VII. SAKACINTANIYAVAGGO - PHẨM SAKACINTANIYA

61. Ký Sự về Trưởng Lão Sakacintaniya

1349. Tôi đã nhìn thấy khu rừng bao la rậm rạp ít có tiếng động, không bị chộn rộn, chính là nơi trú ngụ của các vị ẩn sĩ, là địa điểm tiếp nhận các vật hiến cúng.

1350. Sau khi thực hiện ngôi bảo tháp bằng cát, tôi đã rải rắc nhiều bông hoa khác loại. Tôi đã đảnh lễ (ngôi bảo tháp) đã được tạo nên như là (đảnh lễ) bậc Toàn Giác đang ở trước mặt.

1351. Trở thành vị vua được thành tựu bảy loại báu vật, là chúa tể của quốc độ, tôi hài lòng với nghiệp của chính mình; điều này là quả báu của việc cúng dường ngôi bảo tháp.

1352. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ngôi bảo tháp.

1353. (Trước đây) tám mươi kiếp, tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương Anantayasa được thành tựu bảy loại báu vật, là chúa tể ở bốn châu lục.

1354. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sakacintaniya[8]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sakacintaniya là phần thứ nhất.

--ooOoo--

62. Ký Sự về Trưởng Lão Avopupphiya

1355. Sau khi đi ra khỏi trú xá và bước lên ở con đường kinh hành, trong khi công bố về bốn Sự Thật, Ngài thuyết giảng về đạo lộ Bất Tử.

1356. Nhận biết được giọng nói của đấng Sikhī là đức Phật tối thượng như thế ấy, tôi đã cầm lấy nhiều loại bông hoa và đã tung lên ở không trung.

1357. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, sau khi từ bỏ sự hơn thua tôi đã đạt được vị thế Bất Động.

1358. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1359. Trước đây hai mươi kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Sumedha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1360. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Avopupphiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Avopupphiya là phần thứ nhì.

--ooOoo--

63. Ký Sự về Trưởng Lão Paccāgamaniya

1361. Lúc bấy giờ, tôi đã là loài ngỗng đỏ ở bờ sông Sindhu. Và tôi đã khéo ngăn ngừa các điều ác, có thức ăn thuần là loài thảo mộc ở trong nước.

1362. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm đang di chuyển ở trên không trung. Tôi đã dùng mỏ ngắt lấy bông hoa sālā và đã dâng lên (đức Phật) Vipassī.

1363. “Người nào có niềm tin ở đức Như Lai không bị lay chuyển khéo được thiết lập, do sự tịnh tín ấy ở trong tâm người ấy không đi đến khổ cảnh.”

1364. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng. Hạt giống tốt đã được tôi gieo trồng trong khi tôi là loài chim.

1365. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1366. (Trước đây) mười bảy kiếp, tám vị này có cùng một tên là Sucāru-dassana. Họ đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1367. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Paccāgamaniya[9]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Paccāgamaniya là phần thứ ba.

--ooOoo--

64. Ký Sự về Trưởng Lão Parappasādaka

1368. “Ai là người nhìn thấy bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, đấng Anh Hùng cao thượng quý phái, bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng Chinh Phục mà không tịnh tín?

1369. Tợ như núi Hi-mã-lạp là không thể đo lường được, tợ như biển cả là khó mà vượt qua, tương tợ y như thế về thiền của đức Phật, ai là người nhìn thấy mà không tịnh tín?

1370. Giống như trái đất với vòng đai rừng đa dạng là không thể ước lượng được, tương tợ y như thế về giới của đức Phật, ai là người nhìn thấy mà không tịnh tín?

1371. Tợ như không gian là không bị khuấy động, giống như bầu trời là không thể tính đếm, tương tợ y như thế về trí của đức Phật, ai là người nhìn thấy mà không tịnh tín?”

1372. Vị Bà-la-môn tên Sena đã ngợi ca đức Phật tối thượng, bậc không bị đánh bại Siddhattha, bằng bốn câu kệ này.

1373. (Vị ấy) đã không đi đến khổ cảnh trong chín mươi bốn kiếp, đã thọ hưởng sự thành đạt tốt đẹp ở các cõi trời không phải là ít.

1374. Sau khi ngợi ca đấng Lãnh Đạo Thế Gian trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tán dương.

1375. (Trước đây) mười bốn kiếp, đã có bốn vị tên Uggata là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1376. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Parappasādaka[10]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Parappasādaka là phần thứ tư.

