V. SACCAPĀRAMITĀ
7. Kapirājacariyaṃ
7. Hạnh của con Khỉ Chúa:[15]
***
307. Yadā ahaṃ kapi āsiṃ nadī kule darīsaye
pīḷito suṃsumārena gamanaṃ na labhāmihaṃ.
307. Vào lúc ta là con khỉ sống trong hang ở bờ sông, ta đã bị đe dọa bởi con cá sấu nên không đạt được việc ra đi.
308. Yamhokāse ahaṃ ṭhatvā orapāraṃ patāmahaṃ
tatthacchi sattu vadhako kumbhīlo luddadassano.
308. Tại địa điểm ta thường đứng ở bờ bên này rồi nhảy qua bờ bên kia, tại chỗ ấy có con cá sấu là kẻ thù, là kẻ sát thủ, có dáng vóc hung tợn.
309. Somaṃ asaṃsi ehīti ahamemīti taṃ vadiṃ
tassa matthakamakkamma parakule patiṭṭhahiṃ.
309. Con cá sấu đã thông báo với ta rằng: “Cứ việc đi đến.” Ta đã nói với nó rằng: “Tôi đang đi đến,” rồi đã bước lên đầu của nó và đã đứng vững bờ bên kia.
310. Na tassa alikaṃ bhaṇitaṃ yathā vācaṃ akāsahaṃ
saccena me samo natthi esā me sacca pāramīti.
310. Điều đã được nói với con cá sấu không phải là không đúng sự thật (vì) ta đã hành động đúng theo lời nói. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Kapirājacariyaṃ sattamaṃ.
Hạnh của con khỉ chúa là phần thứ bảy.
--ooOoo--
8. Saccatāpasacariyaṃ
8. Hạnh của Đạo Sĩ Sacca:
***
311. Punāparaṃ yadā homi tāpaso saccasavhayo
saccena lokaṃ pālesiṃ samaggaṃ janamakāsahanti.
311. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là đạo sĩ khổ hạnh tên gọi Sacca. Ta đã hộ trì thế gian bằng sự chân thật; ta đã làm cho mọi người hợp nhất.
Saccapaṇḍitacariyaṃ aṭṭhamaṃ.
Hạnh của đạo sĩ Sacca là phần thứ tám.
--ooOoo--
9. Vaṭṭapotakacariyaṃ
9. Hạnh của Chim Cút Con: [16]
***
312. Punāparaṃ yadā homi magadhe vaṭṭapotako
ajātapakkho taruṇo maṃsapesi kulāvake.
312. Vào một thời điểm khác nữa, khi ở tại Magadha, ta là con chim cút con, cánh chưa được mọc, còn non nớt, (như) là miếng thịt ở trong tổ.
313. Mukhatuṇḍake nāharitvā mātā posayatī mamaṃ
tassā phassena jīvāmi natthi me kāyikaṃ balaṃ.
313. (Chim) mẹ tha (mồi) lại ở trong mỏ và nuôi dưỡng ta. Ta sống còn do sự tiếp xúc với chim mẹ; ta không có sức mạnh ở thân.
314. Saṃvacchare gimhasamaye davaḍāho padippati
upagacchati amhākaṃ pāvako kaṇhavattanī.
314. Trong năm vào mùa nóng, có nạn cháy rừng bộc phát. Ngọn lửa cuộn khói đen tiến về hướng chúng tôi.
315. Dhūmadhūmaṃ janitvevaṃ saddāyanto mahāsikhī
anupubbena jhāpento aggī mamamupāgami.
315. Ngọn lửa lớn lao trong lúc gào thét đã tạo ra luồng khói này cuộn khói nọ. Trong khi lần lượt làm phát cháy, ngọn lửa đã tiến đến gần ta.
316. Aggivegabhayā bhītā tasitā mātā pitā mama
kulāvake maṃ chaḍḍhetvā attānaṃ parimocayuṃ.
316. Lo sợ vì sự ồ ạt của ngọn lửa, mẹ cha của ta trở nên kinh hãi, hoảng hốt, đã bỏ rơi ta lại ở trong tổ và đã giải thoát cho bản thân.
317. Pāde pakkhe pajahāmi natthi me kāyikaṃ balaṃ
so’haṃ agatiko tattha evaṃ cintesahaṃ tadā.
317. Ta đã ra sức hai chân, hai cánh; ta không có sức mạnh ở thân. Ta đây không đi được. Khi ấy tại nơi ấy, ta đã suy nghĩ như vầy:
318. Yesāhaṃ upadhāveyyaṃ bhīto tasitavedhito
te maṃ ohāya pakkantā kathaṃ me ajja kātave.
