V. UPĀLIVAGGO - PHẨM UPĀLI

41. Ký Sự về Trưởng Lão Bhāgineyya-Upāli

1116. Đấng Lãnh Đạo Thế Gian ấy được tháp tùng bởi một ngàn bậc Vô Lậu. Gắn bó với sự độc cư, Ngài ra đi (một mình) để thiền tịnh.

1117. Là vị trang phục bằng da dê mang theo ba gậy chống (để máng vật dụng), tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian được vây quanh bởi Hội Chúng tỳ khưu.

1118. Tôi đã đắp tấm da dê ở một bên vai rồi đã chắp tay lên ở đầu. Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác, tôi đã ngợi ca đấng Lãnh Đạo Thế Gian rằng:

1119. “Giống như các loài sanh ra trong quả trứng, các loài (sanh ra) ở nơi ẩm thấp, các loài có sự hóa sanh, các loài sanh ra từ nước, tất cả các loài có cánh như các con quạ, v.v... luôn luôn có sự di chuyển ở không trung.

1120. Bất cứ hạng nào có mạng sống và sự hiện hữu dầu là hữu tưởng hoặc vô tưởng, tất cả các hạng ấy đều được bao gồm ở trong trí tuệ của Ngài.

1121. Và các hương thơm nào thuộc núi non ở ngọn núi Hi-mã-lạp tối thượng, tất cả các hương thơm ấy cũng không sánh bằng một phần giới (hương) của Ngài.

1122. Thế giới này luôn cả chư Thiên là bị lao vào sự tăm tối của si mê. Và trí tuệ của Ngài trong lúc chiếu sáng đã hủy diệt các sự tăm tối.

1123. Giống như khi mặt trời đã lặn, các chúng sanh đi đến sự tối tăm; tương tợ như vậy khi đức Phật không xuất hiện, thế gian đi đến sự si mê.

1124. Bạch đức Phật tối thượng, giống như mặt trời đang mọc lên luôn luôn làm tiêu tan bóng tối, tương tợ y như thế Ngài luôn luôn tiêu diệt sự si mê.

1125. Có tính khẳng quyết về sự nỗ lực, Ngài là đức Phật ở thế gian luôn cả chư Thiên. Do đã được hài lòng với việc làm của Ngài, Ngài đã làm cho nhiều chúng sanh được hoan hỷ.”

1126. Sau khi tùy hỷ với toàn bộ sự việc ấy, bậc Đại Hiền Trí Padumuttara đấng Trí Tuệ đã bay lên không trung, tợ như loài thiên nga chúa ở trên bầu trời.

1127. Sau khi đã bay lên, bậc Toàn Giác, vị Đại Ẩn Sĩ Padumuttara, đấng Đạo Sư, đứng trên không trung đã nói lên những lời kệ này:

1128. “Người nào ca ngợi trí tuệ này bằng cách liên hệ với các ví dụ so sánh, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

1129. Người ấy sẽ trở thành vị Thiên Vương mười tám lần, và sẽ ngự trị quốc độ thuộc đất liền ở trái đất ba trăm lần.

1130. Và (người ấy) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương hai mươi lăm lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.

1131. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka, sẽ xuất hiện ở thế gian.

1132. Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, sau khi mệnh chung từ chính cõi trời Đẩu Suất, (người ấy) sẽ có tên là Upāli dầu là hạ tiện về dòng dõi.

1133. Và về sau, người ấy sẽ xuất gia và sẽ từ bỏ điều ác. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, (người ấy) sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.

1134. Được hoan hỷ, đức Phật Gotama, người con trai dòng Sakya có danh vọng lớn lao ấy, sẽ thiết lập vị đã được hiểu biết về Luật ấy vào vị thế tối thắng.”

1135. Do đức tin, tôi đã xuất gia, có phận sự đã được làm xong, không còn lậu hoặc. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.

1136. Và đức Thế Tôn đã thương tưởng đến tôi. Tôi có sự tự tin về Luật. Được hài lòng với nghiệp của chính mình, tôi sống không còn lậu hoặc.

