III. NEKKHAMMAPĀRAMITĀ
1. Yudhañjayacariyaṃ
1. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Yudhañjaya: [1]
***
242. Yadā ahaṃ amitayaso rājaputto yudhañjayo
ussāvabinduṃ suriyātape patitaṃ disvāna saṃvijiṃ.
242. Khi ta là hoàng tử Yudhañjaya có danh tiếng vô lượng, ta đã động tâm sau khi nhìn thấy giọt sương mai bị tiêu tan dưới ánh nắng mặt trời. [2]
243. Taññevādhipatiṃ katvā saṃvegamanubrūhayiṃ
mātāpitu ca vanditvā pabbajjamanuyācahaṃ.
243. Sau khi trầm tư về chính điều ấy, ta đã làm cho nỗi động tâm tăng trưởng. Ta đã cúi lạy mẹ cha và xin phép xuất gia.
244. Yācanti maṃ pañjalikā sanegamā saraṭṭhakā
ajjeva putta paṭipajja iddhaṃ phītaṃ mahāmahiṃ.
244. Họ cùng với các thị dân và các cư dân của xứ sở, hai tay chắp lại, thỉnh cầu ta rằng: “Này con, ngay ngày hôm nay con hãy cai quản lãnh địa rộng lớn, tiến triển, và thịnh vượng.”
245. Sarājake sahorodhe sanegame saraṭṭhake
karuṇaṃ paridevante anapekkho hi pabbajiṃ.
245. Trong khi họ, có cả đức vua, có cả phi tần, có thị dân, có cư dân của xứ sở, đang khóc lóc thảm thương, bởi vì ta đã xuất gia, không lưu luyến.
246. Kevalaṃ paṭhaviṃ rajjaṃ ñāti parijanayasaṃ
cajamāno na cintesiṃ bodhiyāyeva kāraṇā.
246. Trong khi từ bỏ toàn bộ trái đất, vương quốc, quyến thuộc, người hầu, và danh vọng, ta đã không suy nghĩ (đến điều gì khác) với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.
247. Mātā pitā na me dessā napi dessaṃ mahāyasaṃ
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā rajjaṃ pariccajinti.
247. Me cha không có bị ta ghét bỏ, danh vọng lớn lao cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc.
Yudhañjayacariyaṃ paṭhamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Yudhañjaya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2. Somanassacariyaṃ
2. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Somanassa: [3]
***
248. Punāparaṃ yadā homi indapatte puruttame
kāmito dayito putto somanassoti vissuto.
248. Vào một thời điểm khác nữa, khi ở tại kinh thành Indapatta, ta là người con trai được mong mỏi, được yêu quý, được nổi tiếng (với tên) là Somanassa.
249. Sīlavā guṇasampanno kalyāṇapaṭibhāṇavā
vuddhāpacāyī hirimā saṅgahesu ca kovido.
249. Ta là người có giới, được thành tựu đức hạnh, có lối ứng xử lịch thiệp, có sự tôn kính bậc trưởng thượng, có sự khiêm tốn, và rành rẽ về các cách tiếp độ.
250. Tassa rañño patikaro ahosi kuhakatāpaso
ārāmaṃ mālāvacchañca ropayitvāna jīvati.
250. Có gã đạo sĩ giả trá được đức vua ấy yêu mến. Ông ta trồng trọt rau quả hoa màu rồi sinh sống.
251. Tamahaṃ disvāna kuhakaṃ thusarāsiṃva ataṇḍulaṃ.
dumaṃ anto va susiraṃ kadaliṃ va asārakaṃ.
251. Nhận biết ông là giả trá ví như đống trấu không có hạt gạo, ví như thân cây có lỗ bọng lớn ở bên trong, ví như cây chuối không có lỏi cứng.
252. Natthi ’massa sataṃ dhammo sāmaññāpagato ayaṃ
hirisukkadhammajahito jīvitavuttikāraṇā.
252. Không có pháp của các bậc thiện trí ở người này. Vì lý do nuôi dưỡng mạng sống, người này đã xa rời Sa-môn hạnh, đã từ bỏ pháp trong sạch là sự khiêm tốn.
253. Kupito ahosi paccanto aṭavīhi parantihi
taṃ nisedhetuṃ gacchanto anusāsi pitā mamaṃ.
253. Vùng biên giới đã bị khuấy động bởi những kẻ lâm tặc thuộc các xứ lân bang. Khi ra đi để dẹp yên việc ấy, cha (ta) đã dạy bảo ta rằng:
254. Mā pamajji tuvaṃ tāta jaṭilaṃ uggatāpanaṃ
yadicchakaṃ pavattehi sabbakāmadado hi so.
