hoàng cung, từ bỏ ngôi vị Thái tử… Thử hỏi ca ngợi vàng bạc lưu ly, thủy tinh, san hô, xà cừ có phải là làm tăng thêm lòng tham dục sự Nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy.

Hiện nay, không ít Phật tử bị nhồi sọ giáo lý mê tín, tà kiến của Bà-la-môn như là lễ bái đủ thứ các thần linh, cả con khỉ Tôn Ngộ Không trong truyện Tây Du ký của Ngô Thừa Ân cũng được lễ bái vì đánh đâu thắng đó nên được tôn là Đấu Chiến Thắng Phật”.

Bồ-tát giới của Đại Thừa có hai giới đe dọa Phật tử xuất gia không dám đọc, không dám học những lời dạy chân chính của đức Phật trong Đại tạng kinh Nikaya (nếu ai cãi lại thì bị đuổi ra khỏi nhà chùa và không có chùa nào tiếp nhận). Đó là giới “không được phản bội Đại Thừa” và “không được dạy giáo lý ngoài Đại Thừa”. Bồ-tát giới còn có 2 giới ép buộc tăng ni phải tu theo pháp môn Đại Thừa như là:

               - Không được không phát đại nguyện (hứa)
               - Không được không phát đại thệ (thề)

Phát đại nguyện và đại thệ là hứa và thề với thần linh là chỉ trì tụng duy nhất một kinh Đại Thừa nào đó. Chẳng hạn như người tu theo tông Thiên Thai hứa và thề suốt đời trì tụng kinh Pháp Hoa. Đã hứa và thề thì phải giữ nếu không thì phạm vào ngũ giới cấm. Người tu Đại Thừa không dám tu theo Tiểu Thừa là vì Bồ-tát giới ngăn cấm.

Tỷ kheo Thích Minh Châu viết không sai.

093-THƯ CỦA ĐẶNG HOÀNG MINH.

GNCN xin giới thiệu đến quỳ phật tử và độc giả bài viết tổng hợp từ thư thưa hỏi của độc giả (trang chonlac.org) và lời dạy của đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc trả lời.
            Những thắc mắc suy tư của một độc giả đang học tập nơi hải ngoại xa xôi và những lời dạy của Trưởng Lão rất có giá trị để quý vị hiểu thêm về duyên Phật pháp, "những điều báu khó gặp, khó được" đối với mỗi người khi đến với Chánh Phật pháp đều có sự khác nhau.
            Xin cảm ơn đạo  hữu Minh Bảo đã giới thiệu bài viết này.

THƯ CỦA ĐẶNG HOÀNG MINH
GỬI TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC NGÀY 06-06-2010.

Kính thưa các Thầy, các Sư Cô quản trị trang web “chonlac.org”. Con có một bức thư, vô cùng tha thiết muốn được Sư Ông – đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc minh xét. Con hiểu duyên phận bé nhỏ của mình và thời gian của Người vô cùng ít mà gánh nặng gây dựng giáo pháp của Phật thật lớn lao vô cùng. Nên con xin quý Thầy và Sư Cô xem xét, nếu thư này đáng để cho Sư Ông xét duyệt thì là vạn hạnh của con, còn không thì được sự trả lời của quý Thầy và Sư Cô con cũng sung sướng và mãn nguyện lắm. Con xin chân thành cảm tạ quý Thầy và Sư Cô!

Kính thưa Sư Ông!

Con tên là Đặng Hoàng Minh, 25 tuổi, hiện nay con là nghiên cứu sinh năm một (1) ở thành phố Matxcơva, Liên Bang Nga. Vạn hạnh ngàn đời đã khiến con có cơ duyên được biết đến Người.

Con không hiểu nhân duyên này ở mức độ nào, mà khi nghe pháp thoại của Sư Ông cũng như đọc sách của Sư Ông đến đâu, còn hiểu được chân lý của Đức Phật, cũng như tình thương của Sư Ông đến toàn thể chúng sinh trên cuộc đời và sự gian nan trong công cuộc tạo duyên giáo hóa chúng sinh của Sư Ông đến đấy.

Trưởng Lão dạy: "Đó là duyên Phật pháp con đã gieo trong kiếp trước, nay gặp lại, con như người mất của quý mà gặp lại”.

Vì hiểu cha mẹ và chị gái của mình xưa nay đều là những người sống ở ĐỜI nhân hậu, và cũng rất tin vào Phật Pháp (Các quý thầy Đại Thừa có danh tiếng và Phật giáo phát triển nhưng có chỗ hoài nghi như chùa to Phật lớn, cầu cúng) nên con cứ ngỡ rằng duyên Phật thật sự đã đến với bản thân và gia đình, có thể nói ngay cho cha mẹ và chị gái chánh Phật pháp mà Sư Ông gây dựng lại để họ nhanh chân đến với Thầy, tu được làm chủ sinh – già – bệnh – chết, và con, sau 3 năm trở về nếu may mắn thì được Sư Ông còn không thì được cha mẹ mình dìu dắt trên con đường tu tập. (Vì con cũng tin rằng cha mẹ hay chị gái con sẽ không để phụ lòng Sư Ông).

Nhưng thực tế không dễ như vậy, con đã không lường được hết mọi thứ. Ước nguyện đó của con không những cha mẹ không hiểu, mà con đã vô tình làm cho cha mẹ mình sống hơn hai tuần lễ như trong địa ngục, hai người cảm thấy như mình đã mất đi đứa con là con. Công sức nuôi nó lớn lên ăn học, đang trên đường nghiên cứu khoa học – là một vinh dự nhưng cũng là thách thức không nhỏ đối với một người có học nghiêm túc, giờ đây nó lại có ý khi tốt nghiệp trở về thì sẽ đi tu, muốn sống một cuộc sống ba y một bát và ăn xin khổ sở.

Trưởng Lão dạy: “Ước muốn của cha mẹ con là ước muốn danh lợi ở đời, nên khi nghe con muốn đi tu ba y một bát như đức Phật thì chống trái với con là phải”.

Nhưng do đã đọc sách và nghe pháp thoại của Thầy khá đầy đủ, con hiểu mình không được làm cho cha mẹ buồn. Và cũng không muốn để cho cha mẹ mình vì chưa có cái nhìn cuộc sống như thật mà chỉ vì thương tiếc con mà có những lời nhận xét không đúng về Sư Ông cũng như chánh Phật pháp mà Sư Ông đang gian nan gây dựng thì tội lỗi vô cùng. Cho nên con đã hứa với cha mẹ sẽ sống bình thường như một người con trai cần học hành nghiêm túc, phải có vợ con và trách nhiệm, đạo đức gia đình thật tốt. Vì vậy mà cha mẹ con nguôi đi nỗi lo buồn, và cùng nghiên cứu về pháp thoại cũng như sách của Sư Ông một cách nghiêm túc và rốt ráo, để xem vì sao mà con mình lại tin tưởng tuyệt đối Sư Ông như vậy. Con rất vui mừng vì tâm cơ của mình cũng đã giúp cho cha mẹ tiếp cận được với chánh Pháp.

Nhưng có một trở ngại lớn quá thưa Sư Ông, vì con tuổi đời còn trẻ, tất cả những điều con đọc, con hiểu là chưa có kiểm chứng, con chưa trải qua cuộc đời mà chỉ đọc và tin, thế nên cha mẹ con thường hay nhắc nhở con trong sự lo lắng cho người con mình như có phần nông nổi. Cha mẹ con nói: “Con đọc sách và nghe Sư Ông cũng chỉ như sự tiếp cận với một trong các cao nhân đáng kính ở cõi đời, còn nhiều người khác cũng rất giỏi, họ nói cũng rất hay, cho nên con trai cần phải hoài nghi, phải chiêm nghiệm. Còn cha mẹ đã sống từng này tuổi (cha con năm nay 63, mẹ con 55 tuổi) thì cách tiếp cận với bất cứ một thông tin gì cha mẹ đều không giống con đâu, mà phải hoài nghi, phải nghiên cứu kỹ lưỡng và phải kiểm chứng, kể cả những lời Sư Ông nói, viết cũng như cả chính Sư Ông, cần phải được tiếp kiến để hiểu về Sư Ông”.

Trưởng Lão dạy: “Lời dạy của cha mẹ con rất đúng, đừng vội tin ai cả. Phật ngày xưa cũng dạy: Đừng tin những lời Ta dạy mà hãy tin những lời Ta dạy khi áp dụng vào bản thân có lợ iích cho mình cho người thì hãy tin”.

Con thấy cha mẹ mình có cái lý của họ, nhưng tại sao con đọc những điều Sư Ông nói, con lại hiểu và đồng tình với Sư Ông không chút nghi ngờ, con tin tuyệt đối về sự tu chứng của Người cũng như những chánh Phật pháp mà người đang gian nan gây dựng?

Trưởng Lão dạy: “Đó là duyên Phật pháp ở kiếp trước con đã khéo gieo”.

Con vừa chờ đợi và hy vọng sự sáng suốt cùng cơ duyên sẽ đến với cha mẹ mình. Nhưng lo lắng thay, cha mẹ con đọc hết bộ “Đường về xứ Phật” của Người thì lại chỉ ra có nhiều điểm Sư Ông nói nhiều chỗ không nhất quán. Con ngầm hiểu ngay, chắc chắn là do cha mẹ chưa hiểu ý Sư Ông diễn đạt. Bằng chứng là cha con chúng con đã tranh luận sôi nổi về một trong những sự mâu thuẫn đó. Đúng như vậy, là cha con chưa hiểu ý của Người, mà “trí hữu hạn” đã giới hạn cha con ở trở ngại ý nghĩa của câu chữ. Con biết là mình tuổi đời còn trẻ, và tu phần đời còn chưa ra đâu vào đâu thì không được nói về Phật pháp, không được giải thích, tranh luận gì với ai, nhưng vì cha mẹ con cũng muốn trao đổi tự nhiên và khách quan với con nên con đành phải cố gắng giải thích với họ những gì con hiểu khi đọc sách và nghe pháp thoại của Sư Ông.

Trưởng Lão dạy: “Phật pháp độ người hữu duyên chớ không độ người vô duyên”.

Thưa Sư Ông, chính con và cha mẹ con có một số trăn trở như sau, cúi mong Sư Ông từ bi chỉ dạy:

1- Những gì con làm có gì sai hay không thưa Sư Ông, nếu những bạn trẻ khác cũng có tâm nguyện như con thì nên làm gì để cha mẹ hiểu và tiếp cận với chánh Pháp của Sư Ông cho đúng mà không bị buồn phiền?

Trưởng Lão dạy:Những gì con làm đều không sai con ạ! Nhưng có điều là con chưa thông suốt lý nhân duyên. Đạo Phật độ người hữu duyên chớ không độ người vô duyên”.

2- Sư Ông ơi, con tin tuyệt đối vào đạo đức nhân bản – nhân quả tuyệt vời của đức Phật, con nguyện đem chân lý sống không làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sinh ra làm công cụ sống duy nhất ở cuộc đời này, mà chả cần nương vào những phương pháp giáo lý sống nào khác.

Trưởng Lão dạy: “Nếu sống đời đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình khổ người và tất cả chúng sinh thì tâm hồn con thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là mục đích đạo đức giải thoát của Phật giáo cho những ai muốn thoát ra mọi sự khổ đau trong cuộc đời này, nhưng muốn sống được như vậy thì phải thông suốt đạo đức nhân bản - nhân quả.

3- Cha mẹ con cũng vì thương con lắm theo ý của họ, mà bảo con: “Con phải tỉnh táo, còn nhiều vị cao nhân người ta giỏi lắm, người ta cũng hiểu về Phật pháp, và còn là những chính trị gia nổi tiếng, thành công trên cuộc đời, con phải đọc, phải lắng nghe, như ngài cựu Thủ tướng Chu Dung Cơ của Trung Quốc, ngài Trần Trọng Kim –Thủ tướng Đế quốc Việt Nam, và nhiều ngài khác rất nổi tiếng”. Sư Ông ơi, vậy ngoài chân lý sống trên của đức Phật, có thật sự con cần phải học gì ở những giáo lý khác nữa không?

Trưởng Lão dạy: “Ngoài chân lý sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh của Phật giáo thì không còn một chân lý sống nào khác nữa. Cha mẹ con không hiểu chân lý sống của Phật giáo mới đem so sánh với những thiện xảo, kỹ năng sống của Chu Dung Cơ và Trần Trọng Kim. Hành động so sánh này lại càng chứng tỏ cha mẹ con lại còn không hiểu Phật giáo. Vì thiện xảo, kỹ năng sống của Chu Dung Cơ và Trần Trọng Kim chỉ dùng vào đường lối chính trị để trị nước, bình thiên hạ, nhưng thiện xảo kỹ năng sống đó chỉ hợp với thời đại này mà không hợp với thời đại khác cho nên nó đâu được gọi là chân lý. Bởi vậy càng thiện xảo, càng khéo léo thì càng giả dối không thật với chính mình. Không thật với chính mình thì không thật với mọi người phải không con?”

4- Cha mẹ cho con biết, có nhiều thiện xảo, nhiều kỹ năng sống rất hay, những kinh nghiệm cuộc đời rất tuyệt vời ở những người đó. Nhưng con thì cứ muốn sống thật đơn giản, chả cần phải thiện xảo, khéo léo làm tâm mình phải suy nghĩ nhiều, mà để nó sai khiến thì có khi vô tình làm nên nhân ác, tạo tội lỗi, còn nếu sống lương thiện theo đạo đức nhân bản nhân quả, không làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sinh thì chưa đủ sức làm cho cha mẹ con an tâm mà không lo lắng con mình sẽ không bị thiệt, bị hại ở cuộc đời đầy rẫy mưu mô và thoái hóa về đạo đức hiện nay.

Trưởng Lão dạy: “Đúng vậy, thiện xảo, khéo léo làm tâm mình phải suy nghĩ nhiều mà để nó sai khiến có khi vô tình làm nên nhân ác và tội lỗi; còn nếu sống lương thiện theo đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh bằng trí tuệ tỉnh giác thì chẳng sợ mưu mô xảo trá của cuộc đời này, vì mưu mô xảo trá của cuộc đời này không bao giờ qua khỏi mắt của người có trí tuệ nhân bản – nhân quả. Người có trí tuệ nhân bản– nhân quả thì không ai làm hại được”.

5- Con phải lý giải với cha mẹ ra sao, khi hai người hỏi: “Không lẽ người ta đang tâm lợi dụng sức lao động, tâm huyết của con mà con vẫn cứ thương yêu, nhẫn nhục tha thứ cho họ hay sao? Mà cứ như vậy còn làm hại họ, vì khiến họ làm ác trên mình nhiều hơn?” Vậy ngoài đạo đức nhân bản – nhân quả thì con có nên đọc nhiều sách vở như cha mẹ khuyên không xin Sư Ông từ bi chỉ cho con được sáng suốt.

Trưởng Lão dạy: “Đặt ra câu hỏi này, cha mẹ con chưa hiểu biết trí tuệ nhân bản – nhân quả. Trí tuệ nhân bản – nhân quả thấy biết người khác lợi dụng sức lao động của kẻ khác là biết ngay họ là kẻ ác. Khi thấy biết điều này ta khuyên họ đừng nên lợi dụng như vậy, đó là nhân ác mà sau này sẽ gặp quả khổ đau mà không tránh khỏi. Mình lừa đảo người thì có người khác lừa đảo mình. Gieo nhân nào thì phải gặt quả nấy.

Thương người là khuyên họ làm việc lành, chớ thương mà không dám khuyên, không dám nói cái sai của họ thì đó không phải thương người. Thương người là dám nói thẳng mặt người không hề sợ hãi. Đó là đạo đức nhân bản – nhân quả. Bởi vậy khi nghe đạo đức sống không làm khổ mình, khổ người thì sinh ra tính thụ động hèn nhát, đạo đức sống không làm khổ mình, khổ người là một trí tuệ sáng suốt nên nhìn thấy người nào đáng khuyên thì khuyên, không đáng khuyên thì không nên khuyên, do đó không làm khổ ai cả”.

6- Hiện nay con có một số những đức tính sau mà làm cho cha mẹ rất lo lắng: đó là con chưa đủ sự minh mẫn để phân biệt sự thật hay dối trá lừa đảo của cuộc đời. Bằng chứng hễ ai nói gì hay mà thiện thì con đều rất tin. Nhưng nhiều trường hợp cho thấy đằng sau cái lời nói đó có sự chưa như thật, khiến con tin sai tức là cả tin và thật thà quá, cha mẹ con sợ con bị lừa và bị lợi dụng.

Trưởng Lão dạy: “Đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh là một trí tuệ Tứ Vô Lượng Tâm rất tuyệt vời của Phật giáo, vì thế không ai dùng mưu mô xảo quyệt để lừa mình được. Bởi vậy đạo Phật gọi là Đạo Trí Tuệ. Khi con đã học đạo đức nhân bản – nhân quả này thì không ai lừa đảo con được. Cha mẹ con sợ là vì cha mẹ con chưa hiểu đạo đức trí tuệ Phật giáo. Khi học xong đạo đức này một lời nói hay một hành động lừa đảo của người khác là con liền phát hiện ngay chớ không phải mù mờ như con cừu non dễ bị lường gạt”.

7- Thứ hai là tính cách con không được bình tĩnh, thường hay nhiệt tình thái quá cũng như vội vàng, hấp tấp, thì dễ hỏng việc hoặc làm việc không hiệu quả. Mặc dù con có cố gắng đọc sách thầy để hiểu biết thêm, con đã cố gắng giữ 5 giới mà Sư Ông chỉ dạy, thỉnh thoảng ác pháp đến con cũng quyết liệt tác ý những câu tri kiến để làm dịu lại thân tâm nhưng những lúc ác pháp dồn dập con lại bị thua, bằng chứng khi tranh luận với cha để giải thích những gì mà cha con cho là Sư Ông mâu thuẫn thì con thấy con chưa bình tĩnh, nói với cha mình mà nhiều khi con mải tranh luận lại to tiếng và có sự nói hỗn, chỉ khi nghĩ lại con thấy mình sai, mặc dù cha con thì rất dịu dàng và bình tĩnh. Nhưng vì sự không hiểu Sư Ông của cha cứ làm cho thân tâm con lo lắng và vì vậy hối thúc tâm con nóng vội.

Trưởng Lão dạy: “Do hiểu được tâm trí của mọi người nên Thầy đã viết lời nói đầu của bộ Đường Về Xứ Phật có đoạn: “Người nào tu hành làm chủ được bốn sự đau khổ Sinh, Già, Bệnh, Chết thì mới phê bình bộ sách này, còn chưa làm chủ được thì đừng dùng kiến tưởng giải mà phê phán thì e rằng tâm trí quá nông nổi, cạn cợt”

Con mới đọc sách Thầy, chớ chưa có tu tập nên con thiếu bình tĩnh, vì thế con nên tu tập cho mình hơn là đem ngôn ngữ ra tranh luận với người khác thì không nên. Khi tu hành chưa xong lời nói của con còn nhẹ ký lắm không thể thuyết phục người khác được, nên im lặng mà tu tập”.

8- Thứ ba là con có một yếu điểm là dục vọng. Một thời gian nghiên cứu Phật Pháp thì dục vọng con không ham, nhưng cứ sau một thời gian, nhất là khi tình cờ mở các trang web thông tin mà có nhiều quảng cáo, thông tin văn hóa phẩm đồi trụy tự động bật lên đã tác động thân tâm con khởi niệm, khiến con có ý thích muốn mở xem và lúc ấy con còn không muốn tác ý hay nghĩ gì khác mà cứ lao vào bấm xem. Con xin Sư Ông từ bi chỉ dậy cho con cách nhiếp phục ba yếu điểm của tính cách trên của con: i- là cả tin không biết phân tích vấn đề chính xác; ii- là sự nóng vội thiếu bình tĩnh; iii- là dục vọng.

Trưởng Lão dạy:

“i- Khi thấy một điều gì hay thì phải áp dụng vào cuộc sống hằng ngày của con, nếu có kết quả tốt thì mới tin còn không có kết quả thì đừng tin.

ii- Phải tu tập tâm Định Tĩnh bằng phương pháp Định Niệm Hơi Thở. Tác ý trước khi hít thở: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hiết vô; với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra”. Tập như vậy trong 5 phút, mỗi ngày đêm chia làm 4 lần.

iii- “Quán từ bỏ tâm dục vọng tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm dục vọng tôi biết tôi thở ra”. Ngày đêm chia làm 4 thời, mỗi thời tu tập 5 phút. Ngày nào cũng tu tập như vậy cho đến khi dục vọng không còn nữa mới thôi”.

9- Kính thưa Sư Ông, mặc dù có những sự chưa thỏa mãn và hoàn toàn tin tưởng tuyệt đối vào Sư Ông cũng như chánh pháp mà Sư Ông đang gian nan gây dựng lại, nhưng con xin Sư Ông rộng lượng tha thứ cho cha mẹ con cũng như những người khác vì vô minh mà không hiểu Người. Nhưng con thật lo lắng quá, con nghĩ rằng cha mẹ mình đâu có kém trong tư duy suy nghĩ mà tại sao lại không có cái nhìn đúng về Sư Ông ngay?? Còn thiếu cái gì mà chưa đủ niềm tin, những điều mâu thuẫn trong sách vở của Người viết ư?? Con sẽ hết lòng nghiên cứu sách của Người để nói cho cha mẹ hiểu.

Trưởng Lão dạy: “Kiếp trước cha mẹ con đã không cúng dường một bát cơm khi Thầy đứng trước cửa nhà xin ăn, nên nay cha mẹ con làm sao tin Phật pháp được”.

10- Nhưng cả con và cha mẹ cùng có một nguyện vọng như sau, kính xin Sư Ông minh xét:  Đó là vì những sự vô minh của con người khiến cho chúng con có cái nhìn không thật, thấy cái đúng, cái chân lý thì chưa hẳn đã tin mà làm theo, vì còn có những lập luận cho thấy ở thời buổi này, ở đời này chả bao giờ làm được như vậy. Tức là còn một vài chân lý của đức Phật nói mà không dễ làm, và làm cũng không nhanh chóng mà nhìn thấy kết quả được và vì thế không thuyết phục họ sống trong chân lý của đạo đức nhân bản, nhân quả được.

Ví dụ, con nói với anh bạn ở cùng phòng (theo như ý con hiểu từ Sư Ông giảng dạy): “Anh ơi, con muỗi cũng tội nghiệp lắm, nó sống có vài ngày rồi cũng chết mà thôi, mà nó đốt anh là vì nó có nghiệp nhân quả với anh, thôi anh đừng giết nó, không bố thí máu cho nó thì đừng đập nó, nếu anh đập nó thì hành động đó sẽ lại đi tái sinh tiếp thành những loài chúng sinh khác và anh sẽ phải chịu tiếp sự khổ đau không dứt”. Nhưng những lời nói đó của con không thuyết phục, bởi vì họ quan niệm: “Đời này muốn tồn tại thì phải bảo vệ sự sống bản thân, và phải diệt những loài muốn diệt mình, con muỗi nó hút máu mình có lẽ nào để cho nó hút mà không diệt nó, vậy quy tắc 3 sạch 3 diệt mà sách đạo đức phổ thông dậy là sai hay sao, cho nên chú đừng có nói mấy điều đó với anh, vô lý”.

Con chỉ thương anh bạn mình, nhưng con lại nghĩ: Tại sao chân lý mà người ta lại không nhận ra??? Có cách gì để cho con người ta nhận ra sự thật rõ ràng nữa không thưa Sư Ông???

Con thấy mình không đập muỗi mà khi nó đến con chỉ bảo: “Muỗi ơi tao đang làm việc mày đừng đốt tao, lát tao ngủ không biết gì mày cứ đến mà ăn” con thấy chính vậy muỗi lại chẳng đốt con mà anh bạn con thì hay khó chịu dằn vặt khi muỗi bay qua hoặc nghe tiếng muỗi. Con cũng nói với anh nhưng anh vẫn không chịu tin.

Vậy con và cha mẹ cùng cúi xin Sư Ông vì cảm thông thương xót cho chúng sinh vô minh này, khi dưới những tác động quá ác liệt của các ác pháp cuộc đời mà không đủ niềm tin nhìn thẳng vào chân lý đạo đức nhân bản – nhân quả, rất cần sự soi sáng ở những bậc tu chứng như Sư Ông.

Chúng con chỉ xin có một tâm nguyện tha thiết: xin Sư Ông từ bi thị hiện sự minh chứng cho loài người chúng con thấy một sự thật không thể chối cãi: Xin Sư Ông dùng năng lực “Dục như ý túc” làm cho cơ thể mình trẻ lại và sống thêm với chúng con chỉ 20 năm nữa thôi. Thì đó quả là một minh chứng HÙNG HỒN và không thể chối cãi, và có tác dụng thức tỉnh biết bao nhiêu là con người.

Trưởng Lão dạy: “Sống hai chục năm nữa đâu phải là một việc làm khó đối với người đã làm chủ sinh, già , bệnh, chết. Thầy năm nay 82 tuổi nhưng nhìn vóc dáng chỉ độ 60 tuổi, cơ thể không có một bệnh tật gì cả, lưng không còm, chân tay không run rẩy v.v...”

11- Kính thưa Sư Ông, riêng con thì một lòng kính ngưỡng Sư Ông, tin tưởng tuyệt đối, con hiểu rằng từ khi tu chứng đến nay Người đã dày công 30 năm tạo duyên giáo hóa chúng sinh. Con hiểu lòng từ bi và sự gian khổ vô lượng của Người. Những buổi đầu đọc sách Sư Ông, con nghẹn ngào xúc động, khóc rất nhiều vì con thương Người lắm. Nhiều khi con đọc những bài hỏi đi hỏi lại một ý như những hiện tượng siêu hình hay thần thông, Sư Ông đã viết sách, đã giảng giải bao nhiêu lần là không có mà họ không chịu đọc kỹ, đọc kỹ không chịu hiểu mà cứ hỏi đi hỏi lại, nhưng Người vẫn nhẫn nại từ bi mà giải thích.

Con thật sự xúc động mà chỉ muốn có mặt ngay bên Người, quyết chí tu học bên Người để không phụ lòng Người. Con tin tưởng tuyệt đối sự tu chứng của Người thể hiện ở chỗ Giới luật nghiêm chỉnh, lòng từ bi và những giáo lý Người viết đã dẫn dắt tâm con theo Người tuyệt đối. Chỉ đáng trách trí người đời sao mà vô minh, họ càng đọc sách Người thì lại càng nghi ngờ, như họ nói: “Lời nói của Sư Ông chưa bình tĩnh và chưa thấy rõ nét sức thuyết phục linh thiêng như một bậc tu chứng thật sự”, rồi “Lời nói của Sư Ông nhiều chỗ còn mâu thuẫn”, rồi “Sự tu chứng của Sư Ông thật sự đến đâu”.

Vậy nên, tâm nguyện của chúng con dù biết là sai, là không đúng nhưng hiệu quả giáo hóa và gây niềm tin của nó con thấy thật không nhỏ, nếu Sư Ông dùng tâm lực làm cho cơ thể Người trẻ lại 20 năm và dìu dắt chúng con thêm 20 năm nữa, thì có lẽ sẽ có rất nhiều người trên hành tinh này sẽ tu chứng và hiểu lại đúng đắn Phật Pháp.

Cuối cùng, con cúi xin Sư Ông tha thứ cho những gì con viết còn sai, còn thiếu suy nghĩ. Con một lòng hướng về Sư Ông, về chánh Phật pháp mà Sư Ông đã và đang gây dựng lại.

Trưởng Lão dạy: “Khen, chê, nghi ngờ là tâm trạng của chúng sinh, vì thế chúng ta phải yêu thương họ, bởi họ trí mỏng phước kém rất khó độ. Tuy cách đức Phật 2554 năm, Thầy ra công dựng lại chánh Pháp của Phật ngõ hầu giúp người hữu duyên và nhất là nền đạo đức của loài người đang xuống cấp trầm trọng, vì thế phải dựng lại một nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và chúng sinh, đó là để cứu mọi loài trên hành tinh này, nếu con người không có đạo đức thì tự họ hoại diệt họ”.

Con kính xin Sư Ông ở lại thật lâu để dìu dắt chúng con. Con kính chúc sức khỏe Người!

                                                                                                                   Kính thư,
                                                                                                           Con – Hoàng Minh.
                                                                                                         Matxcơva 06-06-2010.

094-PHẢN HỒI BÀI VIẾT "34 NĂM DỰNG LẠI CHÁNH PHÁP..."

Lời BBT GNCN:
               Kính thưa quý phật tử và độc giả,

Bài viết “34 NĂM DỰNG LẠI CHÁNH PHÁP…” lên trang đã hơn 2 tháng. Mới đây chúng tôi nhận được ý kiến phản hồi của độc giả Trần Anh Tú về những vấn đề mà bài viết đã nêu ra. Nhận thấy những ý kiến này có thể giúp quý vị có một cái nhìn đa hướng về các vấn đề tại tu viện Chơn Như khi Trưởng Lão còn sinh thời để hiểu thêm và tin tưởng vào kinh sách, những lời của Ngài đã dạy.

Chúng tôi xin giới thiệu để quý vị chia sẻ và (nếu có thể) sẽ có thêm những ý kiến để mọi người phật tử khi đến với chánh pháp Phật do Trưởng Lão Thích Thông Lạc dựng lại đều được thông suốt, không còn nghi hoặc một điều gì.

GNCN xin giới thiệu thư phản hồi của độc giả Trần Anh Tú:  

Kính gửi Ban Biên tập Giọt Nắng Chơn Như,

Sau khi đọc bài viết "34 NĂM DỰNG LẠI CHÁNH PHÁP - CÓ NĂM THỨ BÁU KHÓ GẶP. TL Thích Thông Lạc" trên trang GNCN, tôi xin có đôi lời bàn như sau:

1- Trong cuốn sách "Lịch Sử Chùa Am (Tu Viện Chơn Như) (1802 - 2009)", sách giấy xuất bản quý III năm 2010, trang 111, Trưởng Lão viết:

"Tháng 7 năm 1975 đất nước giải phóng xong, bom đạn không còn cày xới trên mảnh đất quê hương, thầy trở về sửa sang lại mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi CHÙA AM cổ xưa yêu dấu mà của tổ tiên để lại..."

2- Cũng cuốn sách này, trang 160, Trưởng Lão viết:

"Suốt 34 năm trời, Chùa Am mở cửa đón nhận mọi người khắp mọi nơi về đây tu học đều được yên ổn tu hành trong giáo pháp của đức Phật ...(Hình 68)... Suốt 34 năm trời, người ra, kẻ vào không biết bao nhiêu mà kể..."

- Kết luận 1-2: Như vậy, 34 năm độ chúng sinh là tính từ năm 1975 đến năm 2009, lúc Trưởng Lão viết cuốn sách này.

3- Trong cuốn sách "Mười Hai Cửa Vào Đạo", sách giấy xuất bản quý I năm 2012, trang 168, cuối trang có đoạn chú thích:

"2-LBT: Tính từ năm 1975 đến năm 2009 (năm đức Trưởng Lão viết cuốn sách này) là 34 năm"

- Kết luận 1-2-3: Cách tính 34 năm độ chúng sinh của Trưởng Lão ở 2 cuốn sách này là giống nhau, đều tính từ năm 1975, khi xây dựng lại Chùa Am, đến năm 2009, khi Trưởng Lão viết 2 cuốn sách.

Dựa trên 2 cuốn sách giấy đã xuất bản của Trưởng Lão nói trên, thời Ngài còn tại thế, thì 34 năm độ chúng sinh đâu có gì khó hiểu. Cho nên, tôi nghĩ các diễn giải như bài viết của GNCN có thể gây hoang mang cho nhiều người.

Tôi nghĩ, Trưởng Lão làm việc gì cũng rõ ràng, dễ hiểu, chứ đâu có để các con Ngài phải suy nghĩ mông lung, phải đoán nọ đoán kia như vậy.

               Đôi lời đóng góp, mong GNCN hỷ xả đón nhận. Xin chân thành cảm ơn.
               Kính chúc GNCN luôn đi đúng con đường Chánh pháp của Phật, của Thầy!” 

            Bài liên quan: (http://giotnangchonnhu.org/index.php?mod=detail&ID_theloai=16&ID_theloai...)

Sau khi nhận được phản hồi của độc giả Trần Anh Tú, chúng tôi đã có thư hồi âm dưới đây:

Cảm ơn đạo hữu Trần Anh Tú đã có lời trao đổi chia sẻ.

Chúng tôi xin tiếp thu, nhập tâm thêm một lần nữa những lời đạo hữu dẫn trong thư. (Thực ra những điều đạo hữu dẫn, chúng tôi cũng đã được biết, vì các sách (in giấy và ấn bản điện tử) của Trưởng Lão, chúng tôi đều đã đọc qua.

Tuy nhiên chúng tôi rất băn khoăn với lời dạy này: …Ba mươi bốn năm(1) chúng tôi dựng lại chánh pháp của Phật, đã giảng nói hết lời thế mà quý vị có hiểu được những gì đâu. Quý vị đã tu sai hết, giảng nói một đàng mà quý vị hiểu một nẻo,…"

Vậy nếu Trưởng Lão dựng lại Chánh Pháp từ năm 1975 thì lấy ở đâu ra Chánh Pháp mà dạy người? Bởi vì mãi tới năm 1980 Trưởng Lão mới tu xong, mới thấu tỏ, liễu tri Chân Lý của đạo Phật.

Do vậy chúng tôi nghĩ Ngài chỉ dựng lại Chánh Pháp khi Ngài đã có Chánh Pháp. Còn khi chưa có Chánh Pháp thì lấy cái gì để dựng? Dựng kiểu ấy thì cũng lại như các thầy tổ muôn đời xưa vậy thôi.

             Trưởng Lão cũng đã từng dạy, tu chưa xong thì không dạy người. Vậy năm 1975 Ngài đã tu xong đâu?
             Mấy ý trao đổi cùng đạo hữu như vậy.
             Xin trân trọng cảm ơn.

BBT GNCN.

                                                   

Kính thưa quý phật tử và độc giả,

Quý vị đã từng quan tâm đến tu viện Chơn Như, đến Trưởng Lão Thích Thông Lạc – bậc Thầy kinh yêu của tất cả những ai đã, đang và sẽ tha thiết hướng tâm về Chánh Phật pháp – hẳn mỗi người đều có những suy tư riêng và giữ mãi sự tôn kính sâu sắc đối với Ngài.

Cuộc đời hoằng pháp của Ngài đã phải trải qua những bước đường sóng gió vô cùng gian nan, vất vả. Nếu không phải là người có năng lực và trí tuệ siêu việt như Ngài thì không thể vượt qua được. Công ơn của Người đối với chúng sanh vô cùng to lớn không thể gì so sánh.

Chánh pháp đã được Ngài dựng lại, việc giữ gìn và bảo vệ sự trung thực những lời Ngài dạy là trách nhiệm của tất cả những người con yêu thương của Ngài. Thế nhưng, điều này cũng thật khó khăn như Chánh pháp thật khó đến với đời.

Không riêng gì ở bài “34 NĂM DỰNG LẠI CHÁNH PHÁP…” mà chúng tôi đã đặt ra những điều nghi vấn khi quá trình soạn thảo, chú thích trong các sách và tài liệu in ấn, phát hành của Ngài. Còn nhiều nữa, nhiều nữa… cả những vấn đề khác liên quan tới tu viện, có thực không, trong đó đều tất cả là lời của Trưởng Lão?

Ví dụ như “Bức tâm thư cuối cùng” có phải chăng đây chính là những lời do Trưởng Lão đã viết? Hay những băng video phát hành sau khi Trưởng Lão nhập diệt. Chúng tôi đọc, chúng tôi nghe, tuy hình ảnh và những lời thoại là của Trưởng Lão không sai. Nhưng còn lời viết, (và các hình ảnh không kèm rõ thời gian ghi, lời thoại có còn nguyên vẹn?...) chúng tôi vẫn còn nghi vấn, ngay cả đến chữ kí của Ngài nữa. Những điều này ai biết, ai hay đó là sự thực, sự hư?

Nhân sự kiện có thư phản hồi của đạo hữu Trần Anh Tú, chúng tôi tha thiết mong cầu quý phật tử và độc giả (những ai biết rõ) hãy chia sẻ sự thật chân chánh. Chỉ có sự thật chân chánh mới giữ gìn và phát triển Chánh Phật pháp trường tồn.  

BBT GNCN.

.                                                                                .

Nhằm giúp quý phật tử và độc giả có thêm tài liệu để tư duy, suy luận, chúng tôi xin dẫn một trích đoạn trong bài "Lòng thương vô bờ bến của một vị Thầy" do Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã viết bằng tất cả tấm lòng chân thật đầy nhiệt huyết của một người cha sốt sắng vì đàn con khờ dại. (Sách ĐVXP tập II trang 47 - NXB Tôn giáo Hà Nội - 2006). Mời quý vị và bạn Trần Anh Tú cùng đọc:

"...Rồi đây dòng đời sẽ dẫn dắt các con đi vào con đường mờ mịt của kiếp người đầy gian truân và cay đắng.

Gần hai mươi sáu năm từ 1980-2005, Thầy bỏ ra công lao biết là bao nhiêu, kể sao cho hết, để hướng dẫn đào tạo một số người có giới đức làm Người làm Thánh, nghiêm chỉnh, nhất là áp dụng phương pháp độc cư để cho mọi người phòng hộ sáu căn, thúc liễm thân tâm, lìa xa các chướng ngại pháp để thực hiện tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ tức là để tâm hoàn toàn ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, nhưng mọi người chịu ảnh hưởng của kinh sách phát triển nên tu tập cứ ức chế tâm, không nghe lời Thầy dạy sống độc cư, cứ hết giờ ngồi thiền ức chế tâm thì lại tìm gặp nhau để nói chuyện; có người bảo là đã nhập được Tam Thiền, Tứ Thiền; có người bảo là đã nhập định vong thân; có người bảo là đã có thần thông bay lên hư không; có người bảo là tịnh chỉ hơi thở; có người bảo là không còn nghe âm thanh v.v… nhưng tất cả các con đều lén lút Thầy phá hạnh độc cư, tìm cách nói chuyện với nhau. Cuối cùng có một người đệ tử thẳng thừng không chấp nhận hạnh độc cư của Thầy, xin Thầy cho phép tiếp chuyện với vợ con và bạn bè, chỉ một thời gian ngắn tu chứng thần thông sẽ dạy lại Thầy.

             Bởi vậy, thời sau này con người tu hành chưa ra gì mà muốn hơn Phật như các Tổ Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước, Mã Minh, rồi bây giờ các đệ tử của Thầy cũng vậy, họ muốn tu tập hơn thầy, chỉ vì Thầy không có thể hiện thần thông, trong lúc họ là những người đang cần thần thông. Người tu sĩ đạo Phật mà ham mê thần thông là đi ngược lại đạo Phật."...

095-TÌM HIỂU BỐN THIỀN VÀ TAM MINH.

MUỐN NHẬP THIỀN ĐỊNH PHẢI CÓ TỨ THẦN TÚC
(Thư gửi bác Đức Thông).
                                                                                               Bài của Diệu Quang

Kính gửi: Bác Đức Thông.

Kính thưa bác! Khi đọc xong bài: “Tìm Hiểu - Cơ Chế - Tâm Sinh Lý - Học Thiền - Đến Trí Tuệ” thì Diệu Quang xin thành thật góp ý với Bác, nhưng không biết Bác có vui lòng nghe sự thành thật góp ý này không?

Khi đọc xong bài “Tìm Hiểu - Cơ Chế – Tâm Sinh Lý...” Diệu Quang có một cảm tưởng Bác là một bác sĩ Đông y đang nghiên cứu những vị thuốc thiền mà xưa nay đã có nhiều vị bác sĩ Tây y, Đông y đã phối hợp thành một toa thuốc đặc trị có nhiều vị thuốc, bây giờ Bác lại thêm một vị thuốc y học mooc – phin nữa.

Vào câu đầu Bác giới thiệu nghe rất hay: “Thực ra, thiền là một diễn biến tâm linh, sống động, liên tục; hồn nhiên, không có kỹ thuật, không chia thành những giai đoạn tách bạch rõ rệt và vô cầu. Nếu một người đã từng hiểu biết và nhập các loại thiền định thì câu giới thiệu thiền của Bác họ sẽ biết ngay Bác là một học giả thiền. Bởi vì, thiền định là một sự bất động của thân tâm con người, cho nên sự bất động của thân tâm có từng phần. Mỗi phần trong thân tâm bất động là một loại thiền định, chứ không theo như bài luận thiền của Bác. Sự bất động trong thiền hữu sắc gồm có:

              1. Bất động ý thức uẩn nhập Sơ Thiền.
              2. Bất động sắc uẩn nhập Nhị Thiền.
              3. Bất động tưởng uẩn Tam Thiền.
              4. Bất động thọ uẩn và hành uẩn nhập Tứ Thiền.

Muốn cho sự bất động này để nhập các định thì hành giả phải có Tứ Thần Túc, nếu không có Tứ Thần Túc thì không bao giờ có ai bất động được thân ngũ uẩn. Không bất động được thân ngũ uẩn thì không bao giờ nhập được Bốn Thánh Định. Trên đây là thiền định của Phật giáo (Tứ Thánh Định), nếu muốn nhập các định này thì phải có đủ năng lực Định Thần Túc như trên đã nói. Phần này Diệu Quang xin giải thích sau nếu có dịp.

Đọc bài luận thiền của Bác: “Thiền là một diễn biến tâm linh, sống động, liên tục; hồn nhiên, không có kỹ thuật, không chia thành những giai đoạn tách bạch, rõ rệt và vô cầu”. Như những lời luận thiền trên thì đây là thiền tưởng của Đại Thừa, Đông Độ, Yoga v.v... Tâm linh, sống động tức là 18 loại hỷ tưởng xuất hiện mà từ lâu các Tổ sư Ấn Độ, Trung Hoa và Việt Nam đã chịu ảnh hưởng kinh sách Vệ Đà của Bà La Môn giáo mà dạy về thiền này.  

Thiền của Phật không có điều thân, điều tức, điều tâm, mà chỉ có ngăn ác, diệt ác pháp, sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp, như Ni sư Dhammadinna nói: “Này Hiền giả Visakha, Bốn Tinh Cần là định tư cụ”. Ngồi kiết già đối với đạo Phật là một tư thế ngồi bình thường của một người tu sĩ Phật giáo, chứ không phải ngồi kiết già là điều thân. Đối với Phật giáo, ngồi kiết già không phải là vấn đề quan trọng, ngồi được cũng tốt, ngồi không được thì ngồi trong tư thế khác cũng được, chứ không có bắt buộc ngồi kiết già. Trong Bát Chánh Đạo không có nói ngồi kiết già. Cho nên ai ngồi được kiết già cũng tốt, ngồi không được, ngồi tư thế khác cũng không sao. Trong Bát Chánh Đạo chỉ có phân biệt chánh và tà. Chánh và tà là điều quan trọng nhất con đường tu tập của Phật giáo. Chánh là thiện pháp, là không còn tham, sân, si. Còn tà là ác pháp, là còn tham, sân, si. Chỗ này là chỗ tu tập giải thoát ngay liền, chứ không phải chỗ điều thân, điều tức, điều tâm. Vì điều thân, điều tức, điều tâm không có giải thoát ngay liền. Đức Phật dạy: “Đạo Ta đến để mà thấy không có thời gian...”

Pháp môn Định Niệm Hơi Thở, đức Phật không có dạy điều tức (hơi thở) mà chỉ dạy tác ý theo hơi thở để an trú tâm trong hơi thở. An trú tâm trong hơi thở là để khắc phục những tham ưu trên thân hay nói cách khác cho dễ hiểu hơn là để đẩy lui những bệnh khổ trong thân (cảm thọ) “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” hoặc là để đẩy lui tâm tham, sân, si. “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Cho nên đạo Phật không có dạy điều hơi thở, xin các bạn hãy lưu ý để các bạn sẽ không tu sai lạc vào thiền ức chế tâm bằng hơi thở như xưa nay các Tổ Sư đã dạy.

Pháp Thân Hành Niệm không phải là pháp môn điều thân mà là pháp môn dùng thân niệm tác ý tu tập tỉnh thức và tạo thành ý thức lực, để luôn luôn sống và bảo vệ Chánh niệm nên thường đẩy lui các Tà niệm tham, sân, si. Cho nên pháp môn Thân Hành Niệm là pháp môn tu tập để có Tứ Thần Túc và đầy đủ mười Như Lai lực. Pháp môn Tứ Niệm Xứ không phải là pháp môn điều tâm mà là một pháp môn để hộ trì chân lí. Cho nên Tứ Niệm Xứ là pháp môn tu tập để khắc phục mọi ưu phiền trên thân, thọ, tâm, pháp như trong kinh dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu; trên tâm quán tâm… trên thọ quán thọ… trên pháp quán pháp... Để khắc phục tham ưu ở đời”… Như vậy pháp môn Tứ Niệm Xứ không phải là pháp môn điều tâm như trên đã nói. Xin các bạn lưu ý để tránh khỏi sự tu sai lạc. Cho nên thiền của Phật giáo không có điều thân, điều tức (hơi thở), điều tâm.

Trong kinh Nguyên Thủy dạy cắn chặt răng, uốn lưỡi cong để chạm lên hàm ếch là khi có những ác pháp tấn công vào thân tâm quá mạnh khiến cho đau đớn khôn cùng thì phải dùng tư thế này để giữ gìn tâm bất động, để đẩy lui các ác pháp đó ra khỏi thân tâm. Chứ không phải đó là điều thân như Đại Thừa và Thiền Đông Độ dạy.

Đạo Phật không có dùng hơi thở tập trung tâm để loại bỏ mọi tạp niệm mà dùng hơi thở để loại trừ tham, sân, si, và bệnh khổ  “Quán ly tham tối biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra” hoặc khi thân bị đau bệnh thì dùng hơi thở : “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” hoặc phá tâm si tức là khi bị hôn trầm, thùy miên và vô ký thì: “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, quán tâm định tỉnh tối biết tôi thở ra”. Như trên đã dạy. Hơi thở không phải là chìa khóa vàng giúp cho hành giả luôn tỉnh giác, mà hơi thở chỉ là lỗ châu mai để cho hành giả núp vào đó để đẩy lui các ác pháp “quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”.

Như trên đã nói thiền của Phật giáo không có điều tâm, không có gom tâm, không có hóa niệm, không có thân vong - tâm hư, không có tuyệt mạng, tuyệt thể. Thiền của Phật giáo khi hành giả tu tập Tứ Niệm Xứ thì với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản thì dẫn tâm nhập thiền định không có khó khăn, không có phí sức, không có mệt nhọc. Tại sao đức Phật lại nói như vậy? Khi tu tập Tứ Niệm Xứ làm cho sung mãn thân, thọ, tâm, và pháp. Khi thân, thọ, tâm, và pháp sung mãn thì Tứ Thần Túc xuất hiện như những dụng cụ để nhập các loại thiền định. Người tu thiền mà chưa xuất hiện những dụng cụ Thần Túc này thì không bao giờ nhập được chánh định, nếu có nhập được cũng chỉ nhập tà định tức là định tưởng.

Cứ dựa theo bài của Bác viết trong tài liệu này thì tu thiền là phải điều thân, điều tức, điều tâm, nhưng điều thân, điều tức, điều tâm thì không đúng cách thức tu thiền định của Phật giáo. Điều thân, điều tức, điều tâm đó là cách thức tu tập để nhập vào tà thiền của ngoại đạo. Cho nên điều thân, điều tức, điều tâm là phương pháp ức chế thân tâm để đạt chất lượng không niệm khởi. 

Kính thưa các bạn! Thiền Phật giáo chỉ có xả tâm ly dục ly ác pháp để cho tâm không còn tham, sân, si. Tâm không còn tham, sân, si, là mục đích của đạo Phật đã đạt. Mục đích của đạo Phật đã đạt là chỗ tâm bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Cho nên người tu sĩ Phật giáo sống rất bình thường như mọi người, nhưng không ai làm cho họ tham, sân, si được, và không bệnh tật nào làm cho họ dao động tâm được. Đời sống của họ lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Tu tập họ không cần phải điều thân, điều tức, điều tâm, họ không cần có cái trí tuệ “nhất nguyên” tuyệt đối, mang tính xuất thế, vô sai biệt, vô ngã.”

Phật giáo chỉ dạy cho mọi người biết cách tu tập thiền định là thường ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp, để cuối cùng tham, sân, si không còn nữa. Có tu tập được như vậy thì người tu sĩ Phật giáo đã chứng đạt chân lí giải thoát hoàn toàn, họ không còn mơ ước gì hơn nữa. Cho nên nhập thiền, nhập định họ chẳng cần những điều này.

Khi một người tâm đã không còn tham, sân, si, thì tâm họ rất định tĩnh, nhu nhuyến và dễ sử dụng. Khi tâm họ định tĩnh, nhu nhuyến và dễ sử dụng thì họ nhập thiền định không có khó khăn, không có mệt nhọc, như lấy đồ trong túi. Cho nên nhập thiền định của đạo Phật không quan trọng.

Khi tâm chưa hết tham, sân, si mà điều thân, điều tức, điều tâm để nhập thiền định thì Phật giáo không có dạy điều này. Phật giáo dạy khi chúng ta muốn tu hành thì đầu tiên chúng ta chọn một vị thầy tu chứng đạt chân lí, giới luật phải sống nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Khi chọn được một vị thầy như vậy thì nên thân cận thưa hỏi. Nhờ thân cận thưa hỏi, vị Thầy đó chỉ dạy cho các bạn hiểu biết chân lí tức là giác ngộ chân lí; khi giác ngộ chân lí xong, vị thầy ấy chỉ cho các bạn cách thức hộ trì chân lí. Khi chân lí được hộ trì đúng cách thì chúng ta chứng đạt được chân lí; khi chứng đạt được chân lí thì tâm các bạn đã đoạn diệt tham, sân, si. Tham, sân, si đã đoạn diệt thì tâm các bạn định tĩnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng. Lúc bấy giờ các bạn mới có đủ Tứ Thần Túc. Nhờ có Tứ Thần Túc các bạn mới nói đến chuyện nhập thiền, nhập định. Như vậy sự nhập thiền định của Phật không có liên quan đến vấn đề điều thân, điều tức, điều tâm. Phải không các bạn? Cho nên thân tâm của họ không bị ức chế, vỏ não xám không bị ức chế. Không bị ức chế thì không bị hưng phấn. Không bị hưng phấn thì sự sống của họ bình thường như mọi người khác, nhưng rất phi thường vì thân tâm họ bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

Như Bác viết trong bài này: “Điều tức do ức chế được hô hấp là đã ức chế được thần kinh thực vật. Dây thần kinh phế vị hồn nhiên được ức chế đã làm cho sự hoạt động của tạng phủ phổi dạ dày ruột... giảm dần sự hoạt động. Việc tiêu thụ oxy khi ấy xuống rất thấp đã kéo theo sự giảm dần toàn bộ sự hoạt động toàn thể của tạng phủ, tim, não và hệ vận động đi sâu vào trạng thái đồng đẳng”. Thiền định của đạo Phật không có tu tập những điều này. Chỉ khi cần muốn nhập định nào thì ra lệnh tác ý câu trạch pháp của thiền định đó, tức khắc thân tâm làm theo lệnh và nhập định.

Ví dụ: muốn nhập Nhị Thiền thì ra lệnh: “Thân tâm phải diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền” lúc bấy giờ sáu căn ngưng hoạt động, liền đó thân tâm nhập vào Nhị Thiền, chứ không có nghĩa là điều thân, điều tức, điều tâm để diệt tầm tứ rồi mới nhập Nhị Thiền. Nhập thiền định mà nhập theo kiểu ức chế là sai, là không đúng theo thiền định Phật giáo. Và như vậy không bao giờ nhập Nhị Thiền được.

Trong Định Niệm Hơi Thở của Phật giáo không có dạy dùng hơi thở để nhập các định. Mà Định Niệm Hơi Thở chỉ dùng hơi thở để ly tham, sân, si và các ác pháp như trên đã nói: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tối biết tôi thở ra”. Hơi thở của đạo Phật không giống hơi thở của Bác đang luận:

“Chúng ta trở lại hơi thở trong trường hợp sợ hãi, tức giận nhịp tim tăng nhanh, nhịp thở gấp, người ta không thể sáng suốt, minh mẫn. Người ta chỉ có thể tỉnh táo, sáng suốt khi thân, tâm được thăng bằng, thở điều hoà, từ nhận thức này, từ hàng ngàn năm nay, ở Ấn Độ cũng như ở Trung Quốc, môn Yoga, Khí công, dưỡng sinh luyện đan, tu tập trường sinh bất lão chủ yếu đều tập trung vào hơi thở. Các phương pháp thở tùy theo truyền thống của từng nước, từng môn phái… chủ yếu vẫn là “THỞ” tập như thế nào để làm cho hơi thở chậm lại, “QUY TỨC” (thở như rùa, ba ba, đồi mồi có thể không thở trong 72 giờ). Sau đó là kết hợp luyện hình, luyện ý theo ba yếu tố chủ chốt, TINH, KHÍ, THẦN, luyện TINH hóa KHÍ, KHÍ hóa THẦN, luyện THẦN hóa HƯ, luyện HƯ hợp ĐẠO. Luyện THẦN đến chỗ hoàn HƯ có nghĩa là dẫn tâm đến chỗ “CHÂN KHÔNG” hay còn gọi là TỊNH TÂM VÔ THỨC. Người mà luyện được tới chỗ “THẦN HOÀN HƯ” thì có nhiều khả năng sống lâu và có trí tuệ. Việc luyện linh đan đã hoàn tất tức luyện HƯ hợp ĐẠO.” 

Đoạn luận trên đây của Bác dùng hơi thở để dung hóa các pháp môn Phật, Lão, Yoga, Bà La Môn v.v… Từ chỗ thiền Phật giáo để trở thành thiền luyện Tinh, Khí, Thần của Tiên đạo. Đó là một hòa đồng pháp môn mà người sau kiến giải dung hóa thành lập ra. Bây giờ Bác cũng nhẫm lại lối mòn đó. (Hòa đồng Tôn giáo theo kiểu Thông Thiên học)

Theo Diệu Quang hiểu biết thì thiền của Phật giáo không giống một thứ thiền nào của các tôn giáo khác, và cũng không có ai có thể dung hoà được thiền của Phật giáo với các thứ thiền khác được. Vì thiền định của Phật giáo là một pháp môn thiền độc nhất không có một thứ thiền nào giống được. Cho nên thiền định của Phật giáo không phải là một pháp môn tu tập như các pháp môn thiền của các tôn giáo khác. Thiền của Phật giáo là một chương trình giáo dục đào tạo con người sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Một chương trình có bài vở hẳn hoi, có phần lý thuyết học tập, có phần thực hành tu tập để sống trở thành một thói quen đạo đức làm Người, làm Thánh rõ ràng cụ thể.

Bởi vậy mục đích của đạo Phật không luyện THẦN đến chỗ HOÀN HƯ, không dẫn tâm đến chỗ “CHÂN KHÔNG” như Tiên Đạo và Đại Thừa. Tiên Đạo và Đại Thừa khéo tưởng tượng pháp, tu tập trong tưởng, sống trong tưởng. Còn riêng đạo Phật sống như thật, không mơ mộng những điều cao siêu ảo tưởng, chỉ có một mục đích là bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Cho nên muốn sống được như vậy thì phải biết sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai, đó là giải thoát, là thiền định của Phật giáo, đấy các bạn ạ!

Bốn thiền và Tam minh không phải là mục đích của đạo Phật, nó chỉ là một năng lực của đạo đức nhân bản - nhân quả làm người, khi người ấy sống trọn vẹn với đạo đức thì những năng lực này sẽ xuất hiện. Vì thế, Bốn thiền và Tam minh đối với Phật giáo nó không có quan trọng. Khi tâm lìa tham, sân, si, tâm định tĩnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng thì đức Phật dạy: “Nhập Bốn thiền và Tam minh không có khó khăn, không có mệt nhọc”.

Kính thưa Bác! Diệu Quang đọc bài luận về thiền của Bác viết, Diệu Quang rất lo lắng: “Nếu mọi người cứ hiểu thiền của Phật như bài luận của Bác thì tự nó đã dìm thiền Phật giáo mất. Như vậy về sau còn ai biết thiền của Phật giáo nữa”. Thiền của Phật giáo là đạo đức của mọi người, lợi ích cho mọi người, đúng căn cơ của con người, chứ không phải như thiền của Bác viết. Thiền của Bác là thiền của những bậc đạo sĩ luyện Tinh, Khí, Thần để trở về với Chân Không Bản Thể. Những loại thiền này chỉ dành riêng cho những bậc cao siêu, còn những người bình thường phàm phu làm sao tu tập nổi, nếu có tu cũng trở thành điên khùng như một số người hiện giờ mà Diệu Quang đã chứng kiến. Cho nên thiền này chỉ nói suông nghe chơi, chứ không phổ cập cho loài người được, vì chẳng lợi ích thiết thực cho đời sống của con người, và con người căn cơ thấp kém không phù hợp với những loại thiền này.  

Kính thưa Bác! Từ khi có những loại thiền này có mấy người đã chứng được nó? Có người nào luyện Tinh, Khí, Thần mà sống được 1000 tuổi chưa?

Kinh sách viết về thiền này quá nhiều, biết bao nhiêu giấy mực của thế gian mà có lợi ích gì cho ai, con người khổ cũng vẫn khổ như thường. Có đúng không thưa Bác?

Đối với đạo Phật, thiền là đạo đức làm người, làm Thánh, chứ không phải luyện Tinh, Khí, Thần, thiền không phải là khoa học, y học, vật lý học như trong bài viết Bác đã luận. Theo như bài viết của Bác đã luận: “Đến đây chúng ta có thể nhận xét sơ bộ, nếu nhận xét trên đây là có thể chấp nhận: 

- Moóc phin nội sinh là do cơ thể tiết ra nên không gây nghiện.

- Moóc phin chỉ tiết ra trong trường hợp châm tê ngoại khoa và châm để làm giảm đau trong điều trị nội khoa, sản khoa.

- Có thể moóc phin nội sinh chỉ tiết ra trong khi nhập thiền sâu xa (hiện chưa có nghiên cứu nào). Nhập thiền càng sâu này độ moóc phin nội sinh càng tỏa lan.

- Niềm an lạc do moóc phin sinh đem lại cho hành giả thực hành thiền quán thuần thành là không thể nào hình dung nổi đối với tâm trí thế tục; và không một sự khoái lạc thế tục nào sánh nổi. Đó là chắc chắn; trí tuệ và thần thông đến là điều tự nhiên do “nhập định sâu xa nhu nhuyến dễ sử dụng, lâu dài… tuyệt nhiên không phải do lòng cầu mong thế tục”. 

Kính thưa các bạn! Theo Diệu Quang nghĩ: “Thiền là thiền, thiền không thể là khoa học, y học, vật lý học. Cái lầm lạc của những người trí thức là hay tổng hợp, lấy khoa học, y học, vật lý học, để minh chứng cho thiền định và lấy thiền định lồng trong y học, vật lý học, khoa học để bảo rằng thiền định là một sự thật không hư tưởng.

Kính thưa các bạn! Thiền định là thiền định; khoa học, y hoc, vật lý học là khoa học, y học, vật lý học, chứ không phải là thiền định; thiền định cũng không phải là khoa học, y học, vật lý học xin các bạn lưu ý cho.

Nói đến thiền định là nói đến Tôn giáo; tôn giáo là một chân lí của loài người, ngoài chân lí của con người đi tìm tôn giáo thì tôn giáo ấy là tôn giáo ảo tưởng. Còn chân lí của loài người là tôn giáo thì tôn giáo ấy mới thật sự là tôn giáo của con người; tôn giáo không phải là chân lí của loài người là tôn giáo tưởng tri, do con người tưởng ra Thánh khải hay Cơ bút giáng. Cho nên tôn giáo là đạo đức của loài người. Đạo đức của loài người là tôn giáo và như vậy tôn giáo ấy mới thật sự là lợi ích của loài người.

Ở đây Bác và mọi người trí thức khác đều chưa phải là những người đã chứng đạt chân lí; chưa phải là những người nếm mùi vị thiền định, nên khi viết ra sợ mọi người không tin thiền định mình viết, mình đang hiểu biết và đang tu học, nên dựa theo lý giải của khoa học, y học và vật lý học để lồng ghép vào thiền định khiến cho mọi người chưa biết thiền định đều tin theo bài viết của mình là thiền như thật.

Đức Phật đã hiểu biết những điều này nên Ngài đã răn nhắc chúng ta: “Đừng có tin! Đừng có tin! Và đừng có tin!!! … Chỉ có đạo đức mới đem lại sự lợi ích cho mình, cho người thì nên tin”.

Đã lâu Diệu Quang nhận được bản dịch Việt ngữ tập sách “THE TAO OF PHYSICS” của tác giả FRITJOF CAPRA do Nhà Khoa học Vật lý Nguyễn Tường Bách biên dịch: “ĐẠO CỦA VẬT LÝ” đã tóm lược vật lý khoa học lồng vào đạo học như sau: “Đặc trưng của nền vật lý hiện đại của thế kỷ 20 là sự tìm kiếm nguồn gốc khởi thủy của vật chất, cố tìm ra những “HẠT CƠ BẢN”, cuối cùng tạo nên nguyên tử. Thế nhưng khi đến cánh cửa cuối cùng mở ra để thấy bộ mặt thật của vật chất, nhà vật lý phát hiện vật chất hình như không phải do những hạt cứng chắc tạo thành nữa mà nó chỉ là dạng xuất hiện của một thực tại khác, vì thế mà vật chất mang những tính chất hầu như đối nghịch nhau, nó vừa liên tục, vừa phi liên tục, vừa hữu hiện vừa phi hữu hiện; dạng xuất hiện của nó tùy theo cách quan sát của con người. Những tính chất lạ lùng đó đưa ngành vật lí vào thẳng cửa ngõ của triết học: nền vật lý hiện đại vừa thống nhất và lý giải nhiều khái niệm cơ bản của triết học, vừa đề ra những câu hỏi lớn của loài người mà các nhà Đạo học từ xưa đã tổng kết, và kỳ lạ thay, những phát hiện hiện nay của nền vật lý hiện đại không khác bao nhiêu với những kết luận của các Thánh nhân ngày xưa”.

Đọc qua đoạn luận này các bạn thấy rất rõ ngành khoa học vật lý hiện đại đã lồng vào đạo học để dẫn chứng đạo học (thiền) là vật lý khoa học.

Thưa các bạn! Diệu Quang thiết nghĩ: “Nếu những nhà vật lý khoa học này đã nhập được thiền định đúng chánh pháp của đức Phật thì các vị ấy không bao giờ viết và dịch cuốn sách này “ĐẠO CỦA VẬT LÝ”. Rõ ràng các nhà khoa học lấy vật lý để minh chứng cho đạo học, nhưng đạo học vẫn là đạo học; vật lý khoa học vẫn là vật lý khoa học, nếu Diệu Quang nghĩ không lầm, các nhà khoa học vật lý không thể hiểu mục đích của đạo học. Vì lợi ích cho con người nên Đạo học mới ra đời, nhưng Đạo học lại đưa ra một thứ thiền hư tưởng, nó không đáp ứng nhu cầu đạo đức sống của con người, nên nó không được phổ cập đến mọi con người, vì thế, nó chỉ dành cho những bậc tiêu cực yếm thế. 

Kính thưa các bạn! Mục đích của đạo học, nhất là thiền của Phật giáo là đem lại sự an vui, thanh thản, bất động thân tâm ra khỏi mọi sự khổ đau của con người. Đạo học giúp cho con người có một cuộc sống hài hoà với mọi người, không làm khổ mình, không làm khổ người, chứ đâu phải nêu ra và so sánh để đi vào kết luận đạo học của vật lý. Nếu đạo học của vật lý là vật lý thì còn có nghĩa gì là đạo học nữa, là thiền nữa. Nếu như vậy thiền định là một vật lý đâu còn phải là một tinh thần sống động, đầy đủ sự an lạc, thanh thản, yên vui của tâm từ , bi, hỷ, xả.

Kính thưa các bạn! Khi chưa nhập thiền định các bạn đừng nên viết nói về thiền định, dù có viết nói về thiền định thì các bạn sẽ viết không đúng, chỉ khi nào các bạn có Định Thần Túc thì các bạn viết và nói về thiền định thì không còn sai nữa các bạn ạ!

Sau khi tu tập Tứ Niệm Xứ viên mãn, thầy Thông Lạc có đủ Tứ Thần Túc. Khi có đủ Tứ Thần Túc mới nhập các định và thực hiện Tam minh, còn chưa có thì không bao giờ nhập định được như đã nói ở trên. Khi nhập các định xong, bấy giờ Thầy mới xem xét lại kinh sách Đại Thừa, Thiền Tông và tất cả những kinh sách của những nhà Đạo học họ viết và luận về thiền, Thầy biết rất rõ tất cả các vị ấy chưa bao giờ nếm được mùi vị của thiền định, họ chưa bao giờ biết thiền định ra sao? Họ chưa bao giờ biết nhập định như thế nào? Họ chỉ nói theo kiểu suy luận như giáo sư Capra và giáo sư Nguyễn Tường Bách.

Tóm lại, thiền không phải là khoa học, khoa học không phải là thiền, thiền thuộc về tinh thần đạo đức nên nó mang đầy tính thiện chứ không phải là những loại thiền mang tính chất vật lí của đạo học Đông phương xin quý vị đừng gán cho nó là thiền của Phật giáo, nếu quý vị cho nó là thiền của Phật giáo là quý vị quá nông nổi.

Thăm và chúc Bác vui, mạnh và xả tâm tốt. Nếu Diệu Quang nói có điều chi sơ sót xin Bác vui lòng tha thứ cho, vì Diệu Quang biết mà không nói ra thì rất tội nghiệp cho con cháu những thế hệ mai sau sẽ lầm lạc.

                                                                                                                 Kính thư
                                                                                                             Diệu Quang

096-NGHĨA CHỮ "TĂNG BẠT'

Có một phật tử hỏi:

“Trong sách "HỎI ĐÁP OAI NGHI CHÁNH HẠNH" của Trưởng Lão, trang 118, có viết: "Tốt hơn là các con chỉ xướng TĂNG BẠT mà thôi vì xướng tăng bạt là để nhắc nhở các con tinh tấn tu hành ngày một tốt hơn."

Chúng tôi không hiểu ý nghĩa của chữ TĂNG BẠT này và cách hành trì Tăng Bạt như thế nào. Trong sách cũng không giải thích.

Vậy kính xin Bạn vui lòng giải thích cho chúng tôi được hiểu. Xin vô cùng cám ơn”.

Trước khi xem các lời đáp, chúng tôi xin dẫn trích nguyên văn bài Trưởng Lão trả lời câu hỏi của Ngọc Bình (trang 114 – 118, sách HỎI ĐÁP OAI NGHI CHÁNH HẠNH – NXB Tôn giáo 2011).  

Câu hỏi của Ngọc Bình: Trong bữa thọ thực của chúng con có bài thí thực, lấy ba hạt cơm bỏ vào trong chung nước. Chúng con có thể thí cơm và thực phẩm thêm không? Hay chỉ thí thực một lần thôi?

Trưởng Lão dạy: "Nghi thức thí thực này là của các vị tổ sư Đại thừa, mê tín tự đặt ra để cúng những vong linh chết oan, chết chưa đến số mệnh. Trong kinh sách Nguyên Thủy không có dạy điều này, vì đức Phật dạy thế giới cô hồn, các đảng là thế giới tưởng của con người còn sống tự tạo ra (tưởng tri chứ không phải liễu tri).

Bởi vậy, các sư thầy thí thực là bắt chước theo nghi thức của kinh sách Đại thừa. Thí thực có nghĩa là cúng thực phẩm cho “cô hồn, các đảng”. Trong các chùa Đại thừa hiện nay, thường vào buổi chiều 5 giờ các thầy đều công phu tụng kinh “MÔNG SƠN THÍ THỰC” cúng cô hồn, các đảng bằng gạo và muối. Từ trong các chùa Đại thừa đã truyền thừa tư tưởng mê tín này vào dân gian, và đã ăn sâu thành một phong tục tập quán mê tín lạc hậu.

Cô hồn, các đảng là những vong linh người chết oan, chết còn trẻ, chết yểu, chết chưa tới số, chết bất đắt kỳ tử như tai nạn giao thông, tự tử thắt cổ, chết đuối, chết trong trứng nước như những thai nhi bị móc bỏ, chết như những chiến sĩ trận vong, v.v... Những kiểu chết trên đây là chết oan uổng, chết tức tối.

Qua những sự chết này, con người chưa đủ kiến thức khoa học nên khéo tưởng tượng ra những linh hồn sống lơ lửng theo cây đa bong mát, theo chùa chiền để kiếm ăn, vì những linh hồn này chưa tới số nên không thể đi đầu thai được. Từ những tưởng nghĩ mê tín này đã truyền thừa từ xưa đến nay, nên đã in sâu vào tư tưởng con người thành những phong tục dân gian rất khó bỏ.

Thường mỗi bữa thọ trai, sau phần tụng bài “Cúng dường” xong, thì đến phần thí thực “lấy ba hạt cơm bỏ vào trong chung nước” để trong lòng bàn tay trái, và tay mặt bắt ấn “Cam lồ” hay còn gọi là bắt ấn “Dương chi”, bắt ấn theo hình ảnh đức bồ tát Quan Thế Âm, rồi đọc chú “Cam lồ” để biến ba hạt cơm thành ra trùng trùng hạt cơm, nhờ đó mới đủ sức bố thí cho trùng trùng những cô hồn, các đảng, tức là những vong linh chết oan, chết yểu.

Bắt ấn niệm chú như vậy chỉ có sư cô Trưởng đoàn hay người chủ lễ bữa thọ trai, chứ các ni sinh chỉ ngồi im lặng lắng nghe. Sau khi niệm chú xong, sư cô Trưởng đoàn trao chung nước có ba hạt cơm cho người thị giả. Người thị giả đem ra cúng chim đại bàng và thí thực cô hồn, các đảng.

Theo Thầy nghĩ, chúng ta là đệ tử của Phật thì không nên làm những điều mê tín lạc hậu của ngoại đạo, mà phải tập sống như Phật. Bố thí là bố thí cho những chúng sinh còn sống, chứ không phải bố thí cho những người đã chết. Nhưng chúng ta là những người đi xin ăn (khất sĩ), thì lấy cơm đâu mà bố thí. Bố thí theo kiểu Đại thừa lấy ba hạt cơm đọc thần chú biến ra vạn triệu hạt cơm. Đó là một hình thức lừa đảo của những pháp môn mê tín. Bố thí đúng nghĩa là phải tự làm ra thực phẩm, làm cơm gạo, chứ không làm ra thực phẩm, làm ra cơm mà bố thí thì nghĩa bố thí không đúng. Chúng ta là người xin ăn thì chỉ có chia sớt bữa ăn với những chúng sinh khác đang đói khổ mà thôi. Chia sớt không thể cho chúng sinh ăn đồ dư thừa.

Cho nên trước khi thọ thực, sau bài tụng dâng lên lòng thành kính chư Phật, tổ tiên, ông bà và cha mẹ xong, thì mỗi tu sĩ khởi lòng thương yêu chúng sinh đang đói khổ, nên dành riêng ba hạt cơm và một ít thực phẩm, để sau khi ăn xong đem đến nơi nào có loài vật đang đói khổ như: kiến, chuột, chó, mèo hoang không ai nuôi, v.v... Còn không có chúng sinh đang đói khổ thì không nên phí thực phẩm, vì thực phẩm làm ra bằng mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ.

Nếu chúng ta phí phạm thực phẩm ít như ba hạt cơm cũng là phí phạm. Và như vậy cũng giống như “ăn thịt con mình”.

Phần trả lời này các con có hiểu chưa?

- Thứ nhất, các con không nên tụng kinh và niệm chú cúng chim đại bàng và thí thực cô hồn, các đảng theo lối mòn mê tín của Đại Thừa. Giáo đoàn Chơn Như càng phát triển lớn mạnh thì càng sống đúng gương hạnh của Phật, không để những sự mê tín của ngoại đạo xen vào làm mất ý nghĩa chân lý cao thượng của Phật giáo.

- Thứ hai, chung quanh thất các con có những loài vật đang đói khổ thì nên dành cơm và thực phẩm bố thí cho chúng, nhưng không được nuôi súc vật trong thất. Người tu sĩ không được nuôi con vật nào cả, chỉ những con vật hoang vô chủ, đói khát lang thang thì các con mới chia sớt cơm và ít thực phẩm bố thí cho chúng. Không được nuôi kiến, chúng đã tự kiếm ăn được, chỉ khi nào nào mưa gió chúng không đi kiếm ăn được, chúng ta mới dành một ít cơm và thực phẩm đến chỗ chúng ở bố thí.

Tốt nhất là các con đừng cúng “THÍ THỰC”, mà chỉ xướng Tăng Bạt mà thôi, vì xướng Tăng Bạt là để nhắc nhở các con tinh tấn cố gắng tu hành ngày một tốt hơn".

Ở đây, do có chữ “xướng Tăng Bạt” trong câu kết của bài trả lời nên mới có câu hỏi của phật tử nêu trên. Câu hỏi này cũng được thưa hỏi một vị tăng Đại Thừa và được vị tăng trả lời như sau:

Vị tăng Đại Thừa giảng:

Trả lời: "PHẬT CHẾ TỲ KHEO THỰC TỒN NGŨ QUÁN TÁN TÂM TẠP THOẠI TÍN THÍ NAN TIÊU ĐẠI CHÚNG VĂN KHÁNH THINH CÁC CHÁNH NIỆM NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT". Đó là câu trong TĂNG BẠT.

Phật tử giải và hỏi thêm:

Như vậy phật tử giải phân câu trên như sau, không biết có sai không? xin hoan hỉ sửa lại giúp:

PHẬT CHẾ: TỲ KHEO THỰC TỒN (các vị tỳ kheo đang hay sắp ăn), NGŨ QUÁN (quán 5 điều), ĐẠI CHÚNG VĂN KHÁNH THINH (khi mọi người nghe tiếng khánh), CÁC CHÁNH NIỆM (hãy theo các chánh niệm). (Chúng tôi nghĩ chữ CÁC nên thay bằng chữ TÁC, giống như TÁC Ý, không rõ nên chăng). NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT (chúng tôi sửa lại NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT).

Câu hỏi của phật tử cũng được chuyển đến thưa hỏi thầy Bảo Nguyên và được Thầy trả lời (nương theo lời giảng dạy của Trưởng Lão Thích Thông Lạc) như sau:

Thầy Thích Bảo Nguyên giảng.

Ý nghĩa chữ xướng TĂNG BẠT (DUY NA) là danh từ chỉ cho vị chủ xướng (dẫn chúng) … trong các buổi thọ trai đọc lên "TAM ĐỀ, NGŨ QUÁN" và toàn chúng đọc theo lời dẫn xướng này. Nếu ta thọ thực một mình thì cũng thầm đọc lên tam đề, ngũ quán như vậy.

Dưới đây là phần nội dung tam đề, ngũ quán do Trưởng Lão biên soạn:

TAM ĐỀ:

1- Miếng thứ nhất: Ước nguyện tâm con Ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm

2- Miếng thứ hai: Ước nguyện tâm con sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp, luôn sống trong tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự.

3- Miếng thứ ba: Ước nguyện tất cả chúng sanh đều ly dục, ly ác pháp, không làm khổ mình khổ người

NGŨ QUÁN: (quán sau khi ăn ba miếng cơm lạt)

1- Quán xét công ơn người đàn na thí chủ rất nặng. Làm ra thực phẩm bằng mồ hôi nước mắt, bao nhiêu công khó khổ để cúng dường.

2- Quán xét giới luật mình có gìn giữ nghiêm chỉnh hay chưa? Nếu còn phạm giới có xứng đáng thọ nhận sự cúng dường đó chưa?

3- Quán xét công đức tu hành ly dục ly ác pháp của mình có xứng đáng thọ dụng của đàn na thí chủ chưa?

4- Quán xét thực phẩm bất tịnh mình có nhàm chán hay chưa? Nếu đã có tâm nhàm chán thì mới xứng đáng thọ dụng của đàn na thí chủ.

5- Quán xét đời sống thiểu dục tri túc, minh hạnh của mình có trọn vẹn chưa? Nếu xét thấy đời sống của mình thiểu dục tri túc và oai nghi chánh hạnh đầy đủ thì xứng đáng thọ dụng của đàn na thí chủ.

097-BỐN CHÂN LÝ CỦA ĐẠO PHẬT - TL Thích Thông Lạc

Nhân duyên có một chú phật tử đánh máy lại bài giảng của đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc dạy cho một cô phật tử về việc áp dụng 10 điều lành, Tứ diệu đế, Bát Chánh đạo vào đời sống của người cư sĩ. GNCN xin giới thiệu đến quý phật tử và độc giả bài giảng này:

BỐN CHÂN LÝ CỦA ĐẠO PHẬT

Hôm nay Thầy ngồi lại nói chuyện với cháu Thoa. Chẳng còn bao lâu nữa con phải rời khỏi Việt Nam - quê cha đất Tổ, để hòa mình trong cuộc sống mới, cuộc sống đầy cam go và thử thách nơi xứ lạ, quê người. Ở góc độ nhân sinh quan, đức Phật đã nhìn cuộc sống của kiếp con người bằng đôi mắt vượt lên trên để thoát khỏi sự bao vây và trói buộc bởi bao sợi dây xiềng xích vô hình đang và sẽ xiết càng lúc càng chặt hơn. Vì thế, bài học vỡ lòng đầu tiên của đạo Phật: Đời là Khổ, nhưng mấy ai biết nó thật khổ? Đời sống có năm thứ dục lạc đang cám dỗ, thu hút mọi người như đá nam châm, khiến cho mọi người mê mờ, ảo tưởng, cho đó là hạnh phúc, an vui chân thật. Nhưng nào ngờ nó là bong bóng nước, là hoa đốm giữa hư không, ở xa nó là hạt kim cương, nhưng đến gần nó là hạt nước mắt. Cách đây 2540 năm, đức Phật đã quả quyết xác định đời là khổ, dư âm còn vang dội đến ngày hôm nay, không có một tôn giáo nào, một triết gia nào, một nhà khoa học nào trên thế gian này dám phủ nhận lời nói đó, cho nó là sai. 

Này con, con phải hiểu đây không phải là một thông điệp chán đời, mà là một bằng chứng cụ thể, một chân lý thực sự, không có gì chối bỏ được. Hằng ngày sự đau khổ diễn ra trước mắt của mọi người nên làm sao phủ nhận được? Đạo Phật đã vạch mắt chúng ta để thấy thật sự đời là đau khổ thật, không phải để trốn tránh nó, mà để biết nhìn thẳng nó, nhìn thẳng vào sự thật để chiến đấu vươn lên, vượt lên tận cùng và để chấm dứt đau khổ sinh tử luân hồi. Vì thế đạo Phật không phải là đạo yếm thế, đạo xuất thế, nghĩa là đạo vượt lên trên cuộc đời.

Này con, biết đời là khổ, hôm nay con sắp và đã trở thành người lớn, con phải chuẩn bị sẵn sàng đương đầu và đối phó mọi chiều hướng nơi tâm con. Con phải luôn sáng suốt, cảnh giác từng hành động, lời nói, ý nghĩ và còn phải gìn giữ, phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Nếu không vậy, thân tâm con sẽ chẳng có phút an vui thanh thản. Tứ Diệu Đế, bài pháp đầu tiên của đức Phật mà mọi người trên thế gian này từ xa xưa đến bây giờ đều phải chấp nhận là một chân lý bất di bất dịch, không ai có quyền thay đổi dù chỉ thay đổi một phần ngàn, một phần triệu cũng không thay đổi được. Vậy trước khi con lên đường, Thầy mang bài pháp này giảng trạch để trang bị cho con một tinh thần dũng cảm, một ý chí sắt đá, một tâm hồn bền vững. Luôn luôn cảnh giác, ngăn ngừa, phòng hộ, giữ gìn sáu căn và sẵn sàng chiến đấu với nội tâm để lập đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng nhờ đó con mang lại thanh bình cho cuộc sống không làm khổ mình, khổ người.

Vậy Tứ Diệu Đế là gì? Tứ Diệu Đế là một kinh nghiệm bản thân vô giá mà đức Phật đã ban truyền để hướng dẫn nhân loại đau khổ cởi mở trói buộc bất toại nguyện và thoát đến hạnh phúc tuyệt đối, thực tế tuyệt đối. Những Chân lý thâm diệu ấy không phải do Ngài tạo nên, Ngài chỉ khám phá và nhận diện ra nó. Tứ Diệu Đế là bốn Chân lý thâm diệu, chỉ vạch cho con người nhận biết kiếp sống đau khổ vô cùng, vô tận, không bao giờ dứt và cũng để chỉ cách thức vượt thoát ra chấm dứt khổ đau ấy. Bây giờ, chúng ta lần lượt triển khai từng Đế một.

1. Khổ Đế là gì? Khổ Đế là chân lý thứ nhất chỉ rõ cho mọi người thấy đời sống con người là một chuỗi dài thời gian đau khổ bất tận. Nếu ai chịu khó suy tư, ngẫm lại, quán xét đời sống của mình, chắc quý vị phải công nhận đời khổ thật. Khổ từ hành động do thân, miệng, ý của mình. Khổ từ những hành động của mọi người khác, từ miệng người khác và từ những sự hao mất những vật chất, tài sản, những người thân thương xung quanh mình. Khổ vì cầu mong mà chẳng được. Khổ vì bệnh tật, tai ương, chết tróc, xa lìa, ly tán. Đời người còn biết bao nhiêu thứ khổ nữa, làm sao kể cho tận cùng, kể hết cho tận cùng. Nếu ai bảo đời là hạnh phúc, là an vui thì phải biết người đó là người mất trí.

Đức Phật dạy đời là khổ để làm gì? Trong cái khổ của cuộc đời còn có rất nhiều sự vật cám dỗ và thu hút lòng tham muốn của con người rất mạnh, khiến cho mọi người dễ dính mắc, mà khi đã dính mắc thì thành nghiệp thói quen, mà đã thành thói quen thì dễ sa ngã, càng sa ngã lại càng khổ đau. Vì thế đức Phật nói đời khổ là để chỉ thẳng cho chúng ta tránh xa những cạm bẫy cám dỗ đó, chớ không phải ngồi đó than thở đời khổ, than thân trách phận. Vì chính những sự cám dỗ này đã đưa con người đến chỗ tận cùng đau khổ của cuộc đời. Đời đã có những cái khổ sẵn từ lúc mới sinh ra, nhưng vì không hiểu sống trên khổ mà không biết nên đã chạy theo danh, lợi, vật chất. Khổ mà không hay.

Do vậy, càng đắm đuối, say mê, chạy theo và mơ mộng những hạnh phúc hão huyền nên đã khổ lại càng khổ hơn. Này con, bài học đầu tiên Khổ Đế của đạo Phật để nhắc nhở cho con người giật mình nhìn lại đời sống của mình, để nhắc nhở con người tỉnh thức lại đời sống của mình và cũng để cảnh giác con người sự đau khổ không phải chỉ có một kiếp mà vô lượng kiếp, giống như ngọn đuốc này sắp tàn thì mồi tiếp ngọn đuốc khác, và cứ tiếp tục mãi mãi trong vòng tròn luân hồi sanh tử và khổ đau. Vì thế, khi hiểu được đời là khổ thì con phải tư duy cho thấm nhuần, biết rõ như thật đời khổ như thật. Khi biết rõ đời khổ như thật, khổ thật thì tâm con không còn ham muốn gì cả trên thế gian này. Do vậy, con mới mạnh dạn từ khước mọi sự cám dỗ một cách anh dũng, thì con không còn bị sa lầy, đau khổ trên nó. Nếu con chỉ biết đời khổ với một tâm hời hợt, với một sự biết khổ chưa thật khổ thì con khó từ khước những danh, lợi và vật chất đang cám dỗ và quyến rũ con. Từ đó con sa lầy trên những sự cám dỗ đầy ô trược, khổ đau và nó luôn luôn cuốn hút con trong đau khổ, đau khổ này.

Nhìn lại cuộc sống hằng ngày thân tâm con và vạn vật xung quanh con đang diễn biến từng phút giây vô thường, nghĩa là nó đang sanh diệt từng sát na không ngừng nghỉ. Do sự diễn biến vô thường này đã tự tạo ra muôn vàn thứ đau khổ cho con người, nó vì quá vi tế nên con người không nhận ra được. Vì không nhận ra được nên con người lầm tưởng thân tâm của mình và vạn hữu xung quanh là thường hằng, vì thế đắm đuối chạy theo, dính mắc, ham mê say đắm. Càng chạy theo càng dính mắc, càng ham mê, càng say đắm thì lại càng khổ đau, khổ đau nhiều. Đời là một chuỗi ngày dài đau khổ của kiếp người, nếu con đã thấm nhuần biết đời là khổ thật, khổ như thật mà không có lối thoát thì con lại sinh ra tâm buồn chán hết muốn sống.

Trong thời đức Phật còn tại thế, khi các vị Tỳ Kheo quán xét đời sống là khổ thật, thân tâm vô thường và bất tịnh nên sinh ra ngao ngán và chán đời không còn thiết sống, vì thế các vị tự tử hoặc mướn người khác giết mình. Có một số người nghe đến đây hiểu lầm lạc này nên cho rằng đạo Phật yếm thế, tiêu cực. Đó là người ta đứng ở góc độ phiến diện của đạo Phật chỉ thấy cảnh khổ đời người mà không thấy cảnh giới giải thoát của Niết bàn tại thế của đạo Phật.

Khi đức Phật giảng trạch chỉ cho mọi người thấy đời là khổ, khổ thật thì ngay liền cũng chỉ dạy chúng ta thấy chỗ thoát khổ. Chúng ta chán ngán cuộc đời vì nó toàn là khổ, nhưng để thoát ra khỏi cảnh khổ không phải bằng cái chết, chết chưa hẳn đã là hết khổ mà chỉ tiếp tục cho sự tái sanh kế tiếp, và như vậy kiếp này đến kiếp khác chỉ ở trong một vòng tròn đau khổ triền miên bất tận.

Đức Phật đã dạy: “Cuộc đời xuôi dòng là khổ, đi ngược dòng đời là thoát khổ”. Vì thế, cũng cùng một cuộc sống không có khác nhau chút nào, nhưng chạy xuôi theo dòng đời, thuận theo lòng ham muốn thì đời là khổ, là cảnh giới gian ác, uế trược, địa ngục, khổ đau. Bằng ngược lại thì đời là Niết bàn, cảnh giới hiền hoà, thanh tịnh, an vui, thiên đường, không có khổ đau. Vì thế Chân lý thứ ba được giảng trạch, chỉ dạy cho tất cả mọi người để tránh sự yếm thế, tiêu cực đối với cuộc sống Diệt Đế là chân lý thứ ba trong Tứ Đế.

2. Diệt Đế là gì? Diệt Đế là niết bàn là cảnh giới không còn đau khổ sinh tử và luân hồi. Diệt Đế là một cuộc sống của con người đi ngược dòng đời mà mọi người đang sống. Diệt Đế là cuộc sống với thân tâm thanh thản, an vui. Diệt Đế là cuộc sống của con người không làm khổ mình, khổ người. Diệt Đế là cuộc sống toàn thiện, chân thiện, thánh thiện. Diệt Đế là cuộc sống nội tâm, sống với mình, sống cho mình, sống không động người. Diệt Đế là cuộc sống độc cư trọn vẹn. Diệt Đế không phải là cảnh giới siêu hình để người tu hành chết được sinh vào đó. Diệt Đế không phải là cảnh giới mơ hồ, trìu tượng, tưởng tượng hão huyền do sự tưởng tượng mà ra. Diệt Đế là cảnh giới niết bàn, giải thoát chân thật, cụ thể, thực tế mà khi chỉ vào cho thấy thì ai cũng phải công nhận cảnh giới ấy chân thật, thật sự.

Đạo phật nói đời là khổ thì không ai phủ nhận được thì không ai phủ nhận được, nói niết bàn là giải thoát an vui thì cũng không ai phủ nhận được. Bởi vậy mới gọi nó là chân lý bất di bất dịch, khi giảng trạch chỉ thẳng cho mọi người ai cũng đều nhận thấy hiểu biết rõ ràng mà không có một ý kiến nào cho là sai được, từ người thông minh đến ngu tối, giàu sang, nghèo hèn cho đến vua chúa, quan quân, sĩ tốt cũng đều nhận hiểu biết rõ ràng, không có ai bảo rằng không hiểu. Kinh điển Nguyên thủy Tiểu Thừa đều gọi là Niết bàn, kinh điển Đại Thừa đều gọi là Phật tánh, Chân như, Bản thể, thiền Đông Độ gọi là Bản lai diện mục, ở đây Thầy gọi là Thân tâm thanh thản. Cảnh giới Niết bàn của đạo Phật dạy cho chúng ta thấy nó không phải ở đâu xa, ở ngay trong thân tâm của chúng ta và cuộc sống của chúng ta hằng ngày. Khi chúng ta dừng tất cả mọi lo âu, sợ hãi, mọi phiền não cũng như u sầu, mọi nỗi buồn vui lẫn lộn, mọi sự giận hờn, ganh tỵ, nghi nan, mọi lòng ham muốn, đắm mê thì ngay đó cuộc sống nơi thân tâm ta là Niết bàn.

Vì thế, khi vượt ra khỏi sự phiền não, đau khổ của cuộc đời là ngay đó chúng ta đã vào Niết bàn với một thân tâm thanh thản an lạc. Đến đây con đã hiểu Phật dạy, đời là khổ, là để bỏ cái khổ, vượt cái khổ để được thân tâm giải thoát trong cuộc sống hiện tại và tiếp tục cho mai sau, chứ không dạy chán đời, yếm thế, tự tử để mang theo một nỗi niềm đau khổ chán trường. Phật dạy: “Đời sống thế gian là khổ. Đời sống xuất thế gian là giải thoát”, nhờ sự chỉ dạy này mà người ta không mất hướng sống. Nếu nói đời sống khổ mà không có lối thoát khổ thì đưa con người vào bước đường cùng. Bởi vậy, theo Thầy thiết nghĩ Khổ Đế phải được đi liền với Diệt Đế. Nghĩa là Khổ Đế được đặt ở chân lý thứ nhất thì Diệt Đế là chân lý thứ nhì, đằng này Khổ Đế thứ nhất, Diệt Đế thứ ba cho nên người nghiên cứu đạo Phật chưa thâm sâu cho đạo Phật yếm thế, chán đời. Hễ thấy ai theo đạo Phật đều cho là yếm thế chán đời cả. 

               Này con, đến đây con đã hiểu ở tâm con có hai trạng thái:
               1. Khổ đau, 
               2. Giải thoát. 

               Đau khổ là Khổ Đế, giải thoát là Diệt Đế. Chỗ này con đừng lầm ở Thọ, Thọ có ba trạng thái:
               1. Thọ lạc, 
               2. Thọ khổ, 
               3. Thọ không lạc, không khổ. 

Khi nhận ra 2 trạng thái trong một tâm hồn cụ thể rõ ràng, chân thật và thực tiễn thì chắc mọi người ai cũng chọn lấy trạng thái giải thoát mà buông bỏ trạng thái khổ đau. Khi đã quyết định chọn lấy trạng thái giải thoát thì phải tìm mọi cách buông xả toàn triệt trạng thái khổ đau. Nhưng trạng thái khổ đau của kiếp người vô cùng, vô tận và nhiều vô số kể thì làm sao buông xả hết được? Buông xả cái này thì cái khác sanh ra. Do thế đức Phật dạy cho chúng ta biết nguồn gốc sanh ra sự đau khổ, nhờ biết đó chúng ta chỉ biết buông bỏ cái gốc hay nói một cách khác chặt đứt lìa cái gốc khổ, cái gốc sanh ra khổ đã bị đứt lìa, đoạn lìa thì cuộc sống chúng ta hết khổ. Mà cuộc sống hết khổ thì đó là Niết bàn cảnh giới thoát khổ của loài người nên Phật đã dạy Tập Đế. Tập đế là một chân lý thứ hai trong kinh điển Tứ Diệu Đế, theo Thầy nghĩ, nên đặt chân lý này vào hàng thứ ba.

3. Vậy Tập Đế là gì? Tập Đế là một sự tập hợp tất cả những sự khổ, là một nguyên nhân sinh ra muôn ngàn thứ đau khổ của loài người. Đó là một chân lý bất di bất dịch, không thể thay thế được, nói khác được. Nguyên nhân tức là nguồn gốc, vậy nguồn gốc sinh ra đau khổ này là gì? Là lòng ham muốn của con người. Chỉ khi nào chúng ta xa lìa lòng ham muốn thì cảnh giới hết đau khổ sẽ hiện ra trong thân tâm của chúng ta. Lòng ham muốn sanh ra đau khổ, điều này hẳn nhiên mọi người ai cũng phải công nhận như vậy. Chúng ta nên biết lòng ham muốn mà không đạt được thì đau khổ vô cùng, nếu mà đạt được thì cũng đau khổ không kém. Bởi vậy, cuộc đời càng chạy theo danh lợi vật chất thì càng rơi xuống biển khổ. Càng đi ngược lại dòng đời, xa lìa sự ham muốn, tuy mới bắt đầu tu tập chúng ta cảm thấy như khổ sở, nhưng một thời gian rèn luyện tu tập ta nhận ra được trạng thái chấm dứt đau khổ. Khi biết rõ nguyên nhân đau khổ, chúng ta phải xa lìa, chấm dứt và đoạn dứt nó. Muốn xa lìa, chấm dứt và đoạn dứt nó không phải là một việc dễ làm nên Phật đã dạy cho chúng ta tám nẻo, nói một cách khác là tám phương tiện để xa lìa đoạn dứt tâm ham muốn, tám nẻo ấy gọi là Bát Chánh Đạo, gọi tắt là Đạo Đế.

4. Vậy Đạo Đế là gì? Đạo Đế là nẻo đi, đường đi chân chính đưa đến mục đích cứu kính giải thoát Niết bàn. Nói cho đúng, Đạo Đế là Bát chánh đạo, là tám nẻo, hay là tám phương tiện và còn phải hiểu cho rõ hơn là tám cách thức tập luyện, ngăn ngừa, phòng hộ, bảo vệ, giữ gìn khiến cho tâm ham muốn xa lìa vật ham muốn. Tám nẻo đó sẽ chấm dứt được nguồn gốc đau khổ của chúng sanh. Nên Phật dạy, nên Phật gọi tắt là Đạo Đế.

Đạo Đế là con đường chân chánh giải thoát con người ra khỏi khổ đau. Cách đây 2540 năm con đường giải thoát này đã được ra đời để dẫn dắt tất cả chúng sanh thoát khỏi vòng đau khổ sanh tử luân hồi, cho đến ngày nay không có một pháp môn nào, không có một con đường nào thay thế được. Cho nên gọi nó là Đạo Đế, là một chân lý giải thoát loài người của đạo Phật. Tám nẻo này để thực hiện ba pháp môn vô lậu: Giới, Định, Tuệ. 

Này con, trước khi nghe Thầy giảng tám nẻo này thì con phải học thuộc mười giới của người cư sĩ. Mười giới đó là:

                  Về phần thân:
                 - Không được hành động giết hại chúng sanh và làm đau khổ.
                 - Không được hành động lấy của người không cho dù bất cứ việc gì.
                 - Không được hành động tà dâm.

                 Về phần miệng:
                 - Không được nói lời thiếu chân thật.
                 - Không được nói lời hung dữ, độc ác.
                 - Không được nói lời chia rẽ, thù hằn nhau.
                 - Không được nói lời phù phiếm,vô nghĩa.

                 Về phần ý:
                 - Không được ham muốn dù bất cứ việc gì.
                 - Không được sân hận.
                 - Không được ngu si.

Khi đã học thuộc mười giới, Thầy sẽ giảng trạch tám nẻo để áp dụng vào mười giới ngăn cấm này. Bây giờ con hãy lắng nghe và lắng nghe cho kỹ để thực hành cho đúng lời dạy thì con sẽ sống một cuộc đời thanh thản an vui bên những người thân thương mà không có điều gì trái ý nghịch lập. Nếu con áp dụng và giữ gìn đúng thì dù cho bốn phương, tám hướng có dãy đầy ác ma đến quấy nhiễu con, con cũng chẳng hề nao núng và còn chặn đứng chúng không cho xâm chiếm được tâm hồn con. Nhờ thế con đang sống tại thế gian mà thân tâm con đang ở tại thiên đường. Nếu lấy Bát chánh đạo là con đường phải đi thì mười giới là sinh hoạt hằng ngày con phải sống.

Bát chánh đạo là gì? Là tám nẻo tu tập để trở về mục đích giải thoát Niết bàn, nói một cách khác là tám cách thức tu sửa rèn luyện thân tâm và giữ gìn bảo vệ để chấm dứt lòng ham muốn, vượt thoát mọi khổ đau của kiếp người.

              Tám nẻo là:
              - Chánh kiến
              - Chánh tư duy
              - Chánh ngữ
              - Chánh nghiệp
              - Chánh mạng
              - Chánh tinh tấn
              - Chánh niệm
              - Chánh định

Này con, bây giờ con hãy lắng nghe cho kỹ, hiểu cho rõ ràng để áp dụng tu tập đúng cách. Đây là phần lý thuyết lẫn thực hành, nó không đơn giản, phải hiểu cho rõ, hiểu đúng mà còn phải biết cách áp dụng tu sửa thân tâm. Nếu con bỏ qua một lỗi nhỏ, mà không sửa dù lỗi đó rất nhỏ thì đừng hòng sửa lỗi, sửa những lỗi lớn được. Luôn luôn phải áp dụng pháp môn từng chút vào thân tâm của mình để tránh có lỗi, nhờ thế cuộc sống thế gian đầy đau khổ ô trược địa ngục đã biến thành cõi thiên đàng với thân tâm thanh thản hồn nhiên của một anh nhi thánh thiện.

Bắt đầu con dùng phương tiện thứ nhất Chánh kiến để phòng hộ, giữ gìn và bảo vệ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình. Muốn giữ gìn bảo vệ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của con trong Chánh kiến thì con phải làm sao? Muốn giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý khi tiếp xúc sáu trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp trong Chánh kiến thì con phải hiểu trong con mắt không có vật, trong vật không có con mắt. Vậy sao nó lại dính mắt – vật? Dính mắt – vật là do tâm ham muốn của con, vậy khi mắt thấy vật mà không dính thì con phải ngăn ngừa, giữ gìn lòng ham muốn của con nghĩa là con đoạn dứt không cho nó ham muốn vật gì hết. Khi tâm con đoạn dứt ham muốn thì mắt thấy sắc không còn dính mắc. Tai, mũi, miệng, thân, ý cũng như vậy.

Nhưng con đừng quên rằng, nếu để tâm ham muốn của con làm duyên thì mắt thấy sắc liền dính sắc. Vậy con là người mới tu không thể đoạn dứt tâm ham muốn ngay liền được nên phải phòng hộ mắt bằng cách ít tiếp duyên ra ngoài, nói cách khác là không nên tiếp xúc sáu trần, sáu trần nhiều, cố tránh tiếp xúc là tốt nhất. Người ta bảo “tránh cảnh giữ tâm” tức là độc cư, khi tâm đã thuần thục thì mắt thấy sắc không dính sắc tức là ta đã đoạn dứt tâm ham muốn, hay nói cách khác là ta đã ly dục, ly ác pháp.

Chánh kiến là gì? Chánh kiến là thấy nghe một sự việc, một đối tượng, một hoàn cảnh, một sắc tướng, một âm thanh, một hương thơm, một mùi vị, một cảm xúc ngay thẳng chính trực đứng đắn công minh. Chánh kiến thuộc về lục nhập tiếp xúc lục trần; lục nhập là: mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý; lục trần là:sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Ngay thẳng, chánh trực, đứng đắn, công minh của đạo Phật là gì? Là thiện pháp.

Này con, ở đâu có nghe thấy hiểu biết mà không có thiện pháp thì ở đó có đau khổ, vậy thiện pháp là gì? Là mười giới Thầy đã dạy con ở trên, muốn thấy nghe hiểu biết chơn chính thì phải khép mình trong khuôn khổ giới luật mà con đã học. 

Tóm lại Chánh kiến là sự phòng hộ sáu căn, giữ gìn tâm lúc nào cũng thanh thản an vui, không bị cám dỗ và lôi cuốn bởi sáu trần. Nếu ngay trên cuộc sống hằng ngày mà con giữ gìn tâm được như vậy tức là con đã lìa xa tâm ham muốn, mà đã lìa xa tâm ham muốn thì con hoàn toàn giải thoát khỏi đau khổ.

Bây giờ con tiếp tục tu tập nẻo thứ 2: Chánh tư duy.

Chánh tư duy là gì? Chánh tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét đúng đắn, chân chánh, ngay thẳng, công minh. Chánh tư duy thuộc về ý. Ngay thẳng, đúng đắn, chân chính, công minh của đạo phật là gì? Là thiện pháp. Này con, ở đâu có sự suy ngẫm, có sự nghiệm xét trong thiện pháp, loại trừ các ác pháp là ở đó phải có một tư tưởng, ý nghĩ chân chính trong giới luật thì luôn luôn có tâm hồn thanh thản, an vui, hạnh phúc. Thiện pháp của con là gì? Là mười giới mà Thầy đã dạy ở trên. Khi muốn suy nghĩ, nghiệm xét một điều gì thì lấy mười giới làm khuôn phép cho sự suy nghĩ nghiệm xét đó. Nếu những sự suy nghĩ đi ngược với mười giới là con phải dứt ngay, chặn đứng ngay, đoạn dứt ngay vì đó là sự tư duy là tà tư duy. Nếu con thường xuyên thực hành những điều này để giữ gìn, phòng hộ, bảo vệ tư tưởng con lúc nào cũng thanh tịnh và trong sạch, do đó thân tâm con sẽ được an lạc, thanh thản giải thoát. Chánh tư duy là sự bảo vệ tư tưởng trong sáng thanh tao, lúc nào cũng minh mẫn sáng suốt, tỉnh thức trong mọi sự suy nghĩ, nó đều gắn liền với thiện pháp, xa lìa hẳn những ác pháp. 

Tóm lại đây là nẻo thứ 2, nếu con siêng năng chịu khó hằng ngày rèn luyện, tu tập tư tưởng mình thì đó là tự con đã đưa tư tưởng con vào Niết bàn, giải thoát cứu kính vĩnh cửu.

Bây giờ con tiếp tục tu tập nẻo thứ 3: Chánh ngữ.

Chánh ngữ thuộc về khẩu, miệng. Chánh ngữ là gì? Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bằng, ngay thẳng hợp lý. Chân thật, công bằng, ngay thẳng hợp lý của đạo phật là gì? Là thiện pháp. Ở đâu có lời nói thiện, ôn tồn, nhã nhặn hòa hợp, êm ái, nhẹ nhàng an ủi, khuyên giải, thành thật thì ở đó thân tâm thanh thản an vui hạnh phúc. Vậy thiện pháp của con là gì? Là mười giới mà Thầy đã dạy ở trên. Vì thế Chánh ngữ là lời nói ra những lời lành bằng giới luật mà con đã học, ngược lại là lời nói ác. Phật dạy Chánh ngữ, mục đích là giữ miệng lưỡi, vì miệng lưỡi sanh ra phiền não đau khổ cho mình, cho người. Cho nên người phụ nữ có chồng không nên đem chuyện xấu trong nhà thuật lại cho láng giềng đầu này hay đầu kia, hoặc cha mẹ ruột bởi vì không có lửa nào có thể tệ hại như lửa ấy. Nếu có người láng giềng đàn ông hay đàn bà nói xấu cha mẹ chồng hay chồng, không nên đem những chuyện lời phỉ báng ấy về nhà lặp lại và nói rằng người nọ, người kia nói xấu điều này, hay điều khác về ta bởi vì không có lửa nào tệ hại như lửa ấy. 

Nói là một điều rất tai hại, người xưa dạy “họa tùng khẩu nhập” nói ra lời nói mà tai họa đến thân, nói ra lời nói mà mình khổ, người khác khổ nên cần phải dè dặt, cẩn thận lời nói. Vì thế, người đệ tử của Phật cần ít nói, nói ra phải suy nghĩ cho thật kỹ, không dùng những lời nói thô lỗ, khiếm nhã, không dùng những lời nói hung dữ, nguyền rủa, thề thốt v.v… Không nên tranh luận hơn thua với ai dù bất cứ việc gì, không chỉ trích khen chê ai, nói phải ôn tồn, nhã nhặn, êm ái, nhẹ nhàng, từ tốn. Nói không được cướp lời người.

Bởi vậy, Chánh ngữ là lời nói làm mình vui, người khác vui. Nó là nẻo thứ 3 trong tám nẻo đưa con người đến niết bàn giải thoát. Nếu ai đã quyết tu theo đạo phật mà xem thường miệng lưỡi của mình là người đó chưa hiểu đạo phật. Đạo phật biết rõ, miệng lưỡi của con người rất độc, độc hơn loài thú dữ, rất sắc bén, sắc bén hơn gươm đao. Bởi vậy, người đệ tử của Phật phải siêng năng tu tập miệng lưỡi, phải giữ gìn, phòng hộ miệng lưỡi từng phút, từng giây. Vì thế, nó được đức Phật cho đứng vào hàng ngũ thứ ba trong tám nẻo đưa đến cứu kính niết bàn. 

Tóm lại, trong cuộc sống hằng ngày muốn có được thân tâm thanh thản an vui và hạnh phúc thì con phải tu sửa lời nói. Khi lời nói thoát ra khỏi miệng con phải nhớ kỹ là không làm khổ mình, khổ người dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải cân nhắc lời nói.

Bây giờ con tiếp tục tu tập nẻo thứ 4 : Chánh nghiệp. Chánh nghiệp thuộc về thân.

Chánh nghiệp là gì? Chánh nghiệp là những hành động, việc làm nghề nghiệp chân chính đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, đem lại lợi ích cho mình, cho xã hội. Vậy hành động việc làm nghề nghiệp, việc làm chân chính đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý trong đạo Phật là gì? Là thiện pháp. Ở đâu có hành động việc làm nghề nghiệp chân chính lương thiện đúng lẽ phải, phù hợp với chân lý làm lợi ích mình, lợi ích người, lợi ích xã hội thì ở đó mọi người có giải thoát, có thân tâm thanh thản an vui. Vậy thiện pháp của con là gì? Là mười giới mà Thầy đã dạy ở trên. 

Vì thế, Phật dạy Chánh nghiệp là dạy chúng ta mỗi mỗi hành động của thân đều phải ý tứ cảnh giác từng ly từng chút, không để cho những hành động đó sơ sót phạm vào điều ác, cũng như phải chọn nghề nghiệp làm ăn sinh sống, phải nghề nghiệp lương thiện không gian ác và không được làm những nghề nghiệp sát hại chúng sanh như săn bắn, bắt cá, nghề nghiệp giết trâu bò heo dê gà vịt, v.v.. Không được làm nghề ăn trộm, móc túi, làm nghề gian lận, bài bạc, cá ngựa, hụi nghè. 

Tóm lại trong đời sống hằng ngày muốn đi vào nẻo Chánh nghiệp thì phải tu sửa mọi hành động của thân, thay đổi mọi nghề nghiệp bất thiện, chọn lấy nghề nghiệp thuần thiện. Nhờ đó mà thân tâm con và cả gia đình đều được an vui, thanh thản, hạnh phúc.

Bây giờ con tiếp tục tu tập nẻo thứ 5: Chánh mạng.

Chánh mạng thuộc về pháp trần, pháp trần có 2 loại: Một vật chất, hai tinh thần.

Chánh mạng là gì? Chánh mạng là sự nuôi sống thân mạng bằng vật chất và bằng tinh thần chân chính, lương thiện, trong sạch. Vậy nuôi sống thân mạng bằng vật chất tinh thần chân chính, lương thiện, trong sạch của đạo Phật là gì? Là thiện pháp. Ở đâu có sự nuôi sống thân mạng bằng vật chất tinh thần chân chính, lương thiện, trong sạch thì ở đó thân tâm giải thoát an vui, hạnh phúc. Vậy thiện pháp của con là gì? Là mười giới mà Thầy đã dạy ở trên. 

Vì thế đức Phật dạy Chánh mạng là để chúng ta hiểu rõ từ vật chất đến tinh thần để nuôi mạng sống. Về thực phẩm nuôi sống phải làm bằng nghề nghiệp lương thiện không có sự đau khổ của chúng sanh trong đó, không có sự gian tham trộm cắp trong đó, không có máu xương chúng sanh trong đó, không có sự gian lận trong đó. Về tinh thần phải bằng Chánh pháp, không được gặp pháp nào tu theo pháp nấy mà phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng. Người theo đạo Phật muốn nuôi tâm mình bằng thực phẩm tinh thần thì phải cân nhắc cảnh giác kỹ lưỡng vì tà pháp đang lẫn lộn trong chánh pháp, rất khó phân biệt. Cho nên Chánh mạng trong đạo Phật là nuôi thân mạng vật chất lẫn tinh thần đều lấy giới luật làm thực phẩm mà con đã học. 

Tóm lại, trong đời sống hằng ngày tu tập theo đạo Phật, con phải sửa lại những thực phẩm nuôi mạng sống hằng ngày bằng những thực phẩm lương thiện do nghề nghiệp làm ra bằng mồ hôi nước mắt của mình. Những thực phẩm đó không có sự đau khổ, chết chóc của chúng sanh. Về món ăn tinh thần, pháp môn không có mê tín, trừu tượng, mơ hồ, ảo tưởng, v.v..thì đó là thiện pháp, giới luật của đức Phật, nhờ đó thân tâm con sẽ được thanh thản, an vui, hạnh phúc giải thoát.

Bây giờ con tu tập nẻo thứ 6 : Chánh tinh tấn, Chánh tinh tấn thuộc về tâm.

Chánh tinh tấn là gì? Chánh tinh tấn là kiên trì, bền trí, gan dạ, dũng cảm, đầy đủ nghị lực, kiên quyết, hăng hái, cố gắng, quyết tâm, nhiệt tình, siêng năng, chuyên cần. Vậy Chánh tinh tấn phải tu như thế nào? Phải giữ gìn thời khóa tu tập nghiêm chỉnh, giờ nào việc nấy, không được bê trễ, không được bỏ qua. Việc làm chưa xong, phải quyết tâm làm cho xong, một lần chưa xong, hai lần, ba lần, bốn, năm, mười, trăm ngàn lần phải xong đó là Chánh tinh tấn. Quyết tâm đoạn dứt tâm ham muốn để thoát ra cảnh đau khổ của thế gian, nếu một lần chưa đoạn dứt được thì hai lần, ba lần, bốn, năm, mười, trăm ngàn lần phải làm cho được, phải đoạn dứt cho được đó là Chánh tinh tấn. Làm một việc mãi mà tâm không thối chuyển, không nản trí đó là Chánh tinh tấn. Gặp khó khăn phải vượt qua cho được, làm cho được, thực hiện cho được đó là Chánh tinh tấn. Người có nghị lực, có bền trí, có gan dạ thì có lo gì con đường giải thoát của đạo Phật mà chẳng đạt tới đích. 

Bởi vậy Chánh tinh tấn là nẻo tu hành khó khăn nhất trong tám nẻo của đạo Phật, nó là nẻo duy nhất rèn luyện tâm đầy nghị lực, bền trí, có bền trí, có nghị lực mới gọi là Chánh tinh tấn. Hằng ngày siêng năng tu tập, chuyên cần ngăn ngừa, bảo vệ, phòng hộ 6 căn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý, luôn lúc nào cũng cảnh giác bằng thiện pháp áp dụng vào tám nẻo Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng trọn vẹn trong giới luật không lúc nào lơ đễnh, biếng trễ thì đó là tu tập Chánh tinh tấn. Chánh tinh tấn phải hiểu là tu tập gan dạ, bền trí, kiên trì, nghị lực. Ở đâu có Chánh tinh tấn sống trọn đầy trong thiện pháp, giới luật thì ở đó có bậc Thánh hiền giải thoát, an vui, thanh thản. 

Tóm lại, 6 nẻo tu hành này nếu trong đời sống hằng ngày của con thường áp dụng, phòng hộ, giữ gìn, ngăn chặn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý không cho buông lung, phóng dật, không cho nó lang thang đầu phố, xó chợ và tu sửa ý suy nghĩ, tu sửa lời nói, tu sửa hành động của thân và nghề nghiệp làm ăn phải lương thiện và thực phẩm nuôi mạng sống phải bằng những thực phẩm thiện. Nếu con siêng năng, chuyên cần như lời Thầy đã dạy, đã giảng ở trên thì thân tâm con sẽ được giải thoát an vui, thanh thản. Đó là Niết bàn thanh tịnh tại thế hiện tại.

Phần kết:

Để kết thúc buổi nói chuyện với con hôm nay trong Bát Chánh Đạo, Thầy chỉ giảng tu tập cho con 6 nẻo, còn 2 nẻo Chánh niệm và Chánh định thuộc về tâm thiền định, 2 nẻo này thuộc về tu Định dành riêng cho những bậc xuất gia, ly trần, còn 5 giới kia tu Giới và 1 nẻo làm trung gian. Khi nào con tu Giới tâm được thanh tịnh, ly dục, ly bất thiện pháp xong Thầy sẽ dạy tu tập 2 nẻo này. Một cái thang có 8 nấc, 5 nấc tu Giới luật còn có tên là Thiền quán, Thiền tư còn một nấc làm trung gian cho Thiền tư và Thiền định. 2 nấc sau cùng tu Định còn gọi là Thiền định. Con phải lần lượt tu tập bước lên từng nấc, nấc thứ nhất rồi mới bước lên nấc thứ hai, thứ ba, tư, năm và sáu, không thể bỏ nấc nào mà bước lên trên được. Bước nấc này xong, rồi mới bước tới nấc kia, có như vậy con sẽ không bị té.

Theo lời Thầy đã giảng ở trên con hãy ghi khắc tựa của bài giảng này. Nếu lấy Bát Chánh Đạo là con đường phải đi thì mười Giới luật hằng ngày con phải sống. Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay, chúc con sống đúng Giới pháp của Phật để được một đời sống thanh thản, an vui, hạnh phúc giải thoát.

 

 

098-TẠO DUYÊN GIÁO HÓA CHÚNG SANH. Người Chiến Thắng

1- THẦY THÔNG LẠC  

Thỉnh thoảng thầy Thông Lạc lại về Thiền viện Thường Chiếu thăm sư phụ (HT Thanh Từ) và các huynh đệ. Sáng nay, chúng tôi lại trông thấy Thầy từ cuối hàng dương liễu cùng với cư sĩ Thiện Chí (đệ tử của Thầy), anh Đỗ Đình Đồng và một bà Ưu Bà Di (Diệu Nhiên).

Dáng người Thầy nhỏ nhắn, cặp kính không che dấu được đôi mắt thanh thản, ung dung, chòm râu bạc lơ thơ dưới cằm. Thầy thường mặc chiếc áo tràng màu vàng khi đi đường và hôm nay cũng vậy. Những đệ tử của Tu viện Chân Không và Thường Chiếu ít ai không biết thầy Thông Lạc.

Thầy là một trong mười thiền sinh đầu tiên của Tu viện Chân Không.

Thầy được phân công làm hương đăng cho hợp với tuổi tác và vóc dáng. Kể từ khi Thầy được sư phụ giảng cho nghe pháp môn tri vọng: Thầy như con đại tượng qua sông không quay lại, đã tinh tấn không phút giây lơi lỏng. Có lần sư phụ tuyên bố: - Trong pháp hội có người đại tinh tấn.

Và lúc đó ai cũng ngầm hiểu người đó là Thầy.  

2- RỜI KHỎI CHÂN KHÔNG

Thường thì ít ai biết chịu thua vọng tưởng, nhưng khi nó mời gọi những ý kiến hấp dẫn thì khó tránh khỏi vòng tay của nó.

Vì thế, thầy Thiện Năng và Thiện Ấn bất ngờ đến rủ thầy Thông Lạc rời Chân Không ra đi giáo hoá sau ba tháng vẻn vẹn học thiền, qua những bài kinh Bát Nhã, cuốn Nguồn Thiền, Thiền Quang Sách Tấn, Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng và kinh Lăng Già Tâm Ấn.

Thầy Thông Lạc không chấp nhận ý kiến phóng dật chạy theo ngũ dục lạc (đi chu du chơi), mà lại mượn danh từ Hành Đạo để lừa mình, lừa người thật là tội lỗi vô cùng. Thầy Thông Lạc thẳng thắn nói theo tâm nguyện của mình:

“Tôi đã hứa với sư phụ là sẽ ở đây học thiền suốt ba năm. Đâu lẽ bây giờ lại ra đi thì lời hứa kia còn ra gì? Xin quý thầy cứ đi, Thông Lạc xin ở lại đây tu học đến khi nào chứng đạo mới thôi.”

Thầy Thiện Ấn nói khích: - Tôi biết mà, Thầy muốn ở lại để được khen là đại tinh tấn chứ gì.

Như một ngón nhất dương chỉ điểm đúng vào yếu huyệt sợ danh dự của thầy Thông Lạc.

Sau một đêm suy tư không ngủ, nước mắt thầy Thông Lạc tràn trề. Ở thì không được vì lời nói của thầy Thiện Ấn quá cay độc, còn đi thì thương Thầy (HT Thanh Từ) và thân phận tu hành của mình, không biết rồi sẽ ra sao? Đi về đâu?

Đối với Hòa thượng Thanh Từ thì thầy trò mới gặp nhau trong ba tháng an cư năm 1970 mà tình nghĩa rất sâu đậm.

Sáng hôm sau thầy Thông Lạc trả lời đồng ý ra đi. Sự ra đi đột ngột ấy làm sao thầy Thông Lạc quên được tình nghĩa thầy trò. Những buổi ngồi thiền chung với chúng trong thiền đường, Hòa thượng cầm thiền bản đi tới đi lui tuần thiền để xem xét và kiểm tra cách thức chúng ngồi thiền. Trong khi ấy thầy Thông Lạc ngồi thiền đau chân lắm, Hòa thượng biết được sự đau đớn này nên lấy bàn tay để nhẹ sau lưng của thầy Thông Lạc. Khi bàn tay Hòa thượng đặt vào sau lưng thì thầy Thông Lạc cảm thấy mát lạnh, sự đau đớn ấy giảm đi rất nhiều. Tình thương bằng hành động ấy làm sao thầy Thông Lạc quên được; làm sao thầy Thông Lạc không khóc. Lời nói cay nghiệt của thầy Thiện Ấn bắt buộc thầy Thông Lạc phải ra đi, phải rời Hòa thượng, một vị thầy mà trên đời này khó tìm được, tình thương của Hòa thượng Thanh Từ như vậy thì lòng dạ nào không đau xót; thì lòng dạ nào không tan nát. Phải không các bạn?

Thầy Thông Lạc khóc nhiều lắm nhưng có ai biết đâu. Cho nên tối hôm đó ba người đến đảnh lễ Hòa thượng để sáng sớm hôm sau ra đi, thầy Thông Lạc khóc nức nở nghẹn ngào. Hòa thượng cũng không nói được lời nào, chỉ nhìn những người học trò thân thương của mình quá dại dột:

Hòa thượng nhẹ nhàng nói qua hơi thở như một lời trách móc: - Thầy sợ mấy chú nông nổi.

Hòa thượng chỉ nói được những lời ấy thôi, rồi im lặng. Trong bầu không khí vắng ngắt, không một tiếng động trong sự chia lìa thương đau trước cảnh kẻ ở, người đi, thật là đau buồn tê tái, đứt từng đoạn ruột, nói làm sao hết nỗi thương đau này. Các bạn có biết không? Có cảm nhận được sự chia ly đau buồn này không?

 Trong tu viện chỉ có 10 huynh đệ, bây giờ đi mất ba người làm sao mà không buồn, không rơi nước mắt được.

3- NHỮNG NGÀY SỐNG TRÊN HÒN SƠN

Ba người đã ra đi trong sự bất bình của huynh đệ và chính sư phụ cũng không vui.

Ba người xuống đến An Giang rồi qua Rạch Giá ra biển đến Hòn Sơn chơi ba ngày lại trở về An Giang trú nơi tịnh xá Ngọc Vân xã Mỹ Luông do sư Định làm trụ trì. Chợt thầy Thông Lạc nhuốm bệnh nặng, hai thầy kia bỏ đi sang núi Cô Tô, Hà Tiên chơi nhưng lại nói đi hóa đạo.

Tịnh xá chỉ còn lại hai sư và thầy Thông Lạc. Đó là sư Duyên và sư Định săn sóc cho thầy Thông Lạc rất tận tình, thường đi xin phật tử từng bát cháo, từng viên thuốc, từng ly nước. Thật là một tình nghĩa bạn đạo khó quên. Đến khi bệnh tình giảm, thầy Thông Lạc theo sư Định về Sài Gòn, sẵn thầy Thông Lạc về Trảng Bàng thăm lại mẹ và em gái ít hôm. Thầy lại từ giã ra đi một mình một bóng trở lại ra Hòn Sơn Rạch Giá ngồi tu ngót gần một năm trong cái hang đá. Những thợ rừng thỉnh thoảng mang cơm gạo cúng dường Thầy. Thầy cảm thấy không tiện, nên tập ăn rau và lá cây rừng để sống.

Suốt thời gian ở trên đỉnh Hòn Sơn, trong hang núi Ma Thiên Lãnh, Thầy sống bằng lá cây rừng và rau sà lách soong trồng trong ao nước giữa hai tảng đá to lớn. Thân hình Thầy xanh và gầy như que tăm.

Nhờ sống được như vậy, Thầy tu tập dẹp sạch vọng tưởng, ngồi bất động suốt 3, 4 tiếng đồng hồ dễ dàng.

4- TRỞ VỀ SỐNG BÊN MẸ

Những đêm khuya thanh vắng, tiếng tàu đánh cá ngoài khơi văng vẳng gợi lên lòng nhớ thương mẹ và em nơi quê nhà, trong khi đất nước còn bom cày, đạn xé từng tấc đất yêu thương, thầy Thông Lạc tự hỏi:

Không biết giờ này mẹ mình và em mình ra sao? Có tránh khỏi những làn tên mũi đạn hay không? Có còn bình an ở nơi đó hay không? Hay đã siêu lạc nơi nào?

Bao nhiêu câu hỏi dồn dập trong đầu không sao trả lời được. Bây giờ pháp Tri Vọng vô phương không dẹp được những loạn tưởng này. Thầy Thông Lạc xót xa thương mẹ, và đứa em gái đang độ tuổi còn học trò mà phải lăn xả vào đời buôn gánh bán bưng để nuôi mẹ. Mỗi lần em đi buôn bán thì mẹ ngồi tựa cửa trông em, nhớ tưởng cảnh ấy lòng Thầy tê tái thương mẹ, thương em vô cùng, phải chi thầy Thông Lạc có cánh thì Thầy sẽ bay về bên mẹ liền tức khắc. Thương em thân gái bé thơ mà phải chịu gian truân trong cảnh đất nước đang hồi chiến tranh quyết liệt. Khi nào thấy mặt em về đến nhà thì mẹ mới an tâm. Tội nghiệp mẹ và em lắm. Nghĩ đến đây Thầy không cầm được những giọt nước mắt, không thể ngồi yên tu hành trên Hòn Sơn được mà chỉ mong được về bên mẹ, được núp dưới bóng mẹ như lúc còn bé thơ và sống như vậy mới an tâm tu hành, dù sống bên mẹ có gian khổ như thế nào thì mẹ con đồng chia sẻ nhau, Thầy an ủi mẹ, mẹ an ủi Thầy, Thầy an tâm tu hành vì có mẹ có em, mẹ an tâm vì có hai con một bên.

Hôm sau Thầy đón tàu về bên mẹ.

Khi trở về nhà, Thầy nói với mẹ: - Mẹ ráng nuôi con ngày một bữa để con được an tâm tu hành nghe mẹ! Cuộc đời của con chỉ còn biết tu mà thôi, con thương mẹ lắm, con không thể bỏ mẹ một mình ngồi tựa cửa trông em con.

Nghe thầy Thông Lạc nói như vậy, mẹ Thầy không cầm được nước mắt, những giọt nước mắt rơi xuống nói lên lòng mẹ thương con vô cùng vô tận. Nhớ lại lời ca Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạc dào.”

Thầy quay lại nói với em:

- Em ráng nuôi anh tu hành, anh về em phải cực nhọc nhiều hơn. Anh sẽ làm phụ em những gì anh làm được và anh sẽ tiết kiệm tối đa để em đỡ vất vả, nhất là em yên tâm nhà có anh bên mẹ và chăm sóc mẹ thay em.

Em Thầy nói: - Thầy cứ an tâm tu tập, có mẹ lo cơm nước cho Thầy, còn em buôn bán đắp đổi qua ngày, Thầy đừng lo, để mặc em.

 

5- NGƯỜI CHIẾN THẮNG GIẶC SINH TỬ

Thầy khép cửa thất lá lại, bắt đầu sống cuộc đời cô đơn và cô độc suốt gần mười năm liền. Người em gái buôn gánh bán bưng chắt mót từng đồng để nuôi mẹ, nuôi anh.

Mẹ Thầy lo nhiệm vụ hộ thất mang cơm xách nước cho Thầy qua khung cửa nhỏ.

Thời gian lặng lẽ trôi qua mãi, những đĩa rau khoai lang luộc với chén nước tương hoặc nắm muối trắng bên cạnh tô cơm là những gì nuôi nấng chút sức lực còn lại để Thầy âm thầm chiến đấu với giặc sanh tử từ muôn kiếp.

Thầy nhớ văng vẳng bên tai lời của sư phụ (Hòa thượng Thanh Từ): Phật pháp còn hiện hữu ở thế gian bởi vì còn có người tu chứng.

Đúng vậy, nếu Phật pháp không có người tu chứng thì giáo pháp của ngoại đạo sẽ diệt mất Phật pháp. Bằng chứng cụ thể như hiện giờ kinh sách Đại Thừa và kinh sách Thiền Tông của Trung Quốc đã diệt mất Phật pháp ở nước này.

Vì sợ danh dự mà ra đi, nhưng lòng Thầy lúc nào cũng nhớ đến sư phụ: chỉ nguyện dốc hết sức tiến tu đền ơn sư phụ đã chỉ dạy đường lối tu hành quí báu, cũng là để cho pháp môn Thiền Tông hiện hữu ở mãi thế gian, để cho chúng sinh có nơi nương tựa từ thế hệ này đến thế hệ mai sau và mãi mãi.

Lúc mới dụng công Thầy cũng cố gắng biết vọng không theo, nhưng vọng tưởng chập chùng ngăn che cái biết không hiện tiền, vọng tưởng lừa gạt tuôn chảy mãi. Thầy tự thấy chưa đủ trình độ đi con đường thẳng tắp này nên lui lại áp dụng phương pháp đếm hơi thở. Sau khi đếm hơi thở thuần thục Thầy lại chuyển sang tùy tức, theo dõi hơi thở. Sau một thời gian chuyên chú tăng tiến, sức tỉnh giác đã mạnh, Thầy mới trở lại phương pháp biết vọng không theo.

Hồi ở trên Chân Không, sư phụ có đưa một tập sách trong Đại Tạng Kinh chữ Hán bảo thầy Thông Lạc dịch, nhưng Thầy xin được giữ độn công phu, không trọng nghĩa giải.

Bây giờ ở trong thất kín cũng vậy, Thầy bỏ hết sách vở, một bề miên mật xoay về nội tâm tỉnh giác. Có những khi Thầy bắt chân lên ngồi thì liền thấy rõ cảnh vật ở làng xa xa, nhưng không chấp nhận, Thầy xả thiền đi kinh hành. Hôm thầy Nhật Quang về thăm quê có ghé thăm thầy Thông Lạc. Thầy Thông Lạc có hỏi thăm về sự việc này, thầy Nhật Quang bảo đó là ngũ ấm ma. Khi thầy Nhật Quang về núi thuật lại cho sư phụ, sư phụ có viết một bức thư gửi cho thầy Thông Lạc, nhưng bức thư đó không đến.

Những tháng ngày tiếp nối lặng lẽ trôi qua, cuộc đời bên ngoài biến chuyển rộn ràng, chiến tranh khói lửa ngút ngàn. Đến năm 1975 thì hòa bình lập lại sau cuộc chiến thắng lớn lao của quân đội giải phóng. Cả nước đang nỗ lực góp sức xây dựng lại quê hương sau bao nhiêu năm chinh chiến. Hoàn cảnh lúc này có khó khăn vì mới bước đầu dựng lại nền kinh tế độc lập cho xứ sở và dĩ nhiên sinh hoạt Phật giáo cũng có phần ảnh hưởng.

Tu viện Chân Không chỉ còn vài thầy với sư phụ, các thầy trẻ tuổi về mở mang canh tác ở Thường Chiếu.

Nhưng trong chiếc thất lá đơn sơ này có một bóng người ngồi lặng lẽ, thản nhiên, không bận tâm về các việc khác. Người này đang còn bận phải lập một chiến công oanh liệt nhất là tự chiến thắng mình. Cuộc chiến này chưa ngã ngũ, những tên giặc vọng tưởng vi tế còn lẩn lút đâu đây.

Thầy Thông Lạc vẫn kiên trì, không chút lơi lỏng, từng giờ, từng phút, từng giây đều kỹ lưỡng tỉnh giác, không cho sơ hở. Khi ăn, lúc uống, khi đứng, lúc đi, khi ngồi thiền, lúc xả thiền đều miên mật chăm chú.

Một thời gian dài lâu trôi qua như vậy. Một hôm Thầy chợt nghĩ: “Chư Phật thành đạo đều do sức đại hùng, đại lực, bây giờ mình phải khởi phát đại hùng để dứt hẳn vọng tưởng vi tế này.”

Thầy bắt chân lên bồ đoàn ngay thẳng tập trung sức tỉnh giác tột độ, cột trói tâm vào hơi thở, vào mắt, vào tai. Quả nhiên dòng vọng tưởng vi tế bị cột lại cứng ngắc. Thầy dần dần cảm thấy thân thể bị đau đớn quá đỗi, nhưng như con đại tượng đã qua sông không ngó lại, Thầy vẫn chịu đựng để mong dứt sạch vọng tưởng cuối cùng.

Khi Thầy thấy dễ chịu và xả thiền thì đã qua mất một đêm không hay, sáng mẹ Thầy mang cơm vào, Thầy nói: “Bây giờ con ngồi thiền nếu mẹ thấy thân con còn ấm thì thôi, còn nếu thấy thân con đã lạnh thì gọi bà con lại chôn con.”

Mẹ Thầy ngỡ ngàng nhìn Thầy rồi lui ra, không tin những điều vừa nghe được. Nhưng những giọt nước mắt của mẹ Thầy rơi xuống, không dấu được Thầy. Thầy thương mẹ lắm, nước mắt của Thầy cũng chảy dài trên má. Thầy tự hứa với lòng mình: phải ráng tu để đền đáp ơn mẹ, ơn nhiều người.

Thầy lại lên bồ đoàn, lại tập trung sức tỉnh giác tột độ như vậy và cảm giác đau đớn lại khởi lên. Vẫn ý chí ngất trời xanh, vẫn tâm nguyện kiên cường như núi đá. Thầy tiếp tục ngồi không lay động. Người mẹ già mỗi ngày mang cơm vào rồi lại mang ra, vì Thầy ngồi mãi không xả. Bà lo sợ, nước mắt lại tuôn rơi, sợ Thầy chết mất, nên đến gần quan sát thì thấy vẫn còn hơi nóng nơi thân của Thầy, nên yên tâm đi ra, nhưng không sao giữ được những giọt nước mắt thương con, Bà thương con lắm, tu hành sao khổ đến thế!

 Đến ngày thứ bảy thì Thầy xả thiền, bà mừng rỡ mang cơm vào cho Thầy, định hỏi thăm vài điều, nhưng thấy Thầy nhìn bà như nhìn một người xa lạ và không nói câu nào, không bảo đói, không nói khát, chỉ ngồi trơ trơ như người từ một thế giới nào lạc vào đây vậy.

Lúc này thầy Thông Lạc đang ở trong cái đại tử của nhà thiền, mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe nhưng mọi suy nghĩ phân biệt không khởi, có cơm thì ăn, có nước thì uống, chứ không còn thấy đói khát gì cả. Khi ngồi thiền, khi xả thiền đều từ thói quen của tay chân tự động, chứ không tác ý. Thời gian đại tử này kéo dài gần hai tháng.

Một hôm Thầy bắt chân ngồi sát bàn Phật mà không biết, đến khi xả thiền kéo chân ra đụng vào góc bàn Phật liền đó tan vỡ. Xem như giai đoạn tu tập Thiền Tông Tối Thượng Thừa đến đây là xong. Nhưng khi trở ra đời sống bình thường, không ở trong trạng thái đại định này thì Thầy thấy tâm mình còn tham, sân, si, mạn, nghi và còn mạnh hơn lúc chưa tu, nhưng tâm rất khôn khéo lý luận che đậy bằng những lời lẽ mà các sư đệ thường gặp trong kinh sách Thiền Tông và Đại Thừa như: “Tự tại vô ngại, đói ăn, khát uống, mệt ngủ liền” hoặc “Vô sở đắc” hoặc “Còn thấy tu chứng là chưa chứnghoặc “Em là em, Phật là Phật, em không phải là Phật, Phật không phải là em…”

Tu xong rồi tâm vẫn còn phiền não, bệnh đau phải đi bác sĩ, uống thuốc, không biết cách nào làm chủ sự sống chết. Tu hành chỉ có thông suốt tất cả những công án và kinh sách Đại Thừa để làm gì?, khi không làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Thầy rất buồn nản, chẳng còn muốn sống, 10 năm tu tập trong thất rất là gian khổ chỉ có một số tưởng giải để lý luận hơn thua, thế là cuộc đời tu hành của Thầy trở thành số không. Nhập vào trạng thái không vọng tưởng thì 18 loại hỷ tưởng xuất hiện, biết chuyện quá khứ vị lai của mình của người rất rõ ràng, nhưng để làm gì đây? Để trở thành thầy bói ư!

Thầy muốn chết đi là xong, muốn vào rừng tự tử cho xong một đời tu hành chẳng ra gì. Tu hành như thế này còn mang nợ của đàn na thí chủ, chẳng ích lợi gì cho ai, chỉ có nói dối lừa người. Ôi! Thật là xót xa vô cùng, phí một đời người chỉ trở thành người nói dối có kinh sách, giới luật thì vi phạm không một giới nào là không vi phạm (phạm giới trong ý). Đúng là chết quách đi cho rồi, nhưng mẹ còn sống mà chết đi là bất hiếu.

Bây giờ Thầy ở trong tình trạng như muốn điên loạn, thầy lấy tập kinh Trung Bộ song ngữ (do Hòa thượng Minh Châu dịch) ra đọc cho hết thời gian, nhưng khi đọc đến những câu: “Tác ý một tướng khác thì tướng kia bị diệt” hoặc “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô” hoặc “Quán từ bỏ tâm tham…” hoặc “Quán đoạn diệt tâm tham...”. Đọc đến những đoạn kinh này thầy Thông Lạc như bừng tỉnh. Thầy áp dụng vào đời sống tu hành của mình ngay liền, Thầy không ngồi kiết già nữa vì ngồi kiết già tâm sẽ nhập vào Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thầy rất sợ 18 loại tưởng xuất hiện, nên chỉ ngồi tựa cửa thất nhìn trời mây cây cỏ mà tác ý: “Tâm Như Đất, Ly Tham, Sân, Si Cho Thật Sạch.” Nhờ tác ý như vậy tâm Thầy lần lượt quay vào định trên thân, suốt ngày đêm Thầy không ngủ, luôn luôn biết hơi thở ra, vô và cảm giác toàn thân. Chính lúc này tâm Thầy đang quán trên thân tức là Thầy đang tu tập Tứ Niệm Xứ mà không biết. Tâm định trên thân suốt sáu tháng trời khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống đều biết chỉ có một tâm đó.

Một hôm trên tâm thanh tịnh đó xuất hiện Bốn Thần Túc, Thầy liền biết một cách rõ ràng, nhưng cái biết đó không phải là ý thức mà cái biết đó là thức uẩn nên Thầy dùng thần lực đó nhập bốn định Hữu Sắc và thực hiện Tam Minh. Thầy hoàn toàn làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử. Thầy biết rất rõ chỉ còn một đời sống này nữa mà thôi. Tâm Thầy không còn một chút tham, sân, si, mạn, nghi nào cả.

Sau sáu tháng tu tập với câu tác ý đơn giản mà thành công vĩ đại không ngờ. Sự thành công này mở màn cho nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo ra đời.

Thầy mở cửa thất đi ra làm Người Chiến Thắng vinh quang sau hơn mười năm giam mình trong cô đơn hiu quạnh, Thầy đi đến mẹ mình nói: “Từ nay mẹ khỏi mang cơm vào thất, vì con sẽ ra đây ăn cơm với mẹ! Con đã tu xong rồi.”

Mẹ Thầy vui mừng quá đỗi nói: “Thời gian qua mẹ tưởng con điên mất và nhất là lo sợ con chết.”

Có lẽ lời nguyện hứa từ kiếp nào đã làm tròn, bà cụ ra đi sau đấy ba tháng.

Mẹ ra đi vào cõi vĩnh hằng, trong nhà chỉ còn lại hai anh em, nên thầy Thông Lạc xin một đứa cháu mới 8 tuổi - đặt cho pháp danh là Mật Hạnh - về nuôi,  cho đi học và dạy tu hành.

Sau mười năm nhọc nhằn nuôi mẹ, nuôi anh, giờ đây, người em được Thầy giúp đỡ mọi công việc nặng nhọc, đặt cho pháp danh là Diệu Quang và lại dạy tu hành ngồi thiền xả tâm. Đó là hai người đệ tử cư sĩ đầu tiên được quy y với Thầy.

6- TẠO DUYÊN GIÁO HÓA CHÚNG SANH

Thấy mình không có duyên giáo hóa chúng sanh nên Thầy muốn thị hiện Niết Bàn để gây niềm tin cho mọi người rằng: Thời mạt pháp vẫn có thể tu chứng. Việc lợi ích chúng sinh của Thầy chỉ như vậy, chỉ là gây niềm tin cho mọi người bằng hình ảnh Niết Bàn của mình. Thầy cất một cái nhà sàn định dùng làm giàn hỏa thiêu. Nhưng Thầy thấy chúng sanh còn quá khổ, bỏ đi sao đành, con đường tu hành theo Phật giáo để được giải thoát thì bị kinh sách phát triển Đại Thừa và thiền Đông Độ dìm mất, còn mình thì không có duyên làm sao cứu họ đây. Thầy suy tư rất nhiều để tìm mọi cách độ chúng sanh. Rồi Thầy lại nhớ ngày xưa đức Phật còn hóa duyên độ chúng sanh thì Thầy bây giờ cũng vậy. Phải hóa duyên độ chúng sanh, nhưng phải bằng cách nào?

Rồi Thầy tự trả lời câu hỏi: Phải tạo duyên mới chớ sao? Nhưng tạo duyên mới như thế nào? Người nào? Ở đâu?

Để trả lời những câu hỏi này, Thầy dùng trí tuệ tu chứng quan sát khắp nơi: Chỉ thấy có sư phụ (Hòa thượng Thanh Từ) là nơi tạo duyên hóa độ chúng sanh dễ dàng.

          Sư phụ là người đã dạy bảo, đã khích lệ mình mới có sự tu chứng như ngày hôm nay, Thầy tìm về núi cũ để thăm sư phụ và tạo duyên giáo hóa chúng sanh.

Cảnh vật nơi Chân Không thay đổi nhiều quá, đường lên núi được lát đá sắp cấp dễ đi hơn nhiều. Hai bên đường là những am thất sang trọng. Thầy Phước Hảo bỡ ngỡ nhìn ông già xa lạ từ đâu đi đến tự xưng là Thông Lạc. Thầy Thông Lạc nói:

·                 - Thầy nhớ tôi không? Tôi là Thông Lạc đây!

·                 Thầy Phước Hảo không tin người đứng trước mặt mình là người huynh đệ Thông Lạc ngày xưa. Thông Lạc ngày xưa đẹp đẽ nho nhã bao nhiêu thì ông già này tiều tuỵ già cỗi bấy nhiêu, mái tóc dài lõa xõa, chòm râu bạc lơ thơ, răng chiếc còn chiếc mất làm sao là Thông Lạc được.

·                 Nhưng dù sao thầy Phước Hảo cũng nhận ra được và huynh đệ rất mừng tay nắm tay. Sau khi uống nước xong, thầy Phước Hảo giới thiệu lên sư phụ. Đi vòng qua Thiền Đường uy nghi mát mẻ, qua tăng đường chỉ còn trơ lại nền đất, lên dốc Đại Nam uốn quanh, khỏi cốc thầy Kiến Thiện là phương trượng sư phụ. Sư phụ nhận ra thầy Thông Lạc liền. Thầy Thông Lạc thưa:

- Thưa Thầy! Sau bao năm xa Thầy, giờ đây con đã có trí tuệ và nhập định một cách dễ dàng.

Sư phụ bảo: Chú nói chú có trí tuệ, bây giờ tôi hỏi mà chú đáp được thì tôi công nhận.

Thầy Thông Lạc nói: Thỉnh Thầy hỏi.

  Sư phụ đưa ra một công án thiền.

 - Có một thiền sư hỏi thiền khách: “Phật là gì?” Thiền khách đáp mãi mà thiền sư không đồng ý.

 - Bây giờ tôi hỏi chú:  Phật là gì?

- Như trái banh nổi trên nước, đụng là xoay, đẩy là chạy, thầy Thông Lạc liền đáp: Thầy có thấy lá cây rung trước gió chăng?

              Sư phụ gật đầu và đưa ra một công án khác:

Có một thiền khách hỏi Động Sơn: - Thế nào là đại ý Phật pháp.

Động Sơn đáp: Ba cân gai.

Vậy tôi hỏi chú: Ba cân gai là gì?

Thầy Thông Lạc đáp nhanh như gió không cần suy nghĩ: Đạo không lìa đời.

Sư phụ gật đầu đọc một đoạn trong kinh Lăng Già để ấn khả chỗ đến của thầy Thông Lạc, tức là Thầy đã kiến tánh hoàn toàn. Theo Thiền Tông, Kiến tánh thành Phật, người thông suốt 1.700 công án thiền là trí chứ không còn là thức phàm phu nữa.

Sư phụ có bảo: Nếu chú có ở gần tôi, chú đã đến chỗ này sớm hơn.

Thầy Thông Lạc lại thưa: Thưa Thầy cho phép con nhập Niết Bàn.

- Năm nay chú bao nhiêu tuổi?

- Dạ, hơn năm mươi tuổi!

- Chú hãy còn trẻ lắm, hãy ở gần tôi thêm lợi ích và trợ duyên tôi giáo hoá.

Duyên đã tạo ra được, từ đây thầy Thông Lạc bình thản ở lại và tìm mọi cách dựng lại Chánh pháp của Phật. Sư phụ lại đưa cho Thầy nhiều kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông để mở mang kiến thức.

7- CHỈ CÓ NGƯỜI TU CHỨNG MỚI THỐNG NHẤT PHẬT GIÁO

Hôm nay ngày 11 tháng 3 âm lịch năm 1987, thầy Thông Lạc lại về thăm sư phụ.  

Sư phụ đang ngồi trên võng nơi nhà mát phương trượng với vài ba phật tử quen thuộc ngồi dưới nền. Thầy Thông Lạc đến xá chào và ngồi xuống bên phải gần sư phụ. Các phật tử đi theo Thầy cũng ngồi xuống chỗ thích hợp. Trong buổi nói chuyện này, anh Đỗ Đình Đồng đã trình nhiều ý kiến về Phật giáo và Thiền Tông với sư phụ. Câu chuyện ban đầu đi dần đến kinh nghiệm tu hành. Thầy Thông Lạc thưa:

Thưa thầy, theo kinh nghiệm của con: Người tu thiền phải xả bỏ tận gốc các kiến giải, tưởng giải vì sự hiểu biết đó chỉ là hiểu biết ảo tưởng chứ không phải sự hiểu biết của tri kiến giải thoát. Như ngày trước con tu không xem kinh sách gì, đến khi con lên trình Thầy, Thầy hỏi là con bèn đáp theo Tri Kiến Trực Giác chứ không do ý thức suy nghĩ phàm phu.

               Hòa thượng Thanh Từ bảo: Không phải thức như thế này. Có hai loại trí:
                - Một là Trí Hữu Sư.
                - Hai là Trí Vô Sư.

Trí hữu sư Do Học, còn trí vô sư do Tâm Thanh Tịnh. Trí vô sư này mới chống lại với giặc sanh tử được, còn trí hữu sư thì không chống được. Trí tuệ là cái chính yếu để phá trừ vô minh được giải thoát. Ngày xưa các tỳ-kheo dù nhập định đến 7, 8 ngày mà chưa thấy lý Tứ Đế, vẫn không chứng A La Hán, vì trí hữu sư vẫn là phàm phu trí.

Sau đó sư phụ lại đề cập đến vấn đề Nguyên Thủy và Đại Thừa đang là điều chú ý hiện nay. Thầy bảo cũng là đạo Phật mà hai bên đi hai đường như trái hẳn nhau; không thông cảm, không thống nhất gì được. Anh Đỗ Đình Đồng tỏ vẻ bi quan về việc thống nhất dung hợp Nguyên Thủy và Đại Thừa là điều quá khó khăn xưa nay không ai nghĩ tới. Thầy Thông Lạc thưa:

- Thưa Thầy, theo con thấy mình cứ biểu hiện bằng sự tu chứng của mình. Họ thấy được điều đó rồi theo mình là tự nhiên thống nhất.

Sư phụ bảo:

- Được mấy người tu chứng, và bao lâu mới tu chứng. Dĩ nhiên điều này là hay nhưng đòi hỏi thời gian. Trong khi vấn đề hiện nay cấp bách là phải giải quyết liền. Có ba yếu tố có thể giúp cho sự thống nhất:

- Một là biểu hiện qua sự tu hành chân chánh của mình. Điều này đòi hỏi bên Đại Thừa phải trong sáng, không để xen lẫn những hình thức mê tín, dị đoan trái tinh thần giải thoát giác ngộ của đạo Phật, phải có những người tu hành có kết quả rõ rệt; phải giữ gìn giới luật nghiêm túc; phải sợ hãi những lỗi lầm nhỏ nhặt trong giới luật.

- Hai là Giáo lý Nguyên Thủy và Đại Thừa phải được dẹp bỏ những kiến giải, tưởng giải làm sai lệch ý Phật. Nhất là kinh sách Đại Thừa xây dựng thế giới siêu hình ảo tưởng tạo thành một tôn giáo thần quyền, chuyên cúng bái cầu siêu, cầu an tạo ra nhiều sự mê tín dị đoan, lạc hậu, khiến phật tử mất hết sức tự lực, chỉ còn tha lực cầu cạnh quỷ thần. Những tư tưởng sai lệch của Đại Thừa như vậy cần phải dẹp bỏ thì mới có thể hòa hợp với Nguyên Thủy Nam Tông. 

- Ba là nghi thức: Mình là người Việt nam, Phật giáo là Phật giáo Việt Nam mà bên thì tụng kinh bằng tiếng Pàli bên thì tụng bằng tiếng Hán, người Việt Nam nghe không hiểu gì hết.

Ngừng một chút sư phụ tiếp:

             - Nội cái việc hai tạng kinh không đồng nhau là đã rắc rối rồi. Hoà thượng Minh Châu chỉ nhận tạng kinh Pàli là đạo Phật, còn cho kinh điển Đại Thừa là ngoại đạo. Hòa thượng Trí Tịnh thì bảo ai không nhận kinh điển Đại Thừa, kẻ đó là ngoại đạo. Hai ông Hòa thượng lớn của giáo hội còn chưa thông cảm nhau, huống hồ người dưới.

Không thể nào giáo lý Đại Thừa và Nguyên Thủy không trái nhau, hai giáo lý này nghĩa lý cách xa nhau như một trời, một vực, vì thế không thể thống nhất giáo lý được, mà thống nhất giáo lý không được thì làm sao thống nhất hai hệ phái lớn này được. Hai hệ phái lớn không thống nhất được thì các chi phái nhỏ nhánh khác dễ dàng gì thống nhất họ được.

Anh Đỗ Đình Đồng vui vẻ thưa: Con thấy việc làm này rất khó, chỉ có những người tu chứng mới làm nổi như ý thầy Thông Lạc.

Thầy Thông Lạc cũng đồng ý: Đây chỉ còn là cách duy nhất mà thôi.

Sư phụ bảo: “Tôi chỉ gợi ý thôi, còn để cho mấy chú sau này làm.”

Nói xong sư phụ quay nhìn những đệ tử trẻ chúng tôi ngồi gần đấy.

Đã đến giờ ngọ trai, trước khi lui ra thầy Thông Lạc thưa: Con muốn thưa chuyện riêng với Thầy, nếu được Thầy cho phép, con gặp Thầy vào buổi chiều.

Ờ, hai ba giờ chiều rồi tới.

8- THẦY TRÒ THÔNG CẢM

Ba giờ chiều thầy Thông Lạc vào hầu chuyện với sư phụ, ba phật tử lúc sáng cùng đi theo.

Thầy Thông Lạc thưa: Thưa Thầy, từ ngày con lên núi trình Thầy, được Thầy ấn chứng, con có xin Thầy cho phép nhập Niết Bàn, nhưng Thầy bảo con ở lại trợ duyên Thầy giáo hoá. Vì thế con không đi trước Thầy.  Theo lời Thầy dạy, con tiếp tục nghiên cứu các kinh sách Đại Thừa. Và con cũng tuỳ duyên tiếp người mới học. Nhưng có những lời đồn quanh quất nơi các phật tử bên ngoài là đường lối con khác đường lối Thầy, gây chia rẽ giữa con với Thầy. Thưa Thầy, con tuỳ căn cơ người mà lập hai pháp; bên Thiền bên Định, bên thiền về quán để dạy người xả chướng ngại pháp. Còn Thầy dạy Bát Nhã cũng là quán, hoặc biết vọng không theo cũng là định, không có gì khác nhau. Hôm rồi, có những phật tử ở Cần Thơ đến nói con về việc này, rồi họ mời con xuống dưới để giải thích.

Thưa Thầy, hôm nay con lên đây để trình việc này và cũng để xóa tan những dư luận bên ngoài, có khi sẽ lan tới bên trong, xin Thầy cho vài huynh đệ về phụ với con như để xác định lại rằng đường lối của con không khác đường lối của Thầy, làm sáng tỏ chỗ dư luận như vậy.

Sư phụ bảo: Điều đáng ngại là Thầy trò không thông cảm nhau, còn khi Thầy trò đã thông cảm với nhau thì dư luận ở bên ngoài không quan trọng. Việc đưa người về đó không tiện vì hành chánh giấy tờ họ đã ổn định ở đây rồi, đưa qua đưa lại mất công. Khi nào thuận tiện tôi sẽ đi thăm là được rồi.

Các đạo hữu mừng rỡ. Sư ông đến thăm còn gì quí bằng.

Như vậy xem như chuyện thầy Thông Lạc lên thăm đây là mỹ mãn.

Sư phụ lại nói về tình hình Phật giáo hiện tại và bảo hiện nay Nhà nước đang xây dựng một viện nghiên cứu triết lý Phật giáo, nhất là Phật giáo Việt Nam thời Lý, Trần.

Cư sĩ Thiện Chí thưa: Thưa sư Ông, nhiều người nói sư Ông bác Tịnh Độ?

Thầy cười bảo: Nếu chấp nhận Tịnh Độ thì đã tu Tịnh Độ mất rồi! Tôi không nói là bác, nếu ai hỏi về Tịnh Độ tôi chỉ giải thích niệm Phật đến chỗ nhất tâm.

              Thầy Thông Lạc thưa: Thưa Thầy, ngoài miền Trung và miền Bắc có nơi nào tu thiền không?

Sư phụ bảo: Ở ngoài Bắc nơi chùa Hòa Giai có sư cụ Pháp chủ Đức Nhuận tu theo thiền Tào Động, lối phản quang tự tánh. Còn ở miền Trung thì hoàn toàn không còn nữa: mặc dù trước đây miền Trung là nơi truyền dạy thiền của hai ngài Nguyên Thiều và Liễu Quán.

Sư phụ nói thêm: Mình nói tu theo Đại Thừa, mà Thiền Tông là cốt tủy của Đại Thừa thì không chấp nhận. Hồi tôi lập Tu viện Chân Không để dạy thiền, cả giáo hội hồi đó không ai đồng ý cả, chỉ có Hòa thượng Thiện Hòa vì tình cảm riêng mà ra thăm hỏi. Trong khi thời đó nhóm Lương Sĩ Hằng dạy thiền xuất hồn hoàn toàn sai với đạo Phật thì giáo hội không nói được một lời nào để phê phán. Trái lại tôi dạy thiền của đạo Phật thì các vị lạnh lùng xa cách. Bởi vậy việc làm của tôi bao nhiêu năm qua là việc làm trong cô đơn yên lặng. Phật giáo Việt Nam mình hầu hết 99 % là Tịnh Độ, chỉ bắt đầu từ khi Tu viện Chân Không xuất hiện thì mới có thiền. Cho nên tiếng nói của thiền thật là bơ vơ lạc lõng.

Hồi trước kia trong một kỳ họp của giáo hội với tư cách là người trong ban hoằng pháp, tôi phát biểu chư Tăng bấy giờ có nhiều người muốn chuyên tu. Xin giáo hội cho lập những Tịnh Viện, Thiền Viện làm cơ sở cho chư Tăng chuyên tu ròng tu tập. Kỳ đó Thượng tọa Thiện Minh làm chủ tọa, các vị bác ý kiến tôi không tiếc lời, bác thẳng tay.

Thầy Thông Lạc tiếp lời:

- Tuy sư phụ nói như vậy, nhưng riêng chúng con lại thấy khác. Có thể đối với giáo hội trước kia, sư phụ là người cô độc đi con đường của mình, nhưng từ mọi miền đất nước, từ nhiều nơi trên thế giới, với những người thiết tha tu tập mà không thỏa mãn nơi sinh hoạt của giáo hội, đã hướng về sư phụ như ngọn hải đăng rực sáng cao cả soi phá bóng đêm âm u trên biển khổ trầm luân sinh tử, giúp họ vượt qua đêm dài tăm tối si mê, đưa họ trở lại lối tu cốt tuỷ của đạo Phật.

- Sư phụ không cô đơn vì pháp âm của Người vang mãi trong lòng muôn người chân thành vì đạo pháp;

- Sư phụ không cô đơn vì con đường Người vạch lối có vô số người bước theo và tìm thấy nơi đây bình an và hạnh phúc;

- Sư phụ không cô đơn vì hàng đệ tử chúng con vững bước theo Người, nối tiếp sứ mạng của Người làm trong sáng đạo Phật khỏi những sai lầm cực đoan và mê tín. Vì thế mà hiện giờ sư phụ không còn cô đơn nữa, con đường của sư phụ đi là con đường sáng chói huy hoàng mà chúng con là những người thực hiện ánh sáng ấy.

9- GIAI ĐOẠN CHUYỂN BIẾN PHẬT GIÁO TỪ TỊNH TỚI THIỀN

Hôm thứ bảy ngày mùng 7 tháng 3 âm lịch vừa rồi có Hòa thượng Minh Châu cùng với ông Đức Phương, Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Tống Anh Nghị là những người chịu trách nhiệm tờ báo Giác Ngộ - tờ báo Phật giáo hiện nay - đến Thiền viện thăm sư phụ. Những vị kia hầu hết đều quen thuộc đối với Phật giáo, riêng ông Đức Phương là chủ bút tờ báo Giác Ngộ. Chúng tôi đã đãi các vị bữa cơm trưa với các món ăn tự sản xuất được như: mít kho, đào chiên, canh rau dền. Sau buổi nghỉ trưa ngồi nói chuyện với sư phụ, ông Đức Phương nhận xét:

- Tôi nghe Thầy là người tu theo “Đại Thừa” nhưng khi đọc cuốn “Chìa Khóa Học Phật” tôi thấy Thầy nói về đức Phật rất thực tế không có vẻ gì huyền thoại. Ý ông nói là Nguyên Thủy mà tránh dùng chữ quá rõ.

Sư phụ đáp: - Tôi không để ý đến những khía cạnh khác, với tôi đạo Phật tùy bệnh cho thuốc.

Ông Đức Phương: - Biết bệnh biết thuốc cũng khó chứ. Thật ra sư phụ muốn gạt vấn đề Nguyên Thủy và Đại Thừa qua một bên chia đôi hai nhánh làm gì, tùy bệnh thô thì nói pháp thô, bệnh tế thì nói pháp tế, với người chưa tỉnh thì nói pháp giải thoát, với người tỉnh rồi thì nói lý tưởng độ sanh.

              Các ông khẩn khoản mời sư phụ viết bài cho báo Giác Ngộ.
              Sư phụ có vẻ từ chối nói rằng: - Tôi là người nhiệt tình, cũng muốn nói lên những điều cần phải nói nhưng những điều tôi đã nói lại có người hiểu lầm. Riết rồi tôi chỉ thích coi ngó làm ruộng làm rẫy mà thôi.
             Ông Tống Hồ Cầm lại khuyến khích: - Thầy là con người văn hoá, công việc văn hoá là thích hợp chứ.
             Ông Võ Đình Cường lại thêm: - Thôi, Thầy viết cho bài trong đặc san Phật đản kỳ này đi. Có lẽ trong nội bộ Phật giáo hiểu lầm Thầy thôi.

           10- THIỀN TÔNG KHÔNG LÀM CHỦ SINH, LÃO, BỆNH, TỬ

Đang thuật chuyện thầy Thông Lạc, tôi lại nhắc đến các ông, bây giờ giải thích sự kiện hiểu lầm, tôi lại phải nhắc chuyện nhà Tổ. Khi cất xong nhà Tổ, sư phụ nói chuyện với tứ chúng. Trong bài nói, sư phụ có dẫn thiền sư Thường Chiếu.

              Thần Nghi hỏi thầy là Thường Chiếu: - Mọi người đến thời tiết này, chỗ ngộ này, vì sao đều theo thế tục mà chết?
              Thường Chiếu bảo: - Ngươi nhớ được mấy người không theo thế tục mà chết?
              Thần Nghi thưa: - Một mình tổ Đạt Ma.
              Thường Chiếu hỏi: - Có những gì đặc biệt?
              Thần Nghi thưa: - Một mình đạp sóng trở về Tây.
              Thường Chiếu hỏi: - Núi Hùng Nhĩ là nhà ai? (ý nói tổ Đạt Ma cũng chết chôn trong núi này).
              Thần Nghi thưa: - Chỉ là chỗ chôn chiếc giày trong hòm mà thôi.
              Thường chiếu bảo: - Lừa người lấy lợi, đứng đầu là Thần Nghi (ý chê Thần Nghi đi ngõ khác với Thiền).
               Thần Nghi thưa: - Đâu thể nói Tống Vân truyền dối việc vua Trang Đế quật mồ thì sao?
              Thường Chiếu bảo: - Một con chó lớn sủa láo, mấy con chó nhỏ sủa theo.
              Thần Nghi thưa: - Hòa thượng cũng tùy tục chăng?
              Đáp: - Tùy tục.
              Lại hỏi tiếp: - Vì sao như thế?
              Thường Chiếu bảo: - Ấy là cùng người đồng chết.
              Thần Nghi chợt tỉnh ngộ, lễ bái thưa:
- Con đã hiểu lầm hết rồi.

Người theo Thiền Tông cốt ngộ được pháp thân bất sanh bất diệt, còn cái thân tứ đại này theo luật vô thường phải có ngày tan hoại. Phật cũng thế. Không làm chuyện lạ bày trò sống lâu với thân tứ đại này chỉ vì dạy người giác ngộ pháp thân vượt ngoài sanh tử. Thần Nghi chưa ngộ pháp thân nên chỉ nhìn nơi chuyện lạ ca ngợi tổ Đạt Ma đã tịch chôn trong tháp ở núi Hùng Nhĩ rồi mà còn sống lại ra khỏi tháp đi về Ấn Độ, gặp sứ giả Tống Vân trên núi. Thống lãnh Tống Vân về thuật lại, vua Trang Đế quật tháp chỉ còn một chiếc hài.

Thiền sư Thường Chiếu đã quở trách những người đến với đạo Phật chỉ để ý chuyện lạ, không sáng lý tánh qua câu: “Một con chó lớn sủa mấy con chó nhỏ sủa theo”. Sư phụ dẫn chuyện này để khẳng định đường đi của Phật giáo không chú trọng chuyện lạ, vì như thế có thể chìm vào dị đoan, mê tín. Nhưng không biết trong những người đứng nghe lúc đó nghe thế nào mà hiểu lầm rằng con chó sủa láo chính là công kích các hệ phái khác.

Trước khi ra về, các ông đã xin những cuốn sách sư phụ đã trước tác căn bản như “Mới vào cổng chùa”, “Yếu chỉ thiền tông”, “Hé mở cửa giải thoát.”

Sư phụ nói tiếp với thầy Thông Lạc và các phật tử: - Tất cả những việc tôi âm thầm làm từ trước trong hoàn cảnh không thích hợp như khôi phục Thiền Tông, sau giải phóng thì tổ chức sinh hoạt lao động trong thiền viện, bây giờ những việc đó bắt đầu có cơ duyên thích hợp, từ lâu yên lặng, bây giờ mới nói lên tiếng nói...

11- HUYNH ĐỆ TU VIỆN THƯỜNG CHIẾU THƯA HỎI

Vì thầy Thông Lạc đến sáng mai mới về, nên tối nay huynh đệ chúng tôi khẩn khoản thỉnh Thầy hoan hỷ cho chúng tôi tham vấn. Sau giờ xả thiền chúng tôi trải chiếu, bày trà nơi gian nhà trống và mời Thầy đến.

Thầy Thông Quán đã thay mặt huynh đệ hỏi trước. - Thưa Thầy, con nghe Thầy có dạy các pháp tu định và tu quán, các pháp này thế nào?

Thầy Thông Lạc bảo: - Hai phép tu định và tu quán không khác với nhau, đường lối của Thầy viện chủ chỉ là tuỳ căn cơ người học mà Thầy thiên về định hay về quán thôi (thầy Thông Lạc có thói quen xưng “Thầy” gọi chúng tôi là “huynh đệ” có lẽ vì Thầy thấy thân mật, chúng tôi cũng thấy cởi mở).

Với người thông minh học nhiều – Thầy tiếp – Thầy cho họ pháp quán xả tâm để đi suốt con đường tri kiến giải thoát tận đỉnh. Ngay tri kiến giải thoát tận đỉnh là tâm bất động tức là Bất Động Tâm Định. Bất Động Tâm Định là mục đích của đạo Phật, người tu tập tới đây muốn nhập định nào cũng dễ dàng và thực hiện Tam Minh cũng không còn khó khăn. Muốn thực hiện là được liền, tức là phải dùng pháp hướng tâm.

Cho nên trong kinh thường dạy: “Hướng tâm đến Túc Mạng Minh; hướng tâm đến Thiên Nhãn Minh; hướng tâm đến Lậu Tận Minh v.v...”. Nhưng các huynh đệ hãy lưu ý: muốn đạt được tâm bất động như vậy mà không tu tập Tứ Niệm Xứ thì không bao giờ đạt được. Muốn tu tập Tứ Niệm Xứ sung mãn mà không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì Tứ Niệm Xứ chỉ là một pháp ức chế tâm, khiến cho hành giả rơi vào các loại thiền tưởng, có khi bị Tẩu Hỏa Nhập Ma.

Tùy căn cơ của mỗi người, đôi khi Thầy cho họ một câu hỏi khó giải để diệt ý thức phân biệt, nhờ đó nghi tình sẽ phát khởi, khi nghi tình phát khởi thì cái nghi chôn sâu vào tâm họ, chờ duyên khai phát cái nghi đó. Cái nghi bùng vỡ là pháp tưởng hiện tiền, 1.700 công án họ đều phá sạch, không một cái nào dấu họ được. Nhưng cái khuyết ở trường hợp này là trên đường đi họ dễ sanh ngã mạn, nói năng to lớn.

Người thầy phải biết trị cái bệnh này biết “thằng này nói dóc”, chặn lại và sách tấn họ vượt qua tiếp, khéo chuyển kiến giải, tưởng giải thành tri kiến giải thoát. Đa số người kiến giải, tưởng giải ở phương tiện này đều phải hàm dưỡng nhiếp tâm, an trú tâm và sức tỉnh giác rất cao để bất động tâm chứng ngộ chân lí.

Còn với người trì độn ít học, Thầy chỉ họ tu Định Niệm Hơi Thở, từ đề mục thứ nhất cho tới đề mục thứ 19. Nếu họ vào định thật sự rồi, tức là vào chỗ tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là chân lí thứ ba của đạo Phật trong Tứ Diệu Đế. Cái khuyết ở trường hợp này là họ dễ chìm trong si định, cái định si mê ham ngủ, lười biếng. Nếu người thầy khéo gỡ mới đưa họ qua khỏi trạng thái si mê này thì họ chứng đạo. Trường hợp người đi qua phương tiện tu Định Niệm Hơi Thở này, khi đạt được đề mục thứ 19 thì cũng là chứng ngộ luôn.

Thầy Thông Vân thưa: - Trong kinh pháp Bảo Đàn. Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Niệm khởi liền giác, không sợ vọng khởi, chỉ là đừng lầm vọng tưởng.” Lời dạy này có khác với Thầy chăng thưa Thầy?

Thầy Thông Lạc bảo: - Cái diệt niệm của Tiểu Thừa là diệt niệm ác, còn niệm thiện không diệt, cho nên Tứ Chánh Cần dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”, trong kinh Pháp Cú dạy: “Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành” hoặc “Thấy lỗi mình không thấy lỗi người”, để vào Bất Động Tâm Định. Cho nên khác với cái giác niệm của Đại Thừa. Với Đại Thừa niệm khởi mình chỉ biết thì nó không còn là vọng tưởng nữa. Tuy nhiên trong Thiếu Thất Lục Môn tổ Đạt Ma có dạy Lý nhập và Hạnh nhập. Người thượng căn khi nghe một câu liền ngộ và từ đó sống luôn với chỗ ngộ của mình đây gọi là Lý nhập nhưng với người kém hơn phải nhờ Hạnh nhập, tức là tu định một thời gian mới có thể thấy tánh.

Lục Tổ có bảo: “Niệm trước không sanh là tâm, niệm sau không diệt là Phật”, “Trước niệm không sanh là Phật, sau niệm không thêm cái diệt chỗ đó là tâm.” Nếu giữ được như vậy lâu ngày thì thành viên mãn. Đó là theo pháp môn ảo tưởng của Đại Thừa, Thiền Tông nên chỉ nói suông chứ không thể thực hiện được. Cho nên Tổ sư và các đệ tử nhiều đời nhiều kiếp chỉ chết cứng trong những kiến tưởng giải này không lối thoát, vì thế không ai làm chủ sanh, già, bệnh, chết được.

Còn người nhập định như gốc cây cục đá, chẳng đem lợi ích gì cho mình, cho người. Những loại thiền định ngôn ngữ suông này nó đã diệt nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo xuống tận đáy vực thẳm. Vì thế, hỏi đến nền đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì từ thiền sư Tổ cho đến các thiền sư con đều không ai biết, họ chỉ biết kiến tánh thành Phật.

Phật của họ là Phật phạm giới, tự tại vô ngại đói ăn, khát uống, mệt ngủ, nên ăn uống phi thời có sao đâu. Họ cho rằng dâm dục cũng đâu có mất Phật tánh, vì tánh Phật xưa nay đều có sẵn. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Uống rượu ăn thịt như Tế Công, Tuệ Trung cũng đâu có mất Phật tánh.

- Thưa Thầy, có ý kiến Tổ sư thiền là đến siêu phương tiện, không qua thứ lớp định huệ đồng thời. Còn Thầy chia hai phương tiện như vậy có hợp chăng?

- Đây chỉ là phương tiện ban đầu của Thầy để đưa người mới học đến cửa. Thật ra không phải căn cơ người nào cũng giống nhau. Người thượng thượng căn một lần nghe là đốn chứng viên mãn. Người thượng căn có đốn ngộ cũng phải tiệm tu. Còn người trung, hạ căn phải có phương tiện mới xả tâm rốt ráo. Như ngài Khuê Phong, tuy đã ngộ, nhưng Ngài tự thấy mình còn ái kiến nên bỏ vào núi tập định ngót mười năm mới sạch.

Thầy Thông Quán lại thưa: - Thưa Thầy có dùng lối chỉ thẳng như các vị thiền sư không?

Thầy Thông Lạc bảo: - Có, có khi qua cái dụng để chỉ cái thể, có khi đốn cơ gạt bỏ tri thức khiến họ ngộ nhập. Nhưng trường hợp này ít ỏi.

Một thầy mới đến thiền viện thưa: - Thưa Thầy, con dùng lối sổ tức để tập tu ban đầu, nhưng trong mười hơi đang đếm vẫn còn vọng niệm xen lẫn.

Thầy Thông Lạc bảo: - Vậy là còn thiếu phước nên tu thập thiện, sư đệ hãy phát nguyện tu thập thiện, bắt đầu khởi tu tập ngăn ác diệt ác pháp và sinh thiện tăng trưởng thiện pháp như trong kinh Thập Thiện dạy. Khi tu tập pháp này thuần thục rồi, thì sư đệ mới tiếp tục tu 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở thì sẽ không còn vọng tưởng xen lẫn vào nữa.

- Thầy Thông Quán lại hỏi: - Nếu không tỉnh giác có bị các pháp cột trói không thưa Thầy?

- Không tỉnh giác là bị các ác pháp cột trói. Cho nên tu tập cần phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác. Chánh Niệm Tỉnh Giác có bốn giai đoạn tu tập:

1- Giai đoạn thứ nhất: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước đứng lại tác ý một lần: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành.” Khi tác ý xong câu này rồi tiếp tục đi. Đi và đứng lại tác ý như vậy đúng 30 phút mới xả nghỉ.

2- Giai đoạn thứ hai: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước đứng lại tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra một lần.” Sau khi tác ý xong rồi thở ra hít vô đúng 5 hơi thở ngưng lại thì tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành.” Khi đi xong 10 bước đứng lại tác ý thở như trên. Tu tập như vậy đúng 30 phút rồi xả nghỉ.

3- Giai đoạn thứ ba: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước ngồi xuống kiết già hay bán già lưng thẳng, mắt nhìn chóp mũi rồi tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” Sau khi tác ý xong rồi thở ra, hít vô đúng 5 hơi thở, ngưng lại đứng dậy tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành.” Khi đi xong 10 bước đứng lại rồi ngồi xuống tác ý thở như trên. Tu tập như vậy đúng 30 phút rồi xả nghỉ.

4- Giai đoạn thứ tư: Đi kinh hành theo pháp Thân Hành Niệm, pháp này phải được trực tiếp với người có kinh nghiệm dạy, chứ đừng tự mình tu tập thì dễ bị sai lệch rất nguy hiểm. Pháp này mỗi hành động trong thân đều phải tác ý trước rồi mới hành động sau, có nghĩa là lệnh đâu thì hành động phải theo đó mà thi hành.

Thầy Thông Quán hỏi: - Nếu không tỉnh giác cũng không bị vọng tưởng có bị các pháp cột trói không thưa Thầy?

- Nếu không tỉnh giác cũng không bị vọng tưởng có bị các pháp cột trói không. Đó là đã rơi vào không như cây đá rồi. Người tu hành mà để thành cây đá thì có ích lợi gì. Câu hỏi của sư đệ không bao giờ có trường hợp xảy ra như vậy. Không tỉnh giác tức là mê. Mê có hai ngả:

               - Ngả thứ nhất là bị vọng tưởng.
               - Ngả thứ hai là bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không.

Hai ngả này xác định khi mê thì không chạy đâu khỏi, không rơi ngả này thì phải lọt ngả khác, cho nên không bị các pháp cột trói là không có.

Không tỉnh giác cũng không bị vọng tưởng là bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không rồi. Đã bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, còn tỉnh đâu mà các pháp cột trói. Có đúng như vậy không các huynh đệ.

- Cho nên không bị vọng tưởng lôi kéo thì ngay đó là tỉnh giác rồi, có tỉnh giác thì các pháp làm sao trói buộc? Câu hỏi của sư đệ vô lý, chỉ đặt ra hỏi cho có hỏi chứ không có nghĩa lý gì cả.

Thưa các huynh đệ! Muốn thưa hỏi tu hành hay thưa hỏi để nói chuyện tào lao, người tu hành không phí thời gian vô ích. Sau này sư đệ muốn thưa hỏi thì phải thưa hỏi những câu hỏi có ý nghĩa trong vấn đề tu tập và cũng không nên hỏi những câu hỏi ngoài vấn đề.

Đưa cái ly ra, thầy Thông Quán lại hỏi tiếp: - Bạch Thầy, nếu bảo thấy cái ly là chạy theo vật, còn nói không thấy cái ly là phủ nhận sự hiện hữu vậy phải làm sao?

- Thấy cái ly mà chạy theo vật là phàm phu, không thấy cái ly là ngoại đạo chấp không (Đại Thừa Bát Nhã).

Thầy Thông Quán lại hỏi tiếp: - Bạch Thầy các thiền sư ngồi thiền biết thân hay không biết thân?

- Thiền định có nhiều cấp độ nhập định nên các trạng thái định cũng có rất nhiều. Thầy xin kể cho các sư đệ nghe Thiền định được phân làm hai loại:

              1- Loại nhập định còn biết thân gọi là Tâm Định.
              2- Loại nhập định không biết thân gọi là Thân Định.

              Tâm định gồm có những loại định như sau:
              1- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác
              2- Định Vô Lậu
              3- Định Niệm Hơi Thở
              4- Định Sáng Suốt
              5- Định Tư Cụ (Tứ Chánh Cần)
              6- Định Tứ Niệm Xứ
              7- Định Thân Hành Niệm
              8- Định Từ Tâm
              9- Định Bi Tâm
              10- Định Hỷ Tâm
              11- Định Xả Tâm
              12- Định Tứ Bất Hoại Tịnh
              13- Định Bất Động Tâm
              14- Định Vô tướng Tâm
              15- Định Diệt Tầm Giữ Tứ
              16- Định Sơ Thiền

              Thân định gồm có những loại định như sau:
              1- Định Nhị Thiền
              2- Định Tam Thiền
              3- Định Tứ Thiền
              4- Định Không Vô Biện Xứ Tưởng
              5- Định Thức Vô Biên Xứ Tưởng
              6- Định Vô Sở Hữu Xứ Tưởng
              7- Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
              8- Định Diệt Thọ Tưởng

Còn riêng các loại thiền định khác của pháp Yoga, của Mật Tông, của Minh Sát Tuệ, của Thiền Đông Độ, của kinh sách phát triển Đại Thừa, của Pháp Vô Vi xuất hồn ông Tám, ông Tư, của Tiên Đạo Lão Tử, Trang Tử v.v... đều thuộc thiền định tưởng, không được ghép vào thiền của Phật giáo, vì những loại thiền định này không ly dục ly ác pháp, không thực hiện được Tứ Thần Túc và Tam Minh, nó thuộc về thiền định của ngoại đạo.

Thầy Thông Quán lại hỏi tiếp: - Bạch Thầy, thiền sư khi không tiếp duyên, không khởi trí dụng, có thấy các pháp là huyễn hóa không?

- Khi không khởi trí dụng thì có pháp nào nói huyễn nói chơn?

Thầy Thông Quán lại thưa: - Bạch Thầy, từ lâu chúng con có những thắc mắc về Thầy, nay xin Thầy hoan hỷ giải bày cho chúng con hết mọi nghi ngờ. Bạch Thầy, lần trước con có nghe Thầy nói vấn đề tu do chim thú cúng dường, lại nghe Thầy xin Thầy viện chủ nhập Niết Bàn. Thầy còn thấy Niết Bàn nào để nhập chăng?

Thầy Thông Lạc thong thả bảo: - Trong kinh Bát Thành có dạy tám pháp độc nhất, người tu hành chỉ cần ôm một pháp tu tập cũng đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn. Tám pháp ấy gồm có:    

              1- Từ tâm
              2- Bi tâm
              3- Hỷ tâm
              4- Xả Tâm
              5- Sơ thiền
              6- Nhị thiền
              7- Tam thiền
              8- Tứ thiền

Người tu tập Từ tâm, tâm luôn luôn lúc nào cũng biết yêu thương chứ không biết ghét giận hờn ai cả. Họ thực hiện đức hiếu sinh, không phải họ chỉ thương mọi người, mọi loài động vật mà còn thương tất cả cỏ cây sông núi, không khí nước uống v.v... Như ông Phú Lâu Na, người đã thực hiện Từ tâm đến rốt ráo hiện tiền, nên chứng quả A La Hán cũng do từ pháp Từ Tâm Tứ Vô Lượng.

              Một hôm ông Phú Lâu Na xin Phật đi giáo hóa ở một nước xa xôi. Đức Phật bảo:
              “- Dân ở đó hung dữ lắm, họ sẽ chửi mắng con đó.
              Ông trả lời:
              - Dân ở đó họ còn thương con, họ chưa lấy cây đánh con.
              - Họ sẽ lấy cây đánh con.
              - Dân ở đó họ còn thương con, họ lấy cây đánh con, chứ chưa lấy dao giết con.
              - Họ sẽ lấy dao giết con.
              - Dân ở đó họ còn thương con, họ lấy dao giết con, vì con còn mang thân này là còn khổ đau, mất thân này con vào Niết Bàn, không còn đau khổ nữa.
              - Thôi! Con cứ đi đi!”

Người tu Từ tâm như vậy từ trường thiện phóng xuất nơi họ ở, do đó tất cả chúng sanh đều sống bên họ không sợ hãi. Người tu hành có từ tâm như vậy nên mới có những loài vượn hái trái cây cúng dường. Phật và những đạo sĩ tu khổ hạnh trong rừng thường xảy ra những trường hợp này.

Còn ở đây khi huynh đệ muốn cho chim thú cúng dường thì chim thú không cúng dường. Chim thú cúng dường là do từ tâm. Có đúng như vậy không các huynh đệ.

 Thầy xin lập lại câu hỏi thứ hai của thầy Thông Quán: "- Thầy còn thấy Niết Bàn nào để nhập chăng?"

- Có lẽ lo tu thiền tri vọng nên sư đệ không học bài pháp Tứ Diệu Đế sao? Vậy Diệt Đế là gì? Diệt Đế không phải là Niết Bàn sao. Phật dạy: Người tu hành trước tiên phải giác ngộ chân lý rồi sau mới hộ trì và bảo vệ chân lý, nếu không ngộ được chân lý thì biết cái gì mà hộ trì, bảo vệ, Thiền Đông Độ không dạy sư đệ Kiến tánh rồi khởi tu sao?

Năm anh em Kiều Trần Như nghe xong bài pháp này liền chứng quả A La Hán. Sư đệ không nhớ: Thiền Tông dạy: “Kiến Tánh Thành Phật.” Vậy Phật là gì? Không phải Niết Bàn sao?

Nói nhập Niết Bàn là danh từ nói chứ từ khi kiến tánh thành Phật là đã nhập Niết Bàn chứ còn chỗ nào nữa. Cho nên người tu hành chứng đạo thì thân tâm đều luôn ở trong Niết Bàn. Thân tâm đều luôn ở trong Niết Bàn nên gọi là Hữu Dư Niết Bàn, còn người tu chứng thân đã chết thì gọi là Vô Dư Niết Bàn.

Vậy sư đệ nói: Thầy còn thấy Niết Bàn nào để nhập chăng? Tội nghiệp sư đệ quá, sư đệ đừng lấy những câu phá chấp của kinh sách Đại Thừa mà hiểu lầm rằng còn thấy Niết Bàn là chưa biết Niết Bàn.

Sư đệ đưa câu hỏi này ra chứng tỏ sư đệ không có nghiên cứu kinh sách, chỉ đọc một vài cuốn kinh Đại Thừa, giống như người trì độn công phu, tu tập trong ngu si. Nói chân lý tức là nói một sự thật, một sự thật thì người chưa tu cũng phải nhận ra, nếu người chưa tu không nhận ra được thì đó đâu phải là chân lý. Như Phật tánh đâu phải là chân lý, người tu gần chết mà còn chưa kiến tánh được huống là người chưa tu thì biết gì là Phật tánh. Cho nên Phật tánh không phải là chân lý. Còn Diệt Đế là chân lý. Tại sao dám khẳng định Diệt Đế là chân lý?

             - Thứ nhất, kinh thường nhắc đến bốn chân lý của Phật giáo.
             - Thứ hai, là bài kinh xác định là diệt hết lòng ham muốn.
             - Thứ ba, là chỉ định trạng thái hết lòng ham muốn, đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
             - Thứ tư, là trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

Bốn điều nêu trên đây nếu người nào chưa tu cũng nhận ra được, đó là một trạng thái thật sự của con người, chứ không phải là cảnh giới bên ngoài, là con người không ai là không nhận ra được Chỉ có sư đệ Thông Quán hiểu lầm tưởng Niết Bàn mà thầy Thông Lạc nói nhập là cảnh giới bên ngoài như cõi Cực Lạc hay cõi Thiên Đàng. Nghe đến chỗ này các huynh đệ đều cởi mở, vui vẻ.

Sáng hôm sau thầy Thông Lạc đến chào sư phụ và từ giã huynh đệ ra về. Chúng tôi trân trọng xá Thầy, một đại sư huynh đã cho chúng tôi tấm gương tu hành lớn lao. Chúng tôi cũng nguyện theo tấm gương tinh tấn của Thầy vững bước đi theo đường mà sư phụ đã vạch lối, con đường thiền giáo đồng hành mà trong đó việc tìm lại căn bản giáo lý đức Phật là điều quan trọng.

099-MẤY SUY TƯ VỀ GIẢI THOÁT. Nguyen Van Thien

1- Ý nghĩa đơn giản của giải thoát.

Trước tiên ta phải hiểu từ ngữ chữ nghĩa tương đương chẳng hạn như chữ Giải phóng.

Giải: là mở ra, tháo gỡ khỏi, cởi bỏ, vô hiệu hóa sự trói buộc v.v và v.v…

Phóng: là thả, trả tự do, phóng thích, ném tới, vọt lên, thoát ra, vượt qua v.v

Trước kia Bác Hồ vạch ra con đường giải phóng dân tộc có phải là đấu tranh để giành lại sự độc lập tự do dân chủ cho dân tộc thoát khỏi gông cùm xiềng xích nô lệ của các ách đô hộ thực dân đế quốc và các thế lực thống trị khác... Chính sự thống trị áp bức, cai trị tàn ác dã man của thế lực ngoại bang nên các dân tộc phải tự vùng lên đấu tranh cho đất nước mình thoát khỏi các ách nô lệ trói buộc để được giải phóng dân tộc là ý nghĩa như vậy!

Còn Giải thoát là gì?   

Giải ở đây là quăng ném, buông bỏ, cởi mở, tháo ra, vô hiệu hóa sự ràng buộc... Còn thoát là vượt qua, nhảy ra, bỏ lại những gì sau lưng hoặc chung quanh ta (VD: 4 bức tường giam hãm ta phải thoát ra v.v...)

Như vậy giải thoát là buông bỏ, tháo gỡ tất cả những gì bị ràng buộc, bị trói buộc, bị nô lệ chẳng hạn như: cái bị sanh, bị già, bị bệnh, bị chết và những kiến chấp quá sâu dày đã ăn sâu vào bản ngã từ vô thủy vô chung. Vượt qua tất cả những gì trở ngại tự làm chủ lấy mình, giải thoát thân tâm tự làm chủ bốn chổ thân, thọ, tâm, pháp. Vượt qua dục lậu, hu lậu, vô minh lậu, không để bị dính mắc đắm nhiễm bởi các dục lạc thế gian: sắc, lợi, danh, thực, thùy. Con người thường tự làm khổ lấy mình, cứ để sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý tiếp xúc với sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp”. Không chịu phòng hộ sáu căn, sống viễn ly ngăn, đoạn, diệt, bởi vậy cứ bị các dục chi phối lôi kéo, làm sao không đắm nhiễm!! Các trạng thái buông lung dễ làm cho ta trở lại trạng thái cũ, ta phải như con đại tượng đã qua sông thì không quay đầu lại, sống như con tê ngưu một sừng, độc cư thiền định đó là chân lý giải thoát.

Đức phật cách đây trên 2500 đã vạch ra con đường giải thoát với Bốn Chân Lý: khổ, tập, diệt, đạo. Bát chánh đạo là cứu cánh phạm hạnh đưa đến giải thoát toàn phần mà có mấy ai đi trọn con đường… đi hay không đi là quyền của mọi người… đức Phật chỉ là người hướng đạo, bật thầy vĩ đại có trí tuệ chánh đẳng giác là tấm gương thanh tịnh cho mọi người soi, là cha chung của muôn loài

Tôn chỉ của đức Phật Thích ca Mâu ni là muốn chúng ta sống bình đẳng, xóa bỏ mọi giai cấp giữa người với người, cũng như giữa muôn loài động, thực vật. Chúng ta phải biết thương yêu muôn loài nói chung là chúng sinh. Chúng sinh không giới hạn ở con người, con người cũng là động vật nhưng là động vật cao cấp có lý trí, có lương tâm, có tri giác, có lòng thương yêu. Như vậy tại sao ta không giác ngộ chân lý đừng làm khổ mình, khổ người, khổ mọi chúng sinh... chỉ cần sống như vậy là giải thoát rồi, chứ giải thoát cái gì?    

Giải thoát ở đây là giải thoát thân và tâm nhiếp phục mọi tham ưu ở đời, xả bỏ tất cả chướng ngại pháp trong thân tâm, không tham ái chấp trước hai đời, phải thông suốt những gì cần thông suốt, phải biết vượt qua dục lậu, hu lậu, vô minh lậu. Không để ba cõi tác động, phải có pháp nhãn thanh tịnh thấy, biết rõ như thật, phải tự hoàn thiện lấy mình, không ai thanh tịnh ai, phải biết phân biệt con đường đâu là thiện, đâu là ác, đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là diệt được khổ, đâu là con đường đưa đến giải thoát hết khổ chấm dứt tái sanh luân hồi. Đó là hành trình giải thoát của một kiếp người!

2- T thanh tnh hoàn thin ly mình.

Có sng đi sng đc cư, phòng h sáu căn mi lng nghe và cm nhn được bên trong ni tâm ca mình nó mun gì, nghĩ gì thì mi gt giũa được thân tâm ca mình mt cách tt nht. Phi t phn tnh trung thc đ dit tr mi ý nim, li nói, hành vi bt thin, bt chánh. Phi quyết tâm t bỏ, ly dc ly ác pháp, x b tâm tham, sng đi sng thiu dc tri túc, phi rải tâm t khp mi loài, phi tĩnh giác chánh nim, phi dit ngã x tâm cho tt.

Phi có lòng tin sâu vào Pht pháp và phi có lòng tàm quí, biết s hãi nhng li lm nh nht do mình gây ra, biết sám hi, ăn năn t sa cha ly mình, sng đúng mười điu lành, không làm điu ác hnh, t thanh tnh ly mình t s được hoàn thin.

3- Vượt qua ma gii.

Ma là gì? Ma là ch ca dc lc, vua ca lòng ham mun, nó có th sai khiến và cám d quyến rũ tt c mi loài. Nó chuyên đi đánh phá, cám d nhng người có phm hnh vì các v này đi ngược li con đường ca nó, nếu không tinh cn chánh nim tnh giác, buông lung phóng dt t s b ma trói buc, b nó đánh bi và s b thi chuyn tâm lay đng.

Như vy ta phi t an trú, t y ch, t ly mình làm đo cn đ tu tp, phòng h ly mình, t mình thanh tnh ly mình, vượt lên chính mình, làm ch bn thân thì mi có th vượt qua ma gii. Đng đu ma vương là tham, sân, si, còn ngũ dc lc sc, li, danh, thc, thùy quân lính chuyên đi quyến rũ nhng ai tham đm ái dc lc thế gian, người thế tc ít có ai vượt qua ma gii, lúc nào cũng b ma cám d sai s. Ma đây chúng ta phi hiu chân chính đó là ma lc, tt c mi thú vui k c nhng sinh hot thường ngày đu b ma sai s trói buc, chng hn như rượu chè, c bc, hút xách, đĩ điếm gái bao, cá cuc chơi bi v.v…

C bc, cá cuc mi hình thc thì có con ma c bc sai s quyến rũ lôi kéo làm cho tan nhà nát ca, rơi vào cnh nghèo cùng khn kh, v con bt hnh oán thán khôn xiết.

Rượu chè, bia bt và các cht say có tính kích thích thì có con ma men cám d làm cho tâm trí b u mê ám chướng, thn kinh b phân lit không còn lý trí phân bit đúng sai, phi trái, dơ sch, người trên k dưới v.v…

Hút xách bao gm thuc lá, á phin, móc phin, hê rô in và các cht kích thích khác… thì có con ma túy cám d rù rê làm cho suy kit sc khe, hao tốn tin bc, thân th gy gc khô khan, ô nhim đc hi cho mình, cho mi người… d rơi vào các try lc khác.

Chơi bi đĩ điếm, b bch lang bang, quan h bt chính v,v… thì có con ma dâm dc lôi kéo xúi dc, quyến rũ làm cho tha hóa đi bi, bnh hon th cht ln tinh thn, chng v tan rã mt hnh phúc gia đình, con người mt đo đc đi đến ch vô liêm sỉ.

Tt c mi dc lc thế gian đu có ma lc cám d, quyn rũ, lôi cun. Con người chúng ta ai ý thc giác ng được việc ny thì s làm ch được thân tâm, vượt qua ma gii.

Vượt qua ma gii là ý thc thy biết rõ như tht các dc trưởng dưỡng tác đng trong thân tâm và ta t điu phc, chế ng hoàn toàn thân tâm, khéo biết làm mui lược tâm tham, sân, si, làm ch các dc. Không đ tham đm chp th dính mc dù đó là dc thin hoc h lc, đó là vượt qua ma gii. Không còn dc lu, hu lâu và vô minh lu còn gi là vượt qua tam gii không còn lu hoc.

100-TẠO DUYÊN GIÁO HÓA CHÚNG SANH. Trở Về Đạo Phật

12- TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Quý vị đã không ngại đường xá xa xôi, dành những thì giờ quý báu, cùng bỏ những công ăn việc làm để huân tập về Tu viện Chơn Như với lòng chân thành ngưỡng mộ sự tu hành của chúng tôi, và cũng để tìm hiểu pháp môn tu hành của chúng tôi có kết quả như thế nào?

Và kết quả ấy có lợi ích gì trong đời sống thiết thực của con người hay không?

Sự giải thoát kết quả mà chúng tôi đã tu tập có phải là sự giải thoát của đạo Phật hay không?

Để trả lời những câu hỏi thắc mắc trên đây của quý vị, tức là chúng tôi kể lại sự tu hành của chúng tôi và chính cũng là giải được mối nghi ngờ trong tâm của quý vị.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử! Từ lâu quý vị đã hướng thân tâm của mình về Phật pháp, từng đi chùa lễ Phật, tụng kinh, bái sám; từng đi nghe thuyết giảng kinh sách; từng để tâm nghiên cứu học hỏi giáo pháp của đức Phật với một lòng chân thành.

Nhưng quý vị rất đau lòng và nghi ngờ Phật pháp vì tận mắt quý vị đã chứng kiến mắt thấy, tai nghe, quý vị đã nghe các bậc chân tu mà quý vị đã từng gặp trong cuộc đời của mình. Các vị ấy là những bậc thầy Tổ của quý vị, đã từng hướng dẫn cho quý vị biết Phật pháp, biết tu học Phật pháp, đã từng chỉ dạy cho quý vị biết cách thức tu tập như: niệm Phật, niệm chú, tụng kinh, ăn chay, ngồi thiền, làm các điều lành và còn dạy cho quý vị biết thiền quán xả tâm, tham thiền nhập định theo thiền Đông Độ, thiền Yoga v.v...

Mỗi vị đều đem hết khả năng tu học của mình chỉ dạy cho quý vị để mong quý vị đạt được sự giải thoát. Nhưng khi ra đi vào cõi Niết bàn, các vị ấy không giải thoát, phải chịu đau khổ trên giường bệnh, nhức nhối khổ sở trong các cơn đau, mệt mỏi thở chẳng ra hơi, hay lẫn lộn quên trước, quên sau khi tuổi già sức yếu.

Suốt cuộc đời quý vị phật tử đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh trạng đau lòng của những thầy Tổ mình, giải thoát đâu không thấy, chỉ thấy toàn một sự đau khổ, thì làm sao quý vị không nghi ngờ Phật pháp được?

Ngược lại những gì quý vị đã được học trong kinh điển nói về các Tổ và các Thiền sư tu như thế nào mà khi chết được tự tại làm chủ sanh tử luân hồi mà hiện giờ thì không thấy có ai tu tập được, hay đây chỉ là huyền thoại để lừa bịp người sau chăng?

              13- GIỚI - ĐỊNH - TUỆ

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử! Bây giờ chúng ta dừng lại chỗ này và trở lại vấn đề chính của buổi nói chuyện hôm nay.

 Để trả lời câu hỏi thứ nhất: Pháp môn tu hành của chúng tôi là Pháp môn nào? 

Xin trả lời, chúng tôi tu hành theo pháp môn Giới, Định, Tuệ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trước khi chưa tu, là một tăng sinh đang học Phật pháp, chúng tôi đã từng học qua những lời di chúc của đức Phật. Lời di chúc là lời dạy sau cùng của đức Phật trước khi Ngài nhập Niết bàn. Lời di chúc thứ nhất đức Phật dạy:

“Này các Tỳ-kheo, các con hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp của ta làm Thầy và làm chỗ nương tựa để tu hành vững chắc khi ta nhập Niết Bàn”. Lời dạy này chúng tôi ghi khắc mãi trong tim không bao giờ quên và cũng không bao giờ quên ông thầy của chúng tôi là Giới Luật và Giáo Pháp làm chỗ nương tựa vững chắc cho sự tu hành của chúng tôi ngày mai.

Lời di chúc thứ hai đức Phật dạy: “Giới Luật còn là Phật còn tại thế, Giới Luật mất là Phật mất”. Lời dạy này hình ảnh Giới Luật là hình ảnh của đức Phật nên chúng tôi nghiêm khắc mình trong Giới Luật không để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Chúng tôi lấy đó làm giai đoạn tu hành thứ nhất của mình.

Lời di chúc thứ ba: “Ta thành Chánh Giác là nhờ Tâm không Phóng dật, các pháp lành đều nhờ đó mà sanh, các Tỳ-kheo hãy nhớ lấy mà tu tập”.

Lời di chúc thứ tư, đó là lời di chúc không lời, khi nhập Niết Bàn, đức Phật nhập từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền, nhập đi nhập lại tới ba lần rồi mới chịu nhập Niết bàn.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử, ở đây đức Phật muốn nhắc nhở người sau phải ráng dụng công tu tập thiền định này, đừng bao giờ tu tập những loại thiền định nào khác. Vì trong cuộc sống hiện giờ của chúng ta, trong thời đức Phật đã qua và cũng như trong tương lai nhiều thế hệ ở ngày mai vậy, sẽ có biết bao nhiêu thứ thiền mà chẳng có thứ thiền nào đưa chúng ta đến sự làm chủ và giải thoát được thân tâm, nhất là chấm dứt sự tái sanh luân hồi.

Cho nên đức Phật đã xác định rõ, chỉ có thứ thiền này mới làm chủ được sanh tử, tự tại bỏ báo thân và chấm dứt được tái sanh luân hồi mà thôi. Vậy xin quý vị phật tử hãy lưu ý chỗ này. Cho nên khi nhập xuôi nhập ngược ba lần xong, đó là Ngài di chúc cho chúng ta phải nhập thiền Thứ Tư mới xả bỏ báo thân, và mới nhập vào Niết Bàn.

Thể theo những lời di chúc này chúng tôi tu tập ngày đêm không biết mệt mỏi, ốm đau quyết không bỏ giờ tu suốt sáu tháng rưỡi trời trong thất chịu từng đắng cay gian khổ để, chiến đấu với tạp khí thói quen, tật xấu; với nghiệp lực quá nặng nề; với tâm tham ái, dục vọng dẫy đầy.

Nhiều khi chúng tôi tưởng chừng không thắng nổi. Nhưng với sức bền lòng như sắt đá; với tinh thần kiên cường, gan dạ dũng cảm giữ thân tâm sừng sững như núi đá; với nghị lực dũng cảm quyết liệt xông tới như thác đổ, chúng tôi đã chiến thắng giặc sinh tử, làm chủ thân tâm của chính mình và chứng nghiệm được sự giải thoát của đạo Phật một cách hùng hồn anh dũng.

              14- MỤC ĐÍCH GIẢI THOÁT

Để trả lời câu hỏi thứ hai: Sự tu hành của chúng tôi có kết quả như thế nào?

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Giới luật là pháp môn tu tập để ly dục ly ác pháp nên giải thoát được đời sống của con người ra khỏi mọi ham muốn và mọi sân hận, phiền não khổ đau. Chúng tôi đã chứng nghiệm được điều này rất thực tẽ và cụ thể.

Ví dụ trước kia chúng tôi ăn ngày ba bữa, bây giờ ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt phi thời gì hết, cơ thể thì rất khỏe mạnh, ít bệnh tật, suốt ngày không lo ăn uống gì cả, tâm ít vọng tưởng, ít ngủ. Ăn ngày một bữa, chúng tôi tìm thấy giải thoát được hai bữa ăn và đầu óc ít nghĩ bậy bạ, tâm không ham muốn và không ham ngủ. Sự giải thoát chân thật cụ thể này thì quý vị không thể nào phủ nhận được.

Cũng từ trong sự tu giới luật này chúng tôi đã tìm được giải thoát nhiều điều trong đời sống hàng ngày. Nhưng thì giờ có hạn không cho phép chúng tôi kể dông dài làm mất thì giờ của quý vị vô ích.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Thiền định của đạo Phật từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền là những pháp môn giải thoát tự tại sanh tử làm chủ sự sống chết của thân tâm chúng tôi nhận biết rõ ràng bằng cách chứng nghiệm rất cụ thể.

Ví dụ chúng tôi nhập Tứ Thiền suốt một tuần lễ, nửa tháng hoặc một tháng không ăn uống gì hết, không đi đại tiểu tiện, không mệt nhọc, không có đau khổ và cũng không chết. Xuất định, chúng tôi cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, an lạc. Đó là một bằng chứng rất cụ thể.

Như vậy sự tu hành của chúng tôi về đời sống đã có giới luật làm khuôn mẫu mực cho cuộc sống nên tâm lúc nào cũng ly dục ly ác pháp, vì thế thân tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.

Còn về phần chết chúng tôi đã có Tứ Thần Túc nên làm chủ được hơi thở một cách dễ dàng. Vì thế làm chủ sự chết không còn khó khăn nên chúng tôi muốn chết hồi nào cũng dễ dàng chết và muốn sống hồi nào cũng dễ dàng sống như trở bàn tay; như lấy đồ trong túi áo. Do tu tập đúng pháp của đức Phật, chúng tôi đã làm chủ sự sống chết theo ý muốn của mình.

Quý vị có tin không? Nếu không tin thì quý vị cứ xét qua đời sống giới luật đức hạnh của chúng tôi thì rõ. Nhưng riêng chúng tôi tu hành được giải thoát làm chủ sự sống chết là mãn nguyện, còn tin hay không tin đó là quyền của quý vị.

Sau khi có đủ năng lực làm chủ thân tâm, chúng tôi dùng năng lực ấy quan sát không gian và thời gian, thọ hưởng an lạc suốt trong tuần lễ chứng đạo. Vì thế trong thời gian ấy chúng tôi thực hiện Tam Minh: từ Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh đến Lậu Tận Minh.

Lậu Tận Minh là trí tuệ cuối cùng trong sự tu tập của chúng tôi. Đến đây chúng tôi đã có đủ: Giới, Định, Tuệ theo con đường tu tập mà đức Phật đã vạch ra chỉ dạy từ ngàn xưa.

              15- SỰ LỢI ÍCH CỦA PHẬT GIÁO

Để trả lời câu hỏi thứ ba: Kết quả ấy có ích lợi thiết thực giải thoát cho đời người hay không?

Đạo Phật là đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, nó là đạo đức của loài người trên hành tinh này, nhờ nó mà con người mới thoát ra khỏi bản tính của loài động vật.

Vì thế, có lý đâu mà không lợi ích thiết thực giải thoát cho mọi người. Tu tập ít có lợi ích ít; tu nhiều có lợi ích nhiều. Vì nó là đạo đức nhân bản của loài người; nó là khuôn vàng, thước ngọc đo sự sống của con người mới xác định con người thật là con người hay là con người còn mang bản chất của loài cầm thú.

Cho nên làm người cần phải tu học không thể phủ nhận và từ chối đạo đức này được.

              16- PHẠM HẠNH

Để trả lời câu hỏi thứ tư: Sự giải thoát đó có phải của đạo Phật hay không?

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Quý vị hãy vui lòng đọc lại các kinh điển Nguyên Thủy của đạo Phật, rồi nghiệm lại đời sống của đức Phật và đời sống của chúng tôi. Đời sống của đức Phật:

          1- Ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt phi thời.
          2- Ngủ ít, thường đi kinh hành suốt đêm (đi trong chánh niệm tỉnh giác; đi trong sự quán thân trên thân của Tứ Niệm Xứ để nhiếp phục tham ưu).
          3- Không có của cải, châu báu, ngọc ngà, tiền bạc và cũng không có chùa to, Phật lớn sang đẹp.
          4- Sống lấy gốc cây làm giường nằm, chết dưới gốc cây (Sa la song thọ).

Hiện giờ chúng tôi cũng sống như vậy: không ăn uống lặt vặt phi thời. Nhà ở bằng cây tầm vông, vách bằng liếp đan và nếu đủ duyên chúng tôi sẽ sống trong hang núi và cũng chết dưới gốc cây như đức Phật, ngủ ít đi kinh hành nhiều. Đó là lối sống của đức Phật và lối sống của chúng tôi đều giống nhau. Cho nên quý vị không thể nào phủ nhận rằng chúng tôi sống và tu sai pháp Phật được.

Phần làm chủ thân tâm thứ hai cũng rất cụ thể. đức Phật tuyên bố trước mọi người còn ba tháng nữa Ta sẽ nhập Niết Bàn. Điều này đức Phật đã giữ đúng lời hứa. Chúng tôi đã nhập được Tứ Thiền, phá được thọ, tịnh chỉ được hơi thở, cho nên chúng tôi cũng làm được điều này khi chúng tôi muốn dứt bỏ báo thân. Nhờ tu tập đạt được kết quả như vậy, nên chúng tôi rất mãn nguyện với sự tu tập của mình.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Chúng tôi có sống và làm khác đức Phật hay không? Ở đây quý vị không thể nào viện một lý do gì bảo rằng chúng tôi tu sai pháp Phật được. Xưa đức Phật đã làm được điều gì thì bây giờ chúng tôi cũng làm được như vậy. Tuy rằng chúng tôi không giảng kinh thuyết pháp như các thầy khác nhưng chúng tôi thân giáo bằng hành động thân, khẩu, ý; bằng sự sống của chúng tôi để hướng dẫn người qua kinh nghiệm tu hành bản thân của mình hơn là ngôn ngữ. Vì sự hướng dẫn này, theo chúng tôi nghĩ là thực tế và cụ thể hơn là thuyết pháp bằng lời nói suông.

Trên đường tu theo đạo Phật, chúng tôi tu hành như vậy, không còn sợ sai trái với đạo Phật và không còn sợ mọi ảnh hưởng của các tôn giáo khác đang đồng hóa đạo Phật.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử. Khi nghe chúng tôi nói đến đây, quý vị nên nghỉ xả hơi một chút để ngồi suy ngẫm lại những gì chúng tôi đã nói ra những kết quả đời sống phạm hạnh của chúng tôi với đời sống của đức Phật có đúng hay sai. Sai thì xin quý vị cho biết thêm những ý kiến để chúng tôi chứng minh những lời Phật dạy, khiến cho quý vị không còn nghi ngờ nữa.