1137. Được thu thúc trong giới bổn Pātimokkha và ở năm giác quan, tôi nắm giữ toàn bộ tất cả về Luật là nguồn phát sanh lên châu báu.

1138. Và bậc Đạo Sư đấng Vô Thượng ở thế gian đã biết được đức hạnh của tôi. Sau khi ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu, Ngài đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng.

1139. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Upāli đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Bhāgineyya-Upāli là phần thứ nhất.

--ooOoo--

42. Ký Sự về Trưởng Lão Soṇakoṭikaṇṇa

1140. Tôi đã thực hiện sự tô trét bằng vôi bột và đã cho xây dựng đường kinh hành của bậc Hiền Trí Anomadassī, đấng Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy.

1141. Tôi đã trải lót đường kinh hành với những bông hoa có màu sắc khác nhau. Sau khi thực hiện mái che ở không trung, tôi đã chăm lo bữa ăn đến đức Phật tối thượng.

1142. Tôi đã chắp tay lên và đã đảnh lễ bậc có sự hành trì tốt đẹp. Khi ấy, tôi đã dâng tặng ngôi giảng đường dài đến đức Thế Tôn.

1143. Biết được ý định của tôi, bậc Đạo Sư đấng Vô Thượng ở thế gian, đức Thế Tôn, bậc Hữu Nhãn đã thọ nhận, vì lòng bi mẫn.

1144. Sau khi thọ nhận, đấng Toàn Giác bậc xứng đáng cúng dường (ở thế gian) luôn cả chư Thiên đã ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu và đã nói lên những lời kệ này:

1145. “Người nào với tâm mừng rỡ đã thực hiện ngôi giảng đường dài cho Ta, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

1146. Vào thời điểm tử biệt của người có được nghiệp phước thiện này, ngay lập tức sẽ hiện diện cỗ xe ngựa được thắng một ngàn con.

1147. Người nam này sẽ đi đến thế giới chư Thiên bằng cỗ xe ấy. Khi sự việc tốt lành được thành tựu, chư Thiên sẽ tùy hỷ.

1148. (Người này) sẽ cư ngụ ở cung điện có các nhà mái nhọn cao quý, vô cùng giá trị, đứng đầu trong các cung điện, có vữa tô là châu báu và đất sét.

1149. (Người này) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong ba mươi ngàn kiếp, và sẽ trở thành vị Thiên Vương trong hai mươi lăm kiếp.

1150. Và (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi bảy lần. Tất cả các vị ấy đều có chung một tên là Yasodhara với cùng ý nghĩa.

1151. Sau khi thọ hưởng hai sự thành tựu và gom góp sự tích lũy về phước thiện, (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương ở kiếp thứ hai mươi tám.

1152. Cũng ở tại nơi ấy, có cung điện quý cao đã được hóa hiện ra bởi vị Trời Vissakamma. (Người này) sẽ cư ngụ tại thành phố được náo nhiệt với mười loại tiếng động ấy.

1153. Vô lượng kiếp về sau, (người này) với tên là Okkāka sẽ là vị vua ở trong xứ sở, là đấng bảo hộ trái đất có đại thần lực.

1154. Và người nữ quý cao ấy trong số tất cả 16.000 nữ nhân, là vị nữ Sát-đế-lỵ đã được sanh ra cao quý, sẽ hạ sanh chín người con.

1155. Sau khi sanh chín người con, người nữ Sát-đế-lỵ sẽ chết đi. Một người nữ khác trẻ trung và yêu dấu sẽ làm hoàng hậu chánh cung.

1156. Sau khi làm đức vua Okkāka vui thích, người con gái sẽ đạt được sự ưu đãi. Sau khi đạt được sự ưu đãi, người con gái ấy sẽ lưu đày các người con.

1157. Và những người con bị lưu đày ấy sẽ đi đến ngọn núi (Hi-mã-lạp) tối thượng. Do nỗi lo sợ vì sự chia lìa dòng dõi, tất cả bọn họ đã sống chung với các người chị.

