Hôm nay Thầy gặp các con là để xem các con tu tập có đúng không. Thường sự sắp xếp lớp theo sự tu tập. Trong số các con, có người tu trong các giáo phái Thiền tông hay Tịnh độ tông, trong các giáo phái này mục đích là tu ức chế ý thức của ta, làm cho cái ý thức không còn khởi niệm. Ở đây đạo Phật dạy chúng ta ly dục ly ác pháp chứ không dạy chúng ta ức chế ý thức. Nhớ kỹ điều đó. Khi ly dục ly ác pháp thì tự nhiên nó không niệm. Để tự nhiên cho nó không niệm. Nên nhớ điều này. Chúng ta không chủ trương hết vọng tưởng là thành Phật. Không phải vậy. Ở đây không diệt ý thức của chúng ta. Phải để tâm tự nhiên không niệm khi nó đã ly dục ly ác pháp, chứ không phải ngồi cố gắng giữ tâm bất động cho nó không vọng tưởng bằng cách này hay cách khác; làm vậy là chúng ta đã ức chế tâm. Khi cố gắng giữ tâm không niệm, dù dùng bất cứ cách gì, đối tượng nào thì chúng ta cũng ức chế ý thức, cũng sai pháp.
Muốn tâm không niệm thì chúng ta phải ngồi trong thất, giữ gìn các giới phòng hộ, phải phòng hộ các căn, giữ gìn giới luật cho không hề vi phạm, nhất là giới ĐỘC CƯ, sống một mình, không tiếp duyên với ai hết. Đó là giới luật cần thiết cho chúng ta tu tập.
Đức Phật nói: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Nếu ngồi trong thất mà tâm phóng đi chỗ này chỗ kia, hoặc ra khỏi thất đi lang thang chỗ này chỗ nọ để tâm nhớ nghĩ người này người khác, mặc dù không gặp không nói chuyện với ai nhưng cũng là phóng dật. Pháp của Phật không ức chế ý thức cũng không diệt ý thức mà rèn luyện để ý thức có được lực ý thức bằng pháp tác ý.
Pháp tác ý có công năng tạo thành lực ý thức. Người tu hành không phải diệt ý thức mà tập luyện cho ý thức thành lực ý thức. Tu hành có mục đích làm cho tâm có được lực ý thức, chứ không phải diệt ý thức. Khi tâm có lực ý thức mạnh đúng mức thì nó sẽ làm cho ta có đủ TỨNHƯ Ý TÚC:
˗ Dục Như ÝTúc tức ta muốn cái gì thì thân tâm thực hiện như vậy;
˗ Định Như Ý Túc là ta muốn nhập định nào thì thân tâm ta nhập ngay vào định đó;
˗ Tuệ Như ÝTúc là ta muốn biết cái gì ở bất cứ nơi nào, vào thời gian nào ta đều biết hết;
˗ Tinh Tấn Như Ý Túc làm cho tâm lúc nào cũng ở trong trạng thái tâm bất động thanh thản an lạc vô sự. Tất cả Tứnhư ý túc đều ở trong tâm bất động.
Như bây giờ các con muốn tâm bất động, thanh thản,an lạc, vô sự bằng tác ý, nhưng tâm các con đâu theo các con, thì các con lại dùng một pháp ức chế ý thức để cho nó bất động, thì các con đã sai. Cứ để tự nhiên cho nó khởi niệm hay bất động; không dùng đối tượng nào, không dùng bất kỳ phương pháp nào làm cho nó không niệm, bằng không thì lạc vào các pháp ức chế tâm của ngoại đạo.
Phải để tâm khởi niệm tự nhiên. Càng khởi niệm nhiều càng tốt. Mỗi niệm khởi đều có tính cách của dục và ác pháp, thì tác ý. Mà càng tác ý nhiều thì đương nhiên càng tạo nên lực ý thức. Các con thấy cơ bắp cánh tay co vô duổi ra nhiều thì nó phải mạnh chứ sao; cũng như cái ý thức của ta mà cứ tác ý hoài thì nó phải mạnh chứ sao. Còn các con không chịu tác ý, cứ dùng các cách để giữ tâm bất động thì làm sao tạo nên lực ý thức.
Ta lắng nghe tâm khởi niệm. Khi tâm khởi niệm thì nó có tính cách của dục và ác pháp. Ác pháp là những ý nghĩ như thương ghét, nhớ nhung, lo lắng,… hay tự thấy còn thiếu sót, chưa làm xong điều này điều nọ cần phải về để giải quyết cho xong... Những cái như vậy làm tâm các con bị động, là ác pháp, cho nên phải ly bằng pháp tác ý, chứ không phải ngồi mà ráng cho hết vọng tưởng. Những niệm này chúng ta xem là vọng tưởng, nhưng thật ra chúng chính là ý thức của chúng ta, là trí tuệ của chúng ta, cho nên chúng ta không diệt nó.
Khi tâm bất động,thanh thản,an lạc,vô sự và hoàn toàn thanh tịnh tự nhiên thì trí tuệ đó trở thành tuệ như ý túc của trí tuệ ba minh. Nếu chúng ta diệt ý thức thì nó đâu còn hoạt động, chúng ta không còn suy nghĩ, không còn biết gì nữa; chúng ta trở thành như gốc cây, như tảng đá, không còn hoạt động, không còn suy nghĩ, không còn biết cái gì hết. Cho nên,hằng ngày phải tác ý để sự tác ý trở thành lực ý thức và khi chúng ta muốn biết cái gì thì tuệ của chúng ta biết tất cả, chúng ta mới có ba minh.
