XXVII. ĀKĀSUKKHIPIYAVAGGO - PHẨM ĀKĀSUKKHIPIYA

261. Ký Sự về Trưởng Lão Ākāsukkhipiya

2540. Trong khi đấng Nhân Ngưu Siddhattha có màu da vàng chói đang đi ở khu phố chợ, tôi đã cầm lấy hai bông hoa cao quý mọc ở trong nước và đã đi đến gặp Ngài.

2541. Tôi đã đặt xuống một bông hoa ở các bàn chân ở đức Phật tối thượng, và tôi đã cầm lấy một bông hoa rồi đã thảy lên không trung.

2542. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bông hoa.

2543. Trước đây ba mươi hai kiếp, tôi đã là vị lãnh chúa độc nhất tên Antalikkhacara, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

2544. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ākāsukkhipiya[57]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ākāsukkhipiya là phần thứ nhất.

--ooOoo--

262. Ký Sự về Trưởng Lão Telamakkhiya

254Khi đức Thế Tôn Siddhattha, đấng Nhân Ngưu đã Niết Bàn, ngay khi ấy tôi đã thoa dầu ở vòng rào chắn của cội Bồ Đề.

2546. Kể từ khi tôi đã thoa dầu trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc thoa (dầu).

2547. Trước đây hai mươi bốn kiếp, tôi đã là vị Sát-đế-lỵ tên Succhavi, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2548. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Telamakkhiya[58]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Telamakkhiya là phần thứ nhì.

--ooOoo--

263. Ký Sự về Trưởng Lão Aḍḍhacandiya

2549. Bông hoa aḍḍhacanda đã được tôi dâng cúng ở cội cây Bồ Đề tối thượng của đức Thế Tôn Tissa là loại thảo mộc sanh trưởng ở trên trái đất.

2550. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường cội Bồ Đề.

2551. Trước đây hai mươi lăm kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Devala, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2552. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Aḍḍhacandiya[59]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Aḍḍhacandiya là phần thứ ba.

--ooOoo--

264. Ký Sự về Trưởng Lão Padīpiya

2553. Lúc bấy giờ, trong khi là vị Thiên nhân, tôi đã ngự xuống trái đất. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng cúng năm ngọn đèn.

2554. Kể từ khi tôi đã dâng cúng ngọn đèn trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng ngọn đèn.

2555. Trước đây năm mươi lăm kiếp, tôi đã là vị lãnh chúa độc nhất tên Samantacakkhu, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

2556. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Padīpiya[60]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Padīpiya là phần thứ tư.

--ooOoo--

265. Ký Sự về Trưởng Lão Biḷālidāyaka

2557. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên là Romaso. Ở tại chân ngọn núi ấy, có vị Sa-môn có các giác quan đã được tu tập.

2558. Tôi đã cầm lấy củ biḷālī và đã dâng cúng đến vị Sa-môn. Bậc Đại Hùng, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại, đã nói lời tùy hỷ rằng:

2559. “Ngươi đã dâng cúng củ biḷālī đến Ta với tâm ý trong sạch. Trong khi (ngươi) tái sanh vào cõi hữu, quả báu sẽ sanh khởi đến ngươi.”

2560. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng củ biḷālī trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của củ biḷālī.

2561. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Biḷālidāyaka[61]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Biḷālidāyaka là phần thứ năm.

--ooOoo--

266. Ký Sự về Trưởng Lão Macchadāyaka

2562. Lúc bấy giờ, tôi đã là con chim ưng ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã gắp lấy con cá lớn và đã dâng cúng đến bậc Hiền Trí Siddhattha.

2563. Kể từ khi tôi đã dâng cúng con cá trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng con cá.

2564. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Macchadāyaka[62]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Macchadāyaka là phần thứ sáu.

--ooOoo--

267. Ký Sự về Trưởng Lão Javahaṃsaka

2565. Lúc bấy giờ, tôi đã là lính kiểm lâm ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Siddhattha đang di chuyển ở trên không trung.

2566. Trong khi ngước nhìn bậc Đại Hiền Trí, tôi đã chắp tay lên. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã đảnh lễ đấng Lãnh Đạo.

2567. (Kể từ khi) tôi đã đảnh lễ đấng Nhân Ngưu trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đảnh lễ.

2568. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Javahaṃsaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Javahaṃsaka là phần thứ bảy.

--ooOoo--

268. Ký Sự về Trưởng Lão Salalapupphiya

2569. Lúc bấy giờ, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Vipassī được bao phủ bằng mạng lưới hào quang.

2570. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, và với niềm phỉ lạc tột độ, tôi đã cầm lấy bông hoa salala và đã rải rắc đến (đức Phật) Vipassī.

2571. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2572. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Salalapupphiya[63]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Salalapupphiya là phần thứ tám.

--ooOoo--

269. Ký Sự về Trưởng Lão Upāgatāsaya

2573. Ở trung tâm của núi Hi-mã-lạp có cái hồ nước đã khéo được tạo lập. Tôi đã là loài quỷ dữ ở tại nơi ấy, có bản chất quấy rối, là kẻ gây nên nỗi hãi sợ.

2574. Có ý muốn tiếp độ tôi, bậc Thương Tưởng, đấng Bi Mẫn, bậc Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī ấy đã đi đến gặp tôi.

2575. Khi bậc Đại Hùng, vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu đã đi đến gần, tôi đã đi ra khỏi nơi trú ẩn và đã đảnh lễ đấng Đạo Sư.

2576. (Kể từ khi) tôi đã đảnh lễ bậc Tối Thượng Nhân trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đảnh lễ.

2577. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Upāgatāsaya[64]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Upāgatāsaya là phần thứ chín.

--ooOoo--

270. Ký Sự về Trưởng Lão Taraṇiya

2578. Bậc Toàn Giác Vipassī có màu da vàng chói là bậc xứng đáng sự cúng dường. Bậc Đạo Sư dẫn đầu Hội Chúng tỳ khưu đã đứng ở bờ sông.

2579. Thuyền bè là phương tiện vượt qua biển cả không được tìm thấy ở tại nơi ấy. Tôi đã đi ra khỏi dòng sông và đã đưa đấng Lãnh Đạo Thế Gian sang (sông).

2580. (Kể từ khi) tôi đã đưa bậc Tối Thượng Nhân sang (sông) trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đưa sang (sông).

2581. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Taraṇiya[65]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Taraṇiya là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vị có sự thảy lên (bông hoa), dầu thoa, vị có (bông hoa) aḍḍhacanda, vị dâng cúng cây đèn, vị dâng cúng củ biḷāli, con cá, vị tên Javahaṃsaka, vị dâng cúng bông hoa salala, loài quỷ dữ, vị đưa sang (sông) là mười. Và ở đây được ghi nhận là bốn mươi mốt câu kệ cả thảy.

 Phẩm Ākāsukkhipiya là phẩm thứ hai mươi bảy.

--ooOoo--