1158. Và một người con gái sẽ bị thương tổn bởi nhiều căn bệnh. Các vị Sát-đế-lỵ sẽ vùi lấp (nàng ở trong hố đất, nói rằng): ‘Chớ tách rời dòng dõi của chúng ta.’

1159. Có vị Sát-đế-lỵ sẽ đưa nàng ấy đi rồi sống cùng với nàng ấy. Lúc bấy giờ, sự chia lìa có nguồn gốc gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện.

1160. Hậu duệ của hai vị ấy sẽ thuộc về dòng dõi tên là Koliya. Họ thọ hưởng của cải thuộc về nhân loại ở tại nơi ấy không phải là ít.

1161. Sau khi mệnh chung từ xác thân ấy, (người này) sẽ đi đến thế giới chư Thiên. Cũng ở tại nơi ấy, (người này) sẽ có được cung điện quý cao, thích ý.

1162. Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, sau khi mệnh chung từ thế giới chư Thiên, (người này) sẽ đi đến bản thể loài người và sẽ có tên là Soṇa.

1163. Có sự ra sức tinh tấn, có tính khẳng quyết, trong khi đang nỗ lực ở trong Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.

1164. Đức Thế Tôn Gotama, bậc Cao Quý dòng Sakya, vị có sự thấy không giới hạn, bậc có sự biết toàn diện, đấng Đại Hùng sẽ thiết lập (người này) vào vị thế tối thắng.”

1165. Tôi đã được rèn luyện trong sự rèn luyện tối thượng, tâm của tôi đã khéo được củng cố, tất cả nhiệm vụ đã được đặt xuống, tôi đã Niết Bàn không còn lậu hoặc.

1166. Đấng Long Tượng dòng dõi Aṅgīrasa, tợ như con sư tử đã được sanh ra tốt đẹp, sau khi ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng.

1167. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Soṇa Koṭikaṇṇa đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Soṇakoṭikaṇṇa là phần thứ nhì.

--ooOoo--

43. Ký Sự về Trưởng Lão Kāḷigodhāputtabhaddiya

1168. Tất cả mọi người đi đến đức Toàn Giác Padumuttara, bậc Đại Hiền Trí có tâm từ ái, đấng Lãnh Đạo cao cả của toàn thể thế gian,

1169. Tất cả (mọi người) dâng cúng vải vóc, luôn cả chỗ nằm ngồi, thực phẩm, thức ăn và nước uống đến bậc Đạo Sư (và) ở Phước Điền vô thượng.

1170. (Nghĩ rằng): “Ta cũng sẽ dâng cúng vật thí đến vị Trời của chư Thiên như thế ấy,” tôi đã thỉnh mời đức Phật tối thượng và luôn cả Hội Chúng vô thượng.

1171. Và được tôi khích lệ những người này đã thỉnh mời đức Như Lai và toàn thể Hội Chúng tỳ khưu là Phước Điền vô thượng.

1172. Tôi đã sửa soạn chiếc ghế bành bằng vàng (trị giá) một trăm ngàn, được phủ thảm lông cừu, (được làm) bằng sợi len, bông gòn, chỉ lanh, và bông vải, là chỗ ngồi vô cùng giá trị xứng đáng với đức Phật.

1173. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu, được vây quanh bởi Hội Chúng tỳ khưu đã đi đến cửa nhà của tôi.

1174. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đi ra tiếp đón bậc Toàn Giác, đấng Bảo Hộ Thế Gian có danh tiếng, và đã rước Ngài vào căn nhà của mình.

1175. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã làm toại ý đức Phật, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, và một trăm ngàn vị tỳ khưu với món cơm thượng hạng.

1176. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, sau khi ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu đã nói lên những lời kệ này:

1177. “Người nào đã dâng cúng chỗ ngồi bằng vàng được phủ thảm len lông cừu này, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

1178. Người ấy sẽ cai quản Thiên quốc bảy mươi bốn lần và sẽ thọ hưởng sự thành đạt, được các tiên nữ trọng vọng.

1179. (Người ấy) sẽ ngự trị một ngàn xứ sở vương quốc ở trái đất và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương năm mươi mốt lần.