17- GIỚI LUẬT LÀ MỘT VỊ THẦY ĐƯỢC ĐỨC PHẬT DI CHÚC

Sau thời gian nghỉ xả hơi, bây giờ chúng ta lại tiếp tục câu chuyện còn đang dở dang lúc nãy...

Sau khi đã được trả lời những câu hỏi mà bấy lâu nay quý vị đã từng ôm ấp trong lòng, hằng chờ đợi đến ngày ra thất của chúng tôi. Nay quý vị đã được giải bày thông suốt. Nhưng chúng tôi biết chắc quý vị còn một điều muốn thưa hỏi, đó là con đường Thiền Đông Độ mà thầy chúng tôi (H.T.T.T) đã dày công triển khai và chấn hưng suốt 24 năm nay, kể từ năm 1970 cho đến nay, quá trình thời gian rất dài.

Nhưng nhìn lại trong đó không thấy có kết quả gì thì mọi người cũng phải nghi ngờ, thời gian là một xác chứng cụ thể của con đường thiền đó mà không chứng minh được, do đó quý vị phải có một mối nghi trong tâm là đúng, nhưng còn e ngại chưa muốn hỏi chúng tôi, chúng tôi hứa sẽ giải nghi cho quý vị nếu có đủ thì giờ, bằng không chúng ta phải chờ một dịp khác. Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Nãy giờ quý vị đã suy ngẫm những gì chúng tôi đã nói, chúng tôi xin nhắc lại quý vị đã biết ai là thầy của quý vị, người đó sẽ dẫn dắt quý vị trên đường tu theo đạo Phật mà không hề sợ lạc lối. Chúng tôi xin hỏi quý vị một lần nữa: Thầy của quý vị là ai? Quý vị cứ trả lời xem, đừng dựa vào huyền sử 33 vị Tổ sư Thiền Đông Độ và Trung Hoa, vì đó là sự dựng lên những trang sử không có thật của người sau.

Kính thưa quý vị, nãy giờ quý vị không trả lời là vì quý vị còn dè dặt, để chúng tôi trả lời thay cho quý vị.

Kính thưa quý vị, căn cứ theo kinh sách Nguyên Thủy thì thầy của quý vị không phải là chúng tôi. Chúng tôi là những con người bằng xương, bằng thịt như quý vị, chúng tôi và 33 vị Tổ sư Thiền Ấn Độ và Trung Hoa cũng không được đức Phật chỉ định làm người thừa kế dẫn dắt quý vị trên đường tu học theo đạo Phật. Cho nên quý vị đừng nương tựa theo chúng tôi tu hành cũng như các vị Tổ sư thiền. Nhất là nương tựa theo chúng tôi tu hành sẽ có nhiều điều bất lợi và khó khăn cho quý vị:

               1- Chúng tôi không phải là người thừa kế của đạo Phật, vì thế chúng tôi không đủ niềm tin đối với quý vị. Khi quý vị nghe người ta nói xấu chúng tôi, cho chúng tôi tu hành không đúng đạo Phật, tu theo ngoại đạo thì chừng đó quý vị còn có đủ niềm tin đối với chúng tôi nữa chăng?
               2- Thời điểm hiện giờ Phật giáo suy thoái. Người tu sĩ Phật giáo đắm danh, tham lợi, lòng ganh tỵ nhỏ nhen ích kỷ hẹp hòi và tinh thần tỵ hiềm cao độ.  
               3- Pháp môn tu hành của đạo Phật hiện giờ đã bị lẫn lộn nhiều pháp môn của ngoại đạo khó phân biệt tà chánh.
               4- Các bậc tôn túc đi trước tu hành sai, người sau không dám sửa đổi sợ thầy Tổ buồn phiền.
               5- Lòng người còn tham danh, đắm lợi, tham mê sắc dục không muốn rời xa năm thứ dục lạc của thế gian (danh, lợi, sắc, thực, thùy).
              6- Đời người còn lạc hậu nặng lòng mê tín thường cầu khẩn bái lạy tụng kinh niệm chú, lấy đức Phật làm chỗ tha lực nương tựa cứu khổ cứu nạn chứ không tự lực cứu mình, khiến đạo Phật thành đạo Thần.
              7- Ham mê thần thông, bùa chú linh hiển, tin chuyện quá khứ vị lai.
              8- Lòng người bây giờ thiếu thành thật thường dối thầy, dối Tổ, dối mình và dối người khác.
              9- Tham danh học thức cao, chạy theo cấp bằng này, cấp bằng nọ.
              10- Những bậc chân tu không xu hướng chính trị bên này, bên kia thì bị cô lập mọi cách.

Do 10 điều trên đây quý vị không nên theo chúng tôi tu hành, vì theo tu hành rất khó khăn cho quý vị và chúng tôi. Vả lại theo chúng tôi tu hành đông đảo chắc chắn sẽ để lại một trang sử chia rẽ Phật giáo không tốt đẹp. Xưa Huệ Khả bị giết, Lục Tổ Huệ Năng bị hành thích, gần đây Tổ Sư Minh Đăng Quang bị bắt cóc mất tích, ông Đạo nằm Nguyễn Văn Thế bị ám sát bắn chết tại chùa.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Người thầy của quý vị không phải là chúng tôi mà chính Giới Luật. Giới Luật là người thừa kế của đức Phật và đã được đức Phật chỉ định trước giờ nhập Niết Bàn. Chính chúng tôi tu học cũng từ ông thầy Giới Luật mà có được như ngày hôm nay.

Vậy quý vị hãy trở về nương tựa nơi ông thầy Giới Luật của quý vị đi. Đừng nương tựa vào ai hết, dù bất cứ ông thầy nào, họ là những con mọt kinh sách, chẳng có một chút kinh nghiệm gì trên đường tu tập. Họ chỉ nói bằng miệng mà cuộc sống tu hành của họ chẳng có ra gì, chỉ có miệng lưỡi. Họ đâu biết rằng kinh sách hôm nay là do tam sao thất bổn, có nghĩa là ba lần sao chép làm kinh mất gốc.

18- TĂNG NI XEM NHẸ GIỚI LUẬT

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Họ đâu biết rằng kinh sách hôm nay là do tam sao thất bổn, có nghĩa là ba lần sao chép làm kinh mất gốc. Vả lại kinh sách còn do tưởng giải của người sau thêm bớt quá nhiều theo kiến thức hiểu biết của họ rồi cho rằng đúng, do đó họ đã làm lệch lạc con đường tu hành của đạo Phật ở đời sau. Họ không dám tu giới luật, lúc nào cũng tìm cách tránh né viện cớ này, cớ kia hoặc chạy theo con đường phá giới, phá oai nghi tế hạnh của đạo Phật.

Tóm lại, chẳng nghe ông thầy Giới Luật nên tình trạng Phật giáo mới ra nông nỗi này.

Họ dám bẻ vụn Giới Luật, biến Phật giáo thành Thần giáo, ông Phật thành ông Thần. Hiện giờ chùa là nơi cúng bái cầu siêu, cầu an, cầu tài, cầu lợi, xin xăm bói quẻ cúng sao giải hạn, coi ngày giờ tốt xấu, dựng vợ gả chồng... Vì thế, chùa là nơi sinh hoạt mê tín dị đoan.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, biến chùa thành nghĩa địa nhà mồ vì tư lợi nhỏ mọn cá nhân để phật tử tới lui cúng bái và giỗ chạp làm tuần, làm tự, cúng vong, tiễn linh lúc nào cũng ồn náo biến thành nơi phục vụ mê tín cho những người phật tử còn lạc hậu.  

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật và giáo pháp của Phật, biến chùa thành khu du lịch để làm nơi ăn chơi của phật tử, của khách hành hương tham quan du ngoạn. Bắt Tăng, Ni phục vụ cơm nước để được lòng phật tử, được cúng dường.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, biến chùa thành chỗ tổ hợp buôn bán làm tương, làm chao, làm đủ mọi thứ nghề nghiệp, biến tu sĩ thành công nhân sản xuất gia dụng v.v... còn đâu có những thì giờ để tu hành, thật là phí uổng một đời người.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, biến chùa thành cửa hàng ăn uống, bắt Tăng, Ni phục vụ, còn gì thể thống đạo đức của người tu. Họ chỉ biết có tiền, có lợi mà không thấy việc làm của họ đúng hay sai.  

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, biến chùa thành nông trại, tu sĩ thành nông dân để có miếng cơm manh áo hằng ngày không đúng tư cách của người tu sĩ. Họ lấy gương Bách Trượng một ngày không làm một ngày không ăn, sách động tu sĩ lao động để xây dựng chùa to Phật lớn như cung đình, lao tác quần quật như con ong và như vậy còn gì là đời tu của tu sĩ.  

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, biến chùa thành cơ quan từ thiện xã hội, nay kêu đoàn phật tử này quyên góp tiền bạc và đồ vật gia dụng đi cứu tế chỗ này, mai kêu đoàn phật tử khác quyên góp tiền bạc và đồ vật gia dụng đi cứu tế chỗ kia. Họ đâu biết rằng bổn phận của họ là lo giải quyết sanh tử trước mắt thì Phật giáo mới còn, chứ đâu phải làm việc từ thiện này. Làm việc từ thiện này là của những người cư sĩ. Thời đức Phật còn tại thế, ông Cấp Cô Độc là người cư sĩ làm những việc từ thiện này nên mới có tên là Cấp Cô Độc, còn bây giờ Tăng, Ni là Cấp Cô Độc, là nhà từ thiện, họ không còn là những bậc Thánh Tăng và Thánh Ni nữa.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, biến chùa thành Tuệ Tĩnh đường, trạm y tế, bệnh viện, trạm xá, trường học, biến tu sĩ thành thầy thuốc ta, thuốc bắc, bác sĩ, y sĩ, dược tá, y tá, giáo viên... khiến nơi tu hành mất hết vẻ tôn nghiêm thanh tịnh.  

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, chuyên lo đào đất làm hồ, xây dựng chùa to tháp lớn, biến Tăng, Ni thành lao công quanh năm suốt tháng lao động quần quật, còn sức đâu mà tu hành.

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, đi quyên góp tiền phật tử xây chùa to tháp lớn như đền đài cung điện các vua chúa và tạo cây cảnh vườn tược đẹp đẽ để quyến rũ phật tử và khách tham quan, biến tu sĩ trở thành những lao công quét dọn công viên và chăm sóc cây cảnh. Những việc làm này ngược lại đạo giải thoát của Phật.  

Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, đi khất thực không đúng oai nghi tế hạnh, xin tiền, xin đô la làm những việc đồi bại như những người ăn mày khất cái. Những hình ảnh này thật là đau lòng cho Phật giáo ngày nay.

Những điều quý vị đã làm ở trên đều phạm vào Giới Luật của đức Phật, vì danh, vì lợi sang đẹp mà quý vị đã bắt chước các tôn giáo khác và người thế tục, những việc làm này không phải là tu sĩ Phật giáo làm. Nếu trong kinh sách của Phật có dạy làm những điều này là do những người sau họ bị ảnh hưởng của các tôn giáo khác mà thêm vào.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Những gì quý thầy đã làm và chúng tôi đã nói ở trên không phải là những gì làm sai đối với thế gian, với những người thế tục. Nhưng rất là sai đối với đạo Phật, và lại đúng đối với các tôn giáo khác, cho nên chúng tôi nói Phật giáo chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khác là vậy.

Phật giáo chủ trương đường lối buông xả, mục đích của đạo Phật là để tìm giải thoát cho mọi cá nhân ra khỏi sự đau khổ, sanh, lão, bệnh, tử của đời người. Cá nhân được thoát khổ thì xã hội mới an vui. Cá nhân còn đau khổ thì quý vị có giải quyết từ thiện bằng cách nào thì xã hội vẫn còn đau khổ và còn hơn thế nữa.

Tuy rằng trước mắt, tạm thời quý vị an ủi họ một chút mà thôi vì bản chất dục vọng, tham lam ham muốn, ganh tỵ hơn thua, gian dối xảo trá, giết sinh linh ăn thịt chúng sinh của loài người ngàn đời không bao giờ từ bỏ được. Do nguyên nhân này mà con người bóc lột lẫn nhau bằng mọi thủ đoạn mánh khóe gian xảo. Ngoài mặt làm ra vẻ thương yêu bác ái, nhưng còn bên trong toàn là gươm đao, súng đạn. Giai cấp bị bóc lột đứng lên đấu tranh để bảo tồn quyền lợi sống còn của mình, do đó thế giới mới có chiến tranh liên miên không nước này thì cũng nước khác.

Vì thế, đạo Phật nhắm vào giải quyết cá nhân, giải quyết cá nhân là giải quyết xã hội. Cá nhân tốt thì xã hội mới tốt, cá nhân xấu thì xã hội xấu. Cá nhân hay tập thể làm từ thiện mà trong đó còn có danh cầu từ thiện thì không phải là từ thiện. Làm từ thiện để được tiếng thiện thì còn nghĩa lý gì là từ thiện. Làm từ thiện là do lòng yêu thương trước cảnh bất hạnh của những người khác.

 Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Vì việc làm từ thiện mà cá nhân và gia đình quý vị toàn là gặp đau khổ không thiện chút nào.

Kính thưa quý vị, những điều chúng tôi nói ở trên, Tăng, Ni hay là những người từng học giới luật của Phật, họ đều biết rất rõ những điều ngăn cấm này. Nhưng có điều hiện giờ sự tu hành của họ không có chất liệu giải thoát. Họ chỉ học lý thuyết suông nên họ phải chuyển qua làm những việc từ thiện này để tiêu thụ cái nợ đàn na thí chủ. Nếu không thì làm sao nuốt trôi được.

Giới luật của Phật còn đó, nó là bậc thầy của quý vị, nó thường ngăn cấm quý vị làm những điều sai, cớ sao quý vị không nương tựa vào ông thầy của mình để sửa những điều sai, để mình trở thành những người tốt có đạo đức, biết thương yêu sự sống của muôn loài.

Ngược lại không nương vào giới luật mà lại nương tựa vào những Thần, Thánh, Quỷ, Ma hoặc những đấng sáng tạo ảo giác, để cho Phật giáo bây giờ mới ra nông nỗi này! Nếu quý vị tu hành đúng giới luật, nghiêm khắc mình trong giới luật thì đó chính là con đường của đạo Phật, con đường giải thoát thật sự. Hình ảnh và đức hạnh giải thoát của quý vị là quý vị đã chấn hưng Phật giáo, chứ đâu phải cất chùa to tháp lớn mới gọi là chấn hưng, đạo Phật không cần những thứ này. Chỉ cần những hình ảnh và đức hạnh giải thoát của quý vị là quý vị làm sáng tỏ Phật pháp, chứ đâu cần có Tăng Ni cho nhiều mà giới luật chẳng ra gì. Hình ảnh và đức hạnh giải thoát của quý vị là quý vị đã xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn một ngàn lần quý vị làm công tác từ thiện xã hội.

              Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!
              Đến đây chúng tôi xin quý vị nghỉ xả hơi một chút để suy ngẫm lại những điều chúng tôi đã nói.

19- XẢ BỎ DANH LỢI

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Bây giờ chúng ta nên trở lại vấn đề. Sau khi được nghe chúng tôi kể lại sự tu hành và chỉ định ông thầy của quý vị, quý vị phải cẩn thận nghiên cứu kỹ pháp môn nào tu được, pháp môn nào không tu được, pháp môn nào của chính đức Phật và pháp môn nào không phải của đức Phật và ai là ông thầy của quý vị.

Do sự cẩn thận suy xét, chúng tôi tin chắc rằng quý vị sẽ hướng về chúng tôi. Nhưng kính thưa quý vị chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo, chúng tôi đâu có chùa, đâu có chỗ ăn, chỗ ở cho quý vị, chúng tôi là những người ăn xin, ở trọ của người khác. Khi nghe chúng tôi nói đến đây quý vị rất lấy làm ngạc nhiên có phải vậy không? Tuy quý vị chưa dám nói ra, nhưng tự nghi vấn trong lòng rằng: Tu viện Chơn Như trước mắt đây mà Thầy nói rằng Thầy không có chùa thì bảo sao chúng tôi tin được?

Xin thưa với quý vị phật tử, từ những khu đất rộng rãi này đến những ngôi nhà chư Tăng, Ni ở, cùng trai đường, nhà bếp, điện thờ Phật, Thiền đường, Tổ đường, phòng vệ sinh, phòng tắm, hồ nước và tất cả tài sản trong chùa đều của các cư sĩ như: Cô Út Diệu Quang ở đây, vợ chồng Chơn Tâm, Tâm Như, Tâm Giác, Như Trì, Như Lý, vợ chồng Minh Tâm, cô Diệu Tâm, Diệu Mỹ, ông Muời, Diệu Hương, vợ chồng Thiện Hiển, Ngộ Ngọc và Cháu Tùng v.v...

Còn những cái ăn, cái mặc hàng ngày cũng đều do các cư sĩ này và nhiều cư sĩ khác nữa. Từng thùng gạo, từng ổ bánh mì, từng chai nước tương, từng hạt muối, đường, sữa, trái cây, xà bông, bột ngọt, vải sồ, y áo và thuốc thang trị bệnh. Cho nên chúng tôi đâu có gì để nuôi quý vị. Xưa đức Thế Tôn không có nuôi một vị Tỳ-kheo nào hết. Các vị muốn tu theo đạo Phật phải tự đi xin mà ăn. Chúng tôi bây giờ cũng vậy, là người xin ăn ở trọ. Chúng tôi đâu dám làm phiền những vị cư sĩ này, vì kinh tế gia đình của họ có mức độ.

Kính thưa quý vị, chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo không bao giờ dám mở miệng xin tiền cất chùa hoặc xin tiền để làm những việc gì khác cho cá nhân mình. Vì đức Phật và Giới Luật không có dạy chúng tôi làm điều đó. Nếu quý vị phật tử có nghĩ đến chúng tôi là những kẻ tu hành chơn chánh thì cúng dường cho chúng tôi được no lòng và y áo được lành lặn. Còn không cúng dường thì chúng tôi chịu đói lòng và rách nát. Dù sống trong cảnh trạng như vậy chúng tôi cũng chẳng hề mở miệng than thở xin xỏ cùng ai. Còn ngược lại quý vị cúng dường mà không có tâm thành thì chúng tôi thà chịu đói chứ không thọ dụng. Cúng dường những vật dụng không đúng chánh pháp thì chúng tôi cũng chẳng dùng.

Chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo nghiêm khắc mình trong giới luật, không thể dùng những lời hoa mỹ đẹp đẽ giả dối đạo đức để lừa gạt người, làm danh, làm lợi cho mình.

Chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo không dám dùng những điều mê tín, dị đoan bùa linh, chú thuật giỏi, nói chuyện quá khứ vị lai như coi bói, xem tướng, coi sao, giải hạn để gạt người bằng cách vô lương tâm, gây tạo sự mê tín cho muôn người là điều bất chánh phi đạo đức.

Chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo không thể tổ chức hành hương đi chỗ này chỗ kia hoặc đi mười chùa, hai mươi chùa để khéo léo móc túi tiền của phật tử ham vui thích đi.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Vì thế chúng tôi không có chùa, không có cơm để ban cho quý vị ăn, không có áo để cho quý vị mặc. Chúng tôi là những người giải thoát hoàn toàn không có gì cả ngoài cái bát để ăn cơm hàng ngày và vài bộ y áo để mặc kín thân.

Nếu quý vị muốn tu theo chúng tôi thì chỉ khi nào có những vị cư sĩ tự phát tâm cúng dường, chứ quý vị không được kêu gọi họ. Khi nào quý vị có chỗ ăn chỗ ở thì quý vị thỉnh mời chúng tôi về đó, chúng tôi sẽ cho người hướng dẫn quý vị tu hành. Khi quý vị tu xong thì cũng là lúc chúng tôi sẽ liền rời khỏi nơi đó và ẩn mình trong hang đá gốc cây. Chúng tôi là những người đã sống buông xả hết, vì thế chúng tôi được tự tại giải thoát không còn vướng bận chuyện trần ai.

Khi đủ duyên chúng tôi hướng dẫn quý vị, thiếu duyên chúng tôi ẩn mình trong núi hoặc nơi thanh vắng ít người, quý vị khó lòng mà tìm. Sau ngày ra thất quý vị có về Chơn Như nhưng quý vị cũng khó mà gặp lại chúng tôi.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Nếu quý vị muốn học kinh Nguyên Thủy thì quý vị đến Hoà thượng Thích Minh Châu ở Thiền viện Vạn Hạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

Nếu quý vị muốn tu Thiền Đông Độ thì quý vị hãy đến Hoà thượng Thích Thanh Từ ở Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt.

Nếu quý vị muốn tu theo Tịnh Độ thì quý vị hãy đến Hoà thượng Thích Trí Tịnh ở chùa Vạn Đức Thủ Đức.

Nếu quý vị muốn tu theo Mật Tông thì quý vị hãy đến Hòa thượng Thích Tịch Chiếu ở Bình Dương.

Nếu quý vị muốn tu theo Thiền Đốn Ngộ thì quý vị hãy đến Hòa thượng Bửu Thắng ở Gò Công.

Nếu quý vị muốn tu theo Thiền Công Án thì quý vị hãy đến Hòa thượng Duy Luật ở chùa Từ Ân Chợ Lớn thành phố Hồ Chí Minh. Tất cả những vị này sẽ chỉ dạy cho quý vị đúng với sở nguyện của mình.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Tại sao Tu viện Chơn Như không đề Thiền viện Chơn Như? Chúng tôi ở đây tu theo ba pháp môn Giới, Định, Tuệ nên không thể nào đề Thiền viện được, vì thế chúng tôi dùng chữ Tu viện mới đúng nghĩa của ba pháp môn này. Ngày xưa đức Phật không tự xưng mình là thiền sư mà chỉ xưng mình là bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và nam nữ cư sĩ phật tử, một sự vô ý hay hữu ý mà người ta chạy theo xu hướng Thiền Tông rầm rộ rồi tự đặt tên chùa là Thiền viện này, Thiền viện nọ để thu hút lòng hiếu tu thiền của người phật tử. Chúng tôi tu theo đạo Phật, không bị mọi xu hướng của thời đại và chạy theo mọi phong trào của quần chúng. Chúng tôi luôn luôn tự xét mình làm cái gì đúng và làm cái gì sai để không lầm lỗi, để không bị ảnh hưởng mọi phong tục tập quán của con người.

Vì vậy tên Tu viện Chơn Như vẫn đứng vững vàng không bị ảnh hưởng của thầy Tổ. Chùa xây cất bằng tầm vông, liếp đan, nhưng mãi mãi muôn đời người ta sẽ ghi nhớ không quên.

20- CHÚNG TÔI KHÔNG PHẢI PHẬT, BỒ TÁT, A LA HÁN

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Hôm nay đã được nghe chúng tôi kể lại sự tu hành, xin quý vị đừng nghĩ rằng chúng tôi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán. Chúng tôi tu hành chẳng có chứng đắc gì cả, chỉ hằng ngày tu tập làm chủ thân tâm của mình. Lâu ngày chúng tôi làm chủ được nó nên không thể nào gọi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán, vì chúng tôi thấy mình cũng bằng xương, bằng thịt như chính quý vị vậy, cũng cười, cũng nói vui vẻ như quý vị.

Vì thế chúng tôi chẳng phải Phật, Bồ Tát, A La Hán, chúng tôi chỉ là con người như bao nhiêu người khác, nhưng nhờ tu tập làm chủ thân tâm, chúng tôi trở thành con người biết cách làm chủ mình nên tâm không buông lung, phóng dật, thân không hành động thô ác, miệng không nói lời hung dữ, gian dối, xảo trá, ý không khởi niệm xằng bậy.

Chúng tôi cũng chẳng phải là Thánh Đức, Hiền Nhân, Siêu Nhân, chúng tôi là con người bình thường như bao con người khác, nhưng có điều chúng tôi biết chắc rằng chúng tôi không bao giờ làm khổ mình, khổ người và cũng biết chắc rằng chúng tôi chẳng có thần thông phép tắc gì cả.

Chúng tôi không thể kêu mây, hóa lửa, làm gió. Chúng tôi chẳng biết chuyện quá khứ vị lai của ai hết. Chúng tôi chỉ biết đủ và không cầu mong gì hết, cho nên quí vị đừng đảnh lễ chúng tôi.

Chúng tôi không phải là thầy của quý vị và cũng không phải vị Tổ sư nào cả, chúng tôi cũng không phải Bồ Tát, A La Hán nữa. Chúng tôi cũng bình đẳng và bình thường như quý vị. Chúng tôi là bạn lành của quý vị khi quý vị muốn. Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa, lưu ý quý vị, chúng tôi là bạn lành của quý vị. Vậy từ nay về sau quý vị đừng đảnh lễ chúng tôi.

Nếu quý vị đảnh lễ chúng tôi là quý vị đã làm cách xa chúng tôi với quý vị. Quý vị đã biến chúng tôi thành ông Thần, ông Thánh, ông Vua để quý vị lạy chứ không phải quý vị theo chúng tôi để tu hành. Đạo Phật là một tôn giáo không có giai cấp, thế mà quý vị biến chúng tôi thành giai cấp bề trên để cho quý vị không bao giờ dám mở miệng khuyên răn khi chúng tôi làm những điều sai với đạo Phật. Nhiều khi quý vị còn a dua theo chúng tôi để bây giờ quý vị chứng kiến sự tệ hại của Phật giáo đến tận cùng.

Kính thưa quý vị, chúng tôi xin quý vị mỗi lần gặp nhau đều chấp tay lên xá nhau là đủ lắm rồi. Vì đôi bàn tay của quý vị chấp lại tượng trưng cho búp sen. Sen là một loài thảo mộc mọc dưới nước bùn nhơ hôi thối, thế mà hoa sen vươn lên không hôi thối mùi bùn mà còn toả hương thơm ngát. Cũng giống như chúng ta vậy, sống trong cõi đời đầy ô trược mà luôn luôn lúc nào cũng giữ thân tâm trong sạch như hoa sen kia vậy. Chúng ta chấp tay lại là tượng trưng cho hoa sen, đó là nói lên được lòng trong sạch thanh khiết của chúng ta kính cẩn chân thành chào nhau thì trên đời này không có gì quí bằng.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Các bậc tôn túc, thầy Tổ của chúng ta đã bị ảnh hưởng bởi vua chúa phong kiến quá nặng, nên cuộc sống của các Ngài đều tỏa mùi phong kiến, khiến cho nhân phẩm bình đẳng của con người mất đi (dân lạy quan, quan lạy vua) và tình cảm của chúng ta bị xa cách vì giai cấp quân thần.

Thưa quí vị, những gì chúng ta làm là chúng ta phải có ý thức đầy đủ, đừng để phong tục tập quán của con người đồng hóa Phật giáo mà người ta coi rẻ và khinh thường đạo Phật.

 

21- TỔNG HỢP CÁC PHÁP THEO KIẾN GIẢI

              Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Bây giờ chúng ta dừng câu chuyện tại đây để trả lời bức thư của một người phật tử gửi đến hỏi chúng tôi cách thức tu hành của vị này có đúng hay không. Chúng tôi xin trả lời và xin mời người chủ của bức thơ chú ý nghe.

 Trong thư phật tử đã nêu năm pháp môn của kinh sách phát triển, gồm có:

               1 - Quán tâm theo kiểu Đại thừa
               2 - Mật Tông thần chú
               3 - Tịnh Độ
               4 - Giới Luật
               5 - Hơi thở

Phật tử đã tổng hợp 5 pháp môn này làm thành một pháp môn để tu hành. Tuy nhiên trước mắt phật tử có một lợi nhỏ, tu lâu về sau không nhập được các chánh định của Phật, phần nhiều nhập vào định tưởng. Cách thức mà phật tử đã trình trong thơ chúng tôi nghiệm xét thấy:

              1 - Quán tâm chẳng ra quán tâm
              2 - Mật Tông chẳng ra Mật Tông
              3 - Tịnh Độ chẳng ra Tịnh Độ
              4 - Giới Luật chẳng ra Giới Luật
              5 - Hơi thở chẳng ra hơi thở   

Trong thư phật tử còn cho chúng tôi biết kết quả ưu điểm của sự tu tập này:

“1- Lúc nào con cũng thấy tâm con vui an lạc. Tối nằm xuống là ngủ liền, không trằn trọc, không chiêm bao mộng mị, không cảm thấy nhớ nhung gia đình, lòng dạ rỗng rang vô tư lự như trẻ con.

2- Trạng thái thiền định của con cũng tốt, không bao giờ bị tán loạn hôn trầm. Con định tâm cũng dễ, đôi khi hơi thở và câu niệm Phật của con chỉ còn mong manh nhu nhuyễn như một sợi chỉ. Con chìm đắm trong một trạng thái tĩnh lặng rất dễ chịu, nhưng con vẫn tỉnh chứ không mê. Lúc đó con hoàn toàn không cần một chút dụng công nào. Con chỉ để cho hơi thở ra vào một cách tự nhiên và nó tự nhẹ lần, chứ con không tác ý.”

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Chúng tôi xin trả lời gọn và dễ hiểu để không mất thì giờ. Theo lối tu tập của vị phật tử này không có kinh nghiệm chuyên môn mà chỉ chạy theo an lạc do xúc tưởng hỷ lạc sinh ra. Lối tu này là của Phật giáo cổ truyền trong các chùa Tịnh Độ thuộc Phật giáo cổ Sơn Môn, Lục Hoà Tăng theo nghi thức tụng niệm của họ.

Xin thưa cùng quý vị, người phật tử này đang đi tìm dục lạc mới, hay đi tìm thế giới siêu hình thần thông phép lạ trong các pháp môn này thuộc hệ thống kinh sách phát triển hơn là tìm tu giải thoát. Đó là một pháp môn tổng hợp Thiền, Tịnh, Mật của quốc sư Ngọc Lâm trong thời vua nhà Thanh Trung Hoa.

Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa “người phật tử này đang đi tìm dục lạc mới hay đi tìm thế giới siêu hình thần thông phép lạ trong các pháp môn tổng hợp”. Tu như vậy không phải là người đi tìm sự giải thoát của đạo Phật. Đây cũng là một thứ bệnh tu hành thời đại cầu mong tìm hỷ lạc dễ chịu để trốn khổ trong cuộc sống, hay đi tìm một thứ cao siêu vượt bực khác của con người.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Trong những ngày nhập thất, chúng tôi đã được biết có một số Tăng, Ni và phật tử đều thuộc giới có học thức thế mà lại tu theo pháp môn của ngoại đạo. Những pháp môn này mạo danh là của đạo Phật.

Họ thường sống ẩn dật trong núi non luyện tập bùa chú, thiền định xuất hồn, thiền định luyện tinh khí thần, thiền định luân xa, thiền định hiển linh vô vi tạo những điều linh hiển kỳ lạ, biến thế giới tâm tưởng thành thế giới siêu hình đầy dẫy linh hồn người chết, ma quái, quỷ Thần, Thánh Tiên, Phật, Trời... Đối với những phật tử, những tu sĩ này thường phô trương tiên đoán chuyện quá khứ vị lai của mọi người, thường làm thầy thuốc nam, thuốc bắc, hoặc bùa chú, hoặc truyền điển linh luân xa để trị bệnh khiến cho mọi người mê tín lại càng thêm mê tín hơn.

Họ nói chuyện toàn là khoe khoang sự xuất hồn đi chu du trong các cõi Tiên, cõi Phật và làm những điều thần thông quái lạ khiến cho mọi người say mê thích thú và phục lăn họ, xem họ như Phật sống, như Thần, Thánh, Tiên đang sống tại thế gian vậy. Đó là những hành động dối gạt, bịp người, làm những điều sai trái phạm vào giới luật của Phật.

Xưa đức Phật thường cấm các đệ tử không được thể hiện thần thông, không được làm những điều kỳ lạ, vì đức Phật cho những thần thông biến hóa và biết chuyện quá khứ và vị lai là những trò huyễn hóa lừa đảo người. Những tu sĩ này đã biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín dị đoan, và như vậy là xa lìa mục đích tu hành chân chánh của đạo Phật, khiến cho hàng phật tử lòng dạ hoang mang chẳng biết Phật pháp như thế nào đúng và như thế nào sai. Giống như người đứng trước ngã ba đường, chẳng biết đi ngõ nào.

Hình ảnh Tế Công Phật sống tức là Tế Điên Hòa Thượng và Phật sống Cựu Kim Sơn, đó là những hình ảnh tu sĩ ma quái mượn danh nghĩa Phật giáo luyện thần thông trị bệnh làm những điều mê tín, dị đoan, “Cứu thế độ dân.” Đó là những hành động mê hoặc chúng sanh; đó là những hành động phá hoại giới luật đức hạnh giải thoát và những oai nghi tế hạnh của đạo Phật.

Xưa đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, các thầy hãy giữ gìn Giới luật của ta nghiêm túc thì hàng phật tử sẽ kính mộ các thầy, thường quỳ xuống trải tóc dài trên đường cho quý thầy đi”.

Đối với những hạng tu sĩ ma quái như Tế Điên Tăng và Phật sống Cựu Kim Sơn, hiện giờ có người vẫn còn tin đó là Phật sống và còn phổ biến kinh sách ca ngợi những hạng người này. Họ đâu biết rằng sự sống chết đau khổ của cuộc đời con người là do nhân quả, không thể có một Tế Điên Phật sống nào mà cứu họ được. Cho dù có một ngàn Tế Công cũng chẳng cứu họ được.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử! Đạo Phật là Đạo làm chủ thân tâm, chứ không phải là Đạo đi tìm sự an lạc tiêu cực trong cuộc sống hoặc đi tìm thần thông phép lạ. Hầu hết quý phật tử đến chùa tu tập theo đạo Phật là đi tìm dục lạc mới trong tôn giáo hoặc đi tìm sự an ủi tinh thần trong kinh điển vì cuộc sống ở thế gian quá khổ sở, quá cay nghiệt, quá phiền toái, hoặc đi tìm thế giới siêu hình để thoả mãn lòng mơ tưởng của mình. 

Chính vì thế, vô tình quý phật tử đã dùng tiền bạc sai quý thầy phục vụ tinh thần trong đời sống của quý vị. Quý vị cúng dường bố thí trai tăng là luôn luôn đòi hỏi quý thầy phải thuyết pháp giảng kinh hoặc cúng bái, cầu siêu, cầu an, coi bói xem tướng v.v... chứ không bao giờ quý vị đến cúng dường cho chư Tăng bằng một tấm lòng cầu mong quý thầy giữ gìn giới luật thanh tịnh để Tam Bảo được trường tồn.

Quý vị đến chùa là đến với sự trao đổi, chứ không phải đến với tâm giữ gìn Phật pháp. Còn riêng quý thầy, chư Tăng, Ni cũng vì vật chất tiền bạc tình cảm cuộc sống cho nên đã để Phật giáo bị đồng hóa theo phong tục tập quán của con người.

Từ đó quý thầy, quý cô đã sản xuất ra những loại kinh sách cúng bái, tụng niệm như ca hát giọng cao, giọng thấp, cúng vong, tiễn linh theo tiếng trống, tiếng kèn, tiếng mõ nhạc dập dìu du dương ảo não ru lòng người đam mê say thích. Tăng, Ni tụng niệm giống như đào kép hát tuồng, khiến cho tín đồ thích thú và còn bày vẽ ra nhiều điều mê tín lừa đảo tín đồ nữa.

Gần hết các tu sĩ này đều phạm giới, phá giới luật của Phật. Rồi cũng từ đó quý thầy biên soạn sản xuất ra những loại kinh sách để an ủi người phật tử khi đau ốm bệnh tật, khi sân hận thù oán, khi phiền não tái tê, khi ganh tỵ hơn thua và khi tử biệt phân ly.

Những kinh sách này không phải để tu hành làm chủ thân tâm giải thoát sanh tử, nó chỉ là nguồn an ủi tinh thần làm dịu bớt cơn buồn khổ. Nhờ đó mà quý thầy, quý cô mới tiêu thụ được món nợ trai tăng cúng dường của quí phật tử, hay nói cách khác là trao đổi.

Phải nói vì vật chất tiền bạc tình cảm và cuộc sống của quý thầy, quý cô mà đã biến quý thầy, quý cô trở thành những người phục dịch cho quý phật tử từ cái ăn cho đến cái đi chơi, và mọi sự của quý phật tử mà quý thầy và quý cô đều phải lo hết. Do đó quý thầy, quý cô phải thức thâu đêm dịch kinh viết sách cho quý phật tử đọc. Quý thầy, quý cô cũng nặng đầu bóp trán suy nghĩ tìm mọi cách tạo ra cây cảnh đẹp đẽ để cho phật tử du ngoạn thưởng thức. Như vậy còn thì giờ đâu mà quý thầy, quý cô tu hành.

Tu hành không phải là một việc dễ làm, phải thường hằng tập sửa những sự sai lầm nơi mình. Phải thường hằng gìn giữ giới luật nghiêm túc, cho nên không thể một sớm một chiều mà thành tựu được. Vì thế quý thầy đã trở thành những công nhân viên chức của quý phật tử mà không hề hay biết.

Kinh sách Phật được bày bán la liệt không có vẻ tôn nghiêm ngoài hè phố, ngoài lề đường và cũng vì thế mà người tu theo Phật giáo thời nay rất là hời hợt. Những giới luật của Phật giáo, con người thời đại ngày nay đã quên hết, chỉ còn biết làm danh làm lợi trên những đống kinh sách này.

Đem hết cuộc đời và công sức của mình, bỏ hết thì giờ quý báu, thay vì để tu tập giải thoát khỏi cảnh đời ô trược này thì quý thầy, quý cô lại chôn mình trong bùn lầy danh lợi hôi tanh, làm mất giá trị Pháp Bảo của Phật.

Quý thầy, quý cô nghiêm khắc mình trong giới luật, thực hiện thiền định sâu mầu là quý thầy, quý cô đã phổ biến Pháp Bảo quý báu nhất của Phật đến tận hang cùng ngõ hẻm của con người, chứ không phải việc in kinh, viết kinh sách bày bán khắp chợ là phổ biến Pháp Bảo. Đó là quý thầy, quý cô đã ném Pháp Bảo xuống bùn nhơ hôi thối.

22- CHÙA LÀ NƠI TU HÀNH

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Khi nghe chúng tôi nói đến đây, quý vị hãy suy ngẫm lại chứ đừng vội lên án chúng tôi.

Kính thưa quý vị! Kinh sách bày bán la liệt mà người tu bây giờ chẳng ra làm sao! Ngay chính bản thân của quý vị tu hành thì quý vị cũng tự biết lấy rất rõ ràng. Kinh sách Phật là để cho người tu tập giải thoát, chứ không phải để an ủi người đời. Bởi vậy, Phật giáo ngày nay không người tu chứng là vậy.

Nếu muốn tu giải thoát thì quý vị phải đến chùa tu hành hẳn hoi, chứ không phải đi lang thang chùa này, chùa khác để nghe thuyết pháp chơi. Vả lại chùa cũng chẳng phải là chỗ để cho quý vị đi chơi ngắm cảnh giải trí an ủi tinh thần.

Nếu quý vị muốn tu thì phải nghiêm chỉnh thực hành đúng như lời của Phật dạy và nghiêm khắc mình trong kỷ luật của nhà chùa, chứ không phải dùng tiền bạc cúng dường bố thí trai tăng rồi muốn sai sử quý thầy cách nào cũng được. Từ lâu quý vị đã dùng tiền bạc của mình để an ủi tinh thần mình mà biến Phật giáo thành Thần giáo, ông Phật thành ông Thần, và quý thầy trở thành công nhân viên của quý vị cư sĩ.

Một lần nữa chúng tôi xin nhắc lại, chùa là nơi để tu hành giải thoát chứ không phải chùa là nơi để quý vị nghỉ mát, nghỉ hè, làm việc mê tín, dị đoan. Chùa là nơi để cho Tăng, Ni tu tập giải thoát khỏi sự khổ đau của cuộc đời và chấm dứt tái sanh luân hồi, chứ không phải là trường học, trạm y tế, Tuệ Tĩnh đường, phòng thuốc từ thiện xã hội.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Quý vị đến chùa cốt là để học hỏi những lời vàng ngọc của Phật, để tu học giải thoát thân tâm, để vượt ra khỏi cảnh đời ô trược, chứ không phải đi tìm cái ăn, cái ở trong chùa, đi tìm cái được mạnh giỏi, đi tìm cái phù hộ, cái gia bị của đức Phật. Đó là những điều mê tín, phi đạo đức, đó là những điều sai không đúng của đạo Phật.

              Khi đến chùa quý vị đừng làm bận tâm những người tu hành ở đây, vì cái ăn cái mặc của quý vị.
              Khi đi đến chùa, quý vị đừng để người tu hành phục vụ quý vị mà mất phước.
              Khi đi đến chùa, quí vị đừng ăn mặc hở hang bày da hở thịt, mặc quần áo màu sắc rực rỡ bông hoa lòe loẹt.
              Khi đi đến chùa quý vị đừng thoa son đánh phấn như đi dự tiệc tùng đám cưới đám hỏi...
              Khi đi đến chùa quý vị đừng làm ồn náo cười nói, phải giữ mình có nết hạnh.

Khi đi đến chùa đừng nghĩ mình có xe hơi, xe gắn máy chạy đậu sát thềm chùa. Đó là tư cách thiếu đạo đức, quý vị cần sửa lại. Khi đi đến chùa quý vị phải đậu xe ở ngoài cổng, dắt xe vào phải cởi bỏ giày dép đi chân trần vào chùa và hết lòng cầu Pháp thì may ra quý vị mới hưởng được Pháp vị của đức Phật. Khi đến chùa quý vị đừng biến chùa thành cái chợ. Xưa vua A Xà Thế đến thăm đức Phật phải dừng xe ở đầu rừng rồi đi bộ đến gặp Phật.

Khi đi đến chùa đừng nghĩ rằng có tiền là có tất cả, đừng ỷ rằng mình có tiền quăng tiền ra là có đủ loại kinh sách và còn được ưu tiên nghe thuyết giảng các loại kinh, có biết đâu đó là những bài pháp đầu môi chót lưỡi, chính người thuyết pháp đó cũng chưa thực hành được. Những bài thuyết pháp đó thường bán rẻ mạt ở đầu đường xó chợ. Những bài thuyết pháp này quý vị có tu ngàn đời cũng chẳng ra gì. Pháp không cầu mà có là pháp giả, pháp không cầu mà bày bán la liệt là pháp không có giá trị tu hành. Pháp ấy là pháp danh, pháp lợi, chứ không phải chân pháp của đạo Phật.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Khi đi đến chùa Tăng, quý vị là nữ cư sĩ hoặc Ni cô thì quý vị nên đi từ hai người trở lên vào Tu viện nam. Là người cư sĩ nam hay chư Tăng khi đến chùa Ni hoặc tịnh thất của cư sĩ nữ thì quý vị phải đi từ hai người trở lên chứ không thể đi một người vào chỗ đó được. Khi đi vào chỗ tu hành quý vị không thể đi xông pha mà phải đi theo người hướng dẫn, nói chuyện nhẹ nhàng để giữ gìn sự thanh tịnh cho những người tu hành tại đó.

Khi cần gặp người quen thì nhờ người tiếp khách gọi hộ chứ không được tự động đến chỗ người thân ở. Người tu hành ở tại tu viện cũng không được đưa dắt người thân bạn bè đi tham quan làm động chúng tu hành. Đó là điều làm sai, xin quý vị lưu ý.

Người đang tu hành tại tu viện, ở đâu thì nên ở tại vị trí nấy mà lo tu hành, không được đi sang khu khác hoặc tự tiện đến thất người khác nói chuyện, hoặc đi kinh hành trước thất người khác làm người khác phóng dật không tu hành được là một tội rất nặng mà không thể tha thứ được, vì đó là tội phá sự tu hành của mình, của người khác. Tội ấy chỉ còn xin Thầy rời khỏi tu viện chứ không còn mặt mũi nào nhìn ai được. Cho nên vào tu viện là vào nơi tu hành thì nên tu hành, còn thấy mình tu không nổi thì xin về, đừng làm động người khác mà sẽ hối hận suốt đời.

 Một cư sĩ nữ hay một Ni cô khi đến chùa Tăng mà tự do đi lại thì phải biết đó là một người thiếu đức hạnh phải sửa lại. Ngược lại một cư sĩ nam hoặc một vị Tăng cũng vậy, không được ngang nhiên đi vào nơi tu hành tu sĩ nữ.

Vậy khi đến nơi tu hành xin quý vị lưu ý hãy cẩn trọng chớ xem thường chỗ tu hành như chỗ du lịch tham quan; chỗ ăn chơi hò hẹn. Một việc làm vô ý tức là gây ra tai hại cho mình cho người. Ở trong nhà chúng ta sống sao cũng được, nhưng chúng ta phải biết đó là những người thiếu đạo đức nhân cách, thiếu văn hóa lịch sự.

Ngược lại ra ngoài cũng phải tùy nơi tùy chỗ thì quý vị mới xứng đáng là đệ tử của Phật, đầy đủ tác phong phẩm chất đạo đức giải thoát của đạo Phật. Tám năm trời chúng tôi mở tu viện Chơn Như, chẳng tìm thấy một người cầu pháp chân thật, toàn là những người làm hao của đàn na thí chủ; làm những điều tồi tệ phá giới luật, cống cao ngã mạn, hiêu hiêu tự đắc coi mình là bực thầy, Tổ của thiên hạ. Xét lại họ chỉ toàn là những con mọt sách.

Tóm lại Tăng, Ni và phật tử đối với Phật pháp còn biết bao nhiêu điều sai trái nhưng không đủ thì giờ cho phép chúng tôi nêu ra đây hết được. Khi nào đủ duyên cô Diệu Quang mở khóa tu đạo đức giải thoát thì chúng tôi sẽ giảng dạy cho quý vị.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Chúng tôi biết rằng lời thật mất lòng, nhưng chúng tôi phải nói. Nói vì sự tồn vong của Phật giáo, dù biết rằng chúng tôi nói sẽ không có chùa để ở, không có cơm để ăn, không có y áo để mặc thì chúng tôi cũng vẫn phải nói. Nói để cảnh tỉnh Tăng, Ni và quý vị cư sĩ. Nói để quý vị sửa sai; nói để quý vị không bị đọa địa ngục ngay cảnh sống thế gian này; nói để cho quý vị hiểu Phật pháp đúng cách.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Quý vị phải hiểu chúng tôi nói ở đây không có ý phê phán chỉ trích ai hết. Ai muốn tu sao cũng được, chúng tôi chỉ biết nêu lên ở đây những ý nầy để quý vị đừng hiểu sai đạo Phật, đừng lầm đường lạc lối tu tập sai mục đích của đạo Phật mà uổng phí thì giờ quý báu của quý vị.

Kính thưa quý vị, chúng ta là những đệ tử của Phật mà không tu hành theo pháp môn của đạo Phật, lại đi tu hành theo pháp môn của các tôn giáo khác mà cứ tự nhìn nhận tu theo đạo Phật. Sự lầm lạc này khiến cho Phật giáo không có người tu chứng, không có người giải thoát thật sự.

Hiện giờ Phật giáo xem như bị mất gốc, chỉ còn cành lá mà thôi. Cho nên chúng tôi gióng lên tiếng chuông để cảnh tỉnh quý vị, để nhắc nhở quý vị, còn nghe hay không là quyền của quý vị. Chúng tôi chẳng có ý gì khác hơn. Tu đúng, tu sai là quý vị nhờ, chứ chúng tôi chẳng có ích lợi gì trong đó cả.

Chúng tôi chỉ mong quý vị tỉnh ngộ quay về với con đường chân chính của đạo Phật để có sự ích lợi thiết thực cụ thể hơn.

Những điều quý vị tu hành và những việc làm của quý vị đều tốt đều thiện, nhưng tốt và thiện đối với tôn giáo khác, còn đối với Phật giáo thì quý vị đã lầm lạc. Bởi quý vị đã không tu giới luật mà còn phá giới luật, làm những điều sai trái phạm vào giới luật, trong khi giới luật là ông thầy mà quý vị từ bỏ không chịu tu theo. Chúng tôi cũng không biết nói thế nào nữa cho đúng. Nếu đi tu mà không chịu nghe lời dạy, không chịu nương tựa vào ông thầy của mình thì quý vị sống với ai, tu tập cái gì?

Nếu chúng tôi tu tập giới luật, thiền định, trí tuệ của đạo Phật mà không có kết quả như ngày hôm nay thì chúng tôi cũng chẳng nói lên đây làm gì. Vì có kết quả quá rõ ràng. Cho nên chúng tôi cho nổi cơn sấm sét để quý vị tỉnh cơn mơ mộng trong các kinh sách thời nay, trong các pháp tu thời nay.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Quý vị hãy cùng chúng tôi sửa sai lại những gì quý vị đã từ lâu không biết, đã làm sai. Quý vị hãy chấm dứt, đừng vì lợi ích nhỏ mọn, ích kỷ cá nhân tầm thường mà làm tổn hại Phật pháp. Bấy lâu nay cũng vì hiểu sai Phật pháp, tu sai mà tưởng là bồi đắp xây dựng Phật pháp. Vì thế dầu quý vị có tìm khắp nơi trên thế giới cũng không tìm ra một bậc tu chứng.

               23- THẦY CHÚNG TÔI

Chúng tôi sẽ giải nghi cho quý vị về con đường Thiền Đông Độ. Chúng tôi biết rằng khi nói đến Thiền Đông Độ là chạm đến thầy chúng tôi. Song chúng tôi tin rằng thầy chúng tôi không phải là người tầm thường. Thầy chúng tôi luôn sáng suốt và thường để tâm theo dõi chúng tôi, sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi trên bước đường tu tập cũng như khai thác những kinh nghiệm gì mà chúng tôi đã gặt hái được kết quả lợi ích thiết thực và cụ thể của đạo Phật, để lấy đó phục hồi chấn hưng làm sáng tỏ Thiền Tông Việt Nam.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và phật tử!

Cách đây 14 năm, khi chúng tôi tu hành có kết quả về trình lại với Thầy và có ý xin Thầy cho phép chúng tôi nhập diệt bỏ báo thân nầy. Thầy chúng tôi không bằng lòng và khuyên bảo chúng tôi ở lại giúp Thầy chấn hưng Thiền Tông Việt Nam.

Chúng tôi nhận lời và ở lại giúp Thầy. Cho nên suốt 14 năm nay chúng tôi đã gặp bao nhiêu cay đắng phũ phàng và chịu nhiều gian khổ, chúng tôi cũng chẳng sờn lòng. Dù sông kia có thể cạn, núi kia có thể mòn, song lòng dạ chúng tôi không hề thay đổi. Nguyện đem đời tu hành của mình làm viên đá để Thầy chúng tôi xây dựng lại ngôi nhà Thiền Tông Việt Nam như ước vọng của Thầy chúng tôi.

Chúng tôi biết rằng Thầy chúng tôi không bao giờ cố chấp chịu khô cằn trong giáo điều Thiền Đông Độ và cũng không bao giờ chịu chết cứng trong giáo điều Thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Vì Thầy đã từng nói với chúng tôi: “Thầy trò hiểu nhau là hơn hết. Mặc dù Thầy chúng tôi nói với quý vị: chúng tôi tu lạc vào thiền ngoại đạo bị ngũ ấm ma, và còn nói với quý vị: chúng tôi chẳng hiểu Phật pháp. Chúng tôi tu theo Tiểu Thừa tiêu nha, bại chủng, chồi khô mộng lép hoặc nói chúng tôi khai trừ Thầy.

Những lời nói này quý vị không thể hiểu nổi Thầy chúng tôi đâu. Quý vị nên nhớ, nhờ có Thầy chúng tôi mà quý vị mới biết đến chúng tôi ngày nay.

Thầy chúng tôi đã tận tụy hy sinh cả đời mình vì Phật pháp. Tìm thấy cái gì hay trong kinh sách vội đem ra kêu chúng tôi về cho tu tập. Cho nên cuộc đời của Thầy chúng tôi nguyện đem hết sức mình lo cho Tăng, Ni và phật tử quá nhiều, luôn luôn lúc nào Thầy của chúng tôi cũng chịu cực khổ lo giảng kinh dạy đạo và còn dịch viết kinh sách thiền để cho quý vị không lầm đường tu hành.

Bởi vậy chúng tôi tin Thầy của chúng tôi hơn ai hết. Thầy nói điều gì về chúng tôi là nhắc nhở chúng tôi tránh những điều sai lầm. Như nói chúng tôi tu lạc vào thiền ngoại đạo là nhắc nhở chúng tôi kiểm tra lại đường lối tu hành của mình. Nói chúng tôi không hiểu kinh điển là bảo chúng tôi ôn cố lại kinh điển. Nói chúng tôi bị ngũ ấm ma là nói chúng tôi ý tứ từng lời nói và việc làm. Nói chúng tôi tiêu nha bại chủng là nói chúng tôi tận lực tu hành để trợ giúp Thầy chấn hưng Phật pháp làm Bồ Tát hạnh. Nói chúng tôi khai trừ Thầy là bảo chúng tôi gắn bó cùng Thầy để Thầy trò cùng nhau làm lợi ích chúng sinh.

Kính thưa quý vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ phật tử!

Những lời dạy bảo này là vì nguyên nhân Phật pháp hôm nay đã bị pha trộn đủ loại pháp môn tu hành. Người tu hành thường hay bị rơi vào ngũ ấm ma mà không hề hay biết, nên Thầy chúng tôi ngăn ngừa cảnh giác, nói thẳng về sự tu hành của chúng tôi để chúng tôi coi chừng lầm lạc.

Kính thưa quý vị, những lời nói này là những lời khuyên vàng ngọc của Thầy đối với chúng tôi. Những lời nói này làm cho chúng tôi cảm thấy rằng Thầy luôn lúc nào cũng ở bên mình dìu dắt chúng tôi từng bước đi không để chúng tôi bị ngã té trên đường tu học. Lòng thương yêu của Thầy chúng tôi không thể lấy trời biển núi non mà sánh được.

Kính thưa quý vị, tâm nguyện lớn lao hy sinh cả cuộc đời mình cho Phật pháp nên Thầy chúng tôi thường dạy bảo: “Một người tu chứng là Phật pháp thường còn”. Vì thế ngày nay đã biết bao nhiêu người thấm nhuần công đức của Thầy chúng tôi. Vì có hiểu Thầy như vậy nên chúng tôi không ngần ngại nói lên những điều mà chúng tôi đã thấy biết được để giúp Thầy chấn hưng Phật pháp và cũng để giúp quý vị tu hành không hoài công phí cuộc đời.

 

101-PHÁP TU DẪN TÂM VÀO ĐẠO. TL Thích Thông Lạc

PHÁP TU DẪN TÂM VÀO ĐẠO

Các con nên nhớ, câu tác ý là câu Dẫn Tâm Vào Đạo. Vậy đạo là cái gì? Đạo là chỗ thân tâm không còn đau khổ. Trả lời như vậy các con có hiểu chưa? Nếu các con chưa hiểu, thì nên xét nghiệm lại thân tâm các con hiện giờ, về tâm có giận hờn, buồn phiền, lo lắng, thương nhớ, sợ hãi hay không? Nếu không thì nó đang im lặng, thanh thản và vô sự đó; về thân các con có cảm nhận bệnh tật đau nhức chỗ nào không? Nếu không là nó đang an lạc và vô sự.

Như vậy, Đạo Giải Thoát là chỗ “thân tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự”. Cho nên, dẫn tâm vào đạo là dẫn tâm vào chỗ “Thân Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc Và Vô Sự”.

Ví dụ 1:

              1- Cậu bé - Cậu bé dụ như Các Con.
              2- Sợi dây - Sợi dây dụ như Câu Tác Ý.
              3- Con trâu - Con trâu dụ như “Thân Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc Và Vô Sự”.

              I. Khi các con Muốn Tác Ý, đó là cậu bé nắm lấy sợi dây cột con trâu.
              II. Khi các con Đang Tác Ý là cậu bé dắt trâu.
              III. Khi con trâu bước đi, là “Thân Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc Và Vô Sự”.

Ví dụ 2:

              1- Tác ý
              2- Ngón tay chỉ
              3- Mặt trăng sáng

I. Tác Ý: Bắt đầu vào tu tập, các con đã chọn chỗ nơi yên tịnh vắng vẻ, ngồi bán già hay kiết già, hay ngồi bất cứ trong tư thế nào nhưng lưng phải thẳng, không nên khòm lưng, cúp cổ hay nghiêng đầu, hoặc cúi đầu hay ngưỡn cổ. Đặc biệt, ngồi hay đi hay đứng, đầu, lưng không được cúi khòm, mà phải giữ gìn ngay thẳng.

Sau khi giữ gìn lưng ngay thẳng, thì các con để cho thân tâm yên lặng 1 phút, rồi mới tác ý rõ ràng từng chữ một như: “Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự”, khi tác ý xong, giữ tâm yên lặng, thì lúc bấy giờ tâm sẽ biết hơi thở ra vô một cách tự nhiên.

II. Ngón Tay Chỉ: Hơi thở ra vô là ngón tay chỉ mặt trăng. Cho nên, khi tác ý xong, mà tâm các con chỉ chú ý trong hơi thở thì có khác nào các con tu tập Định Niệm Hơi Thở, đó là tu tập sai. Các con tu tập như vậy là các con tu tập Định Niệm Hơi Thở, chứ không phải tu pháp Dẫn Tâm Vào Đạo. Dẫn tâm vào đạo là lúc bấy giờ các con Nương Vào Hơi Thở để biết Tâm Bất Động. Các con biết cách tu tập như thế này chưa?

III. Mặt Trăng: Mặt trăng chính là Tâm  Bất Động của các con. Như vậy, nương hơi thở để nhìn mặt trăng, chứ không phải chỉ biết có hơi thở ra vô; biết có hơi thở ra vô là tu tập sai pháp, không đúng pháp Dẫn Tâm, vì vậy vọng tưởng, hôn trầm thường đến thăm viếng các con.

Tất cả những sự trình bày của các con đều là tu sai pháp, tu pháp này lẫn sang pháp khác. Thật tội nghiệp cho các con quá!

Phải bền chí, kiên gan tu tập lại, đừng theo kiến giải của mình mà tu pháp này pháp khác. Nhất là tự kiến giải ra tu tập thì còn xa muôn dặm. Phải theo lời Phật dạy: Sống Trong Hạ Liệt Không Thể Chứng Đạt Cái Cao Thượng. “Này các thầy tỳ kheo! Không phải sống với cái hạ liệt có thể đạt cái cao thượng”. (Trang 57, Tương Ưng tập 2)

Như vậy, đức Phật đã xác định rõ ràng: Một người sống trong hạ liệt, mà muốn chứng trong cái cao thượng thì không thể nào chứng đạt được. Vậy sống trong hạ liệt là sống như thế nào?

Sống hạ liệt là sống chạy theo dục lạc thế gian, tâm còn đầy tham, sân, si, mạn, nghi; tâm chưa sống ly dục ly ác pháp, mỗi chút mỗi phiền não, giận hờn khổ đau; tâm còn ham muốn cái này cái kia. Hằng ngày tâm còn phóng dật thấy cái này cái kia. Thấy cái này cái kia tâm đều muốn nhìn, ngó, lưu ý, thì làm sao chứng đạt được cái cao thượng được.

Cho nên quý thầy, quý cô tu tập thì tốt, nhưng không chứng đạo là vì hay nhìn ngó ra ngoài. Tại sao quý thầy, quý cô không nhìn ngó vào thân tâm của mình, mà lại nhìn ngó ra ngoài? Nhìn ngó ra ngoài có ích lợi gì?

Khi quyết tâm tu tập để làm chủ sinh, già, bệnh, chết, thì hãy nhìn vào thân tâm của mình để làm chủ nó, nếu nó làm sai hay làm đúng thì chúng ta đều biết liền; biết sai thì ngăn chặn lại không làm theo; biết đúng thì tăng trưởng và làm theo cho thân tâm mỗi ngày một tốt hơn.

Nhờ chúng ta biết tập sống như vậy, nên từ chỗ sống hạ liệt trở thành sống thanh cao, còn nếu không biết sống như vậy, thì sống từ cái hạ liệt này sẽ mãi mãi sống trong cái hạ liệt khác. Cho nên, đức Phật mới dạy như vậy: “Sống trong hạ liệt không thể chứng đạt cái cao thượng”.  Dù chúng ta muốn tu chứng đạt giải thoát, mà cứ sống trong hạ liệt thì tu vô lượng kiếp cũng chẳng đi đến đâu.

Thầy dạy Pháp Dẫn Tâm Vào Đạo là pháp cao thượng, vì thế các con muốn chứng đạo phải sống cao thượng, thì mới tu tập không sai.

                                                                                                                                 Kính ghi
                                                                                                                         Thầy của các con.

102-TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI - TL Thích Thông Lạc

ĐẮC ĐẠO, ĐẮC PHÁP, ĐẮC QUẢ.

Hỏi 1: Muốn đắc đạo ngay trong kiếp sống này, thì cần phải hội đủ các yếu tố, điều kiện nhân duyên nào?

Đáp: Muốn đắc đạo ngay trong kiếp sống này, thì cần phải hội đủ các yếu tố, điều kiện nhân duyên như sau:

              1- Phải có ý chí dũng mãnh;
              2- Phải có nghị lực kiên cường;
              3- Phải bền lòng, không nản chí trước những khó khăn;
              4- Phải gan dạ, và nhất là phải có lòng tin nơi Phật, Pháp, Tăng tuyệt đối.

Khi hội đủ các yếu tố trên, dù có đứng trước cái chết con cũng không hề nao núng bỏ pháp, do đó, chỉ trong một kiếp này con đạt được đạo.

Hỏi 2: Đắc đạo và đắc pháp có cùng nghĩa với nhau không?

Đáp: Đắc đạo khác với đắc pháp, vì đắc đạo là thành tựu sự giải thoát toàn diện, còn đắc pháp thì mới đạt được từng phần của đạo. Cho nên đắc đạo, đắc pháp không giống nhau.

Ví dụ: Con học xong chương trình Tiểu học thì phải thi tốt nghiệp Tiểu học. Khi tốt nghiệp Tiểu học xong, con phải thi vào Trung học. Khi tốt nghiệp Trung học xong, con phải thi vào Đại học. Khi tốt nghiệp xong Đại học thì con mới hoàn thành kiến thức của chương trình giáo dục.

Đắc pháp cũng giống như thi tốt nghiệp của mỗi cấp. Cho nên mới thi tốt nghiệp cấp Tiểu học mà cho rằng học hết chương trình giáo dục là sai, không đúng được. Do đó, đắc pháp không thể gọi là đắc đạo được.

Pháp của Phật có tám lớp: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; và gồm có ba cấp: Giới, Định, Tuệ. Cho nên, học và tu tập xong lớp Chánh kiến thì mới đắc pháp lớp Chánh kiến. Đắc pháp lớp Chánh kiến thì không thể gọi là đắc đạo được. Đến đây có lẽ con đã hiểu rõ rồi chớ?

Hỏi 3:  Đắc Sơ Quả có giống Sơ Thiền không?

Đáp: Sơ Quả tức là Tu Đà Hoàn; Tu Đà Hoàn là quả Nhập Lưu; Nhập Lưu tức là vào dòng Thánh; vào dòng Thánh thì phải ly dục, ly ác pháp; mà đã ly dục, ly ác pháp thì nó tương đương với Sơ thiền. Cho nên kinh dạy: “Ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỷ lạc”. Vì vậy Sơ Quả tức là Sơ Thiền.

Do tu tập Sơ Thiền mới đắc được Sơ Quả, ngoài Sơ Thiền thì không bao giờ có Sơ Quả. Trong Sơ Thiền có trạng thái Sơ Thiền Thiên. Đó là trạng thái ly dục ly ác pháp.

Hỏi 4: Trong các tích chuyện của kho tang chân lý (Dammapada), có nhắc đến một cô gái nọ trẻ đẹp, giàu có. Khi gặp Phật nghe pháp đắc Sơ Quả, mà cô đã có chồng và con. Cũng một số gia đình gặp Phật, vợ hoặc chồng đều đắc quả như: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, v.v... mà qua Thầy dạy tiến trình tu tập để đạt Thánh quả phải sống nghiêm chỉnh giới luật... Đặc biệt,  phải đoạn trừ ái kiết sử và ngũ triền cái. Vậy những thành phần có gia đình mà đắc Thánh quả đó có mâu thuẫn với lộ trình tu tập không ạ?

Đáp: Trong các chuyện tích (tiền thân Đức Phật) người cư sĩ nghe pháp đắc Sơ Quả, đó là do sự kiết tập sai của các Tổ.

Người cư sĩ nghe pháp đắc pháp nhãn thanh tịnh thì có, chứ không thể đắc Sơ Quả được. Vì Sơ Quả là quả Thánh, không thể nghe xong bài pháp mà thành Thánh được. Vì tập khí con người quá nhiều, phải nhiệt tâm, nhiệt quyết tu tập hết sức mình mới quét sạch tập khí nhiều đời, chứ không phải là một việc dễ làm như trong chuyện tích nói. Các bạn lấy kinh nghiệm tu tập của mình thì biết rất rõ. Cho nên không thể nào tin một điều nói không thực tế.

Pháp Nhãn Thanh Tịnh là gì? Pháp nhãn thanh tịnh là một tên khác của Chánh Kiến; chánh kiến tức là cái thấy biết không làm khổ mình, khổ người; có nghĩa là cái thấy biết nhẫn nhục và xả tâm. Ở đời, người ta nhẫn nhục bằng cách chịu đựng, chứ không phải nhẫn nhục bằng cách xả tâm để ly dục, ly ác pháp. Do thấu suốt lý lẽ cuộc đời, biết nhẫn nhục mà xả tâm, vì thế mới gọi là pháp nhãn thanh tịnh.

Người còn Ái Kiết Sử, Ngũ Triền Cái mà vào dòng Thánh thì làm sao vào được! Có tương ưng chỗ nào đâu mà vào. Khi đọc kinh đến đây, thì con nên tư duy suy nghĩ rằng: những bài kinh này không phải là kinh của Phật thuyết, mà là kinh của Ma thuyết.

Hỏi 5: Thưa Thầy, các sư Nam tông dạy rằng: Nếu đắc Sơ Thiền (Tu Đà Hoàn) thì vẫn còn có gia đình chồng con, vợ con và được hưởng phước báo như chư Thiên, sung sướng đầy đủ, v.v... nhưng vẫn luân hồi tái sanh trong 7 kiếp, đến kiếp thứ 7 thì tu tập đắc quả A La Hán. Đúng thế không thưa Thầy?

Thưa Thầy tôn kính! Trôi lăn trong bao kiếp luân hồi, cũng như long đong, lao đao trong kiếp sống, nay được đến với Thầy, con tâm nguyện được thành tựu trên bước đường tu đạo. Đây là cơ hội và duyên lành của con. Nhưng con vẫn cảm thấy duyên và động lực chưa có thể thúc đẩy con. Con rất cần sự gia lực nơi Thầy!

Đáp: Con hãy tư duy, khi vào dòng Thánh thì làm sao còn Dâm Dục được, mà vẫn còn có gia đình chồng con, vợ con được? Còn Dâm Dục là còn có chồng con, vợ con; còn có chồng con, vợ con là còn phàm phu; còn phàm phu thì chỉ có chứng quả Hướng Lưu, nghĩa là mới hướng về Thánh quả, chứ chưa dự vào dòng Thánh (Nhập Lưu) được.

Giảng như các sư Nam tông là giảng theo chữ nghĩa kiến tưởng giải của tà kiến ngoại đạo, không đúng nghĩa của Phật dạy.

Nếu nói Phật dạy: “Chứng quả Tu Đà Hoàn còn phải bảy kiếp nữa mới chứng quả A La Hán”, lời dạy này cũng có ý đúng, nhưng chúng ta phải hiểu: Nếu một người nhập vào dòng Thánh (Tu Đà Hoàn) mà cứ giữ tâm ở tại trạng thái ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền này, để thọ hưởng cảnh giới Sơ Thiền Thiên, mà không chịu tiến lên tu tập nữa để chứng quả A La Hán, thì trạng thái này chỉ kéo dài được 7 kiếp. Trong thời gian 7 kiếp ấy, tâm không bị lui sụt thì người ấy đủ năng lực Bảy Giác Chi để nhập Tam Thiền, Tứ Thiền và thể hiện Tam Minh, chứng quả A La Hán.

Câu này còn có nghĩa là một người ly dục, ly bất thiện pháp, nhập Sơ Thiền suốt 7 ngày sẽ chứng quả A La Hán; nếu 7 ngày chưa chứng thì 7 tháng; nếu 7 tháng chưa chứng thì 7 năm. Còn nếu lui sụt lại làm người, và làm người thì có chồng con, vợ con như những người khác là một sự thường tình của thế gian. Lúc bấy giờ không còn nhập vào dòng Thánh nữa. Nhập vào dòng Thánh tức là Thánh, mà Thánh sao lại có chồng con, vợ con giống như người thế tục vậy???!!!

Cho nên, vì những điều trên đây, mọi người chưa tu chứng quả A La Hán thì nên im lặnh như Thánh, không được giảng thuyết, làm sai ý Phật, khiến cho Phật giáo suy đồi, và như thế thì Phật giáo sẽ mất gốc, thì tội ấy về ai các bạn có biết không?

Khi nào giữ hạnh độc cư trọn vẹn, thì con đường tu tập mới đủ mọi động lực tiến tới chứng đạo. Nhưng giữ gìn độc cư thường bị hôn trầm, thuỳ miên, vô ký và loạn tưởng tấn công; nó là những tên giặc cứng đầu nhất, cần phải lưu ý để diệt trừ cho bằng được.

Khi giữ hạnh Độc Cư thì Hôn Trầm, Thuỳ Miên, Loạn Tưởng và còn bao nhiêu ác pháp cản trở sẽ tấn công tới tấp, khiến cho con đường tu tập của các bạn sẽ gặp nhiều khó khăn. Do sự khó khăn đó, các bạn thiếu ý chí sẽ bỏ cuộc tu hành. Và như vậy sẽ lỡ dở, đời chẳng ra đời; đạo chẳng ra đạo.

               Chúc con tu tập xả tâm tốt, nhớ xả tâm kỹ, chóng đạt thành sự giải thoát.
               Thầy của con

TRÁI ĐẤT, SỰ SỐNG VÀ THỜI GIAN

              Hỏi 1: Kính thưa Thầy, ngoài trái đất ra, trong vũ trụ còn có sự sống nào khác không?

Đáp: Trong vũ trụ mênh mông vô tận như thế này, mà chỉ có một hành tinh sống như trái đất thì thật là không có. Nếu nói có mà mọi người chưa ai biết, thì mọi người có cho mình nói dối không? Vì nói như vậy có ai tin không? Nói mà không có ai tin là nói dối. Nếu tin mà không biết là mê tín.

Một khi chúng ta tin một điều gì thì chúng ta phải biết điều đó rất rõ ràng. Một người trí thức không cho phép họ tin một cách mơ hồ; tin một cách mơ hồ là mê tín. Như hiện giờ, có một số nhà tri thức Việt Nam của chúng ta tin mơ hồ, như họ đang tin tánh nghe, tánh thấy, tánh biết là Phật tánh, điều này có mơ hồ hay không? Có. Kinh Đại thừa dạy rằng: “Tánh nghe, tánh thấy, tánh biết thường hằng”. Vậy khi ta ngủ say, tánh nghe, tánh thấy, tánh biết có thường hằng không?

Tánh nghe, tánh thấy và tánh biết, v.v... là sáu thức trong thân tứ đại của chúng ta, khi tứ đại tan rã thì tánh nghe, tánh thấy, tánh biết cũng tan biến theo, không còn nghe, thấy, biết, như trong giấc ngủ của chúng ta, cho nên tin như vậy là mê tín. Người nói chân thật là người nói một điều gì mà mọi người đều phải nhận biết điều đó rõ ràng. Biết rõ ràng mà tin là chánh tín, tin mà không biết rõ ràng là mê tín như đã nói ở trên.

Điều có thật, nói ra mà mọi người không biết thì nói làm chi, nói như nói láo. Phải không hỡi cháu? Nói ra điều gì mà mọi người nghe, thấy, biết rõ ràng thì mình nói, còn ngược lại, mọi người không nghe, thấy, biết thì không nên nói.

Hỏi 2: Các nhà khoa học cho rằng: “Trái đất thành hình cách đây 5 triệu năm, mặt trời thành hình cách đây 6 tỷ năm. Có đúng không?

Đáp: Căn cứ vào những dụng cụ tối tân của khoa học để đo đạc, các nhà khoa học xác định thời gian trái đất và mặt trời mà mọi người còn nghi ngờ, thì phỏng như Thầy xác định bằng trí tuệ siêu thời gian của trái đất và mặt trời, thì có ai tin không?

Cho nên Thầy nói: “Nói cái gì người ta nghe, thấy, biết được rõ ràng thì hãy nói; còn nói mà không ai thấy nghe, biết, rõ ràng mà nói, là có nói láo; nói phải có bằng chứng cụ thể, còn không thì nhất định không nói”.

Hỏi 3: Đến một lúc nào đó, mặt trời cháy hết nhiên liệu, tắt đi, thì cuộc sống trên trái đất có còn tồn tại không? Tất cả chúng sanh trên trái đất sẽ đi về đâu?

Đáp: Các nhà khoa học rất thiển cận, chỉ biết đi tìm nguyên nhân diệt của mặt trời và trái đất, mà không biết đi tìm nguyên nhân sinh của nó, vì thế mới đoán mò, cho rằng: “Đến một lúc nào đó mặt trời đốt hết nhiên liệu tắt đi...”. Đành rằng các pháp đều vô thường do nghiệp báo nhân quả luân hồi sinh diệt, thì mặt trời và trái đất cũng là pháp vô thường, nhưng sự vô thường ấy đối với sự hiểu biết còn bị hạn cuộc trong không gian và thời gian. Nếu vượt ra ngoài không gian và thời gian, thì sự vô thường sinh diệt ấy không còn nữa, mà là một chuỗi nối tiếp của nhân quả.

Các nhà khoa học không tự hỏi: “Trước khi chưa có mặt trời và trái đất, thì cái gì sanh ra mặt trời và trái đất?” Trong vấn đề này, văn minh cổ đại và các tôn giáo có nói đến, nhưng lại nói trong tưởng tri, thành ra không đúng sự thật. Chỉ có Phật giáo là không đả động đến vấn đề này, nhưng Phật giáo biết rất rõ. Nếu biết nguyên nhân sinh ra mặt trời và trái đất, thì các nhà khoa học không còn lo sợ mặt trời cháy hết nguyên liệu, sẽ bị tiêu diệt và ảnh hưởng sự sống còn trên trái đất. Vì nguyên liệu đốt cháy của mặt trời sẽ không bao giờ cạn, do sự sinh diệt tuần hoàn từ nơi những từ trường trong không gian sinh ra.

Chúng ta nên biết, trong không gian vũ trụ do các từ trường hợp tan, tan hợp mà sinh ra các tinh tú, hành tinh, định tinh, v.v... Các từ trường ấy luôn luôn sinh diệt không bao giờ dứt, cũng giống như các nhà máy sản xuất nhu yếu phẩm. Sản xuất và tiêu thụ tức là sinh diệt.

Hiểu được luật sinh diệt của từ trường vũ trụ, thì không có sự đốt cháy hết nguyên liệu của mặt trời. Nếu người ta biết được như vậy thì không có ngày tận thế. Do không biết như vậy, nên có một số tôn giáo tưởng và các chiêm tinh gia mới tuyên bố năm 2000 là năm tận thế. Nhưng nay đã đến năm 2002 và sắp đến năm 2003, mà có thấy tận diệt đâu. Phải không hỡi cháu?

Nếu mặt trời và trái đất có tận diệt là do con người. Con người mà mãi chạy theo vật chất, không biết buông xả, làm những điều ác khổ mình, khổ người khổ chúng sanh, những hành động ấy sẽ thải ra những từ trường ác làm ô nhiễm môi trường sống, thì lúc bấy giờ mới là tận diệt.

Cho nên, chuyện tận diệt chúng ta đừng lo, mà hãy lo giữ gìn môi trường sống thanh tịnh; thanh tịnh ở đây phải hiểu là con người sống có đạo đức.  Sống có đạo đức thì phóng ra từ trường thiện; từ trường thiện sẽ làm cho môi trường sống thanh tịnh. Môi trường sống thanh tịnh thì làm gì mặt trời cháy hết nhiên liệu. Nếu mặt trời tắt đi thì cuộc sống trên hành tinh này làm sao còn tồn tại được. Đó là một định luật trong sự liên hệ giữa mặt trời và trái đất không thể tách lìa ra được. Mặt trời tắt thì quỹ đạo trái đất không còn nữa. Chỉ cần trái đất đứng lại trong năm, mười phút thì sự sống trên hành tinh này không còn nữa. Sự sống trên hành tinh này không còn nữa thì cháu hỏi tất cả chúng sanh đi về đâu?

Con người từ nhân quả sinh ra, sống trong nhân quả, chết cũng về nhân quả. Nhưng nhân quả không có không gian và thời gian thì con người có đi về đâu, mà chỉ có sinh diệt mãi mãi theo hướng luân hồi nhân quả. Nhưng chúng ta đừng hiểu sinh diệt nhân quả là sự mất còn, mà phải hiểu là một sự nối tiếp của nhân quả liên tục.

Hỏi 4: Những người tu hành sau khi chứng quả và khi nhập diệt, họ còn có biết những gì đang diễn ra trên trái đất này không?

Đáp: Người tu chứng là người đang sống trong tâm bất động; tâm bất động là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Khi ở trong trạng thái đó, chúng ta có biết mọi sự đang diễn biến quanh ta không?

Cháu cứ thử xem, hãy giữ gìn Tâm Bất Động, tức là trong trạng thái Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự, thì mọi sự đang diễn biến quanh cháu, cháu sẽ thấy biết rất rõ ràng, và còn biết rõ ràng hơn những người khác.

Theo cháu nghĩ: người tu chứng cũng như người nhập Niết bàn thì không còn biết những gì đang diễn biến xảy ra trên trái đất. Không đâu cháu ạ! Người tu chứng cũng như người nhập Niết bàn đều ở trong trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự cũng như cháu đang giữ vậy, nhưng lại khác hơn nhiều. Cháu thì cảm giác thân tâm nặng nề, còn bị chi phối trong không gian và thời gian. Còn người tu chứng cũng ở trong trạng thái đó mà thân thì khinh an nhẹ nhàng, tâm thì hân hoan hỷ lạc, không gian và thời gian không chi phối họ được.

Vì thế họ biết rất rõ, không những sự diễn biến quanh họ, mà còn bất cứ thời gian nào và nơi nào, không những trên hành tinh này mà cả vũ trụ không gian nữa.

Hỏi 5: Họ có biết trước những điều gì xảy ra với con người, như một số nhà chiêm tinh học không?

Đáp: Họ là người đã biết rất rõ sự hoạt động của nhân quả, vì nhân quả không có không gian và thời gian, nên thời gian quá khứ và tương lai của mọi người làm sao mà họ chẳng biết; họ biết rõ như thấy chỉ lòng bàn tay của họ vậy. Nhưng họ không muốn mình là thầy bói, nhà chiêm tinh, vì danh lợi họ đã lìa xa.

Hỏi 6: Thời gian lâu vô hạn, nên mỗi chúng sanh sẽ tiến dần về cõi Phật, như thế sẽ tồn tại một thời điểm và tất cả chúng sanh đều tu thành Phật (dù có thể vô cùng lâu). Thưa Thầy, liệu có thời điểm như thế không? Lúc đó, cuộc sống trong vũ trụ sẽ như thế nào?

Đáp: Cháu không hiểu về từ trường môi trường sống, nên mới có câu hỏi như vậy. Vì còn có những từ trường môi trường sống là còn có chúng sanh; còn có chúng sanh thì làm sao thành Phật hết được. Dù cho thời gian có lâu xa, xa lơ, xa lắc vô cùng tận, khi mà từ trường môi trường sống còn thì không có gì thay đổi cả. Nghĩa là chúng sanh từ trong nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả, chết về nhân quả, và cứ như vậy tiếp tục mãi mãi nên gọi là luân hồi. Câu nói trên đây có nghĩa là chúng sanh từ môi trường sống sinh ra, từ đó sống trong môi trường sống và chết thì lại về với môi trường sống. 

Nhờ biết nguyên nhân sinh ra con người là môi trường sống như vậy, môi trường sống còn là con người còn, môi trường sống mất là con người mất. Vì thế, chúng sanh không có đấng hóa nào tạo ra cả. Môi trường sống là cha mẹ của chúng sanh. Môi trường sống là nơi tạo tác của những từ trường nhân quả. Khi môi trường sống hết, thì từ trường nhân quả cũng hết. Nhưng làm sao môi trường sống hết được, khi nhân quả của môi trường sống là nhà máy sản xuất từ trường?

Cho nên, hành tinh có thể tan hoại chỗ này, nhưng từ trường môi trường sống không bị tan hoại, vì thế nó lại kết hợp chỗ khác tạo thành hành tinh mới. Nhờ thế, chúng ta biết hành tinh có thể tan hoại vì nó có sắc tướng, cái gì có sắc tướng là có vô thường, có vô thường là có tan hoại. Từ trường nhân quả không tan hoại, nên hành tinh tụ tán liên tục không hề dứt. Luật nhân quả cũng theo đó mà chi phối và phóng xuất từ trường.

Hiện giờ, chúng ta thấy có sự thay đổi thời tiết nắng, mưa, gió, bão bất thường, lũ lụt, động đất, đất sụp, núi lở là những hiện tượng rất bình thường của môi trường sống theo luật nhân quả, chứ có gì mà gọi là tận thế. Phải không hỡi cháu?

Nếu có thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt, chiến tranh, v.v... là do từ trường nhân quả ác trong môi trường sống tạo ra. Còn nếu như mưa, gió thuận hòa, bão tố, lũ lụt, thiên tai, động đất không có, v.v... cũng là do từ trường nhân quả thiện trong môi trường sống mà có.

Cho nên, những câu hỏi của cháu là những câu hỏi mò trong tưởng.

             Thăm và chúc cháu mạnh khỏe, học tập tốt.
                                                                                                                   Kính thư
                                                                                                             Thầy của cháu.

VƯỢT QUA NHÂN QUẢ,
LÀM CHỦ NHÂN QUẢ, CHẤP NHẬN NHÂN QUẢ

Thầy sẵn sàng trả lời những câu hỏi của các con, và minh họa những câu chuyện khiến cho câu trả lời trở thành phong phú những hành động nhân quả thiết thực, cụ thể hơn. Trước tiên, Thầy xin trả lời những câu hỏi của Kim Quang.

Hỏi 1: Đức vượt qua nhân quả, đức làm chủ nhân quả, đức chấp nhận nhân quả, ba đức này có nghĩa là gì? Và có sự khác nhau như thế nào?

Đáp: Ba đức này có nghĩa khác nhau.

I- Đức Vượt Qua Nhân Quả có nghĩa là nhân quả đến mà không tác động được thân tâm của chúng ta. Ví dụ, có người mắng chửi chúng ta, chúng ta nghe thấy biết rất rõ ràng, nhưng tâm chúng ta không có chút sân giận, và cũng không phân bua trái phải với người ta, thường sẵn sang giúp đỡ người mắng chửi mình khi họ gặp nhân quả xấu. Dưới đây là một câu chuyện vượt qua nhân quả:  

Hạt Giống Luộc Chín

“Ngày xưa, tại một vương quốc nọ, có một vị vua anh minh luôn được mọi người yêu mến. Ngài luôn buồn rầu vì tuổi đã cao mà chưa có con để truyền ngôi. Một hôm, vua nói với các quần thần: “Ta phải đích thân đi tìm một đứa trẻ thật thà làm con nuôi để sau này có người kế vị”. Thế rồi vua truyền lệnh, phát cho những đứa trẻ trong toàn vương quốc một số hạt giống và tuyên bố: “Nếu ai trồng được một chậu hoa đẹp nhất từ những hạt giống này, người đó sẽ được thừa kế ngôi báu”.

Tất cả trẻ con đều hăm hở đem hạt giống về trồng, ngày đêm chăm sóc. Trong số đó, có một cậu bé cũng chăm chỉ chăm sóc cho hạt giống, nhưng mãi không thấy hạt giống nảy mầm. Cậu còn thay cả đất trong chậu, nhưng vẫn không thấy kết quả.

Ngày dâng hoa cho vua xem đã đến, tất cả mọi đứa trẻ đều mang những chậu hoa rực rỡ của mình tới trước cung điện; vua đi xem khắp một lượt, nhưng trên nét mặt không hề có chút vui tươi. Bỗng, vua nhìn thấy lẫn trong đám đông, có một đứa trẻ tay bưng một chiếc chậu không, với nét mặt buồn thiu. Vua lại gần hỏi vì sao, thì cậu bé òa khóc lên, và kể lại cho vua nghe việc mình trồng hoa như thế nào mà hạt giống không nảy mầm. Cậu còn nói, đây có thể là sự trừng phạt vì cậu đã từng ăn trộm táo ở vườn nhà người láng giềng.

Nhà vua nghe xong rất đỗi vui mừng. Ngài kéo cậu bé vào lòng và nói: “Đây chính là cậu bé thật thà của ta”. Mọi người thấy vậy, ngạc nhiên hỏi: “Tại sao nhà vua lại chọn một đứa trẻ đưa chậu hoa không tới để kế thừa ngai vàng vậy?”.

Nhà vua mỉm cười đáp: “Hạt hoa giống ta giao cho mỗi đứa trẻ đều là những hạt giống bị luộc chín”. Nghe xong lời của nhà vua, những cậu bé bưng trên tay những chậu hoa rực rỡ đều xấu hổ, mặt đỏ và cúi đầu im lặng”.

Câu chuyện trên đây chỉ cho chúng ta vượt qua nhân quả; vượt qua nhân quả chỉ có Lòng Thành Thật mà thôi. Câu chuyện trên đây tuy đơn sơ, nhưng rất thấm thía cho cuộc đời, vì con người thường hay phạm vào lỗi lầm này. Theo đức Phật dạy: “Nhân quả chỉ có vượt qua”, mà vượt qua nó bằng Đức Thành Thật. Cho nên, mình làm điều gì ác hay thiện, chỉ có đức thành thật thì sẽ vượt qua mọi nhân quả ác, thiện. Quý vị nên nhớ lời này mà Phật đã dạy: “Đứng lại thì chìm xuống. Tiến tới thì trôi dạt. Chỉ có vượt qua”.

II- Đức Làm Chủ Nhân Quả có nghĩa là từ hành động thân, miệng, ý của mình, trước khi làm hay nói chúng ta đều có sự suy tư tính toán mỗi hành động không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, rồi mới nói hay làm. Đó là cách thức làm chủ nhân quả.

Làm chủ nhân quả tức là làm lợi ích cho người khác, vì thế ai cũng làm như vậy là đã làm chuyển đổi nhân quả ác trở thành nhân quả thiện; từ cảnh giới Địa ngục để trở thành cảnh giới Thiên đàng, chỉ có hành động làm lợi ích cho người, đừng vì lợi ích cho mình. Đây là một câu chuyện làm chủ nhân quả:

Thiên Đàng Và Địa Ngục

“Có một người đi tham quan Thiên đàng và Địa ngục. Trước tiên anh ta tới Địa ngục. Ở đó, anh ta thấy một cảnh tượng lạ lùng: Trước mắt mọi người có rất nhiều món ăn ngon, nhưng không ai ăn được. Cho dù họ ngồi bên bàn rượu, nhưng người nào cũng còn da bọc xương, mặt mày ủ rũ. Anh lại phát hiện ở cánh tay phải mỗi người buộc một cái đĩa, cánh tay trái buộc một con dao, chuôi dao và đĩa dài độ 4 tấc, làm cho họ không thể nào ăn được, vì vậy mà ai cũng bị đói.

Tiếp đó anh ta lại đến Thiên đàng. Cảnh tượng ở đây cũng chẳng có gì khác, chuôi dao và đĩa cũng dài 4 tấc, nhưng những cư dân Thiên đàng đều ca hát, nói cười vui vẻ. Anh ta nghi hoặc, nhưng cuối cùng cũng tìm ra được câu trả lời. Đó là ở Địa ngục mọi người đều muốn gắp cho mình ăn, vì thế mà không ai ăn được, còn ở Thiên đàng thì mọi người đều gắp cho người đối diện với mình, và cũng được người đối diện gắp lại, vì vậy mọi người cùng giúp đỡ lẫn nhau, nên ai nấy đều có thể ăn uống rất vui vẻ”.

Đọc câu chuyện này, quý vị nghĩ sao về nhân quả? Nếu mọi người hiểu biết về nhân quả thì nên sống vì mọi người; sống vì mọi người thì cuộc sống của chúng ta là Thiên đàng quí vị ạ! Sống vì mọi người rất hạnh phúc. Tại sao vậy? Vì mọi người có an vui thì sự an vui của mình mới lâu dài.

Nhìn lại cuộc sống của chúng ta hiện giờ như thế nào? Hầu hết mọi người chỉ biết nói nhân quả, nhưng chưa thật sống với nhân quả. Cho nên, cuộc sống của loài người trên thế gian là Địa ngục, vì con người chỉ biết sống vì mình, chớ không vì người, vì vậy mà sự xung đột và chiến tranh thường xảy ra khắp trên thế giới không nước này thì nước khác. Đó là sống phi nhân quả nên loài người phải chịu mọi khổ đau, cũng chính nhân quả mình làm m.nh chịu.

III- Đức Chấp Nhận Nhân Quả có nghĩa là biết Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng dù bất cứ một nhân quả nào xảy đến. Đức chấp nhận nhân quả thì phải dùng cả ba đức này thì mới gọi là chấp nhận nhân quả, thiếu một đức thì không thành đức chấp nhận nhân quả. Đây là một câu chuyện nói về đức chấp nhận nhân quả:

“Có một người đánh cá bắt được một con rùa biển. Ông ta đối xử với nó như con của mình. Thế nhưng con rùa biển không ăn, không uống và cũng không lay động. Lúc nào nước mắt nó cũng giàn giụa. Con rùa van xin người đánh cá và nói: “Trái tim tôi ở biển cả, nơi đó có nhà của tôi, có niềm vui của tôi, xin ông hãy thả tôi ra”. Nhưng người đánh cá không thể thả nó được, bởi vì ông rất yêu nó. Một thời gian sau, thấy con rùa yêu quý của mình ngày càng tiều tụy, người đánh cá rất đau lòng và quyết định thả nó về với biển.

            Một năm sau, vào một ngày nọ, bỗng nhiên ông ta nghe có tiếng gõ cửa. Mở cửa ra, ông thấy đó chính là con rùa mà ông đã thả.
             Người đánh cá liền hỏi: “Con đã có hạnh phúc rồi, sao lại còn trở lại đây làm gì?”
             Con rùa liền đáp: “Hạnh phúc của tôi là do ông mang lại, tôi không thể quên được ơn đó”.
           Người đánh cá nói: “Thôi, con đi đi, chỉ cần con hạnh phúc là được rồi, từ nay về sau không cần phải đến thăm ông nữa”.
Con rùa biển lưu luyến không muốn rời xa ông. Và một tháng sau, người đánh cá lại thấy con rùa biển quay lại”.

Đức chấp nhận nhân quả tức là Lòng Yêu Thương. Ở đâu có lòng yêu thương là ở đó có sự chấp nhận nhân quả. Cho nên, chúng ta chấp nhận nhân quả là vì chúng ta yêu thương mình, yêu thương người, yêu thương tất cả chúng sinh, và ngay cả hoàn cảnh xảy ra chúng ta vẫn yêu thương.

Hỏi 2: Đức vượt qua nhân quả có phải là đức làm chủ nhân quả hay không?

Đáp: Không, đức vượt qua nhân quả và đức làm chủ nhân quả Thầy đã giảng ở trên, nó không phải là một đức. Để Thầy chứng minh thêm đức Vượt Qua Nhân Quả bằng một câu chuyện buông xả:

“Thổ dân Phi châu có một tuyệt chiêu vô cùng thông minh khi đi săn khỉ đầu chó. Họ để thức ăn mà nó thích, đặt vào miệng một cái bình lớn, và cố ý để cho khỉ đầu chó núp ở chỗ xa nhìn thấy. Khi họ đi xa rồi, thì khỉ đầu chó vui mừng nhảy tới, dùng tay thò vào bình, quặp lấy thức ăn. Nhưng do miệng bình rất nhỏ, khi tay của nó nắm thành nắm thì rất khó rút ra, lúc bấy giờ, người thợ săn chỉ việc bình tĩnh đến bắt con vật, mà không lo nó bỏ chạy. Do khỉ đầu chó không thể bỏ thức ăn khoái khẩu của mình, nên càng sợ hãi và vội vàng nắm chặt lấy thức ăn, và càng không thể rút tay ra khỏi miệng bình.

Có người nghe câu chuyện liền thốt lên: “Thật là tuyệt diệu”. Chiêu này tuyệt ở chỗ con người đem tâm lý của mình suy xét tới các loài động vật khác. Kỳ thật, con khỉ đầu chó chỉ cần buông tay ra là nó có thể thoát, thế nhưng nó lại nhất định không chịu buông tay ra. Chính điều này cho thấy rằng con khỉ đầu chó giống con người, cũng có thể nói người giống khỉ đầu chó. Cử chỉ của khỉ đầu chó là một bản năng không ý thức, không rời được nó, mà con người nếu như giống khỉ đầu chó chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. Chết không buông tay, đó chỉ có thể trách họ u mê không tỉnh ngộ.

Người xưa nói: “Lùi một bước trời cao biển rộng”. Người thất tình chỉ cần chấp nhận quên người đã bỏ mình, thì đâu đến nổi làm cho bản thân hồn siêu phách lạc, lòng dạ băng giá! Người thất nghiệp chỉ cần từ bỏ cách lựa chọn nghề cứng nhắc của mình mà thay đổi, thì đâu đến nỗi suốt ngày ủ rủ, trách trời trách người đây! Con bạc chỉ cần buông tha ý nghĩ may rủi, thì đâu đến nỗi tiền đi không trở lại, khuynh gia bại sản! Con nghiện chỉ cần tránh xa chất gây nghiện, thì đâu đến nỗi thân tàn ma dại! Người hối lộ, người phá kỷ cương chỉ cần chấp nhận từ bỏ chữ “tiền”, thì đâu đến nỗi phải vào tù, thậm chí mất mạng!”.

Câu chuyện trên đây để xác định được đức vượt qua nhân quả bằng đức Buông Xả; nhờ có buông xả mà Vượt Qua Nhân Quả. Bản chất con người không buông xả; do không buông xả mà con người phải chịu vô cùng khổ đau.

Tất cả các pháp đều vô thường, nên chúng là khổ đau, vì thế ai biết buông xả là người thoát khổ, còn ai không biết buông xả thì khổ đau không bao giờ dứt. Người tu theo Phật giáo cũng chỉ có việc buông xả mà chứng đạo.

Con người ở đời rất là u mê, chết không mang theo vật gì, vậy mà sống thì ôm đồm, không dám buông xả, cứ khư khư giữ chặt, cho nên chịu khổ là phải. Vậy mà ở đây có người tu hành lại phóng dật thưa hỏi lung tung. Sao không biết buông xả xuống đi, để thân tâm được giải thoát trong trạng thái tâm bất động; chỉ được im lặng có một chút xíu là thưa hỏi Thầy lăng xăng, đó không phải là Phóng Dật sao?

               Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!
               Chớ giữ làm chi, có ích gì?
               Thở ra chẳng lại, còn chi nữa?
               Vạn sự vô thường, buông xuống đi!

Bốn câu kệ này là lời nhắc nhở mọi người tu hành cần phải buông xả, thế mà quý vị có buông xả đâu, cứ thưa hỏi điều này thế kia để huân tập thêm sự hiểu biết; sự hiểu chỉ là cái tủ đựng kinh sách rỗng tuếch, chẳng có ích lợi gì.

Sợ các con không biết buông xả, cho nên Thầy dạy thêm một bài kệ nữa nói lên phương pháp tu tập, nhưng nào ngờ các con có tu tập chỗ nào đâu, cứ phóng dật lung tung, thưa hỏi những đều vơ vẩn. Nên ngậm im miệng lại, để nó mốc meo thì may ra mới chứng đạo. Nếu thấy tu không được, tâm phóng dật thì nên về trông nom con cháu, nhà cửa còn có lợi ích hơn.

               Tác ý đi, hãy tác ý đi!
               Bất động, thanh thản, chẳng sầu bi.
               Tác ý đi, còn lo chi nữa?
               Giải thoát đây rồi, tác ý đi!

Buông xuống tất cả các pháp tức là vượt qua. Xin các con hãy nhớ ghi khắc trong lòng mà cố gắng tu tập buông xả, đừng nên mượn cớ này cớ khác để hỏi Thầy. Đó là các con đã bị tâm mình lừa gạt phá hạnh độc cư, để thỏa mãn tâm phóng dật.

Một lần nữa Thầy xin nhắc lại, các con Buông Xuống Tất Cả thì ngay liền tâm Bất Động; đó là giải thoát của Phật giáo. Bất động là Vượt Qua Nhân Quả, các con có hiểu chưa?

KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI

Hỏi: Kính bạch Thầy, Thầy dạy không làm khổ mình, khổ người, nhưng trong cuộc sống tương quan hằng ngày, con thấy khó mà giữ cho tuyệt đối và trọn vẹn. Ví dụ:

              1- Một bà mẹ vì thương con, thấy con làm sai, lầm lỗi, nên phải la rầy, đánh dạy. Đứa con bị la rầy, đánh dạy nên buồn phiền đau khổ.
              2- Một cậu trai yêu một cô gái. Cô gái không yêu đáp lại. Cậu trai đau khổ, buồn phiền.
              3- Anh B sai. Anh A dùng lời ngay thẳng để khuyên nhắc anh B. Anh B tự ái rồi giận khổ, buồn phiền.

Kính bạch Thầy, những chuyện này có nằm trong “khổ mình, khổ người” không? Con thấy hầu như tất cả mọi người ai cũng đều có cái khổ; khổ do họ làm hoặc người khác vô tình hay cố ý làm. Như vậy làm sao cho sự “không làm khổ mình, khổ người” được trọn vẹn?

Đáp: Để trả lời câu hỏi này, tức là trả lời ba ví dụ con đã nêu.

1- Để trả lời ví dụ thứ nhất: Chỉ vì con người chưa học đạo đức làm người, nên thường làm khổ mình, khổ người. Trong cuộc sống chung của con người mà không có đạo đức, thì con người vô tình đã tự làm khổ đau cho nhau mà còn đổ thừa tại người khác, chứ không phải tại mình.

Một người mẹ vì thương con, thấy con làm sai, lầm lỗi, nên tức giận la rầy, đánh con, làm cho đứa con khổ đau. Đó là người mẹ không học đạo đức làm người, nên “đặt tình thương không đúng chỗ”. Đặt tình thương không đúng chỗ, khiến cho mẹ con cách biệt nhau; con làm điều gì đều giấu mẹ, vì sợ mẹ la rầy, đánh, mắng. Đến khi đứa con nghiện ngập xì ke, ma túy hoặc bị tù tội thì việc đã rồi, còn mong gì cứu chữa được.

Cho nên, hầu hết một số thanh niên hư hỏng đều do cha mẹ đặt tình thương sai hướng mà đưa con mình vào cuộc đời đen tối. Đó là một trách nhiệm rất lớn của những bậc làm cha mẹ phải gánh chịu những hậu quả này.

Muốn đặt tình thương đúng chỗ, thì những bậc làm cha mẹ phải xem con mình là một người bạn, hơn là một đứa con. Thương con mà rầy mắng, đánh con là một điều sai, là một việc thiếu đạo đức làm người:

              1- Cái sai thứ nhất là tự mình tức giận, làm khổ mình mà không thấy.
              2- Cái sai thứ hai là làm cho đứa con đau khổ (rầy mắng, đánh làm người khác khổ).

Khi biết đứa con làm sai, lầm lỗi, thì cha hay mẹ phải tìm thấy lỗi của mình trước:

             1- Lỗi thứ nhất là cha mẹ không gần gũi con cái, mà cứ mải lo làm ăn, đầu tắt mặt tối, cứ nghĩ rằng có tiền là mua tiên cũng được.
             2- Lỗi thứ hai là cha mẹ thiếu chăm sóc con cái từ cái ăn, cái mặc cho đến sự học tập, có nghĩa là cha mẹ chỉ thỉnh thoảng mua quà cho con và không thường xuyên xem xét sự học hành của con.
             3- Lỗi thứ ba là cha mẹ thiếu ban tình thương âu yếm cho chúng: một lời nói, một cử chỉ, một cái nhìn.
             4- Lỗi thứ tư là cha mẹ không dùng lời nói ôn tồn, nhã nhặn, nhẹ nhàng đối với con mình.
             5- Lỗi thứ năm là cha mẹ không xem con cái là một người bạn thân, mà chỉ xem chúng là một đứa bé khờ dại trong khi chúng đã trưởng thành, có nhiều sự hiểu biết và có nhiều sự ham muốn đang phát triển.

Nếu các bậc làm cha mẹ đã thấy được những lỗi lầm này của mình, thì con cái của mình đâu còn làm sự sai trái, phải không hỡi con? Ở đời, người ta chỉ thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình, do đó mà đã tự tạo khổ cho nhau. Nếu ai cũng thấy được lỗi mình tức là đã thấy được nhân quả; thấy được nhân quả tức là chuyển được nhân quả; chuyển được nhân quả thì trên thế gian này còn ai là người đau khổ nữa.

Người ta biết thương yêu là một điều thiện, nhưng lòng thương yêu đặt không đúng chỗ thì sẽ trở thành một điều ác, một điều khổ. Người ta ở đời thường che đậy, hoặc vô tình không thấy những lỗi lầm của mình, mỗi mỗi đều thấy lỗi lầm của người khác, do đó mà có sự khổ đau trên thế gian này vậy.

2- Để trả lời ví dụ thứ hai: Một cậu trai yêu thương một cô gái, nhưng cô gái không yêu đáp lại; cậu trai đau khổ buồn phiền, đó là cậu trai “đặt tình yêu sai hướng”. Một cậu trai không quá nông nổi thì không bao giờ đặt tình yêu thương vào một người, mà người ấy không yêu mình.

Tình yêu chân thật không cho phép chúng ta yêu thương nông nổi, mà phải có sự tìm hiểu đôi bên; sự tìm hiểu đó giúp chúng ta đặt tình yêu thương đúng chỗ, khiến mình hạnh phúc mà người mình yêu thương cũng hạnh phúc. Bởi người ta không học đạo đức làm người, nên người ta đặt tình yêu thương sai hướng; đặt tình yêu thương sai hướng, nên người ta mới tự làm khổ đau như vậy.

Trai gái yêu thương nhau là tìm hạnh phúc an vui cho nhau, chứ không phải tìm sự khổ đau, nhưng thật sự người ta không tìm chân hạnh phúc giữa trai và gái, mà tìm sự đau khổ giữa trai gái nhiều hơn. Nếu ai đã có chồng, có vợ, có con thì hãy tư duy xem lời nói của Thầy có đúng hay không.

Trên đời này, ai đã trải qua tình chồng, nghĩa vợ, nuôi con thì mới rõ được lời đức Phật dạy: “Đời là khổ”, không những đôi vợ chồng khổ mà đoàn con cái được sanh ra đời sau này cũng đều khổ.

3- Để trả lời ví dụ thứ ba: Anh B làm sai; anh A dùng lời ngay thẳng để khuyên nhắc anh B, nhưng anh B tự ái rồi giận khổ, buồn phiền, đó là anh A đặt tình thương không đúng chỗ, và không xét lời nói của mình có trọng lượng đối với anh B hay không.

Muốn khuyên người thì hãy xét lại mình; mình sống có đúng đạo đức làm người chưa? Mình có làm gương hạnh đạo đức cho ai chưa? Tất cả mọi người xung quanh có ai kính trọng mình chân thật chưa? Nếu chưa thì Thầy xin quý vị đừng khuyên nhắc ai hết, mà hãy khuyên nhắc mình không làm khổ mình, khổ người để tâm hồn mình được thanh thản, nhẹ nhàng, an vui.

Anh A vẫn còn khổ đau, vẫn còn làm khổ mình và người khác khổ, thế mà đi khuyên nhắc người khác thì có ai mà nghe cho! Người ta đã không nghe mà còn sinh ra tức giận và cho anh A là người muốn làm thầy dạy đời.

Những ví dụ trên đây, đều nằm trong việc thiếu đạo đức làm khổ mình, khổ người con ạ! Không có một sự đau khổ nào của con người mà hiện hữu được nằm ngoài luật nhân quả cả. Con người là thừa tự của nghiệp lực nhân quả; nghiệp lực nhân quả là cha mẹ đẻ sanh ra loài người, vì thế làm sao có sự đau khổ ngoài luật nhân quả được. Cho nên người sống đúng đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người là người sống đúng đạo luật nhân quả, nên chuyển tất cả quả khổ thành quả vui; mình vui, người vui.

Người sống đúng đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người là người phải ly dục, ly ác pháp; là người có tâm bất động trước các pháp. Người có tâm bất động trước các pháp là vị Thánh đệ tử Phật chứ không còn là một kẻ phàm phu tục tử nữa.

Vì thế, các con là đệ tử của đức Phật thì phải thực hiện sống cho bằng được đạo đức nhân bản làm người, thì mới xứng đáng là con của Phật, thì mới không phụ lòng mong ước của Phật, của Thầy. Phải không hỡi các con?                                                 

TU TẬP PHÁP NÀO HẾT LẬU HOẶC?

Hỏi 1: Kính bạch Thầy, chúng con là những người mới vào tu, kinh điển Thầy giảng dạy quá nhiều, nhất là giáo án đường lối tu tập của đạo Phật rất là mênh mông, từ giới đức, giới hạnh, giới tuệ đến giới hành. Chúng con như người lạc vào rừng rậm, chẳng biết lối nào ra. Vậy ngưỡng mong Thầy từ bi thương xót chỉ vạch cho chúng con lối ra?

Đáp: Người mới bắt đầu tu tập theo đạo Phật thì phải Sống Đúng Giới Luật. Muốn sống đúng giới luật thì người tu sĩ phải Học Giới Luật Cho Thông Suốt, mỗi giới luật phải biết đức hạnh giới luật ở đâu, và hành giới chỗ nào, để thân khẩu ý không phạm giới, giới luật không bị bẻ vụn, ngày ngày sống đúng giới hạnh.

Kế đến, lấy giới bổn Phòng Hộ 6 Căn, không cho mắt dính sắc, tai dính tiếng, mũi dính mùi, lưỡi dính vị, va chạm dính thọ, ý dính pháp.

Kế nữa, phải tập sống đời sống Thiểu Dục Tri Túc. Hằng ngày chia thời gian Tu Tập Các Định:

              1- Định Chánh Niệm Tĩnh Giác (Thân Hành Niệm).
              2- Định Niệm Hơi Thở (ổn định hơi thở bình thường, tập tụ điểm).
              3- Định Vô Lậu: quán, hướng, xả (bất tịnh, vô thường, khổ, không, vô ngã, v.v...).
              4- Định Chánh Niệm Tĩnh Giác câu hữu Pháp Hướng Vô Lậu.
              5- Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Pháp Hướng Vô Lậu.
              6- Định Chánh Niệm Tĩnh Giác câu hữu với Định Niệm Hơi Thở.

Tất cả các pháp hành này đều nhắm vào diệt ngã, xả tâm ly dục ly ác pháp, để tâm được giải thoát (an lạc, thanh thản và vô sự). Đây là Giai Đoạn Thứ Nhất mà một vị tu sĩ cần phải chấp hành nghiêm chỉnh, tu tập hằng ngày không được biếng trễ.

Hỏi 2: Kính bạch Thầy, làm sao biết được tâm mình hết lậu hoặc?

Đáp: Tâm hết lậu hoặc là tâm thường quay vào trong thân, không phóng dật theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; trạng thái tâm lúc này thanh thản và an lạc, tâm tư phát khởi điều thiện đối với các pháp. Luôn nghĩ tốt về mọi người, không bao giờ có ý nghĩ xấu với người khác.

Ngược lại, tâm chưa hết lậu hoặc thường lo xa, suy tư chuyện này đến chuyện kia, khởi tâm ham muốn cái này cái kia hay sanh ra việc làm phá hạnh độc cư nói chuyện phiếm, thân tâm luôn hữu sự, đầu óc đầy ắp những sự việc.

Hỏi 3: Kính bạch Thầy, con chỉ tu một pháp hướng: “Tâm như đất” hằng phút, hằng giây, hằng giờ; con liên tục hướng tâm mình như vậy, có hết lậu hoặc (phiền não) không thưa Thầy?

Đáp: Không, tu như vậy không bao giờ hết lậu hoặc (phá sạch phiền não).

Hỏi 4: Kính bạch Thầy, con tập sống đúng giới luật của Phật, không vi phạm một lỗi nhỏ, hằng ngày con tu một pháp hướng: “Tâm như đất” có kết quả hết lậu hoặc không?

Đáp: Chỉ được 50% chứ không dứt hết lậuhoặc.

Hỏi 5: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật và con nhìn cuộc sống bằng đôi mắt nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và con tu tập chỉ một pháp hướng: “Tâm như cục đất” hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây, như vậy tâm con có hết lậu hoặc không, thưa Thầy?

Đáp: Hết, tu như vậy tâm con sẽ ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm. Cuộc sống tâm hồn con sẽ an lạc, thanh thản như đất.

Hỏi 6: Kính bạch Thầy, con sống không đúng giới luật, nhưng con tu Chánh Niệm Tĩnh Giác Định kết hợp với Định Vô Lậu hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, như vậy có diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp được chăng?

Đáp: Chỉ hoài công vô ích, con tu như vậy giống như người nấu cát mà mong thành cơm.

Hỏi 7: Kính bạch Thầy, con không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, nhưng con sống với đôi mắt nhìn đời bằng nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và tu tập định Chánh Niệm Tĩnh Giác câu hữu (kết hợp) với Định Vô Lậu, như vậy con có hết lậu hoặc không?

Đáp: Không, con tu như vậy chỉ được 50% mà thôi.

Hỏi 8: Kính thưa Thầy, con sống đúng giới luật nghiêm chỉnh, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả và tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác Định câu hữu với Định Vô Lậu. Như vậy, con diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp được chăng?

Đáp: Được, con tu như vậy tâm con sẽ hết lậu hoặc, thanh thản và an lạc.

Hỏi 9: Kính bạch Thầy, con sống không đúng giới luật, con tu Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Định Vô Lậu. Kính thưa Thầy, con tu như vậy tâm con có hết lậu hoặc hay không?

Đáp: Không, con tu như vậy chỉ hoài công vô ích.

Hỏi 10: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật, con tu Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Định Vô Lậu, như vậy tâm con có hết lậu hoặc không?

Đáp: Con tu như vậy chỉ xả được tâm lậu hoặc 50%.

Hỏi 11: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Con tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Định Vô Lậu. Như vậy, con có diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp được không thưa Thầy?

Đáp: Được, con tu như vậy sẽ ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền rất dễ dàng; tâm lậu hoặc xa lìa để lại một trạng thái an lạc, thanh thản do ly dục sanh.

Hỏi 12: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật, giữ gìn nghiêm túc không vi phạm một lỗi nhỏ, không bẻ vụn giới luật, nhưng con không tu Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu, như vậy con có hết lậu hoặc không?

Đáp: Không, đó là một lối ức chế tâm, hình thức thì giới luật nghiêm trì, nhưng tâm thì giới luật đã bẻ vụn. Tu như vậy chỉ hoài công, khổ hạnh cho mình chẳng ích lợi gì, giống như các vị sư Khất sĩ (lấy giới nén tâm) chẳng bao giờ ly dục ly ác pháp được, chỉ uổng một đời tu mang hình thức giới luật.

Hỏi 13: Kính bạch Thầy, con không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh; con không tu các loại định mà chỉ sống nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, không làm khổ mình, không làm khổ người. Như vậy con có hết lậu hoặc hay không?

Đáp: Không, nếu sống nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, đó là con đã thực hiện đạo đức Nhân Quả đem lại cuộc sống an lành, hạnh phúc cho gia đình, đem lại cuộc sống hòa hợp an vui cho xã hội và đem lại trật tự phồn vinh cho đất nước, chớ không thể nào con hết lậu hoặc (tham, sân, si) được.

Hỏi 14: Kính bạch Thầy, con không sống đúng giới luật, không tu Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, con chỉ tập Định Niệm Hơi Thở diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền... Tam Thiền, Tứ Thiền có được không thưa Thầy?

Đáp: Không, con tu như vậy sẽ rơi vào tà thiền, tà định mà chẳng bao giờ nhập Tam Thiền được, nhập Tứ Thiền được. Những loại Thánh Định này không để một người còn mang tâm trạng phàm phu mà nhập vào được. Một người chưa ly dục, ly ác pháp thì không thể nào nhập vào các Thánh Định này.

Vị tỳ kheo phá giới, phạm giới, ăn ngủ phi thời thì Bốn Thánh Định này chỉ là ngôn ngữ suông, chẳng ai nếm được mùi vị của nó. Bởi vậy, một vị tỳ kheo tu sĩ Phật giáo phải sống đúng giới luật, phải nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, phải tu tập Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định Niệm Hơi Thở thì mới ly dục ly ác pháp, mới diệt ngã xả tâm, mới nhập vào Sơ Thiền, v.v... Đạt được trạng thái ly dục ly ác pháp này, người tu mới có thể nhập Nhị Thiền đến Tứ Thiền và Tam Minh.

Còn giai đoạn thứ nhất không thực hiện được; tâm chưa hết lậu hoặc (phiền não) mà gọi nhập Tam Thiền, Tứ Thiền, thì đó là một điều phỉnh gạt người khác.

                                                                                                                         Kính thư
                                                                                                                 Thầy của các con

 

103-NGHĨA CÁC TỪ PHẬT HỌC CHƠN NHƯ. Tỳ khưu Từ Quang

NGHĨA CÁC TỪ VÀ CÂU - PHẬT HỌC CHƠN NHƯ

(Tỳ khưu Từ Quang tổng hợp nghĩa các câu, các từ được Trưởng Lão Thích Thông Lạc giảng giải  trong tất cả các sách của Ngài biên soạn)

  GIỚI THIỆU CHỮ VIẾT TẮT CÁC ĐẦU SÁCH

(CầnBiết.1) = Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2) = Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3) = Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4) = Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5) = Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)  = Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu) = Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1) = Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2) = Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng) = Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1) = Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10) = Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2) = Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3) = Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4) = Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5) = Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6) = Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7) = Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8) = Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9) = Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1) = Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2) = Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn) = Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo) = Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi) = Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1) = Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2) = Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3) = Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4) = Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1) = Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2) = Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên) = Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu) = Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy) = Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản) = Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa) = Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo) = 37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1) = Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống 1; (TruyềnThống.2) = Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống 2; (YêuThương.1) = Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2) = Lòng Yêu Thương 2; (10Lành) = Hành Thập Thiện; (10Lành) = Sống 10 Điều Lành; (12Duyên) = 12 Cửa Vào Đạo ; (3Quy5Giới) = Tam Quy Ngũ Giới; (4BấtHoại) = Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai) = Nghi thức thọ bát quan trai.

NGHĨA CỦA CÁC CÂU, CÁC TỪ.

Vần A

A La Hán (PhậtDạy.1) (ĐườngVề.2) (ĐườngVề.4) (ĐườngVề.8) (12Duyên) (CầnBiết.3) (TâmThư.2) là học trò của Phật (đệ tử), chỉ theo lời dạy của đức Phật mà tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Phật và A La Hán không khác nhau chỗ tu hành và giải thoát vì đức Phật cũng tu từ Giới, Ðịnh, Tuệ mà được giải thoát, các bậc A La Hán cũng tu từ pháp môn Giới, Ðịnh, Tuệ mà thành tựu, cho nên đức Phật và các bậc A La Hán tu hành giải thoát giống nhau, sự viên mãn giải thoát phải giống như nhau, không ai hơn kém ai.

Khi tu hành giải thoát rồi thì người nào cũng như người nấy, nhưng Phật là vị Giáo chủ Phật giáo, người sáng lập ra Phật giáo, còn A La Hán chỉ là người theo lời dạy của Phật mà tu chứng. A La Hán là quả vị của người tu sĩ đạo Phật đã chứng đạt Bốn Thánh Ðịnh (Tứ Thiền) và Tam Minh, làm chủ sanh, già bệnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử. A La Hán đồng nghĩa với Ứng Cúng, có nghĩa là giết giặc phiền não, bất sanh, mãi mãi ở trong Niết bàn, xứng đáng nhận sự cúng dường của Trời Người.

A La Hán còn gọi là “Ðức Thánh Vô Lậu” không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Bậc A La Hán là bậc đã thoát khỏi phiền não, được tự do tự tại, hoàn mỹ về mặt đạo lý, làm chủ được tư tưởng của mình, biết hết tất cả, có đủ sáu pháp huyền diệu, không phải chịu quả báo sống chết lần thứ hai. A-La-Hán là một danh từ chỉ cho người đã tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết chấm dứt tái sanh luân hồi, cũng gọi là “Chứng đạt chân lí”, tâm cũng vô lậu hoàn toàn.

“Phật” là danh từ chỉ cho người tu hành đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi, gọi là “Chứng đạt chân lí’’, tâm vô lậu hoàn toàn. Nếu chúng ta gọi Phật là A-La-Hán vẫn đúng, vì A-La-Hán tu hành giải thoát như Phật, cũng tâm vô lậu, cũng làm chủ sanh tử luân hồi như nhau. Hai người giải thoát giống nhau, làm chủ giống nhau. Danh hiệu A La Hán này Ðại Thừa cho là còn thấp kém, chỉ là quả cao nhất của Tiểu Thừa. A La Hán là người đã bất động tâm nên thân tâm đều thanh tịnh, đều làm chủ sự sống chết chấm dứt sinh tử luân hồi, đầy đủ Tứ Thần Túc, Tam Minh Lục Thông thì không thể nào gọi A La Hán độn căn (độn căn là ngu ngốc) hay A La Hán lợi căn (lợi căn là lanh lợi) mà gọi họ là siêu căn, vì mọi A La Hán đều thông suốt tam giới, không có điều gì họ không hiểu, Phật hiểu như thế nào thì họ hiểu như thế nấy.

Hai quả A La Hán lợi căn và A La Hán độn căn này do các nhà Đại Thừa bịa đặt ra để lừa gạt Phật tử. Chỉ có ngoại đạo đắc thần thông tưởng mới không thực hiện được Tam Minh, chứ người chứng quả A La Hán đều có đủ Tam Minh Lục Thông và thực hiện được Tam Minh. A La Hán chỉ có hai: đức Phật là A La Hán Độc Giác, và A La Hán Thanh Văn, như các đệ tử của đức Phật.

A La Hán Ðộc Giác (ĐườngVề.4) là người tự mình tìm ra pháp môn tu tập đạt được tâm vô lậu hoàn toàn. Trên đời này chỉ có Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là người duy nhất tự mình tìm ra pháp môn tu tập đạt được tâm vô lậu hoàn toàn, ngoài ra thì chúng ta không thấy có người thứ hai. Quả vị A La Hán Ðộc Giác và quả vị A La Hán Toàn Giác, không sai khác và không hơn kém nhau ở chỗ nào cả. Trong sự tu hành đến với pháp tu có duyên khác nhau nên khi chứng quả A La Hán có tên gọi là A La Hán Ðộc Giác hay A La Hán Thanh Văn khác nhau.

A La Hán Duyên Giác (CầnBiết.4) là người thấu suốt được thế giới quan của Phật giáo, không còn tham đắm và chấp trước mọi vật trên thế gian này nữa. Do sự thông hiểu tường tận thế giới quan của Phật giáo như thật, nên tâm tham đắm, dính mắc không còn, lậu hoặc được quét sạch, luân hồi được chấm dứt.

A La Hán Thanh Văn Giác (ĐườngVề.4) là người được đức Phật dạy cho tu tập theo giáo pháp của Ngài đã tu chứng, hoặc người ấy tự nghiên cứu trong kinh sách theo những lời dạy của đức Phật mà tu tập cho đến khi tâm vô lậu hoàn toàn. Người chứng quả A La Hán Thanh Văn Giác không sai khác quả vị A La Hán Toàn Giác, có nghĩa là mọi năng lực của người chứng quả A La Hán Toàn Giác và người chứng quả A La Hán Thanh Văn Giác đều giống nhau, không hơn không kém, nhưng trong sự tu hành đến với pháp tu có duyên khác nhau nên khi chứng quả A La Hán có tên gọi khác nhau.

A tu la (ĐườngVề.9) (10Lành) là trạng thái nóng giận, la hét, chửi mắng, đấm ngực, cào mặt… A Tu La là những người hay sân hận, giận dữ.

Ai quá, hiện, vị lai (PhậtDạy.1) Có nghĩa là người tu sĩ nào trong ba thời gian quá khứ, vị lai và hiện tại sống không có của cải tài sản, sống không gia đình, không nhà cửa, đời sống luôn luôn thiểu dục tri túc, chỉ có ba y một bát, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không. Ðó là Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Người sống đúng Phạm hạnh như vậy mới được gọi là Bà La Môn.

Am tường (Tạoduyên) rất thông hiểu.

An (ĐườngVề.3) là khinh an. Khinh an do ly dục ly ác pháp sinh ra.

An Ban Thủ Ý (ĐườngVề.6) là một loại thiền ức chế tâm bằng pháp môn sổ tức.

An chỉ tất cả hành, viễn ly tất cả ý (CầnBiết.2) lúc đó trạng thái của thân không còn thở ra thở vào, tai không còn nghe thấy âm thanh bên ngoài nữa.

An cư kiết hạ - tuổi đạo (TâmThư.2) Khi thọ giới Tỳ kheo tức là thọ giới cụ túc xong, hằng năm phải về an cư kiết hạ, mỗi hạ tính là một tuổi đạo, không về an cư không tính tuổi đạo. Còn tính tuổi đạo theo kinh sách nguyên thủy, ai sống không vi phạm giới luật một năm là một tuổi đạo, bắt đầu từ khi thọ 10 giới Sa di. Nếu năm nào phạm 1 giới trong 10 giới này thì năm đó mất tuổi đạo.

An định của thiền (ĐườngVề.6) Sự an định của thiền thứ nhất (Sơ thiền) là do “tầm tứ” tịnh chỉ tâm dục và ác pháp hay nói cách khác là tịnh chỉ ngôn ngữ, tức là ly dục ly bất thiện pháp. Chúng ta phải hiểu sự an định của tầng thiền thứ nhất (Sơ thiền) “lấy tâm động, tạo tâm bất động” còn sự an định của tầng thiền thứ nhì (Nhị thiền) “lấy tâm bất động tạo định”, chứ Phật không dạy sự an định của thiền thứ nhì hơn thiền thứ nhất. Hai sự an định của hai loại thiền này không giống nhau, chỉ có hỷ lạc của thiền thứ nhì (Nhị thiền) hơn thiền thứ nhất (Sơ thiền) như đức Phật đã dạy trong bài kinh Sa Môn Quả.

An lành (TrợĐạo) tâm có an trú.

An tịnh (TruyềnThống.2) là yên ổn và thanh tịnh, trong sạch. Chữ an tịnh trong giới luật hoan hỉ sống an tịnh có nghĩa là thân an ổn và tâm thanh tịnh.

An trú (TruyềnThống.1) (MuốnChứngĐạo) là trú ẩn một nơi an ổn, một nơi được bao bọc an toàn không có pháp nào đến quấy rầy làm mất an, làm khổ đau phiền lụy. An trú có nghĩa là không một niệm nào xen vào trong khi hít thở.

An trú bất động tâm (PhậtDạy.4) không tác ý một tướng nào cả thì mới được gọi là an trú bất động tâm (nội không), mới đạt được chỗ ly dục ly ác pháp hoàn toàn, mới viễn ly trọn vẹn các ác pháp đang tác động trong giai đoạn tu tập thứ nhất, thứ nhì và mới sung mãn được Tứ Niệm Xứ.

An trú bốn niệm một lần (MuốnChứngĐạo) là tu tập Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ còn gọi là Chánh Niệm, tức là pháp môn tu tập thứ bảy trong Bát Chánh Đạo.

An trú chánh niệm (MuốnChứngĐạo) (TruyềnThống.1) (CữSĩTu) là ở yên ổn trong niệm chân chánh. Trong đạo Phật có bốn chỗ niệm chân chánh: 1- Niệm Thân. 2- Niệm Thọ. 3- Niệm Tâm. 4- Niệm Pháp. Chữ chánh niệm ở đây gồm chung có 4 niệm, như vậy an trú chánh niệm tức là an trú trong bốn niệm. An trú trong bốn niệm một lần là tu tập Tứ Niệm Xứ. Cho nên Tứ Niệm Xứ còn gọi là Chánh Niệm. Chánh niệm tức là pháp môn tu tập thứ bảy trong Bát Chánh Đạo. Cho nên tu tập Tứ Niệm Xứ là tu tập lớp thứ bảy trong tám lớp tu học của Phật giáo. Bài pháp đức Phật dạy La Hầu La (Kinh Giáo Giới La Hầu La) về hơi thở vô, hơi thở ra, thì phải hiểu là thân hành niệm nội, tức là hơi thở vô hơi thở ra. Vậy “an trú chánh niệm trước mặt” tức là an trú hơi thở vô, hơi thở ra ở trước mặt.

An trú niệm trước mặt (PhậtDạy.1) (Truyền Thống.1) là đặt một đề tài, rồi ở trên đề tài đó say mê quán xét và tư duy. An trú chánh niệm trước mặt nghĩa là an trú chánh niệm từ bỏ, chánh niệm thoát ly và chánh niệm gọt rửa tâm dục tham. (Sau khi đi khất thực rồi ăn cơm, nghỉ ngơi một chút cho tiêu hóa cơm và thực phẩm, đến vị trí thanh vắng, ngồi kiết già, lưng thẳng an trú chánh niệm trước mặt.)

An trú "không" (PhậtDạy.4) Chữ KHÔNG (của Phật giáo) có nghĩa không chướng ngại pháp, tức là không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Trong lúc đức Phật đang tu tập, đức Phật cũng an trú trong "không", đến nay thành tựu được chánh pháp, tức là đức Phật đã chứng đạo, nhưng vẫn an trú thường xuyên rất nhiều trong "không" ấy.

An trú trong an trú (PhậtDạy.4) (CầnBiết.5) là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, nó còn có nghĩa là không tánh. Khi ở trong trạng thái an trú trong an trú này, nếu đang đi kinh hành biết mình đang đi kinh hành thì không thấy có niệm nào khởi lên, nếu có niệm nào khởi lên thì sự an trú ấy không còn là an trú trong an trú nữa, đó là niệm ác, còn niệm thiện khởi thành một dòng suy tư ly tham đoạn diệt ác pháp, dòng suy tư ấy khiến cho đang an trú lại an trú nhiều hơn. Vì thế dòng suy tư ấy không được tác ý diệt nó, vì diệt nó khiến cho tri kiến giải thoát bị diệt mất.

An trú trong an trú (bất động tâm) thì những dòng suy tầm ác phải đoạn dứt bằng pháp như lý tác ý, còn những dòng suy tầm thiện thì không được diệt mà hãy tăng trưởng như trong pháp môn Tứ Chánh Cần đã dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Khi đang an trú như vậy tâm hướng đến đứng thì liền đứng lại, chứ không phải khi tâm hướng đến đứng lại mà không đứng lại vẫn tiếp tục đi kinh hành, là tu sai pháp môn Tứ Niệm Xứ. Trong khi đứng lại cũng phải biết rõ ràng trong khi đứng lại không có một niệm nào tham, sân, si khởi lên. Ðó là đang an trú trong an trú.

Hướng tâm không phải là vọng tưởng. Cho nên, nếu an trú trong an trú tức là khi trong tâm thanh thản an lạc và vô sự, mà nếu có những niệm khởi trong tâm thì không phải toàn bộ những niệm đó đều là vọng tưởng hết. Kinh dạy: "Trong khi Ta đang đi kinh hành thời tham ưu và các bất thiện pháp không chảy vào, ở đây vị ấy ý thức rõ như vậy. Này Ananda nếu Tỳ kheo an trú trong an trú này tâm vị ấy hướng đến đứng lại vị ấy đứng lại và nghĩ rằng: Trong khi ta đang đứng lại thời tham ưu và các pháp bất thiện không chảy vào”. Nếu tâm hướng đến ngồi, liền ngồi xuống nhưng ý thức biết rất rõ ràng hành động ngồi mà không có một niệm tham ưu hay các ác pháp nào xen vào trong khi đang ngồi. Ngồi mà vẫn thấy tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Nếu tâm hướng đến nằm thì chúng ta nằm xuống với tâm tỉnh giác an lạc, thanh thản và vô sự tức là tu tập đúng pháp, dù đang nằm nhưng vẫn an trú trong sự an trú. Trong khi an trú tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự trong bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, đều sống trong một tâm ấy, nhưng tâm hướng đến đi chúng ta đi, tâm hướng đến đứng chúng ta ứng, tâm hướng đến ngồi chúng ta ngồi, tâm hướng đến nằm chúng ta nằm, nhưng chúng ta đều ý thức rất rõ đi, đứng, ngồi, nằm an trú trong sự an trú thanh thản, an lạc và vô sự.

Nếu trong đó niệm tham ưu và các bất thiện pháp thì phải diệt ngay liền, còn tất cả niệm khác thì không nên diệt. Đang ở trong trạng thái an trú trong sự an trú ấy tâm hướng đến độc thoại tào lao, như “Nói chuyện đời, chuyện thiên hạ, chuyện bạn bè, chuyện tình tứ trai gái, v.v...”, khởi ra trong tâm thì tác ý đình chỉ nó ngay liền. Vì tâm độc thoại như vậy là vọng tưởng. Còn ngược lại tâm hướng đến độc thoại li tham, đoạn ác pháp, xa lìa, viễn li, từ bỏ tâm tham, sân, si, và các ác pháp khác như: Thất kiết sử, ngũ triền cái, thân ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên, v.v... thì hãy tiếp tục, đừng có dừng, vì nó không phải là vọng tưởng mà nó đang triển khai tri kiến giải thoát li tham, đoạn ác pháp. Cho nên, tâm hướng đến độc thoại thì không được nói chuyện ngoài vấn đề để ly tham đoạn ác pháp, hay vấn đề viễn ly, trừ bỏ đoạn diệt tâm tham, sân, si.

Người tu tập Tứ Niệm Xứ an trú trong sự an trú cũng giống như người sống bình thường cũng đi, đứng, ngồi, nằm, đều theo sự hướng tâm chủ động điều khiển rất tỉnh giác. Nhưng tâm hướng đến độc thoại thì không được nói chuyện ngoài vấn đề để ly tham đoạn ác pháp, hay vấn đề viễn ly, trừ bỏ đoạn diệt tâm tham, sân, si.

An trú (tâm) trong hơi thở (12Duyên) (TâmThư.1) (CữSĩTu). An trú tâm trong hơi thở là để khắc phục những tham ưu trên thân hay nói cách khác cho dễ hiểu hơn là để đẩy lui những bệnh khổ trong thân (cảm thọ) hoặc là để đẩy lui tâm tham, sân, si. (theo phương pháp Ðịnh Niệm Hơi Thở) An trú tâm trong hơi thở bằng tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Cứ tu đề mục này trong nửa tháng hoặc một tháng để thân an trú được trong hơi thở, thì lúc bấy giờ thân có cảm thọ khổ là liền dùng phương pháp này đối trị, đẩy lui cảm thọ ra khỏi thân ngay tức khắc. Ví dụ: Khi bị nhức đầu, trước tiên chúng ta nhiếp tâm trong hơi thở: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Sau khi chánh niệm tỉnh thức trong hơi thở liền tiếp tục tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Sau khi tâm an trú được trong hơi thở thì bệnh nhức đầu đã tan. Nương vào pháp môn ngăn ác diệt ác pháp mà lành bệnh.

An trú tâm trọn vẹn trong hơi thở (TruyềnThống.1) (MuốnChứngĐạo) tức là biết hơi thở vô, hơi thở ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc, đó là làm cho tràn đầy sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm hơi thở.

An trú trong yên lặng và không rơi vào vô ký (ĐườngVề.3) Cách thứ nhất: Cần tu Ðịnh diệt tầm giữ tứ cho thuần thục, luôn luôn phải giữ tứ trong câu pháp hướng: “Tâm phải gom trong hơi thở, hơi thở chậm và nhẹ” , trong khi ngồi tu luôn nhắc câu pháp hướng trên, không cần đếm. Tu như vậy tâm sẽ không bung ra và không rơi vào vô ký. Cách thứ hai: là hãy đứng dậy, đi kinh hành 20 bước và ngồi xuống đếm năm hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành 20 bước. Cứ thế tiếp tục tu tập mãi cho hết giờ xả nghỉ. Khi tu như vậy nên ghi nhớ không được quên thân hành trong mọi hành động khi ngồi, khi thở, khi đứng dậy, khi đi kinh hành và khi hướng tâm, nếu thấy mệt thì tu ít giờ trở lại, không được tu tập quá sức. Cách thứ ba: là lúc nào cũng đẩy lui các ác pháp trên thân thọ, tâm và pháp thì tâm tự gom vào hơi thở nên không có khó khăn, không có mệt nhọc. Ðó là tâm không phóng dật. Có tu như vậy tâm sẽ không bị bung ra và không rơi vào vô ký; tu như vậy sẽ có một sức tỉnh thức đầy đủ để xả tâm và tâm định tỉnh luôn ở trong chánh niệm tỉnh giác, vì thế, không có dục và các ác pháp nào tác động vào thân tâm được.

An trú với lòng từ (TruyềnThống.1) là an trú trong lòng thương yêu của mình đối với tất cả chúng sanh, không có loài vật nào mà không thương yêu.

Ác (ĐườngVề.2) là cõi Ðịa ngục, dục là cõi nhân gian.

Ác hữu tri thức (PhậtDạy.1) Người chỉ học hỏi kiến giải trong kinh sách, chứ chưa có tu chứng đắc. Lấy sự học ra làm thầy hoặc tu hành chỉ có hình thức, tu chưa đến đâu mà vội đem ra dạy thiên hạ tu hành, là những hạng giỏi lừa gạt người bằng khoa ngôn ngữ học lỏm của người khác. Nếu trong ba cấp này (thứ nhất là chứng Giới luật; thứ hai là chứng Thiền định; thứ ba là chứng tuệ Tam Minh) xét thấy họ không chứng được cấp nào hết thì họ là những ác tri thức.

Ác pháp (Phậtdạy.3) (ĐườngVề.6) (CầnBiết.4) (GiớiĐức.1) là tâm tham, sân, si, là những hành động thân, miệng, ý của mình làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Ác pháp gồm chung có rất nhiều, nhưng giới cư sĩ Phật dạy chỉ có: Thập thiện và thập ác. Thập thiện và thập ác là các pháp căn bản gốc đạo đức của đạo Phật để chỉ cho luật nhân quả thiện ác, tạo ra do ba hành động thân, miệng, ý. Từ đó sanh ra vô lượng pháp ác và pháp thiện. Phật dạy: “ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền”, chứ không có dạy “ly 10 pháp ác, nhập Sơ Thiền”. Kinh điển, đức Phật đã dạy rất rõ ràng: “Mắt đắm sắc, tai đắm âm thanh, mũi đắm mùi hương, lưỡi đắm vị, thân đắm xúc, ý đắm pháp”. Ðó là pháp dạy phòng hộ sáu căn, tức là pháp giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý, không cho dính mắc sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

            Phật không có dạy đó là ác pháp, nhưng chúng ta phải hiểu khi mắt đắm sắc, tai nhiễm âm thanh, mũi thích mùi hương, lưỡi ưa thích vị, thân đắm xúc, ý chấp pháp, từ chỗ đắm, nhiễm, ưa, thích, dính mắc, chấp kiến pháp đó, mới sanh ra có thương, ghét, giận, hờn, phiền não, đau, khổ, v.v... Các pháp thương ghét, giận, hờn, phiền não đau khổ, mới chính là ác pháp, chứ không phải mắt thấy sắc, tai nghe âm thinh, mũi ngửi mùi... là ác pháp. Ác pháp có hai phần: 1- Ác pháp về thân là thân bị bệnh đau nhức chỗ này chỗ khác. 2- Ác pháp về tâm là khi có một tầm khởi lên, tầm ấy thuộc về tham, sân, si có nghĩa là tham ăn, tham ngủ và phiền não, giận hờn, buồn rầu, lo sợ, đó là hại tầm. Khi có thân bệnh hoặc có những hại tầm như trên thì phải tinh cần siêng năng đoạn tận nó, không được để trong thân tâm chúng ta, phải bằng mọi cách đoạn tận nó, không được để từ giờ này sang giờ khác.

104-NGHĨA CÁC TỪ PHẬT HỌC CHƠN NHƯ - Tỳ khưu Từ Quang

NGHĨA CỦA CÁC CÂU, CÁC TỪ - Kì 2

Vần A (tiếp theo)

Ác pháp (TruyềnThống.2) Ác pháp là những uy lực của vũ trụ có những hiện tượng vô hình như sấm sét, những từ trường khí lực, điện lực, tưởng lực, v.v... hoặc những hiện tượng hữu hình vĩ đại như sông, núi, rừng, biển, thời tiết, nắng, mưa gió, bão, lũ tụt, thiên tai, hỏa hoạn, động đất, sóng thần, bệnh tật, tai ương, v.v…

Ác tác (GiớiĐức.2) hành động Ác do Thân phạm.

Ác thuyết (GiớiĐức.2) hành động Ác do khẩu phạm.

Ác tuệ (Phậtdạy.3) (CầnBiết.4) là tri kiến suy nghĩ về tham dục, tri kiến về sân hận, si mê, ngã mạn, nghi ngờ...

Ái (PhậtDạy.1) (ĐườngVề.1) (CầnBiết.2) (CầnBiết.3) là tình cảm yêu mến, thương mến, ưa thích người và vật chất nhà cửa nên từ đó chúng ta mới cố giữ lại, bảo thủ không muốn xa lìa nên Hữu (có) sinh ra. (12Duyên) Ái có hai: 1- Ái lạc có nghĩa là ưa thích, ham muốn, thương mến, dính mắc, chấp trước, luôn luôn chạy theo tìm cầu những dục lạc, khoái lạc, sung sướng đó, v.v... 2- Ái khổ có nghĩa là không ưa thích, sợ hãi, ghét bỏ, lo lắng, buồn phiền, khổ sở, tránh xa, không chấp nhận, không ham thích, v.v...

Ái bộc lưu (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là dòng thác thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục tức là sức mạnh của bảy thứ tình, người tầm thường không thể vượt qua được.

Ái dục (ThiềnCănBản) là lòng tham muốn, ưa thích, say đắm, đam mê. Muốn xa lìa tâm ái dục thì phải dẫn tâm vào đạo, đừng dẫn đạo vào tâm.

Ái kiết sử (TâmThư.1) là tình thương làm khổ mình, khổ người. Ái kiết sử là lòng thương mà ưu bi, sầu khổ, khóc than, lo lắng, sợ hãi, v.v… Khi nghe người thân bệnh sắp chết mà khóc than, ưu bi sầu khổ, buồn đau là ái kiết sử. Còn về thăm và chăm sóc, giúp đỡ, thuốc thang, cho ăn uống, bồng ẳm, an ủi, trấn an tinh thần là đức hiếu sinh. Thương cha mẹ, anh, em chị em, vợ chồng con cái mà không làm khổ cho nhau là đức hiếu sinh, còn thương mà làm khổ nhau là ái kiết sử. Con người ai cũng có sẵn đức hiếu sinh, nhưng chúng ta không biết, không phân biệt nó với ái kiết sử. Vì vậy chúng ta mới học đức hiếu sinh lớp Ngũ Giới để loại trừ ái kiết sử và luôn luôn sống với đức hiếu sinh.

Ái là duyên của Hữu (12Duyên) Nếu duyên Hữu có thì duyên Ái dục có. Bởi vì muốn có thì phải có ưa thích. Nếu không ưa thích (không Ái) thì làm sao phải tìm mọi cách dù cực khổ, nhiều khi còn nguy hiểm tới tính mạng để có được cái mình thích, rồi giữ gìn, bảo thủ (Thủ) lại cho mình. Bảo thủ, giữ gìn lại cho mình là vì chúng ta ưa thích hưởng thụ những vật chất đó.

Ái ngữ (PhậtDạy.4) là lời nói ôn tồn, nhã nhặn, êm dịu, thanh lịch, lịch sự, có văn hóa, nhẹ nhàng, an ủi mọi người, mọi loài vật khi gặp tai nạn, bệnh tật khổ đau hoặc những điều làm cho khiếp đảm, sợ hãi.

Ám ảnh (CầnBiết.3) là hiện ra lởn vởn trong trí ray rứt không yên.

Ám sư (ĐườngVề.3) là người phạm giới, phá giới, thường sống trong chùa to Phật lớn; sống theo dục lạc thế gian; sống như người giàu sang thế tục; sống ăn uống phi thời; sống cất giữ tiền bạc, châu báu, ngọc ngà; sống xem tivi, ca hát, nhạc kịch, phim ảnh, v.v... Sống phạm giới, phá giới thì vị ấy không phải là trí tuệ của Phật, họ chỉ là một học giả mà thôi. (Ám sư trái ngược với Minh sư).

Áo lục thù (hoặc áo hải hội) (CầnBiết.1) (CầnBiết.2) Áo lục thù và áo hải hội là của các thầy cúng và các thầy phù thuỷ bày đặt ra lừa đảo, lường gạt những người không hiểu giáo lý đạo Phật chơn chánh. Họ dựa theo một số kinh sách mê tín của Phật giáo Đại thừa, mà bảo với tín đồ đó là lời Phật dạy: “Làm như vậy, cúng bái như vậy sẽ có lợi ích và phước báo lớn”. Sống làm điều ác, gian tham, tật đố, háo danh, tham của cải, tài sản, đủ mọi mánh khóe, thủ đoạn, giết người, cướp của, hại mạng chúng sanh, chẳng chút lòng lành, chẳng biết thương xót ai hết, chỉ biết có mình là trên hết; đến khi chết chỉ cần mặc áo lục thù hoặc áo hải hội, đi xuống Diêm Ðình không ai bắt tội, vì Quỷ Sứ, Ngưu Ðầu, Mã Diện, Ngục Tốt... đều biết đó là đệ tử của đức Phật, nên vị tình tha thứ.

Chết mà còn mặc những chiếc áo lục thù hoặc áo hải hội như vậy chẳng có tác dụng gì cả, chỉ làm một trò cười lố bịch cho thiên hạ. Ðó là một hình thức trong muôn ngàn hình thức lừa đảo, lường gạt tín đồ của kinh sách Ðại thừa. Đối với những người còn nhẹ dạ, non lòng, trình độ hiểu biết còn thấp kém cứ theo lời dạy trong kinh sách đó mà làm, chẳng dám ném bỏ. Nhưng dù có biết sai chăng nữa, nếu không làm thì chịu không được, hoặc sợ mọi người lên án hay chê cười bất hiếu, không thông kinh sách Thánh Hiền. Kinh sách Ðại thừa thường soạn viết ra những điều phi đạo đức như vậy. Nhiều người bị kinh sách mê tín, lừa đảo mà không biết. Thời đại khoa học hiện đại, sự hiểu biết quá rõ ràng, đâu còn mê tín lạc hậu như những ngày xưa.

Ảo giác (ĐườngVề.6) là những hình ảnh trừu tượng để lừa đảo tín đồ, như Cực Lạc Tây Phương, Niết Bàn, chân tâm Phật tánh, bản lai diện mục, linh hồn, thần thức…

Ảo thuật lừa bịp, gian xảo của những Ma Vương Ba Tuần, của Quỷ La Sát (PhậtDạy.1) đó là những loại pháp môn chuyên tụng kinh, niệm Phật, sám hối, ngồi thiền, niệm chú, bắt ấn, cầu an, cầu siêu, thần thông phép thuật, biết chuyện quá khứ vị lai, xem sao, đoán vận mạng, xem ngày giờ tốt xấu cất nhà dựng vợ gả chồng, v.v… là những pháp môn lừa đảo, lường gạt người, mua danh bán lợi, buôn Phật bán pháp.

Ăn cắp của công (10Lành) ăn cắp giờ làm việc, ăn cắp của công. Công nhân viên làm việc mà lấy văn phòng phẩm đem về nhà là ăn cắp của công; sử dụng máy photocopy để làm việc riêng: sao giấy tờ cá nhân của mình, sao chụp tài liệu tu học để tặng bạn bè cũng là ăn cắp của công; đến sở làm mà đọc báo, đọc tiểu thuyết, nghe nhạc, trang điểm, hoặc cùng bạn bè ra quán cà phê tán gẫu hàng giờ ... tất cả đều ăn cắp giờ làm việc, là ăn cắp của công.

Ăn thịt chúng sanh phải không thấy, không nghe và không nghi (ĐườngVề.1) nghĩa là trong sự ăn uống phải trau dồi mắt tai của mình, phải ý tứ cẩn thận, khi ăn khi uống phải biết rõ trong thực phẩm đang ăn có xương máu và sự chết chóc đau khổ của chúng sanh trong đó hay không? Nếu có, thà chết trong giới luật của Phật chớ không ăn mà phạm giới. Tại vì, người tu sĩ đạo Phật thường trau dồi tu tập tâm mình lòng thương yêu rộng lớn đối với tất cả chúng sanh, đối với nhân loại khắp mười phương thế giới. Nếu chúng ta chỉ vì bổ béo cho xác thân vô thường bất tịnh này và chạy theo dục lạc, ảo giác ngon ngọt của vị giác thì chúng ta chưa phải một vị tu sĩ đạo Phật chân chánh có lòng từ bi.

Ăn uống phải tiết độ, không nên ăn uống phi thời (ThờiKhóaTu) Vì muốn giải thoát ly dục ly ác pháp thì ăn uống phải đúng giới luật: "Thừa tự pháp chứ không thừa tự thực phẩm". Ăn uống đúng giới luật là không ăn uống phi thời, chỉ ngày một bữa. Người tu sĩ nào ăn uống hai ba bữa là kẻ ăn uống phi thời, là người thừa tự thực phẩm chứ không phải thừa tự pháp; không phải là kẻ tu sĩ Ðạo Phật, là trùng trong lông sư tử sẽ giết chết Ðạo Phật. Kẻ còn tham ăn, tham uống như người thế tục thì làm sao tìm sự giải thoát trong Ðạo Phật được.

Ăn uống trong phạm hạnh (PhậtDạy.4) tức là ăn uống luôn luôn loại trừ năm ấm cái không để năm ấm cái chi phối tâm mình.

Ân huệ lớn (10Lành) tha mạng chết cho người (ân xá), cho vật (không sát sanh)

Ẩn bóng (PhậtDạy.4) để lập đức, lập hạnh và tu hành cho trọn vẹn hơn. Muốn được vậy thì nên tránh xa danh lợi đó là chùa to Phật lớn, Phật tử đông.

B

Ba cấp Bát Chánh Ðạo (PhậtDạy.2) (TâmThư.2) Cấp 1: Giới luật gồm có 5 lớp: 1-Chánh kiến , 2-Chánh tư duy, 3-Chánh ngữ, 4-Chánh nghiệp, 5- Chánh mạng. Cấp 2: Chánh định (Tứ Thánh Ðịnh) gồm có 2 lớp tu tập: 1-Chánh tinh tấn (Tứ Chánh Cần), 2- Chánh niệm (Tứ Niệm Xứ). Cấp 3: Chánh tuệ (Tuệ tam minh) gồm có một lớp tu tập: Tứ Thần Túc (Pháp Thân Hành Niệm).

Ba cấp tu học của Phật giáo (PhậtDạy.2) là: - Cấp Giới luật (Thiện pháp), - Cấp Thiền định (Tứ Thánh Ðịnh), - Cấp Trí tuệ (Tam Minh).

Ba điều để đoạn tận lậu hoặc (PhậtDạy.2) 1- Ðộc cư, 2- Ăn uống, 3- Tỉnh giác.

Ba điều kiện quan trọng của tu sĩ và cư sĩ (CầnBiết.4) tu tập theo Phật Giáo cần phải lưu ý: 1- Phải sống đúng giới luật không hề vi phạm lỗi nhỏ nhặt nào. 2- Phải luôn tu tập an trú và giữ tâm không phóng dật bằng các pháp ly dục ly ác pháp. 3- Phải luôn dùng Chánh Tri Kiến trước các ác pháp và các cảm thọ. Nếu người tu sĩ và người cư sĩ Phật giáo tu tập và giữ gìn tâm được như vậy là thành Chánh Giác không có khó khăn, không có mệt nhọc.

Ba đời chư Phật (ĐườngVề.10) là những người tu hành đã thành Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, những vị này đã giải thoát hoàn toàn.

Ba giai đoạn tu tập Pháp môn Tứ Niệm Xứ: (PhậtDạy.2) 1- Tứ Chánh Cần tu tập trên Tứ Niệm Xứ. 2- Tứ Niệm Xứ tu tập trên Tứ Niệm Xứ. 3- Thân Hành Niệm tu tập trên Tứ Niệm Xứ.

Ba giới đức (CữSĩTu) 1- Nhẫn nhục là đức tính hòa hợp. 2- Tuỳ thuận là đức tính hòa hợp trong gia đình và xã hội. 3- Bằng lòng là đức tính buông xả để sống có thân tâm bình an thanh thản.

Ba giới hạnh (CữSĩTu) Ăn, Ngủ, Ðộc cư. 1- Ăn Ngày ăn một bữa vào giữa trưa, từ 10 giờ đến 12 giờ, ngoài giờ đó nếu ăn uống là phi thời. Ăn uống không điều độ cơ thể dễ sinh bệnh tật. 2- Ngủ phải tập ít ngủ, ngủ nhiều sinh lười biếng, mê muội, hôn ám. Ngủ phải đúng giờ giấc, ngủ không đúng giờ giấc là ngủ phi thời, là ngủ không điều độ. 3- Ðộc cư phải sống một mình, phải sống phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, nhờ đó tâm không bị phân tán; nhờ đó tu tập thiền định mới được dễ dàng. Khi cần thiết chỉ thưa hỏi pháp tu tập với Thầy, không được hỏi bất cứ một người nào, vì hỏi là làm động người khác.

Ba kiết sử (TruyềnThống.2) gồm có: 1/ Thân kiến kiết sử nghĩa là sợi dây chấp ngã trói chặt quá nặng, nếu ai đụng đến ngã mình là không chấp nhận, chống đối lại liền. Ví dụ: Sự hiểu biết chấp thân này là ta, là của ta, là bản ngã của ta và còn cho trong thân này có Phật tánh, linh hồn, thần thức, tiểu ngã, v.v... Sợi dây thân kiến kiết sử này rất khó bứt, nhưng ở đây đức Phật dạy chỉ giữ gìn giới luật nghiêm túc là thân kiến kiết sử sẽ được bứt sạch. 2/ Nghi kiết sử nghĩa là lòng nghi ngờ quá nặng như một sợi dây trói buộc, lúc nào cũng nghi ngờ người này như thế này, người kia như thế khác. Lòng nghi ngờ ấy chỉ có giữ gìn giới luật thì mới bứt sạch. 3/ Giới cấm thủ kiết sử nghĩa là chấp chặt vào những giới cấm phi lý (như tu theo hạnh con bò, hạnh con chó), tu khổ hạnh (như tu đứng ba năm, tu ngồi ba năm, ngồi thiền kiết già đau chân mà cứ ráng ngồi, v.v...) Ðó là những giới cấm thủ kiết sử. Chỉ cần diệt trừ ba kiết sử và làm giảm thiểu tâm tham, sân, si thì cũng vào Niết Bàn.

Ba La Ðề Mộc Xoa (PhậtDạy.4) Ba La Ðề Mộc Xoa (Patimokkha) chắc chắn không phải Phật thuyết, mà do các Tổ chịu ảnh hưởng kinh Vệ Ðà của Bà La Môn biên soạn ra, nên không phù hợp và không tương ứng với những lời Phật dạy. Ba La Ðề Mộc Xoa (Patimokkha) là bộ giới luật của các Tổ biên soạn mà gán cho Phật chế. Trong những bộ giới luật này chỉ có những giới cấm, chứ không có dạy đức giới, hạnh giới và hành giới, do vậy không làm sao giác ngộ Thánh giới uẩn được. Ðem giới bổn Ba La Ðề Mộc Xoa của các Tổ ra đối chiếu với giới kinh của Phật, thì chúng ta thấy giới bổn không phù hợp, không tương ưng với giới kinh. Giới uẩn là nền tảng căn bản đạo đức tâm vô lậu, để tu tập theo con đường giải thoát của đạo Phật, thế mà những bộ giới luật của các Tổ thiếu khuyết như vậy thì làm sao nói lên đủ đức hạnh của một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ; thiếu khuyết như vậy thì làm sao giúp cho bốn giới đệ tử Phật thông suốt Thánh giới uẩn.

Ba lậu hoặc (ĐườngVề.5) là tham, sân, si.

Ba mươi ba cõi trời (ĐườngVề.3) (CầnBiết.5) chỉ cho ba mươi ba pháp thiện. Thiện pháp có rất nhiều, nên có 33 cõi thiện pháp mà trong kinh gọi là 33 cõi trời, tức là 33 trạng thái thiện pháp. Đó là một trạng thái giải thoát của tâm, khi tâm đã đạt mức độ thiện ở đó, thì tương xứng với cảnh giới Thiện ở đó. Chỉ cần thực hiện diệt một ác pháp tăng trưởng một thiện pháp là sanh vào cõi trời đó ngay liền. Ba mươi ba cõi trời là trạng thái giải thoát của tâm, khi tâm đã đạt mức độ thiện ở đó, thì tương xứng với cảnh giới Thiện ở đó. Có hiểu được như vậy mới hiểu được đạo Phật.

Chết được sanh về cõi trời đó là một ảo tưởng, một giấc mộng mơ hồ của những người thiếu óc thực tế khoa học, vô minh không sáng suốt bị các tôn giáo lừa đảo. Ngay trong cảnh sống ở thế gian mà người nào biết ngăn ác, diệt ác pháp thì người ấy đang sống trong Thiên Ðàng chứ không phải Thiên Ðàng ở cõi giới nào cả. Thế giới siêu hình Thiên Ðàng là do các tôn giáo dựng lên, chỉ là cảnh giới do tưởng ấm sanh ra, để an ủi tinh thần của những người yếu đuối đang gặp khổ đau tai nạn, để nuôi hy vọng làm thiện được sanh về đó...

Ba Mươi Bảy Pháp Trợ Ðạo (TrợĐạo) một bảng thống kê các pháp tu hành của đạo Phật, cho người từ sơ cơ mới bắt đầu tu tập cho đến khi chứng đạo, đầy đủ 37 pháp hành, từ dễ đến khó và lý giải rành mạch rõ ràng ba mươi bảy pháp môn giúp cho người tu chứng đạo. Gồm có: Ngũ căn (1- Hai con mắt, 2- Hai lỗ tai, 3- Hai lỗ mũi, 4- Miệng, 5- Thân). Ngũ lực (1- Tín lực, 2- Tấn lực, 3- Niệm lực, 4- Ðịnh lực, 5- Tuệ lực). Tứ vô lượng tâm (1- Từ Vô Lượng Tâm, 2- Bi Vô Lượng Tâm, 3- Hỷ Vô Lượng Tâm, 4- Xả Vô Lượng Tâm). Tứ Bất Hoại Tịnh (1- Niệm Phật, 2- Niệm Pháp, 3- Niệm Tăng, 4- Niệm Giới). Tứ Chánh Cần (1- Ngăn ác, 2- Diệt ác pháp, 3- Sinh thiện, 4- Tăng trưởng thiện pháp). Tứ Niệm Xứ (1- Quán thân, 2- Quán thọ, 3- Quán tâm, 4- Quán pháp). Thất Giác Chi (1- Niệm Giác Chi, 2- Tinh Tấn Giác Chi, 3- Khinh An Giác Chi, 4- Hỷ Giác Chi, 5- Ðịnh Giác Chi, 6- Xả Giác Chi, 7- Trạch Pháp Giác Chi). Tứ Như Ý Túc (1- Dục Như Ý Túc, 2- Tinh Tấn Như Ý Túc, 3- Ðịnh Như Ý Túc, 4- Tuệ Như Ý Túc).

Ba nơi xuất phát luật nhân quả (ĐạoĐức.2) 1. Ý thức. 2. Miệng. 3. Thân.

Ba thiện hành (PhậtDạy.2) (CầnBiết.4) là ba nơi làm điều lành, đó là 1- Thân Thiện Hành, 2- Khẩu Thiện Hành, 3- Ý Thiện Hành.

Ba thiện hạnh (TrợĐạo) Ba hành động thiện trong thân của mọi người như: 1- Nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn nhã nhặn, thường nói lời ái ngữ khiến cho người nghe không buồn khổ, không tức giận được an vui và hạnh phúc. Không được nói lời hung dữ, không được nạt nộ người khác, không được mắng chửi người khác, không được nói lời thô tục, tục tĩu, không được chửi thề, không được xỉa xói vào mặt người khác, không được đánh đập người khác. 2- Làm những điều thiện tức làm mọi việc không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. 3- Suy nghĩ những điều thiện tức là nghĩ ngợi những điều không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh.

Khi thân hành, khẩu hành và ý hành không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì tâm sẽ bất động, thanh thản, an lạc, vô sự. Muốn tâm được bất động, thanh thản, an lạc, vô sự thì trên thân quán thân xem xét thân hành, khẩu hành và ý hành. Ba Thiện Hạnh tức là ý hành thiện, khẩu hành thiện, thân hành thiện (Tứ Chánh Cần). Tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ trên thân quán thân mà không thực hiện Ba Thiện Hạnh thì không bao giờ chứng được trạng thái Tứ Niệm Xứ, cũng như tu tập Ba Thiện Hạnh mà các căn không chế ngự tức là không Độc Cư thì Ba Thiện Hạnh không thành công có nghĩa là không bao giờ diệt hết ác pháp.

Ban ngày (ThờiKhóaTu) là buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều. Trong thời Đức Phật, nói ban ngày tu tập tức là nói buổi chiều vì đọc lại toàn bộ kinh sách Nguyên Thủy, thấy buổi sáng Ðức Phật và chúng tỳ kheo khi chưa đến giờ đi khất thực thì hay đến thăm những vị Bà La Môn.

Bát Bộ Thiên Long (Đường Về.7) Trong kinh Nguyên Thủy đức Phật đã xác định Bát Bộ Thiên Long là tưởng tri, chớ không phải liễu tri. Vậy Bát Bộ chẳng phải là thế giới trời, người, quỷ, thần do tín ngưỡng Ấn Ðộ đã xây dựng từ xưa trước khi có đạo Phật, gồm có: 1- Thiên Chúng gồm sáu cõi trời dục giới, bốn trời tứ thiền sắc giới, bốn trời vô sắc giới. 2- Long Chúng (rồng) gồm có tám vị Long Vương. 3- Dạ Xoa là những quỷ thần. 4- Càn Thát Bà là thần âm nhạc ở cõi trời Ðế Thích. 5- A Tu La là thần quả báo thích đánh nhau. 6- Ca Lâu La là Thần kim xí điểu. 7- Khẩn Na La là giống thần đầu người thường ca hát ở cõi trời Ðế Thích. 8- Ma Hầu La Già là thần rắn, thần mãng xà.

Bát Chánh Ðạo (PhậtDạy.1) (PhậtDạy.2) (PhậtDạy.4) (TrợĐạo) (ĐườngRiêng) (ĐườngVề.2) (CữSĩTu) là chân lý của loài người, là ÐẠO ÐẾ - một chân lý trong bốn chân lý của Ðạo Phật -, là chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả của con người để con người trở thành những bậc A La Hán (vô lậu) hoàn toàn. Bát Chánh Ðạo là một chương trình giáo dục đào tạo bất di bất dịch của những pháp môn tu tập giải thoát thật sự, làm chủ sanh,già, bệnh, chết. Bát Chánh Ðạo là chương trình giáo dục đào tạo những người có đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người, là phương pháp triển khai cuộc sống trên thế gian trở thành cảnh giới Thiên Ðàng, Cực Lạc. Nhờ đó, chúng ta đạt đến mục đích tối hậu, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Bát Chánh Ðạo là chương trình giáo dục đào tạo, chỉ dạy cho ta có một cuộc sống chánh hạnh, đó là đức hạnh làm Người, làm Thánh. Bát Chánh Đạo gồm có: tám lớp học: 1- Chánh Kiến; 2- Chánh Tư Duy; 3- Chánh Ngữ; 4- Chánh Nghiệp; 5- Chánh Mạng; 6- Chánh Tinh Tấn; 7- Chánh Niệm; 8- Chánh Định. Trong giáo pháp và giới luật nào không có Bát Chánh Ðạo là không có đệ tử của Phật.

Bát quái đồ trận (TâmThư.2) là một trận đồ do các tướng của Trung Quốc ngày xưa lập ra để ngăn ngừa giặc xâm chiếm thành trì. Bát quái trận gồm có tám cửa vào: 1- Càn; 2- Khảm; 3- Cấn; 4- Chấn; 5- Tốn; 6- Ly; 7- Khôn; 8- Đoài.

Bát tà đạo (12Duyên) là tám con đường tà: 1-Tà kiến, 2-Tà tư duy, 3-Tà ngữ, 4-Tà nghiệp, 5-Tà mạng, 6-Tà tinh tấn, 7-Tà niệm, 8-Tà định. “Chư Tỳ Kheo, con đường nguy hiểm chỉ là con đường tà đạo có tám ngành, tức là tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định”.(Kinh Song Tầm).

Bà La Môn (PhậtDạy.1) có 4 hạng: 1- Bà La Môn phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới. 2- Bà La Môn cúng bái tế tự, cầu siêu, cầu an, làm những điều mê tín, v.v… 3- Bà La Môn xây dựng thế giới tâm linh, sống trong ảo tưởng, mơ mộng hư ảo; lừa đảo, lường gạt người để được ngồi trong mát ăn bát vàng. 4- Bà La Môn chuyên tu tập luyện thần thông trừ tà, yểm quỷ, bắt ma trị bệnh bằng phù phép tạo ra một thế giới siêu hình huyền ảo khiến cho con người mất hết sức tự chủ, chỉ còn biết tựa nương vào Thần Thánh cứu khổ cứu nạn. Ngày đức Phật còn tại thế không bao giờ chấp nhận những hạng Ba La Môn này, cho những tu sĩ đó là Ma Ba Tuần.

105-NGHĨA CÁC TỪ PHẬT HỌC CHƠN NHƯ - Tỳ khưu Từ Quang

NGHĨA CỦA CÁC CÂU, CÁC TỪ - Kì 3.

Vần B (tiếp theo)

Bà La Môn chân chánh (PhậtDạy.1) thì phải hội đủ những tiêu chuẩn:

1- “Ai biết được đời trước”. Biết được đời trước của mình là phải có Tam Minh. Trong Tam Minh có Túc Mạng Minh. Có Túc Mạng Minh mới biết được nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ của mình và của người khác.

2- Thấy Thiên giới, đọa xứ”. Phải có trí tuệ nhân quả thấy thiện và ác rất rõ ràng. Người thấy thiện ác rõ ràng là người có chánh tri kiến. Người có chánh tri kiến là người ly dục ly ác pháp. Người ly dục ly ác pháp là người tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Người tâm còn ham vui, thích tài sản, của cải, tiền bạc, nhà cửa sang đẹp thì chưa xứng đáng làm Thánh Tăng, Thánh Ni (Bà La Môn chân chánh).

3- Phải Ðạt được sanh diệt tận. Sanh là đời sống, sự sống; diệt là chết, sự chết; tận là tận cùng, cuối cùng, chấm dứt. Toàn nghĩa câu này là phải đạt cho được sự tận cùng sống chết của kiếp làm người.

4- Thắng trí, tự viên thành”. Thắng trí là trí tuệ chiến thắng mọi ác pháp và các cảm thọ, một trí tuệ không bao giờ chịu khuất phục trước mọi trở ngại, gian nan hay mọi việc khó khăn nào, luôn luôn giành phần thắng về mình. Người có thắng trí là người thành tựu đạo giải thoát.

5- Bậc Mâu Ni đạo sĩ” có nghĩa là năng nhơn, năng từ, năng mãn, năng tịch, v.v… Năng nhơn nghĩa là lòng thương người; năng từ là lòng từ bi; năng mãn là tâm tròn đầy đức hạnh; năng tịch là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Nghĩa của toàn câu kệ này là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

6- Viên mãn mọi thành tựu”. Viên mãn: là tròn đầy, đầy đủ, không còn thiếu khuyết một chỗ nào cả. Nghĩa của câu này là tất cả những pháp môn tu hành của Phật giáo đều đã tu hành xong.

Bà La Môn giáo (Đường Về.7) (ĐườngVề.8) (CầnBiết.1) là một tôn giáo lớn nhất của Ấn Ðộ, có trước Phật giáo. Bà La Môn giáo chia đời người Bà La Môn làm ba giai đoạn:

1- Bà La Môn giáo thiếu niên, thì phải học tập thông suốt kinh điển cúng bái tế lễ, đây là giai đoạn học tập (giống như các Thầy ứng phú của kinh sách phát triển).

2- Bà La Môn giáo trung niên, chuyên cúng bái tế lễ, sống ăn mặc như người thế tục giống như cư sĩ bây giờ, gọi là Phạm chí. Ðây là giai đoạn làm từ thiện (Bồ Tát Hạnh).

3- Bà La Môn Giáo tuổi già, bỏ nhà cửa gia đình thân quyến xuất gia đi tu nhưng đầu không có cạo. Ðây là giai đoạn tu hành của Bà La Môn giáo. Người cư sĩ tụng niệm, cúng tế, làm Bồ Tát hạnh là Bà La Môn tụng niệm. Cho nên hình thức tổ chức của Ðại thừa là của Bà La Môn giáo. Người cư sĩ hành nghề cúng tế tụng niệm là một Bà La Môn. Họ không phải là một người tu, mà là một người bình thường như thế tục, chỉ hơn người khác là có đọc kinh sách Vệ Ðà và các nghi thức cúng tế. Thọ giới Bồ Tát rồi tự xưng mình là Bồ Tát (giới Bồ Tát cũng tự họ đặt ra), nên bản chất ngã mạn tự kiêu của họ rất lớn. Những người này ta không nên trách, vì họ là cư sĩ Bà La Môn chứ không phải cư sĩ đạo Phật.

Bản thể tuyệt đối (ĐườngVề.4) Bản thể tuyệt đối, do các tôn giáo Ðại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông, Bà La Môn, v.v... tưởng ra, xây dựng bản thể tuyệt đối bằng “tưởng tri”. Bản thể tuyệt đối là tưởng tri của loài người và của các tôn giáo khác. Với trí hữu hạn của con người, mà đòi hiểu bản thể tuyệt đối của vạn hữu, cũng như dùng mắt thường mà muốn nhìn thấy vi trùng trong ly nước. Cho nên, Phật và A La Hán đều chứng đạt chân lí này, chứ không phải chứng đạt bản thể tuyệt đối mơ hồ của ngoại đạo. Người xả tâm sạch, không phải đạt được bản thể tuyệt đối mà chỉ làm chủ tâm mình (ly dục ly ác pháp), không còn phiền não đau khổ, thương, ghét, giận hờn, hận thù, v.v…

Bảy Diệu Pháp (CầnBiết.4) I- Lòng tin (Đức Phật có 12 danh hiệu, mỗi danh hiệu nói lên được Đức Hạnh và Trí Hạnh của Phật 1- Như Lai; 2- Ứng cúng; 3- A La Hán; 4- Chánh Đẳng Giác; 5- Minh Hạnh Túc; 6- Thiện Thệ; 7- Thế gian Giải; 8- Vô Thượng sĩ; 9- Điều Ngự Trượng Phu; 10- Thiên Nhân Sư; 11- Phật; 12- Thế Tôn). II – Lòng tàm, tự xấu hổ vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự xấu hổ vì thành tựu ác, bất thiện pháp”. III – Lòng quý, tự sợ hãi vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự sợ hãi vì thành tựu ác, bất thiện pháp. IV- Đa văn, nhớ nghĩ những điều đã nghe, tích tụ những điều đã nghe. Những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có văn nói lên phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, được trí suy tư, được chánh kiến thể nhập. V- Sống tinh cần tinh tấn, trừ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. VI- Thành tựu niệm tuệ tối thắng, nhớ lại, nhớ lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói từ lâu. VII- Có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau.

Bảy Giác Chi (TrợĐạo) gồm có: 1- Niệm Giác Chi, 2- Tinh Tấn Giác Chi, 3- Khinh An Giác Chi, 4- Hỷ Giác Chi, 5- Ðịnh Giác Chi, 6- Xả Giác Chi, 7- Trạch pháp Giác Chi.

Bảy Kiết Sử (12Duyên) gồm có: 1- Ái kiết sử; 2- Sân kiết sử; 3- Kiến kiết sử; 4- Nghi kiết sử; 5- Mạn kiết sử; 6- Hữu tham kiết sử; 7- Vô minh kiết sử. Muốn giải thoát thì đoạn trừ tận gốc ngũ triền cái và thất kiết sử thì chứng đạo.

Bằng lòng (ĐườngRiêng) (Tạoduyên) vui lòng chấp nhận mọi ý kiến và việc làm của người khác không có chút gì còn chướng ngại trong lòng, tức là chấp nhận và vui vẻ. Bằng lòng mọi hoàn cảnh để tâm mình Bất Động.

Bậc A La Hán (ThanhQui) của Phật giáo phải từ sự chấp nhận giữ gìn Giới luật và oai nghi chánh hạnh; phải từ Lục hòa và ăn uống, ngủ nghỉ tiết độ, không ăn uống, ngủ nghỉ phi thời; phải từ sự phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý và luôn luôn sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt. Nhờ những pháp này mới sinh ra bậc A La Hán. A La Hán có nghĩa là không còn tham sân si. Vậy khi đã chứng quả A La Hán mà vị này lại tự tại vô ngại phạm mà vào các pháp sống của A La Hán, khi oai nghi chánh hạnh không có, lục hòa không có thì đó là A La Hán của ngoại đạo. Trong tập thể có một vị A La Hán tự tại vô ngại đói ăn khát uống mệt ngủ thì còn gì là A La Hán nữa.

Bậc đại tu hành chẳng lạc nhân quả (ĐườngVề.4) Chữ “lạc” ở đây có nghĩa là rơi, bị, nghĩa là bậc đại tu hành không bị nhân quả tác dụng thân nhân quả duyên hợp, đó là hiểu sai. Đã mang thân nhân quả thì phải có tai nạn, bệnh tật; thân nhân quả vẫn là thân nhân quả không thể thay đổi được, dù người đó tu đã thành Phật. Nhưng tu đúng theo pháp của đức Phật, thì tâm không dao động trước tai nạn, bệnh tật và kế đó dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ, làm cho các cảm thọ khổ, lạc, bất khổ bất lạc, không tác động được vào thân và tâm và còn khắc phục chuyển hóa khổ thọ, lạc thọ ra khỏi thân tâm (Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu). Pháp của Phật, tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì nghiệp nhân quả làm sao chi phối được tâm người tu chứng. Nghiệp nhân quả tuy có nhưng không chi phối được tâm người tu chứng, tức là người tu chứng làm chủ nhân quả; làm chủ nhân quả tức là làm chủ nghiệp, chứ không phải làm chủ cái thân nhân quả duyên hợp như ông già chồn đã nói. Còn bảo không mê muội như Thiền Tông mà không làm chủ được các thọ, thì không đúng pháp Phật.

Bậc duyên giác (PhậtDạy.4) người ngộ được 12 nhân duyên, tu tập ngay trên các cảm thọ. Thọ sinh ra ái dục. Muốn bẻ gẫy ái dục thì phải yểm ly ba thọ. Muốn yểm ly ba thọ thì Ðịnh Niệm Hơi Thở phải tu tập nhiếp phục và an trú tâm cho được nhuần nhuyễn trong hơi thở, nhiếp tâm và an trú tâm cho được trong thân hành niệm nội hay ngoại. Ðó là những pháp yểm ly các thọ. yểm ly các thọ là một hành động đạo đức tự thân tâm. Khi yểm ly ba thọ được thì tham dục bị đoạn diệt. Tham dục đoạn diệt là tự thân đã giải thoát và giải thoát hoàn toàn.

Bậc Hiền Trí (PhậtDạy.1) Người chỉ lỗi và khiển trách chúng ta để chúng ta trở thành người tốt, có đạo đức; bậc Hiền Trí dám nói thẳng, dám chỉ lỗi, dám khiển trách những chỗ sai lầm của cuộc đời cũng như trong Ðạo, để cho mọi người biết mà cố gắng sửa sai. Bậc Hiền Trí sửa đời, sửa đạo vì Ðời và Ðạo chưa bao giờ toàn thiện. Bậc Hiền Trí nói thẳng cái gì đúng nói là đúng, cái gì sai nói là sai.

Bậc ly dục ly ác pháp (TruyềnThống.1) là những bậc nhập vào dòng Thánh (nhập lưu), nên được gọi là Thánh đệ tử Phật.

Bậc Mâu Ni đạo sĩ (PhậtDạy.1) là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

Bậc Mâu Ni đạo sĩ Viên mãn mọi thành tựu (CầnBiết.3) là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

Bậc Thánh nhân (ĐườngVề.6) là những người biết xấu hổ, biết sửa sai; biết xấu hổ, biết sửa sai tức là biết độc cư sống trầm lặng, sống trầm lặng, tức là cuộc sống Thánh thiện; cuộc sống Thánh thiện là cuộc sống của những bậc Thánh nhân, cho nên người phàm phu tầm thường không thể nào sống độc cư nổi.

Bậc thiện hữu tri thức (12Duyên) là bậc tu hành đúng chánh pháp của Phật và đã tu chứng đạo. Người tu hành chân chánh, đầy đủ công đức siêng năng, không lười biếng, xa lìa tâm kiêu mạn, nhẫn nhục, nhân từ, một mình ở nơi thanh vắng tu tập, một mình đạt được Niết bàn, diệt trừ tham, sân, si, ở chỗ ô nhiễm mà không bị ô nhiễm, ở chỗ ngu si mà không bị ngu si ám ảnh, ở chỗ đắm nhiễm mà không bị đắm nhiễm, ở chỗ đáng trụ mà không trụ, ở chỗ đáng ở mà không ở, thân hành động ngay thẳng, miệng nói lời chân thật, ý nghĩ chân chánh, thân làm việc thanh tịnh, có lòng nhân từ vô hạn, biết đủ trong sự ăn mặc, và mang bát đi khất thực để gây phúc lành cho chúng sanh. Bậc tu chứng đạo mới đủ khả năng hướng dẫn người khác tu hành đúng chánh pháp của Phật.

Bất động (Phậtdạy.3) (CầnBiết.4) là không bị lay động

Bất động tâm (ĐườngVề.3) Ðức Phật đã xác định: “Mục đích của Ðạo Ta không phải chỗ giới luật, không phải chỗ thiền định, không phải chỗ trí tuệ, không phải chỗ thần thông, v.v... mà chỗ bất động tâm”.

Bất động tâm định (PhậtDạy.4) (ĐườngVề.2) (ĐườngVề.5) (ĐườngVề.6) (ĐườngVề.9) (ĐườngVề.10) (Tạoduyên) là loại thiền định giải thoát tâm hoàn toàn, sống trong trạng thái Niết bàn của chư Phật mười phương, do ly dục ly ác pháp, hay nói một cách khác hơn bất động tâm định là tâm không phóng đật, một quá trình tu tập bằng một cuộc sống đúng giới luật, không những không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả trong khi giữ gìn giới luật còn tu tập các pháp hành như: Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ... để làm cho thanh tịnh giới luật, nhờ giới luật thanh tịnh tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Bất động Tâm Ðịnh là trạng thái tâm không phóng niệm và không phóng dật, như Ðức Phật đã dạy: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Người thế gian không bao giờ sống và vào trong trạng thái Niết bàn đó được vì tâm người thế gian còn vọng động, còn ham thích. Bất động tâm định có một sức tĩnh thức tuyệt vời nhìn thấu suốt lý nhân quả trong các pháp, nên người nào đã thực hiện được, đều có một đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người. Nhưng muốn có một đạo đức như vậy thì cần phải trau dồi rèn luyện thân tâm trong giới luật và Tứ Chánh Cần, trong một thời gian rất dài, không phải giờ, một ngày mà có được. Bất động tâm định là một pháp môn thiền định, kết quả của sự ngăn ác và diệt ác pháp, một loại thiền định do giới luật sanh ra, tức là tâm bất động trước các ác pháp, trước các cảm thọ, chứ không phải bất động là không vọng tưởng, không niệm thiện niệm ác. Bất động tức là tĩnh thức trong niệm chơn chánh; niệm chơn chánh tức là niệm thiện. Niệm thiện tức là niệm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Người tu tập tới Bất Ðộng Tâm Ðịnh muốn nhập định nào cũng dễ dàng và thực hiện Tam Minh cũng không còn khó khăn, tức là phải dùng pháp hướng tâm. Muốn đạt được tâm bất động như vậy thì phải tu tập Tứ Niệm Xứ. Muốn tu tập Tứ Niệm Xứ sung mãn thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì Tứ Niệm Xứ chỉ là một pháp ức chế tâm, khiến cho hành giả rơi vào các loại thiền tưởng, có khi bị Tẩu Hỏa Nhập Ma. Bất Ðộng Tâm Ðịnh là một trạng thái Tứ Niệm Xứ sung mãn, trạng thái này có đủ 7 năng lực của Thất Giác Chi. Do 7 năng lực của Thất Giác Chi mới nhập vào trạng thái của Sơ Thiền là trạng thái tâm không phóng dật, tâm không phóng dật tức là tâm ly dục ly ác pháp, tâm đã thanh tịnh là tâm bất động khi chiến thắng các ác pháp bên ngoài nhờ tu Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu nơi các pháp thiện và pháp ác. Tham ưu luôn luôn dồn dập tới tấp nếu không đủ sức kham nhẫn, không đủ nghị lực chịu đựng, không đủ tri kiến giải thoát và không đủ trí tuệ nhân quả, thì phải bỏ cuộc tu hành. Muốn chiến thắng các pháp thuộc về Tứ Niệm Xứ như ở trên thì: 1/ Phải đầy đủ sức kham nhẫn. 2/ Phải có nghị lực dũng mãnh. 3/ Phải đầy đủ tri kiến giải thoát. 4/ Phải có trí tuệ nhân quả. Muốn có đủ sức kham nhẫn thì hằng ngày nên tu tập pháp hướng tâm: “Tâm bất động như núi đá, khen không mừng, chê không buồn, chửi mắng, mạ nhục không giận, phải trơ trơ như tường đồng vách sắt”. Những câu hướng tâm này cần phải thuộc lòng và phải luyện tập cho có lực, khi gặp các pháp ác đến tới tấp thì mới đủ sức kham nhẫn vượt qua và cuối cùng mới xả tâm được. Bất Ðộng Tâm Ðịnh là Vô Tướng Tâm Ðịnh. Bất động tâm định là một loại thiền định rất cần thiết và lợi ích cho cuộc sống con người trên hành tinh này.

Bất thiện (ĐườngVề.2) có nghĩa là ác pháp. Đức Phật dạy về bất thiện (mười pháp ác) “Sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói lưỡi hai chiều là bất thiện, nói lời phù phiếm là bất thiện, nói lời hung ác là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện”.

Bất thiện pháp (ThiềnCănBản) là tham, sân, si, mạn, nghi, những thói quen, tật xấu, những điều suy nghĩ, những lời nói, những hành động làm cho mình khổ, người khác khổ. Bất thiện pháp còn gọi là pháp ác, pháp hung dữ, pháp làm khổ đau. Muốn lìa xa pháp ác thì phải rèn luyện, tu tập ba đức: 1. Nhẫn nhục. 2. Tùy thuận. 3. Bằng lòng.

Bất tịnh (ĐườngVề.6) là chẳng trong sạch, bất tịnh còn có nghĩa là ác pháp.

Bất tử (PhậtDạy.2) nghĩa là không chết.

Bất tử giới (CầnBiết.2) trạng thái thân tâm bất động.

Bẻ gãy mười hai nhân duyên (12Duyên) tức là làm cho chúng không còn hợp lại được nữa. Làm cho chúng không còn hợp lại được nữa thì hành giả có đầy đủ ý chí dũng mãnh kiên cường bằng cách giữ gìn tâm Bất Động trước các ác pháp và từng tâm niệm của mình từng phút giây đang khởi lên liên tục.

Bệnh (TâmThư.2) là do nghiệp của nhân quả thiện ác. Có thân chưa ra khỏi nhân quả thì thân phải còn bệnh, đó là một sự tất yếu của đời sống con người, một qui luật tự nhiên của nhân quả. Muốn không sợ bệnh thì nên nhiếp tâm và an trú tâm trong thân hành nội.

Bệnh đau (TâmThư.2) là do nhân quả giết hại và ăn thịt chúng sinh. Người ăn chay trường mà còn bệnh đau là do tâm ý còn ác, tuy không ăn thịt chúng sinh, nhưng còn giết hại chúng sinh như kiến, muỗi và các vật khác, họ chưa thật lòng yêu thương tất cả sự sống của chúng sinh. Bệnh đau bướu ở bất cứ nơi đâu trên thân đều do nhân quả kiếp trước thường hay đánh đập loài chúng sanh. Muốn chuyển nghiệp này thì phải sống đúng năm giới và tập an trú vào cánh tay đưa ra đưa vào. Khi an trú vào cánh tay xong thì tác ý: “Bệnh bướu này chuyển biến thay đổi lành lặng như xưa”.

Bệnh khổ (ĐạoĐức.2) Bệnh khổ là cơ thể bệnh tật, đau nhức khó chịu như: đau bụng, nhức đầu, ngứa ngáy, mệt mỏi, bất an, nóng, lạnh, tê, chóng mặt, v.v... Bệnh khổ là một sự thật hiển nhiên, nên nó là chân lý của con người. Do mọi người đều chấp nhận “Bệnh khổ” nên nó là chân lý.

Bi tâm (PhậtDạy.1) là lòng thương xót trước cảnh thương tâm, bất hạnh của chúng sanh. Nếu một người tu tập rèn luyện được lòng thương xót tất cả chúng sanh, khi lòng thương xót ấy hiện tiền thì tất cả ác pháp như tham, sân, si, mạn, nghi đều không tác dụng vào tâm mình. Do đó, tâm vô lậu hoàn toàn và chứng quả A La Hán ngay liền, có đầy đủ thiền định và Tam Minh.

Bi vô lượng (4Tâm) là lòng thương vô bờ bến trước nỗi khổ của chúng sanh. Người có lòng bi không đành lòng ngồi yên nhìn sự thống khổ của chúng sanh. Đành rằng sự đau khổ của thế nhân là cái duyên nhân quả, nhưng lòng bi không cho phép chúng ta làm ngơ. Phải dùng lời khuyên bảo, thăm hỏi, có hành động cứu giúp (khi thấy con vật bị gãy chân, ta ôm nó vào lòng, xoa nhẹ trên vết thương). Hành động đó, thời gian đó quý báu hơn là vàng bạc, ngai vàng của nhà vua. Làm được việc ấy thì lòng ta cũng cảm thấy hân hoan. Khi giúp cho chúng sanh được an vui, hạnh phúc, ta cũng tìm cách giúp cho chúng sanh xa lìa nhân ác, để sống vui, chứ không phải chỉ giúp họ khi họ bị khổ. Và khi họ cứ rơi vào đường khổ thì phải dạy cho họ hành động thiện, tập nhân tốt để tránh quả khổ. Trau dồi tâm từ là ngăn ngừa những điều kiện có thể làm cho chúng sanh đau khổ, còn trau dồi tâm bi là nhắm ngay vào sự đau khổ của chúng sanh để mà xoa dịu, an ủi. Muốn được như vậy thì lúc nào ta cũng trau dồi, nhắc nhở tâm ta hãy thương người đang sân. Khi nào rảnh rỗi thì phải tự nhắc tâm như thế, chớ không phải đợi đến lúc sân hận nổi lên mới áp dụng. Nếu thường xuyên thực tập, nhắc nhở như thế thì khi thấy một người đang sân với ta, ta mới có thể thương được.

Bí quyết cốt tủy giải thoát của đạo Phật (PhậtDạy.1) là ly dục, ly ác pháp thì được giải thoát, chỉ cần siêng năng tu tập là đạt được kết quả ngay liền. Kẻ nào vô minh thường bị tham ái trói buộc thích thú vui chơi chỗ này, chỗ kia thì sự đau khổ và tái sanh luân hồi không thể tránh khỏi; còn kẻ nào, an vui, tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Do tâm hồn được như vậy thì sẽ chấm dứt tái sanh luân hồi chắc chắn.

Bí quyết thành công sự giải thoát của Phật giáo (Tạoduyên) là sống Ðộc Cư.

Bí quyết thành tựu của Ðạo Phật (Phậtdạy.3) 1- Giữ tâm không phóng dật. 2- Thích sống nhàn tịnh.

Biên Kiến (CầnBiết.2) là chấp một bên, nghiêng về một phía, đó là những thành kiến rất cực đoan. Biên kiến có nhiều lối chấp sai lầm, trong đó, lớn nhất là 3 kiến chấp: 1- Thường kiến: Là một loại luận thuyết mơ hồ trừu tượng, cho rằng người chết còn linh hồn; cho rằng có thế giới siêu hình, có bản thể vũ trụ, có tiểu ngã, đại ngã, có thần thức, có Phật tánh, có Thiên Ðàng, có Ðịa Ngục, có Ngọc Hoàng Thượng Ðế, có Chúa trời, có thần, quỷ, ma, v.v... Những người chấp thường kiến là những người thường sống trong mê tín, lạc hậu, sống trong mộng tưởng, xây dựng cảnh giới siêu hình, thường cầu cúng, tế, lễ bái, và ước vọng làm những điều thiện để khi chết được sanh lên Cực Lạc Thiên Ðàng của cõi Trời, cõi Niết Bàn hay cảnh giới chư Phật. Thiền tông, Mật tông đều thuộc về thường kiến. 2- Ðoạn kiến: Là một loại luận thuyết chết cứng, khô cằn, cho chết là hết, không còn gì cả. Loại luận thuyết này khiến cho con người mất hết niềm hy vọng về tương lai. Cho nên người Ðoạn kiến đặt ra câu hỏi: “Tương lai không có thì hiện giờ để làm gì? Ngày mai chết là hết”. Vì vậy, con người chấp đoạn kiến thì làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, chẳng còn biết nghĩ đến ai cả, sống chỉ quay cuồng trong dục lạc, sống theo kiểu hiện sinh không có ngày mai. Người chấp đoạn kiến là những người không thông suốt môi trường sống hợp duyên của các pháp. 3- Vừa thường vừa đoạn kiến: Có một luận thuyết cho rằng các pháp trong thế gian này vừa có vừa không, như ngài Long Thọ: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Ðó là lối lý luận trườn uốn như con lươn, để rồi Ngài đẻ ra trí tuệ Bát Nhã chơn không, thành ra thường kiến. Cuối cùng, Ngài cũng như các nhà thường kiến khác, nhưng giỏi khéo lý luận để che mắt thiên hạ, chứ kỳ thực Chơn Không của Ngài đâu có khác gì thần thức, linh hồn, đại ngã, Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có khác danh từ mà thôi.

Biến mãn một phương (TruyềnThống.1) có nghĩa phủ trùm khắp cùng khắp một phương, không có chỗ nào là không có lòng thương yêu nơi phương ấy, hay nói cách khác là lòng thương yêu tất cả chúng sanh không có bỏ sót một loài nào trong phương đó.

Biết rõ được chánh pháp (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ. Biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ thì không cần phải đi tìm pháp tu tập thiền định nào khác nữa. Người tu tập theo thiền xả tâm của Tứ Niệm Xứ thì vọng niệm đến càng tốt, vì có đối tượng dùng “Pháp Tác Ý” trong chánh tư duy. Nhờ có tu tập như vậy tri kiến giải thoát sẽ hiện bày. Do tri kiến giải thoát hiện bày thì sở hành và tham trước không còn. Sở hành và tham trước không còn thì tâm không phóng dật; tâm không phóng dật thì thành chánh giác. Người tu thiền hiện nay khi ngồi hoặc đi kinh hành thấy không vọng niệm là cho mình tu tập có kết quả tốt, còn có vọng niệm xen vào là cho tu tập xấu, không tốt. Đó là một quan niệm hết sức sai lầm trong vấn đề tu tập để làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Biệt trú (TruyềnThông.1) là sống độc cư một mình, sống đúng Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Người sống biệt trú như vậy trong bốn tháng thì mới được Phật và chúng Tăng chấp nhận cho xuất gia làm đệ tử của Phật. Đức Phật ra điều kiện 4 tháng biệt trú, thì những người quyết tâm tu để cầu giải thoát tự nguyện xin đức Phật sống biệt trú 4 năm. Sống biệt trú 4 năm đó là những người tự nguyện sống trong giới luật của Phật giáo.

Bình đẳng (TâmThư.1) thuộc về đức, cho nên gọi Ðức Bình Ðẳng chứ không ai gọi Ðức Mặc Cảm. Khi gọi đức Mặc Cảm thì phải có thêm một danh từ đạo đức nào đó, còn riêng nó đứng một mình thì không được gọi là đức mà gọi là hạnh Mặc Cảm.

Bố thí (ĐườngVề.8) (10Lành) (ThiềnCănBản) là hạnh buông xả, buông bỏ, không chất chứa tài sản của cải, mà còn chia xẻ cho người nghèo khổ, bất hạnh. Bố thí là đem lòng thương yêu của mình đến với những người bất hạnh, an ủi và xoa dịu vết thương đau của họ. Việc làm bố thí như vậy thì phước báo sẽ đến với mình, mình sẽ được lòng thương của mọi người, gặp lúc nạn tai, mọi người sẽ an ủi và giúp đỡ lại mình, chứ không phải bố thí đem tiền bạc cho người là sẽ có phước báo lớn giàu sang, muốn gì được nấy. Đó là một góc độ đạo đức làm người. Bố thí không đúng pháp là bị người lừa gạt, nên không làm lợi ích cho mình, vì mình bị gạt; không làm lợi ích cho người vì tạo duyên cho người khác làm ác nhiều hơn (lường gạt người khác). Đức bố thí do lòng yêu thương là nhân quả thiện, nhưng nếu thiếu trí tuệ quan sát đối tượng được bố thí thì không thiện mà sự bố thí đó làm nhân quả ác vì tạo duyên cho người ác làm ác nhiều hơn. Trường hợp bố thí bị lừa gạt như đem hạt giống tốt gieo trên đất xấu khô cằn cỗi. Theo Phật giáo Nguyên Thủy bố thí phải có trí tuệ nhân quả. Khi thấy một người tàn tật hay gặp một người bị tai nạn hoặc một người ốm đau không tiền thang thuốc, đi bác sĩ hay đi bệnh viện. Ðây là nhân quả của những người này, họ đang trả vay, nhưng có nhân duyên kiếp trước nên kiếp này mới gặp ta trong hoàn cảnh này. Vậy ta nên giúp đỡ họ như thế nào cho đúng pháp: Thấy người tàn tật, biết rõ họ thật sự tàn tật thì giúp đỡ, còn gặp họ ở giữa đường thì ta nên tránh, vì người tàn tật đều có chỗ ở do các nhà từ thiện hoặc nhà nước, còn gặp người tàn tật ở ngòai đường, phần đông là những người giả dối, người tàn tật đi xin ăn ngoài đường làm nhục đất nước đó. Chúng ta không nên cho những người ăn xin ngoài đường. Người tàn tật bất hạnh trong xã hội đều có nhà dưỡng lão, nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà nuôi những người khuyết tật, nhà tình thương nuôi dạy trẻ lang thang, v.v... Ðó là trách nhiệm của Nhà nước, của những nhà từ thiện. Người bố thí cho kẻ ăn xin ngoài đường là không đúng pháp, sự bố thí đó vô tình tạo thêm những người lừa gạt người khác và cũng vô tình làm nhục đất nước (Ðất nước ăn mày). Còn bố thí cho người bệnh tật thì không nên trao tiền cho họ mà ta nên đưa họ vào bệnh viện hay đi bác sĩ. Nếu bác sĩ bảo đó là bệnh thật thì chúng ta mới bỏ tiền ra bố thí, còn nếu chúng ta bận việc không đưa đi bác sĩ hay bệnh viện thì không nên bố thí. Bố thí là giúp người mà giúp người thì phải đem hết lòng ra giúp, chứ không thể bố thí theo kiểu lấy có. Bố thí theo kiểu lấy có là tạo duyên cho kẻ ác làm ác thêm (lừa đảo).

Bố thí Ba La Mật (ĐườngVề.10) (TâmThư.1) là bố thí mà người cho không biết mình cho và người nhận không biết mình nhận. Bố thí Ba La Mật là lối lý luận tánh KHÔNG của trí tuệ Bát Nhã.

Bố thí bất trụ tướng (10Lành) bố thí mà không nghĩ làm phước, không nghĩ được phước; bố thí là bỏ đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình ra để cho người khác đang cần được giúp đở. Bố thí là thể hiện tánh không tham lam tài vật của người.

Bốn chân lý (ĐạoĐức.2) được phối hợp lại chặt chẽ đúng cách, biến thành một cuộc sống cao đẹp, tuyệt vời của kiếp con người. Ðó chính là đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người.

Bốn cửa vào Đạo (12Duyên) cửa Vô Minh, cửa Lục Nhập, cửa Thọ và cửa Sanh để phá vòng tròn Mười Hai Nhân Duyên, là diệt thế giới quan đau khổ của con người. Mọi người phải tùy theo đặc tướng và hoàn cảnh của mình để chọn lấy một cửa trong mười hai cửa, mọi người hãy tinh tấn dõng mãnh tu tập để chứng đạt chân lý giải thoát.

Bốn Dự Lưu Chi (12Duyên) 1- Ðầy đủ lòng tin bất động đối với Phật, 2- Ðầy đủ lòng tin đối với Pháp, do đức Phật khéo thuyết, 3- Ðầy đủ lòng tin bất động đối với Chúng Tăng là đệ tử đức Phật, 4- Ðầy đủ lòng tin đối với giới luật đức hạnh do đức Phật chế, được các bậc Thánh quý mến.

Bốn đại (TrợĐạo) đất, nước, gió, lửa.

Bốn định (CữSĩTu) 1- Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. 2- Ðịnh Niệm Hơi Thở. 3- Ðịnh Vô Lậu. 4- Ðịnh Sáng Suốt.

Bốn định vô sắc (CầnBiết.3) gồm có: Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Bốn giai đoạn tỉnh thức (ĐườngVề.10): 1- Tỉnh thức khi chết vào thai mẹ. 2- Tỉnh thức khi ở trong bụng mẹ. 3- Tỉnh thức khi xuất thai. 4- Tỉnh thức trong khi còn bé. Bốn sự tỉnh thức này là những pháp môn tu tập để làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người.

Bốn giới trong lục hòa (CữSĩTu) 1- Khẩu hòa không tranh cãi. 2- Ý hoà cùng vui (vui theo tâm ý người, làm theo ý của người). 3- Có ý kiến hay cùng giảng giải cho nhau nghe, cho nhau hiểu cùng tu, cùng học. 4- Giới hoà đồng tu sống như nước với sữa; cùng khích lệ, sách tấn nhau giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trên bước đường tu tập.

Bốn loại Bà La Môn (CầnBiết.4) Trong thời Đức Phật còn tại thế Bà La Môn có thể chia ra: 1- Bà La Môn phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới. 2- Bà La Môn cúng bái tế tự, cầu siêu, cầu an, làm những điều mê tín, v.v... 3- Bà La Môn xây dựng thế giới tâm linh, sống trong ảo tưởng, mơ mộng hư ảo; lừa đảo, lường gạt người để được ngồi trong mát ăn bát vàng. 4- Bà La Môn chuyên tu tập luyện thần thông trừ tà, yểm quỷ, bắt ma trị bệnh bằng phù phép tạo ra một thế giới siêu hình huyền ảo khiến cho con người mất hết sức tự chủ, chỉ còn biết tựa nương vào Thần Thánh, Tiên, Phật hoặc Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Đức Phật đã tự cho mình là Bà La Môn “Ta gọi Bà La Môn” theo nghĩa Bà La Môn phải là những bậc: “Bậc trâu chúa, thù thắng. Bậc anh hùng, đại sĩ. Bậc chiến thắng, không nhiễm. Bậc tẩy sạch, giác ngộ”.

Bốn loại định căn bản của Phật giáo (ĐườngVề.4) 1- Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. 2- Ðịnh Vô Lậu. 3- Ðịnh Niệm Hơi Thở. 4- Ðịnh Sáng Suốt. Khởi đầu tu bốn loại định này bằng pháp môn Tứ Chánh Cần. Dùng bốn loại định này ngăn ác diệt ác pháp, khởi thiện tăng trưởng thiện pháp, tức là diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp. Đạo Phật ra đời đi từ sự tu tập sức tỉnh giác để giữ tâm trong chánh niệm, tức là xả tâm, ly dục ly ác pháp, không có một chút ức chế tâm nào cả. Lấy tâm nương hành động của thân nội và thân ngoại tập tỉnh thức chánh niệm, để xả dục, xả ác pháp, tránh không đi vào trạng thái tĩnh lặng, ức chế tâm của các tôn giáo khác mà đi vào trạng thái đoạn diệt tâm tham, sân, si khiến cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự để đi vào trạng thái thanh tịnh bất động tâm, tức là định của đạo Phật.

Bốn Như Ý Túc (TrợĐạo) có Bốn Như Ý Túc thì mới nhập được Bốn Thánh Ðịnh, gồm có: 1- Tinh Tấn Như Ý Túc, 2- Ðịnh Như Ý Túc, 3- Tuệ Như Ý Túc, 4- Dục Như Ý Túc.

Bốn Niệm Xứ (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là phương pháp tu tập trên bốn chỗ của thân ngũ uẩn: thân, thọ, tâm và pháp, để đạt được ý thức ly dục ly bất thiện pháp, tức là ý thức không phóng dật (không khởi niệm).

Bốn Niệm Xứ là định tưởng (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) Sao lại gọi: “Bốn Niệm Xứ là định tưởng”? Khi mới bước chân vào tu tập Bốn Niệm Xứ thì phải tu tập 16 loại tưởng. Nhờ tu tập 16 loại tưởng này nên tâm mới sinh ra nhàm chán các pháp thế gian vì thấu suốt lý các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, uế trược, do qui luật nhân quả duyên hợp tạo thành chẳng có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Do ý nghĩa này mà Bốn Niệm Xứ là Ðịnh Tưởng. Nên hiểu: “Ðịnh Tưởng chứ không phải Tưởng Ðịnh”.

Bốn pháp giải thoát (PhậtDạy.4) là Thánh giới, Thánh định, Thánh tuệ, Thánh giải thoát. Tuy Bốn pháp nhưng tu tập pháp này thì thành tựu luôn ba pháp kia.

Bốn sự đau khổ (Tạoduyên) sinh, già, bệnh, chết

Bốn Thần Túc (Tứ Như Ý Túc) (PhậtDạy.4) (Tạoduyên) là năng lực siêu việt, phi phàm. Khi tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ tức là tâm thanh tịnh hoàn toàn không còn có tham, sân, si thì Bốn Thần Túc xuất hiện một cách tự nhiên. Bốn Thần Túc là biết một cách rõ ràng, cái biết này do thức uẩn. Bốn Thần Túc xuất hiện từ trong tâm Bất Động. Dùng thần lực Bốn Thần Túc nhập Bốn Ðịnh Hữu Sắc và thực hiện Tam Minh. Đức Phật đã xác định Bốn Thần Túc kéo dài mạng căn của mình từ một kiếp hay một phần kiếp còn lại; khả năng ấy phải lưu xuất từ tâm ly dục ly ác pháp; từ một tâm thanh tịnh hoàn toàn; từ một tâm bất động trước ác pháp và các cảm thọ. Ngay từ khi tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là đã kéo dài tuổi thọ. Khi nào họ muốn chết thì sử dụng Tứ Thần Túc để tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thánh Ðịnh và xuất ra khỏi trạng thái Tứ Thánh Ðịnh vào Niết Bàn thì bỏ thân tứ đại này.

Bốn thần túc làm chủ sanh già bệnh tử (ĐườngVề.5) có nghĩa: 1- Làm chủ được đời sống (sanh) tâm không còn tham, sân, si, giận, hờn, phiền não, lo rầu, ganh tị, thù oán, v.v… 2- Làm chủ cơ thể khi già yếu (già), khiến cho cơ thể già mà không yếu đuối, không lẫn lộn, không quên trước, quên sau, cơ thể quắc thước, khoẻ mạnh, cường tráng như một thanh niên. 3- Làm chủ đau ốm (bệnh), là đẩy lui tất cả bệnh tật ra khỏi thân. 4- Làm chủ khi chết (tử), là muốn chết hồi nào là chết ngay hồi ấy một cách tự tại. Bốn Thần Túc không phải là pháp môn tu tập mà là bốn thần lực do tu tập từ pháp môn Thân Hành Niệm mà có. Chính bốn năng lực Thần Túc là phương pháp sử dụng làm chủ sanh tử luân hồi. Ðó là pháp môn sau cùng của Phật giáo.

Bốn tinh cần (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là bốn pháp môn mà người đệ tử của Phật cần phải siêng năng tu tập hằng ngày không được biếng trễ. 1- Hằng ngày phải siêng năng chế ngự tâm mình (Tinh cần chế ngự). Chế ngự khác nghĩa với ức chế. 2- Phải siêng năng đoạn tận các ác pháp. Xin đừng hiểu lầm ác pháp là vọng niệm của mình. Ác pháp về tâm (khi có một tầm khởi lên, tầm ấy thuộc về tham, sân, si) và Ác pháp thuộc về thân (thân bị bệnh đau nhức chỗ này chỗ khác). 3/ Hằng ngày phải siêng năng tinh cần tu tập 37 pháp môn trợ đạo. Tu tập phải kỹ lưỡng, phải từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày, không lúc nào quên tu tập. Tu tập các pháp môn này chỉ có nương vào hành động nội và ngoại của thân chúng ta. 4/ Hằng ngày phải siêng năng tinh cần hộ trì các căn từng phút từng giây không được biếng trễ. Hộ trì các căn là pháp độc cư, một bí quyết tu tập để nhập các định và thực hiện Tam Minh. Bốn Tinh Cần là một tên khác của Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần là một phương pháp tu tập dùng ý thức ngăn ác và diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Một pháp môn dùng cho mọi người tu tập lúc mới bắt đầu theo Đạo Phật. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà mọi người mới giữ gìn giới luật trọn vẹn. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà giới luật không bao giờ vi phạm. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà tâm hồn mới được thanh thản, an lạc và vô sự. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà cuộc sống gia đình mới được an vui và hạnh phúc. Bốn tinh cần (Tứ Chánh Cần) là pháp môn tu tập làm cho giới luật thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm định, nên “Giới sinh định”. Muốn có thiền định thì chỉ cần tu tập giới luật cho thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh tức là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly ác pháp thì ngay đó là thiền định, đức Phật dạy: “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Bốn Tinh Cần là Ðịnh Tư Cụ.

Bốn Tinh Cần là Định Tư Cụ (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) Bốn tinh cần là pháp môn tu tập làm cho giới luật thanh tịnh. Vì giới luật thanh tịnh là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm định, nên Đức Phật dạy: “Giới sinh định”. Muốn có thiền định thì chỉ cần tu tập giới luật cho thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh tức là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly ác pháp thì ngay đó là thiền định, nên Đức Phật dạy: “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Khi biết rõ pháp môn thiền định của Phật do từ giới luật sinh ra thì không ai còn đưa ra một pháp môn nào khác để lừa đảo chúng ta được nữa. Vì lý do này nên lời dạy trong bài kinh nói: “Bốn Tinh Cần Là Định Tư Cụ” ngoài Tứ Chánh Cần ra thì không còn pháp môn nào khác nữa để tu tập thiền định đúng chánh pháp.