Khi tu sai, chúng ta ức chế ý thức cho khôngvọng tưởng thì vất vả lắm nhưng bị lạc thiền, không đi tới đâu cả, mà khi ý thức không làm việc thì tưởng thức sẽ làm việc. Rồi có một chút ít những việc kỳ lạ, những việc lạ lùng thì các con coi là có thần thông. Điều đó là sai, cái thần thông đó chỉ là do tưởng lưu xuất ra. Tránh làm cho tưởng lưu xuất dưới dạng những thần thông. Đó không phải là cứu cánh mà cứu cánh của các con là làm chủ sự sống chết bằng lực ý thức.
Hiện giờ trong số các con đang ngồi đây, có người tác ý thì cơn đau giảm, nhưng đó là ý thức mới ch̉ỉ có chút xíu lực có khả năng đẩy lui được bệnh nhưng không thể tác ý bảo tịnh chỉ hơi thở, bỏ thân này thì nó chưa làm được.
Cho nên,Thầy nhắc nhở các con: Trong sự tu tập hằng ngày, các con phải dùng pháp tác ý, không được ức chế tâm. Có như vậy mới tu không sai, chứ không khéo, bởi theo những thư trình nói con nhiếp tâm như thế này như thế khác, không đúng với cách nhiếp tâm bằng pháp Như lý tác ý mà Thầy đã dạy, thì các con sẽ lọt vào không tưởng.
Khi ý thức bị ngưng hoàn toàn thì không phải nó ở trong không ngơ mà nó lọt vào không tưởng không sao tránh được. Khi tưởng hoạt động thì như người khùng chứ không còn bình thường. Có một số người tu lọt vào trong pháp tưởng rồi nói đủ thứ, làm như mình thông suốt đủ loại. Đó là cái bệnh.
Thầy dạy các con ly dục ly ác pháp như thế nào? Các con ngồi chơi trong thất trong tất cả mọi tư thế oai nghi như ngồi kiết già, ngồi bán già, ngồi dựa lưng trên ghế, rồi nằm, rồi đi, cứ luôn luôn lúc nào cũng quan sát xem tâm có những tâm niệm nào. Cứ luôn luôn quan sát tâm mình. Tâm niệm chỉ mới nhá lên thôi, chưa thành niệm gì cả, nó chỉ mới chớp một cái thôi, ngay khi các con biết thì nó đã lặn rồi và các con cho rằng như vậy là đúng pháp “biết vọng liền buông”, không làm gì cả. Cái cho như vậy là sai, những cái nhá đó là niệm, cứ hiện ra hoài không bao giờ hết niệm đâu, không đúng pháp Phật đâu.
Khi có nhá niệm như vậy, dù cho khi các con biết thì nó đã mất rồi, không còn nữa, nhưng các con cũng phải tác ý “Tâm phải bất động, phải không niệm”, “Chỗ này là chỗ tâm bất động, không phải chỗ của mày làm việc”. Đừng bỏ qua bất kỳ cái nhá niệm nào vì đó là niệm. Có niệm là làm tâm động nên phải dẹp niệm đó xuống bằng pháp tác ý. Phải dẹp không cho có niệm nào. Dù chỉ có nhá niệm thôi. Có tác ý thì mới tạo thành lực ý thức.
Khi các con tu thấy mình ngồi trong 30 phút mà tâm yên lặng, bất động thì đó là đã nắm được tâm bất động. Khi được như vậy thì các con đừng mong, đừng cố gắng kéo dài thời gian làm cho nó bất động. Như bất động được 30 phút rồi ráng cho được một giờ, được một giờ thì ráng cho được hai giờ... Không phải như vậy, không nên làm như vậy, mà cứ để cho nó tự nhiên, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Ba mươi phút cũng được, mười phút cũng được. Hôm nay tâm bất động một giờ mà ngày sau chỉ mười lăm phút, hay nửa giờ cũng đừng cho là bị thối thất, bị tu không tiến bộ. Đừng quan trọng tiến hay lùi. Điểm cốt yếu là tâm phải hoàn toàn bất động trong thời gian đó. Bao lâu cũng được. Không cố định thời gian đã đạt được. Cố gắng đạt cho bằng thời gian đó là đã ức chế tâm. Hôm nay được mười phút thì nó tự bất động trong mười phút đó chứ ta không bắt buộc nó. Mà ngày sau được 30 phút thì nó cũng tự nhiên đạt thời gian đó chứ ta nào có bắt buộc nó đâu. Nó tự như vậy chứ ta không bắt buộc nó, không điều khiển bất động. Hay bữa khác chỉ vài phút là có niệm, mới ngồi đã có niệm rồi, thì cũng chẳng sao. Không vui cũng không buồn. Tại cái tâm mình ly dục ly ác pháp chưa hết nên nó có niệm như vậy. Không cố gắng đạt thời gian đã được bất động nào vì làm vậy là ức chế tâm, ức chế ý thức. Không thể không niệm khi tâm còn dục, khi tâm còn ác pháp.
Vậy thì phải xả tâm ly dục ly ác pháp cho thật sạch thì sẽ không niệm, tâm sẽ bất động. Càng ly dục và ác pháp nhiều thì tâm càng bất động dài lâu. Chỉ cần ly sạch dục và ác pháp thì ngồi xuống, tác ý “Tâm phải bất động, thanh thản, an lạc, vô sự”, tâm liền bất động từ giờ này qua giờ khác rất dễ dàng. Các con tu đúng như vậy thì thời gian chứng đạo chỉ trong vòng một năm hay sáu bảy tháng chứ không kéo dài lâu đâu. Các con đâu tu để trở thành cái gì, mà chỉ tu xả tâm; tu sao cho các con cũng như người bình thường nhưng các ác pháp không tác động vào tâm các con được. Khi mình biết đó là ác pháp thì mình không để cho nó tác động vào tâm. Mình cũng như một người bình thường, nhưng không có ác pháp nào lọt vào tri kiến giải thoát. Có tri kiến về nhân quả, tâm không bị động, không bị xâm chiếm bởi ác pháp. Khi biết đó là ác pháp như giận hờn, thương ghét... thì mình đâu để cho tâm bị động vì hiểu đó là do nhân quả. Bằng tri kiến giải thoát, bằng pháp Như lý tác ý thì khi có ác pháp như giận hờn, thương ghét... tới thì sẽ bị chận ngay từ ngoài cửa, tâm sẽ yên lặng nhờ tri kiến giải thoát, nhờ ý thức giải thoát. Phải tác ý khi có những niệm như thế, đừng cho mình có tri kiến giải thoát là ngon, đã chận nó từ ngoài cổng. Không phải vậy đâu, các niệm như vậy cứ khởi ra hoài, không hết đâu, nó ngầm đó rồi nó sẽ xâm chiếm vô. Cho nên phải tác ý, tác ý cho nó tạo thành cái lực và cuối cùng cái lực đầy đủ thì làm chủ được thân tâm và giải thoát. Cố gắng tu chừng sáu bảy tháng thôi, không lâu đâu. Bền chí, đừng để cho một người nào đến nói chuyện với mình, chỉ sống một mình.