1180. (Người ấy) sẽ là người có gia tộc cao sang trọng số tất cả các dòng dõi xuất thân. Và về sau, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, người ấy sẽ xuất gia và sẽ trở thành vị Thinh Văn của bậc Đạo Sư, có tên là Bhaddiya.”

1181. Gắn bó với sự độc cư, tôi đã cư ngụ ở nơi thanh vắng. Và tất cả các Quả vị đã được tôi chứng đạt, giờ đây tôi có điều ô nhiễm đã được dứt bỏ.

1182. Biết rõ mọi việc của tôi, đấng Toàn Tri, bậc Lãnh Đạo Thế Gian sau khi ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng.

1183. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Bhaddiya Kāḷigodhāyaputta đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Bhaddiya Kāḷigodhāputta là phần thứ ba.

--ooOoo--

44. Ký Sự về Trưởng Lão Sanniṭṭhāpaka

1184. Sau khi tạo nên một liêu cốc nhỏ ở trong rừng, tôi sống ở trong vùng đồi núi, tự hài lòng với việc có hay không có, với việc có được danh tiếng hay không có danh tiếng.

1185. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, cùng với một trăm ngàn vị có năng lực đã đi đến khu vực của tôi.

1186. Khi bậc Đại Hùng tên Padumuttara đi đến gần, tôi đã chuẩn bị tấm thảm cỏ và đã dâng cúng đến bậc Đạo Sư.

1187. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, với tâm ý trong sạch, tôi đã dâng cúng trái āmaṇḍa và nước uống đến bậc có bản thể chính trực.

1188. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của trái āmaṇḍa.

1189. Trước đây bốn mươi mốt kiếp, tôi đã là vị Arindama độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1190. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sanniṭṭhāpaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sanniṭṭhāpaka là phần thứ tư.

--ooOoo--

45. Ký Sự về Trưởng Lão Pañcahatthiya

1191. Bậc Toàn Giác tên Sumedha đi ở khu phố chợ, có mắt nhìn xuống, có lời nói cân nhắc, có niệm, có giác quan thu thúc.

1192. (Dân chúng) đã mang đến tôi năm bó hoa sen xanh để làm vòng hoa đội đầu. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình cúng dường vật ấy đến đức Phật.

1193. Và những bông hoa được dâng lên ấy đã trở thành mái che cho bậc Đạo Sư, và đã di chuyển theo đấng Long Tượng giống như những người học trò di chuyển theo người thầy.

1194. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa cho đến ba mươi ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1195. Trước đây hai ngàn kiếp, đã có năm vị Sát-đế-lỵ cùng tên Hatthiya, là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1196. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Pañcahatthiya[15]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Pañcahatthiya là phần thứ năm.

--ooOoo--

46. Ký Sự về Trưởng Lão Padumacchadaniya

1197. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian Vipassī nhân vật cao cả đã Niết Bàn, tôi đã cầm lấy đóa sen hồng khéo được nở rộ dâng lên giàn hỏa thiêu.

1198. Và khi bông hoa được dâng lên giàn hỏa thiêu, nó đã bay lên hư không bầu trời. Tôi đã tạo nên và đã duy trì mái che ở không trung nơi giàn hỏa thiêu.

1199. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1200. Trước đây bốn mươi bảy kiếp, (tôi đã là) đấng Chuyển Luân Vương tên Padumissara, là người chinh phục bốn phương, có oai lực lớn lao.

1201. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Padumacchadaniya[16]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Padumacchadaniya là phần thứ sáu.

--ooOoo--

47. Ký Sự về Trưởng Lão Sayanadāyaka

1202. Chiếc giường cao quý được trải lên bằng các lớp vải đã được tôi dâng cúng đến đức Thế Tôn Siddhattha, vị có tâm từ ái như thế ấy.

1203. Đức Thế Tôn đã thọ nhận chỗ nằm ngồi thích hợp. Đấng Chiến Thắng đã từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bay lên không trung.

1204. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng chiếc giường trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc giường.

1205. Trước đây năm mươi mốt kiếp, (tôi đã là) vị tên Varuṇa Deva, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1206. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sayanadāyaka[17]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sayanadāyaka là phần thứ bảy.