Bồ Tát (ĐườngVề.2) (Đường Về.7) là một người cư sĩ đang tu tập. Bồ Tát trong kinh Nguyên Thủy chỉ là một người mới tu hành, đang tu hành chưa chứng đạo, cho nên chẳng dám dạy ai tu hành cả. Ðức Phật răn nhắc điều này: “Tu chưa chứng đạo mà dạy người là giết người”. Trong kinh phát triển, Bồ Tát là một người tham danh, tu chưa tới đâu chỉ học trong mấy bộ kinh rồi tưởng giải ra làm lệch ý Phật, đẻ ra kinh sách phát triển dạy người tu hành mê tín trừu tượng ảo giác, khiến người tu hành theo Phật giáo mà thành tu pháp môn ngoại đạo.

Bồ Tát giới (CầnBiết.1) Ðại thừa chế ra Bồ Tát giới để cho hàng cư sĩ thọ giới Bồ Tát làm việc từ thiện, giúp mọi người cúng bái, tế lễ. Ðó là một hình thức của Bà La Môn giáo.

Bồ Tát Quan Thế Âm (Đường Về.7) là một vị Bồ Tát tưởng tượng của kinh sách phát triển, chứ trong lịch sử loài người, không có một Bồ Tát Quan Thế Âm. Ðạo Phật chỉ duy nhất có một đức Phật lịch sử trong loài người, đó là đức PhậtThích Ca Mâu Ni, người đã tự tìm ra một giáo pháp tu hành để đi đến giải thoát sự đau khổ của kiếp người.

Bộ giới cấm Patimokkha (ĐườngVề.1) là của các Tổ, chúng ta thấy có nhiều chỗ sai lầm rất lớn như: đức Phật là một người tu chứng đầy đủ trí tuệ, thế mà sau khi chế giới ra, giới luật đó lại được sửa đi, sửa lại năm lần bảy lượt.

Bộc lưu (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là dòng thác; dòng thác là chỉ cho sức mạnh của nước từ trên cao đổ xuống khó có ai vượt qua. Ở đây có năm bộc lưu, tức là năm dòng thác: 1- Dục bộc lưu: là dòng thác dục tức là sức mạnh của lòng tham muốn. 2- Hữu bộc lưu: là dòng thác của các vật sở hữu tức là sức mạnh dính mắc của các vật sở hữu. 3- Kiến bộc lưu: là dòng thác kiến chấp tức là sức mạnh của kiến chấp. 4- Vô minh bộc lưu: là dòng thác ngu si không thấy như thật các pháp tức là sức mạnh của ngu si khiến cho chúng ta thấy các pháp không như thật. 5- Ái bộc lưu: là dòng thác thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục tức là sức mạnh của bảy thứ tình, người tầm thường không thể vượt qua được. Vậy người tu sĩ Đạo Phật phải vượt qua năm dòng thác này mới tìm thấy sự chân thật giải thoát. Ngoài ra phải vượt qua thêm bộc lưu thứ sáu là Tưởng bộc lưu. Người vượt qua được sáu bộc lưu này là do tu thiền quán tức là Định Vô Lậu, chứ không phải thiền ức chế tâm cho hết vọng tưởng.

Buông xả (PhậtDạy.4) (ĐườngVề.3) (CầnBiết.5) xả bỏ của cải, tài sản, vật chất, nhà cửa, vợ con, anh em, chị em, cha mẹ và tất cả những người thân quyến thuộc, v.v... có nghĩa là sống một đời sống ly dục ly các ác pháp, khiến cho tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. Nói buông xả, là nói đến một đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người, một đời sống đức hạnh tuyệt vời. Việc buông xả không phải một ngày một bữa mà thành tựu được. Buông xả có nghĩa là không dính mắc, chứ không có nghĩa tiêu cực không làm việc. Buông xả có nghĩa là sống một đời sống ly dục ly các ác pháp, khiến cho tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. Buông xả là nói đến một đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người.

Buông xuống (TâmThư.1) bằng phương pháp hướng tâm, bằng phương pháp như lý tác ý, bằng phương pháp quán tư duy, bằng phương pháp nhân quả, bằng phương pháp Ðịnh Niệm Hơi Thở; bằng phương pháp tác ý tâm thanh thản an lạc và vô sự; bằng tri kiến giải thoát. Câu tác ý này thì sẽ buông xuống sạch: “Tâm phải thanh thản, an lạc và vô sự, các pháp thế gian là pháp vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta cả. Tất cả đều là pháp khổ đau, phải buông xuống và chấm dứt ngay liền.” Khi tác ý như vậy xong nên tác ý tiếp để dẫn thân tâm vào chỗ không đau khổ. Nếu tâm đang bị khổ đau thì nên tác ý câu này: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Tác ý xong liền đưa tay ra, vô, đếm đúng năm lần rồi lại tác ý câu trên. Nếu thân bị bệnh đau nhức bất cứ chỗ nào, bất cứ bệnh gì thì nên tác ý câu này: “Thọ là vô thường, cái bệnh nhức đầu này (bệnh gì nói rõ tên ra) phải ra khỏi thân ta. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Khi tác ý rồi im lặng đưa tay ra vô cho đúng năm lần rồi lại tác ý như trước. Khi chuyên cần tập luyện và giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì có một nội lực rất mạnh, một sức đề kháng kinh khủng, nó sẽ giúp đẩy lùi mọi chướng ngại pháp như: bệnh tật, phiền não, tai nạn, sợ hãi, lo rầu, thương ghét, giận hờn, v.v... Khi nghiệp đến thì chỉ cần tác ý: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tất cả các pháp đều vô thường hãy đi đi! Không được ở trong thân tâm Ta nữa. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Buông xuống các ác pháp là giải thoát, là hết khổ đau.

Buồn chán (ĐườngVề.3) là một trạng thái khổ đau, nó là ác pháp. Người tu hành theo Ðạo Phật nhất định không để tâm buồn chán, phải tìm mọi cách đẩy lui nó ra khỏi tâm, giúp cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Trên đường tu hành theo đạo Phật “chúng ta nên tu tập để nhàm chán đời sống thế gian, chứ không nên buồn chán”, buồn chán là vì không thỏa mãn được lòng ham muốn, còn nhàm chán có nghĩa là đã từng trải đời, thấy đời là một sự khổ đau chân thật không có gì vui chỉ là một chuỗi dài thời gian toàn là sự vô thường và khổ đau.

Buổi lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối (OaiNghi) Ở đây là tự giác thỉnh nguyện phát lồ sám hối, chứ không phải tụng kinh cầu sám hối. Vì thế phải tổ chức lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối vào buổi sáng 7 giờ ngày 14 và 30. Tổ chức buổi lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối vào buổi sáng được dễ dàng và minh bạch, không có phạm giới nào cả.

 

NGHĨA CỦA CÁC CÂU, CÁC TỪ - Kì 3.

Vần B (tiếp theo)

Bà La Môn chân chánh (PhậtDạy.1) thì phải hội đủ những tiêu chuẩn:

1- “Ai biết được đời trước”. Biết được đời trước của mình là phải có Tam Minh. Trong Tam Minh có Túc Mạng Minh. Có Túc Mạng Minh mới biết được nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ của mình và của người khác.

2- Thấy Thiên giới, đọa xứ”. Phải có trí tuệ nhân quả thấy thiện và ác rất rõ ràng. Người thấy thiện ác rõ ràng là người có chánh tri kiến. Người có chánh tri kiến là người ly dục ly ác pháp. Người ly dục ly ác pháp là người tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Người tâm còn ham vui, thích tài sản, của cải, tiền bạc, nhà cửa sang đẹp thì chưa xứng đáng làm Thánh Tăng, Thánh Ni (Bà La Môn chân chánh).

3- Phải Ðạt được sanh diệt tận. Sanh là đời sống, sự sống; diệt là chết, sự chết; tận là tận cùng, cuối cùng, chấm dứt. Toàn nghĩa câu này là phải đạt cho được sự tận cùng sống chết của kiếp làm người.

4- Thắng trí, tự viên thành”. Thắng trí là trí tuệ chiến thắng mọi ác pháp và các cảm thọ, một trí tuệ không bao giờ chịu khuất phục trước mọi trở ngại, gian nan hay mọi việc khó khăn nào, luôn luôn giành phần thắng về mình. Người có thắng trí là người thành tựu đạo giải thoát.

5- Bậc Mâu Ni đạo sĩ” có nghĩa là năng nhơn, năng từ, năng mãn, năng tịch, v.v… Năng nhơn nghĩa là lòng thương người; năng từ là lòng từ bi; năng mãn là tâm tròn đầy đức hạnh; năng tịch là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Nghĩa của toàn câu kệ này là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

6- Viên mãn mọi thành tựu”. Viên mãn: là tròn đầy, đầy đủ, không còn thiếu khuyết một chỗ nào cả. Nghĩa của câu này là tất cả những pháp môn tu hành của Phật giáo đều đã tu hành xong.

Bà La Môn giáo (Đường Về.7) (ĐườngVề.8) (CầnBiết.1) là một tôn giáo lớn nhất của Ấn Ðộ, có trước Phật giáo. Bà La Môn giáo chia đời người Bà La Môn làm ba giai đoạn:

1- Bà La Môn giáo thiếu niên, thì phải học tập thông suốt kinh điển cúng bái tế lễ, đây là giai đoạn học tập (giống như các Thầy ứng phú của kinh sách phát triển).

2- Bà La Môn giáo trung niên, chuyên cúng bái tế lễ, sống ăn mặc như người thế tục giống như cư sĩ bây giờ, gọi là Phạm chí. Ðây là giai đoạn làm từ thiện (Bồ Tát Hạnh).

3- Bà La Môn Giáo tuổi già, bỏ nhà cửa gia đình thân quyến xuất gia đi tu nhưng đầu không có cạo. Ðây là giai đoạn tu hành của Bà La Môn giáo. Người cư sĩ tụng niệm, cúng tế, làm Bồ Tát hạnh là Bà La Môn tụng niệm. Cho nên hình thức tổ chức của Ðại thừa là của Bà La Môn giáo. Người cư sĩ hành nghề cúng tế tụng niệm là một Bà La Môn. Họ không phải là một người tu, mà là một người bình thường như thế tục, chỉ hơn người khác là có đọc kinh sách Vệ Ðà và các nghi thức cúng tế. Thọ giới Bồ Tát rồi tự xưng mình là Bồ Tát (giới Bồ Tát cũng tự họ đặt ra), nên bản chất ngã mạn tự kiêu của họ rất lớn. Những người này ta không nên trách, vì họ là cư sĩ Bà La Môn chứ không phải cư sĩ đạo Phật.

Bản thể tuyệt đối (ĐườngVề.4) Bản thể tuyệt đối, do các tôn giáo Ðại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông, Bà La Môn, v.v... tưởng ra, xây dựng bản thể tuyệt đối bằng “tưởng tri”. Bản thể tuyệt đối là tưởng tri của loài người và của các tôn giáo khác. Với trí hữu hạn của con người, mà đòi hiểu bản thể tuyệt đối của vạn hữu, cũng như dùng mắt thường mà muốn nhìn thấy vi trùng trong ly nước. Cho nên, Phật và A La Hán đều chứng đạt chân lí này, chứ không phải chứng đạt bản thể tuyệt đối mơ hồ của ngoại đạo. Người xả tâm sạch, không phải đạt được bản thể tuyệt đối mà chỉ làm chủ tâm mình (ly dục ly ác pháp), không còn phiền não đau khổ, thương, ghét, giận hờn, hận thù, v.v…

Bảy Diệu Pháp (CầnBiết.4) I- Lòng tin (Đức Phật có 12 danh hiệu, mỗi danh hiệu nói lên được Đức Hạnh và Trí Hạnh của Phật 1- Như Lai; 2- Ứng cúng; 3- A La Hán; 4- Chánh Đẳng Giác; 5- Minh Hạnh Túc; 6- Thiện Thệ; 7- Thế gian Giải; 8- Vô Thượng sĩ; 9- Điều Ngự Trượng Phu; 10- Thiên Nhân Sư; 11- Phật; 12- Thế Tôn). II – Lòng tàm, tự xấu hổ vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự xấu hổ vì thành tựu ác, bất thiện pháp”. III – Lòng quý, tự sợ hãi vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự sợ hãi vì thành tựu ác, bất thiện pháp. IV- Đa văn, nhớ nghĩ những điều đã nghe, tích tụ những điều đã nghe. Những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có văn nói lên phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, được trí suy tư, được chánh kiến thể nhập. V- Sống tinh cần tinh tấn, trừ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. VI- Thành tựu niệm tuệ tối thắng, nhớ lại, nhớ lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói từ lâu. VII- Có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau.

Bảy Giác Chi (TrợĐạo) gồm có: 1- Niệm Giác Chi, 2- Tinh Tấn Giác Chi, 3- Khinh An Giác Chi, 4- Hỷ Giác Chi, 5- Ðịnh Giác Chi, 6- Xả Giác Chi, 7- Trạch pháp Giác Chi.

Bảy Kiết Sử (12Duyên) gồm có: 1- Ái kiết sử; 2- Sân kiết sử; 3- Kiến kiết sử; 4- Nghi kiết sử; 5- Mạn kiết sử; 6- Hữu tham kiết sử; 7- Vô minh kiết sử. Muốn giải thoát thì đoạn trừ tận gốc ngũ triền cái và thất kiết sử thì chứng đạo.

Bằng lòng (ĐườngRiêng) (Tạoduyên) vui lòng chấp nhận mọi ý kiến và việc làm của người khác không có chút gì còn chướng ngại trong lòng, tức là chấp nhận và vui vẻ. Bằng lòng mọi hoàn cảnh để tâm mình Bất Động.

Bậc A La Hán (ThanhQui) của Phật giáo phải từ sự chấp nhận giữ gìn Giới luật và oai nghi chánh hạnh; phải từ Lục hòa và ăn uống, ngủ nghỉ tiết độ, không ăn uống, ngủ nghỉ phi thời; phải từ sự phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý và luôn luôn sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt. Nhờ những pháp này mới sinh ra bậc A La Hán. A La Hán có nghĩa là không còn tham sân si. Vậy khi đã chứng quả A La Hán mà vị này lại tự tại vô ngại phạm mà vào các pháp sống của A La Hán, khi oai nghi chánh hạnh không có, lục hòa không có thì đó là A La Hán của ngoại đạo. Trong tập thể có một vị A La Hán tự tại vô ngại đói ăn khát uống mệt ngủ thì còn gì là A La Hán nữa.

Bậc đại tu hành chẳng lạc nhân quả (ĐườngVề.4) Chữ “lạc” ở đây có nghĩa là rơi, bị, nghĩa là bậc đại tu hành không bị nhân quả tác dụng thân nhân quả duyên hợp, đó là hiểu sai. Đã mang thân nhân quả thì phải có tai nạn, bệnh tật; thân nhân quả vẫn là thân nhân quả không thể thay đổi được, dù người đó tu đã thành Phật. Nhưng tu đúng theo pháp của đức Phật, thì tâm không dao động trước tai nạn, bệnh tật và kế đó dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ, làm cho các cảm thọ khổ, lạc, bất khổ bất lạc, không tác động được vào thân và tâm và còn khắc phục chuyển hóa khổ thọ, lạc thọ ra khỏi thân tâm (Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu). Pháp của Phật, tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì nghiệp nhân quả làm sao chi phối được tâm người tu chứng. Nghiệp nhân quả tuy có nhưng không chi phối được tâm người tu chứng, tức là người tu chứng làm chủ nhân quả; làm chủ nhân quả tức là làm chủ nghiệp, chứ không phải làm chủ cái thân nhân quả duyên hợp như ông già chồn đã nói. Còn bảo không mê muội như Thiền Tông mà không làm chủ được các thọ, thì không đúng pháp Phật.

Bậc duyên giác (PhậtDạy.4) người ngộ được 12 nhân duyên, tu tập ngay trên các cảm thọ. Thọ sinh ra ái dục. Muốn bẻ gẫy ái dục thì phải yểm ly ba thọ. Muốn yểm ly ba thọ thì Ðịnh Niệm Hơi Thở phải tu tập nhiếp phục và an trú tâm cho được nhuần nhuyễn trong hơi thở, nhiếp tâm và an trú tâm cho được trong thân hành niệm nội hay ngoại. Ðó là những pháp yểm ly các thọ. yểm ly các thọ là một hành động đạo đức tự thân tâm. Khi yểm ly ba thọ được thì tham dục bị đoạn diệt. Tham dục đoạn diệt là tự thân đã giải thoát và giải thoát hoàn toàn.

Bậc Hiền Trí (PhậtDạy.1) Người chỉ lỗi và khiển trách chúng ta để chúng ta trở thành người tốt, có đạo đức; bậc Hiền Trí dám nói thẳng, dám chỉ lỗi, dám khiển trách những chỗ sai lầm của cuộc đời cũng như trong Ðạo, để cho mọi người biết mà cố gắng sửa sai. Bậc Hiền Trí sửa đời, sửa đạo vì Ðời và Ðạo chưa bao giờ toàn thiện. Bậc Hiền Trí nói thẳng cái gì đúng nói là đúng, cái gì sai nói là sai.

Bậc ly dục ly ác pháp (TruyềnThống.1) là những bậc nhập vào dòng Thánh (nhập lưu), nên được gọi là Thánh đệ tử Phật.

Bậc Mâu Ni đạo sĩ (PhậtDạy.1) là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

Bậc Mâu Ni đạo sĩ Viên mãn mọi thành tựu (CầnBiết.3) là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

Bậc Thánh nhân (ĐườngVề.6) là những người biết xấu hổ, biết sửa sai; biết xấu hổ, biết sửa sai tức là biết độc cư sống trầm lặng, sống trầm lặng, tức là cuộc sống Thánh thiện; cuộc sống Thánh thiện là cuộc sống của những bậc Thánh nhân, cho nên người phàm phu tầm thường không thể nào sống độc cư nổi.

Bậc thiện hữu tri thức (12Duyên) là bậc tu hành đúng chánh pháp của Phật và đã tu chứng đạo. Người tu hành chân chánh, đầy đủ công đức siêng năng, không lười biếng, xa lìa tâm kiêu mạn, nhẫn nhục, nhân từ, một mình ở nơi thanh vắng tu tập, một mình đạt được Niết bàn, diệt trừ tham, sân, si, ở chỗ ô nhiễm mà không bị ô nhiễm, ở chỗ ngu si mà không bị ngu si ám ảnh, ở chỗ đắm nhiễm mà không bị đắm nhiễm, ở chỗ đáng trụ mà không trụ, ở chỗ đáng ở mà không ở, thân hành động ngay thẳng, miệng nói lời chân thật, ý nghĩ chân chánh, thân làm việc thanh tịnh, có lòng nhân từ vô hạn, biết đủ trong sự ăn mặc, và mang bát đi khất thực để gây phúc lành cho chúng sanh. Bậc tu chứng đạo mới đủ khả năng hướng dẫn người khác tu hành đúng chánh pháp của Phật.

Bất động (Phậtdạy.3) (CầnBiết.4) là không bị lay động

Bất động tâm (ĐườngVề.3) Ðức Phật đã xác định: “Mục đích của Ðạo Ta không phải chỗ giới luật, không phải chỗ thiền định, không phải chỗ trí tuệ, không phải chỗ thần thông, v.v... mà chỗ bất động tâm”.

Bất động tâm định (PhậtDạy.4) (ĐườngVề.2) (ĐườngVề.5) (ĐườngVề.6) (ĐườngVề.9) (ĐườngVề.10) (Tạoduyên) là loại thiền định giải thoát tâm hoàn toàn, sống trong trạng thái Niết bàn của chư Phật mười phương, do ly dục ly ác pháp, hay nói một cách khác hơn bất động tâm định là tâm không phóng đật, một quá trình tu tập bằng một cuộc sống đúng giới luật, không những không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả trong khi giữ gìn giới luật còn tu tập các pháp hành như: Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ... để làm cho thanh tịnh giới luật, nhờ giới luật thanh tịnh tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Bất động Tâm Ðịnh là trạng thái tâm không phóng niệm và không phóng dật, như Ðức Phật đã dạy: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Người thế gian không bao giờ sống và vào trong trạng thái Niết bàn đó được vì tâm người thế gian còn vọng động, còn ham thích. Bất động tâm định có một sức tĩnh thức tuyệt vời nhìn thấu suốt lý nhân quả trong các pháp, nên người nào đã thực hiện được, đều có một đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người. Nhưng muốn có một đạo đức như vậy thì cần phải trau dồi rèn luyện thân tâm trong giới luật và Tứ Chánh Cần, trong một thời gian rất dài, không phải giờ, một ngày mà có được. Bất động tâm định là một pháp môn thiền định, kết quả của sự ngăn ác và diệt ác pháp, một loại thiền định do giới luật sanh ra, tức là tâm bất động trước các ác pháp, trước các cảm thọ, chứ không phải bất động là không vọng tưởng, không niệm thiện niệm ác. Bất động tức là tĩnh thức trong niệm chơn chánh; niệm chơn chánh tức là niệm thiện. Niệm thiện tức là niệm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Người tu tập tới Bất Ðộng Tâm Ðịnh muốn nhập định nào cũng dễ dàng và thực hiện Tam Minh cũng không còn khó khăn, tức là phải dùng pháp hướng tâm. Muốn đạt được tâm bất động như vậy thì phải tu tập Tứ Niệm Xứ. Muốn tu tập Tứ Niệm Xứ sung mãn thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì Tứ Niệm Xứ chỉ là một pháp ức chế tâm, khiến cho hành giả rơi vào các loại thiền tưởng, có khi bị Tẩu Hỏa Nhập Ma. Bất Ðộng Tâm Ðịnh là một trạng thái Tứ Niệm Xứ sung mãn, trạng thái này có đủ 7 năng lực của Thất Giác Chi. Do 7 năng lực của Thất Giác Chi mới nhập vào trạng thái của Sơ Thiền là trạng thái tâm không phóng dật, tâm không phóng dật tức là tâm ly dục ly ác pháp, tâm đã thanh tịnh là tâm bất động khi chiến thắng các ác pháp bên ngoài nhờ tu Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu nơi các pháp thiện và pháp ác. Tham ưu luôn luôn dồn dập tới tấp nếu không đủ sức kham nhẫn, không đủ nghị lực chịu đựng, không đủ tri kiến giải thoát và không đủ trí tuệ nhân quả, thì phải bỏ cuộc tu hành. Muốn chiến thắng các pháp thuộc về Tứ Niệm Xứ như ở trên thì: 1/ Phải đầy đủ sức kham nhẫn. 2/ Phải có nghị lực dũng mãnh. 3/ Phải đầy đủ tri kiến giải thoát. 4/ Phải có trí tuệ nhân quả. Muốn có đủ sức kham nhẫn thì hằng ngày nên tu tập pháp hướng tâm: “Tâm bất động như núi đá, khen không mừng, chê không buồn, chửi mắng, mạ nhục không giận, phải trơ trơ như tường đồng vách sắt”. Những câu hướng tâm này cần phải thuộc lòng và phải luyện tập cho có lực, khi gặp các pháp ác đến tới tấp thì mới đủ sức kham nhẫn vượt qua và cuối cùng mới xả tâm được. Bất Ðộng Tâm Ðịnh là Vô Tướng Tâm Ðịnh. Bất động tâm định là một loại thiền định rất cần thiết và lợi ích cho cuộc sống con người trên hành tinh này.

Bất thiện (ĐườngVề.2) có nghĩa là ác pháp. Đức Phật dạy về bất thiện (mười pháp ác) “Sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói lưỡi hai chiều là bất thiện, nói lời phù phiếm là bất thiện, nói lời hung ác là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện”.

Bất thiện pháp (ThiềnCănBản) là tham, sân, si, mạn, nghi, những thói quen, tật xấu, những điều suy nghĩ, những lời nói, những hành động làm cho mình khổ, người khác khổ. Bất thiện pháp còn gọi là pháp ác, pháp hung dữ, pháp làm khổ đau. Muốn lìa xa pháp ác thì phải rèn luyện, tu tập ba đức: 1. Nhẫn nhục. 2. Tùy thuận. 3. Bằng lòng.

Bất tịnh (ĐườngVề.6) là chẳng trong sạch, bất tịnh còn có nghĩa là ác pháp.

Bất tử (PhậtDạy.2) nghĩa là không chết.

Bất tử giới (CầnBiết.2) trạng thái thân tâm bất động.

Bẻ gãy mười hai nhân duyên (12Duyên) tức là làm cho chúng không còn hợp lại được nữa. Làm cho chúng không còn hợp lại được nữa thì hành giả có đầy đủ ý chí dũng mãnh kiên cường bằng cách giữ gìn tâm Bất Động trước các ác pháp và từng tâm niệm của mình từng phút giây đang khởi lên liên tục.

Bệnh (TâmThư.2) là do nghiệp của nhân quả thiện ác. Có thân chưa ra khỏi nhân quả thì thân phải còn bệnh, đó là một sự tất yếu của đời sống con người, một qui luật tự nhiên của nhân quả. Muốn không sợ bệnh thì nên nhiếp tâm và an trú tâm trong thân hành nội.

Bệnh đau (TâmThư.2) là do nhân quả giết hại và ăn thịt chúng sinh. Người ăn chay trường mà còn bệnh đau là do tâm ý còn ác, tuy không ăn thịt chúng sinh, nhưng còn giết hại chúng sinh như kiến, muỗi và các vật khác, họ chưa thật lòng yêu thương tất cả sự sống của chúng sinh. Bệnh đau bướu ở bất cứ nơi đâu trên thân đều do nhân quả kiếp trước thường hay đánh đập loài chúng sanh. Muốn chuyển nghiệp này thì phải sống đúng năm giới và tập an trú vào cánh tay đưa ra đưa vào. Khi an trú vào cánh tay xong thì tác ý: “Bệnh bướu này chuyển biến thay đổi lành lặng như xưa”.

Bệnh khổ (ĐạoĐức.2) Bệnh khổ là cơ thể bệnh tật, đau nhức khó chịu như: đau bụng, nhức đầu, ngứa ngáy, mệt mỏi, bất an, nóng, lạnh, tê, chóng mặt, v.v... Bệnh khổ là một sự thật hiển nhiên, nên nó là chân lý của con người. Do mọi người đều chấp nhận “Bệnh khổ” nên nó là chân lý.

Bi tâm (PhậtDạy.1) là lòng thương xót trước cảnh thương tâm, bất hạnh của chúng sanh. Nếu một người tu tập rèn luyện được lòng thương xót tất cả chúng sanh, khi lòng thương xót ấy hiện tiền thì tất cả ác pháp như tham, sân, si, mạn, nghi đều không tác dụng vào tâm mình. Do đó, tâm vô lậu hoàn toàn và chứng quả A La Hán ngay liền, có đầy đủ thiền định và Tam Minh.

Bi vô lượng (4Tâm) là lòng thương vô bờ bến trước nỗi khổ của chúng sanh. Người có lòng bi không đành lòng ngồi yên nhìn sự thống khổ của chúng sanh. Đành rằng sự đau khổ của thế nhân là cái duyên nhân quả, nhưng lòng bi không cho phép chúng ta làm ngơ. Phải dùng lời khuyên bảo, thăm hỏi, có hành động cứu giúp (khi thấy con vật bị gãy chân, ta ôm nó vào lòng, xoa nhẹ trên vết thương). Hành động đó, thời gian đó quý báu hơn là vàng bạc, ngai vàng của nhà vua. Làm được việc ấy thì lòng ta cũng cảm thấy hân hoan. Khi giúp cho chúng sanh được an vui, hạnh phúc, ta cũng tìm cách giúp cho chúng sanh xa lìa nhân ác, để sống vui, chứ không phải chỉ giúp họ khi họ bị khổ. Và khi họ cứ rơi vào đường khổ thì phải dạy cho họ hành động thiện, tập nhân tốt để tránh quả khổ. Trau dồi tâm từ là ngăn ngừa những điều kiện có thể làm cho chúng sanh đau khổ, còn trau dồi tâm bi là nhắm ngay vào sự đau khổ của chúng sanh để mà xoa dịu, an ủi. Muốn được như vậy thì lúc nào ta cũng trau dồi, nhắc nhở tâm ta hãy thương người đang sân. Khi nào rảnh rỗi thì phải tự nhắc tâm như thế, chớ không phải đợi đến lúc sân hận nổi lên mới áp dụng. Nếu thường xuyên thực tập, nhắc nhở như thế thì khi thấy một người đang sân với ta, ta mới có thể thương được.

Bí quyết cốt tủy giải thoát của đạo Phật (PhậtDạy.1) là ly dục, ly ác pháp thì được giải thoát, chỉ cần siêng năng tu tập là đạt được kết quả ngay liền. Kẻ nào vô minh thường bị tham ái trói buộc thích thú vui chơi chỗ này, chỗ kia thì sự đau khổ và tái sanh luân hồi không thể tránh khỏi; còn kẻ nào, an vui, tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Do tâm hồn được như vậy thì sẽ chấm dứt tái sanh luân hồi chắc chắn.

Bí quyết thành công sự giải thoát của Phật giáo (Tạoduyên) là sống Ðộc Cư.

Bí quyết thành tựu của Ðạo Phật (Phậtdạy.3) 1- Giữ tâm không phóng dật. 2- Thích sống nhàn tịnh.

Biên Kiến (CầnBiết.2) là chấp một bên, nghiêng về một phía, đó là những thành kiến rất cực đoan. Biên kiến có nhiều lối chấp sai lầm, trong đó, lớn nhất là 3 kiến chấp: 1- Thường kiến: Là một loại luận thuyết mơ hồ trừu tượng, cho rằng người chết còn linh hồn; cho rằng có thế giới siêu hình, có bản thể vũ trụ, có tiểu ngã, đại ngã, có thần thức, có Phật tánh, có Thiên Ðàng, có Ðịa Ngục, có Ngọc Hoàng Thượng Ðế, có Chúa trời, có thần, quỷ, ma, v.v... Những người chấp thường kiến là những người thường sống trong mê tín, lạc hậu, sống trong mộng tưởng, xây dựng cảnh giới siêu hình, thường cầu cúng, tế, lễ bái, và ước vọng làm những điều thiện để khi chết được sanh lên Cực Lạc Thiên Ðàng của cõi Trời, cõi Niết Bàn hay cảnh giới chư Phật. Thiền tông, Mật tông đều thuộc về thường kiến. 2- Ðoạn kiến: Là một loại luận thuyết chết cứng, khô cằn, cho chết là hết, không còn gì cả. Loại luận thuyết này khiến cho con người mất hết niềm hy vọng về tương lai. Cho nên người Ðoạn kiến đặt ra câu hỏi: “Tương lai không có thì hiện giờ để làm gì? Ngày mai chết là hết”. Vì vậy, con người chấp đoạn kiến thì làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, chẳng còn biết nghĩ đến ai cả, sống chỉ quay cuồng trong dục lạc, sống theo kiểu hiện sinh không có ngày mai. Người chấp đoạn kiến là những người không thông suốt môi trường sống hợp duyên của các pháp. 3- Vừa thường vừa đoạn kiến: Có một luận thuyết cho rằng các pháp trong thế gian này vừa có vừa không, như ngài Long Thọ: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Ðó là lối lý luận trườn uốn như con lươn, để rồi Ngài đẻ ra trí tuệ Bát Nhã chơn không, thành ra thường kiến. Cuối cùng, Ngài cũng như các nhà thường kiến khác, nhưng giỏi khéo lý luận để che mắt thiên hạ, chứ kỳ thực Chơn Không của Ngài đâu có khác gì thần thức, linh hồn, đại ngã, Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có khác danh từ mà thôi.

Biến mãn một phương (TruyềnThống.1) có nghĩa phủ trùm khắp cùng khắp một phương, không có chỗ nào là không có lòng thương yêu nơi phương ấy, hay nói cách khác là lòng thương yêu tất cả chúng sanh không có bỏ sót một loài nào trong phương đó.

Biết rõ được chánh pháp (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ. Biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ thì không cần phải đi tìm pháp tu tập thiền định nào khác nữa. Người tu tập theo thiền xả tâm của Tứ Niệm Xứ thì vọng niệm đến càng tốt, vì có đối tượng dùng “Pháp Tác Ý” trong chánh tư duy. Nhờ có tu tập như vậy tri kiến giải thoát sẽ hiện bày. Do tri kiến giải thoát hiện bày thì sở hành và tham trước không còn. Sở hành và tham trước không còn thì tâm không phóng dật; tâm không phóng dật thì thành chánh giác. Người tu thiền hiện nay khi ngồi hoặc đi kinh hành thấy không vọng niệm là cho mình tu tập có kết quả tốt, còn có vọng niệm xen vào là cho tu tập xấu, không tốt. Đó là một quan niệm hết sức sai lầm trong vấn đề tu tập để làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Biệt trú (TruyềnThông.1) là sống độc cư một mình, sống đúng Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Người sống biệt trú như vậy trong bốn tháng thì mới được Phật và chúng Tăng chấp nhận cho xuất gia làm đệ tử của Phật. Đức Phật ra điều kiện 4 tháng biệt trú, thì những người quyết tâm tu để cầu giải thoát tự nguyện xin đức Phật sống biệt trú 4 năm. Sống biệt trú 4 năm đó là những người tự nguyện sống trong giới luật của Phật giáo.

Bình đẳng (TâmThư.1) thuộc về đức, cho nên gọi Ðức Bình Ðẳng chứ không ai gọi Ðức Mặc Cảm. Khi gọi đức Mặc Cảm thì phải có thêm một danh từ đạo đức nào đó, còn riêng nó đứng một mình thì không được gọi là đức mà gọi là hạnh Mặc Cảm.

Bố thí (ĐườngVề.8) (10Lành) (ThiềnCănBản) là hạnh buông xả, buông bỏ, không chất chứa tài sản của cải, mà còn chia xẻ cho người nghèo khổ, bất hạnh. Bố thí là đem lòng thương yêu của mình đến với những người bất hạnh, an ủi và xoa dịu vết thương đau của họ. Việc làm bố thí như vậy thì phước báo sẽ đến với mình, mình sẽ được lòng thương của mọi người, gặp lúc nạn tai, mọi người sẽ an ủi và giúp đỡ lại mình, chứ không phải bố thí đem tiền bạc cho người là sẽ có phước báo lớn giàu sang, muốn gì được nấy. Đó là một góc độ đạo đức làm người. Bố thí không đúng pháp là bị người lừa gạt, nên không làm lợi ích cho mình, vì mình bị gạt; không làm lợi ích cho người vì tạo duyên cho người khác làm ác nhiều hơn (lường gạt người khác). Đức bố thí do lòng yêu thương là nhân quả thiện, nhưng nếu thiếu trí tuệ quan sát đối tượng được bố thí thì không thiện mà sự bố thí đó làm nhân quả ác vì tạo duyên cho người ác làm ác nhiều hơn. Trường hợp bố thí bị lừa gạt như đem hạt giống tốt gieo trên đất xấu khô cằn cỗi. Theo Phật giáo Nguyên Thủy bố thí phải có trí tuệ nhân quả. Khi thấy một người tàn tật hay gặp một người bị tai nạn hoặc một người ốm đau không tiền thang thuốc, đi bác sĩ hay đi bệnh viện. Ðây là nhân quả của những người này, họ đang trả vay, nhưng có nhân duyên kiếp trước nên kiếp này mới gặp ta trong hoàn cảnh này. Vậy ta nên giúp đỡ họ như thế nào cho đúng pháp: Thấy người tàn tật, biết rõ họ thật sự tàn tật thì giúp đỡ, còn gặp họ ở giữa đường thì ta nên tránh, vì người tàn tật đều có chỗ ở do các nhà từ thiện hoặc nhà nước, còn gặp người tàn tật ở ngòai đường, phần đông là những người giả dối, người tàn tật đi xin ăn ngoài đường làm nhục đất nước đó. Chúng ta không nên cho những người ăn xin ngoài đường. Người tàn tật bất hạnh trong xã hội đều có nhà dưỡng lão, nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà nuôi những người khuyết tật, nhà tình thương nuôi dạy trẻ lang thang, v.v... Ðó là trách nhiệm của Nhà nước, của những nhà từ thiện. Người bố thí cho kẻ ăn xin ngoài đường là không đúng pháp, sự bố thí đó vô tình tạo thêm những người lừa gạt người khác và cũng vô tình làm nhục đất nước (Ðất nước ăn mày). Còn bố thí cho người bệnh tật thì không nên trao tiền cho họ mà ta nên đưa họ vào bệnh viện hay đi bác sĩ. Nếu bác sĩ bảo đó là bệnh thật thì chúng ta mới bỏ tiền ra bố thí, còn nếu chúng ta bận việc không đưa đi bác sĩ hay bệnh viện thì không nên bố thí. Bố thí là giúp người mà giúp người thì phải đem hết lòng ra giúp, chứ không thể bố thí theo kiểu lấy có. Bố thí theo kiểu lấy có là tạo duyên cho kẻ ác làm ác thêm (lừa đảo).

Bố thí Ba La Mật (ĐườngVề.10) (TâmThư.1) là bố thí mà người cho không biết mình cho và người nhận không biết mình nhận. Bố thí Ba La Mật là lối lý luận tánh KHÔNG của trí tuệ Bát Nhã.

Bố thí bất trụ tướng (10Lành) bố thí mà không nghĩ làm phước, không nghĩ được phước; bố thí là bỏ đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình ra để cho người khác đang cần được giúp đở. Bố thí là thể hiện tánh không tham lam tài vật của người.

Bốn chân lý (ĐạoĐức.2) được phối hợp lại chặt chẽ đúng cách, biến thành một cuộc sống cao đẹp, tuyệt vời của kiếp con người. Ðó chính là đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người.

Bốn cửa vào Đạo (12Duyên) cửa Vô Minh, cửa Lục Nhập, cửa Thọ và cửa Sanh để phá vòng tròn Mười Hai Nhân Duyên, là diệt thế giới quan đau khổ của con người. Mọi người phải tùy theo đặc tướng và hoàn cảnh của mình để chọn lấy một cửa trong mười hai cửa, mọi người hãy tinh tấn dõng mãnh tu tập để chứng đạt chân lý giải thoát.

Bốn Dự Lưu Chi (12Duyên) 1- Ðầy đủ lòng tin bất động đối với Phật, 2- Ðầy đủ lòng tin đối với Pháp, do đức Phật khéo thuyết, 3- Ðầy đủ lòng tin bất động đối với Chúng Tăng là đệ tử đức Phật, 4- Ðầy đủ lòng tin đối với giới luật đức hạnh do đức Phật chế, được các bậc Thánh quý mến.

Bốn đại (TrợĐạo) đất, nước, gió, lửa.

Bốn định (CữSĩTu) 1- Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. 2- Ðịnh Niệm Hơi Thở. 3- Ðịnh Vô Lậu. 4- Ðịnh Sáng Suốt.

Bốn định vô sắc (CầnBiết.3) gồm có: Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Bốn giai đoạn tỉnh thức (ĐườngVề.10): 1- Tỉnh thức khi chết vào thai mẹ. 2- Tỉnh thức khi ở trong bụng mẹ. 3- Tỉnh thức khi xuất thai. 4- Tỉnh thức trong khi còn bé. Bốn sự tỉnh thức này là những pháp môn tu tập để làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người.

Bốn giới trong lục hòa (CữSĩTu) 1- Khẩu hòa không tranh cãi. 2- Ý hoà cùng vui (vui theo tâm ý người, làm theo ý của người). 3- Có ý kiến hay cùng giảng giải cho nhau nghe, cho nhau hiểu cùng tu, cùng học. 4- Giới hoà đồng tu sống như nước với sữa; cùng khích lệ, sách tấn nhau giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trên bước đường tu tập.

Bốn loại Bà La Môn (CầnBiết.4) Trong thời Đức Phật còn tại thế Bà La Môn có thể chia ra: 1- Bà La Môn phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới. 2- Bà La Môn cúng bái tế tự, cầu siêu, cầu an, làm những điều mê tín, v.v... 3- Bà La Môn xây dựng thế giới tâm linh, sống trong ảo tưởng, mơ mộng hư ảo; lừa đảo, lường gạt người để được ngồi trong mát ăn bát vàng. 4- Bà La Môn chuyên tu tập luyện thần thông trừ tà, yểm quỷ, bắt ma trị bệnh bằng phù phép tạo ra một thế giới siêu hình huyền ảo khiến cho con người mất hết sức tự chủ, chỉ còn biết tựa nương vào Thần Thánh, Tiên, Phật hoặc Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Đức Phật đã tự cho mình là Bà La Môn “Ta gọi Bà La Môn” theo nghĩa Bà La Môn phải là những bậc: “Bậc trâu chúa, thù thắng. Bậc anh hùng, đại sĩ. Bậc chiến thắng, không nhiễm. Bậc tẩy sạch, giác ngộ”.

Bốn loại định căn bản của Phật giáo (ĐườngVề.4) 1- Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. 2- Ðịnh Vô Lậu. 3- Ðịnh Niệm Hơi Thở. 4- Ðịnh Sáng Suốt. Khởi đầu tu bốn loại định này bằng pháp môn Tứ Chánh Cần. Dùng bốn loại định này ngăn ác diệt ác pháp, khởi thiện tăng trưởng thiện pháp, tức là diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp. Đạo Phật ra đời đi từ sự tu tập sức tỉnh giác để giữ tâm trong chánh niệm, tức là xả tâm, ly dục ly ác pháp, không có một chút ức chế tâm nào cả. Lấy tâm nương hành động của thân nội và thân ngoại tập tỉnh thức chánh niệm, để xả dục, xả ác pháp, tránh không đi vào trạng thái tĩnh lặng, ức chế tâm của các tôn giáo khác mà đi vào trạng thái đoạn diệt tâm tham, sân, si khiến cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự để đi vào trạng thái thanh tịnh bất động tâm, tức là định của đạo Phật.

Bốn Như Ý Túc (TrợĐạo) có Bốn Như Ý Túc thì mới nhập được Bốn Thánh Ðịnh, gồm có: 1- Tinh Tấn Như Ý Túc, 2- Ðịnh Như Ý Túc, 3- Tuệ Như Ý Túc, 4- Dục Như Ý Túc.

Bốn Niệm Xứ (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là phương pháp tu tập trên bốn chỗ của thân ngũ uẩn: thân, thọ, tâm và pháp, để đạt được ý thức ly dục ly bất thiện pháp, tức là ý thức không phóng dật (không khởi niệm).

Bốn Niệm Xứ là định tưởng (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) Sao lại gọi: “Bốn Niệm Xứ là định tưởng”? Khi mới bước chân vào tu tập Bốn Niệm Xứ thì phải tu tập 16 loại tưởng. Nhờ tu tập 16 loại tưởng này nên tâm mới sinh ra nhàm chán các pháp thế gian vì thấu suốt lý các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, uế trược, do qui luật nhân quả duyên hợp tạo thành chẳng có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Do ý nghĩa này mà Bốn Niệm Xứ là Ðịnh Tưởng. Nên hiểu: “Ðịnh Tưởng chứ không phải Tưởng Ðịnh”.

Bốn pháp giải thoát (PhậtDạy.4) là Thánh giới, Thánh định, Thánh tuệ, Thánh giải thoát. Tuy Bốn pháp nhưng tu tập pháp này thì thành tựu luôn ba pháp kia.

Bốn sự đau khổ (Tạoduyên) sinh, già, bệnh, chết

Bốn Thần Túc (Tứ Như Ý Túc) (PhậtDạy.4) (Tạoduyên) là năng lực siêu việt, phi phàm. Khi tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ tức là tâm thanh tịnh hoàn toàn không còn có tham, sân, si thì Bốn Thần Túc xuất hiện một cách tự nhiên. Bốn Thần Túc là biết một cách rõ ràng, cái biết này do thức uẩn. Bốn Thần Túc xuất hiện từ trong tâm Bất Động. Dùng thần lực Bốn Thần Túc nhập Bốn Ðịnh Hữu Sắc và thực hiện Tam Minh. Đức Phật đã xác định Bốn Thần Túc kéo dài mạng căn của mình từ một kiếp hay một phần kiếp còn lại; khả năng ấy phải lưu xuất từ tâm ly dục ly ác pháp; từ một tâm thanh tịnh hoàn toàn; từ một tâm bất động trước ác pháp và các cảm thọ. Ngay từ khi tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là đã kéo dài tuổi thọ. Khi nào họ muốn chết thì sử dụng Tứ Thần Túc để tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thánh Ðịnh và xuất ra khỏi trạng thái Tứ Thánh Ðịnh vào Niết Bàn thì bỏ thân tứ đại này.

Bốn thần túc làm chủ sanh già bệnh tử (ĐườngVề.5) có nghĩa: 1- Làm chủ được đời sống (sanh) tâm không còn tham, sân, si, giận, hờn, phiền não, lo rầu, ganh tị, thù oán, v.v… 2- Làm chủ cơ thể khi già yếu (già), khiến cho cơ thể già mà không yếu đuối, không lẫn lộn, không quên trước, quên sau, cơ thể quắc thước, khoẻ mạnh, cường tráng như một thanh niên. 3- Làm chủ đau ốm (bệnh), là đẩy lui tất cả bệnh tật ra khỏi thân. 4- Làm chủ khi chết (tử), là muốn chết hồi nào là chết ngay hồi ấy một cách tự tại. Bốn Thần Túc không phải là pháp môn tu tập mà là bốn thần lực do tu tập từ pháp môn Thân Hành Niệm mà có. Chính bốn năng lực Thần Túc là phương pháp sử dụng làm chủ sanh tử luân hồi. Ðó là pháp môn sau cùng của Phật giáo.

Bốn tinh cần (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là bốn pháp môn mà người đệ tử của Phật cần phải siêng năng tu tập hằng ngày không được biếng trễ. 1- Hằng ngày phải siêng năng chế ngự tâm mình (Tinh cần chế ngự). Chế ngự khác nghĩa với ức chế. 2- Phải siêng năng đoạn tận các ác pháp. Xin đừng hiểu lầm ác pháp là vọng niệm của mình. Ác pháp về tâm (khi có một tầm khởi lên, tầm ấy thuộc về tham, sân, si) và Ác pháp thuộc về thân (thân bị bệnh đau nhức chỗ này chỗ khác). 3/ Hằng ngày phải siêng năng tinh cần tu tập 37 pháp môn trợ đạo. Tu tập phải kỹ lưỡng, phải từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày, không lúc nào quên tu tập. Tu tập các pháp môn này chỉ có nương vào hành động nội và ngoại của thân chúng ta. 4/ Hằng ngày phải siêng năng tinh cần hộ trì các căn từng phút từng giây không được biếng trễ. Hộ trì các căn là pháp độc cư, một bí quyết tu tập để nhập các định và thực hiện Tam Minh. Bốn Tinh Cần là một tên khác của Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần là một phương pháp tu tập dùng ý thức ngăn ác và diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Một pháp môn dùng cho mọi người tu tập lúc mới bắt đầu theo Đạo Phật. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà mọi người mới giữ gìn giới luật trọn vẹn. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà giới luật không bao giờ vi phạm. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà tâm hồn mới được thanh thản, an lạc và vô sự. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà cuộc sống gia đình mới được an vui và hạnh phúc. Bốn tinh cần (Tứ Chánh Cần) là pháp môn tu tập làm cho giới luật thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm định, nên “Giới sinh định”. Muốn có thiền định thì chỉ cần tu tập giới luật cho thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh tức là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly ác pháp thì ngay đó là thiền định, đức Phật dạy: “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Bốn Tinh Cần là Ðịnh Tư Cụ.

Bốn Tinh Cần là Định Tư Cụ (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) Bốn tinh cần là pháp môn tu tập làm cho giới luật thanh tịnh. Vì giới luật thanh tịnh là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm định, nên Đức Phật dạy: “Giới sinh định”. Muốn có thiền định thì chỉ cần tu tập giới luật cho thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh tức là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly ác pháp thì ngay đó là thiền định, nên Đức Phật dạy: “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Khi biết rõ pháp môn thiền định của Phật do từ giới luật sinh ra thì không ai còn đưa ra một pháp môn nào khác để lừa đảo chúng ta được nữa. Vì lý do này nên lời dạy trong bài kinh nói: “Bốn Tinh Cần Là Định Tư Cụ” ngoài Tứ Chánh Cần ra thì không còn pháp môn nào khác nữa để tu tập thiền định đúng chánh pháp.

Bồ Tát (ĐườngVề.2) (Đường Về.7) là một người cư sĩ đang tu tập. Bồ Tát trong kinh Nguyên Thủy chỉ là một người mới tu hành, đang tu hành chưa chứng đạo, cho nên chẳng dám dạy ai tu hành cả. Ðức Phật răn nhắc điều này: “Tu chưa chứng đạo mà dạy người là giết người”. Trong kinh phát triển, Bồ Tát là một người tham danh, tu chưa tới đâu chỉ học trong mấy bộ kinh rồi tưởng giải ra làm lệch ý Phật, đẻ ra kinh sách phát triển dạy người tu hành mê tín trừu tượng ảo giác, khiến người tu hành theo Phật giáo mà thành tu pháp môn ngoại đạo.

Bồ Tát giới (CầnBiết.1) Ðại thừa chế ra Bồ Tát giới để cho hàng cư sĩ thọ giới Bồ Tát làm việc từ thiện, giúp mọi người cúng bái, tế lễ. Ðó là một hình thức của Bà La Môn giáo.

Bồ Tát Quan Thế Âm (Đường Về.7) là một vị Bồ Tát tưởng tượng của kinh sách phát triển, chứ trong lịch sử loài người, không có một Bồ Tát Quan Thế Âm. Ðạo Phật chỉ duy nhất có một đức Phật lịch sử trong loài người, đó là đức PhậtThích Ca Mâu Ni, người đã tự tìm ra một giáo pháp tu hành để đi đến giải thoát sự đau khổ của kiếp người.

Bộ giới cấm Patimokkha (ĐườngVề.1) là của các Tổ, chúng ta thấy có nhiều chỗ sai lầm rất lớn như: đức Phật là một người tu chứng đầy đủ trí tuệ, thế mà sau khi chế giới ra, giới luật đó lại được sửa đi, sửa lại năm lần bảy lượt.

Bộc lưu (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là dòng thác; dòng thác là chỉ cho sức mạnh của nước từ trên cao đổ xuống khó có ai vượt qua. Ở đây có năm bộc lưu, tức là năm dòng thác: 1- Dục bộc lưu: là dòng thác dục tức là sức mạnh của lòng tham muốn. 2- Hữu bộc lưu: là dòng thác của các vật sở hữu tức là sức mạnh dính mắc của các vật sở hữu. 3- Kiến bộc lưu: là dòng thác kiến chấp tức là sức mạnh của kiến chấp. 4- Vô minh bộc lưu: là dòng thác ngu si không thấy như thật các pháp tức là sức mạnh của ngu si khiến cho chúng ta thấy các pháp không như thật. 5- Ái bộc lưu: là dòng thác thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục tức là sức mạnh của bảy thứ tình, người tầm thường không thể vượt qua được. Vậy người tu sĩ Đạo Phật phải vượt qua năm dòng thác này mới tìm thấy sự chân thật giải thoát. Ngoài ra phải vượt qua thêm bộc lưu thứ sáu là Tưởng bộc lưu. Người vượt qua được sáu bộc lưu này là do tu thiền quán tức là Định Vô Lậu, chứ không phải thiền ức chế tâm cho hết vọng tưởng.

Buông xả (PhậtDạy.4) (ĐườngVề.3) (CầnBiết.5) xả bỏ của cải, tài sản, vật chất, nhà cửa, vợ con, anh em, chị em, cha mẹ và tất cả những người thân quyến thuộc, v.v... có nghĩa là sống một đời sống ly dục ly các ác pháp, khiến cho tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. Nói buông xả, là nói đến một đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người, một đời sống đức hạnh tuyệt vời. Việc buông xả không phải một ngày một bữa mà thành tựu được. Buông xả có nghĩa là không dính mắc, chứ không có nghĩa tiêu cực không làm việc. Buông xả có nghĩa là sống một đời sống ly dục ly các ác pháp, khiến cho tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. Buông xả là nói đến một đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người.

Buông xuống (TâmThư.1) bằng phương pháp hướng tâm, bằng phương pháp như lý tác ý, bằng phương pháp quán tư duy, bằng phương pháp nhân quả, bằng phương pháp Ðịnh Niệm Hơi Thở; bằng phương pháp tác ý tâm thanh thản an lạc và vô sự; bằng tri kiến giải thoát. Câu tác ý này thì sẽ buông xuống sạch: “Tâm phải thanh thản, an lạc và vô sự, các pháp thế gian là pháp vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta cả. Tất cả đều là pháp khổ đau, phải buông xuống và chấm dứt ngay liền.” Khi tác ý như vậy xong nên tác ý tiếp để dẫn thân tâm vào chỗ không đau khổ. Nếu tâm đang bị khổ đau thì nên tác ý câu này: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Tác ý xong liền đưa tay ra, vô, đếm đúng năm lần rồi lại tác ý câu trên. Nếu thân bị bệnh đau nhức bất cứ chỗ nào, bất cứ bệnh gì thì nên tác ý câu này: “Thọ là vô thường, cái bệnh nhức đầu này (bệnh gì nói rõ tên ra) phải ra khỏi thân ta. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Khi tác ý rồi im lặng đưa tay ra vô cho đúng năm lần rồi lại tác ý như trước. Khi chuyên cần tập luyện và giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì có một nội lực rất mạnh, một sức đề kháng kinh khủng, nó sẽ giúp đẩy lùi mọi chướng ngại pháp như: bệnh tật, phiền não, tai nạn, sợ hãi, lo rầu, thương ghét, giận hờn, v.v... Khi nghiệp đến thì chỉ cần tác ý: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tất cả các pháp đều vô thường hãy đi đi! Không được ở trong thân tâm Ta nữa. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Buông xuống các ác pháp là giải thoát, là hết khổ đau.

Buồn chán (ĐườngVề.3) là một trạng thái khổ đau, nó là ác pháp. Người tu hành theo Ðạo Phật nhất định không để tâm buồn chán, phải tìm mọi cách đẩy lui nó ra khỏi tâm, giúp cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Trên đường tu hành theo đạo Phật “chúng ta nên tu tập để nhàm chán đời sống thế gian, chứ không nên buồn chán”, buồn chán là vì không thỏa mãn được lòng ham muốn, còn nhàm chán có nghĩa là đã từng trải đời, thấy đời là một sự khổ đau chân thật không có gì vui chỉ là một chuỗi dài thời gian toàn là sự vô thường và khổ đau.

Buổi lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối (OaiNghi) Ở đây là tự giác thỉnh nguyện phát lồ sám hối, chứ không phải tụng kinh cầu sám hối. Vì thế phải tổ chức lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối vào buổi sáng 7 giờ ngày 14 và 30. Tổ chức buổi lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối vào buổi sáng được dễ dàng và minh bạch, không có phạm giới nào cả.

106-NGHĨA CÁC TỪ PHẬT HỌC CHƠN NHƯ - Tỳ khưu Từ Quang

NGHĨA CỦA CÁC CÂU, CÁC TỪ - Kì 4

Vần C

Canh cuối (ThờiKhóa) tức là buổi khuya, sau khi thức dậy phải đi kinh hành hoặc ngồi nếu không buồn ngủ, luôn luôn không được lười biếng ham ngủ. Ban ngày cũng như ban đêm, đầu canh hay cuối canh đều duy nhất tu hành có một mục đích là xả tâm tẩy trừ các chướng ngại pháp. Trước khi nằm ngủ phải tập tỉnh thức rồi mới ngủ, không được nằm xuống là ngủ ngay liền.

Canh giữa (ThờiKhóa) tức là lúc nửa đêm chỉ có nằm nghiêng giữ chánh niệm tỉnh giác và phải luôn nghĩ đến thức dậy, chứ không được lười biếng nằm ráng, hể thấy thức ngủ thì nên thức dậy ngay liền để tu tập rèn luyện tẩy trừ tâm khỏi chướng ngại pháp tức là ly dục ly ác pháp.

Cá nhân thanh tịnh (Đường Về.7) là cá nhân phải có đạo đức, là một tu sĩ Phật giáo thì giới luật phải được nghiêm chỉnh, không vi phạm, không bẻ vụn giới luật.

Các căn (PhậtDạy.2) Trong thân chúng ta có sáu căn: 1- Nhãn căn, 2- Nhĩ căn, 3- Tỷ căn, 4- Thiệt căn, 5- Thân căn, 6- Ý căn.

Các căn được chế ngự (CầnBiết.4) Trong thân chúng ta có sáu căn: Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn và Ý căn. Chế ngự nghĩa là làm cho nó giảm bớt, không còn tăng trưởng, không còn phát triển, không còn dính mắc với sáu trần, làm cho nó không còn dính mắc sáu trần nữa, không làm theo ý muốn. Trước khi làm theo ý muốn thì phải quán sát nên làm hay không nên làm, nên làm là làm không có dục xen vào, có dục xen vào nhất định không làm. Ví dụ 1: Chưa đến giờ ăn mà bụng đói muốn ăn, thì nhất định không ăn, chờ đúng giờ mới ăn. Đó là chế ngự ăn uống.

Các hành ác bị diệt (12Duyên) là người thông suốt Giới Luật Đức Hạnh. Giới Luật Đức Hạnh trong pháp tu hành của Phật giáo từ thấp đến cao. Phải theo sự phân chia pháp môn tu tập từ thấp đến cao mà Đức Phật đã tuyên bố: “Giới, Định, Tuệ”.

Các pháp ức chế thân tâm (ĐườngVề.4) không thể tu tập đi đến giải thoát được, không thể làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi của kiếp người. Từ bỏ và viễn ly các pháp đó. (GNCN ??)

Các pháp vô thường (PhậtDạy.4) không có một vật gì là thường hằng bất biến, luôn luôn biến đổi từng phút từng giây, sự vô thường không chờ đợi một ai, một khi nó đã đến thì không từ bỏ một người nào cả. Không thấy các pháp vô thường thì tâm không ly dục ly ác pháp được, dễ sanh ra dính mắc và chấp đắm các pháp. Không ly dục ly ác pháp được thì không làm sao có được sự giải thoát, sống sẽ làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Do các pháp vô thường nên không có pháp nào là ta, không có pháp nào là của ta, không có pháp nào là bản ngã của ta.

Các pháp Yết Ma (TâmThư.2) là những qui cụ của đoàn thể chúng tăng để điều hành người trên kẻ dưới trong Tăng đoàn có thứ bậc như kỷ luật quân đội. Các pháp Yết Ma còn là những nghi thức, nghi lễ truyền giới, thọ giới cho các giới tử mà người tu sĩ Phật giáo khi lãnh chúng, lãnh đạo giáo hội cần phải thông suốt. Các pháp Yết Ma gồm chung tất cả pháp thuộc về giới đàn, thành lập giới đàn, giới đức, giới hạnh, giới hành, giới tướng và giới thể, giáo trình, giáo án về kinh, luật, luận của Phật giáo. Muốn hiểu biết các pháp Yết Ma thì phải tu học từ căn bản đến chuyên sâu giới luật. Không học thì không hiểu, không hiểu thì không biên soạn được. Người tu chứng Tam Minh thì tất cả đều thông suốt, nhưng tu mà phạm giới thì không bao giờ tu chứng được Tam Minh.

Các quả tu chứng của Phật giáo (TrợĐạo) Con đường vào Niết Bàn tức Con đường tu tập theo Phật giáo mỗi chặng đường đều có kết quả. Cho nên người tu sĩ tu tập phải nhận biết điều này để khi tu tập tới đâu mình đều biết. Những điều tu hành ở đây là hãy xem tâm mình còn bị ác pháp tác động hay không? Nếu tâm không bị ác pháp tác động được thì đó là chứng đạo.

1- Chặng đường vào Niết Bàn thứ nhất: Những người tu hành đoạn trừ các lậu hoặc, đoạn trừ các kiết sử cho nên không có ác pháp nào tác động đến tâm họ được, họ là người giải thoát hoàn, là những vị tu hành đã đoạn trừ các lậu hoặc và các hữu kiết sử, đã chứng quả A-la-hán, họ đã đạt được mục đích tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Đạo Phật tu tập đến đây đã hoàn thành không còn tu tập một pháp môn nào nữa cả.

2- Chặng đường thứ hai: Những người tu hành chỉ cần diệt trừ được năm hạ phần kiết sử, khi chết vẫn nhập vào Niết Bàn rất dễ dàng.

3- Chặng đường thứ ba Đức Phật dạy: “Những tỳ-kheo diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhất định không còn đọa vào ác đạo, đạt đến chánh giác.”

4- Chặng đường thứ tư: chỉ cần diệt trừ ba kiết sử thì cũng nhập vào Niết bàn sau khi bỏ xác thân này.

5- Chặng đường thứ năm Đức Phật dạy: “Những tỳ-kheo tùy pháp hành, tùy tín hành, những vị này sau khi lội cắt ngang dòng sông của Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn.” Chặng đường thứ năm này tùy theo pháp thiện hay ác mà giữ gìn tâm thanh thản an lạc thì cũng vào Niết Bàn. Chặng đường thứ năm Đức Phật dạy chúng ta không diệt trừ tâm tham, sân, si, mạn, nghi và kiết sử nhưng chỉ có giữ gìn tâm thanh thản, an lạc thì cũng vào Niết Bàn.

6- Chặng đường thứ sáu: chỉ có lòng tin nơi Đức Phật mà khéo đối xử với mọi người mọi hoàn cảnh, không làm mình khổ, không làm người khác khổ và tất cả chúng sinh khổ thì mình cũng vào Niết Bàn. Đức Phật dạy: “Này các tỳ-kheo, nay Ta khéo biết đối với đời này, khéo biết đối với đời sau, khéo biết đối với Ma giới, khéo biết đối với phi Ma giới, khéo biết đối với tử thần giới, khéo biết đối với phi tử thần giới. Những ai nghĩ rằng, cần phải nghe, cần phải tin nơi Ta, thì họ sẽ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.”. Chỉ cần tin nơi lời Phật dạy, biết đối xử với mọi người không làm khổ mình khổ người và tất cả chúng sinh thì khi bỏ thân này cũng vào Niết Bàn. Bởi đạo Phật có sáu chặng đường vào Niết Bàn chúng ta muốn đi chặng nào cũng được chỉ tùy vào sức lực, vào khả năng của mình mà chọn lấy nẻo vào Niết Bàn.

Cách đảnh lễ (OaiNghi) Trước khi đảnh lễ, người nam hay người nữ đều phải đứng trước bàn thờ Phật, tổ tiên hay đối tượng để đảnh lễ. Ðứng thẳng người, hai tay chắp lại để trước ngực rồi đưa lên trán cúi đầu xá, rồi đưa hai tay xuống ngực, hai chân từ từ quỳ xuống, hai bàn tay mở ra úp xuống mặt bằng, đưa thẳng các ngón tay về phía trước, đầu cúi xuống trán chạm vào bàn tay. Sau khi trán chạm vào lưng bàn tay thì hai tay chống thân đứng dậy, nhưng hai chân vẫn quỳ, lúc bấy giờ hai tay chắp lại để trước ngực rồi nâng lên trán, đầu cúi xuống hai tay vẫn còn chắp từ từ hạ xuống theo thân cúi xuống, lạy lần thứ hai và lần thứ ba cũng vậy. Cuối cùng hai tay vẫn chắp đặt trước ngực, hai chân từ từ đứng dậy, đồng thời hai tay vẫn chắp đưa lên trán, đầu cúi xuống xá, hai tay vẫn chắp nhưng từ từ hạ xuống ngực. Lạy ba lạy và xá một xá là đủ. Lạy bình thường thì úp lòng bàn tay xuống. Lạy sám hối thì lật ngữa lòng bàn tay lên. Lạy người còn sống thì hai bàn tay để ngang nhau. Lạy người đã chết thì hai bàn tay đưa thẳng về phía trước. Giáo Ðoàn Phật Giáo là theo gót chân Phật, nên lạy ba lạy đơn giản mà thôi.

Cách đẩy lui chướng ngại của tâm (MuốnChứngĐạo) thì dùng đề mục 7 của Định Niệm Hơi Thở: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Phải tập chuyên cần cho đến khi có kết quả thực sự của đề mục này thì có lợi ích rất lớn cho con đường tập luyện.

Cách đẩy lui chướng ngại của thân (MuốnChứngĐạo) thì dùng đề mục 5 của Định Niệm Hơi Thở: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Phải tập chuyên cần cho đến khi có kết quả thực sự của đề mục này thì có lợi ích rất lớn cho con đường tập luyện.

Cách đẩy lui tâm si, đẩy lui sự buồn ngủ, đẩy lui trạng thái lười biếng (MuốnChứngĐạo) thì dùng đề mục 18 của Định Niệm Hơi Thở: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”. Phải tập chuyên cần cho đến khi có kết quả thực sự của đề mục này thì có lợi ích rất lớn cho con đường tập luyện.

Cách để ý thức nhận xét sự hoạt động của tâm theo từng hơi thở ra vô (MuốnChứngĐạo) thì dùng đề mục 6 của Định Niệm Hơi Thở: “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Mỗi lần hít vô hay thở ra đều lắng nghe tâm đang có niệm hay không niệm và niệm ấy là niệm mang ý nghĩa gì. Đề mục này là để hướng dẫn ý thức nhận xét sự hoạt động của tâm theo từng hơi thở ra vô chứ không phải biết hơi thở ra vô bình thường; nếu thấy tâm lặng lẽ bất động không một niệm mang ý nghĩa nói gì xen vào trong suốt 30 phút hay 01 giờ là đã đạt được kết quả tu tập tâm lặng lẽ về đề mục này. Nhưng đề mục 6 này mục đích không phải cảm nhận sự lặng lẽ của tâm mà cảm nhận sự hoạt động của Tâm Hành, biết rõ có lúc tâm lặng lẽ nhưng có lúc tâm không lặng lẽ. Đề mục 6 này dạy rất rõ là nương theo hơi thở vô ra mà thấy tất cả sự hoạt động của tâm, tâm muốn gì hay tâm làm gì đều biết rất rõ không bỏ sót một hành động nào của tâm. Tâm ở trong sự hoạt động là tâm nương hơi thở để cảm nhận sự hoạt động đó, cho nên câu này nghĩa rất rõ “Cảm Nhận Tâm Hành Tôi Biết Tôi Thở Ra". Cảm nhận Tâm Hành tức là làm chủ tâm, điều khiển tâm làm cho tâm luôn luôn sống trong thiện pháp và không bao giờ để tâm tư duy suy nghĩ những điều ác được. Vì thế phải tu tập cho thật kĩ, cho cảm nhận được sự động và sự tịnh của tâm. Khi tâm được An Tịnh thì không còn tạp tưởng, dù có những tư tưởng mạnh như thế nào đi nữa cũng đẩy lui được hết.

Cách hành chữ quán (ĐườngVề.9) như câu “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, câu này có ba nghĩa và có ba kết quả trong một hành động tu: 1- Nhắc nhở tôi quan sát xem xét tâm tôi có khởi lên tham muốn cái gì không? Nếu có thì tôi phải tỉnh thức quán xét tâm tham muốn đó “để xa lìa” như tôi đang tỉnh thức biết hơi thở vô ra vậy. 2- Nếu không có niệm khởi tâm tham muốn thì nó giúp tôi tỉnh thức trên tâm tôi, tôi biết rõ tâm tôi “không có tham muốn” tức là tôi biết rõ tâm tôi đang ở trong trạng thái “thanh thản, an lạc và vô sự” như tôi đang tỉnh thửc biết hơi thở ra vô rõ ràng vậy. 3- Nếu tâm tôi không có niệm khởi tham muốn thì câu pháp hướng trên sẽ thấm nhuần “lý ly tham”và sau này trở thành một “nội lực không tham muốn” nó sẽ giúp tôi đoạn diệt lòng tham muốn.

Cách phát lồ sám hối (OaiNghi) là xin phát lồ sám hối. Nếu thấy mình có lỗi thì nên phát lồ như sau: “Hôm nay là ngày ... Suốt nửa tháng tu học tại ..., con, tỳ kheo ..., có làm một lỗi là .... Vậy từ đây con xin sám hối, không dám vi phạm lỗi lầm đó nữa, xin Phật và đại chúng chứng minh cho con, để thân tâm con được thanh tịnh”. Nếu thấy mình không có lỗi thì nên phát lồ như sau: “Hôm nay là ngày.... Suốt nửa tháng tu học tại ..., con, tỳ kheo ..., không tự thấy mình có làm lỗi trong giới luật Phật. Vậy ngưỡng mong quý thầy có nhận thấy (pháp danh vị đang sám hối) có vô ý làm lỗi gì, xin quý thầy chỉ dạy để (pháp danh vị đang sám hối) phát lồ sám hối, nhờ đó từ đây về sau (pháp danh vị đang sám hối) không tái phạm những lỗi lầm đó nữa. (pháp danh vị đang sám hối) xin thành tâm tri ân quý thầy”. Sau khi người cuối cùng phát lồ xong thì tất cả mọi người đồng tụng bài ước nguyện: “Hôm nay ngày phát lồ, Chúng con nguyện thành tâm. Giữ gìn tròn giới luật, Không hề vi phạm phải, Dù một lỗi nhỏ nhặt, Cũng không hề vi phạm, Nhờ đó tâm ly dục, Nhờ đó ác pháp lìa, Nhờ đó tâm thanh tịnh, Chúng con cũng thành tâm, Ước nguyện cho mọi người, Phát lồ như chúng con, Ðể thân tâm bất động, Thanh thản và an lạc, Cùng nhau vào Niết Bàn”.Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật

Cách quán Tứ Niệm Xứ (ĐườngVề.9) tức tu Định Vô Lậu trên bốn chỗ thân thọ tâm pháp khiến cho thân tâm không còn phiền não đau khổ nữa. 1- Thấy thân yên lặng, thanh thản, an lạc và vô sự thì nên để thân tâm tự nhiên, đừng đả động đến nó. 2- Thấy tâm yên lặng, thanh thản, an lạc và vô sự thì nên để thân tâm tự nhiên, đừng đả động đến nó. 3- Thấy thọ yên lặng, thanh thản, an lạc và vô sự thì nên để thân tâm tự nhiên, đừng đả động đến nó. 4- Thấy pháp yên lặng, thanh thản, an lạc và vô sự thì nên để thân tâm tự nhiên, đừng đả động đến nó.

Khi tu tập quán Tứ Niệm Xứ nếu thấy thân tâm cảm nhận có chướng ngại pháp: 1- Trên thân thọ có pháp ác đến, nghĩa là có cảm giác như: đau, nhức, ngứa, mỏi mệt, tê, nóng, rát trên thân, v.v... thì nên quán xét mà đẩy lui nó ra khỏi thân. Đẩy lui bằng cách: Khi ngồi kiết già chân bị tê, đau nhức hay nóng muốn đẩy lui chướng ngại pháp đó thì hãy đứng dậy đi kinh hành, tức khắc đau tê nhức được đẩy lui, tức là trở về trạng thái thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự. 2- Trên tâm thọ có ác pháp đến, nghĩa là trong tâm có một niệm khởi, niệm khởi ấy đem đến một sự phiền não, một sự lo lắng, một sự buồn khổ, v.v... cho đến tâm có một niệm tào lao chẳng ích lợi gì tuy nó không làm cho tâm buồn khổ, phiền não, nhưng nó cũng làm cho tâm mất thanh thản, an lạc và vô sự, vì vậy cần phải đẩy lui tất cả để tâm trở về trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự thì mới đúng cách thức tu tập. 3- Trên Pháp thọ có ác pháp đến, có nghĩa là đang sống một mình và đang quan sát thân, thọ, tâm, và pháp thì có một người bạn đến nói chuyện, thì phải hiểu đó là ác pháp đến, khiến mất đi trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự, nếu thích nói chuyện với người bạn đó hoặc tùy thuận nói chuyện để khỏi mất lòng bạn bè, thì trong cuộc đời tu hành không mạnh dạn quyết tâm đẩy lui các chướng ngại pháp đó thì dù có tu ngàn đời muôn kiếp cũng chẳng bao giờ giải thoát được, vì đó là duyên để tâm phóng dật, mà tâm còn phóng dật thì chẳng bao giờ hết lậu hoặc, tâm không hết lậu hoặc thì làm sao tâm hết tham, sân, si được, tâm không hết tham, sân, si thì làm sao có thiền định được. 4- Thọ thân, thọ tâm, thọ pháp như thân thọ tâm pháp ở trên đã dạy đều có ác pháp đến xâm chiếm vào thân tâm thì nên quán xét đẩy lui để tâm luôn luôn sống trong thanh thản, an lạc và vô sự. Ở đây có nghĩa là tu tập đẩy lui như thế nào mà tâm tự nhiên không phóng dật. Tâm tự nhiên không phóng dật là đã đi hết hai phần ba đường của Ðạo giải thoát. Tóm lại, chỉ có hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm, lúc nào, thời gian nào cũng đều phải quan sát trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp để đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó, để bảo vệ chân lý. Khi nào các chướng ngại pháp không còn tác động đến bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp là đã thành tựu viên mãn sự tu hành, đã chứng đạt chân lý, có nghĩa là lúc nào cũng sống với tâm bất động mà không một chướng ngại nào tác động được. Ðến đây con đường tu tập đã hoàn thành.

Cách thức gom tâm (ĐườngVề.3) phải thường xuyên tu tập những cách sau đây: 1- Phải thường xuyên đi kinh hành, phải biết đi kinh hành đúng pháp môn, đúng cách đi kinh hành, làm mọi việc phải biết làm mọi việc, hoặc ngồi tại chỗ biết ngồi tại chỗ, trong lúc ấy thường hướng tâm nhắc: “Tâm phải gom về thân hành, thân làm cái gì thì tâm phải biết làm cái nấy, không được phóng dật ra ngoài, không được đi lang thang, không được nghe ngóng, phải gom về thân hành cho thật chặt”. Nên tu tập tỉnh thức bằng pháp hướng này thì kết quả gom tâm rất nhanh. 2- Nên theo phương pháp thở hơi thở chậm để gom tâm. Trước khi thở hơi thở chậm nên hướng tâm: “Tâm phải tập trung vào hơi thở tại nhân trung”, hướng tâm xong, hít vô chậm chậm cho đến khi không còn hít vô được thì bắt đầu thở ra và cũng thở ra chậm chậm cho đến khi hết thở ra được thì thở trở lại hơi thở bình thường mười hơi thở, sau khi mười hơi thở bình thường đã thở xong thì phải hướng tâm như trên lại một lần rồi lại thở một hơi thở chậm chậm và nhẹ, rồi thở trở lại mười hơi thở bình thường. Cứ như thế mà tu hết 30 phút thì xả nghỉ. (theo thứ tự: hướng tâm nhắc, một hơi thở chậm chậm và nhẹ, mười hơi thở bình thường,…). Nếu 10 hơi thở thấy sức gom tâm còn yếu thì nên tu 5 hơi thở bình thường và một hơi thở chậm, khi nào tâm gom được thì chỉ thở hơi thở bình thường mà không cần thở hơi thở chậm và nhẹ nữa.

Cách thức làm chủ bệnh (PhậtDạy.4)giữ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác chịu đựng cơn đau”. Trong pháp môn Tứ Chánh Cần gồm có Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh. Chánh Niệm Tỉnh Giác chỉ là để chịu đựng cơn đau ghê gớm, khốc liệt như dao cắt ruột, bứt gan; giữ gìn tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác trên Thân Hành Niệm Nội (hơi thở) hay Thân Hành Ngoại (hành động tay chân). Nhờ có pháp môn này mà tâm mới bất động hoàn toàn, mới ly dục ly ác pháp được trọn vẹn. Chánh Niệm Tỉnh Giác là phương pháp vượt qua cơn đau, chứ không phải là phương pháp trị cơn đau. Khi thân bị bệnh đau bất cứ chỗ nào, nặng nhẹ, hãy cố gắng dựng thân ngồi kiết già sừng sững, đừng nên nằm, rồi nhiếp tâm thanh thản, an lạc và vô sự, khi tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì tâm định trên hơi thở ra hơi thở vào một cách nhẹ nhàng rõ ràng và cụ thể. Khi biết tâm đã định trên hơi thở như vậy thì tác ý nhắc: “Thọ là vô thường cái đau bệnh này phải đi khỏi nơi thân tâm ta” (Nhất là phải chỉ rõ bệnh gì? Bệnh ở đâu?). Khi tác ý xong câu này thì tiếp tục tác ý câu thứ hai: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Khi tác ý xong thì cứ bám cho chặt trong hơi thở vô, hơi thở ra, ý thức chỉ biết hơi thở vô ra đều đặn, đừng lưu ý đến bệnh đau, thỉnh thoảng lại tác ý: “Thọ là vô thường cái thân bệnh này hãy đi! Ði! Ði cho khỏi thân ta”. Đó là phần nhiếp phục cơn bệnh đau bằng pháp môn như lý tác ý và pháp môn Ðịnh Niệm Hơi Thở.

Cách thức tu tập tâm ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm (ĐườngVề.5) Suy tư nào ác làm khổ mình, khổ người thì phải chấm dứt ngay liền; suy tư nào thiện không làm khổ mình, khổ người thì cần phải phát triển những suy tư ấy, sống không phóng dật, nhiệt tâm siêng năng tỉnh giác từng hành động thân ý, từng sự việc, từng đối tượng, từng hoàn cảnh, v.v...

Cách thức tu tập Tứ Niệm Xứ (ĐườngVề.2) (TrợĐạo) 1- Trên thân quán thân. 2- Trên thọ quán thọ. 3- Trên tâm quán tâm. 4- Trên pháp quán pháp. Kinh dạy là trên thân quán thân tỉnh giác Chánh Niệm để khắc phục tham ưu ở đời... Chúng ta phải hiểu quán là quan sát, quán xét trên bốn chỗ thân, thọ tâm, pháp; bốn chỗ này đức Phật gọi là Tứ Niệm Xứ. Trên bốn chỗ này thường có Tà Niệm xảy ra (ác pháp) vì vậy mà phải quan sát quán xét cho kỹ để phát hiện ra những Tà kiến, Tà Niệm; phát hiện ra được những Tà Kiến và Tà Niệm thì chúng ta phải đẩy lui chúng ra khỏi tâm tư mà Ðức Phật gọi là khắc phục tham ưu. Công việc tu hành Tứ Niệm Xứ là chỉ có quan sát bốn vị trí này để diệt trừ các chướng ngại pháp, cho nên tâm thường ở trong Chánh Niệm tức là không có Tà Niệm, tức là không có niệm ác, không có niệm ác thì thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Chánh Niệm là khắc phục tham ưu có nghĩa là chiến đấu với nội tâm của mình khi thân, thọ, tâm, pháp có chướng ngại thì dùng Tứ Niệm Xứ để đẩy lui ác pháp. Như vậy, Chánh Niệm là tu học cách thức đoạn diệt các ác pháp bên trong tâm.

Cách thức yểm ly các sắc (TruyềnThống.1) con mắt nhìn thấy mọi vật, biết rõ mọi vật mà không sinh tâm tham đắm ham muốn... mọi vật. Do lục nhập này (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) ta không chấp nhận; ta không chấp nhận tức là yểm ly.

Cách thức yểm ly các thức (TruyềnThống.1) con mắt nhìn thấy mọi vật, biết rõ mọi vật mà không sinh tâm tham đắm ham muốn... mọi vật. Do lục nhập này (Nhãn thức do mắt sanh, Nhĩ thức do tai sanh, Tỷ thức do mũi sanh, Thiệt thức do lưỡi sanh, Thân thức do thân sanh, Pháp thức do ý sanh) ta không chấp nhận; ta không chấp nhận tức là yểm ly.

Cách thức yểm ly các xúc (TruyềnThống.1) con mắt nhìn thấy mọi vật, biết rõ mọi vật mà không sinh tâm tham đắm ham muốn mọi vật. Do lục nhập này (Nhãn xúc do mắt sanh, Nhĩ xúc do tai sanh, Tỷ xúc do mũi sanh, Thiệt xúc do lưỡi sanh, Thân xúc do thân sanh, Pháp xúc do ý sanh) ta không chấp nhận; ta không chấp nhận tức là yểm ly.

Cách thức yểm ly con mắt (TruyềnThống.1) con mắt nhìn thấy mọi vật, biết rõ mọi vật mà không sinh tâm tham đắm ham muốn... mọi vật. (tức không có bất cứ niệm nào về vật thấy)

Cách tu tập Thân thiện hành (CầnBiết.4) hằng ngày phải tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp, như vậy là tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần. Muốn tu tập Tứ Chánh Cần ra hành động thì phải tu tập Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt và Định Vô Lậu.

Cái biết của con người (ĐườngVề.6) có ba cái: 1- Cái biết của ý thức (cái biết do sự phân biệt của sáu thức hằng ngày). 2- Cái biết của tưởng thức (cái biết trong giấc mộng). 3- Cái biết của tâm thức (cái biết của thức uẩn, cái biết siêu không gian và thời gian, cái biết để thực hiện Tam Minh vô lậu của bậc A La Hán). Chữ tâm ở đoạn kinh “Tâm chủ, tâm tạo tác, Nếu nói hay hành động, Với tâm tư ô nhiễm, Khổ não sẽ theo ta, Như xe theo vật kéo”. Theo chúng tôi thì chữ tâm mà dịch giả dùng ở đây phải hiểu là “ý thức phân biệt hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta”. Nó chính là tri kiến của mỗi người đang sử dụng hằng ngày. Con đường tu tập của đạo Phật lấy ý thức phân biệt tấn công giặc tham, sân, si; giặc sinh tử luân hồi. Ðó là ý của bài kinh này vậy.

Cái biết của tâm thức (ĐườngVề.6) là cái biết của thức uẩn, cái biết siêu không gian và thời gian, cái biết để thực hiện Tam Minh vô lậu của bậc A La Hán.

Cái biết của tưởng thức (ĐườngVề.6) là cái biết trong giấc mộng.

Cái biết của ý thức (ĐườngVề.6) là cái biết hằng ngày do sự phân biệt của sáu thức.

Cái khó của người tu hành theo đạo Phật (PhậtDạy.4) là ở chỗ Tỉnh Giác Chánh Niệm buông xả sạch dục và ác pháp, không phải chỗ nhập Bốn Thánh Ðịnh, thực hiện Tam Minh chứng quả A La Hán. Khi Tỉnh Giác Chánh Niệm buông xả sạch dục và ác pháp là trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự là chứng quả A La Hán, chứ không phải còn tu tập pháp môn nào cả. Có người tu tập rất lâu mới chứng đạt được chỗ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác này.

Cái thấy, cái biết, cái nghe (TâmThư.1) không phải ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta. Cái THẤY là cái BIẾT của THẤY, mà cái biết của thấy là NHÃN THỨC, chứ không phải là PHẬT TÁNH. Cái BIẾT là cái BIẾT của THỨC, mà cái biết của thức là cái biết của Ý THỨC, chứ không phải là PHẬT TÁNH. Cái NGHE là cái BIẾT của NGHE mà cái biết của nghe là NHĨ THỨC, chứ không phải là PHẬT TÁNH.

Cái thức (hay Cái biết) (LinhHồn) Trong thân chúng ta có nhiều Cái biết: I- Cái biết thứ nhất: Hằng ngày chúng ta đang chung đụng và giao tiếp với mọi người bằng sáu cái thức (Cái biết) 1- Cái thức của mắt. 2- Cái thức của tai. 3- Cái thức của mũi. 4- Cái thức của miệng. 5- Cái thức của thân. 6- Cái thức của ý; II- Cái biết thứ hai: là cái biết trong giấc ngủ khi ngủ chiêm bao, cái biết ấy là của tưởng thức; III- Cái biết thứ ba: là cái biết của người tu theo Phật giáo chứng đạo gọi là Tam Minh. Ba cái biết này đang xử dụng các cảm thọ và các hành động trong thân tâm của chúng ta.

Chánh (TâmThư.1) là thiện pháp, là không còn tham, sân, si.

Chánh Biến Tri (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) nghĩa là chánh trí biết rõ mọi pháp như thật. Chánh biến tri còn có nghĩa là trí hiểu biết chân chánh không bị tà pháp, tà kiến, tưởng kiến, tà giáo lừa đảo, trí hiểu biết vượt ra khỏi sự hiểu biết trong khuôn khổ nề nếp phong tục, tập quán và các hệ tư tưởng của các tôn giáo trên thế gian này. Chánh Biến Tri còn gọi là “Thánh Hạnh Liễu Tri”.

Chánh dâm (10Lành) Người cư sĩ, đối với vấn đề sinh lý vợ chồng thì đó là chánh dâm. Chánh dâm là hành dâm với người vợ hay chồng của mình.

Chánh Ðịnh (PhậtDạy.1) (PhậtDạy.2) (ĐườngVề.2) (ĐườngVề.6) là Bốn Thiền tức là Tứ Thánh Ðịnh. Tứ Thánh Ðịnh, pháp môn thiền định của Phật giáo. Trong Tứ Thánh Ðịnh có bốn thiền như: 1/ Sơ Thiền, 2/ Nhị Thiền, 3/ Tam Thiền, 4/ Tứ Thiền, ngoài bốn thiền này không có thiền nào được gọi là Chánh Ðịnh. Chánh định có nội lực giúp cho chúng ta làm chủ thân tâm, tự tại trong sự sống chết. Người nào tu tập Tứ Thánh Ðịnh là đang ở bờ bên kia, bờ giải thoát. Tứ Thánh Ðịnh là pháp môn làm chủ sanh, già, bệnh, chết, nhưng muốn nhập được Tứ Thánh Ðịnh là phải có Tứ Như Ý Túc. Người có Tứ Như Ý Túc là người ở bờ bên kia, chứng quả A La Hán.

Chánh giải thoát (PhậtDạy.2) là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ, tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tâm không phóng dật, tâm vô lậu; đó là ở bờ bên kia, bờ giải thoát, chứng quả A La hán.

Chánh hạnh (PhậtDạy.1) là những hành động đoan chánh ngay thẳng, thấy sai nói sai, thấy đúng nói đúng, không nịnh bợ, a dua hay thấy sai mà không dám nói sai, những hành động sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Chánh hạnh tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Chánh kiến (PhậtDạy.2) (ĐườngVề.2) (ĐườngVề.3) (CầnBiết.5) là thấy nghe, hay biết một cách ngay thẳng, công minh, chánh trực, rõ ràng, cụ thể, không chủ quan, không sống trong tưởng tri trừu tượng mê tín, không dựa bên này, không dựa bên kia, không bị tập quán thành kiến dục vọng chi phối, không tin theo truyền thuyết, không tin theo truyền thống, không tin theo lời đồn, không tin theo kinh tạng truyền tụng, không tin theo lý luận siêu hình, không tin theo một lập trường, không tin theo hời hợt những dự kiện, không tin theo định kiến của mình, không tin theo xuất phát nơi có uy quyền, không tin theo bậc Sa Môn là Ðạo Sư của mình. Chánh Kiến là thấy nghe hiểu biết mọi sự, mọi việc và mọi vật bằng pháp thiện, toàn là thiện pháp không làm khổ mình, khổ người. Chánh kiến là một sự hiểu biết mà không có khổ đau, không có sự dối trá, gian xảo, không có sự lừa đảo, lường gạt, không có sự phi đạo đức, sự hiểu biết mà không có ảo tưởng, trừu tượng, không có tưởng tri. Chánh kiến là khi nào tâm ly dục ly ác pháp, thấy thân, thọ, tâm, pháp, vô thường, khổ, không, vô ngã như thật; khi nhìn thấy hình sắc xấu, tốt cũng như khi nghe âm thinh thuận tai, chướng tai; khi cảm giác êm ấm, thoái mái dễ chịu, khi ngửi một mùi thơm hay thối đều không có chướng ngại thân tâm; khi lục căn tiếp xúc lục trần không dính mắc. Chánh kiến thấy thân, thọ, tâm, pháp là vô thường, khổ, không, vô ngã; thấy 12 nhân duyên hợp là thế giới khổ; thấy 12 nhân duyên rã là hết khổ; thấy thân ngũ uẩn không phải là ta, không phải của ta, không phải tự ngã của ta. Thấy biết đúng như vậy gọi là Chánh kiến. Chánh kiến ở đây là giải nghĩa Chánh kiến, chứ không phải Chánh kiến trong Bát Chánh Ðạo.

Tuy dựa theo các kinh để hiểu biết, nhưng không phải như vậy là “Chánh kiến” được, vì vẫn còn chấp ngã, tham, sân, si vẫn đầy, chỉ khi nào tâm ly dục ly ác pháp thì mới thấy thân, thọ, tâm, pháp, vô thường, khổ, không, vô ngã như thật (Chánh kiến trong Bát Chánh Ðạo). Khi nhìn thấy hình sắc xấu, tốt cũng như khi nghe âm thinh thuận tai, chướng tai, khi cảm giác êm ấm, thoái mái dễ chịu, khi ngửi một mùi thơm hay thối đều không có chướng ngại thân tâm thì đó là Chánh kiến; khi lục căn tiếp xúc lục trần không dính mắc là Chánh kiến, tức là một sự hiểu biết mà không có khổ đau (tâm ly dục ly ác pháp), đó là Chánh kiến. Một sự hiểu biết mà không có sự dối trá, gian xảo, không có sự lừa đảo, lường gạt, không có sự phi đạo đức (tâm ly dục ly ác pháp) thì đó là Chánh kiến. Một sự hiểu biết mà không có ảo tưởng, trừu tượng, không có tưởng tri (tâm ly dục ly ác pháp) thì đó là Chánh kiến. Chánh kiến nơi đâu thì nơi đó có đời sống giới luật (tâm ly dục ly ác pháp), nơi đâu có đời sống giới luật (tâm ly dục ly ác pháp) thì nơi đó có Chánh kiến. Nơi đâu có Chánh kiến (tâm ly dục ly ác pháp) thì nơi đó có tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Và vì vậy, nơi đó có sự giải thoát của đạo Phật. Chánh kiến là thấy nhân, thấy quả; do thấy nhân quả như thật nên ở bờ bên kia không còn khổ đau. “Chớ nhìn mọi việc đúng sai phải trái mà hãy nhìn nó là thiện ác thì cuộc đời các bạn sẽ được an vui và hạnh phúc ngay liền”.

Chánh Mạng (PhậtDạy.2) (ĐườngVề.1) (ĐườngVề.2) Chánh mạng là ăn uống không phi thời, ăn uống có tiết độ, ăn để sống chứ không phải ăn cho ngon, ăn cho bổ mập, ăn những cao lương mỹ vị. Chánh Mạng là mạng sống chân chánh của con người, là sự sống của cơ thể không huân tập vào thân những sự khổ đau của kẻ khác và của tất cả chúng sanh. Chánh Mạng là nuôi sống thân mạng bằng những nghề nghiệp chân chánh tức là những nghề nghiệp lương thiện không tạo việc làm ác để nuôi thân mạng. Chánh Mạng là nuôi mạng sống của mình không có sự đau khổ của chúng sanh, không bao giờ ăn thịt chúng sanh. Chánh Mạng còn có nghĩa là sống đúng chánh pháp, không mê tín dị đoan, không sống trong tưởng giải, ảo giác, mơ hồ, trừu tượng. Chánh Mạng còn có nghĩa là sống không chạy theo dục vọng và các ác pháp về ăn uống. Chánh mạng là nuôi mạng sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Chánh mạng là ở bờ bên kia, bờ giải thoát, bờ vô lậu.

Chánh mạng là nói về những sự nuôi dưỡng thân mạng chân chánh. Nuôi dưỡng thân mạng chân chánh có ý nghĩa tu sửa không ăn uống lặt vặt phi thời, ăn uống không đúng giờ đúng lúc, ăn uống không có tiết độ, ăn uống vì thèm khát mà không phải vì sự sống để tu tập. Ăn uống không vì lợi dưỡng, không ăn thịt chúng sanh, không ăn uống những chất độc hại gây tạo cho cơ thể bệnh tật khổ sở, dù những thực phẩm đó có ngon ngọt béo bổ đến đâu cũng nên tránh xa, đó là nuôi chánh mạng. Chánh Nghiệp tốt thì Chánh Mạng mới tốt theo. Chánh Nghiệp thanh tịnh thì Chánh Mạng mới thanh tịnh. Ăn uống không có sự gian ác và đau khổ trong những thực phẩm, tức là nói về những sự nuôi dưỡng thân mạng chân chánh. Chánh Mạng là nuôi thân mạng chân chánh có nghĩa tu sửa không ăn uống lặt vặt phi thời, không đúng giờ đúng lúc, ăn uống phải có tiết độ, không phải vì thèm khát, ăn uống là vì sự sống để tu tập, không vì lợi dưỡng, không ăn thịt chúng sanh, không ăn uống những chất độc hại, gây tạo cho cơ thể bệnh tật khổ sở. Thân mạng được nuôi sống chân chánh có những ích lợi: 1- Thân không trả nghiệp quả khổ đau. 2- Thân không bệnh tật khổ đau. 3- Tuổi thọ được lâu dài. 4- Thân được mạnh khỏe tu tập dễ dàng hơn. 5- Thân được mạnh khỏe tâm hồn được an vui, thanh thản và vô sự.

Chánh Nghiệp (PhậtDạy.2) (ĐườngVề.1) (ĐườngVề.2) là hành nghề đúng, những hành động không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Nghề nghiệp chân chánh mới nuôi được chánh mạng của mình và của mọi người trong gia đình. Chánh Nghiệp làm bằng sức lao động chân tay hoặc bằng trí óc tạo ra những thực phẩm lương thiện để nuôi thân mạng không có sự gian ác và đau khổ trong đó. Tức là nói về những hành động thân, miệng và ý phải chân chánh, do ba nơi này tu tập không làm hành động ác. Về thân có ba hành động Chánh Nghiệp như: 1/ Thân không đánh đập, không làm đau khổ và không tự giết hại mình, người và tất cả chúng sanh. 2/ Thân không trộm, cắp, cướp giựt , không móc túi, không lấy của không cho. 3/ Thân không tà dâm, không làm những điều bất chánh gây đau khổ cho mình cho người. Về miệng không nên ăn thịt chúng sanh. Chánh Nghiệp là những nghề nghiệp sống chân chánh, nghề nghiệp không làm đau khổ cho mình, cho người và không làm đau khổ chúng sanh. Thay đổi nghề nghiệp ác là hành động đầu tiên trau dồi thân tâm thiện (Chánh Nghiệp). Chánh Nghiệp thanh tịnh thì Chánh Mạng mới thanh tịnh, do đó, đời sống mới được an vui, hạnh phúc. Chánh nghiệp là những hành động mở cửa Thiên Ðàng, ai từng có những hành động này là ở bờ giải thoát, là bờ vô lậu, là chứng quả A La Hán.

Chánh Ngữ (PhậtDạy.2) (ĐườngVề.2) là lời nói chân thật, ngay thẳng, không bao giờ nói sai sự thật, lời nói không thiên vị, không xuyên tạc, không nói chuyện phiếm, chuyện tào lao, không nói đùa, nói chơi, nói giỡn cợt, nói móc họng, nói mỉa mai, nói to tiếng, nói tranh luận hơn thua, nói xỉ vả, chửi mắng, nạt nộ, la hét, hù dọa, không nói lời làm cho người khác tức giận, không nói lời làm cho người khác buồn phiền khổ đau, không nói xấu người khác, không đặt điều thêm bớt, không đem chuyện người này nói lại với người kia... Chánh Ngữ là những lời nói luôn luôn lúc nào cũng ôn tồn, nhã nhặn, dịu dàng, nhẹ nhàng, từ tốn, khiêm cung, những lời nói hiền lành, lời nói không làm khổ mình, khổ người, và khổ tất cả chúng sanh. Lời nói không làm khổ mình, khổ người là lời nói thiện. Lời nói thiện có bốn: 1- Không nói lời hung dữ, 2- Không nói lời đâm thọc, 3- Không nói lời lật lọng, 4- Không nói lời không thật. Lời nói không làm khổ mình, khổ người là lời nói thiện, lời nói ấy là chánh ngữ, nếu ai đã từng nói những lời nói này là người ở bờ giải thoát, như vậy chứng quả A La Hán đâu phải khó.

Chánh Niệm (PhậtDạy.1) (PhậtDạy.2) (Phậtdạy.3) (PhậtDạy.4) (ĐườngVề.2) (ĐườngVề.6) (Đường Về.7) (CầnBiết.4). Chữ “niệm” là “nhìn thấy, hiểu biết một cách tường tận, đúng như thật nhân quả, đúng như Thập nhị nhân duyên”. Chánh Niệm là niệm chân chánh, niệm thiện, niệm không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh, tức là sự hiểu biết rõ niệm thiện niệm ác. Biết rõ niệm thiện, niệm ác đó là do trí thức đã thấu suốt niệm thiện ác, nên thường ở trong chánh niệm. Trí thức tỉnh táo sáng suốt chính là chánh niệm. Chánh niệm còn có nghĩa là thân tâm không bị các pháp ác và các cảm thọ gây chướng ngại hay nói cách khác chánh niệm là chỉ cho thân tâm thường thanh thản, an lạc và vô sự; nói theo kiểu đạo đức chánh niệm là đạo đức không làm khổ mình, khổ người; nói theo kiểu tỉnh thức chánh niệm thì chánh niệm có nghĩa là ly tham, ly sân, ly si, ly mạn, ly nghi; là niệm vô lậu.

Chánh niệm gồm có 3: 1- Thân hành niệm nội là hơi thở. 2- Thân hành niệm ngoại là sự họat động của thân như: Đi, đứng, ngồi, nằm, nói, nín, đưa tay, duỗi chân, cúi đầu, liếc mắt, ngó nhìn làm tất cả mọi công việc, v.v... 3- Thân tâm ở trạng thái bất động tâm có nghĩa là tất cả các ác pháp không tác động vào thân được tức là tâm ở trong trạng thái “Vô Tướng Tâm Định” hay nói cách khác là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm lúc bấy giờ hoàn toàn không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Tâm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu mới được gọi là tâm bất động; mới được gọi là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tất cả những niệm kể trên là niệm vô lậu. Niệm vô lậu chính là Chánh niệm. Trong kinh sách Nguyên thủy còn bảo Chánh Niệm là Tứ Niệm Xứ. Khi Chánh Niệm thanh thản, an lạc và vô sự hiện tiền trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì tà niệm không bao giờ xen vào được. Nếu tà niệm xen vào thì phải tức khắc nhiếp phục không được để chúng tác động vào thân, thọ, tâm và pháp. Ðức Phật đã xác định Chánh Niệm là Tứ Niệm Xứ, cho nên người tu Chánh Niệm tức là tu tập Tứ Niệm Xứ. Người nào tu pháp môn Tứ Niệm Xứ này chỉ trong vòng 7 ngày, 7 tháng, 7 năm là viên mãn, sẽ có giải thoát ngay liền, không còn đau khổ, họ ở bờ bên kia, bờ không còn lậu hoặc. Như vậy, họ chứng quả A La Hán. Chánh Niệm là tên của lớp học, còn Tứ Niệm Xứ là môn học cho lớp học đó, chứ không phải Chánh Niệm là những môn học như Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ thuộc Ðịnh Vô Lậu.

Muốn tu tập Ðịnh Vô Lậu thì phải dùng ý thức, pháp tác ý và pháp như lý tác ý. Tập sống trong Chánh Niệm tức là tu tập Tứ Niệm Xứ thì hằng ngày phải quan sát trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm và pháp, nếu thấy có Tà niệm thì phải tu tập như sau: “Trên thân quán sát thân để khắc phục tham ưu; trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu ở đời; trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu; trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu”. Muốn đạt được Chánh Niệm thì phải có sự tỉnh thức. Muốn tu tập tỉnh thức, đức Phật dạy: “Tỳ Kheo tỉnh giác khi đi tới, đi lui; tỉnh giác khi ngó tới, ngó lui; tỉnh giác khi co tay, duỗi tay; tỉnh giác khi mang áo sanghati (tăng già lê), mang bát, mang y; tỉnh giác khi ăn uống, khi nhai, khi nếm; tỉnh giác khi đại tiện, tiểu tiện; tỉnh giác khi đi, đứng, khi ngồi, khi nằm, khi thức, khi nói, khi im lặng, đều tỉnh giác. Này các Tỳ Kheo, như vậy Tỳ Kheo sống tỉnh giác”. Ðoạn kinh nói như vậy, khiến các bạn sẽ hiểu sai lệch biến pháp xả tâm thành pháp ức chế tâm chỉ lo chú ý tập trung trên thân hành một cách ức chế tâm cho hết niệm khởi, đó là một điều tu sai lệch pháp hết sức. An trú Chánh Niệm Tỉnh Giác trong nhiều góc độ của pháp môn Tứ Niệm Xứ để đạt được sự làm chủ sự sống chết hoàn toàn chỉ trong một đời này mà thôi. Người đời sau đã biến Tứ Niệm Xứ thành một loạt thiền ức chế tâm chứ không còn là Chánh Niệm trong Bát Chánh Ðạo.

Chánh niệm không tham trước (PhậtDạy.1) có nghĩa là tu tập Tứ Niệm Xứ nên tâm đã khắc phục được những tham ưu trên thân, thọ, tâm, và pháp. Nhờ đó tâm không còn phóng dật.

Chánh Niệm Tỉnh Giác (PhậtDạy.4) (TrợĐạo) (Tạoduyên) (ĐườngVề.10) (CầnBiết.5) Chánh Niệm Tỉnh Giác là tên một pháp môn trong 4 pháp môn của Tứ Chánh Cần mà đức Phật dạy cho chúng ta đầu tiên khi mới bước chân vào đạo tu tập, (Tứ Chánh Cần gồm có: 1- Chánh Niệm Tỉnh Giác Định 2 - Định Vô Lậu 3 - Định Sáng Suốt 4 - Định Niệm Hơi Thở). Chánh Niệm Tỉnh Giác là một pháp môn đối trị bệnh gần chết của thân tứ đại nhưng chỉ là để chịu đựng cơn đau cũng giống như người ôm phao vượt biển. Khi có những cơn đau mãnh liệt như dao cắt ruột, xé gan thì chỉ còn có cách giữ gìn tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác trên Thân Hành Niệm Nội (hơi thở) hay Thân Hành Ngoại (hành động tay chân) để chịu đựng được những cơn đau ấy. Nhưng chỉ là để chịu đựng cơn đau đó mà thôi. Đối với đạo Phật, đây là phương pháp đầu tiên để chiến thắng giặc sanh tử, giặc bệnh tật và giặc luân hồi. Phải rèn luyện tu tập cho thuần thục, nhu nhuyến những pháp môn này mới chiến thắng những cơn đau, đối trị những ác pháp đang tấn công ào ạt vào thân tâm; nhờ có những pháp môn này mà tâm ta mới bất động hoàn toàn, mới ly dục ly ác pháp được trọn vẹn.

Chánh Niệm Tỉnh Giác có bốn giai đoạn tu tập: 1- Giai đoạn thứ nhất: Ði kinh hành bình thường, chỉ đi 10 bước đứng lại tác ý một lần: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, tác ý xong câu này rồi tiếp tục đi. Ði và đứng lại tác ý như vậy đúng 30’ mới xả nghỉ. 2- Giai đoạn thứ hai: Ði kinh hành bình thường, chỉ 10 bước đứng lại tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Sau khi tác ý xong rồi thở ra hít vô, đếm đúng 5 hơi thở, ngưng lại, rồi tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” trước khi đi. Khi đi xong 10 bước đứng lại tác ý và thở như trên. Tu tập như vậy đúng 30’ rồi xả nghỉ. 3- Giai đoạn thứ ba: Ði kinh hành bình thường, chỉ 10 bước, ngồi xuống kiết già hay bán già lưng thẳng, mắt nhìn chóp mũi rồi tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Sau khi tác ý xong rồi thở ra, hít vô đúng 5 hơi thở, ngưng lại đứng dậy, tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” trước khi đi. Khi đi xong 10 bước đứng lại rồi ngồi xuống tác ý và thở như trên. Tu tập như vậy đúng 30’ rồi xả nghỉ. 4- Giai đoạn thứ tư: Ði kinh hành theo pháp Thân Hành Niệm, pháp này phải được trực tiếp với người có kinh nghiệm dạy, chứ đừng tự mình tu tập vì dễ bị sai lệch rất nguy hiểm. Pháp này mỗi hành động trong thân đều phải tác ý trước rồi mới hành động sau, có nghĩa là lệnh đâu thì hành động phải theo lệnh đó mà thi hành. Ðó là những phương pháp vượt qua cơn đau, chứ không phải là phương pháp trị cơn đau. Ðối với những loại giặc cảm thọ mãnh liệt này, nếu không chịu rèn luyện tu tập cho thuần thục, nhu nhuyễn pháp môn Chánh Niệm Tỉnh Giác thì rất khó chiến thắng chúng. Nhờ có pháp môn này mà tâm mới bất động hoàn toàn, mới ly dục ly ác pháp được trọn vẹn.

Chánh Niệm trong Bát Chánh Ðạo là lớp thứ bảy. Chánh Niệm có nghĩa là niệm thiện, niệm thiện là niệm không khổ, là niệm không có tham ưu, không có phiền não. Hành động của thân, miệng, ý luôn luôn mang theo tính chất thiện hay ác, chứ không có hành động suông được, vì thế, tỉnh thức ở chỗ thiện, ác, chứ không phải tỉnh thức ở hành động suông; tỉnh thức ở hành động suông thì còn có nghĩa lý gì cho con đường tu tập giải thoát của đạo Phật. Cho nên lúc nói, lúc viết, lúc tư duy quan sát mọi việc làm thì ta phải tỉnh giác để lời nói thiện, viết điều thiện, tư duy quán xét việc làm thiện thì đó là ta đã chánh niệm tỉnh giác, chứ không phải chánh niệm tỉnh giác ở chỗ đang nói, đang viết, đang làm mọi việc. Có siêng năng tu tập chánh niệm tỉnh giác trong khi nói, trong khi viết và trong mọi việc làm thì ta ngăn ác diệt ác trong khi nói, trong khi viết và trong làm khi mọi việc đều dễ dàng, do đó tâm hồn ta được giải thoát hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây.

Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh (ĐườngVề.1) (ĐườngVề.5) Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh là pháp môn tu tập “dừng cái ý”. Tâm lìa hết tham, sân, si thì ý thức dừng. Cách tu tập định này, trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại (Tứ Niệm Xứ) nghĩa là thân đi biết thân đi, thân đứng biết thân đứng, thân ngồi biết thân ngồi, thân mặc y mang bát biết thân mặc y, mang bát, thân làm việc gì đều biết thân làm việc nấy. Tâm luôn chú ý theo dõi hành động của thân đang hoạt động, không để mất niệm đang làm. Mất niệm đang làm là thất niệm, thất niệm là mất tỉnh giác, mất tỉnh giác tức là mê, mê còn gọi là quên. Cho nên, tu tập mà để thất niệm là tu sai, tu như vậy không có kết quả, tu suốt đời cũng chẳng có ích lợi gì. Thất niệm có hai trạng thái khác xen vào: 1- Quên mất niệm hành động của thân, xen vào những vọng tưởng, nghĩ ngợi chuyện thế gian (bị vọng niệm). 2- Quên mất niệm hành động của thân (vô ký) hành động theo thói quen, không nhớ, hay quên. Quên mất niệm là quên pháp như lý tác ý, quên pháp như lý tác ý là ý thức chìm thì tưởng thức hoạt động, tưởng thức họat động thì sẽ rơi vào Thiền tưởng.

Người mới tu Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác phải dùng pháp tác ý hướng dẫn tâm tỉnh thức, nếu không dùng pháp tác ý thì tâm dễ bị vọng tưởng và vô ký. Cái khó là ở chỗ tu tập nếu không có người có kinh nghiệm hướng dẫn thì khó mà tu tập tỉnh thức an trú thời gian dài được. Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và Ðịnh Vô Lậu sẽ hỗ trợ cho nhau, khi chúng ta biết kết hợp chúng, chúng sẽ giúp chúng ta diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, nhờ thế tâm bất động trước các đối tượng. Nếu người siêng năng tu tập như vậy, tâm được thanh tịnh hoàn toàn, tâm sẽ không còn phiền não, khổ đau, giận hờn, thương ghét nữa. Nhiệt tâm, tinh cần, tinh tấn, không biếng trễ, không bỏ qua một giây phút nào, thì kết quả sẽ nhanh chóng, giải thoát chỉ cần một đêm tu tập sẽ trở thành bậc Thánh Hiền. Người cư sĩ tại gia cũng như người tu sĩ xuất gia đều dễ dàng tu tập hai pháp môn Thiền định này mà không sợ lạc Thiền, tẩu hỏa nhập ma hoặc rối loạn thần kinh, hoặc ông lên bà xuống như nhập đồng, nhập xác.

Chánh niệm trên thân, thọ, tâm và pháp (ĐườngVề.4) là niệm “thanh thản, an lạc và vô sự"

Chánh niệm trước mặt (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) Chánh niệm trước mặt không phải là niệm hơi thở vô, hơi thở ra mà là niệm từ bỏ, thoát ly, gọt rửa hết năm triền cái (dẹp sạch và đoạn dứt năm triền cái bằng pháp tác ý) như tâm dục tham, tâm sân hận, tu tập quét sạch hôn trầm thùy miên, tâm trạo cử hối quá, tâm nghi ngờ. Đây là phương pháp tu tập để dẹp sạch và đoạn dứt năm triền cái: 1.- Từ bỏ tâm dục tham ở đời, sống thoát ly dục tham, gọt rửa tâm hết dục tham, là ba pháp được đặt trước mặt để quán xét, từ bỏ, thoát ly và gọt rửa tâm dục tham, không phải niệm hơi thở vô, hơi thở ra. 2.- Từ bỏ tâm sân hận, sống với tâm không sân hận, gọt rửa tâm hết sân hận, khởi lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh loài hữu tình. 3.- Từ bỏ hôn trầm thùy miên trước mặt mà tác ý tu tập thì sẽ không còn thùy miên và hôn trầm nữa. 4.- Từ bỏ trạo cử, hối quá, nội tâm trầm lặng, gọt rửa tâm hết trạo cử, hối quá. 5.- Từ bỏ nghi ngờ, sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân, lưỡng lự, gọt rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp. Hãy nên theo thứ lớp tuần tự các pháp trên đây mà tu tập cho kỹ lưỡng.

Chánh pháp (PhậtDạy.4) (CầnBiết.5) (dùng Chánh pháp làm ngọn đèn) ở đây là Tứ Niệm Xứ: “vị Tỳ kheo đối với thân quán thân, tinh tấn tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ…; đối với tâm…; đối với các pháp, quán pháp tinh tấn tỉnh giác, chánh niệm nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời.” Chánh pháp của đức Phật là Bát Chánh Ðạo, ngoài Bát Chánh Ðạo ra thì không có pháp môn nào được gọi là giáo pháp của đức Phật. Bởi vì Bát Chánh Ðạo là một chân lý trong bốn chân lý của Phật giáo, mà đức Phật khi còn sống Ngài đã xác định rõ ràng để không còn lầm lạc với tà pháp mà các nhà Đại Thừa khéo lồng vào giáo pháp của đức Phật.

Chánh pháp còn phải bỏ huống là phi pháp (ĐườngVề.10.) Câu nói này đúng với người tu chứng, còn người tu chưa chứng mà dùng câu nói này là người phi pháp. Chánh pháp là đối tượng của phi pháp, nếu phi pháp không còn thì chánh pháp dùng vào đâu? Dù muốn để chánh pháp cũng phải bỏ. Nếu phi pháp có thì chánh pháp là đối thủ của nó, còn phi pháp không thì chánh pháp là sự sống của con người, chứ cần gì phải bỏ, phải lấy.

Chánh pháp là ngọn đèn, Chánh pháp làm chỗ nương tựa vững chắc cho mình (CầnBiết.5) là tu tập Tứ Niệm Xứ, phải thường xuyên quan sát thân, thọ, tâm và các pháp, phải luôn luôn lúc nào cũng tỉnh giác chánh niệm khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm đều luôn hộ trì và bảo vệ thân, tâm không cho một chướng ngại pháp nào tác động vào thân tâm.

Chánh Tín (Đường Về.7) (ChùaAm) Chánh tín chỉ cho mọi người biết thực hành đời sống có đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và chúng sinh, luôn luôn giữ gìn tâm Bất động, thanh thản, an lạc và vô sự bằng pháp môn Như ly tác ý để tâm luôn luôn ly dục ly bất thiện pháp, nhờ đó mới thấy được tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Chính thấy được tâm thanh thản, an lạc và vô sự như vậy mới là giải thoát của Phật giáo. Chánh tín là khi làm việc gì, thì phải hiểu rõ, biết rõ việc mình đang làm, không bị ảnh hưởng phong tục, tập quán, không bị tôn giáo lừa đảo, đầy đủ ý nghĩa đạo đức làm người thì việc ấy là “Chánh Tín”. Thí dụ hằng năm nhớ lại ngày mất cha, mất mẹ, mất những người thân; hoặc những ngày tư, ngày Tết cả gia đình cười đùa, vui chơi, thì họ lại nhớ đến công ơn của những người quá cố, nên đến nơi an nghỉ cuối cùng của những người thân thương này, tức là thăm mồ mả. Khi thấy mồ mả của những người thân, con cháu tưởng chừng những người khuất mặt đang ở đâu đây, nên mới mời những người đó về vui chơi Tết với con cháu. Ðó là lòng tưởng nhớ của những người còn sống, chứ người chết rồi, còn những gì mà về ăn Tết vui chơi với con cháu.

Chánh Tinh Tấn (PhậtDạy.2) (ĐườngVề.2) là sự siêng năng đúng với chánh pháp, là “Tứ Chánh Cần: Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Có những sự siêng năng mà không đúng chánh pháp như những tu sĩ và cư sĩ siêng năng “niệm Phật, trì chú, tụng kinh, bái sám, ngồi thiền, v.v...”, đó không phải là Chánh Tinh Tấn, mà chính là Tà Tinh Tấn. Chánh Tinh Tấn là phương pháp đầu tiên để tu tập thiền định, nghĩa là hằng ngày đi, đứng, nằm, ngồi, nói nín đều ngăn ác diệt ác pháp và luôn luôn sống trong thiện pháp, để giúp cho thân tâm ly dục ly ác pháp, thân tâm ly dục ly ác pháp, thì thân tâm mới thanh tịnh, thân tâm có thanh tịnh thì mới bắt đầu có định, chính từ tâm thanh tịnh này chúng ta mới chính thức đi vào thiền định. Nếu thân tâm chưa thanh tịnh mà vội vàng tu thiền định tức là tu sai, tu không đúng như trong Bát Chánh Ðạo đã dạy. Người nào luôn luôn sống Chánh tinh tấn như vậy là người mở cửa Thiên Ðàng, là người ở bờ bên kia, bờ giải thoát, bờ không còn khổ đau, chứng quả A la Hán không có khó khăn, không có mệt nhọc.

NGHĨA CỦA CÁC CÂU, CÁC TỪ - Kì 5

              Vần C (tiếp theo)

Chánh trí (PhậtDạy.2) là tri kiến có giới luật như đức Phật đã dạy: “Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nếu một người sống có tri kiến và giới luật như vậy, là ở bờ bên kia, bờ giải thoát. Như vậy, chứng quả A La Hán đâu phải khó khăn như mọi người nghĩ.

Chánh tri kiến (PhậtDạy.1) là sự hiểu biết mọi vật như thật, do hiểu biết mọi vật như thật nên mọi khổ ách đều được hóa giải.

Chánh tri kiến trong việc Qui Y (3Qui5Giới) là ẩn nơi lời thệ nguyện “Con nguyện suốt đời tiến theo chiều Giác ngộ giải thoát, mà đức Phật đã trải qua, con hứa tránh mọi điều tội lỗi, làm tất cả điều lành, để trọn nhân cách con người”. Và “Con nguyện suốt đời Quy-Y Phật thì không Quy-Y Thiên thần Quỉ vật, Quy-Y Pháp thì không Quy-Y ngoại đạo tà giáo, Quy-Y Tăng thì không Quy-Y tổn hữu ác đảng”. Nghĩa là ta đã xác nhận và quyết định lấy đạo đức nhân bản nơi Phật, Pháp, Tăng làm cái lẽ sống đạo của mình, làm lý tưởng lập trường của đời mình. Giữ đúng như vậy thì sự Quy-Y còn, mà không giữ thì mất! Dù không thọ Tam quy nhưng giữ giới (theo lời thệ nguyện Chánh-tri-kiến) đầy đủ nổi, thì cũng vẫn còn Tam quy. Nhưng nếu thọ Tam quy mà không giữ giới (tức không theo lời thệ nguyện, phá hủy Chánh-tri-kiến), nghĩa là “Phá Kiến” thì chỉ là người tà kiến ngoại đạo mà thôi!

Chánh trực (PhậtDạy.1) (ĐườngVề.2) (TứBấtHoại) (CữSĩTu) là tâm ngay thẳng, tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự, là Tâm không phóng dật. “với tâm chánh trực liền được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người ấy có hân hoan nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, người ấy có cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tỉnh”.

Chánh Tư Duy (PhậtDạy.2) (Phậtdạy.3) (ĐườngVề.2) (CầnBiết.4) Chánh tư duy là sự suy nghĩ một điều gì mà điều đó không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai; một sự suy nghĩ làm cho chúng ta không buồn phiền, không làm cho ta tức giận, không làm cho ta lo lắng sợ hãi, không làm cho ta bất toại nguyện, v.v… Chánh tư duy là sự suy tư để lìa xa, từ bỏ, hay yểm ly tham, sân, si, mạn, nghi. Người có Chánh tư duy là người có lòng yêu thương người khác, biết tha thứ mọi sự lỗi lầm của người khác, biết giúp đỡ những người bất hạnh trong xã hội. Chánh Tư Duy là suy tư, suy ngẫm về mười điều thiện và mười điều ác, luôn luôn loại trừ mười điều ác, lìa xa gốc tham dục và ác pháp. Sự suy nghĩ như vậy, mang đến một tâm hồn an vui và hạnh phúc biến cảnh thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Ðàng, là bờ giải thoát, lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, an lạc và vô sự, không còn một ác pháp nào tác động được thân tâm thì chúng ta đã chứng quả A La Hán.

Cà sa (TruyềnThống.1) là một loại áo mặc của những vị tu sĩ Phật giáo bằng những vải thô xấu (vải vụn, vải bó thây ma).

Cành lá (TrợĐạo) được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng (được sự cung kính cúng dường) (Trung Bộ, kinh số 29. Ðại Kinh Thí Dụ Lõi Cây).

Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa (ĐườngVề.1) là dứt bỏ cuộc sống thế tục để cắt các duyên bên ngoài, không trang điểm làm đẹp, phải làm cho mình xấu xí, ăn mặc thì không được chải chuốt, mặc phải bằng những vải thô xấu, hình ảnh bên ngoài phải phá và dẹp bỏ cái đẹp đẽ của trần gian khiến cho mọi người không còn để ý đến mình thì mới dễ dàng tu hành. Người đi tu mà còn trang điểm làm đẹp, làm dáng là không thể nào theo đạo Phật tu hành đến nơi đến chốn được.

Cải thiện (Phậtdạy.3) (CầnBiết.4) là khắc phục những lỗi lầm, sửa sai những lỗi lầm; thay đổi, làm cho tốt không còn để thói hư tật xấu. Sửa sai những lỗi lầm, thay đổi những thói hư tật xấu của mình.

Cảm Giác Toàn Thân (MuốnChứngĐạo) hít vô thì cảm nhận từ trên đầu xuống tới chân; thở ra thì cảm nhận từ chân lên đầu. Khi hít thở thì thân có độ rung do hơi thở, quí vị quan sát, lắng nghe độ rung đó.

Cảm nhận Tâm Hành (MuốnChứngĐạo) là làm chủ tâm, điều khiển tâm làm cho tâm luôn luôn sống trong thiện pháp và không bao giờ để tâm tư duy suy nghĩ những điều ác. Ý thức xả tâm tức là Cảm Nhận Tâm Hành vì thế phải tu tập cho thật kĩ, cho cảm nhận được sự động và sự tịnh của tâm.

Cảm nhận thân an tịnh (MuốnChứngĐạo) là đề mục làm cho xuất hiện tướng trạng thân an tịnh để đẩy lui bệnh khổ. Tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” vừa nương vào hơi thở. Tâm phải có thời gian để nương vào được trong hơi thở thì tướng an tịnh mới hiện ra. Cứ tiếp tục tập luyện riết trong những thời khóa khác thì chỉ sau 5 hơi thở là tướng an tịnh đã hiện ra rồi, thời gian được thu ngắn lại là nhờ khi ngồi chơi mà xả tâm vì thế vừa vào tập luyện chỉ mới nhắc là nó hiện ra ngay. Đó là có kết quả. “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Cảm nhận thân an khi hít thở thân không bị động đậy, không bị rung động; khi hít thở thì thấy tâm không niệm, không niệm là yên tịnh. Cứ hai trạng thái đó mà cảm nhận thôi.

Cảm thọ (PhậtDạy.2) (Phậtdạy.3) (12Duyên) chỉ cho sự đau khổ của thân. Cảm thọ gồm có ba phần: 1- Cảm Thọ Lạc thì tâm ưa thích nên gọi là Ái Lạc 2- Cảm Thọ khổ thì tâm không ưa thích nên gọi là Ái Khổ. 3- Cảm Thọ Bất Lạc, Bất Khổ thì không chấp nhận, vì đó là một trạng thái của một người bình thường nên trạng thái này không được kéo dài thời gian. Muốn cho các cảm thọ không sinh ra thì phải ngăn ngừa không cho sáu trần xúc chạm với sáu căn. Nếu khi sáu trần xúc chạm với sáu căn sinh ra các cảm thọ thì cố gắng giữ tâm không hề dao động trước ba cảm thọ. Tác ý "Tất cả các cảm thọ (đau nhức, ngứa ngáy, mệt mỏi, tức lói, v.v... ) đều vô thường, vô ngã, không phải là ta, không phải của ta". Để thắng vượt cảm thọ thì ta tư duy: Tính chất của cảm thọ là vô thường vô ngã thì ta sợ gì; nó có làm gì được ta đâu mà sợ, mặc kệ nó, vì ta với nó là hai kẻ xa lạ; và cần tác ý: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự, đừng sợ cảm thọ, nó không phải là ta, của ta, nó là người xa lạ hãy đi, đi! Không được ở trong thân ta” hoặc ta tác ý như sau: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” hoặc “Thọ phải đi, đi! Thân phải an tịnh. Tôi biết tôi đang đi kinh hành”, luôn bám cho thật chặt vào hơi thở hoặc thân hành ngoại thì cảm thọ sẽ đi mất. Cảm thọ đi mất tức là dục đi mất. Dù tham, sân, si, ngã, vô ngã hay nhân quả... đều lấy thọ làm chỗ quy tụ.

Cảm thọ dục (PhậtDạy.2) Dục ở chỗ đau gọi là dục đau.

Cảnh giác (TâmThư.1) là pháp thế gian, không phải là một pháp môn tu tập. Cảnh giác là tâm lo sợ nghi ngờ, là sự đề phòng, là nỗi lo lắng, luôn luôn nghi ngờ người này người kia, là để phòng những đối tượng hại mình, chứ không lưu ý từng hành động thân, miệng, ý. Cảnh giác làm khổ mình nên lúc nào cũng dè dặt lo ngại. Người cảnh giác chỉ là một đức cẩn thận đề phòng bảo vệ cá nhân mình mà thôi, cho nên cảnh giác chỉ là nghi ngờ dò xét chứ không phải tỉnh giác. Ở đạo đức nhân bản - nhân quả thì dùng từ tỉnh giác, còn ở góc độ thông tin thế gian thì dùng từ cảnh giác. Nếu dùng tỉnh giác cho cuộc sống hằng ngày thì không cần dùng cảnh giác. Dùng “cảnh giác” thì phải dùng thêm “tỉnh giác” mới đem lại sự bình an cho mình thật sự, còn chỉ dùng riêng “cảnh giác” là đem đến cho mình một sự bất an lo lắng.

Cảnh giới Ðịa Ngục (YêuThương.2) là cảnh những con người xấu ác tự làm khổ mình khổ người và tất cả các loài động vật khác ở trên hành tinh này, vì sống không biết thương yêu và tha thứ. Bởi Thiên Ðàng và Ðịa Ngục không phải ở trên trời hay ở dưới lòng đất mà ở ngay trong cuộc sống hằng ngày của con người. Bởi vậy Thiên Ðàng và Ðịa Ngục đều do con người mà có.

Cảnh giới Thiên Đàng (YêuThương.2) là cảnh con người sống trên hành tinh này mà sống biết thương yêu và tha thứ không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả vạn vật. Bởi Thiên Ðàng và Ðịa Ngục không phải ở trên trời hay ở dưới lòng đất mà ở ngay trong cuộc sống hằng ngày của con người. Bởi vậy Thiên Ðàng và Ðịa Ngục đều do con người mà có. Cho nên những mẩu chuyện trên đây là nói lên ý nghĩa Thiên Ðàng và Ðịa Ngục.

Cảnh giới Thiên đàng và Cực lạc (ĐườngRiêng) là những cảnh giới tưởng do tưởng uẩn tạo ra, nên nó là cảnh giới không có thật, vì thế những người theo các tôn giáo này tu tập chỉ hoài công vô ích, thường sống trong ảo mộng, đau khổ lại hoàn đau khổ và cứ mãi tiếp tục tái sinh luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác không bao giờ chấm dứt. Hình ảnh mà chúng ta thường gặp đức Mẹ hiện ra hay chư Phật giáng trần đều là hình bóng tưởng do từ lòng tin không lay chuyển của chúng ta nên tưởng uẩn lưu xuất giúp chúng ta thỏa mãn lòng tin.

Chảy vào (PhậtDạy.4) (CầnBiết.5) ý nghĩ tự khởi lên, đau khổ tự khởi lên, các bất thiện pháp tự khởi lên; đó là những ác pháp làm cho thân tâm bất an, như thân đau nhức, mỏi mệt, nóng rát, tâm lo lắng, sợ hãi, buồn rầu và thương nhớ, v.v… Chảy vào là tự khởi lên, những pháp này gọi là vọng tưởng. Còn khi hướng tâm tác ý thì không phải vọng tưởng. "Không có chảy vào" là khi tâm rất tỉnh giác trong trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự, không có một sự ưu phiền nào hay một ác pháp nào tác động thân tâm. (Trong khi Ta đang ngồi, tham, ưu và các bất thiện pháp không có chảy vào).

Căn Bản (PhậtDạy.2) (ĐườngVề.2) (3Qui5Giới) là nguồn gốc, gốc rễ, cội nguồn. Ở đây là giáo lý căn bản của toàn bộ Phật pháp. Và căn bản cũng là giáo lý đào tạo cái căn bản cho sự hướng thượng, nhắm vào mục đích thứ nhất của Phật pháp là đào tạo nhân cách tương đối đổi mới con người và những gì của nó, nghĩa là nói đến cả ba phương diện: 1) Hóa cải bản thân. 2) Hóa cải gia đình. 3) Hóa cải xã hội.

Căn bản bất thiện (ĐườngVề.2) Đức Phật dạy về căn bản bất thiện (ba cội nguồn gốc ác) "Tham, sân, si".

Căn Bản của toàn bộ Phật pháp (3Qui5Giới) “thọ Tam qui và trì Ngũ Giới” là nền tảng căn bản của một người Phật tử. Mục đích chánh của giáo lý phần căn bản là Hoàn thành nhân cách tương đối. Sự hoàn thành đó gồm có toàn diện đời sống của con người – Tức là: 1) Hóa cải bản thân. 2) Hóa cải gia đình. 3) Hóa cải xã hội.

Căn bản của trí (12Duyên) Mỗi người tu theo Phật giáo đều phải hiểu biết sự giải thoát của Phật giáo hoàn toàn do sự hiểu biết, nhưng hiểu biết thì phải bằng trí tuệ. Có sáu Trí như sau: 1- Trí biết rằng già chết do duyên sanh. 2- Trí biết rằng không có sanh thì không có già chết. 3- Trí biết rằng trong quá khứ già chết cũng do duyên sanh. 4- Trí biết rằng không có sanh thì không có già chết. 5- Trí biết rằng trong tương lai già chết cũng do duyên sanh. 6- Trí biết rằng không có sanh thì không có già chết. Khi thông suốt sáu trí này thì người ấy có đầy đủ trí về tận pháp, trí về hoại pháp, trí vế ly tham, trí về diệt pháp, nhờ đó tâm họ hoàn toàn giải thoát tức là bất động trước các pháp.

Căn cơ (CầnBiết.2) của chúng ta thể hiện qua nhân tướng (hình dáng cơ thể) và hành tướng (Nội là hơi thở, ngoại là các hành động của thân). Vì thế, khi tu tập chúng ta nên tu tập theo nhân tướng và hành tướng tự nhiên của mình. Nhân tướng là hình dáng cơ thể, có người có nhân tướng cao, nhưng cũng có người có nhân tướng thấp, người đẹp, người xấu, người trắng, người đen, người mập, người ốm, người mặt dài, mặt ngắn, mặt vuông, mặc chữ điền, mặt bầu, mặt tròn... Tất cả mọi hình tướng khác nhau đều gọi là nhân tướng. Người tu theo đao Phật không nên vì nhân tướng mà tu tập hay ước mơ có một nhân tướng tốt đẹp như 32 tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. Ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp như đức Phật có còn đâu, khi đức Phật nhập Niết bàn thì chỉ còn lại một nắm xương vụn bất tịnh thiêu chưa cháy hết. Mục đích của đạo Phật là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ chứ không phải là tướng tốt. Dưới đôi mắt của Phật thì nhân tướng của con người chỉ là tứ đại duyên hợp, bất tịnh, uế trược, không có đáng cho chúng ta quan tâm. Nhưng trong khi tu tập chúng ta phải biết sử dụng nó như một con ngựa để đi đường xa vạn dặm. Vì thế, chúng ta phải biết cách khi thì dụ dỗ khi thì ra lệnh, chứ không bắt ép nó tu tập nhiều thì cũng không tốt, mà tu tập ít thì cũng không có lợi, không được khổ hạnh ép xác, mà cũng không được lợi dưỡng phá giới luật. Phải tùy theo đặc tướng của mình mà thực hiện cho đúng pháp, thì có kết quả lợi ích rất lớn. Hành tướng ngoại tự nhiên của mình đi chậm, thì khi tu tập phải theo hành tướng đi chậm mà tu, không được đi nhanh, cũng không đi quá chậm. Khi hành tướng tự nhiên của mình đi nhanh thì khi tu tập không được đi chậm, hoặc quá chậm hoặc quá nhanh, phải đi với tướng tự nhiên của mình. Hành tướng nội hơi thở tự nhiên của mình chậm thì khi tu tập nên theo hơi thở chậm. Nếu hành tướng nội hơi thở tự nhiên của mình nhanh thì nên tu tập theo hơi thở nhanh, không nên hơi thở chậm mà khi tu tập thì lại thở nhanh, cũng như hởi thở nhanh mà khi tu tập thì lại thở chậm, tu như vậy không tự nhiên. Không tự nhiên thì có sự ức chế, mà có sự ức chế thì có chướng ngại pháp, có chướng ngại pháp thì không có giải thoát ngay liền, không có sự giải thoát ngay liền là tu sai pháp Phật, tu sai pháp Phật tức là tu theo pháp môn của ngoại đạo.

Cắn chặt răng và dán chặt lưỡi lên nóc họng (ĐườngVề.8) nghĩa là cố gắng nén tâm, hết sức kham nhẫn chịu đựng để vượt qua cơn thử thách của ác pháp. Nếu cứ để tâm chạy theo tham, sân, si thì rất dễ dàng, bằng đi ngược lại, nó là một việc làm hết sức gian khổ, cần phải có đầy đủ nghị lực, gan dạ và chịu đựng những cơn thử thách kinh hồn đó thì chúng ta mới vượt qua cơn sóng gió bão bùng của nội tâm mình.

Cắt giải oan kết (ĐườngVề.10) là làm cho đoạn dứt những điều oan ức của những người đã chết không đi đầu thai được, như những người tự tử, những người lính chết trận, những người chết bị tai nạn giao thông, chết bị cướp đâm, giặc giết, v.v… . Theo sự tích Vua Ðường Lý Thế Dân đánh Ðông dẹp Bắc, chinh Nam, phạt Tây, sau khi bình định được quê hương xứ sở thì những người chết oan vì chiến tranh vô số kể, vì thế vua Ðường Lý Thế Dân cho người qua Thiên Trúc thỉnh kinh về lập đàn kỳ siêu giải oan kết những người chết oan.

Chặng đường quanh co, gian nan đầy thử thách (TâmThư.2) phải trải qua nhiều sự rèn luyện tu tập thân và tâm để đạt được cứu cánh giải thoát, học tập thì phải cho ra học tập, còn tu tập thì phải cho ra tu tập. Khi khả năng của mình chỉ ở lớp thấp mà muốn tu học ở lớp cao tập thì kết quả sẽ là số “không”.

Chẳng muội nhân quả (Tạoduyên) Ý nói đứng trước các pháp ác, tâm không hề dao động (chẳng mê muội), chẳng sợ hãi trước cơn đau bệnh, trước cái chết; trước cái tai nạn khổ sở, nghĩa là đừng sợ hãi các ác pháp, vì thấy nó là huyễn giả, không thật, là không. Mọi sự vật, mọi hoàn cảnh xảy ra đều là huyễn giả không thật có. Đau là phải chịu đau, chết là phải chịu chết, chứ không thể nào làm chủ được nó, chỉ chẳng mê muội trước nó là đủ, vì mê muội trước nó là sợ hãi, là buồn khổ, rên la, kêu khóc, v.v...

Chẳng niệm thiện niệm ác (ĐườngVề.10) Câu nói của Lục Tổ Huệ Năng, là nói với người tu chứng, còn những người tu chưa chứng mà dùng câu này để tu thì tu ức chế tâm, tu sai đường. Người tu chưa chứng thì nên ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, còn ném cả thiện và ác thì e rằng họ sẽ trở thành cây đá mất và họ đã quên rằng họ là người đang tu mà bỏ luôn chánh pháp thì họ lấy cái gì để tu, nếu bỏ luôn chánh pháp thì cũng giống như người muốn sang sông mà bỏ luôn chiếc bè thì làm sao họ qua bờ bên kia được. Câu: “Chẳng niệm thiện niệm ác” của Lục Tổ Huệ Năng là câu công án, mục đích của nó là nhằm khai ngộ Phật Tánh, có nghĩa là câu này giúp cho hành giả nhận ra Ý THỨC không niệm chứ không phải để tu, người sau không hiểu lấy câu này làm chỗ tu, nên tu sai, tu vào chỗ ức chế tâm, rơi vào thiền tưởng chứ nghĩa của nó không giống câu: “Chánh pháp còn phải bỏ huống là phi pháp”. Chánh pháp là đối tượng của phi pháp, nếu phi pháp không còn thì chánh pháp dùng vào đâu? Dù muốn để chánh pháp cũng phải bỏ. Nếu phi pháp có thì chánh pháp là đối thủ của nó, còn phi pháp không thì chánh pháp là sự sống của con người, chứ cần gì phải bỏ phải lấy. Hai câu này là hai câu hý luận chứ không thực tế cho sự tu hành.

Cân nhắc (PhậtDạy.4) là xem xét cẩn thận, kỹ lưỡng từng tâm niệm của mình, cân nhắc kỹ lưỡng từng hành động thân, miệng và ý của mình. Trong sự siêng năng tu tập thì cân nhắc được hành trì nhiều, có nghĩa là càng siêng năng tu tập thì sự tu tập kỹ lưỡng phải kỹ lưỡng nhiều hơn. Nếu muốn cân nhắc kỹ lưỡng từng hành động thân, miệng và ý của mình mà không có cố gắng thì làm sao cân nhắc kỹ lưỡng được.

Cây kiểng được trồng trong chậu (ĐườngVề.3) cũng giống như chúng ta thân như bị tù tội, bị giam cầm trong ngục tù, giải phóng cho nó trở về thiên nhiên với đất trời, nó sẽ có một sự sống hồn nhiên trong muôn loài vạn vật khác, nó sẽ có hạnh phúc vô cùng trong môi trường sống thân thương.

Chân lí (PhậtDạy.4) (ĐườngRiêng) (Tạoduyên) là một sự thật của con người; là tâm không tham, sân, si. Ngoài tâm không tham, sân, si đi tìm chân lí thì không có! Chân lí đã là một sự thật thì người chưa tu cũng phải nhận ra, nếu người chưa tu không nhận ra được thì đó không phải là chân lí. Loài người chỉ có một chân lí chia làm 4 nhánh gọi là Tứ Diệu Ðế, chứ không bao giờ có hai ba chân lí. (Bốn chân lý):

1- KHỔ ÐẾ là nhánh chân lí thứ nhất, tức là tâm tham, sân, si. Là con người, ai cũng có tâm tham, sân, si. Do tâm tham, sân, si mà con người đau khổ. Người giác ngộ được tâm tham, sân, si là khổ đau, đó là người giác ngộ được chân lí thứ nhất.

2- TẬP ÐẾ là nhánh chân lí thứ hai tức là nguyên nhân sinh ra tâm tham, sân, si, đó là ÁI DỤC, ái dục tức là lòng ham muốn. Làm con người ai mà không có lòng ham muốn. Do tâm tham muốn mà sinh ra tâm tham, sân, si nên phải chịu nhiều khổ đau. Người giác ngộ được lòng ham muốn là khổ đau, là người giác ngộ chân lí thứ hai.

3- DIỆT ÐẾ là nhánh chân lí thứ ba. Chân lí thứ ba là một trạng thái tâm không còn tham, sân, si, tức là trạng thái bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Chính là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Người giác ngộ được trạng thái tâm này là người giác ngộ chân lí thứ ba.

4- ÐẠO ÐẾ là nhánh chân lí thứ tư. Chân lí thứ tư là chương trình giáo dục đào tạo những bậc tâm vô lậu (A La Hán), có tám lớp học và ba cấp. Muốn hết tham ái (tham, sân, si,) thì phải có một chương trình đào tạo giáo dục đó là “ÐẠO ÐẾ”. Ðạo đế còn gọi là Bát Chánh Ðạo.

Bát Chánh Ðạo tức là 8 lớp học được chia ra trong 3 cấp GIỚI, ÐỊNH, TUỆ: Người giác ngộ được chương trình giáo dục đào tạo những bậc tâm vô lậu (A La Hán), có tám lớp học và ba cấp là người giác ngộ được nhánh chân lí thứ tư. Theo Phật giáo Nguyên Thủy thì Chân lí ở tại nơi tâm con người, không phải ở đâu xa. Một vị Thầy tâm còn tham, sân, si thuyết giảng theo nghĩa lý suông, không có một chút kinh nghiêm trong tu tập dạy đạo cho người khác tu tập, thì không tu tập được.

Chân lí của Phật (PhậtDạy.4) là chân lí chuyển nghiệp, chứ không phải trả nghiệp, dồn nghiệp. Nếu trả nghiệp, dồn nghiệp thì còn đâu là chân lí. Theo Phật giáo Nguyên Thủy thì chân lí không phải ở đâu xa mà ở tại nơi tâm con người. Nếu một người còn tâm tham, sân, si mà không biết mình còn tâm tham, sân, si là người ấy chưa ngộ chân lí.

Chân lý Diệt Ðế (TrợĐạo) trạng thái giải thoát trong thân tâm của mỗi người.

Chân lý giải thoát của đạo Phật (ThiềnCănBản) là chỉ thẳng vào mọi duyên, mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc đều hiểu biết, để rõ nó là Vô Thường, Khổ, và Không có thực thể bản ngã trong đó. Tất cả đều do các duyên hợp lại mà thành, và duyên tan là mất hết, không còn có cái gì tồn tại.

Chân nhân (Tạoduyên) Bậc tu chứng đạo.

Chân pháp (ĐườngVề.5) là “Giới, Ðịnh, Tuệ”.

Cấp Tam Minh (MuốnChứngĐạo) gồm có Tứ Thánh Định (1- Sơ Thiền. 2- Nhị Thiền. 3- Tam Thiền. 4- Tứ Thiền) và Tam Minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh).

Cấp Giới Luật (PhậtDạy.1) (MuốnChứngĐạo) gồm có bốn lớp học Giới Luật: 1- Chánh Kiến 2- Chánh Tư Duy. 3- Chánh Ngữ. 4- Chánh Nghiệp. Khi học hết trọn vẹn cấp Giới Luật thì được “cấp bằng” Nhập Lưu (Tu Ðà Hoàn), còn chưa học hết cấp thì tùy ở sự hiểu biết, tu tập và giữ gìn giới luật được nhiều hay ít, ít thì Hướng Lưu; nhiều thì Dự Lưu.

Cấp thiền định (CầnBiết.4) (MuốnChứngĐạo) gồm có 4 thiền phải tu học 7 tháng. - Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, và Tứ thiền. Cấp Thiền Định gồm có hai lớp: 1- Chánh Tinh Tấn (Tứ Chánh Cần). 2- Chánh Niệm (Tứ Niệm Xứ).

Cấp trí tuệ (CầnBiết.4) gồm có Tam Minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh).

Cấm tà dâm (CữSĩTu) là “GIỚI ÐỨC CHUNG THỦY”. Người không tà dâm là thân và tâm của họ chung thủy, trung thành, tình nghĩa, chân thật. Một bậc Thánh cư sĩ thì không thể nào còn tà dâm. Còn tâm tà dâm thì làm sao gọi là Thánh cư sĩ được. Giới Ðức Chung Thủy là đức hạnh trước sau một lòng, có tình cảm gắn bó vợ chồng không thay đổi.

Chấm dứt tái sanh luân hồi (PhậtDạy.4) (ĐườngVề.3) tức là chấm dứt sự đau khổ của muôn vạn kiếp làm chúng sanh. Khi chấm dứt tái sanh luân hồi mang năng lượng tỉnh giác trí tuệ, luôn luôn lúc nào cũng ở trong trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự, chỗ tâm không còn ái dục. Trong không gian có một từ trường thanh thản, an lạc và vô sự, vì thế người tu hành giữ gìn tâm không phóng dật là ở trạng thái từ trường đó, nên tâm không phóng dật. Trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự bên ngoài không có thì tâm chúng ta cũng không giữ gìn được thanh thản, an lạc và vô sự. Chấm dứt được sanh tử luân hồi là từ bỏ được tâm tham chứng quả vô lậu A La Hán.

Cầu cơ (ĐườngVề.9) là một hình thức cầu linh hồn người chết giáng cơ bút cho biết những điều mình ước muốn trong tương lai. Cầu cơ là một phương pháp tập hợp tín lực vào một đối tượng ảo tưởng để nội lực tín lực của những người có mặt trong lễ cầu cơ thực hiện những ước muốn. Nhất là những người trực tiếp cầu nguyện. Nếu những người đặt trọn lòng tin vào cơ bút thì tưởng uẩn sẽ hoạt động mạnh và rõ ràng. Còn không đủ tín lực thì tưởng uẩn không hoạt động, cơ bút không về hay nói cách khác là cầu cơ không được. Cầu cơ chẳng qua là một việc làm đánh thức năng lực của tưởng uẩn hoạt động. Năng lực tưởng uẩn hoạt động đúng thì người cầu cơ phải thân tâm thanh tịnh, nếu thân tâm không thanh tịnh thì cầu cơ không linh tức là không đúng, vì thế những học sinh cầu cơ thi rớt là vậy.

Cho nên, trước khi cầu cơ thì thân phải tắm rửa sạch sẽ, còn tâm thì phải giữ gìn trai giới nghiêm chỉnh, nhờ có sự thanh tịnh như vậy nên tưởng uẩn giao cảm nhận ra từ trường đúng như thật. Còn thân tâm không thanh tịnh thì tưởng uẩn không nhận ra đúng, nên tín lực tạo thành ảo tưởng, vì thế mọi việc cơ báo đều sai. Cầu cơ cũng giống như lên đồng, nhập cốt qua một hình thức khác nhưng cũng chỉ có một tưởng uẩn hoạt động mường tưởng như linh hồn người chết về nhập vào, thay vì nhập vào người thì gọi là lên đồng, lên cốt, nhập vào cơ thì gọi là cơ bút. Cho nên, cơ bút chỉ là tưởng uẩn của con người hoạt động, chứ không có linh hồn người chết hay Tiên, Phật, Thần Thánh, quỉ, ma nhập vào. Những điều kỳ lạ xảy ra chung quanh thế giới của con người cũng chỉ nơi thân tâm con người lưu xuất, ngoài thế giới con người đang sống thì không bao giờ có thế giới vô hình nào khác. Bởi mỗi con người đều có năm uẩn mà phần sắc uẩn chỉ có một, còn phần không hình sắc tới bốn uẩn: 1- Tưởng uẩn (vô hình), 2- Thức uẩn (vô hình), 3- Thọ uẩn (vô hình), 4- Hành uẩn (vô hình).

Cho nên, kẻ nào tin có Thiên Ðàng, Cực Lạc, có linh hồn người chết, có Phật tánh, có thần thức, có ma, quỷ là mê tín, là thiếu óc khoa học, là thiếu đạo đức nhân bản – nhân quả, là những người còn lạc hậu. Cầu cơ là một loại mê tín tri thức do những nhà tri thức mê tín, trong đó có học sinh, sinh viên và một số người có trình độ học thức cao, nhưng vẫn không thoát ra khỏi sự mê tín này, ngay cả những nhà khoa học vẫn sống trong mê tín, vì những trạng thái mê tín này khoa học chưa giải thích được. Cầu cơ là một sự đánh thức tưởng uẩn hoạt động để nó giao cảm với những từ trường mọi sự việc đã, sẽ xảy ra bằng tín lực của con người. Còn đúng hay sai là do thân tâm của những người cầu cơ có thanh tịnh hay không thanh tịnh như trên đã nói.

Cận tử nghiệp (CầnBiết.1) là nghiệp lực trước khi chết do huân tập nhân quả trải dài thời gian của một kiếp con người. Ý thức ngưng hoạt động, hơi thở dừng, tim không đập, nhưng hệ thần kinh tưởng còn hoạt động, tức là tưởng thức hoạt động tạo ra giấc chiêm bao. Giấc chiêm bao đó mọi người gọi là “cận tử nghiệp”. Chính nghiệp lực nầy đưa người ấy tiếp tục tái sanh kiếp mới của con người.

Cẩn ngôn (4Tâm) suy tư rồi mới nói và giảm tốc độ nói (có thì giờ suy nghĩ trước khi nói). Phải thường xuyên như lý tác ý câu này "Ta không nói thì thôi, mà nói ra thì phải làm vui lòng người".

Cẩn thận (TâmThư.1) mang theo hai tính chất chánh và tà, nên nói: Cẩn thận trong chánh niệm hoặc Cẩn thận trong tà niệm. Đức Cẩn thận không có phương pháp tu tập, chỉ hằng ngày tập sống cẩn thận mà thành thói quen, nên nó không có phương pháp gạn lọc tâm tư trong sạch toàn thiện. Vì vậy, trong các pháp ác nó vẫn có sự cẩn thận, cẩn thận để tăng trưởng ác pháp.

Cẩn thận, dè dặt, kỹ lưỡng, kín đáo (ĐườngVề.3) Phần thứ nhất là định lực, bảo tồn năng lượng, năng lực tự chủ. Phần thứ hai là hạnh lực, giữ gìn hành động thân, hành động lời nói và hành động suy nghĩ, làm cho oai nghi, tế hạnh nhẹ nhàng, êm dịu, ôn tồn, nhã nhặn, những hành động đó không thể vô tình, vô ý được. Vì vậy không làm khổ mình, không làm khổ người khác nữa. Phần thứ ba là tĩnh giác. Khi có cẩn thận, kín đáo, dè dặt, kỹ lưỡng thì phải có sức tĩnh giác rất cao, nếu không tĩnh giác thì cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo chỉ là danh từ suông. Vấn đề tu tập hàng đầu của đạo Phật là tu tập tĩnh giác, có tĩnh giác mới phát hiện được ác pháp và lòng tham đắm của mình. Phần thứ tư là chánh niệm, khi có cẩn thận, dè dặt, kỹ lưỡng, kín đáo thì tâm luôn luôn ở trong chánh niệm, không có tà niệm xen vào, tức là không có niệm ác. Tuy những danh từ đơn giản nhưng hiểu ra để tu tập, trau dồi thân tâm là một công trình tu tập, mà còn phải biết các pháp hành đúng như pháp của Phật thì mới có kết quả tốt đẹp.

Có cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo thì sự tu hành dễ tĩnh giác, các chướng ngại pháp ít xâm chiếm thân tâm. Người cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo mỗi tâm niệm thiện hay ác khởi lên nhận thấy được một cách dễ dàng. Người tu tập tĩnh giác, tức là tu tập Thân Hành Niệm, tức là tập luyện tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo, chứ không phải sự tập trung tâm vào bước đi hoặc mọi hành động của thân, để cho tâm không khởi niệm vọng tưởng. Tu tập rèn luyện tánh cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo thì ngay trong sự kỹ lưỡng, dè dặt, cẩn thận, kín đáo đó trên mỗi hành động thiện hay ác của họ liền có sự giải thoát, khiến cho thân tâm được an lạc, thanh thản và vô sự. Vì sự cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo (tĩnh giác) trong thiện pháp (chánh niệm) nên thường ngăn chặn và diệt trừ các ác pháp (tà niệm).

Chế ngự (PhậtDạy.2) (TruyềnThống.2) (CầnBiết.3) nghĩa là làm cho nó giảm bớt, không còn tăng trưởng, không còn phát triển, không còn dính mắc với sáu trần, làm cho nó không còn dính mắc sáu trần nữa, không làm theo ý muốn. Chế ngự là ngăn chặn làm cho đối phương phục tùng, làm cho kẻ khác phải đầu hàng, làm cho giảm bớt, khiến đối phương phải làm theo ý lệnh của mình.

Chế ngự các căn (TrợĐạo) Trong thân con người có sáu căn. Ở đây chỉ tìm hiểu năm căn: 1- Nhãn căn (hai con mắt); 2- Nhĩ căn (hai lỗ tai); 3- Tỷ căn (hai lỗ mũi); 4- Thiệt căn (lưỡi); 5- Thân căn (cơ thể). Chế ngự các căn là làm cho căn không chạy theo các trần bên ngoài, không bị các trần bên ngoài lôi cuốn các căn. Căn và trần không lôi cuốn, không chạy theo thì tâm Bất động hiện tiền. Muốn tu chứng đạo hãy siêng năng Chế Ngự Các Căn. Muốn chế ngự các căn có kết quả hãy tu tập các pháp môn “Chánh Niệm Tỉnh Giác”. Chánh Niệm Tỉnh Giác là một pháp môn tu tập trên Thân Hành ngoại và Thân Hành Nội tức là nương vào Thân Hành tu tập.

Chết (12Duyên) là cơ thể bị hủy diệt, tử vong, các uẩn tàn lụn, hoại diệt v.v... đó là một sự khổ mà con người không ai tránh khỏi.

Chết khổ (ĐạoĐức.2) Chết khổ là sự dừng hơi thở, nhưng trước khi dừng hơi thở thì con người phải thọ lấy những sự khổ đau tận cùng của thân và tâm. Tâm thì lo âu cho những người thân: anh, chị, em, con, cháu... lo lắng những việc làm chưa xong còn bỏ dở... nuối tiếc lúc phân ly hay rất sợ hãi trước cái chết... Còn về cơ thể bị bệnh đau nhức bất an, trăn qua, trở lại, vật vã người, mệt nhọc khó thở, v.v... cho đến khi kiệt sức mới chịu dừng hơi thở, tức là chết... Chết khổ là một sự thật hiển nhiên, nên là chân lý của con người. Do mọi người đều chấp nhận “Bệnh khổ” nên nó là chân lý.

Chi phối (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là tác dụng điều khiển.

Chiếc bè sang sông (PhậtDạy.4) (CầnBiết.5) Không còn dùng nữa, cho nên đức Phật cho nó là chiếc bè sang sông. Những giáo pháp của Phật được gọi là chiếc bè sang sông là các pháp môn Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, Tứ Thần Túc. Những giáo pháp của Phật không phải chiếc bè sang sông là Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Niệm Xứ, Định Vô Lậu Sáng Suốt, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và giới luật.

Chiêm bao (LinhHồn) là cái thức Tưởng trong thân con người hoạt động, do tưởng uẩn của chúng ta tạo ra hình ảnh của người khác. Sống với ý thức không có chiêm bao được.

Chiên Ðà La (TruyềnThống.2.2) là giai cấp cùng đinh, làm nô lệ, tôi tớ, tay sai cho người khác.

Chí nhân khổ cái khổ của người, vui cái vui của muôn loài. Cái vui này là cái vui vô lượng (TâmThư.1) Người tu sĩ Phật giáo thấy cái ác, cái khổ của người liền tìm cách khuyên ngăn đừng làm ác và giúp cho người thóat khổ, để đem lại cho người nguồn vui hạnh phúc, chứ không làm cho người khổ hoặc bơi móc chuyện xấu của nguời hoặc nói xấu hoặc nói thêu dệt, thêm bớt hoặc nói li gián, v.v... Cho nên người tu sĩ Phật giáo lấy cái vui của người và lấy cái thiện để chuyển hóa cái khổ của người để làm nguồn vui chung cho mình, cho người. Người tu sĩ Phật giáo không có cái vui riêng cho mình. Vì vui buồn đối với người tu sĩ Phật giáo chỉ là pháp vô thường nên chẳng vui cũng chẳng buồn, lúc nào thân tâm cũng thanh thản, an lạc và vô sự mà thôi.

Chín đức hạnh (Giới Bát Quan Trai) (ĐườngVề.9) gồm có: 1- Ðức hiếu sinh (Lòng thương yêu sự sống của muôn loài). 2- Ðức buông xả (Không gian tham trộm cắp cướp giựt, móc túi, lấy của không cho). 3- Ðức chung thủy (Không tà dâm lấy vợ người, chồng người khác). 4- Ðức thành thật (Không nói dối). 5- Ðức sáng suốt (Không uống rượu). 6- Ðức tự nhiên (Không trang điểm, đeo vòng vàng chuỗi ngọc và thoa dầu thơm). 7- Ðức trầm lặng độc cư (Không ca hát, không nghe ca hát, không gõ mõ tụng kinh, niệm Phật, niệm chú). 8- Ðức thanh bần (Không nằm giường cao rộng lớn). 9- Ðức ly dục (Không ăn uống phi thời, Không ăn uống lặt vặt, chỉ ăn ngày một bữa). Tám giới luật Phật tức là chín đức hạnh.

Chịu đựng khổ thọ (12Duyên) Khi cảm giác khổ thọ tận cùng của sức chịu đựng thì trở nên mát lạnh. Các cảm thọ là Vô Thường thì tâm không còn ưa thích và cũng không còn sợ hãi, vì thế khổ thọ đối với chúng ta không còn ý nghĩa tác dụng nên chúng ta vẫn thản nhiên, tâm bất động. Khổ thọ vẫn là pháp Vô Thường nên nó không làm gì được chúng ta. Đối với pháp Vô Thường chúng ta đừng sợ, đừng dao động tâm thì Khổ Thọ sẽ tan biến. Hãy cố gắng gan dạ chịu đựng sự đau khổ tận cùng sinh mạng mình thì Khổ Thọ sẽ tan biến. Do đó khổ thọ không còn tác động vào tâm được, tâm không còn dao động và trở nên mát lạnh, và cơ thể chỉ còn là một cái thây ma vô tri mà thôi.

Chịu thọ khổ trong cảnh địa ngục tại trần gian (GiớiĐức.1) để cho mọi người trông thấy cảnh bịnh tật, khổ đau tận cùng khi tu hành chưa đến nơi, đến chốn, bị tưởng giải mà viết dịch sai ý kinh sách khiến tín đồ Phật giáo hiểu sai kinh điển Phật giáo là tự mình phỉ báng Phật Pháp; Tăng, ni ăn uống phi thời, ngồi lều, ngồi quán; đi đứng, nói nín, oai nghi tế hạnh chẳng có; tăng, ni nam nữ chung chạ gần gũi... Tất cả những lỗi này tăng, ni phải nhiều đời nhiều kiếp đọa địa ngục và còn tái sanh làm thân súc sanh. Do thế, tất cả giới luật của Phật rất quan trọng đối với tăng, ni khi đã cắt ái ly gia, xuất gia học đạo, thì phải hết sức giữ gìn giới luật.

Chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ (PhậtDạy.4) Ðây là lời khuyên của đức Phật đối với những đệ tử xuất gia. Khi đi khất thực thì nhận sự cúng dường vừa đủ, không nên tham nhiều, không nên đòi hỏi món này, món kia, ai cho gì ăn nấy, dở ngon không cần, chỉ ăn để sống, sống để tu hành ly dục ly ác pháp, ly tất cả dục lạc trên cõi đời này, sống trong hạnh thiểu dục tri túc để luôn luôn sống đúng phạm hạnh; không phải ăn để mập, để béo, để hưởng thụ. Phải lấy câu này làm các câu tác ý tự kỷ ám thị hằng ngày để nhắc nhở tâm ít muốn biết đủ (thiểu dục tri túc). Giới luật mới nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào; mới ly dục ly ác pháp; tâm mới thanh thản, an lạc và vô sự; nhờ đó mới chứng đạt chân lí.

Chỉ trích (Phậtdạy.3) là sự nói xấu người khác. Có ba cách: 1- Ðặt điều ra nói xấu người. 2- Bới móc chuyện xấu của người khác, để tỏ ra mình là người tốt. 3- Phê bình chỉ trích những việc làm của kẻ khác, để tỏ ra mình là người thông thái.

Chọn lựa pháp thiện (ĐườngVề.9) có hai cách: a.- Chọn lựa pháp thiện loại trừ pháp ác tức là tu tập Ðịnh Vô Lậu, mà trong kinh dạy: “Với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy trong khi ấy Trạch Pháp Giác Chi bắt đầu khởi lên”. Khi Trạch Pháp Giác Chi bắt đầu khởi lên tức là chúng ta biết rất rõ pháp nào thiện và pháp nào ác rất cụ thể, và chúng ta không còn lầm lạc nên diệt trừ các ác pháp và lòng ham muốn của mình rất dễ dàng, tức là đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm. Người muốn tu Trạch Pháp Giác Chi thì giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm tỉnh giác, ở tâm tỉnh giác đó mà Trạch Pháp Giác chi thì rất hiệu quả, có nghĩa là ngăn ác và diệt ác pháp rất dễ dàng và dùng pháp hướng tâm điều khiển không mấy khó khăn. Cho nên kinh dạy: “Trong khi ấy Trạch Pháp Giác Chi được tỳ kheo tu tập đi đến viên mãn”, có nghĩa là chúng ta thường tu tập chọn lựa pháp nào thiện và loại trừ pháp nào ác và thường hướng tâm đuổi ác pháp đi thì tâm của chúng ta thanh thản, an lạc, và vô sự, nhờ tâm thanh thản an lạc và vô sự chúng ta cảm thấy sự giải thoát an lạc rất rõ ràng và cụ thể, do đó tự động chúng thích tu tập Trạch Pháp Giác Chi vì tu tập Trạch Pháp Giác Chi có lợi ích thật sự cho cuộc sống của chúng ta.

b.- Chọn lựa câu pháp thiện dùng làm pháp hướng tâm cho đúng đối tượng pháp môn của mình đang tu. Ví dụ: đang tu định Sơ Thiền mà dùng câu pháp hướng tâm “diệt âm thanh hay tịnh chỉ tầm tứ” là không đúng, mà phải dùng câu pháp hướng tâm “Tâm ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Sự lựa chọn như vậy gọi là Trạch Pháp Giác Chi. Trạch Pháp Giác Chi là sự chọn lựa một câu pháp để tâm mình huân tập sự giải thoát như ý muốn của mình trong ý nghĩa của câu ấy.

Chơn pháp (CầnBiết.1) là “Giới, Ðịnh, Tuệ”. (Như Chân pháp).

Chơn tâm (ĐườngVề.2) là sự tưởng giải của kinh sách phát triển Ấn Ðộ, ảnh hưởng Lão giáo đẻ ra thiền Ðông Ðộ. Mục đích của người tu thiền Ðông Ðộ là kiến tánh rồi khởi tu (thấy tánh rồi mới tu) tu như vậy gọi là “bảo nhậm”, giữ “ông chủ” đó là chỗ ngộ được chơn tâm rồi mới sống với nó, chứ không phải nhập chơn tâm vì đã nhập vào thì đâu còn gì phải nuôi dưỡng. Mục đích của thiền Ðông độ không phải làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi, mà chỉ nhắm vào bản thể bất biến thường hằng bốn tánh Niết bàn “thường, lạc, ngã, tịnh”. Pháp môn Thiền Ðông Ðộ không phải là Phật Pháp nên không làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.

Chớ có tin (ĐườngVề.1) (Có 10 điều): 1- Chớ có tin vì nghe truyền thuyết, 2- Chớ có tin vì nghe theo truyền thống, 3- Chớ có tin vì nghe người ta nói đồn, 4- Chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng, 5- Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình, 6- Chớ có tin vì đúng theo một lập trường, 7- Chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dự kiện, 8- Chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình, 9- Chớ có tin vì nơi phát xuất có uy quyền, 10- Chớ có tin vì bậc Sa Môn là Ðạo Sư của mình.

Có hân hoan nên hỷ sanh (CữSĩTu) có niềm vui thì thân được nhẹ nhàng an lạc. Khi có niềm vui thì toàn bộ thân tâm có một cảm giác thọ hỷ một cách kỳ lạ. Chỉ có người tu tập đến những trạng thái đó mới cảm nhận được, người ngoài cuộc không thể biết được.

Có hỷ, nên thân được khinh an (CữSĩTu) cơ thể ta an lạc và nhẹ nhàng như không còn trọng lượng, bước đi rất thoải mái, thân không còn đau nhức hay mệt mỏi gì cả, một trạng thái của thân an lạc vô cùng.

Có sống đạo mới vui đời (TâmThư.1) Đạo là đạo từ bi nên có nghĩa là mọi người biết thương yêu nhau thì đời mới vui. Ðạo Phật lấy giới luật đức hạnh làm cuộc sống của mình, cho nên người nào sống đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì cuộc đời họ mới có sự an vui chân thật.

Con đường Bát Chánh Ðạo (PhậtDạy.1) chia ra làm ba cấp tu tập: - Cấp I Giới Luật. Khi học hết cấp này trọn vẹn thì được “cấp bằng” Nhập Lưu (Tu Ðà Hoàn), còn chưa học hết cấp thì tùy ở sự hiểu biết, tu tập và giữ gìn giới luật được nhiều hay ít, ít thì Hướng Lưu; nhiều thì Dự Lưu. - Cấp II Tứ Thánh Ðịnh. Tu học hết cấp này trọn vẹn thì mới được “cấp bằng” Bất Lai, còn chưa trọn vẹn thì chỉ có chứng chỉ” Thất Lai (Tư Ðà Hàm) cao hơn một chút nữa thì có “chứng chỉ” Nhất Lai (A Na Hàm). - Cấp III Trí Tuệ Tam Minh. Tu học hết cấp này thì tâm vô lậu hoàn toàn được“cấp bằngNiết Bàn (A La Hán). Ba cấp tu này chia ra tám lớp học, thì tâm người ấy vô lậu hoàn toàn, chứng quả A La Hán. “Cấp bằng” cao nhất trong Ðạo Phật là Niết Bàn.

Con đường Phạm hạnh (PhậtDạy.4) sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Mạng sống trong sạch giới hạnh đầy đủ, thủ hộ các căn, chánh niệm, tỉnh giác và biết tri túc.

Con đường trung đạo (12Duyên) là con đường vượt ra khỏi hai cực đoan, gồm có 12 nhân duyên: Từ duyên Vô Minh khởi nên duyên Hành khởi. Từ duyên Hành khởi nên duyên Thức khởi. Từ duyên Thức khởi nên duyên Danh Sắc khởi. Từ duyên Danh Sắc khởi nên duyên Lục Nhập khởi. Từ duyên Lục Nhập khởi nên duyên Xúc khởi. Từ duyên Xúc khởi nên duyên Thọ khởi. Từ duyên Thọ khởi nên duyên ÁI khởi. Từ duyên ÁI khởi nên duyên Hữu khởi. Từ duyên Hữu khởi nên duyên Thủ khởi. Từ duyên Thủ khởi nên duyên Sinh khởi. Từ duyên Sinh khởi nên duyên Ưu Bi, Sầu Khổ, Bệnh Tử khởi. Từ duyên Ưu Bi, Sầu Khổ, Bệnh Tử khởi nên duyên Vô Minh khởi. (là toàn bộ khổ uẩn theo 12 duyên tập khởi).

Con đường tu học của Phật giáo (TâmThư.1) có ba chặng: Chặng đầu gọi là Giới, chặng giữa gọi là Ðịnh, Chặng cuối cùng gọi là Tuệ.

Con đường tu tập giải thoát (Tạoduyên) theo những lời dạy của Phật Sakya Gotama trong các kinh nguyên thủy chữ Pali.

Con đường tu tập theo Phật (Phậtdạy.3) phải trải qua ba giai đoạn: 1- Giai đoạn thứ nhất: “Ðể chứng đạt những gì chưa chứng đạt (Ly dục ly ác pháp)”. 2- Giai đoạn thứ hai: “Ðể chứng đắc những gì chưa chứng đắc (Nhập Bốn Thiền)”. 3- Giai đoạn thứ ba: “Ðể chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ (Thông suốt Tam Minh)”.

Con ngựa chưa thuần thục (CầnBiết.3) có nghĩa thân tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, còn chưa ly dục ly ác pháp. Khi tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, chưa ly dục ly ác pháp thì đừng có tu thiền định, vì có tu thiền định cũng chỉ mất công phí sức chẳng bao giờ nhập được định, bởi vì nền tảng tu thiền định của Đạo Phật là Giới luật. Có nền tảng giới luật thì tu thiền định mới bảo đảm. Tâm phải thanh tịnh ly dục ly ác pháp thì mới nên tu tập thiền định.

Con ngựa thuần thục (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là chỉ cho tâm đã ly dục ly ác pháp, tâm đã lìa tham, sân, si, mạn, nghi. Khi tâm đã ly dục ly ác pháp thì lúc bây giờ chúng ta mới tu tập Thiền định. Cho nên Đức Phật dạy: “Hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục”. Thân tâm đã thuần thục trong giới luật thì tâm định tỉnh nhu nhuyến dễ sử dụng. Lúc bấy giờ chúng ta mới bắt đầu tu tập Thiền Định. Nền tảng thiền định của Ðạo Phật là giới luật mà giới luật thì phải nghiêm chỉnh; giới luật có nghiêm chỉnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Lúc bấy giờ, chúng ta mới bắt đầu tu tập Thiền Ðịnh. Tu như vậy mới đúng như lời Phật dạy.

Con người của nhân quả (PhậtDạy.4) là con người của tham, sân, si. Con người tham, sân, si là con người đau khổ.

Con người phi thường (MuốnChứngĐạo) Có ba phi thường: - Phi thường thứ nhất: làm chủ sinh, già, bệnh, chết. - Phi thường thứ hai: có ba trí tuệ siêu việt. - Phi thường thứ ba: tâm luôn bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.

Cõi A Tu La (ĐườngVề.5) (Đường Về.7) (CầnBiết.2) là trạng thái tâm sân. Trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Ðó là một điều xác định sáu nẻo luân hồi rất khoa học, thực tế và cụ thể của đạo Phật. Chúng ta nên căn cứ vào việc làm thiện hay ác của con người mà xác định được nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau, chứ không phải hơi ấm trên thân người. Cõi Atula (Theo kinh sách Nguyên Thủy) là những người hay sân hận, giận dữ, chuyên môn đi đánh lộn, không biết nhường nhịn và nhẫn nhục ai cả, chỉ biết la hét đánh đập với nhau. Cõi Atula (theo kinh sách Nguyên Thủy) là chỉ cho những người bản chất nóng nảy sân hận, giận dữ chuyên đánh đấu đá với nhau. Kinh Nguyên Thủy thường nhắc đến vua Atula đem quân đánh Trời Ðế Thích, đó là chỉ cho những hạng người chuyên môn đi đánh cướp nước người, giết hại sanh linh. Cõi Atula (theo Phật giáo phát triển) nếu ở cõi Người sanh tâm làm ác, thường giận dữ, thích đánh đá, đến khi lìa bỏ thân người linh hồn ấy tiếp tục (nghiệp lực ác) tái sanh vào cõi Atula. Một Ngạ quỷ biết bố thí, biết san sẻ nhưng không từ bỏ những tâm sân, dữ tợn thì đến khi chết sanh vào cõi giới Atula.

Cõi Ðịa Ngục (ĐườngVề.5) (Đường Về.7) (CầnBiết.2) (Theo kinh sách Nguyên Thủy) là trạng thái thân tâm đau khổ, ê ẩm nhức nhối, phiền não, bất an, bất toại nguyện, v.v... Trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Cõi Ðịa ngục là những người đang bệnh đau, đang khổ sở rên la trên giường bệnh, chúng ta hãy đến nơi các bệnh viện nơi đó là Ðịa ngục của những người bệnh tật trầm kha kinh niên, quanh năm suốt tháng đau nhức chỗ này chỗ kia, khổ sở vô cùng hoặc nằm trên giường bệnh suốt nhiều năm tháng, chết không chết, sống không sống, đại tiểu tiện một chỗ, chịu hôi chịu thối của chính bản thân mình, v.v... Thật là đầu đội chậu máu, đít ngồi bàn chông. Cõi Ðịa ngục (theo Phật giáo phát triển) Ngạ quỷ đang sống trong cảnh giới Ngạ quỷ mà tính tình hung dữ, thường làm nhiều điều tội ác, sát hại chúng sanh để ăn thịt, ích kỷ bỏn sẻn không từ bỏ thì Ngạ quỷ đến khi chết sanh vào cảnh giới Ðịa ngục, tức là thân tâm và cuộc sống của họ thường phải chịu nhiều khổ đau như: tù tội, giam cầm, gông cùm, tra tấn, đánh đập, v.v….

Cõi Ngạ quỷ (ĐườngVề.5) (Đường Về.7) (CầnBiết.2) (Theo kinh sách Nguyên Thủy) Ngạ quỷ là những người nghèo đói, khổ sở không có cơm ăn, áo mặc. Cõi Ngạ quỷ (theo kinh sách Nguyên Thủy) là chỉ cho những người sống trong cảnh đói khổ thiếu trước hụt sau mọi mặt, muốn ăn không có mà ăn, muốn ăn mà ăn không được. Cho nên, kinh thường diễn tả một Ngạ quỷ bụng to như trống chầu mà cổ nhỏ như cây kim vì thế đói khát mà ăn uống chẳng được nên gọi là Ngạ quỷ. Trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Ðó là một điều xác định sáu nẻo luân hồi rất khoa học, thực tế và cụ thể của đạo Phật. Chúng ta nên căn cứ vào việc làm thiện hay ác của con người mà xác định được nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau. Cõi Ngạ quỷ (theo Phật giáo phát triển) Nếu một Atula tâm thường giận dữ, ích kỷ, bỏn xẻn, hà tiện không dám tiêu xài, không dám bố thí cho những người bất hạnh. Sau khi Atula này chết bỏ thân tái sanh làm thân Ngạ quỷ. Ðời sống Ngạ quỷ thường đói khổ, muốn ăn không có mà ăn hoặc muốn ăn mà không ăn được; muốn uống không có mà uống hoặc có mà không uống được.

Cõi Người (ĐườngVề.5) (Đường Về.7) (CầnBiết.2) (Theo kinh sách Nguyên Thủy) Cõi Người là cõi những người đang sống đúng năm điều lành không hề phạm phải, còn những người sống không đúng năm điều lành này là cõi khác chứ không phải cõi người. Cõi Người là trạng thái tâm Năm giới còn ý thức dục, trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Ðó là một điều xác định sáu nẻo luân hồi rất khoa học, thực tế và cụ thể của đạo Phật. Chúng ta nên căn cứ vào việc làm thiện hay ác của con người mà xác định được nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau. Ở cõi Người, con người có thiện, có ác, có dục, có ái, có thương, có ghét, v.v... đó là những con người sống một đời sống bình thường nên có vui, có buồn, có bệnh tật, tai nạn, có phiền não khổ đau, có bất toại nguyện, có rầu lo sợ hãi, nhưng lại biết buông xả nhẹ nhàng nên vẫn thấy có hạnh phúc. Tuy cơm ăn áo mặc đầy đủ, không thiếu trước hụt sau, nhưng vì là đời sống con người nên không thể tránh khỏi luật nhân quả chi phối. Cõi Người (theo Phật giáo phát triển) Các chư Thiên hưởng phước báo, nhưng lại sanh lòng dục, tạo ác pháp, chờ hưởng hết phước báo cõi Trời thì các vị Trời ấy sẽ chết và phải đọa làm thân Người nghĩa là Chư Thiên chết sanh làm người do dục và ác pháp. Các Atula mà biết làm thiện ít giận hờn, không đánh đá ai hết đến khi chết sẽ được sanh làm Người. Ngạ quỷ mà biết bố thí và biết san sẻ, không giận dữ, biết ngăn ngừa các ác pháp, biết không làm khổ mình, khổ người thì từ một Ngạ quỷ sau chết được sanh vào cõi Người.

Cõi Súc Sanh (ĐườngVề.5) (Đường Về.7) (CầnBiết.2) (Theo kinh sách Nguyên Thủy) là trạng thái thân tâm ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp hòi, bẩn thỉu, ăn uống đồ bất tịnh, hôi thối, rượu chè say sưa quậy phá, v.v... Trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Ðó là một điều xác định sáu nẻo luân hồi rất khoa học, thực tế và cụ thể của đạo Phật. Chúng ta nên căn cứ vào việc làm thiện hay ác của con người mà xác định được nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau. Cõi súc sanh có hai phần: - Phần thứ nhất là chỉ cho những con người mang hình dáng con người mà tâm địa súc sanh. - Phần thứ hai là chỉ cho các loài vật chúng sanh hiện có mặt trên hành tinh này. Súc sanh gồm có những con người tuy mang hình người mà bản chất sống như loài thú vật, họ chẳng hề sống có một chút đạo đức làm người nào cả, cho nên, dưới đôi mắt của đức Phật, những người này là súc sanh (động vật), và các loài thú vật. Cõi súc sanh (theo Phật giáo phát triển) là những loài động vật đang sống quanh ta trong thế giới hiện hữu này, chứ không có cõi nào khác nữa cả.

Cõi Trời (CầnBiết.2) là trạng thái tâm Thập thiện, còn tưởng thức dục. Trong trạng thái tâm này khi còn đang sống, cũng như lúc sắp lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh. Ðó là một điều xác định sáu nẻo luân hồi rất khoa học, thực tế và cụ thể của đạo Phật. Chúng ta nên căn cứ vào việc làm thiện hay ác của con người mà xác định được nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau, chứ không phải hơi ấm trên thân người.

Cõi Trời (ĐườngVề.3) (ĐườngVề.5) (Đường Về.7) (Theo kinh sách Nguyên Thủy) là chỉ cho những người đang sống đúng trong mười điều lành, tâm hồn của họ thường thanh thản, an lạc và vô sự, không làm khổ mình, khổ người, không làm điều ác, toàn làm điều thiện. Ðó là những bậc chân tu, thạc đức đang sống trầm lặng, sống với trí tuệ nhân quả, sống với tâm hồn tha thứ và thương yêu mọi loài chúng sanh. Cõi Trời tức là nói đến hành động thiện của con người, chứ không phải nói đến thế giới siêu hình. Ðức Phật nói: “Ta đến cõi Phạm Thiên như duỗi cánh tay”. Lời nói này phải hiểu cõi Phạm Thiên là một trạng thái, một từ trường thiện vô dục. Kinh sách Phật đã xác định rõ ràng: “Bốn trạng thái Tứ Thánh Ðịnh là bốn trạng thái cõi Trời”: 1- Sơ Thiền Thiên, 2- Nhị Thiền Thiên, 3- Tam Thiền Thiên, 4- Tứ Thiền Thiên. Cõi Trời (ĐườngVề.5) (theo Phật giáo phát triển) ở cõi Trời, chư Thiên hưởng phước báo do nhờ ở cõi thế gian, con người làm thiện, ít ham muốn, đến khi chết sẽ được sanh vào. Hoặc những Atula làm thiện, ít dục, không giận dữ, không đánh đập, không làm khổ mình, khổ người thì đến khi chết sẽ được sanh vào cõi Trời. Ngạ quỷ mà sống toàn thiện, không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì đến khi chết họ cũng được sanh vào cõi Trời.

Cõi Trời Ðâu Xuất (ĐườngVề.9) trong không gian chúng ta có 33 từ trường thiện (33 cõi Trời) muốn tương ưng với từ trường nào đó thì đức Phật nhập vào trạng thái từ trường đó ở tâm mình thì bắt gặp ngay liền từ trường thiện đó. Từ trường thiện đó không phải linh hồn của người chết. Xin đừng hiểu sai lệch, vì không có ngôn ngữ nên chúng tôi không thể giải thích mà chỉ tạm dùng danh từ “TỪ TRƯỜNG” chứ chưa được đúng lắm. Trong khoảng không gian trên hành tinh của chúng ta là một môi trường sống, có nhiều từ trường thiện và ác. Những từ trường ác theo nghiệp ác hợp thành thế giới khổ đau (sắc giới, dục giới và vô sắc giới), còn từ trường thiện theo nghiệp thiện nên không hợp thành thế giới được vì là một từ trường đơn điệu. Muốn thành một cõi giới thì phải có một sự hợp thành, không có một sự hợp thành thì không có cõi giới. Thế giới chúng ta đang sống mà đức Phật đã xác định là thế giới duyên hợp, do 12 nhân duyên hợp lại mà tạo thành thế giới này. Vì thế, một từ trường đơn điệu không thể tạo thành một thế giới được.

107-NGHĨA CÁC TỪ PHẬT HỌC CHƠN NHƯ. Tỳ khưu Từ Quang

Kính quý vị phật tử và độc giả.

             Sau kì 6 này, trang Giọt Nắng Chơn Như không đăng các bài NGHĨA CỦA CÁC CÂU, CÁC TỪ nữa. Quý vị có thể theo dõi tiếp trên website nguyenthuychonnhu.net. Chẳng hạn theo từ đường link sau: http://www.nguyenthuychonnhu.net/index.php/bdt/479-ntntcnvh và các bài khác (theo thứ tự vần) đã được giới thiệu đầy đủ.

                Kính chia sẻ cùng quý vị
                                                                                              BBT GNCN

 

NGHĨA CỦA CÁC CÂU, CÁC TỪ - Kì 6

          Vần C (tiếp theo)
          Vần CH

Con đường Bát Chánh Ðạo (PhậtDạy.1) chia ra làm ba cấp tu tập: - Cấp I Giới Luật. Khi học hết cấp này trọn vẹn thì được “cấp bằng” Nhập Lưu (Tu Ðà Hoàn), còn chưa học hết cấp thì tùy ở sự hiểu biết, tu tập và giữ gìn giới luật được nhiều hay ít, ít thì Hướng Lưu; nhiều thì Dự Lưu. - Cấp II Tứ Thánh Ðịnh. Tu học hết cấp này trọn vẹn thì mới được “cấp bằng” Bất Lai, còn chưa trọn vẹn thì chỉ có chứng chỉ” Thất Lai (Tư Ðà Hàm) cao hơn một chút nữa thì có “chứng chỉ” Nhất Lai (A Na Hàm). - Cấp III Trí Tuệ Tam Minh. Tu học hết cấp này thì tâm vô lậu hoàn toàn được“cấp bằngNiết Bàn (A La Hán). Ba cấp tu này chia ra tám lớp học, thì tâm người ấy vô lậu hoàn toàn, chứng quả A La Hán. “Cấp bằng” cao nhất trong Ðạo Phật là Niết Bàn.

Con đường Phạm hạnh (PhậtDạy.4) sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Mạng sống trong sạch giới hạnh đầy đủ, thủ hộ các căn, chánh niệm, tỉnh giác và biết tri túc.

Con đường trung đạo (12Duyên) là con đường vượt ra khỏi hai cực đoan, gồm có 12 nhân duyên: Từ duyên Vô Minh khởi nên duyên Hành khởi. Từ duyên Hành khởi nên duyên Thức khởi. Từ duyên Thức khởi nên duyên Danh Sắc khởi. Từ duyên Danh Sắc khởi nên duyên Lục Nhập khởi. Từ duyên Lục Nhập khởi nên duyên Xúc khởi. Từ duyên Xúc khởi nên duyên Thọ khởi. Từ duyên Thọ khởi nên duyên ÁI khởi. Từ duyên ÁI khởi nên duyên Hữu khởi. Từ duyên Hữu khởi nên duyên Thủ khởi. Từ duyên Thủ khởi nên duyên Sinh khởi. Từ duyên Sinh khởi nên duyên Ưu Bi, Sầu Khổ, Bệnh Tử khởi. Từ duyên Ưu Bi, Sầu Khổ, Bệnh Tử khởi nên duyên Vô Minh khởi. (là toàn bộ khổ uẩn theo 12 duyên tập khởi).

Con đường tu học của Phật giáo (TâmThư.1) có ba chặng: Chặng đầu gọi là Giới, chặng giữa gọi là Ðịnh, Chặng cuối cùng gọi là Tuệ.

Con đường tu tập giải thoát (Tạoduyên) theo những lời dạy của phật Sakya Gotama trong các kinh nguyên thủy chữ Pali.

Con đường tu tập theo Phật (Phậtdạy.3) phải trải qua ba giai đoạn: 1- Giai đoạn thứ nhất: “Ðể chứng đạt những gì chưa chứng đạt (Ly dục ly ác pháp)”. 2- Giai đoạn thứ hai: “Ðể chứng đắc những gì chưa chứng đắc (Nhập Bốn Thiền)”. 3- Giai đoạn thứ ba: “Ðể chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ (Thông suốt Tam Minh)”.

Con ngựa chưa thuần thục (CầnBiết.3) có nghĩa thân tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, còn chưa ly dục ly ác pháp. Khi tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, chưa ly dục ly ác pháp thì đừng có tu thiền định, vì có tu thiền định cũng chỉ mất công phí sức chẳng bao giờ nhập được định, bởi vì nền tảng tu thiền định của Đạo Phật là Giới luật. Có nền tảng giới luật thì tu thiền định mới bảo đảm. Tâm phải thanh tịnh ly dục ly ác pháp thì mới nên tu tập thiền định.

Con ngựa thuần thục (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là chỉ cho tâm đã ly dục ly ác pháp, tâm đã lìa tham, sân, si, mạn, nghi. Khi tâm đã ly dục ly ác pháp thì lúc bây giờ chúng ta mới tu tập Thiền định. Cho nên Đức Phật dạy: “Hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần thục”. Thân tâm đã thuần thục trong giới luật thì tâm định tỉnh nhu nhuyến dễ sử dụng. Lúc bấy giờ chúng ta mới bắt đầu tu tập Thiền Định. Nền tảng thiền định của Ðạo Phật là giới luật mà giới luật thì phải nghiêm chỉnh; giới luật có nghiêm chỉnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Lúc bấy giờ, chúng ta mới bắt đầu tu tập Thiền Ðịnh. Tu như vậy mới đúng như lời Phật dạy.

Con người của nhân quả (PhậtDạy.4) là con người của tham, sân, si. Con người tham, sân, si là con người đau khổ.

Con người hoàn hảo (ĐườngVề.9) là một con người có đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh, trong cuộc sống hằng ngày đối với ông bà, cha mẹ, anh em, chị em, vợ chồng, con cái, bà con quyến thuộc, bạn bè thân hữu, chòm xóm láng giềng, v.v… luôn luôn phải đối xử với nhau biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng và còn phải biết tha thứ thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, nhờ đó mới không làm khổ mình, khổ người. Ðây là giai đoạn tu tập giải thoát thứ nhất mà người cư sĩ và tu sĩ đạo Phật nào muốn cầu giải thoát thì cũng đều phải tu tập cho viên mãn.

Con người phi thường (MuốnChứngĐạo) Có ba phi thường: - Phi thường thứ nhất: làm chủ sinh, già, bệnh, chết. - Phi thường thứ hai: có ba trí tuệ siêu việt. - Phi thường thứ ba: tâm luôn bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.

Công đức (TâmThư.2) là sống đúng giới luật chuyển được ác nghiệp, do chuyển được ác nghiệp mới không còn đau khổ, không còn đau khổ.

Công đức rất lớn (TruyềnThống.2) là nói đến thiện pháp, nhưng đừng hiểu thiện pháp hữu lậu, mà phải hiểu là giới luật. Giới luật là thiện pháp vô lậu, vì vô lậu mới có lợi ích rất lớn. Ðức Phật đã từng dạy: “Tam Vô Lậu Học” là Giới vô lậu, Ðịnh vô lậu, Tuệ vô lậu. Cho nên thiện pháp vô lậu của giới luật sẽ chuyển hoá tất cả ác pháp hay chuyển hoá nghiệp ác.

Cốt tủy thiền định hay nền tảng thiền định (ThiềnCănBản) của đạo Phật là chỗ ly dục, ly bất thiện pháp, phải nhắm vào đức hạnh giới luật của đạo Phật để xả tâm, để ly ác pháp.

Cội nguồn sanh ra mọi đau khổ phiền não của con người (CầnBiết.2) gồm có 10 phiền não gốc: 1.- Tham: là lòng tham lam. 2.- Sân: là nóng giận. 3.- Si: là si mê, mờ ám, biết không rõ, không chính xác, không đúng, không thể nhìn thấy được sự thật, phán đoán được cái hay cái dở, cái tốt, cái xấu. 4.- Mạn: là ngã mạn, kiêu căng, tự đắc, là nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; tự thấy mình là quan trọng mà khinh rẻ mọi người; mình có tiền của tài trí, có học thức, có bằng cấp cao, có quyền thế mà sanh tâm "sanh âm sanh dương" với người đức hạnh, chà đạp kẻ dưới, lấn lướt người trên. Mạn có bảy thứ: 1- Mạn: Nghĩ mình hơn người. 2- Ngã mạn: Ỷ mình hay giỏi mà lấn lướt người. 3- Quá mạn: Mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng. 4- Mạn quá mạn: Người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người. 5- Tăng thượng mạn: Chưa chứng Thánh quả mà cho mình đã chứng 6- Ty liệt mạn: Mình thua người nhiều mà nói mình thua ít. 7- Tà mạn: Người tu về tà mạn được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người khác, xem trời đất không còn ai. 5.- Nghi: là nghi ngờ, là lòng nghi ngờ, ngờ vực, không tin. Nghi ngờ có ba: 1- Tự nghi: là nghi mình. 2- Nghi pháp: là nghi phương pháp mình đang tu, nghi pháp mình đang tu không đúng chánh pháp của Phật. 3- Nghi nhân: là nghi người dạy mình, không tin ông thầy dạy mình. 6.- Thân Kiến: là chấp thân ngũ uẩn tứ đại giả hợp này cho là Ta, là của Ta, là bản ngã của Ta. 7.- Biên Kiến: có nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, đó là những thành kiến rất cực đoan. Biên kiến có nhiều lối chấp sai lầm, trong đó, lớn nhất là 3 kiến chấp: 1- Thường kiến: Là một loại luận thuyết mơ hồ trừu tượng, cho rằng người chết còn linh hồn cho rằng có thế giới siêu hình, có bản thể vũ trụ, có tiểu ngã, đại ngã, có thần thức, có Phật tánh, có Thiên Ðàng, có Ðịa Ngục, có Ngọc Hoàng Thượng Ðế, có Chúa trời, có thần, quỷ, ma, v.v... Những người chấp thường kiến là những người thường sống trong mê tín, lạc hậu, sống trong mộng tưởng, xây dựng cảnh giới siêu hình, thường cầu cúng, tế, lễ bái và ước vọng làm những điều thiện để khi chết được sanh lên Cực Lạc Thiên Ðàng của cõi Trời, cõi Niết Bàn hay cảnh giới chư Phật. Thiền tông, Mật tông đều thuộc về thường kiến. 2- Ðoạn kiến: Là một loại luận thuyết chết cứng, khô cằn, cho chết là hết, không còn gì cả. Loại luận thuyết này khiến cho con người mất hết niềm hy vọng về tương lai. Cho nên người ta đặt ra câu hỏi: “Tương lai không có thì hiện giờ để làm gì? Ngày mai chết là hết”. Vì vậy, con người chấp đoạn kiến thì làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, chẳng còn biết nghĩ đến ai cả, sống chỉ quay cuồng trong dục lạc, sống theo kiểu hiện sinh không có ngày mai. Người chấp đoạn kiến là những người không thông suốt môi trường sống hợp duyên của các pháp. 3- Vừa thường vừa đoạn kiến: Có một luận thuyết cho rằng các pháp trong thế gian này vừa có vừa không như ngài Long Thọ: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Ðó là lối lý luận trườn uốn như con lươn, để rồi Ngài đẻ ra trí tuệ Bát Nhã chơn không, thành ra thường kiến. Cuối cùng, Ngài cũng như các nhà thường kiến khác, nhưng giỏi khéo lý luận để che mắt thiên hạ, chứ kỳ thực Chơn Không của Ngài đâu có khác gì thần thức, linh hồn, đại ngã, Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có khác là danh từ mà thôi. 8.- Kiến thủ là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình, có ba trường hợp: 1- Kiến thủ vì ảnh hưởng tư tưởng của người khác: Khi học hiểu một điều gì do lý luận của các nhà tư tưởng, như tư tưởng chơn không, Phật tánh, v.v... Cũng như thấy những hiện tượng nhập đồng, nhập cốt do cô, cậu hoặc linh hồn người chết oan nhập vào, nói đâu trúng đó, rồi cho đó có linh hồn người chết, có thế giới siêu hình, rồi chấp chặt, ai nói gì cũng không tin. Do sự chấp chặt này, họ phải chịu thiệt thòi nhiều mặt về sự tu hành cũng như về đời sống. 2- Kiến thủ vì không ý thức được sự sai lầm của mình: Hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho mình là hay, là giỏi, ai nói gì cũng chẳng nghe. 3- Kiến thủ vì tự ái, hay vì ngoan cố cứng đầu: Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là không đúng, lỡ lời, nhưng vì tự ái, cứ bảo thủ cái sai cái không đúng của mình, không chịu thay đổi, không chịu sám hối, xin lỗi, không chịu từ bỏ, xa lìa. 9.- Giới cấm thủ: Có nghĩa là làm theo, sống theo giới cấm của ngoại đạo, tà giáo. Những giới cấm của tà giáo ngoại đạo này phần nhiều vô lý, phi đạo đức, mê muội, dã man, v.v... Những giới cấm này khiến cho con người bất hiếu và tự làm khổ mình. 10.- Tà kiến là chấp chặt theo lối không chân chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả, phi đạo đức, mê tín. Nghĩa là trên đời này, cái gì ý thức không hiểu được, mà phải dùng tưởng thức để hiểu, hiểu như vậy là hiểu một cách mơ hồ, trừu tượng, không rõ, không thực tế, không cụ thể, thì đều gọi là tà kiến.

Cỗ xe Thân Hành Niệm (PhậtDạy.2) (CầnBiết.4) (MuốnChứngĐạo) gồm có tất cả các hành động nội ngoại của thân, nghĩa là hành động tay, chân và hơi thở phải được sắp xếp như thế nào cho hợp lí khi đi, đứng, nằm, ngồi, cúi đầu, nhìn, ngó, liếc v.v… Trong các hành động trong thân còn một hành động tự động của thân, đó là Hơi Thở, vì hơi thở là một hành động tự động của nội thân, nó rất quan trọng trong việc tu tập Thân Hành Niệm, nếu thiếu nó thì pháp Thân Hành Niệm chưa đủ. Trong lúc pháp môn Thân Hành Niệm chưa thành căn cứ địa, nhưng nó vẫn thành tựu như một cổ xe kiên cố, tuy rằng nó còn có mọi chướng ngại pháp xâm chiếm vào, nhưng cứ ôm pháp tiến lên để vượt qua các chướng ngại ấy để chiếc xe Thân Hành Niệm không dừng lại. Như vậy là đã kết hợp các Thân Hành Niệm thành được cổ xe kiên cố. Nếu cổ xe bị đứng lại khi bị những chướng ngại pháp thì chưa kết hợp các Thân Hành Niệm trở thành cổ xe mà chỉ mới tu tập pháp Thân Hành Niệm mà thôi.

Vần Ch

Chấm dứt tái sanh luân hồi (PhậtDạy.4) (ĐườngVề.3) tức là chấm dứt sự đau khổ của muôn vạn kiếp làm chúng sanh. Khi chấm dứt tái sanh luân hồi mang năng lượng tỉnh giác trí tuệ, luôn luôn lúc nào cũng ở trong trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự, chỗ tâm không còn ái dục. Trong không gian có một từ trường thanh thản, an lạc và vô sự, vì thế người tu hành giữ gìn tâm không phóng dật là ở trạng thái từ trường đó, nên tâm không phóng dật. Trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự bên ngoài không có thì tâm chúng ta cũng không giữ gìn được thanh thản, an lạc và vô sự. Chấm dứt được sanh tử luân hồi là từ bỏ được tâm tham chứng quả vô lậu A La Hán.

Chân nhân (Tạoduyên) Bậc tu chứng đạo.

Chân pháp (ĐườngVề.5) là “Giới, Ðịnh, Tuệ”.

Chế ngự (PhậtDạy.2) (TruyềnThống.2) (CầnBiết.3) nghĩa là làm cho nó giảm bớt, không còn tăng trưởng, không còn phát triển, không còn dính mắc với sáu trần, làm cho nó không còn dính mắc sáu trần nữa, không làm theo ý muốn. Chế ngự là ngăn chặn làm cho đối phương phục tùng, làm cho kẻ khác phải đầu hàng, làm cho giảm bớt, khiến đối phương phải làm theo ý lệnh của mình.

Chế ngự các căn (TrợĐạo) Trong thân con người có sáu căn. Ở đây chỉ tìm hiểu năm căn: 1- Nhãn căn (hai con mắt); 2- Nhĩ căn (hai lỗ tai); 3- Tỷ căn (hai lỗ mũi); 4- Thiệt căn (lưỡi); 5- Thân căn (cơ thể). Chế ngự các căn là làm cho căn không chạy theo các trần bên ngoài, không bị các trần bên ngoài lôi cuốn các căn. Căn và trần không lôi cuốn, không chạy theo thì tâm Bất động hiện tiền. Muốn tu chứng đạo hãy siêng năng Chế Ngự Các Căn. Muốn chế ngự các căn có kết quả hãy tu tập các pháp môn “Chánh Niệm Tỉnh Giác”. Chánh Niệm Tỉnh Giác là một pháp môn tu tập trên Thân Hành ngoại và Thân Hành Nội tức là nương vào Thân Hành tu tập.

Chết (12Duyên) là cơ thể bị hủy diệt, tử vong, các uẩn tàn lụn, hoại diệt v.v... đó là một sự khổ mà con người không ai tránh khỏi.

Chết khổ (ĐạoĐức.2) Chết khổ là sự dừng hơi thở, nhưng trước khi dừng hơi thở thì con người phải thọ lấy những sự khổ đau tận cùng của thân và tâm. Tâm thì lo âu cho những người thân: anh, chị, em, con, cháu... lo lắng những việc làm chưa xong còn bỏ dở... nuối tiếc lúc phân ly hay rất sợ hãi trước cái chết... Còn về cơ thể bị bệnh đau nhức bất an, trăn qua, trở lại, vật vã người, mệt nhọc khó thở, v.v... cho đến khi kiệt sức mới chịu dừng hơi thở, tức là chết... Chết khổ là một sự thật hiển nhiên, nên là chân lý của con người. Do mọi người đều chấp nhận “Bệnh khổ” nên nó là chân lý.

Chí nhân khổ cái khổ của người, vui cái vui của muôn loài. Cái vui này là cái vui vô lượng (TâmThư.1) Người tu sĩ Phật giáo thấy cái ác, cái khổ của người liền tìm cách khuyên ngăn đừng làm ác và giúp cho người thóat khổ, để đem lại cho người nguồn vui hạnh phúc, chứ không làm cho người khổ hoặc bơi móc chuyện xấu của nguời hoặc nói xấu hoặc nói thêu dệt, thêm bớt hoặc nói li gián, v.v... Cho nên người tu sĩ Phật giáo lấy cái vui của người và lấy cái thiện để chuyển hóa cái khổ của người để làm nguồn vui chung cho mình, cho người. Người tu sĩ Phật giáo không có cái vui riêng cho mình. Vì vui buồn đối với người tu sĩ Phật giáo chỉ là pháp vô thường nên chẳng vui cũng chẳng buồn, lúc nào thân tâm cũng thanh thản, an lạc và vô sự mà thôi.

Chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ (PhậtDạy.4) Ðây là lời khuyên của đức Phật đối với những đệ tử xuất gia. Khi đi khất thực thì nhận sự cúng dường vừa đủ, không nên tham nhiều, không nên đòi hỏi món này, món kia, ai cho gì ăn nấy, dở ngon không cần, chỉ ăn để sống, sống để tu hành ly dục ly ác pháp, ly tất cả dục lạc trên cõi đời này, sống trong hạnh thiểu dục tri túc để luôn luôn sống đúng phạm hạnh; không phải ăn để mập, để béo, để hưởng thụ. Phải lấy câu này làm các câu tác ý tự kỷ ám thị hằng ngày để nhắc nhở tâm ít muốn biết đủ (thiểu dục tri túc). Giới luật mới nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào; mới ly dục ly ác pháp; tâm mới thanh thản, an lạc và vô sự; nhờ đó mới chứng đạt chân lí.

Chi phối (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là tác dụng điều khiển.

Chỉ trích (Phậtdạy.3) là sự nói xấu người khác. Có ba cách: 1- Ðặt điều ra nói xấu người. 2- Bới móc chuyện xấu của người khác, để tỏ ra mình là người tốt. 3- Phê bình chỉ trích những việc làm của kẻ khác, để tỏ ra mình là người thông thái.

Chiếc bè sang sông (PhậtDạy.4) (CầnBiết.5) Không còn dùng nữa, cho nên đức Phật cho nó là chiếc bè sang sông. Những giáo pháp của Phật được gọi là chiếc bè sang sông là các pháp môn Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, Tứ Thần Túc. Những giáo pháp của Phật không phải chiếc bè sang sông là Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Niệm Xứ, Định Vô Lậu Sáng Suốt, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và giới luật.

Chiêm bao (LinhHồn) là cái thức Tưởng trong thân con người hoạt động, do tưởng thức của chúng ta tạo ra hình ảnh của người khác. Sống với ý thức thì không có chiêm bao được.

Chiên Ðà La (TruyềnThống.2) là giai cấp cùng đinh, làm nô lệ, tôi tớ, tay sai cho người khác.

Chín đức hạnh (Giới Bát Quan Trai) (ĐườngVề.9) gồm có: 1/ Ðức hiếu sinh (Lòng thương yêu sự sống của muôn loài). 2/ Ðức buông xả (Không gian tham trộm cắp cướp giựt, móc túi, lấy của không cho). 3/ Ðức chung thủy (Không tà dâm lấy vợ người, chồng người khác). 4/ Ðức thành thật (Không nói dối). 5/ Ðức sáng suốt (Không uống rượu). 6/ Ðức tự nhiên (Không trang điểm, đeo vòng vàng chuỗi ngọc và thoa dầu thơm). 7/ Ðức trầm lặng độc cư (Không ca hát, không nghe ca hát, không gõ mõ tụng kinh, niệm Phật, niệm chú). 8/ Ðức thanh bần (Không nằm giường cao rộng lớn). 9/ Ðức ly dục (Không ăn uống phi thời, Không ăn uống lặt vặt, chỉ ăn ngày một bữa).

Tám giới luật Phật tức là chín đức hạnh.

Chịu đựng khổ thọ (12Duyên) Khi cảm giác khổ thọ tận cùng của sức chịu đựng thì trở nên mát lạnh. Các cảm thọ là Vô Thường thì tâm không còn ưa thích và cũng không còn sợ hãi, vì thế khổ thọ đối với chúng ta không còn ý nghĩa tác dụng nên chúng ta vẫn thản nhiên, tâm bất động. Khổ thọ vẫn là pháp Vô Thường nên nó không làm gì được chúng ta. Đối với pháp Vô Thường chúng ta đừng sợ, đừng dao động tâm thì Khổ Thọ sẽ tan biến. Hãy cố gắng gan dạ chịu đựng sự đau khổ tận cùng sinh mạng mình thì Khổ Thọ sẽ tan biến. Do đó khổ thọ không còn tác động vào tâm được, tâm không còn dao động và trở nên mát lạnh, và cơ thể chỉ còn là một cái thây ma vô tri mà thôi.

Chịu thọ khổ trong cảnh địa ngục tại trần gian (GiớiĐức.1) để cho mọi người trông thấy cảnh bịnh tật, khổ đau tận cùng khi tu hành chưa đến nơi, đến chốn, bị tưởng giải mà viết dịch sai ý kinh sách khiến tín đồ Phật giáo hiểu sai kinh điển Phật giáo là tự mình phỉ báng Phật Pháp; Tăng, ni ăn uống phi thời, ngồi lều, ngồi quán; đi đứng, nói nín, oai nghi tế hạnh chẳng có; tăng, ni nam nữ chung chạ gần gũi... Tất cả những lỗi này tăng, ni phải nhiều đời nhiều kiếp đọa địa ngục và còn tái sanh làm thân súc sanh. Do thế, tất cả giới luật của Phật rất quan trọng đối với tăng, ni khi đã cắt ái ly gia, xuất gia học đạo, thì phải hết sức giữ gìn giới luật.

Chú tâm cảnh giác (PhậtDạy.1) biết chú tâm cảnh giác từng tâm niệm, từng đối tượng của mình để ngăn và diệt các pháp ác, đó là người đang thể hiện Hạnh Ðức của mình. Ðó là Ðịnh Vô Lậu trên Tứ Niệm Xứ, là Hạnh Ðức của vị tu sĩ và của vị cư sĩ.

Chú tâm tỉnh giác (12Duyên) (CầnBiết.4) là pháp môn nương vào thân hành niệm nội và ngoại tu tập để đoạn tận lậu hoặc: 1/ Chánh Niệm Tỉnh Giác 2/ Mười tám đề mục Định Niệm Hơi Thở. 3/ Thân Hành Niệm. Nếu ai tu đúng pháp Chú tâm tỉnh giác thì sức tỉnh giác rất cao, tỉnh giác trong cuộc sống hằng ngày, có việc gì xảy đến đều hóa giải một cách dễ dàng, có nghĩa là đẩy lui các chướng ngại pháp một cách dễ dàng. Còn nếu ai tu sai thì bị ức chế tâm, sinh ra các trạng thái tưởng và có thể rối loạn thần kinh, hoặc đứt mạch mao phế quản trong phổi. Muốn được tỉnh giác thì chỉ có pháp Như Lý Tác Ý và đi kinh hành. Cách chú tâm tỉnh giác là vị Tỳ kheo ban ngày trong khi đi kinh hành và ngồi, tâm gọt sạch các triền cái. Ban đêm trong canh một, trong khi vị ấy đi kinh hành và ngồi, tâm gọt sạch các pháp triền cái. Ban đêm trong canh giữa, vị ấy nằm phía hông bên hữu, trong tư thế con sư tử, chân này đặt lên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tác ý tưởng đến lúc ngồi dậy. Ban đêm trong canh cuối, trong khi vị ấy đi kinh hành và ngồi, tâm gọt sạch các pháp triền cái, như vậy gọi là chú tâm tỉnh giác”.

Chùa (Tạoduyên) là nơi để tu hành giải thoát, không phải chùa là nơi để nghỉ mát, nghỉ hè, làm việc mê tín, dị đoan. Chùa là nơi để cho tăng, ni tu tập giải thoát khỏi sự khổ đau của cuộc đời và chấm dứt tái sanh luân hồi, chứ không phải là trường học, trạm y tế, Tuệ Tĩnh đường, phòng thuốc từ thiện xã hội. Đến chùa cốt là để học hỏi những lời vàng ngọc của Phật, để tu học giải thoát thân tâm, để vượt ra khỏi cảnh đời ô trược, chứ không phải đi tìm cái ăn cái ở trong chùa, đi tìm cái được mạnh giỏi, đi tìm cái phù hộ, cái gia bị của đức Phật.