Bền chí kiên trì tác ý và có cuộc sống thật sự độc cư, không nói chuyện với ai, không tiếp duyên với ai để giữ tâm không phóng dật thì tâm sẽ không phóng dật. Ai làm gì cũng đừng để ý, đừng phê phán ai, đừng chê cười ai, ai sao kệ họ, chỉ lo tu cho bản thân. Tâm mình rất dễ phóng. Dễ phóng con mắt, dễ phóng lỗ tai, bên kia họ làm cái cộp thì lỗ tai nó nghe, nó phóng ra, điều đó cho thấy cái tâm mình rất dễ phóng. Bên thất của người, họ làm gì cũng kệ họ. Người ta có ngủ gục hay như thế nào cũng đừng có ý kiến gì, đừng quan tâm tới ai cả. Có âm thanh thì bảo tâm hãy quay vô nghe bên trong, đừng nghe cái âm thanh đó. Làm sao tuy sống gần như vầy mà đừng nhìn sang thất của người ta. Có người lấy vải che thất mình để lở mình có ngủ cũng không ai nhìn thấy, không cho ai nhìn thấy gì trong thất. Đó là cái sai. Đừng che chắn gì cả. Không gì cần che dấu ai. Cứ để thất tự nhiên, đừng che chắn gì cả. Khi bị hôn trầm thùy miên thì đứng dậy đi kinh hành, siêng năng đi kinh hành, đi pháp thân hành niệm tác ý từng hành động. Đó là các pháp phá hôn trầm. Ta có đầy đủ các pháp, cứ ôm chặt các pháp thì sẽ phá các ác pháp đó hết.
Còn các vọng tưởng, loạn tưởng, đừng sợ có niệm, đừng sợ có vọng tưởng, đừng ức chế nó, cứ để tự nhiên, chỉ dùng pháp tác ý. Mỗi khi có niệm thì dùng nó làm đối tượng để tác ý. Càng nhiều niệm càng có cơ hội để tác ý. Mà tác ý nhiều thì có lực ý thức.
Các con còn công việc thì giải quyết cho xong rồi vào thất tu. Các con đã biết cách tu, đừng bỏ phí cuộc đời. Sau khi tu xong thì có người biết cách thức tu tập đúng thì những người đó thay thế Thầy.
Được thân người là khó mà gặp được chánh pháp càng khó hơn. Các con cứ nghĩ đi, được thân người và lớn lên như vầy mình khổ mà cha mẹ mình cũng khổ.
Đừng mong cầu có thần thông mà ch̉ỉ mong sao cho tâm mình không có ác pháp nào, không có dục nào xen vào. Bấy nhiêu đó đủ rồi. Rồi từ đó luyện tập xả tâm cho sạch, luyện cho có Tứ Thần Túc, bốn lực như thần. Mọi người đang ngồi trước mặt Thầy, người nào cũng đều có bốn lực đó nhưng không chịu rèn luyện. Các con nên cố gắng. Rèn luyện thì có các lực đó.
Đừng nghĩ rằng tác ý làm tâm động. Không phải vậy đâu. Chính tác ý là ý thức làm chủ. Bây giờ các con ngồi bất động mà không tác ý thì các con tu riết thành gốc cây thôi, bất động trở thành gốc cây, trở thành cục đá thôi, trở thành cái băng ngồi rồi. Nó không cục kịch, không nói, không nghĩ gì cả. Ngồi bất động mà không biết gì cả, thì tu để làm cái gì?
Chỉ ngồi đó mà không nghĩ gì được hết, vậy thì tu để làm cái gì? Cho nên, chúng ta tu là làm chủ thân tâm. Làm chủ tâm có nghĩa là dù ai nói gì cũng không giận, không hờn, ai đem cái gì cám dỗ mình cũng không ham muốn gì hết. Làm chủ thân là khi già không bị run rẫy yếu đuối, không bị đau nhức chỗ này chỗ kia như một người già bình thường run rẫy sợ té khi đi đứng. Người già là cả ổ bệnh. Người già có tu thì thân già không có những cái khổ đó. Bởi khi có cảm thọ thì tác ý đuổi cảm thọ đi. Chỉ cần tác ý thì không có những cái khổ đó.
Lực ý thức mạnh thì sẽ đuổi sạch tất cả mọi cảm thọ. Tu tập là tu tập làm chủ già, làm chủ bệnh. Lực ý thức mạnh thì bảo thân phải nghe. Có lực ý thức mạnh thì dùng lực ý thức điều khiển thân không bệnh, làm chủ già. Khi làm chủ già và bệnh được rồi thì làm chủ cái chết, muốn chết là chết, bảo cái thân này ngưng thở thì nó ngưng thở liền. Các con bảo thì thân các con không làm được chứ Thầy bảo thì nó làm ngay. Thân của mình mà bảo sao thì nó nghe như vậy. Hạnh phúc vô cùng!