318. “Bị kinh hãi, hoảng hốt, run sợ, ta có thể chạy đến gần cha mẹ, nhưng họ đã bỏ rơi ta và tẩu thoát. Ta nên hành động như thế nào ngày hôm nay?
319. Atthi loke sīlaguṇo saccaṃ soceyyanuddayā
tena saccena kāhāmi saccakiriyamuttamaṃ.
319. Đức hạnh của giới, sự chân thật, sự trong sạch, lòng bi mẫn hiện hữu ở trên đời; với sự chân thật ấy, ta có thể hiện hành động chân thật tối thắng.”
320. Āvajjetvā dhammabalaṃ saritvā pubbako jine
saccabalamavassāya saccakiriyamakāsahaṃ.
320. Ta đã hướng về sức mạnh của Giáo Pháp, tưởng nhớ đến các đấng Chiến Thắng [17] trước đây, và nương tựa vào sức mạnh của sự chân thật, ta đã thể hiện hành động chân thật rằng:
321. Santi pakkhā apatanā santi pādā avañcanā3
mātā pitā ca nikkhantā jātaveda paṭikkama.
321. “Có cánh không thể bay, có chân không thể đi. Mẹ cha đã lìa khỏi, lửa ơi hãy lui đi.”
322. Saha sacce kataṃ mayhaṃ mahā pajjalito sikhī
vajjesi soḷasa karīsāni udakampatvā yathā sikhī
saccena me samo natthi esā me saccapāramīti.
322. Với sự chân thật đã được thực hiện bởi ta, ngọn lửa cháy rực to lớn đã lùi trở lại mười sáu karīsa, [18] giống như ngọn lửa đã gặp phải nước. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Vaṭṭapotakacariyaṃ navamaṃ.
Hạnh của chim cút con là phần thứ chín.
--ooOoo--
10. Maccharājacariyaṃ
10. Hạnh của Vua Cá:[19]
***
323. Punāparaṃ yadā homi maccharājā mahāsare
uṇhe suriyasantāpe sare udakaṃ khīyatha.
323. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vua của loài cá ở trong cái hồ rộng lớn. Và nước ở trong hồ bị khô cạn vào mùa nắng, dưới sự đốt cháy của ánh mặt trời.
324. Tato kākā ca gijjhā ca bakā kuḷalasenakā
bhakkhayantī divā rattiṃ macche upanisīdiya.
324. Do đó, các con quạ, các con diều hâu, các con cò, các con chim ưng và chim ó đã đáp xuống, ăn các con cá ban ngày lẫn ban đêm. [20]
325. Evaṃ cintesahaṃ tattha saha ñātīhi pīḷito
kena nukho upāyena ñāti dukkhā pamocaye.
325. Tại nơi ấy, cùng với các thân quyến ta đã bị áp bức, và ta đã suy nghĩ như vầy: “Vậy thì bằng cách nào để ta có thể giải thoát cho thân quyến khỏi khổ đau?”
326. Vicintayitvā dhammatthaṃ saccaṃ addasa passayaṃ
sacce ṭhatvā pamocesiṃ ñātīnaṃ taṃ atikkhayaṃ.
326. Sau khi xem xét ý nghĩa của các pháp, ta đã nhận ra sự chân thật là nơi nương tựa. Căn cứ vào sự chân thật, ta đã cởi bỏ thảm họa bị diệt chủng ấy cho các thân quyến.
327. Anussaritvā saddhammaṃ paramatthaṃ vicintayaṃ
akāsiṃ saccakiriyaṃ yaṃ loke dhuvasassataṃ.
327. Sau khi hồi tưởng về thiện pháp, ta đã suy nghiệm về chân lý tuyệt đối. Ta đã thể hiện hành động chân thật là pháp bền vững và thường còn ở thế gian rằng:
328. Yato sarāmi attānaṃ yato pattosmi viññutaṃ
nābhijānāmi sañcicca ekapāṇaṃ vihiṃsitaṃ
etena saccavajjena pajjunno abhivassatu.
328. “Kể từ lúc ta nhớ được về bản thân, kể từ khi ta đạt đến sự hiểu biết, ta không biết đến việc đã cố ý hãm hại dầu chỉ một sanh mạng. [21] Do lời nói chân thật này, xin Thần Mây [22]hãy đổ mưa xuống.
329. Abhitthanaya pajjunna nidhiṃ kākassa nāsaya
kākaṃ sokāya rundhehi macche sokā pamocaya.