Chùa Am (ChùaAm) ngày xưa chỉ là một túp lều tranh với một cốt tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đất sét do anh em mục đồng và ông sơ vị trụ trì đời thứ 5 chùa Am (là Thầy Thông Lạc) khéo tay làm ra. Ngày nay cốt tượng ấy đã bị giặc Pháp càn quét đập phá tan nát làm mất một di chứng lịch sử, thật đáng tiếc. Chùa Am ngày nay là một cơ sở giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, nó có tám lớp học đạo đức để đào tạo những con người hữu duyên từ phàm phu, trở thành những bậc Thánh Hiền. Chùa Am cũng hiểu mọi việc đều do duyên nhân quả phước báu của mọi người, nếu mọi người không đủ phước báu thì dù có muốn cũng không làm nên được, cho nên làm được hay không đều do phước của mọi người chớ không phải do người chủ trương, đời họ làm chưa xong thì các thế hệ đời sau sẽ nối tiếp chí hướng đó mà không bao giờ bỏ cuộc.

Chuyên cần, tinh tấn (Phậtdạy.3) (CầnBiết.4) là phải bền chí siêng năng không lúc nào biếng trể, phải luôn luôn hăng hái sửa đổi, cải thiện những tính ác của mình và luôn luôn làm những điều lành, đoạn diệt những điều dữ và lòng ham muốn của mình. Phàm làm người ai cũng đều có những lỗi lầm. Có những lỗi lầm nhưng biết sửa mình, biết cải hối, biết làm cho mình sống thiện, biết sửa sai những điều ác để trở thành sống trong những điều thiện. Từ những người xấu trở thành những người tốt đều là những người biết cải hối, ăn năn, biết xấu hổ với những việc làm ác của mình thì người ấy sẽ trở thành người thiện, người tốt, người có ích lợi cho mình, cho người, cho xã hội, v.v...

Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành (CầnBiết.5) nghĩa là: Các Pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện. Hai câu này là chỉ cho pháp hành, tức là gieo nhân thiện, diệt nhân ác. Gieo nhân thiện diệt nhân ác tức là hằng ngày phải sống bằng những hành động thiện. Sống bằng những hành động thiện là luôn suy nghĩ những điều thiện và ngăn chặn những ý niệm điều ác; luôn nói những lời lành và ngăn chặn những lời nói ác; luôn làm những việc lành và ngăn chặn làm những việc ác.

Chư Thiên tăng thì con người giảm, chư thiên giảm thì con người tăng (ĐườngVề.9) có nghĩa là từ trường thiện tăng thì từ trường ác giảm, từ trường ác tăng thì từ trường thiện giảm. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn nhân quả thiện tăng thì nhân quả ác giảm, nhân quả ác tăng thì nhân quả thiện giảm. So sánh luật nhân quả là so sánh thiện và ác, cho nên trong sáu nẻo luân hồi của đạo Phật là sáu trạng thái của tâm: 1- Trời là trạng thái tâm sống trong 10 điều lành gọi là thập thiện. 2- Người là trạng thái tâm sống trong năm điều lành gọi là ngũ giới. 3- A tu la là trạng thái nóng giận, la hét, chửi mắng, đấm ngực, cào mặt. 4- Ngạ quỷ là trạng thái đang bị đói mà không có thực phẩm ăn. 5- Súc sanh là trạng thái ti tiện nhỏ mọn, ích kỷ. 6- Ðịa ngục là trạng thái đau khổ như đang đau nhức do bệnh tật, do bị đánh đập.

Chưa chứng đạo (TâmThư.2) Giới luật chưa nghiêm chỉnh, còn ăn uống phi thời, chưa sống thiểu dục tri túc, còn dùng phương pháp dưỡng sinh trị bệnh là chưa chứng đạo.

Chứng đắc những gì chưa chứng đắc (CầnBiết.4) là Nhập Bốn Thiền

Chứng đạo (PhậtDạy.1) (PhậtDạy.4) (12Duyên) (Đường Về.7) (ĐườngRiêng) (TâmThư.1) (TâmThư.2) Chứng đạo là sạch Vô Minh, Minh hiện tiền, là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Chứng đạo là chứng một đạo lực có Bốn Thần Túc để thực hiện Tam Minh, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi, trước khi chết phải biết mình đi về đâu? ở đâu? phải làm chủ được sự sống chết. Chứng đạo là chứng trạng thái tâm định tĩnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Khi ý thức muốn sai bảo thân tâm làm một việc gì thì thân tâm làm theo đúng như ý.

Chứng đạo chỉ là sống với một tâm không bị dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu tác động, tâm không còn tham pháp, sân pháp, si pháp. Trong sự chứng đạo chỉ có một điều quan trọng nhất, đó là phải sống đúng giới luật. Chứng đạo không có nghĩa là chứng thần thông, phép lực cao cường, hô phong, hoán võ, tàng hình, biến hóa, đằng vân, độn thổ, biết chuyện quá khứ, vị lai của mọi người, v.v... mà chứng đạo chỉ là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Cho nên, chứng đạo không có chứng một cái gì cao siêu, huyền bí và vĩ đại cả, chỉ là sống với cái tâm bình thường như mọi người, nhưng không có chướng ngại pháp nào làm cho tâm người ấy bị giao động, lúc nào cũng sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm không kềm chế; không bị bắt buộc phải tu tập như thế này, phải làm như thế kia.

Chứng đạo của Phật giáo là chứng một điều gì có lợi ích giải thoát khỏi mọi sự ưu bi sầu khổ và bệnh tật nơi thân tâm mình, chứ không phải chứng đạo để nói suông, để làm chiêm tinh gia, để trở thành những nhà ảo thuật. Người tu chứng đạo mới giảng giải nỗi nghĩa lý thâm sâu của kinh sách Phật, Nếu tâm tham, sân, si còn đủ (người tu chưa chứng đạo) thì làm sao hiểu được kinh sách Phật. Chứng đạo là phải chứng nghiệm bằng hành động sự thật chứ không phải bằng lời nói suông, phải nhập Tứ Thánh Ðịnh một tuần lễ, ai chửi mắng hay làm bất cứ một việc gì, biết mà vẫn thản nhiên Tâm Bất Động. Ðường đi đến chứng đạo là con đường Tứ Niệm Xứ. Nếu không trên pháp môn Tứ Niệm Xứ tu tập thì không bao giờ chứng đạo, nhưng trên Tứ Niệm Xứ tu tập thì phải tỉnh giác, nếu thiếu tỉnh giác thì không tu tập được. Năng lực của những người tu chứng đạo là ý thức của họ hoàn toàn chủ động điều khiển sự sống chết của cơ thể họ. Cho nên người tu chứng đạo làm chủ sự sống chết không có khó khăn, không có mệt nhọc. Người chứng đạo là người sống trọn vẹn đầy đủ đạo đức làm người không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh. Ðạo Phật không chấp nhận thần thông, cho nên phải dẹp nó qua một bên, có nghĩa là xem thần thông không quan trọng, có thần thông hay không có thần thông không phải là chỗ chứng đạo của Phật giáo.

Chứng đạo của Đức Phật xẩy ra khi tâm đức Phật bất động thanh thản, an lạc và vô sự kéo dài từ ngày này sang ngày khác, cho đến khi tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự hoàn toàn, khi các ác pháp chướng ngại không còn nữa, thì đức Phật cảm nhận tâm mình bất động thanh thản an lạc và vô sự luôn luôn đang ở trên bốn chỗ của thân, thọ, tâm, pháp. Đức Phật để cho trạng thái tâm tự nhiên đó kéo dài suốt 7 ngày đêm liền. Sau khi ở trong trạng thái này suốt 7 ngày đêm như vậy thì đức Phật biết mình đã chứng đạo.

Chứng đạt (PhậtDạy.4) (CầnBiết.5) là nhập vào pháp đó, sống như pháp đó, nhưng trước khi chứng đạt cần phải giác ngộ. Nhập vào giáo pháp đó gọi là nhập lưu, nhập lưu tức là nhập vào dòng Thánh, nhập vào dòng Thánh tức là tâm phải ly dục ly ác pháp. Còn tâm chưa ly dục ly ác pháp thì không làm sao nhập vào dòng Thánh được. Ở đây đức Phật nêu ra bốn pháp giải thoát cần tu tập. Ðó là Thánh giới, Thánh định, Thánh tuệ, Thánh giải thoát, nhưng khi tu tập pháp Thánh giới thành tựu thì thành tựu luôn ba pháp kia. Muốn thành tựu ba pháp kia thì phải thành tựu Thánh giới. Cho nên, thành tựu ba pháp kia là thành tựu một pháp Thánh giới này. Tám lớp học (Bát Chánh Ðạo) mà hết bảy lớp tu học về giới luật, chỉ có một lớp tu định và ngay khi nhập định là triển khai trí tuệ Tam Minh trong lớp đó. Như vậy xét thấy Thánh định, Thánh tuệ và Thánh giải thoát chỉ có một lớp học mà thôi. Trên Tứ Niệm Xứ giữ gìn giới luật nghiêm túc đừng để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì ngay đó là đã được giải thoát tâm vô lậu, tuệ vô lậu. Nhập vào dòng Thánh là tâm phải ly dục ly ác pháp, còn tâm chưa ly dục ly ác pháp thì không làm sao nhập vào dòng Thánh được.

Chứng đạt chân lí (PhậtDạy.4) (Tạoduyên) Chứng đạt chân lí của Phật giáo là chứng đạt tâm Bất Động, là tâm vô lậu, tức là chứng quả A La Hán. Trước khi muốn chứng quả A La Hán thì phải học và tập sống đạo đức nhân bản - nhân quả, luôn luôn không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Chứng đạt chân lí là ly dục ly ác pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp. Nhờ có ly dục ly ác pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp mới chứng đạt chân lí. Muốn chứng đạt chân lí tức là muốn tâm thanh tịnh không còn một chút tham pháp, sân pháp, si pháp thì phải siêng năng tu tập. Khi chứng đạt được những chân lí này thì mới dám tuyên bố: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm”.

Chứng đạt những gì chưa chứng đạt (CầnBiết.4) là Ly dục ly ác pháp

Chứng đạt Thánh giới luật (PhậtDạy.4) Khi sống được tâm thanh thản, an lạc và vô sự, sống đem lại lợi ích cho mình, cho người, tức là sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai, tâm luôn luôn bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Thánh giới luật mà không được nghiêm trì thì Thánh định, Thánh tuệ, và Thánh giải thoát không làm sao có được. Thánh giới luật nghiêm chỉnh thì Thánh định, Thánh tuệ, Thánh giải thoát sẽ hiện tiền rõ ràng, thì sự tu tập không còn khó khăn, không còn mệt nhọc. Bởi vậy, trên Tứ Niệm Xứ giữ gìn giới luật nghiêm túc đừng để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì ngay đó là đã được giải thoát tâm vô lậu, tuệ vô lậu.

Chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ (CầnBiết.4) là Thông suốt Tam Minh.

Chướng ngại pháp (ThờiKhóa) không khác dục và ác pháp nhưng còn rõ nghĩa hơn. Ví dụ như ngồi kiết già hai chân đau, đó là chướng ngại pháp; sáng muốn ăn, chiều muốn uống sữa, đó cũng là chướng ngại pháp; v.v...

Chương trình giáo dục đào tạo lớp ngũ giới (TâmThư.1) là một chương trình chọn lựa để đưa người vào lớp chuyên tu. Vào tu viện Chơn Như là vào đại giới đàn không được đi đây đi đó tự do, khi đi ra khỏi giới đàn mà không có duyên sự chính đáng thì không được rời khỏi giới đàn.

Chọn lựa pháp thiện (ĐườngVề.9) có hai cách: 1.- Chọn lựa pháp thiện loại trừ pháp ác tức là tu tập Ðịnh Vô Lậu, mà trong kinh dạy: “Với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy trong khi ấy Trạch Pháp Giác Chi bắt đầu khởi lên”. Khi Trạch Pháp Giác Chi bắt đầu khởi lên tức là chúng ta biết rất rõ pháp nào thiện và pháp nào ác rất cụ thể, và chúng ta không còn lầm lạc nên diệt trừ các ác pháp và lòng ham muốn của mình rất dễ dàng, tức là đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm. Người muốn tu Trạch Pháp Giác Chi thì giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm tỉnh giác, ở tâm tỉnh giác đó mà Trạch Pháp Giác chi thì rất hiệu quả, có nghĩa là ngăn ác và diệt ác pháp rất dễ dàng và dùng pháp hướng tâm điều khiển không mấy khó khăn. Cho nên kinh dạy: “Trong khi ấy Trạch Pháp Giác Chi được tỳ kheo tu tập đi đến viên mãn”, có nghĩa là chúng ta thường tu tập chọn lựa pháp nào thiện và loại trừ pháp nào ác và thường hướng tâm đuổi ác pháp đi thì tâm của chúng ta thanh thản, an lạc, và vô sự, nhờ tâm thanh thản an lạc và vô sự chúng ta cảm thấy sự giải thoát an lạc rất rõ ràng và cụ thể, do đó tự động chúng thích tu tập Trạch Pháp Giác Chi vì tu tập Trạch Pháp Giác Chi có lợi ích thật sự cho cuộc sống của chúng ta. 2.- Chọn lựa câu pháp thiện dùng làm pháp hướng tâm cho đúng đối tượng pháp môn của mình đang tu. Ví dụ: đang tu định Sơ Thiền mà dùng câu pháp hướng tâm “diệt âm thanh hay tịnh chỉ tầm tứ” là không đúng, mà phải dùng câu pháp hướng tâm “Tâm ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Sự lựa chọn như vậy gọi là Trạch Pháp Giác Chi. Trạch Pháp Giác Chi là sự chọn lựa một câu pháp để tâm mình huân tập sự giải thoát như ý muốn của mình trong ý nghĩa của câu ấy.

Chơn pháp (CầnBiết.1) là “Giới, Ðịnh, Tuệ”.

Chơn tâm (ĐườngVề.2) là sự tưởng giải của kinh sách phát triển Ấn Ðộ, ảnh hưởng Lão giáo đẻ ra thiền Ðông Ðộ. Mục đích của người tu thiền Ðông Ðộ là kiến tánh rồi khởi tu (thấy tánh rồi mới tu) tu như vậy gọi là “bảo nhậm”, giữ “ông chủ” đó là chỗ ngộ được chơn tâm rồi mới sống với nó, chứ không phải nhập chơn tâm vì đã nhập vào thì đâu còn gì phải nuôi dưỡng. Mục đích của thiền Ðông độ không phải làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi, mà chỉ nhắm vào bản thể bất biến thường hằng bốn tánh Niết bàn “thường, lạc, ngã, tịnh”. Pháp môn Thiền Ðông Ðộ không phải là Phật Pháp nên không làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.

Chớ có tin (ĐườngVề.1) 1- Chớ có tin vì nghe truyền thuyết, 2- Chớ có tin vì nghe theo truyền thống, 3- Chớ có tin vì nghe người ta nói đồn, 4- Chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng, 5- Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình, 6- Chớ có tin vì đúng theo một lập trường, 7- Chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dự kiện, 8- Chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình, 9- Chớ có tin vì nơi phát xuất có uy quyền, 10- Chớ có tin vì bậc Sa Môn là Ðạo Sư của mình.

108-TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI - TL Thích Thông Lạc

SỐNG GIỮ GIỚI LUẬT

Đời sống phạm hạnh

              Hỏi: Kính thưa Thầy! Cho phép chúng con thưa hỏi sự tu tập về các pháp hành.
             1- Không gian tham trộm cắp, dù vật lớn đến vật nhỏ như cây kim sợ chỉ.
             2- Không nói dối, nói lời mất chính xác, mất sự thật.
             3- Không trồng trọt, làm ăn kinh tế, buôn bán v.v...
             4- Không làm khổ mình, khổ người, luôn nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng nhưng phải sáng suốt trong trí tuệ nhân quả.
             5- Không ăn ngủ phi thời, sống thiểu dục tri túc, thực hiện đời sống mười thiện, xin ăn ngày một bữa vào ngọ trai.

Kính thưa Thầy, con lúc nào cũng muốn sống nghiêm minh về phạm hạnh của một vị tu sĩ như vậy, các pháp con kể trên có đủ để sống và tu tập đúng phạm hạnh hay không? Còn thiếu những gì cần bổ sung thêm xin Thầy chỉ giáo cho con rõ.

Đáp: Những pháp con đã kể trên còn thiếu, chưa đủ để sống đúng đời sống phạm hạnh của một tu sĩ Phật giáo:

             1- Phòng hộ sáu căn bằng giới luật.
             2- Ngăn ác pháp bằng Thánh Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.
             3- Diệt ác bằng Vô Lậu Thánh Định.
             4- Sanh khởi thiện pháp bằng Định Sáng Suốt.
             5- Tăng trưởng thiện pháp bằng Hiện Tại An Lạc Trú Định tức là Định Niệm Hơi Thở.
             6- Sống trầm lặng độc cư.
             7- Không kết bè bạn
             8- Thích sống giản dị.
             9- Tránh tranh luận.
            10- Tránh chỉ trích.
            11- Tránh hội họp.
            12- Tránh khoe khoang.

Thêm vào mười hai điều trên đây thì mới đủ cho một đời sống phạm hạnh của một tu sĩ chuyên tu của đạo Phật. Có sống đúng phạm hạnh như vậy mới mong nhập được Bốn Thánh Định và thể hiện Tam Minh.

Trên bước đường tu theo đạo Phật, nếu ai sống không đúng phạm hạnh như trên đã dạy thì chẳng bao giờ nhập đúng chánh định và cũng chẳng bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử.

Tất cả những điều trên đây đều lấy giới luật Phật làm căn cứ địa cho bước đường thực hiện những điều đã dạy trên sẽ đạt kết quả tốt đẹp.

Bởi giới luật là một pháp môn sống đạo đức nhân bản – nhân quả, bảo đảm tu tập cho bước đường tiến về Xứ Phật được an lành và không lạc nẻo tà giáo ngoại đạo. Sự tu tập sẽ được giải thoát hoàn toàn đến nơi đến chốn mà không bao giờ gặp chướng ngại pháp gây khó khăn cho bước đường đi đến quả vị giải thoát hoàn toàn.

Tùy thuận bằng lòng

Hỏi: Kính thưa Thầy, khi con tùy thuận và nhẫn nhục, con đã không làm vừa lòng quý cô và quý thầy chung quanh, đây là điều ngoài ý muốn của con.

Con không có biện pháp giải quyết tốt đẹp hơn nên con phải vì quý thầy, quý cô mà xa lánh để không làm khổ mình, khổ người, như vậy có được không thưa Thầy

Đáp: Cũng được, nhưng đó là con tu tránh cảnh, tu trong cảnh tiêu cực, yếm thế, vì thấy đời quá khổ, thấy mọi người sống không phù hợp với mình, thấy mọi người mọi ý nên cố tránh né bên này, tránh né bên kia để mong tìm được sự an ổn, đó là chạy theo tâm ham muốn cảnh yên thân của mình chứ không phải tu nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng như vậy.

               Xưa đức Phật dạy:
              “Đứng lại thì chìm xuống
               Tiến tới thì trôi dạt
               Chỉ có vượt qua.”

Con thuộc về loại người đứng lại giống như ông Nguyễn Bỉnh Khiêm thất chí tu Tiên:

               “Một mai, một cuốc, một cần câu
               Thơ thẩn dù ai vui thú nào
               Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
               Người khôn, người đến chốn xôn xao.”

Đó là cách thức của người tránh cảnh, trốn đời, chứ chưa phải là người tu theo đạo Phật. Đạo Phật không phải là đạo yếm thế, bỏ đời, tránh xa mọi người.

Xưa đức Phật dạy: “Phiền não tức là bồ đề.” Lấy đối tượng để tu tập nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng hay “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.” Khi con đã tu tập pháp tùy thuận, nhẫn nhục và bằng lòng thì làm sao mà quý thầy và quý cô không vừa lòng?

Chỉ vì con không tu tập xả tâm trong pháp môn nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, mà chỉ tu ức chế tâm mình hoặc nén tâm chịu đựng.

Khi chịu đựng quá mức, không còn sức chịu đựng được nổi, bấy giờ tâm con như chiếc lò xo hết sức nén nên nó bung ra, do đó mới làm phiền lòng quý thầy, quý cô và chính tâm con cũng phiền não giống như người thế tục chứ có tu hành pháp môn gì của Phật giáo đâu.

Vậy pháp môn nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng của con ở đâu? Sao con không tu mà vội tìm cách xa các đối tượng tức là quý thầy, quý cô và những người khác nữa. Con cứ suy ngẫm lại đi, khi con xa họ, con lấy cái gì để tu xả tâm con, họ là đối tượng giúp con tu hành giải thoát, nếu không có đối tượng mà tu hành thì dù con có tu ngàn kiếp cũng chẳng tu đến đâu cả.

Đạo Phật không phải là đạo Lão, không yếm thế, tiêu cực, không vào trong rừng núi ẩn tu, luôn luôn sống gần làng xóm, thị tứ để xin ăn. Thường lấy sự khen chê của người thế tục mà tu tập và rèn luyện tâm mình. Trừ ra những lúc cần phải nhập các định sâu hơn thì mới vào rừng núi u vắng nhập thất, không có tịch cốc luyện thuốc trường sanh bất tử như Tiên đạo.

Nếu bảo rằng tâm còn yếu thì phải tìm những nơi yên tịnh, thanh vắng để tu tập cho tâm được định tỉnh rồi mới dám ra đương đầu với các pháp thế gian. Sự tư duy như vậy đối với đạo Phật là không đúng pháp tu của Phật. Vì đức Phật đã dạy: “Ngăn ác, diệt ác pháp.” Ngăn ác, diệt ác pháp mà trốn trong núi thẳm, rừng sâu thì làm sao có ác pháp, mà không có ác pháp thì lấy cái gì là ngăn ác, diệt ác pháp.

Đạo Phật vốn xả tâm, diệt ngã ly dục ly ác pháp, cho nên lấy cuộc sống giao tiếp hằng ngày với mọi người để vượt lên trên sự sống khổ đau ấy là giải thoát. Có quý thầy, quý cô, có bạn bè thân hữu ta mới tu nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, tức là ta diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp trong tâm ta.

Đương nhiên, muốn tu tập hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì đức Phật đã trang bị cho chúng ta bằng trí tuệ nhân quả, bằng sự tỉnh thức cao độ, bằng một nhiệt tâm nồng cháy, quyết liệt, để diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp.

Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng là pháp môn đối trị tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình. Nếu tu hành mà không đem hết sức lực của mình ra tu tập thì cũng khó chiến thắng tâm ham muốn và các ác pháp đang vây quanh mình.

              Tu hành mà tránh né thì cũng giống như mấy ông Tiên chỉ biết lợi ích cho cá nhân mình:
              “Một mai, một cuốc một cần câu,
              Thơ thẩn dù ai vui thú nào.
              Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
              Người khôn người đến chốn xôn xao?
              Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
              Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
              Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp,
              Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”

Ý thưa hỏi của con ở trên, đó là tâm con chỉ thích tránh né cho an thân, tu như vậy không thể giải thoát mà chỉ trốn đời, tránh tâm mình mà thôi con ạ! Chẳng có ích lợi gì cho con, mà con tu như vậy cũng chẳng có giải thoát, tốn công và uổng phí một đời người đi tu.

Tu như vậy là tu theo Lão Trang chứ không phải tu theo đạo Phật. Tu theo đạo Phật phải sống trong thế gian cùng với mọi người, nhưng luôn luôn khắc phục tâm mình, ly tham, đoạn ác, chẳng biết việc người, chỉ biết việc mình để sửa sai những lỗi lầm và những việc làm ác của mình.

Vì thế nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng là lập đức hạnh xử thế; ăn, ngủ, độc cư là lập đức hạnh xuất thế, sống chánh nghiệp của các bậc thánh Tăng và thánh Ni.

Đứng trước nghịch cảnh và các cảm thọ mà tâm bất động, tâm như cục đất, đó là tâm như Trời Đất. Đứng trước các pháp cám dỗ mà tâm chẳng dao động, tâm thanh tịnh, bất nhiễm ô là lập đức hạnh lìa xa các pháp thế gian để chuyển hóa tâm phàm phu của mình thành tâm Hiền Thánh, nhờ đó tâm mới trở thành tâm của những bậc thánh Tăng và thánh Ni, thánh cư sĩ.

Bởi vậy, người tu sĩ đạo Phật phải lập đức, lập hạnh của mình trên trí tuệ nhân quả, tức là trí tuệ giới luật. Quyết chiến đấu, chiến thắng tâm dục vọng và ác pháp để đòi lại quyền làm chủ sanh, già, bịnh, chết. Nhất định phải trường kỳ đấu tranh quét sạch quỷ Vô Thường, không để cho quỷ vô thường cám dỗ và sai khiến biến chúng ta thành những tên nô lệ muôn đời muôn kiếp.

Chính những điều con đã hỏi Thầy trên đây là con đã đầu hàng giặc vô thường, con đã trở thành tay sai của chúng. Vì thế trên bước đường tu tập của con mà con tu như vậy sẽ hoài công vô ích, nếu tu như vậy con chỉ là một tên lính đánh thuê cho giặc vô thường.

Nếu mọi người đang sống trên hành tinh này ai cũng đều biết rất rõ rằng: mình đang bị quỷ vô thường, ma danh, ma lợi, ma ăn, ma ngủ, ma sắc dục đang cám dỗ và sai khiến mọi người, mọi người như những tên nô lệ trung thành của nó. Mấy ai biết được, hiểu được như thế mà có lòng quyết tâm dũng mãnh để vượt thoát trở thành người tự do?

Cho nên mọi người phải theo pháp môn của đức Phật để chiến đấu tận cùng với chúng, bằng những chiến thuật ăn, ngủ, độc cư, bằng những chiến lược nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Xử dụng những vũ khí Trí Tuệ Nhân Quả, Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở, Định Sáng Suốt, Định Vô Lậu và Tứ Thánh Định, Tam Minh v.v... để chiến thắng. Nhờ nhiệt tâm tận lực chiến đấu chúng ta mới chiến thắng giặc vô thường và giành được quyền làm chủ sự sống chết để chấm dứt luân hồi

Trong cuộc chiến tranh nội tâm, nếu chúng ta tránh né các đối tượng, tức là chúng ta đã đầu hàng giặc. Do thiếu hiểu biết, chúng ta tưởng nghĩ một cách sai lệch, gọi là không làm khổ mình, khổ người, chứ kỳ thực chúng ta là kẻ đầu hàng giặc.

Giặc vô thường sẽ không để cho chúng ta yên ổn với mặt trận sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta đầu hàng giặc thì cuộc chiến tranh này chẳng bao giờ chấm dứt, và cuộc đời chúng ta sẽ mãi mãi trôi lăn trong ba nẻo, sáu đường đầy đau khổ. Nếu con không nghe lời Thầy mà cố tránh né để tìm sự an vui theo sự ưa thích yên ổn một mình thì cuộc đời tu hành của con chỉ uổng công mà thôi. Tu chẳng ích lợi gì cho ai cả mà làm cho người đời khinh chê Phật pháp thì tội ấy ai phải chịu đây?

Biết sống hòa hợp

Hỏi: Kính thưa Thầy, trong cuộc sống hằng ngày chị em ăn ở với nhau, bất kỳ trường hợp và hoàn cảnh nào con cũng tùy hỷ trước mọi người, mọi việc làm, không bắt bẻ chê bai gì hết, ai làm sao cũng được. Đối với con khi ai cho vật gì, dù vật nhỏ mọn nhất, nhưng con thấy được sự thanh tịnh ở vật đó thì con thành kính nhận một cách trân trọng với tấm lòng thành. Còn ngược lại dù là châu báu, ngọc ngà mà không có sự thanh tịnh thì con nhất quyết không nhận, dù có mang lỗi sống không hòa đồng.

Cúi xin Thầy từ bi lân mẫn chỉ dạy cho con rõ như vậy có đúng không? 

Đáp: Sống từ hai người trở lên gọi là tập thể, mỗi tập thể đều phải có một kỷ luật, kỷ luật đó gọi là thanh quy hay là nội quy. Thanh quy và nội quy là để giúp cho mọi người trong tập thể đó phải chấp hành nghiêm chỉnh thì mọi người mới có một cuộc sống hòa hợp để cùng chung sống với nhau, để cùng nhau xây dựng một mục đích cao thượng là đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người. Xưa đức Phật đã chế ra sáu pháp hòa hợp (lục hòa):

             1- Thân hòa đồng trụ.        
             2- Khẩu hòa vô tranh.        
             3- Ý hòa đồng duyệt.
             4- Kiến hòa đồng giải.
             5- Giới hòa đồng tu.
             6- Lợi hòa đồng quân.

Giới thứ nhất là Thân hòa đồng trụ và giới thứ sáu là Lợi hòa đồng quân, hai giới này để chỉ cho sự sống bình đẳng, buông xả cá nhân để thể hiện đức hạnh bằng lòng giúp mọi người ly dục ly ác pháp.

Giới thứ hai là Khẩu hòa vô tranh và giới thứ ba là Ý hòa đồng duyệt, hai giới này chỉ cho sự thể hiện lòng từ, đức hạnh nhẫn nhục để tâm hồn được thanh thản, vô sự, tức là ly dục ly ác pháp.

Giới thứ tư là Kiến hòa đồng giải và giới thứ năm là Giới hòa đồng tu, hai giới này chỉ cho sự thể hiện lòng bi, đức hạnh tùy thuận để thân tâm được an lạc, tức là ly dục ly ác pháp.

Lấy ba đức ba hạnh để sống, sống làm người có đạo đức thoát ra khỏi bản chất của loài cầm thú. Vì thế đạo Phật gọi tu tức sống, nhưng sống đúng đạo đức không làm khổ mình, khổ người là tu. Tu không có nghĩa là tụng kinh, niệm Phật, cầu chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ hoặc làm ăn giàu có.

Theo sự nhận hiểu của con qua những danh từ nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng theo tâm của con, chứ không phải theo tâm của người khác. Ở đây con dùng danh từ thanh tịnh và không thanh tịnh không đúng con ạ!

Đối với con, khi người ta đem cho con một vật gì, người chủ vật đó chưa có sự giận hờn phiền toái với con, thì con cho vật đó là thanh tịnh, còn nếu có sự giận hờn phiền não, thì vật đó con cho là không thanh tịnh. Con hiểu như vậy thì con chưa biết cách tu tập hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.

Ở đây không nên dùng vật thanh tịnh hay không thanh tịnh, mà con hãy lấy đối tượng nghịch cảnh bất toại nguyện để thực hiện hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, thì mới gọi là tu, còn tu như con không thể gọi là tu hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.

Tu như con chính là tránh né đối tượng nghịch cảnh trái lòng. Theo đạo Phật thì không chấp nhận những điều này, vì tu như vậy không bao giờ có giải thoát, tu như vậy là tìm sự an ổn, tiêu cực, nén tâm, yếm thế.

Theo đúng hạnh của một tu sĩ đạo Phật thì chấp nhận sự đi xin ăn, nhưng không được nhận thực phẩm dư thừa để dành. Ngày nào xin ăn ngày nấy, đó là lối sống buông xả và xả sạch, ăn còn không được để dành ngày mai, ăn chỉ biết ngày nay, không lo ngày mai, như vậy mới gọi là người buông xả sạch.

Ngày nay người tu sĩ Phật giáo thường hay tự túc sống, do đó đời sống pham hạnh của một vị tỳ-kheo Tăng không còn đúng phạm hạnh nữa và vì vậy thánh hạnh của một vị Tăng không còn có. Do đời sống không đúng cách đạo đức thánh hạnh nên đường tu tập của các vị tỳ-kheo Tăng và tỳ-kheo Ni chẳng đi đến đâu cả.

Xả ngũ dục lạc tức là xả sắc, danh, lợi, thực, thùy mà còn xả không được, huống là tu cái gì? Hiện giờ, người ta tu hành chỉ là hình thức, còn mục đích giải thoát thì họ không tu tập. Gặp các đối tượng để thực hiện đức hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì tránh né, trốn chạy chẳng dám vượt qua sự đau khổ của cuộc đời mình.

Con không có sự quyết tâm tu hành giải thoát làm chủ sự sống chết và luân hồi, chỉ thấy đời đau khổ mà vào chùa tránh né để tìm sự an ổn. Do cuộc sống như vậy nên mới có cất am, thất riêng tu hành. Tu hành mà cất am thất riêng để sống tự do thoái mái thì sự tu hành đó chẳng đi đến đâu cả. Sự tự do thoải mái đó đưa người tu sĩ chạy theo sở thích và tâm ham muốn của mình, như vậy thì làm sao gọi là ly dục ly ác pháp.

Sở thích của mình là gì? Là tâm dục. Mà đã có tâm dục thì con đường tu hành của đạo Phật làm sao tu đúng được?

Trong đời sống đi xin ăn của đức Phật, đâu phải lúc nào ai cũng tôn kính Ngài. Trong cuộc đời đi xin ăn, Ngài gặp rất nhiều người, họ đã có nhiều lời lẽ thất kính, thô lỗ thế mà Ngài vẫn thản nhiên, như vậy mới gọi là tu tập nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.

Đoạn đầu trong câu hỏi, con có nêu ra cách sống tùy thuận, đó là lý lẽ qua ngôn ngữ của con chứ thực ra con không có sống tùy thuận với ai cả. Cho nên trong lục hòa có kiến hoà đồng giải, nghĩa là tùy thuận mọi ý kiến của người khác để không làm khổ mình, khổ người, đó cũng là một điều tu tập ly dục ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm mình.

Còn đoạn thứ hai câu hỏi của con, Thầy đã chỉ dạy ở trên, đó là nghĩa thứ nhất, nhưng nó còn một nghĩa nữa là thanh tịnh và không thanh tịnh, có nghĩa là vật trộm cắp hay không trộm cắp phải không con?

Nếu con biết vật đó là trộm cắp (không thanh tịnh) đem đến cho con thì con phải khéo léo từ chối đừng để mất lòng, hoặc làm người ta buồn. Còn nếu vật đó không phải là trộm cắp (thanh tịnh) người ta đem đến cho con, nhưng lòng con còn đang hờn giận, nên từ chối. Đó là con không biết cách tu tùy thuận, xả tâm, diệt ngã để làm khổ mình, khổ người, mà còn mang tiếng là sống không hòa đồng.

Cuộc sống tu hành là một cuộc sống tập thể, sống trong tập thể nhưng giữ gìn đức hạnh trầm lặng và độc cư mới chính là tu. Do đó chúng ta có những đối tượng để tu nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Nhờ thế chúng ta mới diệt được ngã, xả được tâm, ly được dục và ác pháp, liền ngay đó nhập được Bất Động Tâm và nhập Sơ Thiền làm chủ được cuộc sống, tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.

Người mới tu nếu không sống chung trong tập thể mà chỉ sống ở riêng, độc cư một mình để tu tập, người ấy sẽ không bao giờ ly dục ly ác pháp được và cũng không thành tựu được chánh định, chánh tuệ. Họ sẽ rơi vào tà thiền, tà định và tưởng giải, vì tâm họ còn đầy dẫy dục lạc thế gian, đầy dẫy sự đau khổ trong tâm tư của một con người thế tục.

Tu như vậy chỉ là ức chế tâm, chịu đựng làm khổ mình và khổ người, chẳng ích lợi gì cho ai cả. Sống không hòa đồng, hòa hợp là không phải nếp sống của người tu sĩ đạo Phật. Cho nên Kinh dạy: Tăng là phải sống hòa hợp như nước với sữa, Tăng mà sống không hòa hợp là tu sĩ ngoại đạo. Người tu sĩ đạo Phật có những pháp môn để tu hòa hợp như:

            1- Nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả.
            2- Sống trong đạo đức làm người thường không làm khổ, mình khổ người.
            3- Biết nhẫn nhục bằng trí tuệ nhân quả.
            4- Sống tùy thuận nhưng khéo léo an trú thiện pháp, không bị lôi cuốn vào ác pháp.
            5- Bằng lòng tất cả mọi pháp, dù ác hay thiện nhưng xa lìa ác pháp.

Vậy từ đây về sau con nên sáng suốt đừng để tâm chướng ngại, tạo nên cuộc sống không hòa đồng, hòa hợp. Có được như vậy mới gọi là tu hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, chứ đừng lợi dụng danh từ nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng mà tự làm khổ mình, khổ người. Con nên nhớ, những chị em đang cùng tu đều còn là phàm phu tất cả nên mọi người ai cũng có cái đúng, cái sai.

Hãy lấy cái đúng của người mà sửa lại lỗi mình, còn cái sai của người khác thì nên tha thứ họ, đừng cố chấp lấy đó mà tạo cảnh khổ đau cho tâm mình. Đạo Phật là đạo từ bi mà chúng ta không biết tha thứ cho nhau thì làm sao chúng ta xứng đáng là người đệ tử của đức Phật được.

Tha thứ không có nghĩa là tha thứ riêng cho người lầm lỗi, mà chính chúng ta còn tha thứ những điều sai quấy mà chúng ta đã lầm lỗi. Tại sao vậy? Vì chúng ta sống không hòa hợp như nước với sữa nên đã sống trái với đạo đức của đạo Phật, tức là chúng ta sống trái với mọi người, trái với lương tâm đạo đức nhân quả của mình.

Sống hòa hợp là sống không chống trái, sống biết tha thứ, sống biết thương yêu nhau, sống chia sẻ với nhau những nỗi khổ đau của kiếp sống làm người, phải không hỡi quý vị? Sống như vậy mới có nghĩa là sống đạo đức, sống nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng; sống như vậy mới xứng đáng gọi là tu theo đạo Phật, tu theo đạo giải thoát.

Sống chia rẽ, sống một mình, sống không nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, sống chỉ biết có mình, sống không biết tha thứ, sống như vậy là sống theo kiểu thế gian phàm phu, tục tử, không phải lối sống của người tu sĩ đạo Phật.

109-TRẢ LỜI VỀ KINH SÁCH ĐẠI THỪA. TL Thích Thông Lạc

Câu hỏi 1: Kinh Tứ Thập Nhị Chương.

Hỏi: Kính bạch Thầy, sự thật bản thân con thấy thế, mặc dù những thử thách tâm mình cũng có kết quả chút xíu là những thói hư tật xấu có giảm thiểu, từ đó cũng thấy được tường tận lẽ thật của một kiếp người ở trong muôn một. Chắc hẳn cũng do luật nhân quả chi phối. Sự nhiệt tâm tu hành thật sự cầu giải thoát, nên nhân duyên đã đưa con đến với ĐVXP của Thầy chỉ dạy về pháp môn tu Tứ Thánh Định, đi đến Tam Minh, con bừng tỉnh và nói: “À có pháp hành đây rồi” như làm lại từ đầu, xong với con chỉ như nhắc lại cho rõ hơn và phải sắp xếp cái gì cần làm trước mà thôi.

Dẫu sao thì nó cũng dấy lên trong con biết bao nhiêu là chướng ngại pháp trong tâm. Chính vì lẽ đó hôm nay con mạo muội hỏi; xin Thầy từ bi hoan hỷ chỉ dạy và cũng là sách tấn cho con ngày một tinh tiến.

Kính bạch Hòa Thượng! Kinh Tứ Thập Nhị Chương do cư sĩ Thiền Chỉu dịch, kinh này có phải Phật thuyết không?

Đáp: Kinh Tứ Thập Nhị Chương không phải Phật thuyết mà do các Tổ soạn viết theo kiến giải của mình trong kinh sách Nguyên Thủy A Hàm. Cho nên kinh này có sự thêm bớt rất nhiều, có những bài kinh làm sai ý Phật. Quý phật tử hãy dè dặt cẩn thận đừng vội quá tin vào những loại kinh sách này mà cần phải đề cao cảnh giác, kinh dạy thì có lý nhưng thực hành không có kết quả mà còn làm mất thì giờ vô ích của quý vị.

Câu hỏi 2: Kinh Kim Cang.

Hỏi: Kính bạch Thầy, kinh Kim Cang có phải Phật thuyết không? Câu: Do chấp bốn tướng nên sinh ra nhiều kỳ sự: Ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, hay câu: phàm cái gì hữu tướng đều hư hoại. Xin Thầy giảng rõ.

Đáp: Kinh Kim Cang không phải Phật thuyết, do các Tổ sau này biên soạn ra, kinh này xuất xứ trong thời ngài Long Thọ. Các nhà tưởng giải biên soạn ra kinh Kim Cang thường lý luận chia chẻ thân ngũ uẩn đưa ra nhiều danh từ như: ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, nhưng kỳ thực bốn tướng này cũng chỉ là một tướng của thân ngũ uẩn, nên cuối cùng kết luận bằng một câu kinh: “Phàm cái gì hữu tướng đều hư hoại.

Đó là một lối hý luận lòng vòng quanh co mà không có lối thoát, tức là không có pháp hành. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã xác định thân ngũ uẩn cụ thể rõ ràng và dễ hiểu: “Con người do năm uẩn hợp lại mà thành nên vô thường không có thật thể, chết là hết không còn có một vật gì lưu lại.

Trong kinh sách Nguyên Thủy Đức Phật xác định rất rõ ràng về các tướng như: nhân tướng, đặc tướng, hành tướng của thân ngũ uẩn, với sự chia ra các tướng này là để giúp cho người tu sĩ áp dụng các pháp hành trên ba tướng này để đi đến sự giải thoát hoàn toàn, làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người chứ không như lý luận suông như trong kinh Kim Cang Bát Nhã bằng cách chơi chữ. Nêu lên bốn tướng của thân ngũ uẩn để chứng tỏ mình là nhà phân tích hay, nhưng lại là thứ “dỏm.”

Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy có một pháp hành nào cả, chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông. Cho nên nói được nhưng chưa có ai làm được như trong kinh này. Kinh này từ xưa đến nay đã cho chúng ta ăn toàn thứ bánh vẽ. Chúng tôi nói nhưng quý vị đừng vội tin mà hãy suy ngẫm, chúng tôi nói là tỉnh thức quý vị mà thôi, chúng tôi nói là gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh, tin hay không tin là quyền của quý vị. Kinh sách phát triển bày vẽ lý luận phân tích chia chẻ ra cho nhiều để làm rối loạn đường tu hành của tín đồ Phật giáo.

Câu hỏi 3: Bát Nhã Tâm Kinh.

Hỏi: Kính bạch Thầy, kinh Bát Nhã: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã Ba La Mật, ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách hoặc đối cảnh vô tâm…” Tất cả những câu pháp đó có đồng nhất với câu pháp hướng tâm như lý tác ý trong ĐVXP mà Thầy dạy “Tâm như cục đất” không?

Đáp: Không, pháp hướng tâm “Tâm như cục đất” là một phương pháp tự kỷ ám thị để rèn luyện nội tâm của mình, chứ không phải một lời suông như trong Tâm Kinh Bát Nhã “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Câu kinh này là câu kinh nhật tụng hằng ngày trong các chùa không có ngày nào mà tu sĩ Phật giáo không tụng niệm câu kinh này, thế mà những người tụng niệm câu kinh này có bao giờ hết khổ ách chưa? Từ các Tổ xa xưa cho đến các thầy hiện giờ không ngày nào là không tụng niệm, thế mà ngũ uẩn có không đâu, nó đang hành hạ các Tổ và các thầy đủ thứ tai họa, như vậy kinh chỉ nói chứ không có hành được là vì nó không có pháp hành.

Còn pháp hướng tâm tự kỷ ám thị là một pháp môn thực hành nó đã mang đến kết quả chúng ta thấy rõ ràng, khi chúng ta giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh.

Vì thế hai pháp môn này không có giống nhau chút nào cả, một pháp môn nói được mà không hành được, nó là một triết học tánh không, (hý luận của Long Thọ) còn một pháp nói được làm được, nó là một nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người, nó không phải là triết học, mà là đạo đức học.

Nó là một môn học đưa ra những hành động sống hằng ngày để con người áp dụng vào đời sống mà không trái với quy luật tự nhiên của bản chất con người. Cho nên càng áp dụng vào đời sống thì càng thích thú hơn nhiều vì nó mang lại hạnh phúc và sự an vui cho cá nhân và tập thể. Nói đến đạo đức là nói đến sự sống an lành của mỗi con người, vì thế nó phải là một pháp môn cụ thể thực tế, không lý luận quanh co, không tưởng giải ra những điều trừu tượng ảo giác không thật.

Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Hành thâm như thế nào? Chiếu kiến như thế nào? Tụng niệm hay là quán xét? Tụng niệm thì các chùa đã từng tụng niệm hằng ngày, còn quán chiếu thì người ta đã quán chiếu quá nhiều, nhưng ai là người đã độ được khổ ách? Người ta đã thực hiện nằm lòng những câu kinh này nhưng tìm thấy sự giải thoát trong tâm thì chưa có ai cả. Tại sao vậy? Vì nó là một triết học, một lý luận suông của những nhà học giả, không có kinh nghiệm tu hành.

Câu hỏi 4: Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Hỏi: Kính bạch Thầy, không có ngã, không có ta và không có cái của ta, nếu quán chiếu được như thế thì mới có luận: vô khổ, tập, diệt, đạo.

Đáp: Đúng là cái hý luận của các nhà học giả của kinh sách phát triển, vì không có cái ngã, không có cái ta và không có cái của ta nên mới có chỗ đập phá chân lý của Phật giáo là “vô khổ, tập, diệt, đạo” nên mới có chỗ cấm tín đồ Phật giáo nếu ai tu theo Thanh Văn Nhị Thừa thì sẽ bị khinh cấu tội.

Bởi vì con người không có cái ngã, không có cái ta, không có cái của ta nên chân lý khổ, tập, diệt, đạo đế làm sao có được. Không có cái ngã, không có cái ta, không có cái của ta thì con người là gốc cây, là cục đá. Cho nên chân lý khổ, tập, diệt, đạo đế của đạo Phật là chân lý của con người chứ không phải chân lý của cục đá, gốc cây. Khổ, tập, diệt, đạo đế là chân lý của con người có cái ngã, có cái ta, có cái của ta.

Con người tu hành trở thành cục đá gốc cây mới sản xuất ra trí tuệ Bát Nhã Tâm Kinh, để trong các chùa hằng ngày tụng niệm “Vô khổ, tập, diệt, đạo” để diệt mất cái chân lý này đi, diệt mất cái chân lý này để làm gì? Diệt mất cái chân lý này là diệt mất Phật giáo.

Sau khi Đức Phật tịch thì Phật giáo ngay trên quê hương của Người đã bị quét ra khỏi và cũng không còn dấu vết gì của Phật giáo ở trên đất nước này. Bây giờ chúng ta trở về thăm quê hương xứ Phật, những nơi di tích này mới được trùng tu, trùng tu để thu tiền khách tham quan vãng cảnh chứ đâu có ý nghĩa làm cho Phật giáo sống, sống với đất nước Ấn Độ nữa. Một cái gì cao quý và đẹp đẽ nhất của nước Ấn Độ đã bị lòng ganh tỵ nhỏ hẹp của các tôn giáo ích kỷ tại quê hương này diệt mất rồi, còn đâu nữa. Có còn cũng chỉ là hình thức kinh doanh tôn giáo mà thôi.

Đúng như con đã nói: “Không có ngã, không có ta, không có cái của ta, nếu quán chiếu như thế thì mới có luận vô khổ, tập, diệt, đạo.” Vậy không có cái ngã, cái ta, cái của ta thì lấy cái gì quán chiếu, nếu có cái quán chiếu được thì phải có ngã, có ta, có cái của ta, ngoài ra ba cái này thì không có cái quán chiếu.

Vì thế cái quán chiếu này là cái ảo giác trừu tượng, không phải của con người. Không phải của con người thì cái này không phải của Phật giáo. Vì Phật giáo lấy con người làm nơi tu hành giải thoát cho con người, ngoài con người ra thì không có cái gì để tu hành cả. Vì con người khổ nên đạo Phật ra đời giải quyết sự đau khổ cho con người, mà con người thì phải có cái ngã, cái ta, cái của ta. Nhưng cái ngã, cái ta, cái của ta đều thiện thì có làm khổ mình khổ người đâu mà chúng ta lại dẹp bỏ nó.

Chúng ta chỉ dẹp cái ngã, cái ta, cái của ta trong ác pháp, vì cái ngã, cái ta, cái của ta trong các ác pháp là cái thường làm khổ mình khổ người. Nên Đức Phật dạy: “ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” thì chân lý khổ, tập, diệt, đạo đế mới thật là chân lý của loài người.

Bởi vậy lý Bát Nhã chỉ áp dụng vào thế giới tưởng của Long Thọ chứ không thể áp dụng cho loài người được. Vì nó là một ảo giác chân không diệu hữu.

Câu hỏi 5: Sự mâu thuẫn trong kinh sách Đại thừa.

Hỏi: Kinh bạch Thầy, trên bình diện Hữu sắc và Vô sắc. Về hữu sắc thực tế trong nhân loại hiện nay không còn con đường nào khác là phải xây dựng cho mỗi người có một nền đạo đức nhân bản và nhân quả trên cơ sở Bốn Đế (khổ, tập, diệt, đạo). Vậy pháp hành là Tứ Chánh Cần ly dục ly ác pháp thật là tuyệt vời.

Bởi lẽ thế gian hiện nay đã hầu hết làm mất đi nền đạo đức nhân bản này. Thế mới có chuyện một lũ người điên ngồi xem một quả bóng tròn, tranh giành tổng thống, làm từ thiện thì bớt xén cả của những người khuyết tật, cả những người hoạn nạn do thiên tai v.v…

Tất cả vì dục vọng mà họ đã làm mất đi bản chất làm người để đi vào thú tính, xét cho cùng ngay những con thú họ cũng không bằng. Vì bản chất loài thú, nó ăn no rồi thì thôi, nằm ngủ, nhưng con người hiện nay no vẫn chưa đủ mà còn phè phỡn tìm kiếm thật nhiều, để rồi vào tù còn giở trò sám hối. Thật là đau lòng cho những vị Thánh Minh muốn cứu đời trước thực tại này.

             Bốn câu kệ trong kinh Kim Cang:
             “Nhược dĩ sắc kiến ngã
              Dĩ âm thanh cầu ngã
              Thị nhân hành tà đạo
              Bất năng kiến Như Lai”…

Liễu nghĩa được bốn câu này thì làm gì có kinh Phổ Môn, kinh Địa Tạng, kinh Di Đà, chuyện Bà Thanh Đề (kinh Vu Lan Bồn) là một sự lừa dối phi đạo đức và phi nhân quả, mà Thầy đã phải dằn giọng kêu lên. Một tiếng sét cho những ai còn mê muội.

Đáp: Tại sao kinh Kim Cang nằm trong hệ thống kinh sách phát triển mà lại mâu thuẫn đập phá lại kinh sách phát triển, bởi vậy chúng ta mới thấy hệ thống kinh sách phát triển không nhất quán. Cuốn kinh nào cũng tự ca ngợi nó là đệ nhất hơn các cuốn kinh khác, kinh Kim Cang ca ngợi kinh Kim Cang là đệ nhất, kinh Pháp Hoa cũng ca ngợi kinh Pháp Hoa là đệ nhất, kinh Lăng Già, kinh Viên Giác, kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng vậy.

             Vì thế câu:
             “Nhược dĩ sắc kiến ngã
             Dĩ âm thanh cầu ngã
             Thị nhân hành tà đạo
             Bất năng kiến Như Lai”…

            Bốn câu kệ này nó thể hiện qua trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật Tánh Không cho một hành tinh chết trong vũ trụ này, chứ không phải áp dụng cho hành tinh sống của chúng ta, vì nó là chân lý của Long Thọ sản xuất, nó đang áp dụng trên cung trăng, mặt trời và trên những hành tinh chết khác, còn ở địa cầu thì nó là chân lý ảo tưởng, vì địa cầu là môi trường sống nên mọi vật ở đây không thể là cục đá gốc cây được (không có ngã, không có ta, không có cái của ta).

Nếu bảo rằng lấy bốn câu kệ này làm pháp tu quán chiếu thì không đúng, vì bốn câu kệ này không phải là pháp hành, nó chỉ là một lý luận suông của Bát Nhã phát triển mâu thuẫn lại chính bản thân của sự phát triển, tức là mâu thuẫn lại Tịnh Độ Tông và Mật Tông. Còn nếu lấy câu:

             “Nhất thiết hữu vi pháp
              Như mộng, huyễn, bào, ảnh
              Như lộ diệc, như điển 
              Ưng tác như thị quán.”

Nếu dùng câu này tác ý tu tập để chúng ta trở thành cây đá trong môi trường chết thì có thể được, chứ pháp môn này không có mang tánh chất ly tham đoạn ác pháp để được giải thoát như kinh sách Nguyên Thủy.

Do biết các pháp hữu vi như giấc mộng, như huyễn ảo, như sương mù, như điện chớp thì nó trở thành là pháp môn tránh né, pháp môn tránh né là pháp môn ức chế tâm, pháp môn ức chế tâm thì không bao giờ ly dục ly ác pháp được, không ly dục ly ác pháp thì không bao giờ có giải thoát.

            Câu hỏi 6: Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng.

Hỏi: Kính bạch Thầy, trong nhiều kinh nói Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp, vì thương chúng sanh thị hiện vào làm con vua Tịnh Phạn ở cõi Sa Bà để hóa độ chúng sanh.

Theo như Thầy giảng trong ĐVXP, chánh niệm tỉnh giác ở giai đoạn bốn “khi bỏ thân này (chết) đi đầu thai vào trong thai mẹ, ở trong thai mẹ, ra khỏi thai mẹ và lớn lên đều biết.”

Đã như thế thì có nhớ biết được tiền kiếp không? Như vậy sao lúc đầu Phật còn tu sai? Hay do Phật phương tiện để hóa độ chúng sanh cho nên lúc quyền lúc thật là như thế?

Đáp: Nhiều kinh nói về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thành Phật từ vô lượng kiếp, nhưng đó là những kinh sách phát triển do tưởng của người sau bịa đặt ra. Sự thật phải là sự thật của dòng lịch sử đã chứng minh điều này, Đức Phật sanh ra cũng có cha mẹ, lớn lên có vợ con cũng giống như bao nhiêu người khác trên hành tinh này.

Vì ngao ngán đời người sanh ra để thọ khổ nên Ngài từ giã cung vàng điện ngọc, cha già, vợ trẻ, con thơ để đi tìm đường thoát khổ. Sau bao năm tu hành không đúng chánh pháp, tưởng chừng như Ngài sắp chết, bỏ xác giữa rừng già.

Phước của chúng sanh trên hành tinh này còn nên cuối cùng Ngài đã tìm ra một lối đi giải thoát mà thời ấy không có tôn giáo nào có được giáo pháp chân lý ấy.

Sau 49 ngày dưới cội cây Bồ Đề, Ngài chứng quả giải thoát. Từ đó mới bắt đầu có đạo Phật. Đạo Phật là một nền đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người mà con người đã có sẵn nhưng có mấy ai biết đến. Bài pháp đầu tiên Tứ Diệu Đế đã làm sáng tỏ những gì con người đã từng có mà không biết, nhưng sau này kinh sách phát triển bịa đặt ra và bóp méo làm sai lệch lịch sử của một con người toàn thiện như Ngài, một ân nhân của loài người

Sau khi chứng quả chánh giác Ngài đã thấu suốt đường đi, nên trong kinh Ngài dạy:

              “Có bốn giai đoạn tỉnh thức:
              1- Tỉnh thức khi chết vào thai mẹ.
              2- Tỉnh thức khi ở trong bụng mẹ.
              3- Tỉnh thức khi xuất thai.
              4- Tỉnh thức trong khi còn bé.”

Bốn sự tỉnh thức này là những pháp môn tu tập để làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người. Kinh sách viết sai sự thật là những kinh sách không đáng tin cậy, vì thế, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Có 10 điều chớ có tin…”.

Đức Phật đã cân nhắc chúng ta như vậy, thế sao những kinh sách nói không đúng sự thật mà chúng ta lại còn tin được?

Theo thiển nghĩ của chúng tôi, Đức Phật thường dạy thẳng thực hành vào pháp môn của Ngài hơn là dùng phương tiện, vì dùng phương tiện người tu hành dễ bị lệch lạc vào ngoại đạo, cho nên Đức Phật là người thẳng thắn, không giả dối, nên không dụng quyền.

Người sau không hiểu nên đã dùng nhiều phương tiện, vì thế khiến cho đạo Phật ngày nay mới ra nông nỗi này, mới trở thành một tôn giáo thần quyền.

            Câu hỏi 7: Bất Ưng trụ… có giống Bất động không?

Hỏi: Kính bạch Thầy, kinh Kim Cương dạy: “Bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”

Vậy có giống Định Bất Động Tâm, hay Định Vô Tướng, hay phòng hộ: mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý không cho dính mắc sáu trần không?

Vậy thì vô tâm, nhưng liễu liễu thường tri (rõ ràng thường biết có giống tác ý câu: “Tâm như cục đất” không? Tâm như đất, có sợ rơi vào vô ký không?

Đáp: Kinh Kim Cang thuộc về hệ thống Bát Nhã, Bát NhãKhông. Câu kinh trên đây diễn tả vị trí Chân Không Diệu Hữu của triết học tánh không thì không thể nào là bất động tâm định.

Bất động tâm định do ly dục ly ác pháp hay nói một cách khác hơn bất động tâm định là tâm không phóng đật, nên Đức Phật dạy: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật.

Bất động tâm định là một quá trình tu tập bằng một cuộc sống đúng giới luật, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả trong khi giữ gìn giới luật, và còn tu tập các pháp hành như: Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ… để làm cho thanh tịnh giới luật, nhờ giới luật thanh tịnh tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn.

Các nhà kinh sách phát triển chỉ biết lý luận bằng ngôn ngữ hay tuyệt nhưng cuộc sống của các ngài rất phàm phu (sống phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới), nhưng lại khéo dùng những danh từ để che mắt tín đồ: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Đây là những danh từ suông chứ sự sống của con người không thể thực hiện được như vậy, cho nên kinh sách thuộc hệ thống Bát Nhã này từ xưa cho đến nay đã lưu hành hơn hai nghìn năm mà có mấy ai đã tu tập đạt được

Vô tâm nhưng liễu liễu thường tri nghĩa của nó cũng giống như chân không diệu hữu, chỉ nói được chứ không sống với cái đó được là tại vì nó là cái bánh vẽ, còn câu tác ý tâm như cục đất là câu pháp huấn luyện tâm để tâm huân thành thói quen như đất chứ không phải tâm là cục đất thật.

Vì thế, tâm làm sao rơi vào vô ký được. Nghe hướng tâm như đất là người ta sợ tâm thành đất thật sự. Đất là đất, tâm là tâm, có nghĩa là tâm không làm khổ mình khổ người nữa, tức là tâm không còn mang bản chất hoang dã của loài cầm thú nữa, chứ không phải tâm như cục đất vô tri vô giác (vô ký) như con hiểu.

Tâm như cục đất, có nghĩa là tâm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Tâm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Tâm như mọi người đang sống nhưng không có tham, sân, si, mạn, nghi.

110-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (1). TL Thích Thông Lạc

1- Tu tập chuyên một pháp là ức chế               Chơn Như ngày 31 tháng 5 năm 2000

Hỏi: Kính thưa Thầy. Trong kinh “Kẻ Lọc Vàng” (Tăng Chi I trang 465) đức Phật dạy: “Tỳ-kheo siêng tu tăng thượng tâm cần phải tác ý ba tướng: tướng định, tướng tinh cần và tướng xả.”

1- Tướng định, tướng tinh cần và tướng xả là gì?

2- Tại sao cũng trong kinh, khi một chiều tác ý tướng định thì tâm sẽ bị thụ động, một chiều tác ý tướng tinh cần thì tâm sẽ bị trạo cử, một chiều tác ý tướng xả thì tâm sẽ không có chân chánh định tỉnh để đoạn diệt lậu hoặc. Do đó chỉ thỉnh thoảng tác ý ba tướng trên mà thôi?

Đáp: Tướng định là tâm bất động, thân bất động. Tướng tinh cần là sự siêng năng cần mẫn, tinh tấn ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp (thân hành niệm). Tướng xả là tư duy quán xét để đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm (Định Vô Lậu).

Nếu hằng ngày chuyên tu riêng một tướng trong ba tướng này thì không có kết quả giải thoát. Tại sao vậy?

Nếu chuyên về tọa thiền (tướng Định), giữ thân tâm bất động thì sẽ rơi vào tướng thụ động tiêu cực. Ý đức Phật muốn nói hành giả tu hành khi tâm vô niệm, vô trụ, vô chứng thì trở thành gốc cây, cục đá (ức chế tâm trong một pháp).

Nếu chuyên tu về tướng Tinh Cần ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện thì sẽ rơi vào trạo cử, ý đức Phật muốn nói nếu chuyên tu chỉ có pháp Tứ Chánh Cần thì thân tâm mệt nhọc sanh ra bần thần, hôn trầm, lười biếng, buồn phiền, bất an v.v…

Nếu chuyên tu về tướng Xả tức là dùng pháp Như lý tác ý, tác ý liên tục giống như niệm Phật thì tâm không định tỉnh.

Thầy cho một ví dụ thì mới nhận rõ được cách thức tu hành trong ba tướng này: Hiện giờ chúng ta đang tu Định Niệm Hơi Thở. Tu Định Niệm Hơi Thở như thế nào?

Bắt đầu tu Định Niệm Hơi Thở thì tìm nơi vắng vẻ yên lặng, ngồi kiết già lưng thẳng, tập trung tâm chú ý vào hơi thở tại nhân trung “Tôi thở tôi biết tôi đang thở.” Thỉnh thoảng rồi lại nhắc một lần như vậy, nếu tâm đã đi vào định tỉnh thì không cần phải hướng tâm câu pháp hướng: “Tôi thở tôi biết tôi đang thở” nữa mà phải hướng tâm một câu khác. Như câu: “Quán ly tham tôi biết tôi đang thở vô.” “Quán ly tham tôi biết tôi đang thở ra.

Khi đang tu như vậy có một niệm khởi vào thì chúng ta đem niệm đó ra tư duy, mổ xẻ, quán xét, cuối cùng chúng ta thấu rõ nó thuộc về lậu hoặc nào. Khi thấu rõ thì chúng ta đã đẩy lui nó ra khỏi tâm, lúc bấy giờ tâm trở lại định tỉnh và tiếp tục tu tập trở lại.

Như vậy cách thức tu Định Niệm Hơi Thở trên đây chúng ta thấy rất rõ là chúng ta không chuyên tu một tướng nào cả, chỉ thỉnh thoảng tu tướng này, thỉnh thoảng tu tướng kia. Do đó trong một thời tu chúng ta đã tu ba tướng rõ ràng như:

            1- Nương vào hơi thở là tu tướng định.
            2- Dùng pháp hướng tâm như lý tác ý là tu tướng xả.
            3- Quán xét đẩy lui chướng ngại pháp là tu tướng tinh cần.

2- Giới bất tử 

Hỏi: Trong kinh “Anuruddha” (Tăng Chi 1, trang 515) ngài Sàriputta có nhắc ngài Anuruddha không nên kiêu mạn, trạo cử, hối quá mà hãy chú tâm vào “giới bất tử.” Vậy giới bất tử là gì? Làm sao để chú tâm, thưa Thầy?

Đáp: Giới bất tử là bất động tâm định, là tâm định trên thân, là tâm thanh thản, an lạc và vô sự v.v… Muốn chú tâm vào đó thì phải giữ gìn tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp là tâm nghiêm trì giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả. Tóm lại muốn chú tâm vào giới bất tử thì phải tu và sống đúng Bát Chánh đạo. Giới bất tử là Bát Chánh đạo.

3- Không định, Vô tướng định, Vô nguyện định

Hỏi: Kính bạch Thầy, trong kinh Tăng Chi tập I, đức Phật dạy về “Định” để thắng trí, đoạn tận, diệt tận, trừ diệt, ly tham, sân, si, phẫn nộ, hận… phóng dật thì cần phải tu tập ba pháp:

              1- Không Định tức là định ức chế tâm.
              2- Vô Tướng Định (xả năm chi của Sơ Thiền và không có ba tướng lậu hoặc).
              3- Vô Nguyện Định (trạng thái không có ước nguyện một điều gì)
              Không Định, Vô Tướng Định và Vô Nguyện Định là gì?

Đáp: Không Định tức là Không Vô Biên Xứ Định, một trong bốn loại định của tưởng. Người mới tu tập phải tập định tưởng ức chế tâm này cho bớt vọng niệm để tâm được tỉnh thức rồi mới tu tập các pháp môn khác.

Vô Tướng Định còn gọi là Bất Động Tâm Định, một loại thiền định không có ba tướng lậu hoặc: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.

Vô Tướng Tâm Định là một trạng thái tâm ly dục ly ác pháp nhưng không có năm chi tướng của Sơ Thiền: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Vô Tướng Tâm Định tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Vô Nguyện Định là một trạng thái im lặng như Thánh, an trú như Thánh, bất động như Thánh.

4- Có ba duyên

Hỏi: Kính bạch Thầy, theo “Đại Kinh Phương Quảng” Trung Bộ Kinh tập 1 trang 650 dạy: “Có ba duyên để chứng nhập Vô Tướng Tâm Giải Thoát:

            1- Không tác ý nhất thiết tướng.
            2- Tác ý Vô Tướng Giới.
            3- Một sự sửa soạn trước.”
            Kính thưa Thầy:
            1- Vô Tướng Tâm Giải Thoát có phải là Sơ Thiền không?
            2- Thế nào là không tác ý nhất thiết tướng?
            3- Thế nào là một sự sửa soạn trước? Một sự sửa soạn trước có phải là Thất Giác Chi không?

Đáp: Vô Tướng Tâm Giải Thoát không phải là Sơ Thiền, vì Sơ Thiền còn có năm chi tướng thiền là tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Vì Sơ thiền còn ở trong trạng thái cõi trời Sơ Thiền (Sơ Thiền Thiên)

Vô tướng tâm giải thoát là Vô Tướng Tâm Định, là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, đó là mục đích cứu cánh của Phật giáo

Không tác ý nhất thiết tướng có nghĩa là không sử dụng pháp hướng tâm, tức là không khởi một niệm nào trong đầu, im lặng như Thánh. Đó là tướng bất động của Vô tướng tâm định. Không tác ý nhất thiết tướng có nghĩa là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ

Một sự sửa soạn trước tức là tu tập Bát Chánh Đạo. Tu tập Bát Chánh Đạo là tu tập theo chương trình giáo dục đào tạo có tám lớp (Bát Chánh Đạo), ba cấp (Giới, Định, Tuệ). Trước tiên phải tu học lớp Chánh kiến rồi đến lớp Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp v.v...

Một sự sửa soạn trước tức là Trạch Pháp Giác Chi. Trạch Pháp Giác Chi có nghĩa là chọn pháp mà tu tập. Trong Phật giáo chọn pháp để tu tập thì chỉ có chọn chương trình giáo dục Bát Chánh Đạo tu tập thì đúng nhất. Trong đạo Phật không có pháp môn nào đúng ngoài Bát Chánh Đạo, chỉ có Bát Chánh Đạo mới chính là con đường tu học của Phật giáo chân chánh, còn ngoài ra tất cả các pháp khác đều của ngoại đạo.

Cho nên đức Phật dạy: “Một sự sửa soạn trước” tức là chọn lấy pháp cho đúng của Phật, cho nên Bát Chánh Đạo là pháp chân chánh của Phật vì nó là một sự thật trong bốn sự thật đức Phật đã thuyết pháp lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển khai ngộ cho năm anh em Kiều Trần Như. Một sự sửa soạn trước là sự chuẩn bị cho con đường tu tập, tức là nghiên cứu kỹ lưỡng.

5- Đa chủng, Nhất chủng

Hỏi: Kính thưa Thầy, theo kinh Potaliya Trung Bộ tập 2 trang 62 dạy: “Sau khi từ bỏ loại xả thuộc loại đa chủng, y cứ đa chủng, đối với loại xả thuộc loại nhất chủng, y cứ nhất chủng, ở đây mọi chấp thủ đối với thế vật được đoạn trừ hoàn toàn.”

Thế nào là xả thuộc đa chủng, xả thuộc nhất chủng?

Đáp: Trước khi muốn xả đa chủng hay là nhất chủng thì chúng ta phải hiểu rõ đa chủng nghĩa là gì? Và nhất chủng nghĩa là gì?

              Đa chủng là lòng tham muốn mọi thứ, thấy cái gì cũng tham muốn còn gọi là dục chủng tử.
              Nhất chủng chỉ cho lòng dục của con người, nguồn gốc sanh ra muôn vạn thứ ham muốn.

Trong kinh Potaliya đức Phật dạy: “Thập thất kiết sử, ngũ triền cái là đa chủng, lòng dục của con người là nhất chủng.

Đức Phật ví dụ: chim kên kên, chim diều hâu là nhất chủng, miếng thịt là đa chủng, người cầm bó đuốc là nhất chủng, cây đuốc là đa chủng, hố than là đa chủng, người kia là nhất chủng v.v… Muốn xả đa chủng thì phải y cứ vào đa chủng mà xả.

Ví dụ: mắt thấy sắc thì y cứ nơi sắc mà xả, nghĩa là đừng cho mắt dính sắc. Muốn xả nhất chủng thì phải y cứ vào nhất chủng mà xả, ví dụ: mắt thấy sắc thì phải y cứ nơi mắt mà phòng hộ mắt.

Dục dù nhất chủng hay đa chủng cũng đều là khổ đau, là tai họa, vì thế cần phải đoạn trừ, viễn ly, từ bỏ, xa lánh v.v… thì mới mong thoát khổ, thì mới mong làm chủ và ra khỏi nhà sanh tử.

6- Tứ thiền vẫn còn phiền trược

Hỏi: Kính thưa Thầy, trong kinh Panlacanda Tăng Chi IV trang 213 có đoạn: chứng và trú Thiền Thứ Tư vẫn còn triền phược, đó là sắc tưởng. Vậy sắc tưởng đã bị diệt sao ở đây vẫn còn?

Đáp: Con nên lưu ý: Sơ Thiền tuy ly dục ly ác pháp, tâm luôn bất động trước các pháp và các cảm thọ nhưng vẫn còn năm chi thiền: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm nên còn tướng, nhất là tầm tứ. Vì vậy trong kinh Tăng Chi còn gọi là triền phược, triền phược ở đây là gốc lậu hoặc còn chưa diệt. Sơ thiền chỉ ly chứ chưa có diệt nên kinh gọi còn triền phược là rất đúng. Trạng thái Sơ thiền là một trạng thái của Trời Sơ Thiền (Sơ Thiền Thiên), còn cõi Trời tức là còn triền phược

Đến Nhị Thiền mới diệt tầm tứ, diệt tầm tứ chỉ mới ngưng được ý thức nói riêng, nói chung là mới ngưng sáu thức, vì thế tưởng thức còn nên kinh nói nhập Nhị Thiền còn triền phược là đúng. Bởi vì thân nghiệp còn và trạng thái Nhị Thiền là trạng thái của Trời Nhị Thiền (Nhị Thiền Thiên), còn cõi Trời tức là còn triền phược

Đến Tam Thiền thì mới ly hỷ tưởng chứ chưa có diệt tưởng và lạc tưởng cũng còn chưa ly nên kinh gọi còn triền phược là đúng. Trạng thái Tam Thiền là trạng thái của Trời Tam Thiền (Tam Thiền Thiên), còn cõi Trời tức là còn triền phược

Đến Tứ Thiền xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, xả lạc tưởng, khổ tưởng và thanh tịnh tưởng. Ở đây chỉ xả tưởng chứ chưa diệt tưởng. Vì thế nên kinh gọi còn triền phược là đúng. Vì trạng thái Tứ Thiền là trạng thái của Trời Tứ Thiền (Tứ Thiền Thiên), còn cõi Trời tức là còn triền phược.

Khi nhập xong Tứ Thiền chúng ta mới làm chủ được sanh, già, bệnh, chết chứ chưa chấm dứt được tái sanh luân hồi vì nguyên nhân tái sanh luân hồi còn nên Tứ Thiền vẫn còn triền phược. Tại Tứ Thiền có hai ngả:

1- Đi về hướng Tứ Không đến Diệt Thọ Tưởng Định thì lúc ấy tưởng thức mới diệt được, nhưng đến đây lại rơi vào chỗ không còn pháp (phi pháp môn). Người tu nhập định này cũng giống như cục đá, nói cách khác tu về hướng này thân ngũ uẩn trở thành đá.

Kinh Tăng Chi dạy: “Chứng đạt và an trú Diệt thọ Tưởng Định. Sau khi thấy với trí tuệ các lậu hoặc được đoạn diệt. Cho đến như vậy, này Hiền giả là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến với phi pháp môn.” (trang 217)

2- Ngả đi về Tam Minh, khi Lậu Tận Minh đạt được thì lậu hoặc đã được diệt sạch, ngả này chứng và trú vào Niết Bàn tức là nhập vào Vô Tướng Tâm Định. Ngả tu tập này không biến thân ngũ uẩn thành đá và sống đúng ý nghĩa làm lợi ích cho chúng sanh dù còn một tấc hơi.

Đi ngả Tứ Không đến Diệt Thọ Tưởng Định, ngả này không làm lợi ích cho chúng sanh vì thế các nhà Đại Thừa gọi ngã này tu tập tiêu nha bại chủng, chồi khô, mộng lép v.v...

Tóm lại, trên đường tu hành để đến nơi đến chốn giải thoát thì phải chọn một Minh Sư đã đi nốt quãng đường này thì mới đủ kinh nghiệm hướng dẫn.

7- Sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt

Hỏi: Kính bạch Thầy, trong kinh Phật thường nhắc nhở các tỳ-kheo “phải thật sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt”. Có phải ý Phật muốn nói đến 100 giới chúng học không?

Đáp: Không riêng 100 giới chúng học mà còn tất cả các ác pháp. Đối với đạo Phật một lời nói, một hành động, một ý nghĩ làm khổ mình, khổ người là những lỗi nhỏ nhặt.

Lời nói không ái ngữ và những hành động thô tháo, thiếu tỉnh giác là phạm vào các lỗi nhỏ nhặt. Phạm vào các lỗi nhỏ nhặt thì con đường tu tập theo Phật giáo rất khó chứng đạt chân lý.

8- Một trăm giới chúng học

              Hỏi: Kính bạch Thầy, con hiểu pháp môn tu tập giới (chúng học) dưới hai khía cạnh:
             1- Huân tập trưởng dưỡng những hành vi đạo đức làm người;
             2- Giải thoát khỏi tập quán (nghiệp) thú vật.
             Thưa Thầy con hiểu như vậy đã đúng và đầy đủ chưa?

Đáp: Con hiểu được hai phần, còn phần thứ ba con chưa hiểu.

Phần thứ nhất là phần tu học giới luật và sống đúng với giới luật tức là thực hiện đạo đức làm người.

Phần thứ hai vi tế hơn, đó là thói quen ác pháp, phần này rất khó diệt trừ, phần này là phần thiền định. Phần thiền định là phần ly dục ly ác pháp nhập Bất Động Tâm Định và nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền.

Phần thứ ba là phần thực hiện Tam Minh tức là ba minh: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu Tận Minh.

9- Tưởng ánh sáng

Hỏi: Kính bạch Thầy, thế nào là dùng tưởng ánh sáng để đối trị hôn trầm thùy miên?

Đáp: Tưởng là một năng lực siêu hình có một sức mạnh vĩ đại, nhưng tưởng thì phải tưởng đúng sự thật là có lợi ích rất lớn, tưởng không đúng sự thật sẽ là một tai hại cho mình cho người.

Ví dụ: Ánh sáng là có thật nên tưởng ánh sáng là tưởng thật. Linh hồn là không thật có nên tưởng linh hồn là tưởng không thật. Thân người khi chết để lâu ngày sẽ sình hôi thối là thật có nhưng hiện giờ không có thân người chết sình hôi thối, nhưng ngồi quán tưởng thân người sình hôi thối là tưởng thật.

Cho nên quán tưởng ánh sáng để phá hôn trầm thùy miên là quán tưởng đúng thật. Đợi có hôn trầm thùy miên mà quán tưởng ánh sáng thì quá muộn.

Như chúng ta ai cũng biết tướng trạng của si là hôn trầm thùy miên, nếu không phá được hôn trầm thùy miên thì không bao giờ có tỉnh giác, mà không tỉnh giác thì không bao giờ có chánh niệm. Chúng ta hãy đọc lại đoạn kinh Tăng Chi tập 4 trang 44:

Khi chánh niệm tỉnh giác không có, này các tỳ-kheo, với người không có chánh niệm tỉnh giác thì tàm quý đi đến hủy diệt. Khi tàm quý không có, này các tỳ-kheo, với người thiếu tàm quý, chế ngự các căn đi đến hủy diệt. Khi chế ngự các căn không có, với người thiếu chế ngự các căn, giới đi đến hủy diệt. Khi giới không có, với người thiếu giới, chánh định đi đền hủy diệt. Khi chánh định không có, với người không có chánh định, tri kiến như thật đi đến hủy diệt. Khi tri kiến như thật không có, với người thiếu tri kiến như thật không có, nhàm chán ly tham đi đến hủy diệt. Khi nhàm chán ly tham không có, với người thiếu nhàm chán ly tham, giải thoát tri kiến đi đến hủy diệt…

Này các tỳ-kheo, khi chánh niệm tỉnh giác có mặt, với người đầy đủ chánh niệm tỉnh giác… giải thoát tri kiến đi đến đầy đủ.

Đọc trong đoạn kinh này chúng ta thấy sự phá hôn trầm thùy miên là một điều quan trọng hết sức trong vấn đề tu tập để đi đến giải thoát của đạo Phật. Không phải đợi có hôn trầm, thùy miên mới dùng quán tưởng ánh sáng. Chúng ta nên biết rằng trong ta đang có sẵn các tướng tham, sân, si, nếu hằng ngày không dùng quán tưởng ánh sáng mà tu tập khi thùy miên hôn trầm đến thì không thể nào đương đầu với chúng nổi.

Pháp quán tưởng ánh sáng là pháp phòng ngừa, pháp thủ chứ không phải pháp công phá, cho nên nó không thể dùng công phá thùy miên, hôn trầm được.

Xưa đức Phật dạy công phá hôn trầm thùy miên bằng cách đi kinh hành, ngày nay Thầy dạy phá hôn trầm thùy miên bằng cách kết hợp đi kinh hành và ngồi thở năm hơi rồi đứng dậy đi kinh hành 20 bước. Cứ tu tập như vậy sẽ đẩy lui hôn trầm thùy miên.

111-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (2). TL Thích Thông Lạc

10- Thiếu kinh nghiệm tu hành thì không hiểu nghĩa câu kinh

Hỏi: Kính bạch Thầy, hiện có nhiều học giả nên cũng có nhiều sự giải thích khác nhau, đôi khi trái ngược về các khái niệm:

1- Về ba uẩn: Tưởng, hành và thức, kính mong Thầy giải thích và cho ví dụ để con hiểu rõ hơn.

2- Tại sao trong kinh “Đáng Được Ăn” Tương Ưng III, trang 161 dạy: Tưởng chỉ là sự nhận rõ các màu sắc. Thức chỉ là sự rõ biết các vị chua đắng ngọt cay...?

3- Thế nào là Tầm? Thế nào là Tứ? Xin Thầy cho ví dụ.

Đáp:

1- Trong Thân ngũ uẩn có: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.

Trong câu hỏi của con chỉ hỏi tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn mà không có hỏi sắc uẩn và thọ uẩn. Người ta không nhận ra trong thân ngũ uẩn có ba cái thức làm việc, ba cái thức đó có tên là:

i. Sắc thức, gồm có sáu thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý thức, hoạt động và cảm nhận tức là hành uẩn và thọ uẩn, lúc con người đang tỉnh thức và làm việc qua sắc uẩn.

ii. Tưởng thức hoạt động và cảm nhận (hành uẩn và thọ uẩn) qua tưởng uẩn trong giấc ngủ (chiêm bao).

iii. Thức thức hay còn gọi là tâm thức hoạt động và cảm nhận (hành uẩn và thọ uẩn) qua thức uẩn. Muốn cho tâm thức hoạt động và cảm nhận thì phải nhập xong bốn thiền: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Khi nhập xong Tứ Thiền thì sắc thức và tưởng thức đã ngưng nghỉ nhường chỗ cho tâm thức hoạt động.

Vì thế lúc bấy giờ Tam Minh chúng ta mới thực hiện được. Nếu sắc thức và tưởng thức chưa ngưng nghỉ thì tâm thức không bao giờ hoạt động được và vì vậy sự tu hành của ngoại đạo chưa bao giờ thực hiện được Tam minh.

Còn hành uẩn và thọ uẩn là những sự hoạt động và cảm nhận của ba thức này mà thôi.

Trên đây là nhiệm vụ của năm uẩn hoạt động trong thân ngũ uẩn, tức là sự hoạt động của một con người có tu tập theo đường lối của đạo Phật nhập bốn thiền và thực hiện Tam Minh. Còn người chưa tu tập bốn thiền và Tam Minh thì tâm thức của họ đang nghỉ ngơi chưa hoạt động.

2- Đọc trong Kinh Song Tầm, đức Phật đã xác định nghĩa của Tầm là sự suy tư (tầm thiện và tầm ác tức là suy tư thiện và ác). Đọc trong Kinh An Trú Tầm, đức Phật đã xác định nghĩa của Tứ là sự tác ý (tác ý một tướng khác của một tướng kia).

3- Đọc lại bài Kinh Đáng Được Ăn: “Này các tỳ-kheo, những Sa Môn hay Bà La Môn nào có nhớ đến các đời sống ở các kiếp trước, tất cả họ đều nhớ đến năm thủ uần hay nhớ đến một trong những thủ uẩn.

Như vậy bài kinh này đức Phật đã dạy chúng ta về quán tưởng để tu tập năm thủ uẩn để thấy rõ năm thủ uẩn vô thường, khổ, vô ngã mà không tham đắm và không dính mắc. Ở đây con hỏi: Tưởng biết rõ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… và thức rõ biết vị chua, cay, mặn, ngọt, đắng v.v… như vậy có đúng không?

Như đoạn kinh trên Thầy đã trích ra để xác minh đức Phật dạy chúng ta đang quán tưởng, nghĩa là chúng ta đang dùng tưởng thức để tư duy.

Nếu có một vật trước mắt dùng để quan sát thì đó là ý thức quan sát, còn ở đây đức Phật dạy nhớ lại quá khứ, vậy nhớ lại quá khứ một sắc tướng, hình ảnh, màu sắc, âm thanh, mùi vị, cảm giác lạc, khổ, bất lạc, bất khổ v.v… đó không phải là tưởng thức quán sát sao? Tưởng thức quán sát câu hữu với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.

Bởi mầu sắc chúng ta nhận được xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, hồng, cam v.v... đều do tưởng của chúng ta đặt ra để ý thức chúng ta tiếp nhận xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, hồng, cam v.v...

Ví dụ: mầu đỏ là do tưởng của chúng ta tưởng mầu đỏ rối từ đó ý thức chúng ta nhận thấy màu đỏ. Nếu trước kia tưởng của chúng ta tưởng mầu đỏ là mầu xanh thì bấy giờ ý thức của chúng ta cũng cho nó màu xanh. Do đó đức Phật dạy: “Tưởng chỉ là sự nhận rõ các màu sắc”. Đúng vậy, chỉ có tưởng mới nhận ra mầu sắc. Hôm nay tất cả những mầu sắc đều do tưởng nhận rõ các mầu sắc.

Và này các tỳ-kheo, thế nào gọi là thức? Rõ biết bằng tưởng câu hữu với vị thức đắng, cay, ngọt, mặn v.v…”

Bởi bài kinh này đức Phật dạy quán về thân ngũ uẩn ở quá khứ, chứ không phải quán thân ngũ uẩn ở hiện tại nên phải dùng tưởng câu hữu với lục thức thì mới đúng nghĩa của bài kinh. Ở đây do dịch giả dịch không đúng nghĩa, vì dịch giả không phải là hành giả hoặc về sau những nhà học giả kết tập kinh sách thiếu kinh nghiệm tu hành nên dùng chữ không chính xác khiến cho người đời sau đọc khó hiểu, chỉ có những bậc có kinh nghiệm trên đường tu tập mới xác định được nghĩa lý này.

Cho nên mầu sắc do tưởng nhận ra, đức Phật đã xác định rất đúng và thức nhận biết ra mùi vị cay, đắng, ngọt, bùi, chua, chát, mặn, lạt v.v... thì không còn chỗ nào là sai cả.

11- Chú tâm 

Hỏi: Kính bạch Thầy, trước đây nhờ chú niệm khá liên tục nên:

1- Khi theo dõi hơi thở, con thường thấy nhỏ, nhẹ ngắn dần, có lúc dường như mất hẳn.

2- Khi kinh hành thấy rõ sự “nặng nhẹ” của bước chân. Các thiền sư Nam Tông khuyên cứ tiếp tục chú tâm hơn nữa vào hơi thở và bước chân, vì “hơi thở vi tế là tâm vi tế”. Nhưng vì sợ đó là kết quả của sự ức chế tâm nên con không tiếp tục hành trì mà chỉ chú ý xả tâm bằng pháp “Tứ Chánh Cần” theo Thầy chỉ dạy.

Tuy vậy hiện nay sự theo dõi, trụ tâm vào hơi thở và bước đi của con không liên tục như trước nữa. Như vậy có phải niệm căn và tấn căn của con không được phát triển đồng đều?

Đáp: Trước khi con chưa biết pháp tu hành xả tâm nên theo phương pháp tu hành ức chế tâm, vì pháp ức chế tâm dễ tu tập hơn pháp xả tâm.

Tại sao vậy? Tại vì chỉ tu tập có một đối tượng duy nhất để cột tâm vào đó. Ví dụ: như hơi thở hoặc đi kinh hành, nhờ đối tượng đó mà tâm bị ức chế nên vọng tưởng không sanh. Từ đó con cảm giác hơi thở bắt đầu nhỏ nhẹ và đôi khi không còn cảm thấy hơi thở ra vô nữa. Đó là một trạng thái của xúc tưởng xuất hiện mà con tưởng đó là niệm căn được liên tục và tấn căn được tinh cần.

Nếu trên đà này tiến tu thì con sẽ không khỏi giống như các sư Nam Tông ôm các định tướng mà chẳng giải quyết được sanh, già, bệnh, chết, chỉ tu để có tu mà thôi, chứ con đường phía trước còn mờ mịt. Vì các sư Nam Tông đã tu tập qua rồi những trạng thái này mà chẳng thấy làm chủ tâm tham, sân, si được.

Rõ ràng các sư còn tham ăn thích ngủ tức là ăn uống phi thời và còn tham danh, đắm lợi, tiền bạc xe cộ, chùa to Phật lớn, không sống được trong từ tâm, còn ăn thịt chúng sanh, cơ thể mập khỏe chứng tỏ các sư còn có nhiều tâm dục.

Nếu con không ở trên Tứ Niệm Xứ tu tập xả tâm, đẩy lui các chướng ngại trên thân, thọ, tâm, pháp để khắc phục tham ưu trên đó thì dù con có tu niệm căn, có liên tục tu tập tấn căn, dù con có tinh cần một triệu năm thì nó cũng không giải quyết được sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, vì lối tu tập này đã đi sai hướng giải thoát rồi.

Pháp xả tâm chỉ có trên Tứ niệm Xứ thỉnh thoảng tu tập định, thỉnh thoảng tu tập quán và thỉnh thoảng tu tập xả, đừng nên chuyên ròng một thứ nào cả, như trong kinh đức Phật đã dạy:

Tỳ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ-kheo, nếu một chiều tác ý tướng định, thì có sự kiện tâm vị ấy đi đến thụ động. Tỳ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ-kheo, nếu một chiều tác ý tướng tinh cần, thời có sự kiện tâm vị ấy đi đến trạo cử. Tỳ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ-kheo, nếu một chiều tác ý tướng xả, thời có sự kiện tâm vị ấy không chân chánh định tỉnh để đoạn diệt các lậu hoặc.

Nhưng nếu tỳ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ-kheo, nếu thỉnh thoảng tác ý tướng định, thỉnh thoảng tác ý tướng tinh cần, thỉnh thoảng tác ý tướng xả, tâm vị ấy trở thành nhu nhuyến, kham nhậm, chói sáng, không bẻ vụn, chơn chánh định tỉnh để đoạn tận các lậu hoặc.

Các sư Nam Tông chuyên ròng tu tập định, vì thế các sư bị ức chế tâm nên sự tu hành của các sư chẳng đi đến đâu cả.

Do lời Phật dạy trên đây chúng ta nên khéo léo và thiện xảo tu tập trong ba tướng này.

12- Khái niệm về Giới

Hỏi: Kính bạch Thầy, thế nào là giới cấm, giới kinh, giới hành, giới hạnh, giới đức…? Còn những khái niệm nào về giới của đạo Phật mà chúng con cần phải biết thêm?

Đáp:

Giới cấm tức là pháp luật, là thanh quy, là nội quy, là những điều lệ mà tu sĩ không được vi phạm.

Giới kinh là những lời dạy của đức Phật được kết tập thành kinh sách dạy về các pháp thiện, người tu sĩ cần phải học và tu tập hằng ngày không được biếng trễ.

Giới hành là những pháp môn tu tập rèn luyện thân tâm để thân tâm được thuần hóa trong thiện pháp như: Định Vô Lậu, Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác v.v…

Giới hạnh là những hành động thân, miệng, ý được rèn luyện, được tu tập không còn làm khổ mình khổ người.

Giới đức là những đạo đức làm người làm Thánh được học tập và được áp dụng vào đời sống hằng ngày.

Ngoài những giới trên đây, đạo Phật còn có nhiều giới như: giới bổn, giới luật, giới bất tử, ngũ giới, lục giới, bát giới, thập giới v.v…

Nói giới luật tức là nói đến đạo đức, nói đạo đức là nói đến những hành động vượt thoát ra khỏi bản chất của loài cầm thú; nói đạo đức là nói đến những hành động cao thượng đẹp đẽ tuyệt vời của con người đối xử nhau trong cuộc sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả muôn loài vạn vật trên hành tinh này.

13- Năm giới là tiêu chuẩn được sinh làm người 

Hỏi: Kính bạch Thầy, có vị giảng sư nói: “Chỉ cần giữ gìn năm giới thì kiếp sau được làm người, mười giới được làm thân chư thiên? Đúng hay sai, xin Thầy giảng cho chúng con được rõ.

Đáp: Đó là một tiêu chuẩn làm người, đức Phật đã xác định rất rõ ràng, vì thế khi quy y Tam Bảo thọ năm giới, người cư sĩ cần phải sống đúng năm giới. Nhưng mấy ai đã giữ gìn năm giới trọn vẹn, một tiêu chuẩn có năm điểm để được đậu làm thân người.

Nhưng nhìn những người xung quanh ta, tuy đã thọ năm giới nhưng mấy ai đã giữ được trọn vẹn, mặc dù có người đã thọ năm giới rất lâu, có thể từ năm năm hay mười năm. Thế mà giờ này còn có người vi phạm

Trong năm giới này gồm có: 1- Sát sanh; 2- Trộm cắp; 3- Tà dâm; 4- Vọng ngữ; 5- Uống rượu

Trong năm giới này, giới trộm cắp, tà dâm và uống rượu là dễ giữ gìn, còn giới sát sanh và giới vọng ngữ là khó giữ, nói khó không có nghĩa là giữ không được.

Người tu sĩ hiện nay năm giới này còn giữ không trọn huống là người cư sĩ. Bởi vậy “được thân người khó, khó như con rùa mù tìm bộng cây giữa biển Đông”. Nói khó được thân người tức là nói giữ gìn năm giới rất khó.

Khi mất thân rồi phải trải qua vô lượng kiếp mới làm được người, thế mà mọi người có thân chẳng mấy ai quý trọng. Mỗi phút thời gian trôi qua làm sao chúng ta cứu được thân. Nhờ có thân tu tập mới mong giải thoát luân hồi sanh tử, không có thân lấy gì tu tập giải thoát được. Phải không quý vị?

              “Tấc bóng thời gian một tấc vàng,
               Tấc vàng tìm được không gì khó,
               Tấc bóng thời gian khó hỏi han.”

Năm giới này là năm hành động đạo đức làm người:

1- Giới thứ nhất không sát sanh, giới này xác định quý vị có được thân người hay không? Nếu quý vị phạm giới này thì không bao giờ quý vị được làm thân người nữa.

Giới này dạy: không vì sự sống của ta mà ta nỡ sống trên sự giết hại và làm đau khổ của muôn loài vật khác, trong sự đau khổ đó có con người. Giới này là một hành động đạo đức hiếu sinh, chỉ có con người mới thực hiện lòng thương yêu ấy; chỉ có con người mới tu tập rèn luyện đạo đức này.

Còn tất cả loài thú vật trên hành tinh này không thể hiểu biết và tu tập rèn luyện đạo đức này được. Con người nhờ có tri kiến hiểu biết thiện và ác, còn con thú thì không phân biệt được thiện ác.

Do biết phân biệt nên đức Phật mới dạy cho con người sống đạo đức hiếu sinh, vì có thương chúng sanh mới có thương mình, có thương mình mới không nên làm khổ chúng sanh, làm khổ chúng sanh tức là làm khổ mình.

Tại sao vậy? Vì luật nhân quả, khi làm khổ chúng sanh tức là huân sự khổ đau vào mình. Cho nên người nào ăn thịt và giết hại chúng sanh thì người ấy đã huân sự bệnh tật, tai nạn vào mình và những người thân của mình.

“Tích thiện gieo nhân ta thắp sáng bầu trời.
Đem lợi ích cho muôn loài là niềm vui hạnh phúc.”

Giới thứ nhất của Phật dạy chúng ta biết tạo nhân quả không sát hại và ăn thịt chúng sanh để không vay nợ xương máu và thân mạng chúng sanh, nhờ đó mới được thân người. Nếu giết hại và ăn thịt chúng sanh là phải trả nợ máu xương và thân mạng tức là phải làm thân chúng sanh để cho người khác giết hại và ăn thịt lại.  

Điểm cao nhất của giới này là để được làm thân người, đó là đạo đức làm người thứ nhất của người cư sĩ. Đạo đức này đã không giết hại và ăn thịt chúng sanh mà còn thương yêu tất cả chúng sanh như con mình.

Muốn được làm thân người thì quý vị phải nhớ kỹ lời dạy này; phải nhớ kỹ giữ gìn đạo đức này, đạo đức hiếu sinh, đạo đức này chỉ có con người mới có, nếu không giữ gìn được đạo đức này thì chớ mong có được thân người ở kiếp mai sau.

            Do đức hạnh này mà đức Phật dạy: “thân người khó được.

Chỉ trong giới này cũng đủ xác định kiếp sau của quý vị còn có được thân người hay không? Nếu quý vị giết hại và ăn thịt chúng sanh thì chắc chắn kiếp sau quý vị không được làm thân người.

Luật nhân quả rất công bằng, vì thế kiếp sau quý vị phải làm thân chúng sanh để trả vay nợ máu xương như chúng tôi đã nói ở trên thì quý vị làm sao có thân người được.  

Còn bốn giới kia để xác định đời sống của quý vị khi có thân người được hạnh phúc sang giàu hay khổ đau nghèo cùng, có tình nghĩa hay bạc tình, có thông minh hay u tối như:

2- Giới thứ hai là giới cấm trộm cướp, giới này xác định làm được thân người có giàu sang hay nghèo khổ đói rét, nếu kiếp này quý vị tham lam trộm cắp của người. Của cải trộm cắp ấy không những trong kiếp này, của cải tài sản của quý vị như để ngoài sân, nó sẽ bị tiêu tan dễ dàng như: lửa cháy, nước trôi, Nhà nước sung công, con cái trong nhà phá tán v.v…

Trong kiếp này và kiếp sau quý vị trở thành người nghèo cùng khốn khổ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nghèo khổ đến mức không có nhà ở, phải ở hè phố, ngủ đường ngủ bụi v.v... đó là luật nhân quả rất công bằng xử phạt kẻ tham lam trộm cắp cướp giật của người khác.

Nhìn qua giới luật này, xét thấy trong cuộc sống của quý vị thì biết ngay quý vị nghèo khổ hay là giàu sang đều do nhân lấy của không cho (tham lam trộm cắp) hay bố thí.  

3- Giới thứ ba là giới tà dâm, giới này xác định được quý bạn là người có đạo nghĩa hay không đạo nghĩa. Đức Phật dạy giới này là cấm dâm dục không chân chánh, dâm dục chân chánh là tình nghĩa đạo lý con người. Còn dâm dục không chân chánh, nay lấy người này, mai ở với người khác chẳng khác nào là một con thú vật không đạo nghĩa, không chung thủy.

Giới luật này chỉ rõ đạo nghĩa làm người. Làm người phải có tình, có nghĩa, có lòng chung thủy thương yêu nhau mới gọi là con người. Vì hạnh phúc của chúng ta và mọi người thì chúng ta đâu có quyền làm khổ mình, khổ người bằng cách lang chạ như loài thú vật.

Con người khác hơn con thú ở giới luật này, nếu con người không giữ gìn giới luật này thì kiếp sau khó làm người, hiện tại họ là một con người nhưng tâm tánh họ có khác gì con thú, sống không tình, không nghĩa, sống không có lòng trung trinh tiết hạnh, sống không chung thủy với nhau.

Giới luật này xác định được tình nghĩa đạo đức cao đẹp của con người với con người, nếu không có giới luật này thì đạo đức tình nghĩa của con người không có, và như vậy con người chỉ là một con thú vật mà thôi.

4- Giới thứ tư là giới vọng ngữ, tức là giới cấm nói dối, giới cấm không nói thất hứa, thất hẹn v.v… Giới luật này xác định được uy tín của con người trong cuộc sống đối với những người khác.

Giới luật này nói lên sự uy tín của con người đối với con người trong xã hội như trên đã nói, người ở đời ai phạm vào giới luật này là tự làm mất uy tín. Con người phải có uy tín, con người không uy tín là không xứng đáng làm người.

Một con thú vật mang đầy đủ tánh hung ác giết hại lẫn nhau, cướp giật ngang tàn, sống lang chạ không chung thủy, nhưng rất thành thật không dối trá.

Giới luật này nếu con người phạm vào thì còn thua loài thú vật thì làm sao xứng đáng làm người được. Người nói láo, thất hứa, thất hẹn là những người xã hội không ai dám gần.

Giới không nói dối là một giới luật rất khó giữ gìn, làm người chúng ta thường hay phạm vào giới này. Vì thế chúng ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác khi nói chuyện bất cứ người nào.

5- Giới thứ năm là giới uống rượu. Kẻ say sưa rượu chè là người mê mờ, không sáng suốt. Người uống rượu thường tự tạo tri kiến của mình ngày càng u tối và đần độn.

Người nào hay uống rượu là người ấy tự làm khổ mình, tự giết mình, uống rượu như uống thuốc độc vào mình. Vì thế chỉ có những người không sáng suốt và mê mờ mới nuốt độc dược vào thân mà không biết.

Rượu là một chất độc kích thích và tác động thần kinh khiến cho người uống rượu giống như người điên, không còn trí tuệ thông minh nên người say rượu thường ăn nói bừa bãi, ăn nói khiếm nhã thiếu lịch sự, thiếu văn hóa, ăn nói thô lỗ cộc cằn v.v...

Người uống rượu say sưa tánh tình hung ác không khác nào như một ác quỷ, án mạng thường xảy ra phần lớn là do những người say rượu.

Tóm lại trong năm điểm này, nếu chúng ta chỉ cần thiếu một điểm thì chúng ta cũng không thể làm người được, vì đó là năm tiêu chuẩn được làm người mà đức Phật đã dạy cho mọi người để xác định muốn được thân người thì phải sống đúng năm giới luật này một cách cụ thể, rõ ràng mà không có người nào phản đối.

112-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (3). TL Thích Thông Lạc

14- Người đắc đạo không cần giữ giới luật

Hỏi: Kính bạch Thầy, có sự khác biệt nào giữa việc uống rượu của Tế Điên Tăng và việc tự sát bằng dao của ngài Channa trong kinh Tương Ưng tập 4 trang 99? Có vị nói, đối với người đã đắc đạo, thân có thể phạm giới nhưng tâm không bao giờ phạm, từ đó đánh đồng hai hành động nêu trên?

Đáp: Những lý luận của các nhà học giả “Người chứng đạo không cần giữ giới luật” điều đó là sai cả.

Tế Điên Tăng là một nhân vật Đại Thừa thể hiện sự phá giới phi đạo đức của đạo Phật, là một vị tăng đại diện cho giáo pháp Đại Thừa nên hành động Tế Điên Tăng thiếu oai nghi tế hạnh nghiêm trang của một tu sĩ chân chánh. Tế Điên Tăng chỉ lòe thần thông tưởng lừa đảo người mà đức Phật đã cho những thần thông đó là huyễn hóa không đáng cho chúng ta ca ngợi.

Tế Điên Tăng là một tu sĩ thiếu đức hạnh của một con người thì không đáng cho chúng ta cung kính, chỉ có những người ham mê thần thông mới cung kính, còn những tu sĩ đệ tử của đức Phật chân chánh tu hành giải thoát thì xem đó là những kẻ tà đạo bàng môn, không phải là những tu sĩ Phật giáo.

Đức Phật so sánh mũi dao của tỳ-kheo Channa và Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở không có khác nhau. Đọc qua bài kinh này chúng ta mới thấy rõ diệu ý của đức Phật dám đem thiền định so sánh với mũi dao thì thật là tuyệt vời. Vì đức Phật muốn bài bác thần thông một cách quyết liệt, vì thần thông chẳng đem đến ích lợi cho con người thiết thực. Mặc dù Tứ Thiền là một loại thiền định tuyệt vời và mầu nhiệm làm chủ được sự sống chết có nghĩa là người nhập được thiền định này muốn chết, muốn sống không còn khó khăn chút nào cả.

Tự tại trong sanh tử như thế mà Ngài dám đem mũi dao của tỳ-kheo Channa mà so sánh thì Thầy xin tán thán đức Phật đúng là một bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Sự so sánh này hay tuyệt, thần thông và Tứ Thánh Định được đức Phật xem như đồ bỏ, như một chiếc dép hư không còn dùng được nữa.

15- Tụ điểm

Hỏi: Kính thưa Thầy, khi chúng con ngồi thiền:

1- Xác định tụ điểm ở chỗ nào? Giữ nó như thế nào trong thời gian ngồi?

2- Mở mắt hay nhắm mắt, có lợi hại gì? Khi nhắm mắt con dễ gom sáu căn để niệm hơi thở hơn, vậy con có nên tiếp tục nhắm mắt?

3- Tay để bình thường hay bắt buộc bàn tay phải để trên bàn tay trái, ngón cái chạm nhau?

4- Theo sự hướng dẫn của cô Út, mỗi ngày con chỉ ngồi rất ít (khoảng 45 phút). Chủ yếu lo hướng tâm xả tâm. Thưa Thầy chúng con có nên tăng thời lượng lên không?

Đáp: Khi ngồi thiền các con cần nên lưu ý những điểm sau đây. Trong câu hỏi một có hai câu:

1- Xác định tụ điểm. Khi ngồi thiền tu Định niệm hơi thở thì nên đặt tụ điểm tại nhân trung tức là nơi hơi thở ra vào, giữa nhân trung cạnh mũi. Tu Định niệm hơi thở đặt tụ điểm tại nhân trung là chính xác và cụ thể thực tế nhất không bị tưởng. Đặt trên chóp mũi cũng được, nhưng không bằng đặt tại nhân trung, vì nơi đó trụ tâm không sanh ảnh hưởng rối loạn thần kinh.

Còn bất cứ đặt tụ điểm nơi đâu để trụ tâm đều không tốt, tại sao vậy? Vì đặt bất cứ nơi đâu trên thân mà tu hơi thở thì dễ rơi vào định tưởng, định tưởng là một loại định rất nguy hiểm. Vì vậy người tu thiền cần phải quan tâm và cảnh giác để bước đường tu tập không là bước đường cùng.

Thời gian thích nghi tu tập tụ điểm. Tu tập và giữ gìn tụ điểm, muốn tu và tạo tụ điểm phải dùng một hơi thở vô và ra chậm và nhẹ nghĩa là hít vô chậm chậm và thở ra cũng chậm chậm. Trước khi thở hơi thở này, chúng ta dùng pháp hướng để dẫn tâm vào tụ điểm: “Hai mắt phải nhìn xuống tụ điểm, tâm phải tập trung vào đó.”

Sau khi hướng tâm xong thì hai mắt phải nhìn xuống nhân trung và tâm phải tập trung chú ý biết tại nơi đó, mắt và tâm đều tập trung nơi đó. Chúng ta bắt đầu hít vô chậm chậm nương theo hơi thở vô, gom tâm tại nhân trung và khi thở ra cũng gom như vậy. 

Nếu đủ sức thì chúng ta tu tập liên tục 5 hơi thở chậm rồi thở lại hơi thở bình thường, còn không đủ sức thì chỉ thở một hơi thở chậm mà thôi, rồi thở lại 10 hoặc 20 hơi thở bình thường.

Khi thở lại hơi thở bình thường thấy tâm bám chặt vào tụ điểm thì không cần thở lại hơi thở chậm. Chỉ khi nào tâm chưa bám chặt vào tụ điểm, có nghĩa là tâm còn vọng tưởng thì mới hướng tâm và thở lại một hơi thở chậm nhẹ như lúc ban đầu.

Đó là cách giữ gìn tâm bám chặt vào tụ điểm để tâm không còn khởi niệm. Nếu ai biết dùng hơi thở chậm gom tâm, người ấy ức chế tâm hết vọng tưởng dễ dàng. Nhưng đây không phải thiền định, đây chỉ là sự tập trung tâm để giúp tâm tỉnh thức chứ không phải đi vào tĩnh lặng để rồi rơi vào định tưởng. Xin quý vị lưu ý.

2- Mở mắt hay nhắm mắt trong khi tu tập còn tùy vào hai trường hợp:

            - Khi loạn tưởng thì nên nhắm mắt.
            - Khi bị hôn trầm thùy miên thì nên mở mắt.

Mở mắt to sanh loạn tưởng, nhắm mắt lại sanh hôn trầm, vì thế người tu hành nên tập tu không mở mắt, không nhắm mắt mà chỉ cần mắt nhìn xuống. Khi mắt nhìn xuống thì mắt chỉ mở một phần ba, mắt chỉ mở một phần ba là vừa đủ thu nhiếp tâm và không bị hôn trầm thùy miên và loạn tưởng.

Khi mới bắt đầu tu tập, nhắm mắt tu dễ gom tâm nhưng tu lâu thì không tốt, vì dễ bị ma tưởng quấy nhiễu.

Con không nên tiếp tục tu tập nhắm mắt mà phải tu đúng cách ngay từ lúc ban đầu. Người tu thiền không được nhắm mắt, không được mở mắt. Khi ngồi thiền chỉ có nhìn xuống, từ chỗ ngồi đến điểm mắt nhìn cách khoảng một thước hoặc tám tấc, không được xa hơn cũng không được gần quá.

Vì xa hơn thì đầu phải ngước lên và như vậy thì mắt phải mở to, còn gần quá thì đầu phải cúi xuống, đầu cúi xuống mà ngồi thiền thì trông tướng rất xấu, đễ bị hôn trầm thùy miên vô ký và tưởng lạc.

3- Tu thiền theo Phật giáo, hai bàn tay không bắt ấn, chỉ có người tu theo Mật Tông hai bàn tay luôn luôn lúc nào cũng bắt ấn. Khi ngồi thiền hai bàn tay để tự nhiên trên hai đầu gối như tượng Phật Nguyên Thủy hoặc hai bàn tay để chồng lên nhau một cách tự nhiên chứ không bắt buộc hai đầu ngón tay cái chạm nhau. Chúng ta tu theo Phật thì phải sống và tu tập như Phật, đừng bắt chước theo kinh điển phát triển, bởi vì thiền của Phật là chỗ tâm không còn tham, sân, si chứ không phải chỗ ngồi.

Ngồi như thế nào thoải mái dễ chịu thì ngồi, còn ngồi mà khổ đau thì không nên ngồi, vì chúng ta theo Phật là tìm sự giải thoát không còn khổ đau. Đức Phật đã xác định: “Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy…”, và như vậy trong khi tu tập có sự khổ đau xảy ra tức là chúng ta đã tu sai hoặc tu theo pháp môn của ngoại đạo.

Vì tu tập có khổ đau như vậy là ức chế thân tâm, là tự làm cho mình khổ, là thiếu đạo đức với mình, là pháp khổ hạnh của ngoại đạo. Ngày xưa thiếu chút nữa đức Phật đã làm vật hy sinh cho những pháp môn này.

Tóm lại, con nên ngồi xếp bằng kiết già hoặc bán già cũng đều tốt như nhau cả, hoặc ngồi bất cứ một tư thế nào mà thân tâm con an lạc thì con ngồi. Mục đích tu tập là lo xả tâm ly dục ly ác, đẩy lui tất cả chướng ngại pháp trên tứ niệm xứ của con, để tâm con không phóng dật tức là tâm thanh tịnh.

Tâm không phóng dật là tâm định chứ không phải ngồi mà có định. Ngồi chỉ là một phương tiện giúp cho tâm dễ gom, và tâm gom được thì tâm mới tỉnh giác, mới thấy được chướng ngại pháp. Ngồi chỉ là một phương tiện nhỏ mà thôi. Còn hai bàn tay thì không cần thiết phải như thế này, thế kia…

4- Cô Diệu Quang dạy rất đúng, ngồi ít mà xả tâm nhiều tức là không bị ức chế, còn lấy sự ngồi nhiều làm mốc tu tập coi chừng sẽ tu lạc hướng vào định tưởng. Chủ yếu lúc nào, giờ nào, phút nào, giây nào cũng lo xả tâm, xả tâm tốt thì tăng giờ lên, còn xả tâm chưa tốt, tăng giờ lên cũng chẳng có ích lợi gì.

Nên nhớ lúc nào cũng giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự, và lúc nào cũng phòng hộ sáu căn, không bao giờ để có kẽ hở cho tâm lang thang chạy theo các pháp trần bên ngoài. Ngồi hay không ngồi đâu còn có nghĩa lý gì nữa, tu tập trong bốn oai nghi: Đi, đứng, nằm, ngồi.

16- Thân hành là gì?

Hỏi: Kính bạch Thầy, quán niệm hơi thở:

1- “An tịnh thân hành tôi biết thở vô/ra.” Thân hành ở đây là gì? Có phải là hơi thở hay thân thể, hoạt động thân nói chung?

2- Hỷ thọ khác lạc thọ như thế nào?

3- Quán vô thường, quán ly tham, tôi sẽ thở vô/ra: Khi quán cần phải có thời gian suy xét, thẩm sát…, sao lại có thể thực hiện được trong khoảnh khắc ngắn ngủi trước mỗi hơi thở? Khi quán vô thường con phải trải qua nhiều lần thở ra thở vô. Vậy có đúng không bạch Thầy?

4- Niệm hơi thở khi không có tác ý, chỉ đơn thuần biết thở vô ra khác với tùy tức trong Lục Diệu Pháp Môn như thế nào? Ngoài một bên là xả tâm, một bên là ức chế tâm thì Định Niệm Hơi Thở của Phật có khác với Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh của Lục Diệu Pháp Môn như thế nào?

Đáp:

(1) Trong kinh sách Nguyên Thủy, đức Phật thường dạy: “Thật hy hữu thay chư Hiền giả! Thân hành niệm này được tu tập, được làm cho sung mãn, thì có quả lớn, có công đức lớn.” Ở đây con hỏi thân hành là gì?

Thân hành là sự hoạt động của thân. Sự hoạt động của thân có hai phần: 1, Thân hành ngoại; 2, Thân hành nội.

Thân hành niệm ngoại là sự đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín hoặc làm tất cả mọi công việc dù lớn, dù nhỏ, dù nhẹ, dù nặng v.v… đều được gọi là thân hành niệm ngoại.

Thân hành niệm nội là sự hoạt động trong nội thân như: tế bào, thần kinh, tuần hoàn, hô hấp, bài tiết v.v…

Về phần thân hành niệm nội trong thân thì chúng ta chỉ có điều khiển được hơi thở tức là về phần hô hấp, còn tất cả những sự hoạt động khác thì chúng ta không thể điều hành được. Nếu chúng ta điều hành được hơi thở thì chúng ta sẽ điều hành được tất cả sự hoạt động trong nội thân.

Do đó điều khiển được hơi thở tức là điều khiển được sự sống chết. Các nhà Yoga tu tập hơi thở để đạt được sự làm chủ sống chết là do luyện tập hơi thở, họ luyện tập hơi thở chia làm ba loại hơi thở:

1, Hơi thở vô; 2, Hơi thở ra; 3, Hơi thở nín.

Sự luyện tập hơi thở này đưa đến kết quả làm chủ được hơi thở tức là làm chủ được sự sống chết, nhưng không chấm dứt được luân hồi, vì tu sĩ Yoga chưa thực hiện được Lậu Tận Minh nên nguyên nhân tái sanh luân hồi còn chưa đoạn diệt.

Vì pháp môn tu bằng tưởng tức (hơi thở tưởng) nên khi làm chủ được hơi thở, các tu sĩ Yoga tưởng mình hòa nhập vào đấng tối cao. Sự tu tập này rất khó cho nên chỉ có một số quá ít người đạt được ở mức độ cao. Phần nhiều tu tập để ngừa bệnh trị bệnh theo phương pháp dưỡng sinh. Nhưng dùng phương pháp Yoga ngừa bệnh và trị bệnh thì chỉ ngừa và trị ở ngọn chứ không trị ở gốc của bệnh tật được.

Đạo Phật cũng dùng hơi thở nhưng không luyện tập hơi thở như Yoga, chỉ nương vào hơi thở tự nhiên để tỉnh thức trong mọi pháp, nhờ có tỉnh thức nên xả tâm ly dục ly ác pháp dễ dàng.

Đạo Phật không dụng riêng hơi thở tu tập như các nhà Yoga, mà còn sử dụng mọi hoạt động của thân. Đức Phật xem hơi thở là một hành động như tất cả các hành động khác của thân.

Mục đích của đạo Phật là bất động tâm, cho nên sự tỉnh thức trong chánh niệm là một điều quan trọng trong việc tu tập xả tâm. Và khi tâm đã xả sạch tức là tâm ly tham và đoạn các ác pháp thì lúc bấy giờ tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì tâm có đủ năng lực điều khiển các hoạt động trong thân, thậm chí như điều khiển cả bộ óc làm việc theo ý muốn của mình chứ không phải chỉ có điều khiển hơi thở mà thôi.

Còn phương pháp của Yoga luyện tập khổ công về hơi thở và còn dùng tưởng để mở các luân xa trong thân tứ đại bất tịnh, đó là một việc tu tập không giống Phật giáo chút nào.

Đức Phật dạy chỉ nương vào thân hành niệm để tu tập xả tâm ly tham đoạn ác pháp chứ không phải đi tìm thiền định trong hơi thở hoặc bất cứ một hành động nào khác trong thân. Nhưng chúng ta nên biết sự lợi ích của thân hành niệm là giúp chúng ta xả tâm tốt nhất, ngoài thân hành niệm ra chúng ta không có pháp nào giúp cho xả tâm tốt. Hơi thở là một thân hành niệm trong muôn ngàn thân hành niệm của thân chứ không lấy hơi thở làm điều quan trọng cho sự tu tập thiền định.

Thiền định của Phật giáo là chỗ tâm hết tham, sân, si, mạn, nghi. Chỗ tâm hết tham, sân, si, mạn, nghi là mục đích của đạo Phật.

(2) Hỷ thọ thuộc về tâm; lạc thọ thuộc về thân. Thân ngồi, hay nằm, hay đi, hay đứng đều cảm thấy an lạc, đó gọi là lạc thọ, còn tâm cảm thấy thanh thản, an ổn, vô sự không phóng dật, đó là hỷ thọ.

Tóm lại, hỷ lạc là chỉ cho trạng thái thân và tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Lúc nào tâm cũng không phóng dật, đó chính là trạng thái của tâm thanh tịnh đang hiện tiền trong cuộc sống không lúc nào mất thì người đó đang nhập Bất Động Tâm. Tâm đang ở trạng thái Bất Động, muốn nhập Sơ Thiền rất dễ dàng.

Trạng thái hỷ lạc của Sơ Thiền là do ly dục sanh nên khi nhập Sơ thiền thì có năm chi thiền hiện ra: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất tâm. Năm chi thiền này là một trạng thái Sơ Thiền Thiên. Người nào nhập được Sơ Thiền là được sinh vào cảnh giới Sơ Thiền Thiên khi bỏ xác thân này.

(3) Quán vô thường, quán ly tham ở Định Niệm Hơi Thở không có nghĩa là quán xét, tư duy, suy nghĩ, nó có nghĩa là hướng tâm. Câu quán vô thường và quán ly tham tôi biết tôi hít vô, tôi biết tôi thở ra là pháp Như lý tác ý để giúp tâm huân thành một thói quen thấy các pháp vô thường, hoặc thấy các pháp liền lìa tâm tham đắm.

Pháp Như lý tác ý để giúp tâm có một năng lực vô thường, ly tham, ly sân, ly si, ly mạn, ly nghi v.v… Nếu không có kinh nghiệm tu hành thì Định Niệm Hơi Thở chỉ là một lý giải suông không thể tu tập được.

Người không có kinh nghiệm tu hành không hiểu, nên Định Niệm Hơi Thở gọi là quán niệm, ấy thật là sai lệch, vì thế Định Niệm Hơi Thở của đạo Phật đã biến thành Quán Niệm Hơi Thở của ngoại đạo.

Bài kinh Xuất Tức Nhập Tức trong kinh Trung Bộ đã dạy quá rõ ràng, thế mà người tu hiện giờ không có ai tu đúng, chỉ tưởng giải bằng cách này, bằng cách khác, thiếu kinh nghiệm thực tế, vì thế người tu hiện giờ tu không có kết quả.

Tóm lại, quán vô thường, quán ly tham là pháp dẫn tâm vào đạo chứ không phải pháp quán như con hiểu một cách sai lạc.

(4) Niệm Hơi Thở không tác ý chỉ đơn thuần biết thở vô, ra thì không khác pháp tùy tức trong Lục Diệu Pháp Môn. Pháp Tùy Tức trong Lục Diệu pháp môn là pháp ức chế tâm mà Tổ Trí Khải Đại Sư đã chế ra để người sau tu hành thiền định.

Lục Diệu pháp môn là một pháp do tưởng tri chế tác chứ không phải do kinh nghiệm tu hành theo đúng lộ trình của Phật giáo, mặc dù nó có quán, hoàn, tịnh nhưng vì nó dùng pháp sổ, tùy, chỉ để ức chế tâm trước khi quán, hoàn, tịnh. Vì vậy nó rơi vào tưởng pháp, sanh ra tưởng tuệ, đó là một sự khác biệt giữa pháp môn thiền của Phật và Tổ.

Theo Lục Diệu Pháp Môn chỉ (ức chế vọng tưởng) trước, còn quán (tư duy quan sát) sau.

Theo Phật giáo vừa tỉnh giác vừa xả, tỉnh giác đâu thì xả tâm đó, hai pháp này không lìa nhau. “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra.” Hít vô ra là tỉnh giác còn ly tham xả ác pháp là chánh niệm chứ không phải quán như Lục Diệu Pháp Môn.

Cho nên quán, hoàn, tịnh của Lục Diệu Pháp Môn là pháp tưởng thức quán chứ không phải ý thức quán.

Phật dùng ý thức để tu, còn Tổ dùng tưởng thức để tu, do đó Phật làm chủ sanh, già, bệnh, chết là thật, vì đó là liễu tri. Còn Tổ làm chủ sanh, già, bệnh chết là không thật, vì đó là tưởng tri.

113-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (4). TL Thích Thông Lạc

17- Khắc phục tâm vô ký

Hỏi: Kính bạch Thầy, khi quét sân hoặc đi kinh hành, con có nhắc tâm chia tuần tự ba loại định tu tập. Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, kết hợp hành động của Thân hoặc bước chân, Định Vô Lậu? Con tu như vậy có đúng không? Dù có nhắc tâm, nhưng khi thực hiện thường bị quên do tạp niệm vô ký. Vậy con phải khắc phục như thế nào?

              Đáp: Tu tập xả tâm theo đạo Phật là phải kết hợp bốn loại định:
              1- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác (định ngăn ác pháp).
              2- Định Niệm Hơi Thở (định ngăn ác pháp).
              3- Định Vô Lậu (định diệt ác pháp).
              4- Định Sáng Suốt (thư giãn, trạng thái chân lý).

Trong một thời tu tập trên bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp của chúng ta thường có những hiện tượng sanh ra trên đó. Khi mỗi ác pháp sanh ra tại một trên bốn chỗ này thường tạo ra chướng ngại khiến cho bốn chỗ này bất an. Muốn cho bốn chỗ này được an ổn thanh thản, an lạc và vô sự thì phải tùy theo các pháp đã tu học trên đây áp dụng để diệt những ác pháp để đem lại sự bình an cho thân, thọ, tâm và pháp.

Nếu không có ác pháp sanh ra trên bốn chỗ này thì chúng ta dùng pháp tác ý ngăn ác pháp, nhưng khi chúng ta sử dụng công sức nhiều để tu tập không phù hợp với đặc tướng của mình nên thường bị hôn trầm, thùy miên và vô ký. Đó là thời gian tu tập chưa phù hợp với đặc tướng của mình. Biết như vậy con phải tu ít trở lại để tu tập có chất lượng tỉnh thức cao, không còn bị rơi vào vô ký nữa.

Xét qua sự trình bày tu tập những loại định của con thì con tu tập không sai, chỉ sai là tu hơi nhiều quá sức tỉnh thức của mình. Muốn không bị rơi vào vô ký thay vì con tu một giờ thì con nên tu lại 30 phút, thay vì con tu 30 phút thì con tu lại 15 phút. Chừng nào con thấy sự tỉnh thức của mình trong suốt thời gian tu tập mà không có một chút nào vô ký thì con mới tăng thời gian lên.

Nhưng khi tăng thì con chỉ tăng lên từ 5 phút chứ đừng có tăng nhiều quá mà sức tỉnh thức không đủ thì con sẽ bị rơi vào vô ký nữa. Vô ký là thiếu sự tỉnh thức, vì thế mà pháp môn của đức Phật dạy chúng ta tu tập tỉnh thức bằng Thân Hành Niệm là một pháp môn tuyệt vời. Nếu chúng ta biết cách tu đúng đặc tướng thì chúng ta có sự tỉnh thức ngay liền, phá sạch hôn trầm, thùy miên, vô ký.

Tóm lại, nếu tu tập đúng cách của Thân Hành Niệm thì phá tâm si ám rất dễ dàng. Hôn trầm, vô ký, thùy miên là những trạng thái của tâm si, cho nên tâm tỉnh thức có thì tâm si ám bị triệt tiêu, tâm si ám bị triệt tiêu thì chánh niệm mới hiện tiền.

Có chánh niệm thì ác pháp không xen vào được, ác pháp không xen vào được thì tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự, mà tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự thì đó là giải thoát của Phật giáo,

18- Pháp môn của Phật là pháp môn câu hữu

Hỏi: Kính bạch Thầy, khi nào cần kết hợp các định với nhau, khi nào chỉ tu tập một loại định mà thôi?

Đáp: Theo như lời đức Phật đã dạy:

“Tỳ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ-kheo, nếu một chiều tác ý tướng định thì có sự kiện tâm vị ấy đi đến thụ động.

“Tỳ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ-kheo, nếu một chiều tác ý tướng tinh cần thời có sự kiện tâm vị ấy đi đến trạo cử.

“Tỳ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ-kheo, nếu một chiều tác ý tướng xả, thời có sự kiện tâm vị ấy không chân chánh định tỉnh để đoạn diệt các lậu hoặc.

“Nhưng nếu tỳ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các tỳ-kheo, nếu thỉnh thoảng tác ý tướng định, thỉnh thoảng tác ý tướng tinh cần, thỉnh thoảng tác ý tướng xả, tâm vị ấy trở thành nhu nhuyến, kham nhậm, chói sáng, không bẻ vụn, chân chánh định tỉnh để đoạn tận các lậu hoặc.”

              Trên đây đức Phật dạy câu hữu ba pháp môn trong một thời tu:
              1- Tỉnh thức (Thân Hành Niệm Nội và Ngoại, tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và Định Niệm Hơi Thở).
              2- Tứ Chánh Cần.
              3- Định Vô Lậu.

Lời dạy này chúng ta ghi nhớ: Phật pháp không thể tu riêng một pháp môn nào. Khi tu hành phải biết kết hợp chặt chẽ pháp này với pháp kia, lúc thì định tỉnh, lúc thì quán tư duy vô lậu, lúc thì ngăn diệt mạnh mẽ. Có tu tập đúng như vậy tâm mới nhu nhuyến dễ sử dùng.

19- Niệm thiện

Hỏi: Kính bạch Thầy, khi quét sân, đi kinh hành các niệm thiện khởi lên như: nhớ lại một câu Phật ngôn chưa hiểu, về cách thức tu tập Thầy dạy …, con nên gạt hongy để tiếp tục theo hành động hon hay nên suy xét thêm về những niệm thuộc về thiện này?

Đáp: Đức Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.” Như vậy khi tu tập trong một thời con đều luôn tu cả ba pháp môn, trong đó có Tứ Chánh Cần và vì vậy khi một câu Phật ngôn khởi lên trong con thì con phải tư duy nghĩa lý của câu Phật ngôn này để thấu suốt lý như thật của nó. Nhờ vậy mà tri kiến của con càng ngày càng phát triển, đó là con triển khai trí tuệ tri kiến giải thoát tức là con thỉnh thoảng tác ý tướng xả như lời Phật đã dạy trong kinh Tăng Chi.

Đây cũng là sự tăng trưởng thiện pháp trong Tứ Chánh Cần, người tu sĩ cần phải siêng năng và cần mẫn tu tập. Đạo Phật có được sự giải thoát là nhờ vào trí tuệ tri kiến này, nếu con không chịu triển khai tu tập như thế này thì làm sao có trí tuệ tri kiến được.

Muốn có trí tuệ tri kiến giải thoát, người mới tu thì phải bắt đầu học hiểu đạo đức nhân quả, Tứ Diệu Đế, Thân Ngũ Uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên… nói chung là phải nghiên cứu tạng kinh Pali cho hong suốt.

Vì thế mỗi khi có một niệm khởi về Phật pháp thì con nên tư duy quán xét cho rõ tận nguồn gốc, đừng nên gạt bỏ ngang, vì bỏ qua một điều kiện triển khai trí tuệ thì thật quá uổng.

Tóm lại sự tu tập theo Phật giáo không giống sự tu tập của ngoại đạo, ngoại đạo tu tập hay chuyên nhất một pháp trong một thời tu, còn Phật giáo thì không chuyên nhất vào pháp môn nào cả trong một thời tu.

Phật giáo chuyên xả tâm vào định, ngoại đạo chuyên ức chế tâm vào định. Cho nên Phật giáo và ngoại đạo không giống nhau là ở chỗ xả tâm và ức chế tâm. Phật giáo đi từ xả vào định bằng tri kiến giải thoát nên lấy đạo đức làm gốc (giới luật), còn ngoại đạo đi từ định đến xả (quán, hoàn, tịnh) bằng tưởng tuệ, nên phá giới luật.

Do đó Phật giáo lấy tri kiến giải thoát quán xét xả tâm nên rất thực tế cụ thể, tâm hồn giải thoát thật sự, còn ngoại đạo lấy tưởng tuệ nên mơ hồ trừu tượng ảo giác, không có giải thoát.

Trên đây là những điều các con nên lưu ý và để tránh xa những sự sai lạc nó không tốt cho con đường tu tập này.

20- Hỷ của Sơ thiền gấp 16 lần hỷ vật chất

Hỏi: Kính bạch Thầy, có vị nói rằng hỷ của Sơ Thiền gấp 16 lần hỷ mạnh nhất thuộc vật chất (nhục dục) đúng không thưa Thầy?

Đáp: Quý vị có ly dục ly ác pháp chưa (?) mà dám khẳng định gấp 16 lần. Thật là xảo trá, trạng thái hỷ do ly dục ly bất thiện pháp làm sao so sánh với hỷ dục lạc và ác pháp được.

Hỷ ly dục và hỷ dục là hai con đường cách biệt song song, làm sao gặp nhau chỗ nào mà so sánh được. Hỷ ly dục có mặt thì hỷ dục phải không có mặt, hai cái này cũng giống như đêm với ngày, đêm có thì ngày phải không, ngược lại cũng như vậy.

Người dạy điều này là người sống trong tưởng tượng, trong mơ, không biết bốn Thánh Định là gì, nhất là Sơ Thiền một loại thiền thuộc về giới luật đạo đức nhân bản của Phật giáo.

Người tu học theo Phật giáo cần phải hiểu cho rõ ang hỷ lạc do ly dục sinh và hỷ lạc do dục sinh, hai trạng thái hỷ này không có giống nhau. Cho nên lòng vui mừng khi cha con chồng vợ gặp nhau trong sự trùng phùng, còn hỷ lạc do ly dục sinh cũng giống như một người thích sống một mình không muốn tiếp duyên với mọi người.

Vui thích sống một mình là hỷ do ly dục sinh. Xin quý vị nên lưu ý điều này để không lầm lạc.

21- Chỉ cần đắc Sơ thiền và đoạn trừ năm hạ phần kiết sử

Hỏi: Kính thưa Thầy, con được biết có số vị sư Nguyên Thủy quan niệm chỉ cần đắc Sơ Thiền và đoạn trừ năm hạ phần kiết sử để khi thân hoại mạng chung từ cảnh giới tương đương thể nhập Niết Bàn. Như trong kinh Bát Thành (Trung Bộ tập 2, kinh Damasa Gia chủ Tăng Chi). Dựa vào kinh mà tu như vậy có đúng không thưa Thầy? Kết quả ra sao?

Đáp: Trong bài kinh này đức Phật đưa ra một ví dụ: lỡ trong kiếp này tu chưa được hoàn thành viên mãn của con đường giải thoát mà nhân quả đã đến thình lình thì phải đành chịu. Nhưng nếu tu tập đạt được Sơ Thiền và đoạn được năm hạ phần kiết sử thì không còn tái sanh làm người nữa. Nghĩa là sắc uẩn đã bị hoại diệt chỉ còn bốn uẩn kia trong trạng thái của Sơ Thiền Thiên và trạng thái đoạn năm hạ phần kiết sử, ở đó sẽ lần lượt quét sạch lậu hoặc và vào Niết bàn.

Trên đây là một ví dụ bất đắc dĩ trong kinh, chứ không phải người tu ước ao như vậy. Bởi con đường tu của đạo Phật rất khó là ở giai đoạn Sơ Thiền, vì Sơ Thiền chỉ rõ sự sống của một bậc Thánh ở đây. Cho nên từ phàm phu chuyển lên một bậc Thánh không phải là một việc dễ làm, dễ sống.

Vì thế tu sĩ thời nay không riêng gì tu sĩ Đại Thừa mà cả tu sĩ Nguyên Thủy đều phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới. Sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới mong gì ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền và đoạn năm hạ phần kiết sử được như các sư ước mong.

Các quan niệm của một số sư Nguyên Thủy như vậy là không đúng với tinh thần giải thoát của đạo Phật. Mong cầu như vậy có nghĩa là các sư cảm thấy con đường thiền định của Phật giáo quá khó khăn, nhưng không ngờ cái khó là chỗ Sơ Thiền (giới) còn đoạn đường thứ hai (Định, Tuệ) thì không còn khó khăn gì cả.

Bỏ hết cuộc đời đi tu mà không có ý chí quyết tâm tìm cầu sự giải thoát trong một đời này thì chẳng phí uổng một đời lắm sao. Phật pháp chỉ khó ở giai đoạn đầu giới luật, còn giai đoạn thiền định và Tam Minh thì không có khó khăn, không có mệt nhọc.

Thế mà đạt được ở giai đoạn đầu tức là nhập được Sơ Thiền và đoạn được năm hạ phần kiết sử mà không vào Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền sao? Khi nhập được Sơ Thiền thì Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền không còn khó khăn, nhập những loại định này như lấy đồ trong túi.

Vì năng lực của tâm ly dục ly ác pháp rất là mầu nhiệm, nếu nó không mầu nhiệm được thì không thể nào ly dục ly ác pháp được. Do mầu nhiệm mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết, mới chấm dứt tái sanh luân hồi.

Dựa vào kinh mà tu như vậy là không hiểu kinh và không hiểu kinh thì làm sao tu hành đúng được, kết quả là một số không. Những người tu như vậy là không có ý chí, không có tự giác, không hiểu rõ Phật pháp và nhất là pháp hành.

Ở ngoài đời làm việc gì gặp khó khăn thì chùn bước, trước gian nan thì ngã lòng, người như thế thì không làm việc lớn được huống là đi tu còn gặp nhiều khó khăn gắp trăm ngàn lần hơn nữa.

Xưa đức Phật nguyện: “Nếu không chứng đạo thề nát xương không rời khỏi cội bồ đề.” Do ý chí ngút ngàn tâm bất động trước các ác pháp, Ngài chứng đạo để lại cho loài người bốn chân lý tuyệt vời.

114-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (5). TL Thích Thông Lạc

22- Các đối tượng

Hỏi: Kính thưa Thầy, hằng ngày đối tượng thường xảy đến với chúng con: Vu oan, nói xấu chê mình.

             1- Phải xả tâm gì?
             2- Tác ý thế nào để xả không còn trong tâm?

Đáp: Phải xả tâm sân. Muốn xả tâm sân bình thường hằng ngày phải dùng câu tác ý: Tham, sân, si là ác pháp, làm cho ta khổ đau, tâm phải xa lìa, phải từ bỏ, phải đoạn trừ.

Khi đang sân hận thì ta nên uống một ly nước, ngồi trên ghế trong tư thế nào cũng được và cố gắng phòng hộ mắt, tai bằng cách tập trung tâm vào hơi thở và hướng tâm; “Tai phải nghe hơi thở ra, vô cho rõ ràng, không được nghe bên ngoài.

Khi hướng tâm xong thì đếm hơi thở 1, 2, 3, 4, 5 rồi nhắc lại câu pháp hướng, cứ tập tu như vậy khi nào tâm tập trung vào được hơi thở thì mới thôi hướng vì lúc bấy giờ tâm đã nhẫn được rồi.

Sau khi nhẫn được, mọi sự đều được trở lại bình thường thì lúc bấy giờ ta quán xét để sự việc vừa xảy ra thấu suốt, đó là ta đã quét sạch sự sân hận trong ta.

23- Xả tâm trạo hối

Hỏi: Thưa Thầy, mình phạm lỗi bị người chỉ trích, mắng chửi không tiếc lời, có người góp ý nhẹ nhàng để sửa đổi. Vậy phải:

              1- Xả tâm gì?
              2- Tác ý thế nào để xả?

Đáp: Mình làm lỗi bị người khác mắng chửi mạ nhục thì nên xả tâm trạo hối. Muốn xả tâm trạo hối thì phải quán xét tư duy sự lỗi lầm của mình.

             1- Khi quán xét sự lỗi lầm đó ta rút ra những kinh nghiệm không để sau này còn phạm lỗi nữa.
             2- Ta tư duy sự lỗi lầm này đáng để cho người khác chỉ trích mắng chửi thậm tệ để lấy đó răn nhắc mình, người chỉ trích mắng chửi ta là người làm ơn giúp ta nhớ mãi không quên để sửa lại những lỗi lầm của mình.
             3- Hằng ngày hướng tâm: “Ta phải sống, sống đúng đạo đức làm người không làm khổ mình khổ người.

24- Xả ngã chấp

Hỏi: Thưa Thầy, người khen mình, tán dương chuyện tốt có thật. Vậy:

             1- Trước pháp này xả tâm gì?
             2- Tác ý thế nào để không dính mắc trong tâm?

Đáp: Khi được khen tặng ta nên xả tâm chấp ngã. Muốn xả tâm chấp ngã, hằng ngày trong những giờ tu Định Niệm Hơi Thở hoặc đi kinh hành tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định ta nên hướng tâm:

Thân ngũ uẩn này không phải là ta, không phải của ta, không phải bản ngã của ta. Khi thân ngũ uẩn này chết rồi còn cái gì là ta nữa, khen chê mừng vui đâu còn có nghĩa lý gì với một người đã chết.

25- Xả Thân thọ

Hỏi: Thưa Thầy, thân có bệnh: bị cảm, bị thương, bị đau nhức trong xương trong thịt.

             1- Lúc này xả tâm gì?
             2- Tác ý để xả.

Đáp: Thân có bệnh, bị cảm hoặc bị thương thì phải xả thân thọ. Xả thân thọ bằng pháp hướng tâm. Ví dụ: Ta bị cảm nhức đầu, ta liền ra lệnh: “Đừng có nhức đầu nữa, hãy bình thường trở lại”.

Khi hướng tâm xong ta đừng nghĩ đến nhức đầu nữa thì lúc bây giờ phải tập trung vào hơi thở, nếu không có khả năng tập trung tâm vào hơi thở thì tìm một công việc gì làm, làm trong say mê thì nhức đầu sẽ hết liền.

Còn nếu tập trung tâm vào cái đau thì sẽ cảm thấy đau dữ dội. Đây là người mới tu tập pháp hướng tâm, còn người tu tập lâu về pháp hướng tâm thì sẽ có năng lực, chỉ cần hướng tâm là trạng thái thọ khổ sẽ lần lượt biến mất mà tâm khỏi tập trung vào đâu cả.

Tất cả những bệnh tật khác của thân đều phải trạch pháp đúng bệnh trạng thì sẽ hướng tâm đúng bệnh của nó thì nó chóng lành, không còn đau nữa.

26- Xả Tâm thọ

Hỏi: Tâm bệnh: khi gia đình hoặc thân bằng quyến thuộc gặp phải tai nạn buồn khổ, chết chóc, nhớ thương, mất của cải tài sản, trước những biến cố này ta xả tâm gì? Tác ý như thế nào để xả?

Đáp: Thuộc về tâm bệnh ta nên xả tâm thọ.

Pháp hướng tâm để xả tâm thọ: “Thọ là vô thường, là vô ngã, ta không nên dao động trước các cảm thọ của tâm.

Những câu pháp hướng dùng để xả tâm thọ:

Tâm thương nhớ buồn phiền là ác pháp phải chấm dứt ngay liền.” “Tai nạn khổ đau là do nhân quả ác. Ta chẳng hề sợ hãi và dao động tâm, phải vui vẻ, thanh thản và an lạc để trả cho xong món nợ nhân quả.

Sự chết chóc là định luật hoại diệt của nhân quả, không ai tránh khỏi. Sao ta lại buồn thương đau khổ là điều sai, là vô minh, là ngu si.

Tài sản vật chất do ta làm ra chứ không phải vật chất tài sản làm ra ta. Vậy tài sản vật chất có mất mà ta buồn khổ là không đúng, là ngu si, là vô minh, ta hãy bình thường, an lạc và vô sự xem như không có.

27- Pháp môn dẫn tâm

Hỏi: Kính bạch Thầy, pháp Hướng Tâm Như Lý Tác Ý có lợi ích như thế nào? Xin Thầy giảng rõ cho chúng con được hiểu.

Đáp: Pháp Hướng Tâm có hai phần lợi ích và hiệu quả rất lớn cho những người tu tập theo đạo Phật:

              1- Giúp trí tuệ bén nhạy nhanh trước các pháp ác.
              2- Giúp cho tâm tạo ra một năng lực siêu việt không thể nghĩ  lường.
              3- Pháp hướng tâm là phương cách dẫn thân tâm vào chỗ giải thoát. Ví như: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra,” hoặc “an tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay ra,” hoặc “an tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay vô.
              4- Pháp hướng tâm còn gọi là pháp huấn luyện tâm.

Như lời đức Phật đã dạy trong kinh và đã xác quyết pháp môn dẫn tâm là một bí quyết giúp chúng ta ly tham đoạn diệt mà không có pháp nào khác hơn: “Ta không thấy pháp nào khác” có nghĩa không còn pháp nào khác hơn là pháp “Như Lý Tác Ý.”

Để minh chứng lời dạy này, chúng tôi xin trích ra một vài đoạn kinh trong kinh Tăng Chi Bộ:

Ta không thấy một pháp nào, này các thầy tỳ-kheo, đưa đến sân chưa sanh được sanh khởi và sân đã sanh được tăng trưởng rộng lớn, này các tỳ-kheo, đó là đối ngại tướng trong tâm.

Này các thầy tỳ-kheo, đối ngại tướng trong tâm, nếu không Như lý tác ý sẽ đưa đến sân chưa sanh được sanh khởi và sân đã sanh được tăng trưởng rộng lớn.

Ở đây đức Phật đã xác định có tính cách quả quyết và nhất định một cách hùng hồn chỉ có pháp Như Lý Tác Ý làm sân đoạn diệt, nếu không có pháp Như Lý Tác Ý, thì không có pháp nào đoạn diệt được tâm sân.

Nếu muốn trừ tâm nghi mà ta không dùng pháp Như Lý Tác Ý thì sẽ không còn pháp nào diệt trừ tâm nghi được. Nên đức Phật dạy:

Ta không thấy pháp nào khác, này các thầy tỳ-kheo, đưa đến nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi và nghi hoặc đã sanh được tăng trưởng rộng lớn, này các thầy tỳ-kheo, nếu không Như lý tác ý. Do không Như lý tác ý, này các thầy tỳ-kheo, nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi và nghi hoặc đã sanh được tăng trưởng rộng lớn.   

Tâm tham dục cũng vậy, nếu không có pháp dẫn tâm vào Đạo thì khó mà ly tham đoạn dục. Nếu không có pháp dẫn tâm vào Đạo thì khó mà thành tựu được Đạo giải thoát. Nếu không có pháp dẫn tâm vào Đạo thì khó mà thành tựu Thiền định. Nếu không có pháp dẫn tâm vào Đạo thì khó mà thực hiện được Tam Minh.

Bởi, thấy người tu Thiền định hiện giờ mà không có pháp dẫn tâm vào Đạo thì biết họ tu tà Thiền, tà định không thể có quả giải thoát được. Do thế, ta mới biết được pháp môn Như Lý Tác Ý là một pháp môn có lợi ích rất lớn trên bước đường tu tập, nếu không có pháp môn này, con đường tu tập chỉ hoài công vô ích mà thôi.

Đối với những người muốn thực hiện lòng từ, bi, hỷ, xả mà không có pháp Như Lý Tác Ý thì lòng từ, bi, hỷ, xả cũng không bao giờ có được. Để minh chứng điều này Đức Phật đã dạy trong Kinh Tăng Chi Bộ:

Này các thầy tỳ-kheo, như từ tâm giải thoát chưa sanh không sanh khởi và từ tâm không đi đến tu tập viên mãn, này các tỳ-kheo, nếu không Như lý tác ý. Nếu Như lý tác ý, thời từ tâm chưa sanh được sanh khởi và từ tâm sẽ được tu tập viên mãn.

Để minh chứng, một đoạn kinh đức Phật đã dạy trong Kinh Tăng Chi Bộ trang 31:

Ta không thấy một pháp nào khác, này các thầy tỳ-kheo, do pháp ấy các giác chi chưa sanh không sanh khởi, và các giác chi chưa sanh không đi đến tu tập viên mãn, này các tỳ-kheo, nếu không Như lý tác ý. Do không Như lý tác ý, này các thầy tỳ-kheo, các giác chi chưa sanh không được sanh khởi, và các giác chi không đi đến tu tập viên mãn.

Qua những lời dạy của đức Phật trên đây, quý thầy và quý phật tử đã thấy rõ giá trị của pháp Như Lý Tác Ý là một pháp môn có tầm cỡ vĩ đại cho đường tu tập của quý vị. Nếu không có pháp môn này thì không bao giờ quý vị ly tham đoạn diệt được tâm tham ưu của quý vị.

Nếu không có pháp môn này thì giới luật của quý vị không thể sống nghiêm chỉnh được. Nếu không có pháp môn này thì Thiền định quý vị không thể nhập được và nếu không có pháp môn này thì Tam Minh chỉ là một danh từ suông, một ảo mộng thần thông của loài người.

Tóm lại, không có pháp Như Lý Tác Ý thì con đường tu tập của đạo Phật chỉ là một giấc mộng mà thôi.

28- Đắm nhiễm, khó tiêu, tán loạn

Hỏi: Kính thưa Thầy, xin Thầy giảng rõ cho con hiểu: “Đắm nhiễm, khó tiêu, tâm thường sanh tán loạn” như thế nào?

Đáp: Đắm nhiễm, khó tiêu, tán loạn là những động từ kép.

              - Đắm nhiễm: có nghĩa là dính mãi, không bỏ được, thành thói quen, nghiện ngập, nghiệp lực.
              - Khó tiêu: có nghĩa là không dứt bỏ được, không xa lìa được, không tiêu hóa được.
              - Tán loạn: có nghĩa là tâm thường khởi niệm tưởng chuyện này đến chuyện khác không dứt, gọi là vọng tưởng lăng xăng.

"Đắm nhiễm khó tiêu tâm thường sanh tán loạn" nghĩa là: tâm dính mắc thành thói quen không bỏ được nên sinh ra nghĩ ngợi lung tung chuyện này đến chuyện khác. Tùy miên trong mỗi niệm tâm khởi ham thích chạy theo vật chất thế gian như: tiền tài, danh lợi, sắc đẹp, ăn ngủ phi thời khiến cho người tu sĩ ham mê chùa to Phật lớn trở thành những người phóng dật, chứ không còn là người tu sĩ giải thoát. Bởi, trước khi đắm nhiễm thì phải có phóng tâm, phóng tâm mà không kịp thời xả bỏ, đoạn diệt tâm niệm ấy thì bắt đầu tâm phóng dật, tâm phóng dật mà không đoạn dứt thì tâm đắm nhiễm.

Đức Phật dạy: “Đứng về phương diện nội phần, này các tỳ-kheo, Ta không thấy một phần nào khác bất lợi như vậy, này các thầy tỳ-kheo, như phóng dật. Phóng dật đưa đến bất lợi lớn.” (Tăng Chi Bộ Kinh Tập1, trang 36) .

Khởi đầu bằng sự phóng tâm, nếu chúng ta thiếu sự phòng hộ và bảo vệ sáu căn thì không có người nào là không có sự phóng tâm. Cho nên người mới bắt đầu tu hành là phải lấy giới luật phòng hộ sáu căn, tức là phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình. Nhất là pháp “Độc Cư” dùng để phòng hộ sáu căn không cho tiếp xúc sáu trần thì ít phóng tâm và dần dần sẽ không còn phóng tâm nữa. Không còn phóng tâm nữa thì đó là tâm đã ly dục ly ác pháp.  

Nếu không phòng hộ sáu căn thì tâm thường phóng tâm. Tâm thường phóng tâm mà không ngăn ngừa thì tâm phóng dật. Tâm phóng dật mà không đoạn diệt thì tâm đắm nhiễm, tâm đã đắm nhiễm thì khó mà đoạn trừ. Nếu đoạn trừ không được thì tâm sanh ra tán loạn, tâm sanh ra tán loạn là tâm bất an. Tâm bất an thì tham, sân, si, mạn, nghi, đầy đủ và thất kiết sử khó bứt được, giống như con cá đã mắc lưới, mắc câu thì chỉ còn chờ chết mà thôi.

Người tu hành mà còn đắm nhiễm, khó tiêu và tán loạn là người không thể nào sống độc cư được, họ thích nói chuyện, họ thích tranh luận, họ thích đi chơi, không bao giờ ở yên một chỗ.

Chúng ta không tu theo đạo Phật thì thôi, mà đã tu theo đạo Phật thì phải tu cho đúng pháp của Phật. Trước tiên, chúng ta phải lấy giới luật để phòng hộ giữ tâm mình, tức là chúng ta phải sống cho đúng Phạm hạnh. Sống không đúng Phạm hạnh thì tâm hay khởi niệm tức là phóng tâm.

Nếu không có pháp ngăn giữ phóng tâm mà lấy giới luật ngăn ngừa và phòng hộ tâm sẽ trở thành pháp môn ức chế tâm. Người tu sĩ chỉ biết có giới luật mà tu tập theo đạo Phật thì người tu sĩ ấy chấp giới, tức là lấy giới ức chế tâm. Và như vậy vô tình, người tu sĩ lấy giới ức chế tâm sẽ biến dạng giới luật, từ đó lý luận thêm thắt trong giới luật để tránh né phạm giới.

Do đó, kinh sách hiện giờ lệch lạc ý giới luật và ý kinh của Phật. Kinh sách Đại Thừa và Nguyên Thủy có nhiều điểm rất sai khác nhau mà các Tổ đã làm lệch lạc.

Cũng như các nhà sư Nam Tông hiện giờ, họ soạn viết ra một tập sách lấy tên là “Vấn Đề Ẩm Thực Trong Phật Giáo” của Jan Sanjivaputta viết và tỳ-kheo Thiện Minh dịch ra Việt ngữ. Theo lý luận của họ giống như con cọp lý luận ăn thịt người để nuốt cho trôi. Còn lý luận theo các nhà Đại Thừa thì cũng giống như con bò lý luận để ăn cỏ cho đỡ nghẹn.

Do đó khiến cho người sau tu hành phá giới, bẻ vụn giới và còn tạo thêm tội lỗi lén lút phá giới. Và chính như vậy là người tu sĩ chỉ còn có hình tướng tu hành, ngoài khéo che, khéo đậy trong sự đắm nhiễm của mình. Và đã bị đắm nhiễm như vậy thì xả bỏ rất khó như đã nói ở trên.

Một tu sĩ mà phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới là tu sĩ đã sống tà mạng, không còn là một tu sĩ chân chánh, những tu sĩ này là “những con sâu làm rầu nồi canh.” Bởi, những tu sĩ này đã làm cho những tu sĩ chân chánh xấu hổ.

Hiện giờ có nhiều người muốn theo đạo Phật tìm tu giải thoát, nhưng nhìn vào giới tu sĩ phá giới, phạm giới đang đắm nhiễm vật chất thế gian, đang sống trong chùa to Phật lớn có đầy đủ tiện nghi như những người giàu sang thì họ chẳng dám bước chân vào cổng chùa. Nếu có người đã mạnh dạn bước vào chùa thì lại càng thấy rõ ràng hơn và cuối cùng tâm dù muốn tu hành mà chẳng biết nơi đâu để mình tìm tu giải thoát.

Nhìn chung các tôn giáo không riêng gì Phật giáo, phần đông mọi tu sĩ đều đắm nhiễm. Sự làm thiện của những tu sĩ này đối với những người khác là sự cám dỗ người khác để theo tôn giáo mình, hoặc gây ảnh hưởng chánh trị với các nhà lãnh đạo quốc gia chứ không phải với tâm thiện thật lòng.

Họ làm thiện để được sanh lên Cực Lạc, Thiên Đường, chứ không phải làm thiện vì thương người bất hạnh. Họ làm thiện để danh hạnh phúc về sau cho họ. Họ làm thiện để được sự khen tặng là nhà từ thiện. Bởi, làm thiện như vậy là làm thiện đắm nhiễm. Có nhiều nhà từ thiện mà tai nạn xảy đến họ bảo rằng chúng tôi làm thiện mà sao không được phước.

Làm thiện để cầu danh, cầu lợi; làm thiện để được tiếng khen; làm thiện để móc nối làm ăn bất lương; làm thiện như vậy thì làm sao có phước được; làm thiện đó là làm thiện đắm nhiễm.

Chúng ta là những tu sĩ Phật giáo phải cố gắng tránh sự đắm nhiễm. Một người nghiện thuốc lá, rượu, cà phê, thuốc phiện v.v… là những người đắm nhiễm.

Một tu sĩ Phật giáo mà cầm một điếu thuốc lá, uống một ly bia hay uống một tách cà phê, chén trà đậm đặc là những tu sĩ đắm nhiễm. Những người tu sĩ đắm nhiễm này là những loài trùng bọ trong lông sư tử, họ chỉ còn biết lý luận để che đậy sự đắm nhiễm của mình bằng những danh từ rất tuyệt mỹ: “Trà đạo, rượu nghĩa.”

Một người bài bạc, đĩ thõa điếm đàng là những người đắm nhiễm, những người này được xem là những người đồi trụy xấu xa của xã hội. Vì đắm nhiễm, những người này sanh ra trộm cắp, giết người, cướp của, làm cho cuộc sống của mọi người bất an, xã hội rối loạn trật tự.

Người ta nói đến tình dục, tức là nói đến sự đắm nhiễm của nhục dục. Một người nam và một người nữ gần nhau sanh ra tình dục, tình dục là sự đắm nhiễm rất khó bỏ cũng ví như thuốc lá, cà phê, rượu, thuốc phiện v.v…

Tình dục là một sự khổ tuyệt cùng theo sau đó, nhất là người phụ nữ phải chịu bao nhiêu nỗi cay đắng, đau khổ của tình dục, gần như suốt đời của họ. Tục ngữ có câu: “Đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình.

Đúng vậy, sau khi tình dục, bao nhiêu sự khổ đau đều đổ lên đầu của người đàn bà. Người ta bảo rằng không có sự đau khổ nào bằng sự đau bụng đẻ, thế mà người ta đắm nhiễm tình dục, người ta không thể bỏ được. Dù biết sự khổ như cắt da cắt thịt, gần như chết đi sống lại nhưng người ta vẫn không bỏ được tình dục, đó là sự đau khổ về thể xác chứ không phải hạnh phúc gì cả.

Khi sanh con ra họ còn tiếp tục chịu nhiều lao khổ; phải nuôi con cho lớn khôn; phải chịu hôi, chịu thối sự bài tiết của con; phải chịu cực nhọc khi con đau ốm; phải chịu nhọc nhằn nuôi con cho nên người, và còn biết bao nhiêu sự khổ khác nữa cho đến khi họ đi vào lòng đất.

Tình dục là khổ như vậy, nhưng khi đã đắm nhiễm nó thì hầu hết không có ai bỏ được. Nam nữ gặp nhau là ham thích liền. Biết tình dục là khổ mà vẫn chịu đi vào chỗ khổ đó, thật là điên đảo, ngu si.

Bởi vậy, người ta ca ngợi con người là một động vật thông minh, nhưng sự thật con người không thông minh mà con người là một động vật điên đảo, vô minh tự tạo ra cho mình biết bao nhiêu sự đau khổ để rồi phải gánh chịu sự khổ đau ấy từ kiếp này đến kiếp khác cũng chỉ vì sự đắm nhiễm. Cho nên lời Phật dạy: “Đắm nhiễm, khó tiêu, tán loạn” là vậy.

Bởi thế, người tu sĩ cũng như mọi người ở đời cần phải cảnh giác, đừng để thân tâm đắm nhiễm. Dù bất cứ một vật chất gì, nhỏ mọn đến đâu trong thế gian này thì chúng ta nên xem nó là một đối tượng khổ, do cảnh giác như vậy thì thân tâm mới được an lạc và hạnh phúc.

115-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (6). TL Thích Thông Lạc

29- Định Sáng Suốt

Hỏi: Kính bạch Thầy, xin Thầy chỉ dạy cho chúng con cách thức tu Định Sáng Suốt như thế nào? Để chúng con tu hành cho đúng, nếu không chúng con sẽ tu sai thì vừa mất thì giờ và còn có thể đưa đến bịnh tật.

Đáp: Định Sáng Suốt gồm có hai cách tu tập:

1- Bình thường tâm không tán loạn, không thùy miên, không vô ký, không lờ mờ, không nửa tỉnh nửa mê, không bần thần lười biếng thì dùng pháp hướng khi đi kinh hành hoặc ngồi một chỗ Như lý tác ý: "Tâm phải sáng suốt như ban ngày, tâm phải thanh thản, tâm phải vô sự."

2- Khi tâm bị thùy miên (buồn ngủ), hôn trầm (ngủ gục), vô ký (mất tỉnh giác) hôn tịch (tỉnh tỉnh mê mê) bần thần, lười biếng. Không nên ngồi, nên đi kinh hành dùng pháp hướng tâm: "Tâm phải tỉnh thức, sáng suốt đêm như ngày." "Tâm phải tỉnh táo như ban ngày." "Tâm phải sáng suốt như ánh mặt trời."

Định Sáng Suốt tuy trong kinh Nikaya đức Phật dạy phải dùng tưởng tâm sáng suốt như ban ngày, sáng suốt như mặt trời v.v… Nhưng theo kinh nghiệm của chúng tôi hiểu định này là một loại Thiền định thư giãn các cơ và thần kinh trong thân.

Khi dụng công tu tập nhiều thì thân tâm mỏi mệt, sanh ra lười biếng mệt nhọc, u tối, trí óc không còn sáng suốt. Gặp trường hợp này, chúng ta phải tu Định Sáng Suốt. Định Sáng Suốt tức là phương pháp thư giãn của đạo Phật giúp chúng ta thư giãn thân tâm, khiến cho các cơ và tinh thần không còn căng thẳng, mỏi mệt.

Biết được công năng của định này, do đó khi mỗi thời gian tu tập một loại định nào xong, chúng ta đều dùng định này để thư giãn. Nhờ đó thân tâm chúng ta liên tục tu tập không thấy mỏi mệt hôn trầm, thùy miên; càng tu càng tỉnh thức và càng sáng suốt; càng tu càng thích thú và ưa thích ham tu hơn; càng tu càng thấy tâm hồn thanh thản, an lạc và giải thoát rõ ràng.

Nếu người tu hành theo đạo Phật mà không biết loại Định Sáng Suốt này thì dễ bị ức chế thân tâm và nếu ức chế thân tâm quá căng thì dễ sanh ra bệnh tật, hoặc bị căng mặt, căng đầu có khi rối loạn thần kinh sanh ra điên khùng mất trí.

Tóm lại, cách thức tu Định Sáng Suốt là dùng pháp Hướng Tâm thư giãn các cơ trong thân cũng như thư giãn thần kinh khiến cho các cơ và thần kinh buông xuống không còn một chút xíu dụng công và ức chế nào nên thấy cơ thể và tinh thần nhẹ nhàng thoải mái.

Khi thư giãn chúng ta cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng an lạc, nghe rất thoải mái vô cùng. Ở đây quý thầy và quý phật tử nên dùng câu pháp hướng ra lệnh cho các cơ và thần kinh thư giãn bằng cách hướng tâm.

Khi cảm giác nghe cơ thể mệt nhọc, đầu óc căng thẳng thì chúng ta nên ngồi nghỉ, hai chân duỗi thẳng dài ra, hai tay buông thõng, thả nhẹ xuống, các cơ trong thân không được gồng, tinh thần không được suy nghĩ và tập trung nơi nào cả, chỉ để nó tự nhiên theo tự nhiên của nó.

Khi cảm giác thân tâm buông thõng chúng ta mới hướng tâm: “Toàn thân an tịnh, tôi biết tôi đang thư giãn.” hoặc “Toàn tâm an tịnh, tôi biết tôi đang thư giãn.”

Xong, chúng ta để thân tâm tự nhiên thư giãn và an tịnh. Kế tiếp, chúng ta lại hướng tâm nữa:

Các cơ trong thân thư giãn, buông xuống không được gồng, phải nhẹ nhàng thanh thản, an lạc và vô sự.“Đầu óc phải thư giãn, không được tập trung chỗ nào hết, phải tự nhiên, hồn nhiên với vạn pháp.

Đó là những cách hướng tâm để thư giãn, quý vị nên nhớ mà tu tập đừng nên biếng trễ.

Định Sáng Suốt sẽ giúp cho quý vị mau chóng tỉnh giác để luôn luôn quý vị ở trong chánh niệm. Nhờ đó, quý vị mới ly tham đoạn ác pháp. Có ly tham đoạn ác pháp thì quý vị mới nhập được Thiền định và Tam Minh.

Nếu không có Định Sáng Suốt thì quý vị tu hành sẽ rơi vào pháp ức chế tâm và chừng đó quý vị sẽ nhập định tưởng, quý vị sẽ rơi vào tà đạo giống như các thiền sư Đông Độ.

Định Sáng Suốt là một loại định rất quý cho quý vị trên đường tu tập giải thoát, quý vị cần phải tu tập nhiều hơn để thấy được trạng thái thanh thản vô sự và an lạc của loại định này.

30- Tỉnh thức ích lợi gì?

Hỏi: Kính thưa Thầy! Tu tập sức tỉnh thức có ích lợi như thế nào?

Đáp: Sức tỉnh thức, có lợi ích rất lớn cho đường tu tập như:

              1- Có tỉnh thức mới sáng suốt sống được chánh niệm.
              2- Có tỉnh thức mới ở trong chánh niệm và chánh niệm mới hiện tiền.
              3- Có tỉnh thức mới phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không.
              4- Có tỉnh thức mới tịnh chỉ ngôn ngữ.
              5- Có tỉnh thức mới thấy được nhân quả.
              6- Có tỉnh thức mới ly được lòng ham muốn.
              7- Có tỉnh thức mới ly các ác pháp.
              8- Có tỉnh thức mới giữ tứ diệt tầm được.
              9- Có tỉnh thức mới tịnh chỉ tầm tứ.
           10- Có tỉnh thức mới xả được 18 loại hỷ tưởng.
           11- Có tỉnh thức mới xả được mộng tưởng.
           12- Có tỉnh thức mới xả được âm thanh.
           13- Có tỉnh thức mới tịnh chỉ hơi thở, xả thọ và các hành.
           14- Có tỉnh thức mới tu Tứ Như Ý Túc.
           15- Có tỉnh thức mới hướng tâm đến Tam Minh.

Toàn bộ giáo trình của đạo Phật quan trọng nhất là tập luyện tâm tỉnh thức. Có được tâm tỉnh thức mới đạt được Niết Bàn cứu cánh giải thoát.

Tỉnh thức như thế nào? Người tu tập theo đạo Phật, lúc mê biết mình mê là tỉnh thức, lúc tỉnh biết mình tỉnh là tỉnh thức.

Tâm mình tham, biết tâm mình tham là tỉnh thức. Tâm mình sân, biết tâm mình sân là tỉnh thức. Tâm mình phiền não, biết tâm mình phiền não là tỉnh thức. Tâm mình khởi niệm ác, biết tâm mình khởi niệm ác là tỉnh thức. Tâm mình lo rầu, biết tâm mình lo rầu là tỉnh thức. Đi, mình biết mình đi là tỉnh thức. Ăn, biết mình đang ăn là tỉnh thức. Đó là bước đầu mấu chốt sự tu tập giải thoát của đạo Phật.

Tu tập tỉnh thức có nhiều phương cách khác nhau:

             1- Định Niệm Hơi Thở là phương cách tỉnh thức trong hơi thở để ly tham đoạn diệt khắc phục tham ưu.
             2- Định Vô Lậu là phương cách tỉnh thức trong quán xét suy tư để xả bỏ dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.
             3- Định Sáng Suốt là phương cách tỉnh thức để phá hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, cơ thể mệt nhọc và căng thẳng.
             4- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác là phương cách tỉnh thức trong mọi hành động để ngăn ác diệt ác pháp.
             5- Định Sơ Thiền là phương cách tỉnh thức ly dục ly ác pháp.
             6- Định Diệt Tầm Giữ Tứ là phương cách tỉnh thức trong tác ý hướng tâm khắc phục tham ưu.
             7- Định Diệt Tầm Diệt Tứ là phương cách tỉnh thức giữ tâm yên lặng, bất động để làm chủ sự vô thường.
             8- Định Tam Thiền là phương cách tỉnh thức vượt qua mọi trạng thái tưởng.
             9- Định Ly Hỷ Trú Xả là phương cách tỉnh thức trong giấc ngủ xả mộng tưởng.
          10- Tịnh chỉ âm thanh là phương cách tỉnh thức giữ tâm vắng lặng.
          11- Tịnh chỉ các thọ là phương cách tỉnh thức giữ tâm vắng lặng vượt qua thọ để tịnh chỉ hơi thở.
          12- Tịnh chỉ hơi thở và các hành trong thân là phương cách tỉnh thức giữ tâm vắng lặng, toàn thân tâm bất động.

Những phương pháp trên đây dùng để tu tập tỉnh thức sống không làm khổ mình khổ người tức là làm chủ được mình. Đức Phật đã xác định sự tu tập tỉnh thức có lợi ích rất lớn trên bước đường giải thoát của đạo Phật. Ngài dạy:

Có một pháp, này các thầy tỳ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến cảm hứng lớn, lợi ích lớn, an ổn lớn, khỏi các khổ ách đưa đến chánh niệm tỉnh giác, đưa đến chứng đắc tri kiến, đưa đến hiện tại lạc trú, đưa đến chứng ngộ quả Minh và giải thoát. 

Một pháp ấy là gì? Chính là Thân Hành Niệm. Đây là một pháp, này các thầy tỳ-kheo, nếu pháp ấy được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến cảm hứng lớn, lợi ích lớn, an ổn lớn, khỏi các khổ ách đưa đến chánh niệm tỉnh giác, đưa đến chứng đắc tri kiến, đưa đến hiện tại lạc trú, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.” (Tăng Chi Bộ Kinh Tập1, trang 88, bài 2-8).

Đoạn kinh trên đây đã xác chứng sự tỉnh thức là một sự quan trọng rất lớn trên bước đường tu theo Phật giáo. Nó giúp cho chúng ta thành tựu viên mãn giải thoát và làm chủ thân tâm. Cho nên đức Phật đã xác định chỉ có một pháp này:

Có một pháp” tức là không có pháp thứ hai. Do lời dạy này chúng ta mới biết rõ kinh sách Đại Thừa là kinh sách lừa đảo dối gạt chúng ta và bảo rằng: “Đạo Phật có tám mươi bốn ngàn pháp môn.” Thật là xảo trá, chỉ có các Tổ Bà La Môn mới nói như vậy.

Muốn cho thân tâm được khinh an, tầm tứ được tịnh chỉ, toàn bộ các pháp không còn đắm nhiễm, dính mắc thì chúng ta phải tu tập tỉnh thức. Để làm sáng tỏ điều này đức Phật dạy: “Có một pháp, này các thầy tỳ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, thân được khinh an, tâm được khinh an, tầm tứ được tịnh chỉ, toàn bộ các pháp thuộc về minh phần đi đến tu tập làm cho viên mãn. Một pháp ấy là gì? Chính là Thân Hành Niệm.” (Tăng Chi Bộ Kinh, Tập1 trang 89).

Nếu chúng ta muốn tỉnh giác ngăn ác, diệt ác pháp, thì cũng phải tu tập tỉnh thức trong thân hành niệm. Nhờ có tu tập tỉnh thức trong thân hành niệm thì thân tâm của chúng ta mới có thanh thản và an lạc:

Có một pháp, này các thầy tỳ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, các pháp bất thiện chưa sanh không sanh khởi và các ác pháp đã sanh bị đoạn tận. Một pháp ấy là gì? Chính là Thân Hành Niệm.” (Tăng Chi Bộ Kinh Tập1, trang 89, bài 13).

Nếu chúng ta có sức tỉnh giác, để các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi và các pháp thiện đã sanh được tăng trưởng thì cũng phải tu tập tỉnh thức trong thân hành niệm thì thân tâm của chúng ta mới có thanh thản, an lạc và giải thoát:

Có một pháp, này các thầy tỳ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, các pháp thiện đã sanh được đưa đến tăng trưởng, quảng đại. Một pháp ấy là gì? Chính là Thân Hành Niệm.

Nếu chúng ta muốn có minh sanh khởi, và vô minh được diệt trừ, ngã mạn được đoạn tận cùng các tùy miên được nhổ sạch và các kiết sử bị đoạn tận thì phải tu tập tỉnh thức nơi thân hành của chính mình như đức Phật đã dạy:

Có một pháp, này các thầy tỳ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, vô minh được đoạn tận, minh sanh khởi, ngã mạn được đoạn tận, các tùy miên được nhổ sạch, các kiết sử bị đoạn tận. Một pháp ấy là gì? Chính là Thân Hành Niệm.” (Tăng Chi Bộ Kinh Tập1, trang 90, bài 16-21).

Nếu chúng ta muốn chứng quả Dự Lưu, chứng quả Nhất Lai, chứng quả Bất Lai và chứng quả A-la-hán, thì không có một pháp nào khác hơn là pháp tỉnh thức nơi thân hành niệm của chính chúng ta, nó sẽ giúp chúng ta đạt được như ý nguyện. Phật dạy:

Có một pháp, này các thầy tỳ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến sự chứng ngộ quả Dự Lưu, đưa đến sự chứng ngộ quả Nhất Lai, đưa đến sự chứng ngộ quả Bất Lai, đưa đến sự chứng ngộ quả A-la-hán. Một pháp ấy là gì? Chính là Thân Hành Niệm.

Bởi sự tu tỉnh thức trong thân hành niệm quan trọng như vậy, đối với đạo Phật nó là một pháp tu tập duy nhất đạt đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn, không còn có một pháp thứ hai nào nữa. Thế mà, kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ dạy chúng ta tu mọi pháp, nào là Niệm Phật cầu vãng sanh, nào là tụng kinh, trì chú, cúng bái, tế lễ, sám hối lạy hồng danh chư Phật, chư Bồ Tát, hoặc ngồi thiền ức chế tâm bằng những pháp môn Chăn Trâu, Tham Thoại Đầu, Tham Công Án v.v… nhưng cuối cùng, chẳng có ai thành tựu viên mãn, chỉ đem lại một hy vọng ảo huyền.

Đức Phật cũng đã xác định nếu ai không tu tỉnh thức Thân hành niệm thì chẳng bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết:

Những vị này không hưởng được bất tử, này các tỳ-kheo, là những vị không thực hiện Thân Hành Niệm. Những vị hưởng được bất tử, này các thầy tỳ-kheo, là những vị thực hiện Thân Hành Niệm.” (Tăng Chi Bộ Kinh Tập1, trang 91, bài số 47-48).

Xem thế chúng ta mới biết tỉnh thức lợi ích biết là dường nào cho sự tu tập giải thoát theo con đường của đạo Phật. Bởi nó là pháp môn quan trọng hàng đầu của đạo Phật, nếu không có pháp môn này thì pháp Hướng Tâm Như Lý Tác Ý cũng không có kết quả trong sự tu tập.

31- Tâm bất an

Hỏi: Kính thưa Thầy, khi làm xong việc, con vào cốc tu tập, tâm con cũng chưa được an?

Đáp: Khi vào cốc tu tập tâm chưa được an tức là xả tâm chưa được sạch. Nếu tâm xả chưa được sạch thì không nên tu Định Niệm Hơi Thở mà phải tu Định Vô Lậu, quán triệt cho thông suốt lý chân thật của các pháp.

Ở đây con làm xong việc rồi mới vào thất tu, như vậy làm việc và tu là hai việc khác nhau, do hiểu như vậy và tu như vậy nên tâm con bất an là phải.

Thầy thường dạy: “Tu là sống, sống là tu” nghĩa là tu tập trong mỗi hành động, việc làm chứ không phải đợi vào cốc ngồi tu, thế mới là tu. Con không nhớ lời Đức Phật dạy sao? Phải tu ngay trong thân hành niệm con ạ! Lúc nào thân có động dụng thì phải tu ngay trong hành động ấy, đó là tu tỉnh thức chánh niệm.

Ở đời người ta thường hiểu tu là vào chùa cạo đầu, mặc áo tu sĩ là tu, hiểu như vậy là sai hoặc người ta thấy ai gõ mõ tụng kinh, niệm chú, lần chuỗi niệm Phật, ngồi Thiền, họ cho đó là tu thì còn sai hơn nữa; đó là những hình thức của tôn giáo chứ đâu phải tu hành là vậy.

Tu ở đây theo đạo Phật có nghĩa là sửa đổi những thói hư tật xấu; sửa đổi những hành động ác, không làm ác nữa tức là không làm khổ mình khổ người. Không làm khổ mình khổ người tức là tu, nhưng không muốn làm khổ mình khổ người thì phải tu tập tỉnh thức trong mỗi hành động việc làm mà Đức Phật gọi là “Thân hành niệm.”

Tâm bất an tức là tâm vẫn còn trong chướng ngại pháp, tâm chưa xa lìa lòng ham muốn và các ác pháp; tâm chưa xa lìa lòng ham muốn và các ác pháp mà vào thất ngồi tu thì đó là cách thức ức chế tâm, nén tâm. Tu như vậy làm sao có giải thoát được, con phải tu trở lại cho đúng pháp.

Muốn tu cho tâm được an, thì phải theo lời đức Phật đã dạy: “Tỉnh thức trong thân hành niệm ngoại,” tức là đi, đứng, nằm, ngồi, làm tất cả mọi việc đều phải tỉnh thức trong mọi hành động, việc làm của mình. Tỉnh thức trong hành động ngoại để làm gì?

Để khắc phục tham ưu tức là lìa các chướng ngại pháp trong tâm. Lìa chướng ngại pháp trong tâm thì tâm được an ổn. Muốn được như vậy thì tâm luôn luôn phải tỉnh thức trên thân hành và luôn luôn phải tác ý ly tham, đoạn ác pháp. Cho nên tu trong thân hành niệm tức là lấy hành động của thân để tỉnh thức mà xả các niệm ác, xả các chướng ngại pháp để tâm không còn bất an.

Tâm con bất an thì Tổ sư Thiền Đông Độ sẽ bảo: “Lấy tâm ra đây ta an cho,” thì tâm con sẽ an liền. Như Huệ Khả đã được Bồ Đề Đạt Ma an tâm cho, đó là một lối nói để người nghe dùng tưởng mà nhận ra tâm đã an, nhưng kỳ thật không bao giờ có tâm an. Bởi vì tâm đã huân thành nghiệp bất an lâu đời nên hở ra một pháp nào va chạm vào tâm là tâm chướng ngại bất an liền. Cho nên cần phải siêng năng tu tập xả tâm chứ không phải nhìn lại chỗ bất an mà tâm an.

Ví dụ: khi chúng ta bị nhức đầu, tâm chúng ta bất an, bấy giờ chúng ta tìm chỗ tâm bất an thì tâm chúng ta có hết bất an không? Khi mà đầu chúng ta còn đau nhức.

Bởi người ta hiểu tâm và nghiệp là hai, nhưng kỳ thực tâm và nghiệp là một, nghiệp là tâm, tâm là nghiệp. Các nhà học giả hiểu tâm và nghiệp là hai nên bảo rằng: “Nghiệp dẫn tâm đi tái sanh luân hồi.” Không có dẫn tâm đi luân hồi, mà nghiệp luân hồi tức là nghiệp tạo duyên. Nghiệp tạo duyên vô minh.

Ví dụ: Như một người nam và một người nữ do đắm nhiễm tình dục nên tạo thành nghiệp ái dục, nghiệp ái dục tức là sự ưa thích tình dục cho nên họ hành động gần gũi nhau để rồi tạo ra nghiệp. Họ không biết tình dục sau đó là một sự khổ đau, sự khổ đau tức là ác pháp. Họ không biết ác pháp khổ đau nên họ lấy nhau, đó là vô minh của nghiệp ái dục tạo nên duyên hành “lấy nhau.”

Do hành động lấy nhau tạo duyên nghiệp, nghiệp này là nghiệp ái dục. Nên loài động vật sinh ra không ai dạy dâm dục cho nó nhưng con vật nào cũng dâm dục, con người cũng vậy. Dâm dục tức là nghiệp. Cho nên, người tu hành mà không đoạn tận dâm dục thì chẳng bao giờ có giải thoát.

Vì thế tâm là nghiệp, nghiệp là tâm, nó không phải là hai. Nên đức Phật dạy: “Lìa nghiệp ác, đoạn diệt nghiệp ác vì nghiệp ác tạo ra muôn thứ khổ đau, còn nghiệp thiện, không làm khổ mình khổ người thì nên giữ và tăng trưởng nó.”

Ví dụ: Chúng ta tu pháp Như Lý Tác Ý câu: “Tâm như cục đất,” tức là tạo nghiệp thiện, mà nghiệp thiện đã có thì nghiệp ác không có. Nghiệp ác không có thì không có sự khổ đau tức là giải thoát (Niết Bàn).

Con người khổ vì nghiệp ác, nghiệp ác là những hành động ác đã lập đi lập lại nhiều lần và đã đắm nhiễm hay nói cách khác là đã thành thói quen khó bỏ, các nhà Đại Thừa gọi là “tạp khí.”

Khi tu tập tâm bất an là tu sai không đúng pháp. Pháp của đức Phật dạy là pháp ngăn ác diệt ác pháp, cho nên tâm lúc nào cũng được an ổn. Vì tâm không an ổn là tại không biết sử dụng pháp đúng cách .

Do chỗ đẩy lùi các ác pháp trong tâm nên đức Phật dạy: “Pháp Ta tu là có kết quả ngay liền không có thời gian, có khả năng hướng thượng.” Kết quả ngay liền là tâm không còn bất an. Tâm con bất an là con không xả tâm, muốn xả tâm thì tu tập phải có đối tượng. Nhờ có đối tượng mà biết tâm xả hay chưa xả.

Người tu hành theo đạo Phật mà tránh né đối tượng thì tu chẳng bao giờ có giải thoát. Cho nên muốn tu tập giải thoát thì ngay nơi ác pháp ngăn và diệt, ngăn và diệt là dùng pháp Như lý tác ý, nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng.

Giải thoát của đạo Phật không phải chỗ có thần thông phép tắc, chỗ thấy Tánh, chỗ ngồi Thiền năm bảy ngày, một đôi tháng mà là chỗ đẩy lui các chướng ngại pháp trong thân và tâm. Hằng ngày, từng phút, từng giây siêng năng chuyên cần đẩy lui các chướng ngại pháp thì làm sao tâm con bất an được. Tâm không còn bất an tức là giải thoát của đạo Phật hay gọi là tâm bất động.

116-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (7). TL Thích Thông Lạc

32- Hơi thở ngưng, các hành trong thân có ngưng không?

Hỏi: Kính thưa Thầy, khi hơi thở ngưng, các hành ngưng theo liền hay là phải đợi một thời gian lâu các hành mới ngừng? 

Đáp: Các hành nội thân ngưng thì hơi thở ngưng, nhưng ở đây phải hiểu, hơi thở nhẹ và mất dần cho đến khi không thấy hơi thở nữa gọi là tịnh chỉ hơi thở. Do đó các hành trong thân còn hoạt động nhẹ nhàng chưa dứt hẳn, nhất là ý căn, ý căn tức là bộ não của chúng ta.

Hơi thở tịnh chỉ tức là thân hành tịnh chỉ, thân hành tịnh chỉ tức là nhập Tứ Thiền. Nhập Tứ Thiền cơ thể chưa ngưng hoạt động hoàn toàn, chỉ có nhập Diệt Thọ Tưởng Định hay là Diệt Tận Định thì cơ thể mới hoàn toàn ngưng hoạt động, chỉ còn lại từ trường của Diệt Tận Định để bảo vệ thân không bị hoại diệt.

Ở đây, giai đoạn tu hành của con chưa đến tịnh chỉ hơi thở, con hỏi về hơi thở ngưng để tìm hiểu chứ kỳ thực không thể thực hiện được. Khi tâm chưa xả ly ngũ triền cái và thất kiết sử mà tu tịnh chỉ hơi thở là tự giết mình, bằng chứng con không thấy Minh Tông sao? Tu hành không xả tâm, chỉ ức chế tâm để rồi tịnh chỉ hơi thở, do đó đứt mao phế quản, khạc ra máu gây tổn thương cho phổi.

Tu hành Minh Tông bỏ vợ con không được, thường gặp vợ con và bạn bè để nói chuyện, đó là ái kiết sử làm sao đoạn diệt được. Không đoạn dứt ái kiết sử mà muốn tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền là điên đảo tưởng, điên đảo tâm. Mà tâm điên đảo thì làm sao tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền được.

Khi tịnh chỉ hơi thở không được thì Minh Tông nói với mọi phật tử: “Đức Phật không có dạy tịnh chỉ hơi thở, chỉ có Thầy bịa ra mà thôi.” Khi biết được tâm niệm của Minh Tông như vậy, Thầy trao cho bộ kinh Nguyên Thủy để đọc và nghiên cứu để thấy lời Phật dạy rõ ràng như thế này:  

Có ba hành: 1-Khẩu hành, 2-Thân hành, 3-Ý hành. Tịnh chỉ khẩu hành nhập Nhị Thiền. Tịnh chỉ thân hành nhập Tứ Thiền. Tịnh chỉ Ý hành là nhập Diệt Tận Định. Khẩu hành là tầm tứ; Thân hành là hơi thở; Ý hành là tưởng và thọ.

Đó là kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy rất rõ ràng như vậy, khi nào có dịp nhắc đến Tứ Thiền Thầy sẽ trích những bài kinh đó ra để phật tử nghiên cứu và đặt trọn niềm tin hơn.

Xưa, Tổ Khương Tăng Hội đã có nghiên cứu đến Tứ Thiền, Tổ thấy Phật dạy tịnh chỉ hơi thở, Tổ cũng nghĩ như Minh Tông là hơi thở không thể tịnh chỉ được nên Tổ tưởng ra hơi thở tịnh chỉ là ngưng sổ tức. Còn Minh Tông không tưởng ra được như vậy và nghiên cứu kinh sách Phật không kỹ nên cho rằng Thầy bịa ra.

Một vị đã nhận ra lời Phật dạy thì tưởng ra ngưng đếm hơi thở là nhập Tứ Thiền. Còn một vị không nhận ra lời Phật dạy thì cho là Thầy bịa đặt ra “Tịnh chỉ hơi thở.”

            Đây là một bài kệ đức Phật dạy về Thiền Thứ Tư tịnh chỉ hơi thở:
            “Không thở ra thở vào
            Tâm trú vào chánh định
            Không tham ái tịch tịnh  
            Với tâm an bất động               
            Như đèn sáng chợt tắt
            Tâm giải thoát Niết Bàn”.

Khi người ta tu không được, tịnh chỉ hơi thở không xong thì họ lại bảo Thầy đặt ra pháp tịnh chỉ hơi thở, nhưng không ngờ Thiền Thứ Tư tịnh chỉ hơi thở thật và đức Phật đã dạy rõ ràng.

Ở đây, để xác định lại Thiền Thứ Tư, trong kinh Nguyên Thủy có nhiều bài kinh nói về tịnh chỉ hơi thở mà đức Phật đã dạy chứ không phải Thầy bịa ra như các Tổ Đại Thừa và Thiền Đông Độ đã bịa ra nhiều pháp làm sai lệch ý Kinh và ý Phật.

Cho nên những gì Thầy dạy là của Phật dạy, người ta bác Thầy tức là người ta bác Phật Thích Ca, đó là trường hợp của Minh Tông.

Có một nhà học giả bảo rằng bốn Thiền của Phật là Thiền của ngoại đạo, tu không giải thoát, đó là lời nói bài bác giáo pháp của Đức Phật Thích Ca, giống như lời của các Tổ sư Đại Thừa.

Lời nói của Minh Tông và các vị học giả xưa và nay đã vô minh tu hành chưa đến đâu vội xác nhận một cách sai lệch làm cho người sau mờ mịt đối với Bốn loại Thánh Định của đạo Phật.

Thiền định ngưng hơi thở đâu phải là Thiền dành cho những kẻ phàm phu tâm còn đầy dẫy uế trược, bất tịnh, tham ưu v.v… Thiền định ngưng hơi thở là Thiền định dành cho những bậc giới đức thanh tịnh, tâm hoàn toàn ly dục ly ác pháp thì mới tịnh chỉ hơi thở.

Một loại Thiền định dành cho những bậc Thánh, không thể dành cho những bậc phàm phu còn ăn uống phi thời, còn phạm giới, bẻ vụn giới, còn có chùa to tháp lớn, sống trong cảnh giàu sang như cung vàng điện ngọc thì làm sao nhập được những loại định này.

Một loại Thiền không thể dành cho những người còn ái kiết sử trói buộc, ngồi trong thất tu mà nhớ vợ, nhớ con, nhớ tiền tài vật chất, nhớ xe hơi nhà lầu v.v… thì làm sao nhập được loại Thiền này .

Trong tu viện có một vị cư sĩ muốn nhập loại thiền này mà vợ con không bỏ nên cố nín thở để tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền khiến cho phổi bị tổn thương sanh ra bệnh, đây là một kinh nghiệm rất lớn để cảnh giác cho những ai muốn tu về Tứ Thánh Định.

Chúng tôi cũng được nghe ở Quy Nhơn có một bác sĩ nghe tịnh chỉ hơi thở, ông ta không biết tu tập như thế nào mà đã chết luôn. Đây là những điều cảnh giác cho người ham tu mà tự tu là rất nguy hiểm.

Tu là phải có người hướng dẫn, Minh Tông không nghe lời dạy của Thầy, không chịu sống độc cư và không xa lìa bạn bè vợ con để xả tâm, bảo rằng Phật không có dạy độc cư nên còn xin Thầy cho phép tiếp bạn bè và vợ con nếu họ đến thăm. Và còn hứa hẹn với Thầy là sẽ thực hiện tu hành chứng đạo có thần thông cho Thầy xem.

Thầy chỉ cười và bảo: “Nếu được vậy Thầy sẽ tuyên bố với phật tử là con đã tìm được một còn đường khác hơn con đường của Thầy và đã chứng đạo.” Sau đó, không đầy một tháng Minh Tông đã khạc ra máu đống, đống … và đi trị bệnh.

Tu là phải nhờ thiện hữu đi trước hướng dẫn chứ đừng tự mình tu là chết, đó là những hình ảnh cảnh giác cho chúng ta sau này.

Minh Tông trình độ học thức trên đại học nên cho mình là người có học thông minh hiểu biết tự đọc kinh sách mà tu cãi lời Thầy mới ra nông nỗi như vậy.

Bởi vậy những kiến giải của những nhà học giả là một sự nguy hiểm cho người thực hành tu tập.

Vì thế mới biết loại Thiền này là loại Thánh Định như đức Phật đã gọi “Tứ Thánh Định.” Tâm còn phàm phu mà muốn nhập Thánh Định thì nhập làm sao được?

Tam Minh là Thánh Tuệ của đức Phật thì người phàm phu làm sao mà có Thánh Tuệ đó được. Cho nên, nói đến bốn Thiền và Tam Minh thì hiện giờ chưa có ai thực hiện được.

Tại sao vậy? Tại vì mọi người tâm còn phàm phu. Trước khi muốn nhập bốn Thiền và Tam Minh thì phải tu tập tâm Thánh, tức là tâm phải ly dục ly ác pháp, còn nếu chưa ly dục ly ác pháp thì đừng mong nhập bốn Thiền và Tam Minh.

Bởi ngưng hơi thở là các hành trong thân lần lượt sẽ ngưng nghỉ, ngưng nghỉ mà thân không hoại diệt như vậy mới gọi là Thiền Định Thánh. Các hành trong thân ngưng nghỉ mà thân hoại diệt thì không phải nhập định mà là một thân người chết. Chừng nào các con đã xả tâm ly dục ly ác pháp, tâm thanh tịnh hoàn toàn nghĩa là tâm không phóng dật, tâm thường quay vào định trên thân, lúc bấy giờ Thầy sẽ chỉ cho các con tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền. Còn bây giờ các con nên cố gắng phải xả ly tâm “như cục đất.” Đừng hỏi lung tung về hơi thở mà mất thì giờ vô ích.

33- Lúc nào hơi thở tịnh chỉ?

Hỏi: Kính thưa Thầy, chỉ khi nào con buông xả sạch và không còn dính mắc, tâm con đã thanh tịnh, lúc bấy giờ hơi thở mới tịnh chỉ phải không thưa Thầy?

Đáp: Đúng vậy, chỉ khi nào tâm con buông xả sạch và không còn phóng tâm theo các pháp, lúc bấy giờ hơi thở mới thật sự tịnh chỉ không còn bị tưởng thức che ngăn.

Hơi thở tịnh chỉ không phải khó, khó là ở chỗ tâm thanh tịnh, cho nên sự tu tập của đạo Phật là chỗ có giới luật, chỗ có giới luật là chỗ rất khó giữ. Vì thế hiện giờ tu sĩ Phật giáo đều rơi rớt ở giới luật, mọi tu sĩ hầu hết đều phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới v.v...

Giới luật giúp tâm chúng ta thanh tịnh tức là giới luật giúp chúng ta ly dục ly ác pháp. Con người sanh ra ở chỗ dục nên sống trong dục, làm việc gì cũng dục mà ở đâu có dục là ở đó có ác pháp, ở đâu có ác pháp là ở đó có đau khổ.

Mục đích của đạo Phật không phải nhắm vào chỗ hơi thở tịnh chỉ mà nhắm vào chỗ tâm bất động, chỗ tâm bất động là chỗ ly dục ly ác pháp, chỗ ly dục ly ác pháp là chỗ giới luật của đức Phật; chỗ giới luật không phải là giới cấm mà là chỗ đức hạnh làm Người, không làm khổ mình khổ người và chỗ đức hạnh làm Thánh Nhân, sống một đời sống không còn ràng buộc thất kiết sử và không bị ngăn che bởi ngũ triền cái.

Chỗ tâm bất động này là chỗ để quý vị tịnh chỉ các hành trong thân, nếu tâm quý vị chưa bất động thì dù quý vị có muốn tịnh chỉ tầm tứ còn không được thay huống là quý vị tịnh chỉ hơi thở. Bởi vì quý vị chưa tịnh chỉ lòng ham muốn và chướng ngại pháp trong tâm thì làm sao quý vị tịnh chỉ được hơi thở.

Đó là một sự việc rất rõ ràng, nếu quý vị không lo tịnh chỉ các chướng ngại pháp trong tâm mà lo tịnh chỉ hơi thở thì đó là một việc làm hoài công vô ích. Tịnh chỉ dục và ác pháp rất dễ, chỉ cần có nhiệt tâm, nhiệt huyết là quý vị tịnh chỉ ngay liền.

Như quý vị đã biết lòng ham muốn và ác pháp là những sự việc sẽ đem đến cho quý vị khổ đau. Khổ đau là quý vị không bao giờ ưa thích và khi gặp nó quý vị sợ hãi và chán chường. Thế biết như vậy cớ sao quý vị không nhiệt tâm dứt bỏ nó.

Quý vị ăn cơm để sống, chớ đâu phải hút thuốc lá, uống rượu, cà phê, thuốc phiện mà quý vị sống. Tại sao quý vị không tịnh chỉ được nó, để thọ chịu sự khổ vì nó.

Mục đích của đạo Phật là ở chỗ tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ chứ không phải ở chỗ tịnh chỉ hơi thở hay thần thông phép tắc, biến hóa tàng hình, kêu mây gọi gió v.v... Vì những thần thông phép tắc ngoại đạo đều tu tập có được, cũng như tịnh chỉ hơi thở như quý vị đều biết có những tu sĩ Yoga họ tịnh chỉ được hơi thở, nhưng không tịnh chỉ được lòng ham muốn và ác pháp. Mặc dù đem chôn họ trong đất, dìm trong nước họ đều không chết, nhưng tâm họ vẫn còn động trong danh lợi.

Tại sao chúng ta biết được? Tại vì họ đã biểu diễn những thần thông đó cho mọi người xem, khiến cho con người trên thế giới mê mệt vì những thần thông, do đó nên chúng ta biết tâm họ lòng tham và ác pháp còn.

Đạo Phật vốn ra đời là giúp cho con người thoát khổ chứ không phải ra đời để biểu diễn những trò ảo thuật huyễn hóa để lừa đảo những người khác. Cho nên sự tịnh chỉ lòng ham muốn và các ác pháp rất cần thiết để cho con người sống không làm khổ mình khổ người, mà đã không làm khổ mình khổ người thì không phải là tâm bất động sao? Thì không phải là sự lợi ích lớn cho cá nhân và xã hội sao?

Còn thần thông có lợi ích gì, chỉ là một trò ảo thuật mua vui giải trí cho thiên hạ mà thôi. Người mới bắt đầu tu theo đạo Phật là phải tịnh chỉ thói hư tật xấu không còn nữa. Chúng ta tiến lên một bước nữa là tịnh chỉ lòng ham muốn và các ác pháp.

Ví dụ: Ngày chúng ta ăn ba bữa, bây giờ chúng ta tu theo Phật giáo, chúng ta tịnh chỉ hai bữa còn chỉ ăn có một bữa. Và sự tịnh chỉ như vậy chúng ta có làm được không? Chắc chắn việc làm này ai cũng tịnh chỉ được.

Ví dụ: Chúng ta nghiện thuốc lá, chúng ta tịnh chỉ không hút thuốc lá nữa có được không? Chắc chắn, việc làm này ai cũng làm được. Trừ ra chúng ta không muốn tịnh chỉ hút thuốc lá thì chúng ta phải nghiện mà thôi.

Bởi thế trong sự tịnh chỉ không phải khó khăn trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Bởi vì chúng ta biết lòng ham muốn và các ác pháp là đau khổ nên chúng ta có quyết tâm tịnh chỉ là chúng ta sẽ làm được ngay liền, chứ không phải chờ đợi một vài kiếp như kinh sách Đại Thừa dạy: “Tu hành phải vô lượng kiếp.

Cũng như người nghiện rượu, biết rượu sẽ đem đến cho chúng ta nhiều sự đau khổ. Do đó chỉ cần có sự quyết tâm là chúng ta tịnh chỉ không uống rượu nữa. Chỉ có những người không biết rượu đem đến cho họ đau khổ, hoặc có những người biết rượu sẽ đem đến tai hại cho họ, nhưng họ là những người không biết dừng, là những người chai lỳ chấp nhận, chịu đựng sự đau khổ.

Họ là những người không có ý chí thoát khổ, họ là những tên nô lệ cho dục vọng chịu mọi sự đau khổ, họ là những kẻ nô lệ cho rượu, cho thuốc lá, cho cà phê, cho thuốc phiện v.v…

Họ là những kẻ ngu si, u tối suốt đời sống trong đêm tối của dục vọng, họ chỉ làm nô lệ cho vật chất, cho những thứ thuốc độc. Bởi vậy, kẻ nào không tịnh chỉ lòng ham muốn, không ngăn và diệt các ác pháp, đó là những kẻ nô lệ cho ác pháp và lòng ham muốn của họ.

Vì lòng ham muốn và các ác pháp thường sai bảo, khiến cho đời sống của họ khổ sở, điêu đứng, có khi gần như chết. Nhưng họ là những con trâu bị xỏ mũi bởi dục vọng nên không dám chống lại, chỉ an phận làm tôi tớ nô lệ cho nó. Vì thế cuộc đời của họ phải chịu mọi sự khổ đau từ kiếp này sang kiếp khác.

Đạo Phật dạy chúng ta chiến đấu chống lại lòng ham muốn của mình và ngăn diệt các ác pháp để chúng ta giải thoát khỏi kiếp đời nô lệ tôi đòi, chứ đâu phải dạy chúng ta những thần thông phép tắc, những trò ảo thuật để lừa đảo người khác. Vì thần thông là những trò lừa đảo này đã có từ xưa mà các tôn giáo khác đã từng dạy thiên hạ để lừa đảo mọi người, chứ nó có lợi ích gì đâu cho kiếp sống của loài người.

Cũng như ngồi thiền tịnh chỉ hơi thở có ích lợi gì thiết thực cho cuộc sống chúng ta đâu, nó chỉ là một trò khiến cho người khác kính nể chơi chứ có nghĩa lý gì cho đời sống.

Cũng như các đạo sĩ Yoga đã biểu diễn thần thông làm cho người Tây phương mê mệt, nhưng sự thật nó ích gì đâu cho kiếp sống làm người của họ, của người khác. Họ phải bỏ ra cả cuộc đời tu tập quá vất vả và khổ sở, cuối cùng chỉ là một trò giải trí cho người khác như một trò xiếc mà thôi. (dìm trong nước chôn trong đất mà không chết).

Vì thế, khi đức Phật còn sống, Ngài không có chấp nhận thần thông. Ngài dạy: “Mục đích đạo Phật không phải ở chỗ Giới Luật, Thiền Định, Tam Minh mà ở chỗ bất động tâm trước các pháp và các cảm thọ.” Cho nên, tịnh chỉ hơi thở là vấn đề phụ, chúng ta đừng nên quan tâm nó, mà hãy quan tâm đến tịnh chỉ lòng ham muốn và các ác pháp tức là ly dục ly ác pháp.

Vậy con nên quan tâm điều này mà lo tu tập xả tâm, diệt ngã, ly dục ly ác pháp để cứu mình ra khỏi nghiệp nhân quả thiện ác, đó mới chính là con đường tu theo đạo Phật và chính là con đường giải thoát của con.

 
 

 

117-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (8). TL Thích Thông Lạc

34- Thiếu nghị lực và nhiệt tâm

Hỏi: Kính thưa Thầy, tại sao con buông xả quá chậm, nay được mai mất, con chưa làm chủ được gì? Con không biết tìm biện pháp nào mạnh hơn? Dùng Định Vô Lậu, tu pháp Hướng Tâm sao chưa được thấy kết quả hay con đã quán xét, tư duy chưa thấu triệt, tu tập pháp hướng chưa đúng mức?

Đáp: Đúng vậy, tất cả sự tu tập của con chưa chuyên nhất.

              1- Dùng pháp Hướng Tâm còn yếu, chưa nhạy bén.
              2- Định Vô Lậu quán triệt chưa thông suốt lý các pháp, lý nhân quả.
              3- Mức tỉnh thức chưa đủ sức.
              4- Chánh niệm còn kém (thiện pháp).
              5- Nghị lực và nhiệt tâm còn yếu kém chưa dũng mãnh.
              6- Chưa quán triệt thấu suốt kiếp sống của con người: “khổ như thật – thật khổ.”
              7- Không có sự quyết định dứt khoát mạnh mẽ.
              8- Không có sự tích cực trong sự dứt khoát xả bỏ thói quen.

Nói xả bỏ hay nói ly dục ly ác pháp là nói chứ chưa phải xả, đến khi xả là chúng ta mới thấy khó vô cùng. Buông xả là một danh từ suông, thật sự xả bỏ một điều gì không đơn giản như chúng ta nói, nếu một người không quyết tử thì khó mà xả bỏ được.

Ví dụ: như ăn ngày một bữa để xả bỏ hai bữa ăn kia, nếu một người không quyết tử thì cũng khó mà ăn một bữa được, đó là cái ăn nó dễ dàng như vậy mà nó còn khó xả huống là xả dục và các ác pháp.

Ví dụ: như một người ăn thịt cá quen, bây giờ bắt đầu ăn chay, nếu không quyết tử thì việc ăn chay cũng không dễ dàng.

Ví dụ: như một người nghiện thuốc lá nếu anh ta không quyết tử thì cũng không bao giờ bỏ được thuốc lá. Đó là những sự buông xả tầm thường mà còn phải quyết tử huống là con quyết bỏ tâm tham, sân, si thì đâu phải là một việc dễ làm.

Mỗi lần vấp ngã là mỗi lần đứng lên, dũng mãnh hơn, liều chết, cắn chặt răng, đưa lưỡi lên nóc họng quyết tử với tâm tham, sân, si của mình thì mới mong chiến thắng nó được.

Đức Phật dạy: “Thắng trăm trận không bằng thắng mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt.” Có nghĩa lời xác định này xả tâm rất khó, khó vô cùng, khó chứ không phải dễ, nếu không xem mình là một tử thi thì không thể nào xả bỏ được tham, sân, si.

Nhất là tâm si, trạng thái tâm si là hôn trầm, thùy miên, hôn tịch, vô ký, ngoan không, khi các hiện tượng này xảy ra nếu không có một nghị lực kiên cường, một ý chí dũng mãnh thì không bao giờ thắng chúng được. Hầu hết các tu sĩ về đây tu tập đều đầu hàng giặc si này, mọi người đều cuốn cờ rút chạy dài, đầu hàng vô điều kiện.

Người ta đọc câu kinh Pháp Cú ai cũng thấy kinh này quá hay, nhưng cái hay của nó ở danh từ chứ việc làm của nó thì gần hết như con người trên hành tinh này mấy ai là người đã làm được.

Con hãy quán xét thử khắp trong thế gian này, người ta có thể tu tập có thần thông, có sự linh thiêng huyền diệu, mầu nhiệm, có sự đình chỉ hơi thở thật sự, nhưng ít ai hoặc không có người đình chỉ tâm tham, sân, si.

Đình chỉ lòng tham, sân, si tức là ly dục ly ác pháp, ly dục ly ác pháp là một đạo đức tuyệt vời của con người. Đạo đức không làm khổ mình khổ người, khổ cả hai. Thế mà một việc làm có lợi ích lớn như vậy tại sao người ta không làm được?

Người ta nói tu nhưng người ta không hiểu tu là làm gì? Phần đông người ta hiểu tu là tụng kinh, trì chú, ngồi thiền, niệm Phật hoặc làm những việc lành từ thiện, bố thí cúng dường hoặc luyện bùa, niệm chú hoặc tập luyện Yoga hơi thở bằng cách này hoặc bằng cách khác để có thần thông, những việc làm như vậy họ gọi là tu.

Đối với đạo Phật, sự tu không phải như vậy mà là một cuộc sống, một hành động sống không làm khổ mình khổ người.

Chúng ta sống như thế nào mà không làm khổ mình, khổ người thì đó là một sự tu của đạo Phật. Sự tu ấy trong đạo Phật gọi là tịnh chỉ lòng tham, sân, si; còn gọi là xả bỏ, ly tham, đoạn diệt ác pháp.

Muốn đoạn diệt lòng ham muốn và các ác pháp đang làm cho đời sống của chúng ta đau khổ, nay chuyện này mai xảy ra chuyện khác thì phải có đầy đủ nghị lực và nhiệt tâm. Nếu chúng ta biết đời là khổ mà không quyết tâm buông bỏ những sự đau khổ đó cũng như người ăn trộm cắp, biết trộm cắp là sẽ bị tù tội và sẽ bị người ta bắt được đánh đập mình và có khi còn giết mình, thế mà người ăn trộm cắp không bỏ được, không ly được thì quý vị nghĩ sao?

Biết ác pháp và lòng ham muốn là khổ mà không chịu bỏ thì có ai bỏ dùm mình được không?

Ví dụ: Biết nói chuyện là tâm không ly dục ly ác pháp, tâm không bao giờ hết phóng dật, thế mà không bỏ được sự nói chuyện thì có ly dục ly ác pháp được không? Nếu không ly dục ly ác pháp thì làm sao hết tham, sân, si. Vậy mà ngay bây giờ không chịu bỏ nói chuyện thì tu làm gì cho mất công và cũng chẳng có ích lợi gì.

Cho nên tu là buông xả chứ không phải ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh mà buông xả được. Chúng ta thử xem lại thời gian đã qua, các bậc thầy Tổ của chúng ta từ xưa đến giờ họ đã từng tụng kinh, niệm Phật, trì chú, ngồi thiền mà có người nào xả bỏ tham, sân, si được chưa?

Ngoài hình thức bệ vệ trong chiếc áo cà sa, thầy Tổ của chúng ta vẫn còn tham danh đắm lợi. Không tham danh đắm lợi sao họ lại xây cất chùa to Phật lớn như vậy? Không tham danh đắm lợi sao họ lại ăn uống phi thời, sống một đời vật chất quá đầy đủ như một nhà giàu có.

Phật dạy: “Ba y, một bát, sống không nhà cửa, không gia đình.” Thế mà thầy Tổ có sống được như vậy không?

Thưa các bậc tôn túc Tăng và Ni cũng như quý vị cư sĩ hãy thành thật với mình, với những tín đồ Phật giáo, có phải chúng ta đã ly tham ly ác pháp? Có phải chúng ta sống đúng Phạm hạnh của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni hay cuộc sống của chúng ta không khác gì với những người phàm phu, cũng danh, cũng lợi, cũng tham, cũng sân, cũng si mê dính mắc: sắc, danh, lợi, thực, thùy?