Cố gắng duy trì cho được chánh pháp của Phật để cho con đường Phật pháp nó còn. Chỉ có Phật pháp mới có con đường này. Con đường làm chủ bốn nổi khổ sanh, già, bệnh, chết thì chỉ có đạo Phật mới có con đường này chứ các tôn giáo thì có rất nhiều nhưng có tôn giáo nào làm chủ được bốn cái khổ này đâu. Như Hồi giáo, như Thiên Chúa giáo, Lạt ma giáo, Đại Thừa giáo, Thiền tông... có tôn giáo nào có pháp nào làm chủ bốn sự đau khổ sanh già bệnh chết đâu? Chỉ có đạo Phật mới làm được những điều này. Cho nên, Thầy còn sống đây là để giúp cho con người có kinh nghiệm này biết cách làm chủ bốn sự đau khổ đó. Chỉ đạo Phật mới đem lại sự làm chủ này chứ các tôn giáo khác chủ trương có thần thông hay có cõi trời này kia và khi nào người nào sống thiện, làm thiện thì khi chết sẽ được rút về cõi trời đó. Hay liều chết để bảo vệ tôn giáo của mình như trong các cuộc thánh chiến, bị chết thì sẽ lên cõi trời đó. Tinh thần đó rất mạnh, chứ không phải làm thiện để cứu chúng ta đâu, chỉ là mơ tưởng sự giải thoát theo hướng như vậy.
Trong bài kinh Pháp Môn Căn Bản, Phật nói ba mươi ba cõi trời chỉ là tưởng ra thôi, không có thật, chỉ có con người do duyên thọ sanh mà có. Chúng ta sống trong duyên hợp. Hợp rồi tan rã. Pháp của Phật chỉ nhắm làm chủ sanh,già,bệnh,chết; nhằm phá vỡdây xích 12 nhân duyên bằng sự làm chủ ý thức. Chỉ có con người mới có ý thức làm chủ bốn sự sanh,già,bệnh,chết. Trong mười hai duyên có bốn cửa vào để phá vỡcác mắtxích của 12 nhân duyên. Tu sĩ là người đi vào cửa SANH của 12 nhân duyên để phá dây xích này, là cửa các con đã đi vào. Vào cửa sanh thì phải bỏ hết, phải cắt ái ly gia, phải quyết tu cho tới nơi tới chốn. Nếu còn lui tới thăm gia đình hay còn để phật tử tới lui thăm viếng thì không cách nào tu thành công. Không đúng với Phật giáo, không cắt ái ly gia là tu sai pháp Phật. Tu phải thành công, phải tu cho tới nơi tới chốn, rồi mới nói chuyện với gia đình, với phật tử để giúp họ tu.
Ra khỏi tu viện, ra khỏi chùa thì phải làm chủ được bốn sự khổ đau đó của kiếp người, phải làm chủ luân hồi, phải chấm dứt luân hồi. Nếu chưa làm được mà đi ra nói mình thanh tịnh như vầy hay như khác, tôi ngồi một hai giờ không có vọng tưởng thì đó là không đúng, chỉ có ngoại đạo thôi, không đúng của đạo Phật.
Cho nên,các con nhớ kỹ: Phải dùng pháp tác ý khi có niệm, càng có niệm thì càng tác ý để rèn luyện cái tâm của mình. Khi không có niệm thì không tác ý nhưng tâm không được trụ vào đâu hết, vì chỗ trụ là chỗ ý thức của ta bám vào, cột vào chỗ đó. Nhớ kỹ: Có niệm thì tác ý, không niệm thì ngồi chơi chờ niệm.
Khi không niệm thì chỉ trụ tâm vào thân, đừng trụ tâm vào đâu hết, đừng trụ tâm vào hơi thở, đừng nương hơi thở theo kiểu quán hơi thở. Chỉ có một chỗ trụ không sai, đó là trên thân quán thân. Khi bất động tự nhiên thì các con cảm thấy như thế nào? Các con thấy cảm nhận toàn thân trong từng hơi thở ra vào rất nhẹ nhàng nhưng các con không được trụ trong hơi thở cũng không được trụ trong không. Tâm không phóng dật ra ngoài thì nó phải ở trên thân chứ sao, mà trên thân thì nó phải biết thân chứ. Thì đó là cái ý thức của chúng ta đang quay vô biết thân nó.
Trong khi đó chúng ta không dùng trên thân quán thân để ức chế nó, mà chúng ta để tự nhiên. Coi nó quán thân lâu mau như thế nào. Khi không quán thân mà tâm ở trên thân một cách tự nhiên thì cứ để như vậy. Hoàn toàn tự nhiên, không dụng ý, không dụng công buộc tâm ở yên một nơi nào.
Không nhiếp tâm vào đâu hết. Không nhiếp tâm vào hơi thở, vào thân hay thân hành nào. Nó đang tự nhiên ở trên thân thì cứ để cho nó ở tự nhiên như thế, chỉ biết thật rõ là nó không bị ý thức của chúng ta buộc nó nhiếp vào thân hay thân hành nào bằng sự chú ý của chúng ta. Làm được vậy, giữ được vậy thì tâm sẽ từ từ ở trên thân dài lâu mà vẫn tự nhiên chứ không cần có dụng công dưới hình thức nào.
Các con phải tự khép chặt đời sống độc cư của các con thì nó mới quán thân thật sự. Nếu còn nếp sống tiếp duyên, còn nói chuyện, còn nhìn ngó ra ngoài, còn phóng dật... mà dụng công dùng tâm quán thân là bị ức chế. Tâm ở trên thân lâu dài hay chỉ một chốc cũng không sao, vẫn tốt. Bởi tứ niệm xứ là hành động tự nhiên, chứ không phải dùng thân để quán. Trong tám chánh đạo, Phật nói Chánh Niệm là Tứ niệm xứ. Tứ niệm xứ là phải tự nhiên không một chút gì ức chế, nhưng mình phải sống trong thất, không phóng dật thì tâm mới ở trên thân. Mà ở trên thân thì tâm phải cảm nhận toàn thân chứ không trụ tâm vào đâu hết.
