IV. KUṆḌADHĀNAVAGGO - PHẨM KUṆḌADHĀNA

31. Ký Sự về Trưởng Lão Kuṇḍadhāna

1003. Vào lúc đấng Tự Chủ, nhân vật cao cả thiền tịnh bảy ngày, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng tôi đã hầu cận đức Phật tối thượng.

1004. Sau khi biết được thời điểm bậc Đại Hiền Trí Padumuttara đã xuất khỏi (thiền), tôi đã cầm lấy nải chuối lớn và đã đi đến gần (Ngài).

1005. Đức Thế Tôn, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, đã thọ nhận trái cây ấy. Trong lúc làm cho tâm tôi được tịnh tín, bậc Đại Hiền Trí đã thọ dụng (trái cây ấy).

1006. Sau khi thọ dụng, đấng Toàn Giác, bậc Xa Phu vô thượng đã ngồi xuống ở chỗ ngồi của mình và đã nói lên những lời kệ này:

1007. “Các cộng đồng Dạ Xoa nào sống ở ngọn núi này, các hạng chúng sanh nào sống ở rừng hãy lắng nghe lời nói của Ta.

1008. Người nào đã hầu cận đức Phật, tợ như con sư tử vua của loài thú, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

1009. Người này đây sẽ trở thành vị Thiên Vương mười một lần. Và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương ba mươi bốn lần.

1010. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

1011. Người này sẽ mắng nhiếc các vị sa-môn có giới hạnh không còn lậu hoặc, và sẽ nhận lấy biệt danh do quả thành tựu của ác nghiệp.

1012. (Người này) sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Kuṇḍadhāna.”

1013. Được gắn bó với sự cô tịch, chứng thiền, thỏa thích về thiền, tôi đã làm vui lòng bậc Đạo Sư và tôi sống không còn lậu hoặc.

1014. Được các vị Thinh Văn hàng đầu vây quanh, được Hội Chúng tỳ khưu tháp tùng, đấng Chiến Thắng đã ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu và đã bảo người rút thẻ bốc thăm.

1015. Sau khi đắp y một bên vai, tôi đã đảnh lễ đấng Lãnh Đạo Thế Gian, và ở trước bậc Cao Quý trong số các vị đang thuyết giảng tôi đã rút được (thẻ bốc thăm) đầu tiên.

1016. Do việc làm ấy, đức Thế Tôn, bậc làm rung động mười ngàn (thế giới), đã ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu và đã thiết lập tôi vào vị thế hàng đầu.

1017. Tôi có sự tinh tấn, có khả năng tiến hành các phận sự là điều kiện đưa đến sự an ổn khỏi các điều ràng buộc. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.

1018. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Kuṇḍadhāna đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Kuṇḍadhāna là phần thứ nhất.

--ooOoo--

32. Ký Sự về Trưởng Lão Sāgata

1019. Lúc bấy giờ, tôi đã là vị Bà-la-môn tên Sobhita. Được tháp tùng bởi những người học trò của mình, tôi đã đi đến tu viện.

1020. Vào thời điểm ấy, được tháp tùng bởi Hội Chúng tỳ khưu, đức Thế Tôn bậc Tối Thượng Nhân sau khi bước ra khỏi cổng tu viện đã đứng lại.

1021. Tôi đã nhìn thấy đấng Toàn Giác bậc đã được rèn luyện ấy được tháp tùng bởi các vị đã được rèn luyện. Sau khi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã ngợi ca đấng Lãnh Đạo Thế Gian rằng:

1022. “Những loại nào là thảo mộc, tất cả các loại ấy đều tăng trưởng ở trên đất. Tương tợ như thế, các chúng sanh có sự giác ngộ được phát triển ở trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.

1023. Ngài là bậc Xa Phu có trí tuệ và là bậc Đại Ẩn Sĩ đối với đám đông dân chúng. Ngài nâng đỡ họ ra khỏi con đường sai trái và nói cho họ về Đạo Lộ.