Có nghị lực, có nhiệt tâm xả bỏ, có chấp nhận một cuộc sống buông xả giải thoát; có chấp nhận Phạm hạnh giới đức của Phật giáo; có biết rõ đời sống thiểu dục tri túc là đời sống đạo của đạo Phật là đời sống giải thoát không?

Hỡi các vị tôn túc! Xin quý vị hãy nhìn lại đời sống của mình có xứng đáng là người tu sĩ đạo Phật hay không; có đầy đủ nghị lực; có nhiệt tâm xả bỏ ly tham ly ác pháp chưa? Phải thành thật với mình, với tín đồ Phật giáo để làm sáng tỏ lại Phật giáo. Đừng vì danh, vì lợi, vì cuộc sống thế tục mà dựa theo kinh sách Đại Thừa bưng bít những lỗi lầm đáng sợ, tai hại cho mình và cho Phật giáo.

Trước khi làm những gì, chúng ta hãy suy nghĩ đến hậu quả của nó. Hậu quả của những người tu, chúng ta trực tiếp đã thấy quá rõ ràng. Thầy Tổ của chúng ta trước khi chết phải thọ lấy sự đau khổ vô cùng, chỉ vì sống không đúng Phạm hạnh của đạo Phật nên phải gánh chịu sự đau khổ vô vàn. Đó là vì chúng ta không nhìn thấy sự tu hành giả dối của chúng ta, nhân giả dối lừa đảo thì quả phải khổ đau.

Thưa quý vị, quý vị nói xả chứ quý vị có xả đâu, quý vị đừng ôm thêm, ôm thêm để mà khổ quý vị ạ!

Hãy buông xả! Buông xả với một nhiệt tâm nồng cháy; với một nghị lực kiên cường; với một sự hiểu thông suốt: “Dục và ác pháp là khổ,” thì quý vị mới xả bỏ được, mới tìm thấy sự giải thoát chân thật của đạo Phật.

              “Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
               Chớ giữ làm chi có ích gì
               Thở ra chẳng lại còn chi nữa
               Vạn pháp vô thường buông xuống đi.”

               Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
               Tâm hồn thanh thản chẳng sầu bi
               Cuộc đời ngắn ngủi trong chớp mắt
               Còn có vui gì chẳng bỏ đi.

               Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
               Trò đời như mộng có còn chi
               Tứ đại trả về cho tứ đại
               Thanh nhàn an lạc lúc phân ly.”

Muốn cho có một nội lực sung mãn để khắc phục tâm tham ưu của mình; để có kết quả tâm bất động trước các pháp; để ly được dục ly được ác pháp; để tâm không phóng dật và cuối cùng tâm định trên thân thì thường xuyên con nên dùng pháp Hướng Tâm Như Lý Tác Ý, ám thị tâm con khi con muốn tâm con phải làm một điều gì như con muốn.

Ví dụ: như con muốn tâm con không còn giận hờn, thương ghét, hay không cho nó nói chuyện, để sống trầm lặng một mình thì con nên trạch pháp một câu:

Tâm như cục đất, không nên nói chuyện với ai cả để sống đúng chánh hạnh, để được an vui, thanh thản và vô sự.

Câu hướng tâm này, con phải sống với nó như bóng với hình, lúc nào, giờ nào con cũng phải nhớ ám thị, đừng nên quên thì sẽ có hiệu quả xả tâm rất tốt. Nhớ kỹ, ám thị cho đến chừng nào có hiệu quả mới thôi.

35- Trạng thái hơi thở trong bốn thiền

Hỏi: Kính bạch Thầy, xin Thầy giảng lại cho con hơi thở Sơ Thiền đến Tứ Thiền như thế nào?

Đáp:

              Sơ Thiền, hơi thở bình thường như chúng ta thở sống hằng ngày.
              Nhị Thiền, hơi thở chậm và nhẹ hơn hơi thở Sơ Thiền do tầm tứ diệt tạo nên một trạng thái an ổn thích tu (siêng năng), ưa ngồi.
              Tam Thiền, hơi thở chậm và nhẹ hơn hơi thở Nhị Thiền do ly hỷ tưởng, người đang ở trong trạng thái này cảm giác như hơi thở gần như không, thở hơi thở nhẹ nhàng tự động ra vô.
              Tứ Thiền, hơi thở tịnh chỉ, hoàn toàn không thấy hơi thở ra vô.

Hơi thở của Sơ Thiền là hơi thở của tâm ly dục ly ác pháp. Ai là người đã ly dục ly ác pháp thì mới nhận ra hơi thở này. Như chúng ta hiện giờ chưa có ai ly dục ly ác pháp, tâm còn đầy dẫy sự tham ưu, còn phiền não, đau khổ và còn lo sợ, giận hờn, thù oán thì làm sao nhận ra được hơi thở của Sơ Thiền.

Nói hơi thở của Sơ Thiền là hơi thở bình thường là nói hơi thở giống như hơi thở bình thường chứ thực ra, nó không giống hơi thở bình thường. Vì tâm chúng ta hiện giờ đâu có bình thường, lúc nào cũng lăng xăng loạn động, không nghĩ việc này thì lại nghĩ việc khác.

Cho nên trong kinh sách bảo tâm chúng ta là tâm như con vượn, ý chúng ta là như con ngựa, như vậy chúng ta có hơi thở bình thường chăng? Tâm chưa bình thường thì làm sao hơi thở bình thường được.

Nhưng chúng ta phải lưu ý khi tâm chúng ta bình thường là lúc thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Lúc đó là lúc hơi thở bình thường của tâm còn ham muốn và còn chướng ngại pháp (ác pháp) thì hơi thở có bình thường, nhưng bình thường của nó mặc dù lúc đó tâm chúng ta chưa ly dục ly ác pháp hết, nhưng nó không có dục và ác pháp khởi lên nên được xem hơi thở lúc đó là bình thường.

Đến hơi thở của Nhị Thiền thì không có một hơi thở nào so sánh, khó mà giúp cho con nhận ra, chỉ khi nào nhập vào Nhị Thiền thì mới nhận ra và biết rõ ràng. Ở đây Thầy chỉ trả lời hơi thở chậm và nhẹ hơn hơi thở nhập Sơ Thiền.

Hơi thở Sơ Thiền đã không biết thì làm sao biết được hơi thở Nhị Thiền. Không khéo nghe Thầy nói hơi thở chậm và nhẹ rồi các con tưởng ra hơi thở chậm nhẹ, do đó tưởng thức sẽ hiện tướng hơi thở đó thì các con đã lọt vào định tưởng, một loại định rất nguy hiểm.

Khi đã rơi vào định này thì khó mà thoát khỏi tưởng pháp. Hầu hết các nhà Đại Thừa và Thiền Đông Độ đều đã chết trong loại định tưởng này, và kinh sách Đại Thừa để lại quá nhiều pháp hành về trạng thái tưởng pháp này.

Từ Nhị Thiền cho đến Tứ Thiền, khi nhận ra được hơi thở của nó tức là nhận ra được trạng thái của Thiền định đó. Cho nên ở đây Thầy nói để cho chúng ta biết mức độ của hơi thở các loại Thiền định của Tứ Thánh Định, nhưng chúng ta đừng quan tâm đến nó, quan tâm đến nó tức là chúng ta sẽ rơi vào tưởng thức.

Hiện giờ con nên nương vào hơi thở để tập tỉnh thức mà cố gắng xả tâm ly tham đoạn diệt khổ ưu, chừng nào tu tập đến đó thì chúng ta sẽ biết, còn hiện giờ muốn biết nó thì là một tai hại xảy đến không tốt cho đường tu tập của con.

Tu tập về hơi thở thì nên tu tập 18 đề mục Định Niệm Hơi Thở của Phật dạy, chứ đừng tu hơi thở theo pháp môn Lục Diệu của ngài Trí Khải, nó không phải của Phật giáo. Lục Diệu Pháp Môn là một loại Thiền tưởng của Trung Hoa và cũng đừng tu sổ tức quan vì nó cũng là một loại Thiền ức chế tâm do các Tổ Đại Thừa chế ra.

Hơi thở rất khó tu, nếu tu không có người hướng dẫn sẽ sinh ra rối lọan hô hấp, rối loạn thần kinh. Cho nên tu tập hơi thở phải dè dặt cẩn thận.

Tóm lại, hơi thở chỉ là một thân hành như các thân hành khác trong thân, cho tu hơi thở ra vô cũng giống như tu cánh tay đưa ra vô vậy chứ không có gì quan trọng lắm.

            36- Tu như thế nào để Tâm không phi Phạm hạnh?

Hỏi: Kính thưa Thầy, con xin sám hối về cái tội ăn thêm, đã ăn rồi mà còn ăn thêm nữa. Như vậy con phải tu Định Vô Lậu đặt niệm trước mặt quán xét tư duy như thế nào? Dùng pháp hướng như thế nào để quét sạch tội phi Phạm hạnh này?

Đáp: Muốn sống đúng Phạm hạnh không ăn uống phi thời, con nên đặt niệm thực phẩm rồi quán xét sự bất tịnh của thực phẩm. Quán xét thực phẩm bất tịnh trong lúc đi cầu.

Dùng pháp hướng tâm: “Thực phẩm là một thứ thuốc trị bệnh đói của cơ thể, ta không nên ưa thích.” “Thực phẩm là những thứ bất tịnh uế trược, để lâu mùi hôi khó chịu ta nên chừa bỏ tánh ưa thích ham ăn.

Xét ra từ cái ăn mà người ta nhận thấy và đánh giá trị được con người, Thánh nhân hay loài thú vật. Một con thú vật lúc nào gặp món ăn là nó ăn ngay, không phân biệt giờ ăn, giờ nghỉ là tại vì, con thú vật không trí tuệ, chỉ biết sống ăn và tranh đấu cho miếng ăn.

Con người thì có trí tuệ, có đạo lý hơn, ăn uống biết chia ra giờ giấc, không ăn uống phi thời, ngược lại con người mà ăn uống lặt vặt phi thời không giờ, không bữa là con người đó còn mang bản chất của loài cầm thú thích ăn. Chúng ta là con người phải có trí tuệ, nhất định ăn uống phải có giờ giấc

Còn bậc Thánh Nhân thì khác, biết rằng ăn uống là sự sống của các loài động vật, nhưng bậc Thánh Nhân không xem ăn uống là một thứ dục lạc, gây sự ưa thích ham mê như người thế gian và loài thú vật.

Mà khi sống thì phải ăn để sống, cho nên ăn để sống chứ không phải sống để ăn.

Người thế gian và loài thú vật sống để ăn chứ không phải ăn để sống. Vì thế, trong sự ăn uống của họ, chỉ cần ngon và bổ dưỡng nên họ sát hại sanh linh để họ ăn thịt chúng sinh như loài cọp beo, ăn bằng thích, ăn bằng ưa, đó là sống để ăn, nhưng họ không biết đó là họ đã đem sự đau khổ vào thân tâm của họ.

Bậc Thánh Nhân đã hiểu điều này nên họ ăn để sống, vì thế họ không ăn thịt chúng sanh và ăn ngày một bữa, không ăn uống phi thời, là vì những bậc Thánh muốn thoát ra khỏi bản chất của loài cầm thú sống để ăn uống; để nô lệ cho sự ăn uống.

Người ta không muốn mình làm con người mà muốn sống như loài cầm thú, chỉ biết có ăn, ăn để ngon, để mập, để béo, nên ăn uống của họ không còn có đạo lý làm người gì cả.

Người ta sống để ăn cho nên con người trở thành một con thú vật, đó là cách sống để ăn nên người ta mới giày đạp lên sự sống của nhau, giết nhau. Bằng chứng: về chủ nghĩa cá nhân thì họ cướp giựt, giết người không gớm tay; về tập thể thì nước này đánh chiếm nước kia.

Lịch sử loài người đã chứng minh điều này, đến ngày nay, không lúc nào thế giới chấm dứt chiến tranh, không nước này đánh nhau thì nước kia đánh nhau, giết nhau bằng những vũ khí tối tân và hiện đại.

Đó là bản chất của loài cầm thú còn tồn đọng trong loài người. Họ chỉ là một con thú vật sống chỉ biết tranh giành để ăn chứ không phải sống có đạo lý làm người, làm Thánh.

Bởi con người là phải khác với con thú vật, vì con người phải sống có đạo lý, có đức hạnh, phải sống không vì ăn uống, không vì vật chất của cải tài sản. Sống phải biết thương mình thương người, thương mọi sự sống trên hành tinh này, tức là sống không làm khổ mình, khổ người, khổ mọi loài, đó mới chính là con người, còn làm khổ cho nhau thì là những loài thú vật chỉ biết có ăn là trên hết chứ không biết đạo lý.

Chúng ta muốn làm người, muốn làm Thánh chứ không ai muốn làm loài thú vật. Phải không các bạn? Muốn vậy thì chúng ta ăn để sống, ăn không làm khổ mình khổ người, khổ chúng sanh thì phải ăn có giờ bữa, không được ăn uống lặt vặt phi thời và không được ăn thịt chúng sanh.

Bởi muốn làm Thánh thì ăn ngày một bữa như đức Phật ngày xưa và chúng Thánh Tăng. Cho nên sự ăn uống trong đạo Phật là sự ăn uống trong thiện pháp để không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh. Vì thế đức Phật đã dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.

Do thế, coi chừng trong ăn uống sẽ rơi vào ác pháp, ăn uống theo phàm phu thì sự ăn uống ấy không đúng Thánh hạnh. Ăn uống lặt vặt, ăn uống phi thời, cơ thể dễ sanh ra nhiều bệnh tật, đó là ác pháp, là khổ đau cho mình, khi mình đau khổ còn làm khổ cho người khác nữa.

Vì thế ăn uống rất quan trọng cho đời sống của con người. Càng ăn uống đơn giản thì đời sống càng thảnh thơi, an lạc, cơ thể nhẹ nhàng ít bệnh tật, ít tai nạn. Trong cuộc đời làm người chúng ta cũng nhận thấy những pháp môn của đức Phật dạy đạo đức về ăn uống rất thực tế và cụ thể để con người sống trong đạo đức về ăn uống:

              - Thứ nhất, là không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh.
              - Thứ hai, là sống đúng đạo đức làm người, làm Thánh không còn phàm ăn uống như loài thú vật.
              - Thứ ba, là ăn uống đúng Phạm hạnh, không ăn uống phi thời, không ăn uống lặt vặt.
             - Thứ tư, là ăn uống trong sự biết tôn kính và quý trọng của mồ hôi nước mắt làm ra bằng sức lao động của mình, của người khác.
              - Thứ năm, là ăn uống để sách tấn trên đường tu tập, để được giải thoát sanh tử luân hồi, để được chấm dứt mọi sự khổ đau, chứ không phải ăn uống vì tham ăn, thích ăn v.v...
             - Thứ sáu, là ăn uống phải thực hiện lòng từ bi, thương xót tất cả loài chúng sanh và thương xót người làm ra thực phẩm cực nhọc.

Khi chúng ta tu hành theo đạo Phật mà còn thích ăn uống phi thời thì đó là chúng ta chạy theo tâm dục lạc thế gian. Còn tâm dục lạc thế gian đó là huân ác pháp vào thân, vì thế chúng ta phải hiểu cho thấu suốt lý của đạo đức làm người, làm Thánh là không nên vì ăn mà làm khổ mình, khổ người. Luôn luôn nhớ đến bốn trọng ân, thì bấy giờ chúng ta sẽ nhiệt tâm dứt khoát. Dù có chết nhứt định không còn phạm phải lỗi ăn uống phi thời, chừng đó chúng ta mới thấy có sự an vui của người sống đúng Phạm hạnh.

Các con phải cố gắng đừng để vi phạm những lỗi lầm này, những lỗi lầm này sẽ đưa con trở về đời sống loài thú vật. Các con nên nhớ kỹ đừng quên lời Thầy dạy con nhé! Dù cho thân con có tan nát nhưng đừng phạm phải lỗi ăn uống phi thời. Đó là con đường tiến đạo.

118-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (9). TL Thích Thông Lạc

37- Phạm Hạnh

Hỏi: Kính thưa Thầy, “Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, không có gì trói buộc, không có một đối tượng vật chất, hoàn cảnh nào cám dỗ họ được.” Con phải hướng tâm như thế nào đây mới chứng được điều này?

Đáp: Chỉ cần siêng năng tu tập các loại pháp môn ly dục ly ác pháp và sống đúng giới hạnh, nhập được Sơ Thiền thì đời sống xuất gia sẽ phóng khoáng như hư không. Tuy nói như vậy nhưng không phải dễ, nếu chỉ có cạo bỏ râu tóc, mặc y áo cà sa, tụng kinh, niệm Phật, ngồi Thiền v.v… thì đâu có gì là khó. Còn ngược lại phải sống đúng giới hạnh, phải tập tu ly dục ly ác pháp thì khó vô cùng. Cho nên điều cần thiết là con phải hiểu rõ đời sống tại gia của người cư sĩ khổ như thế nào?

             - Thứ nhất, phải làm ra tiền bạc, thực phẩm, áo quần, nhà cửa, tài sản, sự nghiệp. Những sự sống này khiến cho con người phải lo toan rất nhiều, nhiều khi thiếu trước hụt sau, sợ đói, sợ bịnh đau, không tiền, không thực phẩm là rất khổ. Nói chung chỉ có những nghề nghiệp làm ra để sống, nhưng nghề nghiệp làm ăn lại thất bại, khi thất bại là khổ. Còn nếu làm ăn được thì phải trăm muôn vạn kế tính toán lo toan nhiều, có khi còn phải sử dụng mưu kế gian xảo, lừa đảo bằng mọi thủ đoạn, tạo ra biết bao nhiêu điều ác, nên trong lòng lúc nào cũng bất an, lo sợ nơm nớp tù tội bị phạt vạ, và còn lo sợ trộm cướp nữa.

               - Thứ hai, là khổ sở khi mình nghèo sợ người ta khi dể.

               - Thứ ba, khi mình có của cải, cuộc sống thoải mái hơn thì lo sợ người khác ganh tỵ tìm mọi cách nói xấu hoặc thù ghét và hãm hại.

               - Thứ tư, lo sợ tai nạn, bịnh tật mà tiền mất nhưng tật phải mang.
               - Thứ năm, con cái hư phá tán tài sản.

           - Thứ sáu, vợ hoặc chồng sống không chung thủy, làm tiêu tan sản nghiệp, đó là nỗi khổ đau của mọi người, mà người nào cũng không tránh khỏi.

               - Thứ bảy, những người thân có tai nạn hoặc bịnh tật.
               - Thứ tám, trong nhà anh em tranh giành của cải tài sản, kiện thưa.
               - Thứ chín, khổ vì người khác nói trái ý, nghịch lòng.
               - Thứ mười, khổ vì không đạt được ước nguyện.

Thường thường người cư sĩ sống tại gia có nhiều duyên sự xảy đến khiến cho họ phải chịu nhiều sự khổ đau như vậy. Cho nên đời sống tại gia rất là phức tạp và khổ sở. Có một nhà thơ đã nói đến sự khổ đau của con người, từ khi bắt đầu sinh ra:

                “Lúc sanh ra miệng đã khóc thóe
                 Trần có vui sao chẳng cười khì.”

Nếu là một người có nhiều suy tư về đời sống thì chúng ta thấy rất rõ ràng, cuộc sống con người là biển khổ, khổ từ lúc sinh ra cho đến khi chết.

Do thấy đời sống tại gia khổ như vậy nên chúng ta chịu chấp nhận một cuộc sống đi ngược lại với sự sống tại gia, đó là đời sống xuất gia. Đối với đời sống tại gia thì đời sống xuất gia hoàn toàn khác hẳn, vì buông xả sạch vật chất, chỉ còn sống với tinh thần phóng khoáng như hư không. Vì thế tự tại thung dung, không lo đói, lo no, không còn kêu réo, làm bận tâm bận trí, bất toại nguyện. Với đôi mắt của người xuất gia, nhìn mọi vật đều vô thường.

             Cho nên:
             “Các pháp vô thường, là pháp sinh diệt
              Sinh diệt, diệt rồi. Tịch diệt là vui.”

Vì thấu hiểu như vậy nên đời sống xuất gia là một đời sống buông xả sạch, chỉ còn ba y, một bát đi xin ăn của những người hảo tâm. Đời sống như vậy rất khổ về vật chất, vì không có gì cả, nếu chúng ta không ý thức và thấu rõ chỗ không có gì cả là chỗ phóng khoáng như hư không, thì chúng ta sẽ khổ sở vô cùng.

Nhưng nếu chúng ta ý thức được điều này thì đời sống xuất gia thật là phóng khoáng như hư không, không có vật gì trói buộc; không có một đối tượng, một vật chất, một hoàn cảnh nào cám dỗ được. Đó là đời sống giải thoát, đời sống Phạm hạnh, đời sống Thánh Thiện, còn ngược lại đời sống xuất gia mà có chùa to, Phật lớn là đời sống vật chất nhiều, không giải thoát. Đó là đời sống như người tại gia, những vị tu sĩ này bị trói buộc như cá mắc rọ, lưới, lờ, câu không thể phóng khoáng như hư không được. Họ thường là những người phục dịch cho những phật tử mê tín.

Đời sống xuất gia là đời sống trống rỗng cho nên mới gọi là như hư không. Nếu hư không mà có thì làm sao gọi là hư không. Vì thế những tu sĩ có chùa to Phật lớn sang đẹp và vật chất nhiều thì làm sao giống như hư không được. Do thế không thể giải thoát. Phải không các bạn?

Bởi vậy, các vị tỳ-kheo trong thời đức Phật, các ngài đã nói: “Vì giải thoát sanh tử luân hồi, chúng con mới chấp nhận sống đời sống Phạm hạnh của Gotama.” Vì sanh tử luân hồi là đời sống tại gia, mà sanh tử luân hồi là sự đau khổ của loài người, không chỉ khổ có một kiếp mà khổ nhiều kiếp. Đời sống xuất gia là đời sống Phạm hạnh, đời sống buông xả, đời sống phóng khoáng như hư không, cho nên còn có gì mà tái sanh luân hồi.

Một hôm đức Phật đi khất thực, đi ngang qua một ngôi nhà giàu có, một con chó từ trong nhà chạy ra sủa to, đức Phật dừng lại mới bảo rằng:

Nhà ngươi vì vô minh lầm chấp của cải tài sản là của nhà ngươi, do đó nhà ngươi phải tái sanh làm thân chó để giữ của cải đó, nhưng của cải đó không phải là của nhà ngươi nữa đâu. Tội cho ngươi không thấy mọi vật chất thế gian là pháp vô thường nên phải chịu làm thân chúng sanh khổ sở muôn vàn từ kiếp này sang kiếp khác.

            Con chó nghe được lời này, dường như nó ngộ được lý này nên từ đó nó buồn rầu rồi bỏ ăn và ít hôm sau con chó chết.

Loài chúng sanh còn nhận được lời đức Phật dạy, mà xả tâm dính mắc thế gian để chuyển hóa thân chó. Chúng ta là những con người khi nghe đức Phật dạy:

Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc, không có gì trói buộc, không có một đối tượng, một vật chất, một hoàn cảnh, một sự việc nào cám dỗ họ được và làm cho họ động tâm được.” Đời sống Phạm hạnh, đời sống như vậy còn gì mà khiến cho họ tái sanh luân hồi.

Bởi xét cho cùng đạo Phật chỉ lấy cuộc sống Phạm hạnh làm một chứng cứ cụ thể để mọi người thấy đó là sự giải thoát thật sự, không còn sanh tử luân hồi, như câu chuyện con chó lúc nãy. Vì dính mắc của cải tài sản mà cha mẹ của nhà ấy phải sanh làm con chó để giữ của cải đó.

Còn chúng ta muốn tu theo đạo Phật để cầu giải thoát thì tại sao lại không chấp nhận đời sống Phạm hạnh. Đời sống Phạm hạnh là Niết Bàn, nếu chúng ta chấp nhận đời sống Phạm hạnh thì chúng ta phải đoạn dứt lòng tham dục, có đoạn dứt lòng tham dục thì chúng ta mới sống đời sống Phạm hạnh trọn vẹn.

Nếu không đoạn dứt lòng tham dục thì đời sống Phạm hạnh không trọn vẹn, giống như các tu sĩ của Phật giáo Đại Thừa hiện giờ; đời sống Phạm hạnh chưa trọn vẹn thì kiếp sau phải làm thân chó để giữ gìn những ngôi chùa sang đẹp. Đó là sự dính mắc của các tu sĩ hiện giờ, họ đâu biết rằng khi tâm tham dục còn một chút xíu dính mắc pháp thế gian là họ phải tiếp tục tái sanh trong vòng luân hồi khổ đau.

Họ đâu biết rằng đời sống Phạm hạnh là Niết Bàn của chư Phật, là chấm dứt tái sanh luân hồi. Đức Phật dạy:Này Bà La Môn, cảm thọ tham ái được đoạn tận, không có dư tàn; cảm thọ sân được đoạn tận, không có dư tàn; cảm thọ si được đoạn tận, không có dư tàn. Như vậy, này Bà La Môn, Niết Bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí giác hiểu.” (Kinh Tăng Chi Tập 1, trang 285).

Đời sống thế gian là ngục tối âm u đầy đau khổ. Đời sống xuất gia Phạm hạnh hoàn toàn giải thoát như hư không, Cực Lạc, Niết Bàn. Rõ thấy được như vậy thì con nên chọn đời sống nào? Đời sống thế gian hay đời sống Phạm hạnh?

Chọn nó thì phải có nhiệt tâm xả bỏ, tâm như cục đất, chỉ có nhiệt tâm và hướng tâm mình như cục đất.

Đời sống Phạm hạnh là đời sống từ bỏ tất cả sanh y. Nếu muốn từ bỏ tất cả những sanh y thì chúng ta phải dùng pháp Như Lý Tác Ý: “Sanh y là đau khổ, là dính mắc, là tái sanh luân hồi ta phải từ bỏ, xa lìa vĩnh viễn những thứ đau khổ này.

Đức Phật sách tấn chúng ta sống đúng đời sống Phạm hạnh. Ngài dạy:Này các tỳ-kheo, tối thắng là tinh cần với mục đích từ bỏ tất cả sanh y. Do vậy, này các thầy tỳ-kheo, các thầy cần phải học tập như sau: “Ta sẽ cố gắng tinh cần để từ bỏ tất cả sanh y. Như vậy, này các thầy tỳ-kheo, các thầy cần phải học tập.

Đây là lời dạy chí tình của đức Phật qua những danh từ “tối thắng”, “tinh cần”, “từ bỏ”, “sanh y.” Những danh từ này đã xác định đời sống Phạm hạnh là giải thoát hoàn toàn, là Niết Bàn tại thế, là chấm dứt tái sanh luân hồi.

Bởi thế, cuộc đời tu hành theo đạo Phật quan trọng nhất là đời sống Phạm hạnh. Đời sống Phạm hạnh không phải ở chiếc áo cà sa và chiếc đầu cạo trọc, mà là tâm Phạm hạnh. Bởi vì, chiếc áo cà sa và chiếc đầu cạo trọc chỉ là một hình thức lừa đảo người, nó đã làm ô uế cho Phật giáo từ bao nhiêu thế kỷ nay.

Xưa, khi đức Phật nhập Niết Bàn đã nói lên lời nói di chúc: Giới luật Ta còn là đạo Ta còn, giới luật Ta mất là đạo Ta mất. 

Giới luật là gì? Giới luật là Phạm hạnh. Nếu một tu sĩ còn có Phạm hạnh là đạo Phật còn, nếu một tu sĩ Phạm hạnh không có thì đạo Phật mất. Lời di chúc này chúng ta cũng xác định đạo Phật còn hay là mất, không thể che dấu ai được.

Phạm hạnh là gì? Là tâm ly dục ly ác pháp. Chỉ khi nào con ly dục ly ác pháp thì đời sống Phạm hạnh con trọn vẹn. Con có nhìn thấy bạn của con không? Cũng cạo đầu, cũng mặc áo tu sĩ rồi một thời gian để tóc lại, mặc đồ đời, có chồng rồi đây sắp có con. Họ có thật sự thấy đời sống thế gian là khổ không? Hay chỉ muốn tu để có thần thông phép tắc và ngồi mát ăn bát vàng. Hay muốn tìm đường giải thoát mà không muốn buông xả bỏ sanh y thì làm sao tìm đường giải thoát cho được.

Sanh y là gì? Là chồng con hay vợ con, là của cải tài sản v.v…

Này các con, sanh y trong lòng con chứ không phải sanh y là những vật chất bên ngoài.

Xả sanh y vật chất bên ngoài như Minh Tông, còn sanh y bên trong thì tâm không chịu xả, ngồi trong thất mà nhớ vợ, nhớ con, như vậy xả sanh y bên ngoài để làm gì? Có lợi ích gì? Phải không các con? Cuối cùng cũng chỉ trôi lăn trong lục đạo.

Cô Diệu Quang trắc nghiệm thì tâm sân của Minh Tông đã hiện ra như người chưa bao giờ tu, chắc các con đã trực tiếp thấy và nghe rõ ràng. Năm năm trời mài miệt trong thất chỉ có một phút giây tan tành như gió bụi, uổng công phu tu tập vô cùng.

Tới hôm nay tâm con đã sống Phạm hạnh được chưa? Nếu chưa được thì hãy cố gắng con ạ! Đừng bỏ cuộc, đừng nản lòng, đừng bắt chước các bạn con thối tâm. Hãy đứng lên chiến đấu tận cùng để đạt được đời sống Phạm hạnh, để làm chủ đời sống sanh, già, bịnh, chết, đời sống cao thượng của một bậc chân tu với một tâm hồn phóng khoáng như hư không.

Nếu trên đường tu tập theo Phật giáo mà con không có chí lớn như Bà Triệu Ẩu “Cỡi cá kình, vượt sóng to, sống một đời không chịu luồn cúi làm thê thiếp cho thiên hạ.” Ý chí này, với tư tưởng này thì mới có thể sống một đời sống cao thượng, phóng khoáng như hư không và trắng bạch như vỏ ốc của các bậc Thánh Ni, những đệ tử Ni của đức Phật ngày xưa.

Còn nếu sống không được đời sống Phạm hạnh thì con chẳng khác gì như các bạn con, chỉ một đời luồn cúi làm thê thiếp cho kẻ khác và còn bị đánh đập chửi mắng và hành hạ nữa, con có thấy bạn con không?

Rấc tiếc là bộ giới đức, giới hạnh và giới hành Thầy đang viết chưa xong. Giới đức, Giới hạnh, Giới hành tức là Phạm hạnh, hay gọi là Sa Môn hạnh hoặc gọi là Sa Môn Quả. Đó là những Giới luật của Phật giáo chứ không phải giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề. Giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề là giới luật của các Tổ biên soạn viết ra dựa vào kinh giới rút ra một số lập thành giới cấm.

Như chúng ta ai cũng biết, đạo Phật là đạo tự lực không cầu tha lực. Vì thế, Giới là sự sống của Tăng Ni và các cư sĩ. Cho nên người nào đến với đạo Phật là phải tự nguyện sống Phạm hạnh chứ không có sự bắt buộc như giới cấm của các Tổ.

“Vì cầu giải thoát nên chúng tôi mới tự nguyện sống đời Phạm hạnh dưới sự chỉ đạo của đức Gotama.” Cho nên giới cấm của các Tổ là sai, không đúng tinh thần tự nguyện, tự giác của Phật giáo. Đạo Phật là một tôn giáo tự do tín ngưỡng, không cám dỗ, mà cũng không bắt buộc ai. Ai tự nguyện đến giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì dạy bảo và giúp đỡ cho tu hành, còn sống giới luật không nổi, xin ra thì cũng vui vẻ chấp nhận ngay liền, không bắt buộc người theo Phật giáo phải thề thốt “Trời tru đất diệt.”

Cho nên Giới cấm của các Tổ là sai, vì giới cấm là có sự bắt buộc. Đạo Phật không có cấm ai cả, chỉ người tu phải tự nguyện, tự lực, tự giác, tự ngộ mà đến với đạo Phật. Còn giới luật đúng của đạo Phật là giới đức, giới hạnh, giới hành. Những giới luật này đức Phật dạy cho đệ tử mình sống một đời sống Phạm hạnh và tu tập để được giải thoát, nên giới luật này còn gọi là Giới Vô Lậu.

Vì thế, Giới là đức hạnh sống của người tu sĩ, giới là pháp môn tu tập để dứt trừ các lậu hoặc. Các bạn đừng nhầm lẫn giới cấm và giới hành. Vì giới hành là thể hiện đời sống Thánh Tăng, Thánh Ni, Thánh cư sĩ.

119-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (10). TL Thích Thông Lạc

38- Trí tuệ

Hỏi: Kính thưa Thầy, khi tu Định Vô Lậu, tri kiến giải thoát hiện ra đó có phải là trí tuệ không?

Đáp: Tu tập Định Vô Lậu giúp cho sự hiểu biết thông suốt bản chất thực của các pháp thế gian và xuất thế gian để không hiểu sai lệch không đúng lý, không bị lầm chấp. Do sự hiểu biết các pháp không lệch lạc, thấy đúng, biết đúng như thật để tâm không bị lầm chấp dính mắc nên gọi là trí tuệ tri kiến giải thoát.

Hiểu biết đúng các pháp như thật, tâm không dính mắc, lầm chấp nên không còn phiền não đau khổ, giận hờn, bất toại nguyện gọi là giải thoát. Người chưa tu Định Vô Lậu là chưa có trí tuệ giải thoát, trí tuệ giải thoát gọi đúng nghĩa của nó là tri kiến giải thoát.

Vô lậu là không còn đau khổ, trí tuệ hiểu biết không còn đau khổ là trí tuệ vô lậu, trí tuệ vô lậu mới bắt đầu tu tập là tri kiến giải thoát, gọi trí tuệ ở đây không đúng nghĩa lắm. Vì theo đạo Phật xác định Giới sanh Định; Định sanh Tuệ nhưng chúng ta mới tu tập, giới chưa thanh tịnh thì làm sao có định mà định chưa có thì làm sao có tuệ mà gọi là tuệ được. Phải không con?

Người tu hành muốn có được tri kiến giải thoát này, thì không phải tự trên trời rơi xuống mà chính mình phải biết ngăn ác diệt ác pháp, phải biết lìa lòng ham muốn. Biết ngăn ác diệt ác pháp chia ra làm tám phần:

1- Phòng ngừa các ác pháp bên ngoài tức là tránh duyên cảnh bên ngoài (độc cư).

2- Phòng hộ sáu căn tức là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không cho dính mắc sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp (độc cư).

3- Ngăn ngừa không cho việc ác sanh khởi trong tâm như thường tu các định thực hiện về thân hành niệm.

4- Dùng pháp Hướng Tâm Như Lý Tác Ý để tạo thành nội lực tỉnh thức, buông xả.

5- Diệt các pháp ác đã sanh bằng Định Vô Lậu.

6- Diệt các pháp ác bằng quán xét nhân quả.

7- Diệt các ác pháp bằng tâm từ, bi, hỷ, xả.

8- Diệt các ác pháp bằng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng hoặc trầm lặng, từ khước.

Trong tám pháp tu tập này thì bốn pháp ngăn ngừa là trên hết. Người ta bảo: “Ngừa bịnh hơn trị bịnh.” Cho nên tri kiến giải thoát là tri kiến phòng hộ, tri kiến phòng hộ là đệ nhất, tri kiến phòng hộ tức là giới luật.

Phật dạy:

Tri kiến ở đâu là giới luật ở đó. Giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật.” Đoạn kinh này, tức là đức Phật nói pháp ngăn ác, nói pháp ngăn ác tức là nói pháp độc cư, pháp độc cư là bí quyết thành công thiền định của đạo Phật, vì nó là pháp ngăn ác tuyệt vời.

Tóm lại, muốn có tri kiến giải thoát thì phải tu tập “Bát Chánh Đạo”: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Đó là con đường dẫn đến tri kiến và trí tuệ giải thoát.

39- Mục đích Chánh Niệm Tỉnh Giác là gì?

Hỏi: Kính bạch Thầy, tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác theo hành động làm việc liên tục từ sáng đến chiều chỉ biết hành động “làm việc tôi biết tôi đang làm việc” không có nghĩ ngợi gì khác hơn, tức không có tạp niệm xen vào, như vậy có đúng không thưa Thầy?

Đáp: Tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác như vậy là một sức tỉnh thức kinh hồn, đủ để xả tâm và nhập các định khác một cách dễ dàng.

Chánh Niệm Tỉnh Giác Định tức là tu tập trong Thân Hành Niệm. Nhờ có tu tập Thân Hành Niệm ta mới có tỉnh giác chánh niệm. Có tỉnh giác mới ở trong chánh niệm, có chánh niệm thì tâm mới không làm khổ mình khổ người, mới có lợi lớn, an ổn lớn khỏi các khổ ách, đưa đến chứng đắc tri kiến, đưa đến hiện tại lạc trú, đưa đến chứng ngộ quả Minh và Giải Thoát.

Mục đích chánh niệm tỉnh giác là gồm tất cả các thiện pháp và trí tuệ Tam Minh. Phật dạy: “Này các thầy tỳ-kheo, ai tu tập làm cho sung mãn Thân Hành Niệm, cũng bao gồm tất cả thiện pháp gồm những pháp thuộc về Minh phần.” (Tăng Chi Bộ Kinh  Tập 1, trang 88).

Chúng tôi xin xác định cho quý vị được rõ, vì ở trên chỉ nói lướt qua “Chánh niệm Tỉnh Giác và Thân Hành Niệm”, còn ở đây là hai danh từ để chỉ cho một hành động tu tập Thân Hành Niệm.

Tu tập Thân Hành Niệm là chỉ cho sự tỉnh giác trong hành động của thân phải biết hành động đó rõ ràng cụ thể, không được bỏ sót một hành động nào của thân. Còn Chánh Niệm Tỉnh Giác thì cũng nghĩa như vậy nhưng nó có từ Chánh Niệm để chỉ rõ hơn.

Chúng ta thử đặt lại vấn đề: tỉnh giác để làm gì? Để Chánh Niệm, còn Thân Hành Niệm tức là tỉnh giác, vậy tỉnh giác để làm gì? Tỉnh giác để xả tâm tức là khắc phục tham ưu như trong Tứ Niệm Xứ đức Phật đã dạy: “Trên thân quán thân tu về hành tướng nội ngoại để khắc phục tham ưu.” Hành tướng nội ngoại của thân không phải là Thân Hành Niệm sao? Còn khắc phục tham ưu không phải là Chánh Niệm sao? Cho nên Thân Hành Niệm tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Ở đây đức Phật đã xác định Chánh Niệm Tỉnh Giác có nhiều kết quả rất lớn cho sự tu tập để đi đến giải thoát: “Có một pháp, này các thầy tỳ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, thân được khinh an, tâm được khinh an, tầm tứ được tịnh chỉ, toàn bộ các pháp thuộc về minh phần đi đến tu tập, làm cho viên mãn. Một pháp ấy là gì? Chính là Thân Hành Niệm.” (Tăng Chi Bộ Kinh Tập 1, trang 89).

Như trong đoạn kinh này, mục đích chánh Niệm Tỉnh Giác giúp chúng ta tịnh chỉ tầm tứ, tức là nhập Nhị Thiền. Chánh Niệm Tỉnh Giác còn đưa chúng ta đến chứng bốn quả Thánh: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A-la-hán:

Có một pháp, này các thầy tỳ-kheo, được làm cho sung mãn, đưa đến sự chứng ngộ quả Dự Lưu, đưa đến sự chứng ngộ quả Nhất Lai, đưa đến sự chứng ngộ quả Bất Lai, đưa đến sự chứng ngộ quả A-la-hán. Một pháp ấy là gì? Chính là Thân Hành Niệm.” (Tăng Chi Bộ Kinh  Tập1, trang 90).

Chánh Niệm Tỉnh Giác còn đưa chúng ta đạt đến những trí tuệ vô hạn và siêu việt:

Có một pháp, này các thầy tỳ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến sự chứng đắc trí tuệ, đưa đến sự tăng trưởng trí tuệ, đưa đến trí tuệ rộng rãi, đưa đến quảng đại trí tuệ, đưa đến thâm sâu trí tuệ, đưa đến vô song trí tuệ, đưa đến vô hạn trí tuệ, đưa đến nhiều trí tuệ, đưa đến trí tuệ nhanh lẹ, đưa đến trí tuệ nhẹ nhàng, đưa đến trí tuệ hoan hỷ, đưa đến trí tuệ tốc hành, đưa đến trí tuệ sắc sảo, đưa đến trí tuệ thể nhập. Một pháp ấy là gì? Chính là Thân Hành Niệm.” (Tăng Chi Bộ Kinh  Tập1, trang 91).

Khi con tu tập tỉnh giác trong hành động suốt ngày đêm như vậy là con sẽ chứng quả A-la-hán, tức là làm chủ sanh, già, bịnh, chết hoàn toàn. Vì sức tỉnh thức khiến tâm con thanh tịnh không còn một pháp nào làm động tâm con được. Và nội lực thanh tịnh của tâm con tức là lực ly dục ly ác pháp sẽ giúp con thành tựu Thiền định và Tam Minh một cách dễ dàng không mấy khó khăn.

Lúc bấy giờ, con chỉ cần hướng tâm là có hiệu quả ngay, con muốn gì được nấy vì tâm con hiện giờ thuần thục, nhu nhuyến dễ sử dụng.

Sức tỉnh giác như con đã nói ở trên là mục đích của đạo Phật. Con đã hoàn tất được mục đích đó khi sức tỉnh thức của con được như vậy.

Trên đây con đã hỏi về pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác và con được giảng dạy như vậy con có hiểu chưa? Con có biết những câu hỏi mà con hỏi có một giá trị vô giá không? Vô giá là ở chỗ học được pháp vô giá của đạo Phật, thế mà mọi người đọc tới đây có người vẫn xem thường pháp vô giá. Ôi, thật đáng thương! Nếu từ ngày Thầy giảng trạch pháp này mà mọi người biết nó là vô giá thì bây giờ biết bao nhiêu người đã chứng quả vô lậu A-la-hán.

Con có nhớ không, bài giảng này khởi sự giảng dạy các con vào năm 1979 đến nay là năm 2004 tức là 25 năm. Phải không con? Bây giờ, nhuận lại đoạn kinh này, nhìn lại sự tu hành của các con thì Thầy rất đau lòng. Vì pháp bảo cứu người thoát biển khổ mà mọi người không đủ phước để thọ hưởng, vì thế pháp bảo 25 năm nay trở thành một vật vô dụng.

            Ôi, thật là phí uổng! Vật vô giá mà trao cho người không có mắt thì cũng như trao đất cát, đồ vô dụng cho họ.

40- Phá hôn trầm, thùy miên

Hỏi: Kính thưa Thầy, làm thế nào để phá hôn trầm thùy miên sạch?

Đáp: Muốn quét sạch hôn trầm, thùy miên, vô ký thì trước tiên con phải tập đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác cho nhuần nhuyễn, kế đó phải tu tập pháp Thân Hành Niệm, nếu hai pháp này không thắng nổi hôn trầm, thùy miên thì con nên quan sát lại xem về giới luật.

Chỉ có một pháp duy nhất phá được hôn trầm, thùy miên, hôn tịch, vô ký, ngoan không tuyệt gốc. Đó là “Giới Luật.” Theo sự nhận xét của Thầy thì người tu hành thời nay bị hôn trầm, thùy miên nặng vì giới luật sống không nghiêm chỉnh, thường vi phạm vào những lỗi nhỏ nhặt.

Những giới trọng thì bẻ vụn nát tan để vi phạm không ai biết, sống như đời thường thế tục, nhất là ăn ngủ phi thời, phạm vào giới ăn uống phi thời. Thường thuyết giảng kinh sách mà mình chưa tu chứng, đó là phạm vào giới vọng ngữ. Tứ thời tụng niệm, thường tụng kinh ê a giọng cao giọng thấp theo tiếng chuông tiếng mõ như ca hát, đó là phạm vào giới ca hát.

Hiện giờ các thầy đều còn cất giữ tiền bạc, đó là phạm giới cất tiền. Y áo của quý thầy thường mặc toàn những thứ vải đắt tiền chứ không mặc y phấn tảo như đức Phật ngày xưa, vì thế các thầy phạm vào giới không trang sức. Thường thấy người khác phái còn sinh tâm sắc dục, đó là phạm vào giới dâm. Còn thấy ưa thích những vật dụng thế gian, vật này tốt vật kia xấu, đó là phạm vào giới tham. Thấy muỗi kiến cắn còn nỡ tâm giết hại chúng, chưa có lòng từ bi, thì đó là phạm vào giới sát sanh.

Những sự sống phạm giới, phá giới như vậy là những tu sĩ hiện giờ chịu ảnh hưởng của giáo pháp Đại Thừa, cho rằng giới luật Phật thời nay không phù hợp, lỗi thời. Đại Thừa không ngờ giới luật là một pháp phá hôn trầm thùy miên vô ký tuyệt vời.

Chỉ có giới luật mới phá nổi tâm si của con người mà thôi. Tâm si tức là hôn trầm thùy miên, vô ký, hôn tịch, ngoan không. Nếu không sống đúng giới luật thì không bao giờ phá nổi tâm si (hôn trầm thùy miên, vô ký). Vậy chúng ta hãy nghe đức Phật dạy:

Ta không thấy một pháp nào khác, này các tỳ-kheo, đưa đến hôn trầm thùy miên chưa sanh không sanh khởi, hay hôn trầm thùy miên đã sanh được đọan tận, này các tỳ-kheo, như tinh cần giới, tinh tấn giới, dõng mãnh giới. Người tinh cần, tinh tấn, dõng mãnh, này các tỳ-kheo, hôn trầm thùy miên chưa sanh không sanh khởi, hôn trầm thùy miên đã sanh được đọan tận.” (Kinh Tăng Chi T1 tr.13 bài 8 TK Việt Nam).

Đọc qua đoạn kinh này nhất là câu: “Ta không thấy một pháp nào khác.” Chỉ có Giới luật là pháp duy nhất mới quét sạnh hôn trầm, thùy miên, vô ký. Đây là lời xác quyết của đức Phật. Vậy khi bị hôn trầm thùy miên nặng thì nên trở về giới luật, sống đúng Phạm hạnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì đúng như lời Phật dạy, hôn trầm thùy miên sẽ được quét sạch.

Thưa các bạn! Lời dạy trên đây các bạn có tin không? Chứ riêng bản thân chúng tôi đã có kinh nghiệm trên sự tu tập này. Do chúng tôi sống đúng giới luật không hề vi phạm một lỗi lầm nhỏ nhặt nào nên chúng tôi không bị hôn trầm thùy miên đến thăm như các bạn.

Hôn trầm thùy miên là một loại bệnh lười biếng rất khó trị và dai dẳng, nếu không giới luật thì không có pháp nào trị dứt được. Cho nên chấp nhận cuộc sống tu hành theo Phật giáo thì giới luật là pháp môn ly dục ly ác pháp đệ nhất.

120-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (11). TL Thích Thông Lạc

41- Chỉ có vượt qua

Hỏi: Kính thưa Hòa Thượng, xin Hòa Thượng chỉ dạy cho con được rõ: “Đứng lại thì chìm xuống, bước tới thì trôi dạt, chỉ có vượt qua”. Vậy bước tới và vượt qua khác nhau như thế nào? Con chưa hiểu hết ý ba câu này.

Đáp: Bước tới và vượt qua là hai danh từ khác nhau và nghĩa cũng khác nhau. Để nêu lên ví dụ thì con dễ hiểu hơn.

Ví dụ 1: Có người chửi mắng con; con không chửi mắng lại mà tâm con tức giận, phiền muộn, đau khổ, đó là nghĩa của sự đứng lại.

Ví dụ 2: Có người chửi mắng con; con liền chửi mắng lại, đó là nghĩa của sự tiến tới.

Ví dụ 3: Có người chửi mắng con; con không chửi mắng lại và cũng không giận hờn người đó, đó là nghĩa của sự vượt qua.

Vì sự nghiệp giải thoát của Phật giáo, đệ tử của đức Phật phải thông suốt lý này, nên cuộc sống hằng ngày không chấp nhận đứng lại, vì đứng lại là thiếu đạo đức đối với mình, tự làm khổ mình, không chiến thắng được hoàn cảnh hiện tại, không chuyển hóa được nhân quả; đó là những người thiếu tri kiến giải thoát, phi đạo đức nhân bản làm người. Người như vậy đối với đạo Phật được xem là người vô minh và hèn nhát.

Vì sự nghiệp giải thoát của đạo Phật, người đệ tử của đức Phật không chấp nhận tiến tới, vì tiến tới sẽ làm khổ mình, khổ người; làm khổ mình, khổ người là người phi đạo đức nhân bản làm người. Người như vậy đối với đạo Phật được xem là người ngu si, người mê muội, người không tĩnh giác. Người như vậy được xem là một ác thú chỉ biết gầm hét, đánh đá, cắn xé nhau, tranh giành, chà đạp lên nhau vì vật chất, vì miếng ăn manh áo, v.v...

Vì sự nghiệp giải thoát của đạo Phật, người đệ tử chân chánh của đức Phật chấp nhận sự vượt qua, vì vượt qua là không làm khổ mình, khổ người; không làm khổ mình, khổ người là người có đầy đủ đạo đức nhân bản làm người; là người có trí tuệ tri kiến giải thoát; là người có đầy đủ trí tuệ nhân quả, biết chuyển hóa được nhân quả; là người khôn ngoan, minh mẫn tĩnh giác; là người đệ tử xứng đáng của đức Phật; là người biến cảnh thế gian thành Thiên Đàng, Cực Lạc; là người đầy đủ Phạm hạnh tâm bất động trước các ác pháp, là bậc chân nhân, là người giải thoát khỏi phiền toái của cuộc đời, là người làm chủ được sanh y; là người thiện hữu xứng đáng cho chúng ta làm bạn. Người như vậy là ngọn đuốc sáng soi đường cho chúng ta đi, là tấm gương soi để cho chúng ta soi chiếu lại mình.

42- Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng

Hỏi: Kính bạch Thầy, có một công việc biết là sai, nhưng phải tùy thuận làm, cuối cùng thì phí công, phí của, chẳng lợi ích gì cho mình, cho người. Vậy phải tùy thuận như thế nào?, và tùy thuận không bị lôi cuốn nghĩa là sao? Xin Thầy cho ví dụ.

Đáp: Biết việc làm không lợi ích cho mình, cho người, làm sẽ hoài công vô ích mà cứ làm, đó là người không trí tuệ, chứ không phải sống tùy thuận.

Biết việc làm không lợi ích cho mình, cho người, làm sẽ hoài công vô ích, vì thế không làm, nhưng không chống trái lại việc làm của người khác, mặc dù mình có góp ý nhưng có nghe hay không nghe đó là quyền của người khác, đó là sống tùy thuận. Thấy việc ác không làm theo, nhưng không chống trái việc làm ác của họ, mặc dù chúng ta đã có lời khuyên, đó là sống tùy thuận.

Người ta chửi mắng mình; mình không chửi mắng lại người, nhưng trong lòng có phiền não tức giận là sống nhẫn nhục trong tùy thuận. Người ta chửi mắng mình mà mình không chửi mắng lại, không giận hờn phiền não, đó là sống tùy thuận.

Người ta mời mình đi đánh bạc mà mình khéo léo từ chối không đi đánh bạc là người sống tùy thuận. Người ta mời mình uống rượu mà mình lấy cớ bị bịnh không uống rượu được, đó là sống tùy thuận.

Tùy thuận mà không bị lôi cuốn phải sống như thế nào?

Ví dụ, mình là người ăn chay mà đi dự tiệc cưới, hay đám giỗ hoặc đám ma chay, khi ngồi vào bàn tiệc mình tìm bánh, trái cây để ăn, không ăn thịt, cá, đó là tùy thuận mà không bị lôi cuốn.

43- Tu có đối tượng

Hỏi: Kính thưa Thầy, trong cuộc sống hằng ngày con phải va chạm rất nhiều người và sự việc khiến tâm con bất an. Có phải chăng, nếu con cứ gặp hoài là con không biết tránh duyên? Còn nếu con tránh gặp có phải là con tu không có đối tượng?, hay tại con chưa biết tu?

Đáp: Đúng vậy, chính vì phần đông người ta tu theo đạo Phật, nhưng có mấy ai đã tu đúng theo giáo pháp của đức Phật; mọi người đã tu lạc vào giáo pháp Bà La Môn.

Giáo pháp của Phật dạy: Ngăn ác diệt ác pháp hay: Các pháp ác chớ nên làm. Nếu chúng ta cố tránh duyên thì làm sao có ác pháp đâu để tu tập; nhờ có ác pháp mới thấy được tâm giải thoát, phiền não tức Bồ đề là vậy.

Cho nên, người tu theo đạo Phật phải nghiên cứu và tìm hiểu cho rõ ràng lời dạy của đức Phật rồi mới tu tập, đừng vội cứ nghe đâu nói là Phật thuyết rồi cứ tin theo thì tiền mất tật mang mà còn phí công vô ích.

Có nhiều người hiểu lầm cần phải tránh duyên để sống một mình trong thất tu tập thiền định, sau một thời gian tu tập, chừng nào tâm có nội lực rồi mới tiếp duyên, đó là sự hiểu biết theo kiểu tu tập giáo pháp của Bà La Môn chứ không phải của Phật giáo.

Đức Phật dạy “Sống độc cư”, không có nghĩa là sống tránh duyên, mà sống trong mọi hoàn cảnh, mọi duyên nhưng tâm không phóng dật, tức là sống ngăn ác, diệt ác pháp; tức là sống ly dục, ly ác pháp; tức là sống an trú trong Sơ Thiền.

Từ cuộc sống đó chúng ta suy ra, hạnh độc cư tức là sống trong các chướng ngại mà tâm không hề dao động. Muốn được vậy, thì người tu theo đạo Phật cần phải có đối tượng để tu tập, vì tu tập trong đối tượng nên phải lấy giới luật làm sự sống, làm thành lũy bảo vệ, làm sự phòng hộ sáu căn, làm Phạm hạnh của bậc Phạm thiên.

Nếu tu tập không có đối tượng là tu theo ngoại đạo, là độc cư theo ngoại đạo, hành theo pháp ngoại đạo. Ngược lại, tu theo đạo Phật sống không tránh né các đối tượng mà tâm không phóng dật tức là sống độc cư, sống trầm lặng, vì thế, thiền định của đạo Phật là thiền Xả Tâm, còn tất cả các loại thiền định khác đều là thiền Ức Chế Tâm.

Trong hoàn cảnh của con mà tu tập theo đạo Phật thì phải được trang bị với trí tuệ giới luật, tức là đạo đức làm Người, làm Thánh; đạo đức làm Người, làm Thánh tức là đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Khi được trang bị với đạo đức như vậy mà con khéo áp dụng vào đời sống hằng ngày thì chính là con tu tập theo đạo Phật, và tu tập như vậy mới thật sự là thiền định.

Thiền định của đạo Phật là một loại thiền định thực tiễn giải thoát trong đời sống của chúng ta. Nếu đã tu tập theo đạo Phật thì chúng ta sẽ tìm thấy sự giải thoát ngay liền, tức là tâm chúng ta thanh tịnh, có nghĩa là tâm chúng ta không còn tham, sân, si và không còn phiền não, đau khổ, bất toại nguyện nữa.

Cho nên, người tu hành theo pháp môn của đức Phật càng có đối tượng, càng có chướng ngại pháp thì sự tu nhanh hơn người tu không có chướng ngại. Nhưng sự tu hành có chướng ngại pháp thì người tu sĩ phải có ý chí lớn - cưỡi cá kình vượt sóng to - phải có nghị lực dũng mãnh, phải có gan dạ phi thường, phải có bền chí dẻo dai thì mới tu nổi.

Đạo Phật tu không khó, nhưng khó ở chỗ này, các con nên nhớ lấy: “Tu sai một đường tơ, ngàn năm không thấy đạo”. Chỉ một đường tơ tu sai thì lạc đi hơn ngàn vạn dặm. Đừng nghĩ rằng pháp môn tu nào tu tới rốt ráo cũng về một chỗ. Đừng nghĩ chung chung như vậy không bao giờ có được, vì mỗi con đường đều dẫn về một con đường khác nhau.

Người ở đời muốn cho các tôn giáo hòa hợp, nên mới có những tư tưởng như vậy, nhưng các tôn giáo đều có một mục đích khác nhau, nhất là đối với đạo Phật không có thế giới chân thật; thế giới chỉ là duyên hợp thì làm sao về cùng một mục đích được.

44- Chỉ lỗi người phạm giới

Hỏi: Kính thưa Thầy, thấy quý thầy tu phạm giới, nếu mình nói ra có phải là mình phạm giới hay không? Trong Bồ Tát giới dạy: Nếu nói lỗi của tu sĩ sẽ bị tội đọa. Một cư sĩ có thể nói lỗi của người xuất gia được không?, trường hợp này mình phải làm thế nào?

Đáp: Bồ Tát giới là giới luật của các Tổ đặt ra để bịt miệng các cư sĩ, để mọi người không được nói lỗi của tu sĩ. Đó là lối hăm dọa để ngăn chặn người khác nói lỗi mình, để các vị tỳ kheo tăng và ni tự do phá giới luật Phật, đó là mục đích của Bà La Môn có chủ tâm diệt Phật giáo.

Vì như lời đức Phật dạy: “Giới luật còn là Phật giáo còn; giới luật mất là Phật giáo mất”. Do đó, Bà La Môn biết được như vậy nên chế ra Bồ Tát giới, có mục đích là diệt Phật giáo, tạo điều kiện cho tu sĩ Phật giáo phá giới bằng cách thêm bớt trong kinh sách nguyên thủy rất nhiều.

Các Bà La Môn rất khôn khéo bịa đặt ra câu chuyện để sau này chúng tỳ kheo phá giới mà không có tội: “Trong thời đức Phật còn tại thế, lúc bấy giờ có một vị tỳ kheo trời tối mờ mịt còn ôm bình bát đi khất thực để ăn tối, đến một nhà kia đứng trước cửa. Người chủ nhà mở cửa, thấy một bóng đen đứng lù lù; bà ta sợ hãi và té xỉu. Khi tỉnh lại, bà chửi tan nát vị tỳ kheo ấy. Do đó, khi hay được tin này đức Phật mới chế ra giới cấm ăn phi thời, ngày ăn một bữa”.

Câu chuyện trên đây để chứng minh đạo Phật chấp nhận ăn uống phi thời, nhưng vì lý do xảy ra ở trên nên buộc lòng đức Phật phải chế giới cấm ăn phi thời. Điều này thật vô lý! Bởi vì muốn ly tham, đoạn ác, nên người tu sĩ đạo Phật mới không ăn phi thời, vì ăn phi thời là tâm còn tham; tâm còn tham là đi ngược lại với đạo Phật.

Mười ba năm đầu, tuy không chế giới luật, nhưng chúng tỳ kheo và đức Phật không ăn phi thời, vì họ sống đúng Phạm hạnh, cho nên trong kinh thường nhắc đi nhắc lại: “Vì sự nghiệp giải thoát Ta mới sống đời sống Phạm hạnh”. Thưa quý vị, sống đời Phạm hạnh có ăn phi thời không?

Giới luật còn là có người tu chân chánh; giới luật mất là không có người tu chân chánh, vì thế, hiện giờ thắp đuốc lên đi tìm một bậc chân tu của Phật giáo khắp năm châu bốn biển vẫn khó mà tìm thấy được.

Đối với Phật giáo, một người cư sĩ có quyền nêu rõ những vị tỳ kheo phạm giới, phá giới, bẻ giới mà không có lỗi gì cả. Tại sao vậy? Tại vì những người dám chỉ thẳng lỗi của người xuất gia, là những người biết xây dựng tốt nhiều mặt cho đạo và cho đời:

              1- Giúp cho các vị tỳ kheo trở lại tu tập theo con đường chân chánh: “Giới luật nghiêm chỉnh”.
              2- Giúp cho các vị tỳ kheo không còn mượn chiếc áo đạo tạo cuộc sống thế gian.
              3- Giúp cho các vị tỳ kheo không còn lừa đảo tín đồ và mọi người.
              4- Khiến cho Phật giáo được hưng thịnh và trường tồn.
              5- Khiến cho mọi người không còn khinh chê Phật giáo.
              6- Khiến cho mọi người dù là người không tôn giáo cũng luôn luôn kính trọng Phật giáo.

Như vậy, sự chỉ trích và chỉ thẳng tội lỗi phạm giới của những vị tỳ kheo có ích lợi như vậy thì quý vị nghĩ sao? Dù cho thật sự có tội, nhất định chúng ta cũng không sợ phải không hỡi quý bạn? Là vì làm lợi ích cho đời, cho đạo quá rõ ràng.

Nếu chúng ta che dấu những vị tỳ kheo phạm giới, phá giới thì chúng ta có lỗi rất nặng, đó là tội a dua a tòng theo Bà La Môn diệt Phật giáo, và tội ác nặng nhất là làm mất đạo đức nhân bản của loài người.

45- Tu tập pháp nào hết lậu hoặc?

Hỏi 1: Kính bạch Thầy, chúng con là những người mới vào tu, kinh điển Thầy giảng dạy quá nhiều, nhất là giáo án đường lối tu tập của đạo Phật rất là mênh mông, từ giới đức, giới hạnh, giới tuệ đến giới hành. Chúng con như người lạc vào rừng rậm, chẳng biết lối nào ra. Vậy ngưỡng mong Thầy từ bi thương xót chỉ vạch cho chúng con lối ra?

Đáp: Người mới bắt đầu tu tập theo đạo Phật thì phải sống đúng giới luật. Muốn sống đúng giới luật thì người tu sĩ phải học giới luật cho thông suốt, mỗi giới luật phải biết đức hạnh giới luật ở đâu, và hành giới chỗ nào, để thân khẩu ý không phạm giới, giới luật không bị bẻ vụn, ngày ngày sống đúng giới hạnh.

Kế đến, lấy giới bổn phòng hhộ 6 căn, không cho mắt dính sắc, tai dính tiếng, mũi dính mùi, lưỡi dính vị, va chạm dính thọ, ý dính pháp.

              Kế nữa, phải tập sống đời sống thiểu dục tri túc. Hằng ngày chia thời gian tu tập các định:
              1- Định Chánh Niệm Tĩnh Giác (Thân Hành Niệm).
              2- Định Niệm Hơi Thở (ổn định hơi thở bình thường, tập tụ điểm).
              3- Định Vô Lậu: quán, hướng, xả (bất tịnh, vô thường, khổ, không, vô ngã, v.v...).
              4- Định Chánh Niệm Tĩnh Giác câu hữu Pháp Hướng Vô Lậu.
              5- Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Pháp Hướng Vô Lậu.
              6- Định Chánh Niệm Tĩnh Giác câu hữu với Định Niệm Hơi Thở.

Tất cả các pháp hành này đều nhắm vào diệt ngã, xả tâm ly dục ly ác pháp, để tâm được giải thoát (an lạc, thanh thản và vô sự). Đây là Giai Đoạn Thứ Nhất mà một vị tu sĩ cần phải chấp hành nghiêm chỉnh, tu tập hằng ngày không được biếng trễ.

Hỏi 2: Kính bạch Thầy, làm sao biết được tâm mình hết lậu hoặc?

Đáp: Tâm hết lậu hoặc là tâm thường quay vào trong thân, không phóng dật theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; trạng thái tâm lúc này thanh thản và an lạc, tâm tư phát khởi điều thiện đối với các pháp. Luôn nghĩ tốt về mọi người, không bao giờ có ý nghĩ xấu với người khác.

Ngược lại, tâm chưa hết lậu hoặc thường lo xa, suy tư chuyện này đến chuyện kia, khởi tâm ham muốn cái này cái kia hay sanh ra việc làm phá hạnh độc cư nói chuyện phiếm, thân tâm luôn hữu sự, đầu óc đầy ắp những sự việc.

Hỏi 3: Kính bạch Thầy, con chỉ tu một pháp hướng: “Tâm như đất” hằng phút, hằng giây, hằng giờ; con liên tục hướng tâm mình như vậy, có hết lậu hoặc (phiền não) không thưa Thầy?

Đáp: Không, tu như vậy không bao giờ hết lậu hoặc (phá sạch phiền não).

Hỏi 4: Kính bạch Thầy, con tập sống đúng giới luật của Phật, không vi phạm một lỗi nhỏ, hằng ngày con tu một pháp hướng: “Tâm như đất” có kết quả hết lậu hoặc không?

Đáp: Chỉ được 50% chứ không dứt hết lậu hoặc.

Hỏi 5: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật và con nhìn cuộc sống bằng đôi mắt nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và con tu tập chỉ một pháp hướng: “Tâm như cục đất” hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây, như vậy tâm con có hết lậu hoặc không, thưa Thầy?

Đáp: Hết, tu như vậy tâm con sẽ ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm. Cuộc sống tâm hồn con sẽ an lạc, thanh thản như đất.

Hỏi 6: Kính bạch Thầy, con sống không đúng giới luật, nhưng con tu Chánh Niệm Tĩnh Giác Định kết hợp với Định Vô Lậu hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, như vậy có diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp được chăng?

Đáp: Chỉ hoài công vô ích, con tu như vậy giống như người nấu cát mà mong thành cơm.

Hỏi 7: Kính bạch Thầy, con không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, nhưng con sống với đôi mắt nhìn đời bằng nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và tu tập định Chánh Niệm Tĩnh Giác câu hữu (kết hợp) với Định Vô Lậu, như vậy con có hết lậu hoặc không?

Đáp: Không, con tu như vậy chỉ được 50% mà thôi.

Hỏi 8: Kính thưa Thầy, con sống đúng giới luật nghiêm chỉnh, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả và tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác Định câu hữu với Định Vô Lậu. Như vậy, con diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp được chăng?

Đáp: Được, con tu như vậy tâm con sẽ hết lậu hoặc, thanh thản và an lạc.

Hỏi 9: Kính bạch Thầy, con sống không đúng giới luật, con tu Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Định Vô Lậu. Kính thưa Thầy, con tu như vậy tâm con có hết lậu hoặc hay không?

Đáp: Không, con tu như vậy chỉ hoài công vô ích.

Hỏi 10: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật, con tu Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Định Vô Lậu, như vậy tâm con có hết lậu hoặc không?

Đáp: Con tu như vậy chỉ xả được tâm lậu hoặc 50%.

Hỏi 11: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Con tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Định Vô Lậu. Như vậy, con có diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp được không thưa Thầy?

Đáp: Được, con tu như vậy sẽ ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền rất dễ dàng; tâm lậu hoặc xa lìa để lại một trạng thái an lạc, thanh thản do ly dục sanh.

Hỏi 12: Kính bạch Thầy, con sống đúng giới luật, giữ gìn nghiêm túc không vi phạm một lỗi nhỏ, không bẻ vụn giới luật, nhưng con không tu Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu, như vậy con có hết lậu hoặc không?

Đáp: Không, đó là một lối ức chế tâm, hình thức thì giới luật nghiêm trì, nhưng tâm thì giới luật đã bẻ vụn. Tu như vậy chỉ hoài công, khổ hạnh cho mình chẳng ích lợi gì, giống như các vị sư Khất sĩ (lấy giới nén tâm) chẳng bao giờ ly dục ly ác pháp được, chỉ uổng một đời tu mang hình thức giới luật.

Hỏi 13: Kính bạch Thầy, con không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh; con không tu các loại định mà chỉ sống nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, không làm khổ mình, không làm khổ người. Như vậy con có hết lậu hoặc hay không?

Đáp: Không, nếu sống nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, đó là con đã thực hiện đạo đức Nhân Quả đem lại cuộc sống an lành, hạnh phúc cho gia đình, đem lại cuộc sống hòa hợp an vui cho xã hội và đem lại trật tự phồn vinh cho đất nước, chớ không thể nào con hết lậu hoặc (tham, sân, si) được.

Hỏi 14: Kính bạch Thầy, con không sống đúng giới luật, không tu Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, con chỉ tập Định Niệm Hơi Thở diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền... Tam Thiền, Tứ Thiền có được không thưa Thầy?

Đáp: Không, con tu như vậy sẽ rơi vào tà thiền, tà định mà chẳng bao giờ nhập Tam Thiền được, nhập Tứ Thiền được. Những loại Thánh Định này không để một người còn mang tâm trạng phàm phu mà nhập vào được. Một người chưa ly dục, ly ác pháp thì không thể nào nhập vào các Thánh Định này.

Vị tỳ kheo phá giới, phạm giới, ăn ngủ phi thời thì Bốn Thánh Định này chỉ là ngôn ngữ suông, chẳng ai nếm được mùi vị của nó. Bởi vậy, một vị tỳ kheo tu sĩ Phật giáo phải sống đúng giới luật, phải nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, phải tu tập Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định Niệm Hơi Thở thì mới ly dục ly ác pháp, mới diệt ngã xả tâm, mới nhập vào Sơ Thiền, v.v... Đạt được trạng thái ly dục ly ác pháp này, người tu mới có thể nhập Nhị Thiền đến Tứ Thiền và Tam Minh.

Còn giai đoạn thứ nhất không thực hiện được; tâm chưa hết lậu hoặc (phiền não) mà gọi nhập Tam Thiền, Tứ Thiền, thì đó là một điều phỉnh gạt người khác.

121-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (12). TL Thích Thông Lạc

46- “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”

Hỏi: Kính thưa Thầy, “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”“tâm bất động trước các pháp” có phải giống nhau không?

Đáp: Không, “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”“tâm bất động trước các pháp” là hai pháp khác nhau như một trời một vực.

Câu “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền” có nhiều nghĩa như:

1- Tâm chai lì vì chịu đựng quá nhiều sự bất hạnh, nên lì mặt ra như không có chuyện gì xảy ra cả, nghĩa là quá quen thuộc với các ác pháp.

2- Tâm lọt vào chỗ không ngơ (như như) trở thành cây đá chẳng còn phân biệt giống như một cỗ máy. Hòa thượng chùa Phước Hậu tu Tịnh Độ, ức chế tâm lọt vào chỗ như như, nên Hòa thượng có để lại một bài kệ:

             Kinh điển Phật truyền tám vạn tư
             Tu hành không thiếu cũng không dư
             Đến này chừng đã như quên hết
             Chỉ nhớ trên đầu một chữ “Như”

Câu chuyện Hòa thượng lội qua sông sau đây chắc nhiều phật tử nghiên cứu Thiền và Tịnh Độ tông cũng đã biết. Người ta kể lại, khi Hòa thượng lội qua sông và lên bờ thì Hòa thượng quên mặc quần áo, cứ để trần truồng mà đi; người thị giả chạy theo gọi Hòa thượng mặc quần áo thì Hòa thượng mới nhớ.

Tu hành mà trí tuệ quên như vậy thì quý vị nghĩ sao?, có giống như người máy không? Đó chính là “đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”. Thiền định như vậy chúng ta tu để làm gì, để trở thành người mất trí ư?!

3- “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”, đó là một cụm từ rất kêu của Thiền tông dùng để nói lý thuyết, chứ không phải sự sống thiền là như vậy. Thiền tông không ngờ, khi tu tập đến chỗ chẳng niệm thiện niệm ác, tưởng là đối cảnh vô tâm, nào ngờ lại trở thành lẫn trí. Trong khi chúng tôi về học và tu thiền ở Chân Không trong khóa tu thứ nhất, ở đấy có một vị Đại diện Phật giáo tại tỉnh Vĩnh Long đồng tu học với chúng tôi. Không biết ông tu thế nào, nhưng sau này chúng tôi được biết ông trở thành người lẫn trí.

Trong cuộc đời tu hành của chúng tôi có biết bao nhiêu bạn tu thiền Đông Độ, nhưng chúng tôi chưa từng thấy người nào “đối cảnh vô tâm”, là vì tất cả quý vị hiện giờ đều hữu tâm.

Hữu tâm như thế nào? Chùa to, Phật lớn, xe cộ đầy đủ, nói chung về vật chất thế gian có vật gì thì quý thầy đều có đầy đủ như: tủ lạnh, máy điều hòa, radio, cassette, tivi, v.v... Như vậy làm sao gọi quý thầy là vô tâm được.

Bất Động Tâm Định là tên gọi một kết quả thiền định xả tâm của đạo Phật, để chỉ cho một quá trình tu tập đức hạnh và giới luật của bậc Thánh tăng, để diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp, chứ không phải là những danh từ suông như Thiền tông dùng “đối cảnh vô tâm”.

Bất Động Tâm Định là chỉ cho một trạng thái vô tham, sân, si của một hành giả tu tập đúng giáo pháp nguyên thủy, mà xưa kia đức Phật đã thành tựu viên mãn và đã từng dạy cho các đệ tử của mình.

Vậy khi chúng ta bị đánh rất đau, thì lúc bấy giờ chúng ta có Vô Tâm được hay không? Trái lại, Bất Động Tâm khi bị đánh chúng ta không vô tâm nên biết đau rất rõ, nhưng chúng ta không giận người đánh, không phiền não cho số phận của mình, mà chúng ta biết nhân quả rất rõ, biết thiện ác không sai, biết tâm mình không dao động trước cái đau. Đó là tâm bất động trước các pháp.

Tóm lại, khi tu tập tâm hết tham, sân, si thì gọi là Bất Động Tâm Trước Các Pháp, nó còn có một cái tên khác nữa là Vô Tướng Tâm Định; Vô Tướng Tâm Định đó là một trạng thái hoàn toàn giải thoát của đạo Phật. Chính nó là Niết Bàn của chư Phật.

47- Khởi niệm thỏa mái

Hỏi: Kính bạch Thầy, hằng ngày con cứ tác ý “khởi niệm thoải mái”, rồi xem niệm nào là niệm tham, sân, si thì con quán xét từ bỏ, nếu niệm nào là thiện, có lợi cho mình, cho người thì con tiếp tục theo niệm ấy. Bạch Hòa Thượng, đó có phải là ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp không? Nếu con có hiểu sai, xin Hòa Thượng giảng cho con rõ.

Đáp: Đúng vậy, con đã hiểu đúng; cách thức tu tập thiền định của đạo Phật là như vậy, nên sự tu tập này đức Phật gọi là Định Tư Cụ, có nghĩa là phương pháp tu tập thiền định.

Con tu như vậy con có thấy kết quả giải thoát đau khổ không? Nếu có kết quả giải thoát tâm con không còn buồn rầu, sợ hãi, giận hờn, phiền toái, đau khổ, v.v... thì con đã tu đúng. Nếu có thật sự như vậy tức là con đã ngăn và diệt được ác pháp; con hãy cố gắng tiếp tục tu tập để tạo cho mình một cảnh sống thiên đàng tại thế gian này. Hãy tự thắp đuốc lên mà đi con ạ! Không ai thay thế đi cho con được, mà phải chính con.

48- Nhân quả

Hỏi: Kính bạch Thầy, từ khi thầy Thông Vân bịnh, về Châu Đốc, sau ba, bốn ngày đầu thầy đã bình phục trí nhớ như cũ, chỉ có sức khỏe hơi kém. Từ khi bình phục, thầy giữ giới ăn một bữa trở lại và dạy chúng con theo đường lối của Hòa Thượng: “Tâm như cục đất”. Thầy còn định cho phật tử thọ Bát Quan Trai theo cách của Hòa Thượng. Lúc nào tâm trí của thầy cũng hướng về Hòa Thượng. Từ khi con theo thầy Thông Vân học đến nay, con thấy thầy hơn hẳn những vị thầy mà con đã biết. Nhất là về giữ gìn giới luật.

Bạch Hòa Thượng, tại sao thầy ấy lại phải trả một cái quả nặng? (Trước đây vài năm, thầy cũng đã một thời gian bịnh như vậy) bịnh này có còn tái phát nữa hay không?, và làm sao để dứt trừ nó được? Con hỏi là vì chúng con quý thương thầy Thông Vân, chứ không phải cầu Hòa Thượng làm thầy bói. Mong Hòa Thượng thương xót mà giải thích cho chúng con hiểu.

Đáp: Bịnh của thầy Thông Vân là bịnh thần kinh bại liệt do nghiệp căn đời trước. Đời trước thầy cũng dạy người tu thiền định nhưng lại là thiền định ức chế tâm, nên có một số người thần kinh yếu kém, do sự tu tập ức chế tâm quá mạnh nên rối loạn thần kinh thành bịnh như thầy ấy hôm nay vậy.

Hiện giờ có một số người đang theo tu thiền Đông Độ, Mật tông và Tịnh Độ tông; họ đã bị bịnh thần kinh bại liệt, nhưng chúng ta không biết là vì các chùa đều bưng bít.

Vấn đề quan trọng là ở chỗ nhân quả. Nếu trong đời sống tu hành, chúng ta dạy người tu thiền mà có một người bị bịnh này thì chúng ta phải một lần trả quả thuộc về bịnh này, nếu có hai người bị bịnh thì phải trả quả hai lần, nếu có 3 người, 4 người, 5 người thì phải trả quả 3, 4, 5 lần bịnh này.

Cho nên Thầy khuyên các con muốn tu hành thiền định thì hãy chọn cho kỹ lưỡng. Pháp nào ức chế tâm dừng vọng tưởng, tập trung quá mạnh thì không nên tu tập, nếu lỡ thần kinh yếu kém bị bịnh thì rất khổ cho mình và cho những người than thương của mình.

Bịnh này khi nào thầy Thông Vân trả hết nghiệp thì không còn tái phát nữa. Muốn dứt trừ bịnh này bằng cách chuyển nghiệp thì thầy Thông Vân phải dạy phật tử tu tập thọ Bát Quan Trai xả tâm, chứ không nên dạy tu tập thọ Bát Quan Trai ức chế tâm, đồng thời thầy Thông Vân phải tu tập có đối tượng để xả tâm ly dục ly ác pháp, chứ không nên tu tập không đối tượng, vì tu tập không đối tượng thầy sẽ bị ức chế tâm và bịnh cũ tái phát.

Tu tập như vậy có nghĩa là thầy sống tiếp duyên với mọi người bình thường, nhưng lúc nào cũng giữ gìn phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý và trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp thường xuyên quán xét và đẩy lui các chướng ngại pháp; tu tập rất bình thường nhưng lại không bị ức chế tâm, kết quả sẽ mang đến cho thầy một tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Nhờ sống chuyển nghiệp - dạy phật tử tu tập Bát Quan Trai - và biết cách phòng hộ và tu Tứ Niệm Xứ xả tâm thì bịnh thầy Thông Vân không bao giờ tái phát.

Pháp môn tu hành của đức Phật là pháp môn xả tâm tham, sân, si, nhưng người tu không thiện xảo cũng sẽ bị ức chế tâm, và như vậy là tu sai pháp.

Giới luật là một đạo đức, nếu chúng ta sống không biết cách xả tâm thì đạo đức kia chỉ là một thứ đạo đức giả, có nghĩa là ức chế tâm chịu đựng dưới hình thức giới luật. Mà đã ức chế tâm dưới mọi hình thức nào thì cũng có thể bị bịnh bại liệt thần kinh.

                                                                         Thầy gửi lời thăm và chúc con vui mạnh, tu tập xả tâm tốt.
                                                                                                                    Kính thư.
                                                                                                            Thầy của các con.

49- Tu tập nhiếp tâm, an trú tâm trong bao lâu?

Hỏi 1: Thầy kính mến! Từ khi tu tập thiền theo phương pháp Thầy hướng dẫn, mỗi lần đi ra đường con cảm thấy rất ngộp thở, cảm giác như là sắp tắt thở, và lúc nào cũng như là cần hơi thở lắm vậy.

Có nhiều lúc con nghĩ là phải gọi xe đưa đi bịnh viện. Khi đi mua sắm với vợ thì con cảm thấy rất mệt, và phải nằm trong xe để bà xã con đi vô trong trước. Không biết là tại sao? Con bắt đầu ngồi thiền từ lúc 15 tuổi, và bây giờ là 40 tuổi, chưa bao giờ con bị trong trạng thái này. Lúc trước con ngồi thiền là ngồi theo phương thức Yoga, có nghĩa là con ngồi với trạng thái thả lỏng, không suy nghĩ gì.

Nhưng khi đọc phương pháp của Thầy, thì con có cảm giác là phương pháp của Thầy có một cái gì đó sáng suốt và làm cho mình tự chủ bản thân mình hơn, cho nên con quyết tâm hành theo phương pháp của Thầy. Nhưng con cứ bị rớt vào tình trạng này hoài. Con không làm việc và đi đâu được hết, cứ bước ra đường là bị ngộp thở, ngồi lái xe không cũng ngộp. Về nhà nằm nghỉ hoặc ngủ một giấc thì hết trạng thái bị ngộp, mà ngủ thì phải uống thuốc ngủ thì mới ngủ được, còn không để lâu không ngủ con sợ bị nguy hiểm.

Có đôi lúc con tự nhủ: “Thôi, chết đi cũng được”. Con biết những cảm giác này là tạm thời; một là do cơ thể; hai là do tâm mình, nhưng lại không biết trị bằng cách nào. Xin thầy chỉ điểm!

Thường thì khi ngủ dậy là con bắt đầu ngồi thiền; đây là thói quen từ xưa đến nay. Thiền giúp con trong công việc nhiều lắm. Thường con ngồi thiền đến khi nào thấy mỏi thì con ngưng; con không biết thời gian là bao lâu. Khi ngồi thiền từ xưa tới nay con hay nhắm mắt ngồi thiền, như vậy có đúng không thưa thầy?

               Con hiện giờ như là sống trong cõi địa ngục.
               Con vạn lần cầu xin thầy cứu con!

Đáp: Những trường hợp xảy ra như ngộp thở, tức ngực, nặng đầu là tu lâu một pháp. Phật có 37 pháp tu tập từ thấp đến cao, chớ đâu có tu tập một pháp mà chứng đạo được.

Nhiếp tâm và an trú chỉ là giai đoạn mới tu. Khi nhiếp tâm chừng 30 phút thì thay đổi pháp. Do con tu một pháp hơi thở nên ngộp thở là phải. Muốn hết ngộp thở thì đừng tu tập thiền nữa là hết. Mục đích của đạo Phật là tâm không phiền não, giận hờn, ham muốn, chớ không có thiền định gì cả. Vì thế, đức Phật dạy ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện, chớ đâu có dạy chúng ta ngồi thiền nhập định. Ngồi thiền nhập định là các Tổ Trung Hoa dạy. Do dạy không đúng pháp, nên người sau tu tập thành bệnh.

Con muốn tu tập theo pháp Thầy thì ngồi chơi xem tâm mình có còn ham muốn, giận hờn gì không? Nếu không thì đó là tâm bất động, còn có niệm Tham, Sân, Si là tâm còn động, còn các niệm khác ngoài tham, sân, si là tâm không động.

Hỏi 2: Kính thưa thầy! Thầy dạy tu sinh chúng con tại Tu Viện Chơn Như tu tập giai đoạn 1 là tu tập nhiếp tâm và an trú tâm trên thân hành ngoại (đi Kinh Hành, đi Thân Hành Niệm), hoặc trên thân hành nội (19 đề mục Định Niệm Hơi Thở). Vậy thời gian tu tập bao lâu, và kết quả như thế nào mới xong giai đoạn 1? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.

Đáp: Thời gian tu tập không phải lâu. Người nào dở thì tu tập tối đa là 3 tháng. Còn người giỏi chỉ cần 1 tuần lễ là tu tập xong giai đoạn 1. Nhưng làm sao biết người nào là giỏi; người nào là dở?

Người giỏi là khi nhiếp tâm thì tâm không phóng niệm này niệm kia lăng xăng. Còn khi tu tập nhiếp tâm mà cứ niệm này niệm kia lăng xăng thì người đó là dở.

Hỏi 3: Đối với phật tử tu tập tại gia, hoặc tu sĩ còn tiếp duyên, chưa độc cư chuyên tu miên mật thì tu tập các pháp trú tâm, gom tâm trên thân hành của giai đoạn 1 này trong thời gian bao lâu? Kính xin thầy chỉ dạy.

Đáp: Trong các pháp tu tập nhiếp tâm, an trú tâm của giai đoạn 1, có pháp Định Niệm Hơi Thở thì các con phải hết sức thận trọng. Nó là pháp tu tập trên thân hành nội, nên rất nguy hiểm nếu tu tập không đúng. Nếu các con không ở tại Tu Viện Chơn Như thì tốt nhất không nên tu tập hơi thở, vì không có vị thầy hướng dẫn, kiểm tra sự tu tập của các con.

Đối với các pháp tu tập trên thân hành ngoại như đi Kinh Hành hay đi Thân Hành Niệm, các con cũng chỉ nên tu tập tối đa là 6 tháng, không nên tu tập kéo dài thời gian cả năm. Nhất là tu tập một pháp trong nhiều năm là sai, là dính mắc vào pháp tu. Tu như vậy rất dễ lọt vào tưởng nên rất khó tiến tu sau này.

Các con nên nhớ, chỉ tu tập nhiếp tâm và an trú tâm kéo dài nhiều nhất là 6 tháng, đối với người phật tử tại gia. Thay vì người chuyên tu họ tu tập một ngày 4 thời; mỗi thời tu tập 3 tiếng, thì người tu tập tại gia nên thu xếp mỗi ngày tu tập 1 hoặc 2 thời; mỗi thời tu tập từ 30 phút đến 1 tiếng, không nên tu nhiều.

Các con nếu muốn tu tập làm chủ được các nỗi khổ đau trên thân tâm thì phải tu tập có căn bản giai đoạn 1 của người cư sĩ. Còn nếu các con tu tập cho lấy có, tu thử hay tu chơi thì chỉ uổng phí công sức và thời gian mà thôi.

50- Về việc trao y bát và truyền tâm ấn?

Hỏi 1: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được biết về việc trao Y Bát như thế nào?

Đáp: Đọc hết trong tạng kinh Nikaya, không thấy chỗ nào đức Phật trao Y Bát và chỉ định người thừa kế Phật làm Tổ thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư, v.v... Lúc sắp Niết Bàn, Phật dạy các đệ tử: “Này các tỳ kheo, hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp của ta làm Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành; đừng lấy ai làm Thầy, làm chỗ nương tựa, mà phải tự mình thắp lên ngọn đuốc mà đi”.

Việc Truyền Trao Y Bát trong kinh sách Đại Thừa là do các Tổ dựng lên câu chuyện Niêm Hoa trên núi Linh Thứu, Tổ Ca Diếp mỉm cười. Câu chuyện này trong kinh Pháp Hoa để tạo nguyên nhân sản xuất ra cuốn sử 33 vị Tổ sư thiền Ấn Độ và Trung Hoa, lấy Y Bát (vật hữu hình) làm Ấn Chứng, tạo niềm tin cho tín đồ với mục đích Truyền Tâm Ấn (vật vô hình).

Hỏi 2: Đức Phật khi còn tại thế, có trao y bát cho các đệ tử và truyền tâm ấn không?

Đáp: Không! Y bát là những vật dụng tầm thường trong đời sống hằng ngày, đâu có gì quan trọng trong việc tu hành, nhất là giới luật đức hạnh nhân bản - nhân quả lại không cho phép tu sinh dính mắc vào những vật dụng thuộc về pháp hữu vi. Vả lại, Phật giáo có cái nhìn như thật, nên các pháp hữu vi đều vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta cả. Cho nên, việc trao y bát và truyền tâm ấn là một việc bịa đặt của người sau. Chúng ta là những người tu theo bốn chân lý của Phật giáo, thì không nên tin vào những điều ảo tưởng, mơ hồ không thật, trừu tượng ấy.

Hỏi 3: Y bát còn có ý nghĩa gì cao siêu mà con chưa hiểu, xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho con?

Đáp: Y là những vật dụng dùng để mặc cho kín thân, và bát là vật dụng dùng để ăn uống hằng ngày do phật tử cúng dường. Khi y rách hay bát bể thì phật tử cúng dường thay cái khác. Cho nên những vật dụng tầm thường như vậy không có gì là cao siêu và thần thông cả.

Các tăng sinh nên hiểu: “Đạo Phật là đạo như thật đạo của con người, cho nên nó không có gì là cao siêu huyền bí cả. Nó chỉ cho con người biết đâu là đạo đức của con người, để làm con người sống thật là con người; và đâu không phải là đạo đức con người, để mọi người biết đó là con thú vật mang hình người”.

Nhờ biết sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh, nên con người sống được bình an, yên vui và hạnh phúc hơn các loài động vật khác. Ngược lại, con thú vật sống trong khổ đau và thường tranh đấu làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh...

Đạo Phật là đạo như thật, nên những gì cao siêu, thần thông hoặc nói về thế giới siêu hình thì không phải là của Phật giáo, mà của các tôn giáo khác. Bởi những tôn giáo xây dựng trên thế giới siêu hình là không phải tôn giáo của con người; nó là tôn giáo của thần tiên, của thế giới ảo tưởng.

Những người đầu óc giàu tưởng tượng như các nhà Đại Thừa và Thiền Tông, mới biến chiếc y thượng của Tổ phủ trùm một khu đất rộng lớn cò bay thẳng cánh, và cái bát dùng thọ thực hằng ngày thu hết cả dòng họ Thích của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vào mà không chật. Đó là một ảo tưởng tuyệt vời của các Tổ ngày xưa huyền thoại dựng nên.

122-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (13). TL Thích Thông Lạc

51- Các câu hỏi về nhân quả

Hỏi 1: Đức vượt qua nhân quả, đức làm chủ nhân quả, đức chấp nhận nhân quả, ba đức này có nghĩa là gì? Và có sự khác nhau như thế nào?

Đáp: Ba đức này có nghĩa khác nhau.

1- Đức Vượt Qua Nhân Quả có nghĩa là nhân quả đến mà không tác động được thân tâm của chúng ta. Ví dụ, có người mắng chửi chúng ta, chúng ta nghe thấy biết rất rõ ràng, nhưng tâm chúng ta không có chút sân giận, và cũng không phân bua trái phải với người ta, thường sẵn sang giúp đỡ người mắng chửi mình khi họ gặp nhân quả xấu.

Theo đức Phật dạy: “Nhân quả chỉ có vượt qua”, mà vượt qua nó bằng Đức Thành Thật. Cho nên, mình làm điều gì ác hay thiện, chỉ có đức thành thật thì sẽ vượt qua mọi nhân quả ác, thiện. Quý vị nên nhớ lời này mà Phật đã dạy: “Đứng lại thì chìm xuống. Tiến tới thì trôi dạt. Chỉ có vượt qua”.

2- Đức Làm Chủ Nhân Quả có nghĩa là từ hành động thân, miệng, ý của mình, trước khi làm hay nói chúng ta đều có sự suy tư tính toán mỗi hành động không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, rồi mới nói hay làm. Đó là cách thức làm chủ nhân quả.

Làm chủ nhân quả tức là làm lợi ích cho người khác, vì thế ai cũng làm như vậy là đã làm chuyển đổi nhân quả ác trở thành nhân quả thiện; từ cảnh giới Địa ngục để trở thành cảnh giới Thiên đàng, chỉ có hành động làm lợi ích cho người, đừng vì lợi ích cho mình.

Nếu mọi người hiểu biết về nhân quả thì nên sống vì mọi người; sống vì mọi người thì cuộc sống của chúng ta là Thiên đàng quí vị ạ! Sống vì mọi người rất hạnh phúc. Tại sao vậy? Vì mọi người có an vui thì sự an vui của mình mới lâu dài.

Nhìn lại cuộc sống của chúng ta hiện giờ như thế nào? Hầu hết mọi người chỉ biết nói nhân quả, nhưng chưa thật sống với nhân quả. Cho nên, cuộc sống của loài người trên thế gian là Địa ngục, vì con người chỉ biết sống vì mình, chớ không vì người, vì vậy mà sự xung đột và chiến tranh thường xảy ra khắp trên thế giới không nước này thì nước khác. Đó là sống phi nhân quả nên loài người phải chịu mọi khổ đau, cũng chính nhân quả mình làm m.nh chịu.

3- Đức Chấp Nhận Nhân Quả có nghĩa là biết Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng dù bất cứ một nhân quả nào xảy đến. Đức chấp nhận nhân quả thì phải dùng cả ba đức này thì mới gọi là chấp nhận nhân quả, thiếu một đức thì không thành đức chấp nhận nhân quả.

Đức chấp nhận nhân quả tức là Lòng Yêu Thương. Ở đâu có lòng yêu thương là ở đó có sự chấp nhận nhân quả. Cho nên, chúng ta chấp nhận nhân quả là vì chúng ta yêu thương mình, yêu thương người, yêu thương tất cả chúng sinh, và ngay cả hoàn cảnh xảy ra chúng ta vẫn yêu thương.

Hỏi 2: Đức vượt qua nhân quả có phải là đức làm chủ nhân quả hay không?

Đáp: Không, đức vượt qua nhân quả và đức làm chủ nhân quả Thầy đã giảng ở trên, nó không phải là một đức.

Đức Vượt qua nhân quả bằng đức Buông Xả; nhờ có buông xả mà Vượt Qua Nhân Quả. Bản chất con người không buông xả; do không buông xả mà con người phải chịu vô cùng khổ đau.

Tất cả các pháp đều vô thường, nên chúng là khổ đau, vì thế ai biết buông xả là người thoát khổ, còn ai không biết buông xả thì khổ đau không bao giờ dứt. Người tu theo Phật giáo cũng chỉ có việc buông xả mà chứng đạo.

Con người ở đời rất là u mê, chết không mang theo vật gì, vậy mà sống thì ôm đồm, không dám buông xả, cứ khư khư giữ chặt, cho nên chịu khổ là phải. Vậy mà ở đây có người tu hành lại phóng dật thưa hỏi lung tung. Sao không biết buông xả xuống đi, để thân tâm được giải thoát trong trạng thái tâm bất động; chỉ được im lặng có một chút xíu là thưa hỏi Thầy lăng xăng, đó không phải là Phóng Dật sao?

             Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!
             Chớ giữ làm chi, có ích gì?
             Thở ra chẳng lại, còn chi nữa?
             Vạn sự vô thường, buông xuống đi!

Bốn câu kệ này là lời nhắc nhở mọi người tu hành cần phải buông xả, thế mà quý vị có buông xả đâu, cứ thưa hỏi điều này thế kia để huân tập thêm sự hiểu biết; sự hiểu chỉ là cái tủ đựng kinh sách rỗng tuếch, chẳng có ích lợi gì.

Sợ các con không biết buông xả, cho nên Thầy dạy thêm một bài kệ nữa nói lên phương pháp tu tập, nhưng nào ngờ các con có tu tập chỗ nào đâu, cứ phóng dật lung tung, thưa hỏi những đều vơ vẩn. Nên ngậm im miệng lại, để nó mốc meo thì may ra mới chứng đạo. Nếu thấy tu không được, tâm phóng dật thì nên về trông nom con cháu, nhà cửa còn có lợi ích hơn.

             Tác ý đi, hãy tác ý đi!
             Bất động, thanh thản, chẳng sầu bi.
             Tác ý đi, còn lo chi nữa?
             Giải thoát đây rồi, tác ý đi!

Buông xuống tất cả các pháp tức là vượt qua. Xin các con hãy nhớ ghi khắc trong lòng mà cố gắng tu tập buông xả, đừng nên mượn cớ này cớ khác để hỏi Thầy. Đó là các con đã bị tâm mình lừa gạt phá hạnh độc cư, để thỏa mãn tâm phóng dật.

Một lần nữa Thầy xin nhắc lại, các con Buông Xuống Tất Cả thì ngay liền tâm Bất Động; đó là giải thoát của Phật giáo. Bất động là Vượt Qua Nhân Quả, các con có hiểu chưa?

Hỏi 3: Tránh né nhân quả có phải là đức vượt qua nhân quả và đức làm chủ nhân quả không?

Đáp: Không, đức vượt qua và đức làm chủ nhân quả khác nhau như trên Thầy đã giảng. Còn tránh né nó không phải đức hạnh, cho nên nó không phải là đức vượt qua và cũng không phải là đức làm chủ nhân quả. Hành động Tránh Né Nhân Quả có nghĩa trốn tránh nhân quả. Thầy sẽ cho vài thí dụ thì sẽ rõ.

Ví dụ 1: Có người chửi mắng mình thì bịt hai lỗ tai lại không nghe, hoặc hát radio lớn tiếng làm át tiếng chửi của người khác, hoặc đóng cửa nhà trốn bỏ đi.

Ví dụ 2: Mình lấy của không cho của người rồi đổ lỗi cho người khác lấy, hoặc mình làm lỗi mà đổ lỗi cho người khác chịu.

Ví dụ 3: Do ghen tuông mình giết người tình địch, rồi bỏ đi xứ khác tránh né tội giết người.

Ví dụ 4: Báo chí thường đăng tin tức giết người cướp của rồi bỏ xứ đi xứ khác, để công an không tìm ra thủ phạm.

Trên đây là những Hành Động Tránh Né, vì những hành động này là các tính xấu xa, tính sợ hãi, tính hèn nhát, v.v... Tránh né nhân quả là một hành động trốn chạy, hành động hèn nhát, sợ hãi, ích kỷ, hẹp hòi, không dám nhìn thẳng một sự thật. Cho nên nó không được gọi là Đức, mà chỉ được gọi là Tính như: tính tránh né, tính ích kỷ, tính hèn nhát, tính hẹp hòi, tính nhỏ mọn, v.v...

Con người có hai mặt, một là thật thà, còn mặt khác thường giả dối, mà giả dối chính ngay bản thân nó nữa. Đó là tránh né một sự thật nên con người mới trở thành giả dối. Con người muốn sống thành thật với mình, với mọi người thì chỉ có sống với tâm Bất Động.

Sống với tâm bất động là sống vượt qua nhân quả như trên đã nói. Sống vượt qua nhân quả tức là sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Đúng vậy, sống Bất Động Tâm thì còn làm ai đau khổ, cho nên ai sống được là sống thoát ra mọi sự khổ đau trên đời này.

Sống bất động tức là sống Buông Xả Sạch, vì tâm bất động đâu còn vật gì để buông xả. Cho nên, người tu tập theo Phật giáo mà không hiểu tâm Bất Động là người chưa hiểu Phật giáo.

Phật giáo chủ trương tu hành là phải làm chủ than tâm. Nếu ai muốn làm chủ thân tâm mà không sống trong tâm bất động thì chẳng bao giờ làm chủ thân tâm. Ai sống trong tâm bất động sẽ có đủ quyền năng đạo lực làm chủ sự sống chết. Bởi vậy, trong khi tu tập mọi người phải nhắm vào mục đích này. Nếu đạt được tâm bất động là đạt được tất cả. Tâm bất động quan trọng như vậy, cho nên nói vượt qua nhân quả là nói đến tâm BẤT ĐỘNG quý vị ạ!

Chúng tôi xin nhắc lại một gương Bất Động trước kẻ thù luôn luôn dùng súng đạn giết người, giết dân tộc ông, nhưng một mực ông không bao giờ lấy hận thù diệt hận thù, mà lấy lòng yêu thương trong tinh thần bất bạo động. Đó là Mahatma Gandhi, trong câu chuyện “Khi một bậc kỳ tài từ trần” (Lòng Yêu Thương tập 1).

Hỏi 4: Đức đương đầu với nhân quả, đức chấp nhận nhân quả và đức tùy thuận nhân quả có khác nhau hay không? Và nếu có, thì khác nhau như thế nào?

Đáp: Ba hành động này khác nhau.

1- Đương Đầu Với Nhân Quả có nghĩa là chống lại nhân quả. Ví dụ, có người chửi mình, mình liền chửi lại; đánh mình, mình liền đánh lại.

2- Chấp Nhận Nhân Quả có nghĩa là vui lòng nhận lấy nhân quả mà không than phiền một điều gì với ai cả. Ví dụ, có người chửi mình, mình không chửi lại, mà không phân giải hơn thiệt phải trái.

3- Tùy Thuận Nhân Quả có nghĩa là bằng mặt không bằng lòng, nên thường tìm cách phân biệt phải trái, hơn thiệt trong nhân quả, để làm cho người khác hiểu nhân quả.

Hỏi 5: Khi nào thì áp dụng đức vượt qua nhân quả, đức đương đầu nhân quả và tính tránh né nhân quả.

Đáp: Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta nên áp dụng đức vượt qua nhân quả là tốt nhất, còn đương đầu và tránh né nhân quả thì không nên áp dụng. Vì đức Phật đã xác định rõ ràng: “Đứng lại thì chìm xuống (tránh né nhân quả). Tiến tới thì trôi dạt (đương đầu nhân quả). Chỉ có vượt qua (vượt lên nhân quả).

Hỏi 6: Người tu sĩ cần trang bị cho mình những đức nào kể trên để không bị tác động của nhân quả, hay phải trang bị những tri kiến nào? hay chánh kiến gì để làm chủ nhân quả trong mọi trường hợp?

Đáp: Người tu sĩ Phật giáo chỉ cần trang bị cho mình những đức như sau: Đức Tri Kiến và đức Chánh Kiến vượt qua nhân quả.

Hỏi 7: Con thấy người đời lúc trẻ thường lấy công việc làm mục đích sống, để không phải ngồi không. Còn người tu thì xả bỏ mọi thứ để ngồi không giữ tâm thanh thản. Đến lúc già, khả năng suy nghĩ hay động não của người đời không còn nhạy bén, mà từ từ mất trí nhớ dần. Còn người tu hành lúc già chỉ ngồi giữ tâm hay tâm luôn thanh thản thì đầu óc có trì trệ, kém trí nhớ hay không thưa Thầy? Tại sao?

Đáp: Người đời vì chạy theo dục lạc thế gian nên sử dụng đầu óc làm việc quá nhiều, nên đến già đầu óc lẫn lộn quên trước quên sau. Còn người tu hằng ngày để đầu óc rảnh rang nghỉ ngơi trong im lặng, nên đến già đầu óc sáng suốt minh mẫn.

Hỏi 8: Nếu một tu sinh đang tu tập tại Tu Viện có cha hay mẹ đến yêu cầu người tu sinh đó về nhà phụng dưỡng cha mẹ, thì người tu sĩ đó phải làm sao thưa Thầy? Về nhà hay tiếp tục tu cho xong?

Đáp: Nếu cha mẹ già yếu bệnh tật không ai nuôi dưỡng thì người tu sĩ đó phải trở về gia đình nuôi dưỡng cha mẹ, và ở trong gia đình cũng tiếp tục tu tập xả tâm như ở Tu Viện vậy. Còn ngược lại, ý cha mẹ không muốn cho con tu tập thì nên trở về thuyết phục bằng nhiều cách.

Ngày xưa, trong thời đức Phật, có một nhà thí chủ lớn nhất là ông Cấp Cô Độc, nhưng ông có một đứa con trai độc nhất lại ngộ pháp Phật, nên quyết tâm xuất gia tu hành, lìa bỏ vợ con và tất cả tài sản. Ông Cấp Cô Độc không bằng lòng. Còn đức Phật chỉ chấp nhận cho theo Ngài tu hành là phải được gia đình đồng ý, vì thế, con ông Cấp Cô Độc không thể bỏ nhà theo Phật được, nên muốn thuyết phục cha mình, vì thế nó nhịn ăn, không ăn uống vật gì cả suốt sáu ngày; thân nằm liệt giường không còn đi đứng nổi. Thấy con như muốn chết, nên ông đành bảo:

“Thôi, con muốn đi tu theo Phật thì đi đi! Đừng có nhịn ăn nữa”.

Hỏi 9: Khi con bị nhức cổ, con tác ý và giữ tâm thanh thản; con cảm thấy chỗ nhức các cơ gồng cứng lên rồi đột nhiên giựt mạnh, rồi từ từ nhẹ dần. Lúc đó chỗ nhức cũng có vẻ giảm đau.

Vậy thưa Thầy, hiện tượng trên có phải là tưởng hành hoạt động hay không? Nếu phải thì con phải sao? Làm sao con có thể phân biệt được tưởng hành lúc nào hoạt động, lúc nào không, trong trường hợp đuổi bệnh?

Đáp: Có một hiện tượng gì xảy ra trên thân tâm con đều là tưởng, dù đó là tưởng trị bệnh như con đã trình ở trên đều là sai cả. Trạng thái trị bệnh là một ý chí ngút ngàn. Nếu người không học Phật pháp thì không bao giờ có ý chí ấy. Ý chí ấy chỉ là Tâm Bất Động, dù bất cứ một ác pháp nào đến với tâm bất động cũng không làm cho Tâm Động được; đó mới gọi là ý chí.

123-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (14). TL Thích Thông Lạc

52- Tu tập nhiếp tâm, an trú tâm trong bao lâu?

Hỏi 1: Thầy kính mến! Từ khi tu tập thiền theo phương pháp Thầy hướng dẫn, mỗi lần đi ra đường con cảm thấy rất ngộp thở, cảm giác như là sắp tắt thở, và lúc nào cũng như là cần hơi thở lắm vậy.

Có nhiều lúc con nghĩ là phải gọi xe đưa đi bịnh viện. Khi đi mua sắm với vợ thì con cảm thấy rất mệt, và phải nằm trong xe để bà xã con đi vô trong trước. Không biết là tại sao? Con bắt đầu ngồi thiền từ lúc 15 tuổi, và bây giờ là 40 tuổi, chưa bao giờ con bị trong trạng thái này. Lúc trước con ngồi thiền là ngồi theo phương thức Yoga, có nghĩa là con ngồi với trạng thái thả lỏng, không suy nghĩ gì.

Nhưng khi đọc phương pháp của Thầy, thì con có cảm giác là phương pháp của Thầy có một cái gì đó sáng suốt và làm cho mình tự chủ bản than mình hơn, cho nên con quyết tâm hành theo phương pháp của Thầy. Nhưng con cứ bị rớt vào tình trạng này hoài. Con không làm việc và đi đâu được hết, cứ bước ra đường là bị ngộp thở, ngồi lái xe không cũng ngộp. Về nhà nằm nghỉ hoặc ngủ một giấc thì hết trạng thái bị ngộp, mà ngủ thì phải uống thuốc ngủ thì mới ngủ được, còn không để lâu không ngủ con sợ bị nguy hiểm.

Có đôi lúc con tự nhủ: “Thôi, chết đi cũng được”. Con biết những cảm giác này là tạm thời; một là do cơ thể; hai là do tâm mình, nhưng lại không biết trị bằng cách nào. Xin thầy chỉ điểm!

Thường thì khi ngủ dậy là con bắt đầu ngồi thiền; đây là thói quen từ xưa đến nay. Thiền giúp con trong công việc nhiều lắm. Thường con ngồi thiền đến khi nào thấy mỏi thì con ngưng; con không biết thời gian là bao lâu. Khi ngồi thiền từ xưa tới nay con hay nhắm mắt ngồi thiền, như vậy có đúng không thưa thầy?

            Con hiện giờ như là sống trong cõi địa ngục.
            Con vạn lần cầu xin thầy cứu con!

Đáp: Những trường hợp xảy ra như ngộp thở, tức ngực, nặng đầu là tu lâu một pháp. Phật có 37 pháp tu tập từ thấp đến cao, chớ đâu có tu tập một pháp mà chứng đạo được.

Nhiếp tâm và an trú chỉ là giai đoạn mới tu. Khi nhiếp tâm chừng 30 phút thì thay đổi pháp. Do con tu một pháp hơi thở nên ngộp thở là phải. Muốn hết ngộp thở thì đừng tu tập thiền nữa là hết. Mục đích của đạo Phật là tâm không phiền não, giận hờn, ham muốn, chớ không có thiền định gì cả. Vì thế, đức Phật dạy ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện, chớ đâu có dạy chúng ta ngồi thiền nhập định. Ngồi thiền nhập định là các Tổ Trung Hoa dạy. Do dạy không đúng pháp, nên người sau tu tập thành bệnh.

Con muốn tu tập theo pháp Thầy thì ngồi chơi xem tâm mình có còn ham muốn, giận hờn gì không? Nếu không thì đó là tâm bất động, còn có niệm Tham, Sân, Si là tâm còn động, còn các niệm khác ngoài tham, sân, si là tâm không động.

Hỏi 2: Kính thưa thầy! Thầy dạy tu sinh chúng con tại Tu Viện Chơn Như tu tập giai đoạn 1 là tu tập nhiếp tâm và an trú tâm trên thân hành ngoại (đi Kinh Hành, đi Thân Hành Niệm), hoặc trên thân hành nội (19 đề mục Định Niệm Hơi Thở). Vậy thời gian tu tập bao lâu, và kết quả như thế nào mới xong giai đoạn 1? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.

Đáp: Thời gian tu tập không phải lâu. Người nào dở thì tu tập tối đa là 3 tháng. Còn người giỏi chỉ cần 1 tuần lễ là tu tập xong giai đoạn 1. Nhưng làm sao biết người nào là giỏi; người nào là dở?

Người giỏi là khi nhiếp tâm thì tâm không phóng niệm này niệm kia lăng xăng. Còn khi tu tập nhiếp tâm mà cứ niệm này niệm kia lăng xăng thì người đó là dở.

Hỏi 3: Đối với phật tử tu tập tại gia, hoặc tu sĩ còn tiếp duyên, chưa độc cư chuyên tu miên mật thì tu tập các pháp trú tâm, gom tâm trên thân hành của giai đoạn 1 này trong thời gian bao lâu? Kính xin thầy chỉ dạy.

Đáp: Trong các pháp tu tập nhiếp tâm, an trú tâm của giai đoạn 1, có pháp Định Niệm Hơi Thở thì các con phải hết sức thận trọng. Nó là pháp tu tập trên thân hành nội, nên rất nguy hiểm nếu tu tập không đúng. Nếu các con không ở tại Tu Viện Chơn Như thì tốt nhất không nên tu tập hơi thở, vì không có vị thầy hướng dẫn, kiểm tra sự tu tập của các con.

Đối với các pháp tu tập trên thân hành ngoại như đi Kinh Hành hay đi Thân Hành Niệm, các con cũng chỉ nên tu tập tối đa là 6 tháng, không nên tu tập kéo dài thời gian cả năm. Nhất là tu tập một pháp trong nhiều năm là sai, là dính mắc vào pháp tu. Tu như vậy rất dễ lọt vào tưởng nên rất khó tiến tu sau này.

Các con nên nhớ, chỉ tu tập nhiếp tâm và an trú tâm kéo dài nhiều nhất là 6 tháng, đối với người phật tử tại gia. Thay vì người chuyên tu họ tu tập một ngày 4 thời; mỗi thời tu tập 3 tiếng, thì người tu tập tại gia nên thu xếp mỗi ngày tu tập 1 hoặc 2 thời; mỗi thời tu tập từ 30 phút đến 1 tiếng, không nên tu nhiều.

Các con nếu muốn tu tập làm chủ được các nỗi khổ đau trên thân tâm thì phải tu tập có căn bản giai đoạn 1 của người cư sĩ. Còn nếu các con tu tập cho lấy có, tu thử hay tu chơi thì chỉ uổng phí công sức và thời gian mà thôi.

53- Đắc đạo, đắc pháp, đắc quả.

Hỏi 1: Muốn đắc đạo ngay trong kiếp sống này, thì cần phải hội đủ các yếu tố, điều kiện nhân duyên nào?

Đáp: Muốn đắc đạo ngay trong kiếp sống này, thì cần phải hội đủ các yếu tố, điều kiện nhân duyên như sau:

            1- Phải có ý chí dũng mãnh;
            2- Phải có nghị lực kiên cường;
            3- Phải bền lòng, không nản chí trước những khó khăn;
            4- Phải gan dạ, và nhất là phải có lòng tin nơi Phật, Pháp, Tăng tuyệt đối.

Khi hội đủ các yếu tố trên, dù có đứng trước cái chết con cũng không hề nao núng bỏ pháp, do đó, chỉ trong một kiếp này con đạt được đạo.

Hỏi 2: Đắc đạo và đắc pháp có cùng nghĩa với nhau không?

Đáp: Đắc đạo khác với đắc pháp, vì đắc đạo là thành tựu sự giải thoát toàn diện, còn đắc pháp thì mới đạt được từng phần của đạo. Cho nên đắc đạo, đắc pháp không giống nhau.

Ví dụ: Con học xong chương trình Tiểu học thì phải thi tốt nghiệp Tiểu học. Khi tốt nghiệp Tiểu học xong, con phải thi vào Trung học. Khi tốt nghiệp Trung học xong, con phải thi vào Đại học. Khi tốt nghiệp xong Đại học thì con mới hoàn thành kiến thức của chương trình giáo dục.

Đắc pháp cũng giống như thi tốt nghiệp của mỗi cấp. Cho nên mới thi tốt nghiệp cấp Tiểu học mà cho rằng học hết chương trình giáo dục là sai, không đúng được. Do đó, đắc pháp không thể gọi là đắc đạo được.

Pháp của Phật có tám lớp: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; và gồm có ba cấp: Giới, Định, Tuệ. Cho nên, học và tu tập xong lớp Chánh kiến thì mới đắc pháp lớp Chánh kiến. Đắc pháp lớp Chánh kiến thì không thể gọi là đắc đạo được. Đến đây có lẽ con đã hiểu rõ rồi chớ?

Hỏi 3:  Đắc Sơ Quả có giống Sơ Thiền không?

Đáp: Sơ Quả tức là Tu Đà Hoàn; Tu Đà Hoàn là quả Nhập Lưu; Nhập Lưu tức là vào dòng Thánh; vào dòng Thánh thì phải ly dục, ly ác pháp; mà đã ly dục, ly ác pháp thì nó tương đương với Sơ thiền. Cho nên kinh dạy: “Ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỷ lạc”. Vì vậy, Sơ Quả tức là Sơ Thiền.

Do tu tập Sơ Thiền mới đắc được Sơ Quả, ngoài Sơ Thiền thì không bao giờ có Sơ Quả. Trong Sơ Thiền có trạng thái Sơ Thiền Thiên. Đó là trạng thái ly dục ly ác pháp.

Hỏi 4: Trong các tích chuyện của kho tang chân lý (Dammapada), có nhắc đến một cô gái nọ trẻ đẹp, giàu có. Khi gặp Phật nghe pháp đắc Sơ Quả, mà cô đã có chồng và con. Cũng một số gia đình gặp Phật, vợ hoặc chồng đều đắc quả như: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, v.v... mà qua Thầy dạy tiến trình tu tập để đạt Thánh quả phải sống nghiêm chỉnh giới luật... Đặc biệt, phải đoạn trừ ái kiết sử và ngũ triền cái. Vậy những thành phần có gia đình mà đắc Thánh quả đó có mâu thuẫn với lộ trình tu tập không ạ?

Đáp: Trong các chuyện tích (tiền thân Đức Phật) người cư sĩ nghe pháp đắc Sơ Quả, đó là do sự kiết tập sai của các Tổ.

Người cư sĩ nghe pháp đắc pháp nhãn thanh tịnh thì có, chứ không thể đắc Sơ Quả được. Vì Sơ Quả là quả Thánh, không thể nghe xong bài pháp mà thành Thánh được. Vì tập khí con người quá nhiều, phải nhiệt tâm, nhiệt quyết tu tập hết sức mình mới quét sạch tập khí nhiều đời, chứ không phải là một việc dễ làm như trong chuyện tích nói. Các bạn lấy kinh nghiệm tu tập của mình thì biết rất rõ. Cho nên không thể nào tin một điều nói không thực tế.

Pháp Nhãn Thanh Tịnh là gì? Pháp nhãn thanh tịnh là một tên khác của Chánh Kiến; chánh kiến tức là cái thấy biết không làm khổ mình, khổ người; có nghĩa là cái thấy biết nhẫn nhục và xả tâm. Ở đời, người ta nhẫn nhục bằng cách chịu đựng, chứ không phải nhẫn nhục bằng cách xả tâm để ly dục, ly ác pháp. Do thấu suốt lý lẽ cuộc đời, biết nhẫn nhục mà xả tâm, vì thế mới gọi là pháp nhãn thanh tịnh.

Người còn Ái Kiết Sử, Ngũ Triền Cái mà vào dòng Thánh thì làm sao vào được!  Có tương ưng chỗ nào đâu mà vào.  Khi đọc kinh đến đây, thì con nên tư duy suy nghĩ rằng: những bài kinh này không phải là kinh của Phật thuyết, mà là kinh của Ma thuyết.

Hỏi 5: Thưa Thầy, các sư Nam tông dạy rằng: Nếu đắc Sơ Thiền (Tu Đà Hoàn) thì vẫn còn có gia đình chồng con, vợ con và được hưởng phước báo như chư Thiên, sung sướng đầy đủ, v.v... nhưng vẫn luân hồi tái sanh trong 7 kiếp, đến kiếp thứ 7 thì tu tập đắc quả A La Hán. Đúng thế không thưa Thầy?

Thưa Thầy tôn kính! Trôi lăn trong bao kiếp luân hồi, cũng như long đong, lao đao trong kiếp sống, nay được đến với Thầy, con tâm nguyện được thành tựu trên bước đường tu đạo. Đây là cơ hội và duyên lành của con. Nhưng con vẫn cảm thấy duyên và động lực chưa có thể thúc đẩy con. Con rất cần sự gia lực nơi Thầy!

Đáp: Con hãy tư duy, khi vào dòng Thánh thì làm sao còn Dâm Dục được, mà vẫn còn có gia đình chồng con, vợ con được?

Còn Dâm Dục là còn có chồng con, vợ con; còn có chồng con, vợ con là còn phàm phu; còn phàm phu thì chỉ có chứng quả Hướng Lưu, nghĩa là mới hướng về Thánh quả, chứ chưa dự vào dòng Thánh (Nhập Lưu) được. Giảng như các sư Nam tông là giảng theo chữ nghĩa kiến tưởng giải của tà kiến ngoại đạo, không đúng nghĩa của Phật dạy.

Nếu nói Phật dạy: “Chứng quả Tu Đà Hoàn còn phải bảy kiếp nữa mới chứng quả A La Hán”, lời dạy này cũng có ý đúng, nhưng chúng ta phải hiểu: Nếu một người nhập vào dòng Thánh (Tu Đà Hoàn) mà cứ giữ tâm ở tại trạng thái ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền này, để thọ hưởng cảnh giới Sơ Thiền Thiên, mà không chịu tiến lên tu tập nữa để chứng quả A La Hán, thì trạng thái này chỉ kéo dài được 7 kiếp. Trong thời gian 7 kiếp ấy, tâm không bị lui sụt thì người ấy đủ năng lực Bảy Giác Chi để nhập Tam Thiền, Tứ Thiền và thể hiện Tam Minh, chứng quả A La Hán.

Câu này còn có nghĩa là một người ly dục, ly bất thiện pháp, nhập Sơ Thiền suốt 7 ngày sẽ chứng quả A La Hán; nếu 7 ngày chưa chứng thì 7 tháng; nếu 7 tháng chưa chứng thì 7 năm.

Còn nếu lui sụt lại làm người, và làm người thì có chồng con, vợ con như những người khác là một sự thường tình của thế gian. Lúc bấy giờ không còn nhập vào dòng Thánh nữa. Nhập vào dòng Thánh tức là Thánh, mà Thánh sao lại có chồng con, vợ con giống như người thế tục vậy???!!!

Cho nên, vì những điều trên đây, mọi người chưa tu chứng quả A La Hán thì nên im lặnh như Thánh, không được giảng thuyết, làm sai ý Phật, khiến cho Phật giáo suy đồi, và như thế thì Phật giáo sẽ mất gốc, thì tội ấy về ai các bạn có biết không?

Khi nào giữ hạnh độc cư trọn vẹn, thì con đường tu tập mới đủ mọi động lực tiến tới chứng đạo. Nhưng giữ gìn độc cư thường bị hôn trầm, thuỳ miên, vô ký và loạn tưởng tấn công; nó là những tên giặc cứng đầu nhất, cần phải lưu ý để diệt trừ cho bằng được.

Khi giữ hạnh Độc Cư thì Hôn Trầm, Thuỳ Miên, Loạn Tưởng và còn bao nhiêu ác pháp cản trở sẽ tấn công tới tấp, khiến cho con đường tu tập của các bạn sẽ gặp nhiều khó khăn. Do sự khó khăn đó, các bạn thiếu ý chí sẽ bỏ cuộc tu hành. Và như vậy sẽ lỡ dở, đời chẳng ra đời; đạo chẳng ra đạo.

Chúc con tu tập xả tâm tốt, nhớ xả tâm kỹ, chóng đạt thành sự giải thoát.

54- Niệm Phật kiếp sau sinh làm người nam?

Hỏi: Có lần Thầy bảo cho chúng con biết: “Đạo Phật không có tám mươi bốn ngàn pháp môn”. Vậy con mong Thầy chỉ dạy để mọi người cùng hiểu đúng chánh pháp của đức Phật không bị 84.000 pháp môn của ngoại đạo lừa đảo. Con còn nghe người ta bảo: “Tu pháp môn niệm Phật (Tịnh Độ), kiếp sau đầu thai lên làm người nam, tiếp tục tu tập dễ hơn”. Có đúng như vậy không thưa Thầy?

Đáp: Tám mưới bốn ngàn pháp môn của Phật giáo chính là do các nhà Đại thừa tự đặt ra để lồng ghép giáo pháp của mình vào pháp môn của đạo Phật để đánh lận tín đồ Phật giáo. Pháp môn niệm Phật A Di Đà là một pháp trong 48.000 ngàn pháp của Bà La Môn, chứ Phật giáo không có dạy pháp môn này. Chính đức Phật A Di Đà cũng là một vị Phật tưởng tượng do các vị học giả nghĩ tưởng sinh ra, và dựng lên một thế giới siêu h.nh Tây Phương Cực Lạc.

Niệm Phật để sanh được làm người nam thì đều này không thể xảy ra được. Vì niệm Phật không thể tương ưng với nam tính. Tại sao vậy?

Các bạn cứ suy ngẫm: bản chất con trai thì gan dạ, hiếu động, không sợ hãi, cơ bắp khỏe mạnh, thích mạo hiểm, không rụt rè, không e thẹn, không làm duyên làm dáng, không thích trang điểm làm đẹp, giọng nói ào ào như sóng bổ, không nói thỏ thẻ như con gái, v.v... Nếu con gái muốn tái sanh làm con trai, thì phải tập sống như con trai, vì có tập sống như con trai thì sẽ tương ưng, kiếp sau sẽ làm con trai. Sự kiện này có thể xảy ra được. Còn không tập sống như con trai, thì làm sao sinh làm con trai được. Sự kiện này không thể xảy ra được, phải không các bạn?

Tối ngày cứ ngồi niệm danh hiệu A Di Đà Phật, niệm như vậy để không có niệm khởi (thất nhật nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật, dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền...). Tâm không niệm khởi thì tâm tương ưng với cây đá, và như vậy khi chết sẽ tái sinh làm cây đá, chứ làm sao làm người nam được. Cho nên, lối tu tập này không thể tương ưng với cõi Tây Phương Cực Lạc, thì làm sao cầu vãng sanh về cõi ấy được, phải không các bạn? Tu tập như vậy chỉ có tương ưng với cây đá, thì sẽ sinh làm cây đá mà thôi; lí ấy logic rất khoa học, không ai phủ nhận được.

Xưa, có một ngoại đạo tu hạnh con bò, đến xin đức Phật xác định mình tu như vậy có cộng trú với Phạm thiên được không? Nghe hỏi như vậy, đức Phật bảo:

              - Thôi! Thôi! Đừng có hỏi Ta như vậy.
              Vị tu sĩ ngoại đạo van xin đức Phật ba lần, nhờ xác định tu hạnh con bò có đúng như vậy không?
              Đức Phật mới bảo:

- Tu hạnh con bò thì sẽ thành con bò, chứ làm sao thành Phạm thiên được. Bởi vì Phạm thiên đâu có sinh hoạt, ăn ngủ giống như con bò. Phạm thiên là những người sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Do đó, hạnh con bò làm sao tương ưng với hạnh của Phạm thiên được.

Nghe dạy lời này, vị tu sĩ ngoại đạo không cầm được nước mắt, khóc nức nở và đảnh lễ Phật, xin được tu hành theo giáo pháp và giới luật.

Cho nên muốn sinh ra làm con trai thì phải tập sống như con trai; điều này có thể chấp nhận. Niệm danh hiệu Phật Di Đà là một vị Phật không có thật. Niệm một vị Phật không có thật, nên tương ưng với cái không thật, cái không thật là ảo tưởng, mà ảo tưởng thì làm sao thành người nam được. Cho nên lời dạy: “Tu pháp môn niệm Phật kiếp sau đầu thai lên làm người nam, tiếp tục tu tập dễ hơn”, đây là lời lừa đảo, lường gạt người nhẹ dạ, non lòng.

Niệm Phật như trong kinh nguyên thủy dạy tức là sống như Phật, làm như Phật, ăn như Phật, ngủ như Phật, đi như Phật, ngồi như Phật, nói như Phật, im lặng như Phật, v.v... Có sống như vậy, làm như vậy, nên mới tương ưng với Phật, vì thế sống cũng tương ưng và đến khi chết cũng tương ưng, nên thành Phật. Còn niệm Phật như Tịnh Độ tông dạy thì thành cây đá, chứ không thể làm Phật, không sinh làm người nam được.

124-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (15). TL Thích Thông Lạc

55- Những câu hỏi vể y bát, thọ thực... và các oai nghi.

Hỏi 1: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được biết về việc trao Y Bát như thế nào?

Đáp: Đọc hết trong tạng kinh Nikaya, không thấy chỗ nào đức Phật trao Y Bát và chỉ định người thừa kế Phật làm Tổ thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư, v.v... Lúc sắp Niết Bàn, Phật dạy các đệ tử: “Này các tỳ kheo, hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp của ta làm Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành; đừng lấy ai làm Thầy, làm chỗ nương tựa, mà phải tự mình thắp lên ngọn đuốc mà đi”.

Việc Truyền Trao Y Bát trong kinh sách Đại Thừa là do các Tổ dựng lên câu chuyện Niêm Hoa trên núi Linh Thứu, Tổ Ca Diếp mỉm cười. Câu chuyện này trong kinh Pháp Hoa để tạo nguyên nhân sản xuất ra cuốn sử 33 vị Tổ sư thiền Ấn Độ và Trung Hoa, lấy Y Bát (vật hữu hình) làm Ấn Chứng, tạo niềm tin cho tín đồ với mục đích Truyền Tâm Ấn (vật vô hình).

Hỏi 2: Đức Phật khi còn tại thế, có trao y bát cho các đệ tử và truyền tâm ấn không?

Đáp: Không! Y bát là những vật dụng tầm thường trong đời sống hằng ngày, đâu có gì quan trọng trong việc tu hành, nhất là giới luật đức hạnh nhân bản - nhân quả lại không cho phép tu sinh dính mắc vào những vật dụng thuộc về pháp hữu vi. Vả lại, Phật giáo có cái nhìn như thật, nên các pháp hữu vi đều vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta cả. Cho nên, việc trao y bát và truyền tâm ấn là một việc bịa đặt của người sau. Chúng ta là những người tu theo bốn chân lý của Phật giáo, thì không nên tin vào những điều ảo tưởng, mơ hồ không thật, trừu tượng ấy.

Hỏi 3: Y bát còn có ý nghĩa gì cao siêu mà con chưa hiểu, xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho con?

Đáp: Y là những vật dụng dùng để mặc cho kín thân, và bát là vật dụng dùng để ăn uống hằng ngày do phật tử cúng dường. Khi y rách hay bát bể thì phật tử cúng dường thay cái khác. Cho nên những vật dụng tầm thường như vậy không có gì là cao siêu và thần thông cả.

Các tăng sinh nên hiểu: “Đạo Phật là đạo như thật đạo của con người, cho nên nó không có gì là cao siêu huyền bí cả. Nó chỉ cho con người biết đâu là đạo đức của con người, để làm con người sống thật là con người; và đâu không phải là đạo đức con người, để mọi người biết đó là con thú vật mang hình người”.

Nhờ biết sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh, nên con người sống được bình an, yên vui và hạnh phúc hơn các loài động vật khác. Ngược lại, con thú vật sống trong khổ đau và thường tranh đấu làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh...

Đạo Phật là đạo như thật, nên những gì cao siêu, thần thông hoặc nói về thế giới siêu hình thì không phải là của Phật giáo, mà của các tôn giáo khác. Bởi những tôn giáo xây dựng trên thế giới siêu hình là không phải tôn giáo của con người; nó là tôn giáo của thần tiên, của thế giới ảo tưởng.

Những người đầu óc giàu tưởng tượng như các nhà Đại Thừa và Thiền Tông, mới biến chiếc y thượng của Tổ phủ trùm một khu đất rộng lớn cò bay thẳng cánh, và cái bát dùng thọ thực hằng ngày thu hết cả dòng họ Thích của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vào mà không chật. Đó là một ảo tưởng tuyệt vời của các Tổ ngày xưa huyền thoại dựng nên.

Hỏi 4: Tổ đường có phải là Giảng đường hay không? 100 giới chúng học có giới 67 cấm không thọ thực trên Giảng đường. Vậy Tăng đoàn thọ thực trong Giảng đường có phạm giới hay không? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.

               Đáp: Một ngôi chùa nào cũng đều có những nơi thờ riêng biệt:
               1- Nơi thờ tượng Phật ngồi thiền dưới cội bồ đề gọi là Điện Phật, còn gọi là Đại Hùng Bửu Điện.
               2- Nơi thờ tượng Phật khổ hạnh trên núi Tuyết gọi là Tổ Đường.
               3- Nơi thờ tượng Phật thọ trai gọi là Trai Đường.
               4- Nơi thờ tượng Phật đang thuyết giảng kinh Tứ Diệu Đế cho năm anh em Kiều Trần Như, gọi là Giảng Đường.

Ở đây, Tu Viện không có Giảng đường, không có Trai đường, chỉ có điện Phật và Tổ đường, vì thế, tu sinh mượn Tổ đường làm Giảng đường để học hỏi triển khai tri kiến giải thoát; mượn Tổ đường làm Trai đường để học hỏi triển khai oai nghi tế hạnh về ăn uống, có ngày có giờ định kỳ, chứ không phải lúc nào, ngày nào cũng ăn ngả, nằm ngồi trên Tổ đường, thì các con lấy giới luật ra hỏi.

Ở đây, mượn Tổ đường để học tập ăn uống, chứ không phải lấy Tổ đường làm chỗ ăn uống. Chỗ ăn uống của tu sinh nơi gốc cây, bóng mát, nơi khe suối, trong am thất của tu sinh, v.v... Cho nên, mượn Tổ đường học tập thọ trai thì không có lỗi gì cả. Và đó cũng là nói lên được sự tiết kiệm tiền của đàn na thí chủ, không xây cất nhiều nhà cửa; thay vì cất Trai đường, thì nên cất thất cho tu sinh ở để che mưa nắng, lợi ích nhiều hơn. Phải không quý vị?

Hỏi 5: Bát dùng để ăn cơm có phải là Bát Chánh Đạo không?

Đáp: Không! Bát là một vật dụng dùng để ăn cơm, uống nước thì làm sao là Bát Chánh Đạo được. Bát Chánh Đạo là một chương trình giáo dục đào tạo con người từ phàm phu, tu hành chứng quả vô lậu A La Hán, thì có liên hệ gì với vật dụng dùng để ăn uống đâu. Tội nghiệp thay cho những người giàu tưởng tượng, lấy bát ăn cơm mà gọi là Bát Chánh Đạo! Tội nghiệp thay, họ không hiểu Bát Chánh Đạo là gì. Chỗ này đáng thương, mong rằng họ sẽ không lầm lạc nữa.

Hỏi 6: Chẳng may làm vỡ mất bát, thì con đường Bát Chánh Đạo có mất theo không? Người tu sĩ làm vỡ bát, có còn tu theo đạo giải thoát của Phật được nữa không?

Đáp: Bát vỡ là một việc tự nhiên, vì các pháp hữu vi thì hữu hoại. Trong cuộc đời tu hành của Phật có biết bao lần bể bát, vậy mà Phật vẫn tu chứng quả giải thoát và dạy người Bát Chánh Đạo, và Thầy cũng bao lần bể bát, mà vẫn triển khai Bát Chánh Đạo dạy các tu sinh tu học. Vậy bát vỡ có mất Bát Chánh Đạo chỗ nào đâu?

Cho nên các pháp đều vô thường, bể bát là một việc quá tầm thường trong các pháp thế gian,  còn Bát Chánh Đạo là pháp xuất thế gian, đâu nên lấy pháp thế gian so sánh với pháp xuất thế gian. Con hỏi câu này có ý nghĩa gì?

Hỏi 7: Khi thọ thực có được uống nước không? Khi thọ thực uống nước có phạm giới không?

Đáp: Không có giới luật nào cấm uống nước trong khi ăn. Vậy các tu sinh khi ăn cần uống nước, hay uống nước canh là một việc sinh hoạt bình thường, không có phạm vào những oai nghi đức hạnh và giới luật nào hết. Chỉ khi nào ăn cơm mà uống rượu thì phạm giới.

Hỏi 8: Câu kinh: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”; câu này có phải Phật thuyết hay không?

Đáp: Câu “Ưng Vô Sở trụ nhi sinh kỳ tâm” này trong kinh Kim Cang. Kinh Kim Cang thuộc về kinh sách Đại Thừa. Kinh này do các Tổ thuyết và biên soạn. Phật không có thuyết kinh này. Kinh này là kinh tưởng, không phải là kinh dạy tu tập giải thoát chuyển đổi nhân quả, làm chủ sinh tử luân hồi. Chúng ta theo Phật giáo không nên tu theo kinh sách Bà La Môn, loại kinh sách này sẽ làm mất hạt giống lành trong Phật giáo.

“Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, đó là dạy chúng ta diệt ý thức, mà diệt ý thức thì chúng ta trở thành đời sống thực vật, chứ có giải thoát được những gì? Cho nên kinh này dạy chúng ta tu hành để trở thành gốc cây, cục đá, v.v... Tu hành để trở thành cục đá, gốc cây vô phân biệt như vậy thì tu hành có ích lợi gì? Chúng ta hãy suy ngẫm cho kỹ, kẻo uổng phí một đời người.

Hỏi 9: Câu chuyện Thất Chơn Nhân Quả của Trung Hoa như thế nào?

Đáp: Câu chuyện Thất Chơn Nhân Quả là câu chuyện huyền thoại của Tiên đạo, nói chuyện tu đắc đạo của pháp vô vi. Nó đâu có liên hệ gì đến pháp môn tu hành của Phật giáo, tại sao con hỏi nó làm gì? Giáo pháp này không phải là nền đạo đức nhân bản - nhân quả, thì nó có ích lợi gì cho các con?  Các con đừng mơ mộng hão huyền theo Tiên đạo, các con tu tập sẽ được những gì với pháp môn này? Nó sẽ mang lợi ích gì cho bản thân các con?

Tu hành phải chọn đúng chánh pháp có lợi ích thiết thực cho bản thân rồi mới tu, chứ nếu các con còn mơ mộng Tiên đạo, thì theo Phật giáo tu hành để làm gì? Hãy về đi mà tìm Tiên đạo tu hành.  Vì Tiên đạo là Tiên đạo, và Phật đạo là Phật đạo. Tiên đạo và Phật đạo không có liên hệ nhau chút nào cả. Tiên và Phật là hai ngả đường không thể đi chung với nhau được.

Các con đừng nghe theo các nhà hòa đồng tôn giáo như Thông Thiên Học, tu Tiên rồi mới tu Phật, có nghĩa Tiên thấp hơn Phật. Hiểu Phật giáo và Lão giáo như vậy là không hiểu gì cả. Thiền sư Vạn Hạnh là một nhà sư Đại Thừa, lấy ba tôn giáo Nho, Lão, Phật phối hợp lại, thành một tôn giáo Việt Nam. Trong bài kệ của Ngài có câu: “Vạn Hạnh Dung Tam Tế”. Như vậy, chứng tỏ Thiền sư chưa nắm vững nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo, chưa biết Phật giáo có một giáo lý đạo đức chân thật của loài người, nên Ngài đã biến Phật giáo thành một tôn giáo có nền giáo lý cao siêu, theo kiểu Đại Thừa thần giáo.

Theo Thầy hiểu: Nhân đạo (Nho giáo), Tiên đạo (Lão giáo), Phật đạo (Phật giáo) là ba tôn giáo này không thể sắp xếp theo thứ bậc từ thấp lên cao. Mỗi tôn giáo có một ý nghĩa riêng, một đạo đức riêng, nhằm giáo dục và xây dựng con người với mục đích độc lập riêng: như Nho giáo để phục vụ cho chế độ cai trị phong kiến; như Lão giáo phục vụ cho cá nhân tiêu cực yếm thế; như Phật giáo phục vụ cho nhân loại. Xem qua giáo lý đạo đức của ba tôn giáo này với mục đích phục vụ khác nhau, nên không bao giờ giống nhau được.

Nhân đạo (Nho giáo) dạy con người tề gia, trị nước, bình thiên hạ. Giáo lý và đạo đức Nho giáo phục vụ cho chế độ quan, vua. Còn Tiên đạo dạy con người tu tập pháp vô vi yếm thế tiêu cực, bỏ đời, sống trong rừng trong núi tiêu dao ích kỷ, chỉ lo cho cá nhân của mình, còn loài người ra sao cũng mặc. Ngược lại, đạo Phật dạy người tu học đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, là để mọi người làm lợi ích cho nhau, và mỗi người ai cũng làm chủ sự sống chết của mình và chấm dứt sự luân hồi tái sinh.

Ba tôn giáo không có một mục đích chung, nên làm sao mà dung hợp được. Phật giáo vì loài người; Lão giáo vì cá nhân; Khổng giáo vì giai cấp thống trị. Vì thế, chúng ta học Phật là muốn làm chủ những sự khổ đau trên thân tâm của mình, chứ không phải học Phật để làm Tiên, làm Phật, v.v...

Hỏi 10: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ cách lạy lễ như thế nào đúng, và như thế nào sai?

Đáp: Lạy đứng, lạy ngồi, lạy quỳ đều được cả. Tất cả những lạy lễ này đều do đạo Bà La Môn và đạo Nho. Còn Phật giáo chỉ lạy lễ như thế nào mà mang đầy đủ ý nghĩa tôn kính là được.

Mỗi dân tộc trên hành tinh này đều có nghi lễ tôn kính khác nhau, khi chào hỏi bằng cách chấp tay cúi đầu chào, bằng cách khoanh tay cúi đầu chào, bằng cách ôm nhau hôn, bằng cách hai tay nắm nhau, v.v... Khi lạy lễ cũng vậy, đứng lạy, quỳ lạy, ngồi lạy và nằm lạy, v.v... Riêng ngồi cũng có nhiều cách ngồi, như ngồi theo người Nhật Bản, người phụ nữ Việt Nam, người Trung Hoa, người Ấn Độ, v.v...

Dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa theo Nho giáo, nên lạy đứng; chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ theo Bà La Môn giáo, nên lạy quỳ, lạy ngồi, lạy nằm. Đối với Phật giáo, lạy đứng, lạy ngồi hay lạy quỳ, lạy nằm đều là hành động tôn kính lễ nghĩa, không có gì phải dạy thêm. Đạo Phật không có vẽ vời cách lạy riêng biệt; đạo Phật quan trọng là chỗ sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Cho nên chúng Tăng lạy lễ như thế nào cũng tốt, nhưng khi sống trong Tăng đoàn thì phải lạy lễ cho giống nhau, đừng người lạy cách này, người lạy cách khác thì trong Tăng đoàn khó coi.

Ví dụ: Lạy đứng thì phải lạy đứng hết, còn quỳ lạy thì phải quỳ lạy hết, còn ngồi lạy thì ngồi lạy hết, hay nằm cũng vậy, phải lạy giống nhau. Lạy như vậy mới gọi là Tăng đoàn hòa hợp chúng.

Hỏi 11: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ, thế nào là “Nhị Nguyên?”

Đáp: Nhị Nguyên và Nhất Nguyên là ảnh hưởng giáo lý Đại Thừa, pháp môn Bất Nhị thuộc kinh Duy Ma Cật. Chúng ta tu hành theo Phật giáo là phải sống như thật, vì đạo Phật là đạo như thật của loài người; nó không bao giờ dùng triết lý Bất Nhị. Cho nên đạo Phật là đạo chân lý, đạo sự thật, chứ không phải là đạo triết lý. Đạo triết lý là ngoại đạo, chỉ những người chưa thông suốt Phật giáo nên mới đem triết lý Bất Nhị mà áp dụng trong Phật giáo. Đó là một điều hết sức làm sai lạc.

Bởi vì mọi người ai ai cũng sống trong Nhị Nguyên, chứ chưa có mấy ai sống trong Nhất Nguyên bao giờ. Đó là một triết lý ảo tưởng, do các nhà Đại Thừa dựng lên để tranh luận hơn thua, bài bác giáo lý của hệ phái khác hay của các tôn giáo khác. Bây giờ các con thưa hỏi nó, để dùng bài bác người khác phải không?

Đạo Phật không chấp nhận tranh luận hơn thua, bài bác nhau, dùng triết lý Bất Nhị bài bác nhau thì xấu lắm các con ạ! Đó là lối sống không thật với chính mình, vì mình có sống được với Nhất Nguyên bao giờ chưa, mà đem Nhất Nguyên bài bác người khác là Nhị Nguyên.

Ngày xưa, trong thời đức Phật còn tại thế, chúng tỳ kheo vấn chiếc y Nhị Nguyên nhiều nhất, vì vải đi xin nhiều màu, chứ đâu có một màu như chúng ta bây giờ. Cho nên, dùng Nhất Nguyên để chỉ trích người khác Nhị Nguyên thì không nên, vì khi chúng ta khởi tâm phân biệt thấy hai màu, là chúng ta đã ở Nhị Nguyên rồi. Đã ở Nhị Nguyên còn nói ai Nhị Nguyên được sao? Phải không các con?

Còn không khởi tâm phân biệt, thì chúng ta chẳng khác gì gốc cây, cục đá. Tu để trở thành gốc cây, cục đá thì giải thoát hay sao? Cho nên, Nhị Nguyên chỉ là một thứ triết lý để tranh luận hơn thua, chứ chẳng có lợi ích thiết thực gì cả.

Hỏi 12: Kính bạch Thầy, tu sinh có duyên đi ra ngoài, có được vấn y thượng, mang dép không?

Đáp: Được, nếu không mang dép, đi chân trần trên đường tráng nhựa thì chân sẽ bị phòng dộp. Vả lại, trong giới luật của Phật không có cấm mang dép, mà chỉ cấm mang dép đi vào nơi giảng đường, điện thờ Phật, nơi tháp thờ Phật. Trong 100 giới chúng học, Phật cho mang dép chớ không có cấm. Vậy vấn y thượng, mang dép là có tri kiến minh mẫn, vì thời đại chúng ta đi ra đường là đường cao ráo tráng nhựa, không như ngày xưa trong thời đức Phật đi đường đất lầy lội, thế mà Phật còn không có cấm mang dép, thì ngày nay tại sao lại có giới luật cấm mang dép là sao?

Vị Tổ nào cấm? Nếu vị Tổ nào cấm, tức là vị Tổ đó không thức thời, không có đủ tri kiến minh mẫn. Vậy làm Thầy, Tổ mà không sáng suốt thì rất tội nghiệp. Các sư bên Nam tông nguyên thủy đi đâu thì mang theo dù, khi nắng khi mưa đều có dù che. Cho nên, đạo Phật không chủ trương đầu trần, chân đất.

Hỏi 13: Kính thưa Thầy, khi mặc y thượng đại tiểu tiện như thế nào, lúc ở trong tu viện cũng như khi đi ra ngoài?

Đáp: Trong giới luật dạy về oai nghi đi đại, tiểu tiện thì phải cởi y thượng ra, xếp lại bỏ vào túi bát, chỉ còn mặc y trung và y hạ mới đại, tiểu tiện, dù ở trong tu viện cũng như ra ngoài tu viện, hoặc trên đường di chuyển đều phải cởi y thượng ra.

Mặc y thượng mà đại tiểu tiện thì bất tiện mà còn phạm giới về oai nghi tế hạnh. Khạc nhổ, đại tiểu tiện phải trong phòng vệ sinh, không được khạc nhổ, đại tiểu tiện bên ngoài, trong ao hồ, trên cỏ, nếu khạc nhổ, đại tiểu tiện bên ngoài, trong ao hồ, trên cỏ thì phạm giới.

Nếu khạc nhổ, đại tiểu tiện bên ngoài, trong ao hồ, trên cỏ thì phải chọn nơi kín đáo, rồi đào một cái lỗ nhỏ để khạc nhổ hay đại tiểu tiện rồi lấp lại thì không phạm giới, còn tiêu tiểu xung quanh thất mình mà không vào phòng vệ sinh và không đào lỗ là phạm giới, là người thiếu đức vệ sinh môi trường sống, là không xứng đáng đoàn viên của Tu Viện Chơn Như.

Hỏi 14: Kính thưa Thầy, khi tu sinh đã thọ thực xong, bát đã đậy nắp, lại có người cúng dường thêm bánh, trái cây có được ăn nữa không?

Đáp: Không, khi đã ăn xong uống nước rồi mà còn ăn nữa là tham ăn, người ngoài đời người ta còn không ăn như vậy, huống chi chúng ta là tu sĩ. Người tu sĩ đi tìm cầu sự giải thoát sao lại không làm chủ cái ăn, nếu ăn thêm được thì giới luật đâu có cấm. Người ăn thêm được xem là ăn hai lần; ăn hai lần thì phạm giới luật.

Hỏi 15: Kính thưa Thầy, người tu sĩ có thể dùng đũa gắp thức ăn được không?

Đáp: Được, không có giới luật nào cấm dùng đũa gắp thức ăn, như vậy dùng muỗng, đũa, nĩa, v.v... không có phạm giới. Mỗi nước trên thế gian này về ăn uống có những hành động khác nhau như: Người Ấn Độ dùng tay bốc cơm ăn, giống như những đồng bào thiểu số sống trong rừng sâu, bộ lạc; người Việt Nam, người Trung Hoa dùng đũa ăn cơm; người Pháp dùng nĩa, dao, muỗng ăn cơm, v.v... Ăn uống như thế nào giữ gìn vệ sinh là tốt nhất.

Còn ăn uống đó là quyền tự do, ai muốn ăn cháo hỗn tạp thì trộn, còn ai không muốn ăn trộn thì cứ để tự nhiên rồi dùng đũa gắp mà ăn, không được phê bình nhau, vì trong giới luật Phật không có cấm ăn riêng loại cứng, loại mềm. Ai muốn ăn sao cũng được, nhưng ăn phải lưu ý: phải ăn trong chánh niệm tĩnh giác, ăn phải nhai chậm chạp, khoan thai nhẹ nhàng, không được ăn uống vội vàng hấp tấp; ăn để biết từng tâm niệm của mình còn dục hay đã hết dục.

Dùng đũa gắp thức ăn cũng là một phương pháp tu tập chánh niệm tĩnh giác. Bởi tu tập chánh niệm tĩnh giác là tu trong tất cả hành động cuộc sống của con người. Cho nên giới luật Phật không theo văn hóa phong tục của nước Ấn Độ, mà chỉ cấm những oai nghi tế hạnh thô tháo của con người.

Hỏi 16: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ cách thức ăn uống?

Đáp: Trong giới đức chánh niệm tĩnh giác, khi ăn uống phải chánh niệm tĩnh giác, nhẹ nhàng khoan thai trong mỗi hành động khi nhai, khi nuốt, khi gắp, khi múc thức ăn, không nên phát ra tiếng kêu, không nên khua bát, khua đũa. Nói chung, tất cả những hành động từ khi đi khất thực, ôm bát như thế nào cho đúng oai nghi của người đi khất thực, khoan thai nhẹ nhàng, đừng có những hành động của người ăn xin đưa bát trước bụng, đứng trước cửa nhà người hoặc trước những gian hàng buôn bán, đó là sự bắt buộc người ta cúng dường giống như người ăn mày.

Người khất sĩ không làm những hành động luồn cúi ăn xin cho được miếng ăn. Về vấn đề ăn uống như thế nào cũng tốt, nhưng phải chánh niệm tĩnh giác trong từng hành động ăn, trong khi ăn phải nghiêm chỉnh, không được nói chuyện, cười đùa trong bữa ăn.

Hỏi 17: Kính thưa Thầy, trước khi cúng thực phẩm chúng ta phải làm sao?

Đáp: Về phần cúng là tượng trưng cho lòng biết ơn của chúng ta đối với những người đã chết, còn riêng người chết thì đã tiếp tục tái sinh luân hồi, còn đâu mà ăn hay hưởng hơi thực phẩm của con người. Chúng ta có thân mới ăn uống để nuôi thân, còn họ đã mất thân thì ăn uống để làm gì?

Trước khi cúng dường những thực phẩm như bánh, trái cây, kẹo, mứt, chúng ta chỉ sắp lên khay hay nắp bát, ngay ngắn có thứ tự, để tỏ lòng thành kính biết ơn. Chỉ khi nào ăn chúng ta mới lột vỏ trái cây, lột giấy bánh mứt, còn nếu lột trước cũng không sao, nhưng phải giữ vệ sinh. Tùy tiện mỗi người khi ăn như thế nào cũng tốt, nếu đem bánh, mứt, kẹo, trái cây: cam, quít, bưởi, chuối, mít trộn chung trong cơm, canh, đồ chiên, đồ xào, đồ nấu để ăn cũng không sao, vì trong giới luật Phật không có cấm, ăn như thế nào cũng được. Cúng như thế nào cũng được, nhưng chúng ta phải giữ gìn đúng nề nếp văn hóa văn minh, đừng sống theo kiểu ăn lông ở lỗ thiếu vệ sinh của người tiền sử.

Đạo Phật lúc nào cũng hợp với thời đại, dù thời đại đó có văn minh đến đâu thì đạo Phật vẫn đi trước. Vì thế đạo Phật không bao giờ lỗi thời, chỉ có những người không hiểu đạo Phật là chân lý của loài người; không hiểu nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo mới thấy nó lỗi thời mà thôi. Vì thế, những oai nghi tế hạnh của Phật giáo cần phải học.

Hỏi 18: Kính thưa Thầy, “Thọ Bát” nghĩa là gì? Và ích lợi về việc Thọ Bát như thế nào?

Đáp: Thọ Bát là ăn cơm trong bát, ăn theo hạnh của Phật, ăn theo hạnh của người khất sĩ. Thọ Bát có nghĩa muốn ăn một vật gì đều bỏ vào bát rồi mới dùng muỗng, đũa lấy thức ăn bỏ vào miệng rồi mới ăn, không được ăn những món ăn lấy ngoài bát, như lột chuối rồi cắn ăn, hoặc lấy bánh cầm nơi tay rồi đưa vào miệng ăn, ăn như vậy không được gọi là Thọ Bát, cho nên, dù bánh, kẹo, mứt, trái cây đều được lột vỏ, giấy, lá rồi bỏ vào bát múc ăn.

Lợi ích về việc Thọ Bát là ăn uống rất cẩn thận, không giống như loài động vật, không ăn cào ăn cấu. Thọ Bát là ăn uống có oai nghi tế hạnh nhẹ nhàng, khoan thai, từ tốn, tĩnh giác, v.v... từ hành động bỏ thực phẩm loại cứng, loại mềm vào bát, rồi cũng nhẹ nhàng dùng muỗng múc ăn từ tốn một cách nghiêm trang chậm chạp. Thọ bát có nghĩa là ăn trong sự tu tập tĩnh giác xả tâm, chứ không phải ăn uống như người thế gian.

Hỏi 19: Kính thưa Thầy! Ba muỗng cơm hòa chúng là sao?

Đáp: Trong đạo Phật có Lục Hòa, chứ không có Tam Hòa. Vậy con nên hỏi sư Trưởng đoàn. Tam Hòa xuất phát từ hệ phái Khất sĩ, vậy các con nên hỏi để học thêm ba muỗng cơm hòa chúng. Trong kinh sách Phật không thấy Phật dạy.

Hỏi 20: Kính bạch Thầy, mỗi tháng có hai ngày cạo tóc, đó là giới luật của Phật hay là thường lệ cạo tóc như vậy thành thói quen, nếu lỡ không cạo có phạm lỗi gì không?

Đáp: Mỗi tháng có hai ngày cạo tóc không phải là “Giới Luật”, mà là “Lệ”, vì thế nếu quên không cạo tóc cũng không sao cả, nhưng khi sinh hoạt trong Tăng đoàn thì phải cạo tóc đúng kỳ để sự sinh hoạt có hình sắc hòa hợp. Ngày xưa sáu năm khổ hạnh Phật không có cạo tóc râu, còn Thầy những năm tháng quyết liệt tu hành nên không có thì giờ cạo tóc râu, khi chứng đạo xong về thăm Hòa thượng Thanh Từ thì ít ai nhận ra Thầy được.

Hỏi 21: Một người tu sĩ có cất giữ tiền bạc để đi xe, tàu được hay không? Có người nói: Thầy hoan hỷ tùy thuận cho chư Tăng cất giữ tiền bạc.

Đáp: Không! Giới luật Phật đã cấm: “Người  Tu Sĩ Không Nên Cất Giữ Tiền Bạc”. Cất giữ tiền bạc là phạm giới. Người tu sĩ cất giữ tiền bạc không xứng đáng là đệ tử của Phật. Nói Thầy tùy thuận là không đúng, vì Thầy không tùy thuận về sự cất giữ tiền bạc, và cũng không phạt vạ bắt lỗi ai hết. Bởi đạo Phật là đạo tự giác, tự nguyện giữ giới luật, chứ không ai bắt buộc. Ai tu hành giữ gìn giới luật Phật nghiêm chỉnh thì được lợi ích cho họ, còn ai tu hành phạm giới thì tu hành chỉ phí công, chẳng có lợi ích gì mà còn làm hại Phật giáo.

Giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì tu hành có lợi ích cho mình, làm rạng danh Phật pháp, chứ riêng Thầy có lợi ích gì. Cho nên Thầy không phạt vạ, chỉ nhắc nhở khuyên bảo; ai nghe cũng tốt, không nghe cũng tốt.

Hỏi 22: Hình ảnh ngồi thọ thực như thế nào (Khi thọ thực theo đoàn)?

Đáp: Hình sau:

                                                                     Tượng Phật.

                                                Trưởng đoàn                     Phó đoàn

                                                Chúng tăng                        Chúng tăng

                                                         //                                       //     

Hỏi 23: Tọa cụ dùng như thế nào?

Đáp: Tọa cụ là một miếng vải có chiều dài 2m; chiều ngang 0,8m dùng để trải ra để nằm; xếp đôi lại để ngồi thiền hoặc thọ thực. Thường chúng tăng dùng chiếc y thượng đã rách không dùng nữa nên bỏ ra, được vá may lại làm thành tọa cụ.

Tọa cụ của Phật và chúng Thánh tăng ngày xưa là chiếc y thượng rách, dùng xếp lại để nằm hoặc ngồi, chứ không như tọa cụ của các sư Khất sĩ và các Thiền sư bây giờ, là một chiếc gối mềm hoặc một miếng vải có kích thước 45cm x 60cm dùng để ngồi thiền hay thọ thực.

Nếu chúng tăng dùng tọa cụ thì nên dùng một miếng vải cũ có chiều dài kích cỡ thước tấc như trên đã dạy, để thực hiện đời sống du tăng rày đây mai đó, lấy đất làm giường, lấy trời làm nhà. Còn chiếc tọa cụ có kích thước 45cm x 60cm thì chỉ dùng để ngồi, nên không phù hợp.

Khi ông A Nan trả lời vua A Xà Thế về việc sử dụng y áo, tọa cụ và vải lau chân của chư tang bằng chiếc y thượng, đã khiến cho nhà vua kính phục đức hạnh tiết kiệm của chúng Thánh tăng trong thời đức Phật. Người tu sĩ Phật giáo sử dụng những vật tùy thân càng ít càng tốt, càng thể hiện rõ nét Hạnh Thiểu Dục Tri Túc.

Hỏi 24:  Ngày họp Tăng đoànngày thỉnh nguyện sự sinh hoạt ý nghĩa giống nhau. Tại sao vậy?

Đáp: Ngày Họp Tăng Đoàn là để họp mặt học hỏi nhau những oai nghi tế hạnh còn thiếu sót. Nhất là về những bài học đức hạnh trong lớp chưa thông suốt, được nêu ra và trao đổi với nhau những ý nghĩa hay đẹp và những đức hạnh cao thượng để cùng nhau cùng sống, cùng thực hiện một đời sống thánh thiện.

Ngày Thỉnh Nguyện Sám Hối là ngày kiểm thảo những lỗi lầm sai trái, để cố gắng khắc phục sửa sai để trở thành người tu sĩ tốt; người tu sĩ chứng quả vô lậu. Cho nên hai ngày ấy nó có ý nghĩa khác nhau, đâu có giống nhau được. Học tập đạo đức, sinh hoạt đoàn và thỉnh nguyện chỉ có một buổi trong ngày, còn nửa ngày mặc sức mà giặt y áo.

Hỏi 25: Tất cả các tu sinh khi không hiểu một điều gì, hỏi thầy Giảng viên hoặc sư Trưởng đoàn không trả lời được, có được quyền viết thư hỏi Thầy không?

Đáp: Được, khi không hiểu một điều gì, quý tăng sinh được quyền viết thư thưa hỏi Thầy, được trình lên thầy Giảng viên hay sư Trưởng đoàn.

Hỏi 26: Sư Trưởng đoàn có nhiệm vụ gì trong đoàn?

Đáp: Sư Trưởng đoàn có nhiệm vụ hướng dẫn những oai nghi tế hạnh trong giới luật Phật thuộc hệ phái Khất sĩ, và làm gương hạnh cho chúng tăng nương theo mà sống cho đúng oai nghi tế hạnh của Phật và chúng Thánh tăng ngày xưa. Vì giới luật Trưởng đoàn được giảng dạy cho đoàn viên.

Hỏi 27: Tu sĩ thỉnh nguyện sám hối mà cứ phạm lỗi mãi thì làm sao? Có phạt vạ gì không?

Đáp: Người tu sĩ phạm giới tuy thỉnh nguyện sám hối, hứa hẹn cố gắng sửa lỗi mà cứ lỗi nào tật nấy không sửa, thì người tu sĩ như vậy thiếu đức xấu hổ, không còn cách nào giúp họ được, chỉ còn cách khuyên họ về sống đời Cư sĩ, vì làm Tu sĩ như vậy sẽ là hình ảnh phỉ báng Phật pháp.

Người không biết xấu hổ vì những lỗi lầm của mình là người không thể theo Phật giáo tu hành, vì đạo Phật là đạo ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện, cho nên người lầm lỗi là người làm khổ mình khổ người, là người làm ác. Làm ác mà không chịu sửa thì người ấy còn dùng vào đâu được nữa. Phải không các tăng sinh?

Hỏi 28: Trong những buổi thỉnh nguyện sám hối, tăng sinh nào được thỉnh nguyện sám hối trước?

Đáp: Trong buổi thỉnh nguyện phát lồ sám hối, người Trưởng đoàn phát nguyện trước, kế người Phó đoàn và sau đó theo thứ tự tăng sinh; người nào ngồi trước thỉnh nguyện trước; người ngồi sau thỉnh nguyện sau.

Hỏi 29: Nghi thức Thọ Trai theo sư Trưởng đoàn có đúng không? Xin Thầy chỉ dạy.

Đáp: Nghi thức Thọ Trai nên làm theo sự hướng dẫn của sư Trưởng đoàn, vì sư Trưởng đoàn sẽ hướng dẫn theo đúng oai nghi tế hạnh nghi thức thọ trai của người Khất sĩ. Vậy các tăng sinh hãy làm theo gương hạnh của Trưởng đoàn.

Đến đây, Thầy xin thăm và chúc Tăng đoàn ngày càng lớn mạnh.

                                                                                                                     Thầy của các con
                                                                                                                  Thích Thông Lạc

 
 

 

125-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (16). TL Thích Thông Lạc

56- Câu hỏi về niệm và tâm.

Kính gửi LC: Con nói tâm con “im re không niệm. Vậy sao tê chân, hoặc chuyển sang đi kinh hành con đều biết?

             1- Biết tê chân là khởi niệm.
             2- Biết chuyển sang đi kinh hành là khởi niệm.

Như vậy, con tu sai mà không biết mình tu sai. Nếu thật sự con không còn khởi niệm, thì con trở thành cục đá, gốc cây.

Đạo Phật là đạo Trí Tuệ, vì thế trước các ác pháp tâm không giận hờn phiền não, là nhờ hiểu biết nhân quả, cũng như đứng trước các dục mà không bị lôi cuốn, đắm mê, chớ không phải không niệm.

Tịnh mà không niệm là sai, là không hiểu nghĩa của tịnh. Tịnh mà không niệm là ức chế ý thức. Niệm tịnh (thanh tịnh) là những niệm đem lại sự an vui, yên ổn cho mình và cho mọi người.

Nếu con bảo tâm con không niệm, sao con biết mọi vật xung quanh con? Con hiểu sai chữ niệm, vì chữ niệm có hai nghĩa rất rõ ràng:

               1- Niệm là sự tư duy, suy nghĩ, đó là niệm thô.
               2- Niệm chỉ là biết mọi vật xảy ra xung quanh con, đó là niệm vi tế.

Vậy biết niệm nào đúng và niệm nào sai?

Niệm thô có hai niệm:

              1- Niệm đúng là sự tư duy suy nghĩ những điều thiện.
              2- Niệm sai là sự tư duy suy nghĩ những điều ác.

Niệm vi tế có hai niệm:

              1- Niệm là chỉ biết mọi vật xung quanh con, mà không bị lôi cuốn theo mọi vật là đúng.
              2- Niệm là chỉ biết mọi vật xung quanh con, mà bị lôi cuốn theo mọi vật là sai.

Hỏi: Định niệm hơi thở nhiếp tâm và an trú 30 phút, tiếp đến tu tập 30 phút tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Thưa Thầy, cả hai pháp môn này thời gian là một tiếng. Khi con tu tập như vậy thì thân tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự có thể kéo dài thời gian hơn 1 tiếng có được không?

Đáp: Được, càng kéo dài thời gian tâm bất động càng tốt, nhưng chỉ có một niệm duy nhất là tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, còn có bất cứ một niệm nào khác khởi lên là các con không chấp nhận, phải tác ý đuổi ngay liền.

Các con phải nhớ: chỉ có Tâm bất động vô lậu, đó là niệm duy nhất mà các con cần phải giữ gìn và bảo vệ, nó là chân lí của đạo Phật. Chân lí của đạo Phật không có hai, ba chân lí, mà chỉ có một chân lí này mà thôi, nếu còn có những chân lí khác là của ngoại đạo, các con cần lưu ý đừng dễ tin người khác.

Thầy chỉ ước mong sao các con hiểu rõ cách thức tu tập xả tâm để chứng được tâm vô lậu, để được giải thoát hoàn toàn, để làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi, để không phụ ơn Phật, ơn sinh thành dưỡng dục, ơn Thầy và ơn đàn na thí chủ.

Hỏi: Con vào tu tập Định niệm hơi thở an trú trong 30 phút, tiếp đến 30 phút nữa tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, từ 1 đến 2 giờ rồi đến 3 giờ, có lúc đến 4 giờ sáng tâm con mới khởi niệm, nhưng nó vẫn tỉnh táo và sáng suốt.

Kính thưa Thầy, con theo dõi thân tâm của con nó an ổn, vô sự thì được bao lâu hay bấy lâu con không chuyển sang tu pháp khác? Như vậy con cần phải xả ra tu tập sang pháp khác không? Hay con cứ để cho thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự như vậy? Con chờ mong Thầy chỉ dạy. Nếu không, tâm con sẽ rơi vào thụ động lười biếng, buông lung, ỷ lại vào cái sự an ổn đó.

Đáp: Tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là tâm vô lậu, nếu các con tu tập tâm ở trong trạng thái này mà kéo dài thời gian sáu giờ cho đến một ngày đêm, và từ một ngày đêm cho đến bảy ngày đêm là con đã chứng đạo A-la-hán hoàn toàn. Đạo Phật chỉ có tu tập giữ tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, nhờ đó tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi là chứng đạo. Các con có hiểu chưa? Các con đừng nghĩ rằng chứng đạo của đạo Phật là vĩ đại, là cao siêu huyền bí, là thần thông phép lực vô tận, vô biên, v.v...

Không phải vậy đâu các con ạ! Tâm hết tham, sân, si, mạn, nghi là chứng đạo các con ạ!

Hỏi: Con xả tâm, ly dục ly bất thiện pháp như: ngũ triền cái, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu và các pháp quán tư duy thân, thọ, tâm, pháp, thân ngũ uẩn đều vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, v.v... Các pháp trên con đã tu tập trên một thời gian dài, thân tâm được an ổn, các chướng ngại trong tâm được giảm đi rất nhiều, đến nay con không còn tu tập các pháp đó nữa, con đã chuyển sang tu tập pháp quán trên thân quán thân trong bốn oai nghi, mỗi oai nghi con tu tập thời gian 10 phút rồi lại chuyển sang oai nghi khác. Kính thưa Thầy, con tu tập và xả tâm như vậy có được không?

Con nghĩ nếu con không tu tập liên tục quán thân trên thân như vậy, thì tâm con dễ phóng dật, buông lung, lười biếng rồi có lúc ngủ phi thời, nên con đã tự tu tập liên tục như vậy. Ngoài ra con còn tận dụng kết hợp xả tâm, ly dục ly ác pháp trong mọi thời gian trống. Vì con muốn cho thân tâm mau chóng hoàn toàn thành thanh tịnh.

Đáp: Con tu tập pháp quán xả tâm, ly dục ly ác pháp như vậy rất đúng, không sai, rồi con tiếp tục tu tập quán thân trên thân Tứ Niệm Xứ trong bốn oai nghi để bảo vệ và giữ gìn tâm mình bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Con tu tập như vậy không sai, hãy cố gắng tiếp tục để tâm bất động được kéo dài đến khi chứng đạo mới thôi. Con đường tu theo đạo Phật bắt đầu ly dục, ly ác pháp trên pháp môn Tứ Chánh Cần, rồi kế tiếp ly dục, ly ác pháp vi tế trên pháp môn Tứ Niệm Xứ.

Như vậy con đã tu tập đúng theo lộ trình của đạo Phật dạy. Con đừng sợ lạc đường, chỉ còn có thời gian bảy ngày đêm tâm bất động vô lậu là đến nơi đến chốn con ạ! “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.

Con đường tu tập cũng vậy các con ạ! Phật pháp không khó vì tu tập với những pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ, mà khó vì lòng người không bền chí, kiên trì tu tập với pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ. Cho nên lộ trình tu tập của Phật giáo từ thấp đến cao, từ giới đến định cụ thể rõ ràng. Vậy mà có người không hiểu, nghe nói thiền định là ôm ngay tu tập, mà không chịu khó suy tư cho chín chắn trình độ mình đang ở lớp tu tập nào?

Đừng vội vàng ham tu mà tự đưa mình vào con đường rối loạn thần kinh, trở thành điên khùng thật là tội nghiệp. Các sư Nam Tông tu hành chưa làm chủ sinh tử mà dám đem pháp môn Tứ Niệm Xứ dạy người tu tập, đó là những người điếc không sợ súng, những người mù mà làm hướng đạo viên thì biết chừng nào đến nơi đến chốn.

Hỏi: Con đọc lại toàn bộ kinh sách của Thầy viết, từ bộ Đường Về Xứ Phật và bốn quyển Những Lời Gốc Phật Dạy, con đã hiểu thêm pháp tu tập và các giới luật của Phật mà Thầy đã biên soạn trên các bộ sách đó. Con đang mong đợi bộ sách giới luật của Thánh tăng và Thánh ni mà thầy đã viết. Con chỉ có ước nguyện đủ duyên để thực hiện giới luật Phật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật.

Đáp: Con nên đọc bộ sách Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống, đó là bộ sách giới luật Thánh tăng và Thánh ni mà Thầy đã biên soạn gần xong, nhưng chưa đủ tiền in ra. Hiện giờ Thầy mới được giấy phép và in ấn hai tập, còn lại tám tập nữa.

Muốn đọc kinh sách giới luật thì con nên chịu khó nghiên cứu bộ sách TAM QUY. Trong sách dạy về oai nghi giới luật của đức Phật và chư Thánh tăng. Có đọc như vậy mới thông suốt những pháp ly dục, ly ác pháp của Phật và chúng Tăng ngày xưa. Một kinh nghiệm sống động mà người tu sĩ Phật giáo không thể không nghiên cứu những tập sách quý giá vô cùng mà chỉ có tu viện Chơn Như mới có.

57- Về bệnh thần kinh.  

1- Muốn nhận xét một người bình thường có bệnh tưởng hay không, thì nên xét qua giấc mộng, lòng tin của họ có thế giới siêu hình, đi ban đêm thường thấy ma, nằm ngủ bị mộc đè, ma đè, khi ngủ thường hay nói chuyện lảm nhảm trong miệng, v.v...

Các nhà ngoại cảm, đồng, bóng, cốt Cô, cốt Cậu và những người tâm sinh lý không bình thường, thiếu ý thức chủ động nên thường sống trong tưởng, cảm nhận người cõi âm đến sống với họ như vợ chồng (nam gọi là đàn bố, nữ gọi là đàn dưới).

2- Những người bệnh thần kinh đều là bệnh tưởng, vì thân tâm họ không bình thường (rối loạn thần kinh). Rối loạn thần kinh về tâm nhiều thì gọi là bệnh điên, ít thì gọi là “mát”; về thân nhiều thì tử vong, ít thì bán thân, miệng méo, quai hàm giựt, tay run, v.v... Những bệnh này đều do thần kinh không bình thường, nên thần kinh ý thức không còn hoạt động bình thường, không còn tự chủ điều khiển, nên được gọi chung là bệnh tưởng.

Cho nên, một người chạy theo lòng ham muốn thường làm khổ m.nh, khổ người, không tự chủ được ý thức để tâm tham, sân, si sai khiến ý thức, thì người ấy gọi là người vô minh, người ngu si. Còn những người thân tâm thường sống trong mơ mộng, ảo giác, hư tưởng, v.v... là những người bệnh tưởng. Đối với Phật giáo, những người này được xem họ là những người điên.

Ví dụ: Không có cõi Cực lạc, Thiên đàng, Niết bàn như thật, mà họ tưởng là có các cõi ấy như thật, nên thường sống trong hư tưởng, cầu về các cõi đó, đó là những người bệnh thần kinh (điên).

Không có thần thông thật, mà chỉ có năng lực do tâm thanh tịnh ly dục, ly ác của người xả tâm diệt ngã. Năng lực ấy dùng để làm chủ sự sống chết. Còn những người tu tập cầu mong có thần thông là những người bị bệnh tưởng. Vì thần thong đều do tưởng uẩn lưu xuất. Đó là những trò ảo thuật để lừa đảo người; để thực hiện tâm tham danh vĩ đại như cậu bé Ram Bahadur Bamjan người Ấn Độ ngồi thiền 6 tháng không ăn uống. Đó là một loại thiền tưởng của ngoại đạo, chứ Phật giáo không có những loại thiền này.

Thiền của Phật giáo không sống trong tưởng, nên thường đem lại lợi ích cho con người. Vì thiền của Phật giáo là thiền quán dùng để ly dục, ly ác pháp; dùng để cuộc sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Cho nên thiền Phật giáo là thiền như thật, chứ không phải là loại thiền tưởng như cậu bé nói trên đang nhập. Thiền như cậu bé này đang tu chẳng ích lợi gì cho ai cả. Càng tu tập, cậu bé này càng rơi vào bệnh tưởng (tưởng không ăn uống). Đó là một loại bệnh thiền, thiền “điên”.

3- Người bị bệnh rối loạn thần kinh thân, dù là bệnh nặng như bệnh bán thân vẫn tu tập pháp Như Lý Tác Ý và pháp Thân Hành Niệm bằng cách nương vào hơi thở, hoặc nương vào hành động đưa tay ra vào theo như lời Phật đã dạy: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, hoặc: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô”.

Trước khi tác ý hai câu này, thì nên tác ý câu lệnh: “Thọ là pháp vô thường, cái bệnh bán thân này phải lìa khỏi thân ta”.

Trong khi tu tập như vậy thì phải sống đúng tám giới (Bát Quan Trai), thì bệnh sẽ bình phục lại như xưa, không còn bị bán thân, không còn bị méo miệng và không còn bị run tay nữa.

58- Phương pháp Tác ý trị bệnh.

Nằm hay ngồi trong tư thế nào cũng được, nhưng nếu gan dạ thì nên ngồi kiết già hay bán già lưng thẳng; mắt mở, nhìn phía trước cách chỗ ngồi khoảng hơn một thước. Khi thân ngồi ngay thẳng, tâm yên ổn mới tác ý như sau:

 “Tất cả bệnh tật đều vô thường, vậy thân bệnh này phải phục hồi, không còn bệnh tật nào cả. Tất cả bệnh tật này hãy đi đi!!! An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. (Hoặc: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô”)

Khi tác ý như vậy xong thì chú tâm vào hơi thở hít vô và hơi thở ra đúng năm hơi thở (hoặc cánh tay đưa ra, đưa vô năm lần) rồi lại tác ý lần thứ hai như câu trên đã dạy. Cứ như vậy tiếp tục đuổi bệnh trong 30’ rồi nghỉ độ 10’. Khi nghỉ xong 10’ rồi lại tiếp tục đuổi bệnh trong 30’ nữa.

Khi đuổi bệnh phải siêng năng tác ý như vậy, thì chỉ trong thời gian ngắn bệnh tật sẽ chấm dứt và thân không còn một bệnh tật nào cả.

Pháp Như Lý Tác Ý đuổi bệnh là do đức Phật dạy: “Có Như Lý Tác Ý, bệnh tật khổ đau (lậu hoặc) chưa sinh sẽ không sinh, mà đã sinh thì bị diệt”, nhưng muốn được hiệu quả đẩy lui bệnh ra khỏi thân, thì bệnh nhân phải Nhiếp Tâm Và An Trú Tâm Trong Thân Hành (hơi thở ra, hơi thở vô, cánh tay đưa ra, đưa vào hay chân bước đi kinh hành). Trong những thân hành, nên chọn một thân hành mà tập luyện nhiếp tâm, an trú cho được, thì đẩy lui bệnh rất hiệu quả.

Dụng pháp Như Lý Tác Ý đuổi bệnh không có tốn hao tiền thang thuốc và bác sĩ. Vậy mong sao quí vị hãy tự cứu mình ra khỏi biển khổ của kiếp làm người.

                                                                                                                    Kính thư,
                                                                                                           Thầy của các con

126-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (17). TL Thích Thông Lạc

59- Những câu hỏi về Định niệm hơi thở và an trú

Kính thưa Thầy! Con có một số câu hỏi xin Thầy chỉ dạy:

Hỏi: Định niệm hơi thở nhiếp tâm và an trú 30 phút, tiếp đến tu tập 30 phút tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Thưa Thầy, cả hai pháp môn này thời gian là một tiếng. Khi con tu tập như vậy thì thân tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự có thể kéo dài thời gian hơn 1 tiếng có được không?

Đáp: Được, càng kéo dài thời gian tâm bất động càng tốt, nhưng chỉ có một niệm duy nhất là tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, còn có bất cứ một niệm nào khác khởi lên là các con không chấp nhận, phải tác ý đuổi ngay liền.

Các con phải nhớ: chỉ có Tâm bất động vô lậu, đó là niệm duy nhất mà các con cần phải giữ gìn và bảo vệ, nó là chân lí của đạo Phật. Chân lí của đạo Phật không có hai, ba chân lí, mà chỉ có một chân lí này mà thôi, nếu còn có những chân lí khác là của ngoại đạo, các con cần lưu ý đừng dễ tin người khác.

Thầy chỉ ước mong sao các con hiểu rõ cách thức tu tập xả tâm để chứng được tâm vô lậu, để được giải thoát hoàn toàn, để làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi, để không phụ ơn Phật, ơn sinh thành dưỡng dục, ơn Thầy và ơn đàn na thí chủ.

Hỏi: Con vào tu tập Định niệm hơi thở an trú trong 30 phút, tiếp đến 30 phút nữa tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, từ 1 đến 2 giờ rồi đến 3 giờ, có lúc đến 4 giờ sáng tâm con mới khởi niệm, nhưng nó vẫn tỉnh táo và sáng suốt.

Kính thưa Thầy, con theo dõi thân tâm của con nó an ổn, vô sự thì được bao lâu hay bấy lâu con không chuyển sang tu pháp khác? Như vậy con cần phải xả ra tu tập sang pháp khác không? Hay con cứ để cho thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự như vậy? Con chờ mong Thầy chỉ dạy. Nếu không, tâm con sẽ rơi vào thụ động lười biếng, buông lung, ỷ lại vào cái sự an ổn đó.

Đáp: Tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là tâm vô lậu, nếu các con tu tập tâm ở trong trạng thái này mà kéo dài thời gian sáu giờ cho đến một ngày đêm, và từ một ngày đêm cho đến bảy ngày đêm là con đã chứng đạo A-la-hán hoàn toàn. Đạo Phật chỉ có tu tập giữ tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, nhờ đó tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi là chứng đạo. Các con có hiểu chưa? Các con đừng nghĩ rằng chứng đạo của đạo Phật là vĩ đại, là cao siêu huyền bí, là thần thông phép lực vô tận, vô biên, v.v...

Không phải vậy đâu các con ạ! Tâm hết tham, sân, si, mạn, nghi là chứng đạo các con ạ!

Hỏi: Con xả tâm, ly dục ly bất thiện pháp như: ngũ triền cái, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu và các pháp quán tư duy thân, thọ, tâm, pháp, thân ngũ uẩn đều vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, v.v... Các pháp trên con đã tu tập trên một thời gian dài, thân tâm được an ổn, các chướng ngại trong tâm được giảm đi rất nhiều, đến nay con không còn tu tập các pháp đó nữa, con đã chuyển sang tu tập pháp quán trên thân quán thân trong bốn oai nghi, mỗi oai nghi con tu tập thời gian 10 phút rồi lại chuyển sang oai nghi khác. Kính thưa Thầy, con tu tập và xả tâm như vậy có được không?

Con nghĩ nếu con không tu tập liên tục quán thân trên thân như vậy, thì tâm con dễ phóng dật, buông lung, lười biếng rồi có lúc ngủ phi thời, nên con đã tự tu tập liên tục như vậy. Ngoài ra con còn tận dụng kết hợp xả tâm, ly dục ly ác pháp trong mọi thời gian trống. Vì con muốn cho thân tâm mau chóng hoàn toàn thành thanh tịnh.

Đáp: Con tu tập pháp quán xả tâm, ly dục ly ác pháp như vậy rất đúng, không sai, rồi con tiếp tục tu tập quán thân trên thân Tứ Niệm Xứ trong bốn oai nghi để bảo vệ và giữ gìn tâm mình bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Con tu tập như vậy không sai, hãy cố gắng tiếp tục để tâm bất động được kéo dài đến khi chứng đạo mới thôi. Con đường tu theo đạo Phật bắt đầu ly dục, ly ác pháp trên pháp môn Tứ Chánh Cần, rồi kế tiếp ly dục, ly ác pháp vi tế trên pháp môn Tứ Niệm Xứ.

Như vậy con đã tu tập đúng theo lộ trình của đạo Phật dạy. Con đừng sợ lạc đường, chỉ còn có thời gian bảy ngày đêm tâm bất động vô lậu là đến nơi đến chốn con ạ! “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.

Con đường tu tập cũng vậy các con ạ! Phật pháp không khó vì tu tập với những pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ, mà khó vì lòng người không bền chí, kiên trì tu tập với pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ. Cho nên lộ trình tu tập của Phật giáo từ thấp đến cao, từ giới đến định cụ thể rõ ràng. Vậy mà có người không hiểu, nghe nói thiền định là ôm ngay tu tập, mà không chịu khó suy tư cho chín chắn trình độ mình đang ở lớp tu tập nào?

Đừng vội vàng ham tu mà tự đưa mình vào con đường rối loạn thần kinh, trở thành điên khùng thật là tội nghiệp. Các sư Nam Tông tu hành chưa làm chủ sinh tử mà dám đem pháp môn Tứ Niệm Xứ dạy người tu tập, đó là những người điếc không sợ súng, những người mù mà làm hướng đạo viên thì biết chừng nào đến nơi đến chốn.

Hỏi: Con đọc lại toàn bộ kinh sách của Thầy viết, từ bộ Đường Về Xứ Phật và bốn quyển Những Lời Gốc Phật Dạy, con đã hiểu thêm pháp tu tập và các giới luật của Phật mà Thầy đã biên soạn trên các bộ sách đó. Con đang mong đợi bộ sách giới luật của Thánh tăng và Thánh ni mà thầy đã viết. Con chỉ có ước nguyện đủ duyên để thực hiện giới luật Phật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật.

Đáp: Con nên đọc bộ sách Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống, đó là bộ sách giới luật Thánh tăng và Thánh ni mà Thầy đã biên soạn gần xong, nhưng chưa đủ tiền in ra. Hiện giờ Thầy mới được giấy phép và in ấn hai tập, còn lại tám tập nữa.

Muốn đọc kinh sách giới luật thì con nên chịu khó nghiên cứu bộ sách TAM QUY. Trong sách dạy về oai nghi giới luật của đức Phật và chư Thánh tăng. Có đọc như vậy mới thông suốt những pháp ly dục, ly ác pháp của Phật và chúng Tăng ngày xưa. Một kinh nghiệm sống động mà người tu sĩ Phật giáo không thể không nghiên cứu những tập sách quý giá vô cùng mà chỉ có tu viện Chơn Như mới có.

60- Những câu hỏi về Dựng Lại Chánh Pháp

Kính bạch Trưởng Lão Hòa Thượng! Con có vài cảm nghĩ muốn xin trình bạch lên Trưởng Lão:

Hỏi: Con hiểu ý Trưởng Lão muốn xây dựng lại, muốn vực dậy một Phật giáo quá suy đồi. Trưởng Lão đã dựng lên cái đã ngã xuống, đốt sáng lên ngọn đèn đã tắt, phá dẹp áng mây mù tối đen mờ ảo. Thưa Trưởng Lão, những điều con hiểu như vậy có đúng không?

Đáp: Những điều sư đã hiểu ý của Trưởng Lão là đúng. Một Phật giáo hiện giờ là một Phật giáo tha lực chuyên cầu cúng tụng niệm; một Phật giáo sống trong tưởng tri chứ không phải sống trong liễu tri; một Phật giáo không còn có đường lối tu hành làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi; một Phật giáo suy thoái tận cùng đang chạy theo ngũ dục lạc thế gian. Tất cả tu sĩ đều phạm giới, phá giới tan nát, không còn giữ một giới nào trọn vẹn. Thật là đau lòng cho những ai có tâm niệm thiết tha tìm cầu sự giải thoát ra khỏi nhà sinh tử.

Đứng trước cảnh nhà tan cửa nát của Phật giáo như vậy, ai nỡ tâm làm ngơ cho đành. Vì thế, Trưởng Lão mới kê vai gánh vác mọi công việc quá nặng nhọc ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Với tâm nguyện chỉ ước mong sao chúng sinh hữu duyên có đầy đủ phước báo để thọ hưởng được những pháp bảo quý báu mà đức Phật đã để lại cho đời. Một kho tàng pháp bảo quý báu vô cùng, vô tận, thế mà mai một bị chôn vùi dưới lớp giáo pháp mê tín, lạc hậu, dị đoan của tà giáo ngoại đạo đã hơn 2500 năm.

Chánh pháp của Phật là một chân lý, là một nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người, giúp cho con người sống với nhau mà không làm khổ mình, khổ người. Thế mà con người tuy có duyên, nên được đức Phật ra đời trao cho chánh pháp, nhưng chưa đủ để thọ hưởng phước báo ấy, nên khiến cho tà giáo ngoại đạo phủ kín. Vì vậy không còn ai biết đường lối tu tập giải thoát như thế nào. Bởi, Phật pháp là để cho người hữu duyên và đầy đủ phước báu, chứ không thể để cho người thiếu duyên, thiếu phước. Thế nên, chúng sinh thiếu duyên, thiếu phước, vì thế Phật pháp mới bị chôn vùi hơn 2500 năm tính từ khi đức Phật ra đời cho đến nay.

Vào thế kỷ này mới có người tu chứng đạo. Nhờ có người tu chứng đạo nên mới làm cho ánh sáng chánh pháp của Phật soi rọi đánh thức mọi người. Đấy cũng là lúc chúng sinh đã đủ duyên, vì biết sống theo khoa học, chọn lối sống thực tế, cụ thể hơn, xả bỏ xa lìa lối sống mê tín dị đoan lạc hậu, v.v... không còn tin tưởng vào thế giới siêu hình, nên chánh pháp của Phật mới dựng lại được. Nếu không có con người sống thực tế khoa học, mà cứ sống trong mê tín thì chánh pháp của Phật vẫn phải tiếp tục chôn vùi.

Hỏi: Nhưng con thắc mắc: Từ khi đức Phật nhập Niết Bàn đến nay hơn 2500 năm, không có một vị nào tu chứng quả A-la-hán sao? Nếu có thì với trí tuệ Tam Minh, vị này phải thấy là Phật giáo suy đồi và lên tiếng cảnh tỉnh sửa sai chứ?

Đáp: Sau khi tu chứng quả vô lậu, Trưởng Lão đã sử dụng Tam Minh quan sát về quá khứ xem có người nào tu chứng quả A-ha-hán, nhưng hoàn toàn không thấy. Một bằng chứng hiển nhiên và cụ thể. Đó là không thấy có một cuốn kinh sách của một vị tổ sư nào từ khi khi đức Phật ra đời cho đến nay dám nói cái sai của Phật giáo, toàn là a dua theo kiến giải một chiều.

Xưa đức Phật khi tu chứng, Ngài dõng dạc tuyên bố: “Ba mươi ba cõi trời là cõi tưởng, chứ không có cõi thật” (tưởng tri chứ không phải liễu tri). Thời đó từ nhân dân già trẻ bé lớn, cho chí vua quan đều tin tưởng có 33 cõi Trời thật. Lời tuyên bố của đức Phật đã làm đảo lộn tư tưởng của con người lúc bấy giờ. Làm đảo lộn tư tưởng của con người chỉ có những bậc tu chứng quả A-la-hán mới dám cả gan làm điều này.

Trong lịch sử loài người từ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mãi đến hôm nay mới có một người thứ hai ra đời dám cả gan xác định thế giới siêu hình không có, không có linh hồn, không có quỷ, ma, thần, thánh, không có cõi địa ngục, thiên đàng, v.v... và thế giới siêu hình. Tất cả chỉ là thế giới tưởng mà tưởng uẩn của con người tạo ra.

Con người không còn lạc hậu như trong thời đức Phật, vì hiện nay kiến thức của con người có trình độ khoa học, thích chọn sự hiểu biết thực tế. Vì thế, thời điểm đã đến lúc dựng lại nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo và các pháp hành thực tế cụ thể, để giúp loài người ngăn chặn sự xung đột và chiến tranh. Nhất là để tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết.

Những việc làm trên đây đều do lòng từ bi thương xót chúng sinh của các Ngài. Cho nên không có một vị nào tu chứng quả mà nhập Niết Bàn liền, đành lòng làm ngơ bỏ chúng sinh đang đau khổ mà ra đi bao giờ, dù biết rằng duyên phước chúng sinh chưa đủ, nhưng các Ngài cũng không nỡ tâm bỏ mặc. Chúng sinh có hưởng được pháp bảo hay không là còn tùy duyên ở mỗi chúng sinh có phước hay thiếu phước.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là một hướng đạo viên mà thôi” Trưởng Lão Thích Thông Lạc nói: “Các con có tin thì tu tập là có ích lợi cho các con, chứ Thầy có lợi ích những gì”.

Hỏi: Suốt 2500 năm qua, Phật giáo cứ tiếp tục suy tàn và đến hôm nay thì mới có một vị tu chứng Tam Minh đứng lên vạch trần sự tệ hại suy đồi của Phật giáo. Vậy là sao?

Chúng sinh (tu sĩ và cư sĩ) trong mấy ngàn năm qua đã sống trong u mê mờ mịt, không lối thoát, đui mù không biết lối đi. Trách nhiệm này do ai?

Đáp:  Đừng hỏi tại sao, mà hãy nhìn sự sống muôn vật trong vũ trụ bằng con mắt nhân quả thì biết rõ. Nếu chúng sinh cứ gieo nhân mê tín, lạc hậu thì quả phải chịu gặt lấy sự tệ hại suy đồi của Phật giáo, sự u mê mờ mịt, không lối thoát, đui mù không biết lối đi. Đó là nhân nào quả nấy, vì vậy dù đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thương xót chúng sinh, có để lại bốn chân lý và một nền đạo đức nhân bản - nhân quả, thì cũng âm thầm mai một trong các bia đá của vua A Dục. Có ai thèm ngó tới nó làm gì. Dù có lưu ý ngó ngàng tới những bia kinh kia thì có ích lợi gì, khi tâm hồn của họ còn mang nặng những nhân mê tín dị đoan thì quả phải mù mờ, thì làm sao tin và hiểu nổi những lời dạy của đức Phật rất khoa học thực tế. Khi đọc những lời Phật dạy làm sao họ chịu nổi những đòn sấm sét làm đảo lộn tư tưởng của loài người đang tin vào thần thánh ma quỷ, vào một thế giới siêu hình.

Với tư tưởng mê tín mà đọc kinh sách Phật thì kinh sách Phật cũng trở thành kinh sách mê tín. Đó là theo luật nhân quả “gieo nhân nào thì gặt quả nấy”, chứ đừng hỏi trách nhiệm này của ai? Trách nhiệm này của chúng sinh chứ đâu phải của bậc tu chứng. Bậc tu chứng đã làm xong trách nhiệm bổn phận của mình, còn tin hay không tin là trách niệm bổn phận của chúng sinh.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã để lại giáo pháp của mình cho chúng sinh, đó là làm xong trách nhiệm bổn phận của mình, còn tu hay không tu là trách nhiệm bổn phận của chúng sinh, cũng như hiện nay Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã dựng lại chánh pháp của Phật là trách nhiệm bổn phận của người tu chứng đã làm xong, còn tin hay không tin là trách nhiệm bổn phận của chúng sinh, chứ không phải của người tu chứng. Do điều này mà chúng ta biết rất rõ thời gian 2500 năm không có người tu chứng quả A-la-hán, nên không có ai dám nói Phật giáo sai, Phật giáo mê tín, khiến cho chúng sinh càng mê mờ lại càng mê mờ hơn.

Những điều đã nói trên đây là một bằng chứng xác định khoảng thời gian 2500 năm cho đến nay không có người tu chứng quả A-la-hán đúng theo pháp của đức Phật, chỉ có những người tu theo thiền ngoại đạo nên chứng thiền tưởng, phần đông đều rối loạn thần kinh, lên đồng, nhập cốt, làm thầy pháp, thầy bùa, thầy phù thủy, thầy cúng, thầy thuyết giảng, v.v...

Hỏi: Những lời dạy của đức Phật (gọi là kinh) còn để lại trong kinh sách rất khó hiểu mà Trưởng Lão cũng xác nhận: “Nếu không phải là người tu chứng thì không hiểu được”. Vậy:

- Ngày xưa đức Phật muốn phát biểu hay giảng dạy điều gì thì chỉ nói một vài câu ngắn ngủi vậy rồi thôi sao?

- Hay là sau khi phát biểu vài câu ngắn ngủi (ý chánh) thì đức Phật cũng có một bài giảng, giải nghĩa rõ ràng từng chi tiết như Trưởng Lão đã giảng lại lời Phật dạy trong các kinh sách của Trưởng Lão)?

Đáp: Đọc trong kinh Nikaya chúng ta mới thấy đức Phật thuyết giảng rất kỹ, từ lý thuyết đến thực hành rõ ràng, và sau khi thuyết pháp xong, đức Phật còn trùng tuyên lại chữ nghĩa giải thích rõ ràng những từ khó hiểu, rồi còn cô đọng lại bài thuyết giảng thành câu kinh PHÁP CÚ. Đức Phật là một nhà sư phạm truyền đạt tư tưởng đạo đức rất cẩn thận kỹ lưỡng, làm cho mọi người tiếp thu một cách dễ dàng.

Tuy Phật giảng rất kỹ, nhưng đầu óc con người trong thời đức Phật cũng như con người hiện nay đều đầy ắp những kiến giải mê tín, hư ảo, huyền bí trong thế giới siêu hình. Và những sự hiểu biết mê tín này nó đã trở thành những thói quen, những phong tục tập quán của một dân tộc, của một đất nước. Cho nên, dù pháp Phật có hay đến bậc nào cũng không thể lọt vào tai của họ được. Cùng đọc một câu kinh Nikaya mà người mê tín hiểu theo kiểu mê tín, mà người tu thiền hiểu theo kiểu Thiền tông, mà người tu Mật tông hiểu theo kiểu Mật tông; mà người tu theo pháp môn Tịnh độ hiểu theo kiểu Tịnh độ. Chỉ có người tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì hiểu đúng lời thuyết giảng của Phật. Tại vì pháp của Phật là dạy tu tập làm chủ sinh tử luân hồi, nên người tu tập làm chủ sinh tử luân hồi thì mới hiểu đúng nghĩa.

Phật giảng dạy nghĩa lý rõ ràng, nhưng mọi người hiểu nghĩa lý một cách khác nhau là do tâm niệm của họ đầy ắp những kiến giải, tưởng giải của ngoại đạo, của Bà La Môn. Vì thế, nghĩa lý của kinh sách Phật lần lần hiểu ra thành kinh sách ngoại đạo, và cụ thể nhất là kinh sách Phật giáo Đại thừa và Thiền Tông Trung Hoa. Cho nên trách Phật thuyết giảng ngắn ngủi không nghĩa lý đầy đủ là sai. Phật bao giờ cũng giảng dạy nghĩa lý rõ ràng, còn ai hiểu hay không hiểu là vì tư tưởng của quý vị quá đầy ắp những cái sai nên quý vị không thể hiểu đúng được.

Nhà dạy đạo tu hành cũng giống như nhà sư phạm, hai người đều cố gắng truyền đạt lại tư tưởng văn hóa, đạo đức hay những phương pháp tu tập để những người nghe tiếp nhận đúng nghĩa một cách dễ dàng.

Ở đây, chúng ta nên nhắm vào người nghe, nếu người nghe đầy ắp những tư tưởng mê tín lạc hậu, đầy ắp những tư tưởng giáo pháp của ngoại đạo thì sẽ hiểu không đúng lời dạy của Phật. Đó là lỗi của người nghe. Nếu Trưởng Lão Thích Thông Lạc không nói mạnh, không chỉ thẳng giáo pháp của Đại thừa và Thiền tông sai thì Trưởng Lão có giảng kinh sách Nikaya hay đến bậc nào thì họ cũng hiểu theo kiểu Đại thừa. Nhờ vạch cái sai của kinh sách Đại thừa mà quý vị mới hiểu đúng nghĩa của Phật dạy.

Hỏi: Trường hợp 1- Nếu Phật chỉ nói vài câu ngắn ngủi vậy thôi thì chắc chắn không ai hiểu nổi, và như vậy mới có tình trạng đưa Phật giáo đến chỗ suy đồi ngày nay, vì không hiểu nghĩa được nên tu sai, không lối thoát thì dễ bị lý thuyết ngoại đạo (Bà La Môn) xâm nhập, hủy hoại.

Đáp: Như trên đã nói: Phật thuyết giảng những bài pháp rất đầy đủ nghĩa lý không thiếu một nghĩa nào cả, chỉ người nghe giống như ly nước đầy ắp những tư tưởng, phương pháp, phong tục mê tín ngoại đạo nên không thể nào còn rót vào ly nước ấy được nữa. Cho nên trường hợp thứ nhất sư nói không đúng.

Hỏi: Trường hợp 2- Nếu Phật có giảng thì lời giảng, bài giảng đó ở đâu? Không còn thấy lưu lại bất cứ một bài giảng nào của Phật cả, mà chỉ thấy những lời dạy ngắn ngủi quá cô đọng, với lời văn trúc trắc rất khó hiểu.

Đáp: Những bài giảng của Phật còn đầy đủ trong kinh tạng Nikaya, nhưng vì là bản dịch ngôn ngữ văn hóa của người Ấn Độ, nên người dịch không thể làm cách nào khác hơn được, chỉ chuyển ngữ qua ngôn ngữ Việt Nam. Đó cũng là may mắn lắm rồi, nếu không chuyển ngữ thì tiếng Pali làm sao chúng ta hiểu được. Từ chỗ chuyển ngữ này có một người nào phải am tường ngôn ngữ văn hóa Việt Nam tường tận thì mới chuyển ngôn ngữ văn hóa Ấn Độ thành ngôn ngữ văn hóa Việt Nam. Nhờ đó mà mọi người Việt Nam đọc kinh sách Phật mới dễ hiểu.

Tại sao quý vị đọc kinh Nikaya rất khó hiểu? Vì kinh sách Nikaya là văn hóa Ấn Độ. Trái lại, khi chuyển nó ra thành văn hoá Việt Nam thì quý vị dễ hiểu, không còn hiểu khó khăn gì cả. Có đúng như vậy không? Cho nên, trường hợp hai không phải đức Phật giảng dạy quá ngắn ngủi cô đọng, lời văn trúc trắc, mà vì nó là văn hóa Ấn Độ mới chuyển ngữ Việt Nam. Chứ kinh Nikaya không phải là văn hóa Việt Nam.

Hỏi: Vậy chúng sinh đã u mê rồi (nên mới tìm tu), mà lại không được sự hướng dẫn rõ ràng sáng sủa (như lời giảng của Trưởng Lão), mà chỉ đọc được những lời dạy cô đọng khó hiểu của Phật thì làm sao tu được? Họ phải tu sai, hiểu sai, và một số lớn quay sang các lý thuyết khác có vẻ dễ hơn (Bà La Môn), một số khác thì chán quá (đọc không hiểu được) bỏ tu luôn.

Đáp: Trưởng Lão Thích Thông Lạc nhờ tu chứng làm chủ sinh tử luân hồi như Phật, nên hiểu lời dạy của Phật dễ dàng hơn những người khác. Cho nên, vừa giảng dạy vừa chuyển văn hóa Ấn Độ thành văn hóa Việt Nam, nên khiến cho mọi người Việt Nam đọc thấy dễ hiểu, dễ tu tập, nhờ đó tu tập đâu có kết quả đó rõ ràng. Khi mọi người đọc sách của Trưởng Lão xong rồi mới đọc lại kinh sách Nikaya thì thấy dễ hiểu, là vì những tư kiến trong đầu đã bị những lời nói thẳng của Trưởng Lão gọt rửa.

Hỏi: Đức Phật với tuệ Tam Minh vượt bậc, sao không lường được các hậu quả ghê gớm như hiện nay. Phải chi ngay từ đầu (khi Phật còn tại thế cũng như sau khi nhập diệt), Phật để lại những bài giảng quý giá như của Trưởng Lão, thì chúng sinh và Phật giáo ngày nay đâu đến đổi tệ hại như vậy?

Đáp: Bây giờ sư không còn trách Phật nữa phải không? Phật là người Ấn Độ nên sử dụng văn hóa ngôn ngữ Ấn Độ mà giảng dạy cho người Ấn Độ, nên số người Ấn Độ theo đạo Phật có 1250 vị tỳ kheo. Tuy vậy đầu óc họ lúc bấy giờ vẫn đầy ắp những tà kiến của Lục Sư ngoại đạo.

Sư còn nhớ không? Sau khi tu chứng, đức Phật đã dùng trí tuệ Tam Minh quan sát, và bảo: “Chúng sinh khó độ”. Nhưng người tu chứng không nỡ bỏ chúng sinh mà vào Niết Bàn, vì thế, Ngài làm hết bổn phận và trách nhiệm của người tu chứng là đã để lại tạng kinh Nikaya quá đầy đủ. Nhưng người sau kiết tập kinh sách đã làm “tam sao thất bổn”, lại thêm bớt quá nhiều khiến cho kinh sách gốc của Phật bị lệch lạc và khó hiểu, chứ không phải do Phật mà do nhân quả của chúng sinh như trên đã dạy: “Tạo nhân nào thì phải gặt quả nấy”.

Hỏi: Đến đây con cảm nhận được trách nhiệm của người đi rao giảng thật là lớn lao quá, giết người hay cứu sống người, vùi lấp bao nhiêu thế hệ chúng sinh hay làm rạng rỡ chúng sinh giải thoát cũng ở trong tay các vị này. Tài hèn, sức yếu, con cũng nguyện ráng cố gắng hết sức mình vươn lên để sau này may ra đền ơn Trưởng Lão và nối tiếp ý nguyện của Trưởng Lão. Xin Trưởng Lão ban phúc lành cho con, con nguyện ráng tinh tấn.

Đáp: Đúng vậy, người thuyết giảng mà tu hành chưa chứng đạo là giết người bằng miệng lưỡi, không phải giết một người mà giết nhiều người và nhiều thế hệ. Bằng chứng rất cụ thể hiện nay là nhiều người ham danh nên đi học làm giảng sư. Cuối cùng mình chẳng tu hành ra cái gì, chỉ dối gạt người bằng miệng lưỡi. Thật là đáng trách thay!

127-SỰ GIẢI THOÁT NẰM Ở ĐÂU? - Phi Mạnh

GNCN xin giới thiệu đến quý phật tử và độc giả bài viết của tác giả Phi Mạnh dưới đây. Theo chúng tôi, đây là một bài viết nhằm giúp cho người mới bước chân vào đạo Phật cần tìm hiểu để tu tập giai đoạn đầu của Phật giáo. Đó là giai đoạn tu tập Sơ Thiện - tìm hiểu giới luật, giữ giới luật.
            Trân trọng cảm ơn đạo hữu Phi Mạnh đã gửi cho chúng tôi bài viết này.
            Xin giới thiệu cùng quý vị:

SỰ GIẢI THOÁT NẰM Ở ĐÂU?

Phi Mạnh

Người đến với đạo Phật quan trọng nhất là phải biết rõ sự giải thoát của đạo Phật là gì? Nằm ở đâu? Nếu không thì chúng ta sẽ không có phương hướng tu mù, tu điên, tu khùng, tu chơi, tu theo phong trào, ....

Có đặt ra những câu hỏi như vậy thì chúng ta mới đi tìm nó, khi xác định và hình dung rõ mục đích giải thoát thì chúng ta không bị mất thời gian, tu đến đâu là tìm thấy sự giải thoát đến đó.

Vậy sự giải thoát của đạo Phật nằm ở đâu?

Câu trả lời là nó nằm ngay trước mắt các bạn ở từng suy nghĩ, từng lời nói và từng hành động. Nếu như từng suy nghĩ, từng lời nói và từng hành động của chúng ta hằng ngày không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh thì ngay đó chúng ta sẽ thấy sự giải thoát của đạo Phật. Cụ thể như dưới đây:

- Người sống ly dục, ly ác pháp là người đang giải thoát.

- Người sống không tham, sân, si, mạn, nghi là người đang giải thoát.

- Người sống với 10 điều lành là người đang giải thoát.

- Người sống với 10 giới thánh đức Sa Di là người đang giải thoát.

- Người sống biết diệt ngã là người đang giải thoát.

- Người biết sống với 3 đức hạnh nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng là người đang giải thoát.

- Người biết sống yêu thương là người đang giải thoát.

- Ai biết sống vì người khác là người đang giải thoát.

- Ai nói nặng, chê bai, mạ lị, mạt sát, mắng chửi mình, nói trái ý mình, làm trái ý mình mà tâm bạn vẫn thản nhiên không buồn giận hờn, không oán ghét v.v.. là mình đang giải thoát.

- Ai biết sống hài lòng vui vẻ với mọi ý kiến, lời nói và việc làm của người khác là người đang giải thoát.

- Ai biết sống chấp nhận mọi việc đến với mình là người đang giải thoát.

- Ai biết sống tích cực là người đang giải thoát.

- Ai biết sống có cái nhìn tốt về mọi người, luôn thấy mọi người là tốt, đúng và thiện là người đang giải thoát.

- Ai biết sống có cái nhìn luôn thấy mọi người đang yêu thương mình là người đang giải thoát.

- Ai biết sống có tấm lòng tha thứ, bỏ qua mọi lỗi lầm và sai phạm của người khác là người đang giải thoát.

- Ai biết sống cung kính và tôn trọng mọi người là người đang giải thoát.

- Ai biết sống luôn tin tưởng, không bao giờ nghi ngờ người khác là người đang giải thoát.

- Ai sống không làm 6 nghề ác là người đang giải thoát. 

