3140. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy bậc Toàn Giác được vây quanh bởi hội chúng chư Thiên.
3141. Trong lúc Ngài đang công bố về bốn Sự Thật (và) đang tiếp độ đám đông dân chúng, tôi đã lắng nghe lời nói ngọt ngào tương tợ tiếng hót của loài chim karavīka.
3142. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín vào âm vang giọng nói Phạm Thiên của bậc Hiền Trí Sikhī, đấng quyến thuộc của thế gian, tôi đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc.
3143. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của niềm tịnh tín.
3144. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saddasaññaka[50]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saddasaññaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
3145. Lúc bấy giờ, tôi đã là người trồng lúa mạch ở thành phố Aruṇavatī. Sau khi nhìn thấy bậc Toàn Giác ở đường lộ, tôi đã trải xuống bó rơm lúa mạch.
3146. Biết được ý định của tôi, bậc có lòng thương tưởng, đấng Bi Mẫn, bậc Lãnh Đạo cao cả của thế gian Sikhī, đã ngồi xuống ở tấm trải bằng rơm lúa mạch.
3147. Sau khi nhìn thấy bậc Vô Nhiễm, vị có thiền chứng vĩ đại, đấng Hướng Đạo, đã ngồi xuống, sau khi làm cho sanh khởi niềm hưng phấn, tại nơi ấy tôi đã mệnh chung.
3148. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc trải thảm rơm lúa mạch.
3149. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Yavakalāpiya[51]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Yavakalāpiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
3150. Sau khi nhìn thấy cây kiṃsuka đã được trổ hoa, tôi đã chắp tay lên. Sau khi suy tưởng về đức Phật Siddhattha, tôi đã cúng dường ở không trung.
3151. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3152. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kiṃsukapūjaka[52]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kiṃsukapūjaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
3153. Và sau khi nhìn thấy dấu chân đã bước qua của đấng quyến thuộc thế gian Sikhī, tôi đã khoác tấm da dê một bên vai và đã đảnh lễ dấu chân tối thượng.
3154. Sau khi nhìn thấy cây koraṇḍa, một loài thảo mộc mọc ở trên trái đất, đã được trổ hoa, tôi đã ngắt một chùm và đã cúng dường ở dấu chân có hình bánh xe.
3155. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường dấu chân.
3156. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sakoṭakakoraṇḍadāyaka[53]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sakoṭakakoraṇḍadāyaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
3157. Lúc bấy giờ, tôi đã đi sâu vào khu rừng hoang rậm và đã đốn cây tre. Sau khi cầm lấy thanh đòn ngang, tôi đã dâng cúng đến Hội Chúng.
3158. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã đảnh lễ các bậc có sự hành trì tốt đẹp. Tôi cũng đã dâng cúng thanh đòn ngang, rồi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
3159. Kể từ khi tôi đã dâng cúng cây gậy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây gậy.
3160. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Daṇḍadāyaka[54]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Daṇḍadāyaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
3161. Bậc Giác Ngộ tên Sataraṃsī, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại, sau khi xuất khỏi định đã đi đến tôi về việc khất thực.
3162. Sau khi nhìn thấy vị Phật Độc Giác có tâm thanh tịnh, tôi đã dâng cúng món cháo xoài đến Ngài với tâm ý trong sạch.
3163. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây 94 kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của món cháo xoài.
3164. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ambayāgudāyaka[55]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ambayāgudāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
3165. Đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, trong khi lìa khỏi việc nghỉ ngơi ban ngày, trong khi đi đó đây về việc khất thực, Ngài đã đi đến gần chỗ của tôi.
3166. Do điều ấy, được sung sướng, có tâm ý vui mừng, tôi đã dâng cúng chiếc hộp đựng muối xinh đẹp đến đức Phật tối thượng như thế ấy, (và) tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.
3167. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng chiếc hộp xinh đẹp trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của chiếc hộp.
3168. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Supuṭakapūjaka[56]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Supuṭakapūjaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
3169. Do được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng cúng một chiếc giường đến đức Thế Tôn Vipassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy.
3170. Tôi đã đạt được phương tiện di chuyển bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, phương tiện di chuyển của cõi trời. Do nhờ sự dâng cúng cái giường nhỏ ấy, tôi đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc.
3171. Kể từ khi tôi đã dâng cúng chiếc giường trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc giường.
3172. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Mañcadāyaka[57]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Mañcadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
3173. Lúc bấy giờ, tôi là đạo sĩ lõa thể. Vị tỳ khưu và tôi đã bước lên chiếc thuyền. Trong khi chiếc thuyền đang bị đắm, vị tỳ khưu đã ban cho tôi sự nương nhờ.
3174. (Kể từ khi) vị ấy ban cho sự nương nhờ đến tôi trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đi đến nương nhờ.
3175. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saraṇagamaniya[58]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saraṇagamaniya là phần thứ chín.
--ooOoo--
3176. Lúc bấy giờ, bậc Toàn Giác tên Tissa đã cư ngụ ở trong khu rừng lớn. Sau khi Ngài đã từ chính cõi trời Đẩu Suất về lại nơi đây, tôi đã dâng cúng vật thực.
3177. Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác có danh vọng lớn lao tên Tissa, sau khi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã đi đến cõi trời Đẩu Suất.
3178. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của món vật thực.
3179. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Piṇḍapātika[59]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Piṇḍapātika là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị có sự suy tưởng về âm thanh, vị trồng lúa mạch, các bông hoa kiṃsuka, và bông hoa koraṇḍa, thanh đòn ngang, món cháo xoài, vị có chiếc hộp xinh đẹp, vị dâng cúng chiếc giường, sự nương nhờ, và món vật thực; (tổng cộng) có bốn mươi câu kệ.
Phẩm Saddasaññaka là phẩm thứ ba mươi sáu.
--ooOoo--