1024. Ngài là bậc đã được rèn luyện được vây quanh bởi các vị đã được rèn luyện, là bậc chứng thiền cùng với các vị được thỏa thích về thiền, là bậc có sự nhiệt tâm cùng với những vị có tính khẳng quyết và an tịnh như thế ấy.

1025. Được tô điểm bởi đoàn tùy tùng có phước đức và trí tuệ, Ngài chói sáng. Hào quang của Ngài tỏa ra giống như (ánh sáng) trong lúc mặt trời mọc.”

1026. Sau khi nhìn thấy tâm đã được tịnh tín (của tôi), bậc Đại Ẩn Sĩ Padumuttara đứng ở Hội Chúng tỳ khưu đã nói lên những lời kệ này:

1027. “Người Bà-la-môn nào đã khởi lên niềm vui và đã tán dương về Ta, người ấy sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong một trăm ngàn kiếp.

1028. Bởi vì sau khi mệnh chung từ cõi trời Đẩu Suất, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch (người ấy) sẽ xuất gia trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.

1029. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, (người ấy) sẽ đạt được phẩm vị A-la-hán, sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, và sẽ có tên là Sāgata.”

1030. Sau khi xuất gia, tôi đã lìa bỏ ác nghiệp bằng thân. Sau khi dứt bỏ nết xấu về lời nói, tôi đã làm thanh tịnh về sự nuôi mạng sống.

1031. Trong khi sống như vậy, tôi được rành rẽ về các bản thể của (đề mục) lửa. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.

1032. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sāgata đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sāgata là phần thứ nhì.

--ooOoo--

33. Ký Sự về Trưởng Lão Mahākaccāna

1033. Ngôi bảo tháp của đấng Bảo Hộ Padumuttara tên là Paduma. Tôi đã cho xây dựng bảo tọa bằng đá và đã cho thếp vàng.

1034. Sau khi nâng cao chiếc lọng che làm bằng châu báu và chiếc quạt lông đuôi bò, tôi đã dâng đến đức Phật là đấng quyến thuộc của thế gian như thế ấy.

1035. Khi ấy, cho đến chư Thiên ở địa cầu tất cả đã tụ hội lại (nói rằng): “Ngài sẽ thuyết giảng về quả thành tựu của những chiếc lọng che làm bằng châu báu.

1036. Và khi bậc Đạo Sư đang thuyết giảng, chúng ta sẽ lắng nghe tất cả điều ấy. Chúng ta có thể làm sanh khởi niềm vui thích hơn nữa đối với Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.”

1037. Được vây quanh bởi Hội Chúng tỳ khưu, đấng Tự Chủ, nhân vật cao cả, sau khi ngồi xuống ở bảo tọa bằng vàng đã nói lên những lời kệ này:

1038. “Bảo tọa làm bằng vàng và châu báu này được dâng cúng bởi người nào, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

1039. Người ấy sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi kiếp và sẽ ngự trị khu vực xung quanh một trăm do-tuần bằng hào quang.

1040. Sau khi đi đến thế giới nhân loại, (người ấy) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương tên Pabhassara và sẽ có oai lực nổi bật.

1041. Dầu là ban ngày hoặc ban đêm, vị Sát-đế-lỵ sẽ rực sáng ở xung quanh tám ratana (hai mét), tợ như mặt trời đã mọc lên.

1042. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

1043. Sau khi mệnh chung từ chính cõi trời Đẩu Suất, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch (người ấy) sẽ trở thành thân quyến của đấng Phạm Thiên (dòng dõi Bà-la-môn) với tên là Kaccāna.

1044. Về sau, người ấy sẽ xuất gia và sẽ trở thành vị A-la-hán, không còn lậu hoặc. Đức Gotama, đấng Quang Đăng của thế gian, sẽ thiết lập vào vị thế hàng đầu.

1045. (Người ấy) sẽ giảng giải một cách chi tiết về câu hỏi đã được hỏi một cách tóm tắt. Và trong khi giảng giải về câu hỏi ấy, (người ấy) sẽ làm thỏa mãn tâm tư (của người hỏi).”

1046. Được sanh ra cao quý trong gia tộc giàu có, tôi đã là vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật. Sau khi từ bỏ các tài sản và lúa gạo, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.