Nếu theo thói quen tập trung một chỗ nào thì sai. Tâm chỉ biết duy nhất hơi thở là sai. Không được tập trung tâm trong hơi thở. Không được dùng thân để quán. Nếu trong khi giữ tâm bất động mà chỗ nào trên thân có cảm thọ khác lạ là bởi có sự tập trung vào chỗ đó, phải xả ra. Phải để nó tự nhiên. Nếu bây giờ chỉ biết duy nhất hơi thở là sai. Không phải tu hơi thở, mà tu pháp tác ý.
Mới vào tu thì tu ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ “Hít vô tôi biết tôi hít vô, Thở ra tôi biết tôi thở ra”. Tập một thời gian để mình rèn luyện sự hô hấp, thở hơi thở như thế nào, dài hay ngắn cũng được, không bị rối loạn, không bị có khó chịu trên cơ thể. Rồi nương vào hơi thở để “Quán ly tham, quán ly sân, quán ly si”. Rồi “Quán từ bỏ...”, “Quán đoạn diệt...”. Đó là pháp tu của người mới tập tu, mới vào tu. Người mới vô không thể ngồi quét được, không quét nỗi, cho nên phải dùng các đề mục định niệm hơi thở để quán sát tâm, xả bớt các dạng thô tham sân si, bằng không thì bị ức chế. Vì vậy, phải bằng phương pháp xả tham sân si thô qua 19 đề mục của định niệm hơi thở. Sau khi tu thuần thục các đề mục định niệm hơi thở rồi, khi đó ngồi lại thấy tâm mình im lặng bất động một cách thản nhiên rồi thì mới bắt đầu vào tu Tứ niệm xứ.
Các con tu đã lâu, đã sống độc cư được rồi thì dùng pháp tác ý để quét từng cái tâm niệm vi tế tham sân si. Tâm niệm tham sân si vi tế là khi người nào nói oan ức gì, mặc dù các con thản nhiên nhưng trong tâm còn những tham sân si vi tế. Chỉ có pháp tác ý mới quét, mới diệt hết các vi tế này, cho nên tâm mới thanh tịnh hoàn toàn. Thầy thấy ở đây có một số người sống độc cư tu tập tốt, cho nên khi đã sống không còn buồn khổ trong giai đoạn độc cư thì tới giai đoạn kế là giai đoạn xả ra, giữ tâm bất động. Cứ cố gắng tiếp tục phòng hộ các căn, giữ hạnh độc cư cho nghiêm. Trong khi đi, đứng, ngồi, nằm đều dùng pháp Như lý tác ý, đừng vì bất kỳ lí do gì mà phá hạnh độc cư, mà không phòng hộ các căn, đừng cố gắng giữ tâm bất động mà cứ để tự nhiên và có tư tưởng ý nghĩ nào thì chỉ dùng pháp Như lý tác ý. Trong thời gian này, những người đó phải sống trong khu vực môi trường giúp họ giữ tâm bất động, không tiếp duyên, không bị động. Sống ly dục ly ác pháp thật sự thì tâm sẽ ở trên thân. Cho nên, khi các con muốn để tự nhiên cho tâm quán thân được thì các con phải khép chặt đời sống độc cư, không phóng dật. Nếu còn sống phóng dật, còn tiếp duyên mà dụng công cho tâm quán thân là các con đã dùng ý thức ức chế ý thức, là sai.
Nếu ai sống độc cư một hơi năm mười ngày rồi chạy ra gặp người này người kia hỏi, không hỏi nhiều, như bữa nay cơm nước cho ăn cái gì đây? Là không được. Bây giờ hỏi tới: “Không biết Thầy bây giờ có khỏe không?”, đó cũng là phóng dật. Hỏi thăm về bất cứ chuyện gì cũng là tâm phóng dật. Hỏi thăm Thầy cũng là phóng dật. Phải coi như là mình vô tình. Dù Thầy có chết, đó là việc thường, cũng không vì vậy phá hạnh độc cư. Thầy có tịch thì Thầy cũng đã thu xếp mọi việc, chuẩn bị đầy đủ, sẽ rất tự tại. Thầy sẽ nhập định để không bị vi khuẩn làm hư thối. Thân nhập định sẽ có từ trường bảo vệ không hư thối, không bị vi khuẩn phá. Nhưng để lại nhục thân làm gì. Như nhục thân của Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Tường ở chùa Đậu - Hà Nội, ngoài Bắc, người ta vẫn làm tiền được. Cho nên, Thầy chết thì đem chôn hay thiêu đốt, không tốn kém, không để lại gì cả.
Các con ai tu làm chủ sống chết được thì đừng để lại nhục thân làm gì, không khéo người ta sẽ khai thác để làm tiền, chỉ như Phật và các vị trưởng lão khác. Đừng làm động xóm làng, đừng để lại cái gì cho người sống làm tiền người sống. Khi chết rồi thì nên thiêu đốt, chôn cất, không để lại cái gì cả. Cái mà chúng ta phải làm cho được là khi tu chúng ta không để thân bị bệnh đau, không để tâm bị phiền não giận hờn ai. Đó là cái mà chúng ta phải làm cho được, phải tu hành cho được.
