1423. Tôi đã dâng lên bông hoa āpāṭali ở ngôi bảo tháp của đấng quyến thuộc thế gian Sikhī (được tạo lập) ở khu vực cao ráo tại con đường lớn.
1424. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ngôi bảo tháp.
1425. Trước đây mười lăm kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Bhūmiya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1426. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Nāgasamāla đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Nāgasamāla là phần thứ nhất.
--ooOoo--
1427. Sau khi nhìn thấy vết chân đã bước qua của đấng quyến thuộc mặt trời Tissa, tôi đã trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ tôi đã làm cho tâm được tịnh tín ở bàn chân của Ngài.
1428. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về vết chân (của đức Phật).
1429. Trước đây vào kiếp thứ bảy, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Sumedha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1430. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Padasaññaka[17]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Padasaññaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
1431. Tôi đã nhìn thấy tấm y may từ vải bị quăng bỏ của bậc Đạo Sư được treo ở ngọn cây, do đó tôi đã chắp tay lên và đã đảnh lễ tấm y may từ vải bị quăng bỏ ấy.
1432. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
1433. Trước đây vào kiếp thứ tư, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ (tên) Dumasāra, là người chinh phục bốn phương, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1434. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Buddhasaññaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Buddhasaññaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
1435. Tôi đi sâu vào khu rừng rậm và cư ngụ ở trong khu rừng lớn. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Vipassī, vị thọ nhận các vật hiến cúng.
1436. Tôi đã dâng cúng củ sen và nước rửa tay. Sau khi đê đầu đảnh lễ ở bàn chân, tôi đã ra đi mặt hướng phía bắc.
1437. Kể từ khi tôi đã dâng cúng củ sen trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phước thiện.
1438. Trước đây vào kiếp thứ ba, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ mệnh danh Bhisa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1439. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Bhisāluvadāyaka[18]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Bhisāluvadāyaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
1440. Vị có tên Khaṇḍa đã là bậc Thinh Văn hàng đầu của (đức Phật) Vipassī. Một phần vật thực đã được tôi dâng cúng đến vị thọ nhận các vật hiến cúng của thế gian.
1441. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm đối với đấng Nhân Ngưu bậc Chúa Tể của loài người, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một phần vật thực.
1442. Trước đây bốn mươi kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Varuṇa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1443. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekasaññaka[19]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekasaññaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
1444. Ở không xa núi Hi-mã-lạp đã có hồ nước thiên nhiên rộng lớn được bao phủ bởi trăm loại lá cây và là chỗ cư ngụ của nhiều loại chim khác nhau.
1445. Tôi đã tắm và đã uống nước tại nơi ấy, và tôi cư ngụ ở không xa. Tôi đã nhìn thấy bậc đứng đầu các vị Sa-môn đang di chuyển bằng đường không trung.
1446. Biết được ý định của tôi, bậc Đạo Sư, đấng Vô Thượng ở thế gian, ngay khi ấy đã từ cung trời ngự xuống đứng ở trên mặt đất.
1447. Bằng cái sừng, tôi đã đem cỏ lại và đã dâng cúng chỗ ngồi. Đức Thế Tôn, đấng Lãnh Đạo cao cả của ba cõi, đã ngồi xuống ở tại chỗ ấy.
1448. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã đảnh lễ đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Tôi đã khom mình xuống di chuyển sang một bên trong lúc đang chiêm ngưỡng bậc Đại Hiền Trí.
1449. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã sanh lên cõi Hóa Lạc Thiên, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc trải lót (chỗ ngồi).
1450. Trước đây vào kiếp thứ nhì, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ mệnh danh Miga, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1451. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tiṇasantharadāyaka[20]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tiṇasantharadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
1452. (Trước đây) ba mươi ngàn kiếp, (đã hiện khởi) bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo Thế Gian tên Sumedha có ba mươi hai hảo tướng.
1453. Có màu da vàng chói, Ngài là đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy. Năm cây kim khâu đã được tôi dâng cúng đến Ngài nhằm mục đích may y.
1454. Chính nhờ vào việc dâng cúng kim khâu ấy mà trí tuệ sắc bén, nhẹ nhàng, thoải mái, có sự nhận thấy rõ ý nghĩa vi tế, đã sanh khởi đến tôi.
1455. Bốn vị vua tên Dipadādhipati đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1456. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
1457. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sūcidāyaka[21]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sūcidāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
1458. Lúc bấy giờ, tôi đã là con trai nhà triệu phú, mảnh mai, khéo được nuôi dưỡng. Tôi đã đặt bông hoa pāṭali vào lòng và đã mang theo bông hoa ấy.
1459. Bậc Toàn Giác có màu da vàng chói đang đi ở khu phố chợ. Ngài có ba mươi hai hảo tướng, tợ như cây cột trụ bằng vàng.
1460. Tôi đã trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đã cúng dường bông hoa. Tôi đã lễ bái Đấng Hiểu Biết Thế Gian Tissa, đấng Bảo Hộ, vị Trời của nhân loại.
1461. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.
1462. Trước đây sáu mươi ba kiếp, (tôi đã là) vị có tên Abhisammata, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1463. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pāṭalipupphiya[22]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pāṭalipupphiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
1464. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy bậc Toàn Giác có tướng mạo quý cao Tissa.
1465. Ngài đang ngồi ở nơi không xa, trên chiếc thảm lá của mình. Tôi đã chắp tay lại đối với Ngài rồi đã ra đi, mặt hướng phía đông.
1466. Sau đó, tia sét đánh xuống vào lúc ấy đã giáng vào đầu của tôi. Vào thời điểm mệnh chung, tôi đây đã thực hiện việc chắp tay lần nữa.