--ooOoo--

65. Ký Sự về Trưởng Lão Bhisadāyaka

1377. Bậc có tên Vessabhū đã là vị thứ ba trong số các bậc Ẩn Sĩ.[11]Bậc Tối Thượng Nhân đã đi sâu vào rừng và đã cư ngụ ở khu rừng rậm.

1378. Tôi đã cầm lấy củ và rễ sen rồi đã đi đến gần bên đức Phật. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng lên vật ấy đến đức Phật.

1379. Và bằng cái vòi tôi đã được va chạm với bậc có sự Giác Ngộ cao quý Vessabhū. Tôi chưa biết đến sự sung sướng nào bằng hoặc hơn điều ấy.

1380. (Đây là) lần sau cùng của tôi trong sự luân chuyển, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Điều lành đã được tôi gieo trồng trong khi tôi là loài long tượng.

1381. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây 31 kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng củ sen.

1382. Và (trước đây) mười ba kiếp, đã có mười sáu vị vua tên Samodhāna là các bậc thống lãnh nhân loại, là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1383. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Bhisadāyaka[12]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Bhisadāyaka là phần thứ năm.

--ooOoo--

66. Ký Sự về Trưởng Lão Sucintita

1384. Tôi đã là người (thợ săn) lai vãng ở các khu vực hiểm trở của những ngọn núi. Tợ như con sư tử đã được sanh ra tốt đẹp, tôi giết các bầy thú rừng và sống ở trong vùng đồi núi.

1385. Về phần đức Thế Tôn Atthadassī, đấng Toàn Tri, bậc cao quý trong số các vị đang thuyết giảng, có ý định tiếp độ tôi Ngài đã đi đến ngọn núi cao nhất.

1386. Sau khi giết chết con nai đốm, tôi đã tiến đến để ăn thịt. Vào lúc ấy, đức Thế Tôn trong lúc khất thực đã đi đến gần.

1387. Tôi đã cầm lấy những miếng thịt ngon và đã dâng cúng đến bậc Đạo Sư ấy. Khi ấy, trong lúc giúp cho tôi chứng đạt Niết Bàn, đấng Đại Hùng đã nói lời tùy hỷ.

1388. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã đi vào khu vực hiểm trở của ngọn núi. Sau khi làm cho niềm phỉ lạc sanh khởi, tôi đã qua đời ở tại nơi ấy.

1389. Do sự dâng cúng thịt ấy và do các nguyện lực của tâm, tôi đã sướng vui ở thế giới chư Thiên trong một ngàn năm trăm kiếp.

1390. Do chính sự dâng cúng thịt ấy và sự tưởng niệm về đức Phật, trong những kiếp còn lại điều lành đã được tôi tích lũy.

1391. (Trước đây) ba mươi tám kiếp, đã có tám vị tên là Dīghāyu. Trước đây sáu ngàn kiếp, đã có hai vị tên là Varuṇa.

1392. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sucintita[13]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sucintita là phần thứ sáu.

--ooOoo--

67. Ký Sự về Trưởng Lão Vatthadāyaka

1393. Lúc bấy giờ, tôi đã là loài chim có màu sắc đẹp đẽ, là vị thống lãnh loài nhân điểu. Tôi đã nhìn thấy đức Phật bậc Vô Nhiễm đang đi ở núi Gandhamādana.

1394. Sau khi bỏ đi dáng vóc của loài nhân điểu, tôi đã mang lốt người thanh niên. Tôi đã dâng cúng một tấm vải đến đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.

1395. Và sau khi tiếp nhận mảnh vải ấy, đức Phật, đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian, bậc Đạo Sư đứng ở không trung, đã nói lên lời kệ này:

1396. “Do sự dâng cúng tấm vải này và do các nguyện lực của tâm, sau khi từ bỏ nguồn gốc nhân điểu (người ấy) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên.”

1397. Và sau khi ca ngợi sự dâng cúng tấm vải, đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã ra đi, mặt hướng phía bắc.

1398. Trong khi sanh ra ở cõi hữu, tôi có được sự thành tựu về vải vóc, có được mái che ở trên không trung; điều này là quả báu của việc dâng cúng tấm vải.

1399. (Trước đây) 36 kiếp, đã có bảy người tên Aruṇaka là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao, là các vị thống lãnh nhân loại.