329. Hỡi Thần Mây, hãy vang lên tiếng sấm, hãy làm tiêu tan kho lương dự trữ của loài quạ, [23] hãy vây hãm loài quạ bằng sự buồn rầu, hãy giải thoát loài cá khỏi nỗi phiền muộn.”
330. Sahakate saccavare pajjunto cābhigajjiya
thalaṃ ninnañca pūrento khaṇena abhivassatha.
330. Đồng lúc với sự chân thật cao quý được thể hiện, Thần Mây đã gầm lên tiếng sấm và trong giây lát đã đổ mưa xuống, làm tràn ngập vùng đất liền và trũng thấp.
331. Evarūpaṃ saccavaraṃ katvā viriyamuttamaṃ
vassāpesiṃ mahāmeghaṃ saccatejabalassito
saccena me samo natthi esā me saccapāramīti.
331. Sau khi thể hiện sự tinh tấn tột đỉnh là pháp chân thật cao quý có hình thức như thế, (có sự) tin cậy vào năng lực và uy quyền của sự chân thật, ta đã làm cho đám mây lớn đổ mưa xuống. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Maccharājacariyaṃ dasamaṃ.
Hạnh của vua cá là phần thứ mười.
--ooOoo--
11. Kaṇhadīpāyanacariyaṃ
11. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Kaṇhadīpāyana: [24]
***
332. Punāparaṃ yadā homi kaṇhadīpāyano isī
paro paññāsavassāni anabhirato cariṃ ahaṃ.
332. Vào một thời điểm khác nữa, khi là vị ẩn sĩ Kaṇhadīpāyana, ta đã sống không được hoan hỷ hơn năm mươi năm.
333. Na koci etaṃ jānāti anabhiratimanaṃ mama
ahaṃ kassaci nācikkhiṃ arati me carati mānase.
333. Không ai biết tâm ý không hoan hỷ này của ta. Ta đã không nói ra với ai cả và sự không hoan hỷ diễn tiến ở trong tâm ý của ta.
334. Sabrahmacārī maṇḍabyo sahāyo me mahā isī
pubbakammasamāyutto sūlamāropaṇaṃ labhī.
334. Bà-la-môn Maṇḍabya, bạn của ta, là một vị đại ẩn sĩ đã bị thọ lãnh (hành phạt) cắm cọc nhọn do trả quả của nghiệp quá khứ. [25]
335. Tamahaṃ upaṭṭhahitvāna ārogyamanupāpayiṃ
āpucchitvāna āgañchiṃ yaṃ mayhaṃ sakamassamaṃ.
335. Ta đã chăm sóc và đã phục hồi sức khỏe cho vị ấy. Sau khi cáo từ, ta đã trở về lại chốn ẩn cư của mình.
336. Sahāyo brāhmaṇo mayhaṃ bhariyaṃ ādāya puttakaṃ
tayo janā samāgantvā āgañchuṃ pāhunāgataṃ.
336. Người bạn Bà-la-môn của ta đã đưa vợ và đứa con trai nhỏ đến. Ba người cùng đi và đã đi đến với tư thế của những người khách.
337. Sammodamāno tehi saha nisinno sakamassame
dārako vaṭṭamanukkhipaṃ āsivisamakopayī.
337. Trong lúc ta đang ngồi tại chốn ẩn cư của mình chuyện trò với những người ấy, đứa bé trai đã ném trái banh và làm cho làm con rắn có nọc độc giận dữ.
338. Tato so vaṭṭagataṃ maggaṃ anvesanto kumārako
āsivisassa hatthena uttamaṅgaṃ parāmasī.
338. Sau đó, trong lúc dõi theo lộ trình di chuyển của trái banh, đứa bé trai ấy đã chạm bàn tay vào đầu của con rắn độc.
339. Tassa āmasane kuddho sappo visabalassito
kupito paramakopena aḍaṃsi dārakaṃ khaṇe.
339. Do sự đụng chạm của đứa bé, con rắn đã trở nên giận dữ. Ỷ lại vào sức mạnh của nọc độc, bị bực bội với sự bực bội cùng tột, con rắn ngay lập tức đã cắn đứa bé.
340. Saha daṭṭho āsivisena dārako papati bhūmiyaṃ
tenāhaṃ dukkhito āsiṃ mama vāhasi taṃ dukkhaṃ.
340. Khi bị cắn bởi con rắn độc, đứa bé đã ngã xuống ở trên nền đất. Vì điều ấy, ta đã trở nên đau buồn; nỗi buồn đau ấy đã tác động đến ta.