Hôm nay Thầy nhắc nhở các con là phải rèn luyện pháp Như lý tác ý. Có bất kỳ niệm nào, hoặc thân thể không tự nhiên thì không thể không tác ý. Có niệm nào làm tâm các con bị động thì: “Tâm bất động”,tác ý đuổi đi. Chỉ tác ý thôi thì nó sẽ đi. Có niệm gì khởi trong đầu thì: “Tâm bất động, không có niệm gì vô đây”. Rồi ngồi yên. Có niệm nào vô thì tác ý đuổi nữa. Hằng ngày không cần biết đã tác ý đuổi bao nhiêu lần. Cứ có niệm thì tác ý đuổi. Không có thì ngồi chơi chờ niệm khác tới.
Không ghi chép gì cả. Ghi chép công phu tu tập là phóng dật. Dẹp đi. Không ghi chép gì hết. Viết là phóng dật. Viết thơ cho Thầy cũng phóng dật. Có gì bất thường trong khi tu tập thì nhờ người thưa hỏi Thầy, nhờ chú Mật Hạnh cho nam, hoặc nhờ cô Trang cho nữ. Tự mình suy nghiệm với sự giúp đỡ của Thầy thì sẽ tu đến nơi đến chốn. Nhớ là đừng tự mình kiến giải rồi tu. Rất nguy hiểm vì sẽ dẫn vào đường sai. Bởi người muốn tu để giải thoát thì trước khi xuất gia đi tu thường hay tìm hiểu các pháp, tu tập các pháp, nhưng có pháp nào không khoe pháp mình hay, và đã có tu tập pháp này hay pháp khác. Thầy rất lo là vì các pháp đó Thầy đã từng trải qua. Thầy đã từng trải qua một số pháp như pháp luyện thần thông bằng mật chú trong Mật tông đạt được thần lực, do người cha của Thầy là một Sư Mật tông, chân truyền lại. Mật tông thì tỉnh Tây Ninh sát biên giới với Campuchia nên pháp luyện thần chú từ trên đó truyền về và người Việt thường vào Núi Cậu tu tập, còn núi Bà thì động vì người ta đi trẩy hội, đi thăm viếng.
Rồi pháp môn niệm Phật của Tịnh độ tông theo Hòa Thượng Thiện Hòa, trước là Viện Chủ chùa Ấn Quang ở thành phố Hồ Chí Minh, là thầy của Thầy,Thầycũng niệm Phật nhất tâm như Hòa Thượng. Rồi tu theo Thiền tông của Hòa thượng Thanh Từ, cũng tu rốt ráo pháp “Tri vọng”, nhập được Không vô biên xứ rồi Thức vô biên xứ. Nói chung nhiều môn phái Phật giáo trong nước Việt nam, Thầy đã từng tu thật nhiệt tâm trong các tông pháp đó.
Đất Tây Ninh là địa linh, có nhiều may mắn bình yên, không có thiên tai bão lụt, không có bị động vì duyên bất trắc, vị trí tốt cho người tu muốn tu. Thầy tu xả tâm được cũng tại đất Tây Ninh này. Có người bám chỗ bất an sống, không chịu di dời dù nó như thế nào. Khi mình yêu thương quê hương của mình cũng là bị ái kiết sử. Thầy coi mọi miền đất nước như nhau, dễ dàng sống tại nơi nào, dù là Hòn Sơn hay Bà Rịa Vũng Tàu. Cho nên, khi các con có duyên phước về đây tu thì nên cố gắng tu.
Các con tu lâu rồi thì pháp Như lý tác ý là pháp sẽ tạo cho các con lực ý thức. Còn các con mới về thì hãy cho Thầy biết để Thầy dạy cho các con từ căn bản của 19 đề mục định niệm hơi thở làm sao cho nhiếp tâm và an trú tâm trên thân hành theo các đề mục này và xả tâm bằng phương pháp của định niệm hơi thở. Sau đó mới qua tu pháp giữ tâm bất động bằng pháp tác ý. Không theo tuần tự trình độ đó, các con mới về mà đóng cửa thất tu tác ý thì bị ức chế, rồi tìm cách làm cho các con bị phóng dật.
Các con tu lâu rồi thì suốt ngày không làm gì cả. Trong thất người ta bày biện các thứ như thế nào thì kệ người ta. Người ta thu xếp, bày biện như thế nào thì cứ để vậy. Đừng sửa đổi, thay đổi gì hết. Cứ để y như cũ mọi thứ, đừng thay đổi vị trí của nó. Nếu thay đổi là làm theo ý riêng tư của mình, là làm theo dục. Sửa đổi theo ý mình là còn dục. Thực hiện theo ý mình là có dục tức có ý mình muốn mà còn làm theo ý đó thì lại càng bị dục chi phối, không tỉnhgiác để nhận ra cái ý đó của mình, nó biểu hiện của dục mà làm theo ý đó là chạy theo dục. Những sắp đặt trong thất có ý nghĩa của sự sắp xếp, có ý nghĩa phù hợp của việc trang trí nội thất, đừng sửa đổi, thay đổi. Nhớ như vậy. Đừng làm gì cả là không bị dục chi phối, không bị dục sai sử, không bị dục điều khiển. Đó là tâm không phóng dật.
Đừng ghi chép công phu tu tập. Không phải giờ này là lúc làm thơ văn. Ghi chép là làm văn, viết văn là phóng dật. Có gì nghi ngờ thì thưa hỏi Thầy. Đừng ghi chép gì cả vì những ghi chép chỉ là cóp nhặt trong trong kinh, hay nhớ những lời giảng của Thầy rồi chép ra, làm như của mình mà thật ra không phải là công phu tu tập của riêng bản thân, chỉ là cóp nhặt của người khác, là ăn cắp của người khác. Khi tu xong rồi mới viết theo những gì mình thật sự biết,cho nên không sai.
Số các con hiện ngồi đây tuy ít nhưng tu có kết quả là tốt hơn nhiều mà không có kết quả nào. Như Thầy hiện giờ đã biết lúc nào thì Thầy sẽ tịch, sẽ đi, nhưng chờ có người tu chứng thay thế Thầy mà chờ hoài mõi mòn chưa thấy ai, mà các con thì tóc đã bạc, có thể các con chết trước Thầy.
