Đọc qua lời giới thiệu của HT Thích Minh Châu trong Trung Bộ Kinh, những người có tâm huyết với tiền đồ Phật giáo hiện nay không khỏi bàng hoàng khi biết kinh tạng Nikaya không phải nguyên thủy trăm phần trăm, mà chỉ “gần nguyên thủy” thôi!.. Do đó, dịch giả khuyên độc giả nên cân nhắc, bằng chính sự tìm hiểu và chứng nghiệm của bản thân để thấy “đoạn nào là thật sự nguyên thủy”. Vì “đạo Phật là đạo đến để mà thấy”, “đạo của người có mắt”. Đọc tiếp lời giới thiệu của HT Thích Minh Châu, người Phật tử lại càng bàng hoàng hơn khi biết “ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ Tiểu Thừa để gán vào những lời dạy thực sự nguyên thủy của đức Phật”… “dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn”….
Điều ngạc nhiên là những phát hiện của HT Thích Minh Châu khi dịch Đại tạng Nikaya đã xuất hiện từ thập niên 70 của thế kỷ trước, nhưng đến nay vẫn ít người biết đến… Cũng không thể trách nếu có người cho rằng Đại thừa chỉ là Bà La Môn giáo, khi mà những tư tưởng tà giáo này đã được cấy ghép từ trong trứng nước, nghĩa là từ lần kết tập đầu tiên bằng văn tự, và được bồi đắp tinh vi hơn bởi những hậu nhân… Bởi thế, Nếu có người biết gạn lọc “đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải là nguyên thuỷ” bằng chính sự chứng nghiệm bản thân mà người ấy gọi là “dựng lại chánh pháp” cũng là điều đáng trân qúy…
Dưới đây là nguyên văn đoạn trích dẫn “Lời giới thiệu” Trung Bộ Kinh của HT Thích Minh Châu:
“Chúng tôi dịch Kinh Pàli, không vì mục đích muốn ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục đích của chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những Kinh điển có thể được xem là nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dầu là Ấn Ðộ, Trung Hoa hay Việt Nam. Chúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, từ mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình tìm hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì Ðạo Phật là Ðạo đến để mà thấy chớ không phải Ðạo đến để nhờ người thấy hộ, Ðạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải Ðạo của người nhắm mắt; Ðạo của người thấy, của người biết (Passato Jànato), không phải là Ðạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm.”
“Càng dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ Tiểu Thừa để gán vào những lời dạy thực sự nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân lý, mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc đo tài của những ngọn đèn lẻ tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh đi vào con đường Triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng rực rỡ của chân lý quét sạch.”
Gần đây có dư luận cho rằng quý Tôn túc, Hòa thượng phản đối “Lời giới thiệu” vì nó “chứa đựng nhiều sai lầm”!?... Bản thân HT Thích Minh Châu cũng đã “nhận sai lầm” và tuyên bố từ bỏ “Lời giới thiệu” nêu trên?!!! Thậm chí có độc giả còn cương quyết đòi Ban biên tập Thư Viện Hoa Sen xóa bỏ “Lời giới thiệu” đang được đăng trên website này… http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-471_5-50_6-1_17-35_14-1_15-1/
Điều lạ là một sự kiện lớn như thế mà người ta chỉ “rỉ tai”, “nghe nói” thôi! chứ không tổ chức những cuộc hội thảo, công khai minh bạch để rộng đường dư luận…
Một điều tế nhị là đa số qúy Tôn đều dịch Đại tạng từ Hán tạng A-hàm. Chỉ duy nhất mỗi mình HT Thích Minh Châu là dịch từ tạng Pali. Trong qúa trình dịch thuật, HT Minh Châu thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa hai tạng này. Nếu tạng Pali mà còn chỉ “gần nguyên thủy” thôi, chứ chưa phải “nguyên thủy” trăm phần trăm, thì Hán tạng A-hàm còn xa đến cỡ nào?... Chính cái khoảng cách này là đất dụng võ cho các tư tưởng tà giáo… Một vấn đề tế nhị có thể bộc phát thành sự kiện “rỉ tai”, “nghe nói” trong dư luận cũng là điều dễ hiểu…
Thiết tưởng, một cuộc hội thảo nằm trong tầm tay qúy ngài, sao qúy ngài không tổ chức để tham khảo ý kiến của các thức giả, mà chỉ vận động hành lang, tạo áp lực buộc HT Thích Minh Châu phải từ bỏ đưa con tinh thần của mình…
Riêng đối với chúng tôi. HT Thích Minh Châu không chỉ là một cao tăng, Ngài còn là một thức giả, một trí giả, một học giả uyên thâm với học hàm Giáo sư và học vị Tiến sĩ… Công trình dịch thuật tạng kinh Pali thành Đại Tạng Kinh Việt Nam không chỉ có ý nghĩa về mặt tôn giáo, nó còn có ý nghĩa rất lớn đối với nhiều ngành học thuật khác như văn hóa, chính trị, xã hội, văn học, triết học cổ đại Ấn Độ… Vì thế công trình dịch thuật của Ngài không dành riêng cho Phật giáo mà còn là một tài liệu tham khảo quan trọng cho những người làm công tác khoa học, đặc biệt đối với khoa học xã hội nhân văn... Với một bậc Thiện tri thức như thế, chẳng lẽ lại thiếu trách nhiệm trước những gì mình đã nói, đã viết... Nếu thực sự Ngài đã rút lại "lời giới thiệu" của mình, bất kể lý do nào, tự thân Ngài cảm thấy mình đã viết sai, hay vì áp lực của một thế lực nào đó mà ngài đã khước từ những gì mình đã viết, thì không chỉ cá nhân tôi, mà nhiều Phật tử khác cũng sẵn sàng rút lại hai chữ “kính trọng” dành cho ngài từ trước đến nay…
Trong quyển sách “Đối thoại với thầy Thích Thông Lạc” của Tỳ-kheo Thích Nguyên Hải. Tác giả đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Thầy Thông Lạc tự ý cắt xén kinh tạng Nikaya”… Luận điệu xuyên tạc, vu khống này của tác giả đã được nhiều người phụ họa trên diễn đàn Thư Viện Hoa Sen… Độc giả Minh Trí đã có ý kiến phản hồi như sau:
“Thầy Thông Lạc không hề dịch kinh Nikaya, nên không có chuyện ‘tự ý cắt xén’. Nếu có một vị thầy nào đó rút trích ra những đoạn có liên quan đến pháp hành mà vị thấy ấy đang dạy, có thể gọi là ‘tự ý cắt xét’ được không?... Kinh tạng do HT Minh Châu dịch vẫn còn nguyên vẹn chưa mất chữ nào… Nếu thầy TL có trích ra những đoạn phù hợp với pháp hành do chính Đức Thế Tôn đã chứng và trú sau 49 ngày dưới cội bồ đề, mà quý vị cho rằng: ‘là nguyên nhân chính làm cho những lời Đức Phật dạy về đạo giải thoát khỏi sanh tử luân hồi bị tiêu diệt khỏi hành tinh này’… thì Minh Trí tôi xin bái phục về sự tưởng tượng qúa phong phú của quý vị…
Xin nhắc lại: Thầy TL không hề dịch kinh Nikaya nên không thể có chuyện ‘tự ý cắt xén’ và Đại tạng kinh Việt Nam vẫn còn nguyên vẹn chưa mất một chữ nào, kể cả ‘Lời giới thiệu’ Trung bộ của Dịch giả Thích Minh Châu…
Nhân đây cũng xin nêu lên một trường hợp để độc giả cùng nghiên cứu. Mời qúy độc giả đọc hai bản kinh dưới đây để so sánh, đối chiếu.
- Kinh Quán Niệm Hơi Thở. Bản dịch của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
http://langmai.org/tang-kinh-cac/kinh-van/kinh-van/kinh-quan-niem-hoi-tho
- Trung bộ kinh 118. Nhập tức Xuất tức niệm (Anàpànasati sutta) Bản dịch của HT.Thích Minh Châu.
Đọc kỹ, so sánh, đối chiếu. Minh Trí tôi không dám nói chuyện ‘tự ý cắt xén’ lới Phật dạy của TS Nhất Hạnh. Nhưng nếu bản dịch của HT Minh Châu gần với Nguyên thủy nhất, thì bản dịch của TS Nhất Hạnh với những từ ngữ rất ‘tiếp hiện’. Và dĩ nhiên phải như thế Ngài mới có thể chế tác và dạy pháp ‘Hít vào tâm tĩnh lặng. Thở ra miệng mỉm cười’. Môt pháp môn rất xa lạ so với những gì Thế Tôn dạy trong bản dịch của HT.Thích Minh Châu…
Nếu quý vị nghiên cứu kỹ kinh này, cùng với các kinh ‘Tứ Niệm Xứ’, kinh ‘Thân hành niệm’… qúy vị sẽ thấy các Thầy Tổ Đại thừa và Nam tông khi chế tác các lộ trình pháp hành, các ngài đã ra sức cắt xén, uốn nắn, vặn vẹo lời Thế tôn dạy sao cho phù hợp với pháp môn tưởng giải do các ngài chế tác. ‘Hít vào tâm tĩnh lặng. Thở ra miệng mỉm cười’ là một ví dụ điển hình…”
Theo đường link của Minh Trí: http://langmai.org/tangkinh-cac/kinh-van/kinh-van/kinh-quan-niem-hoi-tho . Tôi đã tìm đọc Kinh Quán Niệm Hơi Thở. Bản dịch của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Tôi thấy độc giả Minh Trí đã nhận định rất đắt:
"...Nếu bản dịch của HT Minh Châu gần với Nguyên thủy nhất, thì bản dịch của TS Nhất Hạnh với những từ ngữ rất ‘tiếp hiện’. Và dĩ nhiên phải như thế Ngài mới có thể chế tác và dạy pháp ‘Hít vào tâm tĩnh lặng Thở ra miệng mỉm cười’. Môt pháp môn rất xa lạ so với những gì Thế Tôn dạy trong bản dịch của HT.Thích Minh Châu… Nếu quý vị nghiên cứu kỹ kinh này, cùng với các kinh ‘Tứ Niệm Xứ’, kinh ‘Thân hành niệm’… qúy vị sẽ thấy các Thầy Tổ Đại thừa và Nam tông khi chế tác các lộ trình pháp hành, các ngài đã ra sức cắt xén, uốn nắn, vặn vẹo lời Thế tôn dạy sao cho phù hợp với pháp môn tưởng giải do các ngài chế tác. ‘Hít vào tâm tĩnh lặng. Thở ra miệng mỉm cười’ là một ví dụ điển hình…"
Điều này càng rõ ràng hơn khi nghe lời giải thích về “THIỀN ÔM” của hai thầy Pháp Dụng và Pháp Dung: "... khi ôm một người thương, thở vào thở ra ba hơi trong chánh niệm, chúng ta cũng đồng thời ôm lấy tất cả những người thương, và tất cả những người đã có gây đau khổ cho ta, hóa giải tất cả khổ đau còn tồn tại và làm lớn mạnh tâm từ bi trong ta..." (http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-133_5-50_6-1_14-1_17-9_4-6493_15-1/)
Thực tập "thiền ôm" tại Làng Mai
Bất kỳ người nào nghiên cứu giáo pháp Nguyên thủy của Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni đều biết: Tu tập định niệm hơi thở ra, hơi thở vào, khéo tác ý, sẽ làm sung mãn Chánh niệm, tức sung mãn bốn niệm thân; thọ; tâm; pháp, với mục đích duy nhất: “chế ngự tham ưu”. Đây là tiền đề cần và đủ để đến chỗ chứng đạo trong vòng bảy ngày. Nhưng với một điều kiện: hành giả phải từ THIỀN TỊNH ĐỘC CƯ đi đến một khu rừng, một gốc cây, hay một ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra... Chứ không phải đi tìm "người thương" mà "ôm", rồi thở khì khì ba hơi mà gọi là "hít thở trong chánh niệm!".
Bí quyết thành công đi đến mục tiêu cuối cùng CHỨNG ĐẠO là giữ hạnh ĐỘC CƯ. Nhờ thế mà các kiết sử và triền cái muội lược dần. Mục tiêu Chứng đạo trong vòng 7 ngày là hoàn toàn khả thi. Đây là CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT mà Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni đã khẳng định... Rất tiếc hiện nay, nhiều Giảng sư giảng Tứ Niệm Xứ, họ thao thao bất tuyệt, nhưng đến chỗ “BẢY NGÀY CHỨNG ĐẠO” và “CON ĐƯỢC ĐỘC NHẤT” thì lại ú ớ, lập luận qua loa, hoặc tránh né… Định niệm hơi thở ra, hơi thở vào nếu tu tập đúng cách sẽ “có quả lớn, có lợi ích lớn” (Tương Ưng V.54.8) là như thế… Đi tìm "người thương" để "ôm" rồi hít thở 3 hơi!?... Và dù "người thương" đó là ai thì cũng đều là ác pháp, làm tăng trưởng ái kiết sử... Như thế cũng gọi là "thiền", là "an trú chánh niệm" được sao?...
Độc giả Minh Trí nhận định rất chính xác rằng: "...Thầy Tổ Đại thừa và Nam tông khi chế tác các lộ trình pháp hành, các ngài đã ra sức cắt xén, uốn nắn, vặn vẹo lời Thế tôn dạy sao cho phù hợp với pháp môn tưởng giải do các ngài chế tác..."
TS Nhất Hạnh đã dịch kinh Quán Niệm Hơi Thở bằng văn phong "tiếp hiện", vặn vẹo lời dạy của Thế tôn sao cho phù hợp với pháp môn "thiền ôm" của giáo phái Làng Mai. Trong trường hợp này, nếu tôi có mượn lời Trưởng lão Thích Thông Lạc để nói: dạy thiền kiểu ấy là “giết người không cần gươm đao”, “vọng tưởng điên khùng”, “làm một nghề bất lương”, "là một con rắn độc” v.v... cũng chẳng thể bù đắp được những thiệt thòi mà giáo pháp Nguyên thủy của Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni phải gánh chịu do sự "phát triển liên tục" của Đại thừa Phát triển...
Trở lại với chuyện “tự ý cắt xén kinh điển”. Trưởng lão Thích Thông Lạc có tự ý cắt xén kinh điển hay không? Trên diễn đàn Thư Viện Hoa sen đã bàn nhiều rồi! kẻ nói “có”! người nói “không”!... Tôi có bàn thêm cũng thừa… Nhưng ở đây, tôi muốn nói cách đặt vấn đề của thầy Nguyên Hải, và những người đang phụ họa với thầy. Họ đã cố tình dựng chuyện “cắt xén kinh điển”, xuyên tạc, vu khống Trưởng lão Thích Thông Lạc bằng những lý luận rất kém thuyết phục…
Độc giả Minh Trí đặt vấn đề khá hơn: “Nếu có một vị thầy nào đó rút trích ra những đoạn có liên quan đến pháp hành mà vị thấy ấy đang dạy, có thể gọi là ‘tự ý cắt xét’ được không?”
Đây là một câu hỏi, nhưng lại mang tính khẳng định, dùng làm phản đề đối với quan điểm của thầy Nguyên Hải. Nếu thầy Nguyên Hải khư khư giữ lấy quan điểm của mình, thì không chỉ Trưởng lão Thích Thông Lạc, mà nhiều vị Cao tăng hiện nay cũng phải “tự ý cắt xén” lời Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni dạy trong Đại tạng mới có thể phù hợp với pháp môn mà các vị ấy đang dạy.
Trường hợp TS Nhất Hạnh nêu trên là một ví dụ điển hình. HT Thanh Từ cũng không thể tránh khỏi chuyện này. Khi Ngài dạy pháp môn “Biết vọng”, Ngài đã lấy bài kinh “Có Pháp Môn Nào” để chứng minh pháp môn “Biết vọng” của Ngài cũng có nguồn gốc từ Nguyên thủy. Nhưng toàn bài kinh không hề có từ “Biết vọng”, buộc Ngài phải giảng theo kiểu cưỡng từ đoạt lý để đạt được mục đích của mình, và nghĩ rằng “biết vọng liền buông” của Ngài ngang với Thiền thứ tư trong bốn thiền mà Thế tôn đã chứng và trú dưới cội bồ đề năm xưa…
Cả thầy Thanh Từ lẫn thầy Nhất Hạnh, không chỉ tự ý cắt xén (hiểu theo cách của thầy Nguyên Hải), mà còn uốn éo vặn vẹo chữ nghĩa trong kinh điển (nói theo cách của đạo hữu Minh Trí)... Có như thế thì pháp môn mà họ đang dạy mới có thể phù hợp với lời Phật dạy !???
Còn một cái phao nữa mà thầy Nguyên Hải và nhưng người cùng phụ họa với thầy trên diễn đàn Thư Viện Hoa Sen cố bám vào để kết án Trưởng lão Thích Thông Lạc “cắt xén kinh điễn”. Đó là các vị Cổ Phật xuất hiện cách thời Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni nhiều kiếp kiếp kiếp về trước… Bạn Như Không đã viết trên diễn đàn Thư Viện Hoa Sen: “Ngoài ra các Đức Phật quá khứ trong kinh Nikaya đã dạy, như các Đức Phật Tỳ Bà Thi, v.v… cũng bị thầy Lạc phản đối và cho rằng không có thật nên thầy Lạc đã hủy bỏ, thì đó không phải là ‘tự ý cắt xén’ theo quan điểm của thầy Lạc thì là gì?... quý độc giả thấy đây có phải là ‘Phật pháp nguyên thủy’ theo quan điểm riêng của thầy Lạc không?”.
Họ đã quá lú lẫn! “Phật pháp Nguyên thủy” ở đây chính là Pháp mà Phật Thích-ca Mâu-ni đã chứng đắc và Ngài đã dạy cho người cùng thời Pháp ấy. Đó chính là Pháp Tứ Thánh Đế… Nếu ngày nay chúng ta cũng tu học Pháp ấy, không phải chúng ta đang tu học Phật pháp Nguyên thủy sao? Còn nếu lôi cả Đức Phật Tỳ-bà-thi vào mới được gọi là “Phật pháp Nguyên thủy”, vậy xin hỏi thầy Nguyên Hải: Phật Tỳ-bà-thi tu pháp môn gì để thành đạo? Ngài đã dạy pháp ấy như thế nào?... Không thể có một thứ “phật pháp” nào mà người tu học không biết gì về “phật pháp” ấy! ... Loại bỏ một vị Cổ Phật từ nhiều kiếp kiếp kiếp trước vì không biết vị Phật ấy tu pháp gì? dạy pháp gì? ra khỏi đời sống hành trì của một Hành giả, không thể “làm cho Phật giáo biến mất khỏi hành tinh này” như Tỳ-kheo Thích Nguyên Hải đã cường điệu hóa vấn đề, nhằm đạt được mục đích vu không, xuyên tạc lời dạy của Trưởng lão Thích Thông Lạc…
Bạn Như Không cùng phụ họa với thầy Thích Nguyên Hải đòi chứng minh: “trích trong sách nào của học giả nào, của nhà khảo cổ nào?” nếu muốn loại bỏ các vị Cổ Phật như Đức Phật Tỳ-bà-thi…
Thầy Nguyên Hải và bạn Như Không tỉnh táo lại chút đi! Vấn đề này các học giả không đủ thẩm quyền chứng minh, mà thẩm quyền thuộc về các Hành giả. Nhưng để chìu ý Như Không, tôi xin giới thiệu với quý vị một học giả có đến hai bằng Tiến sĩ: TT Thích Nhật Từ. Một tu sĩ trí thức trẻ rất nỗi tiếng. Thành viên Ban biên tập Đại tạng Kinh Việt Nam. Thầy Nhật Từ đã có một đề nghị gây sốc: Loại bỏ kinh Địa Tạng, Dược Sư ra khỏi Đại Tạng…
Loại bỏ một vị Cổ Phật như Phật Tỳ-bà-thi ra khỏi đời sống hành trì của một Hành giả, chắc chắn không ảnh hưởng đến ai. Điều này dễ hiểu vì hiện nay chẳng có một tông phái nào tu theo pháp môn Tỳ-bà-thi, chẳng có một Phật tử nào trì danh niệm danh hiệu Ngài, cúng bái lễ lạy Ngài… Ngược lại, đối với Phật Dược Sư, Địa Tạng, các ngài hiện là chỗ dựa tinh thần của nhiều thiện nam tín nữ… Loại bỏ kinh sách về các Ngài liệu rằng “đạo Phật có bị biến mất khỏi hành tinh này” như thầy Nguyên Hải, và những người phụ họa với thầy trên diễn đàn Thư Viện Hoa Sen đã khẳng định không nhỉ?!...
(Bài này được viết nhân đọc phản hồi của bạn Như Không trên Thư Viện Hoa Sen, nhắc lại phê phán của Thầy Nguyên Hải: Thầy Thông Lạc cho rằng “Đại thừa là Bà-la-môn giáo”?…)
Nếu nói “Đại thừa là Bà-la-môn giáo”. Thế thì có gì lạ?
Đây là nói về hiện tượng, là sự biến thái tiệm tiến, là hòa để hóa trong điều kiện khả thể, là lưu danh nhưng chất đã biến bởi các yếu tố ngoại lai… v.v…
Đại thừa đã bị Bà-la-môn hóa từ hai ngàn năm trước bởi các Luận sư tân tòng. Chuyện ấy xưa rồi! Có chuyện mới hơn có lẽ nhiều người chưa biết! Đại thừa ngày nay đang bị Ki-tô giáo hóa. Không phải bởi các thế lực bên ngoài, mà chính nội tại của cái gọi là "phát triển"... Tự thân Đại thừa với thuộc tính "phát triển" đã và đang được kích hoạt bởi những Tăng nhân mới, siêu xuất hơn các Luận sư tân tòng năm xưa...
Chứng minh: Tại Làng Mai. TS Nhất Hạnh đã từng tổ chức mừng Noel, có bánh Giáng sinh với chữ Merry Christmas rất đẹp. Tổ chức văn nghệ, diễn kịch mừng Chúa Giê-su Hài đồng và hát Thánh caSilent Night (Đêm Thánh Vô Cùng) của Ki-tô giáo do chính các Sư cô, Sư thầy trình diễn, cùng với các pháp thoại chủ đề "Chúa Phật là anh em".... Đến Tết âm lịch, Làng Mai cũng không quên thiết lập "bàn thờ Tổ thiết trí chân dung Chúa Ki-tô" cho các thiền sinh lễ bái... Chẳng trách những nhà nghiên cứu về tôn giáo trên trang nhà Giao Điểm nhận định: Ngài đã từng bước "Ki-tô giáo hóa Phật giáo", và không ngần ngại gọi Ngài một cách châm biếm: "LINH-MỤC-SƯ THÍCH NHẤT HẠNH"...
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời - Bình an dưới thế cho người Làng Mai
Chương 4 của cuốn “Living Buddha, Living Christ” qua bản dịch của Chân Văn trên báo Người Việt, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết:
“ - Đức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng Đế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống.
- Tôi thấy chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài.
- Trong nhãn quan Phật Giáo, ai không phải là con của Thượng đế?
- Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa khi một người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng Đế và con của Người. Chúng ta cũng là con của Thượng Đế và của song thân chúng ta.
- Nơi duy nhất chúng ta có thể tiếp xúc với Giêsu và Nước Chúa là ở trong nội tâm mình.
- Khi chúng ta theo dõi và tiếp xúc một cách sâu sắc với cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu,
- Chúng ta có thể thâm nhập vào sự thật của Thượng Đế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao dung, là những biểu hiện của cuộc đời Chúa Giêsu. Thượng Đế xuất hiện với chúng ta qua Giêsu Ki Tô. Với Thánh Linh và Nước Chúa ở trong Ngài....”
sách “Living Buddha, Living Christ”
Nếu sự kiện này cứ diễn biến âm thầm lặng lẽ, chẳng có một phê phán nào, và tông phái Làng Mai ngày càng mạnh, ảnh hưởng lớn đến Phật giáo Đại thừa. Dĩ nhiên cùng với thời gian, Đại thừa Phát triển sẽ "phát triển" thêm một bước cao hơn nữa là vươn lên đến Thiên Chúa quyền năng của Ki-tô giáo! Một vị Cổ Phật tự thân đã là Phật từ vô lượng kiếp! Đã ứng thân thành Bồ-tát Giê-su sau Phật Thích-ca 500 năm! Và đã từng thị hiện tại Làng Mai !?...
Trên trang nhà Thư Viện Hoa Sen, Một số tác giả, trong đó có Tỳ-kheo Thích Nguyên Hải, đã phản đối Trưởng lão Thích Thông Lạc khi Ngài cho rằng“Đại thừa là Bà-la-môn”… Họ phản ứng theo kiểu Pavlov, không cần tìm hiểu những phân tích logic về sự thật lịch sử này!.. Bà-la-môn hóa đạo Phật trong điều kiện liệt kháng của các bộ phái thời kì sơ khai, dưới sự lèo lái tài tình của các Luận sư tân tòng, đã sản sinh ra một thứ tôn giáo mới: Đại thừa Phát triển. Tôn giáo này được khoác kín bên ngoài lớp vỏ Phật giáo, đến nỗi ngày nay không ai nhận ra phần lõi bên trong đã quá xa rời với giáo nghĩa Nguyên thủy, mặc nhiên xem nó là sự truyền thừa từ chính Đức Thích-ca Mâu-ni?!…
Các tác giả chống đối không nhận ra sự kiện“Bà-la-môn hóa đạo Phật” ngày xưa đã đành, chuyện “Ki-tô giáo hóa đạo Phật” ngày nay họ cũng mù mờ chẳng rõ, ngơ ngác trước những gì đang diễn ra tại Làng Mai…
Sẽ có người phản đối cho rằng, không thể lấy một hiện tượng riêng lẻ như ở Làng Mai để tổng quát hóa vấn đề “Phật giáo đang bị Ki-tô giáo hóa”!… Người viết bài này xin thưa: đây không phải là hiện tượng cá biệt, mà là hiện tượng rất phổ biến nằm trong sách lược “Hội nhập văn hóa” và “Đối thoại liên tôn” của Vatican... Vấn đề này đã được các tác giả Trần Chung Ngọc, Ngô Triệu Lịch, Charlie Nguyen, Hồng Quang, Nguyễn Mạnh Quang… trình bày một cách có hệ thống trên các trang nhà Sách Hiếm, Giao Điểm…
Nhân đây, xin nêu lên một trường hợp để qúy Phật tử cùng suy gẫm: Tự thân việc thuyết giảng của Sư cô Thích nữ Hương Nhũ, giảng viên Học viện PGVN về đề tài “Hơi thở nhiệm mầu”, theo lời mời của Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Tp.HCM (19/03/2011) là rất bình thường. Nhưng Sư cô không thể ngờ rằng mình đã rơi vào chiếc bẫy “đối thoại liên tôn” mà họ đã dựng sẵn. Bài tường thuật sau đó của Linh mục Tạ Ân Phúc đã hướng độc giả vào một luận điểm: Thiền của Phật giáo là do Thiên Chúa của Ki-tô giáo ban cho… Bài này đã nhận được sự phản biện của Cư sĩ Minh Thạnh (phattuvietnam.net), Tiến sĩ Hồng Quang và Giáo sư Trần Chung Ngọc (giaodiemonline.com).
Sư cô Thích nữ Hương Nhũ tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Tp.HCM (19/03/2011)
Chiếc bẫy “Đối thoại liên tôn” của Vatican sẵn sàng sập xuống trước bất kì con mồi ngu ngơ nào…“Hội nhập văn hóa” là phương tiện hữu hiệu thực hiện mục tiêu “HÒA” để “HÓA” trong điều kiện khả thể… Tác phẩm “Ki-tô giáo dưới mắt một Phật tử” là một ví dụ điển hình. Bản dịch Việt ngữ từ tiếng Pháp của hai Linh mục người Việt là Nguyễn Văn Tùng và Nguyễn Bá Tùng từ nguyên tác Un Bouddhiste Dit Le Christianisme Aux Bouddhistes của Linh mục Edmond Pezet. Sách được Hội Đồng Giáo Hoàng Phụ Trách Đối Thoại Liên Tôn của Vatican bảo trợ. Bản Việt ngữ do Đức Ông Phil. Trần Văn Hoài viết lời giới thiệu. “Lời Bạt” cuối sách của Linh mục Dom Pierre Massein lại là phần quan trọng nhất phục vụ chủ trương “Đôi thoại liên tôn” của Vatican.
Bìa sách "Un Bouddhiste Dit Le Christianisme Aux Bouddhistes" và bản dịch “Ki-tô giáo dưới mắt một Phật tử”
Khi Phê bình Trưởng lão Thích Thông Lạc phủ nhận thế giới siêu hình, không hiểu kinh tạng Nikaya! Tỳ-kheo Thích Nguyên Hải, tác giả sách “Đối thoại với thầy Thích Thông Lạc” đã chép lại một bài kinh ngắn dưới đây để chứng minh:
(III) (Ud 80): Này các Tỷ-kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thì ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.”
Chúng ta không ngờ rằng, Linh mục Dom Pierre Massein, người viết “Lời Bạt” cho tác phẩm nêu trên, cũng đã dịch kinh này ra nhiều ngôn ngữ Tây phương để phổ biến trong thế giới Ki-tô giáo, nhằm chứng minh cái mà Thần học Ki-tô giáo gọi là“Thực Tại Tối Hậu”, tức Thiên Chúa của họ, cũng hiện hữu trong tâm tư Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni từ hơn 2500 năm về trước. Bản kinh được Linh mục Nguyễn Bá Tùng chuyển sang Việt ngữ như sau:
“Có một điều không thụ sinh, không thụ phát, không thụ tạo, không thụ tướng. Nếu không có điều không thụ sinh, không thụ phát, không thụ tạo, không thụ tướng thì việc hình thành thế giới thụ sinh, thụ phát, thụ tạo, thụ tướng không thể có được. Nhưng bởi vì có một điều không thụ sinh, không thụ phát, không thụ tạo, không thụ tướng, cho nên nó có thể thoát khỏi thế giới của điều thụ sinh, thụ phát, thụ tạo, thụ tướng.”(Udàna III).
Nếu Thầy Thích Nguyên Hải dùng bài kinh trên để phê phán Trưởng lão Thích Thông Lạc phủ nhận thế giới siêu hình. Cũng có nghĩa là Thầy đã đồng ý với Linh mục Dom Pierre Massein về một luận điểm Thần học cho rằng: toàn thể vũ trụ đều là vật thụ sinh thụ tạo, chỉ có Thiên Chúa của Ki-tô giáo là đấng duy nhất tự hữu, hằng có đời đời. Nếu không có Ngài thì không thể có bất cứ một vật gì được “thụ sinh, thụ phát, thụ tạo, thụ tướng”…
Trở lại với chuyện của Làng Mai… Tự thân Đại thừa với thuộc tính “Phát triển” đã trở thành đất dụng võ cho ngoại giáo. Tuy nhiên, những yếu tố từ bên ngoài tác động vào không đáng ngại bằng chính sự “bùng nổ” từ phía bên trong, được kích hoạt bởi những cao tăng có danh, có thế, có lực như Thiền sư Thích Nhất Hạnh…
Người viết bài này xin mượn lại một đoạn mà tác giả Thích Nguyên Hải đã trích dẫn lại trong bài giảng“Làm Chủ Sanh Già Bệnh Chết” của Trưởng lão Thích Thông Lạc. Chỉ xin phép Trưởng lão được thay 3 chữ cuối cùng: “Bà-la-môn” bằng “Ki-tô giáo”, nhằm phản ánh đúng thực trạng hiện nay của Tông phái Làng Mai:
“Chính các tu sĩ Phật Giáo hiện giờ, họ cũng đang lầm chính họ, họ tưởng họ là tu sĩ Phật Giáo, nhưng sự thật họ là những tu sĩ Ki-tô giáo.”... (Trích bài giảng: Làm Chủ Sanh Già Bệnh Chết)
Đại thừa là Bà-la-môn hay Đại thừa là Ki-tô giáo! Có gì khác lạ đâu!?...
Cập nhật ngày : 30.07.2012 | |||
Là Phật tử, đương nhiên phải giữ giới, chí ít là năm giới của cư sĩ, dĩ nhiên chay tịnh là điều không cần phải bàn cải. Thực tế ngày nay, chay tịnh đã vượt ra khỏi ranh giới đạo Phật, khi nhiều tổ chức khoa học uy tín xác nhận ăn chay chẳng những vô hại mà còn có lợi cho sức khoẻ… Ăn chay ngày nay đã trở thành “mốt”, nó phục vụ đông đảo quần chúng thuộc nhiều đối tượng khác nhau, từ những người mẫu, ca sĩ, thí sinh hoa hậu cần giữ co, giữ eo, đến những người bị chứng béo phì muốn giảm cân. Ngoài ra, còn phải kể đến các Linh mục Công giáo, họ ăn chay theo kiểu Phật giáo một cách rất “hồn nhiên” theo cách nói của các tác giả trên conggiaovietnam.net, với mục đích rõ ràng, thực hiện “hội nhập văn hóa” để “đối thoại liên tôn” theo chủ trương của Vatican. Có người còn tích cực hơn với gạo lức muối mè theo thực đơn số 7 như Linh mục thi sĩ Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh… Do xã hội thực sự có “cầu”, nên “cung” cũng được đáp ứng nhanh chóng bởi sự bén nhạy của các doanh nghiệp, hàng loạt các công ty cung cấp thực phẩm chay ra đời, nhiều nhà hàng chay được mở ra chào đón khách với những món “chay qúy tộc” mà giá thành có thể mắc gấp đôi so với các món mặn khác… Đối với Phật tử, thực dưỡng Osawa là một lựa chọn đúng đắn, vừa tiết kiệm ngân qũy gia đình, vừa phòng chống bệnh tật, giúp cơ thể khoẻ mạnh để có thể thăng tiến tu học. Phương pháp dưỡng sinh Osawa được biết đến từ thập niên 60 dựa trên căn bản quân bình âm dương của thực phẩm… Bẵng đi một thời gian khá lâu, đến nay phong trào rộ nở mà công đầu thuộc về một nhà sư trẻ, một trong những đệ tử xuất chúng của HT Thích Thanh Từ: Đại đức TTH... Từ đó, tài liệu, băng đĩa được phát hành phục vụ cộng đồng, không chỉ trong nước mà còn được đồng bào người Việt hải ngoại đón chào nồng nhiệt. Tuy nhiên, do nhận thức “từ lâu người ta chỉ chú trọng đến mặt dưỡng sinh để trị bệnh mà không quan tâm đến khía cạnh tâm linh”, nên thầy TTH đã đặt trọng tâm nghiên cứu thực dưỡng Osawa trên khía cạnh này. Điều đó không có gì sai trái. Rất tiếc, thầy lại qúa sa đà vào lý thuyết âm dương, mà quên đi đối tượng chính của mình là các Phật tử, những người tin lời Đức Phật dạy: con người sinh ra trong nhân quả, sống trong nhân qủa và chết đi trong nhân quả… Thay vì lấy “nhân qủa”làm nhân cho phương pháp luận của mình, thầy lại chọn “âm dương”, một học thuyết phi Phật giáo. Dưới đây là vài nhận định. Nếu nói rằng: Đức Phật hiểu thấu nguyên lý âm dương, bằng chứng khi Ngài dạy nằm thế Kiết Tường, đầu phải quay về hướng bắc, chân xuôi hướng nam, mặt xoay hướng tây lưng dựa hướng đông… Ngài đã nắm vững quy luật âm dương trong thế nằm Kiết Tường, nhưng “Ngài không nói ra”! Thầy TTH lập luận như thế chẳng khác mấy so với lập luận của Linh mục Cao Phương Kỷ về cái gọi là “tinh thần biện chứng của cây thánh giá”, với trục tung vươn lên tận trời, trục hoành vươn dài về hai phía đến vô tận. Với hàm ý, Giêsu cũng thấu suốt tất cả những vấn đề về triết học và toán học, nhưng Ngài cũng “không nói ra”!?... Tôi chợt nhớ lời một vị Tôn túc đáng kính: Người ta đã đặt vào miệng Phật những điều Phật không nói. Qủa vậy! những lời Phật chưa hề nói mà dám gán cho “Phật thuyết”, huống hồ là thế giới siêu tưởng, sản phẩm của tưởng tri, tưởng giải, cũng gán cho Phật đã biết, đã chứng. Đây chính là điều Đức Phật đã cảnh báo trong Kinh Tăng Chi I (Anguttara Nikàya). Phẩm Người Ngu: “Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói, không thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai có nói, có thuyết. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai.”… Đã có qúa nhiều thân tầm gửi sống bám trên cơ thể Phật giáo. Mạt pháp chính là chỗ ấy… Ngoại trừ Tuệ Tam Minh, với trí tuệ phàm phu của chúng ta hiện nay, khó có thể kiểm chứng sự lạc dẫn mà người ta cố tình gán cho “Phật thuyết”, nhằm làm chệch hướng lộ trình giải thoát mà Đức Thích Ca Mâu Ni đã phát hiện sau bốn mưới chín ngày dưới cội bồ đề… Tôi không biết Chúa Giêsu có hiểu biết về toán học và triết học hay không? Nhưng tôi dám khẳng định Đức Thích Ca Mâu Ni, với trí tuệ Tam Minh, nếu Ngài muốn biết bất kỳ vấn đề gì thì Ngài sẽ biết. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề Ngài không cần biết, vì nó không mang lại lợi ích cho mục tiêu giải thoát của chúng sanh… Chính vì thế Ngài luôn nhắc nhở: những gì cần biết phải biết, những gì cần tu học phải tu học… Điều đó có nghĩa là nếu quy luật âm dương, ngũ hành không phải là pháp môn giải thoát, Ngài sẽ không biết và không cần biết… Theo quan kiến của cá nhân tôi, lý thuyết âm dương chỉ có giá trị tương đối, không có một tiêu chuẩn nào để thẩm định một vật là âm hay dương… Hiểu biết về âm dương cho đến nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi giữa những nhà Dịch học. Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”. Nhưng hiện nay, người ta vô tình hay hữu ý tầm thường hóa chân lý ấy. Chữ “khổ” trên cửa miệng của nhiều người đã trở thành câu chuyện nhàm chán: “khổ lắm… biết rồi… nói mãi…”. Người ta đã tầm thường hóa, dung tục hóa, bi hài hóa một chân lý dưới nhiều hình thức như văn chương, thi ca, kịch nghệ kiểu “chuyện tình Lan và Điệp”, nhằm khỏa lấp khoảng trống vô vị của cuộc đời… Thậm chí có vị Thiền sư thời danh đã dạy Phật tử: con người có sẵn sự an lạc mà không chịu hưởng, lại đi nhận nghiệp, nhận khổ. Vị Thiền sư này khẳng định: bên cạnh cái “khổ” của Tứ đế còn có cái “lạc”. Ngài còn dạy cách “chế tác lạc” nhằm đối trị “khổ”!?... Ngài quên rằng Thế Tôn chỉ dạy “Khổ thánh đế”. Thế Tôn không bao giờ chế tác “lạc thánh đế”!... Đức Phật dạy: đời là bể khổ, không có khổ chắc chắn không có đạo Phật. Không có khổ chắc chắn Thái tử Tất Đạt Đa đã kế nghiệp vua cha cai trị sơn hà xã tắc của Ngài, chứ không trở thành Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni tôn kính của chúng ta ngày nay. Nhưng vì có khổ, khổ là một sự thật hiển nhiên của mỗi con người cụ thể, không mơ hồ, trừu tượng. Nhận thức rõ ràng điều đó nên Ngài đã bỏ cung vàng điện ngọc ra đi với mục đích duy nhất, giải quyết rốt ráo vấn nạn này và Ngài đã thành công. Vì thế, bài pháp đầu tiên Ngài giảng cho năm anh em ông Kiều Trần Như là Tứ Thánh Đế, đế đầu tiên Ngài dạy là KHỔ THÁNH ĐẾ. Sao “Khổ” mà gọi là “Thánh”? Chính nhờ trí tuệ siêu việt Ngài đã liễu tri như thực khổ, xác chứng chân lý đầu tiên của đạo Phật. Nhưng khổ từ đâu sanh? Câu trả lời vắn gọn chính là từ tham dục… Vì tham dục mà con người phải trôi lăn, hết tham dục thì hết trôi lăn, hết trôi lăn đương nhiên phải hết khổ. Đơn giản chỉ có thế! Điều này được xác tín qua lời dạy của Đức Phật: “Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Tham, này các Tỷ-kheo, là một pháp, các Thầy hãy từ bỏ! Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.” (Tiểu bộ kinh. Bài kinh Một Pháp). Đối với sân và si, Ngài cũng dạy y như thế… Kính thưa thầy T.T.H. Thầy có tin không? Tin rằng, nếu từ bỏ được tham sân si, Đức Phật bảo đảm không còn tái sanh! Tin không? Nếu tin sao thầy dạy Phật tử những điều ngược lại? Rằng: "Nếu một người tu theo đạo Phật mà không thấu triệt âm dương thì không thể đạt đến đỉnh cao của tâm linh…" Rằng: "Thực dưỡng Osawa không chỉ dừng ở chỗ dưỡng sinh mà còn nhìn sâu hơn đến Giác Ngộ Giải Thoát." Và khẳng định: "đó là mục đích cuối cùng của phương pháp dưỡng sinh Osawa…" Tôi không tin tất cả các bậc Tôn túc hiện nay đều “thấu triệt lý thuyết âm dương”, nếu thế các vị sẽ “không thể đạt đến đỉnh cao tâm linh”?, không thể “nhìn sâu hơn đến giác ngộ giải thoát”?, các vị không thể đạt đến “mục đích cuối cùng” của đạo Phật!… Lại nữa, nhiều Linh mục Công giáo như Lương Kim Định, Trần Văn Đoàn… là nhưng người rất am tường học thuyết âm dương, ngũ hành, họ cũng đã từng chia sẻ những trải nghiệm tâm linh giải thoát, nhưng là giải thoát trong “Chúa quan phòng” của họ!… Có thể tạm kết luận, thực dưỡng Osawa và triết lý âm dương có thể dẫn đến “giác ngộ giải thoát”, nhưng giải thoát theo kiểu gì thì còn tuỳ, kiểu của các Đạo sĩ hoặc Nho sĩ? kiểu của Tiên sinh Osawa hay kiểu của các Linh mục Công giáo?… Riêng đối với đạo Phật, câu trả lời dứt khoát là “Không thể”. Giải thoát của đạo Phật là ly dục, ly ác pháp, ly tham sân si, như đã được khẳng định trong bài kinh “Một pháp” thuộc kinh Tiểu Bộ, với sự bảo đảm chắc chắn của chính Đức Phật:“Hãy từ bỏ tham, ta bảo đảm với các thầy sẽ không còn tái sanh…” Thật ngạc nhiên trước lời dạy: "Khi tọa thiền, vận dụng hơi thở để tại đan điền ở mạch nhâm, mà quên mạch đốc ở phía sau sẽ bị mất quân bình âm dương... người ngộ tánh là người phải hiểu được nguyên lý âm dương…" Có thể thầy T.T.H. đã dạy đúng, nhưng là đúng pháp của một vị Tổ sư nào đó, chứ không thể đúng pháp mà Đức Phật đã dạy trong Nikaya. Trong kinh Niệm xứ (Satipatthàna sutta) Đức Phật dạy rất rõ: "tuệ tri hơi thở vô, hơi thở ra với mục đích thấy như thật tánh sanh khởi, tánh sanh diệt, tánh diệt tận trên cả bốn trụ xứ thân, thọ, tâm, pháp," chứ Ngài không hề dạy vận dụng hơi thở tại đan điền, mạch nhâm, mạch đốc để quân bình âm dương… Đặc biệt đối với thân, vì trên thân có đầy đủ cả thọ, tâm vàpháp. Vì thế Đức Phật dạy: “"Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời…” Đã không nương tựa bất cứ việc gì trên đời, có lý nào lại nương tựa vào âm dương, mạch nhâm, mạch đốc?... Luận thiền, luận đạo của các vị Tổ sư, của các tông phái không phải là mục đích của bài viết này. Người viết chỉ đưa ra những nhận định dựa trên lời dạy của chính Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni trong Nikaya với một tín lực đã được khẳng định:“Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn…” Chính vì thế, những lời dạy kiểu: "một người ngồi thiền không thể vào định được nếu không ngộ được nguyên lý âm dương…" chỉ có thể là thiền tưởng, định tưởng của một tôn giáo nào đó, chứ không thể là thiền định do chính Đức Phật dạy… Cái gọi là: không thể vào định! Định gì mà vào? Trong 37 phẩm trợ đạo Định Giác Chi và Định Như Ý Túc là pháp thành tựu chứ không phải pháp hành. Pháp hành chính là: ngăn ác, diệt ác pháp. Sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp (Tứ chánh cần) và ly xả ngũ triền cái, thất kiết sử trên thân, thọ, tâm, pháp (Tứ niệm xứ). Do công năng ly và xả thật sạch mà Định Giác Chi và Định Như Ý Túc tự thành tựu. Nếu ngộ được nguyên lý âm dương mà vào được định, thì đây chỉ có thể là định tưởng. Về Thiền cũng thế, bằng chánh niệm tỉnh giác, ly tham dục, ly bất thiện pháp một cách triệt để, với tầm và tứ, cánh cửa Thiền thứ nhất sẽ được mở ra, chứ không thể ngồi quay mặt về hướng bắc cho đúng với từ trường âm dương mà có thể mở được cánh cửa Thiền này. Từ bỏ tham như thế nào? Đạo Phật rất thực tế, rõ ràng cụ thể, không phải mớ lý luận siêu hình. Bài kinh 62. Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la (Mahà Ràhulovàda sutta) Đức Phật dạy: "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập…” Dĩ nhiên không phải “quán” là “ly” được ngay, mà từng giờ, từng phút, từng giây, chánh niệm tỉnh giác trên mỗi hơi thở ra, thở vô mới có cơ may quét sạch tham dục. Cũng cần nói thêm để tránh ngộ nhận. Từ “quán” trong câu “quán ly tham” không phải pháp quán thông thường như mọi người thường hiểu, mà là pháp môn tạo ý thức lực mạnh mẽ gọi là “Như lý tác ý đệ nhất pháp” như chính Đức Phật đã dạy pháp môn này rất nhiều trong suốt bộ kinh Tăng Chi: “Này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời dục tham chưa sanh không sanh khởi, và dục tham đã sanh được đoạn tận…” Đây chính là pháp môn “Đoạn Triền Cái”… Nếu chúng ta “tu cầm chừng”, chỉ với mục đích gieo duyên với chính pháp, có thể thủng thỉnh, tà tà, vừa “tu’ vừa nghiên cứu âm dương ngũ hành, áp dụng vào thực dưỡng đúng cách để có một cuộc sống tốt đẹp với một cơ thể khoẻ mạnh. Điều này không có gì sai trái… Nhưng nếu chúng ta ý thức Sanh Tử Là Việc Lớn, nó thôi thúc bức bách sau lưng ta, buộc ta phải quyết định lựa chọn, đấu tranh một mất một còn với giặc sanh tử, liệu có thời gian chăng để nghiên cứu âm dương áp dụng cho đúng phép thực dưỡng? Nếu quyết định chọn con đường giải thoát mà Đức Phật đã khẳng định “duy nhất, không có con đường thứ hai” như đã được biết trong kinh Niệm xứ Satipatthàna sutta thì hãy buông xả tất cả, hãy trả âm dương về cho thái cực, tứ tượng, bát quái, để nó vận hành, điều hòa vũ trụ theo cách của nó mà chúng ta không cần quan tâm… Vả lại, Đức Phật cũng đã từng dạy: “thừa tự Pháp không thừa tự thực phẩm…” (Kinh Thừa tự Pháp. Dhammadàyàda sutta. Trung bộ kinh). Bệnh tật là một chướng ngại pháp tồn tại trên thân, nó sinh ra từ tham dục. Nếu tham ăn, tham uống, tham hút, chắc khó tránh các bệnh thuộc hệ hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa… Nhờ có chánh kiến, chánh tư duy, người Phật tử biết do nhân tham mà có quả bệnh, nhân quả rất rõ ràng, giả sử có liên quan đến âm dương ngũ hành, cũng không phải là nguyên nhân chính. “Có bệnh thì vái tứ phương, có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Kinh nghiệm dân gian được đúc kết nhiều đời đã khẳng định một giá trị thực tiển: “có kiêng có lành”. Nếu thân bệnh mà biết kiêng cử đúng cách cũng có thể ngăn chặn các biến chứng một cách đáng kể. Về mặt này, lý thuyết âm dương quân bình thực phẩm trong phương pháp dưỡng sinh Osawa cũng có mặt tích cực của nó. Người Phật tử đang áp dụng phép thực dưỡng này, có thể nghiên cứu nếu có điều kiện và thời gian. Nhưng không được phép nhầm lẫn bởi sự lạc dẫn do vô tình hay cố ý của ai đó đã cho rằng đây cũng là pháp môn “giác ngộ giải thoát” của đạo Phật. Đối với thân bệnh, đạo Phật cũng có cách ngăn ngừa, hạn chế bệnh tật đơn giản mà hiệu quả, đó là: thiểu dục tri túc. Từ đó hướng tới một giải pháp tích cực hơn, quét sạch tất cả mọi chướng ngại pháp trên cả bốn trụ xứ thân, thọ, tâm, pháp. Tất nhiên không dễ dàng gì vì tham dục và bất thiện pháp đã đổ bê tông cốt thép dày đặc trên đó, chúng đã khằn cứng từ nhiều đời kiếp, chỉ còn cách nhiệt tâm học làm nghề “khoan cắt bê tông”, tích cực khoan, đục, chặt các kiết sử, mài mòn dần các triền cái trên cả bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Nếu quét sạch được, lúc đó hành giả có thể ca khúc khải hoàn: “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong…” Điều sau cùng muốn chia sẻ là: tu giới và giữ giới là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Giới là pháp môn tu học chứ không phải là tín điều buộc phải giữ. Một người giữ giới, trường chay ba mươi năm, người này chưa chắc đã tu giới. Ngược lại, một người tu giới, người đó chắc chắn đã giữ giới. Điều này dễ hiểu vì dù trường chay nhiều năm, nhưng dục ăn vẫn còn, nghiệp đói của thân chưa xả bỏ. Ngoài dục ăn, còn nhiều thứ dục vi tế khác khó nhận biết, ví như thực phẩm phải vừa tương phản, vừa hài hòa về màu sắc, vừa kết hợp quân bình âm dương, tạo nên một món ăn đạt chuẩn thẩm mỹ mà người ta vẫn gọi là “nghệ thuật ẩm thực” với triết lý: ăn không chỉ bằng miệng mà còn bằng mắt… Đối với đạo Phật, chính tại chỗ này, dục của mắt, của mũi, của lưỡi phát sinh… Tu giới không chỉ là giữ giới mà chính là ly dục. Đây chính là chỗ khác biệt giữa người tu giới và người giữ giới. |
Cập nhật ngày : 30.07.2012 | |||
Kính thưa quý vị độc giả, Kinh thưa thầy Nguyên Hải. Phương Minh đọc qua bài viết của thầy Nguyên Hải (tuy rằng Thư Viện Hoa Sen chưa đăng tải hết), thấy Thầy phê phán Trưởng Lão Thích Thông Lạc “có nhiều sai lầm, đúng sai lẫn lộn, sai nhiều hơn đúng…”. PM không rõ Thầy tu tập tới đâu? Thầy hiểu về Trưởng Lão những gì? Thầy chẳng biết lượng sức mình, lại có những lời phê bình bằng kiến thức mượn và còn thiếu nghiêm túc, Thầy hoàn toàn không hiểu biết gì về Phật giáo Nguyên Thủy. Vào đầu với tiêu đề: “Đối Thoại Với Thầy Thông Lạc”, PM đã nhận ra ngay Thầy là một người còn rất kém hiểu biết. Thầy không hiểu thế nào là đối thoại ư? Trưởng Lão đã có khi nào đối thoại với Thầy chưa? Lẽ ra Thầy nên đặt tiêu đề là: “Độc Thoại Của Nguyên Hải Về Sách Của Thầy Thông Lạc” thì hợp lý hơn. Thưa quý vị! Chúng ta sẽ trao đổi về nội dung những cuốn sách của Truỏng Lão Thích Thông Lạc, tức là chúng ta trao đổi về Phật giáo. Mà Phật giáo suốt mấy ngàn năm, từ khi đức Phật nhập diệt, rồi ngài A Nan thị tịch cho đến nay, thì Phật giáo gần như mất gốc. Bà La Môn giáo (Lục Sư ngoại đạo với 62 luận chấp tà kiến) sống lại đã quyết tâm tìm mọi cách tiêu diệt Phật giáo đến tận gốc rễ. Rất may cho Phật giáo, ngày nay vẫn còn có nhiều bậc tôn túc Hòa thượng, Thượng tọa tâm huyết với Phật giáo, tha thiết mong cầu tìm về với cội nguồn giáo lý chân chính của đức Phật Thích Ca. Vấn đề quan trọng, đâu là Chánh Pháp của đức Phật, đâu là tà giáo ngoại đạo lẻn vào đạo Phật cũng vỗ ngực xưng tên: đây là Chánh Phật Pháp. Thật khó phải không, thưa quý vị? Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải tìm ra một tiếng nói chung của Phật giáo. Bởi Phật giáo chỉ có một giáo lý chứ không hai. Vậy mà ngày nay có biết bao nhiêu Tông phái với những giáo lý khác nhau, ai cũng tự nhận rằng chỉ mình mới là chân chánh, còn lại là sai lầm. Điều vô lý hiển nhiên như thế, mà kẻ khù khờ nhất cũng dễ nhận ra, sao quý vị tu theo Phật giáo là đạo Trí Tuệ lại không nhận ra được nhỉ. Vì sao? Thưa quý vị?. Trước khi trao đổi về nội dung bài viết của thầy Nguyên Hải, PM xin phép được mạn đàm đôi nét về Phật giáo ngày nay để quý vị cùng chúng tôi, chúng ta cùng nhau hiểu biết, cảm thông và tha thứ cho nhau trên con đường trở về với Phật giáo chân chánh. Thưa quý vị! Trong chúng ta, có lẽ ai cũng thừa nhận giáo lý của đức Phật với Bốn Chân Lý, Mười Hai Nhân Duyên… mà Ngài tuyên thuyết thì không thể là của ngoại đạo được. Chỉ với Tứ Diệu Đế đã nói lên đầy đủ nền tảng cơ bản tu tập hướng đến mục đích giải thoát khỏi kiếp trầm luân của đời người. Mục đích của đạo Phật là “Giải Thoát”, đó là chân lý thứ ba “Diệt Đế” trong Tứ Diệu Đế. Đức Phật đã dạy: “… như nước biển chỉ duy nhất có một vị mặn, cũng vậy, giáo pháp của Như Lai chỉ duy nhất có một vị là Giải Thoát”. Vậy “Giải Thoát” là mục đích căn bản và quan trọng nhất của người tu sĩ và cư sĩ phật từ phải đạt được. Thế nhưng! Thưa quý vị! Thực tế Phật giáo ngày nay đang hiện tiền trước mắt chúng ta. PM xin trích dẫn vài ví dụ thật rõ ràng mà mọi người đều có thể thấy hiểu được bằng ý thức của mình, không phải tưởng tượng mơ hồ, từ đó quý vị có thêm dự kiện để phân biệt đâu là chánh Phật giáo, đâu không phải là Phật giáo. Ví dụ 1: Quý vị phật tử đều rõ, hiện nay Phật giáo Tây Tạng có vị Dalai Lama 14. Như vậy chắc chắn trước đó đã có các vị từ Dalai Lama 1, 2, 3,… 13, và tiếp trong tương lai sẽ có vị Dalai Lama 15, 16,… theo truyền thống của Tông phái Phật giáo này. Không riêng vị Dalai Lama mà còn có các vị khác như: Đại Bảo Pháp Vương (hiện tại là Đại Bảo Pháp Vương 17), các vị Xa Ra Pháp Vương, Đại Tư Đồ Nhân Ba Thiết cũng cứ luân chuyến mãi ngôi vị (chỉ một người) chứ không thay đổi. Như thế, chúng ta biết ngay rằng các Ngài tu tập nhưng chưa bao giờ giải thoát, vẫn còn trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, vẫn bị sinh ra từ trong dục nhiễm ô bất tịnh (Do bố mẹ sinh ra). Như thế, chúng ta có tin rằng Phật giáo Tây Tạng thật sự là Phật giáo Nguyên Thủy chân chánh của đức Phật không? Ví dụ 2: Mời quý vị đọc trích đoạn luận về Tứ Diệu Đế của Thiền sư Thích Nhất Hạnh như sau: …“Sự thật thứ nhất là Dukha - Khổ. Tây phương dùng chữ illbeing để dịch chữ Dukha. Illbeing là khó ở, có bệnh tật, có cái gì không suông chảy, bế tắc. Illbeing là đối lại với wellbeing. Wellbeing là sự sảng khoái, sự thông suốt, an vui, không có vấn đề. Chữ khổ ở đây có nghĩa là không thoải mái, không hạnh phúc, không thông thoáng, bị bế tắc, khổ đau. Khi mình học thì thầy có thể dạy rằng, sự thật thứ nhất, Khổ đế, có nghĩa đời là khổ. Nói đời là khổ thì cũng đúng nhưng chỉ đúng phần nào thôi và bắt buộc mình tin rằng đời chỉ có khổ. Đời chỉ là khổ thôi chứ không là cái gì khác, đó không phải là sự thật toàn vẹn. Giảng sự thật thứ nhất đời là khổ, life is illbeing là chỉ đúng phân nửa sự thật vì đời cũng có thể rất vui, có thể thoải mái, thông thoáng, nhẹ nhàng, không phải chỉ bế tắc sầu khổ mà thôi. Cho nên sự thật thứ nhất không phải đời là khổ. Sự thật thứ nhất là khổ đau đang có mặt và hạnh phúc cũng đang có mặt”… [Câu: “Sự thật thứ nhất là: khổ đau đang có mặt và hạnh phúc cũng đang có mặt” có thể tương ưng nghĩa với câu: (Sự thật là: Giữa đêm đông giá buốt “đang có mặt” và mặt trời dịu dàng tỏa nắng cũng “đang có mặt”). Do vậy sự thật thứ nhất đời là khổ là chỉ đúng nửa sự thật.] (PM chua thêm câu này để quý vị hiểu rõ sự uyên bác Phật giáo của thầy Tổ chúng ta). (Trích trong bài: Tứ Diệu Đế. Tháng 10.2008 - Chân Tịnh Ý phiên tả & biên tập: Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 21.05.2008 tại tổ đình Từ Hiếu - Huế - Chân Minh hiệu đính và cập nhựt 13.10.2008).. Nguồn: Thư Viện Hoa Sen . Quý vị cũng tìm hiểu thêm, một số bài giảng của thầy Nhất Hạnh đã giảng, trong thời khóa tu tập của Làng Mai, mỗi tuần đều có “một ngày làm biếng”, ngày ấy tu sĩ Làng Mai thoải mái ngủ nghỉ đến bao nhiêu cũng được!!! Ở ví dụ 2, PM không dám ý kiến nhiều, chỉ tiếc rằng Tứ Diệu Đế, mà cụ thể là Khổ Đế đức Phật dạy, nay chỉ còn đúng có một nửa. Sự thật mà chỉ đúng có một nửa thì là một sự giả dối không thể chấp nhận được. Rồi mỗi tuần “một ngày làm biếng” trong quá trình tu tập thì có còn đúng với Chánh Tinh Tấn trong Đạo Đế đức Phật dạy không? Chúng ta cùng suy ngẫm, thầy Nhất Hạnh dạy như vậy là đúng theo Phật giáo chân chánh hay đang dạy đệ tử cách đập phá đạo Phật đến nát tan? Thưa thầy Nguyên Hải, Thầy đã biết những sự thật mà PM vừa dẫn ra ở hai ví dụ trên hay chưa? Sự thật như thế thì là đúng hay sai trong Phật giáo? (Những ví dụ về sự sai lầm và phá Phật giáo thì nhiều lắm). Bất đắc dĩ PM phải dẫn các ví dụ ra như vậy chứ thật lòng không muốn chút nào. Nhưng nếu không dẫn ra thì lấy gì đối chứng làm sáng tỏ sự thiên kiến cố chấp của Thầy đối với Trưởng Lão Thích Thông Lạc. Trưởng Lão Thích Thông Lạc là người đã thực tu theo giáo pháp Nguyên Thủy và thực chúng như đức Phật xưa kia. Thế nhưng Thầy không tin, chỉ vì Thầy không hiểu Phật giáo đấy thôi, thưa thầy Nguyên Hải. Đến đây PM xin bắt đầu trao đổi về bài viết “Đối Thoại Với Thầy Thông Lạc” của Thầy. Kính thưa quý vị! Thưa thầy Nguyên Hải! Bài viết (tác phẩm) của Thầy quả có một sự chuẩn bị khá kỹ lưỡng và công phu, thế nhưng nó chẳng có giá trị gì để giúp ích cho người phật tử hướng thượng, mà còn gây thêm sự nghi ngờ Phật giáo chân chánh, khiến trí tuệ người phật tử thêm u tối. Xưa đức Phật đã dạy hàng đệ tử của mình: “Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn. Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các ngươi. Nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi công phẫn và phiền muộn, thời các ngươi có thể biết được lời nói của những kẻ ấy là đúng hay sai lạc chăng?” Ngày nay đức Trưởng Lão cũng khuyên răn các đệ tử của mình, khi có ai chỉ trích Ngài, phỉ báng giáo pháp của Ngài giảng dạy thì: “Các con phải biết im lặng như Thánh và trải lòng từ bi yêu thương tha thứ cho họ, bởi vì họ đang tức giận, họ là người đang đau khổ, phải yêu thương họ…”. Do vậy PM không dám nói nhiều (khi có người chỉ trích, phỉ báng Trưởng Lão và giáo pháp Ngài dạy), chỉ có mấy ý trao đổi thật vắn tắt và ngắn gọn, mong thầy Nguyên Hải và quý vị hiểu cho. 1- Phần thứ nhất Dẫn Nhập: Thầy trích dẫn: “Và TTL viết[4]: “Cuối cùng tôi ngưỡng mong những bậc cao minh, giới đức, đạo hạnh, vì con người trên hành tinh này, vì đạo đức xã hội, vì lợi ích thiết thực chung cho con người và vì Ðạo Phật, hãy vui lòng chỉ dạy cho tôi những điều còn sai sót”. Thầy biết không, đoạn văn này của Trưởng Lão là thể hiện nề nếp truyền thống văn hóa đạo đức đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam, ai cũng cần học tập. Thế nhưng có lẽ Thầy sống xa đất nước lâu ngày nên Thầy quên mất gốc nếp văn hóa ấy, do vậy Thầy thấy cần phải dạy cho Trưởng Lão một bài học. Xin thầy Nguyên Hải nhớ lại câu kinh Pháp Cú này: “Người ngu biết mình ngu, Nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, Thật xứng gọi Chí Ngu”. Có lẽ bài kệ này thật đúng với Thầy ở hai câu sau. Thầy đã đọc hầu hết sách của Trưởng Lão và còn đọc rất kỹ để đối chiếu, so sánh với kinh Nykàya (nhằm tìm ra lỗi để phỉ báng), thế mà Thầy chẳng hiểu được những lời dạy của Trưởng Lão thì thật quá uổng. Trưởng Lão viết bằng ngôn ngữ thời hiện tại, bằng tiếng Việt Nam, bằng sự thực tu thực chứng, thế mà Thầy còn không hiểu nổi. Vậy mà Thầy dám mong đọc kinh Nykàya của đức Phật với ngôn ngữ từ xa xưa và qua nhiều lần kiết tập, rồi lại qua một lần sai lệch của các nhà dịch giả nữa, để đem dạy lại cho Trưởng Lão. Chuyện ngu thật, cứ ngỡ như đùa. 2- Tiếp theo, vì tác phẩm của thầy Nguyên Hải tương đối dài và đề cập nhiều vấn đề, nhưng bất cứ mục nào của Thầy cũng tỏ lộ sự kém hiểu biết về Phật giáo chính thống. PM cảm rõ rằng, thầy Nguyên Hải đang sa lầy trong vũng bùn ô nhiễm và Thầy liều lĩnh bốc bùn ném bừa vào mọi người để họ cùng bẩn như mình, mong muốn kéo mọi người vào mông muội như mình. Đây là một ác ý của Thầy, thật đáng trách! Do vậy PM chỉ có hai mục trao đổi với Thầy: 1- Dẫn lại một số nhận xét của Thầy để Thầy suy xét lại. 2- Dẫn lại làm sáng tỏ ngay một số vấn đề mà Thầy không hiểu rõ. 1- ĐỀ NGHỊ THẦY XEM LẠI những lời nhận xét này của mình: - Đức Thế Tôn dạy “Ngũ Uẩn giai không”. Ngã là Ngũ Uẩn. “Vô Ngã” là “Ngũ Uẩn giai không”. - Khi hành giả đạt được Tứ Thiền hoặc các Thiền cao hơn, thì các loại thần thông hiện ra nhiều hay ít, tùy thuộc hành giả nhập Thiền cao hay thấp. - Không có Thiên Nhãn Minh cũng có thể hiểu đúng lời Đức Thế Tôn dạy trong Kinh Pháp Môn Căn Bản, nếu họ đọc kỹ. - Như vậy thế giới siêu hình không phải là thế giới tưởng như TTL đã viết và gán ghép sai lầm. - Các chùa cúng thí thực là đúng. Nhờ cúng thí thực, các ngạ quỷ (quỷ đói) khỏi đói khát và được tái sanh lên các cõi cao hơn. - Thế nên đạo Phật có tám mươi bốn ngàn pháp môn cho nhiều căn cơ trình độ khác nhau để điều trị những tâm bệnh khác nhau của chúng sinh. - Thế Tôn Metteyya là Đức Phật Di Lặc. Thầy Thông Lạc không biết chữ Metteyya nghĩa là Di Lặc nên đã viết sai lầm. Metteyya là tiếng Pāli, tiếng Sanskrit viết là Maitreya, dịch ra tiếng Trung Hoa và Việt Nam là Di Lặc. - Thật ra Bất Động Tâm Giải Thoát (P: Akuppa-cetovimutti) trong Tạng Kinh Nikāya chỉ cho các bậc Tâm Giải Thoát ở trạng thái Bất Động. Đây là các bậc đắc Diệt Thọ Tưởng Định và Lậu Tận Trí, - Khi nói về cõi Trời, quý vị có công nhận TTL viết sáu đoạn trước mâu thuẫn với hai đoạn sau không? (Trích dẫn [51] đến [56] trong bài của Nguyên Hải). Chỉ chừng ấy kiến chấp của Thầy, đủ thấy thực sự Thầy mê muội quá mất rồi, Thầy chẳng hiểu gì về Phật giáo Nguyên Thủy cả mà đòi sửa sai pháp của Trưởng Lão. PM dẫn ra một số nhận xét của Thầy, thật oải quá khi đọc những dòng này. Một vị tu sĩ mà có những hiểu biết như trên thì xin Thầy cởi áo cà sa trả lại cho chùa, trở về đời mà sinh sống để bớt đi món nợ đàn na thí chủ. Uổng phí thay những giọt mồ hôi của mọi người đã làm ra hạt gạo củ khoai nuôi Thầy tu học. 2- PM LÀM RÕ MỘT SỐ VẤN ĐỀ mà Thầy chưa hiểu: Thầy dẫn chứng: “Sách Ðường Về Xứ Phật, tập 1, TTL viết[61]: “Ngay từ khi Ðức Phật còn tại thế, chúng Tỳ Kheo còn có nhiều người sống không đúng Phạm hạnh, không ly dục ly ác pháp, nên Ðức Phật buộc lòng phải chế giới bổn Patimokha để ngăn cấm”. Ngược lại, cũng sách Ðường Về Xứ Phật, tập 1, TTL viết[62]: “Giới bổn Ba La Mộc Xoa Ðề là giới luật của các Tổ biên soạn viết ra”. Và Thầy nhận xét: “Hai câu trên trong cùng một quyển sách Ðường Về Xứ Phật, tập 1, chữ Patimokha và Ba La Mộc Xoa Đề đều cùng một nghĩa, nhưng câu trước thì TTL viết do Đức Phật chế, câu sau thì viết do các Tổ biên soạn. Ý TTL muốn nói gì? Có lẽ TTL viết tùy hứng, không cần suy nghĩ đúng hoặc sai”… Thầy Nguyên Hải hãy đọc cho kỹ nguyên vẹn đoạn văn này: “Tuy vậy, một trăm năm đầu ấy, ngay từ khi đức Phật còn tại thế, chúng tỳ-kheo còn có nhiều người sống không đúng Phạm hạnh, không ly dục ly ác pháp, nên đức Phật buộc lòng phải chế giới bổn Patimokha để ngăn cấm, nhưng từ khi có giới bổn ra đời, chúng tỳ-kheo lại càng vi phạm nhiều hơn. (Đoạn kinh này do lý giải của các Tổ trong các kinh Đại Thừa. Riêng chúng tôi nghiên cứu kinh sách Nguyên Thủy thì không phải vậy)”. (Tập I – ĐVXP [61]) Trưởng Lão đã viết rõ ràng: “Đoạn kinh này do lý giải của các Tổ viết ra trong các kinh Đại Thừa” (chứ Trưởng Lão không chấp nhận là Phật chế), thế mà Thầy dám bớt đi một nửa đoạn văn để đặt điều so sánh với đoạn khác: là giới luật của các Tổ viết ra. Thực sự thì hai đoạn ở hai nơi có khác gì nhau, giới luật đều là do các Tổ viết ra cả. Như vậy sách Trưởng Lão viết sai lầm hay là Thầy bị thần kinh lú lẫn? Còn hai chữ Patimokha và Pãtimoksha; Ba la mộc xoa đề và Ba la đề mộc xoa nếu thực có lầm lỗi, thì lỗi này không phải do Trưởng Lão không hiểu, mà do sai sót của người đăng nhập vi tính. Những lỗi nhỏ này Thầy nhắc nhở đúng, nhưng cả hai chữ này mọi người đều hiểu là giới luật. Phải không Thầy? Thầy chỉ khéo bới lông tìm vết bụi bám trên thân người khác, còn những ung nhọt to kềnh đầy bất tịnh, nổi khắp trên thân thể mình thì Thầy không thấy. Thật tội nghiệp cho Thầy. Ở chương VI phần III: TU TẬP 37 PHẨM TRỢ ĐẠO Thầy chỉ giới thiệu 37 phẩm trợ đạo như sau: “1. Tứ Niệm Xứ Có lẽ Thầy là một học giả cần mẫn nhưng thiếu thiện tri thức hướng dẫn, cho nên Thầy còn ngây thơ lắm. Thầy cứ đọc lại tiêu đề: Tu tập 37 phẩm Trợ Đạo, với các nội dung như Thầy dẫn có cả Bát Chánh Đạo. Thầy hãy bình tĩnh để mà nhận ra điều sai quấy này. Trợ Đạo cũng là Chánh Đạo có đúng không Thầy? Chánh Đạo, Trợ Đạo lẫn lộn, thứ tự lớp lang chẳng biết cái nào trước, cái nào sau, như thế mà Thầy bảo Thầy chứng gì gì cao lắm, nên phải dạy cho Trưởng Lão bớt sai đi. Thật đáng cười quá cho Thầy. Mời Thầy xem lại trình tự tu tập của con đường Tám Chánh Đạo theo Phật giáo Nguyên Thủy mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên Thư Viên Hoa Sen, cũng ở mục ý kiến phản hồi (Bài Phật giáo Thiền Tông Thực Tế Đến Không Ngờ). Thật ra trách Thầy sai thì cũng hơi tội nghiệp cho Thầy, bởi vì Thầy chỉ biết các Tổ trước dạy mình sao thì mình y kinh như vậy, đâu dám sửa lại, biết gì mà sửa lại. Khổ thế đấy, một người mù dẫn một đoàn người mù, hết lớp trước đến lớp sau kéo nhau xuống hố mà chẳng hề biết sợ. Có người chỉ cho biết thì xúm nhau vào phỉ báng. Kiến chấp như vậy biết ngày nào minh? Ấy là chúng tôi chưa hỏi Thầy rằng thực hành tu tập các phẩm như Tứ Chánh cần, Tứ Niệm Xứ, Thất Bồ Đề phần … thì không biết Thầy trả lời sao. Học Phật giáo mà chỉ say mê với các cõi giới siêu hình,… mơ hồ không thực đó là Ma giáo chứ đâu phải Phật giáo mà Thầy ham thế. Hãy mau mau quay đầu trở lại hỡi thầy Nguyên Hải. Tiếp theo một đoạn nhận xét này nữa của Thầy: “Chúng ta phải khen ngợi, tán dương cô Diệu Hồng, Diệu Thiện… chứ sao TTL lại chê trách họ? “Cô Diệu Hồng ngồi suốt tám tiếng đồng hồ trong trạng thái an lạc” là rất đáng khen ngợi. Cô Diệu Hồng bỏ về Long Hải là đúng. Đi học một vị Thầy dạy giáo lý Đạo Phật, nhưng Thầy đó nói đúng sai lẫn lộn, sai lầm về những lời dạy của Đức Thế Tôn trong Tạng Kinh Nikāya, thì ai có thể nói rằng vị Thầy đó đắc Tam Minh và Thánh Quả A La Hán? “Diệu Thiện ngồi thiền tịnh chỉ hơi thở từ 30 phút đến một giờ, thân bất động, tâm bất động” cũng rất đáng khen ngợi. Như vậy Diệu Thiện đạt được từ Đệ Tứ Thiền trở lên. Ngược lại, TTL viết là “có ích lợi gì cho bản thân” và như vậy người đọc sẽ hiểu, TTL tu Tứ Thiền, tịnh chỉ hơi thở cũng không “có ích lợi gì cho bản thân” của TTL. Có lẽ TTL sân hận và ganh tỵ khi thấy Diệu Thiện tu hành bằng, hoặc là cao hơn TTL. Diệu Thiện thuyết giảng bộ Đường Xưa Mây Trắng nói về Đức Thế Tôn, do Hòa Thượng Nhất Hạnh biên soạn, TTL lại ganh tỵ với Hòa Thượng Nhất Hạnh. Nhận xét này PM để lại cho các cô Diệu Thiện, Diệu Hồng, là các tu sinh của Tu viện Chơn Như được Thầy tán dương khen ngợi, các cô trả lời Thầy. Nếu các cô im lặng có nghĩa là họ bảo rằng: Thầy chẳng hiểu biết gì về Phật giáo Nguyên Thủy mà cứ tán dương hàm hồ vô tích sự. Cuối cùng PM xin gửi tặng thầy Nguyên Hải một bài pháp quý báu này mà có lẽ chưa bao giờ Thầy hiểu tới. Lời Phật dạy: Người tu sĩ có 9 điều cần tu tập hằng ngày “1. Phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh. 2. Sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt. 3. Chấp nhận giữ gìn giới luật. 4. Giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không cho dính mắc sáu trần. 5. Ăn uống phải tiết độ, không nên ăn uống phi thời. 6. Ban ngày khi đi kinh hành hay lúc ngồi, luôn luôn phải tẩy sạch tâm tư khòi các chướng ngại pháp. 7. Ban đêm canh đầu đi kinh hành hay ngồi, luôn luôn phải tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại pháp. 8. Ban đêm canh giữa phải nằm nghiêng, chánh niệm tỉnh giác, luôn luôn phải nghĩ đến thức dậy. 9. Ban đêm canh cuối thức dậy đi kinh hành hay ngồi, luôn luôn phải tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại pháp.” Nếu Thầy nghiêm mật, tinh cần không gián đoạn, theo những lời dạy này trong mỗi ngày (và hàng ngày) thì chắc chắn lợi ích cho Thầy không nhỏ, cần gì nữa phải đi tìm những ngôn ngữ cao siêu, mù mờ, khó hiểu trong những tạng kinh mà Thầy đã dẫn ở bài “Đối Thoại…” của Thầy. Xin thêm với Thầy mấy lời này: Có câu: “Người học nhiều mà không tu là cái tủ đựng kinh sách”, xem ra Thầy cũng lắm sách đấy nhỉ. Chúng tôi nhắc nhở Thầy, nếu là sách quý, sách có giá trị thì người ta mới cất vào tủ, còn những thứ không giá trị gì mà lại gây hại, làm khổ cho mình và mọi người thì người ta bỏ vào sọt rác. Trong những kinh sách Thầy dẫn chứng, chúng tôi đang phải dọn dẹp bỏ vào sọt rác nhiều lắm đấy, chỉ có rất ít sử dụng được thôi. Mong muốn Thầy đừng trở thành cái sọt rác mà uổng phí một cuộc đời tu sĩ. Về vấn đề sức khỏe, Thầy cần đến bệnh viện nhờ một bác sĩ chuyên khoa thần kinh săn sóc cái đầu cho Thầy. PM dám chắc Thầy bị bệnh thiền rồi đấy. Thân ái chào Thầy. Phương Minh. |
Cập nhật ngày : 08.08.2012 | |||
Khi đánh vi tính đến bốn câu kệ “BÚA TRONG MIỆNG” trong kinh Pháp Cú này, tôi nhớ đến bài đăng trên mạng ở trang Thư Viện Hoa Sen nói về thầy Thông Lạc của tác giả Hương Trà.
Thưa các bạn! Tôi đã từng sống bên cạnh thầy Thông Lạc từ lúc tám tuổi mà đến nay tôi đã ba mươi ba tuổi. Chính tôi được nghe và thấy về thầy Thông Lạc rõ hơn ai hết. Còn bài viết của bạn Hương Trà (tôi xin mạn phép được dùng từ Bạn) chỉ phỏng đoán viết ra mà thôi, cho nên bạn Hương Trà làm một điều sai về một vị tu hành Giới luật nghiêm chỉnh trên đời này khó tìm thấy như thầy Thông Lạc. Và vì vậy lưỡi búa trong miệng bạn ấy sẽ chém lại bạn. Hẳn bạn ấy không biết như thế! Hai mươi ba năm trước, năm 1980, khi thầy Thông Lạc trở về trình pháp tu với Hoà Thượng Thanh Từ thì có người nào được nghe tại buổi trình pháp này vào thời điểm đó? Các bạn chỉ được đọc thấy thầy Thông Huyễn ghi lại qua bài “Người Chiến Thắng”. Hay vài chi tiết ở đâu đó, còn chính thức nghe và biết những điều này chỉ thầy Thông Lạc và HT Thanh Từ mà thôi, đâu có người thứ ba. Sự thật là như thế các bạn ạ! Vậy mà bạn Hương Trà phỏng đoán rồi viết về thầy Thông Lạc, đăng trên trang Thư Viện Hoa Sen, là một việc làm thiếu trách nhiệm đạo đức làm người, khi nói về một người nào đó huống là nói về thầy Thông Lạc, một bậc chân tu. Khi muốn nói về một người nào thì phải hiểu biết rất rõ về người đó; nói là phải nói đúng sự thật, không thể đặt điều thêm bớt, nói phỏng chừng, nói không đúng sự thật, nói theo sự suy tưởng là phỉ báng người, là nói xấu người. Các bạn có thấy thế không? Câu chuyện trình pháp của thầy Thông Lạc với HT Thanh Từ, sau đó khá lâu, thầy Thông Huyễn được nghe thuật lại và ghi chép. Cho nên sự ghi chép ấy chưa hẳn đã được đầy đủ, như trong cuộc tiếp xúc giữa thầy Thông Lạc và HT Thanh Từ. Nếu bạn nào muốn biết chắc rõ sự thật về cuộc gặp gỡ đó hãy về gặp thầy Thông Lạc, thì sau đó bạn sẽ không có những lời nói không đúng sự thật, như dưới đây của bạn Hương Trà: “Sư đã không nói đúng sự thật là sư đã không tu theo pháp môn của HT Thanh Từ để HT Thanh Từ cứ tưởng là sư đã chứng đắc do pháp môn HT dạy, để HT ấn chứng cho”. Nếu thầy Thông Lạc không trình pháp mình tu theo Nguyên Thuỷ thì làm sao có một người đệ tử của HT Thanh Từ, quê ở Châu Đốc (An Giang) tìm đến Trảng Bàng, Tây Ninh bảo rằng HT Thanh Từ nói: “Thầy Thông Lạc chứng quả A La Hán”. Ngoài ra bạn ấy đã vô tình coi nhẹ HT Thanh Từ khi viết “để HT Thanh Từ cứ tưởng”. Vì không hiểu đúng sự thật nên bạn Hương Trà có những lời kết luận vội vàng, biến lời nói của bạn ấy trở thành lưỡi búa chém lại bạn ấy, bạn có biết không? “Điều sư không nói đúng sự thật với HT Thanh Từ là việc của sư nhưng điều này có thể gây tai hại cho huệ mạng của những người tu sau. Sư đã thiếu lòng từ bi, vì đoạn đường sư đã đi qua không kết quả mà lại không nói rõ sự thật với HT Thanh Từ để HT Thanh Từ biết rõ hầu dạy người sau đi lối khác”. Lời kết tội này khiến cho những ai tâm hiểu biết còn nông cạn, trí tuệ còn mù mờ sẽ theo lập luận của bạn ấy mà cho rằng thầy Thông Lạc không thành thật và thiếu lòng từ bi. Điều này không quan trọng với thầy Thông Lạc, nhưng tội nghiệp thay cho những người còn mang nặng kiến chấp của Đại Thừa và Thiền Tông, vì con đường chánh pháp của Phật họ đã đánh mất. Ôi! Thật đáng thương thay cho họ! Theo Phật giáo mà lại tu tập pháp môn mê tín, ảo giác, trừu tượng, ức chế thân tâm của ngoại đạo Bà La Môn và những pháp môn tưởng giải của các vị Tổ sư Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông, Bắc Tông, Nam Tông v.v… Thưa các bạn! Có biết bao nhiêu người đã nhiệt tâm tu theo những pháp môn trên đây mà bị bệnh thần kinh không? Người dạy có chịu thay cho họ không? Hay ai bệnh nấy chịu. Tu viện Chơn Như đã đón nhận những người tu những loại thiền này. Phật không ra Phật, phàm không ra phàm. Mùi danh lợi còn sực nức khắp nơi, xem Giới luật Phật như cỏ rác. Thầy Thông Lạc biết rõ từng tâm niệm của Thầy Tổ, huynh đệ v.v… Vả lại, còn biết được vị trí, chỗ đứng và thời gian của mình phải làm gì, chưa nên làm gì, lúc nào chưa nên nói, lúc nào nên nói, v.v… Điều này, có lẽ bạn ấy quên không để ý, nên không thấy đó mà thôi. Còn bảo rằng thầy Thông Lạc thiếu lòng từ bi thì bạn ấy kết luận hơi quá sớm. Nếu thầy Thông Lạc thiếu lòng từ bi thì hôm nay các bạn không có những bài viết nói về thầy Thông Lạc. Phải không các bạn? Nếu thầy Thông Lạc thiếu lòng từ bi thì bộ sách Đường Về Xứ Phật, Giới Đức Làm Người, Làm Thánh và Đạo Đức Nhân Bản Nhân Quả… không ra đời! Vì lòng từ bi thương yêu tín đồ Phật giáo, thầy Thông Lạc nói thẳng, nói thật, chỉ thẳng, chỉ thật những cái sai của Phật giáo Đại Thừa, thiền Đông Độ và Nam Tông,… để giúp cho tín đồ Phật giáo không còn phá giới, bẻ vụn giới, xem thường giới; để giúp cho tín đồ Phật giáo, biết đâu là chánh pháp của Phật và đâu là tà pháp của ngoại đạo và các kiến giải của các Tổ sư. Vì lòng thương yêu tín đồ Phật giáo, thầy Thông Lạc không hề sợ hãi trước một thế lực vĩ đại của tất cả các hệ phái khác nhau trong Phật giáo hiện giờ. Nếu đem ra so sánh thì thầy Thông Lạc chẳng khác nào là hạt cát giữa bãi sa mạc. Có đúng như vậy không hỡi các bạn? Biết rõ điều này hơn ai hết, nhưng thầy Thông Lạc tin rằng: Tà pháp sẽ không bao giờ diệt được Chánh pháp của Phật. Tại sao vậy? Vì lịch sử đã chứng minh cho chúng ta biết rõ những điều này: Các Tổ Bà La Môn ngày xưa đã từng tìm mọi cách diệt Phật giáo lúc đức Phật còn tại thế, huống hồ khi đức Phật nhập diệt cho đến ngày nay. Các Tổ thể hiện rõ chân tướng diệt Phật giáo qua kinh sách soạn viết đã được lưu lại. Nhưng chân lý Phật giáo làm sao diệt được. Phải không các bạn? Ngày nay, thầy Thông Lạc dựng lại tất cả những gì của Phật giáo, mà các Tổ đã ném bỏ. Xin các bạn hãy đứng trên lập trường khách quan, bình tâm, tỉnh trí, suy ngẫm lại cho thật kĩ những gì thầy Thông Lạc đã nói, thì các bạn sẽ thấy rõ lời thầy Thông Lạc nói không sai. Chỉ có các bạn quá thiên kiến và cố chấp kinh sách Đại Thừa, đầu đội vai mang các Tổ mà không thấy cái sai của nó mà thôi. Xin các bạn xét lại xem, đời sống của thầy Thông Lạc không có chùa to, Phật lớn, ăn ngày một bữa, ngủ nghỉ trên một tảng đá, trong một chòi tranh, vách liếp cột bằng cây tầm vông, vách bằng trúc tre, ba y một bát. Đời sống như vậy thì thầy Thông Lạc cầu danh, cầu lợi để làm gì? Phải không hỡi các bạn? Thầy Thông Lạc nói ra cái sai của Đại Thừa, Nam Tông và Thiền Tông, theo tôi nghĩ, chắc chắn Thầy sẽ chuốc hoạ vào thân, sẽ bị chống đối mạnh mẽ không thể lường được. Các bạn có đồng ý không? Thầy nói ra không phải vì danh lợi cho Thầy, mà vì ai Thầy phải nói ra như vậy? Các bạn cứ tự suy nghĩ thì sẽ thấy câu trả lời! Phần nhiều mọi người chưa từng biết đến một vị A La Hán như thế nào nên bạn Hương Trà đoán mò về thầy Thông Lạc như câu dưới đây: “Một vị A La Hán biết hết tất cả, có sáu thứ thần thông, thấy, nghe, và biết mọi sự mọi vật trong vũ trụ, biết tâm và nghiệp quả đời trước, đời này và đời sau mỗi người. Thế mà sư không đọc được tâm của Hoà Thượng Bổn sư, không biết tâm HT Thanh Từ sẽ từ chối lời cầu chết (nhập Niết Bàn) của sư”. Thưa các bạn! Lời nói của bạn ấy trên đây là dựa vào kinh sách Đại Thừa, chứ sự thật bạn ấy chưa thực sự tự mình biết trạng thái quả A La Hán như thế nào; chưa biết Tam Minh như thế nào? Cho nên, không chứng quả A La Hán, chưa có Tam Minh thì làm sao bạn ấy biết được thầy Thông Lạc không đọc được tâm niệm của HT Thanh Từ? Bạn ấy cũng không biết tại sao thầy Thông Lạc lại xin HT nhập Niết Bàn? Đúng vậy, đoạn này bạn ấy viết như một người mù rờ voi. Thầy Thông Lạc chứng quả A La Hán thì phải có Tam Minh. Mà có Tam Minh thì sáu thứ thần thông tưởng mà bạn đã nêu ra còn có ý nghĩa lý gì? Thầy Thông Lạc biết rất rõ từng câu công án của HT Thanh Từ sắp hỏi và biết HT sẽ từ chối lời cầu xin nhập Niết Bàn. Vậy, các bạn có biết thầy Thông Lạc cầu xin nhập Niết Bàn để làm gì không??? Mong các bạn suy ngẫm để hiểu ra và trả lời cho bạn Hương Trà. Còn về điểm bảo rằng thầy Thông Lạc không biết những người tu theo Thầy sau này sẽ rơi như sung rụng (bỏ đi không theo tu nữa). Thưa các bạn! Mục đích của thầy Thông Lạc xây dựng tu viện Chơn Như là để chấn chỉnh lại Phật giáo, dẹp bỏ những gì của ngoại đạo và dựng lại những gì của Phật giáo đã bị các Tổ ném bỏ. Vì thế, nên tuy biết rõ những người theo mình tu hành sẽ rơi rụng như sung mà Thầy vẫn nhận họ vào tu. Các bạn có biết, vì sao thầy Thông Lạc lại làm như thế cho phí công, phí của đàn na chăng? Biết rõ, mới nhận những người theo tu hành chứ. Các bạn có biết không? Muốn chấn chỉnh Phật giáo mà không có những người này, thì lấy cái gì chấn chỉnh? Phải không hỡi các bạn? Nhờ họ mà những bộ sách Đường Về Xứ Phật, Đạo Đức Làm Người, Mười Đức Thánh Sa Di, Giới Đức Thánh Tăng, Thánh Ni, Những Lời Phật Dạy, v.v… tiếp tục ra đời các bạn ạ! Bây giờ các bạn biết rồi chứ? Đúng như vậy đó! Nhờ họ mà giáo lý Đại Thừa, Thiền Tông và Nam Tông đều rung chuyển. Nhờ họ mà hôm nay bạn Hương Trà mới có bức thư gửi lên mạng. Như vậy bạn ấy có phải là người mù rờ voi không? Bạn ấy làm sao hiểu nổi thầy Thông Lạc mà bình luận về Thầy. Có đúng không các bạn? Sách thầy Thông Lạc ra đời là như tiếng sét làm giật mình, đánh thức tỉnh những ai còn mê ngủ trong đêm dài vô tận của Đại Thừa, Thiền Tông, Nam Tông và kiến giải của các Tổ sư. Như vậy, rõ ràng thầy Thông Lạc làm việc gì đều biết trước việc mình làm. Các bạn thấy chưa? Trong bài viết, bạn Hương Trà trách thầy Thông Lạc không có lòng đại từ đại bi, mạt sát các Thầy Tổ từ Ấn Độ, Trung Hoa đến Việt Nam. Tôi xin trích lại đoạn viết của bạn: “Một bậc A La Hán biết hết tất cả, biết đường đi nhân quả của chúng sanh, có lòng đại từ đại bi, thương tất cả chúng sinh như con ruột, không thể nào mạt sát chúng sinh được, huống hồ lại mạt sát các Thầy Tổ. Sư đã mạt sát các Tổ Sư như các Ngài Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân, Mã Minh, Bồ Đề Đạt Ma bên Ấn Độ đến Tổ Huệ Khả, tổ Vĩnh Minh Diên Thọ bên Trung Hoa, và đến chư Thầy Tổ Việt Nam. Chỉ trước lâm chung bị bệnh đau, thế mà sư cho là tất cả đều tu sai nên tất cả đau như vậy trước khi lâm chung. Sư còn nói HT Thiền Tâm trước khi lâm chung ói máu thế này thế khác”. Bạn buộc tội thầy Thông Lạc, theo kiểu cũng giống như toà án thế gian tuyên án phạm nhân, chỉ vì bạn ấy đâu có biết Tổ Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân là những người đã dùng ngòi bút quét Phật giáo tận cùng. Khi tu tập có đôi mắt Tuệ Tam Minh, thì thầy Thông Lạc có nỗi đau lòng vô hạn, vì trong thế gian này không có một vật gì che dấu được đôi mắt đó, dù bất cứ ở thời gian và không gian nào. Do sự hiểu, thấy, biết quá rõ ràng như vậy cho nên những vị Tổ mà thầy Thông Lạc nói đến đều có ý đồ diệt Phật giáo một cách khôn khéo, biến tín đồ Phật giáo thành tín đồ của Bà La Môn mà không hề ai phát giác ra được. Các bạn hãy suy ngẫm lại điểm này. Nếu không có ý đồ đen tối, sao lại chế Bồ Tát Giới cấm tín đồ Phật giáo không được học và tu theo giáo pháp Nguyên Thuỷ (Tiểu Thừa). Các Tổ ném đá dấu tay còn bảo rằng: Bồ Tát Giới là Phật chế. Sao Phật chế Giới luật mâu thuẫn vậy? Không cho đệ tử của mình học và tu theo giáo pháp của mình. Thật là vô lý. Phải không hỡi các bạn? Nếu bạn Hương Trà có được đôi mắt Tam Minh, thấy được ý đồ xấu xa, đen tối ấy thì chính bạn ấy là người xô dẹp các Tổ, chứ không bao giờ đợi thầy Thông Lạc và cũng không bao giờ trách móc thầy Thông Lạc, mà trái lại còn biết ơn thầy Thông Lạc. Phải không các bạn? Các bạn có biết một kẻ đi cướp nước có bao giờ họ nói rằng họ đi cướp nước người khác chưa? Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh điều đó. Một ngàn năm người Trung Hoa cai trị đất nước Việt Nam, họ coi đất nước chúng ta là gì? Và gần đây, gần một trăm năm người Pháp cai trị đất nước này. Có bao giờ họ nói cho chúng ta biết rằng họ cướp nước chúng ta không? Họ thường gọi nước chúng ta là nước thuộc địa và tự xưng với dân tộc chúng ta họ là Nhà Nước Bảo Hộ. Các Tổ cũng tương tự như vậy, khi cướp được Phật giáo thì cũng tự xưng mình là Đại Thừa (Nhà Nước Bảo Hộ), còn Phật giáo chánh thống thì gọi là Tiểu Thừa (nước bị trị). Những điều này, các bạn có bao giờ suy ngẫm để thấy trắng đen? Có đúng không? Nếu không có những bậc anh hùng, anh thư sáng suốt của dân tộc Việt Nam hy sinh xương máu và các sĩ phu dùng ngòi bút đánh thức toàn dân thì ngày giờ này, dân tộc Việt Nam có được một nước chủ quyền độc lập, sánh vai cùng các nước bạn năm châu bốn biển như thế này không? Nếu bạn ấy rõ được ý đồ của tổ Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước thì chắc không còn đủ sức bình tĩnh như thầy Thông Lạc nữa đâu. Bạn ấy sẽ căm tức vô cùng. Phải không hỡi bạn? Có thể nào không căm tức bạn nhỉ? Thưa các bạn! Các bạn không có mắt Tam Minh thì làm sao các bạn thấy cái chết của các Tổ trong quá khứ, hay ngay cả trong hiện tại, chưa chắc các bạn đã trực tiếp chứng kiến những thảm trạng trước khi Thầy, Tổ chết đau khổ tận cùng trên giường bệnh, mà luôn luôn các bạn chỉ nghe người ta khéo nói bưng bít bằng những danh từ “Thu Thần, Nhập Diệt”. Thưa các bạn! Trong khi kinh sách Đại Thừa không có dạy pháp môn thu thần nhập diệt, không có dạy pháp môn làm chủ sanh, già, bệnh, chết; chỉ dạy niệm Phật cầu vãng sanh, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, niệm chú, tụng kinh, lạy hồng danh chư Phật, chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, chăn trâu, biết vọng liền buông, tham thoại đầu, tham công án, v.v…Toàn những pháp môn dạy tu tập như vậy thì làm sao thu thần nhập diệt được? Họ lấy những pháp môn gì để làm chủ sanh tử luân hồi. Phải không hỡi các bạn? Còn HT Thiền Tâm và người đệ tử của Hoà Thượng chết như thế nào? Thầy Thông Lạc không những nghe mà còn thấy bạn ạ! Thưa các bạn! Bạn Hương Trà qua bài viết đã quá chủ quan và vội vàng kết tội thầy Thông Lạc mà không biết một bậc A La Hán. Các Ngài tuỳ căn cơ chúng sanh, tuỳ nhân duyên thời tiết mà thuyết pháp cứu độ chúng sanh. Do biết căn cơ chúng sanh, biết nhân duyên thời tiết, lúc nào nên làm gì và không nên làm gì. Nên có lúc thầy Thông Lạc đã tuỳ thuận trả lời thầy Chơn Quang trong một cuộn băng, theo kiểu đoàn kết Đại thừa và Nguyên Thuỷ để làm vui lòng huynh đệ, trong lúc uy tín và hậu thuẫn của thầy Thông Lạc chưa vững vàng. Trước và sau đó thầy Thông Lạc luôn lấy sự im lặng để chờ đợi. Gần 20 năm sau ngày Chứng đạo, thầy Thông Lạc mới thuyết giảng 61 cuộn băng 90 phút, dựng lại một số những gì của Phật giáo và dẹp bỏ một số những gì không phải của Phật giáo. Do không hiểu về hầy Thông Lạc nên bạn Hương Trà đoán mò, mới có những lỗi lầm, luận sai không đúng sự thật về trí tuệ của bậc chân tu như câu dưới đây: “Hoà Thượng Thông Lạc nếu là A La Hán thật, phải biết tuỳ căn cơ chúng sinh, tuỳ nhân duyên thời tiết mà thuyết pháp cứu độ chúng sinh”. Đọc lời luận này các bạn hãy xét lại, có đúng thầy Thông Lạc với trí tuệ của bậc A La Hán đang làm việc để chấn chỉnh Phật giáo không? Nếu muốn chấn chỉnh Phật giáo mà còn dùng những pháp môn Tụng kinh, Niệm Phật, Niệm chú, Ngồi thiền ức chế tâm của Đại Thừa Bà La Môn giáo, để theo ý của bạn Hương Trà, gọi là tuỳ căn cơ của chúng sanh và tuỳ thời tiết nhân duyên, thì chúng tôi e rằng đó là thầy Thông Lạc giẫm lại lối mòn của các Tổ ngày xưa, thực hiện theo mưu đồ của các Tổ Bà La Môn. Chính vì các Tổ không đủ trí tuệ sáng suốt thấy cái sai, cái đúng của Phật giáo nên phải nhận lấy các pháp môn của ngoại đạo Bà La Môn, làm giáo pháp hướng dẫn tín đồ, rồi gọi đó là tuỳ căn cơ và thời tiết nhân duyên của chúng sanh. Qua đoạn viết trên, tôi biết rằng bạn Hương Trà đang bị kiến chấp của đại Thừa, nói một cách khác là bạn ấy đã bị bệnh nặng ảnh hưởng trầm trọng tư tưởng của Đại Thừa. Cái hiểu biết “tuỳ căn cơ và thời tiết nhân duyên” theo kiểu của bạn ấy, như vậy thì không còn có nghĩa là chấn chỉnh Phật giáo nữa, mà diệt Phật giáo đấy bạn ạ! Với trí hữu hạn, đã biến bạn ấy trở thành tay sai đắc lực để diệt Phật giáo. Chẳng rõ bạn ấy có biết như thế không? Với trí hữu hạn, bạn ấy không thể hiểu được thầy Thông Lạc. Mong rằng, các bạn khác không như bạn Hương Trà này! Đọc bộ sách Đường Về Xứ Phật, các bạn nên loại trừ những tư tưởng bệnh hoạn, chịu ảnh hưởng sâu đậm của Đại Thừa trong các bạn, thì các bạn mới có đủ trí tuệ khách quan nhìn sự thật về bộ sách này. Chừng đó các bạn sẽ không có những lời nói như bạn Hương Trà: “Chính sư biết tất cả tín đồ Phật Giáo Việt Nam hiện nay không tu Tịnh Độ thì lại tu Thiền Tông; không tu Thiền Tông thì lại tu Mật Tông. Ba tông phái này chiếm trọn tín đồ Phật Giáo; thế mà sư lại quyết tâm triệt hạ, chỉ trích họ là ngoại đạo, là tà giáo, chỉ riêng sư mới đúng, mới là chính phái. Không những chỉ trích ba tông phái chính của PGVN là Tịnh Độ, Thiền Tông, Mật Tông là tà, sư Thông Lạc cũng chỉ trích luôn các sư Nam Tông nào là tu sai, ăn thịt chúng sinh, ăn phi thời, phá giới, bẻ vụn giới.. Sư cũng chỉ trích cả hai vị Thiền Sư Nam Tông nổi tiếng hiện nay trên thế giới là hai ngài A-Chaan-chah và Mahàsi”. Đúng là bạn ấy đang chịu ảnh hưởng Đại Thừa quá sâu đậm, nhưng không đáng trách vì Đại Thừa đã truyền thừa vào đất nước này quá lâu, nên nó đã ăn sâu vào tư tưởng của mọi người và đã trở thành những phong tục, tập quán mê tín, dị đoan, lạc hậu, thiếu khoa học, đầy vẻ hoang đường, mơ hồ, trừu tượng v.v… (sau cái chết có sự sống, linh hồn nghe kinh…). Vả lại, các bạn ấy cũng không có công phu tu tập và nghiên cứu kinh Nguyên Thuỷ, cho nên không thấy cái sai của những giáo pháp Đại Thừa này đối với Phật giáo. Hiện giờ cái nhìn của bạn ấy về Phật giáo là cái nhìn kiến chấp của Đại Thừa và kiến giải của hai ngài “A-Chaan-chah và Mahàsi”. Vì thế tư tưởng bị méo mó, nên không thấy cái chân thật của Phật giáo mà cho rằng: “chỉ riêng sư mới đúng, mới là chính phái”. Xin các bạn vui lòng lấy những pháp môn Thiền, Mật, Tịnh và pháp môn kiến giải của ngài A-Chaan-chah và Mahàsi tìm xem và đối chiếu với Bát Chánh Đạo, xem nó đang ở nẻo nào? Và nó thuộc vào pháp môn nào trong 37 phẩm trợ đạo của Phật Giáo? Xét cho chín chắn thì chúng không giống một pháp môn nào của Phật cả. Đã không giống thì làm sao gọi những pháp môn này là của Phật giáo được. Phải không các bạn? Đừng tin các Ngài mặc y sắc bất hoại là các Ngài thực hành Phật pháp! Trong thời đức Phật còn tại thế, ngài thuyết pháp độ sanh thường khuyên bảo chúng ta có 10 điều không nên tin: “Này Kàlàmà! 1. Chớ có tin vì nghe truyền thuyết. 2. Chớ có tin vì theo truyền thống. 3. Chớ có tin vì nghe người ta nói (tin đồn). 4. Chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng. 5. Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình. 6. Chớ có tin vì đúng theo một lập trường. 7. Chớ có tin vì phù hợp với định kiến những dự kiện của mình. 8. Chớ có tin vì phát xuất nơi có uy quyền. 9. Chớ có tin vì bậc Sa Môn là Đạo sư của mình v.v…” Và Ngài khuyên chúng ta nên tin một điều: “Nhưng này Kàlàmà! Khi nào tự mình biết rõ như sau: Các pháp này bất thiện, các pháp này là có tội, các pháp này bị người có trí hiểu biết chỉ trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau. Thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng, không nên tin theo”. Thưa các bạn! Phật giáo sau nhiều năm tháng truyền thừa, đi từ nước này đến nước khác, các Tổ chịu ảnh hưởng ngoại lai, tích luỹ những cái không đúng của Phật giáo quá nhiều, trên đường hoằng hoá độ sanh vì muốn có nhiều tín đồ theo mình nên tuỳ thuận mê tín của dân gian, biến giáo pháp của Phật thành giáo pháp mê tín để phục vụ dân gian. Vả lại, các Tổ chưa ly dục, ly ác nên tâm còn tham đắm dục lạc thế gian, vì thế, giới luật đã bị bẻ vụn tan nát. Sợ tín đồ biết mình phạm giới nên cấm không cho người Cư sĩ học đọc Giới luật, chẳng những thế, các Tổ còn thêm Kinh bớt Luật rất nhiều, làm lệch lạc đường lối tu tập chân chánh của Phật giáo. Vả lại, một số các Tổ hữu ý và một số Tổ vô tình lại quên mất giáo lý của Phật giáo, hay nói một cách khách là các Tổ đã ném bỏ giáo lý của Phật giáo mà nhận giáo lý ngoại lai, cố gán ghép làm giáo lý của Phật. Thật là đau lòng. Hôm nay, thầy Thông Lạc dựng lại những gì của Phật giáo đã bị các Tổ ném bỏ, và đập phá những gì không phải của Phật giáo, để chấn chỉnh Phật giáo trở lại là một Phật giáo chân chánh của chính nó, chứ thầy Thông Lạc không có pháp môn nào cả và cũng không thêm bớt vào một pháp môn nào. Do sự không hiểu về thầy Thông Lạc nên bạn Hương Trà có những lời vô tình tuyên truyền làm tay sai cho giặc ngoại xâm Đại Thừa: “Như thế, vô tình chung, sư Thông Lạc đả phá hết Phật Giáo rồi còn gì? Nói một cách vắn gọn, sư Thông Lạc tự cho mình là A La Hán, là Phật, là trên hết không còn ai hơn mình. Chỉ sư mới là chính phái, tất cả còn lại đều là tà hết”. Thưa các bạn! Thầy Thông Lạc chưa bao giờ tự cho mình là “A La Hán, là Phật, là trên hết, không còn ai hơn mình”, mà thầy Thông Lạc tự biết mình có chứng quả A La Hán hay không chứng quả A La Hán, tự biết được Phật giáo có cái sai, cái đúng, và cũng tự biết mình chấn chỉnh lại Phật giáo được hay không được. Nên hiện giờ, Thầy cố gắng làm được càng nhiều những gì cho Phật giáo; làm được càng nhiều những gì tốt đẹp cho đời; làm được càng nhiều những gì được lợi ích cho mọi người thì Thầy làm. Phật giáo hiện giờ có cái sai rất nhiều, chắc có lẽ các bạn cũng nhận thấy được điều này. Phải không các bạn? Thầy Thông Lạc mong ước các bạn cùng với Thầy góp sức để dẹp bỏ những tệ hại mê tín, trừu tượng, ảo giác của cái gọi là Phật giáo và đồng tâm hợp lực, dựng lại những cái gì của Phật giáo đã mất. “Một cây làm chẳng nên non Ba cây dụm lại nên hòn núi cao” Muốn chấn chỉnh lại Phật giáo để làm chỗ nương tựa tinh thần của tín đồ được tốt đẹp hơn, có ích lợi hơn thì không có sức mạnh nào bằng sức mạnh đoàn kết của tín đồ Phật giáo. Các bạn vui lòng chứ? Bạn Hương Trà không hiểu được tâm nguyện của thầy Thông Lạc, Thầy sử dụng lời nói mạnh và thẳng thắn về một sự thật đau lòng của Phật giáo, như tiếng sét rền vang để thức tỉnh mọi người. Nhờ có tiếng sét này nên bạn ấy mới dùng những danh từ: “hằn học, mạ lị, mạt sát”. Chính bạn ấy đã bị những tiếng sét của thầy Thông Lạc, nhưng còn bình tĩnh đọc sách của thầy Thông Lạc, chứ có nhiều người chỉ đọc một vài trang là đã ném vào sọt rác. Thật đấy các bạn ạ! Thời nay tu hành chưa có ai chứng quả A La Hán, nên mọi người đều hiểu bậc chứng quả A La Hán qua tư tưởng của Thiền Tông Trung Hoa, tâm như cục đá gốc cây “Vô phân biệt” theo kiểu chứng ngộ của Thiền Tông: “Một bậc A La Hán không thể nào có những lời phân biệt thế này, thế nọ, thấy cái này sai, cái kia đúng”. Trong khi đức Phật chứng quả A La Hán xong, Ngài phân biệt rất rõ cái sai, cái đúng trong giáo pháp của Bà La Môn, nên Ngài thẳng tay đập phá rất mạnh những cái sai của Bà La Môn và dựng lại những cái đúng mà ngày nay chúng ta mới có Bốn Chân Lý và những chánh pháp tu tập, từ đạo đức làm Người, làm Thánh, đến Thiền định làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt sanh tử luân hồi. Thưa các bạn! Pháp môn Đại Thừa đâu có mắng chửi gì thầy Thông Lạc mà Thầy phải hằn học, mạ lị, mạt sát nó. Có đúng như vậy không các bạn? Nó chỉ dạy cho tín đồ Phật giáo trở thành những người mê tín, lạc hậu, gây ra bao nhiêu sự tốn hao một cách nhảm nhí của mọi người, chứ thầy Thông Lạc có hao tốn gì đâu mà lại hằn học, mạ lị, mạt sát. Thế mà bạn Hương Trà nỡ nhẫn tâm gán ép cho thầy Thông Lạc những danh từ mà người đời không tu tập chỉ có một chút đạo đức còn không làm: “Một bậc A La Hán không thể nào có những lời hằn học, những lời mạ lị, mạt sát người khác hay môn phái khác”. Thầy Thông Lạc nói Đại Thừa, Mật Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền sư A-Chaan-Chah, Mahàsi sai là vì các hệ phái này và hai vị thiền sư dạy tu theo Phật giáo mà không giống giáo lý của Phật giáo chút nào, buộc lòng thầy Thông Lạc nói ra sự thật để cho Phật tử cảnh giác nhận xét kỹ lại xem coi lời thầy Thông Lạc có đúng không mà thôi. Nếu thấy lời thầy Thông Lạc sai thì cứ theo các pháp Đại Thừa mà tu tập, thầy Thông Lạc có bao giờ ngăn cản đâu. “Tự do tín ngưỡng mà”. Trong vấn đề tôn giáo không ai có quyền bắt buộc ai. Phải vậy không các bạn? Thưa các bạn! Bạn Hương Trà nói ra câu này là dựa theo kinh sách Đại Thừa: “Theo tâm lý học người đời, ai cũng biết người nào còn nói tâm tôi thanh tịnh là người đó tâm còn ô nhiễm. Ai cũng biết người nào còn thấy mình tu chứng quả A La Hán là người đó chưa chứng quả A La Hán. Ai cũng biết người nào còn tâm phân biệt, chống đối các pháp môn khác là người đó chưa chứng đắc. Người nào còn thấy mình đúng, người khác sai là người đó chưa chứng đắc. Điều này thật hiển nhiên.” Bạn ấy bắt chước câu nói này trong kinh Kim Cang mà bạn không hiểu nghĩa của nó, vô tình bạn chỉ cho mọi người thấy sự kém cỏi của mình. Bây giờ, tôi xin các bạn vui lòng hỏi bạn Hương Trà trả lời những câu hỏi sau đây, xem bạn ấy trả lời như thế nào: Câu hỏi thứ nhất: Khi tâm bạn có sân, bạn có biết tâm bạn có sân không? Nếu bạn Hương Trà trả lời không biết, là bạn ấy dối bạn đó! Câu hỏi thứ hai: Khi tâm bạn không sân, bạn có biết tâm bạn không sân không? Nếu bạn Hương Trà trả lời không biết, là lần nữa bạn ấy đã dối bạn, thiếu thành thật với bạn. Phải không các bạn? Câu hỏi thứ ba: Khi bạn ăn một cái bánh, bạn có biết mùi vị đắng, cay, ngọt, bùi, béo, mặn, lạt của cái bánh không? Nếu bạn Hương Trà bảo rằng không biết, là bạn ấy đã dối bạn, bạn ấy không thành thật với bạn. Các bạn đồng ý chứ! Cho nên, người chứng quả A La Hán phải biết mình chứng quả A La Hán. Trạng thái tâm Vô Lậu của người chứng quả A La Hán, không giống trạng thái tâm hữu lậu của kẻ phàm phu. Bởi vậy, bạn ấy chưa bao giờ thưởng thức quả bánh A La Hán, rồi nghe lời các Tổ là những người chưa được nếm mùi vị nên mới bảo rằng: “Người nào còn thấy minh tu chứng quả A La Hán là người đó chưa chứng quả A La Hán”. Cho nên người xưa bảo: “Thực bất tri kỳ vị” có nghĩa là ăn mà không biết mùi vị ăn, không biết mùi là loại vật gì? Các bạn biết không? Xem thế, mới đủ biết các nhà Đại Thừa chỉ lừa đảo với người tu chưa chứng, còn những người tu chứng thì làm sao lừa gạt được. Thưa các bạn! Ở đây, bạn Hương Trà dùng chữ tâm lý học không đúng các bạn ạ! Tâm lý con người là có sự hiểu biết, có sự cảm nhận, chứ không phải tâm lý con người như đất, đá không hiểu biết, không cảm nhận. Phải không các bạn? Còn biết mà không dám nói là hèn nhát bạn ạ! Là chịu ảnh hưởng của tư tưởng Đại Thừa “vô sở đắc”. Xưa, đức Phật tu chứng quả A La Hán, Ngài tự xưng mình chứng quả A La Hán, như vậy, theo lập luận của Đại Thừa, đức Phật chưa chứng quả A La Hán sao? Thật là vô lý. Phải vậy không hỡi các bạn? Còn thầy Thông Lạc chưa bao giờ tự xưng mình chứng quả A La Hán, mà chỉ trình bày cách thức tu tập, nhập Tứ Thánh Định, thực hiện Tam Minh và trạng thái Tâm Vô Lậu với HT Thanh Từ. Từ đó, mới có tiếng đồn trong giới Phật tử: “Thầy Thông Lạc chứng quả A La Hán”. Cho nên, trong bài viết của bạn Hương Trà về thầy Thông Lạc chưa được đúng. Như những điều bạn đã viết, vô tình bạn đã làm quảng cáo về thầy Thông Lạc, khiến cho Phật tử khắp nơi trên thế giới đều biết đến thầy Thông Lạc chứng quả A La Hán. Các bạn cũng biết, những điều bạn ấy viết đâu phải mọi người đều tin và nghe theo hết đâu, bởi vì mọi người đều có trí tuệ. Thậm chí, những lời Phật dạy trong kinh chưa chắc người ta đã tin hết hoàn toàn. Phải không các bạn? Xin đọc lại lời luận vay mượn của bạn Hương Trà trong kinh sách Đại Thừa: “Theo tâm lý học người đời, ai cũng biết người nào còn nói tâm tôi thanh tịnh là người đó tâm còn ô nhiễm. Ai cũng biết người nào còn thấy mình tu chứng quả A La Hán là người đó chưa chứng quả A La Hán. Ai cũng biết người nào còn tâm phân biệt, chống đối các pháp môn khác là người đó chưa chứng đắc. Người nào còn thấy mình đúng, người khác sai là người đó chưa chứng đắc. Điều này thật hiển nhiên.” Tóm lại, lời luận trên đây của bạn ấy là sự vay mượn trong kính sách Đại Thừa, cố ý “hạ uy tín” của thầy Thông Lạc với tín đồ Phật giáo để giữ gìn và bảo vệ tư tưởng mê tín, trừu tượng, ảo tưởng của Đại Thừa, nhưng vô tình bạn đã quảng cáo về thầy Thông Lạc. Có đúng như vậy không các bạn? Khi đọc, thấy bài viết của bạn Hương Trà và một số bài của các vị khác trên trang Thư Viện Hoa Sen, chúng tôi có hỏi ý Thầy, thì Thầy bảo chúng tôi nên im lặng như Thánh, vì Thầy là người tu hành đã giải thoát, dù ai có nói gì thì Thầy cũng vẫn là người giải thoát. Đối với thầy, thì danh lợi như nước qua cầu. Ai có duyên đến với Thầy thì Thầy phải khổ cực dạy bảo, nuôi cơm, hướng dẫn cho tu tập để ly dục, ly ác pháp. Mọi người ăn rồi ở không, tu tập, không bắt ai phải lao động làm gì cả. Như vậy, bài viết của bạn ấy là những điều may mắn giúp cho thầy Thông Lạc khỏi bận rộn, sống thảnh thơi, an lạc hơn. Khi chúng tôi đánh máy vi tính tập II - Những Lời Phật Dạy này, đến đoạn kinh Pháp cú: “Con người được sanh ra, Sanh với búa trong miệng, Người ngu nói điều xấu, Là tự chém vào mình”. Nhớ lại bài viết của bạn đăng trên trang Thư Viện Hoa Sen, lẽ ra tôi không viết bài này, vì thầy Thông Lạc căn dặn chúng tôi phải im lặng như Thánh, dù bất cứ ai có bất cứ hành động gì chống đối, chỉ trích hay phê bình. Nhưng bài kinh đã khiến tôi nghĩ đến các bạn khác, có thể vì chưa suy nghiệm kỹ mà bị lập luận này của bạn Hương Trà đưa đến những tác hại không nên có, về những chỉ trích sai lầm có tính cách mạ lị một vị cao Tăng có giới đức nghiêm chỉnh, đức từ, bi, hỷ, xả khó có ai hơn, mà chúng tôi khó gặp trong thời này. Phải nói rằng, bài viết của bạn Hương Trà tai hại quá chừng cho chính bạn ấy và có thể cho một số khác nữa. Tôi khẳng định về sự nghiêm trì Giới luật và Đức hạnh tròn đủ của thầy Thông Lạc, bởi lẽ tôi sống với Thầy từ năm lên tám tuổi như trên đã nói. Cho nên, tôi hiểu thầy Thông Lạc hơn ai hết vì tôi luôn sống bên cạnh Thầy. Ngoài hai điểm giới luật nghiêm túc và đức hạnh tròn đủ, còn một điểm nữa mà chưa chắc ai bằng được, đó là Thiền định sâu mầu của Thầy. Thế mà, bạn Hương Trà không biết tí gì hết mà lại bạo gan luận về thầy Thông Lạc. Xưa, đức Phật đã khuyên nên sống thân cận một thời gian với vị Sa Môn để có nhận xét đúng về vị ấy. Tôi đã được cái may mắn này cho nên biết như thật bạn Hương Trà đã luận sai. Tôi nghĩ rằng bạn Hương Trà rất đáng thương, cũng như những bạn khác có thiên kiến như bạn ấy. Dù sao, tôi cũng phải xin sám hối với thầy Thông Lạc vì đã vi phạm lời dạy của Thầy. Tôi đã khẩn khoản xin thầy Thông Lạc cho in bài này vào tập II - Những Lời Phật Dạy, để khuyên các bạn khác một khi muốn luận bàn về thầy Thông Lạc hay bất kỳ một vị cao Tăng đang còn sống nào thì hãy đến gặp họ một lần, nếu được hãy sống thân cận một thời gian để có sự nhận định đúng, viết không sai, bởi lẽ hành vi của mình sai là tự làm khổ mình. Nhân ác thì phải nhận quả ác, không thể nào tránh thoát được. Muốn luận bàn một vấn đề gì thì phải luận bàn cho đúng, đừng luận sai sự thật, vì luận sai sự thật như búa trong miệng sẽ tự chém mình, như lời đức Phật đã dạy: “Con người được sanh ra, Sanh với búa trong miệng Người ngu nói điều xấu, Là tự chém vào mình”. Trong một bức thư ngỏ đăng ở tập III - Những Lời Phật Dạy, thầy Thông Lạc khuyên khi nào các bạn tu tập chứng Tam Minh, dùng nó mà quan sát thầy Thông Lạc, chừng đó các bạn mới đủ như thật biết, để bình luận sai trái về các sách của Thầy, cũng như cá nhân của thầy Thông Lạc. Còn chưa có Tam Minh mà các bạn luận bàn thì không thể chính xác, cũng giống như bài viết của bạn Hương Trà ở trên đây. Đứng dưới chân núi, chỉ nhìn lên đỉnh núi rồi luận bàn thì làm sao đúng được, phải không các bạn? Làm sao biết đúng được cái gì? Hiện nay, thầy Thông Lạc trong tuổi đời bảy mươi tám (năm 2005), ngày đêm mài miệt đem hết sức lực còn lại của mình để dựng lại nền đạo đức Nhân bản – Nhân quả của Phật giáo, ngõ hầu đem lại sự an vui, hạnh phúc cho loài người trên khắp hành tinh này. Thế mà, có bạn đã vì kiến chấp theo các vị Tổ sư Đại Thừa và Thiền Tông tiếp tay diệt Phật giáo, làm cho một số ít người khi đọc đến bài viết của bạn ấy đã hoang mang dao động với Chánh Pháp của Phật. Tội ấy làm sao tránh đây hỡi các bạn? Riêng thầy Thông Lạc thành thật biết ơn bạn Hương Trà và những người khác. Nhờ các bài viết như thế mà nhiều tín đồ Phật giáo khắp nơi trên thế giới biết được người tu sĩ nghèo cùng, vô danh, tầm thường như thầy Thông Lạc. Thân ái chào các bạn và chúc các bạn thành công trong ước nguyện… Kính ghi Mật Hạnh Thiền sinh Tu Viện Chơn Như |
Cập nhật ngày : 08.08.2012 | |||
Gần đây (ngày 31/7/2012), Thư viện Hoa Sen cho đăng bài dịch: “Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng” do dịch giả Tuệ Uyển chuyển ngữ. Nội dung bao gồm các câu hỏi (không rõ người hỏi) và câu trả lời của ngài Dalai Lama. Nhận thấy sự cần thiết phải góp tiếng nói chung vào sự nghiệp chấn hưng lại Phật pháp, giúp người Phật tử có thêm một cách nhìn, một cách hiểu về nhân sinh và thế giới quan của Phật giáo. Lần lượt, khi có điều kiện, chúng tôi sẽ giới thiệu những lời đáp để trả lời các câu hỏi trong bài, tuy đã được ngài Dalai Lama trả lời nhưng không thỏa mãn cho sự tìm hiểu của độc giả, và chúng tôi thấy không mấy thuyết phục bởi câu trả lời từ một người có uy tín như Ngài. Nay, quý vị độc giả đọc và cùng trao đổi thêm để làm sáng tỏ nền đạo đức mà đức Phật giảng dạy. Câu hỏi: “Tại sao chúng ta đến thế giới này?” Ngài Dalai Lama trả lời: “Tự nhiên là tự nhiên. Không có câu trả lời”. Viên Hạnh trao đổi. Trước khi trao đổi về câu hỏi, Viên Hạnh xin gửi đến ngài Dalai Lama cùng quý độc giả lời chào trân trọng và lòng yêu thương, cảm thông chia sẻ chân thành. Thưa quý vị! “Tại sao chúng ta đến thế giới này?” là một câu hỏi hàm chứa lớn mà tất cả mọi người trên hành tinh chứ không riêng gìới Phật tử cần tìm hiểu để biết rõ. Câu hỏi này không dễ trả lời một cách dông dài mà có thể chấp nhận được. Tương ưng ở đời, thường có những câu hỏi: Còn rất nhiều những câu hỏi “tại sao chúng ta đến” nữa không thể dẫn hết được. Những câu hỏi và trả lời trên đều có nơi xuất phát (nơi mình trú ngụ), nơi đến để hành động (theo mục đích của mình) và nơi trở về sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Ở đây, câu hỏi “Tại sao chúng ta đến thế giới này” là tâm trạng suy tư nung nấu và rất thực tiễn cho người Phật tử, hay rộng hơn là chung cho tất cả mọi người. Chúng ta đến đây để đón nhận hạnh phúc, hay để hứng chịu khổ đau hoặc một trạng thái khác là không hạnh phúc cũng không khổ đau. Cả ba trạng thái này, trên đời ai cũng đều đã từng trải qua. Để dẫn đến sự hiểu biết, thấm nhuần câu đáp, chúng ta cần phải tìm hiểu cho thấu đáo các cụm từ: [chúng ta] và [thế giới này]. [Chúng ta] bao gồm tất cả, là bạn, là tôi, là mọi cá nhân đang sống trên hành tinh này mà mỗi người đang tự chấp là “ta”. Và có câu hỏi “Ta là ai? Ta từ đâu đến? Ta đến đây để làm gì? Sau khi ở đây ra đi, ta sẽ về đâu?” Ta là ai? Chúng ta hiểu rằng: ta, tất cả chúng ta, mọi loại hữu tình được gọi chung là chúng sanh. Chúng sanh từ đâu mà (được sanh ra) có? Để biết từ đâu, hãy biết, đây là lời Phật dạy: …“Này thanh niên, các loài hữu tình (chúng sanh) là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu”… (Kinh Trung Bộ, kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt). Ai cũng biết, Nghiệp được tạo tác bởi hành động, hành động xuất phát từ ba nơi Thân, Khẩu, Ý của mỗi người. Mỗi hành động dù thiện, dù ác, hay không thiện không ác đều có nguyên nhân và dẫn đến kết quả riêng của nó, tức là Nghiệp. Như vậy chúng ta (ta) được sanh ra từ cái “bào thai Hành Động” tức là “Nghiệp” hay còn gọi là “Nhân Quả”. Như vậy, ta là kết quả của hành động, do nhân, do duyên mà tạo tác thành hình hài với đầy đủ “bốn đại, năm uẩn’ (đối với con người, còn nhiều loài khác không có đủ năm uẩn ấy). Ta từ đâu đến? Trong vũ trụ bao la có vô số hành tinh đang hành động. Lớn như Lỗ Đen và các Mặt Trời, nhỏ hơn là các vì sao… và Trái Đất mà chúng ta đang ở. Có phái chăng, chúng ta từ một hành tinh xa xôi nào đến Trái đất này để sinh sống? Trong vũ trụ có vô số hành tinh, mỗi hành tinh đều đang hành động theo một quy luật riêng của mình nhưng phù hợp với quy luật chung “Vô Minh” của vũ trụ. Do duyên hành nên mỗi hành tinh đều tạo tác nên “Nghiệp” của riêng nó. Khi nhân duyên đủ thuận hòa thì có môi trường sống xuất hiện, khi môi trường sống xuất hiện thì có sự sống nảy nở sinh sôi, như Trái đất của chúng ta. Khởi đầu là các loài rong rêu, thảo mộc. Qua hành trinh của thời gian, các loài động vật xuất hiện và loài người xuất hiện. Đức Phật dạy 12 Nhân Duyên: khởi đầu là duyên Vô minh, Vô minh duyên Hành (hành động); Hành duyên Nghiệp; Nghiệp duyên Danh sắc; Danh sắc duyên Lục nhập; Lục nhập duyên Xúc; Xúc duyên Thọ; Thọ duyên Ái; Ái duyên Hữu; Hữu duyên Thủ; Thủ duyên Sanh; Sanh duyên Ưu bi, bệnh, chết. Xét trong 12 nhân duyên, chúng ta thấy Nghiệp xuất hiện bởi gốc là do “Vô Minh”. Như thế chúng ta hiểu rằng “Ta” xuất hiện bởi Vô Minh, ta đồng hành cùng vũ trụ, và ở đây, trên Trái đất này, khi có môi trường sống, có sự sống và có chúng ta xuất hiện cùng với muôn loài khác. Khi môi trường sống trên Trái đất này bị hủy diệt thì đương nhiên con người cùng muôn loài cũng bị hủy diệt theo. Như vậy, ta do duyên vô minh mà xuất hiện trên Trái đất này, chứ ta không từ nơi nào đến cả. Nghiệp như một dòng sông bất tịnh, chứa đầy dục vọng và tham ái mà con người cùng muôn loài lặn ngụp trong sóng nước đục ngầu khổ đau Tham, Sân, Si… cứ mải miết trôi lăn không ngừng nghỉ. Ta đến đây để làm gì? Câu hỏi “ta đến đây” không còn phù hợp nữa. Bởi ở trên đã làm sáng tỏ. Lúc này là câu: ta "xuất hiện" để làm gì? Thực ra, nếu hiểu biết thì chẳng ai muốn xuất hiện ở đây (thế giới này), toàn là đau khổ, phiền toái, bất toại nguyện, hư hoại, hoại diệt của vô thường biến chuyển. Nhưng vì vô minh, ta bị lôi kéo, bị bắt giữ bởi hành động thiện, ác, và không thiện không ác nên ta xuất hiện trên cõi đời này. Tuy nhiên, khi đã bị xuất hiện rồi, ở đây, ai cũng muốn mình được hưởng hạnh phúc chứ không ai mong mình bị khổ đau sầu não, chướng ngại bao giờ. Nhưng chúng ta (ta) không biết làm sao để có thể được hạnh phúc tròn đầy. Đức Phật đã dạy: “Siêng năng làm việc thiện, tránh xa các điều ác…” hay thường sống tinh cần thực hiện mười điều lành thì chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc. Cao hơn nữa, chúng ta tập sống theo đức hạnh của các bậc thánh nhân thì đạt đến hạnh phúc cứu cánh, đó là giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khổ đau sanh, lão, bệnh, tử của đời người. Sau khi ở đây ra đi, ta sẽ về đâu? Hỏi lại rõ ràng hơn, tức là sau khi thân hoại mạng chung ta sẽ về đâu? Sau khi thân hoại mạng chung, sắc thân bốn đại, năm uẩn đều tan hoại hết. Đất trả về đất, Nước trả về nước, Lửa trả về lửa, Gió trả về gió, không còn một chút gì tồn tại là thường hằng. Chỉ còn lại Nghiệp, Nghiệp tiếp tục đồng hành cùng với Vô Minh trôi lăn bất tận trên dòng sông ô nhiễm ta vẫn thường gắn bó. Nghiệp hiện tướng trong hình sắc của muôn loài có liệt, có ưu. Khi đang hiện hữu đều như những ngọn đuốc cháy hừng lửa Tham, Sân, Si… và sự trói buộc chặt của 17 kiết sử. Khi thân này lúc mạng chung, sắc thân tan hoại thì ngay lập tức ngọn lửa của đuốc cũ chuyển tiếp sang một cây đuốc mới. Tùy thuộc vào hành nghiệp trong cuộc đời đã qua mà có hình tướng của lốt nghiệp trong kiếp tương lai. Dù cách nào đi nữa, ta vẫn phải lặn hụp trong dòng sông vô minh chảy xiết, bởi môi trường cuộc sống của ta là nơi ấy: hành – nghiệp (nhân quả), nếu như ta không tích cực chuyển hướng cho mình. [Thế giới này], là nơi chúng ta hiện hữu, còn gọi là cõi ta bà. Cõi ta bà mà mỗi khi một con người xuất hiện đều cất lên tiếng khóc thét thương tâm: Ta bà khổ! Ta bà khổ!!! Và như thế, hiểu được vậy, ai ai cũng phải ý thức rằng, vì dục ái và vô minh trói buộc, dẫn dắt mà chúng ta xuất hiện trong môi trường nhân quả này. Người hiểu biết thì lo toan tìm con đường thoát khỏi “thế giới này”, kẻ ngu si lấy khổ làm vui thì hân hoan sung sướng, ngày mỗi ngày lao thêm vào những nghiệp ô nhiễm mới. Nghiệp chồng nghiệp nên khổ đau cho nhân loại ngày càng khổ đau hơn. Đức Phật ra đời đã dạy cho chúng ta hiểu, chúng ta đang quay cuồng trong vòng xích của 12 nhân duyên. Muốn giải thoát khỏi dây xích vô hình nhưng vô cùng bền chắc, chúng ta phải biết cách phá tan sợi xích đang trói buộc chúng ta. Trong 12 mắt xích này, nếu phá được một mắt là toàn bộ dây xích tan rã, lúc bấy giờ là lúc ta được giải thoát, thoát khỏi dòng sông nhơ uế, lên bờ an tĩnh, thanh tịnh, tha hồ thấy biết trời mây. Có bốn mắt xích để chúng ta có thể công phá. Đó là: duyên Vô Minh, duyên Lục Nhập, duyên Thọ và duyên Sanh. Để tấn công vào bốn vị trí xung yếu này, đức Phật đã dạy cho chúng ta con đường Tám Chánh đạo và 37 phẩm trợ đạo. Cụ thể hành trình trên con đường Tám Chánh và thực hiện 37 phẩm trợ đạo ra sao, chúng ta sẽ luận bàn tiếp trong một dịp khác. Kết luận, với câu hỏi “Tại sao chúng ta đến thế giới này?”, chúng ta có thể thẳng thắn trả lời rằng: Vì Vô Minh nên chúng ta xuất hiện trong môi trường sống (thế giới) này, chúng ta đang sống trong Vô Minh. Sau khi ở đây ra đi, chúng ta lại tiếp tục trở về với Vô Minh. Nói cách khác, chúng ta sinh ra từ môi trường Nhân – Quả, sống trong Nhân – Quả và chết lại trở về với Nhân – Quả. Đó là Tự nhiên, Tự Nhiên là như thế, chứ không phải Tự Nhiên là Tự Nhiên như ngài Dalai Lama đã thuyết. |
Cập nhật ngày : 21.08.2012 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
“Đừng tin Thầy Thông Lạc”. Đó là lời mà tôi đã nghe các nhà Đại Thừa nói với tín đồ Phật giáo. Thế là mọi người truyền tai nhau. Vì sao?
- Theo Hương Trà vì : “Sư Thông Lạc tự cho mình là ALaHán, là Phật, là trên hết không còn ai hơn mình. Chỉ sư mới là chính phái, tất cả còn lại đều là tà hết. Một bậc ALaHán không thể nào có những lời phân biệt thế này thế nọ, thấy cái này sai, cái kia đúng. Một bậc ALaHán không thể nào có những lời hằn học, những lời mạ lị, mạt sát người khác hay môn phái khác. Theo tâm lý học người đời, ai cũng biết người nào nói tâm tôi thanh tịnh là người đó tâm còn ô nhiễm. Ai cũng biết người nào còn thấy mình tu chứng quả ALaHán là người đó chưa chứng quả ALaHán. Ai cũng biết người nào còn tâm phân biệt, chống đối các pháp môn khác là người đó chưa chứng đắc. Người nào còn thấy mình đúng, người khác sai là người đó chưa chứng đắc. Điều này thật hiển nhiên.” - Theo Tỳ Kheo Pháp Hiền vì : “Thông Lạc tuyên bố là đã “đắc Tứ Thiền” thì: Theo chỗ tôi biết, mà trong Tạng kinh Pali cũng có ghi rõ (không nhớ chính xác ở kinh nào, trang nào” đại khái rằng: khi một vị Tỳ kheo đắc “Tứ Thiền” thì vị Tỳ kheo ấy không biết được điều đó. Vì, nếu người ấy biết thì câu hỏi đặt ra là: “Ai biết?” Tức là còn “chủ thể” đang biết và còn “đối tượng” được biết. Cũng tức là cái “bản ngã” vẫn còn chình ình đó. Cho nên lời tuyên bố của HT. Thông Lạc nêu trên, nên để trong dấu ngoặc.” - Theo Bảo Như vì: “Có thể nhờ kinh nghiệm tu tập của tự thân, cộng với sự nôn nóng để mau được chứng quả nên tự hành xác một cách quá đáng, khiến nhiều người có thể bị “tẩu hỏa nhập ma”, sanh tâm cuồng loạn, nên mới có những ngôn ngữ và hành động hủy Phật báng Pháp như thế. Có thể thầy TL đã rơi vào trường hợp này.” - Theo trang chủ www.youtube.com tường thuật sự việc “Tìm kiếm vợ tại Tu Viện” viết vào ngày 05/04/2009, kèm theo video cho rằng: “Thích Thông Lạc tự xưng mình là bậc ALaHán để hù dọa thiên hạ. Ông là bậc lừa thiên hạ cao tay ấn nhất.” - Thấy Phật tử tu theo thầy Thông Lạc khá đông, một số người nghi ngờ: “Thầy Thông Lạc tu Mật Tông, dùng bùa chú làm mê hoặc, điều khiển mọi người”. Nhận định của Hương Trà, Pháp Hiền và Bảo Như về thầy Thông Lạc trích trên mạng Internet trang mục Hộ Pháp - Thư viện Hoa Sen, theo thư ngỏ của Ban biên tập đề ngày 16/06/2003 tức là cách nay gần 7 năm. Những bài viết của các bạn rất hay, nghị luận rất sắc bén và rất có sức thuyết phục đối với những người chưa biết gì về thầy Thông Lạc làm cho người ta sợ không dám tu. Đọc những bài viết đó mà tôi có cảm tưởng: Các bạn rất am hiểu kinh điển đạo Phật và nhất là quả vị ALaHán. Tôi là độc giả của các bạn. Sau khi đọc những bài viết có vài điều tôi xin trao đổi với các bạn như sau: 1. Nói về ALaHán sao Hương Trà không nói: Theo kinh nghiệm tu tập của tôi hay của thầy tổ, huynh đệ tôi mà lại nói: “theo tâm lí học”? Bạn đem “tâm lí học người đời” để bàn luận tâm Thánh thì mức chính xác là bao nhiêu phần trăm? 2. Tỳ Kheo Pháp Hiền chưa tu chứng đạo mà sao dám dựa vào “chỗ tôi biết” và Tạng kinh Pali (không nhớ trang nào, kinh nào) để luận bàn về “Tỳ kheo chứng đắc Tứ Thiền”? Mình nói lời nào thì phải chịu trách nhiệm lời nói đó. Cho nên mình biết chính xác thì nói, còn không biết thì nên im lặng để tránh trường hợp “há miệng mắc quai”. 3. Bạn Bảo Như tiếp xúc với thầy Thông Lạc được bao nhiêu lần mà bạn lại bảo Thầy bị “tẩu hỏa nhập ma” tức là người không được bình thường? Bạn có biết những người tu theo thầy Thông Lạc khá đông trong đó có những tu sĩ là bậc Hòa Thượng, Đại Đức và cư sĩ thuộc tầng lớp tri thức? Chẳng lẽ tất cả đều bị mê mờ tâm trí dễ dàng tin lời nói của một tu sĩ bị “tẩu hỏa nhập ma?" Nhà Xuất bản Tôn giáo, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin khi duyệt và cho xuất bản những quyển sách của thầy Thông Lạc lẽ nào không đọc, không suy nghĩ, không bàn luận với nhau? Sự hiểu biết của những người làm việc trong Nhà Xuất bản không bằng bạn sao? 4. Trang chủ www.youtube.com xem thường các cấp chính quyền và Pháp luật nên mới có những lời nói cho rằng chính quyền địa phương nhận tiền hối lộ, dung túng, bao che thầy Thông Lạc lừa đảo thiên hạ, nên mới có hành động tự ý vào khám xét tu viện khi chưa được sự cho phép của viện chủ hoặc chính quyền. Bạn có biết Hiến Pháp 1992, Điều 73 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép”. Bạn có biết để được vào trong tu viện tìm kiếm vợ mình bạn phải thông qua những bước nào không? Đầu tiên bạn phải thông qua với thầy Viện chủ. Nếu người quản lí không cho bạn gặp thầy Viện chủ mà có những lời nói, hành động xúc phạm nhân phẩm, thân thể của bạn thì bạn làm tờ tường trình gửi chính quyền địa phương. Nếu chính quyền địa phương không xử lí thì bạn gửi thư cho đài truyền hình, đài truyền thanh hoặc gửi đơn kiện cho các cấp chính quyền cao hơn nhờ xem xét, giải quyết vụ việc của bạn. Đọc bài viết “Chùa am thầy Thông Lạc” nghe bạn kể việc tìm vợ mà tôi xót thương! Vợ bạn đã rời khỏi tu viện lúc nào mà tại sao người quản lí tu viện lại không báo tin cho bạn biết. Thật thiếu trách nhiệm phải không bạn? Nhưng tôi nhớ bạn đi tìm vợ đâu phải tìm con. Vợ bạn năm nay bao nhiêu tuổi, sống với bạn bao nhiêu năm mà lại không biết đường về nhà để bạn tìm kiếm nhọc nhằn như vậy? Nhiều người khi ngộ đời là bể khổ, là trói buộc thì muốn nương vào đạo Phật để tìm cầu sự giải thoát. Tuy nhiên, họ không đi tu được vì nặng ái kiết sử với người thân trong gia đình. Còn vợ bạn dễ dàng cắt sợi dây ái kiết sử với chồng mà đi tu thì bạn cũng nên xét lại trách nhiệm làm chồng và tình cảm của mình đã dành cho vợ như thế nào? Tại sao vợ bạn rời tu viện Chơn Như mà không tìm về gia đình? Bạn nói vợ bạn sau khi nghe thầy Thông Lạc thuyết pháp thay đổi tính tình trở nên cọc cằn. Điều này phải hỏi lại vợ bạn mới biết chính xác. Tuy nhiên, tôi khuyên bạn một điều là: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” (trước trách mình, sau trách người). Bạn không am hiểu về đường lối tu hành của đạo Phật, nhất là giới luật tu sĩ nên đặt nhiều vấn đề không đúng về thầy Thông Lạc. Bạn còn nghênh ngang bảo rằng: “Thích Thông lạc tự xưng mình là bậc ALaHán để hù dọa thiên hạ. Ông là bậc lừa thiên hạ cao tay ấn nhất”. Nhiều sự việc bạn kể trong bài viết thiếu nhân chứng, thiếu dẫn chứng cụ thể thì khó mà thuyết phục mọi người tin lời mình. Người ta xem video “Tìm kiếm vợ tại tu viện”, nghe những lời bạn nói, đọc những câu mà bạn chú thích xúc phạm nhân phẩm của người khác cũng hiểu được phần nào bản tính ngang ngược của bạn. Nếu bạn cần đọc giả góp ý thì tôi sẽ chọn cho bạn một độc giả là anh Bùi Thanh Hoàng (pháp danh Minh Điền) ở gần tu viện. Anh Hoàng kể cho mọi người nghe qua một bài viết: “Bạn Thiên đã vào tu viện năn nỉ người vợ hiền hãy thứ lỗi cho bạn vì trong những tháng năm qua, bạn mải miết nhớ quê hương cực lạc ảo, đã xử sự bạc bẽo, đắng cay với người chung chăn gối với mình…Tôi có được tập hồ sơ xin xuất gia của cô Thảo vợ anh, cô có đủ cơ sở pháp lý về việc xuất gia theo ý nguyện của mình như: Giấy thuận tình ly hôn vợ chồng anh cùng ký; Giấy của mẹ cô Thảo cam kết với thầy viện chủ Thích Thông Lạc cho con đi xuất gia; Giấy trình xuất gia có chữ ký của chánh quyền Phường nơi cư ngụ P9, Q6 của vợ chồng anh; Tờ tường trình của cô Thảo kể về nạn bạo hành gia đình, nạn cha chồng bắt Thảo đấm bóp, massage, bị cưỡng bức, có giấy tờ gởi gắm vợ của Thiên được bà Lâm Thị Thu người nhân chứng ký tên… Thế nhưng sau đó Thiên đến tu viện quậy phá nhiều lần, có những lời nói thiếu văn hóa đạo đức và có hành vi thô bạo, hành hung những người có mặt trong tu viện, tự do lục soát các am tu của quí ni cô, chưởi mắng thầy Viện chủ, làm đơn tố cáo tu viện tà đạo, thầy Thích Thông Lạc thích xài tiền của người khác… Đơn tố cáo, Thiên gửi nhiều Tòa soạn báo chí, nhiều Cơ quan nhưng không ai tin nhận và đăng tải tư tưởng vô minh của Thiên như người mù rờ voi, ếch ngồi đáy giếng về giáo pháp của đức Như Lai. Nhiều lần Thiên bị phòng công an huyện Trảng Bàng mời lên làm việc về lá đơn tố cáo sai sự thật, vi phạm pháp luật đối với tín ngưỡng và nhiều cá nhân, trong đó có ý đồ bôi nhọ, xuyên tạc Thầy, Thiên còn vu khống xã Gia Lộc bao che nơi tín ngưỡng chân chính (tu viện Chơn Như) và vẫn làm tay sai, vẫn thói hư, tật xấu…” Các cấp chính quyền sẽ tổng hợp nhiều ý kiến của nhiều người trong đó có vợ bạn thì mới làm sáng tỏ vụ việc của bạn để bạn không phải cất tiếng kêu ai oán trên mạng Internet, để mọi người không hiểu lầm thầy Thông Lạc là người đã gieo nỗi khổ cho bạn. Những bạn nào nói thầy Thông Lạc tu Mật Tông thì bạn nên tìm hiểu cho rõ Mật Tông là gì? Cách thức tu tập như thế nào? “Mật tông (mì-zōng) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bí mật bắt nguồn từ Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 5, 6 tại Ấn Độ.” Theo Thích Nữ Trí Hải : “Người chọn mật tông để tu tập phải chấp nhận ba điều nguy hiểm có thể xảy đến cho tính mạng: một là chết, hai là điên loạn, ba là trở thành phế nhân. Một hành giả Mật Tông thường quán tưởng vị thần hộ mạng cho mình, ví dụ nữ thần Tara hay Quan Âm Bồ tát. Sau khi thiết lập một mandala (Tạng ngữ là kyilkhor) theo đúng nghi thức Mật Tông, vị ấy ngồi trong thất niệm thần chú của vị ấy. Ví dụ với nữ thần Tara là câu “OM TARE TUTARE TURE SVAHA”, tưởng tượng hình ảnh Ngài theo các tượng tranh thường tạc vẽ, đang đứng ở chính giữa đàn tràng (mandala này có thể treo trên vách hay đặt giữa nền nhà vừa tầm mắt nhìn). Nhiều tháng, cả năm trôi qua trong sự trì chú và quán tưởng hình tượng một cách nghiêm mật. Thỉnh thoảng vị thầy sẽ hỏi thăm tiến trình tu tập của hành giả. Cuối cùng sẽ có một lúc hành giả thông báo cho vị thầy kết quả sự quán tưởng của mình: đức Bồ tát đã xuất hiện giữa đàn tràng, nhưng rất mờ ảo, và chỉ trong một lúc thì tan biến. Vị thầy khen ngợi đó là dấu hiệu tốt, hãy tiếp tục quán tưởng cho đến khi hình ảnh hiện ra rõ rệt hơn, và kéo dài lâu hơn. Môn sinh trở về tiếp tục quán. Một thời gian rất lâu về sau, vị ấy cũng đạt được kết quả mong muốn: ấy là, vị Bồ tát đã xuất hiện rất rõ nét giữa đàn tràng, và thường như luôn luôn đứng đấy, dán chặt tại chỗ, không tan mất như trước. Vị ấy sung sướng trình thầy kết quả ở giai đoạn hai này. Nhưng thầy lại bảo: “Tốt lắm, song giờ đây con phải tiếp tục quán tưởng và cầu xin Ngài ban ân phước cho con, bằng cách lấy tay rờ đầu thọ ký, và nói với con những lời phủ dụ”. Thế là người môn đệ lại trở về với công việc niệm chú và quán tưởng y như lời thầy chỉ dạy. Sau một thời gian, quả thật những gì vị ấy cầu mong đều thành tựu: Bồ tát lấy tay sờ đầu mỗi khi y cúi lạy, và đôi mắt Ngài trở nên linh động, môi mấp máy ban lời phủ dụ, làm cho hành giả vô cùng hân hoan, tưởng đã đạt mục đích của sự quán tưởng. Nhưng khi trình lên thầy kết quả này, ông ta lại đòi hỏi một bước kế tiếp, là hãy trở về quán tiếp cho đến khi thấy vị Bồ tát bước ra khỏi đàn tràng, đi lui đi tới trong am thất của hành giả. Đây là giai đoạn nguy hiểm nhất trong việc tu tập, khi một vị thần bước ra khỏi đàn. Vì khi ra khỏi đàn, là có nghĩa vị ấy không còn bị trói buộc. Nếu là hung thần, thì sự bước ra khỏi đàn như vậy sẽ làm cho hành giả nguy khốn, vì thần ấy khi được tự do sẽ phẫn nộ trừng phạt hành giả đã giam giữ ông ta. Trừ phi cao tay ấn, đa số người tu Mật Tông bị chết hoặc điên loạn ở giai đoạn này. Bởi thế, không bao giờ nên để cho một vị thần bước ra khỏi giới hạn đã dành cho vị ấy…” (Trích Tương quan giữa Thiền và Mật của Thích Nữ Trí Hải) Đọc kinh sách của thầy Thông Lạc các bạn đã thấy Thầy bác bỏ những cái sai của Đại Thừa thì lẽ nào thầy lại tu tập Mật Tông “pháp môn bí mật bắt nguồn từ Phật giáo Đại Thừa”??? Trong Lời nói đầu Những Lời Gốc Phật Dạy tập I, Thầy nói: “Từ cách thức tu tập đến cách thức sống hằng ngày đối với tất cả mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng đều đem lại cho mình, cho người một tâm hồn thanh thản, an vui và vô sự, lúc nào tâm hồn cũng bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, luôn luôn không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh” thì Thầy không thể nào tu tập Mật Tông – Pháp môn đòi hỏi người tu chấp nhận 3 điều nguy hiểm đến tính mạng “một là chết, hai là điên loạn, ba là trở thành phế nhân”??? Thầy nói Bồ tát Quán Thế Âm không có thực, là sản phẩm của tưởng tri, là con đẻ của lòng tin những người cầu tha lực thì lẽ nào Thầy lại tu tập Mật Tông – Pháp môn quán tưởng cần vị thần hộ mạng là Quán Âm Bồ tát??? Thầy Thông Lạc thẳng thắn nói rằng: “Mật Tông là pháp môn tà thuật, huyễn hoặc lường gạt tín đồ nhẹ dạ, ham mê thần thông, biến ông thầy tu thành thầy phù thủy, thầy bùa, thầy pháp, v.v…”. Thế mà người ta lại bảo thầy Thông Lạc tu Mật Tông, thật buồn cười!!! Tóm lại, những lí lẽ mà các bạn đưa ra để thuyết phục mọi người “Đừng tin thầy Thông Lạc”. Tôi xin đặt một dấu chấm hỏi lớn (?) phía sau để chờ câu trả lời của những người có đầy đủ chánh kiến, thực tu, thực chứng. Thầy Thông Lạc cũng thừa biết: Tất cả những tập “Đường Về Xứ Phật” được đến tay quý vị và sẽ chia ra làm ba nhóm phật tử: 1- Nhóm thứ nhất, cho chúng tôi còn mang bản ngã, tự cho mình là trên hết không còn ai tu hơn mình, theo như kinh sách phát triển dạy: “Người còn thấy mình tu chứng quả A La Hán [1] là chưa chứng quả A La Hán; người mà hay chống đối các pháp môn khác là người chưa chứng đắc; người còn thấy cái sai cái đúng, chưa vô phân biệt là người chưa chứng đắc”. 2- Nhóm thứ hai, là nhóm trung lập, ý của nhóm này khuyên chúng tôi, không nên nói thẳng quá, đừng nói cái sai của người khác mà hãy nói cái gì mình đã tu và thực hành được, đừng động đến kẻ khác, chỉ dạy những gì mình biết, còn sai đúng mặc kệ họ. 3- Nhóm thứ ba, nhóm này chấp nhận và nhận xét những lời chúng tôi nói là đúng. Những cái sai không hợp lý trong kinh sách phát triển rất nhiều: những điều mê tín, những điều phi đạo đức và những lý luận lừa đảo lường gạt tín đồ, không thể kể hết được, cái lợi ích của kinh sách phát triển giúp cho mọi người thì ít, mà tai hại cho người đời thì rất nhiều, nhưng khéo che đậy bưng bít khiến mọi người khó thấy được. Cho nên, có nhiều người lầm tưởng giáo pháp kinh sách phát triển làm lợi ích cho xã hội. Nhưng sự thật không phải vậy, đó chỉ là những bức màn “Tứ Nhiếp Pháp [2] ” khéo che đậy, những thủ đoạn gian xảo, lừa đảo của giáo pháp này là để quyến rũ mọi người theo tôn giáo của mình đông đảo, biến thành một lực lượng phục vụ và quên mình lăn xả, dám hy sinh cho những sự mê tín lạc hậu này. Còn làm việc từ thiện của Phật giáo phát triển có tính tích cực, đó chỉ là một hành động tích cực theo thế tục hóa, theo trào lưu xã hội mà thôi. (Trích Lời nói đầu Đường Về Xứ Phật tập 8) Những lời mà các bạn đã nói, những bài mà các bạn viết đưa lên mạng bài bác thầy Thông Lạc đâu phải Thầy không đọc, không biết nhưng tại sao Thầy im lặng? Vì trong Tương Ưng kinh tập 3 trang 249 Phật dạy: “Này các tỳ kheo, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các tỳ kheo, người nói Pháp không tranh luận bất cứ một ai ở đời”. Trước khi nhập diệt, Phật để lại lời di chúc: “Này các Tỳ kheo, các con hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp của ta làm thầy và làm chỗ nương tựa để tu hành vững chắc khi Ta nhập Niết bàn ….” “Giới luật còn là Phật còn, giới luật mất là Phật mất”. Do đó, những người con Phật phải sáng suốt lựa chọn vị thầy đầy đủ giới hạnh mà nương tựa tu hành để tránh tìm minh sư (thầy sáng) lại gặp manh sư (thầy mù) các bạn ạ! Nếu bạn không biết rõ những giới luật của tu sĩ thì bạn cứ hỏi tăng ni. Nếu tăng ni viện lí do bạn là cư sĩ không được xem, được nghe giới hạnh của tu sĩ mà không trả lời thì bạn cứ mở mạng Internet tìm kiếm: 10 giới sa di, 100 giới chúng học, 250 giới Tỳ kheo, 348 giới Tỳ kheo ni, luật xuất gia,… Tất cả đều có trên mạng hết. Bạn cứ lấy giới luật mà nhận xét phẩm hạnh của tu sĩ để biết ai là người chân tu, ai là người giả tu. Bạn đừng sợ tội khi xem những giới luật của tăng, ni vì Giới "Sìla" là từ ngữ của Pàli được hiểu theo nhiều nghĩa như: "việc thực hành đạo đức, đức tính tốt, đạo đức Phật giáo, và điều lệ về đạo đức". Theo quan điểm Phật giáo, Sìla bao gồm hai nghĩa: giới điều về đạo đức (theo phương diện đạo đức), và phong cách cư xử về đạo đức (theo phương diện tu tập). Với nghĩa đầu tiên, nó được xuất phát từ lời dạy của đức Phật khuyên con người: tránh ác làm lành, tu tập thân-khẩu-ý thanh tịnh, diệt trừ tất cả những phiền não tham-sân-si đưa đến sự an lạc giải thoát cho chính mình. Với nghĩa thứ hai, không những nó khuyên con người quý mến nhau, thương yêu nhau, thông cảm cho nhau, đoàn kết và giúp đỡ nhau; mà còn hướng dẫn con người làm thế nào để tu tập Sìla (Giới) thích nghi với mọi tình huống xã hội hầu mang lại lợi ích, an vui và hạnh phúc thật sự cho mình và người. Đây chính là ý nghĩa Sìla tích cực và năng động trong giới Phật giáo. Ý nghĩa Sìla như thế mới có thể đóng góp vai trò quan trọng của nó về phương diện đạo đức trong cuộc sống con người và cộng đồng xã hội ngày nay”. Như chúng ta biết rằng, cuộc sống của các hàng đệ tử phật trong 5 chúng, như là: Tỳ-kheo (Bhikkhus), Tỳ-kheo-ni (Bhikkhunìs), Sa-di (Sràmaneras), Phật tử Nam (Upàsakas), Phật tử Nữ (Upàsikas), được tuân thủ những giới điều của Phật giáo. Nền tảng cội nguồn của những quy điều này truyền đến thế hệ chúng ta từ một hình thức rất sớm với tên gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa (Pàtimokkha), và được tập hợp lại từ những quy điều tự viện khác nhau được bao gồm trong Luật Tạng (Vinaya Pitaka). Ba-la-đề-mộc-xoa có 2 phần: một dành cho Tỳ-kheo bao gồm 227 giới (12), và một dành cho Tỳ-kheo-ni bao gồm 311 giới (13). Mặt khác, Ba-la-đề-mộc-xoa được phân chia thành 8 loại tội lớn nhỏ khác nhau dành cho Tỳ kheo, và 7 loại tội cho Tỳ-kheo-ni (vì không có 2 pháp Bất Định -Aniyatà) được trình bày tóm tắt như sau:
Đó là phần giới Pàtimokkha dành cho Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Tiếp theo là phần 10 giới dành cho vị Sa-di (Sàmanera), đó là tránh xa : 1. Việc sát sanh (Destroying life) Theo quan điểm của đạo Phật, Giới được đặt trên nền tảng tình yêu thương rộng lớn và lòng thương xót đối với tất cả chúng sanh. Vì thế, muốn thành tựu giới trọn vẹn, chúng ta cần phải sống với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt. Nhờ vậy, 3 nghiệp được thanh tịnh: "Thân khẩu ý thanh tịnh, thị danh Phật xuất thế (Trích trang đầu “Tìm hiểu về giới luật ( Sìla) trong Phật giáo” của Thích Quang Thạnh) Có lẽ đã đến lúc những người con Phật phải nhìn lại Phật giáo ngày nay. Nhiều ngôi chùa không còn là nơi tu hành mà là nơi tham quan, du lịch, kinh doanh tôn giáo là do đâu? Phật dạy: “Các con phải tự thắp đuốc lên mà đi” thế rồi tăng ni dạy cầu an, cầu siêu, cúng sao, giải nạn, niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc... Như thế có đúng với tinh thần tự lực mà Phật đã dạy không? Trong giới luật của hàng tu sĩ có giới không ca hát, không nghe ca hát. Thế mà nhiều tu sĩ tụng kinh ê a như ca và chế những bài hát về đạo Phật rồi tự hát, dạy người hát. Đối với việc làm này Phật có tán thán không thì các bạn hãy lật kinh bộ Tăng Chi tập 1 chương ba pháp trang 299 sẽ biết. Phật nói rằng: “Này các tỳ kheo, đây được xem là khóc than trong giới luật bậc Thánh tức là ca vịnh. Này các Tỳ kheo, đây được xem là điên loạn trong giới luật bậc Thánh tức là nhảy múa. Này các Tỳ kheo, đây được xem là trẻ con trong giới luật bậc Thánh tức là cười quá đáng để lộ cả răng. Do vậy, này các Tỳ kheo, hãy phá cây cầu đi đến hát! hãy phá cây cầu đi đến múa! Thật là vừa đủ, nếu người được hoan hỷ”. Các bạn cho thầy Thông Lạc là MA trong Phật giáo. MA mà giữ đúng phạm hạnh của tu sĩ còn hơn người tự xưng là đệ tử Phật mà phạm giới, phá giới. Mặc dù tuổi ngoài 80 nhưng Thầy vẫn tận dụng sức lực của tuổi già. Ban ngày thì Thầy lo xây dựng từng am thất nhỏ cho tu sinh tu tập. Ban đêm Thầy miệt mài viết những quyển sách dạy đạo đức làm người. MA mà biết dạy cư sĩ và tu sĩ sống đúng giới hạnh để duy trì Phật giáo vì “Giới luật còn là Phật còn, giới luật mất là Phật mất”. Các bạn có đọc hai tập Văn Hóa Truyền Thống, mỗi tập dày gần 400 trang mà thầy Thông Lạc đã dạy cho người tu những giới đức, giới hạnh, giới hành chưa? Thầy nói: “Những tu sĩ và cư sĩ Phật giáo đều là những bậc Thánh tăng, Thánh ni và Thánh cư sĩ. Vì thế trong đời sống hiện tại trên thế gian, hằng ngày quý vị phải biết cách thức sống đúng đạo đức nhân bản- nhân quả thì sự an vui hạnh phúc mới thực sự là chân thật. Do muốn biết cách thức sống đúng đạo đức nhân bản- nhân quả nên phải biết rõ ràng từng hành động thân, khẩu, ý của mình như thế nào đúng và như thế nào sai giới luật, sai giới luật là phạm giới. Sống đúng giới luật là sống đúng đức hạnh, sống đúng đức hạnh là sống thương yêu nhau, đem lại sự an vui cho nhau. Sống phi giới luật là sống vô đạo đức, sống vô đạo đức là sống đem khổ đau cho nhau, chẳng biết thương nhau…” (Trích Lời nói đầu Văn Hóa Truyền Thống tập II) Tôi đã tìm hiểu thầy Thông Lạc trong suốt thời gian dài. Không một quyển sách nào Thầy viết mà tôi không đọc. Không một băng đĩa nào Thầy thuyết cho những người tôi quen biết mà tôi không mượn nghe. Tôi tìm đọc bộ kinh Nguyên Thủy để đối chiếu những gì Thầy dạy. Thậm chí tôi còn về tu viện Chơn Như vừa tu học, vừa tìm hiểu cách dạy tu sinh qua thân hành giáo của Thầy. Tôi hỏi thăm vài người dân tại huyện Trảng Bàng, nhất là những cụ già để xem người ta nhận định về Thầy như thế nào? Cuối cùng tôi mới đưa ra kết luận: “Thầy Thông Lạc là bậc chân tu, sống đúng giới hạnh”. Dân gian có câu: “cây ngay không sợ chết đứng”, “ vàng thật không sợ lửa”. Dù bạn có thổi trăm trận cuồng phong, thầy Thông Lạc vẫn là cây tùng đứng hiên ngang giữa bão táp. Dù bạn có nói ngàn lần lời nói “Đừng tin thầy Thông Lạc” thì Thầy vẫn là con sư tử dõng dạc rống lên rằng: “Chúng tôi là đệ tử của Phật, noi gương Ngài, những gì của Phật đã bị ngoại đạo ném bỏ xuống thì chúng tôi dựng lại, còn những gì không phải của Phật gây ảnh hưởng xấu tai tiếng cho Phật giáo, gây ảo tưởng, trừu tượng, mê tín, lạc hậu v.v… khiến cho Phật giáo suy đồi thì chúng tôi ném bỏ xuống hết. Bởi vì khi tu xong chúng tôi như những người đứng trên núi cao nhìn xuống, thấy kinh sách, thấy ai tu hành không đúng chánh pháp của Phật, chúng tôi đều biết rõ. Do đó, tổ nào có ý đồ ném bỏ và kiến giải sai về Phật giáo thì chúng tôi có bổn phận phải chỉnh đốn lại và làm cho con đường Phật giáo sáng chói huy hoàng, chứ không thể để Phật giáo biến thành đống giáo lý tổng hợp. Nhờ đống giáo lý ấy mới có một số người lợi dụng làm nghề sinh sống mê tín, lừa đảo và làm cây chùm gửi, ăn bám vào người khác, biến họ thành gánh nặng cho xã hội. Lời nói này, tin hay không tin là quyền ở các bạn…” (Trích “Những Lời Gốc Phật Dạy” tập III trang 166 ) Ngày 10 tháng 03 năm 2010 Kính ghi Cư sĩ: Tính Nghĩa |
Cập nhật ngày : 01.09.2012 | |||
Tít bài viết của Cư sĩ Nguyên Giác đăng trên Thư Viện Hoa Sen, dịch từ bản tin ngắn “Chill Bill: Clinton turns to the art of Buddhist meditation to relax” của báo Daily Mail ngày 3/8/2012. Chúng tôi sử dụng lại tít này với một dấu chấm hỏi (?) nhằm chuyển đổi nội dung bản tin từ thể xác định sang thể nghi vấn: Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton tập “thiền”! Nhưng có chắc chắn rằng ông ấy đã tập “thiền” Phật giáo hay không?...