--ooOoo--

48. Ký Sự về Trưởng Lão Caṅkamadāyaka

1207. Sau khi gom góp các viên gạch, tôi đã cho xây dựng đường kinh hành của đấng Hiền Trí Atthadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy.

1208. Đường kinh hành đã được kiến tạo tốt đẹp, cao năm ratana (1,25 mét), dài một trăm cánh tay (50 mét), đáng được trân trọng, thích ý.

1209. Đức Thế Tôn, đấng Tối Thượng Nhân Atthadassī đã thọ nhận. Ngài đã cầm lấy cát bằng bàn tay và đã nói lên những lời kệ này:

1210. “Do sự dâng cúng cát và đường kinh hành đã khéo được xây dựng này, (người ấy) sẽ thọ hưởng cát có chứa đựng bảy loại châu báu.

1211. (Người ấy) sẽ cai quản Thiên quốc ở giữa chư Thiên ba kiếp và sẽ thọ hưởng sự thành đạt, được các tiên nữ trọng vọng.

1212. Sau khi đi đến thế giới nhân loại, (người ấy) sẽ là đức vua ở quốc độ. Và người ấy sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương ở trái đất ba lần.”

1213. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của đường kinh hành.

1214. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Caṅkamadāyaka[18]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Caṅkamadāyaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

49. Ký Sự về Trưởng Lão Subhadda

1215. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara vị thọ nhận các vật hiến cúng có danh vọng lớn lao đã tiếp độ đám đông dân chúng rồi Niết Bàn.

1216. Và trong khi bậc Toàn Giác đang Niết Bàn, mười ngàn (thế giới) đã rúng động. Khi ấy, đã có tập thể dân chúng đông đảo, và chư Thiên đã tụ hội lại.

1217. Sau khi cúng dường trầm hương cùng với các loại bột thơm và hoa nhài, tôi đã trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ, tôi đã thoa lên đấng Tối Thượng Nhân.

1218. Biết được ý định của tôi, bậc Đạo Sư, đấng Vô Thượng ở thế gian, bậc Toàn Giác ngay khi đang nằm đã nói lên những lời kệ này:

1219. “Người nào đã phủ lên (cơ thể Ta) bằng vật thơm và tràng hoa vào thời điểm cuối cùng của Ta, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

1220. Mệnh chung ở đây, người nam này sẽ đi đến cõi trời Đẩu Suất. Sau khi cai quản vương quốc ở tại nơi ấy, người ấy sẽ đi đến cõi Hóa Lạc Thiên.

1221. Sau khi cúng dường tràng hoa cao quý tối thượng theo phương thức này đây, được hài lòng với nghiệp của chính mình, người ấy sẽ thọ hưởng sự thành đạt.

1222. Người nam này cũng sẽ tái sanh ở cõi trời Đẩu Suất lần nữa. Sau khi mệnh chung từ cõi trời ấy (người này) sẽ đi đến bản thể nhân loại.

1223. Người con trai dòng Sakya, đấng Long Tượng cao cả ở thế gian luôn cả chư Thiên, bậc Hữu Nhãn sẽ giúp cho nhiều chúng sanh giác ngộ rồi sẽ Niết Bàn.

1224. Trong khi đã thành đạt sự xuất gia (làm đạo sĩ), được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch (người này) sẽ đi đến gặp bậc Toàn Giác, và khi ấy sẽ hỏi câu hỏi.

1225. Bậc Toàn Giác, đấng Toàn Tri, bậc Lãnh Đạo Thế Gian sẽ làm cho (người này) vui vẻ. Sau khi biết toàn diện về hành động phước thiện, Ngài sẽ phô bày các Chân Lý (cao thượng).

1226. Và được hài lòng về câu hỏi, người này sẽ hớn hở, có tâm chăm chú. Sau khi đảnh lễ bậc Đạo Sư, (người này) sẽ cầu xin sự xuất gia.

1227. Đức Phật ấy, bậc rành rẽ về Giáo Pháp cao cả, sau khi nhìn thấy (người này) có tâm tịnh tín, hoan hỷ với nghiệp của mình, sẽ cho (người này) xuất gia.