Khi tu xong thì mọi việc đều vất vả, dù là ngồi ăn thì phải nhai nuốt cũng vất vả. Thà là ngồi bất động, không làm gì cả, không hao gì cả. Khi tiếp duyên với các con thì cơ thể bị hao năng lượng. Nói chuyện cũng hao năng lượng, cho nên Thầy ít tiếp duyên, ít nói chuyện.
Khi tâm thanh tịnh thì không đắm nhiễm trong các việc ăn ngủ nghỉ. Thân tâm đã thanh tịnh rồi thì không còn bất tịnh. Cho nên, dù ở tuổi nào mà thân tâm thanh tịnh thì mọi người, kể cả người phụ nữ cũng không còn bất tịnh.
Tâm đã trong sạch nên tới bữa ăn không còn ô nhiễm ăn uống nữa. Tâm còn phiền não giận hờn thì biết mình chưa thanh tịnh. Thân tâm bất tịnh là do chưa ly dục. Khi đã ly dục sạch rồi thì làm sao còn bất tịnh. Mà tâm đã thanh tịnh thì không thể trở lại mất thanh tịnh được. Từ lúc tâm được bất động rồi thì bao lâu đi nữa tâm cũng vẫn bất động. Bất động cứ kéo dài. Bất động tức là thân tâm đã thanh tịnh. Ngồi yên bất động trong nhập định thì không bị hao, không bị mất gì cả vì đã có từ trường Định che chở và có Thiền duyệt thực. Cho nên, Thầy có thể ngồi yên bất động trong bao lâu cũng được, không bị tiêu hao hình vóc cơ thể bởi lẽ năng lượng được các lỗ chân lông thu hút trong không khí bù đắp cho sự sống của Thầy trong khoảng thời gian đó. Sự sống có trong không khí làm cho Thầy vẫn sống bình thường. Chỉ có pháp Tứ Thiền mới tịnh chỉ hơi thở nhưng hơi ấm còn, sống bằng hơi ấm mới không cần ăn mà vẫn sống. Các pháp thiền khác không tịnh chỉ hơi thở được.
Người chưa nhập định được thì đừng nghe nói vậy rồi nhịn ăn. Khi chưa nhập được Tứ Thánh Định thì phải có ăn mới sống. Tu viện không dạy nhịn ăn, không dạy tiết thực, chỉ dạy pháp Phật tu cho tâm bất động để làm chủ sự sống chết. Cho nên, các con cố gắng tu sao cho có tâm bất động, rồi ở trên tâm bất động nhờ phương pháp tác ý hằng ngày thì lúc nào cũng ở trên tâm bất động và khi tâm bất động ở trên tứ niệm xứ đủ bảy ngày đêm thì có đủ tứ như ý trong đó có định như ý. Chỉ có vậy thôi. Muốn được vậy thì phải ở trong thất và suốt ngày lo việc đuổi các niệm bằng pháp tác ý với thời gian bảy tháng. Cứ tác ý, tác ý hoài cho đến khi tâm bất động. Các niệm ác pháp sạch thì tâm tự nhiên bất động, không cách nào không bất động, muốn không bất động cũng không được.
Một khi tâm đã được bất động do kết quả của pháp tác ý sạch các dục, tâm thanh tịnh, không còn các chấp thủ, thì sự bất động kéo dài mãi đến bao nhiêu lâu tâm vẫn bất động. Đúng trạng thái bất động đó thì bao nhiêu lâu tâm cũng vẫn bất động. Bao nhiêu lâu, bao nhiêu năm cũng bất động, sống trong trạng thái bất động.
Khi tâm vừa bất động đủ bảy ngày đêm thì các con đã có đủ Tứ Thần Túc rồi, đã sống trong trạng thái bất động rồi. Không phải các con cố gắng kéo dài trạng thái bất động mà phải tác ý cho sạch các niệm thì tâm tự nhiên bất động, không còn động nữa. Nếu các con cố gắng bằng cách này hay cách khác kéo dài trạng thái tâm bất động là ức chế tâm. Phải tác ý mỗi khi có niệm và để tự nhiên cho tâm tự bất động.
Hiện giờ các con chỉ là người vô sự nhưng hầu như tâm chưa vô sự, cho nên cần cố gắng nhiều hơn để đạt cho được tâm vô sự. Chừng nào thật sự là vô sự thì các con sẽ thấy tâm các con ở đâu. Cho nên, bây giờ các con cố gắng nghe lời Thầy cứ tác ý cho giai đoạn của các con hiện giờ.
Tu sĩ hay cư sĩ cũng đều giải thoát y như nhau, không phải chỉ có người tu sĩ mới giải thoát, nhưng người cư sĩ phải tu như người tu sĩ, còn người tu sĩ phải giữ hạnh cho đúng người tu sĩ chứ không phải chỉ có chiếc áo thôi mà tâm thì cứ phóng ra, phóng dật hoài. Có nhiều vị tu sĩ lẽ ra khi đã ly gia cắt ái thì phải ở lì trong một tu viện nào đó để cố công tu, phải cắt đứt hết mọi liên hệ với người ngoài đời, với bà con, với phật tử.