Bản tin cho hay, cựu Thổng thống Hoa kỳ Bill Clinton bị chứng hẹp van tim, buộc phải phẩu thuật thông các ống van tim… Tóm lại, ông vừa trải qua một cuộc thập tử nhất sanh… Bản năng sinh tồn buộc ông phải chọn cho mình một liệu pháp. Ông đã chọn “thiền”. Đảng Dân chủ đã thuê riêng cho ông một Buddhist monk (the Democrat has hired his own personal Buddhist monk…) để dạy ông học “thiền” đúng cách!... Vấn đề là vị Buddhist monk (tu sĩ Phật giáo) này đã dạy ông loại “thiền” gì? Có đúng là ông đã học được “thiền” mà chính Đức Phật đã dạy hay không?... Ngày nay, thế giới như trong lòng bàn tay, các khoảng cách địa lý thu hẹp dần, sự giao lưu văn hóa Đông-Tây càng trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn trong thế giới phẳng. Một người Âu-Mỹ tìm đến với văn hóa tâm linh Đông phương không còn là điều quá xa lạ trước mắt mọi người. Ông Bill Clinton cũng không ngoại lệ, ông tìm đến “thiền” sau khi lách qua khe cửa hẹp của luật vô thường. Chỉ có điều, vì ông là một chính khách nỗi tiếng, là người của quần chúng, nên khi báo điện tử Daily Mail đưa tin, dù chỉ là bản tin ngắn, độ khoảng chục dòng, nhưng đã trở thành “chuyện thời sự” được nhiều người bàn luận. Giới truyền thông Phật giáo VN cũng đón nhận tin này môt cách “hoan hỷ”. Nhưng xin chớ vội mừng, chớ vội xem giáo pháp chân chính của Đức Phật đã thực sự bén rễ nơi những chính khách nỗi tiếng như ông Bill Clinton!... Ông Bill Clinton đến với thiền, dù chúng ta chưa biết rõ đó là loại thiền gì? Nhưng cũng là điều dễ hiểu. Người Việt có câu: “Có bệnh thì vái tứ phương. Có thờ có thiêng, có kiêng có lành!...” Chứng hẹp van tim đã đưa ông đến gần với cửa tử, ông vượt qua được là nhờ vào nền y học thuộc loại tiên tiến bậc nhất thế giới của Mỹ… Nhưng không một bác sĩ nào dám cấp “phiếu bảo hành” lâu dài cho ông. Ông đã khôn ngoan tự chọn cho mình một phương pháp trị liệu tích cực: tập thiền và tập ăn chay! Một nỗ lực cá nhân phi thường đáng khen ngợi… Tuy nhiên, dựa vào đấy mà nói cựu Thổng thống Mỹ đang hành thiền của đạo Phật thì cần phải xét lại… Truyền thông ngoài đời thường dùng nhiều chiêu độc, dựng lên những tít báo giật gân câu độc giả là chuyện rất bình thường. Nhưng với truyền thông Phật giáo, vội vàng đưa lên những tin bài thiếu tìm hiểu, thiếu kiểm chứng, vô tình làm tầm thường hóa giáo pháp của Đức Phật… Đức Phật dạy: Thiền là ly dục, ly ác pháp. Ác pháp là những chướng ngại pháp do tham dục sinh từ thân, khẩu, ý. Bệnh tật là một chướng ngại pháp tồn tại trên thân, do tham dục mà các chướng ngại pháp này sanh khởi và tăng trưởng trên thân. Các chứng bệnh thuộc hệ hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, tim mạch con người mắc phải là hệ quả tất yếu của sự chìm đắm trong tham dục. Tham ăn, tham uống, tham hút, tham sắc chắc khó tránh khỏi bệnh tật … Ly dục, ly bất thiện pháp là liệu pháp cần và đủ để thân tâm làm chủ các ác pháp và các cảm thọ. Đưa thân và tâm về với trạng thái “Cân bằng tĩnh”, tức trạng thái thân tâm “Bất động - Thanh thản - An lạc - Vô sự”. Đó là Thiền, là sự giải thoát của đạo Phật. Ông Bill Clinton chống lại bệnh tật bằng cách tập thiền và ăn chay, nhưng cũng thừa nhận đôi khi ăn cá! (His strict diet consists of lots of fresh vegetables and fruit but he admits he still occasionally eats fish)… Ông muốn học “thiền” mà bài học căn bản về Đạo đức hiếu sinh ông không biết! Đạo đức Nhân bản - Nhân quả không làm khổ mình; khổ người; khổ chúng sinh ông chưa thông!.. Cho dù đảng Dân chủ đã thuê riêng cho ông một vị thầy, và vị thầy này cũng không biết để dạy cho ông những thứ Đạo đức căn bản ấy. Thật khó cho ông và thầy của ông khi muốn tiếp cận thiền của chính Đức Phật đã dạy!… Nhân đây, xin có đôi lời góp ý với dịch giả Nguyên Giác. Khi dịch bản tin này, dịch giả đã có dụng ý dùng hình ảnh của một nhân vật nỗi tiếng như cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton để PR cho Phật giáo!... Đây không phải là việc làm sai trái. Nhưng rất tiếc thiếu đi sự phân tích cần thiết để hướng dẫn dư luận về “thiền” mà đương sự đang thực tập, đó là thiền do chính Đức bổn sư Thich-ca Mâu-ni dạy, hay chỉ là thiền tưởng do người đời sau chế tác... Thay vào đó là những ghi chú rất cảm tính!... Về ghi chú 1: Bản tin không hề nói vị Buddhist monk đến dạy cho Bill Clinton “Phật pháp”. Vị này chỉ đến để dạy “thiền” như một phương pháp thể dục giúp ông thư giản tinh thần. Như thế không cần thiết để dịch giả phải đính chánh: Lẽ ra nên nói là "cung thỉnh" thay vì "thuê"… Lại nữa, ai cũng biết văn hóa thực dụng kiểu Mỹ. Thuê một vị thầy đến dạy với một số tiền cụ thể sòng phẳng, xem ra còn hay hơn ở bên ta, “cung thỉnh miễn phí”, nhưng sau đó “cúng dường tùy hỉ”, đôi khi lại với số tiền nhiều gấp mấy lần tiền “thuê thầy” kiểu Mỹ!... Về ghi chú 2: Bản tin viết: “Ông ấy có một câu thần chú mà ông rất thích đọc sau mỗi thời khóa” (…he has a mantra that he likes to chant and after every session...) Cũng không cần thiết để dịch giả Nguyên Giác phải đính chánh suy diễn bằng những mệnh đề “có lẽ”: “Có lẽ không phải thần chú. Có lẽ là một câu quy y tam bảo… hay lời rải Tâm Từ…” Thần chú là một đặc trưng của các tông phái Đại thừa Phát triển. Giả sử rằng, sau mỗi thời khóa, ông Clinton có đọc: “gate gate paragate parasamgate bodhi svaha!” để tưởng tri thân tứ đại của ông có thể “vượt qua… vượt qua…” bệnh tật, đồng thời vẫn có thể tiếp tục “ăn cá” bất chấp đạo lý không làm khổ mình; khổ người; khổ chúng sinh mà đức Bổn sư đã dạy… Đâu cần dịch giả Nguyên Giác phải suy diễn ra “câu quy y tam bảo” hay “lời rải tâm từ”!… Có thể dịch giả sợ rằng: Phóng viên Daily Mail dùng chữ “thần chú”dễ gây ngộ nhận Phật giáo mê tín, nên đã cưỡng dùng các cụm từ “quy y tam bảo”, “lời rải tâm từ” để thay thế!... Nếu cần phê phán, sao dịch giả Nguyên Giác không tìm đến các “trưởng tử như lai” ở VN, đang ngày đêm trì tụng những câu “thị đại thần chú, thị đại minh chú…yết đế yết đế bala yết đế ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha” ở những đám ma. Họ tụng như vẹt để kịp chạy show tụng đám khác… Dĩ nhiên họ chỉ nhận “cúng dường tùy hỉ” nhưng rất hậu hĩnh… Người viết chỉ nhận định khách quan hiện tượng tai nghe mắt thấy, không có ý xúc phạm danh dự cá nhân… Rất mong quý độc giả niệm thứ… |
Cập nhật ngày : 01.09.2012 | |||
Người Phật tử tìm đến đạo Phật với biết bao kỳ vọng. Khi còn là một người chưa có khái niệm gì về Phật, Pháp, Tăng và Giới, trong chúng ta mỗi người đều sẵn có suy tư riêng của mình được chấp chứa bởi nhiều câu chuyện truyền khẩu trong nhân gian, hay mơ màng về những tích chuyện trong kinh sách mà ngày nay chúng ta mới rõ: Đó là kinh sách Đại Thừa hay còn gọi là kinh sách phát triển. Những câu chuyện truyền khẩu, những lời dạy trong kinh sách Đại Thừa từ bao lâu đã thần thánh, huyễn hóa đức Phật như ông Thần, ông Thánh siêu việt, có khả năng gánh vác nỗi khổ đau cho mọi người. Hoặc dạy phải tin tưởng các vị thầy Tổ như những người đã gần gũi gặp gỡ Phật, như người trung gian chuyển tiếp những lời của Phật để họ ban phước hay giáng họa cho con người. Thế là từ đó mang tâm lo lắng, sợ hãi triền miên hết kiếp này qua kiếp khác, đời này qua đời khác đã làm khổ đau bao nhiêu thế hệ. Cúng bái, lễ lạy, cầu xin, làm tuần thất cúng vong, tiễn linh, cầu giải oan, yểm bùa, niệm chú… đều là những việc mà đức Phật gọi là những trò nhảm nhí mê tín, điên đảo chẳng mang lại lợi ích gì. Đức Phật dạy đạo trí tuệ. Vậy thì ai đã mang những trò mê tín dị đoan đến thế giới này, lại còn nghênh ngang xưng danh Phật giáo? Hẳn là những người rất thiếu trí tuệ nên mới đặt ra những trò ma mị để lừa người mưu cầu hưởng lợi riêng tư. Thật là xấu hổ cho ai đã hành như thế. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem trí tuệ của thầy Tổ xưa nay ra sao? Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma
I. HÃY NGHE THẦY TỔ VẤN ĐÁP Những câu trả lời nổi tiếng: “Tôi không biết” 1- Được gọi là vị Tổ thứ 28 chân truyền của đạo Phật, và là vị Sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa (Thiền Đông Độ), ngài Bồ Đề Đạt Ma (470-543) khi truyền đạo sang phương Đông, sau khi đến đất nước Trung Hoa, ngài có cuộc gặp gỡ đối thoại với vua Lương Võ Đế mà kinh sách còn ghi lại như sau: “Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây trong nước mình nhiều chùa chiền, bảo tháp. Vũ Đế hỏi nhà sư Ấn Độ: "Trẫm từ lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?" Đạt Ma đáp: "Không có công đức." - "Tại sao không có công đức?" - "Bởi vì những việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật." - "Vậy công đức chân thật là gì?" Sư đáp: "Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được." Vua lại hỏi: "Nghĩa tối cao của thánh đế là gì?" - "Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh." - "Ai đang đối diện với trẫm đây?" - "Tôi không biết."” Vâng! Lời đáp gọn nỏn: “Tôi không biết” của một vị Tổ rất đỗi tôn kính để trả lời một câu hỏi thật đơn giản mà đứa trẻ lên 3 cũng có thể trả lời rành rõ: ví dụ: “Dạ thưa, con là bé Bi” chẳng hạn. Ấy thế mà trong ngữ cảnh đang đối thoại với vua, vị Tổ này không còn nhận biết được mình là ai thì thử hỏi trí tuệ của Đạt Ma để đâu? Hòn đá hay là khúc cây mà không biết mình là ai nữa? Trong trường hợp này, ta không thể dùng một luận cứ nào mà biện minh cho sự ngu ngơ của Tổ được. Một người được coi là đắc đạo (tổ Bồ Đề) và một người phàm phu đang tầm cầu học đạo (vua Lương), nhưng vua nhận được một câu trả lời như thế thì suy nghĩ sao? Theo kinh sách đã ghi, sau câu trả lời vô nghĩa ấy, Bồ Đề Đạt Ma đã bị vua Lương sai lính dạy cho một bài học nên thân rồi đuổi cổ ra khỏi cung (đoạn trích trên đây đã cắt bỏ để giữ thể diện cho Tổ?...). Thế nên mới có việc 9 năm Tổ ngồi “diện bích tuyệt ngôn” ở Tung Sơn, Lạc Dương. Đó là vị Tổ thứ nhất, Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Chúng ta cùng tìm hiểu tiếp: 2- Hiện tại, trong thế giới Tây phương đang mê mẩn đắm say tin vào một vị Tổ người Tây Tạng, đó là ngài Đạt Lai Lạt Ma 14, người được xếp vào vị trí số 2/100 vị có ảnh hưởng nhiều nhất về tâm linh bên trời Tây. Nhưng thật không xứng đáng với niềm tin được trao gởi. Chúng ta hãy thử nghe vài câu trả lời của ngài Lạt Ma 14 khi được người Phật tử thưa hỏi. Câu hỏi thứ nhất: “Hoàn cảnh nào khó khăn nhất mà Đức Thánh Thiện phải chiến thắng?”(Giảng về Phật giáo ứng dụng). Ngài Đạt Lai Lạt Ma trả lời: “Tôi không biết”. Lại một câu trả lời đầy thất vọng cho người hỏi phải không thưa quý vị? Đối với sự nghiệp của mình, nếu là nhà hoạt động chánh trị hoặc một vị tỳ kheo tu tập pháp môn Phật giáo thì đều phải biết cách trả lời cho rõ ràng, bởi vấn đề nêu ra không khó khăn gì. Là một nhà chánh trị hay là một ông thầy tu? Đối vời ngài Lạt Ma, có lẽ chúng ta ai cũng hiểu: Ngài là cả hai. Chính vì vậy mà sự nghiệp nửa nọ nửa kia nên cả hai đều không đi tới đâu cả. Như thế chúng ta có đủ niềm tin vào một người có thừa danh vị, uy tín nhưng rất thiếu trí tuệ của Phật tử - hay không? Lại là người có uy tín rất “to” nữa. Xót thương thay cho Phật giáo bấy lâu, người tu thực đâu chẳng thấy, chỉ thấy người mượn đạo để làm danh. Tuy trả lời rằng không biết, nhưng ngài cũng có được mấy lời qua quýt như sau: “Tôi nghĩ thật khó để mà nói. Tôi nghĩ tùy thuộc vào những thời gian nào đấy, trên những trình độ nào đấy. Thí dụ, khoảng những năm ba mươi tuổi, tôi có một số thấu hiểu nào đấy về không tuệ, và rồi thì tôi đã phát triển cảm nhận của một khả năng để đạt đến niết bàn. Do thế, viễn ly đã trở thành, tôi nghĩ, thật là mạnh mẽ, nhưng rồi thì vào lúc ấy, tôi thấy rất khó khăn để nghĩ về tâm giác ngộ [bodhicitta]. Vào những năm bốn mươi tuổi, tôi đã học quyển sách của Tịch Thiên, cũng như Tràng Hoa Quý Báu của Long Thọ, và một số tác phẩm khác, và tôi nghĩ nhiều hơn về tâm giác ngộ. Dĩ nhiên, tôi vẫn không có kinh nghiệm chân thật về tâm giác ngộ hay tính không, nhưng, một cách so sánh, đôi khi bây giờ tôi có cảm nhận và niềm tin rằng nếu tôi có đủ thời gian, tôi có thể phát triển thích đáng tâm giác ngộ cũng như tính không. Vào một thời điểm khác, theo những kinh nghiệm vào lúc ấy, tôi cảm thấy không khó lắm. Do thế, tôi không biết, có nhiều khó khăn, và rồi cùng lúc ấy, như tôi đã đề cập phía trước, có nhiều khả năng để vượt thắng tất cả những chướng ngại ấy. Rồi thì, như một Đạt Lai Lạt Ma, có khó khăn của hoàn cảnh Tây Tạng. Điều ấy rất khó khăn; nó thật sự vượt ngoài sự kiểm soát của tôi, có phải không? Rất khó khăn. Để kết luận, những người tin tưởng vào giá trị tâm linh, đặc biệt Phật Pháp, nên học hỏi! Thực hiện đầy đủ những giá trị này trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Và cố gắng để trở thành một môn đồ tốt của Phật Pháp và của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vị thầy của chúng ta. Chúng ta nên là những học trò tốt: điều ấy là quan trọng. Quý vị thấy, cho dù là một người tin tưởng hay không tin tưởng, cho dù có lý trí hay không, chúng ta đã sinh ra trên Trái đất này. Vì vậy, cho đến khi nào chúng ta còn hiện diện trên hành tinh này, hãy là một người biết phải trái, một người với trái tim nồng ấm. Nếu chúng ta có thể hữu dụng cho người khác, hãy là như thế, không có lý do gì để tạo nên những rắc rối nữa cho người khác!” Câu hỏi như thế và trả lời như vậy, chúng ta cùng suy tìm xem trí tuệ của ngài Lạt Ma thông thái đến mức nào? Câu hỏi thứ hai: “Tại sao chúng ta đến thế giới này?” Ngài Đạt Lai Lạt Ma trả lời: “Tự nhiên là tự nhiên. Không có câu trả lời”. (Giảng về Phật giáo ứng dụng). Chúng ta không thể chấp nhận một ông thầy tu đã giảng thuyết pháp biết bao năm với hàng tín đồ khắp thế giới mà trả lời một cách rất thiếu trách nhiệm đối với Phật tử như vậy. Chúng ta nên cảm thông tha thứ, nhưng cũng cần nghiêm trách một người mượn danh Phật giáo khá thành công, Phật tử rất đỗi tôn sùng, nhưng thật đáng tiếc, cũng thật đáng thương. Để tìm hiểu về trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã có một bài viết ngắn giới thiệu đến quý vị trong thời gian gần đây. Ở trên chúng ta đã nghe những câu trả lời “nổi tiếng” của hai vị Tổ đại diện thời xưa và thời nay. Đến đây, quý vị tiếp tục thấy một vài lời dạy của các Tổ cũng “nổi tiếng” không kém là bao. II. VÀ THẤY NHỮNG LỜI THẦY TỔ DẠY Về những lời dạy “nổi tiếng phá hoại” Phật giáo, dẫn Phật tử vào đường mê loạn, dối lừa miệng lưỡi truyền nối bao đời mà ngày nay vẫn đang còn đó, những lời ấy thì ngay khi đức Phật còn sinh thời Ngài đã lên tiếng cảnh báo rằng: “… Có những Sa-môn, Bà-la-môn, y chỉ gì, căn cứ gì chủ trương Ngụy biện luận, khi bị hỏi vấn đề này hay vấn đề khác dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn? Ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn không như thật biết "Ðây là thiện" không như thật biết "Ðây là bất thiện". Vị ấy nghĩ: Tôi không như thật biết: "Ðây là thiện", không như thật biết: "Ðây là bất thiện" và nếu tôi trả lời: "Ðây là thiện" hoặc tôi trả lời: "Ðây là bất thiện", thời dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi. Nếu dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi, như vậy tôi có thể bị sai lầm. Nếu tôi sai lầm thì tôi bị phiền muộn. Nếu tôi bị phiền muộn sẽ thành một chướng ngại cho tôi. Như vậy, vì sợ sai lầm, vì chán ghét sai lầm, nên vị ấy không trả lời: "Ðây là thiện", cũng không trả lời: "Ðây là bất thiện". Khi hỏi đến vấn đề này hay vấn đề khác, vị ấy dùng lời ngụy biện trườn uốn như con lươn…” Không những “ngụy biện trườn uốn như con lươn” mà còn nguy hiểm hơn thế, họ ngang nhiên lật ngược những lời Phật dạy, vậy mà Phật tử bao đời vẫn cứ tin tưởng tụng đọc như con vẹt học nói để mua vui cho đời. Dẫn chứng lời ngụy thứ nhất: “Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá lợi tử! Sắc bất dị Không. Không bất dị Sắc. Sắc tức thị Không. Không tức thị Sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. Xá lợi tử! Thị chư pháp Không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố Không trung vô sắc, vô thọ, tưởng hành thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chi vô ý thức giới; vô vô minh diệc, vô vô minh tận nãi chi vô lão tử diệc, vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo;…” Chắc quý Phật tử không lạ gì người dạy bài kinh “nổi tiếng phá” đạo Phật này là ai rồi. Trích đoạn bài kinh, chúng ta cùng cố gắng tìm hiểu xem chữ VÔ ở đây mang ý nghĩa gì? “VÔ sắc, thọ, tưởng, hành, thức; VÔ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý;” Thế cho nên bốn đại năm uẩn này (trở thành) là hòn đá, khúc cây. Thế cho nên mới “VÔ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp… rồi VÔ Khổ, Tập, Diệt, Đạo” thì hoàn toàn hợp lý. Hòn đá, khúc cây thì còn biết gì là Khổ hay Tập, Diệt, Đạo nữa? Đức Phật dạy Khổ, Tập, Diệt, Đạo, bốn chân lý dạy cho con người hiểu rõ chân thực của cuộc đời và con đường dẫn tới an vui cho mọi người. Thế nhưng Tổ siêu phàm hơn Phật, ngụy lời “trườn uốn như lươn” sắc sắc, không không đọc hay như đám hát làm vui tai người và cuối cùng bỏ hẳn: “Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo” tức chẳng còn Phật đạo nữa. Thế cho nên, trải mấy mươi thế kỷ, Phật giáo như chìm trong mùa đông mây mù tuyết lạnh. Dẫn chứng lời ngụy thứ hai: Luận về Khổ trong Tứ Diệu Đế, thiền sư NH có lời dạy sau đây: “…Tây phương dùng chữ illbeing để dịch chữ Dukha. Illbeing là khó ở, có bệnh tật, có cái gì không suông chảy, bế tắc. Illbeing là đối lại với wellbeing. Wellbeing là sự sảng khoái, sự thông suốt, an vui, không có vấn đề. Chữ khổ ở đây có nghĩa là không thoải mái, không hạnh phúc, không thông thoáng, bị bế tắc, khổ đau. Khi mình học thì thầy có thể dạy rằng, sự thật thứ nhất, Khổ đế, có nghĩa đời là khổ. Nói đời là khổ thì cũng đúng nhưng chỉ đúng phần nào thôi và bắt buộc mình tin rằng đời chỉ có khổ. Đời chỉ là khổ thôi chứ không là cái gì khác, đó không phải là sự thật toàn vẹn. Giảng sự thật thứ nhất đời là khổ, life is illbeing là chỉ đúng phân nửa sự thật vì đời cũng có thể rất vui, có thể thoải mái, thông thoáng, nhẹ nhàng, không phải chỉ bế tắc sầu khổ mà thôi. Cho nên sự thật thứ nhất không phải đời là khổ. Sự thật thứ nhất là khổ đau đang có mặt và hạnh phúc cũng đang có mặt”… Vâng, thưa quý vị, Tứ Diệu Đế Phật dạy tuyệt vời như vậy, nhưng Tổ xưa, Tổ nay thi nhau công phá, quyết đập cho bằng, quyết phá cho xong, đập phá cho đạo Phật đến nát tan, cho ngày nào chỉ còn thuần đạo Tổ thì họ mới yên vui trong dục lạc, chẳng còn phải sợ trời cao đất thấp nào nữa hết. Trao đổi về lời dạy này của thiền sư NH, Phật tử PM đã có mấy lời sơ lược để mọi người cùng hiểu về trí tuệ của các vị Tổ tôn kính của chúng ta trong bài “Đối Thoại với tỳ-kheo Nguyên Hải”. Mời quý vị xem lại. Dẫn chứng lời ngụy thứ ba: Hòa thượng TTT (Thiền Tông), trong bài “Phật giáo Thiền Tông thực tế đến không ngờ”, khi giảng liên quan đến vua Trần Nhân Tôn lãnh đạo toàn dân chống lại quân Nguyên Mông đã dạy: “Nói đến đây, tôi nhớ Sơ Tổ Trúc Lâm ngày xưa hết sức kỳ đặc. Khi ở ngôi vua Ngài đã thâm nhập được lý Thiền, hiểu Phật pháp rất sâu. Lúc quân Nguyên kéo binh qua xâm lược nước ta, Ngài biết nếu ra lệnh cho quân dân đánh giặc thì phạm tội sát sanh, mình giết hoặc dạy người giết. Bây giờ làm sao? Chỗ này Ngài giải quyết rất lý thú, nhưng chúng ta ít để ý đến. Ngài nghĩ mình là người chịu trách nhiệm với muôn dân, ra lệnh thì người ta làm. Nhưng ra lệnh đánh giặc tức là cố ý sát hại, như vậy ý nghiệp đã thành. Ý cộng với miệng thân nữa thì định nghiệp không thể chuyển. Nên Ngài họp tất cả tướng sĩ lại trưng cầu ý kiến, do đó mà có hội nghị Bình Than. Ngài hỏi: - Giặc tới muốn cướp nước ta, vậy nên đánh hay nên hòa? Tất cả tướng sĩ đồng thanh hô to: - Đánh. Đó là lệnh của tướng sĩ bảo phải đánh, chớ không do ý của Ngài. Hỏi tướng sĩ không chưa đủ, Ngài triệu tập hết các bô lão trong nước họp hội nghị Diên Hồng, hỏi: - Giặc đến muốn cướp nước ta, nên đánh hay nên hòa? Các bô lão cũng khẳng định dứt khoát: - Đánh. Như vậy được lệnh của tướng sĩ, được lệnh của nhân dân, Ngài chỉ làm theo mệnh lệnh thôi, chớ đâu phải Ngài ra lệnh. Chúng ta thấy Ngài khôn chưa? Vừa tránh được định nghiệp cho mình, lại vừa rất dân chủ, được mọi người quí kính. Thật quá ư là khéo! Cho nên tuy đánh giặc, có thương tổn đến nhiều sinh mạng mà ngài không bị định nghiệp, sau này ngộ đạo thành Tổ.” Đoạn này người viết xin miễn bàn nhiều, chỉ thốt lên một tiếng than thở dài ngao ngán, chẳng biết vua Trần “khôn chưa?” hay “thật quá ư là khéo!”, để ngày nay HT cảm mà xuất ra những lời hết sức thơ ngây như thế. Trí tuệ và lòng Từ Bi, đức hy sinh vì dân tộc, vì nhân dân của vua Trần lại ích kỷ đến mức đó sao? Đẩy hết định nghiệp cho mọi người để mình vô tội mà sau này trở thành vị Tổ. Chắc vì học được tính khôn lanh kiểu chợ trời này nên HT mới trở thành vị Tổ kế thừa đầy danh vọng như hôm nay. Chúng ta hãy suy ngẫm kỹ, hẳn thực là vua Trần rất anh minh trong cuộc chống ngoại xâm, biết tổng hợp sức mạnh đoàn kết của toàn dân: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu; Khó vạn lần dân liệu cũng xong". Còn ở đây, HT của chúng ta hôm nay thật là dại khờ, thiểu trí mới có những lời dạy sai lạ như vậy. Than ôi!!! Dẫn chứng lời ngụy thứ tư: Chúng ta cùng tham khảo trích đoạn lời dạy của HT TTT (Tịnh Độ Tông) trong bài giảng “Đừng Dính Đến Quyền Lợi” như sau: “Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn chịu để vượt qua. Không phải hàng xuất gia không bị dính mắc vào quyền lợi. Huống nữa, chính quyền lợi đó sẽ đem đến những tai họa cho thân mình. Mấy huynh đệ tuổi còn trẻ, đường còn dài, phải lưu ý lắm mới được. Nói đến đây, tôi nhớ lúc còn học tại chùa Báo Quốc ở Huế, nhân đọc Đại tạng đến quyển Trúc Song Tùy Bút của Đại sư Liên Trì, phần nói về “Con nhện con tằm”. Trong ấy nói hai con vật này đều nhả tơ, giăng lưới. Nhưng một con phải chết vì sự nhả tơ đó, còn một con thì lợi dụng sự nhả tơ để bắt mồi. Con tằm nhả tơ rồi bị đem đi luộc, còn con nhện cũng nhả tơ nhưng lại tự tại qua lại trên những sợi tơ đó, không bị vướng kẹt. Đại sư Liên Trì đưa ví dụ này nhằm để khuyên nhắc tất cả mọi người. Vì ai nấy đều có sự nghiệp. Người đời cũng có sự nghiệp, mà người xuất gia cũng có sự nghiệp; chỉ là lớn hay nhỏ mà thôi. Tuy vậy, mình nhớ tạo sự nghiệp phải được như con nhện, đừng như con tằm nhả tơ rồi phải chết trong kén.” Thưa quý vị! Trong chúng ta ai cũng biết con tằm nhờ công người nuôi dưỡng, cả đời tằm chỉ biết ăn lá dâu. Cuối đời thải hết uế nhơ để còn lại một bụng tơ mành vàng óng, tằm lại lặng lẽ rút ruột nhả tơ trả lại công ơn người chăm sóc, rồi sau đó mới “ra đi về cõi vĩnh hằng” không chút vấn vương. Còn con nhện thì sao? Tuy không nhờ công người nuôi dưỡng nhưng nhện kia chỉ suốt ngày đủng đỉnh rong chơi, nhả tơ giăng lưới bắt mồi. Thật tội nghiệp cho những con mồi vô phước, mắc lưới là làm mồi ngon nuôi nhện. Cứ thế tháng ngày trôi, nhện kia béo trục béo tròn, sinh con đàn cháu đống đời đời nối nhau làm cái nghề ác độc “giăng lưới giật giàm” lừa bắt chúng sanh. Giữa hai cuộc đời Tằm và Nhện như thế đấy! Thế mà một vị HT đã gần 80 tuổi hạ lại theo người xưa để ngợi ca hạnh của con nhện và khuyến khích những Phật tử trẻ nên theo. Thảo nào Phật giáo mấy mươi thế kỷ không còn nhận biết đâu là thiện, đâu là bất thiện nên chẳng thấy chút ánh sáng trí tuệ nào chiếu soi. Còn nữa đây, HT còn dạy như vầy: ... "Theo lời Phật, dù là hạng cực ác mà chịu hồi tâm tu theo pháp môn này (Pháp môn Tịnh Độ), trong một thời gian rất ngắn (10 niệm) cũng được vãng sanh. Đã được vãng sanh thời siêu phàm nhập thánh, thoát hẳn sanh tử, bất thối vô thượng Bồ đề”… (Bài Bớt duyên chuyên tâm niệm Phật) Đây là một lời nói dối đại nguy hiểm, rất ác độc. Nếu nghe theo, kẻ “vô văn phàm phu” cứ tha hồ mà làm ác gây tai họa cho đời, sau đó chỉ cần Nam mô A Di Đà Phật 10 biến là tội lỗi sạch không, lại được Phật A Di và thánh chúng đến rước về cõi Tây phương Cực Lạc nữa chứ. Một lời dạy hết sức mê muội đưa đến tai hại không thể lường trước được. Vậy mà suốt bao nhiêu thế kỷ, con người vẫn sợ hãi tin theo không đắn đo suy tính. Để kết thúc bài viết “Một Thoáng Buồn…” chúng tôi xin gửi tới quý vị tôn túc cùng toàn thể quý độc giả lời chúc an lành tốt đẹp nhất. Mong quý vị thông cảm và tha lỗi cho chúng tôi. Chúng tôi không phải vì ghét ganh đố kị, không oán thán hận thù, cũng không phải vì lo sợ ảnh hưởng gì đến lợi lạc của cá nhân mà viết ra những điều nghe, thấy này. Thật lòng, chúng tôi chỉ ước nguyện sao cho tất cả mọi người chúng ta, mỗi người đều trở về với đúng cội nguồn chân thiện mà đức Thích Ca giảng dạy. Hãy nói thật, xin quý thầy Tổ đừng dạy dỗ những lời nói dối nữa. Đây chỉ “Một Thoáng Buồn” chứ thực sự thì Phật giáo đã “Buồn mấy ngàn năm” rồi. Mong bình minh chân thật tỏa khắp muôn nơi để tất cả chúng sanh đều được vui hân hoan trong thế giới ngập tràn thiện pháp. |
Cập nhật ngày : 05.09.2012 | |||
Về thân thế và sự nghiệp của cố Hòa thượng Thích Minh Châu, các phương tiện truyền thông trong và ngoài Phật giáo đã nói nhiều rồi!, Chúng tôi có nói thêm cũng thừa…, nhưng có một điều “nói nhiều” vẫn không thừa!, đó là công trình dịch thuật Đại Tạng Kinh Việt Nam từ kinh Nikaya nguyên ngữ Pali… Sở dĩ chúng tôi nói “không thừa” vì trong giới nghiên cứu, tu học, vẫn có những góc nhìn rất khác biệt về công trình dịch thuật này… Điều làm người ta nhớ nhất, bàn luận nhiều nhất là “Lời giới thiệu” kinh Trung bộ. Bằng lời ái ngữ, tiếng nói đầy ái lực của cố Hòa thượng Thích Minh Châu nhẹ nhàng, chân tình, nhưng lại như một gáo nước lạnh làm tỉnh ngủ hàng Phật tử: “Càng dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ Tiểu Thừa để gán vào những lời dạy thực sự nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân lý, mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc đo tài của những ngọn đèn lẻ tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh đi vào con đường Triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng rực rỡ của chân lý quét sạch.” Mặc cho những ai chê trách, chụp mũ, xuyên tạc Ngài phá hoại Phật giáo, vận động các bậc Tôn đức hủy bỏ “Lời giới thiệu” này. Nhưng với tín lực mạnh mẽ, chúng tôi tin rằng đó là một sự kiện lịch sử không thể phi bác, không thể lãng quên… Khi dịch bản kinh Pàli này, mục đích của Ngài rất rõ ràng: muốn hàng phật tử, các học giả, các sinh viên có được một tài liệu “Nguyên thủy” hoặc “gần Nguyên thủy nhất”, giúp họ tránh khỏi lăng kính của các học phái, và quan trọng hơn, giúp họ trực tiếp tìm hiểu lời Đức Phật dạy đồng thời vượt qua được những xuyên tạc của các nhà “phát triển” muốn giải thích đạo Phật theo dục vọng và tà kiến của họ… Trong tập sách “Chánh Pháp và Hạnh Phúc” (Nxb Tôn Giáo-2001), Ngài cũng thẳng thắn xóa bỏ luận điểm “tất cả các pháp đều là Phật pháp”. Đây là một luận điểm phi Phật pháp của các nhà “Phát triển”: “…Muốn chạy theo tà giáo và tà kiến, lại giải thích đạo Phật viên dung vô ngại, chấp nhận mọi tà kiến, mọi tà thuyết Tà kiến nào, tà thuyết nào cũng là Phật giáo được hết!” Cũng trong tập sách này, Ngài đã mạnh dạn phê bình Nam tông bỏ gốc tìm ngọn. Xem lời dạy của các Luận sư, Tổ sư qua các Luận quan trọng hơn lời dạy của Đức Phật trong kinh tạng Pali. Điều đó giải thích tại sao trong hành trì, họ lấy “Thanh Tịnh Đạo” làm kim chỉ nam, mà không tìm ra được pháp hành cụ thể ngay trong kinh Nikàya… “Bên phái Nam tông, tuy tôn thờ Tam Tạng Pàli, nhưng một số phật tử cũng rơi vào nạn tương tự, là chỉ học luật tạng và A Ty Đàm tạng, bỏ rơi Kinh tạng Pàli, vì xem A Ty Đàm tạng mới đề cập đến Đệ Nhất Nghĩa Đế, còn kinh tạng chỉ bàn đến Tục Đế mà thôi. Đây cũng là một lầm lạc hết sức ngây thơ và nguy hiểm. Vì A Ty Đàm phát xuất từ kinh tạng, và bỏ gốc để tìm ngọn thì không khác gì kẻ đi tìm lõi cây, mà chỉ mang về cành lá. Thật sự đạo Phật đâu có phân biệt Tiểu Thừa và Đại Thừa, đâu có chia đôi Chân đế, Tục đế. Những sự phân chia này chỉ là hậu tác phẩm, hoặc của giáo sĩ Bà La Môn mang danh phật tử muốn loại bỏ những gì tinh túy nhất của đạo Phật, không cho phật tử học và tu, hay của một số đệ tử Phật muốn làm Tổ sư một giáo phái nên đề xướng các chủ thuyết lấn át những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật”. Đoàn Tu viện Chơn Như kính viếng cố HT Thích Minh Châu Chúng tôi may mắn có được Trưởng lão Viện chủ Tu Viện Chơn Như, vị thầy đáng kính của chúng tôi đã làm sáng tỏ những gì mà cố Hòa thượng Thích Minh Châu gửi gắm trong “Lời giới thiệu” ấy… Pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý, ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ, v.v… được Trưởng lão Viện chủ của chúng tôi DỰNG LẠI một cách chính xác, một phần nhờ vào lời tâm huyết của cố Hòa thượng: “Ðạo Phật là Ðạo đến để mà thấy chớ không phải Ðạo đến để nhờ người thấy hộ, Ðạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải Ðạo của người nhắm mắt; Ðạo của người thấy, của người biết (Passato Jànato), không phải là Ðạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm.” Vâng, đúng thế! Trưởng lão Viện chủ của chúng tôi được “sáng mắt” là nhờ vào câu “Tác ý một tướng khác thì tướng kia bị diệt” (Kinh An trú tầm - Vtakkasanthàna sutta). Từ đó Trưởng lão Viện chủ đã xây dựng một lộ trình thẳng tắp đến THÁNH QUẢ VÔ LẬU. Công lao của cố Hòa thượng Thích Minh Châu chắc chắn mang về cho Ngài quả Phước báu hữu lậu không nhỏ. Chúng tôi viết vài dòng này để tưởng nhớ cố Hòa thượng. Chúng tôi ước nguyện rằng, từ trường thiện của Ngài tương ưng với nhân quả thiện sẽ trở lại cõi khổ này để giúp chúng sanh cùng vượt qua bể khổ… |
Cập nhật ngày : 10.09.2012 | |||
Đọc bài “Bóng mây bay thoáng qua trên đường về xứ Phật” của Trần Kiêm Đoàn đăng trên Thư Viện Hoa Sen. Tôi có thể nhận định gói gọn trong hai chữ “cảm tính”…
Từ đoạn mở đầu của một bài luận văn tả cảnh với những thu, hè, thơ, nhạc, lụa Tô Châu, thành Cô Tô… Trần Kiêm Đoàn dẫn độc giả đến gặp một bà cụ Nguyên Thanh nào đó, cụ bà này đã trao cho ông Đoàn tập sách “Đường Về Xứ Phật” và “gởi gắm” ông “Nên có đôi lời nhận định…”ông đã nhận lời, hứa với cụ bà “sẽ viết đôi điều…” Nhưng vì ông Đoàn mải mê “làm văn”, sa đà vào chuyện văn chương tả cảnh “bóng mây bay thoáng qua trên đường về xứ Phật…”, nên ông đã làm phụ lòng bà cụ bằng những nhận định lăng nhăng, khập khiểng, ngây ngô đến buồn cười… Ông viết “Đọc qua tập sách thầy Thông Lạc, rồi nhìn về công trình dịch thuật đồ sộ của Huyền Trang, tự nhiên tôi có cảm tưởng như mình đang lạc lối trên đường về xứ Phật vì khách hành hương thì đông mà nhìn rõ nhau thật khó”. Từ tập sách ông Đoàn đang có trong tay do bà cụ “cho mượn”, ông so sánh với “công trình dịch thuật đồ sộ của Huyền Trang”!, ông muốn so sánh điều gì? về số lượng trang giấy? hay về nội dung?... Điều gì trong “công trình tỷ giảo” của ông khiến ông “có cảm tưởng như mình đang lạc lối trên đường về xứ Phật”? Trong tự sự, ông đã viết nhờ đọc bài “chánh tín - mê tín…” ông “xót xa nhớ mẹ, nhớ nhà…”.Hóa ra ông đã “quên mẹ, quên nhà” từ lâu, nay bỗng dưng “nhớ” là nhờ đọc được bài này… Xin thưa với ông Đoàn, không chỉ là ông hoặc tôi, mà bất cứ người nào, chẳng ai có quyền bắt chúng ta không được sống với những hoài niệm xưa cũ, “nhớ nhà, nhớ mẹ”! Đạo lý ấy không chỉ có riêng trong đạo Phật, mà là luân lý đạo đức xã hội thông thường… Nhưng vì ông là một trí thức Phật giáo, một Phật tử thuần thành, nên tôi nói thêm: ngoại trừ trường hợp duy nhất, chúng ta muốn giải quyết rốt ráo bài toán “VÔ MINH”, quyết chí dứt điểm một lần cho xong vấn nạn “KHỔ”, buộc ta phải chặt đứt sợi dây ÁI KIẾT SỬ, buộc phải sống như “CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG”. Đó là lời Phật dạy… Dĩ nhiên ông có quyền phớt lờ lời dạy này để tiếp tục “tu bụi”, vừa “tu” vừa làm thơ làm văn!, vừa nhớ nhà nhớ mẹ!... Ông Đoàn viết tiếp “Không biết từ bao lâu rồi, tháng Bảy Vu Lan trở thành biểu tượng cho mùa báo hiếu đối với người theo và có cảm tình với đạo Phật. Phải chăng xuất phát từ sự tích Phật giáo: Ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ là Thanh Đề bằng sự vận dụng pháp lực và uy đức của chư tôn đức trong mùa An cư kiết Hạ. Hay tại cảm xúc luân lưu tự nhiên “gió mùa Thu mẹ ru con ngủ” mà thiên nhiên, đất trời và con người bỗng có chung một “nỗi lòng” thương điều hiếu hạnh với nguồn cội sinh thành” Đoạn này ông viết để khoe tài viết văn của ông, không liên quan gì đến đạo lý giải thoát mà đức Phật đã dạy trong giáo nghĩa Nguyên thủy. Chính tác giả thừa nhận đây chỉ là “sự tích”, là “cảm xúc luân lưu tự nhiên”. Nói cách khác, đó chỉ là huyền thoại, truyền thuyết phi lịch sử mà chính tác giả cũng không biết nó xuất hiện từ lúc nào?!... Dĩ nhiên với nghiệp văn chương, bài văn của ông Đoàn có thể được điểm cao nhờ khéo lồng ghép những hình tượng văn học như “gió mùa Thu mẹ ru con ngủ”. Nhưng với một bài có tính chất phản biện như bài này, ông Đoàn đã để lại quá nhiều sơ hở trong lập luận, quá nhiều lỗ hổng trong kiến thức đạo pháp của đức Bổn sư… Đứng ở góc độ của một nhà nghiên cứu, ông lại nhập nhằng trong cách dùng từ như: “đạo Phật”, “Phật giáo” trong ngữ cảnh sự tích “Mục Liên Thanh Đề”. Lẽ ra ông nên minh bạch rằng: đây là một huyền thoại của tôn giáo “Phát triển” mang tên “Đại thừa Phật giáo”, chứ không phải của “Đạo Phật”. Điều đó thực sự làm lợi lạc cho những người như ông đã nói“có cảm tình với đạo Phật”, gợi mở giúp họ tìm đến với con đường Chánh Phật Pháp mà đức Bổn sư đã khai phá từ hơn 25 thế kỷ trước… Trần Kiêm Đoàn: “Luận điểm tổng quan của Thầy trong Đường Về Xứ Phật là đứng trên quan điểm Phật giáo Thiền Tông (Tiểu Thừa) – đã được Hiểu và suy diễn theo khuynh hướng đặc thù của riêng Thầy – để phản bác về các hình thái Lý và Sự - Tri và Hành của “Phật giáo Phát Triển” (Đại Thừa)”. “Đứng trên quan điểm Phật giáo Thiền Tông (Tiểu Thừa)” để “tổng luận” bộ sách “Đường Về Xứ Phật” là quan điểm và sự suy diễn theo khuynh hướng đặc thù riêng của Trần Kiêm Đoàn, chứ không phải của thầy Thích Thông Lạc! Chúng tôi không có trách nhiệm và bổn phận giúp ông Đoàn thấy tư tưởng chủ đạo, nhất quán xuyên suốt của bộ sách. Nếu ông có thiện chí muốn đưa ra một “luận điểm tổng quan”, hãy tự nghiên cứu tìm hiểu. Nhưng chúng tôi kêu gọi sự liêm khiết trí thức của ông Đoàn. Nếu chưa đọc hết bộ sách mà phịa ra cái “tổng luận” gọi là “quan điểm Phật giáo Thiền Tông (Tiểu Thừa)” là một sự bất lương trí thức… Ngoài ra, cái gọi là “Phật giáo Thiền Tông Tiểu Thừa” là gì? Đề nghị ông Đoàn giải thích cụ thể cho hàng hậu học học hỏi!... Riêng về cái gọi là “phản bác về các hình thái Lý và Sự - Tri và Hành”, mời ông đọc lại đoạn này của cố HT Thích Minh Châu: “Muốn chạy theo tà giáo và tà kiến, lại giải thích đạo Phật viên dung vô ngại, chấp nhận mọi tà kiến, mọi tà thuyết. Tà kiến nào, tà thuyết nào cũng là Phật giáo được hết!” (Chánh Pháp và Hạnh Phúc Nxb Tôn Giáo 6/2001). Trần Kiêm Đoàn: “Không rõ đã có bao nhiêu người được thầy Thông Lạc ‘khai thị’ theo phương pháp nầy cho bớt ‘vô minh’. Riêng kẻ viết những dòng nầy thì… không thấy vô minh mà cũng chẳng thấy hết vô minh trước và sau khi đọc bài thầy Thông Lạc viết về Vu Lan Bồn. Thầy tự nhận là bậc tự phát giác ra được một vụ “báo hiếu vô đạo đức khổng lồ” trong lịch sử hơn nghìn năm của Phật giáo. Đó là trường hợp đức Mục Kiền Liên cứu mẹ ra khỏi địa ngục A Tỳ. Thầy cho rằng, đây là ‘một sự lừa đảo có sách vở và đã trở thành một truyền thống báo hiếu vô đạo đức trong lòng tín đồ Phật giáo Việt Nam hơn cả nghìn năm mà không ai phát giác ra được.’” Thầy Thông Lạc chỉ nói lên một sự thật hiển nhiên, ai muốn tin thì tin không tin thì thôi! Ngài không “khai thị” cho bất kỳ ai theo bất kỳ một “phương pháp” nào. Từ “vô minh” ở đây phải được hiểu tùy vào ngữ cảnh. Ngược lại Trần Kiêm Đoàn chẳng có cái gì là “riêng” của mình, nhưng lại đại ngôn viết bừa: “Riêng kẻ viết những dòng nầy thì không thấy vô minh mà cũng chẳng thấy hết vô minh” Ông Đoàn đã lấy bã mía của ngài Long Thọ nhai lại và làm của riêng… “vô vô mình diệc vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo…” Ông Đoàn thử nói một câu xem, ông hành pháp gì để “thấy” từ vô minh cho đến 4 thánh đế “vô” mà cũng “chẳng thấy hết vô”?!!! Chúng tôi đã quá chán ngán mấy chữ “vô” này lên đến tận mang tai. Ngay đến những bậc cao tăng như TS Nhất Hạnh, HT Thanh Từ, ông thử hỏi hai vị này xem họ đã thấy như thực thấy “vô vô minh,… vô khổ tập diệt đạo” như thế nào?... Chúng tôi sẽ trở lại đề tài này trong một bài viết khác và rất muốn mời ông cùng nghị luận… Trần Kiêm Đoàn: “Chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ tuy là câu chuyện mang bối cảnh Phật giáo, nhưng đã trở thành câu chuyện dân gian như chuyện Tấm Cám, Thị Kính Thị Mầu, Ăn Khế trả Vàng, Cây Tre Trăm Đốt… trong dòng văn hóa Việt Nam.” Chúng tôi không phủ nhận yếu tố văn hóa, một thành tố tích cực trong giáo dục đạo đức cộng đồng… nhưng không cần thiết phải lồng ghép chúng vào đạo giải thoát của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni. Nếu ông Đoàn nói rằng: Chuyện Mục Liên cứu mẹ mang bối cảnh của sự “phát triển” quá đà của Đại thừa giáo thì hoàn toàn chính xác, nhưng nếu nói nó “mang bối cảnh Phật giáo” sẽ tạo sự lập lờ trong niềm tin đại chúng dẫn đến sự ngộ nhận chính đức Bổn sư đã dạy “giáo lý” này… Nếu ông Đoàn là một nhà nghiên cứu, một nhà hộ pháp, hộ giáo của đạo Phật, chắc ông phải biết chuyện này: Đức Mẹ La Vang hiện ra với một bộ quốc phục VN, áo dài khăn đóng và đứa trẻ Giê-su da vàng mũi tẹt trên tay, đầu để chóp ba vá hệt như trẻ chăn trâu người Việt… Câu chuyện ấy cũng là “câu chuyện mang bối cảnh Công giáo, nhưng đã trở thành câu chuyện dân gian như chuyện Tấm Cám, Thị Kính Thị Mầu, Ăn Khế trả Vàng, Cây Tre Trăm Đốt… trong dòng văn hóa Việt Nam.” Câu chuyện ấy cũng được người Công giáo chăm chút, giữ gìn… Thế nhưng vì sao những nhà “hộ pháp Phật giáo”, “giải hoặc ca-tô” rất nỗi tiếng như Gs Trần Chung Ngọc lại chống!, cho rằng đó là một việc làm lố bịch, cuồng tín, vô liêm sỉ, và còn nhiều từ ngữ nặng nề hơn thế… Trần Kiêm Đoàn cứ từ từ mà suy nghĩ. Đại thừa hóa giáo pháp Nguyên thủy của đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng phần nào tương tự như thế!... Mời quý độc giả xem tiếp phần 2. Chúng tôi sẽ bàn tiếp các phần mà Trần Kiêm Đoàn đã nêu như: 1. Đạo đức Phật giáo về hiếu hạnh 2. Hối lộ thần thánh 3. Luật nhân quả 4. Tự lực hay tha lực? 5.Đường về xứ Phật là tâm đạo |
Cập nhật ngày : 05.10.2012 | |||
Kính thưa quý độc giả! Giọt Nắng Chơn Như (GNCN) chính thức góp mặt trong thế giới truyền thông Internet ngày 06/08/2012, tính đến nay vừa tròn 2 tháng. Tuy mới “chào đời”, nhưng GNCN đã nhận được sự quan tâm, ưu ái, góp ý chân tình từ quý Phật tử và độc giả bốn phương. Bên cạnh đó cũng có những ý kiến phàn nàn, chê trách về nội dung một số bài viết mang tính tranh luận, đấu đá hơn thua!… GNCN xin chân thành tri ân và tiếp thu tất cả các ý kiến thuận nghịch của quý độc giả, sự chỉ dạy quý báu của hàng Thức giả, bậc Cao minh, xem đó như những chất liệu cần thiết để tự hoàn thiện, nhằm vào mục đích duy nhất là hộ trì Chánh pháp của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni, được đức Trưởng lão Thích Thông Lạc dựng lại sau nhiều thế kỷ bị các hệ phái Phát triển vùi dập bằng những ý thức hệ ngoại lai… Hoàn cảnh “ra đời” của GNCN cũng không thật bình yên êm ả… Theo đúng trình tự nhân quả của nó, những người “khai sinh” ra GNCN đã nhiều đêm trăn trở, thao thức bởi những dòng lũ quét, liên lỉ cuồn cuộn như muốn nuốt chửng chiếc bè chính pháp Nguyên thủy Chơn Như trong suốt thời gian dài hàng chục năm!... Khởi điểm là “Thư ngỏ” của Ban biên tập Thư Viện Hoa Sen đề ngày 16/6/2003. Với danh nghĩa “hộ pháp”, họ dựng lên cả một chuyên mục mang tên “Hiện tượng Thích Thông Lạc”. Tiếp đó là sự hưởng ứng của một loạt những cái tên như: Nguyễn Hòa, Giới Minh, Hương Trà, Hồng Vân, Thích Pháp Hiển, Phổ Nguyệt, Hoàng Liên Tâm, Bảo Như, Thích Đức Thắng, mà đỉnh điểm chính là sách “Đối thoại với thầy Thông Lạc” của Tỳ-kheo Thích Nguyên Hải. Vào thời điểm ấy, khi sách “Đối thoại với thầy Thông Lạc” của tác giả Thích Nguyên Hải lên mạng Thư viện Hoa Sen (06/06/2011), các tu sinh tại Tu viện đang tu tập miên mật, mỗi người một cốc, giữ hạnh độc cư, “im lặng như thánh”, họ không quan tâm đến những gì diễn ra ngoài Tu viện… Các đệ tử Cư sĩ tại gia tuy biết chuyện, nhưng vì thấm nhuần lời dạy, tu tập xả tâm ly dục ly ác pháp, giữ thái độ im lặng… Ngay chính tại lúc ấy (10/06/2011), giữa diễn đàn Thư Viện Hoa Sen vang lên tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của một độc giả có nick Phương Minh: - “Vào đầu với tiêu đề: ‘Đối Thoại Với Thầy Thông Lạc’, PM đã nhận ra ngay Thầy là một người còn rất kém hiểu biết. Thầy không hiểu thế nào là đối thoại ư? Trưởng Lão đã có khi nào đối thoại với Thầy chưa? Lẽ ra Thầy nên đặt tiêu đề là: ‘Độc Thoại Của Nguyên Hải Về Sách Của Thầy Thông Lạc’ thì hợp lý hơn.” Đồng thanh tương ứng…, hàng loạt nickname khác cùng lúc xuất hiện. Hãy thử điểm lại xem họ là ai?, họ đã viết những gì?... - Được gửi bởi Trí Khánh (Guest) vào 03/07/2011: “Tôi không phải là đệ tử của thầy Thông Lạc… Giả sử thầy Thông Lạc và các đệ tử của Ngài có sai chăng nữa, thì các giảng sư, học giả Đại thừa chưa chắc đã đúng!... Xin nêu lên vài ví dụ: Tứ Thiền là thiền của Phật, thế mà qúy Hoà thượng Thanh Từ, Nhất Hạnh, Thiện Hoa và cả thầy Nguyên Hải hiện giờ cũng cứ khăng khăng một mực đó là “ngoại đạo thiền”, “phàm phu thiền”…. - Được gửi bởi tvhs0611 (Member) vào 11/07/2011: “Thưa với bạn, tôi chưa bao giờ có may mắn được tu học với Thầy Thông Lạc, tôi chỉ có đọc và có nghe một số bài viết và thuyết giảng công khai tại trang chonnhu.net, nên tôi không có lý do gì phải bảo vệ cá nhân thầy Thông Lạc cả. Ở đây, tôi chỉ trao đổi cho rõ chân lý mà Đức Phật đã tuyên thuyết trong kinh tạng Nikaya mà Thầy Thích Minh Châu đã Việt dịch và Thầy Thông Lạc đang dày công dựng lại mà thôi…” - Được gửi bởi Minh Huy (Guest) vào 02/08/2011: “Thân gửi bạn huy cường. Tôi không phải là đệ tử của thầy Thông Lạc, cũng chẳng phải là người ‘theo thầy Thông Lạc’. Nhưng tôi thấy chuyện này cũng dễ hiểu thôi! Với điều kiện bạn tạm thời dẹp bỏ thành kiến và chấp nhận những khái niệm mới mà bạn chưa từng thấy trong các sách vở Đại thừa. Ví dụ: sắc thức, tưởng thức, tưởng lực v.v…” - Đặc biệt, ý kiến của nick nhienhao viết ngày 14/08/2011 đã giải tỏa thắc mắc vì sao TL Thích Thông Lạc dạy “im lặng như thánh”, lại có quá đông người cùng lúc “phá giới im lặng” trên diễn đàn Thư Viện Hoa Sen?: “Các tu sinh của tu viện Chơn Như hiện đang độc cư phòng hộ sáu căn, họ buộc phải ‘im lặng như thánh’, không thể có mặt tại đây để ‘hơn thua’ như chúng ta, vì đó là giới luật buộc phải giữ… các cư sĩ tại gia cũng đang tu học giới đức ‘nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng’, và trong số họ không phải ai cũng sử dụng máy vi tính, cũng vào mạng tham gia tranh luận... Hơn thế nữa. Thầy Thông Lạc luôn dạy các đệ tử của Ngài, nếu chưa tu chứng, không một ai được xúc phạm đến chư Tổ, không được bài xích các tông phái Đại thừa… Chỉ có một mình Ngài là có quyền nói về cái sai của Đại thừa, chỉ ra cái sai của các pháp môn do chư Tổ chế tác… Các đệ tử muốn phê phán các pháp môn tu học của các tông phái Đại thừa, phải tu chứng như Ngài mới được quyền nói… Không những thế, Ngài còn khuyên các đệ tử dù không tu học các pháp môn tưởng giải do các Tổ sư chế tác. Nhưng nên học gương hạnh, sự tinh tấn, tinh thần xả thân cầu đạo của một số vị… Đó là sự thật mà quý độc giả có thể kiểm chứng qua các files audio pháp thoại mà Ngài đã dạy trong lớp ‘Chánh kiến’ hiện có trên chonlac.org… Riêng đối với chúng tôi, những người tự tìm hiểu giáo pháp của thầy Thông Lạc qua sách vở, băng đĩa, internet… thậm chí có người còn chưa biết mặt thầy Thông Lạc méo tròn thế nào! Lại không bị ràng buộc bởi giới luật, nên chúng tôi ăn nói thoải mái... Dù nghiên cứu tu học theo giáo pháp của thầy Thông Lạc, nhưng vì chưa thể khép mình vào giới luật, nên không dám nhận mình là đệ tử của Ngài”. Chuyện đã rõ! Ngoại trừ Phương Minh, đệ tử của TL Thích Thông Lạc, chúng ta biết được “lý lịch” của anh qua trang nhà Nguyên Thủy Chơn Như với bài “Lời vàng thức tỉnh quần mê”. Tất cả những người còn lại đều tự nhận “không phải là đệ tử của TL Thích Thông Lạc”. Thậm chí trong số họ, còn có người với bút hiệu Minh Tri, mà trước đó không lâu, là tác giả của những bài nghiên cứu Đại thừa được đánh giá khá cao trên các trang mạng Phật giáo như phattuvietnam.net. Họ tập hợp lại trên diễn đàn TVHS đúng như họ đã tự bộc bạch: - Chúng tôi không hề có ý tranh luận với những người theo phe thầy Nguyên Hải. Chúng tôi chỉ muốn mượn danh nghĩa của họ, mượn lý lẽ tranh luận của họ để đề đạt ý kiến của mình đến qúy độc giả, thỉnh cầu nhận định khách quan của độc giả đang đọc sách của thầy Nguyên Hải trên trang mạng này. Chúng tôi tin rằng trong số các vị có không ít qúy Tăng, Ni, có học hàm và học vị cao. Chúng tôi nghĩ các vị chưa lên tiếng vì thấy chưa cần thiết hoặc chưa đúng lúc… Chính vì thế chúng tôi viết với trách nhiệm, tinh thần tìm hiểu nghiêm túc, chứ không viết theo cảm tính…. - Với cái nhìn của mọi người, trên diễn đàn này hiện có 2 phe đang tranh luận với nhau. Thực ra chỉ có một phe duy nhất, đó là phe của thầy Nguyên Hải. Chúng tôi không phải là "một phe" và cũng không có ý tranh luận với "phe" bên kia. Nếu qúy vị đã theo dõi từ đầu, qúy vị sẽ thấy chúng tôi chỉ dùng từ "chia sẻ", "trao đổi", "đối thoại", "thảo luận"... chứ không dùng từ "tranh luận". Lại nữa, Đạo hữu Trí Khánh đã viết trong phần phản hồi cho đạo hữu Quảng Điền rằng: “chúng tôi đã thảo luận trong chừng mực, cường độ từ ngữ vừa phải, tuyệt đối tránh những ngôn từ chợ búa…” Hoàn toàn khác với “phe thầy Nguyên Hải” vừa ồn ào huyên náo, vừa xuyên tạc chụp mũ, như để thoả mãn sự sân hận vốn có trong tâm họ… - Và từ đó, không chỉ có tôi, mà nhiều đạo hữu khác, vì nhân duyên đưa đẩy, với sự đồng thuận về quan điểm, đã có những ý kiến phản hồi về những lý luận bất cập trong tác phẩm của thầy Nguyên Hải... Tôi không biết trên diễn đàn này có bao nhiên người là đệ tử của thầy Thông Lạc. Nhưng bản thân tôi không phải là đệ tử của Ngài. Tôi chỉ biết "đường vào chùa Am" qua Google Earth và tìm hiểu giáo pháp của Ngài qua truyền thông Internet... Đạo hữu tvhs0611 cũng ít nhất 2 lần khẳng định mình không phải là đệ tử của thầy Thông Lạc. Đạo hữu Trí Khánh trong phản hồi ý kiến với Linh Châu cũng thừa nhận không phải đệ tử thầy Thông Lạc. Và mới đây nhất, đạo hữu Minh Huy khi góp ý với Huy Cường về sách "Linh hồn không có" cũng đã tự bạch mình không phải là đệ tử của thầy Thông Lạc, cũng chẳng phải là người theo thầy Thông Lạc, mà chỉ là người đang tìm hiểu... Điều đó cho thấy chúng tôi không phải là những người cùng "phe" mà chỉ là những người đồng quan điểm vì nhân duyên mà gặp nhau trên diễn đàn này... Đến nay đã có trên 30.000 lượt độc giả truy cập vào diễn đàn TVHS để theo dõi cuộc thảo luận này. Như trên cho thấy, ngoại trừ Phương Minh, những người tham gia thảo luận trên diễn đàn này đều không xuất thân từ Tu viện Chơn Như, không phải đệ tử thầy Thông Lạc… Cũng cần nói thêm, Phương Minh xuất hiện không vì hám danh, bằng nhiệt huyết, quyết chặn đứng dòng lũ hung hãn đang muốn quét phăng chiếc bè Nguyên thủy Chơn Như. Tiếng nói của anh như một chiếc đập ngăn lũ, nhưng không ồn ào huyên náo, mà bằng ái ngữ nhẹ nhàng như anh đã viết trong phản hồi ngày 01/08/2011: “Phương Minh mong muốn mỗi chúng ta, những người đệ tử chân chánh của đức Thích Ca Mâu Ni đều là người chiến thắng đúng với nghĩa mà Ngài đã dạy. Còn ở đây, trong cuộc trao đổi ý kiến này, không có bên nào là ‘Thắng’ hay ‘Thua’ cả. Chỉ là chúng ta chưa hiểu rõ Chánh Pháp và chưa hiểu nhau đó thôi.” Với sự kiên trì bền bỉ, Phương Minh đã thuyết phục được Ban biên tập Thư viện Hoa Sen post lên bài "Các nhà học giả dạy thiền" của TL Thích Thông Lạc. Sự đột phá ngoạn mục này nếu thành công sẽ tạo hiệu ứng kép: xóa bỏ tiền lệ “không được phép đăng các bài của tác giả Thích Thông Lạc” trên các trang mạng Phật giáo Đại thừa, giúp giới làm truyền thông Phật giáo mạnh dạn truyền tải giáo pháp của đức Bổn sư mà TL Thích Thông Lạc đã dày công dựng lại. Đồng thời phá vỡ thế “ốc đảo” từ lâu bị vây hãm bởi các thế lực ma vương, điều mà đối với những thế lực này luôn là sự nghi kị lẫn cấm kị. Với võ bọc hào nhoáng như học giả, giảng sư, tiến sĩ… các thế lực này, bằng nhiều thủ thuật, xảo ngữ, họ đã dùng “danh từ Tiểu Thừa để gán vào những lời dạy thực sự nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy…Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc đo tài của những ngọn đèn lẻ tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh đi vào con đường Triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng rực rỡ của chân lý quét sạch.” Sự kiện mà cố HT Thích Minh Châu đã nhận định nêu trên đã được chứng minh qua bài: “Bóng mây bay thoáng qua trên đường về xứ Phật” của Giáo sư Tiến sĩ Tâm lý Trần Kiêm Đoàn. Bài này cũng đã nhận được sự phản biện từ tác giả Quảng Hạo Trở lại với sự khai sanh của GNCN. Sau khi Phương Minh đã thuyết phục được Ban biên tập Thư viện Hoa Sen post lên bài "Các nhà học giả dạy thiền" của TL Thích Thông Lạc, ít ngày sau đó, có lẽ do bị áp lực, bài bị hạ xuống! Chị LT, một đệ tử Cư sĩ tại gia của Tu viện đã rất bức xúc. Chị không trực tiếp tham gia thảo luận trên diễn đàn Thư Viện Hoa Sen, nhưng lại là người theo dõi sát sao diễn biến trên diễn đàn này, từ khởi đầu cho đến khi kết thúc, thời gian kéo dài hơn một năm, (06/06/2011 - 16/07/2012). Chính chị là người nẩy sinh ra ý tưởng lập nhóm “Cư sĩ tự nguyện”, không phân biệt họ có phải là đệ tử của Tu viện hay không!, miễn là họ cùng chung lý tưởng: hộ trí Chánh pháp của đức Bổn sư mà TL Thích Thông Lạc đã dày công dựng lại… Nhưng để có thể tập hợp nhóm “Cư sĩ tự nguyện” này, cũng chính chị LT là người đề xuất thành lập một website. Khi nhân duyên hội đủ, ý tưởng đã biến thành hiện thực, website giotnangchonnhu.org chính thức ra mắt ngày 06/08/2012, với lời tự bạch được nêu rõ trong “Thư Ngỏ”: -“Giọt Nắng Chơn Như là website phi vụ lợi, phi chính trị. Được hình thành từ một nhóm Cư sĩ tự nguyện. Hoàn toàn độc lập, tự chịu trách nhiệm, không lệ thuộc bất cứ một tổ chức xã hội nào, kể cả các tổ chức Giáo hội, Tự viện của Phật giáo...” Chủ trương của giotnangchonnhu.org cũng được giới thiệu trong “Thư Ngỏ”: “Với phương châm lấy con người làm trung tâm, giúp con người thoát khổ nhờ nương tựa vững chắc vào nền tảng đạo đức Nhân bản - Nhân quả mà đức Bổn sư Thích-ca đã tự chứng ngộ và tuyên thuyết từ hơn 25 thế kỷ trước. Nền đạo đức ấy không chỉ là sở hữu riêng của Phật giáo, mà còn là di sản quý báu chung cho toàn nhân loại không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, ý thức hệ chính trị, khuynh hướng văn hóa... Nhưng, thật đau lòng khi thấy chính những người Phật tử đã và đang tự đánh mất đi nền đạo đức thánh thiện này, thay vào đó là những học thuyết thoạt nhìn có vẻ cao siêu, nhưng thực chất chỉ là những lý thuyết suông, làm sai hướng con đường đi chân chánh của đức Phật. Giọt Nắng Chơn Như với mục đích nghiên cứu, tìm hiểu, tu học giáo pháp Nguyên thủy của Đấng Từ Phụ, trên cơ sở kinh Nguyên thủy Nikàya do Hòa thượng Minh Châu chuyển ngữ thành Đại Tạng Kinh Việt Nam, đã được Trưởng lão Thích Thông Lạc dựng lại và triển khai. Tạng kinh Nikàya sau hàng ngàn năm bị vùi lấp bởi những tầng lớp ý thức hệ Phát triển, khiến chất Nguyên thủy ngày càng loãng dần và không loại trừ khả năng biến mất do sự pha tạp ngày càng nhiều các ý thức hệ ngoại lai…” Thực hiện chủ trương trên, nhóm tác giả của giotnangchonnhu.org đã không ngại va chạm, dùng ngòi bút của mình đấu tranh trực diện với “những lời ba hoa của Ma Vương… lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh đi vào con đường Triết lý….”(mượn lời HT Minh Châu) như Thích Đức Thắng, Thích Nguyên Hải, Trần Kiêm Đoàn… Chính điều này lại gây ra sự ngộ nhận: GNCN thích đấu đá hơn thua!?... Nhóm “Cư sĩ tự nguyện” GNCN đồng cảm sâu sắc với sự lo lắng của quý đạo hữu, sợ GNCN đi chệch hướng giáo pháp Nguyên thủy Chơn Như!, sợ phá vở “truyền thống im lặng như thánh” của Tu viện!, bằng email, điện đàm, trực tiếp hoặc gián tiếp qua Tu viện bày tỏ sự lo lắng đó, cũng có đạo hữu chia sẻ trên Facebook: “…Thầy không có khuyến khích đưa lên web, mà Thầy chỉ khuyến khích Phật tử tu học mà thôi. Khi làm web… chúng tôi cũng phải xin ý kiến Thầy mãi Thầy mới tùy thuận, và ban đầu chúng tôi cũng tính làm web động, có cả diễn đàn nữa, nhưng thấy nó sẽ làm động nhiều quá nên không làm. Theo tôi, tâm chúng ta chưa ly dục thì làm việc gì cũng dè chừng vì dễ bị cái dục nó xỏ mũi dắt đi mà không biết. Tôi thấy nếu ai đó lập web chỉ nên bàn đến những vấn đề tu tập và tu tập mà thôi, còn đi đánh giá thêm sai đúng của các Tông phái khác thì không nên…. Nếu có các web nữa thì nên đăng các bài từ sách Đạo đức hiếu sinh dạng html thì thiết thực hơn…” GNCN xin ghi nhận và tri ân những chia sẻ chân thành và đầy trách nhiệm của tất cả quý đạo hữu, luôn ghi nhớ lời khuyên của quý vị để tự răn mình. Đồng thời cũng nhận định thời thế đã khác, đã qua rồi giai đoạn “tùy thuận đại thừa”! Do đó, sự “đúng-sai” của các Tông phái cũng cần phải rạch ròi, giúp người Phật tử đứng trước một núi kinh sách, một rừng học thuyết của các Tông phái, không còn ngơ ngác để xác định sách nào, giáo thuyết nào khả tín về những lời dạy chân chánh của đức Bổn Sư… Trưởng Lão Viện chủ đã từng dạy: “Thưa các bạn, ở đây đức Phật dạy: ‘Tránh sự khởi lên do chỉ trích (nói xấu)’. Như vậy khi chúng tôi nói: Kinh sách Ðại Thừa, Thiền Tông, Thiền Minh Sát Tuệ, Tịnh Ðộ Tông, Mật Tông và tu sĩ Nam Tông ăn thịt chúng sanh là sai, là không đúng giáo pháp của Phật dạy. Nói như vậy chúng tôi có chỉ trích hay không? Thưa các bạn, các bạn đừng hiểu sai là chúng tôi chỉ trích các hệ phái Phật giáo này, mà là chúng tôi đang làm một nhiệm vụ chỉnh đốn lại Phật giáo, vì chúng tôi là tu sĩ Phật giáo không chỉ trích nói xấu một tôn giáo nào khác. Còn ở đây, chúng tôi nói ra những gì không đúng của Phật giáo; nói ra những rác bẩn đang đầy ắp trong Phật giáo; nói ra để dọn dẹp cho sạch sẽ ngôi nhà Phật giáo, thì chúng tôi phải có quyền chỉnh đốn lại, để giúp cho tín đồ Phật giáo không còn lầm đường, lạc lối, để giúp cho mọi người không có những thái độ khinh chê Phật giáo.” (Những lời gốc Phật dạy. Tập 3. “Có bốn pháp cần tránh”. Tr 112-128. Nxb Tôn giáo 2010) Tuy nhiên, GNCN ý thức rất rõ ràng vị thế của mình, hoàn toàn khác với website tuvienchonnhu.net của Tu viện. Nếu tuvienchonnhu.net là nơi thuần tịnh thanh khiết, nơi phát ra những pháp âm giải thoát của bậc Thánh, là nguồn hào quang chói lọi. Thì sự thừa hưởng từ nguồn hào quang ấy đối với giotnangchonnhu.org chỉ là những “giọt nắng”!... Là một website mở, giotnangchonnhu.org hoat động trong “môi trường ác pháp”, mở toang cửa cho các thế lực ma vương ném rác vào. Có như thế, nhóm “Cư sĩ tự nguyện” của GNCN mới có cơ hội vừa làm vừa học cách “quét rác”. Đó cũng là cách rèn luyện xả tâm trong môi trường ác pháp, và cũng để giải thích sự có mặt của các chuyên mục “Nghiên cứu - Đối luận”, “Tham vấn - Hỏi đáp” và “Diễn đàn đối thoại Phật pháp” trên website giotnangchonnhu.org… Thiết tưởng, Tu viện Chơn Như đã thấu hiểu chủ trương của GNCN, nên đã động viên, khích lệ tinh thần bằng lời giới thiệu rất trang trọng trên website của Tu viện. Nhưng để tránh những hiểu lầm không đáng có từ phía độc giả, BBT/GNCN đã chủ động đề nghị Ban quản trị tuvienchonnhu.net tháo bỏ “Lời giới thiệu” ấy xuống. Đó là một đề nghị đúng đắn, nhưng cũng gây thắc mắc cho độc giả. Thắc mắc chính đáng của độc giả cũng đã được BBT/GNCN trả lời: Hỏi: Nguyễn Bá Chân Kính gửi BBT/GNCN, Tôi xin phép được đặt một câu hỏi ngoài lề, xin quý vị vui lòng trả lời nếu có thể, còn với lý do nào đó không tiện trả lời thì tôi cũng rất lấy làm hoan hỷ. Sự việc là mấy ngày trước tôi đọc trên website chonnhu.net thấy có lời giới thiệu trang web giotnangchonnhu.org, nhưng bữa nay trở lại trang chonnhu.net thì không thấy lời giới thiệu đó nữa. Tôi thấy có điều nghi vấn, không hiểu lý do vì sao nên tò mò đặt câu hỏi có lẽ hơi thừa này, nếu quý vị có thể giải thích cho tôi và quý độc giả được biết để khỏi hoài nghi? Chỉ là câu hỏi ngoài lề, nếu có điều gì làm phiền, xin quý vị bỏ qua. Đáp: Thưa bạn Nguyễn Bá Chân, Thưa quý vị độc giả. Trang web giotnangchonnhu.org mới thành lập gần đây với chủ trương tuyệt đối tin tưởng vào giáo pháp Nguyên Thủy (Tạng kinh Nikàya do HT Minh Châu dịch sang Việt ngữ), Trưởng lão Thích Thông Lạc thành tựu sự tu tập nhờ học tập bộ kinh này và Ngài đã triển khai đến đại chúng. Nhận thấy sự lợi ích cho mọi người đang tha thiết hướng tâm về với chánh pháp nên Ban quản trị chonnhu.net đã giới thiệu trang web của chúng tôi. Chúng tôi rất lấy làm hoan hỷ với tấm lòng rộng mở đầy thiện chí của Ban Quản trị trang chonnhu.net. Nhưng tự xét lại mình, nhận thấy trước khi thành lập trang giotnangchonnhu, chúng tôi đã có nhiều bài viết và ý kiến gửi trên website thuvienhoasen.org, phattuvietnam.net, daophatngaynay.com… có thể gây ra những hiểu lầm không tốt cho Tu viện. Do vậy chúng tôi đã viết thư cám ơn và đề nghị Ban quản trị trang chonnhu.net tháo bỏ lời giới thiệu đó xuống. Chúng tôi giới thiệu nguyên văn bức thư để bạn Chân và quý vị độc giả cùng thông hiểu. [“Lời cám ơn và đề nghị. Kính gửi Ban Quản trị Website Tu Viện Chơn Như. Chúng tôi xin chân thành cám ơn quý vị đã giới thiệu trang web giotnangchonnhu.org trên trang nhà đến bạn đọc. Vì sự tồn vong của Phật pháp, vì sự phát triển Chánh pháp Chơn Như do đức Trưởng lão Thích Thông Lạc dựng lại mà quý vị không ngại mọi khó khăn để giới thiệu trang web của chúng tôi. Chúng tôi nhận thấy, trước khi lập trang web giotnangchonnhu, nhóm cư sĩ đồng lập trang đã có nhiều bài viết và ý kiến gửi trên các trang web Phật giáo khác như: www.thuvienhoasen.org www.phattuvietnam.net … với một quan điểm thẳng thắn và mạnh dạn nói lên sự thật. Tuy rằng đã được các trang web trên đăng tải các bài viết và hầu hết ý kiến của chúng tôi. Nhưng chắc chắn vẫn gặp phải sự phản ứng của một số người cố chấp. Việc gửi bài và ý kiến đến các trang web Phật giáo khác hoàn toàn do ý thức độc lập chủ quan của chúng tôi, không phải do Trưởng lão hay bất cứ ai yêu cầu. Nay chúng tôi lập trang web này mà Ban Quản trị giới thiệu tất nhiên độc giả sẽ có sự nghi ngờ không tốt cho Tu viện. Vậy chúng tôi viết thư này, trước là cám ơn thiện chí của quý vị, sau xin đề nghị quý vị tháo bỏ lời giới thiệu website giotnangchonnhu.org trên trang nhà để khỏi làm phiền lòng độc giả. Xin kính cáo cùng quý vị độc giả hiểu rõ và trải lòng từ bi thiết tha đồng hướng về chánh pháp. Mời quý vị đọc Thư Ngỏ trên trang web giotnangchonnhu của chúng tôi để được rõ hơn. Xin trân trọng cám ơn. Kính chúc quý vị thân lạc tâm an. Kính thư. Ban biên tập giotnangchonnhu”. Xin kính chúc bạn Chân và quý độc giả luôn tinh tấn tu tập thành tựu theo chánh pháp.] Nhân duyên là thế! Hoàn cảnh chào đời của GNCN là thế! Tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng âm hưởng của nó đã vang đến tận trời Tây, nơi có những người con xa xứ luôn ngưỡng vọng, gửi gắm vào GNCN mơ ước một cuộc hành hương về nguồn “Đường về đất Phật”, khao khát về mùa xuân vĩnh cửu trên “Đất Thánh Chơn Như”. GNCN sẽ tiếp tục làm cầu nối cho tất cả những ai muốn hướng tâm về với Chánh pháp, hoặc muốn gửi gắm “thông điệp” của mình vào chia sẻ với mọi người trên khắp hành tinh này… Trân trọng kính chào và kính chúc quý độc giả thân tâm luôn thanh thản, an lạc và vô sự. |
Cập nhật ngày : 10.10.2012 | |||
Lời BBT/GNCN Chúng tôi cho đang lại bài này không ngoài mục đích như chúng tôi đã viết trong bài “Giọt Nắng Chơn Như Tự Bạch”: “Với sự kiên trì bền bỉ, Phương Minh đã thuyết phục được Ban biên tập Thư viện Hoa Sen post lên bài "Các nhà học giả dạy thiền" của TL Thích Thông Lạc. Sự đột phá ngoạn mục này nếu thành công sẽ tạo hiệu ứng kép: xóa bỏ tiền lệ ‘không được phép đăng các bài của tác giả Thích Thông Lạc’ trên các trang mạng Phật giáo Đại thừa, giúp giới làm truyền thông Phật giáo mạnh dạn truyền tải giáo pháp của đức Bổn sư mà TL Thích Thông Lạc đã dày công dựng lại. Đồng thời phá vỡ thế “ốc đảo” từ lâu bị vây hãm bởi các thế lực ma vương, điều mà đối với những thế lực này luôn là sự nghi kị lẫn cấm kị.” GNCN trân trọng giới thiệu lại bài này, đồng thời sẽ trích đăng thêm một số bài “đối thoại” trên diễn đàn TVHS để quý độc giả phần nào hiểu rõ hơn về chủ trương của GNCN… TRƯỞNG LÃO THÔNG LẠC GIẢNG VỀ “CÁC NHÀ HỌC GIẢ DẠY THIỀN” 1. Nhập Sơ Thiền. Kính thưa Thầy! Phương pháp nhập Sơ Thiền của nhà học giả dạy: “Muốn nhập Sơ Thiền thì mười ác pháp đi lui, năm thiện pháp đi tới. Vậy mười ác pháp là gì? 1- Mắt đắm sắc; 2- Tai đắm tiếng; 3- Mũi đắm hương; 4- Lưỡi đắm vị; 5- Thân đắm xúc. Cộng năm thứ ngăn che (tham, sân, si, mạn, nghi) kể trên là 10 pháp ác. Năm pháp thiện là gì? Đó là: 1- Tầm; 2- Tứ; 3- Hỷ; 4- Lạc; 5- Nhất tâm. Kính thưa Thầy, nhà học giả dạy như vậy có đúng không? Đáp: Ở đây nhà học giả dạy theo kiểu tưởng giải, chứ không đúng ý của Phật dạy. Ác pháp gồm chung có rất nhiều, nhưng giới cư sĩ Phật dạy chỉ có: Mười thiện và Mười ác. Mười thiện và mười ác là các pháp căn bản gốc đạo đức của đạo Phật để chỉ cho luật nhân quả thiện ác tạo ra do ba hành động thân, miệng, ý. Từ đó sanh ra vô lượng pháp ác và pháp thiện. Nhà học giả kể ra mười pháp ác cũng đúng, nhưng lại sai, vì lấy ngũ triền cái cộng với pháp phòng hộ sáu căn bỏ bớt một căn để thành năm pháp ác. Đó là sự nghĩ tưởng của nhà học giả chấp nối sai lạc kinh sách của Phật. Nhà học giả dạy tu hành ở giai đoạn này là giai đoạn ly dục ly ác pháp thì nó còn dễ không xảy ra bệnh tật thần kinh tưởng. Nếu là giai đoạn tu tập thiền định và Tam Minh thì không tránh khỏi tai họa lớn cho hành giả. Cho nên nhà hoc giả kết hợp dạy như vậy thì chỉ có giết người, chứ không phải dạy tu thiền định như vậy. Phật dạy: “Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền” chứ không có dạy ly mười pháp ác nhập Sơ Thiền.” Biết rằng trong mười pháp ác có dục là tham muốn, nhưng không phải vì vậy mà gọi là ly dục. Dạy theo kiểu học giả thì người ta không biết đâu ly mười pháp ác. Đọc đoạn kinh này ta thấy nhà học giả không có thực hành pháp tu, chỉ nghĩ tưởng ra nói suông mà thôi chứ không thấy trách nhiệm lời nói của mình đối với đoàn hậu thế mai sau. Kinh điển đức Phật đã dạy rất rõ ràng: “Mắt đắm sắc, tai đắm âm thanh, mũi đắm mùi hương, lưỡi đắm vị, thân đắm xúc, ý đắm pháp.” Đó là pháp dạy phòng hộ sáu căn tức là pháp giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý, không cho dính mắc sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Phật không có dạy đó là ác pháp, nhưng chúng ta phải hiểu, khi mắt đắm sắc, tai nhiễm âm thanh, mũi thích mùi hương, lưỡi ưa thích vị, thân đắm xúc, ý chấp pháp. Từ chỗ đắm nhiễm, ưa thích, dính mắc, chấp kiến pháp đó mới sanh ra có thương ghét, giận hờn, phiền não, đau khổ v.v… Các pháp thương ghét, giận hờn, phiền não đau khổ mới chính là ác pháp chứ không phải mắt thấy sắc, tai nghe âm thinh, mũi ngửi mùi... là ác pháp. Nhà học giả đã giảng dạy theo tưởng giải của mình, khiến cho mọi người lầm chấp tưởng đó là lời Phật dạy thật nên sự hiểu biết vô minh lại càng vô minh hơn, sự sai lệch càng sai lệch hơn. Nhà học giả dạy Sơ Thiền không có pháp hành “Mười pháp ác đi lui, năm thiện pháp đi tới.” Nghĩa là làm cách nào tu tập để mười ác pháp đi lui và năm thiện pháp đi tới? Ở đây nhà học giả chỉ có nói suông không có cách thức hay pháp hành tu tập cụ thể rõ ràng. Nói về pháp thiện và pháp ác, đức Phật đã dạy rõ ràng: “Mười thiện và mười ác” thì không có người phật tử nào không biết, còn thiện ác của nhà học giả viết ra khiến cho người phật tử khó hiểu, lại thấy đạo Phật có thêm mười pháp ác lạ. Như vậy nhà học giả không dựa vào lời dạy của đức Phật, tự tưởng giải theo sự hiểu biết của mình giảng ra khiến cho sự tu tập theo đạo Phật không còn đơn giản, rối rắm bởi nhiều danh từ, nghe thì rất kêu, nhưng làm mất ý nghĩa pháp hành, thành ra rỗng tuếch. Dạy như vậy đi từ cái sai này đến cái sai khác. Từ đó kinh sách của các nhà học giả đã biến Phật giáo thành một giáo phái ngôn luận, lý thuyết suông, khiến cho các thầy tỳ-kheo tu hành theo kinh sách này chỉ nói được mà không làm được. 2. Tiếng ồn Kính thưa Thầy, theo như nhà học giả dạy: “Cái chướng ngại của Sơ Thiền là tiếng ồn đi vào tai,” có đúng không thưa Thầy? Đáp: Không. Nhà học giả đã hiểu sai những danh từ Phật dạy. Phật dạy: “Tịnh chỉ ngôn ngữ nhập Sơ Thiền.” Nhà học giả nghe chữ “ngôn ngữ” rồi nghĩ tưởng ra là tiếng ồn, vì tiếng ồn thường làm động thiền định ức chế tâm nên ngài luận: “Cái chướng ngại của Sơ Thiền là tiếng động đi vào tai.” Ngài không hiểu thiền của đạo Phật là thiền gì? Ngài cho Sơ Thiền ngại tiếng động cũng giống như Thiền Đông Độ và Thiền Đại Thừa sao? Sơ Thiền là một loại thiền xả tâm, nên còn có rất nhiều tên như: 1- Tịnh chỉ ngôn ngữ 2- Ly dục ly ác pháp 3- Sống trầm lặng 4- Sống độc cư 5- Sống phạm hạnh 6- Bất động tâm định 7- Vô tướng tâm định 8- Sơ Thiền 9- Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm 10- Giới luật thanh tịnh 11- Tâm không phóng dật 12- Tâm vô dục, vô ác pháp Từ xưa đến giờ các nhà học giả không có thực hành hoặc thực hành chưa đến nơi đến chốn, cho nên sự hiểu biết của các ngài bằng tưởng tri, không phải bằng trí tuệ. Xét lại sự hiểu biết về Sơ Thiền của các ngài mà dạy như vậy thì kinh sách của các ngài không còn có giá trị tu hành nữa. Tịnh chỉ ngôn ngữ tức là sống độc cư, sống trầm lặng như Đức Phật đã dạy 41 bài kệ sống độc cư và thường ca ngợi cuộc sống trầm lặng của vị khất sĩ. Nhà học giả không có thực hành bốn thiền hữu sắc (Tứ Thánh Định), nên đã hiểu sai lệch quá nặng, gần như không biết về bốn loại thiền này. Nên ở đời mọi người ít ai chịu mình ngu dốt, cái không biết cứ tưởng mình là biết, từ đó cái sai này dẫn đến cái sai khác. Nhà học giả cũng vậy, không biết về loại thiền Tứ Thánh Định mà dám viết ra sách dạy người tu thiền này, xem thiên hạ đều là bọn ngu dốt chẳng biết gì về Phật pháp cả. Sơ Thiền không phải là một trạng thái thiền vắng lặng, không có tiếng ồn đi vào tai. Sơ Thiền chỉ là một trạng thái an lạc, thanh thản, có tầm, có tứ, có hỷ, có lạc của tâm bất động. Nhà học giả chỉ luận theo danh từ trong kinh nên chẳng rõ trạng thái Sơ Thiền như thế nào? Thấy kinh dạy: “Tịnh chỉ ngôn ngữ nhập Sơ Thiền” nên tưởng nghĩ ra “Cái chướng ngại của sơ thiền là tiếng ồn đi vào tai.” Tịnh chỉ ngôn ngữ mà nhà học giả hiểu là tiếng ồn đi vào tai làm chướng ngại cho Sơ Thiền thì rõ ràng nhà học giả chẳng biết gì về Sơ Thiền cả như trên chúng tôi đã nói, hiểu như vậy thật là hiểu sai ngàn vạn dặm. Nhà học giả xưa đã hiểu sai như vậy, nhà học giả ngày nay cứ theo lối mòn cũ mà giải thích khiến cho người đời sau chẳng biết đâu mà tu hành. Ý của Phật dạy ở đây: “Tịnh chỉ ngôn ngữ để nhập Sơ Thiền” tức là phòng hộ sáu căn, phòng hộ sáu căn tức là sống độc cư, chỉ có độc cư mới phòng hộ sáu căn trọn vẹn, nhờ có phòng hộ sáu căn trọn vẹn tâm mới không phóng dật, tâm không phóng dật tức là tâm mới ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp tức là tâm mới nhập Bất Động Tâm Định. Từ Bất Động Tâm Định mới nhập được Sơ Thiền. Vào thiền thứ nhất mà nhà học giả hiểu sai, giảng sai thì làm sao giảng dạy Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền và Tam Minh cho được, nên đời sau không ai nhập bốn thiền thuộc loại Tứ Thánh Định này. Kinh sách thì dạy rõ ràng mà người không tu lại giảng kinh sách, đó là buôn Phật bán pháp, bán chữ, bán nghĩa mà ăn, làm một nghề bất lương, chứ không phải dạy người tu hành. Mình có tu được chưa mà dám dạy người tu như vậy? 3. Tầm Tứ Kính thưa Thầy! Nhà học giả cho chướng ngại của Nhị Thiền là tầm, tứ. Cho như vậy có đúng không thưa Thầy? Đáp: Nhà học giả cho chướng ngại của Nhị Thiền là tầm tứ, cho như vậy là đúng, nhưng ngài không biết cách tịnh chỉ tầm tứ. Tịnh chỉ tầm tứ đâu phải tịnh tọa ức chế tâm như tu tập thiền tỉnh thức theo hành động thân và hơi thở. Nếu tu tập theo kiểu đó thì chẳng khác nào như tu pháp sổ tức quán, niệm Phật và các phương pháp khác của kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ, đó là diệt tầm tứ ức chế tâm thì đâu đúng Nhị Thiền của Phật đã dạy. Nhị Thiền diệt tầm tứ bằng cách dùng pháp hướng tâm Tứ Thần Túc theo đường dây hơi thở, theo như phương pháp Đức Phật đã dạy: “Muốn nhập Nhị Thiền thì định niệm hơi thở khéo tác ý.” Ở đây, nhà học giả không nói lên được pháp hành tu tập Nhị Thiền mà chỉ lờ và lướt qua một cách nhẹ nhàng vốn là để tránh né, vì chẳng biết cách tu như thế nào? Như chúng ta đã biết Sơ Thiền là thiền định, thiền định của tâm chứ chưa phải là định của thân, nhưng nó chính là chánh thiền định của Phật giáo, đi từ chỗ xả tâm ly dục ly ác pháp mà vào. Vì thế, nhờ có thiền này nên tâm được an lạc, thanh thản và vô sự; nhờ có thiền này mà giới luật mới có thanh tịnh và nghiêm trì; nhờ có thiền này mà tâm mới an trú trong Phạm hạnh; nhờ có thiền này mà oai nghi tế hạnh của người tu sĩ mới xứng đáng là đệ tử của Đức Phật; nhờ có thiền này chúng ta mới thấy tâm hồn giải thoát thật sự. Vì thế mới biết rằng Phật giáo không dối người, không lừa đảo người, nếu không có loại thiền định này (Tứ Thánh Định) thì Phật giáo vẫn là một tôn giáo dối trá, xảo quyệt, lừa đảo lường gạt người v.v... làm chủ sanh, già, bệnh, chết 4. Ly Hỷ Kính thưa Thầy, có nhà học giả dạy: “Chướng ngại của Tam Thiền là hỷ” có đúng không thưa Thầy? Đáp: Đúng. Nhưng nhà học giả không biết pháp hành và không biết hỷ là cái gì sanh ra hỷ, ở đây sự vui mừng của ý thức không còn nữa, vì sáu thức đã gom lại vào một tụ điểm nơi hành giả đang an trú trong định. Ở trạng thái này sáu thức không còn hoạt động, vì thế tưởng thức bắt đầu hoạt động. Nếu ai nhập Tam Thiền mà không hiểu chỗ này thì không nhập Tam Thiền được. Nhà học giả giảng chỗ này không rõ ràng vì không có kinh nghiệm nhập định nên nói loanh quanh: “Chướng ngại của Tam Thiền là hỷ” mà không biết ly hỷ bằng cách nào? Và cũng không hiểu hỷ này thuộc về ý thức hay tưởng thức, hay là tâm thức? Vào thiền thứ hai và thiền thứ ba nhà học giả dựa vào những danh từ tịnh chỉ tầm tứ, tịnh chỉ hỷ mà dạy theo kiểu kiến giải của mình, nhưng chẳng biết tịnh chỉ tầm tứ như thế nào? Và loại tầm tứ nào tịnh chỉ? Tấm tứ nội hay tầm tứ ngoại? Và chẳng biết tịnh chỉ loại hỷ nào? Tịnh chỉ như thế nào? Và khi ý thức ngưng hoạt động thì hỷ này thuộc về uẩn nào? Uẩn nào sanh ra hỷ này? Những người không có thực hành Tứ Thánh Định thì không thể nào hiểu nổi những trạng thái này. Muốn thực hành Tứ Thánh Định thì phải có Định Như Ý Túc. Không có Định Như Ý Túc thì Tứ Thánh Định chỉ có đứng ngoài cổng nhìn vào chứ không bao giờ nếm được mùi vị gì của thiền định cả. Định Như Ý Túc từ giới luật sinh ra “Giới sinh Định” tức là Giới sinh ra Định Như Ý Túc. Có Định Như Ý Túc mới nhập Tứ Thánh Định được. Cho nên các bạn lưu ý ở chỗ này để tránh những thiền tưởng của ngoại đạo Tầm tứ: có tầm tứ thiện và có tầm tứ ác, có tầm tứ nội và có tầm tứ ngoại, còn hỷ thì có 18 loại hỷ. Vậy xả loại hỷ nào và bằng cách thức tịnh chỉ hỷ như thế nào? Ở đây nhà học giả không nói ra được, tức là không biết, không biết thì đừng luận về Tứ Thánh Định, mà luận về Tứ Thánh Định thì chỉ có bậc A-la-hán, người đã nhập xong bốn loại định này mới không luận sai. 5. Sổ tức Kính thưa Thầy, nhà học giả dạy, chướng ngại của Tứ Thiền là sổ tức có đúng không thưa Thầy? Đáp: Không đúng. Nhà học giả đã hiểu sai danh từ Phật dạy “tịnh chỉ hơi thở.” Tịnh chỉ hơi thở không phải là sổ tức, sổ tức tức là đếm hơi thở, còn nếu cho chướng ngại của Tứ Thiền là sổ tức thì không đúng. Sổ tức là một pháp môn ức chế tâm, diệt vọng tưởng bằng cách đếm hơi thở, còn tịnh chỉ hơi thở là hơi thở ngưng nghỉ không còn thở nữa, nếu chỉ còn thở một chút xíu hơi thở thì cũng chưa nhập Tứ Thiền. Bởi vậy, Tứ Thiền là một loại thiền định, khi nhập định thân tâm thành một khối nên nó còn có tên gọi là “Tâm định trên thân, thân định trên tâm.” Các pháp môn thiền định trên thế gian này chỉ có thiền định này làm chủ sự sống chết, và chính nó mà ngày xưa Đức Phật đã đạt được đạo giải thoát chứ không phải là một loại thiền tầm thường như các Tổ đã gán cho nó những danh từ “Phàm phu thiền, ngoại đạo thiền, Nhị Thừa Thiền.” Ngưng đếm hơi thở là một việc làm rất dễ, mà Tứ Thiền chỉ có ngưng đếm hơi thở thì người tùy tức vẫn là nhập Tứ Thiền được sao? Trạng thái của Tứ Thiền là một trạng thái thân tâm bất động nên nó còn có tên khác như trên đã nói: “tâm định trên thân, thân định trên tâm.” Người tu thiền thời nay không hiểu định của Tứ Thiền nên tưởng rằng tâm không vọng tưởng, thân ngồi bất động là nhập định. Tâm thì không nhúc nhích mà thân thì không ngừng hơi thở, còn rung động thì làm sao gọi là nhập định trên tâm được? Vì thế hơi thở phải ngưng nghỉ, các hành trong thân phải ngưng nghỉ thì mới gọi là nhập định. Các nhà học giả chỉ hiểu được tâm định ở chỗ ức chế tâm, chứ không hiểu ở chỗ xả tâm là tâm không tầm tứ, tâm không nhúc nhích tức là tâm tịnh chỉ tầm tứ. “Tịnh chỉ tầm tứ” là một tên khác của “Nhị Thiền.” Còn thân định thì các ngài không hiểu, tưởng là ngồi kiết già lưng thẳng thân không rung động là định của thân. Vậy người nào muốn thực hiện nhập được định Tứ Thiền thì phải tâm ly dục ly ác pháp, tức là giới luật phải thanh tịnh và pháp hướng tâm phải có hiệu quả, chứ không phải ngưng sổ tức mà nhập được Tứ Thiền. Các nhà học giả không có tu hành làm sao biết được thân định trên tâm như thế nào? Thế mà các ngài dám dựa theo chữ nghĩa mà giảng thì các ngài giết người không cần gươm đao. Đức Phật đã dạy rất rõ ràng, muốn nhập Bốn Thánh Định và Diệt Thọ Tưởng Định thì phải tịnh chỉ ngôn ngữ, phải tịnh chỉ tầm tứ, phải tịnh chỉ 18 loại hỷ tưởng, phải tịnh chỉ hơi thở và phải tịnh chỉ thọ tưởng. Các bạn lưu ý những lời Phật dạy dưới đây: “Tịnh chỉ tầm tứ là ngưng khẩu hành Tịnh chỉ hỷ là ngưng tưởng hành Tịnh chỉ hơi thở là ngưng thân hành Tịnh chỉ thọ tưởng là ngưng ý hành Tịnh chỉ ngôn hành là nhập Sơ Thiền Tịnh chỉ khẩu hành là nhập Nhị Thiền Tịnh chỉ tưởng hành là nhập Tam Thiền Tịnh chỉ thân hành là nhập Tứ thiền Tịnh chỉ thọ hành và tưởng hành là nhập Diệt Tận Định còn gọi là nhập Diệt Thọ Tưởng Định.” 6. Dứt tiếng ồn lên Nhị Thiền Kính thưa Thầy, nhà học giả dạy trong Sơ Thiền ta cần chấm dứt tiếng ồn để lên Nhị Thiền, như vậy có đúng không? Đáp: Không. Phật dạy diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền hay tịnh chỉ khẩu hành nhập Nhị Thiền, chứ không có dạy trong Sơ Thiền chấm dứt tiếng ồn nhập Nhị Thiền. Nhà học giả lầm tưởng khẩu hành là ngôn ngữ và ngôn ngữ là khẩu hành. Ngôn ngữ là lời nói, khẩu hành không phải là lời nói mà hành động phát ra lời nói, hành động phát ra lời nói tức là tầm tứ. Tịnh chỉ tầm tứ tức là tịnh chỉ ý thức, ý thức không còn hoạt động giao lại cho tưởng thức hoạt động, do thế Đức Phật dạy: “Diệt tầm tứ định sanh hỷ lạc,” hỷ lạc ở đây do tưởng uẩn lưu xuất vì tưởng thức thay thế cho ý thức đang hoạt động nên ta có cảm giác hỷ lạc. Ví dụ: Một người đang ngủ thì mới có chiêm bao, còn người thức thì không bao giờ có chiêm bao. Chiêm bao là tưởng thức hoạt động. Khi một người có vọng tưởng, tức là ý thức câu hữu với tưởng thức. Cho nên thế giới hữu hình và thế giới siêu hình đều ở trong ta và đang hoạt động từng phút giây, vừa hoạt động kết hợp với nhau mà cũng có những sự hoạt động riêng lẻ như trong giấc mộng. 7. Chấm dứt tầm tứ lên Tam Thiền Kính thưa Thầy, trong Nhị Thiền ta chấm dứt tầm tứ để lên Tam Thiền, có đúng như vậy không thưa Thầy? Đáp: Không. Phật dạy diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền, chớ không có dạy dứt tầm tứ để lên Tam Thiền. Nếu dứt tầm tứ còn lấy cái gì để lên Tam Thiền, nhà học giả tưởng rằng ở trạng thái của Nhị Thiền chỉ cần lìa trạng thái hỷ là nhập Tam Thiền (ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền). Trong kinh Phật dạy rất rõ ràng: “xuất Nhị Thiền rồi mới nhập Tam Thiền.” Ly hỷ trú xả là một tên khác của Tam Thiền chứ không phải là pháp hành. Nếu nói ly hỷ là ly được hỷ liền thì đâu cần gì phải tu tập. Ly hỷ là một danh từ để chỉ trạng thái tịnh chỉ tưởng thức chứ không phải lìa sự vui mừng của cảm giác ý thức như nhà học giả hiểu. Người có kinh nghiệm tu hành, nói ly hỷ là họ biết ngay phải tu tập những pháp môn nào mới ly được hỷ tưởng. 8. Chấm dứt hỷ lên Tứ Thiền Kính thưa Thầy, trong Tam Thiền ta chấm dứt hỷ để lên Tứ Thiền, như vậy có đúng không thưa Thầy? Đáp: Không. Phật dạy ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền, chứ không có dạy trong Tam Thiền chấm dứt hỷ lên Tứ Thiền. Chấm dứt hỷ, Đức Phật không có dạy mà dạy ly hỷ trú xả nhập được Tam Thiền, đàng này hỷ chưa ly mà nhập trong Tam Thiền được sao? Nhà học giả này lầm lộn quá, không sợ phạm tội Ba dật đề đọa địa ngục sao? Dám giảng sai ý của Phật như vậy làm mất giá trị pháp môn tu hành của Phật giáo. Tóm lại, muốn nhập Tam Thiền người tu sĩ phải lìa xa các trạng thái (ly hỷ) tưởng, khi đã lìa xa các trạng thái tưởng thì chiêm bao không còn, có như vậy mới nhập được Tam Thiền. Muốn nhập Tứ Thiền hành giả phải xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, tức là tịnh chỉ hơi thở, đó là con đường tu tập thiền định mà Phật đã dạy như vậy. Còn nhà học giả dạy chấm dứt hỷ để lên Tứ Thiền, đó là thiền của các Tổ, chúng ta xin miễn bàn. 9. Trong Tứ Thiền ngưng sổ tức đạt Không Định Kính thưa Thầy, trong Tứ Thiền ta ngưng sổ tức để đạt tới Không Định, như vậy có đúng không thưa Thầy? Đáp: Không. Đức Phật không có dạy trong Tứ Thiền ngưng sổ tức để đạt tới Không Định. Đức Phật dạy: “Muốn nhập Không Định thì phải dùng “Tưởng Không” mà tu tập như trong kinh Tiểu Không Đức Phật đã dạy. Nhà học giả này giàu tưởng tượng, tự đặt ra sự nối tiếp giữa bốn thiền hữu sắc và bốn định vô sắc chứ ông ta đâu biết rằng bốn thiền hữu sắc và bốn thiền vô sắc tu hành khác nhau, không giống nhau chút nào. Thiền hữu sắc dùng ý thức mà tu, còn định vô sắc dùng tưởng thức mà tu. Cho nên sự tu hành của hai loại thiền này cách biệt rất xa và cũng không phải là hai bậc thang của một cây thang. Phật dạy nhập Tứ Thiền hơi thở tịnh chỉ, hơi thở đã tịnh chỉ thì còn đâu phải ngưng sổ tức, nhà học giả này đã tự đặt ra mà không thấy cái sai của mình. Từ xưa đến giờ, các Tổ đều nghĩ tưởng bốn thiền hữu sắc thấp hơn bốn định vô sắc. Vì có nhập được bốn thiền hữu sắc thì mới có thể nhập bốn định vô sắc, hiểu như vậy, tức là hiểu sai. Xưa Đức Phật chưa nhập bốn thiền hữu sắc mà đã được hướng dẫn nhập bốn định vô sắc và Ngài đã nhập được Vô Sở Hữu Xứ Định và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định. Người muốn nhập định vô sắc thì không cần phải nhập định hữu sắc, vì trong kinh Tiểu Không Đức Phật đã dạy rõ ràng. Quý vị nên đọc lại bài kinh Tiểu Không ở trong kinh Trung Bộ. Muốn nhập Không Vô Biên Xứ Định, Đức Phật đã dạy: “Ý thức thanh tịnh không liên hệ ngũ căn thì nhập Không Vô Biên Xứ Định” chứ không phải nhập Tứ Thiền rồi mới nhập Không Định như nhà học giả đã dạy ở trên. Tóm lại, các nhà học giả đều chưa có tu tập nhập được từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền thì không làm sao giảng nổi Tứ Thánh Định. Nếu không có kinh nghiệm tu hành nhập được Tứ Thánh Định chân thật thì Tứ Thánh Định của đạo Phật chỉ còn là một bài kinh chữ nghĩa suông. Nếu ai đem giảng nói mà không có kinh nghiệm tu hành thì không có ích lợi gì cho ai cả mà còn hại cho người tu sau này. Nhiều nhà học giả tự đặt ra bằng trí tưởng tượng nên làm sai lệch ý nghĩa lời dạy của Đức Phật, càng giảng Tứ Thánh Định lại càng thêm tối nghĩa, mù mờ không rõ, pháp hành không có. 10. Mười hơi thở đếm không lộn là ý có định Kính thưa Thầy, trong Kinh An Ban Thủ Ý dạy: Trong thời gian 10 hơi thở ấy mà đếm không lộn là ý bắt đầu có định. Định nhỏ thì có thể kéo dài trong 3 ngày, định lớn 7 ngày, trong thời gian ấy không có một tưởng tạp loạn chen vào, hành giả ngồi yên như người chết, đó gọi là Sơ Thiền, thưa Thầy kinh dạy như vậy có đúng không? Đáp: Không. Phật dạy ly duc ly ác pháp nhập Sơ Thiền chứ không có dạy như trong kinh An Ban Thủ Ý. Dạy như trong kinh An Ban Thủ Ý thì đó là một loại thiền ức chế tâm bằng pháp môn sổ tức. Chúng ta phải hiểu Sơ Thiền là loại thiền xả tâm có tầm có tứ, còn sổ tức là pháp môn ức chế tâm không tầm không tứ, “ngồi yên như người chết” mà gọi là nhập Sơ Thiền thì kinh này dạy sai, không đúng như lời Phật dạy. Đây là một bài học cho chúng ta thấy các Tổ viết và soạn kinh sách như vậy không đúng như lời Phật đã dạy. Như vậy chúng ta còn đủ lòng tin ở các Tổ nữa không? Kinh sách của các ngài chúng ta còn đầu đội vai mang nữa hay không? Sổ tức, tức là còn đếm hơi thở, đếm hơi thở là còn tác ý, hơi thở là đối tượng của tâm, tâm còn ở trong niệm hơi thở và còn tác ý ức chế tầm tứ thì làm sao gọi là định thứ nhất được? Vậy mà mười hơi thở đếm không lộn là có định. Định này là định của các Tổ chứ Phật thì không có định như vậy, và cũng không tu sổ tức như vậy được. Đức Phật chỉ dạy nhập Sơ Thiền là tâm ly dục ly ác pháp thì tâm mới có thiền, chưa có định. Còn ngược lại nhà học giả xác định mười hơi thở là có định thì đó là một sự sai biệt giữa Tổ và Phật một trời một vực. Tại sao chúng ta biết rõ như vậy? Tại vì Đức Phật dạy rất rõ ràng: Do “Ly dục sanh hỷ lạc nhập Sơ Thiền.” Chỗ Sơ Thiền Phật không dạy: “định” sanh hỷ lạc, mãi cho đến khi nhập Nhị Thiền Phật mới nói: “Định sanh hỷ lạc.” Đếm hơi thở và ly dục ly ác pháp là hai việc làm khác nhau, một đàng thì xả tâm để tâm được thanh tịnh giải thoát (dục và ác pháp); một đàng thì tu ức chế tâm để tâm không có tầm tứ; một đàng tu thì còn tầm tứ thiện; một đàng tu thì diệt cả tầm tứ thiện và ác. Do đó chúng ta thấy rất rõ, đếm hơi thở không thể nào nhập Sơ Thiền được. Người tu theo đạo Phật phải sống một đời sống Phạm hạnh, nhờ có sống đời sống Phạm hạnh tâm mới ly dục ly ác pháp, tâm có ly dục ly ác pháp thì mới nhập được Sơ Thiền. 11. Nhờ theo dõi hơi thở mà được Định Kính thưa Thầy! Tâm ý sở dĩ định được là nhờ theo dõi hơi thở, cấu uế đã được tiêu diệt thì tâm ý dần dần trong sạch, đó gọi là Nhị Thiền. Thưa Thầy những lời dạy này có đúng trong kinh điển của Đức Phật dạy hay không? Đáp: Không. Phật dạy khi nhập Sơ Thiền thì tâm phải ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp là tâm giới luật nghiêm trì, tâm giới luật nghiêm trì là tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì cấu uế lần lần tiêu diệt chỉ còn dùng định niệm hơi thở khéo tác ý hướng tâm tịnh chỉ tầm tứ thì liền nhập Nhị Thiền. Còn tâm chưa ly dục ly ác pháp là tâm chưa thanh tịnh, tâm chưa thanh tịnh thì tâm không có cách nào nhập được Sơ Thiền, tâm chưa nhập được Sơ Thiền thì giới luật chưa thanh tịnh, giới luật chưa thanh tịnh thì tâm chưa thanh tịnh, tâm chưa thanh tịnh thì không thể theo dõi hơi thở mà nhập được Sơ Thiền. Sơ Thiền chưa nhập được thì mong gì nhập được Nhị Thiền. Còn cấu uế của tâm là nhờ giới luật mới được tiêu trừ chứ không phải nhờ có định. Nhà học giả dạy nhập định theo kiểu tưởng giải của mình, không đúng như kinh Phật dạy. Phật dạy nhập định Nhị Thiền không có ức chế tâm, chỉ dùng tâm ly dục ly ác pháp tức là tâm thanh tịnh, tâm Sơ Thiền. Tâm thanh tịnh ở đây có nghĩa là tâm không phóng dật, thanh thản và an lạc. Người muốn nhập Nhị Thiền phải ở trạng thái này nương theo định niệm hơi thở, dùng pháp hướng tâm như lý tác ý tịnh chỉ tầm tứ. Phật không dạy tùy tức nhập Nhị Thiền và cũng không dạy nhờ định mà cấu uế được tiêu diệt. Kinh An Ban Thủ Ý dạy điều này để nhập Nhị Thiền là không đúng như kinh Phật dạy. Đọc bài tựa kinh An Ban Thủ Ý, ta thấy những lối lập luận về Tứ Thánh Định, pháp hành không đúng cách, những từ dùng để chỉ thiền định không đúng như lời Phật dạy trong kinh. Định mà còn niệm thì làm sao định được, đếm và tùy đó là hai phương pháp ức chế tâm thì không thể là thiền định được. Kinh này dạy: Bỏ pháp đếm hơi thở chú tâm vào chóp mũi gọi là chỉ, làm như chỗ tâm ý ở đầu chóp mũi đó là Tam Thiền. Cách thức dạy nhập Tam Thiền như thế này không giống như Phật dạy: “Ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền.” Cách thức tu tập theo Phật dạy, dùng định niệm hơi thở khéo tác ý hướng tâm tịnh chỉ 18 loại hỷ tưởng, âm thanh và mộng vắng bóng. Về Tứ Thiền, kinh An Ban dạy: Niềm tin Tam Bảo vững chãi, bây giờ tất cả những gì u tối đều trở nên trong sáng, đó gọi là “Tứ Thiền.” Nếu dạy theo kinh An Ban, chỉ cần có niềm tin Tam Bảo vững chãi là nhập được Tứ Thiền thì như vậy Tứ Thiền nhập quá dễ dàng. Tứ Thiền là một loại định bất động của thân, không phải là một việc dễ làm, hơi thở ngưng nghỉ không phải là chuyện dễ. Phật không dạy như thế này mà dạy tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền. Tịnh chỉ hơi thở tức là không còn thở, không còn thở tức là xả thọ, xả thọ mà trong kinh gọi là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Lạc, khổ thuộc về thọ, niệm thanh tịnh là đối tượng của tâm, còn có thọ và đối tượng của tâm là chưa nhập được Tứ Thiền. Cho nên muốn nhập Tứ Thiền thì phải tu tịnh chỉ hơi thở. Tịnh chỉ hơi thở tức là không còn đối tượng của tâm nên thân định trên tâm và tâm định trên thân. Nếu còn có đối tượng trong sáng của tâm là chưa phải nhập Tứ Thiền nên kinh An Ban dạy nhập định Tứ Thiền không đúng như theo lời Phật đã dạy trong kinh Nguyên Thủy. 12. Gom ý thức nhập Thiền thứ mấy? Kính thưa Thầy, hành giả gom ý thức lại khiến cho nó không còn sanh vọng tưởng, như vậy là nhập thiền thứ mấy? Đáp: Gom ý thức lại khiến nó không sanh vọng tưởng là nhập thiền định tưởng. Gom ý thức lại tức là ức chế tâm, ức chế tâm tức là ức chế ý thức, ức chế ý thức được thì tưởng thức hưng phấn, tưởng thức hưng phấn thì sanh mười tám loại hỷ lạc tưởng. Tùy theo ở mức độ hưng phấn cao thấp mà người tu sẽ bị căng thần kinh sanh ra bệnh điên khùng, nếu mức hưng phấn thấp thì sanh ra kiến giải tưởng giải, nói thiền, nói đạo lung tung. Người tu thiền phải đề cao cảnh giác loại thiền ức chế tâm, nó rất nguy hiểm, nhất là những người có nhiệt tâm tích cực tu hành thì dễ bị hưng phấn, rối loạn thần kinh. Phần nhiều hiện giờ người tu thiền dễ bị tu lạc vào thiền ức chế tâm, tại vì tất cả các pháp môn thiền đều dạy cách thức ức chế tâm. Ngoại trừ pháp môn của Đức Phật là thiền xả tâm mà thôi. Tuy vậy, thiền của Phật không ức chế tâm nhưng chúng ta thực hành không đúng và không thiện xảo khéo léo xả tâm thì sẽ biến thành thiền ức chế tâm, nó cũng không kém tai hại như những thiền khác. 13. Sáu thức gom lại sẽ nhập Định gì? Kính thưa Thầy, gom sáu thức lại một chỗ, thưa Thầy sẽ nhập định gì? Đáp: Gom sáu thức lại một chỗ và biết cách hướng tâm xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì sẽ nhập Tứ Thiền, tức là tịnh chỉ hơi thở. Gom sáu thức lại một chỗ mà không biết cách xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì sẽ nhập định tưởng. Vì sáu thức ngưng hoạt động nên tưởng thức hoạt động, tưởng thức hoạt động thì đó là nhập định tưởng, tức là ức chế ý thức hưng phấn tưởng thức. Gom sáu thức cũng không phải là một việc dễ làm, gom được sáu thức mà còn phải biết cách xả, nếu không biết cách xả thì rất là nguy hiểm. Cũng như ức chế chỗ này mà không biết hướng dẫn hưng phấn chỗ khác cho đúng, để tự nó hưng phấn thì sẽ trở thành điên khùng. Việc tu hành không phải dễ, một vị thầy có kinh nghiệm hướng dẫn tu thiền định thì phải nghe theo và thực hành cho đúng 100 phần trăm, không được tự ý hành theo kiểu tưởng giải của mình. Xưa Đức Phật dạy như thế nào thì các vị tỳ-kheo làm như thế nấy, còn những vị nào tu sai không đúng lời dạy của Phật thì phải chịu lấy hậu quả, kết quả chẳng ra gì mà phải gánh hậu quả bệnh tật về sau. Phải cảnh giác sự gom sáu thức, nếu không có người hướng dẫn thì đừng nên tu tập, nó có lực để xả tâm nhanh chóng nhưng nó có hại làm hưng phấn tưởng thức quá cao sanh ra bệnh điên khùng nguy hiểm đến tánh mạng. 14. Gom ý thức bằng cách nào? Kính thưa Thầy, gom ý thức bằng cách nào? Đáp: Gom ý thức của các Thiền Đại Thừa và Thiền Đông Độ là bằng cách ức chế tâm do pháp môn Sổ tức, Tùy tức, Niệm Phật, Niệm chú, Tri vọng, Chăn trâu, Tham thoại đầu, Tham công án, v.v... Còn Tứ Thánh Định thiền của Phật giáo là thiền diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp (tâm không phóng vật), tức là thiền định không ức chế tâm. Nói tóm lại, gom ý thức của Đại Thừa và Tối Thượng Thừa là ức chế tâm, còn gom ý thức của Phật giáo Nguyên Thủy là xả tâm, tâm không phóng dật tức là gom ý thức. Xin quý vị cần đề cao cảnh giác các pháp môn thiền định, khi muốn tu phải cẩn thận quán xét thiền nào xả tâm và thiền nào ức chế tâm. 15. Gom ý thức diệt tầm tứ Kính thưa Thầy, gom ý thức để diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền bằng cách nào? Đáp: Gom ý thức diệt tầm tứ để nhập Nhị Thiền bằng cách nương hơi thở dùng pháp hướng tịnh chỉ tầm tứ, chứ không được dùng hơi thở ức chế tâm. Ở đây, chúng ta phải hiểu chữ “gom ý thức” của thiền Phật giáo nghĩa là tâm không phóng dật, đừng hiểu gom ý thức bằng nghĩa ức chế tâm. Gom ý thức bằng nghĩa ức chế tâm là sổ tức hoặc tùy tức, tọa thiền tập trung ý thức bằng hơi thở hoặc bằng câu niệm Phật, v.v… Gom tâm ở đây cho đúng nghĩa của Phật dạy là tu tập “Tứ Chánh Cần.” Tu tập Tứ Chánh Cần là ngăn ác pháp và diệt ác pháp. Ngăn ác pháp và diệt ác pháp tức là ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp tức là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật tức là tâm hướng vào trong thân, nói cách khác là tâm định trên thân. Tâm định trên thân, tức là “gom ý thức diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền.” 16. Tưởng thức Kính thưa Thầy, muốn nhập Tam Thiền phải gom sáu thức nào? Đáp: Muốn nhập Tam Thiền phải gom tưởng thức, nếu trả lời một cách ngắn gọn như vậy thì quý vị rất khó hiểu. Khi chúng ta nhập Nhị Thiền, tầm tứ diệt, ý thức ngưng hoạt động, nên bước sang qua Tam Thiền, tưởng thức hoạt động thay thế cho ý thức. Vì vậy muốn nhập được Tam Thiền phải “gom tưởng thức, tức là ly hỷ trú xả.” Tam Thiền không có gom sáu thức vì sáu thức đã được gom và thuần hóa ở Nhị Thiền. Cho nên muốn nhập Tam Thiền thì phải lìa xa các trạng thái của tưởng thức, lìa các trạng thái của tưởng thức tức là “Ly hỷ trú xả” như trong kinh đã dạy. 17. Năm thức Kính thưa Thầy, muốn nhập Tứ Thiền phải gom thức nào? Đáp: Muốn nhập Tứ Thiền phải gom năm thức: thọ thức, nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, vị thức. Nếu trả lời như vậy quý vị sẽ cho chúng tôi chẳng hiểu kinh sách Phật, vì trả lời như vậy trong kinh sách Phật không có dạy. Ở đây chúng tôi tùy theo câu hỏi mà trả lời, nhưng rất đúng nghĩa của Phật đã dạy. Quý vị nhớ lại xem lúc nhập Sơ Thiền là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật tức là sáu thức đã quay vào trong thân không còn phóng ra ngoài nên thân động dụng việc gì thì sáu thức đều biết rõ. Biết rõ bên trong mà không biết bên ngoài, lúc này gọi là tâm định trên thân. Đến Tứ Thiền sao lại còn gom năm thức? Gom năm thức, ở đây quý vị cần phải hiểu, năm thức còn hoạt động bên trong nên gom năm thức, tức là tịnh chỉ năm thức. |
Cập nhật ngày : 10.10.2012 | |||
Lời BBT/GNCN Như chúng tôi đã đề cập đến trong bài “Giọt Nắng Chơn Như Tự Bạch”. Đạo hữu Phương Minh đã thuyết phục được Ban biên tập Thư viện Hoa Sen đăng bài "Các nhà học giả dạy thiền" của TL Thích Thông Lạc. Bài đã được post lên tại địa chỉ: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-138_4-13283_5-50_6-1_17-21_14-1_15-1/. Nhưng sau đó vì áp lực nên bài đã bị họ hạ xuống… Chúng tôi ghi nhận thiện chí và cảm thông với Ban biên tập TVHS về những khó khăn mà họ đang gặp phải. Cho dù TVHS có khẳng định trong "Mục Đích Và Chủ Trương" về vị thế “độc lập” của mình đối với các tổ chức Phật giáo. Nhưng họ lại nhận "sự cố vấn, khuyến khích và giúp đỡ của một số quý vị tôn đức ở Việt Nam cũng như hải ngoại”, điều đó ảnh hưởng phần nào đến tư thế “độc lập” của họ. Đằng khác, họ lại chịu áp lực quá lớn trước đám đông quá khích, phản ứng thiếu lành mạnh của một số Phật tử, như nick Diệu Minh đã viết (08/08/2011) trên diễn đàn: “Nhiều người đề nghị BBT Thư viện Hoa Sen vui lòng dẹp bỏ bài viết: ‘Trưởng lão Thông Lạc giảng về các nhà học giả dạy Thiền’ ra khỏi trang nhà Thư viện hoa sen…” Áp lực quá lớn buộc họ phải gỡ bỏ bài của TL Thích Thông Lạc ra khỏi website thuvienhoasen.org cũng là điều dễ hiểu… Vì không ngoài dự đoán nên chúng tôi không hề bị bất ngờ, bình thản đón nhận sự kiện trên với lời cảm ơn chân thành của Phương Minh đến Ban biên tập TVHS… Để minh họa thêm cho bài “Giọt Nắng Chơn Như Tự Bạch”, chúng tôi xin trích đăng lại bài này. Vì là bài “đối thoại” trên diễn đàn TVHS không có tiêu đề, nên chúng tôi tạm đặt tiêu đề cho bài này là: “Chánh Pháp Đến Với Đời Rất Khó!!!”. Minh chứng một trong những phản ứng của "đời" tạo áp lực (gây bao nhiêu khó khăn cho Chánh Pháp đến với mọi người) buộc TVHS phải gỡ bỏ bài của TL Thích Thông Lạc. Đó cũng là lời cảm ơn chân thành của tác giả gửi đến BBT/TVHS trước khi chia tay diễn đàn… Nguyên văn trên diễn đàn TVHS: Được gửi bởi Phương Minh (Guest) vào 08/09/2011 Kính thưa quý vị độc giả, Kính thưa BBT TVHS, Sau hơn hai tháng trao đổi ý kiến về tập sách “Đối Thoại Với Thầy Thông Lạc” của bạn Ng.Hải, PM nghĩ rằng quý độc giả đã nhận ra rõ ràng tất cả. Thế mà đến giờ này xuất hiện bạn Diệu Minh trở lại với một giọng gào thét ồn náo thật chẳng đúng với sự trao đổi để tìm hiểu chút nào. Có lẽ bạn Diệu Minh đang hết sức nóng giận, bởi PM nghe thấy cả tiếng hơi thở hổn hển trong từng chữ, từng lời của bạn. Trao đổi với một người đang trong cơn giận sôi như vậy thì có nên hay không thưa quý vị? PM rất thông cảm và chia sẻ với những nỗi ưu phiền của bạn. PM hiểu: một đốm lửa sắp tắt thì bỗng cháy bùng lên rồi tắt rụi, một con bệnh sắp lìa đời thì phải giãy giụa kêu la, do vậy PM càng thấy cảm thương cho bạn nhiều hơn. Bạn (Diệu Minh) đang nóng giận, hơn nữa những lời của bạn thì trước đó đồng pháp của bạn đã nói cả rồi, nên PM không trao đổi nữa, còn bạn Huy Cường thì ý kiến của PM ngày 03 và 04/8/11 là đủ rồi bạn nhỉ, trao đổi với các bạn lý luận bài bây lắm, hơn nữa các bạn ở thế có cơ hội, điều kiện và rất có uy lực đối với Thư viện Hoa Sen. Nay PM chỉ có vài ý đáp lời yêu cầu của đạo hữu Khách. Đạo hữu yêu cầu chúng tôi trình bày về quá trình tu tập của Trưởng Lão để đi đến Tam Minh. Thực tế, với những bài viết trước chúng tôi đã trình bày từ hai tháng nay là bao quát đủ cả, người trí thì nhận ra ngay. Chỉ có những ai đắm mê thần thông và các trò hư huyễn mong muốn gạt người thì mới không nhận ra được mà thôi. Tuy nhiên PM cũng tóm tắt lại mấy lời đã nói trước kia để đạo hữu và quý độc giả cùng chia sẻ. Đường Về Xứ Phật duy nhất chỉ có một con đường Tám Chánh và 37 phẩm trợ đạo trên nền tảng của Bốn Diệu Đế. Trình tự từng bước học và tu các pháp theo thứ tự sau: - Pháp học đầu tiên: Bốn Diệu Đế. - Pháp tu đầu tiên: Bốn Chánh Cần. - Pháp tu cuối cùng: Bốn Niệm Xứ. - Pháp chứng cuối cùng: Ba Minh. Chứng được Ba Minh là hành giả tu xong, còn tìm thêm về Diệt Thọ Tưởng Định để thành đá thì có ý nghĩa gì mà dám nói đó là Thánh Thiền. Những ai Ba mươi bảy phẩm trợ đạo còn chưa tỏ mà móng lên bàn về Thiền với Định thì quả là Đại Vọng Ngữ. Lẽ ra PM sẽ chuyển đến phục vụ quý độc giả toàn bộ những lời dạy cặn kẽ để tu tập đến chứng đạt thiền định của Trưởng Lão Thông Lạc. Tất cả gần 20 tập sách, xấp xỉ 4000 trang giấy khổ 14 x 20,5 cm với nội dung bao gồm phần Giới và Định (mà PM đang sẵn trong tay, còn phần Tuệ, Trưởng Lão chưa phổ biến). Thế nhưng, mấy hôm trước PM gửi một đoạn ngắn: Trưởng Lão Giảng Về Các Nhà Học Giả Dạy Thiền để đối chứng, khó khăn lắm TVHS mới đăng tải vào trang phụ chứ không dám đưa lên trang chính, đến nay vì áp lực đè nặng nên TVHS đã tháo gỡ mất rồi. Các bạn đồng pháp của bạn Ng.Hải luôn miệng bảo rằng Trưởng Lão dạy sai, lẽ ra sai thì cứ để mọi người đọc, đối chiếu rồi nhận thấy cái đúng của các bạn rõ ràng hơn thì tốt thêm cho các bạn. Thế mà các bạn tìm mọi cách tạo áp lực đòi xóa bỏ, đốt hết cái này đến cái khác của Trưởng Lão thì như vậy các bạn có thiện chí không? Quả thực uy lực (chợ trời) của các bạn mạnh thật, khiến TVHS phải thực hành ngay, không chừng những ý kiến đã trao đổi từ hai tháng nay TVHS cũng phải xóa bỏ hết. Nhưng dù có xóa thì cũng chỉ xóa được trên trang mạng, chứ làm sao xóa được ở trong lòng mỗi người độc giả. Do vậy PM không làm phiền BBT TVHS nữa. Kính thưa quý vị Thầy Tổ tôn túc, PM xin mời quý Thầy và quý độc giả trở lại với bài ý kiến ngày 08/7/11 của đạo hữu Trí Khánh. Trong ý kiến này đạo hữu Trí Khánh đã dẫn rất rõ ràng những tài liệu mà quý Thầy đã thừa nhận bốn thiền của Phật là thiền phàm phu. PM có ý kiến thêm thế này: Quý Thầy đã giảng dạy Bốn Thiền là thiền phàm phu, và kinh sách Nam, Bắc Tông cũng đều dạy như thế cả. Đồng thời khi so sánh Tứ Thiền này thì tương ung với Tứ Quả, như Sơ Thiền tương ưng với Quả Tu Đà Hoàn, cũng gọi là Nhập Lưu. Như vậy khi Nhập Lưu là nhập vào “Phàm Phu” phải không thưa quý Thầy? Bởi thiền phàm phu thì tất yếu phải nhập lưu vào phàm phu chứ chạy đâu được? Phàm phu đi tu tập để trở thành phàm phu thì có tốn cơm gạo của đàn na thí chủ không thưa quý Thầy? Vậy mà các đồng pháp của bạn Ng.Hải chỉ cố gắng cho lấy có, chứ mọi người ai chẳng hiểu sự yếu kém về Phật pháp chân chánh của quý bạn và quý Thầy. Kính thưa BBT TVHS, PM xin có lời trân trọng cảm ơn đến quý vị đã tạo điều kiện để PM được trao đổi một số ý kiến của mình trên diễn đàn này. Nhiều khi PM cảm thấy đã làm khó cho quý vị nhiều lắm, mong quý vị thông cảm. PM chỉ muốn mong Phật Pháp chân chánh sẽ đến được với nhiều người, điều này đã và nhất định sẽ đạt được. Bởi phật tử trong tương lai rất thông minh, họ không nhắm mắt tin bừa vào những lời dạy dỗ của các Thầy Tổ mượn đạo tạo cuộc đời nữa đâu. Đó là một thực tế không chối cãi được trong thực tại Phật giáo ngày nay. Sau ý kiến này, PM không tham gia trao đổi nữa vì những gì cần trao đổi thì PM đã trao đổi, và PM cũng không muốn làm khó cho TVHS thêm nữa. Kính chúc BBT và quý độc giả thân tâm an lạc. |
Cập nhật ngày : 11.10.2012 | |||
Kính thưa quý độc giả, Đọc được chủ đề này: “Im Lặng Như Thánh” không phải là “Câm” của độc giả tinhtri có ý kiến trên diễn đàn giotnangchonnhu với đoạn kết như sau: [Thưa các bạn! "Im lặng như Thánh" có phải là "câm" không? Tôi đã từng đọc trên mạng thấy có một nhóm tăng ni sinh đang học ở trường Phật học rủ nhau lập trang anti-thonglac.com... Nếu điều đó xảy ra và nếu bạn đang là "đệ tử của thầy Thông Lạc", bạn sẽ phản ứng ra sao? "Im Lặng Như Thánh" là pháp môn "phòng hộ sáu căn" chứ không phải là "câm" các bạn ạ! Tôi thấy hiện nay nhiều đệ tử của Thầy hiểu lầm về pháp môn này! Làm thế nào vừa "Im Lặng Như Thánh" lại vừa "hộ trì Chánh Pháp"?] Suy tư về đoạn kết với câu hỏi của bạn tinhtri đưa ra: “Làm thế nào vừa Im Lặng Như Thánh lại vừa Hộ Trì Chánh Pháp?”, tôi thấy có ý nghĩa rất sâu sắc trách nhiệm của người Phật tử, nhưng cũng rất khó khăn cho người thực hiện Im Lặng Bậc Thánh sao cho đúng pháp. Kính thưa quý vị, Xưa, đức Phật đã dạy: “Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn. Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các ngươi. Nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi công phẫn và phiền muộn, thời các ngươi có thể biết được lời nói của những kẻ ấy là đúng hay sai lạc chăng? - Bạch Thế Tôn, không thể được! - Này các Tỷ-kheo, khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi phải nói rõ những điểm không đúng sự thật là không đúng sự thật: "Như thế này, điểm này không đúng sự thật; như thế này, điểm này không chính xác; việc này không có giữa chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi". (Bài kinh Phạm Võng thuộc Kinh Trường Bộ, tạng Nikàya). Như vậy, đức Phật dạy đệ tử của mình phải “Im Lặng Như Thánh” nhưng Ngài cũng dạy: …“các ngươi phải nói rõ những điểm không đúng sự thật là không đúng sự thật: "Như thế này, điểm này không đúng sự thật; như thế này, điểm này không chính xác; việc này không có giữa chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi”… Đó là chứng minh “Im Lặng Như Thánh” không phải là “Câm”. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu để thấy rõ rằng khi nào là thấy lỗi mình, thấy lỗi người để có lời “chỉ lỗi” mà không rơi vào “chỉ trích” tà kiến. Trong kinh Pháp Cú đức Phật dạy: “Không nên nhìn lỗi người, Người làm hay không làm Nên tự nhìn thân ta, Có làm hay không làm”. Thoạt nhìn qua hai đoạn kinh của đức Phật trên đây (kinh Phạm Võng và kinh Pháp Cú), chúng ta dễ lầm rằng đức Phật dạy không nhất quán, có sự sai khác nhau. Không phải vậy. Khi nào “Không nên nhìn lỗi người” và khi nào …“phải nói rõ những điều không đúng sự thật là không đúng sự thât…” thì chúng ta cần phải thấu suốt mới không lạc vào kiến chấp bảo thủ, chủ quan. Mỗi người Phật tử đều có hai ngã chấp, ngã chấp cá nhân (đó là Ta) và ngã chấp tập thể (đó là đạo Phật). Đối với ngã chấp cá nhân, làm thế nào để “Im Lặng Như Thánh”? Đối với mỗi cá nhân đang tích cực tu tập Tứ Chánh Cần để thanh lọc tâm, đức Trưởng Lão đã dạy từ bài kệ trên: “Lời nhắc nhở khuyên nhủ trên đây của đức Phật, nhằm giúp chúng ta khi tu hành không nên nhìn ra ngoài, mà hãy nhìn vào trong ta, kiểm điểm lại Ta, quan sát lại Ta, tư duy về Ta... để tìm ra những lỗi lầm của mình, nhờ có thấy được lỗi lầm, Ta mới cố gắng khắc phục làm không cho phạm phải những lỗi lầm đó nữa. Nếu hằng ngày chuyên cần làm những công việc này, tức là ngăn ác và diệt ác pháp thì tâm Ta không còn lỗi lầm. Tâm không còn lỗi lầm là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm vô lậu, là tâm hết khổ đau”… Đó là chứng minh “Im Lặng Như Thánh” không phải là “Câm”. Im lặng như Thánh ở đây là sự phòng hộ sáu căn, gột rửa sáu căn để tâm thanh tịnh chứ không hẳn là phải câm như một số người đã hiểu lầm. Tôi sẽ dẫn ra ví dụ ở phần sau. Đối với ngã chấp tập thể, làm thế nào để “Hộ Trì Chánh Pháp”? Đạo Phật mấy ngàn năm, gốc rễ, thân cành vẫn còn đây nhưng có mấy người Phật tử được nhìn thấy thân cành, gốc rễ ra sao đâu. Bởi vì “trên thân cây” đạo Phật bị quá nhiều lớp chùm gửi bám vào tầng tầng lớp lớp phủ kín, dây lá xanh tươi hào nhoáng. Do vậy người Phật tử đến với đạo Phật đã từ lâu chỉ hái được nắm lá của loài dây leo chùm gửi. Loài dây leo chùm gửi ấy chính là các tông phái của tôn giáo khác bám vào đạo Phật, chúng chỉ làm hư hại đạo Phật chứ không làm lợi ích chân thực nào cho cuộc đời. Chúng cũng được ví như những ung nhọt bám trên thân thể đạo Phật nên người đời vẫn tưởng lầm là đạo Phật. Trong trường hợp này đức Phật dạy: …“các ngươi phải nói rõ những điểm không đúng sự thật là không đúng sự thật: "Như thế này, điểm này không đúng sự thật; như thế này, điểm này không chính xác;…”. Vậy, nếu chúng ta có nói lên những “lỗi lầm” này (của các tông phái khác đang bám trên thân đạo Phật) chính là chúng ta đang nhìn lỗi trong thân ta, đang thanh lọc tự tâm để đạo Phật thanh tịnh, trong sạch. Tất nhiên phải đau đớn, phải đấu tranh bởi có ai bị cắt bỏ đi trên thân thể mình những ung nhọt mà không đau đớn bao giờ? Phải cắt bỏ hết các ung nhọt, cắt bỏ hết các dây leo chùm gửi để trả lại bản chất chân thật nguyên sơ của “cây” đạo Phật thuở ban đầu, dù có đau đớn đến bao nhiêu. Đó là minh chứng “Im Lặng Như Thánh” mà không “Câm”. Im lặng như Thánh ở đây là sự thanh lọc tâm (cho cái ngã tập thể) của đạo Phật. Cũng chỉ là tự “nhìn lỗi mình” chứ đâu phải “chỉ trích” lỗi người. Đến đây, tôi xin dẫn trích vài ví dụ để quý vị suy ngẫm về sự Im Lặng Như Thánh như thế nào cho đúng pháp. Ví dụ thứ nhất: Có một vị tu sĩ nọ đang thực hành tu hạnh độc cư. Một hôm có việc phải đi ra bên ngoài xóm nhỏ (nơi mà tu sĩ vẫn thường tu tập hàng ngày). Vừa mới qua khỏi ngã ba đường, tình cờ gặp một người khách lạ đang muốn đến nơi xóm nhỏ. Người khách lạ thưa: - Dạ thưa Sư, con muốn vào xóm nhỏ để được gặp thầy A thì đi theo lối nào? - Vị tu sĩ nọ tuy biết rất rõ nhưng vì đang tu hạnh độc cư nên mím môi bặm miệng không nói, và chỉ với cái đầu gật gật, lắc lắc khiến người khách lạ không biết đi lối nào. Mò mẫm mãi rồi người khách lạ cũng tìm được đến nơi mình muốn đến. Sau rồi vị khách lạ cứ phàn nàn, tu hạnh “Độc Cư” chứ đâu phải tu hạnh “Độc Câm”. Thật đáng tiếc, đây là chuyện có thật đã xảy ra với chính những người đang học tập Chánh pháp mà cũng không chịu hiểu Chánh pháp. Ví dụ thứ hai: Câu chuyện thứ hai tôi lược dẫn lại đây thì quý vị đều đã biết. Đó là chuyện Bồ tát khổ hạnh nơi rừng sâu, một câu chuyện bịa đặt không hợp lý của kinh sách phát triển. “Một hôm Bồ tát đang tu tập như thường ngày trong rừng thì gặp một đoàn người đi săn của nhà vua và tùy tùng đuổi theo con nai. Đến chỗ vị Bồ tát khổ hạnh đang tu thì bóng con nai nhà vua đang săn đuổi bị mất hút. Nhà vua bèn hỏi Bồ tát: - Nhà ngươi có biết con nai Ta đang săn, nó chạy đi lối nào không? Mặc dù biết rất rõ nhưng Bồ tát không mở miệng nói câu nào. Vì Bồ tát đang tu hạnh “Độc Cư” nên ngài chỉ mím môi bặm miệng không nói. Nhà vua tức giận sai lính xẻo tai, cắt tay, chân vị Bồ tát và còn hỏi vị Bồ tát: - Ta hành hạ nhà ngươi như vậy, nhà ngươi có tức giận Ta không? Vị Bồ tát lắc đầu và nói: “Trái lại tôi còn thương nhà vua nhiều hơn”. Và sau đó tất cả những phần thân thể bị cắt rời của Bồ tát lại trở về lành nguyên như cũ”. Đây là một câu chuyện bịa đặt rất ngu si của kinh sách phát triển, ngu si như chính vị Bồ tát đang tu khổ hạnh này. Mục đích họ muốn ca ngợi hạnh nhẫn nhục và cách thị hiện thần thông “siêu việt” của các vị tu sĩ ngoại đạo hoàn toàn trái với con đường Phật dạy. Qua câu chuyện trên, đức Trưởng Lão đã dạy chúng ta: người tu sĩ phải biết thiện xảo trong tu tập và phải biết khéo Im Lặng Bậc Thánh đầy trí tuệ mới đúng là người tu theo Chánh Pháp. Để trả lời câu hỏi của nhà vua trong trường hợp trên, Ngài dạy vị tu sĩ chỉ cần trả lời rõ ràng: "- Thưa Đại vương, tôi là người tu hành theo đạo Phật, tôi phải giữ gìn rất nhiều Giới, trong đó có giới không nói dối và giới không sát sanh. - Nếu tôi chỉ đúng đường con nai chạy, Đại vương sẽ giết chết con nai và như vậy tôi phạm tội gián tiếp sát sanh. - Nếu tôi chỉ không đúng đường, con nai không bị giết nhưng tôi phạm vào tội nói dối. Do vậy, xin Đại vương cho phép tôi được im lặng không nói, Đại vương có quở trách hay xử phạt như thế nào tôi cũng xin chịu". Nghe trả lời vậy, nhà vua quỳ xuống đảnh lễ bậc tu sĩ có Trí Tuệ thật đáng kính. Thế mới hay. Câu chuyện thật đơn giản như vậy mà biết bao nhiêu thế hệ không thể nhìn ra sự thực nền đạo đức Nhân bản – Nhân quả mà đức Phật đã dạy. Họ đã quá tham đắm và u mê. Chúng ta càng thêm lòng tin tưởng vào đức Phật xưa và Trưởng Lão Thông Lạc ngày nay. |
Cập nhật ngày : 14.10.2012 | |||
Lời BBT/GNCN
Trong loạt bài minh họa thêm cho bài “Giọt Nắng Chơn Như Tự Bạch”. Chúng tôi đã giới thiệu đến quý độc giả bài “Chánh Pháp Đến Với Đời Rất Khó!!!” của tác giả Phương Minh. Trước khi chia tay diễn đàn, Phương Minh đã viết: “Kính thưa quý vị Thầy Tổ tôn túc, PM xin mời quý Thầy và quý độc giả trở lại với bài ý kiến ngày 08/7/11 của đạo hữu Trí Khánh. Trong ý kiến này đạo hữu Trí Khánh đã dẫn rất rõ ràng những tài liệu mà quý Thầy đã thừa nhận bốn thiền của Phật là thiền phàm phu. PM có ý kiến thêm thế này: Quý Thầy đã giảng dạy Bốn Thiền là thiền phàm phu, và kinh sách Nam, Bắc Tông cũng đều dạy như thế cả. Đồng thời khi so sánh Tứ Thiền này thì tương ưng với Tứ Quả, như Sơ Thiền tương ưng với Quả Tu Đà Hoàn, cũng gọi là Nhập Lưu. Như vậy khi Nhập Lưu là nhập vào “Phàm Phu” phải không thưa quý Thầy? Bởi thiền phàm phu thì tất yếu phải nhập lưu vào phàm phu chứ chạy đâu được? Phàm phu đi tu tập để trở thành phàm phu thì có tốn cơm gạo của đàn na thí chủ không thưa quý Thầy? Vậy mà các đồng pháp của bạn Ng.Hải chỉ cố gắng cho lấy có, chứ mọi người ai chẳng hiểu sự yếu kém về Phật pháp chân chánh của quý bạn và quý Thầy” Chúng tôi thấy cần thiết cho đăng lại bài của Trí Khánh mà Phương Minh đã viết ở trên. Đồng thời cũng xin nhắc lại nhằm giúp các độc giả không có điều kiện theo dõi cuộc “đối thoại” trên diễn dàn TVHS hiểu rõ hơn. Trong sách “Đối thoại với Thầy Thông Lạc” của Thích Nguyên Hải, tác giả đã thừa nhận: thầy Thông Lạc “đắc tứ thiền” nhưng chỉ là “phàm phu thiền”, thứ “thiền” mà chính tác giả Thích Nguyên Hải cũng đã chứng đắc và có thần thông “chuyển di tâm thức”. Đó là nguyên nhân Trí Khánh viết bài này… Vì bài “đối thoại” trên diễn đàn TVHS không có tiêu đề nên chúng tôi tạm đặt tiêu đề cho bài này là “Thiền Thánh Trong Trí Phàm”. Để tôn trọng sự khách quan trong “đối thoại”, chúng tôi cho đăng lại nguyên văn bài viết trên, có thể trong bài còn nhiều sơ xuất, rất mong độc giả đọc và góp ý thêm…
Nguyên văn trên DĐ TVHS: Được gửi bởi Trí Khánh (Guest) vào 08/07/2011 Tứ Thiền là “phàm phu thiền”, “ngoại đạo thiền”, hay chính là BỐN THÁNH ĐỊNH do chính Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni khai sáng? Đây là vấn nạn mà có lần tôi đã góp ý trên phattuvietnam.net, nay bất đắc dĩ phải lập lại. Lẽ ra, phải trình bày vấn đề bằng một bài viết có hệ thống. Nhưng vì phần “ý kiến độc giả” ở đây có hạn, nên chỉ tản mạn đôi điều… Khi nhận định: Tứ thiền là phàm phu thiền, thầy Nguyên Hải đã nhai lại bã mía của chư vị Thầy Tổ, chứ chẳng phải phát kiến mới của thầy. Nhiều vị Cao Tăng, Tôn Túc hiện nay cũng khẳng định bốn thiền này là của ngoại đạo, của phàm phu tu tập, không do Thế Tôn khai sáng. Dưới đây là vài trường hợp điển hình: - HT.Thích Chơn Thiện: Tứ thiền là ngoại đạo thiền được nhiều đạo sĩ tu tập, nó có từ trước thời Đức Phật…. (Tăng già thời Đức Phật, tr.181). - HT.Thích Nhất Hạnh: Tứ Thiền là một sản phẩm có thể có trước, đồng thời hoặc sau đạo Bụt. Nó chỉ là “thời thượng”, “mode”, chứ không phải “tinh ba của đạo Bụt”?... (Thích Nhất Hạnh -Truyền thống sinh động thiền tập - Quyển 1: Chương 3: 3-4 Khởi nguyên truyền thống thiền tập tại Việt Nam). - HT.Thích Thanh Từ: Khi giảng về Tam Tổ Trúc Lâm trên trang nhà thuongchieu.org cũng nói: “Phàm phu thiền. Tu thiền định theo nhà Phật, tuy chứng được bốn thiền: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, cũng gọi là phàm phu thiền, vì tu bốn thiền này người tu chỉ sanh từ cõi trời Sắc giới trở xuống thế gian thôi, chớ chưa giải thoát.”… - HT.Thích Thiện Hoa: Ngài giảng Tứ Thiền rất dài nhưng cũng kết luận: Tứ Thiền là “phàm phu thiền”. (Phật Học Phổ Thông. Khóa V. Trang 173) Vậy nên, nếu thầy Nguyên Hải có nhại lại các bậc Thầy Tổ: “Tứ Thiền là phàm phu thiền” cũng chẳng có gì lạ. Chỉ có điều, do thầy không hề biết BỐN THÁNH ĐỊNH mà Thế Tôn đã chứng trú và công bố trong tạng kinh Nikaya hoàn toàn khác với BỐN LOẠI THIỀN TƯỞNG mà thầy tưởng mình đã chứng đắc, đã có chút ít thần thông như “chuyển di tâm thức?”, nên tự cho mình cái quyền “ấn chứng” cho bất kỳ người nào chứng đắc bốn loại thiền TƯỞNG này của thầy!... Tứ Thiền có phải là “phàm phu thiền”, “ngoại đạo thiền” không? Xin mời qúy vị đọc đoạn kinh Nikaya do HT Thích Minh Châu trích dẫn lại trong cuốn “Hành Thiền”, (trang 8-9). Đọc và suy xét cẩn thận, tìm hiểu thấu đáo, để khỏi rơi vào chỗ hủy báng một giáo pháp mà chính Đức Thế Tôn đã chứng trú… “Ta ly dục ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất… khi an trú như vậy ta nghĩ: “Theo con đường này có thể đưa đến giác ngộ chăng?” Tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi ta: “Đây là con đường đưa đến giác ngộ”. Với kinh nghiệm này, Sa môn Gotama thực hành thiền định chứng Sơ thiền, Thiền thứ hai, Thiền thứ ba, Thiền thứ tư, Ngài hướng tâm và chứng được Ba Minh, và cuối cùng Ngài thành đạo, chứng được Thánh quả thành bậc Chánh giác”. Đoạn kinh do HT Thích Minh Châu trích dẫn trên cũng đã chứng minh hùng hồn rằng: Thế Tôn từ bốn thiền hữu sắc này đã tiến thẳng vào Tam Minh để chứng Thánh quả thành bậc Chánh Giác, chứ Ngài không cần đi qua bốn định vô sắc của ngoại đạo, cũng chẳng cần nhập Diệt Thọ Tưởng định. Dĩ nhiên ở giai đoạn này, nếu cần, hành giả cũng thừa khả năng thể nhập Diệt Thọ Tưởng định, vào “tham quan” bốn định vô sắc. Nhưng không cần thiết và không bắt buộc xem cái mà các học giả Đại thừa gọi là “Cửu Thứ Đệ Định” như là những chặng đường buộc phải đi qua … Đối với bốn định vô sắc, hành giả cần phải biết “vượt qua” chúng để hướng thẳng đến Vô Tướng Tâm Định, tức Tâm Vô Lậu như lời Thế Tôn dạy trong nhiều bài kinh ngắn thuộc Trung Bộ Kinh. Như vậy, Bốn Thiền mà Thế Tôn đã chứng trú, rồi từ đó hướng tâm vào Tam Minh để thành bậc Chánh Giác là ngoại đạo thiền hay phàm phu thiền? Thầy Nguyên Hải và kể cả quý Hòa Thượng Thanh Từ, Nhất Hạnh, Chơn Thiện, Thiện Hoa đã căn cứ vào đâu để cho rằng Tứ Thiền là “phàm phu thiền”? Trước hết, phải xác nhận danh từ “Tứ Thiền” có từ rất lâu, trước cả thời Đức Phật. Nhưng Bốn Thiền đó có phải là Bốn Thánh Định mà Thế Tôn đã chứng trú không? Đây là câu hỏi cần được làm sáng tỏ. Theo tôi, Tứ Thiền của ngoại đạo và Tứ Thánh Định của Đức Thế Tôn về tên gọi có thể giống nhau, nhưng nội hàm của chúng khác nhau rất xa. Ví dụ: học thuyết “Ba Ngôi”, chúng ta thấy xuất hiện ở nhiều tôn giáo, nhưng nội hàm khác biệt. Ở Kitô giáo là: “Chúa Cha – Chúa Con – Thánh Linh”, ở Khổng giáo: “ Thiên - Địa – Nhân”, ở Phật giáo: “ Phật – Pháp – Tăng”… Thế nên không thể nói học thuyết “Ba Ngôi” được tôn giáo này du nhập từ tôn giáo kia… Cũng thế, “Tứ Thiền” là pháp môn tu học của nhiều học phái trước, trong và sau thời Đức Thế Tôn. Thế nhưng Tứ Thiền mà Thế Tôn chứng trú và công bố trong tạng Nikaya có phải của ngoại đạo hay không cần quán xét kỹ toàn bộ giáo pháp của Ngài, chứ không thể làm như HT Nhất Hạnh, chỉ lấy vài kinh như “Quán Niệm Hơi Thở”, kinh “Tứ Niệm Xứ”… thấy “không nói đến Tứ Thiền”, rồi kết luận Tứ Thiền được du nhập từ ngoài vào… Đằng khác, chưa ai xác định được nội hàm Tứ Thiền ngoại đạo để so sánh với nội hàm Tứ Thiền mà Thế Tôn xiển dương để kết luận chúng chỉ là một!... TS Nhất Hạnh nhận định: “Chúng ta nên nhắc lại rằng trong tất cả các văn bản ghi chép lại kinh Chuyển Pháp Luân tức là bài pháp đầu tiên của Bụt nói cho năm thầy, không có kinh nào nói về Tứ Thiền hết. Trong kinh đó Bụt chỉ nói về Tứ đế và Bát Chánh Đạo mà thôi. Bụt không nói tới Tứ Thiền như là một sự thực tập mà mình phải theo để được giải thoát, để được giác ngộ”… Có lẽ TS Nhất Hạnh chỉ tu “Thiền Tiếp Hiện” nên không quan tâm đến Tứ Đế, bài pháp đầu tiên Thế Tôn dạy 5 anh em Kiều Trần Như. Chúng ta biết rằng, toàn bộ giáo pháp của Thế Tôn đều xoay quanh trục Tứ Đế. Đạo Đế với 37 phẩm trợ đạo, trong đó Ngũ căn, Ngũ lực được xác định: Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ. Chương V “Năm Pháp”, Kinh Tăng chi, Thế Tôn dạy “những điều cần phải thấy” như sau: “Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Và này các Tỷ-kheo, Tín lực cần phải thấy ở đâu? Trong bốn Dự lưu chi phần; ở đấy, Tín lực cần phải thấy. Và này các Tỷ-kheo, Tấn lực cần phải thấy ở đâu? Trong bốn Chánh Cần; ở đấy, Tấn lực cần phải thấy. Và này các Tỷ-kheo, Niệm lực cần phải thấy ở đâu? Trong bốn Niệm xứ; ở đấy, Niệm lực cần phải thấy. Và này các Tỷ-kheo, Định lực cần phải thấy. Và này các Tỷ-kheo, Định lực cần phải thấy ở đâu? Ở trong bốn Thiền; ở đấy, Định lực cần phải thấy. Và này các Tỷ-kheo, Tuệ lực cần phải thấy ở đâu? Ở trong bốn Thánh đế; ở đấy, Tuệ lực cần phải thấy. Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này.”… Chương IV. “Tương Ưng Căn”. Thế Tôn cũng xác định: “Và này các Tỷ-kheo, cần phải quán Định căn ở chỗ nào? Ở đây, cần phải quán Định căn trong bốn Thiền. Và này các Tỷ-kheo, cần phải quán Tuệ căn ở chỗ nào? Ở đây, cần phải quán tuệ căn trong bốn Thánh đế.” “Định Lực và Định căn cần phải quán trong Bốn Thiền. Tuệ Lực và Tuệ căn cũng cần phải quán trong Bốn Thánh Đế”. Đó là khẳng định của Thế Tôn. Qua đây cho thấy, năm anh em Kiều Trần Như là những người đầu tiên được Thế Tôn dạy Bốn Thiền… Do đó, không thể nói trong Tứ Đế “Bụt không nói tới Tứ Thiền như là một sự thực tập mà mình phải theo để được giải thoát, để được giác ngộ”… Tứ Thiền lại càng không thể là “thời thượng–mode” như TS Nhất Hạnh đã nhận định… Và dưới đây là một đoạn kinh quan trọng được Thế Tôn xác nhận Chánh Định, lớp thứ tám trong Bát Thánh Đạo chính là Bốn Thiền: “Này chư Hiền, thế nào là Chánh định? Này chư Hiền, ở đây, Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm (savitakka), với tứ (savicara). Vị Tỷ-kheo ấy diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh định”. (Trung Bộ, tập 3, Saccavibhangacittasuttam Kinh “Phân Biệt Về Sự Thật”) Rõ ràng BỐN THÁNH ĐỊNH này là Định của các BẬC THÁNH, nó chính là lớp thứ tám CHÁNH ĐỊNH trong BÁT THÁNH ĐẠO. Vậy mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh khăng khăng một mực: “kinh Chuyển Pháp Luân tức là bài pháp đầu tiên của Bụt nói cho năm thầy, không có kinh nào nói về Tứ Thiền hết. Trong kinh đó Bụt chỉ nói về Tứ đế và Bát Chánh Đạo mà thôi. Bụt không nói tới Tứ Thiền như là một sự thực tập mà mình phải theo để được giải thoát, để được giác ngộ”… Đối với thầy Thích Nguyên Hải, thầy đã bỏ công chép lại nhiều bài kinh dài lê thê trong tạng kinh Nikaya, nhưng thầy không hề thấy được sự câu hữu các pháp mà Thế Tôn thuyết giảng xuyên suốt Đại tạng. Không nhìn ra được CHÁNH ĐỊNH trong BÁT THÁNH ĐẠO chính là TỨ THÁNH ĐỊNH, tức BỐN THIỀN này. Hồ đồ nhại lại chư vị Thầy Tổ gọi BỐN THÁNH ĐỊNH này là “phàm phu thiền”… Về việc xác định nội hàm Bốn Thiền mà Thế Tôn xiển dương không thể là sản phẩm du nhập từ ngoại đạo, không phải là “phàm phu thiền”. Ngược lại đó chính là Bốn Định của các bậc Thánh là việc cần nên làm và là trách nhiệm của những người con Phật… Ý kiến cho rằng: Tứ Thiền không do Thế Tôn xác lập có lẽ xuất phát từ một Thiền sư nổi tiếng Trung Hoa. Ngài Khuê Phong Tôn Mật (780-841), tổ thứ 5 của tông Hoa Nghiêm… Thiền tông Trung Hoa thuộc thế kỷ thứ 8 thường dùng các luận thuyết của Ngài làm kim chỉ nam với tác phẩm chính là: “Thiền Nguyên Chư Thuyên Ðô Tập”. Thiền sư Tôn Mật căn cứ vào các cụm từ: “ly sanh hỷ lạc”, “định sanh hỷ lạc”, “ly hỷ diệu lạc”… để dẫn đến luận điểm: hạng Phật tử tuy tin vào lý nhân quả nhưng còn ham thích hỷ lạc, nên bốn thiền mà họ đang tu tập chỉ là “phàm phu thiền”… Cho đến nay, các thế hệ Phật tử VN bao gồm cả những cao tăng, học giả, đều không dám nói ngược lại ý này của Tổ Tôn Mật. Không lạ gì khi Thiền sư Nhất Hạnh nói: “Tứ thiền không phải là tinh ba của đạo Bụt”. Cho dù Thiền sư Nhất Hạnh có cố gắng chứng minh điều này bằng kinh Phạm Võng nhưng sức thuyết phục rất kém… Điều may mắn thật sự đã đến với Phật tử VN ngày nay, khi chúng ta đang có trong tay “Đại Tạng Kinh Việt Nam” do HT Thích Minh Châu dịch trực tiếp từ tạng Pali – Nikaya. Khi dịch Đại tạng này, Ngài cũng đã đối chiếu với Hán tạng A-hàm và Ngài nhận xét có một khoảng cách khá lớn giữa hai tạng này. Vì thế, muốn nhìn về “Nguyên thủy” hoặc “gần Nguyên thủy” nhất, sao không dùng Việt Tạng mà cứ phải bám vào Hán Tạng?… Có lẽ Tổ Tôn Mật đã nhìn Tứ Thiền qua lăng kính A-hàm cộng với kiến giải Thiền tông để đưa đến kết luận Tứ Thiền là “phàm phu thiền”… Đọc Đại Tạng Kinh Việt Nam của HT Thích Minh Châu, không thể không ngạc nhiên khi thấy Thế Tôn thành bậc Chánh Giác là nhờ Bốn Thiền. Vậy mà Bốn Thiền lại bị cho là “phàm phu thiền”. Điều ngạc nhiên hơn là “xưa nói nay nghe”, không ai dám cãi… Chúng ta tôn kính Tổ Tôn Mật, chúng ta học gương hạnh của Ngài. Điều đó không có nghĩa là chúng ta không có quyền nghĩ khác quan điểm của Ngài… Thiền của Đức Thế Tôn là Thiền “ly dục, ly bất thiện pháp”. Nhờ ly dục ly bất thiện pháp mà con người có thể làm chủ nhân quả. Làm chủ nhân quả chính là làm chủ sanh già bệnh chết, hay vắn gọn là làm chủ sinh-tử. Làm chủ sinh-tử là một cách nói khác của làm chủ thân ngũ uẩn này… Muốn thế, không thể không tu học Bốn Thiền mà Thế Tôn đã chỉ bày cặn kẽ trong Nikaya. Không thể nói như TS Nhất Hạnh vì kinh này, kinh kia Bụt không nói đến bốn thiền để khẳng định “bốn thiền không phải là tinh ba của đạo Bụt!”. Ngược lại, phải xuyên suốt Đại tạng để thấy chỗ nào Thế Tôn nói “ly dục ly bất thiện pháp” chỗ đó là Sơ Thiền. Chỗ nào Ngài nói: “diệt tầm tứ” hoặc “ly sắc uẩn” hoặc “ly ý thức”, vì tầm tứ là ý thức, mà ý thức thuộc sắc uẩn, ý thức đã ly dĩ nhiên các thức còn lại của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân cũng ly theo. chỗ ly được sắc uẩn đó là Nhị Thiền. Chỗ nào Ngài dạy: “ly các loại hỷ tưởng” hoặc “ly tưởng uẩn”, chỗ đó là Tam Thiền. Chỗ nào Ngài dạy: “xả các cảm thọ, diệt hỷ ưu” “ngưng các thân hành” chỗ đó là Tứ Thiền… Chúng ta thấy rất rõ con người sở dĩ bị trôi lăn trong vòng luân hồi sinh tử là vì không làm chủ được cái thân ngũ uẩn này. Nhờ Bốn Thiền mà xả ly được sắc, thọ, tưởng, hành. Còn lại thức uẩn sẽ chuyển hóa thành lực của Bất Động Tâm, tức tâm bất động trước các chướng ngại pháp và các cảm thọ. Khi lực của tâm bất động này sung mãn, nó sẽ chuyển hóa thành Vô Tướng Tâm Giải thoát, tức tâm không còn ba tướng: dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, nói vắn gọi là Tâm Vô lậu. Đến giai đoạn này, chúng ta lưu ý đến cụm từ mà Thế Tôn thường lặp đi lặp lại nhiều lần trong Đại tạng Nikaya: “Tâm nhu nhuyến, dễ sử dụng”. Nghĩa là nó không còn khó khăn mệt nhọc công phu nữa, mà nhờ vào Dục Như Ý Túc, hành giả có thể nhẹ nhàng hướng tâm vào Tam Minh để giải quyết rốt ráo “bài toán sinh tử” mà Đức Thế Tôn đã cho sẵn “đáp số”… |
Cập nhật ngày : 21.10.2012 | |||
Loạt bài: VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI - BẢO VỆ CHÁNH PHÁP (Kì 1. Phản hồi của độc giả trên DĐ/TVHS với Thích Nguyên Hải)
BBT/GNCN
Bảo vệ Chánh pháp là nghĩa vụ và quyền lợi của người Phật tử. Chúng ta không thể im lặng mãi để tư tưởng tà kiến hoành hành nhằm xóa bỏ Phật giáo ra khỏi đời sống nhân loại. Không thể thế được, chúng ta đã có giáo pháp chân chánh, có Bậc Minh Sư chỉ đường dẫn lối, nhất định một ngày kia, những giáo lý tà kiến sẽ bị xóa sạch trên hành tinh này.