- Ai biết sống luôn cẩn thận, tĩnh giác là người đang giải thoát. 

- Ai biết sống nói những lời nói ái ngữ, ôn tồn, nhã nhặn, nhỏ nhẹ, những lời nói hòa hợp, đoàn kết,... là người đang giải thoát.

- Ai luôn thấy lỗi mình, không nhìn lỗi người là người đang giải thoát.

- Ai sống với tâm khiêm hạ là người đang giải thoát.

- Ai biết đối xử bình đẳng với mọi người, mọi loài vật, không phân biệt thân sơ, giai cấp, địa vị, quyền hành, tôn giáo,... là người đang giải thoát. 

- Ai sống biết buông xả sạch là người đang giải thoát.

- Ai biết sống với tri kiến nhân quả là người đang giải thoát.

- Ai biết sống với tri kiến vô thường, khổ, vô ngã là người đang giải thoát.

- Ai biết sống với tri kiến đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh là người đang giải thoát.

- Ai biết sống với tri kiến về Tứ Vô Lượng Tâm là người đang giải thoát.      

- Ai sống không giết hại và ăn thịt chúng sinh là người đang giải thoát.

- Ai sống không tham lam trộm cắp, không lấy của không cho là người đang giải thoát.

- Ai sống biết tôn trọng hạnh phúc gia đình người khác, không phá hoại hạnh phúc gia đình người khác là người đang giải thoát.

- Ai biết sống thành thật, trung thực là người đang giải thoát.

- Ai sống không rượu chè, cờ bạc, hút thuốc, hút xì ke, cá độ,... là người đang giải thoát.

- Ai biết sống không mê tín là người đang giải thoát.

- Ai sống với tâm không thương, không ghét một người nào, không sợ hãi, lo lắng sống luôn luôn thanh thản, an ổn và không có một chướng ngại gì trong tâm là người đang giải thoát.

- Ai sống với tâm không còn tham muốn một vật gì, dù đó là một món ăn rất ngon, rất thích khẩu của các bạn, nhưng chúng ta vẫn thản nhiên không thèm, không ham thích muốn ăn. Có thì ăn, không có ăn thì thôi là người đang giải thoát.

- Ai thấy sự lười biếng, hôn trầm, thùy miên không còn tấn công,  khi chúng ta muốn thức dù bất cứ giờ nào, chúng ta cũng đều tỉnh thức là người đang giải thoát.

- Khi nào tất cả mọi cảm thọ đến mà tâm không lo, không sợ hãi là người đang giải thoát.

- Khi nào tất cả mọi pháp làm động khiến tâm bất an, nhưng chúng ta vẫn thản nhiên, luôn sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì người đó đang giải thoát.

- V.v...

Còn rất rất nhiều các bạn à. Cái tôi muốn nói ở đây là sự giải thoát ở ngay trước mắt chúng ta, mỗi một việc thiện chúng ta làm, mỗi một việc ác chúng ta bỏ xuống, là ngay đó có sự giải thoát. Chứ không cần phải đợi đến khi tu có thiền định hay thần thông mới có sự giải thoát. Sự giải thoát của đạo Phật không nằm ở chổ thiền định hay thần thông. Ai hiểu được như vậy thì sẽ rất sung sướng, thấy rõ sự giải thoát của đạo Phật hằng giây, hằng phút. Đạo Phật rất thực tế và đơn giản là ở chổ đó.

Ai cũng đã từng nghe cụm từ "Tam Vô Lậu Học", đó là Giới, Định, Tuệ. Chỉ cần giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì tâm sẽ vô lậu, vô lậu nghĩa là không còn đau khổ nữa. Giới luật là những đức hạnh sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh, Định là quả của Giới, Tuệ là quả của Định. Cái mà chúng ta cần tu là Giới chứ không phải Định hay Tuệ, Định hay Tuệ chỉ là quả của Giới mà thôi. Không có giới luật thì định và tuệ không bao giờ có. Chỉ cần sống đầy đủ giới luật đức hạnh là đã tìm thấy sự giải thoát rồi, mà giới luật đức hạnh chính là những hạnh động hằng ngày chúng ta đang sống với nó qua từng suy nghĩ, lời nói và việc làm.

Người ngày nay cứ bỏ giới luật, nhắm vào Định để có Tuệ, họ được dạy ngồi thiền, niệm chú, tụng kinh, lạy Phật, .... Đó là tà Định, là tưởng định, không phải Định của đạo Phật. 

Ai sống đời sống đức hạnh thì tâm sẽ tự nhiên thanh tịnh, sự tự nhiên thanh tịnh đó chính là Định của đạo Phật. 

Tu là sửa, là buông xả tất cả để tìm thấy sự bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Càng buông xả nhiều thì càng tìm thấy sự giải thoát càng nhiều. Chứ không phải tu là ôm vào. Người tu ngày nay buông xả mọi thứ ở đời, thấy rõ sự giải thoát của đạo Phật. Nhưng khi vào chùa, vào tu viện họ được dạy những pháp tu, họ tưởng rằng khi ôm các pháp tu thì sẽ thấy sự giải thoát, nhưng không ngờ chả thấy sự giải thoát ở đâu mà chỉ thấy sự khổ cực của thân tâm.

Các bạn cứ ngẫm nghĩ lại xem có phải không, ai cũng tưởng phải vào chùa, vào tu viện ôm pháp này tu, ôm pháp kia tu để được sự giải thoát, nhưng đâu ngờ chính những pháp đó lại làm cho chúng ta bị dính mắc, phải công phu sáng chiều tối, nếu không công phu thì cảm thấy bất an, phải sám hối. 

Sự giải thoát của đạo Phật nằm ở chổ buông xả sạch. Người giải thoát là người tâm luôn bất động thanh thản an lạc và vô sự, suốt ngày dù sử dụng trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi  mà tâm vẫn tự nhiên như người nhàn du vô sự, không bị dính mắc, không bị bất kỳ chướng ngại nào trên thân tâm cả các bạn à.

Chúng ta là những con người có hiểu biết, có đầu óc, chúng ta phải biết rõ, nhận thức rõ sự giải thoát của đạo Phật nằm ở chổ nào? để nhận ra được sự không đúng của đạo Phật ngày nay. Bởi vì với hình thức tôn giáo ngày nay, đạo Phật đã bị các tôn giáo khác mượn danh Phật giáo phát dương tôn giáo của họ qua các hình thức, nghi lễ tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, niệm chú, ngồi thiền,...

Đạo Phật là đạo trí tuệ, trí tuệ ở đây là luôn luôn dùng sự hiểu biết, sự tư duy để suy nghĩ chính chắn về mọi việc chứ không thể tin bừa, tin bậy, tin mù quáng vào những lời của các vị thầy, vị sư được. Chính nhờ vào sự hiểu biết mà chúng ta thấy rõ sự giải thoát của đạo Phật ở chổ buông xả mọi ác pháp xuống thì ngay đó chúng ta đang làm sanh và tăng trưởng thiện pháp. Chính nhờ vào sự hiểu biết mà chúng ta thấy rõ được từng suy nghĩ, lời nói hay việc làm nào làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh. Khi thấy như vậy chúng ta buông xuống không làm theo. Còn ngược lại, khi thấy không làm ai đau khổ thì chúng ta sẽ làm và sẽ nói. 

Sự chứng đạo, sự giải thoát của đạo Phật nằm ở chổ trí tuệ, ở sự hiểu biết. Nếu không biết khai triển tư duy suy nghĩ về mọi việc thì chúng ta đang tu mù, tu điên, tu khùng, đang bị lợi dụng, đang bị lừa gạt mà không biết.

Tóm lại, sự giải thoát của đạo Phật nằm ngay ở trước mắt chúng ta. Ai biết triển khai tri kiến, biết vận dụng đầu óc tư duy suy nghĩ thì sự giải thoát ngay trước mắt.

(Trích từ http://chanhkien-pa.blogspot.com/2014/07/su-giai-thoat-nam-o-au.html)

128-NHÂN QUẢ hay A DI ĐÀ? GIẢI THOÁT hay TÙ NGỤC? - Phi Mạnh

Thưa quý phật tử và độc giả,
            Sau khi GNCN giới thiệu bài "Phật A Di Đà - Cực Lạc Tây phương thục hay giả?" và bài "Sự giải thoát nằm ở đâu?", chúng tôi tiếp tục giới thiệu các bài viết của tác giả Phi Mạnh có cùng một chủ đề liên quan.
              Mời quý vị cùng đọc.

LUẬT NHÂN QUẢ CÓ CÒN CÔNG BẰNG KHÔNG?

Nói đến luật nhân quả, thì bất kỳ người Phật tử nào cũng tin rằng rất công bằng và công lý, không thiên vị ai. Nếu đã nói rằng công bằng thì ai làm người đó chịu, không thể nói anh làm tốt mà tôi được hưỡng, anh làm xấu tôi phải gánh, trừ phi đó là một chùm nhân quả như những người thân trong gia đình,. Nhưng thực tế đạo Phật ngày nay con người không còn tin như vậy. Tại sao tôi dám nói điều đó, bởi vì:

1- Những hình thức cầu an, cầu siêu, lạy Phật, tụng kinh, niệm Phật là những hình thức đi trái với luật nhân quả. Nếu chúng ta tin có quy luật nhân quả công bằng, gieo nhân nào gặt quả đó thì cần gì phải tụng kinh, lạy Phật, niệm Phật, cầu an, cầu siêu làm gì, ai gieo nhân gì thì sẽ gặt quả đó, có tụng kinh, lạy Phật, niệm Phật, cầu an, cầu siêu cũng đâu có ích gì đâu. Vậy thì tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, cầu an cầu siêu chỉ mất thời gian và làm cho thân tâm mệt thêm thôi,...

Nếu cầu cúng, tụng niệm, lạy Phật có hiệu nghiệm thì chắc có lẽ trên thế gian này rất nhiều tội phạm, họ cứ đi làm ác rồi cầu cúng, tụng niệm, lạy phật cho tai qua nạn khỏi, Lúc đó không còn ai sợ quy luật nhân quả nữa. Tất cả đều xem thường quy luật nhân quả.

2- Nếu chúng ta niệm Phật để Phật giúp tai qua nạn khỏi thì khác gì Phật xem thường quy luật nhân quả. Vậy thì đức Phật dạy nhân quả để làm gì khi mà lời nói không đi đôi với việc làm. 

3- Chỉ có Phật A Di Đà mới dạy như vậy (tụng niệm, kêu réo Di Đà xin xỏ, cầu an, cầu siêu…), còn Phật Thích Ca thì dạy “các con phải tự đốt đuốc lên mà đi, Ta không thể đi thay các con được. Mỗi người phải tự cứu mình, mỗi người phải chịu trách nhiệm với việc làm của mình”.

Ai hiểu rõ nhân quả thì sẽ thấy rõ ràng đạo Phật ngày nay dạy con người làm nhiều chuyện trái với quy luật nhân quả, biến nhân quả thành không còn công bằng nữa, biến nhân quả thành thuyết định mệnh. 

Người ta nói về nhân quả thì nhiều nhưng ai cũng làm trái nhân quả. Họ tu hành để được rước về thế giới Tây phương Cực Lạc. Ai cũng có tham sân si, thế giới này là thế giới của tham sân si. Người chết có tham sân si chỉ có thể tương ưng với thế giới tham sân si mà thôi. Nếu muốn về thế giới Tây phương Cực Lạc thì thế giới Tây phương Cực Lạc cũng phải là thế giới tham sân si mới tương ưng được. Còn thế giới của chúng ta là tham sân si thì khi chết con người chắc chắn sẽ tương ưng luân hồi quay lại đây, không thể nào tương ưng với thế giới nào khác được. 

Do vậy những thế giới Tây phương Cực Lạc chỉ là thế giới tưởng, do những người không hiểu quy luật nhân quả dựng lên mà thôi. 

4- Quy luật nhân quả là một quy luật có thể chuyển đổi chứ không phải cố định như là định mệnh. Do có gieo nhân thiện thì ắt phải gặt quả thiện, cho nên dù cuộc sống có khổ cực đến đâu, ai có tâm hướng thiện thì một ngày nào đó cuộc sống của họ sẽ thay đổi từ xấu thành tốt, đã tốt rồi sẽ tốt hơn nữa.

Do vậy ai đã hiểu rõ nhân quả thì họ đâu có còn mê tín, đâu có tin vào định mệnh, vào tướng số, vào số phận, vào tử vi bói toán. Họ chỉ biết sống lìa xa các điều ác, chỉ làm điều thiện thì chắc chắn cuộc sống họ sẽ tốt hơn thôi. Họ tự làm chủ cuộc đời của họ, không phụ thuộc vào thần thánh nào cả, không cần cầu ai cả. Trong nhà họ đâu có tìm thấy tượng thần thánh hay vị Phật nào. 

Trong nhà càng nhiều tượng Phật, tượng các vị thần (ông địa, ông táo, ông thần tài, ông quan công,...) chỉ nói lên sự mê tín của người đó mà thôi. Tin Phật thì hãy sống như Phật chứ gọi tên Phật có ích gì. Kêu tên Phật là cách tu mù, tu điên, tu khùng,... Chỉ những người không hiểu nhân quả mới sáng chế ra cách tu như vậy. 

Nếu không có quy luật nhân quả thì chắc chắn đạo Phật sẽ không ra đời, vì con người không thoát khổ được, số phận đã được định trước, không thay đổi được nữa. Đạo Phật ra đời dạy cho con người sống có đạo đức đức hạnh để mang niềm vui và hạnh phúc đến cho nhau, đó là chúng ta đang gieo nhân thiện, gieo nhân thiện thì sẽ gặt quả thiện trong tương lai, cuộc sống của chúng ta sẽ luôn đầy đủ, không thiếu thốn, nhà nhà đầy ắp tiếng cười vui vẻ và hạnh phúc.

5- Khi đức Phật tu chứng đạo, Ngài đã biết rõ con đường thoát khổ, con đường đó chính là giới, định, tuệ – hay còn gọi là tam vô lậu học. Chỉ cần ai sống được một trong ba điều này là người đó hết khổ. Trong ba điều này, Giới luật là quan trọng nhất, ĐịnhTuệ chỉ là quả của giới luật, không có giới luật thì không bao giờ có định và tuệ. Giới luật là những đức hạnh đạo đức nhân bản nhân quả dạy cho con người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh, nghĩa là sống mang niềm vui và hạnh phúc đến cho mình cho người và cho các loài vật khác. Giới luật mang đến nhiều lợi ích như vậy mà tại sao chúng ta lại bỏ qua, xem thường. Nếu người nào đã sống đúng giới luật thì chắc chắn họ sẽ thấy giải thoát ngay, khi giải thoát rồi thì họ đâu cần phải phí sức, tốn công, ngày đêm công phu tụng kinh, lạy Phật, niệm Phật chi cho mỏi miệng, tốn sức, nhức đầu, đau chân, đau gối,...

Các bạn cứ ngẫm nghĩ lại xem, một vị thầy truyền dạy đạo đức chỉ mong các học sinh của mình sống đúng đạo đức, chỉ cần thấy học sinh của mình sống đúng đạo đức là vị thầy đó vui mừng rồi. Đằng này, nếu học sinh không sống đúng đạo đức như những gì vị thầy dạy, suốt ngày chỉ gọi tên thầy thì các bạn thử nghĩ xem vị thầy đó có vui không? Đức Phật cũng chỉ là một vị thầy thôi các bạn à, Ngài đã tu xong, Ngài dạy lại cho chúng ta những giới luật đức hạnh sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh, Ngài chỉ mong chúng ta sống đúng giới luật mà thôi. Ai sống đúng giới luật đức hạnh thì Ngài rất mừng, những người đó mới xứng đáng là con Phật, là trò của đức Phật. Đằng này chúng ta lại được dạy niệm Phật, lạy Phật, tụng kinh, gọi tên Phật suốt ngày thì có ích gì, đức Phật đâu có vui đâu, mà ngược lại chỉ nhức đầu và buồn thêm vì chúng ta không làm theo lời Phật dạy, không sống đúng giới luật.

Chúng ta là con người, là những người có hiểu biết, chúng ta phải biết nhận ra sự giải thoát của đạo Phật nằm ở chổ nào chứ? Nhân quả là một định luật công bằng. Gieo nhân thiện ắt sẽ gặt quả thiện, ai sống đúng giới luật đức hạnh sẽ có một cuộc sống an vui và hạnh phúc. Đức Phật dạy cho chúng ta biết cách sống đúng đạo đức để tự mình đem hạnh phúc đến cho mình, cho gia đình mình và mọi người xung quanh. Vậy mà chúng ta không chịu sống đạo đức, cứ gọi tên Phật thì có ích lợi gì?

Tóm lại, ai tin vào quy luật nhân quả, tin rằng quy luật nhân quả công bằng thì sẽ thấy đạo Phật ngày nay dạy những điều trái với quy luật nhân quả. Từ đó chúng ta có thể thấy rõ những hình thức trái ngược nhân quả đó không phải là của Phật giáo mà là của các tôn giáo khác mượn danh Phật giáo để lừa gạt phật tử qua bao thế hệ. Chính vì vậy mà chúng ta thấy rõ ngày nay những vị tu sĩ theo Phật giáo tu danh tu lợi rất nhiều, không còn ai sống đúng gương hạnh của đức Phật Thích Ca, xả phú cầu bần, sống thiểu dục tri túc nữa. Những người đó không xứng là con Phật, trò của Phật, họ không đáng để chúng ta tôn kính, không đáng để chúng ta cúng dường. Nếu ai tin vào họ, cúng dường cho họ thì chỉ làm tổn phước báu của chính mình mà thôi, gieo một hạt giống trên mảnh đất xấu cằn cỗi thì làm sao gặt được quả tốt.

HÌNH TƯỚNG GIẢI THOÁT

Đạo Phật là đạo trí tuệ, do vậy sự hiểu biết rất quan trọng. Người đến với đạo Phật cần tạo một động lực để đạt được mục tiêu của mình. Ở đây mục tiêu chính là sự giải thoát, sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.

              Để có thể tự tạo động lực cho chính mình, các bạn thử trả lời 3 câu hỏi sau:
             1- Bạn có đủ khát vọng để vươn tới đích không?
             2- Bạn có thực sự tự tin là bạn có thể đạt được mục tiêu đó không?
             3- Bạn có hình dung rõ được mục tiêu mà bạn mong muốn đạt được không?

Chính vì chúng ta không hình dung được hình tướng của sự giải thoát là gì cho nên chúng ta bị mất thời gian, tu sai, tu điên, tu khùng. Ngược lại, khi hình dung được trước hình tướng giải thoát thì chúng ta tu thật, tu đến đâu là có sự giải thoát ngay đến đó, không phải đợi lâu, không phải tu nhiều đời nhiều kiếp mới giải thóat.

Bài viết này tập trung vào chủ đề hình tướng giải thoát. Nghĩa là làm sao nhận biết một người giải thoát? 

Theo các bạn một người giải thoát của đạo Phật là người như thế nào? Có phải là hết tham, sân, si, mạn, nghi không? Chúng ta thử hình dung, giả sử trong một môi trường tu viện Chơn Như có hai người sống gần nhau, và biết rằng một trong hai người đã giải thoát.

Vậy đời sống của hai người có khác nhau không? Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ngay phải không các bạn. Người giải thoát không còn tham thì sẽ không còn dục lạc cho nên không còn bị lôi ra ngoài, không phá hạnh độc cư đi đây đi đó nói chuyện với người khác, họ không còn si cho nên suốt ngày họ đi, đứng, nằm, ngồi chơi tự nhiên như người nhàn hạ vô sự, còn người kia mỗi khi có hôn trầm thùy miên thì phải đi kinh hành, ôm pháp này pháp nọ phá rất khổ sở. Ngoài ra chúng ta có thể xét đời sống của từng người theo hạnh thiểu dục tri túc,...

Do vậy, khi biết rõ hình tướng giải thoát chính là những oai nghi đi đứng nằm ngồi tự nhiên như người nhàn hạ vô sự, nghĩa là đời sống của họ trông không khác gì một người bình thường sống trong một căn nhà nhỏ, nhưng không làm việc gì cả, chỉ ngồi chơi, đi, đứng thanh thản tự nhiên.

Người tu sinh mới bước chân vào tu viện lấy hình ảnh này làm đích để nhắm tới. Khi tâm tỉnh táo sáng suốt, họ vẫn ngồi chơi tự nhiên vô sự như một người vào công viên ngồi chơi. Khi có niệm thì quán xét vô lậu Tứ Chánh Cần "ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện" Còn khi tâm không khởi niệm gì thì thôi, họ ngồi chơi tự nhiên luôn tỉnh thức biết rõ mọi vật xung quanh như một người bình thường nhưng không để tâm phóng dật và dính mắc vào bất kỳ pháp nào xung quanh.

Ngồi lâu, muốn đứng dậy đi thì họ đứng dậy đi chơi thanh thản tự nhiên như một người bình thường, đi đủ rồi, họ muốn ngồi thì lại ngồi xuống. Tu hành như vậy có sướng không các bạn, rất tự nhiên, nhẹ nhàng. Tu xả tâm là tu như vậy đó. Đó mới là hình tướng của người tu đúng, tu đến đâu là thấy sự giải thoát ngay đến đó, tu tự nhiên với ý thức tỉnh táo như vậy thì làm sao lọt vào tưởng được, làm sao bị điên bị khùng được.

Chỉ có những ai hiểu sai đạo Phật, phải ngồi thiền, phải nhiếp tâm, phải tập trung nhìn một đối tượng nào đó hoặc hơi thở hoặc bụng phình xẹp hoặc hình ảnh, ánh sáng, điểm nào đó trên tường, hoặc chú tâm giữ gìn các trạng thái khinh an hỷ lạc, nhìn tâm bất động,... những người như vậy là đang tu ức chế tâm, lâu ngày tưởng sẽ họat động. Hình tướng tu như vậy là tu sai, tu sai là làm khổ mình, làm khổ mình thì tâm si tăng, tâm si tăng thì ngồi gục tới gục lui, dù có phá hôn trầm thùy miên đến đâu tâm si vẫn không hết, mà ngược lại tâm si mạnh thêm. Chỉ cần thấy rõ cái sai này người tu dứt khoát bỏ ngồi thiền, chỉ ngồi chơi tự nhiên vô sự như một người bình thường trong công viên thì các bạn sẽ thấy hôn trầm thùy miên giảm đi một nửa, vì lúc này bạn đã có chánh kiến. Chánh kiến hiểu đúng về cách tu xả tâm của đạo Phật, xả tâm của đạo Phật chỉ cần sự hiểu biết thôi.

Ví dụ: có người mắng chửi mình mà mình không giận họ, không nói lại một từ nào, im lặng, hoặc nói xin lỗi khi biết mình sai thì mọi việc sẽ trở nên tốt đẹp, còn nếu như mình cãi lại, mắng chửi lại thì hai bên sẽ tức giận hơn, biết đâu còn dẫn đến đánh nhau bị thương, ... Chúng ta thấy rõ chỉ cần hiểu biết đúng thì chúng ta đã xả được tâm sân giận, đã ngăn được ác pháp xảy đến. Đâu cần ngồi thiền lim dim đâu???

Người đến với đạo Phật vì hiểu lầm, nhìn các tượng đức Phật ngồi kiết già, cho nên tự cho rằng muốn giải thoát thì phải ngồi thiền như Phật. Ngồi thiền để có định. Do lầm chấp này mà ai ai cũng ngồi thiền, nhắm mắt lim dim. Nhắm mắt lim dim thì ý thức chìm mất, ý thức mất thì tưởng họat động, tưởng họat động thì tu sai. Đức Phật có dạy: "Ý làm chủ, ý tạo tác,..." Tu theo đạo Phật là tu bằng ý thức, do vậy chúng ta ngồi chơi nhưng phải giữ cho tâm luôn tỉnh thức, có tỉnh thức thì mới sống được trong chánh niệm, có sống trong chánh niệm thì mới không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh.

Khi chúng ta thấy và hình dung rõ được hình tướng giải thoát là ngồi chơi tự nhiên thanh thản an lạc vô sự thì ngay từ ngày đầu tiên bước vào tu viện mỗi khi thân tâm không bị chướng ngại, chúng ta ngồi chơi tự nhiên vô sự là tâm đang bất động thanh thản an lạc và vô sự. Tâm chúng ta đang ở trạng thái giải thoát của đạo Phật. Khi hiểu được như vậy thì chúng ta mới thấy lời Phật dạy rất đúng: "Đạo ta không có thời gian, đến để mà thấy". 

Nếu chúng ta không có sự hiểu biết này thì chúng ta đang tu mù, tu điên. Cứ vào tu viện ôm pháp này tu đến ôm pháp kia tu, càng tu tâm si càng tăng, hôn trầm thùy miên càng nặng, phá hoài mà hôn trầm thùy miên vẫn còn. Sau cùng kiệt sức đành phải ra ngoài làm bếp, làm máy tính, chạy ngoài hoặc về nhà, về lại trụ xứ của mình. Tu mà không thấy sự giải thoát gì cả, vì khi phá hôn trầm thùy miên thì thân tâm đều mệt, thân tâm đều mệt mà không biết sự giải thoát nằm ở đâu thì làm gì còn động lực vượt qua khó khăn, làm gì còn động lực phá hôn trầm thùy miên. Điều này chúng ta có thể thấy rõ tại tu viện Chơn Như hiện nay. Ngay lúc ngoài khu tiếp nhận, các tu sinh chưa được học, chưa được truyền dạy sự hiểu biết về hình tướng giải thoát này. 

Cho nên, mọi người đến tu viện tự tu theo sự hiểu biết riêng của mỗi người, có người thì ngồi thiền kiết già, nhắm mắt lim dim, có người ngồi thiền kiết gìà nhắm mắt gục lên gục xúông, có người thì ngồi bình thường trên ghế đá nhưng cũng nhắm mắt lim dim, có người trong thất ngồi trên ghế nhắm mắt lim dim tìm các trạng thái định hoặc khinh an hỷ lạc gì đó, có người thì ôm pháp thân hành niệm đi kinh hành hết giờ này sang giờ khác trông mệt mỏi, càng đi thì hôn trầm thùy miên càng mạnh thêm chứ không bớt,... Trông tất cả rất tội nghiệp. 

Thiệt ra đâu phải không có người hướng dẫn, nhưng có khi sự hướng dẫn chưa kỹ lắm, chưa rõ, có khi hướng dẫn rồi nhưng không ai tin và nghe theo, bởi vì họ không tin tưởng vào người hướng dẫn, họ cho rằng vị thầy hướng dẫn kia chưa chứng đạo,...

Chính sự lầm chấp vô minh tu theo đạo Phật là phải ngồi thiền đã làm mất thời gian của tôi hết 12 năm theo thầy Thích Thông Lạc. Hôm nay, sau khi đã hiểu được đúng con đường tu tập, rũ bỏ những thói quen ngồi thiền nhắm mắt lim dim, tôi thấy khỏe vô cùng, bởi vì bây giờ tôi thấy rõ sự giải thoát ngay trước mặt, suốt ngày chỉ ngồi chơi tự nhiên vô sự, sống tự nhiên như một người bình thường, các trạng thái hành tưởng cũng từ từ biến mất. Các bạn thử nghĩ xem ngồi chơi tự nhiên vô sự giải thoát hay là ngồi thiền lim dim giải thoát.

Với những ai bị tưởng khi nhận rõ được sự tu đúng này thì sẽ không còn bị tưởng nữa. Ngồi chơi xả tâm với ý thức tự nhiên như vậy thì làm sao tưởng hoạt động được, cứ tu tự nhiên như vậy thì ngày này qua ngày nọ, tháng này qua tháng nọ tưởng không còn đất hoạt động nữa thì nó phải từ từ biến mất thôi. Chỉ cần chúng ta biết rõ mình đang tu tập đúng, tu tập với tỉnh thức thì tự nhiên chúng ta không còn sợ tưởng nữa, không còn sợ nó nữa và biết tưởng là vô thường, trước sau gì nó cũng hết thì chúng ta không xem trọng nó nữa, nó còn hay hết không quan trọng nữa và không để ý đến nó nữa, không để ý đến nó nữa thì nó hết lúc nào không biết. Tôi đã sống với hành tưởng hơn 10 năm, nay đã rũ bỏ được tôi rất mừng.

Một người bị tưởng đã và đang sống với nó chỉ cần quyết tâm bỏ cách tu sai, quay lại con đường tu xả tâm thì sẽ thấy sự giải thoát ngay và sẽ không còn sợ tưởng nữa. Nếu là cư sĩ thì rất dễ, chỉ cần hằng ngày ra công viên, tập sống lại đời sống bình thường như mọi người, xem cách người dân ngồi chơi bình thường như thế nào, họ ngồi chơi, nhìn trời nhìn mây, nhìn người, nhìn vật, nhìn cây cỏ thiên nhiên một cách tự nhiên không gò bó. Nhưng khi tâm muốn quay vô nhìn cái gì đó trong thân thì tác ý thoát ra nhắc tâm phải ngồi chơi tự nhiên vô sự. Chúng ta có hai thời ban ngày, sáng và chiều ra công viên tu tập, hai buổi ban tối thì phải nhớ trạng thái tự nhiên ở công viên mà áp dụng tại nhà. Đến khi thuần thục thì ở nhà tu tập ngồi chơi suốt ngày. 

Còn người tu vào tu viện thì tại khu tiếp nhận có thể tu tập được vì tại đó các thất san sát nhau, ai cũng là người mới cho nên cách ngồi của họ cũng tự nhiên, ai cũng thích đi ra ngoài, cho nên ta lấy một cái ghế ra trước thất ngồi, quan sát mọi người, mọi vật, mọi cây cỏ thiên nhiên giống như trong công viên vậy. Quan sát nhưng không dính mắc là tu đúng, quan sát mà để dính mắc là sai.

Tóm lại, hình tướng giải thóat của đạo Phật không khác gì một người bình thường, chỉ khác nhau ở cái tâm không tham, sân, si, mạn, nghi mà thôi. Khi sống độc cư thì hình tướng giải thóat là đi, đứng, nằm ngồi tự nhiên vô sự. Bất kỳ ai đến tìm sự giải thóat hãy nhắm hình tướng này mà tiến tới. Suốt ngày cũng ngồi chơi vô sự, đi thanh thản vô sự (không nên nằm vì tâm si chưa hết), khi có chướng ngại hôn trầm thùy miên thì đi kinh hành, khi hết hôn trầm thùy miên thì ngồi chơi tự nhiên vô sự hết ngày này đến ngày khác cho đến khi bất cứ thời gian tu tập nào cũng không có hôn trầm thùy miên thì chúng ta đã làm chủ tâm si rồi đó. Biết được hình tướng giải thóat sẽ giúp chúng ta tu đúng pháp của Phật là thiền xả tâm, không bị mất thời gian, xả tâm đến đâu là thấy sự giải thóat ngay đến đó. 

Thật ra khi một người hiểu rõ thập nhị nhân duyên, từ bỏ duyên SANH Y thì đã giải thóat 50% rồi. Chỉ vì nghiệp nhân quả quá khứ đã được huân tập cho nên khi sống độc cư chúng phải tuôn trào ra để cám dỗ chúng ta quay lại đời sống dục và ác pháp. Chỉ cần bền chí ngày đêm mỗi khi những niệm dục và ác pháp khởi lên, ta liền tác ý giữ gìn tâm bất động: "tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự". Không chạy theo những niệm dục và ác pháp nữa thì dần dần những tâm niệm đó sẽ thưa dần và biến mất để lại một trạng thái tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự. Suốt ngày chúng ta vẫn sống bình thường, biết rõ không còn niệm dục và ác pháp nữa thì trạng thái tâm đang bất động thanh thản an lạc và vô sự. 

Nhận ra tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự là như vậy, tự nhiên hoàn toàn và khi đó chúng ta không còn sợ mất nó, không cần phải lo giữ nó vì chúng ta đang sống với tâm ly dục ly ác pháp. Chỉ người nào không hiểu cách tu, không biết cách nhận ra tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự mới lo tìm nó, khi có thì cố giữ nó, ngồi nhìn nó vì sợ mất. Còn người tu đúng, chỉ lo xả tâm thôi, xả hết niệm này đến niệm khác, đến khi không còn thấy những niệm dục và ác pháp khởi ra nữa thì cái tâm im lặng đó chính là tâm bất động, thanh thản an lạc và vô sự.

 
 

 

129-PHÁP CĂN BẢN CỦA NGƯỜI TU SĨ (1). TL Thích Thông Lạc

Lời nói đầu

Những lời dạy trong tập sách này đã giới thiệu cho các bạn biết rất rõ ràng pháp môn tu hành của Phật giáo là pháp môn nào để mọi người khỏi phải tu lầm lạc pháp môn của ngoại đạo Đại Thừa và Thiền Tông. Nhờ lời dạy nhiệt tình tha thiết của Đức Phật đối với những người đời sau: “Với pháp này Ta đã chơn chánh giác ngộ, Ta hãy cung kính đảnh lễ và sống y chỉ pháp ấy.” Vậy pháp ấy là pháp gì?

Pháp mà Đức Phật cung kính đảnh lễ ở đây là “Giới, Định, Tuệ.” Tại sao chúng ta biết là Giới, Định, Tuệ? Do lời di chúc trước khi Phật nhập Niết Bàn: “Này các tỳ-kheo, sau khi Ta nhập Niết Bàn thì các thầy hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp của Ta làm Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc. 

Do lời dạy này chúng ta đặt trọn lòng tin nơi Pháp Bảo và cố gắng hết sức tận cùng, nỗ lực siêng năng tu tập không dám biếng trễ, không lùi bước trước mọi hoàn cảnh hiểm nguy và mọi sự khó khăn. Bất cứ một vật gì cản lối thì chúng ta đều vượt qua với một nghị lực kiên cường và đầy cương quyết sắt đá. Có tu tập như vậy chúng ta mới là người chiến thắng. Phải không các bạn?

Lời dạy đầu tiên trong tập sách này Đức Phật khéo léo nhắc nhở và gieo vào lòng chúng ta một niềm tin sâu, khiến chúng ta phải đặt trọn lòng tin với pháp môn này. Pháp môn mà Đức Phật là người đầu tiên đã thực hiện tu tập đến nơi đến chốn trong muôn vàn sự thử thách của nghiệp lực nhân quả trong nhiều kiếp làm người….

Lời dạy thứ hai của Đức Phật là nhắc nhở chúng ta phải siêng năng tinh cần tu tập những điều cần thiết chứ không phải tu những pháp không cần thiết hay tu cho có hình thức, mà phải tu tập thật sự, tu từng giây, từng phút, tu rất kỹ lưỡng và liên tục từ ngày này sang ngày khác không nên biếng trễ, gián đoạn.

Chúng ta nên lưu ý lời dạy của Đức Phật rất rõ ràng và cụ thể:

1- Hằng ngày phải tinh cần siêng năng chế ngự tâm mình, đừng để tâm buông lung chạy theo các dục, dính mắc các trần. Đừng để tâm bị tác động bởi những ác pháp từ mọi phía bên ngoài tấn công vào. Phải luôn giữ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

2- Hằng ngày phải tinh cần đoạn tận những ác pháp không được để tác động vào thân tâm, phải luôn giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

3- Hằng ngày phải tinh cần tu tập những pháp môn mà Đức Phật đã dạy gồm có 37 phẩm trợ đạo.

4- Hằng ngày phải tinh cần siêng năng hộ trì các căn tức là sống độc cư trọn vẹn không được làm cho giới độc cư khờn mẻ, phải giữ gìn cho nguyên vẹn.

Đây là những điều hằng ngày chúng ta phải siêng năng tu tập không biếng trễ với bốn sự tinh cần này. Đừng nên nghĩ tưởng rằng các pháp ảo tưởng theo kiểu Đại Thừa và Thiền Đông Độ là đúng pháp của Phật. Không đâu các bạn ạ! Những pháp ấy là pháp tưởng, là pháp tu sai lệch sẽ rơi vào tưởng giải, tưởng định thì rất nguy hiểm cho hành giả, cho các bạn.

Lời khuyên thứ ba Ngài nhắc nhở chúng ta đừng nên chấp đắm những gì trong thế giới của con người, nó chỉ là các duyên hợp lại mà thành, không có vật gì là thật, là bền chắc, là vĩnh viễn, là của mình, là mình cả. Nó chỉ là ảo ảnh, là bọt nước, nó là hư tưởng, là tưởng tri chứ không phải là liễu tri.

Đây là lời khuyên thật chân tình của Phật để chúng ta thoát ra khỏi những ảo ảnh, hư tưởng của thế giới con người đang sống, đang chìm đắm trong mê lầm.  

Và đây lời khuyên cuối cùng của tập sách này, chúng ta phải hiểu có ba điều để đoạn tận lậu hoặc: 

1- Độc cư; 2- Ăn uống; 3- Tỉnh giác.  

Ba điều này là ba vấn đề quan trọng trong cuộc đời tu hành của chúng ta để đi đến tâm vô lậu hoàn toàn.

Tóm lại, trong tập sách này Phật dạy cho chúng ta biết pháp nào tin tưởng thì phải tin tưởng tuyệt đối, hết sức tin tưởng, đừng tin tưởng lừng chừng. Ngoài ra, tất cả các pháp khác thì không nên tin  tưởng. Vì nếu tin tưởng nhiều pháp sẽ làm ảnh hưởng đến sự tu tập rất lớn, do tâm bị phân tán không gom tâm thành khối, không xả được tâm, không ly được dục.

Khi tin tưởng rồi thì những pháp nào tu tập cần phải chuyên cần tu tập cho nhuần nhuyễn. Và cũng nên nhớ một điều rất quan trọng là lúc nào cũng cần phải hộ trì sáu căn. Hộ trì sáu căn cho vững chắc, không được buông lỏng để cho sáu căn giong ruổi theo sáu trần. Sáu căn giong ruổi theo sáu trần thì sự tu tập của chúng ta chưa biết đến chừng nào mới xong.

Trong tập sách này Phật dạy rất rõ ràng, không còn chỗ nào là không hiểu. Hiểu rõ rồi nhưng còn tu tập cho đúng là một điều khó. Khó nhưng được người có kinh nghiệm hướng dẫn thì thành dễ các bạn ạ! Chỉ những lời dạy bấy nhiêu đây cũng đủ cho chúng ta tu tập đi đến giải thoát hoàn toàn nếu chúng ta có quyết tâm cao.

Kính thưa các bạn! Trong cuộc đời tu hành của chúng tôi, lúc sắp tuyệt vọng tận cùng của sự tu hành, vì lúc bây giờ chúng tôi đã 52 tuổi đời, 44 tuổi đạo mà tu hành chẳng ra gì, chỉ đạt những thứ thiền tưởng khiến cho chúng tôi cảm thấy cuộc đời của mình đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo.

Chín năm trời nỗ lực miệt mài tu tập, đem hết sức sinh mạng của mình ra chiến đấu với giặc sanh tử, ngày đêm không dám ngơi nghỉ, chỉ mong sao làm chủ được sự sống chết, nhưng chín năm trời ấy như công dã tràng se cát. Chúng tôi sắp đi tìm cái chết vì không còn biết pháp nào tu tập hơn nữa.

Tin nơi Thầy của chúng tôi (H.T Thích Thanh Từ); tin nơi kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ, nhưng niềm tin ấy đã tan vỡ thành mây khói sau chín năm tu tập. Trên bước đường cùng của sự tu tập theo Phật giáo Đại Thừa và Thiền Tông, chúng tôi không còn một chút hy vọng nào.

Nhưng may mắn thay, bộ kinh Nikaya đã cứu thoát chúng tôi, qua những lời Phật dạy như trên đây, chúng tôi đã ghi nhận và rút ra từ trong kinh sách Nguyên Thủy ấy và cố gắng thực tập theo lời dạy này, chúng tôi đã tìm ra được đáp số.

Lật lại những trang giấy chúng tôi ghi chép những lời Phật dạy trong kinh Nikaya cách đây 23 năm xưa cũ, lòng chúng tôi bồi hồi nghĩ mình lúc xưa và nghĩ đến các bạn hiện giờ đang tha thiết tu tập tìm cầu sự giải thoát. Nghĩ đến đây lòng chúng tôi nao nao thương xót các bạn. Rồi đây các bạn cũng như chúng tôi ngày xưa, phải chết dở sống dở vì những pháp môn ảo tưởng mà các Tổ đã kiến tưởng giải khiến cho bao nhiêu thế hệ tu tập sống dở, chết dở.

Hôm nay nghĩ đến các bạn, những người bạn thân thương tha thiết tu hành, chúng tôi ghi lại những lời dạy quý báu hơn vàng ngọc châu báu này và chú giải qua kinh nghiệm tu hành của chúng tôi để mong sao gửi đến các bạn những gì mà chúng tôi tu hành có kết quả, những gì cao quý nhất của đời người mà chúng tôi đã làm chủ được sanh, già, bệnh, chết.

Sự làm chủ này đối với chúng tôi là một sự trao đổi quá to tát, chúng tôi đã đổi bằng công sức, máu và nuớc mắt của mình. Khi tu xong chúng tôi thấy hạnh phúc lắm các bạn ạ! Trong đời này không có vật gì còn có ý nghĩa với chúng tôi. Chúng tôi chỉ còn có một lòng thương yêu mọi sự sống trên hành tinh này mà thôi

Hỡi các bạn thân thương!

Đời có gì hạnh phúc lâu dài đâu? Chỉ là bong bóng nước, chỉ là những hạt sương của buổi sớm ban mai, toàn là ảo ảnh, hư tưởng, có gì đâu mà đắm chìm, ham mê. Phải không hỡi các bạn?

Chánh pháp của Phật đây rồi! Các bạn ơi! Hãy ôm lấy nó như ôm chiếc phao vượt biển, đừng buông nó các bạn ạ! Nó sẽ giúp các bạn vượt thoát cuộc đời đầy sóng gió bão bùng, đầy cay đắng, nhiều gian nan khổ đau, nhiều thử thách cam go và khắc nghiệt.

Đời chỉ là một giấc ác mộng kinh hoàng. Suốt cuộc đời của quý bạn thật là vô vị, chỉ biết phục vụ cho ăn, ngủ, đi cầu và dâm dục. Toàn là những thứ bất tịnh uế trược, bẩn thỉu, hôi thối, v.v... có gì hạnh phúc đâu các bạn ạ!?

Chánh Phật pháp đây rồi! Các bạn ơi! Nếu bạn không tu tập thì chẳng có ai giúp các bạn được, gặp khổ đau, gặp ác pháp các bạn đừng kêu khổ, đừng rên la, đừng than thở, đừng kêu trời, trách đất, đừng khóc mẹ, khóc cha, v.v... Dù các bạn có kêu thấu cả trời xanh thì cũng chẳng có ai cứu giúp được bạn đâu!?

Vì cảm thông nỗi thống khổ của kiếp làm người, nên chúng tôi không thể làm ngơ trước mọi sự khổ đau của các bạn. Nếu những lời nói này có những điều không vừa lòng, vừa ý xin các bạn vui lòng tha thứ cho. Vì chúng tôi nói lên những lời này là nói lên lòng yêu thương chân thật của chúng tôi gửi đến các bạn thân thương khắp bốn phương. Mong các bạn hiểu cho

                                                                                                                   Kính ghi.
                                                                                           Trưởng Lão Thích Thông Lạc
                                                                           (Lời nói đầu trong NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY tập II)

I- XÁC ĐỊNH PHÁP MÔN TU TẬP         

Lời Phật dạy: “Với Pháp này Ta đã chân chánh giác ngộ, Ta hãy cung kính đảnh lễ và sống y chỉ Pháp ấy”. 

Giảng nghĩa:

Trên đây là lời dạy của Đức Phật. Vậy với pháp này là pháp nào mà Ngài đã xác định và quả quyết chắc chắn: Ta đã chân chánh giác ngộ” như vậy?

Xin thưa cùng các bạn! Đức Phật muốn giới thiệu với chúng ta pháp môn mà Ngài đã tu chứng quả thật sự giải thoát, đó là pháp môn: Giới, Định, Tuệ.Tại sao chúng tôi lại biết nó là pháp môn Giới, Định, Tuệ?

Thưa các bạn! Chúng ta hãy căn cứ vào lời di chúc và Bát Chánh Đạo tức là Đạo Đế. Đạo Đế là một chân lý trong bốn chân lý của đạo Phật. Đã là chân lý thì nó là một pháp môn hay nói cách khác nó là một chương trình giáo dục đào tạo bất di bất dịch của những pháp môn tu tập giải thoát thật sự, làm chủ sanh, già, bệnh, chết không ai có quyền thay đổi được.

Nó là con đường dẫn chúng ta đi đến nơi giải thoát hoàn toàn. Nó là tấm bản đồ chỉ rõ đường đi để chúng ta theo đó tiến bước mà không còn sợ lầm đường lạc lối. Nó là chương trình giáo dục đào tạo những người có đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người. Nhờ đó chúng ta đạt đến mục đích tối hậu, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Hiện giờ đạo Phật có rất nhiều pháp môn của ngoại đạo xen vào khiến cho chúng ta không biết phân biệt pháp môn nào chân chánh thật sự của đạo Phật. Nếu chân lý “Đạo Đế” không có thì chúng ta biết căn cứ vào đâu để xác định pháp môn tu hành chân chánh của Phật giáo.

May mắn thay! Đức Phật đã sáng suốt, khi đạo Phật xuất hiện ra đời Ngài đã dự đoán biết tương lai về sau ngoại đạo sẽ dìm Phật giáo và diệt Phật giáo bằng con đường pha trộn chánh pháp và tà pháp lẫn lộn, khiến cho người đời sau khó phân biệt tà, chánh.

Cho nên bài thuyết giảng lần đầu tiên của Đức Phật được gọi là Chuyển Pháp Luân chính là “Pháp môn Tứ Diệu Đế.” Tứ Diệu Đế là bốn chân lý của đạo Phật bắt đầu có từ đây khiến cho mọi người thông suốt thân phận của con người, tức là thông suốt thế giới quan và nhân sinh quan như thế nào đúng và như thế nào sai.

Căn cứ vào chương trình giáo dục đào tạo đức hạnh nhân bản - nhân quả của Phật giáo (Đạo Đế) có tám lớp (Bát Chánh Đạo), chúng ta phân ra làm ba cấp tu học: (Giới, Định, Tuệ). 

1- Từ lớp Chánh Kiến cho đến lớp Chánh Tinh Tấn là giai đoạn thứ nhất tu tập Giới Luật. Tu tập Giới Luật giai đoạn một có giáo trình tu học thuộc về pháp môn Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần gồm có: Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt và Định Niệm Hơi Thở. Định Niệm Hơi Thở gồm có: 18 đề mục tu tập.

2- Lớp Chánh Niệm là giai đoạn thứ hai tu tập Giới Luật trên Pháp môn Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ gồm có Tứ Niệm Xứ tu tập trên Tứ Niệm Xứ; Tứ Niệm Xứ tu tập trên pháp Thân Hành Niệm.

3- Lớp Chánh Định là giai đoạn thứ ba tu tập Thiền Định. Thiền định có tên là Tứ Thánh Định. Tứ Thánh Định gồm có: Sơ Thiền - Nhị Thiền - Tam Thiền - Tứ Thiền

Khi nhập Tứ Thiền xong thì ngay đó tuệ Tam Minh xuất hiện cho nên Tuệ Tam Minh không tu mà có. Tại sao vậy? Chúng ta hãy lắng nghe lời Phật dạy cho kỹ: “Giới sanh Định, Định sanh Tuệ” để khỏi bị tà giáo lừa đảo.

Như vậy con đường tu tập của Phật giáo xác định rất rõ ràng, không thể tà giáo ngoại đạo xen lẫn, pha trộn vào được. Vì nó là một chương trình giáo dục đào tạo đức hạnh làm Người, làm Thánh. Vậy mà giáo pháp của đạo Phật hiện giờ toàn là giáo pháp của ngoại đạo mới kỳ lạ.

Chương trình giáo dục đào tạo không còn nữa, giáo trình giáo án lộn xộn không lớp lang thứ tự, chỉ còn là một tạng kinh hỗn tạp; một tạng giới không nêu rõ giới đức, giới hạnh, giới hành, còn tạng luận thì luận trên trời dưới đất khiến cho người tu tập chẳng biết đường, như lạc vào trong rừng sâu.

Nhìn lại giáo pháp Đại Thừa và Thiền Tông thì chúng ta phải giật mình và phải cúi đầu thán phục các bậc Tổ sư Bà La Môn. Họ thật là khéo léo tuyệt vời, đưa giáo pháp của mình biến thành giáo pháp của đạo Phật mà tất cả vừa là cư sĩ, vừa là tu sĩ của Phật giáo đều là những người có học thức, kể cả người có trình độ kiến thức tiến sĩ, vậy mà không hề có một người nào hay biết. 

Mãi cho đến hôm nay, nếu chúng tôi tu tập không thực hiện được lời dạy của Đức Phật thì muôn đời ngàn kiếp không còn ai vạch trần ra được cái sai này, cái khéo léo thiện xảo rất tinh vi này biến đạo Phật thành đạo Bà La Môn mà không hề ai biết. Vả lại, tín đồ Phật giáo lại còn tiếp tay với Bà La Môn làm mất đường lối, chương trình giáo dục đào tạo tu học đạo đức chân chánh của Phật giáo mà không ai để ý. Thật là đau lòng. Phải không các bạn?

Kính thưa các bạn! Pháp môn của Phật giúp cho mọi người tu tập giải thoát tuyệt vời như vậy. Thế mà bây giờ, nhìn lại tu sĩ Phật giáo chẳng còn gì là tu sĩ Phật giáo, chỉ là những tu sĩ Bà La Môn phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới. Nghĩ đến đây chúng tôi xúc động vô cùng, thương cảm người cha lành đã hy sinh cả cuộc đời mình để mang lại cho đàn con những lời dạy tâm huyết.

Thế mà bây giờ còn gì đâu! Biết làm sao hỡi các bạn!? Chỉ còn lại một mớ ngôn ngữ học danh, học lợi ngoài đầu môi chót lưỡi để lừa đảo thiên hạ, sống trên mồ hôi nước mắt của mọi người. Thật đáng trách phải không các bạn?

Khi Đức Phật tu tập xong và tìm thấy sự giải thoát thật sự, Ngài dùng những lời dạy và hành động (Quỳ xuống đảnh lễ giáo pháp) hết sức chân thành và yêu thương loài người tận trong đáy lòng sâu thẳm:Ta hãy cung kính đảnh lễ và sống y chỉ pháp ấy.

Lời dạy này gây cho chúng ta một lòng tin sâu sắc; lời dạy này làm cho trái tim chúng tôi rung động trước lòng yêu thương vô bờ bến của đấng cha lành.

Hôm nay chúng tôi tu hành xong, đọc lại những lời dạy này, chúng tôi xúc cảm không cầm được giọt nước mắt của mình. Vì nghĩ đến lòng thương yêu như trời biển của Đức Phật. Lòng yêu thương ấy không thể lấy gì mà so sánh được. Nhạc sĩ Y Vân so sánh lòng thương yêu của mẹ đối với con như biển Thái Bình: “Lòng mẹ thương con như biển Thái Bình rạt rào...” Nhưng lòng thương chúng sanh của Đức Phật dù đem bốn biển so sánh cũng không sánh được.

Ngài cung kính cúi đầu đảnh lễ và sống y chỉ pháp ấy khiến cho chúng ta không bao giờ quên được ơn nghĩa này. Không quên được ơn nghĩa này thì phải luôn luôn nhớ đến “Giới, Định, Tuệ.” Chỉ có “Giới, Định, Tuệ” mới giúp chúng ta làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi. Chỉ có “Giới, Định, Tuệ” mới giúp cho chúng ta tu tập không còn sợ tu sai pháp, lạc vào tà pháp của ngoại đạo. Ngoài giới luật ra không còn giáo pháp nào dạy chúng ta tu hành giải thoát chân chánh nữa.

Hỡi các bạn! Các bạn nhớ ơn Phật thì các bạn hãy mạnh dạn chỉ thẳng những gì sai không đúng giáo pháp của Phật giáo; những gì không đúng giới luật của Phật để chấn chỉnh lại Phật giáo thì đó là các bạn đã đền đáp ơn Phật.

130-PHÁP CĂN BẢN CỦA NGƯỜI TU SĨ (2). TL Thích Thông Lạc

II- THƯỜNG XUYÊN TU LUYỆN BỐN TINH CẦN

           Lời Phật dạy:
          “1- Tinh cần chế ngự;
           2- Tinh cần đoạn tận;
           3- Tinh cần tu tập;
           4- Tinh cần hộ trì.”

            Giảng nghĩa: Bốn tinh cần là gì? Bốn tinh cần là bốn pháp môn mà người đệ tử của Phật cần phải siêng năng tu tập hằng ngày không được biếng trễ, cũng giống như ngày nào chúng ta cũng phải ăn cơm uống nước vậy.

            II-1. Bài học thứ nhất: Tinh Cần Chế Ngự

Vậy tinh cần chế ngự nghĩa là gì? Muốn hiểu bài học thứ nhất thì chúng ta phải hiểu những chữ tinh cần và chế ngự cho rõ ràng. Vậy tinh cần có nghĩa là gì? Tinh cần có nghĩa là siêng năng, chuyên cần, giờ nào cũng làm việc không nghỉ ngơi. Chế ngự nghĩa là gì? Chế ngự có nghĩa ngăn chặn, không làm theo.

            Ở đây Đức Phật dạy chúng ta tinh cần chế ngự có nghĩa là bảo chúng tatu tập phải từng giây, từng phút, từng sát na siêng năng, chuyên cần liên tục, không được biếng trễ, không được gián đoạn sự ngăn chặn, không được làm theo lòng ham muốn và tâm hung ác của chính mình,” tức là hằng ngày phải siêng năng, tinh cần ly dục ly ác pháp. Để cho hiểu dễ dàng hơn thì cần phải có những ví dụ:

            1. Khi tâm chúng ta khởi muốn ăn phi thời thì ngay đó chúng ta ngăn chặn quyết liệt không cho ăn. Ngăn chặn quyết liệt không cho ăn, đó là chế ngự lòng tham muốn (dục) hay nói cách khác là ly dục về ăn.

            2. Chưa đến giờ đi ngủ mà thân tâm bị hôn trầm, thùy miên muốn đi ngủ. Chúng ta muốn ngăn chặn sự buồn ngủ không làm theo nó, liền đi kinh hành làm cho thân tâm không ngủ được, ấy là chế ngự tâm ham muốn ngủ, hay nói cách khác là ngăn chặn sự buồn ngủ. Đi kinh hành ngăn chặn sự buồn ngủ tức là tinh cần chế ngự lòng ham muốn ngủ của mình và như vậy gọi là ly dục ly ác pháp.

            3. Ngồi một mình cô đơn trong thất muốn đi nói chuyện cho vui với người khác, ngay đó chúng ta liền ngăn chặn không đi nói chuyện. Ngăn chặn không đi nói chuyện, tức là chế ngự lòng ham muốn vui chơi của mình. Chế ngự lòng ham muốn vui chơi của mình tức là ly dục ly ác pháp.

            4. Khi tâm muốn đi làm một việc gì mà việc ấy phi thời thì phải ngăn chặn liền, sự ngăn chặn không đi làm là chế ngự tâm mình hay nói cách khác là ly dục ly ác pháp.

Tóm lại, lời dạy này khuyên nhắc chúng ta muốn tu tập được giải thoát ra khỏi sanh, già, bệnh, chết thì phải thường hằng siêng năng ly dục ly ác pháp. Đó là “Tinh cần chế ngự” tâm dục và ác pháp. Đây là bước đầu tu tập căn bản nhất của Phật giáo mà người tu sĩ và người cư sĩ nào muốn tu tập cũng phải khởi sự từ nơi đây.

Đó cũng là phương pháp tu tập để xây dựng cho mình một nền tảng đạo đức nhân bản – nhân quả làm người. Không làm khổ mình khổ người. Đó là một phương pháp tu tập thiền định xả tâm, xả đến đâu là có giải thoát đến đấy; xả đến đâu là có tâm thanh tịnh đến đấy. Do tu tập thiền định kết quả như vậy nên Đức Phật dạy:

Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy.

II-2. Bài học thứ hai: Tinh Cần Đoạn Tận

Vậy tinh cần đoạn tận như thế nào? Khi tâm tôi có tham tôi biết tâm tôi có tham tức là biết tâm có dục. Biết tâm có dục thì ngay đó tôi phải siêng năng làm cho nó hết dục. Làm cho nó hết dục tức là đoạn tận. Theo phương pháp đoạn tận tâm tham Đức Phật dạy:

Do vậy, này các thầy tỳ-kheo, nếu các thầy mong rằng ly dục ly ác pháp, các thầy sẽ chứng đạt an trú Thiền Thứ Nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm, có tứ thì Định Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra cần phải được khéo tác ý.” Ở đây hơi thở vô, hơi thở ra cần phải được khéo tác ý như thế nào? Chúng ta hãy nghiên cứu lại pháp môn Định Niệm Hơi Thở thì sẽ rõ. 

Trong Định Niệm Hơi Thở Phật dạy: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra.” Đó là một phương pháp đoạn tận tâm tham tuyệt vời, nếu ai tin tưởng giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì nương vào hơi thở mà tác ý như vậy thì chúng tôi bảo đảm với quý vị sẽ có kết quả ngay liền.

Với tâm sân, quý vị cũng nên nương vào hơi thở mà tác ý như vậy: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra.

Với tâm si, quý vị cũng nên nương vào hơi thở mà tác ý: “Quán ly si tôi biết tôi hít vô, quán ly si tôi biết tôi thở ra.

Muốn cho tâm được định tỉnh không còn bị hôn trầm, thùy miên thì quý vị cũng nên nương vào hơi thở mà tác ý: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra.

Với tâm phiền não, lo lắng, sợ hãi, v.v... thì quý vị cũng nên nương vào hơi thở mà tác ý: “An tịnh toàn tâm tôi biết tôi hít vô, an tịnh toàn tâm tôi biết tôi thở ra.

            Trên đây là phần tinh cần đoạn tận về tâm, còn về thân thì tinh cần đoạn tận như thế nào?

Mỗi khi thân có đau nhức hay bệnh tật thì cũng nên an trú vào hơi thở mà tác ý: “An tịnh toàn thân tôi biết tôi hít vô, an tịnh toàn thân tôi biết tôi thở ra.

Cứ bền chí mà tác ý như vậy đến chừng nào thân không bệnh, không còn đau khổ nữa mới thôi. Những lời dạy trên đây các bạn có tin không? Nếu tin thì có lợi ích cho các bạn, còn không tin thì các bạn sẽ tốn tiền thuốc thang và chịu nhiều đau khổ.

Do sự đau khổ, phiền não thân tâm của quý bạn nên Đức Phật dạy: “Tinh Cần Đoạn Tận.” Nếu quý bạn tinh cần đoạn tận thì sự an vui và hạnh phúc sẽ đến với các bạn.

Trước khi muốn đoạn tận các sự phiền não và tất cả bệnh khổ đau nơi thân tâm của quý bạn thì quý bạn hãy tu tập cách thức an trú cho được trong hơi thở, trong bước đi hay hơi thở. Nói cách khác tổng quát hơn là an trú trong thân hành của các bạn.

Khi an trú được thì bạn mới đẩy lui được các chướng ngại pháp. Đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân tâm, tức là làm cho thân tâm của quý bạn được an ổn và thanh tịnh.

Do làm cho thân tâm được an ổn và thanh tịnh, đó là một điều lợi ích rất lớn mà Đức Phật thường nhắc nhở chúng ta nên “Tinh cần đoạn tận mọi khổ đau.” Đó là một phương pháp tu tập rất thực tế và có lợi ích thiết thực ngay liền mà trong kinh Tứ Niệm Xứ đã dạy:

Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu. Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu. Trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu…

II-3. Bài học thứ ba: Tinh Cần Tu Tập

 Vậy tinh cần tu tập như thế nào? Như chúng ta biết, những pháp môn mà Đức Phật đã dạy gồm có:

                1- Mười tám đề mục Định Niệm Hơi Thở.
                2- Định Vô Lậu.
                3- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
                4- Định Sáng Suốt.
                5- Tác ý đẩy lùi các chướng ngại trên Tứ Niệm Xứ.
                6- Tu Tập Thân Hành Niệm.

Trên đây là những pháp môn cần phải siêng năng tu tập từng giây, từng phút, từng giờ không được phí bỏ những giây phút nào cả. Có tinh cần tu tập như vậy thì chúng ta mới “Chế ngự” mới “Đoạn tận” được lòng ham muốn và mọi ác pháp, mọi khổ đau của kiếp làm người.

Lời dạy thứ ba trên đây rất là quan trọng cho việc chế ngự và đoạn tận tâm dục và các ác pháp. Có chuyên cần tu tập các pháp môn trên đây thì mới đủ năng lực chế ngự và đoạn tận tâm dục và các ác pháp. Nó lưu xuất từ trong thân tâm do các pháp ác bên ngoài tác dụng vào.

Nhờ năng lực tu tập của các pháp môn trên chúng ta mới có đủ khả năng đẩy lui các chướng ngại pháp thì thân tâm chúng ta mới an trú được. Nếu không tu tập các pháp trên đây thì chẳng bao giờ chế ngự và đoạn tận các chướng ngại pháp được.

Cho nên sự tinh cần tu tập các pháp môn là điều quan trọng để tạo ra năng lực buông xả rất mạnh và nhanh chóng. Muốn tu tập đạt được kết quả tốt như vậy thì cần phải siêng năng tu tập không được biếng trễ. Tu tập các pháp giống như hằng ngày chúng ta ăn cơm và uống nước vậy.

            II-4. Bài học thứ tư: Tinh Cần Hộ Trì

Vậy tinh cần hộ trì như thế nào? Trong thân chúng ta có sáu căn: 1. Mắt; 2. Tai; 3. Mũi; 4. Miệng; 5. Thân ; 6. Ý 

Sáu chỗ này là sáu cửa ra vào của sáu trần, nếu người tu hành không cảnh giác cẩn thận thì giặc sanh tử sẽ lén vào và làm cho tâm bất an. Vì thế Phật dạy: “Phải siêng năng luôn luôn hộ trì các căn.” Vậy, chúng ta phải giữ gìn cửa nào trước trong sáu cửa này? 

1. Mắt: Là cửa thành thứ nhất mà chúng ta phải giữ gìn trước nhất, vì sắc tướng của sáu trần lúc nào cũng có, nên nó sẽ theo cửa mắt mà vào thành. Mắt được xem là cửa ải Tam quan. Cửa ải Tam quan là cửa ải địa đầu của đất nước, nếu một khi cửa ải này mất thì đất nước bị lung lay. Cũng vậy nếu mắt bị sắc xâm chiếm thì thân tâm bị dao động.

Cho nên luôn phải giữ gìn mắt. Vậy giữ gìn mắt như thế nào? Muốn giữ gìn mắt tức là phòng hộ mắt thì phải chấp nhận sống độc cư, không tiếp duyên ra ngoài. Lúc ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài luôn luôn phải hướng tâm nhắc mắt phải nhìn vào trong thân; phải thấy bước chân đi khi đi đứng; phải thấy hơi thở ra hơi thở vào khi ngồi.

Nếu hộ trì mắt được như vậy thì mắt không dính sắc trần thì mắt thanh tịnh. Còn không phòng hộ được như vậy thì mắt dính sắc, mắt dính sắc thì tâm phóng dật. Tâm phóng dật thì phá hạnh độc cư, phá hạnh độc cư thì tâm có tinh cần tu tập pháp gì thì cũng không kết quả.

Tâm tu tập không kết quả thì không có năng lực, không có năng lực thì không đoạn tận dục và ác pháp. Không đoạn tận dục và ác pháp thì không còn cách nào chế ngự được tâm. Và như vậy thì thân tâm của chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khổ.

Tóm lại, giữ gìn mắt rất cần thiết cho sự tu tập bốn điều tinh cần ở trên mà một người quyết tâm tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì không thể thiếu được. Trong bốn điều tinh cần, điều nào cũng cần thiết, cũng cần phải siêng năng tu tập.

Nhưng phải thấy điều thứ tư là quan trọng bực nhất, đó là hộ trì các căn. Mà hộ trì căn mắt là một điều quan trọng hơn các căn khác như những người lính giữ cửa ải quan.

2. Tai: Là căn thứ hai cũng không kém quan trọng. Phòng hộ tai phải như thế nào? Phòng hộ tai khi ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài thường phải tác ý nhắc: tai phải nghe vào tiếng chân bước đi khi đi; tiếng hơi thở ra, tiếng hơi thở vô khi ngồi.

Có phòng hộ tai như vậy tai mới không dính mắc thinh trần, tai không dính mắc thinh trần thì tai thanh tịnh, tai thanh tịnh thì tâm thanh tịnh. Tai thanh tịnh thì tu các pháp mới có năng lực, có năng lực thì mới đoạn tận, mới chế ngự dục và ác pháp. Nhờ đó con đường tu tập mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

3. Mũi: Căn thứ ba là mũi, vậy phòng hộ mũi như thế nào? Mũi thường hay ngửi mùi, tức là hương trần. Hương trần gồm có: 1- Mùi thơm; 2- Mùi thối

Mũi ngửi mùi thơm sanh ra ưa thích, gặp mùi thối thì không ưa thích. Ngửi mùi thơm của thực phẩm thì con người sanh ra dục muốn ăn. Ngửi mùi thối của phân, phẩn thì con người bịt mũi đi tránh không ưa.

Con người đem dâng cúng thực phẩm cho Phật khi Phật tịch là sai, vì thực phẩm của con người ăn là bất tịnh, chỉ nuôi thân tứ đại bất tịnh. Cho nên chư Phật nghe mùi thực phẩm của con người ăn là hôi thối.

Chim ó, chim kên kên và loài chó nghe mùi thịt thối thì cho là thơm, ưa thích. Còn con người cho là thối, không ưa thích.

Tính chất của hương trần, loài này cho là thơm, nhưng loài khác cho là thối. Còn cách tu như thế nào đối trị với hương trần? Đối trị với hương trần mùi thơm cũng như mùi thối, luôn luôn lúc nào cũng phải phòng hộ mũi. Phòng hộ mũi bằng cách tác ý hướng dẫn mũi ngửi vào trong thân, thân hành nội (hơi thở) và thân hành ngoại (kinh hành).   

Thơm cũng không khởi dục tham đắm, thối cũng không trốn chạy, chỉ có duy nhất siêng năng cần mẫn liên tục tác ý dẫn mũi ngửi vào trong thân cũng giống như dẫn tai và mắt vậy.

Có dẫn tai, mắt, mũi như vậy thì mới tu tập nhiếp phục tâm mình được và tâm mới an trú được trong thân hành tức là tâm định trên thân. Nhờ sống hộ trì mắt, tai, mũi được như vậy nên tâm tu tập mới có đầy đủ năng lực để chế ngự, đoạn tận dục và ác pháp, v.v... Tinh cần hộ trì mắt, tai, mũi như vậy chưa đủ mà còn phải tiếp tục hộ trì các căn khác nữa như: miệng, thân và ý.

131-PHÁP CĂN BẢN CỦA NGƯỜI TU SĨ (3). TL Thích Thông Lạc

(tiếp theo II-4. Bài học thứ tư: Tinh Cần Hộ Trì)

4. Miệng: Là căn thứ tư, vậy hộ trì miệng như thế nào? Hộ trì miệng có hai phần: 1- Hộ trì miệng về ăn, uống; 2- Hộ trì miệng về nói.

Hộ trì miệng về ăn uống thì không được ăn uống phi thời, ăn uống phải có tiết độ, phải đúng giờ giấc, ăn uống không được ham thích ăn ngon, ăn uống phải biết quán thực phẩm bất tịnh để sanh tâm nhàm chán. Ăn uống phải sáng suốt, tư duy: ăn để sống chứ không phải sống để ăn.

Ăn để sống, sống để tu hành, để thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự.

Ăn để sống, sống để hộ trì các căn không cho dục và các ác pháp tác động sai khiến hoặc xâm chiếm, làm khổ mình làm khổ người và tất cả chúng sanh.

Ăn để sống, sống để làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh, chứ không phải ăn để sống, sống chạy theo dục lạc, để chấp nhận đời sống phải chịu nhiều khổ đau.

Ăn để sống, sống để làm chủ thân tâm, khiến cho thân tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải để tranh luận hơn thua, để tranh đua về ăn uống, để tranh chấp về danh lợi, hơn thiệt ở đời. 

Ăn để sống, sống để biết thương yêu mọi người, để giúp đỡ mọi người bất hạnh trong xã hội, để an ủi, chia sẻ những nỗi thương đau, những nỗi mất mát mà con người đang, sẽ phải chịu. 

Ăn để sống, sống để thấy trách nhiệm bổn phận đạo đức làm người không nên làm khổ mình khổ người, chứ không phải ăn để sống, sống để vì sự sống của mình mà chà đạp lên sự sống của bao nhiêu người khác và loài vật khác... Đó là cách hộ trì miệng về ăn uống, mỗi khi ăn uống chúng ta đều phải nhớ những lời dạy này.

Hộ trì miệng về lời nói, không được nói những lời thiếu chân thật, xin đọc lại Thánh đức chân thật trong Mười Giới Thánh Đức Sa Di.

Hộ trì miệng về lời nói thì không được nói lời hung dữ; không được chửi mắng, nạt nộ, hăm dọa người khác; không được la lớn tiếng, không được chửi thề nói lời tục tĩu, không được xưng hô mày, tao, nó, hắn, y...

Hộ trì miệng về lời nói thì không được nói thêm bớt, nói xấu người khác, không được vu khống, vu oan giá họa, không được nói lật lọng...  

Hộ trì miệng về lời nói thì không được nói móc lò, nói mỉa mai người khác, nói giễu cợt, nói châm chọc...  

Tóm lại, hộ trì miệng là giữ gìn lời nói không làm khổ mình khổ người, luôn nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, đầy lòng từ ái, ôn hòa, tha thứ, thân thương và yêu mến. Lời nói luôn đem đến mình vui người khác vui.

Người ta còn bảo miệng là “Khẩu Nghiệp.” Khẩu nghiệp có hai phần:

1, Khẩu nghiệp về ăn: Miệng ăn uống không tiết độ, không đúng cách nên khiến cho thân thọ lấy những khổ đau, bệnh tật, nghiện ngập, tu hành không ly dục ly ác pháp được.

2, Khẩu nghiệp về nói: Miệng nói ra phải cẩn thận, nếu không cẩn thận sẽ mang nghiệp vào thân khiến thân tâm phải phiền não khổ đau, hối hận.

Tóm lại, hộ trì miệng là điều cần thiết nhất trong cuộc sống tu hành nên Phật dạy phải độc cư sống trầm lặng một mình như con tê ngưu một sừng. Tinh cần hộ trì mắt, tai, mũi, miệng như vậy chưa đủ mà còn phải tiếp tục hộ trì các căn khác nữa là thân và ý.

5. Muốn phòng hộ trì thân, phải hộ trì như thế nào? Hộ trì thân có hai phần: Hộ trì các hành động của thân. Hộ trì thân là không cho các ác pháp xâm chiếm vào thân.

              a. Hộ trì các hành động của thân gồm có:
              - Không cho thân làm những điều ác.
              - Ý thức phải điều khiển thân hành.
              - Mỗi thân hành phải được ý thức kiểm duyệt.

               b. Hộ trì thân là không cho các ác pháp xâm chiếm vào thân gồm có:
              - Ngừa bệnh hơn trị bệnh, nghĩa là phải ngăn ngừa ruồi, muỗi, sâu độc, rắn, bò cạp, rết, thú dữ, v.v... không cho xâm chiếm vào thân, luôn luôn giữ gìn thân được an lạc bằng vệ sinh, bằng ăn uống tiết độ, bằng nuôi dưỡng thiện pháp, không đem vào thân những ác pháp, phải nuôi thân bằng chánh mạng.
              - Đẩy lùi các bệnh tật trên thân. Làm chủ bệnh tật là điều hạnh phúc thứ nhất trong cuộc sống thế gian.
              - Tìm mọi cách giúp cho thân được an trú, thanh tịnh và vô sự, theo pháp môn Định Niệm Hơi Thở.
              - Bằng phương pháp Tứ Niệm Xứ giúp cho thân sung mãn dồi dào sức lực.
              - Bằng phương pháp Thân Hành Niệm giúp cho thân tâm sanh bảy Giác Chi.

Nếu trong cuộc sống tu hành theo Phật giáo để tìm cầu sự giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi thì phải luôn luôn hộ trì thân hành, không thể nào thiếu sự hộ trì này mà chứng đạo được. Tinh cần hộ trì mắt, tai, mũi, miệng, thân như vậy chưa đủ mà còn phải tiếp tục hộ trì căn khác nữa là ý căn.

6. Muốn hộ trì ý căn phải như thế nào?

Hộ trì ý căn có ba phần: 1- Sử dụng tri kiến; 2- Sử dụng pháp hướng tâm Như lý tác ý; 3- Sử dụng giới luật.

1, Sử dụng tri kiến, khi nào có một niệm khởi trong tâm hay một pháp bên ngoài tác động vào tâm thì phải tư duy suy nghĩ cho tường tận niệm ấy để đẩy lui, khiến cho tâm trở nên thanh thản, an lạc và vô sự. Sử dụng tri kiến tức là tu tập Định Vô Lậu. Càng tu tập Định Vô Lậu thì tri kiến càng sắc bén. Tri kiến sắc bén giống như một thanh gươm thư hùng, kiếm của một dũng sĩ lâm trận.

2, Thường xuyên tác ý để tâm ly dục ly ác pháp; thường xuyên tác ý để tâm có một nội lực mạnh mẽ giúp cho ý thức đẩy lùi các chướng ngại pháp trên thân một cách dễ dàng. Đó là cách thức tu tập tạo thành ý thức lực, nhờ ý thức lực mà chúng ta làm chủ sanh, già, bệnh, chết...  

3, Sử dụng giới luật, vì giới luật là thiện pháp, là đạo đức làm người, làm Thánh. Cho nên lấy giới luật làm tiêu chuẩn để ý thức nhắm vào tư duy quan sát các pháp đang trùng trùng duyên khởi. Do đó chúng ta không bị lầm lạc, lẫn lộn pháp thiện ra pháp ác, pháp ác ra pháp thiện. Biết sử dụng giới luật đúng pháp thì chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần mới có hiệu quả: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.

Tóm lại, trên đường tu tập theo giáo pháp của Phật giáo thì chúng ta phải theo lời khuyên này. Hằng ngày phải siêng năng tu tập bốn loại tinh cần, đừng cố chấp tuần tự theo pháp mà phải biết khéo léo thiện xảo và linh động tùy theo mỗi trạng thái tâm của chúng ta mà tu tập. Có tu tập như vậy thì mới có ích lợi thật sự.

Ví dụ: Trong lúc chúng ta đang tinh cần tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác thì bỗng có tiếng kêu la cầu cứu. Tức thì chúng ta tinh cần tu tập hộ trì nhĩ căn. Ví dụ trên đây để chúng ta nhận xét sự linh động thiện xảo từng giây, từng phút trong sự tu tập. Đừng có cố chấp khư khư theo giáo điều thì sai lệch mất.

Cho nên bốn tinh cần này là gồm đủ các pháp tu tập trong Phật giáo. Cuối cùng chúng tôi không biết nói gì hơn để trao lại những kinh nghiệm và tâm sự cùng các bạn thiết tha tu hành thân mến. Ước mong sao quý bạn sẽ thành tựu viên mãn con đường giải thoát của Phật giáo để đền đáp ơn Phật trong muôn một.

III- THỜI KHÓA TU TẬP THỜI ĐỨC PHẬT
(Trích trong Tạng kinh Pali)

Lời dẫn

Trong kinh Nikaya thuộc tạng kinh Pali chúng tôi tìm thấy được một thời khóa biểu tu tập trong thời Đức Phật còn tại thế, Ngài đã hướng dẫn chúng tỳ-kheo tu tập. Thời khóa biểu này có một giá trị thực hành cụ thể rất lớn đối với những người tu tập theo Phật giáo hiện nay. Nó chỉ định cho chúng ta những pháp hành cụ thể rõ ràng đúng chánh pháp của Đức Phật "Ngăn ác diệt ác pháp" và nếu nói về thiền định thì "Ly dục ly ác pháp."

Ngăn ác diệt ác pháp và ly dục ly ác pháp so sánh với những từ trong thời khóa biểu này "Tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại pháp." Chắc quý vị đã hiểu chướng ngại pháp là gì? Nó không khác dục và ác pháp nhưng nó còn rõ nghĩa hơn.

Ví dụ như quý vị ngồi kiết già hai chân đau, đó là chướng ngại pháp; sáng quý vị muốn ăn, chiều quý vị muốn uống sữa, đó cũng là chướng ngại pháp; v.v...

Xưa Đức Phật đã thành lập thời khóa biểu này cho chúng tỳ-kheo Tăng cũng như tỳ-kheo Ni tu tập, chúng tôi xét thấy không có lỗi thời mà còn rất phù hợp vào thời đại của chúng ta lúc mọi người đang hướng tâm về thiền định.

Thiền định theo trong thời khóa biểu này là thiền định xả tâm, còn tất cả các loại thiền định của quý vị đang tu tập là thiền định ức chế tâm. Đó là thiền tưởng, thiền của ngoại đạo mà xưa kia Đức Phật đã sáu năm khổ hạnh tu tập không kết quả giải thoát.

May mắn thay thời khóa biểu của Đức Phật ngày xưa còn lưu lại là một bằng chứng chứng minh hùng hồn, cụ thể xác định được pháp môn và sự tu tập của Phật giáo chân thật mà không thể có một giáo pháp ngoại đạo nào mạo nhận của Phật giáo được. Chúng tôi biên soạn thời khóa biểu này ra để quý vị thẩm xét lại con đường tu của mình có đúng là của đạo Phật hay không? Đúng thì quý vị mới gọi là tu theo Phật giáo, bằng không thì quý vị đừng mượn danh Phật giáo mà biến Phật giáo thành một tôn giáo lừa đảo thì thật là đau lòng.

Theo thời khóa biểu này, quyền tu hay không là ở quý vị, còn riêng chúng tôi biên soạn ra đây để xét thấy cái đúng cái sai hiện giờ trong Phật giáo; cái tu được, cái tu không được; cái đạo đức, cái phi đạo đức; cái không mê tín, cái mê tín; cái không trừu tượng, cái trừu tượng; cái không lừa đảo, cái lừa đảo; v.v... để quý vị suy ngẫm.

Cuối cùng chúng tôi xin dừng lại nơi đây, hẹn gặp lại quý vị ở những tập sau: "Những lời Phật dạy" để chúng ta sẽ lần lượt vén lên những lớp bụi mù của Bà La Môn giáo và những kiến giải của các nhà học giả xưa và nay đang phủ mờ Phật giáo.

                                                                                                           Kính ghi. Thích Thông Lạc
                                                                                                    Tu Viện Chơn Như gày 14-02-2000.

 

Lời Phật dạy: Người tu sĩ có 9 điều cần tu tập hằng ngày,

           “1. Phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh.
            2. Sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt.
            3. Chấp nhận giữ gìn giới luật.
            4. Giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không cho dính mắc sáu trần.
            5. Ăn uống phải tiết độ, không nên ăn uống phi thời.
            6. Ban ngày khi đi kinh hành hay lúc ngồi, luôn luôn phải tẩy sạch tâm tư khòi các chướng ngại pháp.
            7. Ban đêm canh đầu đi kinh hành hay ngồi, luôn luôn phải tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại pháp.
            8. Ban đêm canh giữa phải nằm nghiêng, chánh niệm tỉnh giác, luôn luôn phải nghĩ đến thức dậy.
            9. Ban đêm canh cuối thức dậy đi kinh hành hay ngồi luôn luôn phải tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại pháp.”

Giảng nghĩa:

1. Phải đầy đủ oai nghi Chánh hạnh: tức là đi, đứng, nằm, ngồi, nói nín thường phải quan sát mỗi hành động thân, miệng, ý của mình phải được ôn tồn êm ái, nhẹ nhàng, khoan thai, từ tốn. Đó mới là oai nghi đúng chánh hạnh trong nghĩa tỉnh thức chánh niệm của đạo Phật.

2. Sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt: tức luôn luôn lưu ý đến những lỗi lầm nhỏ nhặt mà hằng ngày chúng ta có thể vô tình lầm lỗi. Những lỗi nhỏ nhặt chúng ta vô tình xem thường thì sự tu tập của chúng ta sẽ không có kết quả.

Ví dụ như khởi niệm muốn uống một ly sữa, một ly cà phê, một tô nước chè, hút một điếu thuốc lá, v.v... đó là phạm vào những lỗi nhỏ nhặt. Nếu chúng ta xem thường những lỗi lầm này trong ý thì chẳng bao giờ tâm chúng ta ly dục ly ác pháp được thì dù có tu muôn ngàn kiếp cũng chẳng đi đến đâu được.

Trong khi đang ngồi chơi bỗng nhớ đến một câu kinh Phật, một câu công án, một bài thơ Đường, một câu ca dao, một bài dân ca, một bức tranh danh họa, hoặc một niệm nhớ nghĩ về gia đình con cái, v.v... đó là chúng ta đã phạm vào những lỗi nhỏ nhặt của đạo Phật trong con đường tu tập giải thoát.

Nếu chúng ta xem thường nó, không giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì dù tu muôn kiếp cũng chẳng giải thoát được gì. Bởi lỗi lầm tuy nhỏ vì còn trong ý, nhưng nếu không thấy nó là một lỗi lầm lớn trong sự tu tập thì dù chúng ta có tu muôn ngàn kiếp cũng chẳng đi đến đâu cả, do vậy mà Đức Phật dã dạy "Sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt."

3. Chấp nhận giữ gìn giới luật: Giới luật là pháp môn của Đức Phật dạy đạo đức làm người, làm thánh. Muốn giải thoát mà không sống đúng đạo đức làm người làm Thánh thì giải thoát cái gì?

Nói đạo đức tức là nói sự giải thoát cho mình cho người, nghĩa là người có đạo đức là người không làm khổ mình khổ người. Giới luật của Phật dạy người tu hành giải thoát là dạy đạo đức chứ không có dạy ngồi thiền, lạy Phật, tụng kinh, cúng bái, sám hối, làm phước, làm chuyện mê tín, v.v... vì ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, sám hối, làm chuyện mê tín, bố thí, v.v... đều còn trong phước hữu lậu, mà phước hữu lậu có thì còn làm khổ mình khổ người.

Dù phước hữu lậu giàu sang có tột đỉnh như Thạch Sùng, uy quyền thế lực như vua chúa cũng vẫn còn làm khổ mình khổ người. Chỉ có đạo đức giới luật của Đức Phật thì mới không làm khổ mình khổ người; không làm khổ mình khổ người thì mới giải thoát. Do con đường tu tập của đạo Phật, giới luật là tri kiến giải thoát của người tu sĩ. Ngoài giới luật, người tu sĩ đi tìm tri kiến giải thoát thì không bao giờ có.   

Cho nên người tu sĩ đạo Phật "Chấp nhận giữ gìn giới luật" tức là tu tập tri kiến giải thoát. Trong kinh Trường Bộ, Đức Phật dạy "Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ, người có trí tuệ nhất định có giới hạnh." Vì thế, người tu sĩ có giải thoát nhất định có giới luật nghiêm chỉnh, người tu sĩ có giới luật nghiêm chỉnh nhất định có giải thoát.

Thiền định của đạo Phật là một thứ thiền định giải thoát vô lậu (Định Vô Lậu) chứ không phải thứ thiền định ngồi lim dim như con cóc, như gộc cây, ức chế thân tâm như ai bẻ giò, bẻ cẳng, đầu căng thẳng như treo đá, khó khổ vô cùng, v.v... Tu tập khổ sở mà chẳng được gì, chỉ được ba tấc lưỡi lừa đảo người có sách vở mà thôi, nhìn lại chỉ phí uổng cuộc đời của mình, chẳng ích lợi gì cho mình cho người.

4. Giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý không cho dính mắc sáu trần: Người tu sĩ đạo Phật muốn tu hành giải thoát mà không phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý thì cũng như người quét nhà muốn cho sạch sẽ mà không chịu đóng cửa, cứ để gió bụi tung vào nhà thì có quét muôn đời cũng chẳng sạch được.

Cho nên những điều phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý của mình là một sự quan trọng hết sức cho đường tu tập theo Phật giáo. Những ai muốn tìm đường giải thoát của đạo Phật mà không biết phòng hộ sáu căn thì dù có tu muôn đời muôn kiếp cũng chẳng có kết quả gì. Muốn phòng hộ sáu căn duy chỉ có một pháp môn độc nhất, đó là "Độc cư."  

5. Ăn uống phải tiết độ, không được ăn uống phi thời: Ăn là một trong ngũ dục lạc (sắc, danh, lợi, thực, thùy), người tu sĩ đạo Phật nếu ăn uống không tiết độ và luôn luôn ăn uống phi thời thì dù có tu ngàn kiếp cũng chẳng tìm thấy sự giải thoát, vì nguyên nhân sự đau khổ của con người là dục, mà ăn uống phi thời là chạy theo dục. Chạy theo dục thì làm sao có giải thoát được.

Đây là lời răn nhắc của Đức Phật: "Ăn uống phải tiết độ, không được ăn uống phi thời." Vì muốn giải thoát ly dục ly ác pháp thì ăn uống phải đúng giới luật: "Thừa tự pháp chứ không thừa tự thực phẩm."

Ăn uống đúng giới luật là không ăn uống phi thời, chỉ ăn ngày một bữa. Người tu sĩ nào ăn uống hai ba bữa là kẻ ăn uống phi thời, là người thừa tự thực phẩm chứ không phải thừa tự pháp; kẻ thừa tự thực phẩm là tu sĩ Bà La Môn chứ không phải là tu sĩ đạo Phật, là trùng trong lông sư tử sẽ giết chết đạo Phật. Kẻ còn tham ăn, tham uống như người thế tục thì làm sao tìm sự giải thoát trong đạo Phật được.

6. Ban ngày lúc đi kinh hành hay trong lúc ngồi, luôn luôn phải tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại pháp: Ban ngày tu tập như trong lời dạy trên đây của Đức Phật, dù đi kinh hành hay ngồi đều phải tu tập tẩy trừ dục và ác pháp, vì dục và ác pháp làm cho tâm chúng ta chướng ngại, khổ đau.

Theo thời thóa biểu này ứng dụng vào các pháp Tứ Nìệm Xứ, Tứ Chánh Cần và sống đúng giới luật thì tu tập mới có hiệu quả tẩy trừ các ác pháp chứ không phải ngồi thiền ức chế tâm chẳng niệm thiện niệm ác hoặc niệm lục tự Phật A Di Đà, hoặc khán công án, tham thoại đầu mà tẩy sạch tâm tư khỏi chướng ngại pháp. Do sự tu tập này chúng ta biết các pháp tu tập của Đại Thừa và Thiền Đông Độ không phải là của Phật giáo mà là của Bà La Môn và của kiến giải do các nhà học giả xưa và nay.

7. Ban đêm canh đầu đi kinh hành hay trong lúc ngồi, luôn luôn phải tẩy sạch các chướng ngại pháp: Cách thức tu tập ban ngày cũng như ban đêm, canh đầu duy nhất có một việc làm là tẩy sạch các chướng ngại pháp trong tâm. Đó là một điều tu tập quan trọng của đạo Phật. Ngoài vấn đề ly dục ly ác pháp thì không có tu tập một pháp môn nào khác hơn, nếu tu tập pháp môn nào khác hơn ngoài “Giới, Định, Tuệ” thì không phải là giáo pháp của Đức Phật. Không phải giáo pháp của Đức Phật thì không bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi được. Giới, định, tuệ của đạo Phật là pháp môn duy nhất ly dục ly ác pháp diệt ngã xả tâm, đoạn dứt lậu hoặc, thực hiện đạo đức làm người làm thánh, không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh.  

Giới, định, tuệ là một pháp môn dạy dạo đức làm người làm Thánh nhân tuyệt vời trên hành tinh này. Nếu ai đã có đầy đủ duyên mới gặp được pháp môn này mà chẳng chịu tu tập rèn luyện thân tâm mình thì thật là một người bạc phước vô cùng và ngu si không chỗ nói. Vì pháp môn này vừa lợi ích cho mình, cho người và xã hội, vừa đem đến cho cá nhân một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự; đem đến cho xã hội một trật tự, an ninh, phồn vinh và hạnh phúc.

8. Ban đêm canh giữa phải nằm nghiêng Chánh niệm tỉnh giác, tâm luôn phải nghĩ đến thức dậy: Trên đây là lời dạy của Đức Phật. Canh giữa tức là lúc nửa đêm chỉ có nằm nghiêng giữ chánh niệm tỉnh giác và phải luôn nghĩ đến thức dậy chứ không được lười biếng nằm ráng, hễ thấy không ngủ thì nên thức dậy ngay liền để tu tập rèn luyện tẩy trừ tâm khỏi chướng ngại pháp tức là ly dục ly ác pháp.

9. Ban đêm canh cuối thức dậy đi kinh hành hay trong lúc ngồi phải tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại pháp: Đối với đạo Phật thời gian chia ra tu tập rất rõ ràng, nhất là ban đêm. Canh cuối tức là buổi khuya phải thức dậy đi kinh hành hoặc ngồi nếu không buồn ngủ, luôn luôn không được lười biếng ham ngủ. Ban ngày cũng như ban đêm, đầu canh hay cuối canh đều duy nhất tu hành có một mục đích là xả tâm tẩy trừ các chướng ngại pháp, ngoại trừ có canh giữa ban đêm thì mới nằm nghỉ một chút nhưng phải giữ tâm chánh niệm tỉnh giác, không được ham ngủ. Trước khi nằm ngủ phải tập tỉnh thức rồi mới ngủ, không được nằm xuống là ngủ ngay liền. Phải nhớ lời dạy này.

Trên đây là bài pháp về thời khóa tu tập thời Đức Phật còn tại thế để chỉ dạy cho chúng tỳ-kheo tu tập một cách rất rõ ràng và cụ thể. Chúng tôi nhận thấy bài pháp này về thời khóa tu tập của Đức Phật thời xưa đối với thời đại của chúng ta hiện giờ nó không có lỗi thời và còn có một giá trị chỉ rõ về pháp hành và phù hợp với hoàn cảnh tu tập của chúng ta. Do đó chúng tôi xin ghi lại bài pháp này cống hiến cho những ai có tâm thiết tha tìm cầu sự giải thoát trong đạo Phật.

Thời khóa biểu này chúng ta không nói về buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều mà chỉ dùng danh từ chung chung "Ban ngày." Đọc lại toàn bộ kinh sách của Đức Phật, chúng tôi thấy buổi sáng Đức Phật và chúng tỳ-kheo khi chưa đến giờ đi khất thực thì hay đến thăm những vị Bà La Môn. Khi khất thực xong về ăn rồi nghỉ trưa một chút, buổi chiều thì tu tập. Trong thời khóa biểu này nói ban ngày tu tập tức là nói buổi chiều.

                                                                                            Kính ghi. Trưởng Lão Thích Thông Lạc
                                                                                              Tu Viện Chơn Như ngày 14-02-2000.

132-PHÁP CĂN BẢN CỦA NGƯỜI TU SĨ (4). TL Thích Thông Lạc

IV- NHỮNG PHÁP TU CĂN BẢN

IV-1. NHỮNG PHÁP TU THIỀN

             Hôm nay bắt đầu cho một năm tu tập mới, Thầy xin nhắc lại trên con đường tu tập theo đạo Phật có ba giai đoạn tu Thiền Định: 

             1, Ly: có nghĩa là rời xa, lìa xa, cách xa.
             2, Diệt: có nghĩa là đóng lại, làm cho ngưng hoạt động, dừng lại.
             3, Xả: có nghĩa là bỏ ra, ném ra, không cần dùng nữa, không còn trở lại thói quen tật cũ tức là nghiệp cũ.

Giai đoạn thứ nhất trong một năm tu tập, các con chỉ có tu tập ly dục ly bất thiện pháp. Thế mà các con đã lầm lẫn nên chỉ tu tập diệt và xả. Vì thế sự tu tập của các con trở thành mù mờ nên không biết tu cái nào chánh, cái nào phụ. Cái chính là ly dục ly bất thiện pháp, tức là tu tập ba đức, ba hạnh. Còn cái tu phụ là nhiếp tâm trong hơi thở. Nó chỉ phụ trợ cho sự tu tập Ly mà thôi. Các con đã lầm nên lấy cái tu chính làm cái tu phụ; còn cái tu phụ làm cái tu chính. Vì thế khi thi các con đều rớt hết là phải. Qua một năm tu tập, các con có nhiều kinh nghiệm cho cuộc tuyển thi tới. Nhờ cuộc tuyển thi vừa qua các con mới nhận ra cái tu sai của các con.

Bây giờ Thầy sẽ giảng trạch giai đoạn thứ nhất là Ly để các con hiểu đúng cách, rồi nương vào cô Diệu Quang chỉ thẳng, đập thẳng mà tu tập. Xưa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phải tu ở giai đoạn nầy sáu năm khổ hạnh mới ly dục. Còn ở giai đoạn II, III, Thầy chưa giảng, vì nếu giảng thì các con sẽ hiểu lộn xộn rồi không biết lớp lang tu tập. Chờ khi nào các con tu tập xong giai đoạn I Thầy sẽ giảng giai đoạn II. Tu xong giai đoạn II, Thầy sẽ giảng tiếp giai đoạn III.

Tu tập ở giai đoạn I là phải xét lại ba đức, ba hạnh. Đây là phương pháp tu tập ly dục, ly bất thiện pháp. 

              Ba đức: Nhẫn nhục, Tùy thuận, Bằng lòng.   
              Ba hạnh: Ăn, Ngủ, Độc cư.     

              Tu Thiền giai đoạn I có hai phần:
              1. Ly dục.
              2. Ly bất thiện pháp.

             IV-1.1: Ly dục
  

Ly dục là xa rời lòng ham muốn của mình. Muốn lìa xa thì các con phải tìm xem đối tượng của lòng ham muốn là gì. Trong đời sống hàng ngày của con người có năm đối tượng dục lạc khiến các con sanh tâm ham muốn. Đó là: ăn, ngủ, sắc dục, danh, lợi. Muốn lìa các thứ dục nầy các con phải tập ba hạnh sau đây: ăn, ngủ, độc cư.

Các con cần phải hiểu rõ cái lợi và cái hại của ăn, ngủ, độc cư như thế nào?

a) Hạnh ăn: Hạnh ăn uống là một phương tiện để tu tập ly dục về ăn uống. Người đời thường nói ham ăn, hốt uống là để chỉ những hạng người xấu ham ăn, ham uống. Chúng ta là những tu sĩ tu tập hạnh giải thoát mà chưa giải thoát được cái ăn thì còn giải thoát được cái gì?

Vậy chúng ta phải ăn ngày một bữa để nuôi sống thân chúng ta mà thôi. Không được ăn uống lặt vặt, không được ăn uống phi thời, không được chạy theo dục lạc của ăn uống. Phải luôn luôn cố gắng khắc phục trong ăn. Ăn uống mà không khắc phục được thì còn tu cái gì? 

Phật không dạy chúng ta tuyệt thực hay tiết thực (ăn quá ít) như ngoại đạo đã dạy, cũng không dạy chúng ta ăn uống phi thời. Đức Phật dạy: “Thừa tự pháp không nên thừa tự thực phẩm.” Xưa kia Ngài đã tu khổ hạnh, tiết thực ăn uống quá ít, thấy cơ thể suy mòn, tinh thần không còn sáng suốt nên Ngài bỏ.

Tu khổ hạnh như thế là tu sai, không tìm được giải thoát, cho nên Ngài quyết định ăn ngày một bữa cho đủ sống, để cơ thể khoẻ mạnh mà tu tập. Chỉ ăn ngày một bữa mà Đức Phật vẫn khoẻ mạnh và sống đến 80 tuổi mới chết. Chúng ta bây giờ cũng vậy. Các con đang ăn mỗi ngày một bữa mà vẫn khoẻ mạnh. Trong những ngày lao động các con cũng vẫn tham gia lao động mà cơ thể vẫn bình thường.  

Các con cần xét kỹ dục ăn uống rất là quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Người ngoài đời vì ăn uống mà người ta xâu xé lẫn nhau, giết hại nhau, chà đạp lên nhau không chút lòng xót thương, so sánh với loài vật thì chúng ta cũng như vậy. Vì ăn uống mà người ta nghèo đói, khổ sở, nợ nần. Vì ăn uống mà người ta làm đủ điều gian lận, mánh khoé. Vì ăn uống mà sản nghiệp tiêu tan. Vì ăn uống mà cốt nhục tương tàn. Vì ăn uống mà phải dầm sương, dãi nắng, chạy xuôi, chạy ngược, buôn tảo, bán tần.  

Các con có thấy không? Cái dục về ăn uống đối với đời người nó khổ biết là dường nào! Vậy từ đây về sau, các con phải dùng nghị lực dũng mãnh chống lại cái dục về ăn uống. Chỉ ăn ngày một bữa mà thôi, ngon dở nguội lạnh không màng. Chỉ cần giải quyết nghiệp đói của thân là đủ lắm rồi, đủ để thân yên ổn, thanh tịnh, tu tập Thiền định giải quyết luân hồi sanh tử.

Đừng có nay đòi ăn thứ nầy, mai đòi ăn thứ kia. Ai cho gì ăn nấy, ngon cũng ăn, dở cũng ăn. Không khen, không chê, không ham, không thích, chỉ đủ no lòng mà thôi. Đừng sanh tâm lý luận ăn như vậy thiếu chất bổ. Đó là cái lý luận chạy theo ăn uống.

Các con phải hiểu thân là một khối do các duyên hợp lại mà thành nên không có bản ngã thường hằng trong đó. Vậy mà muôn đời người ta lầm chấp thân nầy là bản ngã chân thật của mình. Lại có một số người cho rằng trong cái khối nầy có cái bản thể chân thật của mình.

Chính vì cái lầm chấp đó nên luôn luôn lo bảo vệ và giữ gìn không cho ai chạm đến. Vì thế mà duyên sanh sanh ra muôn ngàn thứ đau khổ, phiền lụy và luôn tranh đấu. Các con cũng vậy, cũng lầm chấp như bao nhiêu người khác. Ngày nào các duyên tan rã thì ô hô, còn lại cái gì là của các con nữa?

Chết chỉ còn một khối nghiệp lực nhân quả thiện ác tiếp tục tái sanh mà các con đã lầm chấp trong suốt cuộc đời của mình, cho nó là linh hồn, thần thức, Phật Tánh, Bản Lai, v.v... Sự tiếp diễn luân hồi nầy mãi mãi muôn đời muôn kiếp để trả vay, vay trả không bao giờ tàn phai. Các con có biết rằng trong cuộc đời này không có một sự việc gì xảy ra mà ngẫu nhiên cả. Tất cả đều có nguyên nhân, đều có lý do.

Không phải như các nhà Nho ngày xưa và một số người ngày nay bài bác lý nhân quả. Họ cho rằng tất cả đều là ngẫu nhiên. Họ còn cho thí dụ là những chiếc lá vàng ở trên cây kia vô tình (do ngẫu nhiên đưa đẩy), gió thổi bay đi, cái rơi xuống đất, cái xuôi dòng nước, cái rơi xuống bùn. Đời sống nghèo đói, giàu sang của con người cũng như vậy. Thực ra gió nào có phải là ngẫu nhiên mà chính là do nhân duyên mặt trời nung đốt không khí. Không khí bị cháy trống đi một khoảng, các không khí chỗ khác ập vào, lấp vô chỗ trống, tạo thành cơn gió, bão. Sự nghèo đói và giàu sang của chúng ta không thể do ngẫu nhiên mà có được. Hỏa hoạn, thủy tai, giặc giã cướp mất sự giàu sang, để lại sự nghèo đói cho muôn người. Đây là những cận duyên trong hiện kiếp.

Còn những duyên sâu xa trong nhiều kiếp quá khứ nữa. Duyên nhân quả khởi trùng trùng tạo thành khối nghiệp nhân quả đi luân hồi sanh tử bất tận. Đức Phật trong bài thuyết pháp Mười Hai Nhân Duyên đã chỉ rõ kiếp sống của một con người từ khi sanh ra, lớn lên cho đến khi tan rã chỉ là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Không có gì tồn tại ngoài Mười Hai Nhân Duyên này tiếp diễn nối nhau mãi trong lộ trình nhân quả. Thế nên, cuộc đời con người chẳng qua chỉ là một khối nhân duyên Vô Minh nhân quả trả vay, vay trả triền miên, cùng với duyên tan hợp mà thôi. 

Cho nên trong gia đình, cha mẹ, vợ chồng, con cái luyến ái, gắn bó hoặc đau khổ, phân ly cũng là do nợ nần muôn đời muôn kiếp trong nghiệp lực nhân quả. Có gì đâu mà thương nhớ, tiếc mong. Bỏ xuống đi, hãy bỏ xuống đi! Đời chẳng có gì đáng cho ta lưu luyến cả. 

            Quyết một đời tu tập không lui,
            Giữ thân tâm thanh thản an vui.
            Nhập Thiền định xa lìa nhân quả,
            Đạo quả viên thành, độ chúng vui.

Bây giờ các con đã thấu rõ được hạnh ăn uống là đối tượng diệt ngã ác pháp. Từ nay về sau các con cố gắng khắc phục nó để mỗi ngày ăn một bữa đủ sống mà thôi, đừng bắt chước các vị thầy khác mà sống vào con đường tu hành không đúng đạo Phật, nhưng cũng không nên ăn quá ít, hoặc ăn quá nhiều.

Ăn ít là tiết thực, điều nầy tai hại cho sự tu tập vì sức khỏe yếu kém. Ăn nhiều là dư thừa, sanh dục, ham ngủ, mê muội, cũng hại cho đường tu. Phải sáng suốt, linh động. Ăn đúng cách là tu.

Tu đúng cách là làm chủ cái ăn. Đừng bắt chước người khác mà ăn ít (vì bản chất người ấy không ăn nhiều được), và cũng đừng ráng ăn nhiều (vì sợ đói). Phải tùy ở thể tạng của mình và phải làm chủ mình trong khi tu hạnh ăn uống.

b) Hạnh ngủ: Ngủ cũng là một đối tượng để chúng ta tu tập lập hạnh ly dục, mê muội. Ngủ là một nghiệp dục nặng của thân. Nếu không ngủ sẽ sanh ra bệnh rồi chết cũng như ăn vậy. Ngủ là một thói quen của nghiệp lực, nó sanh ra vô minh, lười biếng, khiến cho thân tâm ta uể oải, bần thần, mỏi mệt, dã dượi. Thiếu nó con người thiếu nghị lực, không còn siêng năng tinh tấn làm việc hay tu tập học hành. Cũng vì nó mà người ta sanh ra tâm lười biếng, gian tham, biển lận, trộm cướp. Vì nó mà người ta đần độn, ngu si, không thông minh, không bao giờ làm việc lớn, thường sống trong cảnh nghèo đói.

 Ngủ là một dục lạc trong năm thứ dục lạc của thế gian khiến người ta rất thích thú ham mê. Khi không ngủ là họ quá sợ, nhưng khi ngủ nhiều thì lại ám độn, mê muội. Người tu hành cần phải khắc phục nó, chiến đấu trường kỳ với nó. Nó khiến chúng ta không tỉnh táo để phán xét mọi việc đúng sai, thiện ác trên bước đường ly dục ly bất thiện pháp.

Chính nó khiến tâm ta không tỉnh giác nên tâm thường ở trong tà niệm, sanh ra nhiều duyên làm đau khổ cho mình cho người. Chính nó khiến ta làm càn, làm bậy, thiếu suy tư, thiếu cẩn thận, nên thường mắc phải lỗi lầm.

Nó khiến cho tâm ta mù mờ, không thanh thản, an lạc và vô sự, vì thế sanh ra loạn tưởng, trạo hối. Nó khiến tâm ta mất bình tĩnh, thiếu sáng suốt, vì thế dễ sinh ra hờn giận, đau khổ, nghi nan, phiền toái. Chính nó khiến cho tâm ta mù mờ, không rõ. Chính nó khiến cho tâm ta rơi vào năm loại vô ký: 1. Vô ký hôn trầm; 2. Vô ký thùy miên; 3. Vô ký mộng tưởng; 4. Vô ký hôn tịch; 5. Vô ký ngoan không. 

Chính nó lặng đi khiến ta tọa thiền mất tự chủ, thân nhúc nhích rung động làm cho thân không bất động, khó nhập chánh định, rơi vào tà định. Những điều Thầy nêu ở trên đây cho thấy ngủ tai hại đến sự tu tập biết là dường nào. Đã biết rõ nó, các con phải cố gắng tu tập:

             1. Đi kinh hành nhiều.
             2. Đi kinh hành hướng dẫn theo bước chân, vừa hướng tâm theo bước chân.
             3. Thường xuyên nhắc tâm tỉnh thức theo hành động của thân mà Đức Phật gọi là Thân Hành Niệm.
             4. Thường xuyên hướng tâm Như lý tác ý, nhắc tâm chớ ham ngủ.
             5. Khi gặp hôn trầm thùy miên nặng bằng mọi cách không phá được thì phải lấy kinh sách ra nghiên cứu về một điều gì để động não thì mới phá được ngủ.
            6. Phải làm một việc gì để động thân.
            7. Không được ngồi hoặc nằm một chỗ.
            8. Chạy bộ, hoặc đi tắm.
            9. Phải tập thể dục, tập vài thế dưỡng sinh, hoặc đi một bài quyền (võ thuật).
           10. Cử tạ, đào đất.  

Các con nên nhớ kỹ: ngủ là một thứ dục lạc rất khó trị. Thế nên luôn luôn lúc nào cũng đề cao cảnh giác, chiến đấu với nó bằng tất cả nghị lực của mình. Nếu các con không chiến đấu hết sức, chừng đó nó sẽ thành thói quen lười biếng, các con sẽ thất bại ê chề trong cuộc đời tu hành. Biết bao nhiêu người tu hành đã qua, cũng vì nó mà tu hành chẳng tới đâu.

Các con nên nhớ ngủ là một thứ dục lạc trong thân nên phải thường xuyên tu tập đi kinh hành và siêng năng hướng tâm Như lý tác ý tỉnh táo mới ly nó được. Phải trường kỳ tranh đấu với nó. Đến khi nhập định xả bỏ thân tâm nó mới hết được. Ăn cũng vậy, phải nhập định xả bỏ thân tâm nó mới hết. Hai thứ dục lạc nầy là cội gốc, mầm sống của thân; nếu không ngủ, không ăn thì thân phải chết.

Còn ba thứ dục lạc kia (sắc dục, danh, lợi) là cội gốc của tâm nên chúng ta tu tập dễ ly hơn. Xa lìa ăn ngủ nghiêm chỉnh là xa lìa được năm thứ dục lạc. 

Phải khéo léo, linh động, tùy theo sức mình, tu tập dần dần lên. Không được ép chế không ngủ. Ngủ phải đúng giờ khắc, ngủ phải có tập luyện hướng tâm ngủ. Không được muốn ngủ hồi nào là ngủ, muốn tu hồi nào là tu. Ngủ đúng cách là tu tập, tu tập đúng cách là làm chủ ngủ. Hành động ngủ là tu, tức là tỉnh thức. Hành động tu là ngủ, tức là ly dục ly ác pháp, ly dục ly ác pháp tức là tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh tức là định.

c) Hạnh Độc Cư: Đây là hạnh khó nhất trong ba hạnh. Nghe thì dễ mà hành thì khó vô cùng. Độc cư là phương tiện tu tập để bảo vệ, phòng hộ, giữ gìn, hộ trì, ngăn ngừa, che chở sáu căn tức là thân tâm được an ổn, tránh các loại duyên bên ngoài, khiến cho tâm, cảnh an vui, tu tập dễ dàng.

Độc cư còn giúp cho tâm các con có dịp tuôn tràn bao nhiêu ký ức, kỷ niệm. Độc cư cũng là dịp giúp cho các con nhận ra được dục lạc ham ngủ, ham vui là tai hại trên đường tu tập. Độc cư là đối tượng để các con dùng mọi phương tiện tu tập thu nhiếp thân tâm thành khối nội lực. Người không sống trong hạnh độc cư được là người hay phân tâm. 

Người phân tâm là người không có sức tỉnh thức cao, không có sức tập trung mạnh, chỉ có ức chế tâm bằng tưởng pháp. Người thích quay ra ngoài thường rất sợ cô đơn, tâm thường bị phân tán theo các duyên. Tâm chúng ta có vốn từ nhân quả mà ra nên thường bị các duyên nhân quả chi phối. Vì thế tâm lúc nào cũng bị phân chia tan nát, không hợp nhất lại được. Chỉ một vài giây hợp lại là bị phân ra liền theo các duyên trong ba thời gian: quá khứ, hiện tại, vị lai. Từ ngày nầy sang ngày khác, từ năm này sang năm kia, tâm chúng ta luôn luôn bị phân tán liên tục cho đến khi nằm xuống lòng đất. 

Mục đích của người tu thiền là gom tâm lại, dù là thiền dưới bất cứ hình thức nào, chỉ trừ loại thiền do các nhà học giả sản xuất ra dùng để ức chế tâm. Bởi thế người tu thiền mà không sống trong rừng núi thanh vắng, độc cư thì không làm sao nhập định được. Tại sao vậy? Là vì ba lý do sau đây:

           1. Tâm phân tán;
           2. Tâm không thành khối;
           3. Tâm không nội lực.

Muốn cho tâm thành khối có nội lực dũng mãnh để đóng mở sáu căn và tiến vào giai đoạn II của Thiền định là Diệt thì phải sống độc cư một trăm phần trăm.

            Muốn tu hạnh sống độc cư phải tu tập ba giai đoạn:
            1. Tập sống ít nói chuyện, chuyện gì đáng mới nói;
            2. Tập sống riêng, làm việc riêng một mình;
            3. Tập sống không làm việc.

 
 

 

133-PHÁP CĂN BẢN CỦA NGƯỜI TU SĨ (5). TL Thích Thông Lạc

Hạnh độc cư (tiếp theo).

            Muốn tu hạnh sống độc cư phải tu tập ba giai đoạn:
           1. Tập sống ít nói chuyện, chuyện gì đáng mới nói;
           2. Tập sống riêng, làm việc riêng một mình;
           3. Tập sống không làm việc. 

Sau đây là phần thứ nhất của hạnh độc cư là:  

Tập sống ít nói chuyện: Các con phải biết lựa chọn cái gì cần thiết mới nói, mới thưa hỏi; không cần thiết thì không được nói, không được thưa hỏi. Duy nhất chỉ thưa hỏi về chuyện tu tập và phải thưa hỏi riêng, không phải hỏi trước đại chúng vì hỏi như thế các con sẽ bị phân tán tâm lo ngại, khó tập trung. Phải hỏi thiện tri thức để chỉ cho rõ, hành cho đúng. Ngoài ra, những chuyện khác phải cẩn thận khi muốn nói ra. Không được hỏi linh tinh.

              Có 20 điều để giữ gìn im lặng (tránh tiếp duyên)
              1. Tránh nói chuyện tào lao, nhảm nhí.
              2. Tránh kết tình nghĩa, kết bạn bè thân.
              3. Tránh nghe chuyện người khác, vì chuyện người khác khiến tâm ta bị động, bất an, thường sanh ra nhiều chuyện và phải nói ra.
              4. Tránh gặp nhau, vì gặp nhau dễ sanh nói chuyện. Nếu có gặp nhau thì không nói chuyện là tốt nhất. 
             5. Không nên đem sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm về tu hành của mình đi dạy người khác khi mình tu chưa xong, tức là bị tâm tham danh khoe khoang.
               6. Thấy bạn mình tu sai, không được đến dạy bảo, mà phải báo cho thiện tri thức chỉ dạy người ấy, vì đến dạy bảo làm động mình, động người và thành quen thuộc với nhau nên không giữ hạnh độc cư được.
              7. Thấy bạn đồng tu buồn khổ, không được đến an ủi, chia xẻ. Chỉ cần báo cho thiện tri thức giúp là đủ. 
               8. Tránh đổ lỗi người khác, vì như thế sẽ tạo duyên bất an trong tâm, gây nên cãi cọ, tranh tụng.
               9. Tránh đi đến thất của người khác vì như thế là làm động mình và làm động tâm người.
             10. Làm lao động chung, tránh nói chuyện cười đùa.
             11. Khi giúp bạn đồng tu đang bệnh, tránh nói chuyện ngoài vấn đề thăm bệnh. Tốt hơn hết là chỉ hỏi thăm bệnh để dùng phương tiện trị liệu.
             12. Khi làm việc chung với người khác nên tùy thuận để tránh cãi cọ, đổ thừa.
             13. Thường tập sống thơ thẩn một mình để đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm.
             14. Luôn giữ tâm thanh thản, an lạc và hướng tâm đến thanh thản, an lạc.
             15. Thường giữ tâm vô sự, và hướng tâm đến vô sự.
             16. Thường tránh xa các duyên để giữ tâm không bị phân tán.
              17. Không nên đem tâm sự của mình nói cùng ai, ngoài người thiện hữu tri thức của mình.
             18. Thấy việc làm nặng nhọc, cùng nhau chia xẻ làm, nhưng không được nói chuyện.
             19. Thấy ai làm chưa xong, cùng làm phụ, nhưng không nói chuyện.
             20. Thường sống im lặng trong và ngoài tâm, và hướng tâm đến sự im lặng.

Các con phải ghi nhớ 20 điều kể trên để giữ tâm im lặng. Tốt nhất là tránh xa, tránh xảy ra các duyên, tránh tạo các duyên mới để tâm không bị phân tán. Càng tiếp duyên thì càng tạo hoàn cảnh bất an, tâm bị phân chia, khó tu thành khối nội lực và tu tập sẽ dẫm chân tại chỗ, không tiến bộ được. Cố tránh duyên thì hoàn cảnh mới thuận tiện, yên vui tu hành. Các con nên nhớ độc cư ở giai đoạn I là Tịnh khẩu.

Tịnh khẩu là nói lời thanh tịnh, không nói lời bất tịnh. Tịnh khẩu là nói lời thiện, tức là nói lời làm vui lòng mình và vui lòng người. Nói lời bất tịnh là nói lời ác, làm đau khổ mình và đau khổ người. Tịnh khẩu là nói lời thiện, không có nghĩa là á khẩu, vì á khẩu là câm, không nói được. Thế nên các con phải cẩn thận kẻo rơi vào tu hình thức, ít nói mà thành nói rất nhiều. Chuyện gì cũng nói, khi tâm bung ra, phân tán nói thôi không hết như nước vỡ bờ. 

Hạnh độc cư khó lắm, nó là bí quyết thành công của thiền định. Độc cư có ba nhiệm vụ: 

Một: Bảo vệ tâm tránh các duyên. Hai: Gom tâm hợp nhất thành khối. Ba: Làm cho tâm tuôn tràn ra hết.

Sáu năm trời tu khổ hạnh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là sáu năm tu ly dục. Nhờ đó Đức Phật tránh được các duyên, thu nhiếp thân tâm thành khối nội lực. Khi tâm đã thành khối có nội lực, Đức Phật đã xả bỏ khổ hạnh tối đa, vì khổ hạnh chỉ làm hại cho sức khỏe, chỉ giữ lại đời sống bình thường của một tu sĩ đi khất thực ăn ngày một bữa và chỉ khác năm anh em ông Kiều Trần Như là Ngài đã nhận thêm sữa do cô bé chăn dê cúng dường.

Trong 49 ngày dưới cội bồ đề, Đức Phật dùng nội lực nơi tâm đã có đem ra chiến đấu với nội tâm mình để ly dục ly bất thiện pháp. Lúc bấy giờ Đức Phật gọi là hàng phục Ma Vương, kế đó Đức Phật diệt tầm tứ, đóng mở sáu căn nhập Nhị Thiền, sau khi nhập Nhị Thiền Ngài loại trừ tưởng thức nhập Tam Thiền, sau khi nhập Tam Thiền xong Ngài dừng các hành trong thân nhập Tứ Thiền, nhập Tứ Thiền xong Ngài dẫn tâm đến Tam Minh thành tựu giải thoát.   

Tóm lại, ly dục là lìa xa ý muốn của mình. Nghe nói ly dục thì rất dễ dàng, mà lìa xa ý muốn của mình thì khó vô cùng. Bậc Thánh như đức Khổng Phu Tử đến 70 tuổi mới dám tuyên bố: “Ta đến tuổi nầy mới làm theo ý muốn của mọi người.” Nghĩa là đến 70 tuổi ông mới ly dục và ác pháp nơi tâm ông.

 Theo Thầy nghĩ, muốn ly dục lìa ác pháp thì ít ra phải ba năm rèn luyện. Còn tu lơ mơ thì 30 năm cũng chưa chắc đã làm được. Cái ý muốn của mình là cái gì? Là Bản ngã ác pháp. Bản ngã ác pháp không ly thì làm sao có Niết Bàn?

Vô Ngã ác pháp là Niết Bàn chứ không phải vô ngã là Niết Bàn, vì vô ngã ác lẫn thiện là cây đá. Đi tu cũng như đi học. Người ngoài đời nếu học không đến nơi đến chốn thì chẳng có ích lợi gì cho mình mà còn là gánh nặng cho xã hội.

Người tu cũng vậy, tu không đến nơi, đến chốn sẽ làm bại hoại tôn giáo, như hiện giờ chúng ta thấy phần đông tu sĩ Phật giáo tu không đến nơi đến chốn làm hư hoại Phật giáo. Người tu đến nơi đến chốn làm sáng tỏ Phật pháp qua gương hạnh sống của mình, khiến cho mọi người quy ngưỡng và tôn kính Phật pháp. 

Chúng ta quyết chọn con đường tu thì phải tu cho đến nơi đến chốn. Người tu lừng chừng không có ích cho mình, cho người mà còn có hại cho tôn giáo.

Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình.” Tu là quyết tâm buông bỏ, bỏ để được giải thoát, thảnh thơi, an vui một đời. Bỏ cái gì? Bỏ lòng muốn. 

Tóm lại, trong Giai đoạn I của Thiền định là giai đoạn Ly, dùng ba hạnh Ăn, Ngủ, Độc Cư làm đối tượng để tu tập, khắc phục cho được tâm ly dục. Các con nên nhớ, chúng ta là tu sĩ của đạo tu hạnh giải thoát thì thời gian nào, ngày nào, tháng nào, năm nào cũng là mùa Xuân, mùa Xuân vĩnh cửu trong tâm hồn của chúng ta, mùa Xuân không có nhân quả, mùa Xuân không có diễn biến luân hồi.

Vì thế chúng ta không có chúc thọ, không có mừng tuổi mùa Xuân thế gian. Hãy sống bình thường, hãy giữ tâm bình thường trước mọi diễn biến của không gian và thời gian bằng một tâm hồn thanh thản.

IV-1.2: Ly Bất thiện pháp

Ly là lìa xa, rời xa.

Bất thiện pháp là tham, sân, si, mạn, nghi, những thói quen tật xấu, những điều suy nghĩ, những lời nói, những hành động làm cho mình khổ, người khác khổ. Bất thiện pháp còn gọi là pháp ác, pháp hung dữ, pháp làm khổ đau.

             Vậy muốn lìa xa pháp ác thì các con phải rèn luyện, tu tập ba đức:
             1. Nhẫn nhục;
             2. Tùy thuận;
             3, Bằng lòng.

             Các con nên lưu ý ba đức tính giải thoát nầy là để lìa xa các pháp ác, rất là khó tu:
             - Nếu không biết tu đúng cách thì sẽ hoài công, vô ích.
             - Không đủ nghị lực, bền chí, gan dạ, kiên trì, thì cũng bỏ cuộc tu hành giữa đường.
             - Nếu không cầu xin pháp chỉ thẳng, đập thẳng mạnh mẽ của thiện hữu tri thức thì cũng khó mà tu được ba đức nầy vững vàng.

1, Nhẫn nhục: Thầy thường nhắn nhủ với các con cũng như Đức Phật ngày xưa đã dạy: Nhẫn một việc khó nhẫn, làm một việc khó làm. Đó là nhắc các con ly dục, ly bất thiện pháp để vào thiền định. Đây là một việc tu tập khó khăn vô cùng chứ không phải ngồi tréo chân hít thở hoặc giữ tâm không vọng tưởng là thiền định.  

Người ta thường nói đường đi khó vì không biết đường. Các con cũng vậy. Khi tu không biết cách mà tu theo kiến giải của các nhà học giả thì đó là đường đi khó (vì chưa biết đường). Cố đi mà đường đi không thu ngắn lại, chỉ đi lòng vòng không có lối ra như con kiến bò trên miệng lu.

Khi đã biết đường thì dù cho khó đến đâu chúng ta cũng đi đến đích, chỉ cần có ý chí là thành tựu. Cũng như các con đã biết pháp tu thì mỗi bước đi sẽ thu ngắn quãng đường.

Trước khi bắt tay vào việc tu tập cụ thể ở phần hai của Giai đoạn I này, tức là Ly Ác pháp thì các con phải tu tập dứt điểm ở phần một là Ly Dục hay ít ra các con cũng phải sống đúng giới luật, thấy những lỗi nhỏ nhặt đáng sợ. Các con phải hoàn thành tâm mình Ly Dục, nghĩa là hoàn toàn Ly Chấp Ngã.

Người chưa ly dục hoàn toàn mà vội ly ác pháp là một hành động điên rồ, tu tập như vậy là nén tâm, chịu đựng, an phận. Cũng ví như người sống phạm giới, phá giới mà ngồi thiền nhập định thì chẳng có ích lợi gì. 

Nếu người đang sống trong cảnh dục lạc thế gian, tâm chưa ly dục mà theo học hỏi những thiện pháp trong kinh sách thì chỉ mới gieo chủng tử ly dục, ly ác pháp của đạo giải thoát mà thôi. Không phải sự học hỏi, sự hiểu biết đó là ly dục, ly bất thiện pháp được. Nếu tâm chưa ly dục mà học hỏi kinh sách để tích lũy giáo pháp giải thoát của đạo Phật thì người nầy chỉ nuôi lớn bản ngã ác pháp chứ không ly dục ly ác pháp. 

Nếu một người tâm chưa sống ly dục mà thường học hỏi những thiện pháp trong kinh sách để làm kiến giải riêng của mình, rồi dùng đó xả ly ác pháp và tâm ham muốn của mình thì không bao giờ ly dục ly ác pháp được, mà đó chỉ là lối tu tập đè nén tâm mình, hoặc tránh né tâm mình, hoặc trốn chạy tâm ham muốn và ác pháp mà thôi.

Người nào đang sống trong dục lạc thế gian mà tu Thiền định thì chẳng bao giờ nhập được định. Nếu có nhập được thì cũng chỉ rơi vào tà thiền, tà định mà thôi. Nếu một người còn sống trong dục lạc mà tu đức nhẫn nhục thì chẳng nhẫn nhục được gì mà ngược lại, đó là lối tu tập nén tâm, ức chế tâm làm cho tâm thêm đau khổ và thần kinh bị hưng phấn. 

Nếu một người dùng hình thức bề ngoài để ly dục, mà trong tâm không ly dục, vội tu đức nhẫn nhục, cũng chẳng tu nhẫn nhục được gì. Trái lại tâm hồn còn thêm đau khổ. Giống như các con đã từng nói sự tu hành xả tâm phải bằng máu và nước mắt. Đó là sự tu sai do nén tâm chịu đựng nên mới thấy sự khổ như vậy, chứ tu đúng thì tâm bất động dù bất cứ pháp nào cũng không làm nó động tâm được. 

Nên nhớ, ly dục là lìa xa cái tâm ham muốn chớ không phải ly vật dụng, vật chất. Một người sống ở rừng núi không có vật dụng gì như loài khỉ, vượn, người nầy ly vật dụng chớ không ly tâm dục. Loài vật cũng vậy, ly vật dụng chứ không phải ly tâm dục của nó. Người nghèo không có vật tùy thân, không phải là người ly dục. Người có đầy đủ vật chất trên thế gian mà không dính mắc vào những vật chất ấy, đó là người ly dục! 

Người ăn thực phẩm dở mà không đòi thực phẩm ngon, không thích ngon, không chê dở, đó là người ly dục. Người ăn thực phẩm ngon mà không đòi ăn thực phẩm dở, đó là người ly dục. Người ăn thực phẩm dở mà đòi ăn thực phẩm ngon là người không ly dục. Ngược lại cũng vậy. Người không thèm ăn thực phẩm này, thực phẩm khác là người ly dục. Người còn thèm ăn thực phẩm này, thực phẩm khác là người chưa ly dục.   

Ở cảnh động mà không đòi ở cảnh tịnh là người ly dục. Ở cảnh động mà đòi ở cảnh tịnh là người chưa ly dục. Người mặc áo đạo xuất gia tu hành mà tâm còn ham muốn cảnh thế gian là người chưa ly dục. Người xuất gia tu hành mà tâm còn làm những chuyện cầu danh ở thế gian là người chưa ly dục.

Ở cảnh động, cảnh chướng tai gai mắt mà không bị động, không thấy chướng tai gai mắt là người ly dục. Người nào luôn giữ tâm thanh thản là người ly dục. Người nào luôn giữ tâm vô sự là người ly dục. Người nào tâm không phóng dật là người ly dục. Người nào tâm chưa vô sự là người chưa ly dục. Người nào không giữ tâm thanh thản, tâm hay sanh chuyện nầy, chuyện kia, là người chưa ly dục.

Người thấy người khác có áo mới mà đòi hỏi áo mới là người chưa ly dục. Người thấy người khác có áo mới mà không đòi áo mới là người sống an phận thủ thường, chưa phải là người ly dục. Người thấy người khác có áo mới, mình cũng có áo mới mà không ham thích là người ly dục. Người đứng núi nầy trông núi nọ là người chưa ly dục.

Người sống trong cảnh tu hành nầy mà đòi hỏi cảnh tu hành khác là người chưa ly dục. Sống trong hoàn cảnh nầy mà vui với hoàn cảnh nầy là người ly dục. Người sống trong hoàn cảnh nầy mà đòi hoàn cảnh khác là người chưa ly dục. Cùng một công việc có nhiều người làm nhưng hôm nay không ai làm chỉ có một mình làm nên tâm sanh ra chướng ngại, đó là tâm chưa ly dục. 

Còn biết bao nhiêu điều so sánh về vấn đề ly dục và không ly dục. Ở đây Thầy chỉ nêu ra một số vấn đề cụ thể để các con hiểu rõ trong khi tu tập ly dục cho đúng cách.

2, Tùy thuận: Điều quan trọng trong sự tu tập là luôn luôn tỏ lòng tôn kính ý kiến và việc làm của người khác. Đó là ý kiến và việc làm đúng, còn ý kiến và việc làm sai của người thì ta tùy thuận để ly ác pháp, nhưng không để bị lôi cuốn. Bởi vậy tu tập đức tùy thuận là một việc làm khó khăn vô cùng, không phải dễ làm. Chỉ có sống ly dục, tránh các duyên và bảo vệ tâm, giữ gìn sáu căn thì mới có thể ly dục ly ác pháp dễ dàng mà thôi.

             Tùy thuận có hai chiều, tùy thuận người và tùy thuận mình:
             - Tùy thuận người là tôn kính mọi lời nói, việc làm của người khác.   
             - Tùy thuận mình mà tôn kính mình thì không khéo mình chạy theo dục và nuôi ác pháp, nuôi ngã của mình.

Nên nhớ, tùy thuận mình là tùy theo khả năng của mình mà làm, tránh trường hợp nuôi dục, nuôi bản ngã. Tùy thuận là để ly dục ly ác pháp và diệt ngã. Mục đích của nó không phải ở ý kiến và việc làm của mình, mà chính là để được tâm hồn giải thoát, an vui, thanh thản. Đó cũng là bước đầu ngăn chặn và chấm dứt các duyên nhân quả không cho tiếp diễn theo nghiệp lực của nó.  

134-PHÁP CĂN BẢN CỦA NGƯỜI TU SĨ (6). TL Thích Thông Lạc

IV-1.2: Ly Bất thiện pháp (tiếp theo).

3, Bằng lòng: Đức bằng lòng tu tập rất khó. Nếu tu được đức tùy thuận, đức nhẫn nhục mà tâm chưa bao giờ bằng lòng thì tâm chẳng được an ổn, yên vui.   

1- Tâm chưa an ổn yên vui thì tâm còn trong ác pháp, trong tâm dục. Muốn tu tập đức bằng lòng thì phải lập hạnh tôn kính, kính trọng mọi người. Xưa, ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát lập hạnh kính trọng mọi người, mỗi khi gặp ai dù già hay trẻ, giàu hay nghèo, vua hay quan, ngài cũng đều cúi đầu đảnh lễ như tôn kính Phật. Nhờ tu hạnh tôn kính nên tâm hồn ngài lúc nào cũng thanh thản, an vui, bằng lòng trước mọi cảnh, mọi việc, xa lìa các ác pháp, được giải thoát thành Phật. 

2- Muốn tu tập đức bằng lòng thì phải có chánh kiến. Muốn có chánh kiến thì tâm phải ly dục, ly ác pháp. Nhưng bây giờ tâm các con chưa ly dục, ly bất thiện pháp, còn đang tu tập đức bằng lòng để ly ác pháp thì làm sao đây? Không có chánh kiến thì làm sao phán xét mọi người, mọi việc đúng sai? Không có chánh kiến thì làm sao hiểu người, hiểu mình bằng chánh kiến được?

Do đó, muốn được chánh kiến thì ta phải can đảm, dũng mãnh nhìn nhận tất cả ý tưởng, lời nói, việc làm của người khác là đúng, là tốt, là thiện. Nhờ đó ta thực hiện đức bằng lòng dễ dàng. Dù là người hung ác, ngu khờ, đê hèn nhất trong xã hội, Thường Bất Khinh Bồ Tát vẫn kính trọng như tôn kính Đức Phật. Đó là hạnh bằng lòng để thực hiện sự giải thoát trong tâm của mình.

Khi thực hiện hạnh bằng lòng là các con ly được ác pháp trong và ngoài tâm. Ly được ác pháp trong và ngoài tâm thì mới có chánh kiến. Nên nhớ, chỉ có tâm ly dục ly bất thiện pháp ta mới hiểu được mình và người bằng chánh kiến.

Tóm lại, phải tu tập ba đức (nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng), và ba hạnh (ăn, ngủ, độc cư) để ly dục ly bất thiện pháp. Điều cần thiết và quan trọng nhất là phải triển khai trí tuệ vô sư, ly dục ly bất thiện pháp.

Trong đạo Phật có ba loại trí tuệ: văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ.   

+ Văn Tuệ: Trí tuệ hiểu biết bằng cách tích lũy kiến giải, tưởng giải của cổ nhân trong kinh sách, hoặc nghe thuyết giảng, hay học thuộc lòng. Trí tuệ nầy là trí tuệ tránh né, trốn chạy các dục, các ác pháp. Nó còn gọi là sở tri chướng. Càng học tập càng tích lũy nhiều thì kiến chấp, ngã chấp càng thêm sâu dày (bản ngã to lớn). Trí tuệ nầy rất nguy hại cho người tu hành đạo giải thoát của đạo Phật. Xưa ông A Nan vì có trí tuệ nầy mà sự tu hành trở nên chậm chạp. 

+ Tư Tuệ: Trí tuệ suy tư, nghĩ ngợi, tìm tòi, triển khai sự hiểu biết của riêng mình, không vay mượn trong kinh sách. Nó còn gọi là trí thông minh. Tư tuệ là trí tuệ thông minh của mình để phát minh những điều chưa ai làm được để hóa giải những sân hận, tỵ hiềm, nhỏ nhen, ích kỷ, để thực hiện ba đức, ba hạnh cho rốt ráo. Bởi vậy tư tuệ là trí tuệ thông minh rất cần thiết cho sự tu tập ở giai đoạn I tu ly dục ly bất thiện pháp.

Nếu các con không chịu triển khai trí tuệ nầy thì khó mà thực hiện được ba đức, ba hạnh. Nếu không thực hiện được ba đức, ba hạnh thì làm sao ly dục ly ác pháp được? Đó là trí tuệ thông minh, vô sư trí của mọi con người nên phải động não làm việc thì mới triển khai được nó. 

+ Tu Tuệ: Là trí tuệ do tu tập thiền định mà có. Nó còn gọi là Trí Tuệ Vô Sư Tam Minh; gọi tắt là Trí Tuệ Vô Lậu. Đây là trí tuệ siêu đẳng, viên mãn, thành tựu đạo giải thoát của Đức Phật. Nó được khai mở khi nhập Tứ Thiền, nó là một loại thiền định viên mãn đủ để dẫn tâm về Tam Minh cho nên nó được xem là trí tuệ cuối cùng của đạo Phật.

Nó chứng minh rõ ràng sự làm chủ, nó chấm dứt sự khổ đau trong sanh tử luân hồi của chúng ta. Nó không giúp ích gì cho sự tu tập ly dục ly bất thiện pháp. Nó chỉ là một sự minh xác chơn thật kiểm nghiệm lại sự thành tựu tu tập của chúng ta mà thôi. 

Như trên, trong ba thứ trí tuệ Văn, Tư, Tu, chỉ có Tư Tuệ là trí tuệ cần thiết cho ta để tu tập ly dục ly ác pháp ở giai đoạn thiền thứ nhất. Nếu một người chưa ly dục ly bất thiện pháp thì không nhập định được. Nếu không nhập định được thì làm sao khai mở trí tuệ vô sư vô lậu được? Do đó Minh Cảnh hiểu lầm là tu tập thiền định, rồi từ thiền định phát ra trí tuệ vô sư, từ trí tuệ vô sư, vô lậu sẽ diệt sạch bản ngã, không còn lậu hoặc nữa, đó là kiến giải của những nhà học giả chứ không phải của hành giả, của người tu theo Phật giáo. Chỉ có Tư Tuệ là quan trọng và ích lợi cho sự tu tập của chúng ta, còn Văn Tuệ là sở tri chướng, Tu Tuệ chỉ là kết quả của sự tu tập để xác minh sự tu tập đã chứng quả rõ ràng.

Nếu một người tu tập cẩn thận, có ý tứ, thận trọng giữ gìn từng lời nói, hành động; trong việc làm biết sống hòa hợp thương yêu và tha thứ cho nhau, không tỵ hiềm ganh ghét, không tranh đua hơn thiệt, không châm biếm mỉa mai, giữ gìn kỷ luật Tu viện nghiêm túc, không vi phạm lỗi lầm, người đó là người ly dục ly bất thiện pháp.

Sống như vậy là tạo điều kiện hoàn cảnh yên tịnh, thanh nhàn để cùng nhau tu hành. Sống mà nay tạo duyên này, mai tạo cảnh khác khiến cho hoàn cảnh bất an, mất thanh tịnh thì mình tu khó, mà người khác tu cũng khó.

Đến đây Thầy xin chấm dứt bài pháp hôm nay. Các con hãy ghi nhớ và cố gắng tu tập. Có công mài sắt, có ngày nên kim. Sự giải thoát đang chờ các con ở phía trước nếu các con tu tập đúng lời Thầy dạy. Đến đây là Thầy đã giảng giai đoạn tu thiền phần thứ nhất tạm xong. Khi nào các con tu xong thì Thầy sẽ giảng giai đoạn thứ hai, thứ ba như Thầy đã hứa ở trên.

            LY BẤT THIỆN PHÁP (củng cố)  

Bây giờ Thầy trở lại bài giảng Ly Bất Thiện Pháp để bổ túc thêm cho được đầy đủ các pháp hành. Muốn tu tập ly bất thiện pháp thì ta phải dùng ba đức: Nhẫn nhục, Tùy thuận, Bằng lòng. Nghĩa là đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi sự vật, mọi đối tượng, các con phải tu tập Pháp Hướng Tâm, còn gọi là Pháp Dẫn Tâm. Pháp hướng tâm như thế nào? Là pháp dẫn tâm vào một lý chân chính giải thoát của đạo. Lý chân chính giải thoát của đạo là chỉ thẳng vào mọi duyên, mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc đều hiểu biết, để rõ nó là Vô Thường, Khổ, và Không có thực thể Bản Ngã trong đó. Tất cả đều do các duyên hợp lại mà thành, và duyên tan là mất hết không còn có cái gì tồn tại. Khi đã hiểu rõ như vậy và thấy rõ như vậy thì dùng Pháp Hướng Tâm mà nhắc tâm như vầy:

1. "Cái tâm từ đây về sau không được kiến chấp cái tâm là thật, mà phải thấy nó không phải của ta, không phải là ta, không phải bản ngã của ta, nên không còn đau khổ, phiền não trong tâm nữa."

2. "Các duyên tan hợp theo nhân quả, diễn biến luân hồi nên không có thật thể bản ngã, toàn là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã." 

3. "Đời sống của con người là duyên tan hợp của nhân quả, cho nên không có bản ngã chân thật, toàn là vô thường và đau khổ. Từ đây cái tâm phải bỏ xuống, không được chấp cái ta nữa, vì chấp cái ta là tạo thêm đau khổ và ác pháp trong tâm."

4. "Ai theo cái duyên nhân quả, tạo ác là phải thọ lấy cái quả khổ, ta không dại gì đem khổ vào thân. Từ nay, cái tâm hãy bỏ xuống đi để được an vui, thanh thản và vô sự." 

Các con hãy cố gắng động não triển khai những trí tuệ nhân quả, duyên tan hợp để thấu rõ lý Vô Thường, Khổ, Vô Ngã của đạo giải thoát thì chừng đó các con mới nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng được. Đây là pháp dẫn tâm, lập đức nhẫn nhục vào tâm ấn của Đức Phật theo duyên tan hợp, diễn biến luân hồi của nhân quả. Khi có một niệm khởi ra trong đầu thì các con mau dẫn tâm vào lý giải thoát để tâm hồn được thanh thản, an lạc và vô sự. Muốn giữ tâm cho được thanh thản, an lạc và vô sự thì:

1, Khi có một niệm tào lao nổi lên các con phải nhắc tâm như thế nầy: "Cái tâm phải thanh thản, không được nghĩ ngợi tào lao, vì nghĩ ngợi tào lao thì tâm bị phân chia ra tan nát khó mà vào thiền định được." 

2, Khi biết tâm mình thường giận hờn, phiền não, đau khổ thì dẫn tâm như thế nầy: "Cái tâm phải thanh thản, không được giận hờn, đau khổ, phiền não nữa, vì đau khổ, phiền não là các pháp ác."

3, Khi có một niệm thương nhớ, lo sợ thì phải dẫn tâm như sau: "Cái tâm thanh thản, không được thương nhớ, lo sợ vì các pháp đều là do duyên tan hợp theo nhân quả nên không có gì là của mình. Vậy hãy bỏ xuống, đừng thương nhớ lo sợ, vì thương nhớ lo sợ là ác pháp, là pháp làm đau khổ trong tâm hồn của ta."

4, Khi tâm không có niệm khởi, đang ở trong trạng thái thanh thản thì hãy dẫn tâm như thế nầy: "Cái tâm phải thanh thản trong trạng thái thanh thản, vì có thanh thản thì tâm mới có nội lực. Tâm có nội lực thì mới nhập thiền định." 

Trên đây là pháp hướng tâm thanh thản để giữ tâm thanh thản. Muốn giữ tâm thanh thản thì phải nương vào hơi thở tùy tức, tùy tức mà không ức chế tâm mới gọi là Định Niệm Hơi Thở, thỉnh thoảng lại nhắc tâm thanh thản một lần. Đó là giữ tâm thanh thản trong hơi thở. Lúc nào, ngày nào, giờ nào, hễ có rảnh là dẫn tâm vào thanh thản. Đó là tu pháp Hỷ Lạc dẫn tâm vào trong trạng thái thanh thản, dẫn tâm vào trạng thái thanh thản là dẫn tâm nhập Sơ Thiền, dẫn tâm nhập Sơ Thiền là để lập đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, lập đức nhẫn nhục, tùy thuận bằng lòng là để ly dục ly ác pháp.

Tâm có thanh thản thì tâm mới có bình tĩnh, sáng suốt. Tâm có bình tĩnh sáng suốt thì tâm mới có nhẫn nhục. Tâm nhẫn nhục thì tâm mới tùy thuận. Tâm có tùy thuận thì tâm mới bằng lòng. Tâm có bằng lòng thì tâm mới xả được. Tâm có xả được thì tâm mới ly dục ly ác pháp. Tâm có ly dục ly ác pháp thì tâm mới có an vui, hạnh phúc. Tâm có an vui hạnh phúc là tâm nhập Sơ Thiền. Tâm nhập Sơ Thiền là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.

Tu trong ba nghiệp: Bây giờ Thầy dạy các con tu tập pháp ý tứ, ly ác pháp, lập đức nhẫn nhục.  

Đức Nhẫn Nhục

1- Bắt đầu các con nên tu tập ý tứ ý hành niệm. Khi tâm khởi lên một niệm, các con phải quan sát niệm đó, phân tích tìm ra nguyên nhân và mục đích của nó đến với các con nó có sự việc gì. Khi thấu rõ đó là pháp ác thì nó liền tan biến. Đây gọi là tu tập ý tứ ý hành niệm ly ác pháp, lập đức nhẫn nhục.

2- Khi các con muốn nói ra một lời nào đó, các con phải khởi ra một ý niệm trước. Khi ý niệm khởi xong, các con quan sát ý niệm đó tìm nguyên nhân, mục đích của nó. Khi thấu rõ ý niệm đó các con mới nói ra lời. Đây là tu tập ý tứ khẩu hành niệm để ly bất thiện pháp lập đức nhẫn nhục.  

3- Khi tâm các con muốn làm một điều gì các con phải khởi ra ý niệm của việc làm đó, rồi cũng tìm ra nguyên nhân, mục đích của nó. Khi đã tìm xong, biết nó là thiện pháp thì thân mới bắt đầu hành động. Đó là tu tập ý tứ thân hành niệm để ly các ác pháp, để lập đức nhẫn nhục.

4- Khi thân làm việc gì, phải ý tứ cẩn thận, kỹ lưỡng trong việc làm đó, không làm bừa bãi, không làm dối trá. Đây là tu tập cẩn thận ý tứ kỹ lưỡng thân hành niệm để ly bất thiện pháp, thực hiện đức nhẫn nhục.

5- Khi tu tập ý tứ ý hành niệm, khẩu hành niệm, và thân hành niệm thì dùng tư tuệ quán sát ý niệm, lời nói, việc làm, biết rõ đúng sai, thiện ác, có lỗi, không lỗi, phạm giới, không phạm giới, diệt hay nuôi ngã, xả tâm hay dính mắc, v.v... đây là tu tập triển khai tư tuệ trong ý hành niệm, khẩu hành niệm, thân hành niệm để ly dục ly ác pháp, để tu luyện đức nhẫn nhục.

Tóm lại, đức nhẫn nhục giúp cho mọi các con trở thành người hiền hòa, bình tĩnh và sáng suốt, ôn tồn, nhã nhặn và từ ái. Nó giúp cho con người từ phàm phu trở thành Thánh nhân.

Đức nhẫn nhục giúp các con xa lìa các ác pháp trong và ngoài tâm, diệt sạch bản ngã, tiêu trừ tánh hung ác, nham hiểm, tỵ hiềm, ganh ghét. Đức nhẫn nhục còn mang đến cho các con niềm an vui, an lạc hạnh phúc đời đời không còn biết sợ hãi, oán thù ai cả. Đức nhẫn nhục còn mang đến cho các con những lời nói hiền hòa, những hành động nhẹ nhàng, êm ái; những ánh mắt dịu hiền, đầy lòng thương yêu đối với mọi người.

Đức nhẫn nhục đi đến đâu thì chuyện lớn thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ mất tiêu và thường mang đến nguồn an vui ở đó. Đức nhẫn nhục đi đến đâu thì an lạc đi đến đó cho mọi người. 

Đức Tùy Thuận  

Đức tùy thuận là một phương tiện ly bất thiện pháp, xả ngã rốt ráo. Nếu một người còn chấp một chút ác ngã cũng không tu tập đức tùy thuận đúng cách được. Ở đời, ai cũng muốn làm thầy thiên hạ, chỉ huy thiên hạ, luôn luôn thấy mình hay, giỏi hơn thiên hạ, ít ai tùy thuận ai được.

Bởi tùy thuận là một đức hạnh cao quý để xây dựng, rèn luyện con người trở thành người khiêm hạ, luôn luôn biết làm cho người khác vui lòng. Nó cũng xây dựng, rèn luyện cho con người thành người ý tứ trong công việc làm, không để cho thất bại. Nó cũng xây dựng, rèn luyện con người thành người biết tôn trọng ý kiến người khác. Nó cũng xây dựng, rèn luyện con người trở thành người học hỏi cái hay và biết cái dở của người khác. Nó cũng xây dựng, rèn luyện con người trở thành người sáng suốt và bình tĩnh trước mọi ý kiến của người khác.

Điều quan trọng nhất trong sự tu tập đức tùy thuận là xây dựng rèn luyện con người thành người đầy đủ nghị lực, gan dạ, chấp nhận mọi ý kiến người khác để trở thành người nhỏ nhất mà cũng là người lớn nhất.

Vậy đức tùy thuận là gì?

Tùy là dựa theo, làm theo. Thuận là hòa thuận, không chống trái nhau. Tùy thuận là dựa theo, làm hòa hợp ý kiến việc làm của người khác mà không chống trái nhau. Ở đời, vì thiếu đức tùy thuận lẫn nhau, ai cũng cố chấp ngã, chấp kiến nên mới sanh ra biết bao sự chống trái lẫn nhau, tạo nên cảnh nghịch ý trái lòng. Do đó gây ra biết bao ác pháp, khiến cho mình khổ, người khổ.

Vì thế, chúng ta là tu sĩ của đạo Phật phải cố gắng tu tập và rèn luyện đức tùy thuận. Muốn tu tập và rèn luyện đức tùy thuận để ly ác pháp và diệt bản ngã ác thì các con phải luôn luôn thực hiện:

1. Luôn luôn làm theo ý kiến người khác, bất cứ người nào, dù ở giới nào, giai cấp nào, già hay trẻ, bé hay lớn, nam hay nữ, sang hay hèn, hay vua quan trong xã hội. Đó là tu tập đức tùy thuận, ly ác pháp, xả ngã ác.

2. Không làm theo ý kiến của mình, dù ý kiến đó có đúng một trăm phần trăm. Đó là tu tập đức tùy thuận, ly ác pháp, xả ngã ác.

3. Làm theo ý muốn của thiện tri thức mà không làm theo ý muốn mọi người, đó không phải là tùy thuận, ly ác pháp. Đó là tu tâm sợ hãi (làm theo lệnh chỉ huy). Làm theo ý muốn của thiện tri thức, và cũng làm theo ý muốn mọi người mới là tu tập đức tùy thuận, ly ác pháp, xả ngã.

4. Trước khi muốn làm một việc gì thì phải hỏi ý kiến của thiện hữu tri thức và của mọi người. Nếu tùy tiện làm theo ý của mình là hành động theo bản ngã, nuôi dưỡng bản ngã và các ác pháp. Như thế thì không thể nào tu tập đức tùy thuận, ly ác pháp, xả ngã ác.  

5. Khi thưa hỏi xong, phải làm đúng theo ý kiến mọi người. Đó là tu tập đức tùy thuận, ly ác pháp, diệt ngã ác.

6. Khi thi hành có sơ sót, bị la rầy, liền tức khắc chuyển sự tu tập thùy thuận sang tu tập nhẫn nhục để ly ác pháp. Có như vậy mới gọi là tu tập đức tùy thuận trong đức nhẫn nhục.

7. Luôn luôn phải tôn kính ý kiến của mọi người, vì có tôn kính ý kiến của người khác ta mới tùy thuận được ý kiến người khác mà không làm theo ý kiến của mình. Đó là ly dục, ly bất thiện pháp.  

8. Luôn luôn phải hạ mình kính trọng mọi người, vì có kính trọng mọi người thì mới có tùy thuận được người.

9. Muốn ly ác pháp và diệt ngã thì phải tu tập nhận thấy mình là nhỏ nhất, kém nhất.

10. Muốn trở thành bậc Thánh hiền thì phải tu tập thấy mình nhỏ nhất, kém nhất.

Tùy thuận, nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp, các con nên lưu ý, có nhiều khi chúng ta tùy thuận mà thiếu trí phán xét những ý kiến ác của kẻ khác để biến chúng ta thành tòng phạm. Khi tu hạnh đức tùy thuận, đối với ác pháp ta nên tránh né và tránh xa những kẻ ác, ý kiến ác, thì tùy thuận mà không bị lôi cuốn.

135-PHÁP CĂN BẢN CỦA NGƯỜI TU SĨ (7). TL Thích Thông Lạc

IV. NHỮNG PHÁP TU CĂN BẢN (tiếp theo).
          IV-1. NHỮNG PHÁP TU THIỀN

IV-2. NHỮNG PHÁP TU ĐỊNH

Như quý phật tử đã biết: đạo Phật là đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh. Vì thế giới luật là hàng đầu trong các pháp tu tập, cho nên quý phật tử phải giữ gìn tám giới nghiêm túc không được vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trong tám giới này.

Nhờ có giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì tu tập bốn pháp định này mới có hiệu quả. Do đó quý phật tử nên biết giới luật là pháp môn quan trọng nhất cho con đường tu tập để tìm cầu sự giải thoát.

             IV-2.1. Pháp thứ nhất: Định Chánh Niệm Tỉnh Giác

               Pháp tu tập Định Chánh Niệm Tỉnh Giác gồm có hai phần:
               1, Tu tập Tỉnh thức trên bước đi.
               2, Tu tập Tỉnh thức trong những hành động sống hằng ngày. 

a) Tu tập Tỉnh Thức trên bước đi: Gồm có bốn giai đoạn tu tập

a.1) Giai đoạn thứ nhất: Đi kinh hành như người vô sự. Trước khi đi quý phật tử nên tác ý như sau: “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành.” Khi chân trái bước tôi đếm một; chân phải bước tôi đếm hai; chân trái bước tôi đếm ba; chân phải bước tôi đếm bốn; chân trái bước tôi đếm năm.

Và như vậy mỗi chân bước tôi đếm 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20. Đúng hai mươi bước tôi đứng lại tác ý: “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành.” Rồi tiếp tục đi lại như cũ. Và cứ tu tập như vậy cho đến khi đúng 30 phút mới xả nghỉ.

a.2) Giai đoạn thứ hai: Đi kinh hành như giai đoạn thứ nhất, nhưng đi đúng 20 bước đứng lại tác ý câu: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra,” tác ý xong liền hít vô thở ra năm hơi thở. Khi hít thở năm hơi thở xong liền tác ý: “Đi kinh hành tôi biết tôi đang đi kinh hành.” Tác ý xong lại bước đi kinh hành như trước. Đi kinh hành 20 bước cộng năm hơi thở suốt thời gian 30 phút xả nghỉ. Đó là tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác giai đoạn thứ hai.

a.3) Giai đoạn thứ ba: Đi kinh hành như giai đoạn thứ nhất, nhưng đi đúng 20 bước đứng lại rồi ngồi xuống theo kiểu bán già hoặc kiết già, giữ lưng thẳng, mắt nhìn chóp mũi, tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra,” tác ý xong liền hít vô thở ra năm hơi thở. Khi hít thở năm hơi thở xong đứng dậy liền tác ý: “Đi kinh hành tôi biết tôi đang đi kinh hành.

Tác ý xong lại bước đi kinh hành như trước. Đi kinh hành 20 bước cộng thêm tư thế ngồi hít thở năm hơi thở. Tu tập như vậy suốt thời gian 30 phút rồi xả nghỉ. Đó là tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác giai đoạn thứ ba.

a.4) Giai đoạn thứ tư: Đi kinh hành theo pháp môn Thân Hành Niệm. Pháp môn Thân Hành Niệm là một phương pháp tu tập tỉnh thức thứ tư. Phương pháp này tu tập theo lệnh truyền của pháp môn Như lý tác ý. 

            Xin quý phật tử lưu ý! Đây là một mẫu truyền lệnh của pháp môn Thân Hành Niệm. Thân đang đứng ngay thẳng, bắt đầu truyền lệnh:

              Co tay trái!     
              Để sau lưng!  
              Co tay mặt!    
              Để sau lưng!  

              (Một). Chân trái bước!          
               Nhón gót (lên)!             
               Nhắc chân (lên)!                    
               Đưa (chân) tới!          
               Hạ chân xuống!         
               Hạ gót xuống!

               (Hai). Chân mặt bước!
               Nhón gót (lên)!
               Nhắc chân (lên)!
               Đưa (chân) tới!
               Hạ chân xuống!
               Hạ gót xuống!

(Ba). Chân trái bước!

… (Hai mươi).            

Đến bước thứ 20 chỉ bước tới vừa phải để khi hạ gót xuống thì hai mũi bàn chân cùng trên một hàng thẳng. Khi đứng lại xong thì tiếp tục truyền lệnh cách thức ngồi.

                        Tay mặt buông xuống!
                        Tay trái buông xuống!
                        Tay trái đưa thẳng ngang mặt!
                        Tay mặt đưa thẳng ngang mặt!
                        Hai chân co ngồi xuống!
                        Tay trái chống đất sau lưng!
                        Tay mặt chống đất sau lưng!
                        Hạ thân ngồi xuống!
                        Chân mặt duỗi ra!
                        Chân trái duỗi ra!
                        Hai tay sửa áo!
                        Chân trái thu về!
                        Tay mặt kéo (chân trái) lên! (kiết già)
                        Chân mặt thu về!
                        Tay trái kéo (chân mặt) lên! (kiết già)
                        Tay trái đặt lên gối trái!
                        Tay mặt đặt lên gối mặt!
                        Lưng thẳng!
                        Hít thở năm hơi!
                        Hít! … Thở! (một)
                        Hít! … Thở! (hai)
                        Hít! … Thở! (ba)
                        Hít! … Thở! (bốn)
                        Hít! … Thở! (năm) 
                        Tay trái chống đất sau lưng!
                        Tay mặt chống đất sau lưng!
                        Chân mặt duỗi ra!
                        Chân trái duỗi ra!
                        Chân mặt co thu về!
                        Chân trái co thu về!
                        Ngồi lên!
                        Tay trái đưa thẳng ngang mặt!
                        Tay mặt đưa thẳng ngang mặt!
                        Đứng lên!

Khi đứng lên xong quý phật tử tiếp tục đi 20 bước vòng thứ 2 ... và cứ tu tập như vậy cho đúng 30 phút mới xả nghỉ. Pháp môn Thân Hành Niệm là giai đoạn tu tập tỉnh thức thứ tư có công năng tỉnh thức rất cao, phá hôn trầm, thùy miên, vô ký rất tuyệt vời.

Pháp môn này quý phật tử còn nhiều gia duyên, tâm ly dục ly ác chưa tròn đủ thì không nên tu tập nhiều, vì tu tập nhiều sẽ rơi vào các loại tưởng thì rất nguy hiểm, sẽ rối loạn thần kinh thành tẩu hỏa nhập ma, đó là một loại bệnh điên. Xin quý phật tử lưu ý: Chỉ tu tập 30 phút mà thôi!

            Căn bản khi đi kinh hành (Tỉnh Thức trên bước đi):

Đi kinh hành để Chánh niệm tỉnh giác thì mới đầu đừng nhìn xuống chân, vì nhìn xuống chân như vậy sức gom tâm mạnh quá, tập trung quá, mặc dù biết rằng cái biết bước chân đi rất rõ bởi vì mắt ta nhìn ở đâu thì ý tập trung ở đó. Mới tập luyện thì chỉ nên tập để biết bước đi.  

Nếu đếm trước khi bước đi thì số đếm đó là một lệnh. Khi ra lệnh để bước thì sức tỉnh giác cao hơn đếm sau bước đi. Tác ý: “Tôi đi tôi biết tôi đi,” rồi ra lệnh “bước!” Ra lệnh rồi mới bắt đầu đi sau lệnh đó và mắt thì nhìn tới trước độ 2 hay 3 mét nhưng ý thì lắng nghe bước đi của mình. Nên nhớ ý lắng nghe bước đi còn con mắt thì hãy nhìn ra xa để thư giãn bớt sự tập trung, nhờ thế sẽ thấy thoải mái dễ chịu nhưng ý không rời biết bước chân. Nếu gom mắt, tai, thân, ý vào bước đi thì ức chế quá.  

Đi kinh hành thì cần phải nhiếp phục tâm và an trú tâm được xong quý vị đi mới không bị hao năng lượng. Nếu chưa nhiếp phục tâm và an trú tâm thì bị hao năng lượng, vì thế lúc đầu mới tập quý vị bị hao năng lượng nên cần phải ngủ để bù đắp. Khi nhiếp phục và an trú tâm được rồi thì bắt đầu từ đó sự tập luyện sẽ phát sinh ra năng lượng cho quý vị. Lúc đó nó sẽ tự động làm giảm giờ ngủ, tăng giờ tập luyện lên, quý vị sẽ đạt được kết quả vững vàng, sung mãn và thâm sâu trong các pháp và sức tỉnh giác tăng cao.

Không phải là khi đạt được không niệm khởi trong 20 bước hay trong 10 bước và tất cả mỗi 20 bước đều không niệm khởi thì tăng số đếm bước lên. Không phải vậy. Vẫn giữ số 20 bước và tập luyện làm sao để tâm được an trú trong số bước đó, khoan tăng số bước lên. Nếu tăng số đếm bước lên thì quý vị bị hao năng lượng nhiều hơn nữa, như vậy quý vị sẽ bị hôn trầm thuỳ miên không tập luyện được.  

Tập luyện cho đến khi chỉ cần bước vài bước là quý vị đã an trú được, có sự an lạc trong bước đi, trong thân tâm nên không bị hao năng lượng. Sự an trú sẽ từ từ tăng từ thấp lên cao, càng ngày càng mạnh rõ ràng và mau đạt được. Phải hoàn toàn chủ động cho được, muốn nhiếp là nhiếp được. Tập luyện 20 bước chứ càng tập luyện quý vị càng khoẻ.

Pháp Phật tập luyện đúng rồi thì năng lượng ngày càng được sung mãn; xả tập luyện ra thấy trong người khoẻ khoắn thích thú, trong khi tập luyện thì được an vui, an lạc. Căn bản là ngay từ đầu tập luyện ta phải biết cách chế ngự cho đúng, đừng rơi vào ức chế mà cho là chế ngự. Thường sáu thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý bị ức chế thì tưởng thức mới hoạt động. Sự ức chế là nguyên nhân, là động lực làm tưởng thức hoạt động.

Quý vị đi, đừng đi nhanh, mà phải đi chậm, nhắc ra lệnh từng bước đi “Trái bước!” “Mặt bước!” rồi dơ chân đi và lưu ý từng bước. Quý vị tập luyện như vậy năng lực rất cao. Cái ý biết điều khiển tổng thể bước đi. Các động tác đi có sự điều khiển của ý. Ý phải tác động hành động đi nên nó phải đi trước hành động thân.

Đếm số bước là để làm sao trong số bước đó ý phải điều khiển thân để không còn vọng tưởng xen vô. Tập luyện như vậy thì chất lượng rất cao. Nếu trong 20 bước mà vọng tưởng vẫn còn thì quý vị lùi lại 15 bước; 15 bước vọng tưởng vẫn còn thì lùi lại 10 bước hay 5 bước đi. Như vậy mới tập luyện kỹ.

b) Tu tập tỉnh thức trong mọi hành động: 

Tu tập tỉnh thức trong những hành động sống hằng ngày, quý phật tử phải nhớ tu tập trọn một ngày một đêm Thọ Bát Quan Trai (Một ngày tập sống như Phật). Nhất là phải chuyên cần tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định bằng mọi hành động ngoại của thân và câu hữu với pháp môn Tứ Chánh Cần để ngăn các pháp ác và diệt trừ các pháp ác. Nghĩa là quý vị tu trong mỗi hành động thân, khẩu, ý và làm tất cả mọi công việc đều tu tập được cả, như quét sân, nấu cơm, lặt rau v.v… Quý vị nên nhớ kỹ, phải dùng pháp hướng tâm để tập tỉnh thức trong hành động. 

Thí dụ: Khi đang quét sân thì quý vị hướng tâm (tác ý): “Quét sân, tôi biết tôi đang quét sân.” Khi đang lặt rau thì quý vị hướng tâm (tác ý): “Lặt rau, tôi biết tôi đang lặt rau.” Khi đang nấu cơm thì quý vị hướng tâm (tác ý): “Nấu cơm, tôi biết tôi đang nấu cơm.” Đó là quý vị đã tu tập tỉnh thức trong hành động quét sân, lặt rau, nấu cơm. Sau đó thì quý vị dùng câu pháp hướng để xả tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình trong hành động quét sân, lặt rau, nấu cơm thì quý phật tử dùng ba chữ “Quán ly tham”…  

Thí dụ: Khi quý phật tử đang quét sân mà muốn tu tập lìa xa tâm tham thì hãy nhắc tâm: “Quán ly tham, tôi biết tôi đang quét sân.” Khi quý phật tử đang lặt rau mà muốn tu tập lìa xa tâm tham thì hãy nhắc tâm: “Quán ly tham, tôi biết tôi đang lặt rau.” Khi quý phật tử đang nấu cơm mà muốn tu tập lìa xa tâm tham thì hãy nhắc tâm: “Quán ly tham, tôi biết tôi đang nấu cơm.

Với tâm tham, sân, si, mạn, nghi quý phật tử đều nương vào những hành động làm việc hằng ngày của mình mà tu tập như vậy thì tâm sẽ ly dục ly ác trọn vẹn. Cho nên quý phật tử làm việc gì đều có thể tu tập được cả. Thầy sẽ cho những câu ví dụ sau đây:

                Quán ly sân, tôi biết tôi đang quét sân.
                “Quán tâm như đất, tôi biết tôi đang lặt rau. 

Hoặc lúc đang đi:

                Quán tâm ly tham, tôi biết tôi đang đi.
                “Quán tâm ly sân, tôi biết tôi đang đi.

Đó là quý vị vừa xả tâm, vừa tỉnh thức trong hành động của mình.

               Quán tâm vô thường tôi biết tôi đang nấu cơm.
               “Quán tâm vô thường tôi biết tôi đang quét sân.
               “Quán tâm vô thường tôi biết tôi đang đi.

Xin quý phật tử lưu ý: Quý vị đang làm công việc gì thì quý vị hãy tỉnh thức ngay trong hành động làm công việc đó, và quý vị luôn luôn kèm theo câu pháp hướng (vô thường, khổ, vô ngã) để xả tâm tham, sân, si của mình. Đó là pháp tu xả tâm trong thời gian tu tập thọ Bát Quan Trai. Khi đi kinh hành quý vị cũng tu tập như vậy:

               “Quán ly tham, tôi biết tôi đang đi kinh hành.”
               “Quán ly sân, tôi biết tôi đang đi kinh hành.” 
               “Quán ly si, tôi biết tôi đang đi kinh hành.”
               “Quán tâm như đất, tôi biết tôi đang đi kinh hành.”
               “Quán tâm vô ngã, tôi biết tôi đang đi kinh hành.”
               “Quán thân vô thường, tôi biết tôi đang đi kinh hành.”
               “Quán thân vô ngã, tôi biết tôi đang đi kinh hành.”

Hoặc làm tất cả mọi công việc, quý vị cũng có pháp hướng xả tâm (nhắc tâm theo công việc ấy).

                Ví dụ khi đang nấu cơm thì: “Quán thân vô thường tôi biết tôi đang nấu cơm.”
                Hay là: “Quán thân vô ngã tôi biết tôi đang nấu cơm.
                Khi đang lặt rau thì: “Quán tâm vô ngã tôi biết tôi đang lặt rau.
                Hoặc “Quán pháp vô ngã tôi biết tôi đang lặt rau.

Đó là vừa tu tập tỉnh thức trên Tứ Niệm Xứ: thân, thọ, tâm, pháp trong từng hành động, theo mọi công việc làm mà lại vừa xả tâm mình.

Trên đây là pháp môn tu tập Tỉnh Thức trong mọi hành động câu hữu với pháp xả tâm ly dục ly ác pháp để diệt trừ bản ngã. Vì thế quý phật tử phải tu tập nghiêm chỉnh. Chúc quý phật tử tu tập viên mãn, đạt được tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

IV-2.2: Pháp tu thứ hai: Định Niệm Hơi Thở  

Bây giờ quý phật tử tiếp tục tu tập pháp môn thứ hai: Định Niệm Hơi Thở. Quý vị ngồi xuống, ngồi kiết già (hoặc bán già), thẳng lưng, quay mặt vào vách, hai mắt nhìn xuống chót mũi. Quý vị bắt đầu hít vào một hơi thở chậm, dài. Khi nào hít vào hết sức thì quý vị lại thở ra cũng chậm, nhẹ và dài. Khi thở ra hết thì quý vị trở lại hơi thở bình thường, kèm theo pháp hướng tâm: “Tôi thở, tôi biết tôi đang thở.” Khi thở đúng 5 hơi thở thì quý vị lại nhắc tâm: “Tôi thở, tôi biết tôi đang thở.” Rồi lại tiếp tục thở bình thường như trên.

Khi thấy hơi thở ra vào đều đều, tâm gom tại nhân trung thì quý vị không cần phải nhắc câu “Tôi thở, tôi biết tôi đang thở” nữa mà phải nhắc bằng câu khác để xả tâm mình trong khi đang thở.

Thí dụ nhắc tâm bằng câu: “Quán ly tham, tôi biết tôi đang thở,” rồi quý vị thở 5 hơi thở. Sau đó lại nhắc tâm: “Quán ly sân, tôi biết tôi đang thở.” Rồi thở tiếp 5 hơi, và nhắc tâm: “Quán ly si, tôi biết tôi đang thở.” Rồi quý vị cứ tiếp tục 5 hoặc 10 hơi thì một lần hướng tâm như sau:

             “Quán đoạn dứt tâm tham, tôi biết tôi đang thở.”  
             “Quán đoạn dứt tâm sân, tôi biết tôi đang thở.”
             “Quán đoạn dứt tâm si, tôi biết tôi đang thở.”

Như thế cứ cách 5 hơi thở thì một lần hướng tâm (Đừng để cho một niệm khác xen vào trong khi ta thở và tác ý). Khi tu tập định niệm hơi thở như vậy độ 10 phút thì quý vị xả nghỉ. Nếu quý vị có sức ngồi tu tập bền lâu thì nên tu tập 30 phút rồi xả nghỉ. Suốt trong ngày đêm Thọ Bát Quan Trai Giới quý vị cứ tu tập từng hành động, trong công việc làm hay lúc đi kinh hành, luôn luôn tu tập Định Niệm Hơi Thở kèm theo pháp hướng để xả tâm (Tham, Sân, Si) thì tâm hồn quý vị sẽ được thanh thản.

Tham, sân, si là gì? Tham, sân, si là lậu hoặc, nương vào hơi thở để lìa xa tham, sân, si tức là nương vào hơi thở để xa lìa lậu hoặc, vì thế do sự tu tập hai pháp kết hợp lại làm thành một pháp, nên gọi là câu hữu.

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống Giới Hành Niệm Hơi Thở Ra, Hơi Thở Vô nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là gì?

136-PHÁP CĂN BẢN CỦA NGƯỜI TU SĨ (8). TL Thích Thông Lạc

IV-2.2: Pháp tu thứ hai: Định Niệm Hơi Thở  (tiếp theo)

Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống Giới Hành Niệm Hơi Thở Ra, Hơi Thở Vô nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là gì?

Giới đức giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh Nghiệp.

Giới hạnh giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh Nghiệp.

Trước khi muốn tu tập về giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô thì các bạn hãy lắng nghe lời Đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về niệm hơi thở vô, hơi thở ra, làm cho sung mãn, nên được quả lớn, được lợi ích lớn. Và này La Hầu La, thế nào là tu tập niệm hơi thở ra, hơi thở vô làm cho sung mãn nên được quả lớn, được lợi ích?” Ở đây lời dạy này có những danh từ khó hiểu như: làm cho sung mãn, được quả lớn, được lợi ích lớn. Vậy làm cho sung mãn như thế nào? Được quả lớn, được lợi ích lớn như thế nào?

Chữ sung mãn có nghĩa là đầy đủ, sung túc, tràn đầy, dư thừa không thiếu hụt. Trước khi thực hiện nghĩa này thì phải tập an trú tâm trọn vẹn trong hơi thở. An trú tâm trọn vẹn trong hơi thở tức là biết hơi thở vô, hơi thở ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc. Đó là làm cho tràn đầy sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm hơi thở.

Quả lớn là gì? Quả lớn có nghĩa là kết quả to lớn của sự tu tập về hơi thở vô, hơi thở ra. Quả lớn còn có nghĩa là kết quả của sự tu tập đạt được sự giải thoát một cách cụ thể rõ ràng, hay nói cách khác là làm chủ được sanh, già, bệnh, chết tức là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.

              Được lợi ích lớn là gì? Lợi ích lớn có năm nghĩa là: 
              1. Đời sống được an vui hạnh phúc, không có ác pháp nào làm dao động được tâm, tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự, thường thản nhiên trước mọi dục lạc thế gian, mọi sự cám dỗ vật chất, mọi ác pháp, v.v...
              2. Làm chủ được tuổi già có nghĩa là khỏe mạnh quắc thước như một thanh niên cường tráng.
             3. Làm chủ được mọi bệnh tật không sợ ốm đau như người thường tục.
             4. Làm chủ được sự sống chết, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết.
             5. Chấm dứt tái sanh luân hồi.

Đây là năm điều lợi ích lớn của kiếp sống làm người do tu tập hơi thở vô, hơi thở ra. Vậy trước khi muốn tu tập giới hành hơi thở vô, hơi thở ra thì chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy La Hầu La:

Ở đây này La Hầu La, vị tỳ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô, tỉnh giác vị ấy thở ra.

Đọc đoạn kinh này chúng ta cần lưu ý những từ sau đây: khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú chánh niệm trước mặt, tỉnh giác. Khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống là địa điểm để tu tập, có nghĩa là tìm nơi chốn yên tịnh, vắng vẻ để tu tập hơi thở vô, hơi thở ra. Nếu địa điểm không tìm được như Đức Phật đã dạy thì sự tu tập về hơi thở vô hơi thở ra rất khó khăn. Các bạn lưu ý những lời dạy này vì rất cần thiết cho sự tu tập của các bạn, xin các bạn nên nhớ kỹ.

Các bạn đừng cho rằng bất cứ nơi đâu tu cũng được. Nếu vậy thì Đức Phật dạy điều này để làm gì? Có quan trọng Đức Phật mới dạy như vậy. Đừng nghe theo những nhà Đại Thừa và Thiền Tông. Họ chỉ nói suông: “Bất cứ chỗ nào tu cũng được, tu trong bốn oai nghi, tu trong công việc làm.” Lời nói này đi ngược lại lời dạy của Đức Phật.

Ngồi kiết già là gì? Ngồi kiết già là tư thế ngồi xếp bằng tréo hai chân đan vào nhau. Đó là tư thế ngồi của người tu thiền định. Tư thế ngồi này rất vững chắc để thân tâm dễ gom vào một đối tượng thân hành nội (hơi thở).

Ví dụ: Đi, đứng, nằm, ngồi, co tay, duỗi chân, ngước nhìn, nói, nín, ăn, nhai, nuốt, hơi thở vô, hơi thở ra, v.v... đều là thân hành, nhưng phải rõ tất cả thân hành của thân là thân hành ngoại chỉ trừ có hơi thở là thân hành nội. Như vậy chúng ta phải hiểu rõ mới có thể tu tập được.

              An trú chánh niệm là gì?
               An trú chánh niệm là ở yên ổn trong niệm chân chánh. Niệm chân chánh là gì? Trong đạo Phật có bốn chỗ niệm chân chánh:
              1- Niệm thân.
              2- Niệm thọ.
              3- Niệm tâm.
              4- Niệm Pháp.

Chữ chánh niệm ở đây gồm chung có 4 niệm, như vậy an trú chánh niệm tức là an trú trong bốn niệm. Vậy an trú bốn niệm một lần có được không? An trú bốn niệm một lần là tu tập Tứ Niệm Xứ. Cho nên Tứ Niệm Xứ còn gọi là Tứ Chánh Niệm.

              Ngoài bốn niệm: thân, thọ, tâm, pháp còn có niệm nào khác nữa không? 
              1- Trên thân gồm có hai niệm: 1, Thân hành niệm nội; 2, Thân hành niệm ngoại.
               2- Trên thọ gồm có ba niệm: 1, Niệm thọ lạc. 2, Niệm thọ khổ. 3, Niệm thọ bất lạc bất khổ.
              3- Trên tâm gồm có hai niệm: 1, Niệm tịnh. 2, Niệm động.
              4- Trên pháp gồm có hai niệm: 1, Niệm thiện. 2, Niệm ác.

Ở đây, bài pháp này Đức Phật đang dạy La Hầu La về hơi thở vô, hơi thở ra, vì thế chánh niệm ở đây phải hiểu là Thân hành niệm nội, tức là hơi thở vô hơi thở ra. Vậy an trú chánh niệm trước mặt tức là an trú hơi thở vô, hơi thở ra ở trước mặt. 

Tỉnh giác nghĩa là gì? Tỉnh giác nghĩa là biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kỹ lưỡng, biết không có mờ mịt một chút xíu nào cả. Ở đây chúng ta nên hiểu Đức Phật dạy La Hầu La phải biết rất kỹ từng hơi thở vô, từng hơi thở ra.

Người giữ gìn giới hành hơi thở vô hơi thở ra có nghĩa là tu tập an trú trong hơi thở vô hơi thở ra phải biết rất rõ ràng, không được để quên, để mất, để mờ mịt hơi thở vô ra. Vì tâm chúng ta hay quên (vô ký) nên phải dùng pháp tác ý dẫn tâm tỉnh giác mãi mãi, làm cho tâm sáng suốt thấy biết rất rõ ràng từng hơi thở vô, ra: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” An trú được trong hơi thở là đạt được căn bản về phương pháp tu Định Niệm Hơi Thở.

Để thực hiện giới hành này chúng ta nên theo lời Đức Phật dạy Tôn giả La Hầu La mà tu tập như sau: 

Trước tiên chúng ta tìm nơi vắng vẻ, yên tịnh, rồi tập ngồi kiết già lưng thẳng, sau khi tập ngồi kiết già lưng thẳng được có nghĩa là ngồi tréo chân mà không thấy khó chịu, hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa tiếng đồng hồ. Khi ngồi được nửa tiếng đồng hồ yên ổn thì mới đặt niệm hơi thở vô, hơi thở ra trước mặt và tác ý như sau:

Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.

Khi tác ý xong câu này ta truyền lệnh: “Hít,” truyền lệnh xong ta mới hít vô, tỉnh giác rất kỹ theo hơi thở vô. Sau khi hơi thở vô hết ta truyền lệnh “Thở,” khi truyền lệnh xong ta mới thở ra và phải sáng suốt tỉnh giác theo hơi thở ra.

Cứ như vậy mà tu tập một phút. Nếu tu tập một phút sức tỉnh giác rất tốt không quên hơi thở nào, có nghĩa là trong một phút không bao giờ ta quên hơi thở, mà cũng có nghĩa là trong một phút không có một niệm vọng tưởng nào xen vào được. Nếu một phút tu tập tốt, ta tăng lên 2 phút, rồi 3 phút, rồi 4, 5 phút. Sau khi đạt được 5 phút rất tỉnh giác hơi thở ra vô, ta tăng 6, 7, 8, 9, 10 phút. Sau khi tăng lên 10 phút ta soát xét xem lại toàn bộ cơ thể có xảy ra trạng thái gì không? Ví dụ: nặng đầu, nặng mặt, choáng váng chóng mặt, v.v... Khi có những trạng thái như vậy xảy ra thì nên báo cho Thầy biết để kịp thời sửa lại cho đúng cách tu tập, không bị ức chế tâm khiến thân cơ bắp và thần kinh rối loạn, v.v...

Trong giới hành về hơi thở vô, hơi thở ra có 19 đề mục tu tập: 7 đề mục đầu luyện tập nhiếp tâm và an trú, 12 đề mục sau luyện tập đẩy lùi ác pháp. Thứ tự các đề mục để tu tập Định Niệm Hơi Thở như sau:

1- Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra. Đó là đề mục thứ nhất để tu tập nhiếp tâm trong hơi thở. Đề mục này tập trung tâm tại nhân trung giữa hai lỗ mũi, biết hơi thở ra vô tại chỗ đó chứ không được theo hơi thở vô lồng ngực và ngược lại hơi thở từ lồng ngực chạy ra. Nếu các bạn nhiếp tâm được 30 phút mà không quên hơi thở tức là không có tạp niệm xen vào thì đó là các bạn đã tu tập viên mãn đề mục thứ nhất. Khi tu tập viên mãn đề mục thứ nhất thì các bạn nên xin Thầy kiểm tra hơi thở để xin tu tập đề mục thứ hai.

2- Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài. Đề mục này có mục đích là làm giảm nhẹ nơi tập trung tâm. Theo Phật giáo không được tập trung tâm một chỗ, vì tập trung tâm một chỗ rất nguy hiểm có thể làm rối loạn các cơ và thần kinh gây ra bệnh tưởng. Khi tu tập đến đề mục này thì chú ý vào hơi thở chậm và nhẹ, vì khi tác ý như vậy thì hơi thở bắt đầu thở chậm và nhẹ một cách tự nhiên chứ không dùng các cơ vận dụng thở chậm và nhẹ. Dùng các cơ vận dụng thở chậm và nhẹ là sai. Ở đây chỉ cần tác ý hơi thở chậm nhẹ thì tự động hơi thở sẽ thở chậm nhẹ, lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần tác ý theo đề mục đã trạch pháp câu: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài.

3- Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn. Đó là đề mục thứ ba của Định Niệm Hơi Thở, khi chúng ta muốn hơi thở ngắn thì tác ý câu này: “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn.” Đây là cách điều khiển hơi thở ngắn bằng pháp Như lý tác ý. Xin các bạn lưu ý: Do tu tập về hơi thở nên phải làm chủ được hơi thở. Muốn thở dài thì hơi thở dài, muốn hơi thở ngắn thì hơi thở ngắn. Khi nào chúng ta thở dài thở ngắn mà không thấy có sự rối loạn hô hấp đó là chúng ta đã thành công làm chủ hơi thở. Riêng về phần tu tập hơi thở thì nên tu tập hơi thở bình thường là tốt nhất, không nên vận dụng hơi thở dài hoặc hơi thở ngắn.

4- Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra. Đây là đề mục dời tụ điểm không còn thấy hơi thở ra vô tại nhân trung nữa. Mỗi lần hít thở cảm nhận sự rung động toàn thân. Trong pháp Thân Hành Niệm dạy: “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra.” Chỗ này tu tập khi nào từng hơi thở cảm nhận được sự rung động của toàn thân thì đó là kết quả của đề mục này.

5- An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra. Đây là một đề mục rất quan trọng trong sự tu tập mà Đức Phật thường nhắc nhở: “Nhiếp tâm và an trú tâm.” Từ đề mục thứ nhất đến đề mục thứ tư là những đề mục nhiếp tâm, còn đề mục thứ năm này là đề mục an trú tâm chứ không còn là đề mục nhiếp tâm nữa. Đề mục này rất quan trọng và lợi ích to lớn trong việc đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm và pháp. Đề mục này tu xong cũng giống như người lính đánh trận có chiến hào, vì thế tất cả cảm thọ không thể tấn công được.

Đây là phương pháp làm chủ bệnh mà Tứ Niệm Xứ thường dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu.” “Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu.” “Trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu.” “Trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu.” Các bạn nên lưu ý đề mục này nó rất quan trọng trong sự tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

6- Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra. Đề mục này là để hướng dẫn chúng ta ý thức nhận xét sự hoạt động của tâm theo từng hơi thở ra vô chứ không phải biết hơi thở ra vô bình thường. Do đó mỗi lần hít vô hay thở ra chúng ta đều lắng nghe tâm đang có niệm hay không niệm. Khi tu tập lắng nghe tâm từng hơi thở mà thấy tâm lặng lẽ bất động không một niệm xen vào trong suốt 30 phút hay một giờ là chúng ta đã đạt được kết quả tu tập về đề mục này.

7- An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra. Khi tâm chúng ta đang bị động mà không có cách nào làm cho nó an được, chúng ta sử dụng ngay đề mục này bằng phương pháp Như lý tác ý: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra.” Cứ mỗi lần tác ý như vậy là chúng ta cảm nhận như tâm chúng ta có một sự an ổn trong im lặng và mỗi lần hơi thở ra vô là tràn ngập sự an ổn của thân và tâm. Nếu kết quả này kéo dài từ một giờ đến hai giờ là chúng ta đã hoàn thành đề mục này.

8- Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra. Khi thân tâm được an trú trong hơi thở vô, hơi thở ra thì suốt trong thời gian tu tập hơi thở các bạn thỉnh thoảng tác ý câu này: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.” Nương vào hơi thở vô ra và tác ý như vậy thì giúp cho các bạn có một nội lực mạnh mẽ thân vô thường thật sự. Từ đó thân kiến kiết sử bị đoạn dứt. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ.

9- Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra. Đề mục này tu tập như đề mục thứ tám quán thân vô thường để thấm nhuần thọ vô thường thật sự khiến khi thân có bệnh tật khổ đau tâm không dao động sợ hãi. Đó là mục đích của đề mục này. Vậy muốn tâm bất động trước các cảm thọ thì đề mục này phải cần siêng năng tu tập không được biếng trễ. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ  Niệm Xứ

10- Quán tâm vô thường tôi biết tôi hít vô; quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra. Người ở ngoài đời cũng như các tôn giáo khác, trong đó có Đại Thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Pháp Hoa Tông, Mật Tông v.v... đều cho tâm này là linh hồn, là Phật tánh, là Tánh Không, là Chơn như, là trí tuệ Bát Nhã, là Bản Thể của vạn hữu v.v... Đó là sự hiểu biết lầm lạc bằng ảo tưởng. Tâm là một xứ trong Tứ Niệm Xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Cho nên quán tâm vô thường cũng như quán thọ hay quán thân vô thường vậy. Hằng ngày quán tâm vô thường để chúng ta không bị kiến chấp Linh hồn, Phật tánh thường hằng của tà giáo ngoại đạo. Và luôn nhờ có quán tâm vô thường nên từng tâm niệm sanh khởi chúng ta không bị dính mắc và chấp đắm. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ.

11- Quán các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô; quán các pháp vô thường tôi biết tôi thở ra. Đây là một đề mục tu tập hơi thở trong pháp môn Tứ Niệm Xứ để thấm nhuần các pháp đều vô thường, nhờ thế các pháp đến với chúng ta là chúng ta đều buông xả sạch, vì chúng ta hiểu:

              “Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
              Chớ giữ làm chi có ích gì?
              Thở ra chẳng lại còn chi nữa,
              Các pháp vô thường buông xuống đi!

Đề mục này siêng năng tu tập khi đã thấm nhuần thì có ích lợi rất lớn, đó là nhìn các pháp mà không dính mắc, không chắp trước. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ. 

12- Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra. Theo lời Đức Phật dạy chỉ cần từ bỏ được tâm tham là nhập vào Niết Bàn, chấm dứt tái sanh luân hồi. Như vậy hằng ngày các bạn thường tác ý câu: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra.” Khi tâm tham đã được ly ra thì tâm chúng ta luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

13- Quán ly sân tôi biết tôi hít vô; quán ly sân tôi biết tôi thở ra. Nếu một khi tâm sân đã được từ bỏ sạch thì Niết Bàn ở tại đó. Chỉ cần chuyên tu tập một đề mục này từ bỏ được tâm sân thì con đường tu của Phật giáo đâu mấy khó khăn. Phải không các bạn? Đức Phật đã đem lời dạy này ra bảo đảm với chúng ta:

Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến. Và tôi đã được nghe. Này các tỳ-kheo hãy từ bỏ một pháp, Ta bảo đảm cho các ngươi không đi đến lại (tái sanh). Thế nào là một pháp? Sân, này các tỳ-kheo là một pháp, các ngươi hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các ngươi không đi tái sanh. Thế Tôn nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Theo lời dạy trên đây chúng ta chỉ cần tu tập một đề mục này cũng đủ chứng đạo quả giải thoát, chấm dứt tái sanh luân hồi chỉ trong một đời này mà thôi.

14- Quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra. Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán ly tham...”, nhưng ở đây “Từ bỏ” mạnh hơn. Vậy khi tu tập ly được tâm tham thì chúng ta kế tiếp tu tập từ bỏ tâm tham thì lại thấm nhuần nhiều hơn và tâm tham sẽ bị diệt trừ.

15- Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra. Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán ly sân” nhưng ở đây nó mạnh hơn là do “Quán từ bỏ tâm sân.” Nếu người nào bền chí tu tập chỉ một đề mục này cũng đủ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

16- Quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi thở ra. Đề mục tu tập này có một sự quyết liệt mạnh mẽ hơn những đề mục trên vì “Đoạn diệt tâm tham.” Ở trên chỉ có “ly” và “từ bỏ” mà thôi. Tại sao chỉ có tâm tham mà phải ba đề mục tu tập cẩn thận như vậy? Kính thưa các bạn! Tâm tham dục là một nguyên nhân sinh ra muôn thứ khổ đau của loài người. Vì thế nó quan trọng đệ nhất trong các pháp ác. Cho nên tu tập tới đề mục này các bạn phải có sự quyết định mạnh mẽ không thể lôi thôi với tâm tham dục được.

17- Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi thở ra. Đề mục này cũng có sự quyết định cuộc đời tu hành của mình được hay không được. Nếu một người tu hành mà tâm sân còn thì có nghĩa lý gì là một tu sĩ. Phải không các bạn? Sân là một tính rất xấu và cực ác. Lúc sân có thể giết người hay làm bất cứ việc gì; lúc sân cũng không sợ bất cứ một thứ gì. Biết sự nguy hiểm của tâm sân như vậy, nên chúng ta quyết liệt đoạn diệt tâm sân tận gốc không còn để một chút xíu trong tâm. Phải chấm dứt ngay liền. Chính dứt được tâm sân là Niết Bàn ngay liền tại đây, đâu có xa gì?

18- Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra. Đây là đề mục phá tâm si. Các bạn phải cố gắng tu tập với đề mục tu tập này cho nhuần nhuyễn. Khi tu tập đã nhuần nhuyễn thì không bao giờ có hôn trầm thùy miên và vô ký đến thăm các bạn. Nếu các bạn tu tập chưa nhuần nhuyễn thì các bạn sẽ bị hôn trầm thùy miên đánh gục. Hôn trầm thùy miên là một pháp cực ác đối với những người hành theo Phật giáo.

19- Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra. Đây là đề mục cuối cùng của Định Niệm Hơi Thở, khi tất cả các đề mục trên đều đã hoàn tất viên mãn thì đến đề mục này là tâm bất động hoàn toàn có nghĩa là tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm ở trạng thái không phóng dật.

Xưa Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết trạng thái này là cứu cánh Niết Bàn: Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật, muôn pháp lành cũng đều nơi đó sinh ra.

IV-2.3: Pháp tu thứ ba: Định Vô Lậu 

Sau khi xả nghỉ để cơ thể lấy lại bình thường thì quý vị tu tập Định Vô Lậu. Định Vô Lậu chuyên nhất vào sự tư duy, suy xét hay gọi là quán. Quán những sự việc xảy ra trong đời sống hàng ngày của quý phật tử. Khi quán xét thấy trong tâm mình đang mắc phải một pháp nào đó khiến cho tâm bất an và bất toại nguyện thì quý vị hãy cố gắng dùng pháp hướng mà xả nó đi. Hãy dùng pháp hướng tâm ra lệnh để làm cho tâm bất toại nguyện, ưu phiền đó rời khỏi tâm quý vị.

Ví dụ 1: Khi đang giận ai thì ta phải dùng pháp hướng như sau: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra.” Với pháp hướng như thế quý vị thở vào, thở ra năm hơi chậm và nhẹ thì quý vị sẽ thấy cơn giận bắt đầu giảm cường độ. Tiếp theo quý vị có thể dùng câu pháp hướng: “Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô, quán từ bỏ tâm sân, tôi biết tôi thở ra.” Thở năm lần rồi lặp lại câu pháp hướng ấy, và thở năm hơi nữa thì ta sẽ thấy cơn giận đã giảm đi quá nửa. 

Ví dụ 2: Khi thân bị bệnh đau đầu, quý phật tử muốn xả lậu hoặc đau đầu này thì phải dùng đề mục thứ năm của Định Niệm Hơi Thở bằng câu tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.” Nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở và tác ý như vậy thì bệnh đau đầu sẽ hết. Bệnh đau đầu hết tức là vô lậu.

Khi tâm đã vô lậu thì quý phật tử nên đưa ra một đề tài khác như: Nhân quả, các pháp vô thường, thân vô thường hay thân bất tịnh, thực phẩm bất tịnh v.v... Quý vị tư duy quán xét những pháp này cho thấu suốt. Tư duy quán xét những pháp này cho thấu suốt đó là tu tập Định Vô Lậu. Còn những ví dụ trên là quý phật tử áp dụng vào các pháp môn khác để tâm được vô lậu. Đấy cũng là tu tập Định Vô Lậu.

              Quý phật tử hãy thực hành pháp quán Vô Lậu theo những đề tài đã được dạy trong lớp Chánh Kiến dưới đây:
                1, Đường đi nhân quả.
                2, Nhân quả thảo mộc.
                3, Nhân quả con người qua: thân hành; khẩu hành; ý hành.
                4, Ái ngữ.
                5, Giới thiệu đạo đức nhân bản.
                6, Thực phẩm bất tịnh.
                7, Thân bất tịnh.
                8, Các pháp vô thường.
                9, Tứ Vô Lượng Tâm.
               10, Tâm Từ vô lượng.
               11, Tâm Bi vô lượng.
               12, Tâm Hỷ vô lượng.
               13, Tâm Xả vô lượng.
               14, Tất cả các loài hữu tình do các món ăn mà an trú.
               15, Tất cả các loài hữu tình do các hành mà an trú.
               16, Năm triền cái.
               17, Ít muốn, biết đủ.
               18, Danh và sắc.
               19, Tàm và quý.
               20, Ba ác hạnh: Thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh.
               21, Ba thiện hạnh: Thân, khẩu, ý thiện hạnh.
               22, Năm tâm hoang vu. 
               23, Năm hạ phần kiết sử.
               24, Năm thượng phần kiết sử…

IV-2.4: Pháp tu thứ tư: Định Sáng Suốt  

Sau thời gian tu tập quá mệt nhọc (vì đã ra sức dụng công), cơ thể và tinh thần của quý vị đã mỏi mệt thì hãy tu tập Định Sáng Suốt tức là phương pháp thư giãn. Muốn tu tập phương pháp này thì quý phật tử buông xả các pháp ra có nghĩa là quý vị không còn tu tập pháp nào cả, tìm một nơi an tịnh ngồi buông thả tay chân ra và tác ý: “Các cơ và tinh thần buông xuống! Buông xuống hết!” Quý vị nhắc như vậy để rồi toàn thân sẽ thư giãn và tinh thần sẽ thấy thoải mái, an lạc và dễ chịu.  

Tập luyện các pháp môn Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở là để quý phật tử định tỉnh và ngăn ác diệt ác pháp trên thân tâm, nhưng tập luyện kéo dài sẽ bị ức chế. Vậy thì phải có giờ nghỉ. Chính giờ nghỉ là giờ quan trọng. Điểm quan trọng nhất là pháp xả tâm trong giờ nghỉ. Trong giờ nghỉ, tâm quý phật tử khởi lên niệm gì, ví dụ muốn nói chuyện, muốn làm cái này cái kia thì nhất định không làm theo nó. Đó là pháp thư giãn Xả Tâm.

Thật sự ra không cần phải tập luyện pháp gì khác mà tối ngày giữ mình là người vô sự, không làm gì hết, cứ ngồi mà xả tâm thôi, niệm gì khởi lên cũng xả hết, riết rồi mình có cái lực khiến cho đủ cả bảy Giác Chi xuất hiện. Cái tâm lúc đầu khởi lên sai bảo mình vậy, sau đó nó không sai bảo được nữa là mình đã phá sạch các dục, tức là thư giãn xả tâm.

Tâm sạch hết các dục, các lậu hoặc thì tâm thanh tịnh. Đó là điều quan trọng nhất của đời người tu tập. Thầy gọi là “Xả tâm.” Còn Đức Phật nói là “Đẩy lui chướng ngại pháp.” Thời nào cũng đẩy lui chướng ngại pháp. Tất cả các thời khóa biểu mà Đức Phật đã để lại đều nhắc nhở, dạy phải “Đẩy lui các chướng ngại pháp.

Cái tâm suy nghĩ, sai sử chính là chướng ngại pháp. Nó làm cho mình không vô sự. Cho nên phải nhớ giờ thư giãn chính là giờ xả tâm. Quý phật tử cứ làm lặt vặt, làm cho khuây khoả thì đó là phóng dật.

Cách giữ tâm vô sự, thư giãn thì điểm quan trọng cần biết là mỗi niệm khởi lên đều mang theo tính chất sai bảo mình làm, hoặc không có tính chất sai bảo làm. Quý vị phải nhớ là khi niệm nào sai bảo mình làm gì thì nhất định không làm. Không làm theo niệm tức là ly dục. Khi niệm muốn quý vị làm tức là có niệm dục thì nhất định không làm là ly dục. Không làm là không bị phóng dật.

Quý vị cần phân biệt niệm dục và niệm “tào lao.” Niệm tào lao là niệm không sai bảo mình làm gì hết. Thí dụ quý vị nhớ bạn bè hay những tư tưởng này kia thì điều đó không quan trọng; chỉ có niệm sai bảo quý vị làm gì thì đó mới là niệm dục.

Trong giờ tập luyện thư giãn, không có niệm gì hết là tốt. Cứ để cho nó không niệm. Còn khi có niệm thì quý vị phải suy xét coi để phân biệt niệm nào là niệm dục. Phải nắm cho vững điều này quý phật tử mới tập luyện Định thư giãn được. Vừa tập luyện xong Định Niệm Hơi Thở thì qua tập luyện Định thư giãn tức là Định Sáng Suốt để có thời gian nghỉ ngơi, tiếp tục tập luyện Chánh Niệm Tỉnh Giác, rồi Định Sáng Suốt lại. Như vậy là tập luyện liên tục không có nghỉ. Nghỉ là tập luyện Định Sáng Suốt, giữa hai pháp tập luyện kia cần xen Định Sáng Suốt (hay định thư giãn) vào giữa. Cách thức thư giãn không phải dễ thực hành đâu, coi chừng bị ức chế mà không hay.

Thư giãn là nghỉ ngơi, phải để thân và tâm hoàn toàn nghỉ ngơi. Phải tác ý cho nó xả chứ không thì làm như tập luyện mà không có thời gian nghỉ ngơi sẽ đi đến chỗ ức chế tâm. Cứ  tác ý thư giãn theo định Sáng Suốt để không bị kẹt vào các pháp tập luyện khác mà tập cho nó lìa ra khỏi các pháp để nghỉ ngơi. Nghỉ thì ra nghỉ; tập luyện thì ra tập luyện. Thư giãn cũng là tập luyện, không phải nói thư giãn là thư giãn được liền đâu; phải tập luyện.

Định thư giãn (hay Định Vô Sự cũng là Định Sáng Suốt) hơi khó vì khi yên lặng thì tâm thường gom vào hơi thở khi ngồi, còn nếu đang đi thì nó lại gom vào bước đi. Làm sao để nó không gom về hai cái đó.

Thư giãn thì phải làm như mình không biết tập luyện là gì hết, phải xả ra. Khi đi thư giãn thì phải nhắc tâm đừng tập trung dưới bước chân mà nhìn cái này cái kia nếu đi trong thất, còn đi ngoài trời thì nhìn cây cối, trời mây. Đừng lưu ý bước chân, đừng lưu ý hơi thở, đi như người vô sự. Thư giãn thì trở về trạng thái như khi không tập luyện gì hết. Tác ý để cơ bắp, thần kinh lơi ra, thư giãn ra. Nói chung thư giãn thì không tập trung trong pháp, phải trở về cái bình thường, không được ở trong ác pháp. Nó sai bảo mình làm gì thì không làm theo. Đó là ly dục. Chỉ có vậy thôi.  

Tóm lại, giai đoạn đầu tiên tập luyện Định Sáng Suốt (hay Định Thư Giãn) thì quý phật tử tập trung như thế cho biết để sau này tu tập tới giai đoạn hai là Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ mới dễ. Khi bước qua tu Tứ Niệm Xứ tức là tập luyện tỉnh giác có nghĩa là “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu” thì quý phật tử ở trên đó mà quét sạch chướng ngại pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp.

Một ngày một đêm mà tu tập như vậy quý phật tử sẽ ước nguyện cho gia đình được bình an và bệnh tật sẽ được chuyển đổi khiến cho gia đình được thay đổi đem đến sự yên vui hạnh phúc. Với một lòng tin vững chắc không gì thay đổi; với một tâm tha thiết tìm cầu sự giải thoát chân thật trong pháp môn của Phật giáo thì quý phật tử sẽ thấy kết quả giải thoát ngay liền, khiến cho thân tâm vô sự và an lạc. Cuộc sống không còn biết lo lắng, sợ hãi và bận rộn về mọi việc.

Vì thế quý phật tử phải cố gắng tu tập như lời Thầy đã dạy Thọ Bát Quan Trai. Thọ Bát Quan Trai là tu thiện pháp, luôn luôn lúc nào cũng ngăn ác và diệt ác pháp để cho cuộc sống lúc nào cũng sanh thiện và tăng thiện pháp. Cho nên không cần phải tụng niệm, cúng lễ và sám hối niệm hồng danh chư Phật theo các nghi thức ngày xưa của kinh sách phát triển. 

Nếu quý vị chuyên cần tu tập và sống đúng giới hạnh thì trong một ngày một đêm quý vị sẽ thấy kết quả giải thoát đau khổ của kiếp người rất rõ ràng và cụ thể. Nếu biết giới luật Phật có lợi ích không lường thì quý vị nên phát khởi thiện tâm, tu tập rốt ráo liền được thiện giới thanh tịnh. Khi tu tập và trau dồi thân tâm như vậy là quý vị đã thực hiện giới thể theo pháp môn bốn định như Thầy đã dạy ở trên thì chứng quả giải thoát đâu còn xa, chỉ ở trong tầm tay của quý phật tử. Phải cố gắng lên tu tập để không phí uổng một kiếp làm người.

137-KINH TỔ XEN LẪN KINH PHẬT. TL Thích Thông Lạc

MẮT CHƯ THIÊN

Lời Phật dạy (?): “Này Ananda, rất đông các vị Thiên thần ở mười phương thế giới tụ hội để chiêm ngưỡng Như Lai. Này Ananda, cho đến 12 do tuần chung quanh Kusinàrà Upavattana, rừng Sàlà thuộc giòng họ Mallà, không có một chỗ nào nhỏ cho đến đầu một sợi tóc có thể chích được mà không đầy những Thiên Thần có uy lực tụ họp. Này Ananda, các vị Thiên Thần đang than phiền: “Chúng ta từ rất xa đến chiêm ngưỡng Như Lai, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời, và tối hôm nay trong canh cuối cùng, Như Lai sẽ nhập diệt. Và nay tỳ-kheo có oai lực này lại đứng ngay trước Thế Tôn, khiến chúng ta không thể chiêm ngưỡng Như Lai trong giờ phút cuối cùng”. Này Ananda, các chư Thiên đang than phiền như vậy”.

                                                                                 (Kinh Trường Bộ tập 1 trang 642 kinh Đại Bát Niết Bàn)

Chú giải: 

Đọc đoạn kinh này lời văn và phong cách viết văn giống như trong kinh sách Đại Thừa. Đây là các Tổ viết ra rồi đưa vào kinh Đại Bát Niết Bàn. Cho nên hiện giờ kinh sách sai rất nhiều vì trải qua nhiều lần kết tập kinh sách, mỗi lần kết tập đều có thêm hay bớt ra, còn kiến giải và tưởng giải của các Tổ tạo thành kinh mới đều lấy tên là kinh Đại Thừa.

Cái sai thứ nhất ở đoạn kinh này là mắt chư thiên mà giống như mắt phàm phu bị ngăn che bởi không gian và thời gian. Mắt chư Thiên không còn bị không gian ngăn cách và trải dài. Thế mà ở đây đức Phật phải đuổi thị giả cũ của mình là đại đức Upanãra để cho chư Thiên chiêm ngưỡng Phật: “Lúc bấy giờ, Tôn giả Upanara đứng trước mặt Thế Tôn và quạt hầu. Thế Tôn liền quở trách Tôn giả Upnavara: “Này tỳ-kheo, hãy đứng một bên chớ có đứng trước mặt Ta”.

Hành động đuổi tỳ-kheo Upanãva là đức Phật còn thiên vị chư Thiên mà xem rẻ đệ tử của mình. Trong khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, một vĩ nhân của nhân loại thì loài người là những người ưu tiên được chiêm ngưỡng gần Phật nhất, cớ sao Phật lại đuổi con người? Chính đạo Phật ra đời vì con người, chứ không phải vì chư Thiên. Cho nên bốn chân lý của Phật giáo là bốn chân lý của loài người, điều này không thể ai chối cãi được. Đó là cái sai của Đại Thừa khéo tưởng tượng chư Thiên mà con mắt như phàm phu tục tử, bị ngăn cách và trải dài bởi không gian và thời gian.

Kính thưa các bạn! Các bạn nên lưu ý những lời của các Tổ khi thêm vào trong kinh sách Nguyên Thủy của Phật do tưởng giải của các Tổ, nên hiện giờ rõ nét thiếu chiều sâu đầy ảo tưởng, không thành thật, không cụ thể, rõ ràng. Thường là những lời dạy mơ hồ, trừu tượng không đúng như thật.

Đây các bạn đọc đoạn kinh tưởng này của Đại Thừa đang xen lẫn trong kinh Nguyên Thủy: “Này Ananda, các cây Sàlà song thọ tự nhiên trổ hoa trái mùa tràn đầy cành lá, những đóa này rơi lên gieo khắp và tung rải trên thân Như Lai để cúng dường. Những thiên hoa Mandãvara từ trên hư không rơi xuống rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi xuống, rơi lên gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Nhạc trời trên hư không trỗi dậy để cúng dường Như Lai. Thiên la trên hư không vang lên để cúng dường Như Lai”.

Các bạn lưu ý đoạn kinh này, đây là một đoạn kinh tưởng của Đại Thừa thêm vào đầy là sự tưởng tượng cúng dường. Trong kinh Pháp Môn Căn Bản đức Phật đã xác định không có cõi Trời, cõi Trời chỉ là cõi tưởng chứ không có thật. Vậy mà ở đây lại có hoa trời, nhạc trời cúng dường thì trái với kinh sách quá lớn. Vậy sự cúng dường này có đúng không?

Trong giới luật Phật cấm ca hát, nhạc kịch. Vậy mà ở đây lại có nhạc Trời cúng dường. Trong khi đức Phật dạy thắp hương cúng dường bằng tâm hương như những thứ hương cúng Phật, chỉ có Hương Giới, Hương Định, Hương Huệ, Hương Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến Hương. Vậy mà ở đây lại cúng dường Như Lai bằng hương hoa Sa la song thọ, hương hoa Mandãvara và nhạc Trời, tiếng ca hát của Thiên nữ cúng dường Như Lai. Đoạn kinh này có đúng không các bạn? 

Các nhà Đại Thừa khéo tưởng tượng làm sai lệch giới luật đức hạnh của một bậc vĩ nhân nhân loại, nhất là một con người đã từng sống Phạm hạnh đi ngược lại với đời sống phàm phu của con người, thế mà khi chết lại ma chay giống như người thế tục thì còn nghĩa lý gì là đạo giải thoát, đạo trí tuệ, đạo đức hạnh, đạo thiểu dục tri túc.