1400. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Vatthadāyaka[14]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Vatthadāyaka là phần thứ bảy.

--ooOoo--

68. Ký Sự về Trưởng Lão Ambadāyaka

1401. Đức Thế Tôn Anomadassī, bậc không còn mầm mống tái sanh, ngồi ở vùng đồi núi đã lan tỏa với tâm từ ái ở thế gian vô hạn lượng.

1402. Khi ấy, tôi đã là con khỉ ở ngọn núi Hi-mã-lạp tối thượng. Sau khi nhìn thấy đấng Anoma vô lượng, tôi đã làm cho tâm tịnh tín ở đức Phật.

1403. Lúc bấy giờ, ở không xa núi Hi-mã-lạp có những cây xoài đã được kết trái. Tôi đã hái trái chín từ nơi ấy và đã dâng cúng trái xoài cùng với mật ong.

1404. 1405. Đức Phật, bậc Đại Hiền Trí Anomadassī đã chú nguyện điều ấy cho tôi rằng: “Do cả hai việc là sự dâng cúng mật ong và sự dâng cúng trái xoài này, (người ấy) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong năm mươi bảy kiếp, và trong những kiếp còn lại sẽ luân hồi xen kẽ (giữa cõi trời và cõi người).

1406. (Người ấy) sẽ làm cho nghiệp ác được loại trừ nhờ vào trí giác ngộ đã được hoàn toàn chín muồi, sẽ không đi đến đọa xứ, và sẽ thiêu đốt các phiền não.”

1407. Tôi đã được huấn luyện với sự huấn luyện tối thượng bởi bậc Đại Ẩn Sĩ. Sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đã đạt được vị thế Bất Động.

1408. (Trước đây) bảy ngàn bảy trăm kiếp, mười bốn vị vua ấy có tên Ambaṭṭhaja đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1409. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ambadāyaka[15]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ambadāyaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

69. Ký Sự về Trưởng Lão Sumana

1410. Lúc bấy giờ, tôi đã là người làm tràng hoa tên là Sumana. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, vị thọ nhận các vật hiến cúng của thế gian.

1411. Tôi đã cầm lấy bông hoa nhài tối thượng bằng cả hai tay và đã dâng lên đức Phật Sikhī, đấng quyến thuộc của thế gian.

1412. Do sự cúng dường bông hoa này và do các nguyện lực của tác ý, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1413. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1414. (Trước đây) hai mươi sáu kiếp, đã có bốn vị vua có danh vọng lớn lao là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.

1415. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sumana đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sumana là phần thứ chín.

--ooOoo--

70. Ký Sự về Trưởng Lão Pupphacaṅgoṭiya

1416. (Đức Phật Sikhī) tợ như loài sư tử có dáng vóc không bị hãi sợ, tợ như con sư tử đã được sanh ra cao quý, tợ như con hổ hùng tráng quý cao, tợ như con chim thuộc loài nhân điểu cao cả.

1417. Đức Phật Sikhī, nơi nương nhờ của tam giới, vị không còn dục vọng, bậc không bị đánh bại, đấng cao cả trong số các vị Sa-môn đã ngồi xuống, được vây quanh bởi Hội Chúng tỳ khưu.

1418. Tôi đã đặt để bông hoa anojā thượng hạng ở trong cái rương. Với chính cái rương ấy, tôi đã đâng đến đức Phật tối thượng.

1419. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm đối với bậc Chúa Tể của loài người, đấng Nhân Ngưu, sau khi từ bỏ sự hơn thua tôi đã đạt được vị thế Bất Động.

1420. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1421. (Trước đây) tròn đủ ba mươi kiếp, đã có năm vị tên Devabhūti là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.

1422. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Pupphacaṅgoṭiya[16]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Pupphacaṅgoṭiya là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vị có sự suy nghĩ của mình, vị Avopupphī, cùng với vị có sự quay trở lại, vị có sự tạo niềm tin cho người khác, vị dâng cúng củ sen, vị có sự suy nghĩ khôn khéo, vị cúng dường tấm vải, vị dâng cúng xoài, vị Sumana, và luôn cả vị có cái rương bông hoa. (Tổng cộng) có bảy mươi mốt câu kệ đã được nói lên, đã được tính đếm bởi các vị nhìn thấy sự lợi ích.

Phẩm Sakacintaniya là phẩm thứ bảy.

--ooOoo--