Lần lượt chúng tôi sẽ chuyển đến quý độc giả những VẤN ĐÁP - ĐỐI THOẠI đã đăng tải trên các trang mạng có những bài viết, những ý kiến kịch liệt phản đối giáo pháp của Trưởng Lão Thích Thông Lạc dựng lại. Mời quý vị đón đọc. ĐỐI THOẠI 1 - phattu: Thường những gì người chứng đạo nói và viết, sẽ đem lại lợi lạc cho số đông. Nhưng bây giờ có người "chứng đạo" viết và nói, lại đem đến tranh cãi và phiền não cho số đông. Mâu thuẫn thiệt. Thầy Nhất Hạnh và ngài Dalai Lama là "ngoại đạo", nhưng tôi thấy hai vị này đóng góp cho Phật giáo rất lớn và cũng đem lại lợi lạc cho nhiều người. Tôi nghĩ nếu ai đó giỏi tiếng Anh thì nên phát tâm dịch sách của thầy Thông Lạc để làm lợi lạc cho nhiều người... - Trí Khánh: Bạn phantu ơi! nói vậy nghe không xuôi! Đức Thế Tôn của chúng ta để lại tạng Nikaya, nhưng kẻ hiểu đông, người hiểu tây, cũng gây tranh cãi, phiền não, mâu thuẫn cho nhiều người. Thậm chí có ông Linh Mục tây mang Nikaya dịch ra không chỉ tiếng Anh mà cả tiếng Pháp, tiếng Ý nữa!... Nói có sách, mách có chứng. Đó chính là quyển “Kitô giáo dưới mắt một Phật tử”. Bản dịch Việt ngữ từ tiếng Pháp của hai Linh mục người Việt là Nguyễn Văn Tùng và Nguyễn Bá Tùng từ nguyên tác Un Bouddhiste Dit Le Christianisme Aux Bouddhistes của Linh mục Edmond Pezet. Sách được Hội Đồng Giáo Hoàng Phụ Trách Đối Thoại Liên Tôn của Vatican bảo trợ. Bản Việt ngữ do Đức Ông Phil. Trần Văn Hoài viết lời giới thiệu. “Lời Bạt” cuối sách của Linh mục Dom Pierre Massein lại là phần quan trọng nhất phục vụ chủ trương “Đôi thoại liên tôn” của Vatican. Khi phê bình thầy Thông Lạc không hiểu tạng kinh Nikaya. Thầy Thích Nguyên Hải đã chép lại một bài kinh ngắn dưới đây để chứng minh: (III) (Ud 80): Này các Tỷ-kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thì ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.” Chúng ta không ngờ rằng Lm Dom Pierre Massein cũng đã dịch kinh trên ra nhiều ngôn ngữ Tây phương để phổ biến trong thế giới Kitô giáo, nhằm chứng minh cái mà Thần học Kitô giáo gọi là “Thực Tại Tối Hậu”, tức Thiên Chúa của họ cũng hiện hữu trong tâm tư Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni từ hơn 2500 năm về trước. Bản kinh được Linh mục Nguyễn Bá Tùng chuyển sang Việt ngữ như sau: “Có một điều không thụ sinh, không thụ phát, không thụ tạo, không thụ tướng. Nếu không có điều không thụ sinh, không thụ phát, không thụ tạo, không thụ tướng thì việc hình thành thế giới thụ sinh, thụ phát, thụ tạo, thụ tướng không thể có được. Nhưng bởi vì có một điều không thụ sinh, không thụ phát, không thụ tạo, không thụ tướng, cho nên nó có thể thoát khỏi thế giới của điều thụ sinh, thụ phát, thụ tạo, thụ tướng.” (Udàna III). Nếu thầy Thích Nguyên Hải dùng bài kinh trên để phê phán thầy Thông Lạc phủ nhận thế giới siêu hình. Cũng có nghĩa là thầy đã đồng ý với Linh mục Dom Pierre Massein về một luận điểm Thần học cho rằng: toàn thể vũ trụ đều là vật thụ sinh thụ tạo, chỉ có Thiên Chúa của Kitô giáo là đấng duy nhất tự hữu, hằng có đời đời. Nếu không có ngài thì không thể có bất cứ một vật gì được “thụ sinh, thụ phát, thụ tạo, thụ tướng”… - Phương Minh: Thưa đạo hữu phattu, chúng ta cần suy xét kỹ và hiểu thấu đáo từ “Lợi lạc”. Lợi lạc của Đạo và lợi lạc của Đời nó không giống nhau. Lợi lạc của Đạo thì an vui thanh thản, lợi lạc của Đời vẫn chứa đầy bề bộn lo toan. Đạo hữu xem lại trong bài luận về Tứ Diệu Đế của thầy Nhất Hạnh, thầy NH đã dẫn ví dụ: “sinh một em bé ra đời, thi đậu một tấm bằng, được nhận vào một sở làm…”, đó cũng là những lợi lạc (hạnh phúc), nhưng lợi lạc này là khởi đầu của bao nhiêu sự (đau khổ) lo toan mới. Niềm vui có trong chốc lát, còn khổ đau cứ mãi mãi muôn đời. Lợi lạc trong Đạo của người phật tử theo con đường giải thoát chân chánh thì tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không, không còn lo toan hờn giận, không còn vướng bận danh lợi ở đời, nhưng tấm lòng yêu thương thì rộng mở đến tất cả mọi người và muôn loài. Và, vượt lên trên hết, đó là cái lợi lạc không còn bị sanh ra trong nhiễm ô bất tịnh nữa. Đó là giải thoát. “Việc đem lại tranh cãi và phiền não cho số đông”, đó là điều hoàn toàn hợp lý. Đã hơn hai ngàn năm, mọi người vẫn tin là như thế, vẫn cứ tưởng như thế là đúng thật, bây giờ có người nói rằng: như thế là không đúng thật, là sai lầm thì làm sao mà không tranh cãi, phiền não được! Sở tri, sở kiến ôm ấp mấy ngàn năm, đâu dễ gì buông bỏ được trong một sớm một chiều. Chẳng những phiền não mà còn có thể phải hốt hoảng, chết điếng người nữa chứ. Ví như trong thân thể một người, lâu nay đang có một khối u ác đã khởi mầm từ lâu nhưng họ không biết, họ vẫn tưởng mình mạnh khỏe vô bệnh. Nào ngờ, một hôm đi khám, được bác sĩ cho biết mình có khối u có thể dẫn đến tử vong. Như vậy mình không bất ngờ hốt hoảng sao, rồi có thể phải đau đớn như muốn chết khi bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ khối u ấy đi. Vậy đạo hữu đã rõ chưa? Sự “đem đến tranh cãi và phiền não” không có gì là mâu thuẫn cả. Việc thầy Nhất Hạnh và ngài Dalai Lama mang lại lợi lạc thế gian cho số đông người thì chúng tôi rất tôn trọng và tán thán. Nhưng nói là lợi ích cho Phật giáo thì chúng tôi không chấp nhận, bởi đó không phải là đường lối của đạo Phật. Biết bao nhiêu giáo sư, tiến sĩ ngoài đời, họ giảng dạy đạo đức trong ngành Khoa học Xã hội Nhân văn đã mang lại lợi lạc cho đời nhiều lắm chứ, được mọi người tán thán, tôn kính và không ai có lý do gì có thể phản bác được. Ở đây, các ngài dạy đạo đức nửa tôn giáo, nửa cuộc đời mà mang danh Phật giáo thì làm sao chúng ta chấp nhận được? Đạo là Đạo, Đời là Đời, muốn mang Đạo vào hướng dẫn Đời thì phải có cái gì vượt hơn hẳn lên trên đời, mới có thể dẫn đời được chứ. Các Ngài vẫn còn lặn ngụp trong bảy nổi ba chìm như mọi người thì làm sao mà cứu vớt người được? - nowandhere: Giữa Bát Chánh đạo và 37 phẩm Trợ đạo, có lẽ theo ý PM, Trợ Đạo trái ngược lại với Chánh Đạo chứ gì? Có lẽ theo ý của PM: “Trợ” là “phụ” còn “Chánh” là “chánh”, “chánh” trái ngược lại với “phụ”. Mọi người ai cũng biết chữ “chánh” có nhiều nghĩa, như là ngay thẳng, đúng, phải, chánh đáng, phần chính, v.v… nhưng có lẽ theo ý PM chữ chánh chỉ có một nghĩa, đó là chánh hay là phần chính, trái ngược lại với phụ. Mọi người đều biết chánh tư duy là suy nghĩ chân chánh, nhưng có lẽ theo ý của PM thì có cái gọi là suy nghĩ chánh hay còn gọi là chánh tư duy, có cái gọi là suy nghĩ phụ hay trợ tư duy, suy nghĩ phụ ngược lại với suy nghĩ chánh. - Minh Trí: Đạo hữu nowandhere nên bình tĩnh hơn! Chữ “Chánh” trong Bát Chánh Đạo không có nhiều nghĩa như đạo hữu tưởng. Nó chỉ có một nghĩa duy nhất: “THÁNH”. Cho nên Bát Chánh Đạo còn được gọi là BÁT THÁNH ĐẠO. Kinh Nikaya gọi là “Thánh đạo Tám ngành”. Nghĩa là Thánh đạo này được đặt trên tám lớp… Nếu giải thích hời hợt như đạo hữu: “chánh tư duy là suy nghĩ chân chánh”, thì làm sao bật lên được cái nghĩa “THÁNH” của nó?... Đạo hữu nên suy nghĩ chính chắn trước khi trả lời câu hỏi này: Vì sao “THÁNH ĐẠO” lại bị nhốt chung một rọ với các “trợ đạo”??? - Phương Minh: Con đường đi đến Giải Thoát của đức Thích Ca dạy, chỉ duy nhất có một chứ không hai, đó là con đường Bát Chánh Đạo. Để giúp cho hành giả không bị sa lầy, ngã vực hay lạc vào đường cấm thì phải có 37 phẩm trợ đạo song hành. PM dẫn ví dụ: Đạo hữu đã bao giờ đi trên một con đường chưa? Khi đi trên con đường ấy, đạo hữu có thấy hai bên lề đường có những cọc tiêu, biển báo hướng dẫn để người đi biết đâu là đèo vực, đâu khúc quanh co, đâu là ngả cấm, v.v… chứ? Ở đây Bát Chánh Đạo là con đường, còn 37 phẩm trợ đạo ví như những cọc tiêu biển báo… để dẫn hành giả đi không sai hướng. Vậy mà đạo hữu cũng hùa theo thầy Ng Hải để quyết lấy con đường dựng đứng lên làm biển báo, liệu có chắc được không nhỉ? (PM lấy ví dụ này tạm dẫn cho dễ hiểu, còn theo lý đạo thì phải thận trọng thưa hỏi bậc thiện tri thức). Nếu cứ như đạo hữu thì 37 phẩm trợ đạo, nay chỉ còn lại 29 phẩm (bởi mất 8 chánh đạo rồi. Có lẽ đây là cái mới của thầy Ng.Hải và của đạo hữu, hay là sự sai lầm nghiêm trọng của thầy Tổ chúng ta từ xưa đến nay không chịu động não tư duy? |
Cập nhật ngày : 24.10.2012 | |||
TRAO ĐỔI CỦA PHẬT TỬ THÍCH MINH TRÍ
Bước đầu tu tập. Sau chuyến đi trở về, chúng tôi ai nấy trở về công việc của mình, tôi vẫn tranh thủ thời gian để nghiên cứu kinh sách, nghe băng giảng để hiểu sâu hơn về con đường giải thoát. Tôi bắt đầu tìm kiếm cho mình Pháp tu phù hợp để bắt đầu tu tập. Tôi nhớ lại, khi Thầy tiếp chúng tôi Thầy nói rằng, Pháp danh Thầy cho theo đặc tướng để tu tập, nhưng lúc đó Thầy lại không giải thích rõ về Pháp danh của tôi, vì vậy tôi đành phải tự tìm hiểu lấy. Sau khi đã biết rõ đặc tướng của mình tôi bắt đầu triển khai tu tập. Việc đầu tiên là tôi hệ thống lại để nhìn cho rõ đường lối tu tập của đạo Phật (Giới - Định - Tuệ) và bắt đầu triển khai tri kiến giải thoát cho mình (bằng cách đi tiếp duyên, nói chuyện với những ai muốn nghe, với những đồng đạo cũng Quy Y với Thầy ở xa bằng chát qua mạng v.v…). Nhờ những tháng ngày triển khai tri kiến như vậy mà hiểu biết về Chánh pháp của tôi ngày một sâu và rõ hơn. Tôi lại tiếp tục đọc lại kinh sách, nghe lại băng giảng để gia tăng thêm sự hiểu biết sao cho đúng như ý của Thầy muốn truyền đạt. Tuy nhiên tôi vẫn hiểu rằng tri kiến của mình còn phụ thuộc vào mức độ xả tâm của mình và hiểu được thông qua các trạng thái tu tập mà mình đạt được. Vì vậy, song song với việc triển khai tri kiến tôi thường xuyên tu tập Tứ Chánh Cần, Định Vô Lậu… để xả tâm, đẩy lui chướng ngại pháp trên Thân và Tâm và không quên thường xuyên tác ý: “Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự”; “Tâm như đất, ly tham, sân, si cho thật sạch” và ước nguyện cho cha mẹ, vợ con, anh, chị, em sức khỏe an lành và sớm đủ duyên gặp Chánh Phật Pháp. Nhưng điều quan trọng là tôi không bao giờ quên 2 lời nhắc nhở cực kỳ quý báu của Thầy đó là: + Dẫn Tâm vào Đạo chớ đừng dẫn Đạo vào Tâm. + Các con hãy nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả thiện ác, chứ đừng nhìn đời bằng đôi mắt đúng sai, tốt xấu… Nhờ bám chắc vào 2 điều này mà tôi luôn luôn nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả và luôn dẫn tâm mình vào chỗ Thanh thản, an lạc, vô sự. Đó chính là kết quả tu tập xả tâm và đã xả tâm được (Nếu không xả tâm được thì không có sức tỉnh thức, không sống được trong chánh niệm thì làm sao nhìn đời bằng nhân quả được phải không các bạn?!). Vì vậy mà trong mấy tháng nay, tâm tôi luôn được thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm có nội lực thật sự đủ để khi tôi chứng kiến những hoàn cảnh đau khổ, tang thương, những vụ tai nạn thảm khốc v.v... nhưng tâm tôi vẫn không hề bị động, không thương vay tiếc mướn vì tôi biết đó là hình sắc nhân quả thiện ác của chúng sinh do nghiệp lực nhân quả của họ mà thành như vậy. Tôi biết rõ trạng thái “không buồn cũng không vui” của Tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Đến đây, chắc hẳn các bạn sẽ hỏi: “Vậy ngoài kết quả có được Tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì còn đạt được lợi ích gì nữa không?”. Khi tâm luôn được thanh thản, an lạc và vô sự kéo dài từ ngày này sang ngày khác thì tâm có nội lực và được thể hiện rất cụ thể rõ ràng, như: + Khi có chướng ngại pháp trên Thân hoặc Tâm, tôi chỉ cần tác ý 1 hoặc 2 lần là đẩy lui được ngay. Ví dụ: Bị nhức đầu, tôi chỉ cần nhắc: “Thọ là vô thường, đi đi!” ngay liền hết đau đầu mà không cần nói rõ là “cái đầu đau nhức hãy đi đi!”. Tất nhiên đó là ví dụ. Vậy thực tế là khi Tâm có nội lực thì những việc như ốm đau thông thường (như cảm lạnh, nhức đầu, đau nhức, mệt mỏi v.v…) thì không bao giờ tác động đến thân tâm ta được, cho dù thực tế bạn chỉ có thể nhận thấy khi biết hơi thở nóng hoặc nhạt miệng mà thôi. Nếu có những bệnh nặng xảy đến, với nội lực của Tâm và sự kiên trì đuổi bệnh, tôi tin chắc sẻ đẩy lui được bệnh như Thầy đã chỉ dạy, cho dù đó là bệnh gì đi nữa. + Với mọi sự thay đổi thời tiết không làm tôi thấy có gì chướng ngại, dù cho đó là bão tố… + Mọi việc xảy ra xung quanh dù là chướng tai gai mắt hay là cảnh khổ đau thì tôi vẫn bình thản như thường. Nhiều khi nhìn lại thấy mình như “kẻ không có cảm xúc” vậy! Thực ra đó là Tâm bất động đấy các bạn ạ. + Những chuyện buồn dù là đau buồn nhất xảy ra trong gia đình thì mình vẫn bình tĩnh mà giải quyết và không thấy đau khổ trong Tâm v.v… Tóm lại. để đạt được trạng thái Tâm thanh thản, an lạc, vô sự như hiện nay chỉ sau gần 1 năm tu tập, tôi chủ yếu tập trung vào những nội dung sau: 1- Triển khai và trau dồi về tri kiến giải thoát về Bát Chánh đạo, về nghiệp tái sanh luân hồi, về đường đi của nhân quả, về lý vô thường, lý vô ngã. 2- Suy tư, quán xét về các pháp thuộc về ý hành Niệm trong pháp Thân Hành Niệm (quán thân bất tịnh, quán xương trắng…). 3- Quán xét về 12 nhân duyên cho rõ lý duyên khởi, tập khởi mọi sự khổ đau trong đó. 4- Quán xét về Vô Ngã để diệt ngã giúp xả tâm được dễ dàng hơn (nhờ bỏ được những kiến chấp khó bỏ). Hiện nay tôi thấy rõ Thân và Tâm mình chỉ là dụng cụ, là tên nô lệ của nghiệp lực nhân quả, các pháp cũng là như vậy. Con đường tiến tới vô ngã ác pháp sẽ không còn xa nữa… 5- Tu tập Tứ chánh cần: Ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. 6- Tu tập định Vô Lậu, định Chánh Niệm tỉnh giác (đi kinh hành nhiều, vì không hợp với định niệm hơi thở). 7- Điều quan trọng nhất phải nhắc tâm rằng: “phải luôn luôn nhìn mọi thứ bằng đôi mắt nhân quả thiện ác” nhờ vậy mà tâm không bị khổ đau, phiền não bởi cái đúng sai, tốt xấu… ở đời. Còn việc Chuyển nghiệp có được do xả tâm thì sao? Thưa các bạn! Do hiểu rõ về Nghiệp và 3 nơi tạo ra nghiệp của ta đó là Thân - Khẩu - Ý, vì vậy mà khi nhận biết mình xả tâm được và có tiến bộ tôi thường xuyên ước nguyện về sức khỏe an lành cho cha mẹ, vợ con, anh chị em…và sự tác động đó thấy rất rõ, đặc biệt là vợ tôi hay đau yếu thì nay không còn đau yếu nữa, đặc biệt là thần kinh khỏe hẳn, không còn yếu đuối như 10 năm qua. Con gái tôi hay đau vặt thì nay không còn đau nữa. Mẹ tôi đau ốm liên miên thì giờ đã đỡ và còn nhẹ… Để biết việc xả tâm có được hay không phải thông qua thực tế mà kiểm nghiệm. Tôi vốn hay Sân giận và đến nay thì tâm Sân gần như chỉ còn là vi tế, hoặc khi có đối tượng, chưa kịp khởi tâm Sân thì đã bị diệt từ trong “trứng nước” rồi (do tự động ngăn ác, diệt ác: đây là giai đoạn cuối của Tứ chánh cần và giai đoạn đầu của Tứ niệm xứ). Giờ đây, tâm tính tôi đã đổi khác hoàn toàn, trầm lặng hơn nhiều, không thích nói và nghe về chuyện thế gian, nếu có nói, tôi chỉ tiếp duyên với những người có đủ duyên với Chánh Pháp của Phật. Tâm tôi một long hướng đến con đường giải thoát. Vợ con tôi từ chỗ không tin về Phật Pháp, thì nay đã hiểu và tin vì sao tôi theo đạo Phật. Lần vào Tu Viện 1 tháng đợt này để tu học vợ tôi cũng hoan hỷ cho đi khi tôi chỉ mới nói ra ý định (điều này sẽ là không tưởng nếu tôi nói ra chỉ trước đó mấy tháng). Khi tôi vào Tu Viện được 3 ngày thì vợ tôi nhắn tin là 2 mẹ con phát nguyện ăn chay trường! Với tôi, đây cũng là sự chuyển nghiệp của gia đình, mặc dù vợ con tôi đã hiểu gì về Phật Pháp đâu cơ chứ. Về phần tôi thì sao? Tu tập xả Tâm làm cho tôi thay đổi chỗ làm liên tục. Từ tháng 4/2010 đến sau tết 2011 tôi chuyển cơ quan 2 lần và ngay sau tết 2011 tôi lại nghỉ việc. Mặc dù có nơi trả lương cao, nhưng nhận thấy có sự không thật trong việc làm ăn và có ức chế trong đó nên tôi từ chối. Thực ra, Tâm tôi chỉ hướng về Tu Viện mà thôi, tôi không còn muốn đi làm kiếm tiền nữa (có thể là hết duyên với đời) mặc dù hiện nay vợ con tôi phụ thuộc vào tôi (vợ chưa có việc làm) và tôi đang nghỉ việc, nhưng tôi vẫn thu xếp để vào tu viện 1 tháng (cũng là để tu tập xả tâm và ước nguyện…) và vợ tôi vẫn vui vẻ cho đi mà không có vẻ gì lo lắng cả. Sự thay đổi đó ngay cả cô ấy cũng ngạc nhiên và không hiểu vì sao?! Riêng tôi hiểu đó là sự chuyển nghiệp do tu tập xả tâm và ước nguyện mà có được. Ước nguyện là gieo nhân, gieo nhân thiện vô lậu sẽ có quả Phước vô lậu nếu người tu tập xả tâm tốt. Hạt giống thiện vô lậu sẽ nở rộ trên mảnh ruộng màu mỡ khi hành giả xả tâm rốt ráo và cũng là lúc chúng sanh đủ Phước để Bậc ALAHÁN ra đời! Với tôi, ước nguyện cũng chính là tu tập, cũng như Thầy dạy: “ăn cũng là tu tập!”, vậy khi ăn ta tu tập cái gì? Ngoài tập tỉnh thức trong hành động ăn thì việc đọc các bài kinh ước nguyện khi thọ thực và bài tạ ơn không phải là tu tập sao? Không lẽ đó là thủ tục? Không đâu các bạn! Với Thầy Thông Lạc thì mọi điều Thầy dạy không bao giờ thừa cả, chỉ có điều là các đệ tử có nhận ra hay không mà thôi. Thưa các bạn! Do việc tu tập của bản thân tôi mới chỉ đến mức như đã nói ở trên, vì vậy tôi chỉ nói lên sự thật thông qua những trạng thái mà Tâm tôi đã đạt được mà thôi. Đó là kinh nghiệm và hiểu biết của tôi cho đến lúc này. Tương lai còn đang đợi ở phía trước, một ngày nào đó, nếu đủ duyên, rất có thể tôi sẽ tiếp tục cùng các bạn chia sẻ kinh nghiệm tu tập mà mình đã đạt được. Đôi lời xin gửi đến các đồng đạo. Nhân đây, tôi có đôi dòng tâm sự cùng các bạn. Các bạn ạ! Như Thầy thường dạy chúng ta rằng: “Tu dễ lắm các con ạ!”, Tôi thấy đúng như vậy! Tu theo đúng đường lối của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và đúng lời Thầy chỉ dạy thì hoàn toàn không khó, tu đến đâu là có giải thoát ngay liền đến đó chứ không phải chờ thời gian đến để mà thấy. Điều quan trọng là phải biết đi đúng đường lối thì mới được, tức là phải luôn luôn giữ cho Thân và Tâm được thanh thản, an lạc và vô sự. Ngoài thời tu thì tuyệt đối không được để cho thân tâm bị ức chế dù là chỉ trong một phút. Trong thời tu, việc ôm pháp tu cũng chỉ là để đạt mục đích tỉnh thức trên thân hành (nội, ngoại) hoặc để đẩy lui chướng ngại pháp trên thân tâm hay đó cũng chính là mục đích dẫn tâm vào chỗ thanh thản, an lạc và vô sự mà thôi (dẫn tâm vào Đạo). Nếu lúc nào các bạn cũng thực hiện được như vậy thì cũng chính là các bạn luôn luôn tỉnh thức và đang sống trong chánh niệm, tức là các bạn đang nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả thiện ác đấy ạ. Nếu ai có dịp về thăm tu viện Chơn Như, đứng trước giảng đường ở Chơn Như 1 (khu hiện do Cô Út quản lý), các bạn sẽ thấy tấm bia đá thứ nhất có 3 chữ Hán (có thể là GIỚI – ĐỊNH – TUỆ) và tấm bia thứ 2 có đề dòng chữ: “Dẫn Tâm vào Đạo, đừng dẫn Đạo vào Tâm”. Không phải vô tình mà Thầy cho đặt tấm bia có dòng chữ “Dẫn Tâm vào Đạo, đừng dẫn Đạo vào Tâm” ngay sau tấm bia thứ nhất. Đó chính là lời cảnh giác, cảnh báo của Thầy đối với các đệ tử. Nhưng trên thực tế đã có mấy ai hiểu ra không? và đã có mấy ai thực hiện đúng như lời dạy trên tấm bia đó không??!. Ngày xưa, Đức Phật không cho ghi chép lại những lời thuyết giảng của Ngài cũng chính vì sợ đệ tử dẫn Đạo vào Tâm thì uổng phí cả một kiếp tu hành. Ngày nay, vì thương xót chúng sanh mà Thầy đã khổ công trong suốt mấy chục năm trời quyết dựng đứng lại những gì của Phật để lại sau gần 2500 năm đã bị lớp bụi của thời gian che phủ và bị ngoại đạo xóa bỏ, để làm sáng tỏ Phật pháp và để lại cho mai sau bằng kinh sách. Nhưng Thầy cũng đã biết trước mà cảnh báo cho chúng ta biết mà đừng dẫn Đạo vào Tâm. Có ai hiểu được nỗi lòng của một người thầy dạy đạo đức nhân quả như Đức Trưởng lão hay không? Ba mươi mốt năm đào tạo đệ tử với bao khổ nhọc để mục đích làm sáng tỏ lại Phật pháp, đến nay ngoài kinh sách của Thầy thì chúng sinh vẫn chưa đủ phước (phước vô lậu) để có những Bậc ALAHAN ra đời, tại sao vậy? Đó không phải lỗi của Thầy, hay lỗi của Cô Út, mà đó chính là do chúng ta, những đệ tử của Thầy và Cô Út đã không chịu “thắp đuốc lên mà đi” thì dù Thầy và Cô Út có chỉ đường thì cũng chỉ là vô nghĩa. Hầu hết trong số chúng ta, khi gặp được chánh pháp của Phật do Thầy dựng lại, ai cũng hiểu và tin theo. Thậm chí còn bỏ cả gia đình, vợ con, chồng con để gấp rút vào Tu viện Chơn Như xin tu học với ước mong sớm đến ngày giải thoát. Nhưng các bạn đâu có biết rằng, những hiểu biết sâu và rộng của các bạn có được về đạo Phật thông qua việc đọc kinh sách, nghe băng giảng hoặc nghe Thầy giảng trực tiếp đã biến các bạn thành cái “tủ đựng kinh sách” hay không?! Các bạn lý luận rất hay, rất đúng, giảng pháp không hề sai sót… nhưng đó chỉ là Văn Tuệ, là trí tuệ phi giải thoát, không giúp ích gì cho các bạn trên con đường tu tập. Văn tuệ không giúp ích gì cho việc tu tập xả tâm và tu tập rốt ráo được, thậm chí có thể vì những hiểu biết này sẽ làm cho các bạn cống cao, ngã mạn nhiều hơn và thường hay thích tranh luận hơn thua, cao thấp… Hầu hết trong số chúng ta, khi thấy mình có được hiểu biết như vậy là lập tức thu xếp xin vào tu viện để tu học, và như các bạn đã thấy đấy: bao thế hệ đã ra đi khỏi tu viện vì không thể tiếp tục tu học, những người hiện còn ở lại thì có mấy người sẽ nếm được “mùi vị” của Sơ Thiền hay không? Hay là chịu đựng ức chế thân tâm để mà chấp giới và nhập vào các thiền của ngoại đạo, chịu khổ đau muôn đời muôn kiếp do không xả tâm được mà còn bị nén tâm, càng tu thì Tham – Sân – Si và bản ngã càng to lớn hơn nhiều hoặc có người bị các bệnh về hơi thở, về thần kinh do tu tập ức chế mà có… Đạo Phật là đạo trí tuệ, người tu theo đạo Phật gọi là Hành giả (tức là phải thực hành theo chánh pháp của Phật). Vậy trí tuệ ở đây là gì? Là trí tuệ Vô sư hay là Tư tuệ có được do các bạn triển khai, trau dồi tri kiến giải thoát trong quá trình tu tập xả tâm và đạt được sự giải thoát (tức là xả tâm được tại chỗ nào thì những hiểu biết giúp ta xả tâm đó chính là hiểu biết giải thoát, hay là Tư tuệ của chúng ta ở chỗ đó). Càng tu tập xả tâm và xả tâm càng nhiều thì Tư tuệ của chúng ta càng tăng trưởng và hiểu biết của chúng ta, sự nhìn nhận của chúng ta càng rõ như thật về các pháp trên thế gian đều là vô thường, khổ, không, vô ngã. Nhờ vậy mà chúng ta mới có thể tiến xa trên con đường tu tập diệt Ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp để tiến tới chứng và trú bốn thiền của đạo Phật. Nếu các bạn đã đọc tạng kinh nguyên thủy NIKAYA do Hòa thượng Minh Châu dịch, những lời Phật dạy trong đó rất cô đọng, không dễ gì hiểu được. Nếu không có bậc Tam Minh triển khai ra, thì không biết đến khi nào chúng sinh mới biết được đâu là chánh pháp của Phật, đâu là pháp môn của ngoại đạo. Ngày xưa Phật dạy cho đệ tử mà không cho chép lại, điều đó có nghĩa là đệ tử phải dùng bộ não của mình mà suy tư, quán xét để thông suốt. Ngày nay, dù Thầy có viết lại kinh sách nhưng vẫn rất cô đọng, những tu sinh có dịp ở gần Thầy, được trực tiếp thưa hỏi Thầy thì đều nhận được câu trả lời mà không mấy ai thỏa mãn, vì sao vậy? Vì chúng ta đã quen tư duy theo lối Văn Tuệ, thích học thuộc lòng vì vậy mà không thể hiểu hết câu trả lời của Thầy. Thầy chỉ dạy cho chúng ta điểm đến đích của từng giai đoạn tu tập mà thôi, còn việc làm sao để đạt được kết quả tu tập là do chúng ta, tức là chúng ta phải tự “thắp đuốc lên mà đi” hay là phải suy tư quán xét để hiểu cho đúng ý của Thầy (triển khai trí tuệ vô sư) và siêng năng tu tập, đồng thời phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt. Có như vậy, chúng ta mới nhìn rõ như thật các pháp đều là vô thường, khổ, không, vô ngã được. Vì thấy rõ được như thật các pháp như vậy nên mới giúp ta hướng tâm để diệt ngã được, diệt ngã được thì mới dẹp bỏ được những kiến chấp khó bỏ để mà xả tâm, để mà nhàm chán đời sống thế gian giả tạm, có như vậy và kết hợp với ba hạnh Ăn – Ngủ - Độc cư và ba đức Nhẫn nhục – Tùy thuận – Bằng lòng để ly dục, ly ác pháp. Khi Tâm ta đã hoàn toàn ly dục, ly ác pháp thì tức là tâm không còn phóng dật nữa, đó không phải là Thiền định của đạo Phật sao (Sơ thiền) phải không hỡi các bạn?!. Khi các bạn thực hành theo đúng lời Thầy dạy, khi thấy có giải thoát ngay liền thì các bạn mới tin chứ, có niềm tin thì mới có quyết tâm, có quyết tâm thì việc tu hành đâu còn có gì trở ngại nữa phải không các bạn? Không nên chỉ hiểu qua kinh sách, qua băng giảng thấy ham mê rồi xin vào tu viện tu học, khi gặp khó khăn, ức chế (do không biết xả tâm) thì thối chuyển vì chưa có căn bản để tu tập xả tâm và chưa đủ tín lực. Có người sau khi rời tu viện ra đi còn để lại những nỗi buồn trong lòng người thầy đã dày công dạy dỗ mong cho mình được làm một con người thật sự… “Những buổi chiều tà mưa phủ trắng Thầy ngồi tha thứ kẻ vong ân” Thực hành theo chánh pháp của Phật chính là dẫn Tâm vào Đạo bằng pháp Như lý tác ý. Những câu chuyện của tôi ở phần đầu bài viết này đã minh chứng cho điều đó. Nhờ dẫn tâm vào đạo mà chúng ta không đi sai đường. Và nếu các bạn suy tư để tìm ra pháp tu theo đúng đặc tướng của mình thì sẽ thấy kết quả ngay liền. Việc tu tập không nên dựa vào kinh sách và cũng không nên “dựa lưng vào Thầy, nghe Thầy giải thích chữ nghĩa…” mà phải vận dụng xả tâm, hướng tâm vào chỗ thanh thản, an lạc và vô sự ngay khi có đối tượng hoặc khi có chướng ngại pháp trên thân tâm chúng ta. Việc vận dụng xả tâm ngay khi có đối tượng đó cũng chính là việc chúng ta tu tập tỉnh thức mà có được. Nếu không tu tập tỉnh thức thì khi có ác pháp đến liệu chúng ta có nhận biết ngay liền mà ngăn ác diệt ác hay không? Hay là bị ác pháp lôi đi như một tên nô lệ phải không hỡi các bạn?!. Sau hơn 10 ngày tu tập tại tu viện Chơn Như, dù chưa hết một tháng như dự định nhưng tôi đã tiến bộ rất nhiều. Sự suy tư, trau dồi và nhìn thấy về lý vô ngã rõ nét hơn, các pháp hành tu tập thuần thục hơn, pháp thân hành niệm đã được tu tập thuần thục để phục vụ cho việc tu tập tỉnh thức và phá hôn trầm. Đặc biệt là biết rõ về mình hơn trong việc xuất hiện các mức độ hôn trầm, các nguyên nhân dẫn đến hôn trầm, các cách hạn chế và phá hôn trầm một cách hiệu quả nhất. (về kinh nghiệm này, nếu có dịp khác mình sẽ chia sẻ cùng các bạn). Dù mới là những ngày đầu tập sống theo thanh quy của tu viện, nhưng tôi cũng không thấy có gì là khó khăn mệt nhọc cả, nhất là tâm hoàn toàn thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm không hề bị ức chế chút nào, thậm chí tôi còn ngồi đợi ác pháp đến để mà chiến đấu (các niệm khởi lên do dục sanh, do 5 triền cái và ái kiết sử sanh) với nghiệp lực nhân quả của mình. Có hôm bị ốm (do chưa quen với giờ giấc tu tập) hôn trầm tấn công mạnh trong nhiều thời tu, tôi vẫn quyết tâm tu tập tỉnh thức, đi kinh hành nhiều, động thân nhiều, giành giật với nghiệp lực nhân quả để chiến thắng tựa như người chiến sỹ chiến đấu giữ gìn bảo vệ mảnh đất thân yêu của tổ quốc trước kẻ thù xâm lược (trì Giới). Có những lúc mệt quá, hôn trầm thắng thế làm tôi bị ngủ quên trong chốc lát, khi tỉnh dậy tôi thấy xấu hổ vô cùng, nghĩ đến hạt cơm của đàn na thí chủ mà thấy gánh nặng nợ quá lớn lao, hôm sau không dám đi khất thực. Nhưng nghĩ lại, đạo Phật là đạo không làm khổ mình, phải ăn thì mới có sức mà tu tập, mình là người đang tu, lẽ đâu không vấp phải những lỗi lầm, song biết xấu hổ mà khắc phục lỗi lầm thì mới là việc nên làm. Là người đệ tử sơ cơ, mắc phải lỗi như vậy, con cũng mong Thầy từ bi mà tha thứ để cho chúng con có cơ hội tự sửa mình, còn tu là còn sửa phải không thầy?. Hàng ngày, vào đầu thời tu tập từ 2h đến 5h sáng, tôi đều ước nguyện cho mình sớm có đủ duyên để vào chuyên tu và chứng đạo trong hiện kiếp… Khi ngồi đánh máy và nhuận lại bài viết này vào ngày 28/4/2011, tức là sau 20 ngày kể từ ngày viết bài viết này ở trong tu viện cũng là lúc vợ tôi hoan hỷ ký vào lá đơn cho tôi được xin vào tu viện tu học mong đến ngày giải thoát. Việc tu tập xả tâm và ước nguyện cộng với sự khéo léo thiện xảo trong việc thực hiện những lời dạy của Thầy về việc trả nợ nhân quả cho vợ con cùng với việc thuyết phục và làm cho vợ hiểu rõ rằng đời toàn là Khổ đau… Có lẽ vợ con tôi đã hiểu được như thế nên đó cũng là sự chuyển nghiệp do tu tập đúng chánh pháp đấy các bạn ạ!. Tôi cũng không bao giờ quên được lời dạy thiết tha của Thầy về đạo đức nhân quả đó là: “Nếu ai duyên theo nhân quả mà làm ác thì kẻ đó phải nhận quả khổ đau”. Từ chỗ suy tư quán xét và thấu hiểu rõ lời dạy này mà cho dù tôi nhận thấy mình đã đủ nội lực để sống độc cư (giai đoạn 1) nhưng tôi vẫn không bị phóng dật và không vì thế mà vội vàng bỏ ngang để xin vào tu viện tu tập. Nếu bỏ ngang vào tu viện tu tập để giải thoát cho mình thì e là không giải thoát nổi, tại sao vậy? Khi nói ra câu này, tức là tôi đã biết rõ tại sao Thầy lúc nào cũng không đồng ý và chấp nhận người vào tu mà không được sự hoan hỷ chấp thuận và ủng hộ của gia đình. Đạo Phật là đạo Vô ngã ác pháp, người tu theo đạo Phật là phải diệt Ngã ác pháp, cớ sao để làm được điều đó lại phải duyên theo Ngã ác pháp (tức là duyên theo nhân quả để làm khổ mình, khổ người – Hành động bỏ ngang để đi tu) để nuôi lớn bản ngã hay sao?. Và rồi khi ngồi trong thất tu tập, cái nhân ác do mình tạo ra khi bỏ nhà đi tu nó sẽ thành quả hiện tiền ngay trong hiện kiếp, khi đó liệu hành giả có đủ nội lực để đẩy lui, để đoạn diệt hay không? Hay là bị sợ dây ái kiết sử đó trói chặt và lôi trở lại với sáu nẻo luân hồi và xa rời Chánh pháp mãi mãi… Đôi lời Con xin gửi đến Thầy. Kính thưa Thầy! Những ngày tu học tại tu viện Chơn Như, dù thời gian ít ỏi nhưng con đã hiểu được thế nào là “gánh nặng thiện pháp”. Thiện pháp là gánh nặng, là cuộc chiến đầy khó khăn gian khổ trong việc vượt qua và làm chủ nghiệp lực nhân quả của mình. Đã bao thế hệ học trò tu học tại tu viện, có không ít người đã buông bỏ gánh nặng thiện pháp để rồi chìm sâu dưới đáy sông, với họ việc sang được bờ giải thoát chỉ là mơ ước. Con cũng chỉ là người học trò sơ cơ và cũng đang ngụp lặn trên sông để sang bờ giải thoát. Nhưng con có đủ niềm tin với chánh pháp của Phật và với Thầy dù chưa một lần được Thầy trực tiếp bảo ban, dạy dỗ. Thầy ơi! Con đã nhiều lần vì tu tập diệt ngã, xả tâm mà đặt gia đình, cha mẹ, vợ con vào những hoàn cảnh (giả thiết) khổ đau nhất để mà quán xét, để mà thấy cho rõ lý vô thường, vô ngã, lý duyên nợ nhân quả trả vay… và để đoạn dứt Thất kiết sử. Và con tin rằng, dù thực tế có xảy ra đúng như vậy con cũng không còn đau khổ nữa. Nhưng những lần suy tư về gương hạnh của Phật, các đại đệ tử của Phật và về gương hạnh của Thầy để tu tập, mỗi lần nghĩ đến Thầy là con không sao cầm được nước mắt. Con đã ngồi khóc như một đứa trẻ bởi gánh nặng thiện pháp mà Thầy đang mang nó còn lớn hơn rất nhiều cái gánh nặng mà Thầy hay chúng con mang trong giai đoạn tu hành. Lòng từ bi vô lượng của Thầy đối với chúng sinh quá lớn, để cho đến bây giờ khi đã ngoài 80 tuổi, Thầy vẫn ngày đêm không nghỉ, đơn độc và chịu bao nhiêu khổ nhọc, cay đắng để một mình dựng đứng lại Phật pháp đã mất gần 2500 năm nay. Với gương hạnh của Thầy, hằng ngày con luôn ước nguyện sớm đủ duyên xuất gia tu hành và chứng đạo giải thoát ngay trong hiện kiếp để chia sẻ gánh nặng cùng Thầy làm sáng tỏ Phật pháp. Cho dù mai này, khi Thầy đã về với chư Phật, có thể tu viện Chơn Như cũng không còn, nếu còn sống con vẫn nhất quyết không buông bỏ gánh nặng thiện pháp. Ngày xưa Phật làm được, ngày nay Thầy làm được, con cũng nhất định sẽ làm được!. Dù cho không còn Thầy ở bên dẫn đường chỉ lối, dù cho phải nát than này con cũng nguyện sẽ tu hành chứng đạo để tiếp tục noi theo gương Thầy hộ trì và bảo vệ Chân lý./. Nhuận lại ngày 28/4/2011 tại Đà Nẵng Con của Thầy Thích Minh Trí |
Cập nhật ngày : 26.10.2012 | |||
Loạt bài: VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI - BẢO VỆ CHÁNH PHÁP (Kì 2: Phản hồi của độc giả trên DĐ/TVHS với tác giả Thích Nguyên Hải)
VẤN ĐÁP - ĐỐI THOẠI 2 (Đối thoại Thích Nguyên Hải)
- Linh Châu: Nếu quý độc giả nào thấy Phương Minh và thầy Thông Lạc đúng thì làm ơn đến các trường chuyên khoa Phật học để học chứ không theo những gì thầy Thông Lạc và Phương Minh viết. Trong chương 15, thầy Nguyên Hải dẫn chứng thầy Thông Lạc viết: “Trong kinh Pháp Hoa Phẩm Phổ Môn, Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn chúng sanh, đó là tà kiến”. Còn nữa, chưa hết đâu trong phần của đạo hữu Minh Quân viết trong bài “Về Sư Thông Lạc: GHPGVN im lặng mới là “hiện tượng”: “Sư Thông Lạc nói: A-di-đà là ông Phật phá giới, Di-lặc là ông Phật tham ăn, Quán Thế Âm cứu nạn cứu khổ là lừa đảo”. Ôi thôi! Thầy Thông Lạc và Phương Minh có vấn đề lớn rồi!!! - Trí Khánh: Tôi không phải là đệ tử của thầy TL, cũng chẳng quen biết PM nên không thể trả lời thay PM. Nhưng vì đạo hữu viết: “Nếu quý độc giả nào thấy Phương Minh và thầy Thông Lạc đúng thì làm ơn đến các trường chuyên khoa Phật học để học…”, nên với tư cách độc giả, tôi xin có đôi lời chia sẻ với Linh Châu. Các trường chuyên khoa Phật học là nơi đào tạo giảng sư, học giả. Không thể đào tạo hành giả. Nếu Linh Châu muốn trở thành học giả thì cứ đến đó mà học. Nhưng nếu muốn thoát khỏi sanh-già-bệnh-chết thì phải TỰ THẮP ĐUỐC LÊN MÀ ĐI. Giả sử thầy Thông Lạc và các đệ tử của Ngài có sai chăng nữa, thì các giảng sư, học giả Đại thừa chưa chắc đã đúng!... Xin nêu lên vài ví dụ: Tứ Thiền là thiền của Phật, thế mà qúy Hoà thượng Thanh Từ, Nhất Hạnh, Thiện Hoa và cả thầy Nguyên Hải hiện giờ cũng cứ khăng khăng một mực đó là “ngoại đạo thiền”, “phàm phu thiền”. Đây là hệ quả tất yếu của việc đào tạo từ những trường chuyên khoa Phật học… Về bài viết của tác giả Minh Quân: Về Sư Thông Lạc: GHPGVN im lặng mới là “hiện tượng”. Theo quan kiến của cá nhân tôi. Đối tượng chính của bài này không phải là thầy Thông Lạc, mà chính là quý Tôn túc, quý Hoà thượng. Tác giả Minh Quân đã đẩy các vị vào thế “Nếu im lặng là các vị đã mặc nhiên thừa nhận sư Thông Lạc nói đúng”… Minh Quân chỉ nêu sự kiện “Sư Thông Lạc” với mục đích chất vấn quý tôn túc là “ĐÚNG” hoặc “SAI” thôi! để tác giả có thể giải được cái “nghi kiết sử” của chính mình, chứ toàn bài không hề có một chữ nào kết án Sư Thông Lạc sai cả… - nowandhere: Tôi thấy thầy Nguyên Hải và các vị Đại Thừa không phản đối Phật giáo Nguyên Thủy. Thầy Nguyên Hải chỉ góp ý những sai sót của thầy Thông Lạc, một người tự xưng là theo Phật giáo Nguyên Thủy, nhưng lại gạt bỏ rất nhiều điều của Đức Phật dạy trong tạng kinh Nikaya thuộc Phật giáo Nguyên Thủy, rồi lại dùng ý kiến chủ quan có thể nói là nhảm nhí của thầy Thông Lạc và thầy Thông Lạc nói đó là lời Đức Phật dạy. Mọi người không đồng ý với thầy Thông Lạc là ở những điểm thầy Thông Lạc sai lạc này. Thầy Nguyên Hải và các vị Đại Thừa còn đề nghị mọi người nên học Tiểu Thừa tức Phật giáo Nguyên Thủy trước, rồi sau đó mới học Đại Thừa. Bằng chứng là trong chương 13: Tại sao có người thấy Đại Thừa khó hiểu, thầy Nguyên Hải viết: Luật Tứ Phần Giới Bổn Như Thích, phần phàm lệ 13 đoạn, trong đó đoạn 12 viết: “Phép học bên Tây Thiên Trúc, trước học Tiểu Thừa, sau học Ðại Thừa, ý chỉ Ðại Thừa thông rồi, mỗi pháp, pháp nào cũng là lý Trung Quán. Cho nên biết rằng: Dù đại, dù tiểu, cũng do một tâm, pháp không có rộng hẹp, đâu nên ở trong đó mà sinh lòng thủ xả chê khen đấy ư! Nếu trước không học Tiểu Thừa, mà lại học Ðại Thừa, quyết mắc tội lỗi, khoe suông lý Bát Nhã, bác không nhân quả, hạng người như vậy nhiều lắm”. - NkbBK: Như thế này bạn nowandhere ạ, thật ra không có chữ tiểu thừa, đại thừa, phật thừa, trung thừa gì cả... có 2 chữ thôi là phật pháp Nguyên Thủy và phật giáo phát triển (bạn chú ý: chữ giáo với chữ pháp). Kinh cũng có 2 loại thôi là Kinh Nguyên Thủy và kinh Phát Triển (chế tác, ngụy tạo). Trừ khi bạn là người tu để chứng quả thì thôi, hãy bỏ nghiên cứu qua 1 bên. Nếu nhà nghiên cứu, bạn phải truy tìm đọc nhiều tài liệu về Kinh, sự lưu truyền Kinh qua 1 quốc gia, qua thời gian, bằng chứng khảo cổ, lá bối, ý kiến nhiều chuyên gia...Vì vấn đề tế nhị, nên mọi người đã im lìm... chỉ có 2 loại Kinh đó thôi Nguyên Thủy và Chế Tác. Bây giờ tôi hỏi bạn, bạn chọn cái gì? Nước uống tinh khiết hay nước đục để uống? Phải biết rằng, 1 người có thể tạo ra Kinh rất dễ, chỉ cần nghiên cứu 1 chút Phật Pháp thôi, bạn nghĩ ra điều này chưa? Vì cái lợi, danh tiếng, số lượng môn đồ, vì dân tộc, vì... họ làm đủ thứ chuyện, bạn nghĩ đến vấn đề này chưa? Người TQ hiện nay, bạn thấy chưa họ làm đủ thứ giả, nhái,... họ muốn là bá chủ mọi cái phải qui về Trung Quốc (quốc gia trung tâm thế giới), thiên tử. Bạn hiểu chưa??? Người TQ đã bị cái nho giáo đầu độc hàng ngàn năm bạn có thấy ra chưa? Nhiều câu chữ rất bậy bạ, phản khoa học, phản đạo đức, bạn có nhận thấy ra chưa??? Tôi ví dụ: mấy ông Nho giáo phải cúi đầu tại đây mà học tôi, tôi dạy ra cho thấy đây. Mấy ổng nói: “nhân chi sơ tính bổn thiện” (có ông nói là ác). Tôi nói: nhân chi sơ tính bổn Nghiệp. Mấy ổng nói: “việc mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Tôi nói: thế còn việc ông không muốn và việc tôi muốn thì sao??? Quân xử thần tử, cha xử con, vợ... gì đó... bạn thấy bậy bạ hay không? rất nhiều... Nó là đạo của giai cấp, của dân tộc cho rằng mình là 1. Rất tệ hại. Phật giáo lan truyền qua TQ đã bị Nho giáo hóa. Có lẽ bạn nên đọc nhiều tài liệu hơn. Tôi thấy nguy hiểm cho Phật giáo VN vì nó đã bị ảnh hưởng sâu đậm bởi TQ. Tôi thương dân Việt và TQ, ngay cả người Việt đây tôi giúp gì cho họ được khi họ bị cái truyền thống treo cổ quá chặt??? Đây, tôi chỉ cho bạn 1 phương cách nghiên cứu Phật học (các thầy không phân biệt số tuổi từ 20 - 90, cứ đọc dòng này): Hãy lấy tiền đề để làm nghiên cứu!!! Tiền đề đó là Tam Pháp Ấn, Tứ Diệu Đế, 12 Nhân duyên, 8 Chánh đạo. Cái gì ra khỏi cái này đó là Phật học giả. Gần đây một số thầy viết sách ghép Phật vào Chúa... rất tệ lậu. - nowandhere: Đạo hữu Trí Khánh đã cố ý viết sai lạc về các Thiền mà Đức Phật đã dạy trong tạng kinh Nikaya. - Trí Khánh: Xin hỏi nowandhere: Các Thiền mà Đức Phật dạy trong tạng kinh Nikaya là các thiền nào vậy? Có phải là các thiền mà thầy Nguyên Hải và quý đạo hữu gọi là “Phàm phu thiền” hay không? Quý vị đã có một loại thiền gọi là “tối thượng thừa thiền” của các vị Thầy Tổ trao truyền rồi! còn quan tâm làm gì đến loại “thiền phàm phu” mà Thế Tôn đã dạy trong Nikaya?... Giả sử tôi có viết sai lạc về loại “phàm phu thiền” đó, thì cũng đâu đến nỗi làm cho nowandhere phải lo lắng đến độ “giáo lý của Đức Phật dạy sẽ biến mất lần lần…”. Đối với những ai đang quan tâm tìm hiểu, tu học Bốn Thánh Định này, tôi sẵn sàng chia sẻ trong giới hạn hiểu biết của mình. Nhưng đối với những vị theo “trường phái” thầy Nguyên Hải như nowandhere, xem bốn Thiền này là “phàm phu thiền”. Liệu tôi có nên mất thời giờ để giải thích cho họ hiểu vì sao “nhờ Bốn Thiền này mà xả ly được sắc, thọ, tưởng, hành” hay không?... - nowandhere: Trí Khánh muốn làm cho những người ít giáo lý Phật giáo hiểu sai lạc về những lời Đức Phật dạy…”. “Trí Khánh muốn xóa bỏ tất cả những sự hiểu biết chính xác của thầy Nguyên Hải bằng cách phê bình và phỉ báng thầy Nguyên Hải, để không còn ai dám lên tiếng phản bác lại những lời giải thích sai bét về Thiền của đạo hữu Trí Khánh. Cách dẹp bỏ này của đạo hữu Trí Khánh thật là siêu lắm, giáo lý của Đức Phật dạy sẽ biến mất lần lần vì có những người như đạo hữu Trí Khánh. - Trí Khánh: Viết như thế là nowandhere đã đánh giá quá thấp trình độ hiểu biết Phật pháp của độc giả TVHS. Dưới mắt của nowandhere, họ là “những người ít giáo lý Phật giáo”! Tôi tin chắc rằng, những người không hiểu biết về Phật giáo, chẳng bao giờ họ chịu ghé mắt vào những trang mạng có tính chất chuyên biệt như TVHS… Những ý kiến đóng góp của tôi trên website này, có thể làm cho độc giả ở đây “hiểu sai lạc về những lời Đức Phật dạy” được sao???... Điều hiển nhiên là từ ngày ”sách” của thầy Nguyên Hải đưa lên website TVHS đến nay chỉ mới khoảng một tháng, vậy mà có đến trên 4300 lượt người đọc, phần ý kiến độc giả cũng lên đến gần 80 và có thể hơn trong thời gian tới. Đây có thể được xem như một “hiện tượng”, có thể trở thành quyển sách "best seller" trên trang mạng này. Thầy Nguyên Hải cũng xứng đáng nhận “kỷ lục” về ý kiến đóng góp của độc giả cho một tác giả trong một thời gian ngắn nhất… Tôi tin rằng, với số lượng đông đảo độc giả vào đọc sách của thầy Nguyên Hải và đọc ý kiến đóng góp của tôi không thể là “những người ít giáo lý Phật giáo” như nhận định của nowandhere… Vì đánh giá quá thấp trình độ hiểu biết Phật pháp của độc giả, nên nowandhere đã vung bút: “chẳng có ai dám lên tiếng phản bác lại…”. Ngoại trừ nowandhere!?... Nếu đạo hữu nowandhere cho rằng: “Trí Khánh muốn xóa bỏ tất cả những sự hiểu biết chính xác của thầy Nguyên Hải bằng cách phê bình và phỉ báng thầy Nguyên Hải…”. Tôi xin trả lời: Đối với thầy Nguyên Hải, tôi chỉ phê bình chứ không phỉ báng… Nếu Bốn Thiền Thế Tôn dạy trong đại tạng Nikaya mà thầy Nguyên hải gọi là “phàm phu thiền”, cũng chính là “sự hiểu biết chính xác của thầy. Thì “Trí Khánh muốn xóa bỏ” là điều đương nhiên… không chỉ đối với thầy Nguyên Hải, mà ngay cả đối với quý Hoà Thượng Chơn Thiện, Thanh Từ, Thiện Hoa đều gọi Thiền của Thế Tôn là “phàm phu thiền”. Dĩ nhiên không thể không nhắc đến Thiền sư Nhất Hạnh với nhận định: Bốn Thiền không phải là “tinh ba của đạo Bụt” mà chỉ là “thời thượng”, “mode”… Với những lập luận như thế, Trí khánh sẵn sàng “xóa bỏ”. Nhưng xin nói rõ để khỏi bị chụp mũ, chỉ “xóa bỏ” quan điểm của các Ngài, không hề có ý bất kính, xúc phạm nhân cách cá nhân của quý Ngài… |
Cập nhật ngày : 28.10.2012 | |||
Loạt bài: VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI - BẢO VỆ CHÁNH PHÁP (Kì 1. Phản hồi của độc giả với Trần Kiêm Đoàn)
Giotnangchonnhu tiếp tục giới thiệu đến quý độc giả những phản biện đối thoại về bài viết của tác giả Trần Kiêm Đoàn nhận định về Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã đăng tải trên Thư Viện Hoa Sen. Trước tiên chúng tôi xin lược tắt một số đoạn trong bài của Trần Kiêm Đoàn, sau đó là những ý kiến phản biện của độc giả trên trang TVHS.
Mời quý vị cùng đọc. Link tham khảo: Bóng mây bay thoáng qua TRÊN ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT - Trần Kiêm Đoàn Đối thoại với Trần Kiêm Đoàn qua bài: “Bóng mây bay thoáng qua trên đường về xứ Phật” - Quảng Hạo ------------------------------------------------ Bóng mây bay thoáng qua TRÊN ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT [Mới cuối Hè, đầu Thu mà Bắc Kinh đã lụt bão. Chúng tôi vội vã rời Bắc Kinh về Tô Châu để đến viếng Hàn Sơn Tự chứ không phải để “mua lụa Tô Châu biếu em” như một nhạc sĩ nào đó lãng mạn dàng trời đã từng mơ mộng. Một nhà sư trong chùa Hàn Sơn nói: “Bài thơ mới giữ được ngôi chùa, chớ không phải ngôi chùa giữ được bài thơ”… ... Trên chuyến bay giã từ Tây An, tôi được bà cụ Nguyên Thanh, một cư sĩ Phật giáo cao niên đồng hành trong chuyến đi cho mượn tập sách Đường Về Xứ Phật của Hòa thượng Thích Thông Lạc… ... Đọc qua tập sách thầy Thông Lạc, rồi nhìn về công trình dịch thuật đồ sộ của Huyền Trang, tự nhiên tôi có cảm tưởng như mình đang lạc lối trên đường về xứ Phật vì khách hành hương thì đông mà nhìn rõ nhau thật khó. Nhất là khi đọc bài Chánh tín - Mê tín - Chánh kiến - Tà kiến nói về ngày Vu Lan, tôi xót xa nhớ Mẹ, nhớ nhà…. ... Không biết từ bao lâu rồi, tháng Bảy Vu Lan trở thành biểu tượng cho mùa báo hiếu đối với người theo và có cảm tình với đạo Phật. Phải chăng xuất phát từ sự tích Phật giáo: Ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ là Thanh Đề bằng sự vận dụng pháp lực và uy đức của chư tôn đức trong mùa An cư kiết Hạ… ... Trong dòng tâm tưởng trôi chảy êm đềm của mùa Vu Lan rằm tháng Bảy đó, Hòa thượng Thích Thông Lạc đã đưa ra lời phản bác ý nghĩa, nội dung và nguồn gốc của mùa Báo Hiếu trong truyền thống Phật giáo Việt Nam. Luận điểm tổng quan của Thầy trong Đường Về Xứ Phật là đứng trên quan điểm Phật giáo Thiền Tông (Tiểu Thừa) – đã được Hiểu và suy diễn theo khuynh hướng đặc thù của riêng Thầy – để phản bác về các hình thái Lý và Sự - Tri và Hành của “Phật giáo Phát Triển” (Đại Thừa). Thầy Thông Lạc thường xuyên nhấn mạnh rằng: “Kinh điển phát triển (Đại Thừa) diễn đạt giáo lý phi đạo đức một cách cụ thể rõ ràng, thế mà mọi người vì quá vô minh, u tối không thấy, nên bị lừa đảo, bị lường gạt một cách đau đớn.” (TTL. Đường Về Xứ Phật, tập VI. Tr.5) Không rõ đã có bao nhiêu người được thầy Thông Lạc “khai thị” theo phương pháp nầy cho bớt “vô minh”. Riêng kẻ viết những dòng nầy thì… không thấy vô minh mà cũng chẳng thấy hết vô minh trước và sau khi đọc bài thầy Thông Lạc viết về Vu Lan Bồn. Thầy tự nhận là bậc tự phát giác ra được một vụ “báo hiếu vô đạo đức khổng lồ” trong lịch sử hơn nghìn năm của Phật giáo. Đó là trường hợp đức Mục Kiền Liên cứu mẹ, ra khỏi địa ngục A Tỳ. Thầy cho rằng, đây là “một sự lừa đảo có sách vở và đã trở thành một truyền thống báo hiếu vô đạo đức trong lòng tín đồ Phật giáo Việt Nam hơn cả nghìn năm mà không ai phát giác ra được.” ... Chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ tuy là câu chuyện mang bối cảnh Phật giáo, … Từ đó, ngày rằm tháng Bảy trở thành ngày báo hiếu, xá tội vong nhân. Qua sự tích sự tích Mục Liên Thanh Đề và truyền thống báo hiếu này, thầy Thích Thông Lạc đã đưa ra những luận điểm phản bác. Thầy viết rằng: 1. Mục Liên Thanh Đề là một câu chuyện phi đạo đức trong Phật giáo Đại Thừa. Câu chuyện nầy là một thứ giáo pháp phi đạo lý, phi nhân quả, không công bằng và công lý. 2. Đây là câu chuyện được dựng lên trong thời đại phong kiến đầy dẫy tệ nạn vua quan chuyên ăn hối lộ, mua quan bán chức, hành động không công bằng hợp lý. “Độ chúng sanh” thực chất chỉ là một hành động ăn lo hối lộ. Nhờ có lo lót như vậy, bà Thanh Đề mới thoát cảnh tù tội A Tỳ Địa Ngục. 3. Chỉ có luật nhân quả mới giữ vai trò công bằng và công lý mà thôi. Vì nhân quả là do hành động của mọi người tự làm tội hay vô tội đều chính nơi họ, cho nên luật nhân quả chính là con người tạo ra, để xử phạt hay ban thưởng chính lại họ, chứ không có một kẻ thứ hai nào thưởng phạt. Vì thế nó rất công bằng và công lý, không ai lo lót và hối lộ nó được. Kẻ nào làm ác thì phải thọ lấy quả khổ, kẻ nào làm thiện thì hưởng được phước báo. Qua lăng kính Tiểu Thừa (theo cách sở đắc và suy diễn riêng của Hoà thượng Thông Lạc), thầy đã cho giáo pháp Đại Thừa (cũng đồng thời, theo cách hiểu riêng của Thầy) là một loại “dị giáo” phi đạo đức và phi Phật pháp; chỉ có những kẻ u mê, vô minh, lạc hướng mới bị các thầy tu theo phái Đại Thừa vẽ rồng vẽ rắn theo hình tướng tà đạo để đánh lừa. Quan điểm nầy đã được thầy Thông Lạc lập đi lập lại một cách quyết đoán và quyết liệt trong trong hết thảy 10 tập “Đường Về Xứ Phật”. 1. Đạo dức Phật giáo về hiếu hạnh 2. Hối lộ thần thánh. Tuy nhiên, riêng thầy Thích Thông Lạc thì đã phản bác và suy diễn sự tích báo hiếu Mục Kiền Liên như là một trò “hối lộ” phi đạo đức vì phải nương nhờ tha lực của chư tăng trong mùa An cư kiết Hạ. Đồng thời, thầy nêu lên lý tưởng người tu sĩ đạo Phật muốn báo hiếu cha mẹ thì phải tu hành chân chánh cho đến khi làm chủ được luân hồi sinh tử; nghĩa là phải chuyên tu hành cho đến chỗ đắc đạo mới gọi là báo hiếu cho cha mẹ. Đạo Phật không đặt tiêu chí đúng/sai thông qua những lý luận giả định và những hình tướng mang bản chất giả tướng phàm phu trong nội hàm tục đế. Đức Mục Kiền Liên hội thỉnh năng lực chư tăng để cứu mẹ hay thầy Thích Thông Lạc chuyên tu đắc đạo để báo hiếu cha mẹ thảy đều là phương tiện. Tùy theo căn cơ và nghiệp lực của từng chủ thể và đối thể để chọn phương tiện thích hợp mà kết chiếc bè qua sông. Tới được bờ mới là cứu cánh. Bị tha hóa trong phương tiện của tri thức thường nghiệm là biểu hiện của vô minh. Quay lưng với phương tiện môn, khư khư ôm cứng cách làm và cách biết của riêng mình để phỉ báng những phương tiện khác mình là ngu là dốt – thì vô hình chung, tự lời phỉ báng – đã xa rời hệ thống giá trị luân lý và đạo đức đậm tính từ bi, hỷ xả của con đường giải thoát. 3. Luật nhân quả. … Luật nhân quả mà Thầy Thông Lạc nhắc đi nhắc lại thường xuyên trong 10 tập Đường Về Xứ Phật là một nguyên lý lạnh lùng và khô héo thuần lý tính và máy móc. Hễ đánh là động; hễ hô là ứng. Thực tế không đơn giản và kết cấu sơ sài như thế. Vì vậy, điều Thầy dạy… phải “sống theo luật nhân quả” đã trở thành một hình thức ngôn ngữ sơ cơ và khả hữu như “nắm lá trong lòng bàn tay”của chúng sinh mà đức Phật từng dùng làm biểu tượng để khai thị cho những tầm nhìn giới hạn trước vô cùng. Định kiến và chấp trước là nguyên nhân sự vắng bóng một hướng nhìn thông thoáng và một tinh thần xả ly của lý Phật Đà trên đường về xứ Phật. 5. Tự lực hay tha lực. 6. Đường về xứ Phật là tâm đạo. Vì Phật giáo phong phú và đa dạng đến như thế, nên dẫu ồn ào hay thầm lặng, nhưng lúc nào cũng có hiện tượng bồ tát Thường Bất Khinh và bồ tát Nghịch Hạnh xuất hiện dưới muôn hình muôn vẻ giữa cuộc đời thường. Đó là những bóng mây bay thoáng qua trên đường về xứ Phật. Từ ngàn xưa, hiểu rõ thực trạng nầy nên đức Phật đã dạy “Tự mình thắp đuốc” để thấy rõ được mình trong mối tương quan đồng hành trên đường đạo. Tiếng nói rổn rảng bên ngoài không quan trọng bằng tiếng nói lao xao bên trong. Chớ để cho tiếng nói nào to hơn pháp âm rỗng lặng. Trên đường về xứ Phật, nếu chưa thấy rõ nhau thì ráng nhìn rõ nhau hơn qua chân dung đức Phật vẫn lặng lẽ trầm tư trong cơn đại định suốt mấy nghìn năm.] NHỮNG Ý KIẾN PHẢN HỒI: Nhật Minh: Theo lời anh: "tôi được bà cụ Nguyên Thanh, một cư sĩ Phật giáo cao niên đồng hành trong chuyến đi cho mượn tập sách Đường Về Xứ Phật của Hòa thượng Thích Thông Lạc. Trước khi trao tay, bà cụ có ý kiến: “Đạo hữu cũng nên có đôi lời nhận định. Tôi quý cái tâm ngay thẳng của Hòa thượng Thích Thông Lạc, nhưng lại e rằng, lời Thầy viết ra quá bộc trực nên không khỏi gây nhiều chao động, nhất là đối với thế hệ Phật tử đàn em của chúng ta.” Tôi không biết anh là ai, học hành tới đâu, nhưng chắc chắn anh không bằng bà cụ anh gặp trên chuyến lữ hành. Bà cụ còn nhận ra "cái tâm ngay thẳng của Hòa thượng Thích Thông Lạc", còn anh thì chỉ biết dẫn ra một mớ kiến thức của kẻ lăn lóc trên đường danh lợi để nhận định về một bậc chân tu thì quả là người còn quá nông cạn. Anh có hiểu thế nào là truyện thần thoại, truyện ngụ ngôn, và thế nào là Chân Lý cuộc sống không? Thực tiễn hơn, thế nào là chuyện Đời, thế nào là chuyện Đạo, anh có phân biệt nổi không? Đời Đạo viên dung, hòa trộn nhập nhèm chỉ là mưu xấu của những kẻ chuyên lợi dụng lừa người. Thế nào là Tiểu thừa, thế nào là Đại thừa? Chẳng biết anh đã học Phật bao giờ chưa mà lại dẫn ra quá nhiều quan điểm lạ trong Phật giáo, vì những danh từ ấy đã xóa bỏ từ lâu lắm rồi, giờ anh vẫn đem ra dùng lại thì chứng tỏ là người còn rất non nớt kiến thức Phật giáo. Anh đã hiểu thế nào là địa ngục chưa? Đã hiểu thế nào là Niết bàn chưa? Chắc chắn là chưa bao giờ anh hiểu tới bởi cái tâm lú lẫn của anh bị kinh sách mê tín bao đời phủ đặc thì làm sao nhận ra được. Thật chán cho anh. Tâm còn phàm phu, khổ như một đống rác nhớp mà dám đi nhận định một bậc chân tu Vô Lậu thì quả là kẻ quá háo danh không biết tự lượng sức mình. Mong anh Đoàn trả lời giúp tôi mấy câu hỏi trên nhé, để xem sự thông đạo của anh tới đâu rồi chúng ta cùng nhau mổ xẻ vấn đề. Quan trọng đấy anh Đoàn ạ, Phật giáo thịnh hay suy, còn hay mất sẽ phụ thuộc rất nhiều vào những người có quyền nói như anh. Mong anh hãy thiện chí đáp lời. Nguyên Thông: Xin anh NHẬT MINH tìm đọc những bài của quý thầy, những học giả, những nhà nghiên cứu Phật Học viết và nhận định về thầy THÍCH THÔNG LẠC (một bậc chân tu Vô Lậu - chữ của anh) trước khi chất vấn anh TRẦN KIÊM ĐOÀN. Và tôi cũng xin có ý kiến riêng với anh: KHẨU HÒA VÔ TRÁNH. Đề nghị anh nên có những lời ÁI NGỮ với nhau. Vì anh có chê bai anh TRẦN KIÊM ĐÒAN nào là 'người còn quá nông cạn, người còn rất non nớt kiến thức Phật giáo, kẻ quá háo danh không biết tự lượng sức mình v.v..." thì TKĐ vẫn là TKĐ. Các anh rồi đều sẽ là những vị Phật cả. NAM MÔ THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT MA HA TÁT. Kính. Nguyên Thông Chân Quê: Gửi tác giả Kiêm Đoàn, Đọc bài viết này của Kiêm Đoàn, tôi thấy anh tự đánh mất mình nhiều quá, bởi từ trước anh viết thi thoảng cũng có vài điều hay, nhưng nay công bố bài viết này tôi mới thực nhận ra cái kiến thức vay mượn của anh: văn phong lưu loát mà trí tuệ rất đần mê. Nhận định về thầy Thông Lạc không phải là bây giờ anh mới khởi xướng, anh là người đến sau mà sao không nhận thấy kinh nghiệm của người đi trước? Anh hãy vào mục HỘ PHÁP – HIỆN TƯỢNG THÍCH THÔNG LẠC (trang TVHS) để xem nhận định của các tác giả trong mục này. Nhận định của anh chưa nhằm gì so với Thích Đức Thắng, Nguyễn Hòa… họ mất công nhiều hơn và xuất hiện cả chục năm nay rồi. Ấy vậy mà pháp của thầy Thông Lạc vẫn ngày càng được xiển dương rộng rãi hơn trên quê Việt mình và đến với phật tử ở hải ngoại xa xôi. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, các bậc Tôn túc cũng chưa ai có một lời nhận định nào bởi vì họ đã biết tự lượng sức mình nên không ai lên tiếng. Vậy mà anh (hình như cũng là giáo sư hay tiến sĩ gì đấy), lại có những nhận định quá mê mẩn như con người còn ở thời ăn lông ở lỗ, không hiểu biết gì về thế giới xung quanh nên lúc nào cũng lo lắng sợ hãi, chỉ lo van vái cầu xin. Chắc anh đang nuôi mộng nổi danh như tỳ kheo Nguyên Hải trong thời gian vừa qua? Được lắm, quý độc giả sẽ giúp anh nổi danh với điều kiện anh phải lên tiếng trả lời về các chất vấn của độc giả về vấn đề mà anh nêu trong bài. Nếu suôn sẻ, có khoa học thì anh sẽ thực sự xứng đáng làm người nổi tiếng có trí tuệ. Bằng không, chỉ là một kẻ háo danh trơ trẽn. Chất vấn 1: Trong bài viết của anh có đoạn “Thần linh là một dạng linh hồn ở bên ngoài thể xác. Con người và thần thánh có khả năng tiếp cận nhau ở một cấp độ cao hơn thân xác vật lý. Và khả năng cống hiến để tạo “duyên” tiếp cận với thần thành là thông qua cầu nguyện và lễ nghi chiêm bái.” - Anh có thể giải thích rõ hơn một cách khoa học về “Thần Linh” và “Linh Hồn”, nếu thần linh là một dạng linh hồn ở ngoài thể xác thì thể xác này và linh hồn là “một” hay “hai”? - “Con người và thần thánh có khả năng tiếp cận nhau…” vậy đương nhiên có hai thực tại này và nó tiếp cận nhau bằng cách nào? - Đạo phật là đạo trí tuệ, “phải tự cứu mình” bằng sự trau luyện thân tâm để chuyển nghiệp nhân quả, tức là phải ly dục ly ác pháp, đoạn tận tham, sân, si… Nhưng theo anh dẫn: “…thông qua cầu nguyện và lễ nghi chiêm bái” có thể chứng đạt mục đích cứu cánh của đạo Phật hay không? Tại sao được? Tại sao không? Tạm thời vậy, Kiêm Đoàn cùng trao đổi nhé. Anh đã có “gan” viết nhận định thì cũng phải có “trí” để mà đối vấn, thế mới là trang anh hùng hảo hớn, không nên là một cái thùng rỗng kêu to. giac huong: anh Nhat Minh nay. Bai viet cua anh Tran Kiem Doan sau sac the. Anh khong hieu duoc dau. Dung xi va nguoi ta vo ly. Tôn Nữ Tố Cần: Góp ý với anh/chị Tâm Minh, Tôi cũng là một độc giả đọc bài viết của tác giả Trần Kiêm Đoàn (TKĐ) trên mạng Thư Viện Hoa Sen. Khác với anh/chị Tâm Minh (TM), tôi đánh giá bài viết góp ý với thầy Thông Lạc (TL) của TKĐ là một bài viết rất hay. Hay vì cái nhìn mới mẽ và cách diễn đạt đầy sáng tạo văn chương chứ không bám vào lối mòn của kinh điển. Sự mỉa mai và tương phản đáng chú ý đầu tiên để làm căn bản cho sự khả tín của một ý kiến là: Suốt trong một bài viết dài góp ý, tác giả TKĐ trao đổi rất nhẹ nhàng với thầy TL. Thế nhưng trong lúc chỉ viết có một đoạn ngắn mà TM đã phóng ra không biết bao nhiêu cụm từ thô thiển và tiêu cực đối với một tác giả mà TM tự nhận “không biết anh là ai”! Sự mạo phạm căn bản đầu tiên là thái độ “quan trường” không nên có trong phong cách đối thoại mang tính tri thức và văn hóa. Đó là câu TM hỏi: “Tôi không biết anh là ai, học hành tới đâu...” Nếu chỉ cần liếc mắt qua tiểu sử của TKĐ có ngay trong trang nhà TVHS nầy, ghi rằng TKĐ có văn bằng Cử nhân văn chương Việt Nam, Thạc sĩ Xã hội, Tiến sĩ Tâm lý học Mỹ và giáo sư một số trường đại học Hoa Kỳ thì “cái hay & cái dở” của bài viết anh ta có khác đi chăng? Sự mạo phạm ấu trĩ trong phong thái đối thoại của TM là những câu hỏi lẩm cẩm “anh có biết thế nầy, anh có biết thế nọ” về khái niệm một số danh từ Phật học thông thường xưa nay đã dùng đi dùng lại mòn nhẵn mà TM làm như là những “con bài ẩm” đưa ra để bắt bí tác giả bài viết thì quả là buồn cười. Chưa hết, TM còn phết nhãn hiệu cho người mà TM muốn đối thoại là “tâm như đống rác nhớp” (sic) thì quả là đã vượt ra ngoài giới hạn của một sân chơi trí thức. Và phiền não chưa hết, TM dám phết thêm một loại nhãn hiệu không có bảo chứng cho thầy Thông Lạc nữa là “bậc chân tu Vô Lậu” dành cho các bậc đạt thánh quả A La Hán thì quả thật là vọng ngôn, hý luận. Sau hết xin nhắn với TM một điều rằng, đây là nơi trường văn trận bút. Tham gia cuộc cờ quốc tế mà tài mọn riêng tay chưa sạch nước cản thì thật lạ lùng. Biết mình, biết người là một sự tự trọng cần thiết. Mong lắm thay! Thân kính chào anh/chị Tâm Minh Tôn Nữ Tố Cần (Còn nữa) |
Cập nhật ngày : 31.10.2012 | |||
Loạt bài: VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI - BẢO VỆ CHÁNH PHÁP (Kì 3: Đối thoại với Tỳ kheo Thích Nguyên Hải)
Mời quý độc giả xem tiếp kì 3 - Đối thoại với Tỳ kheo Thích Nguyên Hải
ĐỐI THOẠI 3
nowandhere: Tôi thấy thầy Nguyên Hải và các vị Đại Thừa không phản đối Phật giáo Nguyên Thủy. Thầy Nguyên Hải chỉ góp ý những sai sót của thầy Thông Lạc, một người tự xưng là theo Phật giáo Nguyên Thủy, nhưng lại gạt bỏ rất nhiều điều của Đức Phật dạy trong tạng kinh Nikaya thuộc Phật giáo Nguyên Thủy, rồi lại dùng ý kiến chủ quan có thể nói là nhảm nhí của thầy Thông Lạc và thầy Thông Lạc nói đó là lời Đức Phật dạy. Mọi người không đồng ý với thầy Thông Lạc là ở những điểm thầy Thông Lạc sai lạc này. Thầy Nguyên Hải và các vị Đại Thừa còn đề nghị mọi người nên học Tiểu Thừa tức Phật giáo Nguyên Thủy trước, rồi sau đó mới học Đại Thừa. Bằng chứng là trong chương 13: Tại sao có người thấy Đại Thừa khó hiểu, thầy Nguyên Hải viết: Luật Tứ Phần Giới Bổn Như Thích, phần phàm lệ 13 đoạn, trong đó đoạn 12 viết: “Phép học bên Tây Thiên Trúc, trước học Tiểu Thừa, sau học Ðại Thừa, ý chỉ Ðại Thừa thông rồi, mỗi pháp, pháp nào cũng là lý Trung Quán. Cho nên biết rằng: Dù đại, dù tiểu, cũng do một tâm, pháp không có rộng hẹp, đâu nên ở trong đó mà sinh lòng thủ xả chê khen đấy ư! Nếu trước không học Tiểu Thừa, mà lại học Ðại Thừa, quyết mắc tội lỗi, khoe suông lý Bát Nhã, bác không nhân quả, hạng người như vậy nhiều lắm”. NkbBK: Như thế này bạn nowandhere ạ, thật ra không có chữ tiểu thừa, đại thừa, phật thừa, trung thừa gì cả... có 2 chữ thôi là Phật Pháp Nguyên Thủy và Phật Giáo phát triển (bạn chú ý: chữ giáo với chữ pháp). Kinh cũng có 2 loại thôi là Kinh Nguyên Thủy và kinh phát triển (chế tác, ngụy tạo). Trừ khi bạn là người tu để chứng quả thì thôi, hãy bỏ nghiên cứu qua 1 bên. Nếu nhà nghiên cứu, bạn phải truy tìm đọc nhiều tài liệu về Kinh, sự lưu truyền Kinh qua 1 quốc gia, qua thời gian, bằng chứng khảo cổ, lá bối, ý kiến nhiều chuyên gia...Vì vấn đề tế nhị, nên mọi người đã im lìm... chỉ có 2 loại Kinh đó thôi Nguyên Thủy và Chế Tác. Bây giờ tôi hỏi bạn, bạn chọn cái gì? Nước uống tinh khiết hay nước đục để uống? Phải biết rằng, một người có thể tạo ra Kinh rất dễ, chỉ cần nghiên cứu một chút Phật Pháp thôi, bạn nghĩ ra điều này chưa? Vì cái lợi, danh tiếng, số lượng môn đồ, vì dân tộc, vì v.v... họ làm đủ thứ chuyện, bạn nghĩ đến vấn đề này chưa? Người Trung Quốc hiện nay, bạn thấy chưa họ làm đủ thứ giả, nhái,... họ muốn là bá chủ mọi cái phải qui về Trung Quốc (quốc gia trung tâm thế giới), thiên tử. Bạn hiểu chưa??? Người TQ đã bị cái nho giáo đầu độc hàng ngàn năm bạn có thấy ra chưa? Nhiều câu chữ rất bậy bạ, phản khoa học, phản đạo đức, bạn có nhận thấy ra chưa??? Tôi ví dụ: mấy ông Nho giáo phải cúi đầu tại đây mà học tôi, tôi dạy ra cho thấy đây. Mấy ổng nói: “nhân chi sơ tính bổn thiện” (có ông nói là ác). Tôi nói: “nhân chi sơ tính bổn Nghiệp”. Mấy ổng nói: “việc mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Tôi nói: thế còn việc ông không muốn và việc tôi muốn thì sao??? Quân xử thần tử, cha xử con, vợ... gì đó... bạn thấy bậy bạ hay không? Rất nhiều... Nó là đạo của giai cấp, của dân tộc cho rằng mình là nhất. Rất tệ hại. Phật giáo lan truyền qua TQ đã bị Nho giáo hóa. Có lẽ bạn nên đọc nhiều tài liệu hơn. Tôi thấy nguy hiểm cho Phật giáo VN vì nó đã bị ảnh hưởng sâu đậm bởi TQ. Tôi thương dân Việt và TQ, ngay cả người Việt đây tôi giúp gì cho họ được khi họ bị cái truyền thống treo cổ quá chặt??? Đây, tôi chỉ cho bạn 1 phương cách nghiên cứu Phật học (các thầy không phân biệt số tuổi từ 20 - 90, cứ đọc dòng này): Hãy lấy tiền đề để làm nghiên cứu!!! Tiền đề đó là Tam Pháp Ấn, Tứ Diệu Đế, 12 Nhân duyên, 8 chánh đạo. Cái gì ra khỏi cái này đó là Phật học giả. Gần đầy một số thầy viết sách ghép Phật vào Chúa... rất tệ lậu. Trí Khánh: Đạo hữu nowandhere nói: “Trí Khánh đã cố ý viết sai lạc về các Thiền mà Đức Phật đã dạy trong tạng kinh Nikaya”. Xin hỏi nowandhere: Các Thiền mà Đức Phật dạy trong tạng kinh Nikaya là các thiền nào vậy? Có phải là các thiền mà thầy Nguyên Hải và qúy đạo hữu gọi là “Phàm phu thiền” hay không? Qúy vị đã có một loại thiền gọi là “tối thượng thừa thiền” của các vị Thầy Tổ trao truyền rồi! Còn quan tâm làm gì đến loại “thiền phàm phu” mà Thế Tôn đã dạy trong Nikaya?... Giả sử tôi có viết sai lạc về loại “phàm phu thiền” đó, thì cũng đâu đến nỗi làm cho nowandhere phải lo lắng đến độ “giáo lý của Đức Phật dạy sẽ biến mất lần lần…”. Đối với những ai đang quan tâm tìm hiểu, tu học Bốn Thánh Định này, tôi sẵn sàng chia sẻ trong giới hạn hiểu biết của mình. Nhưng đối với những vị theo “trường phái” thầy Nguyên Hải như nowandhere, xem bốn Thiền này là “phàm phu thiền”. Liệu tôi có nên mất thời giờ để giải thích cho họ hiểu vì sao “nhờ Bốn Thiền này mà xả ly được sắc, thọ, tưởng, hành” hay không?... “Trí Khánh muốn làm cho những người ít giáo lý Phật giáo hiểu sai lạc về những lời Đức Phật dạy…”. “Trí Khánh muốn xóa bỏ tất cả những sự hiểu biết chính xác của thầy Nguyên Hải bằng cách phê bình và phỉ báng thầy Nguyên Hải, để không còn ai dám lên tiếng phản bác lại…”. Viết như thế là nowandhere đã đánh giá qúa thấp trình độ hiểu biết Phật pháp của độc giả TVHS. Dưới mắt của nowandhere, họ là “những người ít giáo lý Phật giáo”! Tôi tin chắc rằng, những người không hiểu biết về Phật giáo, chẳng bao giờ họ chịu ghé mắt vào những trang mạng có tính chất chuyên biệt như TVHS… Những ý kiến đóng góp của tôi trên website này, có thể làm cho độc giả ở đây “hiểu sai lạc về những lời Đức Phật dạy” được sao???... Điều hiển nhiên là từ ngày ”sách” của thầy Nguyên Hải đưa lên website TVHS đến nay chỉ mới khoảng một tháng, vậy mà có đến trên 4300 lượt người đọc, phần ý kiến độc giả cũng lên đến gần 80 và có thể hơn trong thời gian tới. Đây có thể được xem như một “hiện tượng”, có thể trở thành quyển sách "best seller" trên trang mạng này. Thầy Nguyên Hải cũng xứng đáng nhận “kỷ lục” về ý kiến đóng góp của độc giả cho một tác giả trong một thời gian ngắn nhất… Tôi tin rằng, với số lượng đông đảo độc giả vào đọc sách của thầy Nguyên Hải và đọc ý kiến đóng góp của tôi không thể là “những người ít giáo lý Phật giáo” như nhận định của nowandhere… Vì đánh giá qúa thấp trình độ hiểu biết Phật pháp của độc giả, nên nowandhere đã vung bút: “chẳng có ai dám lên tiếng phản bác lại…”. Ngoại trừ nowandhere!?... Nếu đạo hữu nowandhere cho rằng: “Trí Khánh muốn xóa bỏ tất cả những sự hiểu biết chính xác của thầy Nguyên Hải bằng cách phê bình và phỉ báng thầy Nguyên Hải…”. Tôi xin trả lời: Đối với thầy Nguyên Hải, tôi chỉ phê bình chứ không phỉ báng… Nếu Bốn Thiền Thế Tôn dạy trong đại tạng Nikaya mà thầy Nguyên hải gọi là “phàm phu thiền”, cũng chính là “sự hiểu biết chính xác của thầy. Thì “Trí khánh muốn xóa bỏ” là điều đương nhiên… không chỉ đối với thầy Nguyên Hải, mà ngay cả đối với qúy Hoà Thượng Chơn Thiện, Thanh Từ, Thiện Hoa gọi Thiền của Thế Tôn là “phàm phu thiền”. Dĩ nhiên không thể không nhắc đến Thiền sư Nhất Hạnh với nhận định: Bốn Thiền không phải là “tinh ba của đạo Bụt” mà chỉ là “thời thượng”, “mode”… Với những lập luận như thế, Trí khánh sẵn sàng “xóa bỏ”. Nhưng xin nói rõ để khỏi bị chụp mũ, chỉ “xóa bỏ” quan điểm của các Ngài, không hề có ý bất kính, xúc phạm nhân cách cá nhân của qúy Ngài… Vodanh: Hà tất quý vị phải tranh đúng sai! Cứ theo tinh thần kinh Bát Nhã mà nhìn nhận: Có Bát Nhã cũng không phải là Bát Nhã, không có Bát Nhã cũng không phải là Bát Nhã, như vậy thì quý vị nói có đúng đi nữa cũng không phải là Bát Nhã, quý vị có nói sai đi nữa cũng không phải là Bát Nhã, tranh cãi với nhau chi cho mệt, quý vị có tranh cãi cả đời này thì cũng chưa chắc ai thắng ai. tvhs0611: Thưa bạn Vodanh, tôi không có ý tranh luận với bạn mà chỉ muốn nêu một trao đổi nhỏ với bạn trên tinh thần là người đã từng đi qua con đò mà bạn đang đi trên đó. Trong nhà thiền, xưa nay vẫn nói rằng: "không niệm thiện, không niệm ác bản lai diện mục hiện tiền" điều đó tương tự: "Có Bát Nhã cũng không phải là Bát Nhã, không có Bát Nhã cũng không phải là Bát Nhã". Nếu hành trì như vậy miên mật chỉ lạc vào Không. Đó là lý do vì sao cả ngàn năm Phật giáo không có người tu chứng. Phật giáo gần như mất dấu! Vậy chắc chắn phải có cái gì sai trong pháp tu vì có biết bao hàng hàng lớp lớp vị hành giả tận tâm tận lực tu tập nhưng đau xót là cuối đời vẫn chết trên giường bệnh với những nỗi đau giày vò tâm can!? Điều gì và tại sao cả ngàn năm PG không tìm thấy con đường giải thoát??. Bạn thử tự tìm lời giải đáp xem sao? Chắc chắn là khó vô cùng!? Thế nhưng hôm nay, có một ánh lửa cuối đường hầm, đó là may mắn cho những ai có duyên với chánh pháp. Một duyên cực kỳ lớn, nó choán cả một đời người thì tại sao ta không tìm hiểu??!!. Tôi cũng như bạn và nhiều người khác - cuộc đời chỉ gói gọn trong vài chục năm - thì cái huyễn giả của ngoại đạo mang màu sắc Phật giáo có từ ngàn năm đã bao phủ chúng ta... tạo thành một sức ỳ cực kỳ lớn, vượt quá sức tỉnh giác của chúng ta rất nhiều. Cứ thế, … cứ thế chúng ta xếp hàng lần lượt đi vào lò sát sanh mà không có phản ứng gì khác!? Thậm chí còn lấy làm bực tức, khó chịu khi có một ánh sáng cuối đường hầm...!!!. Tôi cũng đã từng như bạn, không khác. Và tôi đã thử làm một cuộc cách mạng cho chính mình, tìm hiểu xem “Ông Thông Lạc là ai" và Ông ấy tu tập như thế nào? nói đúng, sai chỗ nào?... Hãy thật bình thản, khách quan mà quan sát, mà đánh giá, mà nhìn nhận. Và cuối cùng tôi hiểu thế nào là "ngộ". Quả thật là như thế!. Chữ "ngộ" là còn nhẹ, vì điều mà thầy Thông Lạc chỉ ra cái mà ngàn năm Phật giáo mất dấu lại vô cùng đơn giản. Chẳng có gì là cao siêu cả. Ai cũng có thể nói và nói cả ngàn lần mà không nhận ra. Điều mà Đức Phật cũng ra rả nói trong kinh sách mà chúng ta đã bỏ qua và xem thường nó. Đó là điều gì? Bạn tìm hiểu xem vì điều vĩ đại nhất lại thường là điều đơn giản nhất! Giống như bạn giải một bài toán cực khó vậy, khi tìm ra gút mở thì bài toán vốn vô cùng bí hiểm, vô cùng khó khăn và vô cùng đáng ghét bỗng chốc trở nên dễ thương lạ thường, rõ ràng, thích thú và cực kỳ thỏa mãn! Và những gì còn lại chỉ là viết ra đáp số mà thôi. Tôi chúc Bạn có được trải nghiệm đó. Thật đáng giá để bạn bỏ cả đời ra để tìm hiểu và nên nhớ rằng luôn để tâm thanh thản và tuyệt đối tránh mọi biên kiến trong khi nghiên cứu. Vì sao bạn biết không? Vì Đức Phật đã nói: “hãy lấy Giới Luật và Pháp của ta làm thầy” là gì? Chúc bạn tinh tấn và an lạc. Minh Tri: Kính gửi đạo hữu Vodanh, đạo hữu rất đúng vì tinh thần “Phật pháp vô tranh”. Nhưng người Phật tử cũng nên tỉnh táo để nhận ra cái nào là “Phật pháp” cái nào là “phi Phật pháp”!... Trong ý kiến phản hồi truớc đây với đạo hữu tvhs0611 về chuyện “thân người khó được phật pháp khó nghe”, Minh Tri đã có dịp nói về chuyện “Tổ pháp” và “Phật pháp”. Nay Minh Tri xin nhắc lại vài ý để chia sẻ với đạo hữu Vodanh. Có rất nhiều pháp môn chúng ta tưởng rằng đó là “Phật pháp”, nhưng sự thật nó chính là “Tổ pháp”. Nghĩa là chúng do chư Tổ chế tác, chứ không do Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni xiển dương. Ví dụ: Chơn Như duyên khởi là pháp của Tổ Mã Minh. Mát-na, A-lại-da là pháp của Tổ Thế Thân, Vô Trước. Bát nhã, Tánh Không, Chơn Không Diệu Hữu là pháp của Tổ Long Thọ. Kiến Tánh Thành Phật là pháp của Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Và còn rất nhiều, v.v và v.v… Ngược lại, pháp của Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni có thể gói gọn trong mỗi chữ “KHỔ”, nói cho đầy đủ là “Khổ Thánh Đế”. Nó thuộc về BỐN THÁNH ĐẾ”… . Dĩ nhiên ai muốn xem giáo pháp này là “xe dê”, “xe nai”, “xe nhỏ (tiểu thừa)” thì đó là quyền của họ. Nhưng xin đừng nhập nhằng “Tổ pháp” và “Phật pháp”… |
Cập nhật ngày : 02.11.2012 | |||
Lời BBT/GNCN Nhân đọc bài của Tỳ kheo Thích-Chân-Tuệ từ Phật-Học Tịnh-Quang Canada gửi về, phê phán các hiện tượng tiêu cực tại các chùa ở hải ngoại hiện nay. Chúng tôi chợt nhớ đến ý kiến phản hồi của đạo hữu Liên Thanh trên diễn đàn TVHS. Những sự kiện tiêu cực ở các chùa được tác giả mô tả bằng trực quan sinh động như: kinh doanh trên nhục thân, xá lợi, lạm dụng tín ngưỡng “Thờ Bà” thu “tiền công đức”, khuyến dụ Phật tử “hùn phước” nhưng “phước” phải quy đổi ra vàng, ngoại tệ mới “hùn” được v.v… Bằng mắt thấy tai nghe, bất kỳ Phật tử nào cũng có thể “xem” được hoạt cảnh này khi bước chân đến chùa… Một thách thức không nhỏ đối với tiền đồ đạo Phật chân chính!... GNCN xin gửi đến qúy độc giả nguyên văn bài phản hồi của Liên Thanh trên diễn đàn TVHS. “Vài trao đổi với Như Không” là tiêu đề do chúng tôi tạm đặt cho bài viết này… Ngoài cửa Điện “Bà Chúa Xứ” treo cờ Phật giáo?. Bên trong thờ Bà Chúa Xứ và Tôn Ngộ Không!. Dưới chân ông “Phật Khỉ” (Đấu chiến thắng Phật) này là hòm công đức “Cúng Dường Tam Bảo”! Hóa ra “Tam bảo” ở đây là “KHỈ-BÀ-ÔNG” chứ chẳng phải “PHẬT-PHÁP-TĂNG”!... Hình ảnh này được ghi lại tại một ngôi chùa cổ 300 tuổi, nơi đặt văn phòng Ban đại diện Phật giáo quận BT…
VÀI TRAO ĐỔI VỚI NHƯ KHÔNG Gửi bạn Như Không. Bạn Như Không hết bi-a (PR) tác phẩm thầy Hải, lại đến khoe mẽ thần thông xuất hồn xuất vía “chuyển di tâm thức” của thầy Hải… Thương thay bạn Như Không!... chuyện này đã bị các Phật tử chê cười, phê phán nhiều trên diễn đàn TVHS này rồi. Nay nhắc lại Như Không chẳng biết ngượng sao?… Đọc sách thầy Hải, ai mà chẳng biết thầy Hải khoe thần thông du hí của thầy. Khi còn ở VN, thầy đã “thiền đến mức độ cao”, đã có “thắng trí”, có thể “xuất hồn chuyển di tâm thức” bay dạo chơi khắp nơi. Xuống biển coi cá lội, bay vào cả vũ trụ để thấy vô số hành tinh, thậm chí xuống cả địa ngục để thấy “máy ép” ép cơ thể con người lại không cho thở!? Thầy Hải ước mong sao cho khoa học hiện đại khám phá thêm chiều không gian thứ tư để chứng minh cho cái “thắng trí”, “thần thông” của thầy là đúng sự thật!... Chưa chịu dừng lại ở đây, vì cho rằng đó chỉ là “dục giới định bậc thấp”, nên thầy đã tinh tấn nhập định ở cấp độ cao hơn, thầy đã được “thiên khải”, hay “mặc khải” để có thể học đạo trực tiếp với các vị thần tiên, thượng đế!?... Nhảm nhí thế mà bạn Như Không cũng nói được là “thầy Hải chỉ tu theo những kinh sách do Đức Phật dạy”… Bạn Như không còn hí hửng ôm cả đống chuyện hấp dẫn khác từ các blog, forum về hả hê bêu riếu thầy Lạc, ra điều thích chí lắm!... Như Không chịu khó đọc lại đoạn này của tác giả Minh Quân nhé!... “Nhân đây cũng xin nhắn các bạn trẻ, chúng ta cần tránh những ý kiến chủ quan, cảm tính, trích dẫn kinh sách ngoài ngữ cảnh để phê phán Sư Thông Lạc. Dĩ nhiên cần tránh kiểu chửi đổng, la làng hạ cấp như đã từng đọc thấy trong các forum: môn đồ phản thầy, luyện thiên linh cái, tiểu thừa, tiêu nha bại chủng, điên, ma thuyết v.v…” (Trích: “Về sư Thông Lạc: GHPGVN im lặng mới là hiện tượng". Minh Quân http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-138_4-8811_5-50_6-1_17-20_14-1_15-1/) Minh Quân nhắc nhở các bạn trẻ như thế! Chẳng biết bạn Như Không “già” hay “trẻ”. Nhưng cái kiểu “la làng hạ cấp” này chỉ có thể vang lên ở những blog, những forum bát nháo thượng vàng hạ cám… Trên các trang nhà chính thống Phật giáo, chưa bao giờ thấy nói về chuyện này... Như Không nên chính chắn hơn một chút. Đừng “la làng hạ cấp” về những chuyện nhảm nhí như bùa lỗ ban, thiên linh cái… mà bản thân Như Không chỉ nghe người ta “la làng” rồi mình cũng “la làng” theo! Trẻ con lắm!… Như Không có vẻ ấm ức về chuyện “nhục thân” của các tổ!... Nhân đây cũng xin cảm ơn Minh Quân đã trả lời hộ: “Thiền sư Vũ Khắc Trường, Vũ Khắc Minh để lại nhục thân là nhờ Thiền tưởng Không Vô Biên Xứ Tưởng Định, ngay cả Bồ tát Thích Quảng Đức, để lại quả tim là nhờ vào Tưởng lực của ngài quá mạnh.”… (Trích: “Về Sư Thông Lạc: GHPGVN im lặng mới là hiện tượng". Minh Quân http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-138_4-8811_5-50_6-1_17-20_14-1_15-1/) Thế đấy Như Không ạ! Chỉ mỗi chữ “TƯỞNG” mà giáo pháp Nguyên Thủy của Thế Tôn đã bị chôn vùi dưới nhiều tầng lớp ý hệ “Phát triển” của Đại thừa. Nay có người muốn dựng lại thì bị kết án… Như Không đã lập lại một câu hỏi rất ngớ ngẩn của thầy Hải: “…các vị Tổ sau khi viên tịch (chết) để lại nhục thân và xá lợi, thì làm sao còn sống để lừa đảo người khác được?”… Dĩ nhiên các ngài chỉ còn có cái xác chẳng thể lừa đảo được ai… Nhưng ở chỗ các ngài, người ta bán vé thu tiền khách tham quan, trước mặt các ngài là một “thùng công đức”… Thế mới biết sự tinh tế trong nhận định bạn ABC: “Có phải Thầy TL đạp đổ nồi cơm mà các bạn đang kiếm một cách dễ dàng, không khó khăn, không mệt nhọc mà vẫn có cuộc sống như những ông Hoàng?” Chẳng những các chùa Đại Thừa kinh doanh trên nhục thân, trên xá lợi. Họ còn lạm dụng cả mấy Bà Chúa xứ, Bà Thiên Hậu… để kiếm thêm tiền công đức của bá tánh... Đi dạo quanh một vòng ở Tp.HCM, quý vị sẽ thấy trên 80% các chùa Đại thừa có thờ BÀ… Điều trơ trẽn là tiền kiếm được từ Bà không làm “Bà sự” mà làm “Phật sự”… Chùa to, Phật bự, Bà đẹp từ những thùng công đức này mà ra… Chắc quý vị cũng chẳng lạ lùng gì với chuyện “hùn phước” ở các chùa hiện nay. “Phước” phải quy đổi ra vàng, ngoại tệ mới hùn được… Tôi có một chút “phước” muốn “hùn”, nhưng vì “phước” của tôi không thể quy đổi ra vàng bạc, nên chẳng vị trụ trì nào cho “hùn” cả! Buồn thế đấy!... Quý vị nào chưa rõ chuyện này, xin vào google gõ từ “hùn phước” để tìm hiểu thêm… Tóm lại: Thay vì phải nổi sân trước những câu hỏi của bạn ABC. Như Không nên về đóng thất diện bích ít lâu, lấy những câu hỏi ấy ra làm công án mà tham. Hy vọng Như Không sẽ “ngộ” ra sự thật… |
Cập nhật ngày : 03.11.2012 | |||
Loạt bài: VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI - BẢO VỆ CHÁNH PHÁP ( Kì 2: Phản hồi của độc giả trên DĐ/TVHS với Trần Kiêm Đoàn) GNCN tiếp tục giới thiệu những ý kiến phản hồi của độc giả trên diễn đàn TVHS qua bài "Bóng mây bay thoáng qua trên đường về xứ Phật" của Trần Kiêm Đoàn... Link tham khảo: - Bóng mây bay thoáng qua TRÊN ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT - Trần Kiêm Đoàn - Đối thoại với Trần Kiêm Đoàn qua bài: “Bóng mây bay thoáng qua trên đường về xứ Phật” - Quảng Hạo (Tiếp theo)
NHỮNG Ý KIẾN PHẢN HỒI CỦA ĐỘC GIẢ Hiếu: Về hiện tượng "A La Hán Thông Lạc" đã được bàn rất nhiều, trên các diễn đàn Phật học. Sau đây là link điển hình: http://goo.gl/VNbK6 và rất nhiều các link liên quan dưới phần ý kiến của bài này. Thiết nghĩ chúng ta không nên nhắc lại những chuyện như thế này nữa. Đăng Hậu: Đọc kỹ “Đường Về Xứ Phật” của Hòa thượng Thông Lạc, đọc kỹ bài viết của anh Trần Kiêm Đoàn và 6 bài phản hồi của các độc giả mà phần lớn có lẽ là Phật tử, xin có đôi điều nhận định: Nhận định 1: Bài viết của anh Trần Kiêm Đoàn rất sâu sắc, mới lạ và lý luận thấu tình đạt lý. Anh TKĐ không bám vào những lý luận của những người đi trước mà có cách nhìn riêng, đầy tri kiến độc đáo. Đó là một cách nhìn trung dung giữa hai khuynh hướng cực đoan “tự lực” và “tha lực”, giữa hình thức niệm Phật cầu nguyện của đại chúng Phật tử bình dân và khuynh hướng “trực chỉ chân tâm kiến tánh thành Phật” của hàng “thượng căn thượng trí” vốn mang ảo tưởng siêu nhân nhiều hơn thực tế. Phương pháp phân tích “nhân quả máy móc” và “nhân quả Phật giáo” đầy thuyết phục và thú vị. TKĐ đã cố gắng đưa ra những thí dụ Đông Tây để mang lại ý nghĩa nhân bản của ngày Vu Lan Tự Tứ mà HT TL đã cố tình đả phá và kết tội không tiếc lời một cách bất công và bất hợp lý. Bài viết mới lên mạng mà nhìn chung cư dân trên mạng vi tính khen tặng bài viết của TKĐ khá đông đảo. Nhận định 2: HT Thông Lạc từ khi còn là đệ tử tu học với HT Thanh Từ đã có những bài viết như trong ĐVXP từ 10 năm nay. Phật tử không lấy làm điều về những ý kiến khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau trong quá trình học Phật. Nhưng nói bất cứ điều gì về cửa Thiền mà thiếu ái ngữ là thiếu chánh niệm. Chánh niệm là trái tim của đạo Phật mà cách nói chê bai một tông phái khác là “phi đạo đức” và tín đồ theo tông phái ấy là “ngu dốt, u mê” như HT TL thì dứt khoát đã ra ngoài tinh thần Bát chánh đạo. Một nhà tu thiếu ái ngữ có thể là một tỳ kheo nghịch hạnh. Nhưng một tỳ kheo nghịch hạnh thiếu ái ngữ thì không thể hoằng dương Chánh pháp. Xưa Tế Điên Tăng có thể làm mở mắt giới đại gia tham lam độc ác bằng những nghịch hạnh. Nhưng Ngài không thể dùng ngôn ngữ làm pháp môn phương tiện mà hoá độ chúng sinh. Những người tôn sùng HTTL là “chân tu vô lậu” và dùng những lời lẽ “cấp dưới” để thóa mạ anh TKĐ như kiểu nói của Tâm Minh và Chân Quê (văn phong hai người là một vì lẩm cẩm giống nhau) thì sẽ làm nhiễm độc bầu không khí thảo luận lành mạnh thật đáng tiếc. Nhận định 3: Nếu hai (?!) vị Tâm Minh và Chân Quê muốn tranh luận với tác giả Trần Kiêm Đoàn thì tốt nhất là viết thành bài phản biện đường đường chính chính phổ biến trên báo chí truyền thông. Cớ gì quý vị lại tự giới hạn mình ở một góc “ý kiến độc giả” như thế. Trong môi trường truyền thông đại chúng ngày nay, khuynh hướng cãi nhau thậm thò thậm thụt kiểu “sư nói sư phải, sải nói sải hay” là thiếu tự tin công khai mà đầy tự mãn kiểu gà què ăn quẩn cối xay. Đăng Hậu Nhật Minh: Cảm ơn chị Tố Cần đã cho tôi biết về anh Kiêm Đoàn. Rằng: “TKĐ có văn bằng Cử nhân văn chương Việt Nam, Thạc sĩ Xã hội, Tiến sĩ Tâm lý học Mỹ và giáo sư một số trường đại học Hoa Kỳ”… Xin được cám ơn chị một lần nữa. Nhưng tôi xin nói để chị hay, dù anh KĐ có các bằng cấp và học hàm học vị nhiều hơn nữa, cao hơn nữa thì anh vẫn là một người còn VÔ MINH, đó là một điều chắc chắn. Với học vị, học hàm như thế, lẽ ra anh KĐ phải cẩn trọng hơn trước khi mình đưa ra những nhận định về một vấn đề không hề đơn giản chút nào. Một vấn đề mà biết bao nhiêu học giả Phật giáo xưa nay vẫn đang bế tắc không biết lối nào đi. Vậy mà với cảm hứng văn chương thi sĩ, anh tùy ngôn phóng bút luận những vấn đề nhạy cảm của thế gian khổ đau đang tựa nương một cách mù quáng vào thần quyền hư ảo. Con người đang khổ bởi sự mê tín, học sơ, lẽ ra anh KĐ có học rộng tài cao phải khéo dẫn cho họ trở về với niềm tin của sự hiểu biết có khoa học. Đằng này, anh là người có học lại tung hô tán dương những điều rất là mê tín dị đoan. Cái hay trong bài viết của anh là cái hay của văn chương thơ phú, lưu loát văn vẻ với đời thì tạm gọi là hay, nhưng với chuyện đạo thì rất đáng “bỏ đi’. Về nhân văn, là con người trong xã hội, sự cung kính hiếu đễ với mẹ cha, ông bà, tiên tổ là điều rất coi trọng cần xiển dương. Nhưng hiếu đễ, cung kính như thế nào cho đúng thì mới có ích lợi cho mình và mọi người, còn kiểu hiếu đễ như kinh sách phát triển dạy thì rất không nên. Chính anh KĐ cũng không hiểu ra cái điều nên tránh mà lại hùa vào tán dương thêm nên đã tự làm thấp mình. Chị Tố Cần còn viết: “…làm như là những “con bài ẩm” đưa ra để bắt bí tác giả bài viết thì quả là buồn cười”. Không có gì đáng buồn cười ở đây đâu chị, chỉ đáng cười là người viết (anh KĐ) lẫn lộn giữa đạo và đời nhiều lắm. Đời trợ giúp cho Đạo hành ngày càng thêm sáng, Đạo khéo giúp đời thoát khỏi lầm mê, thế nhưng anh KĐ đang trợ lực đạo kéo đời vào lú lẫn đường mê, há chẳng đáng cười sao? Tôi không bắt bí anh Đoàn đâu, chỉ mong anh Đoàn cứ thủng thẳng mà giải dẫn những điều tôi đã đưa ra sao cho có khoa học giúp người thoát khỏi tối tăm mới là điều cần gấp. Hỏi xem anh đã làm được mấy phần? Chị Tố Cần còn viết: “Chưa hết, TM còn phết nhãn hiệu cho người mà TM muốn đối thoại là “tâm như đống rác nhớp” (sic) thì…” rất đúng không sai tý nào đâu. Tất cả chúng ta vẫn còn đang sống trong VÔ MINH thì phải tự hiểu tâm mình còn xấu nhơ hơn thế. Chị có hiểu không? Và đoạn này nữa: “TM dám phết thêm một loại nhãn hiệu không có bảo chứng cho thầy Thông Lạc nữa là “bậc chân tu Vô Lậu…” Tôi dám phết đúng đấy chị ạ, Chị đâu có biết, ngày xưa ai bảo chứng cho Phật là người đắc đạo? cùng biết bao nhiêu vị A la hán nữa, khi tu xong đều “hát lên” khúc ca khải hoàn: “Sanh đã tận…”. Ngày nay thầy Thông Lạc tu xong tuyên bố mình tu xong, thế mà biết bao người lồng lộn lên phi báng không thiếu lời bởi tự lòng đố kỵ ghét ganh. Thử hỏi mấy ngàn năm sau Phật, đã có ai dám tuyên bố mình tu xong chưa? Bởi đã xong đâu mà tuyên, nếu tuyên như thế mà có người hỏi lại tu xong là thế nào thì chịu, biết đâu mà trả lời. Mấy lời trao đổi với chị Tố Cần như thế, vì tôi thấy văn phong của chị có vẻ như người đã “sạch nước cản” thì phải, nhưng cấp độ VÔ MINH thì cũng cùng một lớp với anh Đoàn thôi. Hơn nữa chị là phụ nữ tôi mới trả lời, còn người khác thì không. Mục đích ở đây là tôi muốn anh Đoàn giảng dạy để tôi và mọi người mau thoát khỏi VÔ MINH. Nhớ nhé anh Đoàn, mọi người trông lắm đấy. Chào chị Tố Cần. Áo Nâu Miệt Vườn: Gửi anh Kiêm Đoàn và chị Tố Cần, Trước tiên tôi xin cảm ơn chị Tố Cần đã giới thiệu danh vị của anh Kiêm Đoàn để mọi người biết. Thật đáng tiếc cho anh Đoàn, danh “cộm” thế mà sao nỡ tâm bỏ đi trong chốc lát? Chỉ vì thiếu thận trọng mà đưa ra những nhận định quá vội vàng hấp tấp. Tôi nghĩ chỉ trong một chuyến bay nội địa ở Trung Quốc, quá lắm là khoảng 3 đến 5 tiếng đồng hồ, anh Đoàn có đọc say mê cũng chỉ đọc hết 01 cuốn Đường Về Xứ Phật là cùng (mà say đọc như vậy thì làm sao còn ngắm biết trời mây nhỉ?). Trong khi đó Đường Về Xứ Phật đến 10 tập gần 4000 trang giấy, với 04 tập Những Lời Gốc Phật Dạy (chưa kể còn rất nhiều đầu sách Đạo Đức khác), không biết anh Đoàn đã đọc được bao trang? Mà có đọc chắc gì anh Đoàn hiểu được, thế cho nên anh mới có bài phóng bút để tự hạ thấp mình đến như thế! Đưa ra một lời nhận định tổng quan cho toàn bộ tư tưởng trong kinh sách thầy Thông Lạc chưa có ai có thể làm được điều đó và chắc chắn không làm được, nếu như họ đọc bức Thư Ngỏ của thầy Thông Lạc đã giới thiệu thì họ phải tự hỏi rằng mình đã tu xong chưa? Tu xong hay chưa, mỗi người đều tự biết, và muốn nhận xét gì về thầy Thông Lạc thì hãy ráng mà tu cho xong cái đã, tu xong rồi thì lúc ấy đâu có gì mà “nhận xét, nhận định” nữa, hả anh Đoàn! Tôi thấy câu chất vấn của anh (hay chị) Chân Quê rất “chân” đấy: “- Anh có thể giải thích rõ hơn một cách khoa học về “Thần Linh” và “Linh Hồn”, nếu thần linh là một dạng linh hồn ở ngoài thể xác thì thể xác này và linh hồn là “một” hay “hai”? - “Con người và thần thánh có khả năng tiếp cận nhau…” vậy đương nhiên có hai thực tại này và nó tiếp cận nhau bằng cách nào? - Đạo phật là đạo trí tuệ, “phải tự cứu mình” bằng sự trau luyện thân tâm để chuyển nghiệp nhân quả, tức là phải ly dục ly ác pháp, đoạn tận tham, sân, si… Nhưng theo anh dẫn: “…thông qua cầu nguyện và lễ nghi chiêm bái” có thể chứng đạt mục đích cứu cánh của đạo Phật hay không? Tại sao được? Tại sao không?” Chất vấn tuy “chân” nhưng mà hơi dễ dàng, người sơ cơ nếu học hiểu được sách của thầy Thông Lạc thì trả lời chất vấn này thật quá dông dài, bởi vì thầy Thông Lạc đã giảng rất rõ ràng rồi. Tuy nhiên đã được chất vấn thì cố gắng trả lời cho “ngon” anh Đoàn nhé. Sau rồi tôi cũng xin chất vấn anh vài điều (không nằm ngoài những điều trong bài viết của anh) nếu anh (hay chị) Chân Quê đồng ý để cho tôi được thực hiện điều này (kẻo anh lại trách tôi tranh mất ý của anh). Tôi có mấy lời như vậy, chỉ mong anh Đoàn trả lời làm sáng tỏ những nhận định của mình để kiếm lại chút “danh dự” đã đánh mất. Danh vị học vấn thì khá cao mà sao anh có những nhận định “u mê, hàm hồ” thế? Để cố hạ thấp một tư tưởng không phải là mới lạ gì, chỉ là những lời đức Phật đã dạy năm xưa, nay thầy Thông Lạc tu xong thấy rõ thế nào thì dạy lại như vậy. Thật đáng tiếc cho anh, cầm vàng trong tay mà không biết giữ, lại quăng đi để nhặt lấy cục đất làm gì? Hãy cố gắng anh Đoàn nhé, chớ nên đánh trống bỏ dùi anh ạ. Mọi người trông. Chào anh Đoàn, chào chị Tố Cần. Thi Kha On: Đạo hữu Đăng Hậu chưa biết, hãy vào đây mà xem cho rõ này: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-138_4-16880_5-50_6-1_17-22_14-1_15-1/ Tôi chả biết viết nhưng lại rất thích đọc, nếu anh Đoàn trả lời những chất vấn của đạo hữu Chân Quê thì thật phước cho tôi, điều mà lâu nay tôi rất hoài nghi. Mong anh Đoàn trả lời lắm, hay chị Tố Cần trả lời cũng tốt, tôi thấy hai người rất giống nhau, cả đạo hữu Đăng Hậu hình như cũng vậy. Rất mong được các anh chị mở mắt cho tôi. Xin cảm ơn. phattu: “Ấy vậy mà pháp của thầy Thông Lạc vẫn ngày càng được xiển dương rộng rãi hơn trên quê Việt mình và đến với phật tử ở hải ngoại xa xôi.” Hahaha, các thầy đệ tử của sư Thông Lạc khéo nổ nhỉ. Sư Thông Lạc đã “chứng ngộ” hơn 20 năm, một khoảng thời gian tương đương với người đồng hội đồng thuyền là chị Thanh Hải và gấp đôi anh Duy Tuệ, nhưng sự ảnh hưởng của sư thì thua xa nàng Thanh Hải và chàng Duy Tuệ. Nói thật nhé, sư tuyên bố chứng ngộ này nọ, nhưng sự ảnh hưởng của sư (nếu không có các đệ tử thay nhau chém gió), không băng một vị vừa tốt nghiệp trung cấp Phật học ra nhận chùa trụ trì. Tu hành và dạy đệ tử tu thế nào mà cả thầy lẫn trò đứt hết dây thần kinh ngượng. Ở ngoài đời, một người cha mà suốt ngày nói “tao là người giỏi nhất” và đám con tung hô theo “cha là người giỏi nhất, cha là người giỏi nhất” rồi từ cha đến con suốt ngày mắng nhiếc người khác là ngu là dốt thì nếu đó không phải là những kẻ mất trí thì cũng là những người lùn nhân cách. Đằng này trong đạo lại có những người suốt ngày làm những việc như vậy. Những ứng xử thông thường còn chưa theo được, lại toàn nói những điều cao siêu… Nói thật với các cậu đệ tử xuất gia của sư Thông Lạc (các vị đừng nghĩ các vị núp dưới những cái nickname thì người ta không biết các vị là ai nhé), nếu các vị cứ tâng bốc và bênh vực thầy của mình theo cách thế này, các vị càng lúc càng làm trò hề cho người khác, đừng nói đến việc cái gì đó “càng được xiển dương rộng rãi hơn trên quê Việt mình và đến với phật tử ở hải ngoại xa xôi.” Tám: anh phattu nói thế không sợ chị Tố Cần và anh Đăng Hậu "chỉnh" à! Đọc kỹ ý kiến của hai anh chị này rồi viết anh phattu nhé!... dù anh phattu có ý tốt viết để đỡ đòn cho anh Đoàn, mà viết như thế này thì anh Đoàn không vui đâu!... Cố mà viết theo trường phái anh Đoàn như chị Cần, anh Hậu đã nhắc nhỡ, đừng viết theo kiểu hàng chợ mà các anh chị ấy buồn lòng... Chân Quê: Gửi Tố Cần, Kiêm Đoàn, Đăng Hậu. Qua ý kiến của các vị, tôi góp ý mấy lời này: 1- Tố Cần: “Sau hết xin nhắn với TM một điều rằng, đây là nơi trường văn trận bút. Tham gia cuộc cờ quốc tế mà tài mọn riêng tay chưa sạch nước cản thì thật lạ lùng.” Nói như vậy, chứng minh Tố Cần đã mất hết bình tĩnh nên có những lời không chính xác, đưa bóng vào lộn sân chơi. Ở đây là diễn đàn Phật pháp để mọi người phật tử đều có thể vào trao đổi, học tập giáo lý của đức Phật chứ không phải là nơi “trường văn trận bút”, không phải là nơi “tham gia cuộc cờ quốc tế…” như TC đặt ra, chỉ có những kẻ mong vào đây để cầu danh kiếm lợi mới tưởng là như thế. Vậy ai là người “chưa sạch nước cản” thì tự mình biết lấy. Hãy bình tĩnh lại TC, cuộc “thảo luận” chỉ mới bắt đầu thôi. 2- Đăng Hậu, cũng gần như Tố Cần, với ba nhận định thì một để khen Kiêm Đoàn, một bài xích thầy Thông Lạc, còn một để chê bai TM (?) và Chân Quê (lưu ý: diễn đàn không có TM) chứng tỏ Đăng Hậu cũng chỉ giỏi “luận văn trận bút” rất ngông, mà kiến thức Phật pháp thì nông cạn lắm. Những dẫn chứng “tự lực” “tha lực”, “trực chỉ chân tâm…” rồi cái mới “tính nhân bản của ngày vu lan tự tứ” v.v… chứng minh sự yếu kém của mình chẳng khác gì Kiêm Đoàn. Đặc biệt, Đăng Hậu cũng như Tố Cần đều đưa ra nhận xét ý kiến của Nhật Minh và Chân Quê là lẩm cẩm. Các vị cố chạy làng cho Kiêm Đoàn cũng không xong. Kiêm Đoàn đã lỡ ngông rồi sao chạy làng được? Hãy cố gắng chứng minh những câu hỏi “lẩm cẩm” xuất phát từ chính bài viết của mình cho rõ ràng thì mới xứng là người có nhiều danh vị cao ở đời. Bằng không những bằng cấp ấy cũng như tờ giấy lộn không hơn. Với nhận định 3 của Đăng Hậu thì quả thật ĐH lẩm cẩm nhiều lắm, ĐH không thấy gì xung quanh mình cả, và chẳng hiểu gì về điều kiện của những người đang đối thoại với Kiêm Đoàn. ĐH hãy vào trang giotnangchonnhu.org xem để biết. 3- Kiêm Đoàn, với KĐ thì tôi chỉ nhắc lại chất vấn (tôi đã đưa ra) một lần nữa: Trong bài viết của anh có đoạn “Thần linh là một dạng linh hồn ở bên ngoài thể xác. Con người và thần thánh có khả năng tiếp cận nhau ở một cấp độ cao hơn thân xác vật lý. Và khả năng cống hiến để tạo “duyên” tiếp cận với thần thành là thông qua cầu nguyện và lễ nghi chiêm bái.” - Anh có thể giải thích rõ hơn một cách khoa học về “Thần Linh” và “Linh Hồn”, nếu thần linh là một dạng linh hồn ở ngoài thể xác thì thể xác này và linh hồn là “một” hay “hai”? - “Con người và thần thánh có khả năng tiếp cận nhau…” vậy đương nhiên có hai thực tại này và nó tiếp cận nhau bằng cách nào? - Đạo phật là đạo trí tuệ, “phải tự cứu mình” bằng sự trau luyện thân tâm để chuyển nghiệp nhân quả, tức là phải ly dục ly ác pháp, đoạn tận tham, sân, si… Nhưng theo anh dẫn: “…thông qua cầu nguyện và lễ nghi chiêm bái” có thể chứng đạt mục đích cứu cánh của đạo Phật hay không? Tại sao được? Tại sao không? Hãy biết tự trọng nhé anh Kiêm Đoàn, tự anh muốn mang đến đối thoại chứ không phải là chúng tôi. Cố trả lời xong để chúng tôi còn chất vấn tiếp từ chính những lời mà anh đã dẫn trong bài viết của mình. Ngược lại, chúng tôi cũng sẵn sàng chờ và trả lời những chất vấn của anh. Mong rằng chúng ta cùng trao đổi trên tinh thần vì lợi ích của Phật pháp và con người. Gia Từ: Kính gửi đạo hữu phattu và tất cả quý đạo hữu. Trong quá trình tìm cầu tu học Chánh pháp, chúng ta có quyền tin hoặc không tin, theo hoặc không theo một vị thầy nào đó… thậm chí có quyền phê phán vị thấy đó dạy sai pháp, lạc pháp… Trường hợp Hòa thượng Thích Thông Lạc cũng không ngoại lệ… Tuy nhiên đạo hữu phattu cần biết, HT Thích Thông Lạc là một bậc Tôn đức của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Đạo hữu phattu có quyền không nghe, không theo HT Thích Thông Lạc. Nhưng không nên đánh đồng ngài với những người ngoài giáo hội như Duy Tuệ, Thanh Hải… Xin trích dẫn văn bản dưới đây để đạo hữu phattu và tất cả quý phật tử cùng tường… THÀNH PHẦN NHÂN SỰ BAN TRỊ SỰ PHẬT GIÁO TỈNH TÂY NINH NHIỆM KỲ IV (2007 - 2012) (Theo Quyết định số 471/QĐ/HĐTS ngày 30/7/2007) I. BAN CHỨNG MINH: Hòa thượng Thích Tịnh Khai Hòa thượng Thích Thông Lạc Hòa thượng Thích Thông Nghiêm. II. THƯỜNG TRỰC BAN TRỊ SỰ:… III. ỦY VIÊN BAN TRỊ SỰ:… Tổng cộng Ban Trị sự Phật giáo Tỉnh Tây Ninh nhiệm kỳ IV (2007 - 2012) có 28 thành viên (13 thành viên Thường trực Ban Trị sự). TM. BAN THƯỜNGTRỰC HỘI ĐỒNG TRỊ SỰ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM CHỦ TỊCH: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH. (đã ký) http://www.giaohoiphatgiaovietnam.vn/component/content/article/95-thpg-t... phattu: Cám ơn Gia Từ rất nhiều ạ. Nhờ bạn tôi mới biết là ngoài việc “tu chứng”, sư Thông Lạc còn thuộc “THÀNH PHẦN NHÂN SỰ BAN TRỊ SỰ PHẬT GIÁO TỈNH TÂY NINH NHIỆM KỲ IV (2007 - 2012) (Theo Quyết định số 471/QĐ/HĐTS ngày 30/7/2007)”. Nhưng tôi không hiểu sao sư Thông Lạc lại đi “chứng minh” cho một Ban trị sự Phật giáo tỉnh thuộc Giáo hội PGVN, một Giáo hội mà từ lãnh đạo đến các thành viên phần lớn đều theo Phật giáo Đại thừa, một tông phái mà sư luôn chỉ trích và mạt sát như là một thứ tà đạo? Lẽ nào cái ghế của một tà phái cũng hấp dẫn một vị “chân tu”? Nhân cách cao đến thế là cùng! Ở điểm này nếu so sánh với Thanh Hải và Duy Tuệ chưa chắc đã vượt qua! Khong phe nao: Toi rat mong cac dao huu nen doi thoại voi nhau nghiem tuc va coi mo, than thien hoa ai de cung huong ve Phat phap chan chanh mang loi ich cho moi nguoi. Cac anh chi Kiem Doan, To Can, Dang Hau doi thoai voi cac anh chi Nhat Minh, Chan Que, giac huong, Hieu, Ao nau miet vuon, Thi Kha On,... toi nhan thay rat rat tot, thang than. Rieng y kien cua phattu thi khong nen chut nao, ban ay thanh kien rat nang va khong hieu biet gi ve Phat phap. Ban phattu nen im lang ma nghe thi tot hon. Mong nhom anh Doan tra loi chat van. Mong nhom cac anh Nhat Minh, Chan Que, Hieu ... cung nen co them y kien de lam cho sang to. Cam on cac dao huu. Thắng: Bạn phattu ôi là phattu ôi!!! Độc giả “ôi” bạn nhiều lắm. Thầy Thông Lạc phê phán tất cả các tông Thiền, Tịnh, Mật… là không theo đúng pháp Phật (hay ít ra cũng là bị lai tạp kinh Bà la môn có trước kinh Phật), vậy mà các thầy ấy vẫn tin tưởng thỉnh mời, bầu chọn thầy Thông Lạc vào Hội đồng Chứng minh. Hẳn là điều lạ phải không bạn? Bạn học sơ trí thiểu, nên ngồi im như con cóc mà nghe, không nên ý kiến lung tung nữa, càng ý kiến càng tự hạ thấp mình. Nếu bạn có ý kiến hãy cố gắng động cái “nắm lụng thụng nhũn nhơ” nằm phía dưới hộp sọ của bạn một lần xem sao. Hẳn phải thế may mới khá hơn được. Thế nhé. Cảm ơn phatu khi bạn biết im lặng, nếu bạn cứ lên tiếng thì chắc là anh Kiêm Đoàn cũng không lấy làm vui vì những ý kiến của bạn đâu. Tám: anh phattu à! vì tâm lượng anh hẹp hòi cố chấp nên anh không hiểu chuyện này là quá đúng... Nếu anh hiểu thế nào là "tùy thuận", là "tạo duyên giáo hóa chúng sanh", anh sẽ không còn thắc mắc vì sao sư Thông Lạc lại đi “chứng minh” cho một Ban trị sự Phật giáo tỉnh thuộc Giáo hội PGVN, một Giáo hội mà từ lãnh đạo đến các thành viên phần lớn đều theo Phật giáo Đại thừa... Và cũng chính vì chuyện này mà Phật tử Minh Quân mới viết bài "GHPGVN im lặng mới là hiện tượng..." Anh phattu đã nhìn ra vấn đề chưa? Tất cả các vị ấy đều là chức sắc của Giáo hội. Nhưng trong số họ có một vị "nói ngược", tất cả các vị còn lại đều "nói xuôi" và "tin xuôi"... Thế thì tại sao trong suốt 20 năm qua các vị "tin xuôi" im lặng? Phải chăng vì vị "nói ngược" kia nói quá đúng khiến các vị "tin xuôi" phải im lặng... phattu: Nhan cac de tu su Thong Lac, Toi se khong im lang dau, ma trai lai se noi nhieu hon, noi den khi nao su THong Lac va cac de tu cua ong im mieng moi thoi. Nhung bay gio ban viec, khong co nhieu thoi gian ranh roi nhu nhung vi xuat gia suot ngay nhan roi luot net de chem gio. Sau nay sap xep duoc thoi gian, toi se lap han mot blog de noi nhieu hon. Doi nay khong co gi dang khinh bi hon nhung ke thieu tri tue ma reu rao tri tue, thieu dao duc ma len giong dao duc. Thanh that xin loi vi da danh chu khong co dau. Bất Đắc: phattu đúng là một con người "thừa trí tuệ", "thừa đạo đức". Thế nhưng trong các ý kiến của phattu chưa hé lộ được một xíu nào tỏ ra là người có trí tuệ, có đạo đức. Nên giận hay nên thương phattu đây? Chân Quê: Thêm mấy lời gửi gió đến cùng “Mây”. Gửi các anh chị Trần Kiêm Đoàn, Tôn Nữ Tố Cần và Đăng Hậu. Thưa các anh chị, các anh chị đã bày ra nơi “trường văn trận bút”, nơi “trận đấu cuộc cờ quốc tế”, thế mà mỗi bên mới có vài “nước đi”, các anh chị đã cuốn cờ bỏ chạy không một lời từ biệt độc giả. Tôi thấy xấu hổ và buồn thay cho các anh chị. Vậy cũng tốt, tàm quý đã biết trỗi dậy trong các anh chị. Mong từ nay anh Kiêm Đoàn đừng huênh hoang tự cao tự đại như thế nữa nhé. Hãy quay về tự hỏi Ta là ai? Ta đang nhận định về ai? Ta đã hiểu về người mà Ta nhận định được bao nhiêu?... Thêm một “nước đi” lẽ ra không nên này, nhưng tôi thấy như vậy thì anh KĐ chưa hiểu trọn được vì những “nước đi” trước chưa tải hết. Anh Đăng Hậu (một quân cờ của anh KĐ) viết: “Nhưng nói bất cứ điều gì về cửa Thiền mà thiếu ái ngữ là thiếu chánh niệm. … cách nói chê bai một tông phái khác là “phi đạo đức” và tín đồ theo tông phái ấy là “ngu dốt, u mê” như HT TL thì dứt khoát đã ra ngoài tinh thần Bát chánh đạo. Một nhà tu thiếu ái ngữ có thể là một tỳ kheo nghịch hạnh”… Anh Đăng Hậu chưa phân biệt được thế nào là lời nói thẳng thật và lời thiếu ái ngữ. Anh hãy đọc lại những bài kinh Phật dạy, xưa, trong khi thuyết pháp cho ngoại đạo Ngài cũng thường dùng câu “kẻ ngu si kia…” đặc biệt trong kinh Phạm Võng, Ngài đã thẳng tay đập phá 62 luận chấp tà kiến của ngoại đạo ra sao. Ngày ấy Ngài cũng bị ngoại đạo nguyền rủa, phỉ báng là thiếu ái ngữ đấy, và nặng nề hơn, ngoại đạo đã “ném đá’ rất nhiều vào Ngài, lại còn lăn đá, thả voi say để mong giết chết Ngài nữa kia. Vậy mà ngày nay, có ai có lời nào chê bai Phật là thiếu lòng Từ Bi hay không? Chỉ có những kẻ ngu si mới phỉ báng chê bai Phật là thiếu ái ngữ, cũng vậy cho những ai ngày nay chê bai thầy Thông Lạc là thiếu ái ngữ. Anh Đăng Hậu viết tiếp: “Xưa Tế Điên Tăng có thể làm mở mắt giới đại gia tham lam độc ác bằng những nghịch hạnh…” chứng tỏ ĐH còn ít hiểu. Không chỉ Tế Điên mà còn cả Tuệ Trung… nữa, những ông tỳ kheo đại phá giới, phá Phật giáo cùng tận, các người còn thô tục hơn phàm phu, uống rượu ăn thịt chó tỳ tỳ vậy mà nghịch hạnh gì, mở mắt cho ai. À, cho anh KĐ, TC, ĐH. Và những lời miệt thị của anh Đăng Hậu: “Những người tôn sùng HTTL là “chân tu vô lậu” và dùng những lời lẽ “cấp dưới” để … Trong môi trường truyền thông … là thiếu tự tin công khai mà đầy tự mãn kiểu gà què ăn quẩn cối xay”. Bắt tay lên trán mà suy các anh chị ạ, mình đã xứng làm kẻ bề trên hay chưa mà vội vã miệt người thấp kém. Kẻ phong lưu bề trên sao mới đi vài “nước” đã vội chạy bỏ cả dép? Thật huênh mà chẳng rõ mình, biết người. Đặc biệt câu này: “tự mãn kiểu gà què ăn quẩn cối xay” thì các anh chị tự làm thấp mình mà không hay. Vâng, chúng tôi (những người đấu cờ) với các anh chị chỉ là “lũ gà ăn quẩn cối xay” nhưng chúng tôi lượm được những hạt gạo, hạt thóc rơi vãi rất là thanh tịnh, chân thật nguyên sơ. Còn các anh chị “mâm cao cỗ đầy, chả phượng nem công” nhưng toàn là đồ bỏ mà không biết. Thực ra cái tưởng là “nem công chả phượng” của các anh chị chỉ là một nắm bã mía, hết người trước nhai rồi người sau, người sau nữa… mà ai cũng khen mía ngọt. Thương ôi, có ngọt chăng chỉ là vị ngọt của đờm dãi người trước mà thôi. Tôi gửi gió đến cùng “Mây” mấy lời vậy. Chào. |
Cập nhật ngày : 07.11.2012 | |||
Loạt bài: VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI - BẢO VỆ CHÁNH PHÁP
(Kì 4: Đối thoại với Tỳ kheo Thích Nguyên Hải)
Lời BBT/GNCN
Trong loạt bài "VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI - BẢO VỆ CHÁNH PHÁP". GNCN đã lần lượt cho đăng một số phản hồi tích cực của nhiều Phật tử trước những ý kiến tiêu cực phá hoại Chánh pháp Nguyên thủy và xuyên tạc bôi nhọ TL Thích Thông Lạc của một nhóm người ủng hộ thầy Thích Nguyên Hải
Nằm trong loạt bài ấy, kì 4 này, chúng tôi cho đăng lại bài phản biện của Trí Khánh đối với những ý kiến bịa đặt, vu khống của tác giả Quảng Điền. Để độc giả có thể nắm bắt được vấn đề dễ dàng, chúng tôi sẽ cho đăng lại những ý chính trong bài của Quảng Điền, kế đến là bài phản biện của Trí Khánh...