Đến đây chúng tôi xin các bạn suy xét để phá dẹp đi những tư tưởng kiến chấp sai lầm mà từ xưa đến nay trên 2000 năm đã bị một sự truyền thừa mê tín sai lệch của Đại Thừa đã ăn sâu vào cốt tủy của con người. Vì thế không thể trong một ngày, hai ngày, một năm, hai năm mà gọt rửa sạch những tư tưởng sai lầm này được. Các bạn nên ghi nhớ những lời dạy này.

TẠI SAO ĐỨC PHẬT BIẾT NẤM ĐỘC MÀ LẠI ĂN

Lời Phật dạy (?): “Này Cunda, ăn mộc nhĩ còn lại ngươi hãy đem chôn vào một lỗ. Này Cunda, Ta không thấy một ai, ở cõi Trời cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm thiên giới không một người nào trong chúng Sa Môn và chúng Bà La Môn, giữa những Thiên Nhân, món ăn mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai.”

                                                                             (Kinh Trường Bộ tập 1 trang 624 kinh Đại Bát Niết Bàn)

Chú giải: 

Đọc đoạn kinh này chúng ta xét thấy có hai điều vô lý:

1- Người thợ rèn Cunda nấu món ăn mộc nhĩ chưa bao giờ ăn mà lại dám đem dâng cúng Phật và chúng Thánh Tăng. Đó là vô lý thứ nhất. Ai đã soạn câu này và viết vào kinh sách Nguyên Thủy để hủy báng Phật, Pháp, Tăng, để làm kinh sách Phật mất hết ý nghĩa chân thật của nó. Một sự giả dối không thể nào tha thứ được. Một món ăn chưa từng ăn mà dám cho người khác ăn, chỉ đó là món thuốc độc mà thôi.

2- Đạo Phật là đạo trí tuệ, chuyển nhân quả khi biết nấm độc mà ăn là không trí tuệ, nhất là đức Phật biết là nấm độc không cho chúng tỳ-kheo ăn mà mình lại ăn là điều vô lý thứ hai. Nhất là đức Phật là người đã thông suốt luật nhân quả. Luật nhân quả là một đạo luật được chuyển hóa bằng thiện pháp. Cuộc đời tu hành của Phật đã chứng đạo tức là Ngài đã sống toàn thiện. Người sống toàn thiện là người đã chuyển hoá được nhân quả. Cho nên đối với thân nhân quả của đức Phật, Ngài làm chủ hoàn toàn, muốn sống chết đều theo ý muốn của Ngài. Cho nên Ngài dạy:

Này A nanda, những ai đã tu Bốn Thần Túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo, thời nếu muốn, người ấy có thể sống một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu Bốn Thần Túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo, này Ananda, nếu muốn Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại”.

                                                                 (Kinh Trường Bộ tập I trang 586 kinh Đại Bát Niết Bàn).

Đức Phật có đủ khả năng làm chủ nhân quả như vậy mà lại ăn nấm độc để chịu bệnh kiết lỵ ra máu mà chết thì thật là một điều vô lý hết sức. Làm chủ nhân quả mà để cho nhân quả làm chủ mình thì thật là vô lý. Đoạn kinh này là do người sau không biết luật nhân quả chuyển hóa; không thông năng lực của Tứ Thần Túc của Phật giáo, nên xen đoạn kinh này để che đậy sự tu hành không làm chủ sanh, già, bệnh, chết của mình đối với tín đồ “Chẳng muội nhân quả” chứ không làm chủ nhân quả được.

Theo chúng tôi biết chắc chắn đoạn kinh này là do các Tổ thêm vào để dựng lên thuyết nhân quả định mệnh, tức là nhân quả cố định không thay đổi được, đó là để chỉ rõ pháp môn Đại Thừa và Thiền Tông không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, nó là một loại thiền ức chế tâm, chứ không phải là thiền xả tâm, vì thế càng tu càng chạy theo danh lợi và dục lạc thế gian. Nếu đúng nhân quả là định mệnh thì đạo Phật không bao giờ tuyên bố làm chủ sanh, già, bệnh, chết, và không dạy người tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện. Vì không chuyển hóa được nhân quả nên đạo Phật không ra đời, vì ra đời có làm lợi ích gì cho ai.

Nếu đúng nhân quả là định mệnh thì đạo Phật không bao giờ có pháp môn Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Định. Đối với đạo Phật do vô minh mà có nhân quả thiện ác, khổ đau; do vô minh mà con người mới chạy theo dục, mới tạo ra muôn vàn sự khổ đau. Vì thế đạo Phật ra đời dạy người giới luật và trí tuệ: “Giới luật ở đâu thì trí tuệ ở đó, trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó. Giới luật làm thanh tịnh trí tuệ, trí tuệ làm thanh tịnh giới luật”. Đó là những đức hạnh bằng giới luật và tri kiến của con người làm chủ nhân quả theo đúng những pháp hành Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Định.

Đại thừa đã phỉ báng Phật trong đoạn kinh này và còn phỉ báng đệ tử của Ngài là ngài Mục Kiền Liên, một vị đệ tử đã tu chứng quả A-la-hán có đầy đủ thần thông mà đức Phật thường ca ngợi ngài Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông, thế mà bị ngoại đạo đánh chết thì không còn chỗ nào phỉ báng Phật, Pháp, Tăng hơn là kinh sách Đại Thừa và các Tổ khéo léo xen vào từng đoạn kinh xuyên tạc phá hoại kinh sách Nguyên Thủy.

Ở đây chúng tôi xin nhắc lại để thấy một sự vô lý hết sức: Người thợ rèn Cunda chưa bao giờ ăn nấm này, nếu đã ăn thì ông đã chết, vì là nấm độc như đức Phật đã nói: “Này Cunda, Ta không thấy một ai, ở cõi Trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa Môn và Bà La Môn giữa những Thiên Nhân, món ăn mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được.” Khi một món ăn chưa bao giờ mọi người ăn mà đức Phật dạy: “Này Cunda, loại mộc nhĩ đã soạn sẵn, hãy dọn cho Ta, còn các món ăn khác đã soạn sẵn loại cứng loại mềm, hãy dọn cho chúng tỳ-kheo”.

Nếu người thợ rèn Cunda nghe lời dạy này thì phải nghi ngờ và tự hỏi: “Tại sao Phật không cho chúng tỳ-kheo ăn thứ mộc nhĩ này?” Khi đã có câu hỏi như vậy thì Cunda liền đem món đồ ăn này xem lại. Khi nghe đức Phật nói như vậy, Ông ta lại dồn món ăn mộc nhĩ này chỉ có đức Phật ăn mà thôi, thì thật là vô lý. Đây là sự vô lý không thể tha thứ được. Có đúng như vậy không các bạn?

Về phần đức Phật là một người tượng trưng cho trí tuệ, Ngài dựng lên nền đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai mà lại ăn nấm độc để làm khổ mình và gây hoang mang dao động cho chúng tỳ-kheo, nhất là làm cho người thợ rèn Cunda sẽ ăn năn hối hận suốt đời, nếu biết đức Phật vì thọ thực nấm của ông cúng dường mà chết.

Trong khi đức Phật có đủ khả năng tự tại trong sanh tử, muốn chết hồi nào là chết được ngay liền, chết trong khi thân không có một chút bệnh khổ. Chính đức Phật là người chết không vì bệnh đau mới đúng nghĩa của đạo giải thoát. Cho nên ở đây người đời sau đã thêm vào những đoạn kinh làm mất ý nghĩa giải thoát của Tứ Niệm Xứ. Điều vô lý nhất là đức Phật biết nấm độc mà lại ăn và chết trong đau bệnh kiết lỵ ra máu. Bệnh kiết lỵ ra máu trong tuổi già như Phật thì khổ sở biết là dường bao.

Cho nên, thật vô lý đạo Phật là đạo tự tại trong sanh tử, cớ sao đức Phật lại phải ăn nấm độc để bệnh rồi chết, chết một cách đau khổ như vậy? Mục đích đạo Phật ra đời là giúp cho con người sống chết tự tại an vui, chết không phải vì bệnh. Vậy ai là người đã viết đoạn kinh này, người ấy phải chịu những tội lỗi rất lớn đối với Phật giáo. Đạo Phật vốn không làm khổ mình, khổ người, sao Phật lại làm khổ Phật, làm khổ người như vậy? Thì nền đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người của Phật giáo đâu còn có nghĩa gì đối với người đời sau nữa. Đây là một đoạn kinh mà các Tổ dùng để diệt Phật giáo. Các bạn có biết không?

Các bạn hãy nghe đức Phật dạy: “Này Pessa, có bốn hạng người này có mặt ở trên đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này Pessa, có người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình. Ở đây này Pessa, có người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này Pessa, có người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây này Pessa, lại có người vừa không hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình, vừa không hành khổ người người, không chuyên tâm hành khổ người”.

                                                                              (Kinh Trung Bộ tập II trang 13 kinh Kandaraka).

Như vậy đức Phật đã dạy có bốn hạng người và chấp nhận hạng người thứ tư nên đức Phật nói: “Người ấy không hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình, không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người, ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh cảm thấy mát lạnh, cảm giác thọ lạc, tự ngã trú vào Phạm thể, hạng người này tâm còn thích ý.

Đức Phật đã dạy như vậy cớ sao Ngài lại ăn nấm độc để tự làm khổ mình và làm khổ người cúng dường? Cho nên đoạn kinh này không phải Phật thuyết mà các Tổ biên soạn và xen vào kinh Đại Bát Niết Bàn để diệt Phật giáo.  

Điều vô lý thứ hai là đức Phật, một người có đại trí tuệ, đại giác ngộ. Đại trí tuệ, đại giác ngộ sao lại ăn nấm độc để bệnh mà chết, thì trí tuệ đó đâu còn là trí tuệ nữa, nó là vô minh. Phải không các bạn? Các bạn bảo rằng đó là nghiệp nhân quả đời trước của đức Phật ngày nay đức Phật phải trả. Các bạn đừng nói vậy, nói như vậy là các bạn không hiểu đạo Phật. Đạo Phật là đạo chuyển nhân quả như trên đã nói. Do chuyển nhân quả mới làm chủ được sanh, già bệnh, chết. Chuyển nhân quả nên đức Phật mới có đầy đủ trí tuệ thấy biết loại mộc nhĩ ăn vào sẽ chết, cho nên mới cản ngăn không cho chúng Tăng ăn. Tại sao đức Phật không bảo Cunda bỏ những thực phẩm có nấm độc này đừng cho mọi người ăn trong đó có cả đức Phật. Chỉ cần bảo như vậy thì đức Phật mới là người trí tuệ và thể hiện đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.  

Tu như Phật đã làm chủ được nhân quả, làm chủ được đau bệnh. Như đoạn kinh trên nói đức Phật đau gần như chết, thế mà đức Phật đẩy lui được bệnh khổ ra khỏi thân trong sức tỉnh giác chánh niệm của pháp môn Tứ Niệm Xứ. Làm chủ bệnh được như vậy, thế mà món thực phẩm nấu với loại nấm độc này không đổ bỏ đi được sao? Người tu hành chưa chứng đạo đọc đến đoạn kinh này họ có nhiều nghi vấn nhưng không biết hỏi ai mà thôi. Nếu hỏi các thầy Đại Thừa và các Thiền Sư Đông Độ thì họ bảo rằng: “Chẳng muội nhân quả” như Tổ Bách Trượng đã dạy trong câu chuyện “Bách Trượng dã hồ

Tóm lại đoạn kinh này do các Tổ biên soạn viết ra để thêm vào trong kinh Đại Bát Niết Bàn thuộc kinh sách Nguyên Thủy để nói lên thuyết nhân quả định mệnh là của Phật giáo Đại Thừa. Nhưng thuyết nhân quả định mệnh này là của Bà La Môn Ấn Độ và của Thiền Tông Trung Hoa. Người tu hành dù có chứng đạo cũng không làm chủ nhân quả, chỉ chẳng muội nhân quả mà thôi. Đó là các nhà Đại Thừa không hiểu luật nhân quả thiện pháp chuyển ác pháp nên tưởng ra thuyết định mệnh nhân quả, khiến cho biết bao nhiêu người hiểu sai lạc. Vì hiểu như vậy nên các Tổ mới biên soạn viết đoạn kinh trên đây để thêm vào làm cho sáng tỏ thuyết định mệnh, nhưng không ngờ vô tình lại phỉ báng Phật.

Tóm lại đoạn kinh trên đây không phải Phật thuyết mà do các Tổ thuyết. Cho nên đoạn kinh này hoàn toàn mâu thuẫn với tinh thần giáo pháp của Phật. 

Xin các bạn lưu ý mà hãy cảnh giác những đoạn kinh như vậy thường xen vào kinh sách Nguyên Thủy để dìm Phật giáo.

TẨM LIỆM 500 LỚP VẢI

Lời Phật dạy (?): “Rồi những người Mallà ở Kusinara vấn tròn thân Thế Tôn với vải mới, sau khi vấn vải mới xong, lại vấn thêm với vải gai bện. Sau khi vấn với vải gai bện lại vấn thêm với vải mới và tiếp tục như vậy cho đến 500 lớp cả hai loại vải”.

                                                                               (Kinh Trường Bộ tập I trang 675 kinh Đại Bát Niết Bàn)

Chú giải: 

Đọc đoạn kinh này chúng ta thấy rất vô lý, khi sống đức Phật giữ hạnh ba y một bát, thiểu dục tri túc, lượm vải bỏ làm y áo mặc, đến khi chết thì lại tiêu phí một cách ghê gớm. Một thân Phật như vậy làm sao quấn 500 lớp vải. Năm trăm lớp vải là một đống vải ghê gớm. Chúng tôi không thể nào tưởng tượng được một vị Phật thường tuyên bố, thân ngũ uẩn này là bất tịnh, là vô thường, là khổ đau, là một vật không có giá trị, là một vật đồ bỏ, thế mà khi chết phải tẩm liệm như một nhà vua. Đời sống của Phật thì xả thân cầu đạo, xả phú cầu bần, đến khi chết thì xem thân quý trọng như thân của một hoàng đế (Chuyển Luân Thánh Vương). Những việc làm này có đúng mục đích xả phú cầu bần của đạo Phật không? 

Xin thưa cùng các bạn! Các bạn hãy cùng chúng tôi vào Niết-bàn hỏi Phật. Đoạn kinh này có phải Phật dạy cách tẩm liệm Phật như vậy không? Hay đời sau bày vẽ rồi gán cho Phật. Một bài kinh mà viết như vậy có đúng là kinh sách của Phật không? Đạo Phật là đạo buông xả, buông xả sao mà dính mắc như vậy, chết phải làm đám tang như vậy. Cách thức an táng này không đúng tinh thần xả phú cầu bần của Phật giáo chút nào. Vậy đoạn kinh này ai đã thêm vào? Đoạn kinh này đã làm mất ý nghĩa giải thoát của đạo Phật.

Xin các bạn lưu ý: “Đừng có tin! Đừng có tin vào kinh sách…”. Đó là lời dạy của đức Phật đã nhắc nhở chúng ta. Các bạn còn nhớ không? Đem vải vấn thân Phật 500 lớp là một hành động phí phạm mồ hôi nước mắt của loài người quá lớn. Đây là một hành động của vua chúa, chứ không phải là một hành động của một bậc Thánh A-la-hán đã ra khỏi thế gian đầy ô nhiễm và uế trược này. Đạo Phật sống xả bỏ thân mạng này xem nó như là một ổ bệnh tật, như là một nghiệp khổ đau, như là một vật đáng ném bỏ như chiếc giày rách.

Thưa các bạn! Những người còn đầu óc phong kiến, tư tưởng giai cấp thống trị của vua chúa mới có sự chết tẩm liệm thi hài như vậy. Còn đức Phật là một nhà cách mạng tư tưởng ban bằng giai cấp thống trị xã hội thì không lý nào khi chết Ngài còn theo tục lệ của vua chúa tẩm liệm hay sao? Như vậy chúng ta đều biết tư tưởng của đức Phật là tư tưởng vô giai cấp, sống bình đẳng. Mọi người đều có quyền sống tự do bình đẳng như nhau, không ai được quyền xem nhẹ người khác. Thế mà việc tẩm liệm thân đức Phật không còn bình đẳng nữa. Như vậy các bạn đọc đoạn kinh này có thấy đúng là lời Phật thuyết chăng?

Đọc đoạn kinh này chúng tôi thấy rằng: Đây là các Tổ viết ra rồi đưa vào để làm cho kinh sách Phật mất tư tưởng vô giai cấp, biến giáo pháp của Phật mất giá trị nhân bản - nhân quả sống không còn bình đẳng, luôn luôn làm khổ mình khổ người. Đoạn kinh này đã phỉ báng Phật giáo quá nặng, không còn có hành động nào phỉ báng hơn.

Thưa các bạn! Những điều chúng tôi ghi nhận ra đây mong các bạn lưu ý: Tất cả kinh sách Phật hiện giờ số kinh sách phát triển Đại Thừa chúng tôi không nói đến vì kinh sách Đại Thừa hoàn toàn không phải Phật thuyết. Chúng tôi nói ở đây là chỉ nói đến những kinh sách Nguyên Thủy. Vậy mà các Tổ còn dám thêm bớt rất nhiều làm sai lệch lời dạy của đức Phật, khiến cho người sau nghiên cứu đều phải nghi ngờ, nhưng không nói ra.

Điều chắc chắn là những giáo pháp của Phật hiện giờ, nếu không có người tu chứng chân lí thì không tài nào hiểu được những điều sai trái trong kinh sách Nguyên Thủy. Còn kinh sách Đại Thừa thì chúng tôi xin miễn bàn. Nếu các bạn không tin lời chúng tôi mà cứ dựa vào những kinh sách phát triển Đại Thừa tu tập để đến nơi đến chốn thì điều đó không thể xảy ra giải thoát sinh tử luân hồi được.

XÁ LỢI CHỈ LÀ NHỮNG XƯƠNG VỤN

Lời Phật dạy: “Dân chúng Mạt la bảo nhau: Ngọn lửa cháy mạnh quá khó dập tắt, e cháy tiêu hết xá lợi! Chúng ta phải lấy nước ở đâu để tưới? Lúc đó có một vị thần Ta La hết lòng tin Phật đang hầu một bên, dùng thần lực làm tắt ngọn lửa”.

                                                                           (Kinh Trường A Hàm tập 1 trang 228-229 kinh Du Hành)

Chú giải: 

Đọc đoạn kinh này chúng ta thấy rõ ràng xá lợi chỉ là những mảnh xương vụn đốt cháy còn lại, chứ không phải do tu tập thiền định mà tủy trong thân đông lại thành xá lợi. Khi thân tứ đại của Phật đốt cháy thì người ta phải tưới nước hoặc dùng thần lực làm cho tắt lửa để lấy được xá lợi, chia cho tám nước xây tháp thờ, như vậy rõ ràng là những mảnh xương chưa cháy hết còn vụn nhờ tạt nước mới tắt lửa.

Như vậy xá lợi là những mảnh xương vụn chưa cháy hết thì đâu có gì quý báu như các Tổ đã tán dương xá lợi, nào là do tu thiền định mới có; nào là do tu chứng quả mới có. Như vậy đức Phật có chứng đạo không, mà phải tạt nước tắt lửa để lấy xá lợi. Chứng đạo như các Tổ thì cần gì phải tát nước, xá lợi của các Tổ làm sao cháy được?

Kính thưa các bạn! Trong cuộc đời này có nhiều người dựa lưng vào tôn giáo bày vẽ ra đủ điều để lừa đảo mọi người bằng cách tạo ra những hiện tượng siêu hình hoặc nói úp úp mở mở làm như vậy để mọi người biết đó là chân lý, đó là linh thiêng của Thần, Thánh, Tiên, Phật, quỷ, ma v.v... Với mảnh xương vụn uế trược bất tịnh đã trở thành những vật quý báu vô giá. Thật là buồn cười cho những ai có mắt như mù không thấy như thật. Thật đáng thương!

 
 

 

138-CÓ PHÁP VÀ LUẬT MỚI TU TẬP LÀM CHỦ SINH TỬ ĐƯỢC. TL Thích Thông Lạc.

PHÁP VÀ LUẬT LÀ VỊ ĐẠO SƯ

Lời Phật dạy: “Này Ananda, nếu trong các ngươi có người nghĩ rằng: “Lời nói của bậc Đạo sư không còn nữa, chúng ta không có Đạo sư. Này Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy. Này Ananda, pháp và giới luật Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ chính pháp và giới luật ấy sẽ là Đạo Sư của các ngươi”.

                                                                              (Trường Bộ Kinh tập I trang 662 kinh Đại Bát Niết Bàn)

Chú giải:

Lời di chúc trên đây là một lời tâm huyết nhất của đức Phật đối với các đệ tử của mình. Lời di chúc này muôn đời muôn kiếp, bao nhiêu thế hệ về sau, nếu ai còn theo Phật giáo tu hành thì lời di chúc này phải mãi mãi được ghi khắc trong tâm “Giới Luật Và Giáo Pháp Là Thầy Của Chúng Ta”. Cho nên lúc nào chúng ta cũng có bậc Đạo sư chỉ dạy tu hành không sợ sai đường lạc lối.

Bậc Đạo sư ấy không bao giờ có tưởng giải, kiến giải làm sai lệch giáo pháp của Phật; bậc Đạo sư ấy là Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo là kim chỉ nam. Như đoạn kinh trên đức Phật đã dạy: “Giáo pháp và giới luật nào có Bát Chánh Đạo mới là giáo pháp và giới luật của Ta, còn ngoài ra là không phải”. Bởi vậy Bát Chánh Đạo là chương trình giáo dục đào tạo những bậc A-la-hán, đó là bậc Đạo sư của bao nhiêu thế hệ con người về sau.

PHẠM HẠNH CỦA ĐỨC PHẬT

Lời Phật dạy: “Này Ananda, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng hay ngoài trời, đống rơm. Trong khi Ngài sống viễn ly như vậy, các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh, được bao vây xung quanh như vậy, Ngài không khởi lên nhiễm tâm, không rơi vào dục vọng, không khởi lên tham ái, không trở lui lại đời sống sung túc”.

                                                                                      (Kinh Trung Bộ tập III trang 313 kinh Đại Không)

Chú giải: 

Đây là gương hạnh của đức Phật, chúng ta hãy theo gương Ngài mà giữ gìn Phạm hạnh cho trọn vẹn, không rơi vào dục vọng, không khởi lên tham ái, không trở lui lại đời sống sung túc.

Các bạn hãy lưu ý câu: “Không trở lui lại đời sống sung túc”. Lời dạy này thấm thía lắm các bạn ạ! Các thầy Đại Thừa và Thiền Tông hiện giờ có trở lui lại đời sống sung túc không? Thưa các bạn! Khi mới vào chùa tu thì một đồng cũng không có mà chẳng có ai biết đến mình cả. Lúc bấy giờ tu hành rất tốt, tối ngày chỉ có tu tập là tu tập. Nếu tu tập đúng pháp thì lúc bấy giờ dễ thành công, dễ đạt đến sự giải thoát. Nhưng khi đi ra lãnh chùa làm trụ trì thì các bạn nên lưu ý theo gương hạnh của đức Phật mà cố gắng giữ gìn Phạm hạnh cho tốt, đừng để tâm rơi vào dục vọng, đừng để tâm khởi lên tham ái, đừng để tâm trở lui lại đời sống sung túc.

Trong đoạn kinh dạy: “Các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Được bao vây xung quanh như vậy, Ngài không khởi lên nhiễm tâm, không rơi vào dục vọng, không khởi lên tham ái, không trở lui lại đời sống sung túc”. Mặc dù được mọi người vây quanh, được cung kính, được cúng dường rất đầy đủ, nhưng đức Phật không nhiễm, không tham danh đắm lợi, nên nhất quyết không trở lui lại đời sống sung túc. Đó là điều nhắc nhở chúng ta rất lớn.

Vậy trên đường tu tập để tìm cầu sự giải thoát, mong các bạn ghi khắc lời dạy này trong tâm đừng quên. Nếu các bạn không giữ gìn trọn vẹn Phạm hạnh, trở lại thọ hưởng đời sống sung túc như các thầy Đại Thừa và Thiền Tông thì sự phiền lụy sẽ đưa đến các bạn và từ đó các ác bất thiện pháp, tạp nhiễm dẫn đến tái sanh, đáng sợ hãi, dẫn đến quả khổ, đưa đến sanh, già, bệnh, chết trong tương lai, các ác pháp ấy sẽ tấn công các bạn đấy.

Các bạn có thấy chăng? Nhìn gương xấu của các thầy Đại Thừa và Thiền Tông họ đang bị danh lợi và các ác pháp như sanh, già, bệnh, chết đang tấn công họ. Tiền tài danh lợi vật chất, chùa to, Phật lớn đang nhận chìm họ xuống biển khổ. Họ đâu còn một phút giây giải thoát đâu, họ đang đi dần về phía đắm nhiễm dục và ác pháp một cách không thể dừng được. Cho nên các vị tu sĩ Đại Thừa đã bỏ giới luật, không sống như Phật, không noi theo gương hạnh Phật, do đó giặc sanh tử sẽ đón các vị ấy vào cảnh khổ mà không bao giờ thoát khỏi.  

Các bạn hãy nghe tiếp lời đức Phật dạy: “Nhưng này Ananda, vị đệ tử của bậc Đạo sư chú tâm theo hạnh viễn ly của Bậc Đạo sư, bắt chước dựa vào một trụ xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng, ngoài trời, trên đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy, các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh, vị ấy khởi lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lại đời sống sung túc. Như vậy, này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của các đệ tử của Ta, vì sự phiền lụy của các vị tu Phạm hạnh, vì sự phiền lụy của Phạm hạnh các ác bất thiện pháp, tạp pháp dẫn đến tái sanh đáng sợ hãi, đưa đến khổ quả, dẫn đến sanh, già, bệnh, chết trong tương lai. Các pháp ấy tấn công vị ấy. Như vậy, này Ananda là sự phiền của các vị tu Phạm hạnh”.

Đoạn kinh này đức Phật cảnh giác cho những người tu hành chưa tới nơi tới chốn vội đi ra làm Phật sự, làm trụ trì. Tu hành như vậy chỉ uổng công, uổng phí cho một đời người mang tiếng là tu sĩ, chứ sự thật họ chỉ là một ông từ, hay là một bà từ giữ chùa để phục vụ cho một số tín đồ mê tín còn lạc hậu.

LÀM TRỤ TRÌ NÊN CẢNH GIÁC

Lời Phật dạy: “Này Ananda, như thế nào là sự phiền lụy cho vị Đạo sư? Ở đây, này Ananda, có Đạo sư lựa một trụ xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi chỗ hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng, ngoài trời hay trên một đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy. Các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Vị ấy khởi lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lui lại đời sống sung túc. Như vậy, này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của vị Đạo sư. Vì sự phiền lụy của đạo sư, các ác bất thiện pháp tạp nhiễm, dẫn đến tái sinh, đáng sợ hãi, đưa đến khổ quả, dẫn đến sanh, già, bệnh, chết trong tương lai, các pháp tấn công vị ấy. Như vậy, này Ananda, là sự phiền lụy của vị Đạo sư.”

                                                                              (Kinh Trung Bộ tập III trang 311 kinh Đại Không)

Chú giải:

Đọc đoạn kinh trên đây các bạn nên lưu ý: Một vị thầy đừng nên ham thích làm trụ trì, lãnh chúng. Vì làm trụ trì, lãnh chúng là làm dâu trăm họ, khó lắm các bạn ạ! Làm trụ trì lãnh chúng, khi tu hành chưa tới nơi tới chốn, dễ bị ô nhiễm, tâm dễ rơi vào dục vọng thường khởi lên nhiều tham ái, do đó mà người làm trụ trì dễ bị phá hết giới luật, sống trở lui lại đời sống sung túc dục lạc. Phạm hạnh không còn, các ác bất thiện pháp tấn công, tạp nhiễm dẫn đến tái sanh. Đáng sợ hãi nhất là đưa đến quả khổ, dẫn đến sinh, già, bệnh, chết.

Xét qua lời dạy này các bạn có thấy các thầy trụ trì ở các chùa không? Phật tử đông. chùa to, Phật lớn là sự phiền lụy của các vị thầy trụ trì đó. Họ đâu còn thì giờ để tu hành, chỉ còn chạy theo dục lạc ăn ngủ phi thời. Có phải vậy không các bạn? Họ không còn có thời giờ tu tập để đi đến chỗ rốt ráo được khi mà bận chuyện phục vụ cho phật tử. Thật là uổng phí cho một đời tu hành. Khi đi tu để tìm cầu sự làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi, thì các bạn nên lưu ý đọc kỹ lại bài kinh này đức Phật đã biết rõ sự đắm nhiễm danh và lợi, nên Ngài tuyên bố những lời dạy này là vì lòng thương tưởng đến những người sau.

Cho nên hiện giờ khi các bạn có danh, có lợi là các bạn nên ẩn bóng. Ẩn bóng để lập đức, lập hạnh và tu hành cho trọn vẹn hơn. Muốn được vậy thì các bạn nên tránh xa danh lợi. Danh lợi không đâu xa, đó là chùa to Phật lớn. Chùa to Phật lớn, phật tử đông là một tai họa rất lớn cho sự nghiệp tu hành của các bạn đấy. Chùa to Phật lớn là rắn độc, nó sẽ giết chết các bạn trên đường tu tập mà các bạn cần phải cảnh giác, đừng tham đắm nó các bạn ạ! Các bạn có thấy các thầy Đại Thừa không? Họ là hiện thân chạy theo dục lạc trong Phật giáo các bạn có biết không? Đời tu hành của họ để tìm cầu sự giải thoát đến đây là chấm dứt.

Cho nên người tu hành phải lập hạnh, lập đức cho rõ ràng như lời Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không nhà cửa, sống chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ý nghĩ, bằng lòng tối thiểu về ăn uống, y áo, hoan hỷ sống một mình, thiểu dục tri túc, ba y một bát, chấp nhận đời sống du tăng, xin ăn ngày một bữa để sống, để tu hành”. Nếu con đường tu tập theo Phật giáo mà các bạn bỏ hạnh tu tập này thì các bạn không còn xứng đáng là đệ tử của Phật, mà là đệ tử của ngoại đạo, của Bà-la-môn. Các bạn có biết không? Hiện giờ nhìn lối sống của các tu sĩ là chúng ta đã biết ngay họ là những tu sĩ của Bà-la-môn, chứ không phải là tu sĩ của Phật giáo. Vì thế tu sĩ thời nay tu tập mà làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì không bao giờ có được. Nhìn vào giới luật đức hạnh của họ thì biết họ là người chân tu hay giả tu.

Bài kinh trên đây là sự cảnh giác cho quí vị làm trụ trì. Quí vị vì giải thoát cho kiếp đời tu hành của mình hay vì danh lợi tôn giáo chùa to, Phật lớn, phật tử đông. Xin các vị hiểu thấu rõ cho những điều này. Vì lợi ích mà chúng tôi đem bài kinh này ra chú giải là có mục đích kêu gọi các bạn hãy xem lại mình đừng bỏ lỡ một đời người mang tiếng tu hành theo Phật giáo mà cuối cùng chỉ còn hai bàn tay không mà mang đầy tội lỗi cao như núi như non.

KINH PHẬT MÀ HIỂU SAI NGHĨA LÀ MỘT TAI HẠI LỚN

Lời Phật dạy: “Chư tỳ-kheo, ở đây có một số người ngu si học pháp như kinh Ứng Tụng, Giải Thuyết, Kệ Tụng, Cảm Ứng Ngữ, Như Thị Ngữ, Bổn Sanh, Vị Tăng Hữu Pháp, Phương Quảng. Sau khi học các pháp này, họ không quán xét ý nghĩa những pháp ấy, vì ý không được trí tuệ quan sát, nên không trở thành rõ ràng. Họ học pháp chỉ vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, chỉ vì lợi ích, muốn cho khoái khẩu biện luận, và họ không đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy vì nắm giữ sai lạc nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài.

Vì sao vậy? Này các tỳ-kheo, vì nắm giữ sai lệch các pháp. Chư tỳ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước. Người đó thấy một con rắn nước lớn và người đó bắt con rắn ấy ở lưng hay ở đuôi, con rắn ấy có thế quay lại cắn người đó nơi tay, nơi cánh tay hay ở một phần nào khác nữa của cơ thể và người đó có thể do nhân này mà bị chết hay bị đau khổ gần như muốn chết. Vì sao vậy? Chư tỳ-kheo, vì nắm bắt con rắn sai lệch. Cũng vậy, này các tỳ-kheo, ở đây một số người ngu si học pháp … Chư tỳ-kheo vì sự chấp thủ các pháp sai lạc.”

                                                                                   (Kinh Trung Bộ tập I trang 303 Kinh Dụ Con Rắn)

Chú giải: 

Kinh sách Phật thuyết chỉ có những người tu chứng mới hiểu nghĩa lý cụ thể rõ ràng. Tại sao vậy? Phật là người tu chứng đạo, Ngài thuyết pháp là nói pháp chứng đạo, cho nên người có chứng đạo mới hiểu nghĩa, còn những người tu chưa chứng thì không bao giờ hiểu được, do đó có một số người chưa có kinh nghiệm tu chứng đạo, cứ ở trên chữ nghĩa kinh sách của Phật mà thuyết giảng khiến cho mọi người hiểu biết sai lạc rất lớn. Do sự hiểu sai lạc rất lớn này mới tưởng giải thành những bộ kinh phát triển Đại Thừa Phật giáo. Cho nên kinh sách phát triển Đại Thừa Phật giáo là những kinh sách tưởng do các thầy Tổ tu hành chưa tới đâu, do sự tham danh, đắm lợi biên soạn và viết ra những kinh sách này làm sai lạc ý nghĩa của Phật giáo.

Cho nên bài kinh Ví Dụ Con Rắn để mọi người cảnh giác về kinh sách Đại Thừa. Nó là một loại kinh không phải Phật thuyết, do các Tổ hiểu chữ nghĩa sai lạc biên soạn viết ra. Khi tu hành những pháp này giống như người bắt rắn mà không biết cách thức bắt rắn nên nắm lưng và đuôi rắn, chắc chắn sẽ bị rắn cắn chết. Giáo pháp Đại Thừa tu tập cũng vậy. Cũng giống như người bắt rắn. Cho nên các thầy tu tập theo Đại Thừa tuy có quyết tâm tu tập, nhưng không thấy thầy nào tránh khỏi bệnh, làm chủ bệnh, có người tu tập bị loạn thần kinh, điên khùng, mất trí nhớ, rất là tội nghiệp. Như trong kinh dạy: “Những pháp ấy vì nắm giữ sai lạc, nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài”.

Còn một số tu sĩ theo Phật giáo tu học nhưng không cầu giải thoát mà chỉ cầu danh, cầu lợi. Vì thế họ không có tu hành gì, chỉ lo nghiên cứu kinh sách để lấy đó chỉ trích người khác, thích biện luận hơn thua. Các bạn có thấy các thầy Đại Thừa thường sống như vậy không? Đây các bạn hãy nghe đức Phật dạy: “Họ học pháp chỉ vì lợi ích muốn chỉ trích người khác, chỉ vì lợi ích khoái khẩu biện luận”. Các bạn có thấy không? Lời dạy trên đây của Phật rất đúng, người ta tu học theo Phật giáo là để khoái khẩu biện luận và chỉ trích người này, người khác.

Kính thưa các bạn! Khi tu học chúng ta chọn lấy những pháp môn nào mà đã có người tu chứng thật sự, làm chủ được sự sống chết thì các bạn mới theo tu học, còn những pháp nào chỉ lý thuyết suông mà chưa có người nào tu chứng thì nên cảnh giác những loại pháp đó, nó là pháp như con rắn độc, nó sẽ cắn các bạn đấy!

Các bạn hãy nghe đức Phật dạy: “Vì sao vậy?” Chư tỳ-kheo vì nắm bắt con rắn sai lạc, nên bị nó cắn. Cũng vậy, này các tỳ-kheo. Ở đây một số người ngu si học pháp… Chư tỳ-kheo vì bị chấp thủ các pháp sai lạc, nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài”.  

Tu hành đã không giải thoát mà còn bệnh tật khổ đau. Bài kinh Dụ Con Rắn là một bài kinh cảnh giác các bạn, khi muốn tu tập một pháp nào thì các bạn phải nghiên cứu cho kỹ, đừng vội vàng tin theo lời nói của các nhà học giả mà phí một cuộc đời mình khi đau ốm mình chịu đau không ai chịu đau thay cho mình. Cho nên nghiên cứu kinh Phật mà hiểu sai nghĩa là một tai hại rất lớn cho con đường tu hành của các bạn. Các bạn cần phải cảnh giác những thầy học giả.

TỰ TẠI SANH TỬ

Lời Phật dạy: “Này các tỳ-kheo, tỳ-kheo có đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí, đầy đủ trí tuệ. Vị ấy nghĩ: “Mong rằng với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí Ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát vô lậu!” Vị ấy với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu. Này các tỳ-kheo, các tỳ-kheo này không sinh ra một nơi nào, không sinh ra một chỗ nào”.

                                                                                (Kinh Trung Bộ tập III trang 289 kinh Đại Hành Sanh)

Chú giải:

Kinh Đại Hành Sanh là một bài kinh mà đức Phật đã xác định vị trí thế đứng vững chắc giáo pháp của mình là sự an trú trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu. Mục đích giải thoát là phải tu tập đến chỗ tâm vô lậu này thì không còn tái sanh, dù bất cứ nơi đâu. Cho nên đường lối của đạo Phật đã xác định rõ ràng khi đạt đến mục đích này không sanh nơi nào, không có chỗ nào để tái sanh. Bài kinh này xác định rõ đạo Phật không có cảnh giới nào để sinh: “Tỳ-kheo này không sinh một nơi nào, không sinh ra một chỗ nào?” Như vậy cảnh giới Niết-bàn, Cực Lạc, Phật tánh không phải là chỗ của Phật đến.

Trong kinh Đại Hành Sanh đức Phật đã đưa ra từ cõi người làm vua chúa cho đến 33 cõi Trời, không có cõi nào là chỗ đức Phật đến. Chỗ đức Phật đến chỉ là nơi tâm vô lậu. Chỗ tâm vô lậu là chỗ bất sanh, bất diệt: “Mong rằng với sự đoạn tận các lậu hoặc”. Như vậy rõ ràng những gì kinh sách Đại Thừa xây dựng lên mọi cảnh giới đều không đúng nơi đức Phật đến. Nếu người có trí một chút đọc đoạn kinh này là biết rõ mình tu đến đâu, còn tái sanh hay đã hết tái sanh. Và còn tái sanh về đâu, nơi đâu, đều biết rõ ràng. Tâm nguyện của người tu sĩ Phật giáo không cầu về cõi Cực Lạc Tây phương, Niết-bàn, hay Kiến Tánh thành Phật, hoặc trở về với Bản Thể Chân Như. Mục đích của người tu sĩ Phật giáo là phải chứng đạt được Tâm Vô Lậu. 

Vậy tâm vô lậu là gì? Tâm vô lậu là tâm không còn khổ đau phiền não, lo lắng, sợ hãi, tức giận, than khóc v.v… Tâm vô lậu là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, là tâm không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, là tâm không còn dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Vì thế, sự tu tập của đạo Phật rất rõ ràng là nhắm vào chỗ đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, đem lại sự thanh thản, an lạc và vô sự cho một thân tâm giải thoát. Đối tượng sự tu tập giải thoát của Phật giáo là tâm lậu hoặc, tâm lậu hoặc sạch là các bạn đã tu tập xong, chứ không phải đợi kiến tánh thành Phật hoặc chứng quả vị này quả vị khác. Hoặc sinh về cõi này, cõi kia hoặc nhập vào bản thể vạn hữu.  

Kính thưa các bạn! Tất cả những quả vị từ xưa đến nay trong các kinh sách Đại Thừa đã xây dựng, đó là những cảnh giới không thực tế, mơ hồ, trừu tượng, ảo giác để lừa đảo mọi người. Còn mục đích của đạo Phật xác định rất rõ ràng và cụ thể. Hôm nay chúng tôi xin xác quyết rõ ràng để các bạn tu tập cho cụ thể không còn hiểu biết một cách mơ hồ, và không còn sống trong những cảm giác ảo tưởng cõi này, cõi kia nữa.

Kính thưa các bạn! Các bạn có biết tâm vô lậu là gì không?

- Khi nào người ta chê bạn, nói xấu, mạ lị, mạt sát, chửi mắng bạn, mà tâm bạn vẫn thản nhiên không buồn giận hờn, không oán ghét v.v… đó là tâm vô lậu.

- Khi nào bạn không thương, không ghét một người nào, không sợ hãi, lo lắng sống luôn luôn thanh thản, an ổn và không có một chướng ngại gì trong tâm các bạn, đó là tâm vô lậu.

- Khi nào tâm các bạn không còn tham muốn một vật gì, dù đó là một món ăn rất ngon, rất thích khẩu của các bạn, nhưng các bạn cũng thản nhiên không thèm, không ham thích muốn ăn. Có thì ăn, không có ăn thì thôi, đó là tâm vô lậu.

- Khi nào các bạn thấy sự lười biếng, hôn trầm, thùy miên không còn tấn công các bạn, khi các bạn muốn thức dù bất cứ giờ nào, các bạn cũng đều tỉnh thức, đó là tâm vô lậu của các bạn.

- Khi nào tất cả mọi cảm thọ đến với bạn mà tâm bạn không lo, không sợ hãi thì đó là tâm vô lậu.

- Khi nào tất cả mọi pháp làm động khiến tâm các bạn bất an, nhưng các bạn vẫn thản nhiên, với tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì đó là tâm vô lậu.

Khi nào các bạn nhận xét thấy rõ ràng tâm mình được như vậy là các bạn đã tu xong, tức là các bạn đã chứng đạt chân lí, nếu còn chưa được như vậy thì các bạn phải tác ý để tâm các bạn bất động, tức là các bạn còn đang hộ trì chân lí, đó là các bạn còn tu tập. Như vậy chỗ tu tập còn hay đã xong là các bạn đều biết rất rõ ràng.

Tâm vô lậu bất động là chỗ các bạn an trú trong khi các bạn còn sống cũng như lúc các bạn đã chết. Tâm hữu lậu chưa bất động là không phải chỗ các bạn an trú. Mà nếu các bạn an trú nơi đó thì các bạn phải chịu nhiều đau khổ. Muốn không an trú chỗ tâm hữu lậu thì các bạn phải tu tập nhiều nữa. Như vậy chỗ tu tập để chứng đạt chân lí của Phật giáo không phải khó khăn, chỉ có tu tập đúng pháp thì tâm lậu hoặc sẽ được diệt sạch. Tâm diệt sạch lậu hoặc là chỗ an trú của Phật. Xin các bạn lưu ý những lời dạy này.

139-ĐỆ NHẤT PHÁP KHÔNG PHÓNG DẬT. TL Thích Thông Lạc

GIỚI LUẬT LÀ VỊ THẦY ĐƯỢC ĐỨC PHẬT DI CHÚC.

                                                                                                                                       Viên Minh hỏi đạo

 

Hỏi: Kính thưa Thầy, Hòa Thượng chủ trương Thiền tông, Thầy chủ trương Thiền giới, định, tuệ, con đường Thầy đi là con đường ngày xưa đức Phật đã đi. Thưa Thầy, người kế vị đức Bổn Sư đầu tiên là vị tổ nào? Rồi đến thầy tổ thứ mấy? Thỉnh Thầy dạy cho con rõ?

Đáp: Tất cả đệ tử của đức Phật toàn là đạt được đạo theo khả năng chuyên môn của mình.

Ví dụ: Ngài Đại Ca Diếp chuyên về hạnh đầu đà (đệ nhất đầu đà)
            Ngài Mục Kiền Liên chuyên nhất về thiền định (đệ nhất thần thông).
            Ngài Ưu Ba Li chuyên nhất về giới luật (đệ nhất giới luật).
            Ngài Xá Lợi Phất chuyên nhất trí tuệ (đệ nhất trí tuệ).

Vì thế, đệ tử của đức Phật không có người nào toàn diện đầy đủ oai lực, thần lực, tuệ lực, v.v.. nên không đủ khả năng thừa kế Phật để nắm giềng mối đạo Phật.

Cho nên, đức Phật di chúc lại người có đủ oai thần, oai lực thừa kế Phật làm Thầy trời, người và các vị tỳ kheo sau này là: “GIỚI LUẬT”. Giới luật là vị tổ đầu tiên và cũng là vị tổ cuối cùng. Ai theo đạo Phật là phải theo sự hướng dẫn của vị tổ này, làm sai lời dạy của vị tổ này, kẻ đó không phải đệ tử của Phật.

Thầy tu theo đạo Phật là do vị tổ này hướng dẫn, con tu theo đạo Phật cũng do vị tổ này hướng dẫn, như vậy Thầy không phải là người thừa kế để làm tổ thứ mấy của đạo Phật.

Từ khi đức Phật thị tịch đến giờ chúng ta đều là học trò của vị tổ này và mai sau tất cả những người tu theo đạo Phật đều lấy vị tổ này làm Thầy. Nếu Thầy không lầm trong một bài kinh nào đó Thầy đã được đọc, chính vị tổ này cũng là Thầy của đức Phật.

Như vậy Phật và chúng ta đều nương theo vị Thầy này mà tu tập đến giải thoát. Còn 33 vị tổ sư Thiền Đông Độ là một sự truyền thuyết huyền thoại của người sau bịa đặt ra, may mà kinh sách Phật còn ghi chép lại rõ ràng lời di chúc. Nếu không thì bây giờ chúng ta phải tin mà thôi.

Giả dụ nếu có sự truyền thừa từ đức Phật đến các tổ sau này chắc chắn thì con đường của đạo Phật đã mất gốc từ lâu. Không có sự truyền thừa mà các tổ còn bịa ra được, còn thay đổi giáo lý của Phật, huống là có sự truyền thừa thì sự thay đổi ấy phải gấp trăm ngàn lần hơn, thì Phật giáo hiện giờ trở thành ma giáo.

PHÁP MÔN NHƯ LÝ TÁC Ý

Lời Phật dạy: “Này các thầy tỳ-kheo, do không Như lý Tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng”.

“Này các thầy tỳ-kheo, do Như lý Tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh được đoạn trừ.”

Chú giải:

Đệ nhất pháp diệt lậu là pháp môn Như lý Tác ý. Người ở đời do không biết pháp môn như lý tác ý này nên khổ đau phiền não dẫy đầy. Người tu hành theo Phật giáo nhờ pháp như lý tác ý mà tâm được an vui, thanh thản và vô sự, sống một đời sống tràn đầy hạnh phúc, không một ác pháp nào tác động được vào tâm.

Lời dạy thứ nhất đức Phật nói: “Này các tỳ-kheo, do không như lý tác ý, các sự đau khổ chưa sanh được sanh khởi và các sự đau khổ đã sanh được tăng trưởng”. Đúng vậy, nếu các bạn hằng ngày không theo pháp như lý tác ý ly tham, đoạn ác pháp thì chắc chắn các bạn sẽ không tránh khỏi sự khổ đau. Ngược lại, nếu các bạn hằng ngày theo pháp như lý tác ý ly tham, đoạn ác pháp, thì chắc chắn các bạn sẽ vượt ra khỏi mọi sự khổ đau. Đó là sự giải thoát của Phật giáo. Từ nơi đó các bạn chứng quả A-la-hán. Các bạn có tin điều này không?

Các bạn cứ thực hiện ngay liền sẽ thấy kết quả một cách cụ thể thực tế. Phật pháp không dối người. Pháp môn như lý tác ý lợi ích như vậy, xin các bạn hãy siêng năng tập luyện. Sự an vui, hạnh phúc trong tầm tay các bạn, quả A-la-hán không xa đâu các bạn ạ! Nếu các bạn xem thường nó thì cuộc sống của các bạn chắc chắn khổ nhiều, vui ít. Những lời dạy ngắn gọn nhưng kết quả giải thoát không lường được, một giá trị pháp môn tu hành cao nhất trong Phật giáo là diệt lậu hoặc hoàn toàn.

Cách đây 25 năm chúng tôi tu theo pháp môn tri vọng của Thiền Đông Độ, lạc vào định tưởng, tưởng chừng như mình muốn điên. Nhờ pháp môn như lý tác ý này mà chúng tôi xả được 18 loại hỷ tưởng, ổn định được thần kinh. Cuối cùng nhờ nó mà chúng tôi làm chủ được bốn sự khổ đau của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết.

ĐỆ NHẤT PHÁP CỦA PHẬT LÀ PHÁP KHÔNG PHÓNG DẬT

Lời Phật dạy: “Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, pháp không phóng dật là đệ nhất. Muốn tu pháp không phóng dật thì phải tu Tứ Ý Đoạn”.

Chú giải:

Tứ Ý Đoạn tức là Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần là pháp ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện. Trong cuộc đời tu hành theo Phật thì lúc nào, giờ nào phải thường cảnh giác ngăn và diệt các ác pháp, không cho chúng tác động vào thân, tâm. Khiến cho thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Nhờ thế mà tâm không bị phóng dật, nên đức Phật dạy: “Đệ nhất pháp tâm không phóng dật là Tứ Ý Đoạn”. Nhưng tâm không phóng dật là thành tựu đạo giải thoát, tức là viên mãn con đường tu tập. Trước khi vào Niết Bàn, Ngài di chúc lại: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”.

Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà pháp môn Tứ Chánh Cần là pháp môn đệ nhất ngăn ác diệt ác pháp khiến cho thân tâm bất động. Nhờ đó mà tiến tới các pháp cao hơn, sâu hơn. Tứ Chánh Cần là nền tảng đạo đức vững chắc nhất của Phật giáo. Cho nên muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì đức Phật đã trang bị cho chúng ta bốn loại định:

            1. Định Sáng Suốt.
            2. Định Vô Lậu
            3. Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
            4. Định Niệm Hơi Thở

Trong Định Niệm Hơi Thở có 18 đề mục tu tập (xin đọc lại Định Niệm Hơi Thở). Định Niệm Hơi Thở là một pháp môn rất quan trọng. Nó được xem như là một chiếc “chổi thần” dùng để quét tất cả các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm của Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ mà được viên mãn đều phải nhờ đến cây chổi thần này. Định Niệm Hơi Thở được ví như những loại vũ khí tối tân và hiện đại nhất để chiến đấu trong chiến trận sanh tử. Người tu sĩ Phật giáo tu tập Định Niệm Hơi Thở cũng giống như một binh sĩ được huấn luyện trong trường võ bị.

Sự quan trọng của Định Niệm Hơi Thở như vậy, nên khi tu tập theo Phật giáo phải tu tập rất kỹ lưỡng về Định Niệm Hơi Thở để cho nó có đủ năng lực đẩy lùi các chướng ngại pháp trên thân và tâm. Ông Châu Lợi Bàn Đặc suốt ngày đêm trong thất chuyên quét tâm, cuối cùng chứng quả A-la-hán. Ông A Nan đi kinh hành quét tâm suốt đêm chứng quả A-la-hán. Tóm lại quét tâm có phương pháp để tâm bất động. Tâm bất động là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật là đạt được giải thoát.

BÍ QUYẾT GIẢI THOÁT

Lời Phật dạy:

           “Bí quyết thành tựu của đạo Phật chỉ có hai điều kiện quan trọng nhất:
            1- Giữ tâm không phóng dật.
            2- Thích sống nhàn tịch, độc cư, trầm lặng một mình”.

Chú giải:

Con đường tu tập giải thoát của Phật giáo, không phải cần nhiều pháp môn, chỉ có hai pháp quan trọng nhất cho con đường tu tập này. Đó là “Giữ tâm không phóng dật và Thích sống nhàn tịch, độc cư, trầm lặng một mình”. Vậy, “Giữ tâm không phóng dật và Thích sống nhàn tịch, độc cư, trầm lặng một mình” như thế nào?

1- “Giữ tâm không phóng dật”. Các bạn đều biết những pháp môn tu tập này chứ? Đó là Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Thân Hành Niệm. Nhờ các pháp này tu tập tâm lần lượt sẽ không phóng dật. Vậy các bạn hãy cố gắng tu tập đừng biếng trễ.

2- “Thích sống nhàn tịch, độc cư, trầm lặng một mình”. Chắc các bạn đều biết những pháp môn tu tập này chứ? Đó là pháp môn phòng hộ sáu căn, pháp môn như lý tác ý.

Khi tu tập, các bạn phải thiện xảo khéo léo áp dụng đúng thời, đúng lúc thì rất hữu hiệu, đạt kết quả rất cao. Người nào tu tập thích sống nhàn tịch, độc cư, trầm lặng một mình là con đường tu tập sắp đến đích, còn ngược lại không thích sống nhàn tịch, độc cư, trầm lặng một mình, thích nói chuyện, thích tập họp thì con đường tu tập sẽ còn xa lắm, biệt mù.

Biết rõ những điều này các bạn cần lưu ý hai pháp trên đây. Vì thương xót chúng ta mà đức Phật mới nhắc nhở. Vậy chúng tôi mong các bạn cố gắng tu tập nhiều hơn nữa, để chứng minh cho các nhà Đại Thừa biết rằng chúng ta tu theo pháp thiền định của Nguyên Thủy mà kết quả rõ ràng và cụ thể.

HẠNH ĐỘC CƯ

Lời Phật dạy: “Thế Tôn nhìn chúng tỳ-kheo đang yên lặng, hết sức yên lặng, rồi hỏi các tỳ-kheo: “Ta được thỏa mãn, này các tỳ-kheo, với đạo lộ này tâm Ta được thỏa mãn, này các tỳ-kheo, với đạo lộ này hãy tinh tấn hơn nữa, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

Hội chúng này không có lời thừa thãi, không có lời thừa dư đã được an trú trong lõi cây thanh tịnh. Một hội chúng đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời”.

Chú giải:

Nhìn một số chúng đông đảo theo Phật tu hành, giữ hạnh độc cư trọn vẹn, không tụ tập nói chuyện, ai nấy cũng lo giữ gìn phòng hộ sáu căn để ly dục ly ác pháp. Nhìn thấy thế, đức Phật buột miệng ngợi khen: “Một hội chúng đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời”. Nhìn lại chúng tu hành trong tu viện Chơn Như như thế nào? Chắc các bạn đều biết rất rõ.

Thưa các bạn! Tất cả tu sĩ và cư sĩ được về Chơn Như tu tập đều đến từ các chùa Đại Thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Khất Sĩ, Mật Tông và Nam Tông. Các tu sĩ và những cư sĩ này vốn đã quen với nếp sống tại các chùa, Tịnh xá, niệm Phật đường của họ; họ thích hội họp nói chuyện, thích ăn ngủ phi thời, thích tu ức chế tâm. Đến đây tuy có tu tập, nhưng tu tập theo kiểu của họ, phá giới luật Phật và vi phạm nội quy của tu viện Chơn Như. Chúng tôi khuyên dạy hết lời họ vẫn không nghe, chứng nào tật nấy: ăn ngủ phi thời, nhất là nói chuyện, phá hạnh độc cư...

Đem so sánh hai chúng, chúng của tu viện Chơn Như và chúng trong thời đức Phật, thì chúng trong tu viện Chơn Như chỉ là những người quá vô minh, đã vào tu viện mà không chịu bỏ ngũ dục lạc thế gian thì tu tập có ích lợi gì. Vì thế chúng tôi biết rằng chúng tu tập tại tu viện Chơn Như chỉ là những tu sĩ và cư sĩ tham ăn, tham ngủ, tham nói chuyện. Vì thế họ tu ăn, tu ngủ, tu nói chuyện, v.v... mà thôi.

Sánh với các tu sĩ và cư sĩ trong thời đức Phật, thì các bạn phải tự rất xấu hổ các bạn chưa thật xứng đáng là những tu sĩ, cư sĩ của Phật giáo. Thích hội họp, thích nói chuyện là ngoại đạo của Bà La Môn.

              Con đường tu tập theo Phật giáo còn rất xa. Phải trải qua ba giai đoạn:
              Giai đoạn thứ nhất: “Để chứng đạt những gì chưa chứng đạt. (Ly dục ly ác pháp).
              Giai đoạn thứ hai: “Để chứng đắc những gì chưa chứng đắc. (Nhập Bốn Thiền).
              Giai đoạn thứ ba: “Để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. (Thông suốt Tam Minh) .

Thời nay, người tu sĩ và người cư sĩ Phật giáo chỉ tu danh, tu lợi, tu tiền, tu bạc, tu chùa to, Phật lớn… Chúng tôi chỉ mong sao tu viện Chơn Như sẽ có những người tu thật để xác định Phật giáo là ly dục ly ác pháp, chứ không phải tu ức chế tâm hết vọng tưởng như Đại Thừa, Thiền Tông, v.v...

Thưa các bậc tôn túc Hoà Thượng, Thượng Toạ, Đại đức Tăng, Ni! Sự tu tập của tu sĩ Phật giáo hiện giờ phá giới phạm giới quá lộ liễu khiến cho người cư sĩ mất hết lòng tin và họ đã cho ra đời những tác phẩm nói lên những tệ nạn rác bẩn trong Phật giáo, trong đó có một bộ sách lấy tên là “Giặc thầy chùa” ghi lại những điều dục lạc của các quí Sư, Thầy trong các hệ phái Phật giáo, thật là trơ trẽn, nhưng các Sư Thầy không biết xấu hổ. Khi được nghe và thấy như vậy không ai mà không đau lòng cho đạo Phật ngày nay. Kính mong Giáo hội Phật giáo quan tâm lưu ý để chỉnh đốn lại sự tu học của tu sĩ Phật giáo cho được tốt đẹp hơn. Nhất là giới luật phải chỉnh đốn lại ngay bây giờ.

TÂM KHÔNG PHÓNG DẬT

Lời Phật dạy: “Này các tỳ-kheo, phàm có những thiện pháp nào, tất cả những pháp ấy lấy không phóng dật làm căn bản, lấy không phóng dật làm chỗ quy tụ, không phóng dật là tối thượng trong các pháp ấy.” 

Chú giải:

Một lần nữa đức Phật nói về tâm không phóng dật. Xin các bạn lưu ý: Muốn tâm không phóng dật thì các bạn phải phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Vậy pháp phòng hộ sáu căn là pháp nào?

            1. Thứ nhất là pháp Độc Cư;
            2. Thứ hai là pháp Tứ Chánh Cần
            3. Thứ ba là pháp Tứ Niệm Xứ;
            4. Thứ tư là pháp Thân Hành Niệm

Biết rõ tâm không phóng dật là pháp tối thượng trong các pháp thiện. Vậy thì muốn ly dục ly ác pháp thì chúng ta phải bằng mọi cách giữ gìn tâm không phóng dật. Phải không các bạn? Bằng mọi cách phải giữ tâm không phóng dật tức là phải biết lấy pháp làm hòn đảo, làm chỗ nương tựa vững chắc cho ta thì tâm sẽ không phóng dật. Cho nên đức Phật thường nhắc nhở chúng ta: “Hãy lấy giới luật và giáo pháp Ta làm Thầy, làm hòn đảo, làm chỗ nương tựa vững chắc…”.

Chính vì chỗ tâm không phóng dật là thiện pháp tối thượng, là sự chuyển hóa nhân quả, là đạo đức không làm khổ mình khổ người, là mục đích tâm bất động của Phật giáo, là Niết Bàn tại thế gian, là tâm thanh thản an lạc và vô sự, là bất động tâm định, là ly dục ly ác pháp...

Cho nên, người tu hành theo đạo Phật thì phải lấy tâm không phóng dật làm pháp môn tối thượng. Vậy, trên bước đường tu theo Phật giáo thì chúng ta phải khắc ghi trong lòng lời dạy này: “lấy không phóng dật làm căn bản, lấy không phóng dật làm chỗ quy tụ, không phóng dật là tối thượng trong các pháp thiện ấy”.

PHÁP VI DIỆU

Lời Phật dạy: “Này các tỳ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người có trí mới hiểu thấu còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái dục, ham thích ái dục, khó mà thấy được định lý, sự kiện này thật khó thấy. Tức là sự tịnh chỉ tất cả các hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham đoạn diệt, Niết Bàn.” 

Chú giải:

Những lời dạy trên đây, đức Phật đã xác định một cách quả quyết rằng pháp môn của mình đã tìm ra và đã tu chứng là “sâu kín, mầu nhiệm, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận và vi diệu”. Nếu ai đã tu tập đúng những pháp môn “Giới, Định, Tuệ” thì lời ca ngợi này là một sự thật, không có một chút gì dối người.

Khi tu tập xong, chúng tôi mới hiểu rõ lời dạy của Phật là “sâu kín, mầu nhiệm, khó thấy, khó  chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận và vi diệu”. Cho nên từ xưa đến nay các nhà học giả tu hành chưa tới nơi tới chốn, lại đem kinh sách Phật ra giảng thuyết làm sai lệch nghĩa lý của Phật pháp.

Hiểu sai, làm lệch ý Phật mà còn kết tập thành kinh sách thì kinh sách ấy là một mớ kiến giải chữ nghĩa, chứ tu hành làm sao đạt được cái gì? Pháp của Phật đâu phải để cho người tâm còn dục mà tu tập. Vì tâm còn dục bạn không thể nào tu theo Phật giáo được. Cho nên đức Phật nói: “quần chúng này thì ưa ái dục, khoái dục, ham thích ái dục, khó mà thấy được định lý, sự kiện này thật khó thấy.”

Thưa bạn! Khi muốn tu theo Phật giáo thì bạn có hiểu biết bạn không? Bởi vì bạn mang tâm dục đến với đạo Phật, thì bạn chỉ uổng công mà thôi. Nếu bạn xa lìa tâm dục thì sẽ không ưa ái dục, không khoái ái dục, không ham thích ái dục thì bạn mới thấy rõ định lý của Phật giáo rất là mầu nhiệm và sâu kín.

LẠC LÀ NIẾT BÀN

Lời Phật dạy: “Này các Hiền giả, lạc là Niết Bàn; này các Hiền giả, lạc là Niết Bàn. Khi nghe nói vậy, Tôn giả Udàyi nói với Tôn giả Sàriputta, sao đây là lạc, khi ở đây không có cái gì được cảm thọ? Này Hiền giả, cái này ở đây là lạc, dù rằng lạc ấy ở đây không được cảm thọ. Này Hiền giả, có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm?

Các sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức… Các hương do mũi nhận thức… Các vị… Các xúc… hấp dẫn.

Này Hiền giả, có năm dục trưởng dưỡng này khởi lên lạc hỷ, này Hiền giả, đây gọi là dục lạc. Ở đây, này Hiền giả, tỳ-kheo ly dục ly ác, bất thiện pháp… chứng đạt an trú Sơ Thiền. Này Hiền giả, nếu trong khi tỳ-kheo ấy trú với an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với dục vẫn hiện hành; như vậy đối với vị tỳ-kheo ấy là một chứng bệnh... Ví như, này chư Hiền, với một người sung sướng, khổ đau có thể khởi lên như một chứng bệnh. Cũng vậy với tỳ-kheo ấy, các tưởng tác ý, câu hữu với dục vẫn hiện hành; như vậy, đối với tỳ-kheo ấy là một chứng bệnh. Này chư Hiền, chứng bệnh được Thế Tôn gọi là khổ. Với pháp môn này, này chư Hiền, cần phải hiểu Niết Bàn là lạc”.

(Tăng Chi Bộ Kinh Tập IV trang 163). 

Chú giải:

Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta cần phải hiểu cho rõ ràng, trong khi tu tập gặp những trạng thái hỷ lạc thì chúng ta cứ ôm chặt pháp mà tu, chứ đang tu tập mà lại khởi niệm: “Ta tu tập có hỷ lạc” thì đó là một chứng bệnh mà ngài Xá Lợi Phất (Sàriputta) đã xác định cho chúng ta thấy: “Ở đây, này Hiền giả, tỳ-kheo ly dục ly ác, bất thiện pháp… chứng đạt an trú Sơ Thiền. Này Hiền giả, nếu trong khi tỳ-kheo ấy trú với an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với dục vẫn hiện hành; như vậy đối với vị tỳ-kheo ấy là một chứng bệnh...”

Ở đây chúng tôi khuyên các bạn cứ ôm pháp mà tu tập cho chính xác, đừng tu tập sai theo kiến giải, đừng để tâm chạy theo lạc thọ, khổ thọ, bất lạc bất khổ thọ. Vì chạy theo các trạng thái cảm thọ ấy là các bạn đã rơi vào các chứng bệnh thiền tưởng.

Niết Bàn là một trạng thái lạc nhưng Tôn giả Udàyi không hiểu nên hỏi: “Sao đây là lạc, khi ở đây không có cái gì được cảm thọ? Nếu còn có cảm thọ thì sự cảm thọ đó là dục lạc chứ không phải lạc của Niết Bàn.

Ngài Sàriputta xác định rất rõ ràng: “Dục lạc có năm: Sắc, thinh, hương, vị, xúc”. Còn lạc của Niết Bàn, Ngài nói: “Này Hiền giả, cái này ở đây là lạc, dù rằng lạc ấy ở đây không được cảm thọ”. Bởi thế khi tu hành có các cảm thọ, thọ lạc hay thọ khổ, chúng ta đừng nên lưu ý đến nó. Biết thì biết, nhưng phải ôm cho chặt pháp, đừng vì thọ khổ mà bỏ pháp, cũng đừng vì thọ lạc mà cho là mình chứng Đạo. Tất cả những trạng thái này là bệnh

Các bạn nên lưu ý: trạng thái Niết Bàn có “lạc” nhưng không có “cảm thọ”, còn có cảm thọ bất cứ một trạng thái nào đều là bệnh thiền.

140-THẾ GIỚI QUAN CỦA PHẬT GIÁO. TL Thích Thông Lạc

TÁNH THẲNG THẮN

Lời Phật dạy: “Thấy cái dở mà không dám chê là hèn kém, là nhút nhát, là dua nịnh. Thấy cái hay mà không dám khen là ganh tỵ, hẹp hòi, cao ngạo”.

Chú giải:

Phật dạy: “Thấy cái dở mà không dám chê là hèn kém, là nhút nhát, là dua nịnh”. Đúng vậy, khi chúng ta biết kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ là không phải giáo pháp của Phật, mà chính do các Tổ biên soạn theo giáo lý của Bà La Môn, với mục đích là dìm và diệt Phật giáo mà không dám nói ra, lại còn tán dương, a dua, nịnh bợ theo, thì thật là hèn nhát, những người như vậy không xứng đáng là tín đồ Phật giáo. Người tín đồ Phật giáo phải gan dạ, phải thẳng thắn dám ăn, dám nói, chỉ thẳng những cái sai, những cái không phải của Phật giáo. Dựng lại những gì của Phật giáo đang bị ném bỏ. Đừng có a dua theo kinh sách Đại Thừa mà trở thành kẻ hèn nhát các bạn ạ!?

Người có trí mà không thấy cái sai trong kinh sách phát triển Đại Thừa và Thiền Đông Độ thì đâu được gọi là người có trí. Như Phật dạy: “Mình ngu mà biết mình ngu là mình có trí, mình ngu mà không biết mình ngu là mình chí ngu”. Cho nên, mình là những tu sĩ và cư sĩ của Phật giáo mà không thấy cái sai của kinh sách phát triển Đại Thừa thì không thể gọi mình là người có trí. Bởi vì kinh sách phát triển Đại Thừa có rất nhiều cái sai, chứ đâu phải có một hoặc hai. Chắc các bạn đều thấy biết rất rõ, nhưng các bạn quá sợ hãi trước cái khối lực lượng Đại Thừa quá đông đảo. Trước một thế lực đông đảo như Đại Thừa hiện nay mà dám nói thẳng cái sai của giáo pháp Đại Thừa là một người tốt, nói để sửa sai chứ không phải nói xấu mà sợ. Phải không các bạn?

Ví dụ: Một quan Gián Nghị Đại Phu dám can ngăn nhà vua là vì lợi ích hạnh phúc cho toàn dân, cho đất nước đó. Một tu sĩ Phật giáo hay một cư sĩ Phật giáo dám nói cái sai của kinh sách Đại Thừa là vì lợi ích cho Tăng, Ni và tín đồ Phật giáo. Người như vậy mới là người có trí tuệ, người có lòng thương yêu rộng lớn đối với đạo cũng như đời.

Phật dạy: “Thấy cái hay mà không dám khen là ganh tị, hẹp hòi, cao ngạo”. Đúng vậy, là tu sĩ Đại Thừa thấy cái đúng của Phật giáo Nguyên Thủy mà không dám khen, là ganh tị, hẹp hòi, là cố chấp, kiến chấp, là không thấy xa, hiểu rộng. Làm con người thì phải có trí tuệ thông minh, phải nhận biết đâu đúng, đâu sai, chứ đâu phải là người đui, người điếc. Thấy người khác hay hơn mình, biết rất rõ mà không dám khen đó là do lòng ganh tị, hẹp hòi, cao ngạo; người như vậy là người xấu, người không đáng cho ta kính trọng.

Tóm lại hai câu trên đây, chúng ta phải hằng ghi nhớ trong lòng, để mình không trở thành người hèn kém, nhút nhát, lúc nào cũng là người dám ăn, dám nói thẳng một sự thật.

KHÔNG THỂ CỨU ĐỘ

Lời Phật dạy:

“Không thể rửa nghiệp đen,
             Của kẻ ác gây tội.
             Đối kẻ sống thanh tịnh
             Ngày nào cũng ngày tốt.
             Với kẻ sống thanh tịnh,
             Ngày nào cũng ngày lành”. (Kinh Trung bộ tập 1 trang 93) 

Chú giải:

Bài kệ trên đây xác định đức Phật không cứu khổ cho ai được nên hai câu kệ đầu Phật dạy: “Không thể rửa nghiệp đen của kẻ ác gây tội”. Vì thế đức Phật khuyên rằng: “Hằng ngày nên ngăn ngừa các ác pháp, luôn sống trong thiện pháp thì ngày nào cũng là ngày tốt, ngày nào cũng là ngày lành”, không cần cầu ai cứu khổ mình cả. Có đúng vậy không các bạn?

Người theo Phật giáo mà cầu an, cầu siêu là những người đã đi sai lời dạy của đức Phật. Phật không cứu khổ cho ai được, chỉ có mình tự cứu mình.Các con tự thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là người hướng dẫn đường mà thôi”. Lời dạy này không khác bài kệ trên.

Tóm lại, đạo Phật là một tôn giáo dạy mỗi người phải tự cứu mình bằng cách sống trong thiện pháp thì đó là tự mình xây dựng cho mình cuộc sống Thiên đàng, Cực lạc. Phải mạnh dạn đứng trên đôi chân của mình, đừng cầu cạnh thần thánh, trời Phật, quỉ ma vô ích.

Chúng ta nên học thuộc lòng những câu kệ này để luôn tác ý, luôn luôn nhớ những lời dạy này đừng quên các bạn ạ! Vì nó là hạnh phúc của các bạn. Các bạn tiến lên đừng chùng bước trước những gian nan thử thách trước những khó khăn vô cùng mà người tu sĩ phải gặp đừng sợ hãi, có Phật và có Thầy đang ở bên các bạn. Khi gặp những điều gì khó khăn các bạn không vượt qua được thì các bạn hãy gọi tên Thầy và giữ tâm thanh thản, đừng sợ hãi, đừng dao động tâm, các bạn sẽ vượt qua được những đoạn đường khó khăn gian hiểm đó.

NHẤT TÂM VÀ TÁN LOẠN

Lời Phật dạy: “Thế nào gọi là tâm không tán loạn? Quán thân trên thân tinh cần không giải đãi, ghi nhớ không quên để trừ bỏ tham ưu ở đời.
             Thế nào gọi là nhất tâm? Thân hành niệm trong tất cả thời không mất oai nghi”.

Chú giải:

Tâm tán loạn là gì? Tâm tán loạn là tâm còn nhiều tham ưu nên niệm này kế tiếp niệm khác, suy tư lo nghĩ ưu phiền, lúc nào tâm cũng bất an. Muốn đối trị tâm tán loạn thì đức Phật đã dạy: “Quán thân trên thân tinh cần không giải đãi, ghi nhớ không quên để trừ bỏ tham ưu ở đời”. Vậy quán thân trên thân tinh cần không giải đãi, ghi nhớ không quên, để trừ bỏ tham ưu ở đời là như thế nào? Câu dạy này trong kinh Tứ Niệm Xứ dạy về tu tập bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, tức là phương pháp truy quét tâm hay còn gọi là pháp môn đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân và tâm để thân tâm được thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm không tán loạn.

Nhất tâm là gì? Nhất tâm là tâm định trên thân. Tâm định trên thân như thế nào? Tâm định trên thân như Phật đã dạy: “Thân hành niệm trong tất cả thời không mất oai nghi. Thân hành niệm trong tất cả thời không mất oai nghi là như thế nào? Là đi tôi biết tôi đi, đứng, nằm, ngồi hay hít thở đều biết không quên. Đó là thân hành niệm Thân hành niệm là một pháp môn tuyệt vời trong Tứ Niệm Xứ, không những nó là một pháp môn tu tập nhất tâm mà còn là pháp môn tu tập có đủ mười công đức (thần lực siêu việt không thể nghĩ lường).

Qua lời dạy trên đây đức Phật đã trang bị cho chúng ta những pháp tu tập xả tâm rất tuyệt vời, chứ không như kinh sách Đại Thừa thường dạy chúng ta tu ức chế tâm bằng những pháp môn kiến giải, khiến cho chúng ta không thể ly tham, sân, si được. Do chỗ ức chế tâm mà người tu theo các nhà Đại Thừa rơi vào danh, lợi, sắc, thực, thùy. Một bằng chứng cho ta thấy tu sĩ Đại Thừa càng tu tập tâm danh lợi càng nhiều, cho nên chùa ta Phật lớn bắt đầu mọc khắp nơi.

THẾ GIỚI QUAN CỦA PHẬT GIÁO

Lời Phật dạy: “Này Bà La Môn, năm dục trưởng dưỡng này được gọi là thế giới trong luật các bậc Thánh”.

Chú giải:

Thế giới quan của Phật giáo là năm dục trưởng dưỡng. Vậy năm dục trưởng dưỡng là gì? Năm dục trưởng dưỡng như trong kinh Tăng Chi Bộ tập 4 trang 184 dạy: Các sắc do con mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức… Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn”.

Thế giới quan của Phật giáo rất thực tế không có mơ hồ trừu tượng. Đó là một thế giới khổ đau, nếu muốn cho thế giới này hết khổ đau thì tu tập từ pháp ly dục ly ác pháp đến pháp Tam Minh thì cả thế giới này mới chấm dứt khổ đau.

Nói nghe đơn giản nhưng tu tap không đơn giản chút nào. Khi nhãn căn tiếp xúc nhãn trần sinh ra cảm thọ, từ cảm thọ sinh ra khả ái, khả lạc. Một thế giới quan hiện bày đầy đủ tính đau khổ. Muốn cho thế giới này không hiện bày thì người tu sĩ phải ngay nơi căn trần xúc chạm sinh ra thọ thì ngay nơi thọ lạc ta không bị lôi cuốn, nhưng khi thọ khổ thì ta đừng sợ hãi, dao động tâm. Chỉ nơi duyên thọ mà tâm ta bất động thì thế giới quan sẽ bị diệt. Thế giới quan sẽ bị diệt thì con đường đau khổ sẽ chấm dứt.

Nói đến: “Năm dục trưởng dưỡng này được gọi là thế giới trong luật của bậc Thánh”. Trong luật của bậc Thánh là 12 nhân duyên, nói đến 12 nhân duyên là nói đến thế giới quan của Phật giáo. Nói đến thế giới quan của Phật giáo là nói đến bậc Thánh Duyên Giác. Bậc Thánh Duyên Giác là người xông thẳng vào cửa THỌ giữ tâm bất động, THỌ LẠC không tham; THỌ KHỔ không sợ. Chỗ tâm bất động này phá vỡ các du yên khác như: ái, hữu, thủ, sanh, ưu, bi, sầu, khổ, bệnh, tử, chấm dứt. Từ đó thế giới quan đau khổ của Phật giáo bị sụp đổ tan tành. Người ấy chứng Thánh quả Duyên Giác A La Hán đầy đủ Tam Minh Lục Thông. Cho nên đức Phật gọi: “Năm dục trưởng dưỡng này được gọi là thế giới trong luật của bậc Thánh”.  

XẢ NHÂN DUYÊN NGHIỆP

Lời Phật dạy:

“Xả của cải tức là xả cái duyên lìa tội ác.
             Xả tham đọa tức là xả cái nhân lìa tội ác
             Xả tội ác tức là dứt các nghiệp sanh tử”.  
             “Không xả bỏ của cải thì pháp sám hối không thành.
             Không xả tâm tham thì nhân luân hồi không dứt.
             Không xả tội thì hạnh ô nhiễm không quên”.

Chú giải:

Đúng như lời Phật dạy: Xả của cải tức là xả cái duyên lìa tội ác”. Người còn tích lũy của cải là người còn tạo duyên tội ác. Thưa các bạn! Người xả của cải là ai? Và xả của cải như thế nào?

Noi gương đức Phật đấy các bạn ạ! Phật là hàng vua chúa, Người đã xả bỏ ngai vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con thơ. Người đã xả hết chỉ còn ba y một bát, đi xin ăn, sống rày đây mai đó, không nhà, không gia đình, thiểu dục, tri túc, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không. Ngài là hiện thân gương hạnh buông xả và nhờ buông xả mà Ngài đã tìm thấy được chân lý. Con đường giải thoát cho chính mình và cho mọi người mai sau. Gương hạnh sống buông xả của Phật thật là tuyệt vời. Cuộc đời Ngài nói được làm được, đó là lời nói đi đôi với hành động: “Xả của cải tức là xả cái duyên lìa tội ác”. Ngài đã sống đúng nhất quán, lìa tội ác.

Hỡi các bạn đồng tu! Đức Phật thì xả cái duyên lìa tội ác, còn các bạn thì sao? Sao các bạn lại tích lũy nhiều của cải thế? Chùa to, Phật lớn, tiền bạc nhiều, xe cộ, đồ đạc, phòng ốc sang đẹp như ông Chúa bà Hoàng… của cải không thấy bớt, ngày càng thêm nhiều… Như vậy các bạn có biết không? Tích lũy của cải là tích lũy tội ác đấy các bạn ạ! Hãy tránh xa của cải thì tội ác mới tiêu trừ. Như vậy con đường tu hành của các bạn mới tìm thấy sự giải thoát.

Qua lời dạy trên đây chúng ta thấy rất rõ các duyên tội ác là do của cải, tài sản. Cho nên ai tích lũy của cải tài sản nhiều là người tạo duyên tội ác nhiều, ai tích lũy của cải tài sản ít thì tạo duyên tội ác ít.

Một người tu theo đạo Phật khi đã hiểu biết duyên nào gây ra tội ác thì chúng ta nên từ bỏ và tránh xa duyên đó. Phải không các bạn? Nếu không tránh xa duyên tội ác thì chúng ta đừng nên tu theo đạo Phật, vì có tu cũng chẳng được ích lợi gì cả. Duyên tội ác là gì các bạn. Là của cải, tài sản, ruộng vườn, đất đai, nhà cửa, chùa to, Phật lớn v.v…

Xả của cải, tài sản, v.v… là xả cái quả của tội ác như trên. Còn xả cái nhân tội ác thì đến câu thứ hai đức Phật dạy: Xả tham đọa tức là xả cái nhân lìa tội ác”. Vậy tham đọa là gì? Tham đọa tức là tham độc, một trong ba độc: tham, sân, si.

Tham đọa có nghĩa là lòng ham muốn đưa chúng ta vào sự khổ đau. Tham đọa còn có nghĩa là do lòng tham muốn đưa chúng ta vào cảnh khổ hay địa ngục. Qua lời dạy này tôi biết rất rõ nhân của tội ác là tâm tham muốn của tôi. Vậy từ đây tôi quyết tâm diệt trừ cái nhân gây ra tội ác. Nhờ có quyết tâm ấy, tâm tham của tôi chấm dứt. Lời dạy này tuy ngắn ngủi nhưng nó mang đầy đủ tính chất đạo giải thoát của Phật giáo.

Theo như lời Phật dạy: Xả tội ác tức là dứt các nghiệp sanh tử. Ơ đây đức Phật dạy: “Xả tội ác”. Vậy xả tội ác như thế nào? Như hai lời dạy trên:

1, Duyên của tội ác là của cải.
              2, Nhân của tội ác là lòng ham muốn.

Theo như lời dạy trên đây thì chúng ta đã biết duyên và nhân của tội ác. Vậy xả tội ác thì chỉ có xả nhân và duyên của nó thì tội ác không còn nữa.

“Xả tội ác tức xả của cải và tâm tham muốn của chúng ta”. Tu theo Phật giáo quá đơn giản phải không các bạn? Chỉ cần xả của cải và tâm tham muốn của mình thì không còn tội lỗi và dứt nghiệp sanh tử. Nói thì dễ nhưng làm được việc này không phải dễ. Phải không các bạn?

Hiểu biết thì dễ và rất đúng nhưng làm sao xả của cải và tâm tham muốn của mình cho được.  Không đơn giản đâu các bạn. Cả một công trình vĩ đại của một đời người tu tập. Xả của cải thì dễ, nhưng xả lòng ham muốn thì khó. Khó lắm các bạn ạ! Chỉ có những bậc thấy biết đời này khổ như thật thì mới làm được và làm rất dễ dàng. Còn chúng ta là những hạng cóc, nhái, đời cũng muốn mà đạo cũng muốn. Cả hai đều muốn hết nên cóc, nhái cũng chỉ là cóc, nhái mà thôi. Phải không các bạn?

Đức Phật đã xác định: Không xả bỏ của cải thì pháp sám hối không thành”. Người đời thường hay đến chùa lạy hồng danh Phật để sám hối hoặc phát lồ sám hối trước một vị thầy để mong cho tiêu tội, nhưng sám hối phát lồ hay lạy hồng danh chư Phật mà không xả bỏ của cải của mình thì pháp sám hối không thành có nghĩa là tội lỗi không dứt, không bao giờ hết.

Trên đây là lời kết thúc của đức Phật cho chúng ta thấy lạy lễ hồng danh chư Phật và phát lồ sám hối không thể tiêu tội nghiệp chướng được. Người nào dạy chúng ta lạy Phật nhiều và phát lồ sám hối cho tiêu tai nghiệp chướng là dạy mê tín, là đi ngược lại lời dạy của đức Phật; người ấy là đạo sĩ Bà La Môn đang lừa đảo tín đồ.

“Không xả bỏ của cải thì pháp sám hối không thành”. Các bạn có nghe lời dạy này không?

“Tánh tội vốn không do tâm tạo
             Tâm đã diệt rồi tội sạch không
             Tội trong tâm ấy cả hai không 
             Thế mới là chân sám hối.”

Đây là sự sám hối của Thiền tông và Đại Thừa, nhưng sự sám hối này không giống như lời đức Phật dạy: “Không xả bỏ của cải thì pháp sám hối không thành”. Chúng ta hãy nhìn sự thật về Thiền Tông và Đại Thừa. Thiền Tông và Đại Thừa thì của cải tài sản càng lúc càng đồ sộ. Chùa to Phật lớn hàng tỷ bạc, vật chất xe cộ đầy đủ không thiếu vật gì, giống như người thế gian. Có đúng như vậy không các bạn? Vậy sám hối của Thiền Tông và Đại Thừa có tiêu tội không các bạn hay chỉ là lời nói suông mà thôi.

Đức Phật đã xác định: “Không xả tâm tham thì nhân luân hồi không dứt”. Nhờ lời dạy này chúng ta biết rõ nguyên nhân luân hồi là tâm tham. Cho nên, người nào tâm còn tham là còn luân hồi; người nào dứt tâm tham là dứt luân hồi. Do lời dạy xác định này mà trên đường tu tập chúng ta biết rõ mình còn luân hồi hay đã hết luân hồi. Tâm tham còn là còn luân hồi, tâm tham hết là hết luân hồi.

Như vậy đạo Phật không có dạy điều gì là mơ hồ trừu tượng mê tín, mà là một sự luân hồi rất cụ thể rõ ràng. Vì tâm tôi hết tham thì sẽ tương ưng nơi đâu tâm không có tham, còn tâm tôi có tham thì tôi phải tương ưng với tâm tham của mọi người trên thế gian này, vì mọi người trên thế gian này tâm đều có tham. Luân hồi là như vậy là một điều thực tế như vậy, không thể có ai chối bỏ được thuyết luân hồi này là không có. Anh còn tham thì anh tránh đâu khỏi chỗ luân hồi; anh hết tham thì luân hồi chẳng làm gì anh được.

Ví như: tâm tham của anh là một tảng đá, dù anh không muốn nó chìm xuống đáy hồ, nhưng khi ném nó xuống hồ thì nó vẫn chìm xuống tận đáy. Còn tâm anh không tham ví như giọt dầu, dù anh muốn nó chìm xuống đáy hồ, nhưng khi ném nó xuống hồ nó vẫn nổi.

Qua ý nghĩa này chúng ta mới hiểu rõ nghĩa lời Phật dạy: “Ta chỉ còn có một kiếp này nữa mà thôi”. Như vậy một người đã tu chứng đạo thì không còn luân hồi trở lại thế gian này nữa, dù người ấy có muốn cũng không được, vì họ đã trở thành giọt dầu rồi, trong thế gian này còn chỗ nào đâu mà tương ưng họ tái sanh luân hồi. Cho nên thuyết Bồ Tát tu thành chánh quả còn trở lại độ chúng sanh là học thuyết của Bà La Môn. Khi tu tập hết tham rồi, bây giờ vì độ chúng sanh nên phải tu tập tham trở lại để luân hồi.

Cũng như học thuyết Phật tánh. Đã là Phật tánh là tánh giác mà lại còn mê muội chui vào cái đãy da hôi thối (thân tứ đại), lại còn tham chùa to Phật lớn, tham xe hơi nhà lầu, v.v… Phật tánh là tánh giác thì làm sao có điều vô lý này được. Phải không các bạn? Đúng là cái lý thuyết Phật tánh là lừa đảo mọi người. Tỏ ra lòng đại bi, Bồ Tát thương xót chúng sanh như con một. Thật ra mình tu chưa xong mà muốn làm cỗ xe lớn độ chúng sanh. Thật là một người mù dẫn đường cho một đám người mù.

Luân hồi không phải là linh hồn đi luân hồi, như mọi người tưởng, mà là nghiệp tham đi luân hồi. Cho nên người tu hành là cố tâm tu tập tạo thành nghiệp không tham nơi tâm mình. Tâm không còn nghiệp tham thì chấm dứt luân hồi. Do những lời dạy này, chúng ta biết mình tu tập đến đâu. Có làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi được chưa? Tu tập có giải thoát hay chưa giải thoát đều biết rất rõ ràng. Vì tu tập đến đâu có kết quả đến đó. Cho nên đức Phật nói: “Pháp Ta không có thời gian, đến để mà thấy...”

Tu theo Phật giáo chúng ta không sợ lầm đường lạc lối, vì giới luật là một nền tảng vững chắc. Ai không sống đúng giới luật thì biết người đó tu không đúng pháp. Dù họ có nói nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền mà giới luật không nghiêm chỉnh thì biết họ chưa ly dục ly bất thiện pháp. Chưa ly dục, ly bất thiện pháp thì Sơ Thiền còn chưa nhập được, huống là Tam thiền, Tứ Thiền và làm chủ sanh, tử, chấm dứt luân hồi, chỉ là vọng ngữ mà thôi. Nhờ những lời dạy này, chúng ta xét về Thiền Tông và Đại Thừa mới biết rõ giáo pháp của họ là giáo pháp lừa đảo. Xin các bạn cảnh giác đừng tin để khỏi sa ngã vào đường tội lỗi (diệt Phật giáo).

Đức Phật dạy: Không xả tội thì hạnh ô nhiễm không quên”. Như chúng ta đã biết không xả bỏ của cải và diệt tâm tham thì tội không bao giờ hết, mà tội lỗi không bao giờ hết thì hạnh ô nhiễm không bao giờ quên. Ví dụ: ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời... đó là những hạnh ô nhiễm khó quên. Hút thuốc lá, uống rượu... đó là những hạnh ô nhiễm khó quên… Tham, sân, si, mạn, nghi... đó là những hạnh ô nhiễm khó quên. Muốn để cho hạnh ô nhiễm không còn nữa thì phải ngay từ lúc này từ bỏ không chạy theo vật chất của cải tài sản, không tham lam, ngăn chặn lòng ham muốn thì hạnh ô nhiễm mới giữ gìn trọn vẹn.

KẾT QUẢ CỦA LY DỤC LY ÁC PHÁP

Lời Phật dạy:

  1- “Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái, tâm được định tỉnh mới ly dục ly ác pháp.
              2- Với tâm định tỉnh thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản” 

Chú giải:   

Lời dạy trên đây chúng ta nên chú ý câu một: “Quán tự thân đã xả ly”. Vậy quán xả ly là gì? Quán tự thân xả ly tức là tu tập Tứ Niệm Xứ. Khi nào tu tập Tứ Niệm Xứ mà xả ly các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm, pháp thì lúc bấy giờ tâm mới đạt được trạng thái định tỉnh thì đây mới chính là tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Đoạn kinh này xác định cho chúng ta thấy pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn tu tập để tâm ly dục ly ác pháp và đạt được trạng thái “Định tỉnh”. Trạng thái định tỉnh là một bí pháp để khởi đầu nhập các định và thực hiện Tam Minh. Ở đây các bạn nên nhớ tâm định tỉnh này do ly dục ly ác pháp, chứ không phải do ngồi ức chế tâm cho hết vọng tưởng như Đại Thừa, Thiền Đông Độ và Thiền Minh Sát Tuệ, v.v...

Câu hai Phật dạy: “Với tâm định tỉnh thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”. Khi tu tập Tứ Niệm Xứ được sung mãn thì tâm chúng ta đạt được định tỉnh. Khi đạt được định tỉnh thì tâm chúng ta có những kết quả mà câu hai đức Phật đã xác định rất rõ ràng: “Với tâm định tỉnh”, thì phải có thuần tịnh, tâm không còn cấu nhiễm, không  còn phiền não, lúc nào cũng nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc và bình thản. Ở đây các bạn cần lưu ý: phải tu tập Tứ Niệm Xứ được viên mãn thì tâm chúng ta mới đạt được những kết quả như Phật đã dạy trên. Thưa các bạn! Các bạn đã từng nghe chúng tôi dạy về Tứ Niệm Xứ chưa? Tứ Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập:

 1- Tu tập Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ. Đó là giai đoạn đầu.
               2- Tu tập Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ. Đó là giai đoạn thứ hai.
               3- Tu tập Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ. Đó là giai đoạn thứ ba.

Khi tu tập ba giai đoạn này thì mới sung mãn Tứ Niệm Xứ. Sung mãn Tứ Niệm Xứ thì có bảy năng lực của Giác Chi xuất hiện. Bảy năng lực Giác Chi xuất hiện tức là “Tâm định tỉnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”.

Trên đây là kết quả của pháp môn Tứ Niệm Xứ, chúng ta hãy nỗ lực tu tập, nhất là ghi nhớ tâm định tỉnh. Tâm định tỉnh là năng lực để nhập Bốn Thiền và thực hiện Tam Minh. Nhưng phải hiểu định tỉnh là một trạng thái như thế nào? Nếu không nhận sai, đúng mà chỉ nhận trạng thái không niệm của Thiền Đông Độ và Đại Thừa thì nguy hiểm cho đường tu tập.

Trạng thái định tỉnh là trạng thái Bất động tâm trước các pháp và các cảm thọ chứ không phải không niệm suông, các bạn nên lưu ý. Chính nó là tâm không phóng dật. 

141-QUẢ A-LA-HÁN TU KHÔNG KHÓ... TL Thích Thông Lạc.

1- Cái thấy, cái nghe, cái cảm thọ, cái tưởng, cái thức tri không phải của con người.

Lời Phật dạy: “Vậy này Bàhiya, ngươi cần phải học tập như sau: “Trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiya, ngươi không là chỗ ấy.”  

                                                                                               (Tạng Kinh Phật Tự Thuyết trang 298)

Chú giải:

Trong kinh Đại Thừa và Thiền Tông thường cho rằng: cái biết, cái thấy, cái nghe là Phật tánh, còn ở kinh này đức Phật lại dạy khác: “Cái biết, cái thấy, cái nghe không phải là ngươi, là của ngươi”. Sau khi ngộ được lý này, Bàhiya là một tu sĩ ngoại đạo đã giác ngộ được Niết-bàn và chứng quả A-la-hán.  

Câu chuyện xảy ra trong thời đức Phật như sau: Bà-la-môn Bàhiya được mọi người cung kính, tôn trọng, cúng dường… nên Ông nghĩ rằng: “Với ai là bậc A-la-hán hay đang đi trên đường A-la-hán, thì Ta là một trong những vị ấy”. Được biết những tư tưởng này, có một người thân của Bà-la-môn Bàhiya nói: “Này Bàhiya, ngươi không phải là A-la-hán và cũng không phải người đang đi trên con đường A-la-hán. Ngươi không có đạo lộ ấy. Ngươi nên đến yết kiến Tôn giả Gotama bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác thì người sẽ rõ”.

Sau khi đến gặp Tôn giả Gotama ba lần hỏi đạo, trong khi đức Phật đang đi khất thực, nên không thể giảng nói dài dòng được. Vì thế đức Phật chỉ thẳng: “Cái biết, cái thấy, cái nghe không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta”. Khi được đức Phật trả lời như vậy thì Bàhiya đã hiểu rõ con đường dẫn đến giải thoát không có gì hơn là các pháp trên thế gian này không có vật gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta, chỉ cần buông xuống biết là ngay đó chứng quả A-la-hán.

                “Buông xuống đi! Buông xuống đi!  
                 Chớ giữ làm chi có ích gì.  
                 Thở ra chẳng lại còn chi nữa.
                 Vạn sự vô thường buông xuống đi.” 

Buông xuống hết tất cả các bạn còn có cái gì, các bạn có biết không? Buông xuống hết chỉ còn là một tâm thanh thản, an lạc và vô sự các bạn ạ! Nơi đó là quả vị A-la-hán. Sau khi được Phật khai ngộ xong, thì hôm ấy Bàhiya đã bị bò húc chết. Trong lúc bị bò húc ông không bối rối sợ hãi, chỉ bình tỉnh giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự, vì lúc bấy giờ thân tâm này không phải là ông, là của ông, là bản ngã của ông, nên ông thanh thản, an lạc và vô sự trong trạng thái ấy (Đại Bát Niết Bàn).

Khi đám tang Ông xong, nhiều người đến hỏi Phật: “Bà La Môn Bàhiya chết đi về đâu?” đức Phật xác định: “Với thành tâm thưa hỏi pháp, với lòng tin bất diệt của Bà-la-môn Bàhiya khi nhận ra tất cả các pháp không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì ông chỉ còn nhận ra trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Nhờ sống trong trạng thái tâm bất động ấy, Ông đã nhập vào Đại Bát Niết Bàn và chấm dứt tái sanh luân hồi”. Các bạn hãy đọc kỹ lưỡng lại đoạn kinh này: “Này các tỳ-kheo. Hiền trí là Bàhiya đã hành trì tùy pháp, đúng pháp và không có phiền nhiễu Ta với những tranh luận về pháp. Này các tỳ-kheo, Bàhiya đã nhập Niết-bàn”.

Tóm lại người tu theo Phật giáo đâu phải tu tập khó khăn như người ta tưởng mà chỉ cần biết buông xả cho thật sạch dục và ác pháp thì quả A-la-hán ở tại đó. Thường trong kinh điển Phật giáo có người nghe Phật thuyết pháp xong liền chứng đạo. Điều này có thật hay không? Điều này có thật. Vì có nhiều người đã tu chứng quả A-la-hán mà không biết cứ nghĩ rằng quả A-la-hán là cao siêu, là tu tập khó chứng lắm, nhưng không ngờ nó lại ở trong tầm tay của mọi người. Người tu hành chỉ cần biết buông xả từ bỏ tâm tham, sân, si thì ngay đó là Niết-bàn, là chứng quả A-la-hán.

Trong Thanh Tịnh Đạo có một vị Thượng tọa tu chứng quả A-la-hán mà không biết, đến khi nhờ người thị giả đỡ ngồi dậy thì biết ngay đó là mình đã chứng quả A-la-hán. Các bạn hãy đọc một đoạn trong Luận Thanh Tịnh Đạo số 135 trang 74 nói về một vị Trưởng Lão bệnh đang nằm chờ chết. Tăng chúng và phật tử đến hỏi thăm Ngài tu hành có đắc địa vị siêu thế (A-la-hán) không? Ngài bảo: “Ta không đắc địa vị siêu thế nào hết”. Khi ấy có một vị tỳ-kheo trẻ tuổi làm thị giả theo hầu Ngài và bảo: “Bạch Đại Đức mọi người vì tưởng Ngài đã đắc Niết-bàn nên mới đi hàng chục dặm đường để đến đây hỏi thăm Ngài, Ngài trả lời như vậy, họ sẽ vô cùng thất vọng. Tu hành như Ngài không lẽ chỉ chết như một phàm phu thường tình thì đau lòng lắm!” Vị Trưởng Lão trả lời: “Này Hiền giả, vì muốn gặp đức Thế Tôn tương lai (Metteyya) nên ta không nỗ lực để đắc tuệ giác. Vậy bây giờ Hiền giả hãy đỡ ta ngồi dậy may ra có đắc chăng?” Vị tỳ-kheo liền đỡ Ngài dậy rồi đi ra. Khi vị tỳ-kheo ấy vừa ra khỏi, Trưởng Lão liền đắc quả A-la-hán và khảy móng tay ra hiệu, Tăng chúng tụ lại bạch Ngài:

- Bạch Đại Đức, Ngài đã làm một việc rất khó, là hoàn thành Thánh quả vào lúc lâm chung.

- Chư Hiền, việc ấy không khó. Nhưng Ta sẽ bảo cho chư Hiền biết là việc gì khó thật sự. Chư Hiền, từ khi xuất gia cho đến ngày nay, Ta không thấy có một hành vi nào Ta làm mà không ý thức, không có Chánh niệm kèm theo”.

Đọc đoạn luận trên đây chúng ta nhận xét câu: “Từ khi xuất gia cho đến ngày nay Ta không thấy có một hành vi nào Ta làm mà không ý thức, không có chánh niệm kèm theo. Đọc xong đoạn luận này chúng ta rất thấm thía cái khó của người tu hành theo đạo Phật không phải chỗ nhập Bốn Thánh Định, thực hiện Tam Minh chứng quả A-la-hán mà ở chỗ Tỉnh Giác Chánh Niệm. Có tỉnh giác chánh niệm ta mới buông xả sạch dục và ác pháp. Khi buông xả sạch dục và ác pháp là chứng quả A-la-hán, chứ không phải còn tu tập pháp môn nào cả. Đạo Phật thì chỉ có tu tập bấy nhiêu thôi.

Vị Trưởng Lão này đã trình bày cho chúng ta thấy pháp hành và kết quả của chánh niệm tỉnh giác. Nhưng Ngài không biết đó là chứng quả A-la-hán nên chờ đợi đức Thế Tôn tương lai để xác định chỗ tu của Ngài. Trong khi Ngài bệnh đau đang nằm chờ chết, không ngồi dậy nổi, mới khởi ý nhờ vị tỳ-kheo trẻ tuổi đỡ dậy trong khi mọi người đến thăm. Khi khởi ý muốn ngồi dậy, đó là Ngài đang sử dụng “Dục Như Ý Túc” nhưng Ngài không biết. Khi được ngồi dậy Ngài thấy mình không còn bệnh đau yếu đuối nữa, Ngài mới biết mình đã chứng quả A-la-hán vô lậu. Vì vô lậu nên tác ý muốn ngồi dậy bệnh liền biến mất và Ngài tự tại ra đi.

Chính chỗ này là chỗ tâm thanh thản, an lạc và vô sự là quả A-la-hán mà có ai ngờ đâu. Khi sử dụng năng lực của Tứ Thần Túc thì mới biết mình chứng quả A-la-hán. Hoặc có người chỉ thẳng cho ta thì ta mới nhận ra trạng thái tâm thân thanh thản, an lạc và vô sự là trạng thái chứng quả A-la-hán.

Trong thời đức Phật còn tại thế có nhiều vị Bà-la-môn đã tu tập được tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Nhưng không biết đó là quả A-la-hán nên khi nghe đức Phật khai ngộ thì họ mới nhận ra. Khi đã nhận ra mới biết mình đã chứng quả A-la-hán. Cho nên có những đoạn kinh khi đức Phật giảng xong là có người chứng quả A-la-hán ngay liền, là vì họ tu tập rất lâu mới chứng đạt được chỗ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác như vị Trưởng Lão trong Luận Thanh Tịnh Đạo đã nói: “Việc chứng quả A-la-hán không khó, nhưng Ta sẽ bảo cho chư Hiền biết là việc gì khó thật sự. Chư Hiền, từ khi Ta xuất gia cho tới ngày nay, Ta không thấy có một hành vi nào ta làm mà không ý thức, không có chánh niệm kèm theo”.

Vị Trưởng Lão tu như vậy, sống như vậy, làm sao không chứng quả A-la-hán được. Phải không các bạn? Cho nên các bạn đừng hỏi chứng quả A-la-hán. Mà hãy hỏi các bạn có Tỉnh Giác Chánh Niệm trong từng hành động của các bạn chưa? Quả A-la-hán không khó mà khó ở chỗ Chánh Niệm Tỉnh Giác, xin các bạn hãy lưu ý điều này để sự tu tập của các bạn có kết quả tốt đẹp.

2- Từ bỏ tâm tham

Lời Phật dạy: “Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe: “Này các tỳ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các ngươi không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Tham, này các tỳ-kheo! Là một pháp các ngươi hãy từ bỏ, Ta bảo đảm cho các ngươi không đi tái sanh.”

                                                              (Kinh Phật Thuyết Như Vậy trang 413 Chương I Tập Một Pháp).

Chú giải:

Kính thưa các bạn! Đọc qua lời Phật dạy trên đây chúng ta có đặt trọn lòng tin nơi lời này dạy hay không? Riêng chúng tôi khi tu tập Thiền Đông Độ bị bế tắc, không biết đường tiến tới nữa, nên đọc được lời dạy này chúng tôi nỗ lực hằng ngày tu tập với câu tác ý: “Tâm như đất ly tham, sân, si cho thật sạch, vì tâm tham, sân, si là ác pháp, là đau khổ”. Khi tác ý mỗi lần như vậy nếu có điều gì khiến tâm khởi lên tham, sân, si là chúng tôi quyết định dừng lại một cách kiên cường dũng mãnh, không để một phút giây tham, sân, si trong tâm mình tác động. Do đặt trọn niềm tin nơi những lời Phật dạy, vì thế, chúng tôi nhiếp phục tâm mình một cách dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức.

Trong lời dạy này chỉ cần có “từ bỏ tâm tham” là chấm dứt tái sanh luân hồi. Nhớ lời dạy nhất là lời dạy ấy có cả sự quả quyết của đức Phật: “Ta bảo đảm cho các Ngươi”. Vì thế, sáu tháng trời chúng tôi chuyên cần tu tập từ bỏ tâm tham, sân, si, đúng pháp như lý tác ý, thế là chúng tôi đã thành tựu đạo giải thoát, làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi như lời đức Phật đã bảo đảm.

Bởi vậy bài kinh này lấy tên là: Tập Một Pháp trong Tập Kinh Phật Thuyết Như Vậy. Để bảo đảm lời dạy này đức Phật đã đọc một bài kệ ngắn gọn:

                “Với tham bị tham đắm 
                 Chúng sanh đi ác thú (tái sanh) 
                 Bậc thiền quán chánh trí 
                Từ bỏ tham ái ấy
                Từ bỏ không bao giờ 
                Trở lại đời này nữa”. 

Kính thưa các bạn! Vậy tâm tham ái là gì? Tham là sự tham lam, ham muốn, thường con người ai cũng có tâm tham lam và ham muốn: nhưng có người tham muốn nhiều, lại có người tham muốn ít. Muốn từ bỏ tâm tham muốn là các bạn nên lưu ý từng hành động nhỏ nhặt của các bạn như: ăn, uống, ngủ nghỉ, vui chơi, giao tiếp với bạn bè v.v… khi muốn từ bỏ tâm tham muốn các bạn phải xem xét kỹ lưỡng từ cái ăn, cái mặc, cái vui chơi xem coi nó còn tham ăn, tham ngủ, tham nói chuyện không? Ăn ngủ và nói chuyện là tướng tham sẽ hiện nơi đó. Khi tướng tham còn hiện nơi đó là tâm các bạn chưa thanh tịnh, tâm chưa thanh tịnh dù các bạn có muốn tu pháp nào đi nữa thì các bạn cũng đều là tu sai pháp, tu lạc đường cả. Do đó sự tu tập của các bạn chỉ uổng công mà thôi.

Bởi vậy khi tu tập từ bỏ tâm tham thì các bạn nên xem mình ưa thích ăn cái này cái kia không? Nếu còn thích ăn cái này cái kia thì tâm các bạn còn tham ái. Biết tâm còn tham ái thì các bạn phải cố gắng nhiếp phục tâm mình để từ bỏ tâm tham ăn, tham uống, tham ngủ nghỉ phi thời. Khi từ bỏ được tâm tham ăn là các bạn không ăn uống phi thời, không ăn uống lặt vặt, đúng giờ thì ăn, không đúng giờ thì không ăn. Và không bao giờ thèm ăn cái này hay thèm ăn cái kia. Như vậy các bạn đã lìa hay từ bỏ tâm tham ăn.

Trong giới luật Phật có giới cấm không ăn phi thời. Không ăn phi thời là đức hạnh ly tâm tham của một vị tu sĩ. Thế mà giới này, các tu sĩ Đại Thừa và Thiền Tông đều vi phạm ăn uống phi thời, có nghĩa các thầy Đại Thừa tâm tham ăn chưa từ bỏ. Chưa từ bỏ tâm tham ăn mà muốn kiến tánh thành Phật thì Phật đó là Phật còn tham ăn ư! Vậy mà muốn được sau khi chết được trực vãng Tây Phương Cực Lạc thì những pháp môn này tu hành không bao giờ có giải thoát thật sự, chỉ là một ảo tưởng mà thôi. Phải không các bạn?

Bài kinh Tập Một Pháp đã xác định rõ ràng như vậy không còn có một giáo pháp nào lừa đảo chúng ta được nữa. Không lìa tâm tham mà muốn chứng quả A-la-hán, muốn kiến tánh thành Phật và muốn trực vãng Tây Phương Cực Lạc, thì đó là giấc mộng các bạn a! Đây là con đường từ bỏ tâm tham đưa đến làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi mà đức Phật đã thường nhắc nhở chúng ta:

“Này Vàsettha, nay ở đời đức Như Lai xuất hiện là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, đức Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ với thượng trí, thế gian này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người lại tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh”.

(Trường Bộ Kinh tập 1, trang 425 kinh Tevija thuộc tạng kinh Việt Nam do Hòa Thượng Minh Châu dịch).

Khi được nghe đức Phật dạy đạo đức làm người, làm Thánh, sống không làm khổ mình, khổ người tức là dạy sơ thiện, trung thiện, hậu thiện. Nghe dạy đạo đức như vậy ai mà không muốn tu. Phải không các bạn? Chỉ có từ bỏ được tâm tham là các bạn đã chấm dứt được sanh tử luân hồi, chứng quả vô lậu A-la-hán, quá dễ dàng không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức. Vậy mà mọi người chịu ảnh hưởng của Đại Thừa cứ nghĩ rằng quả A-la-hán tu rất khó khăn.  

Vậy các bạn hãy nghe tiếp lời đức Phật: “Người gia trưởng hay con vị gia trưởng hay một người sinh ở giai cấp hạ tiện nào nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp người ấy sinh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, vị ấy suy nghĩ: “Đời sống gia đình đầy những phiền trược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình”. Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa và xuất gia từ bỏ gia đình, sống không nhà cửa!” (gia đình) .

“Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Mạng sống trong sạch, giới hạnh đầy đủ, thủ hộ các căn, chánh niệm tỉnh giác và biết tri túc”.

Đoạn kinh trên đây là chỉ cho con đường Phạm hạnh mà những ai muốn làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi đều phải đi con đường này, không thể còn có một con đường nào khác hơn được nữa. Nếu có con đường nào hơn khác nữa thì đó không phải là con đường của đạo Phật mà đó là con đường lừa đảo của tà giáo ngoại đạo lường gạt người.

Xin các bạn nên lưu ý. Các bạn hãy đọc kỹ lại đoạn kinh trên, vì trước khi tuyên bố con đường này đức Phật đã xác định cho chúng ta biết: Bất cứ một người nào muốn đưa ra một giáo lý chỉ dạy con đường tu tập giải thoát sinh tử luân hồi thì phải là người chứng đạt được 10 danh hiệu như đoạn kinh trên đã nói:

                1- Bậc A-la-hán 
                2- Bậc Chánh Biến Tri 
                3- Bậc Minh Hạnh Túc
                4- Bậc Thiên Thệ 
                5- Bậc Thế Gian Giải 
                6- Bậc Vô Thượng Sĩ 
                7- Bậc Điều Ngự Trượng Phu
                8- Bậc Thiên Nhân Sư
                9- Bậc Phật 
               10- Bậc Thế Tôn 

Người chứng đạt được 10 danh hiệu này mới dám đưa ra con đường duy nhất cứu cánh giải quyết mọi sự khổ đau của kiếp người. Trong khi thực hành tu tập thì pháp hành rất thực tế, cụ thể qua những hành động sống đều được gắn liền trong đời sống bình thường hằng ngày, vì nó là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người. Cho nên ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày mà tâm tham, sân, si đều đã được từ bỏ và đoạn diệt một cách tự nhiên. Bởi vậy không còn có con đường nào khác hơn được nữa.

Xin các bạn lưu ý và đọc lại đoạn kinh trên để hiểu thấu suốt lời dạy của Phật, nó không phải là lời nói suông mà là một sự sống của những bậc thánh A-la-hán. Cho nên các bạn đừng xem thường những lời dạy này. Đó là những lời dạy tâm huyết của đức Phật gửi lại cho đời sau một thông điệp nói về sự sống giải thoát mọi sự khổ đau của kiếp người mà đức Phật đã chỉ rõ mục đích của nó là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ, đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Kính thưa các bạn! Con đường ấy là con đường thánh thiện luôn luôn gắn liền với sự sống hằng ngày của mọi người rất chân thật, chứ không có mơ hồ, trừu tượng ảo giác chút nào, nó không giống như những con đường ảo tưởng của Đại Thừa và Thiền Tông.

Đây các bạn hãy lắng nghe đức Phật chỉ dạy con đường giải thoát rất thực tế và cụ thể. Sự giải thoát ấy chính nơi trạng thái tâm của các bạn mà không ai không nhận ra được:

              “Này Vàsettha, ngươi nói tỳ-kheo không có ái dục, Phạm thiên không có ái dục. Vậy giữa tỳ-kheo không có ái dục với Phạm thiên không có ái dục, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
              - Thưa Tôn giả Gotama, có thể được.
              Lành thay! Này Vàsettha, tỳ-kheo sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên. Thật có thể có sự kiện ấy”.

Đọc đoạn kinh này ai cũng biết con người thường đau khổ là vì tâm ái dục. Nếu tâm dục ái hết thì con người giải thoát, không còn đau khổ nữa. Có phải vậy không các bạn? Đó là một sự chân thật cụ thể không mơ hồ trừu tượng mà không còn ai dám cho rằng đây là không đúng. Muốn từ bỏ tâm dục ái thì chỉ có con đường duy nhất của đạo Phật như đoạn kinh trên đã dạy, ngoài con đường ấy ra, thì không còn có con đường nào khác nữa. Cho nên, Bà-la-môn bảo rằng: “Đây là trực đạo, đây là chánh đạo. Mọi pháp môn đều dẫn đến nơi cứu cánh giải thoát”. Đó là lời nói suông. Lời nói suông là lời nói không chỉ rõ mục đích giải thoát rõ ràng, cụ thể.

142-TỰ XÉT MÌNH BIẾT MÌNH...? TL Thích Thông Lạc

KHIẾP ĐẢM VÀ SỢ HÃI

Lời Phật dạy:

[Này Bà La Môn, xưa kia khi Ta chưa chứng ngộ chánh đẳng giác, khi còn là Bồ Tát, Ta nghĩ như sau: “Thật khó kham nhẫn những trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng: Rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỳ Kheo chưa chứng thiền định!”

Này Bà La Môn, rồi Ta suy nghĩ: “Những Sa môn hay Bà La Môn nào, thân nghiệp không thanh tịnh, sống trong các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, thân nghiệp không thanh tịnh, những tôn giả Sa Môn hay Bà La Môn ấy làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Thân nghiệp ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh. Sa Môn hay Bà La Môn nào có khẩu nghiệp không thanh tịnh... Có ý nghiệp không thanh tịnh... Có mạng sống không thanh tịnh, sống trong các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, mạng sống không thanh tịnh, những tôn giả Sa Môn hay Bà La Môn ấy làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên...”

 Này Bà La Môn, Ta tự quán sát mạng sống hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.]

Chú giải:

Đoạn kinh trên đây vừa trả lời và vừa xác chứng về câu hỏi thứ nhất của các bạn: “Thưa Thầy chúng con có tu chứng quả A-la-hán trong đời này không?” Thường đặt ra câu hỏi là có câu trả lời, nhưng câu hỏi này đã có câu trả lời rồi, các bạn không chú ý mà thôi. Câu hỏi này có bốn điều nghi ngờ và một điều thiếu lòng tin: 

              1- Một là nghi mình không đủ khả năng tu tập.
              2- Hai là nghi Thầy tu tập chưa tới nơi tới chốn.
              3- Ba là không tin pháp mình đang tu tập.
              4- Bốn là thiếu lòng tin nơi mình, nơi Thầy.

Phần đông những tu sĩ hay cư sĩ về tu tập tại tu viện Chơn Như, hay hỏi Thầy trong đời này mình có tu chứng quả A-la-hán hay không? Nếu thẳng thắn trả lời câu hỏi này có hai điều bất lợi cho người hỏi:

              1- Nếu nói rằng được thì người này sinh ra ngã mạn, cống cao, tham vọng tu tập quá sức khiến cho cơ thể thành bệnh, v.v...
              2- Còn bảo rằng tu không được thì lại sinh ra lười biếng tu lấy có hình thức chứ tâm ý không còn nhiệt tâm, nhiệt quyết tu tập.

Còn riêng chúng tôi tu hành là để tìm sự giải thoát cho cuộc đời đầy đau khổ của mình chứ đâu phải để làm ông thầy bói mà nói chuyện vị lai cho mọi người. Thế mà mọi người không tự  tin nơi mình, không lấy mình làm chỗ nương tựa vững chắc cho mình; không lấy mình làm hòn đảo cho chính mình, mới có những câu hỏi như vậy. Vì pháp Phật không có thời gian, đến để mà thấy… Không tu tập thì thôi mà đã tu tập thì có kết quả giải thoát ngay liền. Như vậy các bạn không đủ lòng tin hay sao? Đã không tin nơi mình thì làm sao tu chứng quả A-la-hán được. Phải không các bạn?

Để thay câu trả lời của chúng tôi bằng lời dạy của đức Phật trong đoạn kinh dưới đây: “Ở nơi trú xứ xa vắng, trong rừng rú hoang vu mà chúng ta không sợ hãi, khiếp đảm. Đó là vì thân nghiệp của chúng ta thanh tịnh. Thân nghiệp của chúng ta thanh tịnh thì chúng ta là một bậc Thánh”. Đây lời xác chứng của đức Phật, xin các bạn đọc lại trọn đoạn kinh trên thì sẽ biết rõ ràng, các bạn tu chứng hay không tu chứng quả A-la-hán đều biết không cần phải hỏi Thầy.

CHỨNG QUẢ A LA HÁN

Lời Phật dạy:

“Này Bà La Môn, rồi Ta suy nghĩ: “Những Sa môn hay Bà La Môn nào, có tâm sân hận ác ý, sống trong các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, có tâm sân hận ác ý, những tôn giả Sa Môn hay Bà La Môn ấy làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có tâm sân hận ác ý, sống tại các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta có từ tâm. Ta là một trong những bậc Thánh có từ tâm, sống tại các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Này các Bà La Môn, Ta tự quán sát Ta có tâm từ như vậy, Ta cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn khi sống rừng núi”.

Chú giải:

Đoạn kinh trên đây xác chứng khi tâm chúng ta còn “tham, sân, si (hôn trầm thùy miên), mạn, dao động, tâm không an tịnh, nghi hoặc, do dự, khen mình, chê người, run rẩy, sợ hãi, ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, biếng nhác, kém tinh tấn, thất niệm, không tỉnh giác, không định tỉnh, tâm bị tán loạn, liệt tuệ, đần độn, v.v... thì sẽ sợ hãi, khiếp đảm, sống tại các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”.  

Những người có một trong những tâm trạng trên đây là không thể tu chứng quả A-la-hán trong đời này. Đó là lời xác định của đức Phật. Vậy, trong đời này chúng ta có thể tu chứng quả A-la-hán bằng cách cần phải tiêu diệt tâm trạng sợ hãi.

Vậy, bây giờ có một người hỏi bạn: “Trong một đời này tôi có thể tu chứng quả A-la-hán được không?” Bạn sẽ thành thật trả lời câu hỏi của chúng tôi: “Bạn có còn ham thích ăn, thích ngủ, thích hội họp, thích nói chuyện không? Nếu bạn trả lời không thì bạn có thể tu chứng quả A-la-hán, còn nếu bạn trả lời có thì bạn không thể chứng quả A-la-hán được. Chừng nào bạn tu tập sống đúng những Phạm hạnh trên thì tự bạn cũng xác định được sự tu tập của mình, chứ cần gì bạn phải hỏi. Phải không các bạn?

Theo lời Phật dạy trên đây lấy tiêu chuẩn sợ hãi và khiếp đảm để xác định sự tu chứng quả A-la-hán hay không chứng quả A-la-hán cũng không khó khăn.  

Một người còn sợ hãi và khiếp đảm là còn vướng mắc những tâm trạng như: thân, khẩu, ý không thanh tịnh, tâm chúng ta còn tham ăn, tham ngủ, không sống độc cư trọn vẹn, tham, sân, si (hôn trầm, thùy miên), mạn, dao động, tâm không an tịnh, nghi hoặc, do dự, khen mình, chê người, run rẩy, sợ hãi, ham muốn lợi dưỡng,  cung kính, danh vọng, biếng nhác, kém tinh tấn, thất niệm, không tỉnh giác, không định tỉnh, tâm bị toán loạn, liệt tuệ, đần độn, v.v... Đó là những điều khiến tâm sợ hãi và khiếp đảm. Tâm còn mang những trạng thái trên đây là không thể tu chứng quả A-la-hán được. Cho nên khi đặt câu hỏi: Trong một đời này mình có tu chứng quả A-la-hán hay không? Thì nên tự hỏi lại mình. Mình có sống và làm chủ tâm mình, không còn bị các ác pháp trên đây chưa?

 

KHÔNG PHÓNG DẬT

Lời Phật dạy:

“Này các Thích tử, đâu phải là nửa tháng! Ở đây đệ tử của Ta trong 10 đêm 10 ngày, trong 9 đêm 9 ngày , trong 8 đêm 8 ngày, trong 7 đêm 7 ngày, trong 6 đêm 6 ngày,  trong 5 đêm 5 ngày, trong 4 đêm 4 ngày, trong 3 đêm 3 ngày, trong 2 đêm 2 ngày, trong 1 đêm 1 ngày sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần như lời Ta dạy, vị ấy thực hành, vị ấy có thể sống 100 năm, 100 trăm năm, 100 ngàn năm, 100 trăm ngàn năm (2) được cảm thọ nhất hướng an lạc. Vị ấy có thể chứng được quả Nhất lai, quả Bất lai hay quả Dự lưu, không có sai chạy”.

Chú giải:

Đoạn kinh trên đây đã xác định được tầm quan trọng của tâm không “phóng dật” như thế nào? Các bạn có biết chăng? Nếu các bạn tu tập giữ gìn tâm không phóng dật, chỉ có một ngày, một đêm thôi, mà các bạn có thể sống 100 trăm ngàn năm được cảm thọ nhất hướng an lạc và các bạn chỉ còn có một kiếp này mà thôi (nhất lai), không còn trở lui kiếp làm người nữa.

Tâm không phóng dật là mục đích tối hậu của Phật giáo trên đường tu tập giải thoát. Tâm không phóng dật là một trạng thái tâm bất động. Bất động không có nghĩa là ức chế tâm. Tâm bất động với phương pháp như lý tác ý xả tâm ly dục ly ác pháp. Tâm bất động với Chánh tư duy tìm đạo lý có những công đức gì thì nên che dấu, không được phô bày, nhưng có lỗi lầm nào thì nên phát lồ sám hối. Tâm bất động với phương pháp ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp. Tâm bất động với cuộc sống không làm các pháp ác, luôn làm các pháp thiện tức là sống đời sống không làm khổ mình khổ người, khổ chúng sanh.  

Tu theo Phật giáo chẳng có chi nhiều, chỉ có tâm bất động, tức là tâm không phóng dật như lời Phật đã dạy ở trên đây. Đã có nhiều bài pháp nói về tâm không phóng dật, nhưng bài pháp này đức Phật đã xác định cho chúng ta thấy rõ thời gian tu tập chỉ có một ngày một đêm tâm không phóng dật thì vị ấy có thể hưởng cảm thọ nhất hướng lạc 100 trăm ngàn năm.                                        

Sự lợi lạc lớn như vậy cho đời sống của chúng ta, cớ sao chúng ta không tu tập? Đời sống luôn luôn lúc nào cũng lo lắng, sợ hãi về đói khát, lạnh nóng; lúc nào cũng lo lắng sợ hãi về bệnh tật, khổ đau; lúc nào cũng lo lắng về sự vô thường sống chết.

Cuối đoạn kinh này đức Phật đã kết luận bằng những câu hỏi: “Này các Thích tử, như vậy không được lợi ích cho các ông sao? Như vậy khó được lợi ích cho các ông sao? Vì rằng trong đời sống liên hệ đến sự sợ hãi về đau khổ, trong đời sống liên hệ đến sự sợ hãi về chết. Có khi nào các ông thực hành ngày trai giới đầy đủ tám chi phần?”

Thưa các bạn! Lời Phật dạy trên đây là nhắc các bạn. Đời đâu có gì là hạnh phúc, toàn là khổ đau. Phải không các bạn? Vậy, sao các bạn không chịu tu tập mà còn ham chi thế tục. Đời có gì là hạnh phúc đâu mà bám lấy, không chịu bỏ xuống. Chỉ có một đêm một ngày các bạn Thọ Bát Quan Trai giữ gìn tâm không phóng dật mà thọ hưởng hạnh phúc an lạc 100 trăm ngàn năm. Như vậy các bạn nghĩ sao? Chọn đời hay chọn đạo? Tu dễ hay tu khó các bạn ạ! Khó dễ là tại nơi tâm của các bạn, chứ con đường tu hành nào có khó dễ ở đâu? Chỉ có bền chí như người mài sắt thành kim “Chí công mài sắt có ngày nên kim”. Phải không hỡi các bạn?

Chú thích: (2) Cách đếm số ngày xưa trong thời đức Phật.

 

TỰ XÉT MÌNH BIẾT MÌNH CÓ CHỨNG QUẢ A LA HÁN HAY KHÔNG?

Lời Phật dạy:

“Này Bà La Môn, thật sự là vậy. Này Bà La Môn, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng rú làm rối loạn tâm trí vị Tỳ-kheo chưa chứng thiền định”.

Chú giải:

Đoạn kinh này chỉ cho chúng ta thấy rằng: Đời sống nơi hoang vắng, đời sống viễn ly và đời sống độc cư, bản chất con người khó mà sống được. Vì con người sống trong dục lạc và ác pháp như vậy, thì cảnh hoang vắng rừng rú sẽ làm rối loạn tâm trí của họ. Vậy đời sống nơi hoang vắng như thế nào? Đời sống viễn ly như thế nào? Đời sống độc cư như thế nào?  

               - Đời sống nơi hoang vắng là sống nơi rừng rú, nơi nghĩa địa, nơi cánh đồng mông quạnh, nơi hòn đảo giữa biển khơi, v.v...
               - Đời sống viễn ly là đời sống không nhà cửa không gia đình, đơn thân, đơn chiếc, sống độc thân một mình, v.v...
               - Đời sống độc cư là đời sống không giao thiệp với ai, không thích tập họp, không thích nói chuyện, không thích giao du, không thích qua lại, không thích tranh luận, không thích bạn bè v.v... 

Đời sống như vậy không thích hợp với người thế gian, người phàm phu, người còn ham vui, người còn ham thích dục lạc, v.v... Cho nên họ không thể sống như vậy được. Ngược lại, chỉ có những bậc hướng đến thánh quả A-la-hán thì mới sống được như vậy.

Tự xét mình có thích sống trong ba trường hợp này thì người ấy sẽ tu tập chứng quả A-ha-hán chỉ trong một đời này, còn ngược lại thì rất khó chứng quả A-la-hán. Chúng ta hãy đọc đoạn kinh kế tiếp dưới đây thì sẽ thấu hiểu rất rõ ràng: 

“Này Bà La Môn, xưa kia khi Ta chưa chứng ngộ Chánh đẳng giác, khi còn là Bồ Tát, Ta nghĩ như sau: “Thật khó kham nhẫn những trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng: Rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỳ-kheo chưa chứng thiền định!”

“Này Bà La Môn, rồi ta suy nghĩ: “Những Sa môn hay Bà La Môn nào, thân nghiệp không thanh tịnh, sống trong các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, thân nghiệp không thanh tịnh, những tôn giả Sa Môn hay Bà La Môn ấy làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Thân nghiệp ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh.”

Đọan kinh trên đây đã xác định rõ ràng: “Thân nghiệp không thanh tịnh, những tôn giả Sa Môn hay Bà La Môn ấy làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên.” Chỗ chúng ta cần hiểu là thân nghiệp không thanh tịnh. Vậy thân nghiệp không thanh tịnh là gì? Thân nghiệp không thanh tịnh có nghĩa là thân còn thích dục lạc như ăn uống phi thời, thân hay bệnh tật đau yếu, thân thích dâm dục, thân hay đốt lửa giết hại chúng sanh, thân lười biếng ưa thích ngủ nghỉ, thân hay làm những điều ác làm chết và đau khổ các loài chúng sanh, thân đi đứng không nhẹ nhàng đầm thấm, thân còn đỏ mặt tía tai, thân còn muốn co tay đánh người khác, vật khác, v.v… Nói chung thân nghiệp không thanh tịnh gồm có ba hành động chính: 

              1- Thân có những hành động ác như trộm cắp cướp giựt lấy của không cho.
              2- Thân ưa thích dâm dục, ưa thích nói chuyện người khác phái, thân có hành động thủ dâm.
              3- Thân giết hại chúng sanh, làm cho chúng sanh đau khổ.

Khi nào thân nghiệp thanh tịnh thì không còn những hành động ác đó nữa. Cho nên trong kinh “Giáo Giới La Hầu La” đức Phật dạy phải luôn luôn phản tỉnh lại thân hành nghiệp của mình, nếu thân hành nghiệp của mình làm khổ mình khổ người và khổ cả hai thì nhất chết cũng không làm, còn thân hành nghiệp nào không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai thì mới làm. Nếu một người tập như vậy thì họ ở những chỗ xa vắng hoang vu, không hề sợ hãi.

Chúng ta hãy lắng nghe tiếp đức Phật dạy: “Này Sa Môn hay Bà La Môn nào có khẩu nghiệp không thanh tịnh... ý nghiệp không thanh tịnh… Có mạng sống không thanh tịnh, sống trong các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, mạng sống không thanh tịnh, những tôn giả Sa Môn hay Bà La Môn ấy làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên ...”

Đoạn kinh trên chúng ta nên lưu ý: “Khẩu nghiệp không thanh tịnh, ý nghiệp không thanh tịnh”. Vậy khẩu nghiệp không thanh tịnh và ý nghiệp không thanh tịnh nghĩa là gì?

                Khẩu, có bốn nghiệp không thanh tịnh: 
                1. Nói lời hung ác.
                2. Nói không thật, nói dối nói xảo trá.
                3. Nói đâm thọc, nói xấu người, nói vu khống người.
                4. Nói lưỡi hai chiều, nói lật lọng.

                Ý, có ba nghiệp không thanh tịnh:
                1. Ý tham dục, ham muốn cái này, cái kia, xan tham, v.v…
                2. Ý sân hận, thù oán, ghen ghét, tị hiềm, tật đố, v.v…
                3. Ý si mê, lười biếng ham ngủ nghỉ, hôn trầm thùy miên vô ký.

Bây giờ các bạn đã hiểu rõ thân, khẩu, ý nghiệp không thanh tịnh là do những thân, khẩu, ý hành của các bạn còn làm những điều ác trên đây. Vậy, muốn cho thân, khẩu, ý nghiệp thanh tịnh thì các bạn không nên làm những điều ác như trên đã dạy. Vậy muốn cho thân hành, khẩu hành và ý hành không làm ác thì chúng ta hãy nghe đức Phật dạy La Hầu La:

              - “Này La Hầu La, con nghĩ thế nào? Mục đích của cái gương là gì?
              - Bạch Thế Tôn mục đích của cái gương là để soi, để phản tỉnh lại mình …
              - Cũng vậy, này La Hầu La, con phản tỉnh hay soi lại nhiều lần nơi thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp, ý hành nghiệp của con.  

 - Khi soi vào thân hành nghiệp và con muốn cho thân hành nghiệp của con phải làm gì, thì con phải soi lại thân hành nghiệp như sau: “Thân hành nghiệp này của con có thể đưa đến tự hại; có thể đưa đến hại người; có thể đưa đến hại cả hai; thân hành nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Này La Hầu La, khi con nghĩ như vậy, nhất định con không nên làm, nhất định con từ bỏ, nhất định con cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ trình bày trước các vị Đạo sư hay trước các vị đồng Phạm hạnh. Sau khi đã tỏ lộ trình bày cần phải phòng hộ trong tương lai”.

- Còn ngược lại khi con soi lại thấy thân hành nghiệp này của con không có thể đưa đến tự hại,  không có thể đưa  đến hại người, không có thể đưa đến hại cả hai, thì thân nghiệp này thiện, đưa đến an lạc. Một thân nghiệp như vậy, này La Hầu La, con nên làm, cần phải tiếp tục làm. Do vậy, này La Hầu La, con phải an trú trong niềm hoan hỷ, tự mình tiếp tục học ngày đêm trong các thiện pháp”.

Chúng ta nên theo lời dạy này mà phản ảnh lại thân hành, khẩu hành và ý hành của mình để thân hành, khẩu hành và ý hành của mình được thanh tịnh. Khi thân hành, khẩu hành và ý hành của mình được thanh tịnh là chúng ta đã đạt được tâm bất động giải thoát, tức là chứng quả vô lậu A-la-hán. Như vậy quả A-la-hán đâu phải tu tập có khó khăn gì. Phải không các bạn? Khi thân hành, khẩu hành và ý hành của mình đã thanh tịnh thì sống bất cứ nơi đâu ta cũng không hề sợ hãi, như đức Phật đã xác định: “Này Bà La Môn, Ta tự quán sát mạng sống hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi”.

Đoạn kinh trên đã xác định cho chúng ta thấy một số tăng ni và cư sĩ theo tu học tại tu viện Chơn Như, căn  tánh còn phàm phu tục tử, tham ăn, thích ngủ, ham nói chuyện, v.v... Đời không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm. Đời vẫn còn đắm danh, tham lợi mà muốn hướng đến thánh quả A-la-hán thì làm sao chứng thánh được. Phải không các bạn? Không tự xét thấy lỗi mình, mà cứ thấy lỗi người, và còn bảo rằng: “Tu Viện Chơn Như sao không thấy ai tu chứng quả A-la-hán”, hoặc “Những người theo tu học tại tu viện Chơn Như rơi rụng như sung”. Tu mà đời không chịu bỏ thì như sung rụng là đúng chứ sao? Quả A-la-hán dành cho những người sống đúng hạnh, tu tập đúng pháp, chứ không phải tu ăn, tu ngủ, tu phá hạnh độc cư, v.v...

143-BỜ BÊN NÀY, BỜ BÊN KIA. TL Thích Thông Lạc

ÁC NGHIỆP

Lời Phật dạy:

              “Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm?
              Này Mahàli, do nhân tham, do duyên tham, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm.
              Này Mahàli, do nhân sân, do duyên sân, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm.
              Này Mahàli, do nhân si, do duyên si, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm.
              Này Mahàli, do nhân phi như lý tác ý, do duyên phi như lý tác ý, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm.
              Này Mahàli, do nhân tà hướng, do duyên tà hướng, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm.  Và ngược lại thì thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm”. 

                                               (Tăng Chi Bộ Kinh tập IV trang 355).

Chú giải:

Đoạn kinh này đức Phật đã xác định hướng đi và pháp hành của chúng ta trên đường tu tập từ khởi đầu đi đến rốt ráo. “Do nhân gì, do duyên gì, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm?“Do nhân gì, do duyên gì, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm?”

Khi rõ được lời dạy này, chúng ta sống là tu, chúng ta tu là sống. Cho nên biết sống là tu, biết tu là sống thì cuộc sống này là Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn. Đã là Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn thì còn đến chùa tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để làm gì? Nếu để cầu về cõi Thiên Đàng, Cực Lạc và Niết Bàn thì chỉ là những người mất trí mà thôi! Cõi Thiên Đàng, Cực Lạc và Niết Bàn là cõi tưởng. Vậy, các bạn có nên cầu về đó chăng? Có cõi đó đâu mà cầu. Phải không các bạn? Cực Lạc, Thiên Đàng và Niết Bàn là ở tại tâm chúng ta. Khi chúng ta biết: “Do nhân tham, sân, si, do duyên  tham, sân, si, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm?“Do nhân vô tham, vô sân, vô si, do duyên vô tham, vô sân, vô si, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm? 

Khi chúng ta biết: “Do nhân như lý tác ý, do duyên như lý tác ý, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm?” Phật pháp rất thực tế, nó là nền đạo đức nhân bản - nhân quả giúp cho con người xây dựng hành tinh sống này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng và Niết Bàn. Có đúng vậy không các bạn? 

Nếu mọi người đều hiểu Phật pháp một cách rất cụ thể như lời Phật đã dạy trên đây thì chúng tôi tin chắc rằng mọi người trên thế gian có một cuộc đời an lạc tuyệt vời. Chúng tôi ước nguyện cho mọi người trên hành tinh sớm được gặp những lời dạy quý báu này để mọi loài sống và được hưởng một mùa xuân vĩnh cửu.

TÂM KHÓ TRỊ

Lời Phật dạy: 

               “Tâm phàm hay dao động
               Khó chế, khó nhiếp phục
               Kẻ trí khiến tâm chánh
               Như thợ khéo nắn tên”.
                                                   (Kinh Pháp Cú 33).

Chú giải:

Tâm con người rất khó chế ngự, chế ngự tâm là một việc làm hết sức thiện xảo, phải biết rõ đặc tướng, hành tướng, nhân tướng của tâm mình, thì mới uốn nắn nó được. Cho nên, tất cả pháp môn của đạo Phật là những phương pháp huấn luyện tâm, muốn huấn luyện tâm cũng giống như người huấn luyện voi, cọp, chó, ngựa, v.v...

Huấn luyện tâm thì chúng ta phải dùng ý thức. Ý thức tác ý để chế ngự, để nhiếp phục, để dụ dỗ và để dẫn dắt nó theo lộ trình thiện pháp. Tâm chúng ta như con trâu rừng hoang dã, rất khó trị. Như chúng ta cũng thấy, những nhà huấn luyện voi, cọp, chó, khỉ, vượn, heo, dê, ngựa, chim, v.v... làm xiếc. Loài vật hoang dã còn huấn luyện được huống là tâm chúng ta. Phải không các bạn? Đường đi không khó mà khó chỉ vì lòng người còn ham dục lạc thế gian, không bền chí.  

Chúng ta nên đọc kỹ lại bài “Định Niệm Hơi Thở”, thì sẽ thấy đó là một phương pháp dẫn và dụ tâm. Chúng ta hãy đọc kỹ lại kinh Tứ Niệm Xứ, thì sẽ thấy đó là phương pháp vừa nhiếp phục vừa dụ tâm. Chúng ta hãy đọc kỹ lại kinh Thân Hành Niệm, thì sẽ thấy đó là phương pháp vừa tỉnh thức cũng vừa tạo lực tâm. Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài kinh Song Tầm, thì sẽ thấy đó là phương pháp ngăn ngừa tâm ác. Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài kinh An Trú Tầm, thì sẽ thấy đó là phương pháp đoạn diệt tâm ác.

Nếu chúng ta hiểu rõ mỗi pháp mà áp dụng mỗi tâm niệm thì kết quả ngay liền như đức Phật đã nói: “Pháp Ta không có thời gian, đến để mà thấy…”. Đúng vậy, chỉ có những người tu sai pháp tức là tu tập ức chế tâm thì không thấy mà thôi, hay tu tưởng thế giới siêu hình thì mới có thời gian vô lượng kiếp.

LÒNG TIN

Lời Phật dạy:

“Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa”.

Chú giải:

Xưa, đức Phật còn tại thế, chúng tỳ-kheo nào tu tập chứng quả A-la-hán đều tin vào đức Phật, vào pháp của đức Phật, còn ngược lại chúng tỳ-kheo nào không tin vào Phật, Pháp thì quả A-la-hán kia không bao giờ đến với họ được. Cho nên các vị tỳ-kheo trong thời đó thường nói lên câu nói này trước đức Phật: Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa”.

Lòng tin ấy đã giúp họ sống đúng Phạm hạnh và thực hành nghiêm chỉnh không sai lời dạy, mặc dù lúc bấy giờ pháp môn của Bà-la-môn rất thịnh hành cũng giống như pháp môn của Đại Thừa hiện giờ vậy. Nhưng khi tin Phật họ đều ném bỏ giáo pháp Bà-la-môn xuống như một chiếc giày rách, do đó họ mới tu chứng quả A-la-hán. Nhưng dù sao thời đó cũng có nhiều người còn chấp chặt pháp môn của Bà-la-môn. Đại diện như Đề Bà Đạt Đa chống lại Phật và tìm mọi cách giết Phật. Ảnh hưởng tư tưởng tinh thần diệt Phật giáo từ khi đức Phật còn tại thế. 

Hôm nay, tinh thần tư tưởng đó đã thể hiện và thành hình một Phật giáo kiểu mới “Phật giáo Đại Thừa” mà hiện giờ mọi người đang tôn thờ, còn Phật giáo nguyên gốc thì ít có người biết đến. Nếu tại Việt Nam không có Hòa Thượng Minh Châu dịch tạng kinh Nguyên Thủy thì giờ này tín đồ Phật giáo sẽ ra sao? Còn biết Phật giáo nữa không? Giáo lý Đại Thừa gần như phủ kín chánh pháp của Phật. Có phải không hỡi các bạn?

Đọc lại những lời Phật dạy và lòng tin của chúng thánh Tăng ngày xưa và xét lại ngày nay chúng tôi dạy các bạn tu hành, bạn nào tin nơi chúng tôi thì bạn ấy có giải thoát; bạn nào không tin nơi chúng tôi, thường tin kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông, sống đời sống phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới, bạn ấy sẽ không có giải thoát và còn đi vào con đường bỉ thử danh lợi, nên thường chê bai, kích bác người khác thế này, thế kia. Nhưng cuối cùng bạn ấy tu hành cũng chẳng tới đâu, chỉ có uốn ba tấc lưỡi lừa đảo những người khác chưa thông giáo lý của Phật, chứ không thể lừa đảo những người sống có Phạm hạnh, có Thiền định, có Tam Minh.

BỜ BÊN NÀY, BỜ BÊN KIA

Lời Phật dạy:

                 “1- Tà kiến, này Bà-la-môn, là bờ bên này, Chánh kiến là bờ bên kia.
                  2- Tà tư duy là bờ bên này, Chánh tư duy là bờ bên kia.
                  3- Tà ngữ là bờ bên này, Chánh ngữ là bờ bên kia.
                  4- Tà nghiệp là bờ bên này, Chánh nghiệp là bờ bên kia.
                  5- Tà mạng là bờ bên này, Chánh mạng là bờ bên kia.
                  6- Tà tinh tấn là bờ bên này, Chánh tinh tấn là bờ bên kia.
                  7- Tà niệm là bờ bên này, Chánh niệm là bờ bên kia.
                  8- Tà định là bờ bên này, Chánh định là bờ bên kia.
                  9- Tà trí là bờ bên này, Chánh trí là bờ bên kia.
                 10- Này Bà-la-môn, Tà giải thoát là bờ bên này, Chánh giải thoát là bờ bên kia. Này Bà-la-môn, đây là bờ bên này, đây là bờ bên kia”.

                 “Ít người giữa nhân loại,
                 Đến được bờ bên kia
                 Còn số người còn lại
                 Xuôi ngược chạy bờ này
                 Những ai hành trì pháp
                 Theo Chánh pháp khéo dạy
                 Sẽ đến bờ bên kia…”.
                                             (Tăng Chi Bộ Kinh tập 4 trang 557). 

Chú giải:

                 Theo Phật giáo xác định cho chúng ta thấy hai lộ trình: 
                 1- Lộ trình đau khổ.
                 2- Lộ trình hết đau khổ.

Lộ trình đau khổ là bờ bên này, lộ trình hết đau khổ là bờ bên kia. là đau khổ, Chánh là hết khổ đau; Ác là đau khổ, Thiện là hết khổ đau. Đọc đoạn kinh trên đây, chúng ta xét thấy sự giải thoát của Phật giáo rất rõ ràng và dễ dàng không có khó khăn. Bởi vì cần có chánh tri kiến hiểu biết thiện và ác là giải thoát ở ngay đó, như bờ bên này và bờ bên kia.

Đức Phật dạy: “Tà kiến, này Bà-la-môn, là bờ bên này, Chánh kiến là bờ bên kia” Vậy, Tà kiến và Chánh kiến là gì? 

Tà kiến là thấy đúng, thấy sai, thấy phải, thấy trái, thấy trắng, thấy đen, thấy tốt, thấy xấu, v.v… do đó thường ở bờ bên này chịu nhiều khổ đau.  

Chánh kiến là thấy nhân, thấy quả. Do thấy nhân quả như thật nên ở bờ bên kia không còn khổ đau. Chúng tôi thường khuyên mọi người: “Chớ nhìn mọi việc đúng sai phải trái mà hãy nhìn nó là thiện ác thì cuộc đời các bạn sẽ được an vui và hạnh phúc ngay liền”.

Đức Phật dạy: “Tà tư duy là bờ bên này, Chánh tư duy là bờ bên kia”. Vậy, Tà tư duy và Chánh tư duy nghĩa là gì? Muốn hiểu rõ lời dạy này thì phải hiểu nghĩa tư duy. Tư duy là sự suy nghĩ. Tà tư duy là suy nghĩ một điều gì, điều đó làm khổ mình khổ người và khổ cả hai. Nói cho rõ ràng hơn là sự suy nghĩ làm cho chúng ta buồn khổ, phiền não, tức giận căm ghét, thương nhớ, lo sợ, âu sầu, v.v… Sự suy nghĩ như vậy là không giải thoát mà đức Phật dạy: “Tà tư duy là bờ bên này”. Bờ bên này là bờ đau khổ, địa ngục. Vì thế, đạo Phật không chấp nhận những sự tư duy như vậy, đó là những tư duy của người không có trí còn sống trong mê mờ ngu si.

Chánh tư duy là sự suy nghĩ một điều gì mà điều đó không làm khổ mình khổ người, khổ cả hai. Chánh tư duy là một sự suy nghĩ làm cho chúng ta không buồn phiền, không làm cho ta tức giận, không làm cho ta lo lắng sợ hãi, không làm cho ta bất toại nguyện, v.v… Sự suy nghĩ như vậy, mang đến cho chúng ta một tâm hồn an vui và hạnh phúc biến cảnh thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Cho nên đức Phật dạy: “Chánh tư duy là bờ bên kia”. Bờ bên kia tức là bờ giải thoát. Nếu cuộc sống mà chúng ta khéo Chánh tư duy như vậy thì lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, an lạc và vô sự không còn một ác pháp nào tác động được thân tâm thì chúng ta đã chứng quả A-la-hán, đâu còn gì mà tu tập nữa. Phải không các bạn? Cho nên bờ bên kia là bờ của những bậc A-la-hán ở.

Đức Phật dạy: “Tà ngữ là bờ bên này, Chánh ngữ là bờ bên kia”. Vậy, Tà ngữ và Chánh ngữ nghĩa là gì?

              Tà ngữ là lời nói ác. Lời nói ác có bốn: 
              1- Nói lời hung dữ
              2- Nói lời đâm thọc
              3- Nói lời lật lọng
              4- Nói lời không thật

Người nào còn nói những lời ác ngữ là còn ở bờ bên này, bờ bên này là bờ đau khổ. Chính lời ác khẩu là sự đau khổ của người có lời nói ấy, khi ta nói lời tà ngữ ấy là địa ngục mở cửa đón ta.

              Chánh ngữ là những lời nói thiện. Lời nói thiện có bốn:
              1- Không nói lời hung dữ
              2- Không nói lời đâm thọc
              3- Không nói lời lật lọng
              4- Không nói lời không thật.

Lời nói không làm khổ mình khổ người là lời nói thiện, lời nói ấy là chánh ngữ, nếu ai đã từng nói những lời nói này là người ở bờ bên kia, bờ giải thoát, như vậy chứng quả A-la-hán đâu phải khó. Phải không các bạn?

Đức Phật dạy: “Tà nghiệp là bờ bên này, Chánh nghiệp là bờ bên kia”. Vậy, Tà nghiệp và Chánh nghiệp là gì?

Tà nghiệp là những hành động làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Nếu ai có những hành động như vậy là người ấy đang mở cửa địa ngục, đang ở bờ bên này, bờ khổ đau.

Chánh nghiệp là những hành động không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Chánh nghiệp là những hành động mở cửa Thiên Đàng cho chúng ta bước vào. Ai từng có những hành động này là ở bờ bên kia. Bờ bên kia là bờ giải thoát, bờ giải thoát là bờ vô lậu. Như vậy chứng quả A-la-hán đâu phải khó khăn. Phải không các bạn?

Đức Phật dạy: “Tà mạng là bờ bên này, Chánh mạng là bờ bên kia”. Vậy, Tà mạng và Chánh mạng nghĩa là gì?

Tà mạng là nuôi mạng sống không chân chánh có nghĩa là ăn uống và ngủ nghỉ phi thời, ăn uống không tiết độ, ăn uống những thức ăn độc vào thân, ăn uống thích món ngon vật lạ cao lương mỹ vị. Người ăn uống phi thời như vậy là mở cửa địa ngục, là ở bờ bên này. Ở bờ bên này là bờ đau khổ.

Chánh mạng là ăn uống không phi thời, ăn uống có tiết độ, ăn để sống chứ không phải ăn cho ngon, ăn cho bổ mập, ăn những cao lương mỹ vị. Chánh mạng không bao giờ ăn thịt chúng sanh. Chánh mạng là nuôi mạng sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Chánh mạng là ở bờ bên kia, bờ giải thoát, bờ vô lậu. Như vậy chứng quả A-la-hán đâu phải khó. Phải không các bạn?

Đức Phật dạy: “Tà tinh tấn là bờ bên này, Chánh tinh tấn là bờ bên kia”. 

              Vậy, Tà tinh tấn và Chánh tinh tấn nghĩa là gì? Tinh tấn có nghĩa là siêng năng.

Tà tinh tấn là siêng làm điều ác luôn luôn làm khổ mình khổ người khổ tất cả chúng sanh. Người siêng năng làm điều ác là người mở cửa địa ngục cho mình là người ở bờ bên này, bờ đau khổ.

Chánh tinh tấn là hằng ngày siêng ngăn ác diệt ác pháp luôn luôn sinh thiện tăng trưởng thiện pháp. Người nào luôn luôn sống Chánh tinh tấn như vậy là người mở cửa Thiên Đàng, là người ở bờ bên kia, bờ giải thoát, bờ không còn khổ đau. Như vậy chứng quả A-la-hán không có khó khăn không có mệt. Phải không các bạn?

Đức Phật dạy: “Tà niệm là bờ bên này, Chánh niệm là bờ bên kia”. Vậy, Tà niệm và Chánh niệm nghĩa là gì?

Tà niệm là pháp môn của ngoại đạo, người tu tập theo pháp của ngoại đạo như: tụng kinh, niệm chú, niệm Phật bắt ấn, ngồi thiền ức chế tâm, tụng kinh cầu siêu cần an, cúng sao giải hạn, trừ tà yểm quỷ, v.v… Người nào chuyên tu hành những pháp môn ấy là mở cửa địa ngục sẽ lọt vào thế giới tưởng, sẽ bị bệnh thần kinh điên khùng, là người ở bờ bên này, bờ bên này là bờ đau khổ, bờ không giải thoát.

Chánh niệm là pháp môn Tứ Niệm Xứ, người nào tu pháp môn này sẽ có giải thoát ngay liền, họ đang ở bờ bên kia, bờ không còn đau khổ, bờ không còn lậu hoặc, chỉ trong vòng 7 ngày, 7 tháng, 7 năm là viên mãn. Như vậy, chứng quả A-la-hán đâu có gì khó khăn. Phải không các bạn?

Đức Phật dạy: “Tà định là bờ bên này, Chánh định là bờ bên kia”. Vậy, Tà định và Chánh định nghĩa là gì? 

Tà định là những thiền định của ngoại đạo, như Bốn Thiền Vô Sắc: Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng, Thiền Tri Vọng, Thiền Công Án, Thiền Minh Sát Tuệ, v.v… những loại thiền định này không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, không chấm dứt tái sanh luân hồi. Nó là những Tà định là ở bờ bên này, bờ đau khổ, bờ địa ngục không giải thoát.

Chánh định là Tứ Thánh Định, pháp môn thiền định của Phật giáo. Người nào tu tập Tứ Thánh Định là đang ở bờ bên kia, bờ giải thoát. Tứ Thánh Định là pháp môn làm chủ  sanh, già, bệnh, chết, nhưng muốn nhập được Tứ Thánh Định là phải có Tứ Như Ý Túc. Người có Tứ Như Ý Túc là người ở bờ bên kia. Như vậy, chứng quả A-la-hán đâu phải khó khăn. Phải không các bạn?

Đức Phật dạy: “Tà trí là bờ bên này, Chánh trí là bờ bên kia”. 

Vậy, Tà trí và Chánh trí nghĩa là gì?

Tà trí là tri kiến không có giới luật, tri kiến không có giới luật là tri kiến ác, ác với mình với người và ác cả hai, tri kiến không giới luật là tri kiến làm khổ mình khổ người và khổ cả hai. Người có tri kiến này là người khổ đau, người ở bờ bên này, người ở trong địa ngục.

Chánh trí là tri kiến có giới luật như đức Phật đã dạy: “Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nếu một người sống có tri kiến và giới luật như vậy, là ở bờ bên kia, bờ giải thoát. Như vậy, chứng quả A-la-hán đâu phải khó khăn như mọi người nghĩ. Phải không các bạn?

Đức Phật dạy: “Này Bà La Môn, Tà giải thoát là bờ bên này, Chánh giải thoát là bờ bên kia”. Vậy, Tà giải thoát và Chánh giải thoát là gì?

Tà giải thoát là tu tập cầu mong gặp Tổ, gặp Phật, có thần thông biến hóa tàng hình, biết chuyện quá khứ vị lai, ngồi thiền sinh hỷ lạc, ngồi thiền thấy xuất hồn, ngồi thiền thấy hào quang ánh sáng, nghe âm thinh trong tai, nghe mùi hương thơm ngào ngạt, nghe vị ngọt trong cổ, v.v… Đó là Tà giải thoát, nên tâm còn tham sân si ngút ngàn, vì thế luôn luôn lúc nào cũng ở bên bờ bên này, bờ đau khổ.

Chánh giải thoát là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ, tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tâm không phóng dật đó là ở bờ bên kia, bờ giải thoát, tâm vô lậu. Như vậy, tu chứng quả A-la-hán đâu phải khó khăn. Phải không các bạn?

Đoạn kinh này xác định có 10 pháp ở bờ bên kia hay nói cách khác là đoạn kinh này dạy chúng ta nên chọn lấy một pháp trong 10 pháp này để sống đúng lời dạy thì luôn luôn ở bờ bên kia tức là chứng quả A-la-hán. Cho nên, tóm lược bài pháp này bằng những câu kệ xác định bờ bên này và bờ bên kia.

Đức Phật dạy: “Này Bà-la-môn, đây là bờ bên này, đây là bờ bên kia”.

               Ít người giữa nhân loại
                Đến được bờ bên kia
                Còn số người còn lại
                Xuôi ngược chạy bờ này
                Những ai hành trì pháp
                Theo Chánh pháp khéo dạy
                Sẽ đến bờ bên kia…

Người ở đời vì vô minh lầm chấp cho các pháp thế gian là thật có nên không dám buông bỏ vì thế mà chạy xuôi chạy ngược chịu khổ đau vô cùng vô tận, chứ không phải chứng quả A-la-hán của Phật là khó. Khó là do không buông xả dục và các pháp.

144-ĐẠO PHẬT: CHÁNH ĐẠO - PHI ĐẠO. TL Thích Thông Lạc.

LỜI NÓI ĐẦU “NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY tập III”

Kho tàng văn hóa đạo đức Phật giáo rất phong phú và tuyệt vời, thường có những văn hóa thực tế, không mơ hồ, trừu tượng, ảo giác, không mê tín, dị đoan v.v… Nhưng chưa có người tu chứng triển khai đúng mức. Vì thế những văn hoá ấy gần như mai một, bị chôn vùi dưới lớp văn hoá Bà-la-môn và những kiến giải tưởng của các Tổ, sư học giả, chúng biến văn hoá chân lý của đức Phật thành văn hoá triết học siêu hình tưởng, ảo giác, trừu tượng và mê tín (Đại Thừa, Thiền Tông).

Hôm nay chúng tôi triển khai những văn hoá đạo đức mà đức Phật đã dạy từ ngày xưa. Khi chúng tôi đã thực hành được, thấy biết những văn hoá này đúng như thật và có lợi ích rất lớn cho loài người đang sống trên hành tinh này.

Phật pháp không dối người, hễ tu thì thấy kết quả ngay liền: “Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy…” Chỉ có những người tu sai, tu tập theo sự suy nghĩ của mình, không theo kinh nghiệm của người tu tập đã xong, do căn cứ vào trình độ học thức có cấp bằng Cử nhân, Tiến sĩ…. rồi tự cho mình có thể thông suốt khi đọc trong kinh sách Phật. Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng những nhà học giả xưa nay đã làm một việc rất sai lệch: chưa tu chứng, không hiểu đúng được những lời dạy của đức Phật, chỉ tìm hiểu nghĩa lý chữ nghĩa qua kiến giải, tưởng giải của mình, rồi áp dụng vào sự tu tập thì thật là điên đảo. Phần đông những người tu theo kiến giải này đều rơi vào pháp ức chế tâm như chúng tôi đã nói.

Những người tu tập rơi vào pháp ức chế tâm thì hay bị bệnh, bị điên khùng, thường tưởng nghĩ mình nhập Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền… nhưng khi xét lại thì Sơ Thiền còn chưa nhập được, có nghĩa là, khi ngồi thiền không có vọng tưởng, còn lúc xả thiền ra là đủ thứ vọng tưởng, tưởng danh, tưởng lợi, tưởng ăn uống và sắc dục. Tu như vậy gọi là tu tập thiền ức chế tâm. Từ lâu người ta chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại Thừa nên tu tập thành một thói quen là nhiếp phục và ức chế ý thức cho hết vọng tưởng. Vì thế hiện giờ rất khó dạy cho những người tu tập đúng pháp. Vì “dạy xả tâm thì họ lại tu tập ức chế tâm”. Họ đi theo lối mòn của người xưa, nên dạy một điều, họ tu tập một điều khác, nên kết quả giải thoát chỉ là số không.

Sau thời gian dài tu tập họ lọt vào thiền tưởng, từ đó sống phá giới luật, sống phi Phạm hạnh, nhất là Thánh hạnh độc cư, tâm thì phóng dật chạy tứ tung tìm gặp mọi người để nói chuyện, thường thích khoe khoang sự tu tập của mình, chứng cái này, đạt cái kia, nhưng nhìn lại Thánh hạnh sống chẳng ra gì. Trong khi đức Phật dạy: “Giới sanh định”. Vậy, giới sống chưa trọn vẹn mà có định là định gì đây? Các bạn cứ suy ngẫm lại đi.

Thưa các bạn! Định ấy có đúng như lời Phật dạy không?

Xưa đức Phật dạy: “Này các thầy Tỳ-kheo khi tu tập có những công đức gì đều nên im lặng như Thánh, duy chỉ có những điều lỗi lầm thì nên nói ra để mà sửa đổi, để mà ngăn và diệt…”

Kính thưa các bạn! Khi các bạn về đây tu tập, dù một giờ, một phút hay nói ít nhất là một giây thì các bạn có nhớ lời dạy đầu tiên của Thầy chăng: “Sống độc cư, không nên hội họp, không nên nói chuyện”. Thế các bạn có nghe lời dạy này đâu, nên các bạn tu hành chỉ uổng công mà thôi. Thấy các bạn sống chưa đúng Phạm hạnh, nhất là các bạn còn thích nói chuyện thì dù các bạn có tu pháp nào, chúng tôi đều biết chắc các bạn đã tu sai và sự tu tập của các bạn chỉ phí thời gian và uổng phí cuộc đời, chẳng bao giờ các bạn tìm thấy sự giải thoát trong Phật giáo.

Tứ Thánh Định là loại thiền định của bậc Thánh, chứ không phải thứ phàm phu thiền như các bạn đã hiểu sai lạc theo Đại Thừa kiến giải. Chúng tôi dạy tu tập ở đây là có trách nhiệm và bổn phận, khi các bạn tu đúng lời dạy. Nếu các bạn tu sai lời dạy thì chúng tôi không có trách nhiệm và bổn phận. Giải thoát được thì các bạn nhờ, không giải thoát thì các bạn chịu, đừng đổ thừa tại tu pháp môn của Thầy. Thầy dạy các bạn ly dục ly ác pháp. Sao các bạn không chịu ly mà lại tu pháp môn gì? Thích nói chuyện, thì đừng đi nói chuyện, đó là ly dục; thích ngủ nghỉ thì đừng đi ngủ nghỉ, đó là ly dục; thích ăn uống phi thời thì đừng ăn uống phi thời, đó là ly dục… tu như vậy mới thật là tu, tu như vậy mới gọi là tu thiền, nên đức Phật dạy: “Ly dục ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền do ly dục sanh hỷ lạc”.

Con đường tu theo đạo Phật đã xác định rõ ràng như vậy, cớ sao các bạn tu sai rồi bảo rằng Thầy dạy sai. Khi ra khỏi tu viện cái gì của các bạn cũng đều đúng, nhưng tâm các bạn có hết tham, sân, si, mạn, nghi chưa? Có làm chủ sanh tử luân hồi chưa? Còn Thầy cái gì cũng sai nhưng Thầy làm chủ được sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Như vậy ai đúng, thưa các bạn?

                Tu tập theo Thầy thì phải nhận ra cho được hai điều sai quan trọng:
               1- Đang tu tập thấy mình có chứng đắc trạng thái tưởng thì phải biết đó là tưởng. Nếu không biết là tu sai
               2- Tu theo ức chế tâm mà không biết tu sai. Đó là hai điều tai hại nhất trong cuộc đời tu tập.  

Mọi người cứ tưởng dùng trí thông minh đọc kinh sách của Phật là hiểu biết cách tu tập ngay liền. Sự thật là không phải vậy. Khi đối chiếu sự tu tập dựa vào kinh sách Đại Thừa và các kiến giải của các nhà học giả xưa và nay đã chứng minh cho các bạn thấy rất rõ ràng: Đọc kinh sách Phật phát triển chỉ hiểu biết để lý luận tranh chấp hơn thua chơi, chứ tu tập không đi đến đâu cả. Cho nên, cùng một bài kinh mà người này hiểu như thế này, kẻ kia hiểu như thế kia; cũng một người, một bài kinh năm nay hiểu như thế này, sang năm hiểu như thế khác. Do hiểu như vậy, làm sao tu tập có kết quả đúng được.

Khi chú thích lời Phật dạy, chúng tôi cố gắng giải thích như thế nào để giúp các bạn hiểu rõ pháp hành ly dục ly ác pháp, chứ không phải pháp hành ức chế tâm. Lời dạy của đức Phật cần phải hiểu rõ, hiểu đúng và rất chính xác, có thể khi hành pháp thì mới có kết quả. Tuy chúng tôi biết rõ nghĩa kinh như vậy nhưng dùng từ để diễn đạt cho các bạn hiểu rõ là một điều rất khó. Vì thế, chúng tôi hay dùng những từ trong kinh sách, vì những từ này được mọi người biết nhiều hơn (phổ thông). Tóm lại khi tu tập các bạn cần nên biết rõ mục đích của sự tu tập.

Vậy mục đích của sự tu tập theo Phật giáo là gì?

Mục đích tu tập theo Phật giáo là chỗ bất động tâm trước các cảm thọ và các ác pháp, chứ không phải chỗ khinh an, hỷ lạc, chỗ Phật tánh, chỗ Cực lạc, Thiên đàng, Niết bàn v.v.., cũng không phải chỗ Thiền định, cũng không phải chỗ giới luật mà cũng không phải chỗ Tam minh, Lục thông… Xin các bạn hãy lưu ý những điều này, vì nó rất cần thiết và ích lợi cho một đời tu hành.

Tâm bất động là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tu hành mà không hiểu biết, không nhận ra điểm quan trọng này thì dù các bạn có tu tập một ngàn kiếp cũng vẫn không có kết quả, mà còn có khi bị điên khùng vì rối loạn thần kinh.

Nhận thấy những lời Phật dạy này là những châu báu, nên chúng tôi cố gắng ghi ra đây để giúp những bạn nào hữu duyên với chánh pháp của đức Phật.

Vậy, các bạn hãy lắng nghe và đọc kỹ lại những lời đức Phật đã dạy mà chúng tôi đã ghi ra để các bạn làm cuốn sách gối đầu nằm, để làm những hành trang trên bước đường tu tập của các bạn. Mong sao những tập sách nhỏ này, ghi lại những lời đức Phật dạy, đem đến cho các bạn những điều lợi ích thiết thực, cụ thể trên đường tu tập và sẽ giúp các bạn thu ngắn thời gian, sớm được toại như ý nguyện

LỜI NÓI ĐẦU “NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY tập IV”

Bộ sách “Văn Hóa Phật Giáo Những Lời Phật Dạy” từ tập 1, 2, 3 đã tạm đủ các pháp hành từ thấp đến cao, nhưng khi tu tập mỗi pháp còn tùy theo đặc tướng của các bạn, nếu đặc tướng của các bạn hợp với pháp nào thì ôm ngay pháp đó mà tu tập cho đến khi giải thoát hoàn toàn.

Hôm nay tập 4 ra đời là để chỉ cho các bạn hiểu biết rõ ràng những danh từ, những ý nghĩa trong những bài kinh Phật thuyết thuộc kinh Nguyên thủy mà những người tu tập chưa chứng đạo, cứ dựa vào tưởng giải của mình, của những học giả xưa, rồi luận ra lý này lẽ kia, thành hiểu sai ý Phật, biến giáo pháp chân chánh của Phật thành giáo pháp của ngoại đạo Bà La Môn. Khiến cho người đời sau tu hành chẳng ly dục ly ác pháp, nên giới luật đức hạnh của bậc chân tu Thánh Tăng Thánh Ni không còn nữa.

Trong tập 4 này chúng tôi chọn một số bài mà các nhà Đại Thừa đã hiểu sai nghĩa, sai pháp gồm có các kinh: kinh Tam Minh, kinh Niết Bàn, kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Can Ki v.v… Tất cả những bài kinh này được chúng tôi chú giải một cách tường tận làm sáng nghĩa giáo pháp thực hành và đạo đức của Phật giáo để các nhà học giả Đại Thừa không còn tưởng giải sai lệch khiến cho giáo pháp của đức Phật mâu thuẫn lại lời dạy của đức Phật.  

Sự hiểu lầm chánh pháp của Phật đã có hơn 2000 năm từ khi đức Phật nhập Niết-bàn. Khiến cho con đường chánh pháp của đạo Phật gần như bị dìm mất. Do sự tu hành của các Tổ chưa đến nơi đến chốn, cho nên cứ dựa trên chữ nghĩa mà hiểu bằng tưởng tri thì làm sao hiểu đúng nghĩa pháp hành được. Phải không các bạn? Phật pháp không khó, không khó hiểu nhưng vì không có ngưới tu hành chứng đạo, nên người ta hiểu sai nghĩa. Hiểu sai nghĩa nên rất khó tu. Vì hiểu sai nghĩa nên người ta nghĩ rằng Phật giáo là tôn giáo có thần thông pháp thuật cao siêu, chứ người ta đâu biết rằng Phật giáo chỉ ở chỗ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; Phật giáo chỉ ở chỗ sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai; Phật giáo chỉ ở chỗ thiện pháp, vô lậu tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Những trạng thái tâm này là tâm buông xả ly dục ly ác pháp, là tâm không phóng dật.

Người tu hành chỉ có nhiệt tâm quyết buông xả tất cả các ác pháp thì các bạn đã thành tựu viên mãn ngay liền tức khắc, chứ đâu phải tu tập khó khăn mệt nhọc. Có người bảo rằng: tu tập phải có đạo lực để làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi. Phải nhập được Bốn Thiền, phải có Tam Minh, phải có Niết-bàn, phải có cõi Cực Lạc, phải có Phật tánh, phải biết ngày giờ chết, sống chết phải ra đi tự tại v.v… Nghĩ như vậy các bạn đã đi lạc đề, đối với Phật giáo các bạn không thể nghĩ như vậy. Nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một tôn giáo thần thông; nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một tôn giáo để làm gạch nối giữa con người và thế giới siêu hình; nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một bản thể thường hằng vĩ đại của vạn hữu; nghĩ như vậy nên vô tình các bạn lý luận đưa ra những triết lý cao siêu tuyệt đỉnh của trí tuệ như trí tuệ Bát Nhã (Tánh không); nghĩ như vậy vô tình các bạn biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín v.v… Do những sự nghĩ sai lệch ấy biến Phật giáo thành một triết học vi diệu cao siêu để tranh luận hơn thua với các hệ phái khác, tôn giáo khác và cũng chính để lý luận đánh lừa mọi người.  

Kính thưa các bạn! Phật giáo không phải là tôn giáo; không phải là đảng phái chánh trị; không phải một đế quốc lợi dụng thần quyền cai trị thế giới. Phật giáo chỉ là một nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người; Phật giáo chỉ có nhắc lại những gì của con người đã có sẵn, chứ không sáng tạo ra cái gì mới cả và cũng không bịa đặt ra và thêu dệt những chuyện ảo tưởng, hư cấu, và cũng không sử dụng quyền năng siêu việt của bản thân mình để lừa đảo mọi người khuyến dụ họ theo với tôn giáo mình. Cho nên những điều của đức Phật dạy qua ngôn ngữ thay vì hiểu nghĩa rất tầm thường, giản dị và bình dân thì các nhà học giả Đại Thừa lại hiểu một cách cao siêu ảo tưởng, hư cấu thành sai nghĩa.

Khi tu tập ly dục ly ác pháp tâm trở thành bất động trước các ác pháp và các cảm thọ thì tâm thanh tịnh hoàn toàn. Tâm thanh tịnh hoàn toàn thì tự có bảy năng lực Giác Chi xuất hiện. Bảy năng lực Giác Chi xuất hiện tức là Tứ Thần Túc. Khi có Tứ Thần Túc bấy giờ các bạn muốn sử dụng như thế nào tùy theo ý muốn, ý thích. 

Kính thưa các bạn! Khi tâm thanh tịnh hoàn toàn, các bạn sẽ có đủ những năng lực như vậy, nhưng không vì những năng lực đó để các bạn lừa đảo những người khác. Cho nên người tu sĩ Phật giáo không bao giờ thị hiện thần thông, chỉ thị hiện một đời sống đức hạnh giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà thôi.  

Tập 4 “Những Lời Phật Dạy” chúng tôi cố gắng giải thích để các bạn hiểu đúng nghĩa của Phật dạy. Trong khi chú giải nghĩa lý này chúng tôi đứng trên cương vị một người đã từng tu tập những lời Phật dạy đã làm chủ được 4 sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết mà chú thích chứ không bị ảnh hưởng tưởng giải của các Tổ Bắc tông, Nam tông, Thiền tông v.v... mà cũng không ảnh hưởng khoa học, y học, vật lý học v.v… Nếu ai bảo rằng chúng tôi chú thích sai thì hãy tu tập làm chủ được sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi thì mới luận bàn, còn nếu chưa làm chủ được thì xin quý vị hãy im lặng lắng nghe.

Tóm lại, đạo Phật chỉ khơi lại nền đạo đức của loài người bằng chương trình giáo dục đào tạo ba cấp Giới, Định, Tuệ và tám lớp học (Bát Chánh Đạo):

              1- Chánh kiến,
              2- Chánh tư duy,
              3- Chánh ngữ,
              4- Chánh nghiệp,
              5- Chánh mạng,
              6- Chánh tinh tấn,
              7- Chánh niệm,
              8- Chánh định.

Tám lớp học này để đào tạo một người có đủ đức hạnh sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh, tức là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ hay nói cách khác là tâm thanh thản an lạc và vô sự.

Cho nên mục đích của Phật giáo là đạo đức nhân bản – nhân quả; là tâm bất động, chứ không phải đào tạo thành ông A La Hán, ông Phật, ông Bồ Tát hoặc bất cứ ông Thánh, ông Thần nào mà chỉ đào tạo con người thực là con người có đạo đức sống trong cảnh thế gian này, chứ  không cầu mong tu hành để thành ông gì cả, hoặc cũng không cầu mong chết sẽ đi vào cõi giới nào cả, dù cõi Cực lạc, Thiên đàng hay cõi Niết-bàn cũng không mong cầu.

Kính thưa các bạn! Tập sách nhỏ này ra đời nhằm chỉnh đốn những điều hiểu sai lầm về những lời dạy của Phật, để mọi người hiểu cho đúng nghĩa của Phật giáo mà không bị ảnh hưởng sai lệch của Đại Thừa, Thiền tông, Mật tông và Tịnh Độ tông.

Sau cùng với tập sách nhỏ này chúng tôi ước mong nó sẽ mang lại sự lợi ích lớn cho quý vị trong cuộc sống hiện tại.  

                                                                                                                          Kính ghi 
                                                                                                               Tu viện Chơn Như 

GIỚI CỤ TÚC

Lời Phật dạy: “Người tu sĩ còn tự nuôi bằng những tà mạng, các loại nghề nghiệp, thì không thành giới cụ túc, còn ngược lại chỉ đi xin ăn ngày một bữa thì mới thành cụ túc giới” . 

Chú giải: Nghề nghiệp duy nhất của người tu sĩ theo Phật giáo, là chỉ có nghề đi ăn xin và ăn ngày một bữa, còn tất cả các nghề khác không phải là nghề của người tu sĩ Phật giáo. Như lời Phật dạy trên đây, ngoài nghề đi khất thực xin ăn, người tu sĩ Phật giáo hành các nghề khác thì giới luật cụ túc không thành.  

Chúng tôi xin kể một số các nghề khác trong Phật giáo hiện giờ để các bạn tư duy thấy rằng tu sĩ Phật giáo hiện giờ có phải là tu sĩ Phật giáo thật hay là tu sĩ của Bà La Môn?

               1- Nghề cúng bái cầu siêu, cầu an
               2- Nghề coi ngày giờ tốt xấu
               3- Nghề cúng sao giải hạn
               4- Nghề tụng kinh trị bệnh tà, ma
               5- Nghề thầy thuốc trị bệnh (thuốc đông y, thuốc nam)
               6- Nghề xem xăm bói quẻ
               7- Nghề trồng tỉa cây trái
               8- Nghề đan thêu may
               9- Nghề bán cơm chay
              10- Nghề làm và bán nhang
              11- Nghề bán kinh sách
              12- Nghề bán tứ khí của Bà La Môn
              13- Nghề thuyết giảng (giảng sư)
              14- Nghề làm ruộng rẫy
              15- Nghề làm ma chay, v.v…

Còn rất nhiều nghề khác nữa, nhưng chúng tôi không thể kể ra đây hết được, vì tu sĩ Phật giáo hiện giờ đã làm đủ thứ mọi nghề. Nhất là nghề mê tín (Cúng bái, cầu siêu, cầu an) và thứ hai là nghề nói dối (thuyết giảng), còn nghề khất thực thì đã bỏ mất. Qua lời Phật dạy trên đây chúng tôi thấy tu sĩ Phật giáo hiện giờ là tu sĩ của Bà La Môn. Như vậy các bậc tôn túc Hoà thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni chưa thành giới cụ túc. Ngay cả với Mười Giới Đức Thánh Sa Di, các ngài còn vi phạm thì chưa xứng đáng là tu sĩ đệ tử xuất gia của Phật, có đâu thành giới cụ túc được.

Nếu Phật giáo hiện giờ mà được lấy giới chấn chỉnh thì giới tu sĩ còn lại chắc không đầy trong 10 đầu ngón tay. Nếu chấn chỉnh Phật giáo được như vậy, thì xã hội này bớt đi một gánh quá nặng cho mọi người. Đó là một điều vô cùng quan trọng và nhức nhối trong tâm tư của mỗi người.

145-12 NHÂN DUYÊN và CỬA VÀO ĐẠO. TL Thích Thông Lạc.

Lời Phật dạy: “Này Anandà, đừng nói thế! Đừng nói thế! Giáo lý duyên khởi này sâu xa, và có vẻ sâu xa hơn. Chính vì không hiểu rõ, không thâm nhập giáo lý này, mà nhân loại trở nên như cuộn chỉ rối rắm, như ổ kiến rối, như cỏ babaja, không thể thoát ly khỏi khổ xứ, ác thú, địa ngục và sanh tử”.

Chú giải:

Con người trên hành tinh này khổ đau vì không thông hiểu sự kết hợp thành hình của vũ trụ, nên thường sống trong “tưởng tri”. Tưởng rằng: “Thế giới này là do một Đấng Sáng Tạo hay một ông Ngọc Hoàng Thượng Đế tạo ra vũ trụ và vạn vật”. Họ cho rằng: Thế giới này là thế giới hữu hình, đang bị sự điều khiển, cai trị và xử phạt, hoặc ban thưởng do một thế giới vô hình khác. Đó là một sự giàu tưởng tượng của con người, chứ kỳ thực không phải như vậy. Trên đầu của loài người không có thế giới siêu hình nào cai trị cả, mà chỉ có con người cai trị con người. Chỉ vì con người sống không có đạo đức, nên thường làm khổ mình, khổ người gây ra bao sự đau khổ và tang thương cho nhau, và làm bất an cho cuộc sống chung nhau, v.v… Vì thế, nên con người phải tự đặt ra pháp luật để ngăn chặn những điều gây đau thương và tổn hại cho con người.

Thế giới quan của Phật giáo, không phải là một thế giới tưởng tri, như mọi người đã tưởng và đang sống trong tưởng tri đó. Thực tế, thế giới quan của Phật giáo là một thế giới duyên hợp do 12 duyên kết hợp mà thành.  

Sáu căn tiếp xúc sáu trần lập thành sáu thức, đó là nơi nhân sinh quan và vũ trụ quan xúc chạm tạo ra môi trường sống của vạn vật. Cái nhìn vũ trụ quan của Phật giáo là cái nhìn vạn pháp vô thường, chẳng có một pháp nào là chân thật, thường hằng bất biến, thường thay đổi từng sát na. Đối với Phật giáo, vũ trụ quan không phải là một thế giới vật lí mênh mông vô tận ở bên ngoài, như mọi người đang cảm nhận và tư duy.

Vì Phật giáo có khả năng nghe thấy và hiểu biết không có không gian và thời gian, cho nên vũ trụ quan của Phật giáo chỉ ở trên một tụ điểm của không gian và thời gian từ đó nhìn thấy vạn pháp do 12 nhân duyên hợp lại mà thành. Còn ngược lại không có cái nhìn như Phật giáo nên tưởng nghĩ vũ trụ quan mênh mông, vô tận, vì thế loài người đang cố công tìm kiếm và nghiên cứu để biết nó cho rõ ràng. Nhưng sức con người có hạn, còn vũ trụ vật lí là vô hạn. Cho nên sự tìm tòi nghiên cứu để hiểu biết về vũ trụ thì phải có một thời gian dài vô tận. Mà với trí thức hữu hạn, thì chúng tôi tin rằng sự nghiên cứu tìm hiểu về vũ trụ thì cái hiểu biết đó như hạt cát giữa sa mạc. Nghiên cứu tìm hiểu mà không biết điểm khởi đầu cho sự tìm hiểu thì không bao giờ hiểu được nó.  

Từ khi có mặt loài người xuất hiện trên hành tinh này cho đến ngày nay, thường con người không ngừng tìm hiểu vũ trụ, nhưng cuối cùng cũng chẳng ai hiểu gì nhiều về vũ trụ cả. Chỉ toàn là tưởng tri, họ còn đang ở trong màn vô minh, đen tối. Xưa có những người cho rằng quả đất vuông, nhưng ngày nay quả đất tròn; xưa có những người cho rằng mặt trời đi chung quanh trái đất, nhưng ngày nay quả đất đi chung quanh mặt trời. Do thế những điều con người hiểu biết chưa chính xác, sự hiểu biết ấy còn nhỏ nhoi, cái sai thì nhiều, cái đúng thì ít. Còn vô lượng cái mà con người chưa biết đến. Vũ trụ mênh mông, vạn vật vô cùng. Muốn biết nó thì phải vượt ra ngoài nó.

Riêng thế giới quan của Phật giáo, là một thế giới quan rất thực tế trong cuộc sống của loài người. Qua cái nhìn thực tế ấy của Phật giáo thì thế giới quan của Phật giáo có 12 nhân duyên. Khi 12 nhân duyên này hợp lại thì thế giới thành hình. Thế giới thành hình thì sự khổ đau của muôn loài cũng theo đó mà có. Sự khổ đau này chính vì con người không hiểu rõ 12 nhân duyên. Do không hiểu rõ 12 nhân duyên này, nên cho thế giới này là thật có. Có cả hữu hình và siêu hình. Muốn thoát ra mọi sự khổ đau này thì người ta chỉ cần phải thấy và hiểu biết 12 nhân duyên này đúng như thật. Vì có thấy như thật người ta mới không còn sống trong điên đảo tưởng, điên đảo tâm, điên đảo kiến, điên đảo tình, v.v... Khi đã hiểu biết rõ 12 nhân duyên này thì đời sống không còn rối rắm như cuộn chỉ, như cỏ babaja, v.v... Như lời đức Phật dạy ông Anandà:

“Này Anandà, đừng nói thế! Đừng nói thế! Giáo lý duyên khởi này sâu xa và có vẻ sâu xa hơn. Chính vì không hiểu rõ, không thâm nhập giáo lý này, mà nhân loại trở nên như cuộn chỉ rối rắm, như ổ kiến rối, như cỏ babaja, không thể thoát ly khỏi khổ xứ, ác thú, địa ngục và sanh tử”.

Đúng vậy, chỉ vì con người không hiểu sự duyên hợp của 12 nhân duyên tạo thành thế giới này, nên sinh ra nhiều thứ điên đảo như:

             1. Điên đảo tưởng có thế giới siêu hình.
             2. Điên đảo tưởng các pháp thế gian là chân thật, là có thật.
             3. Điên đảo tưởng có cái ta, có cái của ta và bản ngã của ta… là chân thật có.
             4. Điên đảo tưởng tâm này có thật nên buồn vui, sầu khổ, giận hờn, thương ghét… là chân thật có.
             5. Điên đảo tưởng thân này là thật nên bệnh đau, tai nạn là chân thật có.
             6. Điên đảo thưởng cho vàng, bạc, ngọc, ngà, châu báu… là chân thật có.

            Mọi vật trên thế gian này có được là do 12 duyên này hợp lại mà thành, khi 12 duyên này tan rã thì mọi vật trở về không. Nghĩa là trên thế gian này không có một vật thường còn, vĩnh viễn; không có một vật gì còn mãi mãi. Nếu không có 12 duyên hợp thì thế gian này là trống không. Thế gian này trống không thì không thành là thế gian nữa. Cho nên khi thấu rõ 12 nhân duyên này thì người ta biết mọi vật trên thế gian này không có vật gì thường hằng, bất di bất dịch cả. Vì thế, không có vật gì là ngã, là của ta và cũng không có vật gì là bản ngã của ta cả.

Khi hiểu được 12 nhân duyên như vậy thì chúng ta không còn tham đắm và chấp trước một vật gì trên thế gian này nữa cả. Do không còn tham đắm và chấp trước một vật gì, thì tâm hồn chúng ta lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự thì không còn tương ưng với dục và ác pháp thế gian nữa. Vì thế, con đường sinh tử luân hồi chấm dứt.

Thưa các bạn, lời dạy này có đúng chăng? Xin các bạn phải tư duy nhiều hơn nữa, để thấu triệt lời dạy này. Khi đã thấu triệt thì các bạn có cần gì tu tập nữa đâu. Thấu triệt, có nghĩa các bạn đã hiểu như thật. Do hiểu thế giới duyên hợp này như thật thì tâm tham, sân, si của các bạn không còn nữa. Khi hiểu như thật thì các bạn còn tham cho ai đây? Phải không các bạn? Khi hiểu như thật thì các bạn sân cho ai đây? Khi hiểu như thật thì các bạn si, mạn, nghi cho ai đây? Phải không các bạn?

Những người đang sống trên thế gian này mà muốn con đường sinh tử luân hồi được chấm dứt thì phải thông hiểu và thấu suốt 12 nhân duyên, tức là thấu suốt thế giới quan của Phật giáo. Thấu suốt được thế giới quan của Phật giáo thì tâm hồn không còn tham đắm và chấp trước mọi vật trên thế gian này nữa như đã nói ở trên. Những người thấu suốt được như vậy thì lậu hoặc không còn, nên gọi là bậc A-la-hán Duyên Giác.

Do sự thông hiểu, tường tận thế giới quan của Phật giáo như thật, nên tâm tham đắm, dính mắc không còn như trên đã nói. Tâm tham đắm dính mắc không còn, thì lậu hoặc sẽ được quét sạch. Lậu hoặc được quét sạch thì chứng quả A-la-hán ngay liền.

Thưa các bạn! Tại sao chỉ cần thông suốt lý 12 nhân duyên như thật là chứng quả A-la-hán mà không thấy tu tập gì cả?

Thưa các bạn! Khi thông hiểu 12 nhân duyên như thật thì cuộc sống trong thế gian này không còn có nghĩa lý gì cả các bạn ạ! Chỉ thấy nó như là một cơn ác mộng mà thôi. Vì thế danh, lợi, sắc, thực, thụy không còn quan trọng với họ nữa, chỉ là những ảo giác, cám dỗ của nhân quả để dẫn dụ lôi cuốn các bạn chìm đắm trong khổ đau và mãi mãi luân hồi muôn kiếp.

Mười hai nhân duyên này hợp tan tạo nên hình hài của vạn hữu giống như sóng biển, chẳng có gì là hạnh phúc, an lạc, là êm ấm, đẹp đẽ cả… Cho nên người nào hiểu rõ được 12 nhân duyên này như thật, thì họ buông bỏ vật chất tiền tài danh lợi trên thế gian này như ném bỏ một chiếc giày rách, một vật phế thải không còn dùng vào một việc gì được cả.

Do buông bỏ tất cả, không còn chút xíu nào tiếc rẻ, ngay cả thân tâm của họ mà họ cũng không còn tiếc. Có một câu chuyện buông bỏ tuyệt vời: “Trên núi cao thanh vắng vùng Hy Mã Lạp Sơn có một vị ẩn sĩ tu hành đã chứng quả A-la-hán. Nhiều người được biết đến, dù ở cách xa muôn ngàn vạn dặm, người ta vẫn tìm đến Ngài và cầu xin làm đệ tử. Ngài vui vẻ chấp nhận, nhưng phải trèo lên mỏm đá cao cheo leo trên kia và dám nhảy xuống thì Ngài nhận làm đệ tử liền. Mãi đến nay chưa có người nào dám lao mình xuống vực thẳm”.

Đứng trên núi cao nhìn xuống vực thẳm, mà lao đầu xuống thì ai cũng ớn lạnh. Phải không các bạn? Như vậy, rõ ràng người ta chưa dám buông bỏ. Chưa dám buông bỏ là người ta còn thấy thân tâm này chân thật. Còn thấy thân tâm này chân thật là còn thấy vạn vật trong thế gian này là chân thật. Do còn thấy như vậy, nên các bạn muốn tu giải thoát thì phải sống đúng giới luật và tu tập theo 37 phẩm trợ đạo. Người tu tập như vậy thì không phải người giác ngộ 12 nhân duyên.

Người giác ngộ 12 nhân duyên thì họ không tiếc rẻ một vật gì trên thế gian này, ngay cả thân mạng của họ như trên đã nói, thì tâm hồn họ như thế nào các bạn? Thanh thản, an lạc và vô sự các bạn ạ! La Hầu La, con của đức Phật khi nghe nói thân này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì Ngài trở về thất tu tập không đi khất thực nữa. Bởi vì Ngài nghĩ thân này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì đi khất thực nuôi ai đây. Đúng vậy, Ngài là bậc Duyên Giác A-la-hán, là con Phật. Còn bây giờ chúng ta thì sao?

Là con Phật (Phật tử) mà sao thích nói chuyện quá vậy? Nói chuyện có ích lợi gì các bạn?

Khi họ buông xả sạch, không còn tiếc rẻ một vật gì ngay cả bệnh tật khổ đau nhức nhối trong thân, họ cũng buông bỏ chẳng hề sợ hãi, ưu tư và lo lắng nữa. Người ta buông bỏ như vậy thì tâm hồn của họ bất động. Phải không các bạn?

Khi tâm hồn họ bất động trước các ác pháp và các cảm thọ thì có 7 năng lực Giác Chi xuất hiện. Dù chúng ta chưa tu tập Tứ Chánh cần, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm, mà chỉ cần giác ngộ 12 nhân duyên thì tâm trạng của chúng ta cũng giống như tâm trạng tu tập Tứ Niệm Xứ vậy. Do viên mãn tu tập Tứ Niệm Xứ mà chúng ta nhập các định và thực hiện Tam Minh dễ dàng. Còn ở đây chúng ta chỉ giác ngộ 12 nhân duyên, buông xả sạch vật chất thế gian thì tâm trạng chúng ta cũng giống như người tu Tứ Niệm Xứ đã làm sung mãn Tứ Niệm Xứ, do đó chúng ta cũng nhập các định và thực hiện Tam Minh dễ dàng. Như vậy, người tu tập Tứ Niệm Xứ chứng quả vô lậu A-la-hán, thì người giác ngộ 12 nhân duyên cũng chứng quả vô lậu A-la-hán như nhau. Họ cũng đầy đủ Tứ Như Ý Túc và cũng chấm dứt tái sanh luân hồi.

Cho nên đức Phật dạy: “Này Anandà, đừng nói thế! Đừng nói thế! Giáo lý duyên khởi này sâu xa và có vẻ sâu xa hơn. Chính vì không hiểu rõ, không thâm nhập giáo lý này, mà nhân loại trở nên như cuộn chỉ rối rắm, như ổ kiến rối, như cỏ babaja, không thể thoát ly khỏi khổ xứ, ác thú, địa ngục và sanh tử”. Xem thế chúng ta mới thấy 12 nhân duyên là một pháp môn quan trọng vô cùng. Cho nên bước đầu vào học và hiểu chân lý thứ nhất của đạo Phật. Ngài đã xác định “Đời Là Khổ”.

Vì các pháp trên thế gian này là do các duyên hợp mà thành, có pháp nào chân thật đâu? Thế mà mọi người không chịu buông bỏ xuống. Ôi! Con người quá điên đảo, ngu si cứ lao đầu vào ảo ảnh mà cho rằng: các pháp như thật có, chân thật có, sao lại nay còn, mai mất? Chân thật hạnh phúc, an lạc sao lại nay hạnh phúc an lạc, mà mai lại khổ đau buồn rầu? Vì không hiểu biết các pháp do duyên hợp tạo thành, nên rối rắm như cuộn chỉ, lầm chấp cho các pháp là thật có, nên để rồi phải chịu khổ đau như loài thiêu thân thấy ánh sáng lao đến để tìm hạnh phúc.

Mười hai nhân duyên gồm có: 1- Duyên Vô Minh; 2- Duyên Hành; 3- Duyên Thức (Nghiệp); 4- Duyên Danh sắc; 5- Duyên Lục nhập; 6- Duyên Xúc; 7- Duyên Thọ; 8- Duyên Ái; 9- Duyên Hữu; 10- Duyên Thủ; 11- Duyên Sanh; 12- Duyên ưu bi, sầu khổ, bệnh chết. Trong 12 duyên này, hễ duyên này có thì duyên kia có, hễ duyên này diệt thì duyên kia diệt.

(Để phá “xích 12 nhân duyên” này)

Giáo lý Nguyên Thuỷ có hai ngõ vào:

Ngõ thứ nhất, là vào duyên SANH đột phá bằng GIỚI LUẬT và 37 phẩm trợ đạo như những bậc Thinh Văn A La Hán.

Ngõ thứ hai, là vào duyên THỌ đột phá bằng BẤT ĐỘNG TÂM như những bậc Duyên Giác A La Hán, Độc Giác Phật.

Giáo lý Đại Thừa có một ngõ vào, đó là vào duyên VÔ MINH đột phá bằng MINH như những bậc Bồ Tát, ngõ này chỉ là ảo tưởng nên các vị Bồ Tát chưa nếm được mùi vị giải thoát.

Thưa các bạn! Sau khi nghiên cứu và quán xét 12 nhân duyên này xong thì các bạn thấy rõ con đường giải thoát của Phật giáo là đạo đức nhân bản - nhân quả.

Chánh pháp của Phật đây rồi! Thế có ai biết! Biết, sao các bạn không dám buông bỏ xuống!? Có buông bỏ xuống thì các bạn mới thấy rõ: đâu là ảo ảnh của hạnh phúc và đâu là chân thật của hạnh phúc!

TÌM HIỂU THÊM:

(Để phá xích “12 nhân duyên”này)

Trưởng Lão Thích Thông Lạc dạy – “Lời nói đầu Sách 12 Cửa Vào Đạo”.

Trong mười hai cửa nhân duyên, có bốn cửa vào phá được: 1- Cửa Vô Minh; 2- Cửa Lục Nhập; 3- Cửa Thọ; 4- Cửa Sanh.

           1- Vào cửa Vô Minh thì phải học giới luật đức hạnh, lý nhân quả, lý các pháp vô thường, đó là triển khai Tri Kiến Giải Thoát
           2- Vào cửa Lục Nhập thì phải phòng hộ sáu căn, sống Độc Cư
           3- Vào cửa Thọ thì phải tu tập Định Niệm Hơi Thở tu tập 19 đề mục.
           4- Vào cửa Sanh thì phải xụất gia, buông xả hết chỉ còn sống ba y một bát Thiểu Dục Tri Túc.

           Khi tu tập chúng ta nên lưu ý mười hai cửa nhân duyên này, lúc xông vào cửa này xong thì lại tấn công vào cửa khác, nhiều khi phải tấn công luôn cả bốn cửa cùng một lượt.

Đây là những điều cần hiểu rõ mười hai cửa nhân duyên để khi tu tập biết rõ đang phá vỡ mười hai cửa nhân duyên để chúng không còn tập khởi mọi sự đau khổ.

Đến đây chúng tôi cảm thấy tạm đủ để quý vị hiểu biết tu tập mười hai cửa nhân duyên mà không sai đường lạc lối. Chúc quý vị tu tập thành công tốt đẹp.

146-TU TẬP NĂM UẨN, NHƯ LÝ TÁC Ý. TL Thích Thông Lạc

BẬC A LA HÁN

Lời Phật dạy: “Này Ràdha, có năm thủ uẩn này. Thế nào là năm? Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này Ràdha! Khi nào tỳ-kheo sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm thủ uẩn này, vị ấy được giải thoát, không có chấp thủ; như vậy, gọi vị tỳ-kheo là bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu Phạm hạnh, đã làm những việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, đã đoạn tận hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí”.

                                                                        (Tương Ưng Kinh tập 3 trang 337).

Chú giải:

Đọc qua đoạn kinh này chúng ta thấy chứng quả A-la-hán không phải khó khăn, chỉ có thật quán thân ngũ uẩn như thật để thấu suốt năm uẩn này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta, nó vô thường, khổ, vô ngã, nó là người xa lạ, nó là nguy hại, là ổ bệnh tật khổ đau, v.v...

Chỉ cần chính quán như lý tác ý năm thủ uẩn này như vậy, thì chứng quả A-la-hán không có khó khăn, không có mệt nhọc. Đọc hai bài kinh trong Tập III, Những Lời Phật Dạy này thì quý vị thấy Phật giáo không phải là pháp môn tu tập không được. Nhưng chúng ta phải thấy rằng: Người tu theo Phật giáo phải có nghị lực, phải gan dạ và bền chí thì mới thực sự thấy thân ngũ uẩn không phải là ta, là của ta. Còn nếu không có nghị lực, không gan dạ và bền chí thì xin các bạn đừng tu theo Phật giáo. Dù bạn có tu cũng chẳng có lợi ích gì cho bạn.

Đoạn kinh trên đã xác định rõ ràng đường lối và cách thức tu tập của đạo Phật như thật quán thân ngũ uẩn thì sẽ chứng quả A-la-hán rõ ràng và cụ thể.

LY DỤC THAM

Lời Phật dạy: “Này Ràdha, phàm có dục nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với sắc, hãy từ bỏ chúng. Như vậy sắc sẽ được đoạn tận, cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy”.

Chú giải: 

Đọc đoạn kinh này chúng ta mới nhận ra pháp hành thiền định cụ thể của Phật giáo là có dục nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì hãy từ bỏ chúng, có nghĩa là không làm theo chúng thì sắc, thọ, tưởng, hành, thức sẽ được đoạn tận, cắt tận gốc rễ không còn sanh khởi nữa.

Phương pháp tu này rất đơn giản chỉ cần không làm theo dục tham, dục sân, dục si... thì cuối cùng thân ngũ uẩn này mới như thật không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Có đoạn dứt được như vậy thì trước các cảm thọ ta mới có thể bất động tâm được. Nếu không từ bỏ được, không ngăn chặn được lòng tham dục thì chúng ta khó mà thành tựu pháp quán thân, thọ, tâm, pháp vô thường, khổ, vô ngã. Và không thành tựu được pháp môn này thì khó cho ta thấy được quả giải thoát vô lậu A-la-hán. Từ bỏ lòng tham dục thì chúng ta phải nhận thấy rõ ràng từng tâm niệm dục, dù dục rất vi tế rất nhỏ nhặt.

Ví dụ: tham dục ăn, tham dục ngủ, tham dục làm việc, tham dục nói chuyện, tham dục đọc kinh sách, tham dục nghe băng giảng, tham dục tu nhiều, tham dục hỷ lạc, tham dục khinh an v.v... Chúng ta chỉ có ly được dục là đoạn dứt được thân ngũ uẩn, đó là ý chính của bài kinh này và cũng là pháp hành độc đáo thiền định của Phật giáo mà mọi người không thể ngờ được.

PHÁP MÔN YỂM LY

Lời Phật dạy: “Này các tỳ-kheo! Như thật quán với chánh trí tuệ: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi. Nếu thấy vậy, này Sona, vị đa văn Thánh đệ tử yểm ly đối với sắc, yểm ly đối với thọ, yểm ly đối với tưởng, yểm ly đối với hành, yểm ly đối với thức. Do yểm ly vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên chánh trí: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc làm nên làm, đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Chú giải:

Theo như lời dạy trên đây của đức Phật thì pháp môn tu hành của Phật giáo rất đơn giản. Phải không các bạn? Chỉ cần biết cách thức yểm ly thân ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì tâm tham, sân, si, mạn, nghi sẽ được ly sạch. Và như vậy thì các bạn sẽ thấy ngay trạng thái giải thoát. Trong sự giải thoát các bạn biết rất rõ như lời Phật đã dạy trên: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc làm nên làm, đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Chỉ cần yểm ly thân ngũ uẩn là chúng ta đã tìm thấy sự giải thoát ngay liền. Phải không các bạn? Nhưng đọc lời dạy trên đây, các bạn có biết cách tu tập chưa? Các bạn nên mượn lời dạy cô đọng này làm câu pháp hướng tâm thì chúng tôi tin rằng do sự siêng năng tác ý như vậy, với một lòng nhiệt tâm, tha thiết yểm ly ngũ uẩn thì các bạn sẽ thành công. Đây là con đường tu tập duy nhất có một không hai của Phật giáo. Pháp môn rất tuyệt vời, các bạn có biết chăng? Đấy là pháp môn quét tâm các bạn ạ! Hãy siêng năng, bền chí, gan dạ cầm cây chổi như lý tác ý mà quét xuôi, quét ngược, quét tới, quét lui, quét chừng nào mà tham, sân, si bay sạch thì mới thôi. Phải không các bạn? Tu hành như một con đại tượng đi thẳng không bao giờ ngó lui lại.

Các bạn hãy cố gắng tiến lên, tự mình thắp lên ngọn đuốc mà đi, tự mình lấy mình làm chỗ nương tựa, không nương vào bất cứ một ai. Chỉ nương tựa vào chánh pháp của Phật. Chánh pháp của Phật đây rồi, các bạn nên lưu ý mà tu tập, đừng chùng bước.

NHƯ LÝ TÁC Ý

Lời Phật dạy: “Này các tỳ-kheo! Tỳ-kheo nào “như lý tác ý” sắc như thật quán sắc vô thường, vị ấy yểm ly đối với sắc. Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận. Do tham được đoạn tận, hỷ đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã khéo giải thoát”.

                                                                      (Tương Ưng kinh tập III trang 100).

Chú giải:  

Xin các bạn lưu ý tu tập thiền định theo Phật giáo là phải ly dục ly ác pháp mới nhập được Sơ Thiền, nhưng muốn ly dục ly ác pháp thì pháp như lý tác ý là đệ nhất pháp tu tập thiền định, còn tất cả các pháp môn khác trụ tâm, nhiếp tâm, ức chế tâm cho hết vọng tưởng là pháp môn của ngoại đạo, chứ không phải chánh định, chánh thiền của Phật giáo. Ở đây các bạn nên lưu ý chỗ sai khác để nhận ra thiền của Phật giáo và của ngoại đạo. Khi nhận ra chỗ này thì các bạn sẽ không còn bị lầm lạc với pháp môn thiền Đại Thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông và Minh Sát Tuệ nữa.

Các pháp môn thiền này lừa đảo các bạn ghê gớm.

Trên đây là một bài pháp trong kinh Tương Ưng mà đức Phật đã dạy cho các vị tỳ-kheo tu tập thiền định để đạt được sự giải thoát một cách rất dễ dàng không có khó khăn, không có mệt nhọc. Bài kinh này là một bằng chứng xác định cho chúng ta thấy rằng: Từ xưa cho đến ngày nay mọi người tu tập thiền định theo Phật giáo từ Nam Tông đến Bắc Tông và 33 vị Tổ Sư Thiền Đông Độ đều dạy tu sai lạc không đúng giáo pháp của Phật giáo. Bài kinh này dạy cách thức tu tập như thế nào? Cách thức tu tập theo bài kinh này thì nương theo thân hành niệm mà như lý tác ý.

Ví dụ: Nương thân hành nội là hơi thở mà tác ý như trong kinh Xuất Tức Nhập Tức dạy: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra” hoặc “Quán vô ngã tôi biết tôi hít vô, quán vô ngã tôi biết tôi thở ra”. Nếu đi kinh hành thì nương vào bước đi mà tác ý: “Quán ly sân tôi biết tôi đang đi kinh hành, chân trái bước! Quán ly sân tôi biết tôi đi kinh hành, chân phải bước!”...

Cách thức tu thiền định của Phật như lời dạy trên đây trong kinh Tương Ưng thì Thiền Minh Sát Tuệ, thiền Đông Độ và thiền Đại Thừa đều hoàn toàn cách xa một trời một vực. Các bạn nên xét lại những loại thiền mà các bạn đang tu tập có giống như thiền định của Phật giáo chăng? Nếu không giống thì đừng tự xưng là mình tu theo thiền của Phật giáo. Vì Phật giáo chỉ có một loại thiền định chân chánh được gọi là Tứ Thánh Định. Tức là thiền định xả tâm ly dục ly bất thiện pháp mà thôi.

NÊN NHỚ

Lời Phật dạy: “Nên nhớ khi thức diệt mọi thứ đều diệt tận”. 

Chú giải:  

Trong thân chúng ta có năm uẩn; sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đây là một khối có năm duyên hợp lại mà thành con người. Khi một uẩn diệt thì năm uẩn kia đều diệt theo, không còn có một vật gì là linh hồn hay Phật tánh trong thân ngũ uẩn này còn lại, chỉ còn lại những từ trường thiện ác để tiếp tục tái sinh luân hồi.

Ở đây đức Phật dạy: “Khi thức diệt, mọi thứ đều diệt tận”.

Có nghĩa là các bạn đừng tin theo tà thuyết ngoại đạo, có thế giới siêu hình, có linh hồn người chết, có thần thánh, quỉ ma, có Ngọc Hoàng Thượng Đế, có Đấng Tạo Hóa, v.v... Thưa các bạn, tin như vậy là mê tín, lạc hậu. Các bạn tin như vậy mà không dùng trí tuệ quan sát để xem có đúng như thật không. Nếu đúng như thật thì các bạn tin, bằng không như thật thì xin các bạn đừng tin. Vì tin như vậy nó sẽ đem đến những tai hại cho các bạn và các bạn sẽ tiêu phí tiền bạc công sức của mình một cách nhảm nhí mà không ích lợi gì cả. Không quan sát kỹ mà tin như vậy các bạn sẽ bị những người khác lừa đảo dễ dàng.

Đức Phật dạy: “Khi thức diệt mọi thứ đều diệt tận”.

Có nghĩa là khi người chết thì không còn một vật gì cả, chỉ còn một đống đất hôi thối mà thôi. Do lời dạy này các bạn đừng tin có linh hồn hay Phật tánh gì cả. Linh hồn hay Phật tánh chỉ là một thứ ảo tưởng của những người lạc hậu trong những thế kỷ xa xưa.

TỈNH THỨC

Lời Phật dạy: “Hãy luôn tỉnh thức để sống trong chánh niệm thì mới có cuộc sống chân chánh an lành, thanh thản và hạnh phúc”.

Chú giải:

Lời dạy trên đây rất cô đọng, ngắn gọn, khiến cho người đọc khó hiểu. Vì thế lời dạy trên đây chúng ta có thể chia ra làm hai vế:

1- Hãy luôn tỉnh thức để sống trong chánh niệm.
            2- Thì mới có cuộc sống chân chánh an lành và hạnh phúc.

Vế thứ nhất là nhân; vế thứ hai là quả. Nhân có tỉnh thức thì quả sẽ an lành và hạnh phúc. Con người vốn ở đời thường hay đau khổ là do thiếu tỉnh thức.

Vậy tỉnh thức là gì? Tỉnh thức là sự bình tỉĩnh, không mê mờ, rất tỉnh táo, biết rất rõ, tâm không bị chi phối trong thất tình lục dục, trong kiến chấp, trong ngã chấp, v.v...

Và chánh niệm là gì? Chánh niệm là niệm thiện, niệm không làm khổ mình, khổ người. Chữ “niệm” ở đây không có nghĩa là hồi niệm, ức niệm mà có nghĩa là “nhìn thấy, hiểu biết một cách tường tận, đúng như thật nhân quả, đúng như Thập nhị nhân duyên”. Chánh niệm còn có nghĩa là thân tâm không bị các pháp ác và các cảm thọ gây chướng ngại hay nói cách khác chánh niệm là chỉ cho thân tâm thường thanh thản, an lạc và vô sự; nói theo kiểu đạo đức chánh niệm là đạo đức không làm khổ mình, khổ người; nói theo kiểu tỉnh thức chánh niệm thì chánh niệm có nghĩa là ly tham, ly sân, ly si, ly mạn, ly nghi v.v...