254. “Này con yêu dấu, con chớ có lơ là với vị đạo sĩ tóc bện nghiêm trì khổ hạnh. Hãy thi hành điều (vị ấy) ước muốn bởi vì vị ấy là người ban bố (cho chúng ta) mọi điều lạc thú.”
255. Tamahaṃ gantvā’nupaṭṭhānaṃ idaṃ vacanamabraviṃ
kaccite gahapati kusalaṃ kiṃ vā te āharīyatu.
255. Ta đã đi đến phục vụ vị ấy và đã nói lời này: “Này gia chủ, ông có được an vui không?” hoặc “Vật gì cần được mang lại cho ông?”
256. Tena so kupito āsi kuhako mānanissito
ghātāpemi tuvaṃ ajja raṭṭhā pabbājayāmi vā.
256. Vì thế, kẻ giả trá, chất chứa ngã mạn ấy đã giận dữ (nói rằng): “Hôm nay, ta sẽ làm cho ngươi hoặc là bị giết chết, hoặc là bị trục xuất ra khỏi vương quốc.”
257. Nisedhayitvā paccantaṃ rājā kuhakamabravi
kacci te bhante khamanīyaṃ sammāno te pavattito
tassa ācikkhati pāpo kumāro yathā nāsiyo.
257. Sau khi bình định khu vực biên giới, đức vua đã nói với kẻ giả trá (ấy) rằng: “Thưa ngài, ngài có được thoải mái, có được sự tôn kính không?” Gã xấu xa đã nói với đức vua rằng: “Hoàng tử cần phải bị trừng trị như thế.”
258. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā āṇāpesi mahīpati
sīsaṃ tattheva chinditvā katvāna catukhaṇḍikaṃ
rathiyā rathiyaṃ dassetha sā gatī jaṭilahīḷito.
258. Sau khi nghe được lời nói ấy của kẻ ấy, vị chúa tể của trái đất đã ra lệnh rằng: “Hãy chém đầu ngay tại chỗ, rồi phân (thây) thành bốn mảnh, và cho trưng bày ở khắp các ngã đường; đó là phần số dành cho kẻ miệt thị vị đạo sĩ tóc bện.”
259. Tattha kāraṇikā gantvā caṇḍā luddā akāruṇā
mātu aṅke nisinnassa ākaḍḍhitvā nayanti maṃ.
259. Tại nơi ấy,[4] những người hành quyết độc ác, hung dữ, bất nhân đã lôi kéo ta đang ngồi ở lòng mẹ rồi dẫn đi. [5]
260. Tesāhaṃ evamavacaṃ bandhataṃ gāḷhabandhanaṃ
rañño dassetha maṃ khippaṃ rājakiriyāni atthime.
260. Ta đã nói với họ như vầy: “Hãy cấp tốc đưa ta đã bị trói bằng gông xiềng chắc chắc đến trình diện đức vua, ta có các việc cần làm cho đức vua.”
261. Te maṃ rañño dassayiṃsu pāpassa pāpasevino
disvāna taṃ saññapesiṃ mamañca vasamānayiṃ.
261. Bọn họ đã đưa ta đến gặp vị vua ác xấu là người thân cận với kẻ ác xấu. Sau khi tiếp kiến, ta đã làm cho đức vua hiểu rõ và ta đã tạo được uy thế cho ta.
262. So maṃ tattha khamāpesi mahārajjamadāsi me
sohaṃ tamaṃ dāḷayitvā pabbajiṃ anagāriyaṃ.
262. Đức vua đã yêu cầu thứ lỗi về việc ấy và đã trao vương quốc rộng lớn lại cho ta. Ta đây, sau khi phá tan sự mê muội, đã xuất gia theo hạnh không nhà.
263. Na me dessaṃ mahārajjaṃ kāmabhogo na dessiyo
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā rajjaṃ pariccajinti.
263. Vương quốc rộng lớn không có bị ta ghét bỏ, sự hưởng thụ các dục không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc.
Somanassacariyaṃ dutiyaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Somanassa là phần thứ nhì.
--ooOoo--
3. Ayogharacariyaṃ
3. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Ayoghara: [6]
***
264. Punāparaṃ yadā homi kāsirājassa atrajo
ayogharamhi saṃvaḍḍho nāmenāsi ayogharo.
264. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là người con trai của đức vua Kāsi, ta đã lớn lên trong căn nhà bằng sắt [7] và đã được gọi với tên là Ayoghara.
265. Dukkhena jīvito laddho sampīḷe patiposito
ajjeva putta paṭipajja kevalaṃ vasudhaṃ imaṃ.