Bài của Quảng Điền (Trên diễn đàn TVHS ngày 07/23/2011) Kính thưa quý vị độc giả, Thưa quý đạo hữu ngogia, tvhs0611, Phương Minh và tất cả quý đạo hữu theo thầy Thông Lạc, Tôi và những đạo hữu theo thầy Nguyên Hải thấy có nhiều sự khác nhau giữa đạo Phật và đạo của thầy Thông Lạc. Sau đây là chứng minh. Về Bốn Thiền: Bốn Thiền của Đức Phật dạy thuộc Thiền Chỉ hay Thiền An Chỉ mà thầy Nguyên Hải đã viết trong các chương nói về Thiền. Tuy nhiên, Bốn Thiền của Đức Phật dạy hoàn toàn khác với Bốn Thiền của thầy Thông Lạc. Bốn Thiền của Đức Phật dạy trong tạng kinh Nikaya, kinh Tăng Chi Bộ, tập 4, trang 214 đến 216 viết: “1. Thưa Hiền giả, thế nào là triền phược? Thế nào là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến? 2. - Này Hiền giả, năm dục trưởng dưỡng này được Thế Tôn gọi là triền phược. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do thân nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn… Này Hiền giả, năm dục trưởng dưỡng này là triền phược, được Thế Tôn nói đến. 3. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo ly các dục... chứng và trú sơ Thiền. Cho đến như vậy, này Hiền giả, là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến với pháp môn. Nhưng ở đây vẫn có triền phược. Và ở đây, triền phược ấy là gì? Cái ở đây là tầm và tứ chưa diệt. Chính cái ấy ở đây là triền phược. 4. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ... chứng đạt và an trú Thiền thứ hai. Cho đến như vậy, này Hiền giả, là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến với pháp môn. Nhưng ở đây vẫn có triền phược. Và ở đây triền phược ấy là gì? Cái ở đây là hỷ chưa diệt. Chính cái ấy ở đây là triền phược. 5. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả... chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Cho đến như vậy, này Hiền giả, là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến với pháp môn. Nhưng ở đây vẫn có triền phược. Và ở đây triền phược ấy là gì? Cái ở đây là xả lạc chưa diệt. Chính cái ấy ở đây là triền phược. 6. Lại nữa, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đoạn lạc... chứng và trú Thiền thứ tư. Cho đến như vậy, này Hiền giả là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến với pháp môn. Nhưng ở đây vẫn có triền phược. Và ở đây, triền phược ấy là gì? Cái ở đây là sắc tưởng chưa diệt. Chính cái ấy ở đây là triền phược”… Tức là Đức Phật dạy về Bốn Thiền: - Ly các dục, chứng và trú sơ Thiền, còn tầm tứ. - Diệt tầm tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, còn hỷ. - Ly hỷ, trú xả, chứng và trú Thiền thiền thứ ba, còn lạc. - Đoạn lạc, chứng và trú Thiền thứ tư, còn sắc tưởng. Ngược lại, Bốn Thiền do thầy Thích Thông Lạc phát minh và dạy trong sách Đường về xứ Phật, tập 2, trang 124, như sau: “- Thiền Thứ Nhất: Ly dục ly ác pháp thuộc về sắc uẩn. (ly là chừa bỏ hẳn, lìa xa cảnh giác tâm tham dục và các ác pháp để nó không còn trở lại). - Thiền Thứ Hai: Diệt tầm tứ tức là ngưng sáu thức thuộc về sắc uẩn (diệt tức là không còn để nó trở lui, trở lại được). - Thiền Thứ Ba: Ly hỷ tưởng dục thuộc về tưởng uẩn (ly hỷ tưởng có nghĩa là lìa hỷ tưởng, chứ chưa diệt bỏ hẳn phải cảnh giác kẻo nó sẽ còn trở tại). - Thiền Thứ Tư: Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thuộc về sắc uẩn và tưởng uẩn, xả tức là bỏ không còn lấy lại.” Tức là thầy Thích Thông Lạc viết: - Sơ Thiền: Ly dục, ly ác pháp thuộc về sắc uẩn, tức là ly sắc uẩn. (1) - Thiền thứ hai: Diệt tầm tứ tức là ngưng sáu thức thuộc về sắc uẩn. - Thiền thứ ba: Ly hỷ tưởng dục thuộc về tưởng uẩn, tức là ly tưởng uẩn. (2) - Thiền thứ tư: Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, tức là ly sắc uẩn và tưởng uẩn. (3) …
Tôi thấy có sự khác nhau về Bốn Thiền giữa Đức Phật và thầy Thông Lạc là: - Sơ Thiền: Đức Phật dạy ly các dục, chứ không dạy ly sắc uẩn như của thầy Thông Lạc. Ủa! Mà sắc uẩn thuộc về thân, còn bốn uẩn kia thuộc về tâm. Người ta làm sao ly sắc uẩn được, trừ trường hợp tự tử ???! Thầy Thông Lạc ly sắc uẩn, tức là ở sơ Thiền thầy Thông Lạc tự tử, phải không thưa thầy Thông Lạc và quý đạo hữu theo thầy Thông Lạc??? Ngược lại, hành giả theo đạo Phật ly sắc tưởng khi chứng và an trú vào Không vô biên xứ định, chứ không thể nào ly sắc uẩn. Đức Phật dạy, trong Thiền thứ tư hay Tứ Thiền vẫn còn sắc tưởng, ngược lại, mới sơ Thiền, thầy Thông Lạc đã ly rồi. - Thiền thứ hai: Đức Phật dạy diệt tầm tứ, ngược lại thầy Thông Lạc chưa diệt tầm tứ, phải đợi tới Thiền thứ ba thầy Thông Lạc mới diệt tầm tứ. Đức Phật dạy Thiền thứ hai còn hỷ, ngược lại trong Thiền thứ hai thầy Thông Lạc diệt mất hỷ, và cho thêm chữ tưởng vào hỷ và gọi là hỷ tưởng, rồi diệt luôn tưởng uẩn. - Thiền thứ ba: Đức Phật dạy ly hỷ trú xả, còn lạc, ngược lại thầy Thông Lạc trong Thiền thứ ba mới diệt tầm tứ, và thầy Thông Lạc viết là ngưng sáu thức thuộc về sắc uẩn. Ngưng sáu thức là ngưng nhãn thức, ngưng nhĩ thức… ngưng ý thức. Tức là đặc biệt ở Thiền thứ ba này thầy Thông Lạc ngưng ý thức, thầy Thông Lạc không còn hay biết gì cả, phải không thưa thầy Thông Lạc và quý đạo hữu theo thầy Thông Lạc??? Nếu đúng như vậy tức là khi nhập Thiền thứ ba, thầy Thông Lạc như người ngủ mê, không ý thức, không hề hay biết gì cả! Cái này là chắc chắn không có trong Thiền thứ ba của Đức Phật dạy, mà cũng không có trong các Thiền của đạo Phật. Nếu người theo đạo Phật bị trường hợp này, nên biết đó là Thiền bệnh, hành giả theo đạo Phật vui lòng tìm cách trừ bỏ. - Thiền thứ tư: Đức Phật dạy ly lạc còn sắc tưởng, ngược lại thầy Thông Lạc ly sắc uẩn và tưởng uẩn. Như vậy, bốn Thiền của thầy Thông Lạc thật đúng là “ngoại đạo thiền”, Bốn Thiền của thầy Thông Lạc hoàn toàn khác với Bốn Thiền của Đức Phật dạy.
Về Thiên Nhãn Minh và những sự kiện khác: Trong tác phẩm của tỳ kheo Thích Nguyên Hải, thầy Nguyên Hải đã phân tách Thiên Nhãn Minh của Đức Phật dạy khác với Thiên Nhãn Minh của thầy Thông Lạc giải thích. Ngoài ra thầy Thông Lạc còn viết và giảng nhiều sự kiện khác với Đức Phật dạy trong tạng kinh Nikaya mà trong tác phẩm của thầy Nguyên Hải đã chứng minh. Đức Phật đã bỏ khổ hạnh, sống theo Trung đạo, không khổ quá, cũng không sướng quá, dù cho thầy Thông Lạc và các đệ tử của thầy Thông Lạc sống như những người fakir thực hành rất khổ hạnh, hay những người Ni-kiền-tử không mặc quần áo tại Ấn Độ, nhưng tu theo ngoại đạo hay là không hiểu đúng giáo pháp của Đức Phật dạy vẫn là hiểu sai lạc, tu sai lạc và dạy đệ tử sai lạc. Đạo Phật là đạo trí tuệ, “duy tuệ thị nghiệp”, đạo hữu Phương Minh và quý đạo hữu theo thầy Thông Lạc vui lòng nhớ điều này. Tóm lại: Thầy Thông Lạc chứng đắc Bốn Thiền và dạy cho các đạo hữu theo thầy Thông Lạc hoàn toàn khác với Bốn Thiền của Đức Phật dạy. Bốn Thiền của thầy Thông Lạc là “ngoại đạo thiền”. Thiên Nhãn Minh của thầy Thông Lạc cũng khác với Thiên Nhãn Minh của Đức Phật dạy, thầy Thông Lạc còn viết và giảng nhiều sự kiện khác với Đức Phật dạy trong tạng kinh Nikaya, mà trong tác phẩm của thầy Nguyên Hải đã chứng minh. Chúng ta thấy các danh từ Bốn Thiền, Thiên Nhãn Minh… của thầy Thông Lạc giống danh từ Bốn Thiền, Thiên Nhãn Minh của Đức Phật dạy, nhưng thực chất hoàn toàn khác nhau, tương tự, những danh từ Tam Minh, nhân quả, nghiệp, luân hồi… của Bà-la-môn giáo giống với những danh từ Đức Phật dạy, nhưng thực chất hoàn toàn khác nhau, như trong tác phẩm của thầy Nguyên Hải đã viết. Qua các sự kiện trên, tôi và có lẽ quý đạo hữu theo thầy Nguyên Hải đều kết luận, thầy Thông Lạc dạy đạo của thầy Thông Lạc khác với đạo Phật. Vì vậy quý đạo hữu ngogia, tvhs0611, Phương Minh và quý đạo hữu theo thầy Thông Lạc nên tự nhận là theo đạo do thầy Thông Lạc làm giáo chủ, có lẽ nên gọi là “đạo Thông Lạc”, chứ đừng tự nhận là theo đạo Phật nữa, đừng tự nhận là Phật tử nữa. Thầy Thông Lạc thuộc ngoại đạo, tương tự như Thanh Hải Vô thượng sư, v.v..., chứ không phải là đạo Phật. Và có lẽ thầy Thông Lạc nên xóa bỏ chữ Thích trước pháp danh, bỏ chữ Chơn Như sau chữ Tu Viện và bỏ những gì liên quan đến đạo Phật, như Thanh Hải Vô thượng sư đã làm là tốt. Khi đó quý đạo hữu hiểu biết đúng giáo pháp của Đức Phật dạy và quý đạo hữu theo thầy Nguyên Hải không còn phê bình thầy Thông Lạc, cũng như đã không phê bình Thanh Hải Vô thượng sư, họ tu đúng hoặc sai thế nào là chuyện của họ, bởi vì họ là ngoại đạo. Tôi chỉ mong một điều là thầy Thông Lạc và quý đạo hữu theo thầy Thông Lạc vui lòng đừng bao giờ nhân danh đạo Phật và lấy giáo lý của đạo Phật để làm bình phong, nhưng nội dung sửa đổi thêm bớt lung tung làm phiền cho những người theo đạo Phật, vì lo lắng cho sự suy vong của Phật pháp do thầy Thông Lạc và quý đạo hữu theo thầy Thông Lạc gây ra mà phải phê bình những sai lạc của thầy Thông Lạc và của quý đạo hữu theo thầy Thông Lạc, quý đạo hữu theo thầy Thông Lạc khỏi cần bàn luận, tranh cãi và bênh vực những lời dạy quá nhiều sai lạc của thầy Thông Lạc, làm rối những người theo đạo Phật là tốt rồi. (Chú thích (1); (2); (3): Những chữ in đậm này, Quảng Điền bịa đặt vu khống sai lạc quá nhiều). ĐỐI THOẠI VỚI QUẢNG ĐIỀN Kính thưa quý độc giả! Thưa đạo hữu Quảng Điền! Khi đạo hữu cho rằng: “Thầy Thông Lạc thuộc ngoại đạo, tương tự như Thanh Hải Vô thượng sư…”. Đạo hữu đã đánh đồng khẩp khiểng hai nhân vật với hai nhân cách hoàn toàn khác biệt, chỉ để thể hiện tâm cảnh hẹp hòi cố chấp của mình thôi… Đạo hữu Quảng Điền cố nhìn xem, có trang mạng Phật giáo chính thống nào để cho đệ tử của Thanh Hải tự do vào tranh luận với các Phật tử hay không? Điều đó chứng tỏ các nhà làm truyền thông Phật giáo hiện nay, dù chưa thể phổ biến các tài liệu thuyết giảng của thầy Thông Lạc, nhưng trong chừng mực nào đó, đã có cái nhìn thoáng, cởi mở về nhân vật này… Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn TVHS đã cho đăng tất cả các ý kiến phản hồi của chúng tôi mà không ngại “phạm húy”, đã không cắt xén bất kỳ câu chữ nào, đều này chưa từng có trước đây trên các phương tiện truyền thông chính thống Phật giáo. Chúng tôi biết mình đang “đá trên sân khách” nên rất ngại “trọng tài” và nhất là một số rất ít “khán giả qúa khích”… Điều thực sự bất ngờ khi “trọng tài TVHS” đã tạo ra một “trận cầu mở”, không hề dùng một “thẻ phạt” nào cho cả đôi bên, khiến chúng tôi rất phấn khích, thán phục… Biết thế nên chúng tôi đã thảo luận trong chừng mực, cường độ từ ngữ vừa phải, tuyệt đối tránh những từ ngữ chợ búa như “buôn bán tôm cua cá bị thua lỗ” theo cách nói của nowandhere, Linh Châu… Trở lại với phản hồi của đạo hữu Quảng Điền. Tôi thấy đạo hữu cũng chẳng chứng minh được điều gì mới… Chương IX. Ngay trong lời nhận xét đầu tiên của mình, thầy Nguyên Hải đã khẳng định “Sơ thiền thuộc phàm phu thiền” kế tiếp là sự khẳng định “Kinh Đại Thừa cũng viết có Sơ Thiền, có Tứ Thiền, có Cửu Thứ Đệ Định”. Như vậy rõ ràng là thầy Nguyên Hải không có khả năng chứng minh từ Nguyên Thủy, Thế Tôn đã gọi bốn thiền này là “phàm phu thiền”, nên thầy phải viện dẫn đến kinh Đại thừa vốn xuất hiện sau đó ít nhất là từ năm đến bảy trăm năm!... Đạo hữu Quảng Điền tiếp tục theo đuôi thầy Nguyên Hải: “Bốn Thiền của Đức Phật dạy thuộc Thiền Chỉ hay Thiền An Chỉ…”. Nhưng rồi cũng không chỉ ra được trong tạng Nguyên Thủy chỗ nào Thế tôn gọi bốn thịền này là “thiền an chỉ”… Đạo hữu Quảng Điền đã trích dẫn một bài kinh trong Tăng Chi để chứng minh cái gọi là “Bốn Thiền của Đức Phật dạy hoàn toàn khác với Bốn Thiền của thầy Thông Lạc”. Nhưng không hề biết trước đó đạo hữu Phương Minh giới thiệu một trích đoạn dạy về Bốn Thánh Định của Thầy Thông Lạc mà nội dung không phản lại với bài kinh Tăng Chi đạo hữu Quảng Điền dùng nhằm chứng minh cho cái gọi là “thầy Thông Lạc dạy khác Phật dạy về Tứ thiền”… Xin dẫn lại đoạn trên để qúy vị cùng tham khảo: “1- Sơ Thiền tuy ly dục ly ác pháp, tâm luôn bất động trước các pháp và các cảm thọ nhưng vẫn còn năm chi thiền Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm nên còn tướng, nhất là tầm tứ, vì vậy trong kinh Tăng Chi còn gọi là triền phược, triền phược ở đây là gốc lậu hoặc còn chưa diệt. Sơ thiền chỉ ly chứ chưa có diệt nên kinh gọi còn triền phược là rất đúng. Trạng thái Sơ thiền là một trạng thái của Trời Sơ Thiền (Sơ Thiền Thiên), còn cõi Trời tức là còn triền phược. 2- Đến Nhị Thiền mới diệt tầm tứ, diệt tầm tứ chỉ mới ngưng được ý thức nói riêng, nói chung là mới ngưng sáu thức, vì thế tưởng thức còn nên kinh nói nhập Nhị Thiền còn triền phược là đúng. Bởi vì thân nghiệp còn và trạng thái Nhị Thiền là trạng thái của Trời Nhị Thiền (Nhị Thiền Thiên), còn cõi Trời tức là còn triền phược. 3- Đến Tam Thiền thì mới ly hỷ tưởng chứ chưa có diệt tưởng và lạc tưởng cũng còn chưa ly nên kinh gọi còn triền phược là đúng. Trạng thái Tam Thiền là trạng thái của Trời Tam Thiền (Tam Thiền Thiên), còn cõi Trời tức là còn triền phược. 4- Đến Tứ Thiền xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, xả lạc tưởng, khổ tưởng và thanh tịnh tưởng. Ở đây chỉ xả tưởng chứ chưa diệt tưởng vì thế nên kinh gọi còn triền phược là đúng. Vì trạng thái Tứ Thiền là trạng thái của Trời Tứ Thiền (Tứ Thiền Thiên), còn cõi Trời tức là còn triền phược. Khi nhập xong Tứ Thiền chúng ta mới làm chủ được sanh, già, bệnh, chết chứ chưa chấm dứt được tái sanh luân hồi vì nguyên nhân tái sanh luân hồi còn nên Tứ Thiền vẫn còn triền phược”… Đạo hữu Quảng Điền có thấy sự khác biệt nào trong lời dạy này của thầy Thông Lạc so với bài kinh Tăng Chi mà đạo hữu đã trích dẫn?... Nếu đạo hữu có thiện chí đối thoại, đạo hữu nên tìm hiểu vấn đề: Nếu đã thừa biết Tứ Thiền vẫn còn triền phược thì tại sao vẫn gọi là Bốn Thánh Định? Nhưng vì không muốn đối thoại nghiêm túc, nên chẳng cần tìm hiểu, chỉ cố gắng bươi móc những chuyện vặt vãnh không thuộc lỗi của tác giả, mà thuộc lỗi nhập dữ liệu, in ấn, xuất bản, biên tập… về thứ tự đảo lộn giữa thiền thứ hai và thiền thứ ba... Đạo hữu Quảng Điền cũng đặt vấn đề Trí khánh chưa trả lời câu hỏi của nowandhere: “nhờ bốn thiền mà xả ly được sắc, thọ, tưởng, hành”… Tôi đã trả lời rồi. Ở đây chỉ nhắc lại một ý: Đối với những ai đang quan tâm tìm hiểu, tu học Bốn Thánh Định này, tôi sẵn sàng chia sẻ trong giới hạn hiểu biết của mình. Nhưng đối với những vị theo “trường phái” thầy Nguyên Hải như nowandhere, xem bốn Thiền này là “phàm phu thiền”. Liệu tôi có nên mất thời giờ để giải thích cho họ hiểu vì sao “nhờ Bốn Thiền này mà xả ly được sắc, thọ, tưởng, hành” hay không?... Riêng đối với đạo hữu Quảng Điền, tôi nói thêm: Nếu ngũ uẩn “không phải là ta, là của ta, là tự ngã của ta” như lời thế tôn dạy. Vậy, nếu ly được sắc, thọ, tưởng, hành có gì sai?... Vì không phân biệt được thế nào là ly, xả, diệt… nên đạo hữu Quảng Điền châm biếm: “Ủa! Mà sắc uẩn thuộc về thân, còn bốn uẩn kia thuộc về tâm. Người ta làm sao ly sắc uẩn được, trừ trường hợp tự tử???! Thầy Thông Lạc ly sắc uẩn, tức là ở sơ Thiền thầy Thông Lạc tự tử…”. Tôi không chấp sự châm biếm của đạo hữu Qủang Điền. Nhưng tôi khẳng định sự châm biếm này không có căn bản “Nguyên Thủy” mà chỉ có tính chất ngoại lai “phi nguyên thủy”… Chúng ta biết rằng: Thế tôn dạy chỉ có sáu thức thôi! Trong lập luận của đạo hữu Quảng Điền, sắc uẩn thuộc về thân, bốn uẩn còn lại thuộc về tâm hay còn gọi là “danh” nhằm chia chẻ ngũ uẩn ra làm hai nhóm “danh” và “sắc”. Tôi khẳng định đó là sản phẩm ngoại lai, không phải Nguyên Thủy… Thức uẩn từ chỗ Nguyên Thủy sáu thức nay biến thành tám thức, gọi là “bát thức tâm vương”. Mát-na thức, A-lai-da thức được thêm vào, từ đâu ra vậy, thưa đạo hữu Quảng Điền? Nay đạo hữu sử dụng lại các phạm trù “danh” và “sắc” để phân nhóm ngũ uẩn vốn không phải của Thế Tôn, mà là sản phẩm của tổ Thế Thân Vô Trước, và học phái Duy thức nhằm châm biếm “ở sơ thiền thầy Thông Lạc tự tử”! Giả sử thầy Thông Lạc có sai thì cũng là cái “sai tự chứng”. Quảng Điền chẳng “chứng” được điều gì mà chỉ mượn học thuyết “phi nguyên thủy” để châm biếm là việc không nên làm của một người phật tử đang thực tâm muốn nghiên cứu giáo pháp nguyên thủy của Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni… Bàn về vấn đề “khổ hạnh”, đạo hữu Quảng Điền viết: “Thầy Thông Lạc còn viết và giảng nhiều sự kiện khác với Đức Phật dạy trong tạng kinh Nikaya mà trong tác phẩm của thầy Nguyên Hải đã chứng minh. Đức Phật đã bỏ khổ hạnh, sống theo Trung đạo, không khổ quá, cũng không sướng quá, dù cho thầy Thông Lạc và các đệ tử của thầy Thông Lạc sống như những người fakir thực hành rất khổ hạnh, hay những người Ni-kiền-tử không mặc quần áo tại Ấn Độ, nhưng tu theo ngoại đạo hay là không hiểu đúng giáo pháp của Đức Phật dạy vẫn là hiểu sai lạc, tu sai lạc và dạy đệ tử sai lạc". Thầy Nguyên Hải và các vị theo thầy luôn tự phụ mình thông hiểu tạng kinh Nikaya, phê phán thầy Thông Lạc giảng sai, hiểu sai lời Phật dạy trong Đại tạng... Nếu qúy vị hiểu đúng, hiểu chính xác. cũng có nghĩa là qúy vị đã cố tình lồng ghép các tư tưởng ngoại lai vào để phá nát tạng kinh Nikaya khi cho rằng Đức Phật dạy "sống theo Trung đạo, không khổ qúa cũng không sướng qúa"... Cái gọi là "trung đạo" này chính xác là "trung đạo" của ngoại giáo, không phải là Trung đạo của Phật pháp Nguyên Thủy. Thế Tôn dạy: Trung đạo là Bát Thánh Đạo (Dhammadàyàda sutta). Ngài không hề dạy trung đạo là không khổ, không sướng!... Các vị thiếu hiểu biết về giáo pháp Nguyên Thủy, hay biết mà cố tình biến Trung Đạo của Thế Tôn thành Trung đạo của Tổ Long Thọ… Ngoài chuyện cố tình đánh tráo khái niệm Trung đạo, xuyên tạc lời Thế tôn dạy. Thầy Nguyên Hải và Quảng Điền đã ma mãnh chơi trò đánh bài một mình, tự ăn gian, rồi tự thắng bằng một câu chuyện phịa: "thầy Thông Lạc và các đệ tử của thầy Thông Lạc sống như những người fakir thực hành rất khổ hạnh, hay những người Ni-kiền-tử không mặc quần áo tại Ấn Độ, nhưng tu theo ngoại đạo hay là không hiểu đúng giáo pháp của Đức Phật dạy vẫn là hiểu sai lạc, tu sai lạc và dạy đệ tử sai lạc". Người Phật tử tu học đúng chánh pháp Nguyên Thủy không sống khổ hạnh như những người fakir, chỉ là noi gương Thế Tôn thiểu dục tri túc nhằm hoàn thiện Giới vô lậu học mà Thế Tôn đã dạy. Không trần truồng như người Ni-kiền-tử mà là ba y một bát đúng như hình mẫu của Thế Tôn. Không xa lánh mọi người mà chỉ là độc cư phòng hộ sáu căn. Không nhịn đói nhịn khát mà chỉ là không ăn uống phi thời. Không giống như những vị "đói ăn khát uống mệt đi ngủ" mà gọi là "tu" thì chúng tôi cho rằng họ đang "tu hạnh con heo", chẳng khác mấy so với các đạo sĩ tu hạnh con bò, hạnh con chó trong Kukkuravatika sutta... |
Cập nhật ngày : 12.11.2012 | |||
Loạt bài: VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI - BẢO VỆ CHÁNH PHÁP
(Kì 3 : Phản hồi của độc giả trên DĐ/TVHS với Trần Kiêm Đoàn). Trích đoạn trong bài "Điệu Sống Giữa Đàng" (Nhật ký Hành Hương 8 của Trần Kiêm Đoàn)
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-145_4-17029_5-50_6-1_17-8_14-1_15-1... ... ... ... "Sonia góp ý: - Bạn phải nói là Thượng Đế – God – nào và Thượng Đế của ai? Đạo Sikh của mình thì cho “God” là người làm nên tất cả gọi là “Mool Mantar”. Mool Mantar ở đâu rất xa trên trời mà cũng chính ở ngay trong mình. Ngài là sự thật, không ghét, không sợ, không màu, không sắc, tự sinh ra và không bao giờ chết. Còn Thượng Đế của các bạn thì thế nào? Bé Na hỏi: - Ba ơi! Như vậy thì quả thật là đạo Phật mình không có một Thượng Đế mở đầu hay sao Ba? Trần Kiêm Đoàn trả lời: - Thượng Đế trong các tôn giáo của các bạn con vừa nói đến, tuy khác nhau về nhiều cái riêng, nhưng cái chung đều giống nhau. Đó là một đấng Sáng Tạo ra muôn loài và đó cũng là Sự Thật hoàn toàn. Đạo Phật nói đến sự sáng tạo ra muôn loài là do vô số điều kiện hợp nhau lại mà thành gọi là Duyên Khởi và Sự Thật của vạn vật là chẳng có vật nào tự nó đứng riêng lẻ mà thành gọi là Tánh Không. Nếu không đứng riêng mà dùng chung các danh từ với các tôn giáo khác thì chúng ta có thể nói rằng, Tánh Không và Duyên Khởi chính là chân dung về một “Thượng Đế” của Phật giáo vì đó là Sự Thật tạo tác ra mọi sự của vũ trụ nầy gọi là vạn pháp."... Ý KIẾN CỦA ĐỘC GIẢ Chu Chơc Kiên (09/18/2012) Kính gửi anh Kiêm Đoàn, Thưa quý vị độc giả, Nhật Ký Hành Hương 7 (Bóng mây thoáng qua…) vẫn chưa qua, nay anh KĐ lại đã ra Hành Hương 8. Độc giả có lẽ cũng nên cảm thông cho một người có tâm hồn thi sĩ đầy những khát khao ham muốn như anh. Tâm hồn thi sĩ thường khởi phát mạnh mẽ từ Tưởng Uẩn, nhờ Tưởng Uẩn mà Tưởng Thức mới phát sanh nên văn thơ lai láng chảy xiết đêm ngày như trong mơ, trong mộng. Quý độc giả cần biết thêm để thông cảm cho anh KĐ, khi Tưởng Thức hoạt động là lúc Ý Thức rất mờ nên có thể nhiều lý luận huyễn ảo không còn đúng như lý và sự nữa. Hành Hương 8 kéo anh KĐ về với thú vui gia quyến, bạn bè. Thế cũng hay, để anh bớt đi cái hênh hoang viễn mộng. Có một điều anh vẫn chưa thực lòng cảm nhận, anh vẫn né tránh thực tại tuy đắng những chữa bệnh hiệu nghiệm vô cùng. Hành Hương 8, anh không còn dũng cảm hênh hoang nữa mà phải mượn lời mấy đứa trẻ để nói lên những hiểu biết của mình. Phải chăng kiến thức của anh đã quá mãn, giống như một ly nước chứa đầy mọi lý luận mà anh đã tích lũy từ bao lâu, nay không bỏ được? Như thế, mọi người hiểu rằng cái “ly nước” kiến thức trong anh không thể tiếp nhận thêm gì được nữa. Lẽ ra anh phải lựa chọn mà đổ bớt đi những gì mà mỗi ngày do tích lũy anh thấy được nó không ích lợi để thay vào đó cái thiết thực bổ ích hơn. Qua ý kiến này, tôi có vài trao đổi để anh truyền đạt lại với những đứa trẻ thân yêu của anh. Về khoa học và Phật giáo. Dạy con trẻ anh nên thuyết cho rõ ràng Lý Sự. Khoa học là khoa học, Phật giáo là Phật giáo, không nên mập mờ trộn lẫn hòa chung để người học Phật hiểu lầm. Khoa học là sự nghiên cứu, chứng minh, một người tìm tòi nhưng nhiều người đồng chứng. Còn Phật giáo, tuy dạy thế, học thế nhưng mỗi người phải tự thấy cho minh. Phật giáo không bao giờ theo đuôi khoa học đâu anh, Phật giáo đi xa lắm rồi, giờ khoa học mới mò mẫm trong “tục huyễn” (anh gọi là tục đế, mà tục thì không có đế), sao anh lại giảng Phật giáo có “nhiều điểm tương đồng với lý thuyết khoa học”? Kể cũng không sai, nhưng không hợp lý. Anh rất mê Tánh Không, Cửa Không, Trống Không, Rỗng Lặng, vì mê thích nó nên anh chưa bao giờ hiểu về nó. Anh thử tham vấn nhà Khoa học Vật lý (Trịnh Xuân Thuận) xem, bên trong một hạt nhân nguyên tử nó có “Rỗng Không” không? Nó có bao giờ “Tĩnh Lặng” không? Hãy ráng hiểu điều này trước đã anh KĐ, sau hãy đi tìm cái “Không Tánh” chân chính của đạo Phật, nó không là như anh mơ đâu, nó vượt xa khoa học rất nhiều. Với ngài Nhất Hạnh, tôi lưu ý anh, ông ta là một vị Bà la môn nguyên nghĩa, hơn thế, ông ta lại đang trên con đường về với Ki-tô giáo, cho nên kiến thức Phật giáo của ông ta rất sai lạc, anh không nên nương vào ông ta mà truyền thụ giáo lý Phật thì thật là tai hại. Với anh, “Tu Giữa Bụi Đời” hay “Điệu Sống Giữa Đường” không khéo trở thành “Đẽo Cày Giữa Đường” thì dẫu có cố công suốt cả cuộc đời cũng chẳng bao giờ làm nên mảnh ruộng tốt được đâu. Chỉ vì anh “nghe nhiều”, “thấy nhiều” nhưng cái nghe, cái thấy không đáng thấy, không đáng nghe thì anh chấp chặt, còn cái đáng học, đáng hành anh lại bỏ “lơ qua” rồi còn phỉ báng. Thật tội nghiệp cho anh. Bất Đắc (09/19/2012) Hay! Ý kiến của Chu Chơc Kiên có nhiều khám phá, thẳng thắn, mạnh bạo. Tôi nghĩ, nên có nhiều những ý kiến nhìn thẳng vào sự thật. Cám ơn Chu Chơc Kiên nguyen (09/20/2012) Các tôn giáo độc thần có một điểm chung là chấp nhận có một cái nguyên nhân ban đầu để tạo ra vũ trụ, con người, và họ gọi cái nguyên nhân ban đầu đó dưới những cái tên khác nhau (Thượng đế, Allah…). Khi quan niệm như vậy các tôn giáo này chấp nhận là phải có một cái gì đó (nhân) mới có vũ trụ và con người (quả). Tuy nhiên nếu từ đó đi ngược trở lại (từ quả suy ra nhân … tiếp nối liên tục…) để đưa ra quan điểm là có một cái nguyên nhân đầu tiên thì quan niệm này tự nó đã mâu thuẫn với chính nó vì cái gì đã sinh ra cái mà họ gọi là “nguyên nhân đầu tiên” đó? Trong Phật giáo không có cái quan niệm nguyên nhân đầu tiên đó. Khi tác giả bài viết (TKĐ) này nói “Tánh Không và Duyên Khởi chính là chân dung về một ‘Thượng Đế’ của Phật giáo vì đó là Sự Thật tạo tác ra mọi sự của vũ trụ nầy gọi là vạn pháp” thì tôi nghĩ là ông TKĐ đã nghĩ là “CÓ THIỆT” một cái Tánh Không và Duyên Khởi nên ông đã đánh đồng với chân dung về một Thượng Đế. Xin mời ông nghe các bài giảng về Trung Quán Luận tại đây: http://thientongvietnam.net/media/BaiGiang.asp?id=A0134 Hi vọng rằng nó sẽ giúp ông phần nào chăng? Thấy đạo hữu Bất Đắc muốn có nhiều ý kiến góp ý, nên tôi cũng góp đôi điều vào mục này và rất mong các đạo hữu chỉ bảo nếu có điều chi không đúng. Chu Chơc Kiên (09/21/2012) Trong toàn bộ giáo lý của Đức Phật, Ngài không quan tâm dạy chúng ta phải đi ngược dòng thời gian để tìm hiểu khởi nguyên phát sinh ra vũ trụ, vạn pháp và con người. Bơi ngược dòng thời gian tìm về cái ban đầu ấy, con người không thể nhận ra được những gì mình khát khao mong muốn và sẽ chết chìm trong những kiến chấp vì vô minh dẫn dắt. Tuy nhiên, đối với những Bậc Vô lậu giải thoát chứng trí tuệ Tam Minh thì không thể nghĩ bàn. Vấn đề là: - Nếu các Ngài dạy những điều đó sẽ mang lại lợi ích gì cho con người? - Nếu các Ngài dạy những điều đó thì trí hiểu của phàm nhân có nắm bắt được hay không?, kẻo như con cá mà muốn hiểu biết đất khô như thế nào thì thật là nguy hiểm – và rồi tha hồ mà tưởng tượng, huyễn hoặc để luận tranh cao thấp hơn thua – thì lại thêm một mối nguy hiểm khác. Đức Phật không dạy Tánh Không mà chỉ dạy tam pháp ấn Vô thường, Vô ngã, Khổ. Đó là ba pháp giúp con người hiểu rõ con người và vạn pháp, để giúp người tu hành giải thoát. Tánh Không chỉ là một khái niệm của người sau không hiểu biết đặt ra. Vô ngã không nên chấp là Tánh Không thì sai lầm, mà nên hiểu Vô ngã minh chứng cho lý Duyên Khởi của vạn pháp thật đúng như nó đã, đang, sẽ là… cho nên Tánh Không là luận thuyết hư ảo khó chấp nhận. Long Thọ đẻ ra thuyết Trung Quán Luận và triết lý Tánh Không đã tồn tại và gây hại cho biết bao nhiêu thế hệ người tu, quý vị hãy thận trọng suy xét. Vậy còn Không Tánh thì sao? Quý vị hãy đọc kinh Tiểu Không, Đại Không trong Kinh Trung Bộ tạng Nikàya, đức Phật đã dạy rõ 2 chữ này. Người không hiểu nên ép tưởng thành Tánh Không mới tạo ra bao nhiêu tai hại cho người tu từ nhiều thế kỷ qua. Hiểu ngắn gọn nhất về chữ Không Tánh là: người không còn Tánh Tham, Tánh Sân, Tánh Si, Tánh Mạn, Tánh Nghi,… tức là người đạt tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự, tức là người Giác Ngộ Giải thoát. Anh TKĐ chỉ là người giỏi văn chương thơ vịnh, còn Phật pháp thì anh có hiểu biết gì đâu, mong độc giả cùng mở lòng từ bi tha thứ. Hiếu (09/21/2012) Từ đoạn trích dẫn của phần comment trên "Vô ngã minh chứng cho lý Duyên Khởi của Vạn Pháp thật đúng như nó đã, đang, sẽ là..." (Kiên C.). Tôi có điều suy ngẫm như sau: Vậy Vô Ngã có phải là 1 Pháp hay không? Nếu không phải Pháp thì nó là gì? Còn nếu là Pháp thì cái gì sinh ra nó? Nó đã, đang và sẽ là gì??? Lý Tâm Như (09/21/2012) Tôi nghĩ đạo hữu Hiếu chưa đọc kỹ ý kiến của Chu Chơc Kiên đã vội nêu câu hỏi: “Vậy Vô Ngã có phải là 1 Pháp hay không? Nếu không phải Pháp thì nó là gì? Còn nếu là Pháp thì cái gì sinh ra nó? Nó đã, đang và sẽ là gì???”. Trong ý kiến của CCK đã trả lời đầy đủ như đoạn này: “Đức Phật không dạy Tánh Không mà chỉ dạy tam pháp ấn Vô thường, Vô ngã, Khổ. Đó là BA PHÁP giúp con người hiểu rõ con người và vạn pháp, để giúp người tu hành giải thoát. Tánh Không chỉ là một khái niệm của người sau không hiểu biết đặt ra. Vô ngã không nên chấp là Tánh Không thì sai lầm, mà nên hiểu Vô ngã minh chứng cho lý Duyên Khởi của vạn pháp thật đúng như nó đã, đang, sẽ là… cho nên Tánh Không là luận thuyết hư ảo khó chấp nhận.” Xin có ý riêng của mình góp với các đạo hữu. Con người và vạn pháp được hình thành và hoại diệt bởi DUYÊN HỢP và DUYÊN TAN, vì thế Vô ngã chứng minh cho Pháp mà đức Phật thường dạy để chúng ta quán chiếu: “Đây không phải là Ta, không phải là của Ta, không phải là bản ngã của Ta”, nó cứ tiếp tục biến hiện từ quá khứ đến hiện tại và tương lai như thế… Đó là sự học hiểu của phàm phu, chẳng rõ có chuẩn không, xin các bậc cao minh chỉ giáo. Hiếu (09/21/2012) Nếu Vô Ngã cũng là một Pháp, và khi nói dùng Vô Ngã để hiểu vạn pháp sẽ hàm ý: Dùng Vô Ngã để hiểu rõ Vô Ngã; Dùng Vô Ngã để minh chứng rằng Vô Ngã đã, đang và sẽ là gì... Điều này chẳng khác nào cái A là cái vấn đề chưa rõ, mà lại lấy cái A để chứng minh cho cái A. Phải chăng Vô Ngã phải là một cái "khác với Pháp" thì mới có thể minh chứng cho cái chưa rõ đó là Pháp? Chu Chơc Kiên (09/21/2012) Tôi thấy bạn Lý Tâm Như trả lời cũng khá rõ rồi, nhưng bạn Hiếu vẫn còn chất vấn thêm. Câu vấn của bạn: “Dùng Vô Ngã để hiểu rõ Vô Ngã; Dùng Vô Ngã để minh chứng rằng Vô Ngã”… “Điều này chẳng khác nào cái A là cái vấn đề chưa rõ, mà lại lấy cái A để chứng minh cho cái A”. Câu vấn này lý luận vòng vo, trườn uốn, không đưa đến lợi ích cho người học pháp. Sự dùng một pháp (giả huyễn) để chứng minh cho một pháp (giả huyễn) khác đó là phương tiện để người phàm phu dần hiểu. Không thể dùng Vô ngã để chứng minh cho Vô ngã được, điều ấy vô lý. Nhưng phải dùng Vô ngã mà hiểu lý Duyên khởi để phá chấp thân, phá chấp dục ái dẫn đến giải thoát, lúc bấy giờ mới biết rõ vạn pháp như thật. Vô ngã là một pháp, cũng giống như Vũ trụ là một pháp. Tôi hiểu ý bạn Hiếu muốn chất vấn thêm vì câu đáp của bạn LTN vẫn bỏ lửng làm bạn chưa thỏa mãn phải không? Bạn LTN trả lời như vậy là tôi thấy đủ, nhưng với bạn vẫn chưa được vừa lòng. Tôi xin có ý tiếp với bạn. Bạn LTN đã bỏ lửng ý mà bạn mong cầu nhất, đó là: “Còn nếu là Pháp thì cái gì sinh ra nó?” Câu hỏi này, nếu là các tôn giáo khác thì trả lời rất gọn gàng, đó là Đấng Tạo Hóa, Thượng Đế, Đức Chúa Trời, Gớt, Allah v.v… Thế thì tôi hỏi tiếp: Cái gì đã sinh ra các vị ấy? và tiếp nữa, cái gì đã sinh ra cái đã sinh ra các vị ấy? Cứ mãi như thế … thì thử hỏi có ai có thể đi ngược thời gian mà hy vọng tìm ra cái khởi nguyên của vũ trụ hay không? Giả sử có tìm ra như vậy cũng không có ích lợi gì cho cuộc tu hành của con người. Với trí phàm phu, bạn Hiếu cố gắng tìm ra được một số lớn nhất trong dãy số tự nhiên, khi nào bạn tìm được một số không có số nào lớn hơn nó thì tức là bạn đã tìm ra được khởi nguyên của vũ trụ và vạn pháp. Lúc đó bạn sẽ hiểu vì sao đức Phật không dạy con người tìm biết về nguồn gốc của vũ trụ và con ngưòi. Ngài chỉ dạy con người (cũng như vạn pháp) là Vô thường, Vô ngã, Khổ và con đường giải thoát khỏi khổ đau. Đó là điều ai cũng ước mong khao khát. Đừng mong cầu một điều gì khác ngoài những lời Phật dạy, thế là đủ. Hiếu (09/22/2012) Tôi chỉ dùng phương pháp luận sơ cấp để lập luận thôi: 1. Vạn pháp đều sinh và diệt bởi nhân duyên. 2. Vô ngã là một pháp. 3. Vậy vô ngã sinh và diệt bởi nhân duyên. Mỗi khi lập luận một vấn đề cần phải tuân theo một phương thức nào đó, ví dụ như: Tam Đoạn Luận, Nhân Minh Luận. Riêng lập luận vòng vo là các lập luận không tuân thủ theo phương pháp. Chu Chơc Kiên (09/22/2012) Tôi nghĩ không nên chuyển một vấn đề đơn giản, dễ hiểu thành vấn đề phức tạp khó hiểu. Đọc suốt 5 bộ kinh Nikàya tôi không thấy đức Phật dạy Tam Đoạn Luận, Nhân Minh Luận chỗ nào, xin bạn Hiếu vui lòng chỉ giúp. Nếu Tam Đoạn Luận, Nhân Minh Luận thuộc loại lý thuyết cao siêu của các bậc “Thượng căn, Thượng trí” do các tông phái vi diệu Tối Thượng Thừa nào đó khuếch trương thì có lẽ không phù hợp giới thiệu ở diễn dàn này. Hãy mang nó về với các trường chuyên khoa Phật học để các vị Trưởng tử nghiên cứu luận bàn chơi. Theo chỗ tôi hiểu, giáo lý của đức Phật dạy chỉ có CHÂN chứ không có LUẬN. Ví như Tứ Diệu Đế, Bát Thánh Đạo, Mười Hai Nhân duyên, 37 phẩm trợ đạo (là chân) thế là đủ để người học pháp tu tập đến nơi đến chốn. Còn các loại luận như: Trung Quán Luận, Nhất Nguyên Luận, Duy Thức Luận… toàn là những luận cao siêu cả mà chẳng dẫn phật tử tới đâu. Chỉ học những thứ đó để lý luận cho vui thôi chứ làm sao mà tu tập được, có điều nào thiết thực dạy người tu Giải thoát? Tứ Diệu Đế, Bát Thánh Đạo… là những lời Phật dạy chân thật, dễ hiểu nhưng vô cùng khó hành, Giới – Định – Tuệ có pháp hành nhưng không có người hành. Còn các luận như Tam Đoạn Luận, Nhân Minh Luận, Trung Luận… rất khó hiểu mà không có pháp hành, cho nên học chỉ để mà hý luận cho vui, vì vui mới có nhiều người hòa tán. Tôi nói thế, khéo bạn lại hỏi thêm, thế còn Tam Tạng Luận thì sao? Bạn hãy cố gắng mà tự tìm hiểu lấy, chỗ nào là lời Phật hãy chọn mà dùng, không phải lời Phật dạy thì CHỚ CÓ TIN. [“Dù Tam đoạn luận là hình thức chặt chẽ nhất của suy luận, nhưng một vài triết gia vẫn xem đó là phương pháp ít giá trị trong cuộc tìm kiếm CHÂN LÝ, do đó phải hết sức cẩn thận vì dễ bị rơi vào NGỤY BIỆN”. “Nhân Minh luận, một tên gọi khác của luận lý trở thành một môn học chính thức của Tăng Ni kể từ thời Trần Na (Dignàga, Ðại Vức Long), một môn đệ của Thế Thân (Vasubandhu), vào giữa thế kỷ thứ năm. Trong số các luận thức Nhân Minh do Ngài viết, có cuốn Chánh Lý Môn Luận là quan trọng nhất, trong đó Ngài tóm tắt và cải tạo lại hết thảy phương pháp Nhân Minh của đời trước. Sau đó, học trò của Ngài là Pháp Xứng (Dharmakìrti) và Thiên Chủ (Sankarasvamin; Thương Kiết La Chủ) tiếp tục hoàn chỉnh công trình của thầy lập thành môn Nhân Minh học có hệ thống chặt chẽ. Cuốn Nhân Minh nhập Chánh Lý luận (Nyàya-pravesa) của Thiên Chủ do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra Hán văn tuy tóm tắt nhưng đầy đủ yếu nghĩa Nhân Minh đã được lưu truyền đến bây giờ”. “Nhân minh là một trong ngũ minh học, năm môn học bao gồm hết thảy mọi vấn đề mà Phật giáo và các tôn giáo khác ở Ấn dộ rất chú trọng vào thời bấy giờ: Nội minh, nghiên cứu giáo nghĩa của tôn giáo mình; Nhân minh, nghiên cứu phương thức lý luận, tức luận lý học; Thanh minh, nghiên cứu ngôn ngữ, văn tự, cú pháp, tức ngữ học; Y phương minh, tức y học; và Công xảo minh, nghiên cứu công nghệ, kỹ thuật, khoa học”.] Hiếu (09/23/2012) Bạn Kiên ngụ ý là tôi không được phép sử dụng lập luận vì bạn "Đọc suốt 5 bộ kinh Nikàya tôi không thấy đức Phật dạy Tam Đoạn Luận, Nhân Minh Luận chỗ nào"? Chẳng khác nào nói: Khi luận bàn về Phật pháp, nếu như Phật không dạy viết chữ nên tôi không được phép sử dụng chữ viết, Phật không dạy các phép toán nên tôi không được phép sử dụng các phép tính toán, Phật không dạy sử dụng máy tính nên tôi không được phép sử dụng máy tính... Những cái đó Phật không hề dạy trong Nikaya, tại sao người đời sau vẫn dùng? Mở rộng hơn nữa, Phật không dạy lưu truyền kinh điển nhưng tại sao không y vào lời Phật mà lại phải lưu truyền kinh điển? Phật không dạy lập tông phái nhưng tại sao không y vào lời Phật mà lại lập tông phái? Phật có dạy cắt đoạn truyền giới cho Tỳ Kheo Ni không mà tại sao không y cứ vào lời Phật lại cắt đoạn việc truyền giới cho Tỳ Kheo Ni trong suốt bao nhiêu thế kỷ qua? Lý Tâm Như (09/23/2012) Đạo hữu Hiếu xem qua sự nghi vấn về Tam Đoạn Luận (chỉ là suy luận) và khái niệm Nhân Minh Luận (là một loại luận lý) như tôi trích ra dưới đây. Đó là lời dạy của các học giả xưa, học giả ngày nay cũng bắt chước học giả xưa mà suy diễn nên chẳng giá trị gì. “Dù Tam đoạn luận là hình thức chặt chẽ nhất của suy luận, nhưng một vài triết gia vẫn xem đó là phương pháp ít giá trị trong cuộc tìm kiếm CHÂN LÝ, do đó phải hết sức cẩn thận vì dễ bị rơi vào NGỤY BIỆN”. “Nhân Minh luận, một tên gọi khác của luận lý trở thành một môn học chính thức của Tăng Ni kể từ thời Trần Na (Dignàga, Ðại Vức Long), một môn đệ của Thế Thân (Vasubandhu), vào giữa thế kỷ thứ năm”. Đức Phật dạy Chân Lý tức là sự thấy biết như thật, còn các học giả dạy Suy Luận và Luận Lý tức là sự thấy biết bằng tưởng tri. Nếu đạo hữu Hiếu phân biệt được sự khác nhau giữa NHƯ THẬT và TƯỞNG TRI thì đối thoại mới không sai trật. Tôi đề nghị các đạo hữu cho ý kiến về bài của anh Kiêm Đoàn. Bài viết của anh Đoàn có giá trị gì cho Phật giáo hay không? để anh Đoàn còn biết đường nên viết nữa hay nên nghỉ? Bài của anh Như Thật hay chỉ là Lý Luận cho thêm vui đời? Chu Chơc Kiên (09/23/2012) Ô không, bạn Hiếu hiểu lầm ý của tôi rồi. Tôi nói rằng những giáo lý của đức Phật dạy, người phật tử phải nhận thức bằng Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thì mới chân xác được. Chẳng biết các thế hệ tu sĩ xưa nay (từ sau ngày Phật nhập diệt) hai hệ phái phát triển Bắc Tông và Nam Tông muốn đưa đạo Phật về đâu mà đẻ ra nhiều luận lý, suy diễn thế. Với mớ lý luận ấy, bạn và đa số các vị tu sĩ ngày nay đang ra sức “bảo tồn và phát triển”, nhưng thực sự chẳng có ích lợi gì cho người học Phật. Những suy lý luận của bạn dẫn ra thật vô lý. Tôi hỏi lại bạn, con người sanh ra có ai dạy phải ăn để mà sống không? Ăn để mà sống nên có ai lấy đất đá để mà ăn không? Đức Phật ra đời dạy con người con đường tu giải thoát (như con người phải ăn, biết ăn để sống), thế mà người tu xưa nay lại chọn con đường khác (như người chọn đất đá mà ăn) nên đạo Phật đến nay không có hồn của Phật. Như ý kiến của Tâm Như dẫn ra, tôi thấy bạn rơi vào NGỤY BIỆN luận mất rồi. Chúng ta là những thế hệ hậu học, thấy cái gì không phải của Phật thì tránh xa. Tôi thấy bạn bị lầm lẫn đấy, giáo lý không phải Phật dạy (giáo lý của tôn giáo khác) thì không bao giờ dẫn người tu đến giải thoát được. Như đề nghị của bạn Tâm Như, phải trở lại bài viết của anh Kiêm Đoàn. Theo hướng đề nghị này, tôi đã có ý kiến ngay từ lúc đầu tiên. Còn bạn Hiếu, tôi cũng muốn bạn trình bày nhận thức và quan điểm của mình về bài “Điệu Sống Giữa Đường” để mọi người hiểu thêm. |
Cập nhật ngày : 17.11.2012 | |||
Loạt Bài: VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI - BẢO VỆ CHÁNH PHÁP
(Phản hồi của độc giả trên DĐ/TVHS về bài viết của HT Thích Trí Tịnh) Lời BBT/GNCN Gần đây, trên trang nhà gioitnangchonnhu.org xuất hiện loạt bài VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI, BẢO VỆ CHÁNH PHÁP. Chúng tôi xin được thưa lại, đó là những ý kiến của độc giả trên các trang mạng Phật giáo khác. Chúng tôi sưu tầm và cho đăng lại một cách khách quan, nhằm giúp bạn đọc có cái nhìn đa chiều về những vấn đề liên quan đến đạo pháp của đức Bổn sư. Đối với quý HT Trí Tịnh, Nhất Hạnh và nhiều vị khác. Chúng tôi luôn xem các Ngài là những bậc Tôn đức đáng kính. Vì thế, nếu trên trang nhà GNCN có những ý kiến hoặc bài viết liên quan đến các Ngài, chúng tôi khẳng định, đó chỉ là những phản biện, phê bình về quan điểm, hoặc góp ý về pháp hành mà các Ngài đang giảng dạy cho Phật tử, hoàn toàn không có ý xúc phạm cá nhân. Đúng như Trưởng lão Viện chủ đã nói: “Pháp sai chứ người không sai.” Rất mong độc giả hiểu và đồng cảm với chúng tôi… Để qúy độc giả tiện theo dõi, xin giới thiệu nguyên văn bài viết của HT Thích Trí Tịnh trước, tiếp đó là phần ý kiến phản hồi… ĐỪNG DÍNH ĐẾN QUYỀN LỢI Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn chịu để vượt qua. Không phải hàng xuất gia không bị dính mắc vào quyền lợi. Huống nữa, chính quyền lợi đó sẽ đem đến những tai họa cho thân mình. Mấy huynh đệ tuổi còn trẻ, đường còn dài, phải lưu ý lắm mới được. Nói đến đây, tôi nhớ lúc còn học tại chùa Báo Quốc ở Huế, nhân đọc Đại tạng đến quyển Trúc Song Tùy Bút của Đại sư Liên Trì, phần nói về “Con nhện con tằm”. Trong ấy nói hai con vật này đều nhả tơ, giăng lưới. Nhưng một con phải chết vì sự nhả tơ đó, còn một con thì lợi dụng sự nhả tơ để bắt mồi. Con tằm nhả tơ rồi bị đem đi luộc, còn con nhện cũng nhả tơ nhưng lại tự tại qua lại trên những sợi tơ đó, không bị vướng kẹt. Đại sư Liên Trì đưa ví dụ này nhằm để khuyên nhắc tất cả mọi người. Vì ai nấy đều có sự nghiệp. Người đời cũng có sự nghiệp, mà người xuất gia cũng có sự nghiệp; chỉ là lớn hay nhỏ mà thôi. Tuy vậy, mình nhớ tạo sự nghiệp phải được như con nhện, đừng như con tằm nhả tơ rồi phải chết trong kén. Tôi nhận thấy bài đó hay, lấy làm thích thú, luôn nhớ và đem ứng dụng tu hành. Nghĩ lại, từ năm 1946 tôi lập Liên Hải Phật Học đường, các Phật Học viện, thành lập chùa, ra làm việc cho Giáo hội như: Trưởng ban Giáo dục, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự, rồi Viện trưởng Phật học viện Huệ Nghiêm… nhưng làm việc mà không bị ràng buộc. Lúc làm Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự, đã 4 tháng mà tôi vẫn chưa mở văn phòng. Mấy thầy thấy vậy thắc mắc hỏi thăm, riêng tôi lại nghĩ hễ lập thì bị kẹt phải vào ở đó. Về sau, tôi đích thân xuống thỉnh HT. Từ Nhơn giữ chức Phó Tổng vụ Tăng sự và đặt sẵn văn phòng tại chùa Ấn Quang. Thế là tôi mở văn phòng từ đó, nhưng chỉ đứng ở ngoài để lo tinh thần mà giảng kinh cho mấy huynh đệ học. Tôi không phải mong cầu những cái lợi như người đời thường nghĩ, chỉ luôn luôn cầu công đức. Cái lợi của người tu chính là thiện căn công đức, đâu phải là tiền bạc vật chất. Mấy huynh đệ phải nhớ mình ở chỗ nào nơi nào cũng phải gây tạo thiện căn công đức, đừng chạy theo những vật chất bên ngoài. Lúc giữ chức Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự tất cả là 10 năm. Trong thời gian đó hễ thầy nào muốn du học qua Hồng Kông..., hễ đến tôi thì tôi ký. Mà phải trực tiếp đến mới được, nếu qua trung gian thì người khác sẽ nghĩ mình làm việc có điều không tốt, chẳng hạn như vì tiền. Tôi chỉ nghĩ, phải trợ giúp cho mấy thầy được thuận duyên tu học, làm được việc này cũng chính là vun bồi căn lành công đức cho mình, không bao giờ dính đến tiền bạc. Điều thứ hai: Tôi luôn làm theo khẩu hiệu ngầm của riêng mình: Những việc đúng pháp, về mặt tinh thần hoặc vật chất thì “Không cầu cũng không từ”. Đây là khẩu hiệu để tôi lập thân, nghĩa là “Không tìm cầu cũng không từ chối”. Chẳng hạn, nếu có duyên cất chùa, mà cái duyên đó nó tự đến, nhận thấy đáng thì không từ chối. Cho đến tứ sự cúng dường cũng vậy, những vật gì không dùng, nhưng cũng không từ chối. Mình không sử dụng thì chuyển đến người khác, cho đại chúng dùng. Lúc trùng tu chùa Vạn Đức cũng vậy, tôi không cho đi quyên góp, ai hay biết thì đến cúng dường, còn “tìm cầu” thì nhất định không. Ngoài ra, nếu làm việc gì, dù có cái lợi lớn trước mắt nhưng khi làm có cái hại xen vô trong hiện tại hoặc tương lai thì tôi quyết không làm, không tham dự. Ví dụ như: Danh vị, tiền bạc, lời khen tặng… Nếu được lợi thì phải xem có cái hại hay không, nếu có phải tránh xa, thấy hại mà vẫn chạy vô thì bị nghiệp dẫn. Tôi thấy việc tu hành đã trải qua mấy mươi năm, nhờ ứng dụng hai điều trên nên không bị tổn thất chịu cái hại lớn, mà lại thấy việc nhẹ nhàng thảnh thơi. Tuy vẫn có sự lo lắng cực nhọc, nhưng ít thôi, còn kết quả cũng khá nhiều. Ở đây tôi đã nói tận đáy lòng, mấy huynh đệ thấy đúng lý thì nên bắt chước làm theo, để sự tu hành không bị vướng kẹt, thiện căn công đức luôn được tăng trưởng. Đó là điều tôi luôn mong muốn ở nơi tất cả mấy huynh đệ! (Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay số 12). PHẢN HỒI CỦA ĐỘC GIẢ tamnhulac (07/08/2012) Người cư sĩ chân chánh, dù không xuất gia bên ngoài, nhưng phải biết xuất gia bên trong. Xuất gia bên trong là buông bỏ bên trong đầu óc thói quen xấu chính mình như :tham ái ,cố chấp, mê tính, ích kỷ, đánh giá, ganh tị, sân si... Nếu không nhìn thấy, để có được nhận thức mới, con người dễ dính mắc vào Danh-Lợi-Tình. Cũng nhờ và cám ơn Danh-Lợi-Tình, con người có đối tượng để tu, để luyện tâm và phát triển trí giải thoát chính mình. Tâm Hành (07/08/2012) Kính thưa Đại lão Tỷ-kheo. Tôi thấy con tằm nó ăn lá dâu, cuối đời lặng lẽ rút ruột nhả tơ trả lại công sức cho người nuôi dưỡng nó rồi ra đi về cõi "vĩnh hằng" không chút vấn vương. Còn con nhện, tôi thấy nó tuy không phải con người bỏ công nuôi dưỡng, nhưng nó cũng chẳng mang lại tích sự gì cho đời. Nhện kia đủng đỉnh giăng tơ, lừa bắt con mồi vô phước. Mồi bị hút còn xác khô, nhện thì béo trục béo tròn, thủng thỉnh rong chơi, sinh con đàn cháu đống. Rồi cứ thế tiếp nối nhau đời này qua đời khác chuyên sống bằng nghề "giăng lưới giật giàm" lừa bắt chúng sinh để nuôi béo thân mình. Như thế thử hỏi, con tằm, con nhện, con nào thiện, con nào ác? Con nào có ích cho đời? "Người đời có sự nghiệp, người xuất gia cũng có sự nghiệp"... Vậy thưa Đại lão Tỳ-kheo, sự nghiệp của người xuất gia là gì?, xin đại lão thuyết giảng để người hậu học biết lối mà đi để không lầm lẫn. Đi theo nhện hay đi theo tằm? Và nếu đi theo tằm hay nhện thì cụ thể ra sao? thanh yên (07/16/2012) Người xuất gia mà có tư tưởng ý hướng hành đạo giống như Sư thầy thì phật tử thật vui mừng xiết bao. Cuộc đời giống như chiếc kính vạn hoa, đứng ở goác này thì thấy hình ảnh phản chiếu thế này, đứng ở góc độ khác thì thấy khác. Do đó, khi đọc có lẽ điều cốt yếu là nhận được thông điệp chính mà Sư thầy gửi gắm, đừng vướng mắc vào câu chữ .. Tâm Hành (07/19/2012) “… điều cốt yếu là nhận được thông điệp chính mà Sư thầy gửi gắm, …” Ở đây, thông điệp mà Sư thầy muốn gửi gắm là gì? Muốn con người vốn khổ sẽ được thoát khổ, hay muốn dẫn con người lao thêm vào ngũ dục lạc tăng trưởng? “đừng vướng mắc vào câu chữ” “Chữ” rõ ràng quá rồi sao còn vướng chỗ nào đâu? Con nhện, con tằm, người không học pháp ngày nào, cũng biết con nào thiện, con nào ác, con nào ích lợi, con nào vô ích. Thế mà người tu đã bảy tám chục năm trời vẫn chưa có mắt để mà thấu suốt. Thật tiếc thay cho cái sự tu hành. Nguyên Minh (07/20/2012) Gởi Tâm Hành. Việc cần hiểu và học ở đây là tơ được giăng và tơ được đóng thành kén. Nếu TH muốn biết thêm cách đọc vả hiểu các ví dụ trong Phật học, TH tình kinh Bách Dụ để xem. Nhơn giả tên Tâm Hành, vậy nên cần rất cẩn thận với những hành động lưu xuất từ tâm mình. Sẽ phải gánh vác những gì mình nói và làm đó. Nhất là đối với bậc Hiền Trí. Nếu TH có Thầy, hãy về xin Thầy dạy cách sám hối để được an vui về sau. Tâm Hành (07/21/2012) Thân ái chào Nguyên Minh. Bạn ơi, bạn hãy bình tĩnh lại mà Chánh Tư Duy: “Người đời có sự nghiệp, người xuất gia cũng có sự nghiệp…”. Lão niên đã dạy như thế. Phải chăng, sự nghiệp của người xuất gia thì như con nhện, còn người đời chỉ như con tằm, cái kén thôi? Tôi đã thưa, nhưng chưa được lão niên trả lời. Nếu có thiện chí, xin mời Nguyên Minh trả lời giúp lão niên câu vấn: Sự nghiệp của người xuất gia là gì? Làm thế nào để hoàn thành sự nghiệp của người xuất gia? Mong bạn giảng một cách vắn tắt, tôi sẽ tự tìm hiểu thêm. Thưa bạn, kinh Bách Dụ đâu có nghĩa lý gì đối với người tu? May ra chỉ để hết thời gian của người đời gặp lúc nông nhàn. Dụ rồi Dọa nữa chứ, bạn chớ nên tin kinh này, bám vào kinh này thì chả ích lợi chi. Bạn ơi, tôi chẳng sợ đọa địa ngục hay bất cứ đọa xứ nào khác, những ai đã hiểu Chánh pháp thì Vô Úy, Vô Úy. Tôi vẫn kính lão niên như một bậc lão thành, còn công đức của người tu thì lão niên chẳng thâu thập được bao nhiêu. Rất tiếc! Rất tiếc!!! Nếu có dịp, tôi sẽ dẫn chứng để chứng minh vô số sự mơ hồ, ngây thơ về Phật pháp của lão niên và của nhiều vị khác nữa. Chào bạn. Bạn nhớ giảng trạch giúp tôi: “Sự nghiệp của người xuất gia…?” Cảm ơn bạn. Phản Hồi Ở Bài: BỚT DUYÊN CHUYÊN TÂM NIỆM PHẬT Đại lão Thích Trí Tịnh (Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay số 17 tháng 5/2012) http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-70_4-16480_5-50_6-1_17-243_14-1_15-1/ Tâm Hành (07/10/2012) Thưa lão niên tỷ kheo, lời lão niên dạy đây: ... "Theo lời Phật, dù là hạng cực ác mà chịu hồi tâm tu theo pháp môn này (pháp môn Tịnh Độ), trong một thời gian rất ngắn (10 niệm) cũng được vãng sanh. Đã được vãng sanh thời siêu phàm nhập thánh, thoát hẳn sanh tử, bất thối vô thượng Bồ đề”… Thưa lão niên tỳ-kheo, đây là lời nói dối rất nguy hại (bảo lãnh sự làm ác cho người ít hiểu biết kinh sách). Tự thân tôi và tôi đã chứng kiến biết bao người niệm Lục Tự, Tứ Tự Di Đà tới hàng triệu biến trong nhiều năm, vậy mà có ai được vãng sanh đâu. Chẳng những thế mà trong cuộc sống vẫn đổ ra bao tai họa, khi lâm chung vẫn đau bệnh đi bác sĩ khốn khổ vô cùng. Lão niên là người Hoằng pháp, xin hãy gieo nhân thật thà, để cho chúng đệ tử có niềm tin Phật pháp, chứ cứ nói dối mãi thế này thì khéo đưa đạo Phật đến tiêu vong mất thôi. Lão niên cũng có dẫn: "Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành, Tự tịnh kỳ ý...", đây là lời thiệt (lời của Phật) sao không thấy lão niên dạy người tu pháp nào để thực hiện được "Tự tịnh kỳ ý", đó là điều quý giá nhất, trung thật nhất có khả năng đưa người Phật tử đến bờ Giải thoát, chấm dứt tái sanh luân hồi. Nếu lão niên cứ dạy các thời pháp kiểu này, hoặc như kiểu dẫn tích truyện "Con nhện, con tằm" thì chứng tỏ công phu tu tập của lão niên cả một đời thật là uổng phí. Kính lão. quang khiet (07/12/2012) Thưa bạn Tâm Hành, sao bạn không hiểu cái lý sâu của Hòa thượng dạy, vậy là bạn không hiểu biết chút nào về pháp môn Tịnh Độ tu niệm Phật, bạn nói đây là lời nói dối rất nguy hại, và đã chứng kiến nhiều người niệm Phật hàng triệu biến trong nhiều năm, vậy mà có ai được vãng sanh đâu, tại bạn không có duyên lành nhiều đời, rất nhiều phật tư tại gia tu niệm Phật sau khi chết hỏa thiêu còn lại xá lợi, Hòa thượng xuất gia tu niệm Phật năm 17 tuổi, đến nay Ngài đã 96 tuổi, Ngài là bậc cao tăng dịch Đại Kinh từ chữ Hán văn ra Việt văn, hiện ở Chùa Vạn Đức, tp Thủ Đức, chúc bạn sớm chọn cho mình 1 pháp môn để tu nhé, và học hỏi nhiều hơn, Mô Phật... Tâm Hành (07/14/2012) Thưa bạn quang khiet. Tôi hiểu pháp môn niệm Phật là như thế này: A-di-đà Phật “đến Thất nhật nhất tâm bất loạn, Dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền”. Đây có phải là cốt tủy, điểm đến của pháp môn Tịnh Độ không thưa bạn? Nếu đúng thế thì những người tu theo sẽ phải hết sức thất vọng. Vì sao? Bởi vì: - “Thất nhật nhất tâm bất loạn” nhưng tâm Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi vẫn còn đầy đủ. Như thế không có ông A Di nào dám tới rước về cõi thanh tịnh đâu. Mà sao dám nói tâm còn đủ Tham, Sân…? Vì niệm A Di không phải là cách làm cho sạch năm triền cái được, dù niệm cả triệu năm. - Đạo Phật là đạo Nhân bản – Nhân quả, con người là trung tâm, con người tự làm thì tự chịu với những hành động thiện ác của mình. Không nên mong cầu một vị nào dù là Thánh, Phật cũng không có ai rước mình đi đâu cả, chỉ có mình tự đi mà thôi. (Bạn cần nhớ: Không và không bao giờ có thánh chúng nào đến rước bất cứ ai cả, chỉ là mơ ngủ thôi). Bạn nói: “… rất nhiều phật tử tại gia tu niệm Phật sau khi chết hỏa thiêu còn lại xá lợi…”. Và tôi thì chứng kiến, rất nhiều kẻ bụi đời, giang hồ, đâm thuê chém mướn, hút chích xì ke… không hề niệm Phật bao giờ nhưng sau khi chết đem hỏa táng vẫn còn đầy xá lợi. Như vậy “còn lại xá lợi” đâu phải là kết quả, mục đích của người niệm Phật mong muốn? (có lẽ mấy kẻ đi hành ác suốt cuộc đời, rồi lúc sắp chết chỉ cần niệm 10 niệm Di Đà là được vãng sanh, nên mới còn xá lợi như thế?). Nếu tin ở sự kiện này chẳng là nguy hại lắm sao? Cả đời tha hồ làm ác, chỉ cần lúc sắp chết niệm 10 niệm là tội lỗi sạch không. Than ôi, như thế ai cần tu làm gì nữa? Bạn nói: “… Hòa thượng xuất gia tu niệm Phật năm 17 tuổi, đến nay Ngài đã 96 tuổi…”. Thưa bạn tôi rất hiểu điều đó, tôi cũng rất “kính lão” như một người cao tuổi, còn không thể như một bậc cao tăng được. Bởi vì tôi cũng hiểu lời Phật dạy trong kinh Pháp Cú: 260. “Không phải là trưởng lão, Dầu cho có bạc đầu. Người chỉ tuổi tác cao, Ðược gọi là: "Lão ngu." Qua ý kiến bạn, tôi trao đổi thêm mấy lời để chúng ta đồng cảm (và bạn cũng biết thêm, tôi ở cách chùa Vạn Đức không xa, tôi lạ gì. Chùa Vạn Đức có thể nói là chùa đẹp vào cỡ VIP ở TP. HCM, như thế chẳng phải là quyền lợi của HT hay sao?). quang khiet (07/18/2012) Thưa bạn Tâm Hành, tôi chưa bao giờ thấy những kẻ bụi đời khi chết để lại xá lợi, bạn thật sự phỉ báng cho những người tu theo pháp môn Tịnh Độ rồi đó, tôi chịu thua bạn thật rồi, như các vị Hòa thượng có nhiều Chùa to đẹp nào chẳng phải vì chúng sanh hay sao? Hòa thượng Thanh Từ là một bậc cao tăng đắc đạo, ngài cũng có rất nhiều Chùa, Thiền Viện to đẹp, cũng vì lợi ích cho chúng sanh thôi, các Ngài chỉ lo tu, nhờ đức hạnh cảm hóa mà phật tử cúng dường, long thần hộ pháp gia hộ, bạn thật sự không hiểu quý Ngài, chúc bạn luôn được gần gũi để học hỏi với quý Thầy, Nam Mô A-Di-Đà Phật... Tâm Hành (07/19/2012) Thưa bạn quang khiet. Cảm ơn bạn đã bớt chút thời gian trao đổi để chúng ta cùng nhau rộng hiểu. - Bạn nói: “tôi chưa bao giờ thấy những kẻ bụi đời…”. Tôi thưa: Là vì bạn chưa đủ duyên để được thấy đó thôi, những mảnh xương cháy chưa hết thì có gì quý đâu? Thân người bất tịnh, tâm người bất tịnh đều là thứ cần hiểu rõ. Cái đáng quý của người tu hành là làm sao cho thân tâm đều thanh tịnh, năm triền cái sạch trơn, thế là giải thoát, thế là vãng sanh. Tôi quả quyết rằng xá lợi chẳng có ý nghĩa gì đối với công phu tu tập của người có niềm tin chánh pháp và tu hành đúng pháp. - Bạn nói: “… như các vị Hòa thượng có nhiều chùa to đẹp nào chẳng phải vì chúng sanh hay sao?”… Tôi thưa: Có nhiều chùa to đẹp, Phật tử nhiều, được cung kính cúng dường đủ món nên các Ngài mải mê hưởng thụ mà quên mất công phu tu hành. Thế mới đáng buồn với cảnh: chùa thì to đẹp, đệ tử đông vui nhưng tu hành thì chẳng ra cái gì. Oai nghi đạo mạo bề ngoài thoạt trông ai cũng dễ nhầm, thuyết kinh giảng pháp thì như mưa tuôn, thác nhảy, nhưng tuyệt không có một pháp nào giống hay gần giống với pháp môn Phật dạy. Thế cho nên kết quả chẳng có ai làm chủ được Sanh, Lão, Bệnh, Tử và Giải thoát chấm dứt tái sanh luân hồi. Để chứng minh điều tôi nói, bạn cứ đọc các bài viết của các vị “được coi là rất tôn túc” trên website TVHS này sẽ rõ. Ví như bài viết của lão niên Thích Trí Tịnh (Bớt duyên chuyên niệm Phật, Đừng dính đến quyền lợi), hay bài của lão niên Thích Thanh Từ (Phật giáo thiền tông thực tế đến không ngờ, Luận về niệm Phật, …) thì thấy các vị có nhận thức rất mơ hồ về Phật pháp. Bạn cứ nghĩ rằng các vị đã làm lợi cho chúng sanh. Điều đó rất hạn chế. Thực sự giáo pháp của các vị giảng dạy chỉ khiến cho chúng Phật tử lao thêm vào đường mê không biết đến bao giờ thoát ra được. - Bạn nói: “… bạn thật sự không hiểu quý Ngài …” Tôi thưa: Bạn nhầm rồi, có lẽ bạn ở xa các Ngài nên bạn không hiểu thôi. Còn tôi thì không lạ gì, cả những chuyện có thể là “bật mí” của các Ngài, nhưng đối với bốn chúng Phật tử đến chùa, mọi người đều có mắt, có tai để mà nhận thấy hết. Bạn có biết lão niên Thanh Từ ngày nay ra sao không? Và bạn có hiểu như thế nào là cao tăng, như thế nào là đắc đạo hay không? Bạn chỉ nói theo một cách chung chung quá. Chúc bạn mau sớm gặp được chánh Phật pháp. Nam mô Phật Bổn Sư Thich-ca Mâu-ni quang khiet (08/17/2012) Gửi bạn Tâm Hành, theo bạn vậy ai mới là cao tăng và đắc đạo để tôi sẽ đến thỉnh học Phật Pháp, theo tôi thấy bạn chưa hiểu gì nhiều về luật nhân quả và nghiệp lực. Chúng sanh có cái bệnh là hay thấy lỗi người và không xoay lại nhìn thấy lỗi cảa mình, tất cả mọi người đều phải trả nghiệp xấu của mình đã gieo trồng ở đời này và vô số kiếp trước, cho nên bạn thấy các vị Hòa Thượng bệnh là việc bình thường, đến Đức Phật Thich Ca Mâu Ni của chúng ta vẫn con phải trả nghiệp, nếu bạn đọc lại tiểu sử trước khi Đức Phật viên tịch nhập Niết bàn, thì bạn sẽ hiểu thôi. Theo tôi nghĩ bạn có thể học đọc nhiều về lý thuyết, nhưng không có công phu quán chiếu nội tâm, cho nên mới không cung kính các Ngài. Đức Phật đã dạy không nên tranh luận, nếu là người tu mà còn tranh luận tức là còn hơn thua đó. Vậy tôi xin bạn chỉ giúp giùm ai mới là cao tăng và tu đắc, cảm ơn nhiều. Tôi có theo học với Hòa thượng Tri Quang, HT Từ Thông, và học đọc sách của HT Huyền Quang, HT Quảng Độ. Tôi thật sự muốn bạn cho biết theo ý của bạn ai là cao tăng và đắc đạo? Tâm Hành (08/19/2012) Tôi xin trao đổi với bạn quang khiet mấy lời dựa theo ý kiến của bạn: - Rất tiếc cho lão niên tỳ kheo Thích Trí Tịnh, có tới gần 80 tuổi hạ rồi nhưng nay theo mấy bài giảng của lão niên thì ôi thôi, thật rồi, công phu chừng ấy thời gian thành công cốc. Tôi thẳng thắn nói rằng, lão niên chưa hiểu biết gì về con đường tu tập giải thoát Phật dạy. Quan điểm, đường lối của lão niên theo một niềm tin khác, chỉ mong cho con người lao vào vòng mê tín để dễ bề lừa đảo mà kiếm sống, cũng như hạnh của con nhện thôi. - Đạo Phật giúp người tu hành là để chuyển nghiệp chứ không phải trả nghiệp. Dẫu biết rằng Luật Nhân-Quả không bỏ sót một ai, nhưng đối với người Phật tử thuần thành thì Luật Nhân-Quả phải nể mặt. Có nghĩa là: làm người với tấm thân vô thường biến hoại, không ai thoát khỏi bệnh, nhưng người con Phật phải biết cách làm chủ nó chứ không để nó xỏ mũi mình. Người tu hành còn đến bệnh viện, đi bác sĩ là không phải người đệ tử Phật. - Nếu bạn tin rằng đức Phật ăn phải thức ăn độc (biết độc mà vẫn ăn như trong kinh đã viết) thì bạn chưa có một tý gì hiểu biết về Phật và năng lực thâm diệu làm chủ bốn sự khổ: sanh, lão, bệnh, tử của đạo Phật. Bạn học lại đi nhé. - HT Trí Quang, Trí Quảng, Từ Thông, Huyền Quang, Quảng Độ, hay ngược dòng thời gian tìm hiểu các thầy Tổ: Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Khả… đến Lục Tổ và gần hơn như HT Hư Vân, Tuyên Hóa, Mahasi, Ajanh Cha… Nhất Hạnh, Dalai Lama… Tất cả các vị này chưa có ai thấm nhuần lý – sự của Phật dạy, và thành tựu tu tập thì lại càng chưa. Chắc chắn bạn không tin lời tôi nói đây, vì bạn đang đam mê trong một niềm tin vô vọng của thế giới tưởng đè nặng từ bao đời. - Câu bạn hỏi: Ai là người cao tăng đắc đạo? Xin bạn đừng thần thánh quá hóa mê, người đắc đạo rất gần gũi với chúng ta, bình thường như chúng ta nhưng những điều rất bình thường mà muôn ức người không làm được thì Ngài làm được. Đó là người làm chủ được bốn sự khổ của kiếp người, đã bỏ được gánh nặng xuống, đã chấm dứt tái sanh luân hồi. Bạn có ý kiến nhiều trên TVHS này sao bạn vẫn chưa thấy ư?. Bạn vào trang web chonnhu.net mà xem, sẽ rõ. |
Cập nhật ngày : 19.11.2012 | |||
Loạt bài: VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI - BẢO VỆ CHÁNH PHÁP
(Kì 5: Đối thoại với Tỳ kheo Thích Nguyên Hải) "Linh hồn" và "thế giới siên hình" là những đề tài được bàn luận nhiều trên các diễn đàn tôn giáo. Trưởng lão Thích Thông Lạc cũng đã viết một cuốn sách tuyệt vời về đề tài này với nhan đề " Linh Hồn Không Có", và cũng từ cuốn sách này, gây không ít thắc mắc với nhiều bạn đọc vốn chịu ảnh hưởng tư tưởng Phát triển các tông phái...
Tuy nhiên, bên cạnh những thắc mắc thiện chí muốn tìm hiểu thực sự, còn có những thắc mắc rất thiếu thiện chí, hỏi để "bắt bí" mà không cần câu trả lời. Đó là trường hợp của bạn huy cường trên DĐ/TVHS.
Trong phạm vi hiểu biết của mình, đạo hữu Minh Huy và Phương Minh đã có câu trả lời, nhưng không phải trả lời thay Trưởng Lão Thích Thông Lạc, càng không phải trả lời cho những người thiếu tinh thần phục thiện như bạn huy cường. Thật sự họ chỉ muốn nhân câu hỏi này đánh động hàng Phật tử đang bị lạc dẫn bởi những tông phái Phát triển, thoát khỏi sự mê tín trong thế giới siêu hình tưởng, trở về với lời dạy Nguyên thủy của đức Bổn sư...
Bìa sách "Linh Hồn Không Có"
HIỂU TƯỞNG UẨN, BIẾT RÕ LINH HỒN LÀ KHÔNG CÓ
VẤN ĐÁP - ĐỐI THOẠI huy cường (08/01/2011) Sao đọc trong sách "Linh hồn không có", mình thấy có điểm vô lý như sau: thầy Lạc nói là cơ thể chúng ta gồm 5 uẩn, khi chết thì 5 uẩn này sẽ tan rã không còn chi, vậy mà lúc giải thích hiện tượng nữ thánh Bernadette, thầy Lạc lại nói là do tưởng uẩn của cô hoạt động nên thân xác không tan rã. Mình thấy rõ ràng là vô lý vì thầy nói chết là ngũ uẩn tan rã thì tưởng uẩn cũng phải tan rã theo chứ làm gì còn hoạt động làm thân xác không tan rã. Các bạn theo thầy Thông Lạc vui lòng giải thích giúp mình với? Minh Huy (08/02/2011) Thân gửi bạn huy cường. Tôi không phải là đệ tử của thầy Thông Lạc, cũng chẳng phải là người “theo thầy Thông Lạc”. Nhưng tôi thấy chuyện này cũng dễ hiểu thôi! Với điều kiện bạn tạm thời dẹp bỏ thành kiến và chấp nhận những khái niệm mới mà bạn chưa từng thấy trong các sách vở Đại Thừa. Ví dụ: sắc thức, tưởng thức, tưởng lực v.v… Đại khái là khi con người chết, năm uẩn dĩ nhiên phải hoại diệt theo, nhưng tưởng uẩn có thể là uẩn bị hoại diệt sau cùng... Trong tưởng uẩn nó có một cái “biết” mà thầy Thông Lạc gọi là “tưởng thức”. Tưởng thức này có thể chuyển hóa thành “tưởng lực” khi nó tương ưng với một loại nhân quả nào đó… Tưởng lực này mạnh hay yếu tùy vào nhân qủa của mỗi người… Khi con người chết, nếu tưởng lực yếu, thì tưởng uẩn sẽ bị hoại diệt cùng lúc với bốn uẩn kia… Ngược lại, nếu tưởng lực mạnh, nó sẽ duy trì, tồn tại một thời gian trước khi hoàn toàn bị hoại diệt… Khi nó chưa hoàn toàn bị hoại diệt, nó sẽ tương ưng với chính nhân quả của nó trong thời điểm đó… Vì thế mới có hiện tượng báo tin cho người thân ở xa vào đúng thời điểm mà người đó chết, hay có những người chết oan ở đâu đó về báo tin cho người thân đến tìm xác họ một cách chính xác… Chính điều này khiến người ta lầm tưởng có linh hồn… cũng có thể hiểu nó tương tự như trạng thái “trung ấm”, hoặc trạng thái “bardo” của Phật giáo Tây Tạng. Nhưng chỉ là tương tự thôi chứ không chính xác, vì những trạng thái này có được cũng do tưởng lực mà có… Nhưng điều cần chú ý ở đây là cách giảng về năm uẩn của thầy Thông Lạc có khác với sách vở truyền thống của Phật giáo Đại Thừa ở chỗ thầy Thông Lạc nhấn mạnh đến 3 loại thức ở mỗi con người. Đó là: “ý thức” thuộc sắc uẩn, “tưởng thức” thuộc tưởng uẩn và “thức thức” hay còn gọi là “tâm thức” thuộc thức uẩn… Theo thầy Thông Lạc, vì sắc uẩn không đơn thuần chỉ có tứ đại, mà trên tứ đại đó còn có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý… do đó ý thức thuộc sắc uẩn còn được gọi là “sắc thức” Điều này xác định tứ đại trên sắc uẩn của con người khác với trên các loài động vật khác, hay chính xác hơn, các loài động vật vẫn có “sắc thức”, nhưng rất yếu, gần như bị tê liệt hoàn toàn, do dó chỉ có con người mới biết dùng ý thức của sắc thức để tu. Đây cũng chính là ý nghĩa của câu “thân người khó được…” . Hành giả chi nên lấy ý thức mà tu. Tuyệt đối không tu bằng tưởng thức, còn thức thức hay tâm thức chỉ được khai mở dần trong bốn thiền… Tưởng thức đặc biệt nguy hiểm đối với người đang tu vì nó có thể dẫn hành giả đến các cõi thiền tưởng… Chính cái “tưởng thức” này biến thế giới hiện thực thành thế giới siêu hình. Đây cũng là chỗ khai sinh ra các tôn giáo. Đối với Phật giáo Đại thừa thì đây cũng chính là chỗ khai sinh ra các tông phái… Bạn có thể chấp nhận hay không chấp nhận, nhưng xin miễn tranh luận vì tôi cũng là người đang tìm hiểu… Trường hợp cô Bernadette do lòng tin tưởng cao độ vào Thiên Chúa nên Tưởng uẩn của cô hoạt động. Nhờ Tưởng Uẩn hoạt động nên thân xác cô không hư hoại sau khi chết. Phương Minh (08/03/2011) Kính thưa quý vị đọc giả, Thưa bạn Huy Cường, Câu hỏi (ngày 01/8/11) của bạn có tính tò mò, tọc mạch không hướng đến lợi ích cho sự tu tập nên chúng tôi không trả lời, có lẽ vì thương bạn quá ngây ngô không khác gì bạn Ng.Hải bao nhiêu nên đạo hữu Minh Huy mới trả lời thêm cho bạn rõ. Thực sự thì câu chuyện về cô Bernadette, Trưởng Lão đã giảng đáp quá rõ ràng mà người thiểu trí nhất cũng hiểu được bằng ý thức của minh. Ở đây PM hiểu, bạn muốn tò mò đận chuyện để được biết thêm những điều không thể thấy biết được của người phàm phu, dẫu rằng Trưởng Lão có nói thêm nữa thì cũng chẳng khác nào đàn gảy tai trâu mà thôi. Chuyện thấy biết và giảng thuyết về thế giới siêu hình nằm ngoài sự hiểu biết của phàm phu, chỉ những bậc có Tam Minh thì nó quá đơn giản như xem chỉ trong lòng bàn tay. Tuy vậy Trưởng Lão chỉ giảng vừa đủ để mọi người hiểu được. Vì sao vậy? Bởi vì, như đức Phật đã dạy: “Nếu ta nói một điều gì mà người nghe không thấy, không biết được là có nói láo trong ta…”. Từ đây bạn cũng có thể suy ra, hơn năm trăm câu chuyện về tiền thân đức Phật (trong Tiểu bộ kinh – tạng Nikaya) là những câu chuyện không có cơ sở để gán cho Phật thuyết, đó chỉ là những câu chuyện hý luận để những người rảnh rỗi và nhụt chí tu hành tiêu phí thời gian, hoặc để cho các nhà học giả tìm hiểu, nghiên cứu thêm về những vấn đề xã hội của lịch sử Ấn Độ mà thôi. Chuyện cô Bernadette, Trưởng Lão có đủ năng lực cứ ngồi ngay tại Trảng Bàng vẫn làm cho thi thể cô tan rã được, nó quá đơn giản đối với năng lực của Ngài. Nhưng nếu làm như vậy thì có mang lại lợi ích gì cho ai? Để minh chứng, có người hỏi: “Có cách nào làm cho thân xác cô Bernadette đang tươi như vậy tan rã không? Hay là cứ để theo thời gian sẽ tan rã?” Trưởng Lão trả lời: "Chỉ cần một người nhập vào Thức Vô Biên Xứ Tưởng thì sẽ bắt gặp Tưởng thức của cô Bernadette và giúp Tưởng thức cô ngưng hoạt động thì thân cô tan rã tức khắc. Còn nếu cứ để Tưởng thức của cô Bernadette hoạt động thì thân xác cô không bao giờ tan rã". |
Cập nhật ngày : 27.11.2012 | |||
Loạt Bài: VẤN ĐÁP, ĐỐI THOẠI - BẢO VỆ CHÁNH PHÁP
(Phản hồi của độc giả trên DĐ/TVHS về CHÚC THƯ... của HT Thích Nhất Hạnh) Lời BBT/GNCN Về "Chúc thư" cuả HT Thích Nhất Hạnh, GNCN hoàn toàn tôn trọng và không có ý kiến... Tuy nhiên, nhận thấy phần ý kiến độc giả tương phản, đa chiều, nhiều độc giả nêu ý kiến đáng để suy gẫm... GNCN trích đăng lại trên tinh thần khách quan vô tư. Phần nhận định đánh giá là tùy ở bạn đọc...
CHÚC THƯ CỦA HT THÍCH NHẤT HẠNH Thông bạch ngày tiếp nối – Mừng sinh nhật Thầy 11/10/2012 (http://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/thong-bach-ngay-tiep-noi-11-10-2012) (http://www.thuvienhoasen.org/D_2-166_1-2_15-1_5-50_6-1_4-17251_14-1_17-123/) Và sau đây xin trích vài đoạn lời dạy của Thầy khi tăng thân Tổ Đình Từ Hiếu tỏ ý muốn được nghe những lời Thầy sách tấn. “Không cần xây tháp cho Thầy Thầy không muốn sau này quý vị xây cho Thầy một ngôi tháp ở Tổ Đình. Xây tháp như thế sẽ không có ý nghĩa gì nếu ngày hôm nay quý vị không nối tiếp được những gì Thầy đang trao truyền… Tổ Đình cần tu học theo pháp môn Làng Mai một trăm phần trăm Đứng về phương diện tu học, Thầy muốn Tổ Đình phải theo pháp môn Làng Mai một trăm phần trăm. Pháp môn ấy là công trình của Thầy đã xây dựng nên. Có nhiều tôn túc đã xây nên những ngôi phạm vũ thật huy hoàng. Đó là công trình lớn lao của quý ngài. Nhưng công trình của Thầy không phải là một tòa phạm vũ nguy nga mà là những pháp môn tu học có công năng chuyển hoá và trị liệu được cho người đương thời. …Thầy muốn Tổ Đình đi theo pháp môn của Làng Mai. Đó là công trình xây dựng của Thầy sau sáu mươi năm tìm tòi và phát triển, đó là một cái tháp mà Thầy đã dựng lên. Ngôi tháp của Thầy: các pháp môn tu tập Các pháp môn tu tập ấy chính là cái tháp của Thầy. Ở Pháp Vân hay ở Tổ Đình đều phải có cái Tháp ấy. Không phải một cái tháp bằng gạch, bằng xi măng mà là một cái tháp của sự thực tập. Tất cả các thầy, các sư cô, các sư chú và các vị Phật tử cư sĩ tới, ai cũng được mời đi vào cái tháp đó. Nghĩa là phải học đi trong chánh niệm, uống trà trong chánh niệm, biết nói năng cho từ ái và biết lắng nghe nhau…” NHỮNG Ý KIẾN PHẢN HỒI Thích Nữ TP (11/08/2012) Kính Thầy. Con đã từng có những ngày gần bên Thầy tại Làng Mai. Nhưng!!! Lời Thầy dạy: "Thầy muốn Tổ Đình đi theo pháp môn của Làng Mai. Đó là công trình xây dựng của Thầy sau sáu mươi năm tìm tòi và phát triển, đó là một cái tháp mà Thầy đã dựng lên". Và đây nữa, cũng vẫn là lời Thầy dạy: “ - Đức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng Đế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống. - Tôi thấy chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài. - Trong nhãn quan Phật Giáo, ai không phải là con của Thượng đế? - Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa khi một người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng Đế và con của Người. Chúng ta cũng là con của Thượng Đế và của song thân chúng ta. - Nơi duy nhất chúng ta có thể tiếp xúc với Giêsu và Nước Chúa là ở trong nội tâm mình. - Khi chúng ta theo dõi và tiếp xúc một cách sâu sắc với cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu, - Chúng ta có thể thâm nhập vào sự thật của Thượng Đế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao dung, là những biểu hiện của cuộc đời Chúa Giêsu. Thượng Đế xuất hiện với chúng ta qua Giêsu Ki Tô. Với Thánh Linh và Nước Chúa ở trong Ngài....” Thưa Thầy, Phật và Chúa, Chúa và Thầy, Thầy và Bụt, con biết tin ai? Công trình 60 năm tìm tòi của Thầy, vì vậy mà Thầy chưa có thời gian nhìn lại cuộc tu hành của mình. Giải thoát là gì? Hay chỉ là một chốc lát sống trong tưởng an lạc trên bước chân đi, nhưng sau thời tu, trở lại một mình thì nỗi buồn cô tịch mênh mang. Theo lời Thầy, con đã: "...đi trong chánh niệm, uống trà trong chánh niệm, biết nói năng cho từ ái và biết lắng nghe nhau."... nhưng tâm con vẫn không an, cái tâm tham, sân, si vẫn còn đầy đủ, con vẫn thích có nhiều chùa to đẹp như những công trình của Thầy, thích có được tăng đoàn đông đảo đoanh vây, thích có được danh vang lừng khắp nẻo... Thưa Thầy, chả lẽ pháp môn Thầy dạy có thể nhầm chăng? Xin Thầy xem lại. Con: Thích Nữ TP. CL langmai (11/08/2012) Cảm ơn Thích Nữ TP, Ơn bạn rất nhiều vì bạn đã nói thay những điều tôi muốn nói. Còn nhiều hơn nữa nhưng tôi không đủ lực để nói ra. Hiểu Thầy Nhất Hạnh, hiểu đạo, rồi tiếc cho những tháng ngày đặt niềm tin không đúng nơi đúng chỗ. Tuy vậy, vẫn xin có lời cám ơn Thầy, bởi có pháp của Thầy đối chứng nên tôi đã nhận ra. Giác Tâm (11/09/2012) Chào bạn Thích Nữ TP! Có thể bạn đã từng là Sư Cô không chừng, nhưng có lẽ bạn đã và đang lạc lối! Tôi thực sự rất ít thích bị lôi kéo vào những chuyện đấu đá không cần thiết, nhưng trước những lời mạo phạm về Sư Ông Nhất Hạnh, tôi buộc lòng phải thu hết can đảm của mình để cần phải nói lên một vài điều: - Sư Ông Nhất Hạnh là một học giả lỗi lạc của thế giới, tôi có nói câu này cũng thừa. Sự nghiệp của Sư Ông, tấm lòng của Sư Ông được cả thế giới đón nhận. Những nỗ lực của Sư Ông là tấm gương cho hậu thế. Sư Ông đã viết sách vô số, và vô số tựa sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bạn và tôi liệu đã viết được một đoản văn nào cho nên hồn để cho có ai đọc? Ngoài kỹ năng viết, Học giả còn cần phải có một tư tưởng và hơn hết là một tấm lòng đối với thế nhân. Đọc những tác phẩm của Sư Ông từ khi còn chưa được công khai phát hành, lại là những bản photocopy chuyền tay nhau từ những năm 1991- 1992 như Trái tim mặt trời, Phép lạ của sự tỉnh thức… tôi đã nhận ra tư tưởng và tấm lòng của Sư Ông đối với thế nhân. Tôi thầm cảm ơn Sư Ông với tất cả khả năng và nỗ lực của mình đã đem đến một tư tưởng mới, một cách nhìn mới trong Đạo Phật. Và tôi cũng thầm cảm ơn ai đó đã nỗ lực hoằng truyền những tác phẩm như vậy trong giai đoạn đó. - Bạn đã từng ở bên Sư Ông tại Làng Mai như lời bạn nói ư? Rồi bạn chẳng tự mình tu tập được gì sao mà lại còn nói lời trách móc? Bạn đã nói điều này với Thầy Cô (Y chỉ Sư) nào quản lý bạn chưa, vị này có ý kiến gì không hay cũng đồng tình với bạn? Bạn nói từ Chúa qua Phật, từ Phật qua Thầy sao thấy mất phương hướng quá giống như “tẩu hỏa nhập ma” vậy? Lại còn trưng ra danh từ giải thoát chi cho nặng nề vậy? Sư Ông dạy Hơi thở, bước chân và thiền quán, cũng như uống trà trong Chánh niệm… nhưng tựu trung cũng chỉ là Chánh niệm. Chánh niệm có lúc mạnh, có lúc yếu, có lúc tạp loạn. Những lúc tạp loạn mình cần phải tái lập lại bằng cách đem hơi thở về với ý thức, hoặc cách nói khác đem ý thức trở về với hơi thở; hoặc theo các Pháp môn khác như Niệm Phật, trì Chú, Tụng Kinh, Tĩnh tọa. Khi nào mình Chánh niệm, khi đó là giải thoát. Đó là một cách nói đơn giản cho dễ hiễu. Còn nếu phân tích sâu thêm rằng còn thấy có Chánh niệm thì khi đó không hề có Chánh niệm, thì càng nhiều chi tiết thì càng thêm rối; chưa cần thiết quan tâm tới. - Trong Truyện Kiều có câu: “Quan phòng then nhặt lưới mau/ Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người” tả về Sư Cô Trạc Tuyền lúc mới xuất gia mang hình thức người tu nhưng trong tâm không có tu. Tôi thấy câu này gần gần giống với tâm trạng của bạn. Tu tập chưa dẹp được tập khí phiền não đều là bệnh của số đông. Nhưng đem bệnh của mình để đi chỉ trích ngược lại Ông Thầy thuốc điều trị bệnh cho mình thì thật là quá quắt. Kẻ cướp đi sự an lạc của mình có thể do hoàn cảnh môi trường bên ngoài mà cũng có thể là do nội tâm mình tự “tua” đi “tua” lại những đoạn phim cũ trong nội tâm, từ đó tự mình làm mình bất an, đau khổ và tức tối với những câu chuyện cũ. “Đừng tìm về quá khứ/ Đừng nghĩ đến tương lai/ Quá khứ đã qua rồi/ Tương lai thì chưa tới/ Hãy sống trong hiện tại/ An lạc và thảnh thơi...”. - Bạn hãy dành thời gian ngồi lắng tâm lại và suy nghĩ vì sao bạn đã từng “sống chết” với lý tưởng của mình và cơ duyên may mắn lớn nào đã đưa đẩy bạn gặp được Sư Ông Làng Mai tại Làng Mai, một cơ duyên mà không phải ai “mơ” cũng thấy được. Tại sao lý tưởng ngày đó như vậy mà bây giờ đến nỗi như vầy? Chắc chắn ngày đó, trước mặt Sư Ông bạn đã nói những lời khác với bây giờ. Vì nếu không bằng lòng thì bạn đã không đi để gặp mặt. Sự thật do đâu? Bạn đang giận hờn Sư Ông hay bạn đang giận hờn chính bạn tu tập không có kết quả, không có hạnh phúc an lạc thật sự rồi giận ngược lại Sư Ông? Giống như ví dụ người ta hay kể một em bé gái xin mẹ cho em được đi ra chợ cùng mẹ. Đến khi ra chợ, em bị vấp té. Em khóc và la lên rằng: “Tại ai bảo Mẹ cho Con đi chợ với Mẹ làm chi nên Con mới bị té đó!”. nguyensi (11/09/2012) Trao đổi với cô Thích Nữ TP. Con đường tu tập quả là chông gai. Cuộc sống hiện tại là sự thật, là chân lý và ta va chạm với nó. Ta không hài lòng về nó và ta nghi ngờ tất cả, những điều ta đã từng tâm đắc. Tôi không phải là một phật tử, lẽ dĩ nhiên tôi dễ dao động. Nhưng rõ ràng cuộc sống của tôi là một thử thách ghê gớm. Tôi có gia đình, bạn bè người thân của tôi cho rằng cuộc đời tôi là một địa ngục. Một là tôi phải đầu hàng bằng sự trốn chạy, hai là phải đối diện với nó-bằng cách nào? Nếu thấy những câu kinh, triết lý nhà Phật trở nên giáo điều, vô nghĩa với sự thật hiện hữu, thì ta còn gì để tin. Thực tế sống mới chiêm nghiệm được câu: Khó mà hiểu được con đường của đạo. Ta vẫn trốn chạy bốn sự thật. Ham muốn của chúng ta vẫn còn mạnh mẽ quá. Một điều muốn chia sẽ cùng cô, hãy suy nghiệm về thượng đế. Ông (hay bà) là ai? Mặt mũi hình tướng thế nào? Nếu có thật, tại sao ngài lại tạo ra một thế giới "khổ đau" như thế này? Với tôi, có lẽ mọi người sẽ phỉ báng nếu tôi nói câu theo nhiều vị thầy đã nói: Ta là một phần của thượng đế, hay thượng đế là cuộc sống. Nó là vậy. (hôm nay học được cách gọi của thầy TNH là ngày tiếp nối- continuation dạy, thật là hay). Có thể Thích nữ TP nói vậy mà không phải vậy. mong được trao đổi thêm với cô. nguyen (11/09/2012) Các bạn, tôi là một Phật tử nhưng không thuộc pháp môn của Sư ông Nhất Hạnh, tôi xin được góp một vài ý kiến, mong các bạn chỉ giáo cho những chỗ nào các bạn thấy không ổn. Trong sự truyền bá đạo Phật có 2 điều căn bản là sự truyền bá phải “khế lý và khế cơ”, nếu khế lý mà không khế cơ thì sự truyền bá chỉ thu hẹp trong một số ít người, không được rộng rãi, còn khế cơ mà không khế lý thì không còn là đạo Phật nữa. Pháp môn của Sư ông rõ ràng là đã khế cơ, đã chọn được một vùng đất thích hợp, đó là ở phương Tây, là nơi có một truyền thống Thiên Chúa giáo lâu đời và nói chung những người ở đây ưa chuộng cái gì có tính cách hình thức (tôi có “vơ đũa cả nắm” không?), do đó việc trộn lẫn Phật giáo và Thiên chúa giáo và các sinh hoạt có tính cách hơi trình diễn như hát hò, dẫn từng đoàn người rất đông đi kinh hành ngoài đường phố… rất dễ được chấp nhận. Nhưng rõ ràng khế cơ mà không khế lý, những điều Sư ông nói về Thượng đế rõ ràng không phải là của đạo Phật, bất cứ ai có một chút kiến thức về đạo Phật đều biết rằng trong đạo Phật không có một chỗ nào dành cho Thượng đế cả, đạo Phật hoàn toàn trái ngược với các đạo độc thần khác. Như vậy có thể nói pháp môn của Sư ông không phải của đạo Phật và cũng không phải là một chi nhánh của đạo Phật nữa, đó chỉ là một sự trộn lẫn giữa Phật giáo, Thiên Chúa giáo, và những gì của riêng Sư ông trong quá trình mấy chục năm hành đạo. Theo cái nhìn của tôi, pháp môn của Sư ông là như vậy, ai thích hợp và thấy được an lạc trong pháp môn này thì theo, ai không thấy thích hợp thì không theo, không có gì phải phê phán, đả kích hay ca tụng cả. nhất nguyên (11/09/2012) Thích Nữ TP đang hành đúng chính pháp, đúng ý Phật muốn dạy. Đức Thế Tôn chẳng thường nhắc nhở: Dù là lời của phật, cũng nên quán xét xem có đúng lẽ thật không! Thực hành có mang lại an lạc hay không! Thi hãy nên theo. Chúng ta có thói quen sống với mê lầm của vọng thức, nên cứ quên hoài thực hành TỨ Y Pháp của Phật dạy, mới dễ sa vào tam đồ ác đạo. Tôi trước kia có một bài góp ý cùng đạo hữu nay gửi kèm đây để chúng ta cùng tham khảo. Về nạn ngoại đạo âm mưu phá hoại Phật giáo thông qua con đường bạo lực và cải đạo. Cùng những bài viết về sự nghiên cứu của các học giả dựa theo khảo cổ học để xác minh kinh đại thừa là kinh phát triển hoặc ngụy tạo… ____________________________________________________ Kính thưa đạo hữu! Nhân đọc đựơc những bài viết của các đạo hữu về nạn ngoại đạo âm mưu phá hoại Phật giáo, thông qua con đường bạo lực và cải đạo. Cùng những bài viết về sự nghiên cứu của các học giả, dựa theo khảo cổ học để xác minh kinh Đại thừa là kinh phát triển hoặc ngụy tạo, làm lung lạc lòng tin của tín hữu. Nhất Nguyên cũng xin được góp ý để cùng đạo hữu tham khảo. Theo chỗ hiểu của Nhất Nguyên qua lời dạy của chư Phật, chư Tổ. Nếu hành giả hành đạo Giải Thoát học hiểu giáo lý và ứng dụng, thì không có một bạo lực nào phá hoại được hạt giống Phật. Tại sao vậy? Vì dù có sức mạnh quyền lực và vũ khí tối tân, cũng chỉ phá được phần Quả Báo (Tức thân nghiệp), chứ không phá hoại được phần Nhân (Tức chỉ phá được phần thô). Còn như Phật tử chúng ta không học hiểu và hành trì chính pháp, mà chỉ gửi gấm lòng tin kính và cầu phúc báo, thì chẳng cần tới quyền lực và vũ khí, mà chỉ cần dùng Ái Dục đủ mạnh, đúng nơi, đúng lúc, thì những người Phật tử đó sẽ bị lung lạc và dẫn dắt xa dần Chánh pháp mất hạt giống Phật. Tai sao? Vì chúng ta còn dầy đủ 4 tướng (Ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả) cương cường, nên tùy chỗ sâu dày của Ngã Chấp, mà Ái Dục có thể tấn công. Phương pháp này, không những phá được phần Quả, mà còn phá được cả phần Nhân. Vì hành giả từ đây đi theo Tà Kiến, trưởng dưỡng tà kiến, nên sẽ huân tập thân kiến trong kiếp kế tiếp, xa rời nhân duyên với Chánh pháp. Chính vì vậy Nhất Nguyên nghĩ rằng: Nếu như chư Tôn Ðức cùng Cư Sĩ thâm hiểu giáo lý Phật-Ðà, tận dụng mọi cơ hội khi có dịp tiếp cận Phật tử, truyền bá Chánh pháp, thì đây sẽ là hành trang và thành trì vững chãi cho những đứa con của Như-Lai trên con đường trở về Chân-Giác. Về vấn đề nghiên cứu của các học giả, thông qua khảo cổ học để xác minh kinh Ðại thừa là phát triển hoặc ngụy tạo… Thích nữ TP (11/09/2012) Kính thưa quý đạo hữu, TP đang lắng nghe các ý kiến của quý vị và cũng đang lắng lòng nghe sự phán xét của trái tim mình. TP đã rất cố gắng để dám nói lên những điều trăn trở trong tâm bấy lâu nay, bởi từ trước TP vẫn chưa thấy ai dám có ý kiến với vị Thầy của mình bao giờ. TP làm vậy và đang sẵn lòng chờ đón những lời mắng nhiếc “đồ nghịch tử phản Thầy”. Biết thế nhưng TP vẫn làm, không phải với tâm phản Thầy mà với lòng tha thiết mong cầu Thầy cũng như các bạn hữu khác sớm nhận ra con đường sai lạc, con đường không phải Đức Thích Ca giảng dạy cho nên không mang lại lợi ích thật sự cho đệ tử của Như Lai. Thưa quý vị, TP đã gặp được Chánh Pháp, con đường đúng thực Phật dạy, rất khoa học và hữu ích đối với người Phật tử. Nhưng với một người đã có 60 năm ôm ấp mộng đời và danh tiếng vang xa (như thầy Nhất Hạnh) thì không dễ gì Thầy chấp nhận rằng mình sai. Trong lòng TP rất kính và cũng rất thương Thầy. Xin cảm ơn đạo hữu Giác Tâm và nguyênsi đã trao đổi rất thẳng thắn với TP. TP không trốn chạy, TP đang vững bước đi trên con đường thực sự nhiệm màu của Đức Thích Ca. Cũng từ đó, TP đã nhận ra rất rõ ràng pháp của thầy Nhất Hạnh dạy không phải là pháp Phật mà do Thầy học nhiều (Học Giả) rồi biến tướng theo trí tưởng tượng của mình. Pháp Phật phải là vị Hành Giả (Bậc Tu chứng) giảng giải thì mới đúng thật và có được lợi ích cho mọi người. Xin cảm ơn toàn thể quý đạo hữu đã có ý kiến đóng góp, TP sẽ tiếp tục lắng nghe, tiếp thu. Xin phép quý vị, TP được im lặng không có ý kiến nữa, vì sự cố gắng lớn đã dám nói thêm một vài lời hôm nay như thế là đủ. Kính chúc quý đạo hữu an lạc. (Còn tiếp) |
Cập nhật ngày : 27.11.2012 | |||
Lời BBT/GNCN
GNCN nhận thấy bài viết: "Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Bí Tích Thánh Thể" của tác giả Như Pháp đăng trên trang nhà Thư Viện Hoa Sen có giá trị tham khảo về mặt học thuật, đồng thời cũng có giá trị hộ pháp trước khuynh hướng "phát triển" ngày càng xa gốc của nhiều tông phái Đại thừa, điển hình như giáo phái Làng Mai với khuynh hướng ngày càng ngã về các tôn giáo Tây phương... Rất mong độc giả của GNCN đón nhận bài này như một tiếng chuông cảnh báo về các hiện tượng ngoại giáo đội lốt Phật giáo...
Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-149_4-17313_5-50_6-1_17-29_14-1_15-1/ "Bí Tích Thánh Thể" “Lễ ăn bánh thánh là một thực tập chánh niệm. Khi Chúa Ki-Tô bẻ bánh mì và chia cho các đệ tử. Ngài nói:" Này, các con ăn đi, đó là xương thịt và máu huyết của ta đó". Ngài biết là nếu các đệ tử Ngài ăn miếng bánh mì một cách tỉnh thức thì họ mới thực sự đang sống. Hàng ngày họ có thể ăn bánh mì trong thất niệm, do đó miếng bánh mì không có thật, nó chỉ là một bóng ma. Hàng ngày chúng ta thấy biết bao nhiêu người quanh ta, nhưng nếu ta không có chánh niệm, ta thấy họ như những bóng ma, không phải những con người thật, và chính tự thân chúng ta cũng là những bóng ma. Khi có chánh niệm, ta là một con người thật, nhờ vậy ta mới thấy được những con người thật chung quanh ta, thấy được sự sống với muôn cái đẹp và giàu sang của nó. Thực tập ăn bánh mì, ăn trái quít hay ăn cái bánh in trong chánh niệm thì cũng giống nhau. Khi ta thở có chánh niệm, khi ta đưa cái nhìn quán chiếu sâu sắc vào thức ăn thì đời sống có mặt ngay trong lúc ấy. Cho nên đối với tôi, lễ ăn bánh thánh là một phép thực tập chánh niệm rất tuyệt diệu. Chúa Ki-Tô đã muốn đánh thức các đệ tử của Ngài bằng tiếng gầm sư tử ấy.” (Tác giả: Thích Nhất Hạnh)
Đó là những dòng mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết trong tập sách “An lạc từng bước chân”. Tôi tự hỏi: Ngài viết cho ai?. Tín đồ Công giáo?, Phật tử?, hay viết cho chính bản thân Ngài?... Chúng ta biết rằng: “Bí Tích Thánh Thể” là một “mầu nhiệm” đặc thù của Giáo hội Công giáo La-mã. Các giáo phái Tin Lành không có “mầu nhiệm” này. Trong Thánh lễ Mi-sa, Linh mục cầm bánh và rượu rồi “truyền phép”: “Này là Thịt ta… Này là Máu ta…”. Lập tức bánh và rượu biến thành Máu Thịt Chúa!. Giáo quyền Rô-ma khẳng định: đó là Thịt thật Máu thật, không thể là một nghi thức mang tính biểu tượng… Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) đã ban hành tự sắc lệnh Transiturus Ngày 8-9-1264, thành lập lễ kính “Mình Thánh Chúa Giê-su”, nhân “phép lạ” xảy ra tại nhà thờ Sainte Catherine, thành Bolsène nước Ý, khi một Linh mục “truyền phép”, lại có tâm nghi ngờ về chuyện bánh và rượu lại có thể biến thành thịt và máu thật?. Lập tức “phép lạ” xảy ra: máu chảy lênh láng, thấm đẫm khăn trải bàn thờ!(?)… Đối với các hệ phái Ki-tô giáo khác ngoài giáo hội Rô-ma, như các giáo phái Tin lành, họ không chấp nhận tín lý trên, không thừa nhận “mầu nhiệm”, “bí tích Thánh Thề” này. Họ chỉ xem sự kiện và lời nói của Chúa Giê-su trong buổi tiệc chia tay mà sách vở Ki-tô giáo gọi là “tiệc ly”, được danh họa Leonardo da Vinci mô tả sinh động trong họa phẩm nỗi tiếng “Bữa ăn tối cuối cùng”, chỉ là sự tưởng nhớ, hoài niệm về thời khắc chia ly của Giáo chủ Giê-su với các môn đệ của Ngài. Đây chính là điểm mấu chốt dẫn đến tranh cãi giữa các nhà Thần học Công giáo và Tin lành. “Dicens” trong tiếng La-tinh là đề tài tranh luận giữa họ với nhau. Đối với Thần học Tin lành, từ “Dicens” đơn thuần chỉ có nghĩa là “nói”, một lời nói bình thường ai muốn nghe thì nghe… Ngược lại, Thần học Công giáo khẳng định từ “Dicens” mang nội hàm thần bí như một “mệnh lệnh”, “lệnh truyền”, “lời Chúa phán” phải được thực hiện: “Hoc est enim corpus meum. Hic est enim calix sanguinis mei”. Nghĩa xác định : “Đây là (Hoc) Thịt Ta”, “Đây là (Hic) Máu Ta”… Ngay chính tại lúc ấy, bánh và rượu đã trở thành máu thịt thật của Chúa!. Công đồng Trento đã xác định và kết án tất cả những ai phi bác tín điều này. Với bản chất “chuyên chính Công giáo” thời trung cổ, không loại trừ nguy cơ kẻ chống lại tín điều này bị đẩy lên giàn hỏa!... Nghi thức “truyền phép” làm cho rượu và bánh trở thành “thịt thật, máu thật” của Chúa được các Linh mục Công giáo thực hiện hôm nay, và mãi mãi về sau không thể thay đổi cả về ý nghĩa nội dung lẫn hình thức, chừng nào Giáo hội Công giáo La-mã còn tồn tại trên hành tinh này… Sở dĩ tôi phải dài dòng như trên vì muốn xác định một điều: Nếu Thiền sư Nhất Hạnh cũng có lòng tin vào “Bí Tích Thánh Thể”. Tôi xin chúc mừng và tuyệt đối tôn trọng niềm tin của Ngài như một quyền căn bản về tự do tín ngưỡng cần phải được tôn trọng. Và nếu đúng thế thì bài viết này có thể đặt dấu chấm hết tại đây. Nhưng nếu Ngài không tin chuyện bánh và rượu có thể biến thành máu thịt thật chỉ sau một lời “truyền phép” của Linh mục, và tín đồ tham dự bữa “tiệc thánh” này đã thật sự được ăn và uống thịt máu thật của Chúa! Nếu không tin, sao Ngài không thẳng thắn phủ nhận? Lấy thuật ngữ đạo Phật như “chánh niệm” chế tác lại rồi gán ghép gượng ép vào “bí tích” Công giáo là việc làm thiếu thận trọng, liều lĩnh và nguy hiểm… “Bí Tích Thánh Thể” mà Thiền sư Nhất Hạnh đã viết trong tập sách “An lạc từng bước chân” chắc chắn không phải dành cho người Tin lành vì các giáo phái Tin lành đã phủ nhận “bí tích” này lâu rồi… Đối với tín đồ Công giáo, họ cũng không thể chấp nhận điều mà Thiền sư đã viết, không chấp nhận tầm thường hóa “Thánh Thể” với việc ăn bánh mì, quýt, bánh in!… Tôi tin chắc rằng người Công giáo, sẽ không cảm ơn và không cần lời “giáo huấn” ấy. Khi tham dự “tiệc thánh” bằng “máu thịt Chúa”, họ đã được đầy ắp ân sủng Chúa trong người, đâu cần Ngài “chế tác năng lượng” giúp họ, đâu cần đến cái gọi là “chánh niệm” gì đó của Ngài. Ngược lại, Thiền sư có thể bị họ kết án báng bổ một “mầu nhiệm” cốt tủy của đạo Công giáo. “Ăn thịt uống máu Chúa” như đã nói trên, đó là “thịt thật, máu thật” được xác định bởi Huấn quyền Rô-ma bằng các văn bản pháp quy từ các Công đồng. Sẽ không bao giờ có sự đồng thuận của Giáo hội Công giáo về việc đánh đồng “bí tích” mà họ cho là “siêu việt” này, với sự tầm thường của việc “ăn bánh mì, ăn trái quít hay ăn cái bánh in trong chánh niệm” như Thiền sư đã viết… Ngoài ra, có thể họ cảm thấy bị xúc phạm khi bị xem như những “bóng ma”, nếu thực hiện “bí tích” mà thiếu cái gọi là “chánh niệm” do Thiền sư chế tác!... Lịch sử giáo hội còn ghi chép lại những hình phạt rùng rợn nhãn tiền về tội bổ báng Thánh Thể. Rất may, “chuyên chính Công giáo” ngày nay chỉ còn được duy trì trong phạm vi nội bộ Giáo hội, bằng hình phạt “rút phép thông công” đối với những trường hợp bổ báng tương tự. Nếu ở thời trung cổ, có thể Thiền sư đã bị đưa lên giàn hỏa, chứ không phải lời phê bình nhẹ nhàng “antichrist” mà đương kim Giáo hoàng Benedict XVI khi còn là Hồng y Ratzinger đã nói: “Thich Nhat Hanh is the antichrist…” Người Công giáo dứt khoát không cần sự “giáo huấn” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “Bí Tích Thánh Thể” thay cho Huấn quyền Giáo hội của họ ở Vatican. Vậy thì lời “giáo huấn” ấy Ngài dành dạy ai? Phật tử chăng? Thật tình tôi không dám nghĩ người Phật tử có thể đến nhà thờ “ăn thịt và uống máu Chúa” để thực hành “chánh niệm” theo lời dạy của Thiền sư Nhất Hạnh, ngoại trừ một số Phật tử bị cải đạo vì lý do hôn nhân… Trở lực lớn ngăn cản bước chân người Phật tử đến tham dự “tiệc thánh” chính là Giới Sát… Qủa thực, sát tế trong truyền thống Ki-tô giáo thật rùng rợn!. Cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá được gọi là “Hy lễ hiến tế”, bắt nguồn từ truyền thống tín ngưỡng xa xưa của người Do Thái. Theo Lê-vi ký, quyển sách thứ 3 trong Cựu Ước. Thiên Chúa buộc Mô-sê phải dạy cho dân Do Thái nghi thức “dâng của lễ toàn thiêu” bằng những con vật béo tốt trong bầy gia súc của họ. Họ giết con vật, lấy máu rưới quanh bàn thờ, rồi lột da, chặt ra từng miếng, thiêu trên củi lửa đang cháy, hương thơm của mùi thịt nướng bay lên tận thiên đường, Nếu Thiên Chúa ngữi được mùi hương, Ngài sẽ chấp nhận của lễ và tha tội cho họ!.. Theo sách Xuất hành (Xh 29,38-46) thì tại đền thờ, các tư tế Do Thái đều sát tế mỗi ngày hai con chiên làm của lễ toàn thiêu: sáng sớm một con, chập tối một con, để dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội cho dân... Chương 22 sách Sáng Thế còn viết Thiên Chúa ra lệnh cho tổ phụ Abraham mang con ruột của mình là Igiaác trên núi Morigia sát tế làm của lễ toàn thiêu dâng lên Ngài…. Liệu có Phật tử nào dám chấp nhận tín lý giết hại chúng sinh để đền tội thay cho mình không? Tín lý Ki-tô giáo ngày nay dạy rằng: của lễ toàn thiêu bằng những con chiên béo tốt không đủ để xóa hết tội lỗi nhân loại. Thiên Chúa vì thương yêu con người nên đã sai Con Duy Nhất của Ngài là Giê-su xuống trần gian tự nguyện làm vật sát tế thay cho những con chiên béo tốt. Chỉ có Con Duy Nhất của Ngài làm vật hiến tế mới có thể cứu chuộc hết tội lỗi của nhân loại… Để thực hiện sứ mệnh ấy, Giê-su phải bị đóng đinh trên thập tự giá cho đến chết. “Của lễ toàn thiêu” bằng những con chiên bốn chân được thay thế bằng “Hy lễ hiến tế” với một con chiên duy nhất hai chân, chính là Giê-su với danh xưng: “Chiên Thiên Chúa”. “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Đó là câu nghi thức bắt buộc mà các Linh mục phải đọc khi mời gọi tín đồ đến tham dự “tiệc thánh”. Triết học và Thần học hiện đại đều ca tụng đó là một thứ Tình Yêu (viết hoa) tuyệt đối, siêu việt, vĩnh cữu. Đặc ngữ Thần học Công giáo gọi là “Tình Yêu Nhưng Không”. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngừoi xuống thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Jn. 3,16-17). Đó là câu Thánh Kinh trên cửa miệng của nhiều tín đồ Ki-tô giáo. Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới Kỳ XI Về Bí Tích Thánh Thể Rôma 2007 cũng đã xác định “Bí Tích Thánh Thể” là “Bí Tích Tình Yêu” Dù sao mặc lòng, Người Phật tử cũng khó chấp nhận thứ tình yêu phải trả giá bằng những cuộc sát tế đẫm máu… Giới cấm sát không cho phép họ làm tổn hại, trực tiếp hoặc gián tiếp, đến bất kỳ chúng sanh nào, dù đó chỉ là con sâu, cái kiến… Vì lý do ấy mà người viết bài này tin rằng, sẽ không có một Phật tử dám tham dự “tiệc thánh” để “thực tập chánh niệm” như lời dạy của Thiền sư. Để tạm kết bài này, tôi xin nhắc lại câu hỏi được đặt ra ở phần đầu bài: “Bí Tích Thánh Thể” mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết trong tập sánh “An lạc từng bước chân” là viết cho ai? Cho tín đồ Công giáo?, cho Phật tử?, hay viết riêng cho bản thân Ngài và Tăng thân Làng Mai? Như đã trình bày trong bài, Người Công giáo dứt khoát không cần sự “giáo huấn” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “Bí Tích Thánh Thể” thay cho Huấn quyền Giáo hội của họ ở Vatican. Người Phật tử cũng không dám thực hành “chánh niệm” trong “tiệc thánh” vì phạm giới. Thế thì chắc chắn rằng, Thiền sư chỉ viết riêng cho Ngài và để dạy cho Tăng thân Làng Mai pháp môn “Chánh niệm trong nghi lễ hiến tế”. Điều này càng được khẳng định trong câu viết của Ngài: “Cho nên đối với tôi, lễ ăn bánh thánh là một phép thực tập chánh niệm rất tuyệt diệu. Chúa Ki-Tô đã muốn đánh thức các đệ tử của Ngài bằng tiếng gầm sư tử ấy.” Dĩ nhiên người Phật tử có quyền đặt vấn đề: “Chánh niệm” mà Thiền sư đang dạy có đúng là “Chánh niệm” của Phật dạy, tức lớp thứ 7 trong Bát Thánh Đạo không?. Hay chỉ là một thứ “chánh niệm” do Ngài tự chế tác… |
Cập nhật ngày : 29.11.2012 | |||
Lời BBT/GNCN
Về "Chúc thư" cuả HT Thích Nhất Hạnh, GNCN hoàn toàn tôn trọng và không có ý kiến... Tuy nhiên, nhận thấy phần ý kiến độc giả tương phản, đa chiều, nhiều độc giả nêu ý kiến đáng để suy gẫm... GNCN trích đăng lại trên tinh thần khách quan vô tư. Phần nhận định đánh giá là tùy ở bạn đọc...
PHÁP PHẬT HAY PHÁP LÀNG MAI??? (Tiếp theo) Tâm Giác (11/10/2012) Thích Nữ TP! Tâm Giác là bạn của Giác Tâm. Giác Tâm bận và ít thích nhiều lời nên có nói với Tâm Giác. Thôi đi Thích Nữ TP! Thích Nữ TP tu hành gì mà còn thích tất cả lại còn đòi đến Niết bàn thì nghe nực cười quá. Về đọc lại bài Sám Nguyện mắt quen theo huyễn cảnh hằng ngày đi. Thích Nữ TP làm cho mọi người có cảm giác là giả, là làm một phép thử gì đó hoặc là ăn cắp Pháp. Dù là gì đi nữa cũng đều là có tội. Người chấp Ngã chấp Pháp dẫy đầy thì còn có cửa sao? Dù có liên hệ được với Liên Hiệp Quốc mượn Diễn Đàn lên đó mà vác loa nói xấu, nói thôi thì cũng vô ích! Ớt ở ngoài chợ thì bán dẫy đầy, khuyên mọi người đừng có bao giờ ăn ớt thì chỉ có nhọc công vô ích. Lúc đầu Thích Nữ TP làm cho mọi người có cảm giác thấy thương thật, nhưng rồi thương nhiều quá hóa hại hay còn gọi là thương hại. Thuận nghịch qua tay đều là Duyên nếu đó là nghịch cảnh thật của Thích Nữ TP. Đừng núp bóng giả vờ rồi mượn cớ mượn tay, chơi vậy không có quân tử. Đệ tử Làng Mai tên họ bây giờ là 3 chữ, Thích Nữ TP niên cao lạp trưởng được bao nhiêu năm mà tên 2 chữ dám tự xưng mình là đệ tử của Sư Ông? Tu hành thật thì có thời giờ và được phép lên mạng kể lể sao? Về Sám Hối lại hành vi của mình dù là vi tế nhất từ trong ý niệm, từ trong tâm thức. Mang danh Sư Cô mà như vậy, thử tượng tượng thế hệ đệ tử của Sư Cô giả sử như chuyện đó là có thật xem có lớp lang nết hạnh gì hay không? Cạn lời cùng Thích Nữ TP. Tâm Giác cẩn bạch! nguyen (11/11/2012) Thưa bạn Tâm Giác, tôi thấy bạn hình như không hiểu ý của Thích Nữ TP, ví dụ như khi cô nói: “con đã: “...đi trong chánh niệm, uống trà trong chánh niệm, biết nói năng cho từ ái và biết lắng nghe nhau.’... nhưng tâm con vẫn không an, cái tâm tham, sân, si vẫn còn đầy đủ, con vẫn thích có nhiều chùa to đẹp như những công trình của Thầy, thích có được tăng đoàn đông đảo đoanh vây, thích có được danh vang lừng khắp nẻo...”, mà bạn vội kết luận là “Thích Nữ TP tu hành gì mà còn thích tất cả lại còn đòi đến Niết bàn thì nghe nực cười quá” thì theo tôi nghĩ không phải cô nói ‘cô ấy như vậy’ mà chính là cô ấy đã ám chỉ chính ‘Sư ông như vậy’. Đó là tôi đoán mò như thế, nếu sai thì xin sám hối với Sư cô. Bạn còn nói “Dù có liên hệ được với Liên Hiệp Quốc mượn Diễn Đàn lên đó mà vác loa nói xấu, nói thôi thì cũng vô ích!” Theo tôi thấy thì bạn đã dùng từ “đao to búa lớn” quá, cô ấy chỉ kể về trường hợp của mình đã từng theo pháp môn của Sư ông nhưng không thấy an lạc và pháp môn của Sư ông không phải là pháp Phật thì cô ấy bỏ, thế thôi, có gì gọi là nói xấu? Chính Sư ông khi nói “Thầy muốn Tổ Đình phải theo pháp môn Làng Mai một trăm phần trăm. Pháp môn ấy là công trình của Thầy đã xây dựng nên”, thì Sư ông đã ngầm ý rằng đây là một pháp môn riêng biệt rồi, Thích Nữ TP nói đâu có sai! Chỉ có điều là khi theo Sư ông thì cô đã tưởng pháp môn của Sư ông là pháp Phật nên đã thất vọng và từ bỏ. Lẽ dĩ nhiên khi có một pháp môn mới thì cái chuyện phê bình đả kích hay ca tụng là chuyện bình thường, đối với các tôn giáo lớn còn có huống chi đây chỉ là một pháp môn mới của một vị Đạo sư nổi tiếng, và có lẽ nếu gọi cho chính danh thì không nên dùng tên gọi Thiền sư hay Hòa thượng (dùng cho Phật giáo) mà nên gọi là Sư ông Làng Mai [thường để kính trọng người ta hay dùng tên vùng mà vị này giáo hóa mà không dám dùng tên vị này, ví dụ tổ Quy Sơn (ông tổ ở núi Quy), hoặc tổ Bá Trượng (ông tổ ở ngọn núi cao trăm trượng)]. Còn một chuyện nhỏ, bạn còn nói: “Đệ tử Làng Mai tên họ bây giờ là 3 chữ, Thích Nữ TP niên cao lạp trưởng được bao nhiêu năm mà tên 2 chữ dám tự xưng mình là đệ tử của Sư Ông?” Theo tôi nghĩ có thể khi cô ấy còn theo Sư ông thì cô ấy có một tên khác, còn khi đã bỏ Sư ông thì có một tên khác, không có chuyện “núp bóng giả vờ rồi mượn cớ mượn tay” đâu, bạn đừng đa nghi quá. Ngoài ra những chỗ góp ý linh tinh như thế này đa số dùng cái tên nick, đâu có ai dùng tên thật làm chi vì chẳng có ai thèm biết đến cái tên thật của mình đâu! LT Viên Cơ (11/11/2012) Thưa các bạn, đọc những ý kiến của các bạn, đặc biệt là của TP, Giác Tâm, nguyên, tôi xin góp mấy lời. TP nói lên những trăn trở của mình và dẫn ra những lời dạy của tỳ kheo Nhất Hạnh. Giác Tâm ca ngợi những cống hiến lớn lao của tỳ kheo Nhất Hạnh bên Tây phương và lan về cả Việt Nam. nguyên đã dẫn ra rất chuẩn về thuyết khế lý, khế cơ. Nghi vấn thật hay giả về TP, nếu TP là giả thì những lời của TP là không thật, chúng ta bỏ qua không chấp nhận. Nếu những lời của TP dẫn ra là đúng thì tỳ kheo Nhất Hạnh là tỳ kheo giả. Các bạn có thể phân tách thêm lời dạy của tỳ kheo mà TP đã dẫn: - “Đức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng Đế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống. - Tôi thấy chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài. - Trong nhãn quan Phật Giáo, ai không phải là con của Thượng đế?”... Nhừng lời dạy này nếu đúng là tỳ kheo Nhất Hạnh đã dạy thì không cần nói gì thêm, tỳ kheo Nhất Hạnh không phải là một người phật tử, còn nói gì là một thầy tu đạo Phật? Đạo Phật không thể có những lời dạy như thế. Mong độc giả chứng minh để TP và mọi người rõ lời dạy này không phải tỳ kheo Nhất Hạnh đã dạy thì được tốt đẹp cho Phật giáo, nếu không chứng minh được thì quả là rất tồi tệ. Phật giáo ra đời trước Ki tô giáo nhiêu trăm năm nhưng giờ đây đang bước theo chân Chúa. Kể cũng vinh quang!!! Tóm lại, nếu TP là giả - không đúng - thì tỳ kheo Nhất Hạnh là đúng, nếu tỳ kheo Nhất Hạnh đúng với những lời dạy trên thì rất khó khăn, rất xấu hổ cho Phật giáo. Ý kiến Giác Tâm cho rằng công lao truyền bá của tỳ kheo Nhất Hạnh rất lớn, điều đó đúng không sai, rất lợi ích cho người phật tử hiểu biết để cải đạo không cần đắn đo. Rất ích lợi cho Ki tô giáo. Ý kiến của nguyen rất rõ ràng, rất hay, đáng để mọi người suy nghĩ. Vô minh (11/11/2012) Gửi cô Thích nữ gì đó: Tôi khuyên cô một câu nhẹ nhàng thế này: việc ngồi chê bai pháp môn khác là không đúng đắn, không chân truyền gì đó như cô đang làm (rồi để thuyết phục thì nói thêm là mình đã từng học ở Làng Mai) -- đủ cho thấy cái việc cô nói cô đã tìm được chánh pháp e chừng cô cùng cẫn bình tình mà xem lại. Ai tu Làng Mai hay không là việc của người đó, người theo làng Mai và tu tập tốt hay không tốt cũng là việc của người đó, cứ ngồi ngoài rồi lên tiếng chê bai ra vẻ ta đây là bậc tu hành chính danh liệu sẽ giúp cô vững bước hơn trên con đường mà cô gọi là Chánh Pháp? Chánh Pháp của cô có thể dẫn cô đi đâu khi mà cô còn bận tâm với việc tìm cách hạ bệ một con người khác (dù đó là người tu hành hay đơn thuần là một con người bình thường, phi tôn giáo). Nên nhìn lại tâm mình trước cô ạ. Tôi không phải là người tu hành, không theo Phật giáo hay Công giáo, nhưng tôi đủ trí tuệ để nói với cô rằng việc cô đang làm là vô minh lắm. Cái Chánh Pháp của cô e rằng chưa giúp được cô. Chúc cô tiếp tục vững bước trên con đường của riêng mình, không nhất thiết phải dừng lại rồi tìm cơ hội để chê bai hạ bệ người khác. Niết bàn còn xa lắm cô ạ :-) webadmin (Administrator, 11/11/2012) Những lời trích của SC. hay NS. Thích Nữ TP. được tìm thấy ở chương 4 trong cuốn: "Living Buddha, Living Christ" của Thích Nhất Hạnh, Riverheads Book xuất bản 1995. Bản dịch của dịch gỉa Chân Văn (Giáo Thọ Sư của Làng Mai): http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-85_4-12733_5-50_6-1_17-150_14-1_15-1/ Bài dịch nầy đã được đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, California, Hoa Kỳ, tháng 11-1995 và được TVHS cũng như trang Làng Mai đăng lại. Thanh Nghiêm (11/12/2012) Ô hay, thời nay thật thật, hư hư, chánh, tà lẫn lộn khiến người đời vẫn đôi mắt mở toang mà sao chẳng ngó thấy gì ư? Đọc các ý kiến phản hồi ở bài /Chúc Thư của HT Nhất Hạnh/. Tôi suy, /tên/ TP có giả chăng, nhưng /con người/ TP là không giả, còn những lời mà TP dẫn ra thì rất thực ai cũng thấy ngay. Tôi nghĩ, không chắc tất cả các đệ tử của HT Nhất Hạnh (Tu sĩ và Cư sĩ) đều một lòng với sư phụ của mình. Điều này HT Nhất Hạnh phải là người rõ hơn ai hết thì mới xứng. Thử hỏi có bao nhiêu người phật tử không bị đi qua những cửa giáo huấn của HT Nhất Hạnh? Thật khó tránh, bởi vì /công nghệ/ truyền giáo của HT rất siêu. Nhưng ở phương Tây thì được, chớ về đất Việt phải tan tác như vườn chuối sau cơn giông bão, như chim vỡ đàn sau trận cuồng phong. Bằng chứng là Tu Viện Bát Nhã Lâm Đồng còn mới như việc hôm qua. Tìm xem, biết có bao nhiêu chim không trở về với tổ? Duyên Phật pháp cũng hay, với chánh pháp người trí thì khát khao mong cầu tìm kiếm, người ngu si thì phi báng ruồng bỏ thẳng tay. Buồn. Lời HT Nhất Hạnh dạy: /“Mở mắt miệng mỉm cười; Hai bốn tiếng tinh khôi; Xin nguyện sống trọn vẹn; Mắt thương nhìn cuộc đời”/. Đây là lời sáo, rỗng, vô nghĩa. Có ai chưa thấy một người điên, người điên hay mủm mỉm cười thầm một mình, người tu không nên vậy, mới bảnh mắt ra mà mỉm cười thầm chẳng hóa người điên sao? /“Hai bốn tiếng tinh khôi”/ ấy là điều nghĩ quẩn, đừng tưởng tinh khôi dễ dàng lắm ư? Pháp hành nào để có tinh khôi, chưa khi nào thấy HT NH quan tâm tới, chỉ biết nói theo chứ đâu biết cách nào hành? Cũng lời HT NH dạy: /“Con đã về, con đã tới”/. Rõ lộ không đầu, không đuôi. Con từ đâu về? Con đã tới đâu? Một lời hướng không mục đích, dẫu tu ngàn năm vẫn uổng. Trong khi lời Phật dạy: /“Tâm tôi có tham tôi biết tâm tôi có tham, có sân biết có sân, có si biết só si…”, “Tham, sân, si là độc, là ác pháp, hãy cút khỏi tâm ta”, “Ta phải sống với tâm không phóng dật” và nhắc tâm “sáu căn phải quay vào trong, không được phóng túng ra bên ngoài” để được “muôn pháp lành đều do tâm không phóng dật mà sinh ra”/… Đối chứng đôi dòng để giải nghi giúp TP đã hỏi: /“Phật và Chúa, Chúa và Thầy, Thầy và Bụt, con biết tin ai?”/. Tin ai cũng được, miễn sao đừng có làm khổ mình lợi người, và càng không nên làm lợi mình mà hại người, toàn những điều rất không nên. Chớ có vội tin vào người được nhiều người tán tụng ngợi ca, thận trọng mới thực là người trí. Vô đạo (11/12/2012) Kính gửi bà sư cô: Con đường chánh đạo của cô thì cô cứ đi theo - không nhất thiết phải chọc ngang dọc bằng vài câu trích dẫn mà cô lại bỏ đi cái ngữ cảnh quan trọng của người ta. Nếu cô thực sự biết đọc tiếng Việt, và có chút gọi là chánh tư duy, thì nên bình tĩnh mà đọc lại những lời cô dẫn viện ra hòng bôi nhọ hình ảnh một người thầy. Tôi không theo Phật giáo, cũng không đi tu gì ở Làng Mai làng Mận hết. Nhưng tôi cũng không tin loại người tự coi mình đã tìm được chánh đạo, nhưng tâm con chưa an tịnh mà vẫn vào diễn đàn nọ kia để hòng bêu xấu một con người khác. Nói thật với cô thế này: ông Thích Nhất Hạnh có đang theo con đường của Phật hay không - thì điều ấy cũng không ảnh hưởng lắm đến con đường tu tập của cô đâu. Giả sử ông ấy là Phật, thì cũng không vì thế mà biến cô thành Phật, trở nên vô nhiễm được. Giả sử ông ấy đang theo con đường không có liên quan gì tới Phật (giả sử thôi), thì cũng không vì thế mà ông ấy làm hỏng con đường "chánh đạo" mà cô nghĩ rằng mình đang bước trên đâu cô ạ. Cô tu thì cô cứ tu, và ôm lấy chánh đạo, sân hận của mình mà tu. Nhắn các vị "Phật tử" khác đang nhìn vào vài câu chữ trích ngang dọc mà không hiểu trọn vẹn ngữ nghĩa của người ta - các vị làm thế là Tử Phật luôn đó. Mong các vị Phật tử của chúng ta chịu khó hành thiền, tu học, thay vì bám vào vài câu chữ để rồi khai Tử Phật luôn. LT Viên Cơ (11/12/2012) Cám ơn Admin đã dẫn chứng minh cho tôi và mọi người thấy tỏ. Như thế là rõ, TP dẫn chứng xác thực, đúng là lời của tỳ kheo Nhất Hạnh đã dạy. Có thể khép cho tỳ kheo Nhất Hạnh cái tội phản đạo, phỉ báng Phật. Tỳ kheo Nhất Hạnh không xứng đáng là một người phật tử. Nguyên Giác (11/12/2012) Câu hỏi: Thầy Nhất Hạnh chỉ thị Thầy Từ Hải lập Ban Chăm Sóc Tổ Đình Từ Hiếu, sẽ gặp trở ngại gì về phía Thành Hội Phật Giáo Huế hay không? Thầy Từ Hải còn trẻ, có mặt ở Tu Viện Bát Nhã (Lâm Đồng) năm 2009, lúc đó 33 tuổi, như vậy năm nay khoảng 36 tuổi, sẽ có trở ngại gì từ phía chính quyền (hay Ban Tôn Giáo) không? Vấn đề chung cho nhiều chùa khác: sắp xếp trong giữa môn phái có cần hòa hợp với sắp xếp của Tỉnh Hội hay Thành Hội không? Trí Thông (11/12/2012) Thầy Nhất Hạnh chủ trương chính sách vượt thoát khỏi khuôn khổ tôn giáo của đạo Phật để có thể hòa đồng các tôn giáo khác với nhau. (Thầy coi Phật và chúa giống nhau, là anh em) Bởi vậy các thầy và các sư cô đạo tràng Mai Thôn cũng học Phúc Âm. Đồng thời cũng đã từng đi tham dự những sinh hoạt tu tập và trao đổi ở các Tu viện Cơ Đốc Giáo tại Pháp, Hoa Kỳ, Âu Châu. Vào năm 1995, thầy Nhất Hạnh có viết quyển sách “ Living Buddha, Living Christ”. Dịch sang tiếng Việt có tựa đề là “Bụt trong ta, Chúa trong ta”. Với nội dung có sự so sánh giữa Bụt và Chúa rất giống nhau. Đó là quan điểm riêng của thầy Nhất Hạnh. Kỳ thực xét về mọi phương diện Chúa làm sao bằng Phật được. Thầy Nhất Hạnh nói như thế khiến cho tín đồ Phật giáo mất cảnh giác về âm mưu bành trướng của Kitô. Nghĩa là người Phật tử lập gia đình thoải mái theo Chúa mà bỏ đạo nhà. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta tự tôn, kỳ thị, phân biệt mà là một sự bảo vệ đạo Phật. Ngay cả Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV trong cuộc gặp gỡ với Đức Giáo Hoàng John Paul II đã từ chối đề nghị một hình thức hỗn hợp hay thống nhất giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Ngài nói rằng: "Thật khó để có chuyện hợp nhất giữa Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Nếu bạn muốn có mối quan hệ mật thiết hơn, thông hiểu nhau hơn, điều đó đang diễn ra trong các tôn giáo. Ông lưu ý: Với những cá nhân hành đạo, việc có một chân lý, một lý tưởng là rất quan trọng. Có nhiều chân lý, nhiều lý tưởng là mâu thuẫn nhau. Ông tiếp: tôi là Phật tử, do đó Phật giáo đối với tôi là chân lý duy nhất, tín ngưỡng duy nhất. Đối với người bạn Hồi giáo thì đạo Hồi là chân lý, là tín ngưỡng duy nhất. Trong lúc ấy tôi vẫn tôn trọng và ngưỡng mộ những người bạn Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Và nếu hợp nhất theo nghĩa trộn lẫn vào nhau thì không thể được và cũng vô ích”. (Nguồn tin Zenet News Agency) Chân Diệu Mỹ (11/12/2012) Theo tôi được biết, hiện nay chức vụ trụ trì một ngôi chùa tại Việt Nam thường do Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo sở tại bổ nhiệm sau khi có sự hội ý với Ban Tôn Giáo tỉnh sở tại. Cho nên di chúc của thầy Nhất Hạnh, mặc dầu rất hay theo tinh thần dân chủ Tây Phương và theo đường lối tổ chức các nhà thờ Cơ Đốc Giáo Âu Mỹ, sẽ không thể thực hiện được tại Việt Nam. Nếu cố gắng thực hiện sẽ tạo nên tình trạng chia phái: một phái theo truyền thống cổ truyền, một phái theo nhà nước và một phái theo chỉ thị của HT. Thích Nhất Hạnh, như vậy thầy Nhất Hạnh lại không khế cơ rồi, lại gây thêm chia rẽ trong cộng đồng Phật Giáo. phapdinh (11/14/2012) THẤY ĐƯỢC THỰC TẠI VẤN ĐỀ. Giới luật tôn giáo hay quy luật tổ chức đoàn thể nào, luôn nằm trong và phụ thuộc luật pháp quốc gia đó. Mục đích của người tu là thấy được sự kiện này (giác ngộ) là giải phóng đầu óc nô lệ chữ nghĩa, nô lệ quy ước, định kiến. Đó là giải thoát chân chánh. Cần thể hiện giải thoát bên ngoài, để chứng minh được tự tại, tự do giải thoát bên trong chính mình. Có tầm nhìn tự do, Phật hay Chúa ... tình yêu bên trong trái tim của các Ngài không khác. Hình ảnh Chúa và Phật chỉ là biểu tượng thiêng liêng, giúp con người sống hòa bình, có tình thương, có bình yên và hạnh phúc chân thật bên nhau. Người có đức tin chân thật không phân biệt, chỉ có ý tưởng tham chấp con người phân biệt thôi. Bi-Trí-Dũng chân chánh người tu cần phải có, nhưng phải biết đặc nó đúng vào thời gian và không gian thực tại, đúng vào vị trí cho phù hợp mọi hoàn cảnh, mọi quốc độ.? Không thể lấy đời sống (dù cao nhất) ở Thiên niên kỷ trước mà áp dụng cho kỷ niên này, hoặc đem tầm nhìn phật giáo phương Tây, hay phật giáo phương Đông mà áp đặc cho nhau...sẽ hổng hết. Cái mầu nhiệm của Phật giáo ra đời là thấy được cái Vô Thường và cái thường hằng trong giáo pháp của Chư Phật. Cái đầu là vô thường (ý tưởng, kiến thức, suy nghĩ ... luôn thay đổi), Con tim bình đẳng cho nhau là bất tử của vạn đại. Tình yêu thương ấy vượt lên tất cả đầu óc nô lệ, không có ngôn ngữ, suy diễn. Chính nơi đây thấy được thực tại vấn đề. Xin trân trọng chia sẻ cái nhìn thấy này cùng các bạn. Như Chân (11/14/2012) - phápdinh: “Có tầm nhìn tự do, Phật hay Chúa ... tình yêu bên trong trái tim của các Ngài không khác.” Như Chân: Không đúng vậy, “tầm nhìn tự do” của phapdinh cũng chỉ giới hạn trong không gian và thời gian của thế tục như Chúa hằng thấy là hết. Nhưng với Trí Tuệ Vô Hạn vượt không gian và thời gian của Phật thì làm sao “tầm nhìn tự do” của phapdinh vươn tới được? - phapdinh: “Hình ảnh Chúa và Phật chỉ là biểu tượng thiêng liêng, giúp con người sống hòa bình, có tình thương, có bình yên và hạnh phúc chân thật bên nhau.” Như Chân: Lại một nhầm lẫn nữa rồi phapdinh ạ. Hãy suy ngẫm kỹ lại mà xem, chiến tranh trên hành tinh này thường do những ai tạo ra? Và ai là người gìn giữ hòa bình, ai là người chia sẻ tình yêu thương sâu sắc, thực tiễn đến với tất cả muôn loài?, phapdinh tìm xem, ở đâu có tình yêu chân thật? - phapdinh: “Không thể lấy đời sống (dù cao nhất) ở Thiên niên kỷ trước mà áp dụng cho kỷ niên này, hoặc đem tầm nhìn phật giáo phương Tây, hay phật giáo phương Đông mà áp đặt cho nhau... sẽ hổng hết.” Như Chân: Câu này thì phapdinh nhầm lẫn nghiêm trọng. Chân lý của đạo Phật như thật, không phân biệt, hạn chế bởi thời gian và không gian. Do vậy, dù ở thiên niên kỷ trước hay mãi mãi về sau này, hay dù phương Đông hoặc phương Tây thì Phật giáo vẫn chỉ một chứ không khác, vạn pháp ở đâu cũng “Vô Thường, Khổ, Vô Ngã” như nhau, đố tìm ra cái gì không thế. phapdinh viết như một nhà văn mơ mộng, mộng mơ, chỉ tạm chấp nhận đối với đời. Đạo Phật không chấp nhận những lý luận chung chung nước đôi như vậy. Phật là Phật, Chúa là Chúa, không thể mập mờ để hòa lẫn như nhau là “hỏng hết” đấy phapdinh ạ. (Còn nữa) |
Cập nhật ngày : 29.11.2012 | |||
Lời BBT/GNCN
Về "Chúc thư" cuả HT Thích Nhất Hạnh, GNCN hoàn toàn tôn trọng và không có ý kiến... Tuy nhiên, nhận thấy phần ý kiến độc giả tương phản, đa chiều, nhiều độc giả nêu ý kiến đáng để suy gẫm... GNCN trích đăng lại trên tinh thần khách quan vô tư. Phần nhận định đánh giá là tùy ở bạn đọc...