1047. Tôi giảng giải một cách chi tiết cho những người đang hỏi cho dầu (hỏi) một cách tóm tắt. Tôi làm thỏa mãn tâm tư của những người ấy, tôi làm cho bậc Tối Thượng Nhân hoan hỷ.

1048. Được hoan hỷ về tôi, đấng Đại Hùng, bậc Tự Chủ, nhân vật cao cả, sau khi ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu, đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng.

1049. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 Đại đức trưởng lão Mahākaccāna đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Mahākaccāna là phần thứ ba.

--ooOoo--

34. Ký Sự về Trưởng Lão Kāḷudāyī

1050. Lúc bấy giờ, đức Phật Padumuttara, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy đang đi du hành đường xa.

1051. Sau khi cầm lấy đóa sen hồng khéo được nở rộ, cùng với đóa sen xanh và bông hoa nhài, tôi đã cầm lấy món cơm thượng hạng và đã dâng cúng đến bậc Đạo Sư.

1052. Đấng Đại Hùng đã thọ dụng món cơm thượng hạng có thức ăn tuyệt hảo. Và Ngài đã cầm lấy bông hoa ấy rồi đã đưa ra cho dân chúng xem. (Ngài nói):

1053. “Hoa sen là là loài hoa tối thượng, đáng quý, đáng mến, đáng yêu ở thế gian. Người nào đã dâng cúng bông hoa này đến Ta, người ấy đã làm được việc làm vô cùng khó khăn.

1054. Người nào đã dâng lên bông hoa và đã dâng cúng món cơm thượng hạng đến Ta, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

1055. Người ấy sẽ cai quản Thiên quốc mười tám lần. Sẽ có hoa sen xanh, luôn cả sen hồng, và hoa nhài ở phía bên trên người ấy.

1056. Do quả thành tựu về phước báu của người này, tức thời sẽ có chiếc lọng che đượm mùi hương cõi trời được tạo ra và sẽ được duy trì ở trên không trung.

1057. (Người ấy) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương hai mươi lăm lần, và sẽ ngự trị năm trăm quốc độ thuộc đất liền ở trái đất.

1058. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

1059. Được hài lòng với nghiệp của chính mình, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, (người ấy) sẽ trở thành bà con quyến thuộc, là nguồn đem lại niềm hoan hỷ cho dòng họ Sakya.

1060. Về sau, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, người ấy sẽ xuất gia. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, (người ấy) sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.

1061. Đấng quyến thuộc của thế gian Gotama ấy sẽ thiết lập vị đã đạt được các (tuệ) phân tích, có phận sự đã được làm xong, không còn lậu hoặc (ấy) vào vị thế tối thắng.

1062. Có tính khẳng quyết về sự nỗ lực, được an tịnh, không còn mầm mống tái sanh, người ấy sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, (và sẽ) có tên là Udāyi.”

1063. Tham, sân, si mê, ngã mạn, và gièm pha đều bị tiêu hoại. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.

1064. Là người có sự tinh cần, cẩn trọng, tôi cũng đã làm vui lòng đấng Toàn Giác. Và đấng Toàn Giác, được hoan hỷ, đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng.

1065. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Kāḷudāyī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Kāḷudāyī là phần thứ tư.

--ooOoo--

35. Ký Sự về Trưởng Lão Mogharāja

1066. Lúc bấy giờ, bậc Toàn Giác Atthadassī, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại đã bước đi ở trên đường lộ, được Hội Chúng tỳ khưu tháp tùng.

1067. Được tùy tùng bởi những người học trò, tôi đã lìa khỏi căn nhà. Sau khi đi ra khỏi nơi ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian.

1068. Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác, tôi đã chắp tay lên ở đầu. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã ngợi ca đấng Lãnh Đạo Thế Gian:

1069. “Cho đến các chúng sanh thuộc sắc giới, vô sắc giới, hoặc vô tưởng, tất cả các chúng sanh ấy đều được bao gồm ở trong trí tuệ của Ngài.