1467. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc chắp tay trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc chắp tay.
1468. (Trước đây) năm mươi bốn kiếp, (tôi đã là) vị có tên Migaketu, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1469. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật. Đại đức trưởng lão Ṭhitañjaliya[23]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ṭhitañjaliya là phần thứ chín.
--ooOoo--
1470. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara là bậc thông suốt về tất cả các pháp. Là bậc đã (tự mình) rèn luyện được tháp tùng bởi các vị đã được rèn luyện, đấng Chiến Thắng đã rời khỏi thành phố.
1471. Lúc bấy giờ, ở thành phố Haṃsavatī tôi đã là người làm tràng hoa. Tại nơi ấy bông hoa nào là tuyệt hảo, tôi đã cầm lấy ba bông hoa (ấy).
1472. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, ở lối đi ngược lại tại khu phố chợ. Sau khi nhìn thấy bậc Toàn Giác, vào lúc ấy tôi đây đã suy nghĩ như vầy:
1473. “Ta được gì với những bông hoa này khi ta đem chúng dâng đến đức vua? Ta có thể đạt được ngôi làng, hoặc cánh đồng làng, hoặc ngàn đồng tiền?
1474. Đấng Bảo Hộ Thế Gian là vị Điều Phục những ai chưa được điều phục, là bậc Trí Tuệ, là nguồn đem lại sự an lạc cho tất cả chúng sanh, sau khi cúng dường Ngài ta sẽ đạt được tài sản Bất Tử.”
1475. Sau khi suy nghĩ như thế, tôi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín. Khi ấy, tôi đã cầm ba đóa (hoa sen) màu đỏ và đã ném lên không trung.
1476. Ngay khi vừa được tôi ném lên không trung, các bông hoa ấy đã xòe ra. Chúng duy trì tại nơi ấy ở trên đầu, có cuống hoa ở phía trên, miệng hoa ở phía dưới.
1477. Sau khi nhìn thấy, bất cứ những ai thuộc loài người thì đã thốt lên tiếng hoan hô, chư Thiên ở trên không trung thì đã thể hiện hành động tán thán:
1478. “Điều kỳ diệu đã xuất hiện ở thế gian nhờ vào tác động của đức Phật tối thượng. Tất cả chúng ta sẽ lắng nghe Giáo Pháp nhờ vào tác động của những bông hoa.”
1479. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đứng ở ngay tại đường lộ, đã nói lên những lời kệ này:
1480. “Người thanh niên nào đã cúng dường đức Phật bằng ba đóa sen hồng, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
1481. (Người này) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong một trăm ngàn kiếp, và sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi kiếp.
1482. Ngay lập tức sẽ hiện ra cung điện tên Mahāvitthārika, có chiều dài ba trăm do-tuần, chiều rộng một trăm năm mươi do-tuần.
1483. Và có bốn trăm ngàn tháp nhọn sẽ được hóa hiện ra, có các nhà mái nhọn cao quý, được đầy đủ các giường nằm rộng lớn.
1484. Hàng trăm ngàn koṭi nàng tiên thiện xảo về điệu vũ và lời ca, lại còn được thuần thục về trình tấu nhạc cụ nữa, sẽ quây quần xung quanh.
1485. (Người này) sẽ sống ở tại cung điện cao quý như thế ấy trong sự chộn rộn của đám nữ nhân, thường xuyên có cơn mưa bông hoa thuộc về cõi trời có màu đỏ.
1486. Đồng thời sẽ có những bông hoa màu đỏ có kích thước bằng bánh xe treo lơ lửng ở chốt gắn tường bằng ngà voi ở bên ngoài cánh cửa, ở cổng chào.
1487. Tại nơi ấy, bên trong cung điện cao quý được lót toàn bằng cánh hoa, (và các cánh hoa) sau khi được trải ra và phủ lên thì sẽ nhập chung với nhau ngay lập tức.
1488. Các bông hoa màu đỏ tinh khiết ấy bao bọc xung quanh nơi cư ngụ một trăm do-tuần và tỏa ngát hương thơm cõi trời.
1489. Và (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi lăm lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
1490. Sau khi thọ hưởng hai sự thành tựu, không có tai họa, không có sự nguy khốn, khi kiếp sống cuối cùng được đạt đến (người này) sẽ chạm đến Niết Bàn.”
1491. Quả nhiên đức Phật đã được tôi nhìn thấy rõ ràng, thương vụ đã được kinh doanh khéo léo; sau khi cúng dường ba đóa hoa sen hồng, tôi đã thọ hưởng ba sự thành tựu.
1492. Hôm nay, tôi là người đã đạt được Giáo Pháp, đã được giải thoát một cách trọn vẹn. Có bông sen đỏ khéo nở rộ sẽ được duy trì ở trên đầu của tôi.
1493. Trong lúc bậc Đạo Sư Padumuttara đang thuyết giảng về việc làm của tôi, đã có sự chứng ngộ Giáo Pháp của hàng ngàn chúng sanh và sinh mạng.
1494. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường đức Phật trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của ba đóa sen hồng.
1495. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đã được đoạn tận, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1496. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tipadumiya[24]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tipadumiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị trưởng lão có tràng hoa, vị có sự suy tưởng về dấu chân, vị có sự suy tưởng (về đức Phật), vị dâng cúng củ sen, vị suy tưởng về một phần (vật thực), vị dâng cúng cỏ, (vị dâng cúng) kim khâu, vị có các bông hoa pāṭali, vị đứng chắp tay, vị có ba đóa sen hồng; (tổng cộng) có bảy mươi lăm câu kệ.
Phẩm Nāgasamāla là phẩm thứ tám.
--ooOoo--