1228. Sau khi nỗ lực trong Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, người nam này sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”

(Tụng phẩm thứ năm).

1229. Được gắn liền với nghiệp quá khứ, có sự chăm chú, khéo được định tĩnh, tôi là người con trai chánh thống của đức Phật, đã được sanh ra từ Giáo Pháp, đã được tạo ra tốt đẹp.

1230. Sau khi đi đến gặp đấng Pháp Vương, tôi đã hỏi câu hỏi tối thượng. Và trong khi giảng giải về câu hỏi của tôi, Ngài đã đưa tôi vào dòng chảy Giáo Pháp.

1231. Sau khi hiểu được Giáo Pháp của Ngài, tôi đã sống, được thỏa thích trong Giáo Pháp. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.

1232. Trước đây một trăm ngàn kiếp, đấng Lãnh Đạo Padumuttara đã Niết Bàn không còn chấp thủ, tợ như cây đèn đã tắt vì sự cạn kiệt về dầu thắp.

1233. Đã có ngôi bảo tháp làm bằng châu báu cao bảy do-tuần. Tại nơi ấy, tôi đã cúng dường ngọn cờ tốt đẹp về mọi mặt, làm thích ý.

1234. Và vị Thinh Văn hàng đầu tên Tissa của đức Phật Kassapa, người thừa tự Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, đã là con trai ruột của tôi.

1235. Do tâm ý kém cỏi, tôi đã nói lời nói không tốt đẹp với vị ấy. Do quả thành tựu của nghiệp ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng vào thời điểm cuối cùng.

1236. Tại rừng cây sālā Upavattana, ở chỗ nằm cuối cùng, đấng Hiền Trí, bậc Đại Hùng, đấng Chiến Thắng, bậc có sự lợi ích và lòng bi mẫn, đã cho (tôi) xuất gia.

1237. Giờ đây, đúng ngày hôm nay là sự xuất gia, đúng ngày hôm nay là sự tu lên bậc trên, đúng ngày hôm nay là sự Viên Tịch Niết Bàn trong sự hiện diện của bậc Tối Thượng Nhân.

1238. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Subhadda đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.]

Ký sự về trưởng lão Subhadda là phần thứ chín.

--ooOoo--

50. Ký Sự về Trưởng Lão Cunda

1239. Sau khi cho thực hiện cây cột trụ dành cho đức Thế Tôn Siddhattha, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, tôi đã phủ lên bằng các bông hoa nhài

1240. Sau khi làm hoàn tất, tôi đã đem bông hoa ấy lại gần đức Phật. Tôi đã cầm lấy phần còn lại của bông hoa và đã dâng lên đức Phật.

1241. Đức Phật, đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian trông tợ như cây cột trụ bằng vàng. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng tặng cây cột trụ bông hoa đến Ngài.

1242. Đấng Toàn Giác, bậc có sự nghi hoặc đã được loại trừ, được tháp tùng bởi những vị đã vượt qua các bộc lưu, sau khi ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu đã nói lên những lời kệ này:

1243. “Người nào đã dâng cúng cột trụ bông hoa đang tỏa ra mùi hương của cõi trời đến Ta, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

1244. Mệnh chung ở đây, người nam này sẽ đi đến thế giới chư Thiên, (và sẽ) được hội chúng chư Thiên tôn trọng, được các bông hoa nhài phủ quanh.

1245. Được phát khởi từ nghiệp phước thiện, có chỗ trú ngụ cao vút làm bằng vàng và ngọc ma-ni, có cung điện sẽ được hiện ra cho vị ấy.

1246. Người ấy sẽ cai quản Thiên quốc bảy mươi bốn kiếp và sẽ thọ hưởng sự thành đạt, được các tiên nữ trọng vọng.

1247. (Người ấy) sẽ ngự trị quốc độ thuộc đất liền ở trái đất ba trăm lần, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi lăm lần.