1070. Người nào dùng tấm lưới lỗ nhỏ vây quanh nước, bất cứ loài sinh vật nào ở trong nước chúng đều ở trong tấm lưới.

1071. Chúng sanh thuộc sắc giới và vô sắc giới là có tâm tư, tất cả các chúng sanh ấy đều được bao gồm ở trong trí tuệ của Ngài.

1072. Ngài tiếp độ thế gian dẫy đầy tăm tối này. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, bọn họ vượt qua được luồng (suy nghĩ về) hoài nghi.

1073. Thế gian bị bao trùm bởi vô minh, bị tràn ngập bởi bóng tối. Trong khi trí tuệ của Ngài đang chiếu sáng, các bóng tối đều bị tiêu diệt.

1074. Ánh mắt của Ngài là sự xua đi bóng tối lớn lao của tất cả (chúng sanh). Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, nhiều người được Niết Bàn.

1075. Sau khi đã đổ đầy mật ong tinh khiết vào cái hũ, tôi đã nâng lên bằng cả hai tay và đã dâng đến bậc Đại Ẩn Sĩ.

1076. Đấng Đại Hùng, bậc Đại Ẩn Sĩ đã tự tay thọ nhận. Và sau khi thọ dụng (mật ong) ấy, đấng Toàn Tri đã bay lên khoảng không ở bầu trời.

1077. Đứng ở trên không trung, bậc Đạo Sư Atthadassī đấng Nhân Ngưu, trong khi làm tâm của tôi được tịnh tín, đã nói lên những lời kệ này:

1078. “Người nào đã tán dương trí tuệ này, đã ngợi ca đức Phật tối thượng, do sự tịnh tín ấy ở trong tâm người ấy không đi đến chốn khổ đau.

1079. Người ấy sẽ cai quản Thiên quốc mười bốn lần và sẽ ngự trị tám trăm quốc độ thuộc đất liền ở trái đất.

1080. Rồi (người ấy) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương năm trăm lần và sẽ cai quản vô số xứ sở và quốc độ ở trái đất.

1081. Là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt về ba tập Vệ-đà, (người ấy) sẽ xuất gia trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.

1082. (Người ấy) sẽ dùng trí tuệ suy xét về ý nghĩa thâm sâu vi tế và sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, có tên là Mogharāja.

1083. (Người ấy) sẽ được thành tựu ba minh, sẽ là vị có phận sự đã được làm xong, và sẽ trở thành bậc không còn lậu hoặc. Đấng Xa Phu cao cả Gotama sẽ thiết lập (người ấy) vào vị thế tối thắng.”

1084. Sau khi từ bỏ sự gắn bó liên quan đến loài người, sau khi cắt đứt mối ràng buộc đối với sự tái sanh, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.

1085. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Mogharāja đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Mogharāja là phần thứ năm.

--ooOoo--

36. Ký Sự về Trưởng Lão Adhimutta

1086. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Tối Thượng Nhân Atthadassī đã Niết Bàn, tôi đã hộ độ Hội Chúng tỳ khưu với tâm ý trong sạch.

1087. Sau khi thỉnh mời Hội Chúng quý báu có bản thể chính trực, đã được định tĩnh, tôi đã thực hiện mái che bằng cây mía và đã phục vụ bữa ăn đến Hội Chúng tối thượng.

1088. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi đều vượt trội tất cả chúng sanh; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.

1089. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây mía.

1090. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Adhimutta đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Adhimutta là phần thứ sáu.

--ooOoo--

37. Ký Sự về Trưởng Lão Lasuṇadāyaka

1091. Lúc bấy giờ, tôi đã là vị đạo sĩ khổ hạnh ở không xa núi Hi-mã-lạp. Tôi sống bằng củ tỏi, củ tỏi là thực phẩm của tôi.

1092. Tôi đã chất (tỏi) đầy các túi xách rồi đã đi đến tu viện dành cho Hội Chúng. Được mừng rỡ, tôi đã dâng cúng củ tỏi đến Hội Chúng với tâm mừng rỡ.

1093. Sau khi dâng cúng củ tỏi đến Hội Chúng đã được thỏa thích trong Giáo Pháp của bậc Tối Thượng Nhân Vipassī, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.