PHÁP PHẬT HAY PHÁP LÀNG MAI??? (Tiếp theo) Như Nguyệt (11/16/2012) Xin chào các Phật tử, Như Nguyệt xin lỗi vì không phải Phật tử mà chen ngang nội bộ đang tranh cãi nhau. Như Nguyệt là một người nghiên cứu tâm lý và đang quan tâm đến việc Đạo phật có thể chữa lành được những bất an của con người hay không. Như Nguyệt xin có đôi lời nhận xét của kẻ ngoại đạo. Đạo Phật thực tế có vẻ như khác xa đạo Phật trong những bài viết, những cuốn sách về Phật giáo. Phật dạy ái ngữ là rất khoa học nhưng mấy ai làm được. Rõ ràng khi mình nói những lời tốt đẹp, những lời biết ơn thì tâm hồn của mình cũng cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản hơn. Nhưng những chỉ trích trên này chỉ gây chia rẽ nhau thôi. Nếu tôi theo TS Nhất Hạnh, tôi cảm thấy rất bất an vì người bị người chỉ trích (Phật dạy không được dao động trước khen chê cũng rất khoa học nhưng chắc chẳng mấy ai làm được, nếu làm được thì Phật tử đã không sử dụng phương tiện này để gây chia rẽ). Nếu tôi theo phe bên kia, thì bài viết này kích thích tinh thần bạo động trong tôi. Và tôi biết khó lòng thanh thản dù theo bất cứ phe nào dù pháp môn có hấp dẫn đến đâu bởi vì nó được xây dựng trên một môi trường bất ổn. Vì thế, một người có học thức hay một tôn giáo khác nhìn vào sẽ thấy đây là mảnh đất màu mỡ cho sự bạo động vì thiếu người lãnh đạo. Nó không khác gì một chi nhánh trong một công ty coi một chi nhánh khác là kẻ thù trong khi thực chất tất cả đều là anh em. Nó cũng chẳng khác gì một những xung đột trong nội tâm con người khi một ý nghĩ này lên án một ý nghĩ khác, nó làm cho cho tinh thần của người đó bất an. Tôi rất thông cảm cho các Phật tử coi pháp môn của mình là chân lý nên việc chỉ trích người khác là nhằm mục đích bảo vệ kinh điển khỏi lạc vào “tà đạo”. Nhưng việc sử dụng phương tiện bảo vệ như trên là chưa khoa học. Bằng cách đưa bài viết lên mạng để kích thích sự bạo động trong tâm lý các Phật tử có thành kiến đã làm cho đạo Phật trở nên tầm thường trong mắt những người ngoại đạo. Trang web thuvienhoasen.org là một trang web uy tín cũng đã trở thành công cụ cho sự chia rẽ. Những công ty làm ăn chân chính ngày nay không còn sử dụng cách này nữa. Họ chỉ cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ, sản phẩm của mình. Những người sử dụng quảng cáo để nói xấu đối thủ cạnh tranh thường tự làm giảm uy tín của mình. Huống hồ đạo Phật là một đạo được đánh giá là ít bạo động, là từ bi. Người đăng bài này (kèm theo những dấu chấm hỏi và những đường hi-light rất thành kiến) phải hiểu là mình đang bơm vào thế giới này thêm sự thù ghét chứ không phải tình thương. Nếu pháp môn của TS Nhất Hạnh là sai, là lừa đảo không đem lợi lạc gì cho chúng sinh thì thế nào cũng bị lật tẩy và các Phật tử sẽ tẩy chay thôi (nói như trong kinh doanh là: thị trường sẽ chứng minh) bởi vì người phương Tây rất lý trí chứ không phải cả tin đâu. Nếu pháp môn Nhất Hạnh thật sự đem lại mọi người sự an lạc thì xin Phật tử hãy nhẹ tay góp ý những điểm còn thiếu sót để mọi người học hỏi lẫn nhau, bởi vì theo tôi nghĩ cái cao nhất của Phật pháp vẫn là sự hạnh phúc của con người. Phật pháp không làm cho người ta lợi lạc mà chỉ là phương tiện để tranh giành quyền lợi thì còn ý nghĩa gì. Nhưng thật là tai hại cho Phật giáo khi một bài được nhiều người bình luận sôi nổi như bài này là do nó liên quan đến vấn đề quyền lực. Cảm Ơn (11/17/2012) Cảm ơn Như Nguyệt vì những lời nhận xét chân thành của bạn. Riêng phần bạn nói về việc "Phật dạy ái ngữ...không ai làm được" - bạn nói đúng, nếu chỉ nghe hay đọc Phật Pháp rồi phân tích hay nghiên cứu nó thì mình chỉ nắm được cái vỏ lý thuyết, sẽ không bao giờ có tác dụng chuyển hoá. Mình biết có rất nhiều người nói hay, có khả năng trích dẫn phân tích tuyệt vời - nhưng hành động thì không theo được lời nói. Nếu bạn hành thiền thì khác. Mình tin người hành thiền sẽ có phương pháp riêng để thực sự bước trên con đường Phật dạy, dù chỉ là một vài bước nhỏ (nhưng họ không chỉ dừng ở lý thuyết nữa). Hà Duyên (11/18/2012) Như Nguyệt là ngoại đạo nên không hiểu biết gì về đạo Phật mà có những ý kiến rất cực đoan chia rẽ. Lời của Như Nguyệt mới đúng là thiếu ái ngữ, nếu dùng đúng hơn thì là lời “ác”. Vì sao? Như Nguyệt hiểu này, có câu: “Kẻ nhiệt tình nhưng thiếu hiểu biết là kẻ đại phá hoại”. Như Nguyệt đã tự giới thiệu mình là ngoại đạo chỉ vào đây tìm hiểu chơi thôi, thế thì chẳng ảnh hưởng đến ai. Đàng này lại có ý liến rất sai lạc nhằm mưu mô phá nát Phật giáo đang gặp rất nhiều khó khăn trong xã hội phát triển đã lôi kéo hàng Phật tử lâu năm cũng như sơ cơ sa ngã trong bả vật chất quyến rũ. Trong các ý kiến trao đổi, tôi thấy rất thẳng thắn dám nhìn vào sự thật sai lầm của những cái được coi là “Phật giáo” nhưng thực ra là của tôn giáo khác trà trộn mưu toan diệt Phật giáo. Tuy nhiên cũng có vài ý kiến hơi nặng lời có tính cách miệt thị, rủa xả như ý kiến của Giác Tâm, Tâm Giác, Vô minh, Vô đạo nhằm vào TP nhưng TP đã biết im lặng một cách rất đáng để mọi người học tập. Như thế cãi nhau ở chỗ nào đâu, Như Nguyệt cố bới tìm xem. Còn nữa, TVHS đã rất thiện chí cho đăng tải những ý kiến nói lên sự thật mà không một trang web Phật giáo nào dám làm điều đó, thì Như Nguyệt chụp mũ TVHS “trở thành công cụ cho sự chia rẽ”. Lời này rất hiểm mà độc đó Như Nguyệt ạ, không nên thế. Như Nguyệt là ngoại đạo vào tìm hiểu, nên khéo biết im lặng để tư duy xem đâu chánh đâu tà, đâu lợi đâu hại nhằm có lợi cho mình và mọi người. Thế là tốt. Ở đây, Như Nguyệt lại cố ra vẻ làm như người hiểu biết sâu sắc lắm mà lên giọng “kẻ cả”, chê bai đạo Phật chỉ biết cãi nhau, bất an. Không phải thế đâu Như Nguyệt ạ. Cái đau khổ bất an là cái không phải của đạo Phật như những pháp mà tỳ kheo Nhất Hạnh mới sáng tác nhằm dẫn Phật tử về với Chúa, hay pháp tưởng của những người trải qua thập tử nhất sinh trở nên ngơ ngơ rồi viết ra như những bài viết của Hồng Ngọc (bác sĩ). Những thứ ấy chắc chắn không phải của đạo Phật đâu nhé, Như Nguyệt muốn tìm hiểu thì hãy biết lắng nghe. Pháp môn của tỳ kheo Nhất Hạnh chỉ phù hợp với những người còn ham thích những Dục Danh, Dục Lợi, Dục Sắc, Dục Ăn và Dục Ngủ, như thế đa số người đời đều mong cầu vậy nên đâu có mấy người “lật tẩy”. Nay có người “lật tẩy” như TP và các ý kiến khác đã nói rõ thì hàng đệ tử Dục Lạc phản ứng mạnh mẽ nhưng đơn phương, có ai chấp đâu mà Như Nguyệt đặt điều họ cãi nhau. Miệng lưỡi của Như Nguyệt nguy hiểm lắm. Người ngoại đạo vào hợp sức với người “tôn giáo khác đạo Phật” để phá nát đạo Phật, như thế là tội lớn lắm đấy Như Nguyệt ạ. Mong Như Nguyệt là người hiểu biết về Phật giáo chân thực hơn. Vâng - tôi ngoại đạo (11/18/2012) @ Như Nguyệt: có lẽ bạn không cần mất thời gian với những người cực đoan bảo thủ làm gì. Cứ để họ ôm lấy cái quan điểm của họ. Chắc họ sẽ vui và an lành lắm. Bạn có thể dành chút thời gian đi học thiền xem, có lẽ cách đó tốt hơn là tranh luận dài với các "học giả", "phật tử" này. @ Hà Duyên: bạn nên tự xấu hổ nếu bạn coi mình là Phật tử. Cố lên nhé, bạn sắp hạ bệ được thầy Hạnh rồi. Lại sắp có một vụ Bát Nhã online rồi đó. Bạn đang làm cho Phật giáo tốt hơn, giúp các phật tử khác được mở mắt hơn vì sư thông thái của bạn. Bạn sắp giúp họ giác ngộ rồi đó (và bạn cũng giác ngộ chứ?) Bạn là "nội đạo" thì hãy chứng tỏ sự thông thái của mình theo cách khác bạn ạ :-) Thực sự là hơi thất vọng với thuvienhoasen (không ngạc nhiên nếu comment này bị xoá). Hà Duyên (11/19/2012) Cảm ơn Như Nguyệt, bạn đã phản hồi rất nhanh nhưng trong tâm trạng mất bình tĩnh, mới có vài lời nhẹ nhàng mà bạn vội nổi xung thiên đến nỗi không còn viết đúng cái nick “Như Nguyệt” nữa. Thật tội nghiệp cho bạn, đúng là người đang đi học tập những bài dạy của Hồng Ngọc và HT Nhất Hạnh nên bản chất không thể khác được. Bạn cứ ôm giữ cái quan điểm của mình để mà an vui hạnh phúc, có ai cấm đoán hay ép buộc bạn phải bỏ đâu. Có điều bạn không nên tham gia ý kiến về Phật pháp, là ngoại đạo như bạn (theo lời bạn tự giới thiệu) thì không nên có ý kiến, nếu có thì nên hợp tác thân thiện hướng đến lợi ích. Tôi là “nội đạo” nên tôi đang chứng tỏ sự thông thái theo cách khác đấy chứ bạn, nếu cứ theo lối mòn ngàn năm cũ thì có ai dám ủng hộ ý kiến nói lên những điều phi Phật pháp hay không? Và bạn cũng gắng tìm hiểu thêm thế nào là lời ái ngữ và phi ái ngữ. Không nên cứ lơ mơ, lờ mờ mà chụp cho người khác cái mũ xấu xa theo quan điểm góc nhìn chật hẹp của mình. Bạn khuyên tôi “dành chút thời gian đi học thiền xem…”, hóa ra bạn là ngoại đạo mà cũng biết thiền ư? Nếu bạn giảng thiền là cái gì để mọi người học thì có lẽ hay hơn những lời bạn đã viết gần đây. Bạn sợ TVHS mà xóa mất comment của bạn, không phải, tôi mới là người thấy tiếc nhiều hơn nếu TVHS làm việc ấy. Mong TVHS hãy giữ vậy để mọi người chiêm ngưỡng, lắng nghe những lời đầy “ái ngữ” của bạn, xóa đi thì ai biết đấy là đâu. Không chừng ý kiến của bạn sẽ được đăng tải thêm trên một vài trang web khác nữa cũng nên. Qua ý kiến của bạn, tôi thật thất vọng về bạn, không biết có nên trao đổi thêm với bạn về Chúc Thư của HT Nhất Hạnh nữa hay không để bạn có cơ hội “nghiên cứu tâm lý” đạo Phật và phi đạo Phật. Rất tiếc, bạn chả hiếu đạo Phật bao nhiêu, có nói nữa cho bạn cũng thừa, uổng. Thân ái chào Như Nguyệt. Như Nguyệt (11/19/2012) Hà Duyên yên tâm là Như Nguyệt không hề có ý định phá hoại Phật pháp. Nhờ Phật pháp mà tôi mới thấy được ý nghĩa của cuộc sống như ngày hôm nay. Tôi có học đôi chút về thiền qua sách vở. Phép thực tập của tôi đơn giản nhưng tôi lại thấy rất hiệu quả: theo dõi hơi thở, ý thức việc mình làm và suy nghĩ về những điều tốt đẹp (các bạn cứ việc chê bai). Nhưng nhờ những phép thực tập này mà tôi có những chuyển biến trong tâm. Tôi biết chấp nhận những điểm yếu của mình, không còn bực bội khi gặp chuyện không vừa ý. Tôi cũng thôi không còn lo lắng cho sự nghiệp, không còn quan tâm nhiều đến cấp trên mà cứ thoải mái vui chơi với những đàn em ngây thơ của mình. Bây giờ, tính cạnh tranh trong con người mình đã giảm rất nhiều, nên cũng ít khổ. Một điều Như Nguyệt cảm thấy vô cùng quý giá là sẽ không muốn đánh đổi cái tâm thanh thản để nghĩ nhiều đến danh vọng và tiền bạc. Và bạn bè đồng nghiệp cũng cảm nhận là tôi vui vẻ hơn, rất ít khi nổi nóng. Tôi cũng chưa biết mình đã thực tập đúng chưa nhưng với một người luôn bi quan mà trở thành một người lạc quan như ngày hôm nay thì điều đó là quá tuyệt vời rồi. Và tôi luôn nghĩ mình mới thực tập Phật pháp hai năm mà đã tiến bộ như vầy rồi thì các thầy tu học biết bao nhiêu năm chắc sẽ rất an lạc và trí tuệ còn cao vời biết dường nào. Nhưng tôi đã thất vọng vì các Phật tử lại hành xử không đẹp. Tôi đọc “Thấp thoáng lời kinh” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trên thuvienhoasen và bắt gặp những lời chỉ trích rất nặng nề của các Phật tử. Tôi không bàn đến nội dung Phật pháp vì biết mình còn hạn chế, cái tôi quan tâm là đến cách hành xử của người tu tập. Và những lời lẻ miệt thị là những gì tôi thấy, khác xa trong sách vở. Tôi cũng không nghĩ lại có Phật tử đăng bài viết của một ông thầy được phương Tây kính trọng lên mạng để những người có thành kiến chê bai, đàm tiếu. Tôi suy nghĩ có thể họ sợ Phật pháp bị đi vào con đường tà đạo nên ra sức đấu tranh. Cũng hợp lý thôi. Nhưng nghĩ lại tôi thấy các nước Phật giáo khác có ai chê bai TS Thích Nhất Hạnh đâu? Các trang web và nhà xuất bản VN cũng đăng đầy giáo pháp của ổng đó thôi. Mà chẳng phải Phật giáo có đến 84 nghìn pháp môn, ngày xưa các thầy vì bất đồng ý kiến mà chia làm nhiều bộ phái đó sao? Tịnh độ thì bảo sau này sẽ là pháp môn duy nhất còn sót lại của Phật pháp. Thiền thì lại bảo Tịnh độ dành cho người căn cơ thấp. Có người bảo sau khi chết có ý thức. Có người lại bảo là không. Nếu bài xích pháp môn Làng mai thì liệu có bài xích hết các pháp môn khác không? Hay là phải chấp nhận như là sự đa dạng của Phật giáo. Tôi không biết Thích Nhất Hạnh tà đạo đến đâu nhưng pháp môn của ông thu hút nhiều Phật tử phương Tây và tôi rất tự hào vì có người Việt Nam làm được điều đó. Bản thân tôi đọc sách của ông cũng thấy câu từ của ông rất nhẹ nhàng và không có những lời lẻ thiếu ái ngữ như chúng ta. Tôi không trách các bạn bảo vệ pháp môn của mình. Nhưng nên bảo vệ bằng cách viết những cuốn sách, tổ chức những khóa tu đem lại lợi lạc hơn TS Thích Nhất Hạnh. Còn bảo giáo pháp của mình đúng, của người khác sai thì tôi có cảm giác hình như chúng ta đang xem ngón tay quan trọng hơn mặt trăng, xem cái bè quan trọng hơn bờ sông bên kia. chính ngôn (11/19/2012) Tôi là một Phật tử sẽ rất trân trọng pháp môn của làng Mai, nếu như có chính ngôn rõ ràng để ai muốn theo không lầm lẫn và để không nhận sự cúng dường của những Phật Tử hiểu lầm là pháp môn nương theo giáo pháp của đức Thích-Ca. Có như vậy thì ý kiến của Vô Minh "Ai tu Làng Mai hay không là việc của người đó, người theo làng Mai và tu tập tốt hay không tốt cũng là việc của người đó" mới có thể được tôn trọng. Chân Diệu Mỹ (11/19/2012) Thân chào quý anh chị thiện hữu tri thức, Tôi xin tự giới thiệu: tôi là một Phật tử by birth, có nghĩa là sinh ra đã là Phật tử vì cha mẹ tôi là Phật tử, chắc ông bà thân sinh ra tôi cũng “by birth”. Có nghĩa là tôi không hiểu biết nhiều về giáo lý nhà Phật. Tôi đọc sách của nhiều thầy, đi tu học theo nhiều thầy khác nhau, nhưng không bao giờ cho rằng thầy này là nhất hay thầy kia là nhất bởi vì, theo tôi nghĩ, mỗi thầy đều có phương pháp dạy riêng, do tuỳ trình độ căn cơ hay sở thích của mỗi người. Ngay chính Đức Thế Tôn cũng vậy, Ngài cũng tuỳ căn cơ, thời tiết và quốc độ mà giảng pháp. Chúng sinh đa tâm nên Phật cũng đa pháp, ai có duyên thích hợp thì áp dụng, thấy thích thì theo. Trường hợp thầy Nhất Hạnh, thầy chắc chắn (tôi đoan chắc như thế) không thể nào bằng Phật hay như Phật được, nhưng thầy cũng áp dụng nguyên tắc của Phật giảng dạy là “khế cơ và khế lý”. Khế lý thì phải phù hợp với giáo lý, không chống trái với Tam Pháp Ấn: vô thường, vô ngã và niết bàn. Khế cơ, thì phải phù hợp với hoàn cảnh, với tâm lý, với trường hợp của người nghe pháp và với cả quốc độ nữa. Vấn đề quý anh chị đang tranh luận (không phải tranh cãi) là nội dung thầy giảng trong chương 4 quyển sách BỤT TRONG TA, CHÚA TRONG TA. Trong đó thầy hay dùng từ “Thượng Đế” và khuyên những người nghe nên “ quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài…” Qủa thực các con tôi lỡ lấy người theo đạo Thiên Chúa Giáo mà nghe được những lời giảng này của thầy thì chúng rất hoan hỷ và không hối tiếc việc bỏ đạo Phật lấy vợ đạo Chúa. (giúp cho công tác cải đạo của các bạn đạo TCG dễ dàng) May thay, chúng nó không được đọc vì quyển sách này chỉ xuất bản bằng tiếng Anh và chỉ phổ biến trong cộng đồng Tây Phưong tức cộng đồng những người tu theo Thiên Chúa Giáo. Tại sao có một chương được dịch ra tiếng Việt. Đây có thể là do tình cờ, do chưa hiểu nhiều về việc áp dụng nguyên tắc khế lý khế cơ của Đức Phật nên đạo hữu Đỗ Quý Toàn tức nhà báo Ngô Nhân Dụng, thấy thích và dịch ra tiếng Việt phổ biến lần đầu ở California trên tờ Thế Kỷ 21 thế thôi. Sau đó các báo khác đăng lại và cuối cùng Làng Mai cũng đăng theo sau khi đạo hữu Đỗ Quý Toàn trở thành Phật tử và trở thành Giáo Thọ Sư của Làng Mai sau đó. Tôi được nghe thầy Nhất Hạnh nói qua một buổi pháp thoại nào đó là cuốn sách này thầy nhắm vào đối tượng những người theo Thiên Chúa Giáo, (tôi tin điều này vì cho đến nay vẫn chưa có một ấn bản chính thức bằng tiếng Việt) muốn nội dung cuốn sách như là phương tiện dụ người TCG đến với đạo Phật, mới thì tò mò xem, để sau khi mở cửa vào thì nghiên cứu đạo Phật qua những sách vở khác thì lúc đó họ sẽ hiểu Thượng Đế chỉ là danh từ thôi, Thượng Đế đã chết từ lâu rồi như triết gia Nietzsche đã nói và đa số tầng lớp trí thức Âu Mỹ cũng đã biết. Ngày nay họ không tin Thượng Đế và họ còn biết Đức Chúa đã từng tu học Phật giáo với hai vị sư bên Ấn Độ nữa. Do vậy tôi nghĩ khi kết luận rằng thầy không phải là một Phật tử khi chưa đọc hết sách hay nghe hết các băng giảng của thầy là điều không đúng. Riêng về quyển sách bằng Anh ngữ tôi cũng chưa mua và không cần thiết phải mua, nên không rõ toàn bộ nội dung thầy có áp dụng đúng nguyên tắc khế cơ và khế lý không, cho nên không có ý kiến. Có nhiều điều thầy giảng tôi thấy thích hợp với tôi thì tôi đem ra áp dụng như ăn cơm trong im lặng là một phép rất hay còn quán này quán nọ khi ăn cơm tôi không áp dụng hay thầy giảng dạy về Tứ Diệu Đế «..sự thật thứ nhất đời là khổ, life is illbeing là chỉ đúng phân nữa sự thật vì đời cũng có thể rất vui, có thể thoải mái, thông thoáng, nhẹ nhàng, không phải chỉ bế tắc sầu khổ mà thôi. Cho nên sự thật thứ nhất không phải đời là khổ...» tôi thấy thầy giảng điều này không phù hợp với Tam Pháp Ấn, không phù hợp với lời đức Phật dạy nên phủ nhận những lời thầy dạy và không học theo bài giảng này của thầy… và cả pháp môn Hiện Pháp Lạc Trú nữa và còn nhiều nữa.. Xin cảm ơn TVHS đã post các sách của thầy và cả các bài viết phản biện của Phật tử về pháp môn của thầy (xem hồ sơ Bát Nhã Làng Mai trong TVHS, bài Tứ Diệu Đế, bài Hiện Pháp Lạc Trú và mới đây Chúc Thư của HT. Nhất Hạnh). Tôi viết hơi dài, nếu có điều gì sơ sót hay không được như ý với quý anh chị thiện hữu tri thức xin hoan hỷ thứ lỗi cho kể hậu học. Xin đa tạ. Chân Diệu Mỹ (bút hiệu không phải pháp danh) Email address: chandieumy@yahoo.com Vâng - tôi ngoại đạo (11/19/2012) Kính gửi Admin, Có lẽ cuộc thảo luận này đã vượt qua tầm kiểm soát của ban quan trị web thuvienhoasen rồi (trừ phi các bạn cố tính để nó như vậy). Có lẽ chúng ta nên khép lại cuộc trao đổi vô bổ, thiên về hý luận này lại. Con người với nhau - là phật tử hay không thì cũng không nên chê bai nhau, chê bai Pháp môn của nhau. Mỗi người có "bệnh" riêng và có phương thức điều trị riêng. Không nên áp đặt quan điểm của mình đối với người khác. Các bạn cứ tiếp tục chứng tỏ sự thông thái của mình bằng việc chê bai thầy Hạnh. Nhưng thầy dã giúp được rất nhiều người trên thế giới (tôi nhấn mạnh là trên THẾ GIỚI, chứ không chỉ ở Việt Nam). Cách tốt nhất để các bạn chứng mình rằng bạn tốt, pháp môn của bạn tốt, ưu việt hơn của Thầy (toàn sai trái - theo ngôn ngữ của nhiều bạn), là bạn hãy chứng tỏ bạn sống tốt, bạn giúp đỡ được nhiều người hơn Thầy. Có lẽ không có cách nào thực tế hơn cách đó (chứ cứ ngồi trước bàn phím rồi mạt sát thầy, hay những người khác thì cũng chả chứng minh được gì). Ngay trong giây phút bạn ngẫm nghĩ xong các dòng để mạt sát chê bai người khác thì thầy lại đang giúp đỡ nhiều người khác (dù họ màu da, tôn giáo khác). @ Hà Duyên: hãy chứng tỏ mình là Phật tử theo cách trên đi bạn nhé. "Đặc sản" của các Phật tử chính tông là sự cởi mở, thấu hiểu, biết chấp nhận sự khác biệt, chia sẽ, biết giúp đỡ những người lầm lạc, cảm thông và yêu mến họ dù họ có khác mình 100% đi nữa. "Đặc sản" của một "phật tử chính tông" như bạn không phải là những nhận xét cay nghiệt, ra vẻ chỉ có ta đây mới là Phật tử chuẩn - còn lũ người theo Làng Mai chỉ là bọn vô minh, vô đạo, chả hiểu gì về Phật Pháp (Dead wrong bạn quý mến ạ). Tôi không biết bạn thông thái tới mức nào, nhưng tôi không nhận thấy sự khiêm tốn hay cảm thông gì trong câu chữ của bạn. Bạn giống một phần tử hồi giáo cực đoan và bảo thủ hơn là một Phật tử bao dung độ lượng Về thiền: Thiền hiện giờ được dạy cho cả Phật tử và đối tượng không phải là Phật tử (ví dụ như phương pháp thiền Vipassana của thầy Goenka). Tôi hi vọng bạn sẽ lại không hậm hực nói rằng thiền đó cũng là vô minh là sai trái như phương Pháp của Làng Mai. Hi vọng là thế bạn ạ. Tôi không là Phật tử, nên lời tôi nói sẽ có nhiều phần tiêu cực, nhưng dường như bạn - một Phật tử xịn (theo định nghĩa của bạn) còn tiêu cực và hung hăng bội phần đó. Quan điểm của tôi thế này: chúng ta không thể thể chứng minh sự hiệu nghiệm của một phương thuốc bằng cách treo nó ở trên tường rồi tán dương nó là hay, rồi chê bai hạ bệ thuốc mà người khác đang dùng là hàng "lởm". Ban bỏ thuốc của bạn xuống và dùng thử đi. Người ta đang dùng thuốc để trị bệnh của người ta (bệnh họ khác bệnh của bạn, cũng có thể có chút giống), nhưng họ đang dùng thuốc thực sự và họ thấy tốt (họ tự biết đổi sang thuốc tốt nếu sau thời gian dài không hiệu nghiệm, chứ không nhờ bạn đứng chém gió để khai thông tư tưởng cho họ đâu). Vâng - tôi ngoại đạo. Nhưng tôi biết tôn trọng mọi tôn giáo và tôi tin tưởng thầy Hạnh đang hành động tốt cho nhiều người ở nhiều châu lục (chứ không ngồi trước bàn phím chém gió và bảo thầy mới là Phật tử xịn, các chú khác chỉ là hạng xoàng). Thầy hành động bạn ạ :-) Hà Duyên (11/20/2012) Nhận thấy Như Nguyệt có sự chuyển biến nên tôi thêm mấy lời với bạn. Bạn có sự yêu thích và đam mê đạo Phật, nhưng bạn chọn lầm pháp rồi, pháp Làng Mai không phải là pháp Phật, nếu bạn thích thì cứ theo, đó là sự tùy tín riêng của mỗi người. Vì bạn nói bạn là ngoại đạo nên tôi cần nói rõ cho bạn hiểu, pháp của Phật ở Việt Nam đã có rồi bạn ạ, đó là bộ kinh Nikàya do HT Minh Châu dịch từ tạng Pali sang tiếng Việt không qua trung gian một ngôn ngữ nào khác. Học Phật nên học từ bộ kinh này và dưới sự hướng dẫn của một bậc Thầy đã tu chứng thì mới có khả năng hiểu đúng được ý nghia câu kinh. Nếu không có bậc Thầy đã tu chứng thì cũng rất dễ lầm lẫn, bởi trong bộ kinh này như HT Minh Châu đã phải thốt lên lời đau đớn vì ngoại đạo mưu toan xuyên tạc hủy bỏ những tinh hoa cao đẹp nhất của nhân loại (xin đọc đúng trong lời giới thiệu của HT trong hai lần in kinh Trung Bộ). Như vậy chúng ta hiểu rằng trong kinh Nikàya cũng đã bị xen lẫn rất nhiều câu, nhiều bài không phải do Phật thuyết. Bạn tu theo pháp của HT Nhất Hạnh được an lạc, nhưng đó chỉ là Tưởng an lạc chứ không phải Tâm an lạc đâu bạn. Muốn hiểu được điều này (Tưởng và Tâm) bạn phải thân cận bậc thiện tri thức, tức là bậc Thầy đã tu chứng đạo. HT Nhất Hạnh là người tu chưa chứng, nếu bạn thấy thích thì theo, điều đó không ai cản, chỉ e một ngày nào đó bạn lại thấy Nước Chúa còn an lạc hơn. Bạn không nên nghĩ rằng một ông Thầy nổi tiếng, được nhiều người ngưỡng mộ thì đó là đúng Phật pháp đâu nhé. Điều đó không đúng. Để kiểm chứng, bạn nên đối chiếu pháp HT Nhất Hạnh dạy có đúng lời Phật không thì biết. Ví dụ cuốn Đường Xưa Mây Trắng khá “nổi tiếng” nhưng chi là những lời cóp nhặt, suy tưởng biến tướng sai lạc so với kinh gốc Phật dạy. Và rất nhiều nữa, sách của HT Nhất Hạnh thể hiện tông phái Làng Mai và nay Làng Mai muốn thống trị toàn cầu. Mưu vọng cao không chính, tất phải đổ vỡ đau. Đạo Phật chỉ có một, nhưng ngày nay trên hành tinh này có hàng trăm thứ Phật giáo. Tuy nhiều nhưng chỉ có cái áo khoác bên ngoài, còn cốt tủy của Phật giáo không phải thứ dễ tìm. Nếu bạn có tâm với Phật giáo, hãy thận trọng. Mong bạn sớm gặp được Phật pháp Hà Duyên (11/20/2012) Bạn “Vâng …ngoại đạo” này, bạn thực sự bị “xốc” vì thần tượng của mình bị lật tẩy, cho nên bạn mất bình tĩnh rồi. Ở đây chúng tôi ý kiến rất nghiêm túc, không hý luận, không cầu danh mà chỉ mong mang đến sự lợi ích cho mọi người. Bạn tôn trọng đạo Phật, Công giáo, Tin Lành… điều đó tốt, và tôi cũng vậy, tôi cũng tôn trọng các tôn giáo khác chứ không bao giờ chê bai họ. Nhưng con người luôn có tâm tìm hướng đến một sự tốt đẹp hoàn thiện nhất cho con người. Điều này đức Phật Thích ca đã làm được và nhân loại rất cung kính tôn trọng Ngài và Pháp Ngài dạy từ hơn 25 thế kỷ nay. Đồng thời cũng không thiếu những kẻ lợi dụng uy danh đức Phật để kiếm danh cho mình, bỏ xa những giáo lý mà Ngài đã dạy. Nếu “Vâng… ngoại đạo” là người thông minh thì phải nhận ra chứ không cần tôi phải “điểm mặt chỉ tên”. Bạn là ngoại đạo, (bạn đã nói “tôi không quy y gì hết”) chứng tỏ bạn không có niềm tin ở Phật mà bạn ý kiến về giáo lý của Phật thì rất sai lầm. Giáo lý Phật dạy để cho người hành chứ không phải để cho người tìm hiểu chơi rồi hý luận. Người tìm hiểu mà không hành thì không bao giờ hiểu đúng Phật giáo, ví như sư Nhất Hạnh (người chỉ học), ông ta chưa bao giờ hiểu đúng Phật giáo. Nếu TVHS mở rộng cửa thì chúng tôi sẽ vạch trần những sai trái của ông ta đối với đạo Phật. Thực tiễn trên diễn đàn này đã có rất nhiều ý kiến nói về sai lầm của sư Làng Mai mà bạn chưa thấy à? Đâu phải đến hôm nay mới có sư cô TP (đệ tử đã qua tu học ở Làng Mai) mới chỉ thẳng. Quan niệm về Thiền của bạn, tôi nói chân thực, bạn chả hiểu biết gì về Thiền của đạo Phật mà cứ hay nói. Các loại Thiền trên thế gian này thì rất nhiều nhưng không có loại Thiền nào giống hay gần giống Thiền Phật dạy, kể cả Thiền Vipassana, chỉ là một loại thiền biến tướng giống như thiền Tiếp Hiện của Làng Mai hay thiền Tánh Không Bát Nhã của Long Thọ ngày xưa thôi. Toàn những ông thầy háo danh nên thấy mình “vĩ đại” hơn cả Phật. Thiền đúng của Phật là thiền đạt thân tâm tĩnh lặng do tâm đã đoạn tận sạch mọi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Bạn “Vâng… ngoại đạo” đã thấy ở đâu thực hiện được thiền này chưa? Vô cũng khó khăn và hiếm thấy như sao buổi sớm đấy bạn à. Quan niệm về thuốc bạn cũng tất mơ hồ. Bạn đừng nghĩ thứ thuốc “zỏm”, thuốc hại mà không được nhiều người thích hay sao. Vì thiếu hiểu biết nên rất nhiều người không nhận ra đâu là thuốc trị bệnh, đâu là thứ mang thêm bệnh vào thân do vậy họ vẫn say mê chìm đắm lao vào sử dụng. Điều này thuộc trách nhiệm của người bán thuốc như sư Làng Mai chẳng hạn, đã mang thuốc không phải thuốc Phật chế mà chỉ là thuốc pha trộn linh tinh rồi dán nhãn thuốc Phật thì thật hại. Ví dụ dễ hiểu, thuốc ma túy, cần sa, rượu, thuốc lá… toàn những thứ gây chết người cả mà sao trên thế giới con người vẫn say mê kính ngưỡng theo đòi sử dụng rất đông đấy bạn ạ. Cũng vậy pháp Làng Mai rất đông người theo như người cần ma túy thôi, một chút an lạc tưởng rồi mang theo ân hận suốt đời nuối tiếc. Thấy bạn nóng giận, mất bình tĩnh nên tôi có mấy lời với bạn. Tôi sẽ tiếp bạn cho đến khi nào bạn bình tĩnh lại thì thôi. Mong hợp tác thân thiện và vui vẻ. |
Cập nhật ngày : 01.12.2012 | |||
Lời BBT/GNCN Ngày 22/11/2012, trên trang nhà Thư Viện Hoa Sen xuất hiện loạt bài "Phản biện hiện tượng Thích Thông Lạc" của Toàn Không. Loạt bài này phản ánh trình độ kém hiểu biết của người viết về giáo pháp Nguyên thủy, nhầm lẫn TL Thích Thông Lạc đang dạy pháp của Nam tông Theravada... GNCN sẽ lần lượt giới thiệu đến độc giả những bài nhận định của tác giả Quảng Hạo về loạt bài này ... Bài số 01: Bài viết của tác giả Toàn Không được mở đầu bằng một sự rào đón, nhưng thiếu kín kẽ: “Trong quan niệm của chúng tôi sẽ tránh dùng danh tự Đại thừa, Tiểu thừa mà thay bằng Bắc truyền, Nam truyền được nhiều chừng nào tốt chừng ấy để tránh bớt sự phân chia có tính cách miệt thị không tốt trong Phật giáo”. Viết như thế, tác giả đã mặc nhiên thừa nhận sự miệt thị của Đại thừa đối với giáo pháp Nguyên thủy của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni là có thật. Nay tác giả muốn “tránh dùng danh từ Đại thừa, Tiểu thừa”, không phải tuyệt đối trăm phần trăm, mà chỉ ở mức “nhiều chừng nào tốt chừng ấy”, với mục đích chỉ để “tránh bớt” thôi!, chứ không thể dứt điểm triệt để “sự phân chia có tính cách miệt thị” này… Đây chẳng phải “sáng kiến” mới của Toàn Không. Tỳ-kheo Thích Nguyên Hải cũng đã từng có “sáng kiến” tương tự. “Chương XIII: Đối thoại với thầy Thông Lạc. Tại sao có người thấy Phật thừa hay Đại thừa khó hiểu?”, tác giả Thích Nguyên Hải đã từng viết: “Tuy nhiên, thay vì dùng chữ Tiểu Thừa, Nguyên Hải dùng chữ Nguyên Thủy… và dùng chữ Phật Thừa thay chữ Đại Thừa…”. Dù Toàn Không và Nguyên Hải có muốn thay Đại thừa, Tiểu thừa bằng những danh xưng khác như: Bắc truyền, Nam truyền, Nguyên thủy, Phật thừa. thì bản chất vấn đề vẫn thế, vẫn không thể làm thay đổi lịch sử, thứ lịch sử khắc nghiệt mà giáo pháp Nguyên thủy của Thế tôn phải gánh chịu bởi sự miệt thị của Đại thừa. Bất đắc dĩ tôi phải dẫn lại ở đây lời của cố HT Thích Minh Châu: Buồn thay! ác ý của những nhà Bà-la-môn khi dùng danh từ Tiểu thừa gán cho lời dạy Nguyên thủy của Đức Phật lại được tìm thấy rất nhiều trong các văn bản rất quan trọng của Đại thừa như “Pháp hoa kinh”, “Đại thừa khởi tín luận” v.v… Thiện chí của Toàn Không khi muốn “tránh bớt sự phân chia có tính cách miệt thị” cũng bất khả thi chừng nào những văn bản ấy còn tồn tại trong hệ thống kinh luận Đại thừa Phát triển. Toàn Không ảo tưởng rằng: chỉ cần thay danh từ Đại thừa, Tiểu thừa bằng tên gọi khác sẽ “tránh bớt sự phân chia có tính cách miệt thị”!?... Thích Nguyên Hải cũng đã làm như thế, nhưng lại đem những hiểu biết ấu trĩ ra để giải thích: Tiểu thừa chỉ là xe nhỏ, xe đạp 2 bánh!?. Đại thừa là xe vận tải 18 bánh, thuyền lớn chạy vù vù!?. Tiểu thừa chỉ là trình độ cử nhân, không thể so với Đại thừa là cao học, tiến sĩ!???. Chúng tôi không có chút mãy may hi vọng nào Toàn Không sẽ không đi vào vết xe đã đổ của Nguyên Hải… Ngày nay, tên gọi “Đại thừa” vẫn chính danh, “Tiểu thừa” tuy bị loại dần ra khỏi các văn bản hành chánh Phật giáo, nhưng vẫn còn đầy ắp trong kinh luận Phát triển. Do đó, tư tưởng mang tính loại trừ giáo pháp Nguyên thủy của Đại thừa vẫn tồn tại, đã thâm căn cố đế trong đầu những Phật tử theo các tông phái Phát triển, biểu hiện qua tư duy tiêu cực như: “pháp nhỏ”, “xe nhỏ”, “tục đế”, “ích kỷ”, “tự độ”, “tiêu nha bại chủng” v.v… Toàn Không và Nguyên Hải đã quá ảo tưởng khi nghĩ rằng chỉ đơn giản thay đổi danh xưng “Tiểu thừa”, “Đại thừa” bằng những tên gọi khác sẽ làm thay đổi được bản chất của vấn đề??? Đó chính là hệ quả mà HT Thích Minh Châu đã phát hiện khi dịch kinh tạng Nikaya: “Càng dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ Tiểu Thừa để gán vào những lời dạy thực sự nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành”. Những lời tâm huyết của HT Thích Minh Châu dù có trích đi trích lại hàng triệu lần vẫn chẳng bao giờ thừa trước tình cảnh vàng thau lẫn lộn ngày nay… Luận điểm đầu tiên Toàn Không muốn “phản biện” là phát biểu của HT TTL trong ĐVXP-Tập 8: “Phật Giáo Đại Thừa không phải là Phật Giáo chánh thống, mà là Phật giáo theo kiểu kiến giải giáo pháp của Bà La Môn; hay nói cách khác, Phật Giáo Đại Thừa là đạo Bà La Môn lấy tên là Phật Giáo Đại Thừa để lừa đảo tín đồ Phật Giáo, cho nên nghĩa lý toàn bộ kinh sách Đại Thừa là Giáo pháp của Bà La Môn chính gốc”. Dòng chữ được Toàn không bold lên là điểm cần nhấn mạnh để “phản biện”. Chúng tôi tạm chia mạch văn trên làm 3 mệnh đề. - Mệnh đề 1: Phật Giáo Đại Thừa không phải là Phật Giáo chánh thống mà là Phật giáo theo kiểu kiến giải giáo pháp của Bà La Môn. - Mệnh đề 2: Phật Giáo Đại Thừa là đạo Bà La Môn lấy tên là Phật Giáo Đại Thừa để lừa đảo tín đồ Phật Giáo (được nhấn mạnh bold đậm) - Mệnh đề 3: cho nên nghĩa lý toàn bộ kinh sách Đại Thừa là Giáo pháp của Bà La Môn chính gốc. (kết luận) Mệnh đề 1 và 2 được nối với nhau bằng câu “hay nói cách khác”… Nhận định: Mệnh đề 1 là mệnh đề chính, mệnh đề 2 chỉ để diễn giải thêm… Lẽ ra Toàn Không nên “phản biện” mệnh đề 1, tìm nguồn tư liệu để chứng minh Đại thừa là chính thống, được chính đức Bổn sư Thich-ca Mâu-ni tuyên thuyết từ thời Nguyên thủy. Toàn không đã không làm được điều này, lại đi ôm mệnh đề phụ thứ 2: “Đại thừa là Bà-la-môn” để “phản biện”!?... Bằng Phương pháp luận quy nạp máy móc, Toàn Không đã dẫn chứng từ nguồn tư liệu của các học giả không mấy tên tuổi, về vài điểm khác biệt giữa Đại thừa và Bà-la-môn giáo như Thượng đế, Phạm thiên v.v… từ đó đi đến kết luận: Đại thừa khác Bà-la-môn giáo!. Sẽ rất ngây thơ khi nghĩ rằng, vì Bà-la-môn tin Thượng đế, Phạm thiên v.v… còn Đại thừa thì không. Từ đó dẫn đến kết luận: Đại thừa không phải là Bà-la-môn giáo!... Về điểm này, ý kiến của tác giả Như Pháp trong bài “Đại thừa là Bà-la-môn hay Ki-tô giáo” rất xác đáng: “Đây là nói về hiện tượng, là sự biến thái tiệm tiến, là hòa để hóa trong điều kiện khả thể, là lưu danh nhưng chất đã biến bởi các yếu tố ngoại lai… v.v…” Quả đúng thế, danh gọi “Đại thừa Phật giáo” vẫn được bảo lưu, nhưng chất đã bị thay thế bởi các yêu tố phi Nguyên thủy… “Hòa để hóa” có nghĩa là thỏa hiệp trước, sau đó chờ thời cơ thuận lợi để đồng hóa, nhưng không phải một sớm một chiều, mà là tiệm tiến theo suốt chiều dài lịch sử của nó… Bà-la-môn hóa giáo nghĩa Nguyên thủy để rồi sau đó khoác lên mình một chiếc áo mới: Đại thừa! ngụy trang khéo đến nỗi thoạt nhìn vào sẽ không thấy Bà-la-môn nên lầm tưởng Đại thừa cũng do chính Đức Phật tuyên thuyết… Nói Đại thừa là Bà-la môn chính là nói về sự tương quan siêu hình tưởng giữa hai tôn giáo này. Gọi là “siêu hình tưởng” bởi quan điểm siêu hình do tưởng tri mà có. Trong giáo thuyết Nguyên thủy, không hề có yếu tố siêu hình tưởng nào. Đạo Phật Nguyên thủy đơn giản chỉ là một nền “Đạo đức Nhân bản - Nhân quả”, rõ ràng cụ thể, không mờ hồ trừu tượng, ai cũng có thể hiểu, đúng như lời Phật dạy trong kinh Tương Ưng: “Nếu Ta nói một điều gì mà chúng sanh hiểu bằng tưởng thì có nói láo trong Ta.” Nếu có một giáo thuyết mang tính siêu hình nào đó được gọi là “đạo Phật”, dứt khoát đó là “ngụy đạo Phật”. Siêu hình Bà-la-môn là điều không cần bàn. Nhưng với Đại thừa, có yếu tố siêu hình không? Câu trả lời khẳng định: không những có, mà có rất nhiều. Ví dụ: kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thế giới thành tựu: “Thần lực Như Lai tạo lập thế giới”. Đây rõ ràng là quan điểm siêu hình tưởng của tôn giáo Thần ngã. Nó chẳng khác gì với quan niệm “quyền năng Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ” hoặc “Brahman là tất cả, vũ trụ đều quy kết và phát sinh từ ngài”. Nếu Toàn Không không “phản biện” được điểm này thì phải thừa nhận câu của HT TTL: ”Phật Giáo Đại Thừa không phải là Phật Giáo chánh thống mà là Phật giáo theo kiểu kiến giải giáo pháp Bà La Môn” là hoàn toàn chính xác. Trong bài viết của mình, Toàn Không đã cố gắng chứng minh Đại thừa không dạy những điều thần bí. Nhưng để biện minh cho điều này, tác giả lại rơi vào những lý luận siêu hình mà không tự biết. Trái ngược với tinh thần giáo pháp Nguyên thủy, một giáo pháp “không có thời gian đến để mà thấy”. Những điều Đức Phật dạy thiết thực, nói ra là hiểu ngay, ví dụ Ngài dạy chân lý về KHỔ, ai cũng có thể hiểu được ngay đời đúng là bể khổ, chân lý về TẬP, DIỆT, ĐẠO cũng thế, cụ thể rõ ràng, không mơ hồ trừu tượng. Hoàn toàn khác với mớ lý luận siêu hình của Toàn Không, cũng là những khái niệm Phật giáo như nhân duyên, nhân quả, chơn như, niết bàn… Nhưng bằng lý luận siêu hình, mới nghe rất hay, rất cao siêu, nhưng muốn hiểu, phải vận dụng tưởng tri mới hiểu! Đó là điều mà Đức Phật không chấp nhận: “Nếu Ta nói một điều gì mà chúng sanh hiểu bằng tưởng thì có nói láo trong Ta.” Đoạn văn dưới đây được Toàn Không dẫn lại từ bài viết của Như Thị: “Còn Phật giáo Bắc Truyền luận rằng Không tánh là thực tánh của các pháp, vì là không tánh nên quy luật nhân duyên được vận hành và trở thành năng lực chi phối sự vận động của các pháp; sự chuyển vận này làm thành các hệ quả mà sanh trụ dị diệt, có, không … là những biểu tướng phải xảy ra.” Chúng tôi hiểu rằng, tác giả muốn nói đến học thuyết “Duyên Sanh Tánh Không”. Đó là học thuyết siêu hình tưởng phi Nguyên thủy. Đức Phật không hề dạy “Không Tánh là thực tánh của vạn pháp”. Đạo Phật không gì khác hơn là một nền Đạo đức Nhân bản Nhân quả. Nhờ sống một cuộc sống đạo đức phạm hạnh, hiểu rõ được lý nhân quả và làm chủ được nó, cũng có nghĩa là làm chủ nghiệp lực. Như thế là giải thoát, đơn giản chỉ có thế!.. Cho dù Toàn Không có chứng minh được Đại thừa không phải là Bà-la-môn chăng nữa, cũng không thể chứng minh Đại thừa là chính thống bởi những luận thuyết siêu hình không do Phật dạy như “Duyên Sanh Tánh Không”. Cũng cần phải nói thêm, “Không tánh” là thuật ngữ mà ta có thể tìm thấy trong kinh Tiểu không (Cùlasunnata sutta) thuộc Trung bộ kinh, nhưng nghĩa của nó hoàn toàn không phải là “thực tánh của các pháp”. Đại thừa không nói “Không tánh” mà chỉ nói “Tánh không”. “Tánh Không” trong “Duyên Sanh Tánh Không” của học thuyết Bát nhã, hoàn toàn khác xa với “Không tánh” trong giáo nghĩa Nguyên thủy. Nếu đây không phải là một nhầm lẫn sơ đẳng thì chính là sự cố tình đánh tráo khái niệm thiếu lành mạnh của tác giả giữa “Không tánh” trong kinh Nguyên thủy với ”Tánh không” của ngài Long Thọ!... Chúng tôi sẽ trở lại đề tài này khi có dịp... Như đã nói ở phần trên, lẽ ra Toàn Không phải “phản biện” mệnh đề 1: “Phật Giáo Đại Thừa không phải là Phật Giáo chánh thống…”. Toàn Không lại bám vào mệnh đề phụ thứ 2: “hay nói cách khác, Phật Giáo Đại Thừa là đạo Bà La Môn lấy tên là Phật Giáo Đại Thừa để lừa đảo tín đồ Phật Giáo”, để dẫn đến kết luận: “lấy tên là Phật Giáo Đại Thừa để lừa đảo tín đồ Phật Giáo là không có cơ sở”. Do đó, câu kết luận này hoàn toàn vô nghĩa… Phần còn lại nói về “Thiền đông độ”, một sản phẩm tôn giáo Trung Hoa chính hiệu. Chúng tôi chưa muốn nói đến sự truyền thừa ngụy tạo “Niêm hoa vi tiếu”, chưa cần phải nhắc đến sự phá giới phá đạo của các Thiền sư. Chỉ muốn nhắc cho Toàn Không nhớ một câu, được cả xã hội Trung Hoa thừa nhận, đã in sâu vào ý hệ nhiều tín đồ, kể cả giới học giả cũng thừa nhận, một câu đã xuất hiện từ hàng ngàn năm trước: “Tam giáo đồng nguyên”, nghĩa là Phật, Khổng, Lão cùng chung một cội nguồn. Chừng nào câu nói ấy còn tồn tại, thì nhận định của HT.TTL vẫn còn nguyên giá trị. Nhân đây cũng có đôi lời xin thưa cùng độc giả. Nếu độc giả nào đã có duyên đọc bộ sách ĐVXP của HT TTL. Xin chú ý, do nhân duyên có thưa hỏi mà Ngài trả lời. Đó là một thứ văn nói, không phải văn viết… Bằng trực giác của một hành giả, câu trả lời cô động, trỏ thẳng vào những điểm chính, vắn gọn trong ngữ cảnh người hỏi. Hoàn toàn không có tiêu chí của một bài văn viết. Nếu ai đó nuốn lấy các tiêu chí của một “công trình nghiên cứu học thuật” theo kiểu học giả để phê bình lời nói vắn gọn của một hành giả thì chỉ là chém một người rơm do tự tay mình dựng lên… Nếu muốn phê bình HT TTL, chỉ có mỗi điểm duy nhất, đó là lời nói bộc trực dễ mếch lòng, lời nói thực đến mức trần trụi khiến va vào là choáng, như từ “lừa đảo” nằm trong chính câu mà Toàn Không cố bám vào để “phản biện”… Khi chúng tôi vừa xong sơ thảo bài này, Toàn Không đã cho lên mạng bài thứ 2. Đọc qua, cảm giác nói chung là: chán!... Cái gọi là “phản biện” thực ra chỉ là sự góp nhặt từ những điều ấu trĩ, lạc hậu… Chúng tôi sẽ cố đợi Toàn Không lên tiếp thêm vài bài nữa rồi sẽ nhận định chung cùng một lượt. Trân trọng kính chào! |
Cập nhật ngày : 04.12.2012 | |||
Lời BBT/GNCN Bài “Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Bí Tích Thánh Thể” của tác giả Như Pháp đăng trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen, là bài nhận định một đoạn viết về "Chánh niệm trong lễ ăn bánh Thánh của người Công giáo", trích từ tập sách "Những bước chân an lạc". Bài đã nhận được rất nhiều ý kiến phản hồi từ phía độc giả. Những ý kiến ấy tuy tản mạn, đa chiều, nhưng rất trung thực, phản ánh sự cảm thụ ở mỗi độc giả một khác. Nhận thấy những ý kiến ấy cũng phần nào giúp quý Phật tử có thêm hiểu biết về tình trạng Phật giáo nói chung hiện nay. GNCN trên tinh thần khách quan, đăng lại nguyên văn phần ý kiến độc giả. Lượng định đánh giá thế nào là tùy vào mỗi bạn đọc… Ý KIẾN PHẢN HỒI - BÀI: "THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH VÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ" Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-149_4-17313_5-50_6-1_17-29_14-1_15-1/ Chân Diệu Mỹ (11/21/2012 04:23 AM) Thầy Nhất Hạnh dạy chánh niệm như thế này: “Chúng ta cần hiểu chánh niệm là năng lượng giúp chúng ta nhận diện được những gì đang xảy ra trong bốn lĩnh vực: thân, thọ, tâm và pháp. Chỉ cần nhận diện thôi, không cần phải làm gì khác. Thực tập chánh niệm bắt đầu bằng sự nhận diện một cách thuần túy tất cả những gì đang xảy ra trong ta và xung quanh ta. Nhận diện mà không cần phê phán. Không cần nghĩ rằng điều đang xảy ra là đáng buồn hay đáng vui. Bông hoa tươi thì biết là bông hoa tươi, bông hoa héo thì biết là bông hoa héo. Tâm đang giận hờn thì biết đây là nỗi giận hờn đang ở trong ta. Không cần phải công phá, không cần phải đè nén. Bí quyết của sự thực tập là ở chỗ này”. Cá nhân tôi đã thực hành và thấy tiến bộ. Mọi sự việt xảy ra tôi chỉ ghi nhận, quan sát, chú tâm nhìn vào đối tượng. Chỉ ghi nhận rồi buông bỏ cho nó trôi qua, không xét đoán hay diễn dịch. Sự vật đến rồi đi, sinh rồi diệt, chỉ ghi nhận diễn tiến trong thời điểm hiện tại. Xin chia sẻ cùng quý độc giả. Nếu thấy tôi sai xin hoan hỷ cho biết rõ và chỉ xin nói về pháp, không nói về người. T Hung (11/21/2012 05:59 AM) Chánh niệm là cái rõ ràng mà ai ai cũng có trong 5 căn của chúng ta. Chánh niệm này không phải để đối trị với tà niệm. Nếu còn đối trị thì không phải là đạo Phật mà đạo Người và đạo Trời. Vài lời gớp ý. Nếu có sai xin hoan hỷ. Việt Trung Nhân (11/21/2012 06:50 AM) Thầy Nhất Hạnh có lẽ ông ấy đã cảm nhận như thật hay sống như thật: "Tất cả các pháp đều là Phật pháp". Nếu ông ấy cảm nhận như thật và sống như thật, xin chúc mừng ông. Tiếu Lâm (11/21/2012 08:23 AM) Ôi, lại là đội quân của (...) gì đó. Các bạn mất nhiều thì giờ lên mạng để bêu riếu người khác quá, chắc không còn thời gian để tu tập gì nữa... Lại là truyện con rắn vuông mà thôi. Theo tôi, các bạn nên đưa hẳn một cuốn sách của thầy ra (trọn vẹn 100%) rồi phân tích tổng thể nếu có thời gian. Xẻ nhỏ ra rồi tìm cách triệt hạ người ta thì là thủ đoạn của (...) chứ không phải của Phật tử. Để người ta chiêm ngưỡng cả con voi bạn nhé. Đừng đưa cho người ta vài sợi lông đuôi của con voi hay cái móng chân của con voi rồi hỏi "bạn thấy con voi đó ra sao" nhé :-) Chuyện tiếu lâm thôi. (...) dấu hiệu của Moderator. Xin quý độc gỉa hoan hỷ CHỈ BÀN LUẬN VỀ "PHÁP" KHÔNG BÀN VỀ "NGƯỜI" như Đạo Hữu Chân Diệu Mỹ đã đề cập trong một góp ý nơi bài "Chúc Thư của HT. Thích Nhất Hạnh. Đa tạ. Tiếu lâm 2 (11/21/2012 08:27 AM) "Cuốn sách An Lạc Từng Bước Chân của thầy Nhất Hạnh là kim chỉ nam cho mỗi chúng ta trên con đường cam go ấy. Thầy dạy phép quán niệm hơi thở để giúp ta giữ sự an lạc của thân tâm và thấy được sự liên hệ mật thiết giữa sự an lạc của thân tâm ta và của thế giới. Đây là một cuốn sách giá trị, có thể thay đổi được hoàn cảnh xã hội và đời sống một con người." Dalai Lama dẫn ở đầu sách như vậy. Có lẽ ông Lama này cũng sai lầm? Vậy các bạn nên chuẩn bị thêm một series bài nữa để nói về sai lầm của bác này đi (cho chiến dịch của các bạn được hoàn tất) Thượng Minh (11/21/2012 08:31 AM) Tu tập Chánh Niệm trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp nếu chỉ là nhận diện thôi thì chỉ nhận diện để chơi cho qua ngày đoạn tháng, năm này qua năm khác cũng chẳng kết quả gì. Nếu cảm thấy có tiến bộ gì chỉ là ảo giác. Hành giả hãy thử xem, sau 1 năm đến 3 năm Chánh Niệm như vậy thì tâm tham, sân, si có muội lược được % nào không? Chánh Niệm (hay tu Tứ Niệm Xứ) kiểu như các học giả Thiền tông dạy và Thiền Vipassana tôi chứng kiến đã nhiều, nhiều thầy tu có thâm niên hàng chục năm nhưng anh em huynh đệ vẫn vác dao rượt nhau rất ngoạn mục. Vì Chân Diệu Mỹ yêu cầu nói pháp, không nói về người nên tôi không dẫn chứng nơi xảy ra và người đã phạm lỗi. Các lỗi công khai của một số thầy đã phản ánh trên các trang web Phật giáo, mọi người đều rõ, nhưng đó chỉ là bề nổi, nếu bươi ra hết "thâm cung" thì Phật giáo còn thể diện đâu với đời. Thầy Nhất Hạnh dạy chỉ nhận diện dông dài như vậy mà có được năng lượng sao? Điều đó không và không bao giờ có được. Nếu có được năng lượng - ở đây là năng lượng gì? Nếu dễ có được như vậy thì tại sao bao nhiêu thế kỷ Phật giáo chẳng thấy có người nào tu chứng? Tôi muốn nói rõ ràng như sau: Năng lượng của người tu tập phải là năng lực của Bảy Giác Chi và Bốn Thần Túc. Khi và chỉ khi có năng lượng này thì người tu hành mới nên nói rằng mình tu tiến bộ, còn không thì ngàn năm mình vẫn đứng yên một chỗ mà thôi. Nếu có những tiến bộ vội vàng nào đó thì chỉ là những ảo giác dẫn tới con đường Ma. Xin chớ vội mừng. Như pháp của thầy Hạnh dạy và các pháp thiền khác đều dẫn người tu theo về lối đó cả mà chả biết. Vì sao? Vì xem qua pháp mà các vị thầy dạy đều "trật đường rầy", không đúng theo pháp Phật dạy. Vậy đúng pháp Phật thì như thế nào? Tôi xin thưa: Tìm học trong tạng Nikaya và được sự giảng dạy của bậc đã có đủ năng lực Bảy Giác Chi, Bốn Thần Túc, tôi có ý kiến như sau (chỉ riêng phần Chánh Niệm mà Chân Diệu Mỹ nói rằng tu thấy tiến bộ): Tu tập Chánh Niệm tức là tu Bốn Niệm Xứ. Tu Bốn Niệm Xứ có ba giai đoạn rất rõ ràng. - Giai đoạn thứ nhất: Tứ Chánh Cần trên Chánh Niệm (Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ). - Giai đoạn thứ hai: Chánh Niệm trên Tứ Niệm Xứ (Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ). - Giai đoạn thứ ba: Thân Hành Niệm trên Chánh Niệm (Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ). Trình tự các giai đoạn này phải dưới sự hướng dẫn của bậc tu chứng và hành giả phải nghiêm mật tinh cần thì mới không bị lạc. Khi nào tu tập Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ sung mãn thì Bảy Năng Lực Giác Chi xuất hiện, như thế hãy nói rằng mình tu tiến bộ, khi chưa có Bảy Năng Lực và Bốn Thần Túc thì cuộc tu hành chưa đi tới đâu. Khi tu mới chỉ đạt một ít hỷ lạc khinh an đã vội tưởng mình tu chứng rồi hăng hái viết sách dạy người tu thì thật là nguy hiểm, rủ nhau vào đường tà mà chẳng sợ. Chả hiểu thầy Hạnh dạy "Chánh Niệm là năng lượng giúp chúng ta...) là loại năng lượng gì vậy? Xin quý vị cùng chia sẻ. Trần Tâm (11/21/2012 08:52 AM) Khi tôi còn là sinh viên đại học, tôi được bạn bè rủ đi nhà thờ Ki Tô Giáo (KTG). Người bạn tôi cho tôi biết rằng người ngoại đạo không được phép ăn bánh thánh, chỉ những tín hữu KTG đã qua thủ tục xưng tội, rửa tội, có đức tin tuyệt đối với Thiên Chúa và chính thức được nhập đạo mới được phép ăn bánh thánh mà thôi. Nói như vậy để thấy rằng chuyện thầy Nhất Hạnh nói rằng: “Cho nên đối với tôi, lễ ăn bánh thánh là một phép thực tập chánh niệm rất tuyệt diệu. Chúa Ki-Tô đã muốn đánh thức các đệ tử của Ngài bằng tiếng gầm sư tử ấy.” là một điều bất khả thực hành vì không có người Phật tử nào (người ngoại đạo) được phép ăn bánh thánh. Tôi nghĩ có thể thầy muốn nói với người Ki Tô giáo là Chúa Ki Tô đã dạy ý nghĩa của ăn bánh thánh như thầy dạy đấy. Thầy đã vô tình sửa đổi giáo lý KTG và đã gây nổi giận với đạo KTG. Chuyện này tôi không có ý kiến thêm vì đó là quyền của thầy. Thầy muốn cải đạo họ, chuyện của thầy. Với tôi, tôi chỉ biết hình như Đức Phật không cho phép những người Phật Giáo chiêu dụ người đạo khác bỏ đạo họ mà về với đạo Phật. Như Chân (11/21/2012 04:17 PM) Này bạn Tiểu Lâm, Bạn có ý kiến rất thiếu thiện chí, bạn sợ mọi người thấy lỗi của thầy mình, sợ mất danh và đương nhiên quyền lợi của thầy trò bạn cũng giảm. Ở đây không ai triệt hạ ai được, bạn không nên đặt ra những từ quá nặng nề như vậy. Pháp Phật dạy, pháp ông Nhất Hạnh, pháp ông Đạt lai Lạt ma đều có sự khác nhau như trên trời dưới vực. Pháp của các ông Nhất Hạnh, ông Đạt lai Lạt ma đều là những pháp tưởng. Vì sao gọi là pháp tưởng, nếu bạn hiểu được lời Phật dạy và bạn thực sự là người Phật tử thì tôi không phải nói gì thêm. Sách vở giáo lý của ông Hạnh, ông Đạt lai Lạt ma viết ra thì quá nhiều nhưng cứ lộn tùng phèo chẳng đâu vào đâu cả. Bốn Chân lý, Hai Chân lý, Bốn Pháp Ấn, rồi Khổ Đế của Phật dạy là sai, chỉ đúng khổ có một nửa, vẫn còn một nửa kia vui v.v... Thật sự buồn cho trí tuệ của các ông vốn nổi danh lừng lẫy cả phương Tây, nhưng đó chỉ là khéo cái miệng lưỡi để lừa người không hiểu biết. Sự thật là sự thật, sớm muộn gì mọi người cũng sẽ nhận ra thôi. Cho nên chẳng cần phải "triệt hạ" nhưng nhất định sẽ có ngày tự hoại. Trên thân thể Phật giáo đã bao lâu đầy chùm gửi đeo bám, ngày nay chúng ta phải quyết tâm dọn tỉa những cái dây leo làm héo tàn Phật giáo, để cây Phật Đạo được trở lại xanh tươi. Bạn Tiếu Lâm này, ở đây chúng ta cần nói chuyện nghiêm túc vì sự tu học Phật pháp của mọi người hôm nay và các thế hệ tương lai. Không có chuyện hý tiếu như cái nick của bạn, với những lời lẽ kém văn hóa pha chút lẳng lơ rất là coi thường độc giả. (Còn nhiều lời tệ hại khiến Moderator phải xóa bớt thì chứng tỏ bạn là người thế nào?) Tôi khẳng định với bạn, pháp ông Nhất Hạnh, ông Đạt lai Lạt ma giảng đều không phù hợp pháp Phật dạy, bạn cứ đối chiếu mà xem, trên diễn đàn TVHS này tôi thấy nhiều ý kiến dẫn ra rõ ràng mà bạn vẫn chưa nhận ra thì thật là chậm hiểu. Bạn yêu cầu: "Theo tôi, các bạn nên đưa hẳn một cuốn sách của thầy ra (trọn vẹn 100%) rồi phân tích tổng thể nếu có thời gian". Điều này tôi thấy đã có trang web đang làm đấy bạn ạ, nhưng đưa cả một cuốn sách ra mà làm một lúc thì không có thời gian, lại dày quá thì người đọc cũng ngại, do vậy phải làm từng phần nhỏ. Trong tất cả tác phẩm của các ông này chỗ nào cũng có thể chỉ ra những điều phi Phật giáo. Nếu Tiếu Lâm trao đổi nghiêm túc thì mới mong nhận được sự trao đổi chân thành, còn bạn cứ giữ cái kiểu "nửa chợ trời" như vậy thì có ai còn muốn nói chuyện với bạn nữa không! Góp ý (11/21/2012 06:30 PM) Pháp đã có trước khi Phật Gotama tồn tại, và sau khi ông ấy viên tịch thì nó vẫn tồn tại. Pháp không phụ thuộc vào tôn giáo, không giới hạn bởi không gian địa lý nào. Phật Gotama là người phát hiện ra con đường, chứ không phải là người sáng tạo ra con đường (bởi nếu nói thầy sáng tạo ra Pháp, và Pháp chỉ khởi sinh từ khi có Phật Gotama thì là sai lầm - nếu thế thì Phật cũng là đấng sáng tạo như Chúa). Chánh niệm cũng chỉ là một phần nhỏ trong giáo huấn của Phật, và cũng không phải nó là chỉ được sinh ra khi có Phật trên đời. Do vậy, người công giáo hay phật giáo, hay hồi giáo hoặc người không tôn giáo cũng đều có thể tiếp cận với Pháp. Nếu nói chỉ có người học đạo Phật mới hiểu về Chánh niệm thì có lẽ cũng hơi bị kiêu căng. Không phải cứ học nhạc mới hiểu nhạc và là nhạc sĩ, trở thành nghệ sĩ không phải là đặc quyền của những người học trường nghệ thuật chính quy. Nói nôm na vậy cho nhẹ nhàng. Thầy viết cả cuốn sách (cả cuốn sách, đừng nhìn vào một chương) để nói một điều đơn giản - chúng ta có thể sống tỉnh thức, sống trong chánh niệm mọi lúc mọi nơi, dù chúng ta theo tôn giáo nào, dù chúng ta là ai, trong hoản cảnh nào. Những người đi nhà thờ toàn là kẻ dốt? không có quyền tiếp cận và không hiểu gì về Pháp? Không đâu bạn ạ, sai lầm lớn là nghĩ như thế đó. Bạn nghĩ thế thì họ cũng nghĩ ngược lại về bạn - và kết cục là giữa hai bên sẽ nảy sinh tranh cãi, thậm chí nếu không cẩn trọng có thể xảy ra những sự cố lớn hơn nữa (và lúc đó, liệu có còn tồn tại cái gọi là "an lành", "từ bi"? giữa chúng ta). Còn hỏi người đi nhà thờ có cần nghe thầy Hạnh không? theo tôi là có, họ cũng nên tiếp thu chút ít để biết thêm về những ý nghĩa tuyệt vời khác của bí tích thánh thể (nhìn từ góc độ của một người mà đối với họ là dân "ngoại đạo", đôi khi còn bị coi là "đối thủ" của bên Công giáo). Cũng giống nhiều người quy y, đi chùa nhiều những cũng chưa hiểu về đạo Phật, tôi thấy có nhiều người đi nhà thờ nhưng cũng chưa hiểu về chính đạo Thiên chúa của họ (mà chỉ lặp đi lặp lại các nghi lễ theo hướng dẫn rập khuôn). Do vậy, những dòng của thầy Hạnh vừa giúp cho người không theo công giáo hiểu rằng chánh niệm cũng tồn tại ngay trong một nghi lễ của bất kỳ một tôn giáo nào khác, chứ không riêng của đạo Phật, lại vừa giúp cho người theo công giáo hiểu thêm về chánh niệm trong những hành động, nghi lễ mà họ thực hiên. Với tôi đây là điều tuyệt vời, nó giúp các tôn giáo khác nhau hiểu biết nhau hơn, tìm được những điểm chung giữa nhiều khác biệt (thay vì lục tìm những pho kinh kệ cũ rồi phân tích, bới móc --- rồi cố gắng chứng tỏ ra ưu việt hơn người --- kết cục hoàn toàn có thể là các cuộc cãi vã vô ích, thâm chí ở quy mô lớn hơn là các cuộc chiến tranh - hoàn toàn có thể xảy ra bạn ạ). Câu hỏi thầy có đang "chế" ra một thứ chánh niệm gì đó khác không - có lẽ không cần trả lời bạn ạ. “Đừng tin tưởng vào một điều gì vì phong văn. Đừng tin tưởng điều gì vì vin vào một tập quán lưu truyền. Đừng tin tưởng điều gì vì cớ được nhiều nói đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của thánh nhân. Đừng tin tưởng điều gì dù thói quen từ lâu khiến ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng điều gì do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vin vào uy tín của các thầy dạy các người. Nhưng chỉ tin tưởng cái gì mà chính các người đã từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, có lợi cho mình và người khác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa cho con người và cuộc đời. Các người hãy lấy đó làm chỉ chuẩn”. (The Anguttara Nikaya/The "Further-factored" Discourses) Nhiều người trải nhiệm phương pháp của thầy, họ thấy đúng - có lợi cho họ và cho người khác. Và đó mới là đích tối hậu. Phần còn lại không cần trả lời thêm nữa. tk (11/21/2012 09:20 PM) Lời giới thiệu của Hòa thượng Thích Minh Châu Trích Lời Giới Thiệu, Trường Bộ Kinh, Tập III (1972): ... “Cho dịch và cho in các bản kinh Pāli, tôi không mong muốn gì hơn là để các Phật tử, các Học giả, các Sinh viên được đọc thẳng vào những kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, và tự mình tìm hiểu những lời dạy thật sự của đức Phật, khỏi phải qua những lập trường của các bộ phái. Nhất là khỏi phải qua những xuyên tạc của những Học giả và những Phật tử muốn giải thích đạo Phật theo dục vọng và tà kiến của mình. Muốn chạy theo dục vọng, thì giải thích kinh điển một cách để hiểu rằng đạo Phật chấp nhận và tha thứ dục vọng. Muốn giết người và muốn binh vực kẻ giết người , đạo Phật được giải thích như là có thể tha thứ và chấp nhận sự giết người. Muốn chạy theo tà giáo và tà kiến, lại giải thích đạo Phật viên dung vô ngại, chấp nhận mọi tà kiến, mọi tà thuyết. Ta kiến nào, tà thuyết nào cũng là Phật giáo được hết! Muốn tránh những tai nạn trên, cần nhứt là phổ biến những kinh điển thực sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để Phật tử được đọc thẳng ngay kinh Phật, khỏi qua một ống kính màu nào.” Thượng Minh (11/22/2012 12:56 AM) Toàn bộ cuốn sách của thầy Hạnh chỉ là một cuốn sách dạy đạo đức cho đời. Với khía cạnh đời thì không có gì sai, bởi nhân loại đang rất cần đạo đức mà. Nếu đem so sánh với sách dạy đạo đức của Khổng Tử thì sách của thầy Hạnh chỉ như “hàng chợ” so với “hàng hiệu” thôi. Vậy mà nhân danh của một tỳ kheo hoằng dương Phật pháp nhưng chả có chút pháp Phật nào. Thầy đã nhầm tưởng những thứ thầy đang dạy là “Chánh Niệm”, không phải rồi, “Tà Niệm” đó. Xuyên suốt 3 phần của sách “An lạc từng bước chân”, không thấy thầy thể hiện một chút đạo đức giải thoát nào của Phật dạy. Những lời dạy của thầy và tăng thân Làng Mai đang theo học hàng ngày chỉ làm tăng trưởng thêm lòng dục và ái kiết sử (thầy đặt tên là nội kết) càng chặt thêm, như vậy giải thoát chỗ nào? Ở đây là diễn đàn Phật pháp, quý vị nên chuyên sâu vào pháp giải thoát của Phật dạy. Còn pháp của thầy Hạnh dạy căn bản không xấu nhưng nhập nhèm giữa đạo đức đời và đạo đức giải thoát khiến người Phật tử dễ nhầm lẫn. Đạo đức đời thì ngày càng ôm lấy vào, vinh thân phì gia, hưởng lạc chan hòa, thỏa tình ân ái… như thế chẳng phải phù hợp mọi người lắm ru? Thầy Hạnh đã làm tốt việc này. Đạo đức giải thoát thì mỗi ngày một buông bỏ, lìa xa rồi tận diệt mọi ái dục, điều này không dễ làm. Do vậy thầy Hạnh còn đứng mãi xa để mà ngắm vọng, thầy Hạnh vẫn chưa làm được gì. Vì thế “Chánh Niệm” của thầy Hạnh chỉ là chữ mượn. Dưới cái nhìn Chánh Kiến của đạo Phật thì thầy Hạnh đang dạy Tà Niệm. Bởi vì cái “Chánh Niệm” của thầy Hạnh dạy không ích lợi gì cho người hành trì con đường giải thoát. (Xin lưu ý, chữ Tà Niệm này chỉ đối với đạo giải thoát Phật dạy, còn đối với đời thì nó cũng như một món hàng chợ đã nói ở trên). Góp ý (11/22/2012 08:40 AM) TK nói đúng lắm. Mình chỉ xin góp ý lại điểm nhỏ tí xíu thế này: "....Nhưng chỉ tin tưởng cái gì mà chính các người đã từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, có lợi cho mình và người khác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa cho con người và cuộc đời." Chỉ riêng câu đó thôi cũng đủ để hiểu Phật quan tâm tới cái gì. Đây mới thực sự là điểm tuyệt vời của Phật Pháp. nguyen (11/22/2012 09:39 AM) Kg bạn Tiếu Lâm, 1. Ngoài cái chuyện đem Thượng đế vào trong đạo Phật mà bạn chỉ xem là một cái lông đuôi con voi, xin mời bạn xem vài cái lông đuôi nữa ở trang: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-75_4-3899_5-50_6-10_17-509_14-1_15-... 2. "Nói đời là khổ thì cũng đúng nhưng chỉ đúng phần nào thôi và bắt buộc mình tin rằng đời chỉ có khổ. Đời chỉ là khổ thôi chứ không là cái gì khác, đó không phải là sự thật toàn vẹn. Giảng sự thật thứ nhất đời là khổ, life is illbeing là chỉ đúng phân nữa sự thật vì đời cũng có thể rất vui, có thể thoải mái, thông thoáng, nhẹ nhàng, không phải chỉ bế tắc sầu khổ mà thôi. Cho nên sự thật thứ nhất không phải đời là khổ." 3. “Đời chỉ khổ đau là lối giáo dục nhồi sọ.” Câu 2 có nghĩa Sư ông dạy đệ tử là Phật chỉ nói đúng phân nửa (chỉ có lời của Sư ông mới là chân lý, bởi vậy mới dạy đệ tử phải theo đúng pháp môn của Sư ông một TRĂM PHẦN TRĂM). Câu 3 có nghĩa từ xưa tới nay Phật tử đi chùa đã bị chư Tăng nhồi sọ lúc nào mà cũng không biết. Tóm lại trong Tam bảo Phật Pháp Tăng thì phần 2 là chê Phật, phần 1 là xuyên tạc Pháp, phần 3 là xỉ nhục Tăng (và coi Phật tử là một lũ ngu đần bị Tăng nhồi sọ mà không biết). Bạn còn đề nghị đem hẳn một cuốn sách của Sư ông để xem thấy toàn thể con voi, tôi xin được kể với bạn 1 câu chuyện sau: Alexandre Dumas là một nhà văn nổi tiếng của Pháp (tác giả cuốn 3 chàng ngự lâm pháo thủ), một hôm có một văn sĩ trẻ đưa trình ông một cuốn truyện mới viết để xin ý kiến, ông xem qua một vài trang rồi trả lại, anh chàng tức quá cự lại tại sao không đọc hết, ông trả lời: “Khi bạn ăn phải một trái trứng ung bạn có phải ăn hết mới biết nó bị ung không?” Sau cùng xin bạn đừng gán ghép ai vào một đội quân (…) tưởng tượng nào đó. Nếu bạn tưởng tượng nhiều quá người ta có thể nghĩ bạn là đệ tử chân truyền của Sư ông đó, sống ở thế kỷ 21 mà tưởng tượng biết rõ tâm can của chúa Jêsu là: “Ngài BIẾT LÀ nếu các đệ tử Ngài ăn miếng bánh mì một cách tỉnh thức thì họ mới thực sự đang sống.” Câu này hình như cũng là một cái lông đuôi con voi nữa đó. Tất cả những điều tôi nói trên xin hiểu là tôi nói về pháp của Sư ông chứ không phải cá nhân con người Sư ông. góp ý tiếp (11/22/2012 11:33 AM) Gửi Nguyen: Chắc tôi không bận tâm nhiều vào cuộc thảo luận vô bổ, mục đích cuối cùng chỉ để ..."vạch mặt" thầy (là kẻ phản bội, không xứng đáng là Phật tử, là sư gì đó). Sự thật rồi sẽ được sáng tỏ. Chính Phật tổ và Phật Pháp cũng từng bị người ta cố gắng tìm cách phá huỷ, bôi nhọ - nhưng cái gì đúng và tốt cho đời thì nó vẫn có giá trị lâu dài. Nếu dựa vào một hai câu nói thì có nhiều cách để bắt bẻ lắm bạn ạ. Thích tô hồng cũng được, thích bôi nhọ cũng xong. Bạn cũng nên hiểu một sự thật: rất rất nhiều người không học về Phật giáo, họ thường hay vin vào câu mà họ học lỏm nhưng chưa nghe thủng "đời là bể khổ" (có lẽ là trong phim ảnh). Họ lặp đi lặp lại câu đó và gắn đâu đó vào Phật giáo, họ cho rằng mấy ông Phật giáo chỉ toàn dân chán đời, rầu rĩ (lúc nào cũng "đời là bể khổ"). Ngay ở quê nhà tôi, ai ai cũng khoe 'dân mình theo đạo Phật là chủ yếu", ấy thế khi có người đi học thiền hay vào chùa nghe Pháp thì họ sẽ nghĩ rằng anh này/chị này chắc đang chán đời (hơi có phần kỳ thị là khác - kiểu như anh chị này chắc là hâm hâm, rầu đời quá nên vô đó). Mấy ông thanh nhiên choai choai cũng thi thoảng đùa nhau "đời là bể khổ mà". Sự thật là vậy đó bạn, nếu cứ vin vào một câu nói của người ta mà viện dẫn ra đủ thứ rồi quy kết người ta thì không đúng với bản lĩnh của một phật tử (mà giống chuyện một ông (1) nào đó bị chính quyền cắt ghép câu nói rồi quy kết là bôi nhọ dân tộc - trong khi người đời vẫn luôn nói giống câu của ông). Mọi sự quy kết bôi nhọ đều không đúng với tinh thần phật giáo (càng giải thích tranh luận càng này sinh phiền não và sân hận). Bạn có bao giờ nghe thấy Phật đứng ra hùng hồn chỉ trích gay gắt người khác trước khi thực sự trải nghiệm và tìm hiểu vấn đề hay không? Liệu có một ông Phật nào hành động thế không? Tôi vẫn xin nhắc lại: nhiều người đã và đang theo phương pháp của thầy Hạnh. Họ là người có ăn có học, đông tây đủ cả, và rất nhiều người có tầm vóc cao như (2) Đạt Lai Lạt Ma, bạn có thể đọc ngay phần đầu sách giới thiệu) - họ vẫn đánh giá cao nỗ lực cũng như công lao của thầy. Với bạn, đó có thể là một quả trứng ung. Vâng, có thể những gì thầy giảng hay viết sách thì là quả trứng ung với bạn. Nhưng với nhiều ngàn người khác, thì đó vẫn là phương thuốc tốt cho tâm hồn của họ. Điều mà những ai lên giọng chê bai quả trứng ấy là ung, thối không ngửi nổi cần làm là hãy mang đến cho đời những quả trứng thơm tho tươi ngon khác. Chính bản thân bạn sẽ ăn quả trứng đó trước, rồi sau đó sẽ là nhiều người khác - họ sẽ cho bạn biết trứng bạn ung hay tươi. Không có phương pháp nào để hạ bệ thầy tốt hơn là làm tốt hơn những gì thầy ấy có thể làm. Dẫu có ngồi trước bàn phím, trích dẫn, thêm bớt, rồi xào nấu dài cả trăm ngàn từ cũng vô ích (không có tác dung giúp bạn hay tôi giác ngộ hơn). Đơn giản, hãy để thầy Nhất Hạnh thấy các bạn - không thèm đếm xiả tới cái chánh niệm gì của ông ây hết - mà vẫn tạo ra những kết quả tốt hơn gấp trăm ngàn lần, thu hút được bạn bè khắp các châu lục theo học...(nếu vậy thì tuyệt vời vô cùng) (1) danh xưng này này có thể đụng chạm và gây chia rẽ với tôn giáo bạn. (Moderator) (2) danh xưng này không phải là danh xưng của một tu sĩ. (moderator) Hà Duyên (11/22/2012 6:09PM) “PHÁP SAI CHỨ NGƯỜI KHÔNG SAI” – Diễn đàn chỉ “nói pháp” chứ không nói người. Nhưng “góp ý” phạm “luật” nên tôi có vài lời ngoài pháp: - “vạch mặt” hay chẳng cần vạch mặt, sự thật vẫn tỏ như giữa ban ngày. - “Phật Tổ và Phật Pháp cũng bị người ta cố gắng tìm cách phá hủy, bôi nhọ…” và đến bây giờ vẫn có thầy đang cố gắng nỗ lực phá hủy, bôi nhọ mạnh hơn khi Phật còn tại thế. - “Thích tô hồng cũng được, thích bôi nhọ cũng xong” đó là mưu đồ ý tưởng của những người còn bám vào dục lạc, hám danh không mệt mỏi. Phật tử không tô hồng, không bôi nhọ, chỉ chân thật. - “nhiều người không học về Phật giáo”, đến với diễn đàn, không ai là không học Phật, nếu không học không thể ý kiến gì được. Không nên dẫn chuyện quê mình mà hãy dẫn chứng Pháp. - “vin vào một câu nói… rồi qui kết người ta”, không phải vậy, theo suốt toàn bộ quá trình hoằng pháp, “người ta” đều thể hiện sự kém hiểu biết Phật pháp. Từ từ khi “nói pháp” sẽ dẫn tỏ. - “Họ là người có ăn có học, đông tây đủ cả”, nhưng không chắc chắn họ đã là người hiểu biết, nhất là đối với Phật pháp. Người còn ham mê danh, lợi ở đời thì không bao giờ hiểu đúng Phật pháp. - “đó có thể là một quả trứng ung”, đúng thật là trứng ung rồi, vì trứng tươi hơn 2500 năm vẫn còn đây để đối chứng. Rõ trứng ung thì vứt bỏ, trứng ung thì không thể là một vị thuốc tốt được. Thật nghịch lý khi “trứng ung” lại có thể trở thành “vị thuốc”. Sự thật rất nhiều người bị mua lầm trứng ung vì người bán rất khéo rao hàng. - “Không có phương pháp nào để hạ bệ thầy tốt hơn là…”, hạ bệ nhau thì có ích gì? Điều cần thiết là chỉ rõ để mọi người thấy đâu là “trứng tươi”, đâu là “trứng ung” thì tất cả chúng ta đều có “món ăn” tốt trên con đường giải thoát. - “Đơn giản… không đếm xỉa tới cái Chánh Niệm… vẫn tạo kết quả tốt…”, không thế được, đạo Phật mà không đếm xỉa đến Chánh Niệm thì hành sao? Chánh Niệm, Tà Niệm cần phân minh. Chánh Niệm là diệt dục, diệt ác. Tà Niệm là nuôi mỗi ngày dục lại tăng thêm, ác vẫn đầy, ta lại tưởng là hạnh phúc và cuộc đời suôn chảy… Trở lại vấn đề: PHÁP SAI CHỨ NGƯỜI KHÔNG SAI – “nói pháp”: - Pháp dạy: “…Sự thật thứ nhất, đời là khổ”. Lại có pháp dạy: “Sự thật thứ nhất không phải đời là khổ…” - Pháp dạy: Tam pháp ấn “Vô thường, Khổ, Vô ngã”. Lại có pháp dạy: Bốn pháp ấn “Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã.” - Pháp dạy: “Không Tánh” Lại có pháp dạy “Tánh Không”, “Không có cũng Không không”… - Pháp dạy: “Cái gì không phải của các ông, các ông hãy buông xuống hết…” Lại có pháp dạy: “Phải thực tập nhiều mới thấy thoải mái trong khi thiền ôm.” (Đúng theo nghĩa đen). Sơ lược mấy lời hôm nay như vậy, tôi sẽ tiếp tục vấn đề “Nói Pháp” khi thuận duyên. NN (11/23/2012 09:32 AM) Ở đây tôi nhận thấy phần nhiều các đạo hữu phản bác là lo cho những Phật tử sơ cơ dễ bị lạc đường xa rời Chính Pháp. Nhưng chư Phật chư Tổ chẳng thường nhắc nhở chúng ta phải luôn "Phản quan tự kỷ" đấy thôi. Vậy nếu chúng ta dễ bị lầm lạc, thì phải thấy đó chính là lỗi ở mình không chịu học hiểu Chính Pháp (tức chân-lý), mà chỉ quen gửi gấm lòng tin kính và cầu nguyện các ngài gia hộ. Vậy thế nào là chân-lý? Theo chỗ hiểu của NN: Chân-lý (CL) là lý chân thật, tức luôn luôn như vậy, không bị hạn chế bởi không gian và thời gian. Giáo lý của đức Thích-Ca luôn xiển dương Chân lý. Ngài dạy: tất cả sự vật đều vô thướng, vô ngã (Không có thực thể, chỉ nương nhau mà tạm có) và chịu chi phối bởi luật nhân quả. Khổ Đế trong Tứ Diệu Đế mà có ý kiến cho rằng chỉ đúng một nửa, là chưa hiểu nghĩa Phật nói. Những cảm nhận vui thú của chúng sinh thông qua các nghiệp căn cũng chỉ là cái nhân của đau khổ! Tỷ như những người nghiện rượu, ma túy hay cờ bạc, tuy cũng cảm nhận vui thú khi hưởng thụ, nhưng vẫn là nhân đau khổ củ bệnh nghiện ngập vậy. Đức Thích-Ca là bậc tỉnh thức, nên khi Ngài dạy điều gì, thì điều đó cũng nương theo Chân Lý. Cho nên khi nói "Chính Niệm" tức niệm khởi đúng chính pháp, đúng Chân Lý, xa rời chấp pháp, chấp ngã. Khi dạy "Tứ Y Pháp": Y pháp bất y nhân (Tức nương theo hành động việc làm có hợp với Chân Lý hay không, không theo người). Ba Y sau cũng tương tự như vậy. Vậy nên nếu chúng ta nương theo Chân Lý thì sẽ là cách trạch pháp hiệu quả nhất, NN nghĩ vậy. Góp ý tiếp (11/23/2012 10:24 AM) Trích đoạn 1: "Nếu có ai hỏi, thầy Nhất Hạnh đã hiểu hết Tứ Diệu Đế chưa? - tôi sẽ trả lời, chưa! Tôi hiểu đã khá, nhưng chưa hiểu hết. Sang năm tôi có thể hiểu về Tứ Diệu Đế sâu hơn năm này. Cứ như vậy cái hiểu của mình càng ngày càng sâu hơn, cao hơn nếu mình có tu, có học, nếu mình không nghĩ rằng mình đã hiểu rồi. Sự thật là mình chưa hiểu hoàn toàn, mình chỉ hiểu một ít thôi. Cái này cũng đúng với Bát Chánh đạo, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phận, Bát Thánh đạo phần. Nếu nói tôi đã hiểu rồi thì không đúng, dù đó là vị Pháp sư đã từng tu học và giảng dạy năm, bảy năm. Nhờ sự tu học mình có thể hiểu sâu thêm những giáo lý mà ban đầu mình tưởng đơn sơ dễ hiểu như Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng. Thầy Nhất Hạnh có cái hiểu khá sâu về Tam bảo, nhưng thầy Nhất Hạnh chưa hiểu hết được và sang năm Thầy sẽ có cái hiểu sâu hơn về Tam bảo. Điều đó là sự thật. Cho nên nghĩ rằng mình đã hiểu thế nào là Tam bảo, Tứ Diệu Đế rồi là một ảo tưởng, một sự sai lầm. Mình hiểu chưa nhiều lắm đâu. Có thể mình mới chỉ có vài ba khái niệm sơ lược về giáo lý đó về Tam bảo, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh đạo”. Trích tiếp đoạn 2: "Sự thật thứ nhất là khổ đau đang có mặt và hạnh phúc cũng đang có mặt. Khổ đau đang có mặt là một sự thật. Nhưng sự thật đó không trái chống lại sự thật khác, nó nằm phía sau lưng là hạnh phúc cũng đang có mặt, cũng có thể đang có mặt, nhưng chưa có cơ hội biểu hiện ra mà thôi. Như khi bị mây che thì không thấy mặt trăng nhưng nói không có trăng, chỉ có mây, thì không đúng. Sự thật thứ nhất xác nhận trong giây phút hiện tại có những khổ đau. Nhưng không có nghĩa đời chỉ là khổ đau. " Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-76_4-3899_5-50_6-1_17-22_14-1_15-1/ Tôi đưa tiếp một phần khác của con voi ra đây để chúng ta cứ chiêm ngưỡng dần dần. Thay vì tức giận, dễ nảy sinh thêm sân hận, thì nên bình tình đọc kỹ và dẫn cho đủ bạn ạ. Tôi nói con rắn vuông là có cơ sở của tôi: Bạn bảo thầy nói: "Cho nên sự thật thứ nhất không phải đời là khổ." -- nhưng lại bỏ đi phần sau vô cùng quan trọng của thầy. Ngoài ra, bạn nên kiểm tra (tôi dùng chữ "kiểm tra" thay vì "đọc" vì chắc bạn ác cảm nhiều với thầy Hạnh) một cách tổng thể các bài viết, giảng của thầy để đối chứng xem. Mong rằng bạn đỡ tức giận và không tiếp tục đem chuyên con rắn....vuông ra để lừa người đọc nhẹ dạ, chưa tiếp cận với sách của thầy. Cùng một đoạn, bạn đọc khác, tôi đọc khác. Bạn ăn món salad nhưng bảo chỉ toàn bơ và rau - chả có muối đâu. Tôi biết có rau và bơ cùng trong món đó - nhưng tôi lại thấy có cả muối trong đó, có muối đó bạn. Điều quan trọng hơn tất cả, xin phép lặp lại: Phật dạy cái gì tốt cho mình và cho người thì theo, lấy đó làm chuẩn. Lời dạy của thầy làm nhiều người biết sống anh lành hơn, biết yêu thương cuộc sống và yêu thương những người xung quanh hơn. Nếu ai đó tiếp cận với thầy (nhiều lắm) mà làm được những việc ấy, thì chả cần hỏi Pháp ở đâu làm chi cho mệt. Pháp ở ngay việc mà họ đang làm, thuận lẽ tự nhiên - tốt cho họ - tốt cho người khác - tuyệt đối không gây hại cho ai. Vậy là đủ bạn ạ. Thật tội nghiêp nếu bạn đã từng tiếp cận với những người thầy không tốt và đã có những trải nhiêm tiêu cực. Mừng vì bạn đã tìm ra con đường giác ngộ. Nếu đã giác ngộ rồi thì bạn nên email cho thầy Hạnh, bảo thầy chuyển toàn bộ Làng Mai qua nhà bạn tu học. Tôi cũng theo nếu bạn khẳng định bạn đang trên con đường hoặc đã giác ngộ bằng PHáp "chuẩn" của bạn. Hà Duyên (11/23/2012 06:16 PM) “PHÁP SAI CHỨ NGƯỜI KHÔNG SAI”, - NN: “…các đạo hữu phản bác là lo cho những Phật tử sơ cơ dễ bị lạc đường xa rời Chính Pháp…” *HD: Không chỉ những Phật tử sơ cơ mà cả các vị được coi là tôn túc với 60, 70 tuổi hạ vẫn lạc đường rất nhiều. Pháp sai mà! - NN: “…Khổ Đế trong TDĐ mà có ý kiến cho rằng chỉ đúng một nửa, là chưa hiểu nghĩa Phật nói. Những cảm nhận vui thú của chúng sinh thông qua các nghiệp căn cũng chỉ là cái nhân của đau khổ! Tỷ như những người nghiện rượu, ma túy hay cờ bạc, tuy cũng cảm nhận vui thú khi hưởng thụ, nhưng vẫn là nhân đau khổ của bệnh nghiện ngập vậy.” *HD: NN học pháp nhưng hiểu nghĩa Tứ Đế sâu sắc hơn người giảng pháp. Thật rõ ràng, ai cũng nhận ra. Vậy mà thầy Nhất Hạnh dạy: “sinh một em bé ra đời, nhận một tấm bằng tốt nghiệp, được nhận vào một sở làm…” cũng là hạnh phúc rồi bác Tứ Đế thì quả là rất non kém về Phật pháp. Xứng vị chăng? - “Góp ý tiếp” dẫn: "Nếu có ai hỏi, thầy Nhất Hạnh đã hiểu hết Tứ Diệu Đế chưa? - tôi sẽ trả lời, chưa!” *HD: Nếu chưa hiểu hết Tứ Diệu Đế thì đừng vội vàng đi rao giảng Tứ Diệu Đế. Chẳng khác gì, chưa hiểu hết bài toán lớp 1 mà đi giảng bài toán lớp 1 thì sai lầm là chắc chắn. Nên hiểu thế! - “Góp ý tiếp” dẫn: "Sự thật thứ nhất là khổ đau đang có mặt và hạnh phúc cũng đang có mặt” *HD: Lời dạy này cũng tương ưng: “Giữa đêm đông giá buốt đang có mặt và mặt trời dịu dàng tỏa nắng cũng đang có mặt” (đây mượn lời của người khác). Cái thấy của chân lý không hạn hẹp như thế. Sai thật rồi! - Góp ý tiếp: “(…chắc bạn ác cảm nhiều với thầy Hạnh)… Mong rằng bạn đỡ tức giận và không tiếp tục đem chuyên con rắn....vuông ra để lừa người đọc nhẹ dạ”. *HD: Không ai ác cảm với thầy Hạnh, pháp của thầy sai thì nói pháp của thầy sai chứ ai giận thầy làm gì cho mệt. Cũng không có ai tức giận (nếu có chỉ là bạn) và chính bạn đã mang "con rắn vuông hay con lươn?” đến diễn đàn này. Voi là voi, lươn là lươn. Đừng lầm lẫn. - “Góp ý tiếp”: “Lời dạy của thầy làm nhiều người biết sống anh lành hơn, biết yêu thương cuộc sống và yêu thương những người xung quanh hơn”. *HD: Vẫn còn thiếu, theo lời thầy, mọi người còn cần thiết phải cải đạo hơn. Thượng đế, Thiên đàng rất là hạnh phúc. Tu theo đạo Phật cực khổ, phải tiết dục, đoạn dục thì thật bất toại ý. - “Góp ý tiếp”: “Thật tội nghiêp nếu bạn đã từng tiếp cận với những người thầy không tốt và đã có những trải nhiêm tiêu cực”. *HD: Lời thán này dành cho “góp ý tiếp” thì đúng hơn. Bạn đã gặp được “thầy tốt” nhưng “pháp sai” nên vẫn đắm chìm trong dục lạc. Bạn tự soi lại sẽ thấy. Con đường giải thoát vô cùng gian khổ khó khăn chứ không dễ dàng như thầy trò bạn tưởng. Con rắn ngày càng vuông (11/24/2012 03:08 AM) (1) "Nếu chưa hiểu hết Tứ Diệu Đế thì đừng vội vàng đi rao giảng Tứ Diệu Đế. Chẳng khác gì, chưa hiểu hết bài toán lớp 1 mà đi giảng bài toán lớp 1 thì sai lầm là chắc chắn. Nên hiểu thế!" Tứ Diệu Đế không phải để hiểu, mà là để chứng ngộ bạn ạ. Hai nữa, Tứ Diệu Đế không phải là bài toán lớp một. Nếu bạn đã chứng ngộ tự bên trong về Tứ Diệu Đế, chắc hẳn bạn đã là một đấng giác ngộ chứ không nhất thiết phải lên mạng rình bài về một ông Thầy để rồi cố gắng chứng minh rằng ông ấy sai - bạn mới là người hiểu và có quyền khẳng định. Bạn trả lời giúp mình - sao bạn hay phát biểu như là đã chứng ngộ về Tứ Diệu Đế rồi mà lại không mở ra thiền viện hoặc đơn giản hơn là vài khóa học giản đơn để giúp những người vô minh vô đạo được giác ngộ theo? Thiền môn của các bạn chủ trương dùng bàn phím, bài xích người khác, để giác ngộ? Phật Gotama trước khi tìm ra con đường của mình thì đã tu học ở rất nhiều thầy khác. Việc học ấy không giúp thầy được giác ngộ, mà cuối cùng Phật chỉ giác ngộ bằng chính nỗ lực của thầy. Vậy khi giác ngộ rồi thì thầy có quay lại chê bai hay nói rằng "Pháp" của các ông thầy ngày xưa không giúp gì được thầy? Tôi nghĩ nếu tôi là Phật tử thì tôi cũng sẽ cố gắng học tập bằng được đức tính này. Phật pháp không được chứng ngộ bằng bàn phím hay hý luận bạn ạ. Có nhiều người thầy vĩ đại như thầy Ajahn Chah, chủ trương tu khổ hạnh trong rừng sâu, và thầy không có học vị gì, cũng chả nghiên cứu kinh kệ nhiều như bạn được. Ấy thế mà thầy ấy vẫn là người thầy vĩ đại của Thái Lan, và có tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới bạn ạ. Ví dụ nhỏ thôi (cho vui). Để bạn hiểu rằng chánh môn mà bạn đang theo đuổi có thể cực kỳ tốt, nhưng người theo nó đã chứng ngộ được chưa lại là một chuyện khác (còn xa lắm). Thầy trước khi là thầy thì còn là một con người. Và là một con người thì có quyền diễn đạt cảm xúc, hiểu biết của mình (thầy cũng chưa bao giờ nhận là một đấng giác ngộ, đơn giản thầy kính trọng Phật và nỗ lực tu học như bao người khác để giúp cho nhân loại, không chỉ cho các Phật tử Việt Nam mà cho toàn nhân loại). Phât tử nghiêm túc đều là những người có lý trí. Chả ai phải tin lời thầy làm gì, chả ai buộc phải nghe thầy cả. Thầy cứ giảng, trò của thầy nghe - áp dụng vào cuộc sống thực tế của họ, nếu thấy thực sự là tốt cho họ, không làm hại ai, tốt cho cuộc đời thì theo. Còn không áp dụng được, hay áp dụng vào thấy không ổn cho bản thân lắm, rồi hại đến bạn bè thì tuyệt nhiên họ sẽ biết là phải tránh, tránh ngay lập tức dù đó là thầy Hạnh hay bất kỳ một thầy vĩ đại nào khác. Một bạn có nói về chuyện bẻ ngoặt phật pháp để nói Phật ủng hộ tà dâm, giết người - miễn là bản thân được hưởng lạc. Tôi chả quy y nhưng tôi cũng đủ lý trí để hiểu rằng nhưng chuyện tà dâm, giết người không phải là chuyện đem lại bình an cho bản thân (dù có thoát pháp luật cũng không thoát được lương tâm bản thân). Do vậy đó không thể là Phật pháp. Tư duy của một người không tôn giáo cũng thấy được cái khổ từ những hành động sai trái ấy rồi, do vậy chuyện một Phật tử nghiêm túc bị lừa đảo bởi các tưởng lạc gì đó, trái với quy luật tự nhiên, trái đạo đức xã hội là chuyện khó lắm. Vô minh như tôi còn nhận biết được nữa là những người lỗi lạc uyên thâm. Vậy cần gì lo chọ họ. (2) "nhưng không chắc chắn họ đã là người hiểu biết, nhất là đối với Phật pháp. Người còn ham mê danh, lợi ở đời thì không bao giờ hiểu đúng Phật pháp" Tôi nhất trí, nhưng cái tôi muốn nói là họ không phải đám người ngốc đâu - có đủ trí thông minh để phân tích, đánh giá những gì thầy dạy. Ngoài ra, bạn vui lòng cung cấp bằng chứng về số lượng Phật tử thiếu hiểu biết, đam mê danh lợi ở Làng Mai. Tên tuổi, số lượng. Bạn nên lập danh sách và gửi về theo địa chỉ email trên website để bên Làng Mai được hay. Thiết nghĩ việc này là rất quan trọng. Phật pháp có tác dụng cảm hoá con người, và tôi tin một danh sách bao gồm các tội trạng cụ thể sẽ rất cần để Lang Mai hiểu thực trạng giáo pháp của mình ra sao,… (3) Lời dạy này cũng tương ưng: “Giữa đêm đông giá buốt đang có mặt và mặt trời dịu dàng tỏa nắng cũng đang có mặt” (đây mượn lời của người khác). Cái thấy của chân lý không hạn hẹp như thế. Sai thật rồi! Bạn không hiểu chính câu mà bạn nói. Câu bạn mượn lại hoàn toàn chính xác chứ không "sai thật rồi". Vì bạn không hiểu mấy nguyên tắc sơ đẳng của Phật giáo nên mới không hiểu chính lời nói của mình. Nếu bạn phủ nhận trong đêm có ngày, trong ngày có đêm thì coi như bản phủ nhận sự tồn tại của Tứ Diệu Đế. Với bạn thì khi cái này sinh ra thì mới có cái kia sinh ra. Không có chuyện trong Khổ đã có sẵn Tập Diệt Đạo. Khi chứng ngộ được khổ đế rồi thì các đế khác mới được sinh ra sau đó? Không bạn ạ, chúng tồn tại trong nhau, nhưng vì vô minh nên chúng ta mới không thể thấy được sự tồn tại cùng lúc ấy. Câu bạn nói cũng coi như bạn đang bảo hoặc con gà phải có trước, hoặc quả trứng phải có trước (thì mới có cái còn lại - chuyện con gà và quả trứng tồn tại trong nhau là không thể. Thầy Hạnh nói trong hoa có rác, trong rác có hoa một cách hình tượng (ở góc độc TỤC ĐẾ thôi): "Hãy ví khổ như rác, và hạnh phúc như những đóa hoa. Chúng ta biết rằng hoa để đó lâu ngày sẽ trở thành rác. Hạnh phúc, an lạc của chúng ta nếu không được nuôi dưỡng sẽ biến thành đau khổ rất dễ dàng. Và đứng trên bình diện tục đế, thì hoa nào một ngày kia thế nào cũng thành rác. Ngược lại, chúng ta có thể dùng rác để bón cho cây nở hoa. Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa. Một mặt phải bảo vệ hoa, mặt khác phải chuyển hóa rác, chúng ta cần thực tập đồng thời cả hai. Có những điều kiện của hạnh phúc thì chúng ta phải nhận thức, nuôi dưỡng, bảo trì. Mặt khác, khi hoa trở thành rác, vì tất cả đều vô thường, thì chúng ta phải tìm cách chuyển hóa rác trở lại thành hoa. Bụt Thích Ca Mâu Ni vốn cũng có một cơ thể, cũng có một đời sống tâm lý như mọi người. Nhưng Ngài khác chúng ta ở chỗ là khi những đóa hoa ở trong Ngài biến thành rác thì Ngài biết chuyển hóa chúng lại thành hoa. Chúng ta không biết bảo trì hạnh phúc, không biết chuyển hóa khổ đau. Bụt không sợ hãi, còn chúng ta sợ hãi." Gửi thêm tác giả ý nhỏ: Nếu bình tình và có lý trí, bạn có thể thầy toàn bộ cuốn sách thầy chỉ viết ở góc độ sự thật TƯƠNG ĐỐI, ở góc độ TỤC ĐẾ, chứ không phải CHÂN ĐẾ. Thầy viết sách này cho những người mới chập chững học Phật giáo (họ chưa thể tiếp cận ngay với CHÂN ĐẾ), những người không tôn giáo hoặc ở tôn giáo khác. Bạn có thể tìm hiểu về điều này thêm tại đây: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-76_4-17257_5-50_6-4_17-190_14-1_15-... "Tuyên bố ‘‘Thà rằng đừng khổ cũng đừng vuiì rất dễ, nhưng đi tới trình độ đó bằng cách nào? Và tuyên bố xong, trong bụng ta có thể vẫn còn thích vui và sợ khổ như thường, không làm sao dứt được. Chưa đi ngang qua tục đế mà đã muốn nhảy tới chân đế là sai lầm." "Chúng ta không nên nói lý thuyết rằng khổ không có thật, khổ chỉ là giả tướng mà thôi. Nói như vậy chỉ là tự an ủi và trốn tránh. Vui cũng giả, khổ cũng giả, nói vậy rồi thôi, ta không chịu làm gì hết ! Sự thật là chúng ta phải làm một cái gì, phải thực tập để chuyển hóa cái khổ cho thành không khổ. Trong khi thực tập ta mới tiếp xúc, quán chiếu và dần dần thấy được tự tánh của khổ cũng như tự tánh của không khổ. Nhờ đó ta sẽ đạt tới sự thật chân đế, vượt trên khổ và vui." Do vậy, đọc lướt qua vài từ trong sách của thầy cũng đủ để ta hiểu - thầy Hạnh không phải là tin vào bí tích ấy. Chỉ đọc qua cách thầy nói về Phật pháp cũng đủ cho tôi - người không học về Phật giáo quy củ - hiểu rằng thầy không và chưa bao giờ bảo các Phật tử mình phải đi ăn bánh ấy. Tôi cũng không thể nghĩ rằng thầy dụ khị thiền sinh của minh vào cái vùng tưởng lạc nào đó được. Các bạn đang cố gắng tranh luận về chân đế với thầy trong khi thầy lại đang nói về tục đế (đó là phương pháp của thầy, mỗi người có phương pháp. Hà Duyên (11/25/2012 07:36 AM) PHÁP SAI CHỨ NGƯỜI KHÔNG SAI, - Góp ý: “Tứ Diệu Đế không phải để hiểu, mà là để chứng ngộ bạn ạ”… *HD: Không hiểu Tứ Diệu Đế là gì thì bạn chứng ngộ cái gì? Bạn lẫn rồi. Người Phật tử phải “thông suốt (hiểu đúng) những gì cần thông suốt, tu tập những gì cần tu tập, chứng đạt những gì cần chứng đạt”. (Lời Phật dạy thế đấy). Bạn chưa học Phật ngày nào mà cứ lăn vào bàn chuyện Phật. - Góp ý: “Phật Gotama trước khi tìm ra con đường của mình thì đã tu học ở rất nhiều thầy khác. Việc học ấy không giúp thầy được giác ngộ, mà cuối cùng Phật chỉ giác ngộ bằng chính nỗ lực của thầy. Vậy khi giác ngộ rồi thì thầy có quay lại chê bai hay nói rằng "Pháp" của các ông thầy ngày xưa không giúp gì được thầy?” *HD: “Phật Gotama… rồi lại thầy”, chỉ một đoạn ngắn mà bạn lại lẫn nữa. Bạn là người chưa học giáo lý Phật bao giờ. Tôi chỉ cho bạn biết nè, bạn đọc bài kinh Phạm Võng – kinh Trường Bộ thì rõ rằng Phật không chỉ chê bai mà còn bác bỏ thẳng thừng 62 luận chấp tà kiến của các vị thầy mình đó sao? - Góp ý: “Có nhiều người thầy vĩ đại như thầy Ajahn Chah, chủ trương tu khổ hạnh trong rừng sâu, và thầy không có học vị gì, cũng chả nghiên cứu kinh kệ nhiều như bạn được. Ấy thế mà thầy ấy vẫn là người thầy vĩ đại của Thái Lan, và có tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới bạn ạ”. *HD: Thầy Ajahn Chah vĩ đại ở cái gì, xiển dương thiền Minh Sát của Mahasi chăng?, để đạt được cái gì? Chỉ vĩ đại và ảnh hưởng đối với người mê, chứ người thấy rõ Phật pháp thì thầy Ajahn Chah cũng giống như thầy Hạnh thôi, toàn là những người còn dang dở đời tu mà vội vã muốn làm thầy. - Góp ý: “Thầy trước khi là thầy thì còn là một con người. Và là một con người thì có quyền diễn đạt cảm xúc, hiểu biết của mình (thầy cũng chưa bao giờ nhận là một đấng giác ngộ,…” *HD: Thì thầy đã giác ngộ đâu mà dám nhận là mình giác ngộ? Như thế thầy chỉ là một phàm nhân thấp hạng, vì biết mình chưa giác ngộ mà vẫn học đòi giảng pháp như là người đã giác ngộ. Rõ người mù dám mong dẫn đường cho những người mù. - Góp ý: “Thầy cứ giảng, trò của thầy nghe - áp dụng vào cuộc sống thực tế của họ, nếu thấy thực sự là tốt cho họ, không làm hại ai, tốt cho cuộc đời thì theo”. *HD: Đơn giản như vậy, ai chẳng biết, nhưng nếu là thầy giáo dạy “đạo đức – giáo dục công dân” trong các trường đời thì tốt. Nhưng ở đây, thầy đang nhân danh một Trưởng tử Như Lai, lại có tới 60 năm xây dựng công trình thay đổi, lật đổ đạo Phật thì lợi hay hại cho người tu hành? - Góp ý: “Ngoài ra, bạn vui lòng cung cấp bằng chứng về số lượng Phật tử thiếu hiểu biết, đam mê danh lợi ở Làng Mai.” *HD: Phật tử Làng Mai không thiếu hiểu biết, nhưng Pháp Làng Mai là Pháp thiếu hiểu biết (ở đây tôi không động đến người) vì người (Làng Mai) tốt rồi, cần gì tu theo pháp Phật, tu theo pháp Làng Mai sướng hơn. Sướng hơn ở chỗ nào? Bạn cứ suy ngẫm lời Phật dạy đây: “người tu sĩ phải biết thiểu dục tri túc, sống không gia đình, không nhà cửa, không tài sản, một bát ba y, ngày xin ăn một bữa, nỗ lực tinh cần không gián đoạn thiền định”. Chỉ vậy thôi, người khai sinh ra đạo Làng Mai đã thực hiện được lời dạy này chưa? Nói chi đến các học trò. - Góp ý dẫn lại: “Giữa đêm đông giá buốt đang có mặt và mặt trời dịu dàng tỏa nắng cũng đang có mặt” (đây mượn lời của người khác). Cái thấy của chân lý không hạn hẹp như thế. Sai thật rồi! Và nhận định: Bạn không hiểu chính câu mà bạn nói. Câu bạn mượn lại hoàn toàn chính xác chứ không "sai thật rồi". *HD: Bạn “Góp ý” hiểu câu này là chính xác, vậy bạn đã thấy mặt trời lúc giữa đêm bao giờ chưa? Nếu bạn thấy hiện tượng này có thật thì lời dạy chân lý thứ nhất “Đời Là Khổ chỉ đúng có một nửa” của pháp Làng Mai là chính xác như bạn hiểu. Có ai phỉ báng Phật như thế không? * Những luận dẫn của Góp ý về “Trứng với Gà”, “Rác và Hoa” là những câu chuyện hý tiếu giúp vui đời. Người học đạo đem chuyện này vào tán là những người mê, người mù pháp. * Góp ý cần hiểu cho rõ lời Phật dạy này: “Như nước biển chỉ có một vị mặn. Cũng vậy, giáo pháp của Ta giảng dạy chỉ duy nhất có một vị là Giải thoát”. Nếu khổ chỉ có một nửa thôi, còn nửa kia thật hạnh phúc, thế thì cứ vui với cái hạnh phúc ấy đi, cần gì phải tu tập để giải thoát nữa cho mất thời gian, mà có ít đâu, ngoài sáu mươi năm rồi còn gì. * Gửi thêm ý nhỏ của Góp ý chỉ dành riêng cho Làng Mai thôi. Mập mờ, uốn éo biện luận thiếu khoa học, phi Phật pháp chỉ để lừa những người “mới chập chững học Phật giáo”. Người đã hiểu Phật pháp thì thấy rõ pháp Làng Mai là pháp phá đạo Phật. Lần cuối góp ý (11/26/2012 06:35 PM) @ Hà Duyên: Những lời lẽ của bạn viết về một con người khác đủ cho tôi và mọi người dù là phật tử hay không hiểu bạn KHÔNG xứng đáng là phật tử (nếu đã quy y). Thực sự là tôi đã viết một bài dài dòng lắm, nhưng sau rồi tôi nghĩ là tôi đang làm trò ngôc vì cố gắng nói với một người không muốn hiểu, và mục đích của người đó cũng chỉ để chứng minh rằng thầy Nhất Hạnh là một ông già 60 gì đó,..... Nguyên văn câu của bạn "thầy chỉ là một phàm nhân thấp hạng, vì biết mình chưa giác ngộ mà vẫn học đòi giảng pháp như là người đã giác ngộ. Rõ người mù dám mong dẫn đường cho những người mù." Tôi không tranh luận thêm bất kì một điều gì nữa. Tôi không phải là người theo Làng Mai nên nếu việc tôi cứ tiếp tục comment ở đây sẽ gây hiểu lầm, thậm chí là ảnh hưởng đến danh tiếng của Làng Mai. Nhắn lời cuối với bạn: nếu bạn nghĩ mình đủ tri thức để phê phán thầy Nhất Hạnh. Nếu bạn nghĩ bạn hiểu Phật Pháp hơn thầy, hơn cả những người thầy vĩ đại khác của thế giới mà tôi đã lấy ví dụ (bạn hơn cả Đạt Lai Lạt Ma, vì thầy ấy trân trọng thầy Hạnh, sách của thầy Hạnh - còn bạn thì cố tình ra sức bóp méo sự thật) - việc bạn nên làm là mở thiền viện, hoặc đi giảng pháp để giúp cho những con người còn vô minh như chúng tôi được giác ngộ. Bạn tự nhật mình hiểu về mọi thứ, phần còn lại chỉ là hành động thôi. Hãy hành động thay vì chê bai bạn ạ. Đã bao giờ bạn tử hỏi mình có đang tham sân si lắm khi viết những dòng trên? Là một phật tử (xịn) đã chứng ngộ Phật Pháp (điều mà chả mấy thầy dám nhận), bạn đã làm gì cho xã hội này hơn thầy Hạnh (hoặc những cá nhân khác)? Mấu chốt là chỗ này bạn ạ. Tôi không thấy gì ngoài một mớ ngôn từ bảo thủ và hằn học. *** Mọi người trong diễn đàn này cũng muốn được biết, thầy giảng những gì sai - và để lại hậu quả gì - làm mất sự bình an của thầy, của các thiền sinh - rồi của hoà bình thế giới ra sao (thầy từng được đề cử giải Nobel Hoà Bình nữa cơ đấy). Theo tôi nếu bạn làm rõ được các vấn đề này thì nên viết thành văn bản, cho dịch sang tiếng Anh (tôi dịch FREE cho bạn và thầy bạn) rồi gửi tới uỷ ban Nobel gì đó để họ không bao giờ tiếp nhận đề cử liên quan đến thầy. Gửi luôn cho tất cả các giáo hội trên toàn thế gian để họ quyết không quan hệ gì với Làng Mai luôn thể. Còn nếu chỉ là vu không miếng cho thoả tâm ác của mình thì nên dừng lại trước khi chính bản thân bạn lấn sâu hơn vào sai lầm. *** Nói thêm với tác giả: nếu thích giật gân như các báo lá cải - còn nhiều câu khác của các thiền sư lớn khác mà bạn cũng có thể cắt trích rồi bóp méo ý nghĩa (ví dụ bạn có thể lấy câu "gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ" của tổ Lâm Tế -- câu này đảm bảo yếu tố shock, scandal. Chắc chắn các học trò của bạn như Hà Duyên sẽ lại được dịp vung ngón tay trên phím laptop để chứng minh bằng được tổ Lâm Tế khuyến khích học trò mình phản Phật, giết Phật....). Theo tôi nếu muốn gây scandal thí cứ xài câu trên mới máu. Chứ vài dòng về ăn máu uống thịt Chúa của thầy Hạnh chưa thâm vào đâu cả. Hà Duyên (11/28/2012 07:21 AM) “Góp ý” thôi “góp ý” hả? Tưởng rằng bạn đủ sức gợi mở để bêu riếu thần tượng của mình (pháp Làng Mai), bạn càng đối thoại thì càng vạch áo cho người xem thẹo thôi bạn à. Giờ bạn biết đường ngưng vậy là tốt rồi. Ráng học hiểu sâu thêm Phật pháp bạn nhé, bạn hiểu pháp Phật còn lơ mơ lắm. Để bạn hiểu thêm “thần tượng” của mình, tôi xin dẫn lại lời TP (học trò của sư) đã ý kiến trước đây để bạn suy gẫm những lúc hướng tâm về Làng Mai: “Công trình 60 năm tìm tòi của Thầy, vì vậy mà Thầy chưa có thời gian nhìn lại cuộc tu hành của mình. Giải thoát là gì? Hay chỉ là một chốc lát sống trong tưởng an lạc trên bước chân đi, nhưng sau thời tu, trở lại một mình thì nỗi buồn cô tịch mênh mang. Theo lời Thầy, con đã: "...đi trong chánh niệm, uống trà trong chánh niệm, biết nói năng cho từ ái và biết lắng nghe nhau."... nhưng tâm con vẫn không an, cái tâm tham, sân, si vẫn còn đầy đủ, con vẫn thích có nhiều chùa to đẹp như những công trình của Thầy, thích có được tăng đoàn đông đảo đoanh vây, thích có được danh vang lừng khắp nẻo... Thưa Thầy, chả lẽ pháp môn Thầy dạy có thể nhầm chăng? Xin Thầy xem lại. - - - - - - - - - TP làm vậy và đang sẵn lòng chờ đón những lời mắng nhiếc “đồ nghịch tử phản Thầy”. Biết thế nhưng TP vẫn làm, không phải với tâm phản Thầy mà với lòng tha thiết mong cầu Thầy cũng như các bạn hữu khác sớm nhận ra con đường sai lạc, con đường không phải Đức Thích Ca giảng dạy cho nên không mang lại lợi ích thật sự cho đệ tử của Như Lai. Thưa quý vị, TP đã gặp được Chánh Pháp, con đường đúng thực Phật dạy, rất khoa học và hữu ích đối với người Phật tử. Nhưng với một người đã có 60 năm ôm ấp mộng đời và danh tiếng vang xa (như Thầy NH) thì không dễ gì Thầy chấp nhận rằng mình sai. Trong lòng TP rất kính và cũng rất thương Thầy”. Này “Góp ý’, duyên Phật pháp hay lắm đấy. Góp ý nên hiểu rằng: không chắc những người có nhiều tuổi hạ đã có cái nhìn bằng một vị sơ cơ, hoặc nhiều trò lại tinh tấn tu hành vượt trội hơn thầy mình. Đã nói “PHÁP SAI CHỨ NGƯỜI KHÔNG SAI”, diễn đàn chỉ bàn về Pháp, không bàn về người. Thế mà trước khi dừng, “Góp ý” còn dẫn ra thêm những nhân vật phá giới Phật để làm đẹp Phật giáo. Bạn dẫn Lâm Tế chém rắn, tôi dẫn thêm cho bạn: Nam Tuyền sát miêu, Tế Điên hòa thượng, Tuệ Trung ăn thịt chó uống rượu … và còn bao nhiêu nữa, các vị Trưởng tử xưa và nay đã tạo ra rất nhiều hình ảnh “đẹp” không chỉ bôi nhọ mà còn muốn phá tan đạo Phật. Để hiểu thêm gần đây nhất, bạn hãy đọc bài NHÌN LẠI NHÂN SỰ GHPGVN SAU ĐẠI HỘI VII của Thích Thanh Thắng (http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-86_4-17335_5-50_6-2_17-135_14-1_15-1/ ) để hiểu rõ thêm nội tình đạo bạn nhé. Mọi sự thật nhất định sẽ được phơi bày để mọi người hiểu rõ, chỉ sớm hay muộn mà thôi. Đã sai mà không sửa thì dù khéo chống chế thế nào cũng chẳng hết sai. Mong con rắn hết “vuông” mà trở về “dài” như vốn dĩ của nó, như vậy “trườn” khéo hơn. Thân ái chào “Góp ý”. Lơ mơ cần giải đáp (11/28/2012 11:39 PM) @ Hà Duyên: Đúng là mình lơ mơ thật. May có Hà Duyên giác ngộ giúp! Giờ không "góp ý" nữa mà chuyển sang trạng thái lơ mơ: 1. Trả lời câu hỏi của tôi đi bạn kính mến: tôi liệt kê đây đủ các phần tôi lơ mơ ra mong bạn giải đáp và giác ngộ online giúp tôi: sao giác ngộ rồi, chứng ngộ Phật pháp rồi lẽ ra phải bớt tham sân si trong câu chữ, phải làm được những điều đẹp đẽ để giúp đời, phải đem Pháp ra để mang an hoà, mang ánh sáng đến cho những người lầm lỡ. Có lẽ giờ đây bạn và thầy bạn đang là những con người bay vi vu trên cân đẩu vân như ông Tôn Ngộ Không? Còn lại, mọi thầy khác trên thế gian này trong mắt bạn đều là kẻ không hiểu gì về Pháp, về chân lý cuộc sống? Bạn đi giảng pháp, bạn cho thấy bạn giác ngộ rồi để chúng tôi được chiêm bái? Người hiểu Pháp, người Phật tử chân chính tôi tin không bao giờ có giọng văn như bạn. Giọng văn ấy chỉ có ở một kẻ không hiểu về Pháp gì (như tôi đây), và không phải là Phật tử (cũng như tôi đây), còn tuyệt nhiên không thể có ở một Phật tử đã giác ngộ (như đức Phật luôn!!!) 2. Nội tình đạo Phật hay đạo thiên chúa có xấu đến mức nào tôi cũng không cần quan tâm. Một là tôi không theo đạo. Hai là tu tập là con đường riêng của từng người. Không gì giáo hội tốt mà một người trở nên giác ngộ, cũng không vì giáo hội xấu mà phật tử hay con chiên quay lưng lại với chánh đạo. Chuyện của giáo hội không ảnh hưởng gì tới Pháp cho lắm. Ai làm việc xấu thì lãnh quả xấu. Không cần theo đạo mới hiểu nguyên tắc ấy. Do vây, nội tình đạo gì đó bạn đưa thêm vào - không phải là tôi chưa đọc hay không biết - nhưng nó chả liên quan gì lắm. 3. Nếu bất kỳ ai ở Làng Mai, hay đích thân thầy Hạnh đứng ra phát ngôn với cái vị TÊ PÊ gì đó, gọi vị ấy với cái từ chua chát là "phản thầy" như bạn đang dự tính thì chính tôi sẽ là người KHÔNG TIN vào những gì thầy Hạnh và Làng Mai giảng về Pháp. Lúc đó tôi sẽ chẳng bao giờ tin Làng Mai hay thầy Hạnh biết về Phật Pháp hay hô hào về bác ái, từ bi gì cả. Nhưng tôi tin họ là những phật tử tốt, và họ sẽ không bận tâm gì với vị TÊ PÊ nào đó, người mà bạn tôn là đấng giác ngộ (-). Tôi tin họ sẽ để cho bạn và TÊ PÊ tha hồ vung bàn phím mà trút sân hận trên đó. Comment này không "góp ý nữa" và sẽ không bao giờ góp ý nữa. Mong giải đáp giùm các câu tôi hỏi bạn (nhất là thắc mắc sao Phật tử giác ngộ rồi, nằng nặc nhận là mình thông thái và giác ngộ - thầy khác toàn hàng rởm - sao mà cứ sân hận trong từng lời ăn tiếng nói và bảo thủ đến vậy). Đừng làm người ngoại đạo thêm thất vọng về Phật tử bạn ạ (họ sẽ bảo "sao Phật tử mà lại thế nhỉ, giác ngộ rồi mà còn ăn nói vậy nhỉ" tôi chả biết giải thích giúp bạn ra sao đâu.) Hà Duyên (11/29/2012 07:27 AM) Thân ái chào Góp ý, Rắn vuông, Lần cuối, Lơ mơ và sắp tới là Lẩm cẩm. Tôi đã cố gắng hết sức với bạn, nhưng càng ngày bạn càng lẩm cẩm hơn. Bạn dừng được rồi bạn ạ, nếu bạn xuất hiện lần nữa chắc chắn với cái nick “Lẩm cẩm” chứ không sai. Ở đây góp ý xây dựng, tìm hiểu về Pháp, về Phật, về Tăng và về Giới nữa. Nếu muốn tìm hiểu về cá nhân nhau, xin mời đi chỗ khác. Tôi không có trách nhiệm phải trả lời những câu hỏi lẩm cẩm của bạn đã đặt ra. Bạn phạm luật nhiều lần. Nhưng, kể ra cũng tội nghiệp cho bạn, tôi phải nói thêm vài lời để bạn hiểu. Này bạn, xưa đức Phật khi giảng pháp cho ngoại đạo hay các đệ tử của mình, vẫn có những trường hợp Ngài phải dùng lời: “Này kẻ ngu si kia, ngươi hiểu pháp ta giảng như thế sao?”. Đố bạn biết, như vậy đức Phật có “Sân” không? Với những người còn bị kẹt nhiều như bạn, tôi phải dùng những lời từ như gáo nước lạnh tạt mạnh vào để bạn tỉnh ra. Bạn bảo tôi Tham, tôi Sân, tôi Si, tôi chấp nhận cả, chẳng sao. Tâm có Tham, Sân, Si thì mỗi người đều tự mình biết lấy. Sao bạn không đặt câu hỏi, tôi Sân với bạn thì tôi được gì? “PHÁP SAI CHỨ NGƯỜI KHÔNG SAI”, bạn nên nhớ. Thật đáng thương, biết pháp sai (như đã dẫn ra bằng chứng rành rành) mà vẫn cố bảo thủ, chấp giữ và phản ứng quyết liệt. Thôi thì tùy bạn, chỉ có bạn mới tự cứu được mình. Chào nhé! Bạn “Lẩm cẩm”. |
Cập nhật ngày : 06.12.2012 | |||
Lời BBT/GNCN GNCN xin giới thiệu tiếp đến độc giả bài nhận định của tác giả Quảng Hạo, về loạt bài "Phản biện hiện tượng Thích Thông Lạc" của Toàn Không đăng trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen. Trong bài này, Toàn Không "phản biện" lời dạy của Trưởng Lão về "Vô ngã ác pháp, Hữu ngã thiện pháp". Bằng hiểu biết sai lạc về bốn thiền, với kiến thức góp nhặt từ sách vở của các Thầy Tổ, Toàn Không đã "giảng" bậy rằng: từ thiền thứ tư, hành giả phải lên tiếp 4 định vô sắc của ngoại đạo để nhập Diệt thọ tưởng định, hoặc phải trở về Tứ diệu đế, Bát chánh đạo tu tiếp mới chứng Vô sanh quả A-la-hán?... Đúng như lời nhận định của tác giả Quảng Hạo: Lấy những lời Tổ dạy trong sách vở của Chư Tổ để “phản biện” lời TL Thích Thông Lạc vốn rút ra từ kinh điển Nguyên thủy Nikaya, hóa ra Toàn Không đã dùng "Tổ pháp" để phản bác "Phật pháp"!..
