2499. Trong khi đang trú ở thế giới chư Thiên, tôi được hoan hỷ sau khi lắng nghe Giáo Pháp của bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī, và tôi đã nói nên lời nói này:
2500. “Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Trong khi thuyết giảng về vị thế Bất Tử, Ngài đã giúp cho nhiều người vượt qua. ”
2501. Kể từ khi tôi đã nói lên lời nói ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tán dương.
2502. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Thomaka[47]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Thomaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2503. Có ước muốn thực hiện hành động hướng thượng ở Giáo Pháp của đức Phật tối thượng, tôi đã lìa bỏ vóc dáng Thiên nhân và đã cùng với người vợ đi đến nơi này.
2504. Vị Thinh Văn của (đức Phật) Padumuttara tên là Devala. Vật thực đã được tôi dâng cúng đến vị ấy với tâm ý trong sạch.
2505. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của món vật thực.
2506. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekāsanadāyaka[48]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekāsanadāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2507. Bậc Giác Ngộ, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại tên Ānanda đã viên tịch Niết Bàn ở trong rừng già hoang rậm, không có bóng người.
2508. Khi ấy, tôi đã từ thế giới chư Thiên đi đến nơi đây và đã thực hiện lễ hỏa táng. Tại đó, tôi đã thiêu đốt thi thể và đã thể hiện sự tôn kính.
2509. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2510. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Citakapūjaka[49]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Citakapūjaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2511. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Vikata. Ở trung tâm của ngọn núi ấy, có vị Sa-môn, có các giác quan đã được tu tập, cư ngụ.
2512. Sau khi nhìn thấy sự an tịnh của vị ấy, với tâm ý trong sạch tôi đã cầm lấy ba bông hoa campaka và đã rải rắc chúng.
2513. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2514. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ticampakapupphiya[50]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ticampakapupphiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
2515. Tôi đã dâng lên các bông hoa sattapāṭali đến đức Phật (trong lúc Ngài) ngồi ở trong vùng đồi núi, đang chói sáng như là cây kaṇikāra.
2516. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2517. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sattapāṭaliya[51]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sattapāṭaliya là phần thứ năm.
--ooOoo--
2518. Lúc bấy giờ, vị tên Candana đã là người con trai của đấng Giác Ngộ. Tôi đã dâng cúng (đến vị ấy) một đôi dép (ước nguyện rằng): “Xin ngài hãy giúp con thành tựu quả vị Giác Ngộ.”
2519. Kể từ khi tôi đã dâng cúng đôi dép trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của đôi dép.
2520. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Upāhanadāyaka[52]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Upāhanadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2521. Sau khi đã thực hiện một bó (hoa), tôi đã bước đi ở đường lộ. Tôi đã nhìn thấy bậc Cao Cả trong số các vị Sa-môn được tháp tùng bởi Hội Chúng tỳ khưu.
2522. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, và với niềm phỉ lạc tột độ, tôi đã cầm lấy (bó hoa) bằng cả hai tay và đã dâng lên đức Phật.
2523. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.
2524. Trước đây bảy mươi ba kiếp, tôi đã là vị lãnh chúa tên Jotiya, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2525. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Mañjaripūjaka[53]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Mañjaripūjaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
2526. Tôi là vị mặc y phục bằng vỏ cây ở ngọn núi Hi-mã-lạp. Thu thúc trong các điều kiện hạn chế, tôi có thức ăn là muối và lá cây.
2527. Vào lúc bữa ăn sáng đã điểm, (đức Phật) Siddhattha đã đi đến gặp tôi. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng lên các thứ ấy đến đức Phật.
2528. Kể từ khi tôi đã dâng cúng lá cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng lá cây.
2529. (Trước đây) hai mươi bảy kiếp, tôi đã là đức vua Yadatthiya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2530. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Paṇṇadāyaka[54]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Paṇṇadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
2531. Lúc bấy giờ, là vị hành pháp ngụ ở rừng đấng Toàn Giác đã cư ngụ ở gốc cây. Tôi đã thực hiện gian nhà lá và đã dâng cúng đến bậc không bị đánh bại.
2532. Kể từ khi tôi đã cúng dường cái chòi lá trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng cái chòi.
2533. Trước đây hai mươi tám kiếp, mười sáu vị vua được gọi là Sabbattha-abhivassī đã là các đấng Chuyển Luân Vương.
2534. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kuṭidāyaka[55]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kuṭidāyaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
2535. (Tôi đã nhìn thấy) đấng Toàn Giác Sikhī có màu da vàng chói ngồi ở trong vùng đồi núi đang chiếu sáng các hào quang như là ngọn lửa.
2536. Tôi đã cầm lấy bông hoa aggaja và đã đi đến gần đấng Tối Thượng Nhân. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng lên đức Phật (bông hoa ấy).
2537. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2538. (Trước đây) hai mươi lăm kiếp, tôi đã là vị tên Amita, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2539. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Aggajapupphiya[56]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Aggajapupphiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị tán dương, một bữa ăn, giàn hỏa thiêu, bông hoa campaka, bông hoa sattapāṭali, đôi dép, bó hoa, lá cây, vị dâng cúng cái chòi, bông hoa aggaja; và các câu kệ đã được tính đếm ở đây là bốn mươi mốt câu cả thảy.
Phẩm Thomaka là phẩm thứ hai mươi sáu.
--ooOoo--