2104. Ở núi Hi-mã-lạp đã có hồ nước thiên nhiên rộng lớn. Là loài quỷ sứ đã được sanh ra ở tại nơi ấy, tôi đã có dáng vẻ rùng rợn, có sức mạnh lớn lao.
2105. Bông súng trắng ở tại nơi ấy trổ hoa. Chúng được sanh ra có kích thước bằng bánh xe. Tôi đã thu nhặt bông hoa ấy, và đã có sự gặp gỡ với bậc có Năng Lực vào lúc ấy.
2106. Về đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Chúa Tể của loài người, đấng Nhân Ngưu, sau khi nhìn thấy bông hoa đã được gom lại, Ngài đã đi đến gần chỗ của tôi.
2107. Và khi bậc Toàn Giác, vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu đã đi đến gần, tôi đã gặp Ngài; tôi đã cầm lấy bông hoa và đã dâng lên đức Phật.
2108. Khi ấy, hội chúng ấy đã trải dài đến tận cùng núi Hi-mã-lạp. Đức Như Lai đã đi đến, có được đầy đủ mái che cho toàn bộ hội chúng.
2109. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa (trước đây) một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2110. Trước đây mười lăm kiếp, bảy vị thống lãnh dân chúng (cùng) tên Sahassaratha ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2111. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kumudamāliya[43]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kumudamāliya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2112. Tôi đã cho thực hiện cầu thang để bước lên tòa lâu đài của đức Thế Tôn Koṇḍañña, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy.
2113. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, sau khi thọ hưởng sự thành đạt, tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
2114. (Trước đây) ba mươi mốt ngàn kiếp, ba vị vua (cùng) tên Sambahula đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2115. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Nisseṇidāyaka[44]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Nisseṇidāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
2116. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Vipassī, vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu.
2117. Sau khi nhìn thấy giống cây rattika (nở hoa ban đêm) có chứa dược liệu đã được trổ hoa, tôi đã thu hoạch bông hoa luôn cả cuống và đã dâng đến bậc Đại Ẩn Sĩ.
2118. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bông hoa.
2119. Và trước đây vào kiếp thứ tám, tôi đã là đức vua tên Suppasanna, được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2120. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Rattipupphiya[45]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Rattipupphiya là phần thứ ba.
--ooOoo--
2121. Tôi đã thực hiện cái giếng dành cho đức Thế Tôn Vipassī. Và khi ấy, sau khi dâng cúng đồ ăn khất thực, tôi đã dâng (cái giếng) đến Ngài.
2122. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cái giếng.
2123. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Udapānadāyaka[46]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Udapānadāyaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
2124. Khi bậc Lãnh Đạo Padumuttara, đấng Bảo Hộ Thế Gian đã Niết Bàn, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng bảo tọa sư tử.
2125. Tại nơi ấy, sau khi thực hiện sự cúng dường với nhiều vật thơm và tràng hoa đến Ngài là nguồn đem lại sự an lạc trong thời hiện tại, nhiều người thành tựu Niết Bàn.
2126. Sau khi đảnh lễ cội Bồ Đề tối thượng với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
2127. (Trước đây) mười lăm ngàn kiếp, tám vị vua (cùng) tên Siluccaya ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương.
2128. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sīhāsanadāyaka[47]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sīhāsanadāyaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
2129. Đức Thế Tôn Anomadassī, bậc Chúa Tể của loài người, đấng Nhân Ngưu đã đi kinh hành ở ngoài trời nhằm sự thoải mái (cho cơ thể) trong thời hiện tại.
2130. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đảnh lễ và đã rải rắc bông hoa. Các bông hoa đã rơi ở bàn chân được giở lên và ở trên đỉnh đầu.
2131. Trước đây 20.000 kiếp, năm người (cùng) tên Pupphacchadaniya đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2132. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Maggadattika đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Maggadattika là phần thứ sáu.
--ooOoo--
2133. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng một ngọn đèn ở cây salala là cội Bồ Đề tối thượng của bậc Hiền Trí Padumuttara.
2134. Trong khi (tôi) được sanh lên ở cõi hữu, sự tích lũy phước báu đã được sanh theo, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ngọn đèn.
2135. Trước đây một ngàn sáu trăm kiếp, bốn người (cùng) tên Candābha ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2136. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekadīpiya[48]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekadīpiya là phần thứ bảy.
(Tụng phẩm thứ chín).
--ooOoo--
2137. Có con sông nhỏ đã phát xuất từ phần bên dưới của núi Hi-mã-lạp. Và lúc bấy giờ, bậc Tự Chủ cư ngụ ở phần đất cạnh bờ sông ấy.
2138. Tôi đã cầm lấy chiếc ghế bành làm bằng ngọc ma-ni có màu sắc xinh xắn, đáng yêu. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng lên đức Phật.
2139. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên ngọc ma-ni trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2140. Và trước đây mười hai kiếp, tám vị vua (cùng) tên Sataraṃsi ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2141. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Maṇipūjaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Maṇipūjaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
2142. Ở thành phố Bandhumatī, tôi đã là người thầy thuốc khéo được học tập, là nguồn đem lại sự an lạc cho những bệnh nhân có sự khổ đau.
2143. Sau khi nhìn thấy vị Sa-môn có giới hạnh, vô cùng sáng suốt, bị lâm bệnh. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng thuốc chữa bệnh.
2144. Chính nhờ thế, vị Sa-môn có giác quan thu thúc đã được lành bệnh. Người là vị hầu cận của (đức Phật) Vipassī, có tên là Asoka.
2145. Kể từ khi tôi đã dâng cúng phương thuốc trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của thuốc chữa bệnh.
2146. Và trước đây vào kiếp thứ tám, (tôi đã là) vị tên Sabbosadha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2147. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tikicchaka[49]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tikicchaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
2148. Vào thời kỳ đức Thế Tôn Vessabhū, tôi đã là người phụ việc tu viện. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã phục vụ Hội Chúng tối thượng.
2149. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục vụ.
2150. Trước đây vào kiếp thứ bảy, chính bảy vị (cùng tên) Samodaka ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2151. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saṅghupaṭṭhāka[50]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saṅghupaṭṭhāka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Bông súng trắng, rồi vị có cầu thang, giống cây nở hoa về đêm, vị dâng cúng giếng nước, vị có bảo tọa sư tử, vị rải rắc (bông hoa) ở con đường, vị có một ngọn đèn, vị dâng lên ngọc ma-ni, vị y sĩ, vị phục vụ; (tổng cộng) có bốn mươi chín câu kệ.
Phẩm Kumuda là phẩm thứ mười tám.
--ooOoo--