Dưới đây là “phản biện” số IV của Toàn Không: IV). HT. TTL: Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”, cái ý muốn của mình là gì? Là Bản Ngã Ác Pháp, Bản Ngã Ác Pháp không ly thì làm sao có Niết Bàn? Vô Ngã Ác Pháp là Niết Bàn, chứ không phải Vô Ngã là Niết Bàn, vì vô ngã cả ác lẫn thiện là cây đá. [trang 41 TCB1] Ðạo Phật chủ trương: lấy thiện diệt ác, lấy đạo đức nhân quả làm cuộc sống của mình không làm khổ mình khổ người, từ chỗ này chúng ta suy ra để thấy Ðạo Phật không mâu thuẩn, vì Ðạo Phật "Vô ngã ác pháp chứ không phải vô ngã thiện pháp". Nếu chúng ta tu hành vô ngã cả thiện pháp và lẫn ác pháp thì hóa ra chúng ta là cây, là đá; cây đá là một loại vô tri vô giác, đó là cái vô ngã của Ðại Thừa, Ðạo Phật không có vô ngã như kiểu đó. (ĐVXP-Tập 8) IV). Phản biện: Căn bản của Đạo Phật là làm lành tránh làm ác, lấy thiện diệt ác, lấy đạo đức nhân quả làm cuộc sống của mình, không làm khổ mình khổ người; đó cũng là tôn chỉ của Phật Giáo Bắc truyền chứ chẳng phải riêng của Nguyên Thủy Nam truyền… Nhận định của Quảng Hạo: Ngay từ câu đầu tiên của bài 01, Toàn Không đã nhầm tưởng HT TTH đang dạy pháp “Tiểu thừa”, nên Toàn Không đã thay bằng một tên gọi khác: “Nguyên thủy Nam truyền” để “tránh bớt sự miệt thị”!? … Trong “phản biện” này, Toàn Không lại tiếp tục nhầm lẫn ngớ ngẩn đến buồn cười: “Đạo đức Nhân bản Nhân quả” mà HT TTL đang xiển dương “chẳng phải riêng của Nguyên thủy Nam truyền”!? và cố gắng dành lại “tôn chỉ” ấy cho Phật giáo Bắc truyền, quyết không để Nguyên thủy Nam truyền chiếm làm “của riêng”!?… Chúng tôi không cần phải giải thích cho Toàn Không rõ về sự nhầm lẫn này. Nhưng cảm ơn Toàn Không đã tạo cơ hội cho chúng tôi trình bày cùng quý độc giả về giáo pháp “Đạo đức Nhân bản - Nhân quả không làm khổ mình – khổ người – khổ chúng sanh” mà HT TTL đang xiển dương. Giáo pháp chúng tôi đang muốn nói tới là “Giáo pháp Nguyên thủy” của Bổn sư Thích-ca Mâu ni do HT TTL dựng lại, chứ không phải Phật giáo Nguyên thủy Theravada mà Toàn Không gọi là “Nguyên thủy Nam truyền”. Giáo pháp ấy dựa trên căn bản kinh Nikaya mà HT Thích Minh Châu đã Việt dịch thành Đại Tạng Kinh Việt Nam. Tuy nhiên, như dịch giả đã viết trong “Lời giới thiệu” kinh Trung Bộ: “Chúng tôi dịch Kinh Pàli, không vì mục đích muốn ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục đích của chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những Kinh điển có thể được xem là nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dầu là Ấn Ðộ, Trung Hoa hay Việt Nam. Chúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, từ mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình tìm hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì Ðạo Phật là Ðạo đến để mà thấy chớ không phải Ðạo đến để nhờ người thấy hộ, Ðạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải Ðạo của người nhắm mắt; Ðạo của người thấy, của người biết (Passato Jànato), không phải là Ðạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm. Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật, và vì trách nhiệm ấy chúng tôi đã cố gắng phiên dịch Kinh Tạng Pàli ra Việt ngữ. Chúng ta chỉ cần đọc, cần suy tư chính chắn và rồi chính chúng ta tự ý thức đâu là những lời dạy trung thực của đức Bổn sư chúng ta.” Hòa thượng Thích Minh Châu đã xác định Kinh Nikaya không phải nguyên thủy trăm phần trăm, mà chỉ là văn bản “gần nguyên thủy nhất”. Dịch giả khuyên: người đọc phải tự tìm hiểu không cần qua lăng kính bất cứ một học phái nào dầu là Ấn Độ hay Trung Hoa… Tự suy tư, quan sát, tự chứng nghiệm trên bản thân để xác định đoạn nào là Nguyên thủy, đoạn nào do những người kết tập thêm vào… Trên tinh thần ấy, HT TTL đã dầy công dựng lại một giáo pháp mà chúng tôi gọi là GIÁO PHÁP NGUYÊN THỦY CHƠN NHƯ. Giáo pháp ấy hoàn toàn khác xa với các tông phái Đại thừa, cũng không giống với Phật giáo Nguyên thủy Theravada mà Toàn Không gọi là “Nguyên thủy Nam truyền”… Đó là giáo pháp lấy Đạo đức Nhân bản Nhân quả làm gốc. Ngoài cái gốc này ra không còn một thứ gốc nào khác. Nếu quả đúng như Toàn Không nói: “đó cũng là tôn chỉ của Phật giáo Bắc truyền” thì chúng tôi nguyện hết lòng tôn kính. Nhưng xét thấy không phải như thế, vì nếu đã nhận cái “gốc” này làm “tôn chỉ”, việc gì Đại thừa phải “phát triển” thêm kinh điển?, thêm nhiều tông phái?, mỗi một tông phái lại có thêm “tôn chỉ” riêng?… Nên nhớ, Giáo pháp Nguyên thủy của Thế Tôn không thừa không thiếu, Phải chăng vì thấy thiếu mà Đại thừa phải lập thêm “tông”, chế “kinh”, thêm “luận”? Khi nói đến đạo Phật, người ta thường nghĩ ngay đến Thiền Định! Thật sự thì Giáo pháp Nguyên thủy của Thế Tôn chỉ là một NẾP SỐNG ĐẠO ĐỨC. Nói cho đầy đủ là “Đạo đức Nhân bản - Nhân quả, không làm khổ mình - khổ người - khổ chúng sinh”. Thiền Định có được chỉ là hệ quả đương nhiên của một đời sống phạm hạnh tròn đầy. Trên phương diện hành trì, nền Đạo đức phạm hạnh ấy được triển khai trên BA CẤP VÔ LẬU HỌC và TÁM LỚP THÁNH ĐẠO. Tam vô lậu học, Tứ diệu đế, Bát chánh đạo v.v… là những thuật ngữ Phật học rất quen thuộc khiến người ta nghĩ rằng: những giáo pháp ấy có gì lạ đâu mà HT TTL phải dựng lại?. Vâng! Đó cũng chính là suy nghĩ của chúng tôi khi mới tiếp cận giáo pháp của Ngài. Nhưng khi đi sâu vào, chúng tôi mới nhận ra giáo pháp được dựng lại ấy dựa trên kinh nghiệm hành trì của một hành giả, khác xa với kiến giải suông của các học giả, giảng sư chỉ giỏi về lý luận nhưng thiếu hành trì. Xin nêu vài ví dụ: Kinh Tứ Niệm Xứ, đức Phật dạy: Đó là con đường duy nhất có thể chứng đạo trong vòng 7 ngày. Đến chỗ này, các học giả ú ớ, giảng qua loa hoặc tránh né… Cả những vị lãnh đạo Nam tông như Tỳ Khưu Brahmavamso, viện chủ thiền viện Bodhinyana ở Úc, giảng chệch đi là “một con đường với một mục đích duy nhất”. Thích Nữ Hữu Liên trong luận văn tốt nghiệp của mình, cũng đã nương vào Thiền sư Usìlananda của Miến Điện để giải thích cái gọi là “tính độc đạo” không có nghĩa là chỉ có một con đường duy nhất mà chỉ là con đường mà hành giả phải đi một mình??? Vì chỉ giỏi lý luận mà thiếu đi sự chứng nghiệm tự thân, nên các học giả, giảng sư đã tưởng giải sai lệnh giáo pháp Nguyên thủy của đức Bổn sư. Nói đến Tứ Niệm Xứ là nói đến CHÁNH NIỆM trong Bát thánh đạo, đó là niệm bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thế mà thầy tổ lại dạy chánh niệm là niệm Phật A-di-đà đến chỗ nhất tâm??? Dưới đây là vài dẫn chứng: - Tác giả Quảng Tánh giảng: “Niệm danh hiệu Phật A Di Đà đến nhất tâm bất loạn là chánh niệm”(?). - Tịnh Không, một Pháp sư nỗi tiếng hiện nay dạy: “Hành trì theo phương pháp nầy sẽ giúp cho chúng ta nhất tâm chánh niệm A-Di-Đà Phật và giúp cho chúng ta an lạc thanh thản ngay trong giây phút hiện tại”(?). - Ngay đến những vị được tôn lên hàng Tổ như Tổ Pháp Nhiên cũng dạy trong Ngữ lục của Ngài: “Do nguyện lực Đức Phật A Di Đà sẽ thành chánh niệm mà vãng sanh”(?). - Gần đây nhất trên trang nhà Thư viện Hoa Sen, tác giả Như Pháp có một bài viết phê bình TS Thích Nhất Hạnh về cái gọi là Chánh niệm trong lễ ăn bánh thánh của người Công giáo (?)… Thật đau lòng khi Chánh niệm của Bổn sư Thích-ca Mâu-ni đã bị thầy tổ bứng ra khỏi cái gốc Bát thánh đạo! Chính vì thế HT TTL mới phải dầy công “dựng lại chánh pháp”. Nếp sống đạo đức phạm hạnh được đặt trên căn bản Giới luật, bao gồm: Giới đức, Giới hạnh, Giới hành. - Giới đức chính là đạo đức nhân bản, nhân quả, không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh. Là đời sống thiểu dục tri túc ba y một bát. - Giới hạnh là hạnh ăn ngủ không phi thời, giữ hạnh độc cư phòng hộ sáu căn. - Giới hành là ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Chế ngự tham ưu trên thân, thọ, tâm, pháp… Đây chính là đạo lộ từ giới đức làm người đến giới đức làm thánh mà Đức Phật đã dạy, chứ chẳng phải thiền định gì cả… Toàn Không đã dẫn kinh Sa Môn Quả đoạn nói về bốn thiền để phản bác một cách sai lạc câu “Vô ngã ác pháp là Niết bàn” của HT TTL. Chúng ta biết rằng, Đức Phật đã hai lần nhập Sơ thiền, lần đầu khi còn bé, Ngài theo vua cha dự lễ nhập điền. Khi mọi người xuống ruộng, Ngài ngồi một mình dưới gốc cây jambu tham thiền nhập định theo cách thức của Bà-la-môn, khống chế ý thức không cho khởi tham dục, và Ngài đã nhập được Sơ thiền. Lần thứ hai, Ngài ngồi dưới cội bồ đề, nhưng không phải để tham thiền nhập định, không khống chế ý thức mà dùng ý thức TÁC Ý xả tâm ly dục ly bất thiện pháp. Khi ý thức đủ mạnh chuyển hóa thành lực của TÂM, Ngài đã dùng TÂM THỨC LỰC tiếp tục TÁC Ý HƯỚNG TÂM vào Sơ thiền, rồi thiền thứ hai, thứ ba, thứ tư… Từ thiền thứ tư, Ngài đã TÁC Ý HƯỚNG TÂM thẳng vào TAM MINH đúng như lời kinh đã mô tả: “không có khó khăn mệt nhọc…”. Kết thúc lộ trình giải thoát bằng bài ca chiến thắng: “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành…” Chúng ta thấy rất rõ Đức Phật thành đạo là nhờ nếp sống ĐẠO ĐỨC PHẠM HẠNH, chứ chẳng phải thiền định. Thiền của giáo pháp Nguyên thủy là dùng ý thức xả tâm ly dục ly ác pháp, chứ không phải ngồi thiền ức chế ý thức không cho khởi tham dục… Toàn Không đã lầm khi dùng kinh Sa Môn Quả đoạn nói về Tứ thiền để “phản biện” lời dạy của HT THL. Chẳng những thế, Toàn Không còn dùng những lý luận siêu hình tưởng của Bà-la-môn núp bóng Đại thừa để xuyên tạc giáo pháp Nguyên thủy của đức Thế Tôn: “…Vị ấy an trụ Thiền thứ tư. Đạt được thiền này rồi, vị ấy còn phải tiến lên không còn không thô, tưởng không, tưởng thức mà có tưởng vi tế tức tưởng rỗng không, rồi cái tưởng rỗng không đó cũng phải bỏ, mới qua Diệt tận định; Diệt tận định còn gọi là Diệt thọ tưởng định. Thọ tức là cảm giác của sáu căn đối với sáu trần, tưởng là phần bên trong nội tâm; trong nội tâm thì lặng, ngoài đối với sáu trần không dính, như vậy vị ấy đạt vô ngã hoàn toàn, tới đây nhập Diệt thọ tưởng định, chứng vô sinh tức quả A-la-hán. Hoặc vị ấy sau khi an trụ Thiền thứ tư rồi tiếp tục tu Tứ Diệu Đế, Bát Chính Đạo để chứng Vô sinh qủa A La Hán., bấy giờ vị ấy chứng nghiệm hạnh phúc tối thượng; đây là Niết Bàn của vị A La Hán, tại sao nói Vô ngã không đạt Niết Bàn?” Toàn Không viết như thế có đúng không? Sự thật là Đức Phật từ Thiền thứ tư tác ý hướng tâm thẳng vào Tam Minh chứ không đi qua bốn định vô sắc của Bà-la-môn để nhập Diệt thọ tưởng định. Một điểm cực kỳ phi lý khác trong “phản biện” của Toàn Không là: từ Thiền thứ tư lội ngược về Tứ diệu đế, Bát chánh đạo để chứng Vô sanh quả A-la-hán???... Toàn Không đã không có chút kinh nghiệm tự thân nào về giáo pháp Nguyên thủy, chỉ biết copy-paste những tài liệu sách vở tưởng giải của các học giả Bà-la-môn núp bóng đạo Phật dưới danh xưng Đại thừa Phát triển… Trong cuốn “Hành Thiền” của cố HT Thích Minh Châu có một đoạn viết như sau: “Kinh nghiệm Thiền đầu tiên của đức Phật là khi Ngài đến học đạo với Alara Kalama về pháp môn Vô-sở-hữu-xứ, và học đạo với Uddaka Ramaputta về pháp môn Phi-tưởng Phi-phi-tưởng-xứ. Hai pháp môn Thiền ngoại đạo, Ngài học, Ngài hành, Ngài chứng và được hai vị ngoại đạo sư xác nhận là đã thật chứng. Nhưng Ngài nhận thấy hai pháp môn ấy không đem đến giải thoát nên Ngài đã bỏ đi…. Này các Tỷ-kheo, rồi ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yếm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính Pháp này, và từ khước pháp ấy, Ta bỏ đi" (Kinh Trung Bộ)”. Toàn Không thử “phản biện” điểm này xem: các định vô sắc của ngoại đạo Bà-la-môn không mang lại giải thoát, nên Đức Phật không tôn kính, khước từ và bỏ đi… Thế mà Toàn Không lại cho rằng, từ Thiền thứ tư, hành giả phải tiến lên các Định Không này để nhập Diệt thọ tưởng định mới đạt “vô ngã hoàn toàn”? Lại còn cái ngã rẽ thứ hai là từ Thiền thứ tư, hành giả phải lội ngược về Tứ diệu đế, Bát chánh đạo mới chứng được A-la-hán??? Đây đúng là kiểu lý luận phá đạo của Bà-la-môn núp bóng Phật giáo mà Toàn Không đã vận dụng thành công trong “phản biện” của mình!. Đức Phật từ Thiền thứ tư TÁC Ý HƯỚNG TÂM thẳng vào TAM MINH để kết thúc đạo lộ giải thoát của Ngài đã bị ngoại đạo Toàn Không phủ nhận. Hãy đọc thêm đoạn này được trích từ sách “Hành Thiền” của HT Thích Minh Châu: “Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, dòng họ Thích Ca, đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây Diêm phù đề. Ta ly dục ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ, khi an trú như vậy Ta nghĩ: "Theo con đường này có thể đưa đến giác ngộ chăng"? Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là con đường đưa đến giác ngộ". Với kinh nghiệm này, Sa-môn môn Gotama thực hành Thiền định chứng Sơ thiền, Thiền thứ hai, Thiền thứ ba, Thiền thứ tư. Rồi đến Thiền thứ tư, Ngài hướng tâm và chứng được ba minh và cuối cùng, Ngài thành Đạo, chứng được Thánh quả, thành bậc Chánh giác.” Đoạn văn trên nói rõ: Từ THIỀN THỨ TƯ, Ngài hướng tâm vào TAM MINH để THÀNH ĐẠO. Căn cứ vào giai đoạn này, nếu thấy có một pháp nào khác chen thêm lộ trình thành đạo của Đức Phật, như các Không Định, thiền Vô sắc, hoặc lội ngược về Bát chánh đạo, Tứ diệu đế. Ta biết ngay đó là âm mưu xuyên tạc giáo pháp Nguyên thủy của ngoại đạo. Đúng như lời nhận định của HT Thích Minh Châu: “Dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân lý, mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc đo tài của những ngọn đèn lẻ tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh đi vào con đường Triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng rực rỡ của chân lý quét sạch.” Xin nói thêm chỗ này. Từ lâu, vẫn có nhiều học giả Đại thừa cho rằng, bốn thiền Hữu sắc mà Đức Phật đã thực hiện là ngoại đạo thiền. Chúng tôi khẳng định, về tên gọi bốn thiền này giữa giáo pháp Nguyên thủy và ngoại đạo có thể trùng tên, nhưng nội hàm của chúng khác xa nhau. Tứ thiền của ngoại đạo là ức chế ý thức không cho khởi tham dục bằng cách ngồi thiền nhập định mới có thể vào được. Ngược lại Tứ thiền mà Đức Phật thực hiện dưới cội bồ đề không phải ngồi thiền nhập định, mà là trên căn bản ĐẠO ĐỨC PHẠM HẠNH, xả tâm ly dục ly ác pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Nhờ xả tâm mà đạo lực sung mãn, Bảy giác chi và Bốn như ý túc xuất hiện. Bốn như ý túc còn gọi là Tú thần túc, tức bốn đạo lực có sức mạnh vô song. Khi đã có đạo lực này, muốn vào thiền nào, chỉ cần tác ý hướng tâm hành giả sẽ được như ý (như ý túc). Chính chỗ này, kinh điển Nguyên thủy gọi là “nhu nhuyến, dễ sử dụng, không khó khăn, mệt nhọc…” Chúng tôi gọi bốn thiền này là “TỨ THÁNH ĐỊNH” nhằm phân biệt bốn thiền ngoại đạo rất thịnh hành thời đức Phật. Chính đức Phật thành tựu bốn Thánh Định được cũng là nhờ Ngài nhớ lại thuở nhỏ, Ngài đã nhập được Sơ thiền ngoại đạo trong một lần theo vua Cha dự lễ hạ điền. Khi nhớ lại, Ngài đã tự hỏi: "Theo con đường này có thể đưa đến giác ngộ chăng"? Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là con đường đưa đến giác ngộ"… Chính tại điểm này, các học giả lầm tưởng bốn Thánh Định là bốn thiền của ngoại đạo… Đoạn “phản biện” tiếp theo, chúng tôi xin lướt qua vì Toàn Không đã “vi phạm nội quy” thảo luận của BBT/TVHS: “- Khi phê phán giáo thuyết và phương tiện hành trì của các tông phái Bắc Tông Đại Thừa, HT. Thích Thông Lạc thường dùng kinh điển Nguyên Thủy Nikaya để chứng minh. Rất mong quý độc giả dùng kinh điển Nguyên Thủy do HT. Thích Minh Châu dịch để cũng cố luận điểm phản biện của mình. Nếu có thể được, đừng dùng hay dùng hạn chế kinh điển Bắc Tông và Ngữ lục của các chư Tổ Bắc Tông, vì những loại kinh sách này đã bị HT. Thích Thông Lạc không công nhận.” Thực ra Toàn Không có quyền dùng kiến thức về các tông phái Đại thừa như Thiền tông, để phản bác các luận điểm của HT TTL. Nhưng những điều ấy phải được chứng minh trên cơ sở giáo pháp Nguyên thủy mà Bổn sư Thích-ca Mâu-ni đã tuyên thuyết trong bộ kinh Nikaya. Cần thiết và bắt buộc phải như thế để chứng minh những lập luận của Toàn Không cũng là “Phật Pháp”. Ví bằng ngược lại, lấy những lời Tổ dạy trong sách vở của Chư Tổ để “phản biện” lời HT TTL vốn rút ra từ kinh điển Nguyên thủy Nikaya, hóa ra Toàn Không đã dùng “Tổ pháp” để phản bác “Phật pháp”!??? BBT/TVHS đã thấy được điều ấy nên mới đề ra “nội quy” trên. Vì Toàn Không đã “phạm quy” nên chúng tôi cũng không phải mất thì giờ để nhận định về những đoạn “phản biện” ấy!... Về đoạn “phản biện” có liên quan đến HT Thích Thanh Từ, chúng tôi có mấy ý như sau: HT Thanh Từ đối với chúng tôi là một bậc Tôn đức đáng kính. Chúng tôi định cũng không đả động gì đến phần này, vì Toàn Không cũng chỉ dẫn lời HT mà không có khả năng chứng minh giáo pháp của HT đã được Đức Phật tuyên thuyết từ kinh tạng Nikaya. Tuy nhiên, trích dẫn của Toàn Không bài “Phật giáo Thiền tông thực tế đến không ngờ” trong “phản biện” này, khiến độc giả có cảm tưởng HT tỏ ra vượt trội hơn Đức Phật, khi cho rằng pháp “vô niệm” của HT tắt ngang qua thiền thứ tư của Phật mà không cần phải thứ lớp như Phật đã nhọc công khổ luyện?... Đoạn này Toàn Không đã “phạm quy” nên chúng tôi cũng không có nhận định gì. Nhưng thay vào đó, chúng tôi xin trích lại một số ý kiến phản hồi của độc giả khi bài này được post lên trang nhà Thư viện Hoa Sen: - Được gửi bởi GS001 (Guest) vào 04/26/2011 04:37 PM “Đọc bài trên tôi thấy thầy Thanh Từ có những sự ngây ngô đến buồn cười. Thầy cho rằng Thiền Tông không cần đi qua SƠ THIỀN: Ly dục, ly ác pháp, mà có thể đến thẳng TỨ THIỀN: xả niệm thanh tịnh, bằng cách cứ giữ cho tâm bình thường, là có thể chứng được đạo giải thoát. Thầy không biết rằng cách đó còn chưa làm nổi chuyện LY DỤC (muốn giữ tâm VÔ NIỆM), thì dù SƠ THIỀN cũng còn chưa đạt được, nói gì đến TỨ THIỀN. Tu kiểu đó là do tâm có lòng DỤC (muốn tu cho cao, cho nhanh) mà không hay biết. Đạo Phật không phải là đạo chỉ "hí luận" mà phải có sự thực hành mới khám phá ra những khó khăn vi tế của tâm. Ngoài ra thầy Thanh Từ còn hiểu rất sai về TỨ THÁNH ĐẾ khi cho rằng đó chỉ là giáo pháp phương tiện sơ cơ mà Phật phải dùng trước khi đi vào giáo pháp cao siêu hơn. Thầy phải biết rằng lý do Đức Phật ngần ngừ thuyết pháp sau khi thành đạo không phải vì giáo lý của ngài khó hiểu, mà vì nó đi ngược giòng THAM ÁI của chúng sanh. Ví dụ trong khi chúng sanh nào cũng muốn "yêu đời", mà giáo lý của ngài thì ngay chân lý đầu tiên đã tuyên bố rằng "ĐỜI LÀ KHỔ". Như vậy làm sao thích hợp cho họ được? Tuy nhiên đối với các bậc trí tuệ, đã hiểu sâu về cuộc đời, thì lại có thể thấy rằng có nhận thức được "ĐỜI LÀ KHỔ" mới có khả năng thay đổi từ một người Phàm ra thành một bậc Thánh. Đó là lý do TỨ DIỆU ĐẾ còn gọi là TỨ THÁNH ĐẾ. Ngoài ra, TỨ THÁNH ĐẾ là bố cục của tất cả giáo lý của Đạo Phật mà chỉ một vị CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC như Phật Thích Ca mới có thể thấu triệt và thuyết giảng trọn vẹn. Đó luôn luôn là bài pháp quan trọng nhất mà chư Phật CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC luôn luôn tuyên xưng đầu tiên với thế gian, khi chuyển bánh xe Pháp. Chính Đức Phật đã xác định sự quan trọng của TỨ THÁNH ĐẾ như thế này: "Này hỡi các Tỳ Khưu, ngày nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về Bốn Pháp Thánh Đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng Sa Môn, Bà La Môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anuttaram samma-sambodhim). Đến khi, này hỡi các Tỳ Khưu, tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về Bốn Pháp Thánh Đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức, đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ, chỉ đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng Sa Môn, Bà La Môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. (Kinh Chuyển Pháp Luân) Thật rất tiếc khi nhiều thầy Thiền Tông đã không hiểu thấu TỨ THÁNH ĐẾ nên đã coi thường giáo pháp quan trọng và đầy đủ nhất của Phật. Phải chăng vì Thiền Tông Trung Hoa đã chủ trương"Bất lập văn tự, kiến tành thành Phật" nên hôm nay nhiều thầy mới bị mất căn bản về giáo lý của Phật một cách thê thảm như vậy? Cho dù các thầy có biện luận rằng "Giáo lý chỉ như ngón tay chỉ mặt trăng" đi nữa, nhưng khi các thầy bỏ quên giáo pháp của Phật thì các ngón tay của các thầy chắc chắn sẽ đều trở thành những "NGÓN TAY NGO NGOE" không còn biết phương hướng nào để chỉ đến trăng. Tôi xin sẵn sàng tranh luận với các thầy Thiền Tông về giáo lý và cách tu của Phật trên bất cứ diễn đàn nào. Tôi không nhắm đến sự hơn thua, nhưng để tạo cơ hội cho CHÁNH PHÁP của Phật được tỏ rõ trở lại cho phật tử VN chúng ta.” (Phản biện của GS001) Để giúp cho Toàn Không hiểu thêm về tác giả “Thiền Tông Thực Tế Đến Không Ngờ” chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của một phật tử Tịnh Độ thuần thành: Trần Thị Hoa Trắng: - Được gửi bởi trần thị hoa trắng (Guest) vào 04/27/2011 06:43 AM Hòa thượng Thích Thanh Từ chỉ vì nặng lòng với cái gọi là Thiền Tông (trong sự hạn hẹp) mà thuyết pháp không thông. Nhìn ảnh Hòa thượng già nua, tôi không khỏi chạnh lòng. Tôi nghĩ nếu Hòa thượng đừng xiển dương một "pháp môn" nào cả thì có lẽ tốt hơn cho trí tuệ của Hòa thượng. Hai chữ "Thiền Tông" trói buộc Hòa thượng một cách thê thảm!. Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy “trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật", Hòa thượng lại đi con đường “trực chỉ Thiền Tông, kiến tánh thành Phật" ư?. Khi đã chấp tông phái của mình theo là cao nhất và cao hơn các tông phái khác, như Hòa thượng giảng cho phật tử: “Như vậy hệ thống Thiền Tông này phát nguồn từ chỗ đức Phật do dự không muốn nói, còn những hệ thống khác là Phật phương tiện mà nói. Đã là phương tiện thì không phải thật, còn chỗ thật thì không có lời. Vì vậy các Thiền sư khi muốn chỉ chỗ này thường đánh, hét, nạt v.v… mà không nói một lời. Bởi vì mở miệng là hai bên, mà hai bên thì mất cái thật rồi. Hiểu như vậy mới thấu đáo được ý nghĩa Thiền. Chỗ này chúng ta phải nắm cho thật vững" thì làm sao trực chỉchân tâm được trước khi tự mở trói cho chính mình?. Hòa thượng Thanh Từ nói đúng ở câu “phương tiện thì không phải thật", nhưng khi Hòa thượng kết luận tiếp rằng “chỗ thật thì không có lời" thì lại mơ hồ. Nếu mang cái “vô ngôn” nầy mà giải thích cho tường tận thì cả đời không "nói" hết. Tôi không tin rằng "ý nghĩa Thiền" chỉ nghèo nàn như Hòa thượng giảng. Nếu cứ nhại đi nhại lại câu chuyện "niêm hoa vi tiếu" ở Linh Thứu Sơn mà đặt một dấu chấm hết cho 12 tạng kinh thì thật là oan uổng cho ba đời chư Phật. Tôi trước mười phương chư Phật nguyện thọ khổ địa ngục nếu lời nói trên của tôi không đúng. Cũng vậy, tôi sẵn lòng dành thì giờ tranh luận với bất cứ Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, phật tử nào muốn làm sáng tỏ vấn đề; vì từ ngày Lá Thư Đạo ra đời: “…Tôi xin yêu cầu Thư Viện Hoa Sen, là một cơ quan truyền bá Phật pháp, xóa tên HT Thích Thanh Từ và các tác phẩm của hòa thượng trong trang Thư Viện Hoa Sen cho đến khi HT Thích Thanh Từ trả lời một cách đúng đắn vấn đề nêu trên; và chính thức yêu cầu giáo hội Phật giáo Việt Nam lên tiếng về việc nầy.” (tháng 10, 2010), dường như giáo hội Phật giáo Việt Nam không lên tiếng. (Phản biện của Trần Thị Hoa Trắng). |
Cập nhật ngày : 08.12.2012 | |||
1./ Kinh Kim Cang: VIII). HT. TTL: Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy có một pháp hành nào cả, chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông. Cho nên nói được nhưng chưa có ai làm được như trong kinh này, Kinh này từ xưa đến nay đã cho chúng ta ăn toàn thứ bánh vẽ....(ĐVXP-Tập 8) Phản biện của Toàn Không: 1). HT TTL viết rằng: “Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy một pháp hành nào cả, chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông” là không tìm hiểu kỹ càng, vì các kinh Bắc truyền phần nhiều đều là Kinh liễu nghĩa, người đọc kinh Kim cang mà hiểu được ý nghĩa trọn vẹn thì rất dễ để theo đó áp dụng hành trì; nếu người đọc không nắm vững được ý Kinh thì làm sao biết áp dụng hành theo, nên tưởng rằng chỉ có lý thuyết suông…. Nhận định: Bài “phản biện” số 4 của Toàn Không không phải là bài “phản biện”, mà là một bài “thuyết pháp”, giảng về kinh Kim Cang, Duy Ma Cật, của một giảng sư có trình độ trung bình. Đây là một “bài pháp” được “thuyết” không trên căn bản tự chứng, mà chỉ là góp nhặt tài liệu, soạn bài trước rồi nói sau! Kiểu “giảng” này không chỉ các vị trụ trì ở bất cứ chùa nào, mà ngay cả Cư sĩ bình thường có chút kiến thức về Phật pháp cũng có thể “giảng” được!... Lẽ ra tôi không phải mất thời gian với bài này vì Toàn Không đã “phạm quy”!. Ở bài số 03 tôi đã nói đến vấn đề này, nay bất đắc dĩ phải nhắc lại: Dưới đây là lời đề nghị của BBT/TVHS được viết ngay dưới “Lời dẫn” của Toàn Không, chứ không phải do tôi áp đặt. Tôi tạm gọi lời đề nghị này là “nội quy”. Toàn Không đã phớt lờ “nội quy” này, phóng bút “thuyết giảng” Đại thừa, bất chấp lời dạy Nguyên thủy của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni trong kinh tạng Nikaya. Chúng tôi cho rằng đó là thái độ xem thường lời đề nghị BBT/TVHS và đánh giá quá thấp trình độ đọc và hiểu của độc giả. “- Khi phê phán giáo thuyết và phương tiện hành trì của các tông phái Bắc Tông Đại Thừa, HT. Thích Thông Lạc thường dùng kinh điển Nguyên Thủy Nikaya để chứng minh. Rất mong quý độc giả dùng kinh điển Nguyên Thủy do HT. Thích Minh Châu dịch để cũng cố luận điểm phản biện của mình. Nếu có thể được, đừng dùng hay dùng hạn chế kinh điển Bắc Tông và Ngữ lục của các chư Tổ Bắc Tông, vì những loại kinh sách này đã bị HT. Thích Thông Lạc không công nhận.” Toàn Không có quyền dùng kiến thức Đại thừa để phản bác các luận điểm của HT TTL. Nhưng những điều ấy phải được chứng minh trên cơ sở giáo pháp Nguyên thủy mà Bổn sư Thích-ca Mâu-ni đã tuyên thuyết trong bộ kinh Nikaya. Cần thiết và bắt buộc phải như thế để chứng minh những lập luận của Toàn Không cũng là “Phật Pháp”. Ngược lại, lấy những lời Tổ dạy trong sách vở của Chư Tổ, hoặc kinh điển phát triển do người đời sau chế tác, để “phản biện” lời HT TTL vốn rút ra từ kinh điển Nguyên thủy Nikaya, hóa ra Toàn Không đã dùng “Tổ pháp” để phản bác “Phật pháp”!??? BBT/TVHS đã thấy được điều ấy nên mới viết lời đề nghị trên… Chúng tôi xin gợi ý: Nếu HT TTL cho rằng kinh Kim Cang chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông, là bánh vẽ… Toàn Không nên “phản biện” lại ý này bằng cách chứng minh dù kinh Kim Cang không do Bổn sư Thích-ca Mâu ni trực tiếp thuyết giảng, những vẫn có căn bản Nguyên thủy từ kinh tạng Nikaya. Đây mới đúng là “phản biện”, chứ không phải mang những kiến thức Đại thừa ra để giảng kinh “liễu nghĩa” hay “bất liễu nghĩa”… Nếu cảm thấy mình chưa đủ sức làm được việc này, Toàn Không có thể dừng ngay loạt bài “phản biện” của mình… Dưới đây là phần nhận định của chúng tôi về Kinh Kim Cang. Toàn Không có thể “phản biện” nhận định này, nếu thích!.... Kinh Kim Cang thuộc văn hệ Bát-nhã Ba-la-mât-đa, xuất hiện sau Đức Phật ít nhất là 500 năm. Theo Edward Conze, một học giả uyên thâm có những nghiêu cứu sâu rộng về bộ kinh này, lịch trình hình thành của nó kéo dài trên 10 thế kỷ, thời gian đủ dài để cho các thầy tổ Đại thừa tha hồ “sáng tác” thêm thắt vào… Sau Đức Phật nhập diệt khoảng 500 năm, Bộ Bát-nhã trong đó có kinh Kim Cang đã được lưu hành bằng văn tự. Theo Edward Conze, phần thần chú được thêm vào từ khoảng năm 600 đến năm 1200… Ngày nay, giới nghiên cứu vẫn chưa thống nhất về thời điểm xuất hiện của kinh Kim Cang. Nhưng tất cả đều đồng thuận kinh này do người đời sau chế tác chứ không phải Đức Phật thuyết giảng… Chúng tôi không phủ nhận tính học thuật của bộ kinh này, đặc biệt là tính triết học. Đây cũng chính là lợi điểm thu hút giới học giả nghiên cứu văn hệ Bát-nhã. Kinh Kim Cang được xây dựng trên phương pháp luận lô-gic phủ định hình thức, theo dạng thức luận lý học Aristote, vốn được xem là mâu thuẫn trong quan hệ biện chứng nhị nguyên. Các luận sư Đại thừa đã rất tài tình chuyển đổi dạng thức nhị nguyên sang nhất nguyên nhằm triệt tiêu tính mâu thuẫn. Văn hệ Bát-nhã trong đó có kinh Kim Cang trở thành một luận thuyết huyền ảo hấp dẫn, lôi cuốn nhiều học giả tiếng tăm trên thế giới vào nghiên cứu. Đặc biệt là trong quá trình Hán hóa, luận lý học Bát-nhã càng được trau chuốt bởi bàn tay của các Tổ sư Trung Hoa. Ngày nay, nó đã thật sự trở thành “gương báu”, được hoàn thiện trên căn bản lô-gíc phủ-định-hình-thức-liễu-nghĩa-siêu-hình-tưởng! Tiền đề xác lập: A chẳng là A, do vậy A là A Phương trình biểu thị: Tức phi = Thị danh Ví dụ: Toàn Không phản biện giả, TỨC PHI phản biện, THỊ DANH phản biện! (Tạm hiểu: Toàn Không phản biện, tức là không có phản biện gì cả, như thế mới thực gọi là Toàn Không đang phản biện!?) Đức Phật không thuyết giảng kinh Kim Cang. Đây chỉ là “tác phẩm” của các học giả Đại thừa. Toàn Không viết: “Thật ra Kinh Kim Cang (hay Kim Cương), tên đầy đủ là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita),từ tiếng Phạn: Vajracchedika là Kim Cang, nó có khả năng cắt chém cứng như kim cang. Trong bối cảnh của bài Kinh, chúng ta có thể hình dung ra một chiếc gươm bén chắc chặt đứt các màn hình tướng để lộ ra sự thật, cũng có thể hiểu là kinh có một sức mạnh sấm sét, một sức công phá khủng khiếp, nhằm phá tan mọi kiến chấp.” Thiết tưởng cái gọi là “Thật ra”, Toàn Không nên đặt vào chỗ truy nguyên bản kinh để tìm ra sự liên hệ với giáo thuyết Nguyên thủy của Đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni, chứ không phải giải thích từ ngữ để quảng bá cho “khả năng cắt chém” của nó… “Trong bối cảnh của bài kinh” cũng phải được soi rọi bằng bối cảnh lịch sử, chứ không phải chỉ để “hình dung ra một chiếc gươm bén”!?... Khi chế tác kinh, các tác giả đã tưởng giải những điều cao siêu mà tự thân các vị không làm được. Vì không làm được nên chưa đủ tự tin, không dám nhận mình là tác giả, bèn gán cho Phật thuyết, nhét vào miệng ông A-nan những câu mà ông này chưa từng nói: “Tôi nghe như vậy, một thời Phật tại…”. Đây là điểm Toàn Không cần “phản biện”, chứ không phải nhai lại bã mía của các Tổ về chuyện “liễu nghĩa” hay “bất liễu nghĩa”… 2./ Kinh Duy Ma Cật X). HT TTL: Kinh Duy Ma Cật là kinh phát triển của Đại Thừa. Kinh giáo Đại Thừa là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình; nó không có gì đặc biệt riêng của nó, chỉ khéo dùng những danh từ thật kêu và cũng giống như vẽ rắn thêm chân, thêm râu, khiến cho mọi người dễ bị lường gạt tưởng là rồng thật. Giáo lý Đại Thừa và Thiền Đông Độ cũng lường gạt tín đồ như vậy, tưởng là một chân lý siêu việt của Đạo Phật, nào ngờ là một giáo lý chắp vá, như chiếc áo may nhiều loại vải thô xấu....(ĐVXP-Tập 8) Phản Biện của Toàn Không: “Kinh Duy Ma Cật là kinh của Bắc Truyền; nếu nói “Kinh giáo Đại Thừa là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình” thì không hoàn toàn đúng, vì nếu có đi nữa cũng chỉ như thêm màu sắc cho hợp với từng địa phương, nhưng cốt lõi của các Kinh vẫn giữ đúng những gì đức Phật đã nói và đó là lý do tại sao Bắc Truyền ngày nay đã lan rộng không những chỉ ở Á châu mà ra khắp Âu Mỹ Úc Phi của thế giới. Tại sao như thế, vì Phật giáo Bắc Truyền đi đúng với những tinh hoa mà đức Phật đã dạy, nó thích hợp với khoa học và nhu cầu tâm linh của con người tiến bộ trong giai đoạn hiện tại. Muốn biết Kinh Duy Ma Cất có gì đặc biệt, chúng ta phải lược sơ qua nội dung của Kinh, chỉ đề cập tới những gì chúng ta cần phải học phải nhớ và thực hành thì mới biết được sự thật như thế nào”. Nhận định: Cũng như phần nói về Kinh Kim Cang. Phần này Toàn Không cũng chỉ tầm chương trích cú, tỏ ra thông hiểu Đại thừa để “giảng” kinh Duy-ma-cật, chứ chẳng có một lý lẽ “phản biện” nào cho ra hồn… Sở dĩ Toàn Không “phản biện trật đường ray” vì không chịu tìm hiểu đối tượng, chỉ biết cái tên gọi là: “HT THL”. Chứ không hề biết con người ấy là ai?, dạy gì?, viết gì?... Điều này không phải do chúng tôi suy đoán, mà chính Toàn Không tự bạch trong “Lời dẫn”: “Vào ngày 15-8-2012 tình cờ chúng tôi mở mạng lưới điện toán của Thư Viện Hoa Sen, bất ngờ thấy một thư ngỏ đề ngày 18 tháng 12 năm 2010…” “…Bởi vậy chúng tôi liền bắt tay vào viết để chặn đứng sự việc vô cùng tai hại này…” “…Chúng tôi căn cứ theo bản tóm tắt của Ban Biên Tập mạng Thư Viện Hoa Sen mà trả lời, hy vọng sẽ góp phần trong việc bảo vệ Pháp bảo… “ Toàn Không đã vội vàng “liền bắt tay vào viết…”, mà chỉ viết “căn cứ theo bản tóm tắt của Ban Biên Tập mạng Thư Viện Hoa Sen…”, chứ không cần tìm hiểu đối tượng, không cần đọc bất cứ một cuốn sách, tài liệu nào do đối tượng viết, chỉ căn cứ vào bản tóm tắt của BBT/TVHS để phóng bút. Vội vàng thế liệu có bảo vệ được cái gọi là “pháp bảo” của Toàn Không hay không?... Thảo nào Toàn Không đã nhầm tưởng HT TTL đang xiển dương giáo pháp của Phật giáo Nguyên thủy Theravada mà Toàn Không gọi là “Nguyên thủy Nam truyền”!??? Vì Toàn Không chỉ dựa vào câu tóm tắt của BBT/TVHS mà không chịu đọc sách HT TTL, nên phản biện ngoài ngữ cảnh, buộc chúng tôi phải đọc giúp Toàn Không vài đoạn, gợi ý giúp Toàn Không vài điểm phản biện cho chính xác. HỎI: "Kính bạch Thầy! Trong lời tựa Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh pháp sư Từ Thông viết: “Kinh Duy Ma Cật là bộ kinh thuộc hệ tư tưởng Đại Thừa viên đốn là thứ giáo lý mãn tự. Giáo lí kinh Duy Ma Cật dạy cho mọi người về pháp môn giải thoát bất tư nghì. Hành giả thực hiện được là thành Phật như đức Phật Thích Ca và thập phương chư Phật đã thành”. Điều mà con muốn hỏi Thầy: “Thật ra kinh Duy Ma Cật có phải là kinh Phật thuyết hay không? Nhờ Thầy chỉ dạy cho con pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn này". ĐÁP: “Kinh Duy Ma Cật là kinh Đại Thừa ca ngợi một cư sĩ Duy Ma Cật là một vị Bồ Tát đã thành Phật, có trí tuệ bất tư nghì không thể nghĩ bàn. Vì thế không có ai lý luận hơn Ngài được. Kinh so sánh trí tuệ Duy Ma Cật như trí tuệ Phật (Trí tuệ không nghĩ bàn). Vì thế không có một vị đại đệ tử nào của Phật dám đến thăm ông, dù là đại trí tuệ đệ nhất như ông Xá Lợi Phất cũng còn sợ hãi, khiếp đãm khi nghe nói đến đi thăm bệnh Ông. Do trí tuệ Ông cao siêu như vậy nên đức Phật mới sai ông Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đến thăm. Chỉ có ngài Văn Thù Sư Lợi có đủ trí tuệ mới dám đến thăm bệnh và đối đáp với ông mới cân xứng. Kinh Duy Ma Cật ra đời nhằm có ý đồ diệt Phật giáo để dựng lên một giáo pháp mới. Đó là giáo pháp bất nhị, còn gọi là giáo pháp bất tư nghì . Kinh Duy Ma Cật dựng lên một người cư sĩ vĩ đại khiến cho tất cả đệ tử của đức Phật chỉ cần nghe đến tên Duy Ma Cật là đã rét run, cúi đầu, rụt cổ như rùa, đó là những đệ tử lớn của đức Phật như: ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, ông Phú Lâu Na, ông Ca Chiên Diên v.v... còn như vậy huống các đệ tử khác. Biết hàng đệ tử Thanh Văn của mình trí tuệ còn kém xa nên đức Phật của kinh Duy Ma Cật phải nhờ đến một vị Bồ Tát ảo tưởng của nhà văn Khưu Trường Xuân. Một nhà Văn Trung Hoa giàu trí tưởng tượng, tưởng ra những nhân vật tu theo Tiên đạo. Đó là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trong truyện “Phong Thần Diễn Nghĩa”. Trong bộ truyện Phong Thần Diễn Nghĩa có hai vị tiên ông, đệ tử của vị tiên trưởng Nguơn Thủy Thiên Tôn. Đó là ngài Phổ Hiền và ngài Văn Thù. Trong truyện có ghi chú: hai vị tiên ông này sau tu theo Phật giáo được đắc quả thành Phật Đọc kinh Duy Ma Cật chúng ta rất buồn cười cho những ai không sáng suốt vội tin theo mà không cân nhắc. Người viết kinh Duy Ma Cật đã không khéo léo, nên kinh được dấu đầu, mà lại ló đuôi khiến cho người có trí một chút là đã tìm cái giả mạo của kinh. Kinh Duy Ma Cật là một tập tiểu thuyết lý luận triết lý bất nhị, khéo mượn những nhân vật tiểu thuyết Trung Hoa lồng vào kinh để lôi cuốn hấp dẫn người đọc. Cho nên, đọc xong kinh Duy Ma Cật người có sự nhận xét tinh vi một chút thì biết ngay kinh này không phải Phật thuyết, kinh này chỉ do các Tổ viết ra để diệt Phật giáo, nếu các bạn lưu ý sẽ nhận ra điều giả mạo và có ý đồ thâm độc này. Đạo Phật ra đời đã làm đảo lộn tư tưởng của loài người bằng bốn sự thật: “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”. Bốn chân lí độc đáo này đã có sẵn của loài người. Ngài chỉ cần khơi dậy khiến cho tất cả giáo lý của các tôn giáo và các triết lý của những nhà triết học hiện hành trên hành tinh này đã đổ vỡ, trở thành những ảo tưởng. Thế mà lại có một pháp môn bất nhị không hai này lại bảo rằng Phật thuyết, thì e rằng rất oan cho đức Phật. Đức Phật bao giờ nói chuyện giáo pháp không tưởng như vậy. Mới nghe mọi người tưởng là mới mẻ của kinh sách Đại Thừa được diễn tả trong kinh Duy Ma Cật, nhưng nào ngờ giáo pháp ấy cũ rích của Bà La Môn xưa kia. Trong khi kinh sách Nguyên Thủy còn ghi lại lời đức Phật đã dạy, Ngài đập sạch và quét 62 lập luận tà giáo ảo tưởng của Bà La Môn không còn ngoi đầu dậy được nữa. Thế mà, kinh Duy Ma Cật lại bảo kinh này Phật thuyết như trên đã nòi thì có ai mà tin không? Chỉ có những người không đủ trí quán xét thì mới tin như vậy. Kinh đã không phải Phật thuyết thì pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn cùng không phải của Phật. Đó là một pháp tưởng của ngoại đạo. Thưa các bạn! Đừng bao giờ đem pháp môn cao siêu mà gán cho Phật, vì pháp Phật không có cao siêu, chỉ là những pháp môn rất gần gũi với đời sống của con người, nên nó “…thiết thực, cụ thể không có thời gian đến để mà thấy...” Pháp môn không thể nghĩ bàn tức là pháp môn với ý thức không thể hiểu được là một pháp môn ảo tưởng; là một pháp môn nói vọng ngữ. Pháp môn của Phật là pháp môn đem ra dạy cho người tu tập để mang lại lợi ích cho con người, sống không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai, còn pháp môn không thể nghĩ bàn thì làm sao hiểu được, mà đã không hiểu được thì làm sao tu tập được; mà đã không tu tập được thì làm sao có giải thoát được. Như vậy pháp môn bất tư nghì là pháp môn lừa đảo con người. Còn nếu bảo rằng pháp môn này để dạy chư Phật và các bậc A La Hán thì chư Phật và các bậc A La Hán đâu cần phải tu pháp môn này, vì các Ngài đã chứng đạt chân lí giải thoát hoàn toàn, làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi. Cho nên các Ngài đối với pháp môn không nghĩ bàn này là một pháp môn hý luận cho vui chơi, chứ có lợi ích gì cho cuộc sống của loài người đâu. Vì các ngài biết đó là pháp môn vọng ngữ, lừa đảo con người chứ không thể lừa đảo các Ngài được. Phải không các bạn? Nghe nói đến pháp môn khó nghĩ bàn là biết ngay pháp môn nói dối. Cho nên khi nghe Bồ Tát Duy Ma Cật nói: “Bồ Tát bệnh vì chúng sanh bệnh” thì biết ngay Bồ Tát Duy Ma Cật không hiểu Phật giáo, nên mới nói câu ấy. Người không hiểu Phật giáo mà lại nói kinh này của Phật thuyết là sai. Đạo Phật là đạo tự cứu mình chứ không ai cứu mình được. Vì thế lời tuyên bố của kinh Duy Ma Cật chứng tỏ là Ông chẳng hiểu gì về đạo Phật chút nào cả. Đức Phật đã chẳng bảo: “Nếu ta nói một điều mà không ai hiểu là ta có nói láo”: Vậy mà ở đây nói pháp môn không nghĩ bàn là nói láo. Có đúng không các bạn? Vậy pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn là pháp môn nói láo, pháp môn này chỉ gạt người vô minh, chứ người nào chỉ cần có một chút hiểu biết cũng không thể lừa đảo họ được. Pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn là pháp môn lừa đảo như trên đã nói, chỉ có những người sống trong tưởng tri nên mới dễ tin pháp môn này. Pháp môn này chỉ lý luận chơi cho vui chứ chưa có ai sống được, vì con người là có sự tư duy suy nghĩ, chứ con người không phải đất, đá, cỏ, cây v.v.... Như trên đã nói kinh Duy Ma Cật là kinh tưởng, vì thế trưởng giả Duy Ma Cật là người tưởng, chứ không phải là người có thật. Căn cứ vào lịch sử loài người thì cư sĩ Duy Ma Cật không có. Cho nên tác giả kinh Duy Ma Cật khéo tưởng tượng ra nhân vật và pháp môn bất tư nghì . Kính thưa các bạn! Những pháp môn đức Phật dạy trong kinh Nguyên Thủy, như pháp môn Hơi Thở rõ ràng như vậy mà các bạn còn tu tập sai tới, sai lui, huống hồ là pháp môn khó nghĩ bàn của Duy Ma Cật thì biết đâu mà tu tập. Phải không các bạn? Cho nên kinh Duy Ma Cật là kinh vọng ngữ. Và tu tập pháp môn Bất Tư Nghì để làm gì? Để lý luận tranh đua hơn thiệt với thiên hạ ư! Đạo Phật không có mục đích đó. Xin các bạn lưu ý.” Tạm kết: Duy-ma-cật là một nhân vật hư cấu do các học giả Đại thừa dựng lên. Nơi xảy ra câu chuyện “thăm bệnh” là cảnh giới siêu hình tưởng không có thật. Phật, Bồ-tát trong kinh cũng là Phật, Bồ-tát ảo, không phải Đức Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni… Khi Giáo pháp Nguyên thủy của Đức Phật chủ trương nếp sống đạo đức phạm hạnh, thiểu dục tri túc, ba y một bát, độc cư phòng hộ sáu căn, ly dục ly ác pháp. Thì các hệ phái thuộc phong trào vận động Đại thừa dựng lên hình ảnh của một ông Cư sĩ trái ngược, vợ đẹp con ngoan, giàu có, tự do phóng khoáng, tự tại vô ngại đi mây về gió. Đồng thời họ cũng dựng thêm một ông Bồ-tát tưởng Văn Thù đến “thăm bệnh” đề bàn luận về “Bất nhị pháp môn” nhằm triệt hạ uy tín của các đại đệ tử như Tu-bồ-đề, Xá-lợi-phất…, với thâm ý triệt tiêu giáo pháp Nguyên thủy của đức Bổn sư… Nếu Toàn Không vẫn còn muốn nhận Đức Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni làm Bổn sư, thì nên quên mấy ông Phật tưởng, Bồ-tát tưởng phi lịch sử như ông Duy-ma-cật, Văn-thù-sư-lợi… Nhưng nếu còn muốn bám vào các vị ấy, hãy cố gắng chứng minh những giáo pháp mà các vị ấy dạy như “bất nhị pháp môn” cũng có căn bản từ lời Đức Phật dạy trong kinh tạng Nguyên thủy Nikaya. Chúng tôi sẽ ngưng không viết nữa nếu Toàn Không tiếp tục thuyết giảng Đại thừa, mà quên đi phần chứng minh cần thiết giáo nghĩa Nguyên thủy từ kinh tạng Nikaya trong phản biện của mình… |
Cập nhật ngày : 17.12.2012 | |||
Lời BBT/GNCN Đức Đạt-lai Lạt-ma của Phật giáo Tây Tạng là một nhân vật có ảnh hưởng rất lớn trong thế giới Phật giáo. Tiếng nói của Ngài được xem là “có thẩm quyền” về Phật pháp. Nhiều Phật tử, bao gồm cả những tu sĩ trong các Tông phái Đại thừa đã lấy lời giáo huấn của Ngài làm kim chỉ nam trong đời sống tu học của mình… Tuy nhiên, những lời giáo huấn ấy so với lời dạy nguyên thủy của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni còn có một khoảng cách khá lớn, đôi khi mâu thuẫn. Quý Phật tử nào có nghiên cứu và tu học Giáo pháp Nguyên thủy được Đức Phật dạy trong kinh tạng Nikaya đều có thể thấy được điều này... GNCN kính giới thiệu đến quý độc giả lời “song luận” của tác giả Viên Hạnh với Đức Đạt-lai Lạt-ma trong loạt bài “Nói về Phật giáo ứng dụng” được viết dưới dạng vấn đáp, do Tuệ Uyển chuyển ngữ đăng trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen. Dĩ nhiên lời “song luận” của Viên Hạnh chỉ ở mức tương đối. Rất mong quý độc giả đọc và bổ khuyết thêm… NỘI DUNG VẤN ĐÁP HỎI: Tại sao đức Phật Thích Ca đã im lặng một tuần lễ sau khi Ngài đã trở nên giác ngộ? Dalai Lama: Có một câu chuyện của đức Phật đã duy trì sự im lặng và không thuyết giáo trong bảy tuần. Đức Phật, theo kinh điển, đã nói rằng, "Ta đã tìm ra một giáo huấn, một con đường thậm thâm, hòa bình, và tự do khỏi mọi tạo tác, vô vi. Ta đã tìm thấy một giáo huấn như cam lồ. Nhưng nếu ta cố gắng để giải thích và giáo hóa người khác, không ai có thể thấu hiểu. Thế nên, ta sẽ tiếp tục im lặng và ngơi nghỉ trong rừng". Vào lúc ấy, không có phương tiện truyền thông nên không có ai có thể tuyên cáo sự giác ngộ của đức Phật. Vì vậy, sau sự giác ngộ của Ngài, có một sự trì hoãn dài. Dần dần, ngày càng nhiều người trở nên nhận thức rằng đức Phật Thích Ca có một loại kinh nghiệm đặc biệt nào đấy. Sau đó một số người đã bắt đầu tiếp nhận giáo huấn từ Ngài và hỏi đạo với Ngài. Viên Hạnh: Không ai có thể trả lời được câu hỏi này một cách chính xác, ngoại trừ những bậc Alahán chứng Tam Minh vượt thoát khỏi vòng luân hồi như đức Phật. Sau khi chứng Tam Minh, trí tuệ siêu việt vượt không gian và thời gian, đức Phật nhận biết thế giới và vạn pháp trong vũ trụ như thật. Trí tuệ siêu phàm với giáo lý thậm thâm đi ngược dòng sông vô minh ái dục của con người. Do vậy không dễ gì khi nói ra sẽ được người đời có thể chấp nhận. Trái lại, còn bị mọi thế lực đang tôn thờ những giáo lý khác đương thời sẽ nhạo cười, phỉ báng… Do vậy, sau khi chứng đạo, đức Phật đã im lặng nhiều tuần lễ chưa truyền trao kinh nghiệm tu tập con đường giải thoát cho ai cả. … “Suy nghĩ sau đây phát sanh đến Ngài: “Như Lai đã khó khăn lắm mới chứng ngộ được Giáo pháp. Không cần phải phổ biến Giáo pháp ngay lúc này. Người còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, tham ái bao phủ như đám mây mờ đen kịt. Giáo pháp sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức, rất tế nhị, đi ngược dòng tham ái nên thật khó chấp nhận”. Nghĩ như vậy Đức Phật quyết định chưa truyền bá Giáo pháp.” (Nãrada - Đức Phật và Phật pháp). Thật là may mắn, duyên phước của chúng sanh vẫn còn ít nhiều nên ngày nay chúng ta mới có giáo lý của Phật để học tập và tu hành. Đức Phật (và các bậc Alahán) ra đời là một lợi ích lớn cho chúng sanh. Các Ngài luôn tự biết những việc gì mình nên làm và không nên làm, khi nào cần ở lại và lúc nào nên ẩn bóng. Với lòng từ bi xót thương chúng sanh vô hạn, đức Phật đã truyền bá giáo pháp, dù biết rằng không được nhiều người đón nhận. HỎI: Ngài có thể diễn tả thức một cách đầy đủ không? Dalai Lama: Cách duy nhất để biết thức một cách đầy đủ là qua trải nghiệm. Đôi khi tôi dùng một phương pháp đặc thù. Tôi chỉ cố gắng ở trong trạng thái "Vô niệm" của tâm và rồi thì, cuối cùng có một loại cảm nhận trống không nào đấy. Nếu chúng ta ở đấy, cuối cùng chúng ta sẽ kinh nghiệm hoàn toàn sự trong sáng và thanh tịnh. Từ thể trạng của trong sáng và thanh tịnh ấy, chúng ta có thể cũng đi xuyên qua những kinh nghiệm và hiện tướng khác nhau. Do vậy, loại bản chất thuần khiết và trong sáng này của tâm chỉ có thể được thấu hiểu qua sự thực tập lập đi lập lại và liên tục của thiền quán. Nó là điều gì đấy mà không thể đơn giản giải thích trong ngôn từ. Viên Hạnh: Ở đây chúng ta muốn “diễn tả thức” là loại thức nào? Thức có 3 loại: Sắc Thức, Tưởng Thức và Thức Thức. Sắc Thức bao gồm: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, và Ý Thức của con người. Diễn tả các thức này bằng sự Nhìn, Nghe, Ngửi, Nếm, Xúc, Nghĩ nhờ sáu căn Mắt, Tai, Mũi, Miệng, Thân và Ý thì ai cũng “thức” hằng ngày. Nhưng vì Vô Minh nên những “thức” này là thức điên đảo Tâm, điên đảo Kiến, điên đảo Tình… Tưởng Thức được xuất phát từ Tưởng Ấm (vùng não Tưởng) của con người. Diễn tả của Tưởng Thức biểu hiện qua giấc mơ khi ngủ, hoặc khi mơ màng qua những cơn say quay cuồng trong ảo giác do ý thức bị mất. Vì con người Vô Minh nên “thức” này là thức điên đảo Tưởng. Thức Thức được xuất phát từ Thức Ấm (vùng não Thức) của con người. Diễn tả của Thức Thức biểu hiện bẳng sự tịnh chỉ hơi thở, ngưng nghỉ các hành trong thân. Lúc đó là lúc hành giả nhập Thiền thứ tư, hướng tâm vào Tam Minh đoạn tận các lậu hoặc vi tế, chấm dứt tái sanh luân hồi. Đó là thức chân thật của người tu hành đúng pháp. Thuật ngữ hành giả thiền chân chánh của đạo Phật diễn tả là: Vượt Qua Các Ấm trong khi tịnh chỉ (dừng) các hành trong tâm và thân. Tịnh chỉ Ngôn Ngữ nhập Sơ Thiền (Ly dục ly bất thiện pháp). Tịnh chỉ Tầm Tứ nhập Nhị Thiền (Vượt Sắc ấm). Tịnh chỉ Tưởng Thức nhập Tam Thiền (Vượt Tưởng Ấm). Tịnh chỉ hơi thở, xả các thọ, nhập Tứ Thiền (Vượt Thức Ấm). “Diễn tả Thức” một cách đầy đủ là như vậy. Nếu muốn biết cụ thể chi tiết hơn, hành giả hãy tự mình đến để mà thấy, người khác không thấy hộ được, đức Phật đã dạy rõ như thế (học giả thì không bao giờ có thể thấy). Nếu có ai diễn tả thức bằng trạng thái “Vô niệm”, sự trống không, trong sáng, thanh tịnh… hay mọi hiện tướng khác nhau nào đấy thì là Ma Tưởng điên đảo. HỎI: Có phải nguyên nhân trọng yếu là một với nghiệp nhân? Chúng ta phá vỡ vòng nghiệp báo như thế nào? Dalai Lama: Ngoại trừ quý vị có thể làm chấm dứt si mê, mà nó là mắt xích đầu tiên của Mười hai nhân duyên, bằng không thì chúng ta không thể làm chấm dứt nghiệp báo. Ngay cả một chúng sinh chứng đạo như một vị A la hán (một bậc hoàn toàn phá tan mọi cảm xúc phiền não), dư nghiệp vẫn còn. Trong phạm vi này, Thích Lượng Luận, đã nói rằng một người đã vượt quá vòng luân hồi, một người đã vượt khỏi những thèm khát và dục vọng trong cõi luân hồi, một người như vậy có thể thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Đây là bởi vì một người như vậy đã làm tiêu tan tất cả những cảm xúc phiền não. Một khi chúng ta đã hoàn tất điều ấy, không có nguyên nhân đầu tiên cho việc tích tụ những hành vi nhiễm ô. Viên Hạnh: Câu hỏi “có phải nguyên nhân trọng yếu là một với nghiệp nhân?” nên chăng phải hỏi lại cho rõ: “Có phải nhân quả nghiệp báo là nguyên nhân trọng yếu trói buộc con người mãi trôi lăn trong biển khổ sinh tử?”. Đúng vậy, con người do vô minh đã tạo tác nên Nghiệp xuất phát từ 3 nơi hành động: Thân, Miệng, Ý. Nghiệp thiện ác là nguyên nhân trọng yếu lôi kéo, cột chặt con người trôi lăn trong bể khổ luân hồi sinh tử. Chúng ta phá vỡ vòng nghiệp báo như thế nào? Vòng nghiệp báo tức 12 nhân duyên đã hiện bày đầy đủ thế giới khổ đau của con người. Mười hai nhân duyên là sợi xích cột chặt con người trong biển sinh tử. Muốn phá vỡ vòng nghiệp báo tức phải phá nát sợi xích 12 nhân duyên này. Chỉ cần 01 trong 12 mắt xích bị phá vỡ thì toàn bộ dây xích tan rã và con người được giải thoát. Phá vỡ xích 12 nhân duyên bằng cách nào? Trong 12 duyên (cửa giải thoát khỏi nhà sinh tử) có 04 duyên (cửa) xung yếu có thể phá vỡ được. 1- Duyên (cửa) Vô Minh phá bằng Tri kiến Giải thoát. Muốn có vũ khí Tri kiến giải thoát phải thân cận bậc thiện tri thức để học giáo lý: Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, 37 phẩm Trợ đạo… 2- Duyên (cửa) Lục Nhập phá bằng pháp Độc cư (phòng hộ sáu căn không cho dính mắc sáu trần). 3- Duyên (cửa) Thọ phá vỡ bằng pháp tu tập Định niệm Hơi thở. 4- Duyên (cửa) Sanh phá vỡ bằng xuất gia sống một đời sống buông xả cho thật sạch, thiểu dục tri túc, một bát, ba y, ngày xin ăn một bữa… Một hành giả thuần thành dưới sự hướng dẫn của bậc thiện tri thức, không ngừng tinh tấn, phối hợp tấn công bốn cửa (4 duyên) xung yếu này để phá vỡ vòng nghiệp báo sẽ giải thoát hoàn toàn khỏi nhà sinh tử. HỎI: Có thể đạt đến giác ngộ trong thân thể người nữ không? Dalai Lama: Ô, chắc chắn. Có một số khác biệt. Cũng có một số diễn dịch khác tùy theo những trường phái tư tưởng Phật giáo, kể cả Du Già Mật giáo (Yoga Tantra) và kinh Thừa Hiển Giáo. Nguyên tắc đầu tiên của việc giác ngộ luôn luôn phải là trên căn bản của một chúng sinh nam giới chứ không phải một nữ nhân. Tuy nhiên, theo hệ thống Phật giáo vô thượng, Đại Mật Điển Tantra Yoga Tối Thượng, ngay cả những nữ nhân cũng có thể trở nên giác ngộ. Do vậy, dĩ nhiên, chúng ta lưu ý điều ấy như một giải thích tối hậu hay sau cùng. Viên Hạnh: Người nữ hoàn toàn tu tập chứng đạt giác ngộ như nam giới. Quan điểm nhìn nhận của Phật giáo Nguyên thủy khác với Phật giáo Tây Tạng. Con người hình thành bởi nghiệp nhân và duyên hợp của bốn đại, năm uẩn. Nghiệp quả do hành động của con người thì nam nữ hành động đều giống nhau, có khác nhau ở mỗi người chỉ là thiện hay ác nhiều ít mà thôi. Bốn đại, năm uẩn của nam hay nữ cũng đều có đủ như nhau, sao lại có “nguyên tắc đầu tiên của việc giác ngộ luôn luôn phải là trên căn bản của một chúng sinh nam chứ không phải một nữ nhân.” Điều này không có cơ sở, trái với đạo đức Phật giáo. Thời đức Phật tại thế, Ngài thu nhận nữ giới tu hành, thành lập Ni đoàn, đã có rất nhiều Ni sư giác ngộ, chứng đạt quả Alahán, tâm vô lậu giải thoát hoàn toàn không thua kém gì nam giới. HỎI: Nếu không có ngã, cái gì hay ai sẽ đi từ kiếp sống này đến kiếp sống khác? Dalai Lama: Khi đạo Phật nói về vô ngã, không có nghĩa là phủ nhận sự tồn tại của ngã, nhưng phủ nhận tự ngã như điều gì đấy thường còn và không thay đổi. Phật giáo phủ nhận sự tồn tại của tự ngã như thế. Đối với đạo Phật, tự ngã chỉ được mệnh danh trên sự tương tục của tâm thức. Tâm thức là không có bắt đầu và kết thúc. Do vậy, tự ngã cũng vô thỉ vô chung. Từ vô thỉ nó đi đến quả Phật. Tự ngã vẫn ở đấy ngay cả ở trình độ Phật quả. Long Thọ nói rằng ngay cả trong đại Niết bàn, tự ngã vẫn ở đấy, đức Phật vẫn ở đấy, và tâm đức Phật cũng vẫn ở đấy. Viên Hạnh: Giáo pháp Nguyên thủy của đức Phật triệt để đả phá cái ngã hư vọng, giả hợp do nhiều nhân duyên hợp thành. Đức Phật thường dạy người đệ tử quán xét và nhắc tâm: “Đây không phải là ta, không phải là của ta, không phải là bản ngã của ta…” đó là pháp để phá chấp, phá bỏ sự ưu ái dính mắc vào cái thân duyên hợp, bất tịnh, nhơ uế. Tuy vậy, giáo pháp Nguyên thủy không phủ nhận sự tồn tại của một cái ngã. Vẫn có một cái “ngã” gắn liền với hành nghiệp thiện ác của mỗi người tạo ra. Trải qua quá trình tu tập, Phật giáo Nguyên thủy chấp nhận Vô ngã ác pháp, Hữu ngã thiện pháp. Nghiệp “ngã” là cái được tích lũy từ hành động của mỗi chúng sanh do vô minh tạo ra, đi từ kiếp sống này đến kiếp sống khác. Cho nên đức Phật dạy: “Chúng sanh là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc…”, nghiệp hiện tướng các loài hữu tình. Câu trả lời ở trên của Dalai Lama là rơi vào siêu hình tưởng khi cho rằng: “Tâm thức là không có bắt đầu và kết thúc”, tức thường hằng vĩnh cửu, có nghĩa là “chấp thường”… và “tự ngã cũng vô thỉ vô chung. Từ vô thỉ nó đi đến quả Phật”. Câu này cũng là một cách nói khác của câu: “Chúng sanh đã là Phật từ vô lượng kiếp”. Từ vô thỉ nó đã đi đến quả Phật, thế mà giờ đây nó lại trôi lăn trong luân hồi sanh tử? Quý vị suy ngẫm lời đáp của ngài Dalai Lama có phù hợp với lời dạy của đức Phật hay không! HỎI: Ngài có tin tưởng trong những thiên thần không? Dalai Lama: Thiên thần có một hình thức khác biệt về đời sống và là một loại tâm linh khác. Chúng tôi thật sự tin tưởng trong những dakini, và nếu dakini cũng được xem là những thiên thần, thì có rất nhiều dakini. Viên Hạnh: Phật giáo Nguyên thủy không chấp nhận có một thiên thần ngoài con người. Nếu có một điều nào được coi như thiên thần thì phải chắc chắn đó là từ con người. Ví như đức Phật và các bậc Alahán thì không phải thiên thần, nhưng năng lực siêu phàm vượt hơn rất nhiều những “thiên thần ảo tưởng” của thế gian tô vẽ. Ngoài con người có thể giúp đỡ hay làm hại con người (chánh hay tà – thiện hay ác) thì không có một đấng tối cao, thượng đế, thiên thần… nào khác giúp đỡ hay làm hại con người. Người Phật tử chân chánh không tin có thiên thần. HỎI: Điều gì liên kết tâm/thân hay thân/tâm? Dalai Lama: Trình độ thô của tâm thức. Trình độ thô của tâm thức xuất hiện do bởi thân thể. Nó sẽ không tồn tại nữa khi thân thể ngừng biểu hiện chức năng. Nhưng, tại một trình độ vi tế hơn, một loại tâm khác hay thức khác duy trì. Thí dụ, khi chúng ta đang trong tình trạng thức giấc khỏi giấc ngũ, có một loại trình độ nào đấy của thức, một loại trình độ tâm thể hiện chức năng. Khi chúng ta đang ngủ, cho dù giấc ngủ sâu hay một giấc ngủ với giấc mơ, một trình độ của tâm hay thức vẫn còn thể hiện chức năng. Xa hơn nữa, trong giấc ngủ sâu, không có mộng, một trình độ tâm thức khác hiện hữu. Khi chúng ta ngất và không thở, nó trở nên vi tế hơn. Trình độ vi tế nhất của tâm thức xuất hiện khi chúng ta chết. Một khi tim ngừng đập và não bộ ngừng thể hiện chức năng, sau đó trình độ vi tế nhất của tâm thức hoàn toàn biểu hiện. Sự biểu thị của điều này là những cá nhân nào đấy được tuyên bố là đã chết lâm sàng, tuy thế thân thể của họ không phân hủy và vẫn tươi nhuận. Trong vài trường hợp, thân thể duy trì như thế trong hai đến ba tuần. Chúng tôi tin tưởng rằng tâm thức vi tế vẫn còn ở đấy trong thân thể và do bởi điều này, thân thể không bị phân hủy. Do vậy, có nhiều trình độ của tâm thức. Một số lệ thuộc nặng nề vào thân thể trong khi những thứ khác lệ thuộc nhiều hơn hay ít hơn. Viên Hạnh: Điều gì liên kết thân/tâm hay tâm/thân? Trả lời sát với ý của câu hỏi này là: Nghiệp chúng sanh quyết định sự liên kết thân/tâm. Thân (sắc) vật chất, tâm (danh) phi vật chất hợp tạo thành chúng sanh. Các loài thú do nghiệp ác nên có thân mà không có tâm, chỉ hành theo bản năng vô minh. Có thân mà không có tâm, làm sao liên kết? Con người do nghiệp hành có thiện có ác, có thân và có tâm. Trong thân có tâm, tâm khởi từ bộ não của con người, tâm quyết định nghiệp hành của con người. “Tâm chủ tâm tạo tác. Tâm dẫn đầu các pháp…”, như vậy ta hiểu Tâm quyết định Nghiệp và Nghiệp liên kết thân với tâm. Ví dụ Tâm thanh tịnh do tạo Nghiệp thanh tịnh, Nghiệp thanh tịnh thì Thân được an lành, và ngược lại. Như thế chẳng đủ chứng minh Nghiệp liên kết thân/tâm sao? Các bậc thánh vô lậu, tức tâm thanh tịnh hoàn toàn, thân an lạc tịch tịnh. Các ngài không còn tạo nên Nghiệp nữa nên dù có thân hay không còn thân, các ngài vẫn tồn tại với 10 năng lực Như Lai, Bốn Thần Túc siêu phàm. Sự liên kết giữa thân/tâm lúc này chỉ có các ngài tự thấy biết. Phàm phu lạm bàn hóa vọng ngôn. HỎI: Điều gì xảy đến sau khi Niết bàn? Dalai Lama: Tùy thuộc vào loại Niết bàn nào mà quý vị chứng được. Thí dụ, nếu quý vị đã thực chứng một loại Niết bàn chỉ đơn thuần chấm dứt những cảm xúc phiền não, quý vị vẫn phải đạt đến giác ngộ hay quả Phật. Viên Hạnh: Trước tiên cần phải hiểu rõ Niết Bàn là gì? Niết bàn là một trạng thái của tâm đã đoạn tận sạch mọi lậu hoặc, chấm dứt sanh tử luân hồi. Vậy Niết bàn là một trạng thái chứ không phải là một cảnh giới mà từ bao lâu mọi người lầm tưởng có cảnh giới Niết bàn, nơi ước muốn được đi về cảnh ấy. Người sau khi chứng đạt Niết bàn là người Giác ngộ có đầy đủ Tam Minh, lục thông như đức Phật và các bậc Alahán phạm hạnh viên mãn, không còn phải tu thêm gì nữa. Sau khi Niết bàn, các ngài vẫn sống như những người khác nhưng với tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự, và lòng từ, bi, hỷ, xả vô lượng, vô biên. HỎI: Chúng ta vượt thắng thù hận như thế nào? Dalai Lama: Sự thực tập quan trọng nhất trong sự liên hệ này là suy nghĩ về những bất lợi của tiêu cực hay thù hận. Qua loại phân tích này mà chúng ta có thể thấu hiểu những lợi lạc của việc không tăng cường thù hận. Khi chúng tôi nói về việc chinh phục thù hận, nó có thể được hiểu ở hai trình độ: Thứ nhất, không cho phép một cơ hội để thù hận sinh khởi trong đời sống hàng ngày của chúng ta, và thứ hai, suy nghĩ về bản chất tàn phá và những kết quả của thù hận. Bằng việc quán chiếu trong cách này, chúng ta có thể tự vượt xa và không cho phép thù hận sinh khởi trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Nhằm để nhổ gốc rễ hay hoàn toàn loại trừ thù hận, chúng ta phải đi vào trong những sự thực tập tâm linh sâu hơn. Một cách chính yếu đây là sự thực tập nhất tâm, cũng còn gọi là "Tịch tĩnh bất động", và đạt đến một tuệ giác nội quán sâu hơn vào trong tính không hay thực tại tối hậu. Thông thường, tôi hỏi: Những gì là lợi ích của những cảm xúc phiền não này như thù hận và ganh tỵ? Chúng làm tổn hại cho tâm hòa bình của chúng ta. Chúng thật sự là những kẻ thù của chúng ta. Những kẻ thù ngoại tại có khả năng tấn công và tàn phá sự hòa bình của tâm thức trong một cách giới hạn. Những kẻ thù ngoại tại không thể phá hoại sự hòa bình của tâm thức chúng ta, nhưng ngay khi một cảm xúc như thù hận sinh khởi, kẻ thù nội tại này sẽ cướp đi mất niềm an bình của tâm hồn chúng ta. Cũng thế, những kẻ thù nội tại như vậy làm tổn hại sức khỏe của chúng ta. Thí dụ, ba năm trước đây, tôi đã gặp một nhà khoa học ở New York. Một nhà y khoa đã có một thuyết trình ở đấy ông làm rõ rằng những người thường sử dụng chữ 'tôi", "của tôi",... thì dễ có hiểm họa khổ đau vì một cơn nhồi máu cơ tim. Điều này khá đơn giản. Khoảnh khắc mà chúng ta nghĩ về chính chúng ta - tôi - chúng ta rất là ích kỷ và hẹp hòi. Phạm vi hoạt động của chúng ta trở nên rất nhỏ. Dưới những hoàn cảnh như vậy, ngay cả những vấn đề nhỏ bé cũng xuất hiện ra to lớn, không thể chịu đựng nổi, và làm phát sinh nhiều lo lắng và băn khoăn hơn. Về mặt khác, thời điểm chúng ta nghĩ về lợi ích của những chúng sinh khác, tâm tư chúng ta tự động rộng mở ra. Trong sự thực hành Phật giáo, chúng ta nghĩ về vô lượng chúng sinh và những rắc rối cùng khổ đau của họ, không chỉ những khổ đau loại thứ nhất (khổ khổ) và thứ hai (hoại khổ) mà cũng cả loại khổ thứ ba (hành khổ). Do bởi điều này, chúng ta trở nên thấu hiểu và quan tâm hơn và tâm thức chúng ta trở nên rộng rãi bao la. Thái độ tinh thần và quan điểm của chúng ta làm nên một sự khác biệt lớn lao. Những cảm xúc phiền não làm tổn hại sức khỏe và những cảm xúc tiêu cực này phát triển một cách lớn mạnh năng động trong tâm hồn. Những con người như vậy luôn luôn tạo nên rắc rối bất cứ nơi nào họ đến. Trái lại, nếu chúng ta với tâm tư hòa bình hay tâm hồn từ bi sẽ có nhiều bạn hơn. Bất cứ nơi nào chúng ta đến, sẽ có không khí hòa bình. Ngay cả những thú vật cũng cảm kích điều ấy. Mục tiêu cuộc sống của chúng ta là để cảm nhận hạnh phúc, vui sướng, toại nguyện, và hòa bình. Nhằm để đạt đến những điều này, lệ thuộc rất nhiều trên thái độ tinh thần của chúng ta hơn là tiền bạc, quyền lực, hay những thứ ngoại tại. Vì thế hãy cố gắng và phân tích những thứ này. Đây là cách tốt nhất để chuyển hóa thái độ tinh thần của chúng ta. Viên Hạnh: Câu hỏi: chúng ta vượt thắng thù hận như thế nào? Muốn vượt thắng thù hận trước hết chúng ta cần phải hiểu rõ về mình và muôn loài đang cùng chung sống trong thế giới của chúng ta. Tiếp đến chúng ta phải hiểu sâu sắc tác hại của sự thù hận đối với bản thân ta và muôn loài ra sao. Phật giáo Nguyên thủy đã dạy, trong thế giới duyên hợp tạo tác nên muôn loài có một mái nhà chung là môi trường sống trên hành tinh này, tất cả đều là anh em gần gũi có chung nguồn gốc vô minh mà hiện diện. Chúng ta cần phải hiểu thấu đáo về luật nhân quả nghiệp báo, 12 nhân duyên và con đường dẫn đến hạnh phúc thực sự cho con người. Hiểu về mình và muôn loài anh em, chúng ta ra sức sống một đời sống không làm khổ mình, khổ người và muôn loài bằng cách thường xuyên thực hành ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp, trải lòng từ, bi, hỷ, xả vô lượng đến cùng khắp. Cao hơn nữa, chúng ta có thể thực hiện thanh lọc thân tâm bằng pháp Tứ Niệm Xứ, tiến sâu vào thiền định tận diệt mọi nguồn gốc tham, sân, si để trở thành người toàn thiện. Người toàn thiện thì không còn chút mảy may thù hận nào. Đó là bậc vô cùng tôn kính của con người và muôn loài. HỎI: Nếu chúng ta quan tâm đến gia đình chúng ta hơn những chúng sinh, có phải như vậy là ích kỷ không? Dalai Lama: Có hai loại quan tâm. Nếu quý vị chỉ nghĩ về gia đình một cách độc chiếm mà thôi và không quan tâm đến những chúng sinh khác thì đấy là luyến ái hay dính mắc. Nhưng nếu chúng ta thực hành việc quan tâm đến tất cả chúng sinh, gia đình chúng ta cũng trở thành một bộ phận của những chúng sinh này. Cũng thế, chúng ta có thể giao tiếp một cách trực tiếp trên căn bản này khi chúng ta chăm sóc những thành viên trong gia đình. Chúng ta bao gồm ngay cả chúng ta, đúng không? Điều ấy là cần thiết và tốt đẹp. Trong thực tế, đôi khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta muốn lợi lạc đến tất cả chúng sinh, ngoại trừ hàng xóm của chúng ta. Vì thế chúng ta phải chiến đấu! Việc cầu nguyện chi cho những chúng sinh ở xa xôi là một sai lầm. Khi chúng ta cầu nguyện cho tất cả chúng sinh, hành động của chúng ta ảnh hưởng, lợi lạc đến những thành viên trong gia đình và láng giềng trước nhất. Vì vậy hãy cầu nguyện cho hàng xóm của chúng ta; chúng ta có thể nói một cách đúng đắn rằng chúng ta đang thật sự thực hành vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Viên Hạnh: Sự quan tâm của chúng ta đối với gia đình mình nhiều hơn những chúng sanh khác, như vậy đúng là ích kỷ. Đó cũng là điều phù hợp với bản chất vô minh của con người còn gắn liền với những trách nhiệm, bổn phận, sự luyến ái dính mắc của cuộc sống do đạo đức nhân thế, tập tục, thói quen và lòng tham ái trói buộc. Vượt lên trên những ích kỷ tầm thường, bậc thánh nhân trải lòng từ bi yêu thương rộng khắp và bình đẳng quyền lợi đối với mọi người cùng muôn loài. Đó là mục đích của người Phật tử hướng tới và tiến bước theo chân các ngài. Không cầu nguyện, không xin xỏ mà phải tự lực cố gắng bằng chính niềm tin, nội lực và ý chí quyết tâm của mình. HỎI: Như một giáo viên, tôi có thể dạy học trò của tôi về từ ái và bi mẫn như thế nào? Dalai Lama: Qua hành động của quý vị! Qua gương mẫu của quý vị - không chỉ bằng lời nói. Vì vậy quý vị phải nghĩ và phát triển một sự quan tâm chân thành về lợi ích của học trò của quý vị, tương lai lâu dài của chúng. Quý vị có thể giải thích cho học trò của quý vị về giá trị của ý thức ân cần, từ bi, và bao dung. Một nhận thức rất quan trọng là đối thoại, tinh thần của đối thoại, và sự hòa giải bởi vì trong xã hội loài người luôn luôn có xung đột và mâu thuẫn. Mâu thuẫn tự nó là tốt. Thí dụ, Bốn chân lý cao quý cũng là những sự mâu thuẫn - vì vậy những mâu thuẫn có thể đem đến sự phát triển hơn. Trái lại, mâu thuẫn có thể là tiêu cực và đưa đến xung đột, máu đổ, và đấu tranh. Giáo dục là một phương pháp rất quan trọng để cung cấp kiến thức và sự tỉnh thức cùng với những giá trị của nhân loại. Viên Hạnh: Từ ái và Bi mẫn, đó là đạo đức làm nên hạnh phúc chung cho cuộc sống con người và muôn loài. Đạo đức con người cũng cần thiết như nước uống và khí trời, nếu thiếu đạo đức, cuộc sống trở nên khô cằn hoang dại, dễ dẫn đến hủy diệt lẫn nhau. Hiểu biết sâu sắc giá trị của lòng từ ái và bi mẫn, hãy dạy những học trò của mình bắt đầu thực hiện từ ái, bi mẫn ngay khi còn bé thơ. Hãy tích cực tinh cần, tinh tấn sống với lòng từ ái yêu thương con người cùng muôn loài. Sống không làm khổ mình khổ người, cố gắng tạo sự hạnh phúc cho mọi người. Đó là điều cần thực hành hơn là chỉ nói suông. HỎI: Có phải tính không là giống như vô ngã không? Dalai Lama: Có lẽ từ ngữ "Tính không" có một ý nghĩa rộng rãi hơn bởi vì khi chúng ta dùng chữ "Vô ngã" nó có thể liên hệ không chỉ vấn đề thiếu vắng sự tồn tại cố hữu (vô tự tính) của một đối tượng nhưng cũng là sự thiếu vắng một thái độ tự yêu mến. Viên Hạnh: Tính Không trong khái niệm của Long Thọ xiển dương: “không có, không không, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không một, không nhiều…” là thuyết giáo của người chưa hiểu lý chân thật của vạn vật, vạn pháp. Đức Phật không dạy tính không như vậy. Hiểu theo lý duyên khởi, vạn pháp vạn vật không tự không mà thành có, cũng không tự có mà thành không. Mỗi vật, mỗi pháp đều do nhiều yếu tố duyên hợp mà thành. Không đơn lẻ, cho nên mỗi vật, mỗi pháp đều không có tự tánh riêng biệt nào nên mới gọi “vô ngã”. Đức Phật dạy: “Vô thường, Khổ, Vô ngã”, đó là ba pháp ấn để con người nương theo tu tập giải thoát khỏi khổ đau sinh tử. Hiểu như vậy để hành, nếu dính chặt là khó thoát. Đức Phật chỉ dạy Không Tánh với ý nghĩa hoàn toàn khác Tánh Không. Không Tánh là trạng thái của người tu tập đã đoạn tận tham, sân, si, vén lên năm triền cái, dứt sạch thập thất kiết sử, giải thoát hoàn toàn. Như đã trình bày trên, Tánh Không không phải là Vô ngã. Tánh Không thì mơ hồ không thực, chẳng có ai biết nó cụ thể ra sao. Vô ngã là pháp “phương tiện” để người tu học phá chấp thân. Phật giáo Nguyên thủy chấp nhận hữu ngã thiện pháp, vô ngã ác pháp, thế mới mang lợi ích cho con người. - - - - - - - - - - - - - - - Theo: DALAI LAMA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (1) Tác giả: Dalai Lama. Tuệ Uyển chuyển ngữ - 2012 (Nguồn http://www.thuvienhoasen.or/D_1-2_2-125_4-16456_5-50_6-2_17-243_14-1_15-1/) |
Cập nhật ngày : 29.01.2013 | |||
Lời BBT/GNCN.
Về vấn đề phê phán giữa các tôn giáo, đó là một công việc không làm, không nên làm của người phật tử chân chánh. Những người con của Phật theo học đạo trí tuệ, từ bi đều có quan niệm rằng dù là đạo Phật, đạo Hồi, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Khổng giáo v.v… tất cả đều cùng chịu chung những nỗi khổ như nhau, đều là những con người, đều cần phải sống có đạo đức để sống không làm khổ cho nhau, không tàn hại lẫn nhau như loài cầm thú. Nhưng, quan niệm về thế giới và nhân sinh của mỗi tôn giáo có sự nhận thức và các nghi thức tín ngưỡng, sủng ái thể hiện khác nhau. Người phật tử hoàn toàn tôn trọng các quyền tự do thiêng liêng bất khả xâm hại của các tôn giáo bạn. Phật giáo luôn coi trọng sự đồng hành của các tôn giáo bạn, họ là những người bạn tốt của chúng ta, họ đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều trong sự củng cố và phát triển vị thế trí tuệ của mình. Vì vậy Phật giáo không có, không nên có vấn đề phê phán giữa các tôn giáo. Riêng trong đạo Phật, sự kiện “Vào ngày 15/12/1999, Khóa họp thứ 54 của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua nghị quyết lấy Phật Giáo làm tôn giáo điển hình cho toàn nhân loại”, chúng ta cần phải hiểu rõ và có quan điểm cho đúng về vấn đề này. Trải qua hơn 25 thế kỷ, ngày nay Phật giáo trên hành tinh biến dạng ra sao? Mừng hay lo? Người Phật tử phải có trách nhiệm như thế nào để Phật giáo trở lại thực sự là Phật giáo mà Liên Hiệp Quốc đã chọn làm tôn giáo điển hình cho toàn nhân loại? Nếu vẫn diễn mãi tình trạng như xưa nay, trong đạo Phật mạnh ai lấy thuyết, trăm bè vạn mảng, tính Phật không còn mà pha tạp đủ món ngoại lai. Như thế niềm tin của Liên Hiệp Quốc đã đặt có đứng vững được trong tương lai nữa không? Rất may, đạo Phật chân chánh đã được Trưởng lão Thích Thông Lạc dựng lại, người phật tử chân chánh có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ và phát triển. Mỗi người phải cố gắng góp sức để mọi người đều được trở về với giáo lý thanh tịnh của đạo Phật Nguyên thủy xưa, ngày nay Trưởng lão đã tìm lại được. Sự chuyển biến thanh tịnh, thống nhất lại giáo lý đạo Phật không phải là sự phê phán giữa các tôn giáo. Chúng ta không sợ bị “chụp mũ” như thế.
VẤN ĐỀ KHÔNG NÊN PHÊ PHÁN GIỮA CÁC TÔN GIÁO Tuy khác nhau về tín lý, về cảnh giới được hướng đến cũng như tính chất phù hợp với chân lý nhưng các tôn giáo vẫn được người ta tôn thờ và đặt trọn niềm tin, mặc dù “có điều được khéo tin tưởng, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng. Trái lại, có điều không được khéo tin tưởng, có thể là thật, chân, không thay đổi”. Người theo Đạo Thiên Chúa hay Đạo Hồi… tin vào sự cứu rỗi, có sự sống đời đời sau khi chết do một Đấng Tối Cao ban tặng. Người phật tử theo lộ trình Bát Chánh Đạo của đức Phật tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, và cái đích là để chứng đạt chân lý Diệt Đế (Tâm hết phiền não, không còn tham, sân, si). Do nhận thức được rằng tôn giáo có ý nghĩa vô cùng lớn lao như vậy đối với mọi tín đồ, các phật tử lại càng không nên lên tiếng phê phán tôn giáo khác, đặc biệt là trên phương tiện thông tin đại chúng. Trước hết, tôi xin được nhắc lại một sự kiện, có thể nói đã thu hút sự chú ý đặc biệt của những nhà lãnh đạo tôn giáo, và cũng là một tin vui với biết bao người trong đó có các phật tử: Vào ngày 15/12/1999, Khóa họp thứ 54 của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã nghị quyết lấy Phật Giáo làm tôn giáo điển hình cho toàn nhân loại. Một chi tiết thú vị ở đây là trong lúc này tại Đại Hội Đồng LHQ có đông đủ đại biểu đại diện cho nhiều tôn giáo khác, họ cũng đưa ra những ý kiến ủng hộ tín ngưỡng của mình, nhưng cuối cùng khóa họp đã đi đến sự thống nhất như trên. Còn về các tiêu chí mà Đại Hội Đồng LHQ đưa ra để lựa chọn một tôn giáo điển hình của thế giới thì quý vị có thể tham khảo bài phát biểu của ông Bùi Hữu Dược - Vụ Trưởng Vụ Phật Giáo, Ban Tôn Giáo Chính Phủ tại tỉnh Bình Dương có chủ đề “Vài Nhận Xét Về Phật Giáo” (toàn bộ HD Video này có trên Youtube.com và một số Website khác). Sự thực thì đã có biết bao nhà khoa học trên thế giới từng ngưỡng mộ và ca ngợi đạo Phật, vì chính đạo Phật không bao giờ tách rời khoa học mà còn dẫn dắt khoa học đi trên đường thiện. Cao hơn nữa, đức Phật có thể được tôn vinh về tính bác ái của Ngài đối với khắp quần sanh, vì: “trước một kiến thức vĩ đại tôi cúi đầu, trước một trái tim vĩ đại tôi quỳ gối” (V. Hugo). Tuy nhiên, có một điều chúng ta cần lưu ý là tâm con người thường thường dính mắc, chấp bám vào ngôn tự chẳng hạn như “tôn giáo” để rồi khởi ý phân biệt, thành kiến đối với người theo đạo này, người theo đạo nọ. Theo một đạo nào, đức Phật dùng trí tuệ Tam Minh xác định đó là do duyên nghiệp, hạnh nghiệp của họ được huân tập từ lâu. Hơn nữa, các tôn giáo tuy có nhiều điểm khác nhau về giáo lý nhưng cũng có những nét chung nhất định. Ví dụ, điều răn “Không được giết người” bên Thiên Chúa giáo thì gần với “Đạo Đức Hiếu Sinh” (thương yêu tất cả các loài chúng sinh) bên đạo Phật. Điều răn “Chớ làm chứng dối” thì gần với “Đạo Đức Chân Thật”, điều răn “Chớ lấy của người” thì có điểm chung với “Đạo Đức Ly Tham”, điều răn “Chớ muốn vợ, chồng người” thì gần với “Đạo Đức Chung Thủy”, và giả sử, có một trường phái nào đó của đạo Thiên Chúa đưa ra thêm một điều răn nữa là “Chớ uống rượu và dùng các chất kích thích” thì hiển nhiên, nó sẽ tương đương với “Đạo Đức Minh Mẫn” của đạo Phật! Nếu quán chiếu theo giáo lý Phật giáo, thì đạo nào cũng là đạo của con người và vì con người, hơn nữa là vì tất cả chúng sanh. Đạo hình thành theo những dòng tư tưởng, suy nghĩ điều lành của con người hướng tới tiếp cận với ánh sáng chân lý, có tính phổ quát và phủ trùm lên vạn hữu, bất kỳ ai cũng có thể lĩnh hội và hành theo, không phụ thuộc không gian và thời gian, tu tập là có kết quả ngay liền. Đạo được truyền thừa do bàn tay con người ghi chép lại, hoặc bằng lời chứ không phải do một quyển sách từ trên trời được ném xuống hay một tiếng nói từ trên hư không vọng xuống. Đến với đạo là hoàn toàn tự do, không có dụ dỗ, lôi kéo ai dưới bất kỳ hình thức nào. Trên cơ sở có duyên được bậc thiện hữu tri thức chỉ dạy tránh làm điều gì ác, cần làm việc nào lành, tự mình sẽ đến để mà thấy và chứng nghiệm thành quả của những thiện pháp bản thân đã tu tập được: một cách thực tế, không mơ hồ và trừu tượng. Bởi vì, chính đức Phật cũng từng dạy trong kinh Tương Ưng Bộ: “nếu ta nói một điều gì các con dùng ý thức mà hiểu được thì trong đó không có nói láo, nhưng nếu ta nói một điều gì các con không dùng ý thức mà phải dùng tưởng mới hiểu được thì trong đó có nói láo”. Cho nên, việc đặt niềm tin vào một tôn giáo cần được dựa trên năm pháp mang lại lợi ích lớn ngay trong hiện tại: Tín, tùy hỷ, tùy văn, cân nhắc suy tư các lý do và chấp nhận quan điểm. Nhưng, dù anh tin Thượng Đế, tin vào sự cứu rỗi của Chúa Jesus, tôn thờ thánh Mohammed, theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni hay không thì vẫn có một thực tại, một nguyên lý mà anh phải chấp nhận: đó chính là phải học sống có đạo đức trong cuộc đời – tập sống theo những điều răn, đức hạnh nói trên và tránh làm khổ mình, khổ thân tâm đối tượng khác qua ba nghiệp Thân Khẩu Ý. Chắc chắn câu nói sau đây của bậc Minh Hạnh Túc sẽ xóa nhòa những cụm từ thường bị chấp trước trong tâm trí chúng ta như “Tôi theo đạo” (Phật, Thiên Chúa, Tin Lành…), “Tôi không theo đạo nào cả” (tôi là Lương…) và cần được áp dụng cho tất thảy mọi người mọi lúc, mọi nơi: “có hai đường đi, một là đường ác, hai là đường thiện. Người làm ác từ đường ác đến chỗ khổ, người làm lành dạo chơi đường lành đến chỗ vui”. Trở lại vấn đề không nên phê phán tôn giáo khác, thì ngay cả trong kinh Koran của Đạo Hồi cũng dạy: “Tôn trọng quyền tự do của người khác”. Còn đức Phật hoàn toàn nghiêm cấm các đệ tử của mình khi chưa chứng đạt chân lý thì không được phép lên tiếng phủ nhận giáo pháp khác. Bây giờ chúng ta cùng hướng về lời Phật dạy năm xưa, khi thanh niên Bà-la-môn Kapathika bạch Thế Tôn: “-- Thưa Tôn giả Gotama, câu chú thuật (mantapadam) của các cổ Bà-la-môn y cứ tiếng đồn, truyền thống và Thánh tạng. Và ở đây, các vị Bà-la-môn chắc chắn đi đến kết luận: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". Ở đây, Tôn giả Gotama đã nói gì?” Sau khi giảng cho thanh niên Bà-la-môn Kapathika về lòng tin thì đức Phật dạy: “-- Này Bharadvaja, nếu có người có lòng tin và nói: "Ðây là lòng tin của tôi", người ấy hộ trì chân lý, nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". Cho đến như vậy, này Bharadvaja, là sự hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, chân lý được hộ trì. Và cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lý. Nhưng ở đây, chưa phải là giác ngộ chân lý. Này Bharadvaja, nếu có người có lòng tùy hỷ, này Bharadvaja, nếu có người có lòng tùy văn; này Bharadvaja, nếu có người có sự cân nhắc suy tư các lý do; này Bharadvaja, nếu có người chấp nhận một quan điểm và nói: "Ðây là sự chấp nhận quan điểm của tôi", người ấy hộ trì chân lý. Nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm". Cho đến như vậy, này Bharadvaja, là hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, này Bharadvaja, chúng tôi chủ trương hộ trì và cho đến như vậy, này Bharadvaja, chúng tôi chủ trường hộ trì chân lý. Nhưng ở đây chưa phải sự giác ngộ chân lý.” (Kinh Trung Bộ, Tập II, Kinh Canki) Như thế, ngay cả khi mình đã hộ trì chân lý, thậm chí mới giác ngộ chân lý cũng chưa được phép bài bác giáo pháp của người khác: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm". Tu tập chừng nào chứng đạt được chân lí, khi chứng đạt được chân lí mới có thể dạy người: “đây là chân pháp cần phải được ngưỡng theo”; Tất nhiên, cho dù phải chỉ thẳng đập mạnh, thì vị ấy cũng nói với tâm từ chứ không phải tâm sân, nói vì lợi ích cho mọi người chứ không phải vì danh lợi. Tại sao người tu chứng Tứ Thánh Định và Tam Minh mới có thể làm được điều đó? Bởi vì họ có đủ Bốn Thần Lực, Tứ Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả) và đủ trí tuệ để thấy được đường đi lối về của tất cả chúng sanh, không có một thế lực nào có thể vượt lên trên, làm thối chuyển được một vị A-La-Hán - một trong Mười Danh Hiệu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm của người chứng đạt Chân lý dù khi làm bất kỳ việc thiện hữu lậu nào thì vẫn luôn bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, luôn ở trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự. Nhưng, sự ra đời của một bậc A-La-Hán không chỉ do duyên lành của riêng người ấy mà còn một phần vì phước báo của mọi người và tất cả chúng sanh! Thấy rõ lợi ích này, chúng ta cần tinh cần tu tập theo Chánh Pháp của đức Phật Thích Ca để sống cho đúng hơn với nền đạo đức Nhân Bản – Nhân Quả. Bây giờ chúng ta hãy thử đặt ngược vấn đề lại, giả sử có ai đó dùng nhiều phương tiện hủy báng Phật, hủy báng Pháp, hủy báng Tăng, lúc ấy những người con Phật sẽ có phản ứng như thế nào? Chắc chắn, ta cần phải sử dụng chánh tư duy, quán xét và như lý tác ý theo lời chỉ dạy của đức Phật trong Kinh Trường Bộ, Tập I, Kinh Phạm Võng, Tụng Phẩm I: “Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các thầy chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn. Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các thầy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các thầy. - Này các Tỷ-kheo, khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các thầy phải nói rõ những điểm không đúng sự thật là không đúng sự thật: - “Như thế này, điểm này không đúng sự thật; như thế này, điểm này không chính xác; việc này không có giữa chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi”. “Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp, hay tán thán Tăng, thời các thầy không nên hoan hỷ, vui mừng, tâm không nên thích thú. Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, mà nếu các thầy hoan hỷ, vui mừng và thích thú thời sẽ có hại cho các thầy. - Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, thời các thầy hãy công nhận những gì đúng sự thật là đúng sự thật: “Như thế này, điểm này đúng sự thật, như thế này, điểm này chính xác, việc này có giữa chúng tôi, việc này đã xảy ra giữa chúng tôi”. Lời dạy trên đây, theo tôi, là một phương cách ứng xử tuyệt vời vừa mang lại sự thanh thản cho nội tâm, cũng như thể hiện được tinh thần bất bạo động của nhà Phật. Còn có pháp nào nữa hay hơn chăng? Hãy thử nhìn lại xem hàng ngàn năm nay thế giới, gồm loài người và tất cả các loài chúng sanh, có khi nào ngưng nghỉ chiến tranh và đa dạng các thể loại xung đột? Sanh tâm phiền não và giận hờn thì khổ mình, công kích và phản bác lại người thì cũng sẽ chắc chắn khổ mình, hoặc khổ cả người tùy theo tính chất đặc tướng của cộng nghiệp hay biệt nghiệp. Đúng là “Đứng lại thì chìm xuống, tiến tới thì trôi dạt, chỉ có vượt qua”. Vượt qua cái gì và như thế nào? Ở đây, bó hẹp trong phạm vi bài viết này, theo tôi vượt qua là tâm không còn dính mắc vào các hình thức tôn giáo, bằng cách tư duy, quán xét về tính bình đẳng về sự sống của mọi người và tất cả chúng sanh. Quán từ bỏ và đoạn trừ tâm phân biệt đối xử một cách cục bộ giữa những người theo đạo khác nhau là một trong những thể hiện của quá trình tu tập trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm và cũng chính là đang làm đúng với lời kêu gọi của Đảng và Nhà Nước: Đoàn kết tôn giáo. Tâm Thuận |
Cập nhật ngày : 30.01.2013 | |||
"Không nên nhìn lỗi người,
Người làm hay không làm. Nên nhìn tự chính mình, Có làm hay không làm". (Kinh Pháp Cú) Đó là lời Phật dạy và cũng là lời đức Trưởng lão Thông Lạc thường xuyên khuyên nhắc các đệ tử của mình. Mà xem, đã được mấy người học trò biết nghe theo lời dạy của bậc Đạo Sư? Phần vì dục tham còn lớn, phần vì tri kiến hạn hẹp, thấy Thầy dạy hay nên lăn xả vào tu, ức chế, rồi tìm lời biện chứng, che đậy. Mình đã chẳng hành, chẳng thấy, lại khéo mang lỗi người ra chỉ trích, hơn thua. Thật uổng công bao thời gian tu tập, thâu nhận được gì? Đức Phật dạy, Trưởng lão dạy: “Không nên nhìn lỗi người”, điều này quý lắm chứ không đùa. Nhưng cần biết thêm, Trưởng lão cũng dạy phải “thiện xảo”, “khéo léo” trong cuộc tu hành. Tu hành có mấy giai đoạn, mỗi giai đoạn tính chất, yêu cầu đều mỗi khác nhau. Đang trên đường tìm hiểu tri kiến giải thoát đã vội che mắt lại, bịt tai vào, không thèm thấy biết lỗi của người, không bận sửa mình, cứ miệt mài tu, tu, tu… hóa tu mù. Chưa có tri kiến mà tu vội ắt hẳn tu mù trở thành cây đá. Muốn có tri kiến thì phải khéo biết nhìn lỗi của người mà tránh, lại nữa phải khéo biết răn nhắc mình hối sửa. Chưa có tri kiến mà đã vội không đúng, không sai, không nhơ, không sạch… chỉ sợ năng, sợ sở thì bằng chứng nhỡn tiền, mấy ngàn năm rồi đã bao người tu hành vẫn dậm chân tại chỗ. Lợi ích chỗ nào đâu? Giotnangchonnhu hết lòng tùy thuận, giới thiệu bài viết của quý tác giả lên trang để độc giả cùng đọc và suy ngẫm. Rồi sau khéo lựa lấy điều hay, điều lợi mà dùng, điều nào chưa được thì bỏ đi. Nguyên, chỉ có lời của Thầy Chơn Như (Trưởng lão) là mỗi lời mỗi ngọc vàng quý báu, càng đọc nhiều càng sáng ra, mới ra, không vội vã bỏ qua cho rằng ta đã đọc rồi không cần đọc nữa. Bài viết chúng tôi giới thiệu dưới đây có thấp thoáng bóng dáng lời của Phật giáo phát triển xen chung, những lời mà Thầy Chơn Như cũng rất hạn chế dùng. Ấy vậy mà, biết đâu, thế lại một điều hay, có lỗi người để biết đối chiếu sửa mình để mau tu hành tinh tấn. Lời BBT/GNCN. KHÔNG NHÌN LỖI NGƯỜI Một người tu đạo chân chánh là không nên nhìn lỗi của người khác. Nếu không thì lỗi của người cũng chính là lỗi của mình. Nói tâm tôi rất an tịnh, tôi không có như thế, trên thực tế, quý vị không biết rằng khi phát hiện ra khuyết điểm của người khác thì bản thân nó đã trở thành khuyết điểm của quý vị rồi. Sự thật này, chân lý này, người bình thường ít khi nhận ra. Có người nói tâm tôi rất an tịnh, tâm tôi rất tốt, hôm nay tôi rất vui, nhưng thật ra đó chỉ là cảm giác nhất thời của quý vị, hoặc là cách nghĩ tạm thời để khống chế mình có được những trạng thái tâm mong muốn. Một khi quý vị phát hiện ra khuyết điểm của người, thì ngay chỗ khởi tâm động niệm đó đã là khái niệm của phiền não rồi đấy! Tâm trạng quý vị đang vui, nhìn thấy người khác lúc nào cũng rất tốt; khi tâm khởi phiền não, nhìn thấy người khác chỗ nào cũng không ưa nổi. Khi trạng thái tâm mình như thế nào, nhìn người khác cũng có những tính chất tương tự. Đó là những trạng thái của tâm tốt và xấu. Tâm khởi phiền não cũng là vì trong lòng chất chứa đầy những vấn đề tốt xấu. Nói mình tốt, người khác xấu, đó đều là phiền não, vì tốt hay xấu vốn đã là phiền não. Vấn đề là quý vị có chịu thừa nhận hay không mà thôi. Nguyên nhân gì khiến mình nhìn thấy lỗi của người khác? Đó là vì chúng ta có một cặp mắt, khi có cặp mắt thì cũng đồng thời phát sinh ra cặp tâm phân biệt. Cặp mắt chính là tâm phân biệt; mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý đều là tâm phân biệt của quý vị. Thế nào là tâm phân biệt? Chỉ cần mắt quý vị nhìn thấy vấn đề, phát hiện vấn đề thì đó đều là tâm phân biệt. Khi chúng ta phát hiện ra vấn đề của người khác, dùng cái gì để phát hiện? Dùng phiền não để phát hiện. Quý vị tự đeo cho mình một cặp kính màu thành kiến, rồi dùng cặp kính màu này để phát hiện ra lỗi của người. Chúng ta muốn thật sự hiểu rõ chính mình và cái gì gọi là phiền não thì đầu tiên quý vị phải buông bỏ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chính mình. Có người nói, như thế tôi chẳng phải trở thành một kẻ mù hay sao? Nếu quý vị thật sự trở thành “một kẻ mù” thì quá tốt, mấu chốt ở chỗ là sợ mắt quý vị không mù, tai quý vị không điếc, miệng quý vị không câm. Nếu quý vị có thể trở thành một “người mù, người điếc…”, buông bỏ hết tất cả những thứ này thì tự thân quý vị sẽ không còn khởi phiền não, sẽ không còn nhìn thấy phiền não của người khác. Vì sự xả bỏ đó mà ba ngàn thế giới này đều là của quý vị, tâm quý vị không khởi phiền não thì thiên hạ ắt sẽ được thái bình. Như có người tu hành, chúng ta đến bên cạnh người đó, mặc dù trong lòng đang khởi tâm động niệm, đang rất phiền não, nhưng chỉ một thoáng sau tất cả phiền não đều không còn. Gặp người tu hành có định lực, bất luận trong lòng quý vị có bao nhiêu phiền não, khi được ở bên cạnh người ấy, tất cả phiền não của quý vị đều được hóa giải. Chúng ta vì chưa hóa giải được, nên còn phiền não. Phiền não khởi lên không phải từ bên ngoài, mà hoàn toàn ngay chính tự thân. Do đó, điều răn thứ nhất trong Thiền môn là: Không bao giờ được nhìn lỗi người khác, phải luôn luôn thông hiểu cho người. Quý vị nói sự thật là như thế, đó chính là lúc mắt quý vị đang phát huy tác dụng, nó có thể nhìn thấy được một số vấn đề: Anh ta đang làm việc trái pháp… đó là căn bệnh của mắt từ xưa đến nay. Trong “Kinh Tương Ưng” đức Phật chẳng phải đã nói: Ánh sáng của ngọn đèn kia vì sao có một vòng tròn? Rốt cuộc là ngọn đèn kia phát ra vòng tròn hay chính cặp mắt của quý vị có vòng tròn? Kết quả phát hiện cho thấy do cặp mắt của quý vị có vấn đề, khi trị lành cặp mắt, vòng tròn kia sẽ không còn. Vòng tròn không phải do ngọn đèn sanh ra, mà do cặp mắt của quý vị tạo nên. Vì sao nói vòng tròn do mắt tạo ra? Là vì hạt giống phiền não trong tâm của quý vị đang có mặt và tất nhiên nó sẽ phát hiện ra được những hạt giống cùng loại nơi người khác. Do sự thay đổi tư tưởng nơi chúng ta nên mới có lỗi lầm nơi người khác. Đó là tư tưởng gì? Ví dụ nói, chúng ta bây giờ xuất gia, tu đạo, giữ giới, khi nhìn thấy người khác không giữ giới, chúng ta phiền não. “Tại sao người ấy không giữ giới? Tại sao người ấy không nỗ lực tu đạo? v.v…”, cứ thế không ngừng nhìn thấy lỗi của người. Đổi lại khi chưa xuất gia, chúng ta chưa nhận biết những lỗi này, vẫn cứ cho như thế là rất tốt. Nhưng thái độ giả lơ cũng không phải là thượng sách, những nhận thấy trên dầu sao cũng thuận với chánh pháp, đó là một quá trình nhận thức từng bước, từng bước. Tóm lại, phiền não khởi lên không phải từ bên ngoài, mà là từ trong nội tâm. Khi phát hiện ra lỗi lầm của người khác, quý vị nên dũng cảm thừa nhận lỗi lầm của mình, trước phải quán xét tự thân, phải sám hối với chính mình, như thế mới có thể giải quyết được vấn đề. Lúc trước, chúng ta có nói đến pháp tu nhẫn nhục, thế nào gọi là nhẫn? Tức nhẫn điều không thể nhẫn. Không có năng nhẫn và sở nhẫn (người nhẫn và điều được nhẫn), không có hoàn cảnh, “ngã” của năng nhẫn và “tha” của sở nhẫn đều không tồn tại, đó gọi là năng nhẫn hay nhẫn. Quý vị chỉ có nhận thức với một thái độ như thế mới có thể nhận biết được vấn đề một cách như thật. Mở miệng tuyệt đối không nói lỗi lầm của người, bất cứ lúc nào trong tâm cũng không nên có tâm niệm thị phi. Có loại tâm niệm đó, phiền não nhất định sẽ phát sanh; không có tâm đó, phiền não sẽ không còn lai vãng. Nói như thế, có phải là tôi không muốn sửa đổi, ngăn chặn lỗi lầm của người khác, vì vậy mà đôi lúc khiến cho công việc bị đổ vỡ? Trên thực tế, khởi đầu là do quý vị không chuyển được cảnh, đợi đến khi trong tâm của quý vị thật sự không còn tâm niệm thị phi thì những hiện tượng trên tự nhiên biến mất. Sở dĩ những hiện tượng trên có mặt là do ban đầu quý vị có gieo hạt giống đó, nó nhất định trổ quả cho quý vị xem, nó khiến cho quý vị phát hiện ra vấn đề. Một khi đã phát hiện ra vấn đề, bước đầu tiên quý vị vẫn còn cảm thấy rất thanh tịnh; bước thứ hai thì phát hiện ra người khác sao có quá nhiều vấn đề, quá nhiều sự việc; bước thứ ba quý vị sân si lên, anh làm sao mà trở nên như thế được nhỉ? Bước thứ tư quý vị đi đến nước chịu hết nổi. Khi phát hiện ra vấn đề của người khác thì phiền não tự thân đã nổi lên, đó là điều hiển nhiên. Bất luận quý vị phát hiện ra ưu điểm hay khuyết điểm của người cũng đều là phiền não. Vì có sự phân biệt ta, người, chúng sanh thì đã có phiền não. Có người và ta, là đã có sự đối lập. Nhận thấy có người khác thì cái ta liền phát sinh lên. Cái ta này từ đâu đến? Vì thấy có người khác, nên cảm nhận được sự có mặt của cái ta, nếu khi không có người khác thì cái ta cũng không tồn tại. Cho nên nói hiện tại chúng ta đã phạm phải một sai lầm rất lớn. Có người nổi sân si, quý vị nói người đó đã làm ảnh hưởng đến mình. Bất luận quý vị nhận thấy cái tốt hay cái xấu của người cũng đều là phiền não của quý vị. Quý vị thấy anh ta hôm nay tốt, ngày mai tốt, ngày mốt thì đã xấu đi rồi. Đối với anh ta thì tốt, đối với người khác thì xấu, luôn luôn có sự phân biệt như thế. Nên nói tốt hay xấu đều do sự đối lập sinh ra, chỉ cần một phương diện khởi này lên thì phương diện kia liền sanh theo. Tại sao nói nhìn thấy tốt hay xấu đều không đúng? Biết cái xấu, chúng ta không học theo. Nhưng khi chúng ta phát hiện ra chỗ tốt của người, liền khởi lên sự so sánh. Người này tu hành chân chánh, tốt quá, mình sẽ theo học với người ấy. Quý vị nhìn thấy người đó ngồi thiền sao mà trang nghiêm! tụng kinh sao mà vang vọng! tu hành sao mà tinh tấn! Nhưng quý vị không biết rằng khi nhìn thấy những ưu điểm của người đó, đồng thời cũng nhìn thấy được mặt ngược lại của họ, hay mặt ngược lại tương tự nơi những người khác, người này như thế này, người này như thế kia, rốt cuộc ai là người tốt nhất? Đó là bản thân mình tốt nhất. Chuyển tới chuyển lui, chuyển xuôi chuyển ngược, cuối cùng dừng lại nơi mình. Nên nói chuyển một vòng thì cuối cùng cũng lộ ra “cái tôi” của chính mình, đây chỉ là một sự lừa bịp. Trong sự tu hành, tuyệt đối đừng nên thấy có tướng nhân (thấy có sự tồn tại của người khác), chúng ta nên quán “chư pháp không tướng” mà xa rời tất cả tướng. Tất cả chúng sanh đều là cha mẹ kiếp trước của mình, đều là chư Phật trong tương lai. Tất cả đều là pháp thân của quý vị, thì quý vị còn có phiền não gì đáng nói nữa chứ?!. Hoàng Bùi Bài này thể hiện quan điểm riêng của tác giả. GNCN kính mời quý vị xem thêm bài viết: “IM LẶNG NHƯ THÁNH” KHÔNG PHẢI LÀ “CÂM” |
Cập nhật ngày : 20.03.2013 | |||
Trên trang mạng Phật giáo có khá đông độc giả, một tác giả (MT) đã giới thiệu bài viết bày tỏ mối lo toan về sự mất còn của thiền Phật giáo. Sự lo toan xem ra sốt sắng, ấy mà lo thì lo chứ họ có biết Thiền của Phật giáo là gì đâu! Xin trích một đoạn để quý độc giả cùng suy ngẫm: “…mới đây, khi đọc đến mục “Thiền” trong Từ điển Tâm lý học, biên soạn Viện Tâm lý học thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, GS. TS Vũ Dũng chủ biên (nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội xuất bản, 2008) thì quả là đáng quan tâm. Đây là hiện tượng đã có những nhà khoa học Việt Nam bị đầu độc bởi luận điệu cướp đoạt thiền Phật giáo. Chúng tôi xin dẫn lại dưới đây nội dung định nghĩa “Thiền” của quyển từ điển nói trên, để bạn đọc tham khảo về nguy cơ đã trở thành hiện thực tiêu cực trong thực tế. Định nghĩa thiền nhưng các tác giả quyển từ điển (gồm đến 30 nhà tâm lý học ở các trường, viện, bệnh viện, cơ sở thực nghiệm tâm lý) đã không nhắc gì đến Phật giáo cả mà lại nhắc tới… “Chúa trời”. Việc dẫn lại ở đây xin coi là việc báo động hiện tượng Phật giáo bị ăn cướp giá trị của mình. “THIỀN Sự phong tỏa mạnh mẽ vào vật thể bằng trí tuệ, bằng ý tưởng, diễn ra bên trong suy tưởng, có thể đạt được bằng cách tập trung tối đa vào một khách thể và loại trừ mọi yếu tố gây xao nhãng sự chú ý, cả các yếu tố bên ngoài (tiếng ồn, ánh sáng) và các yếu tố bên trong (các căng thẳng về thể lực, cảm xúc và những căng thẳng khác). Thiền là một hình thức luyện tập tâm lý, đã ứng dụng những hình thức khác nhau, phụ thuộc vào bối cảnh văn hóa – lịch sử. Thiền được ứng dụng nhiều ở các nước phương Đông như: Ấn Độ, Trung Quốc và các nước có nền văn hóa tương đồng khác ở khu vực này. Kiểu thiền của phương Đông (bao gồm tất cả các hình thức Yoga của Ấn Độ, Đạo giáo ở Trung Quốc) có giả định rằng sự hòa tan mang tính tôn giáo thần bí của ý thức cá nhân trong cái tuyệt đối vô bản ngã, tương tự như đại dương-tình huống được thực hiện bằng hình ảnh của con bươm bướm đã bị ánh lửa của ngọn nến thiêu cháy hoặc con búp bê muối bị hòa tan trong nước biển. Một khuynh hướng tôn giáo thần bí khác của thiền, được sùng bái bởi Ki tô giáo, đã lý giải thiền như sự dung hợp của 2 nhân cách: con người và Chúa Trời….” (Bài "Một kết quả của mưu toan cắt rời Thiền ra khỏi Phật giáo" của MT – Nguồn phattuvietnam.net). Dưới đây, vài ý kiến ngắn xin chia sẻ cùng tác giả bài viết “Một kết quả…” và quý độc giả. Chúng ta cùng nhau chung sức để bảo vệ, phát triển Chánh pháp của đức Thích Ca. Đó là nền đạo đức nhân bản – nhân quả hết sức khoa học và công bằng, đó là hạnh phúc của muôn loài đang cùng chung sống trên hành tinh nhỏ bé, mong manh. Ai là người đã lưu tâm? I. Mục đích cứu cánh của đạo Phật: 1- Đạo Phật nguyên thủy do đức Thích Ca hoằng dương với mục đích cứu cánh là “Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự”. Đó cũng chính là tâm vô lậu của hành giả đã làm chủ được bốn sự khổ đau của kiếp người, vượt qua vòng sanh tử, chấm dứt tái sanh luân hồi, đó là Niết Bàn tại thế. 2- Đạo Phật phát triển: Với các Tông phái phi đạo Phật, tuy rằng cũng quảng bá rằng đi tới mục tiêu cứu cánh của đạo Phật. Nhưng những cứu cánh ấy ra sao? - Đối với Thiền Tông, mục đích cứu cánh đạt được là: Phật Tánh, Bản Lai Diện Mục Hiện Tiền, Tánh Thấy, Tánh Nghe, Tánh Biết, Tâm không Niệm Thiện Niệm Ác, Niết Bàn… - Đối với Tịnh Độ Tông, mục đích cứu cánh là đạt tới cảnh giới Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà phóng hào quang tiếp dẫn, là để biết ngày vãng sanh, là Niết Bàn… - Đối với Mật Tông thì mục đích cứu cánh là đạt được các thần thông siêu việt để người đời thích thú ca tụng, là biết được nơi mình về (tái sanh) sau khi chết để được mãi mãi mọi người chiêm bái kính ngưỡng. Ví dụ điển hình như ngài Dalai Lama 14 hiện nay, đã liên tiếp truyền thừa từ nhiều thế kỷ qua. - Đối với Thiền Minh Sát, mục đích đạt được là sát tuệ 16 Minh với 7 giai đoạn thanh tịnh, nhưng các vị vẫn ăn thịt chúng sanh như ăn rau. (Đạo Phật Nguyên Thủy chỉ đạt tối thắng là Tuệ Ba Minh). Mới đây ngài Duy Tuệ cho ra lò loại Thiền Minh Triết thực sự phủ nhận (không cần) Bát Chánh Đạo và đặt ra vấn đề người phật tử không cần tu nhưng vẫn có thể tự nhiên rơi vào trạng thái “Thành Phật”. Như vậy thì ta miễn bàn Thiền Minh Triết. II. Phương pháp tu tập theo đạo Phật: 1- Đạo Phật Nguyên Thủy dạy bốn chúng Phật tử tu hành dựa trên tinh thần Tự Lực của mỗi cá nhân, “Tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Tu tập bằng phương pháp xả ly tâm tham, sân, si tức là dứt sạch hết những trạng thái khổ đau của con người. Đó là PHÁP TU XẢ TÂM. 2- Với các Tông phái khác thì hầu hết là nương tựa vào tha lực, cầu xin, cúng bái, thành kính để được ban phước. Hoặc tu tập thì cố gắng ức chế tâm cho Ý thức mất, Tưởng thức hoạt động để thấy mình siêu phàm nhưng Tham, Sân, Si vẫn còn đủ. Đó là PHÁP TU ỨC CHẾ TÂM. III- Con đường tu tập của đạo Phật: 1- Đạo Phật Nguyên Thủy tu tập trên cơ sở của Bốn Diệu Đế, Mười Hai Nhân Duyên, Tám Chánh Đạo và Ba mươi bảy phẩm trợ đạo do đức Thích Ca hoằng dương còn nguyên vẹn và đầy đủ trong tạng kinh Nikaya – ĐTKVN. Lộ trình cơ bản là con đường Thánh Đạo Tám Ngành hay còn gọi là Giới – Định – Tuệ. Hành giả tu hành phải đi đúng lộ trình từ Giới đến Định và cuối cùng thành mãn Tuệ Ba Minh (Giải thoát). Trong đó Giới tức là Giới Luật, tức Đạo Đức Phật giáo là phần căn bản vô cùng quan trọng để xem biết hành giả có thể thành đạt sự tu hành được hay không. 2- Đạo Phật phát triển với các tông phái như Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Thiền Minh Sát tuy cũng có chút ít gọi là nương theo Tám Chánh Đạo nhưng tâm đời chưa buông bỏ được nên vẽ ra đủ thứ pháp môn, rất nhiều pháp môn (84 ngàn pháp môn) để dối trá, lừa mị người cầu danh, cầu lợi. Lộ trình cơ bản của các Tông này thường không đi theo con đường Phật dạy, họ không cần quan tâm đến Giới Luật. Mới vào tu là tu Thiền, tu Định để mong khởi Tuệ, khởi Tuệ là thành mãn Giới luật. Họ đã nhầm. Ai biết Tuệ đó là Tưởng Tuệ chỉ để múa lưỡi khua môi lừa người ít biết. Giới luật của họ thì ai cũng rõ: “Sống ung dung tự tại trong chùa to Phật lớn, quang cảnh đẹp. Thư thái hồn nhiên “đói ăn, khát uống, mệt đi nằm…” Do vậy tu sĩ các Tông phái này tu tập không có ai đạt được oai nghi chánh hạnh của người phật tử bình dân, nói chi đến oai nghi đạo đức của một bậc Thánh. Họ vẫn mãi nối tiếp con đường đau khổ trong bể trầm luân không sao giải thoát được. IV- Thành quả tu tập của đạo Phật: 1- Đạo Phật Nguyên Thủy nếu tu tập đúng lộ trình và phương pháp Phật dạy thì mục đích cứu cánh đạt được ngay liền khi mới bắt đầu khởi tu. Vì thế Phật dạy: “Pháp Ta không có thời gian, đến để mà thấy…”. Công phu thành mãn là hành giả đạt được Bảy Năng Lực Giác Chi, Bốn Thần Túc với Mười Lực Như Lai. Khi ấy hành giả thể nhập Bốn Thánh Định dễ như trở bàn tay, như lấy đồ trong túi. Và quả vị đạt được là Phật, A La Hán, Thiên Nhân Sư… đầy đủ mười hai danh xưng mà đức Phật đã tuyên. (Hay nói dễ hiểu hơn, hành giả đạt được “Tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, làm chủ được Sanh, Lão, Bệnh, Tử và chấm dứt tái sanh luân hồi”). 2- Đạo Phật phát triển với các tông phái phi Phật pháp thì họ luôn tự an ủi mình hãy cố gắng, phải tu tập đến vô lượng kiếp. Hoặc cố gắng hơn, họ tự phong minh là Bồ Tát để hành Bồ Tát hạnh mong thành Phật trong tương lai mù tịt ở rất xa. Họ chẳng hiểu Bồ Tát chỉ là một người còn đang tu tập, vậy mà vội vã đi giảng đạo dạy người hành Bồ Tát đạo. Thế cho nên quả vị của các ngài đạt được chỉ là Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng giảng sư, nói Thiền nói Đạo thì như gió thổi mưa tuôn, nhưng mục đích cứu cánh Phật dạy thì chẳng ai đạt được gì. Họ vẫn bệnh đau đi bệnh viện, đi bác sĩ chữa trị chứ hoàn toàn không làm chủ được chút nào. Bệnh chưa làm chủ được thì làm sao làm chủ được Chết, làm chủ được Già, làm chủ được Sanh? Cho nên quả vị của họ chỉ là quả “0” thật to để lại muôn đời sau. Thưa quý vị Phật tử, Qua 4 mục so sánh dẫn trên, quý vị sẽ chọn nẻo nào?, về với đạo Phật Nguyên Sơ?, hay chạy theo hai dòng Phật giáo phát triển Bắc tông và Nam tông? Đức Phật đã từng dạy: “Được thân người là khó, được (gặp) nghe Chánh Pháp còn khó hơn”. Thế mà quý vị chẳng tin. Lời Phật dạy với lòng Từ Bi vô lượng vô biên, không khi nào Ngài nói dối một điều gì. Vậy tại sao chúng ta không tin Ngài mà lại còn có biết bao nhiêu điều nghi hoặc dẫn đến phỉ báng, chê bai giáo lý của Ngài? Đức Phật Niết bàn đã hơn hai mươi lăm thế kỷ, giáo pháp Ngài dạy đã bị phủ dày bởi bao lớp tà kiến của những người học nhiều tu ít, tâm còn nặng danh lợi với đời nên luôn tìm mọi cách để thỏa mãn lòng dục của mình. Họ đâu biết rằng càng thỏa mãn dục bao nhiêu thì càng chất chứa khổ đau thêm bấy nhiêu. Làm thế nào để Tu Hành Giải Thoát? Pháp nào là Chân Thật của đức Phật để tu? Nếu đây là những câu hỏi nghiêm túc và thành tâm của người muốn trớ về với pháp Phật chân chánh thì câu trả lời không khó khăn gì. Tất cả đường đi, lối bước đã được cố Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng dạy đầy đủ và cặn kẽ. Hãy cố gắng vứt bỏ những kiến chấp lỗi thời, những sở tri tà kiến ôm ấp suốt mấy ngàn năm, nay đến lúc bỏ được rồi, như thế còn lo gì ai cướp mất Thiền Phật giáo. Để rõ ràng thêm về Thiền của đạo Phật, xin nhắc lại mấy lời đức Bổn Sư đã dạy: “Người tu sĩ đạo Phật cạo bỏ râu tóc, đáp áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, không nhà cửa, một bát ba y, ngày xin ăn một bữa… tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không…”. Đó chính là Thiền của đạo Phật, thiền của đạo Phật vô cùng vô tận, bao nhiêu người đến lấy cũng chưa hết, mà chẳng có ai đến lấy cũng không sợ thừa. Lo sợ chi ai cướp mất thiền, thật là lo uổng! Đáng lo hơn là làm sao ta Hành Thiền được. Tu sĩ xưa nay nói Đạo, nói Thiền thì như rồng leo, vượn hót, nhưng Hành Thiền thì dối trá như mèo “ị”, gà bươi. Trách ai? |
Cập nhật ngày : 13.05.2013 | |||
Thiện Trí (friends with Hoa Thiền) commented on Đạo Phật's photo of you.
Thiện wrote: "Tịnh Độ (Đại Thừa): do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu với các đệ tử. Thiền Tông (Đại Thừa): Phật truyền tâm ấn cho ngài Ma Ha Ca Diếp (làm Tổ thứ nhất dòng thiền phái Ấn Độ, đời cuối cùng là ngài Huệ Năng (hiện nay vẫn còn lưu xá lợi)! Sau Phật diệt độ: các vị Xá Lợi Phất, Ma Ha Ca Diếp, A Nan (biên tập, ghi chép toàn bộ những lời Phật dậy) cớ đâu lại nói là tà ma ngoại đạo (chẳng khác nào phỉ báng Phật giáo). Tu tập bấy lâu không thấy kết quả, bị kẻ khác rèm pha sinh lòng nghi ngờ phỉ báng chánh pháp (do Kim Khẩu Phật nói ra, các vị Thánh Tăng ghi chép lại) vậy lý do đâu đó là tà ma ngoại đạo! BẤT LUẬN KẺ NÀO KỂ CẢ ĐÓ LÀ HOÀ THƯỢNG GIÁO PHẨM đi chăng nữa phỉ báng Phật giáo (Bắc Tông và Nam Tông) kẻ đó mới chính là tà ma ngoại đạo! Kẻ nào tự nhận mình chứng thánh quả (nghi ngờ phỉ báng Phật Pháp kẻ đó là tà ma ngoại đạo). Phật tại thế: là Chánh Pháp. Thời chư Tổ: là Tượng Pháp. Thời Chân Tu và Tà Tăng (thầy tà) lẫn lộn là mạt pháp. Chân Tu: xiển dương Chánh Pháp (đó là Chánh Pháp, là Phật). Còn trụ thế Tà tăng (thầy tà) nói pháp không đúng, đó là mạt pháp! Theo quan điểm của tôi! KÍNH MONG VỊ NÀO CÒN NGHI NGỜ HÃY DẸP BỎ CÁI NGHI NGỜ NÀY! Các vị tu tập mà còn vọng không bao giờ thấy được kết quả (PHẬT PHÁP RẤT NHIỆM MẦU). Vị nào còn đang nghi ngờ mau thức tỉnh cầu đại sám hối! Thiện trí (Kính Cẩn) A Di Đà Phật!" Thiện Trí Qua sự trình bày của quí thầy Thiện Trí CHỚ CÓ TIN: Khi nghiên cứu kinh điển, kinh thánh hoặc bài viết của bất kỳ ai, kể cả trong blog này, đừng tin trọn, mà hãy nhớ lời đức Phật đã dạy: “Này các Kàlàmà! Nhưng này các Kàlàmà! Khi nào, tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này bất thiện, các pháp này là có tội lỗi, các pháp này bị người có trí hiểu biết chỉ trích, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”. Thời này, Kàlàmà hãy từ bỏ chúng không nên tin theo”. Thầy Thiện Trí ạ! Hãy nhìn ra biển Đông xem Bắc Kinh Trung Quốc dương oai, hung hăng, láo dối về cái bản đồ hình chữ U, như cái lưỡi bò liếm trọn biển Đông, thâu tóm các quần đảo của các nước láng giềng. Cái bản đồ đó Bắc kinh tuyên truyền với thần dân Trung Quốc là của họ. Người Trung Hoa rất giỏi chuyện đảo điên thực, hư. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam có đủ cứ liệu lịch sử mà trong các thư viện cổ của Việt Nam và các nước Tây phương còn lưu trữ và đã chứng minh rõ ràng. Ngược lại cái bản đồ đường lưỡi bò thì không có cơ sở lịch sử, không hợp pháp, thế giới không công nhận. Mới đây Hoa Kỳ đã tố cáo Trung Quốc ăn cắp tư liệu mật về quân sự của Hoa Kỳ. Hàng hóa, thực phẩm của Trung Quốc hiện tại rất mất uy tín trên thị trường thế giới. Vì sao? Vì nó rất không thành thực, rất độc hại, rất thủ đoạn, ma mánh. Đạo đức nhân bản, nhân quả không được giáo dục cẩn thận. Cũng như vậy, Phật giáo Nguyên Thủy Thích Ca Mâu Ni vốn không phải là Tôn Giáo cho nên không thể gọi là Đại Thừa hay Tiểu thừa. Khi Thái Tử Sĩ Đạt Ta từ bỏ hoàng cung, có nghĩa là buông xuống tham, sân, si. Tham, sân, si được gọi là Khổ Đế. Cuộc sống trên thế gian này được ví là Khổ Đế. Thân mạng của con người là Khổ Đế. Sự kiện ngài Thái Tử từ bỏ hoàng cung là vì giác ngộ sanh, già, bệnh, chết mà Bà La Môn giáo, Vệ Đà hướng thần linh không đưa ra được phương pháp để chấm dứt cái vòng lẩn quẩn luân hồi khổ đau do từ trường Tập Đế là lòng Dục. Nếu truy cứu thật kỹ càng lịch sử của đức Phật thì chúng ta sẽ biết rất chính xác cụ thể đạo Phật được kính tôn vì nó rất nhân bản. Nhân bản vì nó ly dục, ly ác pháp, vì nó nhắm vào con người và có pháp hành thiết thực cứu khổ được con người. Và thật hết sức nhân bản vì khi từ giã loài người Ngài đã ban tặng cho loài người chân lý Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khổ vì Vô minh tin theo những hư cấu láo khoét của những tưởng giải Sư, tưởng kiến giải Phật pháp. Khổ vì Tập Đế khư khư ôm chấp hữu, thủ tri kiến lệch pha lịch sử Phật giáo Nguyên thủy. Do nhân buông xuống danh, tài, lợi, sắc… mà Thái tử đã thành Phật Chánh Đẳng Giác được gọi là Diệt Đế. Điều này Bà La Môn giáo sĩ chưa bao giờ làm được, bởi vì không có Chánh tri kiến về nhân quả để chuyển đổi Tập Đế tức là Dục. Để chuyển đổi Tập Đế (Dục), đức Phật đã di chúc sau khi ta nhập diệt hãy lấy Giới luật và giáo pháp ta làm thầy dẫn đường giải thoát những phiền trược khổ đau. Giới luật, Giáo pháp đó chính là Đạo Đế (Bát Chánh Đạo). Bát Chánh Đạo là những nấc thang giúp loài người xả niệm thanh tịnh. Phật dạy 10 Điều Chớ Có Tin chính là dạy tu tập Ý Thức Lực vậy! Đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc dạy là Định Vô Lậu, Tứ Niệm Xứ…. Và Ngài dạy phương pháp Như Lý Tác Ý là “món ăn” tối quan trọng để có Diệt Đế chuyển đổi Tập Đế, chấm dứt Khổ Đế. “Hãy lấy Giới luật, Giáo pháp ta làm thầy” để cho cuộc đời này không còn có những con người với thân, khẩu, ý… gian ngoa, danh lợi, ác pháp. “Hãy lấy Giới luật, Giáo pháp ta làm thầy” để con người, cuộc đời này không bị lòng tham dục ác pháp làm cho chiến tranh đồ khổ. Để con người sống trên thiện pháp chứng Đạo. “Hãy lấy Giới luật, Giáo pháp ta làm thầy” là Ngăn ác, diệt ác, diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp; là khuyên dạy loài người không nên ảo giác thế giới thần linh hư cấu. Thí dụ như các nhà tưởng giải Sư của Tôn giáo Phật Giáo Trung Hoa vẽ tưởng A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Nam Hải, Di Lặc, Liên Hoa Sắc… nhái theo thần giáo Vệ Đà, sau này là Hồi Giáo. Long Thọ người Bắc Ấn vốn là giáo sĩ Bà La Môn nặng ký, người rất có tội lỗi với loài người là vì ông ta rất tưởng giải, biến ý thức con người trườn uốn xảo biện, hý luận, điên đảo thực, hư, chân lý. Bài kinh Bát Nhã đã tố cáo tội ác của Long Thọ qua câu kinh: “Không Khổ, Tập, Diệt, Đạo…”. Trần Huyền Trang người Trung Hoa thỉnh kinh Đại Chúng Bộ sau này gọi là Bồ Tát Đại Thừa, tam sao thất bổn chân lý Tứ Diệu Đế. “Dù cho tạo tội hơn núi cả, Diệu Pháp Liên Hoa tụng mấy hàng” Thưa thầy Thiện Trí, một bậc Thánh như Phật có bao giờ dạy loài người phá hoại đức hạnh, giới nghì như vậy? Dùng thuốc trừ sâu cực độc để giữ cho củ gừng tốt mã, bền lâu, vẽ bản đồ lưỡi bò tham chiếm biển Đông bất chấp luật biển Liên Hiệp Quốc, bất chấp chủ quyền của các nước láng giềng, bất chấp qui tắc ứng xử trên biển Đông. Kinh Pháp Hoa thể hiện đầy đủ tham vọng sái quấy của việc bành trướng Bắc Kinh. Viễn tưởng ra một Di Lặc lãnh đạo thế giới, người Trung Hoa xưa đã dạy cho con cháu của họ mộng xấu ác tham lam, xâm lược, vơ vét của không cho phi nhân bản, nhân quả. Do chấp có Di Đà, Di Lặc, Quan Âm nên tín đồ Phật giáo Trung Quốc, người dân Trung Quốc trở nên cuồng tín, bệnh ảo giác phần thế giới còn lại của loài người trên trái đất là của Trung Quốc. Xét toàn bộ giáo điển Đại Thừa phát Triển tưởng giải chúng ta thấy họ chỉ nhằm mục đích tiêu diệt đức hạnh Giới luật, những giá trị pháp luật và nền đạo đức nhân bản, nhân quả, cho nên nó luôn về đích tham, sân, si, mạn, nghi, sanh, già, bệnh, chết. Các nhà sư Phật giáo Trung Hoa đã xâm phạm nghiêm trọng bản quyền Phật giáo Thích Ca Mâu Ni Nguyên Thủy. Các nhà sư Đại Thừa Phật giáo Trung Hoa tu hành rất thành đạt về danh lợi, huân chương, quan tăng, phú tăng, phú ni, nệm giường hơn cả vua chúa, đa số là ăn thịt chứ rất ít vị ăn chay. Đường lối tu tập của đạo Phật chân chánh là khởi động bộ não Chánh Kiến nhân quả, Tư duy phản biện các pháp, các niệm khởi, Chánh Ngữ chân thật, Chánh Mạng từ bi, Chánh Nghiệp thiện pháp nhân bản, Chánh Tinh Tấn Như lý Tác ý về những nhân cách phát xuất từ thân, khẩu ý trong sáng thanh tịnh, “không làm khổ mình, không làm khổ người”. Thật vi diệu làm sao nghệ thuật sống Tứ Chánh Cần như vậy, Giới hành như vậy đã un đúc cho Chánh Niệm không phóng dật theo ác pháp nên nó thanh an giải thoát ngay tại thế gian, thế gian là thiên đường. Khi các niệm không còn chiến tranh nhau nữa giữa ác và thiện, vì ý thức đã quét sạch lậu trược thì từ lực trường của ý thức sẽ chuyển đổi Tập Đế nhân quả, làm chủ tham, sân, si Khổ Đế. Danh, tài, lợi, sắc là nguyên nhân của mọi khổ đau. Chùa to Phật tượng lớn, Phật tượng hư cấu, bày vẽ, lừa đảo rất chống trái lịch sử Phật giáo Nguyên Thủy, chống trái Giới luật, đức hạnh và cuộc đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Những người có thiện trí, hữu phước sẽ gặp được Chánh Pháp Như Lai Thích Ca Mâu Ni. Những ai biết thương mình, thương loài người sẽ dùng ý thức sắc sảo phân biệt chánh, tà. Đạo Phật Nguyên Thủy giúp cho bạn có Trí tuệ nhận biết Đạo Đế để bạn vượt qua cuồng tín, ảo giác, cố chấp, vô minh. Phật giáo Đại Thừa phát triển là một tôn giáo làm cho loài người ảo giác, hoang tưởng, hao phí tiền của, bị các nhà sản xuất giấy vàng mã, các nhà sản xuất chuỗi tràng, sản xuất chuông, mõ, kinh điển, băng đĩa thuyết giảng tà tưởng móc cạn túi tiền mà vẫn lậu trược tham, sân, si là một Tôn giáo đáng bị những người có trí chỉ trích…. thì Tôn giáo ấy, mọi người hãy mau xa tránh. Kính ước nguyện loài người trên thế gian này thâm ngộ ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT, NHỮNG LỜI DẠY GỐC… mà Đức Thánh, Bậc làm chủ được sanh, già, bệnh, chết Thích Thông Lạc đã thương yêu ban tặng cho tất cả chúng sanh trong thế giới đầy khổ đau này. Bạn hãy gõ: Youtube Thích Thông Lạc để được nghe chân lý Tứ Diệu Đế….. |
Cập nhật ngày : 04.07.2013 | |||
Nhân đọc sách “HỎI HAY, ĐÁP ĐÚNG” (Tác giả: Bhikkhu Shravasti Dhammika. Dịch giả: Đại đức Thích Nguyên Tạng). Thấy rằng HỎI thì có hay, nhưng ĐÁP thì chưa hoàn toàn đúng, mới nảy sinh ý biện: “CÂU HỎI HAY, MỌI NGƯỜI CÙNG ĐÁP”. Và thế là có những câu trả lời song đôi cùng tác giả Bhikkhu Shravasti Dhammika. Đây chỉ là những hiểu biết hạn cuộc của một phàm phu đang cầu học tri kiến giải thoát, nếu được quý độc giả có ý kiến hoàn thiện hơn thì thật hạnh phúc.