Hôm nay Thầy nhắc nhở các con pháp Như lý tác ý, đừng dùng bất cứ pháp nào ức chế tâm hết. Khi các con cố gắng ức chế tâm, các con không cho có vọng tưởng trong 30 phút hay một giờ là trật. Có vọng tưởng thì tác ý. Có vọng tưởng thì tác ý. Dù chỉ trong một phút mà có vọng tưởng là tốt vì khi biết tâm đang có niệm là ý thức vẫn hoạt động, chúng ta tác ý cho diệt niệm đó. Đó là đúng pháp. Chúng ta đang làm việc bằng ý thức. Chúng ta phải làm việc bằng ý thức. Cứ có niệm thì tác ý. Ý thức này khởi ra thì ý thức khác làm lắng xuống. Từ một phút không có niệm, rồi hai phút, ba phút,... kéo dài ngày càng lâu. Ý thức đánh ý thức. Ý thức làm lắng yên ý thức. Niệm trong đầu chúng ta tự động khởi ra là do tâm tham,sân,si,mạn,nghi, là dục. Khi chúng ta tác ý là cái ý thức của chúng ta làm chủ cái niệm đó, không cho nó làm cái việc tham,sân,si,mạn,nghi nữa, cho nên chúng ta tác ý là chúng ta dùng ý thức diệt ý vọng. Cuối cùng chúng ta còn cái ý chủ động và cái ý chủ động này làm chủ hoàn toàn thân tâm. Nhớ chỉ dùng pháp tác ý, không dùng pháp ức chế tâm cho không khởi niệm. Tác ý cho nhiều. Hằng ngày ngồi không mà tác ý, không phải ngồi chơi mà làm việc rất nhiều với tác ý trong trạng thái hết sức tỉnh táo. Đến giờ ngủ mà tỉnh táo không ngủ thì ôm tâm bất động. Dù cảm thấy mệt cũng không nao núng, cứ ôm pháp tác ý tác ý mỗi khi có niệm. Càng thức thì cứ ôm tâm bất động tu hoài cho đến lúc không còn cảm thấy mệt mỏigì cả. Đừng bảo ngủ. Đừng sợ mất ngủ, mà chỉ sợ ngủ nhiều.
Suốt đêm không ngủ không chết đâu. Đừng sợ! Bệnhđau còn không sợ thì mất ngủ có nhằm gì. Bảo ngủ là bảo si thêm, si thêm là không được. Tâm si từ từ đoạn diệt trong khi tu tâm bất động thì thân không còn buồn ng̉ủ. Cơ thể không còn ham ngủ nữa là tốt. Càng ít ngủ càng có điều kiện để tu trong thời gian không ngủ. Tu riết sẽ không còn mệt nữa, không buồn ngủ mà không cảm thấy mệt. Đừng sợ mất ngủ mà chỉ sợ ngủ nhiều. Như Thầy suốt đêm không ngủ có sao đâu.
Nằm đây mà ai làm gì Thầy cũng biết vì trong tâm bất động. Còn ngủ là mất tiêu không còn biết gì cả. Ngủ nhiều là si nhiều. Mất ngủ không chết đâu, như Thầy già rồi mà không ngủ Thầy đâu có chết. Người lớn tuổi ít ngủ là phải coi chừng gần ngày chết nếu không tu, vì không ngủ thì sức khỏe kém nên bệnhtrong ổ bệnhđổ ra; già là một ổ bệnh; còn người lớn tuổi có tu thì không sao. Người trẻ tuổi thì cần ngủ, sức còn dài nên mê ngủ. Ngủ để phục hồi năng lượng cho sức khỏe. Nhưng chỉ ngủ trong những giờ nghỉ chứ còn giờ tu thì không được ngủ, nếu buồn ngủ thì đi kinh hành. Tu xong thì không còn dục nào nên không có gì tác động tâm nên không còn buồn ngủ. Như Thầy suốt đêm không ngủ có sao đâu, không buồn ngủ thì ngủ để làm gì; người đời thì ham ngủ chứ người tu xong đâu cần ngủ, chỉ nằm nghỉ thôi. Nằm đây mà ai làm gì cũng biết trong cái tâm bất động. Có bệnh thì dùng pháp tác ý đuổi đi. Người không tu thì mất ngủ là điều báo trước sẽ sắp chết. Ngủ thì sức khỏe còn tốt còn không ngủ thì sức khỏe bị kém, sẽ sinh bệnhvà sẽ chết.
Không theo các pháp ức chế tâm của các môn phái nào. Tu tập là phải có ý thức, đừng ức chế ý thức, vì ý làm chủ, ý dẫn đầu mọi pháp, ý tạo tác. Cho nên, các con không được diệt ý thức. Đừng bắt chước Thiền tông biết vọng liền buông; buông hết vọng là pháp diệt ý thức, Tịnh độ tông niệm Phật nhất tâm bất loạn cũng là pháp diệt ý thức để tưởng thức hoạt động.
Chúng ta tu lúc nào cũng dùng ý thức tu tập để ly dục ly ác pháp. Lúc nào cũng dùng pháp Như lý tác ý để sự tác ý tạo thành lực ý thức. Trong tâm chúng ta lúc nào cũng có hai loại ý thức là ý thức đúng hay ý thức thiện và ý thức sai là ý thức ác của tham sân si. Lấy ý thức thiện diệt ý thức ác tham sân si. Làm cho sanh và tăng trưởng ý thức thiện là làm cho ý thức thiện có lực thì ý thức thiện ngăn và diệt ý thức ác tham sân si; làm cho hết tham sân si. Lấy ý thức đúng diệt ý thức sai. Trong tâm chúng ta có hai loại ý thức: thiện và ác. Ác thì diệt, thì ngăn chặn mà ý thức thiện thì tăng trưởng, sanh trưởng. Đó là pháp Tứ Chánh Cần: Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Tu như vậy mới đúng pháp, chúng ta dùng pháp Như lý tác ý là đúng lời dạy của Phật. Phật dạy: “Ý chủ, ý tạo tác. Ý dẫn đầu mọi pháp”, vậy thì lúc nào cũng dùng ý thức tu tập, phải do ý chủ động trong khi tu. Bây giờ các con về thất tu, không đi qua lại thất của ai hết. Trong giờ đi khất thực thì người ở xa đi trước, người xa kế đi sau, và người ở gần nhất đi sau chót.