Lời khuyên trên đây của đức Phật là muốn chúng ta sống một đời sống được an lành và hạnh phúc. Muốn được vậy chúng ta phải tu tập tỉnh thức. Vậy tu tập tỉnh thức như thế nào để được ở trong chánh niệm? Muốn tu tập tỉnh thức để ở trong chánh niệm thì chúng ta luôn luôn nương vào thân hành niệm nội hay ngoại mà tập luyện với pháp môn như lý tác ý.

Ví dụ: Nương vào hơi thở tác ý “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra” hay nương vào bước đi mà tác ý “Quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành” hay theo từng mỗi bước đi tác ý “Ly tham, ly sân, ly si, ly nghi, ly mạn”. Đó là phương cách tu tập để được ở trong chánh niệm. Vậy chúng tôi ước mong các bạn hãy cố gắng tu tập theo lời dạy của đức Phật thì lợi ích rất lớn sẽ đến với các bạn.

GÂY GỔ

Lời Phật dạy: “Thế nào, này các thầy tỳ-kheo! Có phải các thầy vì muốn làm vua, làm giàu, làm quan hay vì đời sống thiếu hụt đói khát mà đi tu chăng? Các thầy há chẳng phải muốn xa lìa sanh tử luân hồi mà cầu đạo giải thoát sao? Tại sao quý thầy không chịu học đạo tu hành, mà lại tranh đấu, đấm đá với nhau, đối mặt gây phải trái nói ác với nhau. Các thầy đồng một thầy, đồng tu một pháp, các thầy phải sống lục hòa thân hành, khẩu hành, ý hành phải hòa hợp như nước với sữa”.

Chú giải:

Vì mục đích cao đẹp làm chủ sanh tử, luân hồi, chúng ta bỏ hết cuộc đời để đi tu, chứ đâu phải còn ham muốn làm quan, làm vua, làm giàu; chứ đâu phải vì nghèo đói mà đi tu. Phải không các bạn.

Đời sống ăn ngày một bữa, không tiền, không của cải, không nhà cửa, không gia đình, đi xin ăn... Vậy, còn thú vị gì mà các bạn tập họp nhau nói chuyện tào lao, tranh cãi hơn thua, nói chuyện phù phiếm, nói xấu người này, nói xấu người kia... Tu như vậy chỉ uổng phí một đời chẳng có ích lợi gì cho sự tu tập của quý bạn.  

Tiếc thay! Tiếc thay! Chỉ mang tiếng tu theo Phật, chứ nào Phật giáo có những hạng người đệ tử như vậy. Những hạng người ăn no, dụm ba, dụm bảy nói chuyện tào lao, tranh cãi hơn thua, là những loại Ma Ba Tuần trong Phật giáo. Những hạng người còn ham dục lạc thế gian mà đi tu theo Phật là làm một gánh nặng cho xã hội. Các bạn có biết không? 

Lời giáo giới trên đây là một lời phiền trách rất nặng nề của đức Phật ngày xưa đối với chúng tỳ-kheo. Đối với những hạng người tu hành dối trá, là những người tu hành chẳng chấp hành nghiêm trì giới luật, chẳng giữ gìn thánh hạnh Độc Cư, họ là những loại Ma Ba Tuần trong Phật giáo đang phá hoại đạo Phật.

CÔNG ƠN RẤT LỚN

Lời Phật dạy: “Nếu ai nương vào một người nào mà biết được Phật, Pháp, Tăng, ơn này rất khó báo đền, không thể đem cơm áo, giường nằm, nệm ngồi, thuốc men mà báo đáp ơn kia được.”

Chú giải:

Trong Phật giáo, có một ơn rất lớn nhất. Đó là người nào đã đem cho mình biết được Phật, Pháp, Tăng, tức là đem cho mình một nền đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình khổ người. Đó là một sự giải thoát thật sự. Một điều làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người. Vì thế ơn nghĩa ấy rất sâu nặng, không thể lấy gì trong thế gian này đem so sánh được.

Trên đây là lời dạy của đức Phật để chúng ta biết rằng Phật pháp là một pháp bảo vô giá, một ơn nghĩa sâu nặng như trời biển. Người đời thường không hiểu nên đã xem thường Phật pháp. Phật pháp là một cứu cánh cho loài người, giúp con người ra khỏi mọi sự khổ đau của kiếp người. Cho nên không thể lấy một vậy gì trong thế gian này mà báo đáp được ơn đức này.

            Người nào nhận được pháp môn này, bèn từ bỏ hết những pháp thế gian, nỗ lực tu tập theo đúng chánh pháp của Phật, thì người ấy là người có đầy đủ đệ nhất phước báu. Ngược lại người gặp được chánh pháp của Phật mà xem thường, tu tập lấy có là người thiếu phước, tuy gặp Phật, Pháp nhưng chẳng ích lợi gì cho họ. 

 
 

 

147-PHẬT PHÁP NGUYÊN THỦY. Trưởng Lão Thích Thông Lạc

GIỚI, ĐỊNH, TUỆ LÀ PHÁP MÔN CHÂN CHÁNH CỦA PHẬT
(Lời nói đầu “Những Lời Gốc Phật Dạy” tập II).

Những lời Phật dạy trong tập sách này đã giới thiệu cho các bạn biết rất rõ ràng, pháp môn tu hành của Phật giáo là pháp môn nào, để mọi người khỏi phải tu lầm lạc pháp môn của ngoại đạo Đại Thừa và Thiền Tông. Nhờ lời dạy nhiệt tình tha thiết của đức Phật đối với những người đời sau: “Với pháp này Ta đã chơn chánh giác ngộ, Ta hãy cung kính đảnh lễ và sống y chỉ pháp ấy”. Vậy pháp ấy là pháp gì?

Pháp mà đức Phật cung kính đảnh lễ ở đây là “GIỚI, ĐỊNH, TUỆ”.

Tại sao chúng ta biết là Giới, Định, Tuệ? Do lời di chúc trước khi Phật nhập Niết Bàn: “Này các tỳ-kheo, sau khi Ta nhập Niết Bàn thì các thầy hãy lấy giới luật và giáo pháp của Ta làm Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc”. Do lời dạy này chúng ta đặt trọn lòng tin nơi Pháp Bảo và cố gắng hết sức tận cùng, nỗ lực siêng năng tu tập không dám biếng trễ, không lùi bước trước mọi hoàn cảnh hiểm nguy và mọi sự khó khăn. Bất cứ một vật gì cản lối thì chúng ta đều vượt qua với một nghị lực kiên cường và đầy cương quyết sắt đá. Có tu tập như vậy, chúng ta mới là người chiến thắng. Phải không các bạn?

Lời dạy đầu tiên trong tập sách này, đức Phật khéo léo nhắc nhở và gieo vào lòng chúng ta một niềm tin sâu, khiến chúng ta phải đặt trọn lòng tin với pháp môn này. Pháp môn mà đức Phật là người đầu tiên đã thực hiện tu tập (Giới, Định, Tuệ) đến nơi đến chốn trong muôn vàn sự thử thách của nghiệp lực nhân quả trong nhiều kiếp làm người….

Lời dạy thứ hai của đức Phật là nhắc nhở chúng ta phải siêng năng tinh cần tu tập những điều cần thiết, chứ không phải tu những pháp không cần thiết hay tu cho có hình thức, mà phải tu tập thật sự, tu từng giây, từng phút, tu rất kỹ lưỡng và liên tục từ ngày này sang ngày khác không nên biếng trễ, gián đoạn.

Chúng ta nên lưu ý lời dạy của đức Phật rất rõ ràng và cụ thể: 

1- Hằng ngày phải tinh cần siêng năng chế ngự tâm mình, đừng để tâm buông lung chạy theo các dục, dính mắc các trần. Đừng để tâm bị tác động bởi những ác pháp từ mọi phía bên ngoài tấn công vào. Phải luôn giữ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

2- Hằng ngày phải tinh cần đoạn tận những ác pháp không được để tác động vào thân tâm, phải luôn giữ tâm thanh thản an lạc và vô sự.

3- Hằng ngày phải tinh cần tu tập những pháp môn mà đức Phật đã dạy gồm có 37 phẩm trợ đạo.

4- Hằng ngày phải tinh cần siêng năng hộ trì các căn tức là sống độc cư trọn vẹn không được làm cho giới độc cư khờn mẻ, phải giữ gìn cho nguyên vẹn.

Đây là những điều hằng ngày chúng ta phải siêng năng tu tập không biếng trễ với bốn sự tinh cần này. Đừng nên nghĩ tưởng rằng các pháp ảo tưởng theo kiểu Đại Thừa và Thiền Đông Độ là đúng pháp của Phật. Không đâu các bạn ạ! Những pháp ấy là pháp tưởng, là pháp tu sai lệch sẽ rơi vào tưởng giải, tưởng định thì rất nguy hiểm cho hành giả, cho các bạn.

Lời khuyên thứ ba, Ngài nhắc nhở chúng ta đừng nên chấp đắm những gì trong thế giới của con người, nó chỉ là các duyên hợp lại mà thành, không có vật gì là thật, là bền chắc, là vĩnh viễn, là của mình, là mình cả. Nó chỉ là ảo ảnh, là bọt nước, nó là hư tưởng, là tưởng tri chứ không phải là liễu tri. Đây là lời khuyên thật chân tình của Phật để chúng  ta thoát ra khỏi những ảo ảnh, hư tưởng của thế giới con người đang sống, đang chìm đắm trong mê lầm.  

Và đây lời khuyên cuối cùng của tập sách này, chúng ta phải hiểu có ba điều để đoạn tận lậu hoặc: 1- Độc cư; 2- Ăn uống; 3- Tỉnh giác. Ba điều này là ba vấn đề quan trọng trong cuộc đời tu hành của chúng ta để đi đến tâm vô lậu hoàn toàn.

Tóm lại, trong tập sách này Phật dạy cho chúng ta biết pháp nào tin tưởng thì phải tin tưởng tuyệt đối, hết sức tin tưởng, đừng tin tưởng lừng chừng. Ngoài ra, tất cả các pháp khác thì không nên tin  tưởng. Vì nếu tin tưởng nhiều pháp sẽ làm ảnh hưởng đến sự tu tập rất lớn, do tâm bị phân tán không gom tâm thành khối, không xả được tâm, không ly được dục.

Khi tin tưởng rồi thì những pháp nào tu tập cần phải chuyên cần tu tập cho nhuần nhuyễn. Và cũng nên nhớ một điều rất quan trọng là lúc nào cũng cần phải hộ trì sáu căn. Hộ trì sáu căn cho vững chắc, không được buông lỏng để cho sáu căn giong ruổi theo sáu trần. Sáu căn giong ruổi theo sáu trần thì sự tu tập của chúng ta chưa biết đến chừng nào mới xong.

Trong tập sách này Phật dạy rất rõ ràng, không còn chỗ nào là không hiểu. Hiểu rõ rồi nhưng còn tu tập cho đúng là một điều khó. Khó, nhưng được người có kinh nghiệm hướng dẫn thì thành dễ, các bạn ạ! Chỉ những lời dạy bấy nhiêu đây cũng đủ cho chúng ta tu tập đi đến giải thoát hoàn toàn nếu chúng ta có quyết tâm cao.

Kính thưa các bạn! Trong cuộc đời tu hành của chúng tôi, lúc sắp tuyệt vọng tận cùng của sự tu hành, vì lúc bây giờ chúng tôi đã 52 tuổi đời, 44 tuổi đạo, mà tu hành chẳng ra gì, chỉ đạt những thứ thiền tưởng, khiến cho chúng tôi cảm thấy cuộc đời của mình đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo. Chín năm trời nỗ lực miệt mài tu tập, đem hết sức sinh mạng của mình ra chiến đấu với giặc sanh tử, ngày đêm không dám ngơi nghỉ, chỉ mong sao làm chủ được sự sống chết, nhưng chín năm trời ấy như công dã tràng se cát. Chúng tôi sắp đi tìm cái chết vì không còn biết pháp nào tu tập hơn nữa. Tin nơi Thầy của chúng tôi (HT Thích Thanh Từ); tin nơi kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ, nhưng niềm tin ấy đã tan vỡ thành mây khói sau chín năm tu tập. Trên bước đường cùng của sự tu tập theo Phật giáo Đại Thừa và Thiền Tông, chúng tôi không còn một chút hy vọng nào.

Nhưng may mắn thay, bộ kinh Nikaya đã cứu thoát chúng tôi, qua những lời Phật dạy như trên đây, chúng tôi đã ghi nhận và rút ra từ trong kinh sách Nguyên Thủy ấy và cố gắng thực tập theo lời dạy này, chúng tôi đã tìm ra được đáp số.

Lật lại những trang giấy chúng tôi ghi chép những lời Phật dạy trong kinh Nikaya cách đây 23 năm xưa cũ, lòng chúng tôi bồi hồi nghĩ mình lúc xưa và nghĩ đến các bạn hiện giờ đang tha thiết tu tập tìm cầu sự giải thoát. Nghĩ đến đây lòng chúng tôi nao nao thương xót các bạn. Rồi đây các bạn cũng như chúng tôi ngày xưa, phải chết dở sống dở vì những pháp môn ảo tưởng mà các Tổ đã kiến tưởng giải khiến cho bao nhiêu thế hệ tu tập sống dở, chết dở.

Hôm nay nghĩ đến các bạn, những người bạn thân thương tha thiết tu hành, chúng tôi ghi lại những lời dạy quý báu hơn vàng ngọc châu báu này và chú giải qua kinh nghiệm tu hành của chúng tôi để mong sao gửi đến các bạn những gì mà chúng tôi tu hành có kết quả, những gì cao quý nhất của đời người mà chúng tôi đã làm chủ được sanh, già, bệnh, chết. Sự làm chủ này đối với chúng tôi là một sự trao đổi quá to tát, chúng tôi đã đổi bằng công sức, máu và nuớc mắt của mình. Khi tu xong chúng tôi thấy hạnh phúc lắm các bạn ạ! Trong đời này không có vật gì còn có ý nghĩa với chúng tôi. Chúng tôi chỉ còn có một lòng thương yêu mọi sự sống trên hành tinh này mà thôi

Hỡi các bạn thân thương! Đời có gì hạnh phúc lâu dài đâu? Chỉ là bong bóng nước, chỉ là những hạt sương của buổi sớm ban mai, toàn là ảo ảnh, hư tưởng, có gì đâu mà đắm chìm, ham mê. Phải không hỡi các bạn?

Chánh pháp của Phật đây rồi! Các bạn ơi! Hãy ôm lấy nó như ôm chiếc phao vượt biển, đừng buông nó các bạn ạ! Nó sẽ giúp các bạn vượt thoát cuộc đời đầy sóng gió bão bùng, đầy cay đắng, nhiều gian nan khổ đau, nhiều thử thách cam go và khắc nghiệt. Đời chỉ là một giấc ác mộng kinh hoàng. Suốt cuộc đời của quý bạn thật là vô vị, chỉ biết phục vụ cho ăn, ngủ, đi cầu và dâm dục. Toàn là những thứ bất tịnh uế trược, bẩn thỉu, hôi thối, v.v... Có gì hạnh phúc đâu các bạn ạ!?

Chánh pháp của Phật đây rồi! Các bạn ơi! Nếu bạn không tu tập thì chẳng có ai giúp các bạn được, gặp khổ đau, gặp ác pháp các bạn đừng kêu khổ, đừng rên la, đừng than thở, đừng kêu trời, trách đất, đừng khóc mẹ, khóc cha, v.v... Dù các bạn có kêu thấu cả trời xanh thì cũng chẳng có ai cứu giúp được bạn đâu!?

Vì cảm thông nỗi thống khổ của kiếp làm người, nên chúng tôi không thể làm ngơ trước mọi sự khổ đau của các bạn. Nếu những lời nói này có những điều không vừa lòng, vừa ý xin các bạn vui lòng tha thứ cho. Vì chúng tôi nói lên những lời này là nói lên lòng yêu thương chân thật của chúng tôi gửi đến các bạn thân thương khắp bốn phương.

Mong các bạn hiểu cho.

Lời Phật dạy: “Với pháp này Ta đã chân chánh giác ngộ, Ta hãy cung kính, đảnh lễ và sống y chỉ pháp ấy”. 

Chú giải:

Trên đây là lời dạy của đức Phật. Vậy với pháp này là pháp nào?, mà Ngài đã xác định và quả quyết chắc như vậy: “Ta đã chân chánh giác ngộ

Xin thưa cùng các bạn! Đức Phật muốn giới thiệu với chúng ta pháp môn mà Ngài đã tu chứng quả thật sự giải thoát, đó là pháp môn Giới, Định, Tuệ. Tại sao chúng tôi lại biết nó là pháp môn Giới, Định, Tuệ? Thưa các bạn! Chúng ta hãy căn cứ vào lời di chúc và Bát Chánh Đạo tức là ĐẠO ĐẾ.

Đạo Đế là một chân lý trong bốn chân lý của đạo Phật. Đã là chân lý thì nó là một pháp môn hay nói cách khác nó là một chương trình giáo dục đào tạo bất di bất dịch của những pháp môn tu tập giải thoát thật sự, làm chủ sanh, già, bệnh, chết không ai có quyền thay đổi được. Nó là con đường dẫn chúng ta đi đến nơi giải thoát hoàn toàn. Nó là tấm bản đồ chỉ rõ đường đi để chúng ta theo đó tiến bước mà không còn sợ lầm đường lạc lối. Nó là chương trình giáo dục đào tạo những người có đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người. Nhờ đó chúng ta đạt đến mục đích tối hậu, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Hiện giờ đạo Phật có rất nhiều pháp môn của ngoại đạo xen vào, khiến cho chúng ta không biết phân biệt pháp môn nào chân chánh thật sự của đạo Phật.

Nếu chân lý “Đạo Đế” không có thì chúng ta biết căn cứ vào đâu để xác định pháp môn tu hành chân chánh của Phật giáo. May mắn thay! Đức Phật đã sáng suốt, khi đạo Phật xuất hiện ra đời, Ngài đã dự đoán biết tương lai về sau ngoại đạo sẽ dìm Phật giáo và diệt Phật giáo bằng con đường pha trộn chánh pháp và tà pháp lẫn lộn, khiến cho người đời sau khó phân biệt tà, chánh. Cho nên, bài thuyết giảng lần đầu tiên của đức Phật được gọi là chuyển pháp luân, chính là “Pháp môn Tứ Diệu Đế”.

Tứ Diệu Đế là bốn chân lý của đạo Phật bắt đầu có từ đây, khiến cho mọi người thông suốt thân phận của con người, tức là thông suốt thế giới quan và nhân sinh quan như thế nào đúng và như thế nào sai.

Căn cứ vào chương trình giáo dục đào tạo đức hạnh nhân bản - nhân quả của Phật giáo (Đạo Đế) có tám lớp (Bát Chánh Đạo), chúng ta phân ra làm ba cấp tu học: (Giới, Định, Tuệ).

1- Từ lớp Chánh Kiến cho đến lớp Chánh Tinh Tấn là giai đoạn thứ nhất tu tập GIỚI LUẬT. Tu tập Giới Luật giai đoạn một có giáo trình tu học thuộc về pháp môn TỨ CHÁNH CẦN. Tứ Chánh Cần gồm có: Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt và Định Niệm Hơi Thở. Định Niệm Hơi Thở gồm có: 18 đề mục tu tập.

2- Lớp Chánh Niệm là giai đoạn thứ hai tu học GIỚI LUẬT trên pháp môn TỨ NIỆM XỨ. Tứ Niệm Xứ gồm có Tứ Niệm Xứ tu học trên Tứ Niệm Xứ; Tứ Niệm Xứ tu học trên pháp Thân Hành Niệm.

3- Lớp Chánh Định là giai đoạn thứ ba tu tập THIỀN ĐỊNH. Thiền định có tên là TỨ THÁNH ĐỊNH. Tứ Thánh Định gồm có: Sơ Thiền - Nhị Thiền - Tam Thiền - Tứ Thiền

Khi nhập Tứ Thiền xong thì ngay đó tuệ Tam Minh xuất hiện cho nên Tuệ Tam Minh không tu mà có. Tại sao vậy? Chúng ta hãy lắng nghe lời Phật dạy cho kỹ: “GIỚI SANH ĐỊNH, ĐỊNH SANH TUỆ” để khỏi bị tà giáo lừa đảo.

Như vậy con đường tu tập của Phật giáo xác định rất rõ ràng, không thể tà giáo ngoại đạo xen lẫn, pha trộn vào được. Vì nó là một chương trình giáo dục đào tạo đức hạnh làm người làm Thánh. Vậy mà, giáo pháp của đạo Phật hiện giờ toàn là giáo pháp của ngoại đạo mới kỳ lạ. Chương trình giáo dục đào tạo không còn nữa, giáo trình giáo án lộn xộn không lớp lang thứ tự chỉ còn là một tạng kinh hỗn tạp; một tạng giới không nêu rõ giới đức, giới hạnh, giới hành, còn tạng luận thì luận trên trời dưới đất khiến cho người tu tập chẳng biết đường, như lạc vào trong rừng sâu.

Nhìn lại giáo pháp Đại Thừa và Thiền Tông thì chúng ta phải giật mình và phải cúi đầu thán phục các bậc Tổ sư Bà-la-môn. Họ thật là khéo léo tuyệt vời, đưa giáo pháp của mình, biến thành giáo pháp của đạo Phật mà tất cả vừa là cư sĩ, vừa là tu sĩ của Phật giáo đều là những người có học thức, kể cả người có trình độ kiến thức tiến sĩ, vậy mà không hề có một người nào hay biết. 

Mãi cho đến hôm nay, nếu chúng tôi tu tập không thực hiện được lời dạy của đức Phật thì muôn đời ngàn kiếp không còn ai vạch trần ra được cái sai này, cái khéo léo thiện xảo rất tinh vi này, biến đạo Phật thành đạo Bà-la-môn mà không hề ai biết. Vả lại, tín đồ Phật giáo lại còn tiếp tay với Bà-la-môn làm mất đường lối, chương trình giáo dục đào tạo tu học đạo đức chân chánh của Phật giáo mà không ai để ý. Thật là đau lòng. Phải không các bạn?

Kính thưa các bạn! Pháp môn của Phật giúp cho mọi người tu tập giải thoát tuyệt vời như vậy. Thế mà bây giờ, nhìn lại tu sĩ Phật giáo chẳng còn gì là tu sĩ Phật giáo, chỉ là những tu sĩ Bà-la-môn phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới. Nghĩ đến đây chúng tôi xúc động vô cùng, thương cảm người cha lành đã hy sinh cả cuộc đời mình, để lại cho đàn con những lời dạy tâm huyết. Thế mà bây giờ còn gì đâu! Biết làm sao hỡi các bạn!? Chỉ còn lại một mớ ngôn ngữ học danh học lợi ngoài đầu môi chót lưỡi để lừa đảo thiên hạ sống trên mồ hôi nước mắt của mọi người. Thật đáng trách phải không các bạn?

Khi đức Phật tu tập xong và tìm thấy sự giải thoát thật sự, Ngài dùng những lời dạy và hành động (Quỳ xuống đảnh lễ giáo pháp) hết sức chân thành và yêu thương loài người tận trong đáy lòng sâu thẳm: “TA HÃY CUNG KÍNH, ĐẢNH LỄ VÀ SỐNG Y CHỈ PHÁP ẤY”. Lời dạy này gây cho chúng ta một lòng tin sâu sắc; lời dạy này làm cho trái tim chúng tôi rung động trước lòng yêu thương vô bờ bến của đấng cha lành.

Hôm nay chúng tôi tu hành xong, đọc lại những lời dạy này, chúng tôi xúc cảm không cầm được giọt nước mắt của mình. Vì nghĩ đến lòng thương yêu như trời biển của đức Phật. Lòng yêu thương ấy không thể lấy gì mà so sánh được. Nhạc sĩ Y Vân so sánh lòng thương yêu của mẹ đối với con như biển Thái Bình: “Lòng mẹ thương con như biển Thái Bình rạt rào...”. Nhưng lòng thương chúng sanh của đức Phật dù đem bốn biển so sánh cũng không sánh được.

Ngài cung kính, cúi đầu đảnh lễ và sống y chỉ pháp ấy, khiến cho chúng ta không bao giờ quên được ơn nghĩa này. Không quên được ơn nghĩa này thì phải luôn luôn nhớ đến “GIỚI, ĐỊNH, TUỆ”. Chỉ có “Giới, Định, Tuệ” mới giúp chúng ta làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi; chỉ có “Giới, Định, Tuệ” mới giúp cho chúng ta tu tập không còn sợ tu sai pháp, lạc vào tà pháp của ngoại đạo. Ngoài giới luật ra không còn giáo pháp nào dạy chúng ta tu hành giải thoát chân chánh nữa.

Hỡi các bạn! Các bạn nhớ ơn Phật thì các bạn hãy mạnh dạn chỉ thẳng những gì sai không đúng giáo pháp của Phật giáo; những gì không đúng giới luật của Phật để chấn chỉnh lại Phật giáo thì đó là các bạn đã đền đáp ơn Phật.

                                                                                                    Kính ghi
                                                                                Trưởng Lão Thích Thông Lạc.

148-ƯỚC NGUYỆN CỦA TỲ-KHEO THỌ THỰC. TL Thích Thông Lạc.

OAI NGHI TỲ KHEO THỌ NHẬN THỰC PHẨM CÚNG DƯỜNG

Oai nghi tế hạnh của một vị tỳ kheo, khi nhận tứ sự của tín thí cúng dường phải làm gì? Trước khi thọ thực phải làm gì? Sau khi thọ thực phải làm gì?

Sau khi nghiên cứu tạng kinh Nguyên Thủy, chúng tôi tìm lại được một thời khóa tu tập trong thời đức Phật còn tại thế, Ngài đã dùng thời khóa này hướng dẫn cho các đệ tử của mình tu tập cách đây 2543 năm. Đó thực là một thời khóa có giá trị rất lớn cho đường tu tập của các vị tỳ kheo Tăng, tỳ kheo Ni và nam nữ cư sĩ, nói chung là tín đồ Phật giáo.

Khi đọc đến bài kinh ƯỚC NGUYỆN trong kinh Trung Bộ, chúng tôi ghi nhận lời Phật dạy: “Muốn ước nguyện một điều gì thì giới luật phải được giữ gìn nghiêm chỉnh, thì ước nguyện ấy mới có kết quả”.

Do những lời dạy trong kinh này, tôi soạn ra những lời “Ước Nguyện” để thực hiện nguyện vọng tha thiết làm chủ sanh, già, bịnh, chết của mình và của tất cả mọi người trên đường tu tập.

Vị tỳ kheo mới xuất gia tu hành giới luật chưa thanh tịnh, khi thọ nhận thực phẩm của đàn na thí chủ cúng dường phải làm gì?

Dưới đây là những lời ước nguyện của người tu sĩ mới xuất gia giới luật chưa thanh tịnh khi thọ nhận sự cúng dường.

1- Ước nguyện của tân tỳ kheo

Khi nhận thực phẩm của đàn na thí chủ cúng dường xong, người khất sĩ phải đứng yên lặng ước nguyện:

             Hôm nay con thọ nhận
             Của tín thí cúng dường,
             Ước nguyện con tu tập
             Giới hạnh tròn nghiêm túc,
             Không hề vi phạm lỗi,
             Tâm ly dục, ly ác,
             Không làm khổ mình, người.
             Xứng đáng đệ tử Phật,
             Gương sáng cho mọi người,
             Thắp lên ngọn đèn pháp,
             Chấn hưng lại Phật giáo,
             Con xin Phật chứng minh.

NAM MÔ PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI.

2- Ước nguyện của cựu tỳ kheo

Người tu lâu năm, giới luật đã thanh tịnh, không còn vi phạm lỗi và đã nhập được Sơ Thiền, khi thọ nhận tứ sự của đàn na thí chủ cúng dường, người khất sĩ phải đứng yên lặng ước nguyện:

             Hôm nay con thọ nhận
             Của tín thí cúng dường,
             Ước nguyện con hồi hướng
             Cho tất cả mọi người
             Ðều cũng được như con,
             Giới luật tròn thanh tịnh,
             Không hề vi phạm lỗi,
             Thường lìa dục, lìa ác,
             Suốt thời gian tu hành,
             Không làm khổ mình, người,
             Xứng đáng đệ tử Phật,
             Ðức giới cho mọi người,
             Thắp sáng ngọn đèn pháp,
             Chấn hưng lại Phật giáo.
             Ngưỡng xin Phật chứng minh.

NAM MÔ PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI.

3- Ước nguyện trước khi thọ thực

Trước khi thọ thực, người tu sĩ phải ngồi xếp bằng trên ván, giường, ghế hoặc trên mặt đất dưới bóng cây, trong chòi tranh vách lá, phải đặt bát cơm trước mặt, hai tay chắp lại, lòng thành kính dâng lên tỏ lòng biết ơn chư Phật, tổ tiên ông bà, cha mẹ nhiều đời, nhiều kiếp, và đọc lời ước nguyện:

              Hôm nay bữa cơm này,
              Chúng con xin thành kính
              Cúng dường mười phương Phật,
              Ba đời chư Hiền Thánh,
              Tổ tiên và ông bà,
              Cha mẹ và quyến thuộc,
              Anh em cùng bạn hữu,
              Nội ngoại cùng đôi bên,
              Nhiều đời vô lượng kiếp.
              Chúng con cũng cúi xin
              Cúng dường khắp pháp giới,
              Chúng sanh và tất cả
              Hữu tình và vô tình,
              Ðều được hưởng cơm này
              No lòng như chúng con,
              Ðể rồi quyết chí tu,
              Giải trừ tâm ác độc,
              Tăng trưởng hạnh từ bi,
              Thương xót khắp quần sanh,
              Thể hiện pháp thiền định,
              Ra khỏi nhà sanh tử,
              Làm chủ đường luân hồi,
              Báo đáp bốn trọng ân,
              Gìn giữ ngôi Tam Bảo
              Cửu trụ mãi muôn đời.

NAM MÔ PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI.

Sau khi thầm đọc lời ước nguyện kính dâng lên lòng thành kính biết ơn của mình, người tu sĩ ăn:

               1. Miếng cơm thứ nhất, ước nguyện:  “LY DỤC, NGĂN ÁC, DIỆT ÁC PHÁP”.
               2. Miếng cơm thứ hai, ước nguyện: “SANH THIỆN, TĂNG TRƯỞNG THIỆN PHÁP”.
               3. Miếng cơm thứ ba, ước nguyện: “TẤT CẢ CHÚNG SANH ÐỀU LY DỤC, LY ÁC PHÁP, KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI”.

Sau khi đọc xong lời ước nguyện, người tu sĩ bắt đầu giữ gìn ăn uống trong sự im lặng.

4- Ước nguyện sau khi thọ thực

Sau khi thọ thực và uống nước xong, người tu sĩ chắp tay lên, thầm đọc lời ước nguyện biết ơn những đàn na thí chủ đã cúng dường tứ sự nuôi thân cho mình:

             Nguyện thọ bữa cơm này,
             Chúng con mãi nhớ ơn
             Người nông phu khó khổ,
             Kẻ dệt cửi nhọc nhằn,
             Giọt mồ hôi nước mắt
             Làm ra của cúng dường.
             Người đàn na thí chủ
             Vì Phật pháp trường tồn
             Chẳng nề công khó khổ
             Kính ngưỡng cúng dâng lên.
             Chúng con nguyện giữ gìn,
             Chẳng dám phung phí phạm,
             Ngày một bữa nuôi thân,
             Chẳng dám ăn phi thời,
             Vì phi thời phí phạm
             Như ăn thịt con mình.
             Chúng con nguyện hết sức
             Năng nổ siêng tu hành,
             Giải thoát thân tâm mình
             Ra khỏi nhà sanh tử,
             Đền đáp ơn chư Phật,
             Ơn sanh thành dưỡng dục,
             Ơn đàn na thí chủ.
             Chúng con cũng nguyện cho
             Kẻ còn người đã mất
             Đều được hưởng Phật pháp,
             Tâm ly dục, ly ác,
             Không làm khổ mình, người.

NAM MÔ PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI.

 
 

 

149-TÌM HIỂU TU SĨ VÀ PHẬT GIÁO NGÀY NAY. Thanh Huyền

Đức Phật dạy: “Người tu sĩ còn tự nuôi bằng những tà mạng, các loại nghề nghiệp, thì không thành giới cụ túc, còn ngược lại chỉ đi xin ăn ngày một bữa thì mới thành cụ túc giới” .

“Tà kiến là thấy đúng, thấy sai, thấy phải, thấy trái, thấy trắng, thấy đen, thấy tốt, thấy xấu, v.v… Chánh kiến là thấy nhân, thấy quả. Do thấy nhân quả như thật nên ở bờ bên kia không còn khổ đau”...

Để tìm hiểu thêm về đạo Phật và tu sĩ Phật giáo Việt Nam ngày nay, GNCN sưu tầm và giới thiệu đến quý phật tử và độc giả bài ghi chép đối thoại của TT THĐ với phóng viên báo Năng lượng Mới.  

Từ những lời Phật dạy trên, GNCN không có đánh giá “đúng, sai, phải, trái…” nào về nhà sư và GH PGVN ngày nay. Mong mọi người dùng trí tuệ Phật (chánh kiến) để cùng soi tỏ con đường GIẢI THOÁT của đạo Phật. Xin chia sẻ một điều cần nhớ: "NGƯỜI TU SĨ CHÂN CHÁNH CỦA ĐẠO PHẬT CHỈ CÓ MỘT NGHỀ DUY NHẤT, ĐÓ LÀ NGHỀ ĐI ĂN XIN VÀ ĂN NGÀY MỘT BỮA". Ngoài ra, nếu làm bất cứ nghề nào để tự nuôi sống mình, để làm từ thiện v.v... đều là tu sĩ ngoại đạo mượn danh Phật giáo để lừa đảo người mê. Những tu sĩ ấy dẫu tu muôn đời cũng không bao giờ có giải thoát thực sự.    

Mời quý vị cùng đọc:

Từ: Petro Times

Là nhà khoa học đầu tiên của Phật giáo Việt Nam, thầy Thích Huệ Đăng đã viết rất nhiều cuốn sách Phật pháp, trong đó có truyền dạy những kiến thức cơ bản để con người học hỏi tự hoàn thiện bản thân. Tình cờ, thầy Thích Huệ Đăng đọc được bài báo “Cần ‘tái cấu trúc’ lại con người Việt Nam” trên Báo Năng lượng Mới. Đây cũng là vấn đề mà thầy đã trăn trở, quan tâm từ lâu.

Ngay lập tức thầy Thích Huệ Đăng đã đến tòa soạn Báo và có cuộc trao đổi với phóng viên Năng lượng Mới xung quanh vấn đề này.

PV: Trước hết, xin thay mặt toàn thể cán bộ, phóng viên Báo Năng lượng Mới cảm ơn thầy đã tới thăm. Việc thầy đọc được bài báo “Cần ‘tái cấu trúc’ lại con người” cũng là do Duyên. Vậy theo thầy, nếu bây giờ “tái cấu trúc” con người Việt thì phải gồm những tiêu chí nào?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Có 3 tiêu chí. Đầu tiên là, con người phải có kỹ năng. Thứ hai, phải có sức khỏe và thứ ba là uy tín. Anh thấy đúng không? Nhưng điều đáng nói là làm sao có được ba thứ đấy? Tái cấu trúc một con người nói thì dễ, còn làm thì không đơn giản chút nào. Anh đã đặt ra vấn đề nhưng bây giờ làm cách nào để cấu trúc lại đây?

Những điều này, thoạt nghe thì tưởng là mới, nhưng thực ra đức Thế Tôn dạy từ rất lâu rồi. Phải biết lượng nhập mà xuất, tăng thu giảm chi, tác phong chỉnh tề, nghiêm ngắn, sống thanh khiết. Kinh Thiện Sanh nói: “Trước phải học tập kỹ nghệ. Có kỹ nghệ thì mới được nghề nghiệp. Và được nghề nghiệp thì mới có của cải”. Rồi Kinh Tạp A-Hàm nói: “Trước học nghề kỹ xảo, sau là tích lũy sản vật. Có sản vật đó rồi, phải chia làm 4 phần: Một phần dùng để ăn; hai phần để phát triển nghề nghiệp; phần còn lại giúp đỡ người nghèo khó”.

Về sức khỏe, đức Thế Tôn khuyến cáo chúng ta là bệnh tật sinh ra do các nguyên nhân: Dùng thức ăn quá hạn; quá nhiều lo lắng, ham muốn; sinh hoạt vô độ và không biết gần gũi Y và Dược…

Những điều Phật dạy thật bình dị, thiết thực và mỗi điều đều là chân lý.

Anh viết bài đó rất hay nhưng tôi thấy anh không có lộ trình, phương hướng…

PV: Nhưng dường như 3 tiêu chí là chưa đủ, ví như các tiêu chuẩn khác như lòng yêu nước… thì sao, thưa thầy?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Tôi hỏi anh, khi anh yêu nước anh có uy tín không? Tôi muốn nói đến cái gốc trước rồi mới đưa ra một lộ trình để cho anh làm. Anh phải là người có uy tín mới được người ta giao trách nhiệm, rồi từ đó anh ứng dụng kỹ năng anh có để làm việc, rồi anh mới thể hiện lòng yêu nước thông qua việc mình làm được. Anh nói yêu nước, vậy làm cách nào chứng minh người đó yêu nước? Tôi nói tôi yêu nước anh tin không? Nếu chỉ nói miệng rằng yêu nước thôi thì làm được gì? Người yêu nước, thì trước hết phải là người làm tốt công việc của mình, để xây dựng đất nước. Mà muốn làm tốt việc mình được giao, thì phải có kỹ năng nghề nghiệp; mà muốn có kỹ năng, thì phải có trí tuệ. Và khi có trí tuệ, có kỹ năng, thì sẽ là người có uy tín.

PV: Nghĩa là nó phải bằng các kết quả công việc cụ thể?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Đúng vậy. Có 3 hạng người: Người nói được mà làm không được; người làm được mà nói không được; và người nói được làm được mới là tạo uy tín chứ. Nãy giờ nói chuyện anh thấy tôi có yêu nước không? Tôi bỏ hết công việc tới đây để mưu cầu cái gì? Tôi mong muốn anh thành công trong việc tuyên truyền hình thành cấu trúc con người Việt Nam mới. Tôi có một lộ trình và ứng dụng riêng để mang ra đưa cho anh không cần điều kiện gì.

PV: Với cương vị là một vị tu hành, đạo cao đức trọng, theo thầy làm thế nào để đưa các tư tưởng tốt đẹp nhất của Phật pháp vào được cuộc sống ngày hôm nay?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Ở Việt Nam mình bao nhiêu phần trăm theo Phật giáo, có phải 60% không, nhưng lại thường theo với hình thức mê tín dị đoan. Nếu còn tình trạng mê tín như thế này, người ta sẽ đi xuống. Là một nhà báo anh có nhiệm vụ đưa điều đó ra công luận. Tôi có một tài liệu về chánh pháp cho người tu hành. Tôi in ra 7 ngàn hộp, mỗi hộp 22 cuốn kinh mang phát cho phía Bắc hết 6 ngàn hộp trong năm nay. Sách tôi viết đều do Nhà xuất bản Tôn giáo duyệt hết. Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam phải có cách nào đó để khai mở trí tuệ cho cộng đồng.

Ngay tại trụ sở Trung ương Giáo hội, người ta đốt vàng mã đầy ra. Mấy chùa ở xa thôi không nói đi, mà chùa ngay Trung ương sao để vậy? Vào chùa Quán Sứ xem, thở không nổi? Tại sao anh để dân đốt tiền như vậy? Phật không dạy đốt vàng mã, không bảo người ta phải coi bói, xem ngày tốt xấu… Bây giờ, người ta đã biến Phật thành kẻ đi buôn, kẻ đầu cơ… Là nhà tu hành, tôi rất đau lòng, khi thấy người ta không hiểu gì về Phật giáo và cứ tưởng đốt nhiều vàng mã, cúng lễ thật hậu, chăm chỉ tụng kinh… là đạt được mục đích vật chất.

PV: Vậy theo thầy bây giờ làm thế nào để người dân bớt mê tín?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Trong bộ sách của tôi viết tất cả những kinh điển của đức Phật. Tất cả là 43 bộ mà bây giờ tôi giảng có 6 tiếng mà ứng dụng luôn được trí tuệ vào cuộc đời này. Cuốn sách này là một hệ thống, đọc sách chúng ta sẽ hiểu rõ về Phật pháp.

Thực tế, hiện nay chúng ta đang bị mắc kẹt, lẫn lộn rất nhiều giữa Phật, Thánh, Thần… giữa Phật giáo, Đạo giáo và Lão giáo. Phật giáo hoàn toàn không có nói đến những tín ngưỡng, đức Phật chỉ nói sức khỏe và trí tuệ thôi.

Cuộc đời chúng ta sống có 2 mục đích cao cả: Lợi mình và lợi người. Đức Phật có 49 năm mang bát đi xin ăn để làm phương tiện hoằng pháp mang lại lợi ích cho người.  Tôi đã nguyện rồi, quá nhiều người Việt Nam hiện đang mê tín và thậm chí mê muội… Nếu làm được gì để người dân bớt mê tín thì thịt nát xương tan tôi cũng chấp nhận.

PV: Có một điều rất lạ, rõ ràng Phật pháp là trí tín chứ không phải mê tín nhưng tại sao con người Việt Nam lại lợi dụng giáo lý nhà Phật, biến nơi cửa Phật trở thành nơi buôn thần bán thánh, biến Phật thành người đầu cơ?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Tôi nói về cái tập thể thôi. Từ ngày vua Trần Nhân Tông tới giờ chân lý Phật giáo còn đâu. Giặc Minh đốt hết, đưa Lão giáo, Khổng giáo qua nên đô hộ mình bằng tư tưởng chứ không phải bằng vũ khí. Khi qua Ấn Độ, Nepal, Srilanka tôi nghiên cứu Phật giáo, Ấn Độ còn có 1% thôi mà lại đi về căn bản thôi chứ chưa phải rộng rãi gì. Giờ chỉ có Việt Nam mình thôi, mình mà sửa được thì cả thế giới tôn sùng.

Đức Thế Tôn dạy phật tử phải trung với nước, hiếu với cha mẹ, thương con cái, tin bạn bè. Làm người phải báo đáp 4 ơn nặng: ơn đất nước, ơn cha mẹ, ơn chúng sinh và cuối cùng là ơn Phật.

Điều này khác biệt với một số tôn giáo là dạy tín đồ chỉ biết ơn và tuân theo Đấng Tối cao.

Đức Thế Tôn rất trọng đạo Hiếu. Kinh Thiện Sanh dạy làm người phải phụng thờ cha mẹ: “Một là phụng dưỡng đầy đủ, không để cha mẹ thiếu thốn, hai là làm việc gì phải thưa cha mẹ. Ba là không được phá nghiệp của cha mẹ. Bốn là cha mẹ sai bảo hợp lẽ thì không được cãi…”. 

PV: Nhưng có một vấn đề thế này: đạo Phật, giáo lý qua các bộ kinh có thể nói cực kỳ cao siêu, khó hiểu, thưa thầy?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Không cao siêu gì hết. Phật giáo là ứng dụng ngay cuộc sống này. Cái cốt lõi tôi vừa nói đó. Ứng dụng đây có mấy trang giấy thôi. Trí tuệ là Bát Nhã, đức Phật lấy Bát Nhã làm trí tuệ, Ngài ra đi cũng lấy cái Bát Nhã để ra đi. Con người có 8 cái thức nhưng cái thức nào quan trọng nhất để giác ngộ.

Nên nhớ rằng, đức Phật để lại chân lý chứ không để lại nghi thức.

PV: Đọc các sách của Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, có một cái con thấy rất hay đó là học chết để sống. Người ta cả đời đi học đủ mọi thứ nhưng chẳng ai học chết cả, thưa thầy?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Có chứ. Đại Bát Niết Bàn nói rõ vấn đề cái chết của đức Phật tôi đã viết rồi. Có sống mà không biết chết là sống vô nghĩa, là chết không có hướng đi. Sống có lộ trình thì chết cũng phải có lộ trình. Đức Phật nói rất nhiều về lộ trình chết, hằng ngày chúng ta phải tập thế nào để chết được tự tại.

Tôi nói với anh 2 câu: Không rời đạo Phật, mà làm cách diệt phàm phu thì chỗ đó yên lặng. Không khởi diệt tận định mà hiện các oai nghi thì chỗ đó mới yên lặng. Anh biết yên lặng là ai không?

PV: Tĩnh lặng chính là đức Phật.

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Anh biết cái gốc mà không biết cái ngọn. Anh biết cái gốc mà không biết đường vô cái gốc, anh biết cái đảo mà không biết phương tiện vô cái đảo thì sao anh vô?

Lần đầu tiên Phật giáo Việt Nam có một người dám viết Khai thị luận là tôi mà Giáo hội hoàn toàn ủng hộ.

PV: Vậy có một vấn đề ở Việt Nam hiện nay là rất nhiều người tu nhưng là tu mù?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Tôi nói mấy thằng đui dắt đám mù đi… xuống hố. Anh vừa hỏi tôi nói Ngài - Đức Phật Thích ca Mâu ni - là thái tử con của vua Tịnh Phạn, vậy tại sao phải mang bát xin ăn? Đó là duy thức luận. Anh nói duy thức luận hay quá, vậy hay chỗ nào?

Con người ta có 4 cái, tỉnh thức anh chưa tỉnh thức được, tỉnh thức rồi tỉnh giác mới giác ngộ. Anh đang chưa hiểu cái công thức tỉnh thức là như thế nào, rồi tỉnh giác là thế nào, trực giác, giác ngộ là ra sao. Con người hàng ngày mở mắt ra nói chuyện với mọi người phải có 4 cái này. Anh đang nói với tôi ở cỡ nào? Anh đang dùng tỉnh thức hay dùng trực giác?

Đạo Phật khuyên con người luôn hướng thiện và thực hành nhân ái, mỗi tu sĩ có con đường tu tập riêng để nhập thế. Có người chọn cuộc sống ẩn dật chăm chỉ tụng kinh niệm Phật, còn tôi vừa tu tập vừa kinh doanh, người không hiểu sẽ cho tôi là kẻ “sân si”, đã xuất gia còn ham làm giàu. Tôi là nhà sư, danh tiếng, tiền bạc chỉ là phù du, cả ngày tôi chỉ mặc trên người chiếc áo cà sa, dùng hai bữa cơm chay đạm bạc. Tôi làm việc, kinh doanh để kiếm tiền lo Phật sự, khỏi phải nhận cúng dường của phật tử, tạo công ăn việc làm cho mọi người và giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh. Tôi đầu tư tiền bạc, công sức với mong muốn duy nhất là bảo tồn và phát triển loài dược liệu quý cho đất nước. Tôi luôn quan niệm “Lấy tâm làm cha, lấy trí tuệ làm mẹ, lấy cộng đồng làm quyến thuộc”.

PV: Thầy học trong bao nhiêu năm? Sang Ấn Độ học từ năm bao nhiêu tuổi?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Đến nay, tôi đã có hơn 50 năm tu hành. Sau nhiều năm tầm sư học đạo ở chùa Long Thiền (Đồng Nai), núi Cấm (Châu Đốc, An Giang), núi La Bá (Đơn Dương, Lâm Đồng)… Năm 1987, tôi lên Đà Lạt, tiếp tục tu tập bằng con đường riêng. Tốt nghiệp khóa Giảng sư Hoằng pháp của Hòa thượng Thiện Hoa năm 1997, hai năm sau, tôi sang Ấn Độ du học và trở thành giảng sư. Đến năm 2001, tôi tiếp tục học tiếp khóa Cao cấp Giảng sư.

Tùy duyên mà không bất biến thì cái duy thức luận như vứt đi thôi. Ăn chay mà không hiểu được chân lý Phật giáo giống như bò ăn cỏ vậy. Đọc kinh mà không hiểu thì cũng giống như con két (con vẹt).

Chùa tôi không có cần cúng suốt ngày, không đốt vàng, tiền. Tôi cũng không treo cờ Phật Đản vì ngày nào với tôi cũng là Phật Đản. Phật tại tâm, Đản là ứng dụng, tôi ứng dụng hằng ngày nên không cần Phật Đản.

Tôn giáo có 2 phần, chân lý tôn giáo và nghi thức tôn giáo. Tôi viết được chân lý Phật giáo và ứng dụng theo lời Phật dạy. Thay vì hằng ngày mang bát đi xin ăn trong 49 năm, tôi làm doanh nghiệp. Cúng dường 3 đời người tu Phật không bằng cúng dường một người vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng đó. Các anh là hữu sư trí còn người dùng trí tuệ được là vô sư trí.

PV: Theo thầy bây giờ để thoát khỏi Ấn Độ giáo, Trung Hoa giáo thì Phật giáo Việt Nam phải làm gì?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Phật giáo của mình bây giờ đang bị lai căng. 170 tiến sĩ Ấn Độ về toàn là tư tưởng của Ấn Độ giáo. Họ là giáo sư của Ấn Độ giáo có phải của Phật giáo đâu? Tôi đã có ý kiến với Hội Phật giáo nhiều lần rồi. Hội phải lập khóa Cao học Giảng sư để đào tạo các thầy theo chân lý Phật giáo rồi dạy lại mới được.

PV: Vậy có thể có một tham vọng là xây dựng một nền tảng Phật giáo mang bản sắc Việt Nam không, thưa thầy?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Đúng. Tôi đã viết rồi đấy. Phật giáo có lợi ích gì cho đất nước Việt Nam. Vua Trần Nhân Tông đánh thắng giặc Mông là nhờ một phần tư tưởng Phật giáo, anh đồng ý không? Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã có vận dụng linh hoạt tư tưởng Phật giáo vào tư tưởng của Người.

PV: Vậy, rút gọn lại thì chân lý Phật giáo là gì, thưa thầy?

Thượng tọa Thích Huệ Đăng: Phật chỉ cho người ta ứng dụng sức khỏe và trí tuệ vào cuộc sống để hạnh phúc và an lạc. Hạnh phúc có phải Niết bàn không? Cuộc sống hằng ngày anh phải có trí tuệ, có sức khỏe mới làm được mọi việc.

Anh nghiên cứu duy thức luận, con người ta có 8 thức phải không? Nhãn, nhĩ, thị, thiệt, thân… Không nói các thức còn lại, tôi nói cái thức thứ sáu là ý thức. Thức thứ sáu mục đích là ứng dụng vào cuộc sống? Nó gọi là vô sư trí, nghĩa là không có thầy dạy tự dưng nó hiện ra. Anh xem ở Việt Nam bây giờ có người nào dạy được cái này không? Tôi ở trong giáo hội gần 40 năm nay rồi, tôi biết nhiều hòa thượng cũng đâu biết cái này. Mục tiêu đặt ra của Pháp Hoa là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, Phật là giác, giác là thanh tịnh, tri là tri biết, kiến là thấy. Mình làm sao chỉ cho người ta thấy biết thanh tịnh đó. Nghĩa là ứng dụng cái trí biết bằng thanh tịnh đó, mà thanh tịnh bằng cái gì, chính là cái tâm.

Phật giáo cuối cùng vẫn là “bất khả tri kiến, bất khả luận” (không thể thấy, không thể luận bàn).

PV: Xin cảm ơn thầy về cuộc trao đổi cực kỳ hữu ích này.

.                                                                                                  .

Vài nét về TT Thích Huệ Đăng

Thượng tọa Thích Huệ Đăng (ở chùa Thanh Quang, Đà Lạt) - Ủy viên Hoằng pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Ủy viên Hội Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Thượng tọa Thích Huệ Đăng (sinh năm 1940) là một tu sĩ Phật giáo nổi tiếng tại Việt Nam. Nhà sư còn được biết đến là một nhà trồng hoa lan nổi tiếng và là một trong những người có công lớn trong việc phát triển nhân bản vô tính giống sâm Ngọc Linh tại Đà Lạt. Năm 1987, Sư lên Đà Lạt lập một tịnh thất nhỏ để tu tập.

Với quan niệm người tu sĩ phải tự làm để mà nuôi sống bản thân, Sư đã thể hiện sự quan tâm đối với nghề trồng địa lan khi mà những người trồng lan ở xứ sở này hầu hết đã bỏ nghề vì thị trường xuất khẩu hoa sang Liên Xô và các nước Đông Âu không còn nữa. Nhà sư bắt đầu tìm tòi học hỏi về cách trồng hoa và bắt đầu bán hoa lan để lấy tiền làm Phật sự kể từ năm 1990.

Năm 1994, khi tham gia khóa Giảng sư hoằng pháp tại thành phố Hồ Chí Minh, nhà sư đồng thời cũng tham dự các khóa học dự thính về phương pháp cấy mô hoa lan tại Trường đại học Nông Lâm TP HCM. Sau khi tốt nghiệp Giảng sư Phật học, nhà sư trở về Đà Lạt thực nghiệm những kiến thức học được. Với kiến thức có được, cùng với kinh nghiệm thực hành, trong một thời gian dài, nhà sư dần hình thành 2 cơ sở nghiên cứu và trồng hoa lan, vừa nghiên cứu bảo tồn các loài lan quý tại Việt Nam, vừa tạo công ăn việc làm cho nhiều phật tử quanh vùng. Nhà sư đã thành lập Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hoa lan Thanh Quang do chính nhà sư làm giám đốc, từng bước phát triển cả về quy mô lẫn uy tín trên thị trường, xuất khẩu hoa lan ra thị trường thế giới, nhất là Nhật Bản.

Bên cạnh việc nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm từ những quốc gia trồng hoa tiên tiến trên thế giới như Úc, Pháp, Hà Lan..., Nhà sư còn tổ chức Trung tâm Thực nghiệm nhân nuôi tế bào, thành viên Hiệp hội Cấy mô Đà Lạt. Với những kết quả nghiên cứu của mình, cùng với các cộng sự, nhà sư đã thực hiện thành công việc phát triển hồng môn, đặc biệt là việc nhân bản và phát triển giống cây sâm Ngọc Linh ở Đà Lạt, được Cục Sở hữu trí tuệ của Bộ KHCN trao bằng “độc quyền sáng chế” với công trình: “Quy trình trồng cây sâm Ngọc Linh nuôi cấy mô”.

Hiện tại, ngoài việc là một giảng sư Cao đẳng Phật học, nhà sư còn là Hội phó Hội Hoa lan Đà Lạt, Hội viên Hội Doanh nghiệp Lâm Đồng. Năm 2007, nhà sư được bình chọn là một trong 100 doanh nhân tiêu biểu của cả nước vì những đóng góp không mệt mỏi của mình cho nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, năm nào thầy cũng xuất bản ít thì một, nhiều thì hai cuốn và tất cả đều là sách nhà Phật như: Luận giảng Kinh Lăng Già (2003), Đại cương Đại Trí Độ Luận (2012), Trước tác Tổng luận Mật Tông (2012)... Thầy còn có cả những công trình và báo cáo khoa học hoặc tham luận đã công bố hoặc trình bày tại các hội thảo, hội nghị lớn như “Xây dựng và Phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước trong thế kỷ XXI” (đề tài cấp nhà nước); tham luận tại hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3 (tại Hà Nội), tham luận tại Giải thưởng Quốc tế Trần Nhân Tông (Hà Nội)...

Thanh Huyền ghi

Nguồn: Năng lượng Mới 455

                Mời quý phật tử và độc giả xem thêm bài liên quan đạo PhậtGiới của người xuất gia tu hành theo link sau: THÁNH GIỚI - CHUẨN NHẬN BIẾT VỊ TỲ KHEO CHÂN CHÁNH.

150-NGƯỜI CƯ SỸ XIN NHÌN LẠI. TS Nguyễn Mạnh Hùng.

NGUỜI CƯ SỸ XIN NHÌN LẠI
TS Nguyễn Mạnh Hùng

Tôi lên kế hoạch viết bài này từ rất lâu rồi. Lâu lắm rồi. Nhưng không dám viết. Một phần có lẽ bởi tôi là kẻ hèn nhát, sợ ném đá. Cũng giống như bài “Người tu sỹ xin nhìn lại”, viết ra, đăng lên nhận đá, nhận gạch là chắc ăn. Hơn nữa rất có thể bị hiểu lầm thành người soi mói, nói cái xấu của người, phóng dật,... Tuy nhiên hôm nay, 31 tháng 12 là ngày cuối cùng của năm 2015, tôi vẫn quyết định viết ra. Suy đi tính lại, dù sao cũng cần viết ra suy nghĩ của mình, cái nhìn của mình. Chẳng gì bằng nói thật. Có gì tốt hơn khi chúng ta biết sự thật để tìm cách tự thay đổi. Tôi ngồi gõ và nghĩ gì gõ đó, không cần đọc lại. Bởi cứ để dòng suy nghĩ chảy ra là tốt nhất, là đúng như thật nhất.

Con xin thành tâm sám hối trước chư Phật, chư Bồ Tát mười phương, trước chư vị A-la-hán, chư Hiền Thánh Tăng thường trú khắp muôn nơi. Con xin chí thành sám hối trước liệt vị tổ sư qua các thời đại, từ Tây Trúc cho đến Việt Nam. Con thành thật viết ra để tự nhắc mình, răn mình, như một cư sỹ. Rồi biết đâu có những bạn đồng tu cũng có cùng suy nghĩ với con để cùng nhau giật mình, cùng nhau tu tốt hơn. Tu là sửa. Chúng con cùng bên nhau, nắm tay nhau, kề sát tâm với nhau để tu, để sửa.

Bài này con cũng mong rằng sẽ có ít nhất 1 ngàn người đọc. Trong 1 ngàn người đó ít nhất có 10 người đồng quan điểm với con và sẽ có 1 người liên lạc với con để chung bước đi tiếp con đường của người phật tử tại gia. Con cũng mong ngay cả thời nay vẫn có những vị cư sỹ tại gia chứng đắc, vẫn có những vị hộ pháp như ngài Cấp Cô Độc thời xưa. Mà phải nhiều là khác vì thời nay văn minh, điều kiện đầy đủ như vậy cơ mà.

1, Cơ sự đâu nên nông nỗi này?

Như chúng ta đã biết, ngày nay có một bộ phận quý thầy, quý sư cô, những người xuất gia, từ bỏ gia đình quyết chí tu tập để giác ngộ và giải thoát lại không lo chuyện tu mà lại CHUYÊN TÂM đi cúng, đi xây chùa, đi làm từ thiện, cúng lễ, bói toán, đi làm nhang làm nến, sản xuất hàng hóa để bán. Đó là những việc của người đời chứ đâu có phải là bổn phận của người tu. Đó là chưa nói đến chuyện Iphone, xe xịn, rượu bia, sống buông thả,…. Lỗi một phần rất lớn là của tôi, của chúng ta và của quý vị, của những người cư sỹ chúng mình.

Cơ sự rằng có những quý thầy, quý sư cô sống và tu sai, tu và sống theo Bát Tà đạo chứ không  phải Bát Chánh đạo là một phần do cư sỹ tại gia chúng ta. Người phật tử tại gia thích đến chùa to, thích vào chùa đẹp. Chùa là nơi để tu chứ đâu có phải là danh lam thắng cảnh để tham quan. Chúng ta khen chùa nọ đẹp, chùa kia lớn, chùa nơi A có tượng Phật ngọc, chùa nơi B có tượng Bồ Tát cao kỷ lục…. và làm quý thầy suy nghĩ. Quý thầy vẫn là người tu. Người tu tức là sửa mình. Tứ chúng cùng tu mà. Vì còn đang tu nên tham sân si vẫn còn. Làm sao mà hết ngay được ham muốn đối với tài, sắc, danh, thực, thùy. Vậy nên khi gặp những phật tử xúi thêm vào, kích bác quý thầy, quý thầy cũng khó xử, tâm xao động. Một người nói thầy thấy ổn. Vài người chê chùa nhỏ sư cô thản nhiên. Nhưng khi cả trăm, cả ngàn cư sỹ “phán” và “gạ gẫm” thì các thầy (vì chưa là Thánh) nên vẫn xiêu lòng. Vậy là thay vì để thời gian hành thiền, tu thân sửa tâm, nhiều thầy thành kiến trúc sư, thành kỹ sư xây dựng, thành nghệ nhân làm tượng bất đắc dĩ. Than ôi. Chúng ta cần nhìn lại mình nhé, quý vị cư sỹ yêu kính.

Khẩu nghiệp lớn quá. Chúng ta, chính chúng ta khen chùa này đông phật tử, khen thầy kia lắm đệ tử. Thế là có thầy mếch lòng. Thế rồi chúng ta đưa quý thầy quý sư cô vào con đường xấu – tìm cách chiêu mộ đệ tử, chẳng khác gì chiêu quân. Chuyện này có xảy ra không nào. Chắc chắn có. Lỗi tại ai nào, nếu không phải tại phật tử tại gia chúng ta. 

Chúng ta không hài lòng khi thấy quý thầy quý sư cô xin xăm, bói toán, kêu gọi ghi tên cầu an cầu siêu, cúng sao giải hạn, … mà quên đi rằng lỗi do chúng ta. Chúng ta mời, chúng ta thỉnh, chúng ta năn nỉ, chúng ta muốn. Có những quý thầy đâu có biết cúng. Nhưng nghe yêu cầu hoài, yêu cầu mãi, thầy đến cúng 1 lần và sau này, lâu dần thành nghề thầy cúng. Chỉ tại phật tử tại gia chúng ta làm hỏng các thầy mà thôi.

Viết đến đây tôi nhớ rằng có lần về quê thăm nhà 1 anh bạn. Cả làng cả xã đang khen ngợi và tôn vinh một ông quan chức A vừa làm cho làng 1 đoạn đường. Ông ấy còn xây cho cả cổng làng rất đẹp. Ai cũng trầm trồ tán thán. Ai cũng khen mà không biết (hoặc chưa biết) rằng ông quan chức kia lấy tiền đâu ra. 100% tiền làm đường và làm cổng làng đó là tiền tham nhũng. Ông quan chức được khen, sướng quá và hứa sẽ làm thêm cái B, cái C cho quê. Tiền đâu ra. Lại phải đi tham nhũng tiếp. Đấy chúng ta tiếp tay cho tham nhũng.

Đối với các chùa và các nhà sư cũng vậy. Chúng ta cũng khen, cũng kích động kiểu ấy và vô tình kéo thầy mình vào tà đạo, giết thầy mình không dao. Tôi nhớ và đã rất buồn khi được đón một Thượng tọa đến giảng pháp. Ai cũng cung kính và chờ đón. Cuối cùng thầy nói về sức khỏe và quảng bá thuốc của một hãng đa cấp. Rồi Thượng tọa bảo rằng nếu quý vị muốn thầy sẽ mời ngay chuyên gia rất giỏi của hãng đa cấp A đó về thuyết giảng về giá trị của các loại thuốc này. Thầy khoe ngay rằng nhờ tham gia vào đây mà thầy chẳng cần làm gì mỗi tháng cũng có hơn 100 triệu đồng. Ai là người đưa thầy đi bán hàng. Ai là ngươì lôi thầy vào đa cấp nếu không phải phật tử tại gia chúng ta. 

Cư sỹ chúng ta chưa chịu làm những việc mà các quý thầy quý sư cô đang phải làm. Ngày xưa ngài Cấp Cô Độc rồi các cư sỹ khác lo chuyện xây dựng thiền đường, tăng xá, ni xá. Quý vị xuất sỹ chỉ việc tu. Tại sao bây giờ cư sỹ không lo những chuyện ấy. Tôi nhớ rằng năm ngoái có đi Malaysia và Indonesia. Ít nhất tại 2 nước này có Hội Cư sỹ. Hội Cư sỹ lo toàn bộ các công việc mà ở Việt Nam chúng ta quý vị xuất sỹ phải làm. Tôi nói thật rằng rất, rất mong có Hội Cư sỹ tại Việt Nam ta.

Mỗi lần từ Hà Nội vào Sài Gòn tôi có tham gia sinh hoạt với nhóm Doanh nhân phật tử do bác Vũ Chầm – chủ tịch Vina Giầy. Tuy nhiên nay bác già rồi, nhóm cũng yếu đi, chưa có ai thay thế. Và tôi lại trăn trở: Liệu có thành lập được cái gì đó tương tự không. Để lo phật sự giúp quý thầy. Luật pháp Việt Nam chắc chắn là cho phép. Không những vậy mà nhà nước còn chắc chắn ủng hộ bởi tất cả cùng hiểu rằng khi Phật pháp mạnh thì đất nước thịnh vượng và bình an. Mà nếu các cấp chưa nhất trí thì chúng ta nên cùng nhau thuyết phục. Nước chảy đá mòn mà. Đời này chưa làm được thì đời sau nhất định sẽ được.

Cư sỹ chúng ta tham lam quá. Tôi nghĩ vậy. Chúng ta muốn giàu rồi, muốn đủ thứ. Chỉ vì cái tham quá đó mà chúng ta mời thầy đến cúng đến lễ, đến xem phong thủy để được giàu thêm, để khỏe ra, để có những gì mình muốn. Do tham quá và chúng ta lại lôi các thầy vào con đường tham của chúng ta. Thế mới có chuyên anh A mời Hòa thượng B dễ như chơi, chị C mời thượng tọa D lúc nào cũng được. Chúng ta tham đủ thứ và đôi khi, (nói dại), có quý vị cư sỹ còn điều khiển được cả quý vị xuất sỹ thậm chí quý vị có chức sắc cao trong Giáo hội cũng nên. Thế thì nguy hiểm quá. Lỗi không tại cư sỹ chúng ta thì tại ai mà ta cứ đổ thừa cho quý thầy, quý sư cô.

Cư sỹ chúng ta cúng dường chưa đúng cách. Tôi được gần 1 Sư Bà rất lớn. Bà than phiền rằng bà được cúng dường mấy cái máy. Nào là ipad, nào là iphone 6 plus, nào là gì gì nữa bà không nhớ. Nhưng Sư Bà đang cất hết trong tủ. Bà đâu có biết dùng. Có lần lôi ra không thể dùng được. Phật tử thì cứ ép Sư Bà nhận. Ai cũng muốn tặng quà. Thực ra quý anh, quý chị muốn Sư Bà có máy tốt để liên lạc, để sử dụng thôi. Nhưng, than ôi, lại chưa đúng thứ cần và chưa đúng cách. Sư Bà lại yêu quý các phật tử, tính lại cả nể, thế là nhận cho các trò vui. Gặp tôi hôm trước Sư Bà bảo rằng bà dùng chiếc máy điện thoại “cùi” này là thích nhất.

Lại có chuyện chị nọ nằm mơ thấy phải cúng 1 tỷ vào chùa mới tai qua nạn khỏi. Thế là chị tìm đến chùa của thầy và năn nỉ thầy xây chùa lại. Thầy bảo, chùa đang tốt thế này sao lại đập đi xây lại. Chị kể về giấc mơ. Thầy nói rằng nên dùng tiền này đi làm từ thiện, làm phước cứu người. Chị vẫn không chịu. Thầy gọi điện cho tôi. Thế là tôi đến. May thay tôi đã thuyết phục được chị dùng tiền đó giúp bệnh nhân nghèo. Quý vị thấy không ạ, nếu bữa đó tôi không về chùa được thì có thể 1 ngôi chùa đã được đập đi để xây mới. Hoặc chị đó lại tìm đến một ngôi chùa khác để “phá chùa” nếu thầy tôi không đồng ý xây lại chùa và không thuyết phục được chị ấy. 

Cư sỹ chúng ta tu chưa đúng cách. Chúng ta nương tựa vào quý thầy là rất đúng. Tuy nhiên có lẽ chúng ta cũng nên dành thời gian đọc lại kinh điển. Đối với tôi, bộ kinh Nykaya không phải quan trọng mà vô cùng quan trọng, vô cùng căn bản. Tôi mong làm sao có thể in thật nhiều bộ kinh này để tặng, để cúng dường. Không chỉ các quý thầy quý sư cô nên đọc mà cư sỹ tại gia cũng rất nên đọc. Thật sự là vậy. Đây là móng nhà, là nền tảng cho tứ chúng cùng tu. Nếu chúng ta đọc, có văn tuệ thì sẽ tiến đến tư tuệ và tu tuệ. Khi đó có thể đàm đạo với quý thầy về cách tu đúng tu trúng, cách tu theo đúng nhân bản nhân quả.

Chúng ta chưa biết cách khuyên ngăn các quý vị xuất sỹ đi sai đường. Chúng ta bị quan niệm sai rằng không dám nói lỗi của quý thầy. Ngày xưa tôi cũng vậy. Nhưng tại sao chúng ta không nghĩ rằng quý thầy, nhất là các thầy ở miền Bắc, một mình một chùa (có khi một mình vài chùa), thời gian không có, thầy cũng không, kinh điển thì thiếu, thời gian tu hành chưa nhiều mà lại có thể tu hoàn toàn đúng được. Quý vị mà sống một mình, phải lo trăm công ngàn việc như vậy trong khi ngày chỉ vẫn có 24 tiếng thì thử hỏi có thời gian để tu hay không chứ chưa bàn đến chuyện tu đúng hay tu sai. Chúng ta nên (và có thể) bàn luận, đàm đạo với quý thầy, có thể mang hiểu biết hay kết quả tu của mình ra tâm sự với thầy. Ví dụ như thấy các thầy tổ chức những lễ hội quá hình thức, quá tốn kém chúng ta cũng nên góp ý. Khi đến chùa thấy các quý thầy vẫn ăn mặn, vẫn uống rượu bia, ta nên khuyên nhủ,...

Tôi nhớ rằng đã từng đến dự một chương trình ra mắt một ban Phật giáo ở cấp rất cao. Các thầy tổ chức rất lớn, hoành tráng như ngoài đời. Vẫn mua rất nhiều lẵng hoa đắt tiền để tặng, để chúc mừng. Rất nhiều lẵng hoa lớn lắm, đẹp lắm, tốn kém vô cùng. Tất cả chỉ để trưng bày ở đó. Tôi còn cảm nhận rằng có những quý thầy chức lớn trong Giáo hội vẫn hãnh diện ra chụp ảnh. Ban tổ chức giới thiệu từng đơn vị từng cá nhân lên tặng hoa và chụp hình. Nói thật rằng, nếu như ngày xưa thì tôi cũng ái ngại nhưng nay tôi đã biết chút ít nên hành xử khác đi. Tôi đã xin gặp một thầy lớn và góp ý rằng nên bỏ những thủ tục rườm rà và rất tốn kém này đi. Hòa thượng cám ơn và ghi nhận. Tôi thấy vui trong tâm.

Viết đến đây tôi muốn hỏi rằng bạn có biết rằng ngay ngoài đời có những doanh nghiệp cơ quan cũng ghi rõ, “Không nhận lẵng hoa” trong giấy mời. Họ yêu cầu rất rõ rằng xin chuyển tiền mua hoa vào tài khoản hay mang đến BTC để góp quỹ mua sách cho các lớp học,… Tôi rất thích cách làm này. Tôi học theo và mấy năm nay khuyến cáo và khuyên nhủ mọi người cùng lỳ xì kinh, sách thay vì tiền nhân Tết âm lịch. Cá nhân tôi cũng lỳ xì kinh, sách. Cũng khá hiệu quả đấy ạ. 

2, Người cư sỹ chúng ta cần gì và cần làm gì?

Chánh pháp. Chánh pháp là thứ chúng ta cần. Chánh pháp là cần nhất. Cư sỹ tại gia cần thoát khổ, cần hết khổ. Hay ít nhất là BỚT KHỔ. Mục đích của cuộc sống là chấm dứt khổ và đây là đích đến của con người. Khi hết khổ là ta không còn ham thích, luyến ái, ràng buộc với bất cứ lạc thú nào. Chúng ta biết rõ mình đi đâu, về đâu.

Cư sỹ tại gia chúng ta nên chung tay góp sức lại với nhau và lo việc nhà chùa. Tôi mong nhất là sớm có Hội Cư Sỹ hay Hội Doanh Nhân Phật Tử hay hội Phật Tử Tri Thức,… gì gì đó ở Việt Nam. Tôi cũng không hiểu tại sao ngày xưa có “Gia đình Phật tử” hay vậy mà ngày nay không thấy phát triển nữa. Tôi chưa hiểu tại sao ngoài miền Bắc lại chưa có mô hình tuyệt vời này. Hay là nhà nước không cho phép. Nếu thật vậy thì chúng ta phải cùng nhau đi thuyết phục nhà nước. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân mà. Nhà nước nào thì cũng muốn dất nước và dân tộc thịnh vượng và bình an mà.

Người cư sỹ nên trăn trở về cuộc sống làm người đang có được. Chúng ta nên trăn trở về quỹ thời gian mình có phước được sống trên mặt đất thân yêu này. Sống ngắn hay dài không quan trọng mà là sống tốt, sống có ích, sống phụng sự, sống bình an và mang bình an và yêu thương đến càng nhiều người càng tốt.

Quỹ sống của chúng ta chưa chắc đã là 80 năm hay 70 năm như bạn nghĩ. Mỗi ngày có bao nhiêu người chết vì bệnh tật và tai nạn. Cư sỹ chúng ta nên biết quý từng ngày, từng giờ, từng phút giây. Chúng ta nên coi tài sản mình có duy nhất và quý nhất là hơi thở. Phải thở làm sao, phải sống làm sao trong chánh niệm. Phải “chi tiêu” làm sao để vốn thời gian trong một ngày, một giờ quý giá nhất, bình an nhất.

Thời gian vô cùng màu nhiệm, nó giúp cho mỗi chúng ta trưởng thành, giúp chúng ta lại gần nhau hơn, về với Niết-bàn và với Phật gần hơn, nếu như ta tu đúng, tu trúng.

Mấy năm trước tôi có đọc và nghiên cứu về đại bàng và cứ luôn lôi đại bàng ra làm thầy mình. Đại Bàng bay một mình ở một tầm rất cao. Chúng ta cũng nên đưa mình lên một tầm cao trong tu tập và phụng sự Tam Bảo. Đại Bàng có tầm nhìn rất xa, có khả năng tập trung cao độ. Chúng ta nên cùng nhau chú tâm và thực hành chánh niệm. Đại bàng chọn thức ăn rất kỹ. Cư sỹ chúng ta cũng vậy, nên chọn thứ để nghe, chọn cái để đọc, chọn bạn để chơi, nhất là cảnh giác với các bộ phim và các chương trình truyền hình. Đại Bàng rất thích các cơn bão. Chúng sử dụng sức gió của cơn bão để nâng mình bay cao hơn. Tại sao chúng ta không học đại bàng sử dụng những cơn bão của cuộc đời để nâng chúng ta lên tầm cao mới. Đại Bàng luôn có bài kiểm tra trước khi nó đặt niềm tin vào con khác. Ta cũng vậy, chúng ta nên nhớ lời Phật dạy, rằng “Đạo Phật là thiết thực cho hiện tại, đến để mà thấy, không có thời gian, có tính chất hướng thượng và dành cho người trí tự mình giác hiểu”. Nếu là người trí chúng ta cần biết đó là lời gốc Phật dạy và tự cam kết thực hành. Tôi rất thích cách đại bàng dạy con bay. Gai góc và khó khăn trong cuộc sống dạy chúng ta phải phát triển, rằng chúng ta cần ra khỏi “tổ”, ra khỏi vỏ bọc, thoát khỏi giả dối, vùng khỏi các loại mặt nạ. Để tu và sống.

Tôi nhớ rằng đã nhiều lần chiếu các clip về đại bàng khi già yếu sắp chết. cho các học trò khi tôi đi giảng dạy đại bang tìm đến một một nơi xa trong đá, đập vỡ mỏ cũ, đợi mỏ mới mọc ra, dùng mỏ mới nhổ hết móng vuốt cho móng vuốt mới mọc ra. Rồi đại bàng nhổ hết tất cả lông trên cơ thể của mình và ở lại đó đến khi cơ thể phát triển mới và trở lại cuộc sống. Và thế là đại bàng tái sinh, sống gấp đôi tuổi thọ.

Cư sỹ chúng ta cần dũng mãnh hơn, quyết liệt hơn trước cái đúng sai, trước các cám dỗ của cuộc dời, cần nhiệt tâm tỉnh giác nhiếp phục tham ưu.

Chúng ta cùng nhau nhớ lại xem ngày xưa Đức Phật có khổ không. Có chứ. Đức Phật có bị kẻ xấu hãm hại không. Có chứ. Phật có tuệ giác và từ bi bao la nên Phật biết cách quán khổ, quán các cảm thọ, quán tâm. Cho nên Phật khổ rất ít. Phật cũng có bệnh tật, cũng đau bụng, nhức đầu như chúng ta nhưng vì Phật có trí tuệ và tình thương lớn lao nên Phật biết chuyển hóa khổ đau.

Cư sỹ tại gia cần xách tấn nhau tu tập, thực hành lời gốc Phật dạy. Chúng ta cần tu mỗi ngày. Chiếc xe máy nếu không tăng ga thì xe đâu có chạy. Ta cũng vậy, rõ ràng cần nhất là hành thiền mỗi ngày. Hành thiền trong cả 4 tư thế: đi đứng nằm ngồi. Nếu thất niệm nổi lên ta nhắc tâm quay về với chánh niệm, để thấy biết như thật. Là cư sỹ tại gia nên chúng ta không sợ vọng tưởng, không sợ thất niệm. Cứ nhắc mình, cứ nhớ nghĩ đến việc quán thân, quán thọ, quán tâm và quán pháp là chúng ta từng bước gần Phật và gần Niết Bàn. Cư sỹ tại gia cũng có thể tu được có thể thành đạo được chứ ạ.

Cư sỹ chúng ta cần trở thành những vị hộ Pháp. Thời của Đức Phật có đại thí chủ Cấp Cô Độc và nữ thí chủ Visakha. Họ thật sự là những cánh tay của Phật. Họ cùng các vị cư sỹ khác lo chuyện xây dựng, lo cúng dường thức ăn, thuốc chữa bệnh, y bát. Tuy nhiên họ vẫn tu tập tốt. Để rồi khi mạng chung ngài Cấp Cô Độc được sinh lên cõi trời Tam Thập Tam Thiên.

Thời nay, trong số bạn bè và người quen của mình tôi cũng thấy nhiều vị hộ pháp rất lớn và là những tấm gương sáng chói. Tôi muốn kể đến và vô cùng biết ơn cư sỹ Trần Tuấn Mẫn, cư sỹ Tống Hồ Cầm, bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc, cư sỹ Nguyễn Tường Bách, cư sỹ Phạm Nhật Vũ, cư sỹ Chánh Tín An,... Tôi muốn nhắc đến tấm gương hộ pháp của các doanh nhân Trương Gia Bình, Phạm Nhật Vượng, Nguyễn Tuấn Khải, Trần Xuân Kiên, Vũ Thị Thuận, Lê Phước Vũ, luật sư Lê Thanh Sơn, ca sỹ Phi Nhung, nhà báo Hoàng Anh Sướng, nhạc sỹ Cù Lệ Duyên, nhạc sỹ Chúc Linh, ca sỹ Phi Nhung,… ,… Nhiều lắm. Rất nhiều. Không thể kể hết. Họ hộ pháp âm thầm và bí mật. Họ phụng sự hết mình cho Tam Bảo mà có mấy ai biết. Họ rất tuyệt vời. Họ vừa hộ pháp âm thầm vừa tu tập tinh tấn. Tôi thật sự ngưỡng mộ và kính quý.

Lầm lỗi của tôi, của cư sỹ tại gia chúng ta trong quá khứ thật là nhiều. Quá nhiều. Nhưng đó là quá khứ. Quá khứ thì đã qua rồi. Chúng ta chỉ cần nhắc nhau sám hối và nhận lỗi, nhận rồi tự sửa. Thế là chúng ta nhất định có tiến bộ.

Hôm nay là 31 tháng 12, là ngày cuối cùng của năm 2015. Quý vị đọc được những dòng chữ này có lẽ khi đã là năm 2016 rồi. Tôi đang rất bình an và sẽ ngồi ít phút nhìn lại một năm trôi qua xem mình đã làm được những gì tốt. Tôi may mắn được thầy đặt cho pháp danh là Thiện Đức với lời nhắc nhủ tôi luôn hành thiện tích đức. Vậy nên tôi cần tự soi xem năm 2015 vừa qua mình đã hành những gì thiện, có làm được gì phước đức hay không. Cái đó chỉ có mình tôi biết mà thôi.

Bạn cũng vậy. Bạn đọc những dòng này khi đã là những ngày đầu tiên của năm mới. Bạn hãy cùng tôi nghĩ về 1 năm qua. Là 1 cư sỹ tại gia, tôi mong bạn hãy cùng tôi nhìn lại. Cái nhìn của tôi còn rất phiến diện, còn thiếu khách quan, còn chứa chấp vô minh. Tôi mong bạn chia sẻ cùng tôi, hãy chỉ ra những lỗi lầm, những vụng dại, những cái sai của tôi, của chúng ta, để chúng ta cùng sửa. Cùng sửa để từng bước giác ngộ, để đi đến thực chứng. Chúng ta cùng nhau tu để có tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự.

Tôi xin thành tâm xin lỗi vì những lời viết vụng dại này. Tôi cũng xin lại được nhẩm đọc “Kinh sám nguyện” trước khi gửi bài đi. Nguyện mong và nguyện chúc cho quý vị và các bạn một năm mới 2016 thật VỮNG CHÃI và thật AN LẠC.

           Năm mới ta cùng mới.
           Người vui cảnh sẽ vui.
           New year, we new!

151-NGƯỜI TU SỸ XIN NHÌN LẠI. TS Nguyễn Mạnh Hùng

NGUỜI TU SỸ XIN NHÌN LẠI
TS Nguyễn Mạnh Hùng

Con đã suy nghĩ rất nhiều khi đặt bút viết bài này. Con đã nghĩ nhiều lần rằng có nên viết hay không, bởi viết ra sẽ đụng chạm đến một số quý vị tu sỹ, trong khi con mới chỉ là 1 cư sỹ sơ cơ mới tu tập. Con thành tâm sám hối với tất cả quý vị xuất sỹ vì vốn hiểu biết nông cạn của mình, vì cái thấy hạn hẹp của con. Con thành tâm muốn viết ra để biết đâu có quý vị giật mình để sửa. Tu là sửa mà. Cả giới xuất sỹ và giới cư sỹ tại gia đều đang tu mà.

Bài này con mong rằng sẽ có ít nhất 1 ngàn người đọc. Trong 1 ngàn người đó ít nhất có 10 người, hoặc 100 người giật mình. Trong số đó con chỉ mong có đúng 1 người bừng tỉnh ra biết trở về con đường chính của người tu thì con đã hạnh phúc lắm rồi. Niềm hạnh phúc lớn nhất đối với con không còn là danh vọng, địa vị, chức vụ, chẳng là của cải, vật chất, cũng không là cao lương mỹ vị hay những của ngon vật lạ nữa. Hạnh phúc thực sự của con là giác ngộ. Thấy được quý vị giác ngộ con lại có thêm rất nhiều niềm vui, và đặc biệt là niềm tin cậy nơi người tu sỹ.

Đối với con, quan trọng nhất là gặp được minh sư. Tu tập thì rất cần bậc minh sư, bậc chứng ngộ. Mà có lẽ không chỉ có con mà ngay cả các vị tu sỹ trẻ cũng rất cần 1 minh sư để hướng dẫn, nếu không sẽ bế tắc.

Con cũng hay tự hỏi, ở Việt Nam ta có bao nhiêu minh sư. Họ là ai, ở đâu, chùa nào, thiền viện nào. Họ có toát lên CHẤT LIỆU CỦA NGƯỜI TU hay không. Và có cách nào để rất nhiều cư sỹ tại gia có thể được tiếp cận, được hướng dẫn để tu đúng tu trúng.

Con cũng luôn hỏi, trong giới cư sỹ tu tại gia thời nay có bao nhiêu quý vị tu đúng chánh pháp, có ai chứng đắc, có ai dám nói thẳng nói thật. Liệu thời nay có được những bậc như Tuệ Trung Thượng Sỹ (GNCN: ???!), một vị cư sỹ mà làm thầy của nhiều vị tu sỹ hay không. Hiện nay có bao nhiêu Võ Đình Cường đang ngày đêm tu và hành đạo. Về vấn đề này con sẽ viết trong bài sau là “Người cư sỹ cũng nên nhìn lại”.

1, Mục tiêu chính của người tu là gì?

Đắc đạo. Đó là ý kiến nông cạn theo hiểu biết của con. Mục đích tối hậu của người tu là đắc đạo, là giác ngộ và giải thoát khỏi sinh tử trầm luân, giải thoát khỏi phiền não. Người xuất sỹ dành trọn đời mình quyết chí xuất gia cũng chỉ để đắc đạo mà thôi. Đắc đạo rồi sẽ mang đạo vào đời, sẽ hướng dẫn những tứ chúng cùng tu để đắc đạo, để giải thoát.

Nhưng nếu tu không đắc đạo thì sao. Chưa đắc đạo thì tiếng nói và đạo lực không mạnh. Cái đó ai cũng có thể cảm nhận được dễ dàng, ngay cả những cư sỹ tại gia.

Con ngồi đọc lại kinh điển thời xưa và phát hiện ra rằng các thầy ngày xưa không xây chùa. Các quý xuất sỹ chỉ tập trung tu tập. Phật tử xây chùa. Phận sự chính của quý thầy là tu. Việc xây chùa, đúc tượng đúc chuông đã có cư sỹ lo. Đó là phận sự của cư sỹ để hộ pháp.

Con đang ngồi gõ và tự nhiên nhớ lại rằng vua Trần Thái Tông hồi nhỏ rất đau khổ và có ý định trốn đi tu. Vua lên núi gặp quốc sư. Quốc sư hỏi lên núi làm gì. Vua nói lên núi tìm Phật. Quốc sư nhìn vua nói, trong núi không có Phật, Phật ở trong tâm bệ hạ. Nếu bệ hạ có thể làm cho tâm mình lắng lại, trí tuệ xuất hiện thì đó chính là Phật. Trí tuệ chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được ý ấy thì lập tức thành Phật ngay tại chỗ, không cân tìm kiếm bên ngoài.

Con nghe câu chuyện này rất rất lâu rồi và vẫn luôn suy nghĩ như là 1 công án thiền. Nghe và nhớ lại. Nhớ lại và ngẫm. Ngẫm và nhắc mình mỗi ngày.

Chục năm nay con nhận ra rằng, nếu tu mà có đến 10 bằng tiến sỹ hay có chức rất to, thậm chí chức lớn trong Giáo hội Phật giáo mà chưa có trí tuệ, vẫn không biết đường đi, vẫn không có khả năng chỉ lối thì thật là uổng. Tu như vậy vẫn là trật. Rõ ràng tu là cần làm cho tâm lắng lại. Tâm mình, tâm của chính mình cần lắng lại trước.

Những năm gần đây con mới ngộ ra rằng, muốn làm tâm lắng lại thì phải áp dụng kinh “Tứ niệm xứ” vì kinh này là nền tảng căn bản của thiền tập trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh của đời sống hàng ngày. Kinh “Tứ niệm xứ” cần học thuộc lòng. Bởi trong kinh Phật có nói rằng đây là con đường duy nhất để giúp chúng sinh thực hiện thanh tịnh, vượt thắng phiền não, tiêu diệt khổ ưu, đạt tới chánh đạo, chứng nhập Niết-bàn. Đó là con đường của 4 phép an trú trong chánh niệm. Kinh này vô cùng căn bản, vô cùng quan trọng. Ấy vậy mà vẫn có thể có những quý vị xuất sỹ không biết đến, không hành trì. Tiếc thay.

Người tu nên dừng lại. Con thành tâm và xin 1 lần nữa được sám hối trước Tam Bảo khi nói điều này. Người xuất sỹ nên và cần rũ bỏ hào nhoáng bên ngoài. Chạy theo xe cộ, điện thoại, chùa to, Phật lớn,… là không đúng. Những thứ đó Đức Thế Tôn không cần. Phật muốn người tu sỹ đặt Phật trong trái tim của mình. Cần xây những ngôi chùa trong trái tim của mình, trong tâm của mình. Đây mới là “Mái chùa che chở hồn dân tộc”. Mái chùa này là mái chùa trí tuệ chứ không phải là mái chùa bằng gạch, ngói, và thời nay là bằng xi măng, cốt thép. Chỉ khi rũ bỏ được hào nhoáng bên ngoài, và quay lại với tâm mình, quay lại để tìm lại chính mình thì mới có khả năng che chở giông bão của cuộc đời. Khi làm như vậy mới là con thứ thiệt của Đức Phật, là trưởng tử của Đức Như Lai.

Phẩm đạo hành tức kinh Pháp Cú trong Hán tạng có những câu “Trí vi thế trường. Đàm lạc vô vi. Tri thọ chánh giáo. Sanh tử đắc tận”. Xem trí tuệ là sự nghiệp quan trọng nhất trong đời. Biết thờ ơ với dục lạc. Biết sống với Niết-bàn trong giây phút hiện tại. Biết tiếp nhận chánh giáo. Thì có thể chấm dứt được sinh tử. Con rất tâm huyết với những câu này. Là cư sỹ tại gia mới tu có 10 năm nay nhưng con thật sự thấy những câu này quá hay và cần quán chiếu ngày đêm để tỏ rạng tâm can, để từng bước từng chút chứng ngộ Niết-bàn bây giờ và ở đây. Here and now. At this moment.

Con xin suy ngẫm 1 chút về hàng thật hàng giả. Phật tử thứ thiệt. Con Phật thứ thiệt. Vậy nên tất cả những người con Phật, nhất là quý vị xuất sỹ nên thực tập đúng lời Phật dạy. Thực tập tối quan trọng. Dành thời gian để thực hành lời Phật dạy là tối quan trọng. Có thực tập mới có kết quả, mới có chứng đắc, mới gây được niềm tin.

Con lại mạo muội suy nghĩ thiển cận về y áo. Không hiểu sao thời nay quý thầy tu sỹ không giữ được màu áo Việt Nam. Con thật tâm buồn lòng (con thật đáng trách, quá đáng trách khi lại soi ra ngoài) khi thấy quý thầy tu sỹ dùng y áo và đồ dùng Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc,…  Màu áo truyền thống của Việt Nam ta hình như là màu nâu sồng thể hiện sự khiêm cung mà toát lên được sức mạnh tâm linh. Màu áo nhắc mình phải luôn TRỞ VỀ, làm cho nội tâm phát huy được năng lượng trí tuệ từ bi. CÀNG HUỚNG RA NGOÀI CÀNG ĐÁNH MẤT CHÍNH MÌNH VÀ CÓ THỂ LÀM NÔ LỆ CHO LÒNG THAM CỦA CHÍNH MÌNH MẤT THÔI.

Quan sát chưa thật kỹ con thấy có những quý vị tu sỹ quên đi cái tâm ban đầu. Khi mới xuất gia chí nguyện rất lớn, tâm rất đẹp, chí rất cao, trí rất sáng. Sống trong chùa lâu ngày, không ai chỉ bảo, thiếu đi tăng đoàn, mất dần định hướng. Tiếc thay. Tiếc nhất là có những quý thầy sống buông thả, phóng dật, đi sai và đi xa con đường do Đức Thế Tôn đã tìm ra và chỉ dạy. Con vẫn cho rằng sống trong tăng đoàn, tu trong chúng là rất quan trọng. Nếu chỉ “Nhất tăng nhất tự” thì thật khó tu mà rất khó có kết quả, rất khó đạt đến chứng ngộ và giải thoát.

Xưa bày nay làm là câu ta đều nghe quen tai. Đó là chuyện ngoài đời. Trong chùa nhiều khi cũng vậy. Bao hủ tục, thói xấu, cách làm sai từ xưa và nay vẫn vậy. Ví như chuyện mang rượu thịt vào lễ ở bàn đức Chúa Ông trong chùa. Hay cách tư duy “trẻ vui nhà già vui chùa” đúng sai thì ai cũng rõ mười mươi rồi.

2, Phật tử cần gì?

Câu hỏi này những người như con suy nghĩ cả mấy chục năm nay. Bao đời nay cư sỹ tại gia đau đáu chuyện này.

Phật tử cần người thầy giỏi, chỉ được đường đi. Người tu cần tu sỹ đưa đường chỉ lối. Người phật tử cần nhất là được quý sư, quý tu sỹ chỉ đường để tu, được bày cách sống trong tỉnh thức và chánh niệm, sống trong bình an và có thể xử lý được mọi nghịch cảnh của cuộc đời.

Pháp của Phật cần được thể hiện trong đời sống hàng ngày. Pháp của Phật là ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY. Cần được ứng dụng thường xuyên. Cần được thực tập trong 4 tư thế: đi đứng nằm ngồi. Qua những gì quý thầy nói, quý thầy làm cần toát ra được từ bi và trí tuệ ở đó. Để phật tử tại gia học theo và hành theo.

Vị thế của quý Thầy rất quan trọng. Quý thầy cần toát ra niềm tin cho cư sỹ. Niềm tin có thì phật tử sẽ tu, sẽ hành và sẽ có kết quả. Khi mỗi gia đình tu theo quý thầy có kết quả thì chúng ta có 1 xã hội tuyệt vời.

Đạo Phật không chỉ là xiêm y. Đạo Phật không chỉ là chùa và tượng Phật. Thời Phật còn tại thế làm gì có tượng Phật. Thời xưa làm gì có chùa to chùa lớn. Thời xưa chỉ là tu, tu trong giản dị và thanh tịnh, tu trong thiểu dục tri túc. Phải chăng thời nay đầy đủ quá về vật chất mà ngay cả quý thầy xuất sỹ cũng khó tu. Phải chăng tài danh thời nay lớn đến mức cuốn hút được cả một số thầy xuất sỹ.

Con lại ngớ ngẩn suy nghĩ làm sao để khoảng cách gần lại. Thanh bần lạc đạo có lẽ là giải pháp tốt nhất. Quý thầy nếu không tập sống trong giản dị mà cứ chạy theo xe ô tô xịn, điện thoại đắt tiền, xe máy sang, tượng Phật quý hiếm thì có lẽ khoảng cách với Phật với Thánh, khoảng cách với giác ngộ và giải thoát càng ngày càng xa. Cái tôi càng lớn. Cái của tôi càng to. Thì Phật càng xa. Thì càng xa quý cư sỹ chân chính. Cư sỹ tại gia mà nhiều người còn đang thực sự sống nghèo nhưng thanh cao, sống ở đời thường mà vui với đạo. Không khéo có hẳn 1 bộ phận quý thầy tu sỹ sống ở đạo mà lại vui với đời mất thôi. Con lạy Phật ạ.

Khi người thầy thể hiện giác ngộ mới dẫn được các học trò theo con đường đạo đức, cứu được tình trạng hiện tại của nước nhà, của thế giới này. Chúng con rất cần những bậc thầy giải thoát để chỉ đường cho chúng con đi theo và giải thoát. Đức Phật đã nhập diệt cách đây hơn 2 ngàn năm. Nếu quý thầy không chứng đắc để dẫn dắt chúng con thì chúng con, những kẻ mù này, biết đi đâu về đâu….

Con thành tâm mong cầu và nguyện cầu chư Phật mười phương gia hộ độ trì để quý thầy trở về mục tiêu tối hậu của người tu là đắc đạo. Con chỉ mong được gần bên quý thầy đắc đạo, được học các Ngài, được thực hành theo các Ngài. Mong lắm ạ.

Lại nói về phương pháp thực hành. Đức Phật giảng và được chép lại trong bộ Nykaya gồm trọn 21 tập khá dày mà con hay đọc. Tuy nhiên con nghĩ dại rằng đó là hàng vạn bài giảng của Đức Phật cho các đối tượng khác nhau. Giống như đó là hàng ngàn bài thuốc. Mỗi bài thuốc chỉ chứa được cho một loại bệnh thôi chứ. Bài Phật giảng cho vị doanh nhân khác xa bài Ngài giảng cho bác nông dân. Thời nay, quý thầy giác ngộ cũng nên nói cho từng nhóm khác nhau, từng giới khác nhau những bài khác nhau chứ ạ.

Con luôn nghĩ và biết rằng giới nhân sỹ, trí thức, doanh nhân,… trong mọi hoàn cảnh luôn đồng hành cùng quý thầy, nếu quý thầy theo đúng CHÁNH PHÁP. Lý do cũng đơn giản rằng ai cũng muốn và cần tìm cho mình được 1 điểm nương tựa vững chãi nhất, đáng tin cậy nhất để học, để hành, để noi theo và phục vụ. Chỉ mong quý thầy tu đúng và dẫn đúng đường. Nếu sai đường thì tội nghiệp lắm ạ, cho cả thầy lẫn hàng ngàn hàng vạn trò chúng con.

Con rất mong rằng tất cả quý thầy tu cùng đều tạo ra môi trường thiện lành để xuất hiện những bậc Thánh chứ không phải quý thầy có bằng cấp. Môi trường nào đây, ở đâu đây để quý tu sỹ nuôi dưỡng chất Thánh trong họ. Phải chăng thời xưa, các bậc tổ có nhiều vị Thánh vì có môi trường tốt, tập trung tu tập cao độ, ít phân tán và hướng ngoại như thời nay.

Chúng con nói thật rằng đang rất cần tuệ giác. Tuệ giác đạt được là công phu của sự quán chiếu. Những kiến thức từ các trường Phật học chẳng qua cũng chỉ là những ý niệm mà không phải là tuệ giác. Mà đã là ý niệm thì không thể giúp cho chúng ta vượt thoát khỏi phiền não. Bánh vẽ thì không bao giờ no được. Làm sao để có nhiều quý thầy có tuệ giác. Cách duy nhất là tu là thực hành theo con đường chánh pháp, theo bát chánh đạo chứ không phải theo bát tà đạo.

Cá nhân con mới học Phật có 20 năm và chỉ thực sự thực hành được 10 năm nay nhưng khi nhìn lại khách quan thấy rằng còn nhiều cái HAM MUỐN rất là vi tế. Biết bao phiền não vẫn chưa dập tắt. Ôi con mới chỉ chứng tỏ mình học Phật với sự chất chứa khái niệm chứ chưa thực sự mang trọn vẹn những giáo lý đức Phật tha thiết áp dụng vào cuộc sống hàng ngày. Để chúng con thực sự thực chứng. Khi chưa thực chứng thì những cái đó chưa phải là tuệ giác. Ôi kiến thức ơi là kiến thức.

Lỗi lầm chúng con có nhiều quá. Lỗi lầm của quý thầy tu sỹ có lẽ cũng không ít. Tuy nhiên chúng ta cần dám nhìn thẳng nhìn thật vào đó. Chúng ta cần có phương pháp vượt thoát lỗi lầm. Trên thực tế sau khi bố mẹ đánh con xong cần phân tích để con nhận ra lỗi. Nhận ra lỗi rất quan trọng. Vấn đề sau đó là sửa lỗi. Thật mà.

Con viết những dòng này tại cơ quan và vào cuối ngày làm việc. Con viết mà không suy nghĩ, cứ thấy gì từ tâm chảy ra là gõ lại thôi. Đã là những ngày cuối cùng của năm 2015 thật rồi. Năm mới ai cũng chúc nhau có nhiều cái mới. Nhưng sẽ chẳng có gì mới nếu chúng ta không tự làm mới, không tự thay đổi, dù chúng ta là ai. Kể cả khi có quý vị là những chức sắc trong Giáo hội nhưng vấn đề vẫn là thực chứng.

Con xin thành tâm ngồi tự nhẩm lại trong tâm mình bài “Kinh sám nguyện” trước khi gửi bài này đi ạ. Thêm một lần nữa thành tâm xin được sám hối ạ.

152-SỰ SỐNG THIÊN NHIÊN (1). Tỉnh Giác

LỜI DẨN NHẬP

         Nhân duyên nào đã đưa người thiếu phụ từ miền trung vào miền nam, đến giúp mẹ tôi, chăm sóc tôi từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành? Bà thường khẽ đọc bài kệ lúc ru tôi ngủ, cũng như lúc dẫn tôi dạo chơi quanh nhà, dù không hiểu bài kệ nói gì, nhưng qua năm, tháng, tôi cũng thuộc lòng.

           Đời lắm KHỔ là quả
           Do TẬP nhân dính chấp
           DIỆT tập nhân si mê
           ĐẠO dứt “ngã” đời vui.

          Qua những năm dài chí tâm tìm học, đã bao lần cúi đầu cảm tạ ơn Đức Thế Tôn, qúy Thầy, qúy thiện tri thức, tôi đã thấm nhuần lời dạy của Như Lai, biết được xuất xứ và ý nghĩa cuả bài kệ. Liên tưởng đến những đấng sinh thành, bà vú năm xưa, xin ghi nhận ân sâu.

            Nay ghi lại những nhận thức đã học hỏi, với tất cả lòng kính ngưỡng thận trọng không làm lệch lạc giáo pháp Như Lai, mong có thể giúp ích phần nào cho những người hữu duyên, để đền ơn Đức Thế Tôn. Sự Sống Thiên Nhiên vi diệu, sự trình bày chỉ hạn hẹp trong lãnh vực thực tiễn, theo khả năng thấy biết thô thiển, thực hành chưa thấu đáo. Bài viết chỉ cốt ghi lại trung thực những nhận thức xuyên qua giáo pháp cùa Thế Tôn, không thêm thắt tưởng luận, không theo những quy tắc hành văn, ngôn ngữ. Văn cú vụng về, nếu có những sai sót lỗi lầm, đó là trách nhiệm của người biên chép không đủ sáng suốt.

Kính mong quí vị cao minh thông cảm và vui lòng chỉnh đốn cho sự thấy biết và thực nghiệm Sự Sống Thiên Nhiên được sáng tỏ.  Nếu có phần nào thích hợp, xin tùy nghi ứng dụng, vì lợi ích chung cho nhân loại và vạn vật.

Công đức nầy thuộc về Chư Thế Tôn, quý thầy, quý thiện tri thức và tất cả người, vật khắp Pháp giới.

                                                                                                                                    Tỉnh Giác 

Như Lai Diệu Pháp

           Tuyệt vời Diệu Pháp thật cao sâu
           Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
           Nay con nghe thấy, chuyên trì tụng
           Nguyện giải Như Lai nghĩa nhiệm mầu
                                                             Vua nước China
           Như Lai Diệu Pháp giản đơn thực tiễn
           Ngay đây bây giờ, nhân quả hiện tiền
           Tinh cần nhận thức Sự Sống đồng nhất
           Tỉnh thức cơn mê ngã chấp đảo điên
                                                             Dân nước Việt

 

I - ĐỜI

Con người sinh ra và lớn lên trong môi trường cá nhân vị kỷ. Lúc lên 4 lên 5, đã được đưa vào trường, học tập phát triển khả năng 10 đến 20 năm, để xây dựng tương lai, thường chỉ quanh quẩn những mục tiêu: Vật chất, tiền tài, danh vọng, địa vị, quyền thế, tình cảm, mang tính cách cá nhân, vị kỷ.

Mấy ai thỏa mãn được hoài bão? Người càng giàu sang, quyền thế, danh tiếng, càng nhiều lo âu gìn giữ, và rất đau khổ khi phải mất quyền thế, địa vị, danh tiếng, tài sản của họ. Nhưng thiên nhiên biến dịch vô thường, đời sống ngắn ngủi, con người không giữ được gì, ngay cả sinh mệnh của mình.       

Thiên nhiên vi diệu, khoa học dù tiến bộ, vẫn chưa bao nhiêu và đang còn mãi đi tìm. Chính trị và khoa học đem lại đời sống tiện nghi, trật tự, nhưng cũng đem đến những tác dụng không hay. Những bộ luật ngày càng phức tạp, đời sống con người thêm gò bó. Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, có hấp lực kích thích lòng ham muốn, thôi thúc con người trau dồi kiến thức, để thích nghi với cuộc sống, nên ngày càng trở nên lệ thuộc, vội vã, và máy móc. Hơn nữa con người còn lợi dụng những phát minh khoa học, để phạm tội và tàn sát nhau khủng khiếp hơn.

Đời sống vẫn luôn bất ổn. Bất lực trước những bức xúc của cuộc đời, những biến dịch của thiên nhiên, con người đã tưởng ra “đấng quyền năng”, “thiên đường”, để cầu xin nương tựa, hay một “cảnh giới bất sanh, bất diệt, bất biến” mơ hồ, để an trú, để khuất lấp thực tại đang diễn biến bất như ý. Những tưởng tượng mơ hồ, mê tín, bất công, trái với nhân quả, trái với thiên nhiên, không giải quyết được vấn đề…

Sự kiện trên đang tiếp diễn, đến bao giờ nhân loại mới có được an vui hạnh phúc? Bài toán không có đáp số, vì con người không giải quyết vấn đề ở chỗ then chốt căn bản, chỉ lo những việc không rồi.  Do sợ hãi, tưởng tượng thần thoại, mê tín, cầu xin, nên không thấy, không nghe, không biết, không nhận ra Thực Tại Hiện Tiền, Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất, tự tại, thanh an tuyệt vời đang diễn biến.

II - ĐẠO

          Đạo ở đây là Lẽ Thật Thiên Nhiên, là Sự Sống Thực Tại. Gọi là Thiên Nhiên, là Thật, vì xưa như thế, hiện tiền đang là như thế. Gọi là Sống, Như, hay Tại, vì vạn vật thực tại đang hiện bày, diễn biến như thế. Nói chung, Đạo là nhận thức Sự Sống Thiên Nhiên Thực Tại đang là:

           - Thể: lặng lẽ, tùy duyên uyển chuyển
           - Tánh: tùy duyên thấy, nghe, biết
           - Dụng: tùy duyên biểu hiện, sinh động
           - Tướng: tùy duyên diễn biến, là vạn vật, vũ trụ kỳ diệu, tuyệt vời.

            Tánh, Thể, Tướng, Dụng, là Sự Sống Thực Tại Đồng Nhất, bất khả phân. Nếu riêng chấp Tánh Thể, rời bỏ thực tại, là tự phân biệt, là rơi vào lặng lẽ, vô dụng, nên phải cần Tướng Dụng, phải nói diệu hữu.  Nếu dính chấp Tướng Dụng, mê tưởng “tôi” là tự tách rời, nhận sinh tử, theo dòng nghiệp lực, phiền não, đau khổ. Cho nên Đạo và Đời vốn không hai, chỉ khác ở chỗ có mê lầm dính chấp hay không mà thành thiên lệch.

            Sự Sống không ngoài hiện đời, chỉ ngay đây bây giờ, khéo nhận ra Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất, nơi thân tâm, nơi sinh hoạt hàng ngày, trong mọi hoàn cảnh, nơi vạn vật, đang bàng bạc khắp mọi nơi.

            Hai ngàn sáu trăm năm trước, một vị hoàng tử tên Siddhartha đã cảm nhận sự đau khổ trong cuộc sống. Năm 29 tuổi, Ngài đã từ bỏ hoàng cung, tìm cách dứt khổ đau. Sáu năm khổ hạnh, theo nhiều pháp, nhưng vẫn không dứt được phiền não. Sau đó Ngài đến ngồi dưới cội bồ đề suốt 49 ngày, nhận thức 4 lẽ thật, 4 niệm xứ, 12 nhân duyên. Ngài tỉnh nhận Sự Sống Đồng Nhất, biết rõ nguyên nhân của phiền não, và phương cách để chấm dứt nguyên nhân khổ đau. Dứt hết nguyên nhân của phiền não và đau khổ là giải thoát, là thành đạo. Sau đó, Ngài tùy duyên giảng dạy hơn 45 năm, giúp người vật lợi ích mấy ngàn năm nay và mãi mãi về sau.

            Giáo pháp của Ngài thực tế, sáng tỏ, đơn giản, phổ thông, tựu trung dạy con người tự lực nhận thức Thực Tại vô thường, vô ngã, tỉnh thức buông bỏ Tham, Sân, Si, rũ sạch “mê tưởng tôi”, thì ngay đây, Thực Tại hiện tiền, “Sự Sống Đồng Nhất”, đang diển biến theo nhân duyên. Giáo pháp khai thác những khổ đau trong đời sống, không phải để làm con người sợ hãi, chối bỏ thực tại, mê tưởng thần thoại mơ hồ, mà để truy nguyên tận gốc rễ của khổ não, hầu tỉnh thức, dứt nguyên nhân khổ đau, dứt mê lầm tham sân si, sống tự tại thanh an, lợi ích đời sống thực tại nầy…

*Tham, động cơ của lòng tham là “mê tưởng tôi” ích kỷ, muốn tồn tại, muốn chiếm hữu, muốn hưởng thụ, không biết đủ, không biết nhân quả. Bất cứ ai còn ham muốn, chưa biết đủ, nhất định sẽ khổ não, nhẹ là thấy thiếu thốn, tủi thân, ganh tị, nặng thì lường gạt, trộm cướp v.v…

*Sân, do cái “tôi” ích kỷ, bị va chạm, bị cản trở. Cơn thịnh nộ như ngọn lửa đốt cháy tâm can, khiến thân thể mệt nhọc, trí não hết sáng suốt, hành sự sai lầm.  Người sân hận, trước tự chuốc khổ, sau làm khổ những người xung quanh. Bất cứ ai, dù ở địa vị hoàn cảnh nào, nếu còn nóng giận là không sáng suốt, là đau khổ.

*Si, là không tỉnh thức, mê lầm nhận thân duyên hợp, tư tưởng và cảm giác, tưởng là “tôi”. Theo mê tưởng chấp “tôi”, chấp “người”, khởi tham sân, phiền não khổ đau, không nhận ra Lẽ Thật: Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất, đang diễn biến.

*Tỉnh thức không phải là đặc ân ban cho từ một đấng nào. Không phải chứng đắc quả vị nầy nọ, có thần thông, hiển linh, biết qúa khứ vị lai, biết chữa bệnh. Không phải được tiếp rước về cõi nào đó, do thờ lạy, cầu xin. Cũng không phải sợ hãi thực tại, truy tìm quá khứ, tưởng nhận một “chủ thể”, thường hằng bất biến. Phật dạy tất cả pháp đều vô thường. Thực tế là như thế.

Tỉnh thức là nhận thức nguyên nhân của khổ đau, do tư tưởng mê lầm tự đồng hoá thân, tâm và những cảm xúc, cho là tôi. Cái “mê tưởng tôi” ích kỷ, ngã mạn, phân biệt, dính chấp, lo âu, sợ hãi, tham sân, mê tín,tạo nên nghiệp lực, nhận chìm con người trong biển sóng nghiệp. 

Tỉnh thức là trực nhận thân tâm và vạn vật trong vũ trụ, là những thành phần của Sự Sống Đồng Nhất, đang diễn biến tuyệt vời theo nhân duyên. Tỉnh thức là dứt cái “mê tưởng tôi” phân biệt, ích kỷ, dính chấp, lo âu, sợ hãi, tham sân, ngã mạn, mê tín. Nhận rõ Sự Sống Đồng Nhất, Thực Tại hiện tiền, tự tại, trước mọi vấn đề của cuộc sống, hòa thuận cùng mọi người làm an vui, lợi ích cho đời.

Chỉ Tỉnh thức dứt mê lầm, cảm nhận Sự Sống Thực Tại, đang diễn biến, ứng dụng 4 niệm xứ, không dính chấp thân tâm, bấu víu pháp vô thường, không mê tưởng, truy tìm một cái gì khác, mới có thể hy vọng dứt Si, thoát khỏi gông cùm của bản ngã Tham Sân. Không nhận ra điều nầy, con người rất dễ đi đến mê tín, cuồng tín, tưởng luận mơ hồ do cái “tôi” ngạo mạn, ích kỷ, để củng cố và phụng sự chính nó, đưa đến những việc thật đáng tiếc, lịch sử xưa nay chứng tỏ điều này. 

Sự Sống Thiên Nhiên hàm dung Tánh, Thể, Tướng, Dụng, bất khả phân, là vũ trụ hiện tiền liên tục đổi mới, diễn biến sống động tuyệt vời, tùy nghi được gọi là Thực Tại, Đang Là, Như Lai v.v... Con người do mê tưởng tự tách rời, tự nhận mình là thực thể cá biệt, rồi dính chấp những hiện tướng, quên mất Sự Sống Đồng Nhất, nên bị trôi lăn trong phiền não, mê lầm sinh tử. Vì sợ hãi khổ đau, cái “tôi” mê tín thần thoại, hiển linh, cầu xin cho “mê tưởng tôi” thoát khổ!.

Như Nguồn Ẩm bàng bạc khắp mọi nơi trong vũ trụ:

           - Thể trong lặng.
           - Tánh dính, ướt, uyển chuyển.
           - Dụng tùy duyên biểu hiện.
           - Tướng diễn biến vô thường.

Chỗ thật lạnh là thể đặc, tướng băng đá. Chổ ấm là thể lỏng, tướng nước, theo triền là suối, thác, ở đồng bằng là sông, hồ, ra khơi là biển, gặp gió là sóng, dập vào bờ là bọt. Chổ nóng là thể khí, tướng hơi, nơi thấp là sương, lên cao là mây, gặp lạnh rơi xuống là mưa, tuyết. Tất cả danh, tướng hoàn toàn khác nhau, nhưng không ngoài Nguồn Ẩm theo duyên, biểu hiện thành hình tướng, danh tự như thế… 

Không thể riêng chấp “Tánh Thể” cho là ‘Thật”, xem “Tướng Dụng” là “giả”, là “không”, vì tất cả là Nguồn Ẩm. Ngoài Nguồn Ẩm không có Tánh Thể trong lặng, dinh ướt, không có Tướng Dụng là tuyết, mây, sóng bọt hiện tiền. Nhưng nếu dính chấp một chiếc bọt, là tự phân biệt, tự tách rời, quên mất tất cả chỉ là Nguồn Ẩm trùm khắp. Thấy có những bọt hay những hình tướng khác cao thấp, trong đục, đẹp xấu, sinh ưa ghét, ham muốn, chen lấn, vỡ tan, rồi theo sóng gió tái lập… vỡ tan.

           Nếu tự biết tất cả là Nguồn Ẩm, thì không tự cô độc lặng lẽ, không hợm hĩnh khi là mây trên cao, hay buồn tủi lúc ở vũng lầy, cũng không tranh với những bọt chung quanh, không lo sợ còn, mất, cái thân bọt bé bỏng. Do duyên, nước nổi bọt, hết duyên bọt là nước, là Nguồn Ẩm diễn biến mọi sự kiện, mọi hình tướng, không có gì là phiền não, đau khổ, lo sợ.      Những thay đổi từ thể đặc sang thể lỏng, thể lỏng thành thể khí, băng tuyết, mây mưa, sông biển đến sóng bọt, tất cả chỉ là Nguồn Ẩm tùy duyên có danh tướng khác nhau, nhưng Nguồn Ẩm nguyên trạng vốn như như: Vẫn tuyết mây, suối thác, sông hồ; vẫn đại dương; vẫn trong lặng.  Nhân chi là vậy, duyên đâu là đó, tự tại vô ngại, đâu đâu cũng là Nguồn Ẩm.

           Thân tâm con người và vạn vật, từ nhỏ nhiệm đến vĩ đại khắp vũ trụ đang diễn biến, chỉ là sự kết hợp của 4 yếu tố: Đất, Nước, Lửa, Gió, là hiện tướng Sự Sống Đồng Nhất. Sinh, gìà, bệnh, chết, tất cả hoàn cảnh thuận nghịch, như hoàn toàn riêng biệt, nhưng Sự Sống nguyên trạng vốn như như: vẫn người, thú, động vật, thực vật, là vũ trụ tùy duyên, diễn biến vô thường, nhân chi quả vậy, duyên đâu là đó, tự tại vô ngại, đâu đâu cũng là Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất. 

Điều này khó nghe, khó nhận, nhưng thực tế, người buông bỏ “mê tưởng tôi” thì ngay đây, rõ ràng Thực Tại Hiện Tiền, Sự Sống Đồng Nhất đầy đủ Tánh, Thể, Tướng, Dụng, Lẽ Thật đang là, liên tục đổi mới, sống động tuyệt vời.

Nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, nếu ”Ý” (tư tưởng) dính chấp hình tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm xúc; khởi phân biệt, tham sân, là rời bỏ, quên mất Sự Sống Đồng Nhất, là bỏ gốc theo ngọn, thì trùng trùng phiền não đau khổ. Trái lại, ngay lúc gặp duyên đối cảnh, tỉnh thức, chẳng để “ý” dính nhiễm hiện tướng, khởi tham sân, nhận rõ thân, thọ cảm, tâm và các pháp chỉ là những sự kiện, đang theo duyên diễn biến liên tục tụ tán, có-không đắp đổi, vô thường, không có gì là riêng lẻ, không có gì là “tôi”, ngay đó Sự Sống Đồng Nhất, Thực Tại Hiện Tiền, thanh an, tự tại.

            Nhận thức do đủ duyên Đất, Nước, Lửa, Gió, tụ tán, liền có Sự Sống, có Tánh, Thể, Tướng, Dụng bất khả phân. Rời Sự Sống không có Tánh, Thể, Tướng, Dụng. Ngược lại rời Tánh, Thể, Tướng, Dụng cũng không có Sự Sống. Tỉnh thức, dứt “mê tưởng tôi”, còn lại là Sự Sống Thiên Nhiên sinh động, đang diễn biến.  Trong giây phút nhận thức Sự Sống Đồng Nhất, xích xiềng nghiệp lực tan rã, biển luyến ái khô cạn, lửa sân hận nguội lạnh, ma phiền não lánh xa, vì nghiệp lực, luyến ái, sân hận, sinh tử, thiên đàng, địa ngục, tất cả chỉ là sản phẩm của “mê tưởng tôi” mà thôi.

Nhận thức được Sự Sống Đồng Nhất, như có bản đồ trong tay, nhưng “mê tưởng tôi” kiên cố, muốn hiện hữu, muốn tồn tại, luôn trỗi dậy, len lỏi nhập cuộc bằng đủ mọi nhãn hiệu như: Danh vị, Quyền thế, Lý tưởng, Đảng phái, Giáo hội, Tông thừa v.v… Do tham sân, nghiệp chướng sâu dầy, con người không làm chủ được tư tưởng, bị đồng hóa bởi Kiến thức, tưởng luận mê lầm, quên mất Sự Sống Đồng Nhất.

            Chừng nào còn tự thấy “tôi” riêng lẻ, nhận lấy một “linh hồn”, một ”thần thức”, còn tham sân, phản ứng, bồn chồn, muốn an ổn, muốn đạt đến một quả vị, một cảnh giới gì đó, chừng đó đã “ăn trái cấm” tự tách biệt khỏi Sự Sống Đồng Nhất, đã bị đồng hóa bởi “mê tưởng tôi”. Chừng đó dù có tin tưởng, thờ lạy, cầu xin, có thấy cảnh giới gì đó, thấy ta không phải là, ta là v.v… cũng chỉ là phóng hiện của mê tưởng “tôi” mà thôi.

“Mê tưởng tôi” thâm căn cố đế, muốn tồn tại, luôn nhập cuộc, biến đổi thiên hình vạn trạng, khó nhận, khó biết, khó bỏ.  Nên xưa nay, nhiều người học đạo theo mê tưởng, lý luận mơ hồ, để củng cố cái “mê tưởng” nầy. Thực tế, người bỏ được “mê tưởng tôi”, thật hiếm hoi.

Như Lai đã từ bi dạy “4 Đế”, hướng dẫn từng bước: nhận thức nguyên nhân và phương cách để dứt nguyên nhân của khổ đau: “mê tưởng tôi”. Tỉnh thức nhận diện “mê tưởng tôi” và những chiêu bài, danh, tướng thật hấp dẫn của nó. Nhận rõ buông bỏ dính chấp vô thường, buông bỏ “mê tưởng tôi” là dứt khổ.

Lịch sử ghi nhận, ngay sau khi Như Lai nhập diệt, hơn 500 đệ tử từng sát cánh bên Ngài, đã họp đại hội để kết tập những gì Như Lai chỉ dạy. Những đệ tử nhắc lại và thảo luận cẩn thận từng lời, do nhân duyên gì, Như Lai dạy ai, điều gì, ở đâu, lúc nào, không để sai sót, dưới sự chứng minh của toàn thể tăng đoàn. Đại hội kết tập lần 2 và lần 3 cũng diển ra như thế. Những điều kết tập sau 200 năm, được ghi lại làm thành tạng kinh Nikaya.  Đây là bộ kinh đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, là bộ kinh đáng tin nhất (Ngài Minh Châu dịch từ tiếng Pali sang tiếng Việt, không qua bản dịch A hàm đã có sửa đổi)

            Tuy Nhiên bộ Nikaya được đúc kết hơn 200 năm sau, qua lần kết tập 2 và 3 có nhiều thay đổi, nên xác xuất không phải 100%, đây là nguyên nhân phân phái trong tăng đoàn. Huống là hơn 600, 700, 800… 1000 năm sau, có những vị với tư cách “cá nhân”, đã copy, phóng tác lời dạy của Như Lai, viết những sách gọi là “Đại Thừa”, tự xưng là Đại Thừa, cho những ai nghe theo lời dạy nguyên thủy của Như Lai là “tiểu thừa”, là “tiêu nha bại chủng”?!

Pháp của Như Lai là duy nhất, với 3 Pháp ấn: Vô thường, khổ, vô ngã, và  5 đặc tính: thực tế, rõ ràng, tự lực, đơn giản, phổ thông. Vấn đề là mê tín, tưởng luận, ngã mạn, nên có lớn nhỏ. Tùy phong hóa nhân sinh, copy, phóng tác, khai triển lời dạy của Như Lai cũng tốt, nhưng mạo danh, tự cao, tự đại, và không dám nhận trách nhiệm về sự phóng tác lệch lạc, đã tự mình lầm lẫn, lại làm cho người sau mê lầm thì không nên. 

           Từ cố cổ Sự Sống Thiên Nhiên, vũ trụ, vạn vật như thế, hiện tại, tương lai cũng như thế, theo nhân duyên diễn biến sinh động, kỳ diệu tuyệt vời, không có gì là khổ. Nhận thức phiền não, đau khổ chỉ bắt nguồn từ tư tưởng. “Mê tưởng tôi” tự tách rời Sự Sống Đồng Nhất, theo sắc tướng, âm thanh, sinh cảm xúc, dính chấp khởi ưa, ghét, rồi cảm xúc và tư tưởng khuếch đại lẫn nhau nhận chìm cái “tôi” theo làn sóng nghiệp phiền não, khổ đau. 

Sợ hãi phiền não, khổ đau, “mê tưởng tôi” cho vô thường là khổ, chối bỏ Tướng Dụng đang là, truy tìm “chủ thể” quá khứ ban đầu: “Chân Không” xem tất cả hiện tướng, Sự Sống Thực Tại đang diễn biến sống động là “như huyễn”. Kết luận thực tướng các pháp là “không”, “bổn lai vô nhứt vật”. Tưởng luận thần thoại mơ hồ!

“Mê tưởng tôi” kiên cố, muốn tồn tại, tham sân nghiệp chướng sâu dầy, nên muốn dứt mê lầm, thoát khỏi sự thúc bách của “mê tưởng tôi” không đơn giản.  Không thể loại bỏ Tướng Dụng, từ chối thực tại. Không thể riêng chấp Tánh Thể, mê tưởng một cảnh giới bất sinh bất diệt, bất biến mơ hồ. Cũng không thể mê tín có những đấng quyền năng, để cầu xin nương tựa là yên ổn.

Biết như huyễn không phải là dứt dính chấp như huyễn, dù có tạm bớt dính chấp, nhưng cái “mê tưởng tôi” thâm căn cố đế vẩn còn đó, nguyên nhân của vấn đề vẫn còn đó, thì không có gì an toàn. Những tưởng luận thần thoại, mê tín, mơ hồ, không thể dứt được mê tưởng, Khổ đau. Không thể tưởng “mê tưởng tôi” là “không”, là cứu cánh được.

Quan điểm là làm sao để tự tại, không bị “mê tưởng tôi” và “của tôi” đồng hóa và chủ động. Nói rõ hơn là phải rũ sạch “mê tưởng tôi”. Đây là yếu chỉ của bài pháp 4 Diệu Đế:  Khổ-Tập-Diệt-Đạo. Thực tế vạn vật, Sự Sống đang vận hành theo nhân duyên, diển biến vô thường, nên bước đầu Như Lai dạy Bồ tát đạo: Xa lánh việc ác, gieo nhân lành, giữ tâm ý trong sạch, lợi ích người vật, để Sự Sống an vui.  Nhưng mục tiêu cốt lõi là tỉnh thức rũ sạch “mê tưởng tôi”, là nhập pháp giới, đồng với Sự Sống Thực Tại  đang là. 

Muốn dứt “mê tưởng tôi”, không đơn giản. Qua 6 năm khổ hạnh, dù đã đạt tuyệt đỉnh: “dứt cảm thọ”, ”dứt tư tưởng”, “không vô biên”, “thức vô biên”,“ Diệt tận định”, “Tưởng, phi tưởng”, vẫn không dứt được phiền não. Ngài phải trở lại từ đầu, đến ngồi dưới cội Bồ đề, ứng dụng 4 Diệu Đế, tỉnh nhận Sự Sống Đồng Nhất qua “4 xứ” thân, thọ, tâm, pháp. Đây là 6 năm kinh nghiệm thực tế vô giá của Như Lai đã trải qua và để lại cho hậu thế.

Tỉnh nhận Sự Sống, Tánh, Thể, Tướng, Dụng Đồng Nhất, vô thường, vô ngã, không dính chấp, không sanh lại cái “mê tưởng tôi” là dứt luân hồi sinh tử, là giải thoát. Chừng đó nhận thức vô thường, sinh tử là cần thiết để Sự Sống luôn tươi mới. Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất, Thực Tại đang hiện bày, là nghĩa đích thực của danh hiệu Như Lai. Từng hạt cát, hòn sỏi, ngọn cỏ, khóm hoa, con trùng, con dế, cánh nhạn lưng trời, cơn gió thoảng, áng mây bay, đến những hoàn cảnh éo le, ngặt ngèo… tất cả sự kiện, hiện tượng, tất cả những cảnh giới trong vũ trụ bao la, là Đất, Nước, Lửa, Gió đang diển biến theo nhân duyên, là sự sáng tạo tuyệt vời thiên nhiên .

Chừng đó, Sự Sống với 8 chánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Thanh an, tự tại, lợi ích, an vui người vật, là đoạn phiền não, là độ chúng sinh. Từng sát na tỉnh thức, từng sát na nhận thức Sự Sống Đồng Nhất, Thực Tại hiện tiền, qua 4 xứ Thân, Thọ, Tâm, Pháp không nhiễm cũng không rời là nhập pháp giới, là tuỳ hỉ công đức, là cúng dường Như Lai, thỉnh Phật trụ thế. 

Sự Sống Thiên Nhiên

 

Từ cố cổ Thiên nhiên như thế
Chuyển vần xoay vật đổi sao dời
Lẽ nhân quả liên đới ba thời
Sự Sống hiện có-không, tụ-tán

Trước như thế, nay, mai, như thế
Vũ trụ là hiện tướng vui chơi
Sinh tử là lương dược tuyệt vời
Để Sự Sống thiên nhiên tươi, mới

Thuận nhân quả sống trong thực tại
Dứt mê lầm ngã chấp đảo điên
Thường tỉnh thức, tinh cần, chánh niệm
Từng sát na sự sống hiện tiền

Nếu không nhân ngã thì là
Thiên nhiên thực tại sum la tuyệt vời
Nhân nào quả đó vậy thôi
Mỉm cười nhận thức đạo đời như như.
                                                                                 (Còn tiếp)

153-SỰ SỐNG THIÊN NHIÊN (2) Tỉnh Giác

III- LỖI LẦM & SÁM HỐI

LỖI LẦM

Nhận thức vạn vật, vũ trụ là Sự Sống Thiên Nhiên, Tánh, Thể, Tướng, Dụng đồng nhất, nhưng con người mê lầm nhận thân, cảm thọ, và tư tưởng là “tôi” riêng biệt, lại mê chấp những hiện tướng, khởi tham, chiếm giữ những gì ưa thích là “của tôi”. Cái gì không hợp với “tôi”, bất lợi cho “của tôi”, thì khởi sân, gây nhiều lỗi lầm xưa nay. 

Nhận thức “mê tưởng tôi” ích kỷ, muốn tồn tại, muốn chiếm hữu, ham hưởng thụ, không biết đủ, không rõ nhân quả, là chủ nhân của nghiệp. Nhận thức nghiệp do “mê tưởng tôi”, dính chấp sắc tướng âm thanh, tạo ra phiền não đau khổ. Qua thân miệng ý, mỗi người tự vẽ cho mình một hình tướng, một tầng số nghiệp, một số mạng, và tự gánh nhận tất cả hậu quả.  

Nhận thức rời bỏ Sự Sống Đồng Nhất, mê chấp “cuả báu thế gian”, là bỏ nước lấy bọt, bỏ ánh sáng mặt trời lấy ánh sáng đom đóm! Những ai không đủ tỉnh thức và ý chí loại bỏ “mê tưởng tôi”, phải tự nô lệ cho tham sân, theo nghiệp dẫn thọ quả báo. Xót thương nhân loại xưa nay, vì “mê tưởng tôi” dính chấp, tham sân, bị mê tưởng điều khiển, đã rơi vào những hoàn cảnh nghiệt ngã, đến tàn sát lẫn nhau vô cùng thảm khốc! 

 

SÁM HỐI

Con người thường không nhớ được những “nhân” đã gieo trong quá khứ lâu đời. Khi đủ duyên “quả” hiện, vì quên, không biết nên đổ cho người, cho hoàn cảnh, cho số phận hay tà ma, rồi nhờ thầy tụng chú, cúng sao, cầu xin, tụng kinh, lạy Phật sám hối cầu an v.v…

Mổi người cần tin sâu nhân quả, tự biết lỗi mình, nhận rõ nguyên nhân của mọi lỗi lầm là “mê tưởng tôi” ích kỷ, tham gian, sân hận. Dứt bỏ nguyên nhân của lỗi lầm là thực tế sám hối.

Sám hối không phải mê tín thần thoại mơ hồ, đọc tụng thần chú bí ẩn, kêu gọi trời, Phật, thờ lạy, cầu xin hết tội mà được. Không ai có thể bẻ cong nhân quả, định luật công bằng Thiên Nhiên. Sám hối thật sự là tỉnh thức, ghi nhận và ngưng dứt lỗi lầm.

Tin sâu nhân quả, tùy duyên, vui thuận nghiệp đã gieo, vui thuận đền lỗi cũ. Chấp nhận tất cả hoàn cảnh là quả do nhân duyên đã liên hệ, hỷ xả, kham nhẫn mọi lời nói, hành vi, nghịch cảnh. Trong mọi tình huống, cương quyết không tái phạm lỗi lầm, không để tư tưởng chủ động tạo tác ác nghiệp... Tinh cần nhận thức 4 lẽ thật: Khổ - Tập - Diệt - Đạo, thực hành những pháp trợ đạo, xa lánh việc ác, gieo nhân lành, giữ tâm ý trong sạch, ứng dụng 4 Niệm xứ tỉnh thức dứt: “mê tưởng tôi” gốc nghiệp chướng là thực tế sám hối.

IV- NHẬN THỨC

LỊCH SỬ

            Ngài Siddhartha muốn tìm hiểu nguyên nhân và phương cách chấm dứt khổ đau, đã bỏ hoàng cung, 6 năm khổ hạnh, qua nhiều pháp như: ”dứt tư tưởng”, “không vô biên”, “thức vô biên”, “ Diệt tận định” v.v… vẫn không dứt được khổ não. Sau đó Ngài đến ngồi dưới cội bồ đề suốt 49 ngày, nhận thức 4 lẽ thật, 4 niệm xứ, 12 nhân duyên, rõ nguyên nhân của phiền não, dứt bỏ mọi dính chấp, rũ sạch “mê tưởng tôi”, và không còn sanh lại cái “mê tưởng tôi” nữa gọi là thành đạo, thật ra chẳng có gì thành, trước sau, chỉ là Sự Sống Đồng Nhất như thế.

            Ngay khi thành đạo, Như Lai nhận thức toàn bộ cấu trúc vũ trụ vận hành theo nhân duyên, nhận thức nguyên nhân phiền não, khổ đau, sinh tử và phương cách dứt khổ đau. Sau đó, tùy thuận dẫn giải, làm lợi ích người vật suốt 45 năm. Giáo pháp của Ngài “thực tế”, “minh bạch”, “tự lực”, “đơn giản”, “phổ thông”, không có thần thoại, thần chú hiển linh, bí ẩn, không mê tín nương cầu tha lực, thần quyền mơ hồ. Tựu trung dẫn về tự lực, tinh cần nhận thức Sự Sống Đồng Nhất, thực tại hiện tiền, vô thường vô ngã, dứt “mê tưởng tôi”, là nguyên nhân khổ não.

            Lời dạy của Như Lai ít như lá trong nắm tay, cốt chỉ nói lên giáo pháp cốt lõi, thực tế: “Nguyên nhân của phiền não, và phương cách để dứt khổ đau”. Cái hiểu biết uyên thâm chưa hết nắm lá của con người, không có gì đáng để tự cao tự đại, phóng tác, tưởng luận, lý thuyết mơ hồ.  Lợi ích thực tiễn chỉ có khi thực hành những Pháp trợ đạo, không dính chấp, không tác ý điên đảo.

Bài Pháp dầu tiên là 4 Diệu Đế “Khổ - Tập - Diệt - Đạo”, hiển bày nhân quả, luật công bằng thiên nhiên. Nhận thức Đất, Nước, Lửa, Gió, theo nhân duyên, đang diễn biến là vạn vật vô thường, kinh qua càng dính chấp càng khổ não. Từ đó sinh nhàm chán, mới có thể buông dính chấp, dứt “mê tưởng tôi”. Thực hành 8 chánh đạo, lợi ích người vật, làm sáng tỏ Sự Sống Đồng Nhất, sống thanh an tự tại trong Thực Tại hiện tiền, là mục tiêu chính yếu của giáo pháp Như Lai.         

TIÊU CHUẨN & ĐẶC TÍNH

Tòan bộ giáo pháp của Như Lai xây dựng trên bài pháp 4 Diệu Đế: Khổ, tập, diệt, đạo. Đây là bài pháp rốt ráo, tuyệt vời, khẳng định 3 tiêu chuẩn:

               1-  Hiển bày định luật Thiên Nhiên: nhân quả diễn biến, Vô thường.
               2-  Nhận thức nguyên nhân của khổ đau là dính chấp, là “mê tưởng tôi”.
               3-  Phương pháp dứt đau khổ, sống an vui: là dứt “mê tưởng tôi” là Vô ngã.

               Nên nói 3 pháp ấn cùa như lai là:
               -  Vô thường (vạn vật luôn biến đổi)
               -  Khổ (Do dính chấp, “mê tưởng tôi”)
               - Vô ngã (Không riêng lẻ, không tự chủ, chỉ có Sự Sống Đồng Nhất đang là thực tại hiện tiền diễn biến theo nhân duyên).

Giáo Pháp Như Lai có 5 đặc tính:

1- Thực tế: Giải quyết ngay gốc phiền não đau khổ trong cuộc sống thực tại của con người, không nói chuyện trên trời, dưới đất. Dù thuyết giảng cho ai, căn cơ, cảnh giới nào, Đức Phật cũng dạy 4 Diệu Đế dứt “mê tưởng tôi”mà thôi.

2- Minh bạch: nhân quả rõ ràng, nhận thức Thân, thọ, tâm, pháp là vô thường, ngay đây, bây giờ dứt tham sân si (mê tưởng tôi) là an vui. không tưởng tượng những cảnh trời, mơ hồ, không mê tín thần thoại, hiển linh không liên quan đến việc dứt nguyên nhân của khổ đau: “mê tưởng tôi”.

3- Tự lực: Không có thầy tổ, thần thánh nào có thể bẻ cong nhân quả, công bằng thiên nhiên, không ai có thể bỏ được “mê tưởng” của người khác. Mỗi người phải tự bỏ “mê tưởng tôi”, xa lánh việc ác, gieo trồng nhân lành, không mê tín, cầu xin, dựa dẫm. 

4- Đơn giản: Thực hành ngay trên thân nầy, tỉnh thức nơi từng hơi thở, lời nói, cử chỉ động tỉnh, nơi từng cảm thọ, từng khởi động và vận hành của tư tưởng, nhận rõ vô thường. Tự kinh nghiệm dính chấp là khổ, không dính chấp là an ổn. Không tưởng luận thần thoại, rối rắm, mơ hồ.

5- Phổ thông:  Bất cứ ai, ở đâu, lúc nào ứng dụng thực hành cũng có kết quả tốt, chỉ cần kiên nhẫn, tỉnh thức tự lực thực hành, xa lánh việc ác, gieo trồng nhân lành, ghi nhận và giữ tư tưởng trong sạch, nhận thức thân, thọ, tâm, pháp, không dính chấp, dứt “mê tưởng tôi” là bình an, tự tại.

Nhận thức vạn pháp duyên sinh, vô thường, vô ngã, đang diễn biến tuyệt vời. Do tư tưởng dính chấp đưa đến khổ ưu. Ứng dụng 4 lẽ thật, thực hành những pháp trợ đạo, cốt lõi là 4 niệm xứ, Không dính chấp, không tác ý phản ứng, dứt si tham sân. Dứt được “mê tưởng tôi”, thì Thực Tại hiện tiền Sự Sống Đồng Nhất đang phổ hiện tuyệt vời, tâm từ rộng mở lợi ích chúng sinh. Đây là đặc tính và tiêu chuẩn cốt lõi của Đạo, của giáo pháp Như Lai chỉ dạy.

              Trong bộ Avatamsaka (Hoa Nghiêm, phẩm Thập Định), Ngài Nagar juna đã copy ý nghĩa trên, ghi nhận Sự Sống Đồng Nhất, qua mẩu chuyện phóng tác Như Lai chỉ dạy: Muốn thấy được Ngài Samanta bhadra, phải:
              1) - Nhận thức vạn pháp mười phương là thân Ngài đang phổ hiện. (?)
              2) - Nhận thức Sự Sống phổ hiện Thực Tại Đồng Nhất (không hai).
              3) - Nhận thức thân mình đồng thân Ngài.(?)

[Quý phật tử và độc giả lưu ý: Đoạn này tác giả Tỉnh Giác dẫn kinh Hoa Nghiêm để chứng minh cho 5 đặc tính của giáo pháp Như Lai. Nhưng rất tiếc, nếu theo kinh này thì 5 đặc tính vừa nêu trên không còn nữa. Vì các kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Pháp Hoa, Kim Cang… là loại kinh tưởng, không có pháp tu hành, không có 8 chánh đạo, chỉ là hý luận của các Tổ chứ không phải Phật thuyết.  

GNCN xin trích dẫn một đoạn trong “LƯỢC GIẢI KINH HOA NGHIÊM” của tác giả Thích Trí Quảng để quý vị suy ngẫm:

“Theo phán giáo của Thiên Thai Trí Giả đại sư, sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày và sau đó Ngài đến Lộc Uyển độ 5 anh em Kiều Trần Như, bắt đầu lập giáo khai tông. Trên đường hoằng truyền chánh pháp, Đức Phật giảng kinh Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn.

Cách phán giáo của Trí Giả đại sư được Phật giáo Đại Thừa tán đồng. Phật giáo nguyên thủy cũng ghi nhận giống ở điểm sau khi thành đạo (?), Phật ngồi tư duy ở Bồ đề đạo tràng trong 21 ngày. Theo kiến giải của Phật giáo Đại Thừa, trong 21 ngày tư duy ấy, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong thiền định. (?)

Thiết lập pháp hội Hoa Nghiêm với hội chúng, hội trường có điểm khác lạ. Theo kinh Hoa Nghiêm lục thập quyển thì có 8 hội, nhưng kinh Hoa Nghiêm bát thập quyển ghi nhận có 9 hội. Đến phần kết của hội Hoa Nghiêm vẫn có mặt Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan, nhưng các Ngài không nghe được. Ý này được kinh diễn tả rằng chúng Thanh văn như người mù, người điếc dự hội… (Kinh HN hủy báng các vị A-la-hán đại đệ tử Phật hết mức).

             Nguồn: http://thuvienhoasen.org/p17a18866/chuong-i-lich-su-kinh-hoa-nghiem
            Tìm hiểu thêm: http://www.chuahuenghiem.net/thu-vien/sach/luoc-giai-kinh-hoa-nghiem/vi-bo-tat-thap-dinh/
           

             Suy ngẫm: "Trong 21 ngày tư duy ấy, đức Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm trong thiền định". Vậy có câu hỏi:
            1- Trong khi thiền định tâm định trên thân, thân định trên tâm (bất động) - Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm bằng phương pháp nào? Khẩu thuyết, Thân thuyết hay Ý thuyết?

              2- Đức Phật vừa mới chứng đạo ("Thiên thượng thiên hạ, Duy Ngã độc tôn...") mà đã sớm vội thuyết kinh Hoa Nghiêm cao siêu. Vậy trong pháp đường ai là người nghe pháp? Các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan... khi ấy còn chưa gặp Ngài. (Vài sự vô lý hết sức đơn giản, dễ thấy như vậy mà...!!! Thế đủ biết các Tổ xưa rất vụng hý luận, rồi bao lớp thầy, Tổ sau cứ cúi đầu tin nghe theo rất là ngu ngốc)].

V - GIÁO PHÁP & ỨNG DỤNG

GIÁO PHÁP

Vũ trụ từ vô thủy vốn như như, vạn vật hình thành và vận hành theo nhân duyên. Do đủ duyên, đất, nước, lửa, gió tụ tán, liền có hình tướng, có Sự Sống, Tánh, Thể, Tướng, Dụng bất khả phân.

Sự Sống Đồng Nhất vốn thanh an, tự tại. Mọi bất an, phiền não, đau khổ chỉ bắt đầu từ tư tưởng.Từ một niệm mê khởi, vận hành, phân biệt danh, tướng, có 6 căn tiếp xúc với đối tượng, có cảm thọ, dính chấp, ưa ghét, nắm giữ, có “của ta”, được mất, sinh tử. 12 nhân duyên là chuỗi nhân quả liên tục không có chỗ khởi đầu, không có chỗ dứt. Từ mê tưởng có một cái “tôi” riêng biệt ngoài Sự Sống Đồng Nhất. Từ mê tưởng phân biệt, dính chấp đưa đến tham sân, lo sợ, khổ não.

Từ nguyên thuỷ, một niệm mê, tự đồng hoá với thân tâm, cảm thọ, cho là “tôi”. “Mê tưởng tôi” lại dính chấp theo hiện tướng, sinh tham sân, phiền não, khổ đau. Muốn dứt đau khổ, không thể truy tìm về quá khứ, cũng không thể mong cầu ở tương lai. Chỉ ngay đây, bây giờ, dứt bỏ dính chấp, và chủ nhân của dính chấp là “mê tưởng tôi”. Thì Thực Tại hiện tiền, đang là, nhân thế nào, hiện tướng thế ấy, duyên đâu là đó, đã có mặt tại chỗ. Đây là sáng tạo (?) tuyệt vời, tự tại vô ngại, Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất,

Thế Tôn dạy: “Các con lấy giáo pháp và giới luật làm thầy. Giáo pháp Như Lai không có điều gì mơ hồ, bí mật, không có lời nào mang ẩn ý”. Toàn thể giáo pháp Như Lai đều xây dựng trên bài pháp 4 chữ: “Khổ - Tập - Diệt - Đạo”.

*1)- Khổ: Cái khổ được phân tích cặn kẽ, để con người thấy rõ nguyên nhân của nó. Cuộc đời là Sự Sống thực tại, Đồng Nhất, theo nhân duyên diển biến, luôn đổi mới, sống động tuyệt vời. Nhưng con người thấy thân, tâm và cuộc đời đầy đau khổ, đây là “Quả” do nhân “Tập”.

*2)- Tập: là thói quen, phân biệt, ưa, ghét, dính chấp những sự kiện, những hiện tướng của Sự Sống, đưa đến tham, sân, lo, buồn, sợ hãi… Nhưng cái gì dính chấp?, cái gì tham, sân, lo, buồn, sợ hãi? Thân tâm và vạn vật mười phương, là Sự Sống Đang Là, do tư tưởng mê lầm nhận Thân tâm là “tôi” riêng biệt. Chính cái “mê tưởng tôi” nầy là chủ nhân của dính chấp, tham sân, là chánh phạm, là gốc rễ của phiền não đau khổ. Như Lai dạy: Muốn dứt khổ chỉ có một cách duy nhất là dứt “mê tưởng tôi”: Diệt. 

*3)- Diệt: là dứt “mê tưởng tôi”, gốc của khổ đau. “Mê tưởng tôi” thâm căn cố đế, thiên hình vạn trạng, khó nhận thức, khó loại trừ. Không thể dựa vào đức tin, thờ lạy, cầu xin, không thể tưởng tượng mơ hồ, mà phải nhận thức rõ thực chất và kinh qua những hậu quả tai hại của nó. Vũ trụ, vạn vật đang vận hành theo nhân duyên. Dứt “mê tưởng tôi” thì tất cả hiện tướng, là Sự Sống Thực Tại hiện tiền, là sáng tạo tuyệt vời. Đây là “Quả” do nhân “Đạo”.

*4)- Đạo: Đạo ở đây là phương cách, tiến trình Như Lai mở bày để chỉ rõ từng bước thực hành. Theo đó người học đạo sẽ dứt được dính chấp, dứt được “mê tưởng tôi”, dứt khổ đau, thực tế, rõ ràng. Đạo có 8 bước gồm 37 pháp:

-- Bước 1: Bốn Nhân lành:

Mỗi người là một đơn vị, là nhân duyên hình thành của gia đình, xã hội, thế giới, vũ trụ đang diễn biến, nên cảnh giới an vui chỉ có khi tất cả ý nghĩ, lời nói, việc đang làm và sắp làm có hại cho người, vật phải dứt bỏ. Ngược lại tất cả ý nghĩ, lời nói, việc đang làm và sắp làm có lợi ích cho người vật cần phát huy. Thực hành 4 điều căn bản này, đời sống cá nhân, gia đình, xã hội, sẽ an vui, là tự độ, độ tha, là Bồ tát đạo, là duyên gặp chánh pháp.

           -- Bước 2: Bốn ý nguyện:

           - Ý nguyện kiên quyết bỏ việc ác, gieo nhân lành, giữ tâm ý trong sạch.
           - Ý nguyện tinh tấn kiên trì, tìm học chánh pháp, dứt trừ phiền não.
           - Ý nguyện quyết tâm tư duy, thấu triệt mục tiêu của giáo pháp không xao lãng.
           - Ý nguyện siêng năng thực hành giáo pháp không giải đãi.

-- Bước 3: Năm Căn:

Chánh niệm nơi Mắt, tai, mủi, lưỡi, thân, khi hít thở, thấy người vật, nghe âm thanh, biết mùi, vi, xúc chạm, ghi nhận rõ ràng, ngay khi khởi đầu của những cảm thọ, hay tư tưởng v.v… như vậy chúng sẽ không có khả năng chủ động. 

            Hướng ý căn về 5 căn bản:
           - Tin nhân quả. 
           - Tinh tấn thực hành 4 nhân lành, 4 ý nguyện.
           - Từng niệm ghi nhận 5 căn.
           - Giữ ý tưởng không loạn động.
           - Nhận thức nhân quả, không mê tín tưởng luận mơ hồ.

-- Bước 4: năm Lực:

             Thực hành 5 căn đưa đến 5 lực:
            - Tin thực hành chánh pháp sẽ có an vui.
            - Tinh tấn thực hành giáo pháp dù trở ngại.
            - Ghi nhận vạn vật tùy duyên nên vô thường là tất yếu, không sợ hãi.
            - Tư tưởng mất khả năng chủ động.
            - Tuệ tri nguyên nhân của sầu não, khổ ưu là dính chấp, là “mê tưởng tôi”.

-- Bước 5: Nhận thức 4 Niệm xứ:

Qua 4 bước trên, con người tuy có an ổn, nhưng “mê tưởng tôi” vẫn còn đó, luôn vi tế nhập cuộc, hướng ý nguyện, tín và tấn lực vào tưởng, luận mơ hồ, mê tín. Làm lệch hướng niệm, định lực. Vô hiệu hóa tuệ lực. “Mê tưởng tôi” thâm căn cố đế, khó loại trừ, không thể thờ lạy, cầu xin, không thể tưởng tượng mơ hồ mà dứt được. Dù biết vạn pháp duyên sinh vô thường, “như huyễn”, dù miên mật vọng tưởng, “Tánh không”, “Tướng không”, ‘Chơn không”, vạn pháp vẫn hiện hữu, đang diễn biến, vẫn là Sự Sống Thiên Nhiên, Thực Tại hiện tiền. Vì:

             - Thực Tánh pháp uyển chuyển tuỳ duyên.
             - Thực tướng pháp, diển biến vô thuờng. 

Muốn dứt “mê tưởng tôi” phải có ý chí, quyết tâm, kiên trì suy xét, thực chất và những ảnh hưởng tai hại của dính chấp. Như Lai dạy nhận thức 4 xứ: Thân, Cảm xúc, Tư tưởng và vạn vật, tất cả là Sự Sống Thiên Nhiên, liên hệ lẫn nhau trong một hệ thống nhân duyên chằng chịt, luôn đổi mới. Nếu dính chấp là phiền não, càng dính chấp càng khổ đau. Từ đó sinh nhàm chán, mới có thể buông dính chấp, từ bỏ được “mê tưởng tôi”. Đây là chỗ thiết yếu mà Như Lai đã từ bi 2 lần nhấn mạnh trong  kinh 4 niệm xứ.

-- Bước 6: Bảy Tỉnh thức:

            Ứng dụng 4 niệm xứ, tỉnh thức chánh niệm, dứt trừ ‘mê tưởng tôi”, sẽ đưa đến thành quả 7 tỉnh thức:
           - Tuệ tri mục tiêu và đặc tính của chánh pháp, thực hành không lầm lẫn.
           - Tuệ tri Sự Sống Đồng Nhất, không tưởng luận mơ hồ, mê tín.
           - Tuệ tri nhân quả, tinh tấn gieo nhân lành, xa lánh những điều tội lỗi .
           - Tuệ tri Sự Sống Đồng Nhất, không dính chấp.   
           - Tuệ tri nhân quả 3 thời, tuỳ duyên, thuận pháp. 
           - Tuệ tri Sự Sống Đồng Nhất, khinh an không còn bồn chồn. 
           - Tuệ tri Sự Sống Đồng Nhất, Buông xả, tự tại, thanh an.

-- Bước 7: Bốn vô lượng tâm:

Qua 4 niệm xứ, dứt “mê tưởng tôi”, qua 7 tỉnh thức tuệ tri Sự Sống Đồng Nhất, khởi 4 tâm: Từ, Bi, Hỉ, Xả, an vui, lợi ích người vật là cung dưởng Như Lai, thỉnh Phật trụ thế.

-- Bước 8: Bốn hồi hướng (?):

           - Mười phương hồi hướng nguyện chúng sanh tỉnh thức Sự Sống Đồng Nhất.
           - Mười phương hồi hướng nguyện chúng sanh nhận thức nhân quả, vô thường.
           - Mười phương hồi hướng nguyện chúng sanh dứt mê lầm ngã chấp đảo điên.
           - Mười phương hồi hướng nguyện chúng sanh từ bi (giới luật) lợi ích người vật .

Mười phương là mọi lúc mọi nơi, từng ý nghĩ, hơi thở, lời nói, từng động tĩnh, tỉnh thức hồi hướng về: Tam bảo và lợi ích chúng sanh.

37 pháp trợ đạo có 8 phần, người học đạo, có thể ứng dụng thực hành theo thứ tự, hay từng phần riêng cũng có kết quả an vui lợi ích. Riêng 4 niệm xứ là then chốt, cốt lõi để giải thoát “mê tưởng tôi”.

           Đời lắm KHỔ là quả
           Do TẬP nhân dính chấp
           DIỆT tập nhân si mê
           ĐẠO dứt “ngã” đời vui.

ỨNG DỤNG

Người học đạo cần tỉnh thức, quyết chí nhận thức 4 Diệu Đế, thực hành 37 pháp trợ đạo mà “4 niệm xứ” là then chốt. Đây là bài pháp vô cùng quan trọng mà Như Lai đã 2 lần nhấn mạnh khi mở đầu và kết thúc bài kinh: "Con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh, dứt sầu não, diệt khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn, là 4 niệm xứ". Đây là pháp hành thực tế, minh bạch, đơn giản.

- Nhận thức về thân, thân được kết hợp bởi 4 yếu tố: Đất, Nước, Lửa, Gió. Là một phần tử của Sự Sống Thực Tại không có gì là “tôi” riêng lẻ. Tỉnh thức ghi nhận từng hơi thở ra vào, từng cử chỉ động tỉnh, từng thân phần của thân thể, nhận biết rõ toàn thể cơ thể đang diễn biến, là vô thường. Vô thường tự nó là hiện tượng cần thiết để Sự Sống luôn tươi mới. Cái khổ chỉ có do tư tưởng phân biệt, dính chấp. Mê tưởng sắc thân là “tôi”, là tự tách rời Sự Sống đồng nhất, liền nhận sinh tử, lại dính chấp những hiện tướng của Sự Sống sinh tham sân, lo sợ, càng dính chấp, càng phiền não, khổ đau.

- Nhận thức về thọ, xúc cảm là cộng hưởng của thân tâm và đối tượng. Nhận thức từng cảm thọ khổ lạc sinh diệt, thuộc vật chất hay tinh thần, nếu không dính chấp, tác ý ưa ghét, phản ứng, thì tất cả là hiện tượng đang diễn biến của Sự Sống Thực Tại bình thường nếu dính chấp, tác ý ưa ghét, phản ứng, liền trở thành đau khổ, trầm trọng hơn.

               - Nhận thức về tư tưởng. Tư tưởng là phương tiện để lợi ích Sự Sống Thực Tại, nhưng mê tưởng phản chức năng, muốn hằng hữu, muốn chủ động, muốn chiếm hửu, luôn len lỏi nhập cuộc dưới mọi hình thức, biến đổi vô thường. Tỉnh thức ghi nhận từng niệm khởi, vận hành, diễn biến, tham sân hay không tham sân, mê hay tỉnh, như thế tư tưởng sẽ mất khả năng chủ động gây sầu não, khổ ưu.

- Nhận thức từ một niệm mê, một niệm tưởng khởi, niệm nầy dứt làm duyên cho niệm khác sinh, những niệm tưởng là chúng sinh nhân, là duyên đất, nước, lửa, gió tụ-tán, biến đổi liên tục từ không ra có, từ có ra không, là chúng sinh quả. Những hiện tướng lại là duyên, nên tướng chúng sanh nầy dứt, liền biểu hiện tướng chúng sanh khác, theo luật nhân quả, duyên nghiệp, và đồng thanh tương ứng, diễn biến vô thường, vô ngã. 

Trong từng hơi thở, từng bước đi, từng cảm thọ, từng sự khởi động và vận hành của tư tưởng, đến mọi diễn biến của sắc tướng, âm thanh trong thực tại. Tinh cần ghi nhận vô thường, nhận rõ càng dính chấp càng thêm phiền não khổ đau. Từ đó nhàm chán thân tâm, sợ dính chấp, mới có thể dứt được “mê tưởng tôi”. Phật, chúng sinh, vạn vật là những phần tử của Sự Sống Thiên Nhiên… Như đầu, thân, tứ chi và tất cả tế bào là những phần tử của thân người. Như tất cả ảnh trong gương, mỗi ảnh tuy khác nhau, nhưng chạm vào bất cứ ảnh nào cũng là chạm vào mặt gương, nên chăm sóc lau rửa, cho tất cả hình ảnh tươi sạch, là mặt gương trong sáng. 

Ứng dụng Khổ - Tập - Diệt - Đạo, dứt “mê tưởng tôi”, thì ngay đây, bây giờ Thực Tại hiện tiền, Sự Sống Đồng Nhất, con người sẽ sống trong môi trường 8 chánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Đây là thành quả, là định hướng của Đạo Đế, mà pháp cốt lõi là 4 niệm xứ.

Kiên quyết, kiên trì tỉnh thức là yếu tố thiết yếu để ứng dụng, thực hành giáo pháp Như Lai. Tỉnh thức được tính trong “sát na”.Từng sát na tỉnh thức ghi nhận 4 xứ, qua từng khởi động và vận hành của tư tưởng mới có thể nhận thức được nguyên thuỷ của vấn đề… Không nhận thức kịp một niệm khởi, vận hành diễn biến qua nhiều sát na để trở thành ưa, ghét, thành lời nói, hành động, mới thấy, nghe, biết là vọng, là huyễn, là không… thì e rằng đả quá trễ!.

                                                                                                                        (Còn tiếp)

154-SỰ SỐNG THIÊN NHIÊN (3) Tỉnh Giác

VI –PHƯỚC & ĐỨC

PHƯỚC

Phước là quả của nhân lành, còn mang ngã chấp. Phước có 2 loại: vật chất và tinh thần còn gọi là hữu vi và vô vi. Phước hữu vi do làm lợi ích cho người vật, dựa trên sắc tướng, âm thanh.  Phước vô vi do nhận thức vạn pháp như huyễn, niệm danh hiệu Phật (?), “tưởng” một cảnh giới an vui, một “chân tâm”hằng hữu, rổng lặng... Đây là pháp phương tiện để bớt dính nhiễm, là “hóa thành” cần vượt qua. 

            Phước thường đưa đến 10 kết quả:
           1- Có thể giúp người vật bớt phiền não đau khổ.
           2- Được thương mến, quý, kính.
           3- Được giàu sang,
           4- Được địa vị, quyền thế.
           5- Sinh ra, thân đầy đủ, đẹp đẽ.
           6- Sống an lành,
           7- Chết an lành.
           8- Là nhân an vui đời nầy và đời sau.
           9- Là của báo, nước, lửa, gió bảo hay trộm cướp, không lấy mất được.
         10- Là duyên biết được chánh pháp.

            Phước là làm lợi ích, an vui cho người vật, là tự độ, độ tha, là Bồ tát đạo. Là duyên gặp chánh pháp. Tuy nhiên, phước hữu vi còn mang ngã chấp, phước vô vi do ngã tưởng, nên Phước có tính cách vô thường, không phải là cứu cánh, không phải là mục tiêu của giáo pháp. Có khi mê hưởng phước, con người có thể gieo nhân ác, phá hết phước nghiệp, phải gặt ác báo.

ĐỨC

Đức hay công đức là nhận thức thân tâm, vạn vật trong vũ trụ, là những thành phần của Sự Sống Thực Tại Đồng Nhất, theo nhân duyên tụ tán, liên tục đổi mới sống động, tuyệt vời, vô thuỷ, vô chung. Nhận thức không có một cái “tôi” riêng lẻ, không thể truy tìm về quá khứ, tưởng tượng một trạng thái “Chơn không ban đầu”, cũng không thể mơ tưởng một cảnh giới tương lai “an lạc”… Chỉ ngay đây, bây giờ, dứt bỏ dính chấp, dứt bỏ “mê tưởng tôi” thì Thực Tại hiện tiền, Sự Sống Đồng Nhất, đang là, nhân thế nào, hiện tướng thế ấy, duyên đâu là đó, đã có mặt tại chổ. Đây là sáng tạo (?) tuyệt vời. Đối trước vạn vật, mọi vấn đề, nhận thức rõ nhân quả, không dính chấp, không tác ý, hoan hỉ tùy thuận, làm lợi ích, làm nguồn vui cho đời, làm sáng tỏ Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất, là công đức.

              Còn một niệm mê dính chấp, còn một “Mê tưởng tôi” riêng lẻ, là còn phiền não. Phải hồi hướng tất cả niệm chúng sinh mê lầm về tỉnh thức. Dứt “mê tưởng tôi”, sợ hãi, cầu xin, dứt tưởng luận mơ hồ, mê tín. Mọi lúc, mọi nơi nhận thức Thân, Thọ, Tâm, Pháp vô thường, vô ngã, không mê tưởng “tôi”, không tham sân, phản ứng, tác ý điên đảo, nhận thức Sự Sống Đồng Nhất đang hiện bày, diễn biến theo nhân duyên, là hồi hướng công đức.

Trong mọi hoàn cảnh không dính chấp, điên đảo phân biệt, thì tướng cảnh, niệm khởi mất khả năng ràng buộc, ly dục ly ác pháp, là độ chúng sinh, là đoạn phiền não, là tự độ, độ tha. Mọi lúc mọi nơi, tỉnh thức cảm nhận Sự sống Thực Tại Đồng Nhất, không lầm nhân quả, tùy thuận giúp ngườì vật, xã hội an vui, làm sáng tỏ Sự Sống Đồng Nhất, là tùy hỉ công đức. 

Nhận thức “Như Lai” là đến như thế, hiện bày như thế, là thân tâm và vạn vật mười phương, đang vận hành theo nhân duyên, là Sự Sống Thiên Nhiên Thực Tại đang là. Qua thân, thọ, tâm, pháp, ngay mỗi hiện tướng, mỗi thành phần có thể cảm nhận sự vận hành của Đất, Nước, Lửa, Gió. Cảm nhận vũ trụ, thực tại hiện tiền. Cảm nhận Sự Sống Đồng Nhất đang theo nhân duyên diễn biến, là cung dưỡng công đức.

Mọi lúc, mọi nơi, tỉnh thức tin sâu nhân quả, thực hành những pháp trợ đạo, không để tư tưởng lôi cuốn đồng hóa, khuấy động cảm xúc mừng, giận, thương, sợ v.v… xa lánh việc ác, gieo trồng nhân lành, kham nhẫn, tùy thuận nhân quả, ra sức phục vụ, làm lợi ích người vật, an vui xã hội, dứt “mê tưởng tôi”, làm sáng tỏ Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất, là thể nghiệm, là cung dưỡng Như Lai, thì ngay đây, bây giờ, cuộc sống nầy tuyệt vời, thanh an, tự tại. Không cần tưởng luận mơ hồ, mê tín cầu xin, mơ ước truy tìm xa vời.

VII - ĐIỀU KIỆN & LỢI ÍCH

ĐIỀU KIỆN

           1)- Người học đạo cần biết rõ cường độ chấp ngã qua tư tưởng, lời nói và hành động.                                  
           2)- Tin sâu nhân quả, xa lánh việc ác, gieo trồng nhân lành, không mê tín mơ hồ,
           3)- Tỉnh thức, biết gốc nghiệp chướng là dính chấp, là “mê tưởng tôi”.
           4)- Nhận thức thân tâm, vạn pháp, là Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất, diễn biến vô thường, vô ngã.
           5)- Xác định mục tiêu: Tự Dứt “mê tưởng” cá nhân, ích kỷ, tỉnh thức làm sáng tỏ Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất.    

            Diệu Pháp hài hòa đời và đạo. Đủ duyên học hỏi, tư duy, hiểu được lời dạy của Như Lai, nhưng thấy mục tiêu, chưa phải đến mục tiêu, thấy đỉnh núi, chưa phải ở trên đỉnh núi, thấy như huyễn chưa phải đã hết dính chấp như huyễn. Phải thận trọng từng bước, khiêm cung, kiên trì, thực hành những pháp trợ đạo, mười phương nhận thức Sự Sống Đồng Nhất, chớ tưởng ngã mạn, lý luận mơ hồ, mê tín. Dứt mê tưởng là việc của mỗi người, không thể dựa dẫm cầu xin, không ai có thể dứt những niệm chúng sinh của người khác được. Điều cần thiết là phải có pháp thực hành, thực tế, minh bạch, tự lực và đơn giản.

LỢI ÍCH

               Nhận thức Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất, thường xa lìa bạn dữ, việc ác, dứt trừ phiền não, luôn sáng suốt làm lợi ích cho người vật, sống an vui, tự tại.

Nhận thức Sự Sống Đồng Nhất, có thể thuần thục tất cả chúng sinh (tham, sân, si, sợ hãi, mê tín, cầu xin)

Thực hành, nói cho người nghe, làm sáng tỏ Sự Sống Đồng Nhất là cung dưỡng công đức. Sự Sống Thiên Nhiên vốn tự đầy đủ, như Ngọc Như Ý, tùy duyên “nhân” chi là vậy, “duyên” đâu là đó. Từng bước tinh cần,thực hành những pháp trợ đạo, 4 Niệm xứ, nhận rõ vô thường, dứt “mê tưởng tôi”, làm sáng tỏ Sự Sống Đồng Nhất, Đang Là, tự tại an vui, là mục tiêu đích thực của con người, của giáo pháp Như Lai,        

CỐT LÕI

Đời là khổ bởi mê dính chấp
Cốt lõi là mê tưởng chấp “tôi”
Buông dính chấp là hết lôi thôi,
Dứt “tưởng tôi” đời không là khổ
“Mê tưởng Tôi” Thâm căn cố đế
Khó suy lường vạn trạng thiên hình
Chớ tưởng, luận, mơ hồ mê tín
Học chính pháp nguyên thủy Như Lai
Bốn Diệu đế hiển bày nhân quả
Bốn niệm xứ là phương dứt ngã
Quán thân tâm: bất tịnh, vô thường
Quán vạn pháp duyên sinh vô ngã
Thực Tánh pháp tùy duyên uyển huyển
Thực Tướng pháp diễn biến vô thường
Dính chấp là phiền não khổ đau
Thường nhận thức tinh cần như thế
Pháp Như Lai giản đơn thực tế
Tỉnh cơn mê ngã chấp đảo điên
Mê tưởng dứt Thực Tại hiện tiền
Sự Sống vui, Thiên Nhiên tuơi mới

VIII - VẤN ĐÁP

Hỏi: Trong phần giáo pháp có nói về Ngài P’uu Hsien hay Phổ Hiền, kinh Hoa Nghiêm là Đại Thừa, còn 4 Diệu đế, 37 phẩm trợ đạo thuộc Tiểu thừa, vậy Pháp nầy thuộc Tông Thừa nào?

Đáp: Về danh xưng P’uu Hsien, Phổ Hiền. Ngày nay, thế giới như thu gọn trong một nhà.  Những hiện tượng, lời nói, dù ở nơi xa xôi hẻo lánh, cũng có thể được cả thế giới nghe thấy. Những danh từ riêng như tên người, tên quốc gia, tên thủ đô, hay địa danh một nơi nào đó, cần quốc tế hóa và thống nhất. Tốt nhất nên giữ nguyên tên, nguyên âm những danh từ riêng, được quốc tế hóa theo hệ thống ABC đơn giản, phổ thông, toàn thể thế giới đang sử dụng. 

Samantabhadra là danh từ riêng được quốc tế hóa theo nguyên âm bản xứ, có nghĩa: “Tương xứng bao quát”, là nhận thức Sự Sống Thiên Nhiên, vạn vật đang hiện bày, phổ hiện đúng nhân duyên,.

Điều quan trọng là ý nghĩa của từ nầy, hiểu theo nghĩa nào cũng có thể giúp bạn thực hành và có kết quả đúng như ý hiểu biết, vì Sự Sống Thiên Nhiên tùy duyên phổ hiện Tương xứng theo nhân duyên.

Về vấn đề Tiểu Thừa, Đại thừa. Pháp Như Lai là “xá lợi sống” (?) của Như Lai, có giá trị thực tế, giúp vô lượng chúng sinh xưa nay được lợi ích. Chúng sinh do “mê tưởng tôi” tự tách rời Sự Sống đồng nhất, thấy vạn vật sai biệt, dính chấp hiện tướng, khởi tham sân, dẫn đến phiền não, đau khổ. Vì sợ khổ đau, cái “tôi” lại tìm cách để dứt khổ cho cái “mê tưởng tôi”! Thế Tôn tùy thuận giảng nói, tựu trung dẫn về dứt “mê tưởng tôi”, hiển lộ Sự Sống đồng nhất vốn thanh an, tự tại. Sau đó, những người hậu sinh biện luận thành nhiều thừa. Dù thừa nào cũng là copy, phóng tác từ những bài kinh nguyên thủy. Tuy vẫn còn âm hưởng lời dạy của Thế Tôn, nhưng mang sắc thái thần thoại, hiển linh mơ hồ, cầu tha lực, xa rời thực tế, làm lệch hướng giáo pháp Như Lai.

            Chừng nào còn “mê tưởng tôi”, ích kỷ, tham sân, sợ hãi, vọng tưởng có “đấng cứu khổ”, có thể cầu siêu, cầu an, truy tìm mê tín một cảnh giới tưởng tượng bất sinh, bất diệt, bất biến, truy tìm một quả vị gì đó, cho “mê tưởng tôi” hết khổ, tưởng luận có Tông Thừa cao, thấp, lớn, nhỏ. Như thế dù tự thấy cao, tự thấy lớn, chỉ là phóng hiện mê lầm của “mê tưởng tôi”, không phải thật cao, thật lớn.

            Ngược lại, nhận thức Sự Sống Thiên Nhiên đồng nhất, viên dung Tánh, Thể, Tướng, Dụng, là vạn vật, vũ trụ hiện tiền, đang diễn biến theo nhân duyên, vô thường vô ngã. Không dính chấp, tham sân, tác ý điên đảo, dứt “mê tưởng tôi”. Hoan hỉ tùy thuận làm lợi ích cho người vật, làm sáng tỏ Sự Sống đồng nhất qua “thân, thọ, tâm, pháp”, như thế dù có khinh bác, gọi đó là Tiểu Thừa ”tiêu nha, bại chủng”, tự nó cũng cao, cũng quý.

            Pháp Như Lai ứng dụng lúc nào cũng đúng, cũng lợi lạc. Lời nói Như Lai lúc nào cũng là ái ngữ, ngay lúc đối đáp với kẻ phỉ báng Ngài, lời nói của Ngài cũng thật êm diệu. Cử chỉ, hành động của Như Lai lúc nào cũng ôn hòa, dịu dàng.

            Những bước chân của Ngài là không mê tín cầu xin dưa dẫm. Tự lực nhận thức Sự Sống Thực Tại qua: Thân, Thọ, Tâm, Pháp, trong từng hơi thở, từng lời nói, từng cử chỉ, từng cảm thọ, tỉnh thức trong từng khởi động của tư tưởng, từng pháp sinh diệt, tụ tán của đất, nước, lửa, gió. Trí tuệ, từ bi, dứt tham sân si, phục vụ người vật, làm an vui lợi ích cho đời, hướng về cứu cánh dứt “mê tưởng tôi”, dứt mê lầm sinh tử, sống thanh an, tự tại.

            Phân chia lớn nhỏ, vướng chấp cao thấp là đánh mất Sự Sống đồng nhất… xót thương chúng sinh vô lượng kiếp mê lầm, nay nhờ “ƠN” Thế Tôn nhớ lại nguồn, nhưng nghiệp chướng, ngã chấp chưa dứt, tự tưởng đẫ “đốn ngộ”, muốn tự sáng tạo, tự cao, tự đại, bác bỏ hướng đi của Như Lai:

Nam nhi tự cổ xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành…!

Là một tu sỉ hay phật tử, nếu không theo hướng: Dứt mê tín cầu xin. Tinh cần, tỉnh thức trí tuệ, từ bi, dứt tham sân si, rũ sạch ngã chấp. Sống thanh an, tự tại, làm an vui, lợi ích cho người, cho đời, chúng ta sẽ về hướng nào?! Không nhận thức kịp một niệm mê khởi, đã bị ngã khống chế, mê tưởng đốn ngộ là cứu cánh, sinh tâm ngã mạn, khinh chê tam bảo...!

Hơn 600 năm sau có những “Luận Sư”, viết những bộ sách, gọi là kinh “Đại Thừa”, tự xưng là “Đại Thừa” khinh chê những vị theo pháp nguyên thủy của Thế Tôn là “Tiểu Thừa”, là “tiêu nha bại chủng”, vì những vị trưởng lão không chấp nhận những phóng tác “tưởng luận thần thoại” mơ hồ! Tuỳ phong hoá nhân sinh, phóng tác lời dạy của Thế Tôn cũng tốt (?), nhưng không thể mạo danh Thế Tôn, tự cao tự đại và không nhận trách nhiệm về những phóng tác, đã làm cho giáo pháp Như Lai thành phức tạp, xa rời thực tế, cầu tha lực, huyền bí, thần thoại, mơ hồ.

            Bài Bát Nhã, khoảng 700 năm sau, mở đầu ghi: ”…hành thâm bát nhã, chiếu kiến 5 uẩn đều “không” thì dứt khổ nạn”. Đây là copy và phóng tác từ 3 niệm xứ đầu “thân, thọ, tâm”, của bài kinh 4 Niệm xứ. Nhưng không chỉ ra vô thường, chấp là khổ và chính phạm là ngã chấp, để buông bỏ “mê tưởng tôi”. Cho rằng 5 uẩn là “không” là hết khổ (đây là lý của “Diệt Đế”). Mấy đoạn sau là phóng tác về niệm xứ thứ tư, cũng không chỉ ra tánh vô thường vô ngã của vạn pháp, mà tưởng luận dẫn vào “trí tuệ bát nhã”, tưởng ra thực tướng “Chân Không” bất sinh, bất diệt, bất biến, tất cả hiện tướng đều “không”: “…Thị cố không trung vô sắc… vô vô minh... vô khổ, tập, diệt, đạo…”. Bác bỏ thực tại hiện tiền, bác nguyên lý 12 nhân duyên, bác lời dạy của Thế Tôn! Nhận định “Tướng không” là pháp cao nhất. Cho rằng Chư Phật cũng nhờ biết “Tướng không” mới đắc đạo?!

             Thực tế Ngài Siddhartha muốn tìm nguyên nhân và phương pháp dứt nguyên nhân của khổ đau, để giải tỏa nỗi thống khổ của nhân loại, đã 6 năm khổ hạnh, trải qua những cảnh giới “dứt tư tưởng”, “diệt tận định”, “không vô biên”, “thức vô biên”, “phi phi tưởng” v.v… vẫn không dứt khổ. Ngài chỉ thành đạo sau 49 ngày nhận thức 12 nhân duyên, 4 lẽ thực: “Khổ - Tập - Diệt - Đạo”, thực hành 4 Niệm xứ, đoạn trừ và rũ sạch “mê tưởng tôi”, là gốc rễ của phiền não, đau khổ, là đạt Đạo.  

Bài Pháp “khổ, tập, diệt, đạo” khẳng định 3 tiêu chuẩn của giáo Pháp:

             1- Hiển bày định luật Thiên Nhiên: nhân quả diễn biến, Vô thường.
             2- Nhận thức nguyên nhân của khổ đau là dính chấp, là“mê tưởng tôi”.
             3- Phương pháp dứt đau khổ, sống an vui: là dứt “mê tưởng tôi” là Vô ngã.

            Nên nói 3 pháp ấn cùa Như Lai là:

           - Vô thường: Vạn vật, tuỳ duyên diển biến.
           - Khổ: Do tư tưởng dính chấp.
           - Vô ngã: Chỉ có Sự Sống đồng nhất đang tuỳ duyên diễn biến là thực tại hiện tiền, không có chủ thể riêng lẻ.

Pháp Như Lai không thiếu cũng không dư, đã tự mình lầm lẩn, lại mạo danh phóng tác sửa đổi, lý luận làm lầm người, đã không dám nhận trách nhiệm, lại tự cao, khinh bác thật không nên.

Truy tìm, lý luận, dính chấp quá khứ thưở “Ban đầu” là “Thái hư”, ‘Hư không” “Chân không” cho là thật, bác bỏ Sự Sống Thực Tại Đang Là là giả là không! Phật dạy: “Không truy tìm quá khứ”. Tất cả pháp đều vô thường, diển biến vô thuỷ vô chung. Dù có “cái khởi đầu” thì bây giờ cũng đã biến thành Thực Tại Hiện Tiền.

            Tâm cảnh tương đồng. Tâm bố thí rộng rãi, phù hợp cảnh giàu sang. Tâm bỏn xẻn, tham gian, phù hợp cảnh bần cùng. Tâm “sùng bái” hình tượng, trang trí tranh tượng đủ hình tướng, màu sắc. Tâm thích bí ẩn, hiển linh, phù hợp thầy dạy bùa chú, bắt ấn, xuất hồn, thần thông, huyền bí. Tâm thích lễ lạy, phù hợp thầy dẫn đi “tam bộ nhất bái”, lễ lạy 10 phương. Tâm cao ngạo lão thông, phù hợp thầy dạy pháp Như Lai là pháp tiểu thừa! Tâm tưởng “không", phù hợp thầy đập phá, chẻ đốt hình tượng... Tâm tánh hung hăng, phù hợp thầy miệng hét, tay đấm, chân đá, gậy đập… Tâm tham dục, phù hợp thầy dạy không cần giữ giới.

Giới” và “từ bi” là 2 từ khác nhau nhưng chỉ cùng một việc, trong 2 giai đoạn của trạng thái tâm mê hay tỉnh. Như Lai tỉnh sáng, nhận biết Sự Sống đồng nhất, trí tuệ từ bi không làm tổn hại vạn vật, để Sự Sống Thực Tại an vui là Từ Bi. Ngài dạy những người chưa nhận ra Sự Sống Đồng Nhất không làm tổn hại vạn vật để không hối hận, được an định, tỉnh sáng là Giới.

Thiết nghĩ, thay vì nghe lời kêu gọi nuôi lớn và kích động bản ngã, người học Đạo cần tỉnh tâm nhận rõ chánh pháp và những tưởng luận, phóng tác mê lầm. Mong những người đệ tử dù tôn kính những vị thầy, đây là điều tốt, nhưng cũng “không nên quên” tỉnh tâm, đối chiếu cẩn thận để thấy rõ, đâu là chánh Pháp, đâu là những “sáng tạo” tưởng luận thần thoại mơ hồ, không phù hợp nhân quả, xa rời thực tế, mang nặng bản ngã mê lầm, mê tín, cầu xin, đã được khéo léo “gài kèm” làm lệch hướng giáo pháp Như Lai.

Pháp Như Lai thực tế

             Nhân quả “nhỏ” vậy thôi
             Tỉnh thức trong thực tại
             Dứt bỏ mê tưởng “tôi”
             Tâm cầu kỳ lý luận
             Phóng tác “Lớn” “Đông” “Tây”
             Tưởng luận ngày thêm rối
             Ngã cầm mối giựt dây…

Như Lai dạy: “Ta không chỉ định ai thay ta để dẫn dắt các con…Giáo Pháp của ta suốt 45 năm không có một lời nào mang ẩn ý, không có một điều gì bí mật… Các con hãy lấy giới luật và giáo pháp làm thầy, các con hãy tự thấp đuốc mà đi, hãy đi trong chánh Pháp”.  

Hỏi: Phật thuyết: “Nhân duyên sở sinh pháp, ta thuyết tức thị không”, đây là định nghĩa tiền đề, chấp nhận định nghĩa nầy mới hiểu được kinh Bát Nhã. Nhận thức ngũ uẩn do duyên hợp, nên thật tướng nó là không, thấy thân tâm không có, liền hết đau khổ rõ ràng. Vạn pháp trong pháp giới đều do duyên sinh nên tất cả cũng là không. Người có trí tuệ Bát Nhã, thấy tất cả pháp đều không, 4 đế, 12 nhân duyên cũng không ngoai lệ. Tôi thấy rất an ổn mỗi khi đọc bài kinh Bát Nhã nầy.

Đáp: “Nhân duyên sở sinh pháp, ta thuyết tức thị không”, là tưởng luận, phóng tác của người hậu học khoản 600 -700 năm sau. Bài Bát Nhã là phóng tác từ những bài kinh:

*1)- Kinh 4 Niệm xứ. Là pháp thực hành để dứt ‘mê tưởng tôi” trong kinh 4 Diệu Đế. Như Lai dạy: Nhận thức Thân, cảm thọ, tâm (tưởng, hành, thức) và vạn pháp, tất cả đều vô thường, vô ngã, nếu dính chấp là phiền não, càng dính chấp càng khổ đau. Kiên trì thực nghiệm, nhận thức rõ ràng, không nhầm lẫn như thế, sẽ nhàm chán “thân” “cảm thọ” và “tâm dính chấp”, mới có thể dứt được “mê tưởng tôi” là nguyên nhân của khổ đau. Đây là bài pháp cốt lỏi, Như Lai đã 2 lần nhấn mạnh khi mở đầu và kết thúc bài kinh như sau: "…Con đường duy nhất đưa đến thanh tịnh, vượt sầu não, diệt khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn, đó là 4 niệm xứ".

*2)- Kinh Cula sunnata suttam, Như Lai dạy: Tư tưởng chỉ làm một việc, khi ta chú ý, nhận thức về điều nầy thì những điều khác xem như không có. Nhưng khi ta chú ý đến điều khác thì điều nầy cũng không có. Như vậy; “cái nầy có, cái kia có”. Từ hiện tướng đến tư tưởng, tất cả là thật có, không điên đảo, sự thật hoàn toàn thanh tịnh, không tánh - vô thường, không tự chủ - (?). Ghi nhận rõ vô thường, vô ngã, càng dính chấp càng khổ, sinh nhàm chán, không dính chấp, không tác ý như thế, mới dứt được tham, sân, si. Như Lai xác nhận người tu trong quá khứ, hiện tại, vị lai nhận thức tất cả pháp là thực có, sự thật hiện bày không tự tánh, ly dục, ly ác pháp, không tác ý điên đảo. Khi chứng đạt an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh không tự tánh nầy - không tự chủ, không riêng lẻ - (?).  

*3)- Kinh Maha sunnata suttam, Như Lai dạy: Mọi lúc, mọi nơi, đi đứng ngồi nằm, không dính chấp, ly dục, ly ác pháp. Nhận thức thân tâm khi tiếp xúc với đối tượng, qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, từng động tỉnh, nhận thức rõ ràng: Khởi đầu và kết thúc của Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tỉnh thức ghi nhận tư tưởng đã ham muốn, dính chấp, ái nhiễm thế nào? Nhận thức nếu dính chấp, tác ý, là khổ. Ghi nhận tất cả pháp là “thực có", đang tùy duyên diễn biến, vô thường, không có tự tánh, (không tự chủ, không riêng lẻ), Xả ly những tư tưởng nhiễm nhơ (dính chấp, tham ái). Sống trong thực tại với tâm thân thương, không đố kỵ, không thù nghịch, không tác ý ô nhiễm làm an vui Sự Sống Thực Tại hiện tiền.

*4)- Kinh Pháp cú:

              *Sabbe sankhara aniccati: Tất cả vận hành là vô thường. (Vận hành là diễn biến theo duyên)
              *Sabbe sankhara ca dukkhati: Tất cả vận hành là khổ. (Vận hành ở đây là dính theo vô thường).
              *Sabbe dhamma anattati: Tất cả pháp vô ngã. (pháp là sự kiện, hiện tượng, hữu vi hay vô vi, không tự chủ, không riêng lẽ) .
             *Yada pannaya passati: Tỉnh thức để nhận định (dính chấp là khổ).   
             *Atha nibbindati dukkhe: Chán bỏ sự bất ổn (dứt dính chấp dứt mê chấp "TÔI"). 
             *Esa maggo visuddhiya: Là con đường anvui (Dứt “mê tưởng Tôi”, Thực Tại hiện tiền, Sự Sống đồng nhất tuyệt vời).  
             Những gì duyên sinh là vô thường
             Vạn vật vô thường là vô ngã
             Dính chấp vô thường là đau khổ
             Kinh qua khổ đau sinh nhàm chán
             Dứt ngã chấp, dính nhiễm tác ý
             Thiên Nhiên vốn thuần tịnh an vui

Qua những bài kinh trên và nhiều bài kinh khác cùng một nội dung nhận thức: Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất, nhận thức thực tánh các pháp là tùy duyên, thực tướng các pháp là diễn biến, tất cả vô thường, vô ngã, nếu tác ý dính chấp là khổ. Ứng dụng 4 lẽ thật, 4 niệm xứ, không dính chấp, không tác ý, không mê tưởng “tôi”, thì Sự Sống thực tại là một chuỗi sự kiện, hiện tượng theo nhân duyên diễn biến tuyệt vời, tùy hỉ, tùy thuận giúp chúng sinh, nhận biết Sự Sống Đồng Nhất giải thoát mê lầm ngã chấp, sống thanh an, tự tại. Đây là pháp thực hành thực tế, rõ ràng, tự lực, đơn giản, phổ thông và rốt ráo.

Có luận thuyết: vạn pháp do duyên sinh, nên không cố định, nên thật tướng vạn pháp là “vô tướng”, là “không”, “bổn lai vô nhứt vật”, kết luận không có “nhân duyên”, không có  “khổ, tập, diệt, đạo” để phá cái chấp “cố định” của “Tiểu thừa”? Lý luận: “Đây là lý rốt ráo, là cảnh giới của người đạt Đạo”, là ”Không” “Vô tướng” “Vô tác” “Vô sự”.

Thực tế Thế Tôn, chúng sinh, vạn vật, đồng là những phần tử của Sự Sống Thiên Nhiên đồng nhất đang hiện bày, theo nhân duyên. Người đạt Đạo tuy không còn Khổ - Tập, không dụng công Diệt - Đạo, nhưng trước sau vẫn là một phần tử của Sự Sống Thiên Nhiên, cho nên khi chưa đạt Đạo, phải kinh qua Khổ - Tập - Diệt - Đạo, dứt “mê tưởng tôi”. Sau khi đạt Đạo, bài pháp đầu tiên là: Khổ - Tập - Diệt - Đạo vì lợi ích chúng sinh. 

Bác bỏ Khổ - Tập - Diệt - Đạo là tự mãn của bản ngã, hoàn toàn không có lợi ích cho chúng sinh. Hơn nữa, những bước trong Đạo Đế, tuy là pháp hành của người tu, nhưng tất cả đều làm lợi ích người vật, sáng tỏ Sự Sống Thiên Nhiên, là cung dưỡng Như Lai, là thỉnh Phật trụ thế, không thể bác dù đạt Đạo.

Điều nầy được phóng tác trong kinh Pháp Hoa, phẩm Hoá thành dụ: “Ngài Đại Thông Trí Thắng sau khi thành Đạo đả chuyển Pháp luân, bài pháp đầu tiên là: Khổ - Tập - Diệt - Đạo và 12 nhân duyên. Trong kinh Hoa nghiêm, Phẩm 10 nguyện Phổ Hiện cũng mang ý nghĩa trên: “…Nhưng hư không, chúng sanh, nghiệp chúng sanh, phiền não chúng sanh không cùng tận, nên nguyện của tôi cũng không cùng tận”.(?)     

Phật dạy Diệt đế, dứt “Mê tưởng tôi” là dứt khổ, đây là “Lý”. Nếu chỉ chấp lý Diệt Đế, cho 5 uẩn là “không”, tưởng ra “tánh không” “tướng không” là cứu cánh dứt khổ, bác bỏ thực tại, bác bỏ “nhân duyên”, bác bỏ “Khổ - Tập - Diệt - Đạo”, mà Đạo là pháp hành! Điều nầy thật là điên đảo mộng tưởng, và hoang phí.

Không thể tưởng tượng để xa rời điên đảo mộng tưởng được. Dù có miên mật nhận thức “như huyễn”, vọng tưởng, “Tánh không”, “Tướng không”, “bổn lai vô nhứt vật”. Vạn pháp vẫn hiện hữu, Sự Sống Thiên Nhiên, Thực Tại “vốn tự đầy đủ” vẫn liên tục hiện hữu, diển biến vì:

              - Thực tánh pháp uyển chuyển tuỳ duyên.
              - Thực Tướng pháp diễn biến vô thường.

Quan trọng là có “mê tưởng tôi” hay không mà thôi.

Tinh cần, tỉnh thức, ghi nhận 5 uẩn vô thường vô ngã, dính chấp là khổ, để dứt “mê tưởng tôi”, dứt gốc đau khổ là mục tiêu của “Đạo Đế”. Khi không có “mê tưởng tôi” thì vạn vật, vũ trụ hiện tiền là Sự Sống Thiên Nhiên đang là thực có, đang diễn biến sống động tuyệt vời theo nhân duyên.  Ba đời Như Lai cũng thực hành pháp dứt “mê tưởng tôi”, nên Như Lai đã dạy 4 đế Khổ - Tập - Diệt - Đạo và 2 lần nhấn mạnh khi mở đầu và kết thúc kinh 4 niệm xứ: "… con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh, dứt sầu não, diệt khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn, là 4 niệm xứ".

Hỏi: Trong Kinh Nikaya cũng có nói về chư thiên, quỷ thn, đây không phải là thần thoại, mơ hồ, mê tín sao?

Đáp: Như người nuôi dê bán sữa, muốn có lợi, đã pha thêm nước. Qua những giai đoạn sĩ, lẻ… đến tay người tiêu thụ thì nước nhiều hơn sữa, mà người tiêu thụ vô tư không biết… nên cần suy xét cẩn thận.

Bộ Nikaya là bộ kinh đầu tiên của Phật giáo, đây là bộ kinh đáng tin nhất. Tuy nhiên bộ kinh đã được hình thành sau đức Phật hơn 200 năm, nên xác xuất không là 100%. Lịch sử ghi nhận, ngay sau khi Như Lai nhập diệt, hơn 500 đệ tử từng sát cánh bên Ngài, họp đại hội để kết tập những gì Như Lai chỉ dạy. Những đệ tử nhắc lại từng lời,do nhân gì, Như Lai dạy ai, điều gì, ở đâu, lúc nào, với sự thảo luận cẩn thận, không để sai sót, đựợc chứng minh bởi toàn thể tăng đoàn. Những ghi nhận có thể nói là chính xác, tiếc thay, lần kết tập nầy không ghi thành văn bản.

Đại hội kết tập lần 2 khoảng 100 năm sau, và lần 3 khoảng 200 năm sau cũng diễn ra như thế, nhưng giai cấp quí tộc có nhiều thế lực, đạo Bà la môn, thờ trời, thần, đã gia nhập, thêm vào những chuyện thần thoại hiển linh, mơ hồ, xa rời thực tế: cõi trời, chư thiên, ma quỉ v.v… Điều nầy đưa đến bất hòa và phân phái trong tăng đoàn. Bộ Nikaya ra đời vào thời nầy.

Qua Tibet, China, qua 2600 năm, đạo Phật ngày nay vô cùng phức tạp… Người học đạo cần tỉnh thức cẩn thận để không lạc vào rừng “thần thoại” “mê tín” “mơ hồ”. Giáo pháp Như Lai không phủ nhận cảnh giới siêu hình,(?) nhưng không dạy dựa dẫm, cầu xin tha lực, vì Sự Sống Thiên Nhiên đồng nhất, nhưng mỗi cảnh giới có chức năng riêng, và bình đẳng. Hơn nữa, nói về những cõi trời, những thần thoại mơ hồ, hiển linh, thần thông, thần chú v.v… chỉ là những mê tưởng phóng hiện của bản ngã, không ích lợi cho mục tiêu dứt bỏ nguyên nhân của đau khổ: dính chấp “mê tưởng tôi”.

            Phật, Bồ tát dạy con người tự dứt mê tưởng, để dứt khổ. Các ngài không thể bẻ cong nhân quả, không thể ban phúc, giáng họa, không thể dứt “mê tưởng tôi” của người khác được.

Xưa nay có những vị học theo lời dạy của Như Lai, biện luận lưu loát, từ đó sinh ngã mạn, có những lời nói, cử chi thô tháo... lập giáo, phóng tác xa rời thực tế, tưởng luận thần thoại, mơ hồ, mê tín, nhưng cũng viết: “Phật thuyết.” Đây là chỗ “quá đà”, nên ngài Bodhi dharma đã từ bi dạy: “Bất lập văn tự”, không cho tiếp tục truyền y bát, và mang đi một chiếc dép? Phải chăng đây là chiếc dép “Đạo”, là pháp hành, đả bị phủ nhận!? hay "Tướng Dụng", đả bị xem là ma nên sợ bỏ!? Những ý niệm, hình ảnh ma hay Như Lai là biểu hiện của tư tưởng theo duyên nhân quả, chỉ cần tự tri, không dính chấp, khởi niệm sợ hãi, la hét, thô tháo...

Hỏi: Có vô lượng chúng sinh, căn tánh không đồng, nên có vô lượng pháp đưa đến giải thoát.  Ví như nhiều người ở quanh núí, muốn đến dỉnh núi, người phương nam phải đi hướng bắc, người phương tây phải đi hướng đông v.v… Điều nầy hợp lý, thực tê, rõ ràng. Sao nói chỉ một pháp độc nhất?

Đáp: Đây là một cái nghi, không phải của một cá nhân mà là vấn đề lớn của Phật giáo. Không phải chỉ một nghi nầy, mà còn nhiều nghi khác, đả có từ vài trăm năm sau khi Phật nhập diệt. Do nhiều nhà “luận sư” đã nhận thức khác với đức Phật, nên đã sửa sai:

- Phật dạy 3 pháp ấn “Vô thường - Khổ - Vô ngã”.  Các Tổ, luận sư thấy khác với đức Phật, nên sửa lại là “vô thường, khổ, không, vô ngã” hay “vô thường, rỗng không, vô ngã”.

- Phật dạy ta chỉ là một người chỉ đường. Các Tổ, luận sư dạy Phật là “Siêu nhân” có thần thông, biến hóa, phóng hào quang xuyên hành tinh…

- Phật dạy 4 Đế “Khổ - Tập - Diệt - Đạo” hiển bày “Nhân Quả” định luật thiên nhiên, 4 xứ là phương cách để dứt ngã. Các Tổ, luận sư dạy chỉ cần thấy “Tánh không”, ‘Tướng không”, thấy các pháp “không” là cứu cánh. Không có 4 Đế Khổ - Tập - Diệt - Đạo, không có nhân quả, nhân duyên…

- Phật dạy tất cả pháp Vô thường. Các Tổ, luận sư dạy có một pháp là “Chơn tâm” “Tánh không”, “Tướng không”, “bổn lai vô nhứt vật” là “Pháp thân” bất sanh, bất diệt, bất biến, là pháp Chơn thường..

- Phật dạy: Đạo (37 pháp) có 4 Xứ là “pháp độc nhất” đưa đến giải thoát (dứt mê tưởng tôi).  Các Tổ, luận sư dạy không phải chỉ có một pháp độc nhất, mà có 84.ooo pháp đều đưa đến giải thoát luân hồi sinh tử.

Ngoài ra các tổ, luận sư còn sửa và viết nhiều luận giải thần thoại, làm thành những bộ “kinh Đại Thừa”, nên Phật pháp ngày nay có nhiều mâu thuẫn, mơ hồ.

Trong 4 Niệm xứ đức Phật dạy nguyên nhân cốt lõi của phiền não là “mê tưởng tôi”. Con người xưa nay tự đồng hóa với “mê tưởng tôi” nên trầm luân trong bể khổ. Ví như ở trong tàu lặn dưới lòng đại dương. Con tàu dù tối tân, hiện đại, lặn 84000 hướng cũng không thể đến đỉnh núi…  Muốn đến đỉnh núi “giải thóat”, chỉ có một cách duy nhất là phải rời bỏ tàu lặn dưới lòng đại dương, là dứt “mê tưởng tôi”. Đây là điều khẳng định, là “Pháp Ấn” của Như Lai.

Hỏi: Người niệm A di đà khi vãng sanh về “Tây phương cực lạc”, người theo pháp Đại Thừa vãng sanh được pháp thân thanh tịnh, thần thông. Pháp Sự Sống Thiên nhiên Phật nói với ai, lúc nào? Vãng sanh về đâu?

Đáp: Là phật tử ắt có nghe câu chuyện đức Phật dạy về một cái cây nghiêng về đâu, khi chết sẻ ngả về đó. Người sợ hãi, tham cầu, mê tín, người tưởng tượng thần thoại mơ hồ, khi vãng sanh làm sao khác nơi nầy được? Lại nữa cái gi muốn đi vãng sanh???

Đức Phật không có nói về pháp Sự Sống Thiên Nhiên. Ngài dạy 4 Diệu Đế: Khổ - Tập - Diệt -Đạo. Trong Đạo 37 pháp có 4 Niệm Xứ là pháp tuyệt vời để dứt “mê tưởng tôi”. Khi dứt được “mê tưởng tôi” thì Thực Tại hiện tiền, đang diễn biến tuyệt vời, là Sự sống Thiên Nhiên Đồng Nhất hiện bày, là “Đại viên cảnh” là Như Lai... tìm vãng sanh đâu nửa?

Hỏi: Sự Sống Thiên Nhiên trong thực tế là gi?

Đáp: Sự Sống Thiên Nhiên là thực tại hiện tiền, là vũ trụ đang diễn biến sống động, là Lẽ Thật đang hiện bày, là Như Lai. Trong phần Đạo và Đời, có nói “Nguồn ẩm” bàng bạc khắp vũ trụ:

           - Thể trong lặng. 
           - Tánh dính, ướt. 
           - Dụng tùy duyên đáp ứng biểu hiện.
           - Tướng: đặc, lỏng, hơi, diển biến là mây, tuyết, sóng, bọt v.v…

Mê lầm, nhận một chiếc bọt làm ta, là tự tách rời, thấy có những bọt trong đục, đẹp xấu, sinh ưa ghét, quên mất tất cả chỉ là “Nguồn ẩm”.

Nguồn ẩm” ví cho Sự Sống Thiên Nhiên, muôn ức bọt bèo, tất cả hình tướng: Đặc, lỏng, hơi, suối, thác, sông, biển, ví cho chúng sinh, vạn vật. Mê tưởng tự đồng hoá thân tâm duyên hợp là “tôi”, là tự tách rời Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất, liền thấy có ta, người, vật, sinh tử v.v… Từ ngã chấp sinh cá nhân, ích kỷ, tham sân, đố kỵ, gây nhân tạo nghiệp, thọ quả báo đau khổ, quên mất Sự Sống Thiên Nhiên Thực Tại Đồng Nhất tự tại đang diễn biến tuyệt vời theo nhân duyên.

Muốn thoát khổ, bọt nước kia phải tự dứt mê lầm, tự biết những hình tướng: Đặc, lỏng, tuyết, mây, sóng, bọt v.v… là “Nguồn ẩm đang là”, mọi mê tưởng trong đục, thương ghét, thiên đàng, địa ngục của bọt đều là Nguồn ẩm tùy duyên biểu hiện vui chơi, phiền não tự biến mất. Chỉ nhận Thể trong lặng, bác bỏ Tướng Dụng của Nguồn ẩm, là hoang phí, cũng không thể được, vì Tánh Thể Tướng Dụng bất khả phân.

Tuyết, mây, sóng, bọt. Tướng hình Nguồn Ẩm. Tánh, Thể, Tướng, Dụng. Sự Sống Đồng Nhất

 “Mê tưởng tôi” tự phân biệt, ưa ghét, ham muốn, nên bất an, sân hận, sợ hãi, đau khổ. Vì sợ khổ đau, “mê tưởng tôi” tưởng về quá khứ, tưởng ra một “đấng” quyền năng, một cảnh giới một “chân không” hằng hữu bất biến để trốn tránh thực tại bất như ý.

Diệu Pháp đơn giản, nhận thức do đủ duyên Đất, Nước, Lửa, Gió tụ tán liền có Sự Sống, có Tánh, Thể, Tướng, Dụng, diễn biến là vũ trụ đang là. Nếu đủ tỉnh thức, nhận thức Sự Sống Đồng Nhất, đang diễn biến, qua thân, thọ, tâm, pháp, trong từng hơi thở, từng cử chỉ động tỉnh, từng diễn biến của cảm thọ, từng khởi động và vận hành của tư tưởng… Tỉnh thức ghi nhận Sự Sống Thực Tại Đang Là, không tác ý dính chấp là nhập pháp giới, là tự tại, thì Sự Sống tuyệt vời. Nếu chưa đủ tỉnh thức, phải ứng dụng 4 Diệu Đế, thực hành 37 trợ đạo, 4 niệm xứ, không tác ý tham sân, không tưởng luận mơ hồ, không mê tín cầu xin một cảnh giới khác, ly dục, ly ác pháp, dứt “mê tưởng tôi”. Nhận thức Sự Sống Thực Tại vô thường vô ngã làm an vui người vật, ngay đó tự tại, thanh an. Đây là điểm lợi ích thực tiễn hài hòa Đời và Đạo.

             Bài kệ tuyệt vời của Ngài Shen Hsiu nói lên ý nghĩa nầy:
            “Thân như cây Bồ Đề
            Tâm như gương hiện cảnh
            Thường tỉnh thức chăm sóc
            Không dính nhiễm bụi trần”

*Thân như cây bồ đề - Cây bồ đề chỉ sự giác ngộ rốt ráo: “Vô Ngã”, không mê tưởng thân là “tôi” riêng lẻ. Nhận thức thân vô thường, là một phần của Sự Sống Đồng Nhất, đang diển biến sống động.

*Tâm như gương hiện cảnh - Gương sáng hiện đủ cảnh vật, ảnh và gương không phải một, không phải khác. Sự Sống Đồng Nhất hàm dung Tánh Thể thấy biết lặng lẽ và Tướng Dụng đủ vạn vật, là vũ trụ xưa nay vốn tự đầy đủ.

*Thường tỉnh thức chăm sóc - Nhận thức Sự Sống Thiên Nhiên đủ vạn vật. Sự Sống và vạn vật không phải một, không phải khác. Như đầu, thân, tứ chi, tất cả tế bào là những phần tử của thân người. Như ảnh trong gương, ảnh và gương không phải một cũng không phải khác, vì chạm vào bất cứ ảnh nào cũng là chạm vào mặt gương. - Chăm sóc: làm cho tất cả hình ảnh trong gương tươi sạch, là mặt gương sáng tỏ. Vạn vật là những phần tử của Sự Sống Đồng Nhất, tùy thuận phục vụ, làm an vui người vật, là Sự Sống Thực Tại tươi vui…

*Không dính nhiễm bụi trần: Cảm nhận Sự Sống Thiên Nhiên Thực Tại Đồng Nhất, tự đầy đủ bi Trí, không dính nhiễm hiện tướng, cũng không dính nhiễm tánh thể, không lầm nhân quả, không tác ý tham sân là Chân Tịnh.

              Bồ đề là Tỉnh thức.
              Gương sáng đầy bóng hình.
              Xưa nay đủ cảnh giới.
              Tự như chẳng nhiễm, rời

Một vị thầy ở nước Việt, đã để lại 2 câu kệ, chỉ rõ Sự Sống Đồng Nhất:

“Trúc biếc, hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng thanh, mây bạc hiện toàn chân”.

Diệu Pháp là thực hành lời dạy của Như Lai, thực hành những pháp trợ đạo, tinh cần ghi nhận Sự Sống Thiên Nhiên qua: thân, thọ, tâm, pháp. Trong từng hơi thở, từng cảm thọ, từng khởi động của tư tưởng, từng biến chuyển nhỏ nhiệm của thân tâm vật cảnh, nhận biết không nhầm lẫn, tất cả hiện tướng là những chuỗi tụ tán, sinh diệt của đất nước lửa gió, không có gì là ngã riêng lẻ. Tự biết thân tâm là một phần tử của Sự Sống Thiên Nhiên, dứt bỏ những điều bất thiện, tác ý trong sạch, giới hạnh nghiêm minh. “Tỉnh thức” dứt “mê tưởng tôi”. Nhận thức Sự Sống Thiên Nhiên Đồng Nhất, tự tại thanh an, là nhập pháp giới, cung dưởng Như Lai.

Chánh Pháp khó gặp, khó hiểu, nay do duyên lành, đã gặp, đã hiểu Chánh Pháp, như đã đến trước cổng kho tàn an vui tự tại vô giá, chìa khóa trong tay, hãy tỉnh thức tinh cần thực hành để viên mãn hạnh nguyện từng vun trồng, chẳng lẽ lại tiếp tục mê lầm mê tín, phiêu lưu theo gót ưu tư phiền não?!

Pháp Như Lai: tự lực, thực tế, sáng tỏ, đơn giản và phổ thông, không có gì bí ẩn. Chớ cầu xin, mê tín, tưởng luận thần thoại, mơ hồ.

               Mười phương hồi hướng Như Lai Thế Tôn trí tuệ từ bi, nguyện cho tất cả chúng sinh tỉnh tâm sáng suốt dứt mê lầm.
HẾT