CÂU HỎI HAY, MỌI NGƯỜI CÙNG ĐÁP
Đạo Phật là gì? Hỏi 1: Đạo Phật là gì? Bhikkhu Shravasti Dhammika (BSD): Danh từ Đạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy đạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng của Ngài Sĩ-Đạt-Đa Cồ-Đàm, được biết như một vị Phật, đã tự mình giác ngộ ở tuổi ba mươi sáu. Đến nay Đạo Phật đã có mặt trên 2500 năm và có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Hàng trăm năm về trước, Đạo Phật đã chính thức là một nền triết học của Á châu, tuy nhiên ngày nay đã phát triển và có tín đồ ở khắp châu Âu và châu Mỹ. Viên Hạnh (VH): Thái tử Siddhãrtha Gautama sau khi tu hành chứng đạo đã sáng lập ra đạo Phật (trước Ngài không có đạo Phật), từ đó mới có đạo Phật trên đời. Để biết Đạo Phật Là Gì? Chúng ta cần hiểu: Đạo là Con Đường, Phật là Giác Ngộ (Tỉnh Thức, Giải Thoát). Như vậy Đạo Phật là Con Đường Giác Ngộ (Con Đường đi đến Giác Ngộ hay Con Đường Giải Thoát). Hỏi 2: Như vậy, Đạo Phật có phải là một triết học không? BSD: Danh từ triết học - philosophy - bắt nguồn từ hai chữ "philo" nghĩa là "tình thương" và "sophia" nghĩa là "trí tuệ". Vậy triết học là tình thương của trí tuệ hoặc tình thương và trí tuệ. Cả hai ý nghĩa nầy đều diễn tả một đạo Phật toàn bích. Đạo Phật khuyên dạy con người nên cố gắng phát triển khả năng tri thức của mình đến chỗ cùng tột để có thể hiểu biết một cách rõ ràng. Đạo Phật cũng dạy chúng ta làm lớn mạnh lòng từ bi và lòng nhân ái để mình có thể trở thành một người bạn chân thành đối với tất cả chúng sanh. Vì thế Đạo Phật là một triết học, nhưng không chỉ là một triết học mà là một triết học siêu việt. VH: Nếu nói Triết học là Tình Thương và Trí Tuệ thì đạo Phật là một Triết học vượt lên trên mọi Triết học. Bởi đạo Phật thể hiện Tình Thương yêu và Trí Tuệ siêu việt mà không một Triết học nào sánh kịp. Nếu nói “Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt…” (Wikipedia). Thì chúng ta hãy thận trọng xem xét, đạo Phật không phải là một “Triết học nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người…” như vậy. Đạo Phật hiểu rõ con người và vũ trụ như thật nên đạo Phật hướng mỗi người hãy tự thanh tịnh thân tâm mình để có trí tuệ nhận biết thế giới. Đạo Phật là một Chân Lý được mỗi người thực hành và chứng nghiệm, không phải là một Triết lý suông. Hỏi 3: Đức Phật là ai? BSD: Vào năm 624 trước Tây Lịch, một hoàng nhi đã ra đời tại một vương quốc thuộc miền Bắc Ấn Độ. Vị hoàng nhi ấy đã lớn lên trong nhung lụa và xa hoa, nhưng cuối cùng sớm nhận ra rằng tiện nghi vật chất và sự yên bình của thế gian không đủ để bảo đảm hạnh phúc. Chàng đã xúc động sâu xa bởi những cảnh khổ đau mà chàng đã thấy ở khắp mọi nơi, và quyết tâm tìm một lời giải đáp đưa đến hạnh phúc cho nhân loại. Năm hai mươi chín tuổi, chàng từ giã vợ và con, và tìm học với các bậc đạo sư vĩ đại đương thời. Các vị này đã dạy cho chàng rất nhiều nhưng không có người nào thật sự biết rõ được nguyên nhân khổ đau của kiếp người và phương cách vượt thoát khổ đau. Cuối cùng, sau sáu năm tu học và hành thiền, chàng đã đạt được một kinh nghiệm mà tất cả mọi phiền não vô minh được đoạn trừ và Ngài đã hoát nhiên giác ngộ. Kể từ ngày ấy, Ngài được tôn xưng là Phật-đà (Buddha), một bậc Giác Ngộ. Ngài tiếp tục ở lại thế gian trong 45 năm nữa, chu du khắp miền Bắc Ấn độ để truyền dạy cho mọi người những gì mà ngài đã chứng ngộ. Lòng từ bi và đức tính kham nhẫn của Ngài là một sự kỳ diệu đã khiến cho hàng ngàn người theo làm đệ tử của Ngài. Ở tuổi tám mươi, tuy già và bệnh, nhưng vẫn hạnh phúc và thanh thản, cuối cùng Ngài đã viên tịch. VH: Đức Phật là một con người bằng xương bằng thịt, cũng được cha mẹ sinh ra từ trong dục bất tịnh và Ngài cũng phải trải qua mọi khổ đau như tất cả chúng ta. “Năm 623 trước Công nguyên, tại Ca ty la vệ(Kapilavatthu), bên ranh giới Ấn Độcủa xứ Nepal ngày nay, và trong vườn Lăm-tỳ-ni (Lumbini), dưới gốc cây Vô Ưu, có hạsinh một hoàng tửvềsau trởthành vịgiáo chủvĩ đại nhất trên thếgian. Cha hoàng tửlà đức vua Tịnh Phạn (Suddhodana) thuộc quý tộc Thích Ca (Sakya) và mẹlà hoàng hậu Ma-Da (MahảMaya). (Lịch Sử Đức Phật) Năm 29 tuổi, từ bỏ ngai vàng quyền lực, vợ đẹp con xinh, Thái tử quyết tâm đi tìm chân lý cho loài người. Trải qua 6 năm trời gian khổ, tu tập đủ loại pháp môn của ngoại đạo đương thời nhưng không có kết quả, cuối cùng Ngài tự mình tìm ra pháp môn Thân Hành Niệm và tu tập trong vòng 49 ngày thì hoàn mãn (chứ không phải “hoát nhiên đại ngộ” như người sau bịa đặt). Với trí tuệ siêu việt nhận biết con người và vạn pháp trong vũ trụ như thật, Ngài truyền giáo và thành lập Giáo đoàn Tăng già Khất sĩ mà sau này gọi là đạo Phật. Từ đó Ngài được mọi người tôn xưng là Đức Phật. Hỏi 4: Đức Phật vô trách nhiệm chăng khi Ngài rời bỏ vợ con của mình? BSD: Điều đó không dễ dàng chút nào khi Đức Phật rời bỏ gia đình. Ngài đã phải lo lắng và do dự trong một thời gian dài trước khi quyết định ra đi. Lúc đó, Ngài có một sự chọn lựa, hoặc là hiến dâng đời mình cho gia đình, hoặc cho thế gian. Cuối cùng, với lòng từ bi rộng lớn đã khiến ngài hy sinh đời mình cho thế gian, và cả thế gian đều được lợi lạc từ sự hy sinh của Ngài. Do vậy, đó không phải là vô trách nhiệm. Có thể nói đó là một sự hy sinh đầy ý nghĩa nhất từ trước đến nay. VH: Đức Phật không vô trách nhiệm khi rời bỏ hoàng cung và gia quyến để đi tìm chân lý. Nguyện vọng của Ngài muốn ra đi thì cả hoàng tộc và vợ Ngài đều rõ. Ngài ra đi trong khi vợ và con Ngài được hoàng tộc chăm lo chu đáo, đầy đủ. Như vậy không thể nói Ngài vô trách nhiệm với vợ con. Tuy nhiên, trước khi tu hành giác ngộ, Ngài cũng còn bị vô minh che lấp như chúng ta nên việc Ngài đã làm khổ vợ con và cha mẹ cũng như hoàng tộc là điều rõ ràng. Chính “nhân” này đã tạo “quả” cho Ngài phải trải bao đắng cay khổ cực trong suốt 6 năm trời. Cuối cùng Ngài đã tìm ra Chân Lý, là suối nguồn an lạc vô tận cho con người và tất cả các loài hữu tình. Hỏi 5: Đức Phật đã nhập diệt thì làm sao Ngài có thể giúp đỡ chúng ta? BSD: Ông Faraday, người phát minh ra điện, đã mất nhưng những gì ông phát minh vẫn còn có ích cho chúng ta. Ông Luis Pasteur, người tìm ra phương pháp điều trị nhiều bệnh tật, đã qua đời, nhưng các khám phá y khoa của ông vẫn cứu được nhiều mạng sống. Ông Leonardo da Vinci, người sáng tạo ra những kiệt tác nghệ thuật, cũng đã khuất bóng, nhưng tác phẩm của ông vẫn đem lại nhiều hứng khởi và niềm vui cho mọi người. Những thánh nhân và anh hùng đã từ giã cõi đời hàng thế kỷ nhưng khi chúng ta đọc lại những kỳ tích và thành tựu của họ, chúng ta vẫn có nhiều hứng khởi để noi theo những gì họ đã làm. Đúng thế, Đức Phật đã diệt độ, nhưng 2500 năm sau lời giáo huấn của Ngài vẫn giúp được nhân loại, gương lành của Ngài vẫn tạo nhiều cảm hứng cho mọi người, lời dạy của Ngài vẫn có thể cải tạo được cuộc sống. Chỉ có Đức Phật mới có thể có một tiềm lực thu hút như thế qua nhiều thế kỷ sau khi Ngài đã nhập diệt. VH: Đúng là một khó khăn lớn cho người tu khi thực hành theo giáo pháp của đức Phật sau khi Ngài nhập diệt. Chẳng thế mà suốt hơn 2500 năm sau, không có ai nối tiếp được bước chân Ngài. Khi thăng, khi trầm nhưng Phật giáo các hệ phái phát triển 2 dòng Nam tông và Bắc tông thi đua nhau triển khai Chân lý đạo Phật thành một mớ Triết lý suông, vô tình đã hủy báng và tiêu diệt đạo Phật. Giáo lý của Ngài còn đó (kinh Nikaya tạng Pàli) nhưng không có người hành. Tu sĩ về sau đã lồng ghép đủ loại triết lý Bà-la-môn và các triết lý khác tổng hợp thành Phật giáo nên con đường tu hành mất dấu. Ngày nay đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã quyết tâm dồn hết tâm lực của mình tu tập theo đúng giáo lý Phật dạy (kinh Nikaya) nên Ngài đã thành công mỹ mãn. Ngài đã chứng đạt và có đầy đủ năng lực như đức Phật xưa. Ngài dạy rằng giáo lý thực sự của Phật có một giá trị to lớn, hoàn hảo dành cho mọi người tu hành. Mỗi người hãy giữ tâm “Bất Động, Thanh Thản, An lạc và Vô Sự” thì nhận thấy rõ ràng từ trường năng lực của đức Phật vẫn thường xuyên trợ giúp chúng ta. Hỏi 6: Đức Phật có phải là một vị thần linh không? BSD: Không, Ngài không phải là một vị thần linh (god). Ngài cũng không tuyên bố rằng mình là thần linh, là con của thần linh, hoặc ngay cả là một sứ giả của thần linh. Ngài là một con người đã tự toàn thiện mình, và dạy rằng nếu chúng ta noi theo gương Ngài, chúng ta cũng có thể tự hoàn thiện được như Ngài. VH: Không. Đức Phật không phải là một vị thần linh. Được sinh ra, Ngài cũng chỉ là một con người bình thường như tất cả mọi người. Nhưng Ngài là người có năng lực và trí tuệ siêu việt là do nghị lực phi thường và khéo biết tu tập, tự thanh tịnh thân tâm mà thành. Ngài dạy rằng tất cả mọi người đều có thể tu tập để trở nên người hoàn thiện như Ngài. Hỏi 7: Nếu Đức Phật không phải là thần linh, tại sao người ta thờ cúng Ngài? BSD: Có nhiều loại thờ cúng khác nhau, khi người ta thờ một vị thần, họ tán thán cung kính và cúng dường vị ấy, để cầu xin ân sủng. Họ tin tưởng rằng vị thần linh ấy sẽ nghe thấy sự tán dương, tiếp nhận sự cúng dường và đáp ứng lại lời cầu xin của họ. Người phật tử không theo kiểu thờ cúng này. Cũng có các loại thờ cúng khác như khi chúng ta bày tỏ lòng tôn kính đối với một người nào đó hay điều gì khiến chúng ta ngưỡng mộ. Khi vị thầy giáo bước vào lớp, chúng ta đứng lên; khi gặp một viên chức cao cấp, chúng ta bắt tay; khi một bài quốc ca được trổi lên, chúng ta nghiêm chào. Đó là tất cả những cử chỉ cung cách tôn kính tỏ bày lòng khâm phục của chúng ta đối với người hay vật. Cách thờ cúng theo Phật giáo là thực hành. Một pho tượng Phật ngồi với bàn tay nhẹ nhàng trong mảnh y và nụ cười từ ái nhắc nhở chúng ta cố gắng phát triển sự an lạc và yêu thương trong mỗi chúng ta. Mùi thơm của hương trầm nhắc nhở chúng ta về sự ảnh hưởng của đức hạnh lan tỏa khắp nơi, ngọn đèn nhắc nhở chúng ta đến ánh sáng của hiểu biết, và những bông hoa sớm tàn úa nhắc cho chúng ta lẽ vô thường. Khi đảnh lễ cuối đầu, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Phật về những lời dạy của Ngài. Đó là phương cách thờ cúng của người Phật tử. VH: Đức Phật đã dạy: "Tựmình, làm điều ác, Như vậy đức Phật khẳng định rằng Ngài không phải là một thần linh có thể cứu vớt, ban phước lành hay giáng họa cho ai. Mỗi người hãy tự mình cố gắng thực hành để thanh tịnh thân tâm. Người ta thờ cúng Ngài với tâm tham cầu thì vô ích. Những lễ nghi thờ cúng quá rình rang và tốn kém là sự lãng phí không cần thiết, đó là việc làm của những người còn u mê. Người phật tử thuần thành tôn kính đức Phật bởi sự vĩ đại và cao thượng của Ngài được thể hiện bằng niềm tin chân chánh và nỗ lực thực hành theo giáo pháp mà Ngài đã dạy. “Người thực hành đúng theo Giáo Huấn của Như Lai nhất là người sùng kính Như Lai nhất”, đó là lời Phật dạy. Hỏi 8: Nhưng tôi nghe người ta nói rằng nhiều phật tử vẫn thờ cúng thần tượng? BSD: Những lời phát biểu như vậy chỉ phản ảnh sự hiểu lầm của người đang hành trì. Từ điển định nghĩa từ "idol" là "một hình ảnh hay một pho tượng được tôn thờ như một thần linh" (an image or statue worshipped as a god). Như chúng ta đã biết, người phật tử không bao giờ tin rằng Đức Phật là một vị thần linh. Vậy làm sao người phật tử có thể tin rằng một khối gỗ hay một mảng kim loại kia lại là một vị thần? Mỗi tôn giáo đều dùng một biểu tượng nào đó để bày tỏ quan điểm và niềm tin của riêng họ. Trong Đạo Lão (Taoism), Âm dương được dùng để làm biểu tượng hài hòa và đối kháng. Đạo Sikh (1), thanh gươm được xem là biểu tượng cho sự đấu tranh tinh thần. Đạo Cơ-đốc (Christianity), con cá dùng làm biểu tượng cho sự hiện hữu của Chúa và cây Thánh giá dùng làm biểu trưng cho sự hy sinh của Chúa. Và Phật giáo, tượng Phật được xem như những biểu tượng của sự hoàn thiện nhân cách con người. Tượng Phật cũng nhắc nhở ta về tính nhân bản trong giáo lý nhà Phật. Thật vậy, Phật giáo luôn xem con người là trung tâm chứ không phải là thần linh, điều đó nhắc nhở chúng ta phải tìm sự toàn hảo và hiểu biết ở bên trong chứ không phải vẻ bề ngoài của hình tượng. Vì thế nói rằng người phật tử tôn thờ hình tượng là không đúng. VH: Xin dẫn lời đại đức Nãrada để trả lời câu hỏi này:“Người phật tử không chấp nhận đức tin mù quáng, vậy không có một hình thức tôn sùng lễbái hay thờ cúng những thần tượng tương tự. Người phật tửkhông cầu xin một ơn huệvật chất hay tinh thần khi đảnh lễtượng Phật, mà chỉbày tỏlòng tôn kính ngưỡng mộcủa mình đến lý tưởng siêu việt mà bức tượng tiêu biểu. Người phật tửquì lạy trước tượng Phật, không phải dâng lên bức tượng bằng đá, bằng gỗhay bằng giấy, mà dâng lên đức Phật qua bức tượng tượng trưng. Quì lạy là biểu hiện ra ngoài lòng biết ơn vô hạn. Những người cầu nguyện, van xin không chỉ là vô ích mà còn là một thái độ nô lệ tinh thần. Thay vì đọc kinh cầu nguyện, đức Phật khuyên nhủ chúng ta nên cố gắng hành thiện và ghép mình vào giới luật, tự kiểm soát, tự thanh lọc tâm và giác ngộ”. (Đức Phật và Phật pháp – Nãrada). Hỏi 9: Tại sao người ta đốt giấy vàng bạc và làm những chuyện lạ trong chùa? BSD: Nhiều việc thấy lạ nếu ta không tìm hiểu về chúng. Tốt hơn nên gạt bỏ những chuyện lạ ấy mà nên cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Tuy nhiên, trong thực tế, đôi khi người Phật tử đã áp dụng những điều mê tín dị đoan và hiểu lầm hơn là lời dạy của Phật. Và những việc hiểu lầm như vậy không phải chỉ riêng ở Phật giáo mà thỉnh thoảng cũng được thấy ở những tôn giáo khác. Đức Phật đã dạy rất rõ ràng và chi tiết và nếu không hiểu giáo lý của Ngài thì không thể đổ lỗi cho Ngài. Có lời dạy rằng: “Nếu một người đau khổ vì bệnh hoạn mà không chịu để điều trị, thậm chí người ấy có người thầy thuốc trong tầm tay. Đó không phải là lỗi của người thầy thuốc…” Cũng vậy, nếu một người bị hành hạ và đau khổ bởi phiền não mà không tìm sự giúp đỡ của Đức Phật, thì đó cũng không phải là lỗi của Ngài.-- (JN 28-9) Không phải Phật giáo mà bất cứ tôn giáo nào cũng không thể giúp cho họ nếu bản thân họ không thực hành đúng pháp. Nếu bạn muốn biết rõ ràng và chính xác về chân lý của Đạo Phật, thì hãy đọc những lời dạy của Phật hoặc học hỏi với người hiểu đúng giáo lý này. VH: Đốt giấy vàng bạc và làm những chuyện lạ trong chùa là việc làm của những người mê tín dị đoan, là công việc của những người lười biếng tu tập, ham hưởng thụ nên bày vẽ ra đủ chuyện để hù dọa người đời kém hiểu biết tin theo. Đạo Phật không dạy làm những điều nhảm nhí như vậy. Hỏi 10: Nếu Phật giáo quá tốt đẹp như vậy, tại sao vẫn còn nhiều quốc gia nghèo khổ? BSD: Ý bạn muốn nói nghèo khổ về kinh tế? Đó là sự thật, vì vẫn còn nhiều quốc gia Phật giáo chưa phát triển về mặt này. Nhưng nếu nghèo mà ý bạn muốn ám chỉ về "phẩm chất của cuộc sống" thì có lẽ nhiều nước theo Phật giáo lại rất giàu. Chẳng hạn nước Mỹ, một quốc gia cường thịnh về kinh tế và quyền lực, nhưng lại là một trong những quốc gia có mức độ tội phạm cao nhất thế giới, hàng triệu người già bị con cái lãng quên và chết trong cô độc tại các viện dưỡng lão; nạn bạo lực ở trong gia đình và lạm dụng tình dục trẻ em là vấn đề nóng bỏng. Cứ ba cặp cưới nhau có một cặp ly dị; sách báo đồi trụy dễ dàng tìm thấy. Vì vậy, giàu theo nghĩa có tiền nhưng lại nghèo về "phẩm chất cuộc sống". Bây giờ chúng ta thử quay sang Miến Điện, một quốc gia có nền kinh tế lạc hậu, nhưng cha mẹ được con cái tôn vinh và kính trọng; tỉ lệ tội phạm tương đối thấp; vấn đề ly dị và tự tử hầu như không nghe thấy; việc bạo lực trong gia đình, lạm dụng trẻ em, sách báo kích dục và nạn mãi dâm không thể có. Một nền kinh tế chậm tiến nhưng lại có một nền tảng đạo đức xã hội cao hơn một quốc gia như Hoa kỳ. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn nhìn thấy những quốc gia Phật giáo theo cái nghĩa kinh tế như vậy, thì một trong những quốc gia giàu có nhất và có nền kinh tế năng động nhất thế giới hiện nay là Nhật Bản, nơi có 93% dân số là tín đồ theo Phật giáo. VH: Sự phân chia giàu nghèo của các quốc gia trên hành tinh tùy thuộc vào nhiều yếu tố mà quốc gia đó được thụ hưởng hay phải gánh chịu. Đó cũng là điều phù hợp duyên nhân quả - luân hồi đang vận động chuyển biến không ngừng nghỉ. Không riêng người phật tử mà tất cả mọi người đều là công dân của thế giới, các quốc gia giàu hay nghèo không có giới hạn đối với mọi người. Mục đích chính của những người con Phật là hướng đến sự giác ngộ giải thoát. Tuy nhiên, khi chưa được giải thoát, nếu tạo nghiệp thiện nhiều hay nghiệp ác nhiều thì tất cả mọi người (phật tử hay không phật tử) đều sẽ tiếp tục tái sanh trong những quốc gia giàu có hay nghèo cùng, tương ưng với những nghiệp họ đã tạo ra. Để tiến tới toàn bộ các quốc gia trên hành tinh đều giàu có, thịnh vượng và hạnh phúc là một điều hết sức khó khăn. Hỏi 11: Tại sao bạn không thường nghe người phật tử làm công tác từ thiện xã hội? BSD: Có lẽ người phật tử không cảm thấy cần thiết phải khoe khoang về những điều tốt của họ. Nhiều năm trước đây ông Nikkyo Niwano (2), vị lãnh đạo Phật giáo Nhật Bản đã được trao giải thưởng Templeton qua việc ông vận động liên kết hòa hợp tôn giáo. Tương tự, một tăng sĩ người Thái đã nhận giải thưởng Magsaysay cho chiến dịch bài trừ tệ nạn ma túy. Năm 1987, Thượng tọa Kantayapiwat, người Thái Lan, cũng nhận một giải thưởng Nhi đồng Hòa Bình của Na Uy cho công việc từ thiện của ngài trong nhiều năm giúp đỡ trẻ bụi đời ở vùng nông thôn. Và hiện nay, các hội đoàn Phật giáo phương Tây đang thực hiện một số công tác từ thiện ở các vùng nông thôn Ấn Độ, họ đang xây dựng trường học, Trung tâm điều trị tâm thần thiếu nhi, trạm xá và những khu công nghiệp nhẹ. Người phật tử thấy rằng việc giúp đỡ cho người khác như là một pháp môn tu tập của họ, nhưng họ cho rằng công việc ấy nên thực hiện trong thầm lặng, không cần phô trương. Chính vì thế mà bạn không nghe thấy nhiều về các hoạt động từ thiện của họ. VH: Công tác từ thiện xã hội thì người cư sĩ phật tử có bổn phận và trách nhiệm phải làm và đã làm rất tốt khi thuận duyên. Đối với tu sĩ thuần thành của đạo Phật, người đã cắt ái ly gia, mỗi ngày xin ăn một bữa thì không có vật chất gì để đi làm từ thiện. Những gì họ ban tặng cho đời là tấm gương phạm hạnh nghiêm trang, họ trải tình thương yêu cùng khắp đến mọi người. Ban cho mọi người sự tự tin, không hận thù và không sợ hãi là “công tác từ thiện” lớn nhất không có gì sánh bằng. Người tu sĩ đạo Phật đi làm công tác từ thiện bằng cứu trợ tiền bạc, thức ăn, thuốc men… và các phẩm vật khác thì không phải là người tu sĩ đạo Phật. Đó là sự lừa đảo gian trá, bởi người đi xin biết vừa đủ, không làm ra tài sản lấy gì đem làm từ thiện? Ngày xưa đức Phật và các du tăng khất sĩ không có đi làm công tác từ thiện bao giờ. Hỏi 12: Tại sao có nhiều tông phái khác nhau trong Phật giáo? BSD: Có nhiều loại đường khác nhau: đường vàng, đường trắng, đường kết tinh, đường cục, đường cát, đường phèn... nhưng tất cả chỉ là đường và chỉ có một vị ngọt. Nó được sản xuất từ nhiều hình thức khác nhau để nó có thể sử dụng nhiều cách khác nhau. Phật giáo cũng thế, Phật giáo Nguyên thủy, Thiền tông, Tịnh độ tông, Du già tông, Mật tông nhưng tất cả đều là Phật giáo và đều có chung một vị - vị giải thoát. Phật giáo quả thật đã phát triển qua nhiều hình thức khác nhau để nó hiện hữu và thích ứng với những nền văn hóa khác nhau. Qua nhiều thế kỷ Phật giáo có thể tồn tại phù hợp với mọi thế hệ. Đứng trên phương diện bề mặt, Phật giáo dường như có khác nhau, nhưng tâm điểm dị biệt ấy vẫn là giáo lý Tứ đế và Bát chánh đạo. Tất cả những tôn giáo chính, kể cả Phật giáo, đã từng bị chia ra nhiều tông phái khác nhau. Như những tôn giáo chính khác, Phật giáo bao gồm những hình thái và tông phái. Những sự khác nhau của các tông phái ấy không bao giờ đưa tới xung đột nhau, và cho tới nay chưa bao giờ biểu lộ sự thù địch với nhau, họ đến với nhau ở những chùa viện khác và cùng cầu nguyện với nhau. Lòng bao dung, và hiểu nhau như thế quả thật là hiếm thấy. VH: Sự phân chia ra nhiều tông phái khác nhau trong Phật giáo có nhiều nguyên nhân. Sau khi đức Phật nhập diệt không bao lâu, đạo Phật bị phân chia ra thành nhiều bộ phái. Cho đến ngày nay sự hiện diện của 2 hệ Phật giáo Nam tông (Thượng Tọa Bộ - Tiểu Thừa) và Bắc tông (Đại Chúng Bộ - Đại Thừa) là đại biểu cho những nguyên nhân lớn. Một phái muốn giữ nguyên vẹn những lời dạy chân chánh của đức Phật, một phái muốn phát triển hòa đồng những triết lý của ngoại đạo xen chung với những lời Phật dạy. Trải dài theo thời gian, đến nay cả 2 hệ phái lớn này đã sinh ra rất nhiều tông phái nhỏ nhưng không có tông nào còn giữ được những lời Phật dạy nguyên thủy. Thậm chí những lời dạy nguyên thủy của Phật còn bị cấm học và tu theo (ở một số tông) vì giới thánh quá thanh tịnh nên ít người theo được. Hầu hết các tông phái Phật giáo ngày nay như Thiền, Tịnh, Mật, Yoga… (Bắc tông) cho đến Minh Sát, Khất sĩ,… (Nam tông) đều triển khai giáo lý phát triển của các thầy Tổ đời sau. Còn giáo lý của đức Phật dạy thì bị vùi sâu vào quên lãng, chỉ còn được giảng dạy rất ít. Vì sao các tông phái không dẫn đến sự xung đột nhau, bởi vì dưới danh nghĩa Phật giáo, họ hòa chung lợi ích. Các thầy Tổ và tu sĩ thỏa lòng phá nát, bẻ vụn giới luật, sống đời sung túc vương giả trên mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ. Thật tội nghiệp cho những người cư sĩ, ráng sức cúng dường mà lầm lạc không đúng pháp nên chẳng có phước báo gì. Và thương cho những ai, một đời đã từ bỏ tài sản, gia đình… đến với đạo lại nhận những tài sản khác lớn hơn (Danh, lợi, sự cung kính…) rồi chẳng chịu tu hành gì cả. Kết quả tu tập chẳng đạt được gì, lại mang nợ đàn na biết bao giờ trả hết. Thật uổng phí một đời tu. Hỏi 13: Bạn luôn nghĩ tốt về Đạo Phật. Tôi cho rằng bạn nghĩ Đạo của bạn đang theo là đúng còn các đạo khác là sai. BSD: Không có một phật tử nào hiểu lời Phật dạy mà lại nghĩ các tôn giáo khác là sai. Không một ai có tâm hồn cởi mở lại để tâm phán xét các tôn giáo khác. Việc trước tiên bạn để tâm nghiên cứu những tôn giáo khác là để biết có bao nhiêu điểm tương đồng.Tất cả các tôn giáo đều thừa nhận rằng đời sống con người hiện tại không được thỏa mãn. Tất cả đều tin rằng nếu hoàn cảnh của con người phải cải thiện thì cách cư xử và quan điểm của họ cần phải được thay đổi. Tất cả đều truyền dạy về một nền đạo đức học về yêu thương, nhân ái, kiên nhẫn, rộng lượng và có trách nhiệm với xã hội, và tất cả đều chấp nhận có sự hiện hữu trong một vài hình thức tuyệt đối. Họ sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhiều tên gọi khác nhau và nhiều biểu tượng khác nhau để mô tả và giải thích những sự việc này. Và chỉ khi nào họ bám chặt vào đường hướng của mình bằng tâm lượng hẹp hòi để nhìn sự việc thì sự ích kỷ, ngạo mạn và tự tôn liền phát sinh. Cứ tưởng tượng một người Anh, một người Pháp, một người Trung quốc và một người Nam Dương. Tất cả đều nhìn vào một cái ly nước. Người Anh nói "Đây là cái cup ", người Pháp nói "Không phải, nó là cái tasse ", người Hoa bảo "cả hai ông đều sai hết, nó chính là pei". Và người Nam Dương cười lớn nói rằng: "Các anh ngớ ngẩn làm sao, nó là cái cawan". Người Anh lật quyển từ điển ra và chỉ cho các người kia "Tôi có thể chứng minh đây là cái cup, quyển từ điển của tôi đã viết như thế". Người Pháp cãi lại "từ điển của tôi nói rõ đó là tasse. Người Hoa lớn tiếng cãi lại "Từ điển của chúng tôi mới chính xác, vì nó có hàng ngàn năm nay rồi, lâu hơn tất cả các từ điển của các anh, vả lại người nói tiếng Hoa nhiều hơn người nói ngôn ngữ của mấy anh, vì thế tôi nói nó là pei là chính xác nhất". Trong lúc những người này đang cãi cọ và tranh luận, một người phật tử bước tới bưng lấy cái ly nước lên uống. Sau khi vị ấy uống xong, vị ấy nói: "Dù các anh có gọi nó là cup, tasse, pei hay cawan, mục đích của cái ly là dùng để uống nước, các anh hãy chấm dứt tranh luận và hãy uống nước để bớt cơn khát của các anh đi!". Đây là thái độ của người phật tử đối với các tôn giáo khác. VH: Đạo Phật không chê bai trách cứ bất cứ tôn giáo nào sai hay đúng. Đạo Phật cũng không tự nhận rằng đạo của mình đúng, mà thừa nhận đạo của mình là thực tiễn. Với trí tuệ siêu việt vượt không gian và thời gian, đức Phật là bậc minh triết (không còn vô minh), Ngài chỉ dạy rằng những ai cố gắng tận lực, dũng mãnh thực hành theo đúng những lời dạy của Ngài sẽ trở nên bậc hoàn thiện, thoát khỏi khổ đau sanh tử luân hồi. Những tôn giáo khác cũng với mục đích nhằm hướng đến sự tốt đẹp cho con người, nhưng những triết lý dạy dỗ đều đưa con người tới sự mong cầu dục lạc ngày càng cao hơn. Do vậy kết quả đạt được đi ngược với mục đích của họ mong mỏi. Chỉ vì họ vẫn còn vô minh. Hỏi 14: Đạo Phật có phải là khoa học không? BSD: Trước khi trả lời câu hỏi này, tốt nhất chúng ta hãy tìm hiểu về định nghĩa của từ khoa học, theo từ điển giải thích khoa học là "Kiến thức có thể được hình thành theo một hệ thống, cái tuỳ thuộc vào sự trắc nghiệm các dữ kiện và xác nhận được quy luật tự nhiên, một phần tùy thuộc vào những gì được nghiên cứu chính xác". Trong Phật giáo có nhiều phương diện không phù hợp với định nghĩa này. Nhưng giáo lý cốt lõi của Đạo Phật, Tứ Diệu Đế (Four Noble Truths) thì hẳn đã phù hợp. Chân lý thứ nhất khổ đau là một kinh nghiệm và có thể xác định được. Chân lý thứ hai chỉ rõ rằng đau khổ có nguyên nhân tự nhiên của tham ái mà nó có thể định nghĩa, trải qua và đo lường được. Không cần cố gắng giải thích khổ đau theo thuật ngữ, quan điểm siêu hình hay huyền hoặc. Chân lý thứ ba, chấm dứt khổ đau không nương nhờ vào thần linh tối cao, vào niềm tin hay cầu nguyện mà đơn giản chỉ là loại bỏ nguyên nhân của khổ đau. Đó là việc hiển nhiên. Chân lý thứ tư, con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau, một lần nữa cũng không có gì siêu hình mà tùy thuộc vào việc thực hiện theo phương pháp đặc biệt. Và hơn nữa thái độ phải cởi mở để xét nghiệm. Phật giáo không thừa nhận quan điểm về một đấng cao cả, giống như khoa học và giải thích nguồn gốc và sự vận hành của vũ trụ theo quy luật tự nhiên. Hẳn những điều này là chứng minh theo tinh thần khoa học. Một lần nữa, chúng ta lại thấy tinh thần khoa học trong Phật giáo càng rõ ràng hơn qua lời khuyên của Đức Phật, rằng chúng ta không nên tin tưởng một cách mù quáng mà ngược lại phải đặt vấn đề, tìm hiểu và thẩm tra, nhờ vào kinh nghiệm của chính mình rồi mới tin, có như thế tính chất khoa học mới được rõ ràng. Đức Phật dạy: "Đừng tin tưởng theo huyền bí hay truyền thống. Đừng tin tưởng theo tin đồn đãi hay kinh điển, đừng tin tưởng theo lời đồn hay những gì hợp lý, đừng tin tưởng theo khuynh hướng của một ý niệm nào đó, hay do một ai đó có khả năng. Và đừng tin tưởng theo ý tưởng ‘vị ấy là thầy của ta’. Nhưng khi chính các vị biết rằng điều ấy là tốt không làm tổn hại ai, đó là sự sáng suốt đáng tán dương và khi thực hành và theo dõi rằng nó sẽ mang đến hạnh phúc, rồi hãy tin tưởng theo". -- (A I 188). Vì thế chúng ta có thể nói rằng mặc dù Phật giáo không hoàn toàn khoa học, nhưng hẳn đã mang tính khoa học mạnh mẽ và có tính khoa học hơn các tôn giáo khác. Chính ông Albert Einstein (1879-1955) một nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi đã nói về tính khoa học của Phật giáo như sau: "Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi tinh thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó. Và nếu có bất cứ một tôn giáo nào có thể đương đầu với những nhu cầu của nền khoa học hiện đại, thì đó là Phật giáo vậy." VH: Nếu hiểu “khoa học (trong tiếng Latin scientia, có nghĩa là "kiến thức" hoặc "hiểu biết") là các nỗ lực thực hiện phát minh, và tăng lượng tri thức hiểu biết của con người về cách thức hoạt động của thế giới vật chất xung quanh…” (Wikipedia) thì đạo Phật không phải là một khoa học. Bởi đạo Phật không đi tìm tòi phát minh ra một cái gì mới cả, mà chỉ chứng nghiệm mọi sự thật như nó đang là một cách rõ ràng. Vì vậy đạo Phật là thực tiễn, nó khoa học vượt lên trên cả khoa học. Sự hiểu biết của đạo Phật không đơn giản là tri thức hiểu biết của con người về cách thức hoạt động của thế giới vật chất xung quanh… mà là Trí tuệ hiểu biết phi không gian, thời gian. Trí tuệ này được khởi lên từ não bộ của một người đã đạt tâm thanh tịnh tuyệt đối do tu tập đúng theo giáo lý đức Phật dạy. Khoa học có thể chứng minh cho người khác thấy. Đạo Phật là chứng nghiệm thực tiễn nên chỉ tự mình đến để mà thấy, người khác không thấy hộ được. Thế mới có câu: “Đạo Phật là đạo của người có mắt, không phải là đạo của người không có mắt”. Tóm lại: Đạo Phật không phải là một khoa học nhưng lại rất khoa học đến tuyệt vời. Ghi chú: (1) Sikhism: một đạo phát triển từ Ấn giáo từ thế kỷ 16, chỉ tín ngưỡng một vị thần. (2) Pháp sư Nikkyo Niwano (1906-1999), người khai sáng Hội Phật Giáo Lập Chánh Giảo Thành (Rissho Kosei-kai, phát xuất từ phái Pháp Hoa Nhật Liên Tông của Nhật bản), là nhà lãnh đạo Hội Tôn Giáo và Hòa Bình Thế Giới, Hiệp Hội Tự Do Tôn Giáo, Hiệp Hội Hòa Bình Niwano, Liên Đoàn Tân Tôn Giáo Nhật Bản, là tác giả của nhiều tác phẩm Phật học quan trọng. (Người dịch) Nguồn: |
Cập nhật ngày : 09.07.2013 | |||
Khái niệm căn bản của đạo Phật: Hỏi 1: Lời dạy chính yếu của Đức Phật là gì? BSD (Bhikkhu Shravasti Dhammika): Tất cả lời dạy chính yếu của Đức Phật tập trung vào giáo lý Tứ Diệu Đế, như một bánh xe nối các căm, niền và trục. Được gọi là "Bốn" vì tất cả có bốn điều. Gọi là "Diệu" vì người ta biết ngay đến sự quý báu và gọi là "Đế" vì phù hợp với hiện thực và chân thật. VH (Viên Hạnh): Toàn bộ những lời dạy chính yếu của đức Phật là “Bốn Sự Thật” (Bốn Chân Lý) của loài người, còn được gọi là “Tứ Diệu Đế”. Tứ Diệu Đế đức Phật chỉ dạy một điều là khổ não và sự chấm dứt mọi đau khổ. Lời Phật dạy: “Như nước biển chỉ duy nhất có một vị là vị mặn của muối, Giáo lý của Như Lai chỉ có một vị là Giải thoát”. Hỏi 2: Chân lý thứ nhất là gì? BSD: Chân lý thứ nhất đề cập đến đời sống là khổ. Để sống bạn phải đau khổ. Không thể nào sống mà thiếu kinh nghiệm về khổ. Chúng ta phải chịu đựng cái khổ về thể xác như bệnh hoạn, mỏi mệt, chấn thương, già yếu và cuối cùng là chết. Chúng ta lại chịu đựng cái đau đớn về tâm lý như cô đơn, thất vọng, sợ hãi, chán nản, giận dữ, điên tiết.... VH: Chân lý thứ nhất là Khổ Đế. “Khổ đế là chân lý thứ nhất, tức là tâm Tham, Sân, Si. Tâm tham, sân, si là con người ai mà không có. Do tâm tham, sân, si mà con người đau khổ. Người giác ngộ được tâm tham, sân, si là khổ đau, là người giác ngộ được chân lý thứ nhất”. (TL Thích Thông Lạc – NLGPD tập IV). Kết luận: Tham, Sân, Si là Khổ Đế, đó là chân lý thứ nhất. Hỏi 3: Điều ấy có bi quan không? BSD: Từ điển định nghĩa chữ bi quan là "một thói quen suy nghĩ về bất cứ việc gì xảy ra đều là xấu cả", hay "tin tưởng rằng cái xấu lúc nào cũng mạnh hơn cái tốt". Phật giáo không truyền dạy tư tưởng đó và cũng không bác bỏ sự hiện hữu của hạnh phúc. Một cách đơn giản Phật giáo cho rằng sống là phải trải qua khổ đau về thể xác và tâm lý, lời tuyên bố này rõ ràng không thể chối cãi được. Còn quan điểm của hầu hết các tôn giáo là hoang đường, một truyền thuyết hay một niềm tin khó có thể minh chứng được. Phật giáo bắt đầu bằng kinh nghiệm trên các sự kiện không thể phủ nhận, được mọi người cùng biết và tất cả những kinh nghiệm ấy, từng trải ấy phải cố gắng phấn đấu để vượt qua. Như vậy, Phật giáo đích thực là một tôn giáo phổ quát cho mọi người, bởi vì Phật giáo đã nhắm đúng vào mối quan tâm của mỗi cá nhân con người, khổ đau và làm sao để loại bỏ. VH: Nhìn nhận cuộc đời là Khổ bằng tri kiến giải thoát và sự hiểu biết của trí tuệ soi sáng nên đạo Phật không bi quan yếm thế, cũng không lạc quan đắm nhiễm. Đạo Phật chấp nhận thực tiễn đời là khổ, thực sự khổ và quyết tâm trao dồi thân tâm để vượt thoát khỏi mọi khổ đau. Đức Phật dạy: “Đứng lại thì chìm (bi quan yếm thế), bước tới thì trôi dạt (lạc quan không tri kiến), chỉ có vượt qua (hiểu thấu nhân quả nên quyết vượt qua)”. Hỏi 4: Chân lý thứ hai là gì? BSD: Chân lý thứ hai là tất cả khổ mọi đau đều có nguyên nhân của ái dục. Khi chúng ta quan sát về khổ đau của tâm lý, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra nguyên nhân của ái dục tạo ra. Khi ta muốn một điều gì đó mà ta không được toại nguyện thì ta cảm thấy thất vọng. Khi ta mong muốn một ai đó sống theo sự mong đợi của ta, nhưng họ không làm được, ta cảm thấy chán nản và thất vọng. Khi ta muốn mọi người giống mình mà họ lại không thì ta cảm thấy bị tổn thương. Thậm chí khi ta muốn một cái gì đó và có thể đạt được, nhưng nó cũng không luôn mang lại hạnh phúc vì không lâu sau đó chúng ta cảm thấy chán ngán, mất đi sự thích thú với nó và bắt đầu ham muốn cái khác. Nói chung, chân lý thứ hai đề cập đến những gì bạn muốn không đảm bảo được hạnh phúc. Thay vì liên tục nỗ lực để đạt được những gì mình mong muốn, tốt nhất bạn nên cố gắng làm giảm bớt lòng ham muốn của bạn. Ham muốn ấy đã tước mất đi sự niềm an lạc và hạnh phúc của chúng ta. VH: Chân lý thứ hai là Tập Đế (tức là nguyên nhân của mọi sự khổ đau). “Tập đế là chân lý thứ hai tức là nguyên nhân sinh ra tâm tham, sân, si, đó là ÁI DỤC, ái dục tức là lòng ham muốn. Làm con người ai mà không có lòng ham muốn. Do tâm tham muốn mà sinh ra tâm tham, sân, si nên phải chịu nhiều khổ đau. Người giác ngộ được lòng ham muốn là nguyên nhân sinh ra khổ đau là người giác ngộ chân lý thứ hai. …” (TL Thích Thông Lạc – NLGPD tập IV). Như vậy: Tập Đế tức là Nguyên Nhân sinh ra Khổ (Tham, Sân, Si). Nguyên Nhân của Khổ là Ái Dục (tức là lòng ham muốn). Kết luận: Ái Dục là Tập Đế, đó là chân lý thứ hai. Hỏi 5: Nhưng làm thế nào niềm mong muốn và tham ái lại có thể đưa đến khổ đau về thể xác? BSD: Trong đời người ta luôn muốn cái này, ham thích cái nọ và đặc biệt cái khát vọng liên tục đã tạo ra một hấp lực mạnh mẽ để rồi cuối cùng dẫn đến việc tái sinh. Khi chúng ta đã đầu thai thì chúng ta có thân thể và như đã nói ở trên, thân thể này dễ bị chấn thương, bệnh hoạn, già yếu và tử vong. Như vậy ái dục đã dẫn đến sự khổ cho thể xác, vì nó là nguyên nhân chính dẫn dắt ta vào trong vòng luân hồi. VH: Vì mong muốn và tham ái lôi léo con người trở nên tham lam và đắm nhiễm, thích thú cái này, cái kia và cố gắng tìm mọi cách để đạt được những thứ mình mong muốn. Từ đấy họ hành động đôi khi vượt qua những giới hạn cho phép của con người, bất chấp những hành động đó là thiện hay ác, đã làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài hữu tình. Hành dộng như vậy, họ đã tạo ra bao nhiêu nghiệp xấu để rồi tiếp tục trôi lăn mãi mãi trong môi trường nhân quả. Dù dưới lốt nghiệp nào, con người hay những loài bàng sanh đều phải chịu muôn vàn đau khổ, không chỉ riêng thể xác mà cả tinh thần cũng luôn hoảng loạn âu lo. Hỏi 6: Điều đó rất hay, nhưng nếu ta gạt bỏ sự ham muốn thì chúng ta sẽ không bao giờ đạt được cái gì cả. BSD: Đúng vậy, tuy nhiên Đức Phật muốn nói rằng khi sự ham muốn và tham ái, không thoả mãn những gì ta có và sự tham muốn không ngừng đó sẽ liên tục tạo ra nguyên nhân khổ đau. Do đó, ta nên loại bỏ sự tham muốn. Đức Phật khuyên chúng ta nên phân biệt rõ ràng giữa cái chúng ta cần và cái chúng ta thèm khát và hãy cố gắng vì nhu cầu giảm bớt sự ham muốn. Đức Phật dạy rằng nhu cầu của chúng ta có thể hoàn thiện nhưng lòng ham muốn của chúng ta thì vô cùng tận - như hố sâu không đáy. Có nhiều nhu cầu chính đáng, cơ bản, ta có thể đạt được và điều này khiến ta hướng tới. Vượt qua sự tham muốn bằng cách giảm đi lòng ham muốn ấy. Cuối cùng, mục đích của cuộc sống là gì? Hãy hài lòng và hạnh phúc với những gì mình có. VH: “…nếu ta gạt bỏ sự ham muốn thì chúng ta sẽ không bao giờ đạt được cái gì cả”. Điều này chúng ta cần suy xét thêm rằng những gì chúng ta ham muốn và đạt được đó là “thiện” hay “bất thiện”, là “thiện hữu lậu” hay “thiện vô lậu”. Phân biệt được như vậy để chúng ta tùy chọn “ham muốn và đạt được” sao cho hợp lý. Rõ ràng chúng ta cần chọn là “thiện” mà không nên “bất thiện”, bởi thiện thì bớt khổ đau, bất thiện thì khổ đau tràn ngập không bao giờ dứt. Càng nên chọn là “thiện vô lậu” chứ không nên “thiện hữu lậu”, vì thiện vô lậu là con đường chấm dứt khổ đau luân hồi sinh tử, còn thiện hữu lậu chỉ xoa dịu khổ đau chứ không bao giờ chấm dứt khổ. Bước theo con đường Phật dạy “ly dục ly ác pháp” và tiến tới diệt tận hoàn toàn tâm “ái dục” là chúng ta đặt chân vào Niết-bàn. Niết-bàn là cái đạt được to lớn nhất mà con người ai cũng ước mong, ham muốn. Như vậy có ai ngờ “gạt bỏ sự ham muốn” là cái ta đạt được to lớn nhất không thể gì so sánh. Hỏi còn mong gì nữa? Nhưng “gạt bỏ ham muốn”, “ly dục ly ác” không phải việc dễ làm. Hỏi 7: Ở Bạn có nói đến vấn đề tái sinh, nhưng có bằng chứng nào về việc này không? BSD: Tất nhiên là có rất nhiều bằng chứng về điều này, nhưng chúng ta sẽ trở lại vấn đề này chi tiết ở chương sau. VH: Về vấn đề tái sinh, đạo Phật dạy để mỗi người “đến để mà thấy”. Vậy thấy cái gì? Đó là “Trí tuệ Ba Minh”. Khi chứng đạt Tuệ Ba Minh thì xem biết vấn đề tái sinh như xem chỉ trong lòng bàn tay. Với “Thiên Nhãn thuần tịnh trong sáng…” đạo Phật thấy rất rõ sự tái sinh của muôn loài. Đây lời Phật đã dạy: “…ví như một tòa lầu có thượng đài, giữa ngã tư đường, một người có mắt đứng trên ấy, sẽ thấy những người đi vào nhà, đi từ nhà ra, đi qua lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư hay trên đài thượng. Người ấy nghĩ: "Những người này đi vào nhà, những người này đi từ nhà ra, những người này đi qua lại trên đường, những người này ngồi giữa ngã tư, trên đài thượng". Cũng vậy, này Ðại vương với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, tỳ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng…” (Kinh Sa Môn Quả - Kinh Trường Bộ). Hỏi 8: Chân lý thứ ba là gì? BSD: Chân lý thứ ba nói về khổ đau có thể bị loại bỏ và đạt được hạnh phúc. Đây là điểm tối quan trọng trong Bốn Chân lý này, vì trong đó Đức Phật đã quả quyết rằng sự thỏa mãn và hạnh phúc thật sự sẽ có thể đạt được. Một khi chúng ta từ bỏ những ham muốn vô ích và học cách sống mới mỗi ngày một giờ, thưởng thức những kinh nghiệm cuộc sống đã cống hiến cho ta mà không bị những nhục dục quấy nhiễu và phá rối. Chúng ta kham nhẫn trước những rắc rối của cuộc đời mà không sợ hãi, sân hận, thù hằn, vì thế chúng ta được hạnh phúc và tự do. Như vậy và chỉ như vậy chúng ta mới sống trọn vẹn. Vì chúng ta không còn bị ám ảnh bởi việc thỏa mãn những ham muốn ích kỷ của riêng mình, nên chúng ta sẽ có nhiều thời gian để giúp đỡ người khác với những nhu cầu bức thiết của họ. Trạng thái này gọi là Niết-bàn. Chúng ta cũng không còn khổ đau về tâm lý. Đây là Niết-bàn tối hậu. VH: Chân lý thứ ba là Diệt Đế.“Chân lí thứ ba là một trạng thái tâm không còn tham, sân, si, tức là trạng thái bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Chính là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Người giác ngộ được trạng thái tâm này là người giác ngộ chân lí thứ ba”. (NLGPD tập IV – TL Thích Thông Lạc). Kết luận: Tâm Không Còn Tham, Sân, Si là Diệt Đế, đó là chân lý thứ ba. Hỏi 9: Niết-bàn là gì và ở đâu? BSD: Đây là một chiều kích vượt thời gian và không gian nên khó thể luận bàn hay cả đến suy tưởng. Những danh từ và tư tưởng chỉ thích hợp để mô tả chiều kích của thời gian và không gian. Nhưng vì Niết-bàn vượt thời gian, không chuyển vận và vì thế không già hoặc không chết. Vì thế Niết-bàn là bất diệt. Vì vượt không gian nên không có sự tạo tác, không có ranh giới, không có khái niệm của ngã và vô ngã và do đó Niết-bàn là vô hạn. Đức Phật cũng quả quyết cho chúng biết rằng Niết-bàn là kinh nghiệm của một niềm hạnh phúc cao cả. Ngài tuyên bố: "Niết-bàn là hạnh phúc tối thượng" -- Kinh Pháp Cú, 204 VH: Niết-bàn là một trạng thái của tâm khi đã đoạn tận các lậu hoặc. Đó là sự chân thật của chân lý thứ ba: Diệt Đế. “Niết-bàn (Diệt Đế) là một trạng thái tâm đã đoạn diệt lòng ham muốn và các ác pháp, người sống trong trạng thái này được xem là đã giải thoát hoàn toàn, tức là người đã làm chủ sự sống chết của mình, người làm chủ sự sống chết của mình là người hạnh phúc nhất trên thế gian này. Đó là người hết khổ. Người ta thường bảo Diệt Đế là Niết-bàn như thế này, như thế nọ, đó là tưởng tri của các nhà học giả, nhất là các nhà học giả Đại Thừa thì lại bịa ra đủ loại Niết-bàn. Diệt Đế không phải là một cảnh giới siêu hình như các nhà Đại Thừa thường tưởng tượng và cho đó là nơi chư Phật thường trú. Nếu một người đoạn diệt lòng tham muốn và các ác pháp thì cuộc sống của họ là Niết-bàn chứ không phải ở nơi đâu cả. Đức Phật gọi Diệt Đế là một chơn lý thật sự, một trạng thái tâm lý thật sự không còn khổ đau của kiếp người. Chứ không giống như các nhà học giả phát triển xây dựng những cảnh giới Niết-bàn mơ hồ, trừu tượng, ảo tưởng, những loại Niết-bàn này không được gọi là chân lý vì nó là những cảnh giới tượng tưởng của con người, cho nên nó không thật có, chỉ duy nhất có Diệt Đế của đạo Phật mới được gọi là chơn lý của loài người mà thôi vì nó có thật. Khi chúng ta quán xét Diệt Đế rõ thấu trạng thái thật sự giải thoát của đạo Phật là chỗ đoạn diệt lòng ham muốn và các ác pháp. Rõ thấu được như vậy chúng ta mới có phương hướng nhắm vào từng giây, từng phút đẩy lui toàn bộ lòng tham muốn và các ác pháp trong ta. Khi đẩy lui lòng tham muốn và các ác pháp trong ta thì đó là Diệt Đế; thì đó là chúng ta đã đạt được chơn lý của kiếp sống làm người…” (ĐVXP tập II – TL Thích Thông Lạc). Hỏi 10: Nhưng có chứng cớ gì cho chiều kích hiện hữu đó chăng? BSD: Không, không có. Tuy nhiên sự hiện hữu của Niết-bàn có thể suy luận ra được. Nếu có sự đo lường được về sự vận hành của thời gian và không gian thì đó mới chính là thật là sự đo lường. Thế gian mà chúng ta đang sống, chúng ta có thể suy lường mà không thể đo đạt được sự vận hành của không gian và thời gian. Trở lại, dù chúng ta không thể chứng minh Niết-bàn là hiện hữu, nhưng theo lời Đức Phật dạy Niết-bàn hiện hữu. Phật dạy: "Có vô sinh, vô hữu, vô tác, bất hòa hợp. Nếu nói không như vậy thì cái vô sinh, vô hữu, vô tác, bất hòa hợp này cũng không thể tạo thành bất cứ hành động nào từ cái gì được sanh, trở thành. Nhưng bởi có vô sinh, vô hữu, vô tác, bất hòa hợp cho nên được làm ra để biết cái gì sinh ra, trở thành và hòa hợp". -- Ud 80. Chúng ta sẽ biết được Niết-bàn chỉ khi nào chúng ta thực hành và đạt được nó. VH: Đạo Phật nguyên thủy không giống như Phật giáo phát triển Bắc tông và Nam tông. Phật giáo phát triển luôn lo đi tìm “chứng cớ cho chiều kích hiện hữu” ảo tưởng của họ nên không bao giờ nhận chân được sự thật của chân lý thứ ba: Diệt Đế (Niết-bàn). Chứng cớ của Niết-bàn là người tu sĩ đạo Phật phải thấy rõ: “Tâm tôi có tham, có sân, có si tôi biết tâm tôi có tham, có sân, có si. Tâm tôi hết tham, hết sân, hết si tôi biết tâm tôi hết tham, hết sân, hết si…”. Niết-bàn là “Trạng thái tâm Bất động, Thanh thản, An lạc và Vô sự”, đó là sự nhận biết hiện hữu chân thực, rõ ràng, đâu cần phải đi tìm một chứng cớ, chiều kích gì nữa cho phức tạp thêm vấn đề. Hỏi 11: Chân lý thứ tư là gì? BSD: Chân lý thứ tư là con đường đưa tới sự chấm dứt khổ đau. Con đường này gọi là Bát Chánh Đạo, bao gồm: kiến thức chân chánh, suy nghĩ chân chánh, lời nói chân chánh, hành động chân chánh, mạng sống chân chánh, siêng năng chân chánh, nhớ nghĩ chân chánh và tu tập thiền định chân chánh. Người Phật tử thực hành theo tám pháp này thì sẽ thành tựu được phúc lạc một cách viên mãn. Bạn sẽ thấy mỗi bước trong Bát chánh đạo này bao hàm mọi lĩnh vực trong cuộc sống: tri thức, đạo đức, xã hội, kinh tế, tâm lý và do đó nó tiềm tàng mọi nhu cầu mà con người cần hướng đến một cuộc sống yên bình hạnh phúc và thăng hoa đời sống tâm linh. VH: Chân lý thứ tư là Đạo Đế. “Đạo Đế là phương pháp dạy người tu hành có kết quả giải thoát thật sự. Đạo Đế là phương pháp tu sửa, rèn luyện thân tâm con người có đạo đức nhân bản không làm khổ mình khồ người chân thật. Biến cảnh sống thế gian thành cảnh giới Thiên đàng Cực lạc. Đạo Đế còn là phương pháp tu tập có đủ tâm lực tỉnh thức làm chủ sanh, già, bịnh, chết thật sự. Đạo Đế là một chân lý thật sự đúng đắn không dối gạt, không lừa đảo người, mọi người nếu ai có nhiệt tâm muốn thoát ra cảnh khổ của thế gian với đầy đủ nhiệt tâm nhiệt huyết xả bỏ những ác pháp và xa lìa lòng ham muốn của mình thường đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm, cố gắng áp dụng và thực hành như vậy thì đều có kết quả giải thoát như nhau. (ĐVXP tập II – TL Thích Thông Lạc). Đạo Đế là một chương trình đào tạo, rèn luyện con người để chứng quả A-la-hán bao gồm 8 lớp: 1. Chánh Kiến; 2. Chánh Tư Duy; 3. Chánh Ngữ; 4. Chánh Nghiệp; 5. Chánh Mạng; 6. Chánh Tinh Tấn; 7. Chánh Niệm; 8. Chánh Định. Tám lớp này còn gọi là “Tám Chánh Đạo” hay con đường “Giới – Định – Tuệ”. Trong đó 5 lớp đầu từ lớp Chánh Kiến đến Chánh Mạng thuộc cấp Giới, lớp thứ 6 (Chánh Tinh Tấn) là trung gian, lớp thứ 7 (Chánh Niệm) và lớp thứ 8 (Chánh Định) thuộc cấp Định. Khi hoàn mãn Bốn Thánh Định thì Trí Tuệ hiển bày (Định sinh Tuệ). Kết luận: Tám Chánh Đạo là Đạo Đế, đó là chân lý thứ tư. Tham khảo thêm từ nguồn: http://vnthuquan.org/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn4nvnnn31n343tq... |
Cập nhật ngày : 14.10.2013 | |||
GNCN xin giới thiệu đến quý phật tử và độc giả bài viết về “ăn thịt và ăn chúng sanh” của đạo hữu Nhật Minh sau khi vấn đạo HT Thích Viên Minh về vấn đề này. HT Viên Minh là một HT có danh tiếng của phật giáo Việt Nam đương đại, (hiện HT đang trụ trì Tổ Đình Bửu Long, phường Long Bình, Quận 9, TP HCM – chủ biên website trungtamhotong.org) nhưng qua lời giảng của Ngài có nhiều vấn đề chúng ta cần phải xem xét, suy ngẫm thật kỹ càng. Từ lời dạy của Ngài: “Ăn thịt và ăn chúng sanh là hai việc khác nhau. Ăn thịt là ăn tứ đại không thức tánh, còn ăn chúng sanh là ăn ngũ đại nghĩa là ăn vật có thức tánh.” Thì chúng tôi hết sức lấy làm hoang mang, không thể hiểu nổi. Đức Phật dạy tất cả chúng sanh đều với thân “Tứ Đại”, giờ HT lại dạy thêm “Ngũ Đại”. Có lẽ vì thế mà phật giáo Nam tông Nguyên thủy thỏa sức ăn thịt chúng sanh mà không hề sợ bị phạm vào giới luật Phật dạy chăng? Mong các bậc cao minh bàn luận thêm. Mời quý vị cùng đọc: ĂN THỊT VÀ ĂN CHÚNG SANH Nhân duyên một lần ghé xem trang www.trungtamhotong.org tôi đọc được câu của Hòa thượng Thích Viên Minh trả lời độc giả. Nhận thấy câu trả lời của HT có liên quan đến bài kinh Jivaka nhưng HT hiểu một cách rất sai lệch về lời Phật dạy trong kinh. Quý vị hãy đọc câu hỏi của độc giả và câu trả lời của HT dưới đây: [Ngày gửi: 02-10-2013 Câu hỏi: Kính thưa Thầy. Con thấy mọi người nói ăn mặn lắm bệnh tật, tuổi thọ rút ngắn. Còn ăn chay là ít bệnh và kéo dài tuổi thọ. Con mong Thầy từ bi chỉ dạy để con được thông suốt. Con xin tri ân Thầy ạ. Trả lời: Vậy con muốn sống lâu và không bệnh tật thì cũng nên ăn chay, điều đó khá đúng và cũng khá tốt, người Ấn giáo cũng đã ăn chay để trường sinh hàng ngàn năm trước khi đức Phật ra đời. Đạo Phật không có mục đích sống lâu, hay mạnh khỏe cho cái thân mà chủ yếu là trở về với bản tâm thanh tịnh trong sáng (pabhassara citta), vì vậy mới có định nghĩa "chay là tịnh, tâm thanh tịnh gọi là chay". (Trai giả tịnh dã, tẩy tâm viết trai). Trả lời câu hỏi ăn sao cho thanh tịnh của ông Jīvaka, đức Phật dạy rằng: "Người thanh tịnh dù ăn món ăn bất tịnh thì tâm vẫn thanh tịnh, người không thanh tịnh dù ăn món ăn thanh tịnh thì tâm vẫn bất tịnh". Một người biết hành động, nói năng, suy nghĩ một cách sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì chính là sống chay tịnh, còn nếu chỉ ăn chay mà tâm không thanh tịnh - lo lắng, sợ hãi, tính toán bất an - thì không thể nào giác ngộ giải thoát hoàn toàn được. Nên Phật dạy thêm: "Dù sống trăm năm tâm không thanh tịnh, chẳng bằng sống một ngày tâm được thanh tịnh".] Dựa theo câu trả lời của HT, tôi “tò mò” đặt câu hỏi để mong nhận được câu trả lời hầu mở rộng thêm “kiến chấp” từ HT. Đúng thật như vậy, sau khi đặt câu hỏi thì tôi nhanh chóng được đọc câu trả lời vào ngày hôm sau. Như chạm vào nỗi thầm kín riêng tư của HT nên trong câu trả lời đã thấy rõ sự chạnh lòng mai mỉa: “Còn người ăn thịt có thanh tịnh và từ bi hay không thì cứ để họ tự nhận biết trên đường giác ngộ của họ. Người chấp mới xấu chứ người sai chưa hẳn đã xấu”. Tôi hiểu rằng câu trả lời khỏa lấp của HT cũng giống như câu mà thế gian thường nói: “Người bẻ đũa mới xấu chứ người ăn tham chưa hẳn đã xấu”. Chuyện này ở đời, khi (trong bàn ăn độ mươi người) có một người ăn tham hết cả phần mọi người, một người khác giật lấy đôi đũa của ông ta bẻ đi thì (có thể) đúng là người ăn tham (chưa hẳn) đã xấu, còn người bẻ đũa thì cũng không lấy gì làm đẹp. Nhưng mọi người sẽ có ánh mắt đối với người ăn tham ra sao? Rõ rồi, ai cũng biết. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh thêm, HT là người tu thiền Minh Sát Tuệ thuộc Nam tông Nguyên thủy, một hệ phái phát triển vẫn thường xuyên ăn thịt chúng sanh khi “không giết, không thấy, không nghe, không nghi người ta giết cho mình”, cho nên HT muốn bảo vệ quan điểm người tu sĩ cứ ăn thịt chúng sanh thỏa mái mà không tội. Như thế, há chẳng phải là người còn tham ăn quá sao? Quý vị hãy xem câu hỏi của tôi và câu trả lời của HT: (I)- [Ngày gửi: 04-10-2013 Câu hỏi: Kính Thầy, một câu trả lời Thầy có dẫn: "Người thanh tịnh dù ăn món ăn bất tịnh thì tâm vẫn thanh tịnh, người không thanh tịnh dù ăn món ăn thanh tịnh thì tâm vẫn bất tịnh" (Kinh Jivaka). Vậy cho con hỏi: 1- Như thế nào là người thanh tịnh? 2- Một người còn ăn thịt chúng sanh (dù mình không giết, cũng không thấy, không nghe, không nghi người ta giết cho mình...) thì có là người thanh tịnh được không ạ? Người ấy có tâm từ bi (như đức Phật dạy) không ạ? Trả lời: 1) Người thanh tịnh là người hành động, nói năng, suy nghĩ thường sáng suốt, định tĩnh, trong lành, không còn bị tham sân si trói buộc. 2) Ăn thịt và ăn chúng sanh là hai việc khác nhau. Ăn thịt là ăn tứ đại không thức tánh, còn ăn chúng sanh là ăn ngũ đại nghĩa là ăn vật có thức tánh. Người ăn chay trưởng không ăn thịt nhưng lại không tránh khỏi ăn chúng sanh vì trong rau trái, trong nước uống đều có chúng đang sống. Vì vậy chúng ta là người tu đừng vội phê phán người khác, hay lên án ai mà nên thanh tịnh tâm mình và có lòng từ bi với mọi người mọi loài trước đã. Còn người ăn thịt có thanh tịnh và từ bi hay không thì cứ để họ tự nhận biết trên đường giác ngộ của họ. Người chấp mới xấu chứ người sai chưa hẳn đã xấu. Về lòng từ bi thì như đức Bồ-tát bố thí máu thịt mình cho cọp mẹ ăn để sống mà nuôi đàn cọp con, đó là vì lòng đại bi của Ngài không phân biệt cọp ăn thịt hay bò ăn cỏ, hễ thấy chúng sanh khổ thì giúp trước rồi tính sau. Và vì Ngài là bậc đại trí nên biết rõ trình độ căn cơ và duyên nghiệp vay trả của chúng sanh mà vẫn bình đẳng không thiên vị chúng sanh nào. Đó là tấm gương cho lòng từ bi, thanh tịnh và trí tuệ của chư Phật và Bố-tát.] Câu trả lời của một vị HT có danh trong làng Phật giáo Việt Nam và cả quốc tế, nhưng hàm chứa nội dung rất phi Phật pháp nên nó hấp dẫn tôi tăng thêm “kiến chấp” và tính “tò mò”. Theo câu trả lời của HT, tôi lại tiếp tục đặt câu hỏi cho HT, và cũng rất nhanh chóng nhận được câu trả lời. Mời quý vị đọc tiếp: (II)- [Ngày gửi 05-10-2013 Câu hỏi: Trả lời: 1) Người thanh tịnh đương nhiên là bậc Thánh nhưng cũng có thể là người còn đang tu tập đúng hướng và đúng pháp, đó chính là tu theo Bát Chánh Đạo, Giới Định tuệ. Nghĩa là thường thận trọng chú tâm quan sát lại hành động nói năng suy nghĩ của mình, để cho tham sân si không thể dẫn dắt chi phối được. 2) Ăn thịt tứ đại không có thức tánh giống như Ngài Milarepa Tây Tạng ăn thịt do những người thợ săn biếu, hoặc như Tổ Huệ Năng, Tế Điên Hòa Thượng ở Trung Hoa, Tuệ Trung Thượng Sĩ ở Việt Nam, v.v... Còn ăn thịt chúng sanh thì giống như những người sát sanh mà ăn, hoặc ăn sống trực tiếp những vật còn sống v.v... mà con đã từng biêt. 3) Thức tánh chính là tánh biết có nơi tất cả chúng sanh hữu tình. Tánh biết này nếu không bị bản ngã che lấp thì rất sáng suốt và mầu nhiệm nên Bắc Tông gọi là Phật Tánh. Chỉ khác là tâm thức thường ám chỉ hiện tướng của tâm, còn Tánh Biết hay Phật Tánh thì chỉ thực tánh chân đế của tâm.] Tiếc thay! Đến đây thì HT phải kéo thêm luôn cả những vị tu sĩ rất “tai tiếng” và “hư hỏng” trong giới luật của đạo Phật để mong san sẻ bớt những nghiệp tội của minh. Tôi càng chắc chắn rằng những vị HT hay bất cứ vị tu sĩ nào (Thượng tọa, Đại đức, Tiến sĩ, Giảng sư…) còn vi phạm giới luật thì trí tuệ vô lậu thật hạn hẹp (hầu như không có), nhưng sự bảo thủ vào kiến chấp của mình thì khó bề lay chuyển. Tôi tiếp tục “truy” thêm câu hỏi để xem HT trả lời ra sao: (III)- Ngày gửi 06-10-2013. Câu hỏi: Có lẽ đến lúc này HT đã nhận ra được ý của người đặt câu hỏi nên HT “im lặng” không trả lời hoặc không thể trả lời được. Bởi ngay trong câu trả lời của HT đã hiện rõ sự thiếu hiểu biết, rất sai lệch về giáo lý của đạo Phật, (Tứ đại, Ngũ đại, Thức tánh, Tánh biết, Phật tánh,…). Nghĩ rằng HT có thể bận việc chưa trả lời, tôi ráng chờ đợi thêm một ngày nhưng HT vẫn im lặng. Tôi đành thưa lại câu hỏi thêm một lần: (IV)- Ngày gửi 08-10-2013. Câu hỏi: Kính gửi thầy Viên Minh, Ngày 04 và 05/10/2013 con có câu hỏi thưa với Thầy, con rất lấy làm phấn khích được Thầy trả lời. Qua những câu trả lời của Thầy, con suy tư mãi nhưng không thể lý giải được, nên con lại thưa hỏi tiếp vào ngày 06/10. Nhưng lần này con không nhận được câu trả lời của Thầy nữa. Con không hiểu vì sao? Nếu có lầm lỗi điều gì thì con xin sám hối và mong Thầy tha thứ, vui lòng trả lời câu hỏi của con, hoặc nếu vì một lý do nào đó khó trả lời thì xin Thầy nói rõ để con được biết ạ. Nay, một lần nữa con xin thưa lại câu hỏi gửi ngày 06-10-2013 của mình, kính mong Thầy hoan hỷ giảng giải: Kính Thầy. Qua câu trả lời của Thầy, có điều con thấy rất khó tư duy thông suốt được. 1. Như Thầy dạy “ăn thịt tứ đại không có thức tánh” con hiểu là người ăn thịt do người khác giết rồi đem biếu (cúng dường), như vậy thịt này là “thịt tứ đại” mà người ăn thì vẫn thanh tịnh. Còn “ăn chúng sanh là ăn ngũ đại nghĩa là ăn vật có thức tánh…” tức do mình tự giết thịt mà ăn. Xin Thầy hoan hỷ giải thích giùm con: “Ăn thịt tứ đại không có thức tánh…” mà tứ đại là Đất, Nước, Lửa, Gió. Còn “Ăn chúng sanh là ăn ngũ đại nghĩa là ăn vật có thức tánh…” thì “ngũ đại” ở đây là những đại nào? Dựa trên cơ sở nào để phân ra sự khác nhau “tứ đại” và “ngũ đại” khi cùng một con vật bị giết để ăn thịt mà khi thì “Tứ” khi thì “Ngũ” như vậy? Phải chăng người ăn thịt do người khác giết thì không tội? 2. Thầy dạy người tu “đúng hướng và đúng pháp, đó là tu theo Bát Chánh Đạo, Giới Định Tuệ”. Như vậy người ăn thịt chúng sanh có phù hợp với Chánh Mạng trong Bát Chánh Đạo dạy hay không? Con đường tu theo Giới Định Tuệ thì nền tảng căn bản tu tập là gì?, bắt đầu khởi tu như thế nào? Kính Thầy giảng dạy một cách tóm tắt cho con hiểu. Xin cảm ơn Thầy. Cuối cùng, như quý vị thấy đây, HT thực sự không có câu trả lời, như vậy HT vô tình thừa nhận sự hiểu biết rất mù mờ, mê muội của mình về giáo lý đạo Phật. Qua đó tôi muốn có đôi lời chia sẻ với quý phật tử rằng chớ có tin, chớ có tin những lời giảng của những vị tôn túc Hòa thượng, Thượng tọa, Tiến sĩ, Giảng sư… làu thông kinh điển nhưng không có lấy một ngày hành giới nghiêm chỉnh. Do vậy trí tuệ vô lậu của các vị rất chậm lụt, chỉ giỏi khua môi múa lưỡi để lừa người chưa biết, chứ làm sao qua mắt được người đã học hiểu tri kiến Phật đạo. Để làm rõ câu trả lời về “ăn thịt và ăn chúng sanh” của HT hiểu theo kinh Jivaka, tôi xin trích dẫn lời giảng của Trưởng Lão Thích Thông Lạc để HT Viên Minh cùng quý phật tử tham chiếu: Kinh Phật dạy: “- Bạch Thế Tôn, con nghe nói như sau: "Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama (tuy) biết thế (vẫn) dùng các loại thịt được giết vì mình và được làm cho mình." Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: "Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama (tuy) biết thế (vẫn) dùng các loại thịt được giết (vì mình) và được làm cho mình", bạch Thế Tôn, những người ấy có nói chính lời Thế Tôn, họ không xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự thật, họ trả lời đúng pháp, thuận pháp, và những ai như pháp, thuyết đúng (pháp) thuận (pháp) không có thể quở trách? - Này Jivaka, những ai nói như sau: "Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama (tuy) biết thế (vẫn) dùng các loại thịt được giết (vì mình) được làm cho mình", những người ấy không nói chính lời của Ta, họ xuyên tạc Ta, không như chân, không như thật. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng thấy, nghe và nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt không được thọ dụng. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng”. Hiểu theo lời Phật dạy và Trưởng Lão Thông Lạc giảng giải cặn kẽ, trong khi thọ dụng thực phẩm có ba trường hợp không được thọ dụng và ba trường hợp được thọ dụng thật dễ thấy như sau: 1. Ba trường hợp (thịt) không được thọ dụng, tức là nếu trong thực phẩm (của người tu sĩ) thấy rõ (sự) có thịt, nghe rõ (người khác nói) trong thức ăn này có thịt, và nghi ngờ trong thức ăn này có thịt (bởi thấy mùi hôi của thịt và mùi tanh của cá…) thì người tu sĩ không được ăn. 2. Ba trường hợp (thịt) được thọ dụng, có nghĩa là trong thực phẩm (của người tu sĩ) thấy rõ không có thịt, nghe rõ (người khác nói) trong thức ăn này không có thịt, và tự mình không nghi ngờ trong thức ăn có thịt (vì không có mùi hôi tanh của thịt, cá) thì người tu sĩ được ăn. Nếu người tu sĩ còn tự tay giết hay bảo người khác giết để lấy thịt ăn thì là người phạm tội Sát Sanh, một nghiệp rất nặng mà người cư sĩ cần nên tránh, cớ sao các vị tu sĩ vẫn ăn thịt chúng sanh mà không nhận ra tội lỗi của mình? Lý luận như các sư Nam tông để nuốt những miếng thịt chúng sanh cho trôi qua cổ họng, để thỏa mãn sự tham ăn, thích uống của mình mà không có ai chê trách được. Thật là ngu si và tham đắm, các vị có biết rằng với điều kiện truyền thông đa phương tiện như ngày nay, ai ai cũng có thể học giới luật, ai ai cũng có thể đọc kinh Phật, vả lại được sự hướng dẫn của bậc Thiện tri thức thì họ không dễ gì chấp nhận những lời giảng bậy bạ của các vị tà sư. Để củng cố chắc chắn về quan niệm “ăn thịt và ăn chúng sanh”, xin thầy Viên Minh và quý phật tử cùng suy ngẫm lời đức Phật dạy: “Ở đây, này Jivaka, tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn nào, vị ấy biến mãn một phương với tâm có lòng từ, và an trú; cũng vậy phương thứ hai, phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân và an trú. Một người cư sĩ hay con một người cư sĩ đến tỷ-kheo ấy và mời ngày mai thọ trai và này Jivaka, tỷ-kheo ấy nhận lời. Sau khi đêm ấy đã qua, tỷ-kheo ấy vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến chỗ người cư sĩ kia hay con người cư sĩ kia. Sau khi đến, vị ấy ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Và vị cư sĩ, hay con vị cư sĩ ấy thỉnh vị ấy dùng các món ăn khất thực thượng vị. Vị tỷ-kheo ấy không nghĩ: "Thật tốt lành thay, người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này thỉnh ta dùng các món ăn khất thực thượng vị. Mong rằng người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này trong tương lai sẽ thỉnh ta dùng các món khất thực thượng vị như vậy." Tỷ-kheo ấy không nghĩ như vậy. Vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy, với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa, ý thức rõ rệt sự xuất ly. Này Jivaka, Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy có nghĩ đến tự hại, hay nghĩ đến hại người, hay nghĩ đến hại cả hai? - Thưa không, bạch Thế Tôn. - Này Jivaka, tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy có phải dùng các món ăn không có lỗi lầm?”… Lời Phật dạy từ bi, thanh tịnh như vậy, mà những kẻ còn phàm tục mượn lốt “đầu tròn áo vuông”, tìm mọi cách khỏa lấp, bao che cho hành động tham ăn, khát uống các món đồ ăn khoái khẩu mà không có một chút lòng từ bi xót thương nào cả đối với chúng sanh. Họ không hiểu chúng sanh là những bạn bè gần gũi và thân thiết của con người, cùng sống bình đẳng trong một mái nhà chung là Hành tinh xanh này. Người phật tử bình thường còn mở miệng đưa những miếng thịt chúng sanh vào thì không xứng đáng là người phật tử. Thật là xấu hổ! Nói chi đến một vị HT tôn túc mà ra sức bảo vệ và dạy dỗ chúng đệ tử cứ ăn thịt chúng sanh chẳng chút động lòng thương xót. Chỉ vì họ có học mà không hiểu, có học mà không hành. Chẳng hiểu thế nào là “Cao thượng thay, an trú lòng từ”, cho nên thật sự phí uổng cả một kiếp đời tu và còn mang tai họa đến cho bao nhiêu tín đồ đặt lòng tin nơi họ. |
Cập nhật ngày : 09.12.2013 | |||
Kính thưa quý phật tử và độc giả, Quý vị đã bao lần từng đọc, từng nghe những lời dạy của thầy Thông Lạc cảnh báo như sau: “Sách (hoặc ai dạy người) mà viết sai (mà dạy sai) là để lại cho đời những tai hại rất lớn, nhất là sách (hoặc lời dạy) thuộc về tôn giáo lại còn tai hại cho nhiều thế hệ. Bởi tôn giáo là nhu cầu cần thiết cho tinh thần mọi người. Kính thưa quý vị! Đừng háo danh khi tu hành chưa tới nơi tới chốn mà vội viết kinh sách (vội dạy người) là phải mang tội giết nhiều người, giết nhiều thế hệ như kinh sách phát triển. Quý vị có biết không? Xin quý vị đừng múa bút viết sách (hoặc dạy người) theo kiến giải khi mình tu chưa xong, sách đó (lời dạy đó) sẽ gây đau khổ cho loài người và tạo thêm tội ác cho mình. Những sách đó (lời dạy đó) chẳng ích lợi gì cho ai cả, chỉ làm thỏa lòng danh lợi của mình”. (Trích LỜI BẠT sách Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh). Thế nhưng, thật đáng tiếc cho những kẻ “điếc không sợ súng”, bất chấp những lời dạy chí tình, chí nghĩa của bậc Thầy vĩ đại nên mới làm bừa, làm ẩu. Vừa mới học lóm được đôi ba chữ trong kinh sách Thầy biên soạn, chẳng hiểu rõ đầu xuôi đuôi ngược ra sao đã vội xưng danh tỳ kheo để làm thầy thiên hạ, dạy dỗ đủ điều, nhưng những lời sai nhiều hơn chữ đúng. Thật là tại họa! Phật tử đang tìm cách cố tránh một sai lầm mê tín này, lại bị rơi vào một đường tà khác. Vậy mà có ai hay? Xót thương thay bao nhiêu lớp chúng sơ cơ đã đặt trọn lòng tin tưởng vào những lời dạy của kẻ “tu sĩ nửa mùa” vội vã rao giảng để kiếm chút tiếng tăm. Lỗi lầm lớn nhất của kẻ “tu sĩ nửa mùa” kia không còn biết mình vẫn chỉ là một cư sĩ sơ cơ. GNCN xin giới thiệu và chia sẻ đến quý vị một thời pháp của vị “tu sĩ nửa mùa” nọ để quý phật tử và độc giả thận trọng với những vị “thầy tự phong”, tưởng mình xiển dương chánh pháp nhưng thực sự là đang phá hoại những gì thầy Thông Lạc dựng lại. Mời quý vị cùng đọc câu hỏi và trả lời sau: [CÂU HỎI: - Có 6 nẻo luân hồi không thầy? TRẢ LỜI: - Không có 6 nẻo luân hồi - Nếu vậy tại sao trong kinh sách đại thừa có nói đến 6 nẻo luân hồi vậy? - Điều nầy, cho các con thấy rằng, đây là trò láu cá của 3 Tàu trong âm mưu tuyên truyền bá đạo của họ. Nguyên là lúc đức Phật đi học đạo, Ngài trải qua 6 đạo, nhưng, sau khi Ngài chăm chỉ tu học và Ngài tu tập thành đạt cao hơn thầy dạy. Lúc bấy giờ nhờ tư thế cao hơn thầy, Ngài mới nhận ra được đây là tà đạo, không lợi gì cho việc tu hành. Từ đó, Ngài bỏ ra đi và tự mình nhập thiền định 49 ngày đêm để tìm chân lý. Và cuối cùng Ngài chứng quả và tìm ra được chân lý TỨ DIỆU ĐẾ. Để dạy lại cho đệ tử, Ngài phải mất 3 tuần lễ, tìm ra những pháp tu giúp hành giả dùng đó tu tập chứng quả. Khi chứng đạo, Ngài mạnh mẽ lên án 6 tà đạo và 62 đường tà u mê mê tín dị đoan. Đại để là tụng kinh, gõ mõ,... đó là những pháp tu u mê, mê tín. Tà đạo là mật tông, adidà, dilặc, quan âm.....Cũng để đánh lừa Phật tử, 3 Tàu ngụy tạo, dựng ra 84,000 pháp môn tu hành nhằm tạo hoả mù, khiến Phật tử ngây dại, si mê, không thể nào phân biệt được thực, giả! Lúc bấy giờ các tổ 3 Tàu láu cá sửa lại là có 6 nẻo luân hồi. - Tại sao họ làm như vậy? - Tại vì, nếu để Phật tử biết được Phật có lên án 6 tà đạo, thì Phật tử, đâm ra nghi ngờ, Nếu đã có nghi ngờ, thì trước sau gì cũng bị lật tẫy. Vì vậy, để Phật tử không biết có 6 tà đạo, cho nên họ sửa thành 6 nẻo luân hồi. Phật tử không nghi ngờ. từ đó, bị lọt vào bẫy u mê. Một khi đã u mê thì thành ghiền, ghiền rồi thì phải trung thành tin tưởng và không có còn nghi ngờ gì nữa. Các con thấy rõ trò chơi láu cá của 3 Tàu chưa? Luân hồi rất là đơn giản thôi. Ta là người ta phải chết. Khi chết, thì ta phải tái sinh. Tái sinh làm người hay làm súc vật, là do nghiệp lực ta tạo ra từ Thân-miệng-ý. Hành động của thân như đánh đập, vuốt ve, miệng nói, ăn uống, ý nghĩ đưa đến hành động. Nghiệp lực từ thân-miệng-ý nầy do ta tạo ra mà tái sinh làm người hay làm thú vật để hưởng phước hay trả nợ NHÂN QUẢ Nhân quả xét rất là vi tế, Ví dụ 1, con cho người ăn mày 1, 000 đồng. Nhưng, khi có người đẹp nhìn thấy, con cho 100,000 đồng. Tình thương của con đối với người ăn mày là 1,000 đồng. Còn 99,000 đồng là con mua chuộc tình của nàng thiếu nữ. Rõ ràng phải không vậy? Ví dụ 2, khi thiên tai xảy ra, cơ quan từ thiện kêu gọi bá tánh giúp đỡ. 1 tỷ đồng. Họ đem giúp ra cứu trợ là 440,000.000 đồng, còn bỏ túi 560,000,000. đồng, như vậy, giữa tình thương với bỏ túi, theo con, nhân quả, tính thế nào? Các nhà cứu trợ kiểu nầy có tái sanh làm người không vậy? Con là người yêu thơ và làm thơ, là người rất hiếm trong xã hội loài người. Con đem tài hoa của mình đi ca tụng bọn lưu manh tôn giáo, chỉ biết lợi dụng lòng ngây thơ của bá tánh để lường gạt kiếm ăn. Dù cho con bị lợi dụng, con cũng góp phần, đồng lõa với tội ác. Vì vậy kiếp sau con chưa chắc được làm người và con lãnh hậu quả xấu là điều hiển nhiên!. Bây giờ con từ bỏ và trở về, đem những dòng thơ tuyệt tác, đuổi bọn lưu manh cứu thoát bá tánh khỏi rừng u mê mê tín dị đoan, đồng thời, con luôn hướng tâm sống trong thiện pháp, vẫn còn kịp đấy ạ.] T.T.T Qua câu hỏi “có 6 nẻo luân hồi hay không?” Dựa theo lời Phật dạy và lời thầy Thông Lạc giảng, chúng tôi xin trao đổi vài ý để quý vị cùng chia sẻ. Trước tiên cần phân biệt “kiếp luân hồi” và “6 nẻo luân hồi”. Đạo Phật thừa nhận chúng sanh hữu tình vì vô minh nên phải trôi lăn bao nhiêu kiếp sống luân hồi trong biển khổ ô trược không làm sao thoát ra được. Đạo Phật ra đời chỉ dạy cho con người con đường thoát ra khỏi kiếp trầm luân để sang bên kia là bến bờ giải thoát. Lời Phật dạy, Ngài chỉ rõ chúng sanh hữu tình cứ mãi trôi lăn trong luân hồi nhân quả: “…Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, …một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp và thành kiếp. Vị ấy nhớ: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra chỗ nọ, tại đây, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết”. “…Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng: Này các Hiền giả, những chúng sanh này làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến, những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục…” (Kinh Sa Môn Quả - Trường Bộ) Như vậy, kiếp luân hồi nhân quả của chúng sanh là một phần quan trọng trong giáo lý của đạo Phật. Đó là sự hiện hữu thực tiễn bằng hình hài của mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời mà chúng ta đang nhận thấy hiện tiền. Từ con người cho đến các loài vật có thân xác khủng, cho đến nhưng loài nhỏ nhít phải dùng kính phóng to mới nhìn thấy. Tất cả đều đang lặn ngụp trong những kiếp luân hồi. Đối với “6 nẻo luân hồi”, đây cũng là một phần rất quan trọng trong giáo lý của đạo Phật. Có 6 nẻo luân hồi chứ không phải không có như “vị thầy nửa mùa” kia đã khẳng định rồi dẫn chứng lạc sang một vấn đè khác. Sáu nẻo luân hồi là một trạng thái của tâm và các hành của con người mà bất cứ người phật tử nào đến với giáo lý đạo Phật đều phải thông hiểu. Nếu không thông hiểu những giáo lý này, xin đừng vỗ ngực xưng danh tỳ kheo này nọ để dạy người là một tai họa phỉ báng và hủy diệt chánh pháp. Sáu nẻo luân hồi hay phải hiểu rộng nghĩa hơn, đầy đủ hơn là trạng thái sáu nẻo luân hồi trong ba cõi. Sáu nẻo luân hồi gồm: 1- Trời; 2- Người; 3- Atula; 4- Ngạ quỷ; 5- Súc sanh và 6- Địa ngục. Ba cõi gồm: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Sáu nẻo luân hồi là một trạng thái thực có đang diễn biến trôi chảy không ngừng nghỉ trong tâm trạng của mỗi chúng sanh hữu tình. Điều này đã được Phật dạy và thầy Thông Lạc đã giảng kỹ như sau: “…Theo đúng nghĩa của kinh sách Nguyên Thủy thì sáu cõi luân hồi tưởng này chỉ ở tại thế gian của chúng ta trên hành tinh này, không có ở nơi nào khác nữa. Tùy theo đặc tính, cách sống của mọi con người và những loài vật trên hành tinh này mà phân chia ra làm sáu nẻo luân hồi: 1- Để chỉ cho cõi Trời, đó là những người đang sống trong cảnh tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự, không làm khổ mình khổ người và không làm điều ác, toàn làm điều thiện, muốn chi có nấy. Đó là những bậc chân tu, những bậc Đại Đức đang sống trầm lặng, sống với trí tuệ nhân quả, sống với tâm hồn tha thứ và thương yêu mọi loài chúng sanh. 2- Để chỉ cho cõi Người có thiện, có ác, có dục, có ái, có thương, có ghét, v.v... đó là những con người sống một đời sống bình thường nên có vui, có buồn, có bệnh tật, tai nạn, có phiền não khổ đau, có bất toại nguyện, có rầu lo sợ hãi, nhưng lại biết buông xả nhẹ nhàng nên vẫn thấy có hạnh phúc. Tuy cơm ăn áo mặc đầy đủ không thiếu trước hụt sau, nhưng vì là đời sống con người nên không thể tránh khỏi luật nhân quả chi phối. 3- Để chỉ cho cõi Atula, đó là chỉ cho những người bản chất nóng nảy sân hận, giận dữ chuyên đánh đấu đá với nhau. Kinh Nguyên Thủy thường nhắc đến vua Atula đem quân đánh Trời Đế Thích, đó là chỉ cho những hạng người chuyên môn đi đánh cướp nước người mà lịch sử của loài người đã chứng minh điều đó cụ thể. Vì thế chúng ta nên biết kẻ nào đem quân xâm chiếm nước người giết hại sanh linh là Atula. 4- Để chỉ cho cõi Ngạ quỷ, đó là chỉ cho những người sống trong cảnh đói khổ thiếu trước hụt sau mọi mặt, muốn ăn không có mà ăn, muốn ăn mà ăn không được. Cho nên kinh thường diễn tả một Ngạ quỷ bụng to như trống chầu mà cổ nhỏ như cây kim vì thế đói khát mà ăn uống chẳng được nên gọi là Ngạ quỷ. 5- Để chỉ cho cảnh Địa ngục, đó là những người bệnh tật trầm kha kinh niên. Quanh năm suốt tháng đau nhức chỗ này chỗ kia khổ sở vô cùng hoặc nằm trên giường bệnh suốt nhiều năm tháng, chết không chết, sống không sống, đại tiểu tiện một chỗ, chịu hôi chịu thối của chính bản thân mình v.v… Thật là đầu đội chậu máu, đít ngồi bàn chông. 6- Để chỉ cho cõi súc sanh có hai phần: - Phần thứ nhất: là chỉ cho những con người mang hình dáng con người mà tâm địa súc sanh. - Phần thứ hai: là chỉ cho các loài vật hiện có mặt trên hành tinh này”. (Đường Về Xứ Phật – Tập V) Như vậy thật rõ ràng, cả đức Phật và thầy Thông Lạc đều đã dạy: có kiếp luân hồi, có sáu nẻo luân hồi. Lời Thầy giảng vẫn còn đây, Thầy nhập diệt cũng chưa bao lâu, vậy mà nay đã sớm có người vì học sai, hiểu sai rồi vội vã đi dạy người phá bỏ những gì Thầy vừa dựng lại. Việc làm này là “Xiển Dương Chánh Pháp hay Hủy báng Chánh Pháp?”. Xin quý vị suy ngẫm. Kính thưa quý phật tử và độc giả. Chúng tôi nhận thấy có những lời dạy sai trái của những người tự xưng là học trò của thầy Thông Lạc, mượn chữ Thầy để thêm lời mong cầu danh vọng cho mình. Thật chẳng biết tàm quý là gì. Lợi đâu chẳng thấy mà thấy ngay sự tai hại cho lớp người sau. GNCN là trang web “Dựng Lại Chánh Pháp” do thầy Thông Lạc đã khổ công xây dựng, xiển dương. Bởi vậy, nhận thấy những gì không đúng với Chánh Pháp của Phật, của Thầy thì chúng tôi lên tiếng. Chỉ mong muốn những học trò của Người (cả người rao giảng lẫn người nghe theo) đều thận trọng suy ngẫm lại để điều chỉnh cho chuẩn với những lời chân thật của Thầy đã dạy. Không nên rao giảng lại một cách sai lệch thì dẫn đến tai hại nhiều hơn là lợi ích. Nếu chúng tôi không lên tiếng, mọi người đều im lặng thì hóa ra mặc nhiên thừa nhận những lời “rao giảng” đầy sai lạc ấy trở thành đúng đắn. Nghiệt ngã thay, “vị thầy nửa mùa” kia lại được khá đông lớp phật tử trẻ tin cậy, vâng lời mới là điều tai hại lâu dài về sau. Những cái sai của “vị thầy nửa mùa” nọ còn rất nhiều. Kính mong quý vị có tâm huyết với chánh pháp Phật do thầy Thông Lạc dựng lại hãy lên tiếng để dẹp bỏ tà vạy, giữ gìn chánh pháp trường tồn là lợi ích to lớn cho mọi người. Kính mong sự hợp tác, chia sẻ của quý vị. |
Cập nhật ngày : 13.12.2013 | |||
Thưa quý phật tử và độc giả, Sau khi giới thiệu bài giảng về “Sáu nẻo luân hồi” của cư sĩ TTT có rất nhiều vấn đề, chúng tôi nhận được tài liệu của độc giả LTV, liên quan đến “Trí tuệ vô sư – kiến giải văn, tư, tu” của cư sĩ Minh Trí trong thư gửi Trưởng Lão Thích Thông Lạc ngày 18/10/2012. Đã biết sau đó ít ngày, (24 và 25/10/2012) Minh Trí mở “Diễn đàn Tam Vô lậu học” nhằm giới thiệu khả năng làm chủ được “3 sự khổ” và muốn dạy mọi người theo pháp tu của mình (MT đã trình bày trong thư): “Ngày nay, hầu hết những người gặp được chánh pháp do Thầy dựng lại đều đi theo con đường “khó chứng” này chớ không theo con đường Bát Chánh Đạo. Nhưng họ cũng không biết phải làm sao để có được quyết tâm và nghị lực phi thường như Phật ngày xưa và như Thầy để vượt qua được, để ly dục hoàn toàn trong khi ôm pháp môn ức chế đó. Nếu họ đi đúng con đường Bát Chánh Đạo, triển khai được Tư Tuệ thì họ đâu có dại gì chạy vào tu viện để sống ức chế trong khi tâm còn đầy rẫy tà kiến...” Trước khi giới thiệu bức thư của Minh Trí, chúng tôi xin trích một ý kiến của thành viên diễn đàn để quý vị suy ngẫm và thận trọng tìm hiểu: [minhtriqb này, tôi rất thất vọng vì sự hiểu biết Phật pháp của bạn. Lời bạn viết vô cùng kiêu ngạo kèm chút “hỗn xược, khi dể” mọi người: “Dù trong cảnh thuận duyên hay nghịch duyên, chỉ cần quý vị thành tâm muốn thoát khổ và biết cúi đầu đảnh lễ cầu pháp, Ta vẫn luôn hoan hỷ mở rộng vòng tay đón những "đứa con lầm lạc" trở về trong một ngày không xa, để rồi dẫn dắt chúng đi trên lộ trình trở về xứ Phật. Đến đây, Ta tạm ngưng Diễn đàn này, tạm biết quý vị!” (Diễn đàn Tam Vô lậu) Lời này không xứng là của một người Phật tử, thế mà bạn dám xưng làm chủ được 3 cái sự khổ của đời người. Một kiểu “Bán trời không văn tự”. Giá bạn yêu cầu mọi người phải thưa bạn là “Thế Tôn” hay “Như Lai” thì thật là trọn ý cầu mong của bạn. Bạn biết “tạm ngưng diễn đàn này”, tôi lấy làm hoan hỷ lắm. Sơ cơ như tôi, thấy bạn quảng bá siêu tuyệt, tôi mong cầu thưa hỏi mà bạn chẳng có gì để cho. Rất tiếc! Hỡi quý độc giả, hãy thận trọng với những lời của Minh Trí (minhtriqb), những lời khá nguy hiểm chỉ cốt cầu mong danh thôi chứ thực là “rỗng tuếch” chẳng có gì.] Quý vị xem thêm tại diễn đàn theo các đường dẫn sau: http://giotnangchonnhu.org/forum/viewtopic.php?f=21&t=12 (24/10/2012). http://giotnangchonnhu.org/forum/viewtopic.php?f=20&t=13 (25/10/2012). DƯỚI ĐÂY LÀ NGUYÊN VĂN TÀI LIỆU do độc giả LTV gửi đến. (Thư của cư sĩ Minh Trí gửi Trưởng Lão ngày 18/10/2012. Những chỗ bôi màu là những đoạn Minh Trí để lộ bản thân không có tri kiến, lời nói tự mâu thuẫn lẫn nhau, đặc biệt là những chỗ gạch chân). NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH THÔNG LẠC! Kính bạch Thầy! Con có bức thư này muốn gửi đến Thầy mà cứ lần hồi cân nhắc mãi, nay con tranh thủ thời gian trong những lúc rảnh rỗi để đánh máy lại và gửi đến Thầy. Đây không phải là bức tâm thư, cũng không phải là thư thưa hỏi về việc tu tập, nếu gọi đây là một lời thỉnh cầu hoặc chỉ là sự gieo duyên của con thì đúng hơn. Con kính mong thầy dành một ít thì giờ quý báu để đọc lời thỉnh cầu của con được chứ ạ? Kính bạch Thầy! Lần cuối cùng con được gặp thầy là ngày 07/12/2011 (dương lịch), khi đó Thầy dạy con mấy điều ngắn gọn như sau: 1- Con phải giữ cho được ĐẶC TƯỚNG của mình; Cuối cùng Thầy động viên con: “Hãy ráng lên con!”. Con biết rất rõ lời động viên này Thầy dành cho con cũng như dành cho bao người khác có duyên được gặp Thầy, nhưng lúc đó vì lòng thành thật nên con có thưa lại rằng: “thưa thầy, con không ráng, không cố gắng, sức con bao nhiêu con vác bấy nhiêu, chừng nào giải thoát hoàn toàn thì nó sẽ giải thoát”, và Thầy đã thuận theo con về điểm này. Tại sao con lại có thể thưa lại với Thầy như vậy? Vì con biết rõ tu theo đạo Phật tức là không có dụng công, không có tu tập cái gì hết thì làm gì mà phải “ráng”, phải cố gắng. Con biết rõ tu theo đạo Phật là có giải thoát ngay liền, không có khó khăn, không có mệt nhọc, có tu là có chứng, xả tâm được chỗ nào thì giải thoát được chỗ đó, xả sạch hoàn toàn thì giải thoát hoàn toàn, chớ có tu tập cái gì đâu?! Nhưng những điều này con không nói suông, mà nói bằng sự giải thoát của mình! Vậy con giải thoát thế nào? Hai chữ “xả tâm” mà thầy dạy, bấy lâu nay người ta cứ hiểu trên văn tự, chữ nghĩa vì thế nên tâm không xả được, hoặc cũng chỉ là hình thức... Con không hiểu như họ! Vậy con hiểu thế nào? Xả tâm là xả cái gì? TÂM tức là những tâm niệm thiện, ác hoặc không thiện không ác; + Niệm thiện là những niệm khi khởi lên dẫn đến hành động không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh. Niệm thiện thuộc về chánh kiến nên phải được huân tập, tăng trưởng để làm căn bản cho việc triển khai trí tuệ giải thoát (trí vô sư, tư tuệ). + Niệm ác và niệm tào lao thuộc về tà kiến (vô minh, tưởng tri, tưởng tuệ, văn tuệ, trí phàm phu hay là hiểu biết thế gian) chính là những niệm phải được xả sạch. Bởi những tâm niệm này khi khởi lên nó dẫn chúng ta đến hành động chạy theo dục và do vậy làm khổ mình, hoặc khổ người hoặc khổ cả hai. Khi những tâm niệm này khởi lên thì gọi đó là vọng tưởng. Người phàm phu luôn sống trong tưởng tri nên luôn bị nhân quả chi phối và khổ đau. Người thoát ra khỏi tưởng tri thường sống trong chánh tri kiến (tri kiến giải thoát, chánh niệm, thắng tri, liễu tri) nên thoát khổ. Vậy xả tâm tức là thoát ra khỏi tưởng tri cũng tức là tiến đến sống trong chánh niệm, nhưng thoát ra khỏi tưởng tri (vô minh) để sống trong chánh niệm (minh) bằng cách nào đây? Đó chính là phải biết triển khai cho được TƯ TUỆ (trí Vô Sư). Ở lời dạy đầu tiên, Thầy dạy con phải giữ cho được ĐẶC TƯỚNG của mình, lúc đó con hiểu Thầy dạy con rằng, khi đã đạt được trí Vô Sư thì hãy tinh tấn hơn nữa để thoát ra khỏi tưởng tri để thẳng tiến trên con đường giải thoát và đạt được MINH hoàn toàn. Còn việc con có được trí Vô Sư như thế nào thì không thể một lời mà nói hết được, đây không chỉ đơn giản là sự huân tập chánh kiến, trau dồi tu tập và triển khai ra... mà còn có sự huân tập, tu tập từ trong quá khứ. Sau này, nếu có đủ nhân duyên, con sẽ nói rõ hơn cách thức để đạt được tư tuệ, điều này không khó, nhưng cần có thời gian và sự siêng năng tinh cần... Trong lời dạy thứ 2: “Con phải giữ cho được lời ƯỚC NGUYỆN của mình về việc sau này độ chúng”. Vậy tại sao con lại có ước nguyện này? Khi mới gặp chánh pháp và tu tập, lúc đó con chỉ với mục đích giải thoát cho mình khỏi 4 nỗi khổ đau của kiếp người. Nhưng trong quá trình tu tập xả tâm, triển khai tri kiến, Triển khai LÒNG YÊU THƯƠNG ĐA HƯỚNG và tu tập TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, khi biết rõ mình đã có TỪ TÂM, BI TÂM (chưa vô lượng) cũng là lúc ước nguyện độ chúng phát khởi lên trong con. Mặt khác, khi đã dần thoát ra khỏi vô minh con nhận thấy chúng sanh chìm sâu trong đêm tối vô minh nên không thể nào hiểu nổi lời Phật dạy, lời Thầy dạy nên không xả tâm được mà ngược lại còn ôm thêm vào, chạy theo pháp môn tu tập ức chế... rất tội nghiệp. Trong lời dạy thứ 3: “Giờ đây con không cần thưa hỏi gì cả và hãy vào thất đi con, khi con có đủ nội lực thì những người có nhân duyên sẽ tìm đến để nhờ con giúp đỡ”. Với lời dạy đó, con biết rõ mình đã không còn chướng ngại pháp trên Pháp nên con cũng đã nói với Thầy rằng: “Thưa Thầy, từ nay con sẽ không làm phiền thầy nữa”. Nhưng tại sao bây giờ con không làm theo lời dạy thứ 3 này của Thầy mà lại còn ngồi đây viết thư, mục đích của lá thư này là gì? Kính bạch Thầy! Thầy dạy con tu xong rồi mới dạy đạo cũng chưa muộn, nhưng Thầy cũng dạy con phải biết GIEO DUYÊN NHÂN QUẢ ĐỂ LÀM VIỆC THIỆN. Mặt khác Phật có dạy pháp “XÔNG KHÓI” mà Thầy đã triển khai ở trong phần TRI KIẾN GIẢI THOÁT THỨ 5, và điều quan trọng là con luôn sống tự nhiên, tu tập xả tâm một cách tự nhiên với một TÂM TỰ NHIÊN thì việc viết bức thư này cũng không nằm ngoài sự tự nhiên đó, hay cũng chính là con đang thuận theo nhân quả của con để gieo nhân duyên này ngõ hầu có thể góp được chút công đức nào cho việc giúp đỡ những người có duyên với chánh pháp để họ có thể đi được đúng trên con đường BÁT CHÁNH ĐẠO thay vì lặp lại con đường mà Phật đã đi hoặc Thầy đã đi trong lúc còn đang tu. Đi theo con đường Bát Chánh Đạo thì tu hành không có khó khăn, không có mệt nhọc... còn đi theo con đường mà Phật hoặc Thầy đã tu thì khó chứng, bởi không phải ai cũng đủ phước duyên như Phật hoặc Thầy để mà có thể vượt qua cho đến khi ly dục hoàn toàn để rồi có đủ phước vô lậu và đi đến giải thoát hoàn toàn. Do đó Phật đã dạy: “... Phật đã chỉ con đường/Ai không theo khó chứng”. Ngày nay, hầu hết những người gặp được chánh pháp do Thầy dựng lại đều đi theo con đường “khó chứng” này chớ không theo con đường Bát Chánh Đạo. Nhưng họ cũng không biết phải làm sao để có được quyết tâm và nghị lực phi thường như Phật ngày xưa và như Thầy để vượt qua được, để ly dục hoàn toàn trong khi ôm pháp môn ức chế đó. Nếu họ đi đúng con đường Bát Chánh Đạo, triển khai được Tư Tuệ thì họ đâu có dại gì chạy vào tu viện để sống ức chế trong khi tâm còn đầy rẫy tà kiến... Họ sống ngoài đời, tu tập xả tâm, buông sạch các pháp thế gian xuống... khi tâm đã ở trên thân rồi (trên tứ niệm xứ) thì sống ở đâu, tu ở đâu mà chẳng giải thoát? Đâu cứ phải vào tu viện, được gần Thầy thì mới chứng đạo hay sao?! Về phần con, con nghĩ con có đủ phước duyên gặp lại con đường Bát Chánh Đạo và con đi trên lộ trình này, nên việc tu tập xả tâm không có khó khăn, không có mệt nhọc sau khi con đã triển khai được trí Vô Sư. Những hiểu biết của con có được hiện nay về con đường giải thoát, về những gì Phật dạy, Thầy dạy không do đọc sách, nghe băng... mà do từ chỗ không biết gì cả, cứ làm theo lời dạy và thoát khổ chỗ này, chỗ kia, dần niềm tin tăng trưởng, rồi lại tiếp tục làm theo lời dạy để nhắm vào những khổ đau trong thân tâm và đẩy lui những chướng ngại pháp ở những chỗ ấy. Nhờ những tháng ngày như vậy mà con thấy trí tuệ nhạy bén, dần dần nhạy bén đến độ ngạc nhiên và rồi có những hiểu biết về con đường giải thoát mà con biết rõ ngay cả khi chưa đọc những lời Phật dạy, Thầy dạy, đến khi gặp và đọc được thì những lời dạy đó của Phật hoặc của Thầy hoàn toàn đúng như sự giải thoát con đã đạt được! Đó là thời điểm của 2 năm về trước. Sau hai năm kể từ ngày con triển khai được tư tuệ, với một đời sống luôn luôn đẩy lui chướng ngại pháp trên 4 chỗ Thân - Thọ - Tâm - Pháp ở trên tứ chánh cần, thân tâm con luôn thanh thản, an lạc và vô sự. Với hai năm ấy, thiện pháp tăng trưởng thế nào con biết, nghiệp ác dần chuyển thế nào con biết, duyên nợ nhân quả dần đi đến hết thế nào con biết, Tưởng tri dần ít xen vào tâm con con biết, Tâm con dần dần thanh tịnh thế nào con biết, Tâm con gần Phật, gần Thầy thế nào con biết, Thân con thanh tịnh thế nào, mức độ nào con biết (gà hôi mùi gà, chó hôi mùi chó... người phàm phu hôi thế nào chắc ai cũng biết, người có thân hoàn toàn thanh tịnh thì không có mùi gì hết). Con biết rõ thế nào là Thân và Tâm cùng một trạng thái MÁT LẠNH (lúc ở trong chánh niệm, không có tà niệm xen vào), con biết rõ trạng thái Tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là như thế nào và con luôn sống với chân lý ấy, dù cho con còn chưa đoạn tận lậu hoặc, tưởng tri vẫn cứ xen vô nhưng con đẩy lui ra liền. Việc cứ sống tự nhiên như vậy, có tu tập gì đâu mà THAM, SÂN, SI dần dần muội lược và không kịp xem vào tâm để lý luận gì hết, do vậy con thoát khổ. Cũng vì vậy mà con ít ngủ một cách tự nhiên, thậm chí không ngủ vài ngày cũng bình thường mà chẳng cần tu tập pháp môn nào cả, bởi vì tà niệm về ngủ con xả sạch, không khởi lên sai bảo con phải đi ngủ nữa. Đến nay con đã có thể bắt đầu sống với thời khóa tu tập thời đức Phật rồi Thầy ạ. Tức là tâm luôn luôn trên tứ niệm xứ rồi, là giai đoạn đầu của tứ niệm xứ. Chặng đường giải thoát còn đang ở phía trước, nhưng con không thấy vội, “Rồi bình sẽ tràn đầy” hoặc như lời Phật dạy: “Như gà mẹ khéo ấp
Trứng không bị thối hư Dầu không khởi mong ước Gà con vẫn chui ra” Việc con viết thư này là thỉnh cầu Thầy xem có thể tạo nhân duyên gì để con có thể góp chút công sức ngõ hầu giúp những người có duyên với chánh pháp có thể hiểu đúng những lời Phật dạy, Thầy dạy bằng Ý THỨC chứ không phải bằng TƯỞNG TRI. Phật và Thầy là những Bậc tu hành đã giải thoát nên sống trong chánh trí, những lời dạy của Người đều là chánh kiến, nhưng vì dạy chúng sanh (sống trong tưởng tri) nên phải mượn ngôn ngữ của con người để dạy, nhưng chúng sanh lại hiểu những lời dạy này bằng tưởng tri nên hiểu sai và hành sai, chính vì lẽ đó mà Phật dạy: “Được thân người là khó! … Hiểu được chánh pháp còn khó hơn rất nhiều!” và vì như vậy nên Phật dạy: “Những gì ta nói ra mà các ngươi bằng Ý THỨC không hiểu được là ta có nói láo trong đó”. Như vậy, ở đây Phật dạy phật tử phải biết dùng Ý THỨC để hiểu những lời dạy, từ chỗ thấy lời dạy đúng thì làm theo, làm theo có giải thoát thì mới tin. Còn mọi người thì không làm được như vậy, mà dùng tưởng tri để hiểu để rồi hiểu sai và huân tập thành Văn Tuệ nên không thể làm đúng lời Phật dạy thì làm sao thoát khổ được?! Vậy Ý THỨC ở đây là gì? Chính là 6 thức khi căn trần tiếp xúc, hay là Phật dạy chúng ta phải biết quan sát trong môi trường sống và những gì đã và đang diễn ra trong đời sống, trong xã hội tự nhiên... để xem Phật dạy có đúng không? Nếu thấy đúng thì tin, tin để làm theo lời dạy đó thì sẽ có thoát khổ. Khi thoát khổ rồi thì niềm tin mới trọn vẹn. Việc quan sát này nếu kết hợp với sự suy tư với người đã được huân tập chánh tri kiến hoặc được nghe nhiều do thân cận bậc thiện hữu tri thức thì cũng chính là tu định vô lậu. Nếu người nào đã có Tư Tuệ thì sẽ đạt giải thoát ngay liền, không có khó khăn, không có mệt nhọc. Để không mất nhiều thời gian của Thầy con chỉ viết ngắn gọn như vậy. Nếu có đủ nhân duyên và có thể nói thẳng ra những sự thật mà trước đây Thầy chưa tiện nói thì con sẽ nói để cho những người hữu duyên khỏi lầm lạc. Trong mức độ hiểu biết của con, có điều gì khi con viết ra còn sơ sót, kính mong Thầy hoan hỷ cho con. Cuối cùng con kính mong Thầy hoan hỷ và xem xét về những gì con đã viết trong thư và con cũng mong tâm nguyện của mình có thể đem lại lợi ích cho mình cho người. Kính thư! |
Cập nhật ngày : 17.01.2014 | |||
Kính thưa quý phật tử và độc giả, GNCN vừa mới nhận được bài tổng hợp của một đạo hữu thành viên nhóm Phật Pháp - Đoàn Tộc. Nội dung giới thiệu những trao đổi của phật tử với tiến sĩ Vũ Thế Khanh, hiện là Chủ tịch Hội đồng Khoa học UIA, Tổng Giám đốc Liên hiệp UIA. Chúng tôi nhận thấy những lời phát ngôn của một vị đứng đầu cơ quan khoa học của nhà nước nhưng còn rất mê tín dị đoan về vấn đề ngoại cảm, lên đồng nhập cốt, tin tưởng vào thế giới siêu hình. Một nhà khoa học mà còn u mê như vậy, bảo sao những người bình dân ít học không mê theo để rồi chìm đắm vào những chuyện nhảm nhí, hoang đường để tự làm khổ mình và khổ bao nhiêu người khác. Nhận thấy bài tổng hợp rất có ích cho mọi người khi tìm hiểu Phật pháp, chúng tôi xin giới thiệu đến quý phật tử và độc giả cùng đọc. CÁC Ý KIẾN LIÊN QUAN VỀ NGOẠI CẢM, LINH HỒN VÀ THẾ GIỚI SIÊU HÌNH Đoàn Tộc – Phật Pháp (Tiến sĩ Khanh không trả lời thẳng câu hỏi mà tiếp tục lấy ví dụ chống chế). Câu chuyện được tiến sĩ Khanh cho là nhân văn nhưng phải chăng đó là sự lừa dối gia đình các liệt sĩ?. Theo THÍCH CHÂN PHÁP: "Một vị tiến sĩ như ông Vũ Thế Khanh, phụ trách một cơ quan cấp Nhà nước mà trả lời nhà báo Thuận Phong như vậy thì không ổn. Một cơ quan nghiên cứu tiềm năng con người mà ông không hiểu gì về "duyên hợp tâm linh" của con người cả. Nếu ông Khanh vẫn giữ nguyên những ý kiến kiểu này thì đất nước ta bao giờ thoát khỏi cảnh mê tín dị đoan? Không nên lừa dối người khác rồi lại đổ riết lý do cho người đã hy sinh. Đó là một sự nói dối rất ác độc và tai hại. Ông Khanh đâu biết rằng, tất cả những lời nhà ngoại cảm nói ra đều là từ cái đầu của nhà ngoại cảm cả. Không có một ai đã chết rồi còn có thể nói chuyện với những người còn sống. Đó là quan điểm, sự hiểu biết rất u mê của những người trong thời quá khứ còn mê muội. Ngày nay chúng ta phải có cái nhìn khác. Nêu ông Khanh hiểu rằng "duyên hợp tâm linh" của con người do năm uẩn hợp thành là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Trong đó Sắc, Tưởng, Thức, 3 uẩn này có cái biết. 1- Cái biết thứ nhất là do sắc thức. Cái biết này cần đến các giác quan của cơ thể. Sắc thức có cái biết của Nhãn thức, Nhĩ, thức, Tỷ, Thiệt, Thân, và Ý thức. Đó là cái biết của con người bình thường thể hiện qua cuộc sống hằng ngày. 2- Cái biết thứ hai là cái biết của Tưởng thức. Cái biết này không cần dùng sáu căn của cơ thể. Đó là cái biết của những nhà ngoại cảm vì một số lý do khác nhau mà người đó tự nhiên có được. Đa số là trải qua những cuộc thập tử nhất sinh, may mắn sống sót nhờ vào Tưởng uẩn hoạt động và Tưởng uẩn hoạt động nên có khả năng này mà khoa học gọi là nhà ngoại cảm. Tôn giáo thì gọi họ là những người lên đồng nhập cốt. Khả năng biết của Tưởng uẩn mờ ảo, mơ màng như người đang ngủ mơ, cho nên nhận biết những điều qua giấc mơ thì không thể chính xác được. Người bình thường cũng có sự biết của Tưởng uẩn khi người đó ngủ mê và tưởng uẩn hoạt động. Khả năng hoạt động của tưởng uẩn có nhiều mức độ khác nhau tùy vùng não Tưởng này được kích hoạt ở mức độ sâu cạn. Nhưng những hoat động này không bền vững, nó chỉ bền vững khi sự hoang tưởng đến cực đại mà các bệnh viện thần kinh cũng chịu không sao điều trị nổi. Bởi khi ấy họ trở nên một người điên thực thụ. 3- Cái biết thứ ba là cái biết của Thức uẩn. Đây là cái biết của các vị chân tu, tu hành chứng đạo như đức Phật ngày xưa. Cái biết này cũng không cần thông qua các giác quan trong cơ thể. Khi hành giả muốn thực hiện cái biết này phải nhập vào thiền thứ tư (hơi thở phải ngưng nghỉ hoàn toàn) và hướng tâm tới Tam minh. Đó là cái biết vượt không gian và thời gian. Đó là cái biết chân thật, không bao giờ dối người. Ở Việt Nam ta đã có người thực hiện được việc này như đức Phật bên Ấn xưa kia. Nhưng Ngài đã nhập diệt rồi. Hiện tại, đệ tử của Ngài đã có người tiếp nối thực hiện được điều này. Thế nhưng, duyên phước của chúng sanh quá mỏng, các Ngài không thể xuất đầu lộ diện giúp đời vì các thế lực ma vương, đồng cốt quá hùng mạnh. Tôi mong muốn tiến sĩ Vũ Thế Khanh có cái nhìn khoa học hơn về "cấu tạo" của con người theo quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy. Phật giáo phát triển Đại Thừa và Thiền Tông không thể thực hiện được điều này." (Xem thêm theo link sau:
- Lập mộ giả, nói dối thân nhân liệt sĩ là việc làm rất nhân văn | Tinmoi.vntinmoi.vn - Lập mộ giả, nói dối thân nhân liệt sĩ là việc làm rất nhân văn, đó là nhận định của tiến sĩ Vũ Thế Khanh – Tổng giám đốc UIA.) Vũ Thế Khanh Bạn Đoàn Tộc Phật Pháp thân mến! Khi nghiên cứu về Phật Pháp cũng như nghiên cứu về tâm linh, ngoại cảm, đòi hỏi phải có tâm trong sáng, nhân văn chứ không phải với cái tâm sân hận, và với trình độ “văn hóa ngắn” như vậy. Không hiểu bạn cay cú điều gì mà “sáng tác” ra câu chuyện “ngoại cảm chia xương 4 liệt sỹ"? Tôi kể lại chính xác câu chuyện này để một lần nữa, bạn tự soi lại Tâm của bạn nhé: "Có một gia đình liệt sỹ (tại Thái Bình) đã được một nhà ngoại cảm chỉ cần ngồi tại Hà Nội mà vẽ cho sơ đồ tìm hài cốt liệt sỹ. Khi gia đình này đi đến hiện trường thì liệt sỹ nhập vào người nhà, và dặn người nhà phải mua thêm 3 cái tiểu nữa cho 3 đồng đội cùng hy sinh (mặc dù trước đó, tiểu sử, quê quán, thân nhân của 3 liệt sỹ kia gia đình này cũng chưa hề biết). Liệt sỹ nhập vào người thân, và nói rằng 4 người cùng nhập ngũ một ngày và cùng hy sinh một chỗ, rồi đọc tên, tiểu sử. quê quán của 3 đồng đội cùng hy sinh một lúc cho gia đình ghi chép lại. Khi đào bới, liệt sỹ lại nhập vào người nhà, và phân chia từng mảnh xương vào các tiểu. Khi khai quật tìm xương đã xong, chỉ có 3 liệt sỹ là có hài cốt, còn liệt sỹ thứ 4 không còn mảnh xương nào. Lúc này 4 liệt sỹ lần lượt nhập vào người của gia đình đi tìm mộ, nói rõ tên và ý nguyện của mình. Các liệt sỹ cùng nói rằng nếu để gia đình thứ 4 biết được liệt sỹ nhà mình không còn xương cốt, họ sẽ tủi thân, và chắc chắn sẽ đi làm mộ gió bằng cách lấy “xương dâu đầu gáo” về làm cốt liệt sỹ. Do vậy 4 vị liệt sỹ không muốn gia đình thứ 4 phải tủi thân, cho nên đã nguyện lấy trong 3 cái tiểu có xương, mỗi tiểu một ít để làm thành cốt của liệt sỹ thứ 4, và không muốn cho gia đình biết điều đó. Điều kỳ diệu là, sau đó gia đình này lần theo “lời chỉ dẫn của vong liệt sỹ” và tìm đến được 3 gia đình kia đúng như nhập hồn ở hiện trường". Câu chuyện này do gia đình liệt sỹ tự làm và về kể lại cho cơ quan, và chúng tôi cũng đồng thuận với cách làm của gia đình liệt sỹ đó, và coi đó là TÍNH NHÂN VĂN CAO CẢ CỦA NGƯỜI LÍNH, HỌ KHÔNG CHỈ NHƯỜNG CƠM, CHIA ÁO MÀ CÒN NHƯỜNG MẠNG SỐNG CHO NHAU, THẬM CHÍ CÒN TẶNG CẢ XƯƠNG CỐT CHO NHAU. Bạn chưa bao giờ là người lính như chúng tôi thì làm sao có thể hiểu được tính nhân văn cao cả này của những người lính. Bản chất sự việc rành rành là như vậy, tôi nói trong hội nghị, có hàng trăm người nghe và ai cũng hiểu, cũng xúc động, thế mà bạn lại xuyên tạc sự kiện này thành “nhà ngoại cảm chia xác 4 liệt sỹ”!!!. Suy ra những việc khác bạn còn “sáng tác” trắng trợn như thế nào! Điều gì đã làm cho bạn cay cú như vậy,, và có phải chính bạn cách đây mấy tháng đã vào Diễn Châu gặp gia đình Liệt sỹ Phùng Chí Kiên để xúi dục gia đình kiện cô Bích Hằng, nhưng đã bị gia đình liệt sỹ Kiên mắng cho một trận rồi bị đuổi ra khỏi nhà đấy chăng??? Còn việc bàn về Phật Pháp, trước hết bạn hãy đọc hết các tập sách và các bài giảng của Hòa Thượng Thanh Từ đã, (đó là điều kiện tối thiểu, tôi đưa đường link dưới đây cho bạn) , rồi bạn mới đủ tư cách trao đổi với tôi về Phật Pháp, bởi khi bạn đang sân hận và đang thích "nói những lời thêu dệt" mà lại sinh tham vọng kiến giải về Phật Pháp thì là bạn đang xúc phạm kinh Phật. Phật có dạy: NGƯỜI TÀ NÓI PHÁP CHÁNH, PHÁP CHÁNH TRỞ THÀNH TÀ. Đây là đường link các sách của Hòa Thượng Thanh Từ, bạn cố gắng đọc hết, ít nhất là 1 lượt các tác phẩm này đi: http://uia.com.vn/.../thich.../thich-thanh-tu-toan-tap.html Vũ Thế Khanh Thảo Trang: Chân Pháp Thích: Theo ý kiến của Thảo Trang, Chân Pháp rất hân hạnh được trao đổi với tiến sĩ Vũ Thế Khanh. Chân Pháp sẽ cố gắng trao đổi theo những câu hỏi mà tiến sĩ nêu, đồng thời cũng mong muốn được tiến sĩ trả lời những câu hỏi mà Chân Pháp nêu ra. Hy vọng một nhà khoa học như tiến sĩ sẽ mang lại nhiều lợi lạc và hạnh phúc thực sự cho nhân dân, cho đất nước mình và chung nhân loại. Vũ Thế Khanh: Thảo Trang thân mến, các câu hỏi mà quý vị đã nêu đều dựa trên các thông tin của một bài báo của báo Đất Việt đính kèm ở trên: "Lập mộ giả, nói dối thân nhân liệt sĩ là việc làm rất nhân văn ... đó là nhận định của tiến sĩ Vũ Thế Khanh – Tổng giám đốc UIA...." Nếu hiểu rõ sự thật như mình đã nhắc lại thì các câu hỏi ở trên trở nên vô nghĩa. Một số ý kiến trao đổi về Phật Pháp mà quý vị đặt ra, chỉ cần đọc kỹ các bài giảng của Hòa Thượng Thanh Từ thì cũng sẽ không cần hỏi nữa, vì trong đó đã trả lời đầy đủ rồi, tôi không thể lý giải thấu đáo hơn Hòa Thượng được. Vấn đề mấu chốt là bạn phải tự đọc lấy mà hiểu, bởi phải TỰ ĂN MỚI NO, NHÌN NGƯỜI KHÁC ĂN LÀM SAO NO ĐƯỢC, chẳng ai có thể hướng dẫn cho người khác hiểu được thế nào là vị mặn của muối, vị cay của ớt,... và chẳng có sách vở nào dạy cho cánh mày râu hiểu được "thế nào là đau đẻ"... Thảo Trang: Vâng, cảm ơn bác. Con được biết đến bác và rất ngưỡng mộ từ hồi nước ta chuẩn bị đón đại lễ 1000 năm Thăng Long, bác đã vạch mặt rất nhiều nhà tiên tri rởm, thánh rởm, đến hứa hẹn làm cho thời tiết mấy ngày đại lễ không bị mưa... đất nước rất cần có những nhà khoa học chân chính như bác. Chân Pháp Thích: Kính thưa ngài tiến sĩ Vũ Thế Khanh, Thi thoảng tôi cũng có đọc một vài bài viết liên quan đến ngài tiến sĩ Tổng Giám đốc UIA. Nhưng đến khi đọc bài của nhà báo Thuận Phong “Lập mộ, nói dối…” thì tôi thực sự thất vọng về những phát ngôn của Ngài. Chuyện này tôi đã qua lâu, nhưng nay trên trang facebook Phật Pháp - Đoàn Tộc, may mắn tôi được trực tiếp đọc những suy nghĩ của Ngài đã trình bày bằng “mực đen trên giấy trắng”. Có thể dùng từ nào cho chính xác và phù hợp nhất với cá tính “đầy nhân văn” của Ngài mà không làm Ngài phiền lòng phật ý đây! Tự cao ngã mạn ư? Trịch thượng bề trên ư? Hay coi thường người đối thoại?... Theo tôi, tất cả những “định dạng cá tính” trên đều phù hợp với lời mà Ngài vừa mới mở “Khi nghiên cứu về Phật Pháp cũng như nghiên cứu về tâm linh, ngoại cảm, đòi hỏi phải có tâm trong sáng, nhân văn chứ không phải với cái tâm sân hận, và với trình độ “văn hóa ngắn” như vậy…”. Đọc câu đầu tiên của Ngài, tôi liên tưởng ngay đến một vị tiến sĩ khác – ngài Trần kiêm Đoàn – khi đối thoại với bạn thoại cũng với giọng tự cao tự đại như vậy không khác: “Những người tôn sùng HTTL là “chân tu vô lậu” và dùng những lời lẽ “cấp dưới” để thóa mạ anh TKĐ như kiểu nói của Tâm Minh và Chân Quê (văn phong hai người là một vì lẩm cẩm giống nhau)…”. Ngài tiến sĩ kia (ông Trần Kiêm Đoàn - ẩn dưới danh Đăng Hậu) thì cao giọng miệt thị người đối thoại nào là “văn phong lẩm cẩm, lời lẽ cấp dưới”. Ở đây Ngài cũng có giọng điệu không khác để coi thường miệt thị người đối thoại (Đoàn Tộc Phật Pháp) “với cái tâm sân hận, và với trình độ văn hóa ngắn…”. Lời như vậy có tính nhân văn, có bình đẳng không thưa ngài tiến sĩ? Cuộc sống tuy có biết bao nhiêu đau khổ nhưng đây đó vẫn còn tràn đầy tình yêu thương đồng loại. Đời sống thật ngắn ngủi, hoại diệt vô thường, có gì quý giá mà phải lo toan so đo hơn thua còn mất? (Quý vị xem theo link sau để rõ hơn về đối thoại của tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn:
http://giotnangchonnhu.org/index.php?mod=detail&ID_theloai=16&ID_theloaitin=7&ID_tintuc=184). Thưa tiến sĩ Khanh, theo ý kiến của Thảo Trang nên tôi đã đáp lời và đề nghị rất hân hạnh được trao đổi với tiến sĩ. Qua những lời phát biểu và trả lời nhà báo TP, tôi nhận thấy tiến sĩ có cái nhìn rất hạn chế về tâm linh nên vô tình đã gieo rắc thêm bao nhiêu mê tín vào lòng người. Là một nhà khoa học có chức vị hàng đầu của khoa học công nghệ Việt Nam, nhưng tiến sĩ đã hiểu một cách rất không khoa học về cuộc sống con người. Đặc biệt cái gọi là “cuộc sống” của con người sau khi chết thì tiến sĩ rất mê tín nên vô tình đã “nối giáo” cho giặc gây ra bao nhiêu tai hại trong vấn đề tìm mộ liệt sĩ thời gian qua. (Có thể nói là thời kì thịnh phát, nở rộ nhất của các nhà ngoại cảm lừa đảo ở Việt Nam). Với tiến sĩ, tôi nhận thấy cần trao đổi nhiều vấn đề. Nhưng hiện qua bài viết của tiến sĩ trên facebook đây có 2 vấn đề nổi bật: 1- Bốn gia đình liệt sĩ chia nhau 3 bộ hài cốt.
2- Chánh Phật pháp và tà pháp với sự giới thiệu các “công trình” của HT Thanh Từ. Về Chánh pháp và Tà pháp (vấn đề 2), nếu tiến sĩ tin tưởng vào những lời dạy của HT Thanh Từ thì đúng thật, theo đó tiến sĩ đã có những việc làm sai lầm ủng hộ những nhà đồng cốt ngoại cảm là hoàn toàn phù hợp. Cho nên việc mê tin này là của tà pháp – không phải Phật dạy như vậy. Việc này từ từ trao đổi sau. Việc trước cần làm là trao đổi về “4 gia đình liệt sĩ, 3 bộ hài cốt” (vấn đề 1) là nhân văn hay dối lừa, là ai làm nên sự ấy, là chánh tín hay mê tín… xin tiến sĩ hãy đọc kỹ lại những lời đối thoại của mình với nhà báo Thuận Phong (dưới đây) rồi chúng ta bắt đầu mổ xẻ nhé. Mong sự hợp tác chia sẻ của tiến sĩ. (Câu hỏi dành cho tiến sĩ ở cuối trao đổi này). [Câu chuyện được tiến sĩ Khanh cho là nhân văn nhưng phải chăng đó là sự lừa dối gia đình các liệt sĩ?. Để rộng đường dư luận, phóng viên đã có cuộc trao đổi lại với ông Vũ Thế Khanh ngay sau khi buổi hội thảo kết thúc. TP - Thưa tiến sĩ, câu chuyện ông kể về việc sẻ hài cốt 3 liệt sĩ thành 4 cho thấy hài cốt liệt sĩ thứ 4 là sai và thi thể ba liệt sĩ kia cũng không toàn vẹn. Vậy liệu có phải là nhân văn như ông nói. VTK - Đấy là liệt sĩ họ bảo thế, liệt sĩ yêu cầu TP - Làm sao để chứng minh được việc đó thực sự là do liệt sĩ yêu cầu, khi chỉ một mình nhà ngoại cảm có khả năng trò chuyện với người đã khuất và nói lại cho mọi người? VTK - Không ai biết được 4 ông liệt sĩ này đi cùng ngày, cùng giờ và chết cùng nơi… có nhiều thông tin mới đến ngôi mộ đó được. TP - Trường hợp gia đình phát hiện ra hài cốt họ đang thờ cúng không phải là của cha ông, chồng hoặc con họ thì tiến sĩ nghĩ như thế nào? VTK - Bạn nhầm ở chỗ này, đấy là ý của ông liệt sĩ. TP - Nhưng cũng không thể làm sai sự thật được? như vậy là dối trá thân nhân liệt sĩ? VTK - Không, ông liệt sĩ ông thích sai thì sao? Ông liệt sĩ có công mà ông nói “tôi phản động” thì sao? Bây giờ mình phải tôn trọng cái nguyện vọng của liệt sĩ. Chứ không phải mình theo cái cảm tính của mình. TP - Tại sao đoàn tìm kiếm không trao đổi thẳng thắn với gia đình? VTK - Trao đổi thì gia đình người ta buồn, ông liệt sĩ muốn cho gia đình yên thân…. Vị tiến sĩ này lấy dẫn chứng: Có những bà mẹ nếu như biết được con về mới yên tâm nhắm mắt. Với liệt sĩ khi người ta còn sống họ nhường cả cái thân, hy sinh cho người bạn còn sống thì xương người ta tiếc gì đâu. Khi liệt sĩ còn sống cơm ông cũng nhường, nếu 2 anh phải chết, ông xung phong chết là ông nhường cả mạng sống thì chút xương ấy làm gì nặng nề với ông liệt sĩ được. Cái đó là nguyện vọng của ông liệt sĩ. TP - Nhưng chúng ta phải tôn trọng gia đình họ chứ, như vậy là đã lừa dối gia đình họ rồi thưa tiến sĩ? VTK - Không phải ta lừa dối mà là ông liệt sĩ ông làm thế. TP - Chúng ta là người đưa di cốt về mà? VTK - Cậu buồn cười nhỉ, làm thế trái ý ông liệt sĩ… ông liệt sĩ quan trọng hay chúng ta quan trọng, hơn nữa, ông liệt sỹ có ý nguyện như vậy. Đừng nói ông liệt sĩ coi xương là quan trọng đâu nhá, nếu xương không còn thì làm sao? Ông tan xác trên bầu trời ông không có xương...v.v.. TP- Nói gì thì nói nhưng vẫn phải tôn trọng sự thật, thân nhân liệt sĩ cần sự thật, dư luận cần sự thật, thưa ông? Tiến sĩ Khanh không trả lời thẳng câu hỏi mà tiếp tục lấy ví dụ chống chế: - Tại sao tôi làm gián điệp, tôi nói sự thật ra đi… cái sự thật ấy có lợi cho dân cho nước tôi làm. Bây giờ tôi hỏi nhé, tại sao ông làm tình báo ông lại nói là việt gian? Vì việc của ông làm là lợi cho người khác và đấy là sự hy sinh của người ta. Dù gia đình có mất cái xương hay không không, đối với tâm linh không còn quan trọng nữa. Ví dụ bây giờ hỏa táng thì sao, người ta rắc ra sông thì sao? - Có ai biết mộ ông Thánh Gióng ở đâu không? Ông Thánh Gióng là 1 đại liệt sĩ tượng trưng cho tất cả các liệt sĩ trong các triều đại và không cần xương nữa, thịt xương ông thành lá, thành cây cho non sông, chỉ linh hồn ông bay về trời thôi. Đấy là cái tư tưởng của người Việt Nam ta, vậy thì cái hài cốt không quan trọng. Bây giờ mộ ông Thánh Gióng ở đâu nào? Vậy giờ người ta thờ ông ấy hay thờ tư tưởng của ông ấy. TP - Những trường hợp đi tìm mộ liêt sĩ mà không tìm được hài cốt nhưng lấy xương của liệt sĩ khác mang về như trường hợp trên có nhiều không? VTK - Nhiều, nhiều chứ, vô cùng nhiều… Nhưng mà đó là trường hợp 4 liệt sĩ đó thôi. Bốn gia đình đó đã cảm động, người ta khóc vì cái sự hy sinh đó. Vậy thì đừng nghĩ gia đình liệt sĩ ấy người ta buồn, người ta tự hào vì những cái việc đó. Và người ta cũng không muốn biết ai vào với ai nữa, và người ta cùng đưa 4 ông ý như nhau]. Thuận Phong Câu hỏi dành cho tiến sĩ Khanh: 1- Theo trả lời của tiến sĩ với nhà báo TP, tôi nhận thấy tiến sĩ rất tin có linh hồn sau khi chết. Vậy thưa tiến sĩ, linh hồn của các liệt sĩ (nói riêng) và linh hồn của mọi người chết (nói chung) tồn tại dưới dạng vật chất nào? Môi trường sống của các linh hồn ra sao mà họ có thể trình bày các ý nguyện của mình với người sống như vậy? 2- Nếu thực sự có linh hồn sau khi chết thì linh hồn tồn tại dưới hình dạng nào? Cụ thể (ví dụ) như một người từ lúc sinh ra đến lúc chết là 90 tuổi (đối với người chết năm 90 tuổi) thì hình ảnh linh hồn là ảnh lúc sơ sinh, thiếu niên, thành niên hay hình ảnh một người già 90 tuổi. 3- Nếu linh hồn đi tái sanh, mà mỗi người chỉ có một linh hồn, như vậy từ khi xuất hiện loài người với số lượng rất ít (có thể chỉ là hàng triệu) nhưng giờ này hành tinh có tới hàng tỉ người. Vậy “ngân hàng linh hồn” lấy đâu ra linh hồn cung cấp để thành hàng tỉ người như ngày nay? Mong tiến sĩ trả lời rõ ràng. Xin cảm ơn! Vũ Thế Khanh: Thưa quý ngài Chân Pháp Thích, Trong nội dung câu chuyện mà tôi đã kể, làm gì có chuyện “4 gia đình liệt sỹ chia nhau 3 bộ hài cốt”? nếu chúng ta tự nhận là đi tu “theo Phật” thì có nên "nói lời thêu dệt" như vậy không? Một người tự xưng là "nhà báo Thuận Phong” nào đó sáng tác và lắp ghép thành mẩu đối thoại hoàn toàn lạc lõng với nội dung câu chuyện tôi đã kể trong một hội nghị, cho nên chúng tôi không chấp, và cũng chẳng cần đối thoại với những ai đang căn cứ vào bài báo đó. Khi thấy những sự bịa đặt phóng tác của chúng sinh, chúng tôi chẳng bận lòng nên chẳng cần trả lời, (vì biết rằng họ chưa đủ căn duyên để hiểu), vậy mà tại sao các quý ngài lại phải sôi sục lên với những câu hỏi vô bổ ấy thế? Một ngọn phướn bay, có nên mất thời giờ cãi nhau rằng gió động, phướn động hay không?... Một không gian vốn đang yên lặng, có người hò hét lên rằng: “hãy trật tự”, và họ tự cho rằng mình có công “giữ trật tự”. Nhưng có ngờ đâu chính họ đang “mất trật tự”! Tôi chưa bao giờ kể rằng 4 gia đình chia 3 hài cốt liệt sỹ, và chúng tôi cũng không làm điều đó, thì tại sao tôi lại mất thời giờ tranh luận và giải thích với quý ngài về điều đó nhỉ? Vậy theo quý ngài, chúng ta nên thảo luận về những sự kiện do chính chúng tôi kể hay phải thảo luận theo nhưng luận điệu do người khác “sáng tác” ra đây?! Tôi đã nói rằng, “dân tộc VN có hàng nghìn năm lịch sử chống ngoại xâm, biết bao liệt sỹ đã hy sinh. Nếu liệt sỹ nào cũng để lại các ngôi mộ thì bây giờ các con cháu có còn chỗ để ở và đất để canh tác hay không? Do vậy khi hy sinh, thịt xương liệt sỹ gửi khắp non sông, hóa sinh thành lá cây, ngọn cỏ, thành bụi tre gốc lúa, thành cát, thành sông... còn linh hồn bay về trời (như hình ảnh tượng trưng là ngài Thánh Gióng) - đó là tính nhân văn!” Những lời phát biểu của tôi đã được in thành sách rành rành ra đấy, sao lại xuyên tạc thành những đoạn đối thoại ngô nghê, sai văn phạm như “cái gọi là nhà báo Thuận Phong” đã đăng? Tại sao quý ngài lại tin vào những đoạn đối thoại xuyên tạc của “nhà báo” đó mà lại không tin vào những cuốn sách chúng tôi đã xuất bản? Mỗi tuần, chúng tôi đều có Đạo tràng, thảo luận khoảng 500 đến 700 câu hỏi thực tế về thế giới vô hình, về vấn đề tái sinh, nhân quả, tâm linh, ngoại cảm, thần thức, linh hồn, hương linh, giác linh, nội ma, ngoại ma, tâm thần, hoang tưởng, áp vong, gọi hồn, giả ma, đồng cốt ... Với hàng vạn hồ sơ khảo nghiệm thực tế (có sự kiểm định khách quan của các thiết bị máy móc của Viện khoa học hình sự bộ công an,), nhiều chứng cứ khoa học đã được kiểm chứng và được làm sáng tỏ. Chúng tôi căn cứ vào kết quả của hàng vạn các ca khảo nghiệm ấy để đánh giá bản chất của sự việc, phân biệt những cái thật, cái giả của thế giới vô hình. Các sự kiện này không hề có trong sách vở hoặc kinh điển trước đây. Quý vị muốn trao đổi về những nội dung này, thì có thể đến cơ quan chúng tôi để tham khảo các hồ sơ lưu trữ, Quý vị chưa từng chứng kiến, chưa từng tiếp cận với những bằng chứng thực tế này mà lại cứ khăng khăng phủ định sự kiện thì có phải là kiêu căng ngã mạn không? “Nếu tu mà không có phương pháp (giáo trình) thì là tu mù, nếu chỉ đọc sách mà không có thực tế thì chỉ là học giả). Phật đã dạy: “phải tự ăn mới no, nhìn người khác ăn làm sao no được”! Những câu hỏi mà các quý vị đặt ra thì chính các vị phải thực hành để tự chứng ngộ, và tự giải đáp lấy, chúng tôi không giải nghi thay cho các quý vị được! Chúng tôi không hề bị vướng mắc bởi các nghi vấn mà các quý vị đã nêu, nên chúng tôi cũng không cần phải để tâm vào những vấn đề đó. Chúng tôi trích đăng một đoạn trong nghi lễ tâm linh (mà chúng tôi đã thực hiện hàng chục năm nay) để các qúy vị có thể tự giải mã những nghi vấn của mình. Trân trọng! Chân Pháp Thích. Thưa ngài Tổng Giám đốc UIA, Xin cảm ơn Ngài đã có lời trao đổi phản biện. Qua đó tôi nhận thấy: Nếu sự thực Ngài không trả lời phỏng vấn nhà báo TP với những câu trả lời rất cố chấp, si mê đắm chìm trong thế giới siêu hình, linh hồn người chết thì trách nhiệm “bịa đặt” này thuộc nhà báo TP. Tôi nghĩ nếu nhà báo TP mà có những lời bịa đặt như vậy để nhằm hạ thấp uy tín của Ngài thì đây là một tội không nhỏ. Tội đặt điều vu khống người khác là rất đáng xấu hổ, đáng trách và cần làm rõ. Nhưng nếu cuộc phỏng vấn là thật có, nhà báo TP chứng minh bằng những lời thoại đã ghi âm thì Ngài cũng nên xem xét lại những phát ngôn của mình. Trở lại vấn đề cần quan tâm, “4 gia đình và 3 bộ hài cốt”. Tôi tạm loại trừ những lời của nhà báo TP mà chỉ căn cứ vào những lời của Ngài đã thừa nhận sau khi kể chuyện trước hội nghị: “Câu chuyện này do gia đình liệt sỹ tự làm và về kể lại cho cơ quan, và chúng tôi cũng đồng thuận với cách làm của gia đình liệt sỹ đó, và coi đó là TÍNH NHÂN VĂN…” Xuất phát từ những chuyện kể của gia đình liệt sĩ chứa chấp đầy mê tín dị đoan, sự tin tưởng vào nhập hồn, nhập xác, đồng cốt quàng xiên khiến người đời ám ảnh, sợ hãi bởi có những “linh hồn” của người đã chết. Chính tiến sĩ cũng không hiểu cơ chế hoạt động của não bộ con người cho nên vội vã “đồng thuận với cách làm của gia đình liệt sĩ” mới có bao nhiêu chuyện rắc rối xuất phát từ các nhà ngoại cảm lừa đảo trong việc tìm mộ liệt sĩ những năm vừa qua. Là một cơ quan khoa học cấp Nhà nước mà tiến sĩ chấp nhận việc đồng cốt quàng xiên thì thực sự rất có hại cho đất nước. Bằng chứng rõ ràng, bao nhiêu nhà ngoại cảm đã bị lôi ra trước công luận mà tiến sĩ không lấy đó làm bài học ư? Nhận thấy tiến sĩ đã quá tin vào đồng cốt để chứng minh có linh hồn người chết, tôi đã nêu ra 3 câu hỏi để tiến sĩ suy ngẫm và trả lời. Câu hỏi thật quá đơn giản nhưng tiến sĩ (là người đã tổ chức đạo tràng để trả lời 5-7 trăm câu hỏi mỗi tuần) lại né tránh một cách rất vụng về. Thưa tiến sĩ, câu trả lời chung cho 3 câu hỏi tôi đã nêu ra là: “Không có thế giới siêu hình. Không có linh hồn người chết”. Như vậy thì cần gì còn phải đi tìm vật chất, môi trường sống, hình ảnh của linh hồn người chết làm gì cho phí sức. Còn vấn đề tại sao mỗi người chỉ có một “linh hồn” mà trái đất cứ mỗi ngày một đông hơn thì linh hồn ở đâu ra? Điều này chắc chắn tiến sĩ chưa hiểu được. Mời tiến sĩ hãy đọc các kinh sách của HT Thích Thông Lạc nói về Nhân quả Vũ trụ, Nhân quả Thời tiêt, Nhân quả Thảo mộc, Nhân quả Con người… sẽ rõ. Tiến sĩ đã tự nhận mình là người có “văn hóa dài”, còn mọi người dưới con mắt của tiến sĩ chỉ là “chúng sinh – văn hóa ngắn”. Lời miệt thị không nên có ở một người trí thức cao cấp có vị trí lãnh đạo chứng tỏ kiến thức của tiến sĩ như nước trong một chiếc ly đã đầy, khó có thể tiếp nhận thêm được một chút kiến thức nào khác nữa. Do vậy đã bị rơi vào “giới cấm thủ” mất rồi. Cố chấp vào sự hiểu biết của mình nên tiến sĩ đã bỏ lỡ mất nhiều cơ hội tìm biết cái chân của Chánh Phật pháp. Tiến sĩ tin vào Thiền Trúc Lâm (HT Thanh Từ)? Thiến Tiếp Hiện tông Lâm Tế (HT Nhất Hạnh? Tịnh Độ (HT Trí Tịnh)? Mật Tông (Dalai Lama)?… Những kiến thức Phật pháp nổi trội của các tông phái và các vị thầy có danh này không đủ để cho tiến sĩ hiểu được cái cơ bản chân thật của Phật pháp. Cho nên, tôi nghĩ rằng tiến sĩ đừng thiên kiến chấp vào những gì mình có được, nó đã rất lạc hậu mà sao không nhận ra. Để rồi bỏ qua những cái rất đáng quý mà đời người khó được, đó là Chánh Phật Pháp. Các công trình giáo lý đồ sộ của các ngài như HT Thanh Từ, HT Nhất Hạnh, HT Trí Tịnh, Dalai Lama,… ngày nay chỉ nên cất đi để làm kỉ niệm cho đời sau biết đến một thời lạc pháp xa xôi. Những kiến thức ấy không phải là Chân Phật pháp nên không có lợi ích cho người tu hành. Cái mà tiến sĩ dạy “phải tự ăn mới no, nhìn người khác ăn làm sao no được”, thì Chân Pháp tôi đã chán ngấy tới tận mang tai lâu rồi, tôi đã bỏ nó như một thứ nhơ bẩn mà sao bây giờ tiến sĩ mới ăn ư? Thảo nào những gì tiến sĩ đã “căn cứ vào kết quả của hàng vạn các ca khảo nghiệm ấy để đánh giá bản chất của sự việc, phân biệt những cái thật, cái giả của thế giới vô hình…” nhưng cũng không thể hiểu căn nguyên của nó là gì, cho nên vốn đã mê lại càng mê thêm. Những điều trao đổi trên, tôi đã mở nhiều ý để tiến sỹ chất vấn. Xín mời tiến sĩ nêu câu hỏi. . . GNCN sẽ tiếp tục cập nhật những trao đổi của tiến sĩ Khanh với độc giả. Mời quý vị đón đọc và xem thêm những bài có nội dung liên quan với chủ đề này. Mục “Dựng Lại Chánh Pháp”, phần Chánh tín – Mê tín, và các bài có link sau: |
Cập nhật ngày : 23.01.2014 | |||
Kính thưa quý phật tử và độc giả, GNCN xin giới thiệu tiếp cuộc chất vấn của quý phật tử và độc giả với ông Vũ Thế Khanh. Qua ý kiến của quý vị với ông Khanh, chúng tôi theo dõi và xin có vài lời chia sẻ. Trong bài phỏng vấn ông Khanh của nhà báo Thuận Phong, chúng ta nhận thấy cách trả lời của ông rất ngây ngô và nghèo nàn tư ý (dù sau này ông nói là nhà báo TP bịa đặt). Tiếp theo, trong cuộc chất vấn trực tiếp mà ông Khanh đã thể hiện, chúng ta có thể nhận biết được trí tuệ của ông Khanh ra sao, và nhà báo TP có bịa đặt hay không? Chúng tôi xin lược trích những câu trả lời “xuyên suốt” của ông Khanh. Nếu ở bài trả lời phỏng vấn nhà báo TP, ông bám chặt vào linh hồn liệt sĩ để khỏa lấp: “- Đấy là liệt sĩ họ bảo thế, liệt sĩ yêu cầu Thì lúc bị chất vấn (trên FB) ông lại bám chặt vào thần tượng của mình là HT Thanh Từ nhằm tránh né để hòa cả làng với 6 lần trả lời gần như nguyên mẫu một câu: “Nếu quý vị có thời gian thì hãy đọc một lần những bài giảng của HT Thanh Từ. Về Phật học, tôi cũng chỉ dành thời gian để đọc những sách này, ngoài ra cũng không có thời gian để đọc các sách khác,…”. Tuy nhiên ông Khanh cũng dẫn dắt được vài câu lạ để chứng minh rằng ông đang bị 9 cái “Nội Ma” hành hạ rất khổ sở: “Tôi xin chuyển đến các vị bài "phóng chưởng" của ngài Phật Ấn làm cho Tô Đông Pha (tự xưng à 8 gió thổi bất động) thế mà chỉ 1 "chưởng" đã bị bay sang bên kia sông. Tôi cũng xin cống hiến các bạn câu chuyện của Tô Đông Pha thi Thiền với ngài Phật Ấn…” Thật buồn cho ông tiến sĩ. Chỉ với vài điều dẫn trên, chúng tôi mạo muội nói rằng: ông Khanh là một người rất thiếu thiện chí trong quá trình trao đổi, tham luận với mọi người. Là một nhà “khoa học” nhưng không có trí tuệ khoa học, là một nhà “văn hóa” nhưng lại rất thiếu văn hóa, là một nhà “tôn giáo” (Phật giáo) nhưng sự nhận thức và truyền bá kiến thức rất phi Phật giáo. Chúng tôi mong muốn quý vị tiếp tục trao đổi làm rõ vấn đề. Vì đây liên quan đến lợi ích thiết thực của đất nước, con người ngay trong hiện tại và mai sau. Vì đây liên quan đến một người có danh, có vị, có quyền chức… nhưng truyền dạy những điều phi đạo đức đã bị thâm nhiễm bởi sự nô dịch văn hóa ngoại bang từ hàng ngàn năm nay. Hy vọng ông Khanh sớm nhận ra. Mời quý vị đọc tiếp phần chất vấn: Chân Pháp Thích (vào 11:20 19/1/14) Thưa ngài tiến sĩ Vũ Thế Khanh, Trong trao đổi ngày 14/1/2014, tôi đã gợi mở nhiều ý để tiến sĩ chất vấn và mời tiến sĩ nêu câu hỏi để tôi có dịp tìm hiểu học hỏi thêm, nhưng mãi đến nay 19/1 vẫn không thấy có ý kiến gì. Phải chăng đây là một hành vi ứng xử của người có văn hóa? Thưa tiến sĩ, mấy ngày qua tôi có dịp đọc vài bài viết về “Nội Ma và Ngoại Ma”, “Nghi thức cúng gia tiên…” cùng những ý kiến khác của tiến sĩ. Qua đó tôi nhận thấy, nếu tiến sĩ là một khoa học gia ngành kiến trúc mà lấn sân lạm bàn về tâm linh Phật giáo với sự hiểu biết từ những tác phẩm của HT Thanh Từ thì quả thật là rất nông cạn và mạo hiểm. Kiến thức ngắn thì làm sao có thể là người có “văn hóa dài” như tiến sĩ đã tự thừa nhận mình như vậy! Trong ý kiến với Đoàn Tộc Phật Pháp, tiến sĩ có viết: “Bạn chưa bao giờ là người lính như chúng tôi thì làm sao có thể hiểu được tính nhân văn cao cả này của những người lính.” Như vậy tiến sĩ cũng đã từng là người lính. Và hôm nay tôi sẽ trao đổi với tiến sĩ trên tinh thần chúng ta cùng là những người lính (tôi cũng là một người lính trải qua một phần cuộc chiến chống Mỹ cứu nước). Tôi rất mong muốn tiến sĩ cùng tôi, với danh dự của người lính hãy thẳng thắn trao đổi những điều chân thật hướng đến sự lợi ích chung cho con người và muôn loài. Kiến thức vũ trụ thì vô hạn, sự hiểu biết của con người (phàm phu như chúng ta) thì rất hạn chế và mê ảo bởi 5 triền cái ngăn che và 17 kiết sử trói buộc. Do vậy, sự khiếm khuyết, thiếu hụt kiến thức trong mỗi người là không thể tránh khỏi. Vì lẽ ấy, mỗi người hãy không nên tự ngại ngần mà phải che giấu, khỏa lấp, né tránh những điều mình chưa hiểu biết. Làm như thế tất sẽ hại mình, hại người rất nhiều. Chúng ta bắt đầu trao đổi. Vì tiến sĩ không nêu được câu hỏi nào nên tôi chưa có cơ hội trả lời tiến sĩ. Nay dựa vào những bài giảng và ý kiến của tiến sĩ tôi sẽ đặt vấn đề trước. Đề nghị tiến sĩ trả lởi thẳng thắn, chân thật bằng sự hiểu biết của ý thức, không nên quấy quá, né tránh, trườn uốn như đã làm trước đây thì mọi người rất thất vọng. Với bài NỘI MA VÀ NGOẠI MA. Vậy Ngoại Ma là gì? Tiến sĩ đã dạy: “Ngoại Ma là phần vật chất vi tế thoát ra khỏi cơ thể … và được gọi bởi nhiều cái tên khác nhau - (tùy theo mức độ tiến hóa Tâm linh của sinh vật đó) - như: Cô hồn, linh hồn, Vong, Người âm, Vong linh, Hương linh, Anh linh, Chân linh, Giác linh, ... Người tu Phật gọi tên chung là THẦN THỨC…” Câu hỏi 1: Tiến sĩ dạy “tùy theo mức độ TIẾN HÓA TÂM LINH CỦA SINH VẬT ĐÓ mà có tên khác nhau như cô hồn, linh hồn, vong… chân linh, giác linh… và người tu Phật gọi chung là THẦN THỨC…”. - Xin tiến sĩ giảng rõ hơn về sự phân biệt các mức độ tiến hóa như thế nào để có tên gọi khác nhau như vậy? Trường hợp nào để gọi là “cô hồn”, “linh hồn” “vong”… “giác linh”? Xin nêu rõ và cho ví dụ cụ thể. Câu hỏi 2: Tiến sĩ dạy: “Khi con người chết đi thì Thần Thức thoát ra khỏi thân tứ đại, tiếp tục tồn tại dưới dạng thân Trung Ấm, và chờ đủ duyên thì đi tái sinh vào lục đạo luân hồi tương ứng với nghiệp lực đã gieo theo lý Nhân Duyên Quả”. - Vậy thưa tiến sĩ, thân Trung Ấm tồn tại thì con người có cách nào để nhận biết chúng? Nay tạm thưa tiến sĩ 2 câu hỏi trên. Kính mong tiến sĩ trả lời nghiêm túc trên tinh thần hiểu biết và với danh dự của một người lính: dũng mãnh, dám hy sinh, trung thực, thẳng thắn… vì lợi ích cho tất cả. Sau tôi sẽ tiếp tục thưa hỏi thêm, với tiến sĩ thì có quá nhiều vấn đề cần phải trao đổi cho rõ ràng. Trân trọng. Vũ Thế Khanh (vào 12:15 19/1/14) Nếu quý vị có thời gian thì hãy đọc một lần những bài giảng của HT Thanh Từ. Về Phật học, tôi cũng chỉ dành thời gian để đọc những sách này, ngoài ra cũng không có thời gian để đọc các sách khác, kể cả trhw của các quý vị Trân trọng. Đoàn Xuân Bảo (vào 12:41 19/1/14) Không nên mất thời gian cho một kẻ mù quáng, mê tín, tin vào thế giới siêu hình, tin vào linh hồn, bảo thủ, bản ngã to lớn, vô tình cổ xúy cho các nhà ngoại cảm, thầy cúng, đồng cốt như ông Vũ Thế Khanh. Hãy để ông ấy hài lòng với những việc ông ấy làm và điều ông ấy nghĩ. Dù Phật có sống lại cũng khó lòng thay đổi được bộ não ấy. Mọi người không thấy ông ta chẳng còn gì hơn ngoài việc khuyên chúng ta mất thêm thời gian đi đọc thứ kiến giải bã mía của HT Thanh Từ đó sao! Không nên mất thời gian cho một kẻ mù quáng, mê tín, tin vào thế giới siêu hình, tin vào linh hồn, bảo thủ, bản ngã to lớn, vô tình cổ xúy cho các nhà ngoại cảm, thầy cúng, đồng cốt như ông Vũ Thế Khanh. Hãy để ông ấy hài lòng với những việc ông ấy làm và điều ông ấy nghĩ. Dù Phật có sống lại cũng khó lòng thay đổi được bộ não ấy. Mọi người không thấy ông ta chẳng còn gì hơn ngoài việc khuyên chúng ta mất thêm thời gian đi đọc thứ kiến giải bã mía của HT Thanh Từ đó sao! Vũ Thế Khanh (vào 13:23 19/1/14) Nếu quý vị có thời gian thì hãy đọc một lần những bài giảng của HT Thanh Từ. Về Phật học, tôi cũng chỉ dành thời gian để đọc những sách của thày Thanh Từ, ngoài ra cũng không có thời gian để đọc các sách khác, kể cả mấy dòng thư của các quý vị. Trân trọng. Đoàn Xuân Bảo (vào 14:51 19/1/14) Bây giờ tôi mới thấy rõ cái giá của một vị tiến sỹ ở Việt Nam mình là như thế nào rồi ông Vũ Thế Khanh à! Nhục nhã quá! Bát Chánh Đạo (vào 15:12 19/1/14) Kính! tôi xin mạn phép chia sẻ... Xin Quý vị hãy kìm chế cảm xúc. Khi các bên bình tĩnh và trải lòng thì mới có thể chia sẻ, mới sáng tỏ được vấn đề. Kính an lạc. Đoàn Xuân Bảo (vào 15:47 19/1/14) Thưa thầy Bát Chánh Đạo! Cảm ơn thầy nhắc nhở, nhưng con nghĩ đơn giản là chúng ta không nên mất thời giờ vì ông Vũ Thế Khanh nữa. Âu cũng là dân tộc ta còn kém phước nên mới để một người như ông ta lên nắm giữ một chức vụ như thế. Hiện nay tà giáo còn quá đông nên chúng ta chỉ nên nói với người hữu duyên với chánh pháp thôi. Còn với người vô duyên thì có nói hết một đời cũng chỉ như nước đổ đầu vịt chứ có gì hơn. Ái ngữ cũng nên dùng đúng nơi đúng chỗ. Những gì con nói trên cũng không phải là tà ngữ. Chẳng đáng để tâm. Chân Pháp Thích (vào 16:09 19/1/14) Thưa tiến sĩ Khanh, Tôi đã đề nghị tiến sĩ trả lời nghiêm túc trên tinh thần của một người lính, dũng cảm, dám hy sinh, trung thực, thẳng thắn… thế nhưng tiến sĩ trả lợi như vậy đây. Rất buồn cho tiến sĩ. Tiến sĩ có biết rằng tất cả những bài giảng của HT Thanh Từ chúng tôi đều đã có dịp đọc không phải là một lần mà là nhiều lần. Nghiên cứu rất kỹ và chúng tôi nhận ra HT Thanh Từ cũng bị đầy đủ các loại Nội Ma (theo như lời dạy của tiến sĩ) ám ảnh nên không có gì khá hơn người phàm phu. Như vậy tiến sĩ biết rằng chúng tôi đã đọc nhiều lần những bài giảng của một vị bị ma ám, tiến sĩ không nên khuyên ai đọc nữa nhé. Tiến sĩ còn chưa biết, mấy năm trước, trên trang web Thư Viện Hoa Sen còn có phật tử theo Tịnh Độ đề nghị Giáo hội Phật giáo VN xóa tên HT khỏi Giáo hội nữa kia. (vào 16:11 19/1/14) Với Đoàn Xuân Bảo, Không mong có thể “thay đổi được bộ não ấy”, mà việc chúng ta cần làm là phải ngăn chặn kịp thời những hành động mê muội thiếu hiểu biết của vị tiến sĩ. Tiến sĩ Khanh đang gieo rắc nọc độc văn hóa mê tín dị đoan vào tư tưởng đại chúng. Sự nguy hiểm này mang lại tai hại khôn lường cho đất nước. Vũ Thế Khanh (vào 0:10 20/1/14) Nếu quý vị có thời gian thì hãy đọc một lần những bài giảng của HT Thanh Từ. Về Phật học, tôi cũng chỉ dành thời gian để đọc những sách của thày Thanh Từ, ngoài ra cũng không có thời gian để đọc các sách khác, nhất là thư của các quý vị thì càng không nên đọc. Trân trọng. Bát Chánh Đạo (vào 0:25 20/1/14) Kính! Tôi xin mạn phép chia sẻ... Thưa Ông Vũ Thế Khanh! Xin ông hãy giữ Tôn nghiêm của một trí thức, một học giả. Hãy hành xử như thế nào để giữ lại chút lòng tự trọng của bản thân. Kính chào xây dựng. Vũ Thế Khanh (vào 0:29 20/1/14) Nếu quý vị Bát Chánh Đạo có thời gian thì hãy đọc một lần những bài giảng của HT Thanh Từ. Về Phật học, tôi cũng chỉ dành thời gian để đọc những sách của thày Thanh Từ, ngoài ra cũng không có thời gian để đọc các sách khác, nhất là thư của các quý vị thì lại càng không nên đọc. Bát Chánh Đạo (vào 0:34 20/1/14) Cảm ơn Ngài. Thầy Thanh Từ là thần tượng của tôi trước đây. Tôi đã học tập ở Thầy rất nhiều. Nhũng tập sách của Thầy tôi không hề bỏ sót. Ngoài ra, Thầy còn có nhiều nhân duyên với gia đình tôi. Thầy là người có đức độ và có tâm với Phật pháp. Nhưng Thầy lại là nạn nhân của các vị tổ sư thiền truyền lại. Tôi thật đau xót cho Thầy. Hiện tình trạng sức khỏe của Thầy rất xấu. Cầu mong cho nhân - quả của Thầy vượt qua. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (vào 0:40 20/1/14) Kính cảm ơn Ông Vũ Thế Khanh đã chia sẻ cùng tôi. Các tập sách, giáo pháp của thầy Thanh Từ tôi đã rõ. Quý Ngài muốn chia sẻ bất kỳ bài nào của thầy TT tôi cũng xin thỉnh Ngài chia sẻ ạ! Kính an lạc. Vũ Thế Khanh (vào 02:12 20/1/14) Nếu quý vị nào muốn tham luận với tôi về Phật Pháp thì tốt nhất hãy nên đọc một lần những bài giảng của HT Thanh Từ. Nếu đọc rồi thì đọc thêm một lần nữa, vì sách của Hòa Thượng không chỉ đọc một lần. Về Phật học, tôi cũng chỉ dành thời gian để đọc những sách của thày Thanh Từ, ngoài ra cũng không có thời gian để đọc các sách khác, nhất là thư của các quý vị thì lại càng không nên đọc. Đoàn Xuân Bảo (vào 05:57 20/1/14) Quý vị đã thấy chưa? Đối với kẻ đã ghiền thứ á phiện của thiền tưởng (ảo giác, tưởng giải, siêu lý luận, vô đạo đức) như Vũ Thế Khanh thì quý vị còn trông đợi và hy vọng được gì cho gã ấy nữa? Vũ Thế Khanh (vào 07:58 20/1/14) Quý vị Đoàn Xuân Bảo thân mến Quý vị muốn tham luận với tôi về Phật Pháp thì tốt nhất hãy nên đọc một lần những bài giảng của HT Thanh Từ. Nếu đọc rồi thì đọc thêm một lần nữa, vì sách của Hòa Thượng không chỉ đọc một lần. Về Phật học, tôi cũng chỉ dành thời gian để đọc những sách của thày Thanh Từ, ngoài ra cũng không có thời gian để đọc các sách khác, nhất là thư của các quý vị thì lại càng không nên đọc Tôi xin chuyển đến các vị bài "phóng chưởng" của ngài Phật Ấn làm cho Tô Đông Pha (tự xưng à 8 gió thổi bất động) thế mà chỉ 1 "chưởng" đã bị bay sang bên kia sông. Các vị thích thuyết giáo Phật Pháp, nhưng chỉ nhắc đến việc phải đọc lại sách của Hòa Thượng Thanh từ mà các vị không chịu đọc lại khởi tâm muốn thi thố dạy đời thì có phải là THAM DANH không? Khi người khác không thèm chấp, không thèm đọc những kiến giải của mình, các vị liền nổi xung lên thì có phải là còn SÂN nặng không?, Chưa hiểu được câu "tùy căn mà giáo", bạ đâu cũng "thuyết pháp" , nhưng khi người ta không nghe thì không "nhẫn nhịn" được, không nhận thức được rằng mình chưa đủ Duyên mà lại sinh ra cay cú, đòi xỉ mắng người khác, như vậy có gọi là SI KHÔNG? Những Người còn nặng về THAM, SÂN, SI như vậy thì cho dù có đọc hàng gánh sách thì đạo lực có được bao nhiêu, và có cần phải mất thời giờ tranh luận với họ không? Tôi cũng xin cống hiến các bạn câu chuyện của Tô Đông Pha thi Thiền với ngài Phật Ấn. Chân Pháp Thích (vào 10:10 20/1/14) Thưa tiến sĩ Khanh. Xin tiến sĩ vui lòng trao đổi từ những lời thưa hỏi của tôi. Tôi có lời thưa hỏi chứ tôi không mong dạy ai. Tiến sĩ hãy tỏ mình là một nhà trí thức, nhà khoa học. Hãy nhìn thẳng vào những vấn đề tôi nêu để mà trao đổi với tâm biết tàm quý và có chút lương thiện tri thức nhé. Tôi không có ác ý với tiến sĩ bao giờ vì chúng ta đều đã từng là những người lính trải qua những tháng năm gian khổ trong cuộc chiến. Chả lẽ giờ lại muốn "chiến" nữa hay sao? Nếu thực sự tiến sĩ không trả lời được những câu hỏi tôi nêu ra thì có thể trả lời tôi bằng một câu hỏi khác có ý nghĩa và trí tuệ một chút cũng tốt. Đó là cơ hội để tôi và tất cả chúng ta học tập. Hãy xứng đáng với vị trí của mình nhé tiến sĩ. Tôi đủ kiên nhẫn để chờ đợi một câu trả lời có ý nghĩa của Ngài.