1248. (Người ấy) sẽ trở thành vị thống lãnh nhân loại tên là Dujjaya. Được nương tựa vào nghiệp của chính mình, (người ấy) sẽ thọ hưởng phước báu ấy.

1249. (Người ấy) sẽ không đi đến đọa xứ và sẽ đi đến bản thể nhân loại. Và số vàng không ít hơn một trăm koṭi (một tỷ) sẽ được tích lũy (cho người ấy).

1250. Người ấy sẽ sanh vào dòng dõi Bà-la-môn và sẽ là người con trai ruột thông minh yêu dấu của (Bà-la-môn) Vaṅganta và bà Sārī.

1251. Và về sau, người ấy sẽ xuất gia trong Giáo Pháp của đức Aṅgīrasa (Phật Gotama) và sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư có tên là Cūlacunda.

1252. Người ấy sẽ trở thành bậc có lậu hoặc được đoạn tận ngay khi còn là vị sa-di. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, người ấy sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”

1253. Tôi đã phục vụ đấng Đại Hùng và nhiều vị hiền đức khác, và tôi đã hầu cận người anh trai của tôi nhằm đạt đến mục đích tối thượng.

1254. Tôi đã phục vụ người anh trai của tôi,[19]tôi đã đặt xá-lợi (của anh tôi) ở trong bình bát và đã trình lên đấng Toàn Giác, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu.

1255. Đức Phật ở thế gian luôn cả chư Thiên đã cầm lấy bằng hai tay, và trong khi phô bày xá-lợi ấy Ngài đã tán dương vị Thinh Văn hàng đầu.

1256. Tâm của tôi đã khéo được giải thoát, đức tin của tôi đã được thiết lập. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.

1257. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Cunda đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Cunda là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vị Upāli, vị Soṇa, vị Bhaddiya, vị Sanniṭṭhāpaka, vị Hatthiya, mái che, giường nằm, đường kinh hành, vị Subhadda, vị tên Cunda; (tổng cộng) có một trăm bốn mươi câu kệ và bốn câu thêm vào đó.

Phẩm Upāli là phẩm thứ năm.

--ooOoo--


 

[1]Câu kệ này và câu kế được ghi theo Chú Giải (ApA. 312).

[2] Sīhāsanadāyakangh ĩa là “vị dâng cúng bảo tọa (āsana) sư tử (sīha), Pháp tọa.”

[3] Ekatthambhikangh ĩa là “vị liên quan đến một (eka) cây cột trụ (thambha).”

[4]Nanda là người em trai cùng cha (đức vua Suddhodana) khác mẹ (con bà Mahāpajāpati Gotamī) của thái tử Siddhattha (Sĩ-đạt-ta).

[5] Pañcasīlasamādāniyanghĩa là “vị có sự thọ trì (samādāna) năm (pañca) giới cấm (sīla).”

[6] Annasaṃsāvakanghĩa là “vị ngợi ca (saṃsāvaka) về việc (dâng cúng) vật thực (anna).”

[7] Dhūpadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) khói hương (dhūpa), tức là xông khói có mùi thơm.”

[8] Pulinapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) cát (pulina).”

[9] Ekañjalikanghĩa là “vị có một lần (eka) chắp tay (añjali).”

[10] Khomadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm vải sợi lanh (khoma).”

[11] Lasuṇadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tỏi (lasuṇa).”

[12] Āyāgadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) sảnh đường dài (āyāga).”

[13] Dhammacakkikanghĩa là “vị có bánh xe (cakka) Giáo Pháp (Dhamma).”

[14] Kapparukkhiyanghĩa là “vị liên quan đến cây (rukkha) như ý (kappa).”

[15] Pañcahatthiya nghĩa là “vị liên quan đến năm (pañca) bó (hattha) hoa sen xanh.”

[16] Padumacchadaniyanghĩa là “vị liên quan đến mái che (chadana) bằng hoa sen hồng (paduma).”

[17] Sayanadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chiếc giường (sayana).”

[18] Caṅkamadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) đường đi kinh hành (caṅkama).”

[19]Anh trai của vị Cunda này là ngài Sāriputta, tức là vị Thinh Văn hàng đầu (ND).