IV. SỰ TOÀN HẢO VỀ QUYẾT ĐỊNH

IV. ADHIṬṬHĀNAPĀRAMITĀ

6. Temiyapaṇḍitacariyaṃ
6. Hạnh của vị Hiền Trí Temiya:
[10]

***

288. Punā paraṃ yadā homi kāsirājassa atrajo
mūgapakkhoti nāmena temiyoti vadanti maṃ.

288. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là người con trai của đức vua Kāsi có tên là Mūgapakkha, nhưng mọi người gọi ta là Temiya. [11]

289. Soḷasitthisahassānaṃ na vijjati pumo tadā
ahorattānaṃ accayena nibbatto ahamekako.

289. Khi ấy, mười sáu ngàn phi tần (của đức vua) không có được một người con trai (luôn cả con gái). Sau nhiều ngày đêm, chỉ mỗi một mình ta đã được sanh ra.

290. Kicchā laddhaṃ piyaṃ puttaṃ abhijātaṃ jutindharaṃ
setacchattaṃ dhārayitvāna sayane poseti maṃ pitā.

290. (Vua) cha đã nuôi dưỡng ta, người con trai yêu quý, đạt được một cách khó nhọc, đã được sanh ra vẹn toàn, có thân tâm sáng lạng, ở trên chiếc giường đã được che chiếc lọng màu trắng.

291. Niddāyamāno sayanavare pabujjhitvānahaṃ tadā
addasaṃ paṇḍaraṃ chattaṃ yenāhaṃ nirayaṃ gato.

291. Khi ấy, trong lúc đang ngủ trên chiếc giường cao quý, ta đã thức giấc và nhìn thấy chiếc lọng nhạt màu, nghĩa là ta sẽ bị đi địa ngục.

292. Sahadiṭṭhassa me chattaṃ tāso uppajji bheravo
vinicchayaṃ samāpanno kadāhaṃ imaṃ muñcissaṃ.

292. Có nỗi sợ hãi ghê gớm đã khởi lên ở ta khi được nhìn thấy chiếc lọng. Ta đã đi đến quyết định: “Ta sẽ được thoát khỏi điều này [12]bằng cách nào?[13]

293. Pubbasālohitā mayhaṃ devatā atthakāminī
sāmaṃ disvāna dukkhitaṃ tīsu ṭhānesu yojayī.

293. Có vị tiên nữ trước đây cùng huyết thống với ta [14] có lòng mong muốn điều tốt đẹp cho ta, sau khi nhìn thấy bản thân ta bị đau khổ, đã căn dặn về ba thái độ:

294. Māpaṇḍiccaṃ vibhāya bālamato bhava sabbapāṇinaṃ
sabbo jano ocināyatu evaṃ tava attho bhavissati.

294. “Chớ ra vẻ khôn ngoan, hãy là kẻ ngu si đối với tất cả chúng sanh, hãy làm cho mọi người khinh khi; như thế sẽ có sự tốt đẹp cho con.”

295. Evaṃ vuttāya’haṃ tassā idaṃ vacanamabraviṃ
karomi te naṃ vacanaṃ yaṃ tvaṃ bhaṇasi devate
atthakāmāsi me amma! Hitakāmāsi devate!

295. Khi được nói như vậy, ta đã nói với bà ấy lời này: “Bà tiên ơi, con sẽ thực hành theo lời mà bà đã chỉ bảo. Mẹ ơi, mẹ đã có lòng mong muốn điều tốt đẹp cho con. Bà tiên ơi, bà đã có mong muốn điều lợi ích cho con.”

296. Tassāhaṃ vacanaṃ sutvā sāgareva thalaṃ labhiṃ
haṭṭho saṃviggamānaso tayo aṅge adhiṭṭhahiṃ.

296. Sau khi nghe được lời nói của bà ấy, ta đã thọ nhận như là đã đến được đất liền ở giữa biển khơi. Mừng rỡ, với tâm ý phấn chấn, ta đã quyết định ba điều:

297. Mūgo ahosiṃ badhiro pakkho gati vivajjito
ete aṅge adhiṭṭhāya vassānaṃ soḷasaṃ vasiṃ.

297. Ta đã là người câm, điếc, què quặt, việc đi lại đã được từ bỏ. Ta đã quyết định các điều này và đã sống mười sáu năm.

298. Tato me hatthapāde ca jivhaṃ sotañca maddiya
anūnataṃ me passitvā kālakaṇṇīti nindisuṃ.

298. Do đó, họ đã xoa bóp tay chân, lưỡi và mắt của ta. Sau khi nhận thấy không có sự khiếm khuyết ở ta, họ đã chê bai là “Kẻ bất hạnh.”

299. Tato jānapadā sabbe senāpati purohitā
sabbe ekamanā hutvā chaḍḍanaṃ anumodiṃsu.

299. Sau đó, tất cả dân chúng trong xứ sở, các tướng lãnh quân đội, các viên quan tế tự, tất cả đã nhất trí bằng lòng việc truất phế.

300. Sohaṃ tesaṃ matiṃ sutvā haṭṭho saṃviggamānaso
yassatthāya tapo ciṇṇo so me attho samijjhatha.

300. Sau khi nghe ý kiến của những người ấy, ta đây đã trở nên mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn. Sự khổ hạnh đã được thể hiện (bởi ta) vì mục đích nào thì mục đích ấy của ta đã được thành công.

301. Nahāpetvā anulimpitvā veṭhetvā rājaveṭhanaṃ
chattena abhisiñcitvā kāresuṃ purapadakkhiṇaṃ.

301. Sau khi đã tắm rửa, xức dầu, đội lên vương miện, làm lễ rưới nước (cho ta), rồi với chiếc lọng che họ đã tiến hành việc đi nhiễu vòng quanh thành phố.

302. Sattāhaṃ dhārayitvāna uggate ravimaṇḍale
rathena maṃ nīharitvā sārathī vanamupāgamī.

302. Sau khi đã duy trì chiếc lọng trong bảy ngày, đến lúc vầng sáng của mặt trời hiện ra, người đánh xe đã đưa ta ra khỏi (thành phố) bằng chiếc xe ngựa rồi đi về phía khu rừng.

303. Ekokāse rathaṃ katvā sajjassaṃ hatthamuñcito
sārathī khaṇatī kāsuṃ nikhātuṃ paṭhaviyā mamaṃ.

303. Sau khi dừng chiếc xe ở một khoảng trống, người đánh xe đã buộc ngựa để được rảnh tay rồi đã đào cái hố để chôn ta ở trong lòng đất.

304. Adhiṭṭhitamadhiṭṭhānaṃ tajjento vividhakāraṇā
nābhindiṃ vatamadhiṭṭhānaṃ bodhiyā yeva kāraṇā.

304. Trong khi nhiều nguyên nhân đủ các loại đang đe dọa điều quyết tâm đã được khẳng định, ta đã không làm đổ vỡ việc tuân thủ đã được quyết định với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

305. Mātā pitā na me dessā attā me na ca dessiyo
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā vatamadhiṭṭhahiṃ.

305. Mẹ cha không có bị ta ghét bỏ, bản thân cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã quyết định việc tuân thủ.

306. Ete aṅge adhiṭṭhāya vassāni soḷasiṃ vasiṃ.
adhiṭṭhānena samo natthi esā me adhiṭṭhānapāramīti.

306. Sau khi quyết định các điều này, ta đã sống trong mười sáu năm. Không có ai bằng (ta) về sự quyết định, điều này là sự toàn hảo về quyết định của ta.

Temiyacariyaṃ chaṭṭhamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Temiya là phần thứ sáu.

Adhiṭṭhānapāramitā niṭṭhitā.
Dứt sự toàn hảo về quyết định.

--ooOoo--