Trân trọng. Tiên Long (vào 10:36 20/1/14) Kính Vũ Thế Khanh. Ông tự hào là người lính của quân đội nhân dân Việt Nam ư. Có thật xứng đáng không hay là ông đang là kẻ đầu độc đồng bào mình? Ông không thấy chính những đồng đội của ông, toàn thể Bộ Quốc phòng đang ra sức ngăn chặn những hành vi ngoại cảm, tâm linh mù quáng mà các ông đang cổ xúy và tiếp tay. Bộ trưởng Phùng Quang Thanh cũng lên tiếng khuyên đồng bào không nên tin các nhà ngoại cảm, UIA biết chưa??? Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam yêu cầu cấm không cho các nhà ngoại cảm tham gia tìm mộ liệt sĩ và giao toàn quyền cho Bộ Quốc phòng ông biết không??? Tiến sĩ, đại tá Đỗ Kiên Cường đã có kinh nghiệm trên 30 năm nghiên cứu về hiện tượng ngoại cảm… đại tá đã lên án, phê phán, góp ý về sự non kém, sai lầm của trung tâm khai thác tiềm năng con người UIA, các ông có biết lắng nghe không??? Ngay cả vụ án thẩm mỹ Cát Tường đến nay dư luận vô cùng phẫn nộ, ông vẫn khoe UIA có sự phối hợp với Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an, vậy mà giờ này Viện Khoa học Hình sự sao không phối hợp với các ông để áp dụng tìm xác chị Huyền??? Các ông vào các trang báo mà xem nhân dân người ta bình luận về các ông đi. Quá tệ, quá tội với đồng bào lắm. Thảo Trang (vào 11:07 20/1/14) Con nghĩ bác Vũ Thế Khanh hết sức bình tâm suy ngẫm. Quả đúng là dư luận và báo chí khắp nơi, chỗ nào cũng hết sức phẫn nộ và phê phán sự tiếp tay mù quáng của UIA. (vào 11:14 20/1/14) Những cuốn sách giải thích về ngoại cảm, “Linh Hồn Không Có”, “Đường Về Xứ Phật” của Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã được đón nhận hết sức trân trọng bác ạ. Những cuốn sách đó rất có ích cho dân tộc, nó như những nhát búa tạ đập tan sự si mê vô minh của nhân loại, vạch mặt, nghiền nát âm mưu phá hoại của Phật giáo Trung Quốc. Đoàn Xuân Bảo (vào 13:13 20/1/14) Nhận định về việc cổ xúy các nhà ngoại cảm của ông Vũ Thế Khanh. Thứ nhất, linh hồn là điều không thể có, cho nên dù có chuyện nhà ngoại cảm nọ nói rằng: Linh hồn của 3 chiến sỹ đã tìm được hài cốt báo với nhà ngoại cảm là họ đồng ý chia một phần xương của mình cho liệt sỹ còn lại chưa tìm được hài cốt để gia đình họ khỏi buồn là điều không thể chấp nhận. Đây chỉ là sự lừa dối nhằm trục lợi tiền của của các gia đình liệt sỹ mà nhà ngoại cảm nọ bày ra mà thôi. Ông Khanh lấy căn cứ nào để tin điều đó? Ông Khanh còn cho rằng đó là hành động cao quý của các chiến sỹ thì thật là ấu trĩ. Ông Khanh trực tiếp là nạn nhân của nhà ngoại cảm kia rồi. Ông chỉ tin vào nhà ngoại cảm nọ và biện minh cho hành động lường gạt đó là “nhường cơm sẻ áo”, là nhân văn cao cả. Thật không thể chấp nhận được. Thứ hai, ông không hề có chút khái niệm hay hiểu biết nào về năng lực của Tưởng thức trong Tưởng uẩn của con người nên nhầm tưởng rằng “thần thức, linh hồn” là có thực rồi ra sức bảo vệ cho luận điệu sai trái của mình. Thứ ba, ông chỉ thần tượng những “công trình kiến giải” về Thiền Đông Độ của Trung Hoa được Hòa thượng Thanh Từ xào xáo lại thành cái gọi là Thiền Việt Nam mà không biết rằng đó chỉ là thứ Thiền Vô Sắc (Thiền ức chế, Thiền tưởng). Ngoài ra ông còn nói rằng không đọc hoặc lắng nghe bất cứ ai nữa vì theo ông họ là những người “ngắn văn hóa”. Đây là một thái độ không thể chấp nhận ở một nhà lãnh đạo có tầm như ông. Thứ tư, hành động của ông vô tình là sự cổ xúy cho các trò ngoại cảm, đồng cốt, cúng bái, cầu siêu, cầu an, giải hạn, v.v… Thật là nguy hiểm cho những ai tin theo ông. Thứ năm, thái độ cống cao, ngã mạn, khinh đời, không coi ai ra gì. Đây là điều mà ông tự đánh mất hình ảnh của mình. Cuộc sống này còn nhiều điều vi diệu hơn những gì ông biết, còn nhiều người cao siêu hơn thần tượng của ông – HT Thanh Từ. Những gì ông nói, viết và hành động về việc làm trên đây đều khó chấp nhận, nếu không muốn nói là không thể chấp nhận. Ông chỉ lấy tri thức một người là HT Thanh Từ ra để làm chuẩn mực cho đạo đức, là đại diện cho Phật pháp, trong khi HT Thanh Từ cũng chỉ là một người không làm chủ được Sinh – Già – Bệnh – Chết, đau ốm còn phải chích thuốc, đến bệnh viện cầu cứu bác sỹ. Vậy có nên tin theo những gì ông ta nói. Câu chuyện về Tô Đông Pha cũng chỉ là câu chuyện thêu dệt nên từ sự ảnh hưởng theo tư tưởng Nho giáo, Lão giáo mà thôi. Ông tưởng rằng ông lấy câu chuyện đó cho chúng tôi đọc hòng che mắt chúng tôi về sự ngu muội của ông chăng? Nói thật, tôi không muốn mất thời gian hay nói thêm điều gì về con người đáng thất vọng này nữa. Trong tôi, hình ảnh một ông Tổng Giám đốc Trung tâm UIA thật là nhạt nhòa. Bát Chánh Đạo (vào 20:05 21/1/14) Kính Ông Vũ Thế Khanh. Một nhà Bác học, một nhà khoa học là không bao giờ ngừng học. "Học, học nữa, học mãi" Ông quên câu nói của V.I. Lê Nin rồi sao? Ông chớ vội cho rằng kiến thức của ta đây đã đầy đủ và vội đóng Sầm cánh cửa trí tuệ, tri thức lại nhé! Hãy mở cửa, mở lòng ra! Thế giới còn rất bao la! Kính an lạc. Xem bài liên quan: |
Cập nhật ngày : 17.07.2014 | |||
Thưa quý phật tử và độc giả, Đấu tranh để xóa bỏ tệ nạn mê tín dị đoan là một việc cần làm nhưng vô cùng gian khó. Bởi vì tệ nạn này đã bám rễ sâu chặt trong tư tưởng người Việt Nam (nói riêng) và các nước Á Đông (nói chung). Mê tín dị đoan không chỉ ảnh hưởng những người lao động tay chân bình dân ít học mà ngay cả những người trí thức có học hành cao như tiến sĩ khoa học… cũng mê lầm tin tưởng lăn lóc vào thế giới siêu hình, linh hồn người chết. Những hoạt động mê tín đã gây tốn kém rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc của dân chúng. Vài năm gần đây các hình thức hoạt động mê tín gây hại lớn cho xã hội đã bị một số nhà khoa học lên tiếng bác bỏ, truyền thông đại chúng vạch mặt chỉ tên, dư luận xã hội tẩy chay. Nhưng tư tưởng mê tín vẫn luôn ngầm phục chờ cơ hội trỗi dậy. GNCN xin giới thiệu đến quý phật tử và độc giả một số ý kiến của các nhóm đối lập nhằm mục đích xóa bỏ tận gốc tệ nạn mê tin trong xã hội. Nguyên, từ bài bác bỏ sai trái của các nhà ngoại cảm trước đây (10/2013) của đại tá tiến sĩ Đỗ Kiên Cường, nay lại xuất hiện những ý kiến của một số vị tự xưng là “thức giả’ phản biện và phủ nhận sai trái đã bị tố cáo trước công luận nên mới có những đối luận dưới đây. Mời quý vị cùng đọc. Xin lưu ý: Các ý kiến của các vị (Lu Bim, Nguyên Đỗ, Hải Minh Lê) tự xưng và tôn nhau là “thức giả”, GNCN giữ nguyên comment, không hiệu chỉnh để quý độc giả hiểu rõ hơn về các vị “thức” dỏm này. ĐẠI TÁ ĐỖ KIÊN CƯỜNG: AI TUYÊN BỐ CÓ KHẢ NĂNG ÁP VONG LÀ LỪA ĐẢO (http://www.doisongphapluat.com/xa-hoi/dai-ta-do-kien-cuong-tuyen-bo-co-kha-nang-ap-vong-1a-1ua-dao-a7067.html#.U8XFQKNVNZt - 30/10/2013). Bất cứ ai tuyên bố có khả năng tiên tri, thấu thị hoặc áp vong, họ chính là kẻ lừa đảo". Đại tá Tiến sỹ Đỗ Kiên Cường đã nói như vậy với kinh nghiệm hơn 30 năm nghiên cứu các hiện tượng dị thường. PV: Câu chuyện về các nhà ngoại cảm đang thu hút sự quan tâm của dư luận, nhất là sau một loạt phóng sự VTV “vạch mặt nhà ngoại cảm”, trong đó có cả một nhân vật được coi là “huyền thoại ngoại cảm” của Việt Nam, vậy Ông bình luận gì về vấn đề này? Tiến sĩ ĐKC: Tôi hoàn toàn ủng hộ VTV trong việc vạch mặt giới ngoại cảm. Nếu có tiếc thì chỉ tiếc là VTV lên tiếng hơi muộn. Với sức mạnh to lớn trong việc tác động lên nhận thức và hành động của xã hội, nếu VTV lên tiếng sớm hơn, chắc chắn giới ngoại cảm không thể lộng hành như thời gian qua. Tôi rất mừng là nay xã hội đã tương đối đồng thuận trong vấn đề rất nhạy cảm này. Xin lưu ý rằng, ngay từ 2007, tôi đã được cộng tác với nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (hiện là Phó Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam) và nhà thơ Nguyễn Quyến để vạch mặt giới ngoại cảm. Và vào năm 2008, báo Thể thao và Văn hóa đã đăng liên tiếp 28 bài viết của tôi về các hiện tượng dị thường, trong đó tôi kiên quyết bác bỏ cái gọi là “ngoại cảm tìm mộ”, một thuật ngữ hoàn toàn sai về mặt học thuật và về mặt thực tiễn. PV: Báo chí có thuật ngữ nhà ngoại cảm “rởm” và nhà ngoại cảm “chân chính”, vậy theo Ông có tiêu chí gì để phân biệt không hay tất cả đều là rởm? Tiến sĩ ĐKC: Khi được đăng bài trả lời phỏng vấn kết luận loạt bài viết với cái tít: “Đại tá Đỗ Kiên Cường, chiến binh quyét sạch ngoại cảm giả danh”, tôi đã đùa với nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và nhà thơ Nguyễn Quyến rằng, phải chăng tôi không chống ngoại cảm “chân chính”. Xin khẳng định một sự thật rằng, sau 130 năm nghiên cứu (sau khi Hội nghiên cứu tâm linh đầu tiên trên thế giới ra đời tại Anh năm 1882), giới khoa học quốc tế chưa tìm thấy bất cứ một bằng chứng đáng tin cậy nào cho thấy các hiện tượng ngoại cảm và tâm linh có thật. Điều đó có nghĩa bất cứ ai tuyên bố có khả năng tiên tri, thấu thị hoặc áp vong, họ chính là kẻ lừa đảo, cho dù là lừa đảo chủ ý (để cầu danh lợi) hoặc không chủ ý (do tin tưởng mù quáng vào khả năng không có thật của mình). Xin nhấn mạnh điều căn cốt đó, do một thực tế là ngay cả những người đang mạnh mẽ phê phán giới ngoại cảm tìm mộ dường như cũng tin các hiện tượng tâm linh có thể có thật, cho dù với xác suất rất nhỏ. Nhiều người nhắc tới Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tiên tri Nostradamus hoặc nhà tiên tri Vanga. Xin nhấn mạnh rằng, nguyên lý bất định của cơ học lượng tử đã là phát súng ân huệ đối với khả năng tiên tri từ lâu rồi; nếu không thì các hãng xổ số đã phá sản. PV: Những vấn đề VTV đề cập không phải là lần đầu nhưng trước đây báo chí chỉ “đánh” lẻ tẻ rồi sau đó chìm xuống và những người được gọi là “nhà ngoại cảm” vẫn hoạt động bình thường? Ông có thấy điều này là bất thường? Tiến sĩ ĐKC: Không có đơn vị và cá nhân quyền lực nào đứng sau hoặc bao che giới ngoại cảm và tâm linh đâu. Chính xác hơn, chính chúng ta là những kẻ bao che. Tại sao tôi nói như vậy? Đó là vì “chúng ta muốn tin”, một bản năng gốc của con người. Có thể bạn đọc ngạc nhiển, nhưng khoa học cuối thế kỷ 20 chứng tỏ rằng, con người là loài động vật mê tín, khi chúng ta rất thích nghe và dễ tin các hiện tượng lạ thường, những hiện tượng có vẻ nằm ngoài hiểu biết đương đại. Tại sao như vậy? Lý thuyết tiến hóa hiện đại nói rằng, người mê tín có sức khỏe thế chất và tinh thần tốt hơn người không mê tín, do đó có khả năng di truyền hệ gien bản thân tốt hơn. Là hậu duệ của những người mê tín, nên chúng ta mang sẵn cái bản năng mê tín trong bản chất sinh học của mình! Tuy nhiên đây là một chủ đề rất phức tạp, nếu có dịp tôi sẽ trình bày rõ hơn. PV: Vấn đề nhà ngoại cảm, nhất là việc sử dụng họ trong việc tìm mộ liệt sĩ đã quá rối loạn trong thời gian qua. Vậy theo Ông, các cơ quan nhà nước cần ứng xử như thế nào để thay đổi tình trạng trên? Có ý kiến cho rằng, nên cấm triệt để hoặc nếu để các nhà ngoại cảm này tồn tại thì cần phải quản lý bằng cách tổ chức thi để cấp giấy chứng nhận, cấp giấy hành nghề. Tiến sĩ ĐKC: Nếu đặt ra nhiệm vụ quản lý ngoại cảm, nên tham khảo kinh nghiệm quốc tế, nhất là của Mỹ, nơi cả hai giới ủng hộ và phản đối các hiện tượng lạ đều hoạt động rất năng nổ. Ở đây có hai vấn đề: học thuật và quản lý nhà nước. Về mặt học thuật, chính phủ Mỹ tuyệt đối không chi tiền thuế của dân để nghiên cứu các hiện tượng đáng ngờ về mặt khoa học như ngoại cảm và tâm linh. Cần lưu ý thêm rằng, các tờ báo chính thống ngoại quốc (như Time, Newsweek, The Economist,…) không bao giờ viết về các hiện tượng này (trừ các bài phê phán!). Tất cả kinh phí nghiên cứu ngoại cảm đều do sự đóng góp của những người ưa chuyện lạ. Do không công nhận ngoại cảm về mặt học thuật, nên chính phủ Mỹ cũng không đặt ra vấn đề quản lý ngoại cảm (tại sao lại quản lý cái không có?). Các nhà ngoại cảm được tự do hoạt động để thỏa mãn tính hiếu kỳ của dân chúng, miễn là không ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của người khác và của xã hội. Nếu có sự lừa gạt thì đó là việc của tòa án. Riêng tại Việt Nam, quan điểm của tôi là cấm giới ngoại cảm hành nghề. Còn ai muốn chứng tỏ khả năng, hãy thực hiện sự thử nghiệm trước giới chuyên môn đủ tư cách học thuật. Tuy nhiên đó chỉ là hoạt động thuần túy học thuật mà thôi. PV: Hôm qua, cơ quan công an đã bắt “nhà tâm linh” - cậu Thủy (Bắc Ninh) vì tội lừa đảo làm giả hài cốt liệt sỹ. Đây không phải “nhà ngoại cảm” duy nhất có hành vi lừa đảo nhưng là trường hợp đầu tiên bị xử lý theo pháp luật. Vậy theo Ông, có nên có một cuộc tổng điều tra và xử lý tất cả những trường hợp có bằng chứng lừa đảo theo đúng quy định của pháp luật? Tiến sĩ ĐKC: Đó là điều bình thường trong một nhà nước pháp quyền và nên làm. PV: Gần đây, một giáo sư có tiếng đã phát biểu đại ý: không thể để Viện Toán học, Viện Vật lý “đứng cùng” với một trung tâm có những nghiên cứu về “áp vong”. Ông bình luận thế nào về phát biểu này? Tiến sĩ ĐKC: Tôi hiểu sự bức xúc của giáo sư và hoàn toàn đồng ý với ý tưởng đó. Theo tôi, UIA và Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người là những tổ chức phải chịu trách nhiệm chính trong việc lăng xê giới ngoại cảm. Qua các sự vụ như công nhận khả năng áp vong của cô đồng Phương tại Thanh Hóa, tung hô lúa nhân điện (trồng lúa không cần phân bón và thuốc trừ sâu, chỉ cần nhà nhân điện tuần hai lần đến nhìn ruộng lúa trong vài phút để “truyền năng lượng vũ trụ” mà lúa tốt bời bời!), bênh vực Phan Thị Bích Hằng hoặc gắn gương Huyền Thông để tôn vinh một số nhà ngoại cảm, có thể thấy hai tổ chức này là các cơ quan phản khoa học hơn là khoa học. Có thể bạn đọc không ngờ tới một thực tế rất đáng buồn rằng, ông tiến sỹ giám đốc UIA hoàn toàn không biết ngoại cảm là gì, cho dù ông rất hăng hái nghiên cứu và tung hô giới ngoại cảm. Nếu không tin, xin bạn đọc hãy tìm lại hai loạt bài viết cũ của tôi. PV: Những người phụ trách UIA hay Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người cũng là nhà khoa học, vậy theo Ông tại sao họ lại tin và thuyết phục dư luận là có những nhà ngoại cảm thật (nhà ngoại cảm chân chính) dù khẳng định khả năng của họ chỉ đạt 60-70% và có thể mất đi? Tiến sĩ ĐKC: Có hai lý do cơ bản. Đầu tiên với tư cách một người bình thường, họ cũng mê tín như chúng ta, do bản năng sinh học chi phối. Thứ hai, tuy cũng là nhà khoa học, nhưng họ không phải là nhà khoa học trong lĩnh vực dị thường học, nên thiếu kiến thức chuyên sâu. Năm 2002, tôi đã từng báo cáo chủ đề “Các hiện tượng ngoại cảm và tâm linh dưới ánh sáng khoa học” tại Viện Vật lý thuộc Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam nên tôi biết. Tại buổi seminar đó, vị giáo sư giám đốc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người hoàn toàn chưa biết những thông tin mà tôi trình bày. PV: Ông đánh giá thế nào về sự “chủ quan” của các tổ chức chi tiền cho việc tim kiếm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm như trường hợp Ngân hàng chính sách xã hội chi hơn 7 tỷ đồng cho “nhà tâm linh Thủy”? Tiến sĩ ĐKC: Hoặc họ tin tưởng mù quáng vào khả năng tâm linh, hoặc họ không tin nhưng vẫn chi tiền vì những lý do “tế nhị” nào đó. Chúng ta tin tưởng vào cơ quan điều tra và cùng chờ sự kết luận của pháp luật. Xin cám ơn ông! H.Minh (Nguoiduatin.vn) Ý KIẾN: Vô Tâm (11/7/2014): Viện UIA của ông Vũ Thế Khanh nên dẹp cho đỡ tốn tiền thuế của dân. Chân Pháp Thích (11/7/2014): … “Theo tôi (đại tá Đỗ Kiên Cường), UIA và Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người là những tổ chức phải chịu trách nhiệm chính trong việc lăng xê giới ngoại cảm. Qua các sự vụ như công nhận khả năng áp vong của cô đồng Phương tại Thanh Hóa, tung hô lúa nhân điện (trồng lúa không cần phân bón và thuốc trừ sâu, chỉ cần nhà nhân điện tuần hai lần đề nhìn ruộng lúa trong vài phút để “truyền năng lượng vũ trụ” mà lúa tốt bời bời!), bênh vực Phan Thị Bích Hằng hoặc gắn gương Huyền Thông để tôn vinh một số nhà ngoại cảm, có thể thấy hai tổ chức này là các cơ quan phản khoa học hơn là khoa học. Có thể bạn đọc không ngờ tới một thực tế rất đáng buồn rằng, ông tiến sỹ giám đốc UIA hoàn toàn không biết ngoại cảm là gì, cho dù ông rất hăng hái nghiên cứu và tung hô giới ngoại cảm”… Ông Vũ Thế Khanh có biết chữ để đọc, rồi suy tư mà hiểu những lời này của đại tá Cường không nhỉ? Từ bao lâu xã hội đã vạch mặt sự dối lừa của các nhà ngoại cảm có liên quan tới UIA, vậy mà ông Khanh vẫn trơ trẽn "cố đấm ăn xôi". Rất tủi hổ với danh nghĩa một nhà khoa học như ông!!! Lu Bim (12/7/2014) VÀI SUY NGHĨ VỀ BÁO CHÍ, DƯ LUẬN, TÂM LINH VÀ KHOA HỌC Gần đây , truyền thông đã tạo nên một cơn bão phê phán mạnh mẽ không nương tay với những gì liên qua đến "ngoại cảm-tâm linh" .Tôi cho rằng:Với những kẻ mạo nhận "ngoại cảm dỏm" để trục lợi thì tất nhiên phải phê phán ,trừng phạt thật nặng nề. Đó là điều không cần bàn cãi. Tuy nhiên hiện nay đang có một làn sóng phủ nhận và bỉ báng những giá trị tâm linh thiêng liêng rất mù quáng theo hiệu ứng đám đông nông nổi mang tính a dua là chính.Sự phủ nhận mù quáng này lại được sự hỗ trợ đắc lực của một số thế lực "truyền thông lá cải" tát nước theo mưa và không loại trừ có sự thúc đẩy sắp đặt của những bàn tay mờ ám trong giới chính trị . Truyền thông "lá cải" đã không từ một thủ thuật nào để cắt xén thông tin, gọt dũa thông tin, tung hứng câu chữ theo một hướng để câu người đọc, để đáp ứng tâm lý thích "nổi loạn đạp đổ" của đám đông mù quáng hoặc để đáp ứng yêu cầu "định hướng" của những người nào đó. Chính bởi thế cho nên trong cơn lốc lên án chỉ trích những người vô lương giả mạo ngoại cảm để trục lợi thì họ cũng cố tình tàn nhẫn, độc ác, phỉ báng phủ nhận cả những nhà ngoại cảm chân chính đã có nhiều tâm sức công lao suốt bao năm ròng để làm việc báo nghĩa cho anh hùng liệt sỹ và đã đạt rất nhiều kết quả đáng kinh ngạc. Rất nhiều người đã lấy lý luận , logic trong cuộc sống vật chất của xã hội con người để phán xét ,suy luận hoặc nêu yêu cầu về những vấn đề thuộc một thế giới siêu hình nằm ngoài khả năng nhận thức và hiểu biết của con người.Bản thân lý luận duy vật biện chứng khoa học cũng đã công nhận :Mỗi một dạng thức "sống" luôn có những quy luật riêng , những logic đặc thù riêng. Thậm chí các dạng thức "sống" khác nhau có những khoảng trống nhận thức khác nhau không thể giao thoa , dung hòa , tiến tới... Vậy mà: Gần đây có nhiều người nhân danh khoa học,nhân danh thứ lý luận "duy vật biện chứng" thô sơ , thậm chí là thô thiển để áp đặt những logic đời thường vào logic của thế giới chưa biết rồi lấy làm tự đắc , khoái chí tưởng như mình đã nắm được chân lý. Thật ra đó chính là lối tư duy phản khoa học và "phản động"nhất _ xét về mặt triết học _ nhưng ngụy danh khoa học và biện chứng. Thật kinh ngạc vì trong cơn lốc rất chính đáng đang lên án những kẻ mạo danh trục lợi bằng vỏ bọc tâm linh thì đồng thời một số báo chí chính thống có hạng của VN cũng có nhiều bài viết cố tình xuyên tạc , bôi bẩn những nhà ngoại cảm tử tế và phỉ báng cả những nhà khoa học danh tiếng đã dành hết tâm huyết cuôc đời để nghiên cứu một lĩnh vực khó khăn , nhọc nhằn , nhạy cảm này. Suốt bao ngàn đời nay dù Âu hay Á , dù lạc hậu hay văn minh nhưng chưa bao giờ, chưa có ai và chưa có thời đại nào phủ nhận được thế giới bí ẩn vô hình đang song song tồn tại . Nếu có chăng chỉ là sự phủ nhận của vài nhóm người , vài luận thuyết và vài chế độ chính trị .Nhưng, tất cả sự phủ nhận ấy chưa khi nào được chứng minh cụ thể mạnh mẽ và được số đông nhân loại _Trong đó có rất nhiều thế hệ nối tiếp nhau các nhà khoa học nổi tiếng _ công nhận và rồi được tồn tại lâu bền như ý muốn duy ý chí của những ai tôn sùng chủ thuyết duy vật cực đoan ấy. Phê phán cái xấu , cái ác , cái giả dối là rất cần thiết.Nhưng phê phán tràn lan mù quáng theo phong trào , theo cảm tính cá nhân , theo những hiểu biết còn cạn hẹp trong trị thức của mỗi cá nhân, hoặc phê phán theo tâm lý "nổi loạn ,đạp đổ bản năng" kiểu A.Q mà không tôn trọng những hiện thực khách quan, những quy luật vận hành khách quan cứ tồn tại gần như là vĩnh viễn bất chấp mọi nỗ lực phủ nhận của nhiều người thì chúng ta chính lại là những kẻ "phản động" nhất trong khoa học. Về mặt xã hội , trong khi chúng ta luôn nhấn mạnh lý luận "Không nên nhìn qua một giọt nước để diễn đạt sự mênh mông của cả đại dương".Hoặc chúng ta luôn nhấn mạnh cần phân biệt "hiện tượng" và "bản chất" để lý giải hoặc hiệu triệu xã hội và coi đó là những lập luận gốc rễ khoa học nhất (?) của khoa học xã hội. Âý nhưng , thời gian gần đây chúng ta đã làm ngược rất nhiều . Rất nhiều thất bại nặng nề trong nghiên cứu khoa học .Rất nhiều sai lầm thất bại trong xây dựng mô hình xã hội cũng như xây dựng chính sách xã hội đã được chúng ta vận dụng lý luận "gốc rễ" trên để giải thích .Nhưng chúng ta lại nêu yêu cầu những nhà khoa học , những nhà ngoại cảm chân chính không được phép "thất bại" trong tất cả quá trình nghiên cứu , ứng dụng của họ. Đáng lẽ chúng ta chỉ được phép nêu một yêu cầu duy nhất : -"CÓ THỂ CHƯA ĐÚNG NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC PHÉP DỐI LỪA !" Vậy là đủ , vậy mới là biện chứng, vậy là hợp đạo lý vậy là đúng với nhân tâm. Báo chí, dư luận, khoa học và vấn đề "ngoại cảm ,tâm linh", hãy tỉnh táo, cảnh giác đừng cho những bóng ma "hồng vệ binh" Đại Cách Mạng Văn Hóa ngày xa xưa có cơ hội ngóc đầu quay trở lại ! Chân Pháp Thích (12/7/2014): Đọc bài “VÀI SUY NGHĨ…” của Lu Bim, thoáng qua tưởng như pháp luận của Lu Bim có tính học thuật sâu xa lắm. Nhưng thật thất vọng vì bài viết không ngoài tâm ám nghi dẫn đến suy luận cực đoan do sự hiểu biết hạn hẹp nên không thuyết phục, bố cục tùy hứng, nhận định mơ hồ, chụp mũ nặng nề với những ai không phù hợp quan điểm với mình. Chắt lọc từ bài viết này, tôi lựa ra một vài ý để trao đổi thêm với Lu Bim, hầu mong chúng ta dần đi đến một cái chung có ích lợi cho mình và mọi người (tức là đừng có hại cho ai). -- Lu Bim viết: “…hiện nay đang có một làn sóng phủ nhận và bỉ báng những giá trị tâm linh thiêng liêng rất mù quáng theo hiệu ứng đám đông nông nổi mang tính a dua là chính.” - Chân Pháp: Lu Bim đã nhầm. Thực ra cái gọi là “giá trị tâm linh thiêng liêng” đã được bao thế hệ trải dài suốt mấy ngàn năm tôn vinh, sủng ái một cách hết sức mù quáng, mê muội. Ai là người làm ra và nuôi dưỡng những điều u mê ấy? Đó là tôn giáo thần quyền. (Ở đây tôi muốn chỉ đích danh là Phật giáo phát triển – không đề cập tới các tôn giáo khác. Phật giáo đã biến ông Phật thành ông thần, ông thánh). Chính tôn giáo thần quyền dưới sự bảo vệ, che chở, nâng đỡ của pháp quyền đã mặc sức tung hoành mọi luận điệu rất trái với thực tế khách quan sự tồn tại của muôn loài để mưu cầu lợi ích nhóm. Còn lại đa số người dân trong xã hội luôn phải sống trong âu lo sợ hãi trước một thế giới ảo huyễn nhưng đầy quyền năng do các nhà truyền giáo (mê tín) dựng lên. Phật giáo phát triển đã tạo ra một loạt những ảo tưởng về vong linh, linh hồn, thần thức… cùng một thế giới song hành đời sống con người khiến bao người phải khiếp đảm. Duyên may có một số ít người gặp được Chánh Phật pháp, giác ngộ được chân lý nhiệm màu Phật dạy, họ hiểu ra bản chất thực sự của con người, các mối liên quan với vạn pháp và vũ trụ nên đã mạnh dạn nói thẳng ra thì bị Lu Bim chụp mũ là “mù quáng, nổi loạn, đạp đổ…”. Rất tiếc rằng chỉ có một số ít nhận hiểu được điều chân thật pháp, còn lại số đông vẫn là hòn đá tảng kiên cố (Phật giáo phát triển) trì trệ và u mê, mãi dẫn xã hội theo lối mòn của quan điểm và nhận thức thuở con người sơ khai. Nếu nói rằng có một thế giới song hành với đời sống của con người, ở đâu đó có những vong linh, linh hồn, thần thức của người đã chết vẫn tồn tại, hẳn là thế giới ấy cũng phải có một tổ chức như xã hội của con người đang sống. Và những vong hồn ấy cũng phải ăn, phải hoạt động v.v… vậy thì thực phẩm gì đã nuôi sống vong hồn? Trong thế giới vong hồn ấy, hình dáng của mỗi vong hồn ra sao, tuổi thọ của mỗi vong hồn tồn tại bao lâu? Chỉ vài câu hỏi đặt ra ấy mà từ xưa tới nay, các nhà tu tập tâm linh tà giáo, các nhà khoa học vật chất đều điên đầu không làm sao trả lời được. Điều thật đơn giản, đức Phật và các bậc thánh A-la-hán đã xác định rõ: không có vong linh, linh hồn, thần thức ở ngoài con người đang sống. Những khái niệm mơ hồ quái dị ấy là do tà giáo đặt ra để người lạc hậu mê tín có chỗ nương tựa, bám víu, mong cầu. Khi người đã chết thì tất cả những thứ (tưởng là có) ấy đều biến diệt theo thân xác. Do vậy không có khoa học nào, nhà tu tâm linh (tà giáo) nào có thể minh chứng được linh hồn (vong linh, thần thức) cụ thể ra sao. - Như vậy ngoại cảm có gì hữu dụng? Lu Bim có nêu ra vấn đề “ngoại cảm dỏm” và ngoại cảm chân chánh. Việc các nhà ngoại cảm rởm gây ra biết bao nhiêu điều rắc rối cho xã hội, lừa đảo chiếm dụng tiền của của người khác, bị pháp luật trừng trị là rất xứng đáng. Nhưng còn những nhà ngoại cảm được tưởng như là chân chánh thì sao? Điều này không thể có. Chân chánh ở chỗ nào khi họ đã gắng công để đi tìm một cái không có thì lấy gì chứng minh cho sự chân chánh? Nhà ngoại cảm cũng khói nhang, tụng cúng để rồi khi ý thức mất đi, thay vào đó là một cái ảo thức khác có khả năng nhận biết một vài âm thanh, hình ảnh còn lưu giữ trong không gian, rồi thêm bớt, tạo dựng ra những cảnh khiến người đời tin nghiêng ngả. Sự thực những lời phán của nhà ngoại cảm chính xác được bao nhiêu %? Một người nhận biết mọi sự trong mơ (mơ hồ) thì sự chính xác không quá 3% (do may mắn ngẫu nhiên) như chuyên gia thôi miên (thạc sĩ y khoa Nguyễn Mạnh Quân đã khẳng định). Do vậy, chúng ta thẳng thắn bác bỏ, không cần thiết đến các nhà ngoại cảm, càng lên án mạnh mẽ những nhà ngoại cảm lợi dụng mê tin của con người để lừa đảo. Các nhà ngoại cảm đang tự lừa dối mình mà không biết. Từ chỗ không hiểu được chính bản thân mình, lại mong đi giúp người khác nên vô tình trở thành kẻ lừa đảo rất đáng thương. Dư luận xã hội đã vạch mặt chỉ tên rõ ràng, nhưng vẫn còn khá đông người u mê bám chặt không sao buông bỏ được. -- Lu Bim viết: “…Thật kinh ngạc vì trong cơn lốc rất chính đáng đang lên án những kẻ mạo danh trục lợi bằng vỏ bọc tâm linh thì đồng thời một số báo chí chính thống có hạng của VN cũng có nhiều bài viết cố tình xuyên tạc, bôi bẩn những nhà ngoại cảm tử tế và phỉ báng cả những nhà khoa học danh tiếng đã dành hết tâm huyết cuôc đời để nghiên cứu một lĩnh vực khó khăn, nhọc nhằn, nhạy cảm này.” - Chân Pháp: Báo chí chính thống và dư luận xã hội đã phản ánh rất chính xác những sự việc làm sai quấy của các nhà ngoại cảm. Đồng thời cảnh báo những nhà khoa học tham danh lợi, đã lao vào một lĩnh vực mà mình thiếu hiểu biết ngoài chuyên môn được đào tạo, kêu gọi họ hãy dừng lại. Nhưng thật là trơ trẽn, họ vẫn cố tình chạy theo làm những điều không thể. -- Lu Bim viết: “Phê phán cái xấu, cái ác, cái giả dối là rất cần thiết. Nhưng phê phán tràn lan mù quáng theo phong trào, theo cảm tính cá nhân, theo những hiểu biết còn cạn hẹp trong trị thức của mỗi cá nhân, hoặc phê phán theo tâm lý "nổi loạn, đạp đổ bản năng" kiểu A.Q mà không tôn trọng những hiện thực khách quan, những quy luật vận hành khách quan cứ tồn tại gần như là vĩnh viễn bất chấp mọi nỗ lực phủ nhận của nhiều người thì chúng ta chính lại là những kẻ "phản động" nhất trong khoa học.” - Chân Pháp: Những gì u mê, mê tín, trì trệ làm khổ thêm cho con người vốn khổ, lại ngăn cản sự tiến bộ của nhân loại thì nên cương quyết đấu tranh dẹp bỏ. Sự gieo rắc mê tín của các tà giáo là việc làm rất xấu, rất ác. Nhưng trớ trêu thay, chính những người đã tạo ra cái xấu cái ác đó thì họ vẫn thản nhiên im lặng trước mọi sự phản ứng của một bộ phận xã hội đang lên án mạnh mẽ. Họ, những người im lặng không chịu chuyển đổi đó mới là những A.Q thời đại, họ chiến thắng và thực sự họ đã lì lợm chiến thắng để ung dung ngồi hưởng lạc trên mồ hôi nước mắt của đồng loại. Chỉ thương cho những ai bóp chắt dành dụm tiền bạc cúng dường cho những loài sâu mọt nhưng lại khéo lừa mị đời để sống. -- Cuối cùng Lu Bim kết luận: “Đáng lẽ chúng ta chỉ được phép nêu một yêu cầu duy nhất: -"CÓ THỂ CHƯA ĐÚNG NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC PHÉP DỐI LỪA!" - Chân Pháp: Câu này Lu Bim luận trật rồi. Phải thẳng thắn, chắc nịch rằng, nếu thấy đúng, thấy lợi cho mọi người thì làm, làm ngay. Còn chưa đúng, hay “có thể chưa đúng” mà vẫn làm thì rất nguy hiểm, cần cấm tuyệt chứ không phải rằng hạn chế là “không được phép dối lừa”. “Có thế chưa đúng” mà cứ làm thì thực sự là Hồng vệ binh của Đại Cách mạng Văn hóa chứ không còn là bóng ma nữa. Thực sự Hồng vệ binh đã o ép, đã dẫn đường cho tà giáo Việt Nam hoạt động suốt bao nhiêu năm qua. Cố tìm xem có gì dám khác không nhé Lu Bim. Nguyên Đỗ (13/7/2014): Tôi đã đọc rất kỹ 2 comment cuả 2 bạn LuBim và bạn Chân Pháp Thích .Tôi vốn chỉ là một kẻ qua đường thường im lặng đọc và suy ngẫm rất ít khi tham gia các cuộc thảo luận.Tuy nhiên , tại đây có vài vấn đề khiến tôi đành phải có vài lời nhận xét .Có thể nhận xetys của tôi khiến ai đó phật lòng nhưng nó là những ý kiến và "cảm tưởng" rất thật: Đầu tiên tôi nhận ra Chân Pháp Thích và LuBim nói chuyện với nhau bằng 2 thứ ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau !.Bởi có như thế thì mới giải thích được tại sao LuBim nói về vấn đề A mà Thích Chân Pháp lại say sưa trả lời lại bằng vấn đề B ! Chỉ cần là một người có khả năng tư duy trung bình khá và có chút kiến thức văn hoá xã hội phổ thông thường thức rồi chịu khó suy nghĩ chút ít thì cũng rất dễ ràng nhận ra chủ đề LuBim viết không có gì trùng hợp với chủ đề Thích Chân Pháp lý luận . Tôi có cảm giác Thích Chân Pháp đọc bài viết của LuBim nhưng không hiểu bạn LuBimnày viết gì và mục đích đến của bài viết đó nhằm đến đâu . Cho nên bài viết phản biện của bạn Thích Chân Pháp gây liên tưởng đến hình ảnh Donkysot vác giáo đánh nhau với cối xay gió ! Bài phản biện của bạn Thích Chân Pháp có vẻ như quá lạm dụng ngôn ngữ tôn giáo (rất dễ làm cho những bạn đọc "tay mơ" nhầm tưởng là uyên bác (!) ) để phản bác một bài viết sử dụng ngôn ngữ báo chí phổ thông của LuBim .Những danh từ có vẻ giống với ngôn ngữ tôn giáo của bạn Thích Chân Phap dễ làm rối trí người đọc nhưng nếu ta thử kiên trì đọc kỹ thì thấy lý luận của bạn ấy mờ mịt " nửa tà nửa chính" .Nếu ai đã từng tiếp xúc với một số nhà "truyền giáo" của vài giáo phái mới xuất hiện tại Việt Nam thì sẽ thấy sự giống nhau về cơ bản lối lý luận của mấy vị này với lý luận của bạn Thích Chân Pháp( khi bạn nói về Đạo Phật ) khi muốn phủ nhận , phỉ báng các tôn giáo lớn đã có mặt tại VN từ lâu để đề cao sự đúng đắn của thứ tôn giáo lạ mà họ đang vận động ( Một số "tà đạo " -tạm gọi như vậy thôi-như Vô thượng đạo sư, đạo "Bác Hồ" của bà Điền , các chi phái Tin Lành lạ...v..v.. là những ví dụ) . Nếu không đi sâu vào những khái niệm và những kiến thức lộn xôn "nửa tà nửa chính" mà bạn Thích Chân Pháp đã trình bày khá mịt mờ lộn xộn thì nhìn chung , tôi cam đoan rằng phần lớn ai có kiên nhẫn đọc kỹ bài viết của bạn sẽ đều có cảm tưởng tác giả của nó có lẽ là một "Tiểu tăng" (Chú Tiểu) tu tập dở dang , thuộc nằm lòng một chút kiến thức về Phật pháp nhưng đã phá giới về đời thường tham gia công tác xã hội, sau vài khoá tập huấn nâng cao gì đó rồi trở thành một ông uỷ viên văn hoá cấp Phường Xã hoặc một ông cán bộ mặt trận thị trấn huyện chẳng hạn. Hoặc "sang chảnh" hơn chút nữa thì có thể tác giả là một thành viên trẻ của một thứ tôn giáo "mới" có chút giáo lý liên quan với Phật pháp đang vận động phát triển cho tôn giáo của mình .Tôi cũng cho rằng , bạn muốn tranh luận với ai điều gì đó thì bạn rất nên phải đọc thật kỹ để hiểu điều họ đang nói và cả những điều họ muốn nói nữa.Nếu bạn tự thấy mình chưa thể hiểu hoặc không thể hiểu thì bạn đừng tranh biện làm gì.Tôi tin rằng khi bạn lớn tuổi hơn nữa và có nhiều hiểu biết thật là sâu sắc hơn nữa thì bạn sẽ thấm câu nói của người xưa :'Bút sa gà chết" hoặc câu "Người nho sỹ chỉ sợ duy nhất cây bút của mình". Tôi mong các bạn đừng tự ái hay nổi giận vì những lời nhận xét góp ý ngẫu hứng nhưng thật tâm của tôi. Xin được miễn tranh luận . Chân Pháp Thích (13/7/2014): Chắc bạn Nguyên Đỗ chưa đọc nội dung bài viết của đại tá Đỗ Kiên Cường. Vì có bài viết này mà Lu Bim miệt rằng đó là những thông tin trên "truyền thông lá cải", cộng với sự vạch mặt chỉ tên các nhà ngoại cảm của VTV1 mà Lu Bim gọi là "truyền thông chính thống". Cả hai phương tiện truyền thông này phối hợp, "a dua" nhau để "phủ nhận và bỉ báng những giá trị tâm linh thiêng liêng rất mù quáng..." Khởi đầu là như vậy, "tâm linh thiêng liêng - ngoại cảm rởm và chân chánh" khiến Lu Bim khơi gọi lên bao nhiêu là triết lý kim cổ để bảo vệ một niềm tin u mê, mê muội đã bám theo suốt hành trình lịch sử phát triển của nhân loại. Chắt lọc từ tư tưởng đó, tôi thẳng thắn có những ý kiến như trên. Vậy mà nay, gặp được bạn Nguyên Đỗ chia sẻ với tâm trịch thượng và cực đoan không khác Lu Bim bao nhiêu. Bạn cho tôi là một "tiểu tăng", vậy còn bạn, chắc là người tu tập đã tinh cần tinh tấn khá tiến bộ. Vậy tôi xin thưa để được học hỏi thêm kiến thức, bạn vui lòng chia sẻ nhé. Bạn nói rằng "miễn tranh luận", tôi rất hoan hỷ điều đó. Nhưng tôi đặt vấn đề cầu học để tìm hiểu chân lý. Mong bạn vui lòng sẻ chia. Nếu bạn không rộng lòng cởi mở thì rõ ràng bài phản biện của bạn nhằm một ý không thiện chí. Tôi xin nêu vấn đề thưa hỏi, mong bạn vui lòng trao đổi để tôi và tất cả mọi người, chúng ta đều có cơ duyên mở mang kiến thức. Nội dung tôi mượn ngay trong bài viết của Lu Bim để sát với chủ đề. Trong bài Lu Bim viết: "Gần đây có nhiều người nhân danh khoa học, nhân danh thứ lý luận "duy vật biện chứng" thô sơ, thậm chí là thô thiển để áp đặt những logic đời thường vào logic của thế giới chưa biết rồi lấy làm tự đắc, khoái chí tưởng như mình đã nắm được chân lý." Từ "lý luận duy vật biện chứng thô sơ - hay thô thiển" mà các truyền thông lá cải đã đăng. Vậy xin bạn Nguyên Đỗ hãy dẫn chứng và giải thích rõ ràng thêm về "Chủ nghĩa duy vật biện chứng vi tế" để mọi người được hiểu về một thế giới tâm linh thiêng liêng đầy bí ẩn nhé. Rất hoan hỷ mong câu giải đáp. Trân trọng. Michelle Rowe (14/7/2014): Gửi bạn Nguyên Đỗ. đọc comment của bạn mà tôi thấy nực cười giống như một đứa trẻ ranh mới tập tễnh học nói hay còn gọi là chim học nói tiếng người. Bạn tự cho mình là một người am hiểu Phật Pháp hoặc các tôn giáo của những phái khác. Tôi cũng đã bỏ khá nhiều thời gian để học hỏi, tìm hiểu tất cả những cái mà mấy ông đồng bóng ẩn núp dưới những nhà khoa học để tiếp tay cho một số kẻ lợi dụng những người còn mê tín, lạc hậu để hưởng trục lợi từ tiền của mồ hôi nước mắt của họ làm ra. Bạn dựa vào đâu mà bảo rằng những người như thày Chân Pháp Thích, hoặc những nhà báo như VTV1 viết những bài phản biện những nhà ngoại cảm dỏm vạch ra những cái sai của họ nhằm mang lại lợi ích cho người mọi người dân và đất nước VN nói riêng là để vận đông mang lại lợi ích cho tôn giáo của họ. Trong thời đại này nếu muốn nói đến một vấn đề gì thì phải có chứng minh cụ thể rõ ràng chứ không thể nói suông. Bằng chứng là ông Vũ Thế Khanh, một Tổng Giám đốc Viện khoa học UIA của cả một đất nước mà dám tuyên bố có linh hồn hoặc thế giới siêu hình. Nhưng khi có nhiều người đặt ra câu hỏi đề nghị ông giải thích thì ông không trả lời thẳng câu hỏi mà tìm cách tránh né hoặc trả lời một cách quanh co không nằm trong vị trí của câu hỏi nhằm coi thường người khác. Thật đáng buồn cho dân tộc VN tự hào là một dân tộc anh hùng, nhưng lại luôn sống trong u mê, mê tín, sống phụ thuộc vào những ma quỷ, thần thánh, nước Việt ta đã nghèo lại càng nghèo thêm, hàng năm tốn không biết bao nhiêu tiền của một cách vô ích, không những thế mà lại càng làm cho ô nhiễm môi trường đất nước cũng chỉ vì có những hạng người lưu manh giả danh trí thức ẩn núp dưới cái bóng mà gọi là nhà khoa học để hưởng trục lợi, không những thế còn có kẻ a dua, nịnh bợ như Lu Bim còn bênh vực xiển dương họ nhằm bác bỏ những gì mà ông tiến sĩ Đỗ Kiên Cường và đài truyền hình VTV1 đã chứng minh một cách cụ thể rõ ràng. Bạn viết là “bút sa gà chết”, hoặc xin được “miễn tranh luận”. Nếu xin được miễn tranh luận thì bạn viết những comment này ra làm gì? Tôi thiết nghĩ trước khi bạn viết ra điều gì thì bạn hãy đọc lại comment của mình viết ra, hoặc có những suy nghĩ khách quan, đúng đắn nhằm mang lại lợi ích cho cộng đồng thì hãy viết. Bằng ngược lại không nên viết một cách hồ đồ theo cảm tính riêng của mình để cho người khác họ đọc còn có chút tôn trọng bạn Vài lời góp ý chân thành cũng là để mang lại lợi ích cho mọi người Việt nói chung và cho bạn nói riêng Xin chào Hải Minh Lê (14/7/2014): Đọc ý kiến của Nguyên Đỗ xong rồi đọc tiếp ý kiến của Chân pháp Thích thì mình vừa ngạc nhiên vừa thán phục Nguyên Đỗ. Ngạc nhiên vì Thích chân pháp mang danh là người có đạo (?) nhưng lại biểu lộ đủ cung bậc Sân Si Hỉ Nộ quá đà chỉ trong vài dòng chữ, dù cho anh ta lạm dụng dùng câu "hoan hỷ" của đạo Phật . Thán phục vì Nguyên Đỗ nhận định quá đúng đắn về Chân pháp thích. Ai cũng dễ ràng nhận ra anh chàng Chân pháp thích này là một anh chàng tuổi trẻ ngông cuồng chưa thành người lớn về nhận thức vì anh ấy nói như một người cuồng chữ mà chả hiểu mình nói gì , nói với ai. Qua cả 2-3 bài đối đáp với bạn đọc mà anh chàng này bộc lộ hết điểm yếu chết người của mình là :Anh ta chỉ thấy "chữ" mà không thấy "nghĩa". Tóm lại là khả năng "đọc" của anh ấy cách rất xa khả năng "hiểu" của chính anh chàng.Anh chàng đã chả hiểu gì về bài báo của bác lubim rồi ngay sau đó lại chả hiểu gì về ý nghĩa bài góp ý của bác Nguyên Đỗ. Người ta nói gà thì Chân pháp thích lại hiểu ra vịt với một tâm trạng cay cú ngô nghê không giống tâm thế một người có đạo tý nào. Đọc ý kiến của 2 bác kia thì tôi hiểu rằng cả 2 bác đó chẳng phải tín đồ của bất cứ tôn giáo nào cả.Hình như họ chỉ đơn thuần là những thức giả lấy chuyện tín ngưỡng để nói chuyện cuộc đời với một tâm thức tôn trọng tất cả mọi tôn giáo trên cơ sở tôn trọng các quy luật hiện thực khách quan khoa học mà thôi.Vậy mà Chân pháp thích và ông đồng minh Michelle Rowe nặc danh của mình lại cứ ngô nghê lèo lái những thức giả chuyên đề xã hội này vào ba cái chuyện chữ nghĩa của thứ tôn giáo mà họ đang xiển dương.(Nói thật , tôi cũng có nghi ngờ về thứ tôn giáo có gì đó tạp nhạp ,mờ ám, lươn lẹo núp sau thứ ngôn từ có vẻ giống như Phật pháp của các vị đấy.Tôi đã có dịp nghe băng, đọc vài tài liệu của Pháp luận công và cả của "đại tràng Phật Đạo Đại Việt " của ông "phật sống Nguyễn văn Ty"(!!!) rồi nên cũng có nhận biết sơ sơ về những kẻ tà đạo mượn ngôn ngữ Phật pháp để tuyên truyền cho những thứ tín ngưỡng khác thường của họ . Tôi có cảm giác các vị cũng đang tuyên truyền cho một thứ "giáo lý" lại tạo tạp chủng giữa" tín ngưỡng và vô thần" lạ hoắc nào đó dưới vỏ Phật pháp mà thôi..) Quay về đề tài cũ : Tôi cũng có cảm tưởng rằng : Hình như "giác" của cậu chàng Chân pháp thích cố vấn đề rất "nặng" nên có thể phải rất lâu nữa thì khả năng "ngộ" của cậu ta mới có thể có cơ hội khai thông. Đọc và hiểu là những kỹ năng tối thiểu của người biết cầm bút bình thường nhưng ở chàng Chân pháp thích lại khuyết hẳn điều này. Vậy Chân pháp thích muốn thi triển tham vọng làm một thức giả "khai ngộ" đạp pháp sao cho được nhỉ ? Trên đời này người ta khó chịu và bực bội nhất là phải chứng kiến hai người đấu khẩu trong tình trạng "ông nói gà bà nói vịt" .Thà rằng cứ có bao nhiêu "của quý" mang ra vặc chửi lẫn nhau còn dễ chịu, dễ nghe hơn. Chân thành khuyên Chân pháp thich : Trau dồi khả năng đọc và hiểu cho tốt đã rồi hãy tham gia sự nghiệp "khai ngộ" gì gì đó của thứ tôn giáo bạn tin theo. Còn bạn muốn có vẻ giống như là một người có đạo thì bạn còn phải khổ nhọc rèn luyện cho mình có được đức tính nhẫn nại , khiêm tốn đừng bộc lộ những sân si hỷ nộ lộ liễu quá đáng như bạn đã thể hiện ở đây. Tôi còn có cảm tưởng nữa :Với một tâm thức tràn đầy sân si cay cú như Chân pháp thích cùng ông đồng minh có cái tên "Tây giả cày" sặc giọng tuyên giáo thập niên 60 thế kỷ trước đã bộc lộ thì tôi e rằng nếu muốn anh chàng này "Giac Ngộ" về một vấn đề nào đó thì có lẽ phải thỉnh đến Phật Hoàng Trần Nhân Tông tái thế thì may ra mới có cơ duyên .Bác Nguyen Đỗ đừng có mà mơ thảo luận nữa nhé ! Chân Pháp Thích (14/7/2014): Lại thêm một Hải Minh Lê, cùng một tủ với Lu Bim, Nguyên Đỗ, chỉ khéo bài bây né tránh không khác gì tiến sĩ Vũ Thế Khanh. Này các cậu, nếu có thể hãy thẳng thắn trao đổi về vấn đề mà mỗi bên nêu ra nhé, đừng đánh bài lảng như vầy thì hèn lắm. Chân Pháp tôi xin mời cả 3 cậu trả lời trực tiếp vào vấn đề tôi nêu. Tôi cũng cần học để hiểu thêm từ các cậu đấy. Sau rồi các cậu nêu vấn đề chất vấn tôi. Tôi sẽ chia sẻ, chúng ta cùng học hỏi nhau. Ý kiến của 3 cậu chưa nêu được gì cả mà chỉ tìm lời mỉa mai, móc xéo nhau hẳn có ích lợi gì? Tôi đã nêu vấn đề ngắn gọn và rất thiết thực cho mọi người tìm hiểu, các cậu hãy bám vào đó mà đối thoại. Nên nhìn thẳng, không nên chơi trò trẻ con như vậy. Mất giá trị. Có lẽ các cậu cũng có học hành và đều có bằng cấp này nọ. Vậy mà! Tôi đã từng gặp và đối lời với nhiều tiến sĩ rồi, nhưng sao thấy tiến sĩ nào cũng vậy, chỉ giỏi uốn lưỡi chê bai chỉ trích người khác, còn mình thì chẳng có gì mới giúp ích cho mọi người. Rõ chán các cậu lắm. Một lần nữa mời cả 3 cậu hãy trả lời vào vấn đề tôi nêu. Sau rồi muốn nói gì hãy nói. Thế mới là hợp lý các cậu nhỉ. Lời nhắn thêm: Cùng các cậu Lu Bim, Nguyên Đỗ, Hải Minh Lê, Trước khi các cậu làm tỏ vấn đề tôi yêu cầu từ các ý kiến trước, nay tôi dẫn thêm mấy ý để các cậu tìm hiểu thêm, khỏi đi lạc hướng trong đối thoại. Các cậu đã đọc bài của đại tá tiến sĩ Đỗ Kiên Cường, một nhà khoa học đáng để mọi người trân trọng, vì đại tá đã thẳng thắn bác bỏ những hoạt động sai trái của các nhà ngoại cảm (bao gồm cả ngoại cảm “rởm” lẫn ngoại cảm mà người đời cho là “chân chánh”. Thật ra, tất cả ngoại cảm đều là lừa đảo, bởi: hoặc cố tình như cậu Thủy cùng nhiều người khác… hay vô tình như BH và một số nữa… (vì chính họ đều không hiểu tại sao mình lại làm như thế). Đứng sau các nhà ngoại cảm còn có những cơ quan Nhà nước (UIA do tiến sĩ VTK đứng đầu, Ngân hàng chính sách TBXH) đã móc nối để các nhà ngoại cảm hốt của dân tới 75 triệu đồng một bộ hài cốt (giả) chưa kể chi phí đón đưa, nuôi dưỡng và các nghi lễ do nhà ngoại cảm yêu cầu thân nhân liệt sĩ phải chi ra. Những việc làm này có đáng lên án không các cậu? Với loạt bài của đại tá Cường đã sáng suốt kiên quyết bác bỏ, VTV1 cùng phát sóng vạch trần sự lừa đảo của các nhà ngoại cảm. Từ đó Lu Bim viết bài với những lời lẽ khá sốc (mù quáng, nông nổi, a dua, phản động, nổi loạn, đạp đổ…) để ghép đặt cho những ai tham gia truyền thông bác bỏ những cái sai hại của tâm linh ngoại cảm. Lu Bim nuối tiếc những gì đã bị bóc trần và sợ mình mất cơ hội kiếm lợi gì ở đây chăng? Với quan điểm của tôi, đại tá Cường và VTV1 bác bỏ như vậy chưa đủ, đó chỉ là ngọn của một cây độc. Cái căn bản, gốc rễ là từ đâu phát sinh ra những sự u mê điên loạn ấy. Tôi đã chỉ thẳng, đó chính là hệ thống Phật giáo phát triển đã gieo rắc vào lòng người sự u mê mê muội hàng ngàn năm nay. Muốn hạn chế và tiến tới chấm dứt những sự lừa đảo làm hại nhân loại phải bắt đầu từ cái gốc. Nhưng cái gốc ấy đã thành tinh, quá già và to lớn nên chặt bỏ không phải một sớm một chiều mà dứt được. Nói lên điều này để các cậu hiểu tôi đang ở đạo nào. Tất cả các đạo mà 2 cậu Nguyễn Đỗ, Hải Minh Lê đã dẫn ra và cố ghép cho tôi đều không phải đâu các cậu ạ. Các cậu lồng ghép hết sức khiên cưỡng, thiếu hiểu biết. Với tôi, những gì núp bóng Phật giáo để làm điều sai quấy (lừa đảo, lôi kéo…) tôi đều đã từng phản đối và bác bỏ không thương tiếc. Ví như Thanh Hải Vô thượng sư, đạo “Bác Hồ” của bà Điền, hay Pháp Luân công, phật Nguyễn Văn Ty v.v… Việc tôi ở đạo nào, có lẽ các cậu đang lưu tâm. Xin đừng. Tôi nói thẳng, các cậu không cần biết và có biết các cậu cũng không bao giờ tin được. Bởi vì các cậu còn đắm chìm trong ngu muội, si mê tham muốn và ước vọng. Duyên phước của các cậu khó khăn lắm, rất khó khăn để gặp được điều chân thật, dù rằng nó đang sờ sờ trước mắt các cậu. Các cậu có mắt mà không tròng. Nay các cậu muốn khoe cái hiểu biết của mình về những triết lý duy vật biện chứng hay khoa học nhân văn về con người, nhân sinh quan, thế giới quan… mớ giáo điều của các cậu sẵn có hãy đem ra đi. Tôi đang lóng tai để nghe, xem các cậu trình diễn đây. Các cậu cũng lưu ý thêm, Khổng Tử, người được tôn xưng “Vạn Tuế Sư Biểu” vẫn là người còn đầy tham sân si đấy các cậu ạ. Cho nên, với tôi còn tham, sân, si thì có gì khó hiểu đâu. Việc gì mà các cậu phải lặp đi lặp lại để sỉ tôi. Thật cảm ơn các cậu nhiều. Mời các cậu bắt đầu khai diễn. Michelle Rowe (15/7/2014): Rất hoan nghênh và tán thán những bài viết của thày Chân Pháp Thích đã thay mặt cho nhiều người không ngần ngại vạch rõ những tà kiến cố chấp cái ngu si, mê muội của một số người học thức dỏm cứ nghĩ rằng mình có được cái bằng tốt nghiệp xã hội nhân văn thì đã là thông hiểu về tất cả thứ trên đời này rồi. Thực tâm mà nói với mấy cái bằng này chỉ là thứ bằng dỏm là, một tờ giấy lộn của một trường đại học nào đó công nhận khi một số người bỏ tiền ra chạy trọt thì mới có mà thôi, cho nên trong đầu của những vị tiến sĩ này trống rỗng. Từ trước đến nay tôi chưa từng thấy một đất nước nào mà có những ông tiến sĩ khoa học hay trí thức, thạc sĩ nào có những bài phát biểu về thế giới vong linh và cõi âm cõi ma, mà chỉ có ở VN ta mới có mà thôi. Mong sao chính phủ VN hãy quan tâm dẹp bỏ những nạn mê tín này ra khỏi đất nước và coi lại những khả năng làm việc của mấy ông tiến sĩ khoa học dỏm này để đỡ tốn tiền của của những người dân họ đóng thuế cho mấy ông này. Lại nữa, này Hải Lê Minh, đọc commment của bạn viết mà tôi thấy suy nghĩ của bạn quá cạn hẹp khi bạn chưa đọc hết tất cả những bài viết đối thoại của thày Chân Pháp và Lu Bim hay Nguyên Đỗ mà bạn đã hồ đồ viết những lời văn hỗn xược của những kẻ chợ búa đối với những người họ chỉ muốn nói ra sự thật nhằm giúp cho những kẻ sống trục lợi trên mồ hôi nước mắt của người khác giúp cho họ thức tỉnh. Hải Lê Minh, Nguyên Đỗ hay Lu Bim là ba trong một hay cũng là một trong ba kẻ đánh trống, người gõ mõ, người thì hát xướng tự cho mình hiểu biết về tất cả các tôn giáo tâm linh khoa học nhưng chẳng hiểu biết gì cả, ngay chính bản thân mình đang nói gì và làm gì chẳng khác nào những kẻ đang lên đồng nhập cốt, nhảy múa lung tung như một con rối để mua vui cho thiên hạ. Nếu Hải Lê Minh là người còn có chút tỉnh táo, hãy giữ lòng tự trọng đi thẳng vào vấn đề của bài viết mà thày Chân Pháp nêu ra, đừng lòng vòng quanh co trườn uốn như những loại rắn hổ mang trốn tránh sự ngu dốt của mình bằng cách mia mai người khác không đúng với chủ đề bài viết đã nêu trên.
(Khi nào Lu Bim, Nguyên Đỗ, Hải Minh Lê có phản luận lại, chúng tôi sẽ giới thiệu tiếp để quý vị theo dõi). |
Cập nhật ngày : 25.07.2014 | |||
GNCN giới thiệu đến quý phật tử và độc giả bài viết của tác giả Minh Thông Nguyễn Hoàng Giang dưới đây. Tác giả muốn chúng ta hiểu rõ về thế giới Tây phương Cực Lạc là thực hay giả mà từ xưa tới nay các Sư Thầy say mê giảng dạy, các phật tử đến chùa thì mê mẩn tin theo.
Trong bài viết, chúng tôi xin lưu ý quý vị, thầy Thích Chân Quang đã từng là học trò của Trưởng Lão Thích Thông Lạc, nhờ một số kiến thức học được từ Trưởng Lão rồi đem giảng lại mà thầy Chân Quang trở nên nổi tiếng. Thực tiễn trong cuộc tu hành, thầy Chân Quang chưa giữ nổi 10 giới Sa di. Nhưng ở đây tác giả dẫn chúng khiến nhiều người có thể hiểu lầm thầy Chân Quang cũng ngang bằng như Trưởng Lão Thích Thông Lạc. Điều này không bao giờ có thể xảy ra. Bài viết này chúng tôi đã giới thiệu trên trang một lần theo link sau: PHẬT A DI ĐÀ VÀ THẾ GIỚI
TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC: THẬT HAY GIẢ??? Người viết: Minh Thông Nguyễn Hoàng Giang, Cùng các bạn đồng tu, quý sư thầy, sư cô, các vị thiện tri thức. Tôi là một cư sĩ tại gia, thọ tam quy ngũ giới với pháp danh Minh Thông. Qua bao năm miệt mài cùng Phật pháp, với sự cung kính, thờ lạy chư vị Phật; tụng kinh cầu an, cầu siêu, sám hối… nhất là chuyên trì niệm A Di Đà Phật, với những khóa tu học tai chùa Hoằng Pháp – TP. Hồ Chí Minh. Với sự hướng dẫn của các Sư Thầy và chỉ giải của kinh sách, ngày đêm đi đứng nằm ngồi tôi đều niệm A Di Đà Phật hầu mong ngày cuối của cuộc đời được chết một cách nhẹ nhàng, thanh thản; nhất là được Phật A Di Đà tiếp dẫn về thế giới Cực Lạc để không còn luân hồi sinh tử. Thế nhưng vào dịp đầu xuân Canh Dần này – 2010, tôi được một người bạn đồng tu trao cho những cuốn sách kinh mà tôi chưa bao giờ đọc tới nói về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Quý vị biết không? Càng đọc con người của tôi như mất thần hồn, bàng hoàng, sửng sốt, ngơ ngáo tưởng rằng mình đang bị rơi từ Thượng Phẩm Thượng Sanh xuống A Tỳ Địa Ngục. Mất hết niềm tin, không biết thưa hỏi cùng ai! Tin vào Phật nào đây, cõi nào đây? Nên tôi mạo muội viết ra những lời tâm sự này gởi đến các vị để có ai đó hiểu biết rõ ràng, ai đó đã ở cõi Tây Phương trở về chỉ cho chúng tôi rõ đâu là sự thật; cư sĩ chúng tôi đã mất biết bao nhiêu thời gian, tiền của cho việc cúng dường chùa chiền, Sư Thầy để niệm Phật, cầu siêu, cầu an, dương sao giải hạn, xây dựng… Tôi muốn tâm sự và tâm sự rất nhiều nhưng thôi, để tôi xin trích lại những đoạn trong các kinh sách mà tôi đã đọc, gởi đến quý vị để nghiên cứu. PHẦN TRÍCH KINH SÁCH 1- Sách Khai Thị của H.T Tịnh Không, PL 2547 (DL 2003), trang 35-36: … “Tây Phương Cực Lạc là nơi câu hội của chư thượng thiện nhân (chỗ của những người thiện lành bậc nhất) cho dù quý vị niệm Phật siêng năng đến đâu, hoặc một ngày quý vị niệm đến trăm ngàn lần, nhưng tâm của quý vị không thiện làm sao có thể lên Tây Phương ở cùng chỗ của các bậc Thượng thiện nhân, do đó phát bồ đề tâm quan trọng hơn cả việc nhất hướng chuyên niệm… Nếu quý vị không phát bồ đề tâm, chỉ nương vào nhất hướng chuyên niệm, kết quả không thể vãng sanh, xin quý vị nên thận trọng”… Lời người viết: Kính thưa quý vị, phát bồ đề tâm là gì? Có phải đúng ý nghĩa nhất là từ bỏ tham, sân, si không? 2- Sách Cuối Hàng Dương, tác giả: Thích Chân Quang, trang 18-24: CÕI MƠ HỒ. Thầy (Thích Chân Quang) trích kinh Pottatpàda trong Trường Bộ Kinh giảng đối chiếu với Kinh Bố Tra Bà Lâu trong “Trường A Hàm” đến đoạn: - “Này Bố Tra! Có những Sa Môn hoặc Bà La Môn chỉ định một cõi thế gian và cho ở đó hoàn toàn vui. Ta (Phật) liền hỏi họ: - Ngươi nói có một cõi thế gian hoàn toàn vui phải không? - Phải. - Ngươi đã thấy cõi đó chưa? - Không thấy. - Ngươi có thấy Chư Thiên trong đó chưa? - Chưa! - Ngươi đã từng sinh hoạt, tu hành chung với hàng Chư Thiên cõi đó chưa? - Chưa. - Có vị trời nào từ cõi đó đến nói với ngươi theo pháp tu đó sẽ sinh về cõi đó cùng họ hưởng vui không? - Không. - Ngươi có hiện thân đến cõi đó không? - Không. - Này Bố Tra nghĩ sao? Các người Sa Môn và Bà La Môn kia nói có cõi trời hoàn toàn vui là nói thật chăng? Bố Tra thưa: - Thưa họ không nói thật. - Này Bố Tra! Ví như có người nói rằng, “tôi thường thông giao với một người con gái đoan chính” và cứ khen ngợi người con gái đó. Bất chợt có ai hỏi “ngươi có biết mặt người con gái đó không? Hiện nàng đang ở đâu?”, người kia đáp: “tôi không biết”. Họ lại hỏi xóm làng, quốc độ, cha mẹ, tên họ, dung mạo của người con gái đó, vẫn câu trả lời không biết. Này Bố Tra nghĩ sao? Thế thì người kia nói tôi thường thông giao với người con gái đó là lời nói chân thật chăng? Bố Tra thưa: - Không đúng. - Này Bố Tra, các Sa Môn và Bà La Môn cũng như thế, họ nói không chân thật gì cả. Lại ví như có người bắc thang giữa chỗ đất trống, gặp người ta hỏi: anh bắc thang làm gì? Y trả lời bắc thang lên nhà. Người ta lại hỏi nhà ở đâu, y liền trả lời: Không biết. Bố Tra nghĩ sao? Người bắc thang đó có phải đã làm một việc hư ngụy không? - Hư ngụy. - Này Bố Tra, các Sa Môn và Bà La Môn cũng thường nói những điều hư ngụy như thế”… Thầy (Thích Chân Quang) bảo: - Đức Phật luôn luôn dạy những điều thực tế, không viễn vông xa xôi. Ai làm theo lời dạy của Ngài liền tận mắt thấy được an vui giải thoát, như khi có người nói câu gì xúc phạm đến mình, mình cứ ôm nỗi bực tức thì ngay đó có khổ không? - Dạ khổ. - Nếu ngay đó mình buông được nỗi bực tức thì có thấy yên vui không? - Dạ vui. - Vậy đó, giáo lý của Phật dạy mình rất xác thực, làm theo là thấy rõ bình an, không hứa hẹn một cõi nước nào, một thời gian nào. Có vị Tăng thưa: - Bạch Thầy sao lại có Tịnh Độ Tông? Thầy (Thích Chân Quang) bảo: Tịnh Độ Tông có là dựa vào các kinh A Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ… Mà các kinh nầy xuất hiện sau Phật 600 năm, khoảng đời Ngài Long Thọ. - Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ nói nhân duyên Phật giảng kinh này là do khi vua A Xà Thế bắt nhốt cả cha là Bình Sa Vương, mẹ là Vi Đề Hy. Trong ngục bà Vi Đề Hy niệm Phật, được Phật phóng hào quang đến giảng kinh, giới thiệu cảnh giới Tây Phương Tịnh Độ cho bà thụ hưởng. Nhưng trong lịch sử ghi rõ thì bà Vi Đề Hy không bị bắt nhốt, chỉ có vua Bình Sa Vương thôi. Chợt nhớ đến cha mình, vua A Xà Thế tìm đến hỏi bà Vi Đề Hy: Cha con có thương con không? Bà đáp: Cha con thương con vô cùng. Khi nhỏ con bị một cái mụt nhọt nơi tay, cha con đã vì con mà mút cả máu mủ cho con lành bệnh. Thế nên duyên khởi của kinh trái với sử liệu, và điều dạy trong kinh khác với căn bản của đạo Phật. - Phật đã lý luận như vậy để phá lầm chấp của Sa Môn và Bà La Môn chủ trương cầu về Thiên Giới. Không lẽ Phật lại chủ trương tương tự (cầu về Thiên Giới) để các đệ tử của Ngài đả kích lại sao? - Tịnh Độ Tông bảo niệm Phật tới đâu thì được Phật rước? - Dạ đến nhất tâm bất loạn. - Mấy người niệm Phật tới chỗ đó để được Phật rước? - Dạ, rất ít. - Còn những người niệm chưa tới thì chết đi về đâu? Phật không rước thì tự sức họ tìm tới cõi Cực Lạc được chăng? Thế nên lời hẹn chết sẽ sinh về Cực Lạc giống như lời hứa ngày mai ăn khỏi trả tiền. - Chết rồi sinh hay không sinh ai biết? Ai hỏi tôi về Tịnh độ tôi chỉ nói tới nhất tâm bất loạn. Còn vãng sanh thì tôi không nói tới. Trong kinh A di đà có nói nhân dân ở cõi Cực Lạc mỗi ngày đem hoa đi cúng dường Thập phương quốc độ chư Phật rồi trở về chỉ trong khoảng bữa ăn. Tại sao không ai ghé qua đây báo cho người thân biết? - Thưa Thầy: Theo truyền thuyết, hội niệm Phật của ngài Huệ Viễn có những người được vãng sanh trở về báo mộng cho huynh đệ? - Thì cũng giống như vua Hiếu Minh Đế nói: giở tháp tổ Đạt Ma thấy còn một chiếc giầy vậy mà. Đạo Phật nói chuyện thực tế, không nói chuyện mộng. -- Ngay hiện tại mình buông được tham, sân, si thấy đúng lẽ thật là giải thoát. Còn nói niệm Phật để hẹn về một cõi mà mình không hề biết, không tiếp xúc với ai trong cõi đó trở về, giống như người bắc thang giữa chỗ đất trống để đi lên ngôi nhà mà họ không biết ở đâu! Có phải là chuyện mơ hồ không? -- Đại Thừa khai triển của Nguyên Thủy là phải phù hợp với căn bản ban đầu xác thực, hiện tại, không viễn vông xa xôi; chứ không thể đánh mất căn bản được. Niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ rất trái với căn bản ban đầu của đức Phật dạy. Kinh Tịnh Độ lại xuất hiện sau này. Một pháp môn như vậy mà nhận là lối tu chánh của Phật giáo có phải đau lòng không? Bây giờ đa số chùa nào cũng chủ trương niệm Phật, rồi theo lối ỷ lại đó mà lập ra cúng kiến đủ thứ. Mấy chú biết việc cúng kiến cầu an, cầu siêu là do đâu mà có không? Là do đạo Phật đến Trung Hoa, một đất nước Nho giáo, lễ nghi rườm rà. Người dân bỏ Nho theo Phật, có ai mất, họ cần một lễ nghi theo tập quán. Nếu chùa không đáp ứng, không lẽ họ trở lại mời mấy ông Nho làm lễ? -- Thôi thì mấy thầy tùy thuận vớ đại bài kinh nào đó tụng gọi là cầu siêu cho họ vui. Đó là đạo Phật tùy tục chớ không phải bản chất của đạo Phật là như vậy, nhưng tùy tục riết rồi minh chìm luôn trong đó, cho việc cúng kiến cầu an, cầu siêu là Phật sự. Không thấy việc quan yếu của đạo Phật là phải thực hành giải thoát. -- Tôi rầu nhất là mấy thầy mình, cầu an cho người được tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ, mà chính mình lại nhờ bác sĩ chữa bệnh. Sao không cầu an cho mình trước? Chính bản thân mình không lợi ích gì trong việc cầu xin đó, mà cứ lo cầu xin cho người, có phải là đã làm một chuyện dường như lừa gạt rồi không? -- Kinh Di Đà đâu phải để cầu siêu, cũng như kinh Phổ Môn đâu phải để cầu an… mà mình gán cho đó là cầu an, cầu siêu… Đạo Phật đã tùy tục mà lập ra các nghi lễ đó cho vui lòng người để làm phương tiện giáo hóa họ những điều chánh đáng hơn. Cũng như trong đạo Phật đâu có làm lễ cưới, mà bây giờ cũng có chỗ làm lễ cưới cho Phật tử, là do ảnh hưởng nào? - Dạ, do ảnh hưởng Thiên Chúa giáo. - Vậy đó, chỉ vì tạm phù hợp theo nhân tình đòi hỏi nhất thời thôi, chứ mình trong đạo Phật không có các chuyện đó. Chúng ta hôm nay đứng vào chỗ giao lưu của Đại Thừa và Nguyên Thủy, nên phải sáng suốt thấy rõ những điều đúng sai, khuyết điểm của mình phải biết mà sửa đổi”… 3- Sách Đường Về Xứ Phật, tập 7, Trưởng Lão Thích Thông Lạc, NXB Tôn Giáo, PL: 2551 – DL: 2007, viết: “Người đại ác nhờ hộ niệm mà được tiêu tội, tiêu nghiệp và được đức Phật A Di Đà đón về Cực Lạc Tây Phương thì ông Phật Di Đà chắc ông là người điên, sao dám rước người ác về nước mình, rồi biến hoa sen thành tù ngục để nhốt họ trong đó… Đất nước Phật Di Đà nghe nói hai chữ Cực Lạc có nghĩa là rất vui, thế mà còn có kẻ bị nhốt trong hoa sen thì có vui gì? Đó là hình thức một cái nhà tù ở cõi ấy… Đã ở Tây Phương Cực Lạc, nơi đầy đủ, sung sướng, nhưng còn xài tiền giả, tiền âm phủ, mặc quần áo đồ giấy… thì quý vị nghĩ thế nào?...” 4- Sách Đường Về Xứ Phật, tập 4, Trưởng Lão Thích Thông Lạc, NXB Tôn Giáo, PL: 2550 – DL: 2006, trang 316, 317, viết: “Tu theo đạo Phật là cả một đời tu, với bao tâm huyết, mới diệt được lòng tham sân si, cho nên nhiều người không ý chí, không gan dạ, nghị lực… bỏ cuộc tu hành. Vì thế, Phật giáo phát triển (Đại Thừa) biết rõ tâm lý những người nầy nên sinh ra pháp môn Tịnh Độ để lôi họ vào mê hồn trận ảo tưởng thế giới siêu hình tưởng tri… Do đó, Phật giáo trở thành Thần giáo mê tín, lạc hậu làm mất chánh pháp của Phật giáo… pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn phi đạo đức. Hãy lắng nghe lời đức Phật A Di Đà dạy: Thiện nam tín nữ các người,
Chí thánh tưởng Phật niệm mười tiếng ra.
Ta không rước ở nước ta
Thề không làm Phật chắc đà không sai”.
Trên đây là một lời nguyện trong 48 lời nguyện của đức Phật A Di Đà… Tâm tham sân si còn một bụng mà chỉ niệm có 10 câu Phật được rước về cõi Cực Lạc Tây Phương thì sự việc đó không bao giờ có. Lời nguyện này của Phật Di Đà là lời lường gạt người, là lời nói láo, không thật… Nếu đức Phật A Di Đà mà rước những người ác này về nước của mình thì đất nước này sẽ là một đất nước trộm cắp. Một người còn tham sân si mà tụng kinh Di Đà sẽ được siêu sanh tịnh độ. Thật là lừa đảo vô đạo đức. Làm sao niệm Phật mà hết tham sân si, cho nên pháp môn Tịnh Độ là pháp môn phi đạo đức, lừa đảo người khác. Khi nào những pháp môn mê tín này được quét sạch ra khỏi Phật giáo thì nền đạo đức nhân bản – nhân quả mới được phổ biến rộng khắp nơi”. 5- Sách Pháp Môn Niệm Phật, Trưởng Lão Thích Thông Lạc, NXB Tôn Giáo, PL: 2553 – DL: 2009, viết: “Sau khi đọc xong tạng kinh Nikaya do H.T Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali sang tiếng Việt, chúng tôi không thấy có bài kinh nào đức Phật dạy niệm danh hiệu của ngài, nhất là lại còn không thấy đức Phật dạy niệm Lục Tự Di Đà để cầu về cõi Cực Lạc Tây Phương… Kết quả pháp môn niệm Lục Tự Di Đà là cầu vãng sanh Cực Lạc Tây Phương, đó là cầu về một thế giới ảo tưởng, thế giới không thật có… Muốn làm chủ bệnh tật, tai nạn thì chỉ có lấy giới luật và đức hạnh mới chuyển quả khổ của mọi người thành sự sống an vui… Từ các pháp môn niệm Phật của Bắc tông đến niệm Phật của Nam tông đều không phải Phật thuyết mà của người sau sản xuất, xin quý Phật tử lưu ý để tránh tu tập sai pháp của Phật mà phí công sức và uổng một đời tu tập”… LỜI BÌNH: Kính thưa các quý vị! -- Nghiệp chướng Tham Sân Si đã có sẵn trong mỗi cá nhân và môi trường sống: Sanh, lão, bệnh, tử. Nó đã hấp dẫn con người từ ngàn xưa cho đến tận bao giờ? Con người vẫn tiếp tục sai lầm, tàn phá môi trường, tranh danh đoạt lợi vì bát cơm manh áo, ăn uống và dâm dật! -- Có hay không thế giới Tây Phương Cực Lạc, nước Chúa, nước Trời? Nào trả lời đi các nhà lãnh đạo đa dạng thể loại tôn giáo, trả lời đi các nhà khoa học phương Tây, phương Đông! Sau khi chết đi đâu, về đâu, thành gì? - Không biết. -- Đức Phật dạy: cầu bất đắc khổ. Toàn nhân loại hãy trở về với nguyên lý của Vũ trụ: Đạo đức Nhân Bản – Nhân Quả, sống không làm khổ mình, khổ người và làm khổ chúng sinh. Với nguyên lý này: Khổ, Tập, Diệt, Đạo (Bát Chánh Đạo) sẽ đem lại cho toàn nhân loại một gương mặt hạnh phúc mới, tươi đẹp hơn, hạnh phúc và an lạc ngay giữa cuộc đời, ngay tại thế gian này là Cực Lạc Tây Phương, là nước Chúa, nước Trời. -- Đạo Đức Nhân Bản – Nhân Quả, nguyên lý này có sức mạnh tổng hợp hơn cả trăm ngàn lần cầu cúng, giải hạn, đốt vàng mã,… -- Tôn giáo và khoa học cần chú ý: đức Phật dạy hãy tự mình ăn thiện, nói thiện và hành Thập Thiện, hãy tự bản thân mỗi cá nhân cất bước, đồng hành với Chánh Pháp Nguyên Thủy của đức Như Lai. -- Đạo Đức Nhân Bản – Nhân Quả, nguyên lý này sẽ giải quyết căn bản phiền não và khổ đau: co giật trên giường bệnh, tai nạn giao thông, dịch bệnh tai xanh, tai đỏ, bệnh viện quá tải, biến đổi khí hậu, động đất, sóng thần, tham ô, tham nhũng… -- Đức Phật dạy Bát Chánh Đạo sẽ giải quyết triệt để. Tha lực và “linh hồn”, cầu cúng không giải quyết được! |
• Hỏi : | |||
tran nhan. Hộp thư: nhanboy008@gmail.com | |||
- Admin trả lời giúp tôi:
Câu hỏi 1: Có hay không có thiên đàng, địa ngục, ngạ quỷ, thế giới atula? Có ma ba tuần không? Ma ba tuần ở đâu mà ra? Ma ba tuần có chịu nghịệp tái sinh hay không? Câu hỏi 2: Nếu thật sự ly dục, ly ác pháp và thực hiện hạnh độc cư thì ngồi thiền khoảng bao lâu mới chứng được sơ thiền, nhị thiền....? Câu hỏi 3: Đức Phật có thuyết hay không những thần chú đại bi, thần chú lăng nghiêm, thần chú tâm kinh, và thần chú om mani bắc mi hùm.... |
|||
• Trả lời : | |||
Trả lời của Admin:
Câu hỏi 1: Có hay không có thiên đàng, địa ngục, ngạ quỷ, thế giới atula? Có ma ba tuần không? Ma ba tuần ở đâu mà ra? Ma ba tuần có chịu nghiệp tái sinh hay không? Câu hỏi 2: Nếu thật sự ly dục ly ác pháp và thực hiện hạnh độc cư thì ngồi thiền khoảng bao lâu mới chứng được sơ thiền, nhị thiền....? Câu hỏi 3: “Đức Phật có thuyết hay không những thần chú đại bi, thần chú lăng nghiêm, thần chú tâm kinh, và thần chú om mani bắc mi hùm....?” |
|||
• Hỏi : | |||
Thất Chi Đông (Hà Nội) | |||
- Kính gửi Ban biên tập!
Gia đình chúng tôi có một người bác bị nằm liệt giường hơn chục năm nay, cứ ngửa mặt lên, không biết gì, lúc ăn thì phun phè phè giống như trẻ em. Vậy kính mong Ban biên tập có thể hướng cho gia đình chúng tôi có thể trợ giúp cho người bác được mau giải thoát. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn. Kính ghi. |
|||
• Trả lời : | |||
Kính gửi Thất Chi Đông,
Qua thư của bạn, chúng tôi nhận thấy gia đình bạn đang trong hoàn cảnh không may mắn, gặp lúc có người bác phải thọ nghiệp khổ của đời người khi duyên đầy quả trổ. Chúng tôi rất cảm thông chia sẻ những nỗi buồn lo cùng gia đình bạn. Đạo Phật đã dạy “cuộc đời là bể khổ”. Ai đã từng trải qua những ngặt nghèo, nghiệt ngã của hoàn cảnh mới càng thấu hiểu ý nghĩa lớn lao những lời Phật dạy. Mỗi người đều trải qua bao kiếp luân hồi, có ai biết những hành động trong cuộc sống do thân, khẩu, ý của mình đều tạo nên những nghiệp thiện hay ác. Khi thuận duyên thì những nghiệp đã tạo sẽ trổ quả hạnh phúc hay khổ đau. Trường hợp gia đình bạn có người bác bị nằm liệt giường hơn chục năm nay, đang sống như chẳng sống là một nỗi khổ rất thương tâm, không chỉ riêng bác mà tất cả mọi người trong gia đình bạn đều lo lắng bất an. Đây cũng là nhân quả chung có duyên tương ưng nghiệp. Bạn mong muốn “hướng cho gia đình chúng tôi có thể trợ giúp cho người bác được mau giải thoát”. Điều này (sự mong giải thoát) có thể là một suy nghĩ tiêu cực không phù hợp với đạo đức nhân bản – nhân quả của đạo Phật. Đồng thời cũng rất khó khăn khi một người đã bị mất ý thức, sống trong hoàn cảnh sống thực vật thì không thể tự mình chuyển nghiệp cho mình được nữa. Trường hợp của bạn, chúng tôi xin dẫn lời Trưởng lão đã dạy cho những người gặp hoàn cảnh khó khăn tương tự để giúp bạn và gia đình nương theo áp dụng vào hoàn cảnh của mình: “Trong kiếp này (mỗi người) gặp nhiều điều không may mắn, cuộc sống hiện tại có nhiều điều bất an, đó là do kiếp trước gieo duyên chẳng lành mà tạo thành quả cho đời nay, do đó khi sanh ra làm người phải gặp nhiều hoàn cảnh và những đối tượng không như ý để trả quả nhiều khổ đau. Sống trong hoàn cảnh này, nếu (mỗi người) biết giải tỏa thì thoát ra khỏi cảnh khổ đau. Vậy giải tỏa như thế nào? Giải tỏa có nhiều cách như: (Mọi người) nên hiểu và chấp nhận mình là một người đang thiếu nợ, mà đã chấp nhận là một người thiếu nợ thì phải chấp nhận trả nợ, chấp nhận trả nợ thì phải vui lòng mà trả nợ, có vui lòng trả nợ thì nợ mới dứt, còn nếu không vui mà trả nợ thì làm sao nợ dứt được phải không? Trả nợ mà không vui tức là vừa trả mà cũng vừa vay, (mỗi người) có nhận ra điều này không? Đã tự làm mình khổ mà nợ cũng không dứt, đó là một bằng chứng cụ thể cho kiếp làm người nếu ai không hiểu Phật Pháp đều phải đi dẫm lại lối mòn khổ đau này của nhau. Nợ nhân quả mà cứ vay trả, trả vay như vậy thì đời này sang đời khác trả nợ cũng chưa xong, hiện giờ (mỗi người) đang sống buồn khổ là (mỗi người) đang trả nợ, mà trả như vậy thì làm sao trả cho xong, tại sao vậy? Vì nợ này không phải nợ tiền bạc của cải tài sản, mà nợ buồn khổ, cho nên (mỗi người) còn buồn khổ là còn nợ, chừng nào (mọi người) hết buồn khổ là hết vay nợ. Khi mọi người (trong gia đình) đã hiểu được nhân quả như vậy, thì lòng mọi người như gió đã dừng, nhưng sóng chưa dừng! Muốn cho sóng dừng thì mọi người nên dẫn tâm vào chỗ không có sóng thì nên nhắc tâm: a- Buồn khổ là ác pháp hãy rời khỏi tâm ta. b- Lúc nào tâm cũng phải thanh thản an lạc vui vẻ không được buồn khổ. c- Dù bất cứ hoàn cảnh nào ta cũng phải an vui không được buồn khổ, buồn khổ làm cho đời úa tàn khô héo. d- Tâm như đất không nên buồn khổ, buồn khổ là nợ của nhân quả. e- Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi! Buồn khổ làm chi có ích gì? Thở ra chẳng lại còn chi nữa. Vạn sự vô thường buông xuống đi.” Đức Trưởng lão thường dạy, muốn chuyển nghiệp cho mình và những người thân trong gia đình, mỗi người phải sống giữ gìn trọn vẹn 5 Giới và hành 10 Thiện. Thực hiện được như vậy và ước nguyện cho những người thân yêu của mình được sống tròn đầy hạnh phúc, an lạc. Rộng hơn, chúng ta hành thiện và ước nguyện cho tất cả mọi người đều được bình an, thanh thản trong cuộc sống, như thế chính là ta đang giải thoát cho ta và cả những người thân nữa. Chúc sức khỏe bạn và gia đình. Mong gia đình bạn sớm vượt qua nỗi thương đau này. Kính thư. BBT/GNCN |
|||
• Hỏi : | |||
An Lạc (chùa Diêm Điền, TT Ngô Đồng, huyện Giao Thủy). | |||
- BẢO VỆ CHÁNH PHÁP LÀ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ
Xin thưa hỏi?. Rất nhiều lần tôi được hỏi các báo Phật tử, Phattuvietnam.net, nhưng chưa ai trả lời được câu hỏi này. Tại sao các Thầy tôn túc, tu lâu, chức cao quyền trọng trong phật giáo ở ngoài Bắc, khi giảng pháp cho Phật tử vẫn không nói mạnh mẽ và triệt để nhắc người Phật tử phải giữ trọn 5 giới: 1- Không sát sinh 2- Không trộm cắp 3- Không tà dâm 4- Không nói dối 5- Không uống rượu Khi đến chùa được nghe giảng, tôi thấy hầu hết khi có Phật tử hỏi về 5 giới, con chưa giữ được, hay giữ được mấy ngày... hầu như các thầy chỉ động viện cố giữ dần, giữ 2 ngày/tháng… sao không tự hẳn nói ra rằng: Nếu giới số 1 mà Đức Phật đã cảnh báo cho người Phật tử hay người theo Phật (tứ thánh chúng) là phải giữ giới không ăn thịt chúng sinh, thế mà có quí thầy nổi tiếng chùa to, chúng đông, đi đâu cũng có nhiều người theo rước... vẫn khuyên Phật tử (cứ từ từ tu nhiều đời nhiều kiếp...) và bảo đừng giết, chỉ ăn thôi, hoặc ra chợ mua con vật chết rồi về ăn thì không sao cả.... vậy xin các bạn tra cứu và chia sẻ cho chúng tôi Phật tử miền Bắc được rõ: - Có cơ hội làm người ở kiếp sau không? Khi cứ ăn thịt chúng sinh! Lời BBT/GNCN |
|||
• Trả lời : | |||
Trao đổi của Huệ Hiếu:
Đức phật sau khi chứng đạo, Ngài dùng Tuệ Tam minh thấy chúng sanh từ người tới các loài động vật do nghiệp lực nhân quả từ thân, khẩu, ý tạo tác mà tái sanh trong vòng luân hồi. Ngài vì lòng từ bi vô lượng đã chì dạy cho chúng ta không làm các điều ác, mà làm các điều thiện, giữ tâm ý thanh tịnh. Phật từ qui y tam bào: PHẬT, PHÁP, TĂNG thì không qui y tà sư, tà đạo và giữ 5 giới. Giới thứ nhứt là KHÔNG NÊN SÁT SINH, là ĐỨC HIẾU SINH không giết hại sanh mạng người, các loài động vật và nhứt là không ăn thịt chúng sanh. Con người ai cũng tham sống, sợ chết thì con vật cũng vậy. Con vật nó cũng có tình cảm, hổ dữ còn không ăn thịt con của mình, con vật khi bị con người bắt giết nó sợ hãi và chết điếng mà không tránh khỏi. Đức Phật dạy cho ngài JIVAKA: “này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công đức do 5 nguyên nhân: Huệ Hiếu đã trích dẫn trong kinh Trung Bộ, tập 2 bài số 55 do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch thuật. Năm 2000, HH nuôi mẹ trong bịnh viện, lúc mê ngủ bà thấy rất nhiều con gà lại mổ và cắn, bà sinh ra sợ hãi, quá thương mẹ không biết phải làm cách nào giúp cho mẹ mình, do nguyên nhân ngày xưa mẹ HH có nuôi gà công nghiệp để phụ vào kinh tế gia đình. HH đã phát nguyện trước mặt mẹ sẽ đời đời, kiếp kiếp ăn trường chay, nhờ nguyện lực này đã giúp cho bà thoát khỏi sợ hãi và cũng chính là giúp cho HH trở về chánh pháp của Phật. |
|||
• Hỏi : | |||
Nguyên Nhựt | |||
- Kính gửi các chư Tăng,
Tôi là người mộ đạo Phật và đang tìm hiểu đạo Phật để chuẩn bị cho mình một cuộc hành trình đi đến diệt khổ và "Tâm Bất Động, An Lạc, Vô Sự" Thật sự tôi đã trải qua nhiều giáo lý nhà Phật từ mê tín (Tịnh Độ Tông, Thiền xuất hồn...) đến chánh tín (Phật giáo Nguyên thủy). Tôi tin rằng Trưởng lão Thích Thông Lạc rất đúng và rất khoa học trong giải thích và phương pháp hành. Tôi đã tập theo và có giải thoát tâm mình nhanh. Nhưng vì nghề nghiệp của tôi chưa thể bỏ được, đáng tiếc làm nghê nuôi "chúng sanh = nuôi thủy sản" không an trú được trong trạng thái bất động tâm. Tuy nhiên vẫn tìm hiểu thêm kinh Phật cho rõ khi đủ duyên sẽ từ bỏ. Nhưng vẫn thấy nhiều điều không thể tin nỗi như sau, mong chư Tăng giải thích: 1. Câu chuyện tiền thân của Đức Phật sao giống chuyện hoang đường quá: "dòng suối ngầm ở Sa Mạc, ai có thể đập cục đá đó? Cát rất khó đào sâu, nước lại phun lên cao" vậy thì còn gì sa mạc nữa? 2. Tại sao vài người nghe Phật thuyết lại chứng quả A la hán? Tu tập không phải dễ như vậy, giống truyền công lực trong film Hồng Kông quá, từng sac na tu luyện có chánh kiến, chánh tư duy.... thì mới đạt được. Những mẫu chuyện này có thật không hay kinh do Bà La Môn sửa đổi. Có nghe trong băng đức Trưởng lão nói đôi lần vì người ấy không dính vướng nhiều pháp ác nhưng cũng có thời gian chứ?. Tôi từng nghe Trưởng lão dạy ngộ ra liền và có trạng thái tâm bất động tại đó 1 chút thôi không tồn tại lâu. Mong các chư Tăng giải thích, dù đây chỉ là vài câu hỏi có vẻ ngớ ngẫn nhưng là niềm thắc mắc lớn của tôi. Nếu có điều gì sai sót xin được hoan hỷ. |
|||
• Trả lời : | |||
Thưa đạo hữu Nguyên Nhưt,
Trong thư đạo hữu gửi có câu: “…dù đây chỉ là vài câu hỏi có vẻ ngớ ngẩn nhưng là niềm thắc mắc lớn của tôi”. Theo chúng tôi, các câu hỏi mà đạo hữu nêu lên rất có giá trị để mọi người cùng suy ngẫm, tham khảo, tư duy để có niềm tin chân chánh vào Phật pháp. Chúng tôi xin lần lượt trao đổi: Câu hỏi 1: “Câu chuyện tiền thân của Đức Phật sao giống chuyện hoang đường quá: "dòng suối ngầm ở Sa Mạc, ai có thể đập cục đá đó? Cát rất khó đào sâu, nước lại phun lên cao" vậy thì còn gì sa mạc nữa”. (Qua ý kiến của chúng tôi, quý độc giả có quan điểm khác đúng đắn, xác thực, xin vui lòng trao đổi thêm để mọi người cùng được rõ. Chúng tôi rất hoan hỷ tiếp thu). Câu hỏi 2: “Tại sao vài người nghe Phật thuyết lại chứng quả A la hán?” “Căn cứ theo lối tu chứng của Đại Thừa mà luận thì người tu hành phải trải qua 52 địa vị mới phá được hết vô minh. Khi mãn địa vị thập tín rồi, bắt đầu lên thập trụ (10 vị), phá được một phần vô minh thì được một phần về ba đức pháp tánh: (pháp thân, bát nhã, giải thoát), chứng lên vị sơ trụ (sơ địa của thập trụ). Như thế, cứ phá thêm một phần vô minh là chứng lên một địa vị, cho đến phá được mười phần thì được thập trụ. Bước qua thập hạnh (10 vị), thập hồi hướng (10 vị) và thập địa (10 vị) cũng như thế, nghĩa là phá một phần vô minh thì chứng lên một địa vị. Cho đến địa vị thứ 51 là Đẳng giác, dùng trí Kim Cang phá hết phần sanh tướng vô minh rất vi tế rồi thì chứng được địa vị thứ 52 là quả Diệu giác (tức Phật). Lúc bấy giờ, vô minh diệt hết, tri giác toàn minh, tựa như trăng rằm trung thu, bao nhiêu mây mờ sạch hết, tỏa ánh sáng chiếu khắp mười phương” (Đạo Phật Cương Yếu – Thích Hồng Tịnh - Ấn bản năm 1965). Họ (học giả phát triển) đâu biết rằng Phật pháp Nguyên Thủy dạy rõ rằng quả vị A-la-hán cũng là một danh xưng khác của Phật. Và kinh Nguyên Thủy dạy, khi nghe một thời pháp của Phật thuyết, người nghe chứng được pháp nhãn thanh tịnh tức là người đã hiểu lý Tứ Diệu Đế (pháp học đầu tiên), từ đó niềm tin mới có căn cứ và vững bước trên đường tu tập (không sai trật) theo sự hướng dẫn của bậc chân tu thì mới mong đạt được quả vị tối thắng. |
|||
• Hỏi : | |||
Email: cutranlacdao@yahoo.com | |||
- Kính thưa Chư vị trên các diễn đàn,
Tín ngưỡng dân gian là những niềm tin truyền qua nhiều thế hệ, không có căn cứ rõ ràng. Người đời thường bảo nhau: «Thà tin có - còn hơn không!» Cho nên các điều mê tín dị đoan tràn ngập trong dân gian. Nhiều người không phải là Phật Tử cũng tin những điều này. Các điều mê tín này nhiều đến nỗi tràn vào khá nhiều chùa khắp trong nước và hải ngoại. Nhiều nhà sư - do sống lâu, lên lão làng, chẳng học kinh điển, chẳng có chánh kiến và chánh tín, thường trúng độc nặng nên rao truyền những tà pháp, dẫn dắt bá tánh vào tà đạo ngay trong chùa! VP.PHTQ.CANADA nhận được Email dưới đây, xin phổ biến để Chư vị cho biết tôn ý. Nội dung Email |
|||
• Trả lời : | |||
Kính gửi BBT/ VP.PHTQ. CANADA
Kính gửi phật tử Hồng Hạnh. BBT/GNCN nhận được thư của VP.PHTQ.CANADA Email: (cutranlacdao@yahoo.com) qua trung gian một email khác. Trong thư của quý vị có lời kêu gọi: “Kính mong Chư Tôn Đức, Quí Cư Sĩ khắp nơi, nhất là Chư Tôn Đức lãnh đạo các Giáo Hội lên tiếng để chánh pháp được xiển dương, tà pháp phải tan biến, bá tánh được an tâm”. Chúng tôi rất tán đồng quan điểm của VP.PHTQ. CANADA về vấn đề này. Đã từ lâu, tà pháp được xiển dương mạnh mẽ, chánh pháp bị vùi lấp khiến cho nhân loại vốn đã khổ lại càng thêm khổ. Người u mê lại bị giáo lý u mê dẫn dắt nên những tệ nạn mê tín dị đoan hoành hoành khắp nơi, làm tổn hại về vật chất rất nhiều, đồng thời làm khuynh đảo tinh thần con người càng sợ hãi khiếp đảm trước thế lực thần quyền siêu hình. Chúng tôi cũng rất mong muốn các vị Chư Tôn đức, quí Cư sĩ… và đặc biệt là lãnh đạo Giáo hội đồng thanh lên tiếng để dẹp phá những tư tưởng tà kiến mê tín dị đoan, không cho chúng ngóc đầu dậy. Việc này ngày xưa đức Phật đã làm rất triệt để, nhưng từ ngày Ngài nhập diệt, các thế lực ngoại đạo ra sức vực lại và nuôi dưỡng nhằm mưu cầu hưởng lợi. Kính thưa quí vị. Việc làm an lòng những người mất mát người thân là rất cần thiết. Nhưng các thầy nên dùng Tuệ hiểu biết của mình trên cơ sở những giáo lý chân chánh đức Phật dạy thì mới mang lại lợi ích thiết thực cho con người. Những giáo lý của ngoại đạo chuyên dụ, dọa người thì không nên tin và cũng không nên sợ hãi. Mời quí vị đọc các sách của Trưởng lão Thích Thông Lạc trên các trang: |
|||
• Hỏi : | |||
Ronald Trương | |||
- Trong bài viết dựa theo ý bài "LÒNG TIN PHẢI CÓ CĂN CỨ" (TL Thích Thông Lạc) của đạo hữu Ronald Trương có nêu hai câu hỏi rất thiết thực cho việc xây dựng và củng cố Niềm Tin chân chánh. Chúng tôi dẫn ra đây để quý độc giả cùng suy nghĩ và viết bài trả lời.
Câu hỏi: 2- …Trong khi đó Sắc Thức thì phải qua thời gian học hành, tôi luyện trên đường đời, bên cạnh đó tính làm biếng (giải đãi) luôn luôn cản trở Sắc Thức phát triển. Như vậy, với pháp nào giúp cho Sắc Thức phát triển để đánh lui sự bành trướng của Tưởng Thức đây? Rất mong quý độc giả tham gia trả lời để góp phần nâng cao tri kiến giải thoát cho mọi người. (Quý vị đọc thêm bài viết đầy đủ trên trang chủ). |
|||
• Trả lời : | |||
TRẢ LỜI CỦA Trung Nghĩa
Câu 1: - “Phật pháp vốn là chân lý, bất cứ ai tu hành đúng pháp NHƯ LAI đều chứng quả…”. Điều này rất chính xác, Trưởng lão đã dạy và khẳng định chắc chắn như thế. Vấn đề còn lại, người học Phật có dám sống và hành như Phật hay không? - “Trong kinh Phật có dạy, khởi điểm và quan trọng nhứt trên đường tu hành là phải có Niềm Tin”. Đó là điều không thể chối cãi. Niềm tin tuyệt đối vào Phật pháp, đó là Tín Lực. Không có niềm tin, không có tín lực thì không làm việc gì tới nơi tới chốn cả. - “Nhưng, nhân loại đã nhập tâm hoá lòng tin mù quáng thành niềm tin chân chánh”. Câu này nếu là lời xác nhận của bậc đã tu chứng thì hợp lý, nhưng cũng không dễ được người đời chấp nhận. Bậc tu chứng tức là bậc đã Giác ngộ (chứng đạo), và điều chắc chắn rằng chỉ có con đường của đạo Phật chân chánh thì mới đưa con người đến Giác ngộ được - “Kính xin đức Trưởng Lão dạy cho nhân loại bằng pháp nào tẩy sạch được lòng tin mù quáng để có được niềm tin chân chánh?” Trưởng Lão đã dạy rất kỹ càng, lời vẫn còn lưu trong kinh sách và băng đĩa giảng. Cần phải hành để chứng niềm tin, không nên phiền Ngài nhiều thêm nữa. Xin nhắc lại vắn tắt lời dạy của Trưởng Lão: Muốn có niềm tin chân chánh, phải thân cận bậc Thiện Tri thức. Thân cận bậc Thiện Tri thức để nghe Diệu Pháp. Diệu Pháp là gì? Trong đạo Phật, Diệu Pháp quan trọng nhất là Tứ Diệu Đế. Hiểu thấu suốt được Tứ Diệu Đế là người có niềm tin chân chánh. Câu 2: - “Trong khi đó Sắc Thức thì phải qua thời gian học hành, tôi luyện trên đường đời, bên cạnh đó tính làm biếng (giải đãi) luôn luôn cản trở Sắc Thức phát triển”. - “Như vậy, với pháp nào giúp cho Sắc Thức phát triển để đánh lui sự bành trướng của Tưởng Thức đây?” Mấy lời vẽ rắn thêm chân cũng mong làm vui lòng độc giả. Xin quý vị rộng lòng tha thứ. |
|||
• Hỏi : | |||
Nguyễn Bá Chân | |||
- Kính gửi BBT/GNCN,
Tôi xin phép được đặt một câu hỏi ngoài lề, xin quý vị vui lòng trả lời nếu có thể, còn với lý do nào đó không tiện trả lời thì tôi cũng rất lấy làm hoan hỷ. Sự việc là mấy ngày trước tôi đọc trên website chonnhu.net thấy có lời giới thiệu trang web giotnangchonnhu.org, nhưng bữa nay trở lại trang chonnhu.net thì không thấy lời giới thiệu đó nữa. Tôi thấy có điều nghi vấn, không hiểu lý do vì sao nên tò mò đặt câu hỏi có lẽ hơi thừa này, nếu quý vị có thể giải thích cho tôi và quý độc giả được biết để khỏi hoài nghi? Chỉ là câu hỏi ngoài lề, nếu có điều gì làm phiền, xin quý vị bỏ qua. |
|||
• Trả lời : | |||
Thưa bạn Nguyễn Bá Chân,
Thưa quý vị độc giả. Trang web giotnangchonnhu.org mới thành lập gần đây với chủ trương tuyệt đối tin tưởng vào giáo pháp Nguyên Thủy (Tạng kinh Nikàya do HT Minh Châu dịch sang Việt ngữ), Trưởng lão Thích Thông Lạc thành tựu sự tu tập nhờ học tập bộ kinh này và Ngài đã triển khai đến đại chúng. Nhận thấy sự lợi ích cho mọi người đang tha thiết hướng tâm về với chánh pháp nên Ban quản trị chonnhu.net đã giới thiệu trang web của chúng tôi. “Lời cám ơn và đề nghị. Xin kính chúc bạn Chân và quý độc giả luôn tinh tấn tu tập thành tựu theo chánh pháp. |
|||
• Hỏi : | |||
Ngo Manh Hung | |||
- THƯ CÁM ƠN
Kính gửi ban biên tập, Phải nói rằng, các câu trả lời rất rõ ràng, chi tiết, không mơ hồ và trừu tượng. Ví dụ con thích nhất đoạn "Nếu có ai tìm ra được một số lớn nhất trong dãy số tự nhiên, khi nào tìm được một số không có số nào lớn hơn nó thì tức là đã tìm ra được khởi nguyên của vũ trụ và vạn pháp. Lúc đó sẽ hiểu vì sao đức Phật không dạy con người tìm biết về nguồn gốc của vũ trụ và con người". Chỉ đơn giản vậy mà sao bao nhiêu sách vở, bao nhiêu website con đọc mà không trả lời được như vậy nhỉ. Mà đúng thật có hỏi đúng bậc chứng đạo và các tu sinh, cư sĩ của Ngài thì mới có thêm chút tri kiến, đâm đầu vào những câu hỏi kiểu như vậy thì chỉ thêm khổ đau và mất thời gian. Chiều qua lúc đi làm về vì mải mê với những câu hỏi đó mà tí nữa con gặp tai nạn, lúc đó lại nhớ đến pháp môn "chánh niệm tỉnh giác" của đức Trưởng lão, "khi đi xe máy tôi đang biết tôi đi xe máy, phải cẩn thận chứ". Pháp môn thực tế hữu ích cho mình cho người như vậy mà không áp dụng lại mất tập trung vào một lố cái câu hỏi vô bổ kia. Sách của Trưởng lão viết nhiều, thiết thực mà mọi người đâu có thèm đọc, như gia đình con đây có 9 người mà khi mang sách về mà người đọc, người không đọc, người đọc rồi không tin huống hồ người ngoài. Trên mạng mà có lỡ vào các diễn đàn có ý tốt trích dẫn sách của Trưởng lão là thế nào cũng bị "ném đá" tơi bời. Bảo sao lúc Trưởng lão chứng đạo Ngài quyết định nhập diệt luôn, chỉ vì lòng thương vô bờ bến với chúng sinh lắm Ngài mới tạo duyên ở lại. Một lần nữa cám ơn Ban biên tập đã đăng các câu hỏi của con lên website, vì chúng rất hữu ích, sẽ giúp bao nhiêu người khác về sau, và về sau nữa khi có dịp ghé thăm website sẽ có câu trả lời mà mình cần tìm trên con đường giải thoát. |
|||
• Trả lời : | |||
Cám ơn bạn Ngo Manh Hung đã có thư cảm ơn Ban biên tập trang giotnangchonnhu.
Chúng tôi thấy cần phải cố gắng hơn nữa để đáp ứng những nhu cầu tìm hiểu Phật pháp của bạn cũng như quý độc giả. Chúng tôi ước nguyện cho tất cả các thành viên trong gia đình bạn cùng toàn thể độc giả đều thông hiểu và hành theo giáo pháp của Phật mà ngày nay đức Trưởng lão dựng lại. Một gia đình mà mọi thành viên đều thâm hiểu và làm theo những lời dạy quý báu của Phật, của Trưởng lão là gia đình sống trong cảnh Thiên Đàng Cực Lạc. Kính chúc bạn và quý độc giả thân tâm luôn thanh thản, an lạc, vô sự. Giotnangchonnhu. |
|||
• Hỏi : | |||
Ngo Manh Hung | |||
- Con đã đọc hầu như toàn bộ những sách của Trưởng lão nhưng vẫn thấy rất khó hiểu về:
Nhân quả là gì? a). Ví dụ: - Một người cắt cổ một con gà, hành động cắt cổ này là từ trường ác, nó sẽ tương ứng sinh ra làm nhiều con gà. - Một người chửi người khác, hành động miệng chửi (từ trường ác), từ trường này sẽ tương ưng sinh ra một người sẽ bị chửi lại. - Một người ăn trộm một cái xe máy, người bị mất của đau xót, căm tức kẻ cắp. Từ trường từ hành động ăn cắp và từ hành vi căm tức đau xót vì mất của sẽ tương ứng sinh một người sau này sẽ bị mất của. Cái khó hiểu ở chỗ: con vẫn chưa phân biệt được chuẩn đâu là cục sắt, đâu là thanh nam châm, đâu là từ trường (ví dụ liên tưởng dễ hiểu về cục sắt, nam châm và từ trường này là đích thân Trưởng lão viết để cho người đọc dễ hiểu) Có phải người cắt cổ gà, người chửi bới, tên trộm là cục sắt? Hành vi của họ là từ trường, thanh nam châm là những người sẽ bắt buộc phải sinh ra theo nghiệp lực (từ trường) để hút thanh sắt kia. Để cụ thể nhờ ban biên tập giúp giải bài toán sau: b). Đề ra: Một anh nhân viên tên A đi làm chuyên lợi dụng in ấn, photo tài liệu về Phật bằng máy in cơ quan. Câu hỏi: Hành động này có tác hại gì, cái gì đi tái sinh từ hành động này, có tái sinh làm nhiều người không, đâu là cục sắt, đâu là từ trường, đâu là nam châm? Kính mong ban biên tập xem xét trả lời giúp con. Chúc ban biên tập luôn an lạc! … … … c). Con mong ban biên tập giọt nắng in thư này của con ra và chuyển giúp đến Trưởng lão giải thích cho con được khai sáng trên bước đường đầu tiên tìm tri kiến giải thoát. PS: Con mới xem qua trang web giọt nắng thấy hay và bổ ích lắm. Nhất là giải thích cho thư viện hoa sen được biết, chỉ thẳng, nói thật cho họ biết, các thầy thật dũng cảm. Con tin rằng thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo thực sự đã bắt đầu. |
|||
• Trả lời : | |||
Thưa bạn Ngo Manh Hung,
Đề ra (b) và câu hỏi của bạn, bạn đã nhận được câu trả lời mà chúng tôi nhận thấy rất sáng tỏ, tưởng không còn gì để hỏi thêm nữa. Chúng tôi xin dẫn lại đây để bạn và quý độc giả cùng đọc: [“Với trí tuệ hữu hạn không thể hiểu rõ về nhân quả một cách rõ ràng như 2+2=4. Muốn thấu rõ về nhân quả phải có trí tuệ Tam Minh: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu Tận Minh. Bậc Thánh Alahán mới có tri tuệ Tam Minh này: Phật và các Thánh đệ tử của Ngài có trí tuệ Tam Minh này. Trong thời đại chúng ta hiện nay, tại đất nước Việt Nam có Trưởng Lão Thích Thông Lạc tu đúng đường lối Giới Định Tuệ chứng quả vô lậu Alahán hoàn toàn. Chúng tôi xin lưu ý bạn thêm mấy ý sau: Hai chữ “TỪ TRƯỜNG” của các hành thiện, ác chỉ là chữ mượn tạm để người phàm dễ hiểu, chứ thực sự nó không phải như cục nam châm và thanh sắt mà bạn nêu thì sai lạc rất xa. Trong ví dụ của bạn: Đoạn (c) bạn đề nghị: “Con mong ban biên tập giọt nắng in thư này của con ra và chuyển giúp đến Trưởng lão giải thích cho con được khai sáng trên bước đường đầu tiên tìm tri kiến giải thoát”. Cuối cùng bạn có lời tán: “Con mới xem qua trang web giọt nắng thấy hay và bổ ích lắm. Nhất là giải thích cho thư viện hoa sen được biết, chỉ thẳng, nói thật cho họ biết, các thầy thật dũng cảm. Con tin rằng thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo thực sự đã bắt đầu”. Cảm ơn bạn đã ủng hộ website của chúng tôi. |
|||
• Hỏi : | |||
Ngo Manh Hung | |||
- Kính gửi Ban biên tập,
Sau vài giờ tham quan trang web giotnangchonnhu, đọc bài “Tại Sao Chúng Ta Đến Thế Giới Này?” có đoạn: "Trong vũ trụ có vô số hành tinh, mỗi hành tinh đều đang hành động theo một quy luật riêng của mình nhưng phù hợp với quy luật chung “Vô Minh” của vũ trụ. Do duyên hành nên mỗi hành tinh đều tạo tác nên “Nghiệp” của riêng nó. Khi nhân duyên đủ thuận hòa thì có môi trường sống xuất hiện, khi môi trường sống xuất hiện thì có sự sống nảy nở sinh sôi, như Trái đất của chúng ta. Khởi đầu là các loài rong rêu, thảo mộc. Qua hành trinh của thời gian, các loài động vật xuất hiện và loài người xuất hiện." Con muốn được hỏi thêm về "Vô Minh" ở đoạn trích trên: Với bài viết của thầy Viên Hạnh bên trên, mọi người đều hiểu con người từ đâu sinh ra, trái đất từ đâu sinh ra. Nhưng với những câu hỏi kiểu như: Vậy vũ trụ từ đâu sinh ra? |
|||
• Trả lời : | |||
Thưa đạo hữu Ngo Manh Hung,
Câu hỏi đạo hữu cần tìm hiểu xuất phát từ một đoạn trong bài viết của Viên Hạnh "Trong vũ trụ có vô số hành tinh, mỗi hành tinh đều đang hành động theo một quy luật riêng của mình nhưng phù hợp với quy luật chung “Vô Minh” của vũ trụ”… và muốn được biết rõ ràng “Vô Minh từ cái gì sinh ra”? Câu hỏi “Vô Minh từ cái gì sinh ra?” là một câu hỏi nếu người trả lời vội vã thì khiến người hỏi và người trả lời, cả hai sẽ rơi vào luận hý tiếu để người trí cười chê. Những vấn đề vượt quá giới hạn nhận biết của trí phàm phu như Minh, Vô Minh, Tái Sanh Luân Hồi… đức Trưởng lão đã cảnh báo: “Vấn đề tái sanh luân hồi và nghiệp thiện ác không phải là vấn đề để cho người còn trí hữu hạn hiểu biết, càng luận về nhân quả luân hồi càng bị tưởng tri lừa đảo thành ra hiểu sai mất, vấn đề này phải là người có trí vô hạn không bị ngăn cách bởi không gian và thời gian mới thấu suốt, không bị tưởng tri đánh lừa”. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể trao đổi trong một chừng mực có thể để nâng cao tri kiến hiểu biết trong quá trình hướng về Phật pháp chân chánh. Trở lại với Vô minh đức Phật dạy trong 12 Nhân duyên, nó là nguyên nhân khởi đầu để hình thành một thế giới quan khổ đau do Duyên Hợp, Duyên Tan của vạn pháp hiện bày. Đó là một pháp để người tu hành quán chiếu phá chấp thân, phá chấp dục ái rất tuyệt vời: “Đây không phải là Ta…” mà chỉ là những nhân duyên do hành trong Vô minh tạo tác nên. Đức Phật không lưu ý dạy chúng ta phải đi tìm khởi nguyên của vũ trụ và con người. Vì tính tò mò của con người, ai cũng muốn biết vũ trụ từ đâu sinh ra? |
• Hỏi : | |||
Thích Lục Vấn | |||
- Tôi đọc trong bài trả lời Nguyễn Thành Hổ thấy có câu: …“Không chỉ 7 tỉ người hiện tại mà có thể tăng lên rất nhiều tỉ người trong tương lai nếu con người cứ mãi hành động bất thiện, vô minh…”. Như vậy nghĩa là sao? Quý vị có thể trả lời làm sáng tỏ hơn về vấn đề này.
Tôi xin cảm ơn. |
|||
• Trả lời : | |||
Thưa bạn Lục Vấn,
“Nếu con người cứ mãi hành động bất thiện, vô minh”, có nghĩa là con người bất chấp luật nhân quả, không tin luật nhân quả, không sợ luật nhân quả chi phối… thì con người vô tư hành những điều ác để hại mình, hại người, hại muôn loài cùng chung sống… Như vậy con người tạo ra nhiều nghiệp ác nên sự tái sanh luân hồi trong lục đạo ngày càng đông đảo hơn. Trái lại, nếu con người hiểu luật nhân quả, biết hành thiện, hướng thượng dần tới sự chấm dứt vô minh, hết Vô Minh tức là Minh, là phá vỡ vòng xích 12 Nhân duyên, chấm dứt tái sanh luân hồi. Để hiểu sâu sắc hơn về tái sanh luân hồi, bạn Lục Vấn cùng quý độc giả hãy nghe những lời Trưởng Lão Thông Lạc dạy sau đây: “Vấn đề tái sanh luân hồi và nghiệp thiện ác không phải là vấn đề để cho người còn trí hữu hạn hiểu biết, càng luận về nhân quả luân hồi càng bị tưởng tri lừa đảo thành ra hiểu sai mất, vấn đề này phải là người có trí vô hạn không bị ngăn cách bởi không gian và thời gian mới thấu suốt, không bị tưởng tri đánh lừa. “Nên hiểu con người cũng chỉ là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác, nhưng nó được xem là một loài động vật cao cấp hơn các loài động vật khác mà thôi, người ta ví loài người là một loài động vật ác độc nhất trong các loài động vật trên hành tinh này, nó có thể diệt tất cả các loài động vật trên hành tinh này, nhưng môi trường sống nhân quả sẽ không cho phép nó. Vì thế nó càng ác độc thì nó lại càng sanh sôi này nở nhiều hơn, để làm gì? để nó tự giết nó và tự nó, nó sẽ diệt toàn bộ loài người trên hành tinh này, nếu không có một nền đạo đức nhân bản – nhân quả để giúp nó thoát ra khỏi bản chất của loài động vật thì nó tự diệt chủng lấy nó”. Với đôi mắt của đức Phật nhìn suốt qua lốt nghiệp của mọi chúng sanh nên chỉ thấy nó toàn là ác nghiệp chứ không phải có người và loài vật, tức là từ con người cho đến những loài vật khác nhỏ nhít như loài côn trùng sâu bọ đều là con người đang trả vay của một đạo luật nhân quả rất công bằng và công lý, khi vô tình hay hữu ý họ đã làm những điều ác, mà giờ này họ phải làm thân chúng sanh để trả quả, trả chừng nào hết thì họ mới được tái sanh làm người, khi làm người họ không biết thiện ác nên chạy theo tâm ham muốn sanh ra nhiều ác pháp làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh tạo thành nghiệp ác hay nói cho rõ hơn là từ trường ác, từ trường ác ấy tiếp tục sanh làm các loài vật để thọ lấy những sự khổ đau mà không có phương pháp nào giải cứu được,… Vì thế đức Phật dạy: “Chư Thiên tăng thì con người giảm, chư thiên giảm thì con người tăng”. Có nghĩa là từ trường thiện tăng thì từ trường ác giảm, từ trường ác tăng thì từ trường thiện giảm. Nói cách khác cho dể hiểu hơn, nhân quả thiện tăng thì nhân quả ác giảm, nhân quả ác tăng thì nhân quả thiện giảm. Bằng chứng con người sanh nhiều và làm ác nhiều thì nhân quả ác tăng, nhân quả thiện giảm, nhân quả ác tăng nhân quả thiện giảm thì con người trên hành tinh này khổ nhiều từ thiên tai dịch họa đến những sự gian xảo lừa đảo giết hại nhau và những bệnh tật đủ mọi thứ cho đến những bệnh thời đại không thuốc trị”. (Trích ĐVXP tập 9, NXB Tôn giáo – Hà Nội 2007, tr.55 – 61) Xin “nhái” lời một ca từ để kết thúc bài trả lời này: “Ngày xưa biển (ao, hồ) không lắm cá (cua, tôm) như bây giờ, ngày xưa chuồng (trại nuôi) không lắm gia súc, gia cầm như bây giờ”… Thật xót xa vô cùng, mỗi ngày hôm nay hàng tỉ chúng sanh (lớn nhỏ) bị giết hại làm thực phẩm cho con người, có ai biết, tất cả chúng đều là anh em bè bạn của con người mà sao con người lại nỡ nhẫn tâm?! |
|||
• Hỏi : | |||
Nguyễn Thành Hổ | |||
- Chào Thầy,
Con có xem những bài nói chuyện của thầy Thích Thông Lạc. Về sự tái sinh thì con có một thắc mắc, xin thầy khai sáng cho con. Trong vòng 200 năm nay thì dân số trên thế giới từ 1 tỉ người, tăng lên 7 tỉ người. Việc tái sinh có phải trong vòng 200 năm qua đã tăng lên 6 tỉ người mới. Con không biết các người mới trong 6 tỉ này có khác gì 1 tỉ người tái sinh củ. Regards, Nguyễn Thành Hổ |
|||
• Trả lời : | |||
Thư của bạn nêu có 2 vấn đề:
1- Trong vòng 200 năm nay thì dân số trên thế giới từ 1 tỉ người, tăng lên 7 tỉ người. Việc tái sinh có phải trong vòng 200 năm qua đã tăng lên 6 tỉ người mới. 2- Con không biết các người mới trong 6 tỉ này có khác gì 1 tỉ người tái sinh cũ. Giotnangchonnhu xin trao đổi để bạn và chúng ta cùng nhau hiểu rõ về tái sinh theo quan điểm của đạo Phật. 1- Trong vòng 200 năm nay thì dân số trên thế giới từ 1 tỉ người, tăng lên 7 tỉ người. Phải chăng ý bạn muốn thắc mắc rằng từ 1 tỉ tăng lên 7 tỉ mà mỗi người chỉ có 1 “linh hồn” (hay 1 “thần thức” theo quan niệm của các tôn giáo khác) đi tái sanh, vậy 6 tỉ người phát sinh thêm thì lấy ở đâu ra “linh hồn”? Thưa bạn, theo giáo lý của các tôn giáo khác thì con người sau khi chết có “linh hồn” (thần thức) đi tái sanh. Khi chưa chọn cho mình được một nơi tương hợp thì “linh hồn” sống vất vơ ở cây cao bóng cả hay cầu ao giếng nước… dưới dạng thân trung ấm. Trong khi chờ đợi như vậy thì “linh hồn” người quá cố rất là khổ sở, đói khát… và hay phá phách người thân trong gia đình. Vì vậy mới phát sinh ra bao sự rắc rối, phải thỉnh thầy tụng cầu siêu, cầu an rất rình rang tốn kém. Đối với đạo Phật không chấp nhận những quan niệm trên. Đức Phật đã dạy “Chúng sanh là thừa tự của Nghiệp…”. Như vậy chỉ có Nghiệp tương ưng tạo duyên để sinh ra muôn loài hữu tình chứ không có “linh hồn”, “thần thức” nào đi tái sanh cả (hiểu về Nghiệp chúng tôi đã giới thiệu ở câu trả lời trước đây, quý vị vui lòng xem lại). Để hiểu rõ vấn đề này, xin quý vị đọc về “Nhân quả thảo mộc”, một minh chứng cho “Nhân quả con người” vì theo sự thấy biết như thật của bậc đạt tuệ Tam Minh thì nhân quả con người không khác gì nhân quả thảo mộc. Trưởng lão Thông Lạc đã dạy: “NHÂN QUẢ THẢO MỘC: …Theo chữ Hán, nhân có nghĩa là hạt; quả có nghĩa là trái, ghép chung hai từ này lại thành “nhân quả” có nghĩa là “hạt và trái”. “NHÂN QUẢ CON NGƯỜI: …“Nhân quả của con người không khác gì nhân quả của loài thảo mộc, cũng cụ thể, rõ ràng, xác thực. Nó trừu tượng, nhưng không mơ hồ, ảo tưởng, không thiếu chứng thực, không thiếu khoa học. 2- Con không biết các người mới trong 6 tỉ này có khác gì 1 tỉ người tái sinh cũ. Tìm hiểu vấn đề này, chúng ta bắt đầu từ một THẢO MỘC, một CON NGƯỜI để suy diễn. Một cây đu đủ (mẹ) cho ra rất nhiều quả, một quả đu đủ có rất nhiều hạt, mỗi hạt đu đủ gieo mọc lên một cây đu đủ con, rồi các cây đu đủ con lại cho rất nhiều hoa, trái, cây cháu, chắt khác. Trong khi đó cây đu đủ (mẹ) vẫn còn sống. Như vậy, rõ ràng các cây đu đủ con, cháu… là mới nhưng nó vẫn có “nguồn” từ cái cũ (là cây mẹ). Cũng vậy, một người đã tạo duyên tái sanh bằng các Nghiệp thiện ác, nên trong suốt cuộc đời cũng tái sanh ra nhiều chúng sanh khác nhau, có thể là người, có thể là những loài thấp kém hơn tùy thuộc vào nghiệp mình đã tạo nhưng có nhân duyên tương ưng với nhau để chung những hạnh phúc hay khổ đau. Một người hôm nay (cũ) đã tạo ra bao nhiêu tội ác làm khổ mình, khổ người, nhưng ngày mai, do ý thức được những tội lỗi đó, họ ra sức cố công làm lại bằng những hành động thiện mang lại lợi ích cho nhiều người, họ đã trở thành một người khác (mới). Như vậy cái mới và cái cũ của con người tùy thuộc vào hành động của từng người, mỗi người hãy cố gắng trở thành “người mới” ngay trong ngày hôm nay. |
|||
• Hỏi : | |||
Cư sĩ Liên Thiền | |||
- Hà Nội 18/9/2012
Kính Bạch Thầy! Con là Cư sĩ Thích Nữ Liên Thiền. Con có việc xin thầy giải đáp giúp con. Trước kia chồng bệnh chết và rồi cách đây 12 năm con có lấy một người đã có vợ và có 2 cô con gái. Chúng con sống với nhau được 6 năm có với nhau 2 cháu một trai một gái, cháu gái lớn sinh 2001, cháu trai sinh 2004. Đến năm 2006 chúng con chia tay, con nuôi cả 2 cháu đến nay được 6 năm. Còn bố các cháu quay về sống với vợ cả. Do điều kiện cuộc sống nên cách đây 3 tháng con đã đưa cháu trai về sống với bố và mẹ già (vợ cũ). Do gia đình họ không biết Phật pháp nên tại môi trường này cháu đã phát sinh ra tật nói dối & hiện nay cháu biết bao biện những điều sai trái làm con rất bất ngờ vì cháu chỉ là đứa trẻ 8 tuổi. Con xin thầy chỉ dạy cho con, con phải làm sao để chuyển đổi nhân quả cho đứa con trai 8 tuổi của con để cháu được tốt. |
|||
• Trả lời : | |||
Thưa Cư sĩ Liên Thiền, BBT Giotnangchonnhu đọc lá thư của Cư sĩ kể lại hoàn cảnh éo le, nỗi buồn lo lắng, khát vọng thiết tha của mình khiến chúng tôi cũng mủi lòng xúc động, cảm thông.
Chúng tôi xin có mấy lời chia sẻ cùng Cư sĩ: 1- Hoàn cảnh gia đình: Cư sĩ cần hiểu rõ tri kiến nhân quả để bình tĩnh vượt qua những hoàn cảnh đầy éo le, bất trắc. Đức Trưởng lão đã dạy đời sống gia đình vợ chồng, con cái là một chùm nhân quả nợ vay, vay trả rất công bằng, vay thì phải trả. 2- Nỗi buồn lo lắng: Nếu Cư sĩ cứ nuôi nỗi buồn day dứt trong lòng, chắc chắn không giải quyết được vấn đề gì. Cư sĩ là người đã biết Phật pháp, nếu có thể thì nên đón cháu trai về với mình để tiện bề dạy dỗ là tốt nhất (vì gia đình bố và mẹ già cháu không biết Phật pháp), từ đó cháu sẽ có cơ hội để tự mình chuyển hóa thành người đạo đức. 3- Khát vọng thiết tha: …“con phải làm sao để chuyển đổi nhân quả cho đứa con trai 8 tuổi của con để cháu được tốt?” |
|||
• Hỏi : | |||
Thích Lục Vấn | |||
- Câu hỏi trước của tôi vẫn chưa có lời đáp, nhưng tôi rất hoan hỷ kiên trì chờ đợi. Với tính thích hỏi, nay tôi xin hỏi thêm:
Trong bài "Tại sao chúng Ta đến thế giới này?" của Viên Hạnh có đoạn sau: "Ai cũng biết, Nghiệp được tạo tác bởi hành động, hành động xuất phát từ ba nơi Thân, Khẩu, Ý của mỗi người. Mỗi hành động dù thiện, dù ác, hay không thiện không ác đều có nguyên nhân và dẫn đến kết quả riêng của nó, tức là Nghiệp. Như vậy chúng ta (ta) được sanh ra từ cái “bào thai Hành Động” tức là “Nghiệp” hay còn gọi là “Nhân Quả”. Xin quý vị nói rõ hơn về Nghiệp và Luân hồi (Nhân Quả). |
|||
• Trả lời : | |||
Thưa bạn Thích Lục Vấn, câu hỏi này của bạn đã được Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng dạy như sau, mời bạn và quý độc giả cùng đọc:
“Chúng tôi là những người tu theo Phật giáo thì phải trả lời đúng nghĩa của Phật giáo. Đức Phật dạy: “Con người thừa tự Nghiệp”. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp là do các hành động vô minh của các duyên hợp và các duyên tan trong môi trường sống tạo thành, nên các hành duyên hợp và các hành duyên tan trong môi trường nó là chủ thể tạo tác ra nghiệp, nhưng các hành duyên hợp và các hành duyên tan trong môi trường sống là pháp vô thường, còn nghiệp là những từ trường do những hành động thiện ác của các duyên hợp và các duyên tan trong môi trường sống tương ưng với những hành động vô minh thiện ác của môi trường sống mà tiếp tục tái sanh luân hồi nên gọi là duyên hợp. Nghiệp tiếng Phạn là Karma có nghĩa là những việc làm hằng ngày của một con người do thân, miệng, ý tạo tác thiện hay ác. Từ hành động tạo tác thiện ác đó mà con người cảm thụ được hạnh phúc an vui hay phiền não đau khổ. Sự cảm thụ được hạnh phúc an vui hay phiền não đau khổ, đó gọi là Nghiệp nhân. Nghiệp nhân được huân tập hằng ngày nghĩa là mỗi ngày được tăng thêm sự phiền não đau khổ hay hạnh phúc an vui. Sự phiền não đau khổ hay hạnh phúc an vui được tăng lên thì gọi là Nghiệp lực. Nghiệp lực có một sức hút rất mạnh. Ví dụ: Khi vừa nghe người khác mạt sát nói xấu mình tức thì nghiệp sân của mình phát khởi rất nhanh. Sự phát khởi rất nhanh của tâm sân gọi là nghiệp lực còn gọi là sức hút của nghiệp sân. Sức hút của nghiệp sân gọi là từ trường, nó cũng giống như từ trường của nam châm. |
|||
• Hỏi : | |||
Thích Lục Vấn | |||
- Tôi muốn tìm hiểu cho rõ ràng về Phật Giáo và Phật Pháp, tôi đã tìm đọc những khái niệm này trong Wikipedia, website Đại tạng kinh Việt Nam và một số trang web khác nhưng sự giải thích ở các trang này không làm tôi thỏa mãn.
Vậy mong được quý vị giải thích rõ thêm để tôi hiểu kỹ và có niềm tin đúng đắn về Phật giáo và Phật pháp. Tôi xin cảm ơn. |
|||
• Trả lời : | |||
Thưa bạn Thích Lục Vấn, câu hỏi của bạn đã được đạo hữu Nhật Minh trả lời, giotnangchonnhu xin trích dẫn (một đoạn) để bạn và quý độc giả cùng đọc:
... "1- Đạo Phật là gì? Một ý nghĩa khác: Phật là một con người bằng xương bằng thịt đã xuất hiện trên hành tinh này (vào khoảng năm 623 TCN). Ngài có tên là Siddhattha Gotama (Sĩ-đạt-ta Cồ Đàm), cha Ngài là Quốc vương Tịnh Phạn (thuộc dòng họ Thích-ca), mẹ là Hoàng hậu Ma Da. Quê hương của Ngài nằm ở phía Đông Bắc Ấn Độ với thủ phủ là thành Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ). Khác hẳn với những danh khác được gọi là Phật quá khứ như: Tỳ-bà-thi, Thi-khí, Tỳ-xá-bà, Câu-lâu-tôn, Câu-na-hàm, Ca-diếp, A-di-đà; hay Phật tương lai như Di-lặc, nhưng tất cả những vị này không có ai biết cụ thể các ngài sinh ra ở đâu? Vào thời gian nào? Cha mẹ là ai v.v… Tóm lại, Đạo Phật là Con đường Trí tuệ (Giác ngộ, Giải thoát), được đức Phật Thích-ca tự tu hành chứng ngộ và khai mở..." Vì ý kiến trả lời dài, mời quý độc giả và bạn Lục Vấn xem tiếp tại đây: |
|||
• Hỏi : | |||
Thích Lục Vấn | |||
- Trong lá thư của quý Tăng Ni về giảng dạy thuyết Tiến Hóa, đã dẫn một câu nói của đức Đạt Lai Lạt Ma: “Nếu phân tích khoa học có kết luận nào cho thấy luận cứ nào trong Đạo Phật là sai, thì chúng ta phải chấp nhận các khám phá của khoa học, và phải rời bỏ luận cứ đó, hay phải xem luận cứ đó chỉ như là một ẩn dụ.”
(Trích trong bài: Lá thư tu sĩ Phật giáo - Thích Nguyên Giác - TV Hoa Sen) Tôi muốn tìm hiểu thêm về sự liên quan giữa Khoa học và Phật giáo, vậy theo giotnangchonnhu có quan điểm như thế nào về vấn đề này? |
|||
• Trả lời : | |||
Chào bạn Thích Lục Vấn, câu hỏi của bạn rất thực tế. Chúng tôi thấy đạo hữu Tâm Hành đã trả lời bạn trong phần "Ý kiến độc giả" (TVHS), xin dẫn lại ra đây để bạn và quý độc giả cùng tìm hiểu.
“Nếu phân tích khoa học có kết luận nào cho thấy luận cứ nào trong Đạo Phật là sai, thì chúng ta phải chấp nhận các khám phá của khoa học, và phải rời bỏ luận cứ đó, hay phải xem luận cứ đó chỉ như là một ẩn dụ.” Hãy thận trọng suy nghĩ lời này của Dalai Lama. Nếu khoa học chứng minh được "luận cứ nào trong đạo Phật là sai", điều này không thể xảy ra được. Nếu điều này xảy ra, chỉ có thể đối với những "luận cứ"giả danh đạo Phật. Nếu điều này xảy ra, đạo Phật không còn gọi là đạo trí tuệ được nữa. Dù khoa học có tiến bộ đến mức nào vẫn chỉ nằm trong giới hạn của không gian và thời gian chật hẹp bởi giới hạn của trí tuệ phàm phu. Trí tuệ của Phật và các bậc Vô Lậu không thể nghĩ bàn, khoa học không thể, hoặc còn lâu lắm mới mon men đến gần chân tháp trí tuệ Phật. Những "luận cứ" mà đức Phật và các Bậc Thánh Vô Lậu đưa ra là vừa đủ để con người hiểu và hành giải thoát. Do vậy đạo chân chánh không phải "rời bỏ" một luận cứ nào. Tuy nhiên, có khá nhiều "luận cứ" giả danh đạo Phật thì phải bỏ đi, người Phật tử phải thông minh mà chọn lựa. Còn "khoa học về tiến hóa" là vấn đề mà đức Phật không lưu ý dạy chúng ta. Bởi đạo Phật mục đích không phải đi tìm tòi hay chứng minh lịch sử nguồn gốc của loài người và muôn loài. Sự hiểu biết của phàm phu còn giới hạn, nếu đưa ra vấn đề này sẽ gây tranh luận muôn thuở không bao giờ dứt. Người Phật tử hiểu biết hãy lo toan tìm hiểu ngay chính mình trong hiện tại, đừng đi xa lan man với những điều không ích lợi cho hành trì Phật pháp. Giotnangchonnhu xin dẫn thêm lời dạy của Trưởng lão Thích Thông Lạc để quý độc giả rộng đường suy ngẫm: "Khoa học không có Đạo Đức là khoa học tiêu diệt loài người, Tôn giáo mà không Khoa Học là Tôn giáo mê tín, tạo thần quyền lừa đảo con người”. |
|||
• Hỏi : | |||
Ronald Trương | |||
- Kính thưa quý vị,
Tiền nhân có dạy rằng: ĂN TRÁI NHỚ NGƯỜI TRỒNG CÂY, có nghĩa là chỉ có con người giúp con người, chỉ có con người san sẻ với con người, chỉ có con người nhường cơm sẻ áo với con người, chỉ có con người hi sinh cho con người, và dĩ nhiên, cũng có con người vì lòng tham lam ích kỷ hại con người và lợi dụng lòng hảo tâm của con người. Tuyệt đối, chả có thần thánh nào cứu giúp hay trừng phạt con người cả. Vì vậy, khi bạn bị tai ương, bạn phải nhớ ơn người giúp bạn, nhớ ơn bác sĩ đã trị bịnh cho bạn, cha mẹ tận tụy, hi sinh hết cuộc đời cho bạn, bạn nên tri ân họ và nhất là những ân nhân vô danh đã dạy bạn học hành và tạo ra việc làm cho bạn. Bạn hãy nhớ ơn những người đã giúp bạn. Bạn may mắn hơn tiền nhân, được sống trong thời đại văn minh, được học hành mở mang trí tuệ, vì vậy, bạn đừng bao giờ đi van xin, cầu nguyện, tạ ơn Chúa, Phật, thần, thánh vu vơ nữa bạn ạ! Vì u mê, mê muội, bạn bị người ta lợi dụng. Bạn có biết không? Có người hỏi Phật Thích Ca rằng: - Thưa Tôn giả Gotama, có phải tôi làm cho tôi khổ không? - Không phải vậy. - Thưa Tôn giả Gotama, như vậy có phải người khác làm cho tôi khổ không? - Không phải vậy. - Vậy ai là người làm cho tôi khổ, thưa Tôn giả Gotama? - 12 nhân duyên đó vậy. Bạn muốn biết câu trả lời trên? Mời bạn vào giotnangchonnhu.org hay nguyenthuy chonnhu.net, hay chonnhu.net, sẽ trả lời chi li cho bạn qua 12 CỬA VÀO ĐẠO của ngài A-la-hán Thích Thông Lạc. |
|||
• Trả lời : | |||
Duyên do đạo hữu Ronald Trương đưa ra "12 Nhân Duyên" và sách "Mười Hai Cửa Vào Đạo" của Trưởng lão Thích Thông Lạc, chúng tôi xin gợi dẫn thêm mấy ý để quý độc giả suy ngẫm và trao đổi. Về 12 Nhân duyên có các luận cứ sau:
I- Theo kinh sách Bắc tông, Nam tông và cả tạng kinh Nikàya đều đã dạy 12 nhân duyên như sau; 1. Vô Minh duyên Hành; 2. Hành duyên Thức; 3. Thức duyên Danh Sắc; 4. Danh Sắc duyên Lục Nhập; 5. Lục Nhập duyên Xúc; 6. Xúc duyên Thọ; 7. Thọ duyên Ái; 8. Ái duyên Thủ; 9. Thủ duyên Hữu; 10. Hữu duyên Sanh; 11. Sanh duyên Ưu Bi, Già, Chết; 12. Ưu Bi, Già, Chết ---> Vô Minh. II- Theo kinh sách (mà chúng tôi hiểu) Trưởng lão dạy 12 Nhân duyên như sau: 1. Vô Minh duyên Hành; 2. Hành duyên Nghiệp; 3. Nghiệp duyên Danh Sắc; 4. Danh Sắc duyên Lục Nhập; 5. Lục Nhập duyên Xúc; 6. Xúc duyên Thọ; 7. Thọ duyên Ái; 8. Ái duyên Hữu; 9. Hữu duyên Thủ; 10. Thủ duyên Sanh; 11. Sanh duyên Ưu Bi, Già, Chết; 12. Ưu Bi, Già, Chết ---> Vô Minh. Như vậy có hai quan điểm về 12 Nhân duyên như đã nêu trên. Chúng ta thấy có sự khác nhau: Quý độc giả suy ngẫm, tìm hiểu xem cách nào gần gũi, phù hợp với lời Phật dạy hơn? Rất mong quý vị góp ý, trình bày quan điểm của mình để chúng ta cùng nhau hiểu biết. |
|||
• Hỏi : | |||
hoahongtrang0576@yahoo.com | |||
- Trong cuộc sống lá lành đùm lá rách, một cử chỉ rất cao đẹp của người Việt Nam, tôi rất quý. Ở quê tôi có một số người còn rất khổ mà lại mang bệnh nan y không biết ra đi lúc nào, tôi muốn chia sẻ cùng họ nhưng vì hoàn cảnh tôi cũng còn khổ lắm, tôi nghĩ mình cũng một phần nào thôi. Tôi muốn có nhiều người có tấm lòng từ bi cùng chia sẻ, nên tôi mạo muội xin chỉ giúp cho tôi những tấm lòng từ bi và những tổ chức từ thiện để giúp họ một miếng khi đói bằng một gói khi no. Sau khi tôi lo cho con tôi ăn học nên người, tôi sẽ nguyện san sẻ phần nào để giúp cho những người nghèo hơn mình, nên khi mình còn sống nên mở tấm lòng mình ra. Tôi xin chân thành biết ơn.
Nam mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam mô Bổn Sư Thích Thông Lạc. |
|||
• Trả lời : | |||
Tâm tư cùng bạn hoahongtrang, chúng tôi rất trân quý và tán thán tấm lòng từ bi của bạn, bạn muốn chia sẻ, gánh vác những nỗi thương đau cuộc sống với mọi người, nhưng lực bất tòng tâm. Dù sao, tấm lòng tốt đẹp của bạn rất đáng để mọi người lưu tâm.
Mong muốn quý vị độc giả có thể chỉ giúp cho hoahongtrang biết “những tấm lòng từ bi và những tổ chức từ thiện để giúp đỡ” người đang gặp hoàn cảnh khó khăn nơi quê hương của hoahongtrang. Vì việc này nằm ngoài khả năng của chúng tôi, nên chúng tôi cầu sự hỗ trợ của quý vị. Xin cảm ơn. Hoahongtrang thông cảm với chúng tôi nhiều nhé. Chào bạn. Giotnangchonnhu. |
|||
• Hỏi : | |||
hoahongtrang0576@yahoo.com | |||
- Tôi muốn hỏi mình có thể biết được kiếp trước và kiếp sau của mình không? Và làm sao để biết?
|
|||
• Trả lời : | |||
1- Có thể biết được kiếp trước và kiếp sau của mình không?
Thưa bạn, không chỉ một mình bạn mà tất cả mọi người, ai cũng đều có thể biết được kiếp trước và kiếp sau của mình nếu người đó muốn. Không những biết kiếp trước của mình mà còn thấy biết những kiếp trước hoặc tương lai của người khác, những chúng sanh khác nữa. 2- Và làm sao để biết? Muốn biết được, hẳn nhiên là phải hoàn mãn con đường Giới – Định – Tuệ như đức Phật và đức Trưởng Lão đã hoàn mãn. |
|||
• Hỏi : | |||
Một Phật tử ở Mỹ | |||
- 1 - “Thầy Thông Lạc dạy rằng không có Niết Bàn, chỉ có trạng thái Niết Bàn”?
|
|||
• Trả lời : | |||
Xin quý phật tử hiểu lại cho rõ lời Đức Phật dạy: “…Có Niết Bàn, có con đường đưa đến Niết Bàn và có Ta là người chỉ đường. Nhưng trong các đệ tử được Ta thuyết giảng, chỉ một số ít chứng đắc cứu cánh, một số khác thì không. Ta biết làm gì được? Ta chỉ là người chỉ đường…”
Đức Trưởng Lão cũng dạy y vậy không sai khác. Cho nên câu hỏi: “Thầy dạy rằng không có Niết Bàn…” là đặt sai vấn đề. Câu hỏi đúng phải là: Thầy dạy rằng không có CẢNH GIỚI Niết Bàn, chỉ có TRẠNG THÁI Niết Bàn. Niết Bàn Phật dạy cũng như Niết Bàn Trưởng Lão dạy là một trạng thái thật có của con người. Đó là trạng thái tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ. (giotnangchonnhu) |
|||
• Hỏi : | |||
Một Phật tử ở Mỹ | |||
- 2 - “Như vậy tại sao hàng ngàn vị A-la-hán chứng quả thời Phật không ở lại trần gian tiếp tục giáo hóa chúng sanh như Phật, như Thầy mà quý ngài vội vã dời khỏi trần gian để cho hàng phật tử phải rơi vào u mê, mê tín dị đoan?”
|
|||
• Trả lời : | |||
Bởi vì các vị A-la-hán là những người hiểu rõ nhân quả hơn ai hết. Cho nên các Ngài biết lúc nào cần ở lại và lúc nào nên ra đi. Cũng cần hiểu kỹ hơn, các Ngài là bậc Như Lai (không đến, không đi), khái niệm dời khỏi trần gian chỉ trong ý thức của kẻ phàm phu. Do vậy câu nói: “…quý ngài vội vã dời khỏi trần gian…” là không hợp lý. Các ngài luôn thung dung tự tại chứ không vội vã bao giờ.
(giotnangchonnhu) |
|||
• Hỏi : | |||
Một Phật tử ở Mỹ | |||
- 3 - Quý vị A-la-hán ở lại giáo hóa thêm nhiều vị A-la-hán có phải quý ngài cám ơn Phật, cám ơn đàn na thí chủ chăng?”
|
|||
• Trả lời : | |||
Câu này nghĩa mở, mỗi người tự hiểu theo ý của mình. Xin đọc lại các ý trả lời ở trên để hiểu thêm DUYÊN PHẬT PHÁP. Nếu là một vị A-la-hán được hỏi câu này, (có thể) ngài sẽ im lặng không trả lời.
(giotnangchonnhu) |
|||
• Hỏi : | |||
Một Phật tử ở Mỹ | |||
- 4 - “Sự ra đi vội vã của quý vị A-la-hán khiến chúng con nghĩ rằng quý ngài đã quyết định dời khỏi trần gian để đến nơi hoàn hảo hơn”.
|
|||
• Trả lời : | |||
Như đã trả lời ở trên, các ngài không vội vã bao giờ và các ngài cũng không đến một nơi nào hoàn hảo hơn cả. Có nơi nào hoàn hảo hơn nơi Niết Bàn, nơi Bất Động, Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự nữa đâu?
(giotnangchonhu) |
|||
• Hỏi : | |||
Một Phật tử ở Mỹ | |||
- 5 - “Vì quý ngài muốn chết lúc nào cũng được, nên ở lại trần gian thêm vài trăm năm đâu cần phải vội vã ra đi?”
|
|||
• Trả lời : | |||
Các ngài muốn chết lúc nào cũng được, điều đó chứng tỏ năng lực làm chủ bốn sự khổ của kiếp người mà các ngài thành mãn. Còn việc “ở lại hay ra đi” là do duyên nhân quả của chúng sanh. Các ngài chỉ dạy chúng sanh tu hành để chuyển đổi nhân quả chứ các ngài không bẻ cong được nhân quả. Do vậy dù các ngài có ở lại thêm 1000 năm nữa nhưng chúng sanh không tin nhân quả, không tin đường đi của các ngài đã chỉ thì thử hỏi sự ở lại có ý nghĩa gì?
(giotnangchonnhu) |
|||
• Hỏi : | |||
Một Phật tử ở Mỹ | |||
- 6 - “Theo thế thái nhân tình, loài người vốn sống trong ác pháp và rất hiếm vị sống trong thiện pháp. Vậy tại sao trong vũ trụ loài người, thế hệ sau lại càng đẹp, càng thông minh và càng sống trong tiện nghi sung sướng hơn”.
|
|||
• Trả lời : | |||
“…loài người vốn sống trong ác pháp và rất hiếm vị sống trong thiện pháp”
Đúng vậy, Thầy đã dạy: “Loài người là một loài động vật cao cấp thông minh nhất trong các loài vật. Nhờ có bộ óc thông minh nên loài người được xem là chúa tể của muôn loài. Loài động vật trên hành tinh sống này thường giết hại lẫn nhau, ăn thịt nhau mà chẳng chút thương nhau. Loài người cũng chỉ là một loài động vật nên vẫn nằm trong bản chất hung ác của loài động vật. Vì thế nên vẫn giết hại và ăn thịt lẫn nhau. Hiện giờ loài người tự cho mình là văn minh, nhưng bản chất hung ác vẫn còn mang nặng trong tâm hồn”. (Xin lưu ý chữ “thông minh” nhất trong các “loài vật”). - “Vậy tại sao trong vũ trụ loài người, thế hệ sau lại càng đẹp, càng thông minh và càng sống trong tiện nghi sung sướng hơn”. Lời khẳng định: “thế hệ sau lại càng đẹp, càng thông minh và càng sống trong tiện nghi sung sướng hơn”. Điều này cần phải bàn và suy xét kỹ mới có thể nhận thức đúng vấn đề. Duy chỉ có câu “càng sống trong tiện nghi” nhiều hơn thì đúng, bởi con người đã tận dụng hết khả năng vơ vét nguồn tài nguyên đến cạn kiệt để hưởng thụ thỏa mãn lòng dục của mình. Và như vậy xin chớ vội khẳng định rằng càng về tương lai con người sống càng sung sướng hơn. Đó là một điều nhầm lẫn lớn. Với câu: “thế hệ sau lại càng đẹp, càng thông minh” thì còn nhiều nghi vấn lắm. Cần phải hiểu cho rõ, thế nào là đẹp, thế nào là thông minh để không mê lầm. Cái đẹp của con người là sự đẹp về đạo đức, sự thông minh của con người cũng chính là trí tuệ của mỗi người, mà trí tuệ thì phụ thuộc vào đạo đức. Người đạo đức chính là người sống trong thiện pháp (giới luật). Có đạo đức (tức sống trong thiện pháp) thì con người mới thực sự thông minh và đẹp. |
|||
• Hỏi : | |||
Một Phật tử ở Mỹ | |||
- 7 - “Như vậy theo luật nhân quả, cần nên quan niệm lại rằng: loài người vốn sống trong thiện pháp nên họ cũng được hưởng trong thiện pháp đó không? Và rất ít người sống trong ác pháp nên họ chịu thiệt thòi trong sinh hoạt nhân loại?”
|
|||
• Trả lời : | |||
Luật nhân quả rất công bằng và không bao giờ sai sót nên không cần phải có một quan niệm (mới) lại nào nữa cả. Ai sống trong thiện pháp tất sẽ được hưởng quả phúc của thiện pháp ngay trong cuộc đời này, và cao hơn họ sẽ thoát ra cảnh trầm luân của lục đạo luân hồi.
“Và rất ít…” – không phải vậy – còn rất nhiều người sống trong ác pháp nên không những họ phải chịu thiệt thòi trong sinh hoạt nhân loại, mà nặng nề hơn họ còn bị trôi lăn đọa đầy trong bao kiếp chúng sinh chứ làm sao kiếm được thân người nữa. Giotnangchonnhu có mấy ý trao đổi về câu hỏi của quý phật tử như vậy. Rất mong sự trao đổi để mỗi người chúng ta cùng thông hiểu thêm tri kiến giải thoát của dạo Phật. |
|||
• Hỏi : | |||
hoahongtrang0576@yahoo.com | |||
- Tôi có thắc mắc và không biêt hỏi ai. Xin giải thích giúp tôi, nếu trong hiện tại việc xảy đến với mình thật bất ngờ không có tính trước nhưng lại là việc không hay, vậy mình nghĩ đó là nhân quả hay là nghiệp phải trả trong tương lai?
|
|||
• Trả lời : | |||
Thưa bạn, trong cuộc sống thường có những sự kiện xảy đến với mình dưới hai trường hợp:
1. Có sự tính toán trước, 2. Không có sự tính toán trước. Trong cả hai trường hợp này đều chứa sẵn những yếu tố bất ngờ: hay hoặc không hay, thành công hay thất bại, hạnh phúc hay khổ đau… Nếu làm việc với một sự tính toán trước, chuẩn bị kỹ lưỡng, dè dặt, cẩn thận, chu đáo và hướng đến sự lợi lạc cho mình và cho mọi người thì yếu tố bất ngờ của sự thành công có nhiều khả năng xảy ra hơn. Và ngược lại, nếu có sự tính toán trước nhưng chỉ mưu cầu lợi lạc cho mình, không quan tâm đến những thiệt hại, đau khổ của người khác thì yếu tố bất ngờ của sự thành công rất hiếm hoi, và yếu tố bất ngờ của sự thất bại (không hay) dễ dàng xảy ra. Câu bạn hỏi, sự việc xảy đến bất ngờ không có tính trước nhưng lại là việc không hay (tức là không làm bạn toại ý, phải đau khổ) thì đó là nhân quả hay là nghiệp phải trả trong tương lai? Ở đây, bạn có thể hiểu rằng là nhân quả hay là nghiệp đều không sai. - Nhân quả là vì, khi bạn nhận (nghiệp trổ quả) việc không hay, tức là sự tạo thành từ những hành động của mình (nhân) trong quá khứ và hiện tại, nay đến lúc duyên vừa đủ thì (trổ quả) khiến bạn phải nhận chịu sự bất toại ý, đau khổ này. - Nghiệp là vì, khi bạn nhận quả trong hiện tại thì quả ấy lại là nhân tạo nghiệp cho tương lai. Tùy thuộc vào thái độ hành động khi nhận quả lúc hiện tại mà (nhân quả) quyết định nghiệp tương lai tốt hay xấu. Nếu khi bạn đang bị nhận “quả bất ngờ không hay”, nhưng vì bạn đã hiểu rõ về tri kiến nhân quả giải thoát, tâm bạn bình thản, không sợ hãi, không hành động như mang tính “trả thù” nhân quả thì chắc chắn đó là sự tạo nghiệp tốt. Ngược lại, cũng trong hoàn cảnh ấy, vì không hiểu biết tri kiến nhân quả, bạn luôn phiền não, ta thán, sợ sệt… rồi có những hành động khiến hại mình và hại người thì lại tạo nghiệp khổ cho tương lai là cầm chắc. Mong bạn đọc thêm các bài giảng của Trưởng lão Thích Thông Lạc đã giới thiệu trên trang giotnangchonnhu và các trang nguyenthuychonnhu.net, chonlac.org, chonnhu.net, Ngài đã giảng rất kỹ càng về vấn đề này. |
|||