1094. Kể từ khi tôi đã dâng cúng củ tỏi trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của các củ tỏi.

1095. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 Đại đức trưởng lão Lasuṇadāyaka[11]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Lasuṇadāyaka là phần thứ bảy.

--ooOoo--

38. Ký Sự về Trưởng Lão Āyāgadāyaka

1096. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian Sikhī, bậc cao quý trong số các vị đang thuyết giảng, đã Niết Bàn, tôi đã trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đã đảnh lễ ngôi bảo tháp tối thượng.

1097. Khi ấy, sau khi thảo luận với những người thợ mộc, tôi đã dâng cúng phần tài chánh. Tôi đã trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đã cho xây dựng ngôi sảnh đường dài.

1098. Tôi đã sống ở giữa chư Thiên tám kiếp không bị gián đoạn. Trong các kiếp còn lại, tôi đã luân hồi xen kẽ (giữa cõi trời và cõi người).

1099. Chất độc không ngấm vào cơ thể, các loại vũ khí không hãm hại được tôi, tôi không bị chết đuối ở trong nước; điều này là quả báu của ngôi sảnh đường dài.

1100. Nếu tôi ao ước cơn mưa thì có đám mây lớn đổ mưa xuống, ngay cả chư Thiên cũng chịu sự điều khiển của tôi; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.

1101. Tôi đã là (đấng Chuyển Luân Vương) được thành tựu bảy loại châu báu ba mươi lần, không người nào chê bai tôi; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.

1102. (Kể từ khi) tôi đã cho thực hiện ngôi sảnh đường dài trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của ngôi sảnh đường dài.

1103. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Āyāgadāyaka[12]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 Ký sự về trưởng lão Āyāgadāyaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

39. Ký Sự về Trưởng Lão Dhammacakkika

1104. Phía trước bảo tọa sư tử của đức Thế Tôn Siddhattha, tôi đã thiết lập bánh xe Pháp đã được làm khéo léo, đã được ngợi khen bởi các bậc trí thức.

1105. Với dáng vóc lịch sự, có binh lực và phương tiện di chuyển xứng đáng, tôi được rực rỡ. Nhiều người thường xuyên gắn bó vây quanh tôi.

1106. Có sáu mươi ngàn nhạc công luôn luôn phục vụ tôi, với đoàn tùy tùng tôi được rực rỡ; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.

1107. (Kể từ khi) tôi đã thiết lập bánh xe (Pháp) trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của bánh xe Pháp.

1108. Trước đây mười một kiếp, đã có tám vị thống lãnh dân chúng cùng tên Sahassarāja, là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1109. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 Đại đức trưởng lão Dhammacakkika[13]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Dhammacakkika là phần thứ chín.

--ooOoo--

40. Ký Sự về Trưởng Lão Kapparukkhiya

1110. Ở phía trước ngôi bảo tháp tối thượng của đức Thế Tôn Siddhattha, tôi đã treo giăng những tấm vải nhiều màu sắc và đã thiết lập cây như ý.

1111. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, có cây như ý rực rỡ hiện diện ở cánh cửa lớn của tôi.

1112. Tôi và luôn cả nhóm tùy tùng là những người sống nương tựa vào tôi, chúng tôi luôn luôn lấy vải từ cây như ý ấy rồi mặc vào.

1113. Kể từ khi tôi đã thiết lập cây (như ý) trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cây như ý.

1114. Và trước đây vào kiếp thứ bảy, đã có tám vị Sát-đế-lỵ tên Suceḷa, là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1115. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Kapparukkhiya[14]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Kapparukkhiya là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vị Kuṇḍa, vị Sāgata, vị Kaccāna, vị Udāyi, vị Mogharāja, vị Adhimutta, vị dâng cúng củ tỏi, vị có sảnh đường dài, vị liên quan bánh xe Pháp, và vị có cây như ý là thứ mười, (tổng cộng) là một ngàn hai trăm câu kệ.

Phẩm Kuṇḍadhāna là phẩm thứ tư.

--ooOoo--