265. (Vua cha đã phán rằng:) “Này con, mạng sống của con được tiếp nhận một cách khó khăn, được nuôi dưỡng ở nơi bực bội. Ngay chính ngày hôm nay, con hãy cai quản toàn thể trái đất này
266. Saraṭṭhakaṃ sanigamaṃ sajanaṃ vanditvā khattiyaṃ
añjalimpaggahetvāna idaṃ vacanamabruviṃ.
266. cùng với cư dân trong xứ sở, luôn cả phố chợ, và loài người nữa.” Sau khi đảnh lễ vị Sát-đế-lỵ, ta đã chắp tay lên và đã nói lời này:
267. Ye keci mahiyā sattā hīnamukkaṭṭhamajjhimā
nirārakkhā sake gehe vaḍḍhanti saha ñātihi.
267. “Bất cứ chúng sanh nào ở trên trái đất, dầu kém cỏi, cao quý, hoặc trung bình, lớn lên trong nhà của chính họ cùng với các thân quyến không cần sự bảo vệ.”
268. Idaṃ loke uttariyaṃ sampīḷe mama posanaṃ
ayogharamhi saṃvaḍḍho appabhe’candasūriye.
268. (Rồi ta đã suy nghĩ rằng:) “Sự nuôi dưỡng này của ta ở trong nơi bực bội là hy hữu ở trên thế gian. Ta đã được lớn lên trong căn nhà bằng sắt thiếu hẳn ánh sáng mặt trăng và mặt trời.
269. Pūtikuṇapasampuṇṇā muccitvā mātukucchito
tato ghoratare dukkhe puna pakkhitto ayoghare.
269. Có được tấm thân hối thối này sau khi rời khỏi bụng mẹ, từ đó ta lại bị ném vào căn nhà sắt khổ sở và kinh hãi hơn một lần nữa.
270. Yadihaṃ tādisaṃ patvā dukkhaṃ paramadāruṇaṃ
rajjesu yadi rañjāmi pāpānaṃ uttamo siyā.
270. Nếu sau khi đã đạt đến khổ đau vô cùng ghê rợn như thế ấy, nếu ta còn thích thú trong vương quyền thì ta là kẻ tồi tệ nhất trong số những kẻ ác xấu.”
271. Ukkaṇṭhitomhi kāyena rajjenamhi anatthiko
nibbutiṃ pariyesissaṃ yattha maccu na maddiye.
271. Ta nhàm chán xác thân, ta không mong muốn vương quyền, ta sẽ tầm cầu sự tịch diệt Niết-bàn là nơi tử thần không thể đày đọa.”
272. Evāhaṃ cintayitvāna viravantaṃ mahājanaṃ
nāgova bandhanaṃ chetvā pāvisiṃ kānanaṃ vanaṃ.
272. Trong lúc đó đám đông đang kêu gào, ta đã suy nghĩ như vậy và đã đi vào khu rừng rậm, giống như con voi đã giật đứt xiềng xích.
273. Mātā pitā na me dessā napi me dessaṃ mahāyasaṃ
nabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā rajjaṃ pariccajinti.
273. Mẹ cha không có bị ta ghét bỏ, danh vọng lớn lao cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc.
Ayogharacariyaṃ tatiyaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Ayoghara là phần thứ ba.
--ooOoo--
4. Bhisacariyaṃ
4. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Bhisa: [8]
***
274. Punāparaṃ yadā homi kāsīnaṃ puravaruttame
bhaginī bhātaro satta nibbattā sotthiye kule.
274. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta ở tại kinh thành của xứ Kāsi, (ta có) một người em gái và bảy người em trai được sanh ra trong gia đình quý phái (dòng Bà-la-môn).
275. Etesaṃ pubbajo āsiṃ hirisukkamupāgato
bhavaṃ disvāna bhayato nekkhammābhirato ahaṃ.
275. Trong số những người này, ta đã được sanh ra trước tiên, đạt được pháp trong sạch là sự khiêm tốn. Sau khi nhận thấy sự hiện hữu là nguy hại, ta đã thỏa thích trong việc xuất gia.
276. Mātā pitūhi pahitā sahāyā ekamānasā
kāmehi maṃ nimantenti kulavaṃsaṃ dharehīti.
276. Các thân hữu, được mẹ và cha nhắn đến, đồng tâm mời mọc (ta) bằng các dục lạc: “Bạn hãy duy trì dòng dõi gia tộc.”
277. Yaṃ tesaṃ vacanaṃ vuttaṃ gihī dhamme sukhāvahaṃ
tamme ahosi kaṭhinaṃ tattaphālasamaṃ viya.