341. Tyāhaṃ assāsayitvāna dukkhite sokasallite
paṭhamaṃ ākāsiṃ kiriyaṃ aggaṃ saccaṃ varuttamaṃ.
341. Sau khi an ủi họ (là những người) đang bị đau khổ, đang bị mũi tên sầu muộn, ta đã thể hiện hành động chân thật tột đỉnh cao quý tối thượng lần đầu tiên rằng:
342. Sattāhamevāhaṃ pasannacitto
puññatthiko acariṃ brahmacariyaṃ
athāparaṃ yañcaritaṃ mamayidaṃ
vassāni paññāsa samādhikāni.
342. “Là người mong mỏi phước thiện, ta đã thực hành Phạm hạnh với tâm tín thành chỉ được bảy ngày. Từ đó về sau, Phạm hạnh của ta là năm mươi năm và thêm nữa.
343. Akāmako vāhi ahaṃ carāmi etena saccena suvatthi hoti
hataṃ visaṃ jīvatu yaññadatto.
343. Ta thực hành (Phạm hạnh) không có nhiệt tình, chỉ qua ngày. Do lời nói chân thật này, hãy có được sự tốt lành, chất độc hãy được tiêu trừ, và Yaññadatta [26] hãy sống.”
344. Saha sacce kate mayhaṃ visavegena vedhito
abujjhitvāna vuṭṭhāsi ārogo cāsi māṇavo
saccena me samo natthi esā me saccapāramīti.
344. Với sự chân thật của ta đã được thể hiện, đứa bé Bà-la-môn bị run rẩy bởi sức mạnh của nọc độc đã được tỉnh lại, đã đứng lên, không tật bệnh. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Kaṇhadīpāyanacariyaṃ ekādasamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Kaṇhadīpāyana là phần thứ mười một.
--ooOoo--
12. Sutasomacariyaṃ
12. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Sutasoma: [27]
***
345. Punāparaṃ yadā homi sutasomo mahīpatī
gahito porisādena brāhmaṇe saṅgaraṃ sariṃ.
345. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là đức vua Sutasoma. Bị bắt giữ bởi Porisāda (kẻ ăn thịt người), ta đã nhớ lại lời hứa với vị Bà-la-môn.
346. Khattiyānaṃ ekasataṃ āvuṇitvā karatale
ete sampamilāpetvā yaññatthe upanayī mamaṃ.
346. Sau khi xỏ dây ở lòng bàn tay của một trăm vị Sát-đế-lỵ rồi (treo lên) phơi khô họ, kẻ ấy đã đưa ta đi nhằm mục đích tế thần.
347. Apucchi maṃ porisādo kintvaṃ icchasi nissajaṃ.
yathāmati te kāhāmi yadi me tvaṃ punehisi.
347. Kẻ ăn thịt người đã hỏi ta rằng: “Có phải ngài mong muốn việc cởi trói? Ta sẽ làm theo ý thích của ngài nếu ngài còn quay trở lại.”
348. Tassa paṭissuṇitvāna paṇhe āgamanaṃ mama
upāgantvā puraṃ rammaṃ rajjaṃ nīyādayiṃ tadā.
348. Vào lúc ấy, sau khi đã hứa hẹn đối với câu hỏi của kẻ (ăn thịt người) ấy về việc trở lại của ta, ta đã đi đến thành phố tráng lệ và đã chối từ vương quốc.
349. Anussaritvā saddhammaṃ pubbakaṃ jinasevitaṃ
brāhmaṇassa dhanaṃ datvā porisādaṃ upāgamiṃ.
349. Sau khi tưởng nhớ đến Chánh Pháp đã được thực hành bởi các đấng Chiến Thắng thời quá khứ, ta đã trao lại tài sản cho vị Bà-la-môn và đã đi đến gặp kẻ ăn thịt người.
350. Natthi me saṃsayo tattha ghātayissati vā na vā
saccavācānurakkhanto jīvitaṃ cajitumupāgamiṃ
saccena me samo natthi esā me sacca pāramīti.
350. Trong trường hợp ấy, không có sự phân vân ở ta về việc kẻ ấy sẽ giết hay không (giết). Trong khi bảo vệ lời nói chân thật, ta đã đi đến để buông bỏ mạng sống. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Sutasomacariyaṃ dvādasamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Sutasoma là phần thứ mười hai.
Saccapāramitā niṭṭhitā.
Dứt sự toàn hảo về chân thật.
--ooOoo--