1. PHẬN SỰ CỦA TỲ KHƯU VÃNG LAI (ĀGANTUKA):
[414] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu vãng lai đi vào tu viện vẫn mang dép, đi vào tu viện vẫn căng dù, đi vào tu viện vẫn trùm đầu, vẫn đội y ở đầu rồi đi vào tu viện, rửa các bàn chân với nước dùng để uống, không đảnh lễ các tỳ khưu thường trú thâm niên hơn, và cũng không hỏi chỗ trú ngụ. Có vị tỳ khưu vãng lai nọ đã mở chốt gài, đẩy cánh cửa, rồi vội vã đi vào trú xá không có người ở. Con rắn ở trên đà ngang đã rơi xuống trên vai của vị ấy. Vị ấy hoảng sợ đã kêu thét lên. Các tỳ khưu đã chạy lại và đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, tại sao đại đức kêu thét lên vậy?
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu vãng lai lại đi vào tu viện vẫn mang dép, đi vào tu viện vẫn căng dù, đi vào tu viện vẫn trùm đầu, vẫn đội y ở đầu rồi đi vào tu viện, rửa các bàn chân với nước dùng để uống, không đảnh lễ các tỳ khưu thường trú thâm niên hơn, và cũng không hỏi chỗ trú ngụ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu vãng lai đi vào tu viện vẫn mang dép, đi vào tu viện vẫn căng dù, đi vào tu viện vẫn trùm đầu, vẫn đội y ở đầu rồi đi vào tu viện, rửa các bàn chân với nước dùng để uống, không đảnh lễ các tỳ khưu thường trú thâm niên hơn, và cũng không hỏi chỗ trú ngụ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu vãng lai lại đi vào tu viện vẫn mang dép, đi vào tu viện vẫn căng dù, đi vào tu viện vẫn trùm đầu, vẫn đội y ở đầu rồi đi vào tu viện, rửa các bàn chân với nước dùng để uống, không đảnh lễ các tỳ khưu thường trú thâm niên hơn, và cũng không hỏi chỗ trú ngụ? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu vãng lai, các tỳ khưu vãng lai nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[415] Này các tỳ khưu, (nghĩ rằng): “Bây giờ ta sẽ đi vào tu viện,” vị tỳ khưu vãng lai nên tháo dép ra, để dưới thấp, rũ sạch, rồi cầm lấy, hạ dù xuống, cởi đầu trần, lấy y ở đầu để xuống ở vai, rồi đi vào tu viện một cách nghiêm trang không vội vã. Khi đi vào tu viện, nên quan sát xem: “Các tỳ khưu thường trú tụ hội ở đâu?” Các tỳ khưu thường trú tụ hội ở nơi nào: trong phòng hội họp, ở mái hiên, hay ở gốc cây, sau khi đi đến nơi ấy, nên để bình bát xuống một bên, nên để y xuống một bên, nên chọn chỗ ngồi thích hợp, rồi ngồi xuống. Nên hỏi nước uống, nên hỏi nước rửa: “Nước nào là nước uống? Nước nào là nước rửa?” Nếu có sự cần dùng với nước uống, sau khi lấy nước uống rồi nên uống. Nếu có sự cần dùng với nước rửa, sau khi lấy nước rửa rồi nên rửa hai bàn chân. Khi rửa hai bàn chân, nên dùng một tay xối nước, một tay kỳ cọ bản chân. Bàn tay nào dùng để xối nước không nên dùng chính bàn tay đó để kỳ cọ bàn chân. Nên hỏi miếng giẻ lau dép rồi lau đôi dép. Khi lau đôi dép, trước tiên nên lau với miếng giẻ khô sau đó với miếng giẻ ướt. Sau khi giặt miếng giẻ lau dép, nên vắt ráo, rồi nên phơi ở một góc. Nếu vị tỳ khưu thường trú thâm niên hơn thì nên đảnh lễ. Nếu là vị mới tu thì nên để vị ấy đảnh lễ. Nên hỏi chỗ trú ngụ: “Chỗ trú ngụ nào dành cho tôi?” Nên hỏi (chỗ trú ngụ ấy) có người ở hay không có. Nên hỏi về khu vực đi khất thực, khu vực không thể đi khất thực. Nên hỏi về các gia đình được xác định là Thánh Hữu Học. Nên hỏi về chỗ tiêu, nên hỏi về chỗ tiểu, nên hỏi về (chỗ lấy) nước uống, nên hỏi về (chỗ lấy) nước rửa, nên hỏi về gậy để chống, nên hỏi về qui định của hội chúng: “Giờ nào có thể đi vào? Giờ nào có thể đi ra?”
Nếu trú xá không có người, nên gõ cửa lớn, chờ trong chốc lát, rồi tháo chốt gài, mở cửa lớn ra, khi đứng bên ngoài nên nhìn vào bên trong. Nếu trú xá có bụi hoặc là giường được chồng lên giường hoặc là ghế được chồng lên ghế và các đồ trải phủ ở trên cùng, nếu có nỗ lực nên làm sạch sẽ. Trong khi làm sạch sẽ trú xá, trước tiên nên gỡ thảm trải nền đem ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem khung giường ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem nệm gối ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tọa cụ và đồ trải nằm ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái giường rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái ghế rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên đem ống nhổ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tấm ván kê đầu ra ngoài rồi để xuống ở một góc. Nếu có mạng nhện ở trú xá, trước tiên nên dời (chúng) khỏi lỗ hổng, nên lau chùi các cửa sổ và các hốc kẹt. Nếu tường được sơn màu đỏ và bị đốm loang lỗ nên thấm ướt khăn chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền được sơn màu đen và bị đốm loang lỗ nên thấm ướt khăn chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền không được thực hiện, nên rải nước rồi quét (nghĩ rằng): “Không nên để trú xá bị tràn ngập bụi bặm.” Nên gom rác lại rồi đem đổ bỏ ở một góc.
Nên phơi nắng thảm trải nền, lau sạch, đập giũ sạch, đem vào trong, rồi sắp đặt lại như đã được sắp đặt (trước đây). Nên phơi nắng khung giường, lau chùi, đem vào trong, rồi để lại ở vị trí như cũ. Nên phơi nắng giường, lau sạch, đập giũ, hạ thấp xuống, đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, rồi sắp đặt ở vị trí như cũ. Nên phơi nắng ghế, lau sạch, đập giũ, hạ thấp xuống, đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, rồi sắp đặt ở vị trí như cũ. Nên phơi nắng nệm gối, lau sạch, đập giũ, đem vào trong, rồi sắp đặt ở vị trí như cũ. Nên phơi nắng tọa cụ và ngọa cụ, lau sạch, đập giũ, đem vào trong, rồi sắp đặt ở vị trí như cũ. Nên phơi nắng ống nhổ, lau chùi, đem vào trong, rồi để lại ở vị trí như cũ. Nên phơi nắng tấm ván gối đầu, lau chùi, đem vào trong, rồi để lại ở vị trí như cũ. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế, rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra.
Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng đông, các cửa sổ hướng đông nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng tây, các cửa sổ hướng tây nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng bắc, các cửa sổ hướng bắc nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng nam, các cửa sổ hướng nam nên được khép lại. Nếu thời tiết lạnh, các cửa sổ nên mở ra vào ban ngày và khép lại vào ban đêm. Nếu thời tiết nóng, các cửa sổ nên khép lại vào ban ngày và mở ra vào ban đêm.
Nếu phòng có rác rến, nên quét phòng. Nếu cổng có rác rến, nên quét cổng. Nếu phòng hội họp có rác rến, nên quét phòng hội họp. Nếu nhà để đốt lửa có rác rến, nên quét nhà để đốt lửa. Nếu nhà vệ sinh có rác rến, nên quét nhà vệ sinh. Nếu nước uống không có, nên lại đem nước uống. Nếu nước rửa không có, nên đem lại nước rửa. Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào hũ nước súc miệng.
Này các tỳ khưu, đây là phận sự của các tỳ khưu vãng lai, các tỳ khưu vãng lai nên thực hành đúng đắn theo như thế.
2. PHẬN SỰ CỦA TỲ KHƯU THƯỜNG TRÚ (ĀVĀSIKA):
[416] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu thường trú khi thấy các tỳ khưu vãng lai không chịu sắp xếp chỗ ngồi. Họ không đem đến nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Sau khi gặp gỡ, họ không rước y bát, không dâng nước uống, không dâng nước rửa. Họ cũng không đảnh lễ các tỳ khưu vãng lai thâm niên hơn, họ không sắp xếp chỗ trú ngụ. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu thường trú khi thấy các tỳ khưu vãng lai lại không chịu sắp xếp chỗ ngồi, không đem đến nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân; sau khi gặp gỡ, họ không rước y bát, không dâng nước uống, không dâng nước rửa; họ cũng không đảnh lễ các tỳ khưu vãng lai thâm niên hơn, họ lại không sắp xếp chỗ trú ngụ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu thường trú, các tỳ khưu thường trú nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[417] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thường trú khi thấy vị tỳ khưu vãng lai thâm niên hơn nên sắp xếp chỗ ngồi, nên đem đến nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Sau khi gặp gỡ, nên rước y bát, nên dâng nước uống, nên dâng nước rửa. Nếu có nỗ lực, (vị thường trú) nên lau đôi dép (của vị kia). Khi lau đôi dép, trước tiên nên lau bằng miếng giẻ khô sau đó bằng miếng giẻ ướt. Sau khi giặt miếng giẻ lau dép, nên vắt ráo, rồi phơi ở một góc. Nên đảnh lễ vị tỳ khưu vãng lai thâm niên hơn. Nên sắp xếp chỗ trú ngụ: “Chỗ trú ngụ này dành cho đại đức.” Nên nói rõ (chỗ trú ngụ ấy) có người ở hay không có. Nên nói rõ về khu vực đi khất thực, nên nói rõ về khu vực không nên đi khất thực. Nên nói rõ về các gia đình được xác định là Thánh Hữu Học. Nên nói rõ về chỗ tiêu, nên nói rõ về chỗ tiểu. Nên nói rõ về (chỗ lấy) nước uống, nên nói rõ về (chỗ lấy) nước rửa, nên nói rõ về gậy để chống, nên nói rõ về qui định của hội chúng: “Giờ này có thể đi vào. Giờ này có thể đi ra.”
Nếu (vị vãng lai) là vị mới tu, vị (thường trú) mặc dầu vẫn ngồi nên nói rõ: “Để bình bát chỗ này, để y chỗ này, ngồi ở chỗ ngồi này.” Nên nói rõ chỗ nước uống, nên nói rõ chỗ nước rửa. Nên nói rõ về giẻ lau đôi dép. Nên để cho vị tỳ khưu vãng lai mới tu đảnh lễ. Nên nói rõ chỗ trú ngụ: “Chỗ trú ngụ này dành cho đại đức.” Nên nói rõ (chỗ trú ngụ ấy) có người ở hay không có. Nên nói rõ về khu vực đi khất thực, nên nói rõ về khu vực nào không nên đi khất thực. Nên nói rõ về các gia đình được xác định là Thánh Hữu Học. Nên nói rõ về chỗ tiêu, nên nói rõ về chỗ tiểu. Nên nói rõ về (chỗ lấy) nước uống, nên nói rõ về (chỗ lấy) nước rửa, nên nói rõ về gậy để chống, nên nói rõ về qui định của hội chúng: “Giờ này có thể đi vào. Giờ này có thể đi ra.”
Này các tỳ khưu, đây là phận sự của các tỳ khưu thường trú, các tỳ khưu thường trú nên thực hành đúng đắn theo như thế.
3. PHẬN SỰ CỦA VỊ XUẤT HÀNH (GAMIKA):
[418] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu xuất hành không thu xếp các đồ vật bằng gỗ và các đồ vật bằng đất nung, mở ra cửa lớn và cửa sổ, không thông báo về chỗ trú ngụ, rồi ra đi. Các đồ vật bằng gỗ và các đồ vật bằng đất nung bị mất mát. Chỗ trú ngụ không được bảo quản. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu xuất hành lại không thu xếp các đồ vật bằng gỗ và các đồ vật bằng đất nung, mở ra cửa lớn và cửa sổ, không thông báo về chỗ trú ngụ, rồi ra đi khiến các đồ vật bằng gỗ và các đồ vật bằng đất nung bị mất mát, chỗ trú ngụ không được bảo quản?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu xuất hành, các tỳ khưu xuất hành nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[419] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xuất hành trước khi ra đi nên thu xếp các đồ vật bằng gỗ và các đồ vật bằng đất nung, nên đóng lại cửa lớn và cửa sổ, nên thông báo về chỗ trú ngụ. Nếu không có tỳ khưu, nên thông báo cho vị sa di. Nếu không có sa di, nên thông báo cho người ở chùa. Nếu không có người ở chùa, thông báo cho nam cư sĩ. Nếu tỳ khưu, hoặc sa di, hoặc người ở chùa, hoặc nam cư sĩ đều không có, nên sắp xếp cái giường lên trên bốn hòn đá, rồi đặt cái giường lên trên cái giường, đặt cái ghế lên trên cái ghế, còn sàng tọa nên chất thành đống ở phía bên trên, nên thu xếp các đồ vật bằng gỗ và các đồ vật bằng đất nung, nên đóng lại cửa lớn và cửa sổ, rồi mới nên ra đi.
Nếu trú xá bị giột nước mưa, nên lợp lại nếu có nỗ lực hoặc nên thực hiện sự nỗ lực (nghĩ rằng): “Trú xá có thể được lợp thế nào đây?” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp; nếu không đạt được, tại vị trí nào không bị nước mưa giột thì tại chỗ đó nên sắp xếp cái giường lên trên bốn hòn đá, rồi đặt cái giường lên trên cái giường, đặt cái ghế lên trên cái ghế, còn sàng tọa nên chất thành đống ở phía bên trên, nên thu xếp các đồ vật bằng gỗ và các đồ vật bằng đất nung, nên đóng lại cửa lớn và cửa sổ, rồi mới nên ra đi. Nếu toàn bộ trú xá đều bị nước mưa giột, nên mang sàng tọa vào làng nếu có nỗ lực hoặc nên thực hiện sự nỗ lực (nghĩ rằng): “Làm thế nào để sàng tọa có thể được mang vào làng đây?” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp; nếu không đạt được, nên sắp xếp cái giường lên trên bốn hòn đá ở ngoài trời, rồi đặt cái giường lên trên cái giường, đặt cái ghế lên trên cái ghế, còn sàng tọa nên chất thành đống ở phía bên trên. Nên thu xếp các đồ vật bằng gỗ và các đồ vật bằng đất nung. Nên lấy cỏ hoặc lá phủ lên, rồi mới nên ra đi (nghĩ rằng): “Có lẽ các thứ này có thể được tồn tại.”
Này các tỳ khưu, đây là phận sự của các tỳ khưu xuất hành, các tỳ khưu xuất hành nên thực hành đúng đắn theo như thế.
4. PHẬN SỰ TÙY HỶ:
[420] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu không tùy hỷ ở chỗ thọ thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại không tùy hỷ ở chỗ thọ thực?
Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tùy hỷ ở chỗ thọ thực.
[421] Sau đó, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Vị nào sẽ tùy hỷ ở chỗ thọ thực?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép các tỳ khưu trưởng lão tùy hỷ ở chỗ thọ thực.
[422] Vào lúc bấy giờ, có bữa trai phạn dâng đến hội chúng của nhóm người nọ. Đại đức Sāriputta là trưởng lão của hội chúng. Các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cho phép vị tỳ khưu trưởng lão tùy hỷ ở chỗ thọ thực” nên để đại đức Sāriputta ở lại mỗi một mình rồi ra đi. Khi ấy, đại đức Sāriputta đã làm hoan hỷ những người ấy rồi đã đi về mỗi một mình sau cùng. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy đại đức Sāriputta mỗi một mình đang đi lại từ đàng xa, sau khi nhìn thấy đã nói với đại đức Sāriputta điều này:
- Này Sāriputta, chắc hẳn bữa thọ thực đã được tốt đẹp?
- Bạch ngài, bữa thọ thực đã được tốt đẹp tuy nhiên các tỳ khưu đã để con ở lại mỗi một mình và ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép bốn hay năm vị tỳ khưu trưởng lão hoặc các vị kế tiếp chờ đợi ở chỗ thọ thực.
[423] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu trưởng lão nọ trong lúc chờ đợi (để tùy hỷ) muốn đại tiện. Trong lúc cố nín phân lại, vị ấy đã bị choáng váng và ngã xuống. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ra đi khi có việc cần làm sau khi đã thông báo cho vị tỳ khưu kế bên.
5. PHẬN SỰ Ở CHỖ THỌ THỰC:
[424] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách đi đến chỗ thọ thực, tách ra rồi đi lên phía trước các tỳ khưu trưởng lão, chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống, còn xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi, lại còn trải ra y hai lớp (saṅghāṭi) rồi ngồi xuống ở trong nhà. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách lại đi đến chỗ thọ thực, tách ra rồi đi lên phía trước các tỳ khưu trưởng lão, chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống, còn xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi, lại còn trải ra y hai lớp rồi ngồi xuống ở trong nhà?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách đi đến chỗ thọ thực, tách ra rồi đi lên phía trước các tỳ khưu trưởng lão, chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống, còn xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi, lại còn trải ra y hai lớp rồi ngồi xuống ở trong nhà, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự ở chỗ thọ thực cho các tỳ khưu, các tỳ khưu ở chỗ thọ thực nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[425] Nếu thời giờ được thông báo ở trong tu viện, vị (tỳ khưu) nên mặc y nội tròn đều với sự che phủ ba vòng tròn, [1]buộc dây thắt lưng, sửa sang cho tề chỉnh, trùm y hai lớp lên, thắt lại dây buộc, rửa ráy, cầm lấy bình bát, rồi nên đi vào làng một cách nghiêm trang không hấp tấp. Không nên tách ra rồi đi lên phía trước các tỳ khưu trưởng lão. Nên đi ở nơi xóm nhà với y được mặc chỉnh tề, nên đi ở nơi xóm nhà với (thái độ) khéo thu thúc, nên đi ở nơi xóm nhà với mắt nhìn xuống, không nên đi ở nơi xóm nhà với thân bị vén hở ra, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự cười vang, nên đi ở nơi xóm nhà với tiếng động nhỏ, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa thân, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa cánh tay, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa đầu, không nên đi ở nơi xóm nhà với tay chống nạnh, không nên đi ở nơi xóm nhà với (đầu) được trùm lại, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót.
Nên ngồi ở trong nhà với y được mặc tề chỉnh, Nên ngồi ở trong nhà với (thái độ) khéo thu thúc, nên ngồi ở trong nhà với mắt nhìn xuống, không nên ngồi ở trong nhà với thân bị vén hở ra, không nên ngồi ở trong nhà với sự cười vang, nên ngồi ở trong nhà với tiếng động nhỏ, không nên ngồi ở trong nhà với sự đung đưa thân, không nên ngồi ở trong nhà với sự đung đưa cánh tay, không nên ngồi ở trong nhà với sự đung đưa đầu, không nên ngồi ở trong nhà với tay chống nạnh, không nên ngồi ở trong nhà với (đầu) được trùm lại, không nên ngồi ở trong nhà với thế ôm đầu gối, không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống, không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi, không nên trải ra y hai lớp rồi ngồi xuống ở trong nhà.
Khi được dâng nước, nên cầm bình bát bằng hai tay và thọ lãnh nước. Nên hạ thấp xuống rồi rửa bình bát một cách cẩn thận không chà xát mạnh. Nếu có vật chứa nước rửa, nên hạ thấp xuống rồi đổ nước vào trong vật chứa nước rửa (nghĩ rằng): “Chớ làm vật chứa nước rửa bị văng nước tung tóe, chớ làm các tỳ khưu xung quanh bị nước văng nhằm, chớ làm y hai lớp bị dính nước.” Nếu vật chứa nước rửa không có, nên hạ thấp xuống rồi tưới lên trên mặt đất (nghĩ rằng): “Chớ làm các tỳ khưu xung quanh bị nước văng nhằm, chớ làm y hai lớp bị dính nước.”
Khi được dâng cơm, nên cầm bình bát bằng hai tay rồi thọ lãnh cơm. Nên chừa chỗ cho xúp. Nếu có bơ lỏng, hoặc dầu ăn, hoặc thức ăn ngon, vị trưởng lão nên nói rằng: “Nên chia đều ra cho tất cả.” Nên thọ lãnh vật thực một cách nghiêm trang. Nên thọ lãnh vật thực với sự chú tâm ở bình bát. Nên thọ lãnh vật thực với lượng xúp tương xứng. Nên thọ lãnh vật thực vừa ngang miệng (bình bát).
Vị trưởng lão không nên thọ thực khi tất cả chưa được đầy đủ cơm. Nên thọ dụng vật thực một cách nghiêm trang. Nên thọ dụng vật thực với sự chú tâm ở bình bát. Nên thọ dụng vật thực theo tuần tự. Nên thọ dụng vật thực với lượng xúp tương xứng. Không nên vun thành đống rồi thọ dụng vật thực. Không nên dùng cơm che lấp xúp hoặc thức ăn với ý muốn được nhiều hơn. Vị không bị bệnh không nên yêu cầu xúp và cơm vì nhu cầu của bản thân rồi thọ thực. Không nên nhìn vào bình bát của các vị khác với ý định tìm lỗi. Không nên làm vắt cơm quá lớn. Nên làm vắt cơm tròn đều. Không nên há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến. Không nên đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc thọ thực. Không nên nói chuyện với miệng còn vắt cơm. Không nên thọ thực theo cách liên tục đưa thức ăn vào miệng. Không nên thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một. Không nên thọ thực theo lối làm phồng má. Không nên thọ thực có sự vung rảy bàn tay. Không nên thọ thực có sự rơi đổ cơm vung vãi. Không nên thọ thực có sự lè lưỡi ra. Không nên thọ thực với việc làm tiếng chép chép. Không nên thọ thực với việc làm tiếng rột rột. Không nên thọ thực có sự liếm bàn tay. Không nên thọ thực có sự nạo vét bình bát. Không nên thọ thực có sự liếm môi.
Không nên thọ lãnh tô nước uống với bàn tay có dính thức ăn. Vị trưởng lão không nên thọ lãnh nước khi tất cả còn chưa thọ thực xong. Khi được dâng nước, nên cầm bình bát bằng hai tay rồi thọ lãnh nước. Nên hạ thấp xuống rồi rửa bình bát một cách cẩn thận không chà xát mạnh. Nếu có vật chứa nước rửa, nên hạ thấp xuống rồi đổ nước vào trong vật chứa nước rửa (nghĩ rằng): “Chớ làm vật chứa nước rửa bị văng nước tung tóe, chớ làm các tỳ khưu xung quanh bị nước văng nhằm, chớ làm y hai lớp bị dính nước.” Nếu vật chứa nước rửa không có, nên hạ thấp xuống rồi tưới lên trên mặt đất (nghĩ rằng): “Chớ làm các tỳ khưu xung quanh bị nước văng nhằm, chớ làm y hai lớp bị dính nước.” Không nên đổ bỏ nước rửa bình bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà.
Khi đi trở về, các tỳ khưu mới tu nên đi về trước tiên, sau đó là các vị trưởng lão.
Nên đi ở nơi xóm nhà với y được mặc chỉnh tề, nên đi ở nơi xóm nhà với (thái độ) khéo thu thúc, nên đi ở nơi xóm nhà với mắt nhìn xuống, không nên đi ở nơi xóm nhà với thân bị vén hở ra, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự cười vang, nên đi ở nơi xóm nhà với tiếng động nhỏ, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa thân, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa cánh tay, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa đầu, không nên đi ở nơi xóm nhà với tay chống nạnh, không nên đi ở nơi xóm nhà với (đầu) được trùm lại, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót.
Này các tỳ khưu, đây là phận sự ở chỗ thọ thực của các tỳ khưu, các tỳ khưu ở chỗ thọ thực nên thực hành đúng đắn theo như thế.
Dứt tụng phẩm thứ nhất.
6. PHẬN SỰ CỦA VỊ ĐI KHẤT THỰC:
[426] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi khất thực mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực. Các vị đi vào tư gia không suy xét trước, rời đi không suy xét trước, đi vào vô cùng vội vã, đi ra cũng vô cùng vội vã, đứng quá xa, đứng quá gần, đứng lại quá lâu, và rời đi quá lẹ. Có vị tỳ khưu đi khất thực nọ đã đi vào tư gia không suy xét trước. Vị ấy nghĩ rằng cửa lớn rồi đã bước (lầm) vào hậu phòng nọ. Chính ở trong hậu phòng ấy, có người đàn bà khỏa thân đang nằm ngửa ra. Vị tỳ khưu ấy đã nhìn thấy người đàn bà khỏa thân đang nằm ngửa ra, sau khi nhìn thấy (nghĩ rằng): “Đây không phải là cửa nhà, đây là hậu phòng” rồi đã từ hậu phòng ấy đi ra. Chồng của người đàn bà ấy đã nhìn thấy người đàn bà ấy khỏa thân đang nằm ngửa ra, sau khi nhìn thấy (nghĩ rằng): “Vợ của ta đã bị gã tỳ khưu này làm nhục” nên đã giữ vị tỳ khưu ấy lại và đánh đòn. Khi ấy, người đàn bà ấy đã thức dậy vì tiếng động ấy và đã nói với người chồng ấy điều này:
- Phu quân, vì sao ông lại đánh đòn vị tỳ khưu này vậy?
- Gã tỳ khưu này đã làm nhục bà.
- Phu quân, thiếp không có bị vị tỳ khưu này làm nhục. Vị tỳ khưu ấy không có làm.
Và đã giúp vị tỳ khưu ấy được thả ra. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu đi khất thực lại mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực, đi vào tư gia không suy xét trước, rời đi không suy xét trước, đi vào vô cùng vội vã, đi ra cũng vô cùng vội vã, đứng quá xa, đứng quá gần, đứng lại quá lâu, và rời đi quá lẹ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu đi khất thực, các tỳ khưu đi khất thực nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[427] Này các tỳ khưu, (nghĩ rằng): “Bây giờ ta sẽ đi vào làng,” vị tỳ khưu đi khất thực nên mặc y nội tròn đều với sự che phủ ba vòng tròn, buộc dây thắt lưng, sửa sang cho chỉnh tề rồi trùm y hai lớp lên, thắt lại dây buộc, rửa ráy, cầm lấy bình bát, rồi nên đi vào làng một cách nghiêm trang không hấp tấp.
Nên đi ở nơi xóm nhà với y được mặc chỉnh tề, nên đi ở nơi xóm nhà với (thái độ) khéo thu thúc, nên đi ở nơi xóm nhà với mắt nhìn xuống, không nên đi ở nơi xóm nhà với thân bị vén hở ra, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự cười vang, nên đi ở nơi xóm nhà với tiếng động nhỏ, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa thân, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa cánh tay, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa đầu, không nên đi ở nơi xóm nhà với tay chống nạnh, không nên đi ở nơi xóm nhà với (đầu) được trùm lại, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót.
Khi đi vào tư gia nên suy xét rằng: “Ta sẽ đi vào lối này và ra bằng lối này.” Không nên đi vào quá vội vã. Không nên đi ra quá vội vã. Không nên đứng quá xa. Không nên đứng quá gần. Không nên đứng lại quá lâu. Không nên bỏ đi quá lẹ. Khi đứng nên suy xét rằng: “(Gia chủ) có ý muốn bố thí vật thực hay không có ý muốn bố thí?” Nếu (gia chủ) ngưng công việc, hoặc từ chỗ ngồi đứng dậy, hoặc cầm lấy cái muỗng, hoặc cầm lấy cái đĩa, hoặc thỉnh đứng lại thì nên đứng lại (nghĩ rằng): “(Gia chủ) có ý định bố thí.” Trong khi được dâng vật thực, nên dùng bàn tay trái vén y hai lớp lên, dùng bàn tay phải mở nắp bình bát, rồi dùng hai tay ôm bình bát và thọ lãnh vật thực. Không nên nhìn mặt người nữ thí chủ bố thí vật thực.[2]Nên suy xét rằng: “(Gia chủ) có ý muốn bố thí xúp hay không có ý muốn bố thí?” Nếu (gia chủ) cầm lấy cái muỗng, hoặc cầm lấy cái đĩa, hoặc thỉnh đứng lại thì nên đứng lại (nghĩ rằng): “Gia chủ có ý muốn bố thí.” Khi vật thực đã được bố thí, nên dùng y hai lớp che bình bát lại rồi rời đi một cách nghiêm trang không hấp tấp.
Nên đi ở nơi xóm nhà với y được mặc chỉnh tề, nên đi ở nơi xóm nhà với (thái độ) khéo thu thúc, nên đi ở nơi xóm nhà với mắt nhìn xuống, không nên đi ở nơi xóm nhà với thân bị vén hở ra, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự cười vang, nên đi ở nơi xóm nhà với tiếng động nhỏ, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa thân, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa cánh tay, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa đầu, không nên đi ở nơi xóm nhà với tay chống nạnh, không nên đi ở nơi xóm nhà với (đầu) được trùm lại, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót.
Vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên, vị ấy nên sắp xếp chỗ ngồi; nên chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân; nên rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại; nên đem lại nước uống và nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, vị ấy nên ăn nếu muốn. Nếu không muốn, nên đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật. Vị ấy nên chồng lại tọa cụ, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân; nên rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi; nên dọn dẹp nước uống, nước rửa, và nên quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy nên đổ nước vào. Nếu vị ấy không làm nổi, nên ra hiệu bằng tay mời vị khác lại; nên nhờ (vị kia) giúp với hành động bằng tay và không vì lý do đó mà nói ra bằng lời.
Này các tỳ khưu, đây là phận sự của các tỳ khưu đi khất thực, các tỳ khưu đi khất thực nên thực hành đúng đắn theo như thế.
7. PHẬN SỰ CỦA VỊ NGỤ Ở RỪNG:
[428] Vàolúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu cư ngụ ở trong rừng. Các vị ấy không dự trữ nước uống, không dự trữ nước rửa, không dự trữ lửa, không dự trữ vật tạo lửa, không biết về vị trí của các ngôi sao, không biết phương hướng và khu vực. Bọn trộm cướp sau khi đi đến nơi ấy đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:
- Thưa ngài có nước uống không?
- Anh bạn à, không có.
- Thưa ngài, có nước rửa không?
- Anh bạn à, không có.
- Thưa ngài, có lửa không?
- Anh bạn à, không có.
- Thưa ngài, có vật tạo lửa không?
- Anh bạn à, không có.
- Thưa ngài, hôm nay liên quan đến điều gì?
- Anh bạn à, tôi không biết.
- Thưa ngài, hướng này là hướng gì?
- Anh bạn à, tôi không biết.
Khi ấy, bọn trộm cướp ấy (nghĩ rằng): “Những người này không có nước uống, không có nước rửa, không có lửa, không có vật tạo lửa, không biết vị trí của các ngôi sao, không biết phương hướng và khu vực; những người này là trộm cướp, những người này không phải là các tỳ khưu” nên đã đánh đập rồi bỏ đi.
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các vị tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu ở rừng, các tỳ khưu ở rừng nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[429] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ở rừng sau khi thức dậy vào lúc sáng sớm nên để bình bát vào trong túi xách, đeo lên vai, đắp y lên người, mang dép vào, thu xếp các đồ vật bằng gỗ và các đồ vật bằng đất nung lại, đóng cửa lớn và cửa sổ, rồi rời chỗ trú ngụ. (Nghĩ rằng): “Bây giờ, ta sẽ đi vào làng,” (vị ấy) nên tháo dép ra, để ở chỗ thấp, rũ sạch, rồi bỏ vào túi xách, đeo lên vai. Nên mặc y nội tròn đều với sự che phủ ba vòng tròn, buộc dây thắt lưng, sửa sang cho chỉnh tề, trùm y hai lớp lên, thắt lại dây buộc, rửa ráy, cầm lấy bình bát, rồi nên đi vào làng một cách nghiêm trang không hấp tấp. Nên đi ở nơi xóm nhà với y được mặc chỉnh tề, …(như trên)…, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót.
Khi đi vào tư gia nên suy xét rằng: “Ta sẽ đi vào lối này và ra bằng lối này.” Không nên đi vào quá vội vã. Không nên đi ra quá vội vã. Không nên đứng quá xa. Không nên đứng quá gần. Không nên đứng lại quá lâu. Không nên rời đi quá lẹ. Khi đứng nên suy xét rằng: “(Gia chủ) có ý muốn bố thí vật thực hay không có ý muốn bố thí?” Nếu (gia chủ) ngưng công việc, hoặc từ chỗ ngồi đứng dậy, hoặc cầm lấy cái muỗng, hoặc cầm lấy cái đĩa, hoặc thỉnh đứng lại thì nên đứng lại (nghĩ rằng): “Gia chủ có ý định bố thí.” Trong khi được dâng vật thực, nên dùng bàn tay trái vén y hai lớp lên, dùng bàn tay phải mở nắp bình bát, rồi dùng hai tay ôm bình bát và thọ lãnh vật thực. Không nên nhìn mặt người nữ thí chủ bố thí vật thực. Nên suy xét rằng: “(Gia chủ) có ý muốn bố thí xúp hay không có ý muốn bố thí?” Nếu (gia chủ) cầm lấy cái muỗng, hoặc cầm lấy cái đĩa, hoặc thỉnh đứng lại thì nên đứng lại (nghĩ rằng): “Gia chủ có ý định bố thí.” Khi vật thực đã được bố thí, nên dùng y hai lớp che bình bát lại rồi rời đi một cách nghiêm trang không hấp tấp. Nên đi ở nơi xóm nhà với y được mặc tề chỉnh, …(như trên)…, không nên đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót. Khi đã đi ra khỏi làng, nên để bình bát vào trong túi xách, đeo lên vai, cuốn tròn y lại, đội lên đầu, mang dép vào, rồi đi về.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ở rừng nên dự trữ nước uống, nên dự trữ nước rửa, nên dự trữ lửa, nên dự trữ vật tạo lửa, nên dự trữ cây gậy để chống, nên học về vị trí của các ngôi sao toàn bộ hoặc một phần, nên rành rẽ về các phương hướng.
Này các tỳ khưu, đây là phận sự của các tỳ khưu ở rừng, các tỳ khưu ở rừng nên thực hành đúng đắn theo như thế.
8. PHẬN SỰ Ở NƠI CƯ NGỤ:
[430] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đang may y ở ngoài trời. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đập giũ sàng tọa ngược chiều gió ở trước mái hiên. Các vị tỳ khưu đã bị lấm bụi. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đập giũ sàng tọa ngược chiều gió ở trước mái hiên khiến các tỳ khưu bị lấm bụi?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư đập giũ sàng tọa ngược chiều gió ở trước mái hiên khiến các tỳ khưu bị lấm bụi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự ở nơi cư ngụ cho các tỳ khưu, các tỳ khưu ở nơi cư ngụ nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[431] Cư ngụ trong trú xá nào, nếu trú xá ấy có rác rến, nên làm sạch sẽ nếu có nỗ lực. Trong khi làm sạch sẽ trú xá, trước tiên nên đem y bát ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tọa cụ và ngọa cụ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem nệm gối ra ngoài rồi để xuống ở một góc,nên hạ thấp cái giường rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái ghế rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên đem khung giường ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem ống nhổ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tấm ván gối đầu ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên xem xét tấm trải nền được xếp đặt như thế nào rồi đem ra ngoài và để xuống ở một góc. Nếu có mạng nhện ở trú xá, trước tiên nên dời (chúng) khỏi lỗ hổng, nên lau chùi các cửa sổ và các hốc kẹt. Nếu tường được sơn màu đỏ và bị đốm loang lỗ nên thấm ướt khăn chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền được sơn màu đen và bị đốm loang lỗ nên thấm ướt khăn chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền không được thực hiện, nên rải nước rồi quét (nghĩ rằng): “Không nên để trú xá bị tràn ngập bụi bặm.” Nên gom rác lại rồi đem đổ bỏ ở một góc.
Không nên đập giũ sàng tọa ở gần các tỳ khưu. Không nên đập giũ sàng tọa ở gần các trú xá. Không nên đập giũ sàng tọa ở gần nước uống. Không nên đập giũ sàng tọa ở gần nước rửa. Không nên đập giũ sàng tọa ngược chiều gió ở trước mái hiên. Nên đập giũ sàng tọa ở phía dưới gió. Sau khi phơi nắng tấm trải nền ở một góc, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Nên phơi nắng khung giường ở một góc, lau chùi, rồi đem vào trong, và để lại ở vị trí như cũ. Nên phơi nắng giường, làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và nên sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Nên phơi nắng ghế, làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và nên sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Nên phơi nắng nệm gối, làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong, và nên sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Nên phơi nắng tọa cụ và ngọa cụ ở một góc, làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và nên sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Nên phơi nắng ống nhổ ở một góc, lau chùi, rồi đem vào trong, và để lại ở vị trí như cũ. Nên phơi nắng tấm ván gối đầu ở một góc, lau chùi, rồi đem vào trong, và để lại ở vị trí như cũ. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế, rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra.
Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng đông, các cửa sổ hướng đông nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng tây, các cửa sổ hướng tây nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng bắc, các cửa sổ hướng bắc nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng nam, các cửa sổ hướng nam nên được khép lại. Nếu thời tiết lạnh, các cửa sổ nên mở ra vào ban ngày và khép lại vào ban đêm. Nếu thời tiết nóng, các cửa sổ nên khép lại vào ban ngày và mở ra vào ban đêm.
Nếu phòng có rác rến, nên quét phòng. Nếu cổng có rác rến, nên quét cổng. Nếu phòng hội họp có rác rến, nên quét phòng hội họp. Nếu nhà để đốt lửa có rác rến, nên quét nhà để đốt lửa. Nếu nhà vệ sinh có rác rến, nên quét nhà vệ sinh. Nếu nước uống không có, nên lại đem nước uống. Nếu nước rửa không có, nên đem lại nước rửa. Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào hũ nước súc miệng.
Nếu cư ngụ trong trú xá với vị thâm niên, khi chưa xin phép vị thâm niên không nên đọc tụng, không nên đưa ra các câu hỏi điều tra, không nên học bài, không nên giảng Pháp, không nên thắp đèn, không nên thổi tắt đèn, không nên mở cửa sổ, không nên đóng cửa sổ. Nếu đi kinh hành cùng với vị thâm niên trên cùng một đường kinh hành, nên quay trở lui cùng lúc với vị thâm niên và không nên va chạm vị thâm niên dù là góc y hai lớp.
Này các tỳ khưu, đây là phận sự ở nơi cư ngụ của các tỳ khưu, các tỳ khưu ở nơi cư ngụ nên thực hành đúng đắn theo như thế.
9. PHẬN SỰ Ở NHÀ TẮM:
[432] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư khi bị cản trở bởi các tỳ khưu trưởng lão ở trong nhà tắm hơi, do không kính trọng nên đem lại nhiều củi, đốt lửa, đóng cửa ra vào, và ngồi ở cửa ra vào. Các tỳ khưu trưởng lão bị hành hạ bởi sức nóng, không mở cửa được, nên bị ngất đi và té xuống. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư khi bị cản trở bởi các tỳ khưu trưởng lão ở trong nhà tắm hơi, do không kính trọng nên đem lại nhiều củi, đốt lửa, đóng cửa ra vào, và ngồi ở cửa ra vào khiến các tỳ khưu bị hành hạ bởi sức nóng, không mở cửa được, nên bị ngất đi và té xuống?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư khi bị cản trở bởi các tỳ khưu trưởng lão ở trong nhà tắm hơi, do không kính trọng nên đem lại nhiều củi, đốt lửa, đóng cửa ra vào, và ngồi ở cửa ra vào khiến các tỳ khưu bị hành hạ bởi sức nóng, không mở cửa được, nên bị ngất đi và té xuống, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, khi bị cản trở bởi các tỳ khưu trưởng lão ở trong nhà tắm hơi, do không kính trọng không nên đem lại nhiều củi và đốt lửa; vị nào đốt thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Và này các tỳ khưu, không nên đóng cửa ra vào rồi ngồi ở cửa ra vào; vị nào ngồi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự ở nhà tắm hơi cho các tỳ khưu, các tỳ khưu ở nhà tắm hơi nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[433] Vị nào đi vào trong nhà tắm hơi trước tiên, nếu tro tích lũy nhiều (vị ấy) nên đem tro đi đổ, nếu nhà tắm hơi có rác rến nên quét nhà tắm hơi, nếu nền xung quanh có rác rến nên quét nền xung quanh, nếu căn phòng có rác rến nên quét căn phòng, nếu cổng có rác rến nên quét cổng, nếu gian phòng lớn của nhà tắm hơi có rác rến nên quét gian phòng lớn của nhà tắm hơi.
Nên trộn bột tắm, nên tẩm ướt đất sét, nên đổ nước vào máng nước. Khi đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi. Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống. Không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở trong nhà tắm hơi, nếu có nỗ lực nên kỳ cọ cho các tỳ khưu trưởng lão. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, nên che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi đi ra khỏi nhà tắm hơi. Ở trong nước, nếu có nỗ lực nên kỳ cọ cho các tỳ khưu trưởng lão. Không nên tắm ở ngay phía trước các tỳ khưu trưởng lão cũng không nên tắm ở phía trên các vị ấy. Vị đã tắm xong đi ra nên nhường đường cho vị đi vào. Vị nào rời nhà tắm hơi cuối cùng, nếu nhà tắm hơi bị bùn lầy nên rửa sạch, nên rửa sạch máng đất sét, nên dọn dẹp ghế ngồi của nhà tắm hơi, nên dập tắt lửa, nên đóng cửa, rồi ra đi.
Này các tỳ khưu, đây là phận sự ở nhà tắm hơi của các tỳ khưu, các tỳ khưu ở nhà tắm hơi nên thực hành đúng đắn theo như thế.
10. PHẬN SỰ Ở NHÀ VỆ SINH:
[434] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ dòng dõi Bà-la-môn đại tiện xong không muốn rửa sạch (nghĩ rằng): “Ai lại đụng đến đồ hôi hám hạ tiện này?” Có con giun đũa đã dính ở hậu môn của vị ấy. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
- Này đại đức, có phải đại đức đại tiện xong không chịu rửa sạch?
- Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỷ kheo đại tiện xong lại không chịu rửa sạch?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi đại tiện xong không chịu rửa sạch, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, sau khi đại tiện xong nếu có nước không nên không rửa sạch; vị nào không rửa sạch thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[435] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi đại tiện ở nhà vệ sinh theo thứ tự thâm niên. Các tỳ khưu mới tu đến trước tiên phải đợi để được đại tiện. Trong lúc cố nín phân lại, các vị ấy bị choáng váng và ngã xuống. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu đi đại tiện ở nhà vệ sinh theo thứ tự thâm niên, các tỳ khưu mới tu đến trước tiên phải đợi để được đại tiện, trong lúc cố nín phân lại các vị ấy bị choáng váng và ngã xuống, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, việc đại tiện ở nhà vệ sinh không nên thực hành theo thứ tự thâm niên; vị nào thực hành thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện việc đại tiện theo thứ tự đi đến.
[436] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi vào nhà vệ sinh vô cùng vội vã, giành lối lúc đi vào, đại tiện rặn thành tiếng, đại tiện trong lúc nhai gỗ chà răng, đại tiện ra ngoài máng đựng phân, tiểu tiện ra ngoài máng nước tiểu, khạc nhổ vào máng nước tiểu, chùi bằng khúc cây chùi bị sần sùi, làm rơi khúc cây chùi vào hố phân, đi ra vô cùng vội vã, giành lối lúc đi ra, làm tiếng chắt lưỡi lúc rửa ráy, chừa lại nước ở trong gáo múc nước rửa. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đi vào nhà vệ sinh vô cùng vội vã, giành lối lúc đi vào, đại tiện rặn thành tiếng, đại tiện trong lúc nhai gỗ chà răng, đại tiện ra ngoài máng đựng phân, tiểu tiện ra ngoài máng nước tiểu, khạc nhổ vào máng nước tiểu, chùi bằng khúc cây chùi bị sần sùi, làm rơi khúc cây chùi vào hố phân, đi ra vô cùng vội vã, giành lối lúc đi ra, làm tiếng chắt lưỡi lúc rửa ráy, chừa lại nước ở trong gáo múc nước rửa?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự ở nhà vệ sinh cho các tỳ khưu, các tỳ khưu ở nhà vệ sinh nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[437] Vị đi đến nhà vệ sinh, trong khi đứng ở bên ngoài, nên tằng hắng. Vị đang ngồi bên trong cũng nên tằng hắng. Nên máng y lên sào treo y hoặc dây phơi y rồi nên đi vào nhà vệ sinh một cách cẩn thận không hấp tấp. Không nên đi vào quá vội vã. Không nên giành lối lúc đi vào. Khi đứng trên bệ nhà vệ sinh, nên kéo y lên. Không nên đại tiện rặn thành tiếng. Không nên đại tiện trong lúc nhai gỗ chà răng. Không nên đại tiện ra ngoài máng đựng phân. Không nên tiểu tiện ra ngoài máng nước tiểu. Không nên khạc nhổ vào máng nước tiểu. Không nên chùi với khúc cây chùi bị sần sùi. Không nên làm rơi khúc cây chùi vào hố phân. Khi đứng trên bệ nhà vệ sinh, nên che lại kín đáo. Không nên đi ra vô cùng vội vã. Không nên giành lối lúc đi ra. Khi đứng ở sàn rửa, nên vén y lên. Không nên làm tiếng chắt lưỡi lúc rửa ráy. Không nên chừa lại nước ở trong gáo múc nước rửa. Khi đứng ở sàn rửa, nên che lại kín đáo.
Nếu nhà vệ sinh bị dơ nên rửa sạch. Nếu thùng đựng đồ chùi bị đầy, nên đổ bỏ các khúc cây chùi. Nếu nhà vệ sinh có rác rến nên quét nhà vệ sinh. Nếu nền xung quanh có rác rến nên quét nền xung quanh. Nếu căn phòng có rác rến nên quét căn phòng. Nếu cổng có rác rến nên quét cổng. Nếu lu nước rửa không có nước, nên đổ nước vào lu nước rửa.
Này các tỳ khưu, đây là phận sự ở nhà vệ sinh của các tỳ khưu, các tỳ khưu ở nhà vệ sinh nên thực hành đúng đắn theo như thế.
11. PHẬN SỰ ĐỐI VỚI THẦY TẾ ĐỘ:
[438] Vào lúc bấy giờ, các người đệ tử (saddhivihārikā – các vị ở chung trú xá) không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các người đệ tử lại không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các người đệ tử không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các người đệ tử lại không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ? Này các tỳ khưu, điều này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự đối với các vị thầy tế độ cho các người đệ tử, đối với các vị thầy tế độ các người đệ tử nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[439] Này các tỳ khưu, người đệ tử nên thực hành phận sự đúng đắn đối với vị thầy tế độ. Đây là phận sự đúng đắn trong trường hợp này:
Nên thức dậy vào lúc sáng sớm, cởi dép ra, đắp thượng y một bên vai, rồi nên dâng lên gỗ chà răng, nên dâng nước súc miệng, và nên sắp xếp chỗ ngồi. Nếu có cháo, nên rửa sạch tô rồi dâng cháo. Khi thầy đã uống cháo xong, nên dâng nước, nhận lại tô, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, rồi đem cất. Khi thầy tế độ đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu thầy tế độ có ý định đi vào làng, nên trao y lót trong, và nhận lại y lót trong (khác từ vị thầy), nên trao dây thắt lưng, nên gấp y hai lớp gọn gàng rồi dâng lên. Nên trao bình bát còn đẫm nước (patto saudako) sau khi đã rửa sạch. Nếu thầy tế độ muốn có thị giả đi theo, vị ấy nên mặc y nội tròn đều với sự che phủ ba vòng tròn, buộc dây thắt lưng, sửa sang cho tề chỉnh rồi trùm y hai lớp lên, thắt lại dây buộc, rửa ráy, cầm lấy bình bát, rồi nên đi theo làm thị giả cho thầy tế độ. Không nên đi quá xa, không nên đi quá gần. Nên nhận lấy bình bát (của vị thầy) và vật được chứa đựng (trong đó).[3]Khi thầy tế độ đang nói, không nên cắt ngang lời nói nửa chừng. Khi thầy tế độ có khả năng phạm tội lúc đang nói thì nên nhắc nhở.
Khi quay trở về, nên đi về trước tiên. Nên sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đi ra rước y và bình bát. Nên trao y lót trong (trước đây) và nhận lại y lót trong (mặc lúc đi). Nếu y bị thấm mồ hôi, nên phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Và không nên phơi y ở chỗ nắng quá lâu. Nên gấp y lại. Khi gấp y nên lùi phần góc vào bốn ngón tay rồi gấp y lại (nghĩ rằng): “Không nên để nếp gấp ở phần chính giữa.”[4]Nên đặt dây thắt lưng ở phía trong rồi gấp lại.
Nếu có đồ ăn khất thực và thầy tế độ có ý muốn thọ dụng thì nên dâng nước (rửa) và đem đồ ăn khất thực để gần bên. Nên dâng lên thầy tế độ nước uống. Khi thầy ăn xong nên dâng nước (rửa). Nên nhận lại bình bát rồi đem để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, nên làm ráo nước, rồi đem phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Không nên phơi bình bát ở chỗ nắng quá lâu. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra. Khi thầy tế độ đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nên dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu thầy tế độ có ý muốn tắm, nên chuẩn bị việc tắm. Nếu (thầy tế độ) thích nước lạnh, nên chuẩn bị nước lạnh; nếu thích nước nóng, nên chuẩn bị nước nóng. Nếu thầy tế độ có ý muốn đi vào nhà tắm hơi, nên trộn bột tắm, nên tẩm ướt đất sét. Nên lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi rồi đi đến từ phía sau lưng, nên trao ghế ngồi của nhà tắm hơi cho thầy tế độ, nên nhận lấy y và để ở một bên. Nên trao bột tắm, nên trao đất sét. Nếu có nỗ lực, nên đi vào nhà tắm hơi. Khi đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi. Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống. Không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở trong nhà tắm hơi nên kỳ cọ cho thầy tế độ. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, nên che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi rời khỏi nhà tắm hơi. Nên kỳ cọ cho thầy tế độ lúc ở trong nước. Khi tắm xong nên đi ra trước, nên lau khô nước ở thân thể của mình. Sau khi quấn y, nên lau khô nước ở thân thể của thầy tế độ. Nên trao y lót trong. Nên trao y hai lớp. Nên cầm lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi về trước, và sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên dâng nước uống đến thầy tế độ. Nếu có ý muốn thỉnh (thầy) đọc tụng, nên thỉnh (thầy) đọc tụng. Nếu có ý muốn vấn đạo, nên thỉnh (thầy) vấn đạo.
Ở trú xá nào thầy tế độ cư ngụ, nếu trú xá ấy có rác rến, nên làm sạch sẽ nếu có nỗ lực. Khi làm sạch sẽ, trước tiên nên đem y bát ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tọa cụ và ngọa cụ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem nệm gối ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái giường rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái ghế rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên đem khung giường ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem ống nhổ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tấm ván gối đầu ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên xem xét tấm trải nền được xếp đặt như thế nào rồi đem ra ngoài và để xuống ở một góc. Nếu có mạng nhện ở trú xá, khi phát hiện trước tiên nên dời (chúng) khỏi lỗ hổng, nên lau chùi các cửa sổ và các hốc kẹt. Nếu tường được sơn màu đỏ và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền được sơn màu đen và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền không được thực hiện, nên rải nước rồi quét (nghĩ rằng): “Không nên để trú xá bị tràn ngập bụi bặm.” Sau khi gom rác lại rồi nên đem đổ bỏ ở một góc.
Sau khi phơi nắng tấm trải nền, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng khung giường, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng giường, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ghế, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng nệm gối, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng tọa cụ và ngọa cụ, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ống nhổ, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng tấm ván gối đầu, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra.
Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng đông, các cửa sổ hướng đông nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng tây, các cửa sổ hướng tây nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng bắc, các cửa sổ hướng bắc nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng nam, các cửa sổ hướng nam nên được khép lại. Nếu thời tiết lạnh, các cửa sổ nên mở ra vào ban ngày và khép lại vào ban đêm. Nếu thời tiết nóng, các cửa sổ nên khép lại vào ban ngày và mở ra vào ban đêm.
Nếu phòng có rác rến, nên quét phòng. Nếu cổng có rác rến, nên quét cổng. Nếu phòng hội họp có rác rến, nên quét phòng hội họp. Nếu nhà để đốt lửa có rác rến, nên quét nhà để đốt lửa. Nếu nhà vệ sinh có rác rến, nên quét nhà vệ sinh. Nếu nước uống không có, nên đem nước uống lại. Nếu nước rửa không có, nên đem nước rửa lại. Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào hũ nước súc miệng.
Nếu sự không hoan hỷ sanh khởi ở thầy tế độ, người đệ tử nên làm cho dịu đi hoặc nhờ vị khác làm cho dịu đi, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu mối nghi ngờ sanh khởi ở thầy tế độ, người đệ tử nên làm cho tan biến hoặc nhờ vị khác làm cho tan biến, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu tà kiến sanh khởi ở thầy tế độ, người đệ tử nên phân giải hoặc nhờ vị khác phân giải, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu thầy tế độ bị phạm tội nặng xứng đáng hành phạt parivāsa, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt parivāsa cho thầy tế độ?” Nếu thầy tế độ xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể cho thầy tế độ (thực hành) trở lại từ đầu?” Nếu thầy tế độ xứng đáng hành phạt mānatta, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt mānatta cho thầy tế độ?” Nếu thầy tế độ xứng đáng sự giải tội, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể giải tội cho thầy tế độ?” Nếu hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với thầy tế độ, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự đối với thầy tế độ, hoặc đổi thành nhẹ hơn?” Khi hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với thầy tế độ, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để thầy tế độ có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự này?”
Nếu y của thầy tế độ cần phải giặt, người đệ tử nên giặt hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy tế độ được giặt?” Nếu y của thầy tế độ cần phải may, người đệ tử nên may hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy tế độ được may?” Nếu thuốc nhuộm của thầy tế độ cần phải nấu, người đệ tử nên nấu hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để thuốc nhuộm của thầy tế độ được nấu?” Nếu y của thầy tế độ cần phải nhuộm, người đệ tử nên nhuộm hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy tế độ được nhuộm?” Trong khi nhuộm y, nên nhuộm bằng cách đảo tới đảo lui cho khéo léo. Không nên bỏ đi khi nước nhỏ giọt chưa ngừng.
Không có phép của thầy tế độ, không nên cho bình bát đến người khác. Không nên thọ lãnh bình bát của người khác. Không nên cho y đến người khác. Không nên thọ lãnh y của người khác. Không nên cho vật dụng đến người khác. Không nên thọ lãnh vật dụng của người khác. Không nên cạo tóc cho người khác. Không nên bảo người khác cạo tóc. Không nên kỳ cọ người khác. Không nên bảo người khác kỳ cọ. Không nên hầu hạ người khác. Không nên bảo người khác hầu hạ. Không nên làm thị giả người khác. Không nên nhận người khác làm thị giả. Không nên mang đồ ăn khất thực lại dùm người khác. Không nên nhờ người khác mang dùm đồ ăn khất thực lại. Chưa xin phép thầy tế độ không nên đi vào làng, không nên đi đến mộ địa, không nên bỏ đi hướng khác. Nếu thầy tế độ bị bệnh, nên phục vụ cho đến trọn đời hoặc chờ đến khi vị thầy khỏe lại.
Này các tỳ khưu, đây là phận sự đối với các vị thầy tế độ của các người đệ tử, các người đệ tử đối với các vị thầy tế độ nên thực hành đúng đắn theo như thế.
12. PHẬN SỰ ĐỐI VỚI ĐỆ TỬ (SADDHIVIHĀRIKA):
[440) Vào lúc bấy giờ, các vị thầy tế độ không thực hành phận sự đúng đắn đối với các người đệ tử. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các vị thầy tế độ lại không thực hành phận sự đúng đắn đối với các người đệ tử?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các vị thầy tế độ không thực hành phận sự đúng đắn đối với các người đệ tử, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự đối với các người đệ tử cho các vị thầy tế độ, các vị thầy tế độ đối với các người đệ tử nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[441] Này các tỳ khưu, vị thầy tế độ nên thực hành phận sự đúng đắn đối với người đệ tử. Đây là phận sự đúng đắn trong trường hợp này:
Này các tỳ khưu, thầy tế độ nên quan tâm đến người đệ tử, nên giúp đỡ bằng sự đọc tụng, bằng sự vấn hỏi, bằng sự giáo huấn, bằng sự chỉ dạy. Nếu thầy tế độ có bình bát và người đệ tử không có bình bát, thầy tế độ nên cho bình bát đến người đệ tử, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để bình bát có thể phát sanh đến đệ tử?” Nếu thầy tế độ có y và người đệ tử không có y, thầy tế độ nên cho y đến người đệ tử, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y có thể phát sanh đến đệ tử?” Nếu thầy tế độ có vật dụng và người đệ tử không có vật dụng, thầy tế độ nên cho vật dụng đến người đệ tử, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để vật dụng có thể phát sanh đến đệ tử?”
Nếu người đệ tử bị bệnh, (vị thầy tế độ) nên thức dậy vào lúc sáng sớm. Nên trao gỗ chà răng. Nên trao nước súc miệng. Nên sắp xếp chỗ ngồi. Nếu có cháo, nên rửa sạch tô rồi nên đem cháo lại. Khi người đệ tử đã uống cháo xong, nên trao nước (rửa), nên nhận lại tô, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, rồi đem cất. Khi người đệ tử đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu người đệ tử có ý muốn đi vào làng, nên trao y lót trong, và nhận lại y lót trong (khác từ vị ấy), nên trao dây thắt lưng, nên gấp y hai lớp gọn gàng rồi trao cho. Nên trao bình bát còn đẫm nước sau khi đã rửa sạch. (Nghĩ rằng): “Đến lúc vị ấy sắp trở về,” nên sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đi ra nhận y và bình bát. Nên trao y lót trong (trước đây) và nhận lại y lót trong (mặc lúc đi). Nếu y bị thấm mồ hôi, nên phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Và không nên phơi y ở chỗ nắng quá lâu. Nên gấp y lại. Khi gấp y nên lùi phần góc vào bốn ngón tay rồi gấp y lại (nghĩ rằng): “Không nên để nếp gấp ở phần chính giữa.” Nên đặt dây thắt lưng ở phía trong rồi gấp lại.
Nếu có đồ ăn khất thực và người đệ tử có ý muốn ăn thì nên trao nước (rửa) và nên đem đồ ăn khất thực để gần bên. Nên đưa cho đệ tử nước uống. Khi người đệ tử ăn xong nên trao nước (rửa). Nên nhận lại bình bát, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, nên làm ráo nước rồi đem phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Không nên phơi bình bát ở chỗ nắng quá lâu. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra. Khi người đệ tử đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nên dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu người đệ tử có ý muốn tắm, nên chuẩn bị việc tắm. Nếu (người đệ tử) thích nước lạnh, nên chuẩn bị nước lạnh; nếu thích nước nóng, nên chuẩn bị nước nóng. Nếu người đệ tử có ý muốn đi vào nhà tắm hơi, nên trộn bột tắm, nên tẩm ướt đất sét. Nên lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi đến, trao ghế ngồi của nhà tắm hơi, nhận lấy y, rồi nên đem để ở một bên. Nên trao bột tắm. Nên trao đất sét. Nếu có nỗ lực, nên đi vào nhà tắm hơi. Khi đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi. Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống. Không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở trong nhà tắm hơi nên kỳ cọ cho người đệ tử. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, sau khi che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi rời khỏi nhà tắm hơi. Nên kỳ cọ cho người đệ tử lúc ở trong nước. Khi tắm xong nên đi ra trước, nên lau khô nước ở thân thể của mình. Sau khi quấn y, nên lau khô nước ở thân thể của người đệ tử. Nên trao y lót trong. Nên trao y hai lớp. Nên cầm lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi về trước, và sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đem nước uống đến cho người đệ tử.
Ở trú xá nào người đệ tử cư ngụ, nếu trú xá ấy có rác rến, nên làm sạch sẽ nếu (vị thầy) có nỗ lực. Trong khi làm sạch sẽ trú xá, trước tiên nên đem y và bình bát ra ngoài rồi để xuống ở một góc. …(như trên)… Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào hũ nước súc miệng.
Nếu có sự không hoan hỷ sanh khởi ở người đệ tử, vị thầy tế độ nên làm cho dịu đi hoặc nhờ vị khác làm cho dịu đi, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu mối nghi ngờ sanh khởi ở người đệ tử, vị thầy tế độ nên làm cho tan biến hoặc nhờ vị khác làm cho tan biến, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu tà kiến sanh khởi ở người đệ tử, vị thầy tế độ nên phân giải hoặc nhờ vị khác phân giải, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu người đệ tử bị phạm tội nặng xứng đáng hành phạt parivāsa, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt parivāsa cho đệ tử?” Nếu người đệ tử xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể cho đệ tử (thực hành) trở lại từ đầu?” Nếu người đệ tử xứng đáng hành phạt mānatta, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt mānatta cho đệ tử?” Nếu người đệ tử xứng đáng sự giải tội, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể giải tội cho đệ tử?” Nếu hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người đệ tử, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự đối với đệ tử, hoặc đổi thành nhẹ hơn?” Khi hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người đệ tử, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để đệ tử có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự này?”
Nếu y của người đệ tử cần phải giặt, vị thầy tế độ nên hướng dẫn: “Ngươi nên giặt như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của đệ tử được giặt?” Nếu y của người đệ tử cần phải may, vị thầy tế độ nên hướng dẫn: “Ngươi nên may như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của đệ tử được may?” Nếu thuốc nhuộm của người đệ tử cần phải nấu, vị thầy tế độ nên hướng dẫn: “Ngươi nên nấu như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để thuốc nhuộm của đệ tử được nấu?” Nếu y của người đệ tử cần phải nhuộm, vị thầy tế độ nên hướng dẫn: “Ngươi nên nhuộm như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của đệ tử được nhuộm?” Trong khi nhuộm y, nên đảo tới đảo lui cho khéo léo. Không nên bỏ đi khi nước nhỏ giọt chưa ngừng. Nếu người đệ tử bị bệnh, nên phục vụ cho đến trọn đời hoặc chờ đến khi người đệ tử khỏe lại.
Này các tỳ khưu, đây là phận sự đối với các người đệ tử của các vị thầy tế độ. Các vị thầy tế độ đối với các người đệ tử nên thực hành đúng đắn theo như thế.
Dứt tụng phẩm thứ hai.
13. PHẬN SỰ ĐỐI VỚI THẦY DẠY HỌC:
[442] Vào lúc bấy giờ, các người học trò (antevāsikā) không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy dạy học. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các người học trò lại không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy dạy học?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các người học trò không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy dạy học, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự đối với các vị thầy dạy học cho các người học trò, các người học trò đối với các vị thầy dạy học nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[443] Này các tỳ khưu, người học trò nên thực hành phận sự đúng đắn đối với vị thầy dạy học. Đây là phận sự đúng đắn trong trường hợp này:
Nên thức dậy vào lúc sáng sớm, cởi dép ra, đắp thượng y một bên vai, rồi nên dâng lên gỗ chà răng, nên dâng nước súc miệng, nên sắp xếp chỗ ngồi. Nếu có cháo, nên rửa sạch tô rồi dâng cháo. Khi thầy đã uống cháo xong, nên dâng nước, nhận lại tô, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, rồi đem cất. Khi thầy dạy học đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu thầy dạy học có ý muốn đi vào làng, nên trao y lót trong, và nhận lại y lót trong (khác từ vị thầy), nên trao dây thắt lưng, nên gấp y hai lớp gọn gàng rồi dâng lên. Nên trao bình bát còn đẫm nước sau khi đã rửa sạch. Nếu thầy dạy học muốn có thị giả đi theo, vị ấy nên mặc y nội tròn đều với sự che phủ ba vòng tròn, buộc dây thắt lưng, sửa sang cho tề chỉnh rồi trùm y hai lớp lên, thắt lại dây buộc, rửa ráy, cầm lấy bình bát, rồi nên đi theo làm thị giả cho thầy dạy học. Không nên đi quá xa, không nên đi quá gần. Nên nhận lấy bình bát (của vị thầy) và vật được chứa đựng (trong đó). Khi thầy dạy học đang nói, không nên cắt ngang lời nói nửa chừng. Khi thầy dạy học có khả năng phạm tội lúc đang nói thì nên nhắc nhở.
Khi quay trở về, nên đi về trước tiên. Nên sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đi ra rước y và bình bát. Nên trao y lót trong (trước đây) và nhận lại y lót trong (mặc lúc đi). Nếu y bị thấm mồ hôi, nên phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Và không nên phơi y ở chỗ nắng quá lâu. Nên gấp y lại. Khi gấp y nên lùi phần góc vào bốn ngón tay rồi gấp y lại (nghĩ rằng): “Không nên để nếp gấp ở phần chính giữa.” Nên đặt dây thắt lưng ở phía trong rồi gấp lại.
Nếu có đồ ăn khất thực và thầy dạy học có ý muốn ăn thì nên dâng nước (rửa) và nên đem đồ ăn khất thực để gần bên. Nên dâng lên thầy dạy học nước uống. Khi thầy ăn xong nên dâng nước (rửa). Nên nhận lại bình bát rồi đem để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, nên làm ráo nước, rồi đem phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Không nên phơi bình bát ở chỗ nắng quá lâu. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra. Khi thầy dạy học đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nên dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu thầy dạy học có ý muốn tắm, nên chuẩn bị việc tắm. Nếu (thầy dạy học) thích nước lạnh, nên chuẩn bị nước lạnh; nếu thích nước nóng, nên chuẩn bị nước nóng. Nếu thầy dạy học có ý muốn đi vào nhà tắm hơi, nên trộn bột tắm, nên tẩm ướt đất sét. Nên lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi rồi đi đến từ phía sau lưng, nên trao ghế ngồi của nhà tắm hơi cho thầy dạy học, nhận lấy y, và để ở một bên. Nên trao bột tắm, nên trao đất sét. Nếu có nỗ lực, nên đi vào nhà tắm hơi. Khi đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi. Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống. Không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở trong nhà tắm hơi nên kỳ cọ cho thầy dạy học. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, nên che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi rời khỏi nhà tắm hơi. Nên kỳ cọ cho thầy dạy học lúc ở trong nước. Khi tắm xong nên đi ra trước, lau khô nước ở thân thể của mình. Sau khi quấn y, nên lau khô nước ở thân thể của thầy dạy học. Nên trao y lót trong. Nên trao y hai lớp. Nên cầm lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi về trước, và sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên dâng nước uống đến thầy dạy học. Nếu có ý muốn thỉnh (thầy) đọc tụng, nên thỉnh (thầy) đọc tụng. Nếu có ý muốn vấn đạo, nên thỉnh (thầy) vấn đạo.
Ở trú xá nào thầy dạy học cư ngụ, nếu trú xá ấy có rác rến, nên làm sạch sẽ nếu có nỗ lực. Khi làm sạch sẽ, trước tiên nên đem y bát ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tọa cụ và ngọa cụ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem nệm gối ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái giường rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái ghế rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên đem khung giường ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem ống nhổ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tấm ván gối đầu ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên xem xét tấm trải nền được xếp đặt như thế nào rồi đem ra ngoài và để xuống ở một góc. Nếu có mạng nhện ở trú xá, khi phát hiện trước tiên nên dời (chúng) khỏi lỗ hổng, nên lau chùi các cửa sổ và các hốc kẹt. Nếu tường được sơn màu đỏ và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền được sơn màu đen và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền không được thực hiện, nên rải nước rồi quét (nghĩ rằng): “Không nên để trú xá bị tràn ngập bụi bặm.” Sau khi gom rác lại rồi nên đem đổ bỏ ở một góc.
Sau khi phơi nắng tấm trải nền, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng khung giường, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng giường, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ghế, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng nệm gối, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng tọa cụ và ngọa cụ, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ống nhổ, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng tấm ván gối đầu, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra.
Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng đông, các cửa sổ hướng đông nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng tây, các cửa sổ hướng tây nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng bắc, các cửa sổ hướng bắc nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng nam, các cửa sổ hướng nam nên được khép lại. Nếu thời tiết lạnh, các cửa sổ nên mở ra vào ban ngày và khép lại vào ban đêm. Nếu thời tiết nóng, các cửa sổ nên khép lại vào ban ngày và mở ra vào ban đêm.
Nếu phòng có rác rến, nên quét phòng. Nếu cổng có rác rến, nên quét cổng. Nếu phòng hội họp có rác rến, nên quét phòng hội họp. Nếu nhà để đốt lửa có rác rến, nên quét nhà để đốt lửa. Nếu nhà vệ sinh có rác rến, nên quét nhà vệ sinh. Nếu nước uống không có, nên đem nước uống lại. Nếu nước rửa không có, nên đem nước rửa lại. Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào hũ nước súc miệng.
Nếu sự không hoan hỷ sanh khởi ở thầy dạy học, người học trò nên làm cho dịu đi hoặc nhờ vị khác làm cho dịu đi, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu mối nghi ngờ sanh khởi ở thầy dạy học, người học trò nên làm cho tan biến hoặc nhờ vị khác làm cho tan biến, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu tà kiến sanh khởi ở thầy dạy học, người học trò nên phân giải hoặc nhờ vị khác phân giải, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu thầy dạy học bị phạm tội nặng xứng đáng hành phạt parivāsa, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt parivāsa cho thầy dạy học?” Nếu thầy dạy học xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể cho thầy dạy học (thực hành) trở lại từ đầu?” Nếu thầy dạy học xứng đáng hành phạt mānatta, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt mānatta cho thầy dạy học?” Nếu thầy dạy học xứng đáng sự giải tội, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể giải tội cho thầy dạy học?” Nếu hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với thầy dạy học, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự đối với thầy dạy học, hoặc đổi thành nhẹ hơn?” Khi hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với vị thầy dạy học, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để thầy dạy học có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự này?”
Nếu y của thầy dạy học cần phải giặt, người học trò nên giặt hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy dạy học được giặt?” Nếu y của thầy dạy học cần phải may, người học trò nên may hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy dạy học được may?” Nếu thuốc nhuộm của thầy dạy học cần phải nấu, người học trò nên nấu hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để thuốc nhuộm của thầy dạy học được nấu?” Nếu y của thầy dạy học cần phải nhuộm, người học trò nên nhuộm hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy dạy học được nhuộm?” Trong khi nhuộm y, nên đảo tới đảo lui cho khéo léo. Không nên bỏ đi khi nước nhỏ giọt chưa ngừng.
Không có phép của thầy dạy học, không nên cho bình bát đến người khác. Không nên thọ lãnh bình bát của người khác. Không nên cho y đến người khác. Không nên thọ lãnh y của người khác. Không nên cho vật dụng đến người khác. Không nên thọ lãnh vật dụng của người khác. Không nên cạo tóc cho người khác. Không nên bảo người khác cạo tóc. Không nên kỳ cọ người khác. Không nên bảo người khác kỳ cọ. Không nên hầu hạ người khác. Không nên bảo người khác hầu hạ. Không nên làm thị giả người khác. Không nên nhận người khác làm thị giả. Không nên mang đồ ăn khất thực lại dùm người khác. Không nên nhờ người khác mang dùm đồ ăn khất thực lại. Chưa xin phép thầy dạy học không nên đi vào làng, không nên đi đến mộ địa, không nên bỏ đi hướng khác. Nếu thầy dạy học bị bệnh, nên phục vụ cho đến trọn đời hoặc chờ đến khi vị thầy khỏe lại.
Này các tỳ khưu, đây là phận sự đối với các vị thầy dạy học của các người học trò, các người học trò đối với các vị thầy dạy học nên thực hành đúng đắn theo như thế.
14. PHẬN SỰ ĐỐI VỚI HỌC TRÒ (ANTEVĀSIKA):
[444] Vào lúc bấy giờ, các vị thầy dạy học không thực hành phận sự đúng đắn đối với các người học trò (antevāsikā). Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các vị thầy dạy học lại không thực hành phận sự đúng đắn đối với các người học trò?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các vị thầy dạy học không thực hành phận sự đúng đắn đối với các người học trò, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự đối với các người học trò cho các vị thầy dạy học, các vị thầy dạy học đối với các người học trò nên thực hành đúng đắn theo như thế.
[445] Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học nên thực hành phận sự đúng đắn đối với người học trò. Đây là phận sự đúng đắn trong trường hợp này:
Này các tỳ khưu, thầy dạy học nên quan tâm đến người học trò, nên giúp đỡ bằng sự đọc tụng, bằng sự vấn hỏi, bằng sự giáo huấn, bằng sự chỉ dạy. Nếu thầy dạy học có bình bát và người học trò không có bình bát, thầy dạy học nên cho bình bát đến người học trò, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để bình bát có thể phát sanh đến học trò?” Nếu thầy dạy học có y và người học trò không có y, thầy dạy học nên cho y đến người học trò, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y có thể phát sanh đến học trò?” Nếu thầy dạy học có vật dụng và người học trò không có vật dụng, thầy dạy học nên cho vật dụng đến người học trò, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để vật dụng có thể phát sanh đến học trò?”
Nếu người học trò bị bệnh, (vị thầy dạy học) nên thức dậy vào lúc sáng sớm. Nên trao gỗ chà răng. Nên trao nước súc miệng. Nên sắp xếp chỗ ngồi. Nếu có cháo, nên rửa sạch tô rồi nên đem cháo lại. Khi người học trò đã uống cháo xong, nên cho nước, nhận lại tô, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, rồi đem cất. Khi người học trò đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu người học trò có ý muốn đi vào làng, nên trao y lót trong, và nhận lại y lót trong (khác từ vị ấy), nên trao dây thắt lưng, nên gấp y hai lớp gọn gàng rồi trao cho. Nên trao bình bát còn đẫm nước sau khi đã rửa sạch. (Nghĩ rằng): “Đến lúc vị ấy sắp trở về,” nên sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đi ra nhận y và bình bát. Nên trao y lót trong (trước đây) và nhận lại y lót trong (mặc lúc đi). Nếu y bị thấm mồ hôi, nên phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Và không nên phơi y ở chỗ nắng quá lâu. Nên gấp y lại. Khi gấp y nên lùi phần góc vào bốn ngón tay rồi gấp y lại (nghĩ rằng): “Không nên để nếp gấp ở phần chính giữa.” Nên đặt dây thắt lưng ở phía trong rồi gấp lại.
Nếu có đồ ăn khất thực và người học trò có ý muốn ăn thì nên trao nước (rửa) và nên đem đồ ăn khất thực để gần bên. Nên đưa cho học trò nước uống. Khi người học trò ăn xong nên trao nước (rửa). Nên nhận lại bình bát, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, nên làm ráo nước rồi đem phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Không nên phơi bình bát ở chỗ nắng quá lâu. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra. Khi người học trò đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nên dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu người học trò có ý muốn tắm, nên chuẩn bị việc tắm. Nếu (người học trò) thích nước lạnh, nên chuẩn bị nước lạnh; nếu thích nước nóng, nên chuẩn bị nước nóng. Nếu người học trò có ý muốn đi vào nhà tắm hơi, nên trộn bột tắm, nên tẩm ướt đất sét. Nên lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi đến, trao ghế ngồi của nhà tắm hơi, nhận lấy y, rồi để ở một bên. Nên trao bột tắm. Nên trao đất sét. Nếu có nỗ lực, nên đi vào nhà tắm hơi. Khi đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi. Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống. Không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở trong nhà tắm hơi nên kỳ cọ cho người học trò. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, sau khi che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi rời khỏi nhà tắm hơi. Nên kỳ cọ cho người học trò lúc ở trong nước. Khi tắm xong nên đi ra trước, nên lau khô nước ở thân thể của mình. Sau khi quấn y, nên lau khô nước ở thân thể của người học trò. Nên trao y lót trong. Nên trao y hai lớp. Nên cầm lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi về trước, và sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đem nước uống đến cho người học trò.
Ở trú xá nào người học trò cư ngụ, nếu trú xá ấy có rác rến, nên làm sạch sẽ nếu có nỗ lực. Trong khi làm sạch sẽ trú xá, trước tiên nên đem y và bình bát ra ngoài rồi để xuống ở một góc. …(như trên)… Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào hũ nước súc miệng.
Nếu có sự không hoan hỷ sanh khởi ở người học trò, vị thầy dạy học nên làm cho dịu đi hoặc nhờ vị khác làm cho dịu đi, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu mối nghi ngờ sanh khởi ở người học trò, vị thầy dạy học nên làm cho tan biến hoặc nhờ vị khác làm cho tan biến, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu tà kiến sanh khởi ở người học trò, vị thầy dạy học nên phân giải hoặc nhờ vị khác phân giải, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu người học trò bị phạm tội nặng xứng đáng hành phạt parivāsa, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt parivāsa cho học trò?” Nếu người học trò xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể cho học trò (thực hành) trở lại từ đầu?” Nếu người học trò xứng đáng hành phạt mānatta, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt mānatta cho học trò?” Nếu người học trò xứng đáng sự giải tội, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể giải tội cho học trò?” Nếu hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người học trò, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự đối với học trò, hoặc đổi thành nhẹ hơn?” Khi hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người học trò, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để học trò có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự này?”
Nếu y của người học trò cần phải giặt, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên giặt như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của học trò được giặt?” Nếu y của học trò cần phải may, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên may như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của học trò được may?” Nếu thuốc nhuộm của người học trò cần phải nấu, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên nấu như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để thuốc nhuộm của học trò được nấu?” Nếu y của người học trò cần phải nhuộm, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên nhuộm như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của học trò được nhuộm?” Trong khi nhuộm y, nên đảo tới đảo lui cho khéo léo. Không nên bỏ đi khi nước nhỏ giọt chưa ngừng. Nếu người học trò bị bệnh, nên phục vụ cho đến trọn đời hoặc chờ đến khi người học trò khỏe lại.
Này các tỳ khưu, đây là phận sự đối với các người học trò của các vị thầy dạy học. Các vị thầy dạy học đối với các người học trò nên thực hành đúng đắn theo như thế.
Dứt Chương Phận Sự là chương thứ tám.
Trong chương này có 21 câu chuyện, 14 phận sự.
********
Tóm lược chương này:
[446]
Mang dép và che dù,
y trùm đầu, nước uống,
không đảnh lễ (vị lớn),
không dâng (nước), con rắn,
các vị tốt phàn nàn.
Hạ dù, y đắp vai,
đi đến nơi tụ hội,
đặt y và bát xuống,
hỏi han điều thích hợp.
Nên xối với nước rửa,
giày lau khô rồi ướt,
vị lớn, nhỏ, nên hỏi,
phòng trống, chỗ đi bát,
gia đình Thánh Hữu Học,
nhà tiêu, chỗ lấy nước,
gậy chống, điều qui định,
thời biểu, trong chốc lát,
rác, đem ra thảm nền,
khung giường, và tấm nệm,
giường nằm, ghế, ống nhổ,
ván, mạng nhện, các hốc,
sơn đỏ, đen, không sơn,
rác rến, thảm trải nền,
khung giường, giường và ghế,
nệm nằm với tọa cụ,
ống nhổ, ván kê đầu,
y bát và nền nhà,
mép y ở bên kia,
phần gấp lại bên này.
Từ hướng đông, hướng tây,
hướng bắc rồi hướng nam,
lạnh nóng, và đêm ngày,
phòng ốc, cổng ra vào,
phòng hội, nhà đốt lửa,
phận sự ở nhà tiêu,
nước uống, nước để rửa,
và hũ nước súc miệng.
Phận sự vị vãng lai
quy định không sai khác.
Không chỗ ngồi, nước rửa,
không chào hỏi, nước uống,
không đảnh lễ, sắp xếp,
các vị tốt phàn nàn.
Với vị thâm niên hơn,
chỗ ngồi và nước rửa,
đến gặp dâng nước uống,
đôi dép để một bên,
đảnh lễ và sắp chỗ,
phòng trống, chỗ đi bát,
và nhà Thánh Hữu Học,
chỗ nước uống, nước rửa,
cây gậy, thời khoá biểu.
Vị mới tu, cứ ngồi,
chào hỏi và chỉ rõ,
đường lối như dưới đây,
đó là phần phận sự
của các vị thường trú
chỉ dạy bởi Đạo Sư.
Vị xuất hành ra đi
đồ đạc gỗ, gốm sứ,
không đóng cửa, không báo,
bị mất, không bảo vệ,
các vị tốt phàn nàn.
Hãy sắp đặt, đóng cửa,
thông báo rồi ra đi,
tỳ khưu hoặc sa di,
người ở chùa, cư sĩ.
Một khối trên các đá,
nên sắp xếp, đóng cửa,
nếu có được khả năng,
nơi không giột như thế,
nếu bị giột toàn bộ,
(nên gởi) ở trong làng,
để ngoài trời như vậy:
“Mong các thứ tồn tại,”
đây là phần phận sự
của tỳ khưu xuất hành.
Trưởng lão không tùy hỷ,
bỏ đi, bốn năm vị,
nín phẩn, bị choáng váng,
đây phận sự tùy hỷ.
Các vị nhóm Lục Sư
thường mặc y luộm thuộm,
lại trùm y luộm thuộm,
không theo đúng quy cách
và còn đi rẽ ngang
chiếm chỗ các vị lớn,
các vị tân tỳ khưu,
và y saṅghāṭi,
tỳ khưu tốt phàn nàn.
Mặc y đều ba vòng,
thân tề chỉnh, dây buộc,
không hở ra, che kín,
thu thúc, mắt nhìn xuống,
không nên vén y lên
và cười vang lớn tiếng,
thêm ba phần đung đưa.
chống nạnh, trùm, nhón gót,
chiếm chỗ, không cho ngồi,
trải y ra, và nước,
hạ thấp xuống, nước văng,
xung quanh, y hai lớp,
và việc thọ lãnh cơm,
canh, thức ăn hảo hạng,
chia đều phần tất cả.
Nghiêm trang, tâm ở bát,
đều đều, canh vừa đủ,
trưởng lão chờ chưa ăn
và cơm vừa miệng bát.
Nghiêm trang, tâm ở bát,
vừa cơm và đủ canh
không vun cơm, che lấp,
không xin thêm, tìm lỗi,
lớn, tròn đều, há miệng,
trọn bàn tay, không nói,
liên tục bốc thức ăn,
cắn từng chút, phồng má,
rảy tay, cơm vung vãi,
le lưỡi, tiếng chép chép,
tiếng rột rột, liếm tay,
vét bình bát, liếm môi,
thọ lãnh bằng tay dơ,
chờ tất cả, nước rửa,
hạ thấp, và văng nước,
đồ đựng nước, xung quanh,
y hai lớp, thấp xuống,
mặt đất, nước có cơm.
Trong khi đi trở về,
khéo trùm y, nhón gót,
đây phận sự nhà ăn,
bậc Pháp Vương quy định.
Mặc y phục luộm thuộm,
không theo đúng quy cách,
không suy xét, vội vã,
quá xa, (hay) quá gần,
quá lâu, (hoặc) quá mau,
như thế đi khất thực.
Nên trùm kín rồi đi,
thu thúc, mắt nhìn xuống,
vén hở thân, cười lớn,
tiếng ồn, và còn nữa,
ba vật không đung đưa,
chống nạnh, trùm, nhón gót,
không suy xét, vội vã,
quá xa, (hay) quá gần,
quá lâu, (hoặc) quá mau,
(rời) chỗ ngồi, cái muỗng,
cái đĩa, hoặc thỉnh chờ,
giở lên và mở ra,
thọ lãnh không nhìn mặt,
các món xúp cũng vậy.
Vị tỳ khưu che đậy
bằng y saṅghāṭi,
trùm kín rồi mới đi,
thu thúc, mắt nhìn xuống,
không nên vén y lên,
và cười vang lớn tiếng,
chỉ gây tiếng động nhỏ,
ba sự việc đung đưa,
chống nạnh, trùm, nhón gót,
về trước tiên, chỗ ngồi,
chậu đựng các đồ thừa,
nước để uống, nước rửa,
về sau, muốn, hãy ăn,
đổ xuống, rồi cất đi,
dọn dẹp xong, quét nền,
đổ vào lu hết nước,
trống trơn, tay ra hiệu,
không gây thành tiếng động,
đó phận sự khất thực.
Nước uống, rửa, ngọn lửa,
vật tạo lửa, các sao,
phương hướng, và bọn trộm,
“Tất cả đều không có,”
đánh đập, vai mang bát,
y ca-sa, từ đó,
bây giờ, mang ở vai,
đều đặn ba vòng tròn,
giống phận sự khất thực,
các vị sống ở rừng
cũng hành theo lối ấy,
vai bát, y trên đầu,
mang vào, và nước uống,
nước rửa, và ngọn lửa,
vật tạo lửa, cây gậy,
lại nữa các ngôi sao,
toàn bộ hoặc một phần,
và thiện xảo các hướng,
đây phận sự ở rừng,
Tối Thượng Sư quy định.
Ở ngoài trời, lấm bụi,
các vị tốt phàn nàn,
nếu trú xá bị dơ,
trước tiên là y bát,
nệm nằm, giường, gối kê,
ghế ngồi, và ống nhổ,
ván kê đầu, khe hở,
chưa được sơn đỏ đen,
rác rến, gần tỳ khưu,
sàng tọa, trú xá, nước,
ở gần nước để rửa,
ngược gió và mái hiên,
dưới gió, thảm trải nền,
khung giường và giường ngủ,
ghế ngồi, nệm, tọa cụ,
ống nhổ, ván kê đầu,
và y bát trên đất,
mép y ở bên kia,
y gấp lại hướng này,
hướng đông và hướng tây,
hướng bắc và hướng nam,
lạnh nóng và đêm ngày,
phòng ốc và cổng lớn,
phòng hội, và nhà lửa,
nhà tiêu và nước uống,
hũ nước để súc miệng,
và các vị thâm niên,
đọc tụng, hỏi, học bài,
giảng Pháp, thổi ngọn đèn,
không mở cũng không đóng,
quay lại theo vị lớn,
không chạm dầu góc y,
đó phận sự chỗ ngụ,
bậc Đại Nhân quy định.
Bị cản, cửa ra vào,
rồi vị bị ngất đi,
các vị tốt phàn nàn,
nên đổ tro, nhà tắm,
nền nhà, và như vậy,
phòng, cổng lớn, giảng đường,
bột thoa, sét, máng nước,
ở phía trước, khuôn mặt,
không (chiếm chỗ) trưởng thượng,
vị mới tu, nếu được,
phía trước, trên, lối đi,
đọng nước, sét, ghế ngồi,
tắt lửa, và đóng cửa,
là phận sự nhà tắm.
Không rửa, theo thâm niên,
theo phiên, và vội vã,
chen, rặn, gỗ chà răng,
đại, tiểu tiện, khạc nhổ,
sần sùi, hố phân, vội,
lấn, chép miệng, bỏ đi.
Ngoài, và trong tằng hắng,
giây treo, không hấp tấp,
vội vã, vén y, đứng,
rặn, gỗ chà răng, phẩn,
tiểu, khạc nhổ, sần sùi,
hố phân, bệ nhà tiêu,
không vội vã, kéo lên,
sàn rửa, tiếng chép chép,
không chừa nước, che đậy,
dơ và thùng chứa rác,
nhà tiêu, nền xung quanh,
phòng ốc, và cửa lớn,
và nước để rửa ráy,
đó phận sự nhà tiêu.
Đôi dép, gỗ chà răng,
nước súc miệng, chỗ ngồi,
cháo, nước uống, rửa sạch,
dọn dẹp, rác, vào làng,
y lót, dây thắt lưng,
xếp y, bát có nước,
thị giả, ba sự tròn,
mặc đều đặn, dây lưng,
buộc dây, rửa, phía sau,
không xa lắm, nhận lãnh,
khi vị nói, lỗi lầm,
về trước tiên, chỗ ngồi,
nước, ghế kê, ghẻ lau,
quay trở lại, y lót,
ở chỗ nắng, phơi lâu,
phần góc, chỗ gấp lại,
muốn ăn, nên đem lại,
nước uống, rửa, chỗ thấp,
một chốc, chẳng phơi lâu,
y bát và mặt đất,
mép y phía bên kia,
phía này y gấp lại,
cất đi và dọn dẹp,
rác rến và muốn tắm,
lạnh, nóng, và nhà tắm,
bột tắm, sét, phía sau,
và ghế, y, bột tắm,
đất sét, nếu có thể,
khuôn mặt, ở phía trước,
trưởng lão, và mới tu,
kỳ cọ, và đi ra,
phía trước, trong nước, tắm,
mặc y, thầy tế độ,
y lót, y hai lớp,
ghế nhà tắm, chỗ ngồi,
chân, ghế kê, giẻ lau,
nước uống, muốn đọc tụng,
và hỏi về Giáo Pháp,
rác rến, nên làm sạch,
trước tiên là y bát,
tấm thảm để lót ngồi,
nệm nằm và các gối,
giường, ghế ngồi, khung gỗ,
ống nhổ, ván kê đầu,
nền nhà, màng lưới nhện,
và khe hở, đỏ, đen,
chỗ còn chưa thực hiện,
thảm trải nền, khung gỗ,
giường, ghế, và, gối kê,
đồ lót ngồi, ống nhổ,
ván kê đầu, y bát,
hướng đông và hướng tây,
hướng bắc và hướng nam,
lạnh nóng, và đêm ngày,
phòng ốc và cửa lớn,
phòng họp, và nhà lửa,
nhà tiêu, nước uống, rửa,
nước súc miệng, không vui,
nỗi nghi hoặc, tà kiến,
và tội nặng, từ đầu,
mànatta, giải tội,
khiển trách, việc chỉ dạy,
xua đuổi, hay hòa giải,
rồi hành sự treo tội
nếu đã được thực hành.
Giặt, nhuộm nên thực hiện,
khi nhuộm, việc trộn đều,
và bình bát, y nữa,
đồ phụ tùng, cạo (tóc),
kỳ cọ, việc hầu hạ,
thị giả, đồ khất thực,
không đi vào mộ địa,
bỏ đi sang hướng khác,
đến hết đời, phục vụ,
phần này của đệ tử.
Các điều phận sự ấy
của vị thầy tế độ,
giáo huấn, tụng Giáo Pháp,
vấn hỏi, và bát y,
vật phụ tùng, vị bệnh,
không là vị thị giả.
Giống như thầy tế độ,
ở các thầy dạy học
cũng tương tợ như thế.
Các phận sự đệ tử
cũng giống vị học trò.
Phận sự vị vãng lai,
các vị thường trú nữa,
vị xuất hành, tùy hỷ,
ở trong nhà thọ thực,
và vị đi khất thực,
phận sự của các vị
ở rừng, các chỗ ngụ,
ở nhà tắm, nhà tiêu,
thầy tế độ, đệ tử,
phận sự của thầy dạy,
cũng giống như học trò,
có mười chín sự việc,
mười bốn việc phải làm
được (quy tụ) thành nhóm.
Phận sự không tròn đủ,
không hoàn hảo về giới,
giới không sạch, tuệ kém,
không thấy được nhất tâm,
với tâm bị xáo trộn,
không trụ vào một điểm,
không thấy được Chánh Pháp,
khi không thấy Chánh Pháp,
không thoát khỏi khổ đau.
Vị hoàn thành phận sự,
giới cũng được tròn đủ,
giới trong sạch, có tuệ,
lại đạt được nhất tâm,
tâm không bị xáo trộn,
trụ vào được một điểm,
vị ấy thấy Chánh Pháp,
chứng ngộ được Diệu Pháp,
vị ấy thoát khổ đau,
do đó, nên thành tựu
phận sự đệ tử Phật
thấy rõ ràng lời dạy
của đức Phật tối thượng,
từ đó đạt Niết Bàn.
[1]Là lỗ rún và hai đầu gối Xin xem điều học sekhiya (ưng học pháp) thứ nhất.
[2]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Dầu là người nữ hay người nam, không nên nhìn vào mặt lúc họ đang bố thí vật thực.”
[3]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Nên trao bình bát của mình cho vị thầy và nhận lấy bình bát của vị ấy.”
[4]Theo lời giải thích của ngài Mahāsamaṇa Chao, nếu gấp đôi y lại sẽ có đường gấp ở chính giữa, phần giữa này sẽ ở phần sau lưng khi trùm y vào và là phần thường bị hư hỏng trước nhất do sự cọ xát. Cách gấp y như vầy để hạn chế điều ấy (Vinayamukha 2, trang 75).