277. Lời nào của những người ấy được nói ra về việc đem lại lạc thú trong cuộc sống gia đình, điều ấy đối với ta được xem tương tợ như lưỡi cày đã được nung đỏ, thô thiển.
278. Te maṃ tadā ukkhipantaṃ pucchiṃsu patthitaṃ mama
Kiṃ tvaṃ patthayasī? Samma ! Yadi kāme na bhuñjasi.
278. Khi ấy, họ đã hỏi ta, kẻ từ khước (cuộc sống gia đình), về nguyện vọng của ta: “Này bạn, nếu bạn không hưởng thục các dục thì bạn mong muốn điều gì?”
279. Tesāhaṃ evamavacaṃ atthakāmo hitesinaṃ
nāhaṃ patthemi gihībhāvaṃ nekkhammābhirato ahaṃ.
279. Là người mong muốn điều tốt đẹp, ta đã nói với họ, những người đang tầm cầu lợi ích (cho ta) rằng: “Tôi không mong muốn trạng thái người tại gia, tôi thỏa thích trong sự xuất ly.”
280. Te mayhaṃ vacanaṃ sutvā pitu mātu ca sāvayuṃ
mātā pitā evamāhu sabbepi pabbajāma bho.
280. Sau khi lắng nghe lời nói của ta, họ đã thuật lại cho cha mẹ (ta). Mẹ cha ta đã nói như vầy: “Này quí vị, tất cả chúng tôi cũng xuất gia.”
281. Ubho mātā pitā mayhaṃ bhaginī ca satta bhātaro
amitaṃ dhanaṃ chaḍḍhayitvā pāvisimhā mahāvananti.
281. Cả hai mẹ cha của ta, người em gái, và bảy em trai đã buông bỏ của cải vô số rồi đi vào trong khu rừng lớn.
Bhisacariyaṃ catutthaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Bhisa là phần thứ tư.
--ooOoo--
5. Soṇapaṇḍitacariyaṃ
5. Hạnh của vị Hiền Trí Soṇa: [9]
***
282. Punāparaṃ yadā homi nagare brahmavaḍḍhane
tattha kulavare seṭṭhe mahāsāḷe ajāyahaṃ.
282. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta sống ở thành phố Brahma-vaḍḍhana, tại nơi ấy ta đã được sinh ra trong gia đình cao quý, ưu tú, vô cùng giàu có.
283. Tadāpi lokaṃ disvāna andhabhūtaṃ tamotthataṃ
cittaṃ bhavato patikuṭati tuttavegahataṃ viya.
283. Khi ấy, ta cũng đã nhận thấy thế gian là bị mù quáng, bị bao phủ bởi bóng tối. Tâm (ta) chối từ sự hiện hữu như thể bị châm chích thô bạo bởi cây gậy nhọn.
284. Disvāna vividhaṃ pāpaṃ evaṃ cintesahaṃ tadā
kadāhaṃ gehā nikkhamma pavisissāmi kānanaṃ.
284. Sau khi nhận thấy sự xấu xa dưới nhiều hình thức khác nhau, ta đã suy nghĩ như vầy: “Lúc nào ta sẽ lìa bỏ gia đình, ta sẽ đi vào rừng?”
285. Tadāpi maṃ nimantiṃsu kāmabhogehi ñātayo
tesampi chandamācikkhiṃ mānimantetha tehi maṃ.
285. Cũng vào khi ấy, các thân quyến đã mời mọc ta với các sự thọ hưởng về dục lạc, ta cũng đã nói cho những người ấy về ước muốn (của ta) rằng: “Xin các vị chớ có mời mọc ta bằng những thứ ấy.”
286. Yo me kaṇiṭṭhako bhātā nandonāmāsi paṇḍito
sopi maṃ anusikkhanto pabbajjaṃ samarocayī.
286. Em trai của ta tên là Nanda là bậc trí tuệ. Vị ấy, trong khi học tập theo ta, cũng đã thích thú với việc xuất gia.
287. Ahaṃ soṇo ca nando ca ubho mātā pitā mama
tadāpi bhoge chaḍḍetvā pāvisimhā mahāvananti.
287. Khi ấy, ta Soṇa và Nanda cùng với cả hai cha mẹ của ta cũng đã buông bỏ của cải vô số rồi đi vào trong khu rừng lớn.
Soṇapaṇḍitacariyaṃ pañcamaṃ.
Hạnh của vị hiền triết Soṇa là phần thứ năm.
Nekkhammapāramitā niṭṭhitā.
Dứt sự toàn hảo về xuất